Hồi ấy, bà Ma-ri-a vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa. Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét. Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Ma-ri-a chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần, liền kêu lớn tiếng và nói rằng: “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc. Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng. Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em.”
Những ngày cuối năm, chúng ta thường nói : năm cùng, tháng tận. Những ngày đầu năm, chúng ta thường nói : ngày rộng, tháng dài.
Nói như vậy, xem ra chúng ta làm chủ thời giờ, vì chúng ta nói : Thời giờ đã cùng tận, cũng được ; mà nói : thời giờ đang rộng dài, cũng được.
Nhưng trong thực tế, chúng ta không thể nào làm chủ được thời giờ, vì cũng như mọi loài mọi vật khác, con người chúng ta đã được Thiên Chúa dựng nên và cho sống trong một khoảng thời gian nào đó nhất định mà thôi : " Mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời ở dưới bầu trời : thời để sinh và thời để chết, thời để trồng và thời để nhỗ cây trồng, thời để giết chết và thời để chữa lành, thời để phá và thời để xây, thời để khóc và thời để cười, thời để than van và thời để múa nhảy, thời để quăng đá và thời để lượm đá, thời để ôm và thời để tách rời không ôm nữa, thời để tìm kiếm và thời để thất lạc, thời để gìn giữ và thời để vất đi, thời để xé và thời để khâu, thời để nín thinh và thời để lên tiếng, thời để yêu và thời để ghét, thời giặc giã và thời bình an " ( Gv 3,1-8 ).
Vì lệ thuộc vào thời gian, nên mỗi người chúng ta, trước, thì không có. Thử hỏi trước đây một trăm năm, ai trong chúng ta đây có mặt trên trần gian nầy ? Và thử hỏi : một trăm năm sau nầy, ai trong chúng ta còn sống được trên trần gian nầy nữa không ?
Mỗi người chúng ta chỉ được phép sử dụng thời giờ Chúa thương ban cho sống, chứ không thể nào làm chủ được thời giờ mình sống. Vì thế, khi cái chết đến, chúng ta hết giờ sống của mình, chúng con phải trả thời giờ lại cho Chúa.
Chỉ có Chúa là Chủ thời giờ vì Ngài là Đấng hằng có đời đời. Ông tỷ phú kia đau nặng gần chết. Ông yêu cầu bác sĩ giỏi nhất thế giới làm cho ông sống thêm một thời gian. Bác sĩ lắc đầu, nói : " Muốn sống thêm một thời gian, ông hãy chắp tay cầu nguyện với Chúa ". Tất cả thời gian đều nằm trong tay Chúa : quá khứ thuộc về Chúa, hiện tại thuộc về Chúa, tương lai thuộc về Chúa
Chỉ có Chúa là Đấng làm Chủ thời giờ vì Chúa là Đấng tuyệt đối, bất di bất dịch, không hề thay đổi. Còn con người chúng ta thì tương đối, thay đổi : chúng ta có trước, rồi mới có sau, chúng ta có ít, rồi mới có nhiều, chúng ta phải nhỏ, rồi mới trở nên lớn, chúng ta trẻ, rồi mới trở nên già, chúng ta sống, rồi thế nào chúng ta cũng chết. Vì sao ? Vì chúng ta không làm chủ được thời giờ. Chúa là Đấng tuyệt đối, luôn luôn là một, không bao giờ thay đỗi, bất di bất dịch, làm chủ thời giờ : thời giờ thuộc về Chúa.
Thời giờ rất quý báu !
Thiên Chúa đánh giá thời giờ rất cao vì Ngài rất quý thời giờ. Khi ban thời giờ cho chúng ta sống, Thiên Chúa hết sức tiết kiệm, chỉ ban cho chúng ta một cách nhỏ giọt : ban từng giây, từng phút ; ban từng giờ, từng ngày ; ban từng tuần, từng tháng, từng năm. Chúa lấy lại giây phút trước, rổi mới ban cho chúng ta giây phút sau. Giàu sang vô biên như Chúa, mà không bao giờ Chúa ban cho chúng ta có cùng một lúc hai giây, hai phút, hai giờ, hai ngày, hai tuần, hai tháng, hai năm.
Mỗi sáng khi thức dậy, người giàu cũng như kẻ nghèo, người thông cũng như kẻ dốt, người lớn cũng như trẻ nhỏ, ai cũng như ai, đều được Chúa ban cho có thời giờ đổng đều như nhau : ai cũng có trong túi 24 tiếng đổng hổ trong một ngày.
Nhưng có thời giờ, không phải như có tiền. Khi có tiền trong tay, chúng ta tiêu xài mấy ngàn, mấy vạn, mấy triệu cũng được. Trái lại, khi ban cho chúng ta sống trong một năm, Chúa ban cho chúng ta có ba mươi mốt triệu, năm trăm ba mươi sáu ngàn giây đổng hổ ( 31.536.000 giây đổng hổ ), nhưng Ngài chỉ cho mỗi người chúng ta sử dụng từng giây đồng hồ một mà thôi.
Dù là Giáo Hoàng hay Hổng Y, Giám Mục, dù là hoàng đế hay tổng thống, không ai có thể tiêu xài hai giây đồng hồ trong một lúc : dùng giây đồng hồ nầy xong, Chúa mới cho chúng ta dùng giây đồng hồ khác.
Không gì quý bằng Máu Chúa đã đổ ra để cứu chuộc chúng ta. Mà thời giờ là giá Máu Chúa Giêsu đổ ra để cứu chuộc chúng ta. Những kẻ chịu phạt đời đời trong hỏa ngục, chỉ cần trở lại trên trần gian nầy được một giây mà thôi, thì cũng đủ để cho họ được lên thiên đàng !
Thời giờ là tiền mua được nước thiên đàng. Thời giờ rất quý báu ! Thế mà có nhiều người phí phạm thời giờ, không dùng thời giờ để sống cho đẹp lòng Chúa. Theo một cuộc điều tra được tiến hành nơi một số người sống đạo một cách lơ là : trong một năm, họ có 08.760 giờ ; họ đi lui đi tới, mất 260 giờ ; họ nói chuyện với người khác, mất 310 giờ ; họ tắm rửa và sửa sắc đẹp, mất 620 giờ ; họ ăn uống, mất 930 giờ ; họ ngủ, mất 02.900 giờ ; họ làm việc, mất 03.650 giờ, và họ dành cho các công việc đạo đức : 25 giờ !
Thời giờ rất chóng qua !
Tuy rất quý báu, nhưng thời giờ lại rất chóng qua. Ở trên đời nầy, không gì chóng qua bằng thời giờ. Vì thời giờ trôi đi quá mau, nên nhiều hình ảnh được đem ra so sánh với thời giờ.
Chúng ta hãy lấy một số hình ảnh của Kinh Thánh : " Ngày đời tôi trôi qua nhanh hơn kẻ chạy đua, chúng trốn chạy mà không tìm thấy hạnh phúc. Chúng lướt mau như thuyền nan, như đại bàng bổ xuống con mồi " ( G 9,25-26 ) ; " Cộng niên tuế ước chừng bảy chục, khỏe lắm chăng cũng được bát tuần. Hầu trọn kiếp, chỉ là lao đao khốn khó, vì năm tháng sầm sập qua đi và chúng tôi vụt mất ! " ( Tv 90,10 ) ; " Với thời gian, tên tuổi ta sẽ bị lãng quên, sẽ không ai nhớ đến các việc ta làm ; đời ta sẽ qua đi như vết chân mây, và tan biến như đám sương mù bị ánh dương rượt đuổi, bị đè bẹp xuống dưới sức nóng mặt trời. Quả thế, sinh thời của ta như bóng lướt qua, số tận rồi, ta không còn thể phục hồi, ấn đã niêm, và không ai sẽ quay lại "( Kn 2,4-5 ) ; " Mọi điều xảy đến, thảy là phù vân....Vì phù vân cả, thiếu thời với buổi tóc xanh " ( Gv 11,7-10 ).
Trong văn chương, cũng có nhiều hình ảnh diễn tả sự chóng qua của thời giờ : thời giờ được ví như mũi tên bắn ra khỏi chiếc cung rồi mất hút ; được ví như tia chớp lóe lên giữa đêm tối âm u rồi biến mất ; được ví như một giấc mơ, khi tỉnh dậy, thấy không còn gì nữa ; được ví như áng mây trên trời, mới có hình nầy, thì lại biến tan thành hình khác ; được ví như chiếc hoa sớm nở chiều tàn ; được ví như con thoi thợ dệt đưa qua đưa lại nhanh như chim én liệng ; được ví như bóng ngựa thoáng vụt qua cửa sổ ; ...
Vì thế, thờ giờ trôi đi vùn vụt, và không bao giờ quay đầu trở lại. Thời giờ biến đi trước mắt chúng ta, nhưng chúng ta không tài nào chận bắt nó lại được. Bởi thế, làm được gì hôm nay cho Chúa, cho Mẹ, cho Giáo-Hội, cho các linh hổn, chúng ta hãy làm ngay, đừng bao giờ dời lại ngày mai điều chúng ta có thể làm ngày hôm nay. Chần chờ, là phương thế hiệu nghiệm nhất của ma quỷ để lôi kéo nhiều linh hổn xuống hỏa ngục. Thời giờ rất chóng qua !
Hãy quý trọng thời giờ !
Chúng ta hãy qúy trọng thời giờ Chúa ban cho chúng ta sống. Chúng ta phải tin rằng : trong mỗi giây mỗi phút Chúa ban cho chúng ta sống, Chúa đều kèm theo một ơn đặc biệt trong mỗi giây mỗi phút đó. Chúng ta phải biết rằng Chúa chỉ ban cho chúng ta sống giây phút hiện tại mà thôi.
Chúng ta phải ý thức đều quan trọng nầy, là : trong đời sống chúng ta, tuy giây phút nầy qua đi, nhường chỗ cho giây phút khác, nhưng những gì chúng ta đã suy nghĩ trong giây phút đó, đã ước muốn trong giây phút đó, đã làm việc đẹp lòng Chúa trong giây phút đó, đã làm điều mất lòng Chúa trong giây phút đó, đã bỏ đi không làm những gì Chúa soi sáng trong giây phút đó, tất cả những điều nầy sẽ tồn tại mãi mãi bởi vì đã được thiên thần giữ mình ghi chép vào sổ đời đời, để chiếu theo đó mà được Chúa thưởng sau nầy trên nước Thiên Đàng, hoặc bị Chúa phạt sau nầy trong Hỏa Ngục.
Có người cho rằng : một giây, một phút, không đáng gì ! Nhưng chúng ta thấy : với một giây một phút nầy, người trộm lành đã mua được nước Thiên Đàng đời đời, còn người trộm dữ phải sa Hỏa Ngục đời đời. Bởi thế, những giây phút trong cuộc đời chúng ta trôi qua, không phải để biến mất, nhưng để nhập vào kho đời đời của chúng ta sau nầy : kho Thiên Đàng đời đời hạnh phúc, kho Hỏa Ngục trầm luân muôn kiếp.
Chúng ta hãy xác tín rằng : giá trị của một đời người không chủ tại sống lâu năm trên trần gian nầy, nhưng chủ tại sống sâu đậm cuộc đời của họ. Trước mặt Chúa, giá trị của đời sống chúng ta không nằm trong chiều dài của thời gian, nhưng nằm trong chiều sâu của thời gian. Một người chết trẻ, chết sớm, nhưng đã biết dùng thời giờ Chúa ban trong đời sống mình để yêu mến Chúa, để làm tôi Chúa, để sống đẹp lòng Chúa, thì có giá trị trước mặt Chúa, hơn là một người tuy sống lâu năm, nhưng đã không dùng thời giờ Chúa ban để yêu mến Chúa hết lòng, để làm tôi Chúa hết sức, để sống đẹp lòng Chúa mọi bề. Bởi đó, điều quan trọng đối với chúng ta, không phải là được sống nhiều năm trên đời nầy, nhưng điều quan trọng là Chúa ban cho được sống năm nào, thì dùng thời giờ Chúa ban trong năm đó để hết tình yêu mến Chúa, để hết sức phụng sự Chúa, để hoàn toàn hy sinh và hiến thân cho Chúa.
Chúng ta hãy dùng thời giờ để chúc tụng, ngợi khen Chúa : " Tôi chúc tụng Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lĩ ngợi khen Người " ( Tv 34,2 ). " Dù ăn, dù uống, hay bất cứ làm việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa " ( 1 Cr 10,31 ).
Chúng ta hãy luôn luôn trông cậy vào Chúa vì chúng ta được Chúa yêu thương và ban ơn trong mọi lúc trong cuộc đời : " Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi hết mọi ngày trong đời sống " ( Tv 23,6a ).
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta được khôn ngoan để biết tính sổ ngày đời của chúng ta, biết dùng thời giờ Chúa ban cho chúng ta cho nên : "Xin dạy chúng con biết tính sổ ngày đời chúng con, ngõ hầu chúng con đem được khôn ngoan vào lòng " ( Tv 90,12 ).
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng biết biết thánh hóa thời giờ mà Chúa ban cho chúng ta sống ngày hôm nay : " Hôm nay, phải chi các ngươi nghe tiếng Người : " Chớ cứng lòng như tại Mêriba, như ngày Massa trong sa mạc, nơi mà tổ tiên các ngươi khiêu khích Ta, chúng thử thách Ta, dẫu đã chứng kiến công việc Ta làm ! " ( Tv 95,7-9 ).
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn luôn tỉnh thức để đón chờ giờ Chúa đến, giờ chúng ta chết để đi gặp Chúa : " Các con hãy tỉnh thức vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến " ( Mt 24,42 ).
Vào những ngày cuối năm, mỗi người thường ngồi lại suy nghĩ về một năm qua xem những gì đã thực hiện được, những điều tốt đẹp, có sức thuyết phục ta làm cho tỏa sáng, làm cho phong phú và nhân lên, những điều khiếm khuyết, những điều thiếu xót, ta khắc phục sửa đổi và cố gắng vươn tiến. Nói đúng hơn, mỗi người hãy tự lượng định vấn đề, đặt ra những mốc của đời sống như năm ta được rửa tội, năm lãnh nhận bí tích thêm sức, năm tốt nghiệp, năm lập gia đình hay đi tu, khấn dòng vv... Tất cả là để ta cảm tạ Thiên Chúa vì mọi sự đều do Ngài, Ngài là chủ vũ trụ, chủ lịch sử và chủ con người.
CHÚA LÀ CÙNG ĐÍCH, LÀ GIA NGHIỆP CUỘC ĐỜI CỦA CON NGƯỜI
Tất cả đều là hồng ân. Dưới ánh sáng của Tin Mừng: Chúa là hạnh phúc, là tình yêu, là gia nghiệp của con người. Đoạn Tin Mừng Luca 1, 39-55 gợi lên cho mỗi người trong trạng huống cuộc đời, trong bối cảnh mình đang sống và trong hiện tình mình đang thụ đắc những phương tiện, những sản nghiệp của đời người rằng tất cả đều bởi Chúa. Nên, cuộc đời của con người là bài ca cảm tạ tri ân nối dài. Con người luôn phải nói lời cảm tạ như Chúa Giêsu đã cảm tạ Thiên Chúa Cha không ngừng. Mỗi khi làm một việc gì, mỗi khi thực hiện một điều gì, Chúa Giêsu luôn cảm tạ Thiên Chúa Cha. Đời mỗi người cũng luôn phải nói "Tình thương Chúa đời đời con ca ngợi "(Tv 88). Con người có là gì đâu. Trong cuộc sống, mỗi người hãy chiêm ngắm sự im lặng của hang đá, cung chiêm Chúa Hài Đồng Giêsu, nhìn ngắm Mẹ Maria và thánh Giuse.
Tất cả các Đấng đều im lặng. Sự im lặng xem ra huyền bí, nhưng là để diễn tả mầu nhiệm cao vời của Con Thiên Chúa giáng sinh làm người. Sự im lặng của các Đấng chỉ ra rằng Con Thiên Chúa làm người là cõi phúc, là cùng đích, là sản nghiệp quí giá của nhân loại. Muốn đạt được cõi phúc là Chúa Giêsu, là Tin Mừng, mỗi người đều phải biết mình làm gì và cách ta phải làm để đạt được cõi phúc ấy. Điều mỗi người phải biết, phải làm là mình là ánh sáng, là men, là muối. Cách ta phải làm là chiếu soi, là làm dậy men, là hòa tan như muối để ướp mặn cho đời. Và như thế, mỗi người phải biết mình: những điều ta làm được, những thành công, những thất bại. Tất cả đều do Chúa. Hiểu được như thế, mỗi người sẽ an tâm phục vụ, an bình trong những việc làm của mình vì tất cả phải phát xuất từ con tim nhạy cảm, từ lòng yêu thương: " Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con". Muốn phục vụ tốt phải làm việc trong thái độ khiêm tốn vì tất cả đều do ân huệ cao vời của Chúa. Đời con người là một mầu nhiệm đức tin. Tất cả chỉ có thể do Chúa, bởi Chúa và vì Chúa. Nên, cuộc đời dù là muối, là men, là ánh sáng, con người luôn phải biết nói lời cảm tạ tri ân.
HÃY NÓI LỜI CẢM TẠ NHƯ ĐỨC MẸ
Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa. Lời ngợi khen của Mẹ Maria gắn liền với lời xin vâng của Mẹ. Cảm tạ là xin vâng. Tri ân là nói lời tuân phục ý Thiên Chúa. Cuộc đời của Mẹ từ lúc sinh ra, lớn lên, được tuyển chọn làm mẹ Đấng cứu thế, làm Mẹ Thiên Chúa, đứng dưới chân thập giá, chết đi và lên trời luôn vén lộ cho nhân loại thấy Mẹ luôn làm theo ý Chúa và tuân phục làm theo Chúa là lời cảm tạ tri ân tuyệt hảo nhất làm đẹp lòng Chúa. Mẹ nói: " Đấng toàn năng đã làm cho Tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn" ( Lc 1, 49 ). Tất cả sinh mạng của Mẹ ở trong tay Chúa. Cuộc đời của Mẹ là do Chúa. Làm con cái của Mẹ, mỗi người chúng ta phải biết nói lời xin vâng như Mẹ. Nói lời xin vâng là để cho Chúa định liệu đời sống của con người. Cuộc hành trình đức tin của mỗi người tùy thuộc lời xin vâng của từng người đối với Chúa. Trong ánh sáng của Tin Mừng, của Chúa Giêsu, mỗi người hãy tự vấn lương tâm, đối diện với Chúa, đối diện với anh em để mỗi người tự cải hóa nội tâm, đổi mới cuộc đời và làm nhiều việc có sức tỏa sáng, có sức thuyết phục như Hiến Chương nước trời đã đề ra.
Vậy, những giây phút linh thiêng này, những phút giây còn lại của năm cũ, mỗi người hãy hồi tâm suy nghĩ, kết hiệp mật thiết với Chúa và cầu nguyện, tỉnh thức không ngừng như năm cô trinh nữ khôn ngoan, đón chàng rể trong trạng thái hân hoan, sảng khoái. Chúa là gia nghiệp. là cùng đích để mỗi người phấn đấu tiến tới và hân hoan gặp gỡ Ngài Đời mỗi người phải là bài ca cảm tạ tri ân không ngừng như lời thánh vịnh 88 đã viết: " Tình thương Chúa đời đời con ca ngợi ".
Lạy Cha, xin Cha giúp chúng con biết thay đổi tâm hồn, đào tạo tâm hồn với chính trái tim của Chúa, với chính cái nhìn và sự suy nghĩ của Chúa.
Xin Cha cho chúng con biết điều gì chúng con nên làm và thái độ chúng con phải có để đạt được chính Đức Kitô Tình Yêu.
Xin Cha cho mỗi người chúng con trong những giờ phút cuối năm này biết nhận ra những thiếu xót, những khiếm khuyết cần phải thay đổi, bù lấp và những điểm sáng chúng con cần nhân lên và làm tỏa sáng trong cuộc đời nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con. Amen.
Nếu ta nhìn vào lịch sử của các dân tộc trên thế giới thì có thể thấy ngay là hầu như khắp nơi, từ các bộ lạc sơ khai tới các dân tộc văn minh, nơi đâu cũng có một hình thức nào đó cử hành những nghi lễ tạ ơn vì được “Trời” hay Thượng Đế ban cho được mùa tốt tươi, gặt hái thành công và lợi tức hoa quả trù phú.
Trước khi thiết lập một hình thức tôn giáo về những nghi lễ này, thì thường người nông dân xổ xưa tin rằng mùa màng ruộng nương của họ đều có “thần linh” hiện diện hoặc là làm cho được mùa tốt tươi hoặc là làm cho hạn hán mất mùa. Do vậy phát sinh các lễ “cầu mùa”, cung tế thần linh để cho được mùa, xua đuổi tà khí. Lại cũng có khi dân chúng cử hành nghi lễ để đánh bại “thần dữ” trong mùa gặt.
Các lễ nghi liên hệ tới mùa gặt hái nông sản, lúa mì, hoa quả, sản phẩn đồng nội được các dân tộc để ý cử hành và có nơi trở thành một nghi lễ chính thức bắt buộc. Chúng ta hãy đan cử ra một số tập tục của các dân như Hy Lạp, Roma, Do Thái, Ai Cập, Trung Hoa và Việt Nam.
Người Hy Lạp:
Đọc lịch sử Hy Lạp, chúng ta nhận thấy dân tộc này thờ rất nhiều thần linh nam nữ. đối với họ thần linh cũng có cuộc sống giống như các sắc thái của con người, và chính người Hy lạp cũng đã thần linh hóa các bậc anh hùng vĩ nhân của mình.
Thần của mùa mang (hay chính thức hơn của lúa mì) là nữ thần Demeter. Vị nữ thần này được sung bái trong lệ hội gọi là Thesmosphoria được cử hành hằng năm vào Mùa Thu.
Trong ngày đầu của Lễ Hội này, các phụ nữ có chồng (có thể là ý niệm các phụ nữ này được gắn liền với việc sinh con và lo chăm sóc mùa màng) làm những túp lều bằng lá và cũng dùng những thân cây gỗ làm thành những chiếc chõng. Đến ngày thứ hai, họ sẽ ăn chay. Rồi tới ngày thứ ba là ngày lễ chính, thì họ sẽ dâng cho nữ thần Demeter các đồ cung lễ gồm có: hạt ngô, bánh ngọt, hoa trái và các con heo. Người Hy Lạp tin tưởng rằng để đáp lại thì nữ thần sẽ ban cho họ được mùa gặt sung túc.
Người Roma
Ngưởi Roma có Lễ Hội gặt hái gọi là Cerelia để kính thần Ceres, vị nữ thần ngô bắp (do vậy mà đồ ăn sáng của người Hoa Kỳ cereal cũng do nguyên gốc này mà ra). Lễ Hội này được cử hành vào ngày 4 tháng 10 mỗi năm, và các đồ lễ cung thường là hoa quả đủ thứ và cũng có thịt heo. Trong lễ hội dân chúng vui chơi, có đàn hát, diễn hành, có trò chơi và thể thao và đặc biệt là nghi lễ Tạ Ơn Thần.
Người Do Thái
Lễ hội Mùa Gặt có tên là Sukkoth đườc các gia đình Do Thái cử hành hằng năm vào mỗi mùa Thu, và lễ hội này đã được cử hành từ 3000 năm qua.
Nguyên ngữ Sukkoth gồm 2 danh từ là Hag ha và Succot - đó là Lễ Nhà Tạm tức là Hag ha Asif - Lễ Tụ Hội. Sukkoth bắt đầu vào ngày 15 trong tháng Tishri của người Do Thái, cũng là 5 ngày sau nghi lễ chính thức và quan trọng nhất của người Do Thái là Yom Kippor
Sukkoth có nghĩa là cái lều mà ông Moisen và người Do Thái đã sống trong sa mạc trên hành trình về Đất Hứa trong vòng 40 năm sau khi đã được giải thoát khỏi ách nô lệ cho người Ai Cập. Các chiếc lều này được làm bằng vải và lấy cành cây khô mà chống dựng lên, nên rất dễ gấp lại để thường xuyên di chuyển.
Lễ Sukkoth kéo dài trong 8 ngày. Dịp này, người Do Thái dựng lên chiế lều nhỏ bằng cách cành lá, gợi lại các “mái nhà tạm” của tổ tiên họ. Mái che cũng bằng lá cây và không làm kín hẳn để ánh sáng mặt trời có thể chiếu dọi vào được. Trong các ngôi nhà tạm này, người ta treo hoa quả gồm có táo, nho, bắp ngô và các thứ rau. Hai đềm hôm đầu của mùa lễ, các gia đình ăn bữa tối chung với nhau trong ngôi nhà tạm và dưới bầu trời chiếu soi ban chiều, để tạ ơn Thiên Chúa luôn ban ơn phước và dưỡng nuôi họ qua suốt cuộc hành trình về Đất Hứa.
Người Ai Cập
Lễ mùa gặt hái và tạ ơn của người Ai Cập gọi là Min, một vị thần của hoa trái và sản sinh. Lễ này được cử hành trong Mùa Xuân cũng là mùa mà người Ai Cập gặt hái.
Trong lễ Hội kính thần Min có cuộc diễn hành và chính Pharaoh (vua của Ai Cập) cũng tham dự và góp phần. Cuộc diễn hành và lệ hội gồm có ca nhạc, nhảy múa, và có các môn chơi thi đấu thể thao.
Khi người nông dân Ai Cập gặt hái ngũ cốc và bắp ngô, họ thường than khóc và làm ra điệu bộ ủ não sầu bi. Cử chỉ này cốt ý đánh lừa thần linh vì họ tin rằng thần sống trong ngũ cốc và ngô bắp của họ. Họ sợ rằng thần sẽ “nổi giận” khi nông dân hái bắp ngô khỏi thân cây hoặc là gặt hái ngũ cốc đi, nơi mà thần sống trong đó.
Người Trung Hoa
Người Trung Hoa mừng Lễ trong mùa gặt hái là Lễ Trung Thu vào ngày 15-8 âm lịch khi mà trăng tròn. Ngày này cũng là sinh nhật mặt Trăng và vì thế mà làm bánh ngọt có hình tròn giống hình mặt trăng mà người Tầu cũng gọi là "bánh mặt trăng hay bánh trung thu” có mầu vàng và hình tròn. Trên tấm bánh này có hình con thỏ vì người Tầu cũng tin rằng hình trên mặt trăng là hình con thỏ (chứ không như người Việt cho rằng đó là thằng cuội ngồi gốc cây đa).
Trong ngày Lễ Trung Thu, gia đình họp nhau mừng lễ tạ ơn. Thường đồ ăn là thịt heo quay, hoa quả, và bánh “trung thu”. Cũng có truyền thuyết cho rằng trong 3 ngày cử hành lễ hội này thì hoa từ mặt trăng sẽ rơi xuống trần gian và ai nhìn thấy được nhửng đóa hoa này sẽ được “hên” trong suốt cả năm.
Mùa Lễ Trung Thu tại Trung Hoa cũng còn có một truyền thuyết khác là trong dịp đặc biệt này, người Trung Hoa tưởng niệm chiến thắng “đạo quân” đã xâm nhập nhà cửa và đồ ăn của họ. Đó là đạo quân “ma đói” các vong nhân hồn ma phiêu lạc không ai chăm sóc nên đột kích các gia cư tìm đồ ăn. Do vậy người đàn bà Trung Hoa làm những chiếc bánh trung thu phân phát cho các gia đình. Trong mỗi chiếc bánh có để một “mật hiệu” cho biết thời giờ cung nhau tấn công “ma đói”. Khi thời giờ đã điểm, thì các “ma đói” sẽ ngỡ ngàng và vì thế đễ bí đánh lui. Nên việc anh bánh trung thu là để ghi nhớ chiến công ngày.
Người Canada
Riêng người Canada cử hành Lễ Tạ Ơn vào ngày thứ Hai trong tuần thứ Hai của tháng 10 mỗi năm. Tập tục này được bắt đầu từ năm 1879.
Việt Nam
Từ ngàn xưa, nhất là người Việt chúng ta đã có truyền thống biết ơn Ông Trời đã làm cho mưa thuận, gió hòa, khiến mùa màng được tốt, gia súc sinh sản nhiều, và nhờ đó cuộc sống được no đủ. Ca dao VN đã có nói:
Khác với Trung Hoa, Tết Trung Thu tại Việt Nam thường lại là Tết cho các trẻ em vui chơi. Tết này cũng vào ngày Rằm tháng Tám. Ngay từ đầu tháng, Tết đã được sửa soạn với những cỗ đèn muôn màu sắc, muôn hình thù, với những bánh dẻo, bánh nướng mà ta gọi gồm là bánh trung thu, với những đồ chơi của trẻ em muôn hình vạn trạng, trong số đó đáng kể nhất của thời xưa là ông Tiến sĩ giấy.
Các trẻ em đón Tết có những đèn xếp, đèn lồng sặc sỡ thắp sáng kéo nhau thành từng đoàn vui reo ca hát, tối tối cùng nhau nhởn nhơ, cùng đi đường này ngõ khác.
Và khi rằm tới, có những đám múa lân rầm rộ, ngoài Bắc gọi là múa sư tử, với tiếng trống, tiếng thanh la thật náo nhiệt. Vậy Tết Trung thu là tết gì?
Trung thu là giữa mùa thu. Tết Trung thu như tên gọi, đến với chúng ta đúng giữa mùa thu, mùa mát mẻ đẹp đẽ nhất trong năm với trăng trong gió mát. Trung Thu cũng là dịp mùa màng vừa xong, dân chúng vui chơi và cảm tạ Trời đất cho mùa màng thu hoạch tốt đẹp.
Tết Đoan ngọ
Cứ vào ngày mồng năm tháng năm hàng năm, người Việt ta lại đón Tết Đoan Ngọ. Tết Đoan Ngọ bắt đầu từ giữa trưa. Theo quan niệm của người xưa, đây là thời điểm khí dương thịnh nhất trong ngày cũng như trong năm vì ngày trong tháng năm là ngày dài nhất. “tháng năm chưa nằm đã sáng”.
Ngày mồng năm tháng năm, người dân nhất là những người sống bằng nghề nông thường tổ chức lễ cúng trời đất khi bước vào một tiết mới.Thêm vào đó mùa hè khí trời oi bức, dịch bệnh phất sinh, người xưa cho là trời phạt nên bày ra lễ cúng để cầu xin sức khoẻ và sự bình an.
Vào ngày Tết Đoan Ngọ, buổi sáng các gia đình thường tất bật đi mua sắm, đến trưa, nhà nhà bày cỗ cúng. Ăn uống xong, cả nhà đi thăm nội ngoại chứ không thăm viếng bạn bè như ngày tết Nguyên Đán.
Trong ngày tết Đoan Ngọ, dân Việt cũng có một số tục lệ như phổ biến như: tục giết sâu bọ, tục hái thuốc ngày mồng năm tháng năm.
Tục giết sâu bọ ở đay phải được hiểu không phải giết sâu bọ phá hoại mùa màng mà là giết sâu bọ trong con người của ta. Theo quan niệm của người xưa thì trong mỗi con người của chúng ta, trong lục phủ ngũ tạng đều có sâu bọ (có thể là vi trùng), nhất là trong bộ phận tiêu hoá. Nếu hàng năm không trừ đi, sâu bọ sẽ đem lại bao nhiêu tai hại cho con người, thậm chí còng dẫn đến tử vong, cho nên cần phải trừ đi. Nhưng sâu bọ trong con người khó biết và không phải khi nào cũng giết được. Theo suy nghĩ của người xưa, sâu bọ thường ẩn trong bụng, chỉ đến ngày mồng năm tháng năm mới bò lên trên ruột nên phải tìm cách giết đi. Theo người Việt xưa, nhất là người miền bắc, cách giết sâu bọ là uống rượi nếp, ăn một vài loại hoa quả như mận, sấu, đào...
Người xưa cho rằng ngày mồng năm tháng năm là ngày mà khí dương lên đến cực thịnh, điểm cao nhất là vào giữa trưa, tức giờ ngọ. Đay là giờ nóng nhất trong ngày và trong năm. Lúc đó mặt trời sẽ rọi những tia nắng nóng làm cho lá cây biến đổi mang những dược tính đặc biệt, được kết tinh và cô đọng lại mà những ngày khác không thể có.Những lá cây này ngày thường có thể dùng để trị bệnh thông thường như đau đầu, đau nhức xương khớp, cảm mạo, xây xẩm mặt mày... Những lá cây này được hái đem về nhà phơi khô, sắc uống khi có bệnh. (Trích theo một bài viết từ Hà Nội).
