Phần đông Ki-tô hữu chúng ta coi việc cầu nguyện như một việc đạo đức tùy hứng, tùy hoàn cảnh Đề tài 1
Phần đông Ki-tô hữu chúng ta coi việc cầu nguyện như một việc đạo đức tùy hứng, tùy hoàn cảnh, tùy tâm trạng... và sự cầu nguyện của chúng ta thường chỉ tập trung vào việc “xin xỏ” là chính! Mặt khác, chúng ta lại đồng hoá “đọc kinh” với “cầu nguyện”. Thực ra đọc kinh là một cách cầu nguyện, nhưng có nhiều người đọc kinh mà không cầu nguyện vì chỉ đọc một cách máy móc mà không đạt được sự hiệp thông với Thiên Chúa. Trong một ngày, có thể chúng ta đọc nhiều kinh, nhưng lại ít cầu nguyện. Có thể khi cầu nguyện chúng ta quy hướng về mình nhiều hơn là hướng tâm hồn lên với Chúa, ca tụng Chúa, kết hợp với Chúa hoặc cầu cho tha nhân...
Thực vậy, “Cầu nguyện là hiệp thông. Trong Tân Ước, cầu nguyện là sự hiệp thông của con cái với Thiên Chúa Ba Ngôi. Sống đời cầu nguyện là luôn hiện diện trước nhan Thiên Chúa và hiệp thông với Ngài. Lời cầu nguyện mang đặc tính Kitô giáo khi được hiệp thông với lời cầu nguyện của Đức Kitô, và được triển khai trong Hội thánh là Nhiệm Thể Người. Nâng tâm hồn lên là nâng sự hiểu biết từ việc đặt mình làm trọng tâm đến mức đặt Thiên Chúa làm trọng tâm. Nâng tâm hồn lên là kết hợp với Thiên Chúa, là hiệp thông với Ngài” (x. “Cầu nguyện là gì?”, nguồn giaoly.org).
Như vậy, việc cầu nguyện của người Ki-tô hữu không dừng lại như những việc đạo đức lẻ tẻ, nhất thời, mà đó là một đời sống đích thực. Lúc đó việc cầu nguyện bao trùm, ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống chúng ta. Nó chính là sự sống và hơi thở của ta vậy. Đức Cố HY Phx Nguyễn Văn Thuận đã viết như sau: “Bí quyết nuôi dưỡng đời sống Ki-tô hữu là cầu nguyện. Ai không cầu nguyện, dù có làm phép lạ, con cũng đừng tin” (Sách Đường Hy Vọng, đề mục Cầu Nguyện). Thánh An-phong-sô cũng đã nói như sau: “Sự giàu có của ta là cầu nguyện và ngày nào không cầu nguyện là ngày vất bỏ. Bỏ cầu nguyện là tự dìm mình vào hoả ngục”.
* NHỮNG HÌNH THỨC CẦU NGUYỆN THÍCH HỢP
Khi cầu nguyện, Chúng ta thường có thói quen cầu xin những ơn cần thiết cho mình và cho người khác. Điều đó không có gì là sai. Nhưng đôi khi những ý cầu xin của chúng ta lại quá tập trung vào những điều vật chất, tầm thường, vụ lợi...như thi đậu, trúng số, có công ăn việc làm, phỏng vấn có kết quả, trả được nợ, chữa lành bệnh vv. Bên cạnh đó, miệng lưỡi chúng ta lải nhải cầu xin một cách máy móc, trong khi lòng chúng ta lại không hướng về Chúa, không kết hợp với Chúa. Đây cũng chính là điều mà Chúa Giê-su lên án mạnh mẽ, “Dân này thờ Ta ngoài môi ngoài miệng nhưng lòng nó thì xa Ta” (Mc 7,6; x. Is 29,13).
Về những hình thức cầu nguyện chính thống và phổ biến nhất, Hội thánh đã dạy, “Chúa Thánh Thần là Đấng dạy dỗ và nhắc lại cho Hội thánh tất cả những gì Đức Giê-su đã nói, chính Người dạy Hội thánh cầu nguyện bằng cách khơi lên những cách diễn tả mới cho các hình thức kinh nguyện quen thuộc: Chúc tụng, Khẩn cầu, Chuyển cầu, Tạ ơn và Ca ngợi” (x. GLHTCG 2644).
Thực vậy, “Sự gặp gỡ huyền nhiệm của cầu nguyện bao gồm 5 hình thức cơ bản, đó là thờ lạy, cầu xin, cầu bầu, cảm tạ, và ngợi khen.
Thờ lạy tuyên xưng sự cao cả của Chúa, Đấng Tạo Hóa và Nuôi Dưỡng ta, trong tinh thần khiêm tốn và tôn kính. Lòng khoan dung vô biên của Chúa khiến ta chúc tụng Đấng là nguồn mọi ơn phúc trong đời sống của ta.
Lời cầu nguyện cầu xin thừa nhận sự lệ thuộc của ta vào Thiên Chúa là Cha, đặc biệt nó nhắc nhớ ta quay về với Ngài với lòng ăn năn, sám hối và cầu xin ơn tha thứ.
Qua lời cầu nguyện cầu bầu, ta đặt niềm tin của mình vào lòng thương xót của Thiên Chúa, đặc biệt là vào Cha là Đấng luôn quan tâm đến nhu cầu của con người.
Lời cầu nguyện cảm tạ nói lên sự biết ơn mà thích hợp với mọi người trưởng thành và thật thà, đặc biệt là nó kêu gọi ta chú ý đến việc Chúa Giêsu cứu chuộc và làm cho ta được trở nên tự do.
Cuối cùng, lời cầu nguyện ngợi khen ca hát Chúa vì chính bản thân Ngài, tôn vinh Ngài không những vì các kỳ công của Ngài, mà còn vì Ngài là Ngài.
Tóm lại, 5 hình thức cầu nguyện cho phép ta yêu mến Chúa vì những kỳ công Ngài đã tạo dựng, yêu mến Chúa vì lòng thương xót của Ngài, yêu mến Chúa vì sự hiện diện và giúp đỡ của Ngài trong cuộc sống ta, yêu mến Chúa vì sự cứu chuộc dịu dàng của Ngài, và yêu mến Chúa vì chính bản thân Ngài” (x. “Cầu nguyện”, nguồn simonhoadalat.com).
* THÁI ĐỘ VÀ TÂM TÌNH KHI CẦU NGUYỆN Hơn ai hết, chính Chúa Giê-su đã nói và làm gương cho chúng ta về những thái độ và tâm tình cần có khi cầu nguyện. Trước hết, Ngài thúc giục các môn đệ phải cầu nguyện luôn, không nản chí (x. Lc 18,1-8). Khi cầu nguyện, tránh thái độ giả dối, phô trương. Tốt nhất là vào nơi kín đáo để cầu nguyện (x. Mt 6, 5-6). Khi cầu nguyện, các môn đệ của Chúa cũng đừng bắt chước dân ngoại, họ lải nhải vì họ nghĩ rằng cứ nói nhiều là được nhận lời (x. Mt 6, 7). Một điểm đặc biệt khác mà Chúa muốn nhắc nhở các môn đệ, đó là khi cầu nguyện, phải tuyệt đối vâng theo thánh ý Chúa. Ngài phán, “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7, 21).
Hội thánh cũng dạy rằng, “Khi cầu nguyện, chúng ta bắt đầu với tâm tình nào? Với lòng kiêu hãnh và ý riêng ta, hay với tâm tình khiêm nhường và thống hối ‘thẳm sâu’? (Tv 130,14); ‘Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên’ (x. Lc 18,14). Khiêm nhường là tâm tình căn bản của cầu nguyện, ‘vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải’ (Rm 8,26). Khiêm nhường là tâm tình phải có để đón nhận được ơn cầu nguyện: trước mặt Thiên Chúa, con người chỉ là kẻ van xin ” (GLHTCG số 2559).
Thánh Phao-lô nhắc nhở tín hữu phải cầu nguyện luôn với tâm tình vui mừng cảm tạ. Ngài viết: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su” (1Tx 16-18). Riêng thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su thì tâm sự rằng, “Đối với tôi, cầu nguyện là sự hứng khởi của tâm hồn, là cái nhìn đơn sơ hướng về trời, là lời kinh tri ân và yêu mến giữa cơn thử thách cũng như lúc hân hoan ” (Sách Tự Truyện).
Khi cầu nguyện, dù là dưới hình thức riêng tư nhưng chúng ta không cô đơn, lẻ loi. Chúng ta được hiệp nhất với Thiên Chúa Cha trong Đức Giê-su Ki-tô, được nung đốt bởi Chúa Thánh Thần, được chan hòa trong tình hiệp thông với anh em trong cùng một Nhiệm Thể. Quả vậy, “Cầu nguyện nhắc nhở rằng ta không cô đơn trong đời sống đức tin. Cầu nguyện không chỉ kéo ta đến gần Chúa, nhưng nó còn kết hợp ta với từng người thánh thiện khác mà có lòng yêu mến Chúa giống như ta” (x. “Cầu Nguyện”, nguồn simonhoadalat.com).
Tóm lại, “Khi cầu nguyện, chúng ta không những chỉ xin ơn, mà đến cùng Thiên Chúa như con thảo để tỏ lòng biết ơn Cha nhân lành vì muôn hồng ân Người đã ban. Đồng thời vui hưởng tình yêu của Chúa Ba Ngôi dành cho chúng ta và cùng Đức Mẹ, các Thánh và các tín hữu khác chia sẻ tình yêu ấy. Thực ra xin ơn không cần thiết bằng đạt được sự hiệp thông này, vì một khi hiệp thông như thế, chúng ta được tất cả những gì tốt đẹp nhất mà Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta” (x. “Cầu nguyện là gì?”, nguồn giaoly.org)./.
Hiện nay không khó để chứng kiến tại nhiều giáo xứ sự việc này là cung thánh đã mặc nhiên biến Đề tài 2
Hiện nay không khó để chứng kiến tại nhiều giáo xứ sự việc này là cung thánh đã mặc nhiên biến thành sân khấu để phục vụ múa hát do các đoàn-thể-hội-nhóm trẻ thực hiện như Thiếu nhi Thánh Thể, Huynh trưởng Thiếu nhi Thánh Thể, Giáo lý viên, Giới trẻ vv... Việc biểu diễn múa hát này, nếu diễn ra tại một nơi chốn không phải là cung thánh thì không nói làm gì. Nhưng đây hầu hết người ta đã chọn cung thánh như là sân khấu để trình diễn thì những sinh hoạt này, theo thiển ý người viết, cần được xem lại.
Những cuộc diễn này không phải là buổi trình diễn thánh ca hay diễn nguyện, nhưng là diễn theo kiểu sinh hoạt. Có múa, có hát, có di chuyển, có âm thanh của tiếng ca và tiếng nhạc từ một đĩa CD, ầm ầm khiến nhiều người tham dự có cảm giác “bị tra tấn”! Mặt khác, khi diễn, các diễn viên đi lại nhảy múa trên cung thánh và quay mặt xuống cộng đoàn. Cung thánh bỗng mất đi tính cách linh thánh do những sinh hoạt không đúng chỗ này.
Thực vậy, “Từ ngữ ‘cung thánh’ trong tiếng Việt được dịch từ tiếng La-tinh sanctuarium. Từ này, theo nghĩa đen, có nghĩa là đền thánh hay nơi thánh, phát xuất từ chữ sanctus, nghĩa là thánh hay thuộc thần thánh. Cung thánh là nơi thánh vì quy chiếu đến khu vực phụng tự trong nhà thờ, đặc biệt là chung quanh bàn thờ”. [1]
Nhân đây, cũng xin mạn phép được nói thêm về việc dâng hoa kính Đức Mẹ. Nhiều nơi tổ chức dâng hoa tại sân nhà thờ hay một nơi bên ngoài nhà thờ. Nhưng cũng có nhiều nơi cho dâng hoa ngay trên cung thánh. Lúc đó, tượng Đức Mẹ hoặc là để ngay trên mép ngoài bàn thờ phía quay xuống cộng đoàn hoặc đặt tượng Đức Mẹ trên một bàn, một bục hay kiệu có chưng hoa nến đèn, đặt gần bàn thờ.
Ở đây, xin đưa ra hai thắc mắc:
a- Có nên đặt tượng Đức Mẹ trên bàn-thờ-dâng-lễ để dâng hoa hay không?
Chúng ta đều biết rằng, “Bàn thờ là nơi quan trọng nhất của nhà thờ, là trung tâm điểm của phụng vụ Thánh Thể. Sở dĩ bàn thờ được coi là quan trọng, vì đó là nơi Thiên Chúa và con người gặp gỡ, liên kết với nhau, là nơi mà Thiên Chúa đến với loài người và loài người đến với Thiên Chúa. Bàn thờ cũng tượng trưng cho Chúa Kitô, mối giao tiếp tuyệt hảo của sự gặp gỡ giữa con người với Thiên Chúa, bởi vì trong ngôi vị của Chúa Kitô, vừa có bản tính Thiên Chúa, vừa có bản tính loài người... Nếu bàn thờ có ý nghĩa phong phú như thế, bạn đừng lấy làm lạ khi thấy vị linh mục cúi hôn bàn thờ lúc bắt đầu thánh lễ. Đó là cử chỉ tôn kính đối với Chúa Kitô và đối với hy lễ của Người”. [2]
Vậy, khi dâng hoa kính Đức Mẹ, chúng ta có nên đặt tượng Đức Mẹ ngay trên bàn thờ thay vì đặt trên một cái bục, cái bàn hay cái kiệu bên ngoài bàn thờ không?
b- Khi dâng hoa, chúng ta có nên cho các em tiến hoa quay xuống “dâng hoa” cho cộng đoàn không?
Khi tham dự các buổi dâng hoa, nếu chúng ta lưu ý thì sẽ thấy rằng có nhiều phân đoạn trong buổi dâng hoa, các em dâng hoa, múa hoa, tiến hoa, thay vì quy hướng về tượng Đức Mẹ thì lại quay lưng lại với tượng Đức Mẹ mà quay xuống “dâng hoa” cho cộng đoàn ngồi bên dưới. Xét cho kỹ thì điều này không còn ý nghĩa gì nữa!
Thiết nghĩ, khi dâng hoa, Đức Mẹ phải là trung tâm của mọi quy hướng, trong đó tiếng hát, cử điệu múa, sẽ giúp cộng đoàn tín hữu sốt sắng hiệp thông trong lời ca tiếng hát dâng lên Mẹ./.
Một hôm, Đức Giê-su vào một làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà. Đề tài 3
“Một hôm, Đức Giê-su vào một làng kia.
Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón Người vào nhà.
Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ.
Cô tiến lại mà nói : ‘Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao ? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay !’
Chúa đáp : ‘Mác-ta! Mác-ta ơi!
Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá !Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi’ " (Lc 10, 38-42).
Câu chuyện hai chị em gia đình Bê-ta-ni-a đón tiếp Đức Giê-su đến thăm đã được thánh sử Lu-ca phác họa một cách ngắn ngủi nhưng sinh động và ẩn chứa nhiều ý nghĩa đặc biệt. Điều khiến cho chúng ta vừa thắc mắc vừa kinh ngạc khi khám phá ra sự khác biệt về thái độ và tâm trạng của hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a trong cùng một sự kiện, đó là việc đón tiếp Chúa ở nhà mình. Cũng với lòng yêu mến Chúa như nhau, nhưng Mác-ta thì tất bật lo việc phục vụ bên ngoài, trong khi Ma-ri-a thì cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Ngài dạy. Còn Chúa thì Ngài phản ứng thế nào? Chắc chắn Chúa cũng thương mến cả hai chị em như nhau, nhưng Ngài đã nghiêng về sự lựa chọn của Ma-ri-a, “Mác-ta! Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10, 41-42).
“Chỉ có một chuyện cần thiết và Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất”. Đó là lời khẳng định dứt khoát của Chúa và lời ấy đã vén mở cho ta về cách sống đạo đẹp lòng Chúa nhất. Khác hẳn với Mác-ta, Ma-ri-a đã coi việc ngồi bên chân Chúa, nghe lời Ngài dạy là chuyện cần thiết và ưu tiên hơn là lăng xăng lo phục vụ cơm nước bên ngoài. Ma-ri-a cũng không phải là người vô cảm, vô trách nhiệm nhưng cô đã nghe theo tiếng nói của trái tim, của lòng mến, của niềm tin để chọn phần tốt nhất.
Có thể nói, Ma-ri-a trong câu chuyện này của Lu-ca đã trở thành hình mẫu người Ki-tô hữu đẹp lòng Chúa hơn cả. Bởi vì, “Để làm môn đệ Chúa Giê-su, điều quan trọng trước hết và trên hết phải là sự gắn bó với chính Thầy Giê-su, cho nên phải dành thời gian để lắng nghe Người (Lc 10, 39), gặp gỡ Người. Nếu không, ta sẽ dễ rơi vào mối nguy hiểm là lao vào đủ thứ công việc được gọi là yêu thương và phục vụ, nhưng thật ra chỉ làm theo ý mình chứ không phải ý Chúa, chỉ đi tìm bản thân mình chứ không kiếm tìm lợi ích thật sự cho người khác”. [1]
Ở đây ta có thể thấy Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất, tức là đã thể hiện lòng mến Chúa một cách trọn vẹn và đầy ý nghĩa. Đối với Ma-ri-a, yêu mến là hiện diện bên Chúa, là lắng nghe Chúa nói và là thực thi ý muốn Ngài.
* YÊU MẾN LÀ HIỆN DIỆN
Các đôi lứa yêu nhau họ thường tìm đến nhau để có thể ở với nhau, ở bên nhau. Sự hiện diện của họ với nhau là cần thiết hơn tất cả những lời nói, những hành động lúc xa nhau. Sự hiện diện trong im lặng và trong sâu thẳm của tình yêu luôn là sức mạnh nối kết hai con người, hai trái tim một cách không thể tách rời được.
Lòng mến của Ma-ri-a không cho phép cô rời xa Chúa, ngay cả khi bà chị Mác-ta lên tiếng phàn nàn về sự thờ ơ của cô em mình. Ma-ri-a đã chọn Chúa, thay vì dấn thân vào những việc phục vụ Chúa. Thực vậy, “Chúng ta cũng dễ say mê làm việc của Chúa, đến nỗi quên cả việc gặp Chúa. Có khi chúng ta coi trọng hiệu quả của công việc ta làm cho Chúa mà quên dành giờ cho Chúa. Cầu nguyện là ở với Chúa, nghỉ ngơi bên Chúa, sống tình bạn với Chúa như hai người ngồi bên nhau. Đức cố HY Phx Nguyễn Văn Thuận nhắc ta đặt Chúa lên trên việc-của-Chúa”. [2]
Tuy nhiên, chúng ta biết rằng, đặt Chúa lên trên và lên trước mọi việc khác là một chọn lựa không dễ dàng.
Trong đời sống đạo của mình, chúng ta dễ rơi vào tình trạng mất cân bằng. Đó là chúng ta quá say mê làm những việc-của-Chúa, việc-của-cộng đoàn, việc-của-đoàn thể mà bỏ qua đời sống nội tâm, kết hiệp với Chúa.
Thử hồi tâm xem chúng ta đã sống đạo thế nào. Đạo của chúng ta là Đạo-Chúa, Đạo-Tin-Mừng hay là Đạo-sinh-hoạt, Đạo-đoàn-thể, Đạo-lễ-nghi... Một linh mục đã chia sẻ như sau:
“Nhiều người Kitô hữu và một số chức sắc ngoại quốc đã từng trầm trồ về nét sinh hoạt sầm uất của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Cho tới hiện nay, bước vào thiên niên kỷ thứ III, chúng ta vẫn tương đối an tâm khi nhìn vào các nhà thờ trong giờ lễ, khi nhìn thấy đông đảo tín hữu, nhất là giới trẻ, trong các dịp tĩnh tâm; chúng ta cũng ngạc nhiên khi thấy vẫn còn, và ra như càng ngày càng nhiều hơn, những chuỗi người xếp hàng dài chờ xưng tội…
“Tuy nhiên, trong lòng những tổ chức và sinh hoạt ấy, đời sống đức Tin có tính chất cá vị hình như lại khá yếu kém. Các nhà thờ của chúng ta thường đông người trong những giờ có tổ chức sinh hoạt phụng vụ, nhưng lại vắng hoe khi không có tổ chức nào. Ta thấy rất ít những người đến với Chúa một cách hoàn toàn tự nguyện và xuất phát từ nhu cầu đức Tin trong cuộc đời. Người ta chỉ đến với Chúa vì lề luật, vì sinh hoạt hoặc để xin vài ơn cụ thể nào đó.
“Tổ chức giáo xứ của chúng ta có những ban bệ khá vững chắc, nhưng lại không thể hiện được bao nhiêu cách sống thấm nhuần Tin Mừng. Nhiều giáo xứ, nhất là những giáo xứ lâu năm không có linh mục, vẫn tổ chức các sinh hoạt đạo sầm uất : làm hang đá, rước kiệu, táng xác Chúa, cờ xí, chuông trống, áo xống, ngắm nguyện...Thế nhưng, ngay trong chính những sinh hoạt đạo ấy, người ta lại có thể đấu đá nhau sát ván bằng những phương thức không có một chút men Tin Mừng nào, ngay cả bằng những phương thức xã hội đen!...
“Nhiều người sinh hoạt lâu năm trong hội đoàn, nhiều em sinh hoạt một thời gian dài trong nhóm giúp lễ, nhưng khi hết hội đoàn, rời bỏ nhóm, thì tâm hồn cũng chẳng còn một chút gì là giá trị đạo. Nhiều trường hợp các em lại còn hư hỏng thêm do ‘gần chùa gọi bụt bằng anh’, hoặc do việc kết bè kết nhóm khi sinh hoạt hội đoàn. Nguyên do cũng chỉ vì sinh hoạt trở thành ‘đạo’, thành nguyên lý; và hết sinh hoạt, thì đạo cũng hết”. [3]
Hiện diện trong yêu mến luôn luôn là món quà làm Chúa hài lòng nhất.
* YÊU MẾN LÀ LẮNG NGHE
Trong giao tiếp, lắng nghe là cách tốt nhất để bầy tỏ lòng yêu mến và trân trọng người đối thoại. Ma-ri-a đón tiếp Chúa qua việc ngồi dưới chân Ngài và nghe Ngài tâm sự. Chúng ta có thể hình dung ra sự hài lòng của Chúa về người tín hũu bé nhỏ này. Đồng thời ta cũng nhận ra thái độ chăm chú của cô trong việc nghe Chúa nói và dạy dỗ.
Thực vậy, “Chúng ta cần chiêm ngắm cuộc chia sẻ của Đức Giêsu với chị Maria. Chị ngồi bên chân Chúa và lắng nghe lời Người (Lc 10, 39). Đức Giêsu là người nói và chị Maria là người nghe. Ngài có thể đã chia sẻ với chị về đời sống nội tâm và việc tông đồ của ngài. Được chia sẻ và có người nghe mình chia sẻ là một hạnh phúc. Còn chị Maria thì sung sướng được ngồi nghe trong tư thế của một môn đệ. Người ta có cảm tưởng chị có thái độ thụ động khi nghe. Thật ra để lắng nghe cần tích cực mở tai và mở lòng”. [4]
Phải có lòng mến Chúa thật sự, chúng ta mới có thể lắng nghe Ngài được. Vì nghe thì hời hợt, lơ đãng, mất tập trung, còn lắng nghe thì phải chăm chú, phải đặt để tâm trí và trái tim vào người đối diện, phải chú ý đến câu chuyện, nhất là làm sao có được mối tương giao sâu thẳm giữa người nói và người nghe.
Hàng ngày, Chúa đến với chúng ta và chúng ta được gặp Chúa nhiều cách. Chúng ta không gặp Chúa bằng xương bằng thịt như Ma-ri-a, nhưng được gặp và nghe Chúa Ki-tô Phục sinh nói với ta qua thánh lễ Mi-sa, qua các bí tích, qua Thánh Kinh, qua những lời giảng dạy của bề trên, của các mục tử coi sóc, qua gặp gỡ tiếp xúc trong cộng đoàn hay ngoài xã hội, qua các biến cố vui buồn trong cuộc sống vv... Tuy nhiên để việc gặp Chúa và nghe Chúa nói đạt hiệu quả, chúng ta phải biết lắng nghe nghĩa là lắng đọng tâm tồn, phải tịnh tâm và trút bỏ mọi lo toan cuộc sống.
Ngoài ra, lòng yêu mến đòi buộc chúng ta chẳng những phải lắng nghe Chúa mà còn quyết tâm đem thực hành các giáo huấn của Ngài.
“Phúc thay kẻ lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11, 28). “Giữ Lời Thiên Chúa” có nghĩa là lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Đối với người Ki-tô hữu chân chính, thì việc lắng nghe Lời Chúa luôn kèm theo việc thi hành Lời Chúa. Đây cũng là điều được Đức Giêsu rất quan tâm. Ngài nói: “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21). Không thực hành Lời Chúa thì tất cả chỉ là ảo tưởng, là xây nhà trên cát. Thậm chí không thể nói là đã yêu mến Chúa, hiểu Lời Chúa.
Thực vậy, “Qua hình ảnh, thái độ của Maria, và nhất là được nghe lời chúc phúc của Đức Giêsu cho cô, mỗi người chúng ta hãy yêu mến Lời Chúa, chăm chỉ đọc Thánh Kinh, và nhất là đem Lời Chúa ra thực hành. Đây chính là điều cao trọng nhất để ta thể hiện lòng yêu mến Chúa trọn vẹn. Yêu mến Chúa mà không giữ Lời Chúa thì là người nói dối; giữ Lời Chúa như một luật lệ cứng ngắc, thậm chí chỉ giữ trong nhà thờ mà thôi thì ta sẽ bị rơi vào tình trạng giữ đạo hình thức, hời hợt bên ngoài. Nếu đời sống đạo của chúng ta đúng như vậy, thì chẳng khác gì người mang danh và đeo cái mác Công Giáo, chứ thực ra không phải là người mang Đạo trong mình. Làm thế nào để vừa giữ được những yếu tố bên ngoài mà vẫn có chiều sâu bên trong.
“Nói cách khác, mọi hoạt động của đời tông đồ nơi chúng ta phải được đời sống nội tâm thúc đẩy. Qua đời sống nội tâm, chúng ta suy niệm về cuộc đời, ý định và sứ vụ của Đức Kitô, rồi đến lượt chúng ta, chúng ta cũng chia sẻ và loan báo về một Đức Kitô đã được mặc khải trong Thánh Kinh và nhờ đời sống nội tâm sâu xa bên trong. Như vậy, chúng ta sẽ tránh được tình trạng ‘cho cái chúng ta không có’ "./. [5]
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - [1]- ĐGM P. Nguyễn Văn Khảm, “Đường về Emmaus, học Thánh Kinh trong 100 tuần”, NXB.TG trang 561. [2]- LM Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ, bài “Chọn phần tốt hơn”, nguồn: conggiao.info. [3]- LM Nguyễn Trọng Viễn O.P, bài “Đạo sinh hoạt”, nguồn: simonhoadalat.com. [4]- LM Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ, bài và nguồn đd. [5]- Jos.Vinc. Ngọc Biển, bài “Lắng nghe Lời Chúa là điều tốt nhất”, nguồn: tonggiaophanhanoi.org
Mỗi khi gặp phải những khó khăn, hoạn nạn trong cuộc sống, Ki-tô hữu chúng ta thường tự nhủ Đề tài 4
Mỗi khi gặp phải những khó khăn, hoạn nạn trong cuộc sống, Ki-tô hữu chúng ta thường tự nhủ: “Đó là ý Chúa định”. Khi đến thăm viếng người quá cố, chúng ta cũng có thói quen an ủi tang quyến, “Đây là biến cố Chúa định, xin chia buồn...”. Và đặc biệt mỗi khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta đều cầu nguyện: “Xin ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” để biểu lộ sự vâng phục, phó thác của chúng ta đối với thánh ý Chúa...
Vậy có phải mọi biến cố xảy đến trong cuộc sống này là do ý Chúa định không? Mầu nhiệm quan phòng của Thiên Chúa có ý nghĩa gì và vì sao chúng ta tin tưởng vào việc Thiên Chúa quan phòng?
* CHÚA QUAN PHÒNG LÀ GÌ?
Về những gì liên quan đến việc Thiên Chúa thực hiện ý định của Người, tức sự quan phòng, Giáo lý Hội thánh Công giáo (GLHTCG) đã khẳng định:
- GLHTCG số 302 viết: “Công trình sáng tạo có sự tốt lành và hoàn hảo riêng, nhưng chưa hoàn tất khi được dựng nên. Vạn vật đang ở trong một ‘tiến trình’ hướng đến sự trọn hảo tối hậu do Thiên Chúa định sẵn. Sự quan phòng của Thiên Chúa chính là những đường lối Người xếp đặt để đưa vạn vật tới sự trọn hảo đó”.
- GLHTCG số 323 viết: “Thiên Chúa quan phòng cũng hành động qua hành động của các thụ tạo. Thiên Chúa cho con người được tự do cộng tác vào các kế hoạch của Người ”.
- GLHTCG số 324 viết: “Việc Thiên Chúa cho phép có sự dữ thể lý và sự dữ luân lý là một huyền nhiệm mà Thiên Chúa soi sáng nhờ Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết và sống lại để chiến thắng sự dữ. Đức tin giúp chúng ta xác tín rằng, Thiên Chúa sẽ không cho phép có sự dữ xảy ra nếu Người không rút được sự lành từ chính sự dữ, bằng những con đường mà chúng ta chỉ biết được trọn vẹn trong đời sống vĩnh cửu”.
- GLHTCG số 1037 dạy: “Thiên Chúa không tiền định cho ai xuống hỏa ngục. Ai tự ý lìa bỏ Thiên Chúa bằng một tội trọng và chai lì đến cùng, sẽ phải xuống hỏa ngục. Trong phụng vụ Thánh Thể và trong kinh nguyện hằng ngày của tín hữu, Hội thánh khẩn cầu Thiên Chúa từ bi, Ðấng ‘không muốn cho ai phải diệt vong, nhưng muốn cho mọi người ăn năn hối cải’ (2 Pr 3, 9)”.
* KI-TÔ HỮU VÀ MẦU NHIỆM CHÚA QUAN PHÒNG
Mỗi khi chúng ta đọc kinh “Lạy Cha”, một trong những điều mà chúng ta cầu xin Thiên Chúa quan tâm chăm sóc chúng ta, đó là “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày”, đồng thời chúng ta cũng không quên phó thác cuộc sống đời này cho sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa qua lời nguyện xin, “Xin Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.
Chúa Giê-su, trong thời gian tại thế, cũng đã nhắc nhở các môn đệ nhiều về việc quan phòng của Thiên Chúa. Ngài đã nhấn mạnh: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho. Thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao ? Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được, dù chỉ một gang không ? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì ? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: Chúng không làm lụng, không kéo sợi. Thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: Ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em. Ôi những kẻ kém tin!” (Mt 6, 26 - 30).
Vì lẽ đó, Đức Giê-su kêu gọi chúng ta phải hoàn toàn tin tưởng vào Chúa quan phòng: “Vì thế anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha em em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 31-33).
Ki-tô hữu chúng ta luôn xác tín vào lời mạc khải của Chúa Giê-su và giáo huấn của Hội thánh để có thể tin tưởng hoàn toàn vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan và quyền năng, Người thấu suốt mọi sự.
Thực vậy, “Vũ trụ này được Thiên Chúa tạo dựng và gìn giữ, nên tất cả những gì xảy ra trong vũ trụ này đều hiện diện trước mặt Ngài. Ngài thấu suốt mọi sự: Ngài biết rõ những chuyện đã xảy ra trong quá khứ; Ngài thấy rõ những chuyện xảy ra trong hiện tại và Ngài biết cả những chuyện sẽ xảy ra trong tương lai. Chúa biết tất cả những gì xảy ra trong cuộc đời của con người, của từng người, cả những ý nghĩ sâu kín nhất trong tâm hồn chúng ta. Vì thế, khi chúng ta thiếu thốn, khi chúng ta lo âu, khi chúng ta gặp rủi ro hoạn nạn, ốm đau bệnh tật thì Chúa đều biết hết. Có nhiều lúc chúng ta gặp oan ức, đau khổ trong tâm hồn mà người khác không biết nhưng có Chúa biết. Chúa biết, nhưng có khi Chúa vẫn để nó xảy đến với chúng ta vì Chúa muốn chúng ta chạy đến kêu cầu Ngài thì Ngài mới cứu giúp. Ngài làm như thế là để tôn trọng tự do của chúng ta, đồng thời để chúng ta khiêm tốn hơn trước mặt Ngài” (LM. Anthony Trung Thành, bài “Thiên Chúa quan phòng”, nguồn conggiao.info).
Thiên Chúa khôn ngoan lại đầy quyền năng cho nên trong việc quan phòng của Người, Người hành động một cách kỳ diệu, lạ lùng mà trí khôn ta không thể thấu suốt được. “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của Ta cũng không phải là đường lối của các ngươi”(Is 55,8). Vì thế đối với những việc xảy ra cho mình, dù tốt hay xấu, người tín hữu cũng vẫn một lòng tin tưởng và phó thác vào Chúa quan phòng. Thánh Phao-lô đã nhắn nhủ các tín hữu: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định ” (Rm 8, 28).
* Thiên Chúa quyền phép nhưng lại là người một người Cha nhân ái, giàu lòng thương xót.
Sự quan phòng kỳ diệu của Người luôn nhắc nhở chúng ta về dung mạo của một Thiên Chúa là Tình Yêu (x. 1Ga 4,16). Thực vậy, “Trong Thánh Kinh, khuôn mặt Thiên Chúa là khuôn mặt của một người Cha, Ngài chăm sóc tạo vật và cung cấp cho chúng tùy theo nhu cầu: Chúa ban thực phẩm đúng lúc cho tất cả (Tv 145, 15t; 104, 27t), cho súc vật cũng như cho loài người (Tv 36, 7; 147, 9). Đó chính là khía cạnh mà từ ngữ quan phòng gợi lên” (x. Mục từ “Quan phòng”, Điển ngữ Thần học Thánh Kinh HV Pi-ô X Đàlat).
Vì là một người Cha nhân ái, quyền năng, nên tất cả những ý định và hành động của Người đều tốt lành. Chúa Giê-su đã mạc khải rất nhiều về điều này (x. Mt 6, 25-34; 10, 28-31; Lc 6,34; 12, 22-32; 21,18). Do đó trong tâm tình và thân phận làm con, chúng ta phải biết cúi đầu tạ ơn, như thánh Phao-lô đã khuyên bảo: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su” (1Tx 5, 18).
Trong đời sống thường ngày, chúng ta dễ dàng chao đảo, mất đức tin. Chúng ta lìa bỏ Thiên Chúa để tin theo số phận, tin vào bói toán, tin vào những thần này thần kia. Chúng ta tin vào sự may rủi hơn là tin vào sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa. Chúa Giê-su đã nhắc bảo các môn đệ: “Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi. Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Lc 12, 7), và “Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc; vì mạng sống thì hơn của ăn, và thân thể thì hơn áo mặc...Phần anh em, đừng lo tìm cho có gì để ăn, có gì để uống, và đừng băn khoăn. Vì tất cả những thứ đó, dân ngoại trên thế gian vẫn tìm kiếm; nhưng Cha của anh em thừa biết anh em cần những thứ đó. Vậy hãy lo tìm Nước của Người, còn các thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Lc 12, 22-31).
* Thiên Chúa là đấng công minh chính trực.
Mặc dù Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, nhưng Người cũng tỏ ra là một Đấng công minh chính trực. Người là một người Cha nhân hậu nhưng cũng là một Đấng phán xét chí công. Chúng ta không thể trông chờ vào tình thương của Thiên Chúa để rồi tự do phạm tội, cư xử hành động trái thánh ý của Người. Tiên tri Ê-dê-ki-en đã nhắc bảo: “Ai phạm tội, kẻ ấy phải chết; con không mang lấy tội của cha; cha cũng không mang lấy tội của con. Sự công chính của người công chính ở với người công chính. Còn điều dữ của kẻ gian ác ở với kẻ gian ác” (Ed 18, 20).
Trong khi đó, thánh Phao-lô cũng khẳng định: “Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm” (Rm 2, 6). Và ngài cũng nhấn mạnh: “Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu , thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt , thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí là sự sống đời đời” (Gl 6,8).
Sự quan phòng của Thiên Chúa không cho phép ta được ỷ lại vào “phép lạ” nào đó theo kiểu “Há miệng chờ sung rụng”, khiến chúng ta hoàn toàn thụ động, ươn lười. Trái lại, trong mầu nhiệm quan phòng, Thiên Chúa không tước đi quyền tự do của chúng ta. Người mời gọi chúng ta cộng tác, đồng thời luôn ban những ơn huệ cần thiết để chúng ta chu toàn thánh ý Người. Ngay cả trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa cho chúng ta, Người cũng luôn tôn trọng tự do của ta và đòi hỏi ta phải tích cực cộng tác với Người. Như thánh Au-gus-ti-nô đã nói: “Thiên Chúa dựng nên con người không cần con người, nhưng để cứu chuộc con người, thì Người cần đến sự cộng tác của con người”./.
Đời sống tu trì, sướng hay khổ?”. Quả thực đây là một câu hỏi không dễ trả lời. Đa số giáo dân Đề tài 5
“Đời sống tu trì, sướng hay khổ?”. Quả thực đây là một câu hỏi không dễ trả lời. Đa số giáo dân khi nhìn vào những người tu hành thì thốt lên, “Ôi, sướng quá! Tu là cõi phúc, tình là dây oan...”. Còn các đấng các bậc trong đời sống tu trì thì lại than thở rằng: “Không ở trong chăn sao biết chăn có rận!”. Thực ra, nhận định, đánh giá đời tu sướng hay khổ, ta không nên dựa vào những cảm nhận chủ quan của con người. Trái lại phải liên hệ tới Lời của Chúa khi Ngài kêu gọi các môn đệ, “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo tôi” (Lc 9, 23). Từ bỏ mình, vác thập giá liên lỉ trong hành trình theo Chúa, đó chính là mệnh lệnh của ơn gọi tu trì và là điều kiện cho những ai dấn thân làm môn đệ Chúa.
Vậy đã rõ, một khi theo Chúa bước vào đời sống tu trì thì không còn vấn đề sướng hay khổ, mà chỉ là thành tâm đáp lại tiếng Chúa kêu gọi, đồng thời cam kết trung thành với sứ vụ cho đến trọn đời. Đời sống vật chất ở một vài nơi tu hành có thể còn thiếu thốn, cơ cực, nhưng sự hy sinh trong đời sống tận hiến và hạnh phúc được phục vụ Chúa trong mọi người mới chính là vẻ đẹp thánh thiện của người tu hành.
Tông huấn Pastores dabo vobis số 22-23 đã diễn tả sứ mệnh của linh mục với giáo dân như sau: ”Là mục tử của cộng đoàn, linh mục sống và hiện hữu vì nó; vì nó mà cầu nguyện, học hỏi, làm việc và hy sinh. Và chính vì cộng đoàn mà ngài sẵn sàng thí mạng, yêu mến nó như Đức Kitô, trao cho nó tất cả tình yêu và sự quí mến, hao tốn sức lực và thời giờ vì nó nên hình ảnh của Giáo hội hiền thê Đức Kitô càng ngày càng xinh đẹp hơn, xứng đáng được Chúa Cha quí chuộng và Chúa Thánh Thần yêu thương. Chiều kích hôn ước này của đời sống linh-mục-Mục-tử buộc linh mục hướng dẫn cộng đoàn bằng sự phục vụ hết mình toàn thể cộng đoàn và từng thành viên”. [1]
Có thể nói phương châm của những người tận hiến theo Chúa là phục vụ và phục vụ hết mình. Các linh mục, tu sĩ được Chúa chọn và sai đi, không phải để được phục vụ mà là để phục vụ con người (x. Mc 10, 45). Họ là người của muôn người, được sai đi để làm đầy tớ thiên hạ. Nói là đầy tớ vì họ không được tuyển để làm quan trong thiên hạ (cha mẹ của dân), mà làm kẻ phục vụ người khác. Đúng như cha Chevrier đã nói: “Linh mục là người bị ăn”. Càng phục vụ tích cực, càng phải hi sinh hết mình. Càng lo cho người khác, càng chết cho chính mình. Càng yêu mến quan tâm người khác, trái tim càng đau khổ dày vò. Đó chính là thân phận của hạt lúa chôn vùi trong đất. “Nếu hạt giống rơi xuống đất mà thối đi, nó sẽ nảy sinh hoa trái” (Ga 12, 24).
Vậy “sướng” hay “khổ” không phải là giá trị để ta đánh giá đời sống tu trì, trái lại ta có thể dựa vào 3 đặc điểm sau để suy tư và nhận định:
* CAM KẾT ĐỘC THÂN VÌ LÝ TƯỞNG TẬN HIẾN
Tu sĩ, linh mục tự nguyện sống độc thân để có điều kiện tốt nhất hoàn thành lý tưởng dâng mình cho Chúa và Hội thánh. Họ sống độc thân nhưng không cô độc, lẻ loi, kể cả khi họ sống một mình. Bởi vì, con người của họ vừa là người của cầu nguyện, vừa là người của công việc. Có những công việc có-tên, nhưng cũng có những công việc không-tên. Có những công việc trong-kế-hoạch, nhưng cũng có nhiều công việc ngoài-kế-hoạch. Có những công việc dài-hơi, nhưng cũng có hàng tá công việc đột-xuất ...
Chẳng hạn, nhìn vào thực tế ta có thể thấy một ngày sống của linh mục thật tất bật. Nếu là cha xứ thì chắc hẳn lịch làm việc và sinh hoạt của ngài dầy đặc công việc. Sáng, chiều dâng thánh lễ, ngồi tòa, soạn bài giảng, dạy giáo lý, đọc kinh nguyện, suy gẫm, họp hành, công tác mục vụ thường xuyên, định kỳ, đột xuất...đó là chưa kể việc đi kẻ liệt, thăm viếng mục vụ, tiếp khách, đọc sách báo, nghiên cứu tài liệu, lao động và giải trí vv.
Mặc dù tu sĩ, linh mục sống độc thân, không có gia đình riêng tư, nhưng họ có cộng đoàn là đại gia đình nơi mà họ sống, sinh hoạt và được sai đến. Họ sống độc thân không phải là tìm sự an nhàn sung sướng cho bản thân, cũng không cảm thấy thiếu thốn tình cảm này nọ, nhưng là tìm thấy hạnh phúc của người cho đi, ban phát, dâng hiến. Đức Ki-tô Mục Tử luôn luôn hiện diện trong trái tim của họ để cùng với họ trao ban và yêu mến. Cộng đoàn cũng luôn ở trong tâm trí, lòng dạ của họ để cùng nhau đồng hành, chia vui sẻ buồn, cùng gánh vác công việc của Chúa. Chúng ta biết rằng, trong liên đới và hiệp thông không có chỗ cho sự cô đơn và lẻ loi. Khi tình yêu Chúa và lòng mến tha nhân là sức mạnh chiến thắng tất cả thì đời tu dù sướng hay khổ sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nữa...
* CHẤP NHẬN SỐNG NGHÈO VÌ ƠN GỌI PHỤC VỤ
Có thể nói các tu sĩ, linh mục không bao giờ sướng vì giàu có và khổ vì nghèo túng. Bởi vì đối với họ, sống nghèo là điều quan trọng. Sống nghèo là một chọn lựa vừa nhân bản vừa đạo đức. Nếu họ giàu có, thì tiền bạc và của cải vật chất là để phục vụ chứ không phải để sống an nhàn, sung túc, vô lo. Dù sao trong bất kỳ hoàn cảnh nào, các linh mục, tu sĩ cũng được mời gọi để làm chứng nhân cho đức khó nghèo Ki-tô giáo.
ĐGM GB. Bùi Tuần (Gp Long Xuyên), trong tập “Truyền giáo”, tĩnh tâm các linh mục TGp Saigon năm 1990 đã viết như sau: “Khi Chúa Giê-su sai các tông đồ đi làm nhiệm vụ Lời Chúa, Người bảo các ông đừng mang theo nhiều hành lý, dù đó là quần áo, tiền bạc. Chúa muốn các môn đệ ra đi với thái độ nghèo, không những nghèo về thái độ khiêm tốn bên trong, mà cũng nghèo cả về vật chất nữa. Bởi vì thái độ nghèo về vật chất chính là một hành trang tinh thần có giá trị lớn tăng bản lãnh cho người làm nhiệm vụ Lời Chúa. Nó giúp cho môn đệ Chúa làm chứng được phần nào mầu nhiệm thánh giá cứu độ và tám mối phúc thật là những điều quan trọng của Lời Chúa”. [2]
Vậy thì khi dấn thân theo ơn gọi làm linh mục, tu sĩ, người môn đệ của Chúa tự nguyện chấp nhận sống nghèo, xem như đó là một đòi hỏi thiết yếu của ơn gọi tận hiến, như ý Chúa muốn và như Hội thánh mong đợi. Chính ĐTC Phan-xi-cô đã khẳng định: “Tôi ước muốn một Giáo hội nghèo và cho người nghèo” (Nguồn Internet). Ngoài các Ki-tô hữu nói chung, thì thành phần nòng cốt các linh, tu sĩ nói riêng, là những nhân tố cần thiết giúp xây dựng và củng cố một Hội thánh nghèo và chính họ cũng trở thành nơi nương tựa bám víu của những người nghèo hèn khốn khổ trong xã hội…
Có thể nói, tu sĩ, linh mục là những người được sai đến với người nghèo và vì người nghèo. Nhiều giáo dân phàn nàn về việc linh mục (nào đó) hay lui tới, đi lại quan hệ mật thiết với người giàu có, sang trọng. Những người nghèo dần dần xa tránh chủ chăn của mình vì mang mặc cảm giàu nghèo. ĐTC Phan-xi-cô đã nhắc nhở các mục tử: “Hãy sống tích cực, nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng và đồng thời, hãy ra đi, sẵn sàng gặp gỡ mọi người, đặc biệt những ai bị khinh rẻ và bất hạnh. Đừng sợ phải đi ngược dòng” (Nguồn: Internet). Và chúng ta cũng không quên câu nói nổi tiếng của ngài, như sau: “Linh mục phải luôn ý thức rõ ràng trách nhiệm chủ chiên của mình là phải mang vào mình ‘mùi của chiên’ ” (Nguồn: Internet).
Trong bài “Linh mục và của cải trần gian”, LM Đỗ Xuân Quế O.P đã chia sẻ như sau: “Thật vậy, trong các đòi hỏi phải từ bỏ của Chúa Giê-su đưa ra cho các Tông Đồ, có một đòi hỏi về vật chất, đặc biệt là tiền của (Mc 10,21; Lc, 18,22). Đó cũng là một đòi hỏi được gửi đến mọi Ki-tô hữu theo tinh thần nghèo khó, nghĩa là gỡ lòng mình cho khỏi dính bén của cải để có thể thanh thản phụng thờ Chúa và quảng đại phục vụ tha nhân. Nghèo khó là một hình thức cam kết dựa vào lòng tin vào Chúa Giê-su và lòng mến dành cho Người. Hình thức này đòi phải có sự thực tập, một sự từ bỏ của cải tương ứng với đời sống và bậc đời của mỗi người theo ơn gọi Ki-tô hữu, với tư cách riêng của mỗi cá nhân hay chung của một cộng đoàn thánh hiến. Tinh thần nghèo khó có giá trị đối với mọi người. Mỗi người phải thực hiện theo cách nào đó cho phù hợp với Tin Mừng”. [3]
ĐTC Phanxicô trong buổi gặp gỡ đại diện các Dòng tu tại Đại hội Công Nghị Quốc Tế ngày 4-5-2018, đã phát biểu: “Ai trong chúng ta cũng biết, sự dữ đi vào lòng người ngang qua những túi tiền. Những cám dỗ cỏn con lỗi đức khó nghèo là thương tích của các thành viên trong thân mình cộng đoàn thánh hiến. Lời khấn khó nghèo tuân theo Quy Luật, theo Hiến Pháp của mỗi Hội Dòng không giống nhau. Quy Luật dạy, “Luật chúng ta không cho phép điều này; luật dòng không ban phép điều kia”, nhưng luôn luôn có một điểm chung là tinh thần nghèo khó và chúng ta không cần bàn cãi điều này. Không có đức khó nghèo, chúng ta sẽ không bao giờ có khả năng phân định đúng đắn những gì đang xảy ra trong thế giới hôm nay”. [4]
* SẴN SÀNG RA ĐI VÌ SỨ MỆNH TÔNG ĐỒ
Có thể nói tu sĩ, linh mục mang trong mình căn tính của người-được-sai-đi. Họ thực thi sứ mệnh tông đồ như lời Chúa truyền dạy: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em” (Gio 15,16).
Người ta có thể hình dung cuộc sống của linh mục như những người lang thang du mục, có điểm đến nhưng cũng có điểm đi. Không cắm chặng ở một nơi chốn nào cố định. Sau ngày vinh thăng chịu chức là vài năm làm phó xứ ở một nơi, rồi vài năm sau đến làm chính xứ ở một nơi, rồi vài năm sau nữa đổi đi xứ khác...cứ thế cho đến ngày trở về nhà hưu dưỡng, chờ lúc ra đi vĩnh viễn để về Nhà Cha. Linh mục xây nhà thờ nhà xứ nhưng không xây nhà cho riêng mình, nếu có chỉ là trường hợp cá biệt và hãn hữu mà thôi. Chính Chúa Giêsu cũng đã mang thân phận vô-gia-cư này: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9,58).
ĐTC Phan-xi-cô cũng đã nhắc nhở hàng giáo phẩm và giáo sĩ như sau:
“Giám mục và linh mục không thể giữ cho mình bị đóng kín trong các giáo xứ, trong các cộng đoàn của chúng ta, khi rất nhiều người đang mong chờ Tin Mừng! Không chỉ đơn giản là mở cửa ra chào đón, nhưng chúng ta phải vượt ra khỏi những cánh cửa đó để tìm kiếm và gặp gỡ người dân!...
“Giám mục và linh mục hãy can đảm nhìn vào nhu cầu mục vụ, bắt đầu từ vùng ngoại ô, với những người ở xa nhất, với những người không thường xuyên đi nhà thờ. Họ cũng được mời đến dự bàn tiệc Chúa”.
Những lời trên của ĐTC Phan-xi-cô giúp ta xác tín rằng đời tu không phải là một nghề để tìm sự an vui cá nhân, khép kín trong trong một hoàn cảnh sống riêng tư, biệt lập, trái lại là một dấn thân mang đầy ý nghĩa của Tin Mừng. Có thể nói, tu sĩ, linh mục là con người “vô gia cư, vô nghề nghiệp” và họ luôn chấp nhận mất hút trong cánh đồng truyền giáo bao la, mịt mù. Vì “đồng lúa thì bao la mà thợ gặt thì ít ỏi”. Một khi đã trung thành sống ơn gọi của mình, họ là những anh hùng, dù là anh hùng vô danh tiểu tốt.
Tóm lại, đi tu không phải là tìm sự sung sướng cho bản thân, cũng không hẳn phải là liều mình lao vào chỗ khổ cực, mà là đáp lại tiếng Chúa kêu gọi, dấn thân phục vụ ở bất kỳ nơi nào cần đến. Nếu phải chấp nhận đời sống nghèo theo tinh thần của Tin Mừng Ki-tô giáo, thì các linh mục tu sĩ sẽ an tâm sống cuộc đời hiến tế của mình theo gương thầy chí thánh Giê-su. Cái lo của họ chắc chắn sẽ không hướng hoàn toàn về việc phải ăn gì, uống gì, mặc gì, nhà cửa ra sao...(x. Mt 6,25-34), trái lại, mối bận tâm chính của họ chính là cố gắng trở nên người môn đệ đích thực của Chúa Ki-tô, cố gắng để trở thành con người sinh ích lợi cho mình và cho người khác. Và đòi hỏi chính yếu luôn đặt ra cho người theo Chúa, đó là: tinh thần từ bỏ và tinh thần khó nghèo, như lời Ngài đã chỉ dạy: “Nếu ai muốn là môn đệ Thầy, thì hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Thầy” (Mt 16,24); và “Ai không từ bỏ tất cả những gì mình có, sẽ không thể là môn đệ Thầy.” (Lc 14,33) .
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - [1] ĐTGM Giuse Nguyễn Chí Linh, tĩnh tâm thường niên linh mục gp Đàlạt, tháng 02-2009 [2] ĐGM GB. Bùi Tuần (Gp Long Xuyên), tập “Truyền giáo”, tĩnh tâm các linh mục TGp Saigon năm 1990 [3] LM Đỗ Xuân Quế OP, bài “Linh mục và của cải trần gian”, nguồn: VietCatholic News 13-5-2014 [4] ĐTC Phan-xi-cô, nguồn: trungtammucvudcct.com
* ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ: CHÂN DUNG VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH.
Tôi chính là Mục Tử nhân lành...” (Ga 10,11). Trong tiếng Hy-lạp, có hai từ có nghĩa là "tốt" Đề tài 6
“Tôi chính là Mục Tử nhân lành...” (Ga 10,11). Trong tiếng Hy-lạp, có hai từ có nghĩa là "tốt", “agathos” nói về phẩm chất luân lý; “kalos” nói về tính cách hấp dẫn làm cho phẩm chất tốt kia trở thành dễ thương. Vậy khi Chúa Giê-su nói "Mục Tử nhân lành" thì Ngài không chỉ nói đến một người chăn chiên cần mẫn và trung tín, nhưng Ngài muốn sử dụng từ "nhân lành" theo ý nghĩa kalos. Theo ý nghĩa ấy, vị mục tử này dễ thương, mạnh mẽ và uy quyền.
Dù hiểu theo nghĩa nào thì Đức Giê-su vẫn được ca ngợi như là một vị Mục Tử với dung mạo khả ái, nhân từ và dịu hiền. Trái tim Ngài là trái tim đầy lòng thương xót, bao dung và ấm áp. Từ trái tim ấy, đã vang lên tiếng lòng yêu thương, như TV 99 đã diễn ý:
“Hãy nhìn nhận CHÚA là Thượng Đế, chính Người đã dựng nên ta, ta thuộc về Người, ta là dân Người, là đoàn chiên Người dẫn dắt,
Bởi vì CHÚA nhân hậu, muôn ngàn đời CHÚA vẫn trọn tình thương, qua bao thế hệ, vẫn một niềm thành tín” (TV 99, 3; 5).
. Phẩm chất đầu tiên của vị Mục Tử Giê-su, đó là hiền hậu.
“Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”. (Mt, 11, 29-30). “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6,36).
Sự hiền hậu, nhân từ nơi Chúa lộ rõ khi Ngài tiếp xúc với dân chúng để giảng dạy, cho họ ăn, cứu giúp họ...Ngài luôn tỏ ra âu yếm nhìn họ và chạnh lòng thương xót họ. Ngay cả khi phải đối diện với kẻ thù tìm cách ám hại mình, khi phải đối mặt với những kẻ chống đối muốn loại trừ mình, khi phải lên tiếng đối thoại với những kẻ mưu mô tìm cách bắt bẻ, trả thù mình...Chúa Giê-su vẫn không hề đánh mất dung mạo hiền lành, từ tốn của Ngài. Có chăng, trong những tình huống ấy, Ngài biểu lộ tấm lòng nhân ái bằng thái độ mạnh mẽ và đầy uy quyền. Vào thời khắc cuối đời, lúc chịu đóng đinh vào thập giá, Đức Giê-su đã thốt lên lời cầu-tha-thứ với tấm lòng bao dung tột cùng: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
. Phẩm chất tiếp theo là đức tính khiêm nhường.
Chúa Giê-su đã nhiều lần nhấn mạnh đến phẩm chất này cho các môn đệ và những ai muốn đi theo Ngài, để họ thấm nhuần cung cách lãnh đạo của người mục tử thời Tân Ước. Khiêm tốn không phải là yếu nhược, thụ động hay yếm thế nhưng trên hết và trước hết là “đến để phục vụ”. Điều này đã được biểu thị rõ ràng qua sứ mạng của người Tôi Tớ của Thiên Chúa: “Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,44-45).
Cuối cuộc đời tại thế của Chúa, một chuỗi ba sự việc điển hình nói lên tinh thần và ý chí tự hạ thâm sâu của Con-Thiên-Chúa-làm-người. Đó là việc Chúa rửa chân cho môn đệ, việc Chúa lập Bí tích Thánh Thể và việc Chúa chịu chết treo trên thập giá. Thông qua những sự kiện tiêu biểu này, Chúa muốn cho thấy rằng chẳng những Ngài đã rao giảng về lòng tự hạ, mà chính bản thân Ngài đã làm gương về điều đó. Và không có sự khiêm hạ nào lớn lao cho bằng cái chết-hủy-mình-ra-không trước mặt Thiên Chúa và người đời. Đây là chứng từ của Phaolô: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự...” (Pl 2,6-8).
. Một phẩm chất không thiếu nữa nơi Đức Giê-su Mục Tử, đó là lòng dũng cảm.
Ngài dũng cảm vâng phục Cha, đến đành lòng chịu chết. Ngài dũng cảm từ bỏ ý riêng mà tùng phục ý Cha, miễn sao chương trình cứu độ của Cha được thực hiện trọn vẹn, tốt đẹp cho con người. Đức Giê-su cũng dũng cảm khi Ngài đứng về phía đám đông để bênh vực, che chở họ. Sự dũng cảm cao cả và ý nghĩa nhất, đó là hi sinh mạng sống vì đàn chiên (Ga 10,11). Tuy nhiên, sự dũng cảm và hi sinh ấy chỉ có ý nghĩa đích thực khi nhờ đó đàn chiên được bảo vệ, được khỏe mạnh, được nuôi dưỡng no nê và được sống...”Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).
Sự hi sinh của Chúa không hẳn chỉ là những đau đớn về thể xác, những dằn vặt về tinh thần, những lo lắng về đại sự...mà nó là một sự chấp nhận tự-hủy-mình-ra-không để người khác được sống. Chúa chấp nhận trở thành vật-hiến-tế để con người được ơn xá tội. Chúa chấp nhận mình “bị-ăn” để các chiên của mình được nuôi sống: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6,51).
Xét cho cùng, sự hi sinh dũng cảm của Chúa xuất phát từ trái tim nhân hậu, trái tim đã bị đâm thâu, trái tim đem đến một tình yêu vô biên. Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giê-su đã cảm nghiệm điều này khi nói: “Yêu và hi sinh là một...Không hi sinh thì chưa gọi là yêu”. Thánh Augustinô thì nói vắn tắt: “Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ”... Đức Giê-su Mục Tử đã yêu đàn chiên với một tình-yêu-không-tình-yêu-nào-lớn-hơn. Ngài như thế đó!
* ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ: MẪU GƯƠNG CHO LINH MỤC MỌI THỜI MỌI NƠI.
Ngày nay, nếu có ai đó đặt câu hỏi rằng, các bạn mong ước gì nơi các vị mục tử trong Hội thánh, thì chắc chắn câu trả lời sẽ là mong ước các ngài là một “Alter Christus”, tức là một Đức Ki-tô khác. Điều mong ước xem ra đơn giản, truyền thống nhưng lại là căn cốt nhất. Kitô-hữu kỳ vọng các mục tử của mình phản ánh một cách đậm nét chân dung Đức Giê-su Mục Tử. Nhân hậu, bao dung, khiêm tốn, dũng cảm.
. Trước hết, chúng ta mong đợi nơi vị mục tử một tấm lòng nhân hậu.
Thực vậy, không có gì lôi cuốn người khác đến với mình bằng chính sự nhân ái bao dung xuất phát từ trái tim mục tử. Là người lãnh đạo cộng đoàn, người mục tử có rất nhiều cơ hội để thực thi lời dạy của Chúa “Anh em hãy có lòng nhân từ...”. Nhân từ trong giao tiếp. Nhân từ trong giảng dạy. Nhân từ trong việc cử hành các nghi thức và Phụng vụ thánh. Nhân từ trong việc hướng dẫn các lớp giáo lý, trong tiếp xúc với các hội-đoàn-nhóm của xứ đạo, trong việc tổ chức và điều hành các sinh hoạt mục vụ vv. Có thể nói, phẩm chất nhân hậu của mục tử là điểm son tuyệt vời nhất nhờ đó các tín hữu thấy được hình ảnh Chúa Ki-tô mục tử dịu hiền trong bản thân các ngài.
. Đức tính khiêm nhường là đức tính kế tiếp được mong đợi nơi vị mục tử.
Mọi nơi mọi thời, đa phần người tín hữu nào cũng có thói quen kính trọng vị đại diện của Chúa. Một vài trường hợp xảy ra hiện tượng “thần tượng hóa” hay “thần thánh hóa” các mục tử. Chính vì lí do đó, các mục tử trong Hội thánh rất dễ bị cám dỗ trở nên ít khiêm tốn hơn là mong đợi...Đã có nhiều bài viết góp ý về điều này, không phải vì “ghen” hay “ghét” các ngài mà vì muốn xây dựng một hình ảnh mục tử tinh tuyền và chính thống trong Hội thánh và trong lòng giáo dân. Mục tử càng khiêm tốn giáo dân càng yêu kính, mến thương. Mục tử càng hạ mình giáo dân càng kính trọng và suy phục các ngài. Như Chúa đã lên tiếng: “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên, còn ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”...
. Tín hữu cũng rất an tâm khi được chăm sóc bởi những vị mục tử mạnh mẽ, can đảm, dám hi sinh vì đàn chiên.
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi” (Ga 10, 27-28). Điều này xem ra nói thì dễ nhưng trong thực hành thì không dễ. Bản thân vị mục tử cũng có những “vấn đề” phải giải quyết, phải đấu tranh, phải tự xoay xở lo liệu...nhưng nếu các ngài phó thác hoàn toàn cho Chúa để có thể toàn tâm toàn ý lo cho dân Chúa thì cộng đoàn sẽ lớn mạnh.
Cha Andrew Greeley, một tác giả viết sách và một nhà xã hội học đã định nghĩa: “Linh mục là người để người ta tìm đến”. Điều đó cũng có thể hiểu được là mục tử trở nên chốn nương tựa, nên nơi nương náu của tín hữu. Cộng đoàn tìm đến mục tử của họ là để được nói tiếng nói của chiên với chủ chăn, được giãi bày tâm sự, được khuyên giải, được trấn an vv. Sự thất vọng lớn nhất của người giáo dân đối với vị mục tử của họ là khi tiếng nói của họ không còn được nghe nữa. Lúc đó giữa chiên và chủ chiên như có một bức tường ngăn cách vô hình nào đó, và mối tương quan “ta biết chiên ta và chiên ta biết ta” không còn ý nghĩa gì nữa!
“...Nhiều linh mục đang sống một cuộc sống anh hùng. Họ sống thầm lặng không cần ai biết tới. Họ đặt nền tảng đời sống của họ vào lời cầu nguyện và niềm tin tưởng phó thác nơi Chúa. Họ luôn ấp ủ một niềm lắng lo sâu xa, tinh tuyền cho dân Chúa. Hiệu quả của đời sống chiêm niệm và phục vụ của các anh em linh mục đó là họ có thể nhìn thấy Chúa Giê-su trọn vẹn là đầu, là chi thể, là Thiên Chúa và dân Chúa. Đời sống chiêm niệm không khép kín các linh mục đó nơi Chúa Ki-tô mà quên dân Chúa.
“Các linh mục đó không chỉ nguyên lo cho đời sống thiêng liêng của mình, nhưng các ngài được nâng đỡ, được phong phú hóa và tìm thấy sức mạnh ngay khi sống cho giáo dân và sống giữa giáo dân. Họ gặp thấy Chúa Ki-tô ngay khi làm việc với giáo dân cũng như khi âm thầm cầu nguyện một mình. Họ thật sự đã sống sâu xa lý tưởng linh mục đã được ghi lại trong Phúc Âm thánh Gioan, chương 10: ‘Người mục tử tốt lành là người mục tử dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên’..." (Trích bài báo "The Strenghts of Priests Today" của Đức Tổng Giám Mục John R. Quinn, đăng trong Tuần Báo America, July 1-8, 2002 – Bản dịch do Linh Mục Anphong Trần Đức Phương) ./.
Ai cũng biết rằng, trong hôn nhân giữa người nam và người nữ, tình yêu là điều cốt lõi nhất, không Đề tài 7
Ai cũng biết rằng, trong hôn nhân giữa người nam và người nữ, tình yêu là điều cốt lõi nhất, không gì có thể thay thế được. Do đó, không thể là một cuộc hôn nhân đích thực nếu cuộc hôn nhân đó không-tình-yêu. Tình yêu trong hôn nhân được ví như một nguồn năng lượng vĩ đại, nó hâm nóng hạnh phúc, chiếu sáng niềm tin, lan tỏa sự sống. Nó cũng đồng thời đốt cháy những dị biệt và hóa giải những mâu thuẫn giữa người nam và người nữ.
Tuy nhiên, không phải tình yêu nào cũng giúp hôn nhân được hạnh phúc và bền vững lâu dài, bởi vì tình yêu có nhiều cấp độ, chẳng hạn:
“Triết học Hy Lạp đã phân chia thành ba loại tình yêu. Tình yêu ở cấp thấp nhất được gọi là Eros, có ý nói đến tình yêu theo kiểu tính dục, khi người này muốn sở hữu người kia như là cái của riêng mình.
Tình yêu ở cấp cao hơn là Philia, một kiểu tình yêu đặt nền trên tương quan tự do, ngang hàng, hoà nhã chứ không có ý chiếm hữu.
Tình yêu ở cấp độ cao nhất gọi là Agape, một tình yêu trao hiến hoàn toàn chính mình cho người khác.
Ba loại tình yêu này dường như cũng muốn nói đến ba cấp độ hoàn thiện của tình yêu. Cả ba đều tồn tại, chứ không loại trừ nhau, nhưng lý tưởng là đạt đến cấp Agape, là kiểu mẫu tình yêu trong Ba Ngôi Thiên Chúa và tình yêu mà Thiên Chúa dành cho nhân loại”. [1]
Về vấn đề này, ĐGM Geoffrey Robinson, người Úc, đã về hưu, cũng diễn giải ngắn gọn thế này: “Mọi tình yêu chân thật đều bắt đầu bằng sự ham thích, rồi tiến đến sự cảm mến, và sau đó vuơn lên tới đỉnh cao là dâng hiến. Chẳng hạn như một căp trai gái ham thích có đứa con (Eros), cả hai trào dâng niềm cảm mến và dịu dàng khi bồng đứa con trong tay (Philia). Thế rồi nhanh chóng khám phá ra rằng tình yêu này đòi đến sự dâng hiến kỳ diệu (Agape)”. [2]
Thánh Gio-an tông đồ đã mạc khải cho ta biết chính Thiên Chúa là Tình Yêu (x. 1Ga 4, 8). Tình Yêu Agape. Thánh sử nói rõ hơn: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 4, 9). Vậy tình yêu nơi Thiên Chúa chính là mẫu mực cho ta về sự dâng hiến, trao ban, vị tha, quảng đại.
Đức thánh GH Gio-an Phao-lô II, trong Tông huấn về những bổn phận của gia đình Ki-tô hữu đã viết: “Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh Người, giống như họa ảnh của Người. Khi vì yêu thương mà kêu gọi con người bước vào cuộc sống, Người cũng đồng thời mời gọi họ sống cho tình yêu. Thiên Chúa là tình yêu và nơi chính mình Người, Người đang sống mầu nhiệm hiệp thông yêu thương giữa các ngôi vị. Khi tạo dựng nhân tính của người nam và người nữ theo hình ảnh Người và liên lỉ bảo toàn cho nhân tính ấy được hiện hữu. Thiên Chúa ghi khắc vào đó ơn gọi cũng như khả năng và trách nhiệm tương ứng, mời gọi con người sống yêu thương và hiệp thông. Tình yêu là ơn gọi căn bản và bẩm sinh của mọi người ”. [3]
Như vậy, tình yêu trong hôn nhân Ki-tô hữu không còn dừng lại trên bình diện nhân bản, tự nhiên mà được nâng lên bậc siêu nhiên. Tình yêu của đôi bạn dành cho nhau lúc đó sẽ dõi theo tình yêu Thiên Chúa dành cho con người và tình yêu của Chúa Ki-tô đối với nhân loại nói chung và với Hội thánh của Ngài nói riêng.
Thánh Phao-lô đã nhắn nhủ các tín hữu thế này: “Vì lòng kính sợ Đức Ki-tô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau. Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ cũng như Đức Ki-tô là đầu của Hội thánh, chính Người là Đấng cứu chuộc Hội thánh, thân thể của Người. Và như Hội thánh tùng phục Đức Ki-tô thế nào, thì vợ cũng phải tùng phục chồng trong mọi sự như vậy. Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội thánh và hiến mình vì Hội thánh” (Ep 5, 21-25).
Hôn nhân Ki-tô giáo đã được Thiên Chúa thiết lập và thánh hóa. Chúa Giê-su đã có mặt tại tiệc cưới Cana để chia vui với đôi tân hôn và chúc phúc cho họ (x. Ga 2, 1-12). Ngài cũng như bao nhiêu người khác đều mong muốn đôi bạn sống hạnh phúc, yêu thương và trung tín. Sự hiện diện của Ngài ở đám cưới Cana với phép lạ biến nước lã thành rượu ngon chính là một dự báo về viễn ảnh Đức Ki-tô sẽ có mặt trong đời sống của tín hữu chúng ta, để ban cho chúng ta đủ ơn thánh và sức mạnh thiêng liêng hầu chu toàn bổn phận hôn nhân gia đình mình.
Đức Ki-tô đã tuyên bố: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13). Chúa đã dạy chúng ta hiểu thế nào là tình yêu Agape và phải thực hành tình yêu ấy ra sao trong đời sống hôn nhân gia đình. Tình yêu ấy là hi sinh tính mạng, là yêu đến cùng (x. Ga 13,1). Chính Ngài đã làm gương cho chúng ta trước. Vì yêu và vì hạnh phúc của chúng ta, Đức Ki-tô đã hi sinh đến chết (x. Ga 10, 17 ; Pl 2, 8). Đó là mẫu mực của tình yêu đích thực, tình yêu có sức mạnh cứu chuộc, thăng hoa và biến đổi. Vậy khi cam kết giao ước hôn nhân, đôi bạn sẽ dõi theo tình yêu của Chúa Ki-tô mà sẵn sàng chấp nhận một tình thương của người hi sinh mạng sống mình cho bạn.
Một cách cụ thể, thánh Phao-lô cũng đã khuyên nhủ chúng ta sống bí tích và mầu nhiệm hôn nhân dựa trên mẫu mực tình yêu và mối tương quan gắn bó giữa Chúa Ki-tô và Hội thánh. Đức Ki-tô đã yêu thương Hội thánh, đã hiến mình vì Hội thánh, đã chăm sóc, nuôi dưỡng Hội thánh, đã hy sinh cứu chuộc Hội thánh thế nào thì vợ chồng cũng phải sống và đối xử với nhau như vậy.
Một cách cụ thể, thiết thực hơn, tình yêu trong hôn nhân Ki-tô hữu cũng phải phỏng theo lòng mến Ki-tô giáo, là điều mà thánh Phao-lô đã nhắc nhở trong thư 1Cor:
“Lòng mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Lòng mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả…” (x. 1Cor 13, 4-7).
Thiết nghĩ, sống trọn vẹn lòng mến như thế, tức là phải hi sinh, phải từ bỏ chính mình, phải quảng đại bao dung, phải chấp nhận cái chết-vì-yêu như Đức Ki-tô. Xây dựng trên nền tảng tình yêu ấy, cuộc hôn nhân của chúng ta sẽ bền vững và hạnh phúc lâu dài ./.
- - - - - - - - - - - [1] Pr. Lê Hoàng Nam SJ, bài “Ý nghĩa hôn nhân Ki-tô giáo”, nguồn: dongten.net [2] Bài “Tình yêu là san sẻ và dâng hiến”, bản dịch: Nam Nguyên, nguồn: simonhoadalat.com [3] Sđd phần II, số 11, bản dịch Roma 2002
Trước khi về trời, Đức Giê-su phục sinh đã hiện ra với các môn đệ tại Ga-li-lê và nhắn nhủ các Đề tài 8
Trước khi về trời, Đức Giê-su phục sinh đã hiện ra với các môn đệ tại Ga-li-lê và nhắn nhủ các ông rằng: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 19-20).
“Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” là lời khẳng định chắc thực của Chúa Giê-su về sự tiếp tục hiện diện của Ngài trên trần thế sau khi Ngài đã sống lại và lên trời. Sự hiện diện ấy của Chúa Giê-su phục sinh đã được các môn đệ yêu dấu chứng thực thông qua các hành động như hiện ra với các ông và các phụ nữ đạo đức, đồng bàn và trò chuyện với họ… Hai trình thuật điển hình: một là cuộc hiện ra với các môn đệ và cho Tô-ma chạm tới vết thương của Ngài (x. Ga 20, 19-31), hai là câu chuyện Chúa hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau (x. Lc 24, 13-35).
Thực ra, trước những cuộc hiện ra kỳ lạ và bất thường của Đấng Phục sinh các môn đệ vừa run sợ, vừa kinh ngạc, nhưng cũng vừa vui mừng. Các ông chưa có kinh nghiệm nhiều về sự kiện phục sinh và về con người được phục sinh. Bởi vì Đức Giê-su Na-gia-rét, sau biến cố phục sinh từ cõi chết sống lại, không còn là “xác thịt” nữa, trái lại Ngài đã biến đổi và trở thành Thần Khí. Ngài không còn bị ràng buộc bởi thời gian và bị giới hạn bởi không gian nữa. Ngài có thể hiện diện một cách diệu kỳ, khắp nơi khắp chốn và với mọi người.
