Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 5-C Bài 101-150 Một mẻ cá lạ lùng
--------------------- Phúc Âm: Lc 5, 1-11: "Các ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người".
“Thưa ông, thưa bà muốn gặp ai ạ ?”. Đó là câu nói mà Chị Céline phải lặp đi lặp lại mỗi ngày khoảng 10 lần và cứ thế suốt ròng rã trong 40 năm trường khi Chị coi giữ phòng khách của nhà dòng để đi gọi người khác. Biết bao nhiêu khuôn mặt đã xuất hiện, biết bao nhiêu giọng nói đã vang lên, nhưng Chị biết rõ một điều là người ta đến nhờ Chị để xin gặp một người khác. Do đó, một ngày của Chị bị cắt vụn thành những miếng, công việc của Chị bị chẻ thành từng mảnh, nghĩa là luôn luôn bị gián đoạn, không khi nào được yêu thân lâu. Nhưng sự gián đoạn của Chị là sự liên lạc của người khác. Và rồi một hôm, trong lúc vội vã đi gọi, Chị Céline đã ngã quỵ nơi hành lang và thổ huyết. Chị qua đời, nhưng đôi tay của Chị vẫn giữ chùm chìa khóa như bảo chứng của ơn gọi. Chị Céline đã suốt đời trung thành với tiếng gọi của Chúa và với công việc bổn phận hằng ngày của mình là: được gọi để gọi người khác. Giá trị và sự cao cả của Chị là ở chỗ đó.
Và đó cũng lã ý tưởng chủ yếu của bài Phúc âm hôm nay. Bốn môn đệ đầu tiên được Chúa gọi bằng việc chứng kiến một mẻ cá lạ, rồi các ông tin phục và bỏ mọi sự mà đi theo Chúa với một mục đích là được Chúa huấn luyện để trở thành những kẻ sau này đi chài lưới người về cho Chúa. Như thế, rõ ràng các ông được Chúa gọi không phải đi theo Chúa để hầu hạ Ngài hay làm quan này chức nọ, nhưng để các ông đi gọi để kẻ khác về với Chúa.
Ngày nay, tuy không được Chúa gọi trực tiếp, công khai như các môn đệ ngày xưa, nhưng chúng ta vẫn được Chúa gọi cách gián tiếp qua trung gian để đi gọi kẻ khác về cho Chúa. Chỉ khác một điều là cách thức chinh phục các linh hồn có thể không giống nhau vì tùy theo khả năng, hoàn cảnh và địa vị riêng. Chính vì sự khác nhau này mà mỗi người chúng ta cần phải lưu tâm đến hai yếu tố quan trọng sau đây:
Trước hết, đã là Kitô hữu thì bất cứ ai cũng đều phải chấp hành nghiêm chỉnh sứ mạng mà Chúa giao phó là ra sức chinh phục các linh hồn về cho Chúa. Đây là lệnh truyền của ơn gọi vì nó gắn liền với bản chất của những ai muốn làm môn đệ Chúa, của những ai mang danh công giáo đích thực. Nghĩa là được gọi làm con cái Chúa chỉ có thể xứng đáng và đúng nghĩa khi biết đi gọi người khác trở thành như mình. Nhưng hãy coi chừng vì chúng ta không được phép chinh phục người khác cho mình mà là cho Chúa, không phải để thống trị họ mà là phục vụ giúp đỡ họ, không vì tư lợi mà là hoàn toàn bác ái vị tha. Do đó, trong việc làm tông đồ đúng nghĩa thì chúng ta chỉ là kẻ môi giới, trung gian, dẫn đường cho người khác đến với Chúa, nhưng nếu chúng ta lấy mình làm đích điểm cho việc truyền giáo thì chẳng những không đưa được ai trở lại đạo mà chính bản thân mình lại lạc đạo.
Thứ đến, việc được gọi làm con Chúa để đi gọi người khác về cho Chúa là một trách nhiệm mà mọi người phải chu toàn. Nhưng nếu vì lười biếng, khinh thường không cố gắng hoàn tất bổn phận quan trọng đó mà Chúa giao phó đã là lỗi nặng, huống chi khi sống bất xứng, làm gương mù gương xấu khiến nhiều người ngoài chê cười đạo, xa lánh đạo thì tai hại biết chừng nào ! Bởi vì, Giáo Hội được ví như một mắt lưới chài cá, mà mỗi Kitô hữu giống như một mắt lưới. Giả sử mô mắt lưới đứt thì bao nhiêu cá theo đó mà lọt ra ngoài. Cũng thế, một tín hữu xấu làm nhiều người vì đó mà không tin vào đạo nữa; một người công giáo sống bất xứng không làm cho Giáo Hội xấu, nhưng lại làm nhiều người nghĩ xấu về đạo.
Tóm lại, được gọi để gọi là mục đích của việc chinh phục người ngoài về cho Chúa chứ không phải cho mình. Và phương cách chinh phục không thể bằng mưu mô xả quyệt, thủ đoạn lừa đảo, mua chuộc hay áp lực vì những thứ đó là trò của ma quỉ, nhưng bằng sự hấp lực của một đời sống thánh thiện gương mẫu.
Một hôm, Đức Giê-su đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa. Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-môn, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy dân chúng.
Giảng xong, Người bảo ông Si-môn: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Ông Si-môn đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm.
Thấy vậy, ông Si-môn Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Si-môn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an, bạn chài với ông Si-môn, cũng kinh ngạc như vậy. Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”. Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.
. Dẫn giải
Nếu năm bạn trẻ chúng ta làm quen hôm qua phấn khởi và hào hứng thế nào thì anh bạn Phê-rô và có lẽ cả các bạn bè của anh hôm nay lại “ỉu xìu” và tầm thường tới mức đáng thất vọng.
Sáng hôm ấy, tại bờ hồ Ghen-nê-xa-rét ở Ga-li-lê, mặt trời đã lên cao, dân chúng đang chen lấn nhau rất đông. Tưởng là họ tụ tập để đón các thuyền đánh cá xa bờ trở về. Nhưng kì thực không phải. Hay nếu có thì đó chỉ là lí do ban đầu. Sau khi biết các thuyền trở về với khoang trống, người ta đã lập tức đổ dồn sang một hướng khác. Lần đầu tiên, làng chài hèn kèm của họ được một vị ngôn sứ nổi tiếng đến thăm và giảng đạo. Các tay chài đã thất vọng vì đánh cá hụt, càng thất vọng hơn trước nhân tình thế thái: thường ngày khi thuyền họ chở đầy cá về thì hết người nịnh nọt tới kẻ chiều chuộng để mua cho được cá; còn hôm nay khi họ tay trắng trở về, không có lấy một người nào hỏi han để an ủi và động viên họ. Họ cũng đâm ra bực lây cả vị ngôn sứ nổi tiếng kia. Si-môn và các bạn nhanh tay neo thuyền vào bến, giặt lưới, rồi vội vàng quay về: lúc này vào giường ngủ là thượng sách!
Nào ngờ, Đức Giê-su lại chọn ngay thuyền của Si-môn, xin ông cho mượn để ngồi giảng đạo và xin ông chèo ra xa một chút để dễ nói với dân chúng. Miệng lẩm bẩm: “Thế là lại mất một buổi sáng và … mất luôn cả giấc ngủ!”. Si-môn vừa ngáp dài vừa ngồi bó gối ở cuối thuyền chờ Đức Giê-su giảng xong. Ông hí hửng định chèo thuyền vào bờ khi thấy Đức Giêsu kết thúc bài giảng. Nhưng lại một lần nữa, Ngài đề nghị ông chèo thuyền ra xa hơn không phải để giảng mà là để ….đánh cá. Thế này thì thật quá đáng! Trước mặt bàn dân thiên hạ mà Ngài chẳng nể nang ông: gián tiếp nhắc lại vết thương lòng của ông là đã đánh cá thất bại cả đêm qua, trực tiếp dạy khôn ông về việc săn bắt cá - một người làm nông cả đời bám chặt đất liền lại dám chỉ vẽ chuyện sông nước cho tay chài chuyên nghiệp!
Nhưng vừa nể Ngài đang được dân chúng ái mộ, vừa muốn chứng tỏ sự thất bại của mình là có lí nếu lần này ông cũng chẳng bắt được gì, Si-môn chèo ra chỗ nước sâu. Có ngờ đâu, chỉ trong nháy mắt, tay ông đã buông thõng xuống vì cá vào lưới quá nhiều. Ông vội vàng hô to gọi các bạn chài ở thuyền khác đến tiếp sức. Cả đám thanh niên vạm vỡ mới kéo nổi lưới lên thuyền: không phải vài con cá lòng tong, mà cả hai thuyền đầy những con cá to bằng bàn chân người và còn lớn hơn thế nữa.
Đến lúc này, Si-môn mới thấy xấu hổ vì đã có những cử chỉ, lời nói và ý nghĩ không tốt về Đức Giê-su. Không riêng gì ông, mà cả đám bạn như Gia-cô-bê và Gio-an cũng lặng người đi vì ngạc nhiên: Giê-su chẳng những không phải là tay mơ về sông nước, mà hình như còn là chủ nhân của sông nước nữa! Bây giờ, cả đám không còn dám huênh hoang to tiếng nữa, mà chỉ biết lặng lẽ làm những gì Ngài nói. Họ đưa thuyền vào bờ và đi theo Ngài.
Thật ra, sự chán nản tới mức chỉ muốn bỏ việc và quay về nhà ngủ nghỉ - sự an phận thủ thường của Si-môn và bạn bè ông rất dễ hiểu và rất dễ thông cảm. Có ai không buồn bã thất vọng khi đã chuẩn bị tất cả, từ lương thực cho người tới mồi cho cá, từ thuyền bè tới lưới cá, từ sự hồ hởi phấn chấn trong tâm hồn tới sự khoẻ khoắn chắc chắn trong thân xác, mà rốt cuộc chẳng làm được gì, ngoài khoang thuyền trống hoác!
Rồi khi đã có cá, nhiều nữa là khác, đủ hái ra tiền tiêu cả mấy tháng, ai dại gì ra khơi một lần nữa. Cám ơn Đức Giê-su rối rít, xin lỗi Ngài tới tấp, nếu cần đãi Ngài mấy bữa ăn liền, là đủ. Nếu sáng nay cả bọn chỉ muốn yên thân trong giấc điệp là vì hoàn cảnh bắt phải chịu vậy, thì bây giờ cả đám sẵn sàng an phận vì đã được toại nguyện. Dù có là thanh niên trai tráng, ai cũng muốn có lúc dừng tay chèo, dừng chân bước để hưởng thụ, để nghỉ ngơi.
Chỉ tiếc đó cũng chính là sai lầm của ông và các bạn ông. Câu nói của Đức Giê-su: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” không chỉ là một lời mách nước cho người đánh cá, mà là bí quyết cho mọi thành công trong cuộc đời. Si-môn thất bại trong lần đánh cá đêm qua, có thể không phải vì chưa ra khơi tính theo cây số biển, mà là chưa ra khơi tính theo thước đo của sự quyết tâm trong lòng: tuy đã ra khơi, nhưng mới thử vài keo đã bỏ cuộc. Sau khi đánh được mẻ cá lớn chưa từng thấy, ông lại tính tới chuyện không “ra khơi” nữa. Ông chỉ nghĩ tới việc loay hoay trong xó nhà hay cùng lắm, hì hục trên sông nước, kiếm cá, mua bán, sắm sửa và…chơi. Một lần nữa, Đức Giê-su cho biết Ngài giúp ông bắt được cá không phải chỉ để như thế thôi, mà để ông nghĩ đến một số phận mới, một chân trời mới và một kiếp sống khác: đó chính là không chỉ nghĩ cho mình và gia đình mình, mà còn phải nghĩ tới những người khác, không chỉ nghĩ đến chuyện mưu sinh, mà còn phải nghĩ đến chuyện hạnh phúc đời đời… Vẫn biết mỗi lần “ra khơi” như thế là mỗi lần phải đương đầu với những thử thách và bất ngờ, nhưng tục ngữ Việt Nam có câu: “Không vào hang, làm sao bắt được cọp!”. Nhất là nếu những lần “ra khơi” ấy là những lần ra khơi do Chúa đề nghị và có Chúa đi cùng – những lần ra khơi cao đẹp và ý nghĩa!
Tuổi trẻ hiếu kì tọc mạch, tuổi trẻ hăng hái xông pha. Nhưng tuổi trẻ cũng rất mau nản chí, mau thất vọng và sớm hưởng thụ, cầu an. Thử hỏi nếu Đức Giê-su không đến khuấy động cuộc đời Si-môn và bạn bè ông, thì cuộc đời họ và cuộc đời nhiều người đã ra sao? Thử hỏi nếu các ông không chấp nhận cùng với Đức Giê-su ra khơi, thì cuộc đời họ và cuộc đời nhiều người đã thế nào?
. Gợi ý để suy nghĩ thêm
Hiện nay, tôi thấy mình đang ở trong tình trạng nào: chán nản thất vọng? buông xuôi để mặc? ích kỉ và lười biếng thụ hưởng? lao đầu vào những việc không đâu? phấn đấu để thực hiện những điều tốt?
Có bao giờ tôi dám tiến lên thực hiện những điều tốt không: chẳng bao giờ, vì sợ bị thiệt hại? chỉ một đôi lần, chứ không dám hơn? chỉ khi nào nắm vững mọi sự trong tay? sẵn sàng nếu thấy Chúa ra hiệu, dù có thể bị thương tích hay thậm chí bị ngã?
Bản văn đóng khung ở dưới đây sẽ cho thấy: việc kêu gọi Simon là đối tượng của một sự chuyển vị. Thực vậy, đối với Luca lời kêu gọi này giả thiết Chúa Giêsu và Simon đã quen biết nhau; lời đáp của Simon sẽ dễ hiểu hơn khi ông biết Chúa Giêsu như một người giảng dạy và chữa bệnh cách lạ lùng.
Lc 5,1-11 không đơn giản, vì nó không chỉ vay mượn ở cảnh kêu gọi các môn đệ trong Mc 1,16-20. Lúc đầu, vì quá đông dân chúng, Chúa Giêsu phải lên một chiếc thuyền để giảng dạy, đó là cảnh ở Mc 4,1-2. Nhưng đặc biệt, bản văn này kết hợp trình thuật về mẻ lưới lạ đến từ truyền thống và cụng thấy việc đánh cá trong cả hai trường hợp đều ám chỉ sứ mệnh của Giáo Hội. Việc gắn liền phép lạ này vào trình thuật kêu gọi môn đệ không có mục đích cung cấp cho Simon một dấu hiệu mới về quyền năng của Chúa Giêsu, nhưng trước hết phép lạ đó làm cho kẻ đánh lưới cá trở thành kẻ đánh lưới người. Như vậy, toàn bộ trình thuật được cấu trúc trên ẩn dụ này.
Việc đặt vị trí cho câu chuyện (c. 1-3), việc giảng dạy của Đức Giêsu – mà Luca có ý nhấn mạnh nhiều – bị cản trở do chính thành công của mình = đám đông chen lấn Người để nghe lời Thiên Chúa – Lời Thiên Chúa mà về sau Phêrô và nhóm Mười Hai cũng sẽ không bỏ quên được (Cv 6,2). Hai chiếc thuyền và đoàn thủy thủ đang sẵn sàng – nếu họ giặt lưới là vì công việc đã xong. Hơn nữa, Chúa Giêsu và Simon đã biết nhau. Chiếc thuyền của ông không chỉ giúp cho Thầy tách ra khỏ đám đông và tiếp tục việc giảng dạy một cách thỏa đáng hơn.
Vì liền sau đó, Chúa Giêsu bảo Simon đưa thuyền ra chỗ nước sâu và, cùng với cả đoàn ngư phủ thả lưới (c. 4-7). Đã từng trải trong nghề, ông chủ thuyền bực bội trước lệnh của một người sống ở nông thôn và trước một kết quả hết sức là bấp bênh. Tuy nhiên, nếu ông thả lưới, không phải vì ông thử bắt cá – bởi lẽ ông đã vất vả suốt đêm và đã thất bại – mà vì muốn vâng theo một lời nói mà ông đã có kinh nghiệm về hiệu quả. Mà, trong trường hợp này, hiệu quả còn ở điểm hẹn: hiệu quả vượt hẳn qua sức chứa của những chiếc lưới của Simon đến nỗi sắp rách. Không thể rách lưới được, vì bằng một dấu hiệu ngầm, đoàn ngư phủ khác đã đến giúp: như vậy chiếc thuyền thứ hai nêu rõ sự vĩ đại của phép lạ. Nhưng Luca còn nhấn mạnh thêm đến hiệu quả của Lời Chúa Giêsu: dưới sức nặng của mẻ cá bắt được: hai chiếc thuyền suýt gần như chìm.
Với các câu 8-11, mọi chú ý đều hướng về Simon Phêrô, bằng cách ghép hai tên mà Chúa Giêsu đặt người đứng đầu nhóm Mười Hai (6,14). Thấy phép lạ, Simon cùng có một phản ứng như Isaia (Is 6,5-6): một con người, tất nhiên là tội nhân, không thể sống được khi tiếp cận với quyền năng thần linh của Thiên Chúa. Sự kinh hãi thánh thiêng chiếm ngự cả các bạn đồng nghiệp của Phêrô. Để làm nổi vai trò của Phêrô, mãi đến bây giờ Luca mới nhắc đến Giacôbê và Gioan, Anrê được nói đến ở Mc 1,16 với ba vị khác, ở đây bị bỏ qua – như ở 4,38. Chính vì Luca đặt nổi bộ ba Phêrô, Gioan và Giacôbê, sẽ là những nhân chứng về hai dấu chỉ của quyền năng thần linh khác nữa (8,51; 9,28).
Nhưng trở ngại mà Phêrô đặt ra đã được giải tỏa: cũng giống như các sứ giả thần linh trong các cảnh mặc khải (x. 1,13-30; 2,10). Chúa Giêsu vượt qua khoảng cách khi bảo Phêrô đừng sợ. Rồi, không gọi rõ tên Simon như đã xảy ra cho ông và anh của ông ở Mc 1,17, Chúa Giêsu chỉ nói lên một lời hứa cho mình ông thôi. Luca viết lại lời hứa này để giải tỏa ẩn dụ của việc đánh cá khỏi khía cạnh tiêu cực của nó – những con cá chết – và nhắc tới việc phán xét của Chúa (Gr 16,16): “Từ nay, anh sẽ là kẻ cứu sống người ta”. Động từ mà Luca chọn có nghĩa đen là “bắt sống”. Bởi đó chúng ta hiểu mẻ lưới lạ tiên báo lời rao giảng Kitô giáo có mục đích quy tụ những con người lại – hình ảnh chiếc lưới bắt cá – để họ được sống. Cũng có những tiếng “từ nay” – một diễn ngữ quen thuộc của Luca (xem trong kinh Mangificat 1,48), mở ra giai đoạn mới của ơn cứu độ. Thời tương lai được mở ra bởi câu 10, đó là hiện tại của Giáo Hội đã bắt đầu từ ngày ấy.
Simon Phêrô không chỉ là phát ngôn viên của nhóm người quy tụ xung quanh Chúa Giêsu (Lc 9,20); ông sẽ còn giữ một nhiệm vụ tương tự trong cộng đoàn đầu tiên ở Giêrusalem sau Phục Sinh (Cv 1,15). Nhất là ông sẽ rao giảng lời Chúa, như vậy là thả một mẻ lưới lớn quy tụ nhiều người để họ được sống (Cv 2,14-41).
Chúa Giêsu không có một lời kêu gọi nào cho các bạn đồng nghiệp của Simon; phép lạ và lời Chúa nói với Simon đã là một tiếng gọi và tất cả sẽ theo Người. Được mượn ở ngôn ngữ của các Kinh sư, thuật ngữ này chỉ điều kiện của người môn đệ chấp nhận đi theo bước chân của Thần mình (x. Lc 5,27-28). Sau cùng, một nét đặc trưng nữa của Luca; những môn đệ mới bỏ tất cả, không chỉ bỏ lưới như ở Mc 1,18. Theo Chúa Giêsu, đó làm một chọn lựa triệt để.
Một lần nữa, chúng ta lại sắp được thấy Luca vẽ nên bức tranh này một cách rất tài tình. Khi đặt việc Đức Giêsu kêu gọi những môn đệ đầu tiên trong bối cảnh một mẻ lưới lạ lùng, mà ta sẽ gặp lại Phúc âm Gioan 21, 1-11, Luca có ý lấy Simon-Phêrô làm một nguyên mẫu, và dùng chiếc thuyền làm biểu tượng Giáo Hội truyền giáo.
Theo Phúc âm Máccô và Matthêu, hành động đầu tiên của Đức Giêsu khi thi hành sứ vụ là kêu gọi các môn đệ. Còn trong Phúc âm Luca, đầu tiên Đức Giêsu lại được giới thiệu xuất hiện một mình đứng trước đám đông, rồi chỉ sau đó Người mới kêu gọi các môn đệ.
+ Trước tiên là "Simon", chủ chiếc thuyền mà lát nữa Đức Giêsu sẽ ngồi vào vị trí của ông. Chỉ trong có ít dòng mà tên ông được nói tới năm lần, trong đó có một lần và là lần đầu tiên ông được gọi là Simon-Phêrô Lúc này ông là târn điểm của bài tường thuật, mà cũng sẽ là tâm điểm trong Phúc âm của Luca nữa.
+ Rồi đến "hai con ông Zêbêđê là Giacôbê và Gioan, bạn chài với ông Simon"
+ Cả ba ông, được kêu gọi trước tiên, sẽ là những chứng nhân đặc tuyển được chứng kiến việc hồi sinh cho con gái ông Giai-rô, việc Chúa biến hình sáng láng trên núi Taborê (Lc.9,28).
- Khung cảnh là "ven bờ Biển hồ Ghennêxarét": Đức Giêsu giảng dạy bên bờ hồ, bao quanh người là đông đảo dân chúng chen lấn nhau "để nghe lời Thiên Chúa ". Có hai chiếc thuyền đậu gần đó. Còn "những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới", sau khi đã đi đánh cá trở về.
R. Meynet nhận xét: "Đức Giêsu giảng dạy bên bờ hồ, bao quanh Người là đông đảo dân chúng chen lấn nhau. Trong khi đó, những người dân chài đang lo toan công việc thường ngày của họ: họ đang giặt lưới. Đám đông có đó, nhưng họ lại không tham dự cùng với đám đông. Đám đông lắng nghe lời Chúa, còn họ đang lao dộng" (Lévangile se lon saint Luc. Phân tích tu từ ", tập 2 trg 70).
2. Trở thành toà giảng
Bỗng dưng mọi sự bắt đầu đảo lộn. Đức Giêsu xuống một chiếc thuyền, "thuyền đó của ông Simon và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút ".
Thế là từ đây hai người, Đức Gìêsu và ông Simon, là những kẻ "đồng hội đồng thuyền" dấn thân vào cùng một cuộc phiêu lưu: Simon, người dân chài của Biển hồ sát cánh liền kề với Đức Giêsu, người đang "ngồi" trong tư thế của một vị tôn sư dạy dỗ các môn sinh của mình, để ngỏ lời với đám đông. "Con thuyền của Phêrô đã trở thành tòa để giảng dạy" (Sđd).
3….và cũng là biểu tượng Giáo Hội truyền giáo.
“Hãy chèo ra chỗ nước sâu, mà thả lưới bắt cá”, giờ đây Đức Giêsu lệnh cho ông Phêrô như vậy. "bắt cá", chuyện đó các ông đã vất vả "suốt đêm rồi mà không bắt được gì cả”dù rằng đêm tối vẫn là thời điểm thích hợp nhất cho việc đánh cá. Vậy mà, đang lúc các bạn chài người Nadarét của ông từ chối đề nghị kia của Đức Giêsu, thì Simon lại đầu hàng trước lệnh của người dân quê miền đồi núi ấy vốn không biết gì về chuyện chài lưới cả, ông đáp: “Thưa Thầy, dựa vào lời Thầy tôi sẽ thả lưới".
- Lời của Đức Giêsu tỏ ra rất hữu hiệu, vì mẻ lưới bắt được rất nhiều cá, đến nỗi lưới hầu như bị rách; họ phải "làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp", dẫu sao hai thuyền đều đầy cá đến gần chìm.
- Đối với người dân chài chân chất kia, chẳng có gì phải nghi ngờ nữa: trong Đức Giêsu Nadarét này, đúng là Thiên Chúa đã đột nhập vào đời sống của Người. Thế là ông liền quỳ gối sấp mặt dưới chân Người hành khách trên thuyền của mình như sấp mặt trước Đức Chúa" vậy. Con người ông giờ đây bỗng dưng giống như Isaia xưa khi được thị kiến ở trong Đền Thờ (bài đọc thứ nhất), đang ý thức được khoảng cách tách biệt ông với Đấng, mà như ông thấy, đang thực hiện những việc lạ lùng trong con thuyền của ông: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi".
- Câu trả lời Simon nhận được từ Đức Giêsu sẽ đánh dấu một khúc quanh quyết định cho cuộc đời của ông: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ bắt người như bắt cá".
+ "Đừng sợ ": kiểu nói thường đi theo sau mọi loan báo quan trọng trong Kinh thánh: loan báo cho Apraham trong sách Sáng thế 15, 1; loan báo cho Zacaria trong Luca 1,13; loan báo cho Đức Maria trong Luca 1,30.
+ "Từ nay" cuộc đời của Simon, vị quan thầy-ngư dân bắt đầu mở sang trang mới. Cuộc đời của ông xoay chiều đổi hướng để hướng đến một bến bờ khác.
+ "Từ nay": một giai đoạn mới của chương trình cứu độ, giai đoạn truyền giáo, được mở ra ngay tức thì.
+ "Anh sẽ bắt người": sát nghĩa là: anh sẽ bắt những con người sống, có nghĩa là anh sẽ giựt lên những con người đang sống, anh sẽ kéo họ ra khỏi thế lực của sự ác để bảo đảm cho họ được sống an lành. Là "ngư dân", Simọn-Phêrô vẫn sẽ giữ nghề đánh cá, nhưng cái nghề đi tìm cá ban đêm của ông, một khi thay đổi đối tượng, thì cũng sẽ thay đổi ý nghĩa.
"Từ nay", sứ mệnh của ông sẽ là lôi kéo người ta ra khỏi vòng kiềm tỏa của sự ác và cái chết, mà thời đó người ta vốn dùng hình ảnh biểu tượng là chỗ nước sâu, để đưa họ đến cõi sống nên R. Meynet có thể viết: "Mẻ lưới lạ lùng hôm nay chỉ là hình ảnh báo trước mẻ lưới lạ lùng đích thực. Giống như mẻ lưới lạ lùng xưa, mẻ lưới lạ lùng đích thực cũng sẽ diễn ra dựa vào Lời của Đức Giêsu" (Sđd, tr.68).
- Thế rồi, sau khi đã đưa thuyền vào bờ, Simon-Phêrô, Giacôbê và Gioan "bỏ hết mọi sự mà theo Đức Giêsu" để dấn thân vào con đường mà theo kiểu nói của Ph. Bossuyt và J. Radermakers sẽ là một cuộc thả lưới lâu dài nhất và phi thường nhất trong cả cuộc đời của các ông ("Đức Giêsu, Lời ban ân sủng theo thánh Luca” tr. 183).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. “Tin là dám liều”
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Đức Giêsu kêu gọi ông Phêrô. Chúa xuống thuyền của ông; Người đi vào đời ông. Đúng là sáng kiến từ phía Chúa. Mà điều Chúa yêu cầu Phêrô làm cũng không có chi là hoàn toàn mới lạ cả. Người đòi Phêrô hành nghề của ông. Phêrô làm nghề đánh cá. Nghề này thì ông rành quá rồi; ông biết phải đánh bắt khi nào, đánh bắt ở đâu. Nên ông chẳng sợ hãi gì khi phải thưa với Chúa rằng ông gặp ngày không hên thôi. Dựa vào sự hiểu biết và tay nghề của mình, Phêrô thành thực nói cho Thầy biết rằng điều Thầy yêu cầu là hoàn toàn sai lầm. Vậy mà điều Chúa yêu cầu ông thực hiện lại là điều mới lạ: tin cậy vào lời của Người. Và thế là Phêrô, dù bụng dạ chẳng vững chút nào, ông vẫn mạnh dạn thả lưới" Chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả, Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới. Phêrô dám đặt cọc vào sự tin tưởng hơn cả uy tín của mình. Và cá đang ở điểm hẹn.Vai trò chủ động của con người trước sáng kiến của Chúa được Phúc âm mô tả như vậy đó. Nó hệ tại ở một lòng tin tưởng. Lòng tin tưởng ấy không phải là thái độ thụ động, mà đôi khi là sự anh hùng và luôn luôn là sự dám liều táo bạo. Lòng tin tưởng thường là một thái độ tình nguyện can đảm nhất, bởi lẽ lòng tin tưởng không bị ai chỉ huy nhưng là một sự tặng ban, một hành vi tự do.
2. "Một bài tường thuật lúc nào cũng có tính thời sự"
Nếu bài tường thuật của Luca, chỉ là kể lại một phép lạ tỏ tường, thì chúng ta chỉ cần vỗ tay ca ngợi, và bày tỏ vẻ ngỡ ngàng cùng cảm tạ Chúa vì quyền năng của Người đã được biểu lộ ra trong Đấng Mêsia của Người, thiết tưởng cũng đủ rồi. Nhưng còn hơn một phép lạ nữa."Mẻ lưới lạ lùng" chính là một ẩn dụ mà mỗi chi tiết của câu chuyện đều quy chiếu về một thực tại thiêng liêng", và mỗi nét biểu hiện đều đòi hỏi phải được cắt nghĩa bằng biểu tượng". Không chỉ là một cú ngoạn mục diễn ra trên Biển hồ Ghennêxarét cách đây gần hai ngàn năm mà thôi, mà chính là một vấn đề lúc nào cũng mang tính thời sự.
Ở thế kỷ XX hôm nay cũng như ở thế kỷ đầu, Đức Kitô vẫn luôn bồn chồn đi lại dọc theo các bờ sông, bờ biển và các nẻo đường của chúng ta. Người hòa mình với dân chúng, đi vào các nhà, năng lui tới các nơi làm việc hay các khu vui chơi giải trí. Gặp lúc thuận tiện hay không thuận tiện, Đấng Mêsia vẫn không mệt mỏi loan báo, đề nghị Tin Mừng kêu gọi sám hối, Tin Mừng chữa lành, Tin Mừng giải thoát. Như thời ngôn sứ Isaia, Người là Thiên Chúa làm cho những người mắc bệnh cùi dơ bẩn được lành sạch. Người tha thứ tội lỗi và muốn cho những người hối cải đáp ứng lời người kêu gọi và tự nguyện hiến thân phục vụ Người.
Hôm nay vị Tôn sư ấy vẫn còn gặp gỡ "những ngư phủ" do ơn gọi, có năng lực, giầu kinh nghiệm và đảm đang; họ đã neo thuyền không người của họ ở bến an toàn. Họ đã được huấn luyện rất sâu và kỹ, đã theo những lớp đào tạo lại, đã phác thảo một cách ý thức và thông minh những chương trình và kế hoạch, đã chọn nơi và những hoàn cảnh thuận lợi. Họ đã trở về tay không và chán nản; lưới chẳng dính lấy được một con tép; trái tim họ bị đâm xiên và lòng trí thật ê chề.
Nhưng con thuyền của Phêrô không thể cứ trú ẩn mãi ở cảng, cũng chẳng được bỏ neo an toàn ở một vùng vịnh thanh bình không còn sợ gì nguy hiểm. Cùng với Chúa và theo lệnh Người, Giáo hội phải ra khơi, bất chấp những hiểm nguy của miền nước sâu gợi lên bao loài thủy quái cùng những hang sâu vực thẳm là vương quốc của những hung thần, của Satan và sự chết.
Không thể nào đánh cá được, những chuyên viên từng tuyên bố và lặp đi lặp lại như vậy. Còn các vị "quân tử gàn" mà lòng tin đã què quặt, nỗi sợ đã làm họ tê liệt và phần họ lại chỉ muốn được an thân thì tuyên bố: thật là sự điên rồ giết người, là sự thiếu khôn ngoan và lệch lạc, là muôn vàn khó khăn nguy hiểm không sao tính được.
Nhưng ta phải tin tưởng vào Thầy chứ.
Phêrô, các bạn đường của ông và các cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi cuối cùng đều đã hiểu rõ lời kêu gọi của Đấng Phục-sinh là phải rời bỏ cái nôi của buổi ấu thơ đã được những truyền thống và luật lệ lỗi thời và trì trệ bao kín. Với sự can đảm, nếu không muốn nói là anh hùng, họ đã cất đi những hàng rào bao quanh khu vực khép kín của họ để liều lĩnh đi vào miền đất dân ngoại, đối đầu với thế gian, bất chấp những cám dỗ bị lây nhiễm, bị hiểu lầm, phải thất bại hay phải chết vì đạo.
Hôm nay đức tin vẫn đủ để đương đầu với những khu vực nguy hiểm, dám đối thoại, mở toang những cánh cửa vẫn đóng kín, từ bỏ lối độc quyền cao ngạo về chân lý, về độc quyền rao giảng Tin Mừng và sự thánh thiện. Hãy tách những con thuyền của các bạn ra! Hãy ra xa bờ! Hãy tiến ra khơi và thả lưới ngay nơi mà bạn đã vất vả và thất bại ê chề!
Tuy nhiên, ẩn dụ về mẻ lưới không phải là một công cuộc đi chinh phục để chiếm đất đai, hay quyền lợi hoặc bổng lộc. Không phải là vấn đề lôi kéo những con cá ra khỏi thiên đường của chúng, để cắt xẻ thịt nó, mà ăn cho thỏa, hoặc đem đi buôn bán. Những kẻ đánh bắt người như bắt cá phải là những con người cứu nhân độ thế, những người giải phóng nô lệ và tù nhân khỏi bóng tối, giải phóng những ai bị trói buộc vì những dục vọng mù quáng, hay bị bầm dập vì những bất công, những ai ngụp lặn trong dòng tư lợi nhỏ nhen bẩn thỉu, những ai bị chới với vì những thử thách gian truân. Chính trong những vực sâu tăm tối này, chính trong những ngục tù không chắn song kia mà lưới của nhà giải phóng ấy làm nên những việc thần kỳ. Nghĩa là một bầu khí tự do, một vùng trời đầy ánh sáng, một niềm hân hoan trở về miền đất hứa, nhưng luôn luôn là có các bạn chài của chiếc thuyền kia đến giúp".
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay tập trung vào một chủ đề duy nhất: “Ơn Gọi”, hay đúng hơn: “Ơn Thiên Triệu”.
Is 6: 1-2a, 3-8
Trong Bài Đọc I, ngôn sứ I-sai-a thuật lại ơn gọi ngôn sứ của mình từ một thị kiến uy nghi hùng vĩ xảy ra trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, vào năm 740 trước Công Nguyên.
1Cr 15: 1-11
Trong đoạn trích thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nhắc lại ơn gọi đặc biệt mà thánh nhân đã lãnh nhận từ chính Chúa Ki-tô Phục Sinh. Ngài đã biến đổi thánh nhân từ một kẻ bách đạo cuồng tín trở thành một Tông Đồ nhiệt thành loan báo Tin Mừng.
Lc 5: 1-11
Thánh Lu-ca thuật lại câu chuyện về ơn gọi của các môn đệ tiên khởi: ngay liền sau mẽ cá kỳ diệu, thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan đáp trả lời mời gọi của Chúa Giê-su, họ từ bỏ mọi sự mà cất bước đi theo Ngài.
BÀI ĐỌC I (Is 6: 1-2a, 3-8)
Chúa Nhật vừa qua chúng ta đã đọc bài tường thuật về ơn gọi của ngôn sứ Giê-rê-mi-a; Chúa Nhật này, chúng ta đọc ơn gọi của ngôn sứ I-sai-a. Hai bài tường thuật được viết theo văn phong rất khác nhau và hai phản ứng của hai vị ngôn sứ này cũng đối lập với nhau. Nét đặc trưng của ơn gọi ngôn sứ Giê-rê-mi-a là bầu khí thân tình lòng bên lòng với Thiên Chúa, trong khi ơn gọi của ngôn sứ I-sai-a được định vị vào một thị kiến uy nghiêm hùng vĩ trong một cuộc thần hiển. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a không hề run sợ trước Thiên Chúa, nhưng lại sợ hãi khi phải đối đầu với con người. Trái lại, ngôn sứ I-sai-a run sợ trước vẻ uy nghi cao cả của Thiên Chúa và tự nguyện xin Chúa sai mình đi thi hành sứ vụ của Ngài cho con người.
Xem ra ngôn sứ I-sai-a xuất thân từ một gia đình thế giá ở Giê-ru-sa-lem và có mối quan hệ gần gũi với giai cấp lãnh đạo. Những người mà ông có sứ mạng chuyển giao sứ điệp là vua và các triều thần ở chốn cung đình. Ơn gọi của ngôn sứ I-xai-a được định vị vào “năm vua Út-di-gia-hu băng hà”. Vua Út-di-gia-hu là vị vua bất hạnh của vương quốc Giu-đa. Vào cuối triều đại hạnh phúc và thịnh vượng, vua bị bệnh cùi và qua đời năm 740 trước Công Nguyên.
1.Thị kiến khai mạc:
I-sai-a sinh vào năm 765 trước Công Nguyên. Vào khoảng 25 tuổi, ông đón nhận thị kiến ở Đền Thánh Giê-ru-sa-lem, trong những giờ phút xuất thần hay trong một buổi phụng vụ. Dù thế nào, ông đón nhận một mặc khải về tính siêu việt và sự thánh thiện của Thiên Chúa đến nổi làm xáo động tâm trí của ông. Ngay liền sau đó, ông trở thành vị ngôn sứ của Thiên Chúa ngàn trùng chí thánh.
Cuộc thần hiển được diễn tả theo hình tượng truyền thống: đất rung chuyển, khói tỏa mù mịt, như ở trên núi Xi-nai trong Cựu Ước hay như ở Nhà Tiệc Ly vào ngày lễ Ngũ Tuần trong Tân Ước. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem đã là nơi Thiên Chúa ngự giữa cõi thế. Đức Chúa tỏ mình ra cho ông I-sai-a như một vị vua quyền năng mà sự uy nghi cao cả của Ngài bao phủ đền thánh, có các thần Xê-ra-phim hộ giá. Các thần này tung hô: “Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!”. Đây là lời tung hô “ba lần thánh”, nghĩa là, cực thánh hay ngàn trùng chí thánh, xem ra được dùng trong phụng vụ rồi. I-sai-a hiểu lời tung hô này và sẽ đặt nó vào trọng tâm sứ điệp của mình. Ông sẽ gọi Đức Chúa là “Đấng Thánh của Ít-ra-en”.
2.Sự khiêm hạ của con người và lòng xót thương của Thiên Chúa:
I-sai-a nhận ra ngay sự bất xứng của mình nên thốt lên: “Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh!”. Với lời thú nhận đầy khiêm hạ này, Đức Chúa đáp trả bằng lòng xót thương; Ngài sai một trong các thần Xê-ra-phim, tay cầm một hòn than hồng trên bàn Hương Án và thanh tẩy môi miệng ô uế của vị ngôn sứ tương lai: “Đây, cái này đã chạm vào đến môi ngươi, ngươi đã được tha tội và xá tội”, để ông có thể xứng đáng là sứ giả của Ngài, người được Chúa sai đi truyền đạt Lời Chúa cho con người.
3.Ơn gọi:
Đức Chúa đã bày tỏ sự siêu việt của Ngài nhưng cũng sự hào hiệp của Ngài. Trước tiếng gọi của Thiên Chúa: “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?”, I-sai-a vào lúc đó mới 25 tuổi đời mau mắn đáp trả không một chút đắn đo suy nghĩ: “Dạ, con đây, xin sai con đi”. Cảm thấy mình có liên đới với dân này, “một dân môi miệng ô uế”, I-xai-a sẽ là sứ giả của Thiên Chúa cho họ. Trong Tân Ước, thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan sau mẽ cá kỳ diệu, sau này thánh Phao-lô sau thị kiến về Đấng Phục Sinh trên đường đi Đa-mát, đã không thể nào cưỡng kháng lại trước tiếng gọi của Chúa Ki tô.
BÀI ĐỌC II (1Cr 15: 1-11)
Chúng ta tiếp đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô.
1.Hai điều lợi ích:
Đoạn trích hôm nay cho chúng ta hai điều lợi ích. Điều lợi ích thứ nhất đó là thánh Phao-lô biện minh phẩm chất Tông Đồ của mình, vì thánh nhân đã lãnh nhận ơn gọi của mình từ chính Chúa Ki-tô. Điều lợi ích thứ hai rất nổi tiếng: bản văn này là lời tuyên xưng đức tin về giá trị cứu độ của cái chết Đức Ki tô và một lời khẳng định quý báu về cuộc Phục Sinh, kèm theo danh sách của tất cả những chứng nhân đã thấy Đấng Phục Sinh, danh sách mà chỉ một mình thánh Phao-lô cho đầy đủ nhất. Các tác giả Tin Mừng không nói đến việc Chúa Ki tô hiện ra cho năm trăm người, cũng không nói đến việc Ngài hiện ra cho ông Gia-cô-bê, người anh em họ của Chúa Giê-su, người đảm nhận trách nhiệm của Cộng Đoàn Giê-ru-sa-lem. Trong danh sách này, thánh Phao-lô cũng kể ra việc Chúa Giê-su hiện ra cho tất cả các Tông Đồ. Thuật ngữ “Tông Đồ” ở đây rõ ràng phải được hiểu theo nghĩa rất rộng, bởi vì Nhóm Mười Hai được trích dẫn trước đó.
Chúng ta ghi nhận rằng thánh Phao-lô đặt cuộc xuất hiện của Chúa Ki-tô mà thánh nhân đã được thụ hưởng trên đường đi Đa-mát trên cùng một bình diện với những lần xuất hiện của Chúa Ki-tô giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Thăng Thiên. Ở đây chúng ta chỉ dừng lại ở nơi ơn gọi của thánh Phao-lô mà chủ đề phụng vụ Lời Chúa hôm nay muốn hướng đến.
2.Ơn gọi của thánh Phao-lô:
Như ngôn sứ I-sai-a, thánh Phao-lô đã bị Thiên Chúa bắt lấy. Thánh nhân đã có một thị kiến về Đức Ki-tô Phục Sinh, Ngài tỏ mình ra trong một luồng ánh sáng rực rỡ khiến thánh nhân ngã xuống đất. Kẻ trước đây đã cuồng tín ra tay bắt hại các người Ki-tô hữu, bây giờ thú nhận là mình bất xứng: “Tôi là kẻ hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa”. Nhưng giống như I-sai-a, thánh Phao-lô đã được tha thứ và được gọi đích thân: “Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu”. Chúng ta nhận ra tâm hồn của vị Tông Đồ này: một sự trộn lẫn thường hằng giữa sự khiêm tốn và sự tự hào hãnh diện.
3.Thánh Phao-lô biện minh ơn gọi Tông Đồ của mình:
Thánh Phao-lô có nhiều lý do để mà biện minh ơn gọi của mình. Trong số những tín hữu Cô-rin-tô, vài người bác bỏ tước hiệu Tông Đồ của thánh nhân và buộc tội thánh nhân là huênh hoang tự đắc.
Ở đầu thư, thánh Phao-lô tự giới thiệu mình: “Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ của Đức Giê-su Ki tô” (1Cr 1: 1). Như vậy, ngay từ đầu thư, các tín hữu Cô-rin-tô được báo trước rằng vị rao giảng của họ đòi hỏi tính chính danh ơn gọi Tông Đồ của mình. Sự đòi hỏi này được lập lại xa hơn một chút: “Tôi không phải là tông đồ ư? Tôi đã không thấy Đức Giê-su, Chúa chúng ta sao? Anh em không phải là công trình của tôi trong Chúa sao? Nếu đối với những người khác tôi không phải là tông đồ, thì ít ra đối với anh em tôi là tông đồ, vì ấn tín chứng thực chức vụ tông đồ của tôi trong Chúa chính là anh em” (9: 1-2).
Đoạn văn mà chúng ta đọc hôm nay được định vị vào cuối thư, vì thế, đây là lời thánh Phao-lô nhắc lại lần thứ ba về tính chất đặc thù của ơn gọi mình: chính Đức Ki-tô đã đích thân ủy thác sứ vụ tông đồ cho thánh nhân, chứ không có bất kỳ trung gian phàm nhân nào.
TIN MỪNG (Lc 5: 1-11)
Xem ra khi viết đoạn Tin Mừng này, thánh Lu-ca vận dụng cùng một phương pháp văn chương mà thánh ký đã sử dụng rồi trong bài tường thuật “Chúa Giê-su viếng thăm Na-da-rét”: tập hợp lại những sự kiện nối tiếp nhau thành một bài trình thuật duy nhất trong cùng một khung cảnh, để tránh những lập lại và để câu chuyện trở nên sống động hơn, thậm chí kịch tính hơn. Bài trình thuật này là “một bức tranh có ba cảnh” nối tiếp nhau:
-Chúa Giê-su rao giảng trên bờ hồ Ghen-nê-xa-rét (5: 1-3).
-Mẽ cá kỳ diệu (5: 4-7).
-Ơn gọi của các môn đệ đầu tiên (5: 8-11).
1.Chúa Giê-su rao giảng bên bờ hồ (5: 1-3):
Theo Tin Mừng Lu-ca, trước đây Đức Giê-su chọn các hội đường để truyền đạt đạo lý của Ngài cho dân chúng, giờ đây Ngài chọn bờ hồ Ghen-nê-xa-rét làm khung cảnh cho lời rao giảng của Ngài. Trong cùng câu chuyện này của thánh Mác-cô (Mc 1: 16-20), Chúa Giê-su chưa ban cho ông Si-mon một tên mới là Phê-rô; chỉ sau này Ngài sẽ cho ông tên mới này vào lúc Ngài chọn Nhóm Mười Hai (Mc 6: 14). Nhưng ngay trong câu chuyện của thánh Lu-ca, Chúa Giê-su chỉ định trước người ngư phủ miền Ga-li-lê này sẽ là thủ lãnh của Giáo Hội Ngài qua tên kép “ông Si-mon Phê-rô”. Như vậy, câu chuyện của thánh Lu-ca mang đậm nét viễn cảnh Giáo Hội hơn câu chuyện của thánh Mác-cô.
Trong hai con chuyền neo đậu ở đó, Chúa Giê-su chọn thuyền của ông Si-mon, “từ trên thuyền này Người giảng dạy đám đông”. Đây không phải là một sự tình cờ. Hình ảnh con thuyền Giáo Hội được thánh Phê-rô lèo lái đã trở thành kinh điển kể từ Giáo Phụ Tết-tu-li-a-nô và thánh Giáo Phụ Âu-gút-ti-nô; hình ảnh này xem ra tiềm ẩn ở nơi đoạn Tin Mừng này rồi. Đối với các Giáo Phụ, hình ảnh này là một biểu tượng kinh điển về Giáo Hội lữ hành trên trần thế, như lời giải thích của thánh Am-rô-si-ô: “Đây là con thuyền mà theo thánh Mát-thêu đang có nguy cơ bị chìm và theo thánh Lu-ca thì đầy cá. Ở đây chúng ta có thể thấy những bước khởi đầu đầy khó khăn của Giáo Hội và những thành quả sau này của nó” (St Ambrose, Expositio evangelii sec. Lucam, in loc.). Đức Ki-tô bước vào thuyền của thánh Phê-rô để giảng dạy đám đông dân chúng – và từ con thuyền của thánh Phê-rô, tức Giáo Hội, Ngài vẫn tiếp tục giảng dạy toàn thể thế giới.
2.Mẽ cá kỳ diệu (5: 4-7).
Mẽ cá kỳ diệu được thánh Lu-ca thuật lại ở đây, một tình tiết mà thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu không biết. Chúng ta cũng gặp thấy mẽ cá kỳ diệu này ở trong phần phụ chương của Tin Mừng Gioan (ch. 21), nhưng được đinh vị sau biến cố Phục Sinh. Có thể chỉ có một biến cố duy nhất, nhưng chúng ta không còn biết rõ biến cố này được định vị vào lúc nào. Điều này cho thấy mỗi tác giả Tin Mừng có quan điểm thần học khác nhau về cùng một biến cố.
Sau khi rao giảng cho đám đông dân chúng, Chúa Giê-su đòi hỏi thánh Phê-rô một hành vi đức tin. Đối với một ngư phủ chuyên nghề đánh cá trên biển Hồ, đêm là thời gian thuận tiện để ra khơi thả lưới bắt cá, chứ không phải ban ngày. Ấy vậy, Chúa Giê-su lại bảo ông Si-mon: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Dựa trên kinh nghiệm nghề nghiệp của mình, ông Si-mon nhấn mạnh sự phi lý của sự đòi hỏi này: “Thưa Thầy, chúng tôi vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả”; tuy nhiên, đức tin của ông mách bảo ông chấp nhận sự thách đố này: “Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Đối với đức tin, điều không thể lại có thể. Một mẽ lưới đầy cá đến nổi họ phải ra hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền khác, là Gia-cô-bê và Gioan, đến giúp.
Chúng ta ghi nhận rằng ông An-rê, anh của ông Si-mon, không được kể ra. Tuy nhiên thánh Lu-ca dùng số nhiều: “Họ đã làm như vậy, và bắt được nhiều cá”, khi nói về những người bạn đồng nghiệp cùng ở với ông Si-mon. Sở dĩ không nêu tên thánh An-rê ở đây, thánh Luca nghĩ đến bộ ba: thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan, bộ ba này sẽ được liên kết với Chúa Giê-su một cách đặc biệt hơn các Tông Đồ khác: chỉ ba người môn đệ này sẽ được diễm phúc chứng kiến việc Chúa phục sinh con gái của ông trưởng hội đường (Lc 8: 51), biến cố Chúa Giê-su biến hình trên núi (Lc 9: 28), và cơn hấp hối của Ngài trong vườn Ô-liu (Mc 14: 33). Thật đáng ghi nhận rằng Chúa Giê-su vẫn tôn trọng tình bạn đồng nghiệp của họ trong suốt cuộc đời thi hành sứ vụ của Ngài; tuy nhiên, ba người môn đệ này sẽ là cột trụ của Giáo Hội tiên khởi. Sự cộng tác của tất cả họ vào mẽ cá kỳ diệu này phác họa sứ vụ của Giáo Hội tương lai rồi.
3.Ơn gọi của các môn đệ đầu tiên (5: 8-11).