Ngày Tết Đoan Ngọ, xưa kia, nhiều nơi còn có tục lệ cho trẻ tắm bằng nước nấu bằng lá ngò. Tắm nước này vừa có mùi thơm dễ chịu, vừa giúp cơ thể tăng sức đề kháng với bệnh tật.
Ngày nay, y học phát triển, xóm thôn nên chẳng mấy ai nghĩ đến tục hái thuốc ngày mồmg năm tháng năm nữa. Ngày Tết Đoan Ngọ cùng là dịp đẻ dân Việt ta đền ơn trả nghĩa. Đay cũng là lúc vừa thu hoạch xong vụ chiêm, nhà có sẵn gạo nếp, đậu xanh, lại có sẵn vịt, sẵn ngỗng, các chú rể tương lai thường đem biếu bố mẹ vợ để nhớ ơn đã cho mình người bạn trăm năm. Ngày này cũng là dịp để trò đến Tết thầy học. Các thầy giáo ngày xưa phần lớn là người chưa đỗ đạt nên không có lương bổng, việc ăn uống trong năm thường do trò đảm nhận. Trò cũ đỗ đạt làm quan to cũng nhớ ơn người đã khai sáng mình nên cũng trịnh trọng mang lễ vật đến Tết thầy.
Người dân Việt ta sống vốn có nhân, có nghĩa, ai giúp đỡ mình về vật chất tinh thần cũng đều nhớ ơn. Thậm chí các ông thầy thuốc chữa bệnh cho mình tuy đã trả tiền thù lao nhưng đến ngày mồng năm tháng năm cũng đem một ít lễ vật đến để đền ơn người đã đem lại sức khoẻ cho mình.
Này nay, Tết Đoan Ngọ vẫn là một Tết quan trọng của người dân Việt Nam. Những tập tục trong ngày Tết vẫn được duy trì, tuy phần lớn không giống như thời xưa nữa, nhưng ý nghĩa chính vẫn không thay đổi.Điều đó chứng tỏ người Việt bao giờ cũng trọng tình cảm, ân nghĩa. Ơn nghĩa với người và ơn nghĩa đối với Trời.
Đó chính là bản sắc dân tộc cần được bảo tồn cho thế hệ sau.
Hoa Kỳ
Lễ Tạ Ơn đầu tiên trên tại Hoa Kỳ đã được tổ chức vào Tháng Mười Một năm 1621 tại Plymouth, Massachusetts nhằm tỏ lòng biết ơn nhóm thổ dân da đỏ Tisquanto. Câu truyện như sau: một nhóm 102 người Anh di cư vượt 3000 dặm Đại Tây Dương trên con tầu Mayflower hướng về Tân Thế Giới tìm tự do tín ngưỡng. Mới đầu tầu Mayflower định đi tới Jamestown, Virginia, nơi định cư đầu tiên vào năm1607. Nhưng vì bão tố liên tục, họ đành phải đổ bộ tại Cape Cod Bay và quyết định lập nghiệp tại Plymouth, Massachusetts. Ngày 21 tháng 11 năm 1620, trước khi lên bờ, 41 trong số này đã ký Bản Kết Ước Mayflower thành lập một tổ chức chính trị dân đưa ra những nguyên tắc luật lệ công bằng và bình đẳng. Đoàn người này đã phải chịu đựng một mùa đông trong đói lạnh và phân nữa đã chết. Trong tình trạng khốn cùng đó, như một phép lạ, một số thổ dân da đỏ nói thông thạo tiếng Anh đã mang bí ngô và thịt gà tây tới giúp nhóm này và đồng thời cũng chỉ cho di dân cách trồng trọt và bắt cá. Đó là lịch sử tiên khởi của lễ Tạ Ơn. Năm 1789, Tổng Thống George Washington đã chọn ngày 26 tháng 11, là ngày Lễ Tạ Ơn chung cho toàn quốc. Đến năm 1863, TT. Lincoln chọn ngày Thứ Năm chót của tháng 11 là ngày Lễ Tạ Ơn chung cho toàn quốc.
Hình ảnh Lễ Tạ Ơn nhắc nhở hoàn cảnh chung của người Viet ly hương đặc biệt của chúng ta. Nó gợi nhớ một nhóm người đi tìm tự do tín ngưỡng đã trải qua những ngày khốn khó tại một miền đất thật xa lạ, nhưng cũng nhắc nhớ chúng ta về những người bạn luôn có mặt giúp đỡ chúng ta, và nhất là bàn tay quan phòng của Thiên Chúa luôn phù trợ cuộc sống của mỗi người chúng ta.
Hình ảnh người Hoa Kỳ năm nay mừng Thansgiving ra sao?
Hình bên trái này cho thấy nữ tài tử Alyssa Milano và nữ tài tử Jennifer Love Hewitt cung các danh tài khác cũng như có 300 thiện nguyện viên khác vào ngày hôm qua 26-11-2003 đã phục vụ chừng 5000 người vô gia cư trong một bữa ăn Tạ Ơn tại Los Angeles Mission, ngôi nhà gần vương cung thánh đường cũ của Los Angeles. Món ăn gồm có khoai tây nhuyễn, bí ngô, gà tây…
Các trẻ em thuộc trường Tiều học Pháp ở Nũu Ước đang cử hành Lễ Tạ Ơn. Các em diện bộ đồ mọi da đỏ và sắc phục của những người Thanh giáo đầu tiên trên con thuyền Mayflower cấp bến tại
Plymouth ở massachussetts. Lính Mỹ xa nhà tận bên Iraq thuộc sư đoàn bộ binh 4 đóng quân tại quê hương của Saddam Hussein quận Tikrit, miền Bắc của thủ phủ Baghdad, đang lấy đồ ăn trong ngày Lễ Tạ Ơn hôm nay.
Ngày cuối của một năm, thường con người vẫn có thói quen ngồi lại để tính sổ với Chúa, với đời xem mình đã làm được gì, chưa làm được gì và rồi con người dù thế nào đi nữa vẫn phải nói lên lời tạ ơn Thiên Chúa vì do tình thương của Ngài mà con người vẫn còn tồn tại.
CUỘC ĐỜI PHẢI LÀ LỜI CẢM TẠ:
Nhìn lại một năm với bao biến cố xẩy ra trong đời: buồn có, vui có, khó khăn có, may mắn có, con người vẫn tự nhủ tại sao mình còn hiện diện ? Tại sao mình còn thở, còn sinh hoạt được, còn đi dứng, ăn uống, ngủ nghỉ được ? Chắc chắn với lòng tin sẵn có, người Kitô hữu luôn ý thức Thiên Chúa đang tiếp tục làm phép lạ trong cuộc đời của mình. Như vậy, tâm tình của con người là tạ ơn. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Êphêsô đã viết:" Đàn hát lên! Nhờ Thánh Thần linh hứng, trót tâm tình, dâng Thiên Chúa là Cha. Luôn cảm ta Người, nhân danh Thánh Tử vì Người ban muôn phúc lộc chan hòa"( Eph 5, 19-20 ).
Vâng, Thiên chúa đã ban cho nhân loại, cho mỗi người muôn vàn hồng phúc. Những ân huệ cao quí, Thiên Chúa tặng ban cho con người quả không kể xiết. Con người chỉ có thể hiểu được những điều quí hóa ấy khi họ biết hồi tỉnh, suy nghĩ và cầu nguyện. Hồi tỉnh để thấy mình đã lãnh nhận quá nhiều ân phúc mà chỉ Thiên Chúa mới có thể trao ban. Suy nghĩ để con người nhận ra họ được hạnh phúc có Thiên Chúa là Cha nhân từ không nỡ cho con người con bọ cạp hoặc hòn đá khi họ xin bánh ăn. Cầu nguyện để thân mật trao đổi và cám ơn Thiên Chúa vì tình thương vô biên Chúa đã tặng ban cho con người.
Chính vì thế, con người phải luôn có tâm tình như Chúa Giêsu vì cuộc đời của Ngài là bài ca cảm tạ tri ân Thiên Chúa Cha. Chúa luôn cảm tạ Chúa Cha trong mỗi biến cố cuộc đời: khi làm phép lạ cho cá và bánh hóa nên nhiều, khi lập bí tích Thánh Thể, khi chọn các môn đệ và nhiều việc Chúa Giêsu làm trong đời của Ngài. Bao giờ, Chúa cũng nói lên lời tạ ơn Thiên Chúa Cha. Tạ ơn là điều tối hệ trọng trong đời Chúa Giêsu. Mẹ Maria cũng thế, Mẹ đã nói lên lời xin vâng và tạ ơn trong cả cuộc đời của Mẹ. Bài kinh Magnificat Mẹ cất lên hôm nay là một lời cảm tạ Thiên Chúa Cha. Mẹ mời gọi mỗi người Kitô hữu hãy cùng Mẹ hát bài tạ ơn vì chính Mẹ và con cái của Mẹ đã được Thien Chúa trao ban quá nhiều hồng phúc.
NGÀY CUỐI NĂM LUÔN LÀ LỜI TẠ ƠN:
Nhìn lại một quãng đời, suy nghĩ về một chặng đường đã qua, con người chỉ biết thốt lên như Mẹ:"…Đấng toàn năng đã làm cho Tôi biết bao điều kỳ diệu". Đời con người là một huyền nhiệm. Chúa đã tạo dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, Ngài lại ban cho con người biết bao hồng phúc khiến con người không thể nào hiểu hết sự lạ lùng của Thiên Chúa. Con người chỉ có thể cùng với tác giả thánh vịnh:' Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho ? Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh Đức Chúa"(Tv 115, 12-13)
Ngày cuối năm, người Kitô hữu luôn phải ngồi lại để suy nghĩ, điều chỉnh tâm hồn và nói lời tạ ơn Thiên Chúa. Đây là dịp rất tốt để con người hồi tỉnh xem điều gì mình đã làm được tốt, điều gì mình chưa làm tốt và điều còn thiếu xót để rồi chấn chỉnh điều chưa tốt và nhân lên càng nhiều càng tốt điều tốt lành mình đã làm được. Điều quan trọng con người cần phải xét tới xem mình đã có quan hệ thế nào đối với Thiên Chúa và có thái độ ra sao đối với tha nhân ? Chúa luôn mời gọi mỗi người quay trở về với Thiên Chúa và làm hòa với anh em. Như thế, ngày cuối năm là dịp để hồi tỉnh, trở về với Chúa và thắp sáng đức tin cho anh em. Những việc làm tỏa sáng vẫn là những việc Chúa mời gọi con người thực hiện để làm vinh danh Chúa và nối kết anh em. Ngày cuối năm cũng là ngày tạ lỗi Chúa và tạ lỗi mọi người. Tạ lỗi là nói lên lòng sám hối, ăn năn và tạ ơn.
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, trong suốt cả năm nay, Chúa đã thương ban phù trợ cho hồn xác chúng con an toàn. Giờ đây năm cũ sắp qua, chúng con cùng họp nhau dâng lên Chúa lời cảm tạ tri ân, và xin Chúa thứ tha tội lỗi, để chúng con được thư thái bình an trước thềm năm mới ( Lời nguyện nhập lễ, lễ tất niên ).
Mỗi tổ chức, mỗi quốc gia, mỗi đoàn thể đều có một bản hiến pháp, cương lĩnh, nội quy hay điều lệ. Dân chúng hoặc các đoàn viên sẽ dựa theo đó mà sinh hoạt cho đúng đường lối, đúng tôn chỉ đã được vạch ra. Do đó Đạo Chúa cũng có hiến chương. Đây không phải là bản luật để quy định chuyện thưởng phạt (đạo Chúa cũng có thập giới và 6 điều răn). Mà đây cũng không phải chỉ là những câu đề nghị khuyên nhủ xuông, theo hay không theo cũng chẳng sao. Trái lại, nó kết tạo nên những điều căn bản, cốt cán, để người ta nhận ra và lượng giá một thành phần của tổ chức hay đoàn thể nào đó.
Khi Chúa xuống gian trần nhập thể, Ngài đã quyết định tạo lập một dân riêng mới, dân Tân Ước, để phụng sự và tôn thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý ( Ga 4, 24 ). Đương nhiên, Ngài đã dạy dỗ đầy đủ về con đường mới ai nấy phải theo để được đón nhận ơn cứu độ. Ngài đã lớn tiếng kêu mời mọi người gia nhập nước Thiên Chúa, nhưng lại công bố Bản Hiến Chương Nước Trời hoàn toàn khác biệt với mọi thứ hiến chương khác trên trần đời. Lý do là vì Ngài muốn cho thiên hạ biết rằng nước của Ngài không thuộc về thế gian này ( Ga 18, 36 ).
Bản Hiến Chương này được các nhà thần học, cũng như chú giải Thánh Kinh đồng hóa với chính BÀI GIẢNG TRÊN NÚI của Chúa. Người ta cũng gọi nôm na là TÁM MỐI PHÚC THẬT, phần tóm kết mọi điều cốt tủy của bài giảng này. Tổng quát, Ngài muốn mọi “công dân Nước Trời” phải bắt chước Ngài, kẻ đã đến “để phục vụ chứ không phải để được phục vụ”. Ngài dạy các môn đệ nếu muốn làm lớn thì phải biết học cách hầu hạ, biết rửa chân cho anh em khác. Thế là cái bản cương lĩnh của Chúa gồm toàn những điều khoản trái ngược với sự mong đợi của đa số, của những kẻ chỉ lăm le được ngồi ”bên tả, bên hữu” cái ghế chủ tịch đầy uy quyền theo nghĩa thế gian.
Ta hãy cùng thánh Mát-thêu mở đoạn 5: Chúa thấy dân chúng đông đảo, Ngài lên núi để ngồi dạy dỗ họ, và Ngài đề cập thật rõ ràng về 8 điều hệ trọng cho mọi người hiểu và thi hành. Sau đó cho tới hết cả đoạn 6 và đoạn 7, Chúa quảng diễn thêm nhiều chi tiết, để ai nấy thấy rõ đường hướng nước trời sẽ phải là thế nào.
Đương nhiên, có một số không chấp nhận, vì tư tưởng của họ còn đầy những khuynh hướng và tham vọng trần đời. Với họ, Lời Chúa đã trở nên “chói tai”. Mãi cho đến ngày nay và tới ngày tận thế, vẫn sẽ còn nhiều người không chịu đón nhận những điều khoản của Hiến Chương này. Chung quy chỉ là vì họ không muốn cùng Chúa đi con đường khổ giá để tới nguồn ơn Cứu Độ. Trái lại, họ chỉ mong đạt vinh quang bằng con đường tắt dễ dãi, nhung lụa. Tuy nhiên, Chúa chẳng bao giờ thay đổi lập trường. Phúc Âm của Ngài sẽ tồn tại ngàn năm. Dù một nét chấm, một nét phẩy cũng không hề biến thay suy chuyển.
1. PHÚC CHO KẺ CÓ TINH THẦN NGHÈO KHÓ:
Chúa mở đầu với mối phục thật gây sự sợ hãi cho nhiều người. Nhưng đây là điệu kiện tối tư cần thiết để vào nước trời. Một số nhà tu đức dám nói rằng cứ suy cho hết lẽ của mối Phúc Thật này, cũng hiểu hết 7 mối kia: Cái tinh thần nghèo khó phải bao trùm mọi cố gắng trong đời sống thiêng liêng của một tín hữu. Nghèo khó ở đây phải bắt nguồn từ tinh thần, chứ không đơn giản chỉ là thiếu thốn về mặt vật chất. Cái tinh thần này cũng không chỉ là một ước mơ suông, nhưng đòi liên tục được thực hiện ở cuộc sống.
Thật ra, điều đạo Chúa nhắm tới là Đức Ái, chứ không phải chuyện từ bỏ của cải. Thế nhưng, Đức Ái bao giờ cũng thôi thúc ta sống tinh thần nghèo khó của Chúa. Nếu chỉ nghèo vì hoàn cảnh xã hội, con người thường hay thèm khác của cải vật chất. Nhưng một khi ta chấp nhận cuộc sống thanh bần vì nước trời, tâm hồn ta sẽ hoàn toàn khác.
Tại sao thế ? Bởi vì Đức Khó Nghèo Phúc Âm dạy ta phải tự làm mình ra trống rỗng, ra trần trụi, ra thiếu thốn, để rồi phó thác cho bàn tay quan phòng của Chúa, cho sự tác động của ân sủng siêu nhiên. Tinh thần khó nghèo đòi ta trục xuất ra mọi ý nghĩ chủ quan sai lạc, mọi nguyên tắc của con người ích kỷ, mọi nền tảng nhân loại mù quáng, sau đó nhường chỗ cho lời Hằng Sống đổi thay, tái tạo. Cái căn bản ở đây là ta phải biết làm cho ta hóa nên như hư không, như vô nghĩa, đứng trước dung nhan Chúa là Đấng có mọi sự.
Qua cái thái độ hoàn toàn thuần phục và lệ thuộc vào Chúa này, ta sẽ trở thành con người tự do thực sự trên đường thiêng liêng, hết phải dính bén vào bất cứ điều gì trần tục, dẫu là vô hình hay hữu hình. Mọi điều ta đang có đây phải được coi là những phương tiện tạm thời để ta phục vụ Chúa và tha nhân. Cái ta phải lưu tâm để học từ bỏ hơn cả, chính là cái ý riêng, cái nhận xét chủ quan, cái ảo tưởng hợm hĩnh về mình. Ngay cả khi ta đang nghèo thật mà lại hãnh diện kiêu căng về chuyện nghèo của mình, là vô tình rơi vào chỗ lầm lạc tệ hại hàng đầu của bài học Phúc Âm.
Thế nghĩa là ta phải thường xuyên chiến đấu với cái khuynh hướng “sở hữu” trong con người mình. Ta không được phép thỏa mãn với ngay cả một tư tưởng riêng, một định kiến riêng. Trái lại, mỗi ngày cần thoát ra ngoài cái “tôi” đó để nắm tay hành trình với Chúa. Chả khác nào Áp-ra-ham sẵn sàng để lại tất cả mà lên đường đi tới nơi Chúa chỉ dẫn. Ai cũng biết Chúa bảo người giàu có vào Nước Trời khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim. Nhưng kẻ tham lam về mặt tinh thần còn ở trong tình trạng khó khăn gấp bội. Thành ra, cái mẫu mực tuyệt hảo của tinh thần khó nghèo phải được tìm thấy nơi chính bản thân Chúa Ki-tô khi Ngài xuống thế sống giữa loài người.
Thánh Gio-an đã viết rằng Ngôi Hai đã từ bỏ cõi trời sang trọng để để tự làm ra mình nghèo hèn, ngõ hầu chúng ta được giàu có ân sủng của Chúa. Nhưng giàu với thánh ân sao được nếu chúng ta không sẵn sàng đi theo con đường Ngài chỉ vẽ. Người đời vẫn nói ”Phú bất nhân, bần bất nghĩa”. Giàu ta hay khinh người, mà nghèo ( kinh tế ) thì lại dễ lâm vào chỗ mất quân bình nội tâm mà làm những điều xằng bậy. Bởi thế, Chúa chẳng cầu chúc cho ai phải sống cảnh khố rách áo ôm. Điều Chúa yêu cầu căn bản là những ai muốn theo Ngài phải biết học bài học từ bỏ, hy sinh, để rồi khi thoát khỏi hình thức nô lệ, ham mê dính bén, ta sẽ dễ dàng gặp Chúa.
Cũng vì thế mà Thánh Kinh Cựu Ước đã dạy ta cầu nguyện: “Xin Chúa chớ để con giàu kẻo con dễ quên Chúa, nhưng cũng đừng để con nghèo khổ kẻo rồi con sinh ra trộm cắp lỗi luật Chúa”. Thực tế hơn nữa, là ta phải biết chia sẻ mọi của cải vật chất cũng như tinh thần cho những người thiếu thốn, xấu số như lời dạy của Ngôn Sứ Ô-sê: Cách tốt nhất để có tinh thần khó nghèo là biết yêu thương những kẻ nghèo hèn.
2. PHÚC CHO KẺ HIỀN LÀNH:
Chúa muốn dùng đất nước làm phần thưởng cho những kẻ hiền lành.Hiền không phải chỉ mềm nhũn như con sứa, con giun. Nhưng giá trị của họ là ở chỗ biết từ tốn kiên nhẫn. Bản lãnh của họ là ở chỗ biết chờ mong, biết hy vọng rằng rồi sẽ có giải đáp tốt đẹp thỏa đáng từ Chúa. Tất cả bắt nguồn từ niềm tin cậy phó thác nội tâm. Nhờ dựa vào ơn Chúa, mà ta sẽ không dễ nóng giận, cộc cằn hoặc nuôi lòng thù hận ghét ghen.
Những chi tiết về cái nhân đức thuộc mối Phúc Thật thứ hai này phải được lấy tiêu chuẩn từ chính trái tim của Ngôi Hai Nhập Thể: “Hãy học cùng ta vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng, rồi các ngươi sẽ thấy tâm hồn thư thái bình an” ( Mt 11, 29 )
Công dân Nước Trời luôn sẵn sàng chiến đấu chống ba thù, nhưng từ nội tâm, họ phải là những mẫu gương của nhu mì, nhã nhặn, theo phong cách của vị Tôn Sư tối cao. Chỉ có Chúa mới giúp ta giữ luôn được tâm hồn hiền lành tử tế ở những lúc ta đối diện với những kẻ thù hung bạo ác tâm. Cái Đất được hứa làm phần thưởng đây trước hết là chính đất tâm hồn mình: ta sẽ làm chủ được mọi xáo trông bên trong, để rồi không sợ làm những điều sai quấy. Rồi đến sẽ chính là cái đất của tâm hồn tha nhân, nhờ đó ta sẽ giúp họ quy hướng về tình yêu Chúa, theo như mục tiêu Chúa xuống trần gian để đem tin lành cho kẻ nghèo khó, an ủi kẻ buồn phiền v.v... ( Lc 4, 18 )
Chúa đã sống hiền lành như Con Chiên. Nay Ngài muốn ta tiếp tục nếp sống hiền lành đó, dù phải là như con chiên giữa bày sói rừng ( Lc 10, 3 ).
3. PHÚC CHO KẺ THAN KHÓC:
Khóc vì ta nhận ra sự yếu đuối và giới hạn của chính mình để rồi tìm về với Chúa. Khóc vì ta không chấp nhận lối sống bất công của trần đời, bởi đi sai đường lối Chúa. Khóc vì ta đã góp phần vào những tệ đoan, những tai hại cho cho bao tâm hồn thanh sạch ngây thơ.
Ta cũng khóc vì đã không làm gì để chặn đứng những nết xấu của chính bản thân ta trong quá khứ. Như vua Đavít xưa khóc trong Thánh Vịnh 50. Như thánh Augustinô khóc cùng Chúa: Lạy Chúa con đã yêu mến phụng thờ Chúa muộn quá”. Như Ma-đa-lê-na, như Phê-rô... Hơn thế, ta đôi khi cũng phải khóc vì thấy mình nhiều lúc như bất lực, không giúp gì được để làm vơi nỗi sầu khổ đớn đau của tha nhân, tương tự dịp Chúa khóc thương thành Giê-ru-sa-lem xưa khi nhìn rõ những hiểm họa đang sắp đổ xuống dân chúng thành thánh.
Phúc cho kẻ khóc vì phần thưởng sẽ là ủi an vui mừng. Chúa đã hứa bồi thường những giọt nước mắt các môn đệ bằng niềm hoan lạc toàn vẹn, vĩnh cửu. Lời hứa đó sẽ còn được thực hiện với chúng ta mãi mãi cho đến tận thế.
4. PHÚC CHO KẺ KHAO KHÁT SỰ CÔNG CHÍNH:
Hiển nhiên đây là tâm tư của những kẻ thấy mình còn đầy yếu đuối, lắm sai lầm, nhiều oan khiên. Họ biết rõ mình cần hướng lên Đấng là nguồn chân lý. Nhờ thế, họ tín nhiệm hoàn toàn nơi Chúa, thay vì tin tưởng nơi mình. Họ tìm cách tách rời khỏi những thói quen cố hữu, những quan niệm cổ xưa, để rồi dấn thân vào lối sống mới Chúa đề nghị. Đó là cơ nguyên của những cố gắng tự lột xác, tự tẩy não để trở thành con người hoàn toàn mới theo tiêu chuẩn Phúc Âm. Mà con đường kiếm tìm sự công chính, sự thiện hảo toàn ven này, có bao giờ đủ, bao giờ xong được ! Thành ra, với người Ki-tô hữu, sẽ không hề có chuyện nghỉ ngơi trên bước đường thánh hóa.
Thế là ta phải liên tục học từ bỏ con người cũ để thường xuyên hướng về chân trời mới hơn, cao rộng hơn của nước Thiên Chúa, để rồi liên lỉ kiếm tìm ra thánh ý Ngài. Để được thế, ta phải sẵn lòng để Thần Linh Chúa uốn nắn, sửa đổi, thanh lọc, nhiều khi bằng những lần hy sinh thử thách lớn lao. Phần thưởng của những cố gắng này là tâm hồn ta sẽ được no thỏa “niềm vui an bình ta ban sẽ khác hẳn những thứ trần gian ban tặng”. Chúa đã một lần đoan hứa như thế. Và đó chính là bóng dáng hoan lạc Thiên Đàng.
5. PHÚC CHO KẺ BIẾT THƯƠNG XÓT:
Chúa chúc phúc cho kẻ quảng đại ra tay trước để tỏ lòng tốt, không điều kiện, không đợi người khác tử tế rồi mới đáp lại. Đây là phúc của những kẻ sẵn sàng tha thứ, bởi họ biết mình đã thường xuyên được Chúa thứ tha. Đây là lối sống của những kẻ biết bắt chước Chúa làm ơn cho kẻ dữ cũng như người lành. Chúa đã yêu ta trước, và yêu vô bờ bến, yêu đến hy sinh cả mạng sống. Ngài cũng có quyền đòi ta cũng làm thế cho tha nhân để được nên toàn thiện với Ngài.
Trong câu chuyện người đàn bà ngoại tình, Chúa dạy ta đừng lên án ai, vì chính ta cũng là những người tội lỗi, nhiều khi tội tầy đình hơn nữa. Chúa đòi ta chia sẻ tất cả với tha nhân, cách riêng đối với những kẻ khốn cùng xấu số. Mà không phải chỉ là chia sẻ miếng cơm manh áo, nhưng quan trọng hơn cả là cho cả con tim và mạng sống: “Không ai có tình yêu cao qúy hơn kẻ thí sinh mạng cho người mình yêu.” Độc đáo hơn nữa là ta phải thi hành lệnh truyền này với cả những kẻ thù, những đối phương nữa.
Rồi Chúa lại tuyên bố rõ: Ngài sẽ phán xét ta sau này về tình thương tha nhân để quyết định chuyện thưởng phạt vĩnh cửu. Dĩ nhiên phần thưởng cho ta sẽ là được Chúa xót thương lại. Đời ta thực sự chỉ cần có thế.
6. PHÚC CHO KẺ CÓ LÒNG THANH SẠCH:
Lòng thanh sạch đòi khử trừ trước tiên hết mọi hình thức của tà ý, của giả hình, của nhị tâm. Dĩ nhiên trên đường tìm Chúa, ta phải ý thức từ đầu rằng mọi điều liên can hay dẫn đưa tới tội lỗi đều trái ngược với ơn thánh của Ngài. Thành ra mọi thứ xúc phạm tới các lề luật của Chúa đã công bố đều xúc phạm tới chính Chúa.
Tâm hồn thanh sạch ở đây cũng gián tiếp đòi ta hằng ngày sửa chữa những mê tín lầm lạc, hệ lụy của tội nguyên tổ, của sự yếu đuối nhân loại. Khi Chúa cảnh cáo “Kẻ mù dắt kẻ mù, cả hai sẽ sa xuống hố” Ngài muốn căn dặn ta phải cố khiêm tốn nhận ra cái thiếu sót, cái gàn dở căn bản của con người mình, mà xin được ánh sáng Thần Linh soi chiếu dạy vẽ.
Đó cũng là lý do để Chúa hứa rằng tất cả những ai có lòng thanh sạch sẽ được thấy Chúa. Họ sẽ được thấy ngài rõ ràng, trong sáng, không còn qua những bóng mờ hay hình ảnh, mà là đối diện, tựa diễm phúc của các thiên thần trên trời. 7. PHÚC CHO KẺ GÂY HÒA THUẬN: Gây hòa thuận đây chính là một dạng thức khác để biểu lộ tình yêu thương ta đã nhận đón từ chính Chúa. “Hãy nên một như Chúa Cha với ta là một”. Đó là huấn lệnh Chúa để lại trước ngày Ngài chịu khổ nạn.
Bởi tham lam ích kỷ, con người có khuynh hướng chia rẽ, phân cách. Lịch sử loài người đã liên tục nói lên thảm trạng này để rồi thường xuyên thấy những tranh chấp giành giựt khắp nơi. Kẻ yêu hòa thuận là kẻ đã được nếm thử sự bình an chân thật của Chúa. Nền tảng an bình này không bao giờ chấp nhận một yếu tố ghét ghen nào để tạo nên cảnh bè phái, oán thù. Như lời Thánh Phao-lô: “Với những kẻ thật tình mến Chúa, mọi sự sẽ đưa đến kết quả êm thắm tốt đẹp” ( Rm 8, 28 ). Dĩ nhiên mọi phía phải học cho được bài học hy sinh căn bản Chúa dạy: Khi có kẻ kiện đòi ta áo ngoài, hãy cho luôn cả áo trong. Khi đối phương đòi ta đi một dặm đường, hãy vui vẻ đi cả hai dặm.
Chúa quan niệm việc hòa thuận thương yêu quan trọng hơn cả chuyện nghi lễ phụng tự: Nếu con đem của lễ tới bàn thờ mà sực nhớ có người anh em đang xích mích với mình, hãy để của lễ đó mà về làm hòa trước đã ( Mt 5, 23 ). Tạo hòa thuận giữa mình với tha nhân chưa đủ, ta còn có bổn phận gây thuận hòa nơi người khác nữa, dù cho đôi lúc ta phải trả một giá thật đắt. Nhưng phần thưởng cho ta sẽ vô cùng xứng đáng, vì Chúa hứa rằng ta sẽ được trở nên con cái Ngài.
8. PHÚC CHO NHỮNG KẺ CHỊU BÁCH HẠI VÌ DANH CHÚA:
Ở đây ta dễ dàng nghĩ ngay tới ngàn vạn tấm gương của các anh hùng tử đạo, của Việt nam cũng như của bao nhiêu dân nước khác trên hoàn cầu. Tử Đạo chính là làm chứng nhân cho đấng chịu khổ nạn và chết trên thập giá. Sau khi công bố lời chúc phúc này, Chúa nối tiếp ngay rằng nước trời sẽ là của họ, vì chính họ đã can đảm chịu người khác nói xấu, bắt bớ cũng như bị vu khống với đủ điều ác vì danh Chúa. Nối tiếp, Chúa bảo họ hãy vui mừng hoan hỉ vì phần thưởng dành cho họ trên trời sẽ thật lớn lao. Cũng thế, Chúa an ủi họ rằng các ngôn sứ và các tiền nhân của họ xưa kia cũng đã từng bị đối xử tệ như thế.
Thế là trước Chúa có Gio-an Tiền Hô, rồi kế sau Chúa lá 11 trong số 12 Tông Đồ cùng với Phao-lô hiên ngang vì danh Chúa mà đổ máu đào. Đạo Thánh được đắp xây lên bằng xương máu. Đường Chúa đi là đường khổ nạn lên Núi Sọ. Phần thưởng vĩnh cửu cũng chỉ được dành cho những kẻ sẵn sàng chịu thiệt thòi vì Phúc Âm của Ngài. Với ơn Chúa, ta hãy nhủ mình luôn can đảm và quảng đại trong cuộc sống hằng ngày. Chúa hứa sẽ thường xuyên ở cùng chúng ta.