Về điều này, trước khi bước vào cuộc thương khó và tử nạn, Chúa đã từng loan báo cho môn đệ việc Ngài sẽ mau trở lại: “Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy được” (Ga 16, 23).
Vậy đã rõ, sau cuộc Phục sinh, Chúa Ki-tô vẫn tiếp tục hiện diện, hành động và đồng hành với Hội thánh Tân Ước do Ngài thiết lập, củng cố và nuôi dưỡng. Ngài cũng đồng hành với từng thành viên trong Hội thánh là Nhiệm Thể Chúa Ki-tô, trong đó có mỗi người tín hữu chúng ta. Thánh Phao-lô đã chia sẻ cảm nghiệm sự hiệp thông gắn bó với Chúa Ki-tô như sau: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2, 20).
Chúng ta biết rằng, nhờ đức tin và phép rửa, chúng ta được gia nhập cộng đoàn cứu rỗi của Chúa Ki-tô. Chúng ta là phần tử của Hội thánh nên chúng ta thuộc về Chúa và thuộc về nhau. Mặc dù chúng ta đang sống trong thân xác yếu hèn này, nhưng chúng ta vẫn có Chúa đồng hành trên con đường lữ thứ trần gian. Chúng ta hoàn toàn không cô đơn và lẻ loi.
Đức Ki-tô là vị Mục Tử luôn đồng hành với chúng ta, Ngài rất nhân hậu, như lời trong Thánh vịnh 22 đã bày tỏ: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì./ Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ./ Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi./ Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người” (Tv 22 1-3).
Ki-tô hữu trước hết là người được Chúa kêu gọi để trở thành bạn-đồng-hành của Ngài. Chúa luôn quan tâm đến việc kết bạn với mọi người, nhất là với những ai thao thức về Ngài và về những công việc của Ngài. “Anh em là bạn hữu của Thầy...Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa...Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu... ” (x.Ga 15, 14-15); “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em...” (Ga 14,18).
Thực vậy, việc gặp gỡ Chúa Ki-tô Phục sinh trong đời thường là điều có thực, như trường hợp hai môn đệ làng Em-mau: “Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ” (Lc 14-15). Đang khi hai môn đệ Em-mau thao thức về Chúa của họ thì Chúa xuất hiện và đồng hành với họ.
“Cảm nghiệm về Đấng Phục Sinh của hai môn đệ trên đường đi về làng Emmaus cũng có thể diễn ra trong cuộc sống hàng ngày của mỗi tín hữu Kitô. Đấng Phục Sinh luôn là người đồng hành với chúng ta. Trên mọi nẻo đường của cuộc sống chúng ta, Ngài luôn đi bên cạnh kể chuyện, hỏi han, tra vấn và tham dự vào mọi sinh hoạt của chúng ta. Cuộc sống của mỗi ngày chính là nơi Ngài đến để gặp gỡ con người. Cuộc sống mỗi ngày mới là nơi hẹn hò của Đấng Phục Sinh với con người, là bởi vì cuộc sống ấy không bao giờ có thể làm cho con người thỏa mãn...
“Ngày nay, trong từng biến cố của cuộc sống chúng ta, Chúa Kitô Phục Sinh cũng đang đến và đồng hành với chúng ta trong từng sinh hoạt và gặp gỡ của chúng ta. Ngài có mặt trong từng niềm vui và nỗi khổ của chúng ta. Nếu chúng ta đón nhận Ngài như người bạn đồng hành, chuyện vãn và chia sẻ với chúng ta, đôi mắt đức tin của chúng ta sẽ mở ra, và lúc đó, trong ánh sáng Phục Sinh của Ngài, chúng ta sẽ tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống”. [1]
Nhưng nhiều Ki-tô hữu chúng ta đã và đang trải qua những chuỗi ngày sống trong vô vọng, mất phương hướng. Chúng ta cũng đọc kinh, xem lễ, chịu các bí tích...nhưng lòng chúng ta khô cứng, lạnh lẽo và vô cảm. Phải chăng Chúa bỏ rơi chúng ta? Hay chúng ta đánh mất Chúa? Câu trả lời sẽ do chúng ta tự biết.
Dù thế nào đi nữa, Chúa vẫn yêu ta và đồng hành với ta. Cách thế để chúng ta nhận ra Ngài, đón nhận Ngài, thân thiết với Ngài, đó là chúng ta phải khiêm tốn lắng nghe Chúa nói qua Thánh Kinh, qua các giáo huấn của Hội thánh, qua các biến cố của cuộc sống. Chúng ta cũng phải cầu nguyện liên lỉ và chân thành, phải siêng năng nhiệt tình lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể và bí tích Hòa Giải, phải sống đức tin và lòng mến của mình một cách triệt để.
Thực vậy, “Ngày nay, Đức Kitô Phục sinh vẫn ở bên cạnh chúng ta mà chúng ta không nhận ra Ngài như trường hợp hai môn đệ đi làng Emmau. Nhưng chúng ta chỉ nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin. Ngài hiện diện khắp nơi trong mọi hoàn cảnh, mọi biến cố, nhất là nơi những người anh chị em chúng ta. Trong cuộc sống Kitô hữu, khi nào cũng có Chúa đồng hành. Một khi đã có Chúa hiện diện ngay bên, chúng ta còn sợ gì? Thánh Phêrô lặp lại lời Đức Giêsu đã khuyên để trấn an các tín hữu: “Đừng sợ những kẻ làm hại anh em và đừng xao xuyến” (1Pr 3,14; Kh 1,17; 2,10). Hãy sống xứng đáng với danh hiệu là con cái Chúa Phục sinh”./. [2]
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - [1] Bài “Chúa đồng hành với ta trên mọi nẻo đường”, nguồn: Internet [2]LM Đinh Lập Liễm, bài “Đồng hành với Chúa Phục sinh”, nguồn: simonhoadalat.com
Ki-tô giáo thừa hưởng kho tàng mạc khải của Thánh Kinh và đã khám phá ra trong đó Lời Thiên Đề tài 9
Ki-tô giáo thừa hưởng kho tàng mạc khải của Thánh Kinh và đã khám phá ra trong đó Lời Thiên Chúa nói với con người.
Mạc khải là việc Thiên Chúa vén tỏ tấm màn bí ẩn của Đấng-Tự-Hữu cho con người để nhờ lòng tin và sự đáp ứng ơn gọi, họ được thông hiệp vào sự sống thần linh. Thiên Chúa là Đấng Thần Linh “ẩn khuất”, nhưng Người cũng là một Thiên Chúa biết nói (un Dieu qui parle). Người biết trao ban, biết ngỏ lời trong cuộc đối thoại. Thiên Chúa đã có sáng kiến “giao lưu” với con người trước qua hình thức giao ước. Người muốn tha thứ, kết ước với con người, đồng thời chia sẻ sự sống, tình yêu cho họ, vì “Người là Tình Yêu” (1Ga 4, 8).
Trong lịch sử cứu rỗi, Thiên Chúa không ngừng “nói” với con người.
* THIÊN CHÚA ĐÃ NGỎ LỜI
Trong lịch sử cứu độ, Thiên Chúa đã nói và đã hành động để thực hiện kế hoạch cứu sống nhân loại. Lịch sử Dân Thiên Chúa cũng chứng minh là con người đã đáp lại lời đề nghị yêu thương của Thiên Chúa như thế nào.
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa nói qua các biến cố, các nhân vật, các ngôn sứ, các lễ nghi tôn giáo, các lề luật, các kinh nguyện…Tất cả qui hướng về một chóp đỉnh (cánh chung), đó là biến cố Lời thành xác phàm (Ga 1, 14). Biến cố Giê-su Na-za-rét.
“Đã lắm phen cùng nhiều kiểu xưa kia Thiên Chúa đã nói với cha ông nơi các tiên tri; Vào thời sau hết, tức là những ngày này, Người đã nói với ta nơi một Người Con, mà Người đã đặt làm Đấng thừa tự tất cả mọi sự, và cũng nhờ Ngài mà Người đã làm ra các thế giới…” (x. Dt 1,1 tt). [1]
Vào thời Tân Ước, khi Đức Giê-su Na-za-rét xuất hiện trong lịch sử, thì Thiên Chúa đã đích thân mạc khải mầu nhiệm và ý định của Người qua thân thế và sự nghiệp của Con-Thiên-Chúa-làm-người. Đức Giê-su là Lời của Thiên Chúa nên lời Ngài cũng là Lời của Cha Ngài. Chính bản thân và sự nghiệp của Ngài cũng là mạc khải và kiện toàn tất cả lời hứa của Thiên Chúa. Hơn hẳn bất cứ một tiên tri nào trong Cựu Ước, Đức Giê-su, Con Một đến từ cung lòng Cha đã là chính điều mà Thiên Chúa muốn nói và hành động.
Thực vậy, qua Đức Giê-su, chúng ta nghe, thấy và hiểu được Lời Thiên Chúa một cách cụ thể, chính xác và sâu xa nhất. Vì “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta…” (x. Ga 1, 14-18). Sau khi về trời, Chúa vẫn còn tiếp tục nói với chúng ta qua Hội thánh của Ngài. Ki-tô giáo được Chúa Ki-tô khai sinh, cũng vẫn tiếp tục loan báo và làm chứng về Lời Thiên Chúa, với tư cách một chứng nhân và một dấu chỉ của sự hiện diện của mạc khải. Đức Giê-su Ki-tô đã ủy quyền cho Hội thánh nhiệm vụ rao giảng Lời cho đến ngày Chúa lại đến (x. Mt 28, 19-20).
* ĐỨC MA-RI-A VÀ MẦU NHIỆM LỜI CHÚA
Đức Ma-ri-a là tấm gương điển hình về việc đón nhận và sống Lời Thiên Chúa.
Thuộc dòng dõi của A-bra-ham, cha của kẻ tin, Đức Ma-ri-a được giáo dục trong bầu khí tôn giáo của Lời Chúa. Bà sống đạo với tâm trạng hi vọng, chờ đợi và tin tưởng. Lòng tin và sự khiêm tốn vâng phục của Mẹ cũng có thể so sánh với tâm tình và thái độ của Tổ phụ A-bra-ham khi xưa.
Tâm hồn trong sáng, khiêm nhu của Đức Ma-ri-a, khi đối diện với Lời Thiên Chúa cũng có lúc phải “đấu tranh tư tưởng” để có thể đồng cảm và chấp nhận Lời. Như sau này, chính Bà đã cưu mang Lời trong lòng và sẵn sàng thực hiện tất cả những đòi hỏi của ơn gọi làm Mẹ Chúa Cứu Thế.
Để hưởng lời chúc phúc “Phúc cho Người, là kẻ đã tin rằng viên thành sẽ đến cho mọi điều Chúa truyền phán dạy cho Người…” (Lc 1, 45), Đức Ma-ri-a đã phải sống cái kinh nghiệm của A-bra-ham. Tin tưởng vào Lời Thiên Chúa, mặc dù phải đánh mất tất cả: dự phóng riêng tư, ước vọng cá nhân, định kiến xã hội, tôn giáo vv. Tường thuật của Lc 1, 26-38 về biến cố Truyền tin đã cho thấy Mẹ bị giằng co, dằn vặt và phản ứng thế nào trước sự chiếu cố của Lời Thiên Chúa. Và cuối cùng, Bà đã cúi đầu vâng phục: “Này tôi là tôi tá Chúa, xin hãy thành sự cho tôi theo lời Ngài”.
Đức Ma-ri-a đã đón nhận Lời Thiên Chúa qua sứ điệp của sứ thần với một tâm trạng phức tạp: lo âu, nghi ngại, vui mừng, kinh ngạc…, vì trong đời sống tôn giáo thầm lặng của mình, Bà chưa bao giờ phải đối diện với Lời Chúa một cách kỳ lạ như thế.
Đối diện với Lời Chúa, trước hết, chúng ta phải “chết đi cho chính mình”. Chết cho trí khôn ngoan và sự hiểu biết nhân loại, chết cho những ước vọng cá nhân, cho những dự phóng tươi đẹp, kể cả cho những định kiến, tâm thức tôn giáo “hẹp hòi” nữa.
Để Lời Chúa có thể thấm nhập vào, chúng ta phải vượt qua chính mình, như Đức Ki-tô, chấp nhận hủy mình ra không trong mầu nhiệm Vượt qua của Ngài. Chúng ta phải trở nên trống rỗng, nghèo nàn và khiêm tốn sâu thẳm. Chính với con người thuần khiết trong sáng mà chúng ta tự do bước vào mầu nhiệm của Lời Chúa.
“Ôi! Thẳm sâu thay sự giàu có, khôn ngoan, thượng trí của Thiên Chúa! Những phán quyết của Người vô phương dò thấu, đường lối của Người không kế dõi theo! Vì nào ai biết được tâm tư của Chúa, hay có ai đã làm cố vấn cho Người trước, để hòng được Người tạ lại?…” (x. Rm 11, 33-35).
Đức Ma-ri-a, trước khi được ban Lời-bằng-xương-bằng-thịt đã phải cưu mang Lời của mạc khải và mầu nhiệm. “Và nơi lòng dạ, người sẽ thụ thai, và sinh con…”. Đó là một điều khó chấp nhận, khó hiểu, nghịch lý nhất. Lời Chúa đã khiến Bà bối rối và e ngại…
Tín hữu cũng sẽ có tâm trạng như Đức Ma-ri-a khi phải cưu mang Lời Chúa. Sẽ là đau đớn và thử thách. Sẽ là kinh ngạc và bối rối. Như khi Đức Ma-ri-a đã nghe : “Này! Ngài có mệnh làm cớ cho nhiều người bổ nhào và chỗi dậy trong Israen, và làm dấu gợi lên chống đối, và hồn bà, mũi gươm sẽ đâm thâu, ngõ hầu ý nghĩa của nhiều tâm hồn phải bầy ra” (Lc 2, 34-35).
Đức Ma-ri-a, khi bước vào lộ trình của mầu nhiệm Lời Chúa, đã đi trước con đường tử nạn của Giê-su con mình. Từ biến cố truyền tin ở Na-za-rét đến Bê-lem, đến sân đền thờ với ông già Si-mê-on, việc lạc mất con trẻ ba ngày ở Giê-ru-sa-lem, đến hành trình lang thang khắp xứ sở Ga-li-lê-a…đến những vụ việc chống đối, bắt bớ, nghi kỵ của giới lãnh đạo tôn giáo đối với Giê-su…cuối cùng đến đồi trọc Gol-go-tha và dưới chân thập giá, Ma-ri-a im lặng trong sự chết lặng im của Giê-su và của chính bản thân mình. Ma-ri-a đã cùng chết với Đức Giê-su để Lời Chúa được thực hiện.
* KI-TÔ HỮU VÀ MẦU NHIỆM LỜI CHÚA
Trước hết, mầu nhiệm Ki-tô giáo làm cho chúng ta khó hiểu: một cộng đoàn, các bí tích, những giáo huấn, những con người yếu đuối, những vấp ngã, những chia rẽ, kể cả những dáng vẻ bình thường và tầm thường! Thật khó mà tin vào mầu nhiệm ấy…
Nhưng tín hữu được mời gọi đi vào con đường của Đức Ma-ri-a. Con đường của đức tin và lòng khiêm tốn.
Các tông đồ của Chúa, những tín hữu Ki-tô giáo tiên khởi, đã chấp nhận bước vào “vùng tăm tối” của đức tin để tin nhận mầu nhiệm thương khó, tử nạn, sống lại và sự nghiệp thiên sai của Đức Ki-tô. Ngài trở nên trung tâm của việc rao giảng Tin Mừng của các tông đồ và cộng đoàn tiên khởi. Mầu nhiệm Ki-tô giáo trở thành Lời Chúa cho thế giới.
Phao-lô hăng say rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa với tư cách một thừa tác viên quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Phao-lô trước đó đã có cái kinh nghiệm “nhớ đời” trong biến cố Đa-mát. Biến cố ấy đã làm ông chết đi con người cũ và tái sinh trong con người hoàn toàn mới. Con người của đức tin và mầu nhiệm Ki-tô giáo. “Chúng tôi không hổ thẹn rao giảng thập giá Đức Kitô…rao giảng Giêsu Nazarét bị đóng đinh…rao giảng Tin Mừng được cứu sống nhờ bởi cái chết của một Người…”
Phao-lô đã nhận lãnh từ Đức Ki-tô phục sinh sứ mạng truyền giảng Lời Chúa với tư cách là một kẻ đã tin và một chứng nhân. Lời Chúa luôn sáng tạo nơi chúng ta một con người của đức tin. Và kẻ tin thì luôn mang niềm vui và hi vọng “Người công chính bởi tin sẽ sống”.
Ki-tô giáo cũng được gọi là cộng đoàn đức tin vì Lời Chúa đã phát sinh và qui tụ những kẻ tin vào Đức Ki-tô. Sống với Đức Giê-su, các môn đồ đã được thanh luyện từ từ để có được một nhãn quan mới, một trí năng mới, một tấm lòng mới, một con người mới.”Các người đã được sạch bởi lời Ta đã nói với các ngươi” (Ga 15, 3). Các ông phải loại trừ những gì là cũ, để sẵn lòng tiếp nhận cái mới bởi vì “Đã ban cho các ngưoi mầu nhiệm Nước Thiên Chúa…” (Mc 4, 11).
Để đón nhận mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, chúng ta khởi hành từ đức tin, rồi hoán cải và được tái sinh. “Ai không sinh lại bởi Nước và Thần Khí, thì không thể vào được Nước Thiên Chúa” (Ga 3,5).
Cuộc tái sinh của tín hữu sẽ khởi đầu từ việc đón nhận đức tin. Như Đức Ma-ri-a đã cúi đầu trước lệnh truyền của Thiên Chúa, “Xin vâng!”. Sau lời tuyên xưng khiêm tốn ấy, Mẹ bước vào thế giới của lòng tin, của mầu nhiệm và đời sống Mẹ trở nên một lời “Xin vâng” trọn vẹn vì đã tín thác hoàn toàn cho ý định của Thiên Chúa. Đó là một cuộc hoán cải của đức tin.
Khi bước vào cuộc hoán cải của đức tin, Đức Ma-ri-a đã chết đi từng ngày để Lời Chúa lớn lên trong Bà. Đức Maria đã theo Chúa Giê-su con mình trên con đường đau khổ, cho đến giây phút cuối cùng : “Đứng bên khổ giá Đức Giêsu, có Mẹ Ngài…” (Ga 19,25).
Đức Giê-su, Lời của Thiên Chúa, đã kêu gọi chúng ta chia sẻ mầu nhiệm vượt qua của Ngài. Lời của Chúa không ru ngủ chúng ta, trái lại đã thức tỉnh chúng ta qua việc đề nghị chúng ta “Vác thập giá theo chân Ngài”.
Chính tính cách quyết liệt và dứt khoát của Lời Chúa đã khiến nhiều người bỏ Ngài.
Nhưng với những ai trung tín và vâng phục, thì tin và theo Đức Giê-su có nghĩa là đồng hành với Ngài trong cuộc hành trình vượt qua.
“Mọi thời và khắp nơi, chúng tôi mang trong thân mình chúng tôi cuộc tử nạn của Đức Giêsu, ngõ hầu sự sống của Ngài cũng được tỏ hiện nơi mình chúng tôi” (2Cor 4, 10).
Kinh nghiệm của chúng ta là, khi nghe, tin và thực hành Lời Chúa là bắt đầu cuộc vượt qua cùng với Chúa Ki-tô. Bởi vì, thực hành theo Lời là vác thập giá, hoán cải theo Lời là khổ hình đau thương, tái sinh bằng Lời là tử nạn liên lỉ…
Tuy nhiên, với những kẻ tin, đằng sau và bên kia cuộc vượt qua trong Chúa Ki-tô, luôn luôn là ánh sáng bình minh của sự sống, bình an và hoan lạc. “Phúc cho ai nghe và giữ Lời Thiên Chúa...”(x. Lc 11, 27; Ga 5, 24.6,40.8,51).
Mầu nhiệm của Lời Chúa sẽ ban cho chúng ta sức mạnh của Thánh Thần để hưởng ơn huệ dịu ngọt và sự bình an thiêng liêng. “Hỡi anh em, những kẻ được Thiên Chúa yêu mến, chúng tôi nhận biết anh em là những kẻ được chọn, bởi vì Tin Mừng chúng tôi loan báo không chỉ đến với anh em bằng lời nói mà thôi, nhưng một cách quyền năng bằng Thánh Thần, và sự dồi dào mọi thứ…” (1Tx 4-5).
Vì được Thiên Chúa yêu thương và tuyển chọn, chúng ta mới có cơ hội nhận lãnh Lời. Đây là ơn huệ nhưng không. Một hạnh phúc tuyệt vời. Chính Lời Hằng Sống sẽ đưa chúng ta vào mầu nhiệm của Thiên Chúa và nhờ đó chúng ta có cơ may đến được vùng trời mới đất mới.
Đức Ma-ri-a được ơn hồn xác lên trời đã chỉ cho ta về một viễn ảnh tươi sáng. Mẹ đã cưu mang Lời, đã chia sẻ cuộc vượt qua của Đức Giê-su bằng việc vâng phục thánh ý Chúa, đã tin vào Lời Thiên Chúa và thi hành những gì Người phán dậy. Mẹ vinh hiển đang hạnh phúc và đang chờ đợi chúng ta…
Ki-tô hữu là người, nhờ đức tin chân thành, nhờ sự hoán cải sâu xa, nhờ ánh sáng soi dẫn của Lời Chúa, đã thấy được ý nghĩa đích thực của mầu nhiệm các biến cố trong cuộc đời mình, và nhất là nhờ sự thông hiệp mật thiết với Đức Ki-tô phục sinh, Lời Chúa đã trở nên chính máu thịt của họ (x. Gl 2,20) ./.
- - - - - - - - - - - [1] Những trích dẫn Kinh Thánh trong bài này dựa theo quyển Kinh Thánh bản dịch của LM Nguyễn Thế Thuấn, DCCT, XB năm 1976
Suốt chiều dài lịch sử của Hội thánh, các Ki-tô hữu không ngừng được nghe nói đến hoặc chứng Đề tài 10
Suốt chiều dài lịch sử của Hội thánh, các Ki-tô hữu không ngừng được nghe nói đến hoặc chứng kiến và cảm nghiệm khá nhiều phép lạ xảy ra đó đây trên khắp thế giới. Sở dĩ các phép lạ được phép xảy ra là vì Thiên Chúa muốn bày tỏ cho con người về ý định cứu rỗi, quyền năng và tình thương quan phòng của Người. Phép lạ là một thứ ngôn ngữ và dấu chỉ cho thấy rằng “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1, 37).
Tuy nhiên Hội thánh cũng lưu ý rằng có nhiều trường hợp xảy ra những sự kiện tôn giáo được xem là “lạ” nhưng không được công nhận là phép lạ. Bởi vì xưa nay Hội thánh rất thận trọng trong việc khẳng định một sự kiện nào đó là phép lạ. Hội thánh luôn cân nhắc cũng như căn cứ trên một số tiêu chuẩn và điều kiện nhất định. Chúng ta nên lưu ý là, “Trong ngôn ngữ của Giáo hội, tiếng ‘phép lạ’ dùng để dịch danh từ ‘Miraculum’ tiếng La-tinh. Theo nguyên ngữ, nó ám chỉ một hiện tượng khác thường, gây ra ngạc nhiên, thán phục... Trong ngôn ngữ thần học thì để một sự kiện có thể gọi là phép lạ, cần hội đủ hai điều kiện: 1- thứ nhất, việc đó mang tính cách khác thường; 2- thứ hai, nó do Chúa làm ra. Hai điều kiện đi đôi với nhau thì mới được nhận là phép lạ” (Lm. Giuse Phan Tấn Thành, O.P, bài “Phép lạ là gì?”, nguồn daminhvn.net).
Để trả lời câu hỏi “Phép lạ là gì?”, ĐGM José Luis Gutierrez thuộc Bộ Phong Thánh, tháng 10-2003 đã giải thích rằng “Đối với những nhà thần học, phép lạ ‘thông truyền một thông điệp cứu độ, đó là một điều phi thường đặc biệt làm mọi người khâm phục, một biến cố vượt trên những luật vật chất. Mục đích của phép lạ không nhằm gây thán phục nhưng là thông truyền một thông điệp cứu độ’. Dưới khía cạnh học thuyết, ĐGM Gutierrez nói rõ rằng ‘chỉ có Thiên Chúa mới làm phép lạ, Mẹ Maria và các thánh can thiệp vào’. Theo thánh Tô-ma, ‘phép lạ vượt trên thiên nhiên được tạo dựng và chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm được,’ ngài cũng nói: ‘những phép lạ thật chỉ có thể xảy ra do nhờ Thiên Chúa’ “ (LM An-tôn Nguyễn Trường Thăng, bài “Phong thánh: Chỉ cần một phép lạ thôi”, nguồn tgpsaigon.net).
* PHÉP LẠ CỦNG CỐ ĐỨC TIN
Phép lạ có một vai trò đặc biệt trong đời sống Ki-tô hữu chúng ta. Nó giúp củng cố niềm tin và loan báo một sứ điệp nào đó cho con người. Mặc dù Thiên Chúa đầy quyền năng và tình thương có thể cho các phép lạ xảy ra bất kỳ lúc nào và bất kỳ ở đâu, nhưng thực sự Người không bao giờ muốn thực hiện các phép lạ một cách tràn lan. Phép lạ chỉ thực sự xảy ra khi cần thiết và luôn có chủ đích. Mục đích của phép lạ luôn là thông truyền một thông điệp nào đó mà Thiên Chúa muốn gửi đến cho con người. Chẳng hạn năm 1917 từ Fatima, Đức Ma-ri-a đã truyền đi thông điệp cho cả thế giới, như một điều kiện khẩn thiết để thế giới được hòa bình: “Hãy siêng năng lần hạt; hãy cải thiện đời sống; hãy tôn sùng Trái Tim Mẹ”.
Do đó, có thể suốt cuộc đời mình, Ki-tô hữu chúng ta không có dịp “nhìn” thấy phép lạ tỏ tường hay được hưởng những ơn đặc biệt do các phép lạ, nhưng chúng ta vẫn xác tín phép lạ là có thật vì chúng ta tin vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Mặt khác, chính đức tin soi sáng cho chúng ta biết ý nghĩa đích thực của các phép lạ Chúa làm.
Đức Giê-su, khi đi rao giảng về Tin Mừng Nước Thiên Chúa, ngoài việc trừ quỷ, ngài cũng đã làm nhiều phép lạ như hóa bánh ra nhiều, biến nước lã thành rượu ngon, chữa lành các bệnh tật, cho kẻ chết sống lại, truyền khiến sóng gió im lặng vv... Một mặt các phép lạ Chúa làm đã giúp củng cố lòng tin của các môn đệ về những mạc khải của Ngài, mặt khác cũng giúp chứng minh hùng hồn về nguồn gốc thiên tử và sứ mệnh thiên sai của Ngài. Thực vậy, “Qua các phép lạ, Đức Giê-su chứng tỏ rằng Vương Quốc Đấng Massia được các sứ ngôn loan báo, đã hiện diện nơi chính bản thân Người (Mt 11,4 tt). Người làm cho người ta phải lưu ý đến Người và đến Tin Mừng của Vương Quốc mà Người là hiện thân. Người khơi dậy sự ngưỡng mộ và lòng kính sợ tôn giáo khiến con người phải tự hỏi xem Người là ai (Mt 8,27; 9,8; Lc 5,8 tt)” (x. Mục từ “Phép lạ”, Điển ngữ Thần học Thánh Kinh GHHV Pi-ô X Đà-lạt).
Ngày nay, trong nhiều trường hợp, phép lạ đã khơi dậy niềm tin nơi nhiều người, kể cả các Ki-tô hữu cũng như những người lương dân. Nhiều người Công giáo đã bỏ đạo hay đang sống khô khan nguội lạnh, sau khi chứng kiến các phép lạ, họ thành tâm ăn năn thống hối, cầu nguyện và đã được nhiều ơn lành Chúa ban, đã trở lại với Chúa và có một đức tin mãnh liệt. Chúng ta đã nghe nói nhiều đến các ơn lạ từ phép lạ Đức Mẹ hiện ra tại Fa-ti-ma, tại Lộ-Đức, hay tại La-Vang vv... Tại đây có nhiều người đến cầu nguyện, đã được khỏi các bệnh-tật, đã được những ơn lành cầu xin, họ trở thành các chứng nhân sống động về quyền năng và tình thương của Thiên Chúa cũng như về sự cầu bầu hiệu nghiệm của Đức Ma-ri-a. Trong khi đức tin giúp soi sáng ý nghĩa và mục đích của phép lạ, thì các phép lạ giúp phát sinh lòng tin và sự hoán cải.
* PHÉP LẠ TRONG ĐỜI SỐNG KI-TÔ HỮU
Chúng ta phải khẳng định một điều là đức tin cần thiết cho đời sống Ki-tô hữu hơn là phép lạ. Có thể nói đức tin là yếu tố tiên quyết để phép lạ xảy ra. Nhất là nếu chỉ dựa vào phép lạ mới tin thì đó là dấu chứng tỏ đức tin chưa hoàn hảo (x. Ga 10, 38 ; 14,11). Chính Chúa Giê-su cũng thường xuyên nhấn mạnh đến vai trò của đức tin đối với các môn đệ và những người đi theo Ngài. Chẳng hạn Ngài nói về sức mạnh của lòng tin, “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em ” (Lc 17, 6). Và câu chuyện sau đây cũng cho thấy chính lòng tin vào Đức Giê-su đã chữa lành bệnh, “Bỗng một người đàn bà bị băng huyết đã mười hai năm tiến đến phía sau Người và sờ vào tua áo của Người, vì bà nghĩ bụng: ‘Tôi chỉ cần sờ được vào áo của Người thôi là sẽ được cứu!’. Đức Giê-su quay lại thấy bà thì nói: ‘Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con.’ Và ngay từ giờ ấy, bà được cứu chữa.” (Mt 9, 20-22).
Có thể nói phần đông các tín hữu chúng ta rất nhiệt tình đối với các sự lạ xảy ra nơi này nơi kia. Ngay cả đối với những sự kiện có thể là “lạ” nhưng chưa được giáo quyền công nhận, cũng vẫn gây sự quan tâm của nhiều người và thu hút họ đến các địa chỉ “thánh địa” để hành hương, chiêm ngưỡng và cầu nguyện. Chẳng hạn, tại Việt-Nam, thường xuyên vẫn có nhiều đoàn hành hương đi đến các địa điểm được truyền tụng là đã xảy ra các phép lạ của Đức Mẹ, như La-Vang, Tà-Pao, La-Mã (Bến Tre), Măng Đen (Kon-tum) vv...
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý đến điều này là, “Thật đáng buồn là có không ít các Ki-tô hữu giữ đạo chỉ vì phép lạ. Họ xem Chúa như một người làm phép lạ để phục vụ cho những nhu cầu của mình. Nơi nào xảy ra nhiều phép lạ, họ càng kéo đến đông, càng tỏ vẻ cung kính và quảng đại dâng hoa, dâng tiền bạc. Điều này chẳng những không giúp nhiều cho đời sống thiêng liêng mà còn biến tôn giáo của chúng ta thành một kiểu buôn thần bán thánh, mê tín dị đoan và hạ thấp những chân lý đức tin. Dĩ nhiên, chúng ta có quyền xin Chúa thực thi những phép lạ, giúp dàn xếp những bất ổn trong gia đình, giúp chữa lành bệnh, giúp vượt qua khó khăn hoạn nạn… Nhưng chúng ta không nên xem phép lạ là điều kiện tối cần thiết phải có để tin vào Chúa. Cầu xin là việc ta cần làm, còn việc có ban cho ta theo lòng ta sở nguyện hay không là chuyện của Đấng Toàn Tri và Toàn Năng là Thiên Chúa. Ngài thừa biết điều gì tốt cho ta và khi nào ban cho ta thì có lợi cho ơn cứu độ của ta hơn” (Pr. Lê Hoàng Nam SJ, bài “Phép lạ, liệu có thật?”, nguồn dongten.net).
Chúng ta nhận thấy rằng tất cả những ai đến tuổi lập gia đình, khi bước vào đời sống hôn nhân Đề tài 11
Chúng ta nhận thấy rằng tất cả những ai đến tuổi lập gia đình, khi bước vào đời sống hôn nhân đều mong ước cuộc sống lứa đôi của họ luôn được êm ấm và hạnh phúc lâu dài. Đó không phải là một mong ước xa vời, viễn vông, nhưng đó chính là kết quả của tình yêu mà đôi nam nữ ban tặng cho nhau. Có thể nói, hôn nhân như một cái cây, nó sống được và tươi tốt là nhờ tình yêu nuôi dưỡng. Và hạnh phúc chính là hoa thơm quả ngọt do tình yêu ấy đem lại.
Tuy nhiên, điều đáng buồn là trên thực tế hiện nay có nhiều cặp vợ chồng trẻ chỉ mới sau một thời gian ngắn chung sống, họ đã phải chia tay, đó là cái kết cục đau lòng của một cuộc tình không hạnh phúc. Đó là một hiện tượng khá phổ biến, mà ngày nay người ta dùng thuật ngữ “Ly hôn xanh” để ám chỉ, tức là ly hôn sau từ 1 đến 5 năm đầu chung sống.
Theo số liệu gần đây của Viện Nghiên cứu gia đình và giới, cả nước trung bình có trên 60.000 vụ ly hôn/ năm, tỷ lệ 30%, tức là cứ 10 cặp vợ chồng kết hôn thì có 3 cặp ly hôn, xu hướng này tiếp tục tăng ở cả thành phố và nông thôn. Đáng lưu ý là 70% số vụ ly hôn thuộc về các gia đình trẻ mà vợ/ chồng trong độ tuổi từ 18-30, trong đó 60% ly hôn sau khi kết hôn từ 1-5 năm, nhiều trường hợp mới cưới nhau được vài tháng. [1]
Đúng như một danh nhân đã nói: “Đám cưới nào cũng hạnh phúc cả, chỉ có cuộc sống chung sau đó là có nhiều rắc rối” (Raymond Hull). Những rắc rối trong đời sống hôn nhân là điều hiển nhiên, nó có thể gia tăng theo thời gian và hoàn cảnh của đôi vợ chồng. Nếu ta không tìm cách giải quyết một cách thỏa đáng và đúng lúc thì chắc chắn cuộc hôn nhân sẽ bế tắc và nguy cơ đổ vỡ.
Một cuộc hôn nhân không hạnh phúc nếu kéo dài có thể được xem như thất bại, nó xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, tựu trung ta có thể liệt kê một số lí do tiêu biểu sau:
- KHÔNG NHẬN THỨC ĐÚNG VÀ ĐỦ VỀ Ý NGHĨA, MỤC ĐÍCH CỦA HÔN NHÂN
Nhiều bạn trẻ trước khi kết hôn đã không trang bị cho mình một số kiến thức, kỹ năng, đức tính cần thiết cho đời sống hôn nhân gia đình. Có bạn trẻ nhắm mắt chạy theo số đông, coi việc lập gia đình như một “trò chơi”, ai sao tôi vậy. Họ không nghĩ rằng hôn nhân là một công trình nghiêm túc, phải dấn thân kiến tạo suốt cả đời. Người ta nói, phải cầu nguyện một lần trước khi ra khơi, hai lần trước khi ra trận, nhưng ba lần trước khi kết hôn. Điều đó cho thấy hôn nhân là một việc làm hết sức hệ trọng trong cuộc đời.
Chính vì thế, đối với các bạn trẻ Công giáo, trước khi kết hôn phải tham dự một lớp học về Giáo lý hôn nhân và gia đình. Đây được coi là một trong những điều kiện không thể miễn trừ. Qua lớp học này, trước tiên người ta sẽ hiểu khái niệm về hôn nhân là gì. “Đó là một giao ước ký kết giữa một người nam và một người nữ, với ý thức tự do và trách nhiệm, để sống yêu thương và giúp đỡ nhau trong tình nghĩa vợ chồng; để sinh sản và giáo dục con cái trong nhiệm vụ làm cha làm mẹ”. [2]
Vậy, để có một cuộc hôn nhân hạnh phúc và chung thủy, các bạn phải ý thức rằng việc thực hiện hôn ước giữa một người nam và một người nữ là một hành vi tự do và trách nhiệm. Họ đến với nhau không phải bị ép buộc hay do áp lực của tiền tài danh vọng. Họ cùng cam kết sống và yêu nhau đến trọn đời, đồng thời sẵn sàng đón nhận con cái như là quà tặng của Đấng Tạo Hóa. Thiếu những điều căn cốt này, đời sống hôn nhân của các bạn sẽ gặp thất bại ngay từ những tháng năm đầu chung sống, và nguy cơ tan vỡ là điều sớm muộn gì sẽ đến.
- KHÔNG THÍCH NGHI ĐƯỢC VỚI CUỘC SỐNG CHUNG
Nhiều bạn trẻ, khi lập gia đình không hình dung viễn ảnh của đời sống vợ chồng, nó phức tạp và khó khăn thế nào. Cuộc sống không còn là của một người nhưng là của hai người kết hợp lại. “Ta với mình tuy hai mà một; mình với ta tuy một mà hai”. Do đó, có người đã nói rằng, “Hôn nhân chia đôi quyền lợi và nhân đôi trách nhiệm”. Điều đó có nghĩa là khi sống chung với nhau, hai vợ chồng phải đủ khả năng để hi sinh quyền lợi riêng tư vì lợi ích chung gia đình đồng thời mỗi bên phải gia tăng trách nhiệm của mình đối với tổ ấm mà hai người đã tạo lập.
Một mặt hai bạn phải tập thích nghi với nhau, vì anh là anh, chị là chị, hai người là hai cá thể đặc thù riêng biệt. Họ phải sống làm sao để từ nay, hai người không còn là hai mà là một xương một thịt (x.Mt 19, 6). Nếu có điều kiện thì ở riêng, “một túp lều tranh hai trái tim vàng”. Còn nếu chưa có điều kiện thì đành phải sống chung hai, ba thế hệ trong cùng một căn nhà. Lúc đó những va chạm là điều khó tránh khỏi và các bạn trẻ phải biết khôn ngoan để có thể thích nghi với hoàn cảnh mới mẻ này. Chuyện xung đột mẹ chồng nàng dâu, chẳng hạn, luôn là vấn đề nóng hổi đối với những cặp vợ chồng mới cưới. Nếu họ khôn khéo biết thích nghi thì sẽ tránh khỏi nhiều va chạm không đáng có và nhờ thế cuộc sống hôn nhân gia đình sẽ luôn giữ được hòa khí ấm êm.
- KHÔNG TÔN TRỌNG NGƯỜI BẠN ĐỜI
Trong các cuộc khảo sát các đôi vợ chồng xin li hôn, người ta thấy rằng việc “Không tôn trọng bạn đời” là một trong những nguyên nhân hàng đầu khiến vợ chồng chán nhau. Tục ngữ VN có câu “Tương kính như tân”, nghĩa là vợ chồng trước sau như một phải kính yêu tôn trọng nhau như là một người khách. Điều này xem ra có vẻ khó thực hiện. Vì trên thực tế, chỉ sau một thời gian ngắn chung sống, người ta trở nên nhàm chán nhau, dẫn đến tình trạng coi thường nhau. Tình yêu phai nhạt theo thời gian cộng với những khó khăn, mâu thuẫn trong cuộc sống chung sẽ trở thành nguyên nhân gây “bùng nổ chiến tranh” giữa hai vợ chồng.
Do đó, người ta đã đưa ra một nguyên tắc sau đây, coi như thước đo mức độ tình yêu mà hai bạn dành cho nhau: “Nền tảng của tình yêu vợ chồng là yêu kính trân trọng nhau” (Elijah Fenton). Khi không còn biết trân trọng nhau như hai bạn đời thì cuộc hôn nhân có nguy cơ đổ vỡ. Thực tế cho ta thấy sự coi thường nhau sẽ gây ra tranh cãi, xung đột và nếu rơi vào tình trạng nặng nề thì sẽ có thể đưa tới bạo lực vợ chồng. Lúc đó, giải pháp mà người ta sẽ thường phải chọn lựa, đó là đường ai nấy đi.
- KHÔNG GIẢI QUYẾT DỨT KHOÁT NHỮNG MÂU THUẪN, CÃI VÃ THƯỜNG NGÀY
Ông bà ta thường nói, chén bát cũng có lúc va chạm huống hồ con người. Và chúng ta nên nhớ một điều này là con người thì nhân-vô-thập-toàn. Không ai là thánh, không ai là hoàn hảo, vì thế trong đời sống vợ chồng, sẽ khó tránh khỏi những va vấp này nọ. Chúng ta biết rằng, những mâu thuẫn, cãi vã, bất đồng là điều thường tình trong cuộc sống lứa đôi. Nhưng điều đó không có nghĩa là ta bất lực, chịu thua. Nên nhớ là lỗ nhỏ cũng có thể gây đắm thuyền. Những cãi vã mâu thuẫn hằng ngày phải được giải quyết dứt khoát, nếu không cuộc sống vợ chồng chỉ là những chuỗi ngày u sầu, đau khổ.
Ca dao tực ngữ VN có câu: “Chồng giận thì vợ bớt lời, / cơm sôi nhỏ lửa một đời chẳng khê”; hay ông bà ta thường có câu “Một sự nhịn chín sự lành”. Đó là cách thế phổ biến nhất nhằm đánh tan những xung đột giữa hai vợ chồng. Kinh nghiệm cho thấy, lúc đầu chỉ là những bất đồng vụn vặt, cái kiểu ông nói gà bà nói vịt, hay trống đánh xuôi kèn thổi ngược. Nhưng sau do không giải quyết rối ráo vấn đề, những mâu thuẫn xung đột gia tăng dần dần cả về tần suất lẫn tính chất, khiến cho bầu không khí gia đình trở nên ngột ngạt, nặng nề. Hai bạn cảm thấy cuộc sống vợ chồng quả thực là đau khổ, chán chường và hoàn toàn không hạnh phúc.
Để đề phòng thảm họa này, các bạn nên tỉnh táo và tìm cách giảm bớt những mâu thuẫn, bất đồng bằng cách mỗi người tỏ thiện chí muốn cải thiện tình hình. “Yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng“ (Ca dao VN). Hoặc, “Bí quyết lớn nhất làm cho cuộc hôn nhân thành công, đó là coi tất cả các tai họa là chuyện nhỏ và không bao giờ biến chuyện nhỏ thành tai họa“ (Harold Nichlson).
- KHÔNG CÙNG QUAN ĐIỂM VỀ NHIỀU VẤN ĐỀ TRONG CUỘC SỐNG
Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến li thân, li dị. Đôi bạn sẽ nói một cách đơn giản là “Chúng tôi không hợp nhau!”. Thực ra trong cuộc sống chung, đôi bạn dần dần sẽ thấy rằng giữa hai người thường không có cùng quan điểm về một số vấn đề trong cuộc sống. Chẳng hạn, quan điểm về nhân sinh, về chi tiêu tiền bạc, về giáo dục con cái, về đối nhân xử thế, về tình yêu-tình dục vv. Đây là chuyện bình thường, vì bá nhân bá tính. Mỗi người là một cá thể biệt lập, nên họ không cùng suy nghĩ, phán đoán, nhận định như nhau.
Cuộc sống vốn phức tạp và con người vốn có cái nhìn đa chiều. Chúng ta không thể bắt chước nhau, hay ép người khác phải suy nghĩ và hành động như mình. Tuy nhiên, để đời sống gia đình luôn có hòa khí, mỗi người nên bớt cái “tôi” của mình để hòa hợp với cái “chung” vợ chồng. Ca dao VN có câu: “Yêu nhau trăm sự chẳng nề, / một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”.
Đến một lúc nào đó, nếu đôi bạn cứ bo bo ngoan cố không muốn hoặc không thể dung hòa được với các quan điểm của bạn đời, lúc đó đời sống vợ chồng sẽ trở nên gánh nặng cho cả hai và chắc chắn họ sẽ không hạnh phúc như họ đã từng mong đợi.
- KHÔNG CHẤP NHẬN SỰ KHÁC BIỆT CỦA NHAU
Một trong những điểm quan trọng mà đôi bạn phải ý thức ngay từ lúc còn đang giai đoạn tìm hiểu nhau, đó là sự khác biệt nam nữ, sự khác biệt giữa chồng và vợ. Tiến sĩ Nguyễn Minh Hòa, trong cuốn “Hôn nhân gia đình trong xã hội hiện đại” đã viết như sau:
“Sau nhiều năm nghiên cứu, các chuyên gia về gia đình đã tổng kết nên các nguyên tắc sau đây trong cuộc sống gia đình: Chấp nhận – Chịu đựng – Điều chỉnh – Thích ứng. Theo họ nếu các cặp vợ chồng thực hiện đúng theo các nguyên tắc thì nhất định sẽ có một gia đình bền vững. Tại sao lại phải như vậy? Trước hết cần phải chấp nhận người bạn đời của mình như vốn có. Hãy đừng đòi hỏi cao hơn khả năng người bạn đời đáng ứng và cũng đừng mong muốn thay đổi những gì thuộc về bản chất mà nên biết hài lòng về người thân của mình.
“Chúng ta ai cũng biết rằng vợ chồng là hai người ở hai phương trời xa lạ, sinh ra và lớn lên trong hai gia đình khác lạ, khác nhau từ truyền thống giáo dục, tập quán, nếp sống, thói quen (có khi còn khác nhau về quốc tịch, màu da, tiếng nói), chưa kể đến biết bao sự khác biệt về trình độ học vấn, sở thích, cá tính, tố chất vv. Nói tóm lại là hoàn toàn khác nhau từ điểm xuất phát ban đầu.
“Cá nhân xác định chỉ có một nguyên bản, không hề có phó bản, chỉ xuất hiện một lần và không bao giờ lập lại. Không thể có hai cá thể hoàn toàn trùng hợp với nhau. Như vậy, hai vợ chồng dù có hòa hợp nhau đến mấy đi chăng nữa thì vẫn có những sự khác biệt, đôi khi là trái ngược lẫn nhau, mâu thuẫn với nhau...” [3]
Vậy đã rõ, vợ chồng là hai cá thể khác biệt nhau nhưng lại phải sống chung với nhau trong một gia đình, dưới một mái nhà, cùng chịu trách nhiệm về hạnh phúc gia đình. Họ chẳng những phải chấp nhận nhau, chịu đựng nhau và tự điều chỉnh để người này thích nghi với người kia, tránh được tình trạng xung khắc, xung đột nhau. Ông bà ta thường nói “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”. Điều này cho thấy sự khác biệt vợ chồng là điều tất yếu nhưng sự hòa hợp vợ chồng cũng là điều tất nhiên nhờ đó hai anh chị có sức mạnh vượt thắng được những cơn khủng hoảng trong đời sống gia đình.
- KHÔNG QUAN TÂM ĐẾN NHAU NHƯ THỦA BAN ĐẦU
Trong chương trình “Vợ chồng son” được phát trên kênh HTV 7 mỗi tối khuya chủ nhật hằng tuần, các đôi vợ chồng trẻ có dịp bộc bạch tâm sự về niềm vui nỗi buồn trong đời sống gia đình. Người ta nhận thấy, một trong những điều các cặp quan tâm đề cập đến, đó là vấn đề vợ chồng không quan tâm chăm sóc nhau.
Chẳng hạn, sau cơm tối, chồng thì lo chơi game hay xem bóng đá trên TV. Trong khi đó thì vợ ôm cái điện thoại thông minh, lướt web hay vào facebook “chat” với bạn bè... Việc ai nấy làm, chẳng ai nói với nhau lời gì. Cái cảm nhận chung của các đôi vợ chồng rơi vào tình huống này, là họ hoàn toàn thất vọng về nhau. Họ cảm thấy vợ hay chồng không còn quan tâm đến bạn đời của mình như thủa ban đầu nữa. Hai người sống với nhau nhưng trong một tình huống “đồng sàng dị mộng”, tức là thay vì cùng quay về một hướng thì lại quay lưng lại với nhau, như hai người xa lạ!
“Hãy thường xuyên quan tâm đến nhau”. Đó là mệnh lệnh của trái tim. Khi yêu, người ta có thể làm tất cả vì nhau và cho nhau. Việc quan tâm đến nhau phải được coi là một trong những “hạng mục ưu tiên” hàng đầu để giữ cho cuộc hôn nhân bền vững, hạnh phúc. Quan tâm từ việc nhỏ đến việc lớn. Mỗi người coi nhau như đối tượng chăm sóc thường xuyên. Không phải chỉ có kiểu lãng mạn “nâng khăn sửa túi” lúc ban đầu, mà suốt cả cuộc hành trình đời sống lứa đôi, hai bạn phải chăm sóc, nâng đỡ, hỗ trợ nhau cách tận tình và chu đáo. Nhiều khi chỉ một việc nhỏ thôi cũng đủ hâm nóng tình yêu, vốn rất mong manh, nhờ đó hai bạn vững vàng yên tâm đi tới đích. Có một ý kiến thế này: “Sẽ bớt đi những vụ li dị nếu quý bà tân thời ngày nay chăm lo cho chồng con hơn là chăm sóc các món hàng hạ giá ở siêu thị”.
Thực vậy, “Khi tình yêu còn tươi mới nồng nàn thì tuần nào cũng vài ba lần hẹn hò nhau. Chính đó là thức ăn nuôi dưỡng tình yêu đưa đến kết hôn. Nhưng khi đã sống chung một nhà, thì ai cũng chỉ muốn làm những gì mình thích chứ không phải những gì dành cho nhau. Mỗi người như sống cuộc sống riêng của mình ở bên ngoài gia đình. Những cuộc hôn nhân như thế không tan vỡ sớm thì cũng chết từ từ.” [4]
- KHÔNG HÒA HỢP TRONG ĐỜI SỐNG TÌNH DỤC
Chúng ta biết rằng, tình yêu và nhu cầu tình dục gắn liền nhau. Tình yêu giúp cho tình dục mặn nồng, và tình dục giúp cho tình yêu thăng hoa, tươi mới. Bất kỳ sự mất-hòa-hợp nào cũng phải trả giá, vì khi “vợ chồng không cùng nhịp và khi’chuyện ấy’ không hoà hợp sẽ trở thành một trong những nguyên nhân khiến tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt”. Sự không hòa hợp trong đời sống tình dục vợ chồng có thể xảy ra trong các trường hợp sau:
Sự nhàm chán đơn điệu kéo dài liên tục qua nhiều năm tháng khiến vợ chồng cảm thấy “nhạt nhẽo” chuyện chăn gối. Lúc đó, người ta thường tìm đến “nhân vật thứ ba” như để bù đắp và thỏa mãn những nhu cầu tình cảm, tình dục. Đó là trường hợp “Ông ăn chả”, “Bà ăn nem” hay “Chán cơm thèm phở”... Nói nôm na đó là tình trạng ngoại tình. Một thống kê cho biết, có khoảng 60% đàn ông và khoảng 40% phụ nữ ngoại tình ít nhất 1 lần. Ngoại tình thầm kín, ngoại tình công khai, ngoại tình ngắn hạn, ngoại tình dài hạn vv...
Sự mất hòa điệu trong sinh hoạt vợ chồng có thể xảy ra khi hai người không đáp ứng nhu cầu sinh lý của nhau. Đa số phụ nữ cảm thấy thiệt thòi trong vấn đề này. Trong gia đình họ là những người dành nhiều thời gian, công sức cho chồng con, cộng với những lo lắng về công ăn việc làm, về tiền bạc, về cuộc sống khiến cho họ mất đi nhiều hứng thú trong chuyện chăn gối. Từ đó, mối quan hệ vợ chồng cũng trở nên lạnh nhạt, vô ý nghĩa.
Thực vậy: “Suy giảm ham muốn tình dục là một trong những vấn đề hay gặp ở phụ nữ. Cuộc sống bận rộn, việc chăm sóc con cái, những căng thẳng, bệnh tật, tuổi tác… là nguyên nhân hàng đầu khiến phụ nữ không mặn mà với ‘chuyện yêu’. Đối với những cặp vợ chồng có cuộc sống tình dục không hòa hợp, đa phần đều do phía nam giới không hiểu và không nắm vững tâm lý tình dục của vợ. Theo các nghiên cứu về tình dục, khoảng 70% cặp vợ chồng thỉnh thoảng gặp một vài trục trặc. Hầu hết phụ nữ không cảm thấy hứng thú tình dục ở một thời điểm nào đó trong cuộc sống...”./. [5]
- - - - - - - - - - - - - - - - - [1] Bài “Đâu là lý do ly-hôn-xanh ngày càng nhiều?, nguồn: motthegioi.vn 10-1-2018 [2] Bài 1 sách Giáo lý HN và GĐ, UB GLĐT (HĐGMVN), NXB TG năm 2004 [3] Tác giả và sách đd, trang 98-99, NXB Trẻ năm 2000 [4] Bài “Khi hôn nhân thất bại”, nguồn: giaoxutanviet.com [5] Nguồn: angela.com.vn
Nếu “Hùng biện” là một nghệ thuật, “Nói trước công chúng” là một nghệ thuật, thì cũng có thể Đề tài 12
Nếu “Hùng biện” là một nghệ thuật, “Nói trước công chúng” là một nghệ thuật, thì cũng có thể nói mà không sợ sai lầm là, “Giảng thuyết” cũng được xem như một loại hình nghệ thuật về truyền thông.
Thực vậy, “Khi cử hành thánh lễ, đặc biệt là thánh lễ Chúa Nhật, linh mục có nhiệm vụ sửa soạn cho giáo dân hai bàn tiệc: bàn tiệc Thánh Thể và bàn tiệc Lời Chúa. Cả hai bàn tiệc đều quan trọng, và có quan hệ mật thiết. Bàn tiệc Lời Chúa vừa nuôi sống, vừa chuẩn bị cho người Kitô hữu hiệp thông mật thiết với Đức Kitô trong bí tích. Chúng ta dừng lại ở bàn tiệc Lời Chúa, cách đặc biệt ở bài giảng lễ, vì đây là một nhiệm vụ vừa quan trọng, vừa vô cùng khó khăn. Giảng lễ còn là một nghệ thuật cần phải không ngừng trau dồi, vừa có hiệu năng nhờ ân sủng siêu nhiên. Hai yếu tố tự nhiên và siêu nhiên trong việc giảng lễ có tương quan hữu cơ với nhau. Yếu tố này tùy thuộc và phát huy sức mạnh nhờ yếu tố kia” [1] (Đức cố TGM Phao-lô Bùi Văn Đọc, bài “Canh tân việc giảng Lời Chúa trong thánh lễ”, nguồn tinvuixuanloc.vn).
Trên tòa giảng, giảng thuyết viên, tức diễn giả sẽ phải đối diện với một cử tọa nào đó, sẽ sử dụng những kỹ năng truyền thông thích hợp để trình bày một vấn đề, sẽ phải đầu tư cho bài giảng của mình sao cho có được chất lượng cao cả về bố cục hình thức lẫn nội dung chia sẻ, cũng sẽ phải vận dụng những công cụ, phương tiện cần thiết nhằm hỗ trợ cho việc truyền thông đạt hiệu quả cao nhất có thể...Ngoài ra, diễn giả cũng quan tâm đến việc phải làm sao cho cộng đoàn thông hiểu, cảm nhận được những gì mình nói ra. Nhất là cố gắng lôi cuốn hấp dẫn người nghe bằng những kỹ năng truyền thông thích hợp, nhờ đó họ cảm thấy thoải mái, thích thú đi vào lộ trình suy tư do mình hướng dẫn.
Nói đến nghệ thuật là nói đến cái đẹp, nét hài hòa, tính thẩm mỹ, sự thuyết phục, hiệu quả phục vụ, sức mạnh lôi cuốn, khả năng làm thay đổi, gây ấn tượng tốt, kích thích sự ham mê và tinh thần hướng thượng vv. Trong cuộc sống hằng ngày, người ta quan tâm nghiên cứu, học hỏi, bàn luận, trao đổi về nhiều loại hình nghệ thuật. Chẳng hạn, trong truyền thông người ta nói đến nghệ thuật hùng biện, nghệ thuật nói trước công chúng, nghệ thuật giao tiếp. Trong tôn giáo có mỹ thuật tôn giáo, ảnh tượng, điêu khắc, hội họa tôn giáo. Trong cuộc sống, về những mối tương quan xã hội, người ta nói đến nghệ thuật sống khỏe sống vui, nghệ thuật lãnh đạo, nghệ thuật làm vợ/ làm chồng, nghệ thuật chinh phục đám đông, nghệ thuật nói chuyện, vấn đề đắc nhân tâm vv...
Tóm lại, có cả trăm ngàn thứ nghệ thuật. Và tất cả đều có chung một mục tiêu, đó là nghệ thuật vị nhân sinh. Tất cả vì con người, cho con người, để đem lại lợi ích cho con người. Doriac và Dugaston đã quả quyết rằng: “Hùng biện là nghệ thuật, là tài nói hay, thuyết giỏi, làm cảm động, làm tín phục và chinh phục”. Giảng thuyết cũng có đủ các yếu tố liên quan đến hùng biện nên có thể được coi là một nghệ thuật.
Chúng ta sẽ bàn về các yếu tố khẳng định tính nghệ thuật trong giảng thuyết như sau:
* Xét về mục tiêu và bản chất công việc
Giảng thuyết vốn là một trong những công việc mục vụ quan trọng trong đời sống của mục tử. Công việc ấy trước tiên nhắm đến việc phục vụ. Như tài liệu “Đào tạo linh mục ngày nay”, đề tài của THĐGMTG năm 1990 đã nêu rõ: “Phục vụ Giáo hội mầu nhiệm, Giáo hội hiệp thông, Giáo hội truyền giáo, qua cầu nguyện, giảng dạy, cử hành bí tích, hướng dẫn Dân Chúa, nhằm tìm ơn cứu độ hơn là tư lợi...”.
ĐGM GB. Bùi Tuần, Gp Long Xuyên, khi chia sẻ về lý do phục vụ của linh mục đã viết như sau: “Mọi người chúng ta không trừ một ai, phải cố gắng phục vụ, nếu không thể bằng những việc có tầm cỡ, thì cũng hãy bằng những việc bé nhỏ, đơn sơ âm thầm. Lý do là vì càng phục vụ tốt, ta càng giống hình ảnh Thiên Chúa. Càng phục vụ tốt, ta càng đạt được lý tưởng linh mục của ta...” [2] (Bài ‘Truyền giáo”, Tĩnh tâm LM TGp Saigon năm 1990).
Rất có thể trong thực tế, khi đứng ở giảng đài, nhiều người có trách nhiệm phục vụ mà không nghĩ mình đang phục vụ. Từ thực tế này đã có nhiều vị giảng thuyết viên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội phục vụ của mình một cách uổng phí! Có lẽ phải ngồi ở hàng ghế thính giả, người ta mới cảm nhận được điều này. Bài giảng khi được trình bày không những có lợi cho bản thân vị mục tử mà nhất là nhắm tới ích lợi cho và vì cộng đoàn. Tác giả LM Thomas V. Liske trong cuốn “Thành công trên tòa giảng” (ĐCV thánh Quý Cần Thơ 1995), đã viết như sau: “Bài giảng không phải là công việc đơn phương. Nó không phải là độc thoại mà là việc diễn giảng trước công chúng có tính đại chúng nhất. Bài giảng là một cố gắng nghiêm túc để truyền đạt những ý niệm của các chân lý quan trọng nhất đời sang các các tâm trí và tâm hồn mà ta gọi là giáo đoàn hay cử tọa”. [3]
Như đã nói ở trên, trong mỗi thánh lễ, linh mục sửa soạn cho cộng đoàn hai bàn tiệc, Thánh Thể và Lời Chúa. Trong bàn tiệc Lời Chúa có bài giảng lễ mà bất kỳ vị linh mục nào cũng cần quan tâm chuẩn bị với nhiều thời gian và công sức. Bởi vì đó là một công việc vừa quan trọng, vừa khó khăn lại khá phức tạp. Công việc ấy có thể sánh với công việc của một bà nội trợ. Để có những món ăn ngon phục vụ thực khách, bà ta phải dùng khối óc, kiến thức, kinh nghiệm và bàn tay khéo léo để chế biến các món ăn sao cho vừa ngon miệng, vừa lạ miệng, lại đảm bảo đủ chất dinh dưỡng, sắp xếp gọn ghẽ đẹp mắt, trông hấp dẫn...
Qua việc giảng lễ, linh mục sẽ phục vụ tín hữu không phải bằng những món ăn vật chất nhưng là những món ăn tinh thần, là Lời Chúa, là những giáo huấn đạo đức, là những chia sẻ về đức tin, đức ái, về sống đạo, sống Tin Mừng. Tất nhiên, việc này không đơn giản, dễ dàng. Bởi đó là một nghệ thuật. Hay nói cách rộng hơn, đó là một công việc mang tính nghệ thuật. Chính vì vậy, ta sẽ thấy rằng, việc này sẽ khó hơn nhiều so với công việc của bà nội trợ. Công việc giảng thuyết luôn đòi hỏi vị mục tử một tâm hồn đạo đức, sự nhạy bén và thông minh của một diễn giả chuyên nghiệp, sự thông thạo kỹ năng chuyên môn về truyền thông, có vốn liếng kiến thức cần thiết và sự đam mê cần đủ để có thể chu toàn nhiệm vụ giảng dạy của mình một cách tốt đẹp.
Về vai trò phục vụ của mục tử, ĐGM GB. Bùi Tuần đã chia sẻ như sau: “Để phục vụ trong mục vụ được hữu hiệu, thiết tưởng giáo sĩ chúng ta vừa phải có lòng đạo đức, vừa có tinh thần khoa học. Phục vụ với tâm hồn đạo đức, nhưng một cách khoa học. Phục vụ với tinh thần khoa học, nhưng một cách đạo đức” [4] (Nguồn đã dẫn trên).
* Xét về đối tượng phục vụ
Có thể nói, bất kỳ loại hình nghệ thuật nào cũng nhắm đến việc phục vụ con người là chính yếu. Vì thế, người ta thường nói “Nghệ thuật vị nhân sinh”. Con người là đối tượng để phục vụ. Khi giảng, linh mục không nói một mình, nhưng là đối thoại với cộng đoàn tín hữu được Chúa và Hội thánh trao phó để giảng dạy. Qua chức năng này, công việc giảng thuyết của mục tử luôn nhắm đến đối tượng riêng của mình, đó là “những tâm hồn và tâm trí mà ta gọi là giáo đoàn hay cử tọa” (Thomas V. Liske).
Quả vậy, cử tọa của linh mục giảng thuyết không phải là những thánh nhân hay những tượng gỗ, trái lại họ là những con người cụ thể luôn có những thao thức, những lo âu, những bức xúc, những nhu cầu tâm linh, tôn giáo cần được biết đến và được giúp giải quyết. Khi nghe giảng lễ, cộng đoàn luôn mong ước được chia sẻ sự ngọt ngào của Lời Chúa, sự phong nhiêu của các chân lý, sự hấp dẫn của Tin Mừng, sự đầm ấm của tình yêu hiệp thông, sự tự tin của người-được-phục-vụ để sẵn sàng dấn thân, sự thoải mái của con cái Chúa để có thể dễ dàng hướng tâm hồn lên với Chúa.
Vì vậy, nội dung bài giảng của các ngài không nên là “một chuỗi dài lập đi lập lại những lời khuyên răn đạo đức” (ĐGM GB. Bùi Tuần), mà trái lại cần chất chứa những tư tưởng sáng đẹp về Thiên Chúa, về Chúa Ki-tô, về ơn cứu rỗi, về Hội thánh, về tình huynh đệ cộng đoàn, về công cuộc truyền giáo, về sự thăng tiến cuộc sống đạo-đời vv. Tất cả những vẻ đẹp ấy, nếu được chuyển tải một cách tinh tế, nghiêm túc và khoa học thì thính giả sẽ dễ dàng cảm thụ, dễ dàng đón nhận, dễ dàng mộ mến, dễ dàng cảm phục, nhờ đó họ sẽ được biến đổi một cách tích cực.
Nghệ thuật vốn nhằm tôn vinh vẻ đẹp, tính thẩm mỹ, sự hòa điệu của tất cả những gì liên quan đến con người và cuộc sống nhân sinh. Những vẻ đẹp ấy của nghệ thuật luôn có mục đích phục vụ con người, đem lại lợi ích cho con người, thăng hoa, kiến tạo và duy trì mối quan hệ tốt đẹp người-người, gia tăng sự cảm thông gắn bó yêu thương giữa con người với nhau. Do đó, việc giảng thuyết nếu được hiểu là một nghệ thuật thánh, được thực hiện một cách nghiêm túc, được đầu tư chuẩn bị kỹ lưỡng, được dàn dựng công phu, khoa học, thì chắc chắn sẽ góp phần rất lớn vào việc phục vụ tín hữu, qua việc tôn tạo vẻ đẹp linh thánh tuyệt vời nơi nghi lễ và bầu khí phụng vụ.
ĐGM GB. Bùi Tuần trong tập “Hành trình Phục sinh – Nói với gián dân”, LX tháng 4-1997 đã viết như sau: “Có những vẻ đẹp của văn hóa khoa học trong đó các hệ thống âm thanh, ánh sáng, nhất là trong cách tổ chức lễ, có trật tự, có ăn khớp, có chính xác. Có những vẻ đẹp của văn hóa nhân văn ở bầu khí lịch sự, tế nhị, bác ái, trong đó mỗi người đều được kính trọng, và mỗi người đều biết tự trọng, tự thức, tự hiểu trách nhiệm của mình đối với cuộc lễ. Có những nét đẹp của văn hóa Thánh kinh, ở thái độ cộng đoàn tập trung cầu nguyện, tạ ơn, trân trọng lắng nghe Lời Chúa, thinh lặng suy gẫm Lời Chúa và sốt sắng hiệp thông với Hội thánh...Đây là một đức tin được biểu lộ qua những vẻ đẹp của các loại hình văn hóa, nơi con người, nơi cộng đoàn, nơi môi trường, nơi nghi lễ và bầu khí phụng vụ. Thiết tưởng đức tin này sẽ được dễ hiểu như một tin mừng có nhiều khả năng thăng tiến con người về nhiều mặt, nhất là về mặt tâm linh ” [5] (trang 26-27).
* Xét về cách thế phục vụ
Chắc chắn bất kỳ một mục tử nào, trước khi bước lên giảng đài, cũng sẽ tự hỏi: “Hôm nay tôi sẽ nói gì? Cử tọa là những ai? Tôi sẽ phải nói như thế nào cho thích hợp và hiệu quả? Khung cảnh buổi lễ đòi hỏi bài giảng sẽ được chuẩn bị ra sao? vv...”. Trừ trường hợp đột xuất, phải nói cách tự phát, ứng khẩu, kỳ dư vị giảng thuyết sẽ tranh thủ thời gian và điều kiện cần đủ để suy nghĩ, tham khảo, tịnh tâm, chu đáo chuẩn bị những gì cần thiết cho một buổi giảng lễ.
Mọi sự chuẩn bị nào đó của vị giảng thuyết viên sẽ không thừa, bởi vì công việc giảng lễ rất quan trọng và cần nhắm đến hiệu quả nơi cộng đoàn. Do vậy, cách thế phục vụ cũng không kém phần quan trọng như nội dung phục vụ. Tính nghệ thuật trong cách phục vụ bắt nguồn từ ý thức về bản chất công việc, về nhiệm vụ cao cả, đồng thời cũng xuất phát từ sự quan tâm và kính trọng đối tượng thính giả của mình. Họ hiện diện không chỉ để nghe bằng tai, mà còn chờ đợi để được truyền thông sức mạnh của tình liên đới, được chia sẻ sự đồng cảm, được thông chia cảm nghiệm đức tin, được khích lệ lòng yêu mến và cậy trông, được cung cấp những giải đáp tích cực về những mối ưu tư, lo lắng trong cuộc sống.
Về việc chuẩn bị cho một bài giảng có chất lượng, ĐGM GB. Bùi Tuần, Gp Long Xuyên, đã gợi ý như sau: “Một bài giảng được dàn dựng một cách khoa học với các tư tưởng đã được chọn lựa về Thiên Chúa và về con người sẽ làm cho người nghe cảm thấy dễ chịu vì thính giả thấy mình được kính trọng do được phục vụ bởi những tư tưởng có chất lượng và cách sắp xếp có khoa học” [6] (Tập “Truyền giáo”, tĩnh tâm LM TGp Saigon năm 1990).
Sự chuẩn bị bài giảng kỹ lưỡng, công phu, sự thể hiện việc giảng giải một cách nghiêm túc, khoa học, cùng với việc sắp xếp khung cảnh, tạo bầu khí thích hợp sẽ giúp cho bài giảng và công việc giảng thuyết của mục tử đạt hiệu quả cao và nhất là cử tọa sẽ cảm thấy thoải mái, dễ chịu. Linh mục Christopher Chatteris S.J, trong cuốn “Làm thế nào để bài giảng sống động hơn” đã kể về ĐGM Kenneth Untener, từng cai quản Gp Saginaw, Michigan, HK như sau:
“Ngài là một mục tử hết lòng với việc nghệ thuật rao giảng Lời Chúa. Trong tác phẩm ‘Giảng Tốt Hơn’, do nhà xuất bản Paulist ấn hành, ngài viết, ‘Khi chúng ta soạn bài giảng có nghĩa là chúng ta tham dự vào cùng một công việc của Chúa Thánh Thần, Đấng đã hình thành chính bản văn Kinh Thánh’. Ngài cũng nhắc nhở cho người đọc rằng, soạn bài giảng là một phần thiết yếu không thể thiếu trong cử hành phụng vụ, và khi một linh mục rao giảng tức là vị ấy đang ‘ở cùng vị trí với Thiên Chúa’ ”. [7]
Trong việc giảng lễ, có thể nói bài giảng chiếm một vị trí rất quan trọng. Đó được coi như bộ xương khung của công việc rao giảng. Bài giảng chính là chất liệu nuôi dưỡng thính giả. Đức cha Kenneth Untener cũng đã nhận xét rằng, khoảng cách giữa những bài giảng xoàng xĩnh và tuyệt tác là do biết trau chuốt kỹ lưỡng bài giảng của mình. Ngài viết: “Sự buồn tẻ là kẻ thù lớn nhất của việc rao giảng. Điều đáng tiếc là thường chính các vị giảng thuyết tạo ra kẻ thù cho chính họ. Trách nhiệm của người giảng thuyết là làm thế nào để duy trì được sự chú ý của cử tọa, không thể biện minh đâu phải lỗi của tôi. Ngài phê bình nghiêm khắc: ‘Giảng mà người ta không chịu nghe nữa có nghĩa là bài giảng đã quá dài’ “. [8]
Triết gia Pháp La Rochefoucauld đã nói: “Hùng biện chân chính căn cứ vào chỗ nói hết điều phải nói và chỉ nói điều phải nói thôi”. Điều đó có nghĩa là bài giảng phải có trọng tâm, có chủ đích, chủ điểm. Giảng dài luôn là “thảm họa” đối với đa số giáo dân, nhất là trẻ em thiếu nhi. Nhà hùng biện, linh mục Thomas V. Liske cũng đã viết: “Khi giảng, diễn giả phải đạt được một điều gì đó; Cố đạt được một điều gì đó trong mỗi bài giảng” (Nguồn: Sđd).
Để bài giảng được ngắn gọn, Đức cha Kenneth Untener cũng khuyên chỉ nên khai triển một ý chủ đạo hay một “điểm son nào đó”, “một viên ngọc quý”, tức là sự sống của bài, thay vì theo đuổi nhiều ý tưởng phụ thuộc. Thật là vô lý nếu biết rằng càng nói nhiều người ta càng không nghe mà lại cứ nói thêm. Điều quan trọng là trình bày một điểm chính thật kỹ càng, một điểm thôi nhưng có chiều sâu. Giảng thuyết là công việc lao động thực sự, một lao động của tình yêu, của học hỏi, của cầu nguyện, của thảo luận, và của suy tư.
Nghe linh mục giảng, giáo đoàn có thể dễ dàng nhận ra đâu là bài giảng được chăm chút kỹ lưỡng, được chuẩn bị chu đáo, được đầu tư cẩn thận. Diễn giả, nhà hùng biện Mirabeau có nói: “Tất cả bí quyết của nghệ thuật hùng biện là đam mê”. Linh mục tuy không phải là “nhà hùng biện” nhưng nghề của ngài là nói và khi thi hành sứ vụ ngài phải nói. Thực vậy, “Không có nghề nào phải nói nhiều hơn nghề linh mục. Ta có thể nói không ngoa chút nào rằng linh mục ‘sống’ để nói. Bên cạnh ảnh hưởng mạnh mẽ của gương sống và kinh nghiệm, lời giảng thuyết của linh mục là sức mạnh, hay phương thế chủ yếu giúp cho sứ vụ của ngài được thành công...Nếu mỗi linh mục đều ý thức giảng thuyết là một phần trong nghề nghiệp của mình, tất chúng ta sẽ chẳng có những bài giảng thiếu chuẩn bị, nghèo nàn” [9] (Thomas V. Liske, sđd pg 7-8).