Cả ba Tin Mừng Nhất Lãm đều trình thuật “ơn gọi của các môn đệ tiên khởi” trong cùng một khung cảnh bên bờ hồ. Trong khi họ đang làm công việc hằng ngày của những ngư phủ: thánh Phê-rô và thánh An-rê đang quăng lưới đánh cá, còn thánh Gioan và thánh Gia-cô-bê thì đang vá lưới ở trong thuyền, Chúa Giê-su gọi họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Trước tiếng gọi của Chúa Giê-su, không một chút đắn đo suy tính hơn thiệt, họ mau mắn đáp trả bằng thái độ dứt khoát: lập tức họ bỏ tất cả mà đi theo Ngài. Hoạt cảnh thật giản dị nhưng thật cảm động.
Nét độc đáo của thánh Lu-ca là liên kết câu chuyện về ơn gọi của các môn đệ tiên khởi với mẽ cá kỳ diệu. Khi làm như thế, thánh Lu-ca làm cho câu chuyện nầy thêm phần kịch tính hơn. Các môn đệ tương lai xem ra không thể cưỡng lại trước Đức Giê-su, một nhà phép thuật thần thông hơn là một nhà giảng thuyết lưu động, cho dù họ không tách biệt quá rõ nét hai khía cạnh hấp dẫn này ở nơi con người Đức Giê-su. Thánh Phê-rô phản ứng như ngôn sứ I-sai-a khi thánh nhân bày tỏ một khoảng cách tách biệt giữa phàm nhân tội lỗi và Thiên Chúa thánh thiện: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”. Như trong câu chuyện ơn gọi của vị ngôn sứ I-sai-a, lòng xót thương của Thiên Chúa đáp trả sự khiêm tốn của vị ngôn sứ, Chúa Giê-su cũng trấn an thánh Phê-rô: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”. Chính con người mà thánh nhân có sứ mạng thu phục. Trong viễn cảnh của sứ mạng này, bờ hồ Ghen-nê-xa-rét mờ nhạt trước một thế giới bao la đang chờ đợi Tin Mừng thu phục.
Một bức tranh ba cảnh của thánh Lu-ca có một sự duy nhất thật thấm thía: trên phong nền của toàn cảnh nổi bật một viễn cảnh về Giáo Hội phổ quát.
Chúa Giêsu ở biển hồ Ghennêxaret. Dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên TN 5-C106
Chúa Giêsu ở biển hồ Ghennêxaret. Dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa. Vì dân chúng quá đông, Ngài xuống một trong hai chiếc thuyền đang đậu gần bờ để không bị đám đông chen lấn. Chiếc thuyền đó của ông Simôn. Ông đang giặt lưới.
Giảng xong,Ngài bảo ông: “Hãy ra chỗ nước sâu đánh cá.”
Đây là một lệnh truyền chứ không chỉ là một lời khuyên. Những người đánh cá đang giặt lưới, Ngài thấy điều đó, tức là họ đang thu dẹp để nghỉ ngơi, nhưng Ngài vẫn bảo họ ra khơi đánh cá. Điều nầy cho chúng ta thấy rằng Ngài đã chủ ý ra lệnh cho họ, vì Ngài đang định một điều gì khác quan trọng. Simôn trả lời: “Thưa Thầy, chúng con vật vả suốt đêm mà không bắt được gì”. Nhưng ông chấp nhận: “Vâng lời Thầy, tôi thả lưới”.
Chúa Giêsu muốn kêu gọi ông Simôn và các bạn ông, nhưng trước khi làm việc đó, Ngài muốn cho các ông thấy quyền năng lạ lùng của Ngài.
Simôn chèo thuyền ra và bủa lưới, và lạ thay! Trong chốc lát, cá đầy lưới đến nỗi phải nhờ một thuyền bạn chở cá về.
Trong đời chài lưới của ông chưa từng thấy được cá nhiều và nhanh như thế. Ông cảm nhận đây không phải là một việc bình thường mà ông vẫn thường làm, nhưng là một dấu hiệu lạ lùng mà ông chưa từng thấy và vượt xa những gì ông biết được. Đứng trước sự lạ đó, Simôn kinh sợ. Người Do thái sống trong một thế giới vừa tự nhiên vừa linh thiêng. Họ vẫn còn giữ tâm thức về mối liên hệ với Thiên Chúa. Họ luôn sợ hãi khi đứng trước những dấu lạ bất ngờ mà họ không giải thích được và vì thế họ nghĩ là do Thiên Chúa. Vẫn cảm thấy bàn tay Thiên Chúa luôn can thiệp vào cuộc sống của họ, như đã can thiệp vào lịch sử của cha ông họ. Simôn mang một tâm trạng như thế, do vậy ông kinh sợ trước mẻ cá lạ lùng vừa mới bắt được. Ông cảm nhận đây không phải là một việc bình thường nữa mà là một hiện tượng vượt xa tầm tưởng tượng của ông. Ông nhìn Chúa Giêsu như Đấng, không phải người thường.
Ông mang tâm trạng của Môsê trước ngọn lửa tỏa hào quang trong bụi gai, tâm trạng của tiên tri Isaia trong Đền thờ khi diện kiến với Chúa đang ngự trên ngai. Ông phản ứng như Môsê và Isaia, ông sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và nói: “Xin Thầy xa con vì con là kẻ tội lỗi”. Đứng trước một Đấng cao cả như thế, ông cảm thấy mình tội lỗi và bất xứng.
Nhưng Chúa Giêsu bảo ông: “Đừng sợ! Từ nay anh sẽ là người lưới người ta”. Đây là mệnh lệnh thứ hai mà Simôn nhận từ nơi Chúa Giêsu. Mệnh lệnh đầu là: “Hãy ra khơi đánh cá”. Mệnh lệnh thứ hai là: “Anh là người lưới người ta”.
Đứng trước hai mệnh lệnh ấy, Simôn luôn cảm thấy mình bất lực, bất xứng.Chính vì thế mà Chúa đã chọn ông.
Chúng ta cũng thế thôi. Đứng trước lời mời gọi của Chúa, chúng ta không ai xứng đáng cả. Chỉ vì thương mà Chúa chọn chúng ta cộng tác với Ngài. Chính Chúa đã nói: “Không có Thầy, chúng con không thể làm được việc gì”. Và Ngài cũng dạy chúng ta: “Sau khi đã làm xong mọi sự, chúng con hãy nhận rằng mình chỉ là tôi tớ vô dụng”.
Nhiều người trong chúng ta, sau khi thành công được một vài công việc, thường khoác cho mình vòng hoa chiến thắng. Chúa chỉ có thể hoạt động dể dàng trong những tâm hồn nhỏ bé. Chúa chỉ sử dụng những con người biết vâng phục như Simôn. Chính những người đó mới mang lại nhiều kết quả cho các linh hồn.
Các thánh chính là những con người nhỏ bé và khiêm tốn. Thánh Maria Vianney, cha sở họ Ars là một người luôn cảm thấy mình tội lỗi và dốt nát. Ngài đã được Giáo Hội xem như một “kẻ lưới người” vĩ đại.
Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu luôn thấy mình bé bỏng trong tay Cha trên trời, đã trở nên gương mẫu cho bao thế hệ kitô hữu, là thầy dạy con đường yêu mến Chúa, là một nhà truyền giáo không bôn ba ngoài thế gian, nhưng là một nhà truyền giáo lừng danh.
Thánh Luca ghi lại: “Họ bỏ hết mọi sự mà theo Người”. Đây chính là điều kiện quan trọng nhất.Người thanh niên giàu có, đầy thiện chí đã đến gặp Chúa Giêsu và được Ngài mời gọi: “Ngươi hãy về bán hết của cải, phân phát cho những người nghèo rồi đến đây theo Ta”. Người thanh niên thiện chí kia không dám bước theo Ngài vì không thể từ bỏ gia sản vật chất để đổi lấy kho tàng quí báu nhất là Ngài.
Lời mời gọi ấy được gởi đến, không phải chỉ cho những tu sĩ hay linh mục mà thôi, mà được gởi đến cho mọi người đã lãnh nhận kho tàng đức tin. Công Đồng Vatican II đã nói đến nhiều lần về ơn gọi của giáo dân là “trở nên nắm men trong bột, góp phần vào việc thánh hóa thế giới từ bên trong, và như thế, họ làm cho người khác nhận biết Đức Kitô… (Hiến chế Giáo Hội số 31). Như thế có nghĩa là họ phải là những kẻ lưới người ta. Đặc biệt hơn, Công Đồng dành riêng một Sắc Lệnh để nói về Tông Đồ giáo dân, vạch rõ những nhiệm vụ và trách nhiệm của giáo dân phải tích cực tham gia vào việc truyền giáo của Giáo Hội.
Hiện nay, chúng ta vui mừng thấy rằng nhiều giáo dân đã nghe theo tiếng gọi đó và đã dấn thân vào việc “lưới người ta”, nhưng vẫn còn quá ít so với nhu cầu. Chúng ta có cả một thế giới chưa biết đạo để Phúc Âm hóa. Vậy chúng ta cần phải làm gì?
Chúng ta được mấy người dám bỏ mọi sự mà theo Ngài? Ngay cả một số đã tự nguyện dấn thân vào đời sống tu trì, nhưng vẫn “cầm cày còn ngó lại sau lưng”, thì huống hồ là giáo dân!
Hãy cầu nguyện, xin Chúa sai nhiều thợ gặt đến trong ruộng lúa, sai nhiều tay chài lưới dám xông pha vào biển cả thế gian đang từ chối Thiên Chúa để bủa lưới. Hãy cầu xin cho mỗi người chúng ta đủ can đảm nghe theo tiếng gọi của Chúa.
Chúa Giêsu đang kêu gọi chúng ta bằng chính sự có mặt của Ngài nơi bàn tiệc yêu thương nầy. Ngài đến như một của ăn để thâm nhập một cách hết sức thực tế vào mỗi người chúng ta, mời gọi chúng ta dành cho Ngài cuộc sống nhỏ bé nầy, thời gian sống cơ cực nầy, để làm cho Nước Cha trị đến. Đứng trước tình yêu tha thiết của Ngài, chối từ là đắc tội. “Hãy đứng lên, chúng ta đi thôi!”.
Phê-rô Ngư Phủ đánh bắt cá giỏi hơn Giê-su Thợ Mộc, đó là điều chắc chắn. Thế nhưng, với Phê-rô còn có một điều chắn chắn hơn: sức mạnh kỳ diệu của Lời Đức Giê-su, Lời đã chữa cho mẹ vợ ông khỏi cơn sốt (Lc 4,39). Vì tin vào sức mạnh của Lời ấy, ông gạt bỏ đi kinh nghiệm nghề nghiệp lâu năm của mình, cũng như vượt thắng sự mệt nhọc sau một đêm trắng tay. Mẻ cá dư dật minh chứng cho niềm tin đúng đắn của ông, đồng thời khai mở cho ông một cái nhìn mới. Từ nay Đức Giê-su không chỉ là một vị thầy (5,5), nhưng còn là Chúa của ông (5,8). Ông không còn là người chuyên đánh bắt cá nuôi sống bản thân và gia đình, nhưng là người thu phục người khác về cho Chúa. Niềm tin vào Lời Chúa đã đổi hẳn đời ông.
Mời Bạn: Bạn có thể dựa vào kinh nghiệm sống để cho rằng Lời Chúa viển vông, không khả thi trong thực tế. Cũng có thể do ngã lòng quá sớm, mệt mỏi trong cuộc sống, bạn không muốn thực hiện theo Lời Chúa dạy. Cuộc đổi đời của Phê-rô hôm nay có thể giúp bạn có một cái nhìn mới về Lời Chúa.
Chia sẻ: Người Ki-tô hữu Việt Nam cần làm gì để Lời Chúa có một vị trí tương xứng hơn trong cuộc đời của họ?
Sống Lời Chúa: Chọn một câu Lời Chúa như kim chỉ nam cho sinh hoạt của mình, và nỗ lực sống theo Lời ấy.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa không ép ông Phê-rô chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá, nhưng chỉ gợi ý mời gọi ông. Ngày hôm nay, con tin chắc Chúa cũng đang đưa ra những lời gợi ý mời gọi tương tự như vậy. Xin cho chúng con, tựa như ông Phê-rô, tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh của Lời Chúa và hết lòng thực hiện Lời ấy. Amen.
Tin Mừng của Thánh Luca hôm nay tường thuật cho chúng ta về một phép lạ vô cùng ấn tượng. Bởi vì Phêrô và các tông đồ khác hầu hết đều là những người lành nghề đánh cá, thế mà cả một đêm thả lưới không hề bắt được một con cá nào ! Việc thả lưới, bắt cả là việc rất bình thường của các ngài, tuy nhiên suốt đêm qua, lưới của các ngài thả xuống biển không dính một con cá nào. Chúa Giêsu quả thực đã có mặt đúng lúc, can thiệp đúng lúc và động viên, khích lệ các ngài đúng lúc. Phêrô đã thưa với Chúa Giêsu:” Thưa Thầy chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới “.
CÁI LẠ LÙNG CỦA CHÚA GIÊSU:
Quyền năng của Thiên Chúa được thi thố nơi Chúa Giêsu. Lời nói của Ngài, lệnh truyền của Ngài là lời toàn năng. Nếu xét về mặt tự nhiên, Phêrô và các bạn khác là những ngư phủ rất lành nghề, rất thông thạo về biển, các ngài đã kinh qua việc đánh bắt cá từ lâu, do đó, các ngài đã kinh nghiệm chỗ nào là chỗ nước sâu, chỗ nào có cá nhiều, chỗ nào có cá ít. Nhưng thực tế, suốt một đêm chèo thuyền ra khơi, thả lưới, lùa cá, mệt nhọc, vất vả, mất ngủ, các ngài đã không bắt được một con cá nào.Chúa bảo Phêrô và các tông đồ khác ” Hãy chèo thuyền ra chỗ nước sâu mà thả lưới “. Phêrô đã thưa với Chúa:” Suốt đêm qua chúng con đã vất vả mà chẳng bắt được một con cá, con tôm, con tép nào ”. Tuy nhiên, trước lệnh truyền của Chúa Giêsu, Phêrô đã nhanh nhẩu cùng với các bạn chèo thuyền ra chỗ sâu thả lưới. Kết quả, Phêrô và các bạn đã bắt được mẻ cá nhiều ngoài sức tưởng tượng của con người. Đứng trước mẻ cá lạ lùng như thế, Phêrô và các bạn đều run sơ.Đáng lẽ các ngài phải mừng vui, hớn hở, đáng lẽ các ngài phải can đảm, mạnh mẽ.Nhưng các ngài run sợ vì các ngài chưa có đức tin, chưa có lòng phó thác vào Chúa. Các ngài nhận ra các ngài còn quá nhiều tội lỗi, còn quá nhiều tham sân si. Kết quả của mẻ cá lớn lao, phong phú này không phải sức riêng của Phêrô, nhưng là do lời quyền năng của Chúa. Phêrô đang đối diện với Đấng quyền năng, Đấng tạo dựng vũ trụ, tạo nên con người. Phêrô và các bạn phải hoàn toàn tín thác vào Chúa. Sau khi kéo lưới đầy hai thuyền, Phêrô nhận ra Chúa Giêsu là ai và Phêrô là ai. Phêrô chỉ là một con người yếu hèn, nên ngài xin Chúa tránh xa ra vì Phêrô là người tội lỗi. Con người của Phêrô yếu đuối thật đó, nhưng Chúa lại chọn ngài trở thành thuyền trưởng lèo lái con thuyền Giáo Hội…
MẺ CÁ TƯỢNG TRƯNG CHO CÁC LINH HỒN:
Tin Mừng của thánh Luca trong đoạn này tường thuật lại mẻ cá lạ lùng của quyền năng vô song của Chúa. Nhưng đàng khác thánh Luca ám chỉ cá là linh hồn…Phêrô và các tông đồ trở thành các ngư phủ lưới người. Bởi vì, lúc đó các Giáo đoàn đã được thiết lập ở nhiều nơi. Giáo Hội của Chúa giống như một hạt cải rất bé nhỏ nhưng nó cứ tiệm tiến lớn dần và ngày hôm nay Giáo Hội do Chúa Giêsu thiết lập đã có mặt trên khắp cùng thế giới.Vai trò của thủ lãnh Phêrô thật là quan trọng. Chúa luôn coi trọng và đề cao vai trò của thủ lãnh Phêrô. Mặc dù, Giáo Hội của Chúa ở trần gian gặp biết bao cam go thử thách ngay từ thời mới thiết lập đến bây giờ, nhưng Giáo Hội vẫn luôn phát triển, lớn mạnh vì có Chúa luôn hiện diện đúng như lời Chúa hứa:” Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế “. Các môn đệ, các tông đồ vẫn luôn tin vào Chúa bởi vì:” Không có Chúa không ai có thể làm được gì “.
Mẻ cá lạ lùng cũng còn ám chỉ đến ơn gọi của các tông đồ. Các ngài đã bỏ mọi sự: cha mẹ, vợ con, ruộng vườn, nghề nghiệp mà đi theo Chúa…Chúa luôn nâng đỡ, giữ gìn, ủi an. Dù rằng, các tông đồ đã gặp biết bao giông tố, các ngài đã anh dũng, hiên ngang, làm chứng cho Chúa bằng chính cái chết của mình.
Ngày nay, Chúa vẫn tiếp tục kêu gọi chúng ta như Ngài đã mời gọi Simon, Anrê , Giacôbê và các tông đồ, chúng ta hãy để cho Chúa dẫn đưa chúng ta trên đường phục vụ tùy theo ý Chúa.Chúng ta hãy tín thác vào quyền năng và lòng thương xót của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, trong chiếc thuyền đời của chúng con, xin Chúa tiếp tục hướng dẫn và đưa chúng con đi xa hơn nữa, đi tới những nơi bất ngờ. “ Hãy chèo thuyền ra chỗ sâu mà thả lưới “. Xin cho chúng con luôn biết vâng lời Chúa như Phêrô đã vâng theo ý Chúa. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Tại sao các môn đệ không bắt được con cá nào ? 2.Tại sao Phêrô lại xin Chúa tránh xa ông ? 3.Vâng lời Chúa Phêrô và các bạn đã có kết quả thế nào ?
Được sai đi là một đặc nét của công cuộc rao giảng Tin Mừng. Chúa Giê-su thi hành sứ mệnh, nhưng không phải Người tự mình làm công việc ấy, mà là do Chúa Cha sai Người đi. Trước khi sai các môn đệ ra đi để tiếp tục sứ mệnh rao giảng, Chúa Giê-su đã nói rõ ràng rằng như Chúa Cha sai Người đi thế nào, Người cũng sai họ đi như vậy. Trong lịch sử Ít-ra-en, biết bao người đã được Thiên Chúa sai đi để thực hiện một tác vụ đặc biệt, thí dụ các vị ngôn sứ được sai đến với một cộng đồng hoặc cá nhân để mang thông điệp của Chúa đến cho họ. Các ngài đã tuân thủ mệnh lệnh, dù phải chấp nhận hy sinh hoặc ngay cả nguy hiểm tính mạng. Trong đại cuộc rao giảng Tin Mừng, Chúa Giê-su đã được Chúa Cha sai đến với nhân loại để loan báo tình yêu cứu độ và lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Sau khi đã chu toàn sứ mệnh ở trần gian, Chúa Giê-su sai các môn đệ và cả chúng ta hãy ra đi tiếp nối những gì Người đã khởi đầu, làm những kẻ “thu phục người ta”.
Trong Cựu Ước, các vị ngôn sứ đều là những người được sai đi thi hành sứ mệnh. I-sai-a là một trong số bốn vị đại ngôn sứ. Bài đọc 1 hôm nay thuật lại việc ngài được Thiên Chúa kêu gọi và sai đi như thế nào. Trước hết ngài kể lại khung cảnh sự hiện diện của Thiên Chúa trên ngai tòa cao cả, có các thần thánh đứng chầu và tung hô vinh quang Người. Trước khung cảnh uy nghi ấy, I-sai-a nhận biết thân phận mình quá bất xứng liền kêu lên: “Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế!” Tuy nhiên đối với Thiên Chúa, những gì là ô uế đều có thể được Người thanh tẩy. Lập tức Thiên Chúa sai một thần Xê-ra-phim cầm hòn than hồng chạm vào môi I-sai-a để thanh tẩy môi miệng ô uế của ông và biến ông trở thành một vị ngôn sứ, tức là người nói thay cho Thiên Chúa. Sau khi “tha lỗi và xá tội” cho I-sai-a, Thiên Chúa không độc đoán ép buộc ông phải lãnh nhận sứ mệnh, nhưng Người chỉ gợi ý cho ông khi Người “bâng quơ” phán rằng: “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?” Lạ đời chưa! Lúc ấy chỉ có Chúa với ông I-sai-a, thế mà Người lại bảo “Ta sẽ sai ai đây”, thì đúng là Người không muốn áp đặt, mà chỉ mong ông sẽ tự nguyện đáp lại ước ao của Người. Quả thực I-sai-a đã hiểu được ý Chúa và ông đủ quảng đại để thưa với Chúa: “Dạ, con đây, xin sai con đi”. Chúng ta có thể tưởng tượng Chúa mỉm cười mãn nguyện khi thấy I-sai-a đáp lại lời Người kêu gọi. Thế là I-sai-a có đủ tư cách để được Thiên Chúa sai đi thi hành sứ mệnh Người trao.
Nếu biến cố Thiên Chúa kêu gọi I-sai-a làm ngôn sứ và sai ông đi được diễn ra trong khung cảnh uy nghi của triều thần thiên quốc, thì việc Chúa Giê-su kêu gọi các môn đệ và sai họ đi lại diễn ra trong khung cảnh đời sống thường ngày, đôi khi còn gắn bó với nghề nghiệp sinh sống nữa. Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca đưa chúng ta trở lại khung cảnh bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, nơi một nhóm người đánh cá hành nghề. Họ đang giặt lưới để chuẩn bị cho chuyến đánh cá tới, vì hôm qua họ “đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả”. Chúng ta thử tưởng tượng Chúa nghĩ gì về mẻ lưới hoàn toàn thất bại của họ. Có lẽ Chúa nói thầm trong bụng: Tốt lắm, các anh vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả, thì tôi sẽ giúp các anh tha hồ bắt những thứ cá khác, đó là bắt các tâm hồn, thu phục người ta để đem về cho Thiên Chúa!” Bằng một phép lạ, Chúa muốn chứng minh rằng Người có khả năng biến họ thành những kẻ đánh bắt các tâm hồn như lưới cá. Nếu Chúa chỉ cần “chỉ điểm” giúp họ có một mẻ lưới bắt được thật nhiều cá đến nỗi hầu như rách cả lưới, thì chắc chắn Người cũng thừa sức đào tạo họ trở nên những kẻ lưới các tâm hồn! Ở đây, chúng ta thấy có điểm tương đồng giữa ngôn sứ I-sai-a và ông Phê-rô. I-sai-a nhận biết mình là người miệng lưỡi ô uế. Còn ông Phê-rô thấy phép lạ Chúa làm liền “sấp mặt dưới chân Đức Giê-su và nói: ‘Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi’”. Nhưng Chúa trấn an: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”. Như chúng ta biết, sau ba năm trong trường huấn luyện tông đồ của Chúa và trải qua nhiều thực tập cùng quan sát, Phê-rô đã được Chúa sai đi trong lời hứa của Chúa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Sau khi sống lại, Chúa Giê-su còn kêu gọi một người rất đặc biệt là Phao-lô và sai ông đi. Phao-lô từng là một kẻ hung hăng bách hại Ki-tô hữu, vậy mà ông cũng được Chúa gọi và sai đi rao giảng Tin Mừng. Đặc biệt hơn nữa, sứ mệnh rao giảng của Phao-lô còn được thi hành ở một môi trường xa lạ: rao giảng Chúa Ki-tô và Tin Mừng cho anh chị em dân ngoại tại nhiều nơi bên ngoài Ít-ra-en.
Tuy nhiên cả ba vị đều để lại cho chúng ta cùng một bài học: hãy quảng đại đáp lại lời kêu gọi của Chúa và tin tưởng vào sự nâng đỡ của Người khi chúng ta thi hành sứ mệnh Người trao. Dù chúng ta có là “người môi miệng ô uế” giống như I-sai-a, hoặc là “người tội lỗi” như ông Phê-rô, hoặc là kẻ bách hại đạo Chúa như ông Phao-lô, thì Chúa vẫn kêu gọi chúng ta, huấn luyện chúng ta thành những kẻ giúp anh chị em đón nhận Tin Mừng và trở về với Chúa. Chúa không ép buộc chúng ta khi sai chúng ta đi, nhưng Người luôn hy vọng chúng ta sẽ quảng đại và tự nguyện thưa với Người: “Dạ, con đây, xin sai con đi”.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca cho chúng ta một câu chuyện tuyệt vời về việc Chúa Giê-su kêu gọi những môn đệ đầu tiên. Động lực nào khiến Chúa kêu gọi những người xem ra không đủ khả năng để chu toàn một sứ mệnh cao cả nếu không phải là do tình yêu đặc biệt Người dành cho họ? Trong bối cảnh của Năm thánh ngoại thường về lòng Chúa thương xót, chúng ta thấy dễ dàng xác tín rằng tiếng gọi mạnh mẽ của Lòng Thương Xót đã thay đổi những người được Chúa tuyển chọn. Họ bắt đầu cuộc thay đổi này bằng một hành vi thật ý nghĩa: bỏ hết mọi sự mà theo Người.
Trong mọi việc lớn lao, sự tuyển chọn luôn là quan trọng. Để kiếm người xây dựng một mái ấm gia đình, người ta phải trải qua một cuộc tuyển chọn cẩn thận và cân nhắc, có khi đòi thời gian lâu dài. Muốn kiếm người cộng sự trong công việc, chúng ta cũng phải cố tìm ra người mình có thể tin tưởng. Nhưng điều khiến chúng ta ngạc nhiên là làm sao Chúa Giê-su nhận ra điều hay điều tốt nơi những vị tông đồ tương lai. Đâu là tiêu chuẩn hoặc điều kiện để Người tuyển chọn? Thông minh? Bằng cấp? Xuất thân từ gia đình thế giá? Dĩ nhiên đạt những tiêu chuẩn này là điều tốt, nhưng đây là cuộc tuyển chọn tông đồ chứ không phải tuyển giáo sư đại học, giáo sư Kinh Thánh hay thần học, cho nên Chúa cần những người có lòng hăng say và quảng đại, sẵn sàng đón nhận một sứ mệnh vô vị lợi. Nói khác đi, Chúa cần những người có một tấm lòng, cần những người có “hồn tông đồ”. Chúa Giê-su là Lòng Thương Xót được sai đến trần gian để cứu độ nhân loại. Do đó Người cần có những cộng sự viên được đào tạo để đem lòng thương xót của Thiên Chúa đến với anh chị em.
Giờ đây chúng ta hãy trở lại với khung cảnh bờ hồ Ghen-nê-xa-rét. Chúa Giê-su “đứng ở bờ hồ” và “dân chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa”. Người ta muốn đến với Lòng Thương Xót của Thiên Chúa đấy! Có thể vì sự chen lấn đó nên Chúa Giê-su đã phải “mượn” thuyền của ông Phê-rô làm bục giảng lời Chúa. Ít ra chúng ta có thể nhận thấy lòng quảng đại của ông Phê-rô khi ông để cho Chúa sử dụng thuyền của ông. Chắc chắn Chúa Giê-su còn thấy điều ấy rõ hơn, vì Người là Đấng “dò thấu tâm can” con người. Mặc dù ông Phê-rô đã nhận ra thế giá của Chúa Giê-su qua khung cảnh dân chúng chen lấn đến với Người và hành vi mượn thuyền để mở đầu cho một tương quan giữa Chúa với ông, nhưng ông cần một bước nữa để biết rõ Người hơn. Thì đây, Lòng Thương Xót sẵn sàng mở lòng đón nhận ông. Chúa Giê-su cho ông biết Người là ai. Người để cho mối tương quan vừa thiết lập được trở nên sống động: Chúa bảo ông thả lưới, ông dẹp bỏ kinh nghiệm nghề nghiệp để “vâng lời Thầy”. Lòng Thương Xót đi từng bước để giúp ông Phê-rô “biết mình biết Người”! Sau khi biết thì: Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi! Nhưng Chúa đâu kể gì tội lỗi của ông, vì tội lỗi đứng trước Lòng Thương Xót thì có khác chi cục đá lạnh sẽ tan lập tức dưới ánh nắng mặt trời. Người chỉ muốn tấm lòng quảng đại của ông. Chúa biết ông là con người yếu đuối, nhưng không sao, Người sẽ làm cho ông mạnh và vững chắc như Tảng Đá! Người bảo đảm với ông: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Sau lời gọi của Chúa Giê-su, chúng ta thấy không chỉ một mình ông Phê-rô “bỏ hết mọi sự mà theo Chúa”, nhưng cả hai người con của ông Dê-bê-đê nữa. Quả thực Lòng Thương Xót có sức mạnh kinh hồn. Nghe tiếng gọi của Lòng Thương Xót, các tông đồ tiên khởi không sao cưỡng lại được! Chúa đã quảng đại mở lòng thương xót với các ngài, thì các ngài cũng quảng đại đáp lại tiếng gọi tông đồ của Chúa.
Thấy người lại ngẫm đến ta! Ngôn sứ I-sai-a thì thưa với Chúa: “Dạ, con đây, xin sai con đi”, sau khi ông được tha lỗi và xá tội (bài đọc 1). Tông đồ Phao-lô tuy từng là kẻ “ngược đãi Hội Thánh”, nhưng nhờ ân sủng của Lòng Thương Xót đã trở thành Tông đồ Dân ngoại. Như thế, bạn và tôi, chúng ta không tránh nổi tiếng gọi của Lòng Thương Xót đâu. Chúng ta cứ quảng đại và can đảm thưa với Chúa: Dạ, con đây, xin sai con đi! Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
TMĐP- Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa kêu gọi đi theo Ngài, đồng hành với Ngài để thực hiện điều Ngài muốn cho hạnh phúc của chính chúng ta và cho mọi người đang cùng sống.
Tuy thế, không mấy khi chúng ta nhìn lại ơn gọi của mình, để nhận ra Thiên Chúa đã gọi mình thế nào, và mình đã đáp trả Tiếng Gọi ra sao. Nói cách khác, sở dĩ chúng ta sống ơn gọi của mình một cách hời hợt phần lớn là do chúng ta đã không thấy rõ tiến trình và điều kiện để ơn gọi được thành hình và thực hiện như ý Chúa muốn.
1/ Ơn Gọi nảy mầm từ việc nhận ra vinh quang của Thiên Chúa:
Kinh thánh cho chúng ta thấy: người được gọi luôn bước vào con đường ơn gọi của mình bằng tâm tình bỡ ngỡ trước vinh quang của Thiên Chúa, qua những việc kỳ diệu Ngài làm, như ngôn sứ Isaia đã bắt đầu hành trình ơn gọi khi ông được thấy Thiên Chúa là “Chúa Thượng ngự trên ngai rất cao; tà áo của Người bao phủ Đền Thờ. Phiá bên trên Người, có các thần Xêraphim đứng chầu… Các vị ấy đối đáp tung hô: “Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh!” (Is 6, 1-3); Phêrô thì sửng sốt trước mẻ cá lạ lùng, “nhiều đến nỗi hầu như rách cả lưới”, khi ông vâng lời Đức Giêsu “chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới”, mặc dù ông “đã vất vả suốt đêm mà không bắt được con cá nào” (Lc 5,4-6 ); riêng Phaolô thì kinh ngạc “khi luồng sáng từ trời chiếu xuống bao phủ ông” (Cv 9,3) khi ông trên ngựa đi lùng bắt những người theo đạo ở Đamát.
2/ Ơn Gọi ăn rễ từ việc nhận ra mình bé nhỏ, yếu đuối, bất xứng của người được gọi:
Nếu quan sát những người được Thiên Chúa gọi trong Kinh Thánh, chúng ta nhận thấy họ có chung một thái độ khiêm tốn nhận mình nhỏ bé, yếu đuối, bất tài, bất xứng trước Thiên Chúa như ngôn sứ Isaia đã thốt lên trước vinh quang của Đức Chúa: “Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở gtiữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh” (Is 6,5); như Phêrô đã sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” khi thấy mẻ cá “khủng” vừa bắt được (Lc 5,8); hoặc như Phaolô đã ngã xuống đất và khiêm hạ khẩn khoản: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” (Cv 9,5).
3/ Ơn Gọi lớn lên, và sinh hoa kết trái do lòng tín nhiệm của Thiên Chúa nơi người được gọi:
Khi gọi ai, Thiên Chúa tỏ cho họ biết Ngài yêu thương và tín nhiệm họ, với điều kiện người ấy phải nhận ra vinh quang thánh thiện của Ngài và khiếm khuyết, tội lụy của mình, phải thấy rõ sức mạnh của Ngài và yếu đuối của mình, bởi không nhận ra mình bất xứng, bất tài, người được gọi không sớm thì muộn sẽ rơi vào ảo tưởng quyền lực, và ảo tưởng thánh thiện, vì nghĩ mình được gọi vì có tài, có đức, có thế, có lực. Hai ảo tưởng nguy hiểm này sẽ làm cho người được gọi không còn nhớ mình là người được kêu gọi để làm theo ý Đấng đã kêu gọi mình. Đây là bi kịch rất đau thương của đời môn đệ, nếu người môn đệ không tỉnh thức để khiêm tốn biết mình đến để làm theo ý Đấng đã kêu gọi, như lời thân thưa “Này con đây” dễ thương của mình ngày được sai đi.
Vì chân nhận vinh quang của Thiên Chúa và thú nhận môi miệng mình tanh dơ, hôi thối, Isaia đã được Thiên Chúa tín nhiệm chọn làm ngôn sứ của Ngài, khi “tha tội và xá tội” cho ông bằng sai một trong các thần Xêraphim lấy một hòn than hồng từ bàn thờ chạm vào miệng ông (x. Is 6,6-7); Phêrô, vì biết mình là kẻ có tội, đã được Đức Giêsu trấn an “Đừng sợ !”, và tín nhiệm trao cho ông sứ vụ “đánh cá người”, tức “thu phục người ta” (x. Lc 5,10); Phaolô cũng khiêm tốn nhận mình là “kẻ ngã ngựa” trước uy quyền của Thiên Chúa, và Chúa đã tín nhiệm ông khi không gay gắt, nhưng trìu mến nói với ông: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ. Nhưng ngươi hãy đứng dậy, vào thành, và người ta sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì” (Cv 9, 5-6).
Quả thực, tiến trình ơn gọi của những người được gọi là câu chuyện tình giữa họ và Thiên Chúa. Câu chuyện ấy bắt đầu từ trái tim bỡ ngỡ của người được gọi trước những việc lạ lùng, kỳ diệu mà chỉ tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người mới thực hiện được. Và cứ thế, càng đi xa hơn trên đường tình với Thiên Chúa, càng bé nhỏ ẩn mình trong trái tim Thiên Chúa, người được Thiên Chúa gọi càng khám phá hạnh phúc của người được gọi và sung sướng nhận ra ơn gọi của họ chính là Tình Yêu.
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã trải nghiệm và xác tín hạnh phúc của ơn gọi tình yêu khi viết trong Nhật Ký Một Tâm Hồn: “Con hiểu rằng: Tình Yêu bao trùm tất cả các ơn gọi, vì Tình Yêu là tất cả, Tình Yêu ôm trọn mọi thời, mọi nơi, tắt một lời, Tình Yêu vĩnh cửu, đời đời …. Ôi Giêsu, tình yêu của con! Con đã tìm thấy ơn gọi của con. Ơn gọi ấy chính là Tình Yêu”.
Hồ nước lớn danh tiếng tại Galilê được gọi bằng ba tên: hồ Galilê, hồ Tibêriát và hồ Giênêdarét (Ghen TN 5-C112
Hồ nước lớn danh tiếng tại Galilê được gọi bằng ba tên: hồ Galilê, hồ Tibêriát và hồ Giênêdarét (Ghennêxaret), hồ này dài 20,8 km, rộng 12,8 km. Hồ ở vào một chỗ trũng của mặt đất, nơi sâu nhất là 225m dưới mặt biển. Vì thế nó có khí hậu giống như khí hậu nhiệt đới. Ngày nay cư dân không đông lắm, nhưng vào thời Chúa Giêsu, có chín thị trấn ở chung quanh bờ hồ, không thị trấn nào dưới 15.000 dân. Giênêdarét thực ra là tên của một cánh đồng xinh đẹp nằm phía Tây bờ hồ, đó là vùng đất phì nhiêu. Người Do Thái thích chơi “lắp chữ”, họ có ba cách lắp chữ cho Giênêdarét, cả ba cách đều có nghĩa là xinh đẹp.
Bởi chữ kinnor, nghĩa là cây đàn, bởi vì “trái của nó ngọt như tiếng đàn”, hoặc bởi vì tiếng sóng vỗ vui như tiếng đàn. Bởi chữ gan, nghĩa là vườn cây, và chữ sar nghĩa là vua, tức là “vua của các vườn”. Bởi chữ gan, một khu vườn và chữ asher, của cải, tức “vườn đầy của cải”. Tại đây chúng ta đối diện một khúc quanh trong sứ vụ Chúa Giêsu. Lần trước Chúa giảng trong hội đường, bây giờ Ngài ở tại bờ hồ, sẽ ở ngoài đường cái, và toà giảng của Ngài sẽ là chiếc thuyền. Ngài sẽ đi tới bất cứ nơi nào người ta muốn nghe Ngài giảng. John Wesley đã nói: “Các ‘linh đoàn’ của chúng ta hình thành bởi những kẻ phiêu bạt trên các vùng núi non tăm tối, không thuộc về một Giáo Hội, nhưng họ đã được thức tỉnh bởi lời giảng của những người đã theo đuổi họ qua các khu rừng hoang vắng cho tới các làng mạc hẻo lánh hoặc các phố chợ sầm uất, các đồi cao trũng thấp, những người đã dựng cờ thập giá trên các đường phố, cùng ngõ hẻm của các đô thị, trong các thôn xóm, trong các nhà kho, trong các nhà bếp trại quê, v.v… và các việc đó được thực hiện như chưa từng có ai làm kể từ thời các tông đồ”. Wesley còn nói: “một căn phòng tiện nghi, một cái gối quỳ êm ái, và một toà giảng xinh xắn tiện nghi thật, nhưng giảng ngoài đồng cứu được nhiều linh hồn hơn”. Khi hội đường đóng cửa thì Chúa Giêsu giảng ngoài đường, bên bờ hồ…
Trong chuyện này có một điều có thể gọi là bảng liệt kê các điều kiện của một phép lạ.
Có mắt biết nhìn xem. Chúng ta không cần suy nghĩ rằng Chúa Giêsu đã dựng nên bầy cá lớn đó trong trường hợp này. Biển Galilê có nhiều bầy cá đông đảo đến nỗi có thể che đặc mặt biển trong một khu vực rộng lớn. Có lẽ con mắt thấu suốt của Chúa Giêsu đã nhìn thấy bầy cá lớn đó mà những người ngư phủ không thấy. Chúng ta cần cặp mắt biết nhìn. Nhiều người đã thấy nước sôi làm bật cái nắp vung nhưng chỉ một mình James Watt đã nhìn và sáng chế ra máy hơi nuớc. Nhiều người đã nhìn thấy trái táo rơi, nhưng chỉ một mình Isaac Newton đã tìm ra định luật hấp lực của trái đất. Thế giới đầy dẫy những phép lạ cho những đôi mắt biết nhìn xem.
Có tinh thần biết cố gắng. Khi Chúa Giêsu nói vậy, dù rất mệt nhọc, Phêrô cũng sẵn lòng thả lưới một lần nữa. Nhiều người đành chịu thảm bại trong cuộc đời vì họ đã ngã lòng quá sớm.
Có tinh thần dám cố gắng trong trường hợp hầu như tuyệt vọng. Đêm đã qua rồi, đêm mới thuận tiện cho việc đánh bắt. Tất cả hoàn cảnh đều không thuận lợi, nhưng Phêrô nói: “Tuy hoàn cảnh như vậy nhưng nếu Thầy bảo thì chúng con xin vâng”. Chúng ta thường chờ đợi vì thời cơ chưa thuận lợi, nếu cứ đợi cho tới lúc mọi sự đều thuận lợi thì chắc sẽ không bao giờ chúng ta bắt đầu được. Nếu chúng ta theo đúng lời Chúa Giêsu truyền dạy khi Ngài bảo chúng ta làm một việc không thể thực hiện thì phép lạ sẽ xảy ra.
Ba bài Lời Chúa hôm nay nói về 3 bài sai cho ba người được Chúa chọn và sai đi nói về Lòng TN 5-C113
Ba bài Lời Chúa hôm nay nói về 3 bài sai cho ba người được Chúa chọn và sai đi nói về Lòng Thương Xót Chúa:
Isaia trong bài đọc 1, Phaolô trong bài đọc 2 và Simon Phêrô trong bài Tin Mừng. Isaia tự thuật về chính ơn gọi làm ngôn sứ của ông. Chúa đã gọi ông. Ông đã can đảm, sẵn sàng đáp lại: “Tôi đây, hãy sai tôi đi”. Thái độ của Isaia chính là thái độ của Đức Giêsu sau nầy khi Ngài đi vào thế gian: “Này con xin đến để thực thi ý Chúa” (Dt 10,9). Phaolô cho biết khi Chúa hiện ra với ông trên đường đi Đamas và chọn ông làm tông đồ cho dân ngoại, ông khiêm tốn cho mình là một tông đồ hèn mọn nhất, chẳng đáng gọi là tông đồ vì đã bắt bớ Giáo Hội. Ông coi đây là một ân huệ Chúa ban và không dám uổng phí, ông hết lòng hết sức và sẵn sàng đáp lại tiếng gọi ra đi loan báo Lòng Thương Xót Chúa các các dân ngoại để họ tin vào Chúa và được cứu độ. Còn Simon Phêrô đã được Chúa gọi một cách rõ ràng và công khai sau mẻ cá thật nhiều đến nỗi gần rách lưới, Chúa Giêsu nói với ông: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá." Ông Si-môn đáp: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. “Bấy giờ Đức Giê-su bảo ông Si-môn: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta."
Chính Thiên Chúa, bằng cách trực tiếp hay gián tiếp, đã chọn gọi những người làm việc cho Ngài, làm cộng tác viên của Ngài trong công trình thương xót cứu chuộc nhân loại. Ngài đã gọi các tiên tri, các tông đồ, đã gọi bao nhiêu người khác, đã gọi chính chúng ta khi chúng ta lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Qủa thế, Giáo lý Hội Thánh dạy rằng: “Người đã chịu Phép Rửa trở thành phần tử của Hội Thánh, họ không còn thuộc về mình nữa, nhưng thuộc về Đấng đã chết và sống lại vì chúng ta. Từ nay, họ được mời gọi để phục tùng lẫn nhau và phục vụ người khác trong tình hiệp thông của Hội Thánh” (số 1269). Như vậy, hôm nay Chúa cũng kêu gọi chúng ta hãy thu phục lòng người ta. Làm thể nào để thu phục lòng người ta? “Hãy thương xót như Chúa Cha”. Chúa Cha thương xót chúng ta thế nào?
Trong Tông Sắc Dung Nhan Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha trả lời rằng nhìn vào Chúa Giêsu và dung nhan nhân hậu của Ngài, chúng ta thấy được Tình Yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi, là tình yêu tự hiến, viên mãn, hữu hình và chạm tới được bởi vì chính Ngôi Con làm người đã hoàn tất mọi hành vi bằng tình yêu, trong tình yêu và qua tình yêu. Vì thế, trong Ngài, tất cả đều nói về Lòng Thương Xót (số 8§1). Qủa thế, lược lại những trang Tin Mừng, chúng ta thấy rõ ràng cử chỉ tình yêu thương xót của Chúa Giêsu: chạnh lòng thương, chữa bệnh, trừ quỉ, cho ăn, yêu thương, tha thứ, phục sinh kẻ chết… Thật vậy, Thiên Chúa luôn tha thứ, cảm thông và thương xót. Đó là cốt lõi của Tin Mừng và Đức Tin. Lòng Thương Xót tỏ ra sức mạnh vượt thắng tất cả, tỏ ra niềm an ủi khi tha thứ (số 9§1). Chúa Giêsu nói đến hai dụ ngôn: tha thứ mấy lần? (x. Mt 18, 21-22) và tên mắc nợ không biết thương xót (x. Mt 18, 23-33) để nhấn mạnh về tha thứ của con người. Hãy tha thứ cho tha nhân vô hạn như Chúa tha cho ta, nếu không Cha trên trời cũng sẽ đối xử với ta như vậy (x. Mt 18, 35). Để tỏ ra là những người con đích thực của Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót, chúng ta cũng phải sống Lòng Thương Xót trong Năm Thánh này bằng việc tha thứ để có được bình an và hạnh phúc vì vậy,"Chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn" (Ep 4, 26) và "Phúc thay ai thương xót, vì họ sẽ được xót thương" (Mt 5,7). Cuối cùng, Đức Thánh Cha Phanxicô khẳng định Lòng Thương Xót là trách nhiệm của Thiên Chúa, luôn là hành động, là thái độ thường ngày, cụ thể và rõ ràng. Từ đó, con cái Thiên Chúa cũng nhận thấy trách nhiệm của mình mà thương xót nhau, như "nằm trên một cùng bước sóng" với Lòng Thương Xót của Thiên Chúa vậy (số 9§4).
Lòng thương xót Chúa đã làm người và hôm nay hiện diện giữa chúng ta trong Thánh Lễ, trong bí tích Thánh Thể. Chúa Giêsu Thánh Thể là lòng thương xót Chúa ở giữa chúng ta. Vậy, là Kitô hữu, chúng ta hôm nay được Chúa sai đến hiện diện giữa xã hội này để Tân Phúc Âm hóa xã hội. Đức Thánh Cha Phanxico đã nói: “Tân Phúc Âm hóa là thế này: Nhận ra tình yêu thương xót của Thiên Chúa nhờ đó chúng ta nên khí cụ của ơn cứu độ cho anh chị em mình. Con người ngày nay mong đợi điều gì nơi Giáo Hội: đó là Giáo hội đồng hành với họ, làm chứng về điều mình tin, sống tinh thần hiệp nhất đại đồng, đặc biệt liên đới với những người nghèo khổ, cô độc và bị loại trừ. Thế giới hôm nay có quá nhiều người nghèo! Nghèo vật chất. Nghèo tâm linh. Họ đang chờ Tin Mừng có sức mạnh giải thoát vùng ngoại vi do một xã hội vô thần, thao túng gây nên. Họ đang chờ đợi sự gần gũi và liên kết của chúng ta! Nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho chúng ta là bước trước hết khơi gợi lên nơi ta biết trợ giúp người khác. Thiên Chúa đã đến để cứu chúng ta khỏi tình trạng yếu nhược của mình. Và ơn cứu độ của Ngài làm cho chúng ta nhận ra sự hiện diện và sự gần gũi thiết thân của Ngài.”
Trong Thánh Lễ này, chúng ta hãy sốt sắng cảm tạ Chúa đã thương xót chúng ta và thế giới, đồng thời dâng Chúa quyết tâm để đẩy còn thuyền đời ta ra biển xã hội và dùng lời nói và đời sống của chúng ta loan báo lòng thương xót cho mọi người. Amen.
Bài thánh ca “Tin vào tình Chúa” của Cha Mi Trầm viết rằng: “Người đời dạy con phải sống khôn TN 5-C114
Bài thánh ca “Tin vào tình Chúa” của Cha Mi Trầm viết rằng: “Người đời dạy con phải sống khôn ngoan nhưng Chúa dạy con phải sống điên dại.. Người đời dạy con tin vào quyền lực nhưng Chúa dạy con tin vào tình thương. 2. Người đời dạy con nắm giữ thật chặt nhưng Chúa dạy con phát hết cho người. Người đời dạy con sẵn sàng dừng lại nhưng Chúa dạy con sẵn sàng mà đi. 3. Người đời dạy con hãy tin tưởng mình nhưng Chúa dạy con phó thác nơi Ngài.. Người đời dạy con sống vì hiện tại nhưng Chúa dạy con sống vì ngày mai. ÐK: Xin cho con tin vào tình Chúa mà dấn bước đời con. Xin cho con tin vào tình Chúa mà đánh liều đời con”. Quả thế, chủ nghĩa cá nhân và thực dụng của xã hội hôm nay gây ra nhiều mối nguy hại cho cuộc sống, nhất là chúng làm cho các mối tương quan con người với nhau, giữa con người với thiên nhiên và giữa con người Thiên Chúa bị đảo lộn. Thậm chí, nhiều khi nó làm cho chúng ta không nhìn thấy Chúa hiện diện trong đời sống chúng ta và Lời của Ngài không ứng nghiệm nữa! Chính vì thế, Lời Chúa hôm nay, đầu năm Kỷ Hợi này cho thấy Chúa luôn hiện trong mọi cảnh huống của cuộc sống của chúng ta và mời gọi chúng ta phó thác tin vào Lời Chúa vì Lời có sức mạnh đem lại hạnh phúc đích thực cho chính mình, gia đình, giáo xứ, giáo hội và xã hội của chúng ta ngay ở đời này và đời sau.
Trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe kể rằng Chúa Giêsu xuống thuyền của ông Phêrô, thuyền đó là thuyền đánh cá của ông Phêrô, tức là Người đi vào cuộc sống làm ăn hằng ngày của ông. Người bảo ông Phêrô chèo ra chỗ sâu, thả lưới bắt cá, đó là hành nghề của ông. Dựa vào sự hiểu biết, kinh nghiệm tay nghề của mình, ông tự nhủ làm sao Chúa Giêsu biết nghề này sành điệu bằng mình, vì Chúa Giêsu làm nghề thợ mộc mà. Cho nên, Phêrô thành thực nói cho Thầy biết rằng điều Thầy yêu cầu là hoàn toàn sai lầm, “"Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả”. Nhưng, ông Phêrô tin vào sức mạnh kỳ diệu lời của Thầy mình, Lời đã chữa lành cho mẹ vợ khỏi cơn sốt, Lời trục xuất tên quỷ, Lời chữa lành nhiều người đau yếu khác… “Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới". Cho nên, ông gạt bỏ những kinh nghiệm riêng tư, quên đi sự mệt nhọc suốt đêm vất vả nhưng chẳng bắt được con cá nào, để rồi vâng lời Thầy thả lưới trong thái độ tự do, tín thác. Qủa thực, Chúa đã thoả đáp lòng tin của ông bằng mẻ cá lạ lùng đồng thời kêu gọi ông làm ngư phủ lưới người. Nghĩa là từ nay Đức Giêsu không chỉ là một vị thầy, nhưng còn là Chúa của ông.