MỘT LỜI KẾT:
Chúa công bố Hiến Chương Nước Trời như thế đó. Đôi lúc ta không khỏi lo âu khiếp sợ. Đường gai chông sỏi đá Chúa mời ta đi nhiều phen khiến ta nản lòng muốn bỏ cuộc. Bởi vì con người trần tục của ta khác hẳn con người thánh ân Chúa muốn tái tạo. Bởi tội nguyên tổ đã để lại bao hậu quả tai hại trong tâm tư mỗi người chúng ta. Chúa sẽ ra tay giúp chúng ta học với Ngài những bài học của tinh thần nghèo khó, hiền lành, xót thương, v.v...
Khi công bố Tám Mối Phúc Thật, Chúa tỏ bày cho ta khuôn mặt thật của chính Ngài, như nguồn Chân Thiện Mỹ tối cao. Dĩ nhiên, Chúa muốn ta cố gắng vẽ lại, làm sống lại khuôn mặt đó trong cuộc sống hàng ngày của mình. Chúa mời ta đi con đường mà chính Ngài đã đi, cách riêng trong suốt 33 năm khi Ngài nhập thế làm người như chúng ta. Muốn làm dân con Nước Trời, hiển nhiên là ta phải đón nhận mọi điều khoản Chúa đặt ra. Muốn theo Chúa, ta phải học nên giống Chúa để được “Cha nào con nấy”. Chúa chẳng ép buộc ai. Đường Chúa khó đi, những nẻo đường khác vẫn mở rộng để ta tự do lựa chọn. Có điều không đi đường Chúa, ta sẽ tự hủy diệt mình.
Hôm nay, bên Chúa, ta hãy bắt chước Phê-rô để lớn tiếng trả lời Chúa: “Lạy Thày, bỏ Thày thì chúng con biết theo ai”.
Những ngày đầu Năm Mới, ai cũng mong gặp được điều may mắn, ai cũng ước ao sự bình an. Nhưng không chỉ trong những ngày đầu năm mà thôi. Người ta mong mỏi suốt năm mới tràn đầy những điều tốt đẹp. Và lòng mong ước trở thành lời cầu chúc trên môi miệng mọi người.
Chính trong niềm mong ước đó, kể từ đêm Ba Mươi Tết, nhất là trong Giờ Giao Thừa, người ta kéo nhau đến chùa hái lộc đầu xuân. Trong niềm phấn khởi của tiết xuân tươi, lộc đầu năm này như lời chúc lành quý giá của trời đất, của thần thánh.
Hái lộc đầu năm là một nét đẹp, một việc làm tốt. Bởi thế, người Công Giáo Việt Nam đã “rửa tội” cho truyền thống này, và đem nó vào trong nhà thờ trong những ngày Tết. Chỉ khác một điều, lộc đầu năm của người Công Giáo là Lời Chúa: Lẽ sống của chính mình, cũng là lẽ sống của cả nhân loại, nếu ai cũng áp dụng Lời Chúa để sống trong cuộc đời mình.
Như mọi người, những ngày Tết vừa qua, tôi cũng đi hái lộc. Lộc đầu năm của tôi là một câu Kinh Thánh trích trong sách Sáng Thế: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa” ( St 1, 27 ). Câu Kinh Thánh thật là hay. Nhưng sao tôi cứ tần ngần tẩn ngẩn mãi: Chúa đang nói gì với tôi ? Sao tôi thấy Lời Chúa trong tờ lộc khó để tôi áp dụng vào cuộc sống của mình quá !
Suy nghĩ mã rồi tôi mở Kinh Thánh ra, đọc lại những trang đầu của sách Sáng Thế, cũng là những trang đầu tiên của Kinh Thánh. Lời của Chúa sao mà ấm áp, gần gũi và tràn đầy yêu thương đến thế. Lời ấy giúp tôi khám phá ra huyền nhiệm của mình, huyền nhiệm về con người.
THIÊN CHÚA SÁNG TẠO:
Sách Sáng Thế cho biết, công trình sáng tạo của Thiên Chúa là mọi loài, là cả vũ trụ này, trong đó có con người là chóp đỉnh của mọi thụ tạo. Thiên Chúa sáng tạo bằng Lời quyền năng, biến hư không thành có mọi thứ. Nhưng Người không sáng tạo cùng lúc nhưng trải dài cả tuần lễ:
“Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất, đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. Thiên Chúa phán: “Phải có ánh sáng. Liền có ánh sáng. Thiên Chúa thấy rằng ánh sáng tốt đẹp. Thiên Chúa phân rẽ ánh sáng và bóng tối. Thiên Chúa gọi ánh sáng là “ngày”, bóng tối là “đêm”. Qua một buổi chiều và một buổi sáng đó là ngày thứ nhất...”.
Cứ như thế, Thiên Chúa tạo dựng hết ngày này sang ngày khác trong sáu ngày của một tuần lễ. Ngày thứ Bảy, công trình tạo dựng hoàn tất.
Nhưng nói gì thì nói, nếu nhìn vào mặt chữ, và chỉ hiểu theo nghĩa đen của mặt chữ đó khi đọc hai chương đầu của sách Sáng Thế, sẽ thấy trình thuật tạo dựng đầy dẫy mâu thuẫn. Nhưng rất may, Thánh Kinh mang ý nghĩa của những điều thuộc về đức tin. Vì chất chứa bên dưới mặt chữ là những mạc khải của đức tin cho nên ý nghĩa của Thánh Kinh rất sâu xa, độc đáo, và bống bẩy. Ta có thể nêu ra một vài nhận định như sau:
1. Trình thuật tạo dựng chỉ muốn nhấn mạnh hai điều quan trọng là: Tất cả mọi loài do Thiên Chúa tạo dựng.
Thiên Chúa tạo dựng có trật tự và tốt đẹp ( biểu hiện bằng thời khóa biểu ).
2. Thánh Kinh được viết từ xa xưa, nên dùng những kiểu nói, những hình ảnh bình dân và dùng những quan niệm khoa học cổ thời để người xưa dễ hiểu, nên ngày nay lỗi thời và dễ gây ngộ nhận.
Dù Thánh Kinh dùng kiểu nói xưa để diễn tả chân lý tôn giáo, nhưng ý nghĩa mà những kiểu nói đó muốn ám chỉ thì phù hợp mọi thời đại. Vì Thánh Kinh quan trọng ở ý nghĩa chứ không quan trọng ở kiểu nói.
3. Khi Thánh Kinh cho biết Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, vạn vật, con người trong sáu ngày, ngày thứ bảy, Người nghỉ ngơi. Đó là cái khung văn chương, và khung thời gian ảnh hưởng của não trạng đồng thời của vũ trụ quan thời bấy giờ. Sự thực đâu phải như thế. Nhưng trong cái khung văn chương, và khung thời gian ấy cho ta thấy ý hướng của Thiên Chúa khi linh hứng cho người viết: Thiên Chúa nhắm đến một trật tự hoàn hảo nhằm phục vụ sự sống, đặc biệt là sự sống con người. Thiên Chúa tạo dựng mọi khoáng vật trong bốn ngày đầu, nhưng đến ngày thứ năm sự sống mới xuất hiện. Và mãi đến ngày thứ sáu, ngày cuối cùng của công cuộc tạo dựng, con người mới được sinh ra.
THIÊN CHÚA SÁNG TẠO CON NGƯỜI:
MANG HÌNH ẢNH THIÊN CHÚA, CON NGƯỜI CÓ MỘT GIÁ TRỊ VÔ CÙNG LỚN:
St 1, 26 – 27 nhắc đi nhắc lại đến ba lần câu nói: “Con người giống hình ảnh Thiên Chúa”. Đây là một điều quý giá vô cùng, một tặng phẩm lớn: Thiên Chúa sáng tạo loài người, không sáng tạo nó giống bất cứ cái gì khác, nhưng lại được mang chính hình ảnh của Thiên Chúa.
Việc sáng tạo con người khác hẳn các loài khác. Vì các loài khác chỉ phán một lời là lập tức có. Nó như một công thức trở thành điệp khúc: “Thiên Chúa phán... liền có”; “Thiên Chúa phán... liền có”. Còn việc tạo dựng con người vượt ra ngoài khuôn khổ của công thức ấy. Thiên Chúa không “phán... liền có” nữa. Dường như Người đặt hết trách nhiệm của mình trong việc tạo dựng đó. Sách Thánh diễn tả việc tạo dựng này làm cho Người phải cân nhắc lắm, đắn đo lắm, suy tính nhiều lắm. Người như muốn căn dặn chính mình: “Ta hãy làm ra con người theo hình ảnh Ta...”
Chưa hết, ở chương hai, sách Sáng Thế còn mô tả Thiên Chúa như một người thợ gốm tỉ mỉ, nắn nót để nặn thành hình con người. Chưa có một loài động vật nào mà Thiên Chúa phải ra tay tác thành như thế cả, Ngài chỉ “phán” và “có”, thế là xong. Còn loài người, Thiên Chúa chủ động thật sự, hạ mình thật sự để tạo ra nó, và cũng không ngần ngại ghi dấu ấn hình ảnh của Người trên nó.
Vẫn chưa hết ! Chỉ có con người mới được Thiên Chúa thổi hơi ban Thần Khí, ban sự sống. Chưa có một loài thụ tạo nào, sách Thánh cũng chưa từng bao giờ cho biết bất cứ một loài nào, là thụ tạo mà lạisống bằng hơi thở, bằng sự sống của chính Đấng tạo dựng nên mình. Chỉ có con người được ban sự sống rút ra từ chính sự sống của Thiên Chúa. Chúng ta thử tưởng tượng mà xem, một ngày nào đó, Thiên Chúa cầm lấy sản phẩm mà chính mình vừa mới tạo ra, mang hình ảnh của mình, thổi một luồng hơi thở, lập tức nó trở thành một sinh vật sống: khôn ngoan, có hoạt động, thông minh, và rất đáng yêu. Bởi thế giá trị của con người là giá trị thánh thiêng, nhân phẩm của con người không chỉ vì là người, mà còn trong tương quan với trời cao.
Mang hình ảnh Thiên Chúa, con người có linh hồn thiêng liêng, có trí tuệ và có ý chí tự do. Muôn loài trong vũ trụ được Thiên Chúa dựng nên đều là vật chất. Chỉ có con người vừa là vật chất: thể xác; vừa là tinh thần: Linh hồn. Linh hồn thuộc thế giới thần linh, không bao giờ mất đi, không bao giờ chết. Có linh hồn cho nên con ngời có một vận mệnh vĩnh cửu. Cả hai, xác – hồn tạo thành một bản thể duy nhất: Người. Có hồn, không có xác; hoặc ngược lại, chỉ có xác nhưng không có hồn, đều không phải là người toàn vẹn. Thể xác được linh động hóa nhờ có tinh thần là hồn thiêng.
Đàng khác, khi tạo nên muôn vật, chắc chắn Thiên Chúa chúc lành cho chúng để tất cả chúng “đều tốt đẹp”. Nhưng chỉ có nơi con người, Thánh Kinh mới nhắc tới một cách minh xác, rõ ràng: “Thiên Chúa ban phúc lành cho họ” ( St 1, 28 ). Và như thế, tất cả những gì mà con người có được đều chứng minh Thiên Chúa vô cùng tôn trọng con người.
Vì con người giống hình ảnh Thiên Chúa, và vì Thiên Chúa vô cùng tôn trọng con người, do đó nhân phẩm của nó là tối quan trọng. Chính vì đặt nền tảng nơi Thiên Chúa, nên bất cứ ai xúc phạm nhân phẩm đều xúc phạm đến chính Thiên Chúa. Ca-in là kẻ đều tiên xúc phạm nhân phẩm con người, là kẻ đầu tiên giết người, giết chính em ruột của mình. Hành động giết người của Cain cũng là hành động xúc phạm Thiên Chúa, như Lời Chúa nói: “Máu của em ngươi kêu vang tới trời thấu đến tai Ta” ( St 4, 10 ).
Cũng vậy, ai xúc phạm Thiên Chúa đều làm tổn thương nhân phẩm của chính mình: A-đam là người đầu tiên của nhân loại đánh mất nhân phẩm của chính mình khi không vâng lời Thiên Chúa. Ông đã phải nhục nhã, cúi mặt bước ra khỏi địa đàng dưới lưỡi gươm lửa của thiên thần, là hình tượng của sự uy quyền của Thiên Chúa.
GIỐNG HÌNH ẢNH THIÊN CHÚA, GIỐNG NHƯ THẾ NÀO ?
Sách Giáo Lý Công Giáo cho biết, giống hình ảnh Thiên Chúa, con người có trí tuệ, có tự do. Thần học dạy, trí tuệ giúp con người nhận biết Thiên Chúa. Còn tự do sẽ làm con người nên tốt, nếu sử dụng tự do vào mục đích tốt. Hoặc nên xấu, nếu sử dụng vào mục đích xấu, tội lỗi. Nhưng nếu chỉ nhìn ở khía cạnh nhân bản, con người không chỉ giống Thiên Chúa về trí tuệ, tự do hay hồn thiêng mà còn giống Thiên Chúa về nhiều mặt khác như: xã hội tính, khả năng sáng tạo...
a. Xã hội tính:
Vì sao nói con người có xã hội tính, thì xã hội tính ấy lại là hình ảnh Thiên Chúa ? Lời Tiền Tụng trong Lễ Chúa Ba Ngôi tuyên xưng: “Chúa là Thiên Chúa và chủ tể duy nhất, duy nhất không phải trong một Ngôi đơn độc, nhưng trong Ba Ngôi cùng một bản thể”. Ngay chính bản thân Thiên Chúa, dù là một, là duy nhất hoàn hảo tuyệt đối, vẫn là một bản thể biết san sẻ tình yêu, mang nơi mình tới Ba Ngôi vị. Cha trong Con, Con trong Cha. Tình yêu nơi Cha và Con làm phát sinh một Ngôi Vị tròn đầy, mang cùng bản tính như Cha và Con: Ngôi Thánh Thần.
Thiên Chúa duy nhất nhưng không đơn độc. Điều đó chứng tỏ nơi cung lòng Thiên Chúa có một đặc tính xã hội nào đó.
b. Khả năng sáng tạo:
Thánh Kinh luôn cho thấy Thiên Chúa làm việc liên lỉ. Người không ngừng tạo ra thế giới, không ngừng cứu độ. Thánh Kinh diễn tả sự làm việc của Thiên Chúa rất sinh động: Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ, Người lên đường xuất hành với dân, cứu dân khỏi nỗi nhục làm tôi Ai-cập, ngỏ lời với các Tổ Phụ, soi sáng cho các Ngôn Sứ...
Chúa Giê-su khi còn ở trần gian cũng nêu cao tấm gương hoạt động sáng tạo: làm việc phụ giúp thánh Giu-se và Đức Mẹ. Đặc biệt là hoạt động của Chúa Giê-su nhằm cứu độ con người màbốn quyển Tin Mừng nói rất đầy đủ. Thánh Gio-an Tông Đồ đã không quyên ghi lại lời Chúa Giê-su: “Ta và Cha Ta hằng làm việc luôn” ( Ga 5, 17 ).
Khi sáng tạo con người, Thiên Chúa cũng phú ban khả năng sáng tạo của mình cho họ: “Ta hãy tạo dựng con người giống hình ảnh Ta, để con người làm chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” ( St 1, 26 ). Tuy nhiên việc sáng tạo mà con người được ban cho không theo nghĩa tuyệt đối như Thiên Chúa. Người sáng tạo từ hư không. Con người không thể làm được điều đó. Nó chỉ có thể lao động để sản xuất từ những cái mà Thiên Chúa ban. Lao động của con người là tiếp tục công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
TÓM LẠI:
Suy tư từ nội dung của tờ lộc đầu năm, cho tôi hiểu rõ hơn về giá trị con người. Sự hiểu biết này đòi tôi phải tôn trọng mọi người, cho dù là những sinh linh nhỏ bé nhất, đang còn nằm trong bụng mẹ. Và cũng từ những suy tư ấy, tôi nhận ra điều mà Chúa muốn dạy tôi:
- Được tạo dựng đã là một vinh dự. Được tạo dựng thành một con người, phẩm giá càng lớn lao hơn.
- Không chỉ làm người, Thiên Chúa còn ban biết bao nhiêu ơn cần thiết để con người được sống, hoạt động, hạnh phúc.
- Nhưng không chỉ công trình tạo dựng mới nói lên phẩm giá con người. Phẩm giá ấy càng trở nên mảnh liệt hơn trong công cuộc cứu chuộc. Bởi chẳng những không bị hủy diệt sau phạm tội, mà lại còn đáng lãnh nhận Đấng Cứu Chuộc đời đời là chính Thiên Chúa làm người, hy sinh chết cho mình.
- Cuối cùng, chúng ta phải chân nhận rằng: Phẩm giá của mỗi một người ở nơi Thiên Chúa, xuất phát từ Thiên Chúa. Nếu không có Thiên Chúa, thì không bao giờ có con người. Nếu Thiên Chúa không muốn, thì không bao giờ con người có phẩm giá. Nếu Thiên Chúa vì yêu, đã tạo thành con người, và ban cho mọi sự thuộc về con người, thì cũng chính nhờ Tình yêu của Thiên Chúa, mà con người được vinh dự lớn lao. Tình yêu làm nên giá trị con người. Do đó, nếu ta sống tương quan tình yêu với Thiên Chúa và với anh em, ta tự mình nâng cao giá trị của chính mình. Ngược lại, không tương quan tình yêu như thế, ta tự đánh mất phẩm giá chính mình.
- Đúng, lạ thật, nhưng cái nghề này có trong bản báo cáo tài chánh của xã chúng ta đây này.
- Đâu cho tôi xem.
Ông chủ tịch hội đồng xã trẻ tuổi với lấy cuốn sổ kế toán để xem xét. Ông ta ngạc nhiên khi thấy cái nghề “người giữ ngọn suối” có thật. Ông ta hỏi:
- Có ai trong hội dồng xã biết việc này là gì không?
- Có, tôi biết.
- Vậy, kính xin cụ vui lòng cho tôi biết bổn phận của “người giữ ngọn suối” của xã mình phải làm gì.
- Thì có gì đâu, thưa ông chủ tịch hội đồng. Ngày ngày ông cụ già “giữ ngọn suối” có bổn phận cào lá khô, cành củi gãy, phân nai, hay xác súc vật, tất cả những gì dơ bẩn ra khỏi ngọn suối, thế thôi.
- Thế mà chúng ta cũng phải trả lương cho ông cụ này à!
- Đúng vậy, thưa ông chủ tịch.
- Với ngân sách eo hẹp năm nay, và theo đề nghị cắt giảm bớt chi tiêu của hội đồng, nay tôi quyết định cắt bỏ cái nghề lạ đời này.Thế là ông cụ già “người giữ ngọn suối” bị sa thải. Ông cụ vui vẻ thu xếp khăn gói, xuống núi, trở về lại với làng xưa, vui sống bên bầy con cháu.
Nhưng, giòng suối chảy vào làng bắt đầu thay đổi. Những lá vàng úa theo giòng trôi về thôn xóm. Mới đầu, vài ba chiếc lá, nhưng dần dần từng đống, từng đống lá úa trôi về nghẹt cả con suối nhỏ, tấp đầy bờ hồ, cái hồ “thiên nga”, điểm đến của bao du khách, nguồn kinh tế lớn nhất của vùng.
Rồi kìa, củi nhỏ, cành khô lạc theo giòng.
Con suối trong vắt ngày xưa là cả nguồn cảm hứng cho bao thi sĩ, nhạc sĩ, hoạ sĩ, nay đã ngã sang màu nâu. Từng đoàn thiên nga xưa nhởn nhơ đùa giỡn trong giòng nứớc mát trong, hay soi mình trên mặt hồ trong xanh, cảnh đẹp thu hút bao du khách đến thăm xã này, nay cũng giã từ con suối nâu, bờ hồ đục.
Rồi du khách cũng vắng dần. Và nguồn thu nhập của xã cũng cạn luôn.
Trước cảnh ngân sách bị thâm thủng, ông chủ tịch trẻ tuổi của hội đồng xã vội vã chạy tìm cho ra “người giữ ngọn suối” và tha thiết nài van ông ta trở lại với cái nghề lạ đời, cái nghề âm thầm, cái nghề ở mãi tận trên nguồn!
“Người giữ ngọn suối” vui vẻ nhận lời. Ông ta lại khăn gói trở về lại căn chòi xưa, tận trên ngọn nguồn con suối nhỏ, ngày ngày âm thầm giữ cho mạch suối được sạch trong, tinh tuyền.
Rồi giòng suối lại trong.
Bờ hồ lại sạch.
Thiên nga bay về!
Du khách trở lại.
Cuộc sống của “vùng thiên nga mới” bỗng nổi danh với giòng chữ “Neuschwanstein” - làng thiên nga mới!
*****
Ơn gọi làm “người giữ ngọn suối” sao cho tinh tuyền, Chúa đã trao ban cho cha mẹ già của chúng ta. Chính các ngài đang âm thầm làm cái nghề “lạ đời” ấy. Cái nghề ấy “lạ đời”, vì hình như chúng ta, phận làm con cháu, cũng giống như ông chủ tịch mới, trẻ kia không biết quý trọng và TẠ ƠN.
Một vài người trong chúng ta khi tị nạn qua Mỹ, qua Âu, Úc... chúng ta mong hội nhập thật mau vào xã hội Âu Mỹ... chúng ta lao đầu theo kinh tế thị trường, chúng ta xem thường những ngưòi không còn khả năng lao động sản xuất, chúng ta xem nhẹ cái nghề “giữ ngọn suối” văn hóa Việt Nam của cha mẹ già. Và óai ăm thay, chúng ta cũng quên bẵng đi cái bổn phận làm “người giữ ngọn suối” của chúng ta, đến khi chính con cái mình qúa Mỹ hóa, Tây hóa, Úc hóa... mình mới đâm hoảng.
Bên cạnh cái nghề “giữ ngọn suối” văn hóa còn có cái nghề “giữ ngọn suối” đạo đức nữa. TẠ ƠN CHÚA đã thương ban cho các giáo đoàn Việt Nam chúng ta những giáo lý viên trẻ có, lớn tuổi có đang âm thầm hy sinh làm việc “giữ ngọn suối” đạo lý cho tinh tuyền, trong sáng.
Chính họ là những người “yêu Chúa”, người “yêu của Chúa” (THEOPHILE), những “chứng nhân” của Tin Mừng, những kẻ “phục vụ Lời” (Lu-ca 1: 1-2), những người đang âm thầm “chuyền trao lại những gì họ đã học nơi Đức Chúa Giê-su” cho giới trẻ sao cho tinh tuyền, trong sáng (1 Cô-rin-tô 11:23).
Nhân mùa TẠ ƠN - Thanksgiving ở Mỹ, xin dâng lời:
TẠ ƠN CHÚA đã ban cho chúng ta có ông, có bà!
TẠ ƠN CHÚA đã ban cho chúng ta có cha, có mẹ!
TẠ ƠN CHÚA đã ban cho chúng ta những thầy cô “giáo lý viên”!
TẠ ƠN CHÚA đã ban cho chúng ta những vị này, những người đang âm thầm hy sinh “giữ ngọn suối” văn hóa Việt và đạo Ki-tô.
Một nhà tư tưởng người Đức sống vào thế kỷ thứ 14 được tôn làm bậc tôn sự đưa ra khuôn vàng thước ngọc như sau:
- Người quan trọng nhất trong lúc này là người đối diện với ta. - Giờ phút quan trọng nhất đối với ta lúc này là giờ phút hiện tại. - Công việc quan trọng nhất là công việc bác ái yêu thương.
Chỉ chú ý vào người đối dịện, vào giờ phút hiện tại vào công việc ta đang làm. Đó là bí quyết sống hạnh phúc.
Người Nga cũng có một châm ngôn tương tự:
- Chỗ quan trọng nhất là chỗ bạn đang đứng này đây. - Con người quan trọng nhất là con nguời đang đứng trước mặt bạn và đang cần bạn.
Đầu năm mới, có lẽ ai trong chúng ta cũng có một quyết tâm. Có người quyết tâm bỏ thuốc lá. Có người quyết tâm bỏ uống rượu. Có người quyết tâm dành thêm tiền bạc để đi buôn, để xây nhà, v.v... Có người quyết tâm hăng hái học hành để chuẩn bị cho một tương lai sáng lạng. Có quyết tâm và có quyết tâm, nhưng lắm khi sức người có hạn, chúng ta lại bỏ cuộc giữa đàng, đâu lại vào đó, con sâu của chán nản, của thất vọng lúc nào cũng chực sẵn để gậm nhấm tâm hồn chúng ta
- Hãy sống giây phút hiện tại với tất cả tâm tình lạc quan và phó thác. Đó phải là quyết tâm mà chúng ta có thể làm tức khắc trong giây phút này.
- Hãy hưởng nếm những niềm vui nhỏ trong cuộc sống như ân tình diệu vợi của Chúa.
- Hãy trao vào tay Ngài mọi sầu muộn lắng lo. Chúng ta hãy để cho mọi lo âu lắng đọng xuống.
Chúng ta hãy chấm dứt mọi bài ca than vãn của thất vọng để chỉ còn lại một tâm tình duy nhất xứng hợp với người có lòng tin: Đó là tâm tình phó thác và tri ân.
- Tạ ơn Chúa đã ban cho ta chào đón năm mới.
- Tạ ơn Chúa đã luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta để dẫn dắt chúng ta trong từng phút giây của cuộc sống.
- Tạ ơn Chúa đã giữ vững chúng ta trong niềm tin vào Tình Yêu của Ngài.
- Tạ ơn Chúa cho riêng chúng ta. Tạ ơn Chúa cho tất cả mọi người.
- Tạ ơn Chúa chúng ta cũng không quên tạ ơn người:
- Tạ ơn ông bà tổ tiên đã cho chúng ta được sinh ra làm người Việt Nam. Tạ ơn cha mẹ đã sinh ra và giáo dục chúng ta nên người. Tạ ơn những người thân thương ruột thịt đã đùm bọc chúng ta. Tạ ơn những người bạn tốt đã nâng đỡ chúng ta bằng muôn nghìn cách thể hiện của tình yêu. Tạ ơn những người vô danh mà sự hiện diện và âm thầm đồng hành đã giúp chúng ta được sống như con người. Tạ ơn tất cả những người khốn khổ kém may mắn hơn chúng ta: Nhờ đó tiếng gọi sống yêu thương huynh đệ liên đới còn vang vọng trong tâm hồn chúng ta. Tạ ơn nhiều người mà chúng ta thù ghét. Tạ ơn những người thù ghét chúng ta. Tạ ơn tất cả bởi vì cách này hay cách khác họ vẫn luôn luôn là tiếng gọi để chúng ta sống tinh thần Kitô hữu nhiều hơn.
Với tất cả tâm tình tạ ơn. Chúng ta hãy dâng lên Chúa một năm mới.
Xin dâng lên Ngài tất cả niềm cảm mến tri ân của chúng ta●
Và lễ Tạ Ơn tới. Bây giờ đang là một ngày lễ của Tạ Ơn. Lễ Tạ Ơn tới, có rất nhiều điều để mà tạ ơn.
Tạ ơn cho lá xanh đậm và bầu không khí nóng hừng hực khi mùa hè tới với những con số 100 đỏ chói trên hàn thử biểu. Tạ ơn cho làn gió êm dịu khi mùa thu về, lá đổi màu rực rỡ trên hàng cây. Tạ ơn cho tuyết trắng, tuyết trắng buông rơi thả nhẹ, tuyết trắng bám chặt cây khô bơ vơ trụi lá. Tạ ơn cho những nụ hoa đâm chồi nẩy lộc trong sân vườn lún phún mầu xanh, mầu xanh xanh mới, mầu xanh hy vọng. Tạ ơn cho gió nóng và gió lạnh. Tạ ơn cho gió hè và gió thu. Tạ ơn cho bốn mùa, bốn mùa luân phiên thay đổi.
Tạ ơn cho những thăng trầm trôi nổi trong một năm vừa qua. Tạ ơn cho hạnh phúc. Tạ ơn cho thanh bình. Tạ ơn cho bầu không khí đầm ấm trong căn nhà mới tinh, kiếng cửa sổ còn bóng lộn. Tạ ơn cho chiếc xe mới nằm trong nhà xe còn thơm nồng mùi sơn mới. Tạ ơn cho tiếng cười tiếng nói trong những căn phòng khách sang trọng thơm tho mùi thảm mới với màn ảnh TV Plasma mới tinh nằm chễm chệ chiếm gọn một góc nhà. Tạ ơn cho gạo trắng cơm ngon. Tạ ơn cho những bữa cơm thơm nồng nàn được nấu bởi bàn tay của ông của bà, của bố của mẹ, của chị của anh, và của cả những người em, em trai và em gái.
Tạ ơn cho những thân hình lực lưỡng của những đứa con, con trai, mới ngày nào còn nhỏ xíu, nay vươn vai đứng dậy hóa ra thanh niên với những sợi râu mọc lưa thưa trên mép. Tạ ơn cho những đứa con, con gái, ngày nào tóc còn ngắn ngang vai, giờ này tóc dài đen nhánh êm đềm bước đi những gót hài sen đầu tiên của tuổi thanh xuân, tuổi của đẹp, đẹp rực rỡ, đẹp huy hoàng.
Tạ ơn cho những người chị, người anh, người em, em trai và em gái. Tạ ơn cho những lời ngon ngọt rì rào anh chị em thủ thỉ với nhau, và cũng tạ ơn cho những lời cay đắng buông ra không kịp kềm hãm. Tạ ơn cho những khuôn mặt tươi cười ngọt ngào, và những giận hờn nước mắt tuôn rơi. Tạ ơn cho những quây quần xum họp, và ngay cả những lúc không ai nhìn ai. Tạ ơn cho những lần cửa phòng rộng mở, và cũng tạ ơn cho những lần cửa đóng then cài.
Tạ ơn cho những người bố, những người mẹ. Tạ ơn cho những sáng sớm vất vả với dòng xe cộ đỏ chói và đen đặc trên xa lộ. Tạ ơn cho tháng tháng ngược xuôi mang tiền về nuôi chồng, nuôi vợ, và nuôi con. Tạ ơn cho những người cha người mẹ một đời khổ vì con, một đời cực vì cháu. Tạ ơn cho những người bố, những người mẹ sớm chiều lặn lội thân cò khi quãng vắng, kiếm gạo nuôi chồng, nuôi vợ, và nuôi con. Tạ ơn cho những thiên đàng đã được tạo ra trong căn phòng khách, và ngay cả những ngọn lửa vẫn còn đang âm ỷ cháy. Tạ ơn cho những giọt nước mát lạnh từ trời cao đã tuôn đổ, những hạt nước mắt rớt xuống dập tắt đi mầm lửa của giận và của hờn.
Tạ ơn cho tình thương, tình thương mến vô điều kiện. Không phải bởi học giỏi, đỗ đạt vinh quy, tình thương mới được trao ban gửi tặng. Không phải! Không phải bởi nói tiếng Việt, hay tiếng Anh, hay tiếng Pháp, hay tiếng Đức giỏi, tình thương mới ngọt ngào tuôn đổ. Không phải! Không phải bởi biết đối đáp, biết ăn biết nói, biết làm ăn buôn bán, biết giao tiếp lanh lẹ, tình thương mới được trao ban. Không phải! Không phải bởi cao lớn lực lưỡng, tóc dài đen mượt, khuôn mặt xinh đẹp, nụ cười tươi thắm, dịu dàng thướt tha, da mầu trắng ngà, hay da mầu rám nắng, tình thương mới bộc phát. Không phải! Không phải bởi lương cao, nhà cửa thênh thang, 5 hoặc 6 phòng, bởi học thành tài, có bằng cử nhân, văn bằng bác sĩ, tình thương mới ngọt ngào tuôn đổ trên đầu lưỡi. Không phải! Không phải bởi vì điều kiện này điều kiện kia, tình thương mới lấp ló nơi khóe miệng. Không phải! Mà bởi vì bố là bố, mẹ là mẹ, chị là chị, anh là anh, em là em. Bởi vì bố là bố của con, bởi vì mẹ là mẹ của con, bởi vì em là em của anh, bởi vì em là em của chị, cho nên lúc nào tình thương cũng tràn đầy tuôn đổ trên hai bàn tay; và khi cần đến, tình thương ngọt ngào tuôn đổ, tình thương sung mãn, tình thương thánh thót, tình thương ngập tràn, tình thương lai láng, tình thương viên mãn, tình thương tuôn rơi.
