Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 24-B Bài 151-186 Anh em bảo Thầy là Ai ?

Thứ bảy - 11/09/2021 19:55
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 24-B Bài 151-186 Anh em bảo Thầy là Ai ?
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 24-B Bài 151-186 Anh em bảo Thầy là Ai ?
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 24-B: Bài 151-186 Thầy là Ðấng Kitô. Con Người sẽ phải chịu khổ nhiều

---------------------------------
Mục lục:

Phúc Âm: Mc 8, 27-35: “Thầy là Ðấng Kitô. Con Người sẽ phải chịu khổ nhiều”. 2
TN 24-B151: SUY NIỆM CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN_B.. 2
TN 24-B152: SUY NIỆM CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN_B. 4
TN 24-B153: TẤT CẢ VÌ YÊU.. 7
TN 24-B154: NGÀI LÀ AI?. 9
TN 24-B155: THẦY LÀ AI?. 11
TN 24-B156: CÓ MẤY THỨ THẬP GIÁ?. 12
TN 24-B157: SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 24 TN_B.. 16
TN 24-B158: TA TIN CHÚA GIÊSU NHƯ THẾ NÀO?. 21
TN 24-B159: ĐỨC TIN VÀ HÀNH ĐỘNG.. 24
TN 24-B160: NGƯỞI TA BẢO THẦY LÀ AI?. 27
TN 24-B161: GIỜ NÀY ĐỐI VỚI TÔI ĐỨC KITÔ LÀ AI?. 30
TN 24-B162: NGƯỞI CÓ ĐỨC TIN THẬT.. 33
TN 24-B163: CÒN ANH EM, ANH EM BẢO THẦY LÀ AI?. 36
TN 24-B164: CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN_B.. 38
TN 24-B165: ĐỨC TIN VÀ THẬP GIÁ.. 40
TN 24-B166: CHÚA GIÊSU CÒN CÓ Ý NGHĨA GÌ 42
TN 24-B167: TƯ TƯỞNG CỦA THIÊN CHÚA VS. 45
TN 24-B168: ĐẶT VẤN ĐỀ.. 47
TN 24-B169: CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN_B.. 50
TN 24-B170: THEO ĐƯỜNG CHÚA ĐI 53
TN 24-B171: BA BỨC CHÂN DUNG VỀ ĐỨC GIÊSU KITÔ.. 55
TN 24-B172: THẦY LÀ AI?. 58
TN 24-B173: Thí mạng cùi 62
TN 24-B174: Thầy là Đấng Kitô. 65
TN 24-B175: Chúa Nhật 24 Thường Niên. 68
TN 24-B176: Bạn nghĩ gì về Đức Kitô. 70
TN 24-B177: Chúa Nhật 24 Thường Niên. 71
TN 24-B178: Chúa Nhật 24 Thường Niên. 75
TN 24-B179: Chúa Nhật 24 Thường Niên. 77
TN 24-B180: Chúa Nhật 24 Thường Niên. 79
TN 24-B181: Chúa Nhật 24 Thường Niên. 81
TN 24-B182: Đức Kitô là ai?. 83
TN 24-B183: TUYÊN XƯNG VÀ SỐNG ĐỨC TIN.. 87
TN 24-B184: LẦN ĐẦU PHÊRÔ CHỐI CHÚA.. 88
TN 24-B185: ĐƯỜNG ĐẾN VỚI CHÚA CHA.. 92
TN 24-B186: THẦY MÀ PHẢI ĐAU KHỔ VÀ CHẾT?. 95

------------------------------------------
 

Phúc Âm: Mc 8, 27-35: “Thầy là Ðấng Kitô. Con Người sẽ phải chịu khổ nhiều”.


Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê. Dọc đường, Người hỏi các ông rằng: “Người ta bảo Thầy là ai?” Các ông đáp lại rằng: “Thưa là Gioan tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri”. Bấy giờ Người hỏi: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Phêrô lên tiếng đáp: “Thầy là Ðấng Kitô”. Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả.
Và Người bắt đầu dạy các ông biết Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các điều đó. Bấy giờ Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: “Satan, hãy lui đi! vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người”.
Người tập họp dân chúng cùng các môn đệ lại, và phán: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình”. - Ðó là lời Chúa.
------------------------------------------

 

TN 24-B151: SUY NIỆM CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN_B


Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam

 

 Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta: Đức Giêsu là Đấng Messia, tôi tớ phải chết TN 24-B151


Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày cho chúng ta: Đức Giêsu là Đấng Messia, tôi tớ phải chết thay cho muôn người. Tin mừng ghi lại những nhận định về dung mạo của Đức Giêsu: “Người ta bảo con người là ai?”. Đa số dân Do Thái cũng như các tông đồ đều có quan niệm về một Đấng Messia vinh quang, ưu phiền. Họ mong chờ Ngài đến để giải phóng dân Do Thái khỏi ách thống trị của ngoại bang.

Dư luận quần chúng nhìn nhận Đức Giêsu là một ngôn sứ, là một vĩ nhân làm được nhiều việc lạ lùng phi thường. Nhận thức của quần chúng chưa xác thực về Đấng Messia. Sau khi nghe dư luận của dân chúng, Đức Giêsu muốn thẩm định lập trường, ý kiến của các tông đồ “Còn các con bảo Thầy là ai?”. Phêrô đại diện anh em tông đồ tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô”. Đây là lời tuyên xưng chính xác về Đức Giêsu Đấng Cứu Thế. Nhưng Phêrô không hiểu Đấng Kitô là ai? Vì thế khi nghe Chúa Giêsu loan báo về cuộc tử nạn và phục sinh: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị giết, rồi sau ba ngày sẽ sống lại”. Phêrô không hiểu và không chấp nhận một Đấng Messia phải chịu đau khổ, nên ông có phản ứng theo kiểu trần tục và cản nngăn Chúa Giêsu đi vào con đường khổ nạn, con đường Thập giá. Đức Giêsu đã quở trách Phêrô rất nặng lời: “Satan hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người”.

Chúa trách mắng Phêrô là vì cuộc khổ nạn của Người là ý định cứu độ của Thiên Chúa. Cản ngăn Người là xúi giục Người bất tuân ý Thiên Chúa. Sự xúi giục chống lại ý định của Thiên Chúa chỉ có thể là công việc của Satan muốn phá đổ công trình cứu độ của Thiên Chúa. Như thế Phêrô không hiêỷ biết việc Thiên Chúa và phản ứng hoàn toàn theo kiểu loài người.

Sau khi loan báo về cuộc khổ nạn và phục sinh, Đức giêsu bắt đầu giảng dạy dân chúng và các môn đệ về con đường Ngài phải đi là con đường Thập Giá. Môn đệ theo Chúa cũng phải đi vào con đường Thập Giá mà Thầy mình đã đi: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta”. Đức Giêsu đã đưa ra hai điều kiện cho những ai muốn đi theo Chúa:

– Từ bỏ mình nghĩa là dám từ bỏ tất cả: cha mẹ, của cải, danh vọng, địa vị, ý riêng, từ bỏ những điều xấu để trung thành với Thiên Chúa, để làm theo thánh ý Thiên Chúa.

– Vác thập giá là bước đi theo Chúa trên con đường khổ nạn: hy sinh, quên mình, vui nhận mọi đau khổ, thất bại, sự bắt bớ, mọi khó khăn, bệnh tật… để thông phần vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu.

Đức Giêsu đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại, một tình yêu cao cả: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu dám chết cho người mình yêu”. Mọi sự sống đều ngang qua sự chết. Đau khổ là hy sinh không tunhf yêu. Hy sinh là đau khổ kèm theo tình yêu. Không có tình yêu thì thập giá không là thánh giá. Chính Chúa Giêsu đã chết treo trên thập giá vì yêu thương nhân loại, để từ đó thập giá trở thành Thánh Giá, dấu chỉ tình yêu cứu độ.

Xã hội hôm nay dồi dào của cải vật chất, đầy đủ mọi tiện nghi, sống chủ trương hưởng thụ, sống hiện sinh, Vì thế vui nhận thập giá, chấp nhậ hy sinh đau khổ là một điều khó hiểu… Ai cũng muốn sống sung sướng. Cuộc sống gian khổ thiếu thốn là điều bất đắc dĩ.

Sống ở đời không ai được miễn chuẩn thập giá. Thập giá luôn bám chắc con người như bóng với hình. Qua bài Tin mừng hôm nay, Chúa nhắc bảo người Kitô hữu chúng ta:

– Khi gặp gian nan thử thách, chúng ta nhìn lên thập giá Chúa Giêsu chịu đóng đinh để phát hiện ra tình thương cứu độ của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Giêsu, Đấng đã chết vì yêu thương chúng ta, để dâng lời tạ ơn Thiên Chúa.

– Khi gặp tai ương hoạn nạn, đau yếu, bệnh tật, chúng ta nhìn lên thập giá Chúa Kitô để noi gương Đức Kitô, can đảm vui nhận thập giá cuộc đời.

– Khi chán nản thất vọng, không còn biết cậy trông vào ai, hãy nhìn lên Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập giá để xác tín rằng con đường thập giá là con đường dẫn đến vinh quang Nước Trời.

– Khi gặp bách hại, vu khống, đối xử bất công, hãy nhìn lên Đức Giêsu chịu đóng đinh để tin rằng qua sự chết mới tới được nguồn sống đích thực và tin rằng mình được thông phần vào cuộc khổ nạn của Đức Giêsu Kitô.

Đi theo Đức Giêsu là phải từ bỏ cính mình, vác thập giá sống mầu nhiệm tự hủy như Đức Giêsu Kitô: từ bỏ ý riêng, tính ích kỷ, hận thù, kiêu căng, tự mãn, tính hư nết xấu để luôn vâng phục thánh ý Thiên Chúa như Đức Giêsu Kitô: “Vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá” (Phil 2,8).

------------------------

 

 TN 24-B152: SUY NIỆM CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN_B.


Lm. Giuse Đinh Tất Quý

 

 Câu hỏi xưa kia Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai.” hôm TN 24-B152


Câu hỏi xưa kia Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai.” hôm nay Ngài cũng muốn đặt cho mỗi người chúng ta.

Có thể trả lời hai cách.

Hoặc trả như Phêrô: “Thầy là Con Thiên Chúa hằng sống.”(Mc 28,27)

Trả lời như vậy là rất đúng. Nhưng sợ rằng đó là một câu trả lời lý thuyết, hiển nhiên, có sẵn, theo sách vở. Chúng ta học trong sách thế nào thì thưa lại như vậy, chứ chưa chắc đã là một xác tín của bản thân.

Cách thứ hai là trả lời theo kinh nghiệm bản thân. Sau khi suy nghĩ, cân nhắc mình nghĩ thế nào, cảm nghiệm điều gì thì nói lên trung thực như vậy.

Theo cách này thì trả lời không dễ và mỗi người phải có câu trả lời riêng của mình.

Anh chị em sẽ trả lời như thế nào? Riêng tôi, tôi sẽ thành thật thưa cùng Chúa như thế này: Thầy là người gây rất nhiều phiền toái cho người khác, là một gương mẫu không thể theo nổi nên dễ làm nản lòng… nhưng đồng thời Thầy cũng là người mà con cần đến nhất, không thể thiếu trong đời con.

MỘT NGƯỜI GÂY PHIỀN TOÁI

Vâng! Chúa Giêsu gây rất nhiều phiền toái cho mọi người, nhất là cho những ai muốn theo Ngài. Ngài đòi hỏi quá nhiều. Và những điều Ngài đòi hỏi thường đi ngược lại với bản năng của con người. Ngài mời gọi theo con đường hẹp, và qua cửa hẹp, vác thập giá mỗi ngày. Ngài còn đòi hỏi phải từ bỏ tất cả, kể cả chính bản thân. Tin mừng hôm nay kể lại: Đức Giê-su gọi đám đông cùng với các môn đệ lại và Người nói với họ rằng: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.(Mc 8,34-35)

Nhiều lúc Ngài đặt người môn đệ trước những lựa chọn rất nghiêm ngặt và gay cấn. Muốn trung tín với Ngài nhiều khi phải chịu những thiệt thòi rất lớn, chẳng hạn phải hy sinh tiền của, tình yêu, gia đình, sự nghiệp, tương lai… Và trong thực tế nhiều người đã không có đủ nghị lực để chấp nhận những hy sinh đó.

Một nhà kinh doanh nói: Nếu làm đúng theo lương tâm Kitô giáo thì chúng tôi bị thiệt thòi quá lớn, biết lấy gì mà bù lại được!

Một bà mẹ gia đình nói lên tình trạng bối rối: Nếu giữ đúng luật Chúa thì đời sống chúng tôi sẽ vô cùng chật vật, bấp bênh.

Một đôi trẻ tâm sự: Nếu không phải là người có đạo thì chuyện tình duyên của chúng tôi gỡ rối cũng chẳng có gì khó. Nhưng khổ là mình có đạo nên mới thành bế tắc.

Còn có nhiều lời khác tương tự, nhiều hoàn cảnh bi thảm khác. Quả thật Chúa Giêsu gây không ít phiền toái, rắc rối… làm nhiều người đau khổ.

Vâng! Theo Chúa Giêsu còn khó hơn leo núi. Mà chiều cao của ngọn núi này không thể đo được bằng thước trần gian. Càng leo càng thấy cao và càng thấy dốc. Làm sao đôi lúc có thể tránh được cơn cám dỗ ác hại nhất là bỏ cuộc vì nản lòng.

NHƯNG CHÚA LÀ NGƯỜI MÀ TA CẦN ĐẾN NHẤT

Nhưng xét cho cùng, Chúa Giêsu vẫn là người mà ta cần đến nhất. Thiếu Ngài là ta sẽ chới với, ngả nghiêng. Cuộc đời sẽ chao đảo, lạc hướng, mất hết ý nghĩa.

Cuộc sống cũng như tâm hồn chúng ta có nhiều mơ ước. Có những mơ ước dễ nhìn thấy như những mơ ước về một cuộc sống giầu sang, một cuộc sống có đầy đủ mọi phương tiện, mơ ước về một sự thành đạt để đuợc sống cao hơn, sung sướng hơn… Nếu chỉ dừng lại ở những mơ ước thường ngày, có liên quan đến cuộc sống thể xác, vật chất trước mắt như thế thì có lẽ sự hiện diện của Chúa Giêsu cũng chẳng có ích gì nhiều cho chúng ta.

Nhưng nếu suy nghĩ sâu xa hơn một chút nữa, chúng ta sẽ thấy cuộc sống của con người còn có nhiều mơ ước khác, chúng thầm kín, thâm sâu, luôn âm ỉ dưới chiều sâu, ẩn giấu… nhiều khi chính mình cũng không thể ý thức được hết. Đó là những ước mơ có liên quan đến vận mệnh và ý nghĩa của đời người. Chúng ta vẫn nhận ra mình luôn mơ ước, ít ra một cách mơ hồ về cái gì chân thật, hoàn hảo, vĩnh cửu… nghĩa là mơ ước người chân lý, về sự toàn thiện.

Vấn đề là ai có thể thỏa mãn được những ước mơ thâm sâu và thầm kín đó của chúng ta?

Chắc chắn chỉ có mình Đấng đã tự giới thiệu mình là Chân lý và là Sự sống: “Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống”.

Chúa Giêsu là Chân lý bất biến và tối hậu. Ngài là Sự sống tràn đầy và vô tận… trong khi sự sống thân xác chỉ là một tia lửa lóe lên chốc lát rồi lại tắt ngấm trong đêm dài bất tận. Ngài còn là đường an toàn, chắc chắn, đưa hết thảy chúng ta tới Chân lý và Sự sống trọn vẹn.

Chính vì thế mà Ngài là người mà chúng ta cần đến nhất, một người không thể thiếu… mặc dầu sự hiện diện của Ngài có gây phiền toái, và sự thánh thiện của Ngài đôi khi có làm cho chúng ta nản lòng.

Cho nên lời tuyên xưng xưa của Phêrô còn phải trở thành kinh nghiệm riêng của mỗi người chúng ta hôm nay: ”Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai Ai”.

CÔNG VIỆC PHẢI LÀM: TIN TƯỞNG VÀO CHÚA

Có người kể lại giấc mơ của mình như sau: Tối hôm qua, tôi mơ thấy mình đang cầu nguyện, bỗng chốc một luồng ánh sáng xuất hiện; trong ánh sáng huy hoàng đó, tôi nhận ra Chúa Giêsu đang đứng trước mặt tôi, Ngài mỉm cười nhìn tôi và nói:

– Con hãy đến ngồi trên tấm thảm này với Ta.

Lòng tràn đầy vui sướng, tôi tiến lại gần bên Chúa và ngồi xuống tấm thảm bên cạnh Ngài. Tấm thảm từ từ bay bổng lên không trung đưa theo Chúa Giêsu và tôi ngồi trên đó. Tôi mỉm cười, lòng đầy vui sướng và tự nhủ: thật không còn gì hạnh phúc cho bằng được ở gần bên Chúa.

Một lúc sau, tôi quay nhìn Chúa Giêsu để bày tỏ niềm vui của tôi; thế nhưng tim tôi bắt đầu đập mạnh, vì tôi có cảm tưởng như Chúa Giêsu không còn bận tâm đến tôi nữa, bởi lẽ Ngài đang chăm chú rút từng sợi chỉ của tấm thảm rồi quăng chúng vào không trung. Chẳng mấy chốc tấm thảm chỉ còn lại phân nửa. Hết sợi chỉ này đến sợi chỉ khác từ từ bay lên theo gió, chân tay tôi bắt đầu run lên vì hoảng sợ, thế nhưng Chúa Giêsu vẫn thản nhiên tiếp tục rút từng sợi chỉ. Sau cùng tôi kêu lên:

– Lạy Chúa, Chúa đang làm gì thế? Chúa không thấy là chẳng còn mấy chốc nữa tấm thảm của chúng ta sẽ tan tành hay sao?

Chúa Giêsu mỉn cười nắm lấy tay tôi và nói:

– Sao con lại nhát đảm và kém lòng tin như thế? Con hãy bám chặt vào Ta, con sẽ không phải sợ gì nữa, mặc dù con sẽ bị tước đoạt hết mọi sự, cả đến sợi chỉ cuối cùng”.

Chúa Giêsu vừa dứt lời, thì qủa thực sợi chỉ cuối cùng của tấm thảm cũng bị rút đi luôn, và tôi giật mình thức giấc.

----------------------------

 

 TN 24-B153: TẤT CẢ VÌ YÊU


Lm. Jos. DĐH.

 

 Tầm sư học đạo, với ước mơ có kiến thức, có chỗ đứng trong xã hội, hy vọng một tương lai tươi TN 24-B153


Tầm sư học đạo, với ước mơ có kiến thức, có chỗ đứng trong xã hội, hy vọng một tương lai tươi sáng hơn, bao giờ cũng thực tế, hào hứng, vì người ta luôn khao khát một cuộc sống thật ý nghĩa. Tìm kiếm một thế lực để che chắn, bảo vệ mình khỏi gặp nguy hiểm trên hành trình đời này, chung chung vẫn được coi là người khôn ngoan. Bước vào trường đời, cho dù mỗi người mỗi vẻ, nhưng tất cả đều phát xuất bởi tình yêu, và đi đến cùng đích là gặt hái niềm an vui hạnh phúc. Khởi đầu cho ơn gọi làm người, dù không sinh ra trong nhung lụa, không may mắn có các vệ sĩ bao bọc, mỗi người vẫn có cơ hội chọn lựa phong cách sống hữu hiệu nhất, tự do học và hành, để rồi sẽ không phải hối tiếc khi cuộc đời của mình khép lại.

Trọng thầy mới được làm thầy, muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy, phải chăng đó chỉ là câu thành ngữ nhằm khích lệ mọi người phát huy nét đẹp giữa tình thầy trò ? “Người ta bảo Thầy là ai” ? Có phải đó là câu hỏi thăm dò dư luận, hay đó chỉ là câu hỏi vô tình như biết bao cuộc hàn huyên tâm sự ? Câu trả lời rất phong phú của số học trò liền ngay đó, Vị Thầy không gật không lắc, Ngài đưa dẫn các trò tới mức độ thân tình, cụ thể hơn: “phần các con, các con bảo Thầy là ai” ? Thực ra Thầy Giêsu quá biết tâm tính các học trò xưa cũng như nay của Ngài, câu hỏi và câu trả lời giữa tình Thầy-trò sẽ chỉ rõ cường độ được yêu thương, sẻ chia, và sẽ âm vang mãi, đầm ấm dài lâu.

Vì yêu thương, Đức Giêsu công khai tuyên bố cho các học trò về sứ mạng của Ngài ở phía trước: “Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại”. Vì yêu, các học trò được nghe, được hiểu, được biến đổi, rồi sẽ được người ta gọi là thầy, và tất cả sẽ được nên một trong tình yêu Giêsu. Nếu sứ mạng của Đức Giêsu không có đau khổ, không mang vác thập giá, chắc chắn sẽ dễ chịu hơn, sẽ không khó khăn gì cho những ai là học trò, là thần dân của Ngài. Chính vì yêu, người học trò mới nhận ra Đức Giêsu chịu đóng đinh là Thầy, là Chúa, là Đấng cứu độ ; vì yêu, sức nặng của thập giá và tội lỗi thế gian không ngăn cản được Đức Giêsu chịu tử nạn và phục sinh, cứu nhân loại khỏi chết.

Tục ngữ có câu: nói một đàng, quàng một nẻo, hẳn cha ông chúng ta không có ý trách một vài cá nhân cẩu thả trong công việc ; thực ra các ngài lưu ý con cháu ý thức tinh thần làm việc của mình phải nghiêm túc với trọng trách được giao phó. Tuyên xưng Đức Giêsu là Thầy, là Chúa, đã không đơn giản đối với nhóm 12 rồi, sống niềm tin, sống sứ mạng như Thầy vác thập giá và dám mất mạng sống vì Thầy, vì yêu, vì Tin mừng, càng phức tạp biết bao. Hữu tâm tất thành sự, có đầy trong lòng mới tràn ra, có thật sự yêu mến Thầy, mới hiểu Đức Giêsu chịu đóng đinh thập giá và Đức Giêsu sống lại vinh quang chính là Thiên Chúa cứu độ.

Là học trò theo Đức Giêsu hàng ngày, hàng tuần, hàng năm và cả cuộc đời, không những có cơ hội tuyên xưng Thầy là Đức Kitô, là Đấng cứu độ, mỗi người còn có dịp để từ bỏ mình, vác thập giá để minh chứng tình yêu mà chúng ta đang nhận lãnh, chia sẻ. Là học trò, là môn đệ Đức Kitô, tất cả phải chấp nhận để Đức Kitô gọt giũa hàng ngày, phải để Ngài biến đổi, hầu biết minh chứng tình yêu và lòng mến trước sứ mạng theo Chúa là bỏ mình, bỏ cái tôi ích kỷ. Thời đại công nghệ số hôm nay, lại một lần nữa nhắc nhớ chúng ta thế nào là từ bỏ, là quên mình ? Từ bỏ một giờ, một ngày, một tuần, ngưng sử dụng điện thoại, facebook, máy tính, mà chú tâm cầu nguyện, đi lễ, tĩnh tâm, quả là khó biết chừng nào ?

Tất cả vì yêu, tất cả là hồng ân, tất cả dũng cảm khi giặc tấn công, và khi giặc bỏ chạy, ai cũng là anh hùng. Có biết yêu mới theo Chúa được, có tin Chúa, mới thấy cuộc đời mỗi người đều được bao bọc bởi tình yêu thương của Chúa. Có vác thập giá theo Chúa hàng ngày, người ta mới thấy quyền năng và phép lạ Chúa đang biến đổi con người bất toàn của mình. Xưa kia Đức Giêsu kêu gọi ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác thập giá hàng ngày mà theo Ta, Ngài còn lưu ý chúng ta hãy đi đằng sau Thầy để hiểu rõ hơn như thế nào là yêu.

Mang thân phận là con cái Chúa, là học trò của Đức Giêsu, dù trong ơn gọi là thường dân, là tu sĩ, là linh mục, chúng ta đều cơ hội để sống yêu thương, phục vụ, với điều kiện riêng của mình. Đức Giêsu sẽ không hài lòng, nếu chúng ta tuyên xưng niềm tin về Thiên Chúa cách chung chung, Ngài cũng không đồng ý khi chúng ta sống niềm tin hời hợt lý thuyết, nhưng là biết hành động khôn ngoan theo ý Chúa, đi đằng sau Chúa. Ý chí quyết tâm, cần thiết cho những ai muốn đến điểm đích của hạnh phúc, tình yêu lại là căn bản để những ai sống tương quan với Chúa và tha nhân. Chúa gọi nhóm 12 làm học trò, biến đổi các ông làm tông đồ xây dựng nước Chúa, nhưng vì yêu, Ngài chịu đóng đinh thập giá để giải thoát tội lỗi và sự chết cho cả nhân loại. Dù ơn gọi của chúng ta là linh mục, tu sĩ, người giáo dân bình thường, tất cả đều là đối tượng của Thiên Chúa yêu thương, cứu độ. Amen.

-------------------------

 

 TN 24-B154: NGÀI LÀ AI?


Anna Cỏ May

 

 Vừa tan học, Lan chạy nhanh đến với Hà. -Hà ơi, hô nay lớp mình có bạn mới xinh lắm! Tớ nghe TN 24-B154


Vừa tan học, Lan chạy nhanh đến với Hà.

-Hà ơi, hôm nay lớp mình có bạn mới xinh lắm! Tớ nghe nói gia đình bạn mới chuyển từ Bắc vào đây.

-À, ớ còn nghe nói cậu ấy học rất giỏi nữa!

-Vậy hả! Thế có giỏi bằng thằng Tài không nhỉ?

-Ai mà biết được.

Thế là hai cô bạn ríu rít suốt đường đi. Ánh nắng cứ chiếu theo hai tâm hồn ngây thơ.

Cuộc sống là một cuộc đối thoại: trong gia đình, cha mẹ với con cái; nơi công xưởng, cấp trên với cấp dưới; trong trường học, giữa thầy cô với học sinh hay giữa bạn bè với nhau. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su cùng trò chuyện với các môn đệ trên đường đi tới vùng Xêdarê Philípphê. Ngài hỏi họ: “Người ta nói Thầy là ai?” (Mc 8,27). Câu hỏi ngắn nhưng gợi lên nơi các môn đệ sự hiểu biết khả năng quan sát và lắng nghe. Được Thầy hỏi, các môn đệ háo hức trả lời: “Họ bảo thầy là ông Gioan Tẩy Giả; có kẻ thì bảo là ông Êlia; kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó” (Mc 8,27-28). Các môn đệ đã trả lời những gì các ông nghe dân chúng nói về Thầy. Thấy các môn đệ háo hức trả lời, Chúa Giê-su quay sang hỏi chính các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Lúc này, có lẽ vì không ai trả lời hay vì Phêrô luôn nhanh nhẹn đi trước, nên trả lời rằng: “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8,29). Một lời xác tín mạnh mẽ của ông Phêrô đã an ủi Chúa Giêsu. Nhưng khi Chúa Giê-su bắt đầu nói cho các ông biết rằng: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục thượng tế và các kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8,31) thì ông Phêrô liền kéo Chúa Giê-su ra và trách Ngài. Hành động của ông không hẳn là xấu nhưng nếu hiểu theo quan niệm của con người bình thường thì là một hành động quá đẹp vì ông sợ Thầy phải đau khổ, phải chết, sợ mất cuộc sống hiện tại với Thầy. Dầu vậy, Chúa Giê-su vẫn nói: “Xa tan, lui lại đằng sau Thầy. Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người” (Mc 8,33). Dù đã bị Thầy trách mắng như vậy, nhưng ông vẫn là người đứng đầu Hội Thánh của Thầy vì ông đã thay đổi. Vì thế, chúng ta hãy tin rằng, dù chúng ta thế nào đi chăng nữa, chúng ta vẫn ở với Chúa Giê-su, miễn là chúng ta để mình được thay đổi theo Ý Chúa.

“Lạy Chúa, con thấy tư tưởng người khó hiểu biết bao

Tính chung lại, ôi nhiều vô kể

Đếm sao nổi vì nhiều hơn cát

Dù có đếm xong con vẫn ở với Ngài”

(Tv 139,17-18).

Chúa Giê-su rất yêu thương mỗi người chúng ta, Ngài không bỏ rơi một ai. Ông Phêrô dù nhiều lần phạm tội, nhưng ông luôn biết hoán cải trước mắt Chúa. Theo gương ông Phêrô, chúng ta cùng hãy hoán cải trở về với Chúa mỗi ngày.

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa luôn yêu thương, nâng đỡ chúng con. Xin cho chúng con biết chọn Chúa là đối tượng duy nhất để “dù ăn, dù uống hay bất cứ làm việc gì, chúng con làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa”(x.1Cv 30,31). Amen.

--------------------------

 

 TN 24-B155: THẦY LÀ AI?


Bông hồng nhỏ

 

 Chị họ từ Bắc vào Nam thăm cô em. Đón chị, cô em vui vẻ mời: Chị ăn sầu riêng không? Em mời TN 24-B155


Chị họ từ Bắc vào Nam thăm cô em. Đón chị, cô em vui vẻ mời:

Chị ăn sầu riêng không? Em mời
Chị nghe người ta bảo sầu riêng thối lắm.
Chị đã ăn bao giờ chưa?
À, chưa em.
Chị ăn thử đi, ngon lắm. Em dẫn chị ra vườn sầu riêng cho biết.
Ừm. Chị cũng muốn thử xem sao.
Mới ngửi thấy hương thơm, chị vồn vã hỏi:

Mùi gì thơm quá vậy em?
Sầu riêng đó chị.
Ăn sầu riêng xong, chị vui vẻ:

Sầu riêng ngon thật.

Có những điều tai nghe mắt thấy nhưng chưa nếm thử sẽ không tự mình biết rõ. Chỉ khi chính bản thân trải nghiệm, ta mới rõ. Hôm nay, Thầy Giê-su cũng hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai? (Mc 8,27b). Và các ông đã lần lượt đưa ra các câu trả lời cụ thể. Thế nhưng, Thầy Giê-su muốn các ông phải có chính kiến riêng của mình: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Tông đồ trưởng Phêrô đã thay mặt anh em mình trả lời: “Thầy là Đấng Kitô”(Mc 8,29b). Chắc hẳn, Thầy Giê-su đã rất hài lòng với câu trả lời này. Thầy vui khi học trò biết về Thầy. Có yêu mến Thầy mới hiểu Thầy như vậy. Sau đó, Thầy ân cần loan báo Cuộc Thương Khó và Phục Sinh cho các ông để các ông hiểu rõ hơn về sứ mạng của mình. Nghe tin Thầy sẽ gặp nạn, ông Phêrô đã kéo riêng Người và bắt đầu trách Người (x.Mc 8,32). Tấm lòng thương mến, lo lắng cho Thầy của ông là điều đáng quý, đáng trân trọng. Thế nhưng ước muốn của ông đi ngược lại với Thánh Ý Thiên Chúa. Không biết khi bị Thầy mắng là: “Xa tan, lui lại đằng sau Thầy! vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”, Phêrô có cảm thấy xấu hổ không? Có cảm thấy mất mặt trước anh em không? Chẳng lẽ Thầy không hiểu tấm lòng yêu kính, lo lắng cho Thầy của ông sao? Khi đối diện với ánh mắt Thầy, có lẽ ông đã nhận thấy lời nói nghiêm khắc của Thầy chứa đầy lòng xót thương. Chính ánh mắt đầy yêu thương của Thầy đã đánh tan tất cả.

“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Mc 8,34). Đó là điều kiện phải có để theo Thầy. Theo Thầy, Tông đồ Phêrô đã chấp nhận bỏ chính mình, từ bỏ chính ý muốn của bản thân để cho Thánh Ý Thiên Chúa được thể hiện. Đó cũng chính là con đường mà những ai muốn theo Chúa sẽ đi qua. Mỗi người khi theo Chúa với những bước đường khác nhau: gian nan, khốn khổ, đói rách, bắt bớ, hiểm nguy,… nhưng chính niềm tin vững vàng vào Chúa Giê-su sẽ giúp ta vượt qua tất cả. Tin vào Chúa là điều kiện tiên quyết và can đảm bước theo sát Chúa như một minh chứng rõ ràng cho niềm tin của mình. Chính Chúa sẽ dẫn dắt mỗi người đi trên con đường “từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Chẳng phải chính là Đấng là Con Thiên Chúa làm người cũng đã trải qua muôn vàn gian khổ mói học được thế nào là vâng phục đó sao? (Dt 5,8). Vâng phục là thái độ của con tim yêu mến và một đức tin sống động.

Lạy Chúa Giê-su yêu mến! Trong thử thách, đau thương của nghịch cảnh, con đã kêu lên Chúa: “Lạy Chúa! Chúa là ai mà khiến con phải gian nan, khốn khổ? Chúa là ai mà con phải chiến đấu vất vả từng giây từng phút để được ở với Ngài và để được yêu mến Ngài? Và con đã thưa lên với Chúa lời nguyện con từng được đọc: “Thập giá mỗi ngày làm con xao xuyến nhưng Thánh giá Chúa cho con hy vọng Phục Sinh”. Chúa là nguồn bình an con đang tìm kiếm, là hạnh phúc một đời con đợi trông. Xin Chúa dẫn con bước theo Chúa để con được cùng Chúa hân hoan ngợi khen Thiên Chúa toàn năng. Amen.

-------------------------

 

 TN 24-B156: CÓ MẤY THỨ THẬP GIÁ?


Lm. An Phong Nguyễn Công Minh

 

 Phêrô sau khi được điểm 10 vì trả lời xuôi câu hỏi Giêsu là ai, lại bị ngay điểm 0, vì chẳng hiểu gì TN 24-B156


Phêrô sau khi được điểm 10 vì trả lời xuôi câu hỏi Giêsu là ai, lại bị ngay điểm 0, vì chẳng hiểu gì về đường lối của Thiên Chúa: “Satan, hãy lui lại đàng sau, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là tư tưởng của loài người”

Tư tưởng của Thiên Chúa là Đức Kitô phải chịu đau khổ rồi mới được vinh quang. Rồi sau đó Đức Giêsu dạy các môn đệ phải từ bỏ mình và hãy “vác thập giá” mà đi theo Chúa.

Nếu vác thập giá có nghĩa là mang thánh giá, đeo thánh giá, thì nhiều người trong chúng ta – nhất là các bà các cô, và các chàng hippy cao bồi xưa đã thực thi Lời Chúa triệt để: Họ mang thánh giá trên ngực, giờ họ mang toòn teng cả 2 lỗ tai. Có thời thánh giá nhỏ, có lúc mang thánh giá thật to. Lúc vàng, lúc gỗ….

Mang thánh giá như vậy cũng có điều tốt, vì một cách nào đó làm cho bóng thánh giá hiện diện đó đây. Nhưng cũng có khi – và nhiều khi – không mang những thánh giá như vậy, mà vẫn là vác thánh giá thật. Những thánh giá thật đó là những thánh giá nào ? Ta hãy nương theo thánh Giêronimo, để liệt kê 4 loại thánh giá:

1- Thánh giá vì đạo

-Thánh giá vì đạo đạt tới bậc cao là chết vì đạo, cho dù chết trên thập tự hay chết vì thú dữ xé thây, hay chết vì lưỡi gươm lý hình, thì cũng là vác thập giá tử vì đạo.

Vào những thế kỷ đầu của kỷ nguyên Kitô giáo, ở Roma xa xôi, xa về không gian lẫn thời gian ; ở những nước gần chúng ta hơn như Triều Tiên, Nhật Bản, Philippines ; hoặc ngay tại quê hương đất nước chúng ta, cách đây hơn 100 năm thôi: đã có bao nhiêu kẻ vì muốn theo Chúa Kitô mà đã phải vác lấy thập giá tử vì đạo này. 117 + 1 vị còn đó, lễ kính ngày 24/11: thánh Anrê Dũng Lạc và các bạn tử đạo. Nhật có Phaolo Miki và các bạn, lễ kính 6-2. Đại Hàn có 103 vị tử đạo được ĐGH JP2 đến Seoul phong thánh 1984, lễ mừng 20-9: thánh Kim Taegon và Chung Hasan cùng các bạn. Phi Luật Tân có thánh Laurenso Ruiz và các bạn, kính ngày 28-9 ; và những vị tử đạo tiên khởi Roma, kính ngày 30-6.

Thánh giá vì đạo ở đỉnh cao là Tử vì đạo.

-Thánh giá vì đạo ở bậc trung là những bách hại vì đạo: vì là người Công Giáo, vì là người theo Đức Kitô mà ta bị trù dập, mất việc, xếp ở cột 12 trong sơ yếu lý lịch !

Cũng có thể được xếp vào bậc trung thánh giá vì đạo, là loại thánh giá đặc biệt, không phải vì đạo mà là do Đạo gây ra. Trong lịch sử ta thấy điển hình có Galilê, bị chính Đạo o ép suýt bị hoả thiêu khi ông chứng minh trái đất quay chứ không phải mặt trời chạy.

Vào khoảng năm 1990, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình đi “ad limina” ở Roma về, ngài vui mừng, chia sẻ: lần này Toà Thánh đã xem tôi là người Công Giáo rồi ! Là vì trong quá trình sống chung với anh em sau năm 1975, ngài đã bị báo cáo này nọ, chẳng hạn ngài là giám mục chưa đến nỗi “quốc doanh” nhưng là loại “công tư hợp doanh.”

Có những bổn đạo “được” cha xứ để ý cách riêng, gọi thẳng ra là trù dập, o ép. Thánh giá bởi đạo là thế, tuy không phổ biến, không nhiều, nhưng cũng khá nặng. Nặng hạng trung.