Tiên tri Isaia và Thánh Phaolô trong hai bài đọc hôm nay đã tin và hiểu rõ sức mạnh lời Chúa nên với sự can đảm, họ đã vất bỏ mọi sự, cất đi những hàng rào khép kín của tính hư tật xấu, tính tự cao tự đại, để chọn Chúa làm gia nghiệp và ra đi rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng cứu độ dù phải đối đầu với nhiều mưu mô xảo quyệt của thế gian, bất chấp những cám dỗ bị lây nhiễm, bị hiểu lầm, hay thất bại dù phải chết vì Đạo hầu mong Lời Chúa được chiếu sáng và Nước Chúa được rộng lan khắp nơi.
Còn chúng ta thì sao? Nhờ việc lắng nghe Lời, sống và thi hành Lời Chúa và giáo huấn của Giáo hội, chúng ta vững tin và đủ sức để đương đầu với những mối nguy hiểm làm lây chuyển đức tin của chúng ta, và nhờ sức mạnh của Lời Chúa, chúng ta có thể phá toang hoang những ngục tù nội tâm vô hình: đó là tính kiêu căng, lòng hận thù, sự gian ác hay mưu mô xảo trá gian tà… Cho nên, Thánh Phaolô trong bài đọc hai nói rõ ràng rằng nhờ Tin Mừng mà các ngài loan báo mà chúng ta hôm nay được cứu thoát, nếu chúng ta giữ đúng như lời ngài đã loan báo, bằng không thì chúng ta có tin cũng vô ích.
Con thuyền đức tin của chúng ta đã ra khơi, có người một năm, hai năm, 5 năm, 15 năm, 20 măm… Chắc chắn chúng ta gặp không ít nhiều khó khăn thiếu thốn và không thiếu những sóng gió bão táp của biển đời, biển tình, biển kinh tế… những điều đó có lúc làm chúng ta cũng e ngại, lo âu hoặc hoảng sợ, hốt hoảng chao đảo dễ mất đức tin nhưng, với Lời Chúa hôm nay, chúng ta hãy tín thác, cậy trông vì có Chúa Giêsu cùng thuyền cùng hội với chúng ta mà đồng hành bên đỡ phù trì thì chắc chắn con thuyền đức tin của chúng ta dẫu có chông chênh nhưng không bao giờ chìm. Thế nhưng, tin vào Chúa và sức mạnh của Lời Ngài đòi hỏi chúng ta từ bỏ tất để theo Ngài, bỏ tất cả ở đây là đặt tất cả dưới Chúa và sử dụng chúng theo ý Ngài để sống và làm chứng cho Chúa và chân lý của Ngài giữa lòng nhân thế hôm nay. Cho nên, dù ai, hạn người nào thiên tài hay bất tài, Chúa vẫn yêu thương, tín nhiệm và trao ban cho ta muôn vàn ân sủng và sứ mạng rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Vì Chúa muốn dùng chúng ta như khí cụ bình an của Chúa để đem yêu thương vào nơi oán thù, đem an bình vào nơi tranh chấp đem chân lý vào chốn lỗi lầm, đem tin kính vào nơi nguy nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng ngõ hầu toàn thể mọi người trên đất nước chúng ta và toàn thể thế giới sống chan hoà yêu thương nhau như anh em một nhà, “tứ hải giai huynh đệ”.
Ước gì qua lời Chúa hôm nay, tựa như Phêrô, tiên tri Isaia và Phaolô, xin cho chúng ta biết tin tưởng tuyệt đối vào Lời Chúa mà dấn bước đời ta theo Chúa là chính nguồn tình yêu, sự thật và sự sáng Chúa. Đồng thời xin cho chúng ta sự khiêm nhường để nhận biết những yếu đuối của chúng ta, và tin vào sức mạnh của Lời Chúa sẽ giúp chúng ta vượt lên yếu đuối, những lần vấp ngã vì chưng Chúa đang ở với chúng ta và quyền năng của Lời Chúa có hiệu lực trong đời sống chúng ta.
Tin mừng Lc 5: 1-11: Thánh Luca kể lại việc Đức Giêsu sau phép lạ mẻ cá trên hồ Tibêria đã mời gọi một số ngư phủ theo Người để trở nên những Tông đồ là những kẻ chài lưới người.
Qua Bí tích Thanh tẩy, Kitô hữu được trao ban một sứ mạng làm sứ giả Tin mừng. Mỗi Kitô hữu TN 5-C115
Qua Bí tích Thanh tẩy, Kitô hữu được trao ban một sứ mạng làm sứ giả Tin mừng. Mỗi Kitô hữu là một người được chính Chúa mời gọi làm cho Nước Chúa trị đến. Mỗi người phải quan tâm đến ơn gọi và sứ vụ loan báo Tin mừng của mình làm sao để cuộc sống mình luôn thể hiện những giá trị Tin mừng, nhờ đó, lôi kéo đựơc người chung quanh theo Chúa.
I. Tìm Hiểu Lời Chúa
1. Bài đọc I: Is 6, 1-2a, 3-6
* Ơn Gọi Của Isaia
Chúa nhật vừa qua chúng ta đã nghe đọc bản văn về ơn gọi của Tiên tri Giêrêmia. Hôm nay, chính Tiên tri Isaia nói cho chúng ta biết ông đã được Thiên Chúa gọi như thế nào và đã giao phó cho ông sứ mạng nào.
Khi Isaia đang cầu nguyện trong đền thờ thì ông nhận được một thị kiến lớn lao: Thiên Chúa mạc khải cho ông sự thánh thiện và vinh quang của Người.
Đối diện với màu nhiệm lớn lao này, Isaia khám phá ra lòng thương sót của Thiên Chúa. Với môi miệng nhơ uế làm sao ông có thể mang Lời Thiên Chúa, nhưng môi miệng ông sẽ được Thiên Chúa thanh luyện. Ông đã manh dạn thưa vâng: Lạy Chúa! này con đây.
Thiên Chúa tìm kiếm những cộng sự cho công trình Cứu độ của Ngài. Nhưng để được gọi cần thiết phải gặp gỡ với Thiên Chúa: gặp Ngài trong đức tin và cầu nguyện là điều cần thiết triệt để, để làm tròn sứ mạng được uỷ thác.
2. Bài đọc II: 1Cr 15, 1-11
* Ơn Gọi Của Phaolô
Sau khi nhắc lại rằng sự Phục Sinh của Đức Kitô là một trong những cứ liệu nền tảng của đức tin, Thánh Phaolô khẳng định trang trọng: Ngài là chứng nhân của Đức Kitô. Ngài đã thấy Đức Kitô Phục Sinh.
Không chuẩn bị gì cho sứ vụ tông đồ, thận chí còn là người miệt mài truy bắt các môn đệ của Đức Kitô, Phaolô đã phải cúi đầu trước một sự thật hiển nhiên: Đức Kitô đã hiện ra sống động với ông.
Cùng lúc khám phá ra ý nghĩa và tầm quan trọng về sự phục sinh của Đức Giêsu; được Thần khí soi dẫn, Phaolô đã hiểu rằng ông có sứ mạng công bố điều này, đặc biệt là cho các dân nước ngoài Do Thái.
Ngày nay, có nhiều dòng tư tưởng khác nhau tìm cách rút ra từ sự phục sinh của Đức Kitô những sự giải thích không có gì là chính thống. Chúng ta cần phải gắn bó với đức tin của Hội Thánh để sống đúng kho tàng đức tin mà các Tông đồ đã để lại. 3. Tin Mừng: Lc 5, 1-11
* Ơn Gọi Của Các tông Đồ
Thánh Luca kể lại việc Đức Giêsu sau phép lạ mẻ cá trên hồ Tibêria đã mời gọi một số ngư phủ theo Người để trở nên những Tông đồ là những kẻ chài lưới người.
Sau khi giảng dạy dân chúng từ trên thuyền của Phêrô, Đức Giêsu nói các ông thả lưới. Cho đến lúc ấy, các ngư phủ đã hoài công vất vả mà không được gì. Ngay ở lần thử đầu tiên các lưới đã đầy cá muốn rách.
Phêrô và các bạn đã bị lôi cuốn. Được Chúa mời gọi không chần chừ, các ông đã bỏ mọi sự để theo Người. Các ông sẽ không bao giờ quay trở lại nữa.
" Chài lưới người" … Tất cả mọi Kitô hữu không ngoại trừ ai đều được mời gọi để trở nên "kẻ chài lưới người". Mỗi người theo khả năng, nghề nghiệp, văn hóa của mình đều được Thiên Chúa kêu mời hãy thả lưới.
II. Gợi ý Suy Niệm
1. Kitô hữu, một ơn gọi: Các bài đọc Kinh Thánh hôm nay trình bày về ơn gọi của ba người mà cuộc đời của họ trước khi được Chúa gọi khác nhau, cũng chẳng có gì là nổi bật, thận chí còn thù địch với Chúa: Isaia, một quí tộc Israel; Phaolô, một người Biệt phái nhiệt thành hăng say bắt bớ các môn đệ Đức Giêsu; và Phêrô cùng các tông đồ đầu tiên, những anh chài lưới tầm thường bên hồ Tibêria. Tuy nhiên qua ơn gọi của các ông, chúng ta cũng nhận ra ơn gọi của mỗi người chúng ta hôm nay, ơn gọi Kitô hữu. Khi nhận lãnh bí tích Thanh Tẩy, không chỉ đơn giản là tin vào Chúa, theo Chúa để trở nên thành viên trong Nước Chúa mà cơ bản đó còn là một ơn gọi để dựng xây Nước Chúa. Nghĩa là cũng như Isaia, cũng như các Tông đồ, cũng như Phaolô, Kitô hữu cũng được mời gọi lên đường loan báo Tin mừng của Chúa đến cho người khác. Kitô hữu cũng chính là những kẻ nhận lãnh sứ mạng đi chài lưới người, đi chinh phục tâm hồn người ta về với Chúa. Xuất thân từ mọi thành phần trong xã hội với nhiều hoàn cảnh, với nhiều khả năng khác nhau, nhưng đều có chung một đức tin, một tình yêu và một ơn gọi, ơn gọi làm Kitô hữu để sống niềm tin vào Thiên Chúa. Thể hiện niềm tin đó qua việc loan báo công trình yêu thương cứu độ của Thiên Chúa cho anh chị em chung quanh.
Kitô hữu là người được gọi để sai đi loan báo; Kitô hữu là các tông đồ của ngày hôm nay. Chúng ta đã ý thức và đón nhận ơn gọi Kitô hữu như thế nào? Hãy tự hỏi lòng mình hôm nay với tư cách Kitô hữu tôi là ai? Tôi đang làm gì để loan báo Tin mừng của Chúa?
Ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi của tình yêu: Nhìn vào các Tông đồ, vào Phaolô hay vào Isaia nếu theo tâm lý bình thường chắc khó mà gọi họ trở nên những cộng sự của mình được vì xem ra chẳng có tài cán hay đức độ gì cả. Thận chí như Phêrô là anh chàng chài lưới quê mùa dốt nát, một Phaolô nhiệt tình bắt đạo là kẻ thù của Kitô Giáo thời các Tông đồ. Thế nhưng, tất cả đều được Chúa tuyển chọn. Vì sao Chúa lại chọn những con người như vậy để sai đi loan báo Tin mừng cứu độ? Không phải vì họ giỏi, không phải vì họ có thế lực cũng không phải vì họ đạo đức thánh thiện hơn những người khác mà chỉ đơn giản là vì Chúa chỉ muốn chọn những ai Chúa muốn. Và Chúa chọn chỉ vì Chúa yêu mà thôi. Chính vì tình yêu mà các ông được chọn. Chúa chọn để minh chứng tình yêu hải hà của người, yêu cả kẻ thù. Với Kitô hữu cũng vậy, được gọi vì yêu và được gọi để sai đi làm nhân chứng và loan báo tình yêu. Ơn gọi Kitô hữu cũng như ơn gọi Tông đồ xuất phát từ tình yêu của Thiên Chúa để ra đi loan báo tình yêu của Người. Một Tình yêu dám chết cho người mình yêu; một tình yêu được thể hiện tròn đầy trong màu nhiệm nhập thể và màu nhiệm Tử Nạn_Phục sinh của Người. Vì yêu, Người đã dám chết cho tội lỗi nhận loại và sống lại để mang lại sự sống, hạnh phúc và tình yêu bất tử cho nhân loại.
Kitô hữu, ơn gọi của tình yêu nên mỗi người trước hết phải khám phá, phải sống huyền nhiệm tình yêu Thiên Chúa để rồi một khi đã được yêu, thì sẽ biết yêu và dám yêu đến cùng. Kiếp sống Kitô hữu không yêu là kiếp sống thừa.
2. Sống ơn gọi Kitô hữu trong hoàn cảnh hôm nay: Giáo Hội Việt Nam qua thư chung của Hội Đồng Giám Mục năm 2003 mời gọi dân Chúa hãy đáp lại lời mời gọi "Ra khơi" của Đức Thánh Cha, qui hướng lời cầu nguyện và hoạt động của Hội Thánh tại Việt Nam vào việc "Loan báo Tin Mừng". Trong thư chung này Hội Đồng Giám Mục đã trình bày khá chi tiết và rõ nét đường hướng loan báo Tin mừng của cả Giáo Hội Việt Nam cũng như phần việc cụ thể của mỗi Kitô hữu. Sống ơn gọi Kitô hữu ngày nay chính là tìm ra cách thế phù hợp để loan báo Tin mừng. Chúng ta cùng trích một số tư tưởng trong thư chung để suy gẫm, tìm hiểu cách sống ơn gọi Kitô hữu thiết thực và hiệu quả trong bối cảnh hôm nay. Trước hết là hãy trở về với nguồn mạch ơn gọi nơi chính Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô, qua việc bắt chước Người: Noi gương Chúa Giêsu Kitô Chúa Giêsu là sứ giả Tin Mừng đầu tiên và vĩ đại nhất …
Để rao giảng Tin Mừng, Ngài đã không biết mệt mỏi đi đến khắp mọi nơi, tiếp xúc với tất cả mọi hạng người, thực hiện rất nhiều việc lạ lùng để làm chứng Nước Chúa đã đến. Xác định rao giảng Tin Mừng theo ý Chúa Cha là lẽ sống (x. Mc 1,38; Lc 4,43) nên Ngài hiến trọn cuộc đời, đến tự nguyện hy sinh cả mạng sống, chấp nhận cái chết tủi nhục trên Thánh Giá để hoàn thành thánh ý Chúa Cha. (TCHĐGMVN, 2003, số 3). Đồng thời, trung thành với truyền thống của Hội Thánh sơ khai. Chúa Giêsu đã thiết lập và uỷ thác cho Hội Thánh nhiệm vụ loan báo Tin Mừng (x. Mc 16,15; Mt 28,19-20). Lệnh truyền này đã trở thành sứ mạng chính yếu của Hội Thánh Chúa Kitô. Hội Thánh không hiện hữu cho mình nhưng cho con người và với con người. Hội Thánh hiện hữu là để loan báo Tin Mừng và làm cho những ai thành tâm đón nhận Tin Mừng trở nên môn đệ Chúa Kitô (x. Mt 28,19) đồng thời quy tụ cho Thiên Chúa mọi con cái tản mác về lại một mối (x. Ga 10, 52). (TCHĐGMVN, 2003, số 4).
Từ đó, Hội Đồng Giám Mục đã đề ra những cách thế phù hợp với những cách sống năng động như cầu nguyện. Nêu gương sống lương tâm công giáo. Trước khi rao giảng bằng lời nói, hãy rao giảng bằng đời sống. Người tín hữu giáo dân hãy nỗ lực cùng với đồng bào xây dựng một nếp sống lành mạnh trong khu phố xóm làng, loại trừ mọi tệ đoan tật xấu. Đăc biệt hãy nêu gương tôn trọng sự sống, tôn trọng phẩm giá con người, sống theo lương tâm ngay thẳng làm chứng về sự hiện diện của Nước Thiên Chúa. Thăm viếng thân hữa các thành viên tôn giáo bạn. Việc thăm viếng các thành viên tôn giáo bạn và nhất là thăm viếng các gia đình cũng như cá nhân ngoài công giáo là trình bày Phúc Âm một cách cụ thể. Thăm viếng để chúc mừng khi vui, an ủi khi buồn, nâng đỡ khi gặp hoạn nạn là những trang Phúc Âm sống động giúp anh chị em ngoài công giáo nhận rõ chân dung Chúa Giêsu Cứu Thế và hiểu biết đạo Chúa một cách chính xác hơn. Và Làm việc bác ái, việc bác ái cụ thể được thấy qua những cứu trợ thiên tai, giúp đỡ người nghèo về mọi mặt. Việc bác ái trong lâu dài phải nhắm đến phát triển toàn diện, giúp người nghèo có một đời sống xứng đáng với phẩm giá con người, vì "Phát triển là tên gọi mới của hòa bình" (x. Progressio Populorum). Những hoạt động xã hội bác ái là những lời rao giảng dễ được đón nhận,
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, chúng ta đựơc Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô yêu thương mời gọi và sai đi loan báo Tin mừng của Chúa. Trong niềm vui tri ân, chúng ta cùng dâng lên Thiên Chúa những lời cầu nguyện chân thành cho Hội Thánh và cho mọi người chúng ta.
1. Ngày nay, sứ mạng Tông đồ được tiếp nối qua các Đức Giám Mục trong Giáo Hội. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức Giáo Hoàng, cho hàng Giám Mục và cho hàng giáo sĩ luôn hằng say nhiệt thành trong sứ mạng loan báo Tin mừng bằng đời sống yêu thương phục vụ của mình.
2. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam thân yêu của chúng ta trong năm thánh Truyền Giáo này thu hoạch được một mùa lúa bội thu nhờ ơn Chúa và nhờ lòng nhiệt thành của mọi thành phần dân Chúa nỗ lực sống đức tin.
3. Mỗi Kitô hữu đều được gọi để trở nên những kẻ chài lưới người, thu phục nhân tâm về cho Chúa, cho Hội Thánh. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người, mọi nhà trong cộng đoàn chúng ta luôn tràn đầy ơn Chúa để biết sống yêu thương, hiệp nhất làm gương sáng lôi kéo mọi người tìm về với Chúa.
* Kết Nguyện: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương chọn gọi chúng con trở nên môn đệ của Đức Giêsu Kitô để loan báo Tin mừng cứu độ của Chúa cho mọi người. Chúng con xin Chúa gia tăng ân sủng và nghị lực để ai nấy đều nhiệt thành ra khơi là cho danh Thánh Chúa vinh hiển và nước Chúa ngày càng phát triển. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Có thể nói chủ đề của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay là “Ơn gọi”. Thiên Chúa muốn con người tham TN 5-C116
Có thể nói chủ đề của Phụng vụ Lời Chúa hôm nay là “Ơn gọi”. Thiên Chúa muốn con người tham gia vào công cuộc cứu chuộc của Ngài. Vì thế, mỗi người đều có ơn gọi làm tông đồ, hay nói cách khác, mỗi người có ơn gọi làm chứùng nhân.
Thiên Chúa không phải là một Thiên Chúa xa cách mà gần gũi với con người, Ngài muốn cho con người gặp Ngài khi Ngài muốn để cho kẻ ấy có kinh nghiệm đặc biệt về Ngài và chọn kẻ ấy làm chứng nhân. Chuyện đã xẩy ra như thế cho Isaia, cho Phêrô và các bạn, cho Phaolô. Chuyện đã xẩy ra cho họ ngày xưa chính là chuyện đời của mỗi người chúng ta, chuyện ơn gọi của cá nhân chúng ta hôm nay.
Dựa trên phép Rửa tội và Thêm sức, mỗi Kitô hữu có nhiệm vụ phải làm chứng cho Chúa trong đời sống thường ngày. Ngày xưa, các Tông đồ đã lãnh nhận sứ mạng đi truyền giáo, ngày nay Giáo hội và mỗi người chúng ta cũng phải tiếp tục công việc của các ngài. Với tư cách là một Kitô giáo dân, mỗi người có trách nhiệm tham gia vào việc tông đồ giáo dân như công đồng Vatican II đã dạy. Việc tông đồ giáo dân phải được thực hiện trong môi trường sống hằng ngày của mỗi người.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Is 6,1-2a.3-8.
Ngày nay Thiên Chúa không còn tỏ mình ra nơi sa mạc hay trên núi nữa. Ngày nay Thiên Chúa ba lần chí thánh tỏ vinh quang của Ngài ra cho tiên tri Isaia trong đền thờ. Trong một thị kiến, Isaia thấy mình đang ở trong đền thờ, qua những cảnh huy hoàng và ngoạn mục ông trông thấy, Thiên Chúa vô cùng thánh thiện, ông cảm thấy mình tội lỗi quá, vô cùng bất xứng nên đã kêu lên:”Khốn thân tôi, chết tôi rồi, vì tôi là một người môi miệng ô uế…” Nhưng khi Thiên Chúa sai thiên thần thanh tẩy miệng lưỡi ông, tha thứ tội cho ông và sau đó gọi ông làm tiên tri, thì ông đầy lòng tin tưởng và mạnh dạn đáp lời:”Có con đây, xin Chúa sai con đi”(Is 6,8). Và Isaia đã trung thành làm chứng về lòng tin của mình.
+ Bài đọc 2: 1Cr 15,1-11.
Tại Corintô, nhiều người chống đối Phaolô, cho rằng ông không đủ tư cách làm Tông đồ. Ngài cũng ý thức về điều đó. Ngài tự coi mình là tông đồ nhỏ nhất như đứa con sinh sau đẻ muộn, nhưng dù sao, ông cũng được Chúa chọn làm tông đồ để đi rao giảng Đấng Phục sinh cho dân ngoại. Ngài đã truyền đạt cho họ những điều chính yếu mà Ngài đã nhận được, đó là mầu nhiệm Phục sinh và lời chứng về Đấng Phục sinh của những người có thẩm quyền.
Ngày nay Giáo hội vẫn rao giảng mầu nhiệm đó, và cũng vẫn trung thành rao giảng vì niềm tin này chính là nền tảng cho đời sống Kitô hữu chúng ta.
+ Bài Tin mừng: Lc 5,1-11.
Không phải vô cớ mà thánh Luca nối kết ơn gọi của Tông đồ với một mẻ cá đặc biệt dồi dào. Theo Ngài, rao giảng Tin mừng là một việc cứu nạn, kéo nhân loại ra khỏi chỗ đắm chìm. Tông đồ là kẻ thu phục người ta. Nói cách khác, một người giải phóng.
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện về mẻ cá lạ lùng. Phép lạ này gợi lên cho ta mấy ý tưởng:
- Sở dĩ có phép lạ này vì Phêrô không tin vào sự thành công của mình, nhưng vì nể lời Chúa ông mới thả lưới.
- Thuyền đầy cá là hình ảnh báo trước là hình ảnh nhân loại sẽ tin theo Chúa, gia nhập vào Giáo hội và Giáo hội sẽ được lan truyền khắp nơi.
- Mẻ cá lạ lùng khiến các ông nhận ra uy quyền của Đức Giêsu và đồng thời nhận ra sự yếu đuối bất lực và thân phận tội lỗi của mình:”Lạy Thầy, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”.
- Các môn đệ cứ đi rao giảng Tin mừng, còn việc có nhiều người ăn năn trở lại, vâng theo Tin mừng hay không, là việc của Chúa.
- Qua biến cố này, các ông đã bỏ mọi sự mà đi theo Chúa. Các ông đã mau mắn đi theo tiếng Chúa gọi để đi truyền giáo.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Sống ơn gọi làm Tông đồ.
I. CHÚA KÊU GỌI CON NGƯỜI.
Qua các bài đọc trong Thánh lễ hôm nay, Giáo hội muốn cho chúng tôi nhận ra ý nghĩa của việc tông đồ trong Giáo hội, để nhờ đó, chúng ta đáp lại tiếng Chúa gọi bằng cách quảng đại dâng hiến cuộc đời cho Chúa và sẵn sàng theo Chúa làm việc tông đồ.
Truyện: Tổng thống Abraham Lincoln.
Một ngày nọ, Tổng thống Abraham Lincoln đi đến thành phố Charleston, tiểu bang South Carolina. Khi đi ngang qua trung tâm thành phố, ông trông thấy người ta đang tổ chức một cuộc đấu giá buôn bán nô lệ. Chứùng kiến cảnh buôn bán người, tận đáy linh hồn ông cảm thấy bị khuấy động lên cơn giận dữ của Thiên Chúa, và một nỗ lực phải làm để cứu những người nô lệ. Do đó ông đã làm một điều độc đáo và bất thường nhất. Ôâng bước vào trong đám đông, khi cuộc trả giá bắt đầu, trước tiên là một em gái nô lệ rất nghèo, ông đã bước ra trả giá trước. Cuộc đấu giá càng lúc càng sôi động, ông tham gia rất tích cực, và sau cùng đã trúng giá, đánh hạ tất cả mọi người. Ôâng trao tiền để lấy người nô lệ. Cô bé gái được đem đến cho ông. Con bé sợ hãi hỏi ông sẽ làm gì đối với nó. Abraham Lincoln trả lời:”Tôi sẽ để cho cô được tự do”. “Tự do? Tự do để làm gì”? Cô bé kinh ngạc hỏi. Ôâng trả lời:”Tự do để làm bất cứ cái gì cô muốn”. Cô bé thắc mắc có phải mình được tự do đi đến bất cứ chỗ nào cô muốn, làm bất cứ điều gì cô thích, nói bất cứ điều gì cô nghĩ, và làm bất cứ nghề nào cô ước muốn. Sau cùng cô bé mỉm cười và nói:”Cháu sẽ đi theo ông”.
Abraham Lincoln đã chứng tỏ cho chúng ta thấy, ông là một con người gương mẫu và biết cách “kêu gọi” dân chúng “theo ông”. Ôâng đã gọi họ bằng chính gương sáng của mình. Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu kêu gọi Phêrô, rồi Giacôbê, Gioan và Anrê cũng đi theo Ngài. Đức Giêsu đã cho họ biết Ngài là ai qua việc giảng dạy, chữa lành, và bằng các đức tính tốt lành, nhân từ và tha thứ của Ngài.
1. Ơn gọi của các Tông đồ.
Hồ nước lớn danh tiếng tại Galilê được gọi bằng 3 tên: biển Galilê, biển Tibêriat và hồ Giênêxaret. Hồ này dài 20,8 km, rộng 12,8 km. Hồ ở vào chỗ trũng của mặt đất, nơi sâu nhất là 225 mét dưới mặt biển, vì thế nó có khí hậu giống khí hậu nhiệt đới. Ngày nay cư dân không đông đúc lắm, nhưng vào thời Đức Giêsu, có 9 thị trấn chung quanh bờ hồ, không thị trấn nào dưới 15.000 người.
Đức Giêsu rao giảng Tin mừng ở đây, dân chúng chen nhau lại gần để nghe Ngài giảng. Việc đó diễn tả hiệu quả hấp dẫn do lời giảng dạy của Ngài. Vì dân chúng quá đông nên Đức Giêsu phải xuống thuyền của ông Simon đang đậu gần bờ, ra xa bờ một chút để có thể dễ dàng giảng dạy… Giảng dạy xong, Đức Giêsu bảo ông Simon đưa thuyền ra chỗ nước sâu mà bắt cá. Simon, một ngư dân dày kinh nghiệm trong nghề chài lưới, đã cho Chúa biết kết quả thạm bại: sau một đêm cực nhọc vất vả mà chả bắt được con cá nào. Ôâng nói đúng, nhưng không biết nghĩ ngợi thế nào, ông đã thưa với Chúa:”Vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới”. Kết quả thật bất ngờ, cá nhiều vô kể đến nỗi lưới muốn rách.
Đây là một phép lạ? Hồ Giênêsaret có nhiều cá. Nhưng suốt đêm các ông không bắt được gì mà bây giờ bắt được nhiều như thế là một phép lạ. Biết được chỗ có nhiều cá, để bảo Simon thả lưới phải do sự hiểu biết của Thiên Chúa. Thường thì ban ngày ít đánh được cá hơn ban đêm, đây ban đêm không được gì mà ngày thì lại được cá nhiều quá sức tưởng tượng thì phải coi là cái gì khác thường. Chính những người bắt cá xác nhận là phép lạ.
Trước mẻ cá lạ lùng này, ông Simon sụp lạy dưới chân Ngài và thưa:”Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi”. Cả ông Giacôbê và Gioan cũng kinh ngạc như ông. Nhung Đức Giêsu phán bảo ông Simon:”Đừng sợ ! từ nay con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài.
Đây là những môn đệ đầu tiên đi theo Ngài. Họ đi theo Ngài từ đây. “Đi theo” theo nghĩa thần học, động từ này ám chỉ sự dâng hiến chính mình, thoát khỏi mọi sự ràng buộc. Vì thế ở đây ta liên tưởng đến ý nghĩa từ bỏ của cải vật chất (Mc 10,21), từ bỏ cha mẹ, bạn bè và tất cả (Lc 5,11).
2. Ơn gọi của tiên tri Isaia.
Tiên tri Isaia, trong bài đọc 1, được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa và nghe tiếng các Thiên Thần Sốt mến luân phiên tung hô:”Thánh, thánh, thánh, Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, trời đất đầy vinh quang Chúa”. Điều đó khiến ông run sợ và cảm thấy mình bất xứng, nên đã thốt lên lời:”Vô phúc cho tôi, tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn”. Trước sự khiêm tốn ấy, Chúa sai sứ thần đến thanh tẩy ông bằng than lửa hồng, ông trở nên thanh sạch và được Chúa tuyển chọn, ông đã can đảm đáp lại:”Này con đây, xin hãy sai con”.
3. Ơn gọi của tông đồ Phaolô.
Thánh Phaolô, trong bài đọc 2, sau khi được Chúa kêu gọi và cải hóa từ tay bắt bớ Đạo Chúa, nay trở nên một vị Tông đồ nhiệt thành truyền bá giáo lý của Chúa, là thầy dạy dân ngoại. Ngài đã khiêm tốn thú nhận mình hèn mọn nhất trong các Tông đồ, nhưng nay được như thế này là nhờ ơn Chúa ban. Bởi ngài đã can đảm đáp lại tiếng Chúa gọi khi thưa với Chúa:”Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì”?
Phaolô là con người đầy nhiệt huyết, đã đi vòng quanh đế quốc La mã 4 lần, đã đưa dân ngoại vào Đạo. Làm sao cắt nghĩa được nội tâm của con người đầy lửa ấy? Thưa vì người đã gặp gỡ Chúa Kitô. Cuộc gặp gỡ đó đã đảo lộn cuộc đời Phaolô, từ một kẻ bắt bớ tín hữu trở nên một Tông đồ nhiệt thành. Tất cả là ơn của Chúa và Ngài vui mừng vì được trả giá rất cao để “Ơn Chúa không ra vô ích”: 5 lần bị đánh đòn 39 trượng, 3 lần bị tra tấn, một lần bị ném đá, 3 lần bị đắm tầu một ngày một đêm chơi vơi trong lòng biển (2Cr 12,24-25).
4. Ơn gọi của chúng ta.
Chúa vẫn còn kêu gọi mọi người chúng ta, và ngày nay nhu cầu ấy càng to lớn. Và vẫn còn có những người đáp lại lời Ngài. Một số người (như các Tông đồ) được kêu gọi để tận hiến mình, đi theo Đức Kitô bằng một phương thế “chuyên nghiệp”. Nhưng không phải mọi Kitô hữu đều được kêu gọi theo Đức Kitô bằng cách ấy.
Bằng phép Rửa tội, chúng ta cũng được kêu gọi đi theo Đức Kitô. Nhưng đối với một người bình thường, đi theo Đức Kitô có nghĩa là gì? Là sống xứng danh một Kitô hữu trong ngành nghề của mình ở bất cứ nơi nào mình có mặt. Còn có nhiều cách phục vụ Đức Kitô và Tin mừng của Ngài hơn nữa.
Một số người Kitô hữu khi ý thức về tội lỗi mình thì tự ý miễn trừ cho mình những việc hoạt tông đồ hay những việc phục vụ dân Chúa. Họ nghĩ rằng Chúa không gọi họ làm việc tông đồ. Họ cho rằng việc tông đồ là thuộc phạm vi linh mục và tu sĩ nam nữ. Đọc lịch sử Giáo hội, ta thấy khi Chúa muốn để lại một ấn tượng sâu xa về quyền năng của Ngài, Chúa không ngừng dùng những phương thế khác thường, nghĩa là dùng quyền năng Chúa biến đổi họ tức thời, như Chúa đã biến đổi Phaolô, người bách hại Đạo trở thành người hăng say rao giảng Tin mừng, như Augustinô, một thanh niên trụy lạc trác táng, thành một giám mục thánh.
II. SỐNG THEO ƠN GỌI.
1. Ơn gọi là hồng ân của Thiên Chúa
Mọi người đều có ơn gọi. Ơn gọi phải phát xuất từ Thiên Chúa, con người chỉ biết đón nhận với lòng thành thực và biết ơn. Con người không chọn Chúa, mà chính Chúa chọn con người: Isaia tin có Chúa đang hiện diện trong Đền thờ, nhưng ông không dám nghĩ tới việc được “thấy” Chúa và được Ngài “gọi” (bài đọc 1). Phaolô đang trên đường lùng bắt các môn đệ Đức Kitô thì được ơn gọi (bài đọc 2). Còn Phêrô và các bạn chài thì đang lo đánh lưới bắt cá nhưng lại được gọi làm những kẻ quăng lưới bắt người (bài Tin mừng). Đúng như lời Đức Giêsu nói:”Không phải các con chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”.
Chúa có thể gọi ta trong những hoàn cảnh đặc biệt, nhưng ngày nay, Chúa thường gọi con người trong những hoàn cảnh rất thông thường và qua trung gian. Dù được gọi trong hoàn cảnh đặc biệt hoặc trong cuộc sống bình thường thì tất cả là hồng ân Thiên Chúa. Con người phải đáp lại tình thương yêu của Chúa.
2. Con người bất xứng trước ơn gọi.
Thiên Chúa đã kêu gọi mỗi người và mỗi người đều cảm thấy mình bất xứng, tội lỗi. Chúng ta có 3 ví dụ về ơn gọi:
- Isaia thốt lên:”Khốn thân tôi, tôi chết mất, vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế”(bài đọc 1).
- Phaolô tự nhận “Tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông đồ, tôi không đáng được gọi là tông đô, vì đã ngược đãi Hội thánh của Thiên Chúa”.
- Phêrô, sau mẻ cá lạ lùng, sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà thưa:”Lạy Chúa, xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi”.
Tuy thấy mình bất xứng nhưng vẫn được Thiên Chúa tín nhiệm. Đáp lại hồng ân của Chúa, các ông cố gắng chu toàn nhiệm vụ Chúa trao:
- Isaia mạnh dạn thưa lại với Chúa:”Dạ, có con đây, xin sai con đi”.
- Phaolô dám khoe:”Tôi đã làm việc hơn tất cả các vị khác, nhưng không phải tôi, mà là Thiên Chúa ở cùng tôi”.
- Còn Phêrô thì “đưa thuyền vào bờ và đi theo Ngài”
3. Cần có ơn Chúa trợ lực.
Ôâng Simon thưa với Đức Giêsu:”Thưa Thầy, chúng con đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả”. Đúng vậy, ông đã mất công toi cả một đêm với kinh nghiệm đánh cá. Nhưng Đức Giêsu thuyết phục ông thử thêm một lần nữa mà ông đã thành công rực rỡ giữa thất bại. Câu chuyện này nhắc cho các ông và cho chúng ta một bài học: Khi Đức Giêsu bắt đầu tham dự vào sự việc, thì lập tức sự việc ấy sẽ đổi thay. Những lần buông lưới trước đó – có lẽ từ 20 đến 30 lần suốt đêm ấy – các môn đệ làm một mình. Nhưng lần cuối cùng, Đức Giêsu bắt đầu can dự vào, thì sự tình quay hẳn 180 độ. Việc diệu kỳ xẩy ra đã vượt quá ước mơ của họ.
Trên mảnh đất chuyên môn của mình, Simon tưởng mình có khả năng, nhưng Đức Giêsu đã đánh trúng ông, đã chỉ cho ông thấy những giới hạn của mình: ông không là gì cả nếu không có Ngài. Chúng ta cũng thế, trong chiếc thuyền của chúng ta, chúng ta thường phải nhường chỗ cho một Đấng Khác, để thả lưới ở nơi mà chúng ta không tự mình làm được.
“Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấéc bổng trái đất lên”. Nếu Archimède dám khẳng định như vậy thì tại sao ta lại không dám xác tín rằng: Dựa vào Đức Giêsu, Đấng đã hiến mạng vì tình yêu, tôi có thể chinh phục mọi tâm hồn? Như Simon đã dựa vào Lời Chúa mà thả lưới và bắt được mẻ cá lớn, thì chúng ta cũng có thể trở thành người chinh phục các tâm hồn cho Chúa một khi chúng ta biết dựa vào quyền năng của Chúa hơn là vào sức riêng mình.
Truyện: Thánh Gioan Vianney.
Thánh Gioan Vianney, lúc còn là chủng sinh, học rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần học, thừa lệnh Đức Giám mục đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tiến tới chức linh mục chăng?
Tuy đã cố hết sức học hành, Vianney vẫn không thể trả lời được câu nào cho trôi chảy.
Nổi nóng, vị giáo sư đập bàn nói:”Vianney, anh dốt đặc như con lừa ! Với một con lừa như anh, Giáo hội hy vọng làm nên trò trống gì “?
Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả lời:”Thưa cha, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3000 quân Philitinh. Vậy với cả con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao”?
4. Thực hành ơn gọi tông đồ.
a) Về phần các Tông đồ.
Sau khi Đức Giêsu về trời, các Tông đồ chia nhau ra đi truyền giáo. Các ông đã hăng say hoạt động, hy sinh rất nhiều vì danh Chúa và sau cùng đã nhận lấy cái chết để tỏ lòng trung thành với Chúa..
Trong bài đọc 2, chúng ta được nghe thánh Phaolô bộc bạch tâm tư của mình. Phaolô là một con người đầy nhiệt huyết, đã vòng quanh đế quốc La mã 4 lần, đã đưa dân ngoại vào Đạo. Làm sao cắt nghĩa được nội tâm của con người đầy lửa ấy? Thưa vì ngài đã gặp gỡ Chúa:”Rồi sau cùng Ngài đã hiện ra với tôi như một đứa con sinh non”(1Cr 15,8). Phải, cuộc gặp gỡ đã đảo lộn cuộc đời Phaolô, từ một kẻ bắt bớ tín hữu trở nên một Tông đồ nhiệt thành. Tất cả là ơn của Chúa và ngài được vui mừng trả giá rất cao để “Ơn Chúa không ra vô ích”: 5 lần bị đánh đòn 39 trượng, 3 lần bị tra tấn, 1 lần bị ném đá, 3 lần bị đắm tầu, 1 ngày 1 đêm chơi vơi trong lòng biển (2Cr 12,24-25).
b) Về phía Giáo hội.
Trước khi về trời, Đức Giêsu trao sứ mạng truyền giáo cho các Tông đồ:”Các con hãy đi khắp nơi giảng dạy cho muôn dân”. Các ngài đã ra đi rao giảng và cũng đã chu toàn sứ mạng Chúa trao phó. Nối tiếp các Tông đồ, Giáo hội tiếp tục sứ mạng đó như Công đồng Vatican II đã dạy:
“Vốn phát sinh từ ơn gọi làm Kitô hữu, việc tông đồ giáo dân không bao giờ có thể khiếm khuyết trong Giáo hội. Trong những buổi đầu Giáo hội, việc tông đồ này thật là hăng say và kết quả biết bao ! Chính Thánh kinh chứng minh cách phong phú điều đó (Cv 11,19-21; 18,26; Rm 16,1-16). Càng ngày dân số càng gia tăng, khoa học và kỹ thuật càng tiến triển, những mối tương quan mật thiết hơn giữa con người không những mở rộng môi trường hoạt động tông đồ giáo dân đến bao la, môi trường mà phần lớn chỉ dành riêng cho họ, và còn tạo nên nhiều vấn đề mới đòi hỏi họ phải đặc biệt lưu tâm học hỏi” (Apostolicam Actuositatem, đoạn 1).
Theo giáo huấn của công đồng, ta thấy người giáo dân thực hành việc tông đô có hiệu quả hơn các linh mục và tu sĩ. Bởi vì các Linh mục đâu có đến các gia đình hay gặp gỡ được những người không có đạo, và họ cũng đâu có đến nhà thờ để nghe các linh mục giảng. Chính các giáo dân là những Tông đồ cụ thể, trực tiếp và hữu hiệu nhất.
Lời Chúa hôm nay, cùng với lời kêu gọi của công đồng Vatican II đối với mỗi Kitô hữu trong việc phục vụ Giáo hội, nhắc nhở cho chúng ta về sứ vụ truyền giáo. Sự thường chúng ta hay tìm đủ mọi lý do để từ chối hay không tích cực đáp lại lời mời gọi này. Chúng ta thường viện lý do cho rằng mình không đủ phẩm chất để theo Chúa, thiếu kiến thức, thiếu lòng đạo đức, không xứng đáng được mời gọi đến phục vụ. Tuy nhiên, Thiên Chúa không mời gọi chúng ta theo sự xứng đáng, phẩm chất hay kiến thức. Ngài gọi chúng ta theo ân sủng và tình yêu của Ngài. Khi Thiên Chúa mời gọi, nếu chúng ta đón nhận ơn gọi của Ngài, Ngài sẽ biến đổi cuộc đời chúng ta, làm cho chúng ta trở nên giống như Ngài, và ban cho ta những ơn cần thiết để thi hành điều Ngài muốn chúng ta làm (Lc 1,38).
Thiên Chúa không bao giờ khước từ thiện chí của chúng ta. Bất kể chúng ta là ai, có khả năng gì, yếu đuối thế nào, Ngài luôn cần chúng ta trong công việc phục vụ Giáo hội của Ngài. Ngài luôn mời gọi chúng ta đi theo Ngài và trở thành những Tông đồ đồng hành với Ngài trong công cuộc cứu rỗi nhân loại.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho mọi người chúng ta biết tin theo Chúa, tham gia vào công việc tông đồ giáo dân một cách tích cực, quảng đại để đem về cho Chúa nhều linh hồn, theo kinh của thánh Inhaxiôâ Loyola:
“Lạy Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại, Biết phụng sự Chúa cho xứng đáng, Biết cho đi mà không cần tính toán, Biết chiến đấu mà không sợ thương tích, Biết làm việc mà không tìm an nghỉ, Biết xả thân mà không tìm một phần thưởng nào khác Ngoài việc biết mình đang thi hành thánh ý Chúa.
Kinh Thánh xác định: “Vâng lời trọng hơn của lễ” (1 Sm 15:22; Tv 50:8-9). Điều đó chứng tỏ TN 5-C117
Kinh Thánh xác định: “Vâng lời trọng hơn của lễ” (1 Sm 15:22; Tv 50:8-9). Điều đó chứng tỏ rằng nhân đức vâng lời rất quan trọng. Thật vậy, khi Chúa Giêsu mặc xác phàm làm người, và theo nhân tính, Ngài cũng đã run sợ trước “chén đời” quá đắng, nhưng Ngài vẫn bỏ ý riêng mình mà hoàn toàn xin vâng theo ý Chúa Cha (Mt 26:39 và 42; Mc 14:23 và 36; Lc 22:42).
Vâng lời liên quan sức mạnh. Vâng lời KHÓ đối với người yếu, vâng lời DỄ đối với người mạnh. Ở đây là sức mạnh tinh thần chứ không là sức mạnh thể lý, bởi vì có người yếu đuối thể lý nhưng mạnh mẽ tinh thần, có người mạnh mẽ thể lý nhưng yếu đuối tinh thần. Vâng lời là tuân phục, tạo nên sức mạnh. Thánh Giacôbê khuyên: “Anh em hãy phục tùng Thiên Chúa. Hãy chống lại ma quỷ; chúng sẽ chạy xa anh em” (Gc 4:7). Tuyệt chiêu!
Với ít nhiều kinh nghiệm, ai cũng biết rằng Yếu và Mạnh là hai thái cực đối nghịch nhau. Yếu – Mạnh có thể về thể lý, tâm sinh lý, tinh thần, năng lực,… Theo khái niệm đó, mỗi người đều có sở trường (yếu điểm, điểm mạnh) và sở đoản (nhược điểm, điểm yếu). Con người có vẻ mạnh mẽ nhưng lại yếu đuối, con kiến có vẻ yếu đuối nhưng lại mạnh mẽ. Thật vậy, con kiến có thể kéo một vật nặng hơn thể trọng của nó gấp nhiều lần, còn con người thì không thể làm như vậy!
Như một chân lý đời thường, người ta thường nói: “Lý của kẻ mạnh bao giờ cũng thắng”. Vật chất và đồng tiền có thể đổi trắng thay đen. Nhưng Thánh Phaolô minh định: “Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12:10). Đó là dạng nghịch lý mà người đời không thể hiểu nổi, nếu không cảm nghiệm được chính “sự yếu đuối” của Đức Kitô, nhất là khi Ngài ở trong Vườn Dầu và trên Thập Giá.
Cái yếu có thể hóa cái mạnh – và ngược lại, cái không có thể thành cái có – và ngược lại. Có những cái không thực sự không đáng sợ, nhưng có những cái không lại rất đáng sợ. Những cái-không-rất-đáng-sợ đó là gì? Đây là vài “cái không rất đáng quan ngại” mà các thánh tiết lộ:
1. “KHÔNG có đức tin thì KHÔNG thể vui trong Thiên Chúa, KHÔNG có lòng lương thiện thì cũng KHÔNG vui với người, càng KHÔNG thể chăm sóc người” (Thánh Bênađô).
2. “KHÔNG có đức ái mà đi truyền giáo thì giống như mình hái quả trên cây rồi tự mình đốn ngã cây vậy” (Thánh Inhaxiô Loyola).
3. “Nếu KHÔNG có đức ái thì KHÔNG có bất kỳ đức hạnh nào, giống như nếu KHÔNG có mặt trời thì cũng KHÔNG có một tinh tú nào cả” (Thánh Tôma Aquinô).
4. “Nếu ai KHÔNG có đức ái thì dù có đức tin chính xác thì đều KHÔNG thể có hạnh phúc vĩnh viễn; bởi vì trong tất cả các nhân đức thì đức ái chiếm hàng thứ nhất” (Thánh Hiêrônimô).
5. “Hơi thở hôi là bằng chứng bao tử bị hư hoại, dễ nói lời châm biếm người khác là bằng chứng tâm hồn băng hoại, người KHÔNG có đức ái thì miệng chỉ nói lời làm tổn thương người khác” (Thánh Ambrôsiô).
Thật tuyệt vời với lời ngôn sứ Isaia cho biết: “Năm vua Út-di-gia-hu băng hà, tôi thấy Chúa Thượng ngự trên ngai rất cao; tà áo của Người bao phủ Đền Thờ. Phía bên trên Người, có các thần Xê-ra-phim đứng chầu. Mỗi vị có sáu cánh: hai cánh để che mặt, hai cánh để che chân và hai cánh để bay” (Is 6:1-2). Các vị ấy đối đáp tung hô: “Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!” (Is 6:3). Trong các Thánh Lễ, hằng ngày Giáo Hội chúc tụng và tôn vinh Thiên Chúa bằng lời kinh này.
Các vị đó là các thần Xêraphim (seraphim), nghĩa là “lửa cháy”, được mô tả có 6 cánh, luôn bay quanh ngai tòa Thiên Chúa và ca tụng: “Thánh, thánh, thánh”. (Seraphim là số nhiều – đọc là ˈsɛr.ə.fɪm, tiếng Do Thái là שְׂרָפִים – đọc là śərāfîm; số ít là seraph, tiếng Do Thái là שָׂרָףśārāf; tiếng Latin là seraphi[m], seraph[us]; tiếng Hy Lạp là σεραφείμ.
Và vô cùng lạ lùng, tiếng tung hô đó làm cho các trụ cửa rung chuyển, và khói toả mịt mù khắp Đền Thờ. Lúc đó, ngôn sứ Isaia vừa ngạc nhiên vừa hoảng sợ nên đã phải thốt lên: “Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh!” (Is 6:5). Ông cảm thấy mình quá yếu đuối và nhỏ bé. Khi được diện kiến Tôn Nhan Chúa, người ta mới biết rõ mình bất xứng tới mức nào, phàm ngôn không thể đủ từ ngữ để diễn tả. Thiết tưởng có một cách tương đối để chúng ta khả dĩ cảm nhận: Khi bình thường, chúng ta ra bờ biển và thấy vẫn bình thường, nhưng khi trời chuyển mưa hoặc giông tố, chúng ta sẽ cảm thấy mình quá bé nhỏ trước sự hùng vĩ của biển. Và thật đáng sợ!
Được chứng kiến tỏ tường, ngôn sứ Isaia kể: “Một trong các thần Xêraphim bay về phía tôi, tay cầm một hòn than hồng người đã dùng cặp mà gắp từ trên bàn thờ. Người đưa hòn than ấy chạm vào miệng tôi và nói: ‘Đây, cái này đã chạm đến môi ngươi, ngươi đã được tha lỗi và xá tội’. Bấy giờ tôi nghe tiếng Chúa Thượng phán: ‘Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta?’. Tôi thưa: ‘Dạ, con đây, xin sai con đi” (Is 6:6-8). Ông cảm thấy lo sợ, nhưng ông vẫn cảm thấy vui thích, vì thế ông đã phấn khởi nhận lời Chúa sai đi. Ông thấy mình yếu đuối nhưng rồi ông đã hóa nên mạnh mẽ!
Chúng ta may mắn là Kitô hữu vì được thông phần ba chức vụ ngay khi lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy: Tư tế, ngôn sứ, và vương đế. Trở thành Kitô hữu nghĩa là chúng ta được sai đi trên những “nẻo đường” khác nhau, với các sứ vụ khác nhau, thậm chí cả mức độ cũng khác nhau. Vì thế, chúng ta phải ý thức trách nhiệm mà cảm tạ Thiên Chúa: “Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ, Ngài đã nghe lời miệng con xin. Giữa chư vị thiên thần, xin đàn ca kính Chúa, hướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ. Xin cảm tạ danh Chúa, vì Ngài vẫn thành tín yêu thương, đã đề cao danh thánh và lời hứa của Ngài trên tất cả mọi sự. Ngày con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại, đã gia tăng nghị lực cho tâm hồn” (Tv 138:1-3). Ngài trao trọng trách cho chúng ta, nhưng Ngài không phó mặc chúng ta, mà Ngài luôn che chở và độ trì mọi nơi, mọi lúc.
Mọi loài đều phải khâm phục Thiên Chúa vì Ngài là Đấng Toàn Năng duy nhất: “Lạy Chúa, mọi đế vương dưới trần đều cảm tạ khi nghe những lời miệng Ngài phán ra. Họ sẽ ca ngợi đường lối Chúa: Vinh quang Chúa vĩ đại dường bao! Cho dù con gặp bước ngặt nghèo, Chúa vẫn bảo toàn mạng sống con. Địch thù đang hằm hằm giận dữ, Ngài ra tay chận đứng, lấy tay uy quyền giải thoát con” (Tv 138:4-5). Do đó, mỗi chúng ta cũng phải không ngừng chân nhận, tôn vinh và cầu xin Ngài: “Việc Chúa làm cho con, Ngài sẽ hoàn tất; lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang” (Tv 138:8).
Một trong ba chức vụ mà chúng ta dễ nhận thấy là nhiệm vụ ngôn sứ, không hẳn là phải loan báo Tin Mừng bằng lời nói, mà là hành động, cách sống, sáng tác (thơ, văn, nhạc, họa,...) hoặc viết lách. Thánh Phaolô nói: “Thưa anh em, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng tôi đã loan báo và anh em đã lãnh nhận cùng đang nắm vững. Nhờ Tin Mừng đó, anh em được cứu thoát, nếu anh em giữ đúng như tôi đã loan báo, bằng không thì anh em có tin cũng vô ích” (1 Cr 15:1-2). Tin thì phải chứng minh đức tin đó ra, như Thánh Giacôbê nói: “Đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2:17 và 26). Đó là sống đức tin một cách cụ thể và tích cực.
Có gì thì chia sẻ cái đó, không thể giữ riêng cho mình. Thánh Phaolô xác định và chứng minh: “Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh. Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với Nhóm Mười Hai. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. Tiếp đến, Người hiện ra với ông Giacôbê, rồi với tất cả các Tông Đồ. Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non” (1 Cr 15:3-8).
Tiếp theo, thánh nhân khiêm nhường cho biết: “Thật vậy, tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu; trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi. Tóm lại, dù tôi hay các vị khác rao giảng, thì chúng tôi đều rao giảng như thế, và anh em đã tin như vậy” (1 Cr 15:9-11). Những lời chân thành như rót vào tai, như được uống những giọt mật ngọt ngào vậy. Cũng giống như ngôn sứ Isaia, Thánh Phaolô thấy mình yếu đuối nhưng rồi ông lại hóa nên mạnh mẽ!
Như một đoạn phim phóng sự qua trình thuật Lc 5:1-11 (≈ Mt 4:18-22; Mc 1:16-20), Thánh sử Luca tường thuật sự việc: Một hôm, Đức Giêsu đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân chúng chen lấn nhau đến gần Ngài để nghe lời Thiên Chúa. Ngài thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Đức Giêsu xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simôn, và Ngài xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Ngài ngồi xuống, và từ trên thuyền Ngài giảng dạy đám đông.
Giảng xong, Ngài bảo ông Simôn: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Ông Simôn vừa gãi đầu vừa đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng VÂNG LỜI Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc 5:5). Ông Phêrô ngần ngại lắm, vì ông là ngư dân nên ông biết con nước này không có cá. Tuy nhiên, ông vẫn thực hiện vì vâng lời Sư Phụ. Tốt lắm! Lạ lùng thay, họ đã bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm. Một phép lạ nhãn tiền, và chỉ có Thiên Chúa mới làm được đại sự kỳ diệu như vậy, chứ chẳng một thần linh nào có thể làm được.
Rất rõ ràng, thế nên ông Simôn Phêrô run sợ vì cảm thấy mình quá nhỏ bé và yếu đuối, ông liền sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”. Một câu thú nhận trên cả sự tuyệt vời! Chúa chỉ mong chúng ta như vậy thôi. Ngài muốn thấy chúng ta tự nhận mình là tội nhân, luôn cảm thấy yếu đuối. Đó là khiêm nhường, và rồi hồng ân và lòng thương xót của Ngài sẽ tác động mà biến đổi người yếu thành người mạnh, nhỏ thành to, không thành có.
Nhìn mẻ cá vừa bắt được, ông Simôn và mọi người có mặt ở đó đều kinh ngạc. Cả hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan, bạn chài với ông Simôn, cũng kinh ngạc như vậy. Họ cứ nhìn nhau, mắt chữ O và miệng chữ A mà chẳng nói được lời nào. Bình thường thì con nước này làm gì có cá, thế mà… Ôi chao, vô cùng lạ lùng!
Đúng là kỳ diệu quá chừng. Thấy vậy, Chúa Giêsu trấn an ông Simôn: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”. Mọi người thở phào nhẹ nhõm. Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Đại Sư Giêsu. Ông Phêrô đã biến đổi từ một người yếu để trở thành người mạnh, nhờ Đức Giêsu Kitô, và được làm Giáo hoàng tiên khởi của Giáo hội chiến đấu – tức là Giáo hội trần gian. Chúng ta cũng phải bỏ tất cả để theo Ngài: Thói hư, tật xấu, tội lỗi, kiêu căng, ích kỷ, lười biếng, thù hận, lọc lừa, đểu cáng, khoe khoang, xu nịnh, phe cánh, tham lam, ghen ghét,…
Lạy Thiên Chúa duy nhất và toàn năng, xin tha thứ và nâng đỡ chúng con, xin biến đổi chúng con từ những con người yếu đuối trở thành những con người mạnh mẽ, để chúng con loan truyền Thánh Danh Ngài và Lòng Xót Thương của Ngài. Xin Đức Mẹ dạy chúng con luôn biết xin vâng như Mẹ. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-Làm-Người và Đấng Cứu Độ của chúng con. Amen.
Trong Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật tuần trước, chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu đã đồng TN 5-C118
Trong Phụng Vụ Lời Chúa của Chúa Nhật tuần trước, chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu đã đồng hóa ơn gọi và số phận của Người với các ngôn sứ, vì Người chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa, Đấng luôn hiện diện trong mọi sứ điệp của tất cả các ngôn sứ để chuyển thông thánh ý Thiên Chúa cho con người, để mời gọi con người hướng lòng lên Thiên Chúa và sống theo các đòi hỏi của Thiên Chúa. Hơn nữa, Chúa Giêsu còn chính là “con đường hoàn hảo nhất” (1Cor. 12:31), là mẫu gương của đức yêu thương tuyệt hảo như Thánh Phaolô nói đến trong “bài ca đức ái” trong Thư thứ nhất gửi Tín Hữu Corintô. Điều này có thể khiến chúng ta tưởng rằng Lời Chúa là những gì tuy thật cao siêu linh thánh nhưng lại xa rời thực tại đời sống, hay có thể gây trở ngại hoặc phiền toái cho đời sống thực tế của chúng ta. Đây là một sự lầm tưởng lớn lao vẫn xảy ra trong mọi thời đại. Đây cũng là lý do khiến các ngôn sứ thường bị khước từ và bách hại. Đây cũng là lý do Lời Chúa và giáo huấn của Hội Thánh không được đón nhận và thực hành!
Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta cho thấy rằng Lời Chúa Giêsu không phải chỉ là thuần thiêng, nghĩa là chỉ giới hạn trong lãnh vực siêu nhiên, nhưng còn mang tính cách thực tế, nghĩa là gần gũi và gắn liền với đời sống tự nhiên con người, khi thuật về thuật về việc Thánh Phêrô, sau khi “đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết” (Lc 5:5) nhưng nhờ vâng theo lời Chúa Giêsu để “đẩy thuyền ra chỗ nước sâu và thả lưới bắt cá”(Lc 5:4), nên đã “bắt được rất nhiều cá; lưới các ông hầu như bị rách” (Lc 5:6). Chúa Giêsu yêu mến và cứu độ con người chúng ta cách toàn diện, cả hồn lẫn xác. Nhưng có một điều Người đòi hỏi nơi chúng ta để Người ban phúc cho chúng ta: đó là lòng tin yêu của ta dành cho Người, để đón nhận và thực hành các lời dạy của Người, như được ghi nhận trong Thánh Kinh và giáo huấn của Hội Thánh.
Thật vậy, với những người làm nghề đánh cá như Phêrô, mức độ đời sống vật chất của họ gắn liền với thành quả của công việc chài lưới, với số cá họ bắt được. Cá là tiền, là bạc, là cơm no áo ấm, là tất cả những gì mà tiền bạc có thể mua được! Ngoài việc cầu cho trời êm biển lặng, họ dựa vào sức lực, tài năng, kinh nghiệm và sự chịu khó của bản thân mình để chài lưới đánh cá. Đối với một người đánh cá chuyên nghiệp như Phêrô, sau một đêm cực nhọc mà chẳng đánh bắt được gì, quả là một thất bại ê chề, một nỗi buồn lo tê tái! Ở đây, Phêrô đã học được sự bất lực của mình trước sự nghiệt ngã của thực tế của biển đời! Chính trong giây phút này, giây phút Phêrô nhận ra sự bất lực của mình, lại là giây phút ông nhận biết quyền năng của Chúa Giêsu và mãnh lực của Lời Người!
Phêrô có thực sự tin rằng Chúa Giêsu, tuy là một bậc thầy đáng kính đáng mến với đời sống khiêm nhu khả ái và những lời giảng dạy cao siêu, nhưng vốn chỉ là một người thợ mộc thành Nazareth và chưa hề có kinh nghiệm với biển khơi, biết cách giúp ông bắt được nhiều cá không? Có lẽ Phêrô không xác tín điều này đâu! Nhưng Phêrô vẫn vâng theo lời Chúa Giêsu để thả lưới, vì ông mến Chúa, nể Chúa và không muốn làm mất lòng Chúa. Ông thà chấp nhận cực nhọc thêm một chuyến ra khơi nữa mà chưa hẳn sẽ kiếm được gì, hơn là làm mất lòng Chúa.
Rồi mẻ cá lạ đã làm Phêrô và mọi người bỡ ngỡ! Phêrô cảm nghĩ gì khi ông “sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người rằng: Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi” (Lc 5:8). Các nhà chú giải Thánh Kinh thường cho rằng lời thú tội của Phêrô ở đây là hệ quả của việc ông cảm nghiệm sự hiện diện đầy uy nghi thánh thiện của Thiên Chúa nơi Đức Kitô qua mẻ cá lạ. Đây cũng là cảm nghiệm của tất cả những ai được Chúa tỏ mình, như cảm nghiệm của ngôn sứ Isaia trong bài đọc một hôm nay khi ông thưa cùng Chúa: “Vô phúc cho tôi! Tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn, tôi ở giữa một dân tộc mà lưỡi họ đều nhơ nhớp, mắt tôi đã trông thấy Đức Vua, Người là Chúa các đạo binh” (Is 6:5). Trước sự hiện diện của Thiên Chúa toàn thánh, không ai cảm thấy mình thanh sạch cả!
Nhưng chắc hẳn còn một lý do nữa khiến Phêrô nói thế; đó là sự ngờ vực hay yếu tin của ông trước lời Chúa Giêsu truyền dạy ông ra khơi thả lưới. Chính lòng mến phục của ông dành cho Chúa Giêsu đã giúp vượt thắng sự ngờ vực và yếu tin để thực hành lời Chúa truyền dạy và được chứng kiến mẻ cá lạ. Một khi đức tin được củng cố, ông không quyến luyến với lợi nhuận mà mẻ cá lạ sẽ mang lại, nhưng “đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người” (Lc 5:11), để trở thành “kẻ chinh phục người ta” (Lc 6:10). Ở đây, Phêrô và các môn đệ đã có một chọn lựa và quyết định khôn ngoan và sáng suốt khi chọn Chúa Giêsu trên tất cả mọi sự!
Vâng theo lời Chúa với lòng tin yêu và từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa mãi mãi là sự chọn lựa, là quyết định, và là chương trình hành động của tất cả các thánh trong lịch sử Hội Thánh. Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII, Đấng Kế Vị Thánh Phêrô và có công khai mở Công Đồng Vaticanô II, chắc hẳn đã từng chiêm ngắm gương vâng lời vì yêu của Thánh Phêrô, nên đã chọn câu “vâng lời và bình an” làm tôn chỉ cho đời mục tử của ngài. Và ngài đã nên thánh như lòng mong ước.
Sự hiện diện của Hội Thánh Công Giáo trên khắp thế giới hôm nay với bao nhiêu ngôi thánh đường, bao nhiêu tu viện, bao nhiêu công trình nghệ thuật, bao nhiêu công cuộc từ thiện bác ái, bao nhiêu gương hy sinh xả kỷ tuyệt vời của các thánh đều là kết quả của những sự chọn lựa và quyết định vâng theo Lời Chúa với lòng tin yêu, từ bỏ mọi sự để theo Chúa, để chọn Chúa, để được Chúa biến đổi thành những kẻ chinh phục con người bằng tình yêu cứu thế nơi các tín hữu đích thực của Chúa Kitô!
Với trình thuật Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn chúng ta nhận biết rằng: Như Người đã bước xuống chiếc thuyền của Phêrô, Người cũng muốn bước vào con thuyền của đời sống chúng ta; và như Phêrô đã nhờ vâng theo lời Chúa nên đã được chứng kiến mẻ cá lạ và từ bỏ mọi sự để theo Người và trở thành tông đồ của Người, chúng ta cũng sẽ chứng kiến biết bao điều huyền diệu trong cuộc đời chúng ta nhờ tin yêu và vâng theo lời Chúa và trở thành những môn đệ chân thành của Người.
Trái lại, nếu vắng bóng Chúa Giêsu trong con thuyền cuộc đời hay từ khước vâng theo lời Chúa để bước theo Chúa trong tin yêu, chúng ta sẽ mãi mãi ở lại trong sự mệt mỏi chán ngán trước sự hạn hẹp của sức mình, những sự nghiệt ngã của biển đời đen bạc, những sự phù phiếm của trần gian, những sự gian dối của tình đời! Bao vấn nạn trong đời sống cá nhân, gia đình, cộng đoàn, xã hội và Giáo Hội trên thế giới hôm nay chẳng qua chỉ là kết quả tất nhiên của việc đánh mất hay suy giảm lòng kính sợ tin yêu đối với Thiên Chúa, việc khước từ sự hiện diện của Chúa Giêsu, việc bất phục Lời Chúa và giáo huấn tốt lành chân thực của Hội Thánh.
Ave Maria, xin Mẹ giúp con luôn biết đón tiếp Chúa Giêsu Con Mẹ vào con thuyền của đời con, biết hết lòng tin yêu và vâng theo lời Chúa, biết mau mắn từ bỏ mọi sự để theo Người, để được trở nên những môn đệ của Người, những kẻ chinh phục tha nhân bằng tình yêu của Tin Mừng cứu độ. Amen.
Một chiếc thuyền đánh cá, trở thành toà giảng dạy và rồi biến thành biểu tượng của Giáo hội truyền TN 5-C119
Một chiếc thuyền đánh cá, trở thành toà giảng dạy và rồi biến thành biểu tượng của Giáo hội truyền giáo.
(Lc. 5,1-11)
1. Một chiếc thuyền đánh cá…
Chúng ta sẽ được thấy Luca vẽ bức tranh này một cách rất tài tình, khi đặt việc Đức Giêsu kêu gọi những môn đệ đầu tiên trong bối cảnh một mẻ lưới lạ lùng, quanh chiếc thuyền đánh cá
- Theo Phúc Âm Máccô và Mátthêu, hành động đầu tiên của Đức Giêsu khi thi hành sứ vụ là kêu gọi các môn đệ. Còn trong Phúc Âm Luca, đầu tiên Đức Giêsu lại được giới thiệu xuất hiện một mình đứng trước đám đông, rồi chỉ sau đó Người mới kêu gọi các môn đệ.
+ Trước tiên là "Simon", chủ chiếc thuyền mà lát nữa Đức Giêsu sẽ ngồi vào vị trí của ông. Chỉ trong có ít dòng mà tên ông được nói tới năm lần, trong đó có một lần và là lần đầu tiên ông được gọi là Simon-Phêrô
+ Rồi đến "hai con ông Zêbêđê là Giacôbê và Gioan, bạn chài với ông Simon"
+ Cả ba ông, Phêrô, Giacôbê, Gioan, được kêu gọi trước tiên, sẽ là những chứng nhân đặc tuyển được chứng kiến việc hồi sinh cho con gái ông Giairô, việc Chúa biến hình sáng láng trên núi Taborê (Lc.9,28) và vào riêng vườn Giệt Mt 26,37.
- Khung cảnh là "ven bờ Biển hồ Ghennêxarét": Đức Giêsu giảng dạy bên bờ hồ, bao quanh Người là đông đảo dân chúng chen lấn nhau "để nghe lời Thiên Chúa ". Luca kể: Có hai chiếc thuyền đậu gần đó. Còn "những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới", sau khi đã đi đánh cá suốt đêm trở về mà chẳng được con cá nào.
R. Meynet nhận xét: "Đức Giêsu ở bên bờ hồ, bao quanh Người là đông đảo dân chúng chen lấn nhau. Trong khi đó, những người dân chài đang lo toan công việc thường ngày của họ: họ đang giặt lưới. Đám đông có đó, nhưng dân chài (cả 3 môn đệ đầu tiên Phêrô, Giacôbê, Gioan) họ lại không tham dự cùng với đám đông. Đám đông đang lắng nghe lời Chúa, còn họ đang giặt lưới" ("L’Évangile selon saint Luc. Phân tích tu từ", tập 2, trg 70).
2. Trở thành tòa giảng …
Bỗng dưng mọi sự bắt đầu đảo lộn. Đức Giêsu xuống một chiếc thuyền, "thuyền đó của ông Simon và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút".
Thế là từ đây hai người, Đức Giêsu và ông Simon, là những kẻ "đồng hội đồng thuyền" dấn thân vào cùng một cuộc phiêu lưu: Simon, người dân chài của Biển hồ sát cánh liền kề với Đức Giêsu, người đang "ngồi" trong tư thế của một vị tôn sư dạy dỗ các môn sinh của mình, để ngỏ lời với đám đông. "Con thuyền của Phêrô đã trở thành tòa để giảng dạy" (Sđd).
Ngày nay, trong các đám đông vận động hoặc biểu tình, ta cũng thường thấy cảnh diễn giả, người vận động đứng trên mui xe, nóc nhà để cho mọi người dễ thấy và nhất là để nói cho mọi người dễ nghe. Họ biến mui xe, nóc nhà thành diễn đàn; còn Đức Giêsu biến con thuyền thành toà thuyết giáo di động. (Nhà thờ di động)
3. và cũng là biểu tượng Giáo hội truyền giáo.
Giảng xong, Chúa Giêsu nói " Hãy chèo ra chỗ nước sâu, (ra khơi: duc in alto) mà thả lưới bắt cá", giờ đây Đức Giêsu lệnh cho ông Phêrô như vậy. "Bắt cá", chuyện đó các ông đã vất vả "suốt cả đêm rồi mà không bắt được gì cả" dù rằng đêm tối vẫn là thời điểm thích hợp nhất cho việc đánh cá. Vậy mà, đang lúc các bạn chài người Nadarét của ông từ chối đề nghị kia của Đức Giêsu, thì Simon lại đầu hàng trước lệnh của người dân quê miền đồi núi Nazaret ấy, tức là Giêsu, thợ mộc vốn chẳng biết gì về chuyện chài lưới cả, ông đáp: "Thưa Thầy, dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới".
- Lời của Đức Giêsu tỏ ra rất hữu hiệu, vì mẻ lưới bắt được rất nhiều cá, đến nỗi lưới hầu như bị rách; họ phải "làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp", dẫu sao hai thuyền đều đầy cá đến gần chìm.
Thế là ông liền quỳ gối sấp mặt dưới chân người khách trên thuyền của mình như sấp mặt trước "Đức Chúa" vậy:"Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi".
- Câu trả lời mà Simon nhận được từ Đức Giêsu sẽ đánh dấu một khúc quanh quyết định cho cuộc đời của ông:"Đừng sợ, từ nay anh sẽ bắt người như bắt cá" (=lưới người).
+ "Anh sẽ bắt người": sát nghĩa là: anh sẽ bắt những con người sống, có nghĩa là anh sẽ giựt lên những con người đang sống, anh sẽ kéo họ ra khỏi thế lực của sự ác để bảo đảm cho họ được sống an lành. Là "ngư dân, dân chài", Simon-Phêrô vẫn sẽ giữ nghề đánh cá, nhưng cái nghề đi tìm cá ban đêm của ông, một khi thay đổi đối tượng: cá “người,” thì cũng sẽ thay đổi ý nghĩa.
"Từ nay", sứ mệnh của ông sẽ là lôi kéo người ta ra khỏi vòng kiềm tỏa của sự ác và cái chết, mà thời đó người ta vốn dùng hình ảnh biểu tượng là chỗ nước sâu, để đưa họ đến cõi sống.
- Thế rồi, sau khi đã đưa thuyền vào bờ, Simon-Phêrô, Giacôbê và Gioan "bỏ hết mọi sự mà theo Đức Giêsu " "để dấn thân vào con đường mà theo kiểu nói của Ph. Bossuet và J. Radermakers, sẽ là một cuộc thả lưới lâu dài nhất và phi thường nhất trong cả cuộc đời của các ông" ("Đức Giêsu, Lời ban Ân sủng theo thánh Luca", tr.183).
Nếu Chúa Giêsu biến thuyền Phêrô thành toà giảng và thành biểu tượng của giáo hội truyền giáo (ra sâu bắt người sống), thì ta cũng có thể biến nhiều thứ thành toà giảng để bắt người sống. Ta có thể thấy khó mà sánh kịp với một Phanxicô Xavie, biến thuyền thành toà, biến đất thành đế, (nâng niu bàn chân Việt) biến biển thành nước thánh tẩy, để đưa 100 ngàn, và ngài còn dự định xa nữa, nhưng Chúa đã gọi ngài về lúc 46 tuổi (1506-1552), khi tại đảo Thượng Xuyên ngay cửa khẩu Quảng Châu, mắt hướng về Trung Quốc cánh đồng sẽ bội thu. Nếu ta khó có thể sánh kịp một góc nhỏ của Phanxicô Xavie, thì ta không nên thua một vị khác, biến bốn bức tường thành toà giảng, và thành nơi câu các linh hồn sống.
Trong “Truyện Một tâm hồn” thánh nữ Terexa Hài đồng Giêsu có thuật lại một hy sinh rất đẹp của thánh nữ: “Một lần tại nhà giặt, con ngồi đàng trước một chị. Chị này giặt khăn tay, chốc chốc lại làm bắn nước bẩn vào con. Thoạt đầu, con muốn là ngay ra lau mặt cho chị ấy biết để đừng làm bắn nước bẩn vào con nữa. Nhưng nghi lại như thế là dại, vì bỏ mất những hạt ngọc người ta tặng cho mình một cách rất đại lượng, và con đã thôi không tỏ vẻ khó chịu gì hết. Hơn nữa, con lại cố nén mình để ước ao nước bẩn ấy bắn lên con rất nhiều. Qua nửa giờ, con đã cảm thấy sự vui thú được vấy nước bẩn. Con định bụng hễ sau này có dịp lại đến chốn đất lành ấy để được làm giầu (hạt ngọc) không mấy khó khăn”.
Chỗ khác, chị thánh còn nói: “Với lòng kính mến Chúa, thì dù cúi xuống đất nhặt một cây kim nhỏ, ta cũng cứu được một linh hồn.
Một lần nọ, chị coi nhà liệt khuyên Chị thánh mỗi ngày nên đi bách bộ ngoài vườn 15 phút. Chị thánh coi lời khuyên đó như một mệnh lệnh. Bữa kia vào lúc quá trưa, một chị trông thấy Chị thánh bước đi khó khăn quá, mới thương hại bảo rằng:
- Chị về nằm nghỉ có lẽ lợi hơn đi bách bộ, đi như thế chỉ thêm mệt.
Chị thánh thưa lại:
- Vâng chính thế: nhưng chị có biết em lấy sức gì để đi được không ? Em đi để làm ích cho một vị truyền giáo, với ý nghĩ: ở cõi xa xăm kia, có vị truyền giáo dường như đã kiệt sức vì mải miết theo đuổi công cuộc mở mang nước Chúa: em muốn dâng lên Chúa những bước đi mệt nhọc này để vị tông đồ kia đỡ nhọc mệt.
Hãy biến bàn học, bàn giấy, quày hàng, cỗ máy… thành những toà giảng, để câu, chài, bắt nhiều người sống về cho Chúa, ít ra là như cách bắt của chịTêrêxa trên. Amen.
Người xưa dạy con cháu rằng: “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”. Nhưng nhìn vào xã hội TN 5-C120
Người xưa dạy con cháu rằng: “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”. Nhưng nhìn vào xã hội ngày nay ta thấy rất nhiều người chẳng muốn làm, chỉ chực chờ ăn. Những loại người này có thể gọi là Đại Lãn thời @.
Chuyện xưa kể rằng: Một ngày nọ, Đại Lãn đến bên một cây sung to. Chao ôi, bao nhiêu là quả chín! Lại nữa, thỉnh thoảng một quả rơi xuống bên gốc cây. Hắn nghĩ ngay ra một diệu kế. Cần phải nằm ngửa, há to miệng, thế nào cũng có quả rơi đúng miệng. Lúc đó, hắn sẽ nhai ngon lành, mà chẳng cần phải hoài công leo trèo, hái lượm gì… Nhiều quả sung lần lượt rơi chung quanh mình, nhưng chẳng có một quả nào rơi vào miệng hắn. Vừa đói, vừa mệt, hắn đành nuốt nước bọt thất vọng đứng dậy. Thành ngữ ''Há miệng chờ sung'' hay “Đại Lãn chờ sung'' từ đó đã gán cho những kẻ lười biếng mà lại đòi có cái ăn, cái để...
Chuyện ngày nay kể rằng: cứ đất nào đẹp, địa thế thuận lợi thì lãnh đạo sẽ quy hoạch để cướp đất, phân lô và bán đất. Các quan chức này chỉ thấy đất là thấy vàng mà không nhìn thấy biết bao mồ hôi người dân đã đổ ra trên mặt đất này từ bao đời nay. Họ giống như Đại Lãn cứ tưởng há miệng là sung rơi trúng cho mà ăn, nhưng họ đã lầm! Chân lý luôn thắng. Những người không làm mà đòi ăn đều thất bại đắng cay. Điển hình là TP Đã Nẵng với cái tên Vũ Nhôm làm bình phong cho các quan chức để thâu tóm đất giá rẻ mạt mà bán với giá trên trời nay cũng đang bóc lịch 17 năm và trả lại cho đất nước cả hàng ngàn tỉ. Và đắng lòng hơn là chẳng cần quy hoạch theo chương trình phát triển đất nước, nhưng vẫn to tiếng đuổi dân chiếm đất như Thủ Thiêm để bây giờ chín rõ mươi mươi không có quy hoạch, và tuyên bố trả lại cho dân, cho giáo xứ, cho Dòng Thủ Thiêm... Gần đây nhất là VRLH, những Đại Lãn thời @ cũng ngang nhiên giải toả để làm gì thì không có văn bản rõ ràng. Họ chỉ thấy đất vàng và muốn chiếm mà đâu nghĩ đất đã có chủ từ rất xa xưa , giáo hội Công giáo đã khai phá , và cho dân trồng cấy. Người dân bao đời đã gìn giữ cho con cháu chứ đâu nghĩ rằng một đất nước dường như không còn luật pháp, không đối thoại, không ra toà xét xử mà tự dưng bị mất nhà, mất đất trước những ngày xuân đoàn tụ gia đình. Chúng ta tin rằng chân lý sẽ thắng vì “Có làm thì mới có ăn – Không dưng ai dễ mang phần cho ta”.
Bài phúc âm hôm nay nhiều người nghĩ đơn giản là chỉ cần vâng nghe lời Chúa là có mẻ cá kỳ diệu. Chúa chẳng bao giờ ban cho kẻ lười biếng dư thừa. Chúa chỉ chúc phúc cho những ai đã vất vả cực nhọc được nhìn thấy công lao của mình bỏ ra thật xứng đáng.
Phúc âm kể rằng anh em nhà ngư phủ Simon và Anre đã vất vả đánh cá cả đêm mà chẳng được con nào. Họ vật vã với sóng gió biển cả suốt đêm. Họ luôn phải đối mặt với biết bao hiểm nguy. Thế nhưng lưới vẫn nhẹ, thuyền vẫn rỗng vì chẳng bắt được con cá nào. Ánh bình minh hôm nay không đem lại cho họ niềm vui. Niềm hân hoan của ngày mới không đến với họ. Họ thất vọng nhiều hơn vui. Một đêm vất vả chẳng được gì là dấu chỉ cho một ngày cơm bữa no bữa đói. Lòng buồn vời vợi. Họ ngồi giặt lưới trong tâm trạng nặng trĩu những âu lo. Thuyền lứơi của họ xem ra đã vô dụng. Bỗng dưng Thầy Giêsu lạichỉ cho họ cách bắt cá. Hãy thả lưới bên mạn thuyền sẽ có cá. Họ đã làm và đã thấy điều kỳ diện.
Quả đúng là “Trời không bao giờ phụ ta”. Trời luôn chúc phúc cho những ai thành tâm thiện chí sẽ không đói khổ bao giờ. Chúng ta hãy tin tưởng vào chân lý luôn thằng, sự cần cù của chúng ta luôn được chúc phúc từ Thiên Chúa.
Năm mới Nhâm Dần đang bắt đầu, chúng ta hãy xin Chúa chúc lành cho công việc chúng ta một năm thuận buồm xuôi gió. Một năm luôn được nhìn thấy thành quả của mình sau những ngày tháng vất vả vun trồng.
Ước gì mỗi người chúng ta dầu trong hoàn cảnh nào, cũng không bỏ cuộc nhưng luôn tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa sẽ trợ giúp những ai tin tưởng cầu xin Ngài. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết chạy đến với Chúa và kêu cầu Chúa trong những lúc khó khăn. Amen.
Tin mừng Lc 5: 1-11: Nếu mỗi một Chúa Nhật đều có một chủ đề để làm nổi bật lên ý nghĩa của Phụng Vụ được cử hành, thì Chúa Nhật hôm nay, chủ đề chính đó là nói về ơn gọi và sứ mạng loan báo Tin Mừng.
Tuy nhiên, để trở thành một ơn gọi, cần phải có tương quan hai chiều, đó là: Chúa gọi và lời TN 5-C121
Tuy nhiên, để trở thành một ơn gọi, cần phải có tương quan hai chiều, đó là: Chúa gọi và lời đáp trả của mỗi người. Nhưng để một ơn gọi có giá trị trước mặt Chúa, con người cần phải có một sự cảm nghiệm sâu sắc về tình yêu giữa Thiên Chúa và bản thân.
Đây chính là mẫu số chung cho các ơn gọi mà Phụng Vụ hôm nay đề cấp đến.
1. Ơn gọi của Isaia và các Tông đồ
Trong bài đọc I, chúng ta thấy việc Chúa chọn và gọi tiên tri Isaia qua việc Người tỏ cho ông thấy vinh quang chói lòa trong đền thờ.
Trước cảnh huy hoàng và tráng lệ đó, ông nhận ra Thiên Chúa là Đấng vô cùng Thánh Thiện, toàn năng, trong khi ấy, Isaia là một người tội lỗi, bất xứng! Nhưng khi được Thiên Chúa thanh tẩy, khiến ông trở nên trong sạch..., rồi người gọi ông trở nên tiên tri cho Người, ông đã mau mắn đáp lại trong sự tin tưởng và đầy quyết tâm: “Có con đây, xin Chúa sai con đi” (Is 6,8).
Sang bài đọc II, thánh Phaolô trình thuật hành trình rao giảng của ngài bị nhiều người chống đối, chê bai đủ điều và cho rằng ngài không xứng đáng để trở thành Tông đồ. Phaolô không chối cãi, không đôi co hay tìm cách kháng chế, nhưng ngược lại, ngài đã luôn nhận mình là con người thấp hèn vì đã bắt bớ, hành hạ Giáo Hội một thời, hơn nữa lại được chọn và gọi sau hết so với các Tông đồ, nên bản thân chỉ như là đứa trẻ sinh non...
Nhưng nhờ ân sủng và tình thương của Thiên Chúa, nên ngài đã trở nên vị Tông đồ lừng danh về mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh.
Sang bài Tin Mừng, thánh sử Luca trình thuật việc Đức Giêsu gọi và chọn các môn đệ đầu tiên trong bối cảnh mẻ cá lạ nơi bờ biển.
Khởi đi từ việc Đức Giêsu mượn chiếc thuyền của Simon để làm chỗ đứng giảng dạy, rồi tiếp theo là lệnh truyền thả lưới bên phải mạn thuyền, và cuối cùng là một mẻ cá lạ!
Đứng trước những sự trùng khớp và nhiệm mầu như vậy, Simon đã sụp lạy dưới chân Đức Giêsu và thưa: “Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi”. Cả ông Giacôbê và Gioan cũng kinh ngạc như ông. Thấy vậy, Đức Giêsu đã phán bảo các ông: “Đừng sợ! từ nay con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài.
2. Sứ điệp Lời Chúa
Qua các bài đọc hôm nay, chúng ta thấy sứ điệp Lời Chúa toát lên một điểm chung, đó là: Chúa gọi và chọn những người Chúa muốn. Mọi ơn gọi đều phát xuất từ Chúa do tình thương của Người. Điều quan trọng, con người phải ý thức rằng: mình chẳng là gì trước mặt Chúa, nhưng lại được Chúa yêu thương và tuyển chọn. Phần còn lại, đó là đương sự cảm nghiệm được tình thương của Chúa và mau mắn đáp lại là thôi.
Chúa không chọn ai khi người đó còn đang trong tình trạng kiêu ngạo, vì thế, Người chỉ gọi và chọn những ai có một tấm lòng khiêm nhường thẳm sâu và cảm nghiệm được tình yêu của Chúa trên cuộc đời mình.
Mặt khác, qua phép lạ mẻ cá lạ, Đức Giêsu mặc khải cho chúng ta thấy:
Trước quyền năng của Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được! Mẻ cá lạ đã minh chứng cho chúng ta thấy điều đó, đồng thời cũng cho thấy sự bất lực, giới hạn của con người, vì thế, con người có làm được việc gì là hoàn toàn dựa vào ơn Chúa.
Cá đầy thuyền là hình ảnh tiên báo về một Giáo Hội rộng khắp nơi nơi và sứ mạng loan báo Tin Mừng đến tận cùng trái đất của người môn đệ.
Sự dứt khoát từ bỏ mọi sự để đi theo Chúa của các môn đệ cho ta thấy: người môn đệ của Chúa, muốn theo Chúa thì phải dứt khoát từ bỏ những ràng buộc như tiền bạc, danh vọng, chức nghiệp và ý riêng để đi theo và thi hành ý muốn của Thiên Chúa.
Như vậy, Chúa chọn và gọi ai thì Người sẽ cho họ cảm nghiệm được Ngài là Đấng quyền năng, yêu thương và con người là bất xứng, để những người được gọi sẽ đi từ ngỡ ngàng đến vâng phục; từ vâng phục đến niềm tin và rồi ý thức mình chẳng là gì vì bất xứng, nên chỉ là dụng cụ Chúa dùng để ra đi thi hành sứ vụ của Người mà thôi!
3. Ơn gọi của chúng ta và lời đáp trả
Từ ơn gọi của các tiên tri, đến ơn gọi của các Tông đồ và cuối cùng là ơn gọi của mỗi người chúng ta.
Câu chuyện ơn gọi của ngôn sứ Isaia, Phaolô, Phêrô và các bạn trong các bài đọc hôm nay, cũng là mẫu số chung cho ơn gọi của mỗi người.
Ngày chúng ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta được Chúa chọn để trở thành Kitô hữu, thành môn đệ của Ngài và nhất là trở nên chứng nhân của lòng thương xót mà chính mình đã cảm nghiệm.
Ơn gọi đó là ơn gọi phổ quát cho hết mọi người, vì thế, sứ mạng loan báo Tin mừng không chỉ dành riêng cho các linh mục hay tu sĩ, mà là cho hết thảy những ai đã trở thành Kitô hữu.
Nhiều khi chúng ta nghĩ rằng mình không xứng đáng để trở thành sứ giả của Chúa, hay nhiều khi đùn đẩy và coi như một gánh nặng, lại có khi thi hành nhưng kiêu ngạo và tự phụ...!
Tất cả những thái độ đó đều không phù hợp với chúng ta là những người tin và đi theo Chúa cũng như chung chia sứ mạng với Ngài.
Thái độ cần có đối với mỗi người, đó là: khiêm nhường, ý thức mình bất xứng nhưng được Chúa thương, sẵn sàng để Người biến đổi như tiên tri Isaia, Phaolô, Phêrô...
Thiết nghĩ, với ơn Chúa, chúng ta sẽ làm được tất cả. Archimède đã khẳng định: “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng trái đất lên”.
Điểm tựa của chúng ta là chính Đức Giêsu, nếu chúng ta tựa vào Ngài, chúng ta sẽ làm được mọi chuyện. Chúng ta mặc lấy Ngài, chúng ta sẽ có sức hút lạ thường, chẳng khác gì các môn đệ bắt được một mẻ cá lạ!
Mong sao mỗi người chúng ta khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, đều ý thức được trách nhiệm, bổn phận cao quý của mình là trở nên sứ giả cho Thiên Chúa trong lòng xã hội hôm nay!
Ước gì mỗi người biết chu toàn trách vụ trong lòng mến, để nhờ sự quảng đại dấn thân của mỗi người, chúng ta sẽ làm cho nhiều người nhận biết Chúa và tin theo Ngài để được sự sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu, ngày nay vẫn còn quá nhiều người chưa tin hay không biết đến Chúa. Xin Chúa ban cho sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội được nhiều người quan tâm, quảng đại và dấn thân để ra đi loan báo Tin Mừng cứu rỗi cho anh chị em chưa biết đến Chúa. Amen.
Từ rất xa xưa, có lẽ từ lúc con người hiện diện trên trái đất, ý niệm về sự cao cả thánh thiện của TN 5-C122
Từ rất xa xưa, có lẽ từ lúc con người hiện diện trên trái đất, ý niệm về sự cao cả thánh thiện của Thượng đế đã hình thành trong suy nghĩ của họ. Nếu Đấng Tối Cao là Đấng Thánh, thì con người phàm trần lại mang nhiều tội lỗi. Nếu “Ông Trời” là cao cả, thì con người lại quá thấp hèn. Giữa Thượng đế và con người, có sự cách biệt rất xa, như trời với đất. Vì vậy, con người phải luôn khiêm tốn nhận mình là tội nhân và không dám đến gần thánh nhan Ngài. Chúng ta thấy tư tưởng này nơi ngôn sứ Isaia (Bài đọc I). Theo quan niệm của người Do Thái, vì Thiên Chúa là Đấng chí thánh, nên ai thấy Ngài thì sẽ phải chết. Khi nhìn thấy Chúa, Isaia đã hoảng sợ, nghĩ mình sắp chết nên la lên: “Khốn thân tôi, tôi chết mất, vì tôi là người môi miệng ô uế“. Nhưng, Isaia không chết mặc dầu được nhìn thấy Thiên Chúa. Trình thuật việc Chúa gọi ông Isaia là một bước tiến quan trọng trong tiến trình mạc khải của Cựu ước: tức là con người có thể đến gần Thiên Chúa để gặp gỡ Ngài mà vẫn bảo toàn tính mạng. Thiên Chúa yêu thương bao dung, đón nhận con người mặc dù họ tội lỗi bất xứng. Isaia không những không phải chết, mà Chúa còn chọn và gọi ông cộng tác với Chúa để truyền đạt sứ điệp của Ngài cho dân chúng, kêu gọi họ vững tâm cậy trông vào Chúa và thực thi những điều Ngài truyền dạy. Từ tâm trạng lo sợ hãi hùng, ông đã mạnh dạn thân thưa với Chúa: “Dạ con đây, xin sai con đi“.
Vào thời Đức Giêsu, người Do Thái vẫn giữ quan niệm về sự cách biệt giữa Thiên Chúa với con người. Khi chứng kiến mẻ lưới lạ lùng, Phêrô cũng thốt lên như ngôn sứ Isaia năm xưa: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”. Đức Giêsu đã đến trần gian để khai mở một kỷ nguyên mới. Từ nay, Thiên Chúa và con người không còn cách biệt nhau, vì Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta. Trước sự kinh hoàng của Phêrô và những người dân chài, Đức Giêsu đã trấn an: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”. Không những Đức Giêsu xoá bỏ hàng rào ngăn cách giữa Thiên Chúa với con người, Người còn mời gọi họ cộng tác với Người trong sứ vụ loan báo Tin Mừng, để quy tụ mọi con cái Thiên Chúa về một mối. Thiên Chúa, Đấng chí thánh, đã đến gặp gỡ con người. Đức Giêsu rảo khắp các thành phố làng mạc để loan báo Tin Mừng cứu độ. Mầu nhiệm nhập thể là một bước tiến mới nữa trong tiến trình mạc khải của Chúa. Thiên Chúa đã làm người, và con người có thể chạm tới Người, có thể nghe tiếng Người và chiêm ngưỡng dung nhan của Người. Thiên Chúa đã trở nên gần gũi con người để lắng nghe, tha thứ và chúc lành cho họ. Hơn thế nữa, con người được gọi để trở thành những bạn hữu và cộng sự viên của Chúa. Những người dân chài đơn sơ chất phác này đã trở thành những môn đệ đầu tiên của Chúa. Sau khi đã chứng kiến mẻ lưới lạ lùng, Phêrô và các đồng nghiệp đã bỏ mọi sự mà theo Người. Cuộc gặp gỡ với vị Ngôn sứ thành Nagiarét đã hướng cuộc đời của các ông sang một ngã rẽ mới. Từ nay, họ được mang danh là “tông đồ”, tức là người được sai đi. Họ không còn chỉ loay hoay với tấm chài lưới và nước lên nước xuống, nhưng họ đã trở thành những người chinh phục người khác, giúp họ đón nhận Tin Mừng cứu độ. Đây là một sứ mạng cao quý, vì tiếp nối sứ mạng của chính Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai.
Nhờ Bí tích Thanh tẩy, người tín hữu được trao ban ba chức năng: ngôn sứ, tư tế và vương đế. Hôm nay, Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta điều Người đã nói với Phêrô: “Đừng sợ, từ nay con sẽ là người thu phục người ta”. “Thu phục người ta” là cảm hoá người khác bằng sự thánh thiện toả lan từ chính cuộc đời Kitô hữu. Mỗi tín hữu đều là người loan báo Tin Mừng. Người thời nay không nhìn thấy Chúa Giêsu, nhưng họ có thể gặp thấy Người qua các môn đệ của Người là chúng ta. Đứng trước sứ mạng lớn lao, có lẽ mỗi chúng ta cũng giống như ngôn sứ Isaia và bác thuyền chài Phêrô, đó là do dự, sợ hãi và ngại ngùng. Hãy cùng đọc tiếp trình thuật của thánh Luca: vào thời điểm Chúa Giêsu truyền lệnh cho Phêrô thả lưới, theo kinh nghiệm nghề nghiệp, lúc đó không phải là lúc thuận tiện để bắt được cá. Các ông đã đang giặt lưới sau một đêm vất vả và không bắt được con cá nào. Vào chính lúc ấy, Chúa Giêsu lại truyền cho các ông thả lưới chỗ nước sâu. Thánh Luca viết: “Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới”. Mẻ lưới lạ cho thấy kết quả của sứ vụ tông đồ không đến từ sự khôn ngoan của con người, nhưng đến từ quyền năng của Thiên Chúa. Qua phép lạ này, Chúa Giêsu cũng muốn khẳng định, dù được chọn gọi và sai đi, các ông cũng chỉ là những dụng cụ Chúa dùng và là những cánh tay nối dài của Người.
Nhờ Đức tin vào Chúa, chúng ta không còn mặc cảm thân phận tội lỗi, nhưng xác tín vào tình Chúa yêu thương. Ngài là Cha nhân hậu, không bỏ rơi bất cứ ai kêu cầu Thánh Danh Ngài. Như thế, dầu là thân phận tội lỗi thế nào đi nữa, chúng ta cũng được Chúa kêu gọi. Tông đồ Phaolô đã gặp Chúa trong bối cảnh rất lạ kỳ: cú ngã ngựa trên đường đi Đamát đã khiến ông bừng tỉnh, vì trước đó ông ngu muội và căm hờn đối với các Kitô hữu. Trong thư gửi giáo dân Corinhtô (Bài đọc II), Phaolô khẳng định Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai và là Đấng Cứu độ. Ông khuyên các tín hữu hãy vững tin, mặc dù còn nhiều khó khăn thử thách.
Trong Đức Giêsu và nhờ Đức Giêsu, người tín hữu không những được đến gần Thiên Chúa, mà còn được trở nên nghĩa tử của Ngài. Đức tin cho phép chúng ta chia sẻ vinh quang của Thiên Chúa, đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, nên khí cụ tình thương bao la của Ngài. Ước mong mỗi chúng ta có thể nói như ngôn sứ Isaia: “Dạ con đây, xin sai con đi”, hoặc như các tông đồ, sẵn sàng bỏ mọi sự để đi theo và làm môn đệ của Chúa.
Chúng ta đang sống những ngày đầu của xuân Nhâm Dần. Đầu xuân mới là dịp chúng ta tạ ơn Chúa và cầu xin ơn bình an. Trong những ngày này, người Việt chúng ta thường cầu chúc cho nhau những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Xin Chúa luôn đồng hành với chúng ta trong từng bước đi của cuộc đời, nhờ đó chúng ta cảm nhận vinh dự của những người con Chúa. Kính chúc Quý Vị một mùa xuân an khang thịnh vượng, thấm đượm tình Chúa tình người. Mặc dù cuộc sống còn nhiều âu lo, nhưng chúng ta xác tín vào lời hứa của Chúa: ai xin thì sẽ được; ai tìm thì sẽ thấy; ai gõ cửa thì sẽ mở cho. Nguyện xin Chúa mở lòng nhân từ, nhìn đến thế giới đang điêu đứng do đại dịch Covid-19 và ban ơn chữa lành. Xin Ngài chúc phúc cho tất cả chúng ta. Xin cho mỗi Kitô hữu trở nên những chứng nhân của lòng Chúa thương xót giữa cuộc đời. Amen.
Tuy thế, không mấy khi chúng ta nhìn lại ơn gọi của mình, để nhận ra Thiên Chúa đã gọi mình TN 5-C123
Tuy thế, không mấy khi chúng ta nhìn lại ơn gọi của mình, để nhận ra Thiên Chúa đã gọi mình thế nào, và mình đã đáp trả Tiếng Gọi ra sao. Nói cách khác, sở dĩ chúng ta sống ơn gọi của mình một cách hời hợt phần lớn là do chúng ta đã không thấy rõ tiến trình và điều kiện để ơn gọi được thành hình và thực hiện như ý Chúa muốn.
1/ Ơn Gọi nảy mầm từ việc nhận ra vinh quang của Thiên Chúa:
Kinh thánh cho chúng ta thấy: người được gọi luôn bước vào con đường ơn gọi của mình bằng tâm tình bỡ ngỡ trước vinh quang của Thiên Chúa, qua những việc kỳ diệu Ngài làm, như ngôn sứ Isaia đã bắt đầu hành trình ơn gọi khi ông được thấy Thiên Chúa là “Chúa Thượng ngự trên ngai rất cao; tà áo của Người bao phủ Đền Thờ. Phiá bên trên Người, có các thần Xêraphim đứng chầu… Các vị ấy đối đáp tung hô: “Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh!” (Is 6, 1-3); Phêrô thì sửng sốt trước mẻ cá lạ lùng, “nhiều đến nỗi hầu như rách cả lưới”, khi ông vâng lời Đức Giêsu “chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới”, mặc dù ông “đã vất vả suốt đêm mà không bắt được con cá nào” (Lc 5,4-6 ); riêng Phaolô thì kinh ngạc “khi luồng sáng từ trời chiếu xuống bao phủ ông” (Cv 9,3) khi ông trên ngựa đi lùng bắt những người theo đạo ở Đamát.
2/ Ơn Gọi ăn rễ từ việc nhận ra mình bé nhỏ, yếu đuối, bất xứng của người được gọi:
Nếu quan sát những người được Thiên Chúa gọi trong Kinh Thánh, chúng ta nhận thấy họ có chung một thái độ khiêm tốn nhận mình nhỏ bé, yếu đuối, bất tài, bất xứng trước Thiên Chúa như ngôn sứ Isaia đã thốt lên trước vinh quang của Đức Chúa: “Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở gtiữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh” (Is 6,5); như Phêrô đã sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” khi thấy mẻ cá “khủng” vừa bắt được (Lc 5,8); hoặc như Phaolô đã ngã xuống đất và khiêm hạ khẩn khoản: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” (Cv 9,5).
3/ Ơn Gọi lớn lên, và sinh hoa kết trái do lòng tín nhiệm của Thiên Chúa nơi người được gọi:
Khi gọi ai, Thiên Chúa tỏ cho họ biết Ngài yêu thương và tín nhiệm họ, với điều kiện người ấy phải nhận ra vinh quang thánh thiện của Ngài và khiếm khuyết, tội lụy của mình, phải thấy rõ sức mạnh của Ngài và yếu đuối của mình, bởi không nhận ra mình bất xứng, bất tài, người được gọi không sớm thì muộn sẽ rơi vào ảo tưởng quyền lực, và ảo tưởng thánh thiện, vì nghĩ mình được gọi vì có tài, có đức, có thế, có lực. Hai ảo tưởng nguy hiểm này sẽ làm cho người được gọi không còn nhớ mình là người được kêu gọi để làm theo ý Đấng đã kêu gọi mình. Đây là bi kịch rất đau thương của đời môn đệ, nếu người môn đệ không tỉnh thức để khiêm tốn biết mình đến để làm theo ý Đấng đã kêu gọi, như lời thân thưa “Này con đây” dễ thương của mình ngày được sai đi.
Vì chân nhận vinh quang của Thiên Chúa và thú nhận môi miệng mình tanh dơ, hôi thối, Isaia đã được Thiên Chúa tín nhiệm chọn làm ngôn sứ của Ngài, khi “tha tội và xá tội” cho ông bằng sai một trong các thần Xêraphim lấy một hòn than hồng từ bàn thờ chạm vào miệng ông (x. Is 6,6-7); Phêrô, vì biết mình là kẻ có tội, đã được Đức Giêsu trấn an “Đừng sợ !”, và tín nhiệm trao cho ông sứ vụ “đánh cá người”, tức “thu phục người ta” (x. Lc 5,10); Phaolô cũng khiêm tốn nhận mình là “kẻ ngã ngựa” trước uy quyền của Thiên Chúa, và Chúa đã tín nhiệm ông khi không gay gắt, nhưng trìu mến nói với ông: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ. Nhưng ngươi hãy đứng dậy, vào thành, và người ta sẽ nói cho ngươi biết ngươi phải làm gì” (Cv 9, 5-6).
Quả thực, tiến trình ơn gọi của những người được gọi là câu chuyện tình giữa họ và Thiên Chúa. Câu chuyện ấy bắt đầu từ trái tim bỡ ngỡ của người được gọi trước những việc lạ lùng, kỳ diệu mà chỉ tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người mới thực hiện được. Và cứ thế, càng đi xa hơn trên đường tình với Thiên Chúa, càng bé nhỏ ẩn mình trong trái tim Thiên Chúa, người được Thiên Chúa gọi càng khám phá hạnh phúc của người được gọi và sung sướng nhận ra ơn gọi của họ chính là Tình Yêu.
Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã trải nghiệm và xác tín hạnh phúc của ơn gọi tình yêu khi viết trong Nhật Ký Một Tâm Hồn: “Con hiểu rằng: Tình Yêu bao trùm tất cả các ơn gọi, vì Tình Yêu là tất cả, Tình Yêu ôm trọn mọi thời, mọi nơi, tắt một lời, Tình Yêu vĩnh cửu, đời đời …. Ôi Giêsu, tình yêu của con! Con đã tìm thấy ơn gọi của con. Ơn gọi ấy chính là Tình Yêu”.
Sau thất bại ở Nadarét (Lc 4,16-30), Đức Giêsu vẫn có nhiều người đi theo để nghe lời Ngài. Cụ TN 5-C124
Sau thất bại ở Nadarét (Lc 4,16-30), Đức Giêsu vẫn có nhiều người đi theo để nghe lời Ngài. Cụ thể là đám đông “chen chúc” bên bờ hồ Ghennêxarét. Chắc họ đã cảm nhận được đôi chút vẻ huyền nhiệm nơi con người Đức Giêsu, nên họ không tìm nghe lời Ngài như nghe một người phàm, mà như nghe “lời Thiên Chúa”. Để cho đám đông đứng trên bờ hồ có thể nghe rõ, Ngài xuống một chiếc thuyền, nhằm thuyền của Simon. Ngài xin ông chèo ra xa bờ một chút, rồi ngồi trên đó để giảng cho dân chúng. Giảng xong, Ngài lại bảo Simon chèo thuyền ra chỗ nước sâu để thả lưới bắt cá. Trước một yêu cầu quá bất ngờ, có lẽ làm cho Simon hơi chột dạ, vì các bạn đã giặt lưới sau một đêm đánh cá mệt mỏi rã rời mà không được gì. Thế mà Đức Giêsu lại bảo ông chèo thuyền ra tận chỗ nước sâu.
Nước sâu là chỗ nguy hiểm, là chỗ Simon đã gặp thất bại, dù đã kinh nghiệm đầy mình trong nghề lưới cá. Lời yêu cầu của Đức Giêsu quả khó mà nghe theo, vì làm sao có thể thả lưới bắt cá ở đây và vào thời điểm này được, đúng là làm điều không bình thường. Hiểu biết và kinh nghiệm của Đức Giêsu được bao nhiêu về nghề đánh cá, đang khi Simon là người miền biển mà Đức Giêsu là người miền núi; ông làm nghề chài lưới lâu năm trong khi Đức Giêsu chỉ làm nghề thợ mộc. Vẫn biết thế, nhưng có lẽ sự hiện diện của Đức Giêsu đã truyền cảm hứng, và Lời của Ngài đã chiếu sáng trong ông, nên ông mạnh dạn thưa:“Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Phải chăng khiêm nhường và vâng phục là bài học đầu tiên mà Đức Giêsu muốn đào luyện các môn đệ mà Ngài sẽ tuyển chọn.
Thế rồi mẻ lưới được kéo lên đầy cá, ngoài sức tưởng tượng, khiến Simon và các bạn kinh ngạc. Ông thấy xấu hổ, đến sấp mặt dưới chân Ðức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”. Đó cũng từng là kinh nghiệm của Isaia khi được kêu gọi: “Khốn cho tôi, tôi chết mất, vì lưỡi tôi dơ bẩn” (Is 6, 4-6). Nhưng sau khi được than hồng là lửa tình thương Chúa thanh tẩy, ông đã mau mắn xin vâng, ra đi làm ngôn sứ cho Chúa: “Lạy Chúa, xin hãy sai con”. Ở đây Chúa cũng trấn an Simon: “Đừng sợ hãi, từ đây các con sẽ là kẻ chinh phục người ta” (Lc 5,10). Dù Simon yếu đuối và lỗi tội, Chúa vẫn tín nhiệm và chọn gọi ông. Tình thương Chúa đã xoay hướng cuộc đời ông hoàn toàn. Ngỡ ngàng trước quyền năng và tình thương của Chúa, Simon và các bạn đã “bỏ mọi sự mà đi theo Ngài” (Lc 5, 11).
Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn hiện diện và xin chúng ta tiếp nhận Ngài trên chiếc thuyền cuộc đời mình, để cùng với Ngài ra chỗ nước sâu, nơi mà Ngài sẽ cho ta thấy điều bất ngờ. Ngài mời chúng ta ra khơi, đến với mọi người để chuyển thông cho họ lòng thương xót của Thiên Chúa. Tính cách này mang lại ý nghĩa mới cho sự hiện diện của chúng ta, vì một sự hiện diện thường tình có nguy cơ trở nên vật vờ, nín lặng.
Theo Chúa không khó, nhưng khó là ra khỏi mình. Dù có đi xa ngàn dặm nhưng nếu còn giữ một lối sống xa xưa, vẫn còn bám lấy những mộng ước riêng tư, thì ta vẫn còn ở khởi điểm, chưa thật sự lên đường. Ngoài ra, “lưới cá” có thể dựa vào sức lực và tâm trí của mình, nhưng “lưới người” còn đòi phải cậy dựa hoàn toàn vào Chúa. Bao lâu chưa nhận ra sự hèn kém của bản thân, chưa cảm nghiệm được tình yêu và quyền năng Chúa, thì chưa có sự vâng phục tuyệt đối, nên cũng chưa thể ra đi trong tự do và khó nghèo, để thành người môn đệ đích thực.
Cần để Chúa đào luyện mình trong mọi hoàn cảnh, qua từng giai đoạn, với từng công việc, trong từng biến cố, ta mới thấy an vui và phấn khởi trên bước đường theo Chúa. Thành công hay thất bại không quan trọng, đó chỉ là những đánh giá bên ngoài. Có khi thất bại lại cần thiết cho ta trong công việc tông đồ. Đi quan trọng là bước theo Đức Giêsu trên mọi nẻo đường, bất chấp khó khăn và cả những yếu đuối của mình, để Chúa làm nên những điều kỳ diệu cho con người hôm nay.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã làm nên điều thật lạ, xoay hướng đời người từ một mẻ cá, khiến Simon đã sẵn sàng đáp trả, dám bỏ tất cả mà tiến bước theo Ngài.
Thật ra Simon nào xứng đáng, trước ân ban thật cao cả vô vàn, nhưng chỉ vì Chúa muốn chọn lấy ông, để ông được phúc góp phần vào sự sống.
Chúa chỉ cần môn đệ có tấm lòng, lòng khiêm nhu và yêu mến cậy trông, là Chúa làm nên mọi sự từ số không, biến giấc mơ thành hiện thực bất ngờ, từ kẻ lưới cá thành kẻ lưới người, từ biển hồ đến biển cả trần gian, dù biết bao những sóng gió phủ phàng, cũng sẽ vượt qua và chu toàn sứ mạng.
Chúng con cũng được mời gọi ra khơi, để đem lại sự sống mới cho đời, loan Tin Mừng ân phúc khắp mọi nơi, dám đi tới với mọi người mọi chỗ.
Xin cho con dám lên đường theo Chúa, ra khỏi lối sống an phận thủ thường, khỏi kiểu sống an toàn và sung sướng, đừng để mình phải bải hoải chán chường, cũng đừng nấp đằng sau phía hậu trường, nhưng xuất đầu lộ diện ra sân khấu, để hoàn thành vai diễn thật thâm sâu, giống như gương mẫu Chúa sáng ngời. Amen.
Có sự khác biệt giữa ba chữ: bắt được, được bắt và bị bắt. Phép lạ hôm nay cho biết người ngư phủ TN 5-C125
Có sự khác biệt giữa ba chữ: bắt được, được bắt và bị bắt. Phép lạ hôm nay cho biết người ngư phủ bắt được nhiều cá. Người ngư phủ đóng vai chủ động. Cá bị bắt. Cá đóng vai thụ động, nạn nhân. Cá được bắt bởi nó không thuộc loại cá cấm bắt. Hơn nữa nó lớn đủ kích thước cho bắt. Hiện nay một số quốc gia cấm bắt tôm cá nhỏ, thiếu kích thước, nhằm mục đích bảo vệ nguồn tôm cá cho những năm kế tiếp.
Sau khi Đức Kitô rao giảng, Ngài nói với Phêrô hãy thả lưới ra chỗ nước sâu. ‘Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá’ Lc 5:4
Phêrô thú nhận với Đức Kitô là ông đã vất vả chài lưới suốt đêm mà tay trắng vẫn hoàn trắng tay, tuy nhiên
‘Vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới’ Lc 5:6.
Nghe theo lời Đức Kitô, Phêrô bắt được mẻ cá lớn, có lẽ đời ông chưa bao giờ bắt được nhiều cá lớn đến thế. Khi chúng ta nghe tin phép lạ xảy ra đâu đó, kẻ xa, người gần đến tận nơi xảy ra phép lạ xin ơn chữa lành cho chính mình, và ơn chữa lành cho thân nhân, thân hữu. Phêrô không chung quan điểm đó. Ông nhìn sự việc với con mắt tâm linh. Ông nghe Đức Kitô giảng, ông kính mến, quí trọng Đức Kitô, nhưng không biết Ngài là Đấng Cực Thánh mãi cho đến khi bắt được mẻ cá lớn. Phép lạ lưới cá mở mắt ông. Phêrô vội quì dưới chân Đức Kitô nài van,
‘Lậy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi’. Lc 5:9.
Phêrô lo lắng, sợ hãi đứng bên Đức Kitô bởi ông thấy mình không xứng đáng đứng gần Đấng Chí Thánh. Học từ Phêrô, Kitô hữu cũng phủ phục trước Mình Máu Thánh Chúa khi linh mục lập lại lời Đức Kitô truyền phép Thánh Thể.
‘Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá’ Lc 5:4
Câu nói vắn, gọn trên hàm chứa nhiều í tưởng quan trọng, đặc biệt là hai chữ ‘nước sâu và chữ bắt’. Cá nhỏ thường sống nơi nông cạn, bắt mồi nơi nông cạn, nhà của chúng ở chỗ nước nông bởi nơi đó có nhiều rong rêu, tốt cho việc lẩn trốn, nghỉ và cũng là nơi tôm tép ẩn nấp để cá tìm mồi. Chúng tránh đi vào chỗ nước sâu bởi sợ làm mồi ngon cho cá lớn. Cá lớn lẩn trốn nơi nước sâu. Nhà của chúng ở nơi nước sâu. Một con cá lớn giá trị gấp nhiều con cá nhỏ. Nước sâu cũng là nơi chứa bí ẩn. Người có óc thám hiểm thích khám phá. Bên dưới nước sâu rất có thể có kho báu, vật quí, bởi không biết nơi đó có gì. Hơn nữa đi ra chỗ nước sâu đòi hỏi người ngư phủ có nhiều kinh nghiệm và tự tin. Kinh nghiệm đi chỗ nước sâu và tin tưởng vào khả năng mình có thể giải quyết bắt trắc bất ngờ xảy ra. Trong trường hợp này, Phêrô tin tưởng Đức Kitô không sai ông đi vào nơi có thể gây nguy hiểm cho ông. Lòng tin đó ông được phần thưởng lớn, bắt mẻ cá lớn không lồ. Ngoài mẻ cá ra, ông còn nhận được phần thưởng lớn về phương diện tâm linh. Chỗ ‘nước sâu’ là nơi tối tăm trong tâm hồn cần ánh sáng Đức Kitô chiếu dọi. ‘Nước sâu’ với Phêrô là nhận thức mình là kẻ tội lỗi. Góc tối tâm hồn đó được ánh sáng Đức Kitô chiếu sánh. Ông biết ông là kẻ có tội như bao người khác, nhưng chưa bao giờ ông cảm nghiệm tội nguy hiểm, tàn ác, đen tối đến thế. Ngộ ra điều đó, ông vội quì xuống dưới chân Đức Kitô xin lánh xa ông vì ông là kẻ tội lỗi. Đây chính là í nghĩa quan trọng của chữ ‘nước sâu’ về phương diện tâm linh.
Chữ ‘bắt’ ở đây cũng mang một í nghĩa đặc biệt. Đây là lối chơi chữ rất tài tình. Thứ nhất, Phêrô bắt được mẻ cá lớn. Ông kinh ngạc vì bắt được mẻ cá lớn. Điều kinh ngạc này thay đổi cuộc đời ông. Phêrô ‘bắt’ được mẻ cá; Đức Kitô ‘bắt’ được Phêrô. Đức kitô ‘bắt’ con tim Phêrô khi Ngài nói với ông,
‘Từ nay anh sẽ trở thành kẻ chài lưới người ta’ Lc 5,11
Câu này thay đổi í nghĩa động từ ‘bắt’. Trong sứ vụ rao giảng Tin Mừng, thay vì ‘bắt’ cá, Phêrô đã ‘bắt’ vô số linh hồn vô danh. Gọi là vô danh bởi không biết tên những người nghe Phêrô rao giảng trở thành Kitô hữu. Về phương diện cá nhân, chữ ‘bắt’ mang một í nghĩa đặc biệt cho cuộc đời Phêrô. Ông bước chân vào cuộc đời mới, cuộc sống rao giảng bắt đầu bằng chữ ‘bắt’. Ông từ giã thế gian, trở về cùng Đức Kitô, kết thúc cuộc đời cũng bằng chữ ‘bắt’. Trước khi về cùng Chúa Cha, Đức Kitô từ giã môn đệ, Ngài ví von cuộc ra đi của Phêrô như sau.
‘Thầy bảo cho anh biết, lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ í. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn. Người nói vậy có í ám chỉ ông sẽ phải chết cánh nào để tôn vinh Thiên Chúa. Gn 20,18b-19.
Điểm cuối, cá dính lưới là cá còn sống, mạnh khoẻ nhưng cá đó sẽ bị giết chết làm thực phẩm cho con người. Phêrô ‘bắt’ người thân xác sống mạnh, nhưng tâm linh họ chết. Ho chết phần tâm linh, phần linh hồn. Phêrô đưa người đó đến với Đức Kitô và Đức Kitô ban cho họ sự sống tâm linh và sự sống đời đời. Theo nghĩa đó Phêrô ‘bắt’ người chết để Đức Kitô biến họ thành Kitô hữu sống động. Một khi Thiên Chúa ‘bắt’ ta, Ngài ban cho ta sự sống, trở thành Kitô hữu, môn đệ Đức Kitô. Một khi con người ‘bắt’ Kitô hữu, Kitô hữu đó bị họ lấy mất mạng sống. Đây là cách trao đổi huyền diệu. Người ta lấy mất sự sống Kitô hữu, họ đâu biết việc làm tàn ác đó lại làm cho Danh Chúa sáng hơn. Điều này ngoài tầm tay con người. Chúng ta xin ơn, dù ta sống hay chết, Kitô hữu luôn sống và chết cho Đức Kitô. Xin ơn nhận ra tội làm ta xa Chúa.
Có thể nói Bài Tin Mừng Chúa Nhật V Thường Niên hôm nay là Bài Tin Mừng nói về ơn gọi TN 5-C126
Có thể nói Bài Tin Mừng Chúa Nhật V Thường Niên hôm nay là Bài Tin Mừng nói về ơn gọi. Bài Tin Mừng khắc hoạ khuân mẫu về ơn gọi của người môn đệ. Người môn đệ là người lắng nghe lời mời, bước vào chiều sâu hiện hữu với Chúa và với chính mình, đồng thời là người vâng phục Thầy để chèo thuyền ra chỗ nước sâu mà thả lưới.
Chèo thuyền ra chỗ nước sâu là bước vào chiều sâu của sự thánh thiện Ơn gọi của Isaiah xuất hiện trong một bối cảnh vua Út-di-gia-hu băng hà. Ông là một vi vua đạo đức và có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của Israel. Trong khi đó, đế quốc Assyria đang đe doạ Israel ở Phía Bắc, toàn dân hoang mang. Trong sự hoang mang lo sợ ấy, Thiên Chúa sai sứ giả của Người nói với dân chúng về một Đấng giải phóng và thiết lập trật tự mới. Ơn gọi của Isaiah xuất hiện trong bối cảnh ấy. Ông có một thị kiến kỳ lạ về Thiên Chúa uy nghi cao cả. Tôi thấy Chúa Thượng ngự trên ngai rất cao ; tà áo của Người bao phủ Đền Thờ. 2a Phía bên trên Người, có các thần Xê-ra-phim đứng chầu. 3 Các vị ấy đối đáp tung hô : “Thánh ! Thánh ! Chí Thánh ! Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa !” (Is 6, 1-3) Đấng uy linh cao cả đó xuất hiện trước mắt Isaiah và ông bước vào tương quan với Ngài.
Cũng thế, đang khi đánh cá, Chúa Giê-su chọn chiếc thuyền của Phê-rô và các bạn mà ghé thăm. Đấng uy linh cao cả giờ hiện diện giữa các ông. Chúa Giê-su chọn lựa gắn bó với một ngư phủ và trao cho ông sứ mạng chăm sóc Giáo Hội. Điều tiên quyết khi các ông muốn đảm nhân sứ mạng của Thầy trao cho là các ông phải bước vào tương quan sâu xa với Chúa, là mang lấy trái tim và sứ mạng của Chúa. Chúa Giê-su chọn lựa bước vào trái tim và cuộc đời ông, để rồi ông trở thành kẻ lưới người. Khi ông chấp nhận để cho Chúa bước vào con thuyền cuộc đời mình, một chân trời và dự định mới mở ra trước mắt ông. Hãy ra chỗ nước sâu thực chất là chấp nhận thả mình vào trong chiều sâu của Thiên Chúa. Chiều sâu của tình yêu hiến thân và trao ban sự sống của Đức Giê-su Ki-tô. Chỉ khi được thả mình vào trong tương quan chiều sâu với Chúa, nơi mà vì nó Chúa đã sống và chết cho bạn, bạn mới ý thức khoảng cách sâu xa giữa bạn và Chúa, cũng như ý thức được rằng bạn phải trở về chiều sâu với chính mình và làm một cuộc hoán cải.
Chèo thuyền ra chỗ nước sâu làý thức về hoảng cách sâu xa giữ con người và Thiên Chúa Khi bước vào chiều sâu và sự thánh thiện trong tương quan với Chúa, bạn và tôi ý thức được những giới hạn và tội lỗi của chính mình. Đây chính là khoảng cách vô biên giữa sự thánh thiện của Thiên Chúa và sự tội lỗi của con người. “ 5 Bấy giờ tôi thốt lên: “Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh !” (Is 6, 5) Cũng thế, Phê-sô sau khi đụng chạm được mầu nhiềm của Thiên Chúa ẩn mình, ông liền kêu lên “‘Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi !‘” (Lc 5,8) Tội lỗi làm con người xa cách Chúa và xa cách nhau. Đức Ki-tô nối kết sự xa cách đó bằng tình yêu và cái chết của Ngài trên Thánh Giá. Ơn cứu độ giúp chúng ta nối kết với Thiên Chúa và lấp đầy khoảng cách sâu xa giữa con người và Thiên Chúa.
Khoảng cách sâu xa giữa con người và Thiên Chúa được lấp đầy bằng tình yêu, lòng thường xót được thể hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô. Ngang qua Đức Giê-su nhất là qua cái chết của Người, Ngài đã nối kết khoảng cách giữa con người với Thiên Chúa. Thiên Chúa không còn xa cách con người nhưng Thiên Chúa đang ở giữa, ở trong và ở với con người. “3 Đức Giê-su xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Si-môn, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút.” Đức Giê-su bước vào cuộc đời bạn và tôi mời gọi bạn và tôi bước ra xa một chút. Ngài mời gọi bạn bước tới Ngài, Ngài mời gọi bạn bước tới anh anh chị em và Ngài mời gọi bạn bước ra khỏi chính mình.
Kinh nghiệm của các vị thánh khi bước vào trong tương quan sâu xa với Chúa cũng chỉ ra rằng có một khoảng tối trong đời sống con người và Thiên Chúa mà con người không thể vượt qua bởi sức tự nhiên nhưng bằng ân sủng của Chúa. Điều mà Thánh Gioan Thánh Giá gọi là đêm tối thiêng liêng và đêm tối linh hồn.
Vả lại, người môn đệ khi bước vào trong tương quan sâu xa với Chúa và bước ra khỏi chính mình cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, sóng gió và nguy hiểm. Nguy hiểm đó được trả giá bằng niềm tin và sự sống. Tuy nhiên những hiểm nguy mà bạn đối diện sẽ vơi đi khi có Chúa ở cùng. Điều này làm cho người môn đệ sẵn sàng lên đường.
Chèo thuyền ra chỗ nước sâu làxác tín cách sâu xa vào Thiên Chúa để dấn thân cho Tin Mừng Để có thể lên đường với Chúa, trước hết bạn phải là người được Thiên Chúa đụng chạm. Kinh nghiệm này biến đối sâu xa con người bạn để rồi bạn không còn sống cho chính mình nhưng sống cho Đấng đã kêu gọi bạn từ chốn tối tăm, tới nơi đầy sáng láng diệu kỳ. Isaiah là người được Thiên Chúa thánh hiến bằng than hồng. Chúa đặt Lời Chúa và Tin Mừng vào miệng ông. “ 7 Người đưa hòn than ấy chạm vào miệng tôi và nói: ‘Đây, cái này đã chạm đến môi ngươi, ngươi đã được tha lỗi và xá tội.’ 8 Bấy giờ tôi nghe tiếng Chúa Thượng phán : ‘Ta sẽ sai ai đây ? Ai sẽ đi cho chúng ta ?’ Tôi thưa : ‘Dạ, con đây, xin sai con đi.’” Như thế, Chúa đã thánh hiến Isaiah bằng Lời Chúa , Lời có sức sáng tạo, biến đổi, và chữa lành để ông ra đi loan báo sứ điệp của Chúa.
Tương tự như thế, Phao-lô cũng là người được Thiên Chúa đụng chạm bằng một cú ngã ngựa trên đường Đa-mát. Sau cú té ngựa ông chạm được Áng Sáng Phục Sinh, đứng dậy và trở nên chứng nhân cho Tin Mừng. Sứ mạng của người môn đệ, của bạn và tôi là làm chứng cho Tin Mừng. “Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là : Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, 4 rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh.” (1 Cr, 15, 3-4)
Đây cũng là sứ điệp căn bản mà giáo hội, cũng như bạn và tôi đang dấn thân. Để dấn thân cho sứ mạng này, Chúa mời gọi bạn và tôi phải “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá.” (Lc 5, 4). Chỗ nước sâu ấy là chỗ sâu của địa lý và chỗ sâu của tâm linh và lòng người. Giáo hội trong sứ mạng thu phục lòng người luôn đối diện với những nguy hiểm và sự sợ hãi. Nhất là chỗ sâu ấy đụng chạm đến quyền lợi kinh tế, chính trị, xã hội, giá trị sống, lợi ích quốc gia, cơ cấu bất công, và nền tảng hôn nhân gia đình. Nơi mà tự do cá nhân và quyền lực xã hội chi phối đến việc thiết lập chính sách và thẩm quyền tôn giáo thì sự nguy hiểm càng gia tăng. Tuy nhiên Chúa Giê-su nói với các tông đồ “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.” (Lc 5, 10) Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II trong bài giảng khai mạc triều đại giáo hoàng của ngài có nói: “Đừng Sợ.” ‘Anh em đừng sợ đón lấy Chúa Ki-tô và nhận lấy quyền năng của Ngài.”, “Anh chị em đừng sợ! Hãy mở ra, mở toang mọi cánh cửa đón lấy Chúa Kitô! Hãy mở mọi biên giới các quốc gia, các hệ thống chính trị, những lãnh vực bao la của nền văn hóa, văn minh, phát triển cho quyền năng cứu độ của Chúa bước vào”.[1]
Bạn và tôi sợ bởi vì bạn và tôi yêu quá cuộc đời này. Chúng ta sợ vì chúng ra không có chỗ bám víu hay những bám víu của chúng ta không bảo đảm. Chúng ta sợ bởi vì chúng ta nghi ngờ. Chúng ta sợ đón lấy Chúa Ki-tô bởi vì khi Ngài bước vào cuộc đời của bạn, cuộc đời bạn sẽ bị xáo trộn. Cái đáng sợ nhất của người công chính là sợ xa cách vĩnh viễn với Thiên Chúa.
Như thế đời sống người môn đệ là người bước vào chiều sâu của Thiên Chúa, chiều sâu của lòng mình và tương quan với tha nhân. Việc bước vào trong tương quan với Chúa cũng là lời mời gọi bước ra khỏi chính mình để bước đến với thế giới. Thế giới nội tâm và thực tại xã hội luôn tra vấn bạn và tôi về nguồn gốc, căn tính và sứ mạng của mình. Chỉ khi bước vào thật sâu trong tương quan với Chúa, bạn và tôi mới bước vào chiều sâu trong tương quan nội tâm và trong lòng nhân thế. ——– [1]Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Bài Giảng Trong Ngày Nhậm Chức Giáo Hoàng, Chúa nhật, 22 tháng Mười 1978
Nhà bác học Archimède đã từng nói: “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng trái đất này TN 5-C127
Nhà bác học Archimède đã từng nói: “Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng trái đất này lên”. Kinh nghiệm cho thấy: cho dù phiến đá đồ sộ to lớn mấy chăng nữa! nếu đòn bẩy có điểm tựa sẽ dễ dàng lăn tảng đá rời khỏi vị trí. Archimède đã dựa vào kinh nghiệm rất đời thường để xác tín điều đó.
Ở đời cũng vậy, có nhiều việc tưởng chừng như sẽ bỏ dở dang, thế nhưng nhờ sự can thiệp siêu nhiên nào đó mà công việc đã tiếp diễn thật tốt đẹp, ngoài sức tưởng tượng. Và đôi khi cũng có nhiều ngừơi xem ra bất tài vô dụng nhưng họ vẫn thành công khiến chúng ta sững sờ ngạc nhiên. Sự thành công đến với họ không do tài trí của họ mà do ân ban bởi Trời. Và đối với người ky-tô hữu đó chính là ơn ban của Chúa dành cho những ai biết tin tưởng cậy trông vào Chúa.
Và qua 2 năm đại dịch thì lúc này gia đình nào còn đầy đủ, còn bình an là hạnh phúc lắm rồi. Đúng là chỉ có Trời cứu chúng ta, chỉ có nhờ ơn Chúa mà gia đình chúng ta đi qua đại dịch được bình an.
Đây cũng là điều mà cụ Nguyễn Du đã nói:
Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời
Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa
Quả thực, “Trời còn để có hôm nay” để sống, để nhìn thấy nhau, là ân ban bởi Trời. Mỗi ngày là một tặng phẩm của đất trời. Dầu không biết ngày mai sẽ ra sao nhưng vẫn phải trân quý giây phút hiện tại để cám tạ ơn Trời đã ban cho chúng ta được đoàn viên hôm nay. Dẫu rằng có những lúc “Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”, thế nhưng sau những rủi ro, cùng cực, khổ đau, thao thức, ba đào… Trời vẫn cho chúng ta có ngày hôm nay để có thể sum vầy bên nhau.
Phê-rô và các bạn chài năm xưa đã thấy quyền năng Chúa nhờ biết khiêm nhường. Khiêmnhường để vâng lời Thầy mà chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới. Họ đã được một mẻ cá quá lớn, lớn đến nỗi một thuyền không mang về hết mà phải nhờ đến các bạn đồng nghiệp.
Từ ngày Phêrô vâng lời Thầy Giêsu chèo ra chỗ sâu mà thả lưới bắt cá xem ra đã thay đổi mọi suy nghĩ của Phêrô. Phêrô từ đó đã đi theo Chúa. Phêrô từ đó càng hiểu hơn về giá trị của vâng lời. Vâng lời Thầy là tin tưởng hoàn toàn vào Thầy. Vâng lời là nhìn nhận sự yếu kém bất toàn của mình để làm theo lời Thầy chí thánh mà có lần ông đã tuyên xưng: “Thầy là Con Thiên Chúa”. Vâng lời Thầy là làm tất cả những gì Thầy muốn Phêrô làm.
Cuộc đời luôn đưa đến biết bao khó khăn thử thách. Hãy tin tưởng phó thác vào Chúa. Hãy bước đi trong niềm tín thác nơi Chúa. Chính Chúa sẽ trợ giúp chúng ta. Chính Chúa sẽ dẫn chúng ta đến chỗ thành toàn. Nơi Thiên Chúa không gì mà Ngài không làm được. Ngài có đủ quyền năng để hoàn tất chương trình của chúng ta.
Ước gì mỗi người chúng ta dầu trong hoàn cảnh nào, cũng không bỏ cuộc, nhưng luôn tin tưởng vào ơn trợ giúp của Chúa sẽ dẫn chúng ta đi qua những thăng trầm của cuộc đời. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết chạy đến với Chúa và kêu cầu Chúa trong những lúc nguy nan. Amen
Hôm nay, trên bờ hồ Ghennêxarét, dân chúng chen nhau đến gần Đức Giêsu để nghe lời Thiên TN 5-C128
Hôm nay, trên bờ hồ Ghennêxarét, dân chúng chen nhau đến gần Đức Giêsu để nghe lời Thiên Chúa. Ai cũng muốn nghe Người giảng dạy. Có một người ngư phủ tên là Simon đã cho Người mượn thuyền để Người ngồi trên thuyền mà giảng dạy. Sau bài giảng, Thầy Giêsu đã đề nghị ông Simôn chèo ra chỗ nước sâu để thả lưới bắt cá. Ông vâng lời Thầy dạy, thực hiện điều Thầy mời gọi và sau cùng ông bỏ hết mọi sự mà theo Thầy. Ơn gọi quả là nhiệm mầu.
Trong đám đông dân chúng chen lấn nhau để nghe lời Thầy Giêsu giảng, có ai muốn trở thành môn đệ của Thầy không? Có bốn người ngư phủ đang giặt lưới dọc bờ hồ. Họ có đang nghe Thầy Giêsu giảng không? Có một người ngư phủ tên là Simon, ông đã không ngần ngại cho thầy Giêsu mượn thuyền làm nơi giảng dạy. Dù đang bận rộn với công việc giặt lưới, thân xác đang mệt nhoài vì một đêm thứ trắng mà không bắt được gì cả, lòng vẫn canh cánh một nỗi lo cho cuộc sống mưu sinh, ông vẫn quảng đại giúp đỡ thầy Giêsu. Chính lúc ông chèo thuyền cho Thầy, ông đã sẵn sàng gác lại công việc của bản thân để ở bên cạnh Thầy, lắng nghe Thầy giảng. Có thể nói, ông là người được ở gần Thầy nhất trong lúc này. Có lẽ, cũng giống như những người dân khác, ông cũng đã được từng Lời của Thầy lôi cuốn, chinh phục. Vừa giảng xong, Thầy liền đưa ra cho ông một đề nghị: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” (Luca 5, 4). Ông Simôn đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả”. Là một ngư phủ giàu kinh nghiệm, nhưng đêm qua ông cũng đã thất bại, chẳng bắt được con cá nào dù đã vất vả suốt đêm. Theo lẽ thường, lời đề nghị của Thầy thật chẳng hợp lý chút nào. Thầy mời gọi ông bắt đầu lại công việc mà ông đã thất bại hay Thầy mời gọi ông hãy vâng lời Thầy? Nói khác đi, Thầy mời gọi ông hãy hành động như Lời Thầy dạy bảo. Những lời Thầy giảng lôi cuốn, thu hút, và đánh động tâm trí ông, lời ấy có khiến ông bỏ qua kinh nghiệm nghề nghiệp để hành động không? Nghe hết câu trả lời của ông, ta thật khâm phục thái độ và hành động của người ngư phủ thật thà và chất phác ấy: ‘Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.” Vâng, dù kinh nghiệm nghề nghiệp của bản thân có mách bảo ông rằng, ông chỉ tốn công vô ích nhưng ông đã vâng lời Thầy. Con người ấy thực sự đã để cho Lời Thầy lôi cuốn thực sự.
Vâng theo lời Thầy Giêsu, ông Simôn thật sự đã thu lời thật lớn. Đó không chỉ là hai thuyền đầy cá đến gần chìm nhưng trên hết là trở thành môn đệ của Thầy. Trước mẻ cá lạ lùng, ông Simôn Phêrô sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (Luca 5, 8). Nhận ra quyền năng của Thầy Giêsu, ông cũng nhận ra mình chỉ là một người tội lỗi. Thầy Giêsu chấn an ông: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta” (Luca 5, 10). Hơn ai hết Thầy hiểu rõ nỗi sợ trong lòng ông. Lời Thầy một lần nữa lại gia tăng sức mạnh cho ông, củng cố niềm tin mà ông đặt để nơi Thầy. Ta cũng nhận thấy sự vâng lời của ông không chỉ được diễn tả qua hành động chèo thuyền ra chỗ nước sâu để thả lưới bắt cá, mà sự vâng lời ấy còn được diễn tả rõ nét hơn nữa qua việc ông từ bỏ mọi sự mà theo Thầy. Ông từ bỏ nỗi sợ hãi đến từ chính những tội lỗi của mình, từ bỏ nỗi sợ hãi đến từ những kinh nghiệm thất bại trong nghề nghiệp để đặt trọn niềm tín thác vào Chúa. Ông từ bỏ mọi sự mà theo Thầy, bởi ông vâng lời Thầy.
Lạy Chúa! Con cảm tạ Chúa đã kêu gọi con, dù cho con thật bất xứng. Chúa đã không ngừng dùng lời Chúa để lôi cuốn con, kéo con ra khỏi những lo lắng của cuộc sống mưu sinh, của những lo lắng đến từ công việc và đến từ tương quan với người khác. Chúa cho con nghe được lời mời gọi của Chúa, xin ban ơn giúp sức cho con để con biết từ bỏ mọi sự để bước theo Chúa, sống xin vâng trong từng ngày sống và xin vâng theo thánh ý Chúa trong suốt cả đời con. Amen.
Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” (Lc 5, 4). Đó là lời mời gọi Đức Giêsu dành cho Simon TN 5-C129
“Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” (Lc 5, 4). Đó là lời mời gọi Đức Giêsu dành cho Simon sau khi Người mượn thuyền của ông để giảng dạy. Mặc dù sau một đêm vất vả, không bắt được gì nhưng theo lời mời gọi ấy, Simon đã mạnh dạn thả lưới, ông đã thu được một mả cá lạ. Nghe, thực hiện theo lời khuyên, nhận ra mình tội lỗi và cuối cùng là bỏ mọi sự mà theo Người. Đó là khởi đầu ơn gọi của Simon cùng các bạn thuyền chài.
Chắc hẳn, những điều Đức Giêsu giảng cho đám đông ngày hôm ấy, Simon đã cũng nghe. Không những nghe mà ông còn là người nghe rõ hơn ai hết. Bởi ông là chủ nhân của chiếc thuyền đó, chiếc thuyền mà đức Giêsu đã mượn. Chúng ta không biết trong bài giảng ngày hôm ấy, Đức Giêsu đã giảng những gì, nhưng chúng ta chỉ biết, ông đã gọi Đức Giêsu là Thầy và đã mau mắn vâng theo lời Thầy mời gọi: thả lưới ở chỗ nước sâu. Qủa thực, đó là một mẻ cá lạ lùng. Những người bạn của Simon cũng chứng kiến điều ấy. Thấy mẻ cá lạ, Simon sấp mặt dưới chân Thầy Giêsu mà thưa rằng: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (Lc 5, 8). Tin Mừng còn kể lại: “Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người” (Lc 5, 11).
Có thể trước đây đối với Simon và các bạn thì việc đánh được bao nhiêu cá thật sự rất quan trọng, vì nó là miếng cơm manh áo, là sự nghiệp của họ. Nhưng nay, đối với họ những thứ đó không còn quan trọng như trước. Họ đã bỏ hết mọi sự mà theo Người. Có thể nói, họ đã bắt được một “con cá lớn”, lớn hơn mẻ cá lạ kia. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã đi vào cuộc đời họ. Họ đã chọn Chúa. Hay nói đúng hơn, họ đã được Chúa chọn. Kể từ nay, họ không còn vất vả chài lưới cá, tìm kiếm miếng cơm manh áo nhưng là chài lưới người, tìm kiếm hạnh phúc nước trời. Cuộc đời họ bước qua trang mới. Vẫn có những cơn sóng, bão táp, vẫn có những khó khăn trong đường đời nhưng có một điều khác đó là họ có Chúa đồng hành.
Nhìn về ơn gọi của Simon và các môn đệ đầu tiên, chúng ta được mời gọi nhìn về ơn gọi của mình. Có thể, đâu đó trong dọc dài của cuộc đời, Chúa Giêsu đã đôi lần ngỏ lời với chúng ta hãy cho Người mượn thuyền để Người có thể giảng dạy đám đông. Và có khi, Người cũng ngỏ lời mời gọi chúng ta chèo ra chỗ nước sâu để thả lưới bắt cá. Chúng ta có sẵn sàng cho Người mượn thuyền, có lắng nghe và làm theo lời khuyên của Người mỗi khi gặp thất bại? Có cuộc gặp gỡ nào với Ngìa đã giúp ta nhận ra mình tội lỗi? Có quá nhiều câu hỏi cần chúng ta trả lời. Thiên Chúa vẫn đến với chúng ta trong cuộc đời. Ngời hiệ diện với chúng ta qua các biến cố lớn nhỏ, những con người ta gặp gỡ và nhất là qua Chúa Giêsu Thánh Thể. Chúng ta hãy mạnh dạn chạy đến cùng Người, quảng đại cho Người mượn “thuyền”, nghe theo hướng dẫn của Người. Và rồi chúng ta sẽ có được những mẻ cá lạ.
Ngôn sứ Isaia được Chúa thanh tẩy và chọn gọi. Ông được phúc chiêm ngưỡng nhan Đức Chúa trong khi ông là một người môi miệng ô uế (x.Is 6, 5). Sau khi đuợc thanh tẩy, được tha lỗi và xá tội, ông đã mau mắn đáp lại lời mời gọi của Đức Chúa: “Dạ, con đây, xin sai con đi.” (Is 6, 8). Hoặc như ơn gọi của Phaolô, từ một người nhiệt thành bắt bớ đạo Chúa, ông đợc Chúa chọn làm tông đồ dân ngoại. Chúng ta chẳng hơn gì các ngôn sứ và tông đồ xưa nhưng chúng ta cũng được Chúa chọn gọi theo Ngài, làm con cái của Ngài. Đó là phần phúc của chúng ta.
Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà chẳng bắt được gì cả. Vâng Lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”(Lc 5,5).
Kết quả là “họ đã bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới”(x. Lc 5,6). Tại sao Phê-rô TN 5-C130
Kết quả là “họ đã bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới”(x. Lc 5,6).
Tại sao Phê-rô và các bạn, những người được coi là có nghề chài lưới, mà vất vả suốt đêm chẳng bắt được con cá nào; nhưng khi nghe Lời Chúa nói: “Hãy thả lưới”, thì lại bắt được rất nhiều cá như vậy!!!!!!! Điều đó, cho thấy, sức mạnh và sự khôn ngoan, cộng với kinh nghiệm của con người chúng ta chưa đủ; còn phải có sức mạnh, sự khôn ngoan và Lời của Chúa nữa, mới thu được những kết quả tốt.
Nhiều khi chúng ta quá cậy dựa vào sức riêng của mình; cậy dựa vào sự khôn ngoan của mình; cậy dựa vào kinh nghiệm của mình, để rồi chúng ta chẳng đạt được kết quả gì. Khi đó, chúng ta nên coi lại mình và hãy lắng nghe tiếng Chúa. Nhất là tiếng Chúa nói qua Lộc Đầu Xuân.
Chúng ta phải để ý kẻo sa vào kiểu mê tín dị đoan khi bắt Lộc Lời Chúa. Lời Chúa mà chúng ta bắt lộc đầu năm, là những câu Lời Chúa được trích từ Thánh Kinh. Lời Chúa đó là một lời nhắc nhở cho chúng ta biết phải chú ý trong suốt năm đó. Nếu không hiểu ý nghĩa của câu Lời Chúa đó muốn nói gì, chúng ta nên hỏi các Linh Mục, để các ngài giải thích và chỉ bảo cho chúng ta.
Ví dụ, có người bắt lộc Lời Chúa câu : “Người ta sống không nguyên bởi bánh, những bởi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra”(Mt 4,4).
Ta phải hiểu câu Lời Chúa đó thế nào?
Có thể đó là một lời nhắc nhở cho người đó biết rằng, trong năm nay mình nên để ý đến đời sống thiêng liêng của mình hơn; lo cho linh hồn mình có của ăn là Lời Chúa, Thánh Thể và ân sủng. Tức là phải siêng năng cầu nguyện và tham dự Thánh Lễ trong đời sống hàng ngày của mình.
Hoặc “Tóc trên đầu anh em đã được đếm cả rồi. Anh em đừng sợ, anh em còn quí giá hơn muôn vàn chim sẻ”(Lc 12,7).
Có thể đó là một lời nhắc nhở rằng, đừng sợ chết. Ai thì cũng có ngày phải về với Chúa thôi. Còn được sống thêm ngày nào thì hãy trân trọng và sống cho hết mình ngày đó. Cũng đừng mất hy vọng vào Chúa, vì mình còn quí hơn muôn vàn con chim sẻ mà. Hãy xác tín vào Chúa; hãy hy vọng và cậy trông vào Chúa. Ngày tháng đời mình, Chúa đã đếm hết cả rồi, đừng lo, đừng sợ chi. Hãy “Quẳng gánh lo đi mà vui sống”.
Hay “Hãy lấy Chúa là niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng”(Tv 37(36),4).
Có thể là một lời nhắc nhở rằng, Chúa và những gì Chúa ban; những gì Chúa ban có thể là một người yêu thương mình; lo lắng cho mình thật sự; những cơ hội tốt; những khả năng,… mình hãy trân trọng và lấy đó làm niềm vui; là hạnh phúc của mình, để Chúa cho mình được phỉ chí tang bồng; được toại lòng, toại ý, mà sống vui, sống khỏe.
(Nếu ai cần có thể gửi cho tôi theo địa chỉ Email Bosco.tudohanhphuc@yahoo.com), tôi có thể giúp.
Có thể nói, sức mạnh và sự khôn ngoan của Chúa chính là Lời Chúa. Nói cách khác, Lời Chúa là sức mạnh, là sự khôn ngoan của chúng ta. Khi thực hành Lời Chúa, sức mạnh của Chúa sẽ được biểu lộ và sự khôn ngoan của Chúa mới được tỏ ra. Bằng chứng là Phê-rô trong câu chuyện hôm nay. “Vì Lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Qua đó, chúng ta càng xác tín hơn Lời Chúa thật là quan trọng không những trong đời sống đức tin mà còn trong đời sống hằng ngày nữa. Người tín hữu công giáo chúng ta sống nhờ đức tin mà.
“Tuy nhiên, đức tin Ki-tô giáo không phải là “Đạo thờ sách”, nhưng là Đạo do “Lời Thiên Chúa”; “không phải là Lời được viết ra và câm lặng, nhưng là Ngôi Lời, nhập thể và hằng sống”(x. GLCG, số 108). Bởi đó, chúng ta phải có sự vâng phục bằng Đức Tin.
“Vâng phục bằng đức tin là tự nguyện vâng phục Lời đã nghe, bởi vì chân lý của Lời đó được Thiên Chúa chính là Chân Lý bảo đảm”(x. GLCG, số 144). Đối với người tín hữu công giáo chúng ta, “Tin vào Thiên Chúa không thể tách rời được với tin vào Đấng mà Người đã cử đến là “Con Chí Ái của Người, đẹp lòng Người mọi đàng” và Thiên Chúa dạy chúng ta phải nghe Lời Đấng ấy”(x.GLCG, số 151).
Lý do? “Lý do để tin không nằm ở chỗ các chân lý được mặc khải, được chúng ta thấy là đúng và hiểu được theo ánh sáng của lý trí tự nhiên. Chúng ta tin “Vì uy quyền của chính Thiên Chúa, Đấng mặc khải không thể sai lầm, cũng như không lừa dối chúng ta”(x. GLCG, số 156).
“Đức tin đó chắc chắn, chắc chắn hơn mọi hiểu biết phàm nhân. Vì lấy chính Lời Chúa làm nền tảng, mà Thiên Chúa thì không thể nói dối (chúng ta) được. Hẳn là các chân lý mặc khải có thể bị lý trí và kinh nghiệm loài người làm cho mờ tối, nhưng “sự chắc chắn mà ánh sáng Thiên Chúa ban còn lớn hơn sự chắc chắn mà ánh sáng lý trí tự nhiên đem lại”. “Trăm ngàn khó khăn không đủ làm thành một ngờ vực nào” (x. GLCG, số 157).
Những khó khăn trong đời, không làm cho chúng ta nghi ngờ hay mất lòng tin vào Chúa và vào Lời Chúa. Trái lại, qua những khó khăn đó, chúng ta mới thấy Lời Chúa nói thật chính xác và nhờ Lời Chúa mà chúng ta mới có thể vượt qua được những khó khăn và thu được những kết quả, mà chúng ta không ngờ; thậm chí còn không dám nghĩ tới.
Lời Chúa nói: “Ai bền chí đến cùng, sẽ được cứu rỗi”(Mt 24,13). Điều này thường được thấy rõ trong thể thao. Đội nào mà các cầu thủ cố gắng từ đầu cho đến cuối trận, thì dù cho đến phút 89 hay những phút bù giờ thì vẫn có thể ghi bàn và chiến thắng như thường. Còn đội nào ghi bàn ngay từ phút đầu, mà lơ là hay khinh địch thì sẽ lãnh hậu quả là thua trắng mắt.
Không chỉ trong thể thao mà trong công việc cũng vậy, ai bền chí mà làm đến cùng chắc chắc sẽ thu được kết quả; còn cứ lông bông, làm hết cái này đến cái kia; hết việc này đến việc nọ; trồng hết cây này đến cây kia; nuôi hết thứ này qua thứ nọ,…rốt cuộc mất công vô ích, chẳng thu được kết quả gì.
Chúa nói: “Hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào giờ nào”(Mt 25,13). Canh thức ở đây phải hiểu là sự chuẩn bị. Không có sự chuẩn bị chúng ta sẽ trở tay không kịp; “nước đến chân mới nhảy” thì không kịp đâu. Trong thể thao, không chuẩn bị, không tỉnh thức, thì ta sẽ đối phó không kịp với những trường hợp không ngờ xảy ra hay không chớp được những thời cơ thuận tiện để ghi bàn, ghi điểm. Trong công việc cũng vậy, nếu ta không chuẩn bị sẵn sàng thì khó có thể đem lại kết quả tốt.
Trong Phúc Âm thánh Mác-cô, chương 5, câu 30: “Ngay lúc đó, Đức Giê-su nhận thấy có một năng lực tự mình xuất ra, Đức Giê-su quay lại giữa đám đông và hỏi: Ai đã sờ vào áo Tôi?”. Sức của mình xuất ra thì mình phải biết chứ. Nếu không làm chủ được sức lực của mình, thì trong thể thao, khi đứng gần lưới mà đánh mạnh sẽ ra ngoài sân và khi đứng xa lưới sẽ đánh yếu thì sẽ vào lưới. Mạnh sức mà đánh ra ngoài sân thì cũng như không. Kết cục thua là cái chắc thôi.
“Họ kéo Người lên tận đỉnh núi để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi”(Lc 4,29-30).
Lời Chúa này đọc vào ngày Chúa Nhật IV Quanh Năm, nhằm ngày 29 tết Âm lịch, Năm Con Cọp. Nên tôi suy gẫm chúng ta cũng phải như Đức Giê-su, hiên ngang bước đi như con cọp, băng qua những khó khăn của cuộc đời; băng qua những thử thách của cuộc sống; băng qua những lời dị nghị của người đời để sống.
Có thể nói, ai sống Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh; trong mọi công việc mình làm; thậm chí trong cả việc chơi thể thao để vui chơi đi nữa thì vẫn có thể thu được những kết quả tốt, đem lại niềm vui và hạnh phúc cho bản thân cũng như cho người khác.
Vậy chúng ta hãy noi gương thánh Phê-rô và các Tông đồ, không chỉ dựa vào sức mạnh, sự khôn ngoan và kinh nghiệm riêng của bản thân mà còn cậy dựa vào sức mạnh, sự khôn ngoan do Lời Chúa mang lại nữa. Muốn được vậy, chúng ta phải sống Lời Chúa, nghĩa là thực hành Lời Chúa trong mọi hoản cảnh sống của ta. Có thế, chúng ta sẽ thu được những kết quả tốt cả ở đời này lẫn đời sau.
Chúa thương, chọn gọi ai thì Chúa biến đổi người ấy. Isaia (x. Is 6, 1-2a. 3,8), Phêrô (x. Lc 5,1-11) TN 5-C131
Chúa thương, chọn gọi ai thì Chúa biến đổi người ấy. Isaia (x. Is 6, 1-2a. 3,8), Phêrô (x. Lc 5,1-11) và Phaolô (1Cr 15,1-11) là ba chứng nhân về điều nói trên. Cả ba đều thú nhận mình bất xứng, nhưng Thiên Chúa yêu họ và họ đã đáp trả cách quảng đại. Đúng là tình yêu Chúa biến đổi phận người.
Ơn gọi của Isaia
Trong một thị kiến uy nghi, Isaia được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa và nghe tiếng các Thiên Thần Sốt mến luân phiên tung hô: “Thánh, thánh, thánh, Chúa là Thiên Chúa các đạo binh, trời đất đầy vinh quang Chúa” (x. Is 6,2). Điều đó khiến ông run sợ và cảm thấy mình bất xứng, nên đã thốt lên lời: “Vô phúc cho tôi, tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn” (x. Is 6,3). Trước sự khiêm tốn ấy, Chúa sai sứ thần đến thanh tẩy ông bằng than lửa hồng, ông trở nên thanh sạch và được Chúa tuyển chọn, ông đã can đảm đáp lại : “Này con đây, xin hãy sai con” (x. Is 6,8). Tình yêu Chúa đã biến đổi Isaia thành đại ngôn sứ của Thiên Chúa.
Ơn gọi của Phêrô
Simon Phêrô đang ở trên thuyền đánh cá cùng đồng nghiệp, bỗng Chúa Giêsu bước xuống thuyền của Simon, rồi ngồi trên thuyền mà giảng dạy dân chúng, có Simon ở bên để giữ cho thuyền khỏi tròng trành, còn Chúa Giêsu thì cố gắng giảng dạy đám đông. Về phương diện thể lý, Simon gần Chúa hơn, ông nghe Chúa rõ lời Chúa và lời Chúa thấm nhập vào ông. Vừa giảng xong, Chúa Giêsu bảo ông Simon : “Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu, và thả lưới bắt cá” (Lc 5,4). Phản ứng của Simon là : “Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới” (Lc 5,8). Lời Chúa Giêsu đặt ông vào tình thế phải thả lưới bắt cá tiếp, dù kinh nghiệm ngư phủ là không thể. Phêrô tin vào lời Chúa Giêsu, đức tin được nuôi dưỡng bằng tình Thầy trò, đức tin tái tạo cái mới và tôn vinh khả năng của con người. Ông tin Chúa, nên bắt được một mẻ đầy cá.
Bảo Phêrô : “Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu”, là Chúa muốn ông bước ra ngoài sự an toàn, thói quen, chắc chắn, “và thả lưới bắt cá”. Ðứng trước sự lạ lùng ấy, Simon Phêrô đã không ôm choàng lấy Chúa Giêsu để bầy tỏ lòng biết ơn vì thu lượm được nhiều cá quá sức mong đợi. Nhưng, theo như thánh sử Luca ghi lại, ông đã quỳ xuống trước mặt Người và thưa: “Lạy Chúa, xin tránh xa con đi, bởi vì con là một kẻ tội lỗi”(Lc 5,8). Chúa trấn an : “Ðừng sợ :từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta” (Lc 5,10); ông đã từ bỏ tất cả để đi theo Người.
Chúa Giêsu thật nhân lành! Phêrô, kẻ chài lưới được Chúa gọi và trở nên nhà hùng biện đáng được ca ngợi nếu ông hiểu được công việc chài lưới người. Đó là tại sao thánh Phaolô gửi cho các tín hữu tiên khởi và nói : “Hãy coi, hỡi anh em, việc anh em được kêu gọi! Hẳn không có mấy người khôn ngoan xét theo xác thịt, không mấy người quyền thế, không mấy người tôn quí. Nhưng chính những điều thế gian coi là điên rồ, thì Thiên Chúa đã chọn để bêu nhuốc hạng khôn ngoan; và những điều thế gian coi là yếu đuối, thì Thiên Chúa đã chọn để bêu nhuốc những gì là mạnh mẽ.Những điều thế gian cho là ti tiện, là không đáng kể, thì Thiên Chúa đã chọn, những điều không không, để hủy ra không những điều có” (1Cr 1,26-28).
Vì nếu Chúa Giêsu chọn người hùng biện trước, người ấy có thể nói, “Tôi đã được chọn vì tài hùng biện của tôi”. Nếu Chúa chọn một thượng nghị sĩ, thượng nghị sĩ có thể nói, “Tôi được chọn vì cấp bậc của mình”. Sau cùng, nếu Chúa chọn một hoàng đế, hoàng đế có thể nói, “Tôi được chọn vì khả năng của mình”.
Ơn gọi của Phaolô
Phaolô, khi nhớ lại rằng mình đã từng là một kẻ bách hại Giáo hội, ông thú nhận mình không xứng đáng được gọi làm tông đồ, nhưng ông nhìn nhận rằng, Chúa Giêsu Phục Sinh đã thương ông và đã thực hiện nơi ông những điều kỳ diệu, bất chấp giới hạn con người của ông, Chúa còn trao cho ông nhiệm vụ và vinh dự được loan truyền Tin Mừng (x. 1Cr 15,8-10). Há chẳng phải lòng thương xót Chúa biến đổi con người ông sao ?
Ơn gọi mỗi người chúng ta
Trong cả ba kinh nghiệm kể trên, chứng tỏ con người dù nghèo nàn và bất xứng, giới hạn và tội lỗi, kể cả mỏng giòn. Nhưng nếu gặp được Thiên Chúa tình yêu, Chúa sẽ biến đổi con người. Isaia, Phêrô và Phaolô đã làm gương cho tất cả những ai được Chúa gọi thì hãy nhìn vào Chúa và lòng khoan nhân của Người, để thay lòng đổi dạ và hân hoan từ bỏ tất cả mọi sự vì Người.
Từ ơn gọi của các tiên tri, đến ơn gọi của các Tông đồ và cuối cùng là ơn gọi của mỗi người chúng ta. Câu chuyện ơn gọi của ngôn sứ Isaia, Phaolô, Phêrô là mẫu số chung cho ơn gọi của mỗi người. Ngày chúng ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, chúng ta được Chúa chọn để trở thành Kitô hữu, sứ giả loan báo Tin mừng. Đôi lúc chúng ta nghĩ rằng mình không xứng đáng. Nhưng Chúa chọn gọi ai là Người biến đổi như đa biến đổi như tiên tri Isaia, Phaolô, Phêrô, dù chúng ta bất xứng. Thánh Irênê nói : ai nhận thức được bản chất tội lỗi của mình, thì người ấy có khả năng nhận biết tình trạng tạo vật của mình nữa. Chỉ có những người như Phêrô, mới chấp nhận những giới hạn của chính mình và nhận những thành quả tông đồ của mình. Chúa đã kêu gọi các Tông Đồ để trở thành kẻ lưới người, nhưng ngư dân đích thực là chính Chúa : trò giỏi không chỉ giỏi chài, mà còn bắt cá người giỏi. Điều này chỉ có hậu nếu chúng ta liều bỏ tất cả để theo Chúa. Mong sao, mỗi người chúng ta ý thức được trách nhiệm, bổn phận cao quý của mình là trở nên sứ giả Tin Mừng của Thiên Chúa giữa đời hôm nay.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ gợi lên nơi mỗi người chúng con lòng ước muốn thưa “Xin Vâng” với Chúa trong vui sướng hân hoan. Amen.
Trong mỗi bậc sống, chúng ta đều cảm nhận niềm vui lẫn nỗi buồn, những điều thú vị cũng như TN 5-C132
Trong mỗi bậc sống, chúng ta đều cảm nhận niềm vui lẫn nỗi buồn, những điều thú vị cũng như nhàm chán. Nhưng có lẽ, chúng ta đều có ít nhiều một cảm giác và niềm xác tín giống nhau, đó là: tất cả đều nhờ bởi ơn Chúa!
Dù chúng ta có tài năng tỏ hiện hay đang tiềm ẩn, dù chúng ta tích cực hoạt động hoặc chỉ hỗ trợ phía sau, thì mọi thành quả do công khó nhọc, nỗ lực, cố gắng của bản thân cũng đều từ Thiên Chúa, ân sủng và hồng phúc của Ngài mà ra.
Vì vậy, trong cả ba bài đọc Phụng vụ hôm nay, ba nhân vật chính tuy khác nhau, nhưng đều chung quy một lòng biết ơn, dấn thân và đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa. Dẫu cả ba nhân vật này không xứng đáng, nhưng nhờ lòng yêu thương trìu mến, nhờ ơn Chúa, họ đã vâng phục tiến bước trên chặng đường làm chứng cho tình yêu Ngài dù biết đầy chông gai phía trước. Ngôn sứ I-sai-ah kêu lên: “Vô phúc cho tôi!…vì lưỡi tôi nhơ bẩn…” (Is 6, 5); còn Thánh Phao-lô thổ lộ: “…Ngài cũng hiện ra với chính tôi như với đứa con đẻ non. Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ, và không xứng đáng được gọi là tông đồ” (x. 1Cr 15, 9-10); và Thánh Phê-rô sụp lạy, thưa với Đức Giê-su rằng: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi” (Lc 5, 8) sau khi làm theo những gì Ngài phán truyền: “Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu, và thả lưới bắt cá” (Lc 5, 4). Đứng trước sự yếu hèn, mỏng dòn, mong manh của con người, Thiên Chúa chẳng bao giờ đầu hàng, và làm theo ý hướng ‘thoái lui’ của con người! Một cách cụ thể, ngôn sứ I-sai-ah được thánh hoá qua hình ảnh “Thần Sốt Mến đặt than lửa vào miệng” (x. Is 6, 6-7). Thánh Phao-lô quả quyết xác tín: “Nhưng nay tôi là người thế nào, là nhờ ơn của Thiên Chúa, và ơn của Người không vô ích nơi tôi, nhưng tôi đã chịu khó nhọc nhiều hơn tất cả các Đấng: song không phải tôi, nhưng là ơn của Thiên Chúa ở với tôi” (1Cr 15, 10); còn Thánh Phê-rô được Đức Giê-su trấn an và mời gọi: “Đừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta” (Lc 5, 8).
Quả thật, chấp nhận giới hạn của bản thân là bước đầu tiên của chặng đường đón nhận và đáp lời mời gọi của Thiên Chúa. Tuy nhiên trong thực tế, chúng ta khó lòng đón nhận ý kiến (dù đúng đắn) của người khác với vô số lí do, nhưng thiết nghĩ có lẽ vì chúng ta không muốn ‘đứng sau’ kẻ khác, dẫu biết rằng họ uyên thâm uyên bác, chuyên môn hơn chúng ta về lĩnh vực nào đó! Từ đó, ý nghĩ ‘không muốn xếp sau’ vô hình chung che lấp, ngán đường và khiến chúng ta ‘đui mù’ trước giới hạn của bản thân mình. Ở đây, nếu quan sát thật gần và kỹ lưỡng trình thuật Tin Mừng hôm nay, chúng ta sẽ thấy Thánh Phê-rô không nại vào sự chuyên nghiệp của mình (ngài là một ngư phủ thực thụ) mà bác bỏ hoặc không nghe theo lời chỉ dẫn của Đức Giê-su (một người không chuyên về đánh bắt). Giả sử thánh Phê-rô dựa vào khả năng, kinh nghiệm lão luyện của người ngư phủ chuyên nghiệp, thì Ngài vẫn có quyền không cần nghe theo lời chỉ dẫn của Đức Giê-su là một người ngư phủ không chuyên: “Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà chẳng được gì hết”; tuy nhiên, thánh nhân đã thêm vào câu nói này sau khi nghe Đức Giê-su dạy “Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà chẳng được gì hết, nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới” (Lc 5, 5). Thật vậy, đây là một thái độ biết nhìn ra và chấp nhận giới hạn của bản thân, giới hạn trong chuyên môn của mình trước lời chỉ dẫn giản đơn vốn dĩ từ một người không chuyên đánh bắt hải sản như Đức Giê-su: “Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu, và thả lưới bắt cá” (Lc 5, 4).
Hơn nữa, chấp nhận những thiếu sót, những gì chưa hoàn thiện nơi bản thân không có nghĩa ‘hạ thấp bản thân’ và ‘chọn hướng thoát thân’! Thái độ này thường diễn ra nơi mỗi người chúng ta trong thực tế, nào là: “Thôi, tôi chẳng có tài cán gì, nên tôi xin rút lui…”, “Tôi không làm gì nên hồn đâu, tôi xin kiếu nhé!…”, v.v…Nếu ngôn sứ I-sai-ah, hai Thánh Tông đồ Phê-rô và Phao-lô cũng xử sự như chúng ta hay làm, thì chắc hẳn, chúng ta sẽ chẳng bao giờ được biết tới gương sống chứng tá anh dũng của các ngài. Nếu Thánh Phê-rô chỉ thốt lên lời: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi” và bỏ cuộc sau khi nghe lời an ủi của Đức Giê-su: “Đừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta” (Lc 5, 8), thì chắc chắn chúng ta sẽ không bao giờ tỏ tường một ngư phủ vốn bộc trực, nhưng trở thành Tông đồ cả đã trung thành bước theo Thầy Chí Thánh đến cùng và tử nạn ‘chịu chết treo trên thập tự, chân hướng lên trời, đầu quay về đất’ (chịu chết treo ngược với Thầy Giê-su). Cũng vậy, nếu làm theo thói thường ‘hạ thấp bản thân’ và ‘chọn hướng thoát thân’ thì tiên tri I-sai-ah đã chẳng thưa: “Này con đây, xin hãy sai con” (Is 6, 8), và Thánh Phao-lô không nói: “Tôi đã chịu khó nhọc nhiều hơn tất cả các Đấng: song không phải tôi, nhưng là ơn của Thiên Chúa ở với tôi” (1Cr 15, 10). Trái lại, sau khi chấp nhận giới hạn bản thân và nhận ra ơn Chúa hằng tuôn đổ dồi dào trên cuộc đời của mình, các ngài đã như Thánh Phê-rô và những Tông đồ khác xác tín bước theo Thầy Giê-su: “Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người” (Lc 15, 11).
Sau cùng, chấp nhận giới hạn bản thân là cách thức chẳng bao giờ ‘để ơn Chúa trở nên vô ích nơi mình’ như Thánh Phao-lô đã bộc bạch trong thư gửi cho giáo đoàn Cô-rin-tô (x. 1Cr 15, 10). Tuy vậy, theo thói quen, chúng ta thường nói: “Tôi chẳng có tài năng gì; tôi chẳng có tài lẻ gì; Chúa ban cho người khác tài này, khả năng kia, nhưng tôi thì không…”, v.v…Rồi, chúng ta nhìn vào những tài năng lộ diện nơi người khác mà so sánh với bản thân, và nếu chúng ta không có tài năng ấy, thì vội kết luận: tôi chẳng có tài gì; Chúa chẳng ban cho tôi tài năng chi, v.v…Thật sự, tài năng chỉ là một phần nhỏ của ân phúc, ơn thánh mà Chúa trao ban cho chúng ta mà thôi. Có thể Chúa không ban cho ta ơn này, nhưng chắc chắn chúng ta được lãnh nhận ơn ích khác cần kíp cho bậc sống của mình. Ơn ích, tài năng nơi mỗi người tuy khác nhau, nhưng chắc chắn mỗi người chúng ta đều được nhận lãnh hồng ân từ Thiên Chúa; vì vậy, ‘đừng bao giờ để ơn Chúa nên vô ích nơi mình’, nghĩa là ‘biết cộng tác, vận dụng và áp dụng ơn thánh Chúa’ qua vô số tài năng, khả năng của mình, hầu sinh ích lợi, phục vụ và trở nên chứng tá cho Chúa như Thánh Phao-lô hằng quả quyết: “Hiện giờ tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Ngài ban cho tôi đã không vô hiệu…” (x. 1Cr 15, 10).
Cầu nguyện:
Tất cả nhờ bởi ơn Chúa Con vui mừng hát, nhảy múa hoan ca. Nhờ ơn thánh Chúa bao la Rao truyền thương mến thiết tha chan hoà. Amen!
Thánh thiện và tội lỗi là hai phạm trù đối lập nhau. Thánh thiện thuộc về Thiên Chúa và tội TN 5-C133
Thánh thiện và tội lỗi là hai phạm trù đối lập nhau. Thánh thiện thuộc về Thiên Chúa và tội lỗi là bản chất của con người. Hai nhân vật được nêu trong Lời Chúa hôm nay, một trong Bài Cựu ước và một trong Bài Tin Mừng, đã khẳng định sự tách biệt này. Khi được chiêm ngưỡng vinh quang của Thiên Chúa với lời tung hô ba lần “Thánh! Thánh ! Thánh”, ngôn sứ Isaia đã thốt lên: “Vô phúc cho tôi! Tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn, tôi ở giữa một dân tộc mà lưỡi họ đều nhơ nhớp, mắt tôi đã trông thấy Đức Vua, Người là Chúa các đạo binh”. Về phần ông Phêrô, khi chứng kiến mẻ lưới lạ, đã khiếp đảm thú nhận: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi”. Phản ứng của hai nhân vật trên đây cho thấy quan niệm của Do Thái giáo về sự cách biệt giữa Thiên Chúa và con người, vì Thiên Chúa là Đấng Chí thánh và con người là kẻ phàm hèn tội lỗi. Sự khác biệt này đã tạo một khoảng cách giữa Thiên Chúa và con người. Khoảng cách ấy ngặt nghèo đến nỗi, nếu con người lỡ nhìn thấy Chúa, thì phải chết.
Nếu con người lo sợ và mặc cảm về thân phận tội lỗi của mình, thì Thiên Chúa lại chủ động đến với họ. Thiên Chúa trong Cựu ước đã trấn an ông Isaia: “Hãy nhìn xem, than lửa này đã chạm đến lưỡi ngươi, lỗi của ngươi được xoá bỏ, và tội của ngươi được thứ tha”. Đức Giêsu trong Tân ước thì lại nói với ông Phêrô: “Đừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Thật lạ lùng! Thiên Chúa không những bỏ qua thân phận tội lỗi của con người, mà còn chọn gọi họ như những cộng sự viên thân cận của Ngài. Ông Isaia và ông Phêrô không những không phải chết, mà còn được gọi và sai đi để loan truyền giáo huấn của Thiên Chúa, giúp cho nhiều người nhận biết Ngài. Quả thật, ông Isaia và ông Phêrô đã nhiệt thành đáp lại lời mời gọi của Chúa, trở nên ngôn sứ và tông đồ của Ngài.
Thiên Chúa đã lấp đầy khoảng cách giữa Ngài với chúng ta. Không chỉ chủ động đến gần con người tội lỗi, Chúa Cha còn sai Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô đến trần gian để sống thân phận con người. Người thánh thiện, mà chấp nhận hòa mình vào đám đông tội nhân đang xin ông Gioan Tẩy giả làm phép rửa. Người là Đấng vô tội mà bị kết án như một kẻ bất lương. Người là nguyên lý của sự sống mà đã phải mang lấy cái chết trên thập giá. Qua Đức Giêsu, nhờ Đức Giêsu và trong Đức Giêsu, con người tội lỗi được trở nên con Thiên Chúa là Đấng Chí Thánh. Đây là sự trao đổi nhiệm màu: Con Thiên Chúa mang lấy tội lỗi của con người để con người được làm con Thiên Chúa.
Con Thiên Chúa đã làm người để giao hòa nhân loại với Thiên Chúa. Từ nay, không ai còn mặc cảm thân phận tội lỗi nữa. Hết thảy đều được Thiên Chúa yêu thương và mời gọi làm sứ giả của Ngài giữa lòng thế giới. Thánh Phaolô là một bằng chứng: ông thú nhận mình đã từng giết hại các tín hữu, nhưng khi được Chúa quy phục, ông đã ăn năn sám hối và cuộc đời của ông đã sang trang. Ông tâm sự: “Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ, và không xứng đáng được gọi là tông đồ, vì tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng nay tôi là người thế nào, là nhờ ơn của Thiên Chúa, và ơn của Người không vô ích nơi tôi, nhưng tôi đã chịu khó nhọc nhiều hơn tất cả các Đấng: song không phải tôi, nhưng là ơn của Thiên Chúa ở với tôi” (Bài đọc II). Đó là điều kỳ diệu của tình thương. Phaolô luôn tâm niệm điều này và ông thấy có bổn phận làm cho vương quốc của Chúa sớm được thực hiện nơi trần gian.
Isaia, Phêrô, Phaolô, ba con người xuất thân từ ba hoàn cảnh xã hội khác nhau, nhưng có chung một lý tưởng và một ơn gọi: làm sứ giả của Chúa và nhiệt thành loan báo lời Ngài. Hôm nay, Chúa vẫn đang kêu gọi chúng ta. Đừng mặc cảm cho rằng mình bất xứng hay bất tài. Ơn của Chúa sẽ phù giúp và ban cho chúng ta sức mạnh. Về phía chúng ta, chúng ta cần đáp lại lời mời gọi của Chúa, bằng tâm tình yêu mến, nhiệt thành và thiện chí. Chúa sẽ làm cho chúng ta trở nên những dụng cụ hữu ích trong Giáo Hội của Người. Qua những dụng cụ bé mọn ấy, Chúa tiếp tục làm nên những mẻ cá kỳ diệu, và làm cho cuộc sống này nở hoa.
Tuần trước lời Chúa nói về ơn gọi của ngôn sứ và tuần này lời Chúa đưa chúng ta đến với việc TN 5-C134
Tuần trước lời Chúa nói về ơn gọi của ngôn sứ và tuần này lời Chúa đưa chúng ta đến với việc sai đi của vị ngôn sứ: Ngôn sứđược gọi đểđược sai đi rao giảng. Tuần trước chúng ta nghe vềơn gọi của ngôn sứ Giêrêmia và tuần này chúng ta nghe vềơn gọi của ngôn sứ Isaiatrong bài đọc 1, của Thánh Phaolô trong bài đọc 2 và của bốn môn đệđầu tiên [Simon Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan] trong bài Tin Mừng.Chúng tanhận thấytrong những ơn gọi này điểm sau: Chúa gọi họ trong những hoàn cảnh khác nhau và nhất là trong khi họđang làm những công việc thật bình thường của kiếp nhân sinh. Chúa cũng đến gọi chúng ta trong hoàn cảnh sống của chúng ta như vậy, liệu chúng ta có đáp lại hay không? Chúng ta sẽ cùng nhau chia sẻ vềơn gọi của các nhân vật trong ba bài đọc hôm nay để hiểu rõ hơn vềơn gọi của mình.
Bài đọc 1 nói về thị kiến của Isaia sau khi vua Útdigiahu băng hà. Thị kiến nói về hình ảnh uy nghiêm của Đức Chúa, là Đấng chí thánh và là “Đức Chúa của các đạo binh” (Is 6:3). Ngôn sứIsaia trình bày cho chúng ta hình ảnh về một Thiên Chúa uy nghiêm và Chí Thánh nhưng lại kêu gọi mình, mộtcon người yếu đuối và “môi miệng ô uế” (Is 6:4) để công bố tin mừng củaNgài. Ngôn sứ Isaia thấy mình quá vinh dự vìđược “thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh!”(Is 6:5).Chúng ta có cảm thấyvinh dự khi đến tham dự thánh lễ để được nhìn thấy chính Chúa không? Một vị ngôn sứ chân chính là người cảm thấy mình vinh dự vì được Đức Chúa gọi và sai đi. Hơn nữa, một chi tiết kháquan trọng trong bài đọc 1 làm chúng ta đểý là việc Isaia nói về thực tế của đời mình, đólà, môi miệng ô uế và được ĐứcChúa sai “một trong các thần Xêraphim bay về phía tôi, tay cầm một hòn than hồng người đã dùng cặp mà gắp từtrên bàn thờ. Người đưa hòn than ấy chạm vào miệng tôi và nói: ‘Đây, cái này đã chạm đến môi ngươi, ngươi đã được tha lỗi và xá tội’”(Is 6:6-7).Trong thánh lễ hôm nay, môi miệng chúng ta không phải được một hòn than chạm đến, nhưng là chính Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Nó cách khác, môi miệng chúng ta được chạm đến bởi Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian.
Trong bài đọc 2 hôm nay, chúng ta tìm thấy ‘nội dung rao giảng căn bản nhất’của các tông đồvà Giáo Hội sơ khai, hay còn gọi là Kerygma (chúng ta có thể gọi đơn giản là “những tín điều đầu tiên của Hội Thánh”): “Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh” (1Cr 15:3-4). Thánh Phaolô kể về việc mình được nhìn thấy Chúa Giêsu Phục Sinh: “Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với Nhóm Mười Hai.Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một sốđã an nghỉ.Tiếp đến, Người hiện ra với ông Giacôbê, rồi với tất cả các Tông Đồ. Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non(1 Cr 15:6-8). Giống như Isaia, Thánh Phaolô nói vềđặc ân được gọi của mình. Ngài nhận ra mình chỉ là người bất xứng và “người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa” (1 Cr 15:9).Việc ngài trở thành tông đồ là“nhờơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu; trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi” (1 Cr 15:10).Tất cả những gì chúng ta có và chúng ta là đều là hồng ân của Thiên Chúa. Chính vì vậy, chúng ta phải luôn có thái độ tạơn Thiên Chúa. Đây chính là ýnghĩa của từ “Thánh Thể” [Eucharistia] –có nghĩa là “tạ ơn.” Chúng ta đến với Chúa mỗi Chúa Nhật trong thánh lễ để tạ ơn Chúa cho một tuần đã qua và một tuần mới bắt đầu và xin Ngài ban cho chúng ta những ơn lành cần thiết để rao giảng tin mừng của Ngài qua chính cuộc sống phục vụ của chúng ta trong gia đình, giáo xứ hay công sở.
Bài Tin Mừng hôm nay kể về câu chuyện ơn gọi của các môn đệđầu tiên, nhưng tập trung cách đặc biệt vào ơn gọi của Thánh Phêrô. Chúng ta cùng nhau phân tích ơn gọi của Phêrô một cách chi tiết hơn để rút ra những suy niệm cần thiết và cụ thể cho tuần sống của chúng ta. Chúng ta lưu ýđến bốn điểm sau:
Thứ nhất, Thánh Phêrô “cho phép” Chúa Giêsu lên và sử dụng thuyền của mình đểgiảng dạy: “Đức Giêsu xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simôn, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông” (Lc 5:3).Yếu tốcần thiết đầu tiên cho mỗi ơn gọi là “cho phép” Chúa Giêsu bước vào trong cuộc đời và con tim của chúng ta. Thật vậy, Chúa Giêsu luôn tôn trọng sự tự do của mỗi người. Ngài không gâyáp lực, không ép buộc; Ngài chỉ “kêu mời” và cố gắng “thuyết phục” chúng ta với tình yêu và sự kiên nhẫn của Ngài. Hãy mở cửa con tim và cuộc đời của chúng ta cho Chúa Giêsu để Ngài có thể yêu người khác bằng con tim nhỏ bé của chúng ta và phục vụngười khác qua chúng ta.
Thứ hai, Thánh Phêrô “tin” và “vâng lời” Chúa Giêsu:“Giảng xong, Người bảo ông Simôn: ‘Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá.’Ông Simôn đáp: ‘Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới’” (Lc 5:4-5).Nếu chúng ta xem xét cuộcđối thoại của Chúa Giêsu và Thánh Phêrôcách cẩn thận, chúng ta thấy có một cái gì đó “phi lý” nhưng có ý nghĩa rất sâu xa trong câu trả lời của Thánh Phêrô. Cái “phi lý” đó làđức tin của một nhà “chuyên viên đánh cá” vào một người “không có chuyên mônđánh cá.” Cụ thể hơn, chúng ta biết rằng, Chúa Giêsu là “con của bác thợ mộc Giuse” và Ngài cũng là một thợ mộc, còn Phêrô là một người đánh cáchuyên nghiệp. Đặt vào trong bối cảnh này chúng ta có thể viết lại đoạn đối thoại trên cách bình dân như sau: “Giảng xong, ‘Anh thợ mộc Giêsu’ nói với nhà chuyên viên đánh cá Phêrô: Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá.’Nhà chuyên nghiệp đánh cá Phêrô trả lời: ‘Thưa bác thợ mộc Giêsu, chúng tôi là dân chuyên nghiệp và chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì. Nhưng vâng lời bác, tôi sẽ thả lưới [vì bác là người đóng thuyền, nên biết thuyền có thể ra đến độ sâu nào và chởđược bao nhiêu cá].” Và kết quả là “họđã bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới.Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp. Những người này tới, và họđã đổlên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm” (Lc 5:6-7).Điều này giúp chúng ta nhận ra rằng: Nhiều khi trong cuộc đời, Chúa cũng muốn chúng ta thực hiện [vâng phục] những điều không “hợp lý” theo tính toán của con người. Nhưng khivâng phục làm theo, chúng ta sẽ kinh ngạc và vỡ oà trong vui mừng về kết quả Chúa mang lại cho chúng tanhư các môn đệđầu tiên của Ngài: “Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simôn và tất cả những người có mặt ở đó với ông đều kinh ngạc. Cả hai người con ông Dêbêđê, là Giacôbê và Gioan, bạn chài với ông Simôn, cũng kinh ngạc như vậy” (Lc 5:9-10).
Thứ ba, Thánh Phêrô “nhận ra” sự bất xứng và tội lỗi của mình: “Thấy vậy, ông Simôn Phêrô sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: ‘Lạy Chúa, xin tránh xa con,vì con là kẻ tội lỗi!’”(Lc 5:8). Đứng trước sựưu ái của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, mỗi người chúng ta đều cảm thấy mình bất xứng. Nhưng sự bất xứng này không làmchúng ta mãi sống trong mặc cảm tội lỗi, nhưng là để chúng ta trở nên khiêm nhường, không kiêu ngạo, để chúng ta biết rằng: “Dù tội con có đỏ như son, có đen như mực, Ta sẽ làm cho trắng như tuyết” (Is 1:18). Nói cách khác, để chúng ta cảm nghiệm được tình yêu tuyệt đối và vô điều kiện của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Đây cũng là một lời mời gọi để chia sẻ, vì không ai cảm nghiệm tình yêu của Chúa và giữ lại cho riêng mình, nhưng biết chia sẻ và giúp người khác cảm nếm được tình yêu dịu ngọt của Thiên Chúa qua lời nói và hành động phục vụ trong yêu thương và tha thứ của mình.
Thứ tư, Thánh Phêrô bỏ hết mọi sự để đi theo Chúa Giêsu: “Bấy giờĐức Giê-su bảo ông Si-môn: ‘Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.’ Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người” (Lc 5:10-11). Bước này là bước quyết định ơn gọi của người môn đệ vàliên quan chặt chẽ vớibước thứ ba. Nói cách cụ thể hơn, khi người môn đệnhận ra sự bất xứng và cảm nghiệm được tình yêu của Chúathì mới có khả năng đáp trả: Chỉ những người cảm nghiệm được tình yêu tuyệt đối của Chúa dành cho mình mới có khả năng bỏ hết mọi sựđểđi theo Ngài. Khi hai người nam nữ yêu nhau với tình yêu chân thật, họ sẵn sàng bỏ mọi sự, ngay cả cha mẹ, nghề nghiệp để sở hữu người mình yêu. Đối với người đang yêu, người yêu là tất cả. Cũng vậy, đối với người môn đệđang yêu Chúa Giêsu, Ngài là tất cả, không có gì có thể thay thế Ngài trong cuộc đời của người môn đệ. Khi chúng ta chưa bỏ hết mọi sự [quan trọng nhất là những thói hư tật xấu] để theo Chúa, thì chúng ta vẫn chưa yêu Chúa với một tình yêu chân thật và chưa cảm nghiệm được tình yêu tuyệt đối và vô điều kiện của Ngài và chưa xem Ngài là tất cả.
Tóm lại, đọc lời Chúa hôm nay, chúng ta nhận ra những yếu tố chung sau trong ba câu chuyện vềơn gọi: Được gọi – nhận ra sự bất xứng tội lỗi của mình – cảm nghiệm được vinh dự, tình yêu và sự tha thứ–đáp lại. Trong thánh lễ hôm nay, Chúa cũng muốn mỗi người chúng ta cảm nghiệm những điều này: Chúng ta được gọi và yêu thương ngay cảkhi chúng ta còn là tội nhân. Tuy thân phận yếu đuối mỏng manhvà bất xứng, nhưng chúng ta vẫn nghe lời mời gọi đầy yêu thương và tin tưởng của Chúa: “Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽđi cho chúng ta? ”Mong rằng, Ngài sẽ nghe chúng ta đáp lại lời mời gọivới trọn con tim: “Dạ, con đây, xin sai con đi” (Is 6:8).
Tin mừng loan báo gần xa, Nghe lời Thiên Chúa, bao la rạng ngời. Đoàn dân tụ họp khắp nơi, Chen TN 5-C135
Tin mừng loan báo gần xa, Nghe lời Thiên Chúa, bao la rạng ngời. Đoàn dân tụ họp khắp nơi, Chen nhau bước tới, gọi mời tiến thân. Bên bờ thuyền đậu rất gần, Những người đánh cá, thân trần cần lao. Suốt đêm cực nhọc biết bao, Miệt mài thả lưới, chẳng cào được chi. Ven bờ giặt lưới chẳng bì, Lên thuyền Chúa giảng, những khi đông người. Si-mon vâng lệnh nghe lời, Chèo xa một chút, giữa trời bao la. Tin mừng đánh động hồn ta, Tin yêu hoán cải, đi ra thực hành. Ngư dân thả lưới đã rành, Chúa truyền tung lưới, cũng đành vâng theo. Mặt hồ phẳng lặng trong veo, Chúa ban sự lạ, lưới neo nặng thuyền. Si-mon vâng phục lệnh truyền, Quyết tâm theo Chúa, lời nguyền hiến thân.
Ngày xưa, Chúa Giêsu không có Hội Đường riêng để giảng dậy. Ngài đi lang thang chỗ này chỗ kia, có khi thì giảng ở trên núi, khi ra ngoài cánh đồng, có khi tại một nhà thường dân, có khi vào Hội Đường Do Thái, có khi thì bên bờ hồ và hôm nay Chúa ngồi trên thuyền để giảng dậy. Qua những câu truyện của Tin Mừng, chúng ta biết người dân đi theo Chúa rất đông để nghe giảng và xin ơn chữa lành. Trong mọi hoàn cảnh, Chúa đều biểu lộ quyền năng của Ngài bằng các dấu lạ.
Ngồi trên thuyền, Chúa bảo Simon: Hãy đẩy thuyền ra chỗ nuớc sâu và thả lưới bắt cá. Simon cực nhọc suốt đêm chài lưới mà chẳng được con cá nào nhưng vì lời Thầy, ông đã thả lưới. Ông bắt được một mẻ cá đầy. Qua dấu lạ, Simon rất kinh ngạc và sụp lạy ngay dưới chân Chúa và nhận mình là người tội lỗi. Chính qua sự kiện khiêm hạ của ông, Chúa đã chọn và trao cho ông sứ mệnh rao giảng tin mừng. Ông đã đổi nghề, từ nay sẽ tung lưới bắt cá người.
Ngay sau khi Phêrô nhận lãnh ơn Chúa Thánh Thần, ông đã tung chài bắt mẻ cá đầu tiên và đã có được năm ngàn người trở lại tin vào Chúa Kitô. Vâng lời Chúa, ông Simon thả lưới và bắt được nhiều cá. Sự vâng lời và khiêm hạ là đầu mối cho tất cả sự thành công trong việc tông đồ. Nhận mình yếu đuối, tội lỗi và thiếu xót, Chúa sẽ nâng đỡ và thêm sức cho. Khi chúng ta tự mãn là có đầy đủ, sự thánh thiện và sự khôn ngoan thì không còn nơi chất chứa ơn của Chúa.
Hãy ra khơi thả lưới gợi nhớ hình ảnh ra đi truyền giáo. Chúa mời gọi chúng ta góp phần vào việc truyền giáo. Công việc đòi hỏi vất vả, lao động đêm ngày, kiên trì và có nhiều thất bại hơn thành công. Truyền giáo đòi hỏi chúng ta biết vâng theo lời Chúa, không cậy dựa vào sức mình hoặc phương tiện phàm tục. Tông đồ ra khơi, chúng ta cũng ra khơi thả lưới. Thả lưới trong hoàn cảnh sống, nơi gia đình, nơi hội đoàn, nơi làm việc, nơi học đường, trong cộng đoàn và ngoài xã hội. Chúa mong chờ chúng ta thâu hoạch nhiều kết qủa. Chúng ta hãy quảng đại đáp lại tiếng Chúa mời gọi
Truyện kể của một linh mục Tony de Mello sống ở Bombay, Ấn Độ. Một ngày nọ, trên đường về nhà, anh đã hỏi cha của anh: Con có thể đi tu làm linh mục Công Giáo được không? Cha của anh trả lời: Không, con là con một duy nhất, cha muốn con tiếp tục dòng dõi mang tên gia đình. Sau 14 năm không sinh nở, nay mẹ ông mang thai và khi mẹ sinh em bé. Tony chạy 6 cây số đường dài tới bệnh viện, thở hổn hển, anh hỏi cha: Em bé là con trai hay con gái? Cha trả lời: Con trai. Tony thật sung sướng nói rằng: Bây giờ con có thể làm linh mục.
Chúa mời gọi mỗi người chúng ta trong ơn gọi riêng. Người thì dâng hiến cuộc đời phục vụ tha nhân trong bậc sống tu trì, kẻ thì sống độc thân, người thì sống đời gia đình. Mỗi người chu toàn bổn phận của mình trong trách nhiệm sống và hành đạo.
Ngư phủ là người làm nghề chài lưới bắt cá trên giòng sông nước ngoài biển cả hầu như khắp nơi TN 5-C136
Ngư phủ là người làm nghề chài lưới bắt cá trên giòng sông nước ngoài biển cả hầu như khắp nơi vào moị thời đại. Ông đi bắt cá không phải để giải trí nhưng là nghề nghiệp kiếm miếng cơm manh áo cho chính mình và gia đình.
Chúa Giêsu không là ngư phủ nhưng ngài bước xuống thuyền của các ngư phủ bên hồ và giảng thuyết về tin mừng nước Thiên Chúa. Hai việc đánh cá và rao giảng tin mừng nước trời nào có ăn nhập gì với nhau đâu, mà tại sao Chúa Giêsu lại làm như kiểu ta thường nói: Kéo giỗ làm chạp!
Tôi không tin là Chúa Giêsu làm việc này cách nhì nhằng như thế. Trên đường rao giảng tin mừng nước Thiên Chúa, ngài muốn gần gũi với hết mọi người, không phân biệt thứ bậc giai cấp nghề nghiệp, lớn bé, già trẻ…vì thế ngài dùng cơ hội này nói chuyện với dân chúng.
Chưa hết, sau khi giảng thuyết ngài cùng ra khơi thả lưới đánh cá với các ngư phủ. Sau cùng lại còn kêu gọi phong cho các ngư phủ: Simon Phêrô, Giacôbe và Gioan nhiệm vụ đi cứu sống ( thả lưới đánh cá) người ta! Hai nghề nghiệp xem ra cũng chẳng có gì ăn khớp với nhau.
Con người như tôi, như bạn nào có phải cá tôm, sò ốc cua hến đâu mà đánh bắt được ? Tại sao Chúa Giêsu lại trao cho các ông nhiệm vụ từ việc chài lưới đánh cá sang việc chài lưới cứu sống người ta? Thử hỏi có ai chịu để người khác đánh bắt mình như cá tôm không ?
Bị chài mồi, bị thuyết phục xem ra là điều không tốt đẹp gì. Nhưng có những trường hợp lại là điều tốt đẹp mang lại niềm vui phấn khởi, như khi ta yêu thích mộ mến ai đó như hâm mộ Đức Giáo Hoàng Phaolô hay một thần tượng trong làng đá bóng, quần vợt, ca nhạc, văn sỹ, hội hoạ. ..Vào trường hợp như thế ta bị thuyết phục, hớp hồn và hầu như luôn nghĩ tới thần tượng đó, muốn có dịp được mắt thấy tai nghe, gần gũi sờ mó nói chuyện với thần tượng của lòng mình!
Trong đời sống ai cũng có kinh nghiệm về mối tương giao chung sống với người khác nhất là với bạn bè. Những người qua lời nói hay việc làm của họ gây tin tưởng niềm vui hứng khởi lôi kéo được tôi hay bạn, họ là người đã chinh phục được chúng ta. Sự chinh phục lôi kéo gây niềm vui phấn khởi cho đời sống theo điều ngay chính là chuyện tốt đẹp hữu ích. Thầy cô giáo hay huấn luyện viên mà không thu phục được nhân tâm của học trò, không gây được niềm vui hào hứng cho họ, thì làm sao có thể giúp họ tiến được ?
Chúa Giêsu kêu gọi và sai các ông ngư phủ đi – chài lưới – cứu sống người, không phải dựa trên căn bản giăng lưới bẫy bắt cá chim bay lượn trên trời trong lòng sông nước rồi cho nhốt vào một ao hồ hay chậu lồng, để đem đi bán hay làm thức ăn… nhưng trao cho các ông nhiệm vụ đi thu phục nhân tâm cho nước Thiên Chúa như ngài đang làm.
Nước Thiên Chúa bao gồm tất cả những tạo vật trong công trình do Thiên Chúa tạo dựng. Nước Thiên Chúa là nước của niềm vui, nước của lòng tha thứ làm hoà “chín bỏ làm mười”, nước của lòng nhân ái, kính trọng nhân phẩm con người, nước của sự thật. Trong nước Thiên Chúa mọi người là anh em con một Cha trên trời “tứ hải giai huynh đệ”.
Chúa Giêsu đã thu phục các Tông đồ đầu tiên Phêrô, Giacôbê, Gioan theo ngài. Các ông cũng có nhiệm vụ làm sao thu phục lòng con người, gây nơi họ lòng tin tưởng phấn khởi theo Chúa.
Nhiệm vụ thu phục nhân tâm cho nước Thiên Chúa không chỉ giới hạn vào các Thánh Tông đồ tiên khởi này, nhưng là nhiệm vụ của tất cả mọi người qua bí tích Thánh tẩy đã gia nhập tin theo mộ mến nước Thiên Chúa.
Niềm vui của người đi thu phục nhân tâm cho tin mừng nước Thiên Chúa không dựa vào thành công vào con số những người hâm mộ tin theo Chúa, vì sự thành công xem thấy đếm được ngày càng xem ra khiêm nhượng ít đi, nhất là trong xã hội tự do và khoa học phát triển ngày hôm nay. Nhưng họ có niềm vui, vì lời Chúa là niềm vui, là thần tượng cho tâm hồn họ và họ mang niềm vui đó đến cho người khác như nhân chứng của niềm vui nước Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, qua bài Tin Mừng hôm nay Chúa đã tỏ cho chúng con thấy đâu là TN 5-C137
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, qua bài Tin Mừng hôm nay Chúa đã tỏ cho chúng con thấy đâu là quyền năng của Chúa khi chúng con biết đặt niềm tin tưởng nơi Ngài và lấy Ngài làm niềm vui và lẽ sống của chúng con.
Qua một đêm dài, sự thất vọng và chán nản vẫn còn đè nặng tâm hồn các ngư phủ nơi bờ hồ Ghennexarét vì không có một con cá nào vào lưới. Nhưng Chúa lại bảo với Phêrô : “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Xuất thân từ ngành mộc, làm sao Chúa có thể kinh nghiệm nghề đánh cá bằng Phêrô ? Bởi vậy, Phêrô mới phản ứng : “Thưa Thầy, chúng con đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả”.
Trên bình diện tự nhiên, Phêrô không thể nghe lời một người không chuyên môn như thế. Nhưng với niềm tin vào Chúa đã khiến ông vượt qua bình diện tự nhiên ấy mặc dù biết Chúa không phải là người làm nghề chài lưới. Ông đã mạnh mẽ nói : “Nhưng vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới”. Sự vâng phục của ông đã được đáp lại: “Họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm”. Qua đó, Chúa đã cho các môn đệ đầu tiên thấy rằng những tính toán tự nhiên của con người không còn là tiêu chuẩn tối hậu để tìm thấy sự thật nữa.
Cảm phục trước quyền năng của Chúa các môn đệ đã “bỏ hết mọi sự mà theo Người”. Thật là một quyết định dứt khoát. Tấm lòng quảng đại của các tông đồ chính là thái độ sẵn sàng đáp trả lời mời gọi của Chúa. Ngày xưa, Chúa cũng lên tiếng kêu mời Isaia : “Ta sẽ sai ai đây ?”. Tức khắc ông đáp lại : “Dạ, con đây, xin sai con đi”.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, trong xã hội hôm nay làm sao chúng con có thể diễn tả Đức tin của chúng con vào Chúa ? Nhiều lúc chúng con cảm thấy đức tin của mình chao đảo bởi những nghịch cảnh xảy ra trong cuộc sống mỗi ngày. Tin vào Lời Chúa đòi hỏi mỗi người chúng con phải từ bỏ kiểu lý luận vững chắc xét theo lối người đời, để sống trọn niềm tin vào Chúa một niềm tin không lay chuyển vì cậy trông nơi Chúa là Đấng quyền năng và hằng hữu.
Hằng ngày, nếu cuộc sống của chúng con thiếu đi sự tin tưởng vào người khác, thì cuộc đời chúng con sẽ như cánh cửa bị đóng kín. Bởi vì niềm tin là nền tảng để xây dựng cuộc đời, xây dựng mối tương quan giữa con người với con người, không thể xây dựng bất cứ cái gì mà không cần đến nền tảng ấy. Nhưng Đức tin của chúng con được lớn mạnh một cách từ từ và tiệm tiến, khiến nhiều lúc chúng con khó nhận ra rằng Chúa đang đi vào đời chúng con một cách âm thầm lặng lẽ. Chính tình yêu thương mà Chúa đã làm cho chúng con mọi sư. Chúa kêu gọi chúng con ngay trong cuộc sống đời thường, qua những biến cố lớn nhỏ trong đời người. Những lúc chúng con vui mừng hạnh phúc, những lúc chúng con sắp chán chường thất vọng hay cô đơn Chúa đều mời gọi chúng con hãy đến và “Hãy trút nhẹ gánh lo vào tay Chúa”, rồi Ngài “sẽ đỡ đần cho”.
Kinh nghiệm sống cho chúng con biết nhờ có đức tin chúng con sẽ thấy Chúa luôn ở cùng chúng con. Chính niềm tin vào Chúa mà chúng con dám bỏ mọi sự để có được niềm hạnh phúc duy nhất là Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, ước mong sao trong cuộc sống hôm nay chúng con luôn biết chia sẻ niềm vui và hạnh phúc vì có Chúa cho anh chị em chúng con. Ước mong sao trong cuộc sống chúng con luôn lấy yêu thương, công bằng, bác ái, mà sống cũng như biết liên đới trách nhiệm với nhau. Xin Chúa cho chúng con luôn có Đức tin vững mạnh vào quyền năng của Chúa khi phải đối diện với những những nghịch cảnh xảy ra trong cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen
“Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người.”(Lc 5,11)
Kính thưa anh chị em
Chúng ta vừa đọc lại một trong những câu chuyện đẹp nhất trong Tin Mừng của thánh Luca. Nếu TN 5-C138
Chúng ta vừa đọc lại một trong những câu chuyện đẹp nhất trong Tin Mừng của thánh Luca. Nếu phải đặt cho câu chuyện này một tên gọi thì tôi sẽ đặt là “Con đường chinh phục của Chúa”. Đây là cách Chúa thường làm trong việc chinh phục một con người. Chúng ta thử phác họa ra một vài mốc tiêu biểu.
Chúa làm quen Tin Mừng hôm nay cho biết khi Chúa và dân chúng kéo đến thì Ông Simon và bạn bè đã ra khỏi thuyền và họ đang cùng nhau giặt lưới. Việc Chúa mượn con thuyền của Simon hôm nay quả là một biến cố lớn lao đối với ông.
Tin Mừng không cho chúng ta biết nội dung những lời rao giảng của Chúa hôm đó như thế nào. nhưng chắc chắn những lời rao giảng của Chúa cũng có một tác động rất mạnh đối với ông Simon.
Bước thứ hai Chúa làm cho ông phải cảm phục. Cũng từ trên con thuyền sau khi giảng cho dân chúng, bằng những lời lẽ rất thân tình, Chúa nói với Simon: “Hãy chèo thuyền ra chỗ nước sâu và thả lưới bắt cá”. Simon không ngần ngại trình bày với Chúa những thất bại sau cả một đêm dài:”Thưa Thầy chúng tôi đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết”.
Nhưng ngay sau đó ông chân thành thưa với Chúa: “Nhưng vì lời Thầy con sẽ thả lưới”. Và kết quà như thế nào thì chúng ta đã rõ. Tin Mừng ghi lại cho chúng ta thái độ rất đặc biệt của ông Simon lúc đó: “Ông kinh ngạc”. Cả bạn bè của ông là ông Giacôbê và Gioan con ông Giêbêđê cũng thế. Riêng đối với ông Simon, ngoài thái độ kinh ngạc ra, chúng ta còn thấy một sự thay đổi lạ lùng.
Ông tự cảm thấy mình bất xứng, tự cảm thấy mình tội lỗi không xứng đáng gần gũi với Người: “Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con vì con là người tội lỗi”
Thế là từ chỗ làm cho ông kinh ngạc Chúa đã làm cho ông cảm phục để rồi ông sẽ thuộc hẳn về Ngài.
Và cuối cùng là những chọn lựa. Chúa chọn ông và ông cũng chọn Chúa. Tin Mừng không nói cho chúng ta biết cử chỉ và thái độ của Chúa lúc ấy như thế nào. Theo lẽ thường tình tôi tưởng thì thái độ của Chúa trong trường hợp này sẽ phải là rất đặc biệt. Bằng một cử chỉ thật đẹp Chúa cúi xuống, đỡ ông dậy và sau đó bằng những lời tuy nhẹ nhàng êm ái nhưng cũng không kém tính cách quả quyết, Chúa nói với Simon: “Đừng sợ hãi. Từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta”
Nhưng để được như thế Chúa đòi hỏi ông phải đi một bước xa hơn nữa: Ông phải từ bỏ tất cả mọi sự để đi theo Chúa.
Tin Mừng đã cho chúng ta thấy thái độ rất đáng nể phục của Simon cũng như bạn bè của ông: “Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người”. Chúng ta hãy đọc lại một lần nữa những lời thật cảm động trên: “Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người”.
Kính thưa anh chị em.
Không biết anh chị em nghĩ như thế nào chứ riêng tôi tôi rất cảm phục thái độ chân thành và tốt bụng của ông Simon. Thái độ của ông thật là trong sáng và chân thành.
Theo Tin mừng chúng ta thấy cuộc đời của ông có nhiều sai lỗi thế nhưng sau những sai lỗi đó ông lại cuơng quyết đứng dậy.
Cuộc đời của ông có những mềm lòng yếu đuối và có cả những vấp phạm đắng cay. Nhưng ngay sau đó ông lại tìm lại được niềm tin, tìm lại được lòng yêu mến và ông lại tiếp tục cuộc hành trình, can đản đi tới, không một chút mặc cảm.
Vâng kính thưa anh chị em.
Không ai trong chúng ta là thánh. Nhưng tất cả chúng ta đều được Chúa mới gọi nên thánh. Chẳng ai trong chúng ta dám tự hào mình là người không bao giờ sai lỗi và cũng chẳng bao giờ vấp phạm. Tự hào như thế là kiêu ngạo. Vấn đề đối với Chúa qua cuộc đời của Simon – Phêrô rõ ràng không phải ở chỗ ông có yếu đuối, có sa ngã hay không, nhưng vấn đề là sau những vấp ngã sa lầy đó ông đã biết làm gì để sửa lại. Ơn của Chúa lúc nào cũng như mưa sa, nước mát trên cả cuộc đời của ông. Ông đã biết cộng tác với ơn của Chúa. Chính vì thế ông đã có thể biến thất bại thành chiến thắng, biến đen tối thành ánh sáng huy hoàng. Ông đã viết trong thư thứ nhất gửi cho các giáo đoàn như thế này: “Đức Kitô là Đấng thánh. Hãy tôn vinh người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1Pr 3,15). Vâng cuộc đời của Phê-rô quả thực đã là một tấm gương thật sáng để soi cho chúng ta.
Một mẩu truyện nhỏ được ghi lại ở trong cuốn Góp nhặt rất cảm động như sau: Hôm đó một nhà phẫu thuật nổi tiếng người Hòa Lan thực hiện một ca mổ tử thi trong hội đường của một trường đại học. Chung quanh ông có cả một đoàn sinh viên đông đảo cùng tham dự. Tử thi này là xác của một tội nhân phạm trọng tội và bị án treo cổ. Khi phóng tầm nhìn trên khuôn mặt của tử thi, ông cảm thấy như có một cái gì quen quen. Ông nhìn đi nhìn lại nhiều lần và không bao lâu thì các sinh viên thấy mặt của thầy mình tự nhiên biến sắc rồi cả con người của ông run lên. Các sinh viên cảm thấy vô cùng ngạc nhiên vì bình thường thì ông là một con người rất bình tĩnh.
Cuối cùng thì ông phải lên tiếng để giải thích: “Các bạn ạ! Người này là một trong số những người bạn trong thời thơ ấu của tôi. Bây giờ tôi là người như thế nào thì các bạn đã thấy. Hãy để tôi nói cho các bạn điều này: Nếu không có ơn của Thiên Chúa thì tôi thấy chẳng có cái gì khác có thể giúp tôi tránh khỏi cái tình trạng của người bạn tôi đang nằm ở trước mặt các bạn đây”
Hãy cộng tác với ơn của Chúa. Hãy mau mắn đáp lại lời mời gọi của Người. Có Người chỉ đường dẫn lối chúng ta sẽ không sợ lạc hướng. Có Người bảo trợ chắc chắn chúng ta sẽ thành công.
Một câu chuyện khác cũng có thể minh hoạ cho chúng ta về vấn đề này:
Đây là câu chuyện do Anatole France đã viết và đã được dựng thành phim được chiếu nhiều trước đây tại Việt Nam. Câu chuyện có liên quan đến một người đà bà tên là Thái.
Và Thái sống ở Aicập vào thế kỷ thứ tư và có một cuộc sống nổi tiếng là phóng đãng. Nhà ẩn tu Paphnatius biết được tin ấy thì cầu xin với Chúa soi sáng giúp đỡ cho ngài để ngài có thể tìm phương tìm cách giúp đỡ cho người đàn bà này được trở về với Chúa. Sau khi được Chúa soi sáng, Paphnatius cải trang tìm đến gặp nàng và xin được gặp nàng ở một nơi thật kín đáo. Nàng dẫn Ngài qua rất nhiều phòng nhưng chỗ nào Ngài cũng chê là chưa đủ an toàn. Thai dẫn Ngài đến một nơi cuối cùng và ngoài ra thì không còn một chỗ nào khác.Thế nhưng nhà ẩn tu cũng cho là chưa đủ an toàn. Tức quá không còn kiên nhẫn thêm được nữa, nàng nó thật to:
” Chắc chắn là không ai có thể nhìn thấy chúng ta ở trong nơi này. Tuy nhiên nếu ngài muốn tránh được sự hiện diện của Thiên Chúa thì Ngài sẽ chẳng bao giờ mà làm được điều đó dù ngài có ẩn trốn ở một nơi kín đáo nào đi nữa”
Vừa nghe thấy thế Paphnatius vội hỏi ngay: “Thế nào? Nàng mà cũng biết là có một Thiên Chúa sao?
– Có lẽ thế! Tôi còn biết có một thiên đàng dành cho những người thánh thiện và một hỏa ngục dành cho những người gian ác.
+ Nàng đã biết các điều trên….vậy thì làm sao mà nàng còn dám sống một cuộc đời như thế trước một vị Chúa luôn luôn thấy nàng?
Những lời như thế đã xoáy vào tâm tư người đàn bà tội lỗi. Với một thái độ hoán cải nàng sấp mình xuống thú nhận tội lỗi của mình quyết làm lại cuộc đời và sau nàng đã chết như một vị thánh.
Trong những ngày qua, từ nước Mỹ đến Việt Nam đều đang trải qua mùa bầu cử. Mặc dù có TN 5-C139
Trong những ngày qua, từ nước Mỹ đến Việt Nam đều đang trải qua mùa bầu cử. Mặc dù có sự khác nhau về cách thức, nhưng về tính chất có thể vẫn giống nhau. Những người làm chính trị luôn tìm đủ mọi cách để hạ thấp đối thủ và giành cho mình quyền lãnh đạo. Để đạt được mục tiêu này, họ có thể dùng đến những thủ đoạn chính trị để loại trừ nhau, nói xấu nhau và khoe khoang những khả năng của mình.
Vào ngày 20/01 2016 vừa qua, tại Giáo phận Bà Rịa đã diễn ra lễ tấn phong giám mục Emanuel Nguyễn Hồng Sơn. Ngài đã chọn phương châm cho đời giám mục của Ngài là : Vâng nghe Thánh Thần. Điều đó cũng phần nào cho thấy, khác với hoạt động chính trị, những ơn gọi, chức bậc trong Giáo hội không phải là sự giành giật hay do khả năng của đương sự, nhưng phát xuất từ lời mời gọi của Thiên Chúa và người được gọi đáp trả lại bằng sự cảm phục trước quyền năng và hoàn toàn vâng theo tiếng của Thiên Chúa mời gọi.
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay diễn tả sự thánh thiêng và kỳ diệu của lời mời gọi này. Tiên tri Isai đã kể lại ơn gọi Chúa ban cho ông. Vị tiên tri đã được thị kiến một khung cảnh hết sức uy nghi của Thiên Chúa, Đấng ngự trên ngai toà vinh quang và có các thiên thần chầu hầu. Các thiên thần không ngớt lời ca tụng tôn vinh Thiên Chúa : Thánh, Thánh, Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh. Tiếng của các ngài càng làm cho khung cảnh thêm uy linh, đất trời rung chuyển. Chứng kiến vinh quang của Thiên Chúa, vị tiên tri cảm thấy mình bé nhỏ và vô cùng tội lỗi, bất xứng trước sự thánh thiện của Ngài.
Thiên Chúa đã muốn chọn ông trở thành kẻ nói lời của Ngài. Ngài đã sai sứ thần lấy hòn than đỏ hồng đặt vào miệng ông và nói : Than hồng đã chạm vào môi ngươi, tội lỗi của ngươi đã được tha. Hành động này như một sự thanh tẩy cả con người và tâm hồn của Isai, biến đổi ông trở thành người của Chúa, dành để phục vụ Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa không bắt ép ông, nhưng Ngài muốn những kẻ được tuyển chọn phải tự do nói lên ý nguyện của mình. Cũng trong thị kiến đó, vị tiên tri đã nghe thấy tiếng của Thiên Chúa : Ta sẽ sai ai đây ? Ai sẽ đi cho chúng ta ? Trong niềm cảm mến và hoàn toàn tự do vâng phục, vị tiên tri đã thưa lên cùng Chúa : Dạ con đây, xin hãy sai con. Kể từ đó, Isaia đã trở thành kẻ được Chúa chọn để truyền đạt ý Chúa cho dân, hướng dẫn dân đi theo đường lối của Thiên Chúa.
Nếu như tiên tri Isai được nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa qua một thị kiến, thì Tin Mừng Luca cho thấy, các môn đệ đầu tiên đã hoàn toàn bị chinh phục bởi quyền năng Thiên Chúa nơi Đức Giêsu và khi Ngài mở lời mời gọi, các ông đã đáp lại một cách nhanh chóng và quảng đại.
Thánh Luca kể rằng, trước một đám đông chen lấn để được đến gần Chúa Giêsu, Người thấy hai chiếc thuyền đậu gần bờ, những người đánh cá đã ra khỏi thuyền để giặt lưới. Ngài bước xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon. Người xin ông chèo thuyền ra xa một chút và ngồi đó để giảng dạy. Chi tiết này cho thấy chắc chắn việc Chúa Giêsu bước xuống thuyền của Simon không phải là chuyện tình cờ, nhưng qua việc bước xuống thuyền của ông, Chúa cũng muốn bước vào cuộc đời và tâm hồn ông. Ngài đã mở lời để xin ông chèo thuyền ra xa bờ một chút, cũng có nghĩa là từ đây, ông được tách ra khỏi đám đông một chút để ông được ở gần Chúa, bên Chúa và cùng Chúa phục vụ cho việc rao giảng Tin Mừng.
Giai đoạn thứ hai, Chúa mời ông đi thêm một bước nữa : Hãy chèo thuyền ra chỗ nước sâu để thả lưới bắt cá. Với phản ứng tự nhiên và với kinh nghiệm nghề nghiệp, Simon dường như không muốn chấp nhận lời mời gọi này, ông đã thưa : Thưa Thầy, chúng tôi đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì cả. Lời thưa của Simon cho thấy sự vất vả luống công của các ông trong đêm tối. Nhưng giờ đây gặp được ánh sáng từ nơi Chúa Giêsu, ông sẵn sàng bỏ lại đàng sau những khả năng và những kinh nghiệm cá nhân để vâng phục mệnh lệnh của Chúa Giêsu : Vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới. Họ đã thả lưới và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi phải gọi thêm tàu khác đến chở giùm. Mẻ lưới này là mẻ lưới quyền năng của Chúa Giêsu và kết quả này là do sự tin tưởng và vâng phục đáp trả từ phía Simon.
Được gặp Chúa Giêsu, nghe lời Ngài giảng và hoàn toàn vâng theo Lời Ngài đã đưa đến một mẻ lưới đầy cá lạ lùng. Simon đã nhận ra Chúa Giêsu chính là vị Thiên Chúa quyền năng, là Đấng vô cùng thánh thiện, ông đã sấp mặt xuống dưới chân Chúa Giêsu. Thái độ cung kính sấp mình như thế là thái độ dành riêng cho Thiên Chúa. Giống như Isaia ngày xưa khi chứng kiến sự uy nghi của Thiên Chúa thì đồng thời nhận ra sự bất xứng của mình, Simom hôm nay cũng thế, ông đã khiêm tốn thưa với Chúa: Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi.
Gặp Đức Giêsu và chứng kiến mẻ cá lạ lùng khiến cho không chỉ Simon mà Giacôbê và Gioan là những người bạn chài cũng kinh ngạc và khâm phục. Từ việc xin Simon chèo thuyền ra khỏi bờ một chút, đến việc truyền cho ông chèo thuyền ra chỗ nước sâu để thả lưới, thì giờ đây, Chúa Giêsu đã mở ra trước mắt ông một lời mời gọi rộng lớn hơn và đặc biệt hơn : Đừng sợ, từ nay, anh sẽ là người thu phục người ta. Anh sẽ không còn là kẻ bắt cá nữa, nhưng anh sẽ bước ra với thế giới, kể cả những chỗ nước sâu nước xoáy, để đem mọi dân mọi nước về cho Chúa. Anh sẽ không phải là kẻ quyền lực hay cai trị, nhưng là kẻ mời gọi và thu phục mọi người về cho Chúa.
Trước một lời mời gọi và một sứ mạng lớn lao như thế, Simon và các bạn chắc chắn chưa hiểu và chưa thể hình dung hết về sứ mạng ấy, nhưng các ông đã đáp trả một cách nhanh chóng và dứt khoát : Thế là, họ đưa thuyền vào bờ và bỏ hết mọi sự mà đi theo Người. Một quyết định tưởng chừng như đơn giản nhưng thực ra là một sự đánh đổi và là một thái độ hoàn toàn tin tưởng, phó thác cho quyền năng của Thiên Chúa. Chấp nhận đi theo Chúa, các môn đệ đã phải chấp nhận bỏ lại đàng sau một nếp sống cũ đã trở thành quen thuộc, đã nhiều năm gắn bó. Họ bỏ lại hết mọi sự, tức là bỏ lại đàng sau thuyền và lưới có nghĩa là bỏ lại tài sản và của cải, để từ đây có thể thanh thoát đi theo Chúa, không còn bị bận vướng bởi các thứ của cải trần thế. Bỏ hết mọi sự, tức là các ông cũng chấp nhận bỏ lại đàng sau các mối liên hệ tình cảm cha mẹ, vợ con, gia đình, bạn hữu để từ đây, các ông sẽ sống với Chúa Giêsu và sẽ có mối tương quan mới rộng lớn hơn và thực thi một sứ mạng phổ quát hơn.
Tiếng gọi đến từ Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vẫn chờ đợi sự tự do đáp trả của con người. Một khi đã sẵn sàng thưa tiếng xin vâng để phó trọn cuộc đời cho Chúa, Chúa sẽ dùng người ấy để nói về Chúa và thể hiện quyền năng của Ngài cho anh chị em. Thiên Chúa cũng đã bước vào cuộc đời của mỗi chúng ta, Chúa cũng đang muốn mượn chiếc thuyền cuộc đời của mỗi người. Ngài muốn chúng ta chèo thuyền ra khỏi đám đông một chút để mỗi người thoát khỏi sự ồn ào của cuộc sống bên ngoài, của công việc, để có thể dễ dàng truyện trò với Chúa. Chúa muốn mỗi người gặp Chúa qua cầu nguyện và tâm sự riêng tư với Chúa, nhất là để có thể nghe được tiếng Chúa mỗi ngày.
Hơn nữa, Chúa cũng muốn mỗi chúng ta chèo thuyền ra chỗ nước sâu hơn để thả những mẻ lưới của sự vâng phục trong đức tin. Hãy ra khỏi sự êm ấm và những tiện nghi sẵn có và an toàn của mình, để có thể đến với anh chị em chung quanh. Hãy đến với những người trong gia đình, những người đang đau khổ bất hạnh, những người đang bị bỏ rơi ngay bên lề cuộc sống của chúng ta. Chèo thuyền ra chỗ nước sâu để thả những mẻ lưới của tình yêu thương, sự thông cảm, sự quan tâm vào sâu trong lòng người khác, đụng chạm đến trái tim và tâm hồn chứ không chỉ là sự quan tâm hời hợt bên ngoài.
Trước vinh quang thánh thiện của Thiên Chúa, con người luôn bất xứng vì thấy mình thấp hèn và tội lỗi. Thiên Chúa không quan tâm đến quá khứ tội lỗi, Ngài cũng không đặt bất cứ điều kiện nào cho kẻ Ngài mời gọi ngoại trừ sự vâng phục và hoàn toàn quảng đại từ bỏ mọi sự để theo Chúa. Ngày nay, với cuộc sống sung túc hơn, sự lôi kéo mời chào của vật chất và lối sống hưởng thụ dễ dãi, khiến cho nhiều người, đặc biệt là giới trẻ ngại ngùng không dám đáp lại lời mời gọi của Chúa. Lời Chúa nói với Simon cũng là nói cho mỗi chúng ta: Đừng sợ, từ nay, anh, chị sẽ trở nên kẻ chinh phục người ta. Xin cho chúng ta đừng nại vào bất cứ một lý do hoặc một khó khăn nào để thoái thác lời mời gọi này. Amen.
Trong một cuộc triển lãm ghi dấu ngày con tàu Titanic khổng lồ chìm sâu dưới đáy đại dương, người TN 5-C140
Trong một cuộc triển lãm ghi dấu ngày con tàu Titanic khổng lồ chìm sâu dưới đáy đại dương, người ta trưng ra 2 bức ảnh với 2 chủ đề trái ngược. Bức ảnh thứ nhất chụp cảnh con tàu vĩ đại đang từ từ chìm sâu xuống lòng biển trước cặp mắt kinh hoàng của hàng ngàn người. Tác giả chú thích bên dưới: “Sự yếu ớt của con người và sức mạnh khủng khiếp của thiên nhiên”. Tấm ảnh thứ 2 chụp cảnh một hành khách quý phái nhường chỗ của mình trên chiếc cano cứu hộ cho một phụ nữ. Người phụ nữ được cứu sống còn vị khách chấp nhận cái chết. Tác giả chú thích : “Sự yếu ớt của thiên nhiên và sức mạnh của tình yêu con người”. Tổng hợp cả 2 bức ảnh, người ta muốn nói lên một điều, đó là con người thật nhỏ bé và mong manh trước vũ trụ bao la, nhưng con người sẽ trở nên vĩ đại và cao cả nhờ tình yêu dâng tặng cho nhau.
Hôm nay chúng ta cũng được mời gọi nhìn vào sự yếu đuối và mỏng dòn nơi thân phận con người, nhưng chúng ta sẽ tìm được sức mạnh lớn lao khi tín thác vào ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa.
Sự bất lực và mong manh trong kiếp người
“ Thưa Thầy, chúng con đã vất cả suốt đêm mà không bắt được gì cả”. Trong bài Tin mừng hôm nay, Phêrô đã giãi bày với Chúa về sự bất lực nơi mình. Cũng vậy, trong bài đọc 2, Thánh Phaolô đã tự thú : “ Tôi không đáng được gọi là Tông đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa” (1Cor 15,9). Đây là 2 con người vĩ đại, 2 cột trụ của Giáo Hội, nhưng cả 2 đều có chung một quá khứ chẳng mấy sáng sủa. Phêrô thì bộc trực, nóng vội, thậm chí còn là một anh học trò phản bội. Quá khứ của Phaolô còn đáng sợ hơn. Ngài là một tay sát thủ chuyên nghiệp chuyên lùng bắt và sát hại các Kitô hữu, trong đó có Stêphanô. Cả Thánh Phêrô và Thánh Phaolô đều bày tỏ sự bất lực nơi thân phận mình. Các Ngài cảm thức sự mong manh yếu đuối qua các lỗi lầm đã phạm.
Sức mạnh của ân sủng
“Vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới”. Đây là một thái độ của đức tin, tín thác vào quyền năng và ân sủng của Chúa. Phêrô là một anh thuyền chài chuyên nghiệp, dày dạn kinh nghiệm. Ông đã từng sinh sống bằng nghề đánh cá suốt bao năm qua. Nhưng con người dù có tài giỏi đến mấy cũng sẽ có lúc gặp thất bại cay đắng. Các Tông đồ đã trải nghiệm thế nào là sự nghiệt ngã của cuộc đời, đặc biệt sau cái chết của Gioan tiền hô trong tù ngục. Vì vậy sau khi sai các Tông đồ đi thực tập truyền giáo, Chúa mời gọi các ông hãy lui vào nơi thanh vắng để nghỉ ngơi (Mc 6,31). Đây không phải là sự nghỉ ngơi thân xác, nhưng Chúa mời gọi các ông lui về, để Thầy trò cận kề bên nhau, ôn lại những gì đã qua, cảm thấu được sự yếu đuối và nghiệt ngã nơi phận người hầu mở toang tâm hồn cho ân sủng phủ ngập. Chúa còn nói thêm: “ Không có Ta chúng con không làm được gì” (Ga 15,5).
Nơi Phaolô, chúng ta cũng thấy được sự giằng co giữa tội lỗi và ân sủng, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự sống và sự chết. Chúa nói với Phaolô : “Ơn Ta đủ cho ngươi”. Phaolô cảm thức rất sâu sự bất toàn của mình nên đã tự bộc bạch : “ Đức Giêsu đến cứu chuộc những con người tội lỗi, và người tội lỗi đầu tiên là chính tôi”. Một con người đã cầm gươm sát hại bao Kitô hữu lại được ân sủng biến đổi, trở nên một Tông đồ vĩ đại, một sứ giả lừng danh công bố về tình yêu Thiên Chúa cho con người. Trong lá thơ gửi giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô đã thấm thía kinh nghiệm bản thân và khẳng quyết: “Ở đâu tội lỗi càng nhiều, ở đó ân sủng càng chan chứa”. Trong bài đọc 2 hôm nay, Phaolô cũng nhắc lại sự thâm tín này. Ngài viết: “ Tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông đồ. Nhưng tôi có là gì cũng là nhờ ơn Chúa, và ơn người ban cho tôi đã không vô hiệu. Tôi đã làm việc nhiều hơn các vị khác, nhưng không phải tôi mà là ơn Chúa ở cùng với tôi (1Cor 15,4-10).
Tín thác vào sức mạnh của ân sủng và quyền năng Thiên Chúa là chìa khóa để hóa giải tất cả những vết đen của quá khứ. Tội nhiều hay tội ít không quan trọng, chỉ cần chúng ta biết trải lòng mình ra để ơn thánh tác động. Thánh Tôma Aquinô đã nói: “Ai sa ngã trong tội lỗi, đó là một con người bình thường. Kẻ nào ở lì trong tội, đó là ác quỷ. Còn ai biết chỗi dậy sau những nhớp nhúa của tội lỗi và tín thác vào ơn trên, người đó là một vị Thánh”. Nguyên tắc này chúng ta thấy rõ nét nơi Phêrô và Phaolô.
Sau khi Phêrô chối thầy, ánh mắt Chúa đã quét ngang khuôn mặt ông nơi sân nhà thượng tế Caipha. Tia sáng tình yêu đã khơi dậy nơi Phêrô cảm thức thống hối, và biến đổi con người mong manh này trở nên một Tông đồ vĩ đại. Cũng vậy, ánh sáng hắt ra từ trời cao đã chọc thủng đôi mắt thân xác của Phaolô trên đường đi Damas, nhưng cũng chính nguồn sáng tình yêu ấy lại khai mở cặp mắt đức tin nơi tâm hồn Ngài. Đó là ánh sáng của tình yêu, đã thẩm thấu vào sâu tận trái tim của thánh nhân nên Ngài đã viết: “Không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa trong Đức Kitô”.
Và các ông bỏ mọi sự đi theo người
Đây là đoạn kết của cuộc hành trình biến đổi nội tâm. Thánh Luca đã kết thúc trình thuật Tin mừng hôm nay nói về sự chiến thắng của ân sủng trước sức mạnh của tội lỗi. Ơn Chúa đã tạo ra sự biến đổi. Phêrô đã bỏ mọi sự đi theo Đức Giêsu. Cũng vậy, chàng đại ca Phaolô một thời tung hoành oanh liệt đã chấp nhận ‘gác kiếm’ để trở nên một dũng sỹ phục vụ cho Tin mừng. Thanh kiếm ngày xưa Ngài đã dùng để sát hại các Kitô hữu đã được gác lại, thay bằng một thanh gươm khác sắc bén hơn, lợi hại hơn, đó là thanh gươm của lòng mến. Thánh Phaolô đã diễn bày thanh gươm tuyệt chiêu ấy qua một bài ca bất hủ, mà chúng ta vẫn gọi là bài ca Đức mến, được viết trong lá thư thứ nhất Ngài gửi cho giáo đoàn Corintô. Đó là ân sủng cao quý nhất, trổi vượt hơn tất cả mọi ân sủng (1 Cor 12, 31). Đức mến chính là con đường ơn gọi của Thánh Phaolô. Tình yêu cũng chính là điều kiện Chúa Giêsu đặt ra để chọn Phêrô và bác dân chài Galilê đã đáp trả mạnh mẽ quyết liệt: “Phêrô anh có yêu mến Thầy hơn những người này không? Thưa Thầy, Thầy biết mọi sự, Thầy biết con yêu mến Thầy”.
Để nói lên lòng yêu mến đáp trả, các môn đệ đã bỏ mọi sự và đi theo Ngài.
Kết luận
Có một vị Linh mục coi sóc một họ đạo toàn tòng. Ngày Thứ Tư Lễ Tro ăn chay kiêng thịt, Ngài đi bách bộ quanh ngôi làng để thăm hỏi giáo dân. Đến một căn nhà nọ, Cha xứ gặp một thanh niên đang ngồi nhâm nhi trước đĩa thịt chó với chai rượu bên cạnh. Ngài nhắc nhở khéo léo : “ Hình như hôm nay con quên là ngày ăn chay kiêng thịt ?”. “Thưa Cha con vẫn nhớ”. “ Hay là bác sĩ cho phép vì con đang ốm ?”. “Thưa Cha không phải thế, con vẫn mạnh khỏe”. “Hay là con…? Chàng thanh niên trả lời ngay, chẳng cần giấu diếm quanh co: “ Hôm nay con ăn thịt, chỉ vì con thèm quá, thưa Cha.” . Nghe thế, vị linh mục ngước mắt lên trời cầu nguyện: “Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì các bạn trẻ ngày nay đã dạy con nhiều bài học. Các bạn đã khiêm tốn nhận lỗi của mình chứ không xấu hổ để phải nói dối.”
Khiêm tốn nhận ra lầm lỗi của bản thân là khởi đầu con đường nên thánh nơi các vị Thánh, cụ thể nơi Phêrô và Phaolô. Khi nhận ra sự bất lực và yếu đuối nơi mình để tín thác tuyệt đối vào ơn Chúa chính là lúc chúng ta cũng đang bắt đầu trở nên những con người vĩ đại.
Thánh nữ Teresa Hài Đồng Giêsu (Thérèse de Lisieux) xác định: “Ơn gọi của tôi là yêu thương”. Có TN 5-C141
Thánh nữ Teresa Hài Đồng Giêsu (Thérèse de Lisieux) xác định: “Ơn gọi của tôi là yêu thương”. Có TIN mới YÊU. Đó là hệ lụy tất yếu. Và suốt cuộc đời, Chị Thánh Teresa đã sống trọn vẹn ơn gọi đến từng chi tiết, hoàn tất bằng những động thái nhỏ nhất, như những đường kim mũi chỉ nhỏ mà có chiếc áo đẹp.
Ơn gọi yêu thương là ơn gọi thứ nhất của mọi Kitô hữu, những người tin Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Thế – sau đó mới có các ơn gọi khác, người ơn này, người ơn nọ. Vâng, chính Chúa Giêsu đã truyền lệnh “yêu thương nhau”, và Ngài gọi đó là điều răn mới (x. Ga 13:34-35; Ga 15:12; Ga 15:17). Tác giả Thánh Vịnh đã vui mừng ca tụng: “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay, anh em được sống vui vầy bên nhau” (Tv 133:1). Đó là cách sống hòa thuận, sống quan tâm lẫn nhau, tức là yêu thương nhau.
Mỗi người đều có ít nhất một tặng phẩm thúc đẩy, không ai không có. Kinh Thánh cho biết rạch ròi:
[1] “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa” (1 Pr 4:10).
[2] “Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tuỳ theo ân sủng Thiên Chúa ban cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. Được ơn phục vụ thì phải phục vụ. Ai dạy bảo thì cứ dạy bảo. Ai khuyên răn thì cứ khuyên răn. Ai phân phát thì phải chân thành. Ai chủ toạ thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái thì vui vẻ mà làm” (Rm 12:6-8).
Đó là bảy loại tặng phẩm thúc đẩy. Mỗi chúng ta đều nhận được một hoặc vài tặng phẩm. Có tặng phẩm không phải để khoe mẽ, vênh vang, tự đắc, mà để tôn vinh Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Thiên Chúa đã tiền định từ đời đời: “Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi. Xương cốt con, Ngài không lạ lẫm gì, khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu. Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy; mọi ngày đời được dành sẵn cho con đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu của đời con khởi sự” (Tv 139:13-16).
Ngôn sứ Isaia đã cho biết: Năm vua Út-di-gia-hu băng hà, tôi thấy Chúa Thượng ngự trên ngai rất cao; tà áo của Người bao phủ Đền Thờ. Phía bên trên Người, có các thần Xê-ra-phim đứng chầu. Mỗi vị có sáu cánh: hai cánh để che mặt, hai cánh để che chân và hai cánh để bay. Các vị ấy đối đáp tung hô: “Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh! Cả mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!” (Is 6:1-2).
Thiên Chúa là Đấng Chí Thánh, được Ngài kêu gọi là đại phúc cho chúng ta, vì tất cả chúng ta đều hoàn toàn bất xứng đối với Ngài. Ngôn sứ Isaia cho biết thêm về sức mạnh kỳ lạ của lời chúc tụng: “Tiếng tung hô đó làm cho các trụ cửa rung chuyển; khắp Đền Thờ khói toả mịt mù. Bấy giờ tôi thốt lên: Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một người môi miệng ô uế, tôi ở giữa một dân môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi đã thấy Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh!” (Is 6:4-5). Đối diện với Thiên Chúa, phàm nhân phải run rợ vì thấy mình quá xấu xa. Con mắt trần gian không thể chịu nổi ánh sáng của Thiên Chúa. Mô-sê đã phải che mặt trước ánh sáng của Thiên Chúa, Phaolô đã hóa mù khi ánh sáng của Thiên Chúa chiếu vào ông.
Tuy nhiên, Thiên Chúa luôn nhân từ và giàu lòng thương xót, Ngài biết chúng ta như thế nào nên Ngài không hề chấp lách, và Ngài sẵn sàng cứu chữa chúng ta. Ngôn sứ Isaia dẫn chứng cụ thể: “Một trong các thần Xê-ra-phim bay về phía tôi, tay cầm một hòn than hồng người đã dùng cặp mà gắp từ trên bàn thờ. Người đưa hòn than ấy chạm vào miệng tôi và nói: Đây, cái này đã chạm đến môi ngươi, ngươi đã được tha lỗi và xá tội. Bấy giờ tôi nghe tiếng Chúa Thượng phán: Ta sẽ sai ai đây? Ai sẽ đi cho chúng ta? Tôi thưa: Dạ, con đây, xin sai con đi” (Is 6:6-8).
Thiên Chúa kêu gọi, ngôn sứ Isaia đã mau mắn đáp lại. Đó là một cách vâng lời, không so đo, không toan tính. Thiên Chúa cũng đã và đang kêu gọi chúng ta làm chứng nhân cho Ngài ở thế gian này, nhất là trong những lúc khó khăn nhất. Ước gì chúng ta cũng sẵn sàng đáp lại Ngài với niềm vui thực sự. Mỗi người được Ngài gọi cách khác nhau, nhưng chung quy chỉ là để vinh danh Thiên Chúa và để Nước Cha trị đến – như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện qua Kinh Lạy Cha.
Vói mục đích tốt đẹp đó, tác giả Thánh Vịnh đã tâm nguyện và tán tụng Thiên Chúa: “Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ, Ngài đã nghe lời miệng con xin. Giữa chư vị thiên thần, xin đàn ca kính Chúa, hướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ. Xin cảm tạ danh Chúa, vì Ngài vẫn thành tín yêu thương, đã đề cao danh thánh và lời hứa của Ngài trên tất cả mọi sự. Ngày con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại, đã gia tăng nghị lực cho tâm hồn. Lạy Chúa, mọi đế vương dưới trần đều cảm tạ khi nghe những lời miệng Ngài phán ra. Họ sẽ ca ngợi đường lối Chúa: Vinh quang Chúa vĩ đại dường bao!” (Tv 138:1-5).
Sống đức tin khi thanh thản và bình an thì dễ dàng, không đáng quan ngại, nhưng sống đức tin khi gặp hoạn nạn mới đáng quan ngại. Các thánh là những anh hùng đức tin vì đã sống trọn đức tin trong hoàn cảnh ngặt nghèo nhất, và đã sống đức tin đó tới hơi thở cuối cùng. Sống đức tin là điều không dễ, sống đức tin trong nhịch cảnh lại càng khó gấp bội!
Khó không có nghĩa là không làm được. Thiên Chúa không thử thách chúng ta vì Ngài biết rõ mọi sự, nhưng Ngài muốn chúng ta cộng tác với Ngài. Vì thế, hãy không ngừng cố gắng tâm nguyện như tác giả Thánh Vịnh: “Cho dù con gặp bước ngặt nghèo, Chúa vẫn bảo toàn mạng sống con. Địch thù đang hằm hằm giận dữ, Ngài ra tay chận đứng, lấy tay uy quyền giải thoát con. Việc Chúa làm cho con, Ngài sẽ hoàn tất; lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang” (Tv 138:7-8).
Ai đã từng giữ vững đức tin trong những lúc khó khăn thì sẽ nhận ra “sức mạnh của sự yếu đuối nơi con người” (x. 2 Cr 12:10). Đó chính là “phép lạ” thực sự chứ không phải tìm đâu xa, như nhiều người vẫn “chạy đua” tin theo các “sự lạ” ở chỗ này hoặc nơi nọ. Rất nên cảnh giác về vấn đề này!
Chết đi và sống lại cũng là “ơn gọi” đối với phàm nhân: chết đời hữu hạn (đời tạm) để sống đời vô hạn (trường sinh). Chúa Giêsu đã trải qua cái “ngưỡng” này để làm cho chúng ta nhận thức đúng đắn về cuộc đời.
Thánh Phaolô xác định: “Thưa anh em, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng tôi đã loan báo và anh em đã lãnh nhận cùng đang nắm vững. Nhờ Tin Mừng đó, anh em được cứu thoát, nếu anh em giữ đúng như tôi đã loan báo, bằng không thì anh em có tin cũng vô ích” (1 Cr 15:1-2).
Sống đức tin là sống ơn gọi – ơn gọi chứng nhân, ơn gọi Kitô hữu, ơn gọi yêu thương, ơn gọi nhân từ và thương xót. Thánh Phaolô trút bầu tâm sự: “Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh. Người đã hiện ra với ông Kê-pha, rồi với Nhóm Mười Hai. Sau đó, Người đã hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt, trong số ấy phần đông hiện nay còn sống, nhưng một số đã an nghỉ. Tiếp đến, Người hiện ra với ông Giacôbê, rồi với tất cả các Tông Đồ. Sau hết, Người cũng đã hiện ra với tôi, là kẻ chẳng khác nào một đứa trẻ sinh non” (1 Cr 15:3-8). Hành trình ơn gọi này cũng là hành trình sinh – tử, chết đi và sống lại. Một hành trình kỳ diệu, và chỉ một hành trình duy nhất chứ không là vòng luân hồi như người ta “suy bụng ta ra bụng người”. Vòng luân hồi là ảo tưởng, lệch lạc tư duy, chỉ nghĩ theo ý mình. Chắc chắn Thiên Chúa không cho vòng luân hồi tác dụng!
Thánh Phaolô tâm sự chân thành: “Tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông Đồ, tôi không đáng được gọi là Tông Đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa. Nhưng tôi có là gì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu; trái lại, tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn Thiên Chúa cùng với tôi. Tóm lại, dù tôi hay các vị khác rao giảng, chúng tôi đều rao giảng như thế, và anh em đã tin như vậy” (1 Cr 15:9-11). Vô cùng kỳ diệu, vì Hồng Ân đó tuôn trào từ chính Nguồn Mạch Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Trình thuật Lc 5:1-11 (tương đương Mt 4:18-22 và Mc 1:16-20) nói về việc Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên tại bờ hồ Ghen-nê-xa-rét.
Khi đó, dân chúng chen lấn nhau đến gần Chúa Giêsu để nghe lời Thiên Chúa. Ngài thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những người đánh cá đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Ngài xuống chiếc thuyền của ông Simôn và bảo ông chèo thuyền ra xa bờ một chút. Rồi Ngài ngồi xuống và giảng dạy đám đông.
Giảng xong, Ngài bảo ông Simôn chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá. Ông Simôn gãi đầu và nói: “Thầy ơi, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”. Là ngư phủ dày dạn kinh nghiệm, Phêrô biết nước lớn, nước ròng, con nước nào có cá hay không có cá. Thế nhưng ông hành động vì “vâng lời” mà thôi. Phêrô tuyệt vời ở điểm này.
Thật kỳ lạ, họ đã làm theo và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như rách cả lưới, họ phải làm hiệu cho các bạn chài đến giúp. Cá đầy hai thuyề, đến nỗi thuyền gần chìm. Họ chưa bao giờ đánh được nhiều cá như vậy!
Thấy vậy, vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, ông Simôn Phêrô sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và nói: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”. Đứng trước Thiên Chúa, người ta trở nên bé nhỏ và tội lỗi, vì vậy mới thấy sợ. Rất có thể lúc đó Chúa Giêsu cười rất hiền, rồi vỗ vai Phêrô và nói: “Đừng sợ, không có gì đâu. Anh đứng dậy đi!”. Nhưng Thiên Chúa lại nhân từ và thương xót, thật hạnh phúc cho chúng ta biết bao!
Mọi người đều kinh ngạc, kinh ngạc vì mẻ cá lạ và vì Chúa Giêsu nhân hậu quá chừng. Quả thật, Chúa Giêsu bảo ông Simôn: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta”. Chài cá là “chuyện nhỏ”, dễ ẹc, thế mà phàm nhân vẫn không thể muốn theo ý mình. Vâng, “chài người” mới là chuyện quan trọng, khó lắm. Nhưng có Thiên Chúa hướng dẫn thì không phải lo chi.
Sau đó, họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Đại Sư Giêsu suốt cả quãng đời còn lại. Cuộc đời họ hoàn toàn sang trang mới, chương mới. Thẻ căn cước của họ không còn ghi là “ngư phủ” (chài lưới cá), mà ghi là “nhân phủ” (chài lưới người). Loại thẻ căn cước này khong xã hội nào có thể cấp phát, độc nhất chỉ có Chúa Giêsu cấp phát mà thôi.
Mỗi Kitô hữu cũng đã được tái sinh và được sử dụng loại thẻ căn cước mới ngay từ khi lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy.
Lạy Thiên Chúa, xin cảm tạ Ngài đã cho con được làm con cái Ngài, xin giúp con biết trung thành với ơn gọi Kitô hữu và sống làm chứng về lòng thương xót của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Vâng, thưa quý vị, chủ đề Lời Chúa hôm nay nói về “ơn gọi ”. Vâng, ơn gọi là gì ? Thưa quý vị TN 5-C142
Vâng, thưa quý vị, chủ đề Lời Chúa hôm nay nói về “ơn gọi ”. Vâng, ơn gọi là gì ? Thưa quý vị: Thưa,” Ơn Gọi” là một hồng ân nhưng không, tức vô điều kiện từ Thiên Chúa dành cho loài người, mà trong đó có một số ít được chọn. Vì được gọi thì nhiều, nhưng được chọn thì ít. Như vậy, ơn gọi có nhiều cấp độ, ơn gọi đa số là ơn gọi là người Kitô hữu, nghĩa là trở nên con cái Thiên Chúa cách nhưng không, bởi vì, ơn người được gọi không bắt nguồn từ họ, hay do công lênh của họ, mà là một ân ban vô điều kiện từ Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót.
Vâng, ơn gọi tiếp theo là ơn gọi tu trì, nói chung cho mọi người sống đời tận hiến, từ người tu sĩ ,chủng sinh sơ khởi đến những người được nhận lãnh thánh chức, phó tế, linh mục, giám mục, giáo hoàng. Người tu sĩ không có chức thánh thuộc hàng giáo dân, những người có chức thánh mới thuộc hàng giáo sĩ. Như vậy, ơn gọi chỉ có hai cấp bậc chính , đó là: Hàng giáo sĩ và giáo dân, không có hàng thứ ba. Hàng giáo sĩ có hai loại là Triều và Dòng. Triều là hàng giáo sĩ không có lời khấn, chỉ có luật buộc độc thân và vâng lời giám mục trực tiếp. Dòng là người tu sĩ có lời khấn Phúc Âm : KHÓ NGHÈO –KHIẾT TỊNH –VÂNG LỜI. Tu sĩ dòng có chức thánh thì cũng được gọi là giáo sĩ.
Khởi đi từ bài đọc I ( Is 6, 1-2a; 3-8) là đoạn thuật lại Isaia được thụ phong tiên tri, tức ngôn sứ. Tức người được chọn , được sai đi để loan báo Lời Chúa.
Chúa Giêsu là Vị Ngôn Sứ đầu tiên của Tân Ứơc, đồng thời Người cũng kêu gọi những ai bước theo Người. Tin Mừng hôm nay ( Lc 5, 1 -11) cho thấy Người kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên và trong một bối cảnh Người làm phép lạ thứ tư kể từ ngày Người khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng.
Bố cục đoạn Tin Mừng ( Lc 5, 1-11) hôm nay có 03 phần , nhưng có bốn ý chính:
Phần thứ nhất : từ câu 1 – 3 trình thuật bối cảnh Chúa Giêsu đến bên bờ hồ Ghên-nê-xa-rét, có hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ và Người tìm đến chiếc thuyền của người tên là Simon.
Phần thứ hai : từ câu 04 – 07 đoạn nầy nói lên sự vâng lời Chúa Giêsu của ông Simon và( phép lạ xảy ra). Người mà suốt đêm không bắt được con cá nào.
Phần thứ ba: có 02 ý :
* ý thứ nhất từ câu 08 – 10a : cho thấy sự kinh ngạc của ông Simon và các ông đã có mặt.
* ý thứ hai câu 10b – 11 : Chúa kêu gọi Simon và các ông theo Người. Và họ đã bỏ mọi sự mà theo Người.
Theo đó, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, cho chúng ta thấy, Thiên Chúa đã ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại, Đấng Cứu Thế đến giữa nhân loại không phải để ban cho cơm, áo, gạo ,tiền, không phải gánh lấy trách nhiệm cuộc sống thân xác hằng ngày của con người. Nhưng, là để chu toàn sứ vụ Ngôn Sứ, Vương Đế và Tư Tế của Người. Theo đó, phép lạ “mẻ cá lạ lùng” mà Chúa Giêsu đã thực hiện hầu minh chứng Người đến từ Thiên Chúa, có quyền năng trên mọi tạo vật, kể cả thần dữ.
Người xây dựng lòng tin và củng cố những người đi theo Người, hầu xây dụng những nhân sự trần thế cộng tác vào công cuộc rao giảng Tin Mừng.“Chèo ra chổ nước sâu mà thả lưới bắt cá” (Lc 5, 4) đó là Lời huấn dụ của Chúa Giêsu, đã truyền cho Phêrô, một nhân vật số 1 của hàng môn đệ. Chổ nước sâu, theo địa lý là chổ nguy hiểm, nhưng là nơi cá tụ tập nhiều, vì cá luôn cần nước, môi trường rộng rãi, đồng thời chổ nước sâu là môi trường đích thực của loài cá. Theo đó, Chúa Giêsu cũng khuyên chúng ta đừng hoảng sợ khi rao giảng Tin Mừng, vì chổ nào nguy hiểm, thì chổ đó mới có thành quả tốt. “Chổ nước sâu” đồng thời cho chúng ta biết xông pha, ra đi đến với những môi trường bất thuận, nhiều nghịch lý, trái chiều để thu phục nhân tâm. Không phải sứ vụ ngôn sứ lúc nào cũng xuôi chèo, mát mái, mà là những nơi đầy thử thách, chông gai, nhưng , chúng ta không bao giờ quên là chúng ta có Chúa Giêsu cùng đồng hành. Theo lý lẽ tự nhiên, không ai dại gì đâm đầu vào nơi nguy hiểm, nhưng theo lý lẽ siêu nhiên thì có Chúa Giêsu dù nơi nào nguy hiểm thì đã có Người nâng đỡ.
Chúa bảo Phêrô ra chổ nước sâu mà thả lưới bắt cá là đã “có Chúa” nơi đó rồi. Vậy, nơi nào có Chúa, thì ta còn sợ chi. Lời thánh giáo hoàng Gioan Phaolô giáo huấn chúng ta “ĐỪNG SỢ” là ngài dựa vào tiêu chí trên. Phêrô hăng hái vâng lời Chúa Giêsu, là ông phát huy một đức tin chân thật, không do dự, nghi ngờ, không tự cao bảo thủ. Như vậy, niềm tin của ông vào Chúa Giêsu không phải là “uổng công”, ông được tưởng thưởng xứng đáng. Nhưng, trên hết ông được “kêu gọi” đi theo Chúa để đánh lưới người ta.
Niềm tin tất thắng của Phêrô là một niềm tin không vô vọng. Như vậy, cho chúng ta thấy, nơi nào có Chúa Giêsu, dù là nơi người đời cho là “nguy hiểm”, thì nơi đó vẫn có sự an bình tuyệt đối. Bởi vì, Chúa Giêsu là Thiên Chúa là Đấng toàn năng, cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Vì Chúa là Chúa muôn loài, Người đứng trên tất cả, cả thần dữ là satan, satan là kẻ “phản nghịch”.
Theo đó, đức tin của Phêrô là đức tin của các thánh Tử Đạo, đức tin của chúng ta, chúng ta hãnh diện tuyên xưng đức tin ấy bất cứ nơi nào, bất cứ nơi đâu. Chúng ta thấy, Phêrô vâng lời Chúa Giêsu, Phêrô nhận lãnh thành quả nơi Chúa Giêsu, Phêrô tuyên xưng đức tin và sau cùng Chúa gọi Phêrô. Phêrô đã trở nên kẻ đánh lưới người ta, có nghĩa là thu phục các linh hồn.
Bài học của chúng ta là : Làm thế nào để nhận ra Chúa Giêsu, vâng lời Chúa Giêsu, tuyên xưng Người và bước theo Người. Vì, dù chúng ta có sức mạnh, tài trí, học lực, mưu cao , tiền bạc, nhưng không có Chúa Giêsu trong cuộc đời chúng ta, thì coi như kết quả sau cùng chỉ là con số không mà thôi. Nhưng, nếu chúng ta biết đặt tất cả mọi sự dưới chân Chúa Giêsu và tôn thờ một mình Người, thì chúng ta vô cùng hạnh phúc, vì có Chúa Giêsu là có tất cả.
Vâng, bài đọc II ( 1Cr 15, 1-11) hôm nay, thánh Phaolô đã xác quyết mạnh mẽ những giáo huấn từ thực tế, tức sự thật. Như những lời giáo lý cơ bản nhất và đáng tin cậy nhất. Vì giáo lý là thần học sơ cấp, thần học là giáo lý cao cấp.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã giáo huấn thánh Phêrô và ông đã tin theo, làm theo và đã nhận được một thành quả tích cực. Ông đã tuyên xưng vào Chúa và Người đã gọi ông trở nên kẻ ngư phủ linh hồn người ta. Xin cho những ai ngày đêm tìm kiếm và bước theo Chúa cũng nhận được thành quả như thánh Phêrô./. Amen
Sau cơn mưa, trời lại sáng; thất bại là mẹ thành công, có phải cha ông chúng ta muốn nhắn gởi TN 5-C143
Sau cơn mưa, trời lại sáng; thất bại là mẹ thành công, có phải cha ông chúng ta muốn nhắn gởi đến một thông điệp : hãy kiên nhẫn ? Nói hay không bằng nghe giỏi, trăm tay hay không bằng tay quen, phải chăng, 2 câu thành ngữ ấy nói tới “thực lực” của con người thật quan trọng, và sống trên đời đừng trông chờ yếu tố hên xui ? Quan niệm thế nào là thành công thường được hiểu là : giỏi về lý thuyết, giỏi về thực hành, cùng với kinh nghiệm đã thu lượm được sau những lần hư hỏng, sai sót, đổ bể.
Mọi việc làm dù tốt, xấu, thành công, thất bại, đều có nguyên nhân, và người ta vẫn đánh giá bằng cảm nhận giác quan. Đối với con người, công sức, thời gian, đầu tư nhiều mà không kết quả thì gọi là thất thu, là thua cuộc. Những ngư phủ vất vả cả đêm, không bắt được con cá nào, thật là đáng buồn, rất cần được khích lệ, để khỏi nhụt chí nản lòng. Vị khách lạ xuất hiện, Ngài không quan tâm đến thành quả, chỉ một lòng thao thức làm sao có nhiều người nghe, hiểu, và biết sống Lời Thiên Chúa.
Nhìn biết Phêrô cùng các bạn đang giặt lưới, Đức Giêsu không an ủi, hứa hẹn với những ngư phủ đó điều nào, nhưng Ngài đã thuyết phục được Simon Phêrô cho mượn thuyền, làm phương tiện chuyên chở Lời Chúa đến với đám đông. Xem ra Đức Giêsu chỉ cần một chút kiên nhẫn và lòng tin tưởng nhỏ bé của Phêrô, ưu tiên cho công việc rao giảng trước, mọi việc khác tính sau. Khi chu toàn sứ mạng rao giảng rồi, Đức Giêsu mới quan tâm đến công việc làm ăn của các ngư phủ, hãy chèo thuyền ra chỗ nước sâu thả lưới bắt cá. Một ngư phủ chuyên nghiệp lưới cá như Phêrô, nay phải vượt qua chính mình để vâng nghe người khách lạ không hề dễ dàng !
Sau mẻ cá lạ lùng, ông Phêrô đã nhận sự giới hạn của con người, ông biết thưa với Đức Giêsu, lạy Thầy xin tránh xa tôi, vì tôi là kẻ tội lỗi, đó chính là kinh nghiệm thành công của Phêrô. Đức Giêsu không dừng lại ở niềm tin nhỏ bé nữa, lưu ý các ông đón nhận công việc mới là “lưới người”, hãy làm họ trò của Ngài. Hầu hết người ta thường cho rằng có khởi đầu đẹp, sẽ đưa đến kết thúc có hậu, như quan niệm chung : đầu xuôi đuôi lọt. Niềm tin vào Đức Giêsu là Thầy, là Chúa đầy tình yêu thương, thật cần thiết đối với những môn đệ đầu tiên và chúng ta hôm nay. Nơi đâu có người sống niềm tin vào Đức Giêsu, ở đó có điều kỳ diệu xảy ra, thất bại không phải là mẹ của thất bại, nhưng sẽ được biến đổi ly kỳ hơn nhiều : thất bại là mẹ thành công.
Kinh nghiệm về một đêm thả lưới của Phêrô không bắt được con cá nào, cũng là kinh nghiệm về thành quả tin tưởng của ông vào Đức Giêsu. Trải qua những thăng trầm cuộc sống, mọi người đều công nhận kinh nghiệm chính là chìa khóa để tiến tới thành công. Nơi Phêrô, đức tin cần thiết và quan trọng hơn nhiều lý lẽ của kinh nghiệm. Lý thuyết và thực hành không thể tách rời nhau, thành công và kiên nhẫn luôn chung một lối, nhưng tin và sống niềm tin không bao giờ là lời nói suông, nghĩa là sẽ có phép lạ được ban.
Qua Phêrô, chúng ta thấy ông không hề dám tự hào về kinh nghiệm đánh bắt cá của mình, ông hoàn toàn khiêm tốn thú nhận tội lỗi, và tuyên xưng niềm tin Đức Giêsu là Thầy, là Chúa đã đến. Từ việc nhận biết mình được yêu thương, những người chài lưới năm xưa hiểu, Đức Giêsu đã gọi các ông theo Chúa để chia sẻ niềm tin yêu và ơn cứu độ cho muôn dân. Vâng phục đức tin mà chúng ta thấy nơi Phêrô, đó là ông biết buông bỏ mình, bỏ những chống chế dựa trên kinh nghiệm thuần túy con người, hầu được biến đổi nên môn đệ của Chúa.
Đức Giêsu đã chọn chiếc thuyền của Phêrô, nhờ ông chèo ra vị trí trọng tâm để rao giảng, và Phêrô là người đầu tiên thấm nhuần được Lời Chúa giáo huấn, thật là một vinh dự cho ông. Khi Phêrô vâng lời Thầy thả lưới, ông thu được mẻ cá kỳ lạ, rồi ông nhận ra quyền năng của Đức Giêsu và thân phận giới hạn con người, đó thật là niềm vui. Cùng với lời công bố, đừng sợ, từ nay anh sẽ là kẻ chinh phục người ta, hẳn Phêrô không còn gì hạnh phúc hơn, lo lắng hơn, trong sứ vụ phía trước sẽ dẫn dắt chèo chống con thuyền Giáo hội. Hy vọng rằng, cuộc hành trình sống đức của Phêrô mỗi ngày được lớn lên, được trưởng thành hơn trong sứ mạng Chúa Giêsu ủy thác, nhờ tình yêu và lòng khiêm tốn. Mỗi người Kitô hữu hôm nay, tiếp tục là những chứng nhân trung thành như Phêrô, biết trở nên môn đệ theo Đức Giêsu, mang niềm tin đến cho muôn dân. Chúng ta sẽ còn học được những bài học từ kinh nghiệm của Phêrô trong đức tin và vâng phục, từ những biến cố trong cuộc đời, và chúng ta sẽ sống niềm tin nơi con thuyền trần thế này cách tuyệt vời như Phêrô. Amen.
Trên Internet người ta có tổ chức chương trình 3 điều ước, để mỗi người tự do viết ra điều mình TN 5-C144
Trên Internet người ta có tổ chức chương trình 3 điều ước, để mỗi người tự do viết ra điều mình mong ước năm nay. Năm tới ban tổ chức sẽ gởi lại 3 điều ước đó theo địa chỉ email để xem 3 điều ước của chúng ta có thành hiện thực không. Tôi cũng có gởi 3 điều ước, nhưng gởi cho Chúa chứ không phải trên Internet. Thứ nhất cho những người thân yêu của tôi được hạnh phúc. Thứ hai cho những người mà Chúa đã, đang và sẽ trao phó cho tôi được sống tốt. Và thứ ba, cho họ đạo của tôi luôn là một ngày Tết để người ta ăn mặc đẹp đẽ, dù có mệt mỏi cũng ráng đến nhà thờ đông thật là đông như sáng nay vậy, vui lắm! Tôi không biết những điều ước của tôi có thành hiện thực không, nhưng tôi tin chắc điều ước thứ ba, khả năng thành hiện thực rất cao, vì nếu họ đạo chúng ta ý thức được ơn gọi của mình, thì việc ngày Chúa Nhật nhiều người mặc đồ đẹp, nô nức kéo nhau đến nhà thờ như sáng ngày mồng một tết là chuyện nhỏ. Vì vậy trong ngày Chúa Nhật cuối cùng của năm Quý Mùi này, chúng ta hãy tìm hiểu xem phụng vụ lời Chúa muốn nói gì về ơn gọi để chúng ta nỗ lực sống đúng ơn gọi của mình, hầu điều ước của tôi và chắc chắn cũng là của mỗi người trong năm mới này sẽ thành hiện thực.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
Bài Đọc I: (Is 6, 1-8)
Tiên Tri Isaia tường thuật lại ơn gọi của mình qua một thị kiến. Ông thấy mình đang ở trong đền thờ uy nghi rực rỡ, có Đức Chúa ngự ở đó. Khi đứng trước nhan Đức Chúa, ông thấy mình quá tội lỗi, quá bất xứng, đến nỗi ông phải thốt lên: “Khốn thân tôi, tôi chết mất vì tôi là một người môi miệng ô uế” (Is 6, 4). Nhưng khi thần Xêraphim lấy than hồng đặt trên bàn thờ chạm vào miệng ông, thì ông đã được thanh tẩy: “Đây cái này đã chạm đến môi ngươi, ngươi đã được tha tội” (Is 6, 7). Để rồi khi nghe Thiên Chúa muốn tìm một vị ngôn sứ: “Ta sẽ sai ai đây, ai sẽ đi cho chúng ta?” (Is 6, 8a) thì ông đã mạnh dạn lên tiếng: “Con nè, xin sai con đi!” (Is 6, 8b).
Bài Đọc II: (1Cr 15, 1-11)
Trong thư gửi cho tín hữu Côrintô, phản ứng trước dư luận của nhiều người cho rằng ông không xứng đáng là tông đồ vì ông có một quá khứ không mấy tốt đẹp, Phaolô đã cho họ biết rằng chính Đấng Phục Sinh đã chọn ông như là một đứa trẻ sinh non. Có nghĩa là ông cũng nhìn nhận mình không xứng đáng nữa, “là một người hèn mọn nhất trong các tông đồ” (1Cr 15, 9) nhưng tại Chúa thương nên chọn, biết sao bây giờ! Điều quan trọng là đức tin mà ông đã rao giảng và làm chứng cho dân chúng là tinh tuyền vì ông đã làm theo những gì Chúa chỉ dạy, và các tông đồ khác cũng rao giảng như vậy thôi.
Tin Mừng: (Lc 5, 1-11)
Các môn đệ vất vả suốt đêm để đánh cá, nhưng không được con nào. Chính lúc đó CG đã đến, đề nghị họ làm một việc mà nếu theo kinh nghiệm, theo thói quen thì không ai làm cả: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá” (Lc 5, 4) giữa ban ngày. Nếu người khác đề nghị điều đó, thì có lẽ các môn đệ sẽ nói: “Đồ khùng!” vì kinh nghiệm của họ chỉ đánh được cá lúc ban đêm thôi. Nhưng bởi vì nể CG nên họ đã làm theo: “Vâng lời Thầy con thả lưới” (Lc 5, 5). Nhờ vâng lời CG mà họ đã được một mẻ cá lạ lùng. Từ đó họ nhận ra CG không phải là một người bình thường, mà là một Đấng siêu phàm. Khi nhận ra quyền năng của CG, cũng là lúc Phêrô thấy được thân phận hèn hạ, tội lỗi của mình: “Lạy Chúa xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi” (Lc5, 8). Chính lúc đó CG đã mời gọi họ làm môn đệ của Ngài, và “họ đã bỏ hết mọi sự mà theo Ngài” (Lc 5, 11).
Phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy rõ ơn gọi của chúng ta xuất phát từ Thiên Chúa. Mỗi người một hoàn cảnh khác nhau, nhưng đều bởi Thiên Chúa. Chỉ khi nào chúng ta ý thức được thân phận yếu đuối tội lỗi của mình, chúng ta mới xứng đáng với ơn gọi đó. Và luôn luôn có sự bảo đảm từ nơi Chúa trong sứ mạng của mình.
II. XÁC TÍN VỀ ƠN GỌI
Ơn gọi không phải là một từ dành riêng cho những người đi tu, mà dành chung cho tất cả mọi người, vì ơn gọi cao quý nhất của chúng ta là kitô hữu. Sau đó mới đến ơn gọi riêng của từng người là bậc sống của mình: giáo sĩ, tu sĩ, hôn nhân, độc thân… Vì vậy dù là ai đi chăng nữa thì chúng ta cũng phải xác tín những điều sau đây:
Con người không chọn Chúa, nhưng Chính Chúa chọn con người
Isaia không dám nghĩ đến việc mình được Chúa chọn gọi để làm ngôn sứ cho Ngài. Phaolô càng đặc biệt hơn, Chúa gọi ông lúc ông đang đi lùng bắt Chúa. Phêrô và các bạn của mình thì chỉ lo việc đánh bắt cá thôi, có bao giờ nghĩ đến việc mình đi rao giảng đâu, biết gì đâu mà rao! Nhưng Chúa đã muốn gọi các ông làm những kẻ “lưới người như lưới cá”. Mỗi người cũng hãy nhìn đến ơn gọi kitô của mình để thấy rằng chúng ta không hề chọn Chúa, mà chính Chúa đã chọn chúng ta qua gia đình khi đem chúng ta rửa tội khi còn bé; qua những người bạn rủ chúng ta đến nhà thờ chơi, vài lần rồi thích, đi học đạo, rửa tội luôn; qua những tấm gương sống đạo tốt của những người xung quanh; hay qua việc mình yêu thương, muốn thành thân với một người nào đó mà chấp nhận tin vào đạo Chúa… Đúng như lời CG đã nói: “Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con”.
Có những ơn gọi hết sức đặc biệt
Có những người đến với Chúa hết sức đặc biệt. Ví dụ như cha Nguyễn Hà Thiên Trúc ở Sài Gòn. Sinh ra trong một gia đình cha là giáo chức trong đạo Cao Đài, mẹ là phật tử chính cống, ăn chay trường. Nhưng bởi vì quý mến phong cách làm việc của các sơ trong bệnh viện nên đã tìm hiểu về một ông Giêsu mà các sơ yêu mến, để rồi cũng bị lây bệnh “yêu mến CG” nên theo đạo, và cuối cùng còn xin đi tu để làm linh mục cho Chúa.
Hay có một cô tiếp viên hàng không rất xinh đẹp bên Mỹ. Vì đẹp nên chảnh. Đó là quyền của cô ấy! Trên chuyến bay nọ, lúc đó ĐHY. Funtonshin còn làm Giám mục đã nói rất chân thành với cô ấy rằng: “Cô đẹp lắm, cô hãy cám ơn Chúa về điều đó!”. Chỉ một câu nói vậy nói, mà một thời gian sau, Đức Cha nghe tiếng gõ cửa phòng, ra mở cửa thì gặp ngay một cô gái xinh đẹp. Cô nói “thưa Đức cha, con là cô gái tiếp viên hàng không kiêu căng hôm nào, nhưng bây giờ con muốn qua Việt Nam để phục vụ người cùi”. Và quả thật, cô đã trở thành một nữ tu, sang Việt Nam phục vụ tại trại phong Tuy Hòa cho đến ngày qua đời.
III. SỐNG ƠN GỌI
Khi đã nhận ra được lời Chúa mời gọi dù đặc biệt hay một cách hết sức bình thường, thì nhiệm vụ của chúng ta là lo đáp trả lại lời mời gọi đó qua việc sống tốt đời sống ơn gọi của từng người, trong từng hoàn cảnh khác nhau. Chúng ta chỉ có thể sống tốt đời kitô hữu khi nhận ra quyền năng của Chúa và thấy được sự bất xứng, xấu xa, tội lỗi của bản thân mình. Để rồi mình thấy cần đến Chúa. Tại sao có những người đi lễ Chúa Nhật rất đàng hoàng, thậm chí còn đi lễ ngày thường nữa? Có phải là những người đó rãnh rỗi, không biết làm gì không? Ngược lại có những người không đi lễ lạc gì hết, kể cả ngày Chúa Nhật, có phải là họ quá bận rộn không? Thưa không phải. Nếu người ta thấy sự bất xứng của mình để cố gắng bám víu vào Chúa thì người ta sẽ chạy đến với Chúa. Người ta sẵn sàng từ bỏ tất cả để được gần gũi với Chúa. Tại sao có những người đi xưng tội thường xuyên? có phải họ tội lút đầu không? Ngược lại có những người không chịu đi xưng tội gì hết, có phải họ tốt lành quá sức không? Thưa không, khi người ta nhận ra thân phận tội lỗi của mình, thì họ sẽ thường xuyên hoán cải. Còn khi người ta dù tội lỗi vẫn không hề áy náy thì họ sẽ không cần đến với Chúa.
Tóm lại, phụng vụ lời Chúa ngày hôm nay cho chúng ta thấy chính Chúa đã chọn gọi chúng ta mỗi người một hoàn cảnh khác nhau. Từ đó tùy theo lòng quảng đại của mỗi người mà chúng ta đáp trả lời mời gọi của Chúa để sống tốt ơn gọi của mình. Chúng ta chỉ có thể sống tốt ơn gọi kitô hữu khi nhận ra thân phận yếu đuối, tội lỗi của mình để biết cậy dựa vào ơn thánh Chúa, không chạy theo những lôi kéo của ma quỷ, xác thịt và thế gian.
Nếu mỗi người và từng người trong họ đạo ý thức được thân phận tội lỗi của mình để cậy dựa vào ơn thánh Chúa, thì lúc đó ước mơ mỗi ngày Chúa Nhật người ta mặc đồ mới, nô nức kéo nhau đến nhà thờ dự lễ như ngày tết của tôi là chuyện bình thường; mà còn hơn thế nữa, người ta còn đi lễ ngày thường, thường xuyên đi xưng tội, đi lần chuỗi Mân Côi, sống bác ái, yêu thương theo lời Chúa dạy… vì người ta cần đến Chúa.
Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng không mõi mệt. Lúc thì Ngài giảng trong các Hội đường, lúc thì TN 5-C145
Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng không mõi mệt. Lúc thì Ngài giảng trong các Hội đường, lúc thì ở trên núi, khi ở bờ biển và dân chúng nô nức nghe lời Ngài và cùng lúc , Ngài chữa lành nhiều bệnh nhân. Hôm nay, thánh Luca tường thuật cho chúng ta một lần Ngài giảng ở bờ biển Ghennesaret. Vì dân chúng quá đông, Ngài xuống một trong hai chiếc thuyền đậu ở bờ biển để có thể từ nơi đó dễ giảng hơn và chiếc thuyền đó là của ông Simôn. Mấy ngư dân đang giặt lưới.
Giảng xong, Ngài bảo ông Simôn : “ Hãy ra khơi thả lưới”. Ông Simon thưa : “ Thưa Thầy, suốt đêm qua chúng con đã cực nhọc thả lưới mà không bắt được con cá nào. Nhưng vâng lời Thầy, con sẽ thả lưới”. Ban đêm dễ lưới cá hơn mà không bắt được cá, ban ngày làm sao có cá ? Thế mà ông vẫn vâng lời. Và sự vâng phục đó đã mang lại kết quả không thể ngờ.
Đứng trước mẻ cá bất ngờ đó, ông Simôn hoảng hồn quì xuống trước mặt Thầy và nói : “ Xin Thầy xa con, vì con là kẻ tội lỗi”. Ông cảm nghiệm rằng, người đang ở trước mặt ông không phải là con người tầm thường mà là một Đấng thần linh nào đó như thời xa xưa ông Môsê đứng trước bụi gai đang cháy. Nhưng Chúa Giêsu ôn tồn nói : “ Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu ;phục người ta”. Rồi họ bỏ hết mọi sự và theo Ngài.
Chúa vẫn không thôi mời gọi mọi người theo Ngài, nhưng mỗi người một cách. Chúa gọi tiên tri Isaia trong Đền thờ, trong vẻ uy nghi đáng sợ, và tiên tri đã chấp nhận. Chúa gọi tiên tri Samuen khi ông chỉ là một trẻ em. Chúa gọi Mẹ Maria khi Mẹ chỉ mới vừa đính hôn. Chúa gọi Phaolô khi ông đầy sát khí đang trên đường tiêu diệt những người theo ông Giêsu. Mọi người được gọi đều vâng nghe và theo Ngài.
Chúa có gọi chúng ta không ? Sao lại không ? Chúa đã nói qua miệng tiên tri Giêrêmia : “Trước khi ngươi còn trong lòng mẹ, Ta đã biết ngươi, Ta đã thánh hiến ngươi”. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa gọi những người mà chúng ta không thể ngờ : Chúa gọi ông Matthêu, người thu thuế, Chúa gọi Mađalêna, một con người tội lỗi khét tiếng, Chúa cũng gọi người bị quỷ ám ở Ghêraxa, anh nầy sau khi khỏi quỷ ám đã xin theo Ngài, nhưng Ngài đã bảo anh : “ Anh hãy về và cho mọi người biết những gì Chúa đã ban cho anh”. Đó cũng là một lệnh truyền và cũng là một sứ mệnh. Trong dụ ngôn những người làm vườn nho, Chúa gọi mọi người dù vào giờ thứ mấy không cần thiết : “ Hãy vào làm vườn nho cho Ta”. Vườn nho của Chúa mênh mông, cần bàn tay của mọi người, miễn là chúng ta chấp nhận ra tay.
Còn cả một thế giới mênh mông chưa biết Chúa vì còn quá nhiều người tưởng rằng mình vô dụng và không ra tay cộng tác với Chúa. Chúa đang cần chúng ta đấy ! Chúa cần những bà mẹ biết lo lắng dạy con biết Chúa. Chúa cần những người cha nêu gương sáng cho con sống đạo. Chúa cần những cụ già ngày đêm cầu nguyện cho việc truyền giáo, Chúa cần những bệnh nhân chấp nhận đau khổ cho các linh hồn. Chúa cần những người biết yêu thương mà không cần đòi hỏi lại. Chỉ cần chúng ta từ bỏ mọi sự để theo Ngài.
Họ bỏ mọi sự và theo Ngài. Chúng ta theo Ngài phải bỏ mọi sự chăng ? Các Tông đồ, các giám mục tu sĩ làm được điều đó, còn những người sống trong gia đình, làm đủ thứ nghề để mưu sinh, để nuôi một đàn con thì từ bỏ những gì ? Phải từ bỏ mọi sự. Đúng thế, phải từ bỏ mình, những thói quen xấu của mình, những đam mê không lành mạnh của mình, bỏ đi tự ái, ích kỷ và mặc lấy những tâm tình của Chúa Kitô. Nghe nói như thế, chúng ta có thể nghĩ rằng : làm sao theo Chúa với những điều kiện đó ? Đừng sợ ! Chúa đủ sức giúp chúng ta nếu chúng ta thành tâm theo Ngài. Chỉ cần ăn lấy Ngài, sống với Ngài, gắn bó với Ngài. Điều nầy không khó như chúng ta tưởng. Chỉ vì chúng ta không chú ý đó thôi. Hãy chú tâm nhìn vào Chúa xem Ngài muốn chúng ta làm gì và Chúa sẽ dẫn chúng ta đi từng bước cho đến khi chúng ta có thể vững bước theo Ngài trên mọi nẻo đường. Chúng ta không theo Chúa một mình. Cả một đám người, đủ mọi tầng lớp, đủ mọi lứa tuổi đang bước theo Ngài từng lúc. Hãy can đảm bước đi dù trên đường theo Chúa vẫn có những khó khăn, cám dỗ. Chúng ta sẽ không ân hận vì đã chọn Ngài.
Tay trắng hay trắng tay đều nói về bàn tay trống rỗng, không có gì trong tay. Nghề nông thường có TN 5-C146
Tay trắng hay trắng tay đều nói về bàn tay trống rỗng, không có gì trong tay. Nghề nông thường có kinh nghiệm trắng tay. Sau những ngày làm việc vất vả hy vọng có mùa thu hoạch tốt. Niềm hy vọng đó lệ thuộc khá nhiều vào thiên nhiên. Nắng hạn hay mưa to, gió lớn đều là những nguyên nhân gây thiệt hại cho mùa thu hoạch. Cơn gió chướng hay mưa đá phá tan giấc mộng vàng trong nháy mắt. Thiên nhiên hầu như ảnh hưởng đến mọi công việc. Gió lớn máy bay không dám cất cánh; sương mù hạn chế tầm nhìn xe cộ trên đường. Biển động tất cả thuyền bè nằm bến. Các ngư phủ trong bài đọc hôm nay vào bờ trắng tay sau một đêm vất vả chài lưới. Mệt mỏi, chán nản, lo lắng, Đức Kitô bảo các ông thả lưới nơi nước sâu; suốt đêm các ông vất vả không bắt được gì, giờ lại tiếp tục. Vâng lời Đức Kitô các ông thả lưới và lưới đầy cá, toàn cá lớn. Các ông không biết nguyên nhân nào làm cá biến mất và cũng không biết lí do nào khiến cá xuất hiện. Điều các ông nhận biết là dưới nước sâu, ta không nhận biết nhưng luôn có thay đổi. Từ không có cá sang có cá. Dưới nước sâu luôn chứa bí ẩn.
Ai trong đời cũng có hai lần kinh nghiệm trắng tay. Sanh vào đời với hai bàn tay trắng và khi ra khỏi cuộc đời cũng ra đi với hai bàn tay trắng. Quả là công bằng vào đời không mang vào gì nên ra đi cũng không mang theo gì. Lần đầu vào đời dược cha mẹ chăm sóc, lo lắng, yêu thương đùm bọc; khi ra khỏi cuộc đời người thân thương không ai giúp được, dù có muốn cũng ngoài khả năng của con người. Một số tin: chết là hết. Câu nói không có gì nơi bên kia thế giới vừa là câu phủ định và cũng là câu xác định. Phủ định bởi chối bỏ bên kia thế giới không có gì. Xác định bởi chết là về bên kia thế giới. Đây chính là điều Đức Kitô xuống trần gian loan báo. Kitô hữu tin là có bên kia thế giới và bên kia thế giới tốt hơn bên này thế giới. Đức Kitô xuống trần gian thông báo cho mọi người tin mừng về bên kia thế giới. Ngài gọi đó là Tin Mừng cứu độ. Ngài là loan báo Tin Mừng cứu độ và chính Ngài là Đấng ban Tin Mừng cứu độ. Để tỏ cho mọi người biết Ngài là chủ nhân Tin Mừng cứu độ, Ngài ban sự sống lại cho con gái của Jairus, trưởng đền thờ Mc 5,42; Ngài ban sự sống lại cho bạn Ngài là Lazaro, sống lại sau ba ngày chôn trong mồ Gn 11. Chính Ngài cũng sống lại sau khi vác thập giá, chịu đóng đinh, chôn trong mộ và ba ngày sau Ngài sống lại từ cõi chết. Đức Kitô là chủ nhân của thế giới bên kia. Bởi Ngài sống lại từ cõi chết, sự chết đã thất bại hoàn toàn. Ngài sống vĩnh cửu, không bao giờ chết nữa và những ai tin theo, bước theo con đuờng Ngài hướng dẫn cũng dược chia sẻ sự sống trường sinh. Ngài trao cho các môn đệ rao giảng Tin Mừng Sống lại khi kêu gọi các ông trở thành ngư phủ chài lưới người ta. Các ông trở thành môn đệ đầu tiên, từ bỏ mẻ cá lớn, thuyền và lưới chài đi theo Đức Kitô thành kẻ chài lưới người. Kitô hữu sống để phổ biến Tin Mừng Phục Sinh của Đức Kitô.
Thả lưới nơi vùng nước sâu thường có nhiều rủi ro bởi không biết nơi sâu thẳm đó rủi ro gì đang chờ đợi. Điều rõ ràng thám hiểm vùng nước sâu dành cho người trưởng thành, dám mạo hiểm. Họ không mạo hiểm một mình nhưng có Đức Kitô cùng đồng hành với họ. Môn đệ có kinh nghiệm mẻ cá lớn nơi nước sâu bởi các ông lắng nghe và thực thi điều Đức Kitô phán bảo. Các ông bỏ mọi sự, mẻ cá, cả thuyền lẫn chài bước theo Đức Kitô. Chúng ta cần tin vào tài năng mình, trí không minh, và sức khoẻ trời ban nhưng cần tin vào Đức Kitô nhiều hơn. Cộng tác với Đức Kitô các tông đồ biết rõ Đức Kitô ban cho sức mạnh khi các ông mệt mỏi, thất vọng Ngài ban hy vọng, tay trắng Ngài ban thuyền cá đầy, đi trong tối tăm Ngài ban ánh sáng. Buồn sầu Ngài là suối nguồn yêu thương. Khi không biết phải làm gì đến cùng Đức Kitô Ngài ban ơn soi sáng. Tin vào Đức Kitô, Ngài sẽ đón tiếp khi chúng ta sang bên kia thế giới, bởi Ngài là chủ của thế giới bên kia. Chúng ta không đi đơn độc nhưng có Đức Kitô cùng đồng hành và Ngài sẽ ban cho chúng ta tình yêu vô tận và lòng vị tha vô bờ.
Truyện cổ tích “thằng Bờm” đọng lại nhiều suy tư trong mỗi người: Phú ông có tiền, có quyền TN 5-C147
Truyện cổ tích “thằng Bờm” đọng lại nhiều suy tư trong mỗi người: Phú ông có tiền, có quyền, ông còn muốn cả “quạt mo” của Bờm. Từ thương lượng đến nài nỉ, Phú ông mong sao việc thoả thuận với Bờm sẽ tốt đẹp để ông được sở hữu cái quạt mo, thứ ông đang cần. Trong khi Bờm vô tư đến độ khờ dại: ba bò chín trâu, ao sâu cá mè, ba bè gỗ lim, … Bờm đều lắc và rồi cuộc thuận mua vừa bán quạt mo hoàn tất ở “nắm xôi”. Công bằng giữa Phú ông với Bờm là quạt mo, là nắm xôi, lý tưởng và cùng đích giữa người giầu người nghèo nơi họ, chỉ thế là đủ, là được. Mỗi chúng ta hôm nay sẽ viết lên mơ ước và câu chuyện đời mình thế nào, khi cuộc sống có quá nhiều mâu thuẫn, đòi chúng ta phải chọn lựa: theo Đức Giêsu, theo thế gian ?
Để thành đạt thành danh ở đời, hai yếu tố được nói tới nhiều hơn cả đó là: giỏi lý thuyết, giỏi thực hành. Trước khi gọi chọn các môn đệ, Đức Giêsu đã thuyết phục được Phêrô, nhờ ông đưa thuyền ra xa một chút và giảng dạy dân chúng. Đức Giêsu còn chỉ đạo các ông thả lưới bắt cá, trong khi các ngư phủ thì than thở: “chúng tôi vất vả suốt đêm mà chẳng bắt được gì hết”, dù các ông đó giỏi lý thuyết, thực thành, giỏi cả kinh nghiệm ! Khuynh hướng theo người đại gia lắm của, theo người học rộng hiểu sâu, bao giờ cũng dễ dàng hơn khi theo người đạo đức giầu tình yêu thương. Theo Đức Giêsu làm môn đệ, bao giờ cũng khó khăn hơn theo Đức Giêsu để được vinh dự, được làm quan làm tướng: có tiếng phải có miếng.
Đức Giêsu không hứa hẹn với các ông thuyền chài, theo tôi để học hỏi kỹ năng đánh bắt cá, nhưng Ngài trấn an các ông “đừng sợ: từ nay anh em sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Các ngư phủ không mơ mộng theo Thầy Giêsu để học lấy một sàng khôn, những kẻ chài lưới hôm xưa không tình tứ lãng mạn thân thưa với Thầy Giêsu: đi đâu cho thiếp theo cùng, …. Đức Giêsu mời gọi những ngư phủ theo Ngài và soi sáng để các ông biết mình giới hạn, tội lỗi, hầu các ông khao khát được Thầy biến đổi nên giống Chúa, được tham dự vào sứ mạng lưới người như lưới cá. Những kẻ chài lưới được trúng mẻ cá lạ lùng, nhưng các ông lại bỏ nghề đánh bắt cá, bỏ cha mẹ, từ bỏ mình, xin tự nguyện theo Thầy làm tông đồ, làm chứng nhân đức tin, xin được tiếp tục sứ mạng của Thầy Giêsu.
Theo Đức Giêsu, đó là lời mời gọi trở nên một trong tình yêu Đấng là Thầy là Chúa, theo Đức Giêsu không phải để được bổng lộc thế gian, nhưng là được Chúa làm gia nghiệp, được thông phần vào mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Đấng làm người làm Chúa. Theo Đức Giêsu để cùng hiệp thông thả lưới bắt cá, đi theo Giêsu để được dự phần vào công cuộc cứu các linh hồn với Đấng cứu độ trần gian. Ngày hôm nay, ơn gọi theo Đức Giêsu vô cùng phong phú, nhưng nét đẹp hoàn hảo nhất vẫn là sự tự do bỏ mình, bỏ tính ích kỷ của mình và mặc lấy tinh thần mới trong Đức kitô. “Vì lời Thầy, tôi sẽ thả lưới, và các ông đã bắt được rất nhiều cá”. Vì tình yêu của Đức Kitô, người môn đệ sẽ nhận ra sự bất toàn của mình, và sức mạnh của tình yêu kitô mới thực sự trở nên trọn vẹn trong đời sống nơi mỗi người theo Chúa.
Người môn đệ theo Đức Kitô thời nào cũng phải đối diện với nhiều khó khăn, nhiều người môn đệ vẫn đang than thở: thưa thầy, chúng con vất vả cực nhọc suốt đêm suốt ngày mà chẳng bắt được con cá nào ! Hẳn Đức Giêsu Ngài vẫn đang khích lệ, đang chỉ đạo hãy kiên nhẫn, hãy nhận lấy tình yêu của tín thác, hãy sống bao dung trong phục vụ, hãy để Chúa làm chủ cuộc đời của mình. Phêrô và các bạn phải bỏ ý riêng để vâng nghe ý kiến của Thầy, đẩy thuyền ra chỗ nước sâu thả lưới, họ đã có kinh nghiệm thế nào là từ bỏ mình. Tiền nhân chúng ta nói rất có lý: người xuất chúng là người biết chấp nhận sự thật, và đương đầu với khó khăn cách kiên cường. Người theo Chúa sẽ được biết mình là ai, sẽ biết sống liên đới cậy trông, khiêm tốn để nghe, để hiểu, để chu toàn bổn phận cách tốt đẹp nhất.
Người xưa đã để lại cho hậu thế chúng ta một kinh nghiệm: đôi khi chúng ta phải chấp nhận việc quên đi một số người trong quá khứ, bởi vì một lý do đơn giản, họ không thuộc về tương lai của chúng ta. Theo Đức Giêsu, chúng ta được mời gọi ý thức sống giây phút hiện tại, theo Giêsu, một hành trình ơn gọi mới nhằm giúp chúng ta quên đi cái tôi, quên đi quá khứ tội lỗi, tất cả vì lòng mên yêu cậy trông. Theo Giêsu Đấng đã gọi, đã chọn các vị chài lưới, Ngài cũng sẽ gọi chọn và thánh hoá từng người chúng ta hãy sống tín thác vâng phục. Theo Đức Kitô, chúng ta sẽ khôn ngoan không đếm những gì chúng ta đã mất, nhưng luôn quý trọng những gì chúng ta đang có. Đấng Kitô đã chết và sống lại vì yêu, Ngài luôn đồng hành và giúp chúng ta sống sát gần với kế hoạch của Chúa, quá khứ sẽ không trở lại, nhưng tương lai chắc chắn sẽ bù đắp cho những gì chúng ta mất mát. Amen.
Đụng chạm là điều tất yếu trong xã hội loài người. Nhưng có những cái đụng chạm khiến cho lòng TN 5-C148
Đụng chạm là điều tất yếu trong xã hội loài người. Nhưng có những cái đụng chạm khiến cho lòng người bối rối, sợ hãi; có những cái đụng chạm làm cho người ta bị đau khổ, tàn phế; có những cái đụng chạm lại làm cho con người được biến đổi nên thánh thiện, giàu lòng nhân ái.
Khi đụng chạm là tột cùng của sự từ chối
Nếu lòng tôi luôn khao khát những sự mau qua ở thế gian này, tôi sẽ không ngừng tìm kiếm nó. Những gì hiện diện trước mắt, tôi chỉ thấy có giá trị khi nó là cái tôi đang tìm. Nỗ lực từng ngày của con người là gì nếu không phải là để có được điều mình mong muốn.
Nếu tôi không yêu mến bạn, tôi sẽ chẳng bao giờ tìm kiếm bạn. Nếu lòng tôi giận ghét bạn, phủ nhận sự hiện diện của bạn, tôi sẽ luôn tìm kiếm những bằng chứng để chống lại bạn. Những lời hay ý đẹp nói về bạn chỉ là trò cười đối với tôi. Bạn càng tiến tới tôi càng lùi xa. Sự hiện diện của bạn chỉ làm cho cánh cửa lòng tôi đóng thêm chặt.
Nếu tôi từ chối Thiên Chúa, sự hiện diện của Chúa chẳng có nghĩa gì với tôi, bởi đơn giản lòng tôi không có chỗ cho Ngài. Mọi dấu chỉ về sự hiện diện của Chúa chẳng bao giờ đụng đến nhận thức của tôi, bởi đó không phải là những gì tôi đang tìm kiếm. Dù có đụng chạm đến Ngài, đối với tôi cũng chỉ là cái đụng chạm với người dưng giữa phố phường qua lại. Và như thế, sự đụng chạm ấy cũng chính là điểm tột cùng của sự từ chối, bởi sẽ chẳng còn một dấu chỉ, một minh chứng nào có thể rõ nét hơn về sự hiện diện của Ngài đối với tôi.
Khi đụng chạm đến sự dữ
Sự từ chối và khép kín lòng mình trước tha nhân, trước tạo hóa làm cho tôi trở nên cô đơn và khô cằn. Nhưng khốn cho tôi nếu tôi đụng chạm đến thế lực sự dữ, đụng chạm đến thế giới của ác quỷ. Tôi sẽ bị khuynh gia bại sản, thân tàn ma dại.
Kẻ mạnh thắng người yếu, đấy là lẽ thường tình của cuộc sống bon chen trong xã hội loài người. Đứng trước kẻ mạnh hơn, chẳng ai dại gì mà tiến ra đấu chọi. Bởi chẳng những nắm chắc phần thua mà còn nguy cơ hại đến bản thân mình. Kinh nghiệm ngàn đời ấy đã ăn sâu vào máu thịt con người. Nên ta chẳng lạ gì với cảnh người dân quê run sợ khi thấy vua quan đang tiến lại, hay kẻ bề tôi gian lận run lẩy bẩy khi thấy ông chủ hà khắc đang tiến tới.
Sự sợ hãi ấy tăng dần khi thu hẹp khoảng cách với kẻ uy quyền mạnh thế. Cái đụng chạm khi ấy sẽ là ngòi nổ cho những phiền toái, thậm chí là những khổ đau. Kẻ mạnh thế hơn lại là đối thủ đang tranh giành với tôi thì làm sao tôi có thể tránh khỏi phần thiệt trong cuộc đấu tranh sinh tồn này.
Khi đụng chạm là sự gặp gỡ của tâm hồn hướng thiện và Đấng Thánh
Isaia đã sợ run lẩy bẩy trước nhan Thiên Chúa là vậy, một con người thiện chiến như Phaolo đã gục ngã trên lưng ngựa là thế, Phê-rô đã xin Đấng uy quyền rời xa mình cũng chẳng có gì là lạ. Nhưng phúc cho các ông vì Đấng tiến lại gần các ông là Đấng uy quyền tột bậc nhưng mang trong mình ngọn lửa hừng hựng tình mến thương con người.
Isaia đã thốt lên trước nhan Chúa “Vô phúc cho tôi! Tôi chết mất, vì lưỡi tôi nhơ bẩn”. Kinh nghiệm nội tâm đầy yếu đuối và tội lỗi như Isaia sao ông có thể dám đối mặt với Đấng đầy uy quyền, Đấng 3 lần thánh với đạo binh vây quanh trong tiếng hô dậy trời đất. Nhưng khi cái đụng chạm nẩy lửa như than hồng đặt vào miệng lưỡi đã làm cho Isaia biến đổi. Ông không còn sợ hãi nhưng đã can đảm và tràn đầy dũng khí yêu thương đồng loại. Ông sẵn sàng ra đi loan báo tình thương của Thiên Chúa “Này con đây, xin hãy sai con”. Ông được thế bởi Đấng ông được đụng chạm là Thiên Chúa tình yêu.
Phaolo đã tự thú “Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ, và không xứng đáng được gọi là tông đồ, vì tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa”. Với thành tích vang dội là những chiến công chống lại Thiên Chúa, bách hại những người yêu mến Chúa, yêu mến tha nhân, làm sao Phaolo đủ can đảm đối diện với Chúa. Ông đã gục ngã trước vinh quang của Chúa. Nhưng sự đụng chạm của Chúa đã làm cho ông biến đổi hoàn toàn. Ông trở nên con người đầy nhiệt huyết rao giảng về Chúa Ki-tô, về tình thương và ân sủng của Người đã hoán cải ông. Ông tự hào với dân Cô-rin-tô mà rằng: “Nhưng nay tôi là người thế nào, là nhờ ơn của Thiên Chúa, và ơn của Người không vô ích nơi tôi”.
Phê-rô là người dân chài vô danh nơi xóm nhỏ. Ông không dám để Đấng uy quyền lại gần mình: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi”. Cái kinh nghiệm sâu thẳm nơi tâm hồn Phê-rô đã khiến ông sợ hãi khi nhận ra Đấng đầy uy quyền đang ở gần mình. Nhưng ánh mắt và lời mời gọi yêu thương của Chúa Giê-su đã đụng chạm đến tận đáy tâm hồn ông và các bạn. Họ đã biến đổi và trở nên khí cụ của tình thương Chúa: “Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người”.
Giờ này tôi đã biết, Đấng uy quyền trên trời dưới đất đang tiến đến bên tôi là Đấng giàu lòng thương mến. Sự đụng chạm đến Ngài sẽ giúp tôi trở về nguồn cội, múc tận nguồn suối nước trường sinh. Thánh Thể Chúa vẫn ngày ngày đụng chạm đến miệng lưỡi tôi, đến chính con người tôi. Tôi sẽ được biến đổi khi lòng tôi sẵn sàng đón nhận Chúa.
Lạy Chúa, con chẳng dám Chúa chạm đến lòng con vì con đây tội lỗi. Nhưng con tin chắc rằng, được đụng chạm đến Ngài là mối phúc đời con; con sẽ nên khí cụ bình an nhờ ơn Ngài đỡ nâng.
Nemo dat quod non habet – Không ai có thể trao ban điều mình không có”. Câu ngạn ngữ Latinh TN 5-C149
“Nemo dat quod non habet – Không ai có thể trao ban điều mình không có”. Câu ngạn ngữ Latinh trở thành như một quy luật mang tính tất yếu. Với trường hợp người được sai đi thì quy luật này càng rõ nét, trước hết với người được gọi là Đấng Thiên Sai, sau là với những người được Thiên Chúa hay Đức Kitô sai đi.
Vào trần gian, Chúa Kitô tin nhận mọi sự của Người là của Chúa Cha và do Chúa Cha ban tặng. Dù biết rằng mình với Chúa Cha là một, nhưng Chúa Kitô luôn ý thức mình bởi Cha mà ra. Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái đã đặt vào miệng Đức Kitô những lời này: “Khi vào trần gian, Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con” (Dt 10,5-7). Biết rằng mọi sự mình là, mình có đều do Chúa Cha ban tặng, vì thế Chúa Kitô đã trao ban lại tất cả cho con người.
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật V TN C này giới thiệu cho chúng chân dung của một ngôn sứ Isaia, một tông đồ Phaolô và Simon Phêrô, người ngư phủ xứ Galilê. Cả ba đều được sai đi và có thể nói cách chung là được sai đi để “đánh lưới người”, tức là đưa con người về với Thiên Chúa, đúng hơn là giúp con người đón nhận tình yêu của Thiên Chúa.
Trở lại với câu ngạn ngữ La tinh ở trên. Một trong những tiền đề để cho người được sai đi có tinh thần nhiệt thành chu toàn sứ mạng đồng thời gặt hái nhiều kết quả, đó là bản thân phải cảm nghiệm ân tình của Thiên Chúa dành cho mình, một ân tình vượt quá công trạng cũng như phận vị của mình.
Trước sự uy nghi chí thánh của Đấng Tối Cao, Isaia đã chân nhận mình “là một người môi miệng ô uế, ở giữa một dân môi miệng ô uế” (Is 6,5). Trời càng sáng thì các vết nhơ càng tỏ lộ. Diện kiến thánh nhan Đấng Chí Thánh, hẳn nhiên vị ngôn sứ thấy rõ thân phận ô uế, tội nhơ của mình. Thế mà dù chưa mở miệng kêu xin, Thiên Chúa vẫn sai các thần Sêraphim lấy than hồng thanh tẩy ngài: “Đây, cái này đã chạm đến môi ngươi, người đã được tha lỗi và xá tội” (Is 6,7).
Khi đi rao giảng Tin Mừng, thánh Tông đồ dân ngoại thường công khai thú nhận tội lỗi của mình trước đây là bách hại đạo thánh Chúa. “Thật vậy, tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông đồ, tôi không đáng được gọi là Tông đồ, vì đã ngược đãi Hội Thánh của Thiên Chúa” (1Cr 15,9). Thánh nhân cảm nhận việc Chúa Kitô chọn gọi ngài là một ơn nhưng không và đó cũng là một dấu chỉ để đem niềm hy vọng cho nhiều người (x.Tm 1,15-16).
Trước uy quyền và nhất là ân tình của Thầy Giêsu, Simon Phêrô đã sấp mặt dưới chân Người mà thưa: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5,8). Là phàm hèn yếu đuối, chỉ mới cho Thầy mượn chiếc thuyền một lát để Thầy giảng đạo, dĩ nhiên là ngoài giờ làm việc, thuyền rảnh, thế mà Thầy đáp lại bằng một mẻ cá lạ lùng, chất đầy hai thuyền nặng gần chìm. Người không chỉ đầy quyền năng mà còn rất đỗi hào phóng. Cảm cho mình thì sẽ biết xót cho người. Để nhiệt thành ra chỗ nước sâu mà thả lưới, thì người được sai đi không thể không cảm nghiệm:
-Tình Chúa thật bao la trước sự yếu đưối, tội lỗi đầy bất xứng của mình. Chúa đã thương yêu chúng ta không phải vì chúng ta đáng yêu hay thánh thiện, công cao, đức dày. Thánh Phaolô đã khẳng định rằng Chúa Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch cùng Người. Chính nhờ được Chúa yêu thương nên chúng ta mới thành đáng yêu, mới có thể tích đức, lập công. Thanh Gioan Tông đồ xác quyết: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta” (1Ga 4,10).
-Quyền năng Chúa thật vô biên trước sự giới hạn, bất tài, kém lực của chúng ta. Trước uy quyền của Thiên Chúa, hẳn nhiên chúng ta dễ nhận ra sự bé nhỏ, giới hạn của mình. Trái với thái độ “ếch ngồi đáy giếng”, khi trí khôn càng phát triển, tầm nhìn càng mở rộng thì con người càng dễ nhận ra ngay mình chỉ là hạt bụi mong manh trước sự mênh mông, bao la của vũ trụ và nhất là trước Đấng làm cho vũ trụ hiện hữu.
-Với người tông đồ thì một trong những tiền đề giúp gặt hái thành công đó là biết đặt niềm tin cậy vào quyền năng của Thiên Chúa. Mọi sự là do bởi ơn Thiên Chúa ban. “Kho tàng ấy, chúng tôi chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi” (2Cr 4,7). Đối diện với những thách đố cả bên trong lẫn bên ngoài Giáo Hội, khi tuyên bố triệu tập Công đồng chung Vaticanô II, người ta kể rằng có lần kia sau gần cả giờ bên Nhà Chầu, Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII đã đứng lên và nói: “Giáo Hội này là của Chúa, do Chúa thiết lập. Con đi ngủ đây”.
Điểm đến của người ngôn sứ, người tông đồ hay người đánh cá người thường là “chỗ nước sâu”. “Này Thầy sai anh em đi như chiên con giữa bầy sói” (Lc 10,3). Để có thể mạnh dạn thưa như Isaia: “Dạ, con đây, xin sai con đi” hay như Phaolô quên hết mọi sự đằng sau mà lao mình về phía trước hay như Phêrô “bỏ hết mọi sự” để đi đánh cá người, thì tiên vàn người được sai đi phải cảm nhận quyền năng và ân tình của Thiên Chúa trên con người yếu đuối và đầy bất toàn của mình. Khi đã cảm cho mình thì sẽ biết xót cho người và rồi chúng ta sẽ mạnh dạn ra đi đánh cá người, không phải bằng sức riêng mình, nhưng bằng chính tình yêu và quyền năng của Đấng Cứu độ, Đấng luôn động viên chúng ta: “Đừng sợ!”. Đừng sợ, vì Thầy sẽ ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế (x.Mt 28;20). Đừng sợ, vì ơn Thầy luôn đủ cho con và sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối của con (x.2Cr 12,9). Đừng sợ, “hãy can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).
Chủ đề chính yếu của Chúa Nhật này là ơn gọi, được diễn tả qua ơn gọi của Isaia (bài đọc I), ơn TN 5-C150
Chủ đề chính yếu của Chúa Nhật này là ơn gọi, được diễn tả qua ơn gọi của Isaia (bài đọc I), ơn gọi của Phaolô (bài đọc II) và ơn gọi của bốn môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu (bài Tin Mừng).
1- Ơn thiên triệu là gì?
Thông thường khi nói tới ơn gọi hay ơn thiên triệu, chúng ta nghĩ ngay tới ơn Chúa gọi ai đó đi tu làm linh mục, thầy dòng, hoặc nữ tu, còn giáo dân không đi tu, họ ở giữa thế gian, nên không có ơn thiên triệu. Chúng ta cần phải xét lại cách hiểu đó. Một cách căn bản, chúng ta có thể định nghĩa: Ơn gọi là lời mời gọi của Thiên Chúa dành cho người được gọi để bước theo Người và thực thi một sứ mạng được giao phó, đồng thời cũng là sự đáp trả của con người trước lời mời gọi và sứ mạng đó. Theo định nghĩa này, để có một ơn gọi, phải có hai yếu tố: yếu tố ân sủng của Thiên Chúa và yếu tố đáp trả của con người. Nếu thiếu một trong hai yếu tố thì không thể có một ơn gọi.
2- Ơn gọi của Isaia, Phaolô và các Tông Đồ
Trong bài đọc I, tiên tri Isaia tường thuật lại ơn gọi của mình qua một thị kiến. Ông thấy mình đang ở trong đền thờ uy nghi rực rỡ, có Đức Chúa ngự ở đó. Khi đứng trước nhan Đức Chúa, ông thấy mình quá tội lỗi, quá bất xứng, đến nỗi ông phải thốt lên: “Khốn thân tôi, tôi chết mất vì tôi là một người môi miệng ô uế” (Is 6,4). Nhưng khi thần Xêraphim lấy than hồng đặt trên bàn thờ chạm vào miệng ông, thì ông đã được thanh tẩy: “Đây cái này đã chạm đến môi ngươi, ngươi đã được tha tội” (Is 6,7). Để rồi khi nghe Thiên Chúa muốn tìm một vị ngôn sứ: “Ta sẽ sai ai đây, ai sẽ đi cho chúng ta?” (Is 6,8a) thì ông đã mạnh dạn lên tiếng: “Dạ, con đây, xin sai con đi!” (Is 6, 8b).
Mỗi người được Thiên Chúa kêu gọi một cách khác nhau. Trong bài đọc II, khi trả lời cho những người cho rằng mình không xứng với ơn gọi Tông Đồ, thánh Phaolô đã cho họ biết rằng chính Đấng Phục Sinh đã chọn ngài như là một đứa trẻ sinh non. Có nghĩa là ngài cũng nhìn nhận mình bất xứng, chỉ “là một người hèn mọn nhất trong các tông đồ” (1Cr 15, 9) nhưng vì được Chúa thương nên chọn ngay lúc ngài đang bách hại Hội Thánh Chúa. Quyền năng Chúa biến Phaolô thành Tông Đồ nhiệt thành cho dân ngoại. Quả thực, Phaolô đã thực sự trở thành một Tông Đồ trụ cột của Kitô giáo cùng với Phêrô. Điều quan trọng là đức tin mà ngài đã rao giảng và làm chứng cho dân chúng là tinh tuyền vì ngài đã làm theo những gì Chúa chỉ dạy, và các Tông Đồ khác cũng rao giảng như vậy.
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên theo Người sau mẻ cá kỳ diệu: đó là anh em Simon và Anrê, Giacôbê và Gioan. Họ là ai? Họ là những người đánh cá, bình dân, quê mùa, không có học vấn cao hay bằng cấp, không có địa vị… nhưng Chúa vẫn chọn họ và mời gọi họ: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta” (x. Lc 5,1-11). Các môn đệ đã đáp trả lời mời gọi đó một cách hăng hái và mau mắn. Họ từ bỏ hết mọi sự mà theo Người. Họ đã được Chúa biến đổi và làm cho trở thành những “kẻ lưới người như lưới cá.”
Như thế, trong ba tường thuật về ơn gọi của Isaia, Phaolô và các Tông Đồ cho thấy tiến trình của một ơn gọi với ba giai đoạn: 1) Thiên Chúa kêu gọi, tác động; 2) Con người ngạc nhiên, lo lắng, cảm thấy bất xứng trước lời mời gọi đó; 3) Từ bỏ và dấn thân cho một sứ vụ cụ thể. Qua những câu chuyện trên, chúng ta thấy rằng ơn gọi thật huyền nhiệm và lạ lùng! Bởi lẽ, Thiên Chúa kêu gọi người nào, lúc nào và nơi nào là tùy ý Người (x. Mc 3,13). Thiên Chúa chọn và kêu gọi ai, thì Người ban ơn và biến đổi họ. Đồng thời, ơn gọi cũng là kết quả của sự chọn lựa và đáp trả dứt khoát của những ai được gọi qua việc từ bỏ và dấn thân hoàn toàn cho Thiên Chúa.
3- Ơn gọi của chúng ta
Tất cả chúng ta đều được Thiên Chúa kêu gọi và mỗi người đều có một ơn gọi riêng. Với tư cách là một con người, Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở thành một người tốt. Với tư cách là một người Kitô hữu, Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở nên thánh thiện, trở thành người môn đệ đích thực của Chúa Kitô. Đây là ơn gọi Đức Tin, ơn gọi nên thánh. Bởi thế, Công Đồng Vaticanô II quả quyết: Mọi Kitô hữu được mời gọi nên thánh (x. LG 39-42). Mục đích của đời sống Kitô hữu là trở thành những vị thánh.
Để trở nên thánh thiện trong đời sống và xây dựng Nước Chúa ở trần gian, Thiên Chúa mời gọi chúng ta sống theo từng bậc sống riêng biệt hay theo đặc sủng riêng của mình như: bậc sống linh mục, tu sĩ và giáo dân. Mỗi bậc sống là một cách thế hay là một con đường để dẫn tới sự thánh thiện trong đời sống. Mỗi người chúng ta được Chúa mời gọi sống theo bậc sống riêng biệt của mình. Thế nên, không ai có thể nói rằng tôi không có ơn gọi. Nếu là giáo dân, hãy sống ơn gọi giáo dân thật tốt và thánh thiện. Nếu là tu sĩ, hãy sống ơn gọi này thật tốt và thánh thiện. Nếu là linh mục, hãy sống ơn gọi này thật tốt và thánh thiện.
Cũng như Isaia, Phaolô và các môn đệ đầu tiên hôm nay, chúng ta được mời gọi biết sống từ bỏ một cách dứt khoát và đáp trả một cách mau mắn trước lời mời gọi của Chúa. Theo Chúa Kitô không cho phép chúng ta hối tiếc, lưu luyến, hay có những thoả hiệp. Theo Chúa phải biết từ bỏ những gì cản trở ơn gọi chúng ta: kể cả gia đình, bạn bè, nghề nghiệp và sở thích…
Vì được kêu gọi, nên mỗi người có một sứ vụ. Đó là sứ vụ xây dựng Nước Chúa ở trần gian, là loan báo Tin Mừng cho mọi người. Ngõ hầu chúng ta giúp tha nhân nhận biết chân lý và được cứu độ.
Nguyện xin Thiên Chúa giúp mỗi người chúng ta biết khám phá ơn gọi của mình, biết quảng đại đáp trả lời mời gọi của Chúa và biết nhiệt tâm phục vụ Nước Trời. Amen.