Tạ ơn cho những sức khỏe sung mãn trong gia đình. Tạ ơn cho những đau ốm liệt giường, sụt sùi cảm cúm. Tạ ơn cho những giấc mơ chưa đạt tới, và không biết bao giờ mới đạt tới. Tạ ơn cho những lần không trở thành gánh nặng cho chính mình và cho những người thân chung quanh. Tạ ơn cho những vết thương tâm hồn từ bao lâu nay đã thôi không sưng đỏ, đã chịu lên da non.
Tạ ơn cho những khuôn mặt trong gia đình đang dần dần biến dạng trở nên cằn cỗi, và tạ ơn cho những khuôn mặt vẫn còn đang căng tràn nhựa sống. Tạ ơn cho những lầm lỗi. Tạ ơn cho những lần được thứ tha, được bỏ qua, được quên đi, được xóa nhòa. Tạ ơn cho những chịu đựng âm thầm, không cằn nhằn, không đi ra đi vào đá thúng đụng nia.
Tạ ơn cho những người tình của gia đình. Tạ ơn cho những khuôn mặt mới thường xuyên xuất hiện trong căn phòng khách đợi chờ những khuôn mặt cũ. Tạ ơn cho những người thanh niên kiên nhẫn ngồi im lìm đọc báo coi TV đợi chờ trong căn phòng khách trong khi những người con gái vẫn đang đi tới đi lui trước gương. Tạ ơn cho những đám cưới tưng bừng với bao nhiêu quan khách. Tạ ơn cho những tà áo dài trắng thướt tha, những khuôn mặt đỏ hồng, những đôi mi e lệ dưới khăn voan cô dâu trắng toát. Tạ ơn cho những đứa con đang hình thành trong bụng. Tạ ơn cho những mái ấm gia đình hạnh phúc, và cũng tạ ơn cho những căn nhà bắt đầu nóng, nóng như lửa.
Tạ ơn cho những buổi lễ Tạ Ơn với thịt gà tây chiên vàng theo kiểu Văn Lang. Tạ ơn cho những bữa tiệc Giáng Sinh với khăn bàn đỏ rực, với những ly rượu đỏ nồng, và những khuôn mặt đỏ thắm. Tạ ơn cho những cây thông mọc trong căn phòng khách với đèn trắng, đèn xanh, đèn đỏ, đèn tím, đèn vàng, đèn sáng chưng, đèn lấp lánh bên những gói quà Giáng Sinh chất cao, cao ngất. Tạ ơn cho những đêm Giao Thừa im lìm trên vùng đất mới với không pháo đỏ hồng, không quần áo mới. Tạ ơn cho những đêm Trung Thu trăng tròn rực rỡ, không đèn con thỏ, không đèn con cá, không đèn kéo quân, cả nhà ngồi sau vườn ngắm trăng với trà ướp sen, trà hoa lài, và với bánh nướng, bánh dẻo.
Tạ ơn cho những buổi kinh tối, cả gia đình quây quần đọc kinh Mân Côi. Tạ ơn cho những con thuyền, những chuyến bay đã mang gia đình tới đất mới, trời mới. Tạ ơn cho những lần thất nghiệp đi ra đi vào chẳng biết làm chi khác hơn ngoài luyện chưởng. Tạ ơn cho bầu không khí lành lạnh mát dịu của một ngày cuối tháng Mười Một. Tạ ơn cho Mùa Vọng, cho Lễ Giáng Sinh. Tạ ơn cho nước mắm, mắm tôm, mắm ruốc bay thơm lừng nguyên cả một khu phố có người Hoa Kỳ gốc Văn Lang quây quần xum họp. Tạ ơn cho Bún Bò Huế, Bún Vịt Sáo Măng, Bún Mọc, Cháo Gà, Cháo Vịt, Cháo Lòng Heo và Phở. Tạ ơn cho Bánh Cuốn, Bánh Bèo, Bánh Đúc, Bánh Phồng Tôm. Có rất nhiều điều để Tạ Ơn. Có muốn kể ra, kể ra cũng không hết.
Tạ ơn cho một ngày Lễ Tạ Ơn, một ngày người thân nhớ tới người thân, một ngày gia đình quây quần xum họp tạ ơn trời cao.
Tạ ơn Thiên Chúa, tạ ơn Ông Trời cho một năm vừa trôi qua, trôi qua trong hạnh phúc, trôi qua trong thanh bình, trôi qua trong an lạc, trôi qua trong hồng ân.
‘Rất nhiều quốc gia đã hỗ trợ, nhưng không nước nào đã giúp nhanh và nhiều như Canada’, đó là lời cám ơn của Ông David Wilkins đại sứ Hoa Kỳ tại Canada nói với báo chí. Tổng thống Bush cũng lên tiếng cám ơn Canada như vậy. Canada đã gửi 1.000 quân sĩ, tàu chiến, máy bay, trực thăng tới miền New Orleans tiếp cứu các nạn nhân trận bão Katrina rất sớm. Đoàn tiếp cứu Canada đã đến trước cả vệ binh đoàn của Mỹ. Sống ở đây hơn 30 năm, càng ngày tôi càng thấy lòng bác ái và nhân đạo của người xứ này thật là rộng vô bờ. Em bé đi học cũng được cô giáo dạy cho cách làm việc bác ái. Ngay khi thiên tai Katrina xảy ra, không ai bảo ai, khắp cõi Canada chỗ nào cũng tự động đứng ra quyên tiền cứu trợ. Nói đâu xa, ngay tiệm bán rượu đầu ngõ nhà tôi cũng mở sổ vàng nhận quà cứu trợ nạn nhân. Và ngay cả làng nhậu tôi đây, cũng vậy, cũng bớt tiền ăn sáng trong một tuần, góp lại, đem bỏ vào quỹ cứu trợ nơi nhà thờ Cha Paolo.
Nhân nói tới Cha Paolo, xin kể ngay chuyện nhà cụ Chánh, tiên chỉ làng nhậu của chúng tôi. Hằng năm, cứ đến Lễ Tạ Ơn vào tháng Mười này là Cụ Chánh mở tiệc đãi Cha Paolo rất trọng thể. Năm xưa gia đình cụ Chánh, vượt biên tới trại tỵ nạn Mã Lai, đã được nhà thờ Cha Paolo tiếp cứu và bảo trợ đem sang Canada. Mỗi lần nhắc tới ơn này, cụ Chánh bao giờ cũng nói với nước mắt lưng tròng. Cụ bảo mình đang sống khổ cực mịt mù tương lai thì được ngài cứu vớt, đưa sang đất nước Canada này, lại còn coi mình như anh em ruột thịt, thật như đang từ hoả ngục được đưa thẳng lên thiên đàng. Mỗi lần nghe cụ Chánh ca ngợi công ơn thì bao giờ Cha Paolo cũng vẫy vẫy bàn tay. Ngài bảo ngài chỉ làm theo lời Chúa dạy. Năm nay khi điệp khúc cám ơn của Cụ Chánh bắt đầu thì ngài nói : Thực ra thì tôi phải cám ơn Cụ và cả gia đình, vì nhờ có hoàn cảnh bi đát của cụ mà tôi mới được dịp thi hành lời Chuá dạy. Bài giảng đầu tiên của Chúa khi ra truyền đạo là bài công bố tin mừng cứu độ, người Công giáo quen gọi bài này là Tám Mối Phúc Thật, trong đó có câu ‘Ai thương xót người, ấy là phúc thật, vì chưng mình sẽ được Thiên Chúa thương xót vậy’.
Để mở đầu bữa ăn, Cụ Chánh xin Cha Paolo cầu nguyện. Cha Paolo liền nói ngay : Nếu hôm nay không phải là lễ Tạ Ơn thì tôi xin vâng lời cụ, nhưng hôm nay là ngày đặc biệt, cụ nói lời cám ơn Thượng Đế thì hợp hơn. Cụ Chánh suy nghĩ một chút rồi gật đầu bằng lòng. Cả làng đang cười nói, không ai bảo ai tự nhiên im lặng và cúi đầu. Không khí trở nên nghiêm trang lạ lùng. Giọng Cụ Chánh đầy vẻ xúc động. Cụ nói thế này : Lạy Thượng Đế, chúng con đội ơn Ngài đã ban cho tất cả chúng con rất nhiều phước lành. Đặc biệt chúng con đội ơn Ngài đã sai Cha Paolo sang trại tỵ nạn cứu chúng con, đưa chúng con tới miền đất hạnh phúc này. Chúng con đội ơn Ngài đã cho chúng con có Cha Paolo tới lui với gia đình chúng con như một người anh em nghĩa thiết. Chúng con đội ơn Ngài đã cho chúng con ổn định đời sống ở đây và đã cho chúng con những người có mặt trong bữa ăn này được kết thân với nhau. Chúng con đội ơn Ngài đã cho chúng con dư thừa thức ăn và có được những thứ đầy hương vị quê hương VN.
Cha Paolo thưa ‘Amen’ rồi ôm lấy cụ Chánh. Ngài bảo những lời cụ vừa nói hay hơn bài giảng ở nhà thờ của ngài sáng nay. Cả làng ai cũng cảm động về những lời cụ Chánh vừa nói. Làng nhậu của chúng tôi thật may mắn có một ông tiên chỉ tốt lành và đạo đức như vậy.
Lễ Tạ Ơn ở Canada vào đầu tháng Mười, đi trước Hoa Kỳ một tháng. Theo sách vở thì lễ có gốc từ năm 1578 khi ngài Bá Tước Martin Frobisher tới cực bắc của giải đất mà sau này là Canada và nghĩ rằng đã tìm ra mỏ vàng cho Anh quốc. Lúc đó là lễ tạ ơn vì mỏ vàng, bây giờ ý đó biến đi nhường chỗ cho ý tạ ơn Thượng Đế đã cho thu hoạch mùa màng đầy tràn.
Anh John nhìn tôi rồi vừa cười vừa nói : sách vở chép vậy thì biết vậy, chứ chưa chắc đã đúng như vậy. Chuyện này xin để tồn nghi.
Xin được trở về bữa ăn tại nhà Cụ Chánh, bữa ăn truyền thống hằng năm. Các cụ có biết Cụ Chánh đãi Cha Paolo món gì trong lễ tạ ơn này không ? Năm nay, tiệc này đặc biệt lắm. Cụ Chánh bảo : “Lão thấy ngày lễ Tạ Ơn Cha Paolo cho trang trí nơi bàn thờ la liệt bí ngô và bắp ngô, ngụ ý đây là sản phẩm đồng ruộng được Chuá ban. Nhân ý ấy, bữa nay lão xin hái hết rau trái trong vườn trồng được từ đầu mùa xuân để nấu bữa này”. Cụ đã thết món lẩu và món tả pí lù ! Cụ làm ngon thiệt, mình tay cụ làm mới ghê chứ. Lẩu và tả pí lù là hai món có lò lửa ngay trên bàn ăn. Lẩu khác tả pí lù ở chỗ lẩu thì xài các thức ăn đã nấu chín rồi, lò lửa chỉ có phận sự làm cho nóng lại. Tả pí lù thì các thức ăn hãy còn tươi, các thứ rau còn tươi, thịt gà bò tôm cua cá còn tươi. Thực khách tự ý chọn lựa những thứ mình thích và bỏ vào lò lửa đang sôi trước mặt, rồi nấu chín tuỳ theo độ mình thích. Nấu xong thì múc vô bát, ăn cả cái cả nước, nóng khói ngùn ngụt.
Lần đầu tiên Cha Paolo được ăn lẩu và tả pí lù thì tỏ ra sung sướng qúa chừng. Giữa bữa ăn, như chợt nhớ ra điều gì, ngài cất tiếng hỏi rằng bên VN có lễ Tạ Ơn như Canada không. Chưa ai biết trả lời ra sao thì may qúa anh John lên tiếng : Thưa có và có rất hiển hách. Chuyện này liên hệ tới lịch sử của cả 2 nước. Anh vừa nói, vừa nhìn tôi. Rằng ở VN có lễ tạ ơn mang tên là Lễ Cơm Mới, cũng gọi là Tết Cơm Mới. Theo tục lệ VN thì ngay đầu mùa gặt, người VN lấy những bông luá đầu tiên xay giã ngay và thổi cơm nấu xôi ngay rồi đem tế Ông Trời, tạ ơn Ông Trời đã cho được mùa lúa chín. Dân VN ai cũng mừng lễ tạ ơn này. Người Da Đỏ, gốc từ bày con theo Mẹ Âu Cơ khi xưa tiến lên phương bắc, cũng giữ lễ Tạ Ơn Cơm Mới. Nhưng vì thổ ngơi xứ này khác thổ ngơi VN nên người Da Đỏ phải thu hoạch xong mùa màng rồi mới làm lễ Tạ Ơn. Vậy lễ Tạ Ơn Canada này là do lễ Cơm Mới của VN mà ra, chứ không phải do cái ông tây cà lồ Martin Frobisher tìm ra cái mỏ vàng rồi làm lễ tạ ơn như sách vở đã ghi.
Cha Paolo trước đây đã có lần nghe lập thuyết người Da Đỏ là người VN và nay lại nghe Lễ Tạ Ơn ở Canada phát xuất từ VN thì khoái chí lắm. Ngài cười hích hích rồi trả lời anh John : Theo anh thì người Da Đỏ gốc từ VN mà ra, như vậy người VN và người Da Đỏ là anh em với nhau, và người VN đang sống trên đất mà trước đây thuộc về người Da Đỏ, tức là đang sống trên đất của anh em nhà mình, có phải không nào ? Anh John thưa ngay : Thưa, đúng vậy. Xin hết lòng bái phục Cha vì chỉ có Cha là hiểu thấu đáo lịch sử. Nói xong thì cả làng cùng cười, vui vẻ quá sức.
Trời tháng Mười đã hơi se lạnh, thực khách ngồi trong phòng ấm áp, lò lửa ngay giữa bàn, món ăn đầy ắp hương vị quê hương, chung quanh toàn người thân yêu, người gốc Bắc, người gốc Nam, ai cũng trân quý nhau như anh chị em ruột, ôi những điều sung sướng này như chuyện thần tiên, như những phép lạ. Xin tạ ơn Ông Trời, xin tạ ơn Thượng Đế.
Sau câu chuyện cười vui như tết về người Da Đỏ gốc VN, và sau tuần trà cuối bữa, Cha Paolo xin cáo từ ra về để kịp dự buổi biểu tình. Nghe ông cha đi biểu tình thì ai cũng kinh ngạc. Cha vội giải thích ngay : Đây là biểu tình chống việc phá thai mang tên ‘Life Chain’. Đây là việc giáo dân đứng ở góc đường giơ cao biểu ngữ ‘phá thai là giết người’. Việc này do giáo phận Toronto tổ chức quanh năm, mỗi giáo xứ nhận một ngày ra đứng ở ngã tư, yên lặng giơ cao biểu ngữ để gây sự chú ý của mọi người. Chỉ nối vòng tay nhau đứng im lặng. Đứng như thế trong một giờ mà thôi, rồi tự động giải tán. Hôm nay giáo xứ của ngài phụ trách việc biểu dương này.
Cha Paolo ra về một cái thì cái không khí vui vẻ ‘thánh thiện’ được đổi chiều, nó biến ra cái không khí vui vẻ trần tục ngay. Chị Ba Biên Hòa hôm nay tỏ ra sung sướng khác thường. Chị bảo bữa nay phe liền bà cho phe liền ông được tự do kể các chuyện tục cười cho đã, và trước khi ra về, phe chúng tôi xin thết phe các ông hai nồi cháo vịt, một nồi nấu theo kiểu Bắc Kỳ, một theo kiểu Nam Kỳ. Chà, mới chỉ nghe xướng danh mà đã thấy ngon quá chừng.
Nghe tới cháo vịt, ông ODP xin kể một chuyện ăn cắp vịt nấu cháo mà ông đã tham dự cách đây gần 50 chục năm. Ông này đúng là một bồ chuyện. Tôi chơi với ông đã gần ba chục năm, nghe ông kể đã nhiều chuyện, thế mà chuyện tôi cho là kỳ thú này thì chưa hề nghe. Chuyện như sau : Hồi năm 1957 hay 1958 gì đó, ông là thiếu úy coi một trung đội đóng đồn canh gác một cây cầu miền Hậu giang. Những năm này là những năm thanh bình thực sự ở Miền Nam. Cả ngày ngồi nhìn cầu, nhìn sông, nhìn mây, nhìn nước, mấy anh lính của ông đâm chán nên kiếm ra nhiều chuyện để tiêu khiển. Bữa đó có anh lính đến xin phép biểu diễn ăn cắp hai con vịt. Nghe 2 tiếng ‘ăn cắp’ thì ông nhăn mặt, nhưng anh lính trấn an ngay : thiếu úy cứ cho phép em biểu diễn màn này vì cả trung đội đang thách thức em. Sáng mai em sẽ đến gặp chủ đàn vịt và trả tiền hẳn hoi. Nghe hấp dẫn quá. Ông chịu liền.
Các cụ còn nhớ ngày xưa miền Nam bán nước mắm theo tĩnh, một cái bình bằng đất nung, hình quả trám, có dung lượng chừng 4 lít không ? Mua về nhà rồi ta mới sớt ra chai. Cái tĩnh bỏ lăn bỏ lóc ngoài vườn. Thỉnh thoảng ta thấy nó trôi ở sông. Người Nam gọi tĩnh là tĩn. Anh lính lấy một cái tĩnh, đổ nước đầy 2/3, và gài 2 lưỡi câu ở mép tĩnh, rồi mắc mồi tôm mồi tép. Cái tĩnh này được nối với một sợi giây dài và thả trôi theo dòng nước chảy xuống chỗ bầy vịt đang ăn. Vịt thấy mồi tôm mồi tép liền táp ngay. Hai chú vịt mắc lưỡi câu nên vùng vẫy mạnh làm cho nước sông tràn vô đầy cái tĩnh. Cái tĩnh đầy nước thì hoá nặng và từ từ chìm xuống đáy sông, kéo theo 2 chú vịt mắc lưỡi câu ở mép tĩnh. Sự việc xảy ra rất nhẹ nhàng nên anh chăn vịt không hề trông thấy. Anh chèo thuyền dẫn đàn vịt đi chừng nửa cây số thì chú lính mới ra sông, theo đường giây đã nối với cái tĩnh. Anh thong thả kéo cái tĩnh và hai con vịt từ đáy sông lên, rồi làm một nồi cháo đãi cả đồn.
Phe liền bà nghe xong chuyện này đều tấm tắc khen hay nhưng lại thắc mắc : sao bữa nay, chuyện thì có hay nhưng không có mùi mặn gì cả. Các cụ thấy chưa, các bà là chúa thích nghe chuyện tục, nhưng bao giờ cũng giả bộ không thích và chê là tục quá. Chị Ba Biên Hoà lại tiếp : mà hình như các chuyện mặn đều có mùi Bắc Kỳ. Câu này đã chạm phải mạch điện của bồ chữ ODP. Ông phản pháo ngay : Câu này hoàn toàn sai. Chuyện mặn mùi Nam Kỳ cũng kinh lắm. Tôi không cần nói chuyện mặn thịnh hành bây giờ vì nhiều quá, tôi xin kể chuyện mặn Nam Kỳ cách đây áng chừng 100 năm. Rồi ông kể chuyện bà xôn xồn gánh 2 con heo đi chợ bán, gặp một cái anh dê xồm. Anh này thật là dê qúa xá. Cuối cùng thì cái bà xồn xồn mất cả hai con heo con lẫn con heo mẹ ở nhà. Anh kể theo sách của Cụ Trương Vĩnh Ký.
Kể xong, ông ODP hỏi Chị Ba Biên Hoà : bây giờ chị thấy chuyện Nam có mặn hơn chuyện Bắc chưa ? Chị Ba mặt đỏ au, không cãi được nên đánh trống lảng đổi đề tài : Em xin chịu bồ chữ Bắc Kỳ, cho dù em không chịu cũng không nói lại bồ chữ. Rồi chị quay ra nói với mọi người : Bây giờ, xin cả làng cho tôi được nói về một điều mà lâu nay nó cứ phảng phất trong đầu tôi hoài. Điều ấy như thế này : Mỗi lần nghĩ tới việc được cha mẹ sinh ra, cho làm người, cho ăn học thì tôi thấy mình hạnh phước vô cùng. Lại lấy được chồng xứng đáng. Lại sinh được con và nuôi con nên người. Thật hạnh phước vô cùng. Đây là đỉnh cao của ngọn núi hạnh phước. Ở trên đỉnh ngọn núi này tôi nhìn xuống vực sâu, tôi nhìn thấy những đứa trẻ bạc phận, không được cha mẹ cho sinh ra mà bị giết ngay trong bụng mẹ, Tôi muốn nói tới việc phá thai, tôi thấy đau nhói trong tim. Hôm nay, Cha Paolo nói tới việc hô hào chống phá thai thì hợp ý tôi quá. Gần đây tôi đọc trên báo bài ông Phan Văn Bình kể chuyện Cha Nguyễn Văn Đông chôn cất thai nhi, tôi cảm động quá. Tôi đã giữ bài này trong người. Nay xin đọc để cả làng chia sẻ với tôi niềm hạnh phúc được làm người.
Vai chính là LM NGuyễn Văn Đông. Có lẽ đây chính là ông Cha Đông mà năm ngoái tôi đã kể việc ngài lội rừng vào thăm mấy người Thượng già ở miền cao nguyên bị hủi và con cái đem vào rừng để cách ly và chờ chết. Chuyện kể như sau :
Hôm đó Cha Nguyễn Văn Đông tiếp nhận một thai đã đủ hình hài để chôn cất. Lúc tẩm liệm, khi nắm bàn tay em bé thì ngài cảm thấy mấy ngón tay bé nắm chặt lấy tay ngài, nắm thật chặt như không muốn rời bàn tay Cha Đông. Ngài cảm thấy bàng hoàng, ngài liền nhìn thai nhi rồi nói : mẹ con bỏ con, không cho con sống, nhưng con còn có Chúa sẽ đón nhận con, và cha đây sẽ tẩm liệm và tiễn đưa con. Tự nhiên mấy ngón tay thai nhi buông bàn tay ngài ra. Và ngài vừa cầu kinh vừa liệm em bé. Thi sĩ Xuân Vũ Trần Đình Ngọc biết việc này đã làm bài thơ thác lời thai nhi nói với cha mẹ :
Con muốn cho cha mẹ được biết
Con đã là người với tim óc tứ chi
Mẹ đừng nghĩ là con không biết gì
Chỉ có nói là con chưa biết nói.
Hãy sinh con ra ! Nghe theo tiếng gọi
của chính con, của nhân loại lương tri.
Cho con thành người, con mong mỏi qúa đi !
Nhẫn tâm giết, tội sát nhân gớm ghiếc !
Con kết tinh của tình yêu tha thiết
của cha mẹ, của tinh khí anh hoa
Sao giờ đây cha mẹ lại dè bỉu
Chính đứa con, giọt máu của mẹ cha ?
Xin cho con ra đời dù không hoan hỉ
Bỏ con nơi bố thí, viện tế bần
Con muốn sống muôn ngàn lần hơn chết !
Những lời này thật vô cùng tha thiết
Xin ngưng tay, hãy bớt giận, con xin
Để con sống dù không nhìn con nữa
Xin hãy gắng, hãy thương con rộng lượng,
Mẹ cha không tủi hổ vì con đâu.
Con nằm đây hai tay chắp nguyện cầu
Xin Thượng Đế cho cha mẹ can đảm
Cha thương con, chớ giết con mẹ nhé !
Chuyện kể tiếp : Bàn tay Cha Đông vấy máu vì tẩm liệm thai nhi bị giết. Lúc rửa tay, ngài thấy bàn tay của ngài chỗ mấy ngón tay thai nhi vừa nắm trước đây có mụn nhọt từ lâu không chữa khỏi, tự nhiên mụn nhọt đó biến mất. Ai bảo thai nhi chưa sinh ra vô tình và không biết gì ? Cuối bài, tác giả còn in hình nghĩa trang nơi Cha Đông đã đi lượm xác các thai nhi bị vất bỏ, rồi đem tẩm liệm và chôn cất.
Đọc đến đây thì mắt Chị Ba nhạt nhòa. Chị xin tôi đăng chuyện này lên để may ra lọt vào mắt những bà mẹ đang có ý nghĩ phá thai. Tôi xin vâng. Chị Ba còn muốn tôi nhắc tới những điều luật nhân đạo bên Hoa Kỳ. Chẳng hạn để làm nản lòng các bà mẹ định phá thai, thì luật ở tiểu bang Georgia buộc bác sĩ phải thông báo cho người mẹ biết thai nhi đã sống được bao nhiêu tuần trong bụng và bào thai này sẽ cảm thấy đau dớn khi bị phá. Chẳng hạn luật tiểu bang Indiana buộc bác sĩ phải cho người mẹ nhìn thấy hình ảnh bào thai cử động và nghe thấy nhịp đập của tim thai nhi.
Chị Ba đã làm cả làng chúng tôi cảm động. Xưa nay chúng tôi vẫn coi chị như một người vợ thông minh, phúc hậu, đạo đức và duyên dáng của anh John, mà quên rằng Chị Ba trước 1975 là một cô giáo, đã từng dạy các em bé VN, và đã yêu trẻ.
Cụ Chánh xin góp ý. Việc làm của LM Nguyễn Văn Đông trên đây thật phúc đức, nhân đạo và đáng ca ngợi quá. Cha là người đã theo chân Mẹ Teresa Calcutta. Khi còn sinh thời Mẹ sống với lớp người mạt hạng của xã hội Ấn Độ. Mẹ thường gặp trẻ sơ sinh bị vất ngoài đường, mẹ đã bế các em bé này về nuôi. Nếu gặp một bà mẹ định phá thai thì Mẹ năn nỉ. Mẹ xin bà cố giữ thai và sinh son. Mẹ hứa với bà khi sinh xong thì Mẹ sẽ lãnh đứa con về nuôi.
John tiếp lời : Cụ Chánh nói rất đúng ý vợ chồng chúng tôi. Mẹ Teresa luôn luôn chống việc phá thai. Ngày 20.2.1994, Mẹ Teresa là khách danh dự trong buổi cầu nguyện với 3000 người ở Thủ đô Washington DC, có ông bà tổng thống Clinton tham dự. Mẹ đã nói thế này : ‘Nếu chúng ta chấp nhận việc người mẹ được giết chính đứa con trong bụng mình thì làm sao chúng ta có thể khuyên nhủ người khác đừng giết người ?’
Nhân mùa lễ Tạ Ơn, xin các cụ cùng chúng tôi tạ ơn Thượng Đế và tạ ơn cha mẹ đã cho chúng ta được sinh ra làm người.
“Một năm gần chấm dứt. Đây là thời gian để nhìn lại, để suy nghĩ. Bảng tổng kết sẽ được làm. Dự định cho thời gian tới sẽ được đề ra. Chính trong nháy mắt này con người trong chiều sâu trở thành “Thời Gian,” thời gian mà thường chúng ta vẫn sử dụng….
Là một Kitô hữu, chúng ta có tâm tình gì trong giây phút chuyển mình từ năm cũ sang năm mới? Điều đầu tiên chúng ta cần làm là một điều rất là nhân bản: Giành thời gian để suy nghĩ, để tìm được một khoảng cách để có được một cái nhìn tổng thể, để nhận được sự tự do nội tâm, và sẵn sàng kiên nhẫn bước tiếp trên đường đời. Theo một triết gia, con người phân biệt với thú vật qua một điều căn bản: Với lý trí của mình, con người có thể nhảy ra khỏi hồ nước của thời gian, trong khi thú vật như những con cá phải bơi lội mãi trong hồ nước thời gian đó. Chỉ con người có thể chiêm ngắm thời gian và làm chủ thời gian.” (Benedikt XVI, Wer hilft uns leben?, Herder Verlag, Freiburg 2005, S. 114-115)
Bạn thân mến,
Suy tư của Đức Thánh Cha trong đêm giao thừa về thời gian, có lẽ giúp chúng ta biết dừng chân, để nhìn lại, để suy nghĩ, để cảm tạ, để kiểm điểm sửa đổi, cũng như để chuẩn bị cho một năm mới trong ân sủng và tình yêu của Chúa. Vì thế, hôm nay chúng ta không chỉ giành thời gian để mua pháo đốt đêm giao thừa, không chỉ bận tâm xem tối nay sẽ nấu gì cho gia đình, cho bạn bè ăn bữa giao thừa...., mà chúng ta hãy trở nên „thời gian“, làm chủ thời gian, để làm một cuộc nhìn lại khoảng 60 phút nhé
Rất đơn sơ, xin đề nghị một phương pháp:
1) Vào chỗ
- Tôi tìm một nơi thuận tiện, yên tĩnh và chọn một tư thế thích hợp:
- Tôi đặt mình trước mặt Chúa và ý thức Ngài đang hiện diện. Lúc này Chúa đang âu yếm nhìn tôi, nên tôi thưa với Ngài: „Lạy Chúa, con đang ở đây trước mặt Chúa và Chúa đang ở trước mặt con, xin Chúa cho con ở lại với Chúa trong giây phút hồi tâm nhìn lại năm vừa qua“.
Sau đó tôi để tâm hồn lắng xuống và bắt đầu nhìn lại năm qua.
2) Khám phá quà tặng và tỏ lòng biết ơn
- Tâm tình đầu tiên là lòng biết ơn. Tôi cầu nguyện cùng Chúa: „Lạy Chúa, xin cho con nhận ra những quà tặng và những hồng ân mà Chúa và anh chị em cho con trong năm qua, và xin Chúa dạy con biết cám ơn Chúa và mọi người.“
- Tiếp theo tôi mường tượng lại những sự kiện hay những biến cố trong năm qua, xem tôi đã nhận được những điều gì tốt lành từ Chúa và từ anh chị em: Có thể là „bằng tốt nghiệp tôi nhận được, kết thúc tốt đẹp một quá trình học. Hay là một việc làm mới thích hợp mà tôi tìm được. Hay là một sự nâng đỡ của một người thân trong gia đình, giúp tôi vượt qua cơn khủng hoảng. Có thể là sự bình an thanh thản trong cuộc sống của cả năm, và cũng có thể là niềm vui tôi lấy được người tôi yêu.....Khi những món quà đó xuất hiện trong tâm trí, điều chú ý ở đây là tôi không cần đi vào chi tiết, không cần nhớ lại một cách tường tận.
- Với từng món quà đó tôi chân thành cám ơn Chúa và những người đã cho tôi. Cụ thể ở đây, tôi có thể dâng lên Chúa một lời nguyện tri ân.
- Một thái độ giúp tôi nối kết chặt chẽ hơn tình thân với Chúa và với người thân. Đó là tôi hình dung lại khuôn mặt của Chúa hay của người thân. Sau đó, ở lại nếm cảm lại lần nữa giây phút hạnh phúc mà tôi đã được. Ví dụ như ở lại trong vòng tay yêu dấn của người tôi yêu, sung sướng cầm mảnh bằng tốt nghiệp trên tay, rất được an ủi khi vượt qua cơn khủng hoảng...
3) Đi tìm cỏ lùng và lúa tốt
· Lúa tốt là những hoa quả thật đẹp trong năm.
- Trước hết tôi cầu xin Chúa:,, Lạy Chúa, xin cho con nhận biết các hoa quả thật đẹp trong năm và xem chúng ảnh hưởng thế nào trên đời sống con và đưa con đi về đâu?“ Sau lời cầu nguyện, tôi có thể phân thời gian trong một năm ra làm bốn quý. Thiết nghĩ cũng nên viết ra một mảnh giấy, vì giúp mình dễ dàng nhìn lại hơn (Tấm giấy có thể chia ra làm 4 phần cho bốn quý).
- Tiếp đến tôi nhớ lại từng quý một (3 tháng), và tự hỏi mình xem có những biến cố hay sự kiện nào trong thời gian 3 tháng này đem lại cho tôi cảm giác vui, thoải mái, bình an, có sức sống? Những cảm giác tích cực này ảnh hưởng trong cuộc sống tôi trong thời gian ba tháng này như thế nào? Chúng dẫn tôi đến gần Chúa hơn, gần anh chị em hơn, yêu đời hơn và thương mình thêm hay không?
Sau đó tôi xin Chúa giúp tôi biết ý thức chăm bón và phát triển những bông lúa tốt đó nhiều hơn trong đời sống, để chúng sẽ nở thêm gấp trăm lần trong năm mới.