-Thánh giá vì đạo ở bậc thấp là tuân giữ lề luật của đạo. Chẳng ai bách hại trù dập vì đạo, chẳng ai chặt đầu đóng đinh vì đạo, thì ở mọi thời ta vẫn còn phải vác thập giá vì đạo loại cấp thấp này: Ăn chay, kiêng thịt, đọc kinh, đi lễ …, đó là những thánh giá do đạo mà ta phải vác nếu ta muốn theo Đức Kitô.

2- Thánh giá do Chúa [Quan Phòng]

Có khi là chính Chúa gửi tới, có khi là Ngài quan phòng để cho sự việc xảy ra. Thánh giá loại này bao gồm tất cả những bệnh tật, lo âu, sợ hãi, chán nản, thất bại, mà ta gặp trong cuộc sống. Bi quan hơn một chút, thì cả cuộc sống là thập giá.

“Đã mang tiếng khóc chào đời” – chẳng bé thơ nào – chẳng ai bước chân vào đời mà nở nụ cười cả. Phật thì bảo: Đời là bể khổ. Bởi đó có thể nói thánh giá loại này được gọi là khổ giá. Nếu vác cho khéo sẽ thành thánh giá.

-Hiệp sĩ Phanxicô vì một cơn bệnh thập tử nhất sinh mà hoán cải thành thánh. Khổ giá biến thành thánh giá.

-Anphôngsô thất bại trước một vụ kiện mà quay về với Chúa. Khổ giá thành thánh giá.

Nhiều người do cha mẹ chết sớm, vác thập giá nuôi bầy em, mà nên những vĩ nhân. Nhiều bạn trẻ thi rớt, nhiều bạn trai bị bồ đá, đau quá, dốc quyết đi tu, đỗ cụ làm cha !

3- Thập giá do ma quỉ

Ma quỉ có thật chứ không phải chuyện huyền thoại, thần sầu quỉ khốc đâu. Và ma quỉ lại không ở yên. Ma quỉ hành động, hành động tích cực. Cứ đọc sách Job thì biết. Những trang đầu của sách Sáng Thế cũng vậy. Và nhất là trong cuộc đời của Chúa Giêsu, quỉ ma cũng không buông tha Ngài.

Vì thế thập giá do ma quỉ là những chước cám dỗ: mưu ma chước quỉ. Ở thời nào cũng có, ở nơi nào cũng có, ở lứa tuổi nào cũng có, ở ngành nghề nào cũng có.

Nghề buôn thì có cám dỗ làm giàu bằng con đường tắt, con đường lậu ; nghề xây cất thì có cám dỗ xây một, cất (giấu) hai.

Tuổi trẻ có cám dỗ về ăn chơi phung phí. Tuổi già có cám dỗ về kể lể thành công. Học sinh có cám dỗ cóp bài, tìm phao. Công nhân có cám dỗ câu giờ lao động.

Người chồng có cám dỗ thấy vợ người khác duyên dáng thuỳ mị hơn bà xã ở nhà. Người vợ có cám dỗ thấy chồng nhà bên cạnh tháo vát lanh lợi hơn ông chồng nhà mình…

Ta không thể kể xiết, bởi có những cám dỗ tinh vi mưu mô hơn nữa kìa. Nhất là những cám dỗ len lỏi vào cả trong việc đạo đức cầu kinh.

Vác những cám dỗ đó, mà không sa vào những cám dỗ đó, nhưng vác đem đi xa: chứ không phải sa chước cám dỗ (trong kinh Lạy Cha) – quả là một cách vác thập giá theo chân Chúa.

4- Thánh giá do chính mình

Đây là tên gọi của những hy sinh, hãm mình. Hy sinh, hãm mình là những điều mình đáng ra không phải làm, nhưng mình làm thêm. Đáng ra mình được hưởng, nhưng mình không hưởng.

Được xem Tivi giải trí, mình hãm mình không xem.

Không phải quét nhà, nhưng hy sinh cầm cái chổi…

Người ta kể Phanxicô thường rắc thêm tro vào thức ăn, để ăn bớt ngon hơn hầu hãm mình. Mặc áo, thì lót thêm ít vải gai bố hầu ép thân ép xác (như mặc áo nhặm).

Phải đi với người ta một dặm, mình hi sinh đi thêm một dặm nữa.

Gương các vị thánh về hy sinh cũng đầy dẫy, và trong gia đình, gương hi sinh của cha mẹ anh chị cũng không thiếu.

Mẹ thức thêm để vá cho con chiếc áo, cha làm thêm giờ để lo cho con một món đồ chơi. Mẹ nhịn miếng thịt để cho con trai lớn, bố nhường trái chuối cho bé út trong nhà.

Trên đây là ta dựa theo cách liệt kê của thánh Giêrônimo để mô tả 4 loại thập giá mà ta thường phải vác: thập giá vì đạo, thập giá vì Chúa, thập giá do ma, thập giá bởi mình.

Nhưng cũng có nhiều cách vác.Vác mà càu nhàu lẩm bẩm thì giá đã nặng lại nặng thêm mà không sinh ích gì. Còn vác cùng với Chúa, theo chân Chúa, thì ánh sáng mới loé ở chân trời.

Per crucem ad lucem: qua thập giá đến ánh sáng là một châm ngôn của Dòng Mến Thánh Giá, được sáng lập từ Việt Nam. Và gẫm Năm Sự Thương, thứ tư thì ngắm: Đức Chúa Giêsu vác thánh giá – Ta hãy xin cho được vác thánh giá theo chân Chúa. Hãy “vác thánh giá theo chân Chúa,” sẽ thấy tương lai tươi sáng cuối đường hầm vậy.

--------------------------

 

 TN 24-B157: SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 24 TN_B


Lm. Inhaxio Hồ Thông

 

Chúa Nhật XXIV này được định vị vào trong viễn cảnh của cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh. Theo Tin TN 24-B157


Chúa Nhật XXIV này được định vị vào trong viễn cảnh của cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh. Theo Tin Mừng Mác-cô, đây là lần đầu tiên Đức Giê-su loan báo cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài.

Is 50: 5-9

Bài đọc I trích từ tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị là bài ca thứ ba trong bốn bài ca về Người Tôi Trung chịu đau khổ; Người Tôi Trung này tìm gặp nơi Chúa sức mạnh của mình và chấp nhận mọi thử thách đau thương.

Gc 2: 14-18

Trong đoạn trích thư của thánh Gia-cô-bê hôm nay, thánh nhân dạy rằng “đức tin không việc làm là đức tin chết”.

Mc 8: 27-35

Trong Tin Mừng Mác-cô, sau khi nghe lời tuyên xưng của thánh Phê-rô: “Thầy là Đấng Ki-tô”, Đức Giê-su loan báo cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh sắp đến của Ngài.

BÀI ĐỌC I (Is 50: 5-9)

Bản văn này được trích dẫn từ một trong bốn bài thơ về một dung mạo bí ẩn của Người Tôi Trung thập toàn của Đức Chúa trong tác phẩm của I-sai-a đệ nhị (Is 40-55). Hai bài thơ sau cùng đều cho thấy Người Công Chính này chịu mắng nhiếc phỉ nhổ (bài thơ thứ ba mà chúng ta đọc hôm nay), đoạn bị giết chết một cách nhục nhã nhưng tiếp đó tràn đầy vinh quang (bài thơ thứ tư). Chúng ta gặp thấy ở nơi dung mạo của Người Tôi Trung chịu đau khổ này, dung mạo của Chúa Giê-su, Đấng chịu đau khổ để đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.

Dung mạo của Người Tôi Trung chịu đau khổ

Người Tôi Trung này là sứ giả của Thiên Chúa, ông đã được thông báo cho biết sứ mạng được trao phó cho ông không là dễ dàng, nhưng ông “không cưỡng lại cũng chẳng tháo lui” 50: 5). Sứ mạng này được xác định ở đoạn trên: “biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức” (50: 4). Ông chẳng đón nhận gì ngoài những vô ơn bạc nghĩa: bách hại, đánh đòn, nhục mạ; ông cam chịu mà không hề than vãn một lời. Sức mạnh và sự thanh thản của ông đến từ niềm tín thác vào Thiên Chúa, Đấng phù trợ ông, Đấng tuyên bố rằng ông công chính, Người ở kề bên ông. Vì thế chẳng có gì phải nao núng cả: “Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu tòa! Ai muốn kiện cáo tôi ? Cứ thử đến đây coi!” (50: 8).

Dung mạo của Đức Ki tô

Ở nơi dung mạo của Người Tôi Trung này chúng ta đọc thấy dung mạo của Đức Ki-tô. Chính Ngài cũng là Đấng được Thiên Chúa sai đến. Sứ điệp mà Ngài mang đến là Tin Mừng cho những người nghèo khổ. Ấy vậy, chính Ngài phải gánh chịu muôn vàn đau khổ và bách hại mà không hề than van một lời. Và cũng chính Ngài công bố: “Ai có thể bắt lỗi tôi điều gì?”. Ngài biết rằng Chúa Cha sẽ tôn vinh Ngài và Chúa Thánh Thần sẽ minh oan cho Ngài.

BÀI ĐỌC II (Gc 2: 14-18)

Chúng ta tiếp tục đọc Thư của thánh Gia-cô-bê.

Đức tin không việc làm là đức tin chết

Đoạn trích hôm nay tập trung vào một chủ đề: “đức tin không hành động là đức tin chết”. Đức tin tích cực năng động là đức tin hướng đến việc thực thi đức ái. Lời khuyên bảo của thánh Gia-cô-bê rất thực tế: lời khuyên này được một ví dụ cụ thể minh họa và được trình bày rất thấm thía. Những lời hay ý đẹp chỉ là như gió thoảng qua, thậm chí chỉ là giả hình, nếu người ta không đề ra những phương sách cứu giúp những người anh chị em đau khổ của mình.

So sánh giáo huấn của thánh Gia-cô-bê và của thánh Phao-lô

Khi tuyên bố “Đức tin không việc làm là đức tin chết”, phải chăng thánh Gia-cô-bê chủ trương một lập trường trái ngược với thánh Phao-lô như được trình bày trong các thư gởi tín hữu Ga-lát và Rô-ma: “Con người được nên công chính không phải nhờ làm những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Ki-tô” (Gl 2: 16; x. Rm 3: 20)? Nói đúng hơn, thánh Gia-cô-bê cảnh giác những người Ki-tô hữu gốc Do thái coi chừng một lối giải thích lạm dụng giáo huấn của thánh Phao-lô. Người ta không thể trách cứ thánh Phao-lô là không ca ngợi việc làm, đặc biệt là đức ái, vì nếu không có đức ái thì đức tin “chỉ là tiếng phèng la inh ỏi”.

Tuy nhiên, thánh Phao-lô, vị Tông Đồ dân ngoại, muốn chứng minh rằng những việc lành phúc đức của luật Mô-sê không thể đạt được ơn cứu độ, từ nay chỉ có một nguồn ơn cứu độ duy nhất là “tin vào Đức Ki tô”. Mục đích của thánh Gia-cô-bê là làm nổi bật những thành quả của luật mới, mà hàng đầu là Đức Ái. Đành rằng đức tin là Thiên Ân và nhờ đức tin chứ không vì công nghiệp mà chúng ta được nên công chính, nhưng việc làm của chúng ta chứng tỏ rằng đức tin ấy đầy sức sống, chứ không èo uột héo khô.

TIN MỪNG (Mc 8: 27-35)

Chúng ta đang ở giai đoạn Đức Giê-su tìm kiếm một sự yên tỉnh ngoài biên giới miền Ga-li-lê để được ở một mình với các môn đệ và dành trọn thời gian vào việc huấn luyện họ.

Bối cảnh của cuộc chuyện trò

Như chúng ta đã biết, Đức Giê-su đã rút lui vào vùng Tia, đoạn miền Thập Tỉnh. Bây giờ Ngài rời Bết-sai-đa để tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp, vùng cực Bắc xứ Pha-lê-tinh. Lãnh địa này không thuộc quyền của tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pát, nhưng em của ông là tiểu vương Phi-líp-phê, một nhà cai trị cẩn trọng và khôn ngoan. Chính tiểu vương Phi-líp-phê là người xây dựng thành Xê-da-rê mang tên ông để phân biệt với thành Xê-da-rê duyên hải. Như vậy Đức Giê-su đã dẫn các môn đệ đi sâu vào vùng đất lương dân, lên đến thượng nguồn của dòng sông Giô-đan. Trên lãnh địa này, người ta có thể đi lại một cách thanh bình. Đức Giê-su đồng hành với các môn đệ của Ngài. Những dòng suối của sông Giô-đan thì rất gần, cảnh vật êm ả, chính trong khung cảnh êm ả và thanh bình này mà cuộc nói chuyện giữa Thầy trò diễn ra.

Thánh Lu-ca đặt câu chuyện này vào trong bối cảnh Đức Giê-su cầu nguyện một mình và có các môn đệ ở đó với Ngài (Lc 9: 18-21: thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra việc Đức Giê-su cầu nguyện vào những giờ phút trang trọng), trong khi thánh Mác-cô nói với chúng ta rằng Đức Giê-su và các môn đệ vừa đi vừa trò chuyện với nhau. Đối với thánh Mác-cô, chính nhờ đồng hành với Đức Giê-su, lắng nghe Ngài, mà chúng ta có thể hiểu được dung mạo đích thật của Ngài hơn.

Thăm dò niềm tin của các môn đệ về Ngài

Trước hết Đức Giê-su hỏi các môn đệ về dư luận quần chúng: họ nói gì về Ngài, ngõ hầu giúp các ông hiểu rõ hơn niềm tin của họ vào Ngài. Các môn đệ đáp: “Họ bảo Thầy là Gioan Tẩy Giả; có kẻ bảo là ông Ê-li-a; kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”.  Trong những dư luận này, việc đồng hóa Đức Giê-su với ông Gioan Tẩy Giả thật lạ lùng nhưng nhắc nhớ lời phát biểu của tiểu vương Hê-rô-đê khi nghe danh tiếng Đức Giê-su: “Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ” (Mt 14: 1-2). Việc dân chúng nhận biết Đức Giê-su là một trong những đại ngôn sứ đã là một bước tiến đáng kể trên con đường đức tin rồi, tuy nhiên vẫn còn rất xa chân tính của Ngài.

Thật ra, câu hỏi của Đức Giê-su: “Người ta nói Thầy là ai?” chỉ là câu hỏi khởi động cuộc nói chuyện nhằm giúp các môn đệ cởi mở tấm lòng với Thầy, nhưng câu hỏi mà Ngài muốn hỏi các ông chính là “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Với câu hỏi này, Đức Giê-su muốn trắc nghiệm niềm tin của các môn đệ về Ngài sau những ngày tháng được sống bên Ngài, lắng nghe những lời Ngài nói và thấy những việc Ngài làm. Thay mặt cho các môn đệ, ông Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki tô”. Tại thánh Mát-thêu, thánh Phê-rô thưa: “Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 16). Tại thánh Lu-ca, thánh Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa” (Lc 9: 20). Quả thật, đây là một câu trả lời vượt quá khả năng của thánh Phê-rô mà trong cùng một câu chuyện, thánh Mát-thêu ghi lại nhận xét của Đức Giê-su: “Không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều này, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16: 17). Bởi vì chỉ mới vừa trước đây thôi Ngài đã quở trách các ông vì lòng trí các ông quá chậm hiểu trước sứ điệp và con người của Ngài. Theo Tin Mừng Mác-cô, lời tuyên xưng của thánh Phê-rô: “Thầy là Đấng Ki-tô” là đỉnh cao của phẩn thứ nhất về “mầu nhiệm Đấng Ki-tô” (Mc 1-10) và lời tuyên xưng của viên quan ngoại giáo dưới chân thập giá: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (15: 39) là đỉnh cao của phần thứ hai về “mầu nhiệm Con Thiên Chúa” (Mc 11-16).

Ngay lập tức Đức Giê-su cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài. Lệnh cấm này được lập đi lập lại nhiều lần trong Tin Mừng Mác-cô mà các nhà chuyên môn gọi “bí mật Đấng Mê-si-a”. Bí mật Đấng Mê-si-a này thường liên quan đến các phép lạ, bây giờ chính là chân tính Mê-si-a của Ngài. Tại sao lại có lệnh cấm này? Bởi vì Ngài sợ người ta hiểu lầm tước hiệu Mê-si-a theo nghĩa một vị vua toàn thắng trên bình diện trần thế và chính trị. Mặt khác, lúc này các môn đệ không thể hiểu hết được mầu nhiệm Mê-si-a hàm chứa trong ý định của Thiên Chúa. Rõ ràng, Đức Giê-su sắp vén bức màn mầu nhiệm này.

Loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài

Đây là lần đầu tiên Đức Giê-su loan báo cho họ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, các thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại”. Cái tất yếu mà Đức Giê-su nêu lên: “Con Người phải…”, không là tất yếu của định mệnh, nhưng là cái tất yếu thuộc trật tự thần học, chính là cái tất yếu của chương trình Thiên Chúa. Cuộc Khổ Nạn không là một tai nạn mà biến cố Phục Sinh sẽ sửa sai, nhưng là một phần của mầu nhiệm cứu độ nhân loại. Vào giây phút này, Đức Giê-su không cho các ông bất cứ lời giải thích nào khác ngoài cái tất yếu (“phải”) này.

Phản ứng của thánh Phê-rô

Trong lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài, Đức Giê-su cẩn trọng tránh nói đến việc Ngài bị đánh đập và bị đóng đinh vào khổ giá. Nhưng như thế cũng đủ gây nên một sự choáng váng ở nơi các môn đệ. Một cách tế nhị, “thánh Phê-rô liền kéo riêng Người ra mà trách”. Chúng ta có thể hiểu được phản ứng của thánh Phê-rô. Trong tâm trí của mình, thánh nhân đã hình thành nên ở nơi Thầy mình một Đấng Mê-si khải hoàn và vinh quang: thánh nhân ôm ấp những kỳ vọng trần thế; nhưng chắc chắn lời trách cứ của thánh nhân hàm chứa lòng yêu mến của mình đối với Thầy mình. Không ai có thể chấp nhận người mình thương yêu có thể bị đau khổ.

Phản ứng của Đức Giê-su

 Đức Giê-su phản ứng rất quyết liệt; thái độ của thánh Phê-rô tái hiện trong tâm trí của Ngài cơn cám dỗ mà Ngài đã kinh qua trong hoang địa (Mt 4: 8-9; Lc 4: 5-7); Đức Giê-su đáp trả vị Tông Đồ của Ngài cũng bằng những lời mà Ngài đã dùng để trục xuất Tên Cám Dỗ: “Xa-tan kia, xéo đi!” (Mt 4: 10; x. Mc 8: 33), nhưng với thánh Phê-rô, Ngài còn nói thêm: “Lui ra đằng sau Thầy”, nghĩa là “Anh phải hiểu rằng nếu là môn đệ trung thành, anh phải bước đi theo con đường của Thầy”.

Và với tất cả những ai muốn làm môn đệ của Ngài, Đức Giê-su cũng căn dặn một lời như vậy: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Hễ mỗi lần gợi lên cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Ngài, Đức Giê-su đều liên kết các môn đệ của Ngài, và qua họ, tất cả các Ki tô hữu, vào con đường đau khổ để đạt đến vinh quang này: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì cứu được mạng sống ấy”. Ở đây Đức Giê-su sử dụng một từ hai nghĩa: “mạng sống” vừa là cuộc sống trần thế tạm thời này vừa là cuộc sống muôn đời mai sau.

Những lời này âm vang xuyên suốt nhiều thế kỷ và đã tạo nên niềm tin tưởng và phó thác vô bờ của các thánh tử đạo mọi thời, hôm qua cũng như hôm nay.

----------------------------

 

 TN 24-B158: TA TIN CHÚA GIÊSU NHƯ THẾ NÀO?.


Lm.Giuse Đỗ Đức Trí

 

 Vào dịp rằm tháng bảy vừa qua, giáo xứ có đến thăm chùa Phước Minh, ngôi chùa nằm trong địa TN 24-B158


Vào dịp rằm tháng bảy vừa qua, giáo xứ có đến thăm chùa Phước Minh, ngôi chùa nằm trong địa bàn giáo xứ. Qua trao đổi với thầy trụ trì về một số các vấn đề của Phật giáo. Thầy cho biết hiện nay, có nhiều chùa được xây dựng rất lớn nhưng không phải là của Giáo hội Phật Giáo. Có những chùa việc thờ cúng đã bị lai tạp bởi các thứ tín ngưỡng dân gian và các tôn giáo khác, có những chùa hầu như đã đánh mất giáo lý chính truyền của Phật giáo. Có nhiều nguyên nhân đưa đến tình trạng này: Có những nơi xây chùa để kinh doanh, có những thầy chùa không được đào tạo huấn luyện, Giáo hội Phật Giáo dường như không quản lý được các nhà chùa, nhà sư, …v.v. Nhưng lý do chính yếu là nhiều thầy chùa không được học về phật giáo đến nơi đến chốn.

Tình trạng nói trên có thể cũng đang diễn ra nơi một số các tín hữu Công Giáo. Vì có những người chỉ biết Chúa Giêsu, tin Chúa Giêsu một cách rất mơ hồ, không tiếp xúc, không gặp Chúa. Cho nên, dẫn đến việc sống đạo cũng một cách hời hợt, vô hồn, hoặc thờ Chúa nhưng vẫn thực hành đời sống đạo theo kiểu của dân ngoại.

Lời Chúa hôm nay muốn mỗi chúng ta phải bày tỏ lòng tin của mình một cách dứt khoát mạnh mẽ vào một mình Chúa Giêsu mà thôi. Đồng thời, phải cố gắng nỗ lực mỗi ngày làm cho đức tin của mình thêm lớn mạnh, vững chắc và trưởng thành như thánh Phêrô đã tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống”.

Sau một thời gian bỏ mọi sự để đi theo Chúa, được chứng kiến các phép lạ Chúa làm và những lời giảng dạy của Chúa, các tông đồ dường như đã dần gột rửa, thanh luyện được ý hướng và đức tin của mình. Hôm nay, Chúa Giêsu muốn đưa riêng các tông đồ lên miền Cêsarea Philiphê là vùng đất của dân ngoại. Nơi đây, trong bầu khí yên tĩnh của tình thầy – trò không bí đám đông vây quanh, Chúa Giêsu đặt vấn đề với các tông đồ: “Dân chúng nói Thầy là ai?” Qua câu hỏi này, Chúa muốn biết dân chúng đã đón nhận Ngài như thế nào. Tuy nhiên, câu trả lời của các tông đồ cho thấy, dân chúng hiểu về Chúa Giêsu còn rất mờ nhạt: “Họ nói Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ bảo là Êlia, có kẻ nói là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó…”. Những câu trả lời đó không chính xác.

Chúa Giêsu không quan tâm nhiều đến các câu trả lời theo dư luận, Ngài muốn các tông đồ phải bày tỏ đức tin của mình, vì chính các ông là những người gần Chúa và hiểu Chúa hơn hết. Chúa hỏi các ông: “Thế còn anh em, anh em nói Thầy là ai?” Simon Phêrô đã thay mặt anh em tuyên xưng đức tin của mình: “Thầy là Đấng Kitô”. Lời tuyên xưng này hơn hẳn những câu trả lời của dân chúng. Ở đây Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, có nghĩa là đấng được Thiên Chúa xức dầu, là Đấng Cứu Thế mà Thiên Chúa đã hứa, các tổ phụ và các tiên tri đã loan báo và toàn dân đang mong đợi. Phêrô và các tông đồ tin Chúa Giêsu là Đấng từ trời mà đến, là Thiên Chúa thật. Lời tuyên xưng này thật chính xác. Tuy nhiên, vì nhiều người chưa thể hiểu được như thế, nên Chúa Giêsu chưa muốn các ông nói điều đó cho dân chúng, vì họ cần phải đi từng bước để đến niềm tin chính xác.

Chúa Giêsu cũng không muốn các tông đồ rơi vào ảo tưởng và hiểu sai sứ mệnh của Chúa. Chúa nói cho cho các ông biết về sứ mạng của Ngài là hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha như một người tôi tớ khiêm hạ đã được Isaia loan báo trong bài đọc một. Tiên tri Isaia xuất hiện trước Chúa Giêsu khoảng năm trăm năm. Ông đã nói về một vị ngôn sứ trong thân phận Người Tôi Tớ trung thành của Thiên Chúa, hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa như một đầy tớ vâng phục chủ mình: “Thiên Chúa đã mở tai tôi và tôi không cưỡng lại. Tôi đưa lưng cho kẻ đánh tôi và đưa má cho kẻ giật râu. Tôi không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Tôi không hổ thẹn, vì có Chúa phù trợ tôi”. Với hình ảnh một vị ngôn sứ Đầy Tớ của Thiên Chúa như thế, người Do Thái không dễ chấp nhận. Người Do Thái muốn một Đấng Cứu Thế phải oai phong lẫm liệt, đánh đông dẹp bắc, thống lãnh sơn hà, xưng vương, xưng đế, chứ không muốn một Đấng cứu thế khiêm hạ.

Sau khi Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô”, liền sau đó, Chúa Giêsu đã nhắc lại cho Phêrô và các tông đồ hình ảnh của người tôi tớ khiêm hạ mà Isaia đã nói: “Con người phải chịu đau khổ nhiều, bị các thượng tế cùng các kinh sư loại bỏ, giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”. Nhắc như thế, Chúa Giêsu vừa muốn điều chỉnh, thanh luyện lại các hình ảnh mà các tông đồ đã tạo nên trong đầu về Đấng Kitô, đồng thời báo trước để chuẩn bị tâm lý cho các tông đồ khi phải chứng kiến cuộc khổ nạn thập giá. Các tông đồ là người Do Thái, vì vậy các ông cũng vẫn nuôi tham vọng về một Đấng Kitô xưng vương theo như  những người Do Thái mong đợi. Chúa muốn các tông đồ khi tin Chúa phải thay đổi lại suy nghĩ và đón nhận một Đấng Kitô theo ý của Thiên Chúa và đến từ Thiên Chúa, chứ không phải theo sự tô vẽ của con người.

Phản ứng của Phêrô cho thấy, ông không dễ dàng chấp nhận một Đấng Cứu Thế sẽ bị bắt, bị giết. Điều đó cũng cho thấy, các tông đồ theo Chúa để tìm kiếm điều gì đó mang tính lợi lộc trần gian hơn là theo Chúa và tin Chúa. Vì thế, Phêrô đã kéo riêng Chúa ra để can ngăn Chúa: “Thưa Thầy, xin Thầy đừng làm như thế”. Chúa Giêsu đã thẳng thắn trách Phêrô trước mặt các tông đồ bằng lời lẽ rất nặng: “Satan! Lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người”. Lời trách mắng này cho thấy: Phêrô đã đứng sai vị trí của mình. Ông vừa được chúa khen vì lời tuyên xưng đức tin, liền sau đó ông lại trở thành vật cản đường Chúa và gây vấp phạm cho anh em. Ông muốn trở thành người đi trước Chúa để dẫn đường cho Chúa. Ông muốn Chúa làm theo ý mình hơn là bắt mình phải vâng theo ý Chúa.

Khi nói với Phêrô: “Hãy lui lại đàng sau Thầy”, Chúa Giêsu muốn Phêrô phải trở về với đúng vị trí của mình là một môn đệ của Chúa. Môn đệ phải đi theo sau thầy chứ không thể đi trước thầy, phải để cho thầy dẫn đường chứ không thể dẫn đường cho thầy. Không chỉ yêu cầu Phêrô phải thay đổi lại vị trí, quan trọng hơn là phải thay đổi lại suy nghĩ, tư tưởng, làm sao cho suy nghĩ của mình phù hợp với đường lối của Chúa. Vì tư tưởng của Phêrô không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là tư tưởng của loài người, lo tìm kiếm danh lợi.

Đến đây, Chúa gọi các môn đệ và đám đông lại để đưa ra cho họ lời mời gọi cũng là một thách đố: “Ai muốn theo tôi, phải bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Việc tin theo Chúa phải là một quyết định hoàn toàn tự do của mỗi người, chứ không phải bắt buộc. Tuy nhiên, một khi đã tin theo Chúa thì phải chấp nhận những điều kiện đi kèm, phải chấp nhận đi vào con đường của Chúa và đi theo Chúa, chứ không thể tin theo một ai khác hoặc một con đường nào khác. Đón nhận Chúa Giêsu là tin Ngài là Đấng Cứu Thế, Ngài cứu nhân loại bằng con đường đau khổ thập giá. Vì thế, các người tin theo Chúa cũng phải đi vào con đường thập giá, phải vác thập giá của mình mỗi ngày mà bước theo Chúa.

Thưa quý OBACE, chúng ta tuyên xưng đức tin vào Thiên Chúa và vào Chúa Giêsu Kitô, nhưng nhiều người tín hữu vẫn để mình sống trong tình trạng ấu trĩ về đức tin, bởi vì thiếu sự học hỏi giáo lý, lười đọc và suy gẫm Tin Mừng. Chúng ta tin Chúa nhưng lại ngại ngùng khi phải chu toàn giới răn lề luật và thực hành những đòi hỏi của Thiên Chúa. Chúng ta tôn thờ Chúa nhưng vẫn tin kiêng cúng bái hoặc thực hành những thói quen theo kiểu dân ngoại. Nhất là nhiều người Kitô hữu tin Chúa Kitô nhưng không có Chúa Kitô trong tâm hồn, lười gặp gỡ và tiếp xúc với Chúa nơi Bí Tích Thánh Thể, vì thế ta không thể tuyên xưng về Chúa cách mạnh mẽ và chính xác cho những người khác. Là môn đệ của Chúa, nhưng nhiều người vẫn muốn đi trước Chúa, muốn Chúa làm theo ý mình hơn là buộc mình phải đi theo Chúa và phải làm theo ý Chúa; nhiều người đã ngại ngùng khi phải vác thập giá hằng ngày hoặc là đón nhận khó khăn thử thách cách miễn cưỡng, chán nản thất vọng, than trách Chúa.

Xin cho chúng ta biết siêng đọc và lắng nghe Lời Chúa, học hỏi giáo lý để biết về Chúa nhiều hơn, tin cách chắc chắn hơn và can đảm bước theo Chúa cách vững tin hơn. Amen

------------------

 

 TN 24-B159: ĐỨC TIN VÀ HÀNH ĐỘNG


JM. Lam Thy

 

 Trong khi đi chia sẻ tại các Huynh đoàn Đa Minh trên toàn quốc, kẻ viết bài này rất hay bị “chiếu TN 24-B159


Trong khi đi chia sẻ tại các Huynh đoàn Đa Minh trên toàn quốc, kẻ viết bài này rất hay bị “chiếu bí” bằng những câu hỏi “hóc búa” rất khó trả lời. Có một thắc mắc của học viên được hỏi khá nhiều lần, đó là: “Tại sao Con Thiên Chúa giáng trần lại được đặt tên là Giê-su Ki-tô? Tên đó có ý nghĩa thế nào? Tại sao Ki-tô giáo còn được gọi là Cơ Đốc giáo?” Truy tìm trên wikipedia thì thấy giải thích:

Giê-su cũng được gọi là Giê-su Ki-tô, Jesus Christ, hay Gia-tô Cơ-đốc. Giê-su là người Do Thái có tên là Yehoshua (יהושע – có nghĩa là “Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ” trong tiếng Hebrew), thường được gọi vắn tắt là Yeshua (ישוע). Đối với người đương thời, Giê-su còn được biết dưới tên Giê-su thành Nazareth, hoặc Giê-su con ông Giu-se. Từ “Ki-tô” (tiếng La-tinh: Christus; tiếng Hy Lạp: Χριστός Khristós hoặc từ “Cơ-đốc” trong tiếng Việt), là một danh hiệu của Chúa Giê-su, có nghĩa là “người được xức dầu”, ngụ ý là một vị lãnh đạo (chính trị cũng như tôn giáo) được chọn bởi Thiên Chúa.

Sở dĩ người Do Thái gọi Đức Giê-su là “Đấng Được Xức Dầu” là vì theo truyền thống Do Thái, các vua chúa được xức dầu phong vương (“Ông Sa-mu-en lấy lọ dầu và đổ trên đầu ông Sa-un, rồi hôn ông và nói: “Chẳng phải ĐỨC CHÚA đã xức dầu tấn phong ông làm người lãnh đạo cơ nghiệp của Người sao?” – 1Sm 10, 1), các Thày Cả Thượng Phẩm cũng được xức dầu (“Ngươi sẽ lấy dầu tấn phong mà đổ trên đầu A-ha-ron và xức dầu cho ông.” – Xh 29, 7). Người Do Thái quan niệm Đấng Ki-tô là vị “Vua” trong tương lai. Người sẽ đến trong uy quyền để đổi mới mọi sự, để phục hồi lại nước Israel (Đn 9, 25-26), giải phóng dân tộc Do Thái khỏi mọi áp bức, và đưa dân Chúa tiến lên trong vinh quang. Như vậy, Đấng mà “muôn dân mong đợi” đã đến trong trần gian, tên Ngài được gọi là Giê-su, cùng với danh hiệu Ki-tô ghép lại thành Giê-su Ki-tô.

Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXIV/TN-B – Mc 8, 27-35) trình thuật việc Ðức Giê-su đang đi với các môn đệ ở vùng Xê-da-rê thuộc Phi-lip-phê, tức là miền cực Bắc nước Do Thái, nơi bắt nguồn của dòng sông Gio-đan. Người ta gọi nơi này là Xê-da-rê của Phi-lip-phê, vì chính Hê-rô-đê Phi-lip đã xây ở đây một thành mang tên Xê-da-rê (tên của hoàng đế Rô-ma). Do đó, đặt chân đến chốn này, ai cũng phải nghĩ tới hoàng đế và uy quyền thống trị của ông. Và từ đó, người ta cũng hay nghĩ đến thân phận của mình. Có lẽ vì thế mà khi tới vùng này, Ðức Giê-su đã quay sang hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?”

Dư luận về Đức Ki-tô kể ra đã khá rõ rệt. Ai ai cũng nghĩ Người là bậc xuất chúng, tối thiểu cũng như Gio-an Tẩy giả, hoặc như Ê-li-a, hay một vị ngôn sứ nào đó. Vì thế các môn đệ trả lời: “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.” Còn đối với các môn đệ thì vì họ là học trò thân tín của Đức Giê-su, luôn ở với Người và được Người chăm sóc, dạy dỗ, rồi còn được chứng kiến biết bao phép lạ Người đã làm, tất nhiên họ phải có một cái nhìn về Người hơn hẳn những người khác, nên khi nghe hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” thì ngay lập tức, ông Phê-rô đã không ngần ngại thay mặt anh em mà thưa với Người: “Thầy là Ðấng Ki-tô của Thiên Chúa” – Lc 9, 18-20)

Thiết nghĩ không thể có lời tuyên xưng nào chính xác hơn được. Và đó cũng là lời tuyên xưng của Hội Thánh sau khi mầu nhiệm Phục Sinh đã hiện thực hoá: Đức Giê-su Ki-tô là Chúa các chúa, Vua muôn vua. Sở dĩ Phê-rô hôm ấy nói được như vậy là nhờ ở Thánh Thần hoạt động trong lòng trí ông. Ông thốt ra lời rất đúng nhưng vượt quá tầm hiểu biết của ông, cũng giống như nhiều khi các ngôn sứ phát biểu những Lời của Thiên Chúa mà họ chưa quán triệt được tất cả nội dung phong phú. Có lẽ cũng vì vậy nên Ðức Giê-su đã “lập tức cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người” (Lc 9, 21). Họ không nên nói những điều họ chưa hiểu biết thấu đáo, có thể gây ra những sự hiểu lầm, mà cần phải đợi đến khi chân tướng sự việc hiển hiện ra hết rồi hãy tuyên xưng. Cũng bởi vì “giờ” của Người chưa đến. và cái trọng tâm của giờ ấy chính là cuộc khổ nạn, nên kể từ hôm nay, Người bắt đầu mạc khải cho môn đệ biết khía cạnh quan trọng này.

Phê-rô vừa mới thay mặt các môn đệ tuyên xưng “Thầy là Đấng Ki-tô” thì cũng có nghĩa là tuyên xưng “Thầy là Vua” (Ki-tô là xức dầu, mà theo truyền thống thì chỉ có vua mới được xức dầu); vậy mà tiếp liền sau đó Thầy lại “bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Người nói rõ điều đó, không úp mở.” (Mc 8, 31-32). Ðiều đó làm cho các môn đệ càng thêm khó hiểu, và nhất là không thể chấp nhận được. Với bản tính bộc trực nghĩ sao nói vậy, nên “Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người.” Nhưng khi Đức Giê-su quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người liền trách ông Phê-rô rất nặng lời: “Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” (Mc 8, 33).

Thực ra, không chỉ có Phê-rô hoặc các môn đệ, mà cho đến thế kỷ XXI này, không thiếu gì những người nghĩ như vậy. Tư tưởng của loài người là thế. Làm sao hiểu và chấp nhận cho được Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật, lại chịu để loài người phỉ báng, loại bỏ và giết chết. Thiên Chúa thương yêu loài người và với quyền năng vô biên, Người chỉ cần phán một lời thì con người sẽ được giải thoát khỏi tội lỗi và sự chết đời đời. Nhưng như thế thì con người theo bản tính bẩm sinh bất toàn của mình, sẽ chẳng hiểu được mầu nhịêm này. Con người nếu không được “thực mục sở thị” (trông thấy nhãn tiền) thì vẫn không tin và – vốn dĩ được tự do đến gần như tuyệt đối – sẽ lại khơi khơi sống một cách vô tư như chưa hề biết mình đã được cứu độ.