Mấy ngày qua trên trang facebook (FB) của một số linh mục và giáo dân có đăng tải câu chuyện Đề tài 13
Mấy ngày qua trên trang facebook (FB) của một số linh mục và giáo dân có đăng tải câu chuyện ĐGM Emmanuel Nguyễn Hồng Sơn, Giám mục giáo phận Bà Rịa, tỏ ra không vui về nội dung phát biểu cám ơn sau thánh lễ của vị đại diện giáo dân của giáo họ nơi ngài về ban bí tích Thêm sức. [1]
Chuyện kể rằng trong thánh lễ ban phép Thêm sức tại nhà thờ giáo họ biệt lập Vô Nhiễm, giáo hạt Bình Giã, giáo phận Bà Rịa, sau khi nghe vị đại diện cộng đoàn phát biểu cám ơn đại ý là Đức cha dù bận bịu trăm công ngàn việc, đường sá xa xôi, nắng nóng oi ả...nhưng ngài vẫn đến giáo xứ ban bí tích Thêm sức cho các em... Sau đó, đến lượt Đức cha đáp từ. Ngài đã thẳng thắn góp ý với vị đại diện là lần sau không nên cám ơn như thế nữa, vì đối với vị mục tử của giáo phận, đây là bổn phận, nhiệm vụ chính yếu của chủ chăn, nếu không làm công việc này thì không còn là chủ chăn nữa. Không nên khách sáo với nhau làm gì mà cứ thật lòng ứng xử với nhau, đừng dùng sáo ngữ hay xông hương nhau nữa.
Dịp này, Đức cha Emmanuel cũng nhấn mạnh thêm là, làm mục tử là để phục vụ vô vị lợi. Chúa đã ban chức mục tử cho các vị mục tử cách vô vị lợi. Khi xã hội chạy theo bề ngoài, hình thức thì Giáo hội hơn bao giờ hết cần nội dung và lòng chân thành. Nếu không thì Giáo hội chẳng khác gì xã hội.
Nếu không thì Giáo hội chẳng phát triển được. Xin hãy cám ơn nhau bằng những lời mộc mạc, đơn sơ, chân thành tự tận đáy lòng. Giám mục mà không ban phép Thêm sức cách nhưng không, thì không còn là Giám mục nữa. Linh mục mà không thi hành trách nhiệm của mình cách nhưng không, thì không còn là linh mục nữa.
Quả thực câu chuyện về lời phát biểu cám ơn của vị đại diện giáo họ Vô Nhiễm và lời nhắn nhủ góp ý của ĐGM giáo phận Bà Rịa đã khiến chúng ta phải suy nghĩ nhiều. Ngay khi nội dung câu chuyện trên được đăng tải trên FB, nhiều giáo dân đã đọc và đưa ra bình luận (comment) ngay, đa số tán đồng ý kiến của Đức cha Emmanuel và mong rằng các cha xứ cũng nên giúp giáo dân thay đổi não trạng, để khi phát biểu cám ơn, thì biết phải nói gì, nói như thế nào cho thích hợp, làm sao cho đơn giản, chân thành, tránh sáo ngữ, bôi bác...
AI CÁM ƠN, CÁM ƠN AI, CÁM ƠN GÌ?
Hiện nay không khó để thấy tại nhiều giáo xứ, giáo dân có nhiều cơ hội tổ chức các lễ lạy, đình đám, tiệc tùng. Cứ thử hình dung, một giáo xứ khoảng ba bốn ngàn giáo dân, thì ít nhất cũng có khoảng vài giáo khu, khoảng hơn chục hội-đoàn-nhóm. Như vậy trong một năm, ít nhất giáo xứ cũng sẽ có mấy chục lễ có kèm theo tiệc tùng, liên hoan.
Trước hết, trong phạm vi giáo xứ cũng phải kể đến lễ mừng bổn mạng giáo xứ, lễ kỷ niệm cung hiến thánh đường giáo xứ...Bên cạnh đó là lễ của quý cha trong giáo xứ, chẳng hạn lễ mừng bổn mạng, lễ kỷ niệm thụ phong, lễ mừng sinh nhật, rồi đến lễ bổn mạng của Hội đồng Mục vụ, của các giáo khu và các đoàn thể, các ca đoàn. Như vậy tính bình quân mỗi tháng giáo xứ sẽ có khoảng 2 lễ mừng có kèm tiệc mừng.
Vào các dịp lễ mừng này, giáo xứ được sự đồng thuận của cha xứ, sẽ quan tâm đầu tư nhiều mặt để có bầu không khí trang trọng, vui tươi, đoàn kết. Tất nhiên trong các ngày này, thánh lễ sẽ được tổ chức cách đặc biệt, trong đó không thể bỏ qua phần phát biểu cám ơn sau thánh lễ. Vị đại diện cộng đoàn sẽ đảm nhiệm phần phát biểu với nội dung tri ân cha xứ và quý cha. Bài phát biểu dài ngắn là tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể. Thông thường sẽ là một bài “ca” công đức này nọ, luôn kèm theo lẵng hoa hay vòng hoa tươi thắm để biểu lộ lòng tri ân...
Tuy nhiên, nhiều người vẫn đặt câu hỏi, vậy “Ai cám ơn? Cám ơn ai? Cám ơn gì?”.
Trong hầu hết các phát biểu, giáo dân thường bày tỏ lòng quý mến và cám ơn quý cha thế này thế kia. Tuy nhiên trên thực tế, hầu hết các dịp lễ, đáng lẽ ra quý cha phải cám ơn giáo dân mới là hợp lẽ. Chẳng hạn, dịp lễ bổn mạng Hội đồng Mục vụ giáo xứ, lễ bổn mạng các ca đoàn, ban giáo lý viên, ban lễ sinh... Cha xứ phải cám ơn họ, vì họ là cánh tay nối dài của cha xứ trong việc phục vụ giáo xứ, vì họ là những thành phần ưu tuyển của giáo xứ mà nếu không có họ cha xứ khó hoàn thành vai trò mục tử trong cộng đoàn.
ĐTGM Giuse Nguyễn Chí Linh, trong bài giảng tĩnh tâm các linh mục giáo phận Đàlạt tháng 2-2009, đã mở đầu như sau: “Sau cuộc tĩnh tâm, chúng ta lại trở về với đời thường của chúng ta. Đối với đa số các cha, trở về đời thường có nghĩa là trở về với giáo dân. Có thể nói được rằng giáo dân chính là cuộc đời, là bổn phận, là gia đình thiết thân nhất của linh mục. Xét cho cùng thì chúng ta làm linh mục là vì giáo dân, cho giáo dân và với giáo dân. Vì thế, thành hay bại đời linh mục phần lớn tùy thuộc cách ứng xử của linh mục đối với giáo dân”. [2]
Xét như vậy thì cái “địa chỉ thân thương” mà quý cha nhắm tới chính là giáo dân, là cộng đoàn nơi các ngài đang phục vụ. Việc giáo dân tỏ lòng tri ân các ngài là việc bình thường của người được chăm sóc, nâng đỡ. Nhưng các mục tử cũng không thể bỏ qua việc khơi gợi những công sức âm thầm của rất nhiều tín hữu trong giáo xứ, mà nếu vắng họ thì mọi việc sẽ ngừng trệ và không hoàn thành. Cách này hay cách khác, họ là những người đáng tri ân.
“ANH EM ĐỪNG RẬP THEO THÓI ĐỜI NÀY” (RM 12, 2)
Tác giả Giuse Nguyễn Kích, trên trang FB của mình, đã đưa ra “Lời bàn” về sự việc nêu trên, như sau:
“Thánh Phao-lô đã dạy: ‘Anh em đừng rập theo thói đời này’ (Rm 12, 2). Một vĩ nhân đã nhận định: ‘Lời nói đẹp thì thường không được thật. Lời nói thật thì thường không được đẹp’.
“Chúa đã dạy: ‘Chỉ có sự thật mới giải thoát các con’ (Ga 8, 32).
“Khi tâm hồn không thực sự có Chúa, thì sẽ sung sướng và thèm khát những lời nịnh bợ đường mật giả tạo của thế gian.
“Những lời tung hô và tâng bốc quá đáng là những liều thuốc cực độc tiêu diệt linh hồn chúng ta.
“Những lời tung hô và tâng bốc quá đáng giống như nụ hôn của Giu-đa bán Chúa. Hắn dùng phương tiện tốt để đạt mục đích xấu.
“Những lời tung hô và tâng bốc quá đáng làm chúng ta đánh mất chính mình, không còn nhớ mình là ai và đang ở đâu.
“Những lời tung hô và tâng bốc quá đáng là thứ thuốc mê ru ngủ làm chúng ta quên mất thân phận mong manh tro bụi và mỏng dòn tội lỗi của mình.
“Những lời tung hô và tâng bốc quá đáng lôi chúng ta ra rất xa tình yêu và lòng thương xót của Chúa.
“Những lời tung hô và tâng bốc quá đáng là con đường ngắn nhất dẫn chúng ta rớt xuống hỏa ngục.
“Những lời tung hô và tâng bốc quá đáng là thức ăn vô cùng độc hại nuôi lớn rất nhanh cái tôi kiêu ngạo của chúng ta” v.v...
Giáo xứ là cộng đoàn quy tụ những Ki-tô hữu yêu thương nhau, liên kết nhau trong cùng một đức tin và một lòng mến. Họ được đào tạo, giáo huấn để trở nên chứng nhân của Tin Mừng Ki-tô giáo. Họ cũng được nhắc nhở về nhiệm vụ truyền giáo của mình, trở thành ánh sáng, men, muối cho đời. Những hoạt động trong giáo xứ, bên cạnh Phụng vụ thánh, phải là những dấu chỉ của Tin Mừng Đức Ki-tô. Mà một trong những dấu chỉ nổi bật nhất của Hội thánh, đó là sống khó nghèo, quan tâm đến người nghèo, đó là thực hành sự đơn giản, tiết kiệm và khiêm tốn noi gương Chúa Ki-tô. ĐTC Phan-xi-cô đã từng khẳng định: “Tôi ước muốn một Giáo hội nghèo và cho người nghèo”./.
- - - - - - - - - - - - [1] FB Giuse Nguyễn Kích bài “Đừng sáo ngữ!” – FB LM Phêrô Nguyễn Đức Thắng bài “Đừng xông hương nhau” – FB LM Ngọc Bảo bài “Đừng sáo ngữ!” [2] ĐTGM Giuse Nguyễn Chí Linh, bài “Linh mục và giáo dân”, tĩnh tâm thường niên linh mục giáo phận Đalạt tháng 2-2009, nguồn VietCatholic News.
Có thể nói hầu hết giáo dân VN đều có lòng quý mến và tôn trọng các linh mục trong Hội thánh Đề tài 14
Có thể nói hầu hết giáo dân VN đều có lòng quý mến và tôn trọng các linh mục trong Hội thánh. Điều đó cũng dễ hiểu, vì bất cứ ở đâu và bất cứ thời đại nào, linh mục luôn có một sứ vụ, vai trò và vị trí đặc biệt đối với cộng đoàn Ki-tô hữu, như Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Ánh Sáng Muôn Dân (Lumen Gentium / LG) về chức linh mục đã khẳng định:
“Nhờ Bí tích Truyền Chức Thánh, linh mục được thánh hiến theo hình ảnh Chúa Kitô, Thầy Cả Thượng Phẩm vĩnh viễn (x. Dt 5, 1-10) để rao giảng Phúc Âm, chăn dắt tín hữu và cử hành việc phụng tự Thiên Chúa với tư cách tư tế đích thực của Tân Ước“ (LG số 28). Thánh Công Đồng cũng nhắc thêm cho các linh mục nói chung về trách nhiệm của mình trong Giáo Hội là ‘Phải săn sóc các tín hữu như những người cha trong Chúa Kitô vì đã sinh họ ra cách thiêng liêng nhờ phép rửa và giáo huấn’(ibid, no 28)”. [1]
Quả vậy, trong đời sống đạo của tín hữu, linh mục luôn là nhân tố cần thiết không thể thiếu vắng được, vì:
“Linh mục là người thay mặt các đấng bậc bề trên trong Hội thánh để trực tiếp chăm sóc tín hữu về mặt thiêng liêng. Cụ thể, khi có nhu cầu về bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể, Hoà Giải và Xức Dầu thánh, giáo hữu không thể chạy đến với Đức Giáo Hoàng, hay các Hồng y, Giám mục mà phải tìm đến các linh mục đang trực tiếp coi sóc mình ở các giáo xứ địa phương.
“Do đó, nếu không có linh mục thì giáo dân sẽ không có đời sống bí tích, tức là mất hẳn nguồn tiếp tế lương thực thần linh để nuôi dưỡng đức tin và lãnh nhận ơn cứu chuộc của Chúa Kitô. Ngoài ra, cũng không có ai trực tiếp giảng dạy lời Chúa và giáo huấn của Giáo Hội cho giáo dân nếu không có linh mục thay mặt cho Giám mục để làm sứ vụ quan trọng này”. [2]
Xét như vậy ta thấy rằng trong khi các mục tử gánh vác nhiệm vụ quá lớn lao và quan trọng đối với cộng đoàn như thế, thì đối lại, về phía giáo dân, chúng ta cũng phải có bổn phận giúp đỡ các ngài, hầu các ngài có thể chu toàn trách vụ mình. Sự giúp đỡ của chúng ta đối với linh mục có thể liệt kê ra 3 công việc chính:
Thứ nhất là cầu nguyện cho các ngài; thứ hai là cộng tác và đồng hành với các ngài trong công việc cộng đoàn; thứ ba là chia sẻ vật chất và tinh thần.
* Giáo dân có thể giúp đỡ các linh mục bằng việc cầu nguyện cho các ngài
Ngày 25-5-2019 vừa qua, trên trang conggiao.info có đăng bài “Khẩn thiết cầu nguyện cho các linh mục” trong đó có đoạn viết như sau:
“Bà Kathryn Jean Lopez, chuyên viên nghiên cứu kỳ cựu của National Review Institute và là tổng biên tập của tạp chí National Review, ngày 21 tháng 5 vừa qua, lên tiếng kêu gọi khẩn thiết cầu nguyện và hy sinh cho các linh mục.
“Thực vậy, Lopez trích dẫn cha John Hardon, dòng Tên, người trong bài ‘Giá trị lời cầu nguyện và việc hy sinh cho các linh mục’ đã viết rằng ‘Không lời lẽ nào tôi có thể sử dụng lại quá mạnh mẽ để quả quyết rằng chức linh mục Công Giáo cần lời cầu nguyện và việc hy sinh hơn bao giờ hết kể từ biến cố Canvariô’. Vị linh mục này suy niệm về 30 năm giảng dạy các linh mục, sống với các linh mục ‘và gian khổ vì các ngài, yêu thương các ngài và cùng đau khổ với các ngài’.
“Ngài viết thêm: ‘Hết vị thánh này đến vị thánh khác đều đã quả quyết rằng mục tiêu chính của ma quỉ ở trên thế gian này là linh mục Công giáo. Các linh mục cần, lạy Chúa các ngài cần xiết bao, các ơn thánh đặc biệt của Thiên Chúa. Chúng ta tự hỏi, tại sao cần phải cầu nguyện cho các ngài? Chúng ta phải cầu nguyện cho các linh mục và giám mục vì đây là thực hành của Giáo hội đã có từ thời các Tông đồ. Nó là một vấn đề chân lý mặc khải. Nó là lệnh truyền của Thiên Chúa’ ”. [3]
Thiết nghĩ, việc cầu nguyện cho các linh mục cũng đã được các tín hữu chúng ta thực hành rất thường xuyên và chu đáo. Chẳng hạn, mỗi thứ năm hàng tuần, mỗi thứ năm đầu tháng, rồi hàng năm vào CN Chúa Chiên Lành (CN IV Phục Sinh), Hội thánh nhắc nhở tín hữu phải quan tâm đến việc cầu nguyện cho các linh mục. Đây được coi là bổn phận quan trọng và khẩn thiết của mọi thành phần trong Hội thánh.
Thực vậy, không có “nghề” nào cao trọng, thánh đức bằng “Nghề linh mục”. Nhưng cũng không có “nghề” nào khó khăn, phức tạp, nhiều nguy cơ cám dỗ, nhiều cạm bẫy bằng “Nghề linh mục”.
Một vị Giám mục đã chia sẻ như sau: “Chúng ta biết rằng, từ một cậu bé chập chững đi vào Tiểu Chủng Viện với cả một trời bí mật bao trùm trên con đường ơn gọi cho đến lúc lớn khôn, trưởng thành dần dần, chú rồi thầy, rồi mới đến cha, bao nhiêu là thử thách, bao nhiêu là cố gắng, bao nhiêu là kiên nhẫn đợi chờ. Quá khứ nặng nề ấy chúng ta đã vượt qua, nhưng đàng trước, là bổn phận, là trách nhiệm. Đời sống linh mục có vẻ đầy đủ, có khi khá huy hoàng, nhưng là đời sống hy sinh, phục vụ quên mình, thì làm sao không đau khổ. Trách nhiệm chồng chất, trách nhiệm trong sự đều đều đến kinh sợ, và trước tiên, là đời sống cô độc.
“Có thể ví cuộc đời linh mục với thân phận con gà treo, tuy bên ngoài đầy đủ thức ăn nước uống, nhưng phải đứng im trong ô chuồng không cựa quậy, trong một không gian chật hẹp, mỗi ngày có bổn phận đẻ cho chủ một quả trứng, không được đi đó đi đây, không được bươi móc như các con gà khác, vì nếu được tự do thong thả thì mất trứng.
“Trong xã hội vật chất và hưởng thụ, người ta bảo đời sống linh mục như vậy là gò bó, không thoải mái. Nhưng có đời sống nào trên trần gian này hoàn toàn thoải mái? Công nhân, thợ thuyền, giáo chức, nông dân, thương gia, sinh viên…, mỗi người cũng phải nai lưng làm việc, phải chu toàn mọi trách nhiệm của mình, phải đấu tranh vật lộn với đời và phải tuân thủ mọi lề luật. Chỉ có lúc ngủ quên hay chết, chớ không bao giờ nói đến chuyện thoải mái, nếu mỗi người muốn sống nghiêm chỉnh theo căn tính của mình.
“Còn hơn thế nữa, linh mục là người của muôn người, được sai đi để phục vụ, để làm đầy tớ thiên hạ, thế tất phải sống đời hy sinh, còn lâu và còn xa mới nói đến chuyện thoải mái vô tư trong đời sống mục vụ. Đúng như Cha Chevrier đã nói: “Linh mục là người bị ăn”. Bị ăn, thế tất phải hao mòn thân xác và tinh thần”. [4]
LM Ngô Tôn Huấn, trong bài “Giáo dân có thể giúp ích hay làm hư các linh mục cách nào?” đã giải thích thêm về việc cần thiết phải cầu nguyện cho các linh mục:
“Như mọi người đều biết là, linh mục rất cần thiết cho Giáo Hội và cho giáo dân vì không có linh mục thì không có các bí tích quan trọng và cần thiết như Hòa Giải, Thánh Thể và Xức Dầu bệnh nhân. Do đó, điều cần thiết trước tiên là phải cầu nguyện nhiều cho các linh mục để các ngài trở nên đích thực là Đức Kitô thứ hai (Alter Christus) như các thánh Giáo Phụ xưa đã dùng danh hiệu này để nhấn mạnh vai trò rất quan trọng của linh mục trong sứ mệnh là Tông Đồ, là chứng nhân cho Chúa Kitô trong trách nhiệm dạy dỗ, thánh hóa và chăm sóc giáo dân được trao phó cho mình phục vụ về mặt thiêng liêng. Với trọng trách này, linh mục là người thân cận nhất thay mặt cho Giám mục để ‘chăn chiên’ theo gương Chúa Kitô, Đấng Chăn Chiên Lành”. [1]
* Giáo dân có thể giúp đỡ các linh mục bằng sự cộng tác và đồng hành với các ngài trong công việc cộng đoàn.
Có thể nói, không một giáo dân nào mà lại không sẵn sàng cộng tác với linh mục trong việc phục vụ cộng đoàn. Chỉ cần cha xứ “ới” một tiếng là có nhiều người tình nguyện đến để giúp ngài. Họ ý thức rằng đây là việc chung, là việc có liên quan cộng đoàn, là bổn phận mà bất kỳ người tín hữu nào cũng ước muốn tham gia thực hiện.
Bên cạnh những giáo dân thường xuyên tham gia việc giáo xứ như Hội đồng Mục vụ GX và các thành viên trong các hội-đoàn-nhóm của giáo xứ, còn rất nhiều giáo dân âm thầm khác, họ chiếm đa số giáo dân trong cộng đoàn. Những người này thuộc đủ ngành nghề khác nhau trong xã hội, từ công nhân lao động đến thành phần trí thức như bác sĩ, kỹ sư, nhà giáo, chuyên viên vv. Chắc chắn khi các linh mục có nhu cầu cộng tác hay giúp đỡ cách nào đó, thì những thành phần “vô danh” này sẽ sẵn sàng phục vụ vô điều kiện. Ai cũng nhận thức được rằng đây là bổn phận chứ không do lợi lộc hay tiếng tăm gì. Vấn đề là giáo xứ và cha xứ có sẵn sàng mở rộng cửa đón nhận họ không?
Nhiều người than phiền rằng đó đây vẫn còn tình trạng quan liêu trong cách sử dụng người cộng tác. Vẫn còn phe nhóm trong việc chọn người, trong việc phân công phân nhiệm. Vẫn còn thành kiến hay định kiến này nọ giữa cha xứ và giáo dân khiến cho việc cộng tác bị trở ngại vv. Vậy để mọi giáo dân cảm thấy thoải mái để có thể đồng hành cùng với vị mục tử và với mọi thành phần Dân Chúa trong việc phục vụ Chúa và Hội thánh, thiết nghĩ giáo xứ và cha xứ nên mở rộng cửa đón nhận sự cộng tác của mọi người, đồng thời mọi giáo dân hãy sẵn sàng tham gia cộng tác khi giáo xứ có nhu cầu, coi đó như bổn phận thiết yếu nhằm giúp đỡ các linh mục chu toàn nhiệm vụ đối với cộng đoàn.
* Giáo dân có thể giúp đỡ các linh mục qua việc chia sẻ vật chất, tinh thần.
Ngoài việc thường xuyên cầu nguyện cho các linh mục, tham gia việc giáo xứ, cộng tác với cha xứ trong mục vụ cộng đoàn, tín hữu còn có thể giúp đỡ các linh mục cả về vật chất lẫn tinh thần nữa.
Trước hết về vật chất, chúng ta đóng góp qua việc xin lễ để linh mục dâng lễ cầu nguyện theo ý chỉ. Việc xin lễ là một phương cách giúp đỡ linh mục một cách thiết thực và đơn giản nhất. Mặc dù các ngài không hoàn toàn sinh sống bằng bổng lễ nhưng đây là một hình thức đóng góp của giáo dân đối với mục tử đồng thời cũng là biểu lộ sự chia sẻ nhằm nâng đỡ các mục tử hoàn thành việc phục vụ cộng đoàn. Bên cạnh việc xin lễ, giáo dân cũng có thói quen vào các dịp lễ Tết này nọ, mang quà biếu các linh mục, xem đó như là biểu lộ tấm lòng yêu mến và hiếu thảo của con cái thiêng liêng trong gia đình giáo xứ. Đây cũng được coi như một sự giúp đỡ mà phần đông tín hữu chúng ta rất quan tâm...
Về tinh thần, nhiều giáo dân rất thao thức đối với công việc mục vụ giáo và sẵn lòng góp ý với các linh mục trong giáo xứ khi cần thiết. Một vài nơi thực hiện “Hộp thư góp ý” như ngoài xã hội người ta thường làm, nhưng cách chung hầu hết các nơi giáo dân chỉ có thể “Góp ý bằng miệng!”. Sự góp ý này đôi khi có thể khiến linh mục khó chịu và phản ứng không thuận lợi. Trong việc này, thiết nghĩ, nếu cha xứ và giáo dân tìm được tiếng nói chung và nhất là mục tử biết lắng nghe tiếng con chiên thì chẳng có việc gì là khó khăn và bất khả thi cả./.
Aug. Trần Cao Khải
- - - - - - - - - - - - - - - - [1] LM Phx Ngô Tôn Huấn (Hoa Kỳ), bài “Giáo dân có thể giúp ích hay làm hư các linh mục cách nào?”, nguồn: conggiaovietnam.net [2] LM Phx Ngô Tôn Huấn (HK), bài “Linh mục cần thiết ra sao trong giáo hội?” [3] Vũ Văn An, VietCatholic News 24-5-2019, nguồn: conggiao.info [4] ĐGM Phê-rô Nguyễn Soạn, bài “Linh mục, người là ai?”, VietCatholic News 28/02/2005
Có thể nói đại đa số giáo dân (GD) khi đến tham dự Thánh lễ đều chú tâm về bài giảng (BG) của Đề tài 15
Có thể nói đại đa số giáo dân (GD) khi đến tham dự Thánh lễ đều chú tâm về bài giảng (BG) của linh mục (LM). Một Thánh lễ mà không có bài giảng thì như một bữa ăn ngon nhưng còn thiếu một món gì đó! Và như những thực khách “sành điệu”, người GD ngày nay luôn kỳ vọng các vị LM, các nhà giảng thuyết sẽ cung cấp cho họ những món ngon, mới, lạ, thích hợp...
Tuy nhiên, trên thực tế không phải bất kỳ LM hay nhà giảng thuyết nào cũng ban tặng cho cộng đoàn những món ăn ngon mà họ luôn mong đợi. Thỉnh thoảng chúng ta có dịp nghe người này người kia nhận xét, chẳng hạn: “Cha giảng dài quá, nghe mệt và chẳng hiểu cha muốn nói gì...”, hoặc “Bài giảng rườm rà mà cha thì nói nhỏ, nhanh, khó nghe lại khó hiểu, chẳng nhớ được gì...”, hoặc “Cha giảng như đọc, nghe buồn ngủ quá, chẳng sinh động gì cả, chán!” vv...
Đây là một thực tế rõ ràng, cụ thể. Và còn hơn thế nữa, như một vị Giám mục đã chia sẻ: “...Bài giảng lễ thì lòng thòng và chủ yếu là mắng mỏ, hăm dọa, khiển trách, thậm chí bôi bác giáo dân giữa nhà thờ. Bài giảng không dọn nói mãi không kết được khiến cha giống như máy bay không tìm được phi trường. Người nói thường không cảm thấy dài nhưng đối với người nghe là cả một sự chịu đựng. Nhất là nếu chúng ta không có lợi khẩu, chúng ta làm khổ giáo dân, biến họ thành nạn nhân hơn là nâng tâm hồn họ lên. Diễn đàn Lời Chúa là diễn đàn tình thương nhưng rất nhiều cha lợi dụng để trút hết căm hờn lên đầu giáo dân. Không gì mâu thuẫn bằng linh mục lại là thủ phạm gây chia rẽ trong giáo xứ bằng chính lời nói của chủ chăn. Chúng ta tìm cách trừng trị triệt hạ những người đối lập. Không làm được thì chúng ta đem ra giữa nhà thờ để bêu diếu bôi bác” (ĐGM Giuse Nguyễn Chí Linh, Tĩnh tâm thường niên Gp Đàlạt tháng 2-2009).
Quả vậy, nếu GD không hài lòng về bài giảng của LM, thì đó không phải là họ không muốn nghe giảng trong Thánh lễ, mà vì họ cảm thấy việc giảng ấy không đem lại hứng thú và lợi ích gì. Cảm giác không-hứng-thú sẽ dẫn đến việc buồn ngủ, lơ là, lo ra...và nhất là cảm giác bị-tra-tấn bởi phải nghe một diễn giả nói dài, nói dai và...nói dở! Tội nghiệp cho cử tọa khi phải rơi vào tình huống “khó chịu” như thế. Thực ra, GD không đòi hỏi quá đáng đâu, vì “Nếu mỗi linh mục đều ý thức giảng thuyết là một phần trong nghề nghiệp của mình, thì tất yếu chúng ta sẽ chẳng có những bài giảng thiếu chuẩn bị, nghèo nàn” (x. Thomas V. Liske STD, “Thành công trên tòa giảng”, ĐCV Á Thánh Quý Cần Thơ 1995, pg 7).
VẬY ĐÂU LÀ ƯỚC MONG CỦA GD VỀ BÀI GIẢNG CỦA LM?
* Trước hết điều mà GD mong đợi nhất, đó là bài giảng được chuẩn bị kỹ lưỡng đảm bảo một thời lượng thích hợp.
Cảm giác đầu tiên của GD khi ngồi nghe giảng, đó là sợ bài giảng dài. Dài so với thời lượng có hạn của một Thánh lễ. Dài so với chủ đề cô đọng cần diễn giảng. Có LM lúc giảng thì dài dòng nhưng khi cử hành những phần còn lại của Thánh lễ thì nhanh như chớp! Rõ ràng là sự mất cân đối trong cấu trúc của Thánh lễ sẽ là chuyện đương nhiên xảy ra và như thế việc hiệp thông toàn bộ Thánh lễ của cộng đoàn sẽ bị ảnh hưởng...Theo ý kiến của nhiều GD thì thời lượng bài giảng nên khoảng 12 phút là thích hợp, tối đa cũng không quá 15 phút. Để đảm bảo tốt thời gian “vàng” này, hẳn là LM sẽ phải đầu tư, nghiên cứu khá kỹ cho bài giảng của mình. Bởi nếu không ngài sẽ rơi vào trường hợp có “điểm xuất phát” mà không có “điểm dừng”. Dài dòng đã vậy, cách diễn giảng thiếu sinh động sẽ tăng thêm sự nhàm chán nữa.
Xin đơn cử kinh nghiệm về giảng thuyết của LM Thomas V. Liske, giáo sư và nhà hùng biện, như sau: “...Có nhiều vị đọc thuộc lòng trên tòa giảng. Nếu vô tư quan sát, ta sẽ thấy tình trạng ấy thật kỳ cục: diễn giả đọc bài do mình soạn hay người khác viết hay bài mình tóm tắt, trong khi cộng đoàn bị giọng đọc buồn tẻ ấy ru ngủ, chán chường trước cảnh thiếu vắng quen thuộc với sự tiếp cận tươi mát những chân lý của cuộc sống và tôn giáo...nên chỉ còn biết nhẫn nại chịu đựng, lơ đãng nhìn các hình ảnh trên tường hoặc trên bàn thờ để chờ đợi, chờ đợi cái kết thúc ảm đạm. Trên tòa giảng cũng như dưới hàng ghế đều một cảnh nhẫn nại chịu đựng để rồi cùng thở ra nhẹ nhõm khi kết thúc” (x. Thomas V. Liske, sđd, pg 16-17).
Ngày nay, thời đại công nghiệp, ai cũng quý thời gian, kể cả LM. Do đó, khi bước lên bục giảng nếu vị giảng thuyết biết điều tiết thời lượng sao cho vừa phải thì GD dễ dàng tiếp nhận thông điệp, tránh được cảm giác chán ngán, bực bội. Khi ngồi nghe giảng, GD luôn tự hỏi diễn giả LM đang dẫn mình đi đâu? Bài giảng tốt sẽ được thiết kế theo bố cục rõ ràng. Phần dẫn nhập khác với phần triển khai, phần triển khai cũng khác với phần kết luận. Thực tế, nhiều LM nói lòng vòng, kể hai ba câu chuyện mà vẫn chưa thấy vào đề. Người nghe thì nghe mãi mà không biết cha đang muốn nói gì. Đến khi ngài vào trọng tâm của vấn đề thì thời gian đã ngốn hết quá một nửa thời lượng bài giảng cần có.
Nhiều vị giảng thuyết thích lấy một vài câu chuyện để “dẫn vào” chủ đề. Nhưng tiếc là câu chuyện thì dài mà nội dung, ý hướng thì chẳng ăn nhập gì tới chủ điểm cần khai thác. Câu chuyện đôi khi là những chuyện thời sự, chính trị trong hay ngoài nước. Những câu chuyện đại loại như thế phần đông ai cũng biết cả, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, tin tức tràn ngập dưới nhiều hình thức. Sự ôm đồm của diễn giả xét cho cùng không mấy tác dụng tích cực, có khi lại còn ngược lại.
Một vị GM có quan tâm rất nhiều tới việc giảng thuyết của LM đã chia sẻ kinh nghiệm như sau, “Một bài giảng được dàn dựng cách khoa học với các tư tưởng đã được chọn lựa về Thiên Chúa và về con người sẽ làm cho người nghe cảm thấy dễ chịu bởi vì thính giả thấy mình được kính trọng do được phục vụ bởi những tư tưởng có chất lượng và cách sắp xếp có khoa học” (ĐGM GB Bùi Tuần, chủ đề “Truyền giáo”, tĩnh tâm LM Gp Long Xuyên 1990).
Nghe LM giảng, GD có thể dễ dàng nhận ra đâu là bài giảng được chăm chút kỹ lưỡng, được chuẩn bị chu đáo, được đầu tư cẩn thận. Diễn giả, nhà hùng biện Mirabeau có nói: “Tất cả bí quyết của nghệ thuật hùng biện là đam mê”. LM tuy không phải là “nhà hùng biện” nhưng nghề của ngài là nói và khi thi hành sứ vụ ngài phải nói. Thực vậy, “Không có nghề nào phải nói nhiều hơn nghề LM. Ta có thể nói không ngoa chút nào rằng LM ‘sống’ để nói. Bên cạnh ảnh hưởng mạnh mẽ của gương sống và kinh nghiệm, lời giảng thuyết của LM là sức mạnh, hay phương thế chủ yếu giúp giúp cho sứ vụ của ngài được thành công...” (Thomas V. Liske, sđd pg 7).
Cha sở họ Ars là một tấm gương về mục vụ giảng thuyết. Chuyện kể lại, cha rất quan tâm soạn bài giảng thật kỹ lưỡng. Cha thường dùng phòng áo để dọn giảng cho yên tĩnh. Cha nghiên cứu các tác giả, có khi xem tới 7 tác giả. Cha đánh dấu những đoạn cần phải chép lại và lắm khi phải phiên dịch tới 40 hay 50 trang sách. Học thuộc lòng trước vào thứ bảy và buổi tối sau khi bổn đạo về nhà, cha đi chung quanh nghĩa địa để lập lại những đoạn khó. Cha lại không quên cầu nguyện trước khi giảng...Cha giảng rất hùng hồn. Có người hỏi: “Tại sao lúc cầu nguyện thì cha nói nhỏ mà khi giảng cha lại nói to thế ?”. Cha trả lời : “Khi giảng phải nói to vì người nghe họ buồn ngủ và nặng tai, nhưng khi cầu nguyện với Chúa thì nói nhỏ vì Người không nặng tai”. Cha giảng rất hùng hồn và dạy dỗ với uy quyền. Bài giảng rất cụ thể với đời sống Dân Chúa và chỉ bảo phải làm gì hay làm như thế nào để giáo dân dễ thực hành.
Một nhà giảng thuyết phục vụ tốt không nhất thiết phải là một nhà thông thái, mà trên hết là một mục tử thánh thiện, một tông đồ nhiệt tình và một nhà truyền giáo đam mê việc gieo trồng Lời Chúa.
* Tiếp theo, điều mà GD quan tâm nhất, đó là bài giảng có chất lượng cao.
Một bài giảng thu hút GD không hẳn là một “tác phẩm” có nội dung cầu kỳ, được dàn dựng phức tạp...mà là một cuộc “nói chuyện” tâm tình nhằm mục đích chia sẻ những điều giản dị, gần gũi và bám thật sát Lời Chúa. GD mong ước sao mình có thể hiểu được điều LM nói, họ tiếp nhận được một-điều-gì đó sau bài giảng kết thúc, họ nhớ được cái cốt lõi của thông điệp Lời Chúa thông qua bài nói của LM. Cách cụ thể hơn, GD muốn LM đi thẳng vào trọng tâm khi giảng và chỉ nói những gì cần phải nói mà thôi. Lạc đề là điều mà cử tọa dễ nhận ra. Nguyên tắc mong đợi, là “Diễn giả phải làm chủ đề tài của mình” (Albert J. Beveridge).
“Tại một bữa ăn tối, người chủ nhà đề cập với một khách mời rằng ông ta đang viết một quyển sách về giảng lễ, và hỏi xem vị khách có ý kiến gì không. Vị khách ngẫm nghĩ một chút rồi nói gọn lỏn: ‘Hãy đi thẳng vào trọng tâm’...”. Cách tốt nhất để giữ sự chú ý của người nghe là ‘đi thẳng vào trọng tâm’. Chúng ta thường chần chừ không đi thẳng vào trọng tâm, có lẽ bởi vì sợ rằng mình sẽ không còn gì để nói tiếp. Chúng ta cảm thấy mình nên đi vào trọng tâm cách nhẩn nha, từ từ. Nhưng nhiều người cho biết rằng họ muốn chúng ta đi nhanh hơn vào cốt lõi của bài giảng.
Đây là một số ý kiến của họ:
“Tôi thích cách vị linh mục ấy đi thẳng vào điểm chính của bài giảng”; “Tôi chán những kiểu nhập đề dông dài”; “Hãy vào thẳng”; “Đừng dẫn chúng tôi đi lòng vòng.” “Cha sở thường mở đầu bằng một câu chuyện dài dòng, với những chi tiết không cần thiết”;
“Ngài thường bắt đầu rất hay, dù ít khi có nối kết chặt chẽ với bài Phúc âm. Rồi sau đó thì nghe chán phè!”;
“Ông cha đó luôn bắt đầu bài giảng bằng cách kể lại câu chuyện mà mọi người vừa mới nghe trong bài Tin Mừng. Thật là chán!” (x.Tài liệu “Để giảng lễ tốt hơn” - Nguyên tác “Preaching better - Practical suggestions for Homilists”, ĐGM Ken Unterer (GM Saginaw), NXB Jesuit Communications Foundation 1999 - LM Lê Công Đức dịch và hiệu đính, trang 20-21).
Trong khi nghe giảng, GD mong đợi một bài giảng có chủ đích, có chủ điểm. Họ muốn diễn giả luôn xoáy vào trọng tâm vấn đề để họ có thể nắm bắt được ý hướng Phụng vụ của Thánh lễ đang tham dự. Nếu khi soạn bài giảng, LM biết mình sẽ nói gì, nói như thế nào, thì GD khi nghe giảng cũng muốn rằng họ đang được nuôi dưỡng bằng lương thực nào, chất lượng ra sao. Nhiều diễn giả thích nói lời mình hơn Lời Chúa, trong khi GD rất đói khát Lời Chúa. Tham dự các Thánh lễ Tạ ơn này nọ, người ta dễ dàng được nghe những lời tung hô, tán tụng công đức của một ai đó trong khi “mọi vinh quang đều quy về Chúa là Cha toàn năng...”. Rồi thỉnh thoảng trong Thánh lễ cầu hồn hay an táng cũng xảy ra việc diễn giả vì quá say mê kể lể ân đức của người quá cố mà quên hẳn Lời Chúa. Bài giảng lúc đó không hơn là một bài “điếu văn”!...
Một vị GM đã từng đặt vấn đề: “Mỗi ngày chúng ta (LM – nv) có luôn trau dồi kiến thức về Kinh Thánh để rao giảng không phải lời riêng của mình, mà Lời Chúa cho giáo dân đang khao khát của ăn nuôi hồn không? Chúng ta có chịu khó suy gẫm trước và thực hành những điều chúng ta phải trình bày cho dân Chúa không? Hay chúng ta đã lợi dụng tòa giảng như diễn đàn để tranh biện, để tự khẳng định mình hoặc chửi mắng la rầy giáo dân? Thật ra, có lúc cần phải sửa dạy, nhưng luôn dùng lời tao nhã, luôn dùng văn từ sao cho xứng với thiên chức linh mục của mình. Hãy bắt chước tiên tri Nathan khi phải sửa sai Đavit...Chúng ta có luôn ra sức dâng lễ sốt sắng, không đọc lua láu quá nhanh hay kề cà quá chậm, làm sao cho Dân Chúa tham dự thánh lễ sốt sắng và tiếp cận với Hy Lễ tuyệt vời này một cách hữu ích để lãnh nhận tối đa ơn thánh không?“ (ĐGM Phêrô Nguyễn Soạn, bài “LM, người là ai?”, VietCatholic News 28-02-2005), nguồn: http://www.conggiaovietnam).
Một khi kính trọng các LM như là “thầy dạy các chân lý”, GD cách chung cũng rất trân trọng những gì LM nói, nhất là lúc các ngài bước lên tòa giảng. Với lòng tin, GD theo dõi, lắng nghe vị LM giảng như là đang nghe Chúa nói vậy. Lời nói, dung mạo, cử chỉ, cung cách của ngài sẽ có sức hút đặc biệt nếu ngài đam mê rao giảng Lời Chúa và coi đây là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng và nghiêm túc. Có thể khẳng định như sau, “Công việc của LM quan trọng nhất trong mọi hoạt động của nhân loại. Ngài sinh ra đời chỉ để làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Chức vụ trung gian ấy buộc ngài phải nói và nói có kết quả cho dân mình, truyền cho họ niềm tin và giáo huấn luân lý mà Con Thiên Chúa đã trao cho con người như là phương thế để đạt đến hạnh phúc vĩnh cửu trên trời” (Thomas V. Liske, sđd pg 7).
Sau đây là chứng từ sống về vấn đề giảng thuyết của một LM: “Một hôm, có người hỏi cha Mc Nabb, một nhà giảng thuyết thời danh, xem ngài đã dành ra bao nhiêu thời gian để soạn bài giảng. Ngài trả lời, ‘40 năm’...Khi trả lời như thế, cha Nabb muốn nói là ngài luôn quan tâm chăm lo nghiên cứu và bài giảng đó là kết quả của 40 năm phát triển về phương diện thiêng liêng và trí thức...Có thể nói, kinh nghiệm mục vụ, lòng nhiệt thành vì Nhà Chúa đã ảnh hưởng sâu sắc đến điều ngài giảng từ giảng đài... ” (x. Ferdinand Valentine OP, “Giảng thuyết, một nghệ thuật”, ĐCV Sao Biển Nha Trang)./.
Mấy ngày nay, trên các phương tiện truyền thông, mạng xã hội và báo chí trong và ngoài nước đều Đề tài 16
Mấy ngày nay, trên các phương tiện truyền thông, mạng xã hội và báo chí trong và ngoài nước đều quan tâm và đề cập đến việc cô H’Hen Niê, hoa hậu VN 2017 lọt vào Top 5 Miss Universe 2018 trong đêm chung kết vừa diễn ra tại Pak Kret, Thái Lan. Đây là một sự kiện lịch sử chưa từng xảy ra trước đây. Báo chí VN viết: “H’Hen Niê đã làm nên lịch sử khi lần đầu tiên đại diện Việt Nam vào đến phần thi ứng xử của cuộc thi sắc đẹp hấp dẫn nhất thế giới Miss Universe, đồng thời còn kỷ niệm 10 năm Việt Nam được gọi tên sau thành tích Top 15 của hoa hậu Thùy Lâm tại Miss Universe 2008”. [1]
Thành tích của cô lần này một lần nữa khẳng định sắc đẹp, tài năng và nhân cách tuyệt vời của cô gái hoa hậu tóc ngắn xuất thân từ núi rừng Tây Nguyên.
H'Hen Niê là hoa hậu Hoàn Vũ Việt Nam 2017, cô sinh năm 1992 tại buôn Sứt M’đưng, xã Cư Suê, huyện Cư M'gar, tỉnh Đắk Lắk, gần thành phố Buôn Ma Thuột. Cô là người đồng bào dân tộc thiểu số đầu tiên tại Việt Nam giành vương miện Hoa Hậu Hoàn Vũ, sắc tộc Ê-đê với làn da nâu và mái tóc ngắn. Cô đã đại diện Việt Nam tham dự cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2018 tại Thái Lan và lọt vào Top 5 chung cuộc. Đây cũng chính là thành tích cao nhất của Việt Nam trong lịch sử tham gia cuộc thi này.
H’Hen Niê không chỉ biết đến như là một người đẹp dung dị, khiêm tốn và sắc sảo của vùng Tây Nguyên, mà cô còn gây được sự chú ý của nhiều người qua những lời phát biểu đầy xác tín của cô về những thành công trong sự nghiệp của cô. Sự xác tín của một Ki-tô hữu theo đạo Tin Lành từ nhỏ, rất yêu mến Thánh Kinh và ngoan đạo, luôn có đức tin vào Chúa chứ không vào bản thân mình.
Năm 2017, sau khi đăng quang Hoa Hậu trong cuộc thi Hoa Hậu Hoàn Vũ VN tại Nha trang, cô đã chia sẻ: “Từ nhỏ tôi là người theo đạo và tin rằng Chúa có chương trình và kế hoạch cho mỗi người, có gì đó tốt đẹp dành cho mình. Trong từng vòng thi, tôi đều cầu nguyện và xin Chúa ban cho mình sự bình an, bình tĩnh, tỏa sáng theo ý muốn tốt lành của Ngài. H’Hen nghĩ mọi điều đều có Chúa dẫn đường. Tôi xin theo ý muốn của Chúa chứ không phải ý muốn riêng của mình. Nếu xin theo ý mình là rất ích kỷ và chỉ muốn mọi thứ theo ý mình”. [2]
Sau khi lọt vào Top 5 Miss Universe 2018 vừa qua tại Thái Lan, H’Hen Niê đã tự tin nói: “Tôi đã và đang là một cô gái tự vươn lên từ vùng quê hẻo lánh. Tôi không mong chờ ai đó mang ngày mai đến”. Là một người tự tin nhưng không bao giờ tự kiêu. Cô nói: “Tôi luôn tin rằng Chúa có chương trình cho mỗi người, và luôn nghĩ Chúa có kế hoạch tốt nhất cho mình. Vậy nên trong từng vòng thi, tôi đều cầu xin Chúa ban bình an, bình tĩnh: ‘Chúa ơi, cho con được tỏa sáng theo ý muốn tốt lành của Chúa!’. Đó là lời cầu nguyện rất thực tế của tôi, bởi vì muốn thành công cần bình tĩnh, tự tin. Tôi tin mọi điều mình làm đều có Chúa dẫn dắt, nên được thuận theo ý muốn của Chúa chứ không phải ý riêng mình”.
Phải là một tín hữu có đức tin thật mạnh mẽ và trong sáng mới suy nghĩ và nói lên được những điều như vậy.
H’Hen Niê chẳng những có đức tin mạnh mẽ mà còn có một tấm lòng rộng rãi và ham mê việc từ thiện. Trước câu hỏi: “Bạn sẽ làm gì nếu có được danh hiệu?”, cô trả lời: “Em sẽ về quê và chia sẻ 70% tiền thưởng để trao học bổng cho các em gái ở buôn làng”.
Được biết, sau đăng quang năm 2017, trong cuộc sống hàng ngày, H'Hen Niê vẫn bình dị như bình thường, nhưng trong sự nghiệp cô đã có nhiều bước tiến như xuất hiện nhiều hơn trong các sự kiện lớn. Nhờ danh hiệu của mình, cô gái Tây Nguyên được đi khắp thế giới và thực hiện được ước mơ của bản thân. Ngoài ra, Hoa Hậu H'Hen Niê còn tích cực với nhiều hoạt động thiện nguyện trên khắp mọi miền đất nước, chương trình đồng hành cùng các bệnh nhân HIV-AIDS, tham dự tích cực chương trình Room to read - truyền cảm hứng tích cực cho các em học sinh, đặc biệt là các nữ sinh, dự án xây dựng nhà tình thương cho bà con nghèo... và rất nhiều chương trình thiện nguyện khác hướng đến trẻ em, phụ nữ và bệnh nhân HIV.
Mọi Ki-tô hữu đều biết rằng Thánh lễ Mi-sa là tột đỉnh của Phụng vụ Ki-tô giáo. Thánh lễ là Đề tài 17
Mọi Ki-tô hữu đều biết rằng Thánh lễ Mi-sa là tột đỉnh của Phụng vụ Ki-tô giáo. Thánh lễ là bữa tiệc thánh nhờ đó chúng ta được hiệp thông vào Mình Máu Chúa. Vì thế, cộng đoàn dân Chúa phải tham dự tích cực và sinh động, lãnh nhận lương thực thần linh nuôi dưỡng đời sống Ki-tô hữu và đời sống cộng đoàn. Nhờ Thánh lễ mà công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện. Do đó nhờ nhận thức được ý nghĩa cao cả của Thánh lễ mà mỗi lần chúng ta đến nhà thờ để cử hành mầu nhiệm thánh, chúng ta vui mừng hân hoan và luôn có một tâm tình sốt sắng, thích hợp. Đây cũng là lúc Ki-tô hữu chúng ta biểu lộ một thái độ sống đạo nghiêm túc và xứng hợp.
Chúng ta cũng biết rắng sống đạo là cách thế biểu lộ đức tin và lòng mến qua những việc làm và cách sống cụ thể bên ngoài. Có thể là những việc bổn phận hằng ngày trong gia đình. Có thể là những trách nhiệm mà chúng ta phải thi hành tại những nơi chúng ta làm việc, phục vụ. Có thể chúng ta chu toàn bổn phận đạo đức của mình, hằng ngày, hằng tuần, hằng tháng, như đọc kinh, cầu nguyện, suy gẫm, tham dự Thánh lễ, rước lễ, xưng tội, làm việc bác ái, hi sinh hãm mình vv... Ngay cả việc nhỏ bé như làm dấu Thánh giá và đọc kinh tạ ơn trước khi ăn chúng ta cũng không thể lơ là quên sót. Đó là biểu hiện chúng ta sống đạo một cách cụ thể.
Vậy để chứng tỏ mình quan tâm việc sống đạo từ trong Thánh lễ, mỗi người tín hữu chúng ta tự hỏi cần phải có thái độ và tâm tình nào khi đến nhà thờ tham dự Thánh lễ. Nói cách khác, chúng ta sẽ tham dự Thánh lễ làm sao cho đẹp lòng Chúa và đúng ý Hội thánh.
* THÁI ĐỘ TÍCH CỰC
Trước tiên, người ta nhận thấy rằng nhiều giáo dân đến tham dự Thánh lễ với một tâm thế lơ là, thụ động và gượng ép. Xem ra họ đi lễ vì luật buộc hơn là do đức tin và lòng mến. Không đi thì phạm tội trọng, lương tâm áy náy. Có người đi lễ do ép buộc, như cha mẹ ép con cái, vợ chồng thúc đẩy nhau, anh chị em lôi kéo nhau vv. Có những người đi lễ vì thấy nhà-nhà đi lễ, người-người đi lễ, chẳng lẽ mình không đi, thế là họ nhập vào đoàn người đi đến nhà thờ như một thói quen vô thức. Đi tham dự Thánh lễ, vì thế, đối với nhiều người như trả một món nợ.
Người Ki-tô hữu chân chính, khi đến nhà thờ dâng Thánh lễ, luôn mang tâm tình yêu mến, tạ ơn và biểu lộ một thái độ sốt sắng tích cực. Họ ý thức rằng Thánh lễ là Hy tế cảm tạ Chúa Cha, là lời chúc tụng Hội thánh dâng lên bày tỏ lòng biết ơn vì tất cả những phúc lành Thiên Chúa ban, tất cả những gì Người đã thực hiện qua việc sáng tạo, cứu chuộc và thánh hoá con người.
Trong bài giáo lý ngày 22-11-2017, ĐTC Phan-xi-cô đã giải thích rằng Thánh lễ không phải là tưởng niệm một kỷ niệm lu mờ của quá khứ, nhưng còn hơn thế nữa, là tham dự vào sự chiến thắng vĩnh viễn của Chúa Ki-tô trên cái chết, một chiến thắng mang lại cho đời sống Ki-tô hữu trọn ý nghĩa của mình. ĐTC Phan-xi-cô cũng nhắc lại sự quan trọng phải đi lễ ngày Chúa Nhật, không biến Thánh lễ thành buổi trình diễn và phải thinh lặng để sống và hiệp thông sự thương khó, cái chết, sự sống lại và lên trời của Chúa Giê-su.
Do đó, Hội thánh luôn mời gọi các tín hữu phải tham dự Thánh lễ một cách tích cực và nghiêm túc.
Tham dự tích cực là khi đi lễ, phải tìm mọi cách vào bên trong nhà thờ thay vì đứng xa bên ngoài. Vì chỉ khi nào ta hiện diện tích cực với vị chủ tế và với cộng đoàn Phụng vụ, lúc đó Thánh lễ mới có ý nghĩa và đem lại lợi ích thiêng liêng cho ta.
Nhiều người mang danh nghĩa có đạo đến dự Thánh lễ nhưng thay vì cố gắng tìm một chỗ thích hợp trong nhà thờ, thì lại đi kiếm một chỗ mát bên ngoài nhà thờ, đứng hoặc ngồi mơ mộng từ đầu đến cuối, xác một nơi hồn một nẻo. Có người hút thuốc, nói chuyện, lướt web hoặc chat trên điện thoại di động. Đây là hành động thiếu ý thức của một số người đi lễ cho có lệ, không để tâm hồn vào việc lắng nghe Lời Chúa và dự phần vào Tiệc Thánh Thể. Việc làm như thế được kể là không tham dự Thánh lễ buộc ngày Chúa Nhật và đương nhiên là mắc tội trọng. Thậm chí, có cặp đôi ngồi trên xe gắn máy tâm sự suốt buổi lễ, cứ như là đang ở công viên, chờ đến khi vị chủ tế ban phép lành xong là rồ máy “biến”...
Tham dự tích cực là thực hành cách chu đáo và trang nghiêm từ những việc nhỏ nhất, như cúi đầu, làm dấu thánh giá, quỳ gối, đứng ngồi, chúc bình an, câu thưa câu đáp... Thực tế thấy có nhiều tín hữu vừa bước vào nhà thờ, ngồi “phịch” xuống ghế ngay, chẳng cúi đầu, làm dấu, quỳ gối thờ lạy Thánh Thể. Họ nhìn ngang nhìn dọc, thỉnh thoảng rút điện thoại ra trả lời hoặc nhắn tin cho ai đó, cứ như là họ đang ở trong một nơi trình diễn nào đó ...
Thiết nghĩ cũng nên nói qua về việc sử dụng điện thoại để quay phim, chụp hình trong Thánh lễ. ĐTC Phan-xi-cô gay gắt phê phán việc này. Ngài đau buồn nói rằng: “Đây là một chuyện rất xấu! Và tôi rất buồn, khi tôi dâng Thánh lễ ở đây, ngoài quảng trường thánh Phê-rô hay trong đền thờ thánh Phê-rô, tôi thấy bao nhiêu là máy điện thoại cầm tay đưa lên, không phải chỉ có tín hữu mà cả một số linh mục và giám mục. Thánh lễ không phải là một buổi trình diễn. Đó là đến với sự thương khó và sống lại của Chúa. Vì thế vị linh mục nói: ‘Hãy nâng tâm hồn lên’. Điều này có nghĩa là gì? Anh chị em nhớ: không nâng máy điện thoại cầm tay lên”.
Tham dự tích cực cũng đòi buộc ta phải đi lễ đúng giờ, không đi trễ về sớm. Nhiều tín hữu có thói quen khi đi lễ, đợi khi nào ca đoàn hát nhập lễ mới đến nhà thờ. Lúc đó thường thì không vào được bên trong nhà thờ và phải tìm một chỗ bên ngoài. Đối với họ, lúc đó là Thánh lễ “từ xa”, không còn ý nghĩa tham dự hay hiệp thông gì nữa, mà chỉ là có mặt để yên tâm là mình đã đi lễ. Ngoài ra, cũng có một số người có thói quen “đi trễ về sớm”, họ ra về khi vị chủ tế chưa ban phép lành cuối lễ và chúc bình an. Chúng ta tự hỏi, đi lễ kiểu này thì có xứng hợp với ý Chúa và Hội thánh không, có đúng với danh nghĩa Ki-tô hữu không, có phải là nêu gương sống đạo đích thực không...
* TÂM TÌNH SỐT SẮNG
Bên cạnh thái độ tích cực và nghiêm túc khi tham dự Thánh lễ, tín hữu chúng ta còn cần có tâm tình sốt sắng, trang nghiêm nữa. Đây là nói về nội tâm toát ra bên ngoài. Trước hết đó là sự im lặng và cung kính cần thiết của người tham dự.
ĐTC Phan-xi-cô đã nhắc nhở: “Thánh lễ là ‘lời cầu nguyện tiêu biểu’. Vì thế, phải thinh lặng ngay từ đầu Thánh lễ để chuẩn bị vào trong ‘quan hệ mật thiết của mình với tình yêu của Chúa’. Vì chỉ trong thinh lặng mới giúp chúng ta đón nhận sâu xa, giúp chúng ta ‘ý thức vì sao chúng ta có mặt ở đây’ trong Thánh lễ này. Đây là giây phút mở lòng ra với Chúa. Trong thinh lặng chúng ta nghe tiếng nói của Thần Khí”.
Trong Thánh lễ, sự im lặng của chúng ta là cần thiết để hiệp thông trong bầu khí linh thánh của cộng đoàn, không lo ra chia trí, không nói chuyện riêng tư, không ngáp vặt, không hắt xì một cách vô ý tứ, không để điện thoại reo vô tư, thoải mái... Nhờ có sự tập trung cao độ trong khoảng thời gian tham dự Thánh lễ, chúng ta mới có được tâm tình sốt sắng xứng hợp.
Tham dự sốt sắng là khi chúng ta ý thức mình đến nhà thờ để làm gì, mục đích của việc tham dự Thánh lễ là gì. Vì Thánh lễ không phải là một buổi trình diễn nên ta đến không phải là để “xem”, để “cười”, để “vỗ tay”, để “múa hát” vv. Tín hữu được mời đến tham dự Bàn tiệc thánh, đến hiệp thông Hy lễ của Chúa Giêsu được tái hiện, đến để cầu nguyện, thờ phượng và dâng lễ cùng với chủ tế và cộng đoàn Phụng vụ. Chúng ta hãy luôn tự hỏi như sau: Tôi đi lễ để gặp Chúa hay để giải trí? Tôi đi lễ để nói chuyện tào lao hay để nguyện cầu? Khi đi lễ tôi có gặp được Chúa trong Lời hằng sống và Mình Máu Ngài không? vv.
Tham dự sốt sắng là khi chúng ta thực hiện những cử chỉ đạo đức một cách nghiêm trang và đúng đắn, từ việc cúi đầu, làm dấu thánh giá, bái quỳ, cho đến những cách ta thưa đáp các lời nguyện do chủ tế xướng hay đọc. Thực tế cho thấy nhiều người đi lễ nhưng là “Lễ câm”. Vì hầu như chẳng thấy họ mở miệng đọc kinh, thưa đáp gì cả. Chúng ta biết, Thánh lễ là lễ của cộng đoàn, cho cộng đoàn, vì cộng đoàn. Cho nên mọi thành viên phải cùng thưa, cùng hát, cùng đọc. Đó là sự hiệp thông. Tại nhiều nơi, nhiều tín hữu tham dự Thánh lễ nhưng lười hát, lười đọc, lười thưa. Họ im lặng suốt từ đầu lễ đến cuối lễ. Một cách tham dự thiếu sốt sắng và xem ra thụ động như thế chắc chắn sẽ không đem lại lợi ích thiêng liêng gì nhiều.
Trong Thánh lễ, ngoài việc sốt sắng cầu nguyện, thưa đáp, hát thánh ca, nghe giảng giải, còn có một việc quan trọng nhất mà chúng ta không thể không quan tâm, đó là việc rước lễ. Có nhiều tín hữu đi lễ thường xuyên, nhưng lại không siêng năng rước Mình Thánh Chúa. Về việc này, ĐTC Phan-xi-cô đã nhấn mạnh: “Người tín hữu trở nên một với Đấng mình đón nhận”. Ngài nhắc lại khi ngài nói đến điều kỳ diệu của việc rước lễ: “Mỗi lần chúng ta rước lễ là mỗi lần chúng ta gần với Chúa Giêsu hơn, chúng ta được biến đổi tốt hơn trong Chúa Giêsu”. Chúng ta đã biết, Thánh lễ là Bữa tiệc thánh nhờ đó chúng ta được hiệp thông vào Mình Máu Chúa. Do đó, đoàn dân Chúa phải tham dự tích cực và sinh động, lãnh nhận lương thực thần linh nuôi dưỡng đời sống Ki-tô hữu và đời sống cộng đoàn. Vì vậy. khi đến tham dự Thánh lễ, chúng ta ý thức rằng mình đến để thông hiệp, để chia sẻ, để lãnh nhận, để được nên một với Chúa Ki-tô.
Tóm lại, nếu tín hữu chúng ta tham dự Thánh lễ với thái độ tích cực và tâm tình sốt sắng nêu trên, thì chắc chắn đời sống nội tâm sẽ dần dần lớn mạnh và nhờ đó chúng ta có nhiều ơn thánh để chu toàn bổn phận sống đạo của mình một cách tốt đẹp.
Ngày 4-4-2018, trong bài giáo lý cuối cùng về Thánh lễ, ĐTC Phan-xi-cô nhắc lại, người Ki-tô hữu không nên đi lễ vì phải làm cho xong “bổn phận” trong tuần, nhưng phải ra về trong xác tín rằng “Thánh lễ chưa xong”, họ phải đem những gì họ sống trong Thánh lễ ra đời sống: trong các sinh hoạt hàng ngày, ở nhà, nơi làm việc, trong mọi quyết định cụ thể họ phải làm trong đời sống hàng ngày. Đó là sống đạo từ Thánh lễ đến cuộc sống .
Không một Ki-tô hữu nào mà không có dịp tiếp xúc với Lời Chúa. Chúng ta vẫn thường có dịp Đề tài 18
Không một Ki-tô hữu nào mà không có dịp tiếp xúc với Lời Chúa. Chúng ta vẫn thường có dịp nghe công bố Lời Chúa trong thánh lễ, theo dõi các giáo huấn của Hội thánh, nghe các bài giảng của mục tử, nghe đọc và suy niệm Lời Chúa trong các giờ kinh chung trong gia đình, trong khu xóm hay trong lúc đọc và suy gẫm Lời Chúa một mình. Tuy nhiên để Lời Chúa sinh hoa kết quả, chúng ta phải biết lắng nghe và thực thi Lời Chúa một cách trọn hảo trong đời sống đức tin của mình. Vấn đề này xem ra đối với mỗi người trong chúng ta vẫn còn là một điều gì đó mù mờ và thiếu sót.
Vậy chúng ta sẽ suy nghĩ về 2 vấn đề: 1- Tại sao Ki-tô hữu phải lắng nghe Lời Thiên Chúa; 2- Lý do nào khiến Ki-tô hữu phải giữ Lời Thiên Chúa?
* TẠI SAO KI-TÔ HỮU PHẢI LẮNG NGHE LỜI THIÊN CHÚA?
Xét cho kỹ thì chúng ta đã “Nghe” Lời Chúa nhiều hơn là “Lắng nghe”. Trong khi “Nghe” thì hời hợt, thoáng qua, lơ đãng, mau quên...thì “Lắng nghe” là thái độ cần thiết giúp ta nghe Lời Chúa một cách chăm chú, với tất cả tinh thần và tâm trí của con cái yêu mến Cha mình. Khi lắng nghe Thiên Chúa nói với mình, chúng ta sẽ khám phá ra điều này, đó là “Thiên Chúa không những dạy bảo chúng ta đường ngay nẻo chính, nhưng còn muốn đối thoại với chúng ta, muốn bộc lộ ý định yêu thương dành cho chúng ta, và muốn tâm sự với chúng ta nữa” (LM Giuse Phan Tấn Thành, O.P, bài “Lời Chúa có nghĩa là gì?”, nguồn daminhvn.net).
Vậy lý do nào khiến chúng ta phải siêng năng và sốt sắng lắng nghe Lời Chúa. Trước hết, Công đồng Vaticanô II, trong Hiến chế Tín lý về Mạc khải đã viết: “Trong các Sách Thánh, Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ. Vậy sức mạnh và quyền năng chứa đựng trong Lời Chúa lớn lao đến độ trở thành điểm tựa đầy năng lực cho Hội thánh và là sức mạnh của đức tin, lương thực nuôi linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu cho con cái của Hội thánh” (MK số 21).
Khi đi sâu vào Lời Chúa, chúng ta sẽ thấy trong đó một kho tàng cực kỳ phong phú, bổ dưỡng và hữu hiệu. Như trong Is 55 Chúa đã phán: “Hãy lắng tai và đến với Ta, hãy nghe thì các ngươi sẽ được sống...Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời, không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó” (Is 55, 3. 10-11).
Lời Chúa không chỉ là lời nói, chữ viết, thông điệp suông mà còn là một sức mạnh quyền năng và sống động. Khi tiếp nhận Lời Chúa với một đức tin chân thành và thái độ khiêm tốn, chúng ta sẽ khám phá trong đó hàm chứa những nội dung thật phong phú, đa dạng và một khi được Lời Chúa thấm nhập vào, chúng ta sẽ được bồi dưỡng, tái sinh và biến đổi.
. Lời Chúa là lời mạc khải.
Nói về tính chất mạc khải của Lời Chúa, Giáo lý Hội thánh Công giáo nhấn mạnh, “Để mạc khải chính mình cho loài người, Thiên Chúa đã đoái thương dùng ngôn ngữ loài người mà nói với họ: ‘Lời của Thiên Chúa, diễn đạt bằng ngôn ngữ nhân loại, trở nên giống tiếng nói loài người, cũng như khi xưa Ngôi Lời của Cha hằng hữu đã trở nên giống như con người khi mặc lấy xác phàm yếu đuối của chúng ta’ (DV 13). Qua tất cả các lời ở trong Thánh Kinh, Thiên Chúa chỉ nói có một Lời là Ngôi Lời duy nhất, trong Người, Thiên Chúa nói hết về mình cho nhân loại (Dt 1, 1-2)” (x. GLHTCG số 101-102).
Khi đón nhận Lời mạc khải của Thiên Chúa, tâm trí chúng ta sẽ được khai mở về một chân trời mới, bao la diệu vợi. Thực vậy, “Chân trời mới quan trọng nhất, mà Lời Chúa hé mở cho tôi thấy, là tôi có một Người Cha trên trời. Đời sống của tôi là chuyến đi về Trời để gặp Cha của tôi. Chuyến đi này có vô vàn trắc trở. Tôi phải biết đón nhận Chúa Cứu độ và ơn Chúa đổi mới tôi. Chân trời này chan chứa tình yêu thương” (ĐGM GB. Bùi Tuần, bài “Lời Chúa trong đời sống đức tin của tôi”, nguồn cgvdt.vn).
. Lời Chúa là lời sáng tạo và hành động.
Trong Cựu Ước, Lời Chúa là lời sáng tạo. Chỉ một lời Chúa phán mà vũ trụ, trời đất, vạn vật, con người được tạo dựng (x. St 1, 3-26).
Lời Chúa cũng bao hàm quyền năng hành động. Thực vậy, “Chỉ một lời, Đức Giê-su hoàn tất các phép lạ là những dấu chỉ của Vương Quốc Thiên Chúa (Mt 8, 8. 16; Ga 4, 50-53). Cũng chỉ một lời, Ngài hoàn tất nơi các tâm hồn những hiệu quả thiêng liêng mà các phép lạ này biểu tượng, như sự tha thứ tội lỗi (Mt 9, 1-7 ss). Chỉ một lời, Ngài thông ban quyền năng của mình cho Nhóm Mười Hai (Mt 18, 18; Ga 20, 23) và thiết lập những dấu chỉ của Giao ước mới (Mt 26, 26-29 ss). Như thế, trong Ngài và qua Ngài, Lời sáng tạo hành động, thực hiện sự cứu rỗi ở trần gian” (x. Mục từ “Lời Chúa”, Điển ngữ Thần học Thánh kinh, GHHV Pi-ô X Đalat).
Lời Chúa là một hiện thực sống động, vì thế khi chúng ta chăm chú lắng nghe và để cho Lời ấy thẩm thấu vào tâm trí mình thì bản thân mình sẽ được biến đổi. Sẽ xảy ra một cuộc sáng tạo mới, một cuộc tái sinh nhờ Lời Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô. “Vì anh em đã được tái sinh, không phải do hạt giống mục nát, mà do hạt giống bất diệt, nhờ Lời Thiên Chúa hằng sống và tồn tại mãi mãi... Lời Chúa vẫn tồn tại đến muôn thủa muôn đời. Đó chính là Lời đã được loan báo cho anh em như một Tin Mừng ” (1Pr 1, 23. 25).
. Lời Chúa đem lại niềm vui và sự sống
Trong Cựu ước, Lời Chúa luôn là niềm vui của vị ngôn sứ. Chẳng hạn, “Gặp được Lời Chúa, con đã nuốt vào, lời Ngài làm cho con hoan hỷ, làm vui thỏa lòng con, vì con được mang danh Ngài, lạy Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh” (Gr 15, 16). Lời Chúa cũng đem lại sự sống cho những ai lắng nghe và tin vào Người. Các môn đệ đi theo Chúa Giê-su đã nhận ra rằng Lời Chúa có khả năng đem lại cho kẻ tin sự sống viên mãn, đời đời. Như lời tuyên tín của tông đồ Phê-rô: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6, 68).
Đối với các tín hữu thời Tân ước thì Lời Chúa chẳng những là sứ điệp mạc khải từ Thiên Chúa, nhưng còn là chính bản thân Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời nhập thể làm người. Khi lắng nghe Lời Chúa chính là lúc chúng ta chấp nhận đi vào tương quan mật thiết với Chúa Ki-tô, đấng là đường, là sự sống và là sự thật. Như Chúa Ki-tô đã khẳng định: “Thật, tôi bảo thật các ông: ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống” (Ga 5, 24); “Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý” (Ga 15,7).
. Lời Chúa là lời yêu thương, vỗ về, ủi an
Lắng nghe và đi sâu vào Lời Chúa, chúng ta sẽ thấy Lời Chúa thật ngọt ngào dịu êm. Lời Chúa luôn đem lại yêu thương và thúc giục yêu thương. Lời Chúa như tấm lòng người mẹ hiền, luôn gần gũi con cái để vỗ về ủi an. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” (Mt 11, 28-30). Thánh sử Gio-an cũng đã nhắc lại lời của Đức Giê-su: “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em ” (Ga 15,12). Thánh Phao-lô trong thư Roma đã quả quyết: “Quả thế, mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy” (Rm 15, 4).
. Lời Chúa có sức chữa lành và hoán cải
Trong lịch sử Hội thánh, có khá nhiều tín hữu trở nên những vị thánh nổi tiếng nhờ tác động kỳ diệu của Lời Chúa. Tác động hướng dẫn và hoán cải.
Trường hợp thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê. “Thánh Phanxicô sinh năm 1506 tại miền xaviê thuộc địa phận Pampelune nước Tây Ban Nha trong một gia đình giầu sang, quyền quí, vị vọng. Thánh nhân có trí thông minh đặc biệt, nên vào năm Ngài lên 19 tuổi, cha mẹ ngài gửi ngài qua Paris để tiếp tục công việc đèn sách. Tám năm sau đó, ngài tốt nghiệp đại học và trở thành giáo sư danh tiếng tại nước Pháp. Thánh nhân lúc đó miệt mài chạy theo danh vọng trần tục. Ngài coi trần gian là tất cả. Nhưng ý Chúa nhiệm mầu, cao sâu, huyền bí nào ai hiểu nổi. Một lời của Chúa đã khiến Phanxicô thay đổi tất cả:’ Ðược lời lãi cả và thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì ?’. Chúa đã dùng miệng lưỡi của thánh Ignatiô cũng là thầy dạy ngài để nói lên điều đó. Chính lời Chúa đã biến đổi cuộc đời của ngài tận căn. Chúa đã chiếm đoạt con tim của ngài toàn vẹn. Thánh nhân đã trở thành khí cụ bình an đem Tin Mừng cho người Á Châu...” (LM Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT, bài “Thánh Phanxicô Xaviê”, nguồn simonhoadalat.com).
Trường hợp của thánh nữ Tê-rê-xa HĐ Giê-su. “Có những người sống thánh chỉ nhờ lời Chúa hướng dẫn, chẳng hạn Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Thánh nữ viết: ‘Trong Phúc âm, tôi tìm được tất cả những gì cần thiết cho tâm hồn bé nhỏ đáng thương của tôi. Tôi luôn tìm thấy ở đó những ánh sáng mới, những ý nghĩa ẩn giấu và mầu nhiệm…Nhờ kinh nghiệm, tôi hiểu và biết rằng ‘Nước Thiên Chúa ở giữa chúng ta’ (Lc 17,21). Đức Giêsu không cần sách vở, cũng không cần các tiến sĩ để dạy dỗ các tâm hồn. Chính Ngài là vị tiến sĩ lớn nhất, Ngài giảng dạy không cần những lời ồn ào’. Khi lần lượt đọc các chương 12 và 13 của thư thứ nhất Corintô, thánh nữ đã khám phá ra ơn gọi sâu xa, và vui mừng thốt lên là mình sẽ trở thành tình yêu trong Nhiệm thể Đức Kitô“ (Lm Micae Trần Đình Quảng, bài “Lời Chúa trong việc thánh hóa bản thân”, nguồn simonhoadalat.com).
. Lời Chúa là lời soi sáng và dạy dỗ
“Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119, 105). Khi tiếp xúc Lời Chúa, chúng ta khám phá ra rằng Lời Chúa chính là nguồn sáng giúp soi sáng chúng ta trong đời sống đức tin này.
Những lúc chúng ta rơi vào tình trạng tăm tối, khốn cùng nhất thì lúc đó Lời Chúa sẽ là nguồn sáng dẫn ta ra khỏi chốn u mê, lầm lạc, chết chóc. Đức Giê-su nói với người Do thái: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8, ).