· Cỏ lùng là những cành cây khô cằn không sinh ra hoa quả trong năm.
- Trước hết tôi cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, xin cho con nhận ra những cành cây khô cằn không sinh ra hoa quả trong năm qua, và xem chúng ảnh hưởng trên con thế nào và biết chúng dẫn con về đâu.“
Sau lời cầu nguyện, tôi có thể phân thời gian trong một năm ra làm 4 quý giống như ở phần trên. Cũng nên viết ra một mảnh giấy đã được chia làm bốn phần.
- Tiếp đến tôi nhớ lại từng quý một (3 tháng), và tự hỏi mình xem có những biến cố hay sự kiện nào trong thời gian 3 tháng này đem lại cho tôi những cảm xúc tiêu cực, buồn chán, bất an, dễ cáu và dễ nản, mất an toàn và mất tự do? Những cảm giác này đã ảnh hưởng trên tôi như thế nào? Chúng dẫn tôi xa Chúa hơn, có khoảng cách với anh chị em hơn, chán đời thêm và lạ lẫm với chính mình hơn?
- Tôi cũng xin Chúa giúp tôi biết ứng xử với những cảm giác đó thế nào cho đúng, cũng như xin Ngài giúp tôi giải quyết những vấn đề khó khăn còn tồn đọng lại. Nếu tôi thấy mình bất lực trước vấn đề gì, thì xin Ngài chữa lành cho tôi. Ngoài ra, nếu tôi làm Chúa và anh chị em buồn lòng, thì xin Chúa tha thứ và anh chị em thứ tha. Còn nếu ai làm tôi phiền muộn, thì xin Chúa giúp tôi biết rộng lòng thông cảm và tha thứ cho họ. Ngoài ra, nếu cần thiết gặp gỡ ai để giao hòa, thì tôi cũng dự định để liên lạc với người đó trong đầu năm mới.
4) Chuẩn bị và tiếp tục lên đường
Con đường của quá khứ và hiện tại có chỉ cho tôi hưóng đi cho ngày mai không?,, Câu hỏi này giúp tôi ý thức tỉnh táo hướng nhìn về năm mới. Khi chuẩn bị tôi, một Kitô hữu, luôn có tinh thần nền tảng này: „Tôi nghĩ, tôi nói hay làm điều này như vầy, thì tôi có cảm thấy bình an, thấy gần Chúa và gần anh chị em, cũng như gần mình hơn hay không?“
Với Calender trước mặt tôi chuẩn bị từng quý một, có thể với những câu hỏi sau:
- Trong quý này, tôi có dự định làm gì? Tôi sẽ làm điều đó như thế nào cho tốt nhất? Cụ thể, tôi cần chuẩn bị gì trước, tôi cần đầu tư điều gì cho công việc này?
- Trong hè năm tới, con gái tôi sẽ chuyển vào tuổi dậy thì. Sẽ có nhiều thay đổi, tôi nên chuẩn bị cho con gái điều gì, về cả tâm sinh lý lẫn về việc học hành..., và tôi cũng nên có thái độ nào khi con gái tôi phản ứng khác thường?
- Đầu tháng 8 gia đình chúng tôi, như thường lệ sẽ đi nghỉ hè chung với nhau. Năm nay sẽ chuẩn bị buổi đi nghỉ hè như thế nào cho mọi người hài lòng, không như năm trước có nhiều điều chẳng hay xảy ra?
Trong bước chuẩn bị này, cũng không cần phải làm chi tiết. Chỉ cần một sự chuẩn bị tổng thể, có cái nhìn toàn diện là tốt rồi.
5) Mừng giao thừa với Chúa và với nhau
- Đốt nến trên bàn thờ, cũng có thể thắp một vài cây nhang. Với tất cả tâm tình dâng Chúa nén nhang.
- Có thể hát một bài ca cảm tạ, vd. Bài „Xin dâng lời cảm tạ“.
- Sau bài hát có thể dâng Chúa một lời nguyện mở đầu đơn sơ.
- Đọc bài Tin Mừng Gioan 1, 1-3, để nhắc nhớ về nguồn gốc và đích đến của cuộc đời con người.
- Sau bài Tin Mừng thinh lặng một chút (khỏang 3 phút)
- Dâng lên Chúa những lời nguyện tri ân cảm tạ Chúa về những món quà của năm cũ, cũng như xin lỗi Chúa và xin ơn tha thứ về những thiếu xót trong năm vừa qua. Sau mỗi lời nguyện có thể đốt lên một cây nến và dâng lên Chúa trên bàn thờ.
- Tiếp đến đọc một kinh Lạy Cha. (Nếu là trong gia đình hay trong nhóm, thì nên nắm tay nhau).
- Sau đó có thể đọc lời chúc lành cuối cùng. (Nếu trong gia đình, thì gia trưởng có thể đọc lời chúc lành xin Chúa chúc phúc gia đình và mỗi thành viên của gia đình. Sau đó Cha Mẹ ghi dấu thánh giá trên trán con cái, và xin Chúa chúc lành. Nếu trong nhóm, thì người trưởng nhóm có thể đọc lời chúc lành và ghi dấu thánh giá trên từng thành viên.) Lời chúc lành có thể là lời chúc lành trong lễ Giáng Sinh (Trong sách lễ Roma), hoặc lời chúc lành ở dưới.
- Trước khi kết thúc, đọc một kinh Kính Mừng dâng Đức Mẹ và hát một bài xin Đức Mẹ phù hộ.
- Cuối cùng trong bầu khi thân thương và thiêng liêng có sự hiện diện của Chúa, chúng ta cùng đón giao thừa với nhau. Champagne có thể chuẩn bị mở để chào mừng giây phút giao thừa.
· Công thức chúc lành:
Chủ sự: Chúa ở cùng Anh Chị Em
Mọi người: Và ở cùng Anh (Chị, Cha, Mẹ)
Chủ sự: Nguyện xin Thiên Chúa ban tặng cho Anh Chị Em
Kho Tàng quý nhất là chính Vương Quốc của Ngài,
và đổ tràn „mưa hồng ân “
vào lúc người thợ làm vườn là chính Anh Chị Em cần đến. Amen
Thiên Chúa ở trên Anh Chị Em
để nâng tâm hồn Anh Chị Em lên với Ngài.
Thiên Chúa ở trong Anh Chị Em
để Anh Chị Em đâm rễ trong chính Ngài.
Thiên Chúa ở dưới Anh Chị Em như nền đất chắc chắn,
để Anh Chị Em đứng vững vàng trên đó. Amen
Thiên Chúa ở bên phải Anh Chị Em
để dẫn dắt Anh Chị Em đến con đường của sự sống;
và dẹp bỏ tất cả đam mê dẫn Anh Chị Em đến con đường của sự chết.
Thiên Chúa ở bên trái Anh Chị Em
để Anh Chị Em không đánh mất lòng can đảm trong những lúc hiểm nguy. Amen
Thiên Chúa ở trước Anh Chị Em
để Anh Chị Em luôn vươn tới và hướng về Ngài trong cuộc sống.
Thiên Chúa ở đàng sau Anh Chị Em,
nhờ đó Anh Chị Em luôn tin tưởng vào Ngài,
trong mỗi lần Anh Chị Em phải lùi một bước về phía sau. Amen
Nguyện xin Thiên Chúa ban tặng cho Anh Chị Em
Kho Tàng quý nhất là chính Vương Quốc của Ngài.
Và suốt năm mới này, xin Thiên Chúa toàn năng, là Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần, chúc lành và gìn giữ Anh Chị Em trong tình yêu và bình an của Chúa.
Trong những giây phút cuối cùng của một năm cũ sắp qua và đang hồi hộp ngồi chờ năm mới TET 30-12
Trong những giây phút cuối cùng của một năm cũ sắp qua và đang hồi hộp ngồi chờ năm mới đang tới gần kề, Berthold Brecht, thi sỹ nỗi tiếng người Ðức vào thế kỷ XIX, đã ghi vào trang cuối cùng cuốn nhật ký của ông mấy câu thơ :
„ Ich sitze am Strassenhang.
„ Der Fahrer wechselt das Rad.
„ Ich bin nicht gern, wo ich herkomme.
„ Ich bin nicht gern, wo ich hinfahre.
„ Warum sehe ich den Radwechsel voll Ungeduld ? “
Xin tạm dịch:
„ Tôi ngồi bên lề đường dốc thoai thoải.
„ Nhìn bác tài đang mãi thay bánh xe.
„ Tôi chẳng thích nơi tôi vừa từ giã.
„ Tôi chẳng thích nơi tôi sẽ đặt chân.
„ Tại sao tôi bất nhẫn ngồi nhìn thay bánh xe?“
Thời gian trong suốt một năm đã âm thầm qua nhanh như thoi đưa. Ðang khi đó, chúng ta sống hết ngày này qua ngày nọ, hết tuần này qua tuần kia, và ít khi để ý xem thời gian đã trôi qua nhanh như thế nào! Nhưng những giây phút trong đêm Silvester, đêm giao thừa, đêm cuối cùng của năm cũ mà chúng ta vừa từ giã, lại hòan toàn khác hẳn. Có rất nhiều người đã không rời mắt khỏi mặt chiếc đồng hồ và hồi hộp chờ cho chiếc kim chỉ giờ dừng lại ở con số 12. Trong khoảnh khắc đó họ đã hoàn toàn quên đi mọi nhọc nhằn vất vã, mọi phân hóa và tranh chấp của cuộc sống hằng ngày. Chỉ trong những giây lát vắn vỏi đó họ mới được dừng tay „chiến đấu“ với đời và được ngồi nghỉ „bên lề đường dốc thoai thoải“.
Trong ngày đầu tiên của một năm mới, đang khi „bánh xe“ cuộc sống hằng ngày lại tiếp tục đều đặn lăn nhanh trên con đường thời gian, chúng ta cần nhìn lại đời sống của mình, nhìn lại những ngày tháng của một năm vừa trôi qua, để kịp định hướng đúng đắn cho những dự định trong năm mới vừa bắt đầu. Và tất cả phải được nhanh nhẹn giải quyết ngay, vì con tàu thời gian vẫn vô tình vùn vụt lao nhanh về phía trước, không chút cảm thương chờ đợi ai. Vâng, những giây phút thư giãn của đêm giao thừa thật quá ngắn ngủi, chúng ta lại bất nhẫn nhìn „thay bánh xe“ thời gian!
Nhưng người ta thấy được gì trong lúc „tống cựu nghinh tân“, lúc nhìn năm mới đến thay năm cũ? Người ta nói gì về những điều quá khứ vừa qua đi? Ðối với thi sỹ Berthold Brecht, điều ông thấy đã ghi nhận là bóng tối, là điều rủi ro, nên ông: „ Tôi chẳng thích nơi tôi vừa từ giã“. Chắc hẳn nhiều người trong chúng ta hiểu ngay được điều đó!. Dĩ nhiên, không phải tất cả những gì xảy trong năm vừa qua đều xấu. Nhưng hầu như tất cả mọi người đều nhất trí là có những sự cố đã xảy ra trong năm vừa qua mà họ không bao giờ lại muốn xảy ra lần nữa, như khi phải vĩnh viễn giã từ một người thân, hay khi phải gặp những khó khăn nan giải trong nghề nghiệp, trong tình yêu, trong gia đình hay khi vì bất đắc dĩ phải nợ nần nặng lãi, v.v... Dĩ nhiên là không một ai muốn nhớ đến những rủi ro đó nữa. Nhưng phải nhìn về tương lai, về những ngày tháng đang trải dài trước mắt, thế nào đây? Thi sỹ Brecht thì bộc lộ rõ ràng khi ông viết:“Tôi chẳng thích nơi tôi sẽ đặt chân“. Còn chúng ta? Có lẽ do những ảnh hưởng không nhỏ của những bất hạnh to nhỏ trong năm qua, chúng ta cũng sẽ khó tránh được những cảm nghĩ mông lung, buồn vui lẫn lộn khi hướng nhìn về những ngày tháng trước mắt!
Trong những ngày đầu Năm Mới, chúng ta luôn chúc cho nhau một Năm Mới đầy may lành hạnh phúc, mặc dù mọi người đều biết là không bao giờ tất cả những ước vọng chúng ta cầu chúc đó đều được hiện thực. Thật ra, Năm Mới cũng giống như một trang giấy trắng trải rộng trước mắt chúng ta, và những gì sẽ được viết lên trang giấy đó thì không ai trong chúng ta biết chắc trước được. Chỉ có một điều mà rất có thể mỗi người trong chúng ta sẽ phải đối mặt, đó là các lỗi lầm, bệnh tật và sự chết. Nếu vậy thì còn lại những gì nữa cho bao thầm ước đầy lạc quan, cho bao dự định đầy hi vọng mà nhiều người ấp ủ trong lòng khi bước chân vào ngưỡng cửa năm mới? Những tia phao bông rực rỡ sáng chói của đêm giao thừa cũng chỉ đủ sức mang lại cho ta những niềm vui ngắn ngủi rồi vội tắt nhanh, để lại những xác giấy nằm tả tơi trên mặt đất lạnh! Vậy không còn gì ngoài bóng tối của đêm đen hay sao?
Các bạn thân mến, không phải là một sự ngẫu nhiên khi chúng ta khởi sự sống ngày đầu tiên của năm mới cũng chính là ngày chúng ta cử hành Ðại Lễ kính Ðức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Vâng, ngay từ những giây phút đầu tiên của một năm mới đã được dâng kính Mẹ Thiên Chúa, Giáo Hội muốn khẳng định rõ ràng rằng một người có đức tin vào Thiên Chúa không bao giờ có lý do để bi quan thất vọng. Hãy đưa mắt hướng nhìn lên Mẹ Maria. Mẹ chính „Sao Mai“ luôn chiếu sáng, báo hiệu ánh bình mình của một ngày mới sắp ló dạng. Thật vậy, nơi nào có Mẹ hiện diện, nơi đó có ơn cứu rỗi, vì Mẹ đã sinh ra cho ta Ðấng Cứu Thế, Ðấng giải thoát ta khỏi tội lỗi và sự chết, và hòa giải ta với Thiên Chúa. Qua Mẹ Maria, Thiên Chúa chỉ cho ta biết những gì Người muốn dự định thực hiện nơi mỗi người trong chúng ta: Ðó là sự viên mãm vĩnh cửu. Con tàu thời gian không hề lăn bánh lao mình vào một tương lai vô định. Ðích tới của lịch sử thời gian, của lịch sử nhân loại và của cả lịch sử năm mới này là chính Thiên Chúa.
Cũng như Mẹ Maria, chúng ta cũng sẽ không được chuẩn chước khỏi phải trải qua bóng tối và đêm đen của cuộc đời. Nhưng điều chúng ta có thể làm và cần phải làm để bước theo dấu chân của Mẹ Maria là tín thác mọi giây phút đời ta cho Chúa. Totus tuus! Chúng ta hãy cùng Mẹ thưa lên Chúa hai tiếng „xin vâng“, vì Thiên Chúa không hề bỏ rơi ta. Cả năm mới này với mọi sự cố buồn vui của nó cũng đã được an bài, cũng đã nằm trong tay Chúa. Cả năm mới 2006 này cũng là năm của Chúa, Anno Domini! Vậy, lòng tin tưởng phó thác vào sự an bài đầy tình thương của Cha trên Trời là một bước khởi đầu đúng đắn và và đầy hy vọng duy nhất!
- Giáng Sinh thì ở nhà anh rồi. Thằng Andy còn đi học, ở trong dorm, không tính. Nhà của mấy ông bà kia thì chật. Con cái của họ đi tới đi lui cũng đủ nghẹt thở rồi. Vậy còn căn nhà nào khác hơn ngoài căn nhà này có thể chứa được gần ba mươi người?
Andy đề nghị,
- Hey! Before count down, mình chơi lôtô hay là binh 25 cents đi.
Michell nói,
- Tao không biết chơi bài binh. Thôi, mình chơi lôtô…hay là xì dách đi. Xì dách 21 dễ rút, dễ chơi.
Andy toét miệng cười,
- Số you xui, not lucky, chơi chi cũng xui!
Michell ký đầu thằng em trai,
- Mày, thằng cà chớn! Chưa chơi đã trù ẻo.
Andy đau, nổi nóng, cự lại,
- Đừng có ỷ làm chị rồi ăn hiếp tui đó nghen.
Michell phá ra cười lớn,
- Thôi, tao lạy mày. Ăn thôi, không có vụ thứ hai đâu. Bơ sữa như mày, to như con trâu cui như thế kia, ai mà dám…
Andy ngơ ngác,
- Nghiã là làm sao, tui không hiểu.
Michell chỉ vào Peter,
- Mày lười học tiếng Việt, hèn chi tiếng Việt dở òm, tiếng Việt tiếng Anh ba rọi. Hỏi đại ca Peter đó.
Peter cười, cất tiếng,
- Tao nghĩ chơi lôtô hay nhất. Chơi lôtô, ai cũng chơi được. Còn binh xập xám hay là xì dách, có mấy người trong nhà mình không biết chơi. Mất vui.
Michell khua tay,
- Chơi chi cũng được. Xui cũng không sao! Cứ chơi đi để tui có dịp sả hết tất cả những cái xui trong năm cũ. Hy vọng vào lúc Giao Thừa, sau khi count down, sang năm mới, tui sẽ khá hơn một chút. Hết những cái xui đi.
Peter vỗ tay vào trán,
- Yeah! You’re right! Vào lúc Giao Thừa, lúc mình khui champagne để count down. Mình đếm từ 10 xui, xuống 9 xui, rồi 8 xui, 7 xui, sau cùng là 1, và rồi 0 xui. Như vậy sang năm mới, không còn xui nữa.
Bạn thân,
Cuối năm 2005, trước ngưỡng cửa của năm mới, vào giây phút Giao Thừa của năm 2006, chúng ta hãy count down, hãy đếm những lỗi lầm, những thất bại với đời sống đức tin của chính mình. 10 lần tôi đã nhặt đá ném những người anh chị em tôi. 9 lần tôi lỗi thề với lời hứa hôn nhân, không trọn vẹn với lời khấn tu sĩ. 8 lần tôi không sống chứng nhân Tin Mừng trong công xưởng. 7 lần tôi nhắm mắt làm ngơ trong khi chồng tôi, vợ tôi, con cái của tôi, hoặc những người thân đang cần tôi giúp đỡ… Mời bạn và tôi, chúng ta cùng nhau đếm xuống, count down những lầm lỡ của mình trong năm vừa qua. Khi âm vang của con số 0 bật ra nơi cửa miệng, khi đó, chúng ta cùng nhau hân hoan chào mừng năm mới 2006 với một tâm hồn mới trong một tà áo đức tin màu trắng tinh chưa hoen ố bụi trần của năm 2006.
Đầu năm mới, như Peter đã nói trong câu truyện, hãy khui sâm-banh uống mừng, bởi sau giây phút count down, sau giờ phút Giao Thừa, chúng ta không còn tội lỗi nữa, không còn “xui” nữa, bởi vì 365 ngày tràn trề hồng ân lại vừa được Thiên Chúa trao ban gửi tặng. Vào giây phút trái cầu thủy tinh rớt xuống đốt cháy sáng con số 2006 tại Times Square của thành phố New York, người tín hữu chúng ta hãy hân hoan chúc mừng nhau, bởi một năm mới vừa được Thiên Chúa ân cần gửi tặng bạn và tôi.
Lạy Chúa, xin Chúa tiếp tục tuôn đổ ơn trời xuống trên chúng con trong năm mới, để chúng con luôn luôn biết sống hân hoan, sống hạnh phúc, và sống phó thác vào một Thiên Chúa từ bi và nhân hậu.
Năm đã cùng, tháng đã tận, không dưng ý niệm về thời gian chợt xuất hiện, rõ ràng hơn lúc nào hết. Cái thực tại ‘vô hình’ ấy là gì và có ý nghĩa chi, mà sao cứ dằn vặt vò xé con người đến thế?
Mà có thật thời gian vô hình chăng? Đúng, nhưng không hoàn toàn, bởi lẽ những nhăn nheo của làn da, những vết chân chim ở đuôi mắt đã chẳng được gọi là “dấu tàn phá của thời gian” là gì? Thì ra cái thực tại như vô hình và vô tình ấy, khi lướt qua, nhất thiết để lại những dấu vết, cho dù không phải lúc nào cũng nhẫn tâm tàn ác như trường hợp vừa nêu, lý do là, rất nhiều khi dấu thời gian chỉ là những vết tích êm đềm,lâng lâng như một làn sương mỏng, nhẹ nhàng như một lớp bụi mờ. Chẳng phải “bụi thời gian” là như thế sao?
Thời gian là chiều kích tự nhiên của con người, gắn chặt với thân phận và số kiếp làm người. Sống trong thời gian là có một khởi đầu và sẽ có một kết thúc. “Ngay vừa sinh ra, con người đã đủ già để…chết” (như ai đó đã từng nói như vậy) dường như có nghĩa là như thế. Tuy có vẻ bi quan và yếm thế, nhưng phải chấp nhận đó là thực tại của kiếp nhân sinh. Vui lắm thì cũng chỉ được vài trống canh, mà buồn lắm thì cũng chỉ như một tiếng thở dài. Thánh Kinh không hề nói khác đi cái phũ phàng của thực tế ấy:
“Ngàn năm Chúa kể là gì,
tựa hôm qua đã qua đi mất rồi,
khác nào một trống canh thôi!” (Tv 90: 4)
“Đời chúng con tàn tạ, kiếp sống thoảng qua, một tiếng thở dài.
Tính tuổi thọ, trong ngoài bẩy chục,
mạnh giỏi chăng là được tám mươi,
mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khó,
cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi.” (Tv. 90: 9-10)
Không biết có phải do ảnh hưởng của lời Thánh Vịnh trên đây hay không, mà khi qúy cụ nào ‘cầm cự’ được đến sinh nhật thứ 70 thì con cháu vội vàng tổ chức ăn nhậu và gán luôn hai chữ ‘thượng thọ’ làm chủ đề cho bữa tiệc, nghe cứ như một tiếng reo vui hớn hở sau một chờ đợi ‘đứng tim’?
Dẫu sao chăng nữa, tác giả Thánh Vịnh không quên hướng thượng và mở ra một vùng ánh sáng lạc quan tin tưởng:
“Xin dậy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.” (90:12), hoặc:
“Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa, để ngày ngày được hớn hở vui ca.” (90:14)
Sống trong thời gian là trải rộng, trải dài tất cả mọi sinh hoạt từ sinh lý, thể lý, cho đến tình cảm, tâm linh trên một khoảng đời làm người. Nói khác đi, sống trong thời gian là làm mọi sự hợp thời đúng lúc, y như Thiên Chúa đã an bài. Đó là kết luận của sách Giảng Viên (x. Gv. 3: 11), sau khi đã liệt kê ra “các thời, các lúc” của mọi sự ở dưới bầu trời này:
“một thời để chào đời, một thời để lìa thế;
một thời để trồng cây, một thời để nhổ cây;
một thời để giết chết, một thời để chữa lành;
một thời để phá đổ, một thời để xây dựng;
một thời để khóc lóc, một thời để vui cười;
một thời để than van, một thời để múa nhẩy;
một thời để quăng đá, một thời để lượm đá;
một thời để ôm hôn, một thời để tránh hôn;
một thời để kiếm tìm, một thời để đánh mất;
một thời để giữ lại, một thời để vất đi;
một thời để xé rách, một thời để vá khâu;
một thời để làm thinh, một thời để lên tiếng;
một thời để yêu thương, một thời để thù ghét;
một thời để gây chiến, một thời để làm hoà.” (Gv. 3: 1-8)
Cũng y như tác giả Thánh Vịnh, tác giả Giảng Viên cũng dẫn ta bước qua ngưỡng cửa của niềm tin để đi vào trọn vẹn phó thác trong yêu mến và kính sợ Thiên Chúa:
“Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi. Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành động như thế để phàm nhân biết kính sợ Người.” (Gv 3: 14)
Nhưng có lẽ không thể tìm được một giải thích đẹp đẽ và trang trọng về thời gian nào hơn ngoài những dòng đọc được trong Tông thư ‘Tertio Millennio Adveniente’ (trước thềm đệ tam thiên kỷ) của ĐGH Gioan Phaolô Đệ Nhị. Đoạn 10 của Tông thư này viết rằng: “Trong Kitô giáo, thời gian có một tầm quan trọng căn bản. Chính trong chiều kích của thời gian mà thế giới được tạo thành; cũng chính trong thời gian mà lịch sử cứu độ được mở ra, đạt đến tuyệt đỉnh của nó trong “sự viên mãn của thời gian” nơi biến cố Nhập Thể, và khám phá ra mục tiêu của nó trong sự tái lâm vinh quang của Con Thiên Chúa tại điểm tận cùng của thời gian. Nơi Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời mặc xác phàm, thời gian trở thành một chiều kích của Thiên Chúa, tuy chính Ngài là vĩnh cửu.”
Cũng trong đoạn văn đó, ĐGH khai triển thêm để nhấn mạnh đến vai trò của Chúa Kitô, vừa là Thiên Chúa thật, lại vừa là người thật. Nói khác đi, từ khi Ngôi Lời nhập thể, thời gian mang nặng ý nghĩa Kitô học: “Chúa Kitô là Chúa Tể của thời gian: Ngài là bước khởi đầu và cũng là điểm cuối cùng của thời gian; mỗi năm, mỗi ngày, mỗi khoảnh khắc được ôm ấp trọn vẹn bởi cuộc Nhập Thể và Phục Sinh của Ngài, và do đó, trở thành một phần của ‘sự viên mãn của thời gian.’ Bởi lý do này, Hội Thánh cũng sống và cử hành phụng vụ trong khoảng chiều dài của một năm. Năm dương lịch được thấu nhập bởi năm phụng vụ, mà theo một nghĩa nào đó, tạo nên toàn thể mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc, khởi đầu từ Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng và kết thúc với lễ Chúa Kitô Vua, Chúa Tể Vũ Trụ và Chúa của Lịch Sử. Mỗi ngày Chúa Nhật ta đều tưởng niệm ngày Chúa Phục Sinh.”
“Thời gian viên mãn,” được lặp đi lặp lại nhiều lần trong các thư của Phaolô, nói lên địa vị trung tâm của Chúa Kitô trong lịch sử, bởi vì thời gian đạt tới mức thành toàn của nó khi Con Thiên Chúa bước vào trong lịch sử loài người để đồng hành với con người:
“Nhưng khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà.” (Gal 4:4)
“Người cho ta đươc biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô.” (Eph 1: 9-10)
“Vào đúng thời đúng buổi, Thiên Chúa đã biểu lộ lời Người” (Tit 1: 3) là Chúa Kitô, Đấng đã đến để khai mở một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của thi ân và cứu độ: “Vậy đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ.” (2 Cor 6:2).
Như vậy, theo Kinh Thánh, hành động cứu độ của Thiên Chúa đã được hoàn tất tự đời đời nơi Chúa Giêsu Kitô, nhưng lại được mạc khải cho ta trong thời gian. Đó chính là lịch sử cứu độ, được khai mào theo ý định nhiệm mầu yêu thương của Thiên Chúa, trong lịch sử con người, tức là trong thời gian. Điều này càng cho thấy tầm quan trọng của thời gian đối với người tín hữu. Với họ, thời gian là một khai mở theo chiều dài: Kế Hoạch Cứu Độ của Thiên Chúa và câu chuyện về sự hợp tác, hay thiếu hợp tác, của con người với kế hoạch ấy. Điều này đúng cho toàn thể loài người, và cũng đúng cho từng cá nhân mỗi người.
Khác với cái nhìn cuộc đời theo kiểu chu kỳ vòng tròn nơi một vài tôn giáo đông phương, theo đó, kiếp này nối tiếp kiếp trước, kiếp sau tiếp nối kiếp này, đầu thai hoá thân, trải qua những đường vòng ấy, đi dần đến mức hoàn thiện, nhân sinh quan Kitô giáo đặt nặng và coi trọng lịch sử, bởi vì mỗi người sống chỉ một lần, cũng như sẽ chỉ chết một lần, đúng như lời thư Phaolô gửi đến tín hữu Do Thái: “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét (Dt 9: 27). Bởi vậy, mỗi khoảnh khắc thời gian phải là một chu toàn ý muốn và kế hoạch của Thiên Chúa. Một cách lý tưởng, mỗi giây, mỗi phút của cuộc đời phải được vĩnh cửu hóa, nghĩa là phải cuốn vào quỹ đạo cứu độ của Chúa, trở thành giá trị muôn đời. Nói khác đi, là đặt trọn cuộc đời trong bàn tay của Thiên Chúa. Trong ý nghĩa này, thiết tưởng nên dừng lại để cùng suy niệm theo lời chú giải của ĐHY Joseph Ratzinger, nay là Đức Đương Kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI, về câu 5 trong Thánh Vịnh 16: “Lậy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ.” Bài suy niệm này được đăng trong Ordinariatskorrespondenz, số 1, ngày mùng 4 tháng Giêng năm 1979.
“Bối cảnh Thánh Vịnh này là hình ảnh cổ xưa về cái chén chứa đựng số mạng mỗi người, và Thiên Chúa nắm giữ các số mạng này. Thế nhưng, trong hình ảnh ấy, đối đầu nhau lại là hai quan niệm khác biệt về ý nghĩa và sự thách đố của thời gian. Đó là những quan niệm mà ngay cả hôm nay cũng vẫn còn định hướng cho sức phấn đấu của ta trước tương lai. Vũ trụ quan ngoại đạo đã quá quen thuộc với hình ảnh số mạng, nhưng lại dựa trên những tiền đề hoàn toàn khác: thế giới chẳng qua chỉ là một canh bạc đỏ đen dưới sức chi phối của cái nguyên lý may rủi mù quáng. Thời gian, cũng mù lòa như thế, đã nôn ọe ra số mạng, cách này hay cách khác. Trong khi đó, Thánh Kinh đã làm biến đổi tận căn hình ảnh này. Quả thế, đúng là có chén chứa đựng các số mạng: kẻ thắng người thua. Thế nhưng chén số mạng này lại do chính Chúa nắm giữ, tức là “được đặt vào bàn tay của Ngài,” bàn tay của Khôn Ngoan tuyệt đối và Tình Yêu vĩnh cửu. Đây chính là cái tiền đề thiết yếu, mà chỉ duy mình nó cũng đủ khả năng đem đến cho con người những triền sóng hy vọng. Chén đã nằm trong tay Ngài, thành ra chỉ có thể đánh mất phần số của mình khi cố ý chối từ số mạng đang nằm trong tay Ngài. Bản dịch La ngữ còn đào sâu hơn nữa ý nghĩa của đoạn Thánh Vịnh ta đang suy niệm: ‘Trong tay Ngài, lậy Chúa, thời gian của con được an nghỉ.’ Xét về mặt ngữ học thuần túy, ta có thể dịch là: ‘Trong tay Ngài, lậy Chúa, vầng thái dương của con được nghỉ an.’ Thế là nổi lên hình ảnh mái đầu và vầng thái dương của ta được trao phó trong bàn tay từ ái của Chúa. Để rồi thời gian của con người không chỉ là thời gian được tính toán theo vòng xoay của mặt trời, mặt trăng, và mặt đất. Hơn thế nhiều! Với con người, một trung tâm mới của thế giới đã xuất hiện, một đơn vị đo lường, tính toán mới: đó là nhịp tim, cấu thành thước đo hiện hữu con người, ngay cả thước đo mới cho mọi hữu thể tự thân, như một trung tâm mới của thế giới. Lời Thánh Vịnh kêu gọi ta hãy kéo cuộc hiện hữu mình ra từ khoảng thời gian này, hãy nhìn nhận thời gian này như là thời gian đích thực của mình, và dùng ý thức đó mà uốn nắn thế giới này.
Thời gian của trái tim được biến đổi thành thời gian bừng ánh mặt trời, bởi lẽ trái tim ta không rung động giữa cõi trống vắng mênh mông. Trái lại, trong khi chuyển đưa làn điệu rung động thấu đến khối óc và trí năng, trái tim ta bắt được đúng điệu nhịp rộn ràng khi tự đặt mình trong tay của Đấng cầm giữ toàn thể thời gian hiện hữu của ta trong bàn tay Ngài, bàn tay của Khôn Ngoan tuyệt đối, của Tình Yêu vĩnh cửu và cũng là niềm Hy Vọng duy nhất của ta. Chính vì thế, ta hãy đặt Năm Mới này, thời gian mới này, và cả tương lai của ta nữa, vào đôi tay của Chúa. Lậy Chúa, xin đón nhận chúng con, và ban cho chúng con muôn vàn ân phúc!”