Chính vì thế, nên ý định tối cao của Thiên Chúa Cha phải được thực hiện một cách cụ thể: Con Thiên Chúa phải xuống thế mặc xác phàm, chịu khổ hình và chết treo trên thập giá thay cho tội lỗi loài người và tới ngày thứ ba sẽ phục sinh vinh hiển. Chỉ có như vậy loài người mới thấu hiểu được hồng ân cứu rỗi do chính Người Con cũng là Người Tôi Trung của Thiên Chúa là Đức Giê-su Ki-tô vâng lời thực hiện. Cũng vì người đời khi được mạc khải chỉ hiểu được tường tận Lời Chúa bằng đức tin, nên sau Lời dạy về cuộc Thương Khó, Đức Giê-su tiếp tục dạy về những điều kiện để theo Người. Vác thập giá đi theo Ðức Ki-tô không chỉ là làm việc khó khăn này, chịu sự cực khổ kia; nhưng trước hết là phải có phương hướng nhất định.

Phương hướng đó chính là đức tin mà những kẻ tin đã lãnh nhận từ nơi Thiên Chúa (“Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô. Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Ki-tô, đều mặc lấy Đức Ki-tô.” – Gl 3, 26-27). Ðức tin có những đòi hỏi của nó, nếu không, nó chỉ là một mớ, hay một hệ thống những ý tưởng trừu tượng, chứ không phải là sự sống đức tin. Ðức tin ấy phải là một sự sống, và như mọi sự sống nó phải sinh hoạt, phải hành động. Nếu không như vậy thì chỉ là “Đức tin chết” (“Đức tin không có hành động là đức tin chết” – Gc 2, 17). Nói cách khác là phải sống đức tin cách cụ thể trong cuộc sống đời thường. Vâng, khi anh tuyên xưng đức tin là phải nói lên (tuyên – tuyên bố) được niềm tin của anh, đồng thời chứng minh được niềm tin ấy (xưng – xưng ra) trong cuộc sống của anh.

Vâng, chúng ta không được như các thánh Tông đồ thủa xưa “vì đã thấy, nên đã tin”, nhưng nếu chúng ta “không thấy mà tin” thì chắc chắn sẽ được chúc phúc “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20, 29). Vấn đề tuyên xưng đức tin xưa như trái đất, nhưng coi chừng chúng ta mới chỉ TUYÊN bố bằng đầu môi chót lưỡi chớ chưa thật sự XƯNG ra bằng chính cuộc sống của mình. Nói cách khác, nếu anh mới chỉ “nói” chớ chưa thực sự “làm” đúng như những điều anh đã nói, thì cũng chẳng hơn gì những “kinh sư và người Pha-ri-sêu ngồi trên toà ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy, tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng có làm theo, vì họ nói mà không làm.” (Mt 23, 1-7). Ấy cũng bởi vì “Nhờ hành động mà con người được nên công chính, chứ không phải chỉ nhờ đức tin mà thôi. Một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin chết.” (Gc 2, 24-26

Ôi! Lạy Chúa! Con biết rằng con rất mạnh mịêng khi đọc hay hát kinh Tin Kính trong các thánh lễ, nhất là trong đêm Vọng Phục Sinh. Con cũng biết rằng khi con nói về niềm tin của mình thì thao thao bất tuyệt, nhưng con chưa sống niềm tin ấy một cách cụ thể trong cuộc sống thường nhật của con. Con tin vào Chúa, con luôn đến với Chúa, nhưng với những người anh em của con – nhất là những anh em khó nghèo, tật bệnh, lao tù… – thì con lại thờ ơ, lảng tránh. Như vậy thì nào có khác chi con chỉ mới “TUYÊN bố” chớ chưa “XƯNG ra” được niềm tin mà con đã chọn cho cuộc đời mình.

Cúi xin Chúa ban Thần Khí cho con đủ can đảm và dũng khí tuyên xưng đức tin cách công khai bằng chính những việc làm, những sinh hoạt trong gia đình, ngoài xã hội, để con được xứng đáng với danh hiệu “Ki-tô hữu” mà Chúa đã ban tặng. Ôi! Lạy Chúa! “Con tuyên xưng Chúa đã chết đi. Con tuyên xưng Ngài đã sống lại. Trong vinh quang mai Ngài lại đến…” Ôi, lạy Chúa con! Lạy Thiên Chúa của con! Con tin! Amen.

----------------------------

 

 TN 24-B160: NGƯỞI TA BẢO THẦY LÀ AI?


Lm Giuse Nguyễn Văn Tuyên

 

 Đức Giêsu là ai? Đó là một câu hỏi được đặt ra không phải chỉ trong thời Đức Giêsu, mà còn TN 24-B160


Đức Giêsu là ai? Đó là một câu hỏi được đặt ra không phải chỉ trong thời Đức Giêsu, mà còn được đặt ra ngay trong thời đại chúng ta ngày hôm nay.

Câu hỏi được đặt ra không phải chỉ vì tò mò muốn biết dư luận nghĩ sao về nhân vật Giêsu, nhưng nó được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời.

Cựu Ước nói gì về Đức Giêsu ?

Bài đọc thứ nhất trích trong sách ngôn sứ Isaia, tác giả đã nói về một người Tôi Tớ đau khổ. Người Tôi Tớ Giavê này bản thân vô tội nhưng phải chịu rất nhiều đau khổ vì tội loài người. Người Tôi Tớ này là ai ?

Có lẽ trước tiên, Người Tôi Tớ ở đây được hiểu là dân Israel, họ phải chịu bao đau khổ trong kiếp lưu đày để chuộc tội cho muôn dân. Về sau, hình ảnh này được hiểu về Đấng Mêsia – Đấng Cứu Thế. Ngài xuất thân từ dòng dõi vua Đavít để thiết lập quyền vương đế của Thiên Chúa. Người sẽ tiêu diệt kẻ thù nghịch và cai trị Israel trong công bình và tín nghĩa.

Phải đến hơn năm thế kỷ sau đó, lời ngôn sứ mới được ứng nghiệm trọn vẹn nơi Đức Giêsu – Đấng chính là Israen mới, là ánh sáng cho muôn dân, và là sự cứu rỗi cho các dân ngoại. Ngài đem lại ơn cứu độ cho nhiều người bằng cách thí mạng sống của mình để đền tội cho tất cả.

Quần chúng đương thời nói Chúa Giêsu là ai ?

Bài Tin Mừng hôm nay diễn ra trong bối cảnh Đức Giêsu đang đi qua miền đất Xêdarê Philipphê, tức là miền đất của dân ngoại. Tại đây, Ngài hỏi các môn đệ: « Người ta bảo Thầy là ai ? » (Mc 8,28). Chắc chắn, khi hỏi các môn đệ như vậy, Đức Giêsu không hề có ý « thăm dò » xem mức độ « ảnh hưởng » của mình trên dân chúng tới đâu. Nhưng qua câu hỏi đó, Ngài muốn cho dân chúng cũng như các môn đệ ý thức đúng vai trò Mêsia của Ngài. Theo lời của dân chúng, “Kẻ bảo Ngài là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.” (Mc 8,28).

Nếu dân chúng nhận xét như vậy về Đức Giêsu, cũng là điều không mấy khó hiểu. Bởi vì, trong con mắt của họ, Đức Giêsu làm sao có thể là Đấng Mêsia được ? Bởi vì, Đấng Mêsia phải là người đánh Đông, dẹp Bắc; quyền năng cái thế, uy lực vô song… Đằng này, Đức Giêsu cũng làm một vài phép lạ, nhưng cách thức hành động của Ngài lại hoàn toàn khác hẳn. Ngài hành động trong ôn hòa, đầy vẻ hiền lành và khiêm nhường; Ngài yêu thương người nghèo, nâng đỡ cô nhi quả phụ, bênh vực những người thấp cổ bé họng… Chính những cách hành xử như thế đã nên cớ vấp phạm cho những người đương thời với Ngài, khiến họ không còn nhận ra Đức Giêsu chính là Mêsia (Đấng Cứu Thế).

Các môn đệ nói Thầy mình là ai ?

Đó là thái độ của những người đương thời, còn các môn đệ của Đức Giêsu thì sao ? Sau một thời gian đi theo Thầy, chắc hẳn, họ phải có những cảm nghiệm sâu xa về Thầy mình. Phêrô lên tiếng, đại diện cho các anh em mình: «Thầy là Đấng Kitô» (Mc 8, 29), có nghĩa là Đấng Mêsia (Đấng Cứu Thế) mà Cựu Ước đã loan báo. Quả là một câu trả lời thật xuất sắc. Trong Tin Mừng Matthêu còn ghi lại rằng, sau câu trả lời của Phêrô, Đức Giêsu đã công khai khen tặng ông (x.Mt 16,17). Tuy nhiên, Ngài còn cho biết thêm, sở dĩ Phêrô nói được như vậy, là vì bởi Thiên Chúa đã ban cho ông, chứ thực ra, ông chẳng hiểu gì về Thầy mình cả. Bằng chứng là ngay sau khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Phêrô đã công khai ngăn cản Thầy không nên đi vào con đường Thập Giá.

Có thể cụm từ «Đức Giêsu là Đấng Kitô» khá quen thuộc đối với chúng ta, nên chúng ta không thấy được sự khác biệt. Còn theo cách hiểu của người Dothái, Đấng Kitô (phiên âm từ chữ Christos) hay Đấng Mêsia (Hy lạp) là Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong để làm vua với nhiệm vụ giải thoát muôn dân khỏi ách lầm than. Nên dọc dài những năm tháng thời Cựu Ước, dân Chúa hằng ước mong, một ngày kia, Đấng Kitô sẽ đến.

Các môn đệ cũng là những người Dothái, nên không dễ dàng thoát khỏi tâm thức về Đấng Mêsia chính trị. Chẳng thế mà trước khi Chúa Giêsu về trời, các ông đã hỏi Ngài: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không ?” (Cv 1,6).

Mặc dù nhiều lần Chúa Giêsu đã nói cho các ông biết Ngài không đến nhằm mục đích chính trị, nhưng đến để giải thoát con người khỏi tội lỗi và dẫn đưa họ về cùng Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương họ. Bề ngoài, xem ra các ông cũng đã tin, nhưng giấc mơ về nền độc lập của dân tộc vẫn âm ỉ cháy trong cõi lòng các ông. Thế nên, việc Đức Giêsu lựa chọn con đường thập giá là điều khiến các ông không thể dễ dàng chấp nhận.

Chúng ta nói Đức Giêsu là ai ?

Khi hỏi «Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?» Chắc hẳn, Chúa Giêsu không hề muốn lắng nghe nơi chúng ta một câu trả lời mang tính lý thuyết, hay giáo điều, nhưng là một câu trả lời phát xuất từ tận sâu thẳm tâm hồn của mình.

Cũng như vị Tông đồ Phêrô, có thể khi vui, chúng ta sẵn sàng tuyên xưng «Đức Giêsu là Đấng Kitô». Thế nhưng, cũng có thể ngay sau đó, chúng ta lại quay ra từ chối Chúa, hay thậm chí là lên án Chúa như thái độ của những người Do thái trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh.

Chỉ biết Đức Kitô trên phương diện lý thuyết mà thôi, e rằng chưa đủ, mà còn phải «biết» Ngài trong thực hành nữa. Lời thánh Giacôbê trong bài đọc II hôm nay như nhắc nhở chúng ta: «Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì ? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng ? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì ? » (Gc 2,14-16).

Mãi mãi Đức Giêsu vẫn là một dấu hỏi cho mọi người ở mọi thế hệ. Để có được câu trả lời đầy đủ và chính xác về Ngài, là điều không đơn giản. Đức Kitô là ai ? Có thể đối với một số người, Đức Kitô là Thiên Chúa, là Thầy dạy, là Đấng Cứu Độ tôi. Đối với người khác, Đức Kitô là gia nghiệp, là viên ngọc quý mà tôi phải bán tất cả gia tài để mua lấy. Đối với người khác nữa, Đức Kitô, có chăng, cũng chỉ là một «ngân hàng» ơn phúc, để khi cần đến Ngài, thì chạy đến xin xỏ; cũng có khi, Ngài đơn giản chỉ là một vị Thiên Chúa được «hóa mình» vào trong bức tượng, để tôi đặt trên bàn thờ, rồi đứng xa xa nhìn ngắm…

Vậy giờ này, đối với tôi, Đức Kitô là ai vậy ? Xin được dành cho mỗi người tự trả lời.

-----------------------------

 

 TN 24-B161: GIỜ NÀY ĐỐI VỚI TÔI ĐỨC KITÔ LÀ AI?


Lm. Giuse Nguyễn

 

 Nếu có lần nào chúng ta nghe những câu hát: “Giờ này, đối với tôi, Đức Kitô là ai rồi? Giờ này TN 24-B161


Nếu có lần nào chúng ta nghe những câu hát: “Giờ này, đối với tôi, Đức Kitô là ai rồi? Giờ này đối với tôi Ngài còn là Ngài hay thôi? Là một chiếc bóng bên đường, một lần cất bước đi qua, để lại thoáng chút dư âm, và rồi lòng quên hay nhớ?” thì có lẽ thêm một lần chúng ta tự hỏi mình: “Giờ này đối với tôi, Đức Kitô là ai rồi?” Hôm nay, một lần nữa Đức Kitô chất vấn chúng ta: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Mỗi người sẽ có câu trả lời cho riêng mình tùy vào mối thân tình giữa chúng ta với Đức Kitô. Nhưng hôm nay chúng ta hãy để cho lời Chúa thấm nhập vào tâm hồn, để xem có những câu trả lời như thế nào về câu hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”,sau đó hãy tự trả lời cho chính mình: “Giờ này đối với tôi, Đức Kitô là ai rồi?”

PHỤNG VỤ LỜI CHÚA

Bài Đọc I: Is 50,5-9a

Tiên tri Isaia cho chúng ta thấy khuôn mặt của Đấng Messia không phải theo quan niệm của người Do Thái: sức mạnh, cai trị… để giải thoát dân tộc của họ. Hoàn toàn là một cái nhìn chính trị. Nhưng  Đấng Messia của Thiên Chúa lại chịu nhiều đau khổ, bị người ta bắt, kết án, sỉ nhục, đánh đòn, phun nước miếng vô mặt… và giết chết. Để từ đó cho chúng ta thấy, nếu theo Chúa để tìm vinh quang thì sẽ không bao giờ gặp đươc. Mà theo Chúa là theo một Đức Kitô chịu đóng đinh.

Tin Mừng: Mc 8,27-35

Đức Kitô đến trần gian để loan báo cho người ta biết sự thật về Thiên Chúa. Sự thật đó được nhận biết qua mặc khải về bản thân của Ngài. Vì vậy hôm nay Ngài muốn trắc nghiệm xem sự nhận biết của người ta như thế nào về Ngài, để từ sự nhận biết đó Ngài đưa họ đến hành động cụ thể; kẻo nếu nhận biết sai trái sẽ dẫn đến hành động sai trái. Sau khi nghe người khác nói: “Thầy là Gioan Tẩy Giả, Thầy là ông Êlia, Thầy là một tiên tri khác…” Đức Giêsu hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Đó mới là điều quan trọng, niềm tin của chúng ta không phải là nói theo người khác, nhưng dựa trên tuyên xưng của chính mình. Tuy nhiên chính sự xác quyết của người khác sẽ giúp cho chúng ta thêm xác tín mạnh mẽ hơn, vì không phải 1 mình tôi tin như vậy, mà có những con người đã tin, và dám sống điều đó. Xác quyết đó không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng hành động của cả cuộc sống mình, giống như lời nhắc nhở của thánh Giacôbê: “Đức tin không việc làm là đức tin chết”.

Từ phụng vụ lời Chúa hôm nay, có thể nói cuộc đời chúng ta là một hành trình đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Đối với tôi, Đức Kitô là ai vậy?” Vì cách sống của chúng ta là tùy thuộc vào câu trả lời cho câu hỏi này.

ĐỐI VỚI TÔI, ĐỨC KITÔ LÀ AI?

Sẽ có nhiều câu trả lời cho câu hỏi này. Tuy nhiên, nhìn vào thực tế cuộc sống, chúng ta thấy có những khuynh hướng trả lời như sau:

Đức Kitô chẳng là gì hết:
Có những người cho rằng Đức Kitô chẳng là gì hết, chỉ là một thứ thuốc phiện mà người ta đặt ra để dụ dỗ một số người ngu dốt, mê muội. Chính vì người ta nghĩ như vậy nên người ta hành động như không có Thiên Chúa trong cuộc đời họ. Họ mặc sức làm những chuyện sai trái, tội lỗi mà chẳng nghĩ đến hậu quả, bởi vì họ cho rằng không có Thiên Chúa, chỉ có đời này nên phải lo ăn chơi, hưởng thụ, càng nhiều càng tốt. Đối với những người đó, chúng ta phải trả lời sao cho họ đây? Không trả lời gì cả, vì dù có nói họ cũng chẳng nghe, họ đã « bưng tai, bịt mắt » nhưng tôi chỉ xin kể hai câu chuyện rất quen thuộc.

Câu chuyện thứ nhất: Có một chàng sinh viện bị khủng hoảng đức tin. Trong những lúc buồn bã anh ta bước lang thang đến ngôi thánh đường cổ ở Paris. Tình cờ anh ta thấy một bóng người thấp thoáng trong nhà thờ, thì ra đó là nhà bác học Amper. Đợi cho ông cầu nguyện xong, ra về, anh ta lủi thủi bước theo cho đến tận căn phòng của ông ở một trường đại học danh tiếng nước Pháp. Anh ta đến nói: “Thưa thầy con là một người công giáo, nhưng hiện tại con không muốn tin gì hết. Con muốn hỏi thầy, một bậc thầy đáng kính không chỉ của riêng con, mà còn của rất nhiều người: vừa là một nhà khoa học vĩ đại, vừa cầu nguyện có được không?” Nhà bác học nhìn anh ta một cách trìu mến rồi trả lời: “Con ơi, người ta chỉ trở nên vĩ đại khi cầu nguyện thôi!”. Người ta chỉ trở nên vĩ đại khi cầu nguyện. Một nhà bác học được cả nhân loại nhìn nhận mà còn xác quyết như vậy, thì không biết những con người khôn ngoan với bằng cấp của thời đại bây giờ, họ cho rằng không có Thiên Chúa, họ không cần cầu nguyện, vậy họ sẽ trở nên vĩ đại khi nào đây?

Câu chuyện thứ hai cũng gần giống như vậy: Trên chuyến xe lửa, chàng thanh niên ngạo mạn ngồi gần một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu lăn bánh, ông già rút trong túi ra cổ tràng hạt và lần chuỗi. Chàng sinh viên rất bực bội trước thái độ của ông già, nhưng cũng cố gắng thinh lặng vì lịch sự. Càng về sau anh ta chịu không nổi, nên đã lên tiếng: “Thưa ông, cho tới bây giờ ông vẫn còn tin vào những chuyện nhảm nhí này hả?” Ông già đáp: “Đúng vậy, tôi vẫn tin, và đây không phải là chuyện nhảm nhí! Còn cháu?” Chàng thanh niên trả lời: “Lúc nhỏ cháu có tin, nhưng bây giờ nhờ khoa học mở mắt nên cháu thấy đó là những chuyện nhảm nhí. Ông cứ tin cháu đi, rồi hãy khám phá khoa học thật nhiều, ông sẽ thấy những thứ ông tin từ trước đến giờ chỉ là nhảm nhí”. “Vậy cháu có cách nào giúp ông không?” “Ông cho cháu địa chỉ đi, rồi cháu sẽ gởi sách vở, tài liệu để giúp ông thấy từ trước đến giờ ông tin những thứ nhảm nhí”. Cụ già từ từ rút trong túi ra tấm danh thiếp đưa cho chàng thanh niên, sau khi xem qua, chàng xanh mặt và lặng lẽ rời khỏi toa tàu. Tấm danh thiếp ghi: Luis Pasteur, viện trưởng viện hàn lâm khoa học Pháp.

Khi Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đặt chân đến Liban ngày 14/09/2012, nơi mà những nhà quân sự khuyên ngài không nên đến vì tình hình an ninh, ngài vẫn đến và đã phát biểu: “Sự có mặt của tôi nơi đây muốn nói lên rằng: Thiên Chúa vẫn hiện diện và ban bình an cho anh chị em”. Đó cũng là câu trả lời của chúng ta cho những người không tin vào Thiên Chúa, xem Đức Kitô chẳng là gì trong cuộc đời của họ: Dù họ có khép chặt lòng mình lại, thì Thiên Chúa vẫn hiện diện và ở ngay chính trong tâm hồn của họ. Nếu bây giờ họ cố tình chối bỏ, thì đến ngày sau hết, họ sẽ sáng mắt ra.

Đức Kitô là một vị “thần như ý”:

Có những người lại xem Đức Kitô như một vị “thần như ý”. Họ nhìn nhận Ngài có quyền năng, nhưng để phục vụ họ. Khi họ cần tiền, Ngài phải ban giống như thần tài. Khi họ cần tình, Ngài phải se duyên kết ước, giống như thần tình duyên. Khi họ cần trúng mùa, Ngài phải cho họ trúng giống như thần nông. Nói chung họ cần gì Ngài phải ban. Nếu ngoan ngoãn làm đẹp lòng họ, thì họ sẽ tế lễ cho Ngài rất hậu hĩnh, còn nếu không thì họ sẽ tìm đến với những vị thần khác.

Đức Kitô là Chúa của tôi:

Tuy nhiên còn có những người tin nhận Đức Kitô là Thiên Chúa, là chủ của cuộc đời họ, nên họ sống theo những gì Ngài chỉ dạy. Họ tin Đức Kitô sẽ dẫn họ đến bến bờ hạnh phúc thực sự, vì vậy mà họ đã phó thác cuộc đời mình trong sự khôn ngoan quan phòng của Thiên Chúa. Điều họ tìm kiếm không phải là những thứ thoải mái, dễ chịu theo ý riêng mình giống như Phêrô, nhưng là làm sao để sống theo ý Chúa, dù cuộc đời có như thế nào đi chăng nữa. Và quả thật đó là con đường mà Đức Kitô muốn chúng ta đi, con đường thập giá. Nhưng sau thập giá đó là vinh quang Thiên Chúa đã dành sẵn cho những ai trung thành với Ngài.

Qua Lời Chúa hôm nay, mỗi người hãy tự chất vấn chính mình để nếu chúng ta có những cái nhìn sai trái về Chúa, thì hãy sửa đổi, trước hết là nhận thức, sau đó là cuộc sống của chúng ta. Với nhận thức Đức Kitô chính là Đấng được Chúa Cha sai đến để chỉ đường dẫn lối cho chúng ta về cùng Thiên Chúa, từ đó dẫn đến hành động đi theo Đức Kitô bằng cách rập khuôn đời mình với Ngài. Xin ơn Chúa giúp để mỗi ngày chúng con bước theo Chúa ngày càng sát gót hơn, hầu có thể theo Chúa vào hưởng gia nghiệp dành cho những kẻ thuộc về Ngài.

------------------------

 

 TN 24-B162: NGƯỞI CÓ ĐỨC TIN THẬT


Lm. Bosco Dương Trung Tín

“Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,17)

 

 Người có đức tin gọi là người TÍN HỮU. “Tín” ở đây có nghĩa là “Tin”. “Hữu” ở đây có nghĩa TN 24-B162


Người có đức tin gọi là người TÍN HỮU. “Tín” ở đây có nghĩa là “Tin”. “Hữu” ở đây có nghĩa là “Có”.Người tín hữu là người có đức tin. Nhưng có đức tin thôi chưa đủ, còn phải hành động theo đức tin nữa, mới có ích lợi và lãnh nhận được ơn cứu độ.

  Thánh Gia-cô-bê nói: “Anh em bảo rằng mình có đức tin, mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì. Đức tin đó có thể cứu người đó được chăng?” (x. Gc 2,14). Câu trả lời chắc chắn là không.

Thánh Gia-cô-bê xác quyết: “Đức tin không có hành động là đức tin chết”. “Đàng khác, có người sẽ bảo: Bạn, bạn có đức tin, còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không có hành động. Còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin” (x. Gc 2,18).

Tin mà không hành động là thế nào ?

  Tin mà không hành động thì chỉ là tin trên giấy tờ; tin trên môi, trên miệng; hoặc tin trong nhà thờ chứ không có trong cuộc sống; Hay tin mà không chấp nhận đau khổ.

  Tin trên giấy tờ là chỉ có rửa tội, xong là thôi và cuối cùng là nghi thức an táng. Chỉ có tên trong sổ rửa tội, chứ không sống đức tin, không sống điều mình tin.

Tin trên môi, trên miệng nghĩa là chỉ tin Chúa trong nhà thờ. Trong nhà thờ thì dâng lễ sốt sắng; đọc kinh sang sảng, nhưng lạikhông sống đạo trong gia đình, trong những nơi mình làm việc.

  Tin mà không chấp nhận đau khổ như trường hợp của Phê-rô trong bài Phúc Âm hôm nay. Chúa hỏi: Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Phê-rô mau mắn trả lời: Thầy là Đấng Ki-tô. Thế nhưng Chúa nói: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các Kỳ mục, Thượng tế cùng Kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”.

Nghe thấy đau khổ và bị giết là Phê-rô “liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người”. Nhưng Chúa trách lại ông và nói: “Xa-tan, lui lại đằng sau Thầy. Vì tư tưởng của anh không phải là tư thưởng của Thiên Chúa, mà là tư tưởng của loài người”. Chính xác là tư tưởng của Xa-tan. Vì Xa-tan không chấp nhận một Thiên Chúa làm người và con người thì không chấp nhận đau khổ và chết.

  Con người chúng ta là thế. Chúng ta chấp nhận theo Chúa nhưng không chấp nhận từ bỏ mình và vác thập giá mình mà theo Chúa. Nghĩa là theo Chúa thì OK; nhưng từ bỏ mình và vác thập giá mà theo Chúa thì “quên đi”. Theo Chúa, rửa tội thì được, chứ từ bỏ mình, từ bỏ ý riêng mình, mà theo ý Chúa, sống Lời Chúa hằng ngày; lại vác thập giá, chịu đau khổ, chịu sỉ nhục, chịu thiệt thòi nữa thì hơi “bị khó” đấy.

  Đó là típ người tin mà không hành động. Những người tin mà không có hành động là đức tin chết. Coi như là không có đức tin; đức tin chết rồi còn đâu. Giống như khi ta chết, ta không nhúc nhích, ta không cử động được gì vậy. Đức tin chết là đức tin không có hành động, không có việc làm, nghĩa là ta không làm, không hành động vì đức tin.

 Còn tôi, tôi hành động để bạn thấy thế nào là tin. Hành động thế nào?

Tôi không chỉ muốn được rửa tội, mà còn muốn sống đời làm con Chúa nữa. Từ ngày tôi được rửa tội hay từ ngày tôi có trí khôn cho đến khi tắt thở, tôi sống với tư cách là con cái Chúa trong cuộc sống của tôi, từ trong tư tưởng, lời nói và việc làm; dù ở nhà thờ hay tại tư gia hoặc nơi tôi làm việc.

Tôi đến nhà thờ dự lễ, nơi đó tôi nghe Lời Chúa và tôi đem Lời Chúa ra thực hành trong cuộc sống của tôi. Tôi không cần nói hay tỏ ra tôi là người tín hữu, nhưng qua lời nói, việc làm; qua cuộc sống của tôi, mà người ta nhận ra tôi là người tín hữu.

  Điểm nổi bật và quan trọng là khi gặp khó khăn, đau khổ, thất bại, bệnh tật; tôi không kêu ca, không phàn nàn, không trách móc ai, cũng không trách móc Chúa: tại sao để tôi phải khổ thế này!!! Tôi chấp nhận tất cả. Đó như là thập giá tôi vác để theo Chúa.

  Khi được sự lành, khỏe mạnh, thành công, cám ơn Chúa, cám ơn Trời Phật thì ai làm cũng được, dễ; nhưng khi gặp sự khốn khó, đau khổ, bệnh tật, thất bại mà cám ơn Chúa, cám ơn Trời Phật thì không dễ chút nào. Chỉ có những người có đức tin mạnh mới làm được thôi.

  Điều đó có kỳ cục và hoang tưởng không ? Nếu ta nói với người đau khổ, thất bại, bệnh tật, hãy tạ ơn Chúa, tạ ơn Trời Phật đi, thì đúng là kỳ cục và hoang tưởng. Nhưng tự bản thân người đó tin tưởng và tạ ơn Chúa thì điều đó mới là tuyệt vời.

  Vấn đề là khi gặp những khó, những thất bại và những bệnh tật ta có thể tạ ơn Chúa được không ? Được chứ. Ta tạ ơn Chúa vì qua đó Chúa cho ta biết và ta cũng nhận biết rằng, ta là con người hèn mọn và yếu đuối, để ta càng tin tưởng vào Chúa hơn. Điều đó không tốt sao ? Điều đó ta không làm được sao ? Điều đó trong khả năng của con người. Có điều ta có chấp nhận, tin tưởng và làm hay không. Và người nào có đức tin và sống điều mình tin thì sẽ làm được việc này cách dễ dàng.

  Thực tế cho thấy, chỉ khi nào gặp những khó khăn, những thất bại, những bệnh tật, ta mới chạy đến Chúa; mới cầu Trời khấn Phật thôi. Khi khỏe mạnh, thành công và được may mắn thì ta thường kiêu ngạo, tự cho mình đã làm nên tất cả, chẳng biết Chúa là ai, cũng chẳng tạ ơn Ngài bao giờ. Hèn chi mà Chúa thường để cho ta gặp khó khăn, đau khổ và bệnh tật, để ta biết khiêm nhường và nhớ đến Chúa. Theo tôi, rất có thể là như vậy !!!!!!!

  Điều đó không có nghĩa là nếu ta tin Chúa và sống đức tin đó là ta sẽ không gặp khó khăn, không có đau khổ, không thất bại và không có bệnh tật. Nếu ta có đức tin và sống đức tin, thì khó khăn, thất bại, đau khổ, bệnh tật, có là chi; cũng bình thường thôi mà. Đó là cuộc sống. Thế mới là đời và đời là thế !!!! Không có thất bại, không có đau khổ, không có khó khăn, không có bệnh tật chỉ có trên thiên đàng mà thôi. Còn ở thế này thì ta đừng có mơ. Lo mà kiếm đường vào thiên đàng thôi.

  Bởi đó, là người tín hữu, ta phải biết dùng lý trí để hiểu biết và sống những điều ta tin và sống trong đức tin. Tức là ta tìm cách lý giải điều mình tin; Lời Chúa mà mình nghe. Có thế đức tin của ta ngày càng mạnh, giúp cho ta vượt qua những khốn khó ở trần gian này và mai sau ta được vào thiên đàng sống mãi mãi hạnh phúc với Chúa. Đó là người có đức tin thật. Đừng có chỉ tin ở cái miệng, trên giấy tờ hay trong nhà thờ mà không có hành động. Vì đức tin đó là đức tin chết, không giúp ích gì cho ta đâu.

------------------------

 

 TN 24-B163: CÒN ANH EM, ANH EM BẢO THẦY LÀ AI?


Fx Đỗ Công Minh

 

 Bài Tin mừng hôm nay đặt ra cho con một dấu hỏi rất lớn “Còn anh em, anh em bảo Thầy là TN 24-B163


Bài Tin mừng hôm nay đặt ra cho con một dấu hỏi rất lớn “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”. Có người cho rằng đọan  trích của Thánh Macco cho thấy Đức Giêsu là một diễn giả rất đáng khâm phục, một nhà tâm lý lỗi lạc đáng để các nhà sư phạm, những nhà họat động xã hội, những người lãnh đạo một tổ chức trong đạo, ngòai đời noi theo cung cách của Người. Đó là sau một thời gian giảng dạy, họat động thì lui vào một nơi nào đó để chiêm nghiệm, nhìn lại mình. Suy đi nghĩ lại về những việc đã làm, đã nói, đã sống hầu rút ra những bài học kinh nghiệm. Đến miền đất Xê-da-rê  Phi-lip-phê, một nơi thị tứ, khi ấy đang nổi lên phong trào xưng danh của những nhân vật đương thời trong xã hội, muốn trở thành các lãnh tụ hầu tranh thủ sự ủng hộ của dân chúng trong vùng. Đức Giêsu đã làm một cuộc thăm dò  bỏ túi, Người hỏi các học trò  về dư luận của dân chúng, những người đi theo Chúa, những người đang cư ngụ  những nơi Người đến rao giảng: “Người ta nói Con Người là ai? ”. Một cách thành thật nhà Đạo, các ông nhanh nhảu phản ánh: “ Kẻ thì nói (Thầy) là Ông Gioan Tẩy giả , người khác lại cho là Ông Êlia hay một trong những vị ngôn sứ “, những vị cao trọng,  có uy tín trong dân Israel.

Thực ra Đức Giêsu không làm động tác phỏng vấn theo kiểu trò chơi Games Show: “ Chung Sức “ như trên Truyền hình HTV hôm nay, xem có bao nhiêu người đồng ý về một nhận định nào đó? Người muốn các tông đồ nói lên suy nghĩ của bản thân sau những ngày theo Chúa, được Người dạy dỗ, từng chứng kiến việc Người đã làm, đã sống. Người hỏi các ông: “ Còn anh em, anh em nói Thầy là ai ?”Một câu hỏi không dễ trả lời. Các ông đã nhận ra Người là đấng có uy quyền. Thiên hạ, những người chỉ đi theo, chỉ nghe tiếng Người, chỉ một vài lần chứng kiến phép lạ Chúa làm mà còn lên tiếng ca ngợi, cho rằng Đức Giêsu, một vị ngôn sứ trong dân ISRAEL đã tái thế. Họ nói  dưới nhãn quan của họ. Nếu không phải các bậc xuất chúng, cao trọng trong dân mà họ được biết đến trong kinh Thánh, thì không thể rao giảng và làm những điều lạ lùng như thế. Còn các tông đồ,  đại diện là Phêrô,  đã nói lên điều ông nhận ra nơi Thầy mình: “ Thầy là Đức Kitô“. Phêrô, một người học trò đã nói lên những gì mà ông cảm nghiệm được sau những ngày tháng theo Thầy. Ông không nói theo cách thậm xưng của người đời, không theo kiểu tâng bốc, xu nịnh, đưa Thầy mình lên cao vút theo cung cách ngôn ngữ thời đại hôm nay, thường gọi là những lời có cánh, nhưng là theo lương tâm chân thật của chính mình. Nhưng khi nghe Thầy chí Thánh là Đức Giêsu thố lộ việc Người sẽ phải trải qua: ”Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” thì thật kinh hòang, lo sợ cho Thầy.Phêrô liền kéo riêng Người ra và can ngăn Thầy mình:”Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy “. Tưởng rằng sẽ được Thầy nghĩ lại, hay ít ra nhận được một lời khen, nhưng không ngờ lại gặp phải phản ứng quá mãnh liệt của Thầy:”Xa tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của lòai người “ .

      Lạy Chúa,

Trong cuộc sống trần gian hôm nay, cũng như Phêrô, con luôn tìm cho mình một con đường thông thóang, bằng phẳng, dễ đi. Khi gặp phải sự khó, con vẫn chạy đến cùng Chúa, nhưng thay vì nhìn nhận sự việc, tìm nguyên nhân, tìm phương thế giải quyết thì con lại xin cho con tránh sự khó, đạt điều may. Con lý sự theo cách Phêrô “ xin Chúa thương để con đừng gặp chuyện ấy”. Con luôn  nghĩ Chúa như một vị Thần tài,  sẵn sàng giúp con giải quyết mọi khó khăn theo ý con.Phải chăng đó là những cám dỗ trong cuộc đời khiến con mất lòng tin nơi Chúa? Con chỉ muốn suy bụng mình ra bụng Chúa, muốn ý con là ý Chúa.

Xin cho con biết đón nhận Lời Chúa hôm nay:”Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập gía mình mà theo. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”.

Lạy Chúa ! Xin tha thứ những lầm lỗi của con, xin cho biết từ bỏ chính mình, vác thập giá mỗi ngày theo Chúa. AMEN.

-------------------------

 

 TN 24-B164: CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN_B


Ckgđ 656
Lm. Antôn

 

 Có câu truyện về một cậu bé tên Huy, mồ côi cha rất sớm, lúc vừa được 5 tuổi, và ở với mẹ đang TN 24-B164


Có câu truyện về một cậu bé tên Huy, mồ côi cha rất sớm, lúc vừa được 5 tuổi, và ở với mẹ đang mang một chứng bệnh, tại một khu phố lao động nghèo nàn. Ngày ngày sau khi tham dự Thánh lễ buổi sáng cùng với mẹ, cậu một mình đi vào các tiệm ăn trong phố để đánh giầy cho khách. Mỗi lần khách trả tiền, cậu đều làm dấu Thánh giá cám ơn Chúa. Tụi bạn nhìn thấy thế nhiều lần to nhỏ chế nhạo: “Gạo thì không lo mà lo giữ đạo.”  Nhưng cậu Huy vẫn cứ trung thành, can đảm hiên ngang giữ hình thức cầu nguyện đơn sơ ấy, minh chứng đức tin của mình vào Chúa Ki-tô.

Năm 17 tuổi, cậu được ban văn nghệ khu phố cho đóng vai thằng quỷ trong một vở kịch. Màn đầu vừa dứt, khán giả vỗ tay hoan nghêng nhiệt liệt. Sang màn thứ hai, trời đột nhiên đỗ mưa, sấm sét nổi lên ầm ầm. Như bao nhiêu lần trước, cậu Huy trong vai thằng quỷ trên sân khấu quên mất mình đang đóng kịch, vội quỳ gối xuống làm dấu Thánh giá.  Khán giả cười rồ lên tưởng thằng quỷ làm hề tin vào Chúa, không ngờ cậu Huy cầu nguyện thật! Sau đêm ấy, mọi người trong khu phố hiểu được hoàn cảnh của cậu, họ chung nhau quyên tiền để giúp cậu Huy ăn học. Đến sau, cậu Huy đã lấy được mảnh bằng tiến sĩ lúc mới 30 tuổi, trở nên một nhà giáo dực nổi danh.

Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta biết trên con đường tiến về Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Thầy là ai?”  Dư luận dân chúng rất hoang mang về Người.  Họ chỉ nhận ra một khía cạnh nào đó của Chúa mà thôi.  Đối với họ, Chúa chỉ là một ngôn sứ nào đó như Ê-li-a hay Gioan Tẩy giả.  Nhưng đối với các môn đệ, các ông tin Chúa Giê-su thật là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng Thiên Sai.  Vì thế chúng ta thấy sau khi Chúa hỏi các môn đệ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?”, Phêrô đại diện lên tiếng đáp: “Thầy là Đấng Kitô.”  Có nghĩa là các ông biết rõ thân thế và sứ vụ của Người.

Đối với chúng ta hôm nay, Chúa cũng hỏi mỗi người chúng ta: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Có nghĩa là Chúa Giê-su Kitô là ai đối với mỗi người chúng ta. Thật vậy, tất cả chúng ta ngày nay, tuy không được nghe tận tai những lời Chúa giảng dạy, hay chứng kiến những phép lạ Chúa làm, hay được sống gần gũi với Chúa như các môn đệ thời xưa, nhưng chúng ta tin vào Chúa Giê-su là Con Thiên Chúa và sứ mệnh của Người là cứu độ và ban sự sống đời đời.  Chúng ta thấy vì tin vào Chúa, cậu bé Valentia đã không ngần ngại tuyên xưng đức tin của mình trong đời sống hàng ngày và ngay trong vai diễn trong vở kịch.

Và đặc biệt hơn nữa, hôm nay Chúa cũng hỏi mỗi người chúng ta: “Người ta có biết Thầy là ai không?” Có nghĩa là chúng ta có thể hiện, sống đức tin của chúng ta trong cuộc sống hàng ngày, để những người sống chung quanh nhận ra chúng ta là Ki-tô hữu không?  Sự hiện diện của chúng ta ở bất cứ nơi nào hay gặp gỡ ai, người ta có nhận ra chúng ta là Ki-tô hữu không?  Lời nói, thái độ, cách cư xử và việc làm của chúng ta có chứng tỏ cho mọi người biết chúng ta là Ki-tô hữu không?  Chúng ta không phải tự xưng, tự tuyên bố, hay tự giới thiệu mình, mà dùng chính đời sống Ki-tô hữu chính đáng khiến người khác cảm phục và nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu Ki-tô trong chúng ta.

Sau khi hỏi các môn đệ “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?”, Chúa Giê-su báo trước cho các môn đệ biết Người sẽ thực hiện sứ vụ thiên sai của Người như thế nào: sẽ bị chống đối, vu khống, bắt nộp cho người đời, sẽ bị hành hạ, vác thập giá và chịu chết nhục nhã rồi mới phục sinh sống lại trong vinh quang.  Chúng ta thấy môn đệ Phêrô đã can ngăn Chúa đừng chấp nhận con đường đau khổ, nhưng Chúa đã mắng trách Phêrô: “Satan, hãy lui đi! vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người.”  Sau đó, Chúa nói với dân chúng và các môn đệ: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình.”

Chúng ta thấy tất cả mọi sự đã diễn ra đúng ý như lời Chúa nói. Chúa đã đi đúng con đường thập giá để thể hiện sứ vụ cứu độ nhân loại, và đó cũng là con đường của tất cả mọi Ki-tô hữu.

Chúng ta biết từ xưa đến nay có một vấn đề khó khăn, nan giải làm cho nhiều người thắc mắc và thất vọng. Đó là vấn đề đau khổ. Con người chúng ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của người khác. Cho nên, Kinh Thánh nói: “Đời là thung lũng nước mắt.” Hay chúng ta thường nghe ví: đời là bể khổ, vì sao vậy?  Từ xưa đến nay các nhà hiền triết đã nát óc để tìm một câu trả lời thỏa đáng. Đức Phật Thích Ca đi tu cũng chỉ vì muốn tìm một câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi gai góc này.  Thật vậy, nếu không tin vào Thiên Chúa thì người ta không làm sao có thể hiểu nổi vấn đề đau khổ này, và có thể đi đến tuyệt vọng khi không làm sao tránh được đau khổ. Chỉ có một Đấng là Chúa Giêsu mới có thể cho chúng ta một câu trả lời thỏa đáng.  Chúa Giêsu đến trần gian, chấp nhận chịu đau khổ để gánh lấy tội lỗi nhân loại. Người đã dùng đau khổ làm giá cứu chuộc chúng ta, vì không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc. Vì thế nhờ sự chết và sống lại vinh quang của Người chúng ta được cứu rỗi và tìm được ý nghĩa, giá trị của sự đau khổ ở đời này.

Và cũng vì vậy, vác thập giá đi theo con đường Chúa đã đi là chấp nhận hy sinh, chịu thiệt thòi quên mình để trở thành chứng nhân cho Chúa, trở thành khí cụ, trở thành cái máng đem tình yêu, hy vọng, Tin mừng và ơn cứu độ của Chúa đến cho mọi người. Vác thập giá là luôn trung thành sống Lời Chúa dạy, sống ngay thẳng và công bằng, qua việc làm tốt lành, bác ái, hy sinh và quảng đại, với một tâm hồn khiêm nhường và chân thật, khiến người khác nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu Ki-tô, đang sống trong chúng ta và tin nhận biết Chúa.

-------------------------

 

 TN 24-B165: ĐỨC TIN VÀ THẬP GIÁ


Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

 

 Trong hành trình cuộc đời, đôi lúc chúng ta cần có những phút giây tĩnh lặng để xác định mình là TN 24-B165


Trong hành trình cuộc đời, đôi lúc chúng ta cần có những phút giây tĩnh lặng để xác định mình là ai trong xã hội mênh mông phức tạp. Trong đời sống Đức tin, có khi chúng ta cần hồi tâm suy tư để nhận ra ý nghĩa sự hiện diện của Đấng chúng ta tôn thờ. Xác định mình là ai trong cuộc sống, chúng ta sẽ cố gắng để sống tốt trong đối nhân xử thế; Hiểu rõ Đấng chúng ta tôn thờ, chúng ta sẽ sống Đức tin cách chân thực. Nhờ có Đức tin vững chắc, chúng ta đủ nghị lực vượt lên mọi nghịch cảnh của cuộc đời để thành đạt trong đời sống xã hội và trung thành trong đời sống Đức tin.
 
Các môn đệ đã theo Chúa được khoảng ba năm, vậy mà hôm nay, Người lại đặt cho họ câu hỏi rất bất ngờ: “Người ta nói Thầy là ai?”. Thì ra mặc dù đã có một thời gian dài làm môn đệ Chúa Giêsu, các môn đệ vẫn chưa hiểu rõ về thân thế của Thầy mình. Sự lúng túng của các ông đã thể hiện điều này: “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”.
 
Xác tín Chúa là ai, đây là vấn đề cốt lõi của Đức tin. Bài thánh ca quen thuộc mang tên “Giờ này Đức Kitô là ai?” đã diễn tả điều đó. Đức Kitô là ai khi tôi vui, khi tôi buồn, lúc tôi đam mê, khi tôi giận hờn, lúc tôi thành đạt, khi tôi thất bại…Người Kitô hữu đích thực là người luôn vững tin vào Chúa và sẵn sàng đón nhận những hoàn cảnh khác nhau của cuộc đời. Trong những lúc hân hoan, họ nhận ra tình thương của Người để tri ân cảm tạ; trong lúc cô đơn sầu khổ, họ nhận ra Người đồng hành để đỡ nâng an ủi. Bất cứ hoàn cảnh nào, họ vẫn luôn tin rằng Chúa yêu thương và luôn ở gần bên.
 
“Thầy là Đức Kitô!”. Đó là lời tuyên xưng Đức tin của thánh Phêrô. Phêrô thận trọng để cho những anh em khác trả lời dựa trên dư luận của quần chúng xung quanh vấn đề chân tính của Đức Giêsu, và ông là người có tiếng nói sau cùng. Cũng có thể lúc đó, ông mới nhận ra điều ông biết về Chúa là điều chắc chắn.
 
Sau khi các môn đệ có một định nghĩa chính xác về thân thế của Chúa, Người mới tỏ cho các ông biết, Đấng Kitô phải trải qua cuộc thương khó, nhưng sẽ phục sinh. Mác-cô không ghi lại lời khen của Chúa như Matthêu, nhưng ông cũng nhắc lời Chúa khiển trách Phêrô là Satan, khi ông này muốn can gián Chúa về ý tưởng thập giá và khổ nạn. Kể cả sau khi đã tuyên xưng Đức tin, các môn đệ chưa thể chấp nhận được quan niệm về một Đấng Thiên sai khổ nạn để cứu chuộc con người. Nơi Phêrô cũng như nơi mỗi chúng ta hôm nay, chúng ta vừa tuyên xưng Đức tin vào Chúa, đồng thời cũng vẫn gặp khó khăn khi đối diện với thập giá. Đó là lý do tại sao một số tín hữu ngày nay, tin vào Chúa Giêsu mà khước từ thập giá, hoặc chỉ chọn lựa Chúa Giêsu mà loại bỏ thập giá. Chúa Giêsu không có thập giá không phải Chúa Giêsu của mặc khải và cũng không phải là Đấng Cứu độ. Thập giá không có Chúa Giêsu chỉ là biểu tượng của sự hận thù, cam chịu và chẳng có giá trị bày tỏ tình yêu. Khi Phêrô có ý khước từ thập giá, Chúa Giêsu đã khiển trách ông nặng lời và gọi ông là Satan.
 
Lời Chúa hôm nay muốn giúp chúng ta tái khẳng định: Đấng chúng ta yêu mến tôn thờ là Con Thiên Chúa nhập thể, là Đấng Kitô và là Đấng cứu độ con người bằng thập giá. Bài đọc thứ nhất trích sách Ngôn sứ Isaia diễn tả chân dung của Người Tôi tớ đau khổ của Đức Giavê. Người tôi tớ, trong khi chịu bạc đãi, vẫn hy vọng Thiên Chúa là chỗ dựa vững chắc và là Đấng giải thoát những ai tin cậy Ngài.
 
Hành trình cuộc đời còn nhiều gian nan vất vả. Đã là người chẳng có ai tránh khỏi những thử thách. Tuy vậy, trước một khó khăn, người có Đức tin cảm thấy lối thoát nhờ Đấng Tối cao; người vô thần cảm thấy như mình đứng trước ngõ cụt. Người tin Chúa tìm thấy sức mạnh và an ủi; người vô tín thấy mình chơi vơi giữa con sóng biển đời. Đó là ý nghĩa việc Chúa Giêsu nói đến thập giá trong cuộc đời người tín hữu. Chúa Giêsu đã đến trần gian, Người không hủy bỏ thập giá nơi kiếp sống con người, nhưng Người cùng vác thập giá với họ để chia sẻ gánh nặng cuộc đời. Con người không còn đơn lẻ trong chặng đường thập giá, vì có Con Thiên Chúa vác cùng. Sau thập giá là vinh quang của phục sinh.
 
Bạn và tôi, chúng ta đều tin vào Chúa. Tuy vậy, Đức tin vào Chúa không phải là lời nói suông, mà phải được minh chứng bằng việc làm. Thánh Giacôbê đã khẳng định với chúng ta: Đức tin không có việc làm là đức tin chết (Bài đọc II). Nơi khác, vị tông đồ còn khẳng định mạnh mẽ hơn: Ma quỷ cũng tin vào Chúa và chúng run sợ, nhưng chúng không yêu mến Chúa (x.G 2,20). Chính qua việc làm mà chúng ta chứng tỏ Đức tin sống động và đích thực của Chúng ta.
 
« Các con bảo Thầy là ai? ».  Đó là câu hỏi vẫn đang được đặt ra cho chúng ta hôm nay.

--------------------------

 

 TN 24-B166: CHÚA GIÊSU CÒN CÓ Ý NGHĨA GÌ


TRONG CUỘC ĐỜI TA KHÔNG?

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

 

 Một vài năm gần đây, các phong trào bài tôn giáo hoạt động rất mạnh tại Âu-Mỹ. Họ vận động TN 24-B166


Một vài năm gần đây, các phong trào bài tôn giáo hoạt động rất mạnh tại Âu-Mỹ. Họ vận động và tìm cách loại bỏ mọi dấu ấn tôn giáo ra khỏi xã hội, biến xã hội trở thành không tôn giáo. Tôn giáo bị các nhóm này nhắm đến nhiều nhất là Kitô giáo. Các nhà làm luật muốn loại bỏ Kitô giáo ra khỏi hiến pháp của Châu Âu, biến Châu Âu thành một khối vô thần. Việc loại bỏ Kitô giáo trên văn bản pháp luật là thể hiện ra bên ngoài việc họ đã loại trừ Chúa Kitô ra khỏi tâm hồn họ từ trước đó.

Đối với nhiều người khác, Chúa Kitô và thập giá của Ngài chỉ còn như một món đồ trang sức mang trên cổ hoặc trên tai, chứ không phải ở trong tâm hồn. Chúa Kitô và Tin Mừng của Ngài cũng không ảnh hưởng và không có ý nghĩa gì trên cuộc đời họ. Những xu hướng nói trên đang là xu hướng ảnh hưởng trên nhiều Kitô hữu chúng ta. Vì quen sống trong sự tự do dễ dãi, con người không dễ dàng chấp nhận để bước theo Chúa Giêsu Kitô chịu đóng đinh.

Tin Mừng hôm nay cho thấy, sau một thời gian các môn đệ đi theo Chúa Giêsu, mỗi người với một mục đích khác nhau, hôm nay, Chúa Giêsu đã đặt vấn đề với các tông đồ: Phần các con, các con bảo Thầy là ai ? Và ngầm hiểu một câu hỏi khác: Các con theo Thầy để tìm gì ?

Trước khi đặt câu hỏi này cho các tông đồ, Chúa Giêsu cũng đã hỏi các ông về dư luận của quần chúng: Người ta bảo Con Người là ai ? Câu trả lời của các tông đồ cho thấy, dân chúng biết về Chúa Giêsu một cách hết sức mơ hồ, không chính xác: Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, người thì bảo là Êlia hay Giêrêmia hoặc một tiên tri nào đó. Điều đó chứng tỏ rằng trong mắt người dân, mặc dù đã thấy những việc Chúa làm, nghe những lời Chúa dạy, nhưng họ cho rằng ông Giêsu chỉ giống như một trong các vị ngôn sứ lớn của Cựu Ước mà thôi. Họ chưa tin Ngài là Đấng Mêsisa.

Khác với dân chúng, các tông đồ khi được hỏi, Simon Phêrô đã thay cho anh em tuyên xưng chính xác niềm tin của mình vào Chúa Giêsu: Thầy là Đấng Kitô. Tuyên xưng Thầy là Đấng Kitô, có nghĩa là các tông đồ đã tin Ngài là Đấng được Thiên Chúa xức dầu, là Đấng Cứu Thế mà Thiên Chúa đã hứa. Lời tuyên xưng của Phêrô thật chính xác. Thánh Mathew khi kể lại câu chuyện này còn cho thấy Chúa Giêsu khen Simon Phêrô. Tuy nhiên, các tông đồ vẫn kỳ vọng vào một Đấng Mesia với vương quyền thống trị của nhà Đavít mà các tiên tri đã loan báo. Trong suy nghĩ của các ông, Đấng Mesia phải xưng vương, tái lập vương quốc Israen, phần các ông hy vọng sẽ được kể là những cận thần, được nhiều bổng lộc.

Chúa Giêsu đã phải điều chỉnh lại suy nghĩ của các tông đồ. Ngài chính là Đấng Mesia, nhưng không phải là Mesia quyền lực. Ngài không đến để thống trị theo kiểu vua chúa trần gian, nhưng Ngài là Đấng Mesia khiêm hạ. Ngài không cứu chuộc nhân loại bằng những cuộc đảo chính hay khởi nghĩa, nhưng đã chọn con đường đau khổ và thập giá. Con Người sẽ bị đau khổ, bị các kỳ mục và kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại.

Simon Phêrô đã không dễ dàng chấp nhận như thế, vì trong suy nghĩ của ông và các tông đồ đã mang một Đấng Mesia khác, phù hợp với sở thích của các ông hơn. Vì thế, Phêrô đã phản ứng quyết liệt và còn kéo riêng Chúa Giêsu ra để trách Người. Hành động này chứng tỏ Phêrô muốn kéo Thiên Chúa về phe mình. Ông muốn Thiên Chúa phải đáp ứng mong đợi của mình, thay vì phải đi về phía Thiên Chúa và đáp ứng đòi hỏi của Ngài. Trước hành động của Phêrô, Chúa Giêsu đã không ngần ngại nói với ông: Satan ! Lui lại đàng sau Thầy. Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là tư tưởng của loài người.

Lời trách mắng này nghe có vẻ nặng, vì Phêrô đã phạm một sai lầm rất lớn, đó là ông muốn biến mình thành người chỉ đường cho Chúa, đi trước Chúa và trở thành kẻ cản đường Chúa. Vì thế, Chúa muốn Phêrô trở về với đúng vị trí của mình là một người môn đệ, là phải đi sau thầy, nên Chúa nói với ông: Hãy lui lại đàng sau Thầy. Lui lại không chỉ phải trở lại đúng vị trí là môn đệ, mà Chúa còn muốn ông phải thay đổi cả tư tưởng của mình cho phù hợp với tư tưởng của Thiên Chúa. Chỉ khi con người suy nghĩ theo đường lối của Thiên Chúa, thì mới có thể hành động và bước theo Thiên Chúa được.

Có lẽ khi nghe Chúa chỉnh sửa Người Anh Cả Phêrô, các tông đồ khác cũng cảm thấy chạm đến mình, cảm thấy đòi hỏi của Chúa quá lớn. Chúa Giêsu đã đọc được suy nghĩ của các ông, vì thế, Ngài đã đưa ra lời mời gọi: Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo tôi. Chúa không ép buộc, Ngài vẫn để cho con người có tự do chọn lựa nếu muốn. Một khi đã chọn theo Chúa thì chắc chắn không thể không có thập giá: Phải vác thập giá của mình và phải bước theo sau Chúa. Chúa không cần chúng ta vác thập giá của Chúa, nhưng Chúa muốn chúng ta vác thập giá của chính mình. Chúa cũng không muốn chúng ta đi một con đường nào khác, cũng không muốn chúng ta đi đường ngang lối tắt, mà phải đi con đường của Chúa và đi sau Chúa, thì mới có thể đạt được hạnh phúc Nước Trời.

Trong mắt người đời, vác thập giá, bước theo Chúa Giêsu như là sự điên rồ, là vô lý, nhưng đó lại là cái lý lẽ của Thiên Chúa và là thách thức cho những ai muốn: Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, ai liều mất mạng sống mình vì tôi và Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy.

Cuộc sống của con người ngày càng hiện đại, ngày càng tiện nghi. Lời mời gọi của Chúa Giêsu: Ai muốn theo tôi phải vác thập giá mình mà theo, là một thách thức cho mỗi người. Con người luôn muốn tìm kiếm sự dễ dàng thoải mái ; họ muốn một Chúa Giêsu không thập giá, không đau khổ ; họ muốn theo Chúa những không phải từ bỏ, không phải hy sinh. Chính vì thế, ngày nay, người ta đang muốn bỏ Chúa Giêsu để đi theo những tôn giáo khác hoặc những hứa hẹn dễ dàng hơn. Họ muốn tìm kiếm một thứ hạnh phúc có sẵn như mì ăn liền mà không phải cố gắng.

Chắc chắn trong cuộc sống không có một thứ hạnh phúc chân thật nào mà không phải đánh đổi bằng hy sinh vất vả. Hạnh phúc Nước Trời càng không thể có được bằng sự dễ dãi. Chắc chắn rằng, chúng ta không thể tìm kiếm một Đức Giêsu không thập giá và cũng không thể có một thập giá mà không có Chúa Giêsu. Vì nếu Đức Giêsu không thập giá, Ngài sẽ không thể cứu chúng ta, không thể thông cảm và chia sẻ với chúng ta. Và nếu thập giá không có Đức Giêsu thì đó chỉ là sự đau khổ triền miên trong tuyệt vọng, không lối thoát.

Tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, thì đồng thời chúng ta cũng phải dám vác thập giá mình để bước theo Ngài. “Tin – theo Chúa” là hai hành động luôn đi liền nhau, vì không thể tin mà không theo và cũng không thể theo mà không tin. Tin Chúa Giêsu là dám để cho Ngài hiện diện và làm chủ cuộc đời của mình, để Ngài chi phối mọi suy nghĩ và hành động mình. Tin Chúa được thể hiện qua hành động yêu thương, bác ái cụ thể chúng ta dành cho nhau, vì đức tin không có việc làm là đức tin chết. Theo Chúa Giêsu là dám làm theo mọi lời giảng dạy của Ngài, sống theo gương sống của Ngài và dám bước đi trên con đường của Ngài. Ngài không chọn sự dễ dãi của thế gian, nhưng Ngài chọn con đường khiêm hạ và vâng phục thánh ý Chúa cha.

Lời chất vấn của Chúa Giêsu đối với các tông đồ cũng đang là lời Chúa hỏi mỗi chúng ta: Còn ông bà, anh chị bảo Thầy là ai ? Ông bà anh chị theo tôi để làm gì ? Chúa muốn mỗi người hãy tự trả lời câu hỏi ấy. Chúa Giêsu có thực sự còn là Đấng Cứu Thế trong tâm hồn, trong gia đình tôi nữa hay không ? Nhiều gia đình tuy vẫn còn treo hình ảnh Chúa trong nhà, nhưng đã đuổi Chúa ra khỏi nhà từ lâu. Chúng ta đuổi Chúa ra khỏi nhà, khi chúng ta không còn lòng yêu mến, không dành cho Chúa một giây phút nào trong ngày, không nhớ đến, không cầu nguyện. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói: Một khi bạn có lòng yêu mến Chúa thật sự, bạn sẽ tìm được nhiều giờ để cầu nguyện với Chúa.

Xin Chúa giúp mỗi người mạnh dạn tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, tin tưởng phó thác vào Ngài và để Chúa có một vị trí quan trọng tuyệt đối trong cuộc đời. Cũng xin cho chúng ta can đảm vác thập giá hàng ngày bước theo Chúa. Nhờ tin và bước theo Chúa, chúng ta đạt được hạnh phúc đời đời. Amen.

--------------------------

 

 TN 24-B167: TƯ TƯỞNG CỦA THIÊN CHÚA VS


TƯ TƯỞNG CỦA LOÀI NGƯỜI

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

“Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là tư tưởng của người đời.”

 

 Đoạn Tin Mừng Mác-cô của Chúa Nhật XXIV này đầy mâu thuẫn, hay có vẻ như tư tưởng của TN 24-B167


Đoạn Tin Mừng Mác-cô của Chúa Nhật XXIV này đầy mâu thuẫn, hay có vẻ như tư tưởng của Đức Giê-su tự mâu thuẫn với chính mình. Đầu tiên Người muốn nghe các môn đệ báo cáo cho biết người ngoài ca tụng Người thế nào, sau đó các ông lại phải nói lên mình nhìn nhận Người ra sao. “Thầy là Đấng Ki-tô”, môn đệ Phê-rô tuyên xưng. Đoạn tương ứng trong Phúc âm Mát-thêu (16:15-20) cho thấy Đức Giê-su có vẻ như rất hài lòng với câu trả lời này. Người từng công khai đề cao Phê-rô trước các môn đệ khác, tới độ muốn đặt ông làm nền tảng và thủ lãnh của Hội Thánh mà Người sẽ thiết lập. Tuy nhiên ở đoạn văn này phản ứng của Đức Giê-su lại ngược hẳn. Vẫn cùng công thức tuyên xứng đó, thật là long trọng và chính xác trong ngôn từ, nhưng Đức Giê-su cho thấy: suy nghĩ của Người và trong đầu Phê-rô lại rất khác nhau, cách xa như trời với đất, đối nghịch như giữa Thiên Chúa và Xa-tan. Có thể như thế được chăng, cùng một công thức nhưng lại được hiểu rất khác nhau như vậy?

Tư tưởng của loài người: Đối với Phê-rô, cũng như phần đa các người Do Thái đương thời, danh xưng Ki-tô hay Mét-si-a rất gần với nội dung uy quyền và thống trị… trong công lý và hòa bình. Đấng được Xức Dầu đến trần gian để biểu lộ quyền lực tuyệt đối của Đức Chúa Gia-vê. Trong toàn bộ Cựu Ước, Gia-vê luôn được biết đến như Đấng dũng lực oai hùng. “Chúa thật là cao cả… khả tôn khả úy hơn chư thần… Trước thiên nhan, toàn uy phong rực rỡ, trong thánh điện đầy dũng lực huy hoàng… Hãy dâng Chúa quyền lực và vinh quang” (Tv 95). Nếu ‘Đấng Ki-tô’ phản ánh một Thiên Chúa quyền lực như thế, thì đương nhiên không thể chấp nhận Người ‘chịu đau khổ… bị loại bỏ… bị giết chết’. Phê-rô hoàn toàn đúng khi ‘kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người’. Và cũng sẽ hoàn toàn vô lý đòi những kẻ theo Người phải ‘từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo… liều mất mạng sống mình’. Dân riêng trung thành với Đức Chúa để được thành công, được Ngài che chở và mạng sống mình được bảo vệ.

Tư tưởng của Thiên Chúa: Đức Giê-su ‘nói rõ điều đó, không úp mở’ là ‘Đấng Ki-tô’ có bổn phận phải mạc khải về một Thiên Chúa yêu thương và cứu độ. Do đó, nếu Người có phải chịu đau khổ, bị loại bỏ và giết chết thì cũng là lẽ đương nhiên. Giê-su Na-da-rét sẽ luôn mãi là một Ki-tô tự hiến trên thập giá. Ai tin và theo Đấng Ki-tô đó sẽ không làm gì khác hơn là ‘từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.’ Vì là Đấng Ki-tô biểu lộ một Thiên Chúa đầy lòng xót thương, nên môn đệ tin nơi Người sẽ không tìm cách tự cứu lấy mạng sống mình trong an toàn thủ thế, một sẽ hoàn toàn tín thác vào lòng từ ái xót thương bao la. Mạng sống mà họ ‘sẽ cứu được’, một khi đã tự nguyện ‘liều mất’, sẽ không là gì khác hơn là một tình yêu nhân ái bao la, cả trong tương quan với Thiên Chúa lẫn với tha nhân.

Đồng ý với Đức Giê-su, Phao-lô cho rằng tư tưởng này của Thiên Chúa đối chọi hoàn toàn với tư tưởng của loài người; “Thật thế, lời rao giảng về thập giá là sự điên rồ đối với… sự khôn ngoan của thế gian… nhưng lại là sức mạnh đối với chúng ta là những người được cứu” (1 Cr 1:18-21). Điều làm tôi lo lắng là, bản thân tôi, chưa khi nào tôi cho rằng hai tư tưởng này lại sung khắc nhau đến thế. Thậm chí tôi vẫn thấy nhấn mạnh trên uy quyền của Thiên Chúa, hay đề cao một ‘Đấng Ki-tô’ thống trị đâu có gì là đối kháng với Thiên Chúa cứu độ, hay một Đức Ki-tô chịu đóng đinh. Đức Giê-su đã ‘cấm ngặt các ông không được nói với ai về người’ như thế, và còn tỏ ra hết sức giận dữ khi Phê-rô muốn dùng tư của loài người để lấn át tư tưởng của Thiên Chúa, tới độ mắng ông: “Xa-tan! Lui lại đàng sau Thầy!” Còn tôi, trong mục vụ, khi diễn giảng về Thiên Chúa và Đấng Thiên Sai, biết bao lần tôi đã không ngần ngại nhấn mạnh trên uy quyền và sự công thẳng của Thiên Chúa, hơn là trên lòng nhân ái yêu thương của Người. Chỉ vì làm như thế tôi đinh ninh rằng, việc mục vụ của mình sẽ hữu hiệu hơn, các giáo dân của tôi sẽ làm lành lánh dữ tích cực hơn. Thế nhưng liệu tôi có đáng bị quở trách như Người đã từng lên tiếng trách mắng Phê-rô không?

Lạy Chúa là Đấng Cứu Độ! Chúa uy quyền và thánh thiện nhưng cũng đầy thương xót và từ tâm. Kinh Thánh dạy con cả hai điều, nhưng mạc khải của Đức Ki-tô lại nhấn mạnh trên điều sau này nhiều hơn. Chớ gì Chúa sẽ không bao giờ phải quở trách con là Xa-tan chỉ vì ngăn cản không cho người khác biết về lòng từ ái vô biên Chúa, được biểu lộ qua nhục hình và cái chết của Chúa trên thập giá. Xin cho con không ngừng tôn vinh và rao giảng về Thánh Giá cứu độ. A-men.

------------------------

 

 TN 24-B168: ĐẶT VẤN ĐỀ


Trầm Thiên Thu

 

 Cuộc sống luôn có nhiều vấn đề – từ nhỏ tới lớn, từ đơn giản tới phức tạp, từ cụ thể tới trừu tượng TN 24-B168


Cuộc sống luôn có nhiều vấn đề – từ nhỏ tới lớn, từ đơn giản tới phức tạp, từ cụ thể tới trừu tượng, từ riêng tới chung. Biết cách đặt vấn đề có thể giúp chúng ta xử lý tình huống tốt hơn hoặc dễ dàng hơn. Ngược lại, không biết cách đặt vấn đề có thể khiến chúng ta lâm vào thế bí.

Đặt vấn đề cũng có thể là đưa ra một điều kiện nào đó: Nếu làm thế này thì sẽ được cái kia. Thập giá là vấn đề độc đáo đã được Chúa Giêsu đặt ra cho những người muốn theo Ngài, muốn làm môn đệ của Ngài. Thập giá là chiếc cầu gồm hai nhánh kỳ diệu, nhánh dọc đưa đến Thiên Chúa, nhánh ngang đưa tới tha nhân. Hai nhánh giao nhau ở giữa, giao điểm đó chính là “nút thánh” Đức Giêsu Kitô. Thập giá là con đường duy nhất dẫn tới hạnh phúc đích thực.

Thập Giá là Thánh Giá. Thánh Giá là cái GIÁ để nên THÁNH. Muốn nên thánh thì phải trả giá bằng cách đi qua Con Đường Thập Giá. Chỉ có con đường này dẫn tới Thiên Chúa trên Nước Trời. Đó là vấn đề chúng ta phải đặt ra.
Ngôn sứ Isaia cho biết: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng” (Is 50:5-7). Đó là lời tiên tri về con đường Thập giá mà Đức Giêsu Kitô đi qua.

Thập giá là đau khổ, là tang tóc, là chết chóc. Nhưng Thập giá lại là con đường dẫn tới sự phục sinh, sự trường sinh. Ngôn sứ Isaia đã đặt vấn đề: “Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên. Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu toà! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi! Này, có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, ai còn dám kết tội?” (Is 50:8-9a).

Có Thiên Chúa, người ta không sợ hãi bất cứ điều gì: “Lòng tôi yêu mến Chúa, vì Chúa đã nghe tiếng tôi khẩn nài, Người lại lắng tai ngày tôi kêu cứu” (Tv 114 [116]:1-2). Lòng tin ấy thật mãnh liệt, bền vững, và được kiểm chứng xác thực: “Gặp gian truân sầu khổ, tôi đã kêu cầu danh Chúa: ‘Ôi lạy Chúa, xin cứu gỡ mạng con!’. Chúa là Đấng nhân từ chính trực, Thiên Chúa chúng ta một dạ xót thương, hằng gìn giữ những ai bé mọn, tôi yếu đuối, Người đã cứu tôi” (Tv 114 [116]:4-6).

Vấn đề được đặt ra và được minh chứng, niềm tin của họ càng thêm vững mạnh. Ngày đêm họ luôn tự nhủ: “Hồn tôi hỡi, thôi bình tĩnh lại, vì trên ngươi, Chúa đã xuống ơn lành; Chúa cứu gỡ mạng tôi khỏi chết, giữ mắt này chẳng còn đẫm lệ, ngăn ngừa tôi khỏi phải hụt chân. Tôi sẽ bước đi trước mặt Người trong cõi đất dành cho kẻ sống” (Tv 114 [116]:7-9). Đức tin càng mạnh thì càng thêm trông cậy và thể hiện đức mến. Đức tin đó không thể là lời nói suông, mà phải được chứng tỏ bằng hành động cụ thể.

Thật vậy, Thánh Giacôbê đã đặt vấn đề: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no’, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2:14-16). Đó cũng là cách giải thích rõ ràng các chi tiết.

Thánh Giacôbê lý luận rất đọc đáo: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: ‘Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động’. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin” (Gc 2:17-18). Một cách đặt vấn đề rất hay, rất lô-gích. Thật là tuyệt vời lắm!

Một lần nọ, chính Đức Giêsu đã chỉ cho ông Tôma biết con đường dẫn tới sự sống vĩnh hằng: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6). Chúa Giêsu chắc chắn như vậy. Con đường đó là Con Đường Giêsu, và con đường đó cũng chính là Con Đường Thập Giá.

Trình thuật Mc 8:27-35 cho chúng ta biết vài vấn đề quan trọng. Một hôm, Đức Giêsu và các môn đệ tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?”. Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”. Ngài lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Ông Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô”. Lời tuyên xưng thật đáng khen. Nhưng Đức Giêsu liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài.

Sau đó, Ngài cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Đây lần thứ nhất Ngài loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ngài. Nghe Ngài nói rõ như vậy, ông Phêrô liền kéo riêng Ngài ra và trách Ngài. Nhưng Ngài trách mắng ông Phêrô: “Satan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. Ông Phêrô vừa mới đáng khen thì lại đáng trách ngay. Điều đó cho thấy rằng phàm nhân luôn biến đổi thất thường vì yếu đuối, đôi khi chính mình cũng không biết mình.

Cuối cùng, Chúa Giêsu nói về các điều kiện để theo Ngài: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Nghe chừng là nghịch lý, nhưng thực ra lại là thuận lý. Kỳ lạ thật!

Trong cuộc sống, hạnh phúc là một trong những thứ luôn được người ta đặt vấn đề. Truyện ngụ ngôn kể rằng… Chó con hỏi chó mẹ: “Mẹ ơi, hạnh phúc là gì?”. Chó mẹ bảo: “Hạnh phúc là cái đuôi con đấy!”. Chó con quay lại tóm lấy cái đuôi nhưng không sao tóm được. Chó con oà khóc và hỏi chó mẹ: “Tại sao con không thể nào bắt được hạnh phúc hả mẹ?”. Chó mẹ mỉm cười và nói: “Con yêu, con cứ tiến về phía trước thì hạnh phúc sẽ theo sau con”.

Thế thôi ư? Vậy thì tại sao cứ phải đi tìm hạnh phúc trong khi hạnh phúc vẫn luôn đi theo mình? Hãy sống và cảm nhận hạnh phúc mà cuộc đời cho chúng ta. Hạnh phúc trừu tượng mà vẫn cụ thể: Hạnh phúc là được sống bên những người mình yêu thương. Như vậy, hạnh phúc luôn gần gũi và giản dị.

Chúa Giêsu bảo chúng ta phải cố gắng vác thập giá hằng ngày thì sẽ được sống. Hạnh phúc nào cũng có vị mặn của nước mắt. Thành công nào cũng cần nhiều khổ luyện. Thánh Bernard Clairvaux (1090-1153) xác nhận: “Sự chết là cửa ngõ sự sống”. Còn đại văn hào Victor Hugo (1802-1885, người Pháp) viết: “Hành động tốt là bản lề của Cửa Nước Trời”. Như vậy, chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu bảo chúng ta phải “từ bỏ mình” và “vác thập giá” hằng ngày.

Ngoài ra, còn có những “bộ ba” quan trọng của đời người mà chúng ta cần lưu tâm:

     + Ba thứ qua đi không thể lấy lại: Thời Gian, Lời Nói, Cơ Hội.

     + Ba thứ không được đánh mất: Sự Thanh Thản, Niềm Hy Vọng, Lòng Trung Thực.

     + Ba thứ có giá trị nhất: Tình Yêu, Lòng Tự Tin, Bạn Bè.

     + Ba thứ không bao giờ bền vững: Giấc Mơ, Tài Sản, Thành Công.

     + Ba thứ tạo giá trị con người: Siêng Năng, Chân Thành, Thành Đạt.

     + Ba thứ làm hỏng con người: Rượu, Lòng Tự Cao, Sự Giận Dữ.

Xin “mở ngoặc” nhỏ: Thống kê của Hoa Kỳ cho thấy rằng rượu là nguyên nhân 1/2 số vụ tai nạn giao thông và hỏa hoạn, 2/3 số vụ giết người, 1/3 số vụ tự tử, và gây ra hơn 200.000 trường hợp tử vong hàng năm. Có những vấn đề tưởng nhỏ mà lại lớn.

Vấn đề quan trọng nhất là vào Nước Trời, vì đó là cùng đích của mọi người. Ước gì mỗi người đều biết đặt vấn đề một cách nghiêm túc theo gương của tác giả Thánh Vịnh: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm” (Tv 51:3-5). Tình Chúa bao la và bất biến, hãy tín thác vào Ngài, vì Ngài đã thề hứa: “Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống” (Ed 33:11).

Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết thực hành theo lời dạy của Thầy Chí Thánh Giêsu, can đảm từ bỏ những gì không thuộc về Nước Trời, xin ban Thần Khí Ngài để con đủ sáng suốt và khôn ngoan mà mau mắn giải quyết đúng theo Tôn Ý Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

-------------------------

 

 TN 24-B169: CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN_B


Lm. Antôn

Ông bà anh chị em thân mến.