Những lúc chúng ta lo lắng về cuộc sống này, thì có tiếng Chúa bên tai ta nhắc nhở ta về việc tin tưởng vào Chúa quan phòng (x. Mt 6, 25-34).
Những lúc chúng ta chạy theo đam mê tiền bạc của cải trần gian, thì có tiếng Chúa nhắc bảo chúng ta về việc phải tích trữ cho mình kho tàng bền vững trên trời (x. Mt 6, 19-21).
Những lúc dường như cuộc đời mất phương hướng, chúng ta rơi vào tình trạng tuyệt vọng, chán nản cùng cực. Khi đó Lời Chúa bỗng xuất hiện trong tâm trí ta: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su” (1Tx 5, 16-18); “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện” (Pl 4, 6).
. Lời Chúa chứa đựng chân lý và sự thật
Chúng ta luôn xác tín một điều quan trọng này là, Lời Chúa chứa đựng sự thật tuyệt hảo. Bởi chính Chúa Giê-su đã khẳng định: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14, 6); “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật” (Ga 17, 17). Thiên Chúa là sự thật, là chân lý cho nên những lời của Người cũng là chân lý và sự thật.
Khi tiếp nhận Lời Chúa, chúng ta vững tâm, tin tưởng rằng mình không sai lạc, lầm đường. Sự thật có sức mạnh giải phóng chúng ta, như thánh sử Gioan đã ghi lại: “Đức Giê-su nói với những người Do-thái đã tin Người: ‘Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông’ ” (Ga 8, 31-32). Sự thật chứa đựng trong Lời Chúa sẽ đem lại tự do và bình an. Đó là ơn huệ của Thần khí mà chỉ có những ai tin tưởng và thuộc về hàng ngũ con cái Thiên Chúa mới có được.
* TẠI SAO KI-TÔ HỮU PHẢI GIỮ LỜI THIÊN CHÚA?
“Phúc thay kẻ lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11, 28). “Giữ Lời Thiên Chúa” có nghĩa là lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Đối với người Ki-tô hữu chân chính, thì việc lắng nghe Lời Chúa luôn kèm theo việc thi hành Lời Chúa. Đây cũng là điều được Đức Giêsu rất quan tâm. Ngài nói: “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21). Không thực hành Lời Chúa thì tất cả chỉ là ảo tưởng, là xây nhà trên cát. Thậm chí không thể nói là đã hiểu Lời Chúa, vì như thánh Grê-gô-ri-ô Cả đã viết, “Người ta chỉ thực sự hiểu Lời khi bắt đầu đem ra thực hành”.
Thánh Gia-cô-bê đã nhấn mạnh như thế này: “Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình. Thật vậy, ai lắng nghe Lời Chúa mà không thực hành, thì giống như người soi gương thấy khuôn mặt tự nhiên của mình. Người ấy soi gương rồi đi, và quên ngay không nhớ mặt mình thế nào. Ai thiết tha và trung thành tuân giữ luật trọn hảo -luật mang lại tự do-, ai thi hành luật Chúa, chứ không nghe qua rồi bỏ, thì sẽ tìm được hạnh phúc trong mọi việc mình làm” (Gc 1, 22-25).
Vậy những lý do nào khiến chúng ta phải thực thi Lời Chúa.
- Chúng ta thi hành Lời Chúa để chứng tỏ chúng ta thực lòng yêu mến và vâng phục Chúa, như lời Ngài đã nói, ”Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14, 15); “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23).
- Chúng ta thi hành Lời Chúa để chúng tỏ mình đích thực là môn đệ và người thân của Chúa. ”Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hành những điều Thầy truyền dạy” (Ga 15,14); “Mẹ tôi và anh em tôi chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21).
- Chúng ta thi hành Lời Chúa nhờ đó được hưởng lời hứa và chúc phúc của Chúa. “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy:’Lạy Chúa, Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7, 21); “Ai nghe Lời Thiên Chúa và tuân giữ thì còn có phúc hơn” (Lc 11, 28).”
- Chúng ta thi hành Lời Chúa để chứng tỏ chúng ta thuộc về hàng ngũ những tín hữu khôn ngoan và sáng suốt của Dân Chúa. “Vậy những ai nghe lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá” (Mt 7, 24-25).
- Chúng ta tuân giữ Lời Chúa thì sẽ được hưởng sự sống đời đời. Như Chúa đã hứa: “Thật, tôi bảo thật các ông: ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 8, 51).
Thư Mục vụ của HĐGMVN năm 2005 chủ đề “Sống Lời Chúa” đã nhấn mạnh về việc “Tăng cường vai trò ưu tiên của Thánh Kinh”, như sau:
“Yêu mến Thánh Kinh không chỉ thể hiện qua việc phổ biến sách Thánh Kinh, mà còn là siêng năng đọc Lời Chúa trong đời sống và cho đời sống cụ thể của mình. Nói cách khác, đọc Lời Chúa không những để hiểu về Chúa mà còn để tìm hướng đi cho cuộc đời. Nhìn chung, Kitô hữu Việt Nam còn chưa thực sự chú trọng đến việc đọc Thánh Kinh. Có thể nói, chúng ta rất siêng năng đọc kinh, nhưng còn chưa chú trọng đến việc đọc và suy niệm Lời Chúa. Thánh Kinh chưa có chỗ đứng xứng đáng trong các sinh hoạt đạo đức, nhất là trong đời sống gia đình.
“Việc suy gẫm Lời Chúa ngày càng trở nên quan trọng và cấp bách, nhất là trong một xã hội đang biến chuyển sâu rộng về mọi phương diện, bởi lẽ Lời Chúa chỉ ra những định hướng và nền tảng cho đời sống luân lý đạo đức. Ước gì Thánh Kinh, nhất là những trang liên hệ đến đời sống mới trong Đức Kitô, từ Bài Giảng Trên Núi cho đến những lời khuyến thiện trong Thư các thánh Tông đồ, từ các sách Khôn Ngoan trong Cựu Ước cho đến những lời cảnh tỉnh trong sách Khải Huyền, thực sự trở thành sức mạnh nâng đỡ và ánh sáng soi đường cho chúng ta” (Nguồn simonhoadalat.com).
Đã làm người thì ai cũng phải chết. Chúng ta chỉ được sống một lần và phải chết một lần. Ngay Đề tài 19
Đã làm người thì ai cũng phải chết. Chúng ta chỉ được sống một lần và phải chết một lần. Ngay khi bắt đầu có sự sống, chúng ta đã mang trong mình mầm mống của cái chết rồi. Có sinh ắt có tử. Sinh bệnh lão tử... Đó là số phận nghiệt ngã của nhân loại chúng ta. Mỗi lần tham dự thánh lễ an táng của một người anh chị em Ki-tô hữu nào đó, chúng ta đều nghe vang câu kinh, tiếng hát sau: “Đời sống con người chóng qua như cỏ, / như bông hoa nở trong cánh đồng. / Một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi, / nơi nó mọc cũng không còn mang vết tích “ (Đáp Ca thánh lễ an táng cầu hồn “Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu”; x.Tv 103, 15-16: “Kiếp phù sinh tháng ngày vắn vỏi, / tươi thắm như cỏ nội hoa đồng, / một cơn gió thoảng là xong, / chốn xưa mình ở cũng không biết mình”).
Con người xem ra hoàn toàn bất lực trước sự chết, mặc dù họ vẫn miệt mài đi tìm một lời giải đáp thỏa đáng và ra công chế tạo những phương thuốc trường sinh bất tử. Công đồng Vat. II đã nói lên tình trạng của con người trước cái chết như sau: “Trước cái chết, bí ẩn về thân phận con người lên tới tột độ. Con người không những bị hành hạ bởi đau khổ và sự tiến dần đến tan rã của thân xác, mà hơn thế nữa, còn bị dày vò bởi nỗi lo sợ bị tiêu diệt đời đời... Mọi cố gắng của kỹ thuật, dù rất hữu ích, cũng không thể làm nguôi được nỗi lo âu của con người: bởi vì đời sống sinh vật, dù có được kéo dài thêm đi nữa, cũng không thể thỏa mãn được khát vọng một cuộc sống mai hậu đã được in sâu trong lòng con người” (Hiến chế Vui mừng và Hi vọng / GS số18).
Không ai trong chúng ta có một chút kinh nghiệm cụ thể nào về sự chết, chính vì thế mà ai ai cũng sợ hãi khi đối diện với cái chết. Thực vậy, “Với cách nhìn nhận thông thường, chết là một cuộc vĩnh biệt đơn độc và hãi hùng nhất. Không ai có thể đau khổ và chết thay cho nhau, cho dù đó là người thân yêu nhất. Các triết gia xưa nay đều mải miết đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi: Con người từ đâu đến và đi về đâu? Tại sao con người lại đau khổ và phải chết? Nhiều triết thuyết ra đời để lý giải cho câu hỏi này. Những triết thuyết mang chữ ‘duy’ không giải đáp rốt ráo về nguyên lý của sự chết. Những thuyết không tìm ra ý nghĩa đích thực của đau khổ và sự chết thì thấy cuộc đời chỉ toàn bế tắc, có muôn vàn mâu thuẫn và xáo trộn” (Hàn Cư Sĩ, bài “Đau khổ và sự chết”, nguồn tinmung.net).
Mỗi lần chúng ta tham dự thánh lễ an táng hay dự buổi đọc kinh cầu nguyện cho một người tín hữu đã qua đời, thường chúng ta mang hai tâm trạng trái ngược nhau. Một là đau buồn, xót xa vì phải chia lìa vĩnh viễn người quá cố, hai là vui mừng và hi vọng vì tin rằng “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”. Không người Ki-tô hữu nào mà lại không xác tín rằng chết là một cuộc ly trần để vượt qua thế gian này về Nhà Cha. Chết là chấm dứt cuộc đời trần thế. Riêng đối với những người chết trong ân sủng Đức Ki-tô, chết là về với Chúa, là được lên thiên đàng, là tham dự vào cái chết của Chúa để sau cùng được thông dự vào sự Phục sinh vinh quang của Ngài.
ĐTC Phan-xi-cô, khi nói về Thiên đàng là đích điểm niềm hy vọng Ki-tô giáo, đã chia sẻ như sau: “Trong giờ chết, Kitô hữu lập lại với Chúa Giêsu: ‘Xin Chúa nhớ đến con’. Và cho dù không còn ai nhớ đến chúng ta, Chúa Giêsu vẫn ở đó cạnh chúng ta. Ngài muốn đưa chúng ta vào nơi đẹp đẽ nhất. Ngài muốn đưa vào đó với ít nhiều điều thiện trong cuộc sống chúng ta, để không điều gì bị mất đi khỏi những gì Ngài đã cứu chuộc. Và trong nhà Cha, Ngài cũng mang tất cả những gì ở trong chúng ta cần được cứu chuộc: những thiếu sót và những sai lầm trong trọn cuộc sống. Đó là mục đích cuộc sống của chúng ta: tất cả được hoàn thành, được biến đối trong tình thương...
“Nếu chúng ta tin điều đó, thì cái chết không còn làm cho chúng ta sợ hãi nữa và chúng ta cũng có thể hy vọng rời khỏi thế giới này một cách thanh thản, với bao nhiêu lòng tín thác. Ai đã biết Chúa Giêsu, thì không còn sợ hãi gì nữa. Và chúng ta cũng có thể lập lại những lời của cụ già Simeon, cụ cũng đã được phúc gặp gỡ Chúa Kitô, sau trọn cuộc đời chờ đợi: ‘Giờ đây, lạy Chúa, xin cho tôi tớ Chúa ra đi bình an, theo lời Ngài, vì mắt con đã thấy ơn cứu độ của Chúa’ (Lc 2,29-30)” (Nguồn vi.radiovaticana.va/news).
* Ý NGHĨA CÁI CHẾT CỦA KI-TÔ HỮU
- Sự sống thay đổi chứ không mất đi.
Sách GLHTCG số 1012 viết: “Cái nhìn Ki-tô giáo về sự chết được diễn tả đặc biệt trong phụng vụ: ‘Lạy Chúa! Đối với chúng con là những tín hữu, sự sống thay đổi chứ không mất đi; và khi nơi trú ngụ dưới trần gian bị hủy diệt, chúng con được về hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên quê trời’ (Sách lễ Rô-ma, kinh tiền tụng cho kẻ qua đời)”.
Như vậy khi chết, chúng ta chấm dứt cuộc đời trần thế, để từ trần gian, xác thịt bước vào cõi sống thiên thai, thần linh. Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su trong tập sách về những lời cuối cùng, đã thốt lên: “Tôi không chết, nhưng đang bước vào cõi sống”. Sự chết chính là ngưỡng cửa để con người bước vào sự sống khác, như lữ khách vượt qua dòng sông sang bờ bên kia để đến miền đất tươi sáng, diệu kỳ, vĩnh cửu. Ngay cả những Ki-tô hữu bình thường cũng có cảm nhận lạc quan về sự chết. Chẳng hạn, nhà soạn nhạc thiên tài Wolfgang Amadeus Mozart đã nói: “Tôi cảm ơn Chúa đã độ lượng ban cho mình cơ hội để hiểu rằng cái chết là chìa khóa mở cánh cửa dẫn tới chân hạnh phúc”. Còn ca sĩ kiêm nhạc sĩ nổi tiếng John Lennon cũng đã phát biểu: “Tôi không sợ chết vì tôi không tin vào nó. Đó chỉ là ra khỏi xe này và vào xe khác”.
Đức tin Ki-tô giáo cho ta biết rằng khi chết thì thân xác tiêu tan nhưng linh hồn thì tồn tại và sẽ trở về với Thiên Chúa để được xét xử. Thực vậy, “Ngay khi lìa khỏi xác, linh hồn bất tử sẽ chịu phán xét riêng để được thưởng hay bị phạt đời đời; tùy theo đời sống của mình trong tương quan với Đức Ki-tô, linh hồn hoặc phải trải qua một cuộc thanh luyện hoặc được hưởng phúc trên trời hoặc sa địa ngục vĩnh viễn ” (GLHTCG số 1022).
Đối với chúng ta, là con cái Thiên Chúa, Đấng nguồn mạch sự sống, thì sự chết chính là biến cố đưa ta vào cõi sống. Thánh Phao-lô đã từng mong chết để được sống, ngài nói: “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi…” (Pl 1, 21-23), và “Chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (2Cor 5, 8).
- Chết là đi về Nhà Cha
Qua cái chết, Thiên Chúa gọi chúng ta về với Người. Vì thế đối với cái chết, Ki-tô hữu có thể mong ước như thánh Phao-lô: “Ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô” (Pl 1, 23); theo gương Đức Ki-tô, họ có thể biến cái chết của mình thành một hành vi vâng phục và yêu mến đối với Chúa Cha (x. GLHTCG số 1011). Thánh nữ Tê-rê-sa Giê-su Vida I đã nói: “Tôi muốn gặp Thiên Chúa và để gặp Người tôi phải chết”.
Cái chết là sự chấm dứt cuộc sống tạm bợ này để sau đó con người được trở về cõi sống vĩnh hằng trong Thiên Chúa. Chính vì vậy mà các tín hữu khi nói lời phân ưu đến tang quyến có người qua đời, thường cầu mong cho linh hồn người quá cố sớm về với Chúa trên Nước Thiên Đàng...
Đức Giê-su khi biết mình sẽ phải chết, đã nhắc đến cuộc ra đi vượt qua của Ngài để các môn đệ yên tâm và không hoảng sợ trước sự chết. “Lòng anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha của Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em” (Ga 14, 1-2).
Chúa dọn chỗ cho chúng ta để Ngài ở đâu chúng ta cũng được ở đó với Ngài. “Ở-một-chỗ-với-Chúa” chính là sự hiệp thông thần linh, kỳ diệu với Thiên Chúa, trong Thiên Chúa, một ân huệ mà Đức Giê-su đã hứa chia sẻ cho các môn đệ. “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành” (Ga 17, 24).
Trong lịch sử Hội thánh, không ít các vị thánh đã được ơn thị kiến nhờ đó các ngài đã có thể nếm trải hạnh phúc được “thấy” Thiên Chúa như thế nào.
Sau đây là cảm nghiệm về sự chết của thánh nữ Têrêxa Avila.
“Thánh nữ Têrêxa Avila, một trong những vị đại thánh thuộc Giáo Hội Công Giáo, thường hay được trải nghiệm tình trạng xuất thần. Những gì thánh nữ trình bày sau đây hoàn toàn đồng hóa với một sự cảm nghiệm về sự chết:‘Tôi cảm thấy mình được đưa lên trời và những người đầu tiên tôi nhìn thấy ở đó là hai ông bà thân sinh của tôi’.
“Và thánh nữ cũng so sánh những cảm nghiệm của bà với sự chết. Bà thường nói về giây phút ‘…khi linh hồn thoát ra khỏi ngục tù giam hãm nó trong một giây lát và được đưa vào trong sự an bình yên tĩnh…và sự mạc khải về những điều thật cao siêu mà linh hồn chiêm ngắm trong lúc xuất thần như thế, thì đối với tôi là một điều hết sức tương tự giống như sự linh hồn lìa ra khỏi xác… Linh hồn chấp nhận điều đó’.
“Thánh nữ tâm sự là bà được kết hiệp với Thiên Chúa. Và từ đó bà nhận thức được một cách chắc chắn rằng bà hoàn toàn không thể rời bỏ đức tin đó được, bà nói:‘…Tôi đã không biết được rằng Thiên Chúa hiện hữu trong mọi sự, và theo tôi là một điều bất khả, là Thiên Chúa lại hiện diện cách thân tình với tôi dường ấy, như tôi đã trải nghiệm được điều đó’.” (Lm Nguyễn Hữu Thy, bài “Cái nhìn khách quan và độc lập về sự chết (3)”, nguồn VietCatholic News 21-11-2008).
- Phúc cho ai được chết trong Chúa
Sách Khải Huyền đã viết: “Tôi nghe có tiếng từ trời phán rằng: ‘Ngươi hãy viết: Ngay từ bây giờ, phúc thay những người đã chết, mà được chết trong Chúa!’ Thần khí phán: ‘Phải, họ sẽ được nghỉ ngơi, không còn vất vả và nhọc nhằn nữa, vì các việc họ làm vẫn theo họ’ “ (Kh 14, 13).
Người ta thường nói “Sống thế nào, chết thế ấy”. Nếu trong cuộc sống thường ngày của mình, Ki-tô hữu chúng ta sống gắn bó mật thiết với Chúa thì chắc chắn lúc ta lìa đời, ta sẽ gặp được Chúa. Sự chết không còn bi đát nữa mà sẽ trở thành cuộc hội ngộ thần thiêng. Đúng như lời thánh Phao-lô đã viết: “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi…” (Pl 1,21-23). Sống mật thiết gắn bó với Chúa cũng có nghĩa là chúng ta thông hiệp vào sự chết cứu chuộc của Ngài, để nên đồng hình đồng dạng với Ngài, trong sự chết cũng như trong sự sống lại, trong đau khổ cũng `ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Ngài” (Rm 6, 8).
Cuộc sống của Ki-tô hữu trên dương thế sẽ có kết cục thế nào đó là tùy vào sự chọn lựa và đáp ứng của ta đối với Đức Ki-tô và với Tin Mừng của Ngài. Nếu chúng ta đã sống cho Chúa, vì Chúa, trong Chúa thì cũng sẽ chết cho Ngài, vì Ngài và trong Ngài. Và phần thưởng của những ai đã sống-chết cho Chúa, vì Chúa, đó là sự sống đời đời. “Thật, tôi bảo thật các ông: ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 8, 51). Ở chỗ khác, Chúa Giê-su cũng đã nói: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12, 25). Thánh Phao-lô cũng khẳng định, “Thật vậy, không ai trong chúng ta sống cho chính mình, cũng như không ai chết cho chính mình. Chúng ta có sống là sống cho Chúa, mà có chết cũng là chết cho Chúa. Vậy, dù sống, dù chết, chúng ta vẫn thuộc về Chúa” (Rm 14, 7-8).
Thực vậy, “Theo kế hoạch của Thiên Chúa, cái chết của con người không mang tính chết chóc, nhưng là một định hướng cho cuộc sống mới. Là người Kitô hữu, chúng ta ‘chết cho Chúa’ cũng như đã sống cho Ngài (x. Rm 14, 7). Nhờ cái chết, chúng ta ‘tôn vinh Thiên Chúa’ (Ga 21, 19) để đáng hưởng triều thiên sự sống (x. Kh 2, 10). Từ nỗi khắc khoải không thể tránh được, sự chết trở nên một đối tượng của toàn phúc: ‘Phúc thay những kẻ chết trong Chúa’ (Kh 14, 13), vì nhờ đó Chúa đưa chúng ta đến nơi an nghỉ muôn đời, đến miền ánh sáng vô tận” (LM Thái Nguyên, bài “Suy gẫm về sự chết”, nguồn simonhoadalat.com).
* THÁI ĐỘ & TÂM TÌNH CỦA KI-TÔ HỮU TRƯỚC SỰ CHẾT
Bình thường trước sự chết, ai cũng lo sợ, nhưng nhờ có sự nâng đỡ của đức tin, Lời Chúa và các bí tích, Ki-tô hữu chúng ta sẽ bớt sợ hãi. Thánh Inhaxiô Antiôkia trong thư gửi giáo đoàn Rô-ma đã khẳng định như sau: “Đối với tôi, chết trong Đức Giê-su Ki-tô còn hơn là được cai trị cả thế gian. Tôi đang đi tìm Đấng đã chết cho chúng ta: tôi đang khao khát Đấng đã phục sinh cho chúng ta. Giờ tôi được sinh ra (trong cuộc sống vĩnh cửu) đã gần kề... Anh em hãy để tôi nhận lãnh ánh sáng tinh tuyền, khi nào tôi tới được đó, tôi mới thực sự là một con người” (Rm 6, 1-2) (x. GLHTCG số 1010).
Sở dĩ các thánh và những người công chính mạnh mẽ và lạc quan chấp nhận sự chết như một biến cố đáng mong đợi, đó là vì các ngài đã luôn sống trong tỉnh thức và tín thác. Đó là thái độ khôn ngoan và sáng suốt của người Ki-tô hữu chân chính. Bởi ai cũng biết rằng, cái chết luôn luôn đến bất ngờ và không chừa một ai.
. Tỉnh thức và tín thác
Sách GLHTCG số 1014 viết như sau: “Hội thánh khuyên chúng ta chuẩn bị cho giờ chết (‘Xin cứu chúng con khỏi chết bất đắc kỳ tử’: kinh cầu các thánh cũ); khấn xin Mẹ Thiên Chúa chuyển cầu cho chúng ta ‘trong giờ lâm tử’ (Kinh Kính Mừng) và trông cậy vào Thánh Giu-se là bổn mạng kẻ ‘mong sinh thì’: ‘Trong mọi hành động, trong mọi suy tư của con, con phải xử sự như hôm nay con phải chết. Thà giữ mình không phạm tội, hơn là trốn tránh sự chết. Nếu hôm nay con chưa sẵn sàng chết, thì làm sao ngày mai con sẵn sàng được’ (x. Sách Gương Chúa Giê-su)”.
Thánh Phan-xi-cô Assisi đã cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, chúc tụng Chúa vì chị chết mà không ai thoát khỏi được. Vô phúc cho người chết trong tội trọng và diễm phúc cho người được chết trong ân nghĩa Chúa, vì cái chết lần thứ hai sẽ không làm cho họ đau khổ” (x. GLHTCG số 1014).
Chúng ta phải sẵn sàng chờ Chúa đến trong giờ chết của chúng ta với một tâm thế tỉnh thức và sẵn sàng.
“Tỉnh thức là ở trong tư thế sẵn sàng đón Chúa bất cứ lúc nào, sẵn sàng cả trong khi ngủ, ngủ trong an bình như các cô trinh nữ khôn ngoan, như Thánh Phanxicô de Sales đã nói rằng: “Sự chờ đợi đích thực có nghĩa là chờ đợi mà không lo lắng gì cả”.
“Tỉnh thức là cũng là dấn thân chu toàn bổn phận như người quản gia được giao trách nhiệm phân phát lương thực cho các gia nhân (x. Mt 24, 45-51; Lc 12, 42-46). “Tỉnh thức là luôn chủ động làm cho những nén vàng, nén bạc Chúa trao được sinh lợi (x. Mt 25, 31-46).
“Tỉnh thức để nhận ra Chúa nơi người anh em bé mọn, khốn khổ, bất ngờ đến với mình và nài xin mình trợ giúp. Thật thế, Đức Kitô đến với chúng ta qua hiện thân người đói khát, rách rưới, một người yếu đau, lỡ đường, thậm chí một phạm nhân trong nhà giam như chính Ngài đã khẳng định (x. Mt 25, 31-46). Ai tỉnh thức đón nhận những người bé mọn này là đón nhận Ngài, được Ngài đưa vào dự tiệc dành sẵn đời đời.
“Mang tâm tình tỉnh thức, chúng ta sẽ luôn có thái độ sẵn sàng như cha Charles de Foucault khuyên nhủ: “Bạn hãy sống như bạn sẽ chết vào tối nay” (LM Đan Vinh, bài “Tỉnh thức và cầu nguyện”, nguồn tinvui.org).
. Vui mừng và hi vọng
Xưa nay, người ta vẫn thường liên tưởng đến sự chết như là một giấc ngủ ngàn thu. Vì thế rất nhiều người đã thường viết ba chữ in hoa R.I.P, là chữ tắt của cụm từ “Yên nghỉ trong bình yên”, nghĩa của câu tiếng la-tinh “Requiescat In Pace”, để hướng về người chết và về những nơi chôn cất những người qua đời.
Thực vậy, “Người chết (tiếng la-tinh là defungi) là người đã vĩnh viễn hoàn tất đời mình. Là người Kitô hữu, chúng ta phải biết đón nhận sự hoàn tất đó với một tâm hồn bình an cao cả, vì mạc khải Kitô giáo đã cho biết rằng cái chết như cánh cổng to lớn mở vào thánh điện an vui vĩnh hằng. Như thánh Phaolô đã xác định: vào ngày cuối cùng, cái hư hoại trong ta sẽ trở nên bất hoại, cái khả tử sẽ nên bất tử (x. 1Cor 15, 53)” (LM Thái Nguyên, bài “Suy gẫm về sự chết”, nguồn simonhoadalat.com).
Thực ra, chết không phải là yên nghỉ mà là tiếp tục sống. Vì cái chết chính là ngưỡng cửa đi vào đời sống vĩnh cửu. Với người Ki-tô hữu, “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” (Thánh Phanxicô Assisi). Quả thật, với một cái nhìn đầy lạc quan và hy vọng, một sự cảm nhận thâm sâu về thực tại vĩnh cửu ngay bên cạnh giờ phút lâm chung, thi sĩ Tagore đã thốt lên: “Bởi yêu cuộc đời nên tôi cũng yêu cả sự chết”.
Sách Khải Huyền cũng đã mở ra một viễn ảnh tươi sáng, huy hoàng, huyền diệu về một trời mới đất mới, “Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: ‘ Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất’ ” (Kh 21, 3-4)./.
Tết đối với người tín hữu chúng ta luôn mang hai ý nghĩa, ý nghĩa phong tục và ý nghĩa tôn giáo Đề tài 20
Tết đối với người tín hữu chúng ta luôn mang hai ý nghĩa, ý nghĩa phong tục và ý nghĩa tôn giáo. Vì là người Việt Nam, con Rồng cháu Tiên, nên chúng ta không thể thờ ơ với Tết, trái lại phần đông cảm thấy nôn nao, mong chờ Tết đến. Thực vậy, “Tết là khoảng thời gian đặc biệt mà người Công giáo Việt Nam muốn dành cho Thiên Chúa, cho gia đình và cho tha nhân. Ngoài những phong tục truyền thống của ngày Tết như chúc Tết, xông đất, mừng tuổi hay mâm cỗ, người Công giáo không quên Thiên Chúa luôn là mùa xuân của mỗi người. Bởi đó, ta thấy những thánh lễ, buổi nguyện cầu thật thiêng liêng đầm ấm của người Công giáo nơi giáo đường, trong gia đình, và trong từng lời chúc”. [1]
Thời gian trước và trong dịp Tết, xem ra ai cũng rất bận rộn, vì có khá nhiều việc phải làm. Như dọn dẹp nhà cửa, trang trí bàn thờ, đi mua sắm quần áo mới, đồ Tết vv. Những ai có điều kiện và thời gian thuận tiện thì đi chợ Tết, vui Xuân... Riêng những người ở xa thì lục đục kéo nhau về quê ăn Tết. Cách chung hầu như ai cũng mang tâm trạng nôn nao, háo hức hòa nhịp trong bầu không khí chào Xuân, đón Tết.
Riêng đối với Ki-tô hữu chúng ta thì việc đón Tết chào Xuân còn được thực hiện theo tinh thần “cái Tết của người có Đạo”. Do đó, trong những ngày Tết, người Công giáo chúng ta thường tới nhà thờ để tham dự Thánh lễ đặc biệt mừng Xuân. Và Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng đã qui định: a- Tối giao thừa có thánh lễ Tạ Ơn; b- Ngày mồng một Tết thánh lễ cầu bình an cho năm mới; c- Ngày mồng hai Tết thánh lễ kính nhớ tổ tiên, ông bà, cha mẹ; d- Ngày mồng ba Tết thánh lễ thánh hóa công ăn việc làm.
Như vậy, cái Tết của người Ki-tô mang đầy đủ ý nghĩa của một nếp sinh hoạt thấm đượm niềm tin và tinh thần Tin Mừng Ki-tô giáo. Ta có thể liệt kê những sinh hoạt và việc làm của người Ki-tô hữu trong mấy ngày Tết, như sau:
* TẾT TẠ ƠN
Ngày cuối năm, chúng ta tham dự thánh lễ Tất niên. Và thời khắc giao thoa giữa năm cũ và mới, có thánh lễ đêm Giao thừa. Trong những giờ phụng vụ này, Hội thánh nhắc nhở chúng ta hướng về Thiên Chúa để tạ ơn. Vì thế, đối với Ki-tô hữu chúng ta, Tết trước tiên là Tết Tạ Ơn. Trong thời khắc chuyển giao từ năm cũ bước sang năm mới, chúng ta có dịp nhìn lại những ân huệ Chúa đã ban cho ta. Ân huệ phần xác cũng như phần hồn. Thực ra, không phải đợi đến dịp Tết chúng ta mới quan tâm tới việc tạ ơn Thiên Chúa, nhưng đây là mốc thời gian thuận tiện và thích hợp để chúng ta làm việc này. Như lời thánh vịnh thúc giục chúng ta: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, / muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 136, 1); “Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng Chúa, / sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời” (Tv 146, 2).
Chúng ta tạ ơn Chúa vì cuộc sống này là của Chúa ban, thời gian này là quà tặng của Người cho chúng ta. Thiên Chúa làm chủ thời gian. Người là Chúa Xuân. Trong dịp Tết này, chúng ta cảm tạ Chúa vì những ơn lành Chúa đã ban cho chúng ta trong suốt một năm sắp qua đi, đồng thời chúng ta phó thác những ngày tháng sắp tới cho bàn tay quan phòng và yêu thương của Người. Chúng ta cũng cám ơn tất cả những người, bằng cách này hay cách khác, đã nâng đỡ, ủi an và góp phần xây dựng cuộc đời chúng ta.
Dịp Tết, ngoài việc tạ ơn Chúa, chúng ta không quên nhớ đến công ơn ông bà tổ tiên và cha mẹ còn sống cũng như đã qua đời. Chính vì vậy Hội thánh chọn ngày mùng hai để cử hành thánh lễ kính nhớ tổ tiên và cầu cho cha mẹ. Bên cạnh đó, Ki-tô hữu chúng ta cũng thường có thói quen xin lễ cầu nguyện cho ông bà tổ tiên đã qua đời. Ngoài ra, nhiều Ki-tô hữu cũng có truyền thống viếng mộ thân nhân vào ngày Tết. Vì thế, vào những ngày trước Tết, các gia đình thường sửa sang lại phần mộ của những người đã khuất, người ta trưng bông, đặt những giỏ hoa tại phần mộ. Và ngày mồng hai Tết, các giáo xứ thường tổ chức ít là một thánh lễ ở nghĩa trang.
* TẾT MỪNG TUỔI
Một trong những cách cư xử đặc trưng nhất trong dịp Tết, đó là người ta mừng tuổi nhau. Trong Thánh lễ ngày đầu năm, nhiều cộng đoàn cũng có thói quen mừng tuổi Chúa và mừng tuổi nhau. Mỗi năm mới người ta thêm tuổi, đời sống sẽ dài thêm và sẽ cơ hội đón nhận những điều mới lạ trong cuộc sống. Vì thế người chúc mừng nhau.
Dịp Tết, tại nhiều giáo xứ, còn có tục lệ hái lộc Xuân. Một tác giả đã ghi lại như sau: “Trong đêm giao thừa và ngày đầu năm, sau khi đi lễ tại đình chùa, người Việt Nam có tục hái lộc đem về nhà. Người Công giáo, sau khi tham dự thánh lễ giao thừa, cũng hái lộc đầu Xuân. Không biết xuất phát từ đâu, mà trong khoảng thời gian hai ba chục năm nay, giáo xứ nào cũng tổ chức cây mùa Xuân để cho mọi người tới hái lộc. Lộc ở đây, không phải là một cành cây phải hái, phải bẻ, nhưng là một Lời Chúa được in rất đẹp trên giấy và được cuộn lại cũng rất đẹp. Lời Chúa được chọn theo chủ đề của mỗi năm, chẳng hạn như về gia đình, đức tin, truyền giáo vv. Mỗi gia đình nhận một Lời Chúa, như là ý lực sống cho suốt cả một năm. Tờ Lời Chúa, hay lộc đầu Xuân này, được mang về nhà và được để ở gần bàn thờ, để mọi người trong nhà cùng suy gẫm và thực hành”. [1]
Đây là một việc làm đạo đức có nhiều ý nghĩa và mang lại hiệu quả sống đạo rất cao.
Bên cạnh việc mừng tuổi, người ta cũng không quên trao cho nhau những lời Chúc Xuân. Chúc Xuân qua tấm Thiệp Xuân. Chúc Xuân qua tin nhắn điện thoại hay email hay qua Facebook. Chúc Xuân trong gặp gỡ đầu năm. Chúng ta gửi đến nhau những lời cầu chúc tốt đẹp nhất. Một cách đơn giản là câu “Chúc Mừng Năm mới”, “Cung Chúc Tân Xuân” hay “Happy New Year”. Hoặc “Chúc Mừng Năm Mới Khang An Thịnh Vượng” vv. Tuy nhiên, thiết nghĩ, bên cạnh đó cũng có rất nhiều câu chúc chỉ là sáo ngữ, trống rỗng và không thích hợp với Ki-tô hữu chúng ta, cho nên tốt nhất chúng ta nên tránh dùng.
Thực vậy, “Nếu những ngày năm mới người người chúc cho nhau làm ăn phát đạt, thì người Công giáo dành cả một thánh lễ mồng ba Tết để cầu mùa. Trong thánh lễ này, họ tin Thiên Chúa là đấng làm chủ thiên nhiên, ban cho họ một năm mới với nhiều huê lợi, được mùa. Ai cũng xin Chúa ban ơn trợ giúp để công ăn việc làm trong năm mới được thuận buồm xuôi gió. Công việc ổn định và cuộc sống ấm no hạnh phúc luôn là ước vọng chính đáng của mỗi người. Chắc hẳn Thiên Chúa không quên những ước nguyện đầu năm đầy chân thành của mỗi người. Do đó, ai cũng hy vọng một năm mới với nhiều ơn lành của Chúa, từng dự định của mỗi người sẽ gặp nhiều thuận lợi, vận may. Thật ý nghĩa và dễ thương biết bao khi người Công giáo chúc cho nhau những điều tốt đẹp đến từ Thiên Chúa. Những ngày xuân tay bắt mặt mừng, họ cầu mong cho người thân, bạn bè nhận được nhiều ơn lành của Thiên Chúa. Trong từng câu chúc, họ tin vào bàn tay quan phòng và yêu thương của Thiên Chúa. Khi đó, niềm vui của ngày Xuân luôn lan tỏa đến từng người mà họ có dịp gặp gỡ, chuyện trò”. [2]
* TẾT XUM VẦY
Tết luôn luôn là dịp để người ta họp mặt bạn bè và đoàn tụ gia đình. Tết mà không có xum vầy thì mất đi ý nghĩa của Tết. Xum vầy để họp mặt chúc Xuân, để chia vui sẻ buồn, để vui chơi, ăn uống. Việc ăn uống trong dịp Tết là điều đương nhiên, nhưng ta không nên biến nó thành việc ăn nhậu, say sưa tốn kém. Những tai nạn giao thông trong dịp Tết thường do ăn uống nhậu nhẹt gây ra, vì khi say người ta không làm chủ tốc độ, dẫn đến những thảm kịch chết chóc kinh hoàng. Ki-tô hữu được khuyến khích “ăn Tết” một cách lành mạnh, giản dị, đúng theo truyền thống và nhất là nên tiết kiệm.
Những lời chúc đầu năm đều mang ý nghĩa đem lại ấm no hạnh phúc, mạnh khỏe và bình an. Nếu chúng ta biết kiềm chế việc sắm sửa và biết tổ chức một cái Tết lành mạnh thì những buổi họp mặt gia đình sẽ đem lại một bầu không khí tươi vui, đầm ấm và đáng khích lệ.
* TẾT BÁC ÁI
Trong dịp tết, nhiều giáo xứ và nhiều cá nhân Ki-tô hữu tổ chức những đợt đi thăm viếng tặng quà cho các đối tượng người già neo đơn, bệnh tật, những gia đình khó khăn và những trẻ em cơ nhỡ, khuyết tật. Những việc làm này thật ý nghĩa, nhất là nó thể hiện tinh thần bác ái yêu thương của Chúa Ki-tô. Tết khi đó không còn là cho cá nhân mình, cho gia đình mình, cho xứ đạo mình mà còn cho xã hội, cho con người bất kể là lương hay giáo.
Nếu mỗi người Ki-tô hữu, mỗi gia đình Công giáo bớt đi những chi tiêu hoang phí cho ngày Tết để đóng góp một chút phần quà tham dự vào công cuộc “Mừng Xuân không quên người nghèo” thì thiết nghĩ chúng ta sẽ có một cái Tết đầy ý nghĩa, đẹp lòng Chúa và đem lại niềm vui cho tha nhân và cho chính chúng ta.
- - - - - - - - - - - - - - - - [1] LM Gã Siêu, bài “Tết Đạo”, nguồn conggiao.info 16-2-2015 [2] Jos Phạm Đình Ngọc SJ, bài “Người Công Giáo Việt Nam làm gì trong những ngày Tết?”, nguồn dongten.net ngày 23-1-2017
Hồng ân thiên chúa bao la, / Muôn đời con sẽ ngợi ca ơn người... Có thể nói, suốt cả cuộc đời Đề tài 21
Hồng ân thiên chúa bao la, / Muôn đời con sẽ ngợi ca ơn người...
Có thể nói, suốt cả cuộc đời Ki-tô hữu chúng ta là một lời kinh tạ ơn và ngợi khen. “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ, / muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 136, 1); “Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng Chúa, / sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời” (Tv 146, 2).
Hằng ngày, ít nhất cũng có một vài dịp chúng ta nhớ đến và thực hành việc tạ ơn Chúa. Chẳng hạn, sau giấc ngủ ban sáng, trước/ sau các bữa ăn, sau những lúc hoàn thành công việc bổn phận. Đặc biệt, trong thánh lễ, chúng ta có dịp cùng cộng đoàn lên tiếng tạ ơn, đó là lúc nghe xong hai bài đọc và sau câu chúc “Lễ xong chúc anh chị em đi bình an” của vị chủ tế...
Thực ra, việc tạ ơn Chúa của Ki-tô hữu không chỉ diễn ra khi làm một vài việc nào đó, trong một thời khắc nào đó, mà hơn thế, đó phải là một nếp sống đạo đức thường xuyên trong tâm tình vui mừng, sốt mến và khiêm nhu... “Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa / và ca ngợi Thánh Danh muôn thủa muôn đời” (Tv 144, 2). Riêng thánh Phao-lô cũng đã khuyên nhủ các tín hữu: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su” (1Tx 5, 16-18).
Đối với Ki-tô hữu, việc tạ ơn Chúa chẳng những là một hành vi biết ơn thông thường của kẻ chịu ơn, mà còn là một bổn phận tôn giáo có liên quan đến đức tin và lòng mến của chúng ta đối với Thiên Chúa. Thực vậy, “Khám phá việc tạ ơn trong Thánh Kinh cũng là tìm thấy niềm vui mừng (Tv 33, 1-3. 21), sự ca ngợi và hân hoan (Esđ 3, 11; Tv 69, 31), sự tôn vinh Thiên Chúa (Tv 50, 23; 86, 12). Nói rõ hơn, tạ ơn là công khai tuyên xưng các kỳ công hiển nhiên của Thiên Chúa. Ngợi khen Chúa, tức là cao rao các vẻ cao siêu của Ngài; cảm tạ Chúa, tức là công bố những việc diệu kỳ Ngài thực hiện, và làm chứng cho các công trình của Ngài” (x. Mục từ “Tạ ơn”, Điển ngữ THTK GHHV Pi-ô X Đalat).
* KI-TÔ HỮU TẠ ƠN CHÚA VỀ NHỮNG ĐIỀU GÌ?
Bình thường Ki-tô hữu chúng ta có thói quen tạ ơn về những điều mình đã nhận được qua việc cầu xin. Đây đó, tại những khu vực thích hợp, trong hoặc ngoài nhà thờ, người ta dễ dàng nhìn thấy những tấm bia đá ghi khắc mấy chữ “Tạ ơn Chúa”, “Tạ ơn Đức Mẹ”, “Tạ ơn ông thánh...bà thánh...”. Người ta cũng thấy đặt để đây đó những hòm/ thùng tiền tạ ơn hoặc nghe những lời thông báo tạ ơn trước hoặc sau thánh lễ. Tất cả những việc đó nói lên điều gì? Nói lên điều này là chúng ta thường chỉ quan tâm đến việc cám ơn khi đã được những ơn cầu xin. Và sự đền ơn đáp nghĩa của chúng ta thường đơn giản chỉ tính bằng tiền bạc, vật chất như một bó hoa, một hai cây nến, một vài đóng góp nào đó cho việc đạo vv...
Thực ra, việc tạ ơn của chúng ta phải liên quan đến những ơn huệ cao cả vĩ đại hơn mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta qua Đức Giê-su Ki-tô và trong Hội thánh của Người. Chúng ta thử đọc và phân tích kinh Cám Ơn mà chúng ta đọc hằng ngày để xem nội dung tạ ơn gồm những gì:
“Con cám ơn Đức Chúa Trời là Chúa lòng lành vô cùng, chẳng bỏ con, chẳng để con không đời đời mà lại sinh ra con, cho con được làm người, cùng hằng gìn giữ con hằng che chở con, lại cho Ngôi Hai xuống thế làm người, chuộc tội chịu chết trên cây thánh giá vì con, lại cho con được đạo thánh Đức Chúa Trời cũng chịu nhiều ơn nhiều phép Hội thánh nữa, và đã cho phần xác con (ngày / đêm) hôm nay được mọi sự lành, lại cứu lấy con kẻo phải chết tươi ăn năn tội chẳng kịp. Vậy các thánh ở trên nước thiên đàng cám ơn Đức Chúa Trời thế nào thì con cùng hợp cùng các thánh mà dâng chúa con cùng cám ơn như vậy. Amen”.
Dựa vào nội dung kinh trên, chúng ta có thể kể ra 4 ơn huệ cao trọng nhất mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, đó là: Ơn làm người, ơn cứu chuộc, ơn làm Ki-tô hữu và ơn quan phòng.
- Ơn huệ làm người
Ơn đầu tiên mà con người phải luôn ghi khắc trong lòng, đó là ơn được làm người. Từ hư vô, Thiên Chúa đã “kéo” con người ra và ban cho họ sự sống. Thánh Kinh đã ghi lại: “Thiên Chúa phán: ‘Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất.’ Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ ” (St 1, 26-27).
Quả vậy, “Ơn gọi đầu tiên và là nền tảng của mọi ơn gọi tự nhiên là ơn gọi làm người. Từ hư vô con người trở thành hiện hữu do ý muốn của Thiên Chúa và mang trong mình một định hướng siêu việt. Mỗi con người là một công trình tác tạo phát xuất từ chính sự sống của Thiên Chúa và nằm trong kế hoạch tình yêu muôn đời của Ngài. Vì thế sự sống của mỗi con người gắn liền với chính sự sống của Thiên Chúa, và tình yêu nơi mỗi người là dấu ấn khắc ghi tình yêu bao la của Ngài...” (LM Thái Nguyên, bài “Ơn gọi hiện diện”, nguồn simonhoadalat.com).
Ơn huệ được làm người là một ơn nhưng không mà Thiên Chúa đã ban cho con người. Vì yêu thương con người, Thiên Chúa đã muốn chia sẻ sự sống và tình yêu cho họ để họ được hưởng sự vinh quang đời đời như Người. Giáo lý HTCG đã diễn giải như sau: “Mỗi con người đều mang hình ảnh Thiên Chúa. Hình ảnh ấy rực sáng trong sự hiệp thông nhân vị, giống sự hiệp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa” (Số 1702); “Được ban cho một linh hồn bất tử, con người là ‘thụ tạo duy nhất ở trần gian được Thiên Chúa dựng nên vì chính họ’. Ngay từ lúc tượng thai, con người được Thiên Chúa tiền định để hưởng hạnh phúc đời đời ” (Số 1703).
- Ơn cứu chuộc
Ơn huệ kế tiếp là ơn mà tất cả mọi tín hữu chúng ta không ngừng cảm tạ. Đó là ơn cứu chuộc.
Lịch sử cứu độ cho ta biết con người đã phạm tội. Tội kiêu ngạo, tội phản nghịch cùng Thiên Chúa, tội chống lại Đấng Sáng Tạo. Đây là khởi nguồn của tội nguyên tổ mà tất cả loài người đều chịu liên lụy. Thực vậy, “Con người bị ma quỷ cám dỗ, đã đánh mất lòng tín thác vào Đấng Sáng Tạo, và khi lạm dụng sự tự do, con người đã bất tuân mệnh lệnh của Thiên Chúa. Đó là tội đầu tiên của con người. Từ đó mọi tội lỗi đều là do bất tuân Thiên Chúa và thiếu tín thác vào lòng nhân hậu của Người” (GLHTCG số 397); “Ngay từ đầu lịch sử, con người bị thần Dữ cám dỗ nên đã lạm dụng tự do của mình. Họ đã sa chước cám dỗ và làm điều ác. Dù vẫn con ước muốn điều thiện, nhưng bản tính họ đã bị thương tổn vì nguyên tội. Con người nghiêng chiều về sự dữ và có thể sai lầm ” (GLHTCG số 1706).
Vậy rõ ràng là con người đã phạm tội và hậu quả khốc liệt của tội là đau khổ, chết chóc, hư vô. “Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3, 19). Thánh Phao-lô cũng nhắc nhở các tín hữu thế này: “Vì một người duy nhất, mà tội lỗi đã xâm nhập trần gian, và tội lỗi gây nên sự chết; như thế, sự chết đã lan tràn tới mọi người, bởi vì mọi người đã phạm tội” (Rm 5, 12).
Chính Đức Giê-su, Con Một yêu dấu của Chúa Cha, đã vâng phục đảm nhận vai trò Đấng Cứu Thế thực hiện công cuộc cứu chuộc nhân loại. Nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài, Thiên Chúa đã cứu chúng ta khỏi tội và sự chết, đồng thời cũng chuộc chúng ta lại trong ân nghĩa với Thiên Chúa. Thánh Phao-lô đã khẳng định: “Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Ki-tô Giê-su” (Rm 3, 24). Bên cạnh đó, GLHTCG cũng nhấn mạnh: “Nhờ cuộc khổ nạn, Đức Ki-tô giải thoát chúng ta khỏi Xa-tan và tội lỗi; nhờ đó, chúng ta đáng được hưởng đời sống mới trong Chúa Thánh Thần. Ân sủng của người phục hồi những gì tội lỗi đã làm hư hỏng nơi chúng ta” (Số 1708).
Để thực hiện công cuộc cứu chuộc nhân loại, Đức Kitô đã phải trả một giá rất đắt để chuộc những người Kitô-hữu chúng ta, như thánh Phao-lô đã nhấn mạnh: “Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em. Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em” (1Cr 6, 20; x. 7, 23). Nếu trong công cuộc sáng tạo, con người là sản phẩm ưu việt của Thiên Chúa, thì trong công trình cứu chuộc, phẩm giá con người đã được phục hồi một cách lạ lùng hơn gấp bội lần. Vì lí do đó, thánh Gio-an Kim Khẩu đã nói: “Thiên Chúa đã làm người để cho con người được làm Thiên Chúa”. Còn thánh I-rê-nê thì đã thốt lên: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người sống”.
- Ơn làm Ki-tô hữu
Thành quả của ơn cứu chuộc đã thể hiện cụ thể nơi mỗi người chúng ta khi ta lãnh nhận bí tích Thánh tẩy. Nhờ ơn sủng của bí tích này mà chúng ta trở nên một tạo vật mới, một con người mới, một Ki-tô hữu thực thụ. Từ đây, chúng ta được tái sinh làm con cái Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô, được trở nên chi thể của Hội thánh Chúa, được gọi là công dân của Nước Trời. Như thánh Gio-an đã khẳng định: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3, 5).
Bí tích Thánh tẩy là một biến cố siêu nhiên nhờ đó Thiên Chúa ban cho ta các ơn sau (x. bài “Bí tích Thánh tẩy”, nguồn simonhoadalat.com):
- Ơn tha tội, gồm tội chung (nguyên tổ) và tội riêng (cá nhân) để chúng ta được trở nên trong sạch trước khi được tháp nhập vào Thiên Chúa là Đấng thánh.
- Ơn làm con Thiên Chúa với tên gọi là Kitô hữu, bởi lẽ chúng ta tự bản chất chỉ là loài thụ tạo chứ không do Thiên Chúa sinh ra. Thiên Chúa chỉ có một người Con là Chúa Giêsu Kitô, nên chúng ta chỉ có thể là con cái của Thiên Chúa nhờ việc trở nên giống Chúa Kitô với tên gọi của Ngài.
- Ơn gia nhập Hội thánh, nghĩa là trở thành chi thể trong thân thể nhiệm mầu của Chúa Kitô. Chính Hội thánh sinh chúng ta ra làm con Thiên Chúa, nên chúng ta cũng là con cái Hội Thánh.
- Ơn huynh kết với các Kitô hữu, nghĩa là các Kitô hữu trở nên anh chị em với nhau vì cùng là con của một Cha trên trời.
- Ơn thiêng liêng không thể tẩy xóa, nghĩa là ghi một dấu ấn đã tái sinh làm con Thiên Chúa thì mãi mãi là con Thiên Chúa, cho dù có phản bội Người thì cũng không phải chịu lại bí tích Rửa Tội lần thứ hai.
Như vậy ơn huệ được gọi và chọn làm Ki-tô hữu được coi là đỉnh điểm của mọi ơn huệ mà Thiên Chúa có thể ban cho chúng ta. Đó được coi là nền tảng cho mọi ơn siêu nhiên, bởi vì: “Từ cuộc sống bình đẳng với nhau con người được nâng lên để sống bình đẳng với Thiên Chúa trong Đức Kitô: ‘Nếu ta cùng chết với Ngài ta sẽ cùng Ngài phục sinh, nếu ta chịu khổ với Ngài, ta sẽ cùng Ngài thống trị’ (Rm 6, 8). Trong giao ước mới này mỗi người trở nên đồng hàng với Đức Kitô. Và còn hơn thế nữa, mỗi người trở nên một với Đức Kitô, đồng hình đồng dạng với Ngài, mang chung một tính cách, chung một sự sống, chung một tình yêu, để cùng tác tạo và tái tạo với Thiên Chúa trong Đức Kitô, dưới sự tác động của Thánh Thần. Sự sống của người Kitô hữu mang một chiều kích vô biên trong chính mầu nhiệm hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa” (LM Thái Nguyên, bài và nguồn đd).
- Ơn quan phòng
Ơn quan phòng là những ơn huệ tự nhiên, hữu hình cũng như vô hình, mà qua đức tin và kinh nghiệm thực tế, ta có thể cảm nhận được. Đó là những ơn như cơm bánh hằng ngày, không khí, nguồn nước, khí hậu, mùa màng, sự sống thể lý, sự sống tinh thần, sức khỏe, sự bình an, tình yêu, tình bạn, gia đình, các liên đới xã hội vv... Hết thảy đều là ơn Chúa ban. Như thánh Phao-lô đã nói: “Tôi có là gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa” (1Cr 15, 10). Còn thánh nữ Tê-rê-xa Hài đồng Giê-su thì đã khẳng định: “Tất cả đều là hồng ân”.
Chúa Giê-su cũng đã nhắc nhở các môn đệ nhiều về ơn quan phòng của Thiên Chúa. Ngài đã nhấn mạnh: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho. Thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao ?... Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: Chúng không làm lụng, không kéo sợi. Thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: Ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em...” (Mt 6, 26 - 30).
Mầu nhiệm Chúa quan phòng soi sáng ta hiểu rằng Thiên Chúa yêu thương và chăm sóc ta như người mẹ lo cho con cái. Người quan tâm đến từng việc nhỏ của chúng ta. Chúa Giê-su đã nói: “Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi. Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Lc 12, 7), và “Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc; vì mạng sống thì hơn của ăn, và thân thể thì hơn áo mặc...Phần anh em, đừng lo tìm cho có gì để ăn, có gì để uống, và đừng băn khoăn. Vì tất cả những thứ đó, dân ngoại trên thế gian vẫn tìm kiếm; nhưng Cha của anh em thừa biết anh em cần những thứ đó. Vậy hãy lo tìm Nước của Người, còn các thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Lc 12, 22-31).
* KI-TÔ HỮU TẠ ƠN CHÚA NHƯ THẾ NÀO?
Việc tạ ơn của người Ki-tô hữu không được hiểu như là một hành động trả ơn theo kiểu “ Có qua có lại”, vì Thiên Chúa không cần bất cứ thứ gì từ con người, trừ niềm tin, sự tín thác và lòng yêu mến. Thực vậy, “Tạ ơn không phải là hoàn lại ân huệ đã nhận hay dâng một điều gì đó để đền đáp, theo kiểu ‘Hòn đất ném đi hòn chì ném lại’. Ai có thể đền bù lại cho Thiên Chúa? Và có thể lấy gì mà bù lại cơ chứ? Tạ ơn, đúng hơn, là nhìn nhận ơn Chúa ban, và đón nhận ân sủng nhưng không của Ngài, không dám mong tự chuộc mình hay trả giá thục hồi cho Ngài (Tv 49,8). Tạ ơn không khác gì nhìn nhận mình là người chịu ơn, là kẻ tuỳ thuộc, để cho Thiên Chúa là Thiên Chúa.” (LM Micae Trần Đình Quảng, bài “Tạ ơn Chúa”, nguồn simonhoadalat.com).
Trước hết, đối với Ki-tô hữu, việc tạ ơn là một hành vi tôn giáo thường xuyên, liên lỉ luôn kèm theo lời cầu nguyện trong tâm tình vui sướng, hân hoan.
. Tạ ơn trong mọi hoàn cảnh
Người Ki-tô hữu không chọn thời điểm hay hoàn cảnh để tạ ơn, mà phải nuôi dưỡng và thực hành việc tạ ơn suốt cả đời, ở mọi nơi mọi chỗ. Thánh Phao-lô đã nhấn mạnh: “Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện không ngừng. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su” (1Tx 5, 16-18). Trong kinh nguyện của Ki-tô hữu luôn bao hàm tâm tình tạ ơn như thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su đã nói: “Đối với tôi, cầu nguyện là sự hứng khởi của tâm hồn, là cái nhìn đơn sơ hướng về trời, là lời kinh tri ân và yêu mến giữa cơn thử thách cũng như lúc hân hoan ” (Sách Tự Truyện).
Ngay cả khi gặp những điều không vừa ý xảy đến, ta cũng phải vui vẻ đón nhận. Thực sự, cám ơn Chúa vì những điều may lành như ý thì dễ, nhưng cám ơn về những điều rủi ro trái ý lại không dễ chút nào. Vì thế chúng ta cần tập cám ơn Chúa về mọi điều xảy đến cho ta: vui cũng như buồn, thành công cũng như thất bại, an lành khỏe mạnh cũng như rủi ro tật bệnh...Vì những điều đó đều hữu ích cho phần rỗi đời đời của chúng ta, như thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su đã xác quyết: "Tất cả đều là hồng ân". Thánh Phao-lô cũng nhắn nhủ các tín hữu: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định ” (Rm 8, 28).
. Tạ ơn bằng đời sống Ki-tô hữu chân chính
Hội thánh luôn thúc giục chúng ta sống tâm tình tạ ơn và biến cuộc đời của mình thành lễ tế tạ ơn liên lỉ. Thực vậy, “Ý thức ân huệ mình đã lãnh nhận và noi gương Thầy Giê-su, các Ki-tô hữu đầu tiên đã biến cả cuộc sống mới của mình thành một lời tạ ơn” (x. Mục từ “Tạ ơn”, sách đd). Thánh Phao-lô đã khuyên nhủ các tín hữu: “Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng. Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3, 16-17).
Trong khi sống trong tâm tình tạ ơn Chúa, chúng ta không bỏ qua bổn phận yêu thương và giúp đỡ anh em đồng đạo và đồng loại mình. Nếu chúng ta tạ ơn Chúa vì lòng mến thì cũng phải thi ân vì tình bác ái tha nhân. Thánh Phao-lô đã nhắc bảo các tín hữu Cô-lô-xê về đời sống trong tình yêu và lời tạ ơn, như sau: “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. Ước gì ơn bình an của Đức Ki-tô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy anh em hãy hết dạ tri ân” (Cl 3, 14-15)./.
Khi đặt câu hỏi, “Linh mục, ngài là ai?”, có lẽ câu trả lời sẽ khác nhau, bởi mỗi người có cái Đề tài 22
Khi đặt câu hỏi, “Linh mục, ngài là ai?”, có lẽ câu trả lời sẽ khác nhau, bởi mỗi người có cái nhìn, cảm nghiệm và nhận định riêng về linh mục. Dù sao, người ta vẫn có thể đưa ra một câu định nghĩa đơn giản nhưng ý nghĩa về chân dung linh mục, đó là hình ảnh Người-mục-tử.
ĐGM GB. Bùi Tuần, Gp Long xuyên, trong bài giảng nhân ngày cầu xin ơn thánh hóa linh mục (22-6-2001) đã mở đầu như sau: “Nếu cần đưa ra một hình ảnh khi cầu nguyện cho các linh mục, thì thiết tưởng nên chọn hình ảnh ‘Mục tử tốt lành’. Chúng ta cầu nguyện cho các linh mục được trở nên mục tử tốt lành theo mẫu gương Chúa Giêsu, Đấng đã tự giới thiệu mình: ‘Ta là Mục Tử tốt lành ’ (Ga 10, 19)”.
Trong khi đó, ĐGM Phê-rô Nguyễn Soạn, Gp Qui Nhơn, trong bài viết nhan đề “Linh mục, người là ai?” đã đưa ra một nhận định ngắn, như sau: “Hình ảnh của linh mục rất đa dạng nơi cảm nghĩ của dân chúng. Cách đây ba bốn mươi năm, linh mục là người dâng thánh lễ, cử hành các Bí tích, giảng dạy đức tin, luân lý, Kinh Thánh, là con người của Giáo Hội, độc thân, xa lìa thế gian, mặc áo dòng đen, một viên chức có quyền thế, một nhà quý phái có bàn tay trắng. Nhưng gần đây hơn, danh từ linh mục gợi lên trong trí óc người ta, hình ảnh của một người bạn nghèo, có bàn tay chai cứng, đấu tranh cho hòa bình, cho độc lập, cho tự do, tham gia chính trị, vận động yêu nước, chống tham nhũng…”. [1]
Bản thân các linh mục có lẽ không ai dám nhận mình là mục tử tốt lành, mà có chăng chỉ là người thi hành sứ vụ mục tử đã được trao ban ngày lãnh nhận chức linh mục. Thực sự thì các ngài có lý do để không dám nhận mình là mục tử tốt lành như Thầy Giê-su chí thánh. Dù được các tín hữu xưng hô là “Cha” và được hưởng một sự tôn kính đặc biệt, các ngài vẫn là những con người bé nhỏ, hèn mọn với thân phận con người yếu đuối và đầy khuyết điểm.
Trong thực tế, nhiều người khi thấy hình ảnh mục tử nơi một linh mục nào đó không toàn hảo nguyên vẹn, thì xem ra ngã lòng và coi đó như một cớ vấp phạm. Nhưng đối với phần đông các tín hữu trưởng thành, việc “Thần thánh hóa” các linh mục chỉ là sản phẩm của một não trạng ấu trĩ, nông cạn. Thực ra, linh mục cũng là một con người yếu đuối và mỏng dòn như bao con người khác. Vì thế, khi nghĩ và nói về linh mục, trước hết chúng ta nên quan tâm lưu ý đến thân phận “người” của các ngài, những yếu đuối, những thất vọng, những đắng cay, những thao thức, những ngại ngùng, những lo lắng, những nhát đảm, những rụt rè, những vụng về, những chứng tật...
Mở đầu bài chia sẻ về đề tài “Yếu đuối” trong tuần tĩnh tâm các linh mục TGp Saigon năm 1990, ĐGM GB. Bùi Tuần đã kể một câu chuyện, như sau: “Tháng sáu vừa qua, tôi dự thánh lễ mở tay của một tân linh mục. Bài giảng hôm đó tập trung vào sự ca tụng chức linh mục. Đang khi cha giảng lên giọng hùng hồn thao thao bất tuyệt, hết lời nâng cao linh mục, thì tôi thấy một cha trước mặt tôi ngủ gục ngon lành. Ngài là vị chức cao quyền trọng, trong phẩm phục đại lễ, ngồi ghế danh dự trên cung thánh, trước mặt cộng đoàn Dân Chúa. Nhìn ngài ngủ gục, tôi thấy thương ngài. Tôi thông cảm thực tế yếu đuối của ngài”. [2]
Người ta có nhiều nhận định và đánh giá khác nhau về linh mục và chức vị của ngài. Có người nghĩ linh mục là “Vị tư tế thánh thiện tinh tuyền”. Có người tôn vinh linh mục là “Thầy cả thông thái tuyệt vời”. Người khác thì lại suy phục ngài như “Bậc thánh hiền” mà nhất cử nhất động của ngài đều toàn bích...Sự tôn sùng như thế quả thực đã khiến không ít linh mục cảm thấy lúng túng, khó xử, e ngại khiến có thể gây ra mặc cảm xa cách giáo dân. Thực ra, linh mục dù là thuộc bậc chức cao quyền trọng cũng là những con người với thân phận nhân sinh muôn vàn yếu đuối của mình.
Có thể nói, dưới con mắt nhiều người, nét đẹp dung dị, kín đáo và nhân bản nhất nơi chân dung con người linh mục, đó là sự yếu đuối, bình thường nhưng không tầm thường. Và tính cách anh hùng nhất nơi những con người ấy chính là sự khiêm tốn nhận biết mình yếu đuối một cách nhân loại.
Thực vậy, “Sự cảm nghiệm về những yếu đuối của mình là nét sống động và thường xuyên. Có lúc tôi yếu đuối quá, chỉ còn biết lập đi lập lại mấy lời đơn sơ: ‘Lạy Chúa, xin thương xót con. Lạy Chúa, xin đừng bỏ con’. Tôi cầu nguyện như người thu thuế ở cuối nhà thờ, như người phong cùi bên đường đợi Chúa đi qua, như người ăn trộm đóng đinh bên hữu Chúa”. [3]
Nhận ra được mình yếu đuối, bất lực, bất tài, hèn kém, giới hạn sẽ là một ơn huệ đặc biệt của Thiên Chúa, nhờ đó các mục tử sống an vui và khiêm tốn. Vì kinh nghiệm cho thấy nhiều khi chính sự không-nghĩ-mình-yếu-đuối sẽ là cái cớ khiến cho con người mang ảo tưởng rằng mình hoàn hảo, trong sạch, vững mạnh và thánh thiện. Chỉ có thái độ khiêm tốn đích thực mới giúp con người ra khỏi ảo tưởng, để tự do trở về với chính mình, để dấn thân phục vụ cách hiệu quả.
Khi nói về thái độ phục vụ của linh mục, ĐGM GB. Bùi Tuần đã nêu ra những lệch lạc có thể có của mục tử khi phục vụ. Ngài viết: “Người phục vụ là người thường được ưa thích. Nhưng đừng quên điều này: phục vụ mà kiêu căng sẽ không là phục vụ của người môn đệ Đức Ki-tô. Phục vụ với lòng tự cao tự đại là một xúc phạm. Phục vụ mà chỉ tưởng rằng cho đi mà không là nhận lãnh cũng là một sai lầm. Phục vụ mà cho rằng chỉ mình là đúng, là tốt, là cần, sẽ là một thảm họa. Nhưng phục vụ với dáng vẻ khiêm nhường câu nệ hình thức cũng rất xa lạ với Phúc Âm”. [4]
Vậy, có thể nói con người đích thực của linh mục, đó là người mục tử yếu đuối và sứ vụ của ngài là được trao phó việc phục vụ cộng đoàn như một đầy tớ với tinh thần khiêm tốn. Khi gọi và chọn các môn đồ, Chúa Giê-su không quan tâm lý lịch, trình độ, nhân đức, tài năng của họ mà chỉ vì Ngài yêu họ. Vậy thôi. Ngài biết rõ họ hơn họ biết họ. Ngài chú ý tới con người và thân phận của họ: sự yếu đuối nông cạn, tính nhút nhát vụng về, thái độ vô tình bạc bẽo, kể cả lòng đam mê ích kỷ của họ. Nhưng Ngài muốn chinh phục trái tim của họ để họ dần dần thích nghi với sứ mệnh mà Ngài trao cho họ, “Hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mc 1,17).
Các linh mục vẫn luôn luôn là những con người mỏng dòn, yếu đuối. Khi chấp nhận theo Chúa, các ngài được Chúa đào tạo, uốn nắn, nâng đỡ, thúc đẩy để có đủ sức thực hiện kế hoạch của Ngài. Sự yếu đuối, nông nổi sẽ được Chúa làm cho trở nên mạnh mẽ, kiên cường như trường hợp thánh Phê-rô. Sự cứng cỏi, tự mãn sẽ được Chúa làm cho trở nên đam mê, tích cực như trường hợp thánh Phao-lô. Hội thánh xác tín rằng: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định” (Rm 8, 28).
Hình ảnh mục tử nơi các vị linh mục không thể mô phỏng theo nhãn giới của thế gian nhưng theo tình thương và kế hoạch của Thiên Chúa. Tình thương và kế hoạch ấy đã thể hiện hoàn hảo nơi Đức Giê-su, Đấng đã tự giới thiệu mình là Mục Tử tốt lành. Các vị mục tử, khi theo Chúa và thay mặt Chúa chăm sóc cộng đoàn, chỉ có một ước vọng là noi gương bắt chước để nên giống Thầy Giê-su chí thánh. Đó chắc chắn sẽ là một chọn lựa cam go và quyết liệt.
Trong bài về “Truyền Giáo”, tĩnh tâm linh mục TGp Saigon năm 1990, ĐGM GB. Bùi Tuần đã chia sẻ như sau: “Đầy tớ không trọng hơn thầy. Tôi phải bắt chước Ngài. Khi chọn bắt chước thái-độ-yếu của Chúa Giê-su, tôi không nghĩ đến sự làm chứng trước mặt người ta cho bằng làm chứng trước mặt chính Chúa. Tôi muốn làm chứng cho Chúa thấy rằng tôi đi theo Chúa. Có thế thôi. Tôi tin rằng: Cái yếu của tôi là một chút từ bỏ mình. Nó chẳng là gì. Nhưng khi hòa vào những hy sinh bao la của Chúa Ki-tô, nó sẽ trở nên cái giá, mà Thiên Chúa đòi, để cứu rỗi các linh hồn”. [5]
Linh mục trong mắt Thiên Chúa và loài người vẫn là những con người yếu đuối, tội lỗi, bất toàn. Nhưng nhờ ơn thông hiệp với Chúa trong đời sống tận hiến của mình, các ngài âm thầm mang những vết thương của Chúa vì lợi ích cộng đoàn. Các ngài kín đáo chăm lo đến con chiên của mình với những lương thực chất lượng cao và hoàn hảo nhất. Các ngài lặng lẽ vượt qua chính bản thân mình để đến với tha nhân với trái tim rộng mở. Các ngài cần cù kết nối những mối liên hệ trong cộng đoàn thành một gia đình đậm tình yêu thương... Lúc đó, chính bản thân linh mục sẽ là một câu trả lời chính xác nhất cho câu hỏi “Linh mục là ai?”.
Aug. Trần Cao Khải
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - THAM KHẢO & TRÍCH DẪN: [1] ĐGM Phê-rô Nguyễn Soạn, bài “Linh mục, người là ai?”, nguồn: VietCatholic News 28-2-2005 [2] ĐGM GB. Bùi Tuần, bài “Yếu đuối”, tĩnh tâm linh mục Tgp Saigon 1990 [3] ĐGM GB. Bùi Tuần, bài “Truyền Giáo”, tĩnh tâm linh mục TGp Saigon năm 1990 [4] ĐGM GB. Bùi Tuần, tập tĩnh tâm các linh mục, tu sĩ Gp Long Xuyên tháng 5-1997 [5] ĐGM GB. Bùi Tuần, bài “Truyền giáo”, tĩnh tâm linh mục Tgp Saigon năm 1990
Khi tiếp xúc với linh mục (LM), người ta không chỉ ngưỡng mộ vẻ đẹp dung dị, trong sáng của Đề tài 23
Khi tiếp xúc với linh mục (LM), người ta không chỉ ngưỡng mộ vẻ đẹp dung dị, trong sáng của một “mảnh đời không của riêng ai”, của một con người “độc thân vui tính”, mà còn thán phục những phẩm chất và bản lĩnh anh hùng khác tỏ lộ nơi bản thân, cuộc sống của các ngài nữa. Đó là tinh thần vâng phục, đời sống khiết tịnh và cách sống nghèo vì Tin Mừng (TM).
Chỉ riêng việc tự nguyện chấp nhận sống nghèo vì TM thôi cũng đủ cho thấy LM phải sống mạnh mẽ và dũng cảm như thế nào. Bởi vì, cái cám dỗ lớn nhất, đối với đa phần con người ta, vẫn luôn luôn là muốn giàu có, cảm thấy mình giàu có và ước ao được ca tụng mình là người giàu có…Sự giàu có không nhất thiết chỉ là về vật chất, tiền bạc, mà còn có thể ngầm hiểu là sự sung mãn, đầy đủ về tiếng tăm, chức vị, quyền bính, kiến thức, trình độ, nhân đức vv..
Chính vì vậy, thực tế đã cho thấy nhiều giáo dân (GD) khá “dị ứng” khi chứng kiến nếp sống giàu có của một LM nào đó, đặc biệt là sự giàu có sung túc về của cải và phương tiện vật chất. Đức Thánh Cha (ĐTC) Phan-xi-cô có lần đã thổ lộ: “Cha cảm thấy buồn khi thấy một linh mục hay một nữ tu đi chiếc xe hơi đời mới nhất: thật không thể như thế được!” (Nguồn: Internet). Trong một dịp khác, ngài cũng đã nói: “Nếu các con thích một chiếc xe xinh xắn, hãy nghĩ đến biết bao trẻ em đang chết đói, hãy nghĩ đến điều này thôi. Niềm vui không được sinh ra, cũng không đến từ những thứ người ta có!” (Nguồn: Internet).
Xét như thế, chúng ta có thể khẳng định là các linh mục, tu sĩ (TS), một khi đã tận hiến đời mình cho Chúa và Hội thánh (HT) thì mặc nhiên các ngài sẽ chấp nhận một đời sống nghèo khó vì TM theo gương thầy chí thánh Giê-su, “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9, 58).
* LINH MỤC VÀ ƠN GỌI SỐNG NGHÈO
ĐGM GB. Bùi Tuần (gp Long Xuyên), trong tập “Truyền giáo”, tài liệu tĩnh tâm các LM TGp TPHCM năm 1990 đã viết: “Khi Chúa Giê-su sai các tông đồ đi làm nhiệm vụ Lời Chúa, Người bảo các ông đừng mang theo nhiều hành lý, dù đó là quần áo, tiền bạc. Chúa muốn các môn đệ ra đi với thái độ nghèo, không những nghèo về thái độ khiêm tốn bên trong, mà cũng nghèo cả về vật chất nữa. Bởi vì thái độ nghèo về vật chất chính là một hành trang tinh thần có giá trị lớn tăng bản lãnh cho người làm nhiệm vụ Lời Chúa. Nó giúp cho môn đệ Chúa làm chứng được phần nào mầu nhiệm thánh giá cứu độ và tám mối phúc thật là những điều quan trọng của Lời Chúa.”