Đã lắm phen và bằng nhiều cách, Thiên Chúa đã dạy bảo loài người chúng ta phải biết sống thái độ tạ ơn. Qua bao nhiêu bài Thánh Vịnh, thánh thi trong cựu ước chúng ta gặp không biết bao nhiêu lời tạ ơn đã được cất lên :
“Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương (Tv 136) Lạy Chúa xin dâng lời cảm tạ Ngài dã nghe lời miệng con xin (Tv 138) Hãy dâng Chúa bài ca cảm tạ Gảy khúc hạc cầm mừng Thiên Chúa chúng ta (Tv 147)
Ngay trong Bài Đọc 1 hôm nay, sứ ngôn I-sa-i-a đã thay lời Thiên Chúa nói với muôn thế hệ nhân loại rằng :
Tôi xin nhắc lại ân nghĩa Chúa, dâng lời ca tụng Chúa, vì tất cả những gì Chúa thực hiện cho chúng tôi, vì lòng nhân hậu lớn lao của người đối với nhà Ít-ra-en, vì những gì Người đã thực hiện, bởi lòng Người đầy lòng thương xót và lắm nghĩa giàu ân”.
Nhưng để có một lời Tạ ơn cao cả nhất, trọn vẹn nhất phải đợi đến khi Thiên Chúa sai Con Một mình! Vâng, chỉ có người Con nhân loại và chính là Con Thiên Chúa, đã đến để dẫn dắt con người đi vào quỹ đạo của tình yêu tạ ơn, đi vào thái độ hiếu nghĩa tin yêu dành cho Thiên Chúa một cách trọn hảo qua chính cuộc đời Ngài.
1. Đức Kitô thiết lập nghĩa cử tạ ơn bằng cuộc đời vâng phục:
Nếu dân tộc của Giao ước cũ đã minh chứng niềm tin và lòng tri ân hiếu thảo đối với Thiên Chúa qua những của lễ chiên bò, hy sinh và tạ tội; thì trong trật tự của Giao Uớc Mới, của lễ tuyệt hảo nhất, lời tạ ơn trọn vẹn nhất dành cho Thiên Chúa lại chính là Con Người của Đức Kitô, là cuộc đời và toàn bộ cuộc sống của Ngài, một cuộc đời trọn vẹn vâng phục thánh ý Chúa Cha :
Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô đã nói : “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa : lạy Thiên Chúa, nầy con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con.” (Dt 10,5)
Thật vậy, Đức Kitô đã đến giữa trần gian và đã biến cả vũ trụ trở nên một “đền thờ vĩ đại” và đã qui tụ toàn nhân loại chung quanh Ngài để làm nên một cuộc “đại thờ phượng”, một cuộc tạ ơn và phụng thờ Thiên Chúa vượt qua mọi biên giới không gian, xuyên suốt mọi thời gian. Bởi vì đó là cuộc thờ phượng Thiên Chúa trong Thánh Thần và Chân lý :
“Nầy chị, hãy tin tôi : đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi nầy hay tại Giê-ru-sa-lem…..Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc nầy đây – giờ những người thờ phượng đích thức sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế.” (Ga 4,21-24)
Qua những chỉ dẫn của Tin Mừng, chúng ta còn biết được rằng : thái độ tạ ơn, tâm tình tri ân cảm tạ lại chính là thái độ cốt yếu của tinh thần “Tám mối Phúc thật”, tinh thần “nghèo khó, khiêm hạ, yêu thương…”, tinh thần luôn biết đưa tay hướng mắt về phía Thiên Chúa với niềm tin yêu phó thác của những con người như Bà Góa bị loạn huyết 18 năm xứ Canaan, của người phung hủi ngoại bang được chữa lành, của viên sĩ quan có người tôi tớ đau nặng, của người đàn bà tội lỗi khóc lóc ăn năn, của những người thu thuế bị loại trừ như Gia-kê, Lê-vi, của các trẻ thơ xúm quanh để chờ được chúc lành hay của người kẻ trộm sắp sửa đi về bên kia thế giới với hy vọng sẽ được cứu độ trong Vương quốc phục sinh…
Rồi cũng chúng ta cũng biết được rằng : trên môi miệng của Đức Kitô luôn vang lên lời tri ân cảm tạ : “Lạy Cha, con tạ ơn Cha, vì Cha đã dấu…”
Và còn hơn thế nữa Ngài đã tạ ơn bằng chính 1 cuộc đời vâng phục mà chỉ trọn vẹn khi Ngài nói lời “Con phó thác hồn con trong tay Cha”. Đó chính là lời tạ ơn trọn hảo nhất bằng Hy Tế Thập Giá mà hôm nay trên mọi bàn thờ chúng ta đang tái diễn mỗi ngày.
2. Đức Trinh Nữ Maria và lời Tạ Ơn Magnificat :
Cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa trong Đức Kitô, nhờ Đức Kitô và với Đức Kitô chính là con đường đức tin của Dân Chúa hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Và may mắn thay, trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại suốt 2000 năm nay, đã có một “bài ca tạ ơn”, đã có một “cuộc đời tạ ơn” theo cung cách ấy. Đó chính là bài ca “Magnificat”, đó chính là “cuộc đời của Trinh nữ Maria”. Quả thật cuộc đời của Đức Mẹ được phản ảnh qua bài Magnificat mà Tin Mừng hôm nay vừa nhắc đến là mô hình sống động, là mẫu gương sáng ngời để nhân loại bước đi trong “con đường tạ ơn” Thiên Chúa, trên nẽo đường đáp trả hồng ân.
- Tạ ơn : trước hết là như Đức Maria dâng lên lời ngợi khen Thiên Chúa và hân hoan vì hồng ân cứu độ Ngài đã ân ban: “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa….”
- Tạ ơn : phải chăng như Đức Maria nhận ra “những việc lạ lùng Thiên Chúa đã thực hiện nơi tôi”.
- Tạ ơn phải chăng như Đức Maria luôn biết nhận ra bàn tay Thiên Chúa đưa ra nâng đỡ thân phận yếu hèn, lòng quảng đại Chúa mở ra để ban cho dư đầy ơn phúc.
-Tạ ơn phải chăng là luôn xác tín mãnh liệt và đầy lòng trông cậy vững vàng trước lời hứa và kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa : “Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta. Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời”.
Và Mẹ đã hoàn tất lời tạ ơn tuyệt diệu đó vào Chiều Thứ Sáu trên đồi Can-vê khi Mẹ thay cho nhân loại dâng hiến lễ Tạ Ơn đầu tiên cùng với Con yêu dấu trên bàn thờ Thánh Giá.
3. Sống chiều kích Tạ Ơn trong nhỏ nhặt đời thường :
Qua lời kinh Tạ Ơn Magnificat của Đức Maria, và nhất là, qua cuộc đời đã trở nên Hy Tế TẠ Ơn của chính Đức Kitô, chúng ta cảm nhận được rằng :
- Thái độ Tạ Ơn, cuộc sống Tạ Ơn không chỉ là một hành vi mang tính “thời sự’, “cơ hội” đột xuất (như được khỏi cơn bệnh hiểm nghèo, thoát qua cơn hoạn nạn, tránh được hiểm nguy, làm ăn buôn bán trúng mánh, trúng số độc đắc…), nhưng “Tạ Ơn” phải là một thái độ, một nhịp sống, một cử hành thường xuyên, từng phút giây, mọi biến cố, trên mọi nẽo đường cuộc sống. Đó chính là cách ứng xử mà mấy ngàn năm trước, ông thánh Gióp đã từng nêu gương : “Chúa cho, Chúa cất lấy, xin cảm tạ ơn Chúa !”. Dĩ nhiên, có những thời điểm, có những biến cố dễ gợi mở tâm tình chúng ta hướng về Thiên Chúa trong thái độ tạ ơn đặc biệt…Nhưng không phải, chỉ tạ ơn trong những hoàn cảnh, những thời điểm đặc biệt thôi, còn ngoài ra thì “bàn tay ta làm nên tất cả”, có nhờ vả ai đâu, có khấn xin gì nào mà phải tạ ơn cám ơn…
- Bởi vì, chính khi chúng ta cử hành cuộc sống trong thái độ tạ ơn, chúng ta sẽ thấy cuộc đời mình nhỏ lại, khiêm hạ hơn, khó nghèo hơn, trái tim kiêu căng hợm hĩnh sẽ được biến đổi để trở nên nhỏ bé hiền lành, và từ đó con mắt tâm hồn sẽ khám phá ra muôn vạn hồng ân của Cha trên trời vây bọc xung quanh. Ngày hôm nay, hơn lúc nào hết, cái nảo trạng ‘đương nhiên” của chủ nghĩa duy vật vô thần đang âm thầm hay mãnh liệt len lỏi vào mọi ngỏ ngách của cuộc sống. Vì đã lý luận như thế : “đương nhiên trái cấm nầy thuộc về tôi, địa đàng nầy là của tôi, tôi cóc cần Thiên Chúa với những luật lệ của Ngài…” mà A-đam và E-Va đã đẩy nhân loại vào vũng lầy nguyên tội. Cũng vì lý luận như thế : tôi khỏi phung cùi chắc là do số phận run rủi, là tới lúc phải được như thế, chứ ông Giêsu nào có can thiệp gì đâu… nên chín người phung cùi được khỏi bệnh đã không thèm trở lại tạ ơn Chúa Giêsu ! Còn chúng ta hôm nay thì sao. Có thấy được “phép lạ tình yêu của Thiên Chúa” ghi dấu ấn trên đời thường cuộc sống mỗi ngày để ngước mắt tạ ơn, hay chỉ là những thở dài oán trách Chúa vì đã van xin bao điều mà sao vẫn cứ hoài vô vọng. Có thấy bàn tay quan phòng của Thiên Chúa tế nhị ấp yêu trên mọi biến cố cuộc đời để cảm tạ tri ân, hay chỉ thấy mọi sự là “đương nhiên” để cóc cần phải tính sổ với Thiên Chúa.
Trong giờ phút thiêng liêng khi trời đất sắp sửa giao mùa, chúng ta có dịp ngồi lại với nhau trước mặt Chúa để nhờ ánh sáng của Lời Ngài mà nhìn lại cuộc sống, mà cảm nhận muôn vạn hồng ân Chúa đã ân ban trong suốt một năm. Và điều quan trọng hơn hết, phải chăng là chúng ta được cùng với Đức Kitô dâng Hy Tế Tạ Ơn nầy như một nghĩa cử của lòng hiếu thảo mến yêu, của tâm tình tri ân cảm mến; và cũng chính qua sứ điệp của lời kinh tạ ơn Magnificat của Đức Trinh Nữ Maria, chúng ta được gọi mời từ hôm nay, biết mở lòng đón nhận và khám phá muôn điều kỳ diệu Chúa đã làm, để từ đó biến cuộc sống trở thành “Lời ca khen cảm tạ Magnificat” :
Hồn tôi tán tụng Chúa Trời, Lòng tôi hoan hỷ dâng lời tạ ơn, Tạ ơn Chúa chuộc khoan nhân, Thương người tỳ nữ, thương thân phận hèn. Từ nay thiên hạ ca khen, Rằng tôi có phúc, có duyên lạ lùng. Rằng tôi bé mọn khiêm cung, Được bàn tay Chúa oai hùng điểm trang, Cho tôi nên trọng nên sang, Cho Danh Thánh Chúa hiển vang muôn đời (SĐTT, NXV)
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, Thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi, phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới…”. Đây là lời kinh Ngợi Khen mà Đức Mẹ đã tiến dâng Thiên Chúa bằng tất cả tâm tình mến yêu, tin tưởng, cậy trông, phó thác của mình.
Ngày cuối năm, Hội Thánh muốn ta suy niệm về tâm tình ngợi khen của Đức Mẹ để ta cũng biết ngợi khen Chúa như Đức Mẹ. Vậy, trong bầu khí vui mừng, rộn ràng, xen lẫn những lo âu, toan tính cho cả một năm vừa qua, ta mặc lấy tâm tình của Đức Mẹ, cùng Đức Mẹ chúc tụng, ca ngợi Thiên Chúa. Lời ngợi khen của Đức Mẹ đẹp lòng Chúa. Chắc chắn mượn lấy tâm tình của Đức Mẹ, cùng ca ngợi Chúa với Đức Mẹ bằng tất cả lòng tri ân của ta, ta cũng sẽ đẹp lòng Chúa, sẽ được Chúa đoái thương đón nhận, như Chúa đã đoái thương đón nhận Đức Mẹ.
Trong bài Ngợi Khen mà Đức Mẹ dâng lên Chúa, Đức Mẹ đã nói: “Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn” (Lc 1,46). Như thế, cũng đồng nghĩa với việc Đức Mẹ đã thừa nhận tất cả sinh mạng của Đức Mẹ ở trong tay Chúa. Cuộc đời của Đức Mẹ là bởi Chúa. Mọi hoàn cảnh, mọi biến cố diễn ra cho chính cuộc đời, chính sự sống của Đức Mẹ đều nằm trong chương trình thánh ý của Chúa. Hiểu như thế, Đức Mẹ đã sống cả một đời tuyệt đối xin vâng theo thánh ý Chúa.
Chúng ta bâng khuâng trong ngày cuối năm, với tất cả những biến chuyển, những thao thức của cả một năm vừa đi qua. Rồi đây, một năm mới lại về. Tương lai lại đang chờ ta cũng sẽ là những trăn trở, những giăng mắc đầy hối thúc của cuộc mưu sinh đời thường. Vì thế, ngày cuối năm là thời gian thiêng liêng nhất, hợp lý nhất để chúng ta dừng lại kiểm điểm mình và tạ ơn Thiên Chúa vì một năm qua, ta đã sống, đã làm việc, đã hoạt động. Đồng thời xin lỗi Chúa vì biết bao nhiêu lần ta đã quên ơn Chúa, đã không cộng tác với ơn Chúa để phát triển đời sống đạo đức, sự thánh thiện của mình.
Là con của Đức Mẹ, chúng ta hãy học lấy lời xin vâng của Đức Mẹ mà tiếp tục Xin Vâng như Đức Mẹ. Xin Vâng như Đức Mẹ, nghĩa là chúng ta cũng sẽ thừa nhận tất cả sinh mạng của mình ở trong tay Chúa. Cuộc đời của mình là bởi Chúa. Mọi hoàn cảnh, Mọi biến cố diễn ra cho chính cuộc đời, và chính sự sống của mình đều nằm trong chương trình thánh ý của Chúa. Bởi vậy, ta hãy sống như Đức Mẹ đã sống: cả một đời tuyệt đối xin vâng theo thánh ý Chúa.
Lạy Chúa, xin chấp nhận tâm tình tri ân, ngợi khen của chúng con trong ngày cuối năm này. Chúng con xin dâng lên Chúa cùng với Đức Mẹ, nhờ Đức Mẹ. Xin chấp nhận tất cả những gì mà chúng con có thể có để hiến dâng và tha thứ tất cả những gì chúng còn thiếu sót hay lỗi lầm. Amen
Tạ ơn cho những người bố, những người mẹ. Tạ ơn cho những sáng sớm vất vả với dòng xe cộ đỏ chói và đen đặc trên xa lộ. Tạ ơn cho tháng năm ngược xuôi kiếm tiền nuôi chồng, nuôi vợ và nuôi con. Tạ ơn cho những người cha người mẹ một đời khổ vì con, một đời cực vì cháu.
Tạ ơn cho những giọt nước mát lạnh từ trời cao đã tuôn đổ, những giọt nước mắt đã rớt rơi để dập tắt mầm mống của giận hờn oán ghét. Tạ ơn cho những vết thương bầm tím trên thân xác và trong tâm hồn đang từ từ phai màu và được chữa lành.
Tạ ơn cho những lầm lỗi. Tạ ơn cho những lần được thứ tha, được bỏ qua, được quên đi, được xóa nhòa. Tạ ơn cho những chịu đựng âm thầm, không cằn nhằn, không đi ra đi vào đá thúng đụng nia. Tạ ơn cho những hành động ích kỷ và một tấm lòng từ tâm bao dung.
Tạ ơn cho những giây phút thất vọng và hy vọng. Tạ ơn cho những giọt lệ khổ đau và nụ cười hạnh phúc. Tạ ơn cho những giây phút buồn phiền, cô đơn, và chán nản, không ai vỗ về. Tạ ơn cho một lần hạnh phúc, vinh quang, và thất vọng. Tạ ơn cho những thất bại và thành công.
Tạ ơn cho một tô mì gói với chả lụa thơm nồng . Tạ ơn cho một tô phở đặc biệt với bò viên, hành ngò, và thịt tái nạm. Tạ ơn cho một tô cơm trắng với thịt kho, rau muống, và dưa muối. Tạ ơn cho nước mắm, mắm tôm, mắm ruốc bốc mùi thơm lừng trong nhà bếp. Tạ ơn cho bún bò huế, bún vịt sáo măng, bún mọc, cháo gà, cháo vịt, cháo lòng và phở tái. Tạ ơn cho bánh cuốn, bánh bèo, bánh đúc, bánh phồng tôm. Tạ ơn cho gạo trắng cơm ngon. Tạ ơn cho những bữa cơm thơm nồng được nấu bởi bàn tay của ông của bà, của bố của mẹ, của chị của anh, và của cả những người em, em trai cũng như em gái.
Tạ ơn cho những người thầy những người cô đã giúp con trưởng thành và đồng hành với con. Tạ ơn cho một năm học vui vẻ với nhiều kết quả tốt đẹp. Tạ ơn cho những trí khôn Thiên Chúa đã ban cho con. Tạ ơn cho một sức khỏe không đau yếu. Tạ ơn cho sự cần cù, hy sinh, và thương yêu của mẹ cha. Tạ ơn cho một đêm dạ vũ vui nhộn với tiếng nhạc êm đềm và quyến rũ.
Tạ ơn cho những thân hình lực lưỡng của đứa con trai, mới ngày nào còn nhỏ xíu, nay vươn vai đứng dậy hóa ra người thanh niên với những sợi râu mọc lưa thưa trên mép. Tạ ơn cho những đứa con gái, ngày nào tóc còn ngắn như con trai, giờ này tóc dài thướt tha đen nhánh, êm đềm bước đi những gót hài đầu tiên của tuổi thanh xuân, tuổi của sắc đẹp rực rỡ, huy hoàng.
Tạ ơn cho những đám cưới tưng bừng với bao nhiêu quan khách. Tạ ơn cho những tà áo dài trắng thướt tha, những khuôn mặt đỏ hồng, những đôi mi e lệ dưới khăn voan cô dâu trắng toát. Tạ ơn cho những đứa con đang hình thành trong bụng. Tạ ơn cho những mái ấm gia đình hạnh phúc.
Và quan trọng hơn cả& Tạ ơn cho con được biết Chúa, được làm con của Chúa, được bàn tay Ngài luôn chở che thương yêu chăm nom săn sóc &Và nhất là cho con được hưởng nhờ Ơn Cứu Ịộ từ trời cao, cho con được tham dự vào ẪBản Tính Thiêng LiêngỮ của Chúa, cho con được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài.
***
Lạy Chúa! Có rất nhiều điều con cần phải tạ ơn, tạ ơn Trời và tạ ơn Đời. Có kể ra hết cũng không đủ giấy mực để tâm sự với Chúa về những hồng ân con đã lãnh lãnh nhận. Con chỉ biết khắc ghi trong lòng để luôn sống tâm tình tạ ơn trong mỗi giây mỗi phút của cuộc đời con. Amen
Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương ( Tv 135)
Chúng ta đang cùng nhau sống những giờ phút cuối cùng của năm cũ, và chuẩn bị chia tay năm 2014 TET 30-18
Chúng ta đang cùng nhau sống những giờ phút cuối cùng của năm cũ, và chuẩn bị chia tay năm 2014 năm Giáp Ngọ, bước vào năm 2015, năm Ất Mùi với thời khắc thật linh thiêng. Vào dịp tạ ơn cuối năm, Đức Thánh Cha Phanxicô nói với chúng ta rằng : “Người tín hữu Kitô hữu dựa trên Thánh Kinh thấy thời gian không mang tính tuần hoàn mà là một đường thẳng: thời gian là con đường dẫn đến chung cuộc”. Đúng thế, nêu chúng ta nhìn lại một năm vừa trôi qua chính là một bước đi hướng đến sự hoàn tất của lịch sử, đến cứu cánh của nhân loại là hy vọng và vui mừng được gặp Chúa, thị việc tạ ơn này thật là ý nghĩa.
Chắc chắn mỗi người mang một tâm tình, vui, buồn, sướng, khổ, thành công hay thất bại. Nhưng giờ phút này đây, tất cả đều có chung một ý tưởng là tạ ơn và phó thác. Tạ ơn, vì Chúa đã cho chúng ta sống đến giờ phút này, còn gì thích hợp và ý nghĩa hơn khi chúng ta mặc lấy tâm tình của Mẹ Maria để hát vang lên tới Chúa : “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa… vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1, 29-55). Lời của thánh Phaolô nhắn nhủ với tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca xưa kia, nay ngài muốn nói với mỗi người chúng ta rằng: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu.” (1 Tx 5, 16-18). Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa, về ân huệ Người đã thương ban (1Cr 1, 3-9).
Nhìn lại trong năm qua, chúng ta thấy các biến cố lần lượt diễn ra : các thảm kịch và hy vọng, niềm vui và đau khổ, chiến thắng và thất bại; kinh tế thế giới tiếp tục lún sâu, thiên tai ngày càng khủng khiếp xuất hiện siêu bão, tai nạn dữ hơn, thời tiết khắc nghiệt hơn, hành vi người với người đối xử với nhau giã man hơn v.v…
Việt Nam chúng ta đang lún sâu vào cuộc khủng hoảng về nhiều phương diện từ đạo đức đến nhân văn, từ mô hình phát triển xã hội đến từng bước phát triển, từ lãnh đạo đến đường lối, từ kinh tế đến chính trị, từ ổn định xã hội đến an ninh quốc phòng, đạo đức con người như đang bị suy giảm tới mức báo động trong các ngành nghề như y học và giáo dục, nạn tham nhũng trở nên hệ thống hơn từ trên xuống dưới… chúng ta đang phải đối mặt với thực tại.
Nhìn qua mọi sự, đến giờ phút này đay, chúng ta phải khẳng định rằng Thiên Chúa là chủ lịch sử, Ngài hướng dẫn các biến cố nhân loại. Ngài đồng hành với con người và không ngừng thực hiện những điều vĩ đại. Làm sao chúng ta có thể không cám ơn Người vào đêm nay? Và nhất là trong năm Tân Phúc Âm Hóa Giáo xứ này, làm sao chúng ta có thể không dâng lên Người lời tuyên xưng: “Lạy Chúa, chúng con đặt niềm tin tưởng nơi Chúa”!
Giờ đây chúng ta mặc lấy tâm tình của Mẹ Maria hướng về trời cao và cất lên lời tạ ơn Thiên Chúa và phó thác nơi Ngài. Bởi lẽ, tạ ơn là thái độ căn bản của người Kitô hữu đối với Thiên Chúa, vì tất cả những gì con người có đều là hồng ân của Thiên Chúa.
“Linh hồn tôi ngợi khen… Thần trí tôi hớn hở vui mừng… Ngài đã làm cho tôi những điều kỳ diệu…”
Chúng ta đồng thanh hiệp ý với Mẹ ca tụng những điều kỳ diệu của Thiên Chúa đã và còn đang làm trong lịch sử : Người đã và còn đang biểu lộ quyền năng của Ngài… đã và còn đang làm tan rã những kẻ kiêu căng… đã và còn đang hạ xuống người quyền thế… đã và còn đang nâng dậy kẻ khiêm cung… đã và còn đang ban tràn đầy ơn lành cho người đói khát… đã và còn đang đuổi người giàu có ra về tay không… đã và còn đang cứu giúp Israel Dân Người.” Ðó là bảy hành động của Thiên Chúa là Chúa của lịch sử: Người luôn đứng về phía những kẻ thấp hèn nhất, những kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn, những ai “kính sợ Người, trung thành với Lời Người; đó là những kẻ khiêm tốn, những kẻ đói khát; đó là Israel người tôi tớ trung thành của Người; đó là cộng đồng dân Chúa, được kết thành bằng những kè nghèo hèn, trong sạch và đơn sơ trong tâm hồn, như Mẹ Maria.
Thánh lễ này diễn ra vào giờ phút cuối cùng của năm 2014 Âm Lịch, đôi mắt chúng ta hướng nhìn lên Chúa là nguồn gốc và cùng đích của đời sống chúng ta. Vì không có Chúa, chúng ta sẽ không hiện hữu, không có Chúa sẽ chẳng có gì, hoàn toàn không có gì. Chúa là Đấng “vạn vật được tạo thành” (Ga 1, 13), Chúa là Đấng mà nhờ Chúa, chúng ta được tạo thành, và sống cho đến phút này đây. Không có Chúa, sự sống không thể đạt đến vận mệnh cuối cùng của nó. Không có Chúa sẽ chẳng có gì, hoàn toàn không có gì. Chính Người giúp chúng ta đối diện với các thách đố trong năm mới; chính Người ban cho chúng ta khả năng sử dụng đời sống để làm vinh danh Thiên Chúa và mưu ích cho nhân loại. Chúng ta hãy để tình yêu Ngài lôi cuốn cuộc đời ta.
Lúc này đây, chúng ta hãy đặc biệt nhớ tới và cầu nguyện cho những ai đang đau khổ, những ai đang gặp khó khăn và những ai đang sống trong buồn phiền, để khẩn cầu sự trợ giúp quan phòng của Chúa.
Cái nhìn của chúng ta giờ đây mở rộng ra hướng về gia đình, giáo họ, giáo xứ, giáo phận, toàn thể Hội Thánh và thế giới. Chúng ta hy vọng rằng Năm Mới sẽ đem lại hoà bình, công lý, tình huynh đệ và sự thịnh vượng cho tất cả mọi quốc gia! Nguyện xin Ðức Nữ Trinh Rất Thánh, Hừng Đông của thời đại mới, giúp chúng ta nhìn lịch sử đã qua và Năm Mới khởi đầu với con mắt đức tin. Xin cầu chúc một Năm Mới hạnh phúc đến với mọi người! Amen.
Vào những ngày cuối năm này, đây đó rộn ràng với những bữa tiệc tất niên để tổng kết cuối năm TET 30-25
Vào những ngày cuối năm này, đây đó rộn ràng với những bữa tiệc tất niên để tổng kết cuối năm. Đối với những người sống đời thánh hiến, chúng ta dành những giây phút linh thiêng này để nhìn lại một năm cũ đã qua, đây là một dịp thuận tiện để nhìn lại đời ta, nhìn vào bên trong, nhìn vào đằng sau sự vật, để biết quý chuộng những gì chúng ta đang có bởi lẽ tất cả là hồng ân của Chúa, vì thánh Phaolô đã tung hô rằng: “Chúc tụng Thiên Chúa, là thân phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Giêsu Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần.” (Ep 1,3) Thánh Gioan khẳng định rằng: Mọi vật đều do Người làm nên và không có Người, thì chẳng vật chi được tác thành.” (Ga 1,3) Như vậy, đứng trước một Thiên Chúa cao cả và quyền năng, đã ban cho chúng ta tất cả, việc tạ ơn Chúa là việc cần thiết và chính đáng.
Với tâm tình trên, từng cộng đoàn, từng thành viên hãy nhìn lại 365 ngày qua, với 8,760 giờ, để nhận ra muôn vàn phúc lành mà chúng ta đã lãnh nhận từ Thiên Chúa như về: thời giờ, tài năng, sức khỏe, những thành công và cả những thất bại… Nhìn lại một năm qua, trong mọi biến cố, chúng ta thấy bao can thiệp diệu kỳ của Chúa, bao hồng ân lớn lao Chúa ban. Nhưng ân phúc lớn nhất không là những quà tặng, mà là chính Chúa, là sự hiện diện đầy yêu thương của Ngài trong cuộc đời ta. Đó mới là quà tặng tuyệt đối cao cả. Tất cả như đang đổ đầy lòng ta bao cảm xúc và khơi gợi lời tạ ơn nhiều chân thành, rộng lớn trong phút giây này.
Niềm xác tín này mời gọi chúng ta hãy luôn giữ mãi tinh thần tạ ơn. Vì chỉ khi biết tạ ơn thì chúng ta mới nhận ra tất cả những gì ta có là bởi Chúa thương ban. Chúng ta có thể sống tâm tình tạ ơn mọi nơi mọi lúc, trong thành công cũng như trong thất bại, hãy phó thác chính cuộc đời của chúng ta vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
Tạ ơn Chúa, chúng ta cũng không quên cám ơn người: cám ơn cha mẹ đã sinh thành nuôi dưỡng ta khôn lớn với bao vất vả nhọc nhằn. Tri ân Hội dòng, quý bề trên đã bảo ban dạy dỗ lo lắng cho chúng ta qua từng ngày sống về tinh thần lẫn vật chất. Cám ơn chị em, bạn bè đã dành cho ta bao yêu thương nâng đỡ trong ơn gọi đời sống tu trì. Cám ơn bao người đã âm thầm hy sinh cách này cách khác để ta có được ngày hôm nay.
Ngày cuối năm, cũng là dịp để suy nghĩ, điều chỉnh tâm hồn, để hồi tỉnh xem điều gì mình còn thiếu sót, điều gì còn chưa chu toàn, điều gì chưa tốt. Để tạ lỗi với Chúa và tạ lỗi mọi người. Tạ lỗi để nói lên lòng sám hối, ăn năn. Nguyện xin Chúa nung nấu tâm tình sám hối đích thực nơi chúng ta và ban cho chúng ta niềm an bình nội tâm, để chúng ta cũng biết chia sẻ niềm an bình ấy với mọi người bằng cảm thông, tha thứ, và xây dựng một cộng đoàn hiệp nhất yêu thương. Đồng thời, phó thác một năm mới sắp tới trong bàn tay quan phòng đầy yêu thương của Ngài.
Lạy Chúa, trong ngày đầu năm mới này, con xin nâng tâm hồn con lên cùng Chúa.
Xin Chúa giúp con luôn hướng về Chúa, biết nhìn nhận Chúa là nguồn hạnh phúc thật của đời sống con.
Xin cám ơn Chúa vì đã cho con được sống cho đến hôm nay. Xin Chúa thương gìn giữ con, gìn giữ cả những người thân của con được sống trong năm mới này tràn đầy ơn lành và sự bảo vệ của Chúa. Amen.
Lạy Chúa, xin thương tha thứ những lỗi lầm mà chúng con đã phạm trong năm qua.
Xin thương giúp mỗi người chúng con canh tân đời sống của mình trong năm mới.
Chúng con xin cám ơn Chúa vì những hồng ân Chúa đã ban cho và xin Chúa thương tiếp tục đổ muôn ơn lành xuống trong cuộc đời chúng con, trên gia đình chúng con, trên dân tộc và trên quê hương chúng con. Amen. (Những Bài Suy Niệm và Cầu Nguyện Hằng Ngày của Ðài Phát Thanh Chân Lý Á Châu)
Một chiếc xe vận hành trên đường, nó phải có thời gian dừng lại, vừa để nghỉ ngơi, vừa để kiểm tra xe vừa để tăng thêm nhiên liệu. Một học sinh sau thời gian dài học tập, cũng có thời gian để kiểm tra, thi cử. Đó là lúc nhìn lại kết quả đã đạt được trong thời gian qua như thế nào. Con người với đời sống thường ngày cũng thế, cứ sau 12 tháng là bắt đầu lại những ngày tháng mới. Trước giây phút chuyển giao linh thiêng mà chúng ta gọi là giao thừa, chúng ta cũng có thời gian đến trước Chúa, để nhìn lại đời sống của mỗi người trong một năm qua.
Giờ đây chúng ta cùng nhìn lại kết quả của những tháng ngày mệt nhọc mà mỗi người đã trải qua. Chúng ta vừa lắng nghe lời chúc phúc cho những ai biết thực hiện cách sống xứng đáng. Những điều chúc phúc mà khiến cho nhiều người không khỏi giật mình, những lời chúc phúc dường như bảo con người không được quyền vươn lên. Nhìn và nghe thoáng qua thì như thế, nhưng nếu chịu khó suy tư và nhìn vào thực tế, chúng ta không còn bở ngở. Thật thế, nếu không chịu khó vất vã để làm ăn mà lười biếng chỉ biết hưởng thụ cho sung sướng, nếu không biết nhẫn nhục chịu khó, chấp nhận một chút thua thiệt mất mát, thì làm sao tích lũy được những thành quả tốt đẹp cho tương lai. Như vậy những lời Chúa Giêsu nói cách đây 2000 năm, lại vang động bên tai và vẫn còn giá trị cho những con người của thời đại mới nầy.
Mỗi người giờ đây để ra một ít thời gian, nhìn lại cuộn phim cuộc đời mà mình đã tạo nên trong năm qua. Có những chỗ, những nơi chúng ta không dám dừng lại để nhìn, và cũng không muốn cho ai nhìn thấy. Đó là những lúc con người này chỉ còn nhìn thấy có chính mình, chỉ biết lo hưởng thụ cho riêng bản thân, không còn nghĩ đến người khác, nên bất chấp tất cả, bất chấp cả những thủ đoạn tàn ác, miển sao bản thân đạt được điều mình mong muốn. Ngoài ra còn có những lúc lười biếng không chu toàn trách nhiệm của cuộc sống mà mỗi người đang đảm nhận: trách nhiệm của một người cha, người mẹ, người con trong gia đình. Trách nhiệm với những người thân cận chung quanh. Trách nhiệm đối với xã hội mà mỗi người đang nắm giữ một địa vị, một chỗ đứng. Nhiều khi vì lơ là, lười biếng hay sợ sệt mà chúng ta đã bỏ qua đi những điều cần phải làm như thế.
Có những đoạn phim, khi nhìn đến, mỗi người cảm thấy tự hào và hảnh diện cho bản thân, vì mình đã làm những điều tốt đẹp, có ý nghĩa. Đó là những lúc chúng ta dám đổ những giọt mồ hôi của mình để đem lại hạnh phúc cho người khác, đem lại niềm vui cho những người chung quanh. Đó cũng là những lúc chúng ta cam tâm chấp nhận những câu nói không êm tai, nhường nhịn một sự bất công, hách dịch để đem lại sự bình an cho những người chung quanh mình. Đó cũng là những lúc chúng ta biết tìm lợi ích thật sự cho những gì mình có trách nhiệm. Đó cũng là những lúc trước những sóng gió bất công của cuộc đời, mà mình vẫn đứng vững để vượt qua. Càng tự hào hơn nữa, khi chúng ta nhìn thấy rằng: trong suốt cuộc đời, đặc biệt trong một năm vừa qua, với những vui buồn sướng khổ của cuộc sống, đều có Thiên Chúa cùng đồng hành, cùng ở bên cạnh chúng ta trong mọi trường hợp.
Với những kết quả như thế, mỗi người tự cho điểm về chính mình về những việc làm của một năm qua, như kết quả học tập của một học sinh đang làm bài kiểm tra. Chúng cảm thấy mình được số điểm như thế nào, tốt hay xấu, là tùy mỗi người, không ai có thể giúp cho được.
Chúng ta cùng nhau xin lỗi Chúa vì những lỗi lầm của năm qua, chúng ta cũng cầu xin Chúa ban ơn cho mỗi người, trong năm mới có được sức sống mới, để vững vàng bước đi trong những ngày tháng mới cho xứng đáng hơn.
Một năm với tháng ngày dần trôi, giờ chúng ta đang sống là thời khắc cuối cùng của năm cũ 2015 TET 30-21
Một năm với tháng ngày dần trôi, giờ chúng ta đang sống là thời khắc cuối cùng của năm cũ 2015, năm Ất Mùi và chuẩn bị bước vào năm mới 2016, năm Bính Thân, thời khắc thật linh thiêng. Vào dịp tạ ơn cuối năm, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các tín hữu cảm tạ và chúc tụng Thiên Chúa vì những hồng ân đã nhận lãnh trong năm qua, đồng thời xét mình và kiểm điểm những gì xảy ra trong năm 2015. Ngài nói:
“Giờ này đây, chúng ta cần đặc biệt tập trung vào những dấu chỉ Thiên Chúa đã ban, để cảm nghiệm cụ thể sức mạnh tình yêu thương xót của Thiên Chúa. Chúng ta không thể quên bao nhiêu ngày ghi đậm bạo lực, chết chóc, đau thương khôn tả của bao người vô tội, những người tị nạn buộc lòng phải rời bỏ quê hương, những con người nam nữ và trẻ em không còn gia cư nhất định, thiếu lương thực và kế sinh nhai. Dầu vậy cũng có bao nhiêu cử chỉ tốt lành, yêu thương và liên đới diễn ra trong những ngày tháng của năm cũ, mà không được các bản tin tức nói tới ! Không thể để cho quyền lực sự ác che khuất những dấu chỉ tình thương ấy. Sự thiện luôn chiến thắng, cho dù có lúc sự thiện xem ra yếu ớt và âm thầm” ( Bài giảng Kinh Chiều cuối năm 2015 ). Vì thế chúng ta phải dâng lời cảm tạ Chúa.
Cảm tạ
Một năm sắp kết thúc, người kitô hữu chúng ta dựa trên Thánh Kinh thấy thời gian không mang tính tuần hoàn mà là một đường thẳng: thời gian là con đường dẫn đến chung cuộc, nên một năm trôi qua là một bước đi hướng đến sự hoàn tất của lịch sử, đến cứu cánh của nhân loại là hy vọng và vui mừng được gặp Chúa, thì việc tạ ơn này thật là ý nghĩa.
Trong giờ phút linh thiêng này chúng ta dâng lời tạ ơn Chúa. Bởi lẽ, tạ ơn là thái độ căn bản của người Kitô hữu đối với Thiên Chúa, Isaia dạy chúng ta phải dâng lời ca tụng Chúa, “vì tất cả những gì Đức Chúa đã thực hiện cho chúng tôi vì lòng nhân hậu lớn lao của Người… bởi lòng Người đầy thương xót và lắm nghĩa giầu ân” ( Is 63, 7 ). Thật phù hợp với Năm Thánh Lòng Thương Xót chúng ta đang sống. Thánh Phaolô viết: “Chúc tụng Thiên Chúa, là thân phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Giêsu Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần” ( Ep 1, 3 ). Thánh Gioan khẳng định: “Mọi vật đều do Người làm nên và không có Người, thì chẳng vật chi được tác thành” ( Ga 1, 3 ). Như vậy, đứng trước một Thiên Chúa cao cả và quyền năng, đã ban cho chúng ta tất cả, việc tạ ơn Chúa là việc cần thiết và chính đáng.
Thật là đẹp, khi giờ đây chúng ta đồng thanh hiệp ý với Mẹ Maria ca tụng những điều kỳ diệu của Thiên Chúa đã và còn đang thể hiện trong lịch sử: Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, vì Người đã và còn đang biểu lộ quyền năng của Ngài... đã và còn đang làm tan rã những kẻ kiêu căng... đã và còn đang hạ xuống người quyền thế... đã và còn đang nâng dậy kẻ khiêm cung... đã và còn đang ban tràn đầy ơn lành cho người đói khát... đã và còn đang đuổi người giàu có ra về tay không... đã và còn đang cứu giúp Israel Dân Người.
Ðó là bảy hành động của Thiên Chúa là Chúa của lịch sử: Người luôn đứng về phía những kẻ thấp hèn nhất, những kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn, những ai kính sợ Người, trung thành với Lời Người; đó là những kẻ khiêm tốn, những kẻ đói khát; đó là Israel người tôi tớ trung thành của Người; đó là cộng đồng dân Chúa, được kết thành bằng những kè nghèo hèn, trong sạch và đơn sơ trong tâm hồn, như Mẹ Maria. Lời của thánh Phaolô nhắn nhủ với tín hữu Thêxalônica xưa kia, nay ngài muốn nói với mỗi người chúng ta rằng: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu” ( 1Tx 5, 16-18 ). Chúng ta cảm tạ Chúa, về ân huệ Người đã thương ban ( 1Cr 1, 3-9 ). Cảm tạ Chúa và xin Chúa thứ tha, kèm theo lòng phó thác cho Chúa năm mới sắp tới.
Xin ơn tha thứ
Cũng vào dịp cuối năm, cùng với việc tạ ơn, Đức Thánh Cha Phanxicô còn thức tỉnh con cái mình: “Chúng ta được kêu gọi kiểm điểm xem những thế sự có được thực hiện theo ý Thiên Chúa hay là chúng ta chỉ ưu tiên lắng nghe những dự án của con người, nhiều khi đầy những tư lợi, lòng khao khát quyền lực vô độ và bạo lực vô cớ” ( Bài giảng Kinh Chiều cuối năm 2015 ). Nên chúng ta phải tạ lỗi với Chúa và với mọi người nữa. Tạ lỗi để nói lên lòng sám hối, ăn năn. Tạ lỗi về những điều thiếu sót, điều gì còn chưa chu toàn, điều gì chưa tốt, hoặc lỗi bác ái với tha nhân, hay chưa biết thương xót người như Chúa đã thương xót chúng ta. Xin Chúa thương tha thứ những lỗi lầm mà chúng ta đã phạm trong năm qua. Tương lai tùy thuộc ở Chúa, chúng ta phải có tinh thần phó thác.
Sống phó thác
Nhìn lại một năm đã qua, chúng ta thấy các biến cố lần lượt diễn ra: các thảm kịch về tai nạn hàng không, những vụ khủng bố người giết người dã man hơn, niềm vui và đau khổ, chiến thắng và thất bại, đạo đức con người như đang bị suy giảm tới mức báo động trong các ngành nghề, nạn tham nhũng đã trở nên giặc nội khó diệt…
Nhìn qua mọi sự, đến giờ phút này đây, chúng ta phải khẳng định rằng Thiên Chúa là chủ lịch sử, hướng dẫn các biến cố nhân loại. Chúng ta phó thác vận mệnh tương lai cho Chúa và thưa rằng: "Lạy Chúa, chúng con đặt niềm tin tưởng nơi Chúa" !
Biết ơn là một hành vi hết sức nhân văn của con người ở mọi thời và mọi nơi. Ai càng biết ơn TET 30-22
Biết ơn là một hành vi hết sức nhân văn của con người ở mọi thời và mọi nơi. Ai càng biết ơn nhiều bao nhiêu, người đó càng trở nên người hơn bấy nhiêu. Vì thế, khi ta nhận được một ân huệ nào đó của ai, ta thường nói lời cám ơn. Người không biết cám ơn là người sống chưa trưởng thành đủ.
Chiều tối hôm nay, chúng ta quy tụ nhau tại nơi đây để cử hành Thánh lễ tất niên. Gọi là tất niên, vì đây là thời điểm kết thúc 365 ngày của năm cũ. Nhìn lại, trong suốt một năm qua, chúng ta lãnh nhận biết bao ơn lành đến từ Chúa. Vì thế, thái độ tạ ơn là điều rất chính đáng và phải đạo để dâng lên cho Chúa trong thánh lễ hôm nay.
1. Kinh Thánh dạy cho con người biết phải tạ ơn
Đọc Kinh Thánh, chúng ta thấy đây đó, rất nhiều chỗ nói về thái độ biết ơn cần phải có của con người đối với Thiên Chúa.
Chẳng hạn như trong Thánh Vịnh, chúng ta bắt gặp câu: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (x. Tv 136); hay: “Lạy Chúa, xin dâng lời cảm tạ, vì Ngài đã nghe lời miệng con xin” (x. Tv 138); và “Hãy dâng Chúa bài ca cảm tạ, gảy khúc hạc cầm mừng Thiên Chúa chúng ta” (Tv 147).
Tâm tình tạ ơn chúng ta còn tìm thấy ngay trong bài đọc I hôm nay. Tiên tri Isaia đã nhắc lại cho dân về những ân tình mà Thiên Chúa đã vì yêu thương mà ban tặng cho con người, ngài nói: “Tôi xin nhắc lại ân nghĩa Đức Chúa, dâng lời ca tụng Đức Chúa, vì tất cả những gì Đức Chúa đã thực hiện cho chúng tôi vì lòng nhân hậu lớn lao của Người đối với nhà Itraen, vì những gì Người đã thực hiện, bởi lòng Người đầy thương xót và lắm nghĩa giàu ân” (Is 63, 7).
Sang bài đọc II, thánh Phaolô cũng nhắc cho dân về tình yêu và lượng hải hà mà Thiên Chúa ban nơi Đức Giêsu. Hơn nữa, chính thánh nhân là người đã cất cao lời tạ ơn Chúa thay cho con cái của mình: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô Giêsu”. Đây là hành động nêu gương cho cộng đoàn của ngài về thái độ biết ơn Chúa (x. 1 Cr 1,3-9). Thánh nhân còn mời gọi: “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh” vì “đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu” (1 Tx 5:16-18).
Đỉnh cao của thái độ tạ ơn chính là ơn cứu chuộc. Tâm tình này đã được Giáo Hội đưa vào Kinh tiền tụng IV như sau: “Thật ra, Cha không cần chúng con ca tụng, nhưng được tạ ơn Cha lại là một hồng ân cao cả, vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời”.
Tuy nhiên, muốn tạ ơn cho xứng đáng, chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của Mẹ Maria trong bài Tin Mừng hôm nay.
2. Thái độ tạ ơn của Mẹ Maria và của chúng ta
Khi ý thức được thân phận tôi hèn nơi mình, nhưng lại được Thiên Chúa yêu thương và trao ban một ân huệ lớn lao là được trở thành Mẹ Thiên Chúa ngang qua việc cưu mang và sinh hạ Đức Giêsu. Ngay lập tức, mẹ đã coi đây là ân huệ lớn lao không chỉ cho riêng Mẹ, nhưng cho toàn thể nhân loại qua muôn ngàn thế hệ, vì thế, Mẹ đã cất lên: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc”.
Lời tạ ơn này phải là lời tạ ơn kiểu mẫu cho hết mọi người ở mọi nơi. Thế nên, ngay lúc này, chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của Mẹ Maria để: Tạ ơn Chúa vì hồng ân sự sống, hồng ân Đức Tin; tạ ơn Chúa vì những điều kỳ diệu Chúa đã làm nơi mình và tha nhân; Tạ ơn Chúa vì Ngài đã cứu giúp, bênh đỡ ta khỏi muôn điều ác hại.
Như vậy, hành vi tạ ơn của chúng ta không chỉ dừng lại nơi thánh lễ hôm nay, mà nó phải kéo dài trong suốt cuộc đời của mình. Nó cũng không dừng lại ở khía cạnh nhất thời, nhưng phải liên lỉ; nó không chỉ dược cất lên lúc thuận buồm xuôi gió, lúc ăn nên làm ra, lúc thoát khỏi bệnh tật hiểm nguy...mà là trong mọi hoàn cảnh.
Vì thế, tâm tình tạ ơn không có tính thời vụ theo kiểu buôn bán, cũng chẳng phải lâm thời theo kiểu nay người mai ta, nhưng tâm tình tạ ơn phải như nhịp đập con tim, hơi thở linh hồn...
Khi tạ ơn như thế, chúng ta dễ nhận ra ơn lành của Thiên Chúa trên cuộc đời, và hơn nữa, luôn được bàn tay của Thiên Chúa phù trợ chở che.
Trong giờ phút linh thiêng huyền nhiệm này, chúng ta hãy thành khẩn xin lỗi Chúa vì biết bao lần chúng ta để cho thái độ vô ơn ngự trị trong tâm hồn. Đã biết bao lần chúng ta bị ảnh hưởng và đi đến những tuyên bố trắng trợn rằng: những gì tôi có là do công khó của tôi, do tự nhiên có, chứ đâu có bàn tay can thiệp gì của Thiên Chúa.
Xin Chúa tha thứ những tội lỗi ấy cho chúng ta. Và giờ đây, chúng ta hãy cùng với chính hy tế của Đức Giêsu trên bàn thờ để dâng lên Thiên Chúa trong tâm tình tạ ơn, để Ngài ban nhiều ơn lành cho chúng ta.
Đây chính là tâm tình và sứ điệp của Lời Kinh tạ ơn Magnificat mà Đức Trinh Nữ Maria đã cất lên trong bài Tin Mừng chúng ta vừa đón nghe. Amen.
Chiều hôm nay, cộng đoàn chúng ta họp nhau cử hành Thánh Lễ Tạ Ơn nhân ngày Tất Niên, ngày TET 30-23
Chiều hôm nay, cộng đoàn chúng ta họp nhau cử hành Thánh Lễ Tạ Ơn nhân ngày Tất Niên, ngày kết thúc một năm cũ, năm Giáp Thân 365 ngày của năm cũ sắp đi qua mang theo bao nhiêu vui buồn sướng khổ, những giọt mồ hôi lẫn nước mắt, những nụ cười hoan vui lẫn xót xa cay đắng. Chúng ta xin dâng lên Thiên Chúa tất cả để hiệp cùng của lễ cực thánh là chính hiến Tế của Chúa Kitô làm thành Lời Ca Tụng Tạ Ơn tôn vinh Thiên Chúa, như chính Đức Kitô đã hiến dâng của lễ Tạ Ơn Chúa Cha là cả cuộc đời trong Hy Tế Thập Giá mà chúng ta đang tái diễn qua Thánh Lễ nầy.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi chúng ta để xứng đáng cử hành Thánh Lễ.
Giảng Lời Chúa:
Đã lắm phen và bằng nhiều cách, Thiên Chúa đã dạy bảo loài người chúng ta phải biết sống thái độ tạ ơn. Qua bao nhiêu bài Thánh Vịnh, thánh thi trong cựu ước chúng ta gặp không biết bao nhiêu lời tạ ơn đã được cất lên: "Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ
Hãy dâng Chúa bài ca cảm tạ Gảy khúc hạc cầm mừng Thiên Chúa chúng ta (Tv 147)
Ngay trong Bài Đọc 1 hôm nay, sứ ngôn I-sa-i-a đã thay lời Thiên Chúa nói với muôn thế hệ nhân loại rằng:
Tôi xin nhắc lại ân nghĩa Chúa, dâng lời ca tụng Chúa, vì tất cả những gì Chúa thực hiện cho chúng tôi, vì lòng nhân hậu lớn lao của người đối với nhà Ít-ra-en, vì những gì Người đã thực hiện, bởi lòng Người đầy lòng thương xót và lắm nghĩa giàu ân".
Nhưng để có một lời Tạ ơn cao cả nhất, trọn vẹn nhất phải đợi đến khi Thiên Chúa sai Con Một mình! Vâng, chỉ có người Con nhân loại và chính là Con Thiên Chúa, đã đến để dẫn dắt con người đi vào quỹ đạo của tình yêu tạ ơn, đi vào thái độ hiếu nghĩa tin yêu dành cho Thiên Chúa một cách trọn hảo qua chính cuộc đời Ngài.
1. Đức Kitô thiết lập nghĩa cử tạ ơn bằng cuộc đời vâng phục:
Nếu dân tộc của Giao ước cũ đã minh chứng niềm tin và lòng tri ân hiếu thảo đối với Thiên Chúa qua những của lễ chiên bò, hy sinh và tạ tội; thì trong trật tự của Giao Uớc Mới, của lễ tuyệt hảo nhất, lời tạ ơn trọn vẹn nhất dành cho Thiên Chúa lại chính là Con Người của Đức Kitô, là cuộc đời và toàn bộ cuộc sống của Ngài, một cuộc đời trọn vẹn vâng phục thánh ý Chúa Cha:
Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Kitô đã nói: "Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: lạy Thiên Chúa, nầy con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con." (Dt 10,5)
Thật vậy, Đức Kitô đã đến giữa trần gian và đã biến cả vũ trụ trở nên một "đền thờ vĩ đại" và đã qui tụ toàn nhân loại chung quanh Ngài để làm nên một cuộc "đại thờ phượng", một cuộc tạ ơn và phụng thờ Thiên Chúa vượt qua mọi biên giới không gian, xuyên suốt mọi thời gian. Bởi vì đó là cuộc thờ phượng Thiên Chúa trong Thánh Thần và Chân lý:
"Nầy chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi nầy hay tại Giê-ru-sa-lem.....Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc nầy đây – giờ những người thờ phượng đích thức sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế." (Ga 4,21-24)
Qua những chỉ dẫn của Tin Mừng, chúng ta còn biết được rằng: thái độ tạ ơn, tâm tình tri ân cảm tạ lại chính là thái độ cốt yếu của tinh thần "Tám mối Phúc thật", tinh thần "nghèo khó, khiêm hạ, yêu thương...", tinh thần luôn biết đưa tay hướng mắt về phía Thiên Chúa với niềm tin yêu phó thác của những con người như Bà Góa bị loạn huyết 18 năm xứ Canaan, của người phung hủi ngoại bang được chữa lành, của viên sĩ quan có người tôi tớ đau nặng, của người đàn bà tội lỗi khóc lóc ăn năn, của những người thu thuế bị loại trừ như Gia-kê, Lê-vi, của các trẻ thơ xúm quanh để chờ được chúc lành hay của người kẻ trộm sắp sửa đi về bên kia thế giới với hy vọng sẽ được cứu độ trong Vương quốc phục sinh...
Rồi cũng chúng ta cũng biết được rằng: trên môi miệng của Đức Kitô luôn vang lên lời tri ân cảm tạ: "Lạy Cha, con tạ ơn Cha, vì Cha đã dấu..."
Và còn hơn thế nữa Ngài đã tạ ơn bằng chính 1 cuộc đời vâng phục mà chỉ trọn vẹn khi Ngài nói lời "Con phó thác hồn con trong tay Cha". Đó chính là lời tạ ơn trọn hảo nhất bằng Hy Tế Thập Giá mà hôm nay trên mọi bàn thờ chúng ta đang tái diễn mỗi ngày.
2. Đức Trinh Nữ Maria và lời Tạ Ơn Magnificat:
Cảm tạ hồng ân của Thiên Chúa trong Đức Kitô, nhờ Đức Kitô và với Đức Kitô chính là con đường đức tin của Dân Chúa hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Và may mắn thay, trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại suốt 2000 năm nay, đã có một "bài ca tạ ơn", đã có một "cuộc đời tạ ơn" theo cung cách ấy. Đó chính là bài ca "Magnificat", đó chính là "cuộc đời của Trinh nữ Maria". Quả thật cuộc đời của Đức Mẹ được phản ảnh qua bài Magnificat mà Tin Mừng hôm nay vừa nhắc đến là mô hình sống động, là mẫu gương sáng ngời để nhân loại bước đi trong "con đường tạ ơn" Thiên Chúa, trên nẽo đường đáp trả hồng ân.
- Tạ ơn: trước hết là như Đức Maria dâng lên lời ngợi khen Thiên Chúa và hân hoan vì hồng ân cứu độ Ngài đã ân ban: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa...."
- Tạ ơn: phải chăng như Đức Maria nhận ra "những việc lạ lùng Thiên Chúa đã thực hiện nơi tôi".
- Tạ ơn phải chăng như Đức Maria luôn biết nhận ra bàn tay Thiên Chúa đưa ra nâng đỡ thân phận yếu hèn, lòng quảng đại Chúa mở ra để ban cho dư đầy ơn phúc.
-Tạ ơn phải chăng là luôn xác tín mãnh liệt và đầy lòng trông cậy vững vàng trước lời hứa và kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa: "Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta. Vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời".
Và Mẹ đã hoàn tất lời tạ ơn tuyệt diệu đó vào Chiều Thứ Sáu trên đồi Can-vê khi Mẹ thay cho nhân loại dâng hiến lễ Tạ Ơn đầu tiên cùng với Con yêu dấu trên bàn thờ Thánh Giá.
3. Sống chiều kích Tạ Ơn trong nhỏ nhặt đời thường:
Qua lời kinh Tạ Ơn Magnificat của Đức Maria, và nhất là, qua cuộc đời đã trở nên Hy Tế TẠ Ơn của chính Đức Kitô, chúng ta cảm nhận được rằng:
- Thái độ Tạ Ơn, cuộc sống Tạ Ơn không chỉ là một hành vi mang tính "thời sự', "cơ hội" đột xuất (như được khỏi cơn bệnh hiểm nghèo, thoát qua cơn hoạn nạn, tránh được hiểm nguy, làm ăn buôn bán trúng mánh, trúng số độc đắc...), nhưng "Tạ Ơn" phải là một thái độ, một nhịp sống, một cử hành thường xuyên, từng phút giây, mọi biến cố, trên mọi nẽo đường cuộc sống. Đó chính là cách ứng xử mà mấy ngàn năm trước, ông thánh Gióp đã từng nêu gương: "Chúa cho, Chúa cất lấy, xin cảm tạ ơn Chúa!". Dĩ nhiên, có những thời điểm, có những biến cố dễ gợi mở tâm tình chúng ta hướng về Thiên Chúa trong thái độ tạ ơn đặc biệt...Nhưng không phải, chỉ tạ ơn trong những hoàn cảnh, những thời điểm đặc biệt thôi, còn ngoài ra thì "bàn tay ta làm nên tất cả", có nhờ vả ai đâu, có khấn xin gì nào mà phải tạ ơn cám ơn...
- Bởi vì, chính khi chúng ta cử hành cuộc sống trong thái độ tạ ơn, chúng ta sẽ thấy cuộc đời mình nhỏ lại, khiêm hạ hơn, khó nghèo hơn, trái tim kiêu căng hợm hĩnh sẽ được biến đổi để trở nên nhỏ bé hiền lành, và từ đó con mắt tâm hồn sẽ khám phá ra muôn vạn hồng ân của Cha trên trời vây bọc xung quanh. Ngày hôm nay, hơn lúc nào hết, cái nảo trạng 'đương nhiên" của chủ nghĩa duy vật vô thần đang âm thầm hay mãnh liệt len lỏi vào mọi ngỏ ngách của cuộc sống. Vì đã lý luận như thế: "đương nhiên trái cấm nầy thuộc về tôi, địa đàng nầy là của tôi, tôi cóc cần Thiên Chúa với những luật lệ của Ngài..." mà A-đam và E-Va đã đẩy nhân loại vào vũng lầy nguyên tội. Cũng vì lý luận như thế: tôi khỏi phung cùi chắc là do số phận run rủi, là tới lúc phải được như thế, chứ ông Giêsu nào có can thiệp gì đâu... nên chín người phung cùi được khỏi bệnh đã không thèm trở lại tạ ơn Chúa Giêsu! Còn chúng ta hôm nay thì sao. Có thấy được "phép lạ tình yêu của Thiên Chúa" ghi dấu ấn trên đời thường cuộc sống mỗi ngày để ngước mắt tạ ơn, hay chỉ là những thở dài oán trách Chúa vì đã van xin bao điều mà sao vẫn cứ hoài vô vọng. Có thấy bàn tay quan phòng của Thiên Chúa tế nhị ấp yêu trên mọi biến cố cuộc đời để cảm tạ tri ân, hay chỉ thấy mọi sự là "đương nhiên" để cóc cần phải tính sổ với Thiên Chúa.
Trong giờ phút thiêng liêng khi trời đất sắp sửa giao mùa, chúng ta có dịp ngồi lại với nhau trước mặt Chúa để nhờ ánh sáng của Lời Ngài mà nhìn lại cuộc sống, mà cảm nhận muôn vạn hồng ân Chúa đã ân ban trong suốt một năm. Và điều quan trọng hơn hết, phải chăng là chúng ta được cùng với Đức Kitô dâng Hy Tế Tạ Ơn nầy như một nghĩa cử của lòng hiếu thảo mến yêu, của tâm tình tri ân cảm mến; và cũng chính qua sứ điệp của lời kinh tạ ơn Magnificat của Đức Trinh Nữ Maria, chúng ta được gọi mời từ hôm nay, biết mở lòng đón nhận và khám phá muôn điều kỳ diệu Chúa đã làm, để từ đó biến cuộc sống trở thành "Lời ca khen cảm tạ Magnificat":
Hồn tôi tán tụng Chúa Trời, Lòng tôi hoan hỷ dâng lời tạ ơn, Tạ ơn Chúa chuộc khoan nhân, Thương người tỳ nữ, thương thân phận hèn. Từ nay thiên hạ ca khen, Rằng tôi có phúc, có duyên lạ lùng. Rằng tôi bé mọn khiêm cung, Được bàn tay Chúa oai hùng điểm trang, Cho tôi nên trọng nên sang, Cho Danh Thánh Chúa hiển vang muôn đời (SĐTT, NXV)
Trong đời sống cá nhân hoặc trong mỗi gia đình cũng thế, những gì chúng ta có được là do tình TET 30-24
Trong đời sống cá nhân hoặc trong mỗi gia đình cũng thế, những gì chúng ta có được là do tình yêu thương của Thiên Chúa. Chúng ta làm được chút gì đó chỉ là nhỏ bé thôi, còn mọi sự là do Chúa. Tâm tình khiêm tốn đó sẽ giúp chúng ta luôn nhớ và biết tạ ơn Chúa, giúp chúng ta thành con cái đích thực của Thiên Chúa.
Bổn phận của chúng ta là phải biết tạ ơn Thiên Chúa, đó là tâm tình không thể thiếu được trong cuộc sống con người. Bởi lẽ Thiên Chúa không tạo dựng thì chẳng có chúng ta. Chúa ban sự sống và cả vũ trụ này cho chúng ta thừa hưởng. Đó chính là tất cả tình thương của Thiên Chúa, và có thể nói tất cả những gì chúng ta có được đều từ nguồn sống của Thiên Chúa. Thế nhưng, nhận ra điều này và tỏ lòng biết ơn Chúa thì loài người chúng ta rất thiếu sót, nếu không muốn nói rằng thật là vô ơn bạc nghĩa đối với Thiên Chúa; bởi vì chúng ta được Chúa ban cho, nhưng rất ít khi có tâm tình biết tạ ơn. Hình ảnh trong bài Tin Mừng hôm nay chứng minh cho chúng ta thấy, mười người phong cùi được chữa lành nhưng chỉ có một người biết quay về tạ ơn Chúa.
Ngày xưa, phong cùi là thứ bệnh nan y, nên khi mắc phải sẽ bị tách ra khỏi cộng đoàn, không được tiếp xúc với mọi người. Người mắc bệnh phải đeo lục lạc, khi nghe tiếng lục lạc mọi người phải tránh xa vì sợ lây bẩn. Vì vậy, mặc dù họ còn sống mà như người đã chết, không được tham dự các nghi lễ và liên quan với mọi người khi gặp trên đường, phải cúi mặt kêu to cho mọi người biết mà tránh xa. Đau khổ về tinh thần còn hơn nhiều so với căn bệnh của thể xác, họ luôn bị hất hủi.
Đối với Chúa Giêsu, Người không có sự tránh né. Đến lượt người phong hủi cần Chúa thì Người đã chạm tay chữa lành cho họ, bất chấp cả lề luật. Chúa chỉ nói một câu đơn giản: “Hãy đi trình diện với các tư tế” (Lc 17, 14). Trình diện với tư tế để được chứng nhận là đã lành sạch, khỏi bị ô uế, và được tái nhập vào cộng đoàn. Theo cách nói ngày nay là khỏi bị “rút phép thông công”, mà được hiệp thông với cộng đoàn.
Với mười người phong hủi sau khi được chửa khỏi bệnh, coi như mình là người đã chết mà nay được sống lại, dĩ nhiên điều đáng làm trước tiên là họ phải biết tạ ơn người đã chữa lành cho mình. Thế nhưng, chỉ có một trong số mười người quay trở lại để tạ ơn, mà đó lại là người Samari. Theo Kinh Thánh, người Samari là dân ngoại. Có lẽ vì lý do sâu xa là dân ngoại thì đâu có tư tế để đi trình diện, nên chỉ biết quay về với Chúa thôi; còn chín ông kia là dân Do Thái nên chỉ biết vâng lời Chúa dạy, có thể sau khi đi gặp tư tế phải lo nhiều thủ tục nghi thức mất thời gian, hoặc được về sum họp gia đình thì quá mừng vui bận rộn không còn thời giờ quay lại tạ ơn, thậm chí quên đi cả việc tạ ơn Thiên Chúa, hay có thể là muốn quay lại nhưng chẳng biết có gặp được Chúa hay không!
Rất nhiều lần trong cuộc sống của chúng ta bắt gặp điều này. Khi chúng ta đi khám chữa bệnh, luôn cầu xin Chúa ban cho điều này điều kia. Đến lúc được Chúa nhậm lời ban cho khỏi bệnh thì mình cũng là người chậm tạ ơn, lâu dần rồi thành quên luôn, vì bận bịu như chín người đi gặp tư tế. Đôi khi chính vì hình thức luật lệ đã làm cho chúng ta quên mất nghĩa tình đối với Chúa, quên đi bổn phận phải tạ ơn Thiên Chúa. Trong khi người Samari vì là dân ngoại nên không bị ràng buộc chi phối vì lề luật của người Do Thái, thì việc đầu tiên của anh ta là quay lại để tạ ơn. Hi vọng cuộc sống của mỗi người chúng ta có thể nhập vai những người phong hủi này để rút ra được bài học cho riêng mình đối với Thiên Chúa.
Cách riêng về hội đoàn Gia đình Phạt tạ Thánh Tâm trong giáo hạt, năm qua đã phát triển được hai xứ đoàn. Đó là một điều mà nhìn lại như trong mơ, vì điều mơ ước mà ai cũng mong muốn làm sao cho các giáo xứ đều có đoàn thể Phạt tạ. Chúa đã ban cho ước mơ này trở thành hiện thực, vì lẽ chúng ta sống khiêm nhường và hiền lành theo tinh thần của Chúa Giêsu và được Chúa đã nhậm lời chúng ta cầu xin.
Chúa đã ban cho chúng ta rồi, nhưng điều quan trọng cần lưu ý là nhiều khi chúng ta lo làm về hình thức mà quên cân đối tổ chức, quên đi tinh thần hiền lành khiêm nhường phục vụ, quên mất tâm tình tạ ơn. Muốn tạ ơn thì phải có sự khiêm tốn và hiền lành, bởi vì khi đạt được nhiều thành công quá sẽ trở nên ỷ lại vào sức mình, sinh ra kiêu căng ngạo mạn, cho mình là hay; lúc đó còn đâu tinh thần của Chúa để được chúc lành.
Những thành công hôm nay nơi xứ đoàn mình hay giáo hạt mình chỉ là công sức đóng góp nho nhỏ của chúng ta đối với Chúa, còn tất cả là của Chúa. Chúng ta nên luôn luôn sống thiết thực trong tâm tình tạ ơn, mọi của cải không phải của mình mà là của Chúa. Luôn sống đẹp lòng Chúa thì Chúa sẽ chúc lành cho công việc chúng ta. Mỗi xứ đoàn trong giáo hạt đều phải cần xây dựng tâm tình là tất cả những gì chúng ta làm được đều là của Chúa, qua đó chúng ta sẽ nói được rằng: “Chúng con chỉ là những đầy tớ vô dụng, chúng con chỉ làm việc theo bổn phận đấy thôi” (Lc 17, 10).
Trong đời sống cá nhân hoặc trong mỗi gia đình cũng thế, những gì chúng ta có được là do tình yêu thương của Thiên Chúa. Chúng ta làm được chút gì đó chỉ là nhỏ bé thôi, còn mọi sự là do Chúa. Tâm tình khiêm tốn đó sẽ giúp chúng ta luôn nhớ và biết tạ ơn Chúa, giúp chúng ta thành con cái đích thực của Thiên Chúa. Đứng trước sự vong ân bội nghĩa của loài người, những đoàn viên Gia đình Phạt tạ Thánh Tâm Chúa sẽ trở thành những người luôn luôn biết xác tín tạ ơn Chúa, bằng những tâm tình yêu thương trong cử chỉ, lời nói, việc làm của chúng ta, để bù lại sự thiếu sót mà nhân loại đã lãng quên trước tình yêu bao la của Thánh Tâm Chúa dành cho mọi người.
Thánh lễ tạ ơn hôm nay là để nhắc nhở và cũng là dịp để chúng ta hiệp thông dâng lên Chúa tâm tình tạ ơn, đền bù phạt tạ; vì những thiếu sót mà nhân loại đã quên đi bổn phận cảm tạ, trước những hồng ân Chúa đã thương ban trong suốt năm qua./-
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hạt giống và hạt cải làm ví dụ để nói về Nước TET 30-25
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng hạt giống và hạt cải làm ví dụ để nói về Nước Thiên Chúa.
Nước Thiên Chúa được thiết lập giống hệt như một tiến trình gieo gặt trọn vẹn: từ hạt giống, hạt nẩy sinh thành cây, rồi thành bông lúc. Như người dân Palestina, sau khi gieo hạt giống, họ âm thầm chờ đợi lúa chín để gặt hái, chứ không hề biết hạt giống được gieo xuống đất đã phát triển như thế nào: Chúa Giêsu cũng gieo hạt giống Nước Trời nơi tấm lòng con người, cùng với ơn Chúa, Nước đó âm thầm phát triển lan rộng khắp thế giới, tạo nên mùa gặt các linh hồn. Chúa Giêsu chỉ đích thân có mặt trong mùa gieo giống và mùa gặt hái. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian chờ đợi, Ngài vẫn tiếp tục hoạt động một cách vô hình, qua Chúa Thánh Thần và Giáo Hội. Khi Nước Thiên Chúa đã phát triển đến mức tối đo, Ngài sẽ trở lại trong vinh quang, thu hoạch mùa gặt của Ngài.
Dụ ngôn hạt cải là dụ ngôn cuối cùng trong năm dụ ngôn về Nước Thiên Chúa. Cũng như các dụ ngôn trước, dụ ngôn này được rút ra từ đời sống thôn dã. Nó đưa ra một nét tương phản hấp dẫn: hạt cải nhỏ xíu trở thành một cây to lớn. Nước Thiên Chúa cũng mang nơi mình một nghịch lý tương tự: Dưới cái nhìn của thánh Marcô, dụ ngôn hạt cải chứa đựng cách diễn tả tuyệt vời về bí mật Mêsia. Cho đến lúc này, hành vi của Chúa Giêsu có thể bị coi là vô nghĩa và Nước Thiên Chúa vẫn chỉ là một thực tế khiêm tốn. Dù vậy, các dân ngoại đang nhìn thấy sự tăng trưởng dị thường của nó như các Kitô hữu ở Rôma đã kinh nghiệm được điều này. Chính Giáo Hội tiên khởi, dù yếu đuối, vẫn ý thức được mình đang tham dự vào sự thành công của một công trình đã sẵn tiềm tàng nguồn sinh lực vô biên, công trình này sẽ đạt tới mức hoàn vũ vào cuối giai đoạn phát triển của nó.
Hạt giống đã trải qua một quá trình phát triển âm thầm trước khi tới mùa gặt; hạt cải được trồng dưới đất cũng phải trải qua một quá trình cho đến khi trở thành một cây lớn. Trong những bổn phận dù âm thầm hằng ngày, chúng ta hãy tin tưởng phó thác cho quyền năng yêu thương của Chúa, chính Ngài sẽ làm cho công việc chúng ta thực hiện theo ý Chúa đạt tới kết quả vượt quá sức tưởng tượng của chúng ta, và như vậy chúng ta sẽ làm ích cho chính bản thân, cho tha nhân và cho Nước Chúa. Xin Chúa củng cố chúng ta trong niềm xác tín đó.
Người nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất TET 30-26
Người nói: “Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nảy mầm và mọc lên, bắng cách nào thì người ấy không biết.” (Mc. 4. 26-27)
Phúc âm hôm nay lấy chủ đề là việc gieo giống. Nhưng những lời lẽ được dùng lại vang lên những âm điệu mới lạ đáng chúng ta quan tâm suy nghĩ: mầu nhiệm Đức Kitô có một sức mạnh âm thầm hằng thúc đẩy để mầu nhiệm ấy được thực hiện trọn vẹn; dầu có tính cách mong manh, mầu nhiệm ấy vẫn có một sức mạnh vô địch; sau cùng lòng gắn bó hoặc tin cậy vào Chúa Giêsu giúp ta hiểu biết đầy đủ về mầu nhiệm này.
Một sức mạnh âm thầm
Mỗi ngày ta khó nhọc vất vả gieo hạt giống Nước Trời, mong cho Nước Chúa trị đến. Nào là: kinh lễ, hội họp, thảo luận, phục vụ, thăm viếng tình nghĩa, dạy giáo lý, hoạt động nghề nghiệp, săn sóc bệnh nhân, dạy học, làm việc chân tay… Chúng ta tin rằng thực hiện một trong những công việc kể trên là làm cho chúng ta sống mầu nhiệm phục sinh, là đưa mọi loài thụ tạo đến sự phục hồi. Ta tin nhưng mắt không nhìn thấy gì cả. Những kết quả công khó của ta thường âm thầm kín đáo. Chúng ta phải khiêm tốn và có khi phải cay đắng chấp nhận những giới hạn của thân phận con người.
“Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như …”, Chúa Kitô nói với chúng ta như vậy mà, …
Ta hãy kiên nhẫn và tin tưởng!
Một sức mạnh vô địch
Chúa còn kể dụ ngôn thứ hai, dụ ngôn hạt cải, để ta thêm vững lòng. Thực vậy, Chúa đặt đối chọi nhau hai sự thể: một bên là cái mong manh bé nhỏ, bên kia lại là những kết quả to lớn đạt được. “Cây cải mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng”.
Chúng ta không thường sống sự tương phản này sao, sự tương phản giữa một bên là những dấu chỉ mong manh, còn bên kia là những kết quả to lớn đạt được? Tất cả đời sống bí tích chỉ là việc xử dụng một loại hạt giống nhỏ nhất để rồi hạt giống đó trở thành một dấu chỉ sinh ân sủng vô vàn của Chúa.
Chỉ có ai yêu mến mới hiểu được
Sau cùng, những dụ ngôn này kết thúc với lời ghi nhận rằng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Chúa Giêsu giải nghĩa hết cho các Tông đồ. Sự gắn bó, gần gũi với Chúa giúp ta tiến tới Người vượt xa mức bình thường mà quần chúng có thể tiếp cận được, bởi vì xét cho cùng người ta chỉ có thể hiểu biết rõ được một người khi ta yêu mến người đó.
Sau khi kể lại một loạt dụ ngôn mà Đức Giê-su đã dùng trong lời giảng của mình, dụ ngôn người TET 30-27
Sau khi kể lại một loạt dụ ngôn mà Đức Giê-su đã dùng trong lời giảng của mình, dụ ngôn người gieo giống, dụ ngôn cái đèn, dụ ngôn đấu đong, dụ ngôn hạt giống và dụ ngôn hạt cải, thánh sử Mác-cô kết luận:
Người không bao giờ nói với họ mà không dùng dụ ngôn.
Câu nói này của thánh Mác-cô rất là triệt để và chúng ta cần lưu tâm cách đặc biệt; bởi lẽ theo đó, dụ ngôn không chỉ là một trong những cách thức giảng dạy của Đức Giê-su, nhưng còn là chính cách thức giảng dạy của Người; hay ít nhất chúng ta có thể nói rằng, một mình cách giảng dạy bằng dụ ngôn đủ để diễn tả toàn bộ lời giảng của Đức Giê-su. Một nhà chú giải còn đi xa hơn khi nói rằng, Đức Giêsu là “Dụ Ngôn của Thiên Chúa” cho con người. Trong bài tin Mừng hôm nay, thánh sử Mác-cô, trong bài Tin Mừng hôm nay còn nói:
Nhưng khi chỉ có thầy trò với nhau, thì Ngài giải thích hết.
Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về sự khó hiểu của các dụ ngôn, cũng giống như các môn đệ xưa; và vì thế chúng ta cảm thấy có nhu cầu học hỏi. Đúng là phải học, nhưng điều này vẫn chưa đủ, thậm chí không phải là yếu tố quyết định; bởi lẽ lời Chúa hôm nay muốn nói với chúng ta rằng chúng ta cần ở lại với Đức Giê-su (thay vì thấy khó rồi bỏ đi), im lặng lắng nghe chính Ngài giải thích. Chính tương quan thiết thân với Đức Kitô, và sự hiểu biết Đức Kitô mà thánh Phaolô nói tới trong thư Phi-líp-phê mới là quyết định để hiểu các dụ ngôn: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi” (Phil 3, 8)
Những dụ ngôn mà Đức Giêsu kể luôn là một câu chuyện đến từ kinh nghiệm đời thường và từ thiên nhiên. Nhưng các dụ ngôn lại nói cho chúng ta những điều kín ẩn: kín ẩn về Thiên Chúa, kín ẩn về con người, kín ẩn về mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người và giữa con người với nhau, kín ẩn về chương trình cứu độ của Thiên Chúa, kín ẩn về Nước Trời. Chúng ta được mời gọi nhớ lại bao nhiêu có thể những dụ ngôn mà Đức Giêsu đã kể trong các Tin Mừng và xin Chúa dẫn chúng ta vào “những điều kín ẩn” ở bên dưới các dụ ngôn, như thánh sử Mát-thêu nói:
Tất cả các điều ấy, Đức Giê-su dùng dụ ngôn mà nói với đám đông; và Người không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn, hầu ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ: Mở miệng ra, tôi sẽ kể dụ ngôn, công bố những điều được giữ kín từ tạo thiên lập địa. (Mt 13, 33-34)
Dụ ngôn hạt giống và hạt cải
Khi nói đến Nước Thiên Chúa, chúng ta thường nghĩ ngay đến năng lực của con người: con người yếu đuối, tội lỗi, bất lực; thế giới và xã hội chúng ta đang sống đầy hỗn mang, lệch lạc, ô nhiễm… Nhưng, để giúp chúng ta hiểu mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, lời của Đức Giêsu lại mời gọi chúng ta chiêm ngắm năng lực của thiên nhiên, đúng hơn là năng lực của một trong những điều nhỏ bé nhất của thiên nhiên, để nhận ra điều kì diệu vượt qua mọi nỗ lực của con người: “
Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất… Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất.
(c. 26 và 31)
Đó là năng lực của hạt lúa, đó là năng lực của hạt cải. Đúng là trong hai dụ ngôn nhỏ này, Đức Giê-su hình như xem nhẹ công sức của con người. Tuy nhiên, đó lại là sự thật của muôn đời: dù con người có cố mấy đi nữa cũng không thể thay thế được sức sống của thiên nhiên, dù hiểu biết khoa học của con người có tiến bộ mấy đi nữa cũng không thấu hiểu được thiên nhiên, nhất là sự sống trong thiên nhiên. Nhưng xét cho cùng, với những dụ ngôn này, Đức Giêsu không muốn dạy chúng ta về thế giới thực vật, nhưng Ngài mời gọi chúng ta hãy chiêm ngắm thiên nhiên để cảm nghiệm được năng lực ẩn dấu nhưng thật mạnh mẽ và kì diệu của Nước Thiên Chúa, của Hạt Giống Giê-su, ngang qua mầu nhiệm Vượt Qua, nẩy mầm, thành cây, trỗ đòng đòng và thành “bông lúa nặng trĩu hạt”.
Thật vậy, hai dụ ngôn hạt giống và hạt cải thật nhỏ bé và rất tự nhiên (nghĩa là không có những yếu tố “lạ thường” mà các dụ ngôn thường có), nhỏ bé và tự nhiên như chính hình thức (rất ngắn) và nội dung của dụ ngôn (hạt giống và hạt cải nhỏ bé khiêm tốn). Tuy nhiên, niềm hy vọng mà hai dụ ngôn này có thể khơi dậy nơi tâm hồn người nghe thì rất to lớn và rất siêu nhiên:
Niềm hy vọng to lớn. Bất chấp tất cả, bất chấp Sự Dữ, bất chấp những hoàn cảnh khó khăn hay bất lợi, bất chấp những giới hạn, yếu đuối, tội lỗi của loài người, của người khác, của anh em, của chị em và của chính chúng ta, bất chấp hạt giống rất nhỏ bé mong manh đang có trong thế giới, trong cộng đoàn và trong lòng chúng ta, Nước Trời mà chúng ta hy sinh cả đời để xây dựng trong đời sống dâng hiến, tất yếu sẽ hiện hữu, lớn mạnh và đạt tới sự viên mãn. Hình ảnh đồng lúa trĩu hạt và chín vàng và hình ảnh cây cải cành lá sum suê đến độ chim trời làm tổ trên cành được diễn tả sự viên mãn tất yếu của NT.
Niềm hy vọng siêu nhiên. Bởi vì đó chỉ có thể là công trình của Thiên Chúa, công trình kì diệu diễn ra trước mắt chúng ta. Thật ra, ngay trong tiến trình lớn lên tự nhiên của hạt lúa và hạt hạt cải đã có điều gì đó là siêu nhiên rồi, trong mức độ con người không thấu suốt và làm chủ được hoàn toàn.
Điều mà hai dụ ngôn này muốn diễn tả, đang được thực hiện cho cộng đoàn chúng ta, cho từng người chúng ta mỗi ngày ngang qua việc đọc và cầu nguyện với Lời Chúa, ngang qua Thánh Lễ được cử hành và ngang qua ngày sống được nuôi dưỡng bằng Lời và Mình của chính Đức Ki-tô. Từng ngày và từng ngày, dù bất cứ điều gì đã xẩy ra trong nội tâm của chúng ta, tất cả chúng ta, từng người và cả cộng đoàn, đã được Chúa gieo hạt giống. Hạt giống thật nhỏ bé và mong manh, nhưng tất yếu sẽ tạo nên mùa màng bội thu và trở nên to lớn và bền vững. Bởi vì đó là sức mạnh tất yếu của Lời Chúa. Hạt giống chính là Lời Chúa. Như chính Đức Chúa đã tuyên bố:
Lời TA, một khi xuất phát từ miệng ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.
(Is 55, 11)
Hạt Giống “Giê-su
Trong bữa tiệc li, theo Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu nói: « Anh em là bạn của Thầy » và « Không có ai có tình yêu lớn hơn người từ bỏ sự sống cho những người bạn của mình » (Ga 15, 13-14). Qua hành vi trao bánh và rượu cho các môn đệ, qua hành vi rửa chân của các ông, Đức Giêsu muốn Phê-rô và tất cả chúng ta hiểu ra rằng Ngài không chỉ muốn gieo Lời của Ngài, nhưng còn muốn gieo chính bản thân của Ngài. Vì Lời của Ngài và Ngôi Vị của Ngài là một. Hạt giống là chính Đức Giê-su, là Sự Thiện và Sự Sống nơi Người, mạnh hơn Sự Dữ và Sự Chết, chính vì vậy mà sự viên mãn của Nước Trời là tất yếu.
Trong thiên nhiên, mầu nhiệm Nước Thiên Chúa được ghi khắc, và không chỉ mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, nhưng đỉnh cao của mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, nghĩa là mầu nhiệm Vượt Qua, cũng được khi khắc trong thiên nhiên, khi Đức Giêsu nói:
Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.
(Ga 12, 24)
Đức Giê-su ví lời của mình và chính bản thân mình với hạt giống. Như thế, trong thiên nhiên, còn ghi khắc mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô. Và nếu trong thiên nhiên, mầu nhiệm Nước Thiên Chúa và mầu nhiệm Vượt Qua được ghi khắc thật rõ nét, thì trong lịch sử loài người, trong thế giới và xã hội chúng ta đang sống và trong chính cuộc đời của mỗi người chúng ta, mầu nhiệm Nước Thiên Chúa và mầu nhiệm Vượt Qua còn được ghi khắc rõ nét hơn biết bao. Có thể nói, cuộc đời của chúng ta như thế đó cũng là một dụ ngôn nói về Nước Thiên Chúa, về mầu nhiệm Vượt Qua.
Xin cho con tim chúng ta bừng cháy, khi nhận ra “điều kín ẩn” này và quảng đại mở lòng ra để cho Chúa Thánh Thần hoàn tất mầu nhiệm Nước Thiên Chúa và mầu nhiệm Vượt Qua nơi cuộc đời của chúng ta.
Bài hát “Nhật Ký Đời Tôi” của nhạc sĩ Thanh Sơn có đoạn nói về phút chạnh lòng nhìn lại cuộc TET 30-28
Bài hát “Nhật Ký Đời Tôi” của nhạc sĩ Thanh Sơn có đoạn nói về phút chạnh lòng nhìn lại cuộc đời: “Ngược thời gian trở về quá khứ phút giây chạnh lòng. Bao nhiêu kỷ niệm, bao nhiêu ân tình chỉ còn lại con số 0. Ai thương ai rồi và ai quên nhau rồi? Trong suốt cuộc đời tương lai trả lời thôi…”
Trong bối cảnh của ngày cuối năm Âm Lịch, chúng ta cũng có dịp nhìn lại suốt một năm qua với bao nhiêu kỷ niệm, bao nhiêu ân tình, giờ còn lại điều gì? Chúng ta đã thương ai và đã quên ai, chúng ta đã làm được gì cho Chúa và cho nhau… Hay tất cả chỉ còn là con số không?
Chúng ta nhìn lại, không phải để thất vọng và nuối tiếc, nhưng nhìn lại để tạ ơn Thiên Chúa vì một năm đã trải qua đủ vui buồn sướng khổ, nhưng tất cả đều trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa. Chúng ta hãy cùng Mẹ Maria cất cao lời tạ ơn Thiên Chúa qua bài Magnificat mà bài Tin Mừng hôm nay ghi lại:
Xuất xứ của lời kinh Magnificat cho đến nay vẫn chưa hết những tranh luận của nhiều nhà thần học, nhưng dựa theo chính những lời được thốt ra trong lời kinh “Từ nay hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc” mà đặc ân “đầy ơn phúc” lúc này chỉ có nơi Mẹ Maria và được khẳng định qua sứ thần Gabriel cũng như của bà Elisabeth, nên ta không nghi ngờ gì nữa mà chắc chắn lời kinh này được hát lên từ môi miệng Mẹ Maria, ca ngợi lòng thương xót của Chúa đã thực hiện lời hứa cứu chuộc dân Người. Tuy lời kinh hoạ lại tâm tình của bà Anna mẹ của Samuel (x. 1Sm 2, 1- 10) cùng với những chắt lọc ý nguyện của các lời kinh Cựu Ước đương thời, nhưng quan trọng hơn cả là được đọc trong một tâm tình của một người nữ tỳ được chọn làm Mẹ Thiên Chúa và cộng tác trực tiếp trong chương trình cứu độ.
Kinh Magnificat được khởi đầu bằng niềm vui của một con người được cứu độ (x. Lc 1, 47), kế đến nói lên lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho những ai hèn mọn (x. Lc 1, 48- 53) . Đặc biệt, điều được nói đến nhiều nhất là sự đối nghịch giữa thế lực giàu và người nghèo bị áp bức, và Thiên Chúa đã yêu thương cứu giúp người nghèo khó khiêm hạ.
Có thể nói, Mẹ Maria đã cất lên bài ca của những người bị áp bức, mà trong đó Mẹ và bà Elisabeth diễn tả mối bận tâm của mình dành cho dân Israel. Mẹ Maria đã nhận vào trong con người của Mẹ một cảm thức và mối bận tâm của bà Anna sau khi bà này sinh hạ Samuel, và ca ngợi về tất cả những điều này vào trong một bài ca biết ơn. Luca giữ lấy cảm thức này cho chúng ta trong kinh Magnificat mà ngài đặt như là một lời dẫn cho việc công bố của Đức Giêsu về sứ mạng của Người là giải phóng người nghèo và những kẻ bị bỏ rơi (Lc 4, 18- 19).
Cụm từ “tapeinoi” hoặc “anawim” theo ngôn ngữ Hy Lạp muốn nói về một người nghèo bình thường, không quyền hành, không ảnh hưởng. Khi hát lên lời này, Đức Maria như muốn tuyên bố, Thiên Chúa không đánh giá con người theo tiêu chuẩn trần thế. Những con người thành đạt, giàu sang và leo lên đỉnh cao quyền lực, có lẽ sẽ làm cho mọi người kính nể và sợ sệt, nhưng đối với Thiên Chúa thì không. Giàu sang và quyền lực trần thế chỉ là thứ chóng qua như “con người chóng qua như cỏ”. Thiên Chúa chú tâm đến người góa bụa, trẻ mồ côi, người hèn mọn, những con người không có chút quyền hành gì, những con người vô tích sự trước mắt người đời. Kẻ giàu sang quyền thế thường thoả mãn về mình; người nghèo hèn chỉ trông cậy vào Thiên Chúa. Kinh Magnificat là tuyên ngôn: Thiên Chúa là Thiên Chúa của người nghèo và người bị áp bức; phúc cho người nghèo vì có Thiên Chúa là Đấng luôn chăm sóc họ. Mẹ Maria là mẫu gương sự nghèo khó và lời kinh Magnificat mà Mẹ hát lên phản ánh việc Mẹ đứng về phía những người bị áp bức. Điều này làm cho lời kinh này mang một tính cách mạng vĩ đại: cần phải thay đổi vị trí xã hội để mọi người được bình đẳng trước mặt Thiên Chúa.
Kính mời Mẹ cùng vào nhà chúng ta, cùng đến gia đình chúng ta để cùng “ăn tất niên” và ca ngợi Thiên Chúa với chúng ta.
Ngày Tết chúng ta sắm mặc, sửa ăn, ngày đầu năm chúng ta đi chúc tết nhau, con cháu tết ông TET 30-29
Ngày Tết chúng ta sắm mặc, sửa ăn, ngày đầu năm chúng ta đi chúc tết nhau, con cháu tết ông bà cha mẹ, người dưới chúc tết người trên, với biết bao nhiêu lời chúc tốt đẹp,
Tâm Tình Tạ Ơn và Phó Thác
Suy Niệm Thánh lễ Tất Niên
Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương ( Tv 135)
Chúng ta đang cùng nhau sống những giờ phút cuối cùng của năm cũ, và chuẩn bị chia tay năm 2014, năm Giáp Ngọ, bước vào năm 2015, năm Ất Mùi với thời khắc thật linh thiêng. Vào dịp tạ ơn cuối năm, Đức Thánh Cha Phanxicô nói với chúng ta rằng : “Người tín hữu Kitô hữu dựa trên Thánh Kinh thấy thời gian không mang tính tuần hoàn mà là một đường thẳng: thời gian là con đường dẫn đến chung cuộc”. Đúng thế, nêu chúng ta nhìn lại một năm vừa trôi qua chính là một bước đi hướng đến sự hoàn tất của lịch sử, đến cứu cánh của nhân loại là hy vọng và vui mừng được gặp Chúa, thị việc tạ ơn này thật là ý nghĩa.
Chắc chắn mỗi người mang một tâm tình, vui, buồn, sướng, khổ, thành công hay thất bại. Nhưng giờ phút này đây, tất cả đều có chung một ý tưởng là tạ ơn và phó thác. Tạ ơn, vì Chúa đã cho chúng ta sống đến giờ phút này, còn gì thích hợp và ý nghĩa hơn khi chúng ta mặc lấy tâm tình của Mẹ Maria để hát vang lên tới Chúa : “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa... vì Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1, 29-55). Lời của thánh Phaolô nhắn nhủ với tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca xưa kia, nay ngài muốn nói với mỗi người chúng ta rằng: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Kitô Giêsu.” (1 Tx 5, 16-18). Chúng ta cảm tạ Thiên Chúa, về ân huệ Người đã thương ban (1Cr 1, 3-9).
Nhìn lại trong năm qua, chúng ta thấy các biến cố lần lượt diễn ra : các thảm kịch và hy vọng, niềm vui và đau khổ, chiến thắng và thất bại; kinh tế thế giới tiếp tục lún sâu, thiên tai ngày càng khủng khiếp xuất hiện siêu bão, tai nạn dữ hơn, thời tiết khắc nghiệt hơn, hành vi người với người đối xử với nhau giã man hơn v.v...
Việt Nam chúng ta đang lún sâu vào cuộc khủng hoảng về nhiều phương diện từ đạo đức đến nhân văn, từ mô hình phát triển xã hội đến từng bước phát triển, từ lãnh đạo đến đường lối, từ kinh tế đến chính trị, từ ổn định xã hội đến an ninh quốc phòng, đạo đức con người như đang bị suy giảm tới mức báo động trong các ngành nghề như y học và giáo dục, nạn tham nhũng trở nên hệ thống hơn từ trên xuống dưới... chúng ta đang phải đối mặt với thực tại.
Nhìn qua mọi sự, đến giờ phút này đay, chúng ta phải khẳng định rằng Thiên Chúa là chủ lịch sử, Ngài hướng dẫn các biến cố nhân loại. Ngài đồng hành với con người và không ngừng thực hiện những điều vĩ đại. Làm sao chúng ta có thể không cám ơn Người vào đêm nay? Và nhất là trong năm Tân Phúc Âm Hóa Giáo xứ này, làm sao chúng ta có thể không dâng lên Người lời tuyên xưng: "Lạy Chúa, chúng con đặt niềm tin tưởng nơi Chúa"!
Giờ đây chúng ta mặc lấy tâm tình của Mẹ Maria hướng về trời cao và cất lên lời tạ ơn Thiên Chúa và phó thác nơi Ngài. Bởi lẽ, tạ ơn là thái độ căn bản của người Kitô hữu đối với Thiên Chúa, vì tất cả những gì con người có đều là hồng ân của Thiên Chúa.
"Linh hồn tôi ngợi khen... Thần trí tôi hớn hở vui mừng... Ngài đã làm cho tôi những điều kỳ diệu..."
Chúng ta đồng thanh hiệp ý với Mẹ ca tụng những điều kỳ diệu của Thiên Chúa đã và còn đang làm trong lịch sử : Người đã và còn đang biểu lộ quyền năng của Ngài... đã và còn đang làm tan rã những kẻ kiêu căng... đã và còn đang hạ xuống người quyền thế... đã và còn đang nâng dậy kẻ khiêm cung... đã và còn đang ban tràn đầy ơn lành cho người đói khát... đã và còn đang đuổi người giàu có ra về tay không... đã và còn đang cứu giúp Israel Dân Người." Ðó là bảy hành động của Thiên Chúa là Chúa của lịch sử: Người luôn đứng về phía những kẻ thấp hèn nhất, những kẻ được Thiên Chúa tuyển chọn, những ai "kính sợ Người, trung thành với Lời Người; đó là những kẻ khiêm tốn, những kẻ đói khát; đó là Israel người tôi tớ trung thành của Người; đó là cộng đồng dân Chúa, được kết thành bằng những kè nghèo hèn, trong sạch và đơn sơ trong tâm hồn, như Mẹ Maria.
Thánh lễ này diễn ra vào giờ phút cuối cùng của năm 2014 Âm Lịch, đôi mắt chúng ta hướng nhìn lên Chúa là nguồn gốc và cùng đích của đời sống chúng ta. Vì không có Chúa, chúng ta sẽ không hiện hữu, không có Chúa sẽ chẳng có gì, hoàn toàn không có gì. Chúa là Đấng “vạn vật được tạo thành” (Ga 1, 13), Chúa là Đấng mà nhờ Chúa, chúng ta được tạo thành, và sống cho đến phút này đây. Không có Chúa, sự sống không thể đạt đến vận mệnh cuối cùng của nó. Không có Chúa sẽ chẳng có gì, hoàn toàn không có gì. Chính Người giúp chúng ta đối diện với các thách đố trong năm mới; chính Người ban cho chúng ta khả năng sử dụng đời sống để làm vinh danh Thiên Chúa và mưu ích cho nhân loại. Chúng ta hãy để tình yêu Ngài lôi cuốn cuộc đời ta.
Lúc này đây, chúng ta hãy đặc biệt nhớ tới và cầu nguyện cho những ai đang đau khổ, những ai đang gặp khó khăn và những ai đang sống trong buồn phiền, để khẩn cầu sự trợ giúp quan phòng của Chúa.
Cái nhìn của chúng ta giờ đây mở rộng ra hướng về gia đình, giáo họ, giáo xứ, giáo phận, toàn thể Hội Thánh và thế giới. Chúng ta hy vọng rằng Năm Mới sẽ đem lại hoà bình, công lý, tình huynh đệ và sự thịnh vượng cho tất cả mọi quốc gia! Nguyện xin Ðức Nữ Trinh Rất Thánh, Hừng Đông của thời đại mới, giúp chúng ta nhìn lịch sử đã qua và Năm Mới khởi đầu với con mắt đức tin. Xin cầu chúc một Năm Mới hạnh phúc đến với mọi người! Amen.