Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật PS 2-ABC Bài 301-350 Câu chuyện ông Tôma & Lòng thương xót Chúa
----------------------------------- Phúc Âm: Ga 20, 19-31: "Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan (Ga 20,19-31)
(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: «Bình an cho anh em!» (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông: «Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em». (22)Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: «Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ».
(24) Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tôma, cũng gọi là Điđymô, không ở với các ông khi Đức Giêsu đến. (25) Các môn đệ khác nói với ông: «Chúng tôi đã được thấy Chúa!» Ông Tôma đáp: «Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin». (26) Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: «Bình an cho anh em». (27) Rồi Người bảo ông Tôma: «Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin». (28) Ông Tôma thưa Người: «Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!» (29) Đức Giêsu bảo: «Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!»
(30) Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. (31) Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.
Vào lúc 10 giờ 30 ngày 27/3/2005, tại quảng trường thánh Phêrô, Rôma, với sự hiện diện của hàng PS 2-ABC301
Vào lúc 10 giờ 30 ngày 27/3/2005, tại quảng trường thánh Phêrô, Rôma, với sự hiện diện của hàng chục ngàn tín hữu, được trực tiếp truyền hình trên toàn thế giới, thánh lễ Phục Sinh đã được cử hành thật cảm động. Vì trong 26 năm trên ngai giáo hoàng, lần đầu tiên Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II không cử hành thánh lễ Phục Sinh. Sức khoẻ ngài chưa bình phục sau cuộc giải phẫu.Vì thế, Đức Hồng Y quốc vụ khanh Angelo Sodano đã thay mặt ngài chủ sự thánh lễ. Trong suốt thánh lễ, dù không cử hành, nhưng cửa sổ phòng \của vị Giáo Hoàng vẫn mở ra như một dấu chỉ hiệp thông với mọi người trong thánh lễ.
Sau thánh lễ, ngài ngồi trên xe được đẩy tới trước cửa sổ trong chiếc áo trắng và dây các phép truyền thống. Vị linh mục phụ tá để micrô gần miệng Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II để ngài cố nói vài lời. Ngài cố hết sức phát âm, nhưng không được một lời nào, chỉ nghe thấy tiếng thở mệt nhọc và những âm thanh không thành tiếng. Nhiều người đã bật khóc nức nở và chính ngài cũng khóc !Sau cùng, ngài đã ra dấu ban phép lành với những giọt lệ còn đọng trên khóe mắt ngài.Mọi tín hữu trên khắp thế giới đã xúc động vì sự hiện diện đầy tình thương của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, vị Mục Tử toàn thể Hội Thánh giữa cộng đoàn dân Chúa. Dù với thân xác bệnh tật, sự hiện diện của ngài luôn là dấu chỉ của sự bình an, niềm vui và đức tin cho toàn thể Giáo Hội.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Thảnh sử Gioan kể lại: vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, Chúa Kitô phục sinh đã hiện diện giữa các môn đệ trong căn phòng đóng kín.Sự xuất hiện của Chúa thật bất ngờ, nhưng cũng đầy tình thương dành cho những môn đệ yêu quí đang sợ hãi và hoang mang.Từ những vết thương nơi tay chân và cạnh sườn, Chúa đã đem lại sự bình an, niềm vui và củng cố niềm tin cho các môn đệ.
Sau cái chết của Chúa Giêsu, các môn đệ luôn sống trong tâm trạng lo sợ và hoảng loạn.Vì thế, các ông chỉ còn biết tụ họp lại với nhau trong căn phòng đóng kín.
Đức Kitô Phục Sinh hiện đến. Không gì có thể ngăn cản bước chân của ngài. Bước chân ấy đã bước qua bức tường sự chết, thì cũng bước qua được những cánh cửa khoá chặt. Bước chân Ngài dù còn mang vết đinh đóng,đã vội vã đến với các môn đệ đang run sợ và hoảng hốt.Đức Kitô Phục Sinh đến để đem lại sự bình an cho họ. Sau mỗi lần hiện ra, Ngài đều chúc các ông: “Bình an cho các con”. Ngài còn thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông.
Người ta không thể tìm được niềm vui trong cảnh tang chế và chết chóc. Cuộc tử nạn của Chúa đã làm rơi biết bao giọt lệ thương đau và dìm tâm hồn các môn đệ chìm sâu trong nỗi buồn sầu. Không buồn làm sao được, khi họ mất đi Người Thầy kính yêu đã từng chia ngọt sẻ bùi với họ. Lòng các môn đệ như tan nát đớn đau.
Thế nhưng khi Đức Kitô Phục Sinh hiện đến. Với đôi tay còn mang vết đinh, Ngài xoa dịu vết thương nơi tâm hồn các môn đệ. Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn.Họ đã vui mừng khôn xiết vì nhìn thấy Chúa. Những vết thương của Chúa là chứng tích của tình yêu mãnh liệt. Những vết thương ấy đã chữa lành thương tích trong trái tim các môn đệ, đã làm cho tâm hồn các ông được “bình phục” và tràn ngập niềm vui.
Sau khi Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, Ngài có mặt khắp nơi. Không gì có thể giam hãm hay ngăn cản sự hiện diện của Ngài. Đức Kitô “tràn ngập” mọi nơi chốn, mọi thời khắc, mọi nẻo đường, mọi khúc quanh của cuộc sống.
Sự hiện diện của Đức Kitô Phục Sinh còn là nguyên lý làm nên sự hiệp nhất của một cộng đoàn đức tin. Chính cộng đoàn tín hữu sơ khai là minh chứng cho điều đó.Gia đình và giáo xứ cũng là cộng đoàn đức tin, nâng đỡ và củng cố đức tin của mỗi người. Hơn nữa, chính sự hiện diện tích cực của chúng ta trong cộng đoàn, cũng nâng đỡ và củng cố đức tin của anh em mình.
Thế nên, Chúa Giêsu Phục Sinh đang cố kéo con người đau khổ gần lại với Ngài hơn, để Ngài làm vơi bớt đi những đau khổ ấy. Ngài muốn có mặt ngay bên cạnh nỗi thống khổ của nhân loại, để xoa dịu bớt nỗi thống khổ ấy. Ngài muốn hiện diện nơi những con người đang xả thân cứu giúp các nạn nhân. Ngài muốn hiện diện nơi những tấm lòng quảng đại đang hướng về những kẻ khốn cùng. Ngài vẫn có đó để làm cho thế giới hôm nay xích lại gần nhau hơn và thương yêu nhau hơn. Ngài vẫn có đó trong cuộc đời mỗi người chúng ta.
Trước khi về trời. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” PS 2-ABC302
Trước khi về trời. Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Ở với các môn đệ, ở cùng Hội thánh, ở trong vũ trụ… - đối với Chúa Kitô phục sinh - đó là một sự hiện diện rất thực nhưng cũng rất mầu nhiệm.
Để nhận ra và tin vào sự hiện diện ấy không phải là điều dễ dàng. LM Michel Quoist, trong cuốn “Đức Kitô hằng sống”, đã viết: “Nhiều người tin Thiên Chúa, ít người tin Đức Kitô, rất ít người tin Đức Kitô đang sống…”. Quả vậy, tin Thiên Chúa hiện hữu là một điều khá dễ. Tin Đức Giêsu Na-da-rét, Ngôi Lời nhập thể, Đấng Cứu Chuộc nhân loại, cũng không là một điều khó khăn cho lắm. Nhưng tin rằng Đức Giêsu đã chết, đã sống lại, đang sống, đang có mặt, đang làm việc cùng với con người thì điều này quả là khó hơn nhiều !…
Đây là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm sự hiện diện.
Đức Kitô hằng sống
Triết gia vô thần thì đã mỉa mai rằng “Thượng đế đã chết !” (Dieu est mort).
Nhưng Kitô hữu thì tin rằng Đức Giêsu Kitô, sau khi sống lại, đã tràn đầy quyền năng và vinh quang của Thần Khí, trở thành Đấng vừa là Kitô (Christos), vừa là Chúa (Kyrios). Ngài vẫn còn hiện diện một cách chắc thực, sống động và mầu nhiệm, chứ không phải là Ngài đã mất hút vào một cõi vô tận nào đó!…
Quả vậy, biến cố chết-thập-giá không làm Ngài “tiêu tan” mãi ở cõi hư không nào đó. Biến cố phục-sinh-trong-thân-xác-đổi-mới không làm Ngài “thoát ly” khỏi cõi trần này. Biến cố thăng thiên không khiến Ngài “đi xa biệt tăm”…
Trái lại, Ngài thực sự đang sống, đang có mặt như Ngài đã từng sống và có mặt. Nhưng một cách sung mãn, huyền diệu. Ngài hiện diện khắp mọi nơi, trong mọi người, thấu đến mọi sự vật, lan tỏa trong cõi tạo thành. Bởi vì Ngài là Chúa, là Chủ tể mọi loài hữu hình và vô hình. Thánh Phaolô nhiều lần đưa ra những xác quyết như thế (x. Colossê 1 ; Philíp 2…).
Thần học dựa vào mạc khải và những biến cố hậu phục sinh, cũng đã đưa ra những khái niệm cơ bản về một Đức Kitô phổ quát (Le Christ universel), một Đức Kitô toàn thể (Le Christ complet), một Đức Kitô vũ trụ (Le Christ cosmique), một Thân Mình mầu nhiệm của Đức Kitô (Le Corps mystique du Christ).
Mầu nhiệm và biến cố Đức Kitô đang sống, đang hiện diện, sau khi chết-sống lại, đã được Phúc âm và sách Công Vụ chứng thực qua các trình thuật rất cụ thể như việc Chúa hiện ra với các tông đồ, đặc biệt là với Tôma, đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau, biến cố Đamas với Phaolô vv…
Đức Kitô hiện diện trong Hội thánh
Hội thánh là cộng đoàn khai sinh từ mầu nhiệm thập giá, từ cạnh sườn bị đâm thâu của Đấng chịu đóng đinh, có máu và nước chảy ra (x.Gio 19,34). Hội thánh cũng là Nhiệm Thể của Chúa Kitô, cho nên Hội thánh làm một với Ngài, như “Cha ở trong Con và Con ở trong Cha”. Vậy một khi Ngài là hình ảnh của Cha, là phản ánh vinh quang Thiên Chúa thế nào thì Hội thánh cũng là hình ảnh của Ngài, cũng chia sẻ dung nhan phục sinh của Ngài.
Đức Kitô có mặt trong Hội thánh cũng như Cha hiện diện trong Ngài. Nguồn lực nội tại của Hội thánh là Thánh Thần (x.Cv 1,8). Chính Thánh Thần tái tạo, thánh hóa, thanh tẩy và làm tăng trưởng Hội thánh, cả về chiều sâu lẫn chiều rộng.
Trải qua lịch sử thăng trầm của mình, Hội thánh chứng thực rằng Đức Kitô luôn luôn có mặt để nâng đỡ, củng cố cộng đoàn của Ngài phát triển và tồn tại, cho đến khi Ngài đến lại vào ngày Quang Lâm.
Hội thánh cũng mang đặc tính thần-nhân như Chúa Kitô và xuất hiện như dấu chỉ, như bí tích để vừa đón nhận vừa thông ban ơn huệ của Chúa Kitô phục sinh (là Đầu của Hội thánh) cho tín hữu. Đức Kitô vẫn hiện diện trong cộng đoàn để tiếp tục làm công việc của Ngài. Chính vì vậy, như Ngài đã nói: “Ai nghe anh em là nghe Ta, ai đón nhận anh em là đón nhận Ta…”.
Hội thánh có nhiệm vụ hiện tại hóa (actualiser) những hành động hữu hiệu của Chúa Kitô, đồng thời luôn luôn làm chứng sự hiện diện đích thực và sống động của Ngài.
Tin Đức Kitô hiện diện, hoạt động trong Hội thánh
Tin Đức Kitô “đang sống và đang làm việc” trong Hội thánh là tin điều mình không thấy. Đó vẫn luôn là một thách đố.
Sống trong Hội thánh, Kitô hữu thường xuyên gặp gỡ được Đức Kitô hằng sống nơi: cộng đoàn kẻ tin, nơi các thừa tác viên, nơi nghi lễ phụng vụ và nơi chính tâm hồn mình.
. Gặp Chúa trong cộng đoàn:
Đức Kitô có mặt thực sự trong cộng đoàn vì đó là công trình xuất sinh từ cạnh sườn Ngài. Đó chính là một Eva-mới. Những ai tin, sám hối, chịu thanh tẩy thì được Thánh Thần tái sinh và sát nhập họ vào Nhiệm Thể Chúa Kitô. Chúa đã nói: “Ta là đầu còn anh em là chi thể…Ta là cây nho còn anh em là cành nho…Anh em không là tôi tớ mà là bạn hữu của Ta…”. Aán tích của phép Rửa Kitô giáo đã đưa người tín hữu vượt qua thân phận nô lệ của tội và sự chết để bước vào đời sống mới của Thiên Chúa, trong Chúa Kitô, nhờ Thánh Thần (x.Rm 6,4 tt). Chính Thần Khí liên kết và làm ta sống hiệp thông với Đức Kitô (x.Rm 8,1 tt).
Như vậy, chính Thánh Thần làm cho Chúa Kitô hiện diện trong ta, nơi ta, đồng thời khiến ta gặp gỡ, tiếp xúc được với Chúa. Thánh Phaolô trong thư Corintô và Eâphêsô cũng đã khẳng định rõ chân lý này: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa”.
Chúa Giêsu, trước khi chịu chết, đã đảm bảo với môn đệ rằng Ngài không để họ mồ côi, rằng Ngài sẽ sai Đấng Bảo Trợ đến với họ, rằng họ sẽ trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết (x.Gio 14;15;16). Thánh Thần chẳng những có mặt trong Hội thánh mà còn là chính sự sống của Hội thánh. là chính nguồn hiệp nhất và yêu thương giữa mọi tín hữu.
. Gặp Chúa trong các thừa tác viên:
Đức Kitô cũng hiện diện một cách sống động và hữu hiệu nơi những con người thừa hành sứ vụ tông đồ trong Hội thánh. Khi sai bẩy mươi hai môn đệ, Chúa đã nói với họ: “Ai nghe anh em là nghe Thầy ; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy ; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy” (Lc 10,16).
Lời khẳng định trên của Chúa Giêsu cho thấy Ngài hiện diện và làm việc nơi các thừa tác viên của Ngài. Ngài đã muốn đồng hóa Ngài với những người Ngài ủy quyền để thừa kế và thi hành sứ vụ của Ngài, như Ngài. “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần…(Mt 28,18-19).
Chính nhờ sự hiện diện của Chúa nơi họ nên tư cách, hành động và lời nói của họ mới có ý nghĩa đích thực. Một sự hiện diện của tình yêu phục vụ và cứu độ.
. Gặp Chúa trong phụng vụ- bí tích:
Phụng vụ Tân Ước là công việc của chính Đức Kitô Tư Tế và Ngài trở nên trung tâm việc thờ phượng. Mầu nhiệm bí tích Thánh Thể là một ví dụ. Nghi thức Bẻ Bánh là chóp đỉnh của đời sống phụng vụ Kitô giáo. Chính trong khi cộng đoàn tụ họp quanh thừa tác viên tư tế để cử hành Lễ Tạ Ơn thì Đức Kitô cũng có mặt thực sự, như là vị Thượng Tế và là Lễ Vật (x.Dt 5,11-10,18). Sự hiện diện ấy của Ngài có tính dấu chỉ bí tích. “Trong đêm bị nộp Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ, Ngài phán: ‘Tất cả các con hãy cầm lấy mà ăn vì này là Mình Ta…’ “ (x.Lc 22,19-20).
Chúa Giêsu đã thực hiện Hy tế Thập giá trước, nơi bàn tiệc ly, cùng với nhóm môn đệ tiên khởi để chính các ông, sau này, tiếp tục hiện đại hóa biến cố ấy trong nghi thức Bẻ Bánh (x.1Cor 11,23 ; Cv 2,42-46). Khi Hội thánh cử hành bí tích, chính là Đức Kitô cử hành. Ngài hiện diện như là người cử hành thông qua các hành vi phụng tự của Hội thánh. “Chính nhờ Ngài, với Ngài và trong Ngài…”.
Tín hữu gặp gỡ Đức Kitô sống động thực sự khi Hội thánh cử hành những nghi thức phụng vụ như cử hành thánh lễ Misa, cử hành các bí tích, kinh nghuyện cộng đoàn…
Một lời xác quyết của Chúa để tín hữu có thêm lòng tin: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20).
. Gặp Chúa trong tâm hồn mình:
Nhờ phép Rửa, tín hữu được hiệp thông trọn vẹn vào mầu nhiệm Đức Kitô. Như Thánh Phaolô đã xác tín: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà chính là Đức Kitô sống trong tôi” (Gal 2,20). Sự hiện diện của Chúa trong ta sâu xa đến nỗi ta được đồng hóa với Ngài.
Kinh nghiệm về sự hiện diện của Chúa trong bản thân mỗi người là kinh nghiệm của đức tin và đức ái.
Chẳng hạn khi đón nhận Thánh Thể, nghe như có tiếng Ngài nói: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì lưu lại trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy” (Gio 6,56). Sự hiện diện của Chúa trong mỗi kẻ tin là mầu nhiệm hiệp thông. Khi được ơn hiệp thông với Đức Kitô, tín hữu trở nên chính Ngài.
“Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
Hiện tại, nhờ lòng tin, chúng ta có thể nhận ra Chúa trong anh em, có thể đọc được ý nghĩa sự hiện diện của Chúa trong các biến cố, có thể khám phá ra Ngài nơi các dấu chỉ tôn giáo, có thể gặp gỡ Ngài trong chính tâm hồn mình ở cõi thâm sâu nhất …
Tín hữu tin tưởng rằng nếu bây giờ những ai đã tin vào Ngài và đã từng yêu mến, gặp gỡ Ngài, thì sau này, khi đến giờ vượt qua khỏi thế gian, chính Ngài sẽ là người ra đón tiếp họ vào Nước vĩnh cửu.
Đó là phần thưởng đích thực: “Pbúc cho ai không thấy mà tin” (Gio 20,29).
Khi ấy, một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tôma, cũng gọi là Ðiđymô, không ở với các ông khi Ðức Giêsu đến. Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” Ông Tôma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” Tám ngày sau, các môn đệ Ðức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Ðức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Chúc anh em được bình an.” Rồi Người bảo Tôma: “Ðặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Ðưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Ðừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Ông Tôma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Ðức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!”
Suy niệm:
Chẳng rõ vì lý do gì mà ông Tôma đã không ở với nhóm môn đệ khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra PS 2-ABC303
Chẳng rõ vì lý do gì mà ông Tôma đã không ở với nhóm môn đệ khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra gặp các ông. Có vẻ có một sự xa cách nào đó giữa Tôma và mười ông kia. Chuyện này trở nên rõ hơn khi ông Tôma từ chối tin vào lời của họ: “Chúng tôi đã thấy Chúa!” (c. 25). Ông đòi tự mình kiểm chứng, thấy tận mắt, sờ tận tay. Thấy dấu đinh nơi bàn tay Thầy, xỏ ngón tay mình vào lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn Thầy: đó là những điều kiện ông đòi để tin. Tôma không đứng dưới chân thập giá như người môn đệ Chúa yêu, nhưng ông đã được nghe chuyện Thầy bị đóng đinh, bị đâm nơi cạnh sườn. Đối với ông, nếu Thầy thực sự phục sinh, thì thân xác Thầy vẫn còn phải mang những vết thương đó. Phục sinh không làm mất đi những vết sẹo của tình yêu cứu độ. Đấng phục sinh lại có ý chiều ông, đó mới là chuyện lạ. Ngài biết óc thực tiễn của ông, và Ngài không muốn mất ông (Ga 17, 12). Ngài dám thỏa mãn những đòi hỏi táo bạo và cụ thể của ông, để đưa ông về với đức tin, về với cộng đoàn. Một tuần sau, cũng vào ngày thứ nhất trong tuần, Đức Giêsu phục sinh đến như thể cho một mình ông thôi, và mời ông làm những điều ông đòi hỏi. Chẳng rõ Tôma có dám thực hiện hay không, nhưng chính thái độ bao dung và yêu thương của Thầy đã chinh phục ông. Môi ông bật lên lời tuyên xưng đức tin cao nhất trong Tân Ước: “Lạy Chúa của tôi; lạy Thiên Chúa của tôi” (c.28). Lời tuyên xưng này vượt quá những gì giác quan ông có thể cảm nhận. “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những ai không thấy mà tin!” Chúng ta ngày nay tuy không được hưởng kinh nghiệm như thánh Tôma, nhưng chúng ta lại được hưởng một mối phúc mà ngài không có được. Đó là mối phúc của người tin, không phải nhờ thấy tận mắt, mà nhờ nghe lời chứng của các môn đệ (Ga 17, 20), trong đó có Tôma. Xin cám ơn sự cứng lòng của thánh Tôma, cám ơn lời chứng của ngài. Chính sự cứng cỏi của ngài làm chúng ta mềm mại hơn để tin, vì chúng ta biết chuyện Chúa phục sinh không do một ảo giác tập thể. Tôma là một người hoàn toàn tỉnh táo. Trong tập thể chúng ta đang sống, vẫn có những Tôma: hoài nghi, bướng bỉnh, đòi hỏi, xa cách với cộng đoàn... Thầy Giêsu dạy chúng ta bao dung và nhẫn nại, chứ không kết án. Quanh chúng ta vẫn có nhiều người chưa biết Chúa, họ cũng đòi thấy và đụng chạm đến Thiên Chúa. Kitô hữu chúng ta phải có kinh nghiệm sâu xa như các tông đồ xưa, để làm chứng được rằng: “Chúng tôi đã thấy Chúa” (c. 25).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu phục sinh lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ. Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau. Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ. Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi. Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ. Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
* Vào lúc Đức Giêsu chịu thương khó và phục sinh, khuôn mặt của thánh Tôma nổi bật. Trong bữa ăn tối, đáp lại thắc mắc của Tôma, Đức Giêsu nói: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6). Khi nghe nói Đức Giêsu đã phục sinh, vị tông đồ này không tin ngay. Mãi tới lúc Đức Giêsu cho Tôma thấy tay và cạnh sườn bị đâm thủng, Tôma mới tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).
Theo truyền khẩu thì thánh nhân đã đi loan báo Tin Mừng cho dân Ấn Độ. Từ thế kỷ 4, người ta mừng ngày rước hài cốt của ngài về Ê-đét-xa, tức là ngày 3 tháng 7. Lời Chúa: Ga 20, 24-29
Bấy giờ trong Mười Hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không ở cùng với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”. Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin”.
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà, và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Đoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay vào đây và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. Suy niệm: VỊ TIÊN TRI CÔ ĐỘC
Người Ấn Ðộ có kể lại câu chuyện ngụ ngôn sau đây: “Vì tội lỗi của loài người, Thượng đế doạ PS 2-ABC304
Người Ấn Ðộ có kể lại câu chuyện ngụ ngôn sau đây:
“Vì tội lỗi của loài người, Thượng đế doạ sẽ trừng trị họ bằng một trận động đất. Ðất sẽ nứt nẻ và nước sẽ rút hết vào trong lòng đất... Một thứ nước độc sẽ tràn ngập mặt đất. Ai uống vào sẽ trở nên bất bình thường.
Một vị tiên tri nọ đã không xem thường lời đe doạ của Thượng đế. Ông chuẩn bị đương đầu với biến cố bằng cách từng ngày đem nước lên một ngọn núi cao. Số nước dự trữ đủ cho ông sống đến ngày tàn của cuộc đời...
Ðộng đất đã xảy đến, bao nhiêu sông nước trên mặt đất đều bốc hơi, một thứ nước khác được thay thế vào.
Một tháng sau, vị tiên tri trở lại đất bằng để xem những gì đang xảy ra cho loài người. Ðúng như lời đe doạ của Thượng đế, mọi người sống trên mặt đất đều hoá ra điên dại. Nhưng kỳ lạ thay, loài người không ý thức được tình trạng điên dại của mình. Trái lại, ai cũng muốn ra đường để chế diễu vị tiên tri vì họ cho rằng ông mới là người điên dại...
Buồn tình, vị tiên tri trở lại chốn núi cao của mình. Ông sung sướng vì nước dự trữ vẫn còn và ông vẫn là người duy nhất còn có một tâm trí lành mạnh, bình thường...
Nhưng ngày qua ngày, ông cảm thấy không chịu nổi sự cô đơn của mình. Ông khao khát được sống một cách bình thường với những người đồng loại. Thế là một lần nữa, ông trở lại đồng bằng. Và một lần nữa, ông lại bị dân chúng ruồng rẫy, vì họ cho rằng ông không còn giống họ nữa.
Không còn chịu được sự hắt hủi của những người đồng loại, vị tiên tri đã đổ hết số nước dự trữ của mình và ông uống lấy nước mới của người đồng loại để cũng trở nên điên dại như họ...”
Con đường dẫn đến chân lý không phải là con đường rộng thênh thang. Người đi tìm chân lý thường là người cô độc...
Hôm nay chúng ta kính nhớ thánh tông đồ Toma. Ai cũng biết lời bất hủ của Toma khi tuyên bố về sự sống lại của Chúa: Nếu tôi không xỏ tay tôi vào lỗ đinh và cạnh sườn Ngài, tôi không tin... Theo phương pháp khoa học, nhiều người đã lấy câu nói của Toma làm châm ngôn cho việc đi tìm chân lý. Nghĩa là, nếu tôi không kiểm chứng được, nếu tôi không sờ mó được, tôi không chấp nhận điều đó là đúng...
Thái độ đó chưa hẳn là thái độ thực tiễn trong cuộc sống. Giá trị cao cả nhất trong cuộc sống: đó là sự tin tưởng, tín nhiệm đối với người khác. Ðau yếu, chúng ta đi mua thuốc, chúng ta buộc phải tin tưởng ở người bán thuốc. Lạc đường, chúng ta buộc phải tin tưởng ở lòng thành thật của người chỉ lối...
Thái độ đó càng đúng hơn trong lĩnh vực Ðức Tin... Chúng ta tin vào sự sống lại của Chúa Giêsu không phải vì chúng ta đã thấy Người hiện ra, nhưng chỉ vì lời chứng của các tông đồ, của các tiền nhân... Một thái độ như thế đòi hỏi rất nhiều phấn đấu của lý trí. Lắm khi, chúng ta chỉ là một thiểu số cô độc.
Chúng ta dễ dàng rơi vào nỗi cô độc của những người đang đi tìm chân lý. Người Kitô thường phải đi ngược dòng. Ðiều người đời cho là bất bình thường, có lẽ phải là cái bình thường đối với người Kitô. Ðiều người đời cho là yếu nhược, có khi phải là sức mạnh của người Kitô. Ðiều người đời cho là điên dại, có khi phải là lẽ khôn ngoan của người Kitô.
Bấy giờ trong Mười Hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không ở cùng với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin". (Ga 20,24-25)
Suy niệm
Tôma đã không tin lời chứng của các môn đệ rằng Chúa Giêsu đã sống lại qua việc Ngài hiện ra với PS 2-ABC305
Tôma đã không tin lời chứng của các môn đệ rằng Chúa Giêsu đã sống lại qua việc Ngài hiện ra với họ. Đức tin của cộng đoàn các môn đệ, những người bạn thân thiết đã cùng ông theo Chúa nhiều năm tháng, không giúp ông tin vào sự sống lại của Chúa. Ông khẳng định mình chỉ có thể tin nếu chính ông được gặp Chúa hiện ra, để xác nhận rằng đó chính là Chúa Giêsu thật qua các vết thương của Ngài. Tuy nhiên, khi Chúa hiện ra với ông, Tôma đã không cần thực hiện việc ‘xác nhận’ đó nhưng vẫn tin Chúa đã thực sự sống lại.
“Sự hồ nghi của Tôma” là điều mà không ít Kitô hữu ngày nay đang gặp phải, đặc biệt là các bạn trẻ phải rời xa gia đình, xa cộng đoàn giáo xứ thân quen để bước vào môi trường học tập, làm việc mới, nơi có những chủ trương, lối sống, học thuyết dễ khiến đức tin của họ bị chao đảo. Khi đó, họ cũng có cùng tâm trạng với thánh Tôma khi xưa, đó là cảm thấy đức tin của cộng đoàn mà mình đã và đang sống chung không giúp gì cho họ trong việc tìm lại niềm xác tín vào Chúa. Có thể họ vẫn đi lễ, vẫn tham dự các cử hành phụng vụ cùng với cộng đoàn, nhưng lại cảm thấy lạc lõng giữa những người đang sốt sắng cầu nguyện, ca ngợi Chúa. Cái họ cần là một cảm nghiệm cá vị với Chúa. Khi xưa, Chúa đã đáp ứng “yêu cầu” chính đáng này của thánh Tôma, nhưng Ngài không hiện ra với một mình ông, nhưng là với cộng đoàn các môn đệ có Tôma ở đó. Điều này có nghĩa là hành trình tìm kiếm niềm xác tín cá nhân không thể tách rời khỏi cộng đoàn, nhưng phải được thực hiện trong cộng đoàn và nhờ sự trợ giúp của cộng đoàn. Ngày nay, có lẽ Chúa sẽ không hiện ra cách tỏ tường với mỗi cá nhân để đáp lại mọi yêu cầu phải nhìn thấy Chúa thì mới tin vào Ngài, nhưng Chúa chắc chắn cho ta gặp được Ngài qua những gương sáng sống đức tin ngay trong chính cộng đoàn: đó có thể là một cụ già ít học, lọm khọm chống gậy đến nhà thờ mỗi ngày dù trời mưa gió; hay đó cũng có thể là một người đồng trang lứa, sẵn sàng hy sinh thời gian, công sức để làm việc bác ái.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết mở lòng để nhận ra hình ảnh của Chúa nơi những người xung quanh chúng con, và xin ban cho chúng con sự nhạy bén, cảm thông và khả năng giúp đỡ những người đang gặp thử thách về đức tin. Amen.
Khi nói đến ai đồng dạng với “Tôma”, điều đó không có gì là nâng bi. Đó là thái độ bình thường của PS 2-ABC306
Khi nói đến ai đồng dạng với “Tôma”, điều đó không có gì là nâng bi. Đó là thái độ bình thường của bất cứ tín hữu nào, bất cứ Kitô hữu nào.
Tôma không tin các bạn tông đồ, đúng thế; nhưng ông không do dự khi Thiên Chúa tỏ mình ra cho tin. Không phải là lời chứng của các tông đồ làm chúng ta tin Đức Kitô Phục Sinh, Con Thiên Chúa, và phúc cho chúng ta, chính Đức Kitô làm chúng ta tin.
Các sách Tin Mừng...
Chúng ta biết chắc rằng các sách Tin Mừng không được Đức Giêsu viết ra. Chúng ta biết chắc rằng những bài giảng của Đức Giêsu chỉ là những bản tóm tắt, sơ sài biết bao. Tuy nhiên, khi Gioan, Luca, Matthêu hay Mác-cô viết rằng: “và Đức Giêsu nói....”, chúng ta tin những lời các thánh sử Tin Mừng truyền lại cho chúng ta, những lời đó chúng ta nghe chính miệng Đức Kitô.
Tôma...
Chính Ngài làm chứng cho chúng ta về Đức Kitô Phục Sinh, nhưng cũng nói cho mỗi người chúng ta rằng, chúng ta cũng có thể tin các thánh sử Tin Mừng, các Ngài là những chứng nhân chính thức, còn chính Đức Kitô cho chúng ta đức tin nhờ các Ngài và nhờ Giáo Hội.
Khi Giáo Hội dạy, Giáo Hội nói lời Chúa cho chúng ta. Giáo Hội chỉ là người mang tiếng nói của Ngôi Lời. Chính Ngôi Lời nói, luôn luôn là thế. Các Giám Mục là người kế vị các tông đồ, không phải là các nhà thần học. Nên chúng ta phải chú ý nghe các Ngài, thì không nhất thiết phải luôn luôn nghe theo các Ngài. Đức tin không lay chuyển nhưng khoa học thì liên tục tiến triển.
Tôma còn nhắc nhở chúng ta chỉ có một tiếng nói chính thức và chúng ta cũng phải biết kính trọng trí khôn chúng ta và đức tin chúng ta, đừng để bất cứ ai, bất cứ cái gì nhồi sọ chúng ta, coi chừng nhiều tiên tri giả chung quanh chúng ta.
Thánh Tôma, tông đồ, một người trong nhóm 12, đã được Chúa Giêsu tuyển chọn, đã đi theo Chúa, PS 2-ABC307
Thánh Tôma, tông đồ, một người trong nhóm 12, đã được Chúa Giêsu tuyển chọn, đã đi theo Chúa, đã được Chúa hun đúc, huấn luyện. Tôma cũng là người bị liệt vào hạng cứng tin, nhưng thực tế ra sao ? Tôma có tin vào Chúa hay cũng chỉ lơ mơ, lờ mờ theo Chúa, rồi bỏ Chúa ?
THÁNH TÔMA, TÔNG ĐỒ TRONG NHÓM 12:
Thánh Tôma, còn gọi là Đyđimô nghĩa là sinh đôi, người quê tại xứ Galilêa, là một trong số mười hai môn đệ của Chúa Giêsu. Các Tin mừng nhất lãm và đặc biệt Tin Mừng của thánh Gioan đã thuật lại việc Chúa Giêsu chọn Tôma. Các Tin Mừng đều cho ta thấy Tôma là người nhiệt thành, hy sinh, tận tụy và xả kỷ. Thánh Gioan thuật lại rằng một lần khi nghe tin Ladarô chết đã bốn ngày, Chúa Giêsu muốn về Giuđêa để hồi sinh Ladarô, nhưng ở đó các người Do Thái đang tìm cách giết Chúa Giêsu: ”Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy còn đến đó sao?” (Ga 11,8). Chúa nói với các môn đệ:” Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê” (Ga 11,7). Mình thánh Tôma đã mạnh dạn, can đảm nói với các tông đồ: ”Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy” (Ga 11,16).Trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu, Tôma cũng như các môn đệ khác đều sợ sệt, nhát đảm và trốn tránh vì sợ khó khăn, sợ chết. Khi Chúa Giêsu sống lại, Tôma vì là người thực tế đã muốn thấy Chúa cách nhãn tiền Ông đã nói với các tông đồ bạn một cách rất chân thành và thực tế: ”Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinhvà không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,25). Đức tin của Tôma phải được kiểm chứng rõ ràng, Ông rất thực tế và đây là bài học cho muôn thế hệ. Đứng trước sự thực hiển nhiên của biến cố sống lại chỉ sau tám ngày sau lần thứ nhất Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ, Tôma đã bị Chúa Giêsu phục sinh khuất phục hoàn toàn, Ngài chỉ biết thốt lên với tất cả con tim: ”Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).
THÁNH TÔMA, TÔNG ĐỒ ĐÃ ĐƯỢC PHÚC TỬ ĐẠO:
Chúa Giêsu đã nói với các một đệ khi Người còn sống với các ông: ”Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi vác thập giá hằng ngày mà theo Ta” (Lc 9,23). Chúa cũng đã cảnh cáo là các môn đệ sẽ bị thế gian thù ghét: ”Hãy coi chừng người đời, họ sẽ nộp các ngươi cho công nghị và họ đánh đòn các ngươi trong các hội đường của họ. Vì Ta, các ngươi sẽ bị điệu đến trước quan quyền và vua Chúa để làm chứng trước mặt họ và các dân ngoại. Các ngươi sẽ bị mọi người ghét vì danh Ta, nhưng ai bền vững đến cùng, người ấy sẽ được rỗi” (Mt 10,17-22). Sau khi Chúa phục sinh về trời và sau khi các tông đồ lãnh nhận Chúa Thánh Thần, theo lệnh truyền của Chúa sống lại: ”Anh em hãy đi khắp mọi nơi...” (Mt 28,19) Thánh Tôma, tông đồ đã đi rao giảng ở Patia, Ba Tư. Thánh nhân cũng tới loan báo Tin Mừng tại Ấn Độ và được phúc tử đạo tại đó. Thánh nhân là một người thu thuế nhưng khi đã có Chúa Thánh Thần và khi đã được đổi mới, Ngài đã hăng say rao giảng Tin Mừng và sẵn sàng theo bước chân của Thầy chết vì yêu.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, hôm nay chúng con hoan hỷ, mừng lễ thánh Tôma tông đồ. Xin nhận lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp mà củng cố lòng tin của chúng con, để chúng con được sống muôn đời, khi cùng với thánh nhân tuyên xưng Đức Kitô là Chúa (Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh Tôma, tông đồ).
Trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ kính Thánh Tô-ma Tông Đồ, thánh sử Gioan kể cho chúng ta nghe PS 2-ABC308
Trong bài Tin Mừng của Thánh Lễ kính Thánh Tô-ma Tông Đồ, thánh sử Gioan kể cho chúng ta nghe về hành trình đức tin của thánh nhân và mời gọi chúng ta nhận ra chính chúng ta nơi hành trình này.
1/ Đi theo Đức Ki-tô
Trong Tin Mừng theo thánh Gioan, chúng ta ít nhất nghe thánh Tô-ma lên tiếng bốn lần:
“Chúng ta cũng vậy, chúng ta hãy đi để cùng chết với Ngài” (Ga 11, 16).
“Thưa Thầy, chúng con không biết được Thầy đi đâu, thì làm sao chúng con biết được đường đi” (14, 5).
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (20, 25). Khởi đi từ hai lời nói trước của thánh Tô-ma, chúng ta có thể nhận ra tâm tình thật sự ẩn đàng sau lời nói, vẫn bị coi là cứng lòng tin, đó là “tôi khao khát Thầy vẫn còn hiện hữu trên cõi đời này, hiện hữu bằng xương bằng thịt, để tôi tiếp tục đi theo Thầy”.
Cuối cùng là lời tuyên xưng đức tin vượt qua vô hạn điều ông Tô-ma nhìn thấy: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”.
Qua những lời này, chúng ta có thể nhận ra nơi thánh Tô-ma một sự quyết tâm rất lớn muốn đi theo Đức Giê-su, không phải trong tư tưởng, nhưng bằng « chính đôi chân của mình ». Đây đã một lời mời gọi đầy ý nghĩa đối với mỗi người chúng ta.
Tuy nhiên, cứ mỗi lần ông Tô-ma lên tiếng, Đức Giê-su đều mời gọi ông đi từ bình diện hữu hình sang bình diện vô hình, từ bề ngoài sang bề trong, từ bề mặt sang bề sâu: cuộc Thương Khó và nhất cái chết của Đức Giêsu trên Thập Giá không đơn giản như ông Tô-ma nghĩ, nghĩa là cái chết của Thầy là cách Thầy thử thách người môn đệ, hoặc là tai họa không đáng có, nhưng không tránh được, thì « tôi sẽ đi chết với Thầy cho trọn tình trọn nghĩa! » ; và đường đi không phải là đường bộ, nhưng là chính ngôi vị của Đức Giê-su, bởi vì chính Người là “Đường Đi”.
2/ “Đừng cứng lòng nữa nhưng hãy tin”
Thánh Tô-ma cứng lòng tin, nhưng không chỉ thánh nhân, mà tất cả các tông đồ khác nữa. Thật vậy, Đức Ki-tô phục sinh khiển trách thánh Tô-ma, như đã khiển trách các tông đồ, vì đã không tin khi nghe lời chứng của các chứng nhân (x. Mc 16, 9-15).
Thật vậy, đáng lẽ ra, với lời chứng của các tông đồ khác, ông Tô-ma đã phải tin rồi. Vì khi gặp ông Tô-ma, Đức Giê-su Ki-tô phục sinh sẽ trách ông: “Đừng cứng lòng nữa nhưng hãy tin”. Ông Tô-ma vẫn muốn có được Đức Giêsu như xưa kia, trong khi Ngài đã đi vào trong sự sống mới. Vì thế, tương quan với Thầy, việc đi theo Thầy cũng sẽ mới. Đức Ki-tô không còn hiện diện với các môn đệ, và với chúng ta hôm nay một cách thể lý nữa, nhưng qua Thần Khí của Ngài, qua Lời của Ngài, qua các bí tích, qua những ơn huệ, qua những con người mà chúng ta được sai đến để phục vụ, nhất là những người bé nhỏ, nghèo hèn, bị thua thiệt, qua tương quan hiệp nhất, qua hành vi « bẻ bánh » của chúng ta, nghĩa là chia sẻ sự sống.
Thánh Tô-ma muốn thấy và không chỉ muốn thấy, mà còn muốn đụng ? Và rồi khi Chúa tỏ mình ra, Người mời gọi đụng vào Chúa, nhưng thánh nhân không dám đụng ! Đó là vì Người vừa là Đức Giê-su trước cuộc Thương Khó và vừa là Đức Chúa, là Thiên Chúa chiến thắng sự dữ và sự chết, vừa là Đấng Khác Hẳn, vượt không gian và thời gian. Vì thế, người ta không thể tự mình nhận ra ngay, mỗi khi Người tỏ mình ra.
3/ Không thấy mà tin
Tám ngày sau ; có nghĩa là đúng một tuần. Đó là đêm tối của đức tin, nhưng cũng là thời gian cần thiết để đi tới đức tin đích thật. Thực vậy, ông Tô-ma đã trở thành con người khác, sau thời gian một tuần: ông đã không làm điều ông tuyên bố, mặc dù chính Đức Giêsu mời ông thực hiện. Đức Ki-tô khởi đi từ điều ông Tô-muốn, nhưng là để mời gọi ông đi xa hơn và sâu hơn trong cách thức tin, hiểu, yêu và đi theo Đức Ki-tô Phục Sinh. Ông tuyên xưng:
Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con.
Đức Giêsu phục sinh mà ông « nhìn thấy » trước mặt ông là một « Đấng Khác », không như ông đã nghĩ. Đó là sự hiện diện thần linh, sự hiện diện của Đấng vô hình. Biến cố hiện ra này, cũng như tất cả các biến cố khác (chẳng hạn trong trình thuật về cuộc gặp gỡ Đức Ki-tô phục sinh của bà Maria Mác-đa-la, của hai môn đệ trên đường Emmau) làm cho chúng ta hiểu ra rằng, người ta không tự mình nhận ra Đức Kitô Phục Sinh, nhưng chính Ngài đến và cho nhận ra thì người ta mới nhận ra, bởi vì Đức Ki-tô sau cái chết đã đi vào sự sống mới.
Tương quan giữa chúng ta cũng cần vượt qua sự hiện diện hữu hình: tuy không thấy nhau, chúng ta vẫn được mời gọi sống sự hiện của nhau, ngang qua quà tặng, ngang ơn huệ. Điều này đặc biệt quan trọng trong huấn luyện: giữ tương quan ngay trong sự vắng mặt.
Như thánh Tô-ma, chúng ta hãy có lòng ước ao mạnh mẽ « thấy » Chúa để đi theo Người một cách cụ thể ; và xin cho chúng ta vượt qua bình diện thấy thể lí, để có thể nhận ra Đức Giê-su Ki-tô, là Đức Chúa Phục Sinh, ngang qua các dấu chỉ sáng tạo, sự sống, cuộc đời, ơn gọi, Lời Chúa, Thánh Thể dưới ánh sáng của mầu nhiệm Vượt Qua trong cuộc đời của chúng ta. Và như thế, chúng ta có thể nhận ra sự hiện hiện của Chúa ngay trong lòng chúng ta, vì Người đã từng nói: « Anh em hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em. » Và như thế, chúng ta sẽ hưởng được mối phúc mà Đức Ki-tô công bố:
Phúc thay những người không thấy mà tin.
Đó là mối phúc nhận ra, ở lại, đi theo và trở nên một với Đấng Phục Sinh ngang qua kinh nghiệm lắng nghe Lời Chúa trong cầu nguyện và nhận ra Ngài hiện diện nơi các Bí Tích, nhất là Bí Tích Thánh thể, và cả trong đời thường nữa với những hoàn cảnh và biến cố xẩy ra trong cuộc đời và ơn gọi của chúng ta ; như thánh Gioan kết luận sách Tin Mừng của Ngài:
Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.
Sau khi Thầy mình bị người ta giết chết, các môn đệ rất sợ hãi nên vào trong phòng đóng kín cửa lại, PS 2-ABC309
Sau khi Thầy mình bị người ta giết chết, các môn đệ rất sợ hãi nên vào trong phòng đóng kín cửa lại, chốt cửa rất cẩn thận vì sợ người Do Thái. Họ mới giết Thầy mình, bây giờ không khéo họ lại xơi tái mình luôn!
Giữa lúc tâm trạng đang hoang mang, giao động, sợ hãi như vậy các môn đệ cần điều gì nhất? Thưa sự bình an. Bình an cả trong lẫn ngoài. Chúa Giêsu hiểu thấu tâm trạng này của các đồ đệ, nên quyết định hiện đến với các ông, đứng giữa phòng kín và nói ngay câu đầu tiên: “Bình an cho anh em”. Họ ngơ ngác không hiểu Chúa Giêsu vào bằng cách nào: Bẻ khoá? Chui kẽ hở? Dỡ mái nhà?! Lạ quá nhỉ. Một sự bất ngờ đáng hoài nghi nhưng cũng đầy sửng sốt mà không một vị tông đồ nào dám nói câu gì. Chúa Giêsu tiếp tục làm công việc thứ hai là cho các ông xem tay và cạnh sườn vẫn còn vết thương để đừng ai hồ nghi, ngờ vực gì nữa. Không ai ý kiến gì cả. Chúa Giêsu tiếp tục làm công việc thứ ba: nói lại câu “bình an cho anh em” và trao cho họ lệnh truyền sai họ đi làm chứng cho Chúa. Không ai ý kiến gì cả. Im lặng là đồng ý. Chúa Giêsu tiếp tục làm công việc cuối cùng: thổi hơi vào các ông và trao ban Chúa Thánh Thần, trao quyền tha tội cho các ông. Ôi sao mà sướng thế! Suốt từ nãy đến giờ có khoảng vài phút thôi mà Thầy cho nhiều thứ thế. Quả là Thầy mình quá rộng rãi, dễ tính!