 

 Có một bà mẹ trẻ đang mang thai sắp đến ngày sinh nở. Mẹ cô vừa qua đời để lại người cha và 3 TN 24-B169


Có một bà mẹ trẻ đang mang thai sắp đến ngày sinh nở. Mẹ cô vừa qua đời để lại người cha và 3 người em. Hàng ngày, cô phải lo cho gia đình của cô, phải thay mẹ chăm sóc cha và các em, nhất là người em gái nhỏ nhất còn trẻ mắc chứng bệnh “lupus”, là một chứng bệnh rất hiểm nghèo, vì hệ thống đối kháng trong thân thể không bình thường. Khi gặp một linh mục đến an ủi, cô rơm rớm nước mắt và thắc mắc hỏi rằng: “Tại sao một Thiên Chúa nhân từ, có uy quyền làm mọi sự và thương yêu con người, lại bắt cô, em cô, và gia đình cô phải chịu nhiều đau khổ như thế?”

Ông bà anh chị em thân mến. Các bài đọc lời Chúa hôm nay có thể giúp trả lời thắc mắc của bà mẹ trẻ trên. Mặc dù Thiên Chúa có uy quyền làm cho mẹ cô sống và chữa lành em cô khỏi bệnh, nhưng Ngài chọn con đường đau khổ để mọi người trong gia đình cô được hưởng ơn cứu độ và hạnh phúc vĩnh cửu muôn đời. Chúng ta phải tin vào Thiên Chúa dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, vì Ngàii thông biết mọi sự, và có những lý do và ý định riêng của Ngài.

Trong bài đọc I, tiên tri Isaiah được Thiên Chúa cho thấy trước những gì sẽ xảy ra cho Người Tôi Trung, Đấng Thiên Sai, và ngôn sứ đã tiên báo những điều đó cho mọi người biết. Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa sẽ giải thoát con người bằng cách chịu mọi cực hình và gian khổ. Những điều tiên đoán này đã xảy ra cho Chúa Giê-su Kitô khi Ngài được Thiên Chúa sai xuống trần để chuộc tội cho con người, nhất là trong cuộc thương khó và cái chết đau thương của Ngài trên thập giá. Nhưng Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại vinh quang từ cõi chết, để những ai tin vào Ngài cũng sẽ được sống lại như Ngài. Chúng ta nhận thấy để vượt qua đau khổ, Người Tôi Trung, Chúa Cứu Thế cần có một niềm tin vững chắc, không lay chuyển vào Thiên Chúa, Đấng đã sai Ngài tới thế gian. Chính vì những đau khổ Ngài đã chịu, mà ơn cứu độ, sự sống lại và hạnh phúc vĩnh cửu đời sau được dâng tặng cho mọi người nhân loại. Trong hiện tại, người mẹ trẻ đau khổ, nhưng ngày mai và trong tương lai, bà sẽ nhận ra tình thương yêu của Thiên Chúa luôn che chở bao bọc, của cha mẹ, của những thành phần trong gia đình. Những điều này sẽ giúp đức tin của bà vững mạnh hơn, trung thành với Thiên Chúa và thương yêu nhau hơn, để ngày sau cùng được đoàn tụ trong Nước Trời.

Trong bài đọc II, thánh Giacôbê khuyên và dạy tất cả chúng ta, đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa phải được diễn tả qua hành động. Nếu chúng ta yêu mến Thiên Chúa, thì chúng ta cũng phải giúp đỡ tha nhân bằng những hành động cụ thể. Thánh Phao-lô nhấn mạnh rằng đức tin không có việc làm là đức tin chết từ gốc rễ. Đức tin và làm việc lành, bác ái như hai mặt của một đồng tiền, luôn đi đôi với nhau. Nếu chúng ta quyết định tin vào Chúa, chúng ta phải sống lời Ngài dạy bảo. Chúng ta là phải thể hiện niềm tin vào Chúa của chúng ta qua việc lành bác ái.

Trong bài Tin mừng, khi thánh Phêrô can ngăn Chúa Giêsu đừng chấp nhận con đường đau khổ, chúng ta thấy Chúa đã mắng trách Phêrô “Satan, hãy lui đi! vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người.” Sau đó, Chúa nói với dân chúng và các môn đệ “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình.”

Ông bà anh chị em thân mến. Cũng như bà mẹ trẻ trên, chúng ta cũng có những đau khổ trong cuộc sống, nhưng các bài đọc lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhìn tất cả mọi sự qua đức tin. Thiên Chúa là Đấng nhân từ và thông biết mọi sự và mọi việc, và Chúa có những lý do và ý định riêng của Chúa. Khi đương đầu với những khó khăn và đau khổ như người mẹ trẻ, một hành động đức tin lớn nhất chúng ta có thể làm là thưa với Chúa “Lạy Chúa, con không biết, không hiểu lý do tại sao Chúa gởi thập giá này cho con, nhưng con sẽ vác và tiến bước đi chỉ vì Con Cha, Đấng Thiên Sai, Chúa Giê-su Ki-tô đã nói con phải vác.”

Tôi nghĩ rằng hầu hết tất cả mọi người chúng ta có thể vác một cây thập giá nếu chúng ta thấy hay biết lý do tại sao, như vợ hay chồng vác thập giá cho nhau, như cha mẹ vác thập giá cho con cái. Nhưng thật sự cần một đức tin to lớn và vững chắc vào lời Chúa, và với một tình yêu mến Chúa sâu sa để có thể vác một thập giá mà chúng ta không nhìn thấy, hay không biết lý do tại sao, và can đảm nói rằng: “Thiên Chúa thông biết mọi sự, và Chúa luôn có những lý do, thánh ý của Ngài.”

Ông bà anh chị em thân mến. Khó khăn và đau khổ như sinh với tử, là một phần của cuộc sống con người. Không ai có thể thoát được. Nó sẽ đi tìm và sẽ tìm gặp chúng ta, cho dù chúng ta là ai và ở đâu. Điều quan trọng không phải là đau khổ đến với chúng ta, nhưng điều quan trọng là thái độ chúng ta đối diện với đau khổ như thế nào, cách chúng ta chấp nhận như thế nào, và chúng ta sử dụng đau khổ làm sao. Chúng ta không thể nào tránh đau khổ, nhưng với ơn và sự trợ giúp của Chúa, chúng ta có thể thay đổi đau khổ từ sự thụ động thành tích cực, từ sự ích kỷ cá nhân thành sự hy sinh chia sẻ, và lôi kéo chúng ta đến gần Chúa hơn, thay vì xa Chúa, như Người tôi tớ Chúa Hồng y Phan-xi-cô Nguyễn Văn Thuận, qua hồng ân của Chúa, đã biến đổi những đau khổ trong 10 năm biệt giam như cơ hội tôi luyện đức tin, gắn bó với Chúa hơn, và làm sáng danh Chúa.

Những bài đọc lời Chúa hôm nay là một lời kêu gọi đức tin, để chúng ta can đảm thực hiện và sống như Chúa Giê-su đã tuyên bố và hành động, vác thập giá và tiến bước đi.   Nếu chúng ta chân thành lắng nghe và can đảm thực hành lời Chúa kêu gọi, chúng ta sẽ nhận được sức mạnh trong tình yêu Chúa, và sẽ khám phá chiều kích trái ngược của thập giá, chứa đựng những ân sủng thật cao cả hơn chính thập giá.

Ông bà anh chị em thân mến. Đây là mầu nhiệm tình yêu thập giá của Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu Thế, mà chúng ta cử hành trong Thánh lễ hôm nay. Đây cũng chính thật là “Tin Mừng” mà Chúa giê-su Ki-tô muốn chia sẻ với chúng ta hôm nay. Chúng ta cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta hồng ân cao cả này, và trong Thánh lễ này, xin Chúa ban sức mạnh cho chúng ta để chúng ta biến thập giá vì đức tin, vì Lời Chúa, trong đời sống, trở thành bài ca tụng và làm sáng danh Chúa.

----------------------------

 

 TN 24-B170: THEO ĐƯỜNG CHÚA ĐI


Lm. Jos. DĐH

 

 Những người tài giỏi có chức vị, thường xuyên phải vất vả bận rộn với những hiểu biết của mình TN 24-B170


Những người tài giỏi có chức vị, thường xuyên phải vất vả bận rộn với những hiểu biết của mình, đó không phải là chuyện lạ, đúng như cái nhìn của Nguyễn Du: chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Quan niệm như thế nào là bình an, thành công, tất nhiên không phải là nhiều tiền lắm của, là có nhiều bằng cấp học vị. Hiện tại người ta vẫn coi được niềm vui, được tình yêu và sự ủng hộ của đám đông, đó là thành công, là hạnh phúc. Tiền tài địa vị dễ cuốn hút, nhưng dù giầu về tinh thần và vật chất, người ta cũng không thể có một cuộc sống như ý.

Kinh nghiệm người xưa truyền lại cho con cháu: thương nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, cửu thập đèo cũng qua. Yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng. Đau khổ ở đời, thường tự nhiên như khách không mời mà tới, niềm vui hạnh phúc phải nỗ lực tìm kiếm, ấy vậy cũng không dễ mà gặp. Theo Đức Giêsu làm môn đệ không phải là để hưởng bổng lộc trần gian, theo đường Chúa đi đâu phải để né tránh đau khổ, theo đường Chúa đi để hiểu rõ hơn thế nào là tình Chúa yêu tôi, và diễm phúc vì có Chúa luôn ở cùng.

Thầy hiểu trò và trò biết thầy không phải là điều ngạc nhiên, điều đáng nói là thầy có truyền được kiến thức cho trò, còn trò có lĩnh hội được những lời vàng ngọc tâm huyết của thầy không, điều đó vô cùng thiết thực. Kiểu sống, cách sống phải diễn tả được tính hợp lý mới đủ thuyết phục; trái chua quả ngọt ít nhiều cũng do người cần mẫn vun trồng. Các môn đệ là học trò của Thầy Giêsu, các ông không thể trả lời cách chung chung thầy là một người tốt; cũng thể nói các hoạt động củaThầy gần giống Gioan tẩy giả, gần giống Êlia. Chính vì tình yêu mà Đức Giêsu rất mong muốn các môn đệ, và từng người tin theo Chúa, phải trả lời bằng cuộc sống của mình Đức Giêsu, Thầy là ai ?

Thời đại nào cũng vậy, người ta chỉ có thể biết rõ thần tượng của mình, chỉ có thể diễn tả chính xác về đối tượng mình say-mê, khi mà khối óc, con tim của họ cùng lên tiếng bằng hành động yêu thương. Thầy Giêsu không những ngăn cấm Phêrô mà còn ngăn cấm cả các học trò không được nói tới Thiên tính Đức Kitô, khi mà tâm trí và hành động của Thầy chưa vượt qua đau khổ thập giá rồi sống lại vinh quang. Nếu thực sự Thầy Giêsu muốn làm một cuộc phỏng vấn về các học trò, hẳn Ngài cũng muốn các ông phải trả lời bằng lập trường vững chắc Đức Kitô, Thầy là ai ?

Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học. Chúa Giêsu cũng theo qui luật ấy, Ngài trả lời trực tiếp cho các ông Đức Kitô chính là: “Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ chối bỏ, và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại”. Ông Phêrô công khai nói lên Thầy là Đức Kitô, ông được Thầy Giêsu xem đó là một phát hiện lạ thường không tự do máu huyết mạc khải. Khẳng định cho mọi người biết tôi là người công giáo đã khó rồi, sống tinh thần của người môn đệ theo đường Đức Giêsu đã đi, hẳn không thể bằng sự hiểu biết và sức riêng của mình.

Dư luận của đám đông biết về Đức Giêsu là ai, quả là mơ hồ, vì quan niệm của người đời: nửa sự thật vẫn chỉ là nửa sự thật. Nếu họ xem Đức Giêsu là Gioan tẩy giả, là Êlia hay là một ngôn sứ nào đó, nghĩa là họ cũng chỉ biết Đức Giêsu nửa vời mà thôi. Tuy các học trò nói lên được căn tính của Đức Giêsu là giỏi rồi, nhưng để hiểu và sống giáo huấn của Thầy Giêsu, người ta không thể sống lơ mơ đại khái về tình yêu của Đức Kitô.

Lời quở trách Phêrô “satan, hãy lui đi, vì người không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người”. Đúng là các ông lúc ấy hiểu biết và tin Đức Giêsu là Cứu thế, nhưng sứ mạng và con đường Đấng Kitô đi là con đường thập giá, các ông quả là mông lung ! Theo đường Chúa đi, nghĩa là đi đằng sau Chúa, không thể suy luận kiểu phàm trần, không thể có con đường tắt nào để đạt tới hạnh phúc thật, nhất định phải qua thập giá mới tới vinh quang.

Hô to cho mọi người biết tôi là công giáo, dễ lắm, tuyên xưng Đức Kitô là Con Thiên Chúa, cũng không khó; tự bỏ mình, đi con đường của Thầy Giêsu, vác thập giá hàng ngày, như thế mới thực sự là môn đệ của Đức Giêsu. Ngày hôm nay, không cần phải là linh mục hay tu sĩ, mà dù là đối tượng nào cũng vẫn được Đấng Kitô cứu chuộc, với điều kiện phải tự mình tuyên xưng niềm tin Đức Kitô là ai bằng việc sống yêu thương như Đức Kitô đã sống.

Các người chài lưới xưa kia, có đi đằng sau Thầy, có tin yêu và cậy dựa vào sức mạnh của Thầy mình, các ông mới đi con đường của Chúa cách trọn vẹn. Các thanh niên thiếu nữ hôm nay có dám từ bỏ mình, có thực sự muốn theo Chúa làm môn đệ, họ mới dần khám phá ra Thầy là Đức Kitô hằng yêu thương, đang ở trong cuộc đời của họ.

Giáo lý nhà Phật nói rằng đời là bể khổ, mà mỗi người là cánh bèo trôi dạt ở trên, vì vậy, lý tưởng hơn cả là hãy làm gì để giúp nhau bớt khổ, giải thoát khổ đau cho nhau. Khổng Tử bằng kinh nghiệm của mình, ông cho rằng: ngọc không dũa, không sáng, người không đối diện với gian nan thử thách, khó mà nên hoàn thiện. Đức Giêsu không hứa hẹn về con đường giải thoát khổ đau, hoặc bằng mưu trí chiến thắng bể khổ; trước hết hãy ý thức hoàn thiện mình, từ bỏ mình, vác thập giá theo Chúa, rồi người ta sẽ hiểu và thấy thế nào là hạnh phúc. Câu trả lời Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa, mỗi người tin theo Chúa phải tự do sống ơn gọi của mình mỗi ngày. Cách đáp trả Đức Kitô là ai cho mọi người: đẹp nhất, hay nhất, đúng ý Chúa nhất, vẫn là hãy đi đằng sau Thầy Giêsu, khiêm tốn, cậy nhờ Chúa giúp ta hành động yêu thương như Chúa đã yêu. Amen.

--------------------------

 

 TN 24-B171: BA BỨC CHÂN DUNG VỀ ĐỨC GIÊSU KITÔ

 
 

Tại Xêdarê Philipphê, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?”. Từ từ Người dẫn TN 24-B171


Tại Xêdarê Philipphê, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?”. Từ từ Người dẫn đưa các ông đến câu hỏi quan trọng nhất, xác tín nhất: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?“.

Xêdarê Philípphê được xem là miền đất dân ngoại, nơi có một trung tâm rộng lớn thờ thần Baan. Tương truyền, đây là nơi “chôn rau cắt rốn” của thần Hylạp có tên là Panias, thần thiên nhiên. Vào năm 2 trước CN, chính quận vương Hêrôđê Philípphê đã xây dựng nơi ấy thành địa danh linh thiêng đối với cư dân xứ này. Trên thành đó, ông đã cho xây và đặt đầu tượng Xêda, hoàng đế Rôma mà ông xem là vị thần, để tôn thờ. Chính tại “linh địa” dân ngoại này, Chúa Giêsu đã làm một cuộc thăm dò dư luận. Ngài muốn biết, liệu đã có thể loan báo cho các môn đệ hiểu về cuộc thương khó sắp tới của Ngài chưa.

Câu hỏi đầu tiên Chúa Giêsu đặt ra là đối với dân chúng: “Người ta nói Con Người là ai ?”. Sau những lần nghe Chúa giảng dạy, chứng kiến những việc Ngài làm như chữa bệnh, trừ quỷ, hoá bánh ra nhiều…dân chúng nghĩ Chúa Giêsu là ai ? Các môn đệ đã cho Chúa biết: Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả; kẻ thì bảo là ông Êlia; có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ.

Người ta nghĩ Chúa Giêsu là ông Gioan Tẩy giả sống lại, vì Vua Hêrôđê khi nghe những việc Chúa Giêsu đã làm, ông đã xác định đó là Gioan bị Vua chém đầu nay đã sống lại (Mt 14,1-2; Mc 6,14-16). Có người nghĩ Chúa Giêsu là ông Êlia vì trong niềm mong đợi Đấng Mêsia, dựa vào lời sách ngôn sứ Malakhi, người ta luôn mong đợi ngôn sứ Êlia sẽ trở lại để dọn đường cho Chúa đến (Ml 3, 23-24). Tại sao có người lại nghĩ Chúa Giêsu là ông Giêrêmia hay là một trong các ngôn sứ? Vì đối với dân Do Thái, một vị ngôn sứ xuất hiện là dấu chỉ niềm hy vọng: Thiên Chúa vẫn trung thành với giao ước. Ngài sắp đến viếng thăm cứu chuộc dân Ngài. Khi nghe Chúa Giêsu giảng dạy và nhìn thấy các phép lạ Ngài làm, dân chúng sửng sốt, kinh ngạc và họ đã coi Ngài là một vị ngôn sứ (x.Mt 21,46).

Sau khi thăm dò dư luận bằng lắng nghe các môn đệ kể về cảm nghĩ của dân chúng, Chúa Giêsu trắc nghiệm các môn đệ, đặt câu hỏi cho chính họ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”.

Chúa Giêsu có thể tự giới thiệu về mình, tự nói lên căn tính của mình. Nhưng Người đã không làm thế. Chúa muốn người môn đệ phải tự khám phá ra Thầy của mình là ai. Chúa muốn lời tuyên xưng của người môn đệ phải phát xuất từ nỗ lực tìm hiểu và cảm nghiệm chân thực trong cuộc sống sinh hoạt với Người. Thánh Phêrô đã thay mặt toàn thể anh em thưa rằng: “Thầy là Đấng Kitô,Con Thiên Chúa Hằng Sống”.

Chúa Giêsu hài lòng về lời tuyên xưng ấy. Tuy nhiên khi tuyên xưng, Phêrô vẫn chưa thật sự hiểu Đấng Kitô có nghĩa là gì. Có lẽ ông còn chịu ảnh hưởng của đám đông nghĩ đến một Đấng Kitô oai nghi, vinh quang và quyền lực. Vì thế, Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu biết con đường của Người. Con đường thực sự mà Đấng Kitô phải đi là con đường đau khổ: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ chỗi dậy”. Đó là con đường tủi nhục, con đường khổ nạn, con đường chết chóc. Nhưng sau tủi nhục sẽ đến vinh quang. Sau khổ nạn sẽ là hạnh phúc. Sau chết chóc là phục sinh. Đó không phải là con đường vinh quang trần thế, nhưng là con đường nhỏ hẹp thiêng liêng. Đó chính là con đường dẫn đến hạnh phúc đích thực. Chúa không lừa mị, không hứa hẹn những gì dễ dãi, chóng qua. Chúa chỉ đường ngay nẻo chính và muốn những ai theo Người phải dũng mạnh, can đảm, quyết liệt. Vì thế, Chúa nói thẳng thắn với các môn đệ: “Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo”.

“Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đó là đức tin Kitô giáo. Từ đây phát sinh Kitô giáo vì người tin vào Đức Giêsu thành Nazareth đã tuyên xưng Người là Đức Kitô, là Cứu Chúa của họ. Lời tuyên xưng “Đức Giêsu Kitô” có hai vế: Đức Giêsu thành Nazareth và Đức Kitô. Đức Giêsu thành Nazareth là con người lịch sử đã sống, đã chết và đã phục sinh. Qua biến cố đó, nhiều người đã nhìn nhận và tuyên xưng Người là Đức Kitô. Câu tuyên xưng “Đức Giêsu Kitô” gói trọn con người lịch sử Đức Giêsu thành Nazareth và Đấng được tuyên xưng là Cứu Chúa, là Đức Kitô, Đấng được niềm tin của Kitô hữu tôn vinh.

Đối với niềm tin Kitô giáo, “Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi“, là Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại.Thánh Phaolô nói: Ai tin thì được cứu độ. Mỗi kitô hữu luôn thấm nhuần chân lý này, nên trong bất cứ nghịch cảnh nào của cuộc sống, họ luôn tuyên xưng niềm tin của mình vào Chúa Giêsu như Phêrô đã từng tuyên xưng.

“Thầy là ai?”, Ðức Giêsu là ai? Ðó là một câu hỏi được đặt ra cho mọi thời đại. Câu hỏi được đặt ra để chờ đợi một câu trả lời có ảnh hưởng quyết định trên lối sống của người trả lời. Câu hỏi này ngày nay cũng gặp được nhiều câu trả lời khác nhau, và mỗi câu trả lời kéo theo một nếp sống khác nhau.

Tuy nhiên điều quan trọng ở chỗ là mỗi người Kitô hữu đặt cho mình câu hỏi: đối với tôi, Đức Giêsu là ai? Bức chân dung nào đã điều khiển những tư tưởng, tâm tình và hoạt động của tôi? Phải làm thế nào để trình bày chân dung sống động của Đức Giêsu cho anh chị em của tôi hôm nay?

Phần tôi, rất thích ba bức chân dung về Đức Giêsu: Hài nhi trong máng cỏ, Tử tội trên thập giá và Tấm Bánh trên bàn thờ.

– Là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai, nhưng khi chấp nhận làm người, Đức Giêsu đã được sinh ra trong một chuồng chiên, được mẹ bọc tả đặt nằm trong máng cỏ (Lc 2,12). Ngôi Hai làm người là “một tin mừng trọng đại” cho toàn dân, lại phải “ở nhờ” nhà súc vật (Lc 2,11).

– Đức Giêsu lên ngôi vua trên Thập giá. Cái chết đau thương tủi nhục của một tử tội lại trở nên hiến tế, nguồn ơn cứu độ cho nhân loại.

– “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (Lc 22,19). Đấng ban sự sống cho muôn loài (CV 17,25), Đấng mà vừa nghe Danh thánh thì cả trên trời dưới đất và trong âm phủ, muôn vật phải bái quỳ (Pl 2,10) đã trở nên Tấm Bánh nuôi nhân loại qua Thánh lễ mỗi ngày.

Máng cỏ là nhà Chúa sinh ra. Thập giá là ngai Chúa lên ngôi vua. Tấm bánh là Mình Thánh Chúa. Bức tranh máng cỏ – chuồng chiên là sự chiến thắng cám dỗ về của cải vật chất. Bức tranh Thập giá- Đồi Sọ mô tả chiến thắng về chức quyền. Bức tranh Tấm Bánh- Thánh Thể giải bày chiến thắng cám dỗ về danh vọng.

Thiên Chúa làm người và đã trở nên tôi tớ. Thiên Chúa đã đóng đinh mọi sức mạnh áp chế, mọi quyền lực thống trị. Người đã trở nên anh em để phục vụ và hiến dâng mạng sống cho con người.

Đấng mà chúng ta tôn thờ và yêu mến không chỉ là Đức Chúa, Đấng Tối Cao, Đấng Thánh, mà còn là Con Người, là anh em, là người trao ban sự sống dồi dào.

Trong bài đọc 2, Thánh Giacôbê nói về tương quan giữa Tin và Sống: “Đức tin không việc làm là Đức tin chết“. Tin trong lòng và tuyên xưng ngoài miệng và phải thể hiện bằng việc làm. Thánh Giacôbê cho hướng dẫn cụ thể: “Nếu có anh chị em nào không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh chị em lại bảo rằng: ‘chúc anh chị em đi bình an, và ăn no mặc ấm’ mà anh chị em lại không cho họ những gì cần dùng cho thân xác, thì nào có ích gì?“. Việc làm đó chính là lòng bác ái, cảm thông, chia sẻ với tha nhân, nhất là với người nghèo khó, người hoạn nạn. Kitô hữu là người tin vào Đức Kitô và có Chúa Kitô trong cuộc đời, cùng với Người hướng tới tha nhân. Đó là một cuộc sống phong phú và hạnh phúc của người kitô hữu!

Lạy Chúa Giêsu, tựa như thánh Phêrô, con cũng tuyên xưng Chúa là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Con muốn sống với trọn con tim điều mình tuyên xưng: Chúa có vị trí quan trọng nhất trong những chọn lựa hằng ngày của con. Cùng với Chúa, xin cho con đến với tha nhân bằng một con tim rộng mở, chia sẻ và cảm thông. Amen. mục lục

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

---------------------------

 

 TN 24-B172: THẦY LÀ AI?

 
 

Trong bài Tin Mừng, Chúa hỏi các môn đệ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” cũng là câu TN 24-B172


Trong bài Tin Mừng, Chúa hỏi các môn đệ: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” cũng là câu hỏi mà Chúa đặt ra cho tôi hôm nay. Tôi xin thú nhận rằng tôi vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Chúa là ai trong cuộc sống? Lắm lúc tôi thấy Chúa thật gần gũi, thật dễ thương và dường như mình đã đầu phục Chúa làm chủ đời tôi rồi. Nhưng, lúc khác tôi lại cảm thấy dường như Người rất xa vắng, chẳng thấy Người đâu cả. Người hiện diện mà tôi chưa được thấy nên Người vẫn xa vắng. Tuy nhiên chỉ có một điều là tôi không dám bỏ cuộc, vẫn kiên trì tìm kiếm với niềm hy vọng một ngày nào đó tôi sẽ biết Người như Người biết tôi. Và sau khi đã trải qua gần hai phần ba hành trình của đời người, với mọi nỗ lực và cố gắng, đối diện và nhiều lần ngã gục trước các thử thách… tôi nhận ra rằng mình chưa làm được gì để chứng minh Chúa là chủ tôi… Vẫn như ngày đầu tiên… Tâm nguyện vẫn còn… Nhưng sức lực yếu dần, đèn trong nguời cũng sắp cạn hết dầu … Tôi vẫn loay hoay đi tìm câu trả lời cho câu hỏi ‘Thầy là ai?’

Ở đây cũng vậy! Số là sau phần tuyên tín của Phê-rô là lúc Đức Giêsu bộc lộ con đuờng mà Con Thiên Chúa phải đi thì ông lại ngăn cản Người. Lòng của Phêrô thật tốt, ông lo lắng và không muốn Thầy bị đau khổ. Nhưng ông đâu biết rằng ý tưởng và suy nghĩ của ông hòan tòan sai với ý định của Thiên Chúa, cho nên đã bị Chúa khiển trách "Xa-tan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người." Không chỉ có thế, trên đường thương khó Phêrô đã chối Thầy đến ba lần…

Tuy nhiên, Phêrô cũng là người đã bộc lộ tình yêu và lòng mến dành cho Thầy… Thánh nhân cũng có nhiều tài năng để trở thành một môn đồ tốt. Ngài thẳng thắn, tự tin, chăm chỉ, không che đậy, không tính tóan hơn thiệt giống như các bạn của ông tìm cách để tìm kiếm địa vị cao hơn… và nhất là lúc nào cũng muốn và trở thành một người bạn thiết nghĩa với Thầy mình. Chính vì thế mà Chúa tín nhiệm ông. Nói khác đi, vì nhận ra mình là người còn đầy khiếm khuyết và tội lỗi nên Phê-rô quyết tâm lệ thuộc vào Chúa. Đối với Phê-rô, Chúa làm chủ đời ông.

Thưa anh chị em, còn anh chị em nói Thầy là ai?

Chúng ta có thể tìm thấy muôn vàn câu trả lời dựa trên sách vở và kiến thức về Đức Giêsu; nhưng tất cả những câu trả lời đó sẽ đem lại gì cho chúng ta! Hãy tìm câu trả lời bằng chính lối sống mình.

Có thật chúng ta tin nhận Người là Đức Ki-tô, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, là Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu độ và mở lối chỉ đuờng cho chúng ta về với Cha hay không? Và, nếu chúng ta đã hãnh diện tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa thì trong cuộc sống chúng ta đã đầu phục vị Chúa đó hay là vẫn dùng Người như là khí cụ để phục vụ tham vọng của mình? Niềm tin và cuộc sống của những ai tin vào Chúa phải đồng nhất nên một. Không thể nào miệng tuyên xưng một đường, rồi chọn lối sống theo ngã khác. Chúng ta cứ làm như đời và đạo vẫn là hai mặt tách biệt của cuộc sống, không gắn bó và ăn nhập gì với nhau.

Vậy, Đức Giêsu là ai?

Tìm ra câu trả lời cho câu hỏi này không phải là việc dễ dàng. Có thể, trong suốt cuộc sống chúng ta cũng chỉ thấy mờ mờ mà thôi. Câu chuyện sau, xẩy ra mọi nơi, có thể giúp chúng ta phần nào.

Truyện kể như sau:

Trong một lớp giáo lý, dựa vào bài Tin Mừng hôm nay, ma-sơ hỏi các em: Còn các con nói Đức Giêsu là ai? Cả lớp nhao nhao, có cháu nói Nguời là Thiên Chúa, cháu khác lại nói là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa… v.v. Gom chung lại thì các cháu nói đúng như văn bản trong Kinh Tin Kính mà chúng ta tuyên xưng với nhau trong các Thánh Lễ Chúa Nhật.

Trong khi đó, ma-sơ để ý thấy một bé trai ngồi ở góc lớp, im lặng, mắt nhìn ra cửa sổ, đăm đăm như có chuyện gì khó giải quyết. Sơ đến gần, chăm chú nhìn cháu rồi một lần nữa rồi nhắc lại câu hỏi. Cháu thẫn thờ trả lời: Thưa sơ, con không biết! Con chỉ biết là hiện nay em con đang bị ốm, trong nhà không có tiền mua thuốc. Ba con là một quân nhân, hiện đóng quân ở một vùng rất xa. Mẹ đang chạy ngược chạy xuôi ngoài chợ… Nếu Đức Giêsu là Chúa thì sao Người không săn sóc cho em con! Mọi người đều ngạc nhiên trước câu trả lời của bạn mình. Chẳng ai biết làm gì! Sau cùng, bà sơ lấy ra một túi nhỏ, tự mình bỏ vào đó vài đồng cắc và chuyền túi đó cho cả lớp, rồi trao cho em.

Qua hành động và chứng từ như thế, chúng ta sẽ làm chứng Đức Giêsu là ai, không chỉ bằng lời nói, cho dù đó là bản kinh Tin Kính, lời tuyên xưng của Hội Thánh; nhưng đó chính là những trải nghiệm của cuộc sống. Người đến để mời gọi chúng ta hy sinh, quan tâm, yêu thuơng và thỏa mãn các nhu cầu của nhau.

Nói đến hy sinh là phải nhớ đến từ bỏ. Đây không phải là việc làm dễ dàng. Từ bỏ một nết xấu, thói quen đã khó. Thế mà, trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su mời gọi chúng ta từ bỏ mình, vác Thánh giá rồi đi theo Người, có nghĩa là khi chọn đi trên con đường của Chúa là lúc chúng ta bị thế gian loại bỏ.

Ai trong chúng ta có thể làm đuợc điều đó! Chúa mới là cội nguồn của sự việc. Chúa làm trong chúng ta. Chúa không làm thay vì Người đã ban và muốn dùng chúng ta như những khí cụ để thể hiện uy quyền của Người. Đúng thế, người tín hữu, dù được gọi sống trong bậc nào, âm thầm nhỏ bé như hạt cải văng vãi ở một góc nào trong xứ đạo hay đứng đầu một địa phận hoặc ở một vị thế cao hơn thế nữa, v.v… Cuộc sống của người môn đệ phải là mục tiêu cho những người chung quanh đặt vấn đề và họ phải tìm kiếm câu trả lời. Có nghĩa là, cuộc sống của chúng ta, bao gồm từ lời nói đến việc làm, sẽ là một câu hỏi cho những người chung quanh. Họ phải tìm hiểu xem chân tướng của chúng ta là ai? Thế gian sẽ không biết Chúa, nhưng qua cuộc sống của chúng ta thế gian sẽ có câu trả lời Chúa là ai?

Chúa là Đấng cứu chuộc. Người đã ban ơn cứu độ cho chúng ta. Người đã hoàn tất ý định và chương trình của Cha, phần còn lại là của chúng ta. Hãy đón nhận Chúa và ơn cứu độ của Người vào trong cuộc sống để ơn cứu độ trở thành hiện thực. Và đây là chứng từ. Hy vọng bạn và tôi sẽ là những nhân vật trong câu chuyện sau:

Truyện kể về một người thanh niên có cuộc sống phóng đãng, đã phung phí tài sản của gia đình vào rượu chè, ma túy, phụ nữ, cờ bạc và lãng phí cuộc đời của mình. Các nhân viên cảnh sát trong vùng đều biết mặt anh ta. Mọi người trong xóm đều nghe và biết về những hành vi đồi trụy của anh. Thậm chí, cha anh cũng không muốn nhìn nhận anh. Chán nản vì bị xua đuổi nên anh chọn cuộc sống ly hương và hứa sẽ không bao giờ quay trở lại chốn cũ.

Ngày này qua tháng nọ. Thời gian cứ trôi và không ngừng để chờ đợi anh. Mọi người trong xóm ngõ, ngay cả cha anh cũng quên sự hiện diện của anh trên cõi đời này. Duy nhất chỉ còn một người không bao giờ quên anh, đó là mẹ anh. Tính từ ngày anh ra đi đến nay đã tròn hai năm, mẹ anh sống trong buồn chán và nhớ thương cho nên đã ảnh hưởng đến sức khỏe của bà. Bà vốn là một phụ nữ yếu đuối, lại thêm buồn chán cho nên càng ngày càng tiều tụy cho đến một ngày kia khi thấy sức khỏe yếu dần bà mới ngỏ ý với chồng là muốn gặp cậu con đang trôi dạt ngoài chợ đời lần sau cùng trước khi bà chết. Chồng bà miễn cưỡng nhận lời. Tuy không biết anh đang ở nơi nào, nhưng họ cố gắng nhờ các phương tiện truyền thông đại chúng kêu gào và nói lên ý nguyện của người mẹ. Bằng cách này và cách khác, người cha cuối cùng cũng nhắn được mẫu tin báo cho anh biết về tình trạng và ước mơ của mẹ anh.

Nhận được tin, cậu vội vàng về nhà và ngay lập tức chạy vội vào phòng ngủ của mẹ và bàng hoàng khi thấy hình ảnh và dáng vóc tiều tụy của mẹ. Anh không cầm được nước mắt, nhào vào ôm choàng lấy mẹ, nức nở nghẹn ngào, vừa khóc vừa nói: “Thưa mẹ, con thật đáng chết, vì con mà mẹ phải đau khổ đến dường này, chẳng còn dáng người nữa, thà mẹ đừng sinh ra con thì hơn.” Chờ cho anh nói xong, bà mới nhấc đầu anh dậy, ôn tồn và nói: “Mẹ không hề giận hờn con, mẹ cũng có lỗi vì để con sống đầu đường xó chợ. Mẹ chưa bao giờ trách con. Mẹ luôn tha thứ cho con. Mẹ yêu thương con vô ngần và mẹ biết rằng Chúa còn yêu thương, săn sóc và giữ gìn con giúp mẹ nữa.” Nghe đến đó, mắt anh bừng sáng lên nhìn mẹ không chớp mắt. Nhìn vào cặp mắt sáng long lanh đang chăm chú nhìn bà, người mẹ nhớ câu Chúa nói “Ta là sự sáng thế gian!” Sự sáng của Chúa chiếu soi từ đôi mắt anh và bà nhận ra có một sự thay đổi trong con người anh. Bà tin rằng, những gì bà cầu xin hay khấn nguyện cho anh, nay đã được Chúa nhận lời.

Ngay lúc đó, ba của anh bước vào phòng. Bà nhìn ông và nói: “Xin ông hay đón nhận và giúp con thay đổi. Em không còn sống được bao lâu nữa. Hãy giúp em làm cho con sống tốt hơn.” Ông bất đắc dĩ nhận lời vợ để bà yên tâm ra đi, nhưng trong thâm tâm ông biết rằng cậu con trời đánh của ông sẽ chẳng bao giờ giữ lời hứa, vì cậu đã hứa bao nhiêu lần trước đây mà nó có thay đổi đâu. Nhìn thấy thái độ của ông, bà đoán biết ý nghĩ của ông, nên âm thầm nói tiếp: “Trước đây con của chúng ta đã từng hứa, và nó đã từng thất hứa. Nhưng hôm nay, con đã gặp Chúa cho nên con chúng ta sẽ thay đổi. Anh hãy giúp em nhé.”

Nói xong bà cầm tay cậu con trai đặt vào lòng bàn tay của chồng bà và nhắm mắt lìa đời. Hai người đàn ông nắm chặt tay nhau và được gắn bó bởi tình yêu của họ dành cho người phụ nữ, người vợ và người mẹ này, và trong cái chết của bà, họ đã được Thiên Chúa hòa giải từ ngày đó.

Đó là truyện kể minh họa về sự tác động của Chúa nơi những kẻ tin.

Thật ra, Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta đã giao hòa thế gian với Người và mọi người với nhau. Thánh sử Gio-an đã loan báo rằng không ai có thể gặp gỡ Con của Ngài nếu Thiên Chúa không lôi kéo họ. Thật vậy, chúng ta được qui tụ lại với nhau trong Chúa Ki-tô, Đấng Cứu Độ trần gian để trở thành anh chị em, cùng một chi thể với Đức Ki-tô là đầu của chúng ta.