Vậy thì khi dấn thân theo ơn gọi làm LM, TS, người môn đệ của Chúa tự nguyện chấp nhận sống nghèo, xem như đó là một đòi hỏi thiết yếu của ơn gọi tận hiến, như ý Chúa muốn và như HT mong đợi. Chính ĐTC Phan-xi-cô đã khẳng định: “Tôi ước muốn một Giáo hội nghèo và cho người nghèo.” (Nguồn Internet). Ngoài các Ki-tô hữu nói chung, thì thành phần nòng cốt các LM, TS nói riêng, là những nhân tố cần thiết giúp xây dựng và củng cố một Hội thánh nghèo và chính họ cũng trở thành nơi nương tựa bám víu của những người nghèo hèn khốn khổ trong xã hội…
Trong bài “Linh mục và của cải trần gian”, LM Đỗ Xuân Quế OP đã chia sẻ như sau: “Thật vậy, trong các đòi hỏi phải từ bỏ của Chúa Giê-su đưa ra cho các Tông Đồ, có một đòi hỏi về vật chất, đặc biệt là tiền của (Mc 10,21; Lc, 18,22). Đó cũng là một đòi hỏi được gửi đến mọi Ki-tô hữu theo tinh thần nghèo khó, nghĩa là gỡ lòng mình cho khỏi dính bén của cải để có thể thanh thản phụng thờ Chúa và quảng đại phục vụ tha nhân. Nghèo khó là một hình thức cam kết dựa vào lòng tin vào Chúa Giê-su và lòng mến dành cho Người. Hình thức này đòi phải có sự thực tập, một sự từ bỏ của cải tương ứng với đời sống và bậc đời của mỗi người theo ơn gọi Ki-tô hữu, với tư cách riêng của mỗi cá nhân hay chung của một cộng đoàn thánh hiến. Tinh thần nghèo khó có giá trị đối với mọi người. Mỗi người phải thực hiện theo cách nào đó cho phù hợp với Tin Mừng.” (x. Bài đd, nguồn: VietCatholic News 13-5-2014).
Bước theo ơn gọi sống nghèo vì TM, các mục tử của Chúa cũng được mời gọi làm chứng nhân cho đức khó nghèo Ki-tô giáo.
* LINH MỤC: CHỨNG NHÂN ĐỨC KHÓ NGHÈO KI-TÔ GIÁO
ĐTC Phan-xi-cô đã nói: “Mỗi người trong tất cả chúng ta đều phải là người rao giảng Tin Mừng, đặc biệt là bằng cách sống của mình!” (Nguồn: Internet). Trước đó, ĐTC Phao-lô VI cũng đã nói: “Người thời nay tin vào những chứng nhân hơn là tin vào những thầy dạy”.
LM có nhiều cách để làm chứng nhân cho đức khó nghèo của ơn gọi mình. Trong đó, có thể kể đến 3 cách nổi bật nhất, đó là: a.- Nếp sống giản dị; b.- Năng lui tới những nhà nghèo và giúp đỡ những người nghèo; c.- Khước từ việc chạy theo mốt như người thế gian.
- Nếp sống giản dị:
Quả thực, hơn ai hết, song song với nhiệm vụ giảng-dạy của mình, LM được mời gọi làm chứng nhân cho TM Đức Ki-tô giữa trần gian. Chính ĐTC Phan-xi-cô đã làm gương rất sống động về một đời sống khó nghèo và giản dị. Chắc chắn là lối sống của ĐTC Phan-xi-cô khi là hồng y ở Buenos Aires hẳn là lời mời gọi các LM xét lại cách sống của mình: ngài ở trong một căn hộ nhỏ thay vì ở dinh thự giám mục, sử dụng phương tiện công cộng thay vì đi xe hơi với tài xế riêng. Có thể nói, đặc điểm đầu tiên của sự khó nghèo chính là sự giản dị. Tác giả Thiên Triệu, trong bài “Chân dung linh mục qua hình ảnh của ĐTC Phan-xi-cô” đã viết: “Trước hết nghèo khó là sự đơn giản trong đời sống linh mục. Dù các linh mục giáo phận không có lời khấn khó nghèo, nhưng các ngài được kêu gọi sống đời giản dị. Đáng tiếc là nhiều khi, người tín hữu không cảm nhận được điều này khi thấy hàng giáo sĩ đi những loại xe đắt tiền, ra vào những nhà hàng sang trọng, và nhà ở của linh mục đầy những thiết bị xa hoa.” (Bài đd, nguồn: tgpsaigon.net ngày 20-04-2013).
Sống giản dị không có nghĩa là “vô sản”, không có gì hết, nhưng là chỉ nên sở hữu ở mức độ tối cần thiết. LM có thể sắm cho mình một cái đồng hồ tốt, một cái xe bền, một ngôi nhà thoải mái hay một căn phòng tiện lợi...nhưng không nhất thiết những thứ đó phải cao cấp, hàng hiệu hay đắt tiền. Biết đâu chừng những thứ xa hoa, quý giá đó lại trở thành rào cản khiến người ta khó đến gần với LM!
- Năng lui tới những nhà nghèo và giúp đỡ những người nghèo:
LM Trương Đình Hiền, trong bài chia sẻ “Linh mục, chứng nhân đời sống khó nghèo”, tuần tĩnh tâm năm 2009, gp Qui Nhơn đã chia sẻ như sau: “Linh mục khó nghèo đó là ‘linh mục phải coi người nghèo và những người yếu đuối nhất như là được giao phó cho mình một cách đặc biệt, và phải có khả năng nêu chứng tá nghèo khó bằng một đời sống giản dị và khắc khổ, vì đã quen từ bỏ một cách quảng đại những gì là dư thừa’ (Optatam totius, ĐT số 9; GL khoản 282), là người ‘nêu chứng tá về một sự trong suốt hoàn toàn trong việc quản trị tài sản cộng đoàn….sẽ không bao giờ xử sự như thể tài sản ấy là gia sản riêng tư của mình, nhưng như những gì mà mình phải thanh thỏa trước mặt Thiên Chúa và trước mặt anh em mình, nhất là trước những người nghèo’.” Và “Linh mục sống khó nghèo cũng có nghĩa là: ‘biết chú tâm tới những người bé nhỏ, tới các tội nhân, tới hết mọi người sống ngoài lề xã hội, theo như mẫu mực mà Đức Giêsu đã để lại trên bước đường thừa tác vụ ngôn sứ và tư tế của Ngài.” (x. Lc 4,18).
Có thể nói, LM là được sai đến cho người nghèo và vì người nghèo. Nhiều giáo dân phàn nàn về việc LM (nào đó) hay lui tới, đi lại quan hệ mật thiết với người giàu có, sang trọng. Những người nghèo dần dần xa tránh chủ chăn của mình vì mang mặc cảm giàu nghèo. ĐTC Phan-xi-cô đã nhắc nhở các LM: “Hãy sống tích cực, nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng và đồng thời, hãy ra đi, sẵn sàng gặp gỡ mọi người, đặc biệt những ai bị khinh rẻ và bất hạnh. Đừng sợ phải đi ngược dòng.” (Nguồn: Internet). Và chúng ta cũng không quên câu nói nổi tiếng của ngài, như sau: “Linh mục phải luôn ý thức rõ ràng trách nhiệm chủ chiên của mình là phải mang vào mình ‘mùi của chiên’.” (Nguồn: Internet).
Thực vậy, “Chúa Giê-su đã đến rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo hèn bé nhỏ. Linh mục và giám mục phải tránh hết sức những gì có thể đưa mình ra xa người nghèo (PO 17). Ngược lại, nếu tập được cho mình tinh thần nghèo khó theo Tin Mừng, các vị sẽ đi đến với họ và tim cách chia sẻ giúp đỡ họ về vật chất cũng như tinh thần. Đó là bằng chứng về Chúa Giê-su nghèo khó của những linh mục nghèo và bạn của những người nghèo. Đó là ngọn lửa tình yêu bập bùng cháy lên trong đời sống của hàng giáo sĩ và Hội Thánh. Nó sẽ có sức chiếu giãi và thu phục nhân tâm hơn những gì khác. Nguyên việc linh mục sống đơn sơ bình dị, không ham tiền bạc đã là một bằng chứng quí giá cho việc rao giảng Tin Mừng rồi.” (x. L.m. An-rê Đỗ Xuân Quế OP, bài “LM và của cải trần gian”, nguồn: VietCatholic News 13-5-2014)
- Khước từ việc chạy theo mốt như người thế gian:
ĐTC Phan-xi-cô đã khuyến cáo: “Trong thế giới này, sự giàu sang gây ra nhiều sự dữ; điều cần thiết là chúng ta, những linh mục, nữ tu, hết thảy chúng ta phải trở nên rõ ràng với sự nghèo khó của mình!” (Nguồn: Internet). Ý thức về sự nghèo khó đặc thù của mình, LM sẽ luôn cảnh giác với những cám dỗ của đời sống giàu có, phong lưu. Người ta có thể thấy một LM nào đó ăn mặc chải chuốt, quần áo rất model, một phần có thể do bản tính thích tươm tất lịch sự của ngài, nhưng phần khác cũng có thể do ngài muốn “diễn” như thế! Tại các bàn tiệc có LM tham dự, nhiều GD không ngại phục vụ các ngài với những loại rượu (ngoại) đắt tiền, hợp “gu” nhất...Thực ra có thể các ngài không đòi hỏi như thế, nhưng về phía GD thì người ta muốn phục vụ cho hết tình hết nghĩa! Và dần dần LM quen với cung cách ăn uống và tiêu xài xem ra vượt khỏi giới hạn đời sống tu trì của mình.
Thực vậy, “Đức nghèo khó theo Tin Mừng không hề khinh chê của cải trần gian vì những thứ này được ban cho con người là để sống và hợp tác với chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Theo Công Đồng Va-ti-ca-nô II, linh mục cũng như mọi Ki-tô hữu, vì có nhiệm vụ ca tụng và tạ ơn, nên phải nhìn nhận và tán dương lòng quảng đại của Cha trên Trời được biểu lộ trong các của cải trần gian (PO 17). Nhưng Công Đồng còn nói thêm là các linh mục đang khi sống ở giữa thế gian phải luôn luôn nhớ rằng mình không thuộc về thế gian này (Ga 17,14-16) và phải gỡ mình ra cho khỏi mọi ràng buộc quá đáng, hầu đạt được một tư thế thiêng liêng thích hợp và quân bình với thế gian và những sự đời (Pastores do vobis 30).” (x. L.m. An-rê Đỗ Xuân Quế OP, bài “LM và của cải trần gian”, nguồn: VietCatholic News 13-5-2014)
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Tóm lại, bằng đời sống nghèo đích thực theo tinh thần của TM Ki-tô giáo, LM sẽ an tâm sống cuộc đời hiến tế của mình theo gương thầy chí thánh Giê-su. Cái lo của LM chắc chắn sẽ không hướng hoàn toàn về việc phải ăn gì, uống gì, mặc gì, nhà cửa ra sao...(x. Mt 6,25-34), trái lại, mối bận tâm chính của các ngài chính là cố gắng trở nên người môn đệ đích thực của Chúa Ki-tô, cố gắng để trở thành con người sinh ích lợi cho mình và cho người khác. Và hai đòi hỏi chính yếu đặt ra cho người theo Chúa, đó là: tinh thần từ bỏ và tinh thần bác ái, như lời Ngài đã chỉ dạy: “Nếu ai muốn là môn đệ Thầy, thì hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Thầy” (Mt 16,24); và “Ai không từ bỏ tất cả những gì mình có, sẽ không thể là môn đệ Thầy.” (Lc 14,33) ./.
Cha Chevrier đã nói: “Linh mục là người bị ăn”. Một câu nói nổi tiếng, rất ấn tượng và cũng đầy Đề tài 24
Cha Chevrier đã nói: “Linh mục là người bị ăn”. Một câu nói nổi tiếng, rất ấn tượng và cũng đầy ý nghĩa. Linh mục (LM) được gọi là Alter Christus, do đó ngài cũng đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô, mang thân phận tấm bánh bẻ ra cho con người. Khi dâng Thánh lễ, chính LM chủ tế trong tư cách là người đại diện của Chúa và tư tế trung gian giữa Thiên Chúa và dân của Người, đọc lời truyền phép, “Các con hãy cầm lấy mà ăn, này là mình Thầy...”. Điều đó cũng chỉ ra rằng, bản thân LM sau khi lãnh nhận tác vụ thánh, đã được mời gọi thi hành sứ vụ được sai đi đến với mọi người và biến cuộc đời mình trở nên hy tế sống động. Ngài trở thành tấm bánh bẻ ra cho con người.
Công đồng Vat II đã nêu rõ: “LM phải săn sóc các tín hữu như những người cha trong Chúa Ki-tô, vì đã sinh họ cách thiêng liêng nhờ phép rửa và giáo huấn (x.1Cor 4,15 và 1P 1,23). Nêu gương cho đoàn chiên (1P 5,3), LM phải làm sao hướng dẫn và phục vụ cộng đoàn địa phương của mình, để họ xứng đáng mang danh hiệu Giáo hội Thiên Chúa (x.1Cor 1,2; 2Cor 1,1) là danh hiệu riêng riêng biệt của toàn thể Dân Thiên Chúa là Dân duy nhất. LM hãy nhớ rằng mình phải tỏ ra cho tín hữu và lương dân, cho người Công giáo và ngoài Công giáo thấy gương mặt của một thừa tác vụ thực sự tư tế và mục vụ, phải minh chứng cho mọi người thấy chân lý và sự sống...” (x. Vat II, LG 28).
Và Sắc lệnh về chức vụ và đời sống các linh-mục (Presbyterorum Ordinis) cũng nói về những đòi hỏi của thừa tác vụ LM, “Thực hành việc khổ chế riêng biệt của vị chăn dắt các linh hồn, từ bỏ những tiện nghi riêng, không tìm kiếm tư lợi nhưng tìm lợi ích cho nhiều người để họ được cứu rỗi”.
Như vậy, LM được chọn từ những người bình thường để làm những công việc phi thường. Để thực hiện những việc phi thường, LM luôn là người bận rộn và vất vả. Bản thân con người của LM qua bí tích Truyền chức thánh đã trở nên một hiến lễ vì cộng đoàn và cho cộng đoàn. Như Đức Ki-tô Mục Tử, LM có thể nói, “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Gio 10,10); “Con người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45).
Dõi theo thân phận của Đức Ki-tô, LM là tấm bán h bẻ ra cho nhiều người đang khao khát sự sống đích thực của Tin Mừng. LINH MỤC: TẤM BÁNH BẺ RA VÌ SỰ SỐNG THIÊNG LIÊNG CỦA CỘNG ĐOÀN.
Cộng đoàn tín hữu là một gia đình trong đó LM được sai đến để chăm sóc, lo lắng và làm gương. Ngài xác tín tuyệt đối việc ngài đến là “để phục vụ”. Người phục vụ luôn luôn là người chịu thiệt thòi, lo trước cái lo của dân Chúa và vui sau cái vui của họ. Nếu ngày đưa đón cha về nhận giáo xứ mới, lòng đầy nỗi hân hoan, vui sướng bao nhiêu thì những ngày sau đó, là một núi công việc đang chờ bàn tay của LM. Nỗi lo lắng của ngài không phải là an hưởng bản thân mà là gánh vác công việc cộng đoàn, ở đó bao con người đang mong đợi và cần sự hiện diện của ngài.
LM sẽ luôn luôn phải thao thức về nhu cầu thiêng liêng của cộng đoàn, qua đó ngài biết nên làm gì và làm như thế nào để họ “được sống và sống dồi dào”. Sự hy sinh của LM không chỉ là chịu đựng một vài khó khăn trong vấn đề ăn uống, nhà ở, phương tiện này nọ mà là “chỉ có một sự cần”, đó là làm sao mình phải bé nhỏ, tiêu hao đi để cho Đức Ki-tô lớn lên trong cộng đoàn. Làm sao để Tin Mừng thực sự lan tỏa trong mỗi người, mỗi gia đình, mỗi hội-đoàn-nhóm tín hữu. Làm sao hạn chế được những chia rẽ, bất hòa, hành xử cục bộ, bè phái...để mọi người sống hiệp nhất yêu thương như Chúa đã dạy. Nguyên chỉ với những thao thức đó thôi, LM cũng đã phải “tự tiêu hao” biết bao dự phóng, bao sáng kiến, bao lo toan, bao kế hoạch riêng tư...Nói cách khác, khi lo cho người khác được lớn lên, LM sẽ hy sinh chính bản thân ngài.
Một vị GM đã chia sẻ, “Tôi nhận ra ơn gọi của người môn đệ Đức Ki-tô. Ơn gọi này không chỉ là truyền bá Tin Mừng, quy tụ dân Chúa, thông báo ý Chúa trong những hoàn cảnh cụ thể, mà còn là hiến tế chính mình trong cuộc đời. Hiến tế bằng tình yêu và hi sinh. Cho dù một cách nào đó, người môn đệ Chúa sẽ phải chịu đóng đinh vào thánh giá, phải chịu cho trái tim mình bị đâm, để những giọt máu và nước sau cùng trong đó cũng đành đổ ra hết...” (ĐGM GB Bùi Tuần, Tĩnh tâm LM Gp LX tháng 6-2002).
Nhìn vào một giáo xứ, có thể nhận ra ảnh hưởng của mục tử lớn lao như thế nào. LM xây nhà thờ kiên cố thì giáo dân được yên lòng. LM quan tâm đến người nghèo, bất hạnh thì cộng đoàn bớt đi nhiều cảnh khổ. LM để mắt tới những người khô khan, nguội lạnh, những đôi vợ chồng rối, thì giáo xứ giảm bớt được gương xấu. LM sống nghèo khó, khiêm tốn thì giáo dân có gương sáng sống động để dõi theo vv. Và trên hết, như một thánh nhân đã nói: “LM thánh thiện thì giáo dân bình thường, LM bình thường thì giáo dân tầm thường, LM tầm thường thì giáo dân khô khan nguội lạnh”.
Bao lâu LM chưa là tấm-bánh-được-bẻ-ra cho người tín hữu “ăn” thì bấy lâu cộng đoàn vẫn còn phải chịu đựng sự đói, sự khát, sự nghèo về tâm linh, về sự sống, về gương sáng chứng tá Tin Mừng Đức Ki-tô Phục Sinh.
LINH MỤC: TẤM BÁNH BẺ RA VÌ SỰ HIỆP NHẤT YÊU THƯƠNG TRONG CỘNG ĐOÀN.
Một trong những điều căn cốt nhất mà Đức Giê-su đã trăng trối cho các môn đệ trước khi ngài chịu chết, đó là yêu thương và nên một với nhau. LM khi được sai đến cộng đoàn cũng đem mệnh lệnh ấy chia sẻ với tất cả những ai ngài có bổn phận chăm sóc. Và trên hết, LM sẽ làm gương về thực thi lòng mến và sự hiệp nhất trong cộng đoàn.
Khi rao giảng và sống điều ấy, LM phải chịu đựng nhiều phiền toái, nhiều khổ đau và nhức nhối. Với nỗ lực quyết tâm thực hiện vấn đề hiệp nhất, yêu thương trong cộng đoàn, chắc hẳn LM sẽ bị giằng co, sẽ gặp vô vàn khó khăn, kể cả bị hiểu lầm và chống đối vv. Vì xét cho cùng thân phận LM (coi xứ) là làm “dâu trăm họ”. Lại nữa, cộng đoàn không phải là một tập thể thống nhất toàn bộ, nhưng là tập hợp đủ mọi thành phần xã hội, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp, mọi khuynh hướng. Vì thế, khi thi hành mục vụ, LM phải bám vào Chúa, sống đời sống nội tâm sâu xa và chuyên cần cầu nguyện. Nhờ đó ngài giữ mãi lửa nhiệt tình phụng sự nhà Chúa.
Trong bài tựa “LM, người là ai?”, một vị GM đã đưa ra một số gợi ý cho các LM tự vấn, như sau:
. “Trong đời sống mục vụ, trong giáo xứ, trong môi trường đào tạo, chúng ta có cư xử đầy tình bác ái và xây dựng với những cộng sự viên của chúng ta không?
. “Chúng ta có để cho các linh mục đồng nghiệp, cho những ông câu, ông biện, những người trong ban hành giáo có sáng kiến không? Chúng ta có tôn trọng những đề nghị của họ không?
. “Chúng ta có lắng nghe trong đối thoại chân thành và quyết định cách khách quan không? Hay chúng ta biến họ thành những dụng cụ sai vặt như những người đầy tớ phải tuyệt đối vâng lời ông chủ? Chúng ta có bóp chết mọi sáng kiến của họ, chỉ đề cao cá nhân của mình một cách chủ quan, chỉ cho mình là trung tâm tuyệt đối bất khả ngộ?
. “Chúng ta có tìm mọi cách biết rõ con chiên của mình để tận tình giúp đỡ hay là dửng dưng sống chết mặc bay?
. “Trong đời sống xã hội, với người lương cũng như giáo, chúng ta có ngay thẳng trong lời nói, trong phong cách, trong lối đối xử, cách ăn uống, nhất nhất phải ý tứ cẩn thận, vì qua đời sống của linh mục, người ta phải nhận ra dáng dấp của Chúa Giêsu Cứu Thế?
“Những tiêu chuẩn được đưa ra cho các linh mục xưa nay là: Thánh thiện, nhiệt thành, trở nên muối đất đèn đời, hoàn toàn quên mình trong sứ vụ, bất chấp khó khăn, hoạt động hăng say dưới nhiều hình thức khác nhau để mở mang Nước Chúa, nêu gương nhân đức, chăm lo cho con chiên cả tinh thần lẫn vật chất. Muốn đạt được những tiêu chuẩn ấy, linh mục cần phải tự huấn luyện mình quảng đại, nhiệt thành, nội tâm sâu sắc, sống giản dị, phục vụ tận tình, sẵn sàng đối thoại không định kiến...” (ĐGM Phêrô Nguyễn Soạn, VietCatholic News, 28-02-2005 * http://www.conggiaovietnam.net).
Thực tế, mọi người đều nhận ra rằng, để giáo dân hiệp nhất với nhau thì LM phải hiệp nhất với nhau (cha chính, cha phó) và với giáo dân. Để cộng đoàn yêu thương nhau, thì các LM cũng phải yêu kính nhau. LM sẽ là một nhịp cầu nối kết mọi người, thay vì là một lực vô hình đẩy xa người này khỏi người kia. Nạn bè phái, cục bộ, phân hóa hiện nay trong nhiều giáo xứ là khá phổ biến. Vì thế LM sẽ phải “cảnh giác” cao độ để khỏi rơi vào nhiều tình huống khó xử.
LM, tấm bánh được bẻ ra vì sự tồn tại vững bền và sự phát triển lâu dài mối dây hiệp nhất và yêu thương trong cộng đoàn. Đẹp thay!
LINH MỤC: TẤM BÁNH BẺ RA VÌ NHU CẦU TRUYỀN GIÁO TỪ CỘNG ĐOÀN, CHO CỘNG ĐOÀN.
Không vị mục tử nào mà không nuôi trong lòng nỗi băn khoăn thao thức về vấn đề truyền giáo. Đó là mối ưu tư hàng đầu của các ngài. Bởi bản chất của Hội thánh thừa sai của Chúa Ki-tô là truyền giáo. Giáo xứ, do đó, cũng là một cộng đoàn thừa sai, truyền giáo. Ngày nay, người ta hiểu truyền giáo trước hết là, truyền giáo tại chỗ, là tái truyền giáo cho mọi Ki-tô hữu, trước khi truyền giáo ra bên ngoài. Do đó, hơn ai hết, LM sẽ luôn coi việc truyền giáo là nhiệm vụ chuyên biệt và cấp bách của mình.
Thực vậy, truyền giáo là “Việc mà chính Chúa Giêsu đã truyền dạy, việc mà CĐ Vat II đã khẳng định, việc mà ĐGH Gioan Phaolô II đang hối thúc. Người tín hữu nào cũng có bổn phận truyền giáo. Riêng đối với giáo sĩ, truyền giáo là một nhiệm vụ chuyên trách, nó nằm trong bản chất chức vụ LM” (ĐGM GB Bùi Tuần, chủ đề “Truyền giáo”, tĩnh tâm LM Gp LX 1990).
Bên cạnh đó, giáo huấn của Hội thánh cũng đã chỉ rõ, “Hội thánh không ngừng nhắc nhở con cái mình tập trung mọi nỗ lực vào việc truyền giáo, đồng thời phải thích ứng để có thể đem Tin Mừng cho nhân loại trong thời đại này” (Evangelii Nuntiandi; Redemptoris Missio – Nguồn: thư mục vụ HĐGMVN 2003, số 5).
Một khi công việc truyền giáo thuộc về bản chất của LM, thì chính ngài sẽ phải “đổ mồ hôi, sôi nước mắt” để thực thi công việc ấy một cách chu toàn. Công việc thì quan trọng, cấp thiết nhưng không phải dễ dàng thực hiện.
Công việc bắt đầu từ trong cộng đoàn. Giáo xứ hằng năm tổ chức biết bao lễ lạc, biết bao buổi liên hoan, biết bao sinh hoạt đạo đức (ngoài Phụng vụ), biết bao quy tụ này nọ vv. nhưng vấn đề học hỏi Lời Chúa, học Giáo lý đã được quan tâm thế nào? tác động và ảnh hưởng đến bao nhiêu phần trăm tín hữu? Mấy gia đình có cuốn Kinh thánh trong nhà và có bao nhiêu người, bao nhiêu gia đình đọc Kinh thánh thường xuyên? Giáo xứ và cha xứ đã quan tâm giải quyết thế nào về trường hợp những cá nhân, gia đình sống khô khan, xa Chúa, xa cộng đoàn, xa nhà thờ, về những “ca” rối rắm, về những con người nghèo khổ bất hạnh, về những thành phần “bất hợp tác” trong cộng đoàn vv. Chỉ một thoáng thôi cũng thấy biết bao vấn đề cần quan tâm và biết bao việc cần giải quyết theo sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần. Hơn ai hết LM sẽ người khởi xướng và tác động để mọi giáo dân cùng tham gia công việc truyền giáo tại chỗ này...
Và công việc cũng bắt đầu hướng ra bên ngoài. Công đồng Vat II đã chỉ rõ: “Nhiệm vụ cao cả của mọi giáo dân là làm cho ý định cứu độ của Thiên Chúa ngày càng lan rộng tới tất cả mọi người ở mọi nơi và mọi thời đại. Vì thế, khắp nơi phải mở đường cho họ tích cực tham gia vào công cuộc cứu độ của Giáo Hội, tùy sức lực họ và tùy nhu cầu của thời đại” (LG 33).
Trong phạm vi và hoàn cảnh cụ thể của giáo xứ, LM sẽ là người chia sẻ nỗi thao thức truyền giáo cho giáo dân và mở đường để họ tham gia với tất cả tâm huyết, sức lực của mình. Truyền giáo như thế là nhiệm vụ mà tất cả mọi người đều được mời gọi ý thức và tham gia.
Trong bài chia sẻ có tựa đề “Tâm tình với các tân LM”, cha Nguyễn Hồng Giáo, dòng Phanxicô đã nêu vấn đề sau:
“...Luôn luôn nuôi dưỡng sống động tinh thần truyền giáo: Chia sẻ cuối cùng của tôi dựa trên mấy lời đầy bức xúc của ĐGM Giáo phận Kontum, vào cuối lễ truyền chức hôm 9-12-2006 tại tu viện Phanxicô Thủ Đức. Ngài nói chúng ta phải đổi cách nhìn về Giáo Hội. Cái nhìn nào mà phải thay đổi? Đó là cái nhìn quen thuộc và phổ biến hướng vào nội bộ Giáo Hội thay vì hướng mở ra bên ngoài tới thế giới bao quanh, tới những môi trường, những con người còn xa lạ với Chúa để tìm cách đem Tin Mừng đến cho họ. Cái nhìn hướng nội không phải là sai nhưng phiến diện và có nguy cơ làm cho người ta mãn nguyện về những thành tích đã đạt được.
“Ngài nói nếu thay đổi cách nhìn, chúng ta sẽ thấy mọi sự không phải là tốt đẹp cả đâu và Giáo Hội còn nhiều vấn đề, nhiều thách thức. Chẳng hạn, có bao nhiêu người lớn nhập đạo hằng năm không phải vì lý do lập gia đình nhưng nhờ gương sáng đời sống hoặc nhờ lời rao giảng của người Kitô hữu? Ít lắm! Đời sống đạo mà chúng ta đang rất hãnh diện có tác động tích cực nào ra bên ngoài ranh giới của các giáo xứ, các đoàn thể Công giáo và hay các dòng tu? Cũng ít lắm! Ngài nói, giữa đời sống văn minh giàu có của Sài Gòn và đời sống dân chúng ở vùng cao nguyên của ngài là một vực thẳm cách biệt. Ngài lo lắng với đà phát triển vật chất đang diễn ra, liệu sẽ còn mấy ai sằn sàng đáp lại ơn gọi tu sĩ và linh mục? E rằng chỉ còn mấy người “quê mùa” và nghèo khó mà thôi.
“Mấy lời tâm huyết của ĐGM giáo phận Kontum nhắc nhở chúng ta phải có thao thức truyền giáo, phải luôn luôn nuôi dưỡng ý thức loan báo Tin Mừng trong mọi công việc chúng ta làm và môi trường chúng ta sống, và trước tiên trong lối sống của chúng ta. Chính nhờ thao thức và ý thức đó mà chất lượng Phúc Âm của đời sống chúng ta sẽ được nâng cao, đối lại với sự trì kéo của tinh thần thế tục, óc hưởng thụ, sự mệt mỏi và thói quen...”./.
Trong thư Ro-ma, thánh Phao-lô đã nói về lương tâm và giải thích như sau: “Dân ngoại là những Đề tài 25
Trong thư Ro-ma, thánh Phao-lô đã nói về lương tâm và giải thích như sau: “Dân ngoại là những người không có Luật Mô-sê; nhưng mỗi khi họ theo lẽ tự nhiên mà làm những gì luật dạy, thì họ là luật cho chính mình, mặc dầu họ không có Luật Mô-sê. Họ cho thấy là điều gì luật đòi hỏi, thì đã được ghi khắc trong lòng họ. Lương tâm họ cũng chứng thực điều đó, vì họ tự phán đoán trong lòng, khi thì cho mình là trái, khi thì cho mình là phải” (Rm 2, 14-16).
Thực vậy, con người ai cũng có lương tâm vì “Lương tâm hiện diện trong sâu thẳm lòng người, chỉ bảo cho con người vào đúng lúc phải làm lành hay lánh dữ, chuẩn y những chọn lựa tốt và phản đối những chọn lựa xấu. Nhờ phán đoán của lương tâm, con người cảm thấy và nhận biết những quy định của Lề luật thần linh” (GLTK, bài “Lương Tâm”, nguồn tgpsaigon.net).
Công đồng Vat. II cũng khẳng định về vấn đề lương tâm, như sau: “Con người khám phá ra tận đáy lương tâm một lề luật mà chính con người không đặt ra cho mình, nhưng vẫn phải tuân theo. Tiếng nói của lương tâm luôn luôn kêu gọi con người phải yêu mến và thi hành điều thiện cũng như tránh điều ác. Tiếng nói ấy âm vang đúng lúc trong tâm hồn của chính con người... Quả thật, con người có một lề luật được Thiên Chúa khắc ghi trong tâm hồn. Tuân theo lề luật ấy chính là phẩm giá của con người... lương tâm là tâm điểm sâu lắng nhất và là cung thánh của con người; nơi đây con người hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Người vang dội trong thâm tâm họ” (HC Vui Mừng và Hi Vọng / GS số 16 – x. GLHTCG số 1776).
Đức Hồng y Newman trong thư gởi quận công Norfolk cũng đã nói về sự cao trọng của lương tâm, như sau: “Lương tâm là một lề luật của tinh thần con người, nhưng vượt trên con người. Lương tâm ra lệnh, nêu lên trách nhiệm và bổn phận, điều chúng ta phải sợ và điều có thể hy vọng....Lương tâm là sứ giả của Ðấng nói với chúng ta sau một bức màn, dạy dỗ và hướng dẫn chúng ta, trong thế giới tự nhiên cũng như trong thế giới ân sủng. Lương tâm là vị đại diện thứ nhất trong các đại diện của Ðức Kitô” (x. GLHTCG số 1778).
* VAI TRÒ CỦA LƯƠNG TÂM TRONG ĐỜI SỐNG KI-TÔ HỮU
Lương tâm có một chỗ đứng quan trọng trong đời sống đức tin Ki-tô hữu. Bởi đó là tâm điểm sâu lắng nhất và là cung thánh của con người; nơi đây con người hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Người vang dội trong thâm tâm họ (Vat II, GS số 16). Thiên Chúa đã dùng lương tâm để nói với chúng ta với tư cách là một sứ giả vĩ đại, một vị quan tòa công minh và một thầy dạy khôn ngoan.
. Sứ giả của Đấng vô hình
Vì là sứ giả của Thiên Chúa, nên tiếng nói của lương tâm luôn hướng chúng ta về Chân – Thiện – Mỹ. Thực vậy, “Lương tâm chứng nhận thế giá của chân lý bằng cách quy chiếu về Thiên Chúa là sự thiện tối thượng, Đấng thu hút và ban mệnh lệnh cho con người. Khi nghe theo tiếng lương tâm, người khôn ngoan có thể cảm nhận được Thiên Chúa đang nói với mình” (GLHTCG số 1777). Công đồng Vat. II cũng khẳng định: “Tiếng nói của lương tâm luôn luôn kêu gọi con người phải yêu mến và thi hành điều thiện cũng như tránh điều ác. Tiếng nói ấy âm vang đúng lúc trong tâm hồn của chính con người...” (GS 16).
. Quan tòa phán xét công bình
Khi chúng ta làm một điều gì đó thuộc về sự xấu, sự ác, sự tội thì trong thâm tâm chúng ta cảm thấy áy náy và bất an. Đó là biểu hiện lương tâm chúng ta đang bị cắn rứt. Đó chính là lúc lương tâm lên tiếng như một vị quan tòa đang xét xử. Thực vậy, “Lương tâm là một phán quyết của lý trí; nhờ đó, con người nhận biết một hành vi cụ thể mình định làm, đang làm hay đã làm, là tốt hay xấu. Trong lời nói và hành động, con người phải trung thành tuân theo điều mình biết là chính đáng và ngay lành. Nhờ phán quyết của lương tâm, con người ý thức và nhận ra những quy định của luật Thiên Chúa” (GLHTCG số 1778).
Vì lương tâm là lề luật của tinh thần của con người, nhưng vượt trên con người nên tiếng nói của nó có uy lực. Trước khi phán đoán, hành động hay ứng xử điều gì trong bất kỳ hoàn cảnh nào, con người phải nghe theo phán quyết của lương tâm. Những phán quyết ấy có những tiêu chuẩn riêng căn cứ theo những lề luật mà Thiên Chúa đặt để trong nội tâm con người.
Thực vậy, “Lề luật đó, chính là lương tâm được Chúa khắc ghi trong tâm hồn, được biểu lộ cách kỳ diệu, được thực hiện trong sự yêu Chúa và yêu người. Phẩm giá của con người hệ tại việc tuân theo lề luật của lương tâm. Con người sẽ bị xét xử theo lề luật của lương tâm mình” (Linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang, bài “Vấn đề Giáo dục Lương Tâm”, nguồn conggiao.info).
. Thầy dạy khôn ngoan và đáng tin cậy
Lương tâm cũng có vai trò như một thầy dạy khôn ngoan và đáng tin cậy. Mỗi khi chúng ta áy náy băn khoăn do dự, chúng ta hãy tự hỏi lương tâm và lắng nghe câu trả lời. Lương tâm sẽ hướng dẫn chúng ta là điều lành điều ngay và tránh điều dữ điều xấu. Thực vậy, “Mỗi người phải quay về với nội tâm, để có thể nghe được tiếng lương tâm. Ngày nay, việc quay về với nội tâm càng cần thiết hơn bao giờ hết, vì nếp sống hiện đại thường làm cho chúng ta trốn tránh suy nghĩ, kiểm điểm hay phản tỉnh: ’Anh em hãy quay về tự vấn lương tâm....Hãy quay về với nội tâm. Trong mọi sự anh em làm, hãy nhìn lên Thiên Chúa, Người chứng giám cho anh em’ (Thánh Augustinô, thư Gioan 8, 9)” (GLHTCG số 1779).
Vai trò hướng dẫn, chỉ dạy của lương tâm luôn rõ ràng. Gíáo lý HTCG đã nêu rõ: “Trong lời nói và hành động, con người phải trung thành tuân theo điều mình biết là chính đáng và ngay lành. Nhờ phán quyết của lương tâm, con người ý thức và nhận ra những quy định của luật Thiên Chúa” (Số 1778).
* VẤN ĐỀ GIÁO DỤC RÈN LUYỆN LƯƠNG TÂM KI-TÔ HỮU
Tuy nhiên, chúng ta biết rằng không phải lúc nào phán đoán của lương tâm cũng đúng, cũng phải, cũng đáng tin cậy. Thậm chí có nhiều trường hợp lương tâm chúng ta trở nên chai lì và lệch lạc...khiến chúng ta có thể mắc sai lầm trong phán đoán một cách dễ dàng. Thực vậy, lương tâm có thể sai lạc, “Lương tâm vốn là tiếng nói tốt lành song có thể trở thành sai lạc do hoàn cảnh tác động, hoặc do lười biếng trau dồi khiến lương tâm thiếu hiểu biết, và nhất là do quá quen phạm tội nên lương tâm đã trở thành chai lì không nhận biết điều tốt lành. Mỗi người phải quay về nội tâm để kiểm điểm nếp sống hiện tại của mình sao cho phù hợp với đường lối của Thiên Chúa” (Bài GL “Lương tâm và tội lỗi”, nguồn simonhoadalat.com).
Vậy xét thực tế, lương tâm có thể phán đoán đúng hoặc phán đoán sai: “Khi phải đứng trước một chọn lựa, lương tâm có thể phán đoán đúng, hợp theo lý trí và luật Thiên Chúa, hoặc ngược lại, phán đoán sai” (GLHTCG số 1786). Và đây là những yếu tố làm lệch lạc phán đoán của lương tâm chúng ta, đó là: “Những lệch lạc trong phán đoán luân lý có thể xuất phát từ: a- Thiếu hiểu biết về Ðức Ki-tô và Tin Mừng; b- Gương xấu của người khác; c- Nô lệ các đam mê; d- Nghĩ sai lạc về tự do lương tâm; e- Khước từ quyền bính và giáo huấn của Hội Thánh; g- Thiếu hoán cải và bác ái” (GLHTCG số 1792).
Do việc lương tâm của ta có thể sai lầm và phán đoán chủ quan của ta có thể sai lạc, nên Hội thánh luôn nhắc nhở chúng ta phải quan tâm đến việc rèn luyện và giáo dục lương tâm.
Giáo lý HTCG dạy: “Lương tâm phải được rèn luyện và phán đoán luân lý phải được soi sáng. Một lương tâm rèn luyện tốt sẽ phán đoán ngay thẳng và chân thật. Lương tâm này sẽ đưa ra những phán quyết theo lý trí, phù hợp với điều kiện đích thực như Đấng Sáng tạo đầy khôn ngoan muốn. Việc giáo dục lương tâm rất cần thiết cho những người chịu ảnh hưởng các ảnh hưởng tiêu cực và bị tội lỗi cám dỗ làm theo ý riêng và bỏ những giáo huấn chính thực” (Số 1783).
Thư Chung năm 2010 của HĐGMVN số 38 cũng nêu rõ, “Cách đặc biệt, Giáo Hội xác tín rằng việc giáo dục lương tâm cho mọi người là hết sức cần thiết. Theo đề nghị của Đại Hội Dân Chúa, ‘các giáo xứ cần quan tâm đến nền giáo dục đại chúng về lương tâm, những giá trị nhân bản và văn hóa đối thoại, dưới ánh sáng Lời Chúa’. Với lương tâm ngay chính, họ thoát khỏi chủ nghĩa tương đối về luân lý và sống đúng ơn gọi làm người của mình, giúp họ sống đạo cách ý thức và trưởng thành hơn. Ngoài ra, quyết định sống tốt một cách can đảm sẽ là một thông điệp mời gọi người khác cũng quyết định sống tốt”.
Trong việc rèn luyện lương tâm của người Ki-tô hữu, không thể không nhắc đến vai trò của Đức tin và Lời Chúa.
Đối với tác động của đức tin: Lương tâm sẽ được đức tin chân chính soi sáng, như thánh Phao-lô đã khẳng định: “Lương tâm tốt lành và trong sáng của người tín hữu còn được đức tin chân chính soi sáng, vì đức ái xuất phát đồng thời từ ‘một tâm hồn trong sạch, một lương tâm ngay thẳng và một đức tin chân chính’ “ (1 Tm 1, 5) (GLHTCG số 1794). Như vậy đức tin là ánh sáng, là đèn soi cho lương tâm đi đúng đường lối mà Chúa đã dạy. Chính đức tin vừa soi đường dẫn lối cho lương tâm theo đường ngay nẻo chính, mà còn là một sức mạnh nâng đỡ cho chúng ta vượt thắng những cám dỗ làm theo ý riêng và bỏ những giáo huấn chính thức...
Về Lời Chúa đối với lương tâm, Hội thánh dạy: “Lời Chúa là ánh sáng chỉ đường để rèn luyện lương tâm” (GLHTCG số 1785). Mọi tín hữu phải luôn kiểm điểm lương tâm dưới ánh sáng của Lời Chúa: “Chúng ta phải lãnh hội Lời Chúa trong đức tin, trong kinh nguyện và đem ra thực hiện; phải kiểm điểm lương tâm dưới ánh sáng Thập Giá Ðức Ki-tô; nhờ ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp, có các chứng từ và lời khuyên nhủ của anh em giúp đỡ, được giáo huấn chính thức của Hội Thánh hướng dẫn (Dignitatis Humanae, 14)” (GLHTCG số 1785).
Hội thánh đã dựa vào Lời Chúa để đưa ra 3 nguyên tắc chung cho mọi trường hợp lương tâm phải đứng trước một sự chọn lựa nào đó (x. GLHTCG số 1789):
- Nguyên tắc thứ nhất: Chúng ta không bao giờ được phép làm điều xấu để đạt được một kết quả tốt.
- Nguyên tắc thứ hai: “Khuôn vàng thước ngọc”: Điều gì chúng ta muốn người khác làm cho chúng ta, chúng ta hãy làm điều đó cho họ. "Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta" (Mt 7, 12; x. Lc 6, 31; Tb 4, 15).
Nguyên tắc thứ ba: Đức ái Ki-tô giáo luôn luôn đòi chúng ta tôn trọng tha nhân và lương tâm của họ. "Phạm đến anh em và làm thương tổn lương tâm của họ... là phạm đến Ðức Kitô" (1Cr 8, 12); "Tốt nhất là tránh những gì gây cớ cho anh em mình vấp ngã" (Rm 14, 21).
Trong bài “Vấn đề giáo dục lương tâm” (nguồn conggiao.info ngày 7-4-2012), linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang đã đưa ra một số góp ý liên quan việc cần phải giáo dục lương tâm cho mọi người nói chung và việc phải giáo dục lương tâm Kitô giáo cho người Công Giáo nói riêng, chẳng hạn:
- Hiện nay, giáo dục lương tâm là điều khó vì ảnh hưởng của vô thần, duy vật, tục hoá, phủ nhận truyền thống tốt đẹp, tương đối hoá mọi điều, tương đối hoá chân lý, suy nghĩ hời hợt, chạy theo số đông;
- Phải tái giáo dục lại lương tâm: làm sao đem lại cho mọi người sự yêu chuộng chân lý khách quan, làm sao cho mọi người bảo vệ quyền tự do lựa chọn chính đáng chống lại sự lôi cuốn của số đông, chống lại sự thu hút của quảng cáo, làm sao cho mọi người biết nuôi dưỡng sự say mê vẻ đẹp luân lý và sự trong sáng của lương tâm;
- Để đào tạo, nuôi dưỡng và làm tăng trưởng lương tâm Kitô hữu, sự dạy dỗ các chân lý đức tin ngay từ khi nhỏ cho các em thiếu nhi, tuy cần thiết, nhưng vẫn chưa đủ, vì sự giáo dục lương tâm Kitô hữu, nếu chỉ dừng lại trong giai đoạn ấu thơ và thiếu niên, thì rất dễ tiêu tan sau này. Công việc giáo dục này phải được kéo dài suốt cả cuộc đời của con người bởi vì trong giai đoạn tuổi trẻ, các thanh niên nam nữ cần phải được giáo dục rất nhiều về những giá trị của sự sống, của tình yêu, của hôn nhân, của gia đình, của xã hội và sự giáo dục cần phải được thường xuyên và thích nghi vì những vấn đề mới luôn được đặt ra trên nhiều phương diện, nhiều khía cạnh ./.
Họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương …. Lời Chúa trong Tân Ước nhắc lại ơn gọi hôn Đề tài 26
“Họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt” (Mt 19,6). Lời Chúa trong Tân Ước nhắc lại ơn gọi hôn nhân đã được khẳng định rõ trong Cựu Ước, “Người ta sẽ lìa bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt” (St 2,24).
Đức thánh GH Gio-an Phao-lô II, trong Tông Huấn về “Những bổn phận của gia đình Ki-tô hữu” cũng đã viết: “Nhờ tính cách bí tích của hôn nhân, đôi bạn được liên kết với nhau một cách chặt chẽ không thể tháo gỡ được. Khi người này thuộc về người kia, họ thực sự biểu lộ tương quan giữa Đức Ki-tô với Hội thánh của Ngài, qua dấu chỉ bí tích...” (x. sđd số 13, Roma 2002).
Bên cạnh đó, HĐGMVN trong thư Mục vụ năm 2002 về “Thánh hóa gia đình” cũng đã chỉ rõ hơn, “Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Ki-tô giáo là hình ảnh sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa: yêu nhau và nên một với nhau mà vẫn hoàn toàn tôn trọng sự khác biệt giữa các ngôi vị” (x. số 6).
Vậy có thể nói, sự kết hợp nên một (nam-nữ) trong hôn nhân Ki-tô giáo vừa đặt trên nền tảng đòi hỏi của hôn nhân tự nhiên, mà hơn thế nữa, còn định hướng theo lý tưởng “nên một” được mô phỏng đặc tính của giao ước trong lịch sử cứu rỗi. Đó là giao ước giữa Thiên Chúa với con người, và giao ước giữa Chúa Ki-tô và Hội thánh của Ngài. Hôn ước Ki-tô hữu đã được “bí tích hóa”, được đóng ấn vĩnh viễn khi hai người tự do yêu thương và tự nguyện kết hôn với nhau. Không áp lực, không ràng buộc, không giả dối. Cuộc hôn nhân ấy đặt trên nền tảng một tình yêu song phương, tự do, chân thành và trung tín. Yêu như Thiên Chúa yêu con người và như Chúa Ki-tô yêu Hội thánh, là hiền thê Ngài.
Tuy nhiên, trên thực tế để đạt đến lý tưởng “nên một” ấy, không phải là chuyện đơn giản dễ dàng. Ngay cả những cặp vợ chồng Công giáo, đã sống đời hôn nhân lâu dài cũng phải chiến đấu không ngừng, nhằm tránh sự rạn nứt và đổ vỡ vì lí do “không thể hòa hợp nên một với nhau được”. Không ít trường hợp, các đôi vợ chồng vì những mâu thuẫn bất hòa kéo dài đã phải ra tòa xin ly hôn, hay chí ít cũng chấp nhận ly thân, để “thoát nợ”. Và chúng ta đều biết rằng, sau cuộc ly hôn, là tiếp nối bi kịch gia đình: vợ chồng chia tay, con cái chia lìa, gia đình chia cắt...
Theo số liệu từ Viện Nghiên cứu gia đình và giới, “cả nước trung bình có trên 60.000 vụ ly hôn/năm, tỉ lệ 30%, tức là cứ 10 cặp vợ chồng kết hôn thì có 3 cặp ly hôn. Xu hướng này tiếp tục tăng ở cả thành phố và nông thôn. Điều đáng nói, 70% số vụ ly hôn thuộc về các gia đình trẻ, Vợ hoặc chồng trong độ tuổi từ 18-30; trong đó có 60% ly hôn sau khi kết hôn từ 1-5 năm, nhiều trường hợp chỉ mới cưới nhau được vài tháng... Nghiên cứu cho thấy, mâu thuẫn về lối sống là nguyên nhân hàng đầu (27,7%) dẫn đến ly hôn. Các yếu tố tiếp theo là ngoại tình (25,9%), kinh tế (13%), bạo lực gia đình (6,7%), sức khỏe (2,2%), xa nhau lâu ngày là 1,3%” (Nguồn: baodansinh.vn ngày 5-8-2018).
Một nguồn thông tin khác cũng cho biết: “...Năm 2010 có 88.000 vụ ly hôn ở nước ta, cao 30% so năm 2009. Trong số đó, số đơn do phụ nữ đòi ly hôn cao hơn nhiều so nam giới...Tỷ lệ ly hôn có xu hướng tăng cao. Ngày nay nhận thức về hôn nhân và gia đình còn kém nên mỗi khi bất đồng quan điểm, ''ly hôn'' là câu cửa miệng mà giới trẻ hay lấy ra để dọa bỏ nhau. Những giá trị về gia đình gần như giới trẻ không thể cảm nhận hết được. Đa phần khi ly hôn, họ đều có con cái, tỷ lệ ly hôn càng cao thì trẻ bị thiệt thòi càng nhiều, vì còn cha nhưng mất đi sự chăm lo của mẹ. Tỷ lệ trẻ vị thành niên phạm pháp ngày càng tăng cao nguyên nhân từ sự đổ vỡ gia đình. Nguyên nhân ly hôn đến từ nhiều phía nhưng đa phần khi ra tòa nguyên nhân các cặp vợ chồng đưa ra là không hòa hợp, không thể chung sống với nhau hoặc đã có thời gian dài sống ly thân. Tuy cùng sống, cùng sinh hoạt trong ngôi nhà nhưng đều là nghĩa vụ và để con cái lớn hơn để có thể chấp nhận sự đổ vỡ gia đình...” (x. “Vì sao giới trẻ hiện nay hay chọn giải pháp ly hôn?”, nguồn Internet 7-7-2011).
Đó là một thực trạng bi đát rất đáng báo động. Riêng những cặp vợ chồng Ki-tô hữu, mặc dù đã công khai cử hành Bí tích Hôn phối nhưng cũng dễ dàng đi đến quyết định bỏ nhau một khi họ không thể hòa hợp để chung sống hạnh phúc với nhau lâu dài. Vậy đâu là những lý lẽ chính đáng nhằm giúp đôi bạn luôn sống hiệp nhất, giữ mãi tình yêu với nhau trong viễn ảnh một cuộc hôn nhân luôn có nguy cơ rạn nứt, đổ vỡ?
Theo ý kiến chung của các chuyên gia và những người có kinh nghiệm về hôn nhân gia đình, ta có thể liệt kê mấy lý lẽ sau đây:
1.- Nên một nhờ biết tôn trọng sự khác biệt của nhau.
Trước khi bước vào đời sống hôn nhân gia đình, một trong những chuẩn bị cần thiết và quan trọng đầu tiên là hai bạn phải theo học lớp Giáo lý Hôn nhân. Qua đó, về kiến thức cơ bản, các bạn sẽ có dịp tìm hiểu khá kỹ về sự khác biệt nam nữ và về vấn đề tâm sinh lý vợ chồng. Có thể hình dung hôn nhân là một lâu đài bí mật và đôi bạn là ẩn số của nhau. Muốn biết hôn nhân chứa đựng gì, đòi hỏi ra sao, khó khăn thế nào...thì chúng ta phải học hỏi, tìm hiểu trước để tránh bỡ ngỡ, sai lầm, vấp váp. Chúng ta sẽ biết rằng người chồng thuộc nam giới, có những đặc điểm tâm sinh lý hoàn toàn khác với người vợ thuộc nữ giới. Ngày nay người ta thường nói “Bí mật Adam” hay “Bí mật Eva” là như thế. Sự khác biệt ấy quá rõ như chân lý “một với một là hai” vậy.
Một vài dẫn chứng để tham khảo:
. Nam giới mạnh mẽ, thiên về sức lực trong khi nữ giới mềm yếu, thiên về cảm xúc. Trái tim của nam có bốn “ngăn”, trong khi trái tim của nữ chỉ có một “ngăn”. Nam giới có khuynh hướng hướng ngoại, trong khi nữ giới thường hướng nội. Nam nhìn vấn đề cách tổng quát, trong khi nữ quan tâm nhiều đến tiểu tiết...
. Đàn ông thường lãng mạn, dễ yêu một cách chớp nhoáng hơn đàn bà, trong khi đàn bà lại có khuynh hướng chú tâm đến các vấn đề thực tế khi chọn người bạn đường. Đàn bà tìm những đức tính lâu bền ở một người tình. Họ dễ để cho trí óc điều khiển con tim họ hơn đàn ông rất nhiều...Đàn ông và đàn bà giải quyết vấn đề khác nhau. Đàn ông có khuynh hướng đi thẳng vào vấn đề, bày ra tất cả những giải pháp khả dĩ, lựa chọn một giải pháp rồi thi hành. Đàn bà có thể cũng trực tiếp, nhưng lại có thể tìm một con đường quanh co hơn...(x. Bùi Hữu Thư, “Hôn nhân và hạnh phúc: phái nam cần biết gì về phái nữ?”, VietCatholic News 30-6-2008).
. Phụ nữ rất thích quan sát, nhưng lại không biết suy luận từ những quan sát đó. Đàn ông thích suy luận nhưng nhiều khi lại suy luận vu vơ, chứ không bắt đầu từ quan sát. Phụ nữ cần được yêu thương chứ ít cần được hiểu, trong khi đàn ông lại muốn hiểu kỹ về họ. Tình yêu rất mong manh, phụ nữ cũng rất mong manh nhưng đàn ông lại muốn tìm sự bền vững trong đó... (Bài “Khác biệt giữa Adam và Eva”, báo GĐ).
Có muôn vàn chi tiết khác biệt giữa nam nữ, nhưng họ được ơn thiên triệu để kết hợp thành đôi-vợ-chồng, để sống với nhau suốt đời. Tình yêu là yếu tố quan trọng hàng đầu giúp cho đôi bạn chấp nhận nhau, nương tựa nhau, khích lệ nhau. Một cuộc hôn nhân hạnh phúc là cuộc hôn nhân trong đó hai người nam nữ, thay vì loại trừ nhau do khác biệt giới tính, thì lại bổ sung cho nhau. Họ chấp nhận “tương khắc” chứ không “xung khắc”. Ca dao VN có câu: “Yêu nhau vạn sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”.
Đó là ý nghĩa của việc nên-một-với-nhau mà vẫn tôn trọng sự khác biệt giữa các ngôi vị trong cộng đồng gia đình.
2.- Nên một nhờ biết hi sinh vì tình yêu.
Một trong những rào cản lớn nhất đối với sự hiệp nhất trong đời sống vợ chồng, đó là tính ích kỷ, lòng dạ hẹp hòi và sự nhát đảm. Trong cuộc sống, có thể một trong hai bạn hoặc cả hai bạn đến lúc nào đó đều ngại hy sinh. Có câu nói sau: “Hy sinh cho nhau, đã là một phần thiết yếu của hôn nhân và sẽ mãi mãi là như vậy”. Đôi bạn phải hy sinh tự do cá nhân để hòa mình vào đời sống cộng đồng gia đình. Họ phải hy sinh để cái “Tôi” của mỗi người thích nghi với cái “Chúng ta” của hai người. Họ phải hy sinh để lắng nghe hơn là phán dạy, để thực hiện hơn là nói suông, để biết chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của bạn đời hơn là sống dửng dưng, lạnh nhạt, vô cảm. Nói cách khác, đôi bạn phải tỏ ra “người này cần đến người kia”, để bổ sung cho nhau.
Theo tác giả cuốn “Cẩm nang Hạnh phúc Gia đình Ki-tô” thì chúng ta cần nhìn nhận điều này: “Sự đổ vỡ trong hôn nhân thường xảy đến khi hai người phối ngẫu không chấp nhận vai trò của nhau. Và từ đó không đạt được sự hòa hợp trong đời sống vợ chồng. Vì hòa hợp và bổ túc cho nhau, đó là nguyên tắc sống nền tảng trong đời sống hôn nhân...”. Và “Bổ túc cho nhau trên hết có nghĩa là mình có những gì mà người kia không có, điều mình có ít thì người kia lại có nhiều. Sức mạnh, vẻ đẹp, sự dịu dàng của tình yêu nằm trong sự bổ túc ấy...” (D. Wahrheit, sđd trang 258-259).
Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng đã nói, “Yêu và hy sinh là một, không hy sinh thì chưa gọi là yêu”. Tình yêu vợ chồng là một tình yêu vĩ đại, bởi họ không chỉ sống cho nhau, với nhau trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, mà là trải dài suốt cả cuộc đời. Người ta cũng nói, “Chết cho người mình yêu thì dễ hơn là sống với người ấy”. Bởi vì cuộc sống của đôi vợ chồng yêu nhau thì không bao giờ là yên nghĩ cả. Trong kinh nghiệm của con người thì “Hôn nhân là một chiến trường chứ không phải là một luống hồng” (Marriage is a battleground and not a bed of roses).
Vậy đã rõ, sự hy sinh của đôi bạn phải xuất phát từ tình yêu đích thực, dõi theo tình yêu mà Đức Ki-tô đã làm gương và dạy chúng ta sống. Và tình yêu ấy hướng tới một sự hiệp nhất kỳ diệu giữa hai cá thể, hai con người khác biệt. Bởi xét cho cùng, “Gia đình, được thiết lập do tình yêu và được sinh động cũng do tình yêu, là một cộng đồng các ngôi vị: đôi bạn là nam và nữ , cha mẹ và con cái, họ hàng. Bổn phận đầu tiên của gia đình là trung thành sống thực tại của sự hiệp thông, trong cố gắng bền bỉ nhằm thăng tiến một cộng đồng đích thực gồm các ngôi vị...Không có tình yêu, gia đình không thể sống, lớn lên và tự hoàn thiện, xét như một cộng đồng các ngôi vị...” (x. Đức thánh GH Gio-an Phao-lô II, Tông Huấn về “Những bổn phận gia đình Ki-tô hữu”, số 18).
3.- Nên một nhờ biết thực hành nghệ thuật nhượng bộ.
Trong tương quan vợ chồng, sự hòa hợp để “nên một” luôn đòi hỏi người này nhường nhịn người kia và cả hai cùng chấp nhận sự “bỏ mình” vì bạn đời. Ngày nay người ta nói nhiều đến “Nghệ thuật nhượng bộ”. Chuyện kể có một đôi vợ chồng già đã ngoài tám mươi tuổi. Con cháu đầy đàn. Trong ngày lễ kỷ niệm năm mươi năm thành hôn, con cháu tụ họp chúc thọ và chúc mừng hai cụ. Dịp vui này, các con cháu đồng thanh hỏi thăm bí quyết nào hai ông bà giữ được hạnh phúc bền vững cho đến ngày nay? Các cụ trả lời ngay, không có bí quyết nào bí mật cả, mà đơn giản đó chỉ là sự nhượng bộ nhau.
Nhượng bộ là hy sinh một phần cái gì đó của mình vì ích lợi chung và vì lợi ích của người khác. Trong một cuộc cãi vã bất phân thắng bại, sự nhượng bộ tốt nhất chính là im lặng. Người ta nói, “Phân nửa những vấn đề trong hôn nhân được giải quyết bằng cách giữ im lặng”. Trong cuộc sống chung, hằng ngày có vô vàn những điều trái ý nhau, từ những chuyện nhỏ nhất như ăn uống, sinh hoạt, giải trí, giờ giấc...đến những vấn đề lớn như việc chi tiêu trong gia đình, việc dạy dỗ con cái, việc ứng xử với cha mẹ (chồng/ vợ), với họ hàng hai bên...nếu cả hai bạn chỉ biết bảo lưu ý kiến riêng của mình thì sớm muộn cũng sẽ xảy ra mâu thuẫn, xung đột. Thực ra, không nhất thiết hai người phải “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, nhưng ít nhất họ cần bàn tính sao để cuối cùng có tiếng nói chung, vừa lòng cả đôi bên...
Thánh Phao-lô đã có lời khuyên thiết thực sau: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thông cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo...” (Cl 3,12-14).
4.- Nên một nhờ biết vượt thắng mọi khó khăn thử thách.
Người ta đã ví hôn nhân là một chiến trường, vợ chồng là chiến binh, họ phải chiến đấu không mệt mỏi. Có người đã nói, “Trận chiến dũng cảm nhất, tôi chưa từng thấy ở đâu trên bản đồ thế giới, mà tôi chỉ gặp giữa hai vợ chồng” (Joaquin Miller). Thực vậy, cuộc sống gia đình đầy những khó khăn, vất vả, cực nhọc. Khó khăn về kinh tế, vất vả trong công việc làm ăn, cực nhọc để giải quyết những vấn đề gia đình vv.
Từ thực tế khó khăn, phức tạp này, đã phát sinh biết bao hệ lụy. Có người bi quan đã nói, “Hôn nhân là một pháo đài, người ở trong muốn thoát ra, còn người ở ngoài lại muốn đi vào”. Hoặc, “Tình yêu ở xa trông lấp lánh như hạt kim cương, nhưng đến gần thì chỉ là giọt lệ”... Gánh nặng của hôn nhân không chỉ là giải quyết vấn đề “cơm, áo, gạo, tiền”, mà còn bao gồm tất cả những rắc rối phức tạp trong đời sống vợ chồng. Chẳng hạn, chuyện xung đột nảy sinh do tính tình khác biệt, do sở thích không đồng bộ, do nền giáo dục hấp thu không tương xứng, do trục trặc trong sinh hoạt tình dục vợ chồng vv. Những bất đồng này xói mòn tình yêu đôi bạn, khiến họ không thể chịu đựng nhau được nữa, lúc đó phát sinh hậu quả ly hôn ly dị.
Một thống kê cho biết tỉ lệ ly hôn ở Việt Nam chiếm 31%-40%, trong đó tuổi thọ hôn nhân bình quân của thế hệ 8x đưa nhau ra tòa dao động trong khoảng... 30 tháng (Theo TS Nguyễn Minh Hòa, ĐH. KH-XH-NV TP.HCM – TTO 01-10-2008). Ba mươi tháng đã ly hôn, nghĩa là chưa đầy ba năm cưới nhau người ta đã quyết định chia tay. Họ chia tay hẳn là có nhiều lý do, nhưng trên hết vẫn là do họ chưa được trang bị đủ hành trang để vào đời, để “đi gánh vác”, để làm vợ làm chồng, để xây dựng mái ấm gia đình. Một danh nhân đã nói, “Hãy cầu nguyện một lần trước khi ra trận, hai lần trước khi ra khơi, nhưng ba lần trước khi kết hôn”.
Đức thánh GH Gio-an Phao-lô II đã nhắc nhở chúng ta: “Mỗi gia đình đều luôn luôn được Thiên Chúa Chủ Tể của sự bình an, mời gọi sống kinh nghiệm tươi sáng phấn khởi của việc hòa giải, trong việc tái lập sự hiệp thông, tìm lại sự hiệp nhất. Cách riêng việc tham dự vào Bí tích Giao hòa và bàn tiệc Mình Thánh Chúa Ki-tô sẽ đem lại cho gia đình Ki-tô hữu ơn sủng cần thiết và tinh thần trách nhiệm tương xứng để thắng vượt tất cả mọi chia rẽ và bước tới sự hiệp thông đích thực và trọn vẹn mà Thiên Chúa muốn, và như thế là đáp lại nỗi ước mong nồng nàn của Chúa là ‘xin cho tất cả được nên một’...” (x. Tông Huấn về “Những bổn phận gia đình Ki-tô hữu”, số 21)./.
Vừa qua, Đức cha Giu-se Đinh Đức Đạo, GM giáo phận Xuân Lộc trong Lời Chủ Chăn tháng 4-2019 Đề tài 27
Vừa qua, Đức cha Giu-se Đinh Đức Đạo, GM giáo phận Xuân Lộc trong Lời Chủ Chăn tháng 4-2019, ngài đã gửi cho các linh mục, tu sĩ một lá thư chia sẻ với đề tài là: “Khủng hoảng lạm dụng tình dục và Lòng Thương Xót”. Trong phần mở đầu, Đức cha đã viết như sau:
“Hiện tượng lạm dụng tình dục trong thế giới đang xoáy vòng như một cơn lốc mà đường kính cứ từ từ nới rộng, gây ra nhiều đổ vỡ tan hoang. Đối với Giáo Hội Công Giáo, tai tiếng lạm dụng tình dục đã gây ra một cơn khủng hoảng trầm trọng, ảnh hưởng tai hại đến đời sống Đức Tin, đến tinh thần, tâm tình và thái độ sống của nhiều tín hữu, làm suy giảm sự tín nhiệm của đoàn chiên đối với các mục tử, làm lu mờ ánh sáng của Tin Mừng và làm giảm sút nhiệt huyết của Giáo Hội làm chứng cho Tin Mừng”.
Ngài cũng viết tiếp: “Để giải quyết vấn đề nghiêm trọng này, Tòa Thánh đã nhiều lần lên tiếng và đưa ra những hướng dẫn cụ thể. Đặc biệt phải kể đến lá thư mục vụ ĐTC Biển Đức XVI gửi Giáo hội tại Ái Nhĩ Lan ngày 19 tháng 3 năm 2010, lá thư ĐTC Phanxicô gửi Hội Thánh trên toàn thế giới ngày 20 tháng 8 năm 2018 và Hội nghị của các Chủ tịch Hội đồng Giám mục với Đức Thánh Cha Phanxicô từ 21 – 24 tháng 02 năm 2019”. [1]
Vậy lạm dụng tình dục (LDTD), nhất là LDTD đối với trẻ em, là một hiện tượng đã xảy ra thật sự và từ khá lâu trong Hội thánh và không chỉ xảy ra tại một vài nước nhưng là lan tràn trong nhiều quốc gia. Riêng tại VN chúng ta, dường như chưa có một thống kê rõ ràng, cụ thể, chính thức nào, nhưng thiết nghĩ đây đó chắc chắn đã và đang xảy ra hiện tượng này dưới nhiều hình thức.
* TỪ GÓC KHUẤT RA ÁNH SÁNG
Rảo qua các tin tức Công giáo trong thời gian mấy tháng qua, người ta đã không khó để có được những thông tin liên quan tới sự việc này. Xin đơn cử mấy vụ việc điển hình sau:
a- “ Cựu Hồng y McCarrick (Mỹ) bị Tòa Thánh buộc hồi tục. Bộ giáo lý đức tin đã xét xử vụ cựu Hồng y Theodore McCarrick nguyên TGM giáo phận thủ đô Washington và đã buộc vị này hồi tục. Án lệnh này đã được ĐTC Phan-xi-cô nhìn nhận là không thể kháng án.
“ Trong thông cáo công bố hôm 16-2-2019, Bộ Giáo lý Đức tin cho biết: Ngày 11-1-2019, Công nghị của Bộ Giáo lý Đức tin đã ban hành sắc lệnh chung tiến trình xét xử Theodore Edgar McCarrick, cựu TGM giáo phận Washington D.C, và tuyên bố đương sự đã phạm những tội trong tư cách là giáo sĩ: Dụ dỗ trong tòa giải tội và vi phạm điều răn thứ sáu với các trẻ vị thành viên và người lớn, những tội này càng nặng hơn vì lạm dụng quyền bính, vì thế đương sự bị hình phạt trục xuất khỏi hàng giáo sĩ.
“ Ngày 13-2-2019, phiên họp thường lệ (Ngày thứ tư) của Bộ Giáo lý Đức tin đã cứu xét những lý lẽ được trình bày trong việc kháng án và đã quyết định tái khẳng định án lệnh của Bộ. Quyết định này đã được thông tri cho Theodore McCarrick ngày 15 tháng 2 năm 2019. ĐTC Phan-xi-cô đã nhìn nhận tính chất chung kết của quyết định này, chiếu theo luật, và làm cho vụ này được coi là đã chung thẩm và không thể kháng án”. [2]
b- Một trường hợp khác, đó là tin tức về đức Hồng y George Pell (Úc), như sau:
“Hôm thứ Tư 13-3-2019, toà án Tối cao tại Melbourne, qua chánh án Peter Kidd đã tuyên án: Hồng y George Pell bị 6 năm tù vì tội ‘lạm dụng tình dục’ hai thiếu niên trong dàn hợp xướng ở nhà thờ St Patrick, khi ngài là TGM giáo phận Melbourne vào những năm 1990. Ngài sẽ bị giam trong tù ít nhất 3 năm và 8 tháng, trước khi được hưởng các quyền ân giảm khác, như tù tại gia, hoặc tha bổng phần án còn lại.
“Chánh án Peter Kidd trong phần tuyên án vào sáng 13-3-2019, đã nói rằng: ‘Ông Pell là người cao ngạo trong hành vi phạm tội của mình!’, và hình phạt tối đa cho những việc ấy là 6 năm tù giam. Hồng y George Pell mặc áo cộc tay màu xám, và không gắn cổ côn màu đen như thường lệ. Ngài giữ hai tay ra phía sau lưng, và không có phản ứng gì rõ ràng khi bản án được đưa ra. Có những tiếng kêu thảng thốt, và những giọt nước mắt tuôn rơi, của những người tham dự phiên toà, khi chứng kiến Hồng y George Pell bị dẫn đi khỏi phòng tuyên án”. [3]
c- Tại Hội nghị Bảo vệ trẻ vị thành niên được tổ chức từ ngày 22 đến ngày 24-2-2019, tại Roma với sự tham dự của 190 vị trong đó có 114 vị Hồng y, Tổng Giám mục và Giám mục là chủ tịch các Hội Đồng Giám Mục trên thế giới, ĐTC Phan-xi-cô với tư cách là vị chủ tọa, đã nhắc đến nạn lạm dụng trẻ em trong Giáo Hội như là một sự kiện kinh khủng. Ngài khẳng định rằng:
“Sự kiện tai ương lạm dụng lan tràn các nơi trên thế giới chứng tỏ tính chất trầm trọng của chúng trong các xã hội chúng ta, nhưng không giảm bớt sự kinh khủng của chúng giữa lòng Giáo Hội.
“Sự vô nhân đạo của hiện tượng này trên bình diện thế giới càng trở nên trầm trọng và gây gương mù gương xấu nhiều hơn trong Giáo Hội, vì nó đi ngược với uy tín luân lý và sự đáng tín nhiệm của Giáo Hội về mặt luân lý đạo đức. Người thánh hiến, được Thiên Chúa chọn để hướng dẫn các linh hồn đến ơn cứu độ, lại để cho mình bị đè bẹp vì tính yếu đuối xác thịt và vì bệnh tật của mình, trở thành dụng cụ của ma quỉ.
“Trong những vụ lạm dụng, chúng ta thấy có bàn tay của sự ác, không buông tha cả sự ngây thơ trong trắng của các trẻ em. Không có những giải thích đủ về những lạm dụng ấy đối với các trẻ em. Chúng ta phải cùng nhau can đảm nhìn nhận rằng chúng ta đứng trước mầu nhiệm sự ác, nó quyết liệt chống lại những người yếu thế nhất vì họ là hình ảnh của Chúa Giêsu. Chính vì thế trong Giáo Hội hiện có sự gia tăng ý thức về nghĩa vụ không những phải ngăn chặn những lạm dụng rất trầm trọng bằng những biện pháp kỷ luật, và những vụ xét xử theo luật dân sự và giáo luật, nhưng còn phải quyết liệt đương đầu với hiện tượng ấy trong và ngoài Giáo Hội. Giáo Hội cảm thấy được kêu gọi bài trừ sự ác này, nó có liên hệ tới trọng tâm sứ mạng của Hội Thánh là loan báo Tin Mừng cho những người bé nhỏ và bảo vệ họ chống lại những con chó sói háu ăn”. [4]
* NHỮNG HÌNH THỨC LẠM DỤNG TÌNH DỤC
Hành vi LDTD là quá trình trong đó một người lợi dụng vị thế của mình nhằm dụ dỗ hay cưỡng ép người khác tham gia vào hoạt động tình dục. Hành vi lạm dụng tình dục có thể thay đổi từ việc sờ mó bộ phận sinh dục, thủ dâm, tiếp xúc miệng-bộ phận sinh dục, giao hợp bằng ngón tay và cao hơn là giao hợp qua đường sinh dục hoặc hậu môn. LDTD không chỉ giới hạn vào các tiếp xúc cơ thể mà còn bao gồm cả những hành vi không tiếp xúc như khoe bộ phận sinh dục, rình xem trộm hoặc sử dụng hình ảnh khiêu dâm người khác. (Theo Wikipedia)
Riêng về vấn đề LDTD trẻ em, hay còn gọi là ấu dâm, là quá trình trong đó một người trưởng thành lợi dụng vị thế của mình nhằm dụ dỗ hay cưỡng ép trẻ em tham gia vào hoạt động tình dục. LDTD trẻ em có thể xảy ra ở bất kì nền văn hóa, chủng tộc, tôn giáo, thể chế chính trị nào.
Hành vi LDTD đối với trẻ không chỉ gây tổn thương cơ thể và những hậu quả nhất thời mà còn có thể ảnh hưởng rất lâu dài về sau này. Những hậu quả lâu dài của LDTD ở trẻ em biểu hiện từ nhẹ cho đến những rối loạn rất nặng nề không chỉ liên quan đến sức khỏe sinh sản mà còn liên quan đến khả năng học tập, khả năng hòa nhập gia đình và xã hội cũng như đối với sức khỏe tâm thần của trẻ.