Sự việc xảy ra đang ngon trớn, êm xuôi giữa thầy và trò thì xảy ra sự trục trặc cắt ngang, đó là sự xuất hiện của vị thánh Tông đồ Tôma. Có ông này một cái là rắc rối ngay những lại rất hay.
Các tông đồ kia kể cho Tôma: Chúng tôi được nhìn thấy Chúa rồi đấy nhá. Tiếc cho mỗi mình ông thôi. Lúc ấy ông đi đâu mà không về gặp Thầy. Thiệt thòi cho ông quá! Tôma tức lên: Này các ông đừng ăn nói linh tinh! Còn lâu tôi mới tin chuyện các ông kể. Nếu như đôi mắt này không thấy dấu đinh ở tay chân Thầy; nếu như bàn tay này mà không trực tiếp xỏ vào lỗ đinh, thọc vào cạnh sườn Thầy, thì còn lâu tôi mới tin! Giêsu lạy Chúa tôi! Sao cái ông Tôma này ăn nói vớ vẩn, ngạo mạn thế nhỉ!
Chúa mà nghe thấy thì ông toi đời! Chúa Giêsu nghe thấy thật. Đúng mt tuần sau, y như lần trước, Chúa Giêsu lại hiện đến, đứng giữa phòng đóng kín, tấn công Tôma luôn: Này, Tôma, đến đây thầy bảo, đưa tay đây, đặt vào lỗ đinh ngay,... từ nay đừng cứng lòng nữa nhé và phải vững lòng tin. Ông khiếp quá: “Lạy Chúa tôi! Từ nay con chỉ có tin… trở lên thôi. Chuyện quá sức tưởng tượng. Con không dám hoài nghi, không dám nói linh tinh lang tang nữa đâu”! Các Tông đồ ngơ ngác nhìn nhau, chỉ chỏ vào Tôma: Đấy, đấy! Chết chưa! Đã nói mà không chịu nghe. Bây giờ mở mắt ra nhé! (từ ngữ ở đây có ý diễn tả thêm cho vui, dễ hiểu).
Chúng ta thường gán cho Tôma là người cứng lòng tin, “thẳng như ruột ngựa”, con người của sự thách thức, yếu kém về đức tin... Ông thuộc loại đa nghi, không vội tin một cách dễ dàng như bao người khác. “Bá nhân bá tính” mà. Ong là người có tính thực tế của khoa học phải qua kiểm chứng, kiểm nghiệm bằng mắt thấy, tai nghe, tay chân sờ mó đụng chạm hẳn hoi thì mới tin. Ông nghi ngờ những chuyện thần tiên; không tin những gì có vẻ hoang đường do người khác kể lại nhỡ ra không có thật thì sao? Cũng có phần đúng. Nhưng nên nhớ, Phúc Âm đã thuật lại: Khi mấy người phụ nữ báo tin cho các môn đệ: Chúa đã sống lại rồi, các ông cũng hoài nghi. Rồi, “khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28,17). Huống chi Tôma chưa được nhìn thấy, mà chỉ nghe 10 ông kia kể lại, ông phải hoài nghi là đúng rồi. Quả vậy, Thánh Tôma để lại cho chúng ta kinh nghiệm sống đức tin hôm nay.
Đây phải chăng là thái độ khôn ngoan, cẩn thận trước một quyết định hết sức quan trọng của đức tin nơi Tôma. “Có thể nói Tôma Tông đồ nếu không phải là thánh tổ của các nhà khoa học thì cũng là vị thánh có tinh thần khoa học, có óc thực tiễn. Trước khi tin, ông phải nghi ngờ đã. Ông chỉ tin những điều hợp lý, những gì thấy được, sờ được”. Đây không phải là thái độ cố chấp của Tôma mà ngược lại là thái độ không nhẹ dạ, không cả tin vội vã bằng tai nghe. Đó là lối phân tích theo nhận định tự nhiên của con người và cũng là kinh nghiệm sống đức tin của nhiều người chúng ta.
Dù sao, đây cũng là một khó khăn riêng tư của Tôma trong việc tin vào Chúa sống lại. Chúa Giêsu hiểu ông, nên đã đích thân đến và giúp cho ông dễ dàng hơn để tin vào Chúa. Ngài mời gọi ông hãy tin vững vàng. Và ông đã nói lên lời tuyên xưng đức tin thật đẹp đẽ, thật quan trọng “lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Cuối cùng, Chúa Giêsu đã ban cho Tôma sự bình an và đức tin mạnh mẽ qua sự hoài nghi, để ông tuyên xưng đức tin cá nhân của mình: “Lạy Thiên Chúa của con”. Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, Tôma đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi. Theo lưu truyền, ông đi rao giảng đức tin và lòng thương xót của Chúa ở Ba Tư, Xyri rồi chịu tử đạo ở Ấn Độ.
Thần học gia Hans Kung nói: “Người tín hữu không bao giờ nghi ngờ sẽ khó lòng hoán cải một người hoài nghi”. Nhà thần học Paul Tillich nói: “Sự hoài nghi chín chắn là sự khẳng định của đức tin. Nó chứng tỏ một sự quan tâm rất nghiêm chỉnh”. Còn Thomas Merton thì lại bảo: “Người có niềm tin mà chưa từng trải qua sự nghi ngờ thì không phải là người có niềm tin”. Thực tế, trên đời có biết bao điều chúng ta không thấy mà vẫn tin, không kiểm tra được mà vẫn phải chấp nhận và sống điều ấy.
Như tin vào cha mẹ, thầy cô, những người có thế giá; tin vào tình yêu và lòng tốt của người khác dù họ chưa làm gì cho ta; tin vào lời hứa trong tương lai dù chưa thấy kết quả trước mắt. Phải chăng đấy là những dấu hiệu của đức tin và niềm hy vọng. Phải chăng vì thế mà cuộc sống của ta được bình an và phấn khởi.
Đức tin cũng vậy là một sự bấp bênh, có thể bị lừa. Khủng hoảng đức tin là khủng hoảng lớn nhất. Nhưng sự hoài nghi giúp chúng ta trưởng thành trong đức tin, thúc đẩy ta thắc mắc, tìm hiểu, học hỏi, cầu nguyện, nghiên cứu sách vở...
Mỗi người Kitô hữu hôm nay không mong đợi những dấu chỉ mà Chúa Giêsu đã tỏ mình cho Tôma: được nhìn thấy bằng mắt, đụng chạm bằng tay, nghe thấy bằng tai, và cảm nhận sự hiện diện của Chúa bằng chính giác quan của mình. Nhưng Chúa lại bảo: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Như thế, ngoài Tám Mối Phúc Thật ra, đây là Mối Phúc thứ chín. Không thấy mà tin không có nghĩa là tin một cách mù quáng, vu vơ, không có cơ sở, không có lập trường mà là đức tin vững mạnh hơn, truởng thành hơn.
Trong đời sống thiêng liêng còn đòi hỏi chúng ta phải sáng suốt và tình táo hơn để nhận ra những dấu chỉ mà Chúa vẫn dọn sẵn để mời gọi chúng ta vững tin. Như là dấu chỉ của bánh rượu trên bàn thờ mà chính Chúa Giêsu Phục Sinh hiện diện để nuôi sống chúng ta. Dấu chỉ của Lời Chúa trong Kinh Thánh mà chính Chúa đang tỏ mình cho ta. Dấu chỉ của những việc bác ái yêu thương nơi anh chị em đồng loại đang hiện diện khắp đó đây là bằng chứng sự hiện diện của Thiên Chúa; vì ở đâu có tình yêu thương thì ở đấy có Đức Chúa Trời. Dấu chỉ của đời sống cầu nguyện là môi trừơng thuận lợi để gặp gỡ Chúa.
Nhưng dù chúng ta vẫn tin vào những dấu chỉ ấy thì chắc chắn không thể tránh khỏi đôi lần nghi ngờ như Tôma. Cho nên, ông Jean Guitton, một nhà triết học người Pháp, nói: “Chính vì nghi ngờ thường trực mà tôi lại có thể tin vững”. Người Kitô hữu đôi khi không cần trí tuệ để tin vào những thực tại thiêng liêng; không cần giác quan để kiểm soát những dấu chỉ mầu nhiệm trong đạo, mà chúng ta sống bằng lòng mến. Càng yêu mến nhiều thì càng tin chắc. Càng tin vững thì càng bình an. Như vậy, con đường của lòng tin là con đường của lòng mến. Thánh Tôma Aquinô đã cầu nguyện: “Chúa ơi, con không xin đựơc xem thương tích Chúa như ông Tôma Tông đồ, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông vào Chúa và yêu mến Chúa nhiều hơn nữa”. Lời cầu nguyện ấy cũng phải là tâm tình xác tín của chúng ta hôm nay để vực dậy đức tin cho mình và người thân giữa một thế giới đầy dẫy những dấu hiệu, hình ảnh, những lời mời gọi khác nhau. Thế nhưng, bất cứ ai luôn tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu Phục Sinh đều luôn sống tích cực và khám phá ra điều kỳ diệu trong những cái tầm thường để có khả năng chứng mình về tình yêu và lòng thương xót của Chúa.
Khi gặp sự rủi ro, thất bại, đau thương, sống trong bầu khí ngột ngạt của cộng đoàn hay làng xóm gia đình, chúng ta mới thấy cần ơn bình an và cậy trông vào lòng thương xót của Chúa. Chúa Nhật II Phục Sinh được gọi là Chúa Nhật kính Lòng Thương Xót Chúa. ĐTC Gioan Phaolô II đã thiết lập lễ này đáp lại ý Chúa muốn qua Thánh nữ Maria Faustina: “Ta muốn ngày lễ kính lòng thương xót là một trợ giúp và là nơi trú ẩn cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương. Trong ngày ấy, lòng thương xót của Ta sẽ rộng mở, Ta sẽ tuôn đổ một đại duơng hồng ân xuống các linh hồn đến gần nguồn mạch lòng thương xót của Ta” (Tiểu nhật ký, số 699). Dù mới thiết lập năm 2000, nhưng phong trào phổ biến Lòng Thương Xót Chúa thật lạ lùng.
Lòng Thương Xót của Chúa được diễn tả qua cuộc thương khó và cái chết của Ngài trên thập giá. Lòng thương xót ấy vẫn còn để lại dấu vết trên thân thể Chúa, kể cả sau khi Chúa đã sống lại sáng láng vinh hiển. Vì thế, việc đầu tiên khi hiện ra với các môn đệ, sau khi trao sự bình an, là cho các ông xem các vết thương ở tay và cạnh sườn, khiến các ông vui mừng và bình an.
Lòng thương xót Chúa đối với con người trước và sau phục sinh không thay đổi, vì Chúa Giêsu vẫn là một để cho người ta nhận ra Ngài. Vết thương diễn tả lòng thương yêu của Chúa với con người không thay đổi. Ngài còn khoe và cho phép Tôma lấy tay kiểm tra vết thương. Nghĩa là Chúa không che giấu, không tiếc xót dù Tôma có cứng lòng, đòi thực tế phải thấy mới tin.
Hằng ngày chúng ta vẫn được hưởng sự bình an và lòng thương xót của Chúa qua giáo hội khi chúng ta nghe Chúa dạy, lãnh các bí tích nhất là Thánh lễ và Bí tích Hoà Giải. Nghĩa là Chúa đã trao cho chúng ta trách nhiệm như Tôma và các môn đệ xưa: hãy đi loan báo và làm chứng về sự bình an và lòng thương xót Chúa cho người khác.
Thế giới, xã hội còn đầy bất công, bạo hành, sự bất an, chúng ta hãy đem sự bình an của Chúa Phục Sinh cho họ, đặt cơ sở niềm tin cho người ta. Người Kitô hữu là sứ giả sự bình an sẵn sàng chấp nhận thiệt thòi, hiểu lầm, chống đối để bảo vệ niềm tin của mình. Thế giới, xã hội còn đầy vết thương do sự hận thù, tranh chấp, xáo trộn, chúng ta hãy đem lòng thương xót Chúa đến cho họ để chữa lành nỗi đau khổ thể xác và tinh thần giúp người ta tiếp tục sống và vươn lên. Đó chính là những sứ điệp và trách nhiệm Chúa gửi cho chúng ta trong Mùa Phục Sinh.
Lễ nào quan trọng nhất trong niềm tin của chúng ta? Đó là câu hỏi Đức Giáo Tông Phanxicô PS 2-ABC310
Lễ nào quan trọng nhất trong niềm tin của chúng ta? Đó là câu hỏi Đức Giáo Tông Phanxicô đặt ra cho khoảng 20 ngàn tín hữu hiện diện trong buổi yết kiến chung vào sáng thứ tư 28.3.2018 tại quảng trường Thánh Phêrô.
Đức Phanxicô chia sẻ là mãi cho đến năm 15 tuổi, ngài vẫn nghĩ rằng Lễ Giáng Sinh là Lễ quan trọng nhất. Ngài nhắc rằng Lễ Phục Sinh quan trọng nhất vì là Lễ của Ơn Cứu Độ của chúng ta. Vì lý do này, trong buổi tiếp kiến chung hôm nay, ngài muốn suy niệm về ý nghĩa của Tam Nhật Vượt Qua.
Tam Nhật Vượt Qua bắt đầu từ chiều thứ Năm Tuần Thánh với Thánh Lễ Tiệc Ly và kết thúc với Kinh chiều Chúa Nhật Phục Sinh. Tam Nhật Vượt Qua đánh dấu các giai đoạn cơ bản của Đức Tin và Ơn Gọi của chúng ta trong thế giới, và mọi Kitô hữu được kêu gọi sống Ba Ngày Thánh này – thứ Năm, thứ Sáu, thứ Bảy; và Chúa Nhật, nhưng thứ Bảy là ngày Chúa sống lại – Ba Ngày Thánh này như “khuôn mẫu” của cuộc sống cá nhân và cộng đoàn các Kitô hữu, như các anh em Do Thái của chúng ta đã sống.
Tam Nhật Vượt Qua tạo thành một cử hành tưởng niệm mầu nhiệm cao cả: sự chết và sống lại của Chúa Giêsu. Để giúp các tín hữu hiểu về điều này, Đức Giáo Tông giải thích:
Ba ngày này tái trình bày lại cho các Kitô hữu các sự kiện quan trọng của Ơn Cứu Độ đã được Chúa Kitô thực hiện và như thế hướng họ về vận mệnh tương lai của họ và củng cố họ trong sự dấn thân làm chứng trong lịch sử.
Buổi sáng Phục Sinh, trong khi nhắc lại các giai đoạn đã trải qua trong Tam Nhật Vượt Qua, bài Ca Tiếp Liên, một loại Thánh Thi, sẽ làm vang lên cách trang trọng lời loan báo Phục Sinh: “Chúa Kitô, niềm hy vọng của chúng ta, đã sống lại và đi trước chúng ta đến Galilê.” Đây là lời khẳng định quan trọng: Chúa Kitô đã sống lại.
Tại nhiều dân tộc trên thế giới, đặc biệt ở Tây Âu, vào ngày Lễ Phục Sinh, người ta không chào nhau bình thường, chào buổi sáng hay buổi chiều, nhưng là: “Chúa Kitô Phục Sinh”. Tam Nhật Vượt Qua đạt đến đỉnh điểm trong những lời reo mừng cảm động này. Những lời này không chỉ chứa đựng lời loan báo tin vui và hy vọng, nhưng còn là một lời kêu gọi nhận lãnh trách nhiệm và sứ vụ.
Lễ Phục Sinh không kết thúc với bánh với trứng, và các ngày Lễ… Những điều này thật đẹp bởi vì là ngày Lễ của gia đình, nhưng Phục Sinh không kết thúc như thế. Phục Sinh bắt đầu từ đó với hành trình sứ vụ và loan báo: “Chúa Kitô Phục Sinh”. Lời loan báo này, đối với những người được Tam Nhật Vượt Qua chuẩn bị để đón nhận, là trung tâm của Đức Tin và hy vọng của chúng ta, là kerygma – lời rao giảng tiên khởi – đã loan báo cách liên tục cho Giáo Hội và đến lượt mình, Giáo Hội được mời gọi rao giảng tin vui này.
Thánh Phaolô đã tóm tắt biến cố Phục Sinh trong thành ngữ: “Chúa Kitô, Lễ Vượt Qua của chúng ta, đã chịu hiến tế” (1Cr 5,7). Vì thế, thánh nhân nói tiếp – “những điều xưa cũ đã qua đi và nảy sinh những điều mới mẻ” (2Cr 5,15). Tái sinh. Vì thế, từ ban đầu,trong ngày Lễ Phục Sinh, người ta rửa tội cho các tân tòng. Vào đêm thứ Bảy này, tại Vatican, tôi cũng rửa tội cho 8 người trưởng thành, họ bắt đầu hành trình cuộc sống Kitô hữu. Và tất cả bắt đầu: tất cả được tái sinh.
Và Thánh Phaolô cũng dùng một thành ngữ tổng hợp khác để giải thích rằng Chúa Kitô “đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta và đã được Thiên Chúa Cha làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính” (Rm 4,25). Điều duy nhất làm cho chúng ta nên công chính, điều duy nhất tái sinh chúng ta chính là Chúa Giêsu Kitô. Không có điều gì khác.
Vì điều này chúng ta không phải trả đồng nào cho sự công chính – điều làm cho chúng ta được công chính là miễn phí. Đây là sự vĩ đại của tình yêu của Chúa Giêsu: hiến dâng sự sống cách nhưng không để thánh hóa chúng ta, để canh tân chúng ta, để tha thứ cho chúng ta. Đây chính là hạt nhân của Tam Nhật Vượt Qua này.
Trong Tam Nhật Vượt Qua việc tưởng niệm biến cố nền tảng này được cử hành với sự nhận thức và đồng thời canh tân ý nghĩa của tình trạng mới của những người được rửa tội, điều mà Thánh Phaolô diễn tả như sau: “Nếu anh em sống lại với Chúa Kitô, hãy tìm kiếm những sự thuộc về thượng giới, […] chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc về hạ giới” (Cl 3,1-3). Hướng nhìn về thượng giới, nhìn về chân trời: đây là Đức Tin của chúng ta, đây là sự công chính của chúng ta, đây là tình trạng ân sủng.
Thật vậy, nhờ Bí Tích Thánh Tẩy, chúng ta được sống lại với Chúa Giêsu và chúng ta chết đi với những sự việc và luận lý của thế gian, chúng ta được tái sinh như các thụ tạo mới: một thực tại mới đòi hỏi trở thành sự hiện hữu cụ thể từng ngày.
Nếu một Kitô hữu thực sự để mình được Chúa Kitô tẩy rửa, nếu thực sự để mình được Người lột bỏ con người cũ để đi vào một sự sống mới, dù vẫn là người tội lỗi – bởi vì tất cả chúng ta là người tội lỗi – thì không còn có thể bị hư hoại: ơn công chính hóa của Chúa Giêsu cứu chúng ta khỏi bị hư hoại – chúng ta là người tội lỗi nhưng không hư hoại, và Kitô hữu không thể sống với tội lỗi trong tâm hồn và cũng không thể là nguyên nhân của tội lỗi.
Ở đây tôi phải nói một điều đáng buồn… Có những Kitô hữu giả hình: những người nói rằng “Chúa Giêsu đã Phục Sinh”, “tôi được công chính hóa nhờ Chúa Giêsu”, tôi đang ở trong sự sống mới… nhưng họ lại sống một cuộc sống hư hoại. Những Kitô hữu giả mạo này sẽ kết thúc không tốt đẹp.
Tôi nhắc lại, Kitô hữu là người tội lỗi, tất cả chúng ta, tôi cũng thế, nhưng chúng ta chắc chắn rằng khi chúng ta xin Chúa tha thứ thì Người sẽ thứ tha cho chúng ta. Kẻ hư hoại tỏ ra là một người đáng kính nhưng cuối cùng trái tim của họ lại chứa sự mục nát. Chúa Giêsu ban cho chúng ta sự sống mới. Kitô hữu không thể sống với sự chết trong tâm hồn và không thể là nguyên nhân sự chết. Chúng ta nghĩ đến các Kitô hữu Mafia. Những loại Kitô hữu này không có thứ gì. Họ nhận là Kitô hữu nhưng mang sự chết trong tâm hồn và cho người khác. Chúng ta cầu nguyện cho họ, xin Chúa chạm đến trái tim họ.
Người lân cận, đặc biệt là người bé nhỏ nhất và đau khổ nhất, trở thành gương mặt cụ thể để Kitô hữu trao ban tình thương mà Chúa Giêsu đã trao ban cho chúng ta. Và thế giới trở thành không gian của sự sống mới cho những người được Phục Sinh. Chúng ta được sống lại với Chúa Giêsu: bước đi trên đôi chân và đầu ngẩng cao, chúng ta có thể chia sẻ sự khiêm hạ của những người ngày nay vẫn còn như Chúa Giêsu, đang đau khổ, trần truồng, đói khổ, cô đơn, trong sự chết, để nhờ Chúa Giêsu và với Chúa Giêsu, trở thành khí cụ cứu độ và hy vọng, dấu hiệu của sự sống và Phục Sinh.
Tại nhiều quốc gia, ở Ý và tại quê hương tôi, có thói quen, vào ngày Lễ Phục Sinh, khi nghe tiếng chuông, những người bà, các bà mẹ mang các trẻ em đi rửa mắt chúng bằng nước, với nước sự sống, là dấu chỉ có thể nhìn thấy những thứ thuộc về Chúa Giêsu, những sự vật mới. Trong Lễ Phục Sinh này, chúng ta hãy để mình được rửa mắt tâm hồn, để nhìn thấy những điều thiện mỹ và làm những điều tốt đẹp. Điều này thật tuyệt vời. Đây chính là Sự Sống Lại của Chúa Giêsu sau cái chết, là giá cứu độ tất cả chúng ta.
Thế là Giêsu người thành Nadarét đã “mồ yên mả đẹp”. Thôi thì hãy yên nghỉ và quên đi những PS 2-ABC311
Thế là Giêsu người thành Nadarét đã “mồ yên mả đẹp”. Thôi thì hãy yên nghỉ và quên đi những vất vả trên những nẻo đường truyền giảng Tin Mừng. Quên đi những tiếng la ó, những lời thóa mạ, phản kháng, và bản án bất công. Quên đi những tiếng búa chát chúa làm xuyên thấu tay chân bằng những chiếc đinh dài và nhọn nhưng rất vô tình. Quên đi cơn hấp hối kinh hoàng tưởng chừng “Cha nỡ bỏ con” (Mt 27,46). Quên đi đồi Gôngôtha loang máu. Và Giêsu ơi! Hãy ngủ yên.
Câu chuyện tưởng đã yên, nhưng mới sáng ngày thứ nhất trong tuần đã bị khua động trở lại. Ngài đã không ngủ yên. Ngài đã trỗi dậy và ra khỏi mồ. Maria Magđala và một số phụ nữ đã phát hiện ra rằng ngôi mộ đã trở thành trống rỗng, và thân xác Giêsu đã không còn trong đó nữa. Thế là một lần nữa, những thiếu phụ này lại bị xúc động và sợ hãi: “Chúa đã bị mang ra khỏi mồ. Chúng tôi không biết họ để Ngài ở đâu” (Ga 20,2). Ðiều này cũng làm cho các môn đệ đã hoang mang sợ hãi, càng thêm hoang mang sợ hãi hơn. Phêrô và Gioan cũng đã bị lôi cuốn, và muốn tìm ra sự thật.
Những nhân chứng ấy không ai khác là Maria Magđala và một số phụ nữ, Phêrô và Gioan, những người mà liên hệ mật thiết với Ðức Kitô đã được nói đến nhiều trong Tin Mừng (x. Ga 20,1-10).
Thời gian là buổi sáng Phục Sinh, khi mà người, vật còn đang ngái ngủ. Khi ánh bình minh vừa ló rạng. Vào thời điểm ấy, ta mường tượng các phụ nữa kia đang âm thầm và lặng lẽ bước đi trong sương mai, và những con gió thoảng buổi sáng đang làm họ se lạnh. Những cơn gió mát, nhẹ nhàng và thoang thoảng.
Không gian là ngôi mộ trống bên triền đồi Gôngôtha. Nơi mà buổi chiều Thứ Sáu thảm sầu, một tử thi đã được chôn cất vội vã!
Và Chúa Giêsu đã sống lại. Biến cố này đã trở thành niềm tin và sức sống mãnh liệt cho nhân loại trong suốt chiều dài Lịch Sử Cứu Độ. Hàng triệu triệu người đã sống với niềm tin này, và hàng triệu triệu người đã chết để bảo vệ niềm tin này. Nhưng đối với những người như chúng ta, những chứng từ ấy phải chăng vẫn còn là một nghi vấn. Nó có nghĩa gì trong cuộc sống đạo của mỗi Kitô hữu?
Có cần phải tình cảm và xúc động như Maria Magđala và những phụ nữ đã có mặt trong buổi sáng Phục Sinh không: “Thưa ông, nếu ông mang Ngài đi đâu, xin làm ơn chỉ cho tôi chỗ ông đã đặt Ngài để nhận Ngài lại” (Ga 20,15).
Cuộc sống đạo, cuộc sống tâm linh đôi lúc cũng cần được nuôi dưỡng bởi những động lực và thôi thúc tình cảm như thế. Có lúc chúng ta cần phải xúc động khi tham dự những nghi Lễ sốt sắng. Cũng có lúc chúng ta cần phải để lòng mình lắng đọng khi gối quỳ một mình trong thinh lặng tại một góc của giáo đường. Và cũng có lúc chúng ta phải để cho lòng mình thổn thức một niềm cảm xúc trước những vẻ đẹp và sự cuốn hút của Thiên Chúa qua những người, những vật, mà chúng ta đụng chạm tới.
Có cần phải hăm hở và nhiệt tình như Phêrô, như Gioan đã nhanh chân chạy ra mộ để tìm ra những dấu hiệu của cuộc Phục Sinh không: “Phêrô và môn đệ kia bắt đầu chạy ra mồ. Họ cùng chạy bên nhau, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn và đến mồ trước. Ông không vào trong nhưng cúi xuống nhìn vào và thấy những khăn liệm ở trên đất” (Ga 20,3-5).
Ðời nội tâm nếu chỉ dựa vào những rung động của tình cảm sẽ dễ trở thành mê tín, dị đoan, nhìn Chúa Giêsu mà lại tưởng là người làm vườn. Hoặc ngược lại, nhìn người làm vườn mà lại cho là Chúa Giêsu, như trường hợp của Maria Magđala. Niềm tin, ngoài những yếu tố tình cảm cũng đòi hỏi những dấu hiệu khả tín và dựa vào những lý luận hợp lý. Có lẽ vì phản ứng tự nhiên ấy mà cả Phêrô lẫn Gioan đã hăm hở chạy ra mộ.
Ngôi mộ trống, tự nó, đã có chỗ đứng lịch sử trong biến cố Phục Sinh. Nếu nó đã bị phá hủy ngay đêm Thứ Sáu do lính của Rôma thì mọi chuyện đã đổi chiều. Hoặc nếu đám lính canh của các Thượng Tế gửi tới vẫn còn đang thức khi nhóm phụ nữ đến mộ thì sự việc cũng lại khác hẳn. Nhưng ngôi mộ mà xác thân của Giêsu đã được mai táng, và từ ngôi mộ ấy, Chúa đã sống lại vẫn còn đó, trống vắng, và lạnh lùng. Người ta chỉ tìm được những giây băng, vải cuốn, và khăn liện. Chính vì vậy mà nó đã trở thành một dấu chỉ đầy ý nghĩa của biến cố Phục Sinh.
Nó cho chúng ta một ý niệm về thái độ dứt khoát với quá khứ. Chúa Kitô đã để lại tất cả những gì thuộc về thế giới kẻ chết như khăn liệm và băng quấn lại cho thế giới của sự chết. Ngài đã ra khỏi mộ và không trở lại. Thân xác Ngài giờ đây là thân xác thần linh, thân xác có thể vào nhà nơi các môn đệ Ngài trong lúc vẫn cửa đóng, then cài. Và đó là ý nghĩa của sống lại, của Phục Sinh.
Nó còn là một dấu chỉ để con người suy về quá khứ. Một quá khứ với những đa mê và dục vọng. Ðiều này cũng có nghĩa là chúng ta sẽ không ngoái nhìn lại quá khứ và không nên tiếc nuối những gì mình đã bỏ lại. Nếu Thiên Chúa có nhìn đến chúng ta lúc này, thì Ngài muốn nhìn thấy một tinh thần vượt qua từ mồ sâu tội lỗi. Và nếu con người có nhìn đến chúng ta, thì họ sẽ chỉ thấy một chiếc khăn liệm gói trọn quá khứ, và hiện tại là sự đổi mới hoàn toàn. Không luyến tiếc, không ngoảnh mặt lại với quá khứ, nhất là quá khứ từng làm cho con người hư hỏng và sa lầy trong tội, là thái độ mà Chúa Giêsu Phục Sinh muốn thấy nơi mỗi Kitô hữu. Họ cần phải dứt khoát với quá khứ ấy, nếu muốn cùng Ngài Phục Sinh như Tông Ðồ Phaolô đã khẳng định: “Nếu ta cùng chết với Ngài ta sẽ cùng Ngài Phục Sinh” (Rm 6,5).
Ngôi mộ trống vẫn không nói nhiều. Ngôi mộ trống cũng vẫn im lìm một chỗ không di chuyển. Và ngôi mộ trống cũng vẫn chỉ là một ngôi mộ trống. Nhưng hình ảnh của nó gắn liền với buổi sáng Phục Sinh, với Maria Magđala, với Phêrô và Gioan, và tất cả những ai đang tin vào Con Thiên Chúa – Ðấng xóa tội trần gian – đã chịu cực hình thập giá, và được mai táng trong đó. Và cũng từ ngôi mộ ấy, Ngài Phục Sinh vinh hiển.
Cuộc sống mỗi Kitô hữu cũng phải như ngôi mộ trống ngày Phục Sinh. Có nghĩa là chúng ta phải trở nên dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, và sự sống lại của Chúa Kitô trong cuộc đời mình. Ðể được thế, trước hết ngôi mộ tâm linh này phải đón nhận Chúa Giêsu Tử Giá bằng những chứng từ cuộc sống, và để Ngài làm cho nở hoa, Phục Sinh trong quyền lực Thiên Chúa. Như vậy, mỗi khi có ai nhìn vào ngôi mộ tâm linh ấy, tức là linh hồn của mỗi Kitô hữu, họ sẽ khám phá ra không phải là những người giầu tình cảm đạo đức, những người thông thạo giáo lý, hiểu biết; nhưng hơn thế, họ nhận ra một Chúa Giêsu Phục Sinh và vinh hiển.
Cuộc đời tôi, cuộc hành trình tâm linh của tôi cũng cần phải giống như ngôi mộ trống kia, để tất cả những ai tò mò nhìn vào cũng nhận ra dấu chứng của Chúa Phục Sinh.
Lòng Thương Xót của Thiên Chúa thật vĩ đại, vì Ngài tha thứ tội lỗi của chúng ta dù đó là tội nặng tới PS 2-ABC312
Lòng Thương Xót của Thiên Chúa thật vĩ đại, vì Ngài tha thứ tội lỗi của chúng ta dù đó là tội nặng tới mức nào. Chúa Giêsu đã từ trời xuống thế gian để cứu thế giới tội lỗi này khỏi án phạt đời đời. Chúa Giêsu xuống thế dạy cách đến với Lòng Chúa Thương Xót bằng cách kêu gọi sám hối. Ngài rao giảng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,2; Mt 4,17).
Đừng phạm tội và đến với Lòng Chúa Thương Xót khi chưa quá muộn. Đừng tiếp tục sống trong tội mà cho rằng mình có thể sám hối và được tha thứ vào cuối đời. Hãy chú ý tới lời cảnh báo.
Đừng tỏ ra khôn hơn Chúa, Đấng là nguồn khôn ngoan và thấu suốt mọi sự. Đừng thử lòng Thiên Chúa, nhưng hãy sống “nhân từ như Cha là Đấng nhân từ” (Lc 6,36). Không thương xót hoặc không tha thứ cho người khác là tội chống lại Lòng Chúa Thương Xót.
Và cũng phải nhớ “mức độ thương xót”. Một hôm, ông Phêrô đến gần Đức Giêsu mà hỏi: “Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con thì con phải tha đến mấy lần? Có phải bảy lần không?” Đức Giêsu đáp: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18,21-22; Lc 17,4). Rồi Chúa Giêsu kể dụ ngôn về người đầy tớ ác ôn, không biết thương xót đồng loại (Mt 18,23-35).
Chúa Giêsu phân tích:
Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách. Khi nhà vua vừa bắt đầu thì người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng. Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y cùng tất cả vợ con, tài sản mà trả nợ. Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống bái lạy: “Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết”. Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ.
Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo: “Trả nợ cho tao!” Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống năn nỉ: “Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh”. Nhưng y không chịu, cứ tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ. Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện.
Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?” Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình.
LƯU Ý: Đừng sống thực dụng, coi trọng tiền bạc, đừng ích kỷ và đề cao “cái tôi” của mình, cũng đừng hành động để được nhận thù lao. Đừng quá tự tin về ơn tha thứ và Lòng Chúa Thương Xót kẻo trở thành ảo tưởng và tự mãn, rồi cứ sống trong tội. Hôm nay, hãy lắng nghe Thiên Chúa cảnh báo (Hc 5,1-10) về sự giàu sang và thói tự đắc:
1. Đừng cậy vào tài sản của con, và đừng nói: “Tôi có đủ cả rồi!”
2. Đừng chiều theo ước muốn và sức lực của con, mà thoả mãn những đam mê của lòng mình.
3. Đừng nói: “Ai làm gì được tôi?” Vì Đức Chúa là Đấng công minh sẽ trừng phạt. 4. Đừng nói: “Tôi đã phạm tội nhưng nào có sao?” Bởi vì Đức Chúa nhẫn nại đó! 5. Đừng ỷ được tha thứ mà khinh nhờn, rồi cứ chồng chất tội này lên tội khác.
6. Đừng nói: “Người rất mực cảm thương, tôi có phạm tội nhiều, Người cũng tha thứ cả!” Vì Người thương xót, Người cũng nổi lôi đình, và cơn lôi đình của Người ập xuống quân tội lỗi.
7. Đừng trì hoãn, hãy trở về với Đức Chúa đi; đừng lần lữa hết ngày này qua ngày khác, vì thình lình Đức Chúa sẽ nổi cơn thịnh nộ, và trong thời trừng phạt, con sẽ phải tiêu vong.
8. Đừng cậy dựa vào của cải bất chính, vì điều đó chẳng ích gì cho con ngày con gặp bất hạnh.
9. Đừng có gió nào cũng theo, đường nào cũng bước, như một tên tội lỗi lật lọng. 10. Hãy giữ vững xác tín của mình, và lời con phải trước sau như một.
Bình an là một khát vọng của con người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thế nhưng, có lẽ chưa bao PS 2-ABC313 Luong
Bình an là một khát vọng của con người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Thế nhưng, có lẽ chưa bao giờ nhân loại được hưởng một sự bình an toàn diện. Người ta có thể dập tắt ngọn lửa chiến tranh, có thể áp đặt một nền hòa bình và có thể ký kết những bản hòa ước. Nhưng không ai hiểu thấu được lòng người, để có thể đem lại một sự bình an vào tận cõi thẳm sâu bên trong, bởi vì ít ai có được sự bình an đích thật ngay trong cõi lòng mình, đễ rồi có thể chia sẻ cho người khác.
Con người chỉ có thể kiến tạo sự hòa bình bên ngoài, nhưng không có khả năng chế ngự, điều khiển được những đợt sống ngầm vẫn sôi sục ở đáy lòng. Vì thế, hòa bình trên thế giơi từ trước cho đến nay thường chỉ là một nền hoàn bỉnh giả tạo và mong manh. Dĩ nhiên, có được nền hòa bình ấy vẫn còn tốt hơn là không chi, hay chỉ biết lao mình vào lửa đạn chiến tranh.
Sự bình an mà Chúa Giêsu trao ban cho nhân loại không phải là loại bình an đó, nhưng là một sự bình an của chính tâm hồn, mà Ngài đã có được khi chến thắng tội lỗi, bằng cái chết của Ngài trên thập giá. Sự bình an của Đấng đã yêu thương chúng ta cho đến cùng, khi chấp nhận hy sinh mạng sống cho chúng ta. Nói cách khác, đó là sự bình an mà Chúa Giêsu đã có thể chia sẻ cho chúng ta, sau khi Ngài đã thực sự chia sẻ chính mình Ngài cho chúng ta. Sự bình an của Đấng giờ đây cảm thấy nhẹ nhàng, thanh thoát, vì không còn thuộc về mình, nhưng đã thuộc trọn về những người mình yêu thương. Thánh Phaolô gọi đó là sự bình an của thập giá, và như lời thánh tông đồ đã xác quyết: Nhờ máu Ngài đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại sự bình an cho muôn loài dướt đất và muôn vật trên trời.
Như vậy, bình an của thập giá là bình an của Đấng đã lấy chính máu mình làm phương tiện thiết lập giao ước mới, hay có thể nói một cách cụ thể hơn, đó là chất keo dính, gắn bó nhận loại vơi Ngài và găn bó nhân loại với nhau. Nói khác đi, Chúa Giêsu đã lấy cái chết của mình để xóa bỏ tội lỗi, đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét, khiến cho nhân loại từ nay được hỏa giải với Chúa và trở nên một thân thể duy nhất.
Như vậy, nhờ thập giá, Chúa Giêsu đã hòa giải nhân loại với Thiên Chúa, cũng như đã hòa giải nhân loại với nhau, từ đó phát sinh ra sự bình an chân thật. Chính vì thế, để có được sự bình an Chúa trao ban, chúng ta cũng phải sống tinh thần hòa giải. Hòa giải với Thiên Chúa bằng cách xóa bỏ mọi tội lỗi, cũng như hòa giả với anh em bách cách xóa bỏ mọi hận thù. Và như chúng ta thường xác quyết: Sự bình anh chính là hoa trái của việc hòa giải với Thiên Chúa và với anh em.
Cha Anthony de Mello kể một câu chuyện về vị tu sĩ Hồi Giáo Nasruddin như sau:Một ngày nọ, PS 2-ABC314
Cha Anthony de Mello kể một câu chuyện về vị tu sĩ Hồi Giáo Nasruddin như sau:
Một ngày nọ, nhà của thầy bốc cháy. Để được an toàn, thầy vội trèo lên mái nhà. Các bạn hữu tụ tập bên dưới rất lo lắng, vì mạng sống thầy chỉ còn "ngàn cân treo sợi tóc". Họ liền căng một tấm thảm, giữ lấy bốn góc rồi giơ cao và hô lớn:
- Nhảy đi, Thầy nhảy xuống đi!
Thầy Nasruddin nói:
- Không được, tôi không nhảy đâu. Thế nào các anh cũng rút tấm thảm đi, để biến tôi thành một trò hề!
- Ôi, Thầy ơi! Không phải trò đùa đâu, Thầy nhảy mau đi!
Thầy Nasruddin vẫn ngoan cố:
- Không! Tôi chẳng tin ai cả. Cứ trải thảm xuống đất đi, tôi sẽ nhảy.
****
Tin là chấp nhận bấp bênh, là chấp nhận có thể bị lừa dối. Nhưng không thể sống mà không tin. Người ta không thể nói: "Có thấy mới tin". Trên đời này có biết bao điều chúng ta không thấy mà vẫn tin. Chẳng ai thấy rõ lòng dạ con người, nhưng họ vẫn tin vào tình yêu, tình vợ chồng, tình bạn, tình làng xóm... Người ta cũng không thể nói: "Tôi chỉ tin vào Chúa nếu có bằng chứng". Paul Misraki nói: "Nếu bạn chỉ đợi có bằng chứng mới tin, thì đức tin đã trở thành khoa học rồi".
Khủng hoảng lớn nhất của thế giới ngày nay là khủng hoảng niềm tin. Người tín hữu Kitô luôn được mời gọi hãy giữ vững niềm tin.
Tin vào Thiên Chúa và tin vào con người. Tin vào thế giới do Người tạo nên. Tin vào cuộc đời mà Người gởi ta đến. Tin vào vẻ đẹp và hạnh phúc Người tặng ban.
"Phúc cho ai không thấy mà tin" (Ga.20,28). Người tín hữu Kitô là những người không thấy mà tin. Họ không thấy Chúa bằng con mắt thường, nhưng họ thấy Người bằng con mắt đức tin. Họ không thấy Chúa bằng giác quan, nhưng họ thấy Người với cả trái tim. Thiên Chúa muốn cho giác quan chúng ta ra tăm tối, để niềm tin được ăn rễ sâu trong Người.
Miguel de Unamuno viết: "Tôi tin vào Thiên Chúa như tin vào một người bạn, vì tôi cảm nhận được hơi thở tình yêu của Người, cảm nhận được bàn tay vô hình và khả giác của Người tác động đến tôi".
Nhà sinh vật học Jean Henry Fabre sau 87 năm khảo sát và suy tư đã phải thốt lên: "Tôi không thể nói rằng tôi tin vào Thiên Chúa, mà là tôi trông thấy Người". Thấy Chúa là Cha rất nhân từ hằng yêu thương chăm sóc con người, và thấy mọi người là anh em với nhau. Cha Michel Quoist có viết: "Tin Chúa, không phải là hướng mắt về Người để chiêm ngưỡng, nhưng đồng thời cũng là nhìn vào trần gian với ánh mắt của Đức Kitô".
***
Lạy Chúa, xin cho chúng con được thấy Chúa đi ngang qua cuộc đời chúng con, để chúng con tin Chúa đang sống động, hiện diện, thật gần, ngay bên cạnh chúng con, trong cuộc sống và trong người anh em. Amen.
Trong suốt tuần bát nhật, Giáo hội chọn những bài đọc trong sách Tông đồ Công vụ, để thuật lại PS 2-ABC315
Trong suốt tuần bát nhật, Giáo hội chọn những bài đọc trong sách Tông đồ Công vụ, để thuật lại những bài giảng của thánh Phêrô nói về sự kiện Đức Giêsu đã sống lại. Vị Tông đồ đã nhiều lần khẳng quyết sự xác tín này trước nhà cầm nguyền Rôma, trước những đầu mục và biệt phái người Do thái, cũng như trước đông đảo quần chúng. Trong Chúa nhật tuần này, chúng ta được mời gọi nhìn vào chứng tá của cộng đòan Giêrusalem tiên khởi(bài đọc 1), cũng như học hỏi niềm tin nơi các Tông đồ, đặc biệt nơi Tôma Đydimô. Niềm tin đó là nền tảng xây dựng Hội thánh và cũng được truyền thụ lại cho chúng ta ngày hôm nay.
Ngài thổi hơi vào các ông và ban Thánh Thần (Ga 20,22).
Trong nhãn quan thần học của Thánh Gioan, các sự kiện liên hoàn được trình thuật lại, gồm việc Chúa sống lại, đi vào trong vinh quang với Chúa Cha và trao ban Thần khí để xây dựng Hội thánh, tất cả chỉ là một mầu nhiệm duy nhất không tách rời. Vì vậy Chúa Phục sinh hiện đến giữa các Tông đồ vào ngày thứ nhất trong tuần, thổi hơi trên các ông và trao ban năng quyền tha tội, chính là động thái thiết lập Giáo hội, nhiệm thể của Đức Kitô Phục sinh. Sự sống của Đấng Phục sinh được thông truyền cho Giáo hội, vì thế ngoài Giáo hội, tức ngoài nhiệm thể của Đấng Phục sinh sẽ không có ơn cứu độ.
Chúng ta nhớ lại, trong trình thuật tạo dựng, tác giả sách Sáng thế thuật lại việc Thiên Chúa lấy bùn đất tạo nên hình người. Sau đó, Ngài thổi hơi ban sinh khí và con người trở nên sinh vật, tức là một vật thể có sự sống(St 2,7). Đây là những hình ảnh biểu trưng, khải thị cho ta biết rằng sự sống phát nguyền từ nơi Thiên Chúa. Song, tội lỗi đã nhập vào trần gian và con người đánh mất sự sống ban đầu. Vì thế, trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa, Đức Giêsu đến trần gian và dùng chính máu của Ngài để ‘Giải án Tuyên công’ (hạn từ của dịch giả Nguyễn Thế Thuấn), cho chúng ta được ‘Công chính hóa’, và phục hồi nơi chúng ta sự sống làm con cái Chúa. Trong cái nhìn thần học ấy, thánh Gioan đã miêu tả việc Chúa hiện đến, và thổi hơi ban Thần khí để tái sinh Hội thánh chỉ là một sự kiện duy nhất. Chúa đã sống lại khai sinh một dân mới, dân tư tế, dân tộc thánh thiện gồm đoàn người đông đảo mặc áo trắng tinh, áo đã được giặt trong máu Chiên Con(Kh 8,14). Trình thuật hôm nay cần được đọc lại, liên thông với sách Khải huyền để chúng ta có thể nắm bắt những tư tưởng thần học mà thánh Gioan muốn trình bày.
Chứng tá của cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi
Trong bài đọc 1, Thánh Luca, tác giả sách Tông đồ Công vụ nêu bật chứng tá của cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên. Đây là cộng đoàn do chính Chúa Giêsu thiết lập bằng cách thông ban sự sống mới cho họ. Cộng đòan này đã được hồi sinh, và đời sống của họ trở nên chứng tá cụ thể cho Đấng Sống lại. Tác giả đã nêu ra 4 đặc nét của cộng đoàn này:
- Sống một lòng một ý, tức hiệp nhất trong tình yêu. - Sống theo chế độ cộng sản đúng nghĩa nhất, bằng việc đặt mọi sự làm của chung. - Chuyên cần trong việc bẻ bánh, tức là cử hành các Bí Tích. -Tuân theo lời chỉ dạy của các Tông đồ.
Sự sống mới mà Đấng Sống lại ban tặng đã giúp hồi sinh cộng đoàn và các vị đã trở nên những chứng nhân đầu tiên, thể hiện rõ nét qua cách sống mới. Đây là mô thức cho tất cả các cộng đoàn Kitô hữu chúng ta.
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 đã nói: “Thế giới ngày nay cần những chứng nhân hơn là thầy dạy”. Rao giảng bằng lời nói phải đi đôi với hành động. Phêrô thì rao giảng cách mạnh mẽ và can trường, và cuối cùng Ngài đã chấp nhận cái chết tử đạo để trở thành chứng nhân. Các Kitô hữu tại Giêrusalem thì rao giảng qua đời sống chứng tá huynh đệ, gắn kết với nhau trong tình yêu, và biết chia sẻ với nhau của cải vật chất cũng như của ăn tinh thần. Họ vâng phục các tông đồ là những người thừa ủy năng quyền của Đấng Phục sinh, và nhờ đó họ trở nên một nhiệm thể duy nhất. Các cộng đoàn Kitô của chúng ta hôm nay cần nhìn vào mẫu gương đó để học hỏi và sao chép.
Niềm tin kiên định nơi Tôma và các tông đồ.
Tôma không phải là con người cứng tin như nhiều người lầm tưởng. Ngài cũng không phải là con người thuộc trường phái duy nghiệm hay thực dụng, tức là chỉ thấy mới tin. Trái lại, Tôma là một tông đồ có niềm tin rất sâu xa và kiên định. Ngài khao khát muốn được tiếp cận trực tiếp với Đấng Phục sinh để được Đức Giêsu thổi hơi ban Thánh thần, chuyền tải cho mình sự sống mới. Tôma và các tông đồ đã được Chúa Giêsu cho thỏa mãn ước mơ ấy. Tâm hồn của các Ngài đã được lấp đầy bằng sự sống và ân sủng. Chúa trưng ra các vết tích cuộc tử nạn nơi thân thể Ngài để mời gọi Tôma một lần nữa nhìn lại hình bóng Thập giá và nhắc nhở các học trò đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy hầuđược sống với Ngài trong sự sống mới. Lời tuyên tín của thánh Tôma ‘Thưa Thầy…’ là lời tuyên bố bắt đầu khai mở cuộc hành trình mới trong đức tin để cùng chết với Thầy mình trong mầu nhiệm tử đạo mỗi ngày. Sử sách ghi lại rằng, Thánh Tôma sau này đi truyền giáo ở Parthia và đã lãnh triều thiên tử đạo tại đó.
Tôma không phải là một tông đồ cứng tin hay cố chấp. Trái lại, đức tin kiên vững nơi Ngài là mô hình để chúng ta cùng học hỏi và noi theo.
Kết luận
Giáo hội đã mừng lễ Chúa Phục sinh và kéo dài suốt cả tuần bát nhật. Các ngày Chúa nhật cũng là ngày mừng Chúa sống lại, và mầu nhiệm căn bản này phủ bọc trọn vẹn đời sống đức tin của chúng ta. Nhưng điều quan trọng là chúng ta đã hiển thị niềm tin ấy cách cụ thể như thế nào. Chúng ta hãy bắt chước cộng đoàn Giêrusalem năm xưa để rao giảng không phải chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng chính cuộc sống của chúng ta mỗi ngày.
Quan tổng trấn Philatô tra vấn Đức Kitô. Đức Kitô đứng yên lặng không trả lời. Philatô lên tiếng:
Ông không biết là tôi có quyền tha và cũng có quyền đóng đinh ông vào thập giá sao?
Đức Kitô lên tiếng:
Ông không có quyền gì trên nói nếu Thiên Chúa không ban cho ông. (Ga 19,10)
Đức Kitô nhắc Philatô quyền hành ông hiện nắm giữ trên tay không phải tự ông có được mà chính PS 2-ABC316
Đức Kitô nhắc Philatô quyền hành ông hiện nắm giữ trên tay không phải tự ông có được mà chính là do ơn Trên ban cho. Vì là ơn trên ban cho nên có ngày ông cũng sẽ mất quyền đó. Chính vì nhận biết quyền đó không tồn tại suốt đời, không nắm vững trọn đời nên tốt hơn hết là xử dụng quyền đó một cách chân thành. Dùng quyền hành trong khả năng để bảo vệ sự sống, cổ võ công bình và sống thật thà, ngay thẳng.
Cuộc đối thoại giữa Đức Kitô và tổng trấn Philatô tưởng đâu đã đi vào quyên lãng, không ngờ mẩu đối thoại trên tồn tại cho đến ngày nay. Nó tồn tại đến ngày nay là vì nó liên quan đến Đức Kitô. Ngày nào còn có người tin vào Đức Kitô ngày đó mẩu đối thoại kia còn tồn tại. Không phải chỉ có mẩu đối thoại kia tồn tại mà chính những giáo huấn của Chúa cũng tồn tại. Đức Kitô sống lại từ cõi chết nên những gì lên quan đến Ngài cũng sống lại từ cõi chết. Giáo huấn của Ngài, việc Ngài làm, điều Ngài nói tất cả đều tồn tại và sống động. Những điều trước kia người ta sợ không dám loan truyền rộng rãi sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết tất cả đều được phô bày, dù nói nơi kín đáo, dù nói trong cung điện. Tất cả đều bộc lộ, đều được phơi bày ra ánh sáng. Nếu không được phô bày làm sao ngày nay chúng ta còn được nghe thuật lại những mảu đối thoại nơi cung cấm xưa.
Sự kiện Đức Kitô sống lại làm sống lại những gì câm nín trước kia. Tất cả dù tin hay không tin đều vướng vào vòng tranh biện về cái chết và sự sống lại của Ngài. Kẻ tin thì mau mắn rao giảng Tin Mừng cho muôn dân như được truyen dậy trước kia. Kẻ không tin, chống lại thì ngày đêm suy nghĩ tìm mưu, tính kế chống phá lại giáo huấn của Ngài. Như thế không ai có thể nói rằng, không biết, không nghe đến Đức Kitô. Chính những kẻ chống đối và câm nín nhiều nhất lại là người nghe được nhiều nhất. Nhóm đầu tiên tự thú chính là viên đội trưởng thi hành lệnh hành hình Đức Kitô. Đứng dưới chân thập tự ông chứng kiến giờ Đức Kitô sinh thì, trời u ám, đất rung chuyển. Vị đội trưởng đấm ngực ăn năn tự thú:
Người này quả là người công chính (Lc 23,47)
Kế đến là nhóm chống đối và cũng là nhóm ra lệnh giết Đức Kitô đó là các Kinh Sư đền thờ và hàng qúi tộc nắm quyền sinh sát trong tay. Ba ngày trước đó họ tuyên án, ra lệnh cho thuộc hạ thi hành bản án ngay lập tức mà không thể đình vì sợ có thay đổi ngoài dự tính của họ. Họ vỗ ngực tự nhận là kẻ chiến thắng. Chiến thắng tồn tại đúng ba ngày họ hạ hối lộ thuộc cấp ra lệnh cho thuộc cấp phao tin thất thiệt.
Các ngươi cứ nói là trong lúc chúng tôi ngủ môn đệ ông Kitô đến trộm xác. Nếu việc này đến tai quan tổn trấn đã có chúng ta lo, các ngươi sẽ không liên luỵ gì. (Mt 28,15)
Quả là lạ, quan quân hoàng gia, vũ khí trong tay lại thua các tông đồ tay không, chân đất. Quân canh, ngủ gục, không làm tròn trách nhiệm được cấp trên bao che. Bất công từ trong tổ chức đi ra. Lạm dụng quyền hành từ đầu đến cuối. Khởi đầu cuộc xét xử quan tổng trấn không cần biết sự thật. Ngài tuyên bố tha kẻ đó vô tội; ngài tuyên án kẻ đó có tội.
Nhóm lãnh đạo không thể giải thích lí do nào khiến môn đệ Đức Kitô chạy tán loại khi Ngài còn sống nhưng lại tụ họp lại, liên kết lại sau khi Đức Kitô qua đời. Lời nói mất tiền mua chuộc quân lính có quá nhiều kẽ hở cho công luận nhận xét.
Những kẻ không tin chắc chắn không nghe được tiếng nói lặng câm của Thánh Thần Chúa. Chính tiếng nói âm thầm thúc đẩy những người tin theo Đức Kitô mạnh dạn tiến ra ánh sáng, đối diện với sự thật dù có phải bách hại, đau khổ và kết án họ cũng sẵn sàng hy sinh để làm nhân chứng sống động cho Đức Kitô. Trước Kia họ chạy trốn vì chưa nghe được tiếng nói lặng câm kia. Nghe được họ cất tiếng ca ngợi Lậy Chúa, Lậy Thiên Chúa.
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà Trên Đá’)
Nguyễn Du, một thiên tài thi ca Việt Nam, đã kết thúc áng văn kiệt tác của ông bằng câu thơ: “Thiện PS 2-ABC317
Nguyễn Du, một thiên tài thi ca Việt Nam, đã kết thúc áng văn kiệt tác của ông bằng câu thơ: “Thiện căn ở tại lòng ta, chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
Tâm chỉ tấm lòng yêu mến, tư tưởng, tinh thần, tâm linh, là cái không thấy được. Tài là khéo léo, làm giỏi, là tiền tài, danh vọng, phú quý, chỉ những thứ trông thấy được.
Sau những đoạn trường của cuộc đời đau khổ như đứt từng khúc ruột, Nguyễn Du đã thấm thía: Mọi của cải danh vọng, giàu sang mà ông đã từng trải và từng thấy rõ ràng, chẳng làm cho con người được hạnh phúc. Con tâm chí thiện mới thật quý giá và làm cho người được hạnh phúc. Như vậy, cái không thấy có phúc, có giá trị hơn cái thấy được. Đại học Nho giáo đã viết: “Đại học chi đạo? Tại minh minh đức, tại thân dân, tại chỉ ư chí thiện” (ĐH. I.). Chí thiện là thiên mệnh, là ý trời ở trong tâm tính không thể thấy được bằng tai mắt nhưng có thật, con người phải cố gắng thể hiện ý trời đó mới thực là đạo người. Đạo đưa lại hạnh phúc cho mình và cho muôn dân: “Thiên mệnh chi vị tính. Xuất tính chi vị đạo” (Trung Dung I).
Hôm nay, Đức Kitô chỉ cho các tông đồ và riêng Tôma biết: “Ai không thấy mà tin là người có phúc”.
Nghe tin các bà nói Thầy đã sống lại, các tông đồ tụ họp hồi tâm cầu nguyện chờ đợi xem sao. Tôma vắng mặt. Ông vắng mặt vì ông là người đa nghi và nhát đảm (Ricciotti: Vie de Jesus Christ No 633). Khi các bạn tông đồ đến nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”, ông nổi khùng thách thức: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng tin”. Lý lẽ của ông xem ra đã được nghiền ngẫm trước một người bị đóng đinh co dúm lại, da thịt rách nát, chân tay và cạnh sườn bị đâm toạc ra, làm sao sống lại được? Còn Madalêna thấy Thầy sống lại ư? Đó là kẻ bị quỷ ám, dễ ảo tưởng, đầu óc đầy ảo ảnh mê hoặc. Các bạn tông đồ đã thấy Chúa ư? Có thể lòng trí các ông đang bối rối nóng điên lên rồi, dễ tưởng tượng theo tin đồn nhảm.
Lý luận của Tôma hoàn toàn theo chủ thuyết tân sinh lý. Ông chỉ tin ở tai nghe mắt thấy, chân tay sờ mó. Không ai lay chuyển được sự khôn ngoan của ông. Đó là sự khôn ngoan của loài người, bắt nguồn từ xác thịt và ma quỷ. Xác thịt thấy trái cấm quyến rũ, ma quỷ giả dạng ẩn núp, rỉ tai và con người sa ngã. Sự khôn ngoan theo mắt xác thịt của Tôma bị diệt vong ngay tám ngày sau. Đức Giêsu hiện đến bảo Tôma “đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra thọc vào cạnh sườn Thầy, đừng cứng lòng tin nữa, nhưng hãy tin”. Tôma sụp lạy thưa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!”. Không cần ai báo cáo, Đức Giêsu cũng biết rõ Tôma nói gì, nghĩ gì, đòi yêu sách gì. Yêu sách đó đã dằn vặt Tôma, nên khi vừa nghe Thầy trả lời, Tôma đã sụp lạy hai lạy: Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con, lạy Chúa, để tỏ mình là tôi tớ hèn hạ của Chúa, Chúa là chủ mình. Lạy Thiên Chúa của con để nhận ra Thầy là Thiên Chúa hằng sống đã dựng nên mình, đã cho mình sống. Thầy là Thiên Chúa nên đã sống lại và chiến thắng kẻ thù cuối cùng là sự chết. Những ai tin Thầy sẽ được phúc sống lại và hằng sống.
Trước kia Tôma đã hỏi Thầy: “Chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi theo Thầy? Thầy đáp: Chính Thầy là đường, là sự thật và là sự sống” (Ga. 14, 5-6). Thầy đã nói cho ông biết Thầy là sự sống, thì nay Thầy sống lại, ông mới thấy rõ sự thật: Thầy là sự sống.
Tôma đã thấy Thầy, muốn được phúc, ông phải theo Thầy đi rao giảng Tin mừng, theo Thầy vác thập giá đến hơi thở cuối cùng.
Chúng ta không thấy Chúa sống lại, nhưng chúng ta vững tin theo Chúa, Chúa sẽ chúc phúc: “Phúc cho con không thấy mà tin”. Lạy Chúa là sự sống lại và hằng sống, tai mắt chân tay con không thấy được Chúa nhưng xin cho con vững tâm tin mến Chúa đã sống lại và đang ngự trong những người thiện tâm, thiện chí để con biết phục vụ Chúa trong hết mọi người.
Là thụ tạo bất toàn, loài người lắm khi còn nhìn và suy xét mọi sự theo lý trí rất con người. Và, ngày PS 2-ABC318
Là thụ tạo bất toàn, loài người lắm khi còn nhìn và suy xét mọi sự theo lý trí rất con người. Và, ngày hôm nay môn đệ Tôma, người đã theo Đức Giêsu ba năm nhưng đứng trước biến cố phục sinh ông cũng không thể tin được. Đó quả là một sự lạ vượt quá lòng tin của ông. Đức Giêsu đồng cảm với lòng tin còn non yếu của Tôma, Người không trách móc ông nhưng yêu thương nói rằng: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29).
Đọc đoạn Tin Mừng này, hẳn có không ít người đã trách móc lòng tin của thánh Tôma, nhưng Thánh Gregory Cả đã nói về thánh Tôma như sau: “Sự cứng lòng của thánh Tôma đã mưu ích cho đức tin của chúng ta hơn là đức tin của các thánh tông đồ khác. Khi thánh nhân chạm đến Chúa Kitô Phục Sinh và được cải hóa, thì mọi hoài nghi nơi ngài đều bị loại trừ và đức tin của chúng ta được củng cố.” Thật ra, chúng ta cũng nên cảm ơn thánh nhân vì nhờ thánh Tôma, chúng ta như cũng cùng được đụng chạm đến con người thật của Đức Chúa Phục Sinh và lòng tin của chúng ta thêm kiên vững hơn.
Xin nhìn đức tin ở một khía cạnh khác. Chuyện kể rằng có một thày tu khổ hạnh Ấn Độ tên là Sundar Singh (1889-1929), ông là một trong những gương mặt Sadhu nổi tiếng của Ấn Độ. Ông kể lại ngày ông còn trẻ, ông đã đốt Kinh Thánh. Ông dị ứng với niềm tin Kitô giáo. (X. Nguyễn Tầm Thường, Đường Đi Một Mình, t. 149)
Nhưng rồi một ngày nọ, ông lặng lẽ ngắm nhìn bầy chim non đang tranh nhau kêu líp nhíp, miệng há to khi nghe tiếng vỗ cánh của mẹ chúng bay về. Nhà tu khổ hạnh cứ ngày ngày nhìn bầy chim non bé bỏng há miệng đón mồi. Rồi một giây phút linh thiêng nọ, ông chợt bừng tỉnh. Ông thấy lạ quá. Bầy chim non chưa mở mắt. Cả thế giới chung quanh chúng vẫn tối đen mịt mùng, không ánh sáng, không sắc màu, thế mà nó vẫn há miệng đón mồi. Và nhờ vậy mà nó được sống dồi dào.
Ngày nay, trong chiều kích tục hoá đời sống tâm linh, con người có khuynh hướng buông thả mình trong những lý luận ngây ngô. Người ta muốn nhìn thấy, đụng chạm đến rồi mới tin. Xin hãy lặng người suy nghĩ xem, nếu bầy chim nhỏ nói trên không chịu ăn, nếu nó lý luận rằng nó chỉ ăn khi nó chứng minh được miếng mồi này có độc hay không, có phù hợp với nó không thì đời nó sẽ ra sao? Bầy chim non đã không đợi cho đến khi mở mắt, biết nhìn, biết lý luận, biết phân biệt mọi thứ rồi mới ăn. Vì lúc này nếu chúng không ăn thì chắc chắn là nó sẽ chết đói. Cũng vậy, chúng ta sẽ chết mất nếu lúc này cứ đóng chặt cửa lòng không tin vào Thiên Chúa. Vì thế, thánh Tôma Aquinô đã nói rằng: “Đức tin là nếm trước điều chúng ta sẽ được hưởng trong cuộc sống hạnh phúc mai sau”.
Một cách sâu xa, chúng ta vững tin vào mọi mặc khải của Thiên Chúa và Giáo Hội vì tin chắc rằng Ngài là Chúa Chiên Nhân Lành, Đấng trung tín và là người cha nhân hậu luôn muốn những điều tốt đẹp nhất cho ta. Nếu như cha mẹ ở trần gian còn yêu thương con cái rất mực, thì Cha trên trời còn yêu thương ta hơn bội phần như thế. Vì vậy, ta hãy cứ vững tin vào Thiên Chúa, và chắc chắn ta sẽ được no thoả. Xin Chúa Giêsu Thánh Thể ban cho chúng ta tâm tình của một trẻ thơ, để ta hằng khiêm tốn tin nhận mọi mặc khải của Người và không do dự.
Trong thực tế, ân sủng của Thiên Chúa cần có niềm tin để đón nhận. Và một khi niềm tin rộng mở đón lấy ân sủng thì có phép lạ xảy ra. Trong hành trình rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, Đức Giêsu đã chẳng làm phép lạ với những nơi, những người không tin vào Người. Bên cạnh đó, mỗi lần cứu chữa một bệnh nhân, Người lại nói: "Lòng tin của anh đã cứu chữa anh" (Lc 17, 19). Một cách nào đó, Đức Giêsu đã khẳng định chính niềm tin của bệnh nhân đã mang lại hiệu quả chữa lành cho bệnh nhân. Trong thư gởi tín hữu Galát, thánh Phaolô đã đề cao vai trò của đức tin khi xác tín rằng: “Chúng ta được nên công chính nhờ đức tin.” (Gl 3,24)
Nguyện xin thánh Martinô - vị thánh khiêm nhường hằng vững tin vào Thiên Chúa, xin tổ phụ Abraham là "tổ phụ của tất cả những người tin", và nguyện xin Mẹ Maria là “người thể hiện lòng tin cách hoàn hảo nhất” cầu bầu cùng Chúa ban cho chúng ta thêm lòng tin vào Thiên Chúa hơn. Và xin Chúa Giêsu Thánh Thể cho chúng con nhìn ngắm mọi sự bằng con mắt đức tin chứ không quá cậy dựa vào con mắt xác thịt, để chúng con một lòng cảm mến chân lý và tin tưởng tuyệt đối vào mặc khải của Người qua Giáo hội, hầu đón nhận được lời chúc phúc của Người, như lời Ngài đã hứa “phúc thay những người không thấy mà tin!”.
Hôm nay cũng là ngày kỷ niệm 4 năm ngày Đức Bênêdictô XVI được bầu làm Giáo hoàng, chúng ta cũng hãy cầu xin Chúa Giêsu Thánh Thể ban cho người cha kính yêu của chúng ta một lòng tin kiên vững hơn để ngài sáng suốt lèo lái con thuyền Giáo hội về bến Nước Trời đẹp tươi. Amen.
Trong lần thị kiến ngày 20-4-1968 tại Milan (Ý), Mẹ Carmel hỏi: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn con PS 2-ABC319
Trong lần thị kiến ngày 20-4-1968 tại Milan (Ý), Mẹ Carmel hỏi: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa muốn con làm gì?”. Chúa Giêsu nói: “Hỡi con gái của Ta, con hãy viết. Con sẽ làm Tông đồ Tình Yêu Đầy Thương Xót của Ta. Ta sẽ chúc lành cho con. Và Cha sẽ đổ xuống trên con muôn vàn ơn Thánh, và những ân thưởng lớn lao. Ta cảm ơn con đã phổ biến Thánh Nhan của Ta. Ta sẽ chúc lành cho các gia đình trưng bày hình ảnh của Ta, và Ta sẽ cải hoán những kẻ tội lỗi sống trong các gia đình đó. Ta sẽ giúp kẻ lành tự cải tiến thêm, và những kẻ nguội lạnh trở nên sốt sắng hơn. Ta sẽ để mắt đến các nhu cầu của họ, và sẽ giúp họ trong mọi sự cần thiết, vật chất cũng như siêu nhiên”. Chúa Giêsu đã xác nhận: “TA LÀ GIÊSU ĐẦY LÒNG THƯƠNG XÓT”.
Qua Thánh Faustina, Chúa Giêsu đã hứa: “Linh hồn nào truyền bá Lòng Thương Xót của Ta sẽ được Ta bảo bọc suốt đời” (Nhật Ký, 1075). Đồng thời Chúa Giêsu cũng khuyến cáo: “Nhân loại sẽ không có hòa bình nếu không tín thác vào Lòng Chúa Thương Xót” (Nhật Ký Thánh Faustina, số 300).
Như chúng ta đã biết, ngày 30-4-2000 là ngày Giáo Hội tuyên thánh cho Nữ tu Maria Faustina Kowalska (OLM, 1905-1938), và cũng là ngày Thánh GH Gioan Phaolô II chính thức ấn định Chúa Nhật II Phục Sinh là lễ kính Lòng Chúa Thương Xót (LCTX). Chúa Giêsu là Đấng giàu lòng thương xót và cũng chính là Chúa Chiên Lành, hai cách gọi nhưng vẫn mang một ý nghĩa. Vả lại, đó cũng chính là ước muốn của Chúa Giêsu đã mặc khải cho Thánh nữ Faustina, vị Tông Đồ tiên khởi của LCTX.
Một điều hợp lý kỳ diệu, bởi vì chính Chúa Giêsu đã bày tỏ với Thánh Faustina: “Ta muốn một tấm hình được làm phép trọng thể vào Chúa Nhật sau Đại lễ Phục Sinh, và Ta muốn tấm hình đó được tôn kính công khai để mỗi linh hồn đều biết đến tấm hình đó” (Nhật Ký, số 341). Tất cả mọi thứ, dù chỉ là một sợi tóc mỏng manh còn trên đầu hay rụng xuống, cũng không ngoài Thánh Ý Chúa.
Chúa Nhật II PS thật đặc biệt vì trong ngày này, “linh hồn nào xưng tội và rước lễ sẽ được ân xá cả tội lỗi và hình phạt” (Nhật Ký, số 699). Đó là lời hứa chắc chắn mà Chúa Giêsu đã xác định: “Ta muốn ban ơn tha thứ hoàn toàn cho các linh hồn nào xưng tội và rước lễ trong ngày lễ kính Lòng Thương Xót của Ta” (Nhật Ký, số 1109). Ai có niềm tin chân chính thì thành tâm thi hành điều mà Thầy Chí Thánh Giêsu mong muốn, làm như vậy với lòng tín thác chứ không phải là nhắm vào lợi ích riêng, bởi vì không khéo lại trở thành lạm dụng hoặc lợi dụng LCTX.
Niềm tin không cầu kỳ, phức tạp, chỉ đơn giản là CHẤP NHẬN hay TỪ CHỐI. Thế thôi, có vẻ rất đơn giản mà lại phức tạp, vì khoảng cách chỉ là một làn ranh mong manh. Vấn đề quan yếu là tin ai, tin cái gì, và tin như thế nào? Động từ TIN có vẻ đơn giản, nhưng vấn đề TIN lại không hề đơn giản. Cái khoảng “giằng co” đó cần phải thực sự can đảm thì mới có thể dứt khoát, sâu sắc, đúng kiểu tin mà Chúa Giêsu vẫn đề cập mỗi khi Ngài chữa lành: “Niềm tin của bạn đã cứu bạn”.
Bằng cảm nghiệm sâu xa, Thánh nữ Faustina đã tâm sự: “Lạy Chúa Giêsu, khi con được đắm chìm vào Ngài, nếu so sánh với Ngài, mọi sự chỉ là không. Đau khổ, chống đối, nhục nhã, thất bại, và hoài nghi trên đường con đi, tất cả chỉ như viên đá lửa làm làm bùng lên ngọn lửa tình yêu con dành cho Ngài mà thôi” (Nhật Ký, số 57). Cảm nghiệm đau khổ là cảm nghiệm sự thật phũ phàng mà Chúa Giêsu đã phải chịu khi những người thân nhất lại nỡ lòng phản bội, và bị người ta vu oan giáng họa.
Là người Công giáo, hằng ngày chúng ta tuyên tín qua kinh Tin (Lạy Chúa, con tin thật có một Đức Chúa Trời là Đấng thưởng phạt vô cùng…), và mỗi Chúa Nhật cùng nhau tái tuyên xưng: “Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình…”, rồi lại tuyên xưng sau truyền phép (Lạy Chúa, chúng con loan truyền…; Lạy Chúa, mỗi lần ăn bánh…; Lạy Chúa cứu thế, Chúa đã dùng Thánh Giá…). Các động thái tin được lặp lại nhiều lần trong ngày, đơn giản nhất là khi chúng ta làm Dấu Thánh Giá, nhưng rất quan trọng khi chúng ta thể hiện lúc ăn uống ở tiệm. Thật buồn khi thấy có những người không dám Làm Dấu, có những người Làm Dấu mà chỉ là Làm Giấu hoặc làm chiếu lệ.
Xuyên suốt Kinh Thánh, LCTX luôn được đề cập bằng nhiều cách, đặc biệt trong Phúc Âm có một số dụ ngôn “điển hình” về LCTX: Người Samari Tốt Lành (Lc 10:30-37), Con Chiên Bị Mất (Lc 15:4-7), Đồng Bạc Bị Mất (Lc 15:8-10), và Người Cha Nhân Hậu (Lc 15:11-32).
Tuy nhiên, có điều quan trọng cần lưu ý: Đừng đến với LCTX với sự tò mò, chỉ tìm kiếm những “sự lạ”. Đôi khi chỉ vì “hiện tượng lạ” nào đó chứ không vì “phép lạ của lòng tin”. Phép lạ thực sự hằng ngày là Bí tích Thánh Thể nhưng người ta lại không quan tâm. Kể cũng “lạ” thật!
Thánh Luca cho biết trong sách Công Vụ: “Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân, nhờ bàn tay các Tông Đồ. Không một ai khác dám nhập đoàn với họ. Nhưng dân thì lại ca tụng họ. Càng ngày càng có thêm nhiều người tin theo Chúa: cả đàn ông, đàn bà rất đông” (Cv 5:12-14). Họ đã chấp nhận lời rao giảng của các Tông Đồ là thật nên họ mới TIN vào Đức Kitô là Thiên Chúa, và sẵn sàng tín thác vào LCTX. Vô tri bất mộ.
Không chỉ vậy, còn có điều đặc biệt hơn nữa: “Người ta còn khiêng cả những kẻ đau ốm ra tận đường phố đặt trên giường trên chõng, để khi ông Phêrô đi qua, ít ra cái bóng của ông cũng phủ lên được một bệnh nhân nào đó. Nhiều người từ các thành chung quanh Giêrusalem cũng lũ lượt kéo đến, đem theo những kẻ ốm đau cùng những người bị thần ô uế ám, và tất cả đều được chữa lành” (Cv 5:16). Quả thật là “sự lạ” hiển nhiên!
Ngày xưa, Thánh Vịnh gia đã lên tiếng tuyên xưng: “Ít-ra-en hãy nói lên rằng: muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Nhà A-ha-ron hãy nói lên rằng: muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Ai kính sợ Chúa hãy nói lên rằng: muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:2-4). Điệp khúc “muôn ngàn đời Chúa vẫn trọng tình thương” thật là tuyệt vời vô cùng!
Đôi khi cái cụ thể vẫn cần thiết. Tương tự, niềm tin phải được thể hiện ngay cả trong lúc gian truân, đó mới là đức tin chân thật: “Chúng xô đẩy tôi, xô cho ngã, nhưng Chúa đã phù trợ thân này. Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi. Kìa nghe tiếng reo mừng chiến thắng trong doanh trại chính nhân: Tay hữu Chúa đã ra oai thần lực, tay hữu Chúa giơ cao, tay hữu Chúa đã ra oai thần lực” (Tv 118:13-15). LCTX có từ ngàn xưa chứ không phải theo phong trào. Thật vậy, Thiên Chúa vẫn thương xót mặc dù Cain đã phạm tội giết em mình, Cain lo sợ nhưng Ngài hứa: “Bất cứ ai giết Cain sẽ bị trả thù gấp bảy” (St 4:15).
Cuộc sống đời thường mà vẫn khác thường, các sự lạ không ngừng nối tiếp nhau: “Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta. Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ” (Tv 118:22-24). Nỗi vui mừng ấy thật rộn rã, tưng bừng hoan hỉ và không thể diễn tả đầy đủ bằng phàm ngôn!
Chân thành bộc bạch, Tông-đồ-trẻ-được-Chúa-yêu cho biết: “Tôi là Gioan, một người anh em của anh em, tôi cùng chia sẻ nỗi gian truân, cùng hưởng vương quốc và cùng kiên trì chịu đựng với anh em trong Đức Giêsu. Lúc ấy, tôi đang ở đảo gọi là Pát-mô, vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và lời chứng của Đức Giêsu. Tôi đã xuất thần vào ngày của Chúa và nghe đằng sau tôi có một tiếng lớn như thể tiếng kèn nói rằng: ‘Điều ngươi thấy, hãy ghi vào sách và gửi cho bảy Hội Thánh: Ê-phê-xô, Xi-miếc-na, Péc-ga-mô, Thy-a-ti-ra, Xác-đê, Phi-la-đen-phi-a và Lao-đi-ki-a’. Tôi quay lại để xem tiếng ai nói với tôi. Khi quay lại, tôi thấy bảy cây đèn vàng. Ở giữa các cây đèn, có ai giống như Con Người mình mặc áo chùng và ngang ngực có thắt đai bằng vàng” (Kh 1:9-13). Số 7 kỳ diệu – được coi là con số hoàn hảo về số lượng và về tâm linh.
Sau đó, Thánh Gioan còn cho biết thêm: “Lúc thấy Người, tôi ngã vật xuống dưới chân Người, như chết vậy. Người đặt tay hữu lên tôi và nói: Đừng sợ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khoá của Tử thần và Âm phủ. Vậy ngươi hãy viết những gì đã thấy, những gì đang diễn ra và những gì sẽ xảy ra sau này” (Kh 1:17-19). Đó là điều tiên tri, đã đúng, đang đúng và sẽ đúng đến từng chi tiết, dù một chấm một phẩy cũng không sai (x. Mt 5:18).
Một điều minh nhiên mà Giáo Hội đang hân hoan tin kính là Chúa Giêsu Phục Sinh. Là hậu sinh, chúng ta không được chứng kiến sự kiện trọng đại này, nhưng chúng ta vẫn TIN. Đó là sự may mắn mà chúng ta có được niềm hạnh phúc kỳ diệu như vậy. Và đó là phép lạ thực sự, bởi vì không thấy mà vẫn tin – đức tin có lý trí kiểm chứng chứ không nhẹ dạ cả tin hoặc mê tín dị đoan.
Theo lời chứng trong Kinh Thánh (Ga 20:19-31), vào chiều ngày ấy – ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở đều đóng kín các cửa, vì các ông sợ người Do Thái quấy rầy, kiếm chuyện. Bất ngờ Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!”. Cửa đóng, then cài, thế mà Chúa Giêsu vào một cách dễ dàng. Vẫn Con Người đó, nhưng hoàn toàn khác nhau giữa lúc còn là xác thể trần tục (cũ) và xác thể đã biến đổi (phục sinh, nên mới). Thân xác chúng ta mai mốt cũng được trở nên như vậy – sau khi chết và sống lại. Thế thì kỳ diệu quá, thật tuyệt vời biết bao!
Vừa chúc bình an xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn để minh chứng là Ngài đã sống lại thật như Ngài đã nói trước. Các môn đệ vui mừng vì được gặp lại Thầy như vậy. Rồi Ngài lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em”. Hai lần Ngài chúc bình an, đồng thời Ngài cũng trao sứ vụ cho những người tin theo Ngài: Làm nhân chứng loan báo Tin Mừng và Lòng Thương Xót. Ngài còn trao quyền tha tội khi Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ”. Đó là Bí tích Hòa Giải, một bí tích liên quan Lòng Thương Xót. Thiên Chúa yêu thương nhân loại đến cùng nên Ngài tìm mọi cách để cứu độ chúng ta.
Hôm đó, khi Chúa Giêsu hiến ra với Nhóm Mười Hai, không hiểu vì lý do gì mà vắng mặt Tôma – cũng gọi là Điđymô. Sau đó, các môn đệ khác nói với ông rằng “đã được thấy Chúa”, nhưng Tôma thản nhiên nói: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Rồi tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, lần này có cả ông Tôma. Các cửa cũng vẫn đóng kín. Đức Giêsu lại hiện đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em”. Rồi Ngài bảo ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Ông Tôma hết hồn hết vía bèn sụp lạy mà thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Đức Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!”. Không thấy mà vẫn tin, vậy mới đáng nói. Chúa Giêsu xác định điều đó mới là diễm phúc. Đức tin quan trọng lắm, bởi vì người ta nên công chính cũng nhờ đức tin – cụ thể như Tổ Phụ Ápraham và Đức Dưỡng Phụ Giuse.
Ngoài ra, Thánh sử Gioan còn xác định: “Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em TIN rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô là Con Thiên Chúa, và để anh em TIN mà ĐƯỢC SỰ SỐNG nhờ danh Người”. Động từ TIN cứ được lặp đi lặp lại nhiều lần, điều này càng chứng minh rằng TIN là điều thực sự vô cùng quan trọng. Tin Chúa là tin vào tình yêu của Ngài, tin vào Ơn Cứu Độ của Đức Kitô, và tín thác vào Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa – Đấng Tam Vị Nhất Thể.
Tin tưởng và tín thác được cụ thể bằng việc cầu nguyện. Nhưng cầu nguyện như thế nào? Thánh Faustina cho biết cách cầu nguyện hiệu quả và đẹp lòng Thiên Chúa: “Khi cầu nguyện, chúng ta ĐỪNG NÀI ÉP CHÚA ban cho điều chúng ta muốn, mà chúng ta NÊN TUÂN PHỤC Thánh Ý Ngài” (Nhật Ký, số 1525). Vâng ý Cha chứ không phải theo ý riêng mình.
Niềm tin cũng cần được lưu ý, bởi vì Thánh Phaolô đã từng cảnh báo: “Lạ gì đâu! Vì chính satan cũng đội lốt thiên thần sáng láng! Vậy có gì là khác thường khi kẻ phục vụ nó đội lốt người phục vụ sự công chính. Chung cục, chúng sẽ lãnh nhận hậu quả công việc chúng đã làm” (2 Cr 11:14-15). Đừng lẫn lộn giữa phép lạ và sự lạ, vì có thể rất dễ lầm tưởng!
Lạy Thiên Chúa hằng hữu, xin cho chúng con được ngụp lặn trong Đại Dương Thương Xót của Ngài và được tắm gội trong Máu và Nước tuôn ra từ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Vì cuộc khổ nạn đau thương của Đức Giêsu Kitô, xin thương xót dân Việt chúng con và toàn thế giới. Xin Thánh Faustina và Thánh Gioan Phaolô II cầu thay nguyện giúp cho chúng con, hôm nay và mãi mãi. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Tối nay có một thanh niên hấp hối; anh ta vật vã đau đớn. Theo ý anh, tôi bắt đầu đọc chuỗi kinh Chúa PS 2-ABC320
Tối nay có một thanh niên hấp hối; anh ta vật vã đau đớn. Theo ý anh, tôi bắt đầu đọc chuỗi kinh Chúa dạy. Khi đọc xong, cơn đau của anh vẫn chưa dịu xuống. Tôi muốn đọc tiếp Kinh Cầu Các Thánh, nhưng thình lình được nghe những lời sau: “Con hãy đọc chuỗi kinh.” Tôi biết linh hồn này cần sự trợ giúp đặc biệt của những kinh nguyện và lòng thương xót vô biên. Thế là tôi đóng cửa phòng và sấp mình xuống trước thánh nhan Chúa, nài xin Người tỏ lòng thương xót linh hồn ấy. Bấy giờ, tôi cảm nghiệm được uy linh cao cả và phép công thẳng vô cùng của Thiên Chúa. Tôi run rẩy, rùng minh sợ hãi, nhưng vẫn không ngừng khẩn xin lượng xót thương của Chúa cho linh hồn ấy. Rồi tôi lấy tượng Thánh Giá ra khỏi ngực, tượng tôi đã nhận trong dịp khấn dòng, rồi đặt lên ngực người hấp hối và thưa với Chúa: “Lạy Chúa Giêsu xin đoái nhìn linh hồn này với tình thương, mà Chúa đã đoái nhìn đến của lễ toàn hiến của con trong ngày vĩnh thệ, và với sức mạnh của Lời Chúa, đã hứa với con cho những người hấp hối, và những ai kêu nài lòng thương xót Chúa để cầu cho họ. Xin Chúa ban cho người này ơn chết lành.” Lúc đó, cơn đau đớn của thanh niên dịu xuống và anh ta ra đi bình an. Ôi, chúng ta cần phải cầu nguyện rất nhiều cho những người hấp hối! Chúng ta hãy tận dụng lòng thương xót của Chúa, trong lúc vẫn còn thì giờ của tình thương. (MM Ngọc Đính, Sr Sophia Michalenko, NK 1035, Cuộc đời Thánh nữ Faustina Kowaska)
Thánh nữ Faustina đã được thị kiến Lòng Chúa Thương Xót vô ngần với bất cứ ai trông cậy vào Người. Trong Tin Mừng Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh hôm nay suy tôn Lòng Chúa Thương Xót, Thánh sử Gioan trình thuật hai cuộc hiện ra của Chúa Giêsu với ba lần chúc bình an.
Bình an khi theo Chúa
Trước khi bước vào cuộc Thương Khó, Đức Giêsu chân tình thốt lên những lời cáo biệt thắm thiết và yêu thương với các môn đệ: “Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến, cũng đừng sợ hãi.” (Ga 14, 17) Trước đó, biết bao lần Đức Giêsu trấn an các môn đệ đừng sợ hãi thế gian đố kỵ, hăm dọa, ghét bỏ, tẩy chay, bắt bớ, hành hạ, mưu sát, khi trung thành đi theo Chúa, thực hành sống theo Lời Chúa. "Anh em đừng sợ người ta... Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn... Vậy anh em đừng sợ...” (Mt 10, 26, 28, 31)
Rồi sau khi Đức Giêsu chịu khổ nạn và phục sinh.“Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con". Khi nghe lời chúc bình an và thấy Chúa Phục Sinh với năm thương tích, các môn đệ vui mừng, không còn lo sợ khiếp hãi như trước. Chúa hiện diện đem bình an đến nâng đỡ an ủi, chở che, bất chấp sự dữ đang hằn học, đe dọa. Chúa hiện diện đem đến cả niềm vui, hoan lạc đến những tâm hồn đang lo sợ, u sầu, bị kềm kẹp, bách hại vì danh Chúa.
Hiện nay, Chúa vẫn còn đang tiếp tục hiện diện, qua Lời Chúa, qua Thánh Thể và qua tha nhân. Chỉ vì thiếu niềm tin, thiếu trông cậy và thiếu lửa mến, nên Ki tô hữu mới không nhận ra Chúa hiện diện trong từng phút giây cuộc đời, trong mọi môi trường xã hội, cũng như trong từng hoàn cảnh thuận và nghịch.
Như vậy, làm sao nhận ra Chúa hiện diện, thì sẽ luôn có bình an và niềm vui sống đạo. Tôi Tớ Chúa, ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận dứt khoát không chấp nhận người Kitô hữu bị cô đơn: “Tại sao người Kitô hữu than vãn mình cô đơn? Chúa Kitô của họ ở đâu?” (Đường Hy Vọng, số 237)
Bình an khi làm chứng nhân
Sinh thời, Đức Giêsu đã tiên báo cho các môn đệ hãy sẵn sàng chấp nhận đau khổ, gian lao, thử thách khi thực hiện sứ vụ rao giảng.“Anh em hãy ra đi. Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi vào giữa bầy sói. (Lc 10, 2-3) Nhưng hãy can đảm đối đầu với sự dữ thế gian hãm hại: “Đừng sợ những kẻ giết được xác, nhưng không thể giết được hồn; hãy sợ Đấng có thể diệt được cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục.” (Mt 10, 28)
Nay Người phục sinh chúc bình an cho các môn đệ. "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con." Đồng thời Chúa Giêsu nhắc lại sứ vụ Đi Gieo Tin Mừng, như Người đã hoàn thành vô cùng mỹ mãn.Nay có Chúa cùng đồng hành, thì luôn bình an trên đường truyền giáo, mặc cho kẻ chống Chúa, phản Chúa khó dễ, cấm cản trăm bề.
“Bị nhục mạ, bắt bớ, đuổi từ thành này sang thành khác, là dấu Chúa thương con, Chúa chọn con làm tông đồ thật. “Tôi tớ không hơn chủ, môn đệ không hơn Thầy, họ đã đối xử với Thầy thể nào, cũng sẽ đối với các con như vậy. Hãy vui mừng hoan hỉ..., vì nếu chúng con theo thế gian, thì thế gian không ghét chúng con.” (Đường Hy Vọng, số 319)
Bình an khi tha thứ
Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ, không hề trách mắng các ông đã phản bội, bỏ chạy, chối Chúa, khi Người chịu khổ nạn. Người tha thứ tất cả tội lỗi con người ăn năn hối cải, cùng ban bình an, và tái lập quan hệ tốt lành với hối nhân.
Đoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin." Chúa cũng chẳng rày la ông Tôma cứng lòng, công khai phủ nhận lời chứng của bà Maria Mađalêna, của ông Phêrô và các môn đệ khác. Trái lại, Chúa hoàn toàn tha thứ và ban bình an cho ông Tôma, cùng thêm Lời Chúc Phúc Thứ Chín: Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin".
Bình an cũng đến với những ai biết tha thứ cho anh em, vì đó là điều kiện tiên quyết để được Chúa thứ tha cho."Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em".(Mt 6, 14-15)
Tóm lại bình an là trạng thái tuyệt hảo, chỉ có Chúa trao ban, khi sống mật thiết, kết hợp với Chúa Giêsu trong mọi lúc, mọi nơi suốt cuộc đời. Trong Thư gửi tín hữu Êphêsô, Thánh Phaolô đã công khai xác tín: “Chính Người là bình an của chúng ta.” (Ep 2, 14)
“Làm sao con hết buồn? Hãy cầu nguyện! Tại sao thế? Vì con gặp Chúa: Mađalêna tìm xác Chúa, hai môn đệ đi làng Emmau đã gặp Chúa và quên hết mọi ưu sầu.” (Đường Hy Vọng, số 541)
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin Chúa tái sinh linh hồn chúng con khỏi sự chết tội lỗi, khỏi lòng phản bội, xa Chúa, để chúng con được chúc phúc bình an, tràn đầy niềm vui hy vọng.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là nguồn cậy trông và hy vọng của chúng con. Xin cầu bầu cứu giúp chúng con khỏi cứng lòng, vì mê đắm thế gian phù phiếm, hư ảo, mà tin cậy vào Lòng Chúa Thương Xót, và luôn biết sám hối, ăn năn quay về với Chúa. Amen.
Đức Tin của người Công Giáo chúng ta phải là ”Đức Tin Không Thấy Mà Tin” Sự cương quyết của PS 2-ABC321
Đức Tin của người Công Giáo chúng ta phải là ”Đức Tin Không Thấy Mà Tin”
Sự cương quyết của Tôma
Tôma cương quyết không chịu tin nếu không tận mắt thấy Chúa Giêsu sống lại, nếu không tận tay đụng đến thân xác của Chúa Giêsu phục sinh. / Lời thách đố của Tôma được Chúa Giêsu chấp nhận. / Chúa Giêsu hiện ra cho Tôma thấy rõ ràng bằng đôi mắt của ông. Ngài mở miệng ra để nói lời cho Tôma nghe bằng đôi tai của ông. Ngài đưa tay, chân và cạnh sườn của mình đã bị đóng đinh và đâm thủng để cho Tôma xỏ tay vào kiểm chứng. / Sau khi thấy Tôma quá thoả mãn vì đã được toại nguyện nên thốt lên: “Lạy Chúa con! Lạy Chúa Trời của con!”, Chúa Giêsu dạy một bài học rất quan trọng cho những ai sau này, khi Ngài ngự về Trời, không còn hiện diện cho Người ta thấy bằng mắt nữa, nhưng Ngài vẫn luôn ở với loài người, vẫn luôn sống giữa loài người nếu loài người chúng ta tin Ngài, vì thế, Ngài long trọng tuyên bố trong dịp này: “Phúc cho những ai không thấy. mà tin” (Ga 20,29).
Đạo Công Giáo chúng ta gồm toàn những điều “không thấy mà phải tin”
Người công giáo chúng ta đâu thấy có Chúa Giêsu ngự trong Phép Bí Tích Thánh Thể, nhưng Đức Tin dạy cho người công giáo chúng ta tin có thật Chúa Giêsu đang ngự trong Phép Bí Tích Thánh Thể, ngự cả Hồn, cả Xác, cả Tính Đức Chúa Trời, cả Tính Loài Người. / Người Công Giáo chúng ta, khi vào Toà Cáo Giải, để nhận lãnh Phép Giải Tội do chính Chúa Giêsu ban, đâu thấy Chúa Giêsu mà chỉ thấy vị linh mục…
“Không thấy mà tin” vì Đức Tin là một ơn siêu nhiên Chúa ban
Đức tin của chúng ta tuỳ thuộc vào Chúa trước hết vì Đức Tin là một ơn siêu nhiên Chúa ban, vượt quá sức tự nhiên của con người. / Những khả năng tự nhiên của con người, tuy có ích lợi, nhưng không tuyệt đối cần thiết trong vấn đề Đức Tin. Những người đui, thiếu khả năng thị giác, tuy không thấy nhà thờ, không thấy Nhà Tạm, không thấy Thánh Giá, không đọc được sách đạo, không viết được bài giáo lý, nhưng có thể họ có đức tin mạnh mẽ hơn những người sáng mắt. Những người điếc, thiếu khả năng thính giác, tuy không nghe được Lời Chúa, không nghe được lời linh mục giảng dạy, không nghe được bài thánh ca, nhưng có thể họ có đức tin mạnh mẽ hơn những người nghe rõ. Những người đau ốm liệt giường, tuy không đến nhà thờ được, không đi dự thánh lễ được, không đi học được giáo lý, không đi tĩnh tâm được, nhưng có thể họ có đức tin mạnh mẽ hơn những người khoẻ mạnh, tay chân vạm vỡ. Những người dốt nát thất học, viết không được, đọc không ra, nhưng có thể họ lại có được tin mạnh mẽ hơn những người thông thái.
Đức Tin có hai mặt
Đối với Chúa, Đức Tin là nhân đức đối thần, nghĩa là nhờ có nhân đức này mà chúng ta mới có thể tin vào Chúa, tin vào những gì Chúa phán dạy và Giáo Hội truyền lại cho chúng ta. Còn đối với chúng ta, để có Đức Tin Chúa ban, chúng ta phải thật tình gắn bó với Chúa một cách hoàn toàn tự nguyện và tự do.
Chúa Giêsu đối với Đức Tin thế nào?
Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy tin vì đó là điều cần thiết nhất: “Chúa Giêsu còn đang nói, thì có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa? ” Nhưng Chúa Giêsu nghe được câu nói đó, liền bảo ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5,35-36). /
Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng xao xuyến, nhưng luôn vững tin vào Chúa: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy!” (Ga 14,1). / Chúa Giêsu dạy chúng ta hiên ngang tuyên xưng Đức Tin ra bên ngoài: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32-33). / Chúa Giêsu quở trách các tông đồ vì kém Đức Tin: “Bỗng nhiên biển động mạnh khiến sóng ập vào thuyền, nhưng Chúa vẫn ngủ. Các ông lại gần đánh thức Người và nói: “Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất! ” Chúa Giêsu nói: “Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!” Rồi Chúa chỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ” (Mt 8,24-26). / Chúa Giêsu khen những ai có Đức Tin mạnh: “Nghe vậy, Chúa Giêsu su ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: “Tôi bảo thật các ông: tôi không thấy một người Ít-ra-en nào có lòng tin như thế” (Mt 8,10). / Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai có Đức Tin mạnh: “Chúa bảo ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Ông Tôma thưa Chúa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những ai không thấy mà tin!” (Ga 20,27-29).
Đức Tin Chúa ban cho chúng ta, chúng ta phải sống ra sao?
Chúng ta phải sống Đức Tin một cách mạnh mẽ: “Chúa nói với các ông: “Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: “rời khỏi đây, qua bên kia! ” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (Mt 17,20). / Chúng ta phải sống Đức Tin một cách trọn vẹn: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6,24). / Chúng ta phải sống Đức Tin một cách vững vàng: “Anh em chỉ cần giữ vững đức tin, cần được xây dựng vững chắc, kiên quyết và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hy vọng anh em đã nhận được khi nghe loan báo Tin Mừng” (Cl 1,23). / Chúng ta phải sống Đức Tin một cách kiên trì, bền đổ: “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình” (Lc 21.17-19). / Chúng ta phải sống Đức Tin một cách hiên ngang: “Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,33). / Chúng ta phải sống Đức Tin thật trong òng: “Ai tin vào Con Thiên Chúa, người đó có lời chứng ấy nơi mình” (1 Ga 5,10).
Người Công Giáo chúng ta hãy khiêm nhượng nhìn nhận rằng Đức Tin của chúng ta có thể có nhiều vấn đề.
Có thể chúng ta tin một cách yếu đuối, vì thế, khi gặp những sự khó khăn và trở ngại liên quan đến Đức Tin, chúng ta từ bỏ Đức Tin một cách dễ dàng. / Có thể chúng ta tin một cách vị lợi, vì thế, khi gặp những bất lợi liên quan đến Đức Tin, chúng ta dẹp Đức Tin ra một bên ngay. / Có thể chúng ta tin một cách hời hợt, không xác tín về Đức Tin của mình, vì thế, khi nghe ai nói gì chống lại Đức Tin, chúng ta cũng không có phản ứng gì. / Có thể chúng ta tin một cách tuỳ tiện, thích thì tin, mà không thích thì không tin, nên những điều gì phải tin và phải giữ, chúng ta bỏ lơ, hoặc không xem là quan trọng.
Người Công Giáo chúng ta quý trọng Đức Tin trên hết mọi sự
Khi ban Đức Tin cho chúng ta, Chúa dạy chúng ta phải gìn giữ Đức Tin một cách hết sức cẩn thận, phải sống Đức Tin một cách hết sức mãnh liệt, và phải loan truyền Đức Tin ra khắp nơi cho mọi người biết bằng lời nói cũng như bằng gương sống. / Muốn được như vậy, chúng ta phải quý trọng Đức Tin hơn mọi vàng bạc châu báu trên đời này; phải sống thật tình khiêm nhượng vì kiêu ngạo thế nào cũng làm cho chúng ta mất Đức Tin; phải biết kềm hãm xác thịt vì tội xác thịt dục tình dìm chúng ta xuống bùn dơ tội lỗi; phải xa lánh những bạn xấu trong Đức Tin, đó là những kẻ không tin có Chúa, những kẻ công kích Đức Tin, những kẻ xúc phạm Đức Tin, những kẻ xấu nết, những kẻ gian tham, những kẻ cờ bạc, rượu chè say sưa; phải xa lánh những dịp làm chúng ta phạm tội, những người làm chúng ta phạm tội, những phim ảnh, những trang mạng trình bày những điều chống đạo, những điều truỵ lạc xấu xa; phải sống Lời Chúa là Lời soi sáng Đức Tin của chúng ta; phải sống bằng Thánh Thể Chúa Giêsu là Bánh nuôi dưỡng Đức Tin của chúng ta; phải đặc biệt yêu mến Đức Mẹ là Đấng cộng tác với Chúa để sinh chúng ta ra trong Đức Tin; phải tuân giữ các luật Chúa truyền và Giáo Hội dạy.
Truyện về Đức Tin – Chúa ban Đức Tin qua Phép Bí Tích Rửa Tội, vì thế người Công Giáo hết lòng quý trọng Phép Rửa Tội
Vua thánh Lu-y của nước Pháp quý trọng ngôi làng Poissy, nơi vua được chịu Phép Rửa Tội, hơn là thành Reims, nơi vua được phong vương. / Trong dịp rửa tội một người Do Thái, vua có mời một số người đến dự. Những người nầy là những người đi theo hầu một ông hoàng vô đạo. / Sau khi xong nghi thức rửa tội, vua nói với những người nầy:- “Hãy về trình bày với ông hoàng của các ngươi rằng trẫm thà bị tù suốt đời trong những căn ngục tối tăm nhất, nếu vì phải như vậy mà trẫm có thể làm cho ông hoàng và dân của ông nhận được ơn chịu phép Rửa Tội”.
Truyền về Đức Tin – Ngày nào là ngày cao quý nhất trong đời người Công Giáo?
Đức Thánh Cha Piô XI đã nếm những giây phút hạnh phúc của ngày chịu chức linh mục, đã trải qua những hồi rực rỡ của ngày thụ phong giám mục, đã hưởng những cảnh uy nghi của ngày đăng quang giáo hoàng, nhưng ngài quý trọng Phép Bí Tích Rửa Tội hơn hết. / Ngày 01 tháng 6 năm 1930, dịp giáp năm ngày chịu Phép Rửa Tội, ngài sung sướng nói với 1500 thanh niên Rôma:- “Ngày Cha chịu Phép Rửa Tội là ngày cao quý nhất của đời Cha. Cũng như ngày các con chịu phép Rửa Tội là ngày cao quý nhất của đời các con.”
Truyện về Đức Tin – “Đức tin của con quý hơn mạng sống của con nhiều!”
Kỳ Giáo Hội Mể Tây Cơ bị bách hại, người ta thấy quân nghịch Đạo cột sau xe ôtô một chàng thanh niên. Chàng nầy chỉ có một tội: không chịu bỏ Đạo, không chịu từ chối Đức Tin của mình. / Xe ôtô lăn bánh mạnh và nhanh trên con đường gồ ghề. Chàng thanh niên công giáo nầy cắn răng lại. Thịt chàng nát bầm. Máu tuôn ra lai láng. Bùn và đất lấp phủ cả mặt mũi. Bỗng tiếng phanh rít lên và xe ôtô dừng phắt lại. Quân nghịch Đạo nhảy xuống xe, lấy gươm dí vào đầu chàng thanh niên nầy và la lên một cách tức tối: – “Mầy hãy nói đí: Đả đảo Giêsu Kitô! Nếu không, mầy sẽ chết!” / Nghe tiếng rộn ràng trước cửa nhà, một người đàn bà vội chạy ra. Bà như điên lên khi thấy con trai yêu quý của mình phải bị hành hạ quá sức dã man. Nhưng để bảo vệ đức tin của con mình, bà mẹ anh hùng nầy liền liều mình xông vào giữa đám lính, đến quỳ bên cạnh con đang hấp hối. Bà vừa khóc, vừa ôm đầu con, vừa nói rõ từng tiếng bên tai con: / “Con ơi, con đừng bỏ Chúa nhé! Con đừng bỏ đức tin của con nhé! Đức tin của con quý hơn mạng sống của con nhiều!” / Người con liền gật đầu và chết trong tay mẹ mình, trước mặt đám quân lính độc ác, nghịch Đạo, đang ngơ ngác, không hiểu vì sao hai mẹ con nầy lại anh dũng đến thế!
Lời chào của Chúa Kitô Phục Sinh với các môn đệ của Người vào tối Phục Sinh: "Bình an ở cùng PS 2-ABC322
Lời chào của Chúa Kitô Phục Sinh với các môn đệ của Người vào tối Phục Sinh: "Bình an ở cùng các con!" (Gioan 20:19), vẫn tiếp tục vang vọng trong tất cả chúng ta. Bình an, nhất là trong Mùa Phục Sinh này, vẫn còn là ước mong của rất nhiều người đang chịu đựng bạo lực chưa từng thấy gây ra bởi kỳ thị và sát hại chỉ vì họ mang danh "Kitô hữu". Lời cầu nguyện của chúng ta càng thiết tha và trở nên một tiếng kêu van xin trợ giúp lên Chúa Cha là Đấng giầu lòng thương xót, để Ngài bảo trì đức tin của nhiều anh chị em chúng ta đang chịu đớn đau. Đồng thời chúng ta cũng xin ơn hoán cải tâm can của bản thân mình để biết cảm thương chứ đừng dửng dưng lạnh lùng.
Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta đã được cứu độ nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu. Người là Đấng Hòa Giải, Đấng đang sống giữa chúng ta để cống hiến đường lối hòa giải với Thiên Chúa và với nhau. Vị Tông Đồ này nhắc nhở rằng, bất chấp những khó khăn và khổ đau của cuộc đời, niềm hy vọng cứu độ được Chúa Kitô gieo vãi trong lòng chúng vẫn tiếp tục tăng trưởng. Tình thương của Thiên Chúa được tuôn đổ trên chúng ta, làm cho chúng ta nên công chính và ban cho chúng ta bình an.
Nhiều vấn đề được đặt ra là tại sao hôm nay đây lại có Năm Thánh Tình Thương? Chỉ vì Giáo Hội, ở vào thời điểm đổi thay lịch sử cả thể này, được kêu gọi để cống hiến những dấu hiệu hiển nhiên hơn nữa về sự hiện diện và gần gũi của Thiên Chúa. Đây không phải là thời điểm bị phân tâm; trái lại, chúng ta cần tỉnh táo và làm bừng lên lại trong bản thân mình khả năng thấy được những gì là thiết yếu. Đây là một thời điểm cho Giáo Hội tái nhận thức ý nghĩa của sứ vụ được Chúa ký thác cho Giáo Hội vào ngày Lễ Phục Sinh: ở chỗ trở thành một dấu hiệu và là một dụng cụ cho tình thương của Chúa Cha (xem Gioan 20:21-13).
Vì lý do ấy, Năm Thánh này cần phải làm sống động ước muốn làm sao để đón nhận nhiều dấu hiệu về niềm êm ái dịu dàng được Thiên Chúa cống hiến cho toàn thế giới, nhất là cho những ai đang chịu khổ đau, những ai đang lẻ loi cô độc và bị bỏ rơi, không hy vọng được thứ tha hay không cảm thấy được tình yêu thương của Chúa Cha. Một Năm Thánh để mạnh mẽ cảm nghiệm trong bản thân mình niềm vui được tìm thấy bởi Chúa Giêsu là Vị Mục Tử Nhân Lành là Đấng đã đến để tìm kiếm chúng ta vì chúng ta đã bị lạc loài. Một Năm Thánh để lãnh nhận hơi ấm của tình Người yêu thương khi Người vác chúng ta trên vai của Người hầu mang chúng ta về nhà Cha. Một Năm Thánh chúng ta được Chúa Giêsu chạm tới và được tình thương của Người biến đổi, nhờ đó chúng ta có thể trở thành những chứng nhân cho tình thương.
Thế nên lý do cho Năm Thánh này đó là vì đây là thời điểm của tình thương. Đây là thời điểm thuận lợi để chữa lành các vết thương, một thời điểm không mệt mỏi để gặp gỡ tất cả những ai đang đợi chờ để thấy được và chạm vào bằng bàn tay của họ những dấu hiệu của việc Thiên Chúa gần gũi, một thời điểm để cống hiến cho hết mọi người ơn tha thứ và hòa giải.
Xin Mẹ Thiên Chúa mở mắt chúng ta, để chúng ta có thể thấu hiểu công việc chúng ta đã được kêu gọi, và xin Mẹ xin cho chúng ta ơn cảm nghiệm được Năm Thánh Tình Thương này như là những chứng từ trung thực và phong phú của Chúa Kitô.
(Bài giảng được chia làm 2 phần: phần lời ngỏ đầu cùng anh chị em Armenia, và sau đó là phần sau bài giảng)
Phần Lời Ngỏ
"Thời điểm của chúng ta như là một thời điểm chiến tranh, một cuộc thế chiến thứ 3..."
Anh chị em Armenia thân mến,
Anh chị em thân mến.
Tôi đã nói một số lần về thời điểm của chúng ta như là một thời điểm chiến tranh, một cuộc thế chiến PS 2-ABC323
Tôi đã nói một số lần về thời điểm của chúng ta như là một thời điểm chiến tranh, một cuộc thế chiến thứ 3, đang đánh nhau từng phần, một cuộc thế chiến chúng ta hằng ngày chứng kiến thấy những thứ tội ác man rợ, những cuộc tàn sát tàn ác và việc hủy hoại điên cuồng. Buồn thảm thay, hôm nay đây chúng ta cũng nghe thấy được tiếng kêu la bị bóp nghẹn và bị lãng quên của rất nhiều anh chị em không thể tự vệ, những người vì niềm tin tưởng của mình nơi Chúa Kitô hay vì nguồn gốc của mình, đang bị công khai sát hại một cách tàn nhẫn - bị chặt đầu, bị đóng đanh, bị thiêu sống - hay bị buộc phải lìa bỏ quê cha đất tổ của mình.
Cả đến ngày hôm nay nữa chúng ta đang cảm nghiệm thấy một loại diệt chủng gây ra bởi thái độ lãnh đạm chung chung và tập thể, bởi thái độ im lặng đồng lõa của Cain là kẻ hô lên rặng: "Cái đó đâu có liên hệ gì với tôi? Chẳng lẽ tôi là người canh giữ anh em tôi hay sao?" (xem Khởi Nguyên 4:9; Homily in Redipuglia, 13 September 2014).
Trong thế kỷ vừa qua, gia đình nhân loại của chúng ta đã trải qua 3 thảm họa to lớn chưa từng có. Thảm họa thứ nhất, một thảm họa nói chung được coi như là "cuộc diệt chủng đầu tiên của thế kỷ 20" (JOHN PAUL II and KAREKIN II, Common Declaration, Etchmiadzin, 27 September 2001), đã đổ xuống trên nhân dân Armenia của anh chị em, quốc gia Kitô giáo đầu tiên, cũng như những tín hữu Công giáo và Chính Thống giáo Syria, Assyria, Chaldea và Hy Lạp. Các vị giám mục, linh mục, tu sĩ, những con người nam nữ, người già và thậm chỉ cả trẻ em bất khả tự vệ và người yếu đau bệnh nạn đều bị sát hại. Hai cuộc thảm họa còn lại gây ra bởi chủ nghĩa Nazi và Stalin. Gần đây hơn nữa đã xẩy ra các cuộc tàn sát khác, như những cuộc tàn sát ở Cam Bốt, ở Rwanda, ở Burundi và ở Bosnia. Dường như nhân loại không thể ngăn chặn được việc đổ máu vô tội. Dường như cái nhiệt tình xuất phát từ lúc kết thúc Thế Chiến Thứ II đã bị hao mòn và giờ đây đang biến mất. Dường như gia đình nhân loại không muốn học từ các lầm lỗi của mình đây ra bởi luật khiếp sợ, mà cả đến ngày nay vẫn còn có những kẻ muốn loại trừ người khác bằng sự trợ giúp của một thiểu số cũng như bằng cái im lặng đồng lõa của những kẻ chỉ biết đứng nhìn. Chúng ta chưa học biết rằng "chiến tranh là những gì khùng điên", là "tán sát vô cảm" (cf. Homily in Redipuglia, 13 September 2014).
Anh chị em Kitô hữu Armenia thân mến, hôm nay, với tâm can đầy đớn đau nhức nhối đồng thời với niềm hy vọng cao cả vào Chúa phục sinh, chúng ta nhắc lại biến cố 100 năm này, một biến cố mà ông bà tổ tiên của anh chị em đã phải chịu đựng cái dã man tàn ác của cuộc tàn sát man vàn và vô cảm này. Cần phải, đúng hơn là phải có nhiệm vụ tưởng nhớ đến họ, vì bất cứ bao giờ ký ức trở nên nhạt nhòa thì sự dữ làm cho các vết thương bị mưng mủ. Chae đậy hay chối bỏ sự dữ thì giống như việc để cho vết thương rỉ máu mà không băng bó nó lại!
(ĐTC ngỏ lời chào....)
Trong niền tin tưởng mạnh mẽ rằng sự dữ không bao giờ xuất phát từ Thiên Chúa, Đấng vô cùng tốt lành, và với niềm tin vững chắc, chúng ta hãy tuyên xưng rằng những gì dã man tàn bạo không bao giờ được coi là việc Thiên Chúa làm, hơn thế nữa, tuyệt đối không thể nào được biện minh bằng Danh Thánh của Ngài. Chúng ta hãy tiếp tục việc cử hành này bằng việc gắn mắt của chúng ta vào Chúa Giêsu Kitô phục sinh từ trong cõi chết, Đấng Chiến Thắng sự chết và sự dữ!
Phần Bài Giảng
"Ngày Chúa Nhật được Thánh Gioan Phaolô II muốn dâng kính Lòng Thương Xót Chúa này, qua bài Phúc Âm, Chúa muốn tỏ cho chúng ta thấy các thương tích của Người. Chúng là các thương tích của tình thương".
Thánh Gioan, vị đã ở trên Căn Thượng Lầu với các môn đệ khác vào tối ngày thứ nhất sau Ngày Hưu Lễ, nói với chúng ta rằng Chúa Giêsu đã đến và đứng giữa các vị mà nói: "Bình an ở cùng các con", và Người tỏ cho các vị thấy đôi tay cùng cạnh sườn của Người (Gioan 20:19-20); Người đã tỏ cho các vị thấy các vết thương của Người. Nhờ đó các vị đã nhận ra rằng đó không phải là một thứ hiện ra mà thực sự là chính Người, là Chúa và các vị cảm thấy tràn đầy niềm vui.
Vào ngày thứ tám, Chúa Giêsu lại đến Căn Thượng Lầu và tỏ các vết thương của Người cho Tông Đồ Tôma, để vị tông đồ này có thể chạm vào các vết thương đó như vị tông đồ này mong muốn, nhờ đó có thể tin tưởng và trở thành chứng nhân cho sự Phục Sinh.
Cả với chúng ta nữa, vào ngày Chúa Nhật được Thánh Gioan Phaolô II muốn dâng kính Lòng Thương Xót Chúa này, qua bài Phúc Âm, Chúa muốn tỏ cho chúng ta thấy các thương tích của Người. Chúng là các thương tích của tình thương. Thật thế, các thương tích của Chúa Giêsu là các thương tích của tình thương: "Chúng ta được chữa lành nhờ các lằn vết của Người" (Isaia 53:5).
Chúng Giêsu mời gọi chúng ta hãy nhìn xem các thương tích ấy, hãy chạm đến những thương tích này như Tông Đồ Tôma đã làm, để chữa lành sự thiếu lòng tin tưởng của chúng ta. Trước hết Người kêu mời chúng ta hãy tiến vào mầu nhiệm của các thương tích ấy, tức là mầu nhiệm về tình yêu thương nhân hậu của Người.
Qua các thương tích này, như nơi một nơi mở ra đầy ánh sáng, chúng ta có thể thấy toàn thể mầu nhiệm của Chúa Kitô và của Thiên Chúa: Cuộc Khổ Nạn của Người, đời sống trần gian của Người - đầy những cảm thương đối với thành phần yếu đuối và bệnh hoạn - việc nhập thể của Người nơi cung dạ của Đức Maria. Và chúng ta có thể lần về với toàn thể lịch sử cứu độ: các lời tiên tri - đặc biệt về Người Tôi Tớ Chúa, các Thánh Vịnh, Lề Luật và Giao Ước; cho đến cuộc giải phóng khỏi Ai Cập, đến cuộc Vượt Qua đầu tiên cũng như đến máu của các con chiên bị sát tế; và từ các vị Tổ Phụ đến Abraham, và rồi đến mãi Abel với máu kêu lên từ trái đất. Tất cả những điều ấy chúng ta đều có thể thấy nơi các thương tích của Chúa Giêsu tử giá và phục sinh; với Mẹ Maria, nơi ca vịnh Ngợi Khen của Mẹ, chúng ta có thể thấy rằng "tình thương của Người trải qua từ đời nọ đến đời kia" (Luca 1:50).
Trước các biến cố thảm thương của lịch sử nhân loại có những lúc chúng ta có thể cảm thấy tan nát tự hỏi "Tại sao?" Sự dữ của nhân loại có thể xuất hiện trên thế giới như là một vực thẳm (an abyss), một đại khuyết (a great void), nghĩa là trống rỗng yêu thương (empty of love), trống không thiện hảo (empty of goodness), trống trơn sự sống (empty of life). Thế nên chúng ta đặt vấn đề: chúng ta làm thế nào để lấp đầy cái vực thẳm này? Đối với chúng ta là những gì bất khả; chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể lấp đầy cái trống không do sự dữ mang đến cho tâm can của chúng ta và cho lịch sử của nhân loại mà thôi. Chính Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, Đấng đã chết trên Thánh Giá và là Đấng lấp đầy vực thẳm tội lỗi bằng thẳm sâu của tình thương Người.
Thánh Bênađô, ở một trong những dẫn giải của ngài về Sách Diệu Ca (Sermon 61, 3-5: Opera Omnia, 2, 150-151), đã chia sẻ chính yếu về mầu nhiệm về các thương tích của Chúa, bằng cách sử dụng những lời diễn tả mãnh liệt đến bạo dạn mà chúng ta muốn lập lại hôm nay đây. Ngài nói rằng: "nhờ những thánh tích này chúng ta có thể thấy được cái bí mật của tâm can Chúa Kitô, thấy được một mầu nhiệm yêu thương cao cả, thấy được lòng thành của tình thương khiến Người từ trên cao đã đến viếng thăm chúng ta".
Thưa anh chị em, hãy nhìn xem đường lối Thiên Chúa đã mở ra cho chúng ta để cuối cùng chúng ta ra khỏi tình trạng nô lệ cho tội lỗi và sự chết của chúng ta, nhờ đó tiến vào mảnh đất của sự sống và bình an. Chúa Giêsu, tử giá và phục sinh, là đường lối ấy và các thương tích của Người đặc biệt đầy tình thương.
Các thánh nhân dạy cho chúng ta rằng thế giới được đổi thay bắt đầu từ việc hoán cải tâm can con người, và điều này xẩy ra nhờ tình thương của Thiên Chúa. Thế nên, cho dù có phải đối diện với tội lỗi riêng của tôi hay các thảm họa lớn lao trên thế giới, "lương tâm của tôi có bị sầu thảm nhưng không bị rối loạn, vì tôi nhớ lại các thương tích của Chúa: 'Người đã bị đả thương vì lỗi lầm của chúng ta' (Isaia 53:5). Tội lỗi nào đáng chết đến độ cái chết của Chúa Kitô không thể thứ tha chứ?" (cùng nguồn vừa dẫn).
Gắn ánh mắt vào các thương tích của Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng ta cùng với Giáo Hội ca lên rằng: "Tình yêu của Người bền vững muôn đời" (Thánh Vịnh 117:2); tình yêu của Người vĩnh hằng. Và với những lời này ăm ắp trong lòng của mình, chúng ta hãy tiến lên trên các con đường lịch sử, theo sự dẫn dắt của Chúa chúng ta và là Đấng Cứu Độ chúng ta, là sự sống của chúng ta và là niềm hy vọng của chúng ta.
Buổi chiều ngày thứ I, Đức Giêsu hiện đến với các tông đồ, vắng Tôma.
Ngày thứ I, ngày của Chúa: Đây là ngày Chúa đã làm ra …Các tông đồ đang hội nhau.. cầu nguyện. Là PS 2-ABC324
Ngày thứ I, ngày của Chúa: Đây là ngày Chúa đã làm ra …
Các tông đồ đang hội nhau.. cầu nguyện. Là ngày hội của cộng đoàn. Đức Giêsu đến - Chúc bình an - thổi hơi trên các ông - ban thần khí - quyền tha tội - sai đi...
Tôma vắng - vì bị mắc - không nhận được - bình an - hơi thở-thần khí - và mọi thứ khác ie. không được gì hết - vì vắng mặt do bị mắc gì đó. Mắc gì thì mắc nhưng không được gì hết thì mới đáng nói.
Tôma bỏ Chúa Nhật-ngày của Chúa- Ngày hội của cộng đoàn-không nhận dược gì mà Chúa ban trong ngày ấy. Cho nên thay vì nhận được bình an của Đấng Phục Sinh mà mọi người đang âu lo sợ hải rất cần. Nên Tôma không được bình an mà còn tỏ thái độ mà Thánh Gioan muốn chúng ta lưu ý qua tường thuật của ông. Không tin - Gioan trong suốt Phúc Âm thứ IV dường như chỉ chú trọng đặc biệt đến tin- không- tin. Tin thì được sống. Không tin thì không được. Tôma không tin nên nghe các ông khác nói đã thấy Chúa và thấy các dấu đinh ở tay chân và lổ cạnh sừơn Người nữa. Ông còn khinh khỉnh: Nếu tôi không xỏ ngón tay vào lổ đinh... mà không thấy mình quá đáng. Không tin là như vậy.
Người tín hữu không có mặt ngày Chúa Nhật thì cũng như vậy. Ngay việc không có mặt trong ngày hội của cộng đoàn đã là dấu không tin rồi. Kẻ vắng mặt thì không được tính.
Chúa Giêsu đã quở Tôma: vì anh thấy nên anh mới tin. Thấy thì là thấy chớ còn gì mà gọi là tin nữa. Phúc cho kẻ không thấy mà tin. Người do thái đòi dấu lạ mới tin Đức Giêsu cũng đã quở nặng.
Ngày nay vẫn thế. Người ta vẩn chờ dấu lạ, vẫn di tìm phép lạ. Người ta đi Tác Sậy cầu xin Cha Phanxicô như là cha Phanxicô mới cho, Chúa không có cho. Đi Tà Pao xin Đức Mẹ. Người ta nói Mẹ ở đó chờ, hãy đến để Mẹ thương, Mẹ ban ơn. Như ở đó mới có Mẹ. Sự lạ là dấu Mẹ hiện diện. Tôi đến thăm Mẹ. Như người ta kể: người nầy chuyến đi Tà Pao nào cũng có mặt mà ở nhà không có tới nhà thờ ngày Chúa Nhật.
Có người nói giữ đạo vì có lợi là lợi dụng. Nếu chỉ để xin ơn phần xác thôi thì có lẻ đúng. Còn nếu để dược lợi linh hồn và sự sống đời đời thì lợi dụng cũng nên. Lợi được sự sống đời đời thì phải lợi dụng chứ. Nên lắm chứ.
Hãy có mặt ngày của Chúa. Chúa có thấy mặt mới đặt tên, mới ban bình an,mới thở hơi Phục Sinh cho, mới biến đổi thành con người mới và mới sai đi. Chúc Phục Sinh Bình An trong Niềm tin.
(Suy niệm của Lm. Jude Siciliano, OP - Chuyển ngữ FX Trọng Yên, OP)
Anh chị em thân mến,
Trong câu chuyện về Chúa Phục sinh hôm nay, Tôma thật đáng thương. Ông bị chê trách và được gọi PS 2-ABC325
Trong câu chuyện về Chúa Phục sinh hôm nay, Tôma thật đáng thương. Ông bị chê trách và được gọi là "Tôma đa nghi", vì ông nghi ngờ về tin vui của các Môn đệ báo cho ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!". Kể từ ngày đó trở đi, hễ có ai không tin một điều gì, thì bị tặng cho biệt hiệu là "Tôma đa nghi ". Và khi ai gọi anh chị em là "Tôma đa nghi", hàm ý bảo rằng anh chị em hãy nín thinh để nghe, và đừng cãi lời về những điều người ta nói với anh chị em về một câu chuyện khó tin ngoài sức tưởng tượng.
Nhưng thật ra, sau những chuyện về Tôma và các Môn đệ phải trải qua lúc Chúa bị bắt và chịu tử hình, thì ai còn có thể trách thái độ dè dặt của Tôma khi nghe các Tông đồ khác mừng rỡ kể chuyện lại. Đối với Tôma, các ông kia hơi vui mừng quá đáng. Câu chuyện Chúa đang sống và hiện ra với các Môn đệ kia có vẻ như một câu chuyện khó tin ngoài sức tưởng tượng.
Vậy, thử hỏi chúng ta có vui khi biết có Tôma là người đa nghi, kẻ luôn muốn có bằng chứng chắc chắn về việc Chúa Giêsu sống lại hay không? Nếu ai cũng tin ngay, có lẽ chúng ta sẽ có nhiều thắc mắc. Không ai nói là sự sống lại của Chúa Giêsu là chuyện dễ tin, ngay cả với câu hỏi của Tôma. Nhưng, thật ra, tôi cũng mừng là có một Tôma lúc đó. Vì quả thật hiện có một Tôma đang ở trong tôi mỗi khi tôi đặt vấn đề về đức tin cho riêng mình.
Tôma trong tâm hồn tôi đã thể hiện trong cuộc sống hằng ngày, vì nếu tôi tin Chúa Giêsu Phục sinh thì tại sao tôi không chứng tỏ đức tin của tôi? Tại sao tôi còn sợ và thiếu lòng tin? Tại sao tôi không đầu tư nhiều cho việc nâng cao đức tin? Tại sao có những lúc làm việc cho Chúa lại sợ sai nên ngần ngừ không dám dấn thân, đôi khi còn thận trọng xem xét mọi nguồn cơn của sự việc? Tôi là như vậy đấy? Rõ rằng Tôma trong Phúc âm hãy còn sống động trong tôi, và luôn đòi hỏi những bằng chứng cụ thể.
Có điều làm chúng ta an tâm là Tôma, kẻ đa nghi không bị cộng đoàn giáo hữu đầu tiên khai trừ vì thiếu đức tin theo kiểu nói "Vậy, nếu anh không tin chúng tôi thì đừng ở đây nữa! hãy đi đi!". Nhưng mãi đến tám ngày sau câu nói "không tin", Tôma vẫn còn ở đó với các ông kia mà. Đối với các tín hữu bấy giờ, điều này nên thận trọng. Hãy tự hỏi, chúng ta có đủ kiên nhẫn với những người hay chất vấn trong giáo xứ không? Vì muốn mọi người trong cộng đoàn đều như nhau, nên chúng ta thường có thái độ tẩy chay những người hay thắc mắc về lề luật và các quy định của Giáo hội.
Không những các môn đệ kiên nhẫn với Tôma, mà cả Chúa Giêsu cũng kiên nhẫn với ông nữa. Khi Tôma gặp Chúa Giêsu, Ngài không quở trách ông. Vì lời đầu tiên của Chúa Giêsu với các môn đệ và có Tôma hiện diện là "Bình an cho anh em". Rồi, kế đó, Chúa Giêsu mới đưa bằng chứng cho Tôma xem, "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy".
Tôma muốn thấy rõ bằng chứng thật về Chúa sống lại. Và muốn tự kiểm chứng lại lời các môn đệ đã nói với ông. Vì vậy, tôi hài lòng là Tôma là người đa nghi. Có lẽ cũng có lúc tôi đã lên tiếng không tin mấy về việc Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại. Sau khi Tôma tuyên xưng đức tin, thì Phúc âm lại dành cho chúng ta, những người không có đó để trông thấy Chúa Giêsu, nghe lời Ngài, và sờ tay vào Ngài như Tôma đã được làm. (nhưng Tôma có thật đã đưa tay sờ vào các vết thương của Chúa chưa thì Phúc âm không nói) Được gọi là những người có "Phúc", vì "Phúc thay những người không thấy mà tin!". Chúng ta cần đặt niềm tin vào lời những người dã có đức tin.
Đức tin của chúng ta có được là do lời nói và việc làm của những chứng nhân, họ đã thấy Chúa Giêsu sống lại. Nếu không có những chứng nhân chân thật này, thì chúng ta không có bằng chứng cụ thể nào về sự sống của Chúa Giêsu đang ở giữa chúng ta. Hôm nay trong phép Thánh Thể, chúng ta nên mừng cho những người đã dạy chúng ta đức tin, và đã cho chúng ta bằng chứng huyền diệu để sống đức tin trong thế giới hiện tại. Họ là ánh sáng chiếu soi trong bóng tối. Nhờ họ mà chúng ta có "Phúc" như Chúa Giêsu nói, vì chúng ta chưa thấy mà đã tin.
Một vấn nạn được đặt ra: Việc chúng ta gặp Chúa Kitô sống lại có quan trọng không? Đức tin của chúng ta về sự sống lại được ích gì, giống như thánh Gioan và vài người có kinh nghiệm sống với Chúa Kitô. Tôi đang đọc về đời sống của một người Mỹ. Mới trước đây thôi, ông là người hướng dẫn đời sống thiêng liêng và là người có đời sống nội tâm rất mạnh. Đó là Tôma Merton. Sau những năm sống phóng túng, ông có kinh nghiệm về sự hiện diện của Chúa Giêsu, và về tình thương của Ngài đối với ông khi ông đang quỳ cầu nguyện trong một nhà thờ ở Rôma.
Phần đông chúng ta không có kinh nghiệm hiện thực về việc Chúa Kitô sống lại. Nhưng, có những lúc chúng ta có kinh nghiệm sống lại sau khi đã chết thì sao? Có một phụ nữ nói với tôi về cái chết của chồng bà cách đây vài năm. Họ đã kết hôn trong 40 năm. Bà nói: "khi chồng tôi chết, tôi cũng kể như chết rồi". Tuy vậy, trong năm vừa qua bà đã có một đời sống mới. Bà liên lạc với nhiều người hơn trước, gặp nhiều ban ngành v.v... Lại có những người khác cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Giêsu trong phụng vụ, trong khi họ cầu nguyện. Chúng ta hãy nhìn những người có đức tin chung quanh chúng ta. Hoặc lúc chúng ta ngồi bên cạnh một người đang hấp hối, chúng ta vẫn cảm thấy bình an và tin tưởng mặc dù chúng ta đang đau khổ và buồn phiền. Cách đây vài năm, tôi đang ngồi với một anh em trong dòng đang hấp hối. Anh đó mỉm cười và nói "tôi có cảm tưởng như tôi đang ở phòng chờ đợi trước cửa thiên đàng". Sự can đảm của anh trên giường bệnh giúp thêm đức tin cho tôi. Và tôi cảm thấy sự hiện diện của Chúa Phục sinh trong Ti-mô-tê. Câu nói "ngày đầu tiên trong tuần" có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong cuộc sống, vì chúng ta luôn gặp Chúa Kitô Phục sinh, và Ngài nói với chúng ta như đã nói với Tôma và các môn đệ khác "Bình an cho anh em".
Câu chuyện Phục sinh có thể bắt đầu bằng nhiều cách cho mọi người như: nói lời "ngày đầu tiên trong tuần". Các thánh sử thường viết rõ ngày giờ về những chuyện khác trước chuyện Chúa Giêsu sống lại, nhưng tại sao các ông không viết rõ ngày giờ sống lại của Chúa Giêsu? Chẳng lẽ họ quên ngày tháng, giờ giấc rồi sao? Không đâu. Vì câu chuyện trong Phúc âm thường khác với những câu chuyện khác. Nếu để ý chúng ta sẽ thấy các ông viết rõ rằng "ngày đầu trong tuần". Đây là bắt đầu một ngày mới. Loài người vừa bắt đầu một đời mới. Khi chúng ta nói: Thiên Chúa tạo dựng ngày đầu, và bây giờ Ngài đang tạo dựng ngày thứ nhất mới. Tạ ơn Chúa về lễ Phục Sinh. Mọi khởi sự đều mới, và chúng ta có nhiều cơ hội, một tương lai đầy triển vọng. Một mặt trời vừa mọc lên. Một ánh sáng mới chiếu rọi bóng tối: Đó là "ngày đầu tiên trong tuần".
Trong "ngày đầu tiên" của Thiên Chúa trong Đức Giêsu, đã cho chúng ta cơ hội để bắt đầu. Vậy chúng ta nên tự xét mình trong Thánh Thể: Chúng ta có muốn từ bỏ quá khứ trong chúng ta không? Chúng ta nên bắt đầu lại bằng việc gì? Làm thế nào thay đổi cách sống khi chúng ta còn nằm trong bóng tối mộ phần? Đối với chúng ta, ai là người được coi là không còn hy vọng nữa? Đây là "ngày đầu tiên". Hãy nghĩ xem nên chấm dứt quan hệ với ai, hay những vụ việc gì. Tóm lại, hôm nay Chúa dạy chúng ta: việc gì cũng có thể làm được vì đây là "ngày đầu tiên".
Trong những hình ảnh sau biến cố Phục Sinh, có lẽ đối với tôi hình ảnh hai môn đệ trên đường về PS 2-ABC326
Trong những hình ảnh sau biến cố Phục Sinh, có lẽ đối với tôi hình ảnh hai môn đệ trên đường về Emmau gợi lại nhiều suy tư với ứng dụng trong đời sống đạo nhất. Hành trình cuộc sống của tôi cũng giống như những gì đã xảy ra trên con đường Emmau buổi chiều hôm ấy. Có bóng dáng của hy vọng, nhưng cũng có bóng dáng của thất vọng. Có bóng dáng của niềm tin, nhưng cũng có bóng dáng của thử thách.
Tin Mừng theo Thánh Luca (Lc 24, 13-35) kể lại sau những giờ phút huy hoàng được rước vào thành thánh Giêrusalem, Chúa Giêsu đã bị môn đệ phản bội, bị bắt, bị đánh đòn, đội mão gai, và bị xử tử hình trên thập giá tại đồi Golgotha. Nhưng rồi tin đồn Ngài đã sống lại càng tạo thêm hoang mang không chỉ đối với dân cư quanh vùng lúc bấy giờ mà còn ảnh hưởng cả đến những kẻ đã tin theo Ngài, trong đó có người như Tông Đồ Tôma, như Cleopas và bạn ông. Thất vọng và hoang mang, hai ông này đã bỏ giấc mộng theo thầy và trở về làng cũ.
Có lẽ cảm tình họ dành cho Chúa là những cảm tình chân thành, và lòng yêu mến của họ là sự liên kết chặt chẽ với Đấng mà họ vẫn hàng trông đợi sẽ có một ngày vinh quang, để họ cũng được hưởng nhờ. Và do đó, sự thất vọng, buồn bã của họ có căn bản và mang tính nhân bản. Cũng chính vì thế mà Chúa Giêsu đã không phiền trách họ, ngược lại đã tìm cách nâng đỡ niềm tin của họ. Ngài đã khai tâm mối nghi ngờ của họ.
Với Tôma, Chúa Giêsu đã củng cố Đức Tin ông bằng cách cho xem và đụng chạm vào các dấu thương tích của cuộc khổ nạn. Ngài đã cho ông mãn nguyện: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây và nhìn vào tay Thầy. Hãy đưa tay ra và thọc vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng tin nữa” (Ga 20, 27). Điều này đã khiến cho Tôma thổn thức: “Lạy Chúa. Lạy Thiên Chúa của con” (28).
Với Cleopas và bạn ông, Ngài đã nhập bọn đồng hành với họ, nhẫn nại hướng dẫn họ về Kinh Thánh, đã nhận lời mời ghé lại nhà họ trong lúc chiều tối hôm đó, và đã cùng họ bẻ bánh. Cũng như Tôma, mắt họ đã bừng tỉnh nhận ra Chúa, để rồi,“Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở lại Giêrusalem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp tại đó” (Lc 24, 33). Để xác nhận sự thật Chúa sống lại: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Simôn” (34). Và “hai ông thuật lại những gì đã xảy ra dọc đường và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh” (35).
Trên hành trình cuộc sống, trong những buổi chiều về ủ ê, chất chứa những phiền não, những hoang mang cuộc đời, cảm giác con người ai cũng có đôi khi thất vọng, đôi khi nghi ngờ sự hiện diện của Chúa. Ngài có thật và có trong cuộc đời tôi không? Nhưng chỉ khi nào chúng ta dám thách thức Chúa với lòng khiêm tốn tìm Ngài như Tôma: “Trừ khi tôi nhìn thấy dấu đanh nơi tay Ngài, và thọc ngón tay tôi vào những vết đanh ấy, thọc tay tôi vào cạnh sườn Ngài, tôi không tin” (Ga 20, 25). Hoặc chân thành, khẩn khoản mời Ngài ghé thăm nhà mình như hai môn đệ Emmau: “Họ nài ép Người rằng: Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn” (Lc 24, 29), lúc đó chúng ta sẽ nhận ra Ngài. Vì Ngài luôn ở bên và ở với chúng ta.
“Vì con đã thấy Thầy, con đã tin; phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20, 29). Đường về Emmau là con đường của những ai đang đi tìm sự thật, tìm chân lý. Nhưng rồi ra có mấy lần ta đã thấy Chúa, đã được Chúa đồng hành với mình?
Bỗng lời ca của bài “Trên Đường Emmau” của Linh Mục nhạc sĩ Thành Tâm đã đem tôi về với những thực tế cuộc đời, cái thực tế mà tôi nhìn trước, nhìn sau, nhìn qua bên phải, nhìn qua bên trái đâu đâu tôi cũng thấy bóng dáng người Lữ Hành Emmau đang cùng đồng hành với tôi.
Trên đường Emmau, hai người lữ khách bước đi bên nhau. Mộng vàng tan mây, nhọc nhằn lê gót chân buồn đường dài. Này ngài tiến đến, về Emmau tiến bước theo ngay bên. Họ không trông ai, người lữ khách đó chính là Ngài.
Biết mấy lúc chúng ta đi trong cuộc sống mọi ngày, đã gặp Ngài nhưng chẳng biết Ngài. Ấy những lúc mắt ta không trông không thấy được Ngài: Trong những kẻ nghèo đói.
Có những phút thảnh thơi rong chơi ta đã gặp ngài trên vỉa hè nhưng chẳng biết Ngài. Ấy những lúc chúng ta vô tâm không để ý Ngài: Người ăn xin hèn yếu. Có những buổi sát vai nhanh chân ta bước bên Ngài trên đường về nhưng chẳng biết Ngài. Ấy những lúc chúng ta vô tâm không để ý Ngài: Người lao công cùng đi.
Có những buổi nắng phai rong chơi ta đã gặp Ngài khắp phố phường nhưng chẳng biết Ngài. Ấy những lúc chúng ta vô tâm không để ý Ngài: Người phu xe gầy vai.
Thì ra trong mọi biến cố cuộc đời, ngay trong những giờ phút cô đơn, buồn phiền, sa ngã, và cả khi tôi mang nặng mặc cảm tội lỗi, Chúa vẫn đang tiến lại gần để hỏi tôi như đã hỏi hai môn đệ làng Emmau: “Con vừa đi vừa buồn bã, lẩm bẩm về chuyện gì vậy?” Ngài không muốn tôi bước đi với nét mặt sầu thảm, ủ dột. Ngài mong tôi hãy mở rộng cõi lòng đón tiếp Ngài, để Ngài được đồng hành và chia sẻ mọi lo lắng, muộn phiền của cuộc sống với tôi.
Có thể nói đường đi Emmau có khác chi đường đi Đamas. Hai môn đệ chán chường về quê, Saolô hăng PS 2-ABC327
Có thể nói đường đi Emmau có khác chi đường đi Đamas. Hai môn đệ chán chường về quê, Saolô hăng hái lên đường bắt bớ. Tiếc thương Đức Giêsu trên đường đi Emmau hay thù ghét Ngài trên đường đi Đamas, cả hai đều chỉ thấy Ngài trong cõi chết. Họ đều cần ơn “trở lại” để đổi mới cuộc đời. Chính Chúa Giêsu Phục Sinh đã giúp họ trở lại bằng sự hiện diện đồng hành, bằng đòn quật ngã khỏi yên ngựa. Dưới tác động của ân sủng, họ được biến đổi và trở nên chứng nhân loan báo Tin Mừng Phục Sinh. 1. Hành trình Emmau:
Ai đã từng có một lần thất bại trong tình yêu hay trên đường sự nghiệp sẽ hiểu được tâm trạng buồn phiền chán nản, nặng trĩu ưu sầu của hai môn đệ trên đường về làng Emmau. Mộng vàng tan bay, bao nhiêu ước mơ, bao nhiêu hy vọng bỗng dưng đổ vỡ tan tành. Những năm tháng theo Thầy đi rao giảng, họ luôn ôm ấp hoãi bão lớn lao. Thầy sẽ lập quốc, đánh đuổi đế quốc Rôma. Thầy sẽ là vua. Họ sẽ là các quan đại thần quyền thế. Khát vọng vinh quang trần thế này không đúng ý Chúa, nhưng là động lực thúc đẩy các môn đệ.
Kể từ khi tảng đá to đã niêm phong cửa mộ thì đối họ, tất cả đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phũ phàng trĩu nặng nỗi âu lo sợ hãi. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi với Giêsu Nadarét. Bởi đó họ ở lại Giêrusalem để làm gì khi người ta đã đặt dấu chấm hết cho mọi hy vọng giải thoát dân tộc. Thập giá được giương cao và vị cứu tinh được chờ đợi với biết bao kỳ vọng đã kết thúc sự nghiệp bằng cái chết đớn đau ô nhục.
Nỗi buồn mất mát và nỗi đau tuyệt vọng đã làm cho họ không còn nhạy cảm với những thực tại xung quanh. Họ đã không nhận ra Đức Giêsu Phục Sinh đang cùng đi với họ. Ưu tư duy nhất là ưu tư về chính mình. Thái độ ấy đã bịt mắt, đã che đi nguồn sáng nên họ đã không nhận ra sự hiện diện đầy thân tình của Đấng Phục Sinh.
Đức Giêsu Phục Sinh đến như người bạn đồng hành. Ngài chăm chú lắng nghe họ kể nỗi đau buồn. Ngài đốt lên ngọn lửa bừng cháy trong tim họ khi giải thích Thánh Kinh: “Bắt đầu từ Môsê và duyệt qua hết các tiên tri, chú giải cho họ những gì liên quan đến Người trong các bản văn Thánh Kinh”. Vậy thì cả Lịch Sử Cứu Độ hướng về Ngài và chỉ có ý nghĩa vì Ngài. Lịch sử vũ trụ, lịch sử nhân loại, mọi lịch sử chỉ là Lịch Sử Cứu Độ, lịch sử của Đức Kitô “Đức Kitô hôm qua, hôm nay, mãi mãi vẫn là một”. Nghe Lời Chúa, lòng họ bừng lên, nội tâm được biến đổi.
Trong quán trọ, họ nhận ra Ngài qua cử chỉ bẻ bánh. Mắt họ mở ra khi “Đức Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng bẻ ra và trao cho họ”. Đó là cử chỉ của Chúa trong bữa tiệc ly, một dấu ấn đã in sâu vào tâm hồn các môn đệ. Cảm nhận bừng cháy trong tâm hồn khi Đức Giêsu ngõ lời, nhưng Ngài đã biến đi. Hai ông đã phục hồi niềm tin, đã tìm lại được Chúa, Đấng Hằng sống trên đường đời của họ.Từ nay, Chúa ở với họ,tỏ ra cho họ qua những dấu chỉ niềm tin, lôi kéo họ vào mầu nhiệm Phục sinh.
Con đường dẫn đưa những người lữ khách từ Giêrusalem đến quán trọ Emmau sao xa xôi vạn lý, thế mà giờ đây lúc trở về Giêrusalem lại hoá nên gần gũi thân quen, bởi vì Tin Mừng đang cháy bỏng trong tim và trên môi của họ. Họ gặp các Tông Đồ và kể lại cuộc gặp gỡ kỳ diệu với Đấng Phục Sinh.
Từ nay, các ông sẽ là những chứng nhân cho Đấng cùng đồng hành với các ông, chia sẻ vui buồn, dẫn dắt tâm hồn, thắp sáng niềm tin, đốt nóng niềm hăng say cũng như sẽ đồng bàn và trao sự sống mới trong cử chỉ thân quen.
Từ nay các ông sẽ là người loan báo Đấng Phục Sinh cho anh chị em của mình bằng chứng tá của một đời sống dấn thân phục vụ. Không có rào cản nào chắn được bước chân của các Ngài nữa vì Đấng Phục Sinh đang cùng họ đồng hành trên khắp mọi nẻo đường trần thế.
2. Hành trình Đamas:
Trước khi trở lại, đối với Phaolô, Tin Mừng về Đức Kitô quả là một chuyện vô lý nhất chưa từng nghe nói bao giờ. Giêsu đã sống lại. Môn đệ của ông ta loan báo rằng ông ta đã chết và đã sống lại.
Nghe bài diễn văn của Simon-Phêrô, người dân chài rao truyền rằng: Giêsu Nadarét người mà Thiên Chúa đã uỷ thác bằng các phép lạ tuyệt diệu, người mà các ông đã bắt và đã kết tội tử hình, đóng đinh vào thập giá, nhưng Thiên Chúa đã phục sinh Ngài. Phải, Thiên Chúa đã cho cho sống lại… chúng tôi đã chứng kiến, tất cả chúng tôi đã là nhân chứng tại chỗ.
Saolô với tư cách là người có học, một biệt phái mộ đạo. Ông có thông biết Thánh Kinh bằng hay hơn kẻ chài lưới có bàn tay chai cứng? Phêrô, Gioan đã nhân danh Đức Giêsu đặt tay lên người bệnh và người bệnh được khoẻ mạnh. Phêrô và Gioan đã bị nhốt trong ngục tối, cửa sắt khoá chặt, quân đội súng ống canh gác ngày đêm trước dãy tường kiên cố. Thế nhưng, Phêrô, Gioan đã được thả tự do bởi một bàn tay kỳ diệu. Người lạ gặp thấy hai ông đang lên tiếng to trong hành lang của đồn là Đức Giêsu đã sống lại, hai ông đã chứng thực về những phép lạ các ông cử hành nhân danh Thầy Chí Thánh.
Saolô không thể chấp nhận như thế mãi được, phải ra tay tiêu diệt bọn tà đạo này. Nhận lệnh từ Giêrusalem, Saolô lên đường đi Đamas. Dưới ánh nắng mặt trời chói chang, bụi tung mịt mù, trời nóng như thiêu đốt. Không quan trọng! Saolô ra đi, điều cần thiết nhất là nhanh chóng bắt hết bọn tà đạo về Giêrusalem.
Và bỗng chốc, một luồng ánh sáng chói lọi bao phủ lấy Saolô làm ông ngã ngựa. Ông không còn thấy gì nữa. Ông nghe có tiếng gọi ông: “Saun, Saun, sao ngươi lại bắt bớ Ta?”
Ông hỏi lại: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Tiếng nói lại âm vang: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bách hại” (Cv 9,5). Saolô hoàn toàn bối rối. Ông nào có bắt bớ Chúa Giêsu, mà bắt bớ các môn đệ Ngài thôi! Thế rồi ông chợt hiểu ra, Chúa Giêsu và các môn đệ ngài là một, và Saolô đã khuất phục: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” Chúa truyền cho Saolô vào thành gặp Khanania (Cv 9,5-8). Saolô đứng dậy, ông chớp mắt mà không thấy gì. Ông được đưa về Đamas.
Sau ba ngày, có một người Do Thái thuộc cộng đoàn mới đã đến gõ cửa và bảo: “Saolô, người anh em, hãy nhìn thấy lại”. Phép lạ đã xảy ra, Saolô lại thấy được. Saolô đã chịu phép rửa bởi tay Khanania. Ông cần thời gian để tĩnh tâm, học hỏi và cầu nguyện. Thế là ông rời bỏ Đamas để sang vùng Ả Rập sống trong thanh vắng. Thầy của ông đã chuẩn bị 30 năm thì ông cũng phải chuẩn bị ba năm (Gl 1,17). Ba năm trời ông nghiền ngẫm Thánh Kinh, đối chiếu trực tiếp với Thần Khí Chúa để hiểu rõ Tin Mừng. Ba năm trời đã cho ông tâm tình của Chúa Kitô, đã đồng hoá ông với Đức Kitô đến nỗi ông phải tuyên bố: “Không phải tôi sống, nhưng là chính Chúa Kitô sống trong tôi” (Cl 2,20).
Kể từ lúc sáng mắt, Saolô đã hoàn toàn đổi mới. Ông nhiệt thành loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa với tất cả thao thức: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng” (1Cr 5,14). Với tên mới Phaolô, vị Tông Đồ được Chúa chữa sáng mắt đã ra đi khắp chân trời góc biển rao giảng Tin mừng và trở nên vị tông đồ dân ngoại lừng danh. Ngài luôn sống trong niềm tin tưởng yêu mến vào Đấng đã kêu gọi Ngài: “tôi sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, là Đấng yêu mến tôi và thí mạng vì tôi” (Gl 2,20).
Hành trình Đamas đã làm thay đổi cuộc đời Phaolô. Sống và chết cho Đức Kitô trong tiến trình của cuộc sống muôn màu của Phaolô mãi mãi vẫn thốt lên lời tuyên tín như một bài ca khải hoàn “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, gươm giáo?… Vì tôi thâm tín rằng sự chết hay sự sống,dù thiên thần hay thiên phủ, dù hiện tại hay tương lai, hay bất cứ sức mạnh nào,trời cao hay vực thẳm hay bất cứ tạo vật nào khác, không có gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 8,35-39). Đọc lại hành trình Emmau, hành trình Đamas để nhận thấy người Kitô hữu chỉ bắt đầu là Kitô hữu thực sự khi khởi đi từ niềm tin Chúa Kitô sống lại.
Trong hành trình theo Chúa, người tín hữu có lúc phải đối diện với vô vàn khó khăn phức tạp của đời sống muôn mặt. Có những thất bại, có những chống đối làm choáng váng, ngỡ ngàng hoang mang vì Đức Giêsu như không còn hiện diện và can thiệp. Ngài dường như bỏ mặc cho thế gian hoành hành.
Chính trong những lúc thất vọng hay bị bách hại thì Đức Kitô lại tỏ bày dấu chỉ để người tín hữu nhận ra Ngài đang hiện diện, đang đồng hành khơi lên niềm hy vọng tràn đầy.
Hãy biết nhận ra Ngài qua các dấu chỉ như hai môn đệ Emmau. Hãy biết nhận ra Ngài qua từng biến cố đau đớn như Phaolô té ngựa trên đường Đamas.
Với tất cả niềm tin và lòng yêu mến, nhất định người Kitô hữu sẽ trở nên chứng nhân của niềm hy vọng, chứng nhân của sự sống, chứng nhân của niềm vui.
Trước khi dâng mình cho Chúa, Thánh An Phong là một luật sư lỗi lạc. Ngài rất nổi danh vì tài hùng PS 2-ABC328
Trước khi dâng mình cho Chúa, Thánh An Phong là một luật sư lỗi lạc. Ngài rất nổi danh vì tài hùng biện và vì lý luận đanh thép sắc bén. Nhờ tài ba, ngài đã thành công trong rất nhiều vụ án hiểm hóc. Nhưng một hôm, Chúa đã để cho ngài phải thất bại. Trong một vụ án mà ngài thấy là đơn giản, dễ dàng, ngài đã bị thua một cách thảm hại. Trước thất bại cay đắng đó, ngài thấy như cả bầu trời sụp đổ. Danh tiếng phút chốc tan như mây bay. Uy tín bị cuốn đi trong làn gió thoảng. Cả một màn đen tối u ám phủ xuống cuộc đời.
Chẳng còn biết tìm an ủi ở nơi nào khác, thánh An Phong quay về bên Chúa, chìm đắm trong lời kinh cầu nguyện. Nhờ ơn Chúa, ngài tìm được niềm bình an. Hơn thế nữa, ngài nghe được tiếng Chúa mời gọi đi vào con đường Chúa muốn. Từ đó, ngài hiến thân trọn vẹn để phục vụ Chúa, ngài đã trở thành Linh Mục, Giám Mục và lập ra Dòng Chúa Cứu Thế. Sau này, khi nhìn lại, ngài hiểu rằng chính Chúa đã hiện diện trong những thất bại để đưa ngài về con đường theo ý Chúa. Chính Chúa đã dùng những đau khổ để huấn luyện ngài trong đức khiêm nhường phó thác. Chính bàn tay Chúa đã hạ ngài xuống trong danh vọng trần thế để nâng ngài lên trong vinh quang Nước Trời.
Trong sách Tin Mừng ta thấy thuật lại nhiều trường hợp tương tự. Khi thuyền của các môn đệ đang vất vả vượt qua sóng gió, Đức Giêsu đi trên mặt biển đến với các ông. Các ông tưởng là ma nên càng sợ hãi hơn. Nhưng đó chính là Đức Giêsu. Người làm cho biển êm sóng lặng và thuyền các ông tới bến bình an... Có lần Đức Giêsu cùng ở trên thuyền với các ông, nhưng Người ngủ say đến nỗi sóng gió dữ dội mà vẫn không hay biết gì. Các ông hoảng hốt đánh thức Người dậy. Và Người đã đe sóng gió khiến chúng phải im lặng.
Hôm nay cũng thế, Người đến bất ngờ khiến các môn đệ sợ hãi. Họ đang bị cái chết đau thương của Người ám ảnh. Nên khi Người đến họ tưởng là ma hiện hình. Đức Giêsu phải trấn an họ. Cho họ xem những vết thương ở tay chân. Cùng ăn uống với họ và giải nghĩa Thánh Kinh cho họ. Nhờ thế, họ được bình an, được vui tươi và tin tưởng.
Trong đời sống chúng ta cũng thế. Rất nhiều lần trong đời ta tưởng Chúa là bóng ma đến đe dọa đời sống ta. Có những biến cố lịch sử làm đảo lộn đời ta, tưởng chừng như đưa cuộc đời ta vào ngõ cụt. Nhưng không ngờ chính Chúa dùng biến cố lịch sử dẫn đưa ta vào một con đường mới theo thánh ý Chúa. Có những khi ta gặp thất bại ê chề tưởng chừng như không còn gượng dậy nổi. Nhưng không ngờ chính Chúa đã dùng thất bại để cảnh tỉnh ta, giúp tâm hồn ta vươn lên trong một đời sống mới cao cả tươi đẹp hơn. Có những khi ta gặp phải những nỗi đau buồn tê tái tưởng như chết đi được. Ta cứ tưởng Chúa đã bỏ rơi ta. Nhưng không ngờ chính Chúa hiện diện trong những đau buồn đó để giúp ta sống trưởng thành, sâu xa, phong phú hơn.
Khi Đức Tin các Tông Đồ còn yếu kém, họ tưởng Chúa là ma. Khi Đức Tin đã được củng cố, các ngài mới thấy Đức Giêsu là có thực. Đức Tin của các Tông Đồ đã được củng cố nhờ được gặp gỡ tiếp xúc thân mật với Đức Giêsu và được nghe Người giải nghĩa Thánh Kinh. Đức Tin của ta còn rất non yếu. Ta hãy biết bắt chước các tông đồ củng cố Đức Tin bằng cách năng gặp gỡ Đức Giêsu. Hãy đến gặp Người trong Thánh Lễ. Hãy đến gặp Người trong giờ kinh tối trong gia đình. Nhất là hãy đến gặp Người trong những giờ cầu nguyện riêng tư, một mình đối diện tâm sự thân mật với Chúa.
Hãy củng cố Đức Tin bằng cách học hỏi Thánh Kinh. Đọc Thánh Kinh hằng ngày để hiểu biết Chúa hơn. Suy niệm Thánh Kinh để tìm ra thánh ý Chúa. Và nhất là hãy biết thực hành Lời Chúa dạytrong đời sống hằng ngày. Khi đã gặp gỡ Chúa và đã thấu hiểu Lời Chúa, ta sẽ chẳng còn bị những bóng ma ám ảnh. Ta sẽ nhìn thấy Chúa trong tất cả các biến cố vui buồn của đời sống. Cuộc sống ta sẽ tràn đầy niềm vui và niềm bình an.
Lạy Đức Giêsu Phục Sinh, con tin Chúa đang ở bên con. Con xin phó thác cuộc đời con trong tay Chúa.
Mục Sở Thị nghĩa là “nhìn tận mắt”, đó là cách nói rút gọn của câu “thực mục sở thị”. Từ điển Hán PS 2-ABC329
Mục Sở Thị nghĩa là “nhìn tận mắt”, đó là cách nói rút gọn của câu “thực mục sở thị”. Từ điển Hán Nôm giải thích: MỤC là con mắt; SỞ là rõ ràng, minh bạch; THỊ là thân cận, gần gũi. Người ta cũng dùng chữ “mục kích” (mục: mắt, kích: đập vào). Cách nói phổ biến là “nhãn tiền”. Chữ “nhãn tiền” (nhãn: mắt, tiền: trước – ý nói “thấy trước”) do câu “quả báo nhãn tiền”, ý nói về điều không tốt, nhưng ngày nay chữ này cũng được dùng khi nói về điều tốt.
Tình yêu thương là hiện thân của Thiên Chúa (1Ga 4:8 và 16). Tình yêu đó cũng chính là Lòng Thương Xót của Ngài. Lòng Chúa Thương Xót luôn được nhắc đến suốt Năm Phụng Vụ, đặc biệt vào Mùa Phục Sinh – cách riêng là Chúa Nhật II Phục Sinh. Chẳng phải mới đây mà từ thuở khai thiên lập địa, Kinh Thánh đã nói đến tình yêu thương. Đây là vài câu cụ thể trong sách Sáng Thế:
St 19:19 – “Này, tôi tớ ngài đây đã được đẹp lòng ngài, và ngài đã tỏ lòng thương lớn lao của ngài đối với tôi khi để cho tôi sống. Nhưng tôi không trốn lên núi được đâu, tai ương sẽ đuổi kịp, và tôi chết mất!”
St 24:14 – “Xin mời ông, con sẽ cho cả lạc đà của ông uống nữa", thì đó là người Chúa đã xe duyên cho tôi tớ Chúa là Ixaác; cứ đó, con sẽ biết rằng Chúa đã tỏ tình thương đối với chủ con”.
St 24:27 – “Chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa của ông Ápraham, chủ tôi, đã không ngừng tỏ tình thương và lòng thành tín của Người đối với chủ tôi; còn tôi, Đức Chúa đã dẫn dắt tôi trên đường đến nhà anh em họ hàng của chủ tôi”.
St 33:10 – “Tôi đã nhìn thấy mặt ngài như nhìn thấy mặt Thiên Chúa, và ngài đã tỏ lòng thương với tôi”.
Bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4:8 và 16) – cách định nghĩa của Thánh Gioan, thế nên Đạo (của) Chúa là Đạo Yêu Thương. Yêu thương, tình thương, tình yêu, hoặc lòng thương đều là một – có thể rút gọn còn một từ yêu. Phàm ngôn có nhiều cách gọi, nhưng thực chất vẫn là Lòng Chúa Thương Xót. Ngay trong Việt ngữ cũng không thống nhất, khi thì Lòng Thương Xót Chúa, khi thì Lòng Chúa Thương Xót, đó là cách rút gọn của cách nói “Lòng Thương Xót của Thiên Chúa”. Đôi khi Việt ngữ dễ gây hiểu lầm do cách “rút gọn” văn phạm! Cuộc sống đời thường có nhiều loại thực tế, cuộc sống tâm linh cũng vậy.
THỰC TẾ TỘI LỖI
Có lẽ không thực tế nào buồn và đáng sợ bằng thực tế tội lỗi. Nó không chỉ khiến người ta sa sút về tinh thần, nguy hiểm về phần rỗi, mà còn gây yếu đuối cả về thể lý.
Tội lỗi liên quan ma quỷ, nghĩa là đối lập với Thiên Chúa. Thánh Phêrô nói: “Thiên Chúa của các tổ phụ Ápraham, Isaác và Giacóp, Thiên Chúa của cha ông chúng ta, đã tôn vinh Tôi Trung của Ngài là Đức Giêsu, Đấng mà chính anh chị em đã NỘP và CHỐI BỎ trước mặt quan Philatô, dù quan ấy xét là phải tha. Anh chị em đã CHỐI BỎ ĐẤNG THÁNH và ĐẤNG CÔNG CHÍNH, mà lại xin ân xá cho một tên sát nhân. Anh chị em đã giết ĐẤNG KHƠI NGUỒN SỰ SỐNG, nhưng Thiên Chúa đã làm cho Ngài trỗi dậy từ cõi chết” (Cv 3:13-15). Chúng ta thật khốn nạn, dám “giao nộp” Chúa Giêsu, dám “chối bỏ” Ngài, dù biết rõ Ngài là “Đấng Thánh”, là “Đấng Công Chính”, là “Đấng khơi nguồn sống”. Tội to lắm!
Và rồi với “kinh nghiệm đau thương” về việc này (tội chối Thầy) nên vị giáo hoàng tiên khởi đã chân thành kêu gọi: “Thưa anh chị em, giờ đây tôi biết anh chị em đã hành động vì KHÔNG HIỂU BIẾT, cũng như các thủ lãnh của anh chị em. Nhưng, như vậy là Thiên Chúa đã thực hiện những điều Ngài dùng miệng tất cả các ngôn sứ mà báo trước, đó là: Đấng Kitô của Ngài phải chịu khổ hình. Vậy anh chị em hãy SÁM HỐI và TRỞ LẠI cùng Thiên Chúa, để Ngài xoá bỏ tội lỗi cho anh em” (Cv 3:17-19). Ông Phêrô đã sám hối và được Thầy Giêsu xót thương. Tấm gương sám hối đáng để chúng ta noi theo mỗi khi sảy bước sa chân.
Từ ngàn xưa, có thể dân Do Thái hành động vì thiếu hiểu biết, bởi vì họ quá bất ngờ và quá bị “sốc” khi nghe chàng-thanh-niên-con-bác-thợ-mộc nói chính mình là Con Thiên Chúa. Nếu lúc đó chúng ta nghe được điều đó, chắc chắn chúng ta cũng thấy “chói tai” lắm đấy! Nhưng ngày nay, chúng ta không thể biện minh là chúng ta không hiểu biết – bởi vì chúng ta được dạy quá nhiều rồi.
Thế thì làm sao? Nếu thực sự không thể tự biện hộ, thực sự biết mình đã và đang phạm nhiều tội lỗi thì chúng ta phải biết thành tâm sám hối, chân thành trở lại, tin tưởng và khẩn cầu Lòng Thương Xót Chúa: “Lạy Thiên Chúa là đèn trời soi xét, khi con kêu, nguyện Chúa đáp lời. Lúc ngặt nghèo, Chúa đã mở lối thoát cho con, xin thương xót nghe lời con cầu khẩn” (Tv 4:2). Nên biết rằng Chúa biệt đãi người hiếu trung với Ngài; khi kêu cầu thì Ngài luôn nghe lời. Có thể chính chúng ta cũng đã bao lần thắc mắc: “Ai sẽ cho ta thấy hạnh phúc?” (Tv 4:7a). Chính trong câu hỏi đó đã mặc nhiên có câu trả lời – nghĩa là không ai khác, không một thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa. Và vì thế, chúng ta càng phải kêu cầu: “Lạy Chúa, xin toả ánh Tôn Nhan Ngài trên chúng con” (Tv 4:7b).
Cầu nguyện là khiêm hạ và hạnh phúc, chính lúc cầu nguyện là lúc chúng ta trở nên vĩ đại, bởi vì được thưa chuyện với Thiên Chúa và được Ngài lắng nghe chúng ta trút mọi nỗi niềm. Có ai như Thiên Chúa của chúng ta? Chắc chắn là không! Đó chính là thực tế về ân sủng.
THỰC TẾ HỒNG PHÚC
Thiên Chúa vô cùng đại lượng và hào phóng, hằng ngày Ngài luôn ban muôn vàn hồng ân cho chúng ta – từng phút, từng giây. Đơn giản nhất mà lại cần thiết nhất chính là KHÔNG KHÍ, vì thiếu không khí vài phút là chúng ta chết ngay! Mọi người, không trừ ai, đều đã và đang nhận lãnh hồng ân của Thiên Chúa, dù chúng ta chưa hề mở lời xin Ngài.
Chưa nói được lời tạ ơn thì cũng đừng đối kháng. Thánh Gioan khuyên chúng ta “đừng phạm tội”, và “láy” một câu: “Nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” (1Ga 2:1). Thật quá tuyệt vời!
Chắc chắn chúng ta đều là những tội nhân khốn nạn, nhưng chúng ta lại vô cùng may mắn có Chúa Giêsu là luật sư biện hộ cho chúng ta trước Tòa Án Công Lý của Chúa Cha. Hơn nữa, “chính Đức Giêsu Kitô là của lễ đền bù tội lỗi chúng ta, không những tội lỗi chúng ta mà thôi, nhưng còn tội lỗi cả thế gian nữa” (1Ga 2:2). Nhận xét của Thánh Gioan rất “ăn khớp” với lời khẩn cầu trong Chuỗi Lòng Chúa Thương Xót: “Lạy Cha hằng hữu, con xin dâng lên Cha Mình và Máu, linh hồn và thần tính của Con rất yêu dấu Cha, là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con, để đền vì tội lỗi chúng con và toàn thế giới”. Tha thiết lắm, Thiên Chúa không nỡ làm ngơ đâu!
Một thực tế khác: Nếu chúng ta tuân giữ các điều răn của Ngài, chúng ta nhận ra mình là những người biết Thiên Chúa. Nhưng “ai nói mình biết Ngài mà không tuân giữ các điều răn của Ngài, đó là kẻ nói dối, và Sự Thật không ở nơi người ấy” (1Ga 2:4). Ngược lại, “ai giữ lời Ngài dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo” (1Ga 2:5). Tình yêu và bổn phận luôn có mối quan hệ chặt chẽ. Thực tế thế thôi!
Chiều Chúa Nhật Phục Sinh, sau khi hai môn đệ nhận ra Sư Phụ Giêsu trên đường Emmau khi Ngài bẻ bánh, họ vội vã trở lại Giêrusalem và thuật lại chuyện đã xảy cho các môn đệ khác biết. Các ông còn đang bàn tán thì chính Đức Giêsu hiện ra đứng giữa họ và bảo: “Bình an cho anh em!” (Lc 24:36). Thế nhưng các ông kinh hồn bạt vía, hồn xiêu phách lạc tưởng là thấy ma. Nhưng Ngài nói: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24:38-39). Lời-chúc-bình-an đó là Chúa Giêsu đã trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ lúc đó – và ban cho cả chúng ta ngày nay.
Vừa dứt lời, và để các môn đệ thấy thực tế minh nhiên, Ngài đưa tay chân ra cho các ông xem. Ấy thế mà họ còn chưa tin, có lẽ một phần vì quá vui mừng, một phần vì quá ngỡ ngàng. Mừng vì Thầy đã sống lại thật chứ không bị bọn ma mãnh lấy mất xác Thầy, mừng vì hai môn đệ kia (gặp Chúa trên đường Emmau) cũng nói thật chứ không hề “nổ” hoặc “xạo” chút nào. Và cũng là để cho “chắc cú”, Ngài hỏi rất thực tế: “Ở đây anh em có gì ăn không?” (Lc 24:43). Các ông đưa cho Ngài một khúc cá nướng thơm phức, thế là Ngài cầm lấy và ăn ngon lành trước mặt họ. Ôi, Sư Phụ Giêsu thật chứ không phải tay nào khác giả dạng. Thế thì trên cả tuyệt vời luôn rồi!
Sau khi ăn khúc cá nướng, Ngài giải thích: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24:44). Vâng, Thánh Ý Chúa quá mầu nhiệm, vượt xa tầm hiểu biết của nhân loại – dù là những bậc thông thái. Bấy giờ, chính Ngài mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và Ngài nói: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24:46-47). Một thực tế minh nhiên và các môn đệ cũng đã “thực mục sở thị”. Rõ ràng và rạch ròi rồi.
Tất nhiên Chúa-Giêsu-phục-sinh biết rõ chúng ta luôn yếu đuối, luôn sai phạm, nên Ngài cũng luôn nhấn mạnh động thái “sám hối” và “tín thác”. Có được hai điều đó thì LCTX luôn chan hòa trên chúng ta. Và chính Ngài xác định bổn phận được trao cho chúng ta: “Chính anh em là chứng nhân về những điều này” (Lc 24:48). Bổn phận và trách nhiệm không của riêng bất kỳ ai!
Cuối cùng, Chúa Giêsu vừa hứa hẹn vừa dặn dò: “Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24:49). Lời hứa đó đã, đang và sẽ được Ngài thực hiện cho nhân loại chúng ta mãi cho tới khi niên tận thế cùng.
Lạy Thiên Chúa chí tôn chí thánh, xin thánh hóa và gia tăng ba đức đối thần cho chúng con, và cũng ban các đức đối nhân để chúng con làm người xứng đáng. Xin Ngài luôn ban Thần Khí để chúng con can đảm làm chứng về Lòng Thương Xót của Ngài và Đức Kitô phục sinh, hôm nay và mãi đến hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
TRẦM THIÊN THU
-----------------------------------
PS 2-ABC330: Hãy đụng chạm tới lòng Chúa thương xót
Môn đệ Tô-ma đòi được tận tay chạm vào các thương tích của Thập Giá nơi thân thể Chúa Phục PS 2-ABC330
Môn đệ Tô-ma đòi được tận tay chạm vào các thương tích của Thập Giá nơi thân thể Chúa Phục Sinh: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Tại sao lại thế nhỉ? đòi hỏi của ông có thật sự cần thiết không? gặp được Thầy Giê-su sống động, đi lại, nói năng và ăn uống như người thường, chẳng lẽ lại không đủ sao? tại sao ông lại đòi hỏi phải được “cho xem tay và cạnh sườn” Người? hơn nữa, việc mắt thấy tay chạm có ý nghĩa đặc biệt nào đối với nhóm môn đệ nhút nhát, nhất là đối với ông Tô-ma?
Dưới cặp mắt các môn để, việc Thầy Chí Thánh bị đóng đinh vào thập giá và con tim Người bị đâm thủng chắc chắn không chỉ mang ý nghĩa thể lý về cái chết đau đớn của một thân xác treo trên giá thập tự. Đối với các ông – và đó cũng là nội dung giáo huấn trường kỳ của Đức Giê-su trước đây, dấu đinh trên tay chân và vết thương nơi cạnh sườn mà họ nhìn thấy nói lên sự tự hiến yêu thương của Chiên Vượt Qua, diễn tả tình yêu bao la của Thiên Chúa cứu độ. Khi cho các ông xem tay và cạnh sườn, Đấng Phục Sinh hẳn muốn nói cho các môn đệ thân yêu một điều gì vượt xa lời khảng định rằng: Người đã sống lại về mặt thể lý. Điều Người muốn khảng định qua các dấu tích đó là: tình yêu thương xót và cứu độ của Thiên Chúa đã trở thành bất diệt và toàn thắng! Các môn đệ do đó cần một cảm nhận cụ thể để tin vào điều này cách vững bền. Các ông là những nhân chứng được chứng kiến tình yêu đó đã đạt tới đỉnh điểm, thì cũng cần phải xem và chạm vào các dấu đinh ở tay chân, và vết đòng trên ngực Người để có bằng chứng không thể chối cãi rằng lòng xót thương tha thứ đó vẫn còn sống, vì nó là vô địch.
Môn đệ Tô-ma trong thâm sâu muốn điễn đạt nhu cầu đó khi phát ngôn câu nói mà nhiều khi bị coi là thách thức: “Nếu tôi không….” Phần mình Đức Giê-su phục sinh đã coi yêu cầu đó là hoàn toàn chính đáng, và Người không ngần ngại đáp ứng: “Đặt ngón tay con vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy, đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy”. Quả vậy, Tô-ma và tất cả các môn đệ khác đều cần tới cái cảm nghiệm cụ thể này, nhất là sau tất cả các biến cố xáo trộn mà các ông vừa trải qua; ông đã thấy, đã chạm vào các dấu tích…, và ông đã tin. Ông không chỉ tin Chúa đã sống lại, mà đúng hơn: tin vào sự toàn thắng của tình yêu cứu độ.
Đối với Ki-tô hữu chúng ta thuộc các thế hệ sau này thì sao; Đức Giê-su đã không hề tuyên bố trải nghiệm đó là không còn cần thiết! Ngược lại là đàng khác! Tuy nhiên Người khảng định: trải nghiệm này phải được thể hiện bằng lòng tin, thay vì phải đụng tới bằng giác quan thể lý, “Vì đã thấy Thầy nên anh đã tin. Phúc thay những người không thấy mà tin”.
Bí tích Thánh Thể mà Người đã thiết lập chính là để các tín hữu trải qua các thế hệ chạm tới được các dấu đinh trên tay chân và vết thương cạnh sườn Chúa Phục Sinh. Cử hành Thánh Thể vì thế trở nên tâm điểm của đời sống Ki-tô hữu, chính vì nơi đây, trong niềm tin, các Ki-tô hữu từng người một, cảm nghiệm cách rất riêng tư và sống động lòng thương xót vĩnh cửu của Thiên Chúa đang được lặp lại cho mình. Trong cử hành Thánh Thể, linh mục và tín hữu cùng được mời gọi “Đặt ngón tay con vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy, đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy”; đúng là họ, hơn bất cứ ai khác, cần đụng chạn tới biểu hiện của lòng thương xót cứu độ, trong tất cả sức mạnh và hữu hiệu của nó. Bất luận ai là Ki-tô hữu đều phải coi đây là công việc quan trọng hàng đầu họ cần làm! Họ sẽ có cùng thái độ của Phê-rô và Gio-an, khi đứng trước người bất toại trong hành lan đền thờ: “Anh hãy nhìn chúng tôi đây… Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có tôi cho anh đây…” (Cv 3:6) Mọi Ki-tô hữu, bao gồm cả tu sĩ, linh mục lẫn giáo dân, cách riêng các tân tòng, đều cần ý thức rằng: họ không nhất thiết phải là người giầu có nhất về mặt vật chất tiền của, cũng không cần là những người phong phú nhất về diện tinh thần hay thiêng liêng, nhưng gia sản quí giá nhất họ sở hữu, đặc ân duy chỉ một mình họ có, đồng thời cũng là điều duy nhất họ có thể cống hiến cho nhân loại đang quằn quại trong nỗi thống khổ cùng cực, đó là được biết, được chạm tới, và được cử hành cách sinh động lòng thương xót từ ái vô biên và bất diệt của Thiên Chúa, đã được thực hiện qua Thập Giá và Phục Sinh của Đức Ki-tô Giê-su.
Riêng cá nhân tôi! tôi có thực sự xác tín điều này không?
Lạy Chúa Phục Sinh, xin cho phép con được dùng đức tin để xỏ ngón tay con vào các lỗ đinh, đặt bàn tay con vào cạnh sườn Người, để con có được cảm nghiệm sâu sắc rằng: tình yêu cứu độ Chúa dành cho con quả là bất diệt. Xin cho việc cử hành Thánh Lễ hàng ngày mang lại cho chính con trước hết sự bình an của một người cảm nhận mình đượcThiên Chúa yêu thương, và tin chắc rằng: tình yêu đó sẽ bất diệt và bền vững cho đến muôn đời, bất chấp những yếu hèn, sa ngã của kiếp người ô trọc. Xin cho con được cử hành mầu nhiệm Phục Sinh ngay từ bây giờ, trong chính đời sống hàng ngày của con. A-men
Gioan thật nhẹ nhàng khi mô tả 04 lần Đức Giê-su hiện hình sau khi ra khỏi mồ: lần một cho Maria PS 2-ABC331
Gioan thật nhẹ nhàng khi mô tả 04 lần Đức Giê-su hiện hình sau khi ra khỏi mồ: lần một cho Maria Mác-đa-la, 02 lần sau cho các môn đệ tụ họp trong nhà, và lần cuối cho một số môn đệ trên bờ hồ Ti-bê-ri-a. Và trong tất cả các lần hiện ra này, chẳng có gì là hoành tráng cả, không hào quang chói lọi, không uy nghi rực rỡ…, nhưng rất đời thường, có luôn cả cảnh ăn uống bình dị nữa; thế nhưng, hình như có một điều gì đó hết sức phi thường ẩn dấu dưới cái tầm thường, một sức sống hoàn toàn mới bừng lên giữa bầu không khí lạnh lẽo của thương tích và chết chóc.
Đoạn Tin Mừng Chúa Nhật II Phục Sinh hôm nay nói về hai lần Chúa hiện hình với các môn đệ đang qui tụ trong nhà; ngay từ thời xa xưa, hình như đoạn văn này đã có một tầm quan trọng đặc biệt đối với đức tin của các Ki-tô hữu tiên khởi. Niềm tin của các môn đệ, đặc biệt của Tô-ma là đề tài của hai lần hiện hình này. Các môn đệ, sau khi được xem các dấu đinh nơi tay và cạnh sườn Đấng Phục Sinh, đã tin rằng: Thầy Giê-su từng chết nhuốc khổ trên cây thập tự và được tẩm liệm mai táng trong nấm mồ đá, nay đã sống lại thật rồi. Tông đồ Tô-ma còn được Đấng Phục Sinh mời gọi đích danh, “đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy; đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy”, chỉ vì ông chưa xác tín đủ niềm tin ấy.
Ta có thể thắc mắc: câu tuyên xưng đức tin của Tô-ma, cũng là đại diện cho các môn đệ khác, “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” thực sự có ý nghĩa và mang nội dung gì? Các ông muốn tuyên xưng rằng: Thầy Giê-su quả đã sống lại, hay Giê-su là Thiên Chúa quyền uy thống trị, hay một điều gì khác? Hơn nữa khi cho các môn đệ xem, và mời gọi Tô-ma cách đặc biệt chạm tay vào các lỗ đinh và vào vết thương cạnh sườn thì chủ đích của Người là gì? Nếu chỉ là để xác nhận thực con người đã chết nay sống lại, thì hẳn niềm tin này sẽ làm cho các môn đệ hết sức kinh hãi; các ông đã chẳng người bán kẻ chối, kẻ khác thì trốn chạy trước cái chết của Thầy mình là gì? Có thể phần nào là đúng như vậy, vì trong lần hiện hình nào Người cũng khởi đầu bằng câu chào: “Bình an cho anh em!” Còn nếu để minh định mình là Đức Chúa quyền uy theo quan niệm Cựu Ước thì Người đã thất bại, vì thân thể và cách thức Người xuất hiện thực chẳng có gì là sáng láng uy hùng cả. Đàng này tác giả Gio-an lại cho biết: ‘các môn đệ vui mừng vì được xem thấy Chúa’. Hình như trong các lần hiện hình này Đức Giê-su đang muốn xây dựng nơi các ông một niềm tin mang nội dung tích cực: niềm tin tuyệt đối vào tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Quả thực, để cụ thể hóa niềm tin rất mới mẻ và thiết yếu đó, Người không những đã muốn các ông chạm vào các dấu đinh – bằng chứng của tình yêu cứu độ – mà còn trao vào tay các ông một sứ mệnh mới, rồi sai các ông ra đi loan truyền.
Sức sống của niềm tin vào tình yêu tha thứ được xác định là Thánh Thần. Chính Thần Khí này đã đưa Giê-su vào trần gian, đã hướng dẫn bước đường cứu chuộc của Giê-su nơi dương thế, đã dẫn đưa Giê-su tới hiến mình trên thập giá, đồng thời cũng làm cho Giê-su sống lại. Thánh thần từ nay được ban cho các môn đệ và tất cả mọi kẻ tin; “Người thổi hơi vào các ông và bảo: “anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Thế là từ nay, trong niềm tin vào Giê-su Ki-tô phục sinh, tất cả các môn đệ đều nhận được một sức sống mới! Họ trở thành những con người mới, không chỉ vì họ sẽ sống vẹn sạch tinh tuyền, nhưng chính yếu là vì, từ nay họ được thông phần sâu xa vào tình yêu cứu độ của Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết và sống lại cho họ.
Cùng với sức sống này, họ được trao cho một sứ mệnh quan trọng: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”. Nếu trước đây, khi nói cho Phê-rô cùng một câu này (xem Mt 16:19) Đức Giê-su có thể ngụ ý về một quyền bính nào đó, thì bây giờ, khi quyền này được ban cho hết mọi môn đệ (cũng là cho mọi Ki-tô hữu) thì ý nghĩa của nó lại càng trở nên hiển hiện hơn: sau khi nhận lãnh Thánh Thần tình yêu, sứ mệnh của môn đệ phải là tha và cầm giữ như chính Đức Ki-tô, Đấng đã chết và sống lại từng làm. Điều này có nghĩa là từ nay sứ mệnh đích thực của các ông là mang đến cho trần gian một nền công lý mới: công lý của nhân từ và tha thứ như chính Đức Ki-tô Thập Giá và Phục Sinh đã thứ tha, và của cầm giữ như chính Đấng cứu độ đã cầm giữ. Tắt một lời, đó là nền công lý của lòng từ bi nhân ái và của xót thương, thứ công lý không thể chối cãi của Thập Giá và Phục Sinh, thứ công lý mà chỉ những ai đón nhận Thánh Thần tình yêu mới có thể trao ban. Các môn đệ của Đức Ki-tô Phục Sinh, và mọi Ki-tô hữu, là những người duy nhật trên trần được trao vào tay thứ công lý đó, để từ nay cùng với Người họ thi hành việc xét xử trần gian trong cách thức này.
Lúc này đây, tôi chân thành gửi tới các anh chị em tân tòng lời chúc mừng; ngoài việc nhờ bí tích rửa tội được thanh tẩy nên tinh trắng, anh chị em đã nhận được Thánh Thần tình yêu, đã được ban cho một thứ uy quyền vượt lên trên mọi uy quyền, đó là uy quyền của lòng thương xót và nhân ái của Đấng Phục Sinh. Giữa một thế trần tội lỗi và lầm lạc, kể từ khi gia nhập vào cộng đoàn Hội Thánh là đoàn thể những người được Đấng đã chết và sống lại cứu chuộc, anh chị em được trao cho quyền lực cầm cân nảy mực xét xử nhân loại, không với sự công minh hà khắc nhưng với công chính của lòng nhân ái xót thương. Chúa Nhật Áo Trắng hôm nay, ngày của anh chị em tân tòng, được Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II chọn làm ngày của Lòng Thương Xót Chúa thật chí lý lắm thay! Nếu Thập Giá và Phục Sinh là biểu hiện rõ ràng nhất của lòng thương xót cứu độ của Thiên Chúa, thì những ai tuyên xưng niềm tin này cũng đương nhiên phải trở thành con cái của lòng từ bi nhân hậu đó.
Lạy Chúa Phục Sinh, xin thổi hơi Thánh Thần tình yêu vào con, để con cũng có quyền tha thứ và cầm giữ như Chúa – Đấng Cứu Độ. Hơn nữa, là linh mục của Hội Thánh Chúa, xin cho con biết luôn trở thành tiếng nói cho mọi người trần thế, nhất là những người tội lỗi, về thứ công lý mới này của Thập Giá và Phục Sinh. Xin cho con trong mọi hoàn cảnh luôn trở thành dấu chỉ và người mang đến cho nhân loại thứ quyền lực và công lý mới của Thập Giá: quyền lực và công lý của lòng thương xót vô biên. A-men.
Sau hơn hai ngàn năm của kitô giáo, hôm nay chúng ta vẫn tiếp tục cử hành Đại Lễ Phục Sinh. Đó PS 2-ABC332
Sau hơn hai ngàn năm của kitô giáo, hôm nay chúng ta vẫn tiếp tục cử hành Đại Lễ Phục Sinh. Đó chính là dây chuyền không hề gián đoạn từ những tín hữu đầu tiên và đi trước chuyển đến cho chúng ta niềm tin trọn vẹn vào Chúa Giêsu sống lại.
Thánh Phaolo trong thư I gửi tín hữu Corintho, đã nói: “Trước hết, tôi truyền cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta đúng như lời Kinh Thánh, rồi người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy đúng như lời Kinh Thánh. Người đã hiện ra với ông Kepha, rồi với Nhóm Mười Hai. Sau đó Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số đó phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. Tiếp đến, người hiện ra với ông Giacobe, rồi với tất cả các tông đồ. Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non”.
Phần chúng ta, hôm nay chúng ta tập trung nơi đây là nhờ vào Tin Mừng được chuyển đến cho chúng ta qua nhiều thế kỷ. Chúng ta cử hành cuộc chiến thắng của Chúa Giêsu vượt qua cái chết. Chúng ta cử hành lễ Chúa Giêsu Kitô sống lại, Ngài ban cho chúng ta niềm hy vọng mặc dù có những lắng lo buồn phiền, đau khổ và muôn vàn khó khăn trong suốt cuộc đời chúng ta.
Tảng đá lớn che lấp cửa mồ là biểu tưởng sự bất lực của chúng ta, tự chúng ta không thể chiến thắng được sự chết. “Các bà đến mộ nói với nhau: Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi mồ cho chúng ta”? Chỉ mình Thiên Chúa mới có thể làm được điều đó, có nghĩa là một mình Ngài mới có thể làm cho chúng ta vượt qua cái chết.
Điều quan trọng trong câu chuyện hôm nay, không phải là ngôi mộ trống, nhưng là việc loan báo Chúa sống lại. Phục sinh, đó là ngày lễ mặc khải mầu nhiệm trọng đại; đó là ngày lễ vui mừng và hy vọng. Các bà cảm thấy khiếp sợ, nhưng Chúa nói với các bà qua một thanh niên ngồi bên phải, mặc áo dài trắng: “Các bà đừng sợ: Các bà đi tìm Chúa Giêsu Nagiaret chịu đóng đinh, nhưng Người đã sống lại không còn ở đây nữa”. Thiên Chúa đích thực không phải là Thiên Chúa làm cho người ta sợ, nhưng là Thiên Chúa đem cho người ta niềm hy vọng. Thanh niên mặc áo trắng đó còn nói thêm: “Các bà hãy đi nói với các môn đệ của Người, nhất là với Phêrô rằng: Người đến xứ Galile trước các ông”. Galilea, là nơi họ sinh ra, lớn lên, làm việc và gia đình họ cũng sinh sống ở đó. Chúa Kitô luôn đồng hành với họ và đặc biệt là tại Galilea này. Hãy đi! Đừng ở lại bên mộ trống nữa! Hãy đi tới Galilea đó, nơi mà Ngài sẽ đến trước, ở đó Ngài sẽ có cuộc hẹn gặp.
Thông thường đối với chúng ta, mọi sự đều kết thúc tại nghĩa trang. Còn đối với Chúa Giêsu, mọi công việc lại bắt đầu từ nghĩa trang, xung quanh một ngôi mộ trống. Chàng thanh niên mặc áo trắng đó không nói với các bà là: “các bà hãy đi nói với các môn đệ của Chúa đến đây để xem mộ trống”, nhưng là nói: “Các bà hãy đi nói với các môn đệ của Người, nhất là với Phêrô rằng: Người đến xứ Galile trước các ông. Ở đó, các ông sẽ thấy Người như Người đã từng nói trước”.
Cộng đoàn các môn đệ tụ họp lại không phải là ở xung quanh một ngôi mộ, nhưng là xung quanh Chúa Giêsu đã sống lại. “Người không còn ở đây, Người đã sống lại…Người sẽ đến trước anh em tại Galilea. Người đợi anh em ở nơi mà anh em đang sống”.
Mỗi một chủ nhật, chúng ta họp nhau tại Galilea giáo xứ, giáo họ chúng ta, xung quanh Chúa Kitô sống lại:
“Ở đâu có hai hoặc ba người họp nhau nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ”. Chúa Giêsu ở với chúng ta và đồng hành với chúng ta: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống… Ai theo Thầy, thì sẽ không bước đi trong bóng tối ”.
Ngày thứ bảy sau khi Chúa chết, không ai đến mộ. Nhưng đến ngày chủ nhật, ngay từ sớm tinh sương, chị Madalena và mấy chị đạo đức khác đến. Đang khi đi, họ tự hỏi nhau: ai có thể giúp mình lăn bỏ tảng đá lớn lấp cửa mộ nhỉ? Nhưng khi tới nơi, các chị xác nhận rằng tảng đá lớn đã lăn ra khỏi mộ và ngôi mộ đã trống, Chúa Giêsu cũng không ở đấy nữa…
Bài Tin Mừng nói tiếp: các chị đó và cả mấy tông đồ không ai còn nghi ngờ về việc Chúa sống lại nữa. Vì chưng, Chúa Giêsu đã lặp đi lặp lại điều đó vài lần, nhất là sau khi Chúa biến hình trên núi Thabor. Tin Mừng còn nói thêm họ không dám hỏi Chúa Giêsu. Chính vì thế mà họ hết sức ngạc nhiên.
Trong khi Madalena tiếp tục khóc vì mất Chúa Giêsu, Phêrô và Gioan cũng chạy đến mồ, hy vọng sẽ khám phá ra một số dấu chỉ…
Chắc chắn rằng tất cả niềm tin của người công giáo chúng ta đều dựa trên sự kiện Chúa SỐNG LẠI. Vì thế, sự ngạc nhiên và giả sử có thể thoáng một nghi ngờ gì đó của các tông đò, là một trong những tiêu chuẩn của đời sống đức tin chúng ta. Đó là một sự mới mẻ phi thường…Tin Mừng cho chúng ta chú ý đến một điều rất quan trọng là Gioan, là người đầu tiên đã tin: “Ông đã thấy và ông đã tin”. Tình yêu không phai nhòa của Gioan chính là ánh sáng chiếu soi Gioan, làm cho Gioan nhớ lại lời các Tiên Tri đã báo trước rằng Chúa sống lại, mà ông phải là người làm chứng.
Còn chúng ta hôm nay, chúng ta cũng nên nhìn lại đời sống đức tin của chúng ta. Điều căn bản của đời sống đức tin chúng ta, đó là tình yêu. Chúng ta tin rằng: mình có cha có mẹ có ông bà tổ tiên thôi, thì cũng chưa đủ, mà còn phải có lòng thảo kính báo hiếu các ngài, đó là yêu mến các ngài và yêu thương nhau. Đối với Thiên Chúa, chỉ tin vào một số lý thuyết về đức tin chưa đủ, mà căn bản phải có tình yêu đối với Ngài và anh chị em chúng ta với nhau.
Ngày lễ Chúa sống lại hôm nay, Chúa Kitô mời gọi chúng ta lại bắt đầu sống trọn vẹn hơn, vượt qua từ sợ hãi đến vui mừng, từ quá khứ đến hiện tại, từ mùa đông đến mùa xuân, từ cái chết đến sự sống.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại, chúng con khiêm tốn nài xin Chúa nâng tâm hồn chúng con hướng tới những gì là cao thượng vì chúng con không còn nô lệ cho tội lỗi nữa. Xin canh tân lòng trí chúng con! Chúng con ước ao được ở trong nơi trú ẩn của một thế giới thèm khát những con người sống lại đích thực. Xin cho chúng con biết nối kết với tất cả những ai còn ở trong bóng tối, sống không mục đích và thất vọng để chúng con có thể đem Tin mừng của Chúa đến cho họ. Amen!
Ngày thứ nhất trong tuần, ngày mà nước mắt chưa vơi, tình người chưa cạn. Maria Mađalêna, người đàn PS 2-ABC333
Ngày thứ nhất trong tuần, ngày mà nước mắt chưa vơi, tình người chưa cạn. Maria Mađalêna, người đàn bà rất thật đàn bà, mạnh mẽ phi thường. Lúc các môn đệ, giới mày râu vai u thị bắp, có những vị được mệnh danh là con cái sấm sét, đang ẩn đâu đấy sau khi thầy bị bắt, bị giết và an táng trong mồ, thì Maria Mađalêna vẫn can đảm dõi bước theo Thầy trong hành trình Thương Khó, tận mắt thấy cảnh Thầy bị đánh đòn vai mang thập giá, can đảm hơn bà còn đứng dưới chân Thánh giá, chôn cất Thầy, nay lại ra viếng mồ Thầy khi trời còn chưa sáng như Matthêu thuật lại trong Tin Mừng hôm nay: "Ngày thứ nhất trong tuần vừa tảng sáng, Maria Mađalêna và bà Maria khác đến thăm mồ" (Mt 28,1). Lúc tranh tối tranh sáng, người ta thường hay sợ thế lực nào đó, Maria đã chứng tỏ bản lĩnh của mình.
Bà tới mộ, ô kìa, chuyện gì đã xảy ra vậy ? Động chuyển mạnh vì Thiên Thần từ trời xuống và đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi trên đó. Mặt Người sáng như chớp và áo Người trắng như tuyết. Trong lúc "lính canh khiếp đảm" (Mt 28,4) thì các bà lại được trấn an: "Các bà đừng sợ. Ta biết các bà tìm Chúa Giêsu, Người đã sống lại như lời Người đã nói" (Mt 28,5-6).
Chúa Giêsu đúng như lời Người đã báo trước
Sao tảng đá lấp cửa mồ lại lăn ra, xác Thầy tôi đâu ? Cho dù can đảm, nhưng vốn bà vẫn là phái yếu, liễu yếu đào tơ, cần tìm người trợ giúp, hiển nhiên phải là các ông rồi. Bà liền tức tốc quay về tìm Simon Phêrô và người môn đệ kia được Chúa Giêsu yêu mến, với hy vọng mấy ông sẽ tìm ra thủ phạm, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu ?" (Ga 20, 2). Chúng ta cứ tưởng tượng xem, khi hay tin, tâm trạng các ông như thế nào lúc "cả hai cùng chạy, nhưng một ông chạy nhanh hơn, tới mộ trước cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không vào trong"(x. Ga 20, 4). Tại sao ông lại không vào trong ? Ông không vào là vì ông tôn trọng Phêrô là đầu của nhóm. Ông thấy và ông tin Người phải sống lại từ cõi chết, đúng như lời Kinh Thánh.
Chúa đã sống lại thật rồi ! Allêluia ! Allêluia ! Allêluia ! Chúng ta có tin không ?
Tin Chúa Giêsu sống lại là tin từ trời
Nếu như ngày Con Thiên Chúa nhập thể làm người, Thiên Thần từ trời loan báo “Này bà sẽ thụ thai…” (x. Mt 1, 23). Ngày hạ sinh Con Một Chúa, cũng chính các Thiên Tần báo tin: “Này đây ta báo cho các người một tin mừng …” (Lc 2,10). Nay Chúa sống lại, cũng chính các Thiên Thần từ trời xuống loan tin cho bà Maria Mađalêna và truyền cho ba đi báo tin cho các môn đệ. Chúa sống lại, không phải do con người khám phá ra nhờ ngôi mộ trống hay những tấm khăn niệm. Không, Chúa sống lại là tin bởi trời, do trời mặc khải va sai các Thiên Thần loan tin cho người thế.
Sống Tin Mừng Phục Sinh
Hôm nay Giáo hội mừng Chúa sống lại với niềm vui khôn tả. Chúa Giêsu sống lại là một thực tế của lịch sử mà những người phụ nữ thánh thiện, các tông và môn đệ chứng thực, họ đã nhìn thấy và nhất là đã đụng chạm vào Chúa Giêsu Phục sinh. Lời của Phêrô là bằng chứng: "Chúng tôi là chứng nhân tất cả những gì Người đã làm trong nước Do-thái, và tại Giêrusalem, Người là Đấng người ta đã giết treo Người trên thập giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng " (Cv 10, 37-41).
Chính Phaolô, người Do thái nhiệt thành cũng quả quyết: "Vì tiên vàn mọi sự, tôi đã truyền lại cho anh em, điều mà chính tôi cũng đã chịu lấy: là Ðức Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã bị chôn cất, là Ngài đã sống lại, ngày thứ ba, theo lời Kinh thánh, là Ngài đã hiện ra cho Kêpha, đoạn cho nhóm Mười hai. Rồi Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em một lần, trong số đó phần đông hiện nay cũng còn sống, nhưng cũng có người đã yên nghỉ. Rồi Ngài đã hiện ra cho Giacôbê; đoạn cho các tông đồ hết thảy. Cuối hết Ngài đã hiện ra cho cả tôi nữa, không khác một đứa con ranh" (1 Cr 15, 3-8 ; Ga 20, 1-29) ; Mt 28, 9-10). Những người dân ngoại và Do thái cũng là những chứng nhân rất đặc biệt !
Bài Ca Tiếp Liên chúng ta hát trong ngày hôm nay nhắc lại biến cố lịch sử quan trọng này. Maria Madalêna đã thực sự gặp các thiên thần làm chứng tỏ tường, thấy y phục và khăn liệm của Đức Kitô Phục Sinh. Với hồng ân đức tin, đến lượt chúng ta phải công bố tin mừng Chúa phục sinh (x. Ca Tiếp Liên lễ Phục Sinh).
Mừng lễ Chúa Kitô Phục sinh là dịp để người kitô chúng ta vui mừng hân hoan và tràn trề niềm hy vọng vào một tương lai huy hoàng sáng lạng trong nước Thiên Chúa sau khi đã hoàn tất cuộc đời lữ thứ trần gian. Chúa Kitô Phục sinh khải hoàn, đó là niềm tin và lẽ sống của người Kitô. Hôm nay chúng ta hân hoan vui mừng với tinh thần mà thánh Phaolô nói: "Vì Chiên Vượt Qua của ta, là Đức Kitô, đã chịu sát tế. Cho nên ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ, và men gian tà, ác độc, nhưng là với Bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật" (1Cr 5,7-8). Từ nay chúng ta quả quyết mà không sợ sai lầm rằng, cái chết không phải là tiếng nói cuối cùng nữa, bởi vì ngày chúng ta chịu phép rửa tội, "nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Ðức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới" (Rm 6, 4). Ước mong niềm tin vào Đấng Phục sinh luôn đem đến cho Giáo hội, cho thế giới và mọi người trên trái đất này sự bình an, ơn hiệp nhất để cùng hướng về mục đích đệ nhất của kiếp người là được hưởng sự sống vĩnh hằng trong ngày sau hết.
Sau khi hân hoan mừng Chúa Phục Sinh. Giáo hội muốn nhắn gửi mỗi người chúng ta rằng: hãy lên đường, để sự hiện diện của ta là lời chứng rao giảng hùng hồn về Đức Kitô đã chết đi, loan tin Người đã sống lại, trong vinh quang mai Người lại đến đón chúng ta, những người tin vào Đức Kitô lên trời về với Chúa Cha. Vì quê hương chúng ta là quê Trời, nước chúng ta là Nước Trời. Thánh Phao lô khuyên chúng ta "hãy tìm những sự trên trời, nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa" (Cl 3, 3).
Chúa sống lại thật rồi, Allêluia! Kính dâng Người vinh quang và uy quyền đến muôn đời muôn thủa. Allêluia!
Tin Mừng hôm nay trình thuật biến cố Phục Sinh theo thánh Gioan. Ông giấu tên và tự đặt cho PS 2-ABC334
Tin Mừng hôm nay trình thuật biến cố Phục Sinh theo thánh Gioan. Ông giấu tên và tự đặt cho mình biệt hiệu thần bí nhưng thật là dễ thương: “người môn đệ Đức Giêsu thương mến”.
Cái chết của Thầy Giêsu làm “cả thế giới” của các môn đệ và những người phụ nữ theo Thầy bị sụp đổ tan tành. Các ông thì thấy thất bại và chán chường. Các bà thì đứt ruột… khóc hết cả nước mắt! Nên sáng sớm ngày thứ ba lúc trời còn tối, phận nữ mà bà Maria Macđala đã liều ra thăm mộ. Lòng yêu mến Thầy của bà đã vượt lên nỗi sợ hãi.
Thoạt nghe bà Maria Macđala báo về ngôi mộ trống, hai môn đệ cùng “chạy” ra mộ. Bình thường người ta đi chứ không chạy, nhưng ở đây là việc nóng bỏng cấp thiết, tình yêu là động lực thúc đẩy bước chân người môn đệ. Cả Gioan và Phêrô cùng chạy nhưng Gioan chạy nhanh hơn. Có lẽ vì Gioan còn trẻ, nhưng đúng hơn là lòng yêu Thầy thúc đẩy và dồn nhanh bước chân ông không thể đặng đừng. Gioan là một trong ba môn đệ gần gũi Thầy mình nhất và được chứng kiến vinh quang cũng như khổ đau của Thầy, ông được tựa đầu vào ngực Thầy trong bữa tiệc sau hết và chỉ còn mình ông trong hàng môn đệ đứng dưới chân Thánh giá. Gioan là người đã có cảm nhận sâu sắc nhất về tình yêu của Đức Kitô vì chỉ có Ngài mới phát biểu một câu “định nghĩa” ngắn gọn nhưng thật đầy đủ: “Thiên Chúa là tình yêu”. Hôm nay trong biến cố Phục Sinh, bằng cảm nhận của tình yêu tha thiết, ông được “thấy” mầu nhiệm trọng đại và đã tin trước hết. Thật tế nhị khi ông “chiêm niệm trong lòng” đã, khiêm nhường để cho Phêrô vào trước mà chứng kiến sự việc, một mẫu gương cho Giáo Hội xưa nay.
Sau cái chết của Thầy, lòng yêu của ông còn canh cánh về đó. Cũng chính tình yêu làm cho ông nhạy cảm, nhận ra, luôn “thấy” và tin. Trong mầu nhiệm Phục Sinh, Gioan chỉ kết luận bằng một lời thú nhận rằng “ông đã thấy và đã tin”. Ông còn được mang danh hiệu “Người môn đệ Chúa đó!” Với tình yêu, ông có thể làm chứng cho Thầy cách chắc chắn về điều mình đã “thấy” và chiêm niệm: “Điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến…” (1Ga 1,1).
Thánh Gioan đã “thấy và tin”. Ngày nay chúng con cần “tin để thấy”, để yêu. Chúa ơi! hôm nay chúng con thấy gì trong một tấm bánh trắng đơn sơ mỏng manh? Tấm Bánh ấy làm lòng con tan chảy, con được thấy, được gặp gỡ Đấng mà lòng con yêu mến với hạnh phúc ngọt ngào, trào tràn khiến mắt con tuôn trào suối lệ. Chiêm ngắm Chúa trong mùa Phục Sinh này, con càng cảm nhận thấy tình yêu không bến bờ của Chúa. Xin cho đời con thành lời chứng cho mọi người nhận ra và yêu mến Chúa hơn. Amen.
(Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật 2 Phục sinh theo Tin Mừng Gioan 20, 19-31)
Nhiều người cho rằng chỉ có những gì có thể xem bằng mắt, bắt bằng tay mới có thật; còn những PS 2-ABC335
Nhiều người cho rằng chỉ có những gì có thể xem bằng mắt, bắt bằng tay mới có thật; còn những gì không thể nhìn thấy bằng mắt trần, bị xem là không có. Vì thế, khi một số người được hỏi tại sao không tin Thiên Chúa, không tin có linh hồn, không tin có sự sống đời sau… họ trả lời thật đơn giản: “Có thấy đâu mà tin!”
Thế nhưng, có vô số điều dù không trông thấy nhưng chúng ta vẫn phải nhận là chúng hiện hữu. Người ta không thể nhìn thấy tình mẫu tử nơi người mẹ, không nhìn thấy ý chí kiên cường nơi bậc anh hùng, không nhìn thấy trí khôn tuyệt vời của nhà khoa học … nhưng không ai dám phủ nhận rằng những thực tại nầy không có.
Đôi mắt trần có tầm nhìn rất hạn chế
Với đôi mắt trần nầy, tầm nhìn của người ta rất hạn hẹp, như “ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung.”
Với đôi mắt trần nầy, chúng ta chỉ nhận thấy một ít sự vật phù du mà thôi, còn những điều quan trọng, những điều chính yếu thì không thể nhận thấy, quả đúng như Antoine de Saint Exupéry nhận định: “Những thực tại thiết yếu thì mắt trần không thấy được.” [“L’essentiel est invisible pour les yeux”]
Do đó, nhân loại cần đến những con mắt khác, những con mắt thứ ba để nhận thức những thực tại cao siêu. Con mắt nầy giúp người ta nhìn xa, nhìn rộng, nhìn sâu, nhìn thấy điều thiết yếu, nhìn thấy chân lý…
Cần có con mắt thứ ba
Con mắt thứ ba của các nhà vi trùng học là ống kính hiển vi; nhờ đó mà mới đây, nhà vi trùng học người Mỹ, tiến sĩ M. Blaser phát hiện có đến hơn 250 loài vi khuẩn chung sống ngay trên lớp da của mỗi người và ông gọi đùa làn da của chúng ta là một vườn thú rất lớn! (nguồn: http://vietbao.vn) và trên mỗi cm2 da của ta có khoảng 32 triệu vi khuẩn!
Con mắt thứ ba của các nhà thiên văn là ống kính thiên văn, nhờ đó các nhà khoa học có thể thấy được những ngôi sao cách mặt đất đến mười hai tỉ năm ánh sáng (như kính viễn vọng không gian Hubble).
Con mắt thứ ba của các nhà quân sự là màn ảnh ra-đa, là vệ tinh quan sát… Chúng giúp các nhà quân sự phát hiện máy bay địch từ xa, giúp nắm rõ địa hình cũng như các bí mật quân sự của đối phương nhằm đạt tới chiến thắng.
Đối với Đức Giê-su, con mắt thứ ba mà Ngài mong muốn các môn đệ phải có là Đức Tin. Nhờ Đức Tin, nhân loại có thể nhận ra Thiên Chúa là Cha yêu thương, nhận ra Đức Giê-su là Đấng Cứu Độ, nhận ra mình có hồn thiêng bất tử, biết mình có cuộc sống mai sau, có thiên đàng, hoả ngục…
Tông đồ Tô-ma chưa có con mắt thứ ba. Anh chỉ tiếp cận với thế giới qua đôi mắt trần. Anh chủ trương rằng chỉ những gì được xem thấy tận mắt, được sờ tận tay… mới là điều có thực. Chính vì thế, khi nghe các môn đệ bảo: “Này Tô-ma, Thầy đã sống lại và đã hiện ra với chúng tôi”, Tô-ma cho là chuyện đùa.
Cho dù Tô-ma có thấy Chúa tận mắt đi nữa, chắc gì anh tin, vì biết đâu đó chỉ là bóng ma của Chúa Giê-su hiện về. Vì thế, anh đòi kiểm chứng bằng cách xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn Chúa mới được.
Con mắt Đức Tin
Chúa Giê-su không hài lòng với quan điểm đó. Ngài nói: “Tô-ma, vì anh đã thấy Thầy nên anh mới tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin.” Như thế, phúc cho những ai không dùng đôi mắt trần, nhưng dùng con mắt thứ ba, con mắt Đức Tin để nhận ra Chúa và những thực tại thiêng liêng khác.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin dạy chúng con đừng cậy dựa vào đôi mắt trần, vì chúng không thể giúp thấy được những thực tại cao cả, lớn lao. Xin ban Chúa Thánh Thần để Ngài khai mở cho chúng con đôi mắt đức tin, vì chỉ nhờ đôi mắt thiêng liêng này, chúng con mới có thể nhận ra Thiên Chúa là Cha nhân lành để tôn thờ và yêu mến; nhận ra những người chung quanh là chi thể của Chúa để hết lòng yêu thương và phục vụ, nhận biết trần gian chỉ là quán trọ và thiên đàng mới là quê thật của mình… Nhờ đó chúng con được cứu độ và được hưởng phúc muôn đời với Chúa.
Ngay từ buổi sáng ngày Chúa phục sinh, các ông Phêrô và Gioan đã đến mồ, tuy không thấy xác PS 2-ABC336
Ngay từ buổi sáng ngày Chúa phục sinh, các ông Phêrô và Gioan đã đến mồ, tuy không thấy xác Chúa như các bà Mađalêna và Maria đã báo tin, nhưng các ông thấy vải liệm và dây băng xếp lại ở mồ. Các ông được các bà báo tin là Chúa đã sống lại, đã cho các bà gặp Ngài và Ngài còn bảo các bà báo tin cho các ông là Ngài sẽ gặp các ông ở Galilêa. Thế mà các ông vẫn còn sợ, ẩn nấp tại nhà tiệc ly.
Buổi chiều cùng ngày, Chúa đã đến với các ông, Chúa chào: "Bình an cho các con". Thấy các ông tuy vui mừng nhưng còn nửa tin nửa ngờ nên Chúa đã cho các ông xem các vết thương nơi tay và vết đòng nơi ngực Chúa.
Khi đó ông Tôma không có mặt. Sau đã được anh em kể lại sự việc Chúa hiện đến, ông không tin và còn khẳng định nếu chính ông không được xỏ ngón tay vào các lỗ đinh nơi tay và thọc bàn tay vào vết đòng nơi ngực Chúa thì ông không tin.
Lần sau khi hiện đến, Chúa đã gọi ông Tôma: "Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đặt tay vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa nhưng hãy tin" (Ga.20,27). Ông Tôma thưa lại: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con". Chúa đáp: "Vì con thấy rồi mới tin. Phúc cho ai không thấy mà tin" (Ga.20,28).
Quả thật, Chúa vì yêu thương các tông đồ mà chiều các ông thế nào, và chúng ta nên nghĩ tại sao Chúa chiều các Ngài ? Tại vì chính Chúa thương chúng ta. Cử chỉ, tâm tình của Chúa đối với các tông đồ cũng là những cử chỉ và tâm tình Chúa đối với chúng ta.
Như Chúa đã nói với ông Tôma: "Vì con đã thấy nên con tin. Phúc cho ai không thấy mà tin". Chúng ta không thấy Chúa bằng mắt, nhưng nhờ đức tin, chúng ta biết mình đang được ở trước mặt Chúa Giêsu phục sinh trong nhiệm tích Thánh Thể. Đó là phúc lớn cho ta. Chúng ta hãy giục lòng tin kính mến yêu, thờ lạy và tạ ơn.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, được chạm vào các vết thương của Đấng Phục Sinh là vinh dự được chạm đến lòng thương xót. Chúa Nhật thứ II Phục Sinh, Hội Thánh hướng chúng con về lòng nhân lành hay thương xót của Thiên Chúa. Cuộc khổ nạn thập giá của Chúa là biểu hiện cao nhất, mạnh mẽ nhất của Lòng Thương Xót Chúa dành cho nhân loại. Trước Thánh Thể, chúng con chúc tụng, tôn vinh và cảm tạ lòng Chúa xót thương, xin cho chúng con được ơn cảm nh ận tình yêu thương xót để chúng con luôn trung thành với sứ mạng loan báo phẩm giá sự sống, tình thương và ơn cứu độ mà Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết cách yêu thương như Chúa: Yêu thương không chỉ là trao cho nhau những nụ cười xã giao, cũng không phải nắm lấy tay nhau để chào hỏi những câu dư thừa, hay chúc bình an cho nhau mà trong lòng vẫn còn tức tối. Nhưng yêu thương là phải thật lòng tha thứ cho nhau. Xin Chúa thương ban bình an cho chúng con như xưa Chúa đã ban cho các môn đệ. Amen
Chúng con đang ở trong những ngày mừng Chúa phục sinh. Cha thấy trong những câu chuyện xảy PS 2-ABC337
Chúng con đang ở trong những ngày mừng Chúa phục sinh. Cha thấy trong những câu chuyện xảy ra ở trên trần thế này không có câu chuyện nào lại lạ lùng và đem lại nhiều biến đổi lớn lao nơi cuộc sống con người cho bằng sự việc Chúa phục sinh cả.
Vâng! Đúng như vậy. Việc Chúa phục sinh đã để lại rất nhiều những thay đổi lạ lùng. Cha kể cho chúng con một vài bằng chứng:
Thí dụ như câu chuyện của ông Phêrô trong sách Tông Đồ Công Vụ.
Cái chết của Chúa đã làm cho ông thất vọng, hèn nhát...
Nhưng sau khi Chúa phục sinh ông ấy đã là một người can đảm khác thường.
Trước kia ông không dám nói về Chúa. Người ta mới nhìn mặt ông mà nói: “ông này cũng ở trong nhóm với người ấy... ” ông đã vội chối ngay.
Nhưng sau khi Chúa phục sinh, không những ông không chối mà còn can đảm làm chứng cho Chúa. Ông nói trước toàn thể Hội đông tôn giáo Do Thái: "Chúng tôi không thể không nói về những điều chúng tôi đã mắt thấy tai nghe"
Rồi chúng con thấy: Trước kia, quyền hành ông chẳng có là mấy.
Bây giờ Chúa cho ông nhiều quyền hành lắm.
Một lần ông và Gioan lên đền thờ – gặp một người què từ khi mới sinh ngồi ăn xin tại cửa Đẹp (Cvtd 3,1-10). Thấy hai ông, anh cũng đưa tay xin. Phêrô và Gioan nhìn anh ta và nói:
- Hãy nhìn chúng tôi đây. Anh ta nhìn, tưởng sẽ được gì... nhưng không . Phêrô nói: - Vàng bạc thì tôi chẳng có.
Vậy có gì thì tôi cho anh cái ấy. Nhân danh đức Giêsu Nazareth... hãy đứng dậy mà đi.
Nói rồi Phêrô cầm tay người ấy nâng anh lên... anh ta thấy bàn chân và mắt cá chân trở nên cứng cáp... và anh ta bước đi... anh ta vừa đi vừa nhảy... người què... bây giờ không còn phải lê lết nữa.
Khỏi rồi, hết què rồi.
2. Bây giờ bước qua bài Tin Mừng. Chúng con vừa nghe bài Tin Mừng do thánh Gioan kể lại (Jn 20,19-3)
Cha hỏi chúng con: Chúa Giêsu làm thế nào để các môn đệ và các bà đạo đức biết là Chúa đã phục sinh?
Nhưng trước hết cha hỏi chúng con nhờ cái gì mà người ta biết được những cái ở bên ngoài mình là có thật?
- Nào nói đi...
Nhờ các giác quan: là mắt, là mũi, là tai, là lưỡi, là da.
Chúng ta vẫn gọi Mắt là thị giác Mũi là khứu giác Tai là thính giác Lưỡi là vị giác Da là xúc giác
Khi Chúa sống lại, Chúa cho con người dùng giác quan để nhận ra Chúa.
Tin Mừng kể; " Đức Giê-su gọi bà: "Ma-ri-a! " Bà quay lại và nói bằng tiếng Híp-ri: "Rápbuni! " (nghĩa là "Lạy Thầy").Đức Giê-su bảo: "Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Bà Maria Mácđalena đi báo cho các môn đệ: "Tôi đã thấy Chúa", và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.(Ga 20,16-17). Chúa Giêsu gọi và Maria Mađalena đã thấy, đã nghe.
Tin Mừng kể tiếp: "Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Dothái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em! "Nói xong, Người cho các ông xemtay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa" (Ga 20,19-20).
Chưa hết. Cũng Tin Mừng Gioan còn ghi: "Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tôma, cũng gọi là Điđymô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tôma đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin."Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." Rồi Người bảo ông Tôma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin."Ông Tôma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! "Đức Giê-su bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin! "(Ga 20,25-29)
Cuối cùng Thánh Luca còn kể:" Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giêsu đứng giữa các ông và bảo: "Bình an cho anh em! " Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. Nhưng Người nói: "Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực?Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây? "Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem. Các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng, thì Người hỏi: "Ở đây anh em có gì ăn không? " Các ông đưa cho Người một khúc cá nướng. Người cầm lấy và ăn trước mặt các ông.(Lc 24,37-42)
Như vậy là các môn đệ của Chúa đã sử dụng các giác quan Chúa ban để thấy được Chúa Giêsu sau khi sống lại là một người thật, bằng xương bằng thịt để các môn đệ có thể nhận ra và tin vào Ngài.
3. Vấn đề còn lại hôm nay là thái độ của các tông đồ và của mỗi người chúng ta.
Các môn đệ của Chúa đã tin vào Chúa. Niềm tin đó đã biến các ngài trở thành những chứng nhân bằng cả cuộc sống của mình.
Phần chúng ta như Chúa Giêsu đã nói với Ông Tôma: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin! "(Ga 20,29)
Chúa đã sống lại. Ngài đã hiện ra cho các Tông Đồ, Ngài đã hiện ra cho Tôma, Ngài cũng đã hiện ra cho một số những người khác. Đó là sự kiện các tông đồ đã làm chứng. Và đức tin công giáo của chúng ta đã không sợ sệt khi đặt nền tảng trên những sự thật này.
Như vậy dù chúng ta tin hay không tin thì Chúa cũng vẫn là như thế: Ngài là Con Thiên Chúa. Ngài đã chết và đã sống lại. Ngài luôn ở giữa chúng ta. Thánh Gioan đã có lần nói:"Ở giữa các ông có một Người mà các ông không biết" (Ga 1,26).
Vâng! Chúng ta hãy tin vào Ngài.
Sau thế chiến thứ hai ít lâu, trong khi dọn dẹp những ngôi nhà bị chiến tranh tàn phá người ta còn thấy được những lời rất cảm động này được ghi trên một bức tường của một ngôi nhà thờ đã đổ nát. Những lời đó như sau:
Tôi tin vào mặt trời ngay cả khi nó không còn chiếu sáng. Tôi tin vào tình yêu ngay cả lúc tôi không cảm thấy sự hiện diện của nó. Tôi tin vào Thiên Chúa ngay cả lúc Người hoàn toàn thinh lặng. Hãy tin vào Ngài và để cho Ngài dìu dắt chúng ta đi trên mọi nẻo đường của cuộc sống.
Hãy tin vào Chúa. Ngài không bao giờ lừa dối chúng ta.
Hãy để Ngài cùng cùng bước đi với chúng ta để Ngài dạy cho chúng ta biết phải sống như thế nào cho xứng đáng với danh nghĩa là con của Thiên Chúa
Hãy tin vào tình thương của Ngài. Hãy phó thác đời ta cho Ngài. Làm được như thế chắc chắn cuộc đời của chúng ta sẽ thành công, "Phúc cho những ai không thấy mà tin" Amen.
Bài đọc I (Cv 4, 32-35) cho ta thấy hình ảnh của một cộng đoàn Kitô hữu sơ khai sống trung thành PS 2-ABC338
Bài đọc I (Cv 4, 32-35) cho ta thấy hình ảnh của một cộng đoàn Kitô hữu sơ khai sống trung thành tuyệt đối với Tin Mừng.
Bài đọc II (1Ga 5, 1-6) nhấn mạnh đến ơn gọi của người Kitô hữu là ơn gọi để yêu thương.
Tin Mừng thánh Gioan tường thuật lại việc Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra, tỏ cho các Tông Đồ xem thấy những vết thương và ban bình an cho họ. Sau đó, Ngài ban Thánh Thần và quyền tha tội cho các ông. Đặc biệt khi chạm vào những vết thương của Chúa Giêsu Phục Sinh thì sự nghi ngờ của Tôma trở thành lòng tin.
Đức tin là cái gì kỳ diệu và quý báu nhất trên đời. Nếu thế giới này chỉ có sự nghi ngờ thì mọi tương quan của chúng ta lấy gì mà bảo đảm. Chúa Nhật hôm nay, chúng ta hãy cố gắng nhận ra sức mạnh của lòng tin sắt đá.
"Nếu tôi không thấy, không chạm...tôi sẽ không tin". Những lời của Tôma nghe ra có vẻ rất hợp lý và có cơ sở. Nó đại diện cho những lối giải quyết thời đại theo con đường hiểu biết, lý trí. Ngày nay, người ta có thể giải thích mọi sự dựa trên lý trí. Nếu một điều gì khó hiểu, tất cả chúng ta phải làm sáng tỏ dưới ánh sáng của khoa học thì mọi chuyện sẽ được rõ ràng.
Tất nhiên, chúng a cần phải được lý trí hướng dẫn, nhưng chúng ta cũng phải biết lắng nghe trí tưởng tượng và biết lắng nghe tiếng nói từ con tim của mình. Có nhiều khía cạnh trong cuộc sống mà chúng ta không thể hoàn toàn giải quyết hay hiểu bằng lý trí. Khoa học chưa phải là tất cả. Như một nhà tư tưởng đã nói: Những gì khoa học biết thì rất ít, nhưng chưa biết thì rất nhiều.
Quan niệm của Tôma sẽ dẫn chúng ta đến với một cuộc sống duy vật thuần tuý (hoàn toàn dựa vào vật chất). Nhưng một trong những thành phần quan trọng nhất của cuộc sống chúng ta cũng chưa thể nhìn thấy hay chạm được. Có những điều vượt quá mà giác quan ta không thể cảm nhận được nhưng chúng lại hiện hữu thật sự. Thế giới mà chúng ta có thể nhìn thấy được chỉ là một phần của thế giới bao la với vô số những gì có thật mà ta không thấy nhưng nó mang một ý nghĩa quan trọng. Như thái tử Little đã nói: "Cái chính yếu là cái ta không nhìn thấy được."
Thấy và nghe có thể là một chướng ngại ngăn cản những suy nghĩ, cảm giác và trí tưởng tượng của chúng ta. Cái chúng ta thấy chỉ góp một phần nhỏ bé cho sự cảm nhận sâu sắc bên trong. Người ta chỉ thích cái nhìn thực tế, nhưng theo Van Gogh: muốn đặt niềm tin vào điều gì thì cái nhìn chỉ đóng vai trò nho nhỏ. Khi một người biết một cái gì và thật sự biết sâu sắc về nó trong tận cõi lòng, thì anh ta không cần phải lý luận hay chứng minh về nó. Anh ta chỉ biết nó, như thế là đủ. Chúng ta không đủ khả năng để nhận thức sự quan trọng của một điều gì nếu như chúng ta không hiểu chúng tường tận. Nhưng chúng ta còn cần phải biết bằng nhiều cách khác.
Tuy nhiên, chúng ta có thể thông cảm với Tôma. Ông ta chỉ là một tiếng vang trong nhân loại đang chạy tìm những gì thực tế. Vì ở trần gian, chúng ta không thể biết về Thiên Chúa và thế giới linh thiêng một cách tuyệt đối. Chúng ta hãy bằng lòng vì: thấy là sự phản chiếu mơ hồ từ một tấm gương soi. Chúng ta không được nhìn từ cánh cửa được mở sẵn nhưng nhìn xuyên qua từ những khe hở. Khe hở này đủ lớn để để ánh sáng có thể đi qua, nhưng nếu nó quá lớn sẽ làm mất đi sự thán phục và vẽ huyền nhiệm. Ánh sáng quá nhiều hay quá ít đều làm cho chúng ta bị mù. Cần có đủ ánh sáng để chúng ta có thể nhìn những gì mình muốn, cũng cần đủ bóng tối để con người có thể quay trở lại.
Chủ nghĩa duy lý xem Thiên Chúa và Tôn giáo như những gì có thể hiểu và lý giải được. Còn đức tin đến với Thiên Chúa như là mầu nhiệm không thể hiểu và lý giải được nhưng chỉ bằng cảm nghiệm. Đức tin sẽ mang chúng ta đến những nơi mà cảm giác không thể đến. Vì vậy mà Pascal đã nói: "Đức tin không đến từ lý trí nhưng đến từ con tim."
Lạy Chúa! Xin ban thêm lòng tin cho chúng con, để chúng con nhạy cảm nhận ra Chúa trong mọi nơi, mọi lúc, nhất là nhận ra Chúa nơi từng người mà chúng con gặp gỡ. -----------------------------------
Bối cảnh. Tường thuật này đến sau việc viếng mồ và việc Chúa hiện ra cho bà Maria Macdala, PS 2-ABC339
Bối cảnh. Tường thuật này đến sau việc viếng mồ và việc Chúa hiện ra cho bà Maria Macdala, việc Tôma tuyên xưng đức tin mạnh nhất trong Tin Mừng, đưa chúng ta trở về lời tựa của thánh Gioan, tuyên bố thần tính của Chúa Giêsu.
Một việc nhìn nhận.
Hôm đó, người ta đang nghĩ đến một việc gì khác. Bỗng chốc có ai đó xuất hiện, “một người quen biết” mà người ta tuyệt đối không thể nhận ra được; sau một lúc do dự, nghi ngờ, người ta đã phá vỡ được khối băng: “Càng nhìn bạn, bạn càng làm tôi nhớ đến ai đó mà tôi đã gặp, tôi đã trông thấy bạn ở đâu đó rồi… Tôi quen biết bạn nhưng không thể nào nhớ ra tên bạn…”. Dần dần, trong ý thức hiện ra kỷ niệm này, hoàn cảnh kia… Rồi bỗng chốc niềm xác tín “tôi nhận ra bạn rồi… tôi đã gặp bạn tại…”. Ai lại đã chẳng có một kinh nghiệm như thế, gần giống với kinh nghiệm hoàn toàn độc nhất vô nhị của các Tông đồ.
Kinh nghiệm của các Tông đồ.
1. Chúa Giêsu có sáng kiến.
Chúa Giêsu không đến gặp môn đệ vì các ông đã có hẹn với Ngài. Các ông chẳng còn chờ đợi gì nơi Đấng đã chịu đóng đinh thập giá nữa. Không một người Do Thái nào, dù say mê gắn bó với Chúa Giêsu, đã nhận ra Ngài là Đấng Mêsia. Và giờ này đây, “Ngài đến và đứng ở giữa họ”. Chính Ngài đã có sáng kiến đến gặp gỡ họ.
Chúng ta có thể nào được kinh nghiệm này của các Tông đồ không? Có và không. Kinh nghiệm của các ngài về những lần Chúa hiện ra quả là độc nhất vô song và kinh nghiệm đó chính là nền tảng cho đức tin của chúng ta. Vả lại, cũng như các ngài, chúng ta gặp Chúa Kitô trong đức tin: chúng ta cảm thấy mối liên lạc sống động với Chúa như với một người bạn, sự hiện diện của Ngài vừa bao quát vừa làm chúng ta phấn khởi. Ngài đã hứa với chúng ta rằng: “Ai yêu mến Thầy… thì Cha Thầy và Thầy, chúng ta sẽ đến lưu lại nơi người ấy”.
2. Họ nhận ra Ngài.
Nhờ lời chào của Ngài “Bình an cho các con!” và việc Ngài cho xem tay và cạnh sườn của Ngài, các môn đệ nhận ra Đấng đã chịu đóng đinh thập giá ngày thứ sáu tuần thánh. Tôma nghi ngờ trước khi có được một đức tin đầy xúc động và hăng say.
3. Họ được sai đi thi hành sứ vụ.
Chúa Giêsu không hiện ra để cho người ta chiêm ngắm Ngài, nhưng để sai họ đi tiếp tay với Ngài mà loan báo Tin Mừng: “Cũng như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.
Kinh nghiệm của chúng ta.
1. Cũng như Đấng Phục Sinh đã có sáng kiến hiện ra với các tông đồ, cũng vậy, chính Ngài đến gặp gỡ chúng ta, Ngài đến bất ngờ trong cuộc sống chúng ta. Đức tin là một hồng ân của Thiên Chúa, Đấng chiến thắng những mối nghi ngờ của chúng ta.
2. Ngài cho ta nhận ra được Ngài nhờ sự bằng an của Ngài, nhờ lời Ngài nói trong nội tâm ta. Ngài nói: “Chính Thầy đây”. Tôi gặp gỡ Ngài trong Lời của Ngài đang hiện tại hóa việc rao giảng của Ngài khi xưa và trong Thánh Thể, hiện tại hóa hy tế của Ngài.
3. Một khi chính bản thân tôi đã gặp Ngài, tôi có thể mang Lời Ngài đến cho anh em tôi, tôi có thể phục vụ thế giới bằng hành động.
Câu hỏi.
Tôi có chỉ bằng lòng đọc Tin Mừng, chia sẻ, lắng nghe Tin Mừng, cử hành Thánh lễ mà không làm gì hơn nữa chăng? Nếu đúng vậy, thì đó là tránh né: khi tôi không thao thức làm cho Chúa Giêsu hiện diện trên thế giới thì tôi đã không chu toàn sứ vụ mà tôi đã được trao phó.
Lời Chúa và Thánh Thể.
Như thánh Tôma, chúng ta hết thảy đều ước mong kiểm chứng cách khả giác sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô Phục Sinh trong Thánh Thể. Câu trả lời của Chúa Giêsu vẫn luôn luôn có giá trị: “Phúc thay những kẻ không thấy mà tin”.
Trên những chuyến xe khách, xe buýt, các bến xe… người ta thường thấy những hàng chữ “chúc PS 2-ABC340
Trên những chuyến xe khách, xe buýt, các bến xe… người ta thường thấy những hàng chữ “chúc quý khách thượng lộ bình an”. Người tài xế Công giáo treo hình Đức Mẹ trên xe có kèm theo hàng chữ “Nữ Vương ban sự bình an”. Người tài xế Phật giáo treo hình Đức Phật, dù có hay không có hàng chữ nào, trong lòng họ vẫn cầu mong Đức Phật ban bình an.
Theo Hán tự, chữ “bình” có nghĩa là bằng phẳng, đều hòa, hòa hợp, thoải mái. Chữ “an”, theo cách viết là “người nữ ở trong nhà”, có nghĩa là được bảo vệ, an toàn. Như vậy, bình an nói lên trạng thái tâm hồn, trạng thái nội tâm thư thái, an hòa, vui tươi, bình thản, vững chắc. Do đó, bình an khác với hòa bình. Hòa bình nói lên trạng thái bên ngoài: không còn cạnh tranh, không còn chinh chiến, xô xát, súng đạn, gươm đao. Cho nên có khi có hòa bình nhưng không có bình an. Nhân loại thì khao khát hòa bình, còn mỗi con người thì khao khát bình an.
Chúa Giêsu sống lại từ ngày thứ nhất trong tuần đã hiện ra với các môn đệ và ban bình an cho các ông. Lời đầu tiên của Chúa Phục Sinh là: “ Bình an cho anh em” (Ga 20,19-21). Bình an là hồng ân của Chúa Phục Sinh ban cho các môn đệ (Ga 20,26; Lc 24,36).
Các sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến đều thấy các môn đệ hội họp trong nhà, cửa đóng then cài vì sợ người Do thái. Khi Chúa hiện diện, sự sợ hãi của các môn đệ tan biến và các ông có được niềm vui, bình an, can đảm.
“Thầy ban bình an của Thầy cho anh em… anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi” (Ga 14,27).
Có một sự khác biệt cơ bản giữa bình an “thế gian ban tặng” và “bình an Chúa Giêsu ban tặng”.
1. Bình an Chúa Giêsu là bình an trong tâm hồn.
Chúa Giêsu Phục Sinh là niềm vui lớn lao nhất của các Tông Đồ và của các phụ nữ đạo đức. Niềm vui nhân lên gấp bội khi Chúa trao quà tặng Bình an.
- "Bình an cho các con". Khi tâm hồn của các Tông Đồ hoang mang lo lắng buồn vui lẫn lộn về sự việc Chúa chết và sống lại, thì lời chúc lành của Chúa Giêsu rất đúng lúc để củng cố đức tin và đem lại an bình cho tâm hồn của các ông.
- "Bình an cho các con". Sự bình an này không giống bình an của người đời ban tặng. Sự bình an của người đời là tạm bợ và sẽ không tồn tại; bởi vì người đời chỉ dựa vào của cải vật chất để trấn an tâm hồn đầy bất an. Người ta chúc nhau được bình an, nhưng không ai tìm được bình an trong cuộc sống. Người giàu có thì cảm thấy bất an khi đêm về vì sợ kẻ trộm. Người có địa vị thì sợ kẻ khác chiếm đoạt, lật đổ. Người mạnh khoẻ thì sợ đau ốm... Tất cả đều ở trong trạng thái mất bình an.
Có câu chuyện kể rằng: trong triều của một vị vua nọ có hai họa sĩ rất tài ba nhưng luôn ganh ghét đố kỵ nhau. Một hôm nhà vua phán: “Ta muốn phán quyết một lần dứt khoát ai trong hai ngươi là người giỏi nhất. Vậy hai ngươi hãy vẽ mỗi người một bức tranh theo cùng một đề tài, đó là bình an”.
Hai họa sĩ đồng ý. Một tuần sau họ trở lại, mỗi người mang theo bức vẽ của mình. Bức họa của người thứ nhất vẽ một khung cảnh thơ mộng: những ngọn đồi nhấp nhô bao quanh một cái hồ rộng với mặt nước phẳng lì không một gợn sóng. Toàn cảnh gợi lên một cảm giác thanh thản, thoải mái. Sau khi xem xong, nhà vua nói: “Bức họa này rất đẹp, nhưng trẫm chưa hài lòng.”. Bức họa của người thứ hai vẽ một thác nước. Hình ảnh rất sinh động đến nỗi nhìn nó người ta như nghe được tiếng nước đổ ầm ầm xuống vực thẳm. Nhà vua nói: “Đây đâu phải là một cảnh bình an”. Họa sĩ thứ hai bình tĩnh đáp: “Xin bệ hạ nhìn kỹ hơn một chút nữa xem”. Nhà vua nhìn kỹ và khám phá một chi tiết mà ông chưa chú ý: Trong một nhành cây nép mình sau dòng thác lũ, có một tổ chim. Trong tổ, chim mẹ đang ấp trứng, đôi mắt nửa nhắm nửa mở. Chim mẹ đang bình thản chờ các con mình nở ra. Nhà vua nói: “Ta rất thích bức tranh này. Nó đã chuyển tải được một ý tưởng độc đáo về bình an, đó là vẫn có thể sống bình an ngay giữa những xáo trộn của cuộc đời”. Và nhà vua đã trao giải nhất cho tác giả bức hoạ này.
Bình an không giống như yên ổn. Yên ổn là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong.
Bình an là tình trạng của một tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Thành tố quan trọng của bình an là sự công chính. Bởi thế, không có bình an cho kẻ dữ.
Bình an là kết quả của lòng trông cậy vào Chúa và khi ước muốn làm đẹp lòng Chúa là điều quan trọng bậc nhất trong đời. Đây là điều mà ta có thể có ngay giữa những xáo trộn, xung đột và những vấn đề rắc rối chưa giải quyết được.
Chỉ có Bình An của Chúa mới làm cho chúng ta được hạnh phúc. Bởi vì bình an là thông hiệp với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đang hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa nên Ngài vẫn có thể nói về bình an ngay cả khi kẻ thù của Ngài đã đến gần và sắp giết chết Ngài.
- "Bình an cho các con". Thế giới như đang sống trên một lò lửa. Chiến tranh, khủng bố, thiên tai, động đất… Thế gian chưa có bình an. Cho nên sự Bình An của Chúa Giêsu vẫn luôn có giá trị đích thực cho nhân loại, cho những tâm hồn khắc khoải tìm kiếm bình an trong cuộc sống.
2. Hoa quả của Bình An.
Có nhân thì có quả. Có tranh chấp thì sinh ra hận thù. Có ghét ghen thì sinh ra mưu mô thủ đoạn. Đó chính là chuyện nhân quả mà hằng ngày chúng ta đều thấy và biết. Việc lành cũng như việc xấu, mọi thứ đều có nhân quả của nó.
Hoa quả của Bình An là: yêu thương, tha thứ, bao dung, quảng đại, khiêm tốn, nhẫn nại, nhịn nhục...
Tâm hồn có sự bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh; chúng ta biết thông cảm với người làm ta bực mình; dễ dàng cảm thông với những người không yêu mến; sẽ khiêm tốn hơn trong lời nói trong cử chỉ thái độ của mình...
Hoa quả của bình an chính là tình yêu của Chúa Kitô thúc bách chúng ta làm việc thiện, thúc bách chúng ta vì anh em mà phục vụ như Chúa Kitô đã phục vụ, như các thánh Tông Đồ đã phục vụ Giáo Hội.
Hoa qủa bình an thể hiện bằng tiếng cười, niềm vui, hạnh phúc trong gia đình, an hoà thư thái trong tâm hồn.
Hoa quả bình an cũng chính là sự thật. Ta cảm thấy bình an khi mình sống ngay thẳng, sống theo sự thật.
Con người ta ai cũng muốn có bình an trong tâm hồn, nên luôn cầu chúc cho nhau được bình an. Nhưng sẽ không có bình an thật, nếu tâm hồn không có tinh thần Phục Sinh của Chúa Kitô, tinh thần đổi mới con người cũ trở nên con người mới sống theo hướng dẫn của Thánh Thần.
Tâm hồn tràn ngập bình an là tâm hồn đạo đức. Đó là người hạnh phúc. Tâm hồn bình an khi hòa giải với Chúa, tin yêu Chúa. Tâm hồn bình an khi hòa giải với chình mình. Tâm hồn bình an khi hòa giải với mọi người sống chung quanh. Tâm hồn bình an khi không chất chưa tham vọng, không chất chứa oán hờn ganh ghét bất hòa. Tâm hồn bình an khi tâm hồn không bị xáo trộn bởi đam mê bất chính. Tâm hồn bình an khi là con người tự do đích thực và tôn trọng người khác. Đó là bình an Chúa Kitô để lại cho chúng ta.
Con người ta ai cũng cần sự bình an, có khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa. Chúa luôn muốn ban bình an cho chúng ta. Giáo hội cũng mong muốn như vậy. Cho nên mỗi khi tham dự thánh lễ, linh mục thay mặt Chúa và Giáo hội cầu chúc: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em”, rồi linh mục nói với chúng ta: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Có bình an của Chúa ở nơi mình, chúng ta mới có bình an để chia sẻ cho nhau.
Bình an là một hồng ân Chúa ban và cũng là một trách nhiệm. Không phải chúng ta chỉ cầu khẩn và tìm kiếm bình an cho mình mà còn phải là “khí cụ bình an của Chúa”, góp phần tạo nên bình an cho mọi người và cho toàn xã hội.
Ước gì cuộc đời của tôi của bạn, trong mọi nơi mọi lúc, nhất là lúc xao xuyến, âu lo, sợ hãi, thử thách, luôn nghe được lời chúc bình an của Chúa Phục Sinh: Bình an cho anh em.
Sau khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, Ngài đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ, với những người PS 2-ABC341
Sau khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, Ngài đã hiện ra nhiều lần với các môn đệ, với những người phụ nữ để minh chứng Ngài đã sống lại thật. Bởi vì, các môn đệ và nhiều người khác đã hụt hẵng, hoang mang, buồn sầu vì Thầy Giêsu đã chết. Họ nghĩ trong lòng như thế là chấm hết. Họ không còn một hy vọng nào cả. Bởi vì, họ cứ lầm tưởng Thầy Giêsu sẽ lập lại Vương Quốc Israen và sẽ làm cho toàn dân hạnh phúc…Giờ này thì chẳng còn gì nữa…
Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay thuật lại cuộc gặp gỡ thật thân tình giữa Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài vào buổi chiều ngày Phục Sinh, và sau tám ngày Ngài sống lại. Giữa lúc các môn đệ đang buồn bã tột bậc, đang hoang mang cùng tột thì Chúa Phục Sinh hiện ra với các Ông. Ngài đem sự bình an cho các môn đệ. Sự bình an có nghĩa là sự hiện diện của Chúa sống lại với các môn đệ. Chúa hiểu thấu lòng dạ các môn đệ. Do đó, từ cõi chết sống lại, Chúa Phục Sinh đã cho Maria Mađalêna được gặp gỡ Ngài. Tiếng gọi thân thương Maria đã nói lên tình thương sâu thẳm cho dành cho những người Chúa yêu. Maria Mađalêna đã thưa “ Rabbouni “ nghĩa là “ Thưa Thầy “. Chúa đã cho thấy Ngài đã sống lại thật. Rồi Ngài sai bà về báo cho các môn đệ là bà đã gặp Chúa sống lại. Rồi nhiều lần Chúa lại hiện ra với các môn đệ để củng cố đức tin của các Ông, để giúp các Ông nhận ra sự có mặt thật của Chúa Phục Sinh. Chúa sống lại đã không bỏ rơi các môn đệ khi các Ông đang hoảng loạn, tuyệt vọng, không biết phải làm gì! Chúa hiện diện thì dù có cứng lòng như Tôma mà Tin Mừng thuật lại, Ông cũng không dám xỏ ngón tay vào lỗ đinh, không dám đặt bàn tay vào cạnh sườn Chúa như Ông đã từng tuyên bố ( Ga 20, 25 ).
Chúa có mặt giữa các môn đệ đã chứng minh Ngài đã sống thật sự. Sự bình an mà Chúa Giêsu ban cho các môn đệ giữa lúc họ đang hụt hẵng, đang thất vọng ê chề là niềm vui, động lực mạnh mẽ giúp họ qua khỏi cơn tuyệt vọng vì sự bình an chính là Chúa Giêsu Phục Sinh đang có mặt với họ. Chính Chúa sống lại đã làm cho họ từ cõi chết qua cõi sống. Tôma hôm nay khi Chúa hiện ra cũng có mặt, trước đó Tôma đã quả quyết “Nếu Ông không thò tay vào lỗ đinh tay chân Chúa, nếu bàn tay của Ông không để vào cạnh sườn Chúa, thì Ông không tin “ (Ga 20, 25 ). Nhưng trước Đấng Phục Sinh, Tôma không cần phải sờ đụng vào thân xác của Chúa Phục Sinh, Ông đã tin… Tôma đã vượt qua sự cứng cỏi, khó chịu, cô lập của mình để bước vào thế giới của lòng tin. Tôma thực sự đã ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của mình, ra khỏi sự kém cỏi của lòng mình để nhìn ra Chúa và tin vào Chúa. Bởi vì, Ông đã muốn được kiểm chứng về những điều mà các bạn đồng nghiệp của Ông và những người phụ nữ đã nói về Chúa Giêsu Phục Sinh. Nhưng khi gặp chính Đấng Phục Sinh lòng tin đã khuất phục Ông liền.
Đấng Phục Sinh là chính Thiên Chúa giầu lòng thương xót. Đấng đã cứu chữa biết bao người tội lỗi ăn năn trở về. Đấng đã làm cho Lêvi, Giakêu, Maria Mađalêna, Phêrô ăn năn sám hối…Đấng đã làm cho người đàn bà bên bờ thành giếng Giacóp nhận ra Đấng đang nói với mình là ai. Đấng giầu lòng thương xót luôn muốn con người đến với Ngài để người yêu thương, tha thứ và chúc lành như đã tha thứ cho người trộm lành, và Phaolô vì Phaolô đã biết quay trở về với Ngài… Chúa Phục Sinh đã ban cho các môn đệ niềm vui vỡ òa vì được nhìn thấy Ngài hiện diện. Ngày nay, chúng ta không được hạnh phúc như các tông đồ, các môn đệ và như các người phụ nữ đạo đức, thánh thiện khi xưa vì được gặp gỡ chính Chúa Giêsu Phục Sinh, nhưng Chúa vẫn hứa ở với chúng ta mọi ngày cho tới tận thế. Chúng ta sẽ được nhìn thấy Chúa khi chúng ta có đức tin sâu xa bởi Chúa đã nói:” Phúc cho những ai không thấy mà tin “ ( Ga 20, 29 ).
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa dạy chúng con phải có lòng thương xót như Cha trên trời, và ai thấy Chúa là thấy Chúa Cha.Xin tỏ cho chúng con thấy dung nhan của Chúa và chúng con sẽ được cứu độ ( ĐGH Phanxicô ).
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tôma phản ứng thế nào khi thấy Chúa Phục Sinh ? 2.” Phúc cho những ai không thấy mà tin “ có nghĩa gì ? 3.Tại sao Tôma lại ra khỏi được sự cứng cỏi của mình ? 4.Tại sao Chúa lại cho Maria Mađalêna gặp gỡ Ngài khi Ngài từ cõi chết sống lại ?
Khi Đức Ki-tô phục sinh ra khỏi mồ, Người không còn bị giới hạn trong không gian và thời gian PS 2-ABC342
Khi Đức Ki-tô phục sinh ra khỏi mồ, Người không còn bị giới hạn trong không gian và thời gian. Vì thế, Người có mặt trên mọi nẻo đường ở khắp mọi nơi trong cuộc sống trần thế. Đọc Tin Mừng Phục Sinh sẽ thấy rõ Người có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau: Ngườì xuất hiện trong vườn, gần mồ chôn Người; Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi các môn đệ đang chài lưới; Người xuất hiện ở làng Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem một quãng đường dài; Người xuất hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ họp. Sau này, Người còn xuất hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syria, nơi Phao-lô lùng bắt người theo đạo. Thời gian không làm chậm bước chân Người. Không gian khép kín không ngăn được bước chân Người.
Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra với các Tông đồ. Trước đó, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Ma-ri-a Mac-đa-la và một bà khác cũng tên là Maria, đi viếng mộ, thấy mộ trống thì hoảng sợ, nhưng được thiên thần hiện ra báo cho biết Đức Giê-su đã sống lại (Ga 20, 11-18). Các bà vội vàng về báo cho các môn đệ khác, thì mọi người vẫn không tin. Chỉ đến khi Chúa hiện ra với các ông vào chiều ngày thứ nhất trong tuần (Ga 20, 19-25), các ông mới chịu tin. Riêng với Tô-ma thì vì không có mặt hôm ấy, nên khi các môn đệ kể lại cho ông biết Chúa đã phục sinh và hiện ra với họ, Tô-ma cũng không tin và đòi phải được xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn Thầy, thì ông mới tin. Mãi tới “Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em." Rồi Người bảo ông Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." Tới lúc đó, Tô-ma mới thực sự tin và kêu lên: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" (Ga 20, 26-28).
Tâm lý chung của con người chuyện gì cũng đòi phải được “thực mục sở thị” (chứng kiến tận mắt) hoặc phải có chứng cớ xác thực, mới chịu tin. Không những thế, mà nhiều khi được thực mục sở thị, cũng vẫn còn có kẻ “không tin vào mắt mình”, mà lại đi tin vào những truyền thuyết hoang đường, những ma mị quỷ quái. Các Tông đồ (kể cả Tô-ma) cũng không ngoại lệ, các ông mới chỉ “nghe” thì chưa tin mà còn phải được “thấy”, được “đụng vào” vật chứng mới tin. Và cũng chính cái tâm lý chỉ tin khi được “thực mục sở thị” đã đẻ ra tâm trạng hoài nghi. Thật thế, chỉ vì được trông thấy nhãn tiền Thầy mình đã chết khổ nhục trên thập giá, đã được chính tay mình liệm xác Thầy và táng trong hang đá, thì làm sao tin được Thầy mình đã sống lại? Và vì thế nên khi thấy Thầy hiện ra thì “Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma” (Lc 24, 37). Ấy là chưa kể lúc Thầy còn sống và ở liền bên không rời một bước, vậy mà khi trông thấy nhãn tiền Thầy đi trên mặt biển đã vội hô hoán lên là “ma đấy!” (Mt 14, 26).
Nói về niềm tin của con người thì rất đa dạng: Có những người dễ tin thì cũng có những người khó tin, có những người tin một cách sáng suốt thì cũng không ít những kẻ tin một cách mù quáng, có những người trông thấy nhãn tiền mà vẫn “không tin vào mắt mình” thì cũng có những kẻ chẳng cần biết ất giáp gì cũng cứ “nhắm mắt mà tin”. Dễ tin thì cũng dễ mất lòng tin (dễ tin trong trường hợp này thì cũng dễ tin trong trường hợp khác, thậm chí có những lúc các trường hợp đó trái ngược nhau cũng vẫn OK tuốt luốt, nên lúc gặp thử thách rất dễ bị chao đảo, đánh mất niềm tin). Ấy là chưa nói đến những trường hợp tin theo thói quen, theo truyền thống, tin hùa theo đám đông (a dua, a tòng), tin theo mê tín dị đoan. Những kẻ khó tin thì thường đòi hỏi đầy đủ chứng cớ mới tin và khi có đầy đủ chứng cớ rồi thì niềm tin trở nên kiên định (kiểu như Tông đồ Tô-ma thủa xưa). Tuy nhiên cũng không thiếu những kẻ khó tin, mà vì quá cực đoan nên rất dễ sa vào chủ thuyết hoài nghi (chẳng tin vào bất cứ chuyện gì cho dù đó có là sự thực hiển nhiên). Chính vì thế, Đức Tin là một yếu tố quan trọng hàng đầu đối với mọi tôn giáo. Riêng đối với Ki-tô Giáo thì đức tin là cơ sở vững chắc tuỵêt đối để đạt được cứu cánh Nước Trời.
Tâm lý con người kể cũng lạ, cứ đòi “thấy” nhãn tiền mới tin, nhưng nhiều khi được “thấy” tận mắt cũng vẫn bán tín bán nghi. Vì thế Đức Ki-tô mới day: "Phúc thay những người không thấy mà tin!" (Ga 20, 29). Quả thực “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy” (Dt 11, 1). Tuy nhiên, nếu chỉ tin trên môi miệng mà trong lòng thì trống rỗng, cũng chưa thể kể được là tin, mà phải là “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ. Quả thế, có tin thật trong lòng mới được nên công chính; có xưng ra ngoài miệng mới được ơn cứu độ.” (Rm 10, 9-10). Thánh Gia-cô-bê Tông đồ còn xác quyết mạnh hơn: “Nhờ hành động mà con người được nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi… Một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết.” (Gc 2, 24.26). Vì thế, hai khía cạnh đó (tin thật trong lòng + tuyên xưng ngoài miệng) phải được xem là “tuy hai mà một”, bởi “lòng có đầy miệng mới nói ra” (Mt 12, 35). Thật vậy, lòng còn hoài nghi mà miệng leo lẻo nói tin tưởng, hoặc giả trong lòng tuy có tin, nhưng bề ngoài thì sợ nọ sợ kia, sợ bóng sợ vía, cứ “câm miệng hến”, thì cũng kể như không.
Trong Tông thư tự sắc Năm Đức Tin “Porta Fidei” (số 15), ĐTC Bê-nê-đic-tô XVI đã dạy: “Đức Tin là bạn đồng hành trong cuộc sống giúp nhận thức với một cái nhìn luôn mới mẻ về những kỳ công mà Thiên Chúa thực hiện nơi chúng ta. Ðức tin nhằm đón nhận những dấu chỉ thời đại trong hiện tại của lịch sử, và thúc đẩy mỗi người chúng ta trở thành dấu chỉ sinh động về sự hiện diện của Ðấng Phục Sinh trong thế giới. Ðiều mà thế giới ngày nay đặc biệt cần đến, đó là chứng tá đáng tin cậy của những người được Lời Chúa soi sáng trong tâm trí, có khả năng mở tâm trí của bao nhiêu người mong ước Thiên Chúa và sự sống chân thực, sự sống không tàn lụi.” Như vậy vấn đề đặt ra cho người Ki-tô hữu ngày hôm nay là phải biết xoay cái nhìn ra khỏi cái tôi thành kiến bảo thủ, mà đổi mới cách nhìn vào những công trình kỳ diệu Thiên Chúa tạo dựng trong vũ trụ và nhất là nơi mỗi cá thể con người, để từ đó nhận chân được “những dấu chỉ thời đại trong hiện tại của lịch sử”, sẵn sàng làm chứng nhân cho Tin Mừng Cứu Độ (“trở thành dấu chỉ sinh động về sự hiện diện của Ðấng Phục Sinh trong thế giới” – Tông thư “Porta Fidei”, số 15).
Đức Thánh Cha Phan-xi-cô cũng lưu ý về nền tảng Đức Tin trong phong trào Đại Kết: “Chúng ta là những người được thừa hưởng đức tin, đức mến và đức cậy của bao nhiêu người, với sức mạnh dịu dàng của Tin Mừng, họ đã có can đảm lật ngược hướng đi của lịch sử, thứ lịch sử đã làm cho chúng ta nghi kỵ nhau và trở nên xa lạ đối với nhau và hỗ trợ cái vòng quỉ quái liên tục phân hóa. Nhờ Chúa Thánh Linh, Đấng soi sáng và hướng dẫn phong trào đại kết, hướng đi đã thay đổi và một con đường vừa mới mẻ và cổ kính, đã được vạch ra một cách không thể xóa nhòa: đó là con đường hiệp thông hòa giải, tiến về sự biểu lộ rõ ràng tình huynh đệ đã liên kết các tín hữu Ki-tô ...
... Giáo Hội Công Giáo nhìn nhận tầm quan trọng đặc biệt của công việc mà Ủy ban Đức Tin và hiến chế của Hội đồng Đại Kết thực hiện và muốn tiếp tục góp phần vào công việc này qua sự tham gia của các thần học gia có trình độ cao. Nghiên cứu của Ủy ban Đức tin và Hiến chế để đạt tới một quan niệm chung về Giáo Hội và công việc phân định của Ủy ban về những vấn đề luân lý đạo đức có liên hệ tới những điểm nòng cốt trong thách đố đại kết.” (xc. Diễn văn của ĐTC Phan-xi-cô ngày 21/6/2018 tai Học Viện Đại Kết Bossey ở Genève, Thụy Sĩ).
Tóm lại, mọi Ki-tô hữu “Hãy xây dựng đời mình trên nền tảng đức tin rất thánh của anh em, hãy cầu nguyện nhờ Thánh Thần.” (Gđ 1, 20). Mà muốn cầu nguyện cho có hiệu quả thì không gì bằng chạy đến cùng Mẹ Maria – Người được tuyên xưng là "người có phúc" vì Mẹ “đã tin" (Lc 1, 45), là mẫu gương trung thực tuyệt đối của Đức Tin – để từ đó “nhờ Mẹ, đến với Chúa”. Vâng, chính nhờ Mẹ, với Mẹ và trong Mẹ, mà mọi lời cầu xin khấn nguyện của tín hữu sẽ được chuyển tới Người Con Thiên Chúa và cũng là Con của Mẹ – Đấng Giàu Lòng Thương Xót Phục Sinh vinh hiển – Người sẽ đến với mọi người bằng lời chúc “Bình an cho anh em. Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.” (Ga 20, 21-22). Chỉ đến khi đó, đức tin của người Ki-tô hữu mới thực sự vững mạnh, như xưa các Tông đồ cùng với Mẹ Đức Tin đã cầu nguyện trong ngày Lễ Ngũ Tuần và được Thiên Chúa ban Thần Khí dư đầy.
Ôi! “Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, hằng năm Chúa dùng ngọn lửa phục sinh để khơi lại niềm tin trong lòng dân thánh, cúi xin Chúa tăng ân sủng để chúng con hiểu rằng: Chính Chúa Ki-tô đã thanh tẩy chúng con bằng phép rửa, đã tái sinh chúng con bằng Thánh Thần và cứu chuộc chúng con bằng Máu Thánh. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời. Amen." (Lời nguyện nhập lễ CN II PS-C).
Khởi đi từ năm 1931, lòng thương xót Chúa đã mạc khải cho nữ Thánh Faustina về lòng tôn sùng PS 2-ABC343
Khởi đi từ năm 1931, lòng thương xót Chúa đã mạc khải cho nữ Thánh Faustina về lòng tôn sùng lòng thương xót Chúa; mà Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã quyết định thiết lập lễ kính lòng thương xót Chúa vào Chủ Nhật thứ II sau Phục Sinh khi phong thánh cho nữ tu Maria Faustina Kowalska, ngày 30/4 năm 2000 và phổ biến Thông điệp đó trên toàn cầu.
Suy niệm đoạn Tin Mừng (Ga 20,19-31) Chúa Kitô tỏ cho thánh Tôma thấy cạnh sườn, nơi trào ra nước và máu, suối nguồn ân sủng. Truyền thống Giáo hội đã coi đây như là nguồn gốc của bí tích hòa giải, nơi mà con người cảm nhận được sự tha thứ do lòng thương xót Chúa.
Cử chỉ trao ban bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh cho các môn đệ, biến các ông từ những người đang lo sợ và kinh ngạc, trở nên những tác viên của Lòng Chúa Thương Xót. Chúa đưa đôi tay và cạnh sườn còn in những dấu tích của cuộc thương khó và nói với các ông: " Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại" (Ga 20, 21- 23). Chúa Giêsu trao phó cho các ông hồng ân "tha thứ các tội lỗi" diễn tả lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa đối với nhân loại, hồng ân này phát sinh từ những vết thương của đôi tay, đôi chân và nhất là của cạnh sườn Chúa bị đâm thâu qua. Đó là những vết thương hằn in trên cơ thể của Người lúc còn sống, ngay cả sau khi phục sinh. Những vết thương vinh quang, mà Tôma đã tận mắt chứng kiến tám ngày sau, thật không thể nào hiểu nổi và tin được lòng thương xót của Thiên Chúa. Từ đó, một làn sóng tình thương nhân từ đổ xuống trên toàn thế giới.
Chúa Kitô Phục Sinh đã ban tặng cho nhân loại hồng ân tha thứ, những con người lầm lạc đang bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, của ích kỷ và sợ hãi, tình yêu của Thiên Chúa tha thứ tất cả, hòa giải tất cả và tái tạo tâm hồn, mang lại cho chúng nhân niềm hy vọng. Đó là tình yêu có sức biến đổi con tim và ban tặng bình an. Thế giới ngày nay đầy những thương tích về thể lý, tâm lý và luân lý cần thiết biết bao lòng thương xót của Thiên Chúa!
Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa, Giáo hội lặp lại câu Thánh Vịnh mà suốt cả tuần Bát Nhật Phục Sinh toàn thế giới ca vang: "Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thủa" (Tv 117, 1). Lòng từ bi mạnh hơn tội lỗi và sự chết, ngày nay, nhân loại vẫn đang tiếp tục thừa hưởng lòng từ bi tuôn trào từ những vết thương vinh hiển và từ Trái Tim của Chúa, nguồn mạch không bao giờ cạn.
Trái Tim của Chúa Kitô đã trao ban tất cả cho con người: sự cứu chuộc, ơn cứu rỗi và ơn thánh hóa. Từ Trái Tim Chúa xuất phát ra hai tia sáng chiếu tỏa thế gian mà theo lời Chúa giải thích cho thánh nữ, "hai tia sáng này tượng trưng cho máu và nước". Máu nhắc lại hy tế trên đồi Golgotha và mầu nhiệm Thánh Thể; còn nước, theo hình ảnh phong phú của thánh sử Gioan, làm cho ta nghĩ đến bí tích Rửa Tội và hồng ân Chúa Thánh Thần (x. Ga 3, 5; 4, 14).
Lời kinh chúng ta vẫn đọc: "Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa", diễn tả đúng thái độ mà chúng ta muốn có, để chúng ta đặt niềm tin tưởng, phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, Ðấng cứu độ duy nhất của chúng ta! Những tia sáng của lòng từ bi Chúa mang lại niềm hy vọng cho những ai cảm thấy mình bị đè bẹp dưới gánh nặng của tội lỗi. Chúa Giêsu Kitô là Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa nhập thể. Vậy, chúng ta hãy luôn tin tưởng nơi lòng thương xót của Chúa, là Ðấng luôn chờ đợi và yêu thương chúng ta, đừng bao giờ đánh mất sự tin tưởng nơi lòng thương xót nhẫn nại của Thiên Chúa, là Ðấng luôn luôn yêu thương, dịu hiền, chờ đợi và tha thứ cho chúng ta. Cả khi chúng ta xa rời, Thiên Chúa vẫn luôn gần gũi và sẵn sàng giang tay ra ôm ấp chúng ta vào lòng, nếu chúng ta trở về với Chúa.
Giờ kinh Truyền Tin ngày 11-01-2015, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Ngày nay chúng ta rất cần đến lòng thương xót, Điều quan trọng là các tín hữu sống lòng thương xót ấy và đem vào các môi trường xã hội khác nhau”. Đức Thánh Cha Phanxicô xác tín rằng, cốt lõi của Phúc Âm là tình thương, (x. Huấn từ 28-3-2014). Vì thế, theo nguyên tắc, tất cả mọi cơ cấu, nguyên tắc, luật lệ và tổ chức của Giáo Hội đều phải làm sao để hướng về và đạt đến đích điểm là tình thương (x. Niềm vui Phúc Âm,26-43). Bởi vậy, trong thực hành, Giáo Hội cần phải là một bệnh viện lưu động để chữa lành, chứ không phải chỉ mở cửa đón nhận tội nhân và nạn nhân trở về mà thôi (x. trả lời Phỏng Vấn 04-12-2014). Ngài muốn Giáo Hội phải đi đến tận rìa mép của xã hội để tìm kiếm các con chiên lạc đáng thương, thậm chí Giáo Hội phải ăn uống với thành phần đàng điếm và thu thuế tội lỗi (Huấn từ bế mạc Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới ngày 18-10-2014).
Lạy Mẹ maria, Mẹ của Lòng Thương Xót, xin giúp chúng con duy trì lòng tin vào Con Mẹ. Lạy thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, thánh nữ Faustina, xin trợ giúp chúng con, để chúng con được cùng với các thánh hướng nhìn về Ðấng Cứu Chuộc, và lặp lại lời nguyện: "Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa", bây giờ và mãi mãi. Amen.
Suy Niệm TIN MỪNG CHÚA NHẬT LÒNG THƯƠNG XÓT (Chúa Nhật 2 Phục Sinh, Năm A)
Trong “Tám Mối Phúc Thật” không có mối “phúc cho ai không thấy mà tin”, nhưng “Phúc cho PS 2-ABC344
Trong “Tám Mối Phúc Thật” không có mối “phúc cho ai không thấy mà tin”, nhưng “Phúc cho ai không thấy mà tin” lại là mối phúc nền tảng của tất cả các mối phúc khác.
Thực vậy, phải được phúc “không thấy mà tin” mới tin được Nước Trời của người có tâm hồn nghèo khó, Đất Hứa dành cho ai ăn ở hiền lành, người sầu khổ sẽ được Thiên Chúa ủi an, khao khát sống đời công chính sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng, có lòng thương xót sẽ được Thiên Chúa xót thương, có tâm hồn trong sạch sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa, yêu chuộng và xây dựng hoà bình sẽ được Thiên Chúa gọi là con, và những ai bị bách hại, vu khống vì Danh Thiên Chúa sẽ nhận phần thưởng Nước Trời (x. Mt 5,3-12), bởi tất cả những điều vừa kể, những phần thưởng vừa kê đều thuộc đức tin, nằm trong những gì không thấy, không kiểm chứng được bằng khoa học thực nghiệm, mà chỉ duy nhất niềm tin mới có thể lý giải, chứng thực, bảo đảm.
Phải được phúc “không thấy mà tin”, chúng ta mới dám dấn thân tin Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, Đấng Cứu Độ duy nhất, vì không như các tông đồ, chúng ta đã không thấy Ngài, không nghe Ngài nói, không sống với Ngài bằng xương bằng thịt. Nhưng dù không thấy, không nghe, không ở cùng, sống với, chúng ta vẫn yêu mến Ngài, nhờ hồng phúc “không thấy mà tin”.
Phải được phúc “không thấy mà tin”, chúng ta mới tin Đức Giêsu đã chết và đã sống lại với quyền năng của Thiên Chúa, để chúng ta được sống lại và sống mãi với Ngài trong vinh quang của Thiên Chúa.
Và trên tất cả, phải có phúc “không thấy mà tin”, chúng ta mới tin Thiên Chúa là Thiên Chúa của lòng thương xót, công trình cứu chuộc của Ngài đến từ lòng thương xót của Ngài đối với nhân loại, và những ai có lòng thương xót dù chịu nhiều vất vả, thiệt thòi, bất công, khổ nhục vì thương xót sẽ không bao giờ mất ơn Bình An của Đức Giêsu phục sinh, Đấng giầu lòng thương xót đã chết vì xót thương.
Điều này được Tin Mừng Gioan khẳng định qua trình thuật Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ (Ga 20,19-29).
Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra với các môn đệ khi các ông sợ người Do Thái truy lùng, bắt bớ, nên tất cả cửa nẻo nơi các ông ở đều đóng kín, khóa chặt (x. Ga 20,19). Các ông đang rất sợ: sợ mọi người, sợ bất cứ chuyện gì, vì các ông vừa qua một cơn giông bão dữ dội, khủng khiếp, ở đó toàn bộ giáo lý của lòng thương xót đã bị xóa bỏ, toàn bộ công cuộc của lòng thương xót đã bị phá hủy, tiêu tan, và Đức Giêsu, Thầy của các ông, Thiên Chúa của lòng thương xót đã bị giết chết thảm thương, ô nhục. Bao nhiêu cố gắng rao giảng lòng thương xót, bao nhiêu phép lạ làm chứng Thiên Chúa là Đấng xót thương, bao nhiêu con người đã được lòng thương xót chở che, chữa lành, ủi an, nâng đỡ nay không còn gì, không còn một ai. Chính cái trống vắng phũ phàng, phản bội của đám đông hôm nào hoan hô, ủng hộ đã làm các ông sợ ; chính cái tiêu điều trở mặt của nhiều người đã nhận lòng thương xót từ bàn tay Đức Giêsu đã làm các ông ngao ngán tình đời, và muốn tránh xa mọi người; chính cái băng giá dửng dưng, hờ hững, làm mặt không quen, ra điều không biết của những người trước đây đã phủ phê hạnh phúc với lòng thương xót của Đức Giêsu đã khiến các ông rùng mình, không còn muốn giao lưu, gặp gỡ người nào.
Tóm lại, các ông đang sợ, và rất sợ con người, những con người trước đây các ông đã học với Thầy Giêsu để biết cảm thương, chạnh lòng, giúp đỡ; những con người mà Thầy các ông không ngừng nhắc bảo phải thương yêu,tha thứ, và cầu nguyện, dù họ không tốt, không tử tế, không dễ thương, không công chính.
Khi còn ở với Thầy, các môn đệ không thấy lòng thương xót là một mạo hiểm, một thách đố, một đe dọa. Các ông chỉ thấy khi Thầy chết, và khi mặt thật gian ác, đểu cáng, phản bội, hai hàng của nhiều người lộ nguyên hình. Lúc đó các ông mới thấy lòng thương xót là một thử thách đầy nguy hiểm: nguy hiểm vì có thể chết vì xót thương ; nguy hiểm vì bị hiểu lầm, chụp mũ, vu khống vì thương xót; nguy hiểm vì thương xót thường mang đến bất lợi, tai ương, phiền phức cho người hay chạnh lòng xót thương.
Vì thế, cái sợ đang làm các ông run rẩy tái xanh mặt, cái sợ đang làm các ông rùng mình, rởn tóc gáy chính là “sợ thương xót”. Sợ phải thương xót như Thầy dặn dò, truyền dậy, nên các ông tự đóng chặt cửa lòng, như đóng chặt cửa phòng, để không phải thương xót ai, khép kín tâm hồn, khoá kỹ trái tim để không ai lọt vào lòng thương xót.
Hơn ai hết, trong lúc này, lúc mà Thầy bị kết án tử hình, chết đóng đinh, và chôn kín trong mồ; lúc mà không còn dám tin ai, vì chung quanh toàn những khuôn mặt đe dọa, những ánh mắt mang “hình viên đạn” rình rập, dò xét, các môn đệ của Đức Giêsu thấm thía thân phận bèo bọt của người có lòng thương xót, và số phận hẩm hiu của những người có trái tim hay chạnh lòng xót thương, mà điển hình và nổi bật nhất chính là Đức Giêsu, Thầy các ông.
Nhưng hôm nay, trong lúc cửa nhà các ông đóng kín, cửa lòng các ông khép chặt, và tâm hồn các ông tan hoang, chán nản thì Đức Giêsu phục sinh hiện đến giữa các ông với ơn Bình An của Ngài. Kèm theo lời chúc “Bình An cho anh em!” (Ga 20,19), Đức Giêsu trấn an các ông, bằng chỉ cho các ông các vết thương trên thân xác Ngài, như dấu chứng của tình yêu thương xót vô bờ bến.
Khi cho các ông xem các dấu đinh và vết thương sâu hoắm của lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn, Đức Giêsu không khoe khoang thành tích chịu đau khổ, cũng không có ý cường điệu mức độ bi hùng của cuộc khổ nạn Ngài vừa trải qua, nhưng chỉ muốn các ông nhận diện một cách sống động qua thương tích thập giá trên mình Ngài lòng thương xót của Thiên Chúa, để các ông hiểu rằng: không lòng thương xót sẽ không có Thánh Giá, không Thánh Giá sẽ không có ơn cứu độ, và không ơn cứu độ, không con người nào được sống đời đời trong bình an của Thiên Chúa.
Như thế, lòng thương xót là nền tảng của giáo lý đức tin, là động cơ của mọi hoạt động tông đồ, là điều kiện để nhận được ơn Bình An, là đòi hỏi không thể miễn giảm của ơn gọi làm người Kitô hữu, bởi một lý do không cần biện minh, vì hiển nhiên: Thiên Chúa của Đức Giêsu là Thiên Chúa của Lòng Thương Xót.
Thực ra, khi Tôma từ chối lời chứng của các anh em: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!”, và thẳng thừng thách thức: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,25), ông đã không chỉ từ chối tin sự sống lại từ cõi chết của Đức Giêsu, mà sâu thẳm hơn, chính là từ chối tin Đức Giêsu là Thiên Chúa của lòng thương xót, vì những ngày qua, ông đã tận mắt thấy sự sụp đổ bẽ bàng của mọi công trình truyền giáo, cũng như cái chết tang thương của Đức Giêsu, và cho rằng: “kết qủa” cuối cùng là thất bại chua cay của lòng thương xót, sai lầm không thể cứu vãn của lòng thương xót, sụp đổ toàn bộ của lòng thương xót mà Đức Giêsu là người chủ trương, kêu gọi, loan truyền, làm chứng.
Đây cũng là lý do Đức Giêsu đã hiện ra với các môn đệ với thân xác còn nguyên các vết thương của Thánh Giá, như dấu ấn không bao giờ phai mờ của lòng thương xót. Cũng vậy, khi bảo Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy” (Ga 20,27), Đức Giêsu muốn Tôma chạm vào chính lòng thương xót còn rướm máu của Ngài, sờ vào lòng thương xót còn bầm tím của Ngài, và “đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” Thầy là Thiên Chúa của Lòng Thương Xót, tin lòng thương xót của Thầy mãi tồn tại bao la, quyền năng vô biên và trung tín đến cùng.
Vâng, cũng như các môn đệ, đặc biệt Tôma, niềm tin vào một Thiên Chúa của lòng thương xót ở chúng ta không ngừng bị thử thách, bởi tin một Thiên Chúa toàn năng, thông biết mọi sự, chí công vô tư, công bình thưởng phạt dễ hơn tin một Thiên Chúa nhân hậu, từ bi, bao dung, thương xót; tin một Thiên Chúa “dựng nên trời đất muôn vật hữu hình và vô hình” dễ hơn tin một Thiên Chúa làm “Chiên gánh tội, xoá tội trần gian”; tin một Thiên Chúa oai phong lẫm liệt, Chúa các đạo binh dễ hơn tin một Thiên Chúa khiêm hạ qùy xuống rửa chân cho các môn đệ, giao du thân mật với đám dân nghèo không nhà, và phường tội lỗi; tin một Thiên Chúa “phán một lời thì mọi sự liền đã” dễ hơn tin một Thiên Chúa khiêm nhường và hiền lành như con chiên để loài người đưa ra xử án, rồi bắt vác thập tự đến chỗ hành hình đóng đinh; tin một Thiên Chúa “phép tắc vô cùng” dễ hơn tin một Thiên Chúa bao dung, thương xót vô cùng; tin một Thiên Chúa ngự toà vinh quang có triều thần tung hô, thờ lậy dễ hơn tin một Thiên Chúa tự đồng hoá mình với người bé nhỏ nhất giữa những người bé nhỏ thiếu ăn, thiếu mặc, bệnh tật, tù đầy, bị truy nã, tỵ nạn, bị đàn áp bất công; tin một Thiên Chúa tự hữu và “hằng có đời đời” dễ hơn tin một Thiên Chúa tự nguyện đi vào khổ nạn và chịu chết như con người vì thương xót con người ; tin một Thiên Chúa chí thánh chí tôn dễ hơn tin một Thiên Chúa mồ hôi nhễ nhãi giữa trưa nắng bên bờ giếng Giacóp đắm thắm và ân cần lắng nghe tâm sự buồn của người đàn bà tình duyên truân chuyên, dang dở; tin một Thiên Chúa được mọi người chúc tụng, tôn vương trên đường vào thành thánh Giêrusalem dễ hơn tin một Thiên Chúa bị xỉ vả, hành hạ trên đường Thánh Giá của lòng thương xót đi về Gôngôtha; tin một Thiên Chúa biến hình sáng láng và lên trời quang vinh dễ tin hơn một Thiên Chúa trở thành tử thi được tháo xuống khỏi Thánh Giá và an táng trong phần mộ của người khác, và tin một Thiên Chúa đã định nghiã tình yêu đích thực là “yêu cả kẻ thù và cầu nguyện cho người ngược đãi anh em” (Mt 5,44), và chỉ những người yêu như thế mới đáng được gọi là con Thiên Chúa (x. Mt 5,45) thì qủa thực là một điều không dễ chút nào, nếu không nói là một thách đố vượt sức người có hạn.
Và như Tôma phủ phục thưa với Đức Giêsu: “Lậy Chúa của con, lậy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28), sau khi ông hiểu ra: Đức Giêsu chính là Thiên Chúa của lòng thương xót, Thiên Chúa đang mang trên mình thương tích của lòng thương xót mà ông đã được sờ tận tay, thấy tận mắt, chúng ta cùng nài xin Chúa ban cho chúng ta đức tin để dám tin Đức Giêsu là Thiên Chúa của lòng thương xót, dám đón nhận và sống ơn gọi Kitô hữu là “nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48), bằng thương xót như Chúa Cha là Đấng giầu lòng thương xót, bởi tin là tin Thiên Chúa của lòng thương xót, tin Thiên Chúa luôn rộng lượng xót thương, tin Thiên Chúa xót thương ai có lòng thương xót, tin duy nhất Lòng Thương Xót mới ban ơn Bình An, và chúng ta sẽ là những người được Thiên Chúa chúc phúc, vì đã “không thấy mà tin”.
Tin mừng Ga 20: 19-31: Tin Mừng hôm nay thánh Ga cho thấy, sau khi Đức Giê-su bị bắt, bị xử tử và được an táng, thì tình trạng của các môn đệ thật đáng thương: các ông luôn ở trong tình trạng sợ hãi...
CHÚA NHẬT VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
Nếu mà cộng đoàn để ý một tí thì, các linh mục khi mà mở đầu thánh lễ thì các linh mục chào: Chúa PS 2-ABC345
Nếu mà cộng đoàn để ý một tí thì, các linh mục khi mà mở đầu thánh lễ thì các linh mục chào: Chúa ở cùng anh chị em hoặc là cái lời chào nó long trọng hơn một tí nữa là:Nguyện xin ân sủng Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em! Nhưng mà lễ nào Đức Giám Mục chủ Tế thì ngài không chào như các linh mục chào, mà ngài lại chào là: "Bình an của Chúa ở cùng anh chị em."
Cái lời chào “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em” đó chính là lời mà Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ. Sau khi Phục sinh CHÚA Giêsu gặp các môn đệ Chúa Giêsu nói: " Bình an cho các con. "
Với người Do Thái thì họ vẫn dùng cái từ Salon để mà chào nhau. "Salon" nghĩa là "bình an". Nhưng ở đây cái bình an Chúa Giêsu nói: "Bình an cho các con."
Và cái lời chào của Chúa Giêsu chào các môn đệ không phải là lời chào xã giao như là mọi người vẫn chào nhau. Nhưng, lời chào "Bình An" này là một Ân ban, là Quà Tặng của Chúa Giêsu phục sinh.
Và rồi mỗi người chúng ta đến nhà thờ để mà đón nhận cái ơn bình an đó! Ai trong chúng ta, dù có nói ra hay không nói, vẫn mong cho mình được cái ơn bình an cho cá nhân, cho gia đình, cho họ hàng, cho làng xóm, cho họ đạo.
Và rồi, Chúa Giêsu chào ban "bình an" đó cho các môn đệ, Chúa Giêsu đã cho các Môn Đệ xem tay và cạnh sườn. Mà chúng ta thấy lúc này, cái bàn tay nó đâu còn đẹp đẽ nữa! Bàn tay đã bị đóng đinh, Bàn tay đã bị rách nát rồi! Và cạnh sườn đã không còn nguyên vẹn nữa. Cạnh sườn đã bị lưỡi đòng đâm thấu cạnh nương long. Khi Chúa Giêsu bị chết treo trên thập giá.
Chúa Giêsu Kitô phục sinh muốn cho các môn đệ xác tín rằng Ngài sống lại thật, chứ không phải là ma. Và rồi Mỗi người chúng ta nghĩ như thế là đúng, bởi vì nếu Chúa Giêsu không phải là Chúa Giêsu phục sinh sau khi chịu chết thì tay chân lành lặn. Và cạnh sườn thì cũng chẳng có bị lỗ nào cả. Và các bài tường thuật về Chúa Giêsu đều bao hàm hai ý tưởng rằng: Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết. Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết để đào sâu cái ý nghĩa của Mầu nhiệm Phục Sinh. và rồi chúng ta thấy Cái mầu nhiệm phục sinh này nó đã giằng co, cũng như đặt ra trước mặt mọi người sự lựa chọn trả lời niềm tin của mình.
Sự kiện của Chúa Giêsu phục sinh này đã làm cho người ta suy nghĩ, và đã làm cho một số người không tin. Để rồi có những người, họ moi ra bản dịch kinh thánh gọi là tác động của Tin Mừng theo Thánh Giuđa có từ thế kỷ thứ I.
Thì đại khái là cái bảng Tin Mừng này thì nói rằng là: Chúa Giêsu không phải chết và Phục Sinh, Chúa Giêsu bỏ đi sang Ai Cập và có gia đình.
Rồi với cái tiểu thuyết rất là hấp dẫn Mật Mã Da Vinci, không chỉ là viết mà còn làm phim nữa! Gây ảnh hưởng xấu và cũng như làm lung lay niềm tin của nhiều người.
Có mấy người hỏi là: cha ơi con xem phim đó thì thấy hay đúng!
A! thì ra là hay và cũng đúng thôi! Bởi lẽ đó là một cái cuốn tiểu thuyết trinh thám, mà có nhiều chi tiết hấp dẫn. Tác giả muốn nói với mọi người rằng là chúng tôi dựa trên những sự kiện có thật. Có thật đến độ mà người ta nói rằng: Chúa Giêsu có bà Maria (Maria Mácđala) làm bạn đời! và rồi sau đó có con cái, và nhiều chuyện khác nữa!
Rồi cái sách Tin Mừng theo Thánh Giuđa đó! Theo Giuđa đó thì Ngài bỏ Do Thái sang Ai Cập, có gia đình. Rồi làm cho người đọc rất là hoang mang, bởi vì họ không chân nhận là Chúa Giêsu phục sinh từ cõi chết. Thế nhưng ngược lại với những cái lời đồn, những lời chất vấn, gây hoang mang đó! Các Môn Đệ khẳng định rằng: CHÚA Giêsu đã sống lại thật!
Khi mà Chúa Giêsu cho các môn đệ xem cạnh sườn, xem bàn tay thì Ngài muốn nói rằng: Đấng chịu đóng đinh và Phục Sinh chỉ là một.
Và điều đó muốn gợi lên Niềm tin của mỗi người chúng ta về Chúa Giêsu phục sinh đó là: "Nếu không có khổ nạn thì sẽ không có phục sinh." Và “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không thối đi, thì sẽ không có sinh hạt.”
Và cái Bình an mà Chúa Giêsu trao ban cho các môn đệ không phải là bình của thế gian. Bình an của thế gian là gì? Bình an của thế gian, nhiều người người ta quan niệm rằng: bình an đó là làm sao tìm cho thật nhiều tiền, tìm cho được nhiều của cải. Và người ta cho đó là bình an. Và ngay như trong Tin Mừng, có một người phú hộ tự nhủ rằng là linh hồn ta cứ an vui thoải mái, sống hưởng thụ thôi! Nhưng mà, Chúa bảo đó là người ngu. Bởi vì: ngay đêm nay Chúa lấy linh hồn của ngươi thì sao? Và đó là cái kiểu bình an của thế gian đó!
Bình an của thế gian là tích lũy quyền lực, có nhà cửa, có người bảo vệ, có người lo lắng, có người cơm bưng nước rót. Thế nhưng xét cho bằng cùng, cái bình an đó không có bình an, nên họ phải lo lắng họ phải kiếm người này người kia canh giữ cho họ!
Và chúng ta thấy trong cuộc sống những người đó đầy những tính toán làm hại người khác, sao có sự bình an được! Càng giàu có thì dường như càng bất an, bởi vì sợ bệnh hoạn tật nguyền đến thì của cải vật chất ai sẽ xài.
Và trong bằng chứng của cuộc đời, nhiều người giàu có lắm! Nhưng mà vẫn không kéo dài được cái sự sống của mình bởi vì bệnh hoạn nó ập đến. Ngược lại những người nghèo khi bệnh hoạn ập đến nhưng họ cảm thấy bình an, bởi vì họ có Chúa là nguồn sống, là nguồn vui của họ, và họ nói rằng là không có cái gì có thể cướp được sự bình an đó! Bởi vì họ đã cảm nếm được sự bình an từ ĐỨC Giêsu Kitô Phục Sinh.
Và chúng ta đón nhận sự bình an mà của Chúa Giêsu Kitô phục sinh đến với chúng ta, khi chúng ta biết mở lòng ra đón nhận và đón nhận trong tình yêu thương trong sự bỏ mình để qua con đường thập giá, qua con đường khổ đau thì chúng ta được nhận cái sự bình an của Chúa.
Chúng ta thấy các môn đệ, khi Chúa Giêsu chịu khổ nạn, khi Chúa Giêsu bị đánh đòn, các Môn Đệ dường như đã bỏ đi hết. Chỉ còn một mình Mẹ Maria và Gioan ở dưới chân cây thập giá, các môn đệ thân tính bỏ đi hết. Nhưng rồi, sau khi Chúa Giêsu phục sinh, CHÚA Giêsu đã hiện ra cho các môn đệ, lòng trí và cuộc đời cũng như chí hướng, cũng như tất cả cuộc đời của các môn đệ đều thay đổi. Tất cả các môn đệ đều không sống cho chính mình nữa.
Như Thánh Phaolô nói: Tôi sống mà không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi!...Không ai có thể tách được tình yêu của tôi với Đức Kitô, dù gian truân, dù là chiều cao, chiều sâu, dù là chiều rộng, muôn chiều sâu, dù là thần phù, thần chết... không tách được tình yêu của chúng tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô. Và Ngài coi mọi sự là rơm rác, để đạt được cùng đích là Đức Kitô. và chính thánh Phêrô, cảm thấy nhục nhã và không dám chết như thầy là đóng đinh bình thường, nhưng xin cho được chết ngược để đền bù về những tội lỗi, những yếu đuối, những bất xứng của mình.
Niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh đã khởi đi từ các môn đệ. Để từ 12 môn đệ niềm tin phục sinh ấy vẫn cứ lan mãi trong cuộc đời của chúng ta.Qua đâu khổ, trong qua đau khổ, với đau khổ các môn đệ vẫn được bình an. Có sức mạnh Thánh Thần của Đức Kitô Phục sinh trong cuộc đời bởi vì có sự bình an thật của Đức Kitô Phục sinh trong cuộc đời của mình.
Mỗi người chúng ta vẫn yếu đuối trong cái thân phận làm người của mình. Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta, để Dẫu rằng, chúng ta sống trong đau khổ, chúng ta bệnh hoạn tật nguyền, nghèo khổ thiếu thốn, nhưng chúng ta có Đức Kitô phục sinh như các Môn Đệ, thì chính cái sự bình an của Đức Kitô phục sinh thì không ai lấy đi được. Và chính cái sự bình an đó là bình an đích thực mà mỗi người chúng ta cần đến.
Nguyện xin Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh là Đấng ban bình an ngày xưa cho các môn đệ, thì cũng đến ban bình an cho chúng ta. Để rồi có Ngài trong cuộc đời, chúng ta luôn luôn bước đi trong bình an. Dẫu rằng, cuộc đời của chúng ta vẫn còn đó những khổ đau, những thử thách, những sóng gió. Amen.
Chúa Nhật II Phục sinh trước đây được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, nay được gọi là PS 2-ABC346
Chúa Nhật II Phục sinh trước đây được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, nay được gọi là Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót. Hai cách gọi nhưng vẫn là một, không hề đối nghịch. Vả lại, đó cũng chính là ước muốn của Chúa Giêsu đã mặc khải với Thánh Faustina. Qủa thế, năm 1980, với tông thư “Thiên Chúa giàu lòng thương xót”, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã chọn Chúa Nhật II Phục sinh là ngày kính nhớ Lòng Chúa Thương Xót Chúa.
Khi nói đến Lòng Chúa Thương Xót (LCTX), Thánh Kinh Cựu ước viết: “Chúa yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Ngài đã làm ra” (Kn 11:24). Hay “Ta đã yêu ngươi bằng mối tình muôn thuở, nên Ta vẫn dành cho ngươi lòng xót thương” (Gr 31:3)… Còn Tân ước thì kể: dụ ngôn về đứa con hoang đàng (Lc 15,14-32), dụ ngôn Con Chiên Lạc (Lc 15,4-7) và dụ ngôn Đồng Bạc Bị Mất (Lc 15,8-9)… Nhưng, tựa trung LCTX được mặc khải qua cái chết và Phục sinh của Chúa Giêsu, có nghĩa là LCTX của Chúa thể hiện nơi mỗi người chúng ta đó là ơn tha thứ và cứu độ.
Qủa thế, Chúa Giêsu thực hiện LCTX bằng việc “thi ân giáng phúc, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế” (Cv 10,38), “chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 9,35), cho kẻ chết sống lại (Ga 11,1-44) và rồi chính Ngài Ngài để mình bị bắt, bị đối xử tệ, bị kết án, bị đánh đòn, đội vòng gai, bị đóng đinh vào Thập giá, chết và sống lại. Như vậy, Thập giá và phục sinh của Chúa Giêsu là bằng chứng tình yêu của Thiên Chúa muôn đời dành cho con người. Qủa thế, “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Cho nên, Lòng Thương Xót Chúa là tình yêu tuyệt đối. Tin vào Chúa Con bị đóng đinh, chịu chết và sống lại là được thấy Chúa, vì Chúa đã sống lại và chúng ta cũng sẽ được sống (Ga 14,9), nghĩa là tin tình yêu đó hiện hữu trong thế giới này sẽ làm cho chúng ta được cứu độ ngay đời này và đời sau. Cứu độ là gì? Cứu là cứu lấy, độ là đưa qua. Chúa cứu chúng ta tội lỗi đưa ta đến sự thánh thiện, Chúa cứu lấy cái chết phần hồn đưa ta đến phục sinh cả hồn lẫn xác.
Cụ thể, trang Tin Mừng hôm nay kể Chúa Giêsu tỏ các vết sẹo tình yêu Chúa, tức là các vết sẹo của LTXC ngang qua cho các tông đồ, đặc biệt ông Tôma đã xem tận mắt và tận tay đụng vào những vết sẹc của Chúa. Người ta nói: “tốt khoe, xấu che”, hơn nữa theo tâm lý thường tình khi nhìn lại những vết sẹo, gợi lại nỗi đau đớn khổ sở nên chẳng ai muốn nhìn, chẳng ai dám khoe, ấy vậy mà Chúa Giêsu hôm nay khoe, tại sao? Vì đưa xem vết sẹo tình, Chúa Giêsu mời chúng ta đụng vào trái tim Đức Giêsu, một Chúa có trái tim đầy tình yêu tha thiết, sẵn sàng hy sinh cho tình yêu. Cho xem và đụng vết sẹo tình là cho biết và đụng vào Chúa Giêsu Phục sinh đang hiện diện giữa họ cũng chính là Đấng đã chết trên thập giá, máu và nước đổ ra để chúng ta được chữa lành, biến đổi tận cân từ tâm hồn ra thể xác nhờ tình yêu và quyền năng của Chúa. Xem và đụng vào sẹc tình là đụng đến Chúa phục sinh, chính nguồn bình an đương nhiên, chúng ta cũng chạm và có được bình an của Chúa. Xem và đụng vào sẹo tình là đụng đến Chúa phục sinh, tin vào Ngài chúng ta sẽ được phục sinh đồng hình đồng dạng và đồng tư tưởng, lời nói và việc làm như Ngài.
Cho nên, bài đọc 2, Thánh sử Gioan nói: “Ai tin Đức Giêsu là Đấng Kitô, kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra. Và ai yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra” (1 Ga 5:1). Chúng ta được Thiên Chúa tái sinh, vậy chúng ta phải yêu thương yêu thương nhau, nếu không thì chúng ta là những người ích kỷ và nói dối. Yêu thương cũng là thương xót. Vì vậy, Thánh Gioan nói: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được mình yêu thương con cái Thiên Chúa: đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Ngài. Quả thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người. Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu, vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian” (1Ga 5,2-4). Vì vậy, chẳng lạ chi, bài đọc hai kể “Các tín hữu thời bấy giờ đông đảo, mà chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung”.
Vậy, LTXC thật tuyệt với biết bao! Chúng ta được tận hưởng LTXC thì chúng ta phải thực thi LCTX với tha nhân: “Phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô” (Ep 4,32). Trong tâm tình đó, Tông đồ Giuđa gởi lời chúc tới tất cả chúng ta: “Chúc anh em được đầy tràn lòng thương xót, sự bình an và tình thương” (Gđ 1,2), và “hãy cố gắng sống mãi trong tình thương của Thiên Chúa, hãy chờ đợi lòng thương xót của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, để được sống đời đời” (Gđ 1,21).
Cho nên, ngày 13 tháng Ba 2015, tại Đền thờ Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phanxicô đã công bố mở một “Năm Thánh đặc biệt” gọi là “Năm Thánh Lòng Thương xót”. Năm Thánh bắt đầu với việc mở Cửa Thánh tại Đền thờ Thánh Phêrô vào ngày 08-12-2015, Đại lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội, và kết thúc vào ngày 20-11-2016, Đại lễ Chúa Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ. Với “Năm Thánh Lòng Thương xót”, Đức Thánh Cha Phanxicô muốn đặt trọng tâm nơi lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng mời gọi các tín hữu trở về với Người. Gặp gỡ Chúa sẽ giúp chúng ta biết thực thi lòng thương xót.
Đức Kitô phục sinh là hiện thân cuối cùng của LCTX, dấu hiệu sống động trong lịch sử nhân loại cho đến tận thế. Xin cho mỗi người chúng biết chạy đến đụng chạm vào LTXC qua việc sống Lời Chúa và Rước Mình Máu Ngài để được Chúa xót thương chữa lành hồn xác chúng ta hằng ngày. Lạy Thiên Chúa hằng hữu, xin thương xót chúng con. Vì cuộc khổ nạn đau thương của Đức Giêsu Kitô, xin thương xót chúng con và toàn thế giới. Xin Thánh Faustina và Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II nâng đỡ chúng con luôn. Amen.
Chúa nhật II Phục Sinh cũng là Chúa nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa. Bài Tin mừng trong Chúa PS 2-ABC347
Chúa nhật II Phục Sinh cũng là Chúa nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa. Bài Tin mừng trong Chúa nhật này được đọc chung trong cả ba năm A,B,C, kể lại hai lần hiện ra của Đức Kitô Phục sinh.
Tôma là nhân vật đáng chú ý nhất trong trình thuật này. Bởi vì, ông không có mặt khi Đức Kitô Phục sinh hiện ra lần thứ nhất. Mặc dầu, sau đó các môn đệ khác báo cho ông biết “Chúng tôi đã xem thấy Chúa.” Nhưng, chẳng những ông không tin mà còn thách thức rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin.” (Ga 20,25). Thực ra, ông Tôma không được diễm phúc thấy Đức Kitô Phục sinh hiện ra lần thứ nhất là do lỗi tại ông. Do ông không ở với các Tông đồ khác. Do ông sống thiếu liên kết với Tông đồ đoàn. Vậy mà chẳng những ông không nhận lỗi của mình mà còn cả gan thách thức. Nhưng Đức Kitô Phục sinh là Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài không chấp nhất Tôma. Trái lại, Ngài còn đáp ứng đòi hỏi của Tôma. Ngài đã hiện ra và bảo Tôma rằng: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin.” (Ga 20,27). Như vậy, có thể nói vì Tôma mà có cuộc hiện ra lần thứ hai này.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:
Thứ nhất, phải sống liên kết với Giáo hội, cộng đoàn, gia đình: là thành phần của Giáo hội, mỗi người chúng ta cần phải sống liên kết với Giáo hội. Sự liên kết đó được thể hiện qua việc tuân phục Đức Thánh Cha, Đức Giáo Mục Giáo phận và những người được Ngài bổ nhiệm coi sóc chúng ta. Sự liên kết đó được thể hiện qua việc sống hiệp thông và tuân phục những người đại diện cộng đoàn: trong giáo xứ có cha xứ; trong cộng đoàn dòng tu có bề trên; trong gia đình có ông bà, cha mẹ, anh chị; trong các ban đoàn, hội đoàn luôn có người đứng đầu. Nếu biết sống hiệp thông và liên kết không những làm cho Giáo hội, cộng đoàn, gia đình…được vững mạnh mà còn giúp cho chúng ta có cơ hội sống tốt hơn.
Còn nếu chúng ta sống riêng lẽ, thiếu sự liên kết, hiệp thông thì không những sẽ mất hạnh phúc gặp Chúa như Tôma mà hậu quả còn tệ hại hơn thế nữa. Về phạm vị Giáo hội: chúng ta vẫn thấy có những người, những gia đình sống thiếu sự liên kết, tuy họ có danh sách trong giáo xứ nọ giáo xứ kia nhưng vẫn không tham gia sinh hoạt, không đóng góp công việc chung; có những người xưng mình là kitô hữu nhưng vẫn “bắt cá hai tay”, nghĩa là họ vẫn đi lại với các tổ chức chống phá Giáo hội nhằm mục đích trục lợi; có những người công giáo nhưng theo phong trào “Sứ điệp từ trời”, họ không tuân phục Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Về phạm vi gia đình: có những người vợ người chồng sống thiếu liên kết nên đã xảy ra chuyện “chồng ăn chả vợ ăn nem”; có những người con không nghe lời cha mẹ dạy bảo, thậm chí còn bỏ nhà ra đi, dần dần lây nhiễm với bạn bè xấu nên trở thành những kẻ trộm cắp, nghiện ngập và cuối cùng đã đẩy mình vào con đường lao lý tù tội. Đó là hậu quả của những người sống thiếu liên kết với Giáo hội, với cộng đoàn và với gia đình.
Thứ hai, phải có tinh thần tha thứ: Đức Kitô đã tha thứ cho biết bao nhiêu người tội lỗi. Ngài tha thứ tội lỗi cho kẻ trộm lành cùng đóng đinh với Ngài trên Thánh giá. Ngài tha thứ cho những kẻ đóng đinh Ngài. Ngài không nhớ đến tội chối Thầy của Phêrô, tội bỏ trốn của các Tông đồ khác, sự cứng lòng tin của ông Tôma. Ngài còn dạy Phêrô không chỉ tha thứ bảy lần mà còn bảy mươi lần bảy, tức là phải tha thứ luôn luôn. Như vậy, tinh thần tha thứ là một đặc tính của Lòng Thương Xót Chúa và chắc chắn đó cũng phải là đặc tính của mỗi người kitô hữu chúng ta.
Là con người thì không ai tránh khỏi sai lỗi: chúng ta sai lỗi với Chúa, sai lỗi với Giáo hội, giáo xứ, cộng đoàn; chúng ta sai lỗi với các thành viên trong gia đình: ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, anh chị em; chúng ta sai lỗi với những người xung quanh, những người chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Người khác cũng có thể sai lỗi với chúng ta. Chính vì thế, khi chúng ta sai lỗi thì hãy thành tâm nhận lỗi của mình và xin sự tha thứ. Còn khi người khác có lỗi với chúng ta thì hãy sẵn sàng tha thứ cho họ. Tha thứ chẳng những giúp chúng ta sống thoải mái, nhẹ nhàng hơn mà còn là điều kiện để được Thiên Chúa tha thứ cho chúng ta như lời Kinh Lạy Cha chúng ta thường đọc: “xin tha tội cho chúng con như chúng con cũng tha cho những người có lỗi với chúng con.” (Mt 6,12)
Thứ ba, phải sống tinh thần chia sẻ: Chia sẻ về niềm tin, chia sẻ về của cải vật chất.
Chia sẻ niềm tin: sau khi gặp Đức Kitô phục sinh bà Maria Mađalêna đã đi báo tin cho các Tông đồ, các Tông đồ và các môn đệ báo tin cho nhau. Chẳng những thế, sau ngày lễ Ngũ Tuần, các ngài đã ra đi khắp nơi để rao giảng và làm chứng về sự phục sinh của Đức Kitô. Vì sự xác tín mạnh mẽ vào sự Phục sinh của Đức Kitô, nên bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô đã thu phục được khoảng 3000 người trở lại. Và trải qua 20 thế kỷ, Giáo hội tiếp tục loan báo Tin mừng Phục Sinh cho những người khác. Từ con số 12 hiện nay số người công giáo có khoảng 17% dân số thế giới. Giáo hội vẫn luôn mời gọi chúng ta tiếp tục chia sẻ Tin mừng Phục sinh cho những người khác tùy vào khả năng và hoàn cảnh sống của mình.
Chia sẻ của cải vật chất: Trong bài đọc I hôm nay, sách Công Vụ Tông Đồ cho chúng ta thấy tinh thần chia sẻ của các kitô hữu thời sơ khai. Mọi người trong cộng đoàn đều đồng tâm nhất trí với nhau, họ yêu thương nhau như anh em ruột thịt. Mọi người đều để tất cả của cải mình có làm của chung: Vì những người có ruộng nương nhà cửa đều bán đi và bán được bao nhiêu tiền thì đem đặt dưới chân các Tông đồ. Và người ta phân phát cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu của họ. Vì thế, trong các tín hữu, không có ai phải túng thiếu. (x. Cv 4,34-35). Việc làm này trở thành gương sáng cho những người xung quanh. Cho nên, các tín hữu rất được mọi người lương dân mến chuộng. Tinh thần chia sẻ của các tín hữu tiên khởi là bài học cho mỗi người chúng ta hôm nay. Xin cho mỗi người chúng ta cũng biết quảng đại dâng cúng của cải mình có làm của chung để Giáo hội có điều kiện làm việc bác ái, từ thiện. Đồng thời, mỗi người biết quảng đại chia sẻ cho những người nghèo, những người tàn tật, ốm đau tùy hoàn cảnh và địa vị của mình. Vì “hãy cho thì sẽ cho lại các con: Người ta sẽ lấy đấu hảo hạng, đã dằn, đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các con. Vì các con đong bằng đấu nào, thì cũng được đong trả lại bằng đấu ấy!” (Lc 6,38).
Lạy Chúa Kitô phục sinh, xin tăng thêm niềm tin cho chúng con. Xin cho chúng con biết sống liên kết với Giáo hội và với nhau, luôn có tinh thần tha thứ và biết chia sẻ niềm tin và của cải vật chất cho những người khác. Amen.
Bản văn Tin mừng Chúa nhật này mời gọi Kitô hữu suy nghĩ về đức tin của mình vào Đức Kitô PS 2-ABC348
Bản văn Tin mừng Chúa nhật này mời gọi Kitô hữu suy nghĩ về đức tin của mình vào Đức Kitô Phục Sinh. Khởi từ một kinh nghiệm cá nhân, đón nhận chứng từ của các chứng nhân Tông đồ, đức tin đưa con người đến nguồn hạnh phúc đích thực. Đồng thời, chính đức tin ấy thôi thúc Kitô hữu lên đường thực thi sứ mạng loan báo Tin mừng cứu độ cho anh chị em chung quanh.
I. Khám Phá Sứ Điệp Tin Mừng: Ga 20,19-31.
Bản văn Tin mừng này liên kết hai lần hiện ra của Chúa Giêsu với các môn đệ sau khi phục sinh. Lần thứ nhất với các môn đệ không có Tôma, lần thứ hai có sự hiện diện của Tôma. Cả hai trình thuật này soi sáng cho nhau và xoay quanh chủ đề chính yếu là niềm tin của các Tông đồ trước mầu nhiệm Phục sinh và sứ mạng loan báo Tin mừng Phục sinh của các ông.
1. Sứ mạng loan báo Tin mừng:
Làm môn đệ Chúa Giêsu là có sứ mạng lên đường loan báo Tin mừng. Tất cả các Tin mừng đều đề cập đến những lần Chúa Giêsu hiện ra sau Phục sinh trao phó sứ mạng cho các Tông đồ (Mt 28,16-20 ; Lc 24,47-49 ; Mc 16,15). Nơi Gioan, Chúa Giêsu hiện ra khi các Tông đồ đang tụ họp vào chính chiều ngày thứ nhất trong tuần. Chúa Giêsu hiện ra trao phó cho các ông sứ mạng mà chính Chúa Cha đã trao phó cho Người. "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Chúa Giêsu về với Chúa Cha, nhưng sứ điệp Tin mừng, ơn Cứu độ và những thực tại thần linh mà Người mang đến trần gian vẫn còn ở trong Giáo hội, trong các môn đệ của Người. Các Tông đồ có trách nhiệm phải tiếp nối công trình của Thầy mình để những gì Thầy Chí Thánh đã thực hiện sẽ được trao ban cho toàn thể nhân loại qua mọi thời đại. Trên hành trình sứ vụ các môn đệ không làm một mình nhưng có Thần Khí của Đấng Phục Sinh hiện diện, tác động và trợ giúp. "Nói thế rồi Người thổi hơi…"
Như Thiên Chúa khi tạo dựng con người đã thổi hơi để thông ban sự sống cho con người đầu tiên, thì Chúa Giêsu Phục Sinh cũng thổi hơi để tái tạo các Tông đồ thành những thụ tạo mới có sứ mạng đưa sự sống mới đến cho con người. Việc trao ban Thần Khí ở đây không hẳn có nghĩa là tái sinh họ trong Nước và Thánh Thần nhưng chủ yếu là trao phó sứ mạng.
2. Niềm tin của các Tông đồ:
Chương 20 của Phúc âm Thứ tư được cấu thành một khối duy nhất về phương diện văn chương và đề tài. Ghi lại vài lần hiện ra của Chúa Giêsu Phục Sinh ở Giêrusalem cho thấy đức tin của các môn đệ chuyển từ kinh nghiệm thể lý cảm nghiệm thiêng liêng. Một Maria Madalena tin khi nghe giọng nói thân quen của Thầy (20,16) ; một môn đệ yêu dấu đã tin sau khi thấy các khăn liệm và ngôi mộ trống (20,8) ; các môn đệ tin khi thấy lỗ đinh ở tay Chúa và thọc tay vào cạnh sườn Người (20,20) ; và cuối cùng Tôma đã tuyên xưng đức tin hoàn toàn vào Đức Kitô Phục Sinh: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con" (20,25-29). Từ kinh nghiệm đức tin của các Tông đồ, từ giờ trở đi, đức tin không dựa trên cái nhìn thể lý, mắt thấy tai nghe nữa, nhưng dựa trên chứng tá của những người đã thấy. Chính nhờ đức tin này mà Kitô hữu kết hợp mật thiết với Đức Kitô Phục Sinh, được nhận lãnh ân phúc: "Phúc cho những ai không thấy mà tin".
II. Chiêm Ngắm Chúa Giêsu:
Giữa lúc đang hoang mang lo sợ, các môn đệ tụ họp trong nhà đóng kín cửa vì sợ người Do Thái, Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra với các ông mang lại cho các ông bình an, niềm vui và hy vọng. Quả thật, Người đã phục sinh. Tin Người đã sống lại các môn đệ mới có thể vui mừng và hy vọng được. Tin mừng mời gọi mỗi người chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu Đấng Phục Sinh mang lại niềm vui, an bình và hy vọng cho chúng ta. Tin vào Người chúng ta mới có sức mạnh để vượt qua những gian truân, khó khăn và thử thách trong cuộc đời sống và làm chứng cho Tin mừng.
III. Gợi Ý Bài Giảng:
1. Niềm tin Phục sinh, dễ mấy ai tin:
Khi nghe các bạn báo tin Thầy đã sống lại, Tôma đã không tin, ông đòi phải tận mắt chứng kiến mới tin. Việc Chúa sống lại quả thật là khó tin, vượt quá kinh nghiệm của tri thức nhân loại. Với Tôma và có lẽ cũng của rất nhiều người, đặc biệt trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như ngày nay thì những gì không thể quan sát, không thể đo lường, không thể chứng minh đều có thể bị từ chối. Bên cạnh đó, Tôma không tin các bạn cũng có lỗi nào đó do chính các Tông đồ. Các ông nói Thầy đã sống lại, sao lại vẫn còn sợ hãi, vẫn còn chưa dám ra khỏi nhà, vẫn còn bất động? Câu Chúa nói như để trách cứ sự cứng lòng của Tôma xem ra cũng chính là câu Người khiển trách tất cả các môn đệ: "Tôma, con đã xem thấy Thầy, nên con tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin". Trong thực tế đời sống Kitô hữu, nhiều khi cách sống theo Tin mừng của mình khiến cho anh chị em vốn đã cứng tin lại càng thêm cứng tin. Tin là một điều không phải dễ nói, dễ thuyết phục. Đòi hỏi mỗi Kitô hữu phải kiên tâm, trung thành sống và làm chứng cho Tin mừng mới mong có thể giúp người khác tin.
2. Niềm tin Phục sinh, niềm vui và hy vọng:
Các môn đệ đang trong tâm trạng thất vọng lo âu, sợ hãi vì Thầy mình đã chết. Khi thấy Thầy mình hiện ra, bấy giờ các ông vui mừng vì được xem thấy Chúa. Chúa Giêsu Phục Sinh đã mang lại niềm vui, niềm hy vọng cho các môn đệ. Ngay khi hiện diện giữa các môn đệ Người đã ban bình an cho các ông. Khi Chúa Giêsu giáng sinh, ca đoàn các Thiên sứ đã vang lời ca bình an dưới thế cho loài người Chúa thương. Hôm nay, Đấng Phục Sinh đã thực sự mang lại bình an cho con người. Người đã chết và phục sinh vinh quang để mở đường cho những ai tin theo Người cũng sẽ sống lại chung hưởng vinh quang, tình yêu và hạnh phúc với Người. Niềm tin Phục sinh mang lại niềm vui và hy vọng cho con người. Từ đây, quả thực nhân loại đã được giải thoát khỏi ách Tử thần, vươn lên trở thành Con Thiên Chúa, sống sự sống viên mãn của Ngài ; từ đây, nhân loại đang sống trong khổ đau, bất an đã thực sự được giải thoát để mưu cầu hạnh phúc và bình an trong tình yêu của Thiên Chúa. Nếu thực sự sống niềm tin Phục sinh giúp cho người Kitô hữu có niềm lạc quan, hy vọng vươn tới. Tất nhiên, ở đây không phải là yếu tố tâm lý nhưng là sự tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng đã phục sinh Chúa Giêsu, được Người thông ban cho các Tông đồ, Giáo hội và tất cả những ai tin, chính Chúa Thánh Thần là tác nhân làm nên niềm hy vọng, niềm vui sống. Những ai tin vào Đấng Phục Sinh sẽ lãnh nhận tràn đầy Thánh Thần của Người.
IV. Lời Cầu Chung:
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Đức Kitô Phục Sinh trao ban cho chúng ta bình an và niềm vui sống. Trong niềm tin tưởng và vui mừng, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con. Chúng ta cùng cầu xin cho Giáo hội luôn can đảm thực thi sứ mạng loan báo Tin mừng, để mọi người đón nhận được ơn Cứu độ và thế giới hôm nay có được hòa bình, tự do và công lý.
2. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin. Chúng ta cùng cầu nguyện cho những ai đang thành tâm thiện chí đi tìm chân lý, tìm kiếm Thiên Chúa, được Chúa Thánh Thần soi sáng để thỏa được ước nguyện của mình.
3. Bình an cho các con. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta siêng năng cầu nguyện, đón nhận Mình Máu Thánh Chúa, sống và thực thi Tin mừng để có thể đón nhận được bình an của Chúa giữa cuộc đời đầy thử thách khổ đau.
Lời kết: Lạy Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh. Chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương chấp nhận chết để đền thay tội lỗi chúng con và Chúa đã sống lại vinh quang để cứu độ chúng con. Xin cho niềm vui Phục sinh trở nên nguồn động lực giúp chúng con sống đời Kitô hữu thật ý nghĩa và mang lại thiện ích cho mọi người. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Tin mừng Ga 20: 19-31: Chúa đã trao cho chúng ta trách nhiệm như Tôma và các môn đệ xưa: hãy đi loan báo và làm chứng về sự bình an và lòng thương xót Chúa cho người khác.
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe các môn đệ nói với Tôma: Chúng tôi đã thấy Chúa. Nhưng PS 2-ABC349
Trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe các môn đệ nói với Tôma: Chúng tôi đã thấy Chúa. Nhưng Tôma nói với các môn đệ kia rằng:”Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin”.
Rồi tám ngày sau, các môn đệ họp nhau trong nhà, có Tôma ở đó, Chúa đã hiện ra với các ông. Chúa Giêsu lặp lại lời của Tôma và mời ông thực hiện điều ông đòi hỏi. Bấy giờ, Tôma chỉ biết thốt lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy nên con đã tin, phúc cho ai không thấy mà tin."
Câu chuyện của Tôma cho chúng ta thấy con người của Tôma được bộc lộ thật rõ ràng, rất bộc trực và chân thành.
Tôma đã phạm một lỗi lầm
Ông đã vắng mặt trong buổi họp của anh em và vì không có mặt với các bạn nên ông mất cơ hội gặp Chúa Giêsu lúc Ngài hiện ra lần thứ nhất. Khi gặp cảnh đau buồn thất vọng, chúng ta thường có khuynh hướng muốn đóng cửa lại, nhốt mình riêng một nơi, không muốn gặp ai cả. Nhưng chính những lúc như thế, lại là lúc chúng ta cần đến sự chia sẻ cảm thông của anh chị em sống chung quanh chúng ta.
Nhưng Tôma có hai đức tính lớn
Ông nhất định không chịu nói là tin khi ông không tin, không bao giờ nói mình hiểu trong khi không hiểu. Ông không hề đè nén sự nghi ngờ. Tôma không thuộc loại người chịu thông qua điều chưa hiểu. Ông muốn biết chắc mọi sự, và thái độ này của ông hoàn toàn đúng. Một người đòi hỏi chắc chắn thì có đức tin vững vàng hơn kẻ chỉ lặp đi lặp lại như con vẹt những điều mình chẳng bao giờ suy nghĩ đến. Chính hoài nghi như thế cuối cùng sẽ đạt đến một niềm tin chắc chắn.
Và khi biết chắc, ông sẽ đi đến cùng
Ông nói: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Với Tôma không có chuyện nửa vời. Ông nghi ngờ vì muốn trở thành người biết chắc, và khi đã chắc rồi, ông hoàn toàn vâng phục. Khi một con người chiến đấu với nỗi hoài nghi để đi đến chỗ tin Đức Giêsu là Chúa, người ấy đạt được sự chắc chắn mà những người dễ dàng chấp nhận không suy nghĩ sẽ chẳng bao giờ đạt tới được.
Hôm nay cũng là ngày kính nhớ Lòng Thương Xót của Chúa Giêsu. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thiết lập lễ này đáp lại ý Chúa muốn qua thánh nữ Maria Faustina: "Ta muốn ngày lễ kính lòng thương xót là một trợ giúp và là nơi trú ẩn cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương. Trong ngày ấy, lòng thương xót của Ta sẽ rộng mở, Ta sẽ tuôn đổ một đại dương hồng ân xuống các linh hồn đến gần nguồn mạch lòng thương xót của Ta" (Tiểu nhật ký, số 699). Dù mới thiết lập năm 2000, nhưng phong trào phổ biến lòng thương xót Chúa thật lạ lùng.
Lòng thương xót của Chúa được diễn tả qua cuộc thương khó và cái chết của Ngài trên thập giá. Lòng thương xót ấy vẫn còn để lại dấu vết trên thân thể Chúa, kể cả sau khi Chúa đã sống lại sáng láng vinh hiển. Vì thế, việc đầu tiên khi hiện ra với các môn đệ, sau khi trao ban bình an, là cho các ông xem các vết thương ở tay và cạnh sườn, khiến các ông vui mừng và tin tưởng.
Lòng thương xót Chúa đối với con người trước và sau phục sinh không thay đổi, vì Chúa Giêsu vẫn là một để cho người ta nhận ra Ngài. Vết thương diễn tả lòng thương yêu của Chúa với con người không thay đổi. Đặc biệt với Tôma, Chúa Giêsu rất thương mến Tôma và sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của Tôma, để Tôma tiến tới một xác tín mạnh mẽ vào sự Phục Sinh của Chúa.
Nhà thần học Paul Tillich nói: "sự hoài nghi chín chắn là sự khẳng định của đức tin. Nó chứng tỏ một sự quan tâm rất nghiêm chỉnh". Còn Thomas Merton bảo: "người có niềm tin mà chưa từng trải qua sự nghi ngờ thì không phải là người có niềm tin đích thực". Thực tế, trên đời có biết bao điều chúng ta không thấy mà vẫn tin, không kiểm tra được mà vẫn phải chấp nhận và sống điều ấy. Như tin vào cha mẹ, thầy cô, những người có thế giá; tin vào tình yêu và lòng tốt của người khác dù họ chưa làm gì cho ta. Tin vào lời hứa trong tương lai dù chưa thấy kết quả trước mắt. Phải chăng đấy là những dấu hiệu của đức tin và niềm hy vọng. Phải chăng vì thế mà cuộc sống của ta được bình an và phấn khởi.
Chính vì vậy, hằng ngày chúng ta vẫn được hưởng sự bình an và lòng thương xót của Chúa qua Giáo Hội khi chúng ta nghe Chúa dạy, lãnh nhận các bí tích nhất là Thánh Lễ.
Nghĩa là Chúa đã trao cho chúng ta trách nhiệm như Tôma và các môn đệ xưa: hãy đi loan báo và làm chứng về sự bình an và lòng thương xót Chúa cho người khác.
Thế giới, xã hội còn đầy bất công và bạo hành, chúng ta hãy đem sự bình an của Chúa Phục Sinh cho họ. Thế giới, xã hội còn đầy vết thương do sự tranh chấp, hận thù và ghen ghét, chúng ta hãy đem lòng thương xót Chúa đến cho họ để chữa lành nỗi đau thể xác và tinh thần, giúp họ tiếp tục bước theo Chúa trên con đường khổ giá để được chung hưởng niềm vui Phục Sinh với Chúa. Amen.
Tin mừng Ga 20: 19-31: Với lòng thương xót, khi hiện ra với các tông đồ đang lo sợ và đóng kín cửa, lời đầu tiên mà Chúa Giêsu trao ban cho các môn đệ là sự bình an của Người.
Suy niệm:
Mừng đại năm thánh 2000, vào ngày 30 tháng 4 cùng năm, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ II PS 2-ABC350
Mừng đại năm thánh 2000, vào ngày 30 tháng 4 cùng năm, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô đệ II đã phong hiển thánh cho nữ tu Faustina, tông đồ của Lòng Chúa Thương Xót. Ngài cũng đã lập Thánh lễ kính Lòng Thương Xót của Chúa trên toàn Hội thánh vào Chúa Nhật tuần II Phục Sinh, đúng như ước muốn của Chúa mặc khải tư cho chị Faustina: “Ta ao ước là lễ kính Lòng thương xót của Ta phải được cử hành vào Chúa nhật thứ II Phục sinh.” Như vậy, Hội Thánh đã chính thức công nhận việc tôn sùng lòng nhân từ thương xót của Chúa.
Với lòng thương xót, khi hiện ra với các tông đồ đang lo sợ và đóng kín cửa, lời đầu tiên mà Chúa Giêsu trao ban cho các môn đệ là sự bình an của Người. Và cũng với lòng thương xót, Chúa không muốn một ai ở bên ngoài nguồn suối lòng thương xót từ trái tim nhân lành của Người, nên đã tiếp tục hiện ra để củng cố đức tin nơi Tôma, người vắng mặt trong lần Chúa hiện ra với các bạn hữu của ông.
Với Tôma, ông có lý do khi đòi hỏi được nhìn thấy những dấu tích. Việc tin vào Chúa Giêsu Kitô phục sinh không phải là một sự mê tín, cũng không nghe theo những lời nói suông, lời đồn đại và không có cơ sở để tin. Chúng ta, các thế hệ sau này phải cảm ơn Tôma vì nhờ ngài mà chúng ta có được một đức tin được củng cố khi Tôma dám thẳng thắn nói lên suy nghĩ của mình: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".
Nơi Tôma, có cái gì rất dễ thương, đáng ngưỡng mộ của một con người tìm đến với đức tin cách chân thành, không mập mờ hay nửa vời. Và khi đã thực sự gặp gỡ Chúa Phục Sinh, thì đây, lời tuyên xưng từ miệng Tôma không phải là từ “Chúa” hay “Thầy” cách chung chung nữa, nhưng là từ được xác định rõ ràng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chính khi kinh nghiệm để thốt lên “Chúa của con”, đức tin ấy giúp Tôma vâng phục cho đến cùng, dám sống chết với điều mình dấn thân.
Chúa Giêsu là Đấng nhẫn nại và giàu lòng thương xót, Người hiện ra lần này đến lần khác để củng cố, để giải gỡ những mối rối, ngờ vực và hoang mang trong lòng người môn đệ. Sự hoài nghi của các Tông đồ, cũng như việc cứng lòng tin của Tôma nhờ vậy giờ đây đã trở nên bằng chứng đức tin đầy thuyết phục đối với các tín hữu Giáo hội sơ khai cũng như với con người mọi thời đại mà không cần bằng chứng nào thêm nữa. Các Kitô hữu giờ đây vinh dự được lãnh nhận niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh nhờ ân sủng “phúc cho ai không thấy mà tin”.
Vâng, nhờ tin vào Chúa Kitô Phục Sinh, các tín hữu thời Giáo Hội sơ khai đã quây quần bên nhau, hợp nhất cầu nguyện, đồng tâm nhất trí trong tư tưởng, lời nói cũng như sẵn sàng góp công góp của, coi mọi sự làm của chung với lòng bác ái chân thành. Và nhờ dấu này mà mọi người nhận biết các Kitô hữu là con cái Thiên Chúa, là anh chị em với nhau.
Chúng ta không thể định nghĩa được tình yêu, nhưng qua cách những người yêu thương thể hiện cho nhau mà nhận ra được thế nào là tình yêu. Nào là người cha người mẹ hy sinh cả đời cực khổ vì con, nào là người bạn dám hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình, nào là người anh chị em biết nhường nhịn phần tốt cho người còn lại... Vâng, cao cả hơn hết là tình yêu của Thiên Chúa. Ngài tỏ bày tình yêu cho nhân loại bằng lòng thương xót dẫu cho con người còn đầy dẫy những bất toàn, yếu đuối, tội lỗi, ngờ vực, thất vọng, khiếm khuyết, bất xứng, phản bội… Nhờ đó, mọi người, nhất là các tội nhân biết mau mắn chạy đến với tình yêu đầy lòng thương xót của Chúa với một niềm tin tưởng, như Người đã nói với thánh nữ Faustina: “Không một linh hồn nào phải sợ sệt khi đến gần Ta, dù tội lỗi của họ có đỏ như máu đi nữa…”
Từ thánh tâm Chúa Giêsu, hai luồng sáng trắng đỏ như nước và máu. Nước làm cho linh hồn nên công chính; và máu là sự sống của linh hồn. Xin cho mỗi người chúng ta mau mắn và thành tâm chạy đến với lòng thương xót của Chúa, để chính từ trái tim nhân lành của Người, linh hồn chúng ta cũng nhận được ơn cứu độ. Và con tim của chúng ta mềm ra, để sống đáp lại tình thương của Thiên Chúa luôn chở che và không ngừng ban ân sủng cho từng người chúng ta. Amen.