Bởi thế, khi tuyên xưng Đức Giê-su là Chúa, là đầu của thân thể, là Đức Ki-tô là lúc chúng ta đầu phục vị Chúa Tể, Đấng muốn cho mọi người được cứu độ, được giao hòa với Chúa và trở thành anh chị em với nhau. Cầu xin Chúa ban cho chúng ta biết dùng cả cuộc sống để đáp trả lời chất vấn của Đức Giê-su: “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Amen! mục lục

Lm. Giuse Mai Văn Thịnh, DCCT

------------------------------

 

 TN 24-B173: Thí mạng cùi


(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)

 

ĐGM. Louis Désiré Maigret là Vị Đai Diện Tông Tòa (Vicar Apostolic) tại Hawaii, nhận thấy nhu TN 24-B173


ĐGM. Louis Désiré Maigret là Vị Đai Diện Tông Tòa (Vicar Apostolic) tại Hawaii, nhận thấy nhu cầu cần một vị chủ chăn thường trú tại Trại Cư Trú dành cho người phong, nhưng Ngài ngại ngùng không dám ”nhân danh Đức Vâng Lời” để chỉ định, và bắt buộc một Linh Mục nào, chấp nhận “án tử hình”. Ngài muốn các vị chủ chăn tình nguyện cho việc tông đồ cao cả này.

Sau khi cầu nguyện tại Nhà Thờ Thánh Antôn, tại Đảo Maui, thì có bốn Linh Mục sẵn sàng tình nguyện thay phiên nhau lần lượt đi giúp Trại Phong Hủi. Cha Damien tình nguyện đi xung phong, ngày10 tháng 5/1873. Ngài còn tình nguyện ở lại luôn tại Trại để chăm sóc 816 bệnh nhân cà hồn và xác, không phân biệt tín ngưỡng. Năm đó, Cha Damien, mới 33 tuổi, và ngài được tiếng là “khoẻ như voi.”

Vào năm 1875, tự tay Ngài đã xây cất được sáu nhà Nguyện nhỏ, chăm nom y tế cho các bệnh nhân. Ngài đi từng nhà băng bó, phát thuốc và dạy cách giữ vệ sinh.. Tự tay đóng được 2000 quan tài, và tự mình chôn cất bệnh nhân trong “Vườn Kẻ Chết.” Ngài từ chối tước hiệu do chính quyền Hawaii ban tặng và tiền lương 10.000USD, vì cho rằng “can thiệp” vào việc Tông Đồ của ngài. Nhưng ngài vui lòng nhận những vật liệu do chính quyền cung cấp để xây một nhà riêng dành cho nam thanh niên và một cư xá cho nữ.

Vào năm 1876, Cha Damien, đã nhận thấy những vết khô trên da thịt, cảm thấy sốt nóng nơi chân, và mất hẳn cảm giác, khi đổ nước sôi trên chân trái, Ngài đã sống nhiều năm, tự chứng kiến cái chết đến với các bệnh nhân. Ngài không sợ chết đến, cũng không ngần ngại chấp nhận cái chết.

Ngày Chúa Nhật đầu tháng 6, năm 1885, Cha Damien dâng Thánh Lễ tại Nhà Thờ Thánh Philomena do chính ngài đã xây cất. Sau khi đọc bài Phúc Âm, ngài quay về các bệnh nhân, và không nói những lời chào thưa như mọi khi: “Anh Chị Em thân mến,”nhưng ngài tuyên bố một câu làm rung động khắp Nhà Thờ và chấn động cả thế giới: ”Chúng Ta, những Bệnh Nhân Phong Hủi” (WE LEPERS)

Và ngày 15 tháng tư, năm 1889, lúc 8 giờ sáng, ngài tắt hơi thở cuối cùng, thọ 49 tuổi, nét mặt vẫn tươi vui ”như em bé đi ngủ” (*). Ngày 11 tháng 10, 2009, Đức Giáo Hoàng Bêneditô XVI, tại Đại Thánh Đường Thánh Phêrô, Roma, đã Phong Thánh cho Cha DAMIEN và bốn Vị Thánh khác.

Như vậy, Thánh Damien đã toàn tâm toàn ý theo chân Chúa, hoàn toàn tuân thù và vâng phục Lời Chúa: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mc 8, 35)

Trình thuật Tin Mừng hôm nay tiết lộ về thân phận Chúa Giêsu, cùng điều kiện theo Người. Tuy chỉ vỏn vẹn 9 câu, nhưng có đến 3 thái độ của Chúa đối với Tông đồ Phêrô, các môn đệ và dân chúng. Chúa đã tỏ ra vui mừng, tức giận và ôn tồn khoan dung.

1- Chúa khen

Chúa Giêsu lại hỏi các ông: ”Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phêrô mau mắn trả lời: “Thầy là Đấng Kitô.” (Mc 8, 29) Chúa liền vui mừng khen ngợi: “Này anh Simon, con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 16, 17) Liền theo lời khen, Chúa giải thích vì sao Tông đồ Phêrô lại nói rất đúng về Người. Đó chính là nhờ Đức Chúa Cha mặc khải riêng cho Phêrô điều huyền nhiệm đó.

2- Chúa la

Nhân vì điều mặc khải ấy, Chúa Giêsu thân mật loan báo cuộc khổ nạn sắp đến của Người, để các Tông đồ cùng hiệp thông chia sẻ. Nào dè, Tông đồ Phêrô quá sức nhiệt tình thương mến Thầy, liền kín đáo kéo Thầy ra can ngăn, phiền trách Người: “Xin Thiên Chúa thương, đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy.” (Mt 16, 22) Chúa Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ đang dõi mắt trông theo, liền công khai la mắng Phêrô: Vade retro Satana! Satan xéo ngay đi!

Lời can ngăn chí tình thầy trò mà bị mắng nhiếc quá nặng lời. Bởi vì Chúa đồng hóa lời can ngăn đó, như lời cám dỗ của Satan trước đây trong hoang mạc, hòng phá hỏng công trình cứu thế. Do vậy, Chúa mới giận dữ, xung thiên nộ khí. Vô tình, ý ngay lành của Tông đồ Phêrô lại trùng khớp với ý đồ của Satan. Với cái nhìn thiển cận, với cái tâm hạn hẹp, loài người làm sao hiểu thấu nổi Thánh Ý cao cả.

3- Chúa dạy

Chúa vẫn biết tấm lòng thành của Tông đồ Phêrô, vẫn luôn yêu mến Thầy. Chẳng qua, Phêrô vẫn chưa hiểu thấu đáo sứ vụ của Người. Hơn nữa, theo tính xác thịt tự nhiên, thì ai mà chẳng ham sống, sợ chết. Nhất là cái chết ấy còn liên lụy đến bản thân mình, đến các môn đệ.

Chính vì thế, Chúa Giêsu mới ôn tồn giảng dạy cho các môn đệ và muôn dân về điều kiện theo Chúa. “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Mc 8, 34 – 35) Các Thánh Tông đồ sau này đều liều mạng sống vì Chúa để làm chứng nhân Tình Yêu.

Gần đây, Thánh Damien cũng thế, sẵn sàng đánh đổi cuộc đời vì Chúa và Tin Mừng. Ngài đã thí mạng cùi phục vụ tha nhân, không chút ngần ngại e dè. Mạng sống con người tuy cao quý, vì do Chúa tạo dựng, nhưng nếu phục vụ cho mục đích cao cả vì Chúa, thì trở nên phương tiện tốt lành để đổi lấy đời sau vinh phúc. Bằng không, chỉ lo phụng dưỡng tôn thờ cái bụng như Thánh Phaolô đã nói, thì cái thân xác rồi cũng dần hao mòn, chết đi và mục nát theo dòng thời gian, nào khác bị phung cùi hủy hoại.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con biết từ bỏ ý riêng, từ bỏ đam mê, từ bỏ tội lỗi, để sống theo Thánh Ý, theo Tin Mừng, để con khỏi bị Chúa khước từ, xua đuổi.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ luôn mãi đồng hành với con trên nẻo Đường Hy Vọng, để con cùng Mẹ, với Mẹ và nhờ Mẹ, vác thập giá theo chân Chúa trọn đời. Amen.

(*) Lm Đường Thi http://xuanbichvietnam.wordpress.com/2010/01/03/nam-linh-muc-guong-hy-sinh/

-------------------------------

 

TN 24-B174: Thầy là Đấng Kitô


(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

 

Dọc đường, trên hành trình đi tới vùng dân ngoại Xêdarê Philipphê, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ TN 24-B174


Dọc đường, trên hành trình đi tới vùng dân ngoại Xêdarê Philipphê, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ một câu: “Người ta bảo Con Người là ai? Các ông trả lời: “Người ta bảo Thầy là Gioan Tẩy giả, là tiên tri Êlia, là một tiên tri nào đó”. Đó là dư luận của quần chúng. Chúa lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô”.

Hôm nay, Chúa cũng muốn hỏi chúng ta như thế. Người ta quan niệm về Thầy như thế nào, điều đó không quan trọng, anh em nghĩ thầy là ai đối với anh em?”

Chúng ta sẽ trả lời sao? Chắc chúng ta cũng trả lời như Phêrô thôi, nhưng câu trả lời của chúng ta có giá trị đến đâu? Hãy nhìn vào cuộc sống chúng ta mới có thể lượng giá được câu trả lời.

Nếu chúng ta tin thật Ngài là Đấng Kitô, sao chúng ta không thực sự gắn bó với Chúa? Sao chúng ta vẫn còn ham mê vật chất chưa dám gắn bó với Ngài?

Chúng ta vẫn đến nhà thờ đông đủ, nhưng có mấy người đã tin mãnh liệt vào Đấng đã chết và sống lại cho chúng ta? Chúng ta là những con người yếu đuối. Ai cũng công nhận như thế, nhưng chúng ta cứ ở lì trong sự yếu đuối mà không làm hết sức để vượt qua, làm sao có thể nói rằng chúng ta tin?

Thánh Giacôbê nói: “Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động thì đức tin nào có ích gì?... Đức tin không có hành động là đức tin chết”. Khi chúng ta dám tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô”, tức là Đấng Cứu Độ, mà không hành động, thì lời tuyên xưng của chúng ta trống rỗng, là “cơn gió thoảng ngoài”. Tin, tức là gắn bó với người mình tin. Chúng ta có thực sự gắn bó với Đấng đã thương chúng ta và đã liều mạng cho chúng ta không?

Nhiều người cũng nhận mình là người Công giáo, nhưng đức tin của họ chỉ là một thứ đức tin ngoài da. Tin bằng lời mà thôi chỉ đưa đến tuyệt vọng. Những làn sóng đau khổ, bệnh tật, thất bại sẽ quét sạch dấu vết.

Chúa Giêsu không mơ mộng. Ngài rất thực tế. Ngài mang lấy thân phận con người là một bằng chứng chính xác không thể chối cải. Ngài đi giữa cuộc đời với cái nhìn rất chính xác, Ngài hành động và biết mình làm gì và đi đâu.

Tin vào Ngài chính là đi vào con đường Ngài đã đi chứ không đứng nhìn và phê phán. Ngài hỏi các môn đệ: “Anh em nghĩ Thầy là ai đối với anh em?” Ngài muốn cho họ xác quyết rõ ràng mối liên hệ cần thiết để có thể theo Ngài, không ởm ờ. Phêrô và các môn đệ đã tuyên xưng đức tin cách rõ rệt, nhưng sau nầy, khi Thầy tử nạn, đức tin đó đã lụn tàn trong sợ sệt và chán nản. Qua cơn thử thách, niềm tin đã sống lại với Chúa phục sinh.

Có lẽ chúng ta không khác gì Phêrô, nhưng nếu chúng ta thành thật, qua những cơn sóng gió, chúng ta vẫn có thể tiếp tục đi tới.

Đức tin đòi hỏi một dấn thân triệt để, chứ không chỉ nói: “Lạy Chúa, lạy Chúa, không chỉ thờ bằng môi bằng miệng…”

“Thầy là đấng Kitô”. Chúa Giêsu thấu suốt mọi sự, tại sao Ngài còn hỏi làm gì? Ngài muốn họ xác định niềm tin của chính họ.

Đấng Kitô là Đấng Thiên Sai, nhưng đối với người Do thái thời bấy giờ, Đấng Thiên Sai phải là một vị vua đầy quyền thế, sẽ đứng lên đánh đuổi quân xâm lược Rôma đang thống trị họ với bàn tay sắt. Họ không thể hiểu chương trình của Thiên Chúa.

Kinh thánh đã nói nhiều về Người tôi tớ của Thiên Chúa, phải gánh vác tội lỗi muôn dân, phải chịu khổ nhục để cứu nhân loại, nhưng họ vẫn không hiểu. Họ chỉ mong có ai đó giúp họ khôi phục lại đất nước và làm cho dân Do Thái bá chủ hoàn cầu như thời vua Đavít, Vì thế, sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin, Chúa cấm họ không được nói với ai vì có thể gây ra hiểu lầm, làm cho dân chúng hoang mang và có thể phương hại đến sứ vụ thiêng liêng của Ngài.

Sau khi các môn đệ tuyên xưng đức tin, Chúa mới tỏ cho họ biết sứ mệnh của Ngài là phải chịu đau khổ, bị loại trừ và bị giết. Maccô cũng nhấn mạnh: “Người nói rõ điều đó, không úp mở”. Phêrô phản ứng ngay, và Chúa phải mạnh tay phản ứng lại.

Khi chúng ta theo một “sếp” nào, chúng ta mong rằng sẽ được lợi lộc nào đó. Phêrô theo Chúa, ông vẫn nuôi mộng làm lớn như bao nhiêu người Do Thái thời bấy giờ. Đấng Kitô mà ông đang ủng hộ đã làm nhiều phép lạ, và được dân chúng hoan nghênh, sẽ là một vị tướng đầy uy quyền, sẽ là một anh hùng dân tộc. Ông sẽ được một chỗ đứng quan trọng sau nầy. Điều nầy không có gì lạ.

Vì thế, khi nghe Chúa báo về những đau khổ của Ngài, Phêrô không thể chấp nhận. Nếu thế thì những ước mơ của ông đều sụp đổ hết. Thầy của ông không thể như thế được!

Trước thái độ lầm lẫn của Phêrô, Chúa Giêsu phản ứng một cách cứng rắn: “Xatan! Lui ra đàng sau Thầy! Ngài không gọi là Phêrô nữa mà là Xatan. Xatan là chướng ngại, là tên quỷ dữ cản bước của Ngài. Ngài không xem Phêrô là môn đệ nữa mà là đại diện cho Xatan. Chúng ta phải cảnh giác. Xatan vẫn luôn cản bước chúng ta theo Chúa, lắm lúc lại là người thân nhất của chúng ta. Chúng ta dám phản ứng kịch liệt như thế không?

Nhiều lúc chúng ta chỉ nghĩ theo loài người mà không nhìn thấy con đường phải theo để thực thi sứ mệnh Chúa trao phó cho mỗi người chúng ta. Chính chúng ta trở thành chướng ngại cho anh em chúng ta và cho Giáo Hội.

Liền sau đó, Chúa Giêsu đưa ra lời kêu gọi: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.

Theo Chúa, ai cũng muốn, nhưng nửa chừng, hay chỉ theo khi cuộc sống chúng ta yên hàn, không có vấn đề. Khi gặp gian nan thử thách, chúng ta ngại ngùng hay bỏ cuộc. Chúa Giêsu không cần những thứ môn đệ vụ lợi. Ngài đòi buộc quyết liệt. Theo Ngài là phải dám liều, buông bỏ mọi ước vọng trần tục, bỏ cả mạng sống. Theo Ngài phải đi với bàn tay không.

Người thanh niên giàu có đã bỏ cuộc vì anh có quá nhiều của cải. Giuđa theo Chúa bao nhiêu năm, nhưng đã đi trệch đường vì ham mê tiền bạc. Theo Ngài không phải để được mà để mất.

Theo Ngài là yêu tuyệt đối, dám cho không cuộc đời. Chúng ta nghe những điều kiện của Chúa, chúng ta chùng chân: “Ai có thể theo Chúa được!”

Ở đời, khi yêu nhau, người ta dám bỏ tất cả để đi theo người yêu. Theo Chúa chính là yêu Chúa trên hết mọi sự. Những điều kiện Chúa đưa ra không có gì khó hiểu cả. Đó là điều kiện của tình yêu.

Theo Chúa là yêu Ngài hết lòng hết sức, hết trí khôn. Ngài không chỉ là một bóng mờ nào đó, Ngài trở thành người yêu duy nhất. Yêu Ngài, chúng ta mới dám bỏ mọi sự, bỏ cả mạng sống. Các tông đồ, lúc theo Thầy đã chập choạng, chạy trốn, nhưng khi bình tĩnh lại, họ đã dám chết cho Thầy. Phêrô đã chối Thầy ba lần vì hèn nhát, nhưng khi bừng tỉnh thấy được tình yêu của Thầy, Phêrô đã dám chết cho Thầy. Chúng ta cũng thế thôi. Yếu đuối, lầm lỡ… Chúa biết điều đó và Ngài luôn nhìn chúng ta với tất cả tình yêu. Ngài không sợ chúng ta yếu đuối. Ngài chỉ sợ chúng ta nản lòng.

Chúa luôn ở phía trước. Ngài đã yêu chúng ta đến liều mạng. Đến lượt chúng ta phải liều mạng cho Ngài, và liều mạng cho Ngài là sống. Liều mạng cho Ngài không phải chỉ là chết như các thánh tử đạo, mà là chấp nhận mọi khó khăn hôm nay để trung thành, dù quanh ta vẫn còn đầy cạm bẫy, cám dỗ, dù trong chúng ta vẫn còn nhiều ước muốn hưởng thụ.

Hôm nay. Chúa Giêsu vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta theo Ngài. Khuôn mặt yêu thương của Ngài vẫn ẩn hiện trong đám mây mù tội ác của thế giới quanh ta, khích lệ chúng ta bước tới trong hy vọng.

Hơn nữa, chúng ta vẫn gặp Ngài thường xuyên khi Ngài đến để tự hiến làm của lễ tôn vinh Chúa Cha và tự hiến để nên của ăn nuôi sống chúng ta. Ăn lấy Ngài là một hồng ân luôn luôn mới và nhờ đó, tình yêu của chúng ta luôn tươi trẻ và bước theo Ngài vô điều kiện, dù thánh giá vẫn nặng trên đôi vai.

---------------------------------

 

TN 24-B175: Chúa Nhật 24 Thường Niên


CHÚA GIÊSU LÀ AI TRONG CUỘC ĐỜI TÔI?

 

Nhìn thấy Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ, nhiều người Do thái đã băn khoăn tự hỏi: - Liệu Ngài TN 24-B175


Nhìn thấy Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ, nhiều người Do thái đã băn khoăn tự hỏi:

- Liệu Ngài có phải là Đấng Cứu Thế hay không?

Nhất là trong hoàn cảnh họ đang phải sống dưới ách thống trị của đế quốc La mã, họ trông chờ một Đấng Cứu Thế đến giải phóng họ và đem lại cho quê hương họ sự phồn thịnh.

Theo mong ước của nhiều người Do thái thì Đấng Cứu Thế là một vị anh hùng dân tộc, đến đánh đuổi quân ngoại xâm. Ngài sẽ là người dùng quyền lực thống trị các dân, trừng phạt những người tội lỗi và quân ngoại xâm. Đàng này, Đấng Cứu Thế Giêsu đến lại tỏ ra nhân từ với hết mọi người, kể cả người tội lỗi và dân ngoại. Tuy Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền và làm những dấu lạ chưa ai từng có. Tuy nhiên, Ngài lại không chấp nhận làm vua, làm Messia theo quan niệm của họ. Và họ bất đồng quan điểm khi nhận xét về sứ mạng của Chúa Giêsu. Người thì nói Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả sống lại, kẻ thì bảo là Elia, số khác cho là một trong số các tiên tri. Họ không nhận ra Đức Giêsu là Messia, Con Thiên Chúa làm người!

Bấy giờ, Đức Giêsu hỏi các môn đệ xem họ đã hiểu lời dạy, hiểu thân thế của Ngài đúng chưa. Thật không bỏ công khó nhọc của Đức Giêsu, Phêrô đã trả lời chính xác: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Các Tông đồ khác cũng đồng ý với câu trả lời của Phêrô như vậy. Tuy nhiên, các Tông đồ cũng chưa thật sự hiểu rõ bản tính và sứ mạng của Đức Giêsu. Có lẽ họ cũng chịu ảnh hưởng của quan niệm dân chúng bấy giờ: Messia là vị cứu tinh Dân tộc Do thái, họ nghĩ đơn giản như vậy, họ chưa nhận ra vai trò cứu chuộc nhân loại của Đức Giêsu và những đau khổ người phải chịu để đền thay vì tội lỗi nhân gian. Bằng chứng là sau đó, khi Đức Giêsu công bố về cuộc khổ nạn thì Phêrô liền can gián: Thầy không phải như vậy đâu! Nhưng Đức Giêsu quay lại quở trách Phêrô và các môn đệ: các con không biệt việc Thiên Chúa làm mà chỉ biết việc loài người. Đã theo Đức Giêsu thì không tìm lợi danh đời này. Ai theo ta thì hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta. Ai lo cho mạng sống đời này thì sẽ mất nó, nhưng ai biết hy sinh mạng sống vì Chúa thì Người sẽ ban cho hạnh phúc vĩnh cửu bên Ngài. Ai gắn mình với vật chất chóng qua thì sẽ tàn tạ như nó. Còn ai gắn bó với Đấng Vĩnh Cửu thì được Thiên Đường làm nơi cư ngụ.

Mỗi người chúng ta hôm nay hãy thử trả lời câu hỏi của Đức Giêsu: còn con, con bảo Thầy là ai? Đối với tôi, Đức Giêsu là ai? Hiện giờ tôi theo Chúa vì lý do nào? Tôi theo Chúa vì nhận ra Chúa là Thiên Chúa duy nhất, là Đấng hứa ban cho tôi sự sống đời đời hay tôi theo Chúa đề Ngài ban cho của cải, giàu sang, địa vị đời này? Tôi theo Chúa mà tôi có sống theo Tám Mối Phúc thật: phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, hiền lành, khóc lóc, khao khát nhân đức trọn lành, biết xót thương kẻ khác... tôi có coi Chúa trên của cải vật chất, coi Chúa hơn ý riêng của mình, hay có khi nào tôi coi trọng tiền bạc, của cải hơn Chúa không?

Nhiều khi chúng ta theo Chúa, nhận ra Chúa là Đấng Cứu Thế, nhưng cũng như Phêrô và các tông đồ trong Tin Mừng hôm nay: muốn can ngăn Chúa, không muốn Ngài vác thánh giá, không muốn Ngài đau khổ. Như vậy, khi đi theo Chúa, bắt chước Chúa, chúng ta cũng không phải vác thánh giá, không phải chịu đau khổ với Ngài. Chúng ta hãy xem Đức Giêsu có đồng ý với các Tông đồ như vậy không? Ngài chẳng những không đồng ý mà còn khiển trách Phêrô nữa: Satan, con hãy lui lại đàng sau Thầy. Đức Giêsu không đồng ý với các Tông đồ vốn muốn ngài làm một Messia an nhàn. Ngài cho biết đó là cám dỗ của Satan. Ngài cũng như những người đi theo ngài phải chọn con đường thập giá. Chính thánh giá mới đem lại bình an hạnh phúc. Ai không nép mình sống theo 10 Điều Răn mà tự mình sống buông thả theo ý riêng thì sẽ gặt hậu quả rất tệ: mất hạnh phúc đời đời, vì đã không đi trên con đường Đức Giêsu đã đi.

Vậy, để hưởng ơn cứu chuộc của Đức Giêsu, chúng ta hãy tuyên xưng rõ trong lòng mình như thánh Phêrô hôm nay: Thầy Đấng Kitô, Đấng Cứu Độ đời con, con xin đi theo Ngài trên mọi nẻo đường dù là đường êm ả hay đường chông gai, để mai sau, Đức Giêsu ở đâu con cũng được ở nơi đó, Chúa được hạnh phúc nào thì con cũng được tham dự vào hạnh phúc đó với Chúa.

---------------------------------

 

TN 24-B176: Bạn nghĩ gì về Đức Kitô


(Suy niệm của Gm. Arthur Tonne)

 

Charles Lamb sống ở nước Anh hai trăm năm trước đây. Suốt 33 năm ông làm một công việc buồn TN 24-B176


Charles Lamb sống ở nước Anh hai trăm năm trước đây. Suốt 33 năm ông làm một công việc buồn tẻ là thơ ký trong một văn phòng công ty hàng hải. Tuy nhiên ông đã thành một nhà văn được tín nhiệm, đặc biệt ông nổi tiếng vì tính hài hước nhẹ nhàng, lòng thông cảm dịu dàng và lòng nhiệt thành hiếm có đối với gia đình và bạn hữu.

Một buổi chiều kia, dăm sáu người bạn tụ họp trong nhà ông Lamb để bàn luận vài đề tài văn chương như: “Chúng ta cảm thấy thế nào nếu chúng ta có thể nói tay đôi với một vài văn sĩ nổi tiếng trên thế giới, họ đã qua đời”. Vài người gợi ý: “Chúng ta sẽ cảm thấy thế nào nếu Dante bước vào trong phòng này. Dante đã viết cuốn “Hài kịch thánh” về thiên đàng, địa ngục và luyện ngục. Một người khác thêm: “Giả sử Shakespear tham dự với chúng ta đêm nay”. Lamb hô to: “Tôi sẽ giơ tay đầy niềm vui. Đón tiếp một vị vua của các nhà tư tưởng. Hân hạnh biết bao?”. Cuối cùng một người tuyên bố: “Giả sử Đức Kitô vào phòng này?”. Nét mặt Charles Lamb bỗng nghiêm nghị khi ông nói: “Dĩ nhiên, tất cả chúng ta sẽ quỳ xuống”. Đó là sự khác biệt giữa Đức Kitô và tất cả mọi người đàn ông khác trong lịch sử. Đức Kitô là Thiên Chúa. Mọi người khác chỉ là người.

Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu hỏi các Tông đồ “Người ta nói Ta là ai?”.

Chúa chúng ta hỏi chúng ta cùng một câu hỏi ấy: “Con nghĩ Ta là ai?”. Mỗi người chúng ta phải trả lời câu hỏi quan trọng của mọi thời đại ấy.

Chúng ta cân nhắc những câu trả lời của những người nghĩ Đức Kitô chỉ là một người. Có người diễn tả Đức Kitô như một người chữa bệnh bằng niềm tin, Người chữa mọi thứ bệnh tật, yếu đau. Họ không nói làm sao Chúa chữa được. Chỉ có cách phải nhận Người đã làm được vì Người là Thiên Chúa. Có người nói Đức Kitô là một người phù thủy. Người khác lại bảo là một người theo nghĩa nhân đạo, chú ý đến loài người và có thể giúp cho họ. Có người diễn tả Chúa Giêsu như một nhà tâm lý hoàn hảo, Người hiểu được cái động lực và nghị lực của con người. Nhiều người mô tả Chúa như một nhà kiến tạo hòa bình hoặc yêu thiên nhiên xuất sắc.

Những người cải taọ xã hội nhìn Đức Kitô như một kiểu mẫu lý tưởng. Cả những người cộng sản cũng hướng về Đức Kitô như một nhà lãnh đạo cách mạng. Người lao động tin cậy Đức Kitô như lý tưởng con người. Cả những người Hippi cũng cố gắng biện minh lối sống vô trách nhiệm của họ khi họ nói về Chúa Kitô –Đấng đã phán: “Đừng lo lắng về đồ ăn thức uống hoặc áo quần”.

Nhưng hầu hết những người ngưỡng mộ Chúa Kitô như vậy đã nhận rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa. Trong số những người đó, bạn đồng ý với những nhóm người nào? Trong suy tư và trong cách sống của bạn, Đức Giêsu có thực là Thiên Chúa không?

Như thánh Phêrô, chúng ta phải tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa, có Con Thiên Chúa hằng sống.

Tóm lại, Đức Giêsu là Thiên Chúa thật cũng như là người thật, đó là trọng tâm của Kinh Thánh, là trung tâm của lịch sử, là chủ đề của ngày lễ hôm nay, trong Thánh Lễ này. Đó là lý do chúng ta quỳ gối tôn thờ Đấng Chúa-Người trên bàn thờ này, như Lamb và các bạn của ông.

Xin Chúa chúc lành bạn.

---------------------------------

 

TN 24-B177: Chúa Nhật 24 Thường Niên


(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)

LÒNG CẬY TRÔNG KHÔNG LÀM CHÚNG TA THẤT VỌNG.

Kính thưa quý anh chị em,

 

Một thanh niên đạo đức có dịp đi leo núi để thêm trải nghiệm cuộc sống. Tới một sườn dốc dựng TN 24-B177


Một thanh niên đạo đức có dịp đi leo núi để thêm trải nghiệm cuộc sống. Tới một sườn dốc dựng đứng, không may trượt chân lao xuống, anh bám được vào cành cây. Nhìn phía dưới sâu thăm thẳm, phía trên ngút ngàn, sợ hãi, anh dồn dập cầu nguyện xin Chúa cứu, vì luôn tin rằng: “Ai xin thì sẽ được” (Mt 7, 7).

Quả thật, lòng cậy trông không làm anh tuyệt vọng. Chúa hiện đến trên đỉnh núi phủ lấp mây trời, Ngài với gọi: “Ta đã nghe tiếng con kêu cầu, Ta đến cứu con đây”.

Mau mau, Chúa ơi, tay con rã rời, không thể bám thêm được nữa, anh thét gào!
Từ đỉnh non cao, Chúa ra lệnh: “Hãy buông tay ra!” Không chịu được nữa, anh thét lên: “Ngu gì mà bỏ tay ra!”

Thưa anh chị em,

Ngu gì mà bỏ tay ra là câu trả lời của chúng ta, những kẻ ưa chuộng sự khôn ngoan theo kiểu thế gian trước những thử thách, nghịch cảnh trong đời.

Chúa luôn hành động theo cách thức riêng, không theo kiểu nghĩ phàm nhân. Ngài là “Tình yêu và sự sống”, nên chẳng thể là vị thần ưa thích cảm giác mạnh, tạo những ấn tượng ngoạn mục, những dòng quảng cáo rầm rộ, giật gân. Người hành động, cốt vì hạnh phúc và sự sống trần gian, theo một “biện chứng”: buông bỏ để nhận lãnh, phó thác cậy trông để được giữ gìn, hy sinh vác thập giá theo Chúa để được hưởng phúc vinh quang. Đây là con đường của tình yêu huyền nhiệm, chỉ những ai được Cha lôi kéo, giáo hóa, mới an tâm, vui tươi, hạnh phúc bước đi trong sự tín thác cậy trông, mới dám đặt cược đời mình trong sự buông bỏ dứt khoát.

Thật và rất thật, họ là những người hùng của đức cậy trông, nhẫn nại hoạt động trong lòng tín thác vững vàng. Họ đã làm nên những kỳ tích trường tồn sánh ngang cùng tuế nguyệt.

Những lý chứng nêu trên mở lối chúng ta vào phụng vụ Lời Chúa hôm nay. Suy gẫm tường tận các bài sách thánh để thâm tín rằng: lòng cậy trông vững vàng nơi Thiên Chúa không làm chúng ta thất vọng.

Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Isaia, diễn tả lối sống của người công chính: dịu dàng, hiền lành, khiêm tốn, chịu đựng mọi bất công người đời gây nên cho mình trong tinh thần tín thác, cậy trông vững vàng nơi Chúa, Đấng giải án tuyên công, trả lại quyền lợi cho người bị áp bức.

Lời ngôn sứ xem ra nghịch lý với người đương thời, dường như, nó làm nhụt ý chí đấu tranh, cam chịu bị bóc lột..., tạo lợi thế cho kẻ mạnh, cho nhà cầm quyền độc đoán.

Chắc chắn Isaia không phò tá sự dữ, không chủ trương cam chịu, ru ngủ dân bằng những ảo tưởng hão huyền, nhưng đề cao tinh thần phó thác, cậy trông nơi Thiên Chúa. Lòng cậy trông của người công chính là: nhất quyết sống “Lời” và giới răn Chúa, dẫu có phải chịu thiệt thòi hay bị bách hại.
Cái nghịch lý trong tư tưởng ngôn sứ lại được an bài bằng một “biện chứng” tình yêu đầy tính thuyết phục: buông bỏ để được nhận lãnh, vét cạn để được đong đầy, liều mất mạng sống vì Tin Mừng, thì giữ được sự sống thật, chết đi cho con người cũ, con người tội lỗi, sẽ được nên người mới, công chính, thánh thiện vẹn toàn.
Cái dũng của người công chính, của bậc thánh nhân là “ngộ” ra điều hoàn hảo Cha trên trời cất giấu trong mọi thực tại trần gian. Họ luôn thâm tín, nhờ Chúa phù hộ giúp sức, có thể biến đổi cái nghịch lý nhân sinh, thành điều thiện hảo đem lại tình yêu và sự sống muôn đời.
Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng, yêu cầu môn đệ một đức tin cá vị hóa, tôi tin-chúng tôi tin: “Thầy là Đức Kitô”, mới giữ được ngọn lửa yêu mến, lòng phó thác, cậy trông như thuở ban đầu.

Sau lời tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô”, Chúa cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người, đúng hơn là cấm không được nói với ai về danh xưng “Messiah/Kitô” (Đấng được xức dầu) cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại.

Nên biết, tước hiệu Messiah dễ bị hiểu lầm đối với não trạng Do Thái, với cả các Tông Đồ. Phê-rô bị trách “Sa-tan”, vì đó là tư tưởng phàm nhân, không phải của Thiên Chúa.

Người môn đệ chỉ có thể tuyên xưng đức tin và sống lòng cậy trông hoàn hảo sau biến cố “Tử nạn/Phục sinh”, nhờ Người, Cha rộng ban Thánh Thần cho thế gian.

Như vậy, lời loan báo: “Vác thập giá theo Chúa” (Mc 8, 35) mới trở nên “Vinh dự”, mới trở nên “Tin Mừng” cho kẻ dám đặt cược đời mình nơi thập giá.

Nhờ thấu hiểu tin mừng thập giá, các môn đệ Giê-su: tầng tầng, lớp lớp, không kể cho xiết, thuộc mọi thời đại, ngôn ngữ, mọi nước, mọi dân, vác trọn thánh giá cuộc đời theo Chúa.

Đúng là, lòng cậy trông, phó thác không làm chúng ta thất vọng!

Thánh Gia-cô-bê, trong bài đọc II, diễn tả lòng cậy trông bằng những việc làm do đức tin thúc đẩy, cụ thể là sự sẻ chia hiệu quả, đúng nhu cầu. Người môn đệ Giê-su không được phép khua chiêng, múa mép bằng những văn từ hoa mỹ bóng bảy, nhưng phải trỗi dậy, “Ép-pha-tha” (hãy mở ra), đi tới tận cùng nỗi đau nhân loại: “Họ đói, các con hãy cho họ ăn” (Mt 14, 16). Rõ thật, nhờ hành động, đức tin chân chính được biểu lộ!

Thưa anh chị em,

Lời dạy của thánh Gia-cô-bê được tuyên đọc hôm nay đang được cụ thể hóa cách đáng khâm phục qua những tấm lòng vàng mùa covid-19 với phương châm hành động “Ở đâu có nhu cầu cấp bách, ở đó có sẻ chia thật lòng!”

Thật cảm động những nghĩa cử cao đẹp: “tất cả vì đồng bào đại nạn”. Từng đoàn y, bác sỹ, nhân viên y tế, công an, quân đội, tình nguyện viên... lăn xả vào vùng dịch, nhằm cứu đồng bào mình khỏi dầu sôi, lửa bỏng.

Viết những dòng này, tôi nhận thấy cay cay nơi khóe mắt và cũng rất khâm phục, tự hào về những con người, những nghĩa cử trân quý, họ cống hiến cho hạnh phúc của nhân dân.

Thưa anh chị em,

Giáo huấn Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta:

* Một là: thường xuyên tuyên xưng đức tin vào Đức Kitô tử nạn/phục sinh, cụ thể: khiêm tốn, nhẫn nhục đón nhận thánh giá bổn phận Chúa trao với xác tín vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô, nơi Người, ơn cứu độ ta, sức sống của ta và sự phục sinh của ta.

* Hai là: Lấy việc làm nuôi dưỡng đức tin. Dốc quyết sống tinh thần liên đới sẻ chia thật lòng, tùy hoàn cảnh và khả năng Chúa ban. Luôn nhắc mình như một lời nguyệt tắt: “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rom 3, 10).

Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho mỗi người chúng ta! Amen.

---------------------------------

 

TN 24-B178: Chúa Nhật 24 Thường Niên


(Suy niệm của Lm. GB. Phạm Hồng Thái)

 

Thánh Giêrônimô có câu nói đã được Giáo hội cũng như mọi người ghi nhận: "Không biết Kinh TN 24-B178


Thánh Giêrônimô có câu nói đã được Giáo hội cũng như mọi người ghi nhận: "Không biết Kinh Thánh là không biết Đức Kitô". Như vậy chúng ta cần tìm biết Đức Kitô là ai?

Trước hết Cựu Ước đã nói gì về Đấng Kitô? Tiên tri Isaia vẽ nên dung mạo của Đức Kitô mà sau này Chúa Giêsu nhận là Chúa làm ứng nghiệm những lời tiên tri đó. Trước hết là lời Chúa Giêsu đọc lên trong hội đường Nazareth: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi vì Người xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng (Lc 4,16). Chúa Giêsu  cho biết lời này đã ứng nghiệm ở nơi Chúa. Đặc biệt tiên tri Isaia còn có những bài ca về người Tôi trung của Thiên Chúa như bài đọc thứ nhất trong thánh lễ hôm nay. Người Tôi trung của Thiên Chúa chấp nhận đau khổ và hi sinh mạng sống mình cho Dân Chúa...