Hiện nay không có một nghiên cứu thống kê nào cho biết chính xác con số LDTD ở trẻ em do không có một định nghĩa rõ ràng thống nhất về LDTD trẻ em cũng như nhiều nạn nhân không thể khai báo bởi nhiều lý do khác nhau. Tuy nhiên theo các chuyên gia thì đây là một hiện tượng không hiếm gặp và cũng là một vấn đề pháp lý-tâm lý-xã hội nghiêm trọng tại Mỹ. Một nghiên cứu cho thấy rằng 20% phụ nữ và 10% nam giới đã bị LDTD ở những mức độ khác nhau khi trước tuổi trưởng thành. Ở Việt Nam, trong ba năm gần đây (2017), trung bình mỗi năm có trên 1.000 vụ được ghi nhận, cứ 8 giờ lại có thêm một trẻ bị xâm hại tình dục. (Theo Wikipedia)
* CÁC NƯỚC PHẠT TỘI PHẠM ẤU DÂM, DÂM Ô NGHIÊM KHẮC RA SAO?
Các nước có hình phạt rất nặng đối với tội phạm LDTD trẻ em, dâm ô, ấu dâm: từ phạt hành chính với số tiền lớn, thiến hóa học, án tù hàng chục năm đến tử hình (nếu tái phạm). Những trẻ em là nạn nhân của LDTD có thể lớn lên và phát triển thông qua các mối quan hệ tốt đẹp với gia đình và bạn bè.
Theo Quỹ Nhi đồng LHQ (UNICEF), LDTD trẻ em là hành vi tình dục liên quan đến trẻ trong khi trẻ (trai hoặc gái) không có nhận thức đầy đủ, không có sự đồng thuận hoặc vi phạm luật hay các điều cấm kỵ trong xã hội. LDTD trẻ em là hành vi để thỏa mãn nhu cầu tình dục của một người khác.
Hình phạt rất nặng đối với tội LDTD trẻ em tại một số quốc gia:
Ở Mỹ, LDTD trẻ em là bất hợp pháp ở tất cả các bang cũng như trong luật liên bang. Tùy theo từng bang mà có những quy định cụ thể về khung hình phạt hình sự từ bỏ tù, nộp phạt, ghi nhận là một kẻ tấn công tình dục, giới hạn đi lại...Các án phạt dân sự có thể bao gồm bồi thường thiệt hại hoặc tước quyền nuôi con. Tại một số bang như Colorado đang đề xuất án tử cho những tội phạm tái phạm tội.
Tại Pháp, theo tạp chí The Atlantic, một người có hành vi xâm hại tình dục trẻ em dưới 15 tuổi có thể đối mặt với bản án 20 năm tù.
Tại Đan Mạch, người có hành vi tình dục với trẻ dưới 15 tuổi có thể bị bỏ tù đến 8 năm. Một số tình tiết tăng nặng cũng được xét đến như kẻ phạm tội đã lợi dụng các vấn đề về tinh thần và thể chất của nạn nhân. Nếu có yếu tố đe dọa, mức hình phạt sẽ là 12 năm tù.
Tại Hà Lan, theo điều 244, một người quan hệ tình dục với trẻ dưới 12 tuổi sẽ nhận mức phạt 12 năm tù hoặc nộp phạt với mức phạt cao nhất là 83.000 euro (93.000 USD). [5]
Trong khi các nước mạnh mẽ lên án tệ nạn LDTD và hành vi ấu dâm, thì tại VN, mới đây xảy ra hai vụ “hot” khiến dư luận bất bình và sôi sục phẫn nộ. Đó là trường hợp một người đàn ông tên H bị tố có hành vi sàm sỡ, cưỡng ép và ôm hôn nữ sinh trong thang máy ở chung cư tại Hànội, đã bị cơ quan công an xử phạt hành chính với mức phạt là 200 ngàn đồng! Vụ thứ nhất chưa nguôi thì lại xảy ra vụ thứ hai liên quan một viên chức cán bộ nhà nước đã về hưu tên L, ngoài 60 tuổi, từng là Phó Viện trưởng VKSND Đà Nẵng có hành vi sàm sỡ với bé gái trong thang máy tại một chung cư thuộc quận 4 TPHCM, đang gây xôn xao dư luận mấy ngày qua và hiện vẫn chưa nhận một hình phạt chế tài nào từ phía nhà nước VN.
Ki-tô hữu chúng ta tự hỏi, ngoài xã hội thì như vậy, còn bên trong Hội thánh thì những vụ việc đại loại thế này liệu có xảy ra không và nếu đã xảy ra thì liệu có bị “chìm” hay bị “ém” không?
* NỖI ĐAU KHÔNG CHỈ RIÊNG AI
Trong bài viết có tựa đề “Một vài suy nghĩ khi đọc thư của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi cho Dân Chúa về những tội phạm tình dục trong hàng giáo sĩ”, Đức cha Phêrô Nguyễn Khảm, GM Gp Mỹ Tho đã viết như sau:
“Thư của Đức Thánh Cha mở đầu bằng lời của Thánh Phaolô: ‘Nếu một chi thể bị đau, mọi chi thể cùng đau’ (1Cr 12,26), và lời này cũng được chọn làm tiêu đề cho hai phần chính của lá thư. Chọn lựa đó làm nổi bật tình liên đới giữa các chi thể trong cùng một Thân thể Đức Kitô là Hội Thánh.
“Đó là sự liên đới trong tình thương cảm với các nạn nhân, với nỗi đau thể lý và tinh thần mà họ phải chịu đựng trong nhiều năm qua.
“Đó là sự liên đới trong việc thực thi công lý, chứ không thể chỉ tìm cách che giấu hoặc dàn xếp bên trong cho ổn thỏa, còn kẻ thủ ác cứ tiếp tục lối sống cũ.
“Đó còn là sự liên đới trong việc ngăn ngừa những tội phạm tình dục, ngăn ngừa bằng giáo dục, bằng những quy định và bằng cả luật pháp.
“Đó cũng là sự liên đới trong việc đền bồi phạt tạ vì scandal này quá lớn trong lòng Hội Thánh: ‘Đức Kitô bị phản bội do chính các môn đệ Ngài, do việc họ rước Mình Máu Chúa cách bất xứng, chắc chắn đây là nỗi đau khổ lớn nhất mà Đấng Cứu độ phải chịu; nó đâm thấu trái tim Ngài. Từ đáy lòng, chúng ta chỉ có thể kêu lên: Kyrie eleison, Lạy Chúa, xin thương xót chúng con’./. [6]
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - - [1] Nguồn: giaophanxuanloc.net [2] G. Trần Đức Anh OP, Nguồn: Vatican News 16-2-2019 [3] Nhà báo CG Nguyễn Vy Túy, Úc – Nguồn: FB Tuy Nguyen 13-3-2019 [4] G. Trần Đức Anh OP, Nguồn: VaticanNews 25.02.2019 [5] Nguồn: Tuổi Trẻ Online 03-04-2019 [6] Nguồn: giaophanxuanloc.net
Khi kêu gọi và tuyển chọn các môn đệ tiên khởi, Đức Giê-su không căn cứ vào vấn đề lý lịch Đề tài 28
Khi kêu gọi và tuyển chọn các môn đệ tiên khởi, Đức Giê-su không căn cứ vào vấn đề lý lịch bản thân để chọn lựa họ, nhưng trái lại lí do khiến Ngài chọn họ là vì Ngài yêu thương họ, đoái nhìn họ, kêu gọi họ và chấp nhận sự tự nguyện đáp trả của họ. Trong quá trình rao giảng và xây dựng Hội thánh tại thế, Đức Giê-su thường xuyên lưu ý đến việc đào tạo các môn đệ làm sao để họ thấm nhuần giáo huấn của Ngài nhờ đó họ dần dần biến đổi trở nên môn đệ của mầu nhiệm Nước Trời.
Môn đệ được Chúa chọn không phải để làm quan chức trong thiên hạ vì Nước của Ngài không thuộc về thế gian này, nhưng những ai Ngài chọn sẽ là những kẻ lưới người như lưới cá (x. Mt 4, 18-20; Mc 1, 17-20; Ga 1, 35-50). Đó là những người thợ chuyên đi làm công việc phục vụ cho Nước Trời. Mặt khác, theo thiên ý của Chúa thì người môn đệ phải là một mục tử đích danh dõi theo gương của Ngài. Mục tử chính danh là người chăn chiên lành, bonus pastor, chứ không phải là người chăn thuê (x. Ga 10, 1-21). Mục tử không sống cho mình và chết vì mình, nhưng tất cả vì đàn chiên. Do sứ vụ đặc thù của người mục tử mà trong giáo huấn của mình, Đức Giê-su luôn nhắc nhở về những điều căn cốt sau đây: Người theo Chúa phải từ bỏ tất cả, họ phải noi gương Chúa phục vụ hết mình và chấp nhận một đời sống nghèo khó vì Tin Mừng.
* TỪ BỎ TẤT CẢ
Việc đầu tiên của người theo Chúa để phục vụ ơn gọi, đó là từ bỏ tất cả. Từ bỏ để đi vào mối liên kết mật thiết với Đấng kêu gọi mình và trở thành công cụ của Ngài hành xử theo như ý Ngài muốn.
“Muốn trở thành môn đệ Đức Giêsu, không buộc phải là người siêu phàm. Thật vậy, tương giao giữa môn đệ với thầy không nhất thiết cũng như trước hết không thuộc phạm vi trí tuệ. Đức Giêsu phán ‘Hãy theo Ta’. Trong Tin Mừng, động từ ‘theo’ luôn luôn diễn tả sự gắn bó với con người Đức Giêsu (td Mt 8, 19...). Theo Đức Giêsu, nghĩa là đoạn tuyệt với quá khứ, một thứ đoạn tuyệt toàn diện, nếu là trường hợp các môn đệ ưu tuyển. Theo Đức Giêsu là cư xử giống như Người, là lắng nghe lời Người dạy và làm cho đời sống mình phù hợp với đời sống Đấng Cứu Thế (Mc 8, 34tt; 10, 21.42-45; Ga 12, 26).
“Khác với môn đệ của các tiến sĩ Do Thái, một khi đã thông thạo luật, họ có thể tách khỏi thấy mình, và mở trường dạy lại, còn môn đệ Đức Giêsu thì không thể lìa bỏ Đấng mà từ nay, đối với họ còn trọng hơn cha mẹ (Mt 10, 37; Lc 14, 25t)”. [1]
Trong Tin Mừng, Đức Giê-su loan báo khá nhiều về lệnh truyền từ bỏ đối với người được tuyển chọn. Lời của Chúa thật dứt khoát, rõ ràng: “Nếu ai muốn là môn đệ Thầy, thì hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Thầy” (Mt 16, 24). Chúa cũng đã khẳng định: “Ai không từ bỏ tất cả những gì mình có, sẽ không thể là môn đệ Thầy ” (Lc 14, 33).
Thực vậy, “Từ bỏ trước hết là dứt lìa những dính bén xấu, những ham muốn bất chính, không phải chỉ đối với những của cải vật chất, mà cũng đối với những của cải tinh thần như danh vọng, uy tín, ý riêng. Từ bỏ cũng là ra khỏi cái tôi ích kỷ, bỏ con người cũ, trở nên con người mới (x. Cl 3, 9-10). Từ bỏ chính là chấp nhận hy sinh, khiêm tốn chôn vùi như Lời Chúa dạy ‘Nếu hạt giống rơi xuống đất mà thối đi, nó sẽ nảy sinh hoa trái’ (Ga 12, 24). Từ bỏ đích thực là để gắn bó chặt chẽ với thánh ý Chúa, như Chúa Giê-su đã nói: ‘Không phải theo ý con, nhưng theo ý Cha mà thôi’ (Lc 22, 42). Người môn đệ nhờ từ bỏ theo giáo huấn của Chúa mà có thể tập trung vào Đức Kitô, chính nhờ Người, với Người và trong Người, và vì Người mà chúng ta sống và hoạt động. Ngoài ra, từ bỏ như thế là để sống phục vụ vị tha, không tìm vui sướng nào ngoài vui sướng được liên kết mật thiết với Đức Kitô, như lời Người phán: ‘Thầy là cây nho, anh em là cành’ (Ga 15, 5). [2]
* PHỤC VỤ HẾT MÌNH
Như trên đã nói, Đức Giê-su tuyển chọn môn đệ không phải làm quan cai trị thiên hạ, nhưng là làm đầy tớ phục vụ dân Thiên Chúa. Đức Giê-su đã nhấn mạnh: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì áp đặt trên họ quyền bá chủ, những người làm lớn thì áp đặt trên họ quyền hành của mình. Nhưng giữa anh em thì không phải như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người” (Mc 10, 42-45).
Tông thư “Pastores Dabo Vobis” của Đức thánh GH Gio-an Phao-lô II về việc đào tạo linh mục (số 22-23) đã diễn tả sứ mệnh của linh mục với giáo dân như sau: “Là mục tử của cộng đoàn, linh mục sống và hiện hữu vì nó; vì nó mà cầu nguyện, học hỏi, làm việc và hy sinh. Và chính vì cộng đoàn mà ngài sẵn sàng thí mạng, yêu mến nó như Đức Kitô, trao cho nó tất cả tình yêu và sự quí mến, hao tốn sức lực và thời giờ vì nó nên hình ảnh của Giáo hội hiền thê Đức Kitô càng ngày càng xinh đẹp hơn, xứng đáng được Chúa Cha quí chuộng và Chúa Thánh Thần yêu thương. Chiều kích hôn ước này của đời sống linh-mục-Mục-Tử buộc linh mục hướng dẫn cộng đoàn bằng sự phục vụ hết mình
toàn thể cộng đoàn và từng thành viên”.
Phục vụ là cung cách làm việc và hành xử của một đầy tớ chứ không phải của ông chủ. Hình ảnh Chúa quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ đã minh họa rõ ràng về điều đó. Và còn hơn thế nữa, đối với Chúa, tột cùng của phục vụ là hy sinh mạng sống và chịu chết vì đàn chiên. Cái chết của Chúa trên thập giá đã chứng minh hùng hồn cho điều đó. “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 8); “Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15, 13).
Cha Chevrier đã nói: “Linh mục là người bị ăn”. Khi dấn thân vào đời sống phục vụ, linh mục chấp nhận sự sống mình phải chịu tiêu hao đi vì người khác. Cộng đoàn tín hữu là một gia đình trong đó linh mục được sai đến để chăm sóc, lo lắng và làm gương. Ngài luôn tự nhủ rằng việc ngài đến là “để phục vụ”. Người phục vụ luôn luôn là người chịu thiệt thòi, lo trước cái lo của dân Chúa và vui sau cái vui của họ. Nếu ngày đưa đón cha về nhận giáo xứ mới, lòng đầy nỗi hân hoan, vui sướng bao nhiêu thì những ngày sau đó, là một núi công việc đang chờ đợi bàn tay và khối óc của linh mục. Nỗi lo lắng của ngài không phải là an hưởng bản thân mà là gánh vác công việc cộng đoàn, ở đó bao con người đang mong đợi và cần sự hiện diện của ngài.
Linh mục sẽ luôn luôn phải thao thức về các nhu cầu của cộng đoàn, qua đó ngài biết nên làm gì và làm như thế nào để họ “được sống và sống dồi dào”. Sự hy sinh của linh mục không chỉ là chịu đựng một vài khó khăn trong vấn đề ăn uống, nhà ở, phương tiện này nọ mà là “chỉ có một sự cần”, đó là làm sao mình phải bé nhỏ, tiêu hao đi để cho Đức Ki-tô lớn lên trong cộng đoàn. Làm sao để Tin Mừng thực sự lan tỏa trong mỗi người, mỗi gia đình, mỗi hội-đoàn-nhóm tín hữu. Làm sao hạn chế được những chia rẽ, bất hòa, hành xử cục bộ, bè phái...để mọi người sống hiệp nhất yêu thương như Chúa đã dạy. Nguyên chỉ với những thao thức đó thôi, linh mục cũng đã phải “tự tiêu hao” biết bao dự phóng, bao sáng kiến, bao lo toan, bao kế hoạch riêng tư...Nói cách khác, khi lo cho người khác được lớn lên, linh mục sẽ hy sinh chính bản thân ngài.
“ ‘Yêu mến giáo dân như Đức Kitô, trao cho họ tất cả tình yêu và sự quí mến, hao tốn sức lực và thời giờ vì họ nên hình ảnh của Giáo hội hiền thê Đức Kitô’ (Pastores dabo vobis). Tôi nghĩ rằng đây là bí quyết để linh mục huấn luyện con tim mục tử của mình có được sự nhạy cảm của Chúa Giêsu khi Ngài nhìn đám đông không người chăn dắt mà chạnh lòng thương. Phải đạt cho tới trình độ hễ nhìn thấy dân là thương. Theo suy nghĩ của Chúa Giêsu, đám đông luôn là một đàn chiên bơ vơ. Họ cần đến mục tử chăn dắt họ, họ cần đến linh mục. Nếu không tạo được một con tim mục tử, tự khắc chúng ta sẽ biến mình thành một tên Pharisiêu đã bị Chúa Giêsu lên án là chất lên vai người khác những gánh nặng mà chính mình không vác được”. [3]
* KHÓ NGHÈO VÌ TIN MỪNG
Sự khó nghèo của môn đệ trong đời sống tận hiến là khó nghèo tự nguyện vì Tin Mừng. Họ đi theo Chúa, bỏ lại tất cả, thì không có lí do gì mà lại luyến tiếc của cải trần gian cả. Chấp nhận sống nghèo theo giáo huấn của Chúa, người môn đệ sẽ đạt được ba điều lợi ích sau:
- Sống nghèo để được hoàn toàn tự do chuyên lo việc của Chúa và của Hội thánh. - Sống nghèo để làm chứng nhân cho Tin Mừng Chúa Ki-tô. - Sống nghèo để thông cảm và chia sẻ sự thiếu thốn của những người nghèo.
ĐGM GB. Bùi Tuần (gp Long Xuyên), trong tập “Truyền giáo”, tài liệu tĩnh tâm các LM TGp Saigon năm 1990 đã viết: “Khi Chúa Giê-su sai các tông đồ đi làm nhiệm vụ Lời Chúa, Người bảo các ông đừng mang theo nhiều hành lý, dù đó là quần áo, tiền bạc. Chúa muốn các môn đệ ra đi với thái độ nghèo, không những nghèo về thái độ khiêm tốn bên trong, mà cũng nghèo cả về vật chất nữa. Bởi vì thái độ nghèo về vật chất chính là một hành trang tinh thần có giá trị lớn tăng bản lãnh cho người làm nhiệm vụ Lời Chúa. Nó giúp cho môn đệ Chúa làm chứng được phần nào mầu nhiệm thánh giá cứu độ và tám mối phúc thật là những điều quan trọng của Lời Chúa”. [4]
Vậy thì khi dấn thân theo ơn gọi tận hiến, người môn đệ của Chúa tự nguyện chấp nhận sống nghèo, xem như đó là một đòi hỏi thiết yếu của ơn gọi tận hiến, như ý Chúa muốn và như Hội thánh mong đợi. Chính ĐTC Phan-xi-cô đã khẳng định: “Tôi ước muốn một Giáo hội nghèo và cho người nghèo.” (Nguồn Internet). Ngoài các Ki-tô hữu nói chung, thì thành phần nòng cốt các linh mục, tu sĩ nói riêng, là những nhân tố cần thiết giúp xây dựng và củng cố một Hội thánh nghèo và chính họ cũng trở thành nơi nương tựa bám víu của những người nghèo hèn khốn khổ trong xã hội.
Thực vậy, “Đức nghèo khó theo Tin Mừng không hề khinh chê của cải trần gian vì những thứ này được ban cho con người là để sống và hợp tác với chương trình sáng tạo của Thiên Chúa. Theo Công Đồng Va-ti-ca-nô II, linh mục cũng như mọi Ki-tô hữu, vì có nhiệm vụ ca tụng và tạ ơn, nên phải nhìn nhận và tán dương lòng quảng đại của Cha trên Trời được biểu lộ trong các của cải trần gian (PO 17). Nhưng Công Đồng còn nói thêm là các linh mục đang khi sống ở giữa thế gian phải luôn luôn nhớ rằng mình không thuộc về thế gian này (Ga 17,14-16) và phải gỡ mình ra cho khỏi mọi ràng buộc quá đáng, hầu đạt được một tư thế thiêng liêng thích hợp và quân bình với thế gian và những sự đời (Pastores Dabo Vobis 30)”. [5]
Tóm lại, bằng đời sống nghèo đích thực theo tinh thần của Tin Mừng Ki-tô giáo, môn đệ sẽ an tâm sống cuộc đời hiến tế của mình theo gương thầy chí thánh Giê-su. Cái lo của họ chắc chắn sẽ không hướng hoàn toàn về việc phải ăn gì, uống gì, mặc gì, nhà cửa ra sao...(x. Mt 6,25-34), trái lại, mối bận tâm chính của các ngài chính là cố gắng trở nên người môn đệ đích thực của Chúa Ki-tô, cố gắng để trở thành con người sinh ích lợi cho mình và cho người khác. Và sự đòi hỏi chính yếu đặt ra cho người theo Chúa, đó là tinh thần dứt khoát từ bỏ như lời Ngài đã chỉ dạy: “Nếu ai muốn là môn đệ Thầy, thì hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Thầy” (Mt 16,24); và “Ai không từ bỏ tất cả những gì mình có, sẽ không thể là môn đệ Thầy.” (Lc 14,33) .
Aug. Trần Cao Khải
--------------------------------- THAM KHẢO & TRÍCH DẪN: [1] x. Mục từ “Môn đệ”, Điển ngữ Thần học Thánh Kinh, GHHV Piô X Đàlạt 1974 [2] ĐGM Bùi Tuần, Tuyển tập “Hành trình Phục sinh”, Gp Long Xuyên 1997, trang 86-87 [3] ĐTGM Giuse Nguyễn Chí Linh, Tĩnh tâm thường niên linh mục gp Đàlạt từ ngày 16 đến 22-02-2009, nguồn: VietCatholic News [4] ĐGM GB Bùi Tuần, tập “Truyền Giáo”, tĩnh tâm LM Tgp Saigon 1990. [5] LM Đỗ Xuân Quế OP, bài “LM và của cải trần gian”, nguồn: VietCatholic News 13-5-2014.
Chúng ta đang bước vào Mùa Vọng khởi đầu năm Phụng Vụ 2018-2019. Mọi nơi trên thế giới Đề tài 29
Chúng ta đang bước vào Mùa Vọng khởi đầu năm Phụng Vụ 2018-2019. Mọi nơi trên thế giới các tín hữu đang rộn ràng chuẩn bị mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Có những người cẩn thận đã gợi ý lên kế hoạch cho cả khoảng thời gian Mùa Vọng phải làm gì cho có ý nghĩa và xứng hợp với tinh thần Ki-tô giáo. Chẳng hạn, chuẩn bị tham dự tĩnh tâm, đi xưng tội, hằng ngày tập trung nhiều hơn vào đời sống nội tâm và các việc thiêng liêng, tăng cường việc đọc và suy gẫm Lời Chúa mỗi ngày, giảm bớt những việc vui chơi không cần thiết, thực hiện một số việc bác ái, từ thiện vv.
Thực vậy, “Ở giữa cảnh nhộn nhịp của mùa này, chúng ta hãy cố gắng giữ Mùa Vọng là mùa của chờ đợi và khao khát, của hoán cải và hy vọng, thường xuyên suy gẫm về tình yêu nhưng không và khiêm tốn của Thiên Chúa chúng ta tượng thai trong lòng Trinh Nữ Maria. Trong mua sắm và làm bánh trái, chúng ta hãy nhớ mua và chuẩn bị cái gì đó cho người nghèo. Khi chúng ta dọn dẹp nhà cửa, chúng ta hãy chia sẻ vài thứ chúng ta có cho những người túng thiếu. Trong khi chúng ta trang hoàng nhà cửa, chúng ta đừng quên chuẩn bị một nơi bình an trong tâm hồn để Chúa Cứu Thế đến cư ngụ”. [1]
Phụng vụ Mùa Vọng luôn nhắc nhở chúng ta về mầu nhiệm Nhập Thể và Giáng Sinh của Chúa Cứu Thế Giê-su. Chúng ta nên dành nhiều thời gian để suy tư và sống mầu nhiệm ấy, hơn là quá bận rộn lo toan những việc bề ngoài như trang hoàng nhà cửa, trang trí đèn đóm cây thông, đi mua sắm, tổ chức ăn uống tiệc tùng vv.
* HÃY VUI MỪNG TẠ ƠN
Trước hết, để sống tinh thần Mùa Vọng, chúng ta hãy mặc lấy tâm tình vui mừng và tạ ơn. Bởi vì cách đây hơn hai ngàn năm, Chúa đã đến trần gian này, đã nhập thể và nhập thế để thực hiện kế hoạch cứu độ của Chúa Cha. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật ” (Ga 1, 14). Nhờ Chúa Con nhập thể, chúng ta đã được giải thoát khỏi tội và sự chết, được đón nhận vào hàng ngũ con cái Thiên Chúa, được hưởng ân huệ của mầu nhiệm Nước Trời.
Sự vui mừng của Ki-tô hữu chúng ta trước mầu nhiệm Giáng Sinh của Con Chúa không chỉ biểu lộ cách hời hợt bởi những việc phô trương hoành tráng bên ngoài mà trên hết phải là một tâm tình sâu xa bên trong nội tâm.
Bầu không khí trang nghiêm, sâu lắng, khiêm tốn của Phụng vụ Mùa Vọng nhắc ta rằng: “Trong Phụng vụ Mùa Vọng, những phẩm phục được dùng thường là màu tím, tương tự như trong Mùa Chay. Màu tím biểu tượng của sự hoán cải và chuẩn bị cho việc gặp gỡ Đức Kitô. Nhưng nhớ rằng, Chúa nhật thứ ba Mùa Vọng lại là Chúa nhật vui mừng (Gaudete : Mừng vui lên !), và màu sắc được trang hoàng trong ngày lễ Chúa nhật này là màu hồng : ý nói đến một sự chờ đợi trong niềm vui tươi. Chúa nhật này cũng tương tự như Chúa nhật thứ bốn của Mùa Chay mà chúng ta quen gọi là Chúa nhật hồng (laetare). Cần ghi nhớ rằng, tất cả sự trang hoàng trong các Chúa nhật Mùa Vọng và Mùa Chay đều được tinh giảm nếu không nói là ‘cấm’, ngoại trừ các Chúa nhật Gaudete và Laetare cũng như canh thức Giáng Sinh”. [2]
Tác giả Giuse Nguyễn Kích trong bài “Thiên Chúa có cần con người quá cầu kỳ hoang phí trong việc tổ chức lễ Giáng Sinh lung linh hoành tráng cho ngài không?” đăng trên Facebook cá nhân ngày 3-12-2018 đã chia sẻ như sau:
“Trang trí hình thức lộng lẫy bên ngoài phải đi kèm với trang trí nội dung lung linh bên trong. Vậy đâu là các việc cần làm chính yếu trong dịp Lễ Giáng Sinh? Các việc cần làm trong dịp Lễ Giáng Sinh để Chúa vui nhất là: Nhìn nhận tội lỗi của mình, thật lòng ăn năn sám hối, sẵn sàng hòa giải tha thứ, quyết tâm từ bỏ sai lầm, nhìn lại đời sống đạo, thành tâm đi xưng tội, sống bác ái khiêm nhường, rước Mình Máu Thánh Chúa, lắng nghe lời Chúa dạy, thực hành lời Chúa truyền, luôn hành động yêu thương... Đó là những điều Chúa vui nhất, thích nhất, đẹp lòng Chúa nhất. Đó là Lễ Giáng Sinh ý nghĩa nhất. Đó là cách truyền giáo thuyết phục nhất. Rồi niềm vui và hoan lạc vĩnh cửu của Thiên Đàng ta sẽ được hưởng ngay tại thế gian này. Vì Thiên Chúa là Cha giàu tình yêu và lòng thương xót đã thực sự giáng sinh vào chính tâm hồn đơn sơ nhỏ bé của ta”.
* HÃY HOÁN CẢI
Bên cạnh tâm tình tạ ơn và vui tươi đón mừng đại lễ kỷ niệm biến cố Con Chúa nhập thể làm người và ra đời, tín hữu chúng ta sẽ không quên thực hành việc thống hối ăn năn mà ta thường gọi là hối cải hay hoán cải. Hoán cải không chỉ hiểu cách đơn giản là xét mình, đi xưng tội rồi đi dự thánh lễ trọng Giáng Sinh và sốt sắng rước lễ. Hay làm một việc “lành” gì đó gọi là ăn năn đền tội. Thực ra, chúng ta cần biết là để đón Chúa vào “nhà” ta, để “giữ chân” Ngài mãi trong ta, để Ngài hoạt động hiệu quả nơi ta, ta phải buông bỏ mọi sự, kể cả con người cũ của ta đồng thời sẵn sàng mặc lấy con người mới trong Chúa Ki-tô.
Thực vậy, “Khi dùng từ hoán cải/ metanoia trong Kinh thánh Cựu ước và Tân ước, các tác giả muốn nói lên sự thay đổi tâm tình, não trạng, hối tiếc, hối hận. Cách đặc biệt, nó còn được dùng để nói đến một sự thay đổi hướng đi, thay đổi đường xưa lối cũ, có nghĩa là từ bỏ đường tà để trở lại đường chính, triệt để quay về với Thiên Chúa. Như thế, hoán cải không chỉ là thay đổi việc làm bên ngoài hay chỉ bên trong tâm trí mà thôi, nhưng là thay đổi cả con người, thay đổi cả trong ý muốn cũng như trong hành động. Do đó, ta thấy được rằng hoán cải, ngoài chiều kích luân lý (bỏ điều dữ làm điều lành) còn có chiều kích thần học – chiều kích này làm động lực cho chiều kích luân lý. Hoán cải không đơn thuần chỉ là sửa chữa những lầm lỗi của của mình hay từ bỏ đường tà, nhưng điều cơ bản là phải nhận biết tôi là ai trước mặt Chúa. Hoán cải là được hiệp thông với Chúa, có nghĩa là nhận ra thân phận thụ tạo của mình, tuyệt đối qui hướng về với Thiên Chúa và ở lại trong Ngài”. [3]
Xét vậy, việc hoán cải trong Mùa Vọng là tối cần thiết và phù hợp với ý Chúa hơn cả. Có 2 câu hỏi giúp ta hồi tâm, suy nghĩ: a- Tôi đang là ai trước mặt Chúa; b- Tôi đang ở trong mối tương quan nào với Chúa và với tha nhân.
a- Tôi đang là ai trước mặt Chúa.
Chúng ta biết rằng khởi điểm của việc hoán cải luôn là nhìn nhận mình là tội nhân trong thân phận yếu đuối, mỏng dòn. Mọi Ki-tô hữu mặc dù đã được cứu độ, nhưng trong đời sống lữ hành này, chúng ta vẫn có thể phạm tội. Tội nặng, tội nhẹ và vô vàn những thiếu sót. Chính vì lý do này mà Hội thánh luôn mời gọi chúng ta đến với tòa cáo giải để xin ơn tha thứ của Thiên Chúa và thực hiện sự hòa giải với tha nhân.
ĐGM GB Bùi Tuần (Gp Long Xuyên) trong bài viết có tựa đề “Trở về với mình để tin yêu Chúa” đã chia sẻ như sau: “Tôi là kẻ có tội. Khi đọc kinh Cáo Mình, tôi tự thú đã phạm tội nhiều. Khi đọc kinh Lạy Cha, tôi tự xưng tôi cần phải xin ơn tha thứ. Khi đọc kinh Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, tôi tự nhận tôi là kẻ có tội. Khi chịu bí tích giải tội, tôi tự đặt mình vào hạng người tội lỗi. Mà thực, tôi đã phạm tội không biết bao nhiêu mà kể. Trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót...”. [4]
Nếu trước mặt Chúa và trước mặt tha nhân, chúng ta không nhìn nhận tội lỗi của mình thì chúng ta sẽ dễ rơi vào tình trạng kiêu căng, tự mãn. Kể cả tự kiêu tự mãn trong những việc đạo mình làm. Trong Mùa Vọng này, chúng ta có nhiều điều phải suy nghĩ và kiểm điểm, đặc biệt là phải cầu xin cho có đủ sức mạnh của ơn Chúa để từ bỏ con người cũ, sẵn sàng đổi mới để đón Chúa vào “nhà” mình và được Chúa đón nhận như người con hoang trở về.
b- Tôi đang ở trong mối tương quan nào với Chúa và với tha nhân.
Để được ơn tha thứ, chúng ta phải cần đến sự thương xót của Thiên Chúa. Và muốn vậy, chúng ta phải đi vào tương quan mật thiết với Người. Trên thực tế, nhiều khi thực hành những việc đạo đức này nọ, chúng ta cứ nghĩ rằng như thế là đẹp lòng Chúa, nhưng thực ra chúng ta vẫn sống “xa” Chúa. “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (I-sai-a) (x. Mc 7, 6). Chúng ta dễ dàng bị ru ngủ bởi một thứ đạo hình thức, an tâm rằng mình mến Chúa yêu người, nhưng đó chẳng qua chỉ là giữ đạo vì mình, cho mình, theo ý mình.
Trong Mùa Vọng này, có thể chúng ta làm đủ việc để gọi là chuẩn bị mừng Chúa Giáng Sinh, nhưng thực chất, chúng ta đang “tục hóa” một biến cố trọng đại trong lịch sử cứu rỗi. Chẳng hạn, “Ta có hát những bài thánh ca du dương, múa những điệu múa uyển chuyển, trang trí băng rôn ầm ĩ, treo những khẩu hiệu hùng hồn, làm những hang đá độc đáo, dựng những cột cờ cao vút, giăng đèn điện lung linh khắp xóm, mặc những bộ mốt thời thượng, mua những món đồ đẳng cấp, ăn những bữa tiệc linh đình... mà tâm hồn ta không đến gần Thầy Giêsu để Ngài biến đổi ta nên tốt lành thánh thiện hơn và yêu thương tha nhân hơn, thì sẽ trở nên hết sức vô nghĩa và tốn thì giờ. Nếu chỉ dừng lại ở những thứ đó, thì Lễ Giáng Sinh không khác gì một lễ hội văn hóa ngoài đời và sẽ trở nên hết sức vô nghĩa và không đúng mục đích của Lễ Giáng Sinh”. [5]
Mới đây, trong bài viết có tựa đề “Những cơn bão đang tàn phá Giáo hội Công Giáo Việt Nam”, ĐGM GB Bùi Tuần (Gp Long Xuyên) đã cảnh báo thế này:
“Phong trào tục hoá đang hình thành và diễn biến phức tạp trong nếp sống đạo hiện nay. Nét chung của các hình thức tục hoá là nỗ lực tăng cường các việc đạo đức bề ngoài, còn đời sống nội tâm thì lại coi nhẹ. Một trong những yếu tố quan trọng của đời sống nội tâm là gặp gỡ Chúa trong đức tin, thì xem ra không được để ý. Thực vậy, đức tin không phải là một đề tài, một chủ thuyết để cắt nghĩa và khai triển, nhưng chủ yếu là một gặp gỡ sống động với Chúa Giêsu nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Thế nhưng rất nhiều khi, phong trào tục hoá đã làm áp lực, để tôi đừng gặp gỡ Chúa Giêsu, thậm chí cũng áp lực để tôi không muốn tìm gặp gỡ Chúa Giêsu, một Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa làm người, để cứu chuộc nhân loại”. [6]
Để Mùa Vọng thật sự là “thời gian vàng” cho ta được ơn tha thứ mọi tội lỗi và được đón Chúa đến viếng thăm “nhà” mình, chúng ta cầu xin Chúa Thánh Thần giúp ta có đủ sức mạnh từ bỏ con người cũ, có đủ can đảm buông bỏ tất cả đam mê, lầm lạc để trở về với Chúa và với anh em. Khi đó, Mùa Vọng và Lễ Giáng Sinh không là mùa lễ hội hoang phí thời gian nữa, trái lại đó đích thực là Mùa Hồng Ân Cứu Rỗi cho tất cả những ai có tâm hồn hướng thượng và tấm lòng thiện chí.
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời, / bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (Lc 2, 14).
- - - - - - - - - - - - [1] LM GB Nguyễn Kim Ngân chuyển ngữ, Bài “Mùa Vọng là gì?”, WGP Qui Nhơn 29.11.2013, nguồn congiaoinfo. [2] Fr. Joseph Nguyễn Hiển O.P, Bài “Phụng Vụ Mùa Vọng: Vài điều cần biết”, nguồn daminhvn. net. [3] LM Phaolô Bùi Đình Cao, Bài “Hoán cải, hành trình trở về với Chúa”, nguồn daichungvienvinhthanh.com. [4] ĐGM GB Bùi Tuần, Tập sách “Nói với chính mình”, NXB Đại Kết 1992, trang 42). [5] Giuse Nguyễn Kích, Bài “Thiên chúa có cần con người quá cầu kỳ hoang phí trong việc tổ chức lễ Giáng Sinh lung linh hoành tráng cho ngài không?”, Nguồn FB cá nhân. [6] ĐGM Bùi Tuần, Bài “Những cơn bão đang tàn phá Giáo hội Công Giáo Việt Nam”, Nguồn baoconggiao.net.
Đức Giê-su đã không viết di chúc. Ngài cũng không truyền cho môn đệ phải viết di chúc. Nhưng những Đề tài 30
Đức Giê-su đã không viết di chúc. Ngài cũng không truyền cho môn đệ phải viết di chúc. Nhưng những gì Ngài chia sẻ và tâm sự với họ, đã được cẩn thận ghi lại, đích thực mang nội dung một di chúc quý giá, thánh thiêng, cao cả và ý nghĩa tuyệt vời.
Đọc các sách Tin Mừng, nhất là Tin Mừng thánh Gio-an, chúng ta không khỏi bồi hồi xúc động trước những lời nói chân tình, thân thương và sâu lắng của Đức Giê-su. Những lời tâm huyết của Ngài sẽ mãi mãi còn đó như một lời trăng trối, đặc biệt cho những ai được chọn và được sai đi.
Dựa vào Lời Chúa trong sách Tin Mừng, chúng ta có thể tóm lược nội dung di chúc của Đức Giê-su qua mấy điểm chính sau:
* CHÍNH CHÚA ĐÃ GỌI VÀ CHỌN MÔN ĐỆ
Một điều tiên quyết và quan trọng khiến người môn đệ cảm thấy yên tâm và hạnh phúc, đó là họ được Chúa yêu thương và được chính Ngài tuyển chọn.
Phê-rô, An-rê, Gia-cô-bê, Gio-an...đã không phải vất vả làm hồ sơ xin việc làm, không phải cực khổ chen chân để có chỗ đứng trong một đơn vị tuyển dụng, không phải lao đao lận đận vì những chuyện thành tích, lý lịch, học vấn, trình độ, kinh nghiệm này nọ...
Họ bỗng dưng được đoái nhìn, được mời gọi và được tuyển chọn.
“Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy ông Si-mon với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá. Người bảo họ: ‘Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá’. Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người” (Mc 1, 16-18).
Với các môn đệ, việc tuyển chọn của Chúa là một ơn huệ nhưng không và thật kỳ diệu. Chúa đã không đặt điều kiện nào khác, như là tiên quyết, ngoại trừ việc họ đáp lại lời mời gọi của Ngài. “Đức Giê-su bảo ông Si-mon: ‘Đừng sợ, từ nay anh sẽ bắt người như bắt cá’. Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người” (Lc 5, 10-11).
Vậy điều mà Chúa muốn người-được-chọn quan tâm và đồng thuận với Ngài, đó là theo Chúa một cách dứt khoát, để phục vụ công trình mà Ngài đã đảm nhận từ Cha, và họ phải tự nguyện chấp nhận được đào tạo theo đường lối, cách thức riêng của Ngài.
Khi bước chân vào môi trường đào tạo của Chúa, người môn đệ sẽ một lòng một dạ nghe theo Chúa, vì những lời dạy bảo của Ngài không phải từ thế gian, mà từ Chúa Cha trên trời. “...Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã nói cho anh em biết. Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại...” (Ga 15, 15-16).
Kết quả của việc đi theo Chúa không gì khác hơn là trở thành môn đệ “chính hiệu” của Chúa, tích cực làm việc cho Chúa để sinh hoa kết trái “có chất lượng cao”. Đó là dấu chỉ đẹp lòng Chúa Cha nhất. “Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy” (Ga 15, 8).
Sinh nhiều hoa trái bằng tấm lòng yêu thương và đời sống phục vụ hy sinh quên mình.
* NGƯỜI ĐƯỢC CHỌN PHẢI TÍCH CỰC YÊU THƯƠNG VÀ PHỤC VỤ
Đức Giê-su không có một giáo trình đào tạo nào khác cho các môn đệ tiên khởi, ngoài việc giáo dục lòng yêu thương vô điều kiện và tinh thần phục vụ hết mình. Đó cũng là điểm căn cốt nhất trong di chúc của Ngài. “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15, 12). Và “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13).
Yêu thương như Chúa yêu thương, phục vụ như Chúa phục vụ, đó là đặc điểm của nếp sống và hành trình tông đồ. Đó cũng là sức mạnh và nền tảng của động cơ theo Chúa. “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 45).
Vậy thiết nghĩ, người phục vụ cho chương trình và kế hoạch của Chúa sẽ hướng theo mấy tiêu chí sau:
* Phục vụ cách ân cần và chu đáo
Để sự phục vụ đạt hiệu quả cao, người phục vụ phải hết sức ân cần và chu đáo. Có thể hình dung thái độ ân cần chu đáo của một người chăn chiên lành mà Chúa đã nói trong Tin Mừng: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10, 14-15).
Như Chúa đã phục vụ với cái “tâm” của một vị mục tử nhân lành thế nào, người môn đệ sẽ phục vụ theo tinh thần đó như vậy: một tấm lòng nhân hậu, một tình yêu bao la, một đồng cảm dịu êm, một thao thức liên lỉ, một đời sống hy sinh đến tận cùng... Sự ân cần phục vụ, như Chúa, sẽ không xét nhìn ở những gì bên ngoài cho bằng ở sự “mục nát” thâm sâu bên trong con người mình: “Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12, 24-25).
Vậy như cách nói của Chúa thì số phận người môn đệ sẽ giống hệt như số phận của hạt lúa: nó cần phải gieo xuống và chịu chôn vùi trong lòng đất. Đó là mảnh đời “coi thường mạng sống mình vì con chiên”. Đó cũng là thân phận của những con người đam mê phục vụ. Một cách ân cần, chu đáo nhưng hết sức kín đáo và khiêm tốn.
* Phục vụ cách tự hạ và khiêm tốn
Như đã biết, Đức Giáo Hoàng, dù với tư cách là vị Giáo Chủ của Hội thánh Công Giáo toàn cầu, nhưng khi cần, ngài vẫn tự xưng mình là “Tôi tớ các tôi tớ Thiên Chúa”. Người phục vụ, nói một cách nôm na, đó là người đầy tớ. Cung cách, thái độ của đầy tớ thường gắn liền với sự khiêm tốn, tự hạ, bỏ mình...
Đức Giê-su rất lưu tâm đến thái độ khiêm tốn. Ngài luôn đề cao người khiêm tốn. Khiêm tốn trong bố thí. Khiêm tốn trong cầu nguyện. Khiêm tốn trong phục vụ. Khiêm tốn trong dẫn dắt. Khiêm tốn trong giảng dạy. Chính Ngài đã nêu gương khiêm nhường tự hạ cho môn đệ. Ngài cũng mời gọi các môn đệ học tập nơi Ngài vì Ngài làm gương sống hiền lành và khiêm nhường thật sự từ trong lòng ra bên ngoài (x. Mt 11, 29).
Chúa biết rằng, một lúc nào đó trong các môn đệ của Ngài sẽ phát sinh những cách thức phục vụ không phù hợp với Tin Mừng. Bời vì, trên thực tế, khiêm tốn đúng như ý Chúa là một điều hết sức khó khăn, tế nhị.
Có thể nhìn vào thực tế xưa nay để nhận định và cảnh báo: “Người phục vụ là người thường được ưa thích. Nhưng đừng quên điều này: phục vụ mà kiêu căng sẽ không là phục vụ của người môn đệ Đức Ki-tô. Phục vụ với lòng tự cao tự đại là một xúc phạm. Phục vụ mà chỉ tưởng rằng cho đi mà không là nhận lãnh cũng là một sai lầm. Phục vụ mà cho rằng chỉ có mình là đúng, là tốt, là cần, sẽ là một thảm họa. Nhưng phục vụ với dáng vẻ khiêm nhường câu nệ hình thức cũng rất xa lạ với Phúc Âm”. [1]
Đối với Chúa, sự khiêm tốn tự hạ phải đạt đến mức độ sâu thẳm tận cùng của mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm hủy mình ra không, mầu nhiệm chết đi chính mình. Việc rửa chân cho các môn đồ là một minh họa sống động (x. Ga 13, 1-15). Bài học “rửa chân” là một chỉ dẫn quan trọng, đồng thời cũng được xem như phương án đào tạo trực quan mà Chúa muốn các môn đệ phải nhập tâm và thực hiện. Bởi vì, chính Ngài, trong hành trình rao giảng và tuyển chọn các môn đệ, đã rất lưu tâm về tinh thần và thái độ phục vụ của người-được-chọn và được-sai-đi.
* MÔN ĐỆ PHẢI SỐNG TÍN THÁC VÀ VÂNG PHỤC
Một khi đã chấp nhận theo Chúa, người môn đệ không có gì để phải bận tâm về nhu cầu vật chất cũng như về đời sống. Chúa sẽ lo cho họ tất cả. Hành trang duy nhất của họ là niềm tin, sự bình an và lòng trung tín.
“Lòng anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha của thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi” (Ga 14, 1-4).
Chúa trấn an môn đệ không phải bằng lời nói suông, trống rỗng, mà sau khi chết và sống lại, Ngài đã chia sẻ cho họ Thánh Thần, ơn huệ cao cả nhất, đẹp đẽ nhất, mạnh mẽ nhất, nhờ đó họ có thể chu toàn sứ mệnh của mình. “Bình an cho anh em!... Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần...” (x. Ga 20, 19-22).
Vậy trong hành trình theo Chúa, người môn đệ không còn gì để bận tâm. Họ thanh thản ra đi. Họ phấn khởi rao giảng Tin Mừng. Họ bình an đón nhận mọi biến cố xảy ra trong đời. Họ vui vẻ chấp nhận trong vâng phục hoàn cảnh và kiếp sống của thân phận “du mục” vì Nước Trời, thân phận của những người-được-chọn và được-sai-đi.
“Đức Giê-su tập họp Nhóm Mười Hai, ban cho các ông năng lực và quyền phép để trừ mọi thứ quỷ và chữa các bệnh tật. Người sai các ông đi rao giảng Nước Thiên Chúa và chữa lành bệnh nhân. Người nói: ‘Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo. Khi anh em vào bất cứ nhà nào, thì ở lại đó và từ đó mà ra đi. Hễ người ta không đón tiếp anh em, thì khi ra khỏi thành, anh em hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ’. Các ông ra đi, rảo qua các làng mạc loan báo Tin Mừng và chữa bệnh khắp nơi ” (Lc 9, 1-6) ./.
- - - - - - - - - - - [1]-ĐGM GB Bùi Tuần, Tĩnh tâm LM, tu sĩ Gp Long Xuyên, 1997.
Có thể nói mà không sợ sai lầm là, hết thảy những ai yêu mến linh mục (LM) đều mang trong lòng Đề tài 31
Có thể nói mà không sợ sai lầm là, hết thảy những ai yêu mến linh mục (LM) đều mang trong lòng một niềm vui và hãnh diện về con người, thân phận và cuộc đời của các ngài. Bởi hơn ai hết, trong cái nhìn của đức tin, LM là người được thánh hiến cách đặc biệt để thi hành thánh vụ. Ngoài những bài viết đó đây về LM, còn có khá nhiều bài thánh ca đã hết lời ca ngợi con người và chức vụ LM, mà khi hát lên mọi người như được “nâng tâm hồn lên”, lâng lâng, diệu vợi...như bài “Từ ngàn xưa” nổi tiếng của LM nhạc sĩ Kim Long, xin được trích dẫn sau đây:
“Từ ngàn xưa Cha đã yêu con, Cha gọi con giữa muôn người. Giờ đây con hân hoan bước lên bàn thánh Chúa, dâng tiến Cha xác hồn trắng tinh như ánh quang rạng ngời, đưa bước tung gieo lời chân lý hầu cứu thoát muôn dân muôn đời...Từ bụi tro Chúa nâng con lên hàng vinh phúc, và gọi con là bạn nghĩa thân tình..Rày về sau khắp nơi khen con thật vinh phúc, vì tình Chúa đã thương đến phận hèn....”.
Quả vậy, con người và cuộc đời của LM đã gắn bó với một lời nguyền dâng hiến siêu vời, dâng cả toàn thân trong suốt cuộc đời, “Con là Linh mục đời đời theo phẩm hàm Men-ki-sê-đê”...Với tư cách là con cái Chúa, đồng thời LM cũng được tuyển chọn theo một ơn gọi đặc biệt, nhờ đó các ngài nhận lãnh sứ vụ “được sai đi để phục vụ”. Mà phục vụ ở đây là phục vụ Hội thánh, phục vụ giáo dân trong cộng đoàn.
“...Tông Huấn Pastores dabo vobis số 22-23 đã diễn tả sứ mệnh của linh mục với giáo dân như sau: ‘Là mục tử của cộng đoàn, linh mục sống và hiện hữu vì nó; vì nó mà cầu nguyện, học hỏi, làm việc và hy sinh. Và chính vì cộng đoàn mà ngài sẵn sàng thí mạng, yêu mến nó như Đức Kitô, trao cho nó tất cả tình yêu và sự quí mến, hao tốn sức lực và thời giờ vì nó nên hình ảnh của Giáo hội hiền thê Đức Kitô càng ngày càng xinh đẹp hơn, xứng đáng được Chúa Cha quí chuộng và Chúa Thánh Thần yêu thương. Chiều kích hôn ước này của đời sống linh mục-Mục Tử buộc linh mục hướng dẫn cộng đoàn bằng sự phục vụ hết mình toàn thể cộng đoàn và từng thành viên’...” (ĐGM Giuse Nguyễn Chí Linh, Tĩnh tâm thường niên TGM Đàlạt, tháng 02-2009).
Vậy đã rõ, con người của LM được kết ước với con người Đức Giêsu Ki-tô, vị Mục Tử thượng hảo, nên các ngài cũng được gọi là “Alter Christus”. LM được Chúa thân thương gọi là bạn hữu để nhờ đó họ thay mặt Chúa lãnh đạo Dân của Ngài. Công đồng Vat. II đã khẳng định: “Trong quyền hạn mình, LM thi hành nhiệm vụ Chúa Ki-tô mục tử và thủ lãnh, tụ họp gia đình Thiên Chúa là cộng đoàn huynh đệ có cùng một tâm hồn, và nhờ Chúa Ki-tô, trong Thánh Thần, dẫn đưa cộng đoàn ấy về với Thiên Chúa” (LG 28).
Khi thi hành sứ vụ của Chúa, như Chúa, LM được mời gọi đồng hình đồng dạng với Ngài, không phải một chốc một lát mà suốt cả cuộc đời. Và các ngài cũng được mời gọi chia sẻ thân phận của vị Mục Tử duy nhất, đấng đã tuyển họ vào chức vụ thánh. Nhưng chức vụ càng “thánh” thì nhiệm vụ càng khó, chức vụ càng “cao” thì bổn phận càng nặng, chức vụ càng “vinh quang” thì đòi hỏi càng quyết liệt...Xét cho cùng, thân phận của LM được mô phỏng theo ba cách nhìn sau đây:
* LINH MỤC: THÂN PHẬN NGƯỜI ĐƯỢC SAI ĐI.
Trên bậc tông đồ giáo dân, LM được xếp vào chức danh tông đồ chuyên biệt (Ngày xưa gọi LM là “Thầy cả” có lẽ là vậy!). “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em sinh được nhiều hoa trái và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em” (Gio 15,16). Tông đồ là người được sai đi. Khi nhận sứ vụ LM, các ngài nhận lệnh ra đi. “Đi” thì phải đi. Không dừng bước dù chỉ là “nghỉ ngơi”. Đi bất kỳ nơi đâu, bất kỳ hoàn cảnh nào, bất kỳ thời khắc nào. Các ngài chấp nhận đi đến “tận cùng “ những địa chỉ mà Chúa muốn. Không phân vân hay đắn đo mà chỉ biết vâng phục.
Người ta có thể hình dung cuộc sống của LM như những người lang thang du mục, có điểm đến nhưng cũng có điểm đi. Không cắm chặng ở một nơi chốn nào cố định. Sau ngày vinh thăng chịu chức là vài năm làm phó xứ ở một nơi, rồi vài năm sau đến làm chính xứ ở một nơi, rồi vài năm sau nữa đổi đi xứ khác...cứ thế cho đến ngày trở về nhà hưu dưỡng, chờ lúc ra đi vĩnh viễn để về Nhà Cha. LM xây nhà thờ nhà xứ nhưng không xây nhà cho riêng mình, nếu có chỉ là trường hợp cá biệt và hãn hữu mà thôi. Chính Chúa Giêsu cũng đã mang thân phận này: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Lc 9,58).
LM xem ra là người “vô gia cư” và cũng “vô nghề nghiệp”. Chức vụ LM không phải là một nghề để kiếm tiền nuôi bản thân hay gia đình, càng không phải là một cơ hội để tiến thân, mà là một dấn thân mang đầy ý nghĩa vừa nhân bản vừa siêu nhiên. Trong tuyển tập “Được chọn và sai đi”, ĐGM Bùi Tuần đã chia sẻ: “Họ (LM) tự nguyện từ bỏ mình. Nghèo của cải, danh vọng, chức quyền, nhưng cố gắng giầu về tấm lòng và trí tuệ. Họ chấp nhận hy sinh để trở thành lễ tế sống động. Họ luôn phó thác mình một cách trọn vẹn nơi tình xót thương Thiên Chúa là Cha. Họ âm thầm yêu thương phục vụ, với những việc lành bé nhỏ, với những hi sinh kín đáo, đồng hành với những người khổ đau, trên những con đường bé nhỏ...” (x. sđd trang 151-152).
Một con người “vô gia cư, vô nghề nghiệp” như LM luôn chấp nhận mất hút trong cánh đồng truyền giáo bao la, mịt mù. Vì “đồng lúa thì bao la mà thợ gặt thì ít ỏi”. Một khi đã trung thành sống ơn gọi của mình, các ngài là những anh hùng, dù là anh hùng vô danh tiểu tốt.
“...Nhiều linh mục đang sống một cuộc sống anh hùng. Họ sống thầm lặng không cần ai biết tới. Họ đặt nền tảng đời sống của họ vào lời cầu nguyện và niềm tin tưởng phó thác nơi Chúa. Họ luôn ấp ủ một niềm lắng lo sâu xa, tinh tuyền cho dân Chúa. Hiệu quả của đời sống chiêm niệm và phục vụ của các anh em linh mục đó, là họ có thể nhìn thấy Chúa Giê-su trọn vẹn là đầu, là chi thể, là Thiên Chúa và dân Chúa. Đời sống chiêm niệm không khép kín các linh mục đó nơi Chúa Ki-tô mà quên dân Chúa. Các linh mục đó không chỉ nguyên lo cho đời sống thiêng liêng của mình, nhưng các ngài được nâng đỡ, được phong phú hóa và tìm thấy sức mạnh ngay khi sống cho giáo dân và sống giữa giáo dân. Họ gặp thấy Chúa Ki-tô ngay khi làm việc với giáo dân cũng như khi âm thầm cầu nguyện một mình. Họ thật sự đã sống sâu xa lý tưởng linh mục đã được ghi lại trong Phúc Âm thánh Gioan, chương 10: ‘Người mục tử tốt lành là người mục tử dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên’..." (Đức Tổng Giám Mục John R. Quinn, "The Strenghts of Priests Today" , Tuần Báo America, July 1-8, 2002 – LM Anphong Trần Đức Phương dịch).
* LINH MỤC: THÂN PHẬN NGƯỜI ĐẦY TỚ “BỊ ĂN”.
Các LM của Chúa được sai đi, không phải để được phục vụ mà là để phục vụ con người (x. Mc 10,45). Linh mục là người của muôn người, được sai đi để làm đầy tớ thiên hạ. Nói LM là đầy tớ vì các ngài không được tuyển để làm quan trong thiên hạ (cha mẹ của dân), mà làm kẻ phục vụ người khác. Đúng như LM Chevrier đã nói: “Linh mục là người bị ăn”. Càng phục vụ tích cực, càng phải hi sinh hết mình. Càng lo cho người khác, càng chết cho chính mình. Càng yêu mến quan tâm người khác, trái tim càng đau khổ dày vò. Khi con người của LM bị vắt cạn sức lực, đó là lúc Đức Ki-tô Mục Tử lớn lên trong các ngài và tỏa lan sức nóng ấm áp trong cộng đoàn. Đó cũng là lúc hạt giống chun vùi trong lòng đất sinh hoa kết trái, “Nếu hạt giống rơi xuống đất mà thối đi, nó sẽ nảy sinh hoa trái” (Gio 12,24).
Có lẽ không gì hùng hồn và thuyết phục bằng việc đơn cử mẫu gương mục tử sáng ngời của cha thánh họ Ars. Ngài nổi tiếng là một LM rất nhiệt tình trong việc rao giảng và giải tội. Hai thánh vụ này đã làm hao tốn biết bao sức lực của một người tông đồ nhiệt thành và một đầy tớ chuyên chăm của giáo dân.
Về giảng dạy, cha quan tâm soạn bài giảng thật kỹ lưỡng. Cha thường dùng phòng áo để dọn giảng cho yên tĩnh. Cha nghiên cứu các tác giả, có khi xem tới 7 tác giả. Cha đánh dấu những đoạn cần phải chép lại và lắm khi phải phiên dịch tới 40 hay 50 trang sách. Học thuộc lòng trước vào thứ bảy và buổi tối sau khi bổn đạo về nhà, cha đi chung quanh nghĩa địa để lập lại những đoạn khó. Cha lại không quên cầu nguyện trước khi giảng...Cha giảng rất hùng hồn. Có người hỏi: “Tại sao lúc cầu nguyện thì cha nói nhỏ mà khi giảng cha lại nói to thế ?”. Cha trả lời : “Khi giảng phải nói to vì người nghe họ buồn ngủ và nặng tai, nhưng khi cầu nguyện với Chúa thì nói nhỏ vì Người không nặng tai”. Cha giảng rất hùng hồn và dạy dỗ với uy quyền. Bài giảng rất cụ thể với đời sống Dân Chúa và chỉ bảo phải làm gì hay làm như thế nào để giáo dân dễ thực hành.
Về việc giải tội, cha sở họ Ars là một LM nổi tiếng trong việc siêng năng giải tội. Có thể nói tội nhân đã chiếm đoạt tất cả tâm tư, lời cầu nguyện, hãm mình và mọi hành động của ngài. Cha thường ngồi tòa 15 giờ mỗi ngày, bắt đầu từ 1 hay 2 giờ sáng và kết thúc vào lúc đêm khuya…Người ta nối nhau để chờ xưng tội. Có thể nói là cha ngồi tòa liên tục, bởi vì giáo dân xứ Ars xưng tội thường xuyên, lại có các khách hành hương từ các nơi xa kéo đến, có khi lên tới 80.000 người hằng năm. Cha giải tội cả lúc đêm về, bất cứ lúc nào cha cũng sốt sắng với việc giải tội khi có người xin vào những lúc bất thường. Trước ngày qua đời 5 hôm, người ta còn thấy các tội nhân chen chúc bên giường bệnh của cha để lãnh nhận ơn tha thứ. Cha còn được ơn thấu suốt tâm tư và tâm hồn của người khác và ngài biết khôn ngoan đưa dẫn họ vào việc xưng tội, cả khi họ không có ý đi xưng tội khi gặp ngài. Đặc biệt cha còn làm việc đền tội với tội nhân. Cha nói: “Tôi ra cho họ việc đền tội nhẹ nhàng và tôi làm thay cho họ việc đền tội còn lại”....
Một LM sống và làm việc như thế thì hiển nhiên là người-bị-ăn đích thực rồi? Chính giáo dân vừa nuôi dưỡng ngài lại vừa “hành hạ” ngài. Nhưng nét đẹp diệu vợi và thánh thiêng của vị mục tử là ở chỗ đó. Và, thậm chí “Ngay cả khi thấy LM thinh lặng cầu nguyện, hoặc thinh lặng hiện diện với tuổi tác và bệnh tật, mọi người thiện chí đều có cảm tưởng là một Đấng thiêng liêng đang hiện diện một cách tích cực trong cuộc sống ngài...” (ĐGM Bùi Tuần, tuyển tập “Được chọn và sai đi”, 2003).
Mọi giáo dân đều có chung một ý nghĩ này là chỉ nguyên sự hiện diện thường xuyên tích cực và sống động của LM giữa họ thôi cũng đủ đem lại bình an và niềm vui cho cộng đoàn rồi. Thực tế, đôi khi trái ngược, vì có nhiều nơi được gặp LM đã là khó, được ngồi nói chuyện giãi bày tâm sự với các ngài còn khó hơn, và được ngài lắng nghe, chỉ bảo còn khó hơn gấp nhiều lần...Nhiều nơi giáo dân trở thành “vật hiến tế” hơn là LM. Có người đã lên tiếng đặt vấn đề: “LM, quà tặng hay là gánh nặng?”...Ước mong Lời Chúa sau đây sẽ luôn là hiện thực: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Gio 10,10).
Quả vậy, ĐGM Giuse Nguyễn Chí Linh trong bài giảng tĩnh tâm các LM gp Đàlạt tháng 2-2009, đã chia sẻ: “...’Ta đến để cho thế gian được sống và được sống dồi dào’. Đó là điều Chúa Giêsu đã thể hiện trong cuộc sống tại thế của ngài. Đó cũng là điều bằng mọi giá chúng ta phải đạt được trong đời linh mục của chúng ta. Sự có mặt của vị linh mục trong đời giáo dân có khi đã đục khoét những lỗ hổng quá lớn. Cần phải làm thế nào để sự có mặt của linh mục trong đời giáo dân là một cái gì tích cực: làm cho họ được sống và được sống dồi dào hơn. Có thể nói không quá đáng rằng phải thương giáo dân mới là cha xứ. Không thương dân không phải là linh mục, không phải là cha xứ. Người giáo dân sẵn sàng châm chước cho linh mục ngay cả khi các ngài mắc phải những lỗi lầm nghiêm trọng, miễn là họ thấy linh mục yêu thương họ. Yêu thương giáo dân phải là một phản xạ tự động của linh mục. Đó là cách hiệu quả nhất để chúng ta thể hiện tinh thần của Chúa Giêsu cứu thế”...
* LINH MỤC: THÂN PHẬN NGƯỜI QUẢN GIA BẤT TÀI
Khi về nhận xứ, LM mặc nhiên trở thành người quản gia của xứ đó. Ngài là tâm điểm quy tụ tín hữu thành một cộng đoàn đức tin và đức ái, trong sự hiệp nhất với Chúa Ki-tô và Hội thánh. LM thi hành thánh vụ như những người “quản lý các mầu nhiệm Thiên Chúa”, như thánh Phao-lô nói, đồng thời ngài là người đứng ra tổ chức điều hành các công việc giáo xứ. Nhiều LM cảm thấy quá tải, mệt mỏi vì công việc thì quá nhiều mà khả năng lại có hạn...Nhưng dù thế nào đi nữa, LM không thể bỏ cuộc vì đây là bổn phận và trách nhiệm của các ngài. Thân phận của người quản gia là vậy.
Trên thực tế, đã có nhiều LM “đụng” phải những vấn đề không phải là sở trường, sở học của mình, nhưng phải xắn tay áo lao vào làm. Nào là việc xây cất các công trình, việc tổ chức điều hành các hội-đoàn-nhóm, việc phát triển công tác mục vụ, truyền giáo, bác ái xã hội vv. Các ngài biết là mình bất tài nhưng không bất lực, nên phải vui lòng thi hành, vì đức vâng lời và vì lợi ích chung cộng đoàn.
Người quản gia luôn phải đối phó với hai lực tác động, trên đe dưới búa. Trên là mong ước của bề trên, dưới là ý kiến của bề dưới. Nhiều LM đã than thở, thân phận các ngài giống như người con gái đi lấy chồng, làm dâu trăm họ. Giáo dân thì trăm người mười ý, không thể thỏa mãn mọi đòi hỏi của mọi tầng lớp giáo dân được.
Thực vậy, ”Hơn ai hết, chính bản thân linh mục luôn ý thức “thân phận con người” của mình với bao nhiêu giới hạn, khiếm khuyết, mà nếu thiếu sự trợ lực của “Grâce d’état”, thì e rằng sẽ nắm chắc phần thất bại. Thử liệt kê ra đây vài giới hạn thường tình:
- Chưa bao giờ được đào tạo chuyên ngành về nghệ thuật quản trị, điều hành...
- Kiến thức thần học được tiếp thu nơi Đại Chủng viện thường mang nặng tính lý thuyết hơn là nhắm đến thực hành.
- Không được phú ban những năng khiếu cần thiết thích hợp cho lãnh vực mục vụ: tài ăn nói, nghệ thuật lãnh đạo, các năng khiếu nghệ thuật, mỹ thuật (âm nhạc, hội họa, kiến trúc...), óc hài hước, tài thu phục nhân tâm...
- Không bắt kịp các trào lưu và xu thế văn hóa, triết học, khoa học đương đại.
- Thiếu khả năng sở hữu và ứng dụng các phương tiện truyền thông hiện đại: vi tính, internet...
Đứng trước những thực trạng như thế, người mục tử được sai đến phục vụ cộng đoàn sẽ phải chuẩn bị những hành trang mục vụ nào khả dĩ để mình khỏi sớm “bị đào thải” mà cộng đoàn lại được thăng tiến và phát triển sinh động ?
Quả là một bài toán khó. Một nan đề mà ngoài ân sủng của Thánh Thần, sức con người không thể kham nổi...” (LM Giuse Trương Đình Hiền, “Ưu tiên mục vụ cho hiện tại và tương lai của giáo xứ”, VietCatholic News 03/06/2008).
Tuy nhiên, phải khẳng định điều này là nếu “người quản gia LM” biết vận dụng nhân lực tài lực trong cộng đoàn, biết tranh thủ sự cộng tác đắc lực của giáo dân, biết khiêm tốn đón nhận mọi góp ý của nhiều giới, nhiều thành phần trong giáo xứ thì chắc chắn ngài sẽ vượt qua những khó khăn trở ngại tưởng chừng như bế tắc.
Mặt khác, nếu LM biết khôn ngoan chia sớt một số phận vụ công việc nào đó cho giáo dân cùng cộng tác, cùng thực hiện thì lúc đó ngài sẽ nhẹ gánh lo những việc chính yếu hơn cho cộng đoàn.
Chẳng hạn: “ Cử hành Thánh lễ là công việc lớn nhất trong ngày của ngài. Đó là trách vụ cao cả nhất mà Chúa trao phó và cũng là phương thế để ngài nhận được hồng ân Chúa ban...Khi dâng Thánh lễ, linh mục là người mở cửa cho Chúa thăm viếng thế gian. Vì vậy, ai ghét linh mục là ghét Chúa vậy, ai ngăn cản Thánh lễ, qua việc phá hoại hành sự của linh mục là chống lại Chúa và dân Chúa!
Ngoài Thánh lễ, linh mục thường đem Mình Thánh đến các kẻ liệt từ nhà này qua nhà khác.
Phép giải tội, do linh mục cử hành, là ơn cứu rỗi và hoà giải Chúa ban. Ðây cũng là dịp, giáo dân tiếp nhận những lời khuyên nhủ từ linh mục, một cố vấn đã được huấn luyện kỹ càng và nhiều kinh nghiệm.
Trong tuần, linh mục thường đi thăm viếng giáo dân, kẻ liệt, người bất hạnh…Linh mục phải tìm dịp để đi thăm, nếu không là cá nhân thì phải đến các hội đoàn. Giáo dân gọi linh mục là Cha, linh mục có bổn phận cho xứng đáng với chức vụ làm cha trong gia đình cộng đoàn đã được giao phó cho mình.
Linh mục ngày nay không chỉ làm bổn phận trên bàn thánh và trong toà giải tội. Sứ mệnh của linh mục là sứ giả của Chúa Kitô, đem Tin Mừng đến cho mọi người, là nhà ngoại giao của Chúa Giêsu, là tiếng nói của Thánh Linh với mọi người và cho mọi tầng lớp trong xã hội linh mục đang sống. Một linh mục thành công là một linh mục biết hạnh phúc với cái hạnh phúc của mọi người và biết khổ đau với cái khổ đau của mọi người. (Phê-rô Trần Đình Thuần, “Vai trò của người linh mục hôm nay”, http://www.nuvuongcongly.net, 31-03-2012).
Tóm lại, LM quản gia là người làm việc trong vườn nho của Chúa, là người phục vụ vì phần rỗi các linh hồn. Các ngài mang thân phận hèn yếu, mỏng dòn, lại bất tài nhưng không vô dụng. Bởi vì, chính Chúa Giê-su Mục Tử làm việc trong các ngài, chính Chúa Thánh Thần hoạt động trong các ngài để giúp các ngài chu toàn thánh vụ. “Đúng là sứ vụ của linh mục rất vinh dự nhưng cũng rất nặng nề. Một viên ngọc quý được đặt trong bình sành. Nhưng có Chúa ở cùng, chúng ta không lo sợ. Vì theo sát gót Chúa Giêsu, nên bổn phận chúng ta cũng làm con-người-Chúa như chính Đức Kitô. Có nghĩa là làm trung gian giữa trời và đất” (ĐGM Phêrô Nguyễn Soạn, bài “LM người là ai?”, VietCatholic News 28-02-2005)./.
Mọi Ki-tô hữu chúng ta đều biết rằng, “ ‘Bản chất Giáo Hội là truyền giáo’ (Vat II, AG 2). Giáo Hội Đề tài 32
Mọi Ki-tô hữu chúng ta đều biết rằng, “ ‘Bản chất Giáo Hội là truyền giáo’ (Vat II, AG 2). Giáo Hội được thành lập để truyền giáo. Từ hơn hai mươi thế kỷ qua, Giáo Hội đã luôn cố gắng thực hiện lệnh truyền này của Chúa Giêsu, nhờ đó, Tin Mừng đã được phổ biến rộng rãi khắp nơi trên thế giới. Giáo Hội bắt đầu từ một nhóm người rất nhỏ bé, nay đã trở thành một đại gia đình rộng lớn và phát triển mạnh mẽ khắp mọi nơi và mọi dân tộc” (LM Nguyễn Văn Hương, bài “Truyền giáo, sứ mạng chính yếu của người Ki-tô hữu”, nguồn daichungvienvinhthanh.com).
Chúng ta đã biết và nghe nói rất nhiều về công cuộc truyền giáo của Hội thánh, nhưng có lẽ, phần đông chúng ta lại nghĩ rằng công việc này là trách nhiệm thuộc hàng giáo phẩm, hàng giáo sĩ và các nhà truyền giáo chuyên biệt. Điều này dẫn đến một hệ quả đáng buồn, đó là phần đông tín hữu chúng ta lơ là đối với việc truyền giáo trong Hội thánh.
Thực vậy, “Nhiều tín hữu còn cho rằng loan báo Tin Mừng là công việc chuyên môn của linh mục, tu sĩ hay một số giáo dân chuyên nghiệp đã được học về Thần học, chứ không phải là bổn phận của chính mình. Nhiều vị có trách nhiệm lại cho rằng truyền giáo là mở những lớp giáo lý tân tòng để dạy cho người muốn theo đạo những bài học soạn sẵn hay bắt họ học thuộc lòng một số kinh. Nhiều người tích cực hơn thì mua các sách Kinh Thánh hay Tân Ước phát tặng cho anh em lương dân hay tặng quà cho họ trong những dịp lễ Tết...” (LM Nguyễn Ngọc Sơn, bài “Hiệu quả truyền giáo ở Việt Nam trong những năm gần đây - Nghi vấn và giải thích”, nguồn VietCatholic News 03 Mar 2009).
Thực tế cho thấy, một mặt, giáo dân chúng ta không quan tâm việc truyền giáo như là nhiệm vụ cấp bách của chính mình, mặt khác chúng ta chỉ lo có đạo và giữ đạo cho riêng mình, theo thói quen và nếp cũ. Nhiều người ngoài Công giáo nhìn vào việc chúng ta hành đạo thì thấy rằng chúng ta tập trung quá nhiều vào đạo hình thức, đạo sinh hoạt, đạo lễ nghi, đạo đoàn thể vv...
Thực vậy, “Nhìn vào đời sống người Kitô hữu hiện nay, chúng ta thấy có một khoảng cách khá lớn giữa điều người ta hiểu và điều người ta sống. Đời sống đạo tập trung vào các nghi lễ, các hoạt động bên ngoài hơn là vào niềm xác tín và cảm nghiệm bên trong.
“Nhìn những cuộc hành hương với vài trăm ngàn người tham dự, mà người ở xa tiêu hàng triệu đồng, người ở gần tốn vài chục ngàn cho việc đi lại ăn ở, và nếu tính tổng cộng có thể lên tới hàng chục, hàng trăm tỷ đồng, trong khi hàng trăm ngàn học sinh vẫn còn thiếu lớp, cả triệu người tàn tật còn thiếu điều kiện sinh sống, hàng trăm ngàn người nghèo thất nghiệp đang phải chật vật kiếm ăn, thì có lẽ chúng ta phải nhìn lại cách thức bày tỏ lòng đạo của mình đối với Chúa và Đức Mẹ cho âm thầm, khiêm tốn hơn chăng?