Dân Chúng thời Chúa Giêsu được nghe Lời Chúa rao giảng và chứng kiến các phép lạ Chúa làm nhưng qua lời phản ảnh của các tông đồ, họ cho Chúa Giêsu là ông Gioan Tẩy Giả, hoặc là tiên tri Elia, hoặc là một trong các vị tiên tri, tức là chỉ coi Chúa Giêsu như là một vị ngôn sứ: điều này đúng được một phần nhưng còn rất xa với tước vị của Chúa Giêsu vì ngôn sứ hay ta thường gọi là tiên tri chỉ là những người dọn đường cho Đấng Cứu thế.

Cho nên Chúa Giêsu phải đặt câu hỏi với các môn đệ: "Còn các con, các con bảo Thầy là ai? Cũng như khi Chúa Giêsu  hỏi các tông đồ sau bài giảng về Bánh hằng sống: "Còn các con, các con có muốn bỏ đi không? Ông Phêrô đã thay mặt anh em nói: "Bỏ Thầy chúng con biết đi theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời" thì lần này ông Phêrô cũng đáp lại ngay: "Thầy là Đức Kitô". Lời tuyên xưng của ông Phêrô là đúng; Chúa Giêsu đã chấp nhận và khen ông biết được như vậy là do Chúa Cha mặc khải cho. Ông Phêrô xưng ra đúng nhưng có lẽ quan niệm của ông về Đức Kitô có tính cách trần thế chính trị nên Chúa Giêsu phải nói lên con đường mà Chúa Giêsu là Đức Kitô sẽ đi  là phải qua đau khổ, qua cái chết để rồi mới tới vinh quang phục sinh. Ông Phêrô không muốn cho Chúa Giêsu đi vào con đường đó nên đã kéo Chúa lui ra và can trách Chúa. Nhưng Chúa Giêsu quở ông như Chúa đã quở Satan khi cám dỗ Chúa trên núi: "Satan hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa mà chỉ biết  việc loài người".

Vậy chúng ta hiểu Chúa Giêsu là Đấng Kitô như thế nào? Kitô là tiếng Hi lạp còn tiếng Hipri là Messia tức Đấng được Xức dầu, được Thiên Chúa thánh hiến. Chúa Giêsu là Đấng Kitô vì được Chúa Thánh Thần xức dầu tấn phong như lời tiên tri Isaia: "Vì Người xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng..." Chúa Giêsu đảm nhận sứ mạng cứu chuộc loài người. Dân Israel qua lịch sử mong đợi Đấng Messia tức là Đức Kitô. Chúa Giêsu chấp nhận tước hiệu này nhưng Chúa loại bỏ tính cánh trần thế chính trị và Chúa là Đấng Chúa Cha sai xuống trần gian để như người tôi trung của Thiên Chúa hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc cho muôn người nên Chúa Giêsu đã nói với hai môn đệ đi làng Emmaus: "Nào Đấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?(Lc 24,26).

Chính vì Chúa Giêsu là Đức Kitô, nên chúng ta những người tin kính Chúa được gọi là Kitô hữu: danh xưng này có từ thời các tông đồ khi các người tin Chúa Giêsu ở giáo đoàn Antiokia được dân chúng gọi là các Kitô hữu.

Là Kitô hữu, chúng ta hãy sống xứng đáng với danh xưng này khi làm theo lời Chúa Giêsu  kêu mời hôm nay: "Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác thập giá mà theo Ta" Chúa đưa ra hai điều kiện: là từ bỏ mình và vác thập giá.

Từ bỏ mình: là yêu cái tôi tức bản thân mình ít hơn, không ích kỉ. Chúng ta cũng hiểu là Chúa Giêsu dạy ta phải từ bỏ những đam mê tội lỗi, biết đặt thánh ý Chúa trên ý riêng của mình.

Vác Thập giá: chấp nhận đau khổ hi sinh trên đường theo Chúa, thanh luyện mình khỏi những thói hư xác thịt như thánh Phaolô dạy là: "dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị, say sưa, chè chén ..." để có thể đạt được những hoa trái của Thánh Thần là: "bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ" và thánh Phaolô còn  quả quyết: "những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu thì đã đóng đinh tính xác thịt vào Thập giá cùng với các dục vọng và đam mê (Gl 5, 14-24)".

Một mẫu gương: Bà Golda Meir  là một phụ nữ Do thái, hồi trẻ bà cảm thấy thất vọng vì mình không có được nhan sắc như nhiều thiếu nữ khác. Nhưng sau bà nhận ra không đẹp lại có thể là điều may mắn vì nó đòi bà phải phát triển các tài năng khác nên bà quyết tâm học hành, chăm chỉ làm việc. Sau này bà đã trở thành thủ tướng nước Do thái.

Chúng ta luôn chọn lựa con đường Chúa đã đi là "Qua Thập giá để tiến đến Vinh quang" nhờ đó chúng ta có thể đạt được những thành quả tốt đẹp ngay cuộc sống đời này và hạnh phúc đời sau. Amen.

---------------------------------

 

TN 24-B179: Chúa Nhật 24 Thường Niên


(Suy niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)

“ĐÂU LÀ ĐỨC TIN CỦA TÔI VÀO CHÚA”

Thưa TN 24-B179ACE,

 

Khi chúng ta đang sống trong hoàn cảnh đau thương với cơn đại dịch như hiện nay, một lần nữa TN 24-B179


khi chúng ta đang sống trong hoàn cảnh đau thương với cơn đại dịch như hiện nay, một lần nữa, sứ điệp của Lời Chúa hôm nay lại vang lên, để cảnh tỉnh và mời gọi chúng ta nhìn lại chính cung cách, thái độ và đời sống đức tin của chúng ta với câu hỏi này: “Chúng ta có còn tin vào Chúa và tin ơn thánh của Ngài hay không?” Thiết nghĩ, nhiều người sẽ trả lời: “Tôi cũng vẫn còn tin vào Chúa”. Thế nhưng, nếu tạm để xét theo cấp độ từ 1 đến 5, thì đức tin của chúng ta đã và đang có, ở cấp độ nào 1,2,3,4 hay 5?

Thánh Giacôbê trong bài đọc hai (Gc 2, 14-18) đã dạy chúng ta: “Nếu ai nói mình có đức tin, mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích gì?” Như vậy, “hành động theo đức tin” nghĩa là làm sao? Thưa, theo Thánh Giacôbê, đó chính là tình yêu thương, là ơn thánh mà chúng ta đã lãnh nhận từ Chúa, được trao ban, sẻ chia cho ACE mình. Lòng tin của chúng ta vào Chúa, phải thúc bách chúng ta yêu mến Chúa và một khi chúng ta đáp trả lại cho Chúa với tình yêu chân thật, tình yêu này cũng thôi thúc chúng ta yêu thương, quan tâm, giúp đỡ ACE mình. Thật vậy, hành động của đức tin chính là hành động đem lại sự bình an, hạnh phúc, ơn ích tốt lành cho tha nhân, đặc biệt cho những con người nghèo, người phận nhỏ.

Hôm nay đây, khi chúng ta đang đối diện và sống chung với dịch bệnh, khi mà nhiều người được mời gọi hãy quên mình để dấn thân, để hy sinh phục vụ cho ACE mình, để mong sao nhiều người được bình an, được chữa lành, được có cuộc sống xứng đáng…Thưa ACE, mời gọi để sống như vậy, có khôn ngoan, có đúng, có hợp tình-hợp lý hay không? Theo suy nghĩ thông thường của con người, tất nhiên là không hợp lý, không khôn ngoan chút nào hết. Bởi lẽ, vì theo bản năng sinh tồn, trước hết buộc tôi phải thương, phải lo cho sự an toàn của bản thân tôi trước, như vậy mới phải lẽ, mới là người khôn, khi biết vận dụng tư duy, trí khôn của mình. Còn với chúng ta, là con cái Chúa, là Kitô hữu, là người tin vào Chúa, chúng ta có cái nhìn, thái độ và hành động như thế nào trước lời mời gọi để sống dấn thân, hy sinh, phục vụ ACE?

Tin mừng hôm nay (Mc 8, 27-35) thuật lại, Phêrô đã mau mắn khi tuyên xưng về Chúa Giêsu: “Thầy là Ðấng Kitô”. Ở đây cho thấy, ông rất nhạy bén và hiểu biết nhiều về Chúa Giêsu, vị Thầy của mình. Thế nhưng, sau khi nghe Chúa tiên báo về cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài, Phêrô đã không thể chấp nhận được, ông đã ngăn cản và trách Chúa tại sao lại hành động như vậy. Nếu đặt chúng ta trong vị trí của Phêrô, thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ hành động như Phêrô là ngăn cản và không muốn Chúa thực thi sứ vụ của Ngài như vậy. Tại sao, Chúa lại quyết định, chọn đi vào con đường khổ nạn và cái chết như vậy? Tại sao Chúa là Thiên Chúa toàn năng, mà Ngài không có cách nào tốt hơn hay sao? Tại sao có nhiều sự lựa chọn dễ dàng, như Chúa chỉ cần phán một lời thôi, thì mọi sự đều được…tại sao Chúa lại không lựa chọn?

Xét theo sự suy nghĩ và tính toán hơn thiệt của con người, thì đúng là, khi Chúa Giêsu chọn để đi vào con đường khổ nạn và thập giá là sự lựa chọn không hợp lý, hay nói khác hơn như thánh Phaolô đó là: “Sự khờ dại, điên rồ, là cớ vấp phạm…” Nhưng thưa ACE, khi Phêrô, ngăn cản và trách Chúa, Chúa Giêsu đã bảo Phêrô: “Satan, hãy lui đi! vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người”. Satan, hãy lui đi, hãy lui lại đằng sau. Vì đi đằng sau, theo sau là phải đi theo và làm theo thánh ý của Thiên Chúa, chứ không như satan đã chống đối lại với Thiên Chúa và làm theo ý riêng ích kỷ, tội lỗi của mình.

Vậy thì, thánh ý của Thiên Chúa là gì? Đó là sự từ bỏ, đó là sống dấn thân, sự hy sinh để vác thánh giá, để đi vào cuộc khổ nạn, để hiến dâng mạng sống của mình cho người mà mình yêu thương. Thưa ACE, Thiên Chúa qua chính con người và sứ vụ của Chúa Giêsu, Ngài đã yêu thương và sống trao ban hiến dâng trọn vẹn vì tình yêu thương, vì sự sống của chúng ta, để tha thứ, ban ơn, chữa lành, để cho chúng ta được sống đúng phẩm giá là con cái của Thiên Chúa. Do đó, mẫu gương, cung cách, thái độ sống và hành động của Chúa Giêsu cũng phải là của mỗi người chúng ta trong hoàn cảnh hiện nay.
Nhìn lại thực tế trong những tháng ngày qua, đã gần hai năm nay, khi chúng ta đang phải đối diện và gánh lấy những tang thương của đại dịch, biết bao nhiêu người đã hy sinh, dấn thân, để phục vụ ở tuyến đầu chống dịch, nhưng cũng không biết bao người đã âm thầm hy sinh cách này cách khác để mong sao cho ACE mình được bình an, được tai qua nạn khỏi, được có cuộc sống tốt hơn đúng với nhân phẩm của mình. Thưa ACE, vậy đâu là những việc làm biểu lộ niềm tin Kitô giáo của chúng ta? Đâu là những hành động bác ái, yêu thương, hy sinh dấn thân phục vụ Chúa qua tha nhân của chúng ta trong lúc này?

Hãy sống tín thác vào tình yêu và ơn thánh Chúa, mỗi khi chúng ta dấn thân hy sinh phục vụ ACE mình. Thiên Chúa chính là nguồn sức mạnh, là ơn thánh và là Đấng phù trợ chúng ta trong mọi nơi mọi lúc, chỉ khi nào chúng ta tin tưởng phó thác và cậy trông vào ơn Chúa, Ngài luôn hiện diện và ban ơn giúp sức, để không phải chính chúng ta thực thi sứ vụ lòng mến và bác ái này mà chính Chúa là Đấng làm cho chúng ta. Lạy Chúa, xin ban thêm ơn đức tin cho chúng con, để chúng con luôn biết nhận ra, tín thác vào ơn Chúa và sống chứng tá cho niềm tin của chúng con vào Chúa qua ACE mình. Amen.

---------------------------------

 

TN 24-B180: Chúa Nhật 24 Thường Niên


(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)

ĐỨC TIN NHÂN VỊ SOI DẪN CHÚNG TA TRUNG TÍN BƯỚC THEO CHÂN CHÚA

Thưa quý ông bà và anh chị em rất thân mến

 

Trong Đức Ki-tô! Chắc hẳn quý ông bà có rất nhiều kinh nghiệm về gương sống làm chứng tá TN 24-B180


Trong Đức Ki-tô! Chắc hẳn quý ông bà có rất nhiều kinh nghiệm về gương sống làm chứng tá Tin Mừng, vượt thắng bản thân và đương đầu với vô vàn cám dỗ nơi đời thường, trong hoàn cảnh gia đình, cuộc sống hôn nhân, v.v…?!!

Phụng vụ Lời Chúa của Chúa Nhật XXIV Thường Niên hôm nay mời gọi mỗi người trong chúng ta hãy nhìn lại chặng đường dài bước theo chân Chúa, và xét lại đời mình trên cuộc hành trình làm môn đệ Chúa. Nhưng trước hết, chúng ta hãy cùng nhau đặt mình vào hoàn cảnh của Phê-rô và đối diện với câu hỏi không dễ dàng chút nào của Chúa Giê-su: “Anh em nói Thầy là ai?” (x. Mc 8, 29). Dường như câu hỏi này trở nên đơn giản hơn nếu ta thay câu này thành “người ta nói Thầy là ai?” Qủa thật, các môn đệ cũng cảm thấy điều này, vì các ông chỉ nói lại những gì được nghe từ người khác nói về Chúa Giê-su, rằng: “họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó” (x. Mc 8, 28). Trong đời thường cũng vậy thôi, thuật lại những gì chúng ta được nghe, được thấy, nói lên lập trường hay chính kiến của người khác thì dễ, nhưng khi được hỏi chính kiến, quan điểm của bản thân thì ôi thôi khó trả lời, nếu không muốn nói: chúng ta có xu hướng thoái thác hoặc tìm đến giải pháp “xin cho tôi hai chữ bình yên!”.

Hơn nữa, trong đời sống đức tin, Chúa Giê-su cũng đang đối diện với mỗi người chúng ta và hỏi: “Này con, con đã tin vào Ta, bước theo Ta gần cả quảng đời rồi, con hãy nói đối với con Thầy là ai?” Nói cách khác, Chúa Giê-su mong muốn mỗi chúng ta tuyên xưng đức tin của mình vào Ngài chứ chẳng phải niềm tin mong lung từ người khác, cũng chẳng phải niềm tin từ tin đồn thổi hãy nghe ngóng…Ngài muốn chúng ta xác tín vào Người bằng một đức tin nhân vị, đức tin mà dẫn chúng ta đến gặp gỡ thân tình với Ngài qua anh chị em, qua mọi người trong gia đình, cộng đoàn, giáo hội và xã hội. Và chỉ có đức tin ấy mới giúp chúng ta từ bỏ cái tôi, vứt bỏ con người cũ, tội lỗi của mình mà trung thành vác thập giá mình và trung tín bước theo chân Chúa Giê-su.

Thưa quý anh chị em, đây cũng là điều kiện tiên quyết cho chúng ta trở nên môn đệ đích thật của Chúa Giê-su, cụ thể là: từ bỏ chính mình, vác thập giá mình, bước theo Ngài. Qủa thật, Chúa Giê-su là mẫu gương cho chúng ta sống trọn vẹn ba điều kiện trên. Ngài đã từ bỏ mình, trút bỏ vinh quang của một Thiên Chúa, mặc lấy xác phàm, sống như con người chúng ta chỉ trừ tội lỗi. Hơn nữa, Người còn hạ mình, vác thập giá, vâng lời làm theo Thánh ý Chúa Cha cho đến hơi thở cuối cùng, chết một cách nhục nhã, tất tưởi trên cây thập giá ngất cao vì tội lỗi chúng ta (x. Pl 2, 6-11). Ngạn ngữ có câu “chiến thắng chính mình là chiến thắng vinh quang nhất”. Vì thế, để từ bỏ ‘cái tôi to tướng’ của chúng ta là điều không dễ chút nào, mà từ bỏ tính tự cao, tự đại của mình để lắng nghe người khác lại càng khó hơn!!! Đi xa hơn một chút nữa, đặc biệt trong đời sống đức tin, tâm linh, Chúa Giê-su đòi hỏi môn đệ của Ngài phải từ bỏ con người tội lỗi, từ bỏ ý kiến tự kiêu của mình mà mặc lấy con người mới, con người biết tìm ra Thánh ý Chúa trong đời mình, cùng Ngài vác lấy những khó khăn, trắc trở, những lo toan, thử thách hằng ngày mà trung kiên vững bước theo Ngài với một đức tin sắc son, không sờn lòng. Một đức tin hoàn toàn ký thác vào Thiên Chúa dù bất cứ chuyện gì có thể xảy ra chăng nữa, đức tin ấy chính là lẽ sống cho chúng ta. Vì nếu đức tin không có hành động, không có lòng mến, không được tuyên xưng qua đời sống thường nhật… chính là đức tin chết (x. Gc 2, 17)

Thay cho lời kết, con xin kể một câu chuyện thật sự xảy ra tại thị trấn I-mus, thành phố Ca-vi-tê, Phi-luật-tân – nơi con được diễm phúc phục vụ gần 2 năm ròng. Có một người mẹ kia tại giáo xứ Đức Mẹ là Rường Cột của Giáo Hội rất mực yêu thương con trai của mình. Bà tảo tần nắng mưa, nuôi con khôn lớn thành người, và bà mong chờ từng giây từng phút, thời khắc con trai bà cầm tấm bằng tốt nghiệp ưu tú ra trường đời với công ăn việc làm ổn định lập nghiệp. Nhưng rồi, Chúa gọi con bà theo ơn gọi dâng hiến vào Chủng viện. Bà thổ lộ với con trong nước mắt: “Thoạt đầu, con cấm cản, nhưng sau, con đành chào thua và dâng con trai mình cho Chúa”. Giây phút huy hoàng và hạnh phúc nhất trong đời bà cũng đến khi chính đôi bàn tay gầy gò, sạm nắng vì khó khăn bươn chải cuộc sống, đeo tấm huy hiệu chủng sinh xuất sắc (summa cum laude) cho con trai mình, mà bà không khỏi dấu đi những giọt nước mắt trìu mến, hạnh phúc đang từ từ lăn trên gò má khi ôm con trai vào lòng. Than ôi, khoảnh khắc hạnh phúc khó phai ấy bỗng chốc biến thành những đêm trằn trọc, căm phẫn khi bà biết tin con bà đã bị một kẻ xa lạ, không chút hận thù vô tình giết chết trong một cuộc dã ngoại xa nhà. Nhiều đêm trắng, bà tự vấn mình và đến nhà nguyện Chầu Thánh Thể với vô vàn câu hỏi trên môi, nhưng đại loại là: Tại sao Chúa lại để sự việc xảy ra như vậy? Tại sao không gọi con về mà lại con của con? Trước kia, con đã ngăn cản không cho con vào Chủng viện, nhưng con đành thua vì Ngài liên lỉ mời gọi con trai của con dâng mình. Và sau cùng, con đành dâng con trai của con cho Chúa. Nhưng bây giờ Chúa lại muốn gọi con trai của con về trong hoàn cảnh chớ trêu như thế này? Cuộc sống của bà cứ một lúc xa dần giáo xứ, các hoạt động đoàn thể trong giáo họ. Sau một thời gian khá lâu, bà đến nhà thờ tham dự thánh lễ, và muốn gặp con chuyện trò. Qua câu chuyện, bà cố gắng nhìn lại bức tranh toàn cảnh của cuộc đời bà và những giây phút với con trai bà. Sau cùng, bà thốt lên một điều không thể tin được, đó là: bà đã tha thứ cho người đã giết con trai bà. Mặc dù, bà rất phẫn nộ và luôn luôn tìm lại công lý cho cái chết thảm thương của con bà, nhưng đức tin thấm nhuần lòng mến và lòng bao dung, tha thứ đã khiến cho bà từ bỏ lòng hận thù, căm phẫn uất ức, giúp bà trút bỏ con người yếu hèn của mình mà vác thập giá ‘vừa nhớ thương con trai, vừa giận dữ đi tìm công lý cho con trai’ ròng rã suốt thời gian dài đằng đẳng, ngõ hầu trung tín bước theo Chúa đến cuối đời. Qủa thật, chỉ có đức tin nhân vị, đức tin gặp gỡ thân tình với Chúa Giê-su mới có thể giúp bà tuyên tín, trung thành theo Chúa và can đảm hành động qua việc tha thứ cho kẻ đã giết chết con bà như vậy.

Lạy Chúa là Chúa Tình yêu! Chúng con xin cảm tạ Ngài vì biết bao hồng ân Người ban tặng cho chúng con, đặc biệt ơn đức tin, được tin nhận Ngài là Chúa, là chủ của đời chúng con. Xin cho đức tin của mỗi người chúng con, mỗi gia đình, mỗi cộng đoàn, và toàn thể Giáo hội được triển nở qua lòng mến, niềm cảm thông, hành động yêu thương cụ thể với tha nhân, và luôn luôn tuyên tín Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống trên mỗi bước đường dù chông gai, hầu chúng con hằng trung thành bước theo chân Chúa Giê-su Ki-tô. Amen.

---------------------------------

 

TN 24-B181: Chúa Nhật 24 Thường Niên


(Suy niệm của Jaime L. Waters - Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)

TÌNH YÊU VỊ THA CẦN ĐI ĐÔI VỚI PHỤC VỤ VÀ NGAY CẢ HY SINH.

 

Thế nào là tình yêu vị tha? Làm thế nào để có thể diễn tả một tình yêu tự hiến trong cuộc sống? Các TN 24-B181


Thế nào là tình yêu vị tha? Làm thế nào để có thể diễn tả một tình yêu tự hiến trong cuộc sống? Các bài đọc hôm nay nêu bật những tâm tình và hành động cần thiết để thật sự thực thi sứ điệp tình yêu của Tin mừng.

Trong bài Tin mừng theo thánh Máccô, Đức Giêsu nói với các môn đệ về căn tính và sứ vụ của Ngài. Khi hỏi các ông quan niệm của dân chúng về mình, Đức Giêsu biết rằng có nhiều người đang hiểu sai và khước từ Ngài. Đức Giêsu cũng biết trước cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của mình, và đây là lần đầu tiên trong ba lần Ngài báo trước cuộc thương khó. Thánh Phêrô lên tiếng bác bỏ và trách cứ Đức Giêsu khi nghe những lời loan báo này, nhưng Đức Giêsu cũng đáp lại bằng cách khiển trách Phêrô: “Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy!”. Thánh Máccô cũng cho thấy Đức Giêsu đã “khiển trách” các môn đệ khi Ngài làm phép lạ, xua trừ ma quỷ và dẹp yên sóng gió. Phản ứng nghiêm khắc của Đức Giêsu đã khiến thánh Phêrô không còn phản đối, đồng thời mời gọi ông cũng như các môn đệ hiểu và chấp nhận sứ vụ của Ngài.

Những ngôn ngữ và hình ảnh mô tả cuộc khổ nạn của Đức Giêsu vang vọng lại lời ngôn sứ Isaia trong bài đọc một, đây là một trong những bài ca về người tôi trung đau khổ. Đoạn trích mô tả người tôi tớ bị đánh đập và nhục mạ nhưng vẫn kiên trì bất chấp đau khổ, với sự trợ giúp của Thiên Chúa: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế tôi đã không hổ thẹn”. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay đặt bài ca của ngôn sứ Isaia trong bối cảnh lời tiên báo về cuộc Thương khó trong Tin mừng Máccô giúp chúng ta thấy được những điểm tương đồng cũng như hiểu được lý do và cách thức Đức Giêsu chịu đau khổ.

Ngoài cuộc khổ nạn của mình, Đức Giêsu còn tiên báo sự đau khổ của những ai theo Ngài, và thôi thúc họ chấp nhận những thực tế khi làm môn đệ Chúa. Hơn nữa, Đức Giêsu còn nối kết tư cách người môn đệ với việc phục vụ, và dạy họ phải biết từ bỏ chính mình để hướng đến nhu cầu của tha nhân. Bằng cách vác thập giá, các môn đệ không chỉ chấp nhận đau khổ thể xác, và có thể là cái chết khi đi theo Đức Kitô, mà còn phải cam kết gánh vác các nhu cầu của cộng đoàn, sống và làm việc quên mình vì lợi ích của người khác. Đức Giêsu đã nêu gương tình yêu tự hiến qua cái chết trên thập giá, và những ai là môn đệ Ngài cũng được mời gọi sống quên mình vì lợi ích của người khác.

Bài đọc hai trích thư của thánh Giacôbê tông đồ vang vọng lại tâm tình này một cách đặc biệt. Bức thư mời gọi cộng đoàn không chỉ có đức tin mà còn phải sống đức tin, và thánh nhân thẳng thắn khẳng định rằng: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Thánh Giacôbê đã đưa ra một ví dụ cụ thể về một người đang đói khổ rách rưới: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no’, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?”  Ví dụ và câu hỏi sâu sắc này là trọng tâm của lời mời gọi yêu thương trong Tin mừng. Yêu thương là chủ động quan tâm đến nhu cầu của người khác. Khi yêu cầu các môn đệ vác thập giá, Đức Giêsu cũng thúc đẩy các ông tích cực dấn thân vào thế giới, không chỉ có niềm tin vào sự đau khổ, cái chết và phục sinh của Đức Kitô, mà còn phải chấp nhận chúng như những hình mẫu cho cách thức chúng ta phục vụ lẫn nhau.

Các bài đọc hôm nay trình bày sự khó khăn khi sống đời Kitô hữu cách đích thực. Lời Chúa tuần này cho thấy những hiểm nguy có thể xảy ra dưới hình thức nhục mạ, bách hại, chết chóc nhưng đồng thời cũng nêu bật những điều cần phải làm để sống lời mời gọi yêu thương của Đức Kitô.

Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2021/08/20/lectionary-scripture-readings-word-241209

---------------------------------

 

TN 24-B182: Đức Kitô là ai?

 

Dư luận, như các môn đệ ghi nhận được, tuy chưa rõ đích xác Ngài là ai nhưng cũng tỏ ra TN 24-B182


Dư luận, như các môn đệ ghi nhận được, tuy chưa rõ đích xác Ngài là ai nhưng cũng tỏ ra đã thấy được những điểm khác người trong giáo huấn và trong hành động của Ngài. Tuy nhiên điều Chúa Giêsu muốn nhắm tới ở đây chính là việc các môn đệ bày tỏ ý kiến của mình về Ngài. Do dó mà Ngài mới đạt thêm câu hỏi thứ hai: Còn các con, các con bảo Thầy là ai?

Qua câu hỏi này, phải chăng Chúa Giêsu đã khởi sự quan tâm tới dư luận của quần chúng về Ngài? Hay Ngài muốn làm một cuộc thăm dò ý kiến về kết quả công việc Ngài đã làm? Không phải là như vậy. Ở đây, Chúa Giêsu muốn chuẩn bị các môn đệ của Ngài đón nhận những điều Ngài sắp nói với các ông về điểm then chốt của sứ mạng Ngài và cũng là điểm khó nuốt đối với mọi người.

Nhân dịp Phêrô tuyên xưng đức tin, một lời tuyên xưng hẳn là tuyệt vời, nhưng rõ ràng còn rất bất toàn, Chúa Giêsu đã nói thẳng với các môn đệ “Thầy là Đấng Mêsia”, nghĩa là: “Con đã theo Thầy từ một năm rưỡi nay, con đã nghe Thầy giảng dạy, con đã chứng kiến những phép lạ Thầy làm, con đã nhìn thấy cách Thầy sống, đối với con Thầy là chứng nhân của Thiên Chúa và của Nước Trời. Vì vậy con đã theo Thầy để Thầy dẫn con đến Thiên Chúa”. Phêrô thành thật bày tỏ kinh nghiệm của mình, và Chúa Giêsu không hề phản đối lời tuyên xưng đức tin của ông.

Ta thấy khi Phêrô vừa tuyên xưng niềm tin xong, Chúa Giêsu tức khắc nói về cuộc Thương Khó. Đây là lần đầu tiên Người nói rõ ra những gì đang chờ đợi Người ở cuối “con đường”. Người sẽ còn ngỏ lời với các ông về đề tài này hai lần nữa (9,31; 10,33-34). Vì các ông đã nhận biết và tuyên xưng Người là Đấng Mêsia, các ông phải được chuẩn bị đi trên con đường mà Đấng Mêsia sẽ rảo qua. Đức Giêsu coi như các môn đệ có khả năng đón nhận lời loan báo này. Nhưng bây giờ lại chính là Phêrô phản đối Người (c. 32). Ông muốn cho Đức Giêsu hiểu rằng lộ trình Người loan báo đó là mộtlộ trình điên rồ, phi lý.

Nhưng Chúa Giêsu cũng đã đẩy ông đi với mộtsự quyết liệt không kém. Lộ trình Người theo là lộ trình Thiên Chúa muốn, nên khi phản đối Người, Phêrô đã trở thành hiện thân của ma quỷ mà chống lại Thiên Chúa. Do đó, trước đây Người đã đổi tên ông là Simôn thành “Phêrô”, một cái tên thuộc sứ mạng, nay Người phải gọi ông là “Satan”, một cái tên phản - sứ mạng, và sau này, có lúc Người lại gọi ông bằng cái tên cũ là “Simôn” (14, 37), một cái tên chứng tỏ sự quay lưng lại với sứ mạng.

Lời tuyên bố của Phêrô là câu trả lời Chúa Giêsu muốn có. Nhưng Chúa cũng nói ngay đó là do Cha trên trời tỏ bày cho, chứ không phải nhờ học hỏi hay nghiên cứu. Phêrô và các Tông đồ được ơn soi sáng, được dạy dỗ và hướng dẫn để hiểu biết sự thật về Đức Kitô, vì các ông là môn đệ Chúa, sẽ tiếp tục sự nghiệp Chúa nơi trần thế. Lời tuyên bố này rõ ràng là một ơn mạc khải, vì chính Phêrô nói ra mà cũng không hiểu tường tận về lời mình nói. Ngay lúc đó Chúa Giêsu đã nói cho các môn đệ về số phận của Người. Chúa nói sẽ chịu đau khổ nhiều, bị bắt, bị hành hạ, bị giết chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại. Nghe vậy, các môn đệ khó chịu, các ông đã không để ý tới việc Chúa sẽ sống lại, và cho là Chúa thất bại, thua kẻ thù. Vì thế, Phêrô kéo Chúa ra một chỗ và can ngăn Chúa đừng nói vậy, đừng để chuyện đó xảy ra. Vì thế, Chúa Giêsu nổi giận mắng ông: “Satan, hãy lui đi!”.

Tuy nhiên Chúa tiếp lời ông ngày bằng việc loan báo cuộc tử nạn của Ngài và lần đầu tiên, Ngài dạy cho các ông hay rằng Con Người phải đau khổ nhiều… Lúc đó, Phêrô bị sốc đến nỗi ông tự cho phép mình trách móc Thầy. Nhưng Chúa Giêsu liền đưa ông lại đúng vị trí của ông: “Satan, hãy lui lại đằng sau Thầy… con không hiểu gì về kế hoạch của Thiên Chúa”. Rồi Ngài thêm: “Ai muốn đi theo Thầy, thì hãy bỏ mình, vác thập giá mà theo Thầy. Vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất”

Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: ” Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm, thì sẽ cứu được mạng sống mình” (Mc 8, 34).

Chúng ta tự hỏi: “Từ bỏ” mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình?

Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu yêu cầu là từ bỏ và hy sinh. Sống trong một xã hội được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa. Chính Phêrô, chỉ sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, ông mới ý thức được rằng, ông phải qua con đường ông đi và sống trong hy vọng.

Cần phải phân biệt, Chúa Giêsu không đòi chúng ta từ bỏ “điều chúng ta là“, nhưng điều “chúng ta đã trở nên“. Chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa thấy tốt đẹp sau khi tạo dựng người nam và người nữ (St 1, 31). Điều chúng ta phải từ bỏ không phải là điều Chúa đã làm, nhưng điều chúng ta lạm dụng quyền tự do làm, cụ thể như: kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét và làm biếng… là những khuynh hướng xấu, tội lỗi, bao phủ trên hình ảnh Thiên Chúa. Thánh Phaolô gọi ảnh biến hình này là “ảnh dưới đất“, ngược với “ảnh trên trời“, giống như Chúa Kitô. Do đó “từ bỏ chính chúng ta“, là từ bỏ ý loài người để mặc lấy ý Chúa, hợp và giống Chúa hơn.

Chúa dạy: “Ai từ bỏ chính mình mang lấy thập giá của mình mà theo Ta”. Thánh giá của chúng ta không có nghĩa là hình khổ đóng đinh theo nghĩa chữ. Trong từ chuyên môn Công giáo, chúng ta nói về những người đặc biệt có những gánh nặng khó khăn phải chịu đựng trong cuộc sống thì người đó đang mang một thánh giá nặng. Chúng ta hiểu rằng thánh giá đối với chúng ta có nghĩa là mất môt công việc, hoặc là mắc một cơn bệnh nặng, hoặc cần thiết làm một hy sinh có ý nghĩa để chăm sóc gia đình hoặc những phần tử trong gia đình đang bị đau khổ hay bị sốc. Thánh giá dành cho cha mẹ có thể là nhìn thấy con cái của mình rời bỏ Giáo Hội hoặc sa vào rượu chè say sưa, hoặc trai gái. Thánh giá đối với con cái có thể là đau buồn trong cuộc sống, thấy cha mẹ say sưa hoặc đau buồn khi họ ly dị khiến cho gia đình tan tác. Thánh giá cho tất cả chúng ta là cái chết của một người thân yêu.

Câu Chúa Giêsu hỏi vẫn tiếp tục được đặt ra cho mỗi người chúng ta hôm nay. Và chúng ta có thể như Phêrô, đã trả lời đúng câu hỏi của Ngài với tất cả vốn liếng về Thánh Kinh và thần học, về giáo lý của chúng ta. Thế nhưng trong hành động thì sao? Phải chăng trong hành động chúng ta đã là những người ngăn cản việc thực hiện chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa bằng thái độ khước từ đau khổ, khước từ thập giá mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống thường ngày.

Đức Ki-tô đòi hỏi các môn đệ theo Ngài phải từ bỏ chính mình. “Bỏ chính mình” có phải tự tử không? Hẳn là không! Các nhà hiền triết, các tôn giáo đều kêu gọi từ bỏ cái tôi kiêu căng, ích kỷ, tham sân si, và thậm chí bỏ cả tiền tài lẫn danh vọng nữa. Thế nhưng sự từ bỏ mà Chúa Giêsu kêu gọi không chỉ để hoàn thiện bản thân. Ngài kêu gọi chúng ta từ bỏ mọi sự là để có thể đi theo Ngài, đi theo con đường thập giá mà Ngài đã đi, để trở nên giống Ngài: sống hiền lành, khiêm nhường, khó nghèo, chịu sỉ nhục, ngược đãi, và chết để cứu chuộc nhân loại là những người Ngài yêu mến. Sự bỏ mình đó không huỷ hoại mà dẫn ta đến một cuộc sống dồi dào hơn: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.”

Đối với các Kitô hữu, chúng ta xưng tụng Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Độ. Ta cần lắng nghe của lời Ngài chỉ dạy. Vâng nghe theo lời của Chúa Giêsu là bước theo con đường của Ngài đã đi qua.Đường của Chúa là con đường khiêm hạ, con đường sự thật và con đường khổ giá. Khổ giá sẽ tôi luyện niềm tin. Niềm tin vào Chúa Kitô không phải là học hiểu một số kiến thức, tỏ lòng sùng mộ hay việc cử hành một số nghi lễ, mà chính là sống niềm tin của mình trong cuộc lữ hành trần thế. Ta phải sống đức tin trưởng thành mà chúng ta đã được lãnh nhận qua các Bí Tích trong Hội Thánh. Đức tin là ánh sáng soi đường dẫn chúng ta bước theo gót Chúa Kitô. Thánh Giacôbê tông đồ đã phát biểu rằng: Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết (Giac 2, 17). Lời nói đi đôi với việc làm. Người ta nói: Lời nói mây bay, gương bày lôi kéo. Đời sống đức tin được thể hiện qua cách sống đạo hằng ngày trong ý tưởng, lời nói và việc làm.

Để biết Chúa Giêsu Kitô là ai và đâu là đường lối của Ngài, ta cần phải giũ bỏ những hình ảnh trần tục ta vẫn có về Chúa Kitô, những hình ảnh do con người tạo ra: một Đức Kitô của quyền lực, của thống trị… Ta nên nhớ bài học cùng Ngài: “Anh em hãy học cùng Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”.

Vậy thì, đối với tôi, Đức Giêsu Kitô là ai? Sau khi đã tin vào Chúa một thời gian, ta vẫn có thể đặt lại câu hỏi này: Bấy lâu nay, Đức Giêsu là ai đối với tôi? Đức Giêsu không thay đổi, “hôm qua cũng như hôm nay và mãi mãi” Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất. Nhưng mỗi ngày, sau mỗi biến cố, có khi ta lại khám phá ra những nét mới mẻ nơi sự phong phú của Ngài. Đời ta luôn là một chuỗi những câu trả lời cho câu hỏi của Chúa Giêsu: “Còn con, con bảo Thầy là ai?”. Và cuộc đời của ta sẽ chuyển biến tuỳ theo câu trả lời này của mình.