“Nếu chúng ta chỉ rao giảng Lời Chúa như một người tiếp thị, quảng cáo Tin Mừng mà chưa phải là chứng nhân thực sự của Tin Mừng Đức Kitô với những hành động cụ thể trong đời sống thì việc truyền giáo vẫn khó đạt kết quả như lòng mong ước” (x. LM Nguyễn Ngọc Sơn, bài và nguồn đd).
* TRUYỀN GIÁO LÀ GÌ?
Truyền giáo thường được người ta hiểu là giới thiệu Tin Mừng cho người chưa biết Chúa, và đưa họ vào Hội thánh Chúa qua việc dạy giáo lý, cử hành các Bí tích nhập đạo, và gia nhập cộng đoàn (x. Mt 28, 16.18-20). Đó là bề nổi của tiến trình gia nhập cộng đoàn Ki-tô hữu. Còn xét một cách sâu xa theo ý muốn Thiên Chúa qua Đức Giê-su Ki-tô, qua giáo huấn của Hội thánh, thì ta có thể tóm kết một số khái niệm cơ bản về truyền giáo, như sau:
. Truyền giáo là tiếp tục kế hoạch của Thiên Chúa
“Hoạt động truyền giáo không gì khác hơn, cũng không gì kém hơn là sự biểu lộ kế hoạch của Thiên Chúa, sự bày tỏ và thực hiện kế hoạch đó trong thế giới và trong lịch sử, chính trong lịch sử này rõ ràng Thiên Chúa đưa dẫn lịch sử cứu độ đến cùng đích nhờ việc truyền giáo” (Công đồng Vatican II, Sắc lệnh về hoạt động Truyền Giáo của Giáo Hội, 9; ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Sứ Vụ Đấng Cứu Độ, 41) (Nguồn giaoly.com).
. Truyền giáo là loan truyền tình thương của Thiên Chúa đến với con người
“Sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội cốt yếu là loan truyền tình yêu, lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa được mạc khải cho nhân loại qua cuộc đời, cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Đó chính là việc loan báo Tin Mừng: Thiên Chúa yêu chúng ta và muốn mọi dân tộc hiệp nhất trong lòng thương xót yêu thương của Người” (ĐGH Gioan Phaolô II, Sứ điệp Ngày Thế Giới Truyền Giáo năm 2000) (Nguồn giaoly.com).
. Truyền giáo là chia sẻ quà tặng (Đức Giêsu Kitô) mà Giáo Hội nhận được
“Điều phân biệt Giáo Hội với những cộng đồng tôn giáo khác, đó là Giáo Hội tin vào Chúa Giêsu Kitô, và Giáo Hội không thể dấu ánh sáng quí báu đức tin dưới cái thùng (Mt 5,15), bởi Giáo Hội có sứ mạng chia sẻ ánh sáng đó với mọi người. Giáo Hội muốn dâng tặng đời sống mới Giáo Hội đã gặp được trong Chúa Giêsu Kitô, cho tất cả các dân tộc tại Á Châu, khi họ tìm kiếm sự viên mãn của sự sống, để họ có thể hiệp thông với Chúa Cha và Con Người là Chúa Giêsu Kitô trong quyền năng Chúa Thánh Thần” (Đức thánh GH Gio-an Phao-lô II, Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, 10) (Nguồn giaoly.com).
Xét như vậy thì ta có thể thấy rằng truyền giáo không chỉ là truyền đạt một số lý thuyết, kiến thức, giáo lý, lời dạy suông...mà chính là thông chuyển ánh sáng chân lý, sức sống thần linh vĩnh cửu, tình thương cứu độ, sự đổi mới toàn diện đến những người và những nơi đang cần đến.
* ĐỐI TƯỢNG TRUYỀN GIÁO: BẮT ĐẦU TỪ AI?
ĐGH Phan-xi-cô trong Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng (Evangelii Gaudium) về việc loan báo Tin Mừng trong thế giới ngày nay, đã đưa ra một phương án truyền giáo nhắm đến 3 đối tượng sau: (1) Cho những Kitô hữu bình thường, (2) cho những Kitô hữu không còn thực hành niềm tin, và (3) cho những người chưa biết Chúa và Tin Mừng.
Thiết nghĩ, trước hết công cuộc truyền giáo nên bắt đầu từ chúng ta, những Ki-tô hữu bình thường. Tức là các tín hữu đã được chịu bí tích Rửa tội, đã gia nhập Hội thánh Công giáo và đang thực hành niềm tin của mình một cách căn bản. Chúng ta đang thuộc về đối tượng một (1), “gồm những người trong cộng đoàn giáo xứ, trong gia đình chúng ta. Mỗi người chúng ta cần phải tiếp tục Tin Mừng hóa bản thân bằng việc lắng nghe Lời Chúa, nội tâm hóa các giá trị Tin Mừng, thực hành Lời Chúa, nhờ đó chúng ta trở thành những người Kitô hữu đích thực, những người đượm chất Tin Mừng, chứ không phải chỉ là những Kitô hữu trên danh nghĩa. Từ việc Tin Mừng hóa bản thân, chúng ta có thể Tin Mừng hóa gia đình, giáo xứ và môi trường mà chúng ta sống. Có thể nói đây là phạm vi mục vụ thông thường“ (x. LM Nguyễn Văn Hương, bài và nguồn đd).
Dựa vào xếp loại và phân tích trên, chúng ta có thể nhận ra nơi nhóm đối tượng (1) ba nhu cầu chính: a- Tiếp tục Tin Mừng hóa bản thân bằng việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa; b- Nội tâm hóa các giá trị Tin Mừng; c- Thực hiện việc Tin Mừng hóa gia đình, giáo xứ và môi trường sống chung quanh.
a- Tin Mừng hóa bản thân: lắng nghe và thực hành Lời Chúa
Trong đời sống đạo thường ngày, chúng ta có nhiều cơ hội được tiếp cận Lời Chúa để lắng nghe và thực hành. Chẳng hạn nghe các bài đọc và nghe công bố Tin Mừng trong các thánh lễ, nghe các mục tử giảng dạy, tham dự các lớp giáo lý và học hỏi Thánh Kinh, đọc và suy gẫm Lời Chúa vv...
Vấn đề là để giúp Tin Mừng hóa bản thân hiệu quả, chúng ta đã lắng nghe Lời Chúa thế nào? Chúng ta có nhiệt tình học hỏi Thánh Kinh? Chúng ta có sẵn cho mình và gia đình mình một cuốn Thánh Kinh Tân-Cựu Ước? Chúng ta có thường xuyên tham khảo sách Giáo lý Hội thánh Công giáo và các tài liệu giáo huấn của Hội thánh? Chúng ta có tham gia các đoàn-hội-nhóm trong giáo xứ chuyên trách mục vụ truyền giáo để được đào luyện về truyền giáo và thực hiện các việc truyền giáo một cách cụ thể? Chúng ta có biết lợi dụng các phương tiện truyền thông phổ biến như sách báo đạo-đời, internet, email, facebook vv...để học hỏi các vấn đề đức tin và Lời Chúa?
Bên cạnh đó, chúng ta tự hỏi xem mình đã cố gắng thực hành Lời Chúa dạy như thế nào? Chẳng hạn việc tuân thủ luật sống của người môn đệ Chúa dựa vào Tám Mối Phúc, nêu gương sáng Ki-tô hữu, tin tưởng vào Chúa quan phòng, trở nên hoàn thiện như Cha trên trời (Mt 5); Sống từ bỏ vì Nước Trời (Mt 19; Mc 10; Lc 18); Thực hành các giới răn quan trọng về tình yêu (Mt 22; Mc 12, 28-34; Lc 10); Phục vụ Đức Ki-tô trong anh em (Mt 25); Nêu gương phục vụ nhau (Ga 13) vv...
b- Nội tâm hóa các giá trị Tin Mừng
Trước khi lên đường thi hành mệnh lệnh truyền giáo của Đức Ki-tô, chúng ta phải trở nên những Ki-tô hữu chính danh. Công cuộc tái truyền giáo bản thân chính là từng giây từng phút trở nên môn đệ đích thực của Chúa Ki-tô. Việc này rất cấp thiết và đòi hỏi chúng ta phải kiên trì và tỉnh thức. Trước khi chúng ta trao ban cho người khác cái gì, chúng ta phải “có” cái ấy đã. Trước khi chúng ta rao giảng Lời Chúa, chúng ta phải là những chứng nhân đích thực. ĐGH Phao-lô VI nói: “Người thời nay tin vào chứng nhân hơn là thầy dạy”. Trước khi chúng ta truyền giáo cho người khác, chúng ta phải là những Ki-tô chính danh.
Thực vậy, “Danh hiệu Ki-tô hữu chân chính có nghĩa là tùy thuộc mọi khía cạnh đời mình vào con người của Chúa Giê-su Ki-tô và qua Ngài vào Thiên Chúa Cha. Ki-tô hữu tràn đầy nguồn sống Ki-tô can đảm khiến cho giáo huấn của Chúa Giê-su sống và hoạt động không bị thời gian xóa bỏ và làm suy yếu đi nơi chính bản thân mình. Mệnh lệnh truyền giáo được tháp vào con tim Công giáo. Cách tốt nhất để ‘Tin Mừng hóa bản thân và môi trường sống’ là nội tâm hóa Tin Mừng ấy, biến toàn bộ Tin Mừng trở nên máu thịt Ki-tô hữu” (LM Nguyễn Văn Thượng, bài “Tin Mừng hóa nội tâm trước lệnh lên đường ”, nguồn giaophanmytho.net).
c- Thực hiện Tin Mừng hóa gia đình, giáo xứ và môi trường sống:
Song song với việc tái truyền giáo bản thân là việc Tin Mừng hóa gia đình của chúng ta, sau đó là giáo xứ và môi trường sống của chúng ta. Trước hết, phải khám phá ra nhu cầu tái truyền giáo của từng thành viên trong gia đình. Chẳng hạn, khởi xướng việc đọc Thánh Kinh và học hỏi Lời Chúa cùng với việc cầu nguyện chung trong gia đình qua giờ kinh tối hàng ngày hoặc hàng tuần. Nhắc nhở nhau năng tham dự thánh lễ và lãnh nhận các bí tích khi cần thiết. Xây dựng và củng cố mối liên kết thân ái giữa các thành viên trong gia đình, thực hành bác ái đối với nhau và nêu gương sáng cho nhau. Phải làm sao biến gia đình chúng ta trở nên một “Hội thánh tại gia” từ đó lan tỏa ánh sáng Tin Mừng ra thế giới bên ngoài.
Xét rộng hơn, gia đình Kitô hữu có nhiệm vụ làm tông đồ giáo dân. Công Đồng Vaticanô II đã khẳng định: “Từ gia đình, Ki-tô giáo thấm nhập vào tất cả các tổ chức cuộc sống và dần dần biến đổi các tổ chức ấy; nơi gia đình, vợ chồng tìm thấy ơn gọi riêng của mình là làm chứng cho nhau và cho con cái lòng tin và tình yêu Chúa Kitô. Gia đình Ki-tô giáo lớn tiếng loan truyền sức mạnh của Nước Thiên Chúa và niềm cậy trông vào một đời sống hạnh phúc. Như thế bằng gương lành và chứng tá, gia đình Ki-tô giáo thuyết phục thế gian đảm nhận tội lỗi mình, đồng thời sáng soi những kẻ đang tìm kiếm chân lý ” (x. CĐ Vat. II, Hiến chế Tín lý về GH, ch. IV “Giáo dân”, số 35).
* TRUYỀN GIÁO BẰNG ĐỜI SỐNG CHỨNG NHÂN KI-TÔ GIÁO
Truyền giáo bằng đời sống chứng tá là hình thức truyền giáo được xếp ưu tiên hàng đầu và là căn cơ nhất. Chia sẻ về đường lối truyền giáo bằng chứng tá đời sống, một tác giả đã nhấn mạnh: “Con người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là các thầy dạy. Tin vào kinh nghiệm hơn là đạo lý, tin vào đời sống và các sự kiện hơn là các lý thuyết. Hình thức đầu tiên của việc truyền giáo là chứng tá đời sống Ki-tô hữu; hình thức này là điều không thể thay thế được. Chúa Ki-tô, Đấng mà chúng ta đang tiếp tục sứ mạng của Người, là ‘Vị Chứng Nhân’ tuyệt hảo (Kh 1,5 ; 3,14) và là khuôn mẫu cho chứng tá Ki-tô giáo. Chúa Thánh Thần đang đồng hành với Giáo hội trên bước đường của Giáo hội, đồng thời liên kết Giáo hội với lời chứng của người về Chúa Ki-tô (Ga 15, 26-27)” (Nguồn Internet).
Chúng ta cũng lưu ý là một trong những cách thức hiệu quả nhất của việc truyền giáo bằng đời sống chứng tá, đó chính là nêu gương đời sống bác ái, “Truyền giáo bằng những việc làm cụ thể, bằng chính đời sống bác ái của mỗi người chúng ta. Chúng ta đến thăm viếng những người già, người nghèo, người đau khổ, người bị bỏ rơi trong xã hội. Chúng ta giúp đỡ họ, an ủi họ. Qua những việc làm cụ thể, họ nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Kitô. Bởi vì, lời nói lung lay, gương lành lôi cuốn. Những hành vi bác ái cụ thể là những bài giảng hùng hồn nhất về Thiên Chúa. Đây là cách thức truyền giáo hiệu quả nhất” (LM Nguyễn Văn Hương, bài và nguồn đd)./.
Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã nói: “Mùa chay là thời gian để điều chỉnh lại đời sống của các Đề tài 33
Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã nói: “Mùa chay là thời gian để điều chỉnh lại đời sống của các bạn để đến gần Chúa hơn”. Điều chỉnh tức là thay đổi, là canh tân, là đổi mới. Mỗi khi bước vào mùa Chay, Hội thánh luôn kêu gọi các tín hữu, ngoài việc ăn chay, hãm mình, cầu nguyện, làm việc bác ái...mỗi người chúng ta còn phải quan tâm tới việc sám hối, ăn năn đền tội. Việc cụ thể nhất, đó là chúng ta xét mình và xưng tội. Hội thánh mời gọi tín hữu hãy làm hòa với Chúa, hòa giải với anh em, thay cũ đổi mới, được thanh tẩy để trở nên tốt hơn, thánh thiện hơn như lòng Chúa mong ước.
ĐTGM Giuse Vũ Văn Thiên, khởi đầu mùa Chay 2017 tại Gp Hải Phòng, đã chia sẻ: “’Lạy Chúa, xin ban cho con một trái tim trong sạch!’ (Tv 50,12). Đó là lời nguyện cầu của vua Đavít. Đó cũng là tâm tình của mỗi chúng ta mỗi khi Mùa Chay về. Trái tim sạch là trái tim được canh tân. Nếu không đổi mới từ tâm can, Mùa Chay sẽ trở thành vô nghĩa. Thiên Chúa đang chờ đợi và sẵn sàng ban cho chúng ta một trái tim mới, thay thế trái tim đã già cỗi và chai đá. Khi mang một trái tim được canh tân, chúng ta sẽ thấy cuộc đời này đẹp đẽ và đáng yêu hơn”. [1]
Như vậy, xét cho kỹ thì sự canh tân đổi mới của chúng ta có khởi điểm là tận sâu thẳm trong tâm hồn, lan tỏa ra bên ngoài, từ nội tâm bên trong con người đến cuộc sống bên ngoài, từ những việc nhỏ nhất đến những việc lớn nhất... Theo thông lệ, trong mùa Chay chúng ta sốt sắng tham dự thánh lễ, nghe giảng tĩnh tâm và đi xưng tội. Nhưng nếu chúng ta chỉ thực hành những việc đó một cách máy móc, hình thức, chiếu lệ và an tâm là mình đã sống trọn vẹn mùa Chay, thì thực sự là thiếu sót vì chưa đúng theo ý của Chúa và Hội thánh.
ĐTC Phan-xi-cô, trong sứ điệp mùa Chay 2019, đã có đoạn viết như sau: “Chay tịnh, nghĩa là học cách thay đổi thái độ của chúng ta đối với người khác và tất cả những loài thụ tạo, học cách từ bỏ cám dỗ “nuốt chửng” mọi thứ để thỏa mãn lòng khao khát tham lam của chúng ta và sẵn sàng chịu đựng cho tình yêu, là điều có thể lấp đầy sự trống rỗng trong con tim chúng ta.
“Lời cầu nguyện dạy chúng ta từ bỏ thói thờ ngẫu tượng và sự tự mãn của bản ngã, giúp ta nhìn ra rằng chúng ta cần đến Chúa và lòng thương xót của Người.
“Việc bố thí, nhờ đó chúng ta thoát khỏi sự điên rồ của việc tích trữ mọi thứ cho bản thân với niềm tin viển vông rằng chúng ta có thể bảo đảm cho mình một tương lai không hề thuộc về chúng ta. Và như thế, chúng ta có thể tái khám phá niềm vui trong chương trình của Chúa dành cho sáng tạo và cho mỗi người chúng ta, đó là yêu mến Người, anh chị em của chúng ta, và toàn bộ thế giới, và tìm thấy nơi tình yêu này hạnh phúc đích thực của chúng ta”. [2]
Xét như trên thì việc ăn chay, bố thí và cầu nguyện của chúng ta trong mùa Chay mang một chiều kích sâu rộng hơn, cao cả hơn, tinh tuyền hơn. Đó không chỉ là những việc làm theo luật mà còn là động lực giúp ta chiến thắng con người cũ của mình, bước vào quỹ đạo canh tân đổi mới theo tinh thần Tin Mừng Ki-tô giáo.
* ĐỔI MỚI TƯ DUY SỐNG ĐẠO
Mùa Chay trước hết giúp chúng ta đổi mới tư duy sống đạo. Có thể chúng ta đang sống trong tư duy giữ đạo theo lề luật. Đạo đối với nhiều Ki-tô hữu đơn giản chỉ là đạo-sinh-hoạt, đạo-đoàn-thể, đạo-đọc-kinh, đạo-phe-nhóm, đạo-hình-thức, đạo-phô-trương vv.
LM Nguyễn Trọng Viễn O.P, trong bài “Đạo-sinh-hoạt” đã chia sẻ như sau: “Cung cách sống đạo của phần lớn Kitô hữu hiện nay là cố gắng chu toàn các giới răn của Chúa. Đời sống đức tin được qui định bằng luật lệ, được diễn giải thành những hành vi cụ thể : làm dấu, đọc kinh, xưng tội, sinh hoạt mùa Vọng, mùa Chay, kiêng thịt, ăn chay… Kiêng thịt chứ không phải là tự nguyện có một chút hy sinh. Ăn chay nghĩa là ‘một bữa no hai bữa đói’ và có thể ‘mất chay’ nếu lỡ ăn bất cứ điều gì ngoài ba bữa chính, chứ không phải là một hành vi nói lên lòng khao khát Chúa. Đi lễ ngày Chúa Nhật thế nào cho ‘thành sự’ chứ không phải kín múc nguồn mạch sức sống cho cuộc sống thường ngày. Làm dấu trước bữa ăn thay vì một tâm tình tạ ơn...Trong những nếp qui định ấy, có khá nhiều Kitô hữu hiện nay rõ ràng đã không sống được một tâm thức của đức tin chân chính.
“Người Kitô hữu cố gắng giữ luật để khỏi phạm tội chứ ít hiểu rằng giữ luật là một sự tín trung với Chúa. Người Kitô hữu đi lễ như một trách nhiệm phải chu toàn chứ không sống tinh thần hiệp thông với cộng đoàn để tạ ơn Chúa. Nhiều bạn trẻ tránh tội vì sợ Chúa phạt, nên khi lỡ phạm một tội trọng (chẳng hạn bỏ lễ Chúa Nhật) thì chọn lập trường ‘cùi không sợ lở’, ‘chơi luôn’... cho đến khi xưng tội lại. Nhiều người rất sốt sắng trong việc nhà đạo, nhưng không sống một chút giá trị lòng thương yêu và tôn trọng những người bé mọn, sự cảm thông, tha thứ, cái nhìn của đức tin siêu nhiên… Do đó, chúng ta thấy nhiều người Kitô hữu tính toán chi tiết để khỏi vi phạm luật, nhưng không hề thấy lỗi lầm của mình trong những việc không thấy ghi rõ các các giới răn, chẳng hạn làm cho những người chung quanh phải khổ...”. [3]
Từ những nhận định trên, chúng ta thấy rằng đổi mới tư duy sống đạo theo hình thức cũ là rất cần thiết trong mùa Chay này.
Thay vì chúng ta giữ đạo theo lề luật, thì hãy sống đạo theo lòng mến Ki-tô giáo, vì “Yêu thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,10).
Thay vì chúng ta bị thúc đẩy, lôi kéo đi xưng tội theo thói quen và theo đám đông, thì hãy xét mình kỹ lưỡng và nghiêm túc, đồng thời quyết tâm hối cải. Hối cải theo tinh thần và lời mời gọi của Chúa Ki-tô. Vì chỉ có hối cải thực sự chúng ta mới được ơn tha thứ, được ơn trở về với Chúa và được Ngài đón nhận.
Thay vì chúng ta đi lễ và rước lễ theo quán tính, người sao ta vậy, thì chúng ta hãy tham dự thánh lễ một cách sốt sắng, tích cực nhằm kín múc những lợi ích thiêng liêng từ bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể. Chúng ta chăm chú rước lễ để nhờ đó được thông hiệp vào hiệu quả sự chết và sự sống lại của Chúa Ki-tô, để được sống như Ngài. Và cũng qua sự thông hiệp ấy, chúng ta được liên kết với mọi phần tử trong mầu nhiệm Thân Thể Đức Ki-tô. Và khi đó đức bác ái Ki-tô giáo sẽ là mối dây ràng buộc liên kết chúng ta lại với nhau.
Thay vì chúng ta lải nhải đọc hết kinh này đến kinh nọ, hết cung điệu này đến cung điệu kia, thì chúng ta dành thời gian để cùng đọc và suy niệm Lời Chúa phán dạy trong Thánh Kinh. Thánh Giê-rê-ni-mô đã nói: “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô”. Thánh Kinh sẽ giúp chúng ta hiểu rõ ý Chúa hơn trong chương trình cứu rỗi của Ngài và nắm giữ các điều Ngài dạy. Đó là điều Chúa muốn và ưa thích chúng ta quan tâm thực hành. Chúa đã phán: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14, 23).
* ĐỔI MỚI THEO TINH THẦN HOÁN CẢI CỦA TIN MỪNG
Kêu gọi mọi tín hữu hoán cải luôn là thông điệp nổi bật của mùa Chay. Hoán cải để được ơn tha thứ. Hoán cải để được ơn trở về. Hoán cải là bước đầu và là yêu cầu cốt thiết của đổi mới, hoán cải để dễ dàng gặp Chúa và tha nhân.
Vậy hoán cải theo Ki-tô giáo là gì?
Trong bài “Hoán cải, hành trình trở về với Chúa”, LM Phaolô Bùi Đình Cao đã chia sẻ như sau:
“Khi dùng từ hoán cải - Metanoia - trong Kinh thánh Cựu ước và Tân ước, các tác giả muốn nói lên sự thay đổi tâm tình, não trạng, hối tiếc, hối hận. Cách đặc biệt, nó còn được dùng để nói đến một sự thay đổi hướng đi, thay đổi đường xưa lối cũ, có nghĩa là từ bỏ đường tà để trở lại đường chính, triệt để quay về với Thiên Chúa. Như thế, hoán cải không chỉ là thay đổi việc làm bên ngoài hay chỉ bên trong tâm trí mà thôi, nhưng là thay đổi cả con người, thay đổi cả trong ý muốn cũng như trong hành động. Do đó, ta thấy được rằng hoán cải, ngoài chiều kích luân lý (bỏ điều dữ làm điều lành) còn có chiều kích thần học – chiều kích này làm động lực cho chiều kích luân lý. Hoán cải không đơn thuần chỉ là sửa chữa những lầm lỗi của của mình hay từ bỏ đường tà, nhưng điều cơ bản là phải nhận biết tôi là ai trước mặt Chúa. Hoán cải là được hiệp thông với Chúa, có nghĩa là nhận ra thân phận thụ tạo của mình, tuyệt đối qui hướng về với Thiên Chúa và ở lại trong Ngài”. [4]
Ở chỗ khác, một tác giả đã giải thích như sau: “Hoán cải, theo từ hy lạp (Metanoia) dùng trong Tân Ước có nghĩa là nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng, hối tiếc, hối hận. Như vậy, dường như nó chỉ liên hệ với tâm trí, với sự thay đổi bên trong. Không phải thế. Phải hiểu nó theo chủ đề căn bản trong Cựu Ước, cách riêng từ ngôn sứ Giêrêmia. Nó có nghĩa là thay đổi hướng đi, thay đổi con đường, bỏ đường tà trở lại đường chính, triệt để quay về với Thiên Chúa của Giao Ước, và dấn bước vào một cuộc sống mới. Vì Cựu Ước coi con người như một toàn thể, nên hoán cải không chỉ là thay đổi tâm trí, mà là cả con người. Không chỉ trong ý nghĩ mà cả trong hành động”. [5]
Như vậy, về ý nghĩa cơ bản, hoán cải là thay đổi toàn bộ con người cả bên ngoài lẫn bên trong, cả tâm trí tinh thần lẫn đời sống sinh hoạt, là quay đầu 180 độ, từ bỏ con đường cũ, bước đi con đường mới theo Chúa Ki-tô. Mùa Chay là cơ hội thuận tiện giúp chúng ta định hướng lại con đường chúng ta đang đi. Hoán cải là một tiến trình thay đổi đầy khó khăn, phức tạp. Đó là một cuộc “lột xác” mà mọi Ki-tô hữu phải thực hiện để được “mặc lấy Chúa Ki-tô” trong cuộc sống mới.
Tín hữu chúng ta, có thể rất chu đáo tuân giữ các lề luật, rất siêng năng làm các việc lành phúc đức, nhưng lại rất e ngại và sợ khi phải hối cải theo ý muốn của Chúa và Hội thánh. Bởi vì xét cho cùng đó là một cuộc canh tân đổi mới toàn diện. Cả về phương diện luân lý, lẫn đức tin. Cả về nội tâm con người bên trong lẫn bên ngoài. Cả về ý chí lẫn hành động.
Trở lại sứ điệp mùa Chay 2019 của ĐTC Phan-xi-cô, ngài kết luận như sau: “Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta cất bước trên con đường hoán cải thực sự. Chúng ta hãy bỏ lại sau lưng tính ích kỷ và sự tự hấp thụ vào chính mình, nhưng hướng đến sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Chúng ta hãy đứng bên cạnh những anh chị em đang túng thiếu của chúng ta, chia sẻ những của cải tinh thần và vật chất của chúng ta với họ. Nhờ thế, khi chào đón vào cuộc sống của chúng ta một cách cụ thể chiến thắng của Chúa Kitô trên tội lỗi và cái chết, chúng ta cũng sẽ phản chiếu ánh quang rạng rỡ quyền năng biến đổi của chiến thắng ấy cho tất cả các tạo vật”./. [6]
- - - - - - - - - - - [1] ĐTGM Vũ Văn Thiên, bài “Một trái tim mới”, suy tư mùa Chay 2017 gp Hải Phòng, nguồn: trungtammucvudcct.com [2] J.B. Đặng Minh An dịch, nguồn: gpvinh.com [3] Nguồn: simonhoadalat.com [4] Nguồn daichungvienvinhthanh.com [5] LM Micae Trần Ðình Quảng, bài “Hoán cải hướng về Đức Ki-tô”, nguồn: simonhoadalat.com [6] ĐTC Phan-xi-cô, tài liệu và nguồn đã dẫn trên
Ngày nay, người ta nói nhiều đến “Nghệ thuật nhượng bộ” trong đời sống hôn nhân gia đình, coi Đề tài 34
Ngày nay, người ta nói nhiều đến “Nghệ thuật nhượng bộ” trong đời sống hôn nhân gia đình, coi đó như là một giải pháp rất hiệu quả nhằm giải quyết các mâu thuẫn, xung đột giữa hai vợ chồng. Nhượng bộ không phải là thái độ yếu thế, buông xuôi tiêu cực, không dám đương đầu với bất kỳ khó khăn hay rắc rối nào. Nhưng đó là thái độ và phản ứng có chọn lựa, có cân nhắc, có suy nghĩ. Ngạn ngữ Anh có câu: “Nhượng bộ không phải là hạ mình; nhận lỗi không phải là nhục nhã”.
Đây là kinh nghiệm của nhiều người, “Nếu chúng ta chịu nhìn nhận những điều sai trái của mình trước khi người khác có dịp nói ra, chúng ta sẽ có 99% cơ hội được đối xử bằng thái độ hào hiệp. Trong quan hệ với con người, hãy luôn nhớ rằng chúng ta đang giao tiếp với những sinh vật không những có lý trí mà còn có cảm xúc, họ rất dễ bị tổn thương bởi định kiến nhưng luôn có động lực khi có niềm tự hào và lòng kiêu hãnh. Nếu bạn đã sai lầm thì không gì hay bằng thẳng thắn nói nói ra rằng ‘Tôi đã sai’. Nhượng bộ không phải là hạ mình...”. [1]
Nhượng bộ, hiểu theo nghĩa tích cực và đơn giản, là nhường nhịn, là chấp nhận ý kiến khác biệt của người khác, là lui một bước để hai người cùng song hành... Ông bà ta thường nói: “Thương nhau chín bỏ làm mười” hay “Một sự nhịn chín sự lành”. Nhượng bộ không có nghĩa là thất thế mà là do tình yêu giữa hai người đủ lớn mạnh để có khả năng xóa bỏ mâu thuẫn, giảm bớt xung khắc, giải quyết bất đồng.
Mục tiêu của nhượng bộ chính là xây dựng sự hòa hợp giữa đôi bạn, bởi vì chỉ có hòa hợp người ta mới duy trì được cuộc hôn nhân bền vững lâu dài được. Tục ngữ VN có câu “Dĩ hòa vi quý”. Khi hai vợ chồng nhượng bộ nhau thì họ sẽ tìm được tiếng nói hòa hợp chung nhờ đó họ có thể sát cánh bên nhau suốt cuộc hành trình lâu dài. Một tác giả đã viết: “Hòa hợp là sự chấp nhận nhau để hòa nhập với nhau, bù trừ cho nhau…là sự thông hiểu nhau, chấp nhận nhau và sống biết điều với nhau”. [2]
Sau đây là một số cách thế biểu hiện sự nhượng bộ có hiệu quả.
* NÓI ÍT, LẮNG NGHE NHIỀU
Chúng ta thấy rằng trong bất cứ cuộc cãi vã, xung đột nào giữa hai vợ chồng thì ai cũng muốn mình là người thắng và phía bên kia là kẻ thua. Người này lấn lướt người kia nhờ vào khả năng “khẩu chiến” của họ. Nếu cả hai cùng “cương” thì sẽ chẳng bao giờ giải quyết được vấn đề nóng bỏng giữa hai người. Vì thế, ca dao VN có câu “Chồng giận thì vợ bớt lời / cơm sôi nhỏ lửa một đời chẳng khê”.
Nghệ thuật nhượng bộ đưa ra một giải pháp, đó là “Nói ít, nghe nhiều”. Nếu cả hai bên cùng chấp nhận lắng nghe nhiều hơn là lên tiếng nói, thì tình hình sẽ sáng sủa rất nhiều.
Ai cũng biết trong đời sống gia đình, vợ chồng khó tránh khỏi những va chạm, mâu thuẫn, xung khắc này nọ. Bởi, “Chén bát còn có lúc xô xát, huống chi vợ chồng” (Tục ngữ VN). Do đó, điều quan trọng trong đời sống vợ chồng không phải là tránh mâu thuẫn nhưng là tìm cách giải quyết những xung đột một cách tốt đẹp, êm thắm. Đó là con đường hòa giải theo hướng nhượng bộ nhau. Nếu lỡ có tranh cãi thì “Hãy nhường cho chồng/ vợ của bạn thắng trong cuộc tranh cãi, nếu cần có người thắng” (Danh ngôn). * CHỦ ĐỘNG NHƯỜNG VÀ NHỊN
Ông bà ta thường nói “Một sự nhịn chín sự lành”, điều đó có nghĩa là chỉ cần một sự nhường nhịn nhau thôi cũng đủ đem lại chín sự thiện lành cho đời sống vợ chồng. Có nhiều người không muốn nhường nhịn, vì họ tự ái hay nghĩ rằng điều đó có thể là khiến cho người kia lấn lướt, áp đảo mình. Trong khi nhường nhịn là chấp nhận cái “Tôi” của mình bé nhỏ đi để đón nhận cái “Tôi” khác biệt của người kia. Đó là hy sinh, đó là bao dung, đó là vị tha.
Thực vậy, sự nhường nhịn trong đời vợ chồng chính là cách cư xử bao dung mà hai người phải thực hành. Thánh Phao-lô đã khuyên nhủ chúng ta sống bí tích và mầu nhiệm hôn nhân dựa trên mẫu mực tình yêu và mối tương quan gắn bó giữa Chúa Ki-tô và Hội thánh. Đức Ki-tô đã yêu thương Hội thánh, đã hiến mình vì Hội thánh, đã chăm sóc, nuôi dưỡng Hội thánh, đã hy sinh cứu chuộc Hội thánh thế nào thì vợ chồng cũng phải sống và đối xử với nhau như vậy.
Một cách cụ thể, thiết thực hơn, tình yêu và sự bao dung trong hôn nhân Ki-tô hữu cũng phải phỏng theo lòng mến Ki-tô giáo, là điều mà thánh Phao-lô đã nhắc nhở trong thư 1Cor:
“Lòng mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Lòng mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả…” (x. 1Cor 13, 4-7).
Thiết nghĩ, sống trọn vẹn lòng mến như thế, tức là phải hy sinh, phải từ bỏ chính mình, phải quảng đại bao dung, phải chấp nhận cái chết-vì-yêu như Đức Ki-tô. Xây dựng trên nền tảng tình yêu ấy, cuộc hôn nhân của chúng ta sẽ bền vững và hạnh phúc lâu dài. Đó cũng là thành quả của một thái độ bao dung luôn biết nhường nhịn nhau và nâng đỡ nhau.
* TÌNH YÊU CHIẾN THẮNG TẤT CẢ
Chúng ta biết rằng, kho tàng quý giá nhất trong đời sống lứa đôi, đó là Tình Yêu. Một danh nhân đã nói: “Không có tình, không có gia đình” (Byron). Và cũng có câu “Hôn nhân không phải là một điểm đến. Nó chỉ là một cuộc hành trình tiến đến một gia đình hạnh phúc, nơi đây tình yêu là điều quan trọng nhất”.
Vậy một trong những mục đích mà hôn nhân chân chính luôn nhắm đến, đó là xây dựng một gia đình hạnh phúc ấm êm, dựa trên nền tảng Tình Yêu chân thành, trong sáng và tự do. Tình yêu là nền tảng bởi vì nó đem lại sức sống và sự thăng hoa cho cuộc đời đôi bạn. Vậy để có được những gì tốt đẹp nhất trong đời sống hôn nhân gia đình, đôi bạn phải thực tình yêu nhau và trân trọng tình yêu mà các bạn đã nuôi dưỡng.
Khi có tình yêu chân thực và mạnh mẽ rồi, đôi bạn có thể vượt qua trăm ngàn trở ngại trong cuộc sống. Nhất là sẽ dễ bỏ qua những lỗi lầm, những vấp ngã của nhau, sẽ dễ dàng nhượng bộ nhau khi cần thiết, miễn sao hạnh phúc vợ chồng không bị tan vỡ. Ông bà ta nói, ”Yêu nhau trăm sự chẳng nề / một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng”.
Hội thánh cũng nhắc nhở chúng ta phải sẵn sàng cảnh giác mối nguy cơ phá vỡ sự hiệp thông trong gia đình. Thực vậy, “Chỉ có một tinh thần hi sinh cao cả mới giúp gìn giữ được và kiện toàn được sự hiệp thông trong gia đình. Thực vậy, sự hiệp thông này đòi hỏi mọi người và mỗi người biết quảng đại và mau mắn mở lòng ra để thông cảm, bao dung, tha thứ cho nhau và hòa giải với nhau. Không gia đình nào mà không biết rằng sự ích kỷ, những bất hòa, những căng thẳng, những xung đột đã làm hại cho sự hiệp thông gia đình biết chừng nào, và đôi khi còn có thể làm tiêu tan sự hiệp thông ấy: chính từ đó mà phát xuất muôn hình thức chia rẽ khác nhau trong đời sống gia đình”. [3]
Chúng ta cần xác tín rằng hôn nhân là một cam kết sống chung đến hết đời và là một cuộc đồng hành dài hơi, nên những khó khăn, phức tạp, va chạm là điều dễ xảy ra. Đúng như một danh nhân đã nhận xét: “Hôn nhân là gặp nhau, lấy nhau và sau đó là cãi nhau”. Những cuộc cãi vã, hờn dỗi do mâu thuẫn, bất đồng, bất hòa từ những chuyện vụn vặt thường ngày giữa hai vợ chồng có thể kéo dài từ ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, và cuối cùng có thể dẫn đến sự đổ vỡ không thể hàn gắn được.
Tuy nhiên, chúng ta tin rằng tình yêu sẽ chiến thắng tất cả vì tình yêu có sức mạnh hóa giải mọi khác biệt, mọi bất đồng, mọi mâu thuẫn. Tục ngữ VN có câu: “Thương nhau chín bỏ làm mười”. Điều đó có nghĩa là khi yêu nhau thực tình, đôi bạn sẽ vượt qua mọi phiền toái, khó khăn trong cuộc sống chung, để cùng xây dựng một mái ấm hạnh phúc, bình an.
Trên thực tế, hai bạn phải biết học cách nhượng bộ nhau, học im lặng để lắng nghe bạn đời mình, học chia sẻ để chứng tỏ sự quan tâm của mình, học tha thứ để hàn gắn những rạn nứt trong mối quan hệ, học quảng đại để biết cho đi nhiều hơn là nhận lại./.
Aug. Trần Cao Khải
- - - - - - - - - - - - - [1] Nguồn Internet [2] Nguyễn Đình Xuân, Tâm lý học tình yêu GĐ, NXB GD 1993, trg 113 [3] Đức thánh GH Gio-an Phao-lô II, Tông huấn về những bổn phận của gia đình Ki-tô hữu số 21
Để khi vừa thấy các ngài, người ta nhận ra đó là người-của-Chúa và cũng là người-của-mọi-người Đề tài 35
Để khi vừa thấy các ngài, người ta nhận ra đó là người-của-Chúa và cũng là người-của-mọi-người. Thánh thiện, thân thương, khiêm nhường, dịu dàng và dễ mến...
2- Ước gì các ngài luôn nhớ mình là ai...
Để khi gặp gỡ các ngài, ít ra người ta có thể đón nhận được một nụ cười, một cái bắt tay, một lời chào, một hỏi han...không tiết kiệm xã giao, không lạnh lùng xơ cứng, không bôi bác hời hợt...
3- Ước gì các ngài luôn nhớ mình là ai...
Để khi được các ngài phục vụ, người ta nhận ra đó là những chứng nhân đích thực. Chứng nhân của lòng yêu thương và lòng trung tín. Chứng nhân của vâng phục, khó nghèo và khiêm hạ. Chứng nhân của Hy Tế Thập Giá và của Tin Mừng Phục Sinh...
4- Ước gì các ngài luôn nhớ mình là ai...
Để khi chăm chú nghe bài giảng của các ngài, người ta cảm thấy “no nê” Lời Chúa, cảm thấy thỏa mãn khát vọng biết Chúa và yêu Chúa hơn, cảm thấy gia tăng niềm tin và tràn ngập nâng đỡ ủi an...
5- Ước gì các ngài luôn nhớ mình là ai...
Để khi tham dự các bí tích do các ngài cử hành, người ta thấy sốt sắng lạ lùng vì cảm nghiệm đức tin được thể hiện sung mãn, bởi qua các ngài, đích thực có một sự hiện diện nào đó rất thánh thiêng và sống động...
6- Ước gì các ngài luôn nhớ mình là ai...
Để mỗi khi nhìn thấy các ngài mặc chiếc áo chùng thâm – bất kỳ ở đâu và bất kỳ lúc nào có thể - người ta sẽ yên tâm và thầm vui trong lòng, người ta sẽ mừng rỡ khoe với nhau “Cha đó!”, “Đích thực là Cha rồi!”... 7- Ước gì các ngài luôn nhớ mình là ai...
Để mỗi khi cộng tác với các ngài trong việc tông đồ, mục vụ, người ta sung sướng vì được làm việc với Chúa, cho Chúa, người ta hài lòng và nhẹ nhàng quên đi nỗi cực nhọc, vất vả vì luôn thấy mình được-đồng-hành trong phục vụ... 8- Ước gì các ngài luôn nhớ mình là ai...
Để mỗi khi thấy các ngài điều hành công việc giáo xứ, công việc cộng đoàn, người ta có thể học hỏi được nhiều điều bổ ích, người ta có thể cảm nhận mình được “lớn” hơn lên nhờ việc liên kết các mối quan hệ, người ta có thể tự ủi an rằng mình cũng là một thành phần có ý nghĩa trong Dân Chúa...
9- Ước gì các ngài luôn nhớ mình là ai...
Để khi thấy các ngài ra đi “đến với chiên gần xa”, người ta nghĩ ngay đến các cuộc thăm viếng mục vụ, dưới nắng trong mưa, nơi ngõ hẻm, ngoài chốn xa... Ra đi âm thầm, kín đáo, không bao bị cồng kềnh, không đón đưa rềnh ràng, để rồi sự trở về của các ngài luôn đem lại những hoa trái mới, những hồi sinh mới, những biến đổi mới...
10- Ước gì các ngài luôn nhớ mình là ai...
Để khi phải nói về các ngài, người ta không do dự mà bảo với nhau rằng “Đó chính là vị mục tử như lòng Chúa mong ước và như lòng dân mong đợi”, và rằng “Chúng ta không thể thiếu ngài, vì ngài đích thực là Đấng-nhân-danh-Chúa mà đến, đấng gọi là Đức Kitô khác, Alter Christus”.
Thiết nghĩ ngay từ bây giờ mỗi người tín hữu giáo dân chúng ta phải tìm hiểu và khẳng định một Đề tài 36
Thiết nghĩ ngay từ bây giờ mỗi người tín hữu giáo dân chúng ta phải tìm hiểu và khẳng định một cách rõ ràng về căn tính, vai trò, vị trí và sứ mệnh của mình trong Cộng đoàn Hội thánh Chúa Ki-tô. Và đây là lý do tại sao chúng ta nên làm việc này:
“Quả thực, suốt nhiều thế kỷ, người giáo dân như ‘một người ở trọ’ ngay trong chính nhà của mình! Trong bối cảnh một xã hội ‘nặng óc gia trưởng’, một Giáo Hội thượng tôn hàng giáo sĩ, thì vai trò người giáo dân thật là mờ nhạt. Trong đời sống đức tin, giáo dân đóng vai trò thụ động, mang tâm trạng được ban phát. Vô tình, đức tin bị tách ra khỏi đời sống xã hội; chỉ có Tin Mừng ở nhà thờ, nơi toà giảng; chứ không thể có Tin Mừng nơi công sở, nơi phố chợ hay sạp cá! Và ngay cả việc nên thánh cũng là đặc quyền của hàng giáo sĩ, giới tu hành; giáo dân hoàn toàn lo việc đời và thuộc về thế gian, muốn nên thánh thì phải rập khuôn theo nếp sống của những bậc tu hành. Một não trạng như thế khá phổ biến nơi phần đồng những tín hữu đơn thành, chân chất.
“Thiết tưởng, chúng ta cần vượt qua những quan niệm thiển cận như thế, người giáo dân phải được trả lại vị trí đúng đắn của mình, vì họ có một nền linh đạo, hay một đường hướng nên thánh đặc thù, chứ không phải là một thứ bản sao của hàng giáo sĩ ” (LM Giuse Phạm Quốc Văn, OP, bài “Linh đạo giáo dân”, nguồn simonhoadalat.com).
Đây là lúc chúng ta phải tham khảo và học hỏi những giáo huấn của Hội thánh về vấn đề này, đặc biệt là các tài liệu từ Công đồng Va-ti-ca-nô II, nhờ đó có một nhận định đúng đắn về chỗ đứng của tín hữu giáo dân trong Hội thánh và có một cái nhìn rộng rãi, tích cực về ơn gọi giáo dân.
* GIÁO DÂN LÀ AI?
Về câu hỏi “Giáo dân là ai?”, chúng ta có thể tham khảo một số giáo huấn của Hội thánh, như sau:
. Công đồng Va-ti-ca-nô II đã khẳng định: “Danh hiệu giáo dân ở đây được hiểu là tất cả những Kitô-hữu không thuộc hàng giáo sĩ và bậc tu trì được Giáo Hội công nhận. Nghĩa là những Kitô-hữu đã được tháp nhập vào thân thể Chúa Kitô nhờ phép thánh tẩy, đã trở nên Dân Thiên Chúa, và tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của Chúa Kitô theo cách thức của họ ; họ là những người đang thực hiện sứ mệnh của toàn dân Kitô-giáo trong Giáo Hội và trên trần gian theo phận vụ riêng của mình” (CĐ. Vat. II, Hiến chế Tín lý về Giáo Hội số 31; GLHTCG số 897) (Nguồn simonhoadalat.com).
. Đức Giáo hoàng Piô XII cũng đã nêu rõ: “Các tín hữu, và chính xác hơn, các giáo dân, có mặt ở hàng ngũ tiền phong trong đời sống Giáo Hội ; nhờ họ, Giáo Hội trở thành nguyên lý sống động của xã hội nhân loại. Chính vì thế, họ là những người trước hết phải có một ý thức luôn luôn sáng suốt hơn rằng không những mình thuộc về Giáo Hội, mà còn là Giáo Hội, tức là cộng đồng tín hữu trên trần gian, dưới sự lãnh đạo của một vị thủ lãnh chung là Đức Giáo hoàng, và các vị Giám mục hiệp thông với ngài. Họ là Giáo Hội” (Đức Piô XII, Diễn từ đọc trước các tân Hồng y ngày 20/02/1946; GLHTCG số 899) (Nguồn simonhoadalat.com).
. Một cách thực tế, chúng ta có thể ghi nhận như thế này, “Giáo dân không phải Ki-tô hữu hạng hai, vì họ cùng được tham dự chức tư tế của Chúa Ki-tô là chức tư tế chung của người đã được rửa tội. Họ lo giúp những người chung quanh mình (trường học, gia đình, nghề nghiệp) học biết Tin Mừng và yêu mến Chúa Ki-tô. Họ làm cho xã hội, kinh tế, chính trị... được thấm nhuần đức tin. Họ tham gia đời sống Hội thánh bằng thi hành chức vụ thừa tác viên, bằng sinh hoạt nhóm, tham gia các ban bệ và tổ chức của Hội thánh, như Hội đồng giáo xứ, Hội đồng mục vụ vv… Đặc biệt người trẻ phải nghiêm chỉnh suy nghĩ đến địa vị mà Thiên Chúa muốn họ phải đảm nhiệm trong Hội thánh” (Bài “Ơn gọi của giáo dân là gì?”, nguồn: giaoxuchinhtoadanang.org).
* ƠN GỌI VÀ SỨ MỆNH CỦA GIÁO DÂN LÀ GÌ?
. Ơn gọi là gì?
“Mỗi người đều được Thiên Chúa kêu gọi. Ơn gọi là tiếng gọi yêu thương của Chúa cho con người và Chúa mời gọi ta đáp lại tình yêu đó. Chính Thiên Chúa gọi ta và Người mong một ngày nào đó ta nghe được tiếng Người... Mỗi đời sống là một ơn gọi... Việc ý thức đời sống như một ơn gọi sẽ khơi dậy trong con người niềm khát vọng trước tương lai, đồng thời loại bỏ quan niệm về một đời sống thụ động, buồn nản và tầm thường. Như thế, đời sống luôn mang giá trị của ân ban đã lãnh nhận mà theo bản tính nhằm trở nên điều thiện hảo được ban lại cho kẻ khác. Thiên Chúa còn mời gọi con người vào một bậc sống nào đó và trao cho họ một sứ mệnh. Chúa có thể kêu gọi những người hèn mọn, bất tài, cả những người đang chống lại Chúa, để làm những công việc vĩ đại cho Ngài. Mỗi đời sống là một ơn gọi, nên có nhiều ơn gọi khác nhau” (LM JB Trần Hữu Hạnh fsf, bài “Ơn gọi là gì? Những ơn gọi chung và chính yếu”, FB Hội dòng Tông đồ Cầu nguyện cho Ơn gọi).
Trước nay, chúng ta cứ nghĩ chỉ có linh mục, tu sĩ mới có ơn gọi. Nên người ta thường nói về ơn thiên triệu LM, ơn gọi tu sĩ nam nữ, hay cách nói “cánh đồng truyền giáo bao la mà kẻ được gọi thì nhiều mà người được chọn thì ít” vv... Quan niệm này đã vô tình loại bỏ tín hữu giáo dân ra khỏi đời sống và công cuộc truyền giáo của Hội thánh. Họ trở thành “Ki-tô hữu hạng hai” hay là “Người khách trọ trong nhà mình”, trong khi họ là thành phần chiếm đa số trong cộng đồng Dân Chúa. Họ chính là Hội thánh (ĐGH Pi-ô XII).
Thật vậy, xét một cách nghiêm túc và công bằng thì chúng ta thấy rằng, “Dù là giáo dân hay giáo sĩ, tất cả đều bình đẳng và được trân trọng như những bộ phận khác nhau trong cùng một thân thể. Mỗi bộ phận có chức năng riêng, nhưng tất cả đều nhằm phục vụ cho lợi ích chung. Có lẽ trong thiên niên kỷ thứ ba này, cần phải triển khai ơn gọi là Kitô hữu, như ơn gọi nền tảng của mọi thành phần dân Chúa, và đặc biệt phải giúp người giáo dân nhận ra phẩm giá và vai trò đặc biệt của mình là một Kitô hữu sống ơn gọi giáo dân, cũng như những Kitô hữu khác sống ơn gọi tu sĩ, linh mục...” (LM Giuse Phạm Quốc Văn, OP, bài “Linh đạo giáo dân”, nguồn simonhoadalat.com).
. Ơn gọi giáo dân là gì?
Ơn gọi giáo dân là sự tuyển chọn nhưng không của Thiên Chúa dành cho những ai Người yêu mến, nhờ đó họ trở thành môn đệ Chúa Ki-tô, trở thành ánh sáng muôn dân, trở thành muối men cho đời, trở thành chứng nhân của ơn cứu độ. Thánh Phao-lô đã nhắc bảo các tín hữu: “Anh em là những người được Thiên Chúa thương mến, chúng tôi biết rằng Thiên chúa đã chọn anh em” (1Tx 4); “Tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em” (Ep 4, 1).
Khởi đi từ ơn gọi làm người, rồi ơn gọi làm Ki-tô hữu, người tín hữu thuộc đấng bậc hôn nhân gia đình cũng có ơn gọi riêng, đó là ơn gọi giáo dân. Nhờ ân huệ của phép Rửa, họ trở thành dân Thiên Chúa, trở nên chi thể của Nhiệm thể Chúa Ki-tô, là phần tử của Hội thánh Ki-tô giáo. Xuất phát từ căn tính là Ki-tô hữu, người giáo dân có ơn gọi sống dấn thân trong đời sống xã hội để làm cho Nước Thiên Chúa lớn mạnh nơi trần thế.
Thực vậy, sách GLHTCG đã viết như sau: “Ơn gọi riêng của giáo dân là tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách làm các việc trần thế và xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa. Họ có nhiệm vụ đặc biệt là soi sáng và xếp đặt những thực tại trần gian có liên hệ mật thiết với họ, để chúng không ngừng được thực hiện và phát triển theo thánh ý Chúa Ki-tô, hầu ca tụng Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Chuộc (LG 31)” (Số 898).
. Sứ mệnh của tín hữu giáo dân trong xã hội và trong Hội thánh
Với ơn gọi làm tín hữu giáo dân trong cộng đoàn Dân Chúa, chúng ta cũng có một vai trò quan trọng và sứ mệnh hết sức đặc biệt, như Công đồng Vat. II đã chỉ rõ: “Giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho Giáo hội hiện diện và hoạt động nơi mà trong những hoàn cảnh mà nếu không có họ thì Giáo hội sẽ không trở thành muối của trần gian...”; và “Nhiệm vụ cao cả của mọi giáo dân là làm cho ý định cứu độ của Thiên Chúa ngày càng lan tới tất cả mọi người ở mọi nơi và mọi thời đại.” (x. Vat.II LG 33).
Có thể liệt kê 3 nhiệm vụ chính yếu mà bất kỳ người giáo dân nào cũng phải ý thức và chu toàn. Đó là: a- Nên thánh giữa đời; b- Làm chứng nhân Tin Mừng Chúa Ki-tô trong trần gian; c- Tham gia vào công cuộc cứu độ của Hội thánh thông qua công việc tông đồ giáo dân.
a- Bổn phận nên thánh.
Nên thánh là bổn phận căn cốt nhất của tất cả mọi người Ki-tô hữu dù ở đấng bậc nào, bởi vì họ là phần tử của Hội thánh, là dân được thánh hiến của Thiên Chúa. Mặt khác, vì là những người được tuyển chọn, họ phải là thánh trước khi lãnh nhiệm vụ giúp cho người khác trở nên thánh. Chính Chúa Giê-su cũng đòi hỏi các môn đệ của Chúa nên giống Ngài và phải trở thành men, muối, ánh sáng cho đời (x. Mt 5, 13-16).
Trong Tông Huấn “GAUDETE ET EXSULTATE” về Ơn gọi nên thánh trong thế giới ngày nay, ĐTC Phan-xi-cô đã viết như sau: “Ðể nên thánh không buộc phải là một giám mục, một linh mục hay một tu sĩ. Chúng ta thường bị cám dỗ để nghĩ rằng sự thánh thiện chỉ dành cho những ai có thể rút lui khỏi công việc bình thường để dành nhiều thời gian cầu nguyện. Trường hợp đó không đúng. Tất cả chúng ta đều được mời gọi nên thánh bằng cách sống cuộc đời với tình yêu và bằng cách làm chứng trong mọi công việc mình làm, ở bất cứ nơi nào mình sống. Anh chị em được mời gọi đến đời sống thánh hiến ư? Hãy nên thánh bằng cách sống quyết tâm của mình với niềm vui. Anh chị em đã kết hôn ư?Hãy nên thánh bằng cách yêu thương và chăm sóc cho chồng hay vợ mình, như Đức Kitô chăm sóc cho Hội Thánh. Anh chị em làm việc để kiếm sống ư? Hãy nên thánh bằng cách làm việc với sự liêm chính và kỹ năng trong khi phục vụ anh chị em mình. Anh chị em là cha mẹ hoặc ông bà ư? Hãy nên thánh bằng cách kiên nhẫn dạy dỗ trẻ nhỏ cách theo Chúa Giêsu. Anh chị em ở địa vị thẩm quyền ư? Hãy nên thánh bằng cách làm việc cho công ích và từ bỏ lợi ích cá nhân” (Số 14).
b- Làm chứng nhân Tin Mừng Đức Ki-tô trong trần gian
ĐGH Phao-lô VI đã nói: “Ngày nay người ta tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy”. Điều đó có nghĩa là Ki-tô hữu không chỉ rao giảng Tin Mừng bằng lời nói suông, mà còn phải làm chứng tá cho những những điều mình giảng và dạy bằng chính đời sống của mình. Cụ thể là chúng ta phải làm chứng bằng đức tin và đức ái. Đây là nét đặc trưng của công cuộc truyền giáo.
Thực vậy, truyền giáo bằng đời sống chứng tá là hình thức truyền giáo được xếp ưu tiên hàng đầu và là căn cơ nhất. Chia sẻ về đường lối truyền giáo bằng chứng tá đời sống, một tác giả đã nhấn mạnh: “Con người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là các thầy dạy. Tin vào kinh nghiệm hơn là đạo lý, tin vào đời sống và các sự kiện hơn là các lý thuyết. Hình thức đầu tiên của việc truyền giáo là chứng tá đời sống Ki-tô hữu; hình thức này là điều không thể thay thế được. Chúa Ki-tô, Đấng mà chúng ta đang tiếp tục sứ mạng của Người, là ‘Vị Chứng Nhân’ tuyệt hảo (Kh 1,5 ; 3,14) và là khuôn mẫu cho chứng tá Ki-tô giáo. Chúa Thánh Thần đang đồng hành với Giáo hội trên bước đường của Giáo hội, đồng thời liên kết Giáo hội với lời chứng của người về Chúa Ki-tô (Ga 15, 26-27)” (Nguồn Internet).
Chúng ta cũng lưu ý là một trong những cách thức hiệu quả nhất của việc truyền giáo bằng đời sống chứng tá, đó chính là nêu gương đời sống bác ái, “Truyền giáo bằng những việc làm cụ thể, bằng chính đời sống bác ái của mỗi người chúng ta. Chúng ta đến thăm viếng những người già, người nghèo, người đau khổ, người bị bỏ rơi trong xã hội. Chúng ta giúp đỡ họ, an ủi họ. Qua những việc làm cụ thể, họ nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Kitô. Bởi vì, lời nói lung lay, gương lành lôi cuốn. Những hành vi bác ái cụ thể là những bài giảng hùng hồn nhất về Thiên Chúa. Đây là cách thức truyền giáo hiệu quả nhất” (LM Nguyễn Văn Hương, bài “Truyền giáo, sứ mạng chính yếu của người Ki-tô hữu”, nguồn daichungvienvinhthanh.com).
c- Tham gia vào công cuộc cứu độ của Hội thánh
Cách đây hơn 50 năm, Công Đồng Vat.II đã chỉ rõ: “Nhiệm vụ cao cả của mọi giáo dân là làm cho ý định cứu độ của Thiên Chúa ngày càng lan tới tất cả mọi người ở mọi nơi và mọi thời đại. Vì thế, khắp nơi phải mở đường cho họ tích cực tham gia vào công cuộc cứu độ của Giáo hội, tùy sức lực của họ và tùy nhu cầu của thời đại” (x.Vat.II, LG 33).
Vậy rõ ràng là người tín hữu không chỉ lo có đạo, giữ đạo cho riêng mình mà họ còn có nghĩa vụ và bổn phận “tham gia vào công cuộc cứu độ của Giáo Hội” nữa. Và khi tham gia như thế họ không chỉ “làm giáo dân” mà còn là “người tông đồ, là nhà truyền giáo, là sứ giả Tin Mừng Đức Ki-tô” nữa...
Mặt khác, Hội thánh cũng đã từng khẳng định: “Tất cả các phần tử của Hội thánh mỗi người một cách đều được sai đi. ‘Ơn gọi Ki tô hữu tự bản chất cũng là ơn gọi làm tông đồ’. Mọi hoạt động của Nhiệm Thể nhằm làm cho Nước Đức Kitô rộng mở trên khắp hoàn cầu được gọi là ‘việc tông đồ’ ” (x. Giáo lý Hội thánh CG, số 863).
Có thể nói rằng mỗi người giáo dân đều mang trong mình căn tính của một tông đồ, nghĩa là khi lãnh nhận bí tích thánh tẩy, họ được tháp nhập vào Nhiệm thể Chúa Ki-tô, đồng thời mang lấy sứ mệnh của người được sai đi. Vai trò và nhiệm vụ của họ đã được Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân (SLTĐGD) năm 1965 minh định như sau:
“Vậy việc tông đồ của Giáo Hội và của tất cả các chi thể trong Giáo Hội trước hết nhằm loan báo sứ điệp của Chúa Kitô bằng lời nói, việc làm và nhằm chuyển thông ân sủng của Người cho trần gian. Công việc này được thực hiện chính là do tác vụ giảng lời Chúa và ban các bí tích, đặc biệt được trao phó cho hàng giáo sĩ, trong tác vụ đó, cả giáo dân cũng phải hoàn tất phần quan trọng của mình để trở nên "những kẻ hợp tác với chân lý" (3 Gio 8). Nhất là trong lãnh vực này, việc tông đồ giáo dân và tác vụ chủ chăn bổ túc cho nhau” (x. SLTĐGD số 6).
Vậy có thể khẳng định một lần nữa là người Kitô hữu không chỉ có nghĩa vụ làm giáo dân mà còn là tông đồ được Chúa sai đến mọi người, mọi nơi để loan báo Tin Mừng, để làm chứng nhân cho Chúa Kitô chết và sống lại, để làm cho nhiều người được biết và yêu mến Chúa. Đó là nhiệm vụ Truyền Giáo. Như lời thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu: “Thật khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm” (1Cor 9,16).
Từ những nhận thức trên, chúng ta có thể khẳng định một điều là không có người giáo dân làm tông đồ thì Hội thánh khó hoàn thành nhiệm vụ truyền giáo và cứu rỗi của mình. Chính vì lý do đó, Công đồng Vat.II đã khẳng định rõ ràng: “Giáo dân được đặc biệt kêu mời làm cho Giáo hội hiện diện và hoạt động nơi mà trong những hoàn cảnh mà nếu không có họ thì Giáo hội sẽ không trở thành muối của trần gian...”, và “Nhiệm vụ cao cả của mọi giáo dân là làm cho ý định cứu độ của Thiên Chúa ngày càng lan tới tất cả mọi người ở mọi nơi và mọi thời đại” (x. Vat.II LG 33)./.
Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta nên thánh. Trong Cựu Ước, Người đã phán: "Các ngươi phải Đề tài 37
Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta nên thánh. Trong Cựu Ước, Người đã phán: "Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh" (Lv 19,2). Đức Giê-su khi rao giảng về Tin Mừng Nước Thiên Chúa, cũng kêu gọi: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48). Như vậy, việc nên thánh của chúng ta theo ý Thiên Chúa là một đòi hỏi cấp bách, khẩn thiết. Đó cũng trở thành bổn phận và nhiệm vụ quan trọng mà mỗi tín hữu phải triệt để quan tâm thi hành.
Trong Tông Huấn “GAUDETE ET EXSULTATE” về Ơn gọi nên thánh trong thế giới ngày nay, ĐTC Phan-xi-cô đã viết như sau: “Ðể nên thánh không buộc phải là một giám mục, một linh mục hay một tu sĩ. Chúng ta thường bị cám dỗ để nghĩ rằng sự thánh thiện chỉ dành cho những ai có thể rút lui khỏi công việc bình thường để dành nhiều thời gian cầu nguyện. Trường hợp đó không đúng. Tất cả chúng ta đều được mời gọi nên thánh bằng cách sống cuộc đời với tình yêu và bằng cách làm chứng trong mọi công việc mình làm, ở bất cứ nơi nào mình sống. Anh chị em được mời gọi đến đời sống thánh hiến ư? Hãy nên thánh bằng cách sống quyết tâm của mình với niềm vui. Anh chị em đã kết hôn ư?Hãy nên thánh bằng cách yêu thương và chăm sóc cho chồng hay vợ mình, như Đức Kitô chăm sóc cho Hội Thánh. Anh chị em làm việc để kiếm sống ư? Hãy nên thánh bằng cách làm việc với sự liêm chính và kỹ năng trong khi phục vụ anh chị em mình. Anh chị em là cha mẹ hoặc ông bà ư? Hãy nên thánh bằng cách kiên nhẫn dạy dỗ trẻ nhỏ cách theo Chúa Giêsu. Anh chị em ở địa vị thẩm quyền ư?Hãy nên thánh bằng cách làm việc cho công ích và từ bỏ lợi ích cá nhân” (Số 14).
Thực vậy, mọi người đều có khả năng và cơ hội để nên thánh. Và chính khi thực hành con đường nên thánh, chúng ta mới có thể hiểu biết thánh ý Chúa và gặp gỡ Thiên Chúa đích thực.
* NÊN THÁNH: CON ĐƯỜNG GẶP GỠ THIÊN CHÚA
Thiên Chúa là Đấng thánh. Vậy muốn gặp được Người, chúng ta cũng phải trở nên thánh thiện. Nghĩa là chúng ta phải từ bỏ con người cũ, mặc lấy con người mới trong Chúa Ki-tô. Chúng ta phải mạnh mẽ dứt khoát từ bỏ ma quỷ, từ bỏ những quyến rũ sai trái của thế gian, từ bỏ tội lỗi vốn làm ta xa rời Thiên Chúa. Thánh Phao-lô đã nhấn mạnh: “Thật vậy, Thiên Chúa đã không kêu gọi chúng ta sống ô uế, nhưng sống thánh thiện” (1Tx 4,7); “Điều chúng tôi cầu xin là anh em được nên hoàn thiện” (2Cr 13, 9).
Sự thánh thiện của chúng ta không tùy thuộc vào “số lượng” những việc đạo đức, chẳng hạn bao nhiêu lần đọc kinh, bao nhiêu lần dự lễ, rước lễ, bao nhiêu lần xưng tội, ăn chay hãm mình, bao nhiêu lần đi hành hương, khấn vái vv... Trái lại, chúng ta phải quan tâm nhiều hơn tới “chất lượng” của đời sống Ki-tô hữu. Chúa Giê-su đã dạy dỗ các môn đệ rất nhiều về “con đường nên thánh”, trong đó Ngài nhấn mạnh đến luật sống của những ai muốn theo Ngài, để bước vào con đường trọn lành. Luật đó còn gọi là Hiến Chương Nước Trời hay Tám Mối Phúc Thật.
“ ‘Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ’.
‘Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp’.
‘Phúc thay ai sầu khổ, vì họ được Thiên Chúa ủi an’.
‘Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng’.
‘Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương’.
‘Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa’.
‘Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là Con Thiên Chúa’.
‘Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ’.
‘Phúc cho anh em, khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại, và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao’. ” (Mt 5, 1-12).
Con đường sống theo Tám Mối Phúc Thật mà Đức Giê-su đã rao giảng mở ra cho người tín hữu chúng ta chiều kích mới về việc nên thánh. Đó là sự hiệp thông với Thiên Chúa là nguồn tình yêu và sự sống đích thực. Đó cũng là thực hành những luật sống của người môn đệ theo Chúa. Luật sống không còn quy chiếu vào sự công chính cá nhân, mà hướng đến sự hoàn thiện như Cha trên trời. Chúa Giê-su đã nhắc nhở các môn đệ: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ...Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Anh em hãy cho thì Thiên Chúa sẽ cho lại... ” (x. Lc 6, 36-38).
Nên thánh là sự gặp gỡ hiệp thông với Thiên Chúa để Người thế nào thì ta cũng được như vậy. Thánh Gio-an Tông đồ đã nhắn nhủ: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1Ga 3,3).
* NÊN THÁNH: CON ĐƯỜNG GẶP GỠ THA NHÂN
Mến Chúa yêu người là hai giới răn trọng đại nhất mà mọi Ki-tô hữu phải thực hành để nên thánh. Việc gặp gỡ và yêu mến Thiên Chúa không thể tách rời chúng ta khỏi lòng mến tha nhân. Chính Đức Ki-tô đã khẳng định: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là : ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy ” (Mt 22, 36-40).
Chúng ta thường nên thánh theo chiều thẳng đứng, tức là chu toàn các bổn phận đối với Thiên Chúa. Trong khi đó, chúng ta bỏ qua việc nên thánh theo chiều hàng ngang, tức là thực hành bác ái đối với tha nhân. Điều này khiến chúng ta nên thánh nửa vời! Thánh Gio-an TĐ đã khẳng định: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4, 20-21).
Trong bài ca Đức Mến (1Cr 13), thánh Phao-lô cũng đã đề cập đến tình yêu như là đỉnh cao của đời sống Ki-tô hữu. Ngài coi đó như con đường trổi vượt hơn cả. Con đường mà nhờ đó người tín hữu ra khỏi chính mình mà đến với tha nhân. “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được...” (1Cr 13, 4-8).
Tất cả Ki-tô hữu chúng ta, nhờ đức tin và phép Rửa, được tham dự vào chính sự sống của Đức Ki-tô phục sinh. Chúng ta là “Thánh trong Đức Ki-tô”.
Do đó, đời sống chúng ta dưới ánh sáng của mầu nhiệm Phục Sinh, phải là ngọn đèn sáng lan tỏa sự nồng ấm của lòng mến Ki-tô giáo. Như thánh Phao-lô đã khuyên nhủ các tín hữu Cô-lô-xê: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo.” (Cl 3, 12-14).
Việc nên thánh sẽ giúp chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa một cách thâm sâu nhất, đồng thời cũng giúp ta gặp gỡ anh em mình một cách cụ thể, chân thực nhất. Thực vậy, khi thực thi lòng mến Chúa yêu người một cách trọn hảo, chúng ta sẽ minh chứng việc chúng ta chu toàn bổn phận nên thánh của mình, đồng thời đó cũng được coi là bảo chứng chắc thực chúng ta thuộc về Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô.
Phần đông Ki-tô hữu chúng ta thường dựa trên một số tiêu chuẩn như hiền lành, nết na, siêng đi Đề tài 38
Phần đông Ki-tô hữu chúng ta thường dựa trên một số tiêu chuẩn như hiền lành, nết na, siêng đi lễ, năng đọc kinh, sốt sắng lãnh nhận các bí tích, nhiệt thành tham gia các việc tông đồ giáo dân trong giáo xứ vv. để đánh giá một tín hữu là đạo đức, thánh thiện và giữ đạo tử tế. Thực ra, đó là bề nổi của đời sống đạo. Cái bề nổi này đôi khi lại làm cớ cho ta tự mãn nghĩ mình là người đạo đức thánh thiện, nghĩ mình giữ đạo như thế là đẹp lòng Chúa và rỗi linh hồn... Việc giữ đạo một cách hình thức sẽ dễ dàng chuyển sang một cách sống đạo hời hợt bên ngoài. Và như vậy chúng ta lại đi theo lối mòn đạo Cựu Ước như người Do thái thay vì thực hành đạo Tân Ước của Chúa Giê-su.
Một tác giả đã chia sẻ như sau: “Có những người theo đạo cả cuộc đời nhưng chẳng thấu đáo lẽ đạo. Có những người giữ đạo rất cẩn thận, tỉ mỉ chu toàn các giới răn của Chúa, thi hành điều luật của giáo hội nhưng tâm đạo thì nguội lạnh, thờ ơ. Có những người sống đạo lấy lệ, đôi khi còn khoe là đạo gốc ba bốn đời nhưng không thực hành đạo. Có những tín hữu, nhìn xem hình thức bề ngoài rất tốt, họ tham gia mọi sinh hoạt cộng đoàn nhưng thiếu lòng bác ái yêu thương. Như thế để trở thành một người Kitô hữu tốt, phải là người có tâm đạo và sống thực với niềm tin của mình. Niềm tin đối với Thiên Chúa và với tha nhân” (LM Giuse Trần Việt Hùng, bài “Sống Đạo”, nguồn simonhoadalat.com).
Chúng ta vẫn thường nghe nói “Tin đạo chứ không tin người có đạo!”. Điều đó có nghĩa gì? Có nghĩa là nhiều người trong chúng ta không đủ phẩm chất cần thiết để làm chứng về tư cách Ki-tô hữu của mình. Chúng ta chưa là chứng nhân đích thực của Tin Mừng Ki-tô giáo và không nêu gương sáng về con người và đời sống Ki-tô hữu chính danh của mình. Chúng ta có đạo, giữ đạo nhưng chưa sống đạo. Chính Chúa Giê-su khi đi rao giảng Tin Mừng đã nhắc nhở các môn đệ, “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian... Ánh sáng của anh em phải chiếu dãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời ” (x. Mt 5, 13-16).
Thực vậy, thay vì chúng ta làm gương sáng, có khi chúng ta lại trở thành gương mù gương xấu. Thay vì chúng ta sống đạo, hành đạo thì chúng ta chỉ dừng lại ở có đạo, giữ đạo theo thói quen và theo ý riêng mình. Chính vì vậy mà khi nhìn vào chúng ta, người ta không do dự mà nói rằng, “Đạo nào cũng như đạo nào!”... Vậy đã đến lúc chúng ta cần nghiêm túc suy nghĩ và tự hỏi: “Sống đạo theo Tin Mừng Chúa Ki-tô là thế nào?”
* SỐNG ĐẠO THEO TIN MỪNG CHÚA KI-TÔ
. Sống Đạo là sống theo gương Chúa Giê-su và thực thi lời Ngài dạy.
Mỗi người trong chúng ta đều mang danh Ki-tô hữu, tức là “người-có-Đức-Kitô”. Tức là chúng ta thuộc về Chúa và Hội thánh của Ngài, được Chúa thánh hiến và chúc phúc ngày chịu phép Rửa tội. Chúng ta có thể tự hào nói như thánh Phao-lô, “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2,20). Vì thế, tất cả con người và cuộc sống của chúng ta phải lấy Chúa làm mẫu gương. Chúa đã nói: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11, 29). Ở chỗ khác, Chúa cũng nói: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,18).
Chúng ta noi gương Chúa là để làm chứng nhân cho Chúa và làm chứng tá Tin Mừng của Ngài. Thông qua con người và cuộc sống Ki-tô hữu chúng ta, mọi người thấy được ánh sáng Tin Mừng của Chúa, biết rõ bản chất đích thực của đạo Chúa và có thể cảm nhận được vinh quang Thiên Chúa ngay trong cuộc sống dương thế này. Đức Chân phước Giáo Hoàng Phao-lô VI đã nhấn mạnh giá trị của đời sống chứng nhân trong việc loan báo Tin Mừng, như sau: “Người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là vì các thầy dạy ấy đã là những chứng nhân”.
Người Ki-tô hữu chúng ta có thể sống đạo thông qua gương chứng nhân trong nhiều cách thế. Chúng ta có thể làm gương sáng về:
- Đời sống tự nguyện khó nghèo vì Nước Trời; Không làm giàu một cách bất chính; Không phung phí tiền bạc và của cải vật chất vào những việc vô ích;
- Thái độ hiền lành và cư xử khiêm tốn, ôn hòa, chịu đựng; - Biết hy sinh, can đảm và có tinh thần từ bỏ vì lòng mến Chúa, yêu người; - Yêu thương mọi người kể cả kẻ thù, kẻ làm hại mình, kẻ ghét bỏ mình; - Vâng phục thánh ý Chúa trong mọi sự và thực hành triệt để Lời Chúa dạy; - Tôn trọng sự công bằng; Không tham nhũng, thâm lạm của công; - Quan tâm bênh vực công lý, bênh vực kẻ bị áp bức; Sống ngay thẳng thật thà; - Sự cảm thông và chia sẻ hoàn cảnh khó khăn, khốn khổ của tha nhân, tránh thái độ vô cảm vv...
Đối với Ki-tô hữu chân chính, sống đạo cũng là quyết tâm thực hành những lời dạy của Chúa, đồng thời thi hành thánh ý Ngài một cách trọn vẹn. Như chính Chúa Giê-su đã nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi ” (Mt 7, 21). Sự thực thi ý muốn của Chúa trong đời sống của người Ki-tô có một ý nghĩa rất quan trọng. Bởi vì khi chúng ta thực thi ý muốn và lệnh truyền của Chúa là chúng ta đã làm chứng về Chúa một cách cụ thể rồi. Trong suốt thời gian rao giảng về mầu nhiệm Nước Thiên Chúa, Đức Giê-su đã ban bố nhiều giáo huấn cho các môn đệ và những ai theo Ngài. Những lời dạy dỗ của Chúa nhắm đào tạo nên những Ki-tô hữu đích thực. Họ sống đạo, hành đạo theo khuôn mẫu của Chúa chứ không theo lề thói giả hình, bôi bác như người biệt phái Do Thái.
Chẳng hạn Chúa đã công bố bài giảng trên núi (Mt 5) như nền tảng của đạo mới, đạo Tân Ước, theo đó các luật sống của môn đệ được Ngài nhấn mạnh triệt để. Chúa cũng kêu gọi môn đệ phải biết hi sinh từ bỏ một cách dứt khoát (Mt 19; Mc 10; Lc 18) và một khi tin Chúa, theo Chúa thì người ta sẽ không ngần ngại liều mất mạng sống mình (Ga 12). Chúa cũng kêu gọi môn đệ thực thi giới răn quan trọng nhất, đó là mến Chúa yêu người. Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Đó là luật mới, luật yêu thương triệt để (Mt 22; Mc 12; Lc 10). Sống đạo là sống yêu thương, “Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau.” (Ga 13, 35).
. Sống đạo là thể hiện lòng tin một cách kiên trung
Sống đạo cũng là sống theo những gì mình tin và thể hiện đức tin ấy qua những việc làm và cách sống cụ thể. Thánh Gia-cô-bê khẳng định: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2, 17). Hành động, việc làm của chúng ta có thể là những việc bổn phận hằng ngày trong gia đình. Có thể là những trách nhiệm mà chúng ta phải thi hành tại những nơi chúng ta làm việc, phục vụ. Có thể chúng ta chu toàn bổn phận Ki-tô hữu của mình, hằng ngày, hàng tuần, hàng tháng, như đọc kinh, cầu nguyện, suy gẫm, dâng lễ, rước lễ, xưng tội, việc bác ái, hi sinh hãm mình vv... Ngay cả việc nhỏ bé như làm dấu Thánh giá và đọc kinh tạ ơn trước khi ăn chúng ta cũng không thể lơ là quên sót. Đó là biểu hiện chúng ta sống đức tin một cách cụ thể.
Tuy nhiên, trên thực tế ta có thể nhận thấy điều này là “Cung cách sống đạo của phần lớn Kitô hữu hiện nay là cố gắng chu toàn các giới răn của Chúa. Đời sống đức tin được qui định bằng luật lệ, được diễn giải thành những hành vi cụ thể : làm dấu, đọc kinh, xưng tội, sinh hoạt mùa Vọng, mùa Chay, kiêng thịt, ăn chay… Kiêng thịt chứ không phải là tự nguyện có một chút hy sinh. Ăn chay nghĩa là ‘một bữa no hai bữa đói’ và có thể ‘mất chay’ nếu lỡ ăn bất cứ điều gì ngoài ba bữa chính, chứ không phải là một hành vi nói lên lòng khao khát Chúa. Đi lễ ngày Chúa Nhật thế nào cho ‘thành sự’ chứ không phải kín múc nguồn mạch sức sống cho cuộc sống thường ngày. Làm dấu trước bữa ăn thay vì một tâm tình tạ ơn...Trong những nếp qui định ấy, có khá nhiều Kitô hữu hiện nay rõ ràng đã không sống được một tâm thức của đức tin chân chính.
“Người Kitô hữu cố gắng giữ luật để khỏi phạm tội chứ ít hiểu rằng giữ luật là một sự tín trung với Chúa. Người Kitô hữu đi lễ như một trách nhiệm phải chu toàn chứ không sống tinh thần hiệp thông với cộng đoàn để tạ ơn Chúa. Nhiều bạn trẻ tránh tội vì sợ Chúa phạt, nên khi lỡ phạm một tội trọng (chẳng hạn bỏ lễ Chúa Nhật) thì chọn lập trường ‘cùi không sợ lở’, ‘chơi luôn’... cho đến khi xưng tội lại. Nhiều người rất sốt sắng trong việc nhà đạo, nhưng không sống một chút giá trị lòng thương yêu và tôn trọng những người bé mọn, sự cảm thông, tha thứ, cái nhìn của đức tin siêu nhiên… Do đó, chúng ta thấy nhiều người Kitô tính toán chi tiết để khỏi vi phạm luật, nhưng không hề thấy lỗi lầm của mình trong những việc không thấy ghi rõ các các giới răn, chẳng hạn làm cho những người chung quanh phải khổ...” (Lm. Nguyễn Trọng Viễn O.P, bài “Đạo-sinh-hoạt”, nguồn simonhoadalat.com).
. Sống đạo là thực thi lòng Mến Ki-tô giáo một cách trọn hảo
Có thể nói nét chính yếu nhất của việc sống đạo của Ki-tô hữu, đó là thực thi lòng mến Ki-tô giáo. Mến Chúa yêu người luôn là giới răn quan trọng nhất. Thánh Phao-lô đã tóm tắt trong câu ngắn ngủi này, “Yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy” (Rm 13,10). Thánh Gio-an cũng nhấn mạnh, “Chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa” (1Ga 4, 7). Việc yêu người luôn xuất phát từ lòng mến Chúa. Cho nên những ai tin theo Chúa thì không thể bỏ sót việc thực thi nhiệm vụ bác ái đối với tha nhân được. Việc sống đạo, hành đạo của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi chúng ta biết tích cực phục vụ Đức Ki-tô trong anh em. Như Chúa đã phán, “Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Ki-tô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9,41).
Chúng ta vẫn thường tự hào nói rằng “Đạo Công giáo là đạo-yêu”. Điều đó rất chính xác. Có nghĩa là Ki-tô hữu chúng ta phải là những người biết yêu và sống yêu. Chúa Giê-su cũng đã khẳng định chỉ những người yêu anh em mình thì mới xứng đáng là môn đệ của Chúa (x. Ga 13, 34-35). Thánh Phao-lô cũng nhấn mạnh, “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái; vì ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8).
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, nhiều tín hữu giữ đạo nhiệt tình nhưng không sống đạo thiệt tình. Họ coi một số việc đạo đức thực hành theo thói quen là quan trọng hơn việc thực thi giới luật yêu thương.
“Cứ thử xét cách dùng danh từ của nhà đạo chúng ta thì biết chúng ta đã quan trọng hóa cái gì: cái chính yếu hay cái phụ thuộc? Chúng ta gọi những việc cầu nguyện hay bí tích là những ‘việc đạo đức’. Điều đó khiến nhiều Ki-tô hữu lầm tưởng rằng cứ cầu nguyện hay lãnh nhận các bí tích cho nhiều là trở thành người đạo đức. Nhưng thật ra rất nhiều người làm được như vậy một cách rất gương mẫu, nhưng chẳng được mấy ai mến phục chỉ vì họ sống thiếu tình thương. Thực ra, đạo đức được thể hiện trong chính cuộc sống thường ngày: trong cách cư xử, cách làm việc, cách nói năng… Một người có đạo đức khác với những người không đạo đức chủ yếu ở trong chính cách họ cư xử, làm việc, nói năng… chứ không phải trong việc siêng năng cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích. Vì thế, thiết tưởng khi chúng ta làm những bổn phận hằng ngày như làm ăn buôn bán, quét nhà nấu ăn giặt giũ, tiếp xúc nói chuyện cư xử với mọi người… nếu chúng ta làm với tinh thần yêu thương vị tha, thì chính khi làm như vậy là ta thực hiện những việc đạo đức. Việc cầu nguyện và các bí tích giúp ta có ơn Chúa, có sức mạnh để làm những việc ấy với tinh thần yêu thương của Chúa, chứ chúng không thay thế tinh thần yêu thương ấy” (Nguyễn Chính Kết, bài “Bản chất của Kitô giáo là tình yêu, cũng như bản chất của Thiên Chúa là tình yêu”, nguồn phongtraogiaodan.com)./.
Trong suốt cả mùa Chay và đặc biệt trong Tuần Thánh, tại hầu hết các nhà thờ CG ở VN đều Đề tài 39
Trong suốt cả mùa Chay và đặc biệt trong Tuần Thánh, tại hầu hết các nhà thờ CG ở VN đều có ngắm 15 sự Thương Khó Đức Chúa Giê-su. Việc đạo đức này không nằm trong Phụng Vụ, nhưng luôn được cử hành một cách trang nghiêm và long trọng. Đặc biệt trong ngày thứ sáu Tuần Thánh, nhiều nơi cộng đoàn còn tổ chức cuộc rước kiệu tượng chịu nạn và an táng Chúa, như để nhắc nhở các tín hữu về cái chết đau thương của Chúa Giê-su. Các tín hữu để tang, khóc lóc, than vãn thảm thiết...
Tuy nhiên, nhiều tín hữu chỉ dừng lại ở cuộc tưởng niệm ấy như một cuộc “đại tang”, trong một bầu không khí u buồn, sầu thảm, như thể tiếc thương trước một cái chết yên-nghỉ-ngàn-thu của một con người. Thực ra Chúa đã chết thật, nhưng sau ba ngày Ngài đã sống lại. Sự chết không còn làm chủ được Ngài nữa. Đó là niềm tin chắc chắn của chúng ta.
Vì vậy, khi tưởng nhớ đến cái chết của Chúa, chúng ta luôn hướng về sự phục sinh vinh quang của Ngài. Và như vậy, trong Tuần Thánh và đặc biệt trong ngày thứ Sáu Tuần Thánh sẽ không còn bầu khí bi thảm nữa. Bởi vì:
“Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày tưởng niệm cuộc thương khó và cái chết của Đức Giê-su nhưng đồng thời lại tưởng niệm và kính mừng sự sống vì không giống như bất kỳ cái chết nào khác trên trần gian, Đức Giê-su đã chỗi dậy từ cõi chết và Ngài là “Đấng Hằng Sống, đã chết, và nay sống đến muôn thuở muôn đời” (Kh 1,18). Đức Giê-su bị giết chết, tưởng rằng đó là một thất bại, nhưng lại là cuộc chiến thắng của Ngài trên tội lỗi và tử thần.
“Cho nên, hệ quả là, trong thứ Sáu Thánh, chúng ta hân hoan trước chiến thắng của Đức Giê-su, vui mừng tham dự vào cuộc vinh thắng tình yêu của Ngài. Các bản văn phụng vụ và những bài hát để kính thờ Thánh Giá trong thứ Sáu Thánh đều quy chiếu về Phục Sinh và bày tỏ cho chúng ta khía cạnh vinh quang và hân hoan của ngày này.
“Không nên tách rời cái chết của Đức Giê-su ra khỏi cuộc Phục Sinh của Ngài, nhưng luôn coi đó như một thể thống nhất của ‘Mầu nhiệm Vượt Qua’. Tam Nhật Vượt Qua phải được coi là một cử hành kéo dài, tức cử hành biến cố Phục Sinh vĩ đại. Cuộc thương khó của Đức Giêsu chỉ là một phần trong Tam nhật Phục sinh mà điểm kết thúc không phải là cái chết nhưng là sự sống”. [1]
Như vậy, khi suy gẫm và tưởng niệm cuộc thương khó và cái chết của Chúa Giê-su, thay vì chúng ta u buồn thương tiếc sầu khổ thì hãy mang tâm tình sám hối, tạ ơn và hi vọng. Vì nhờ cái chết và sự phục sinh của Chúa mà chúng ta được cứu và nhận được bảo chứng của sự sống đời đời.
Chúa Giêsu phục sinh để bảo đảm cho việc chúng ta phục sinh sau này.
“Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu… Như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống” (1Cr 15, 20-22). Từ đây, cuộc đời con người không còn phải là chu kỳ “sinh ra-sống-chết-mục nát”, nhưng là “sinh ra-sống-chết-phục sinh”. Do quyền năng của Chúa Giê-su Phục Sinh, Thiên Chúa toàn năng sẽ làm cho chúng ta sống lại, cho thân xác chúng ta kết hiệp với linh hồn, cho ta sự sống bất diệt ở đời sau. Bởi vì Thiên Chúa đã đem cả thân xác nhân loại của Ngài vào Thiên Quốc, thì chúng ta cũng tràn ngập hy vọng, hân hoan, chắc chắn sẽ được gặp và ở với Ngài trên Thiên Quốc như Ngài đã hứa. [2]
* SUY NGHĨ VỀ SỰ CHẾT CỦA CHÚA, CHÚNG TA HÃY SÁM HỐI ĂN NĂN
Trên đường lên núi sọ để chịu chết, khi nhìn thấy các phụ nữ đi theo vừa đấm ngực vừa than khóc, Chúa Giê-su quay lại và nói với họ: “Hỡi chị em thành Giê-ru-sa-lem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu của chị em” (Lc 23, 28). Vậy trong mùa Chay Thánh và đặc biệt trong Tuần Thánh, chúng ta thay vì khóc lóc khi nhớ đến cái chết thảm thương của Chúa, thì hãy khóc cho tội lỗi của chính mình và của nhân loại. Hãy thực lòng quay về với Chúa, thực tình ăn năn sám hối. Đó là điều làm đẹp lòng Chúa.
Chúng ta biết, trong suốt mùa Chay thánh, Hội thánh luôn nhắc nhở chúng ta, ngoài việc ăn chay, hãm mình, cầu nguyện, làm việc bác ái, thì cần thiết phải ăn năn sám hối nữa. Đây là việc làm hết sức quan trọng, vì sám hối là trọng tâm trong sứ điệp cứu rỗi của Chúa.
Về ý nghĩa cơ bản, ăn năn hối cải là thay đổi toàn bộ con người cả bên ngoài lẫn bên trong, cả tâm trí tinh thần lẫn đời sống sinh hoạt, là quay đầu 180 độ, từ bỏ con đường cũ, bước đi con đường mới theo Chúa Ki-tô. Mùa Chay là cơ hội thuận tiện giúp chúng ta định hướng lại con đường chúng ta đang đi. Hoán cải là một tiến trình thay đổi đầy khó khăn, phức tạp. Đó là một cuộc “lột xác” mà mọi Ki-tô hữu phải thực hiện để được “mặc lấy Chúa Ki-tô” trong cuộc sống mới.
Tín hữu chúng ta, có thể rất chu đáo tuân giữ các lề luật, rất siêng năng làm các việc lành phúc đức, nhưng lại rất e ngại và sợ khi phải hối cải theo ý muốn của Chúa và Hội thánh. Bởi vì xét cho cùng đó là một cuộc canh tân đổi mới toàn diện. Cả về phương diện luân lý, lẫn đức tin. Cả về nội tâm con người bên trong lẫn bên ngoài. Cả về ý chí lẫn hành động.
Thay vì chúng ta để cho lòng đạo đức của mình quá nặng về tình cảm, quá thiên về cảm xúc qua những lễ nghi bên ngoài, mà đánh mất cảm thức tội lỗi sâu xa trong lòng mình, thì hãy mau mau hối cải và chạy đến với Chúa xin ơn tha thứ. Chúa giàu lòng thương xót đang chờ đợi chúng ta...
* SUY NGHĨ VỀ SỰ CHẾT CỦA CHÚA, CHÚNG TA HÃY VUI MỪNG TẠ ƠN VÀ HI VỌNG
Khi nghĩ đến cái chết của Chúa, thay vì than van khóc lóc, chúng ta hãy mặc lấy tâm tình tạ ơn và vui mừng. Bởi vì cái chết của Chúa đem lại cho ta nhiều ơn ích vô cùng lớn lao.
1- Cái chết của Chúa Giê-su đã khai tử tất cả tạo thành cũ, tội lỗi bị hủy diệt, ma quỷ bị khuất phục, sự chết không còn thống trị. Sự chết của Chúa khai mở sự sống cho chúng ta. Thánh Phao-lô đã khẳng định: “Chúng ta biết rằng: con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Ki-tô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị hủy diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Quả thế, ai đã chết thì thoát khỏi quyền của tội lỗi” (Rm 6, 6-7).
2- Cái chết của Chúa Giê-su là sự chết-vâng-phục-của-Con-Một của Thiên Chúa, đem đến sự giao hòa giữa nhân loại với Đấng Tạo Thành. Nhờ đó Thiên Chúa chấp nhận tha thứ cho nhân loại. Công nghiệp của Chúa Con đã cứu chúng ta ra khỏi tình trạng bất tuân phục. Vì Đức Giê-su, với tư cách là trưởng tử trong nhân loại, đã vâng phục kế hoạch của Cha, cho dù phải hi sinh, phải chết bằng bất kỳ cách nào. Thánh Phao-lô đã nhấn mạnh:
“Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2, 6-9).
3- Cái chết của Chúa Giêsu đã minh chứng tình yêu mãnh liệt và sự vâng phục tột cùng của một đại diện nhân loại đối với Thiên Chúa. Chính tình yêu và sự vâng phục này đã giúp thiết lập lại mối tương quan tốt đẹp, bền vững giữa Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa hài lòng về người Con của Người và đã phục sinh người Con thân yêu đó. Và từ nay những ai thuộc về Đức Giê-su Ki-tô cũng sẽ được “Giải án Tuyên công”.
“Theo thánh Gioan, cái chết của Đức Kitô là cái chết tự nguyện, và vì lẽ đó mà Chúa Cha yêu mến Ngài (x.Ga 10, 17-18). Chính sự vâng phục tự nguyện đem lại giá trị cho sự đau khổ và cái chết của Đức Kitô.
“Hơn nữa, tình yêu đến cùng của Ngài đối với Cha, mạc khải tình yêu đến cùng của Thiên Chúa đối với nhân loại, bất chấp mọi giới hạn, trở lực do hận thù của loài người. Khi tình yêu đối với Chúa Cha bắt phải đương đầu với sự chết, Ngài vẫn tiếp tục vâng phục; Ngài đã yêu đến cùng, nghĩa là đã bày tỏ đến cực điểm tình yêu của Ngài. Tình yêu của Ngài đã chiến thắng hận thù; Ngài đã chiến thắng tội lỗi và sự chết bằng cái chết; trong chính cái chết, tình yêu đã thắng vượt để rồi sống lại, ân sủng phát xuất từ tình thương được biểu lộ liên lỉ, ngay cả trong cái chết”. [3]
4- Ngang qua sự chết, Chúa Giêsu đã sống lại và Ngài đã trở nên nguyên lý tái sinh và tác sinh đối với những ai tin theo Ngài. Vì vậy khi lãnh nhận Đức Ki-tô Thần Khí nhờ lòng tin và qua bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được chia sẻ hiệu quả của cái chết và ơn huệ Phục sinh của Đức Ki-tô (x. Rm 6, 1-8). Những ai thuộc về Đức Ki-tô thì dù có chết cũng được sống lại như Ngài. Đó là ơn huệ cao cả mà Thiên Chúa yêu thương đã ban tặng cho con người trong Đức Giê-su Ki-tô.
5- Sự chết của Chúa Giêsu không chỉ là một sự kiện đơn lẻ bình thường của một ai đó trong nhân loại, nhưng chính là một biến cố cực kỳ quan trọng, quyết định số phận của nhân-loại-mang-án-chết. Qua biến cố này, Thiên Chúa thực hiện Lời Hứa của người, là tha thứ cho nhân loại, là giải án chết và ban cho họ sự sống đời đời. Sự chết của Đức Ki-tô đã cứu sống nhân loại bị án chết do tội. Sự chết của Ngài đã chôn vùi tất cả mọi hư hỏng trong tạo thành, đồng thời từ cõi chết sống lại, Đức Giê-su-phục-sinh trở nên chính sự sống cho tất cả ai tin Ngài. “Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8,11).
Vậy khi tưởng niệm cuộc thương khó và khổ nạn của Chúa Giê-su, thay vì than khóc đau buồn, chúng ta hãy tự đặt cho mình mấy câu hỏi sau:
- Thánh Gio-an tông đồ viết: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3, 16). Sự chết của Chúa nhắc chúng ta rằng chúng ta phải yêu mến anh em như Chúa yêu ta. Tình yêu ấy phải dõi theo tình yêu của Đấng đã hiến mạng sống mình vì bạn hữu (x. Ga 15, 13).
- Để cứu thoát chúng ta khỏi tội và sự chết, Chúa Giê-su đã trả một cái giá quá sức tưởng tượng. Cái giá ấy là sự chấp nhận chết, chấp nhận hủy mình ra không để nhờ đó con người được tha thứ và được sống. Chúng ta nên dành thời gian suy nghĩ về điều đó. Giả như Chúa đã không chết trên thập giá thay cho ta, thì liệu số phận của mỗi người chúng ta và của cả nhân loại sẽ ra sao? Tại sao chúng ta không lưu tâm tạ ơn Chúa mỗi giây phút trong cuộc sống về những gì Chúa đã thực hiện để cứu chuộc chúng ta. Như thánh sử Gio-an đã quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16)./.
- - - - - - - - - - - - - - - - - - - [1] LM Giuse Phạm Đình Ái Dòng Thánh Thể, bài “Về việc đeo tang trong Thứ Sáu Tuần Thánh”, nguồn: giaophanlangson.org ngày 6-4-2019. [2] Bài “Chúa Giê-su sống lại”, ban Giáo lý Giáo phận, nguồn: giaophanmytho.net [3] ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc, bài “Ý nghĩa cứu chuộc của cái chết của Đức Giê-su Ki-tô”, nguồn: simonhoadalat.com
Tu đức: Là mối tương quan giữa ta với Chúa, là mối gắn bó mỗi ngày 1 lớn lên qua các nhân đức, qua đời sống bác ái.
Đời sống nội tâm k phải khả năng đánh giá và tổng quát sự việc, đời sống nội tâm k đơn giản chỉ theo định nghĩa thuần túy theo cái nhìn văn hóa.
Hướng nội hay đời sống nội tâm k phải khả năng trí tuệ đánh giá suy tư về 1 người sự vật hay sự việc, vì nó hướng tới cái khác vì khi đó chúng ta hướng tới cái khác và hướng ngoại.
Câu truyện kể người cha trối lại cho các con trong ruộng có kho báu.
Các con đào tìm k thấy kho báu, nhưng vào vụ mùa năm ấy đất thu hoạch bội thu!
Nếu chịu khó chăm bón cày sấy thì sẽ được mùa, từ hình ảnh đó đi đến thửa rộng nội tâm của chúng ta là tâm hồn mỗi người.
Có 1 tình trạng đây đó có những các nhân ít để ý đến đời sống nội tâm, khi đời sống nội tâm k được quan tâm sẽ dẫn đến những hậu quả trên.
Ngày xưa chúng ta thường nghe câu nói này “Thầy cả đọc Evan”, rồi về sau đổi thành câu nói Đề tài 41
Ngày xưa chúng ta thường nghe câu nói này “Thầy cả đọc Evan”, rồi về sau đổi thành câu nói là “Linh mục đọc Phúc Âm”. Ngày nay trong phụng vụ, người ta nói “Vị chủ tế công bố Tin Mừng”. “Evan” tức là “Phúc Âm” hay “Tin Mừng” dịch chữ la-tinh “Evangelium”. Thay vì nói “Evan” hay “Phúc Âm” như ngày xưa thì bây giờ các nơi đều gọi chung một danh từ, là “Tin Mừng”.
Thực vậy, “Từ thập niên 60, từ ‘Phúc âm’ rất được phổ biến ở Việt Nam: sách Phúc âm, rao giảng Phúc âm, các lời khuyên Phúc âm. Từ thập niên 90, thấy từ ‘Tin Mừng’ dần dần xuất hiện trong thánh đường, tuy rằng cho đến nay, trong giới nhà tu, người ta vẫn còn nói đến ‘ba lời khuyên Phúc âm, tinh thần Phúc âm’ ” (LM Giuse Phan Tấn Thành, OP, bài “Loan báo Tin Mừng cách mới mẻ”, nguồn simonhoadalat.com).
Vậy, ý nghĩa của hai chữ “Tin Mừng” là gì?
LM Stêphanô Huỳnh Trụ, trong bài “Phúc Âm – Tin Mừng” đã giải thích: “Đối với chúng ta, evangelium chỉ bản văn kể lại cuộc đời Chúa Giêsu hoặc chỉ những phân đoạn của bản văn đó đọc trong Thánh Lễ. Trên phương diện thần học, evangelium được hiểu là: 1- Tin về ơn cứu độ do Đấng Messia mang đến cho loài người; 2- Giáo huấn của Chúa Giêsu, do các Tông Đồ rao giảng; 3- Sự ghi chép của lời giáo huấn này thành sách; 4- Mỗi cuốn trong bốn cuốn ghi lại lời giảng dạy này và được nhận vào Thư Quy” (Nguồn UBGLĐT/ HĐGMVN).
Tuy nhiên, xét một cách sâu xa hơn, Tin Mừng Ki-tô giáo không chỉ bao hàm tin vui, giáo huấn, chuyện kể hay sự ghi chép gì đó, mà còn là một thực tại cứu rỗi được Đấng thiên sai từ trời thông ban cho nhân loại. Ngài vừa là sứ giả của Thiên Chúa và cũng chính là nội dung Tin Mừng mà muôn dân mong đợi.
* TIN MỪNG KI-TÔ GIÁO: TỪ SỨ ĐIỆP ĐẾN SỨ GIẢ Đức Giê-su từng khẳng định Ngài được Chúa Cha sai đến trần gian để đem Tin Mừng cho con người. Để trả lời cho những người được Gio-an Tẩy giả sai đến chất vấn Ngài, “ ’Thưa Thầy, Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?’ Đức Giê-su trả lời: ‘Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi’” (Mt 11, 3-6).
Thánh Luca cũng ghi lại như sau: “Rồi Đức Giê-su đến Na-da-rét, là nơi Người sinh trưởng. Người vào hội đường như Người vẫn quen làm trong ngày sa-bát, và đứng lên đọc Sách Thánh. Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra, gặp đoạn chép rằng: Thần Khí Chúa ngự trên tôi, / vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, / để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. / Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, / cho người mù biết họ được sáng mắt, / trả lại tự do cho người bị áp bức, / công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 16-18).
Đối với các môn đệ và những ai tin theo Đức Giê-su Na-da-rét, thì Ngài đích thực là sứ giả thiên sai mà mọi người mong đợi. Sứ điệp của Ngài là sứ điệp từ trời, hàm chứa nội dung tin mừng cứu độ. Ngài vừa là người loan báo vừa là người thực hiện những lời hứa của Thiên Chúa. Ngài khác hẳn với các ngôn sứ trong Cựu Ước và Gio-an Tẩy Giả, vì chính Ngài là Đấng Thiên Sai và Đấng Cứu Thế.
“Tin mừng luôn luôn là tin mừng về Nước Thiên Chúa (CvSđ 8,12; 14, 21; 19,8; 20, 25; 28, 23)...Đó là ơn tha thứ, ơn của Thần Khí (2, 38; 3, 26; 10, 43; 13, 38; 17, 30). Nhưng từ nay tin ấy cũng chính là ‘tin mừng Giê-su’ (8, 35; 17, 18), ‘về Danh Đức Giê-su Ki-tô’ (8, 12), ‘về Chúa Giê-su’ (11, 20, ‘về hòa bình bởi Đức Giê-su Ki-tô’ (10, 36). Sự phục sinh của Đức Ki-tô trở nên trung tâm của tin mừng” (x. Mục từ “Tin Mừng”, Điển ngữ Thần học Thánh kinh GHHV Pi-ô X Đalat).
Thực vậy, “ ‘Thời gian đã hoàn tất, Nước Thiên Chúa đã gần kề’ (Mc 1, 15), đó là nội dung chính yếu của sứ điệp. Nhưng lần này chính con người của sứ giả trở nên trung tâm của tin mừng. Tin Mừng chính là Đức Giê-su (x. Mc 1,1)“ (x. Mục từ “Tin Mừng”, sđd).
LM Nguyễn Thế Thuấn, DCCT, trong phần chú giải Mt 4, 23 về chữ “Tin Mừng” bản dịch Kinh Thánh 1976, đã viết: “Tin Mừng (Tin lành) hay Phúc Âm (Mc 1,1; Rm 1,16; Ga 1,6; 1Th 1,5) trước tiên không phải là một sách, hay chính lời rao giảng, nhưng là ơn cứu thoát Chúa Giêsu đem đến, và chính Ngài lại là nội dung cốt yếu”.
Thời giáo hội sơ khai, các tông đồ và môn đệ của Đức Giêsu coi Tin Mừng là một thực tại huyền nhiệm, vừa sống động, vừa thân thiết. Thánh Gio-an tông đồ đã nói về thực tại ấy như sau: “Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống. Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày, chúng tôi đã thấy và làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi.” (1Ga 1,1-2).
Riêng thánh Phaolô, với cảm nghiệm về tính chất sâu xa và hiệu quả kỳ diệu của thực tại Tin Mừng, đã xác quyết như sau: “Thưa anh em là những người được Thiên Chúa thương mến, chúng tôi biết rằng Thiên Chúa đã chọn anh em, vì khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, thì không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và một niềm xác tín sâu xa” (1Tx 1,4-5).
* KI-TÔ HỮU ĐÓN NHẬN VÀ SỐNG TIN MỪNG
Tất cả Ki-tô hữu chúng ta đều đã được đón nhận ơn huệ của Tin Mừng khi tuyên xưng đức tin và lãnh nhận bí tích Thánh tẩy. Vì trước khi về trời, Chúa Giêsu đã căn dặn các môn đồ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án. ” (Mc 16, 15-16).
Tuy nhiên, trong thực tế đời sống đức tin của mình, chúng ta chỉ “nghe” và “nói” nhiều về Tin Mừng, nhưng chưa thực sự “sống Tin Mừng”. Vì thế mặc dù là Ki-tô hữu nhưng chúng ta nhưng chưa thực sự vui mừng và phấn khởi.
Sống Tin Mừng là đón nhận Chúa Giê-su Ki-tô phục sinh vào trong đời mình. Như thánh Phao-lô đã xác tín, “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2, 20). Khi có Chúa trong đời mình, chúng ta an tâm, vui mừng vì đã được ơn tha thứ, được ơn bình an, được hưởng những hoa quả của Thần Khí, được hạnh phúc làm con cái Thiên Chúa. Lúc đó Chúa chính là sự sống của ta, “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi” (Pl 1, 21).
Sống Tin Mừng là chúng ta hoàn toàn tin tưởng và phó thác vào tình thương và sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa, theo như lời căn dặn của Chúa Giê-su: “Vì thế anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6, 31-33). Vậy sống Tin Mừng là chúng ta lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước hết, coi đó là chọn lựa ưu tiên hàng đầu trong đời sống đức tin của mình.
Sống Tin Mừng là chúng ta biết chú tâm lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Đối với người Ki-tô hữu chân chính, thì việc lắng nghe Lời Chúa luôn kèm theo việc thi hành Lời Chúa. Đây cũng là điều được Đức Giêsu rất quan tâm. Ngài nói: “Mẹ tôi và anh em tôi, chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 8,21). Không thực hành Lời Chúa thì tất cả chỉ là ảo tưởng, là xây nhà trên cát. Thậm chí không thể nói là đã hiểu Lời Chúa, vì như thánh Grê-gô-ri-ô Cả đã viết, “Người ta chỉ thực sự hiểu Lời khi bắt đầu đem ra thực hành”.
Sống Tin Mừng là khi chúng ta luôn giữ được niềm vui và sự bình an trong tâm hồn. Đồng thời cũng lan tỏa niềm vui và bình an ấy đến với mọi người. Chúng ta thực sự trở thành tin vui, tin mừng cho tha nhân. Bởi vì sức hút nơi người tông đồ là niềm vui có Chúa. “ĐTC Phan-xi-cô nhân ngày Thế giới Truyền giáo, đã thổ lộ tâm tình của mình với các nhà truyền giáo như sau: ‘Chúng ta đừng để mình bị tước mất niềm vui của việc loan báo Tin Mừng! Tôi mời gọi anh chị em đắm mình vào niềm vui của Tin Mừng và nuôi dưỡng một tình yêu có thể thắp sáng ơn gọi và sứ mạng của anh chị em’ (x. Sứ điệp truyền giáo năm 2014)” (Jos. Vinc. Ngọc Biển, bài “Niềm vui của người loan báo Tin Mừng”, nguồn conggiao.info).
Sống Tin Mừng đòi hỏi chúng ta tích cực thi hành lòng mến Ki-tô giáo. Đó là cách chúng ta làm chứng tá Tin Mừng Đức Ki-tô và là cách thức truyền giáo hiệu quả nhất. Thực vậy, “Muốn trở nên người tông đồ thực thụ vì chan chứa niềm vui, người được sai đi loan báo Tin Mừng phải gặp gỡ thân tình với Đức Kitô, cảm nghiệm được ơn gọi và sứ vụ cao quý của mình, và phải yêu mến những người mà mình có cơ may tiếp xúc, nhất là với người nghèo, người bị bỏ rơi, người sống bên lề... Có được điều đó, người tông đồ sẽ đem lại cho họ niềm vui đích thực khi trong mình đang tỏa lan một niềm vui có Chúa” (Jos. Vinc. Ngọc Biển, bài và nguồn đd)./.
Đến một lúc nào đó chúng ta sẽ tự hỏi việc mang danh nghĩa Ki-tô hữu có ý nghĩa gì. Có phải Đề tài 42
Đến một lúc nào đó chúng ta sẽ tự hỏi việc mang danh nghĩa Ki-tô hữu có ý nghĩa gì. Có phải vì chúng ta đã biết đạo và đang giữ đạo. Có phải vì chúng ta thường xuyên dự Thánh lễ, thường xuyên lãnh nhận các Bí tích, thường xuyên đọc kinh cầu nguyện, thường xuyên giữ trọn mười điều răn Chúa và các điều răn Hội thánh dạy vv. Và chúng ta bằng lòng và tự hào với việc giữ đạo và sống đạo như thế...
Thực ra, xét cho kỹ thì đó mới chỉ là bề nổi của người có đức tin. Bề nổi đó chúng ta có thể tự “cân-đo-đong-đếm” được. Còn chiều sâu bản chất thực sự của việc sống và thực hành đức tin thì chúng ta chưa quan tâm tới. Đây không phải là việc đề cao “ Đạo-tại-tâm”, nhưng là nhấn mạnh đến cái cốt lõi của đức tin Ki-tô giáo. Đức tin Ki-tô giáo là một ơn huệ nhưng không Chúa ban, nhưng cũng là một hành trình trong cuộc đời theo Chúa và là một đời sống mà mỗi tín hữu chúng ta phải tích cực dấn thân vào. Là tín hữu của Chúa Ki-tô, chúng ta phải luôn luôn thao thức về đức tin của mình. Chúng ta nên thường xuyên tự hỏi, “Tôi đang tin ai, tôi đang tin những gì và tôi tin như thế nào”...
* TIN AI ? – TIN GÌ ?
Thánh Phao-lô từ khi được ơn trở lại và theo Chúa, vẫn luôn xác tín về Đấng-phục-sinh đã gọi ngài. Thánh nhân đã khẳng định, “Tôi biết là tôi tin vào ai”. Suốt cuộc đời theo Chúa, làm tông đồ phục vụ Chúa và Hội thánh, ngài luôn tự hào mình là người đã theo Chúa, tin Chúa và sống mật thiết với Chúa. Thánh nhân đã khẳng định, “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2,20).
Tín hữu chúng ta cũng cần có một niềm tin như vậy. Chúng ta không tin vu vơ, vớ vẩn. Chúng ta cần loại bỏ những mê tín, dị đoan vì những niềm tin ấy sẽ làm lu mờ đức tin chân thật của chúng ta vào Chúa. Thiên Chúa, Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa Thánh Thần, Hội thánh Công giáo, ơn cứu rỗi vv...luôn phải là những thực tại chi phối đời sống đức tin của chúng ta.
Chẳng hạn, khi chúng ta tuyên xưng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa thì chúng ta cần loại bỏ tất cả những thần tượng khác không phải là Người. Kinh Tin Kính chúng ta đọc, “Tôi tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất...”. Kinh Lạy Cha chúng ta đọc, “Lạy Cha chúng con ở trên trời...”. Trong thánh lễ, chúng ta nghe, “Mọi vinh quang đều quy về Chúa là Cha toàn năng...”. Hoặc trong Cựu Ước có câu, “Ta không nhường vinh quang của Ta cho ai” vv...
Trong cuộc sống của người tín hữu, không nhiều thì ít, mỗi người chúng ta đều bị cám dỗ đam mê những thần tượng của riêng mình. Có thứ thần tượng thuộc lãnh vực tâm linh, như khi chúng ta đi xem bói toán, đi cúng bái chùa chiền, đi xin xăm, đi cầu bái những thần không phải là Thiên Chúa. Có thứ thần tượng thuộc lãnh vực con người, vật chất. Điều này khá phổ biến.
Một bạn trẻ Công giáo nào đó có thể không biết gì hết về Thánh Kinh, nhưng lại say mê và biết rất nhiều về thần tượng âm nhạc, phim ảnh hay nghệ thuật nào đó.
Một người mang danh Công giáo trưởng thành làm nghề kinh doanh buôn bán, có thể chẳng biết gì về Giáo lý nhưng lại rất sành sỏi trong việc chặt chém khách hàng, tỏ ra bình thản trong việc buôn gian bán lận, kinh doanh hàng giả hàng nhái, hàng kém chất lượng. Họ là những tín hữu coi tiền bạc, vật chất là “chúa tể” của mình. Họ tôn thờ đồng tiền và những vật chất có từ những đồng tiền bất chính...
Một người Công giáo đạo gốc, bề ngoài xem ra rất đạo đức, thuộc nhiều kinh nhưng thực chất lại là người ăn gian nói dối, sống vô lương tâm, cư xử vô cảm, thiếu tình người...
Vậy thì những tín hữu kể trên có đáng nghe lời trách móc này không, “Dân này thờ Ta ngoài môi ngoài miệng, nhưng lòng nó thì xa Ta” (I-sa-ia).
Đức tin chân chính của Ki-tô hữu luôn coi Thiên Chúa và những gì thuộc về Người là đối tượng duy nhất cho sự thờ phượng, tôn kính và yêu mến. Khi chúng ta cảm thấy mối tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa mờ nhạt, lỏng lẻo thì đó chính là lúc chúng ta phải xét mình. Có thể đức tin của chúng ta đang gặp khủng hoảng, đang lung lay. Bởi vì khi tin ai, thì người ta biết rõ người ấy và dần dần đi vào tương quan mật thiết với người ấy. Như thánh Phaolô đã từng xác quyết: “Tôi biết tôi đã tin vào ai” (2Tm 1, 12).
Chẳng hạn, khi xét mình về Điều Răn thứ nhất, chúng ta sẽ suy tư những gợi ý sau (nguồn tonggiaophanhanoi.org):
"Ta là Đức Chúa Thiên Chúa của ngươi. Ngươi không được có thần nào khác đối nghịch với Ta" (Xh 20,2-3).
- Tôi có thực sự yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự không? Hoặc tôi có đặt những thứ khác – chẳng hạn như: công việc, tiền bạc, ma túy, truyền hình, danh vọng, lạc thú, hay người nào đó – trên Thiên Chúa không?
- Tôi có dành thời gian cầu nguyện với Chúa mỗi ngày không?
- Tôi có hành động ngược lại với đức tin, không hoàn toàn tin tưởng và Chúa bằng việc tham gia vào những điều huyền bí, ma thuật, cầu cơ, bói toán, đồng cốt, bùa ngải, xem giờ, ngày lành tháng tốt... hoặc qua việc đọc, xem, hay chơi những trò trái ngược với đức tin và luân lý không?
- Tôi có hoàn toàn đón nhận và làm theo thánh ý Thiên Chúa, hay tôi chỉ chọn và tuân giữ những phần "dễ chịu" trong giáo huấn của Người? Tôi có cố gắng trau dồi sự hiểu biết về đức tin của tôi, hay là tôi thờ ơ không chịu tìm hiểu các chân lý mà Chúa đã dạy?
- Tôi có cố ý nghi ngờ hoặc chối bỏ các chân lý mạc khải, mà trở thành rối đạo, bỏ đạo, hoặc ly khai khỏi Hội Thánh không? Tôi có sẵn sàng xác quyết, bảo vệ, và thực hành đức tin của tôi nơi công cộng chứ không phải chỉ ở nơi riêng tư không?
- Tôi có tuyệt vọng hoặc nghi ngờ lòng thương xót của Thiên Chúa không?
Vậy khi nói chúng ta tin Chúa, thì điều đó có nghĩa là chúng ta đang ở trong mối tương quan thân tình với Người. Không nghi ngại. Không gian dối hai mặt. Không bất trung bất hiếu. Không phản bội. Không chạy theo thần tượng nào khác. Không sống thờ ơ lãnh đạm như người không có đức tin vv.
* TIN THEO
Trong cuộc sống đức tin của mình, người tín hũu không chỉ tin Chúa mà còn được mời gọi theo Ngài nữa. Tin và theo là hai hành động liên kết với nhau. Một khi đi vào mối tương quan thân mật với Chúa, chúng ta sẵn sàng từ bỏ tất cả để theo Chúa. Theo Chúa là kết quả của một cuộc tìm kiếm và gặp gỡ Chúa trong đức tin. Một khi đức tin khai mở cho chúng ta hành trình theo Chúa, chúng ta sẽ nhận ra mình phải thực hành hai việc sau. Đó là:
. Từ bỏ chính mình: Đây không phải là khuyến khích một nếp sống khổ hạnh, một cuộc đời chán chường, ủ dột, nhưng là một cuộc sống dấn thân tích cực. Một cuộc sống mới, đổi đời của công dân Nước Trời. Từ bỏ chính mình để được đồng hóa với Đấng kêu gọi mình, để tháp nhập mình vào cộng đoàn của Chúa Cứu Thế. Chẳng hạn: thực thi Hiến Chương Nước Trời (x. Mt, 5); sống theo lời mời gọi từ bỏ của Chúa (x. Mt 19 – Mc 10 – Lc 18); liều mạng sống vì Đức Ki-tô (x. Ga 12) vv.
. Lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa: Người tín hữu theo Chúa sẽ luôn quan tâm việc nghe và giữ Lời Chúa. Chúng ta nghe Chúa nói qua Thánh Kinh, qua những biến cố hằng ngày, qua những lời giáo huấn của Hội thánh, qua những lời chỉ dạy của những người có trách nhiệm dạy dỗ. Lời Chúa cần phải được lắng nghe, suy niệm và thực hành.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, rất nhiều gia đình Công giáo chưa có quyển Thánh Kinh, khá nhiều tín hữu không bao giờ đọc và suy gẫm Lời Chúa, khi dự Thánh lễ phần đông chúng ta chưa chú tâm nghe bài giảng, và có thể khẳng định là rất hiếm khi chúng ta tham khảo những giáo huấn của Hội thánh thông qua các phương tiện truyền thông vv. Đó là một thực tế đáng buồn. Và chúng ta nhớ lại lời của Thánh Giê-rô-ni-mô đã nói: "Không biết Thánh Kinh là không biết Ðức Ki-tô".
Nhưng nghe chưa đủ. Chúng ta phải thực hành Lời Chúa. Như thánh Gia-cô-bê đã nói: “...Hãy khiêm tốn đón nhận Lời đã được gieo vào lòng anh em; Lời ấy có sức cứu độ linh hồn anh em. Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình. Thật vậy, ai lắng nghe Lời Chúa mà không thực hành, thì giống như người soi gương thấy khuôn mặt tự nhiên của mình. Người ấy soi gương rồi đi, và quên ngay không nhớ mặt mình thế nào. Ai thiết tha và trung thành tuân giữ luật trọn hảo – luật mang lại tự do -, ai thi hành luật Chúa, chứ không nghe qua rồi bỏ, thì sẽ tìm được hạnh phúc trong mọi việc mình làm” (Gc 1, 21-25).
* TIN TƯỞNG
Tin tưởng cũng có nghĩa là tin cậy và tín thác. Có thể nói người có đức tin mạnh mẽ sẽ không sợ hãi bao giờ. Họ giống như đứa trẻ luôn an tâm bám víu lấy cha mẹ mình khi gặp phải hiểm nguy, khốn khó.
Chúng ta đều biết câu chuyện Chúa Giê-su dẹp yên biển động (x. Mt 8). “Đức Giê-su xuống thuyền, các môn đệ đi theo Người, và kìa biển động mạnh khiến sóng ập vào thuyền. Nhưng Người vẫn ngủ. Các ông lại gần đánh thức Người và nói: ‘Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất!’ Đức Giê-su nói: ‘Sao nhát thế, hỡi những người kém lòng tin!’ Rồi Người chỗi dậy, ngăm đe gió và biển: biển liền lặng như tờ” (Mt 8,22-26). Các môn đệ đã theo Chúa nhưng các ông chưa đủ đức tin mạnh mẽ để tin tưởng tuyệt đối vào Thầy Giê-su. Họ cần gặp nhiều biến cố hơn nữa để chịu thử thách và được đào luyện, nhờ đó lòng tin vào Chúa được củng cố và lớn mạnh.
Một trong những cám dỗ lớn nhất của người Ki-tô hữu, đó là dễ ngã lòng khi gặp khó khăn, thử thách. Khi cuộc sống bình lặng, chúng ta yên tâm sống đạo. Nhưng khi sóng gió ập đến, chúng ta chao đảo, thất vọng và dễ dàng đánh mất niềm tin. Đó là lúc chúng ta không còn tin tưởng vào Chúa nữa. Có thể chúng ta sẽ đi tìm một sức mạnh khác để cứu giúp chúng ta. Sức mạnh của bản thân chúng ta. Sức mạnh của quyền lực thế gian. Sức mạnh của vật chất, tiền bạc vv...
Người có lòng tin tưởng vào Chúa sẽ không bao giờ thất vọng. Họ sẽ có tâm trạng an bình phó thác như chị em gia đình Bê-ta-nia tiếp đón Chúa Giê-su khi Ngài nghe tin La-da-rô đã chết. “Khi đến nơi, Đức Giê-su thấy anh La-da-rô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi ... Nhiều người Do-thái đến chia buồn với hai cô Mác-ta và Ma-ri-a, vì em các cô mới qua đời. Vừa được tin Đức Giê-su đến, cô Mác-ta liền ra đón Người. Còn cô Ma-ri-a thì ngồi ở nhà. Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su: ‘Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy’...” (Ga 11, 17-21).
* TIN YÊU
Đức tin luôn là động lực thúc đẩy chúng ta thực thi lòng mến Ki-tô giáo. Thánh Gia-cô-bê đã nói rõ, như sau: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no’, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì?” (Gc 2,14-16).
Thánh Gio-an tông đồ cũng đã liên kết hai điều “Tin” và “Yêu” như một lệnh truyền không tách rời nhau được. “Đây là điều răn của Người: chúng ta phải tin vào danh Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người, và phải yêu thương nhau, theo điều răn Người đã ban cho chúng ta” (1Ga 3,23).
Ở chỗ khác, thánh Gio-an tông đồ còn quả quyết mạnh mẽ hơn: “Nếu ai nói: ‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20). Vậy niềm tin của chúng ta dù có mạnh mẽ đến mấy đi nữa mà chúng ta lại bỏ qua việc thực thi lòng mến Ki-tô giáo, thì đức tin ấy là đức tin què quặt, giả dối. Tin và yêu phải luôn đi đôi với nhau như “bóng với hình” vậy. Nếu chúng ta chỉ tin mà không yêu, thì chúng ta không khác gì như một cái cây khô cằn, thiếu sức sống, không hoa trái.
Khi “tôi tin” để tỏ ra vênh vang tôi là người có đạo, khi “tôi tin” để mong làm đẹp lòng cha mẹ, vợ chồng, con cháu tôi, khi “tôi tin” để an tâm mình là người giữ đạo tốt, để cầu xin những gì tôi muốn, để mong được rỗi linh hồn, để người khác ca tụng mình là người đạo đức, khi “tôi tin” để thỏa mãn thị hiếu cá nhân và những cảm xúc nhất thời... Lúc đó, đức tin của tôi chỉ là một cái cây khô cằn, rỗng tuếch và khi có cơn gió thổi qua, nó có thể bị ngã đổ tan nát ngay lập tức.
Vậy khi nói “Tôi tin” thực sự thì có nghĩa là tôi đã phải trao phó cả cuộc đời của tôi cho Chúa để Ngài uốn nắn tôi được nên đồng hình đồng dạng như Đức Ki-tô, là Thầy và là Chúa của tôi. Đức tin của tôi sẽ là nhịp cầu sống động nối liền tôi với Thiên Chúa là Cha đầy lòng thương xót. Đức tin của tôi sẽ tạo thành trong tôi một mối tương quan thân mật với Đức Ki-tô là Đấng cứu chuộc tôi và một mối liên hệ thân tình với mọi người anh em của tôi./.
Đối với Ki-tô hữu chúng ta, Thiên đàng không phải là một khái niệm xa lạ. Trái lại, trong kinh nguyện Đề tài 43: THIÊN ĐÀNG
Đối với Ki-tô hữu chúng ta, Thiên đàng không phải là một khái niệm xa lạ. Trái lại, trong kinh nguyện hằng ngày, nhất là lúc hấp hối trên giường bệnh, chúng ta vẫn cầu xin cho được chết lành, và sau khi chết được lên Thiên đàng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng, được hưởng hạnh phúc muôn đời.
Thiên đàng, luyện ngục, hỏa ngục là những chân lý chúng ta phải tin.
* HỘI THÁNH NÓI GÌ VỀ THIÊN ĐÀNG?
Trong đề mục “Thiên đàng”, sách Giáo lý Hội thánh Công giáo (GLHTCG) đã viết như sau:
“Những kẻ chết trong ơn nghĩa Chúa và kẻ được thanh luyện trọn vẹn, sẽ sống mãi với Đức Ki-tô. Muôn đời họ sẽ nên giống Thiên Chúa, vì Người thế nào họ sẽ được ‘nhìn thấy Người như vậy’ diện đối diện “ (x. 1Ga 3,2) (x. Sđd số 1023).
“’Thiên đàng’ là cuộc sống viên mãn vì được hiệp thông trong sự sống và tình yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi, với Đức Trinh Nữ Ma-ri-a, với các thiên thần và các thánh. Thiên đàng là mục đích tối hậu và là sự hiện thực các nguyện vọng sâu xa nhất của con người, là tình trạng hạnh phúc tuyệt hảo và chung cuộc” (x. Sđd số 1024).
“’Lên Thiên đàng’ là ‘được ở với Đức Ki-tô’. Những người được tuyển chọn ‘sống trong Người’, nhưng vẫn giữ, hay nói đúng hơn là tìm được căn tính đích thực của mình, danh xưng riêng của mình ” (x. Sđd số 1025).
Khi nói về Thiên đàng là đích điểm niềm hy vọng Ki-tô giáo, ĐTC Phan-xi-cô đã chia sẻ:
“Thiên đàng không phải là một nơi của chuyện huyền thoại, và cũng chẳng phải là vườn thần tiên. Thiên đàng là vòng tay ôm với Thiên Chúa, Đấng là tình yêu vô biên, và chúng ta vào thiên đàng nhờ Chúa Giêsu, Người đã chết trên thập giá vì chúng ta. Nơi nào có Chúa Giêsu, nơi ấy có lòng thương xót và hạnh phúc; không có Chúa thì chỉ có lạnh lẽo và tối tăm. Trong giờ chết, Kitô hữu lập lại với Chúa Giêsu: ‘Xin Chúa nhớ đến con’. Và cho dù không còn ai nhớ đến chúng ta, Chúa Giêsu vẫn ở đó cạnh chúng ta. Ngài muốn đưa chúng ta vào nơi đẹp đẽ nhất. Ngài muốn đưa vào đó với ít nhiều điều thiện trong cuộc sống chúng ta, để không điều gì bị mất đi khỏi những gì Ngài đã cứu chuộc. Và trong nhà Cha, Ngài cũng mang tất cả những gì ở trong chúng ta cần được cứu chuộc: những thiếu sót và những sai lầm trong trọn cuộc sống. Đó là mục đích cuộc sống của chúng ta: tất cả được hoàn thành, được biến đối trong tình thương.
“Nếu chúng ta tin điều đó, thì cái chết không còn làm cho chúng ta sợ hãi nữa và chúng ta cũng có thể hy vọng rời khỏi thế giới này một cách thanh thản, với bao nhiêu lòng tín thác. Ai đã biết Chúa Giêsu, thì không còn sợ hãi gì nữa. Và chúng ta cũng có thể lập lại những lời của cụ già Simeon, cụ cũng đã được phúc gặp gỡ Chúa Kitô, sau trọn cuộc đời chờ đợi: ‘Giờ đây, lạy Chúa, xin cho tôi tớ Chúa ra đi bình an, theo lời Ngài, vì mắt con đã thấy ơn cứu độ của Chúa’ (Lc 2,29-30)” (Nguồn vi.radiovaticana.va/news).
Trong buổi cầu nguyện với quần chúng ngày 21 tháng 7 năm 1999, Đức thánh GH Gioan Phaolô II đã tạo nên vấn đề thời sự. Ngài nói: “Thiên đàng là một trạng thái sống (state of being) chứ không phải là một nơi chốn (place) theo nhận thức của ngôn ngữ loài người”. Ngài nói rõ thêm,“Thiên đàng không phải là một khái niệm trừu tượng hay là một địa điểm cụ thể trong những cụm mây, nhưng là một lối sống, là mối quan hệ giữa cá nhân với Thiên Chúa Ba Ngôi. Đó là cuộc gặp gỡ Chúa Cha, diễn ra trong Chúa Kitô phục sinh, và hiệp thông với Chúa Thánh Thần". Đối với giới truyền thông ngoài Công giáo, lời tuyên bố này quá bất ngờ vì đi ra ngoài nhận định về Thiên đàng của truyền thống. (Nguồn conggiao.info).
Vậy thì chúng ta có thể khẳng định một điều là Thiên đàng không phải là một nơi chốn nào đó, trên trời, trong vũ trụ xa xôi... “Lên Thiên đàng” chỉ là cách nói hướng chúng ta về một huyền nhiệm thiên giới, về một thực tại thiên thai qua đó, sau cái chết thể lý, chúng ta được gặp gỡ, hiệp thông, sống với Thiên Chúa Ba Ngôi trong Đức Giê-su Ki-tô. Chính Chúa Giê-su cũng đã khích lệ các môn đệ của Ngài, “Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi thế gian được tạo thành” (Ga 17,24).
Thánh Phao-lô cũng không nói đến Thiên giới như một cõi mơ hồ nào đó, nhưng bày tỏ ước mong được “về với Chúa, được gặp Chúa, và được ở với Chúa”. Ngài viết: “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi…Tôi bị giằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô, điều này tốt hơn bội phần; nhưng ở lại đời này thì cần thiết hơn vì anh em” (x. Pl 21-23). Chỗ khác, ngài cũng đã viết: “Vậy, chúng tôi luôn mạnh dạn, và điều chúng tôi thích hơn, đó là lìa bỏ thân xác để được ở bên Chúa” (2Cr 5,8).
* KI-TÔ HỮU VÀ PHẦN THƯỞNG THIÊN ĐÀNG
Mọi Ki-tô hữu đều ước mong sau khi chết sẽ được “lên Thiêng đàng” để được hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa. Thiên đàng là phần thưởng tuyệt vời nhất dành cho những kẻ trung tín, đang sống trong ơn nghĩa Chúa. Phần thưởng ấy khác xa với những gì chúng ta hình dung, nhất là theo cách nghĩ thiển cận của đức tin bình dân thì Thiên đàng là “chốn bồng lai tiên cảnh”, ở đó người ta được sống một đời sống vui sướng, an nhàn đời đời.
Vì Thiên đàng là chính Thiên Chúa hằng sống, là sự hiệp thông yêu thương với Ba Ngôi Thiên Chúa, là mối tương quan mật thiết với Thiên Chúa trong Chúa Ki-tô, cho nên chúng ta được mời gọi chuẩn bị một tinh thần và một tâm thế đặc biệt để lãnh nhận Thiên đàng.
. Thiên đàng trước hết là ân huệ Thiên Chúa ban cho những ai có lòng tin và biết sám hối.
Vì Thiên đàng là ân huệ nhưng không cho nên chúng ta bỏ qua những suy nghĩ cho rằng mình được “lên Thiên đàng” là do đi lễ nhiều, đọc kinh nhiều, lần hạt nhiều, xưng tội nhiều, bố thí nhiều, lập công đền tội nhiều vv... Niềm tin ấy đã biến Thiên đàng như một món nợ mà Thiên Chúa trả cho ta vì ta đã lập nhiều công đức...
Khi Chúa Giê-su đến trần gian rao giảng Nước Thiên Chúa, thì thánh Gio-an Tẩy Giả đã loan báo, “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,2). Đức Giê-su cũng rao giảng: “Thời kỳ đã mãn, và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Vì ơn cứu chuộc đã đến gần và được ban nhưng không, nên những ai muốn lãnh nhận ân huệ ấy thì phải chuẩn bị cả thể xác lẫn tinh thần với một tâm thế đặc biệt, đó là sự sám hối. Sám hối là từ bỏ con người cũ, quay đầu 180o, sẵn sàng thay đổi hoàn toàn để đón nhận thực tại mới. Đó là niềm tin vào Đức Giê-su. Người trộm lành sám hối đã được Chúa Giê-su hứa cho vào Thiên đàng với Ngài, “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43).
. Thiên đàng cũng là phần thưởng dành cho những công dân trung tín của Nước trời.
Đó là những người sống và thực hành Tám Mối Phúc thật.
“ ‘Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ’. ‘Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp’. ‘Phúc thay ai sầu khổ, vì họ được Thiên Chúa ủi an’. ‘Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng’. ‘Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương’. ‘Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa’. ‘Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là Con Thiên Chúa’. ‘Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ’. ‘Phúc cho anh em, khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại, và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao’. ” (Mt 5, 1-12).
. Thiên đàng luôn dành cho những ai có lòng mến Ki-tô giáo
Có thể nói giữa Thiên đàng và lòng mến Ki-tô giáo có một mối liên hệ rất mật thiết. Nói cách khác, Thiên đàng luôn là phần thưởng cho những ai có lòng yêu mến theo gương Đức Ki-tô, “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34); “Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1Ga 4,8); “Ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (x.1Ga 4,16).
Sự hiệp thông với Thiên Chúa, tức Thiên đàng, đòi hỏi chúng ta phải mặc lấy chiếc áo lòng mến của Chúa Ki-tô, là Đấng đã yêu mến Cha và yêu thương nhân loại đến cùng. Thánh Phao-lô đã ca tụng đức mến như con đường trổi vượt mà mọi Ki-tô hữu phải dấn thân đi theo (x. 1Cor 13, 1-13). Tất cả sẽ qua đi, duy chỉ có lòng mến là tồn tại. Sự tồn tại của lòng mến chính là sự tồn tại vĩnh cửu của Thiên đàng. Vì cả hai đều xuất phát từ Thiên Chúa là tình yêu. Khi yêu mến như Đức Ki-tô, chúng ta đã sống thực tại thần linh và vĩnh cửu rồi (x. Ga 13, 8-13).
Trong viễn ảnh cuộc phán xét diễn ra vào ngày chung thẩm, mỗi người tín hữu chúng ta sẽ được xét xử căn cứ vào việc thực thi những bổn phận liên quan đức ái Ki-tô giáo. Chúng ta sẽ được tuyển chọn hay bị loại trừ là tùy vào những việc cụ thể chúng ta làm hay bỏ qua không làm cho những người anh em mình. Lúc đó Thiên đàng sẽ ban cho “những kẻ lành” đứng bên phải Đấng Phán Xử. “Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: ‘Nào những kẻ Cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thủa tạo thiên lập địa. Vì xưa ta đói, các ngươi đã cho ta ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm’ ” (Mt 25, 34-36).
Trong tuyển tập “Được chọn và sai đi”, giáo phận Long Xuyên 2003, ĐGM GB Bùi Tuần đã viết Đề tài 44
Trong tuyển tập “Được chọn và sai đi”, giáo phận Long Xuyên 2003, ĐGM GB Bùi Tuần đã viết như sau: “Làm sao để khi gặp linh mục và thấy linh mục làm mục vụ và việc xã hội, ngay cả khi thấy ngài thinh lặng cầu nguyện, hoặc thinh lặng hiện diện với tuổi tác và bệnh tật, mọi người thiện chí đều có cảm tưởng là một Đấng thiêng liêng vô hình đang hiện diện một cách tích cực trong cuộc sống ngài, và qua ngài mà Đấng ấy đang đến với lịch sử hôm nay. Với Đấng thiêng liêng ấy, linh mục hiện diện và đến như một tình thương, một hi vọng, một sức mạnh đổi mới trong dáng vẻ tu thân hiền từ và khiêm tốn” (x. Sđd trang 62).
Ở tài liệu khác, LM Đỗ Xuân Quế OP cũng đã chia sẻ như sau: “Đứng trước một Hội thánh đang dần dần phục hồi lại khí thế như Hội thánh tại VN, chúng ta vui mừng phấn khởi, nhưng đồng thời cũng phải lưu tâm đến một số biểu hiện nguy hại, có thể làm xói mòn sinh lực của Hội thánh chúng ta. Đó là: a- Tính thích phô trương chuộng hình thức; b- Tính cả nể và óc phong kiến; c- Khuynh hướng háo thắng; d- Tính ù lỳ cứ muốn trước sao sau vậy cho khỏi phải thay đổi rắc rối; e- Thiếu nhân bản trong cách giao tế...” (x. Bài “Sơ thảo đôi nét về hiện tình Hội thánh tại VN”, VietCatholic News 23-1-2005).
Một cách chi tiết hơn, trong bài “Tính nhân bản trong cách hành xử của LM”, LM Đỗ Xuân Quế cũng đã viết như sau: “Ở chủng viện các chủng sinh được học hành nhiều thứ và huấn luyện khá đầy đủ về đường đạo đức, nhưng có một mặt xem ra ít được để ý và coi trọng, đó là tính nhân bản. Nhân bản là lấy con người làm gốc trong cách giao tiếp đối xử, nghĩa là trọng kính người ta, khi nói năng, gặp gỡ, dù người ta ở cấp bậc nào, có học hay không có học, giàu sang hay nghèo hèn, Công giáo hay ngoài Công giáo, hay nói khác đi, tính nhân bản là cách đối xử sao cho có tình người và tính người...” (x. VietCatholic News ngày 23-1-2005).
Quả thực, mấy ý kiến dẫn trên đã gợi ý cho ta định hướng vấn đề cần chia sẻ ở đây. Đó là vấn đề nhân bản trong mục vụ của linh mục (LM).
* DẪN CHỨNG VÀI CÂU CHUYỆN TRONG THỰC TẾ
Phải thừa nhận rằng trên thực tế, tại một vài nơi, giáo dân đã có dịp chứng kiến tận mắt không ít những tình huống ứng xử không mấy tốt đẹp của một số LM khiến dư luận trong cộng đoàn không mấy hài lòng. Chẳng hạn:
Trong một cuộc tranh luận về việc nên làm việc này, không nên làm việc kia, cha xứ của một giáo xứ nọ đã nói thẳng vào mặt hai người giáo dân của mình là, “Các ông là giáo gian chứ giáo dân cái gì!...”. Nghe vậy hai người giáo dân nọ chỉ biết cứng họng, chào thua cha xứ của mình và xin rút lui, họ đã không nghĩ rằng cha xứ lại có những lời lẽ nặng nề như vậy.
Một câu chuyện khác, ở một giáo xứ nọ, có lần một giáo dân lớn tuổi xin gặp cha xứ trình bày ý kiến về một vấn đề gì đó, sau khi nghe người giáo dân này góp ý xong, vị LM chính xứ lạnh lùng chỉ tay xuống đất và nói một câu thẳng thừng: “Những lời ông vừa nói chỉ đáng tôi vứt xuống đất và chà đạp lên...”. Ông lão giận run lên và chỉ còn biết quay lưng rút lui trong buồn tủi.
Một anh bạn của người viết bài này có đứa con phục vụ trong lễ sinh tại một giáo xứ nọ. Các em cho biết cha xứ thường hay trừng mắt nạt nộ đám lễ sinh khi chúng làm điều gì đó không vừa ý ngài. Lúc đó ngoài thái độ nạt nộ, ngài còn buông ra những lời mắng chửi, chẳng hạn: “Đồ khỉ, đồ con heo! Ngu như lợn!...”.
Quả đúng như lời LM Đỗ Xuân Quế đã viết: “Hiện nay cũng có những linh mục, tu sĩ làm cho người ta bực bội vì cách cư xử thiếu nhân bản. Thí dụ, có linh mục đáng tuổi con cháu la mắng một bà cụ già bổn đạo như tát nước vào mặt. Có vị chỉ thẳng vào mặt một ông già mà bảo ‘Ông là đồ ngu!’.’” (x. LM Đỗ Xuân Quế OP, bài đd).
* NHỮNG MONG ƯỚC CỦA GIÁO DÂN
Để duy trì mối quan hệ tốt đẹp và thân tình giữa LM và GD, thiết nghĩ có 4 điều mong ước sau đây đối với LM mà bất kỳ một giáo dân nào cũng muốn đề cập đến. Đó là:
- Lòng nhân ái, bao dung; - Tính khiêm nhu tự hạ; - Thái độ hòa đồng cởi mở; - Lòng trung thực thẳng thắn.
1.- Lòng nhân ái, bao dung:
Trong đời mục tử, LM sống và phục vụ cộng đoàn bằng trái tim của vị Mục Tử Giê-su chí thánh, vì thế ngài phải yêu hết mình và yêu đến kỳ cùng. Tấm lòng nhân ái của mục tử sẽ tỏa sáng không chỉ trong lúc cử hành phụng vụ, mà còn tiếp tục lan tỏa khi ngài sống và làm việc với giáo dân trong mọi hoàn cảnh của đời thường. Chính vì vậy mà LM luôn làm cho mình hiện diện và đến như một tình thương. Quả vậy, như một vị GM đã chia sẻ: “Tôi nhận ra ơn gọi của người môn đệ Đức Ki-tô. Ơn gọi này không chỉ là truyền bá Tin Mừng, quy tụ dân Chúa, thông báo ý Chúa trong những hoàn cảnh cụ thể, mà còn là hiến tế chính mình trong cuộc đời. Hiến tế bằng tình yêu và hi sinh. Cho dù một cách nào đó, người môn đệ Chúa sẽ phải chịu đóng đinh vào thánh giá, phải chịu cho trái tim mình bị đâm, để những giọt máu và nước sau cùng trong đó cũng đành đổ ra hết...” (ĐGM GB Bùi Tuần, Tĩnh tâm LM Gp LX tháng 6-2002).
2.- Tính khiêm nhu tự hạ:
Có thể nói khiêm nhường là một đòi hỏi cao nhất về nhân bản đối với một LM. Đó vừa là nhân đức đạo đức, vừa là một đức tính nhân bản trổi vượt trên tất cả. Chính Thầy Giê-su chí thánh cũng đã kêu gọi các môn đệ hãy học nơi Ngài sự khiêm tốn và hiền lành.
Thánh Phao-lô cũng đã mạnh mẽ quả quyết: “Còn chúng tôi, chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, vì Đức Giê-su” (2Cor 4,5). LM là tôi tớ của cộng đoàn, là mục tử đến để phục vụ. Với vai trò người phục vụ, LM sẽ luôn cư xử một cách khiêm tốn, điều đó trái ngược lại với tính kiêu căng, lên mặt của giới lãnh đạo Do Thái hay như nhóm tư tế, biệt phái khi xưa. Bởi ai cũng biết, “Phục vụ mà kiêu căng sẽ không là phục vụ của người môn đệ Đức Ki-tô. Phục vụ với lòng tự cao tự đại là một xúc phạm. Phục vụ mà chỉ tưởng rằng cho đi mà không nhận lãnh cũng là một sai lầm. Phục vụ mà cho rằng chỉ có mình là đúng, là tốt, là cần, sẽ là một thảm họa” (ĐGM GB. Bùi Tuần, gp Long Xuyên).
Một LM khiêm tốn dễ thu hút lòng người hơn là một LM thông thái. Một LM khiêm tốn sẽ dễ dàng có được một đời sống quân bình, một thái độ an vui và một nếp ứng xử dịu dàng, thoải mái, hòa đồng...
3.- Thái độ hòa đồng cởi mở:
Một số giáo dân khi đến với LM thường hay khúm núm, e ngại, sợ sệt. Vì giữa họ và LM dường như có một khoảng cách vô hình nào đó. Khoảng cách do trách vụ, do “chức thánh”, do danh xưng “cha-con”, do tương quan lỏng lẻo xuất phát từ sự lãnh đạm của mục tử vv... Đã có một thời người ta phải “Xin phép” mới được “Lạy cha!”. Khi phát biểu, người giáo dân luôn sử dụng một phong cách ngôn ngữ trịnh trọng nhất dành cho LM, chẳng hạn “Trọng kính...”, hay “Kính trình, kính thưa...”. Dù sao, ngôn ngữ xã giao cũng không thể là rào cản khiến LM xa cách và coi nhẹ giáo dân được. Ngôn ngữ ấy nên nhẹ nhàng, bình dị nhờ đó mối quan hệ “cha-con” trở nên hòa đồng, dễ chịu.
Sự trân trọng của GD làm cho LM hiểu rằng, “Để việc truyền thông giao tiếp trong ứng xử đạt hiệu quả, việc này đòi hỏi biết lắng nghe, biết đồng cảm, trung thực. Những khả năng này mở đường cho sự cởi mở đối với nhau. Thái độ cởi mở đối với nhau đưa mọi người đến những vùng ánh sáng mới và những khám phá mới. Tất cả những điều đó làm nền tảng cho việc thiết lập tương giao tốt là tương giao có tác dụng trợ lực và mở đường đối với mọi người liên hệ, với các cộng sự viên. Thiếu khả năng truyền thông tốt (cởi mở, hòa đồng, thông cảm) sẽ là nguồn gốc của những hiểu lầm, của những đổ vỡ trong mối quan hệ” (x. “Đi tìm chân dung người mục tử”, tài liệu thường huấn LM gp Long Xuyên 2003, trang 110).
4.- Lòng trung thực thẳng thắn:
Chúng ta đều biết, trong ứng xử đời thường giữa người-người, vấn đề trung thực, thẳng thắn là rất quan trọng và cần thiết. Bởi sự trung thực thẳng thắn giúp người ta lột bỏ được cái mặt nạ giả tạo của mình mà đến với tha nhân bằng con người thật của mình. Vì thế, không chỉ vì cách xưng hô nào đó mà LM nghĩ mình vượt trổi hơn người khác. Không chỉ vì chức vụ và sự kính trọng người GD dành cho mình mà LM nghĩ mình là “thầy cả toàn năng”. Không chỉ vì một sự đãi ngộ nào đó mà mình nghĩ là mình xứng đáng hơn người khác. Quả vậy, “Người nào muốn làm môn đệ Chúa thì không được nghĩ rằng đó là một chức tước mình có thể chiếm đoạt nhờ tài năng của mình. Là LM không phải là một nghề nghiệp như các nghề nghiệp khác...” (x. LM Thân Văn Tường, Tĩnh tâm các LM gp Long Xuyên, 1997).
Do vậy mọi tín hữu đều ước ao LM sẽ nhìn bản thân mình và nhìn người khác bằng con mắt trong suốt, đánh giá trung thực cái-mình-là, cái-mình-có, để vừa cho đi, vừa đón nhận một cách thoải mái, nhẹ nhàng. Sự trung thực là chấp nhận tất cả sự thật về mình và về người khác. Không úp mở, không che đậy, không bóp méo, không giả dối... Sự trung thực cuối cùng cũng là khuôn mặt khác của sự khiêm tốn vậy.