---------------------------------

---------------------------------

 

TN 24-B183: TUYÊN XƯNG VÀ SỐNG ĐỨC TIN

 

Trong lịch sử nhân loại, có thể khẳng định một cách chính xác rằng, Đức Giê-su là nhân vật được TN 24-B183


Trong lịch sử nhân loại, có thể khẳng định một cách chính xác rằng, Đức Giê-su là nhân vật được tìm hiểu, học hỏi và phân tích nhiều nhất. Trải qua dòng thời gian, nhân vật Đức Giê-su đã được diễn tả theo nhãn quan đa dạng của những khuynh hướng chính trị, văn hoá và xã hội. Những khuynh hướng này phần lớn nhấn mạnh tới khía cạnh con người lịch sử của Đức Giê-su thành Na-gia-rét. Đối với Ki-tô hữu, Đức Giê-su không chỉ là con người của lịch sử, mà còn là con người của đức tin. Tiếp nối thánh Phê-rô, hai mươi thế kỷ đã qua, Giáo Hội Ki-tô luôn tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô. Người là Ngôi hai Thiên Chúa, được Chúa Cha sai đến cứu độ trần gian. Người đã chết và Người đang sống giữa chúng ta.

Khi tuyên xưng đức tin vào Đức Giê-su, trọn vẹn đời sống người Ki-tô hữu phải quy hướng về Người. Ki-tô hữu không chọn cho mình một thần tượng giữa những người trần thế, mà chọn chính Chúa Giê-su là Thần tượng của họ. Vì thế, đức tin giúp người tín hữu trở nên giống Chúa Giê-su trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Lý tưởng của Ki-tô giáo là trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, theo kiểu nói của thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Rô-ma (x. Rm 8,28-30).

Một tác giả đã viết, đại ý: Thuở ban đầu, Thiên Chúa dựng con người giống hình ảnh của Ngài. Nhưng thời nay, con người lại đang tạo dựng Thiên Chúa giống như hình ảnh của mình. Quả vậy, con người trong xã hội hiện đại đang sáng tạo ra một “thượng đế”, một “thiên chúa” biết chiều theo những dục vọng, xu hướng và đam mê của họ. Họ nại vào lòng thương xót từ bi của Thiên Chúa, để suy diễn theo chiều hướng có lợi cho lối sống buông thả và những hành vi suy đồi đạo đức. Thiên Chúa có nguy cơ trở thành sản phẩm của trí tuệ con người. Chân dung Thiên Chúa và hình ảnh Đức Giê-su đang bị biến dạng vì những lập luận nguy hiểm này.

Đức Giê-su cứu độ con người không theo phương pháp và cách thức trần gian. Giáo Hội luôn cung kính tôn thờ thập giá của Đức Giê-su. Người đã bước đi trên con đường thập giá và đã chết trên cây thập giá. Cuộc khổ nạn thập giá, nhìn theo nhãn giới loài người, là một thất bại đau thương; nhưng dưới cái nhìn của Thiên Chúa, lại là sự chiến thắng vẻ vang.

Các Tông đồ xưa kia và nhiều người trong chúng ta hôm nay, dường như chưa được chuẩn bị đủ để đón nhận mầu nhiệm thập giá. Phê-rô đã can ngăn Thày mình, khi Người tiên báo cuộc khổ nạn, đến nỗi ông bị Chúa quở trách là “Xa-tan”. Những kỳ lão Do Thái cũng mang tâm trạng ấy, và họ coi thập giá là một thất bại hoàn toàn. Họ đã chế giễu Chúa khi Người bị đóng đinh: “Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Ông Ki-tô vua Israel, cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, để chúng ta thấy và tin” (Mc 15,31-32). Những lời thách thức của các thượng tế và kinh sư cũng đang vang lên hôm nay, trong xã hội của chúng ta. Người ta thách thức Thiên Chúa: nếu Thiên Chúa quyền năng và từ bi nhân hậu, tại sao có chiến tranh, nạn đói, dịch bệnh và đau khổ chết chóc? Đối diện với những thách thức ấy, những người tin vào Chúa Giê-su cần xác tín và quyền năng của Người, trung thành với đức tin và với lý tưởng mình đã chọn.

Giữa những hoang mang của con người trước thập giá, Chúa Giê-su khẳng định: “Ai theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình, vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”. Trong hai câu văn này, chữ “mình” được nhấn mạnh bốn lần. Chúa muốn nói với chúng ta, đi theo Người không phải chỉ là hô khẩu hiệu, hoặc với đức tin mờ nhạt, chỉ có khi hạnh phúc an vui. Theo Chúa là gắn bỏ trung thành với Người, cùng đi với Người trên con đường thập giá. Nơi khác, Người hứa với chúng ta, nếu ai đến với Người, Người sẽ nâng đỡ và bổ sức cho. Những ai cậy trông vào Người, Người sẽ không từ bỏ bao giờ. Mỗi chúng ta, cách này hay cách khác, đã kinh nghiệm điều đó. Theo Chúa Giê-su là đi trên con đường thập giá, nhưng đích điểm của hành trình này là sự phục sinh vinh quang.

Là môn đệ Đức Giê-su, chúng ta được mời gọi làm chứng cho Thày Giê-su, ngay trong cuộc sống cụ thể của mình, bằng những việc làm thiết thực. “Đức tin không có việc làm là đức tin chết”. Câu tuyên bố của thánh Gia-cô-bê (Bài đọc II) cho thấy hai khía cạnh có mối tương quan lô-gích với nhau giữa đức tin được tuyên xưng và đức tin được sống cách cụ thể. Tuyên xưng đức tin không chỉ bằng môi miệng, mà còn bằng việc làm. Cả hai khía cạnh đều cần thiết và làm nên một đức tin hoàn hảo.

Tín hữu có nghĩa là “người tin”. Chúng ta đã và đang thể hiện đức tin như thế nào? Câu hỏi này cũng giống như câu hỏi của Chúa Giê-su: “Các con bảo Thầy là ai?”. Vâng, Người vẫn luôn đặt ra cho chúng ta câu hỏi căn bản này. Tư cách Ki-tô hữu của mỗi người phụ thuộc vào câu trả lời trước câu hỏi của Chúa.

+ ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên

---------------------------------

 

TN 24-B184: LẦN ĐẦU PHÊRÔ CHỐI CHÚA


“Người ta nói Thầy là ai?” (Mc 8:27).

 

Câu hỏi của Chúa Giêsu về căn tính của Ngài như thách đố các môn đệ khi xưa của Ngài, và cũng TN 24-B184


Câu hỏi của Chúa Giêsu về căn tính của Ngài như thách đố các môn đệ khi xưa của Ngài, và cũng thách đố tất cả các Kitô hữu chúng ta ngày nay, mọi nơi, mọi thời đại, phải trả lời. Câu trả lời chúng ta cần đưa ra không phải là lời nói suông, không chỉ là một thứ tri thức thuần lý, dù giống như câu trả lời của Simon Phêrô đến đâu đi nữa “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8:29). Bởi vì con đường theo Chúa Giêsu là một hành trình sống, theo cung cách sống của Ngài, là Đấng Kitô, Đấng đã đi con đường thương khó, chết và sống lại. Ngài gánh chịu những đau khổ bởi tội lỗi của chúng ta. Ngài chăm sóc những nỗi đau đớn của con người, chứ không tìm cách thống trị hay nô dịch người khác. Tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai nhân danh Chúa mà đến chính là đoan hứa học cách phục vụ mọi người cụ thể trong cuộc sống mỗi ngày.

1. Chúa Giêsu là Đấng Kitô, nhưng không như người ta mong đợi.

Câu chuyện xảy ra ở “các làng xã vùng Xêdarê Philípphê” (Mc 8:27). Chúa Giêsu kiểm tra các môn đệ một chút về bản thân Ngài. Câu hỏi rất đơn giản và thẳng thắn: “Người ta nói Thầy là ai?” (Mc 8:27). Người ta nói khá nhiều thứ mơ hồ về Ngài, nhưng rốt cuộc người ta không biết chắc Ngài là ai. Họ chỉ có thể đoán non đoán già: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó” (Mc 8:28).

Trước sự mơ hồ này, Chúa Giêsu yêu cầu các môn đệ của Ngài hãy có một câu trả lời riêng của chính các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mc 8:29). Phêrô là người trả lời. Đối với ông, Chúa Giêsu là Đấng Kitô. Đây là một tuyên bố phi thường nhất mà người ta có thể tưởng tượng được vào thời điểm đó: “Thầy là Đấng Kitô” (Mc 8:29). Chúng ta ngạc nhiên trước phản ứng của Chúa Giêsu; Ngài không nói lời nào tỏ ý bác bỏ danh xưng đó, nhưng ngay lập tức “cấm ngặt các ông không được nói với ai về Ngài” (Mc 8:30). Có lẽ còn quá sớm để nói với mọi người rằng Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, vì mọi người còn hiểu danh xưng này quá khác biệt. Đây là điều Ngài sẽ cố gắng làm cho các môn đệ hiểu: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại” (Mc 8:31).

Đối với các môn đệ của Chúa Giêsu, và với người Do Thái thời đó nói chung, điều này hoàn toàn vô lý: danh xưng Đấng Mêsia đồng nghĩa với từ ngữ Con Người. Cách nói này xuất phát trực tiếp từ sách Đaniel: “Trong những thị kiến ban đêm, tôi mải nhìn thì kìa có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. Ngài tiến lại gần bên Đấng Lão Thành và được dẫn đưa tới trình diện. Đấng Lão Thành trao cho Ngài quyền thống trị, vinh quang và vương vị; muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Ngài. Quyền thống trị của Ngài là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Ngài sẽ chẳng hề suy vong” (Đaniel 7:13-14). Vài câu sau, Đaniel làm rõ rằng: “Rồi chư thánh của Đấng Tối Cao sẽ lãnh nhận vương quyền và nắm giữ vương quyền ấy mãi mãi muôn đời... Còn vương quốc với quyền thống trị cũng như địa vị cao cả của các vương quốc khắp thiên hạ sẽ được trao cho dân thánh của Đấng Tối Cao. Vương quyền của dân ấy là vương quyền vĩnh cửu, và mọi quyền thống trị sẽ phụng sự và vâng phục dân ấy” (Đaniel 7:18,27). Trong tất cả những điều này không có chuyện gì là đau khổ cả! Thật là một ý tưởng kỳ cục! Phêrô nổi nóng có lẽ là đúng rồi. Giống như nhiều người cùng thời, ông mong đợi một vị  Mêsia “thống trị, vinh quang và vương vị” khải hoàn, quyền năng, một lần và mãi mãi đánh đuổi quân xâm lược Rôma ra khỏi đất nước Do thái. Vì vậy những gì Chúa Giêsu công bố là không thể chấp nhận được. Thiên Chúa toàn năng không thể để những chuyện như thế này xảy ra: “Phêrô liền kéo riêng Ngài ra và bắt đầu trách Ngài” (Mc 8:32).

Thánh sử Máccô trình thuật rất rõ: “Ngài nói rõ điều đó, không úp mở” (Mc 8:31). Như vậy, Chúa Giêsu thực sự là Đấng Mêsia mà dân Do thái đang chờ đợi, nhưng không hề giống những gì họ mong đợi về Ngài! Người ta có thể coi trình thuật này như là lần đầu tiên Phêrô chối Chúa, từ chối bước theo Đấng Mêsia trong đau khổ. Chúa Giêsu đối mặt với sự từ chối bộc phát này của Phêrô vì đó là một cơn cám dỗ thực sự cho chính Ngài. Do vậy Ngài nói với ông một cách nặng nề, chưa bao giờ và sẽ không bao giờ có lần nữa: “Satan! lui lại đàng sau Thầy!” (Mc 8:33). Từ đây, những ai tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai nhân danh Chúa mà đến nhưng không chấp nhận “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại” thì đều đáng bị gọi là Satan, vì “Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8:33).

Thánh Máccô không kể lại các chi tiết về những cơn cám dỗ của Chúa Giêsu trong sa mạc như thánh Mátthêu (4:1-11) và thánh Luca (4:1-13), nhưng rõ ràng ở đây ngài đang nói đến một cơn cám dỗ, đặc biệt nghiêm trọng, gây ra phản ứng rất mạnh mẽ từ Chúa Giêsu, Ngài thực sự phải hành động, phải tuyên chiến: “Satan! lui lại đàng sau Thầy” (Mc 8:33). Cách nhìn của Phêrô, và chúng ta hôm nay, mang tính chất con người tự nhiên, còn gì có thể tự nhiên hơn! Cái tự nhiên mang tính tự vệ, theo bản năng sinh tồn mạnh mẽ. Nhưng chúng ta phải để Chúa Thánh Thần biến đổi, thậm chí phá bỏ hoàn toàn cách nhìn đó, nếu chúng ta muốn trung thành với kế hoạch của Thiên Chúa: “Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy” (Isaia 55:9). Ngay sau sự việc này, “Chúa Giêsu gọi đám đông cùng với các môn đệ lại. Ngài nói với họ rằng: Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8:34).

2. Thiên Chúa Cứu độ không bằng quyền lực.

Thánh Máccô kể rất chi tiết: “Chúa Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Ngài trách ông Phêrô” (Mc 8:33). Phải chăng chính vì sự có mặt của các môn đệ khác mà Chúa Giêsu đã phản ứng như vậy? Phải chăng lỗi của Phêrô sẽ nghiêm trọng hơn khi có nguy cơ ông lôi kéo người khác rơi vào sai lầm như mình? Cách Chúa Giêsu gọi Phêrô là “Satan” cho thấy ở đó hiện diện một thứ quyền lực đen tối lôi kéo người ta xa khỏi đường lối thiên Chúa. Giống như Người Tôi Tớ của ngôn sứ Isaia trong bài đọc thứ nhất, Chúa Giêsu quyết tâm “tìm nương tựa nơi Thiên Chúa” (Is 50: 10) để hoàn thành sứ mệnh mà Chúa Cha muốn, ngay cả khi điều đó đồng nghĩa với việc phải gánh chịu những lời lăng mạ, khạc nhổ và đánh đập: “Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50:5-6).

Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa không được thực hiện bởi một Đấng Mêsia thống trị áp đặt theo kiểu hiếu chiến, nhưng phải như Thánh Phaolô nói: “Đấng muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (1 Tm 2:4). Con người cần khám phá ra Thiên Chúa dịu dàng và tha thứ, nhân hậu và thương xót. Điều này sẽ không thể thực hiện được bằng những hành động quyền lực nhưng bằng ân huệ tối thượng là mạng sống của Chúa Con: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15:13). Và Ngài mời gọi tất cả các môn đệ của Ngài ở mọi thời đại bước đi theo Ngài trong cung cách yêu thương, hy sinh ấy. Bằng cách phản đối Cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu, Phêrô đóng vai Satan, gợi ý rằng Chúa Giêsu nên dùng quyền lực và các phép lạ để phục vụ lợi ích của chính bản thân Ngài. Phêrô rời bỏ vị trí môn đệ của mình thay vì theo sau Thầy Giêsu, lại cản bước Chúa Giêsu mà ông vừa tuyên xưng là Đấng Kitô. Theo Chúa Giêsu luôn có nghĩa là theo một người bị đóng đinh, nhưng cũng là theo Ngài đến vinh quang.

Tuy nhiên, đừng vì Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô mà hiểu lầm Thiên Chúa chỉ vui khi con người đau khổ. Điều Thiên Chúa muốn là tình yêu, chứ không phải đau khổ. Đối với Chúa Kitô, đau khổ là cách thế biểu lộ tình yêu huyền nhiệm. Chúng ta đang ở trong một huyền nhiệm. Tại sao Thiên Chúa lại để cho Chúa Kitô đau khổ? Trong sâu thẳm mỗi người tin theo Chúa, khi tình yêu dành cho Chúa và người khác càng lớn lao thì người ấy càng gặp nhiều khó khăn, trắc trở và đau khổ, càng vấp phải những điều không như phàm nhân thường mong đợi. Chấp nhận điều đó hay không là tùy vào mỗi chúng ta, hoặc dừng lại ở những gì khả giác mà mình mong muốn kiểm soát được, hoặc buông bỏ mọi thứ cảm xúc và lý luận nổi loạn để bước vào “cuộc hành trình tâm linh thanh lọc dần dần tâm hồn, vốn cần thiết để đạt đến đỉnh cao của sự hoàn hảo Kitô giáo, được tượng trưng bởi đỉnh núi Carmel. Sự thanh lọc này được đề xuất như một hành trình mà con người thực hiện, hợp tác với hành động của Thiên Chúa, để giải thoát tâm hồn khỏi mọi ràng buộc hoặc tình cảm trái ngược với ý muốn của Chúa” (Đức Bênêđictô XVI, buổi tiếp kiến chung, hội trường khán giả Phaolô VI, thứ Tư, 16 tháng 2 năm 2011). Đối với mỗi người chúng ta, đau khổ phải luôn được đặt trong tình yêu. Đau khổ không được làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên đen tối hay dẫn tới sự thất vọng về con người và về Thiên Chúa, nhưng cảm nghiệm được sự bình an, “được tắm mình trong tình yêu thiêng liêng và vui mừng trong tình yêu đó mà không chút do dự” (đã dẫn trên).

Chúa Giêsu, Đấng Kitô-Mêsia, không phải là một người giải phóng theo nghĩa chính trị. Ngài là Đấng mà nếu bạn muốn bước theo sau thì bạn cần phải buông bỏ chính mình, sống và hành động như Ngài, không dừng lại ở những câu nói ngoài môi miệng. Thánh Giacôbê, trong bài đọc thứ hai hôm nay, cũng đã đặt ra các câu hỏi, nhưng không phải về căn tính của Chúa Giêsu, mà về căn tính của những Kitô hữu chúng ta: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,14-18).

Phêrô Phạm Văn Trung

---------------------------------

 

TN 24-B185: ĐƯỜNG ĐẾN VỚI CHÚA CHA

 

Chúa Giêsu có lần cho ông Tôma biết chính lộ dẫn tới sự sống vĩnh hằng: “Thầy là con đường, là TN 24-B185


Chúa Giêsu có lần cho ông Tôma biết chính lộ dẫn tới sự sống vĩnh hằng: “Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14:6) Chắc chắn chỉ có Con Đường Giêsu là chính lộ dẫn đến với Chúa Cha, và đó cũng chính là Con Đường Thập Giá mà Chúa Giêsu đã đi.

Có vài vấn đề quan trọng trong trình thuật Mc 8:27-35. Một hôm, Chúa Giêsu và các môn đệ tới các làng xã vùng Xêdarê Philípphê. Dọc đường, Ngài hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?” Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.” Ngài lại hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô.” Lời tuyên xưng thật đáng khen. Nhưng Chúa Giêsu cấm các ông không được nói về Ngài với bất cứ ai.

Rồi Ngài cho các ông biết Ngài phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại. Đây lần thứ nhất Ngài loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Ngài. Nghe Ngài nói vậy, ông Phêrô liền kéo riêng Ngài ra và trách Ngài. Nhưng Ngài liền mắng: “Satan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” Ông Phêrô vừa mới đáng khen thì lại đáng trách ngay. Điều đó cho thấy rằng phàm nhân luôn biến đổi thất thường vì yếu đuối, đôi khi chính mình cũng không biết rõ chính mình.

Cuối cùng, Chúa Giêsu nói về các điều kiện để theo Ngài: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác Thập Giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” Nghe chừng là nghịch lý, nhưng thực ra lại là thuận lý. Kỳ lạ và kỳ diệu!

Ngụ ngôn kể rằng chó con hỏi chó mẹ để biết hạnh phúc là gì. Chó mẹ nói: “Hạnh phúc là cái đuôi con đấy!” Chó con quay lại tóm lấy cái đuôi nhưng không sao tóm được. Chó con oà khóc và hỏi: “Tại sao con không thể nào bắt được hạnh phúc hả mẹ?” Chó mẹ mỉm cười và nói: “Con yêu, con cứ tiến về phía trước thì hạnh phúc sẽ theo sau con.” Thế thôi ư? Vậy thì tại sao cứ phải đi tìm hạnh phúc trong khi hạnh phúc vẫn luôn đi theo mình?

Hãy sống và cảm nhận hạnh phúc mà cuộc đời cho chúng ta. Hạnh phúc trừu tượng mà vẫn cụ thể: Hạnh phúc là được sống bên những người mình yêu thương, làm việc mình thích. Như vậy, hạnh phúc luôn gần gũi và giản dị. Chúa Giêsu bảo phải cố gắng vác Thập Giá hằng ngày thì sẽ được sống. Hạnh phúc nào cũng có vị mặn của nước mắt. Thành công nào cũng cần nhiều khổ luyện. Thánh Bernard Clairvaux (1090-1153) xác nhận: “Sự chết là cửa ngõ sự sống.” Còn đại văn hào Victor Hugo (1802-1885) cho biết: “Hành động tốt là bản lề của Cửa Nước Trời.” Như vậy, chẳng lạ gì khi Chúa Giêsu bảo chúng ta phải “từ bỏ mình” và “vác Thập Giá” hằng ngày mà theo Ngài.

Đối với tín nhân, vấn đề quan trọng nhất là được vào Nước Trời – vì đó là mục đích tối hậu. Tình Chúa bao la và bất biến, hãy tín thác vào Ngài, vì Ngài đã thề hứa: “Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống.” (Ed 33:11) Ước gì mỗi người biết cầu xin như Thánh Vịnh gia: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm.” (Tv 51:3-5)

Thập Giá là vấn đề độc đáo đã được Chúa Giêsu đặt ra cho những ai muốn theo Ngài, muốn làm môn đệ Ngài. Thập Giá là chiếc cầu gồm hai nhánh kỳ diệu, nhánh dọc đưa tới Thiên Chúa, nhánh ngang đưa tới tha nhân. Hai nhánh giao nhau ở giữa, giao điểm đó chính là “nút thánh” Chúa Giêsu Kitô. Thập Giá là độc đạo dẫn tới hạnh phúc đích thực. Thập Giá là Thánh Giá – cái GIÁ để nên THÁNH. Muốn nên thánh phải trả giá bằng cách đi trên Con Đường Thập Giá. Chỉ có con đường này dẫn tới Thiên Chúa, tới Nước Trời.

Nói tiên tri về con đường Thập Giá mà Chúa Giêsu Kitô đi qua, ngôn sứ Isaia cho biết: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.” (Is 50:5-7) Thập Giá là đau khổ, tang tóc, chết chóc, nhưng là con đường dẫn tới sự phục sinh, sự trường sinh.

Ngôn sứ Isaia đặt vấn đề: “Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên. Ai tranh tụng với tôi? Cùng nhau ta hầu tòa! Ai muốn kiện cáo tôi? Cứ thử đến đây coi! Này, có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, ai còn dám kết tội?” (Is 50:8-9a) Có Thiên Chúa, người ta không còn sợ gì: “Lòng tôi yêu mến Chúa, vì Chúa đã nghe tiếng tôi khẩn nài, Người lại lắng tai ngày tôi kêu cứu.” (Tv 114 [116]:1-2) Lòng tin ấy thật mãnh liệt, bền vững, và được kiểm chứng xác thực: “Gặp gian truân sầu khổ, tôi đã kêu cầu danh Chúa: ‘Ôi lạy Chúa, xin cứu gỡ mạng con!’ Chúa là Đấng nhân từ chính trực, Thiên Chúa chúng ta một dạ xót thương, hằng gìn giữ những ai bé mọn, tôi yếu đuối, Người đã cứu tôi’.” (Tv 114 [116]:4-6)

Có mục đích và được minh chứng, niềm tin của họ càng thêm vững mạnh, họ luôn tự nhủ: “Hồn tôi hỡi, thôi bình tĩnh lại, vì trên ngươi, Chúa đã xuống ơn lành; Chúa cứu gỡ mạng tôi khỏi chết, giữ mắt này chẳng còn đẫm lệ, ngăn ngừa tôi khỏi phải hụt chân. Tôi sẽ bước đi trước mặt Người trong cõi đất dành cho kẻ sống.” (Tv 114 [116]:7-9) Đức tin càng mạnh thì càng thêm trông cậy và thể hiện đức mến. Đức tin đó không thể là lời nói suông, mà phải được chứng tỏ bằng hành động cụ thể. Thật vậy, Thánh Giacôbê nói: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no,’ nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2:14-16) Cách giải thích chi tiết và rõ ràng.

Thánh Giacôbê lý luận: “Đức tin KHÔNG CÓ HÀNH ĐỘNG thì quả là ĐỨC TIN CHẾT. Đàng khác, có người sẽ bảo: ‘Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động.’ Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin.” (Gc 2:17-18) Rất độc đáo, lô-gích và cụ thể. Thật tuyệt vời!

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con đủ sức đi đúng đường, biết dứt bỏ những gì không thuộc về Nước Trời. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Thomas Aq. Trầm Thiên Thu

---------------------------------

 

TN 24-B186: THẦY MÀ PHẢI ĐAU KHỔ VÀ CHẾT?

 

Đoạn văn 8:27-35 chiếm một vị trí trung tâm trong Tin Mừng Mác-cô. Nó được dùng làm bản TN 24-B186


Đoạn văn 8:27-35 chiếm một vị trí trung tâm trong Tin Mừng Mác-cô. Nó được dùng làm bản lề cho hai phần chính cuốn sách. Trong phần đầu (1,14-8,26), Đức Giê-su tự mạc khải như một kẻ khác thường và huyền bí qua nhiều phép lạ và lời nói đầy quyền uy. Đám đông kinh ngạc và môn đồ không hiểu; họ luôn tự hỏi: “Ông này là ai mà làm được những việc như thế?” (x. Mc 4,41; 1,27; 2,7; 6,2). Tuy nhiên, trong giai đoạn nói đây, Đức Giê-su cố ý giữ bí mật về lai lịch của Người. Sự căng thẳng này được tạm thời nới ra trong lời Phê-rô tuyên tín. Qua trung gian Phê-rô, các môn đồ lần đầu tiên thấy được mầu nhiệm thật sự của Thầy họ: Người là Đấng Mê-si-a. Lời tuyên xưng này kết thúc phần đầu Tin Mừng Mc và làm nên chóp đỉnh của phần đó.

Lời Tuyên Tín của Phê-rô

“Thầy là Đấng Mê-si-a”, Phê-rô đã nói với và nói về Đức Giê-su như thế. “Mê-si-a” trong tiếng Hip-ri hay “Ki-tô” trong tiếng Hy-lạp đều có nghĩa là “người được xức dầu”, người đã nhận được sự xức dầu từng trao ban sức mạnh Thần khí cho vua chúa, ngôn sứ, tư tế của dân được chọn. Từ này đã trở thành tên riêng của Đức Giê-su: Giê-su-Ki-tô là Giê-su Đấng Mê-si-a.

Đối với người Do-thái, từ Mê-si-a này là một cây đàn lý tưởng mà mọi sợi dây của nó đều làm rung lên các niềm kỳ vọng của Ít-ra-en. Nếu muốn đo lường tác động của từ đó, phải đồ đầy nó bằng những nghĩa rất khác nhau, tuy nhiên vẫn liên quan tới hai dữ kiện căn bản: Đấng Mê-si-a là sứ giả của Thiên Chúa, và Người sẽ được sai tới để trước hết cứu tuyển dân rồi cứu mọi dân tộc. Từ đó, một số mơ đến một ông vua hiếu chiến, số khác mơ đến một đại ngôn sứ loan báo công lý và thực thi chính nghĩa. Đối với tất cả, Người sẽ hùng mạnh, khôn ngoan, rất đạo đức, rất gần gũi Thiên Chúa, và là nhà giải phóng theo mọi nghĩa của từ này.

Nhưng không đời nào, tuyệt đối không đời nào người Do-thái lại đã tưởng tượng một Đấng Mê-si-a có thể đau khổ! Như đã nói ở phần dẫn nhập, lời tuyên bố thời danh của Phê-rô nằm tại vị trí trung tâm của cuốn Tin Mừng. Cho đến lúc đó thiên hạ vẫn không ngừng tự hỏi: con người này là ai vậy? Giờ đây, các môn đệ đã biết: Người là Đấng Mê-si-a. Nhưng một câu hỏi mới sắp làm họ đau xót và tràn ngập phần hai của cuốn Tin Mừng: làm sao Đấng Mê-si-a lạ lùng này, vốn sẽ là một nhà giải phóng, một tướng chiến thắng, mà lại có thể chết được?

Đức Giê-su đọc thấy sự không hiểu đó nơi họ. Thành thử họ chưa nên tỏ lộ cho đám đông tước hiệu Mê-si-a quá chất chứa nhiều mộng ước lâu đời ấy: “Người liền cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người”. Vâng, Người là Đấng Mê-si-a; vâng, Người sẽ là Đấng Cứu thế, nhưng chẳng theo ý nghĩ của họ: “Người bắt đầu dạy cho các ông biết Người phải chịu đau khổ nhiều, bị giết chết và sẽ sống lại”.

Lúc này đây, việc sống lại không đánh động họ; có lẽ họ mơ hồ nghĩ tới sự sống lại của mọi người công chính “ngày tận thế”, họ chưa thể quan niệm cuộc Phục sinh tuyệt đối độc nhất vô nhị này, một biến cố sẽ làm rực sáng tất cả vinh quang của Đấng Mê-si-a đích thực. Họ không chịu đựng nổi cú sốc của những từ gây công phẫn đặt bên cạnh Đấng Mê-si-a của họ: đau khổ, tử vong. Phê-rô cuống cuồng lên và bắt đầu trách Người nặng lời.

Ông kéo Đức Giê-su ra một bên như muốn che chở cho Người. Với ít nhiều trịch thượng, ông coi Thầy như yếu hơn ông, và muốn cất khỏi óc Thầy các tư tưởng cuồng điên về cuộc Khổ nạn. Nhưng chính Đức Giê-su đã quay về phía các môn đồ, đồng thời tái lập vị thế (c.33). Không phải Tôn sư theo môn đồ, nhưng môn đồ theo Tôn sư. Đức Giê-su chẳng chấp nhận một điều đình nào cả. Nếu họ chẳng muốn theo Người đến thập giá, thì chỉ còn một việc phải làm: giải tán họ. Phản ứng dứt khoát của Đức Giê-su chứng tỏ có sự bất đồng ý kiến sâu xa. Thật vậy, cuộc Khổ nạn của Người là do Thiên Chúa muốn (và do tình yêu đích thực đòi hỏi). Cố bắt Người tránh thoát tức là đẩy Người bất phục thánh ý Cha, quy tắc duy nhất của Người. Một sự xúi giục như thế chỉ có thể là công việc của Xa-tan, tên đã toan lôi kéo Người theo đường lối đó lúc Người bắt đầu công khai rao giảng (x. Mc 1,12-13; Mt 4,10). Khi hành động như vậy, các môn đồ đã ngăn cản Vương quốc Thiên Chúa đến. Ngoài ra, có lẽ các ông sợ rằng, nếu theo Đức Giê-su, cùng một số phận như thế sẽ chờ các ông. Điều này cũng khiến họ vấp phạm. Phản ứng của Phê-rô để lộ thâm ý của các môn đồ: tư tưởng và ước vọng của các ông đang còn bị các tiêu chuẩn thế gian này làm chủ. Các ông không nghĩ đến những điều thuộc về Thiên Chúa, nhưng đến những điều thuộc loài người, và theo phe Xa-tan. Là môn đồ của Đấng Mê-si-a, các ông lại trở thành phát ngôn nhân cho kẻ thù số một của Thiên Chúa! Thật mâu thuẫn và thê thảm!

Lời Tuyên Tín của Chúng Ta

Đức Giê-su cũng đặt câu hỏi ấy với chúng ta, với mỗi một người trong chúng ta: “Con bảo Thầy là ai nào?” Bài Tin Mừng này là tiếng gọi cá nhân nhất của Đức Giê-su mà chúng ta đã nhận được. Chúng ta chắc sẽ bị cám dỗ thưa lại: Thầy là những gì mà các sử gia và các nhà chú giải Kinh thánh nói với con về Thầy; những gì mà các tiểu thuyết gia và các điện ảnh gia, những người con tiếp xúc và những người con lắng nghe trong các khóa học, nghĩ về Thầy.

Nhưng với bản văn này, Đức Giê-su vượt qua tất cả những gì thiên hạ nói để nhìn tôi trực diện: phần con, con nói gì về Ta?

Như đã lưu ý, câu hỏi đó sắp chia Tin Mừng Mc thành hai: “Đức Giê-su bắt đầu cho các ông biết Người phải chịu nhiều đau khổ”. Cho đến đây, Người đã giảng dạy và chữa bệnh, nghĩ rằng qua đó sẽ hoàn tất sứ vụ của mình. Nhưng chỉ gặp toàn thất bại thôi. Các thủ lãnh tôn giáo, dân chúng, ngay cả các môn đệ đã chẳng hiểu Người là ai và đem gì đến cho họ. Người phải đi một con đường khác: tiến lên Giê-ru-sa-lem, lên thập giá. Từ nay, để biết Người là ai và để theo Người, phải chấp nhận thập giá.

Vậy con bảo Thầy là ai? Một bóng ma ám ảnh hàng thế kỷ? Một quan tòa phải đối chất vào phút chót? Một kỷ niệm xưa cũ êm đềm? Một bảo đảm cho thành công? Một chướng ngại trong sơ yếu lý lịch?... Hay là Đấng đã đau khổ và con phải đau khổ với, là một Đức Mê-si-a kỳ lạ trong đó con phải nhận ra Ngôi Lời vinh quang, kẻ thụ hình không thể chịu nổi và là Đấng phục sinh rất nhiệm mầu? Là Đường, là Chân Lý và là Sự Sống của con, luôn đòi hỏi con làm cho hành vi ngôn ngữ của con mỗi ngày phải phù hợp với những gì Thầy đã sống và đã rao giảng?

Là Đấng mà hàng tỷ con người nam nữ đã và sẽ yêu mến, tuy thế vẫn là Đức Giê-su độc nhất vô nhị của riêng con, mang một nét đặc biệt đối với con suốt cả cuộc đời? Là Đấng con không chỉ nhìn nhận như một vĩ nhân, một ngôn sứ của Thiên Chúa, cũng không chỉ noi gương để sống bác ái huynh đệ, song được con tuyên xưng như Nguồn mạc khải toàn bích, Đấng cứu rỗi duy nhất của nhân loại qua cuộc sống và cuộc tử nạn-phục sinh của Thầy?                    

Để đi đến cùng đích đời mình và hoàn thành sứ mệnh, Thầy đã phải từ bỏ ý muốn riêng tư (8,33), thành quả công việc, sự ủng hộ và dư luận tốt của quần chúng (cc.28-29), thậm chí cả mạng sống mình (c.31), nghĩa là đã phải từ bỏ tất cả để được Đấng là Tất Cả. Vậy con có muốn chấp nhận con đường dẫn tới sự sống thật, hạnh phúc thật như thế không? Sẽ đau khổ lắm đấy. Nhưng theo Thầy là phải vậy!

“Ai muốn theo tôi, phải vác thập giá mình mà theo”. Ở dưới thế, chúng ta sẽ chẳng có thể cất đi mầu nhiệm sự đau khổ không thể tránh này. Chúng ta chỉ có thể tín nhiệm vào Thiên Chúa, sự tín nhiệm khó khăn nhất: chờ đợi ngày chúng ta rốt cục sẽ biết tại sao Chúa Cha yêu thương đã không thể ban tặng cho Con của Người cũng như cho chúng ta một cuộc sống thiếu thập giá.

Một bà nọ có ông chồng rất khó tính. Bà luôn than thở: “Chúa ơi, thập giá Chúa giao cho con nặng quá, vác không nổi.” Càng già, ông chồng càng khó tính hơn. Một hôm, bà cầu nguyện: “Xin Chúa làm ơn cho con đổi một cây thập giá khác.” Thế là tối ấy, bà chiêm bao thấy mình đang vác thập giá lên đồi Gôn-gô-ta. Tới nơi, bà thấy thập giá nhiều vô kể: lớn có, nhỏ có, bằng gỗ có, bằng sắt có, bằng gai có, bằng lá có, bằng bạc có, bằng vàng cũng có, không thiếu hình thức nào, chất liệu nào... Mừng quá, bà tự nhủ: “Mình sẽ chọn cây thập giá vừa ý nhất để mang.” Bỏ thập giá của mình xuống một bên, bà bắt đầu lựa. Thấy cây thập giá bằng lá thật nhẹ, bà gật gù: “Mình già rồi, vác thập giá bằng gỗ hay bằng sắt kể ra cũng hơi quá sức. Cái này chỉ bằng lá thôi, vác là vừa!” Thế là bà kê vai vào để vác, không ngờ trong lá có gai, bà hoảng hồn thả xuống: “Chúa ôi, không được. Thập giá này tuy nhẹ, nhưng lại có gai, con không vác nổi. Cho con chọn một cây khác.” Thấy một thập giá vừa nhỏ, vừa đẹp, bằng vàng sáng rực, bà thích quá. Chẳng những nó gọn gàng, nhẹ nhàng, mà lại bằng vàng, túng thiếu chắc bán cũng được bạc vạn. Bà quyết định lấy thập giá đó. Nhưng khi vừa sờ tới, bà thốt lên: “Chúa ôi! Không ngờ nó lại là thập giá lửa, rờ vào không được”. Thế là bà buông ra. Bà lựa cây này, lấy cây khác, chọn cây nọ. Chẳng có cây nào vừa ý. Cuối cùng, bà lựa được một cây. Bà vui mừng vác nó, bụng nghĩ thầm: “Cây này rất vừa với mình, sao nãy giờ mình lại không để ý tới nó?” Bà nói: “Lạy Chúa, cho con cây này!” Chúa bảo: “Được, con cứ vác đi!” Mới đi mấy bước, bà kêu lên: “Ủa, đây là cây thập giá của mình mà! Vác nó đã mười mấy năm rồi, lúc nãy mình mới bỏ xuống, bây giờ lại vác nhằm nó nữa!” Thế là bà đứng dậy: “Lạy Chúa, xin tha thứ cho con! Thập giá mà Chúa ban cho con là tốt nhất, con không thể lựa cây nào khác hơn được nữa.”

Lm. Phêrô Phan Văn Lợi

---------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây