Tôi lúc nào cũng yêu sa mạc. Tôi ngồi trên đụn cát. Không trông thấy gì. Không nghe thấy gì. Nhưng có một cái gì đó rực sáng lên trong thinh lặng... - Cái mang lại vẻ đẹp cho sa mạc, hoàng tử bé nói, chính là sa mạc ẩn giấu một cái giếng ở nơi nào đó... Tôi kinh ngạc khi chợt hiểu ra cái rực sáng huyền bí ấy của cát. Và, cứ bước đi như vậy, tôi tìm thấy cái giếng vào lúc rạng đông. - Tôi khát thứ nước này đây, hoàng tử bé nói. Cho tôi uống đi... Và tôi hiểu em đang tìm kiếm cái gì. Tôi nhấc chiếc gầu lên, kề tận môi em. Em uống, hai mắt nhắm nghiền. Êm đềm như một ngày hội. Thứ nước này còn là một cái gì khác hơn so với thứ nước uống thông thường. Nó sinh ra từ cuộc đi bộ dưới trời sao, từ tiếng hát của cái ròng rọc, từ sự gắng sức của cánh tay tôi. Nó tất lành cho trái tim, như một quà tặng. ANTOINE DE SEAINT-EXUPÉRY ----------------------------
KÝ TỰ VIẾT TẮT A, B và C Ký tự chỉ về một trong ba tập Thủ bản Tự Thuật của Têrêsa, tiếp sau ký tự là số trang mặt trước (r) hay mặt sau (v) DE Derniers Entretiens: Những lời cuối đời (của Têrêsa) ấn bản Cerf 1971, tiếp theo là số trang DE, Annexes Phần phụ thêm của tập trên JEV Tôi tiến vào cuộc sống (J’entre dans la vie)... tổng hợp cả hai tập trên CSG Huấn dụ và ghi niệm của nữ tu Geneviève (Céline), Office central de Lisieux, 1952 LT, LC Thư tín. LT: Thư của chị thánh viết; LC: Thư người khác viết gởi chị thánh, trong Correspondance générales de Thérèse, Cerf 19720-1973 P Các bài thơ của chị thánh, Poésies de Thérèse, Cerf 1979 RP Kịch đạo đức, Récréations pieuses de Thérèse, Cerf 1985 PO, PA Tài liệu Án phong thánh của Bản quyền (Ordinaire) và của Tông toà (Apostolique) để phong Chân phước cho chị thánh. --------------------
Cách đây hơn một trăm năm, một thiếu nữ đã gõ cửa Đan viện Cát Minh Lisieux. Thiếu nữ ấy mười lăm tuổi. Cô bước chân vào Cát viện và chẳng bao giờ rời khỏi nơi ấy nữa. Để làm gì? Cô sẽ triển nở như thế nào? Làm sao cô có thể bền đỗ được? Cuộc đời cô trôi qua trong một không gian vỏn vẹn vài thước vuông; nhưng cô đã trở thành vị bổn mạng của các xứ truyền giáo trên khắp toàn cầu. Cô chẳng làm gì to tát; thế mà cuốn Thủ bản Tự Thuật của cô lại trở thành cuốn sách bán chạy nhất. Cô muốn sống ẩn dật; nhưng, hiện nay, cô đang được hàng triệu Kitô hữu yêu mến và khẩn cầu. Tầm ảnh hưởng thần học, truyền giáo và thiêng liêng của cô thật rộng lớn. Tuy nhiên, từ lúc Têrêsa Martin chào đời (ngày 02 tháng giêng năm 1873, tại Alençon) cho đến khi qua đời (ngày 30 tháng 9 năm 1897, tại Đan viện Cát Minh Lisieux), thời gian chỉ diễn ra trong vòng hai mươi bốn năm hai trăm bảy mươi mốt ngày. Cứ như thể cô đã là nữ thánh ngay từ thuở trong nôi: như thể ánh nắng mặt trời chỉ làm cho những hạt mầm nẩy nở một cách bình yên... Hoàn toàn không phải vậy! Têrêsa đã chín muồi, song không phải là không chịu nhiều đau đớn trong thân phận làm người và trong một sự nghèo đi toàn diện. Chỉ đằng sau câu chuyện đời riêng, cùng với những khủng hoảng, những thăng trầm, mà những trực giác thiên tài của cô về lòng tin mới nhận được tất cả ý nghĩa của chúng. Tính cách đơn sơ mà cô biết quy hướng hoàn toàn vào đó, chính là hoa trái của một tình yêu mãnh liệt đã cùng với trí tưởng tượng và óc sáng tạo, trải qua muôn vàn gian truân, đạt đến chỗ thực hiện được những điều tưởng chừng không thể dung hoà: bằng cách nào mà một thụ tạo vô cùng nhỏ bé lại mở mình ra hết mức với Thiên Chúa vô biên đến vậy... Cô con gái ông chủ hiệu đồng hồ khá giả và bà thợ đăng-ten lành nghề đã buộc phải trở nên thực sự nghèo khó... Cô đã học được cách nhận lấy tình yêu Thiên Chúa từ chính Thiên Chúa. Sức hành động của cô phát sinh từ sức mạnh hồng ân... *** Kể từ lúc cuốn Thủ bản Tự Thuật được xuất bản, vào năm 1898, sứ mệnh ngôn sứ của Têrêsa đã tác động hết sức mạnh mẽ đến vô số Kitô hữu. Đức Piô XI, phong thánh cho Têrêsa vào năm 1925, đã gọi Chị là “một lời của Chúa”. Hiện nay, ảnh hưởng của Chị đã lan rộng khắp nơi, như men dậy trong bột. Bất luận thế nào, Têrêsa vẫn luôn là một trong những nhà lãnh đạo vĩ đại nhất về đời sống thiêng liêng đương đại. Chị khiến người ta phải say mê khi nói về cuộc phiêu lưu ưu việt mà con người ai cũng khao khát: tình yêu. Bằng một nhạy bén sư phạm và những hình ảnh được chọn lọc tinh tế, Chị biết dệt nên những đường chủ đạo cho đời sống Kitô hữu trong cuộc sống thường nhật và những tương quan nhân bản của chúng ta. Têrêsa khẳng định có thể trở thành Kitô hữu một cách sâu sắc ngay trong môi trường sống của mình bằng cách sử dụng những phương thế thông thường. Cha Helder Camara, mới đây, đã phát biểu: Sự thánh thiện, nói cho cùng, chính là Chúa. Chính Ngài mời gọi chúng ta chia sẻ sự thánh thiện của Ngài. Nhưng sự thánh thiện được chia sẻ ấy không phải là một vinh dự hay một đặc ân dành riêng cho những ngoại lệ, và cũng chẳng phải là một ơn huệ chúng ta mang lại cho Chúa. Đây là một nghĩa vụ đối với hết thảy chúng ta kể từ lúc, cùng với phép Rửa, chúng ta được ban ơn thánh hoá, ơn làm cho nên thánh. Thiên Chúa muốn làm Đấng Giải Thoát chúng ta. Têrêsa đã hiểu rất rõ Thiên Chúa tình yêu (1Ga 4,7) cũng chính là “Thiên Chúa của nguồn hy vọng” (Rm 15,13). Chị càng hiểu rõ điều đó hơn sau khi lý tưởng đầu đời chỉ Chị sụp đổ, lý tưởng “hãy tự mình làm lấy”. Trải nghiệm của Chị, chính là cuộc phiêu lưu của mọi người. Ai cũng muốn thành đạt trong cuộc sống và hẳn nhiều người muốn yêu mến Chúa và tha nhân một cách chân thành. Nhưng chẳng mấy chốc người ta chạm đến giới hạn của bản thân. Lý tưởng càng trổi vượt, bạn càng nhanh chạm đến ngưỡng giới hạn của mình. Têrêsa dạy bạn chớ nên an phận trong sự bất lực của mình mà không đến với một Đấng khác, Đấng tăng thêm sức mạnh, sẵn sàng trợ lực cho bạn. Bởi chưng điều Chúa muốn, chính là tự hiến chính mình Ngài làm quà cho loài thụ tạo. Đích thân Đấng Mục tử đi tìm những con chiên lạc (Mt 18,12). Ai khát khao Thiên Chúa, người ấy sớm muộn gì cũng phát hiện ra là không thể chinh phục được Thiên Chúa, nhưng phải kính cẩn khấn xin Ngài ban cho ơn ấy như một Món Quà. Têrêsa là vị thánh của niềm hy vọng. Chị chứng tỏ cho chúng ta thấy, bằng sức mạnh giải thoát, Thiên Chúa có thể chiếm hữu chúng ta và có thể hoạt động thông qua chúng ta như thế nào. Bởi lẽ Têrêsa đã trở nên một người nữ cách mạng về tình yêu, khởi đi từ những người chung quanh gần gũi với Chị nhất. Triết gia người Do Thái, thánh Édith Steins, viết cho một người bạn khi người này công khích phong cách của Têrêsa: Những gì bạn viết cho mình về Têrêsa khiến mình ngạc nhiên. Cho đến nay, chưa bao giờ mình nghĩ người ta có thể tiếp cận phong cách ấy theo kiểu đó. Cảm tưởng duy nhất mà mình có, chính là nhận ra mình đang đứng trước một đời sống con người được xuyên suốt một cách duy nhất và toàn diện, cho đến cùng, bởi tình yêu Thiên Chúa. Mình không biết có gì cao quý hơn, và chính một chút của điều cao quý này mà mình muốn chuyển đạt, càng nhiều càng tốt, vào trong cuộc đời mình và cuộc đời của những ai đang sống chung quanh mình. Chúng ta muốn nói với các bạn về cuộc phiêu lưu đặc biệt của Têrêsa Martin với Thiên Chúa. Ấn bản đầu tiên của tập sách này đã xuất hiện, cách đây mười lăm năm (1973), với tựa đề Hai bàn tay trắng và, dưới một hình thức khác, sử dụng lại những ý tưởng chủ đạo từ nghiên cứu quan trọng nhất của chúng tôi, có tựa đề là Sức năng độn của niềm tin tưởng (Nxb Cerf, sách bộ, “cogitation fidei”, số 39). Tác phẩm đã được đón nhận nồng nhiệt và, ngoài các ẩn bản bằng tiếng Hà Lan và tiếng Pháp, còn được chuyển ngữ sang tiếng Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Nhật, Ý, Inđônêsia, Croatia, Hàn Quốc và Thuỵ Điển. Thế nhưng, rõ ràng trong vòng mười lăm năm kể từ khi được xuất bản, ấn bản phê bình, Têrêsa toàn tập, đã mang lại những thông tin mới hết sức phong phú. Những ấn phẩm khác về Têrêsa cũng được công chúng quan tâm. Ấn bản lần này được làm mới và được viết lại hoàn toàn. Chúng tôi muốn lồng thêm các thông tin mới vào; một số các quan điểm của chúng tôi đã chín chắn hơn; chúng tôi đã nghiên cứu nhiều hơn về tâm lý của Têrêsa, ảnh hưởng môi trường gia đình đối với Chị, sự phát triển của lòng tin nơi Chị, những tương quan của Chị với những người thân thuộc, việc cầu nguyện của Chị. Và chúng tôi dám hy vọng bất cứ ai tìm kiếm Thiên Chúa đều tìm thấy, trong tác phẩm này, một ánh sáng nhất định cho cuộc hành trình của họ và, như Têrêsa, họ biết được niềm vui khi yêu và được yêu. Bấy giờ, dù không quen biết nhau, chúng ta vẫn trở thành bằng hữu của nhau.
Sắp bước vào tuổi mười lăm. Một bé gái tràn đầy sức sống, đặc biệt là cũng rất thông minh. Cô yêu tất cả những gì đẹp, tất cả những gì sống động. Cô mở lòng ra với tình bạn, và cảm thấy được thôi thúc phải trung thành với một lý tưởng được thoải mái tự chọn. Cô khiến người ta nghĩ đến một nụ hoa nhô lên khỏi mặt nước, cuốn hút bởi nét tươi tắn và sự hứa hẹn mà nó mang trên mình. Hơn nữa, về phương diện tài chánh, Têrêsa có thể tự cho phép mình có nhiều thứ. Gia đình bố mẹ cô khá giả; công việc làm ăn phát đạt! Cô ở trong một ngôi nhà bề thế, cô có thể đi đây đi đó, và chắc chắn là không thể không khiến người khác chú ý khi cô bước vào thế giới của thành phố nhỏ cô đang cự ngụ: Lisieux. Chúng con cùng nhau vui hưởng cuộc sống ngọt ngào nhất mà các thiếu nữ chỉ mơ mới có được; tất cả mọi sự, chung quanh chúng con, đều đáp ứng những sở thích của chúng con, chúng con được tự do thoả thích, tóm lại con nói được rằng cuộc sống của chúng con là cuộc sống Lý tưởng hạnh phúc trên trần gian.
Tính cách Têrêsa rất dễ thương, nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Mẹ qua đời vì ung thư vào lúc Têrêsa mới được bốn tuổi tám tháng. Đây chính là thời điểm hết sức quan trọng trong phát triển tâm lý của trẻ. Giữa Têrêsa và mẹ vốn có một tương quan tình cảm thắm thiết. Khi cái chết đột ngột đặt dấu chấm hết cho mối tương quan ấy, cô bé bị mất đi tình thương đầm ấm mà cô bé đang rất cần. Chẳng ai có thể thực sự bù đắp cho sự mất mát ấy. Têrêsa trở nên nhút nhát, cực kỳ nhạy cảm và rất dễ tổn thương. Chỉ khi ở trong tổ ấm “Buissonnets” được che chở, cô bé mới cảm thấy an toàn. Do còn quá nhỏ, bé Têrêsa đã bị ức chế nghiêm trọng. Một cách vô thức, cô bé đã bắt đầu vận dụng nước mắt đầu đìa để vòi cho được sự thương cảm. Cô bé lúc nào cũng chỉ chực khóc... Con thật sự không chịu đựng nổi cái tính cách quá nhạy cảm của mình..., Têrêsa viết một cách nghiêm khắc,... và đến khi bắt đầu tự dỗ dành được mình rồi, con lại khóc vì đã khóc... Têrêsa khép mình lại một cách tuyệt vọng. Điều này khiến cô vô cùng đau khổ. Sử hữu biết bao nhiêu khả năng phong phú tiềm tàng, nhưng lại không có phương tiện để làm cho chúng triển nở... Nhờ những nỗ lực, nhiều khi chẳng đâu vào đâu nhưng bền bỉ, hòng loại bỏ những khuyết điểm ấy, Têrêsa âm thầm đắc thủ một ý chí được tôi luyện. Sau này, Têrêsa sẽ chẳng bao giờ chịu từ bỏ những gì mình bắt đầu! Ngày lễ Giáng sinh năm 1886, mọi sự thay đổi. Cả nhà trở về sau lễ nửa đêm. Bố Têrêsa, người lúc nào cũng tốt bụng, tỏ ra mệt mỏi. Trong một lúc bực dọc, ông đưa ra một nhận xét khi thấy Têrêsa vẫn vui vẻ hết sức trẻ con đặt đôi giày vào lò sưởi. “Vậy đấy, may mà đây là năm cuối...”. Ông nói một cách khó chịu. Điều đó chưa bao giờ xảy đến trong tương quan giữa cô bé và bố. Lúc nào ông cũng rất dịu dàng và ân cần: một tấm gương phản chiếu mà cô có thể gặp thấy chính mình trong đó. Đột nhiên, một vệt nứt xuyên ngang tấm kính và Têrêsa nhìn thấy gương mặt mình biến dạng. Bố không còn là một ánh chiếu nhẫn nại nữa, nhưng là một lực cản khó có thể chấp nhận. Một cách đau lòng và rõ ràng hơn trước, Têrêsa hiểu ngay ra là đã đến lúc cần lột bỏ hết “tã lót trẻ thơ”,. Cô đã thử nhiều lần, nhưng lần này cô thành công! Như mọi khi, nước mắt cô đã chực trào ra nhưng, lần đầu tiên trong đời, cô thực sự vượt qua một tình huống khó khăn và kìm được nước mắt. Cô trải nghiệm mình đã “trưởng thành chỉ trong chốt lát”, đã đột nhiên trở nên “mạnh mẽ và can đảm” như thế nào. Têrêsa gán phép lạ nhỏ tâm lý ấy cho Hài Nhi nơi máng cỏ, cho Giêsu mà cô vừa đón nhận khi chịu lễ. Chúa Giêsu đã biến đổi đêm tối trong linh hồn con thành những dòng thác ánh sáng... Kể từ cái đêm hồng phúc ấy, con không còn bị đánh bại trong bất cứ cuộc chiến nào nữa, trái lại, con đi từ hết chiến thắng này đến chiến thắng khác [A. 44v]. Sức mạnh Thiên Chúa đã xâm chiếm tân lý Têrêsa. Tất cả những hoài công cố gắng xưa kia, nay đang được kết tinh thành một trạng thái đầy sức mạnh. Têrêsa gọi biến cố đêm Noel 1886 là “ơn hoán cải hoàn toàn”. Hết rồi nỗi lo lắng như là bệnh hoạn về chính mình! Kết thúc rồi, cái “vòng tròn chật hẹp trong đó con loay hoay mãi mà chẳng thể nào thoát ra được!” Têrêsa nhanh chóng vượt qua sự trì trệ của mình. Bây giờ bắt đầu “giai đoạn ba của cuộc đời con, giai đoạn tuyệt vời hơn cả”. Cánh cửa cuộc đời hầu như đột ngột mở toang trước mắt cô bé mười bốn tuổi và cô khám phá một thế giới đang chờ được khai thác. Được giải thoát khỏi tính khí quá nhạy cảm của mình, cô say mê với những gì từ bên ngoài: học hành, dụ lịch, tình bản, toàn là những khả năng vô cùng rộng lớn! *** Điều gì đang xảy ra trong tâm hồn cô thiếu nữ mà tâm lý đã chín chắn hơn những bạn cùng trang lứa ấy? Chuyện xảy ra có hơi khác thường. Thậm chí còn ngược lại với những phản ứng đầu tiên của người ta khi mới đi vào khám phá cuộc sống. Thông thường người ta bị hấp dẫn bởi mọi thứ và chẳng vì lý do gì cả, mọi sự đều có vẻ quan trọng. Nơi Têrêsa rất nhiều thứ được tương đối hoá. Sự mở ra của bản thể sâu xa nhất của Têrêsa đã trở nên rõ nét. Mọi thứ được sắp đặt chung quanh một điểm đã đạt đến giá trị tuyệt đối. Têrêsa đã tìm thấy trung tâm của mình; tâm hồn cô bị hấp dẫn bởi một tình yêu duy nhất và bất biến. So với những người trẻ khác, sự trưởng thành sớm trong tình yêu của Têrêsa có điểm đặc biệt: một tình yêu dứt khoát. Nhưng cô cũng có điểm chung với giới trẻ là nuôi dưỡng một giấc mơ không giới hạn. Lý tưởng mà đã nắm lấy cô gái trẻ nhất trong số năm cô con gái nhà Martin không hề là một hệ tư tưởng hay một đối tượng nào khác. Nhưng là một bản thể con người, song không giống với các bản thể khác. Têrêsa ao ước yêu mến Giêsu một cách mãnh liệt. Cuộc đời là một quà tặng của Giêsu, phải được sống vì Giêsu. Têrêsa biết mình được kêu gọi bởi một tình yêu sáng tạo và muốn đáp lại bằng sự hiến mình trọn vẹn. Đối với Têrêsa, Giêsu không phải chỉ là một nhân vật lịch sử, xa lắc một thời. Ngài thực sự đang hiện diện, đang thực sự yêu thương, đang rất gần gũi. Sau này Têrêsa không còn viết nhiều về chủ đề sống lại của g; đối với Chị, rõ ràng là Đức Giêsu đang sống, đang hiện diện; chẳng ai đi nói về không khí mà mình đang hít thở từng giây từng phút cả. Giêsu là “các vật thiêng liêng” của Chị. Chị bắt gặp dấu vết của Ngài ở khắp nơi. Với Têrêsa, trái đất thật trong suốt: vũ trụ của Đấng Tình Quân. Khi nói về giai đoạn tuổi thơ ấy, Têrêsa trích dẫn bài thơ Đêm dày của thánh Gioan Thánh Giá làm nổi bật cách mà tình yêu in hình trên toàn bộ cuộc hành trình. Không một ánh sáng và kẻ dẫn đường nào khác, Ngoài chút sáng cháy trong tim, Chút sáng ấy đang hướng dẫn tôi, Chắc chắn hơn ánh sáng giữa trưa, Dẫn đến nơi có người đợi tôi, Người mà tôi biết rõ. Con đường con bước đi thật ngay thẳng, thật sáng rỡ đến độ chẳng cần sự dẫn dắt nào khác khác Gioan... Ngài muốn làm vỡ oà trong con tình thương xót của Ngài, bởi vì con bé mọn và yếu đuối nên Ngài đã cúi xuống với con, bí mật dạy con những điều về tình yêu của Ngài. Têrêsa hiểu rằng, Chúa dạy Chị yêu mến và chiến hữu Chị bằng việc hiến tặng tình yêu. Cựu Ước trở thành trải nghiệm mới mẻ, sống động, riêng tư. Chị vận vào mình lời ngôn sứ Êdêkiel: Đi ngang qua chỗ con, Giêsu nhìn thấy con đã đến tuổi yêu đương, ngài đã lập giao ước với con và [con] thuộc về Ngài... Ngài đã phủ tấm áo choàng của Ngài lên con. Têrêsa vẫn có thể chọn lấy tương lai cho mình, và đồng thời Chị cũng chẳng còn được tự do. Chị đã hiểu cuộc đời mình sẽ trôi qua dưới hiệu lệnh của Giêsu. Tất cả sẽ được hút hết vào đó. *** Chúng ta không thể định vị được diễn tiến nội tâm của Têrêsa trên cùng một tuyến phát triển của các Kitô hữu trẻ tuổi khác. Trong ý định của Chúa, Têrêsa phải là gương mặt dẫn lối cho nhiều người khác. Từ rất sớm, Chị đã bắt đầu sống mãnh liệt tư cách làm Kitô hữu. Khi mới lên chín, Chị đã chọn sự nên thánh làm lý tưởng sống. Ít lâu sau đó, Chị nhận ra rằng, để đạt đến sự thánh thiện, thì sẽ phải chịu nhiều đau khổ. Và Chị chấp nhận. Một cách dứt khoát, Chị đã “chọn tất cả” và “không muốn làm thánh nửa vời”. Nhân lúc được rước lễ lần đầu, Chị đã trải nghiệm cuộc gặp gỡ với Chúa như sau: ... một kết hiệp, cả hai chỉ là một, Têrêsa đã biến mất rồi, như một giọt nước rơi vào lòng đại dương, chỉ còn lại Giêsu, Ngài là Thầy, là Đức Vua. Nhờ tác động mạnh mẽ của những ơn ích Thánh Thể, Chị càng thêm yêu mến sự đau khổ. Chẳng cần phải tìm kiếm sự đau khổ. Nó là một thực tại trong cuộc sống. Ở tuổi mười hai, mười ba, trong thời gian một năm rưỡi, Têrêsa luôn canh cánh trong lòng những nỗi nghi hoặc về giá trị đạo đức trong các hành động của mình. Chị không ngừng cho rằng mình đang sa ngã phạm tội. Thật đáng tiếc khi giáo lý được dạy tại trường đã quá khắt khe. Vì thế mà Têrêsa đã ghi lại bốn bài giảng được Cha Domin dành cho trẻ em, trong thời gian tĩnh tâm chuẩn bị Rước lễ vỡ lòng: nói về cuộc tính sổ mà Chúa sẽ đòi hỏi, về sự chết, hoả ngục, và về sự phạm thánh khi rước lễ lần đầu... Rất may là vào thời điểm đó, bà hiệu trưởng qua đời và vị linh mục không thể tiếp tục việc giáo huấn của ngài được nữa. Và vẫn còn đó sự bất lực đáng xấu hổ đối với tính khí quá nhạy cảm kia! Cho đến tận Lễ Giáng sinh năm 1886, như chúng ta đã nói. Trải nghiệm hết sức sâu xa, trước hết là về sự nghèo hèn của bản thân, tiếp đến là tình thương xót giải thoát của Chúa. Têrêsa nhận ra không có một sự cân xứng nào giữa các nỗ lực của Chị và thành quả bất ngờ đạt được. Chỉ trong chốc lát, công trình con phải mất những 10 năm mới có thể thực hiện, thì Giêsu đã hoàn tất và hài lòng về ý chí tốt lành của con, mà con không hề thiếu nhưng con cũng phải nói là con mua được hồng ân vô giá ấy bằng chính những ước ao của mình cơ đây. Cuối cùng thì cũng được giải thoát khỏi sự đè nặng của những mối hoài nghi và tính khí quá nhạy cảm của mình, Têrêsa trở nên sẵn sàng quan tâm đến người khác. Chị tóm tắt khám phá của mình như sau: Con cảm thấy đức ái đi vào tâm hồn con, nhu cầu cần quên mình đi để mang lại niềm vui thú và từ đó con cảm thấy hạnh phúc! Sáu tháng sau, một cuốn sách của Arminjon lọt vào tay Têrêsa. Chị đọc ngấu nghiến và hết sức xúc động... Việc đọc được cuốn sách ấy còn là một trong những ơn ích lớn nhất cho cuộc đời con, con đọc nó bên cửa sổ phòng học, và ấn tượng mà con cảm nhận được thật sâu sắc và ngọt ngào quá đỗi khiến con không thể trả lại... Tất cả những chân lý lớn trong đạo, những mầu nhiệm về sự vĩnh cửu, nhấn sâu linh hồn con vào một niềm hạnh phúc không thuộc về thế gian... (1Cr 2,9). Con đã linh cảm được điều Chúa dành riêng cho những ai yêu mến Ngài (không phải bằng mắt thường, mà là bằng con mắt tâm hồn) và trong khi nhìn thấy những phần thưởng đời đời hoàn toàn trổi vượt hẳn những chút gian truân tạm thời trong hiện tại (2Cr 4,17), con muốn yêu, yêu Giêsu say đắm, chứng tỏ với Ngài hàng ngày dấu chứng tình yêu hết mức có thể... Với Têrêsa, thật hạnh phúc biết bao khi có thể được thoải mái nói về tất cả những điều ấy! Trong đối thoại, những trực giác mới mẻ bừng sáng lên và khơi dậy trong tâm hồn Chị một niềm phấn khởi còn sâu sắc hơn. Người đối thoại với Têrêsa là chị Céline, lớn hơn Têrêsa bốn tuổi. Céline còn hơn cả một người chị, Têrêsa gọi chị ấy là “cái tôi khác của em”. Bên cạnh chị ấy Têrêsa hoàn toàn trở thành chính mình. Trong cầu nguyện cũng vậy. Chị Céline đã trở thành người tâm sự chí thiết cho những suy nghĩ của con... Giêsu đã làm cho chúng con trở nên hai chị em linh hồn... những tia loé tình yêu Ngài gieo rắc trong linh hồn chúng con, thứ rượu ngon và mạnh được Ngài cho chúng con uống làm biến mất trước mắt chúng con những sự phù du và từ môi miệng chúng con toả lan những chất thơm tình yêu mà Ngài đã gợi lên. Những buổi trò chuyện chúng con trải qua mỗi tối trên gác thượng thật êm đềm biết bao!... Con thấy hình như chúng con được nhận lãnh các hồng ân theo một trật tự cũng cao quý như được dành cho các vị đại thánh... Nhưng tấm màn che quá trong suốt và mỏng nên đã để lộ Giêsu ra trước ánh nhìn của chúng con!... Không thể nào nghi ngờ được, đức Tin và đức cậy chẳng còn cần thiết nữa, tình yêu đã làm cho chúng con gặp được trên thế gian này Đấng chúng con đang tìm kiếm. “Gặp Ngài một mình giữa đường, Ngài đã trao cho chúng con nụ hôn, để mai sau không ai có thể khinh dể chúng con” (Dc 8,1).
Khi bản năng làm vợ và làm mẹ trong Têrêsa thức giấc, Chị biết rằng mình sẽ chỉ dành riêng những khả năng ấy cho một mình Giêsu. Một hôm Chúa nhật, sau khi tham dự Thánh lễ, ánh mắt Chị dừng lại trên một bức ảnh Chúa Giêsu trên thập giá. Chính lúc đó, Chị xúc động sâu sắc khi nhìn thấy máu nhỏ xuống từ bàn tay Đấng chịu đóng đinh. Việc nhìn thấy như thế khơi dậy trong Chị một ước ao cháy bỏng muốn làm người đồng cứu chuộc với Chúa Giêsu vì ơn cứu độ của những ai, mà vì họ, Ngài chịu chết. Têrêsa không ngừng nghe thấy tiếng kêu của Ngài trên thập giá: “Ta khát”. Từ ân huệ duy nhất ấy, niềm ước ao cứu các linh hồn của con ngày càng mãnh liệt, dường như con nghe thấy Giêsu nói với con như từng nói với người phụ nữ xứ Samaria: “Cho tôi chút nước uống!” (Ga 4,6-15). Thật là một trao đổi tình yêu đích thực; với các linh hồn, con cho họ uống máu giữa, với giữa, con dâng chính các linh hồn đã được giải khát bởi giọt sương thần linh của Ngài, vì thế dường như con đã làm cho Ngài bớt khát và con càng cho Ngài uống chừng nào, cơn khát của linh hồn nhỏ đáng thương của con càng gia tăng chừng nấy và chính cơn khát cháy bỏng này đã được Ngài ban cho như là thức uống ngon nhất của tình yêu Ngài... Giờ thì Têrêsa gặp gỡ được nhiều người, chiều kích chiêm niệm trong cuộc đời Chị bừng nở, ngay cả trong quan điểm của Chị về con người cũng vậy. Mọi sự nơi Chị đều quy về một hướng duy nhất: Giêsu. Chính Giêsu mà Chị yêu mến nơi hết thảy mọi người; Chị muốn trao tặng Giêsu cho tất cả họ. Trong ơn gọi của bản thân Chị, tình yêu huynh đệ của Chị có nghĩa là: giúp người ta đến gần Chúa. Hoạt động tông đồ truyền giáo hấp dẫn Chị một cách mạnh mẽ. Nhưng, một khi đã cân nhắc thấu đáo, vị bổn mạng tương lai của các xứ truyền giáo tìm thấy cho mình phương thức hiệu quả nhất, là sống sứ mạng truyền giáo của mình bằng đời sống cầu nguyện ở Cát Minh. Chị tin mình có thể hiến thân cho Hội Thánh hơn nữa. Trong sự đơn điệu của một đời sống khổ chế, không bao giờ nhìn thấy được thành quả của những việc mình đã khổ công thực hiện. Đây không hề là trốn chạy thế gian, cũng chẳng phải là phản bội lại con người. Têrêsa muốn mang theo Chị cả thế giới và đan viện Cát Minh nhỏ bé của thành Lisieux, như trong một xưởng thợ mà ở đó Chị sẽ làm việc vì linh hồn nhân loại. Chị quan sát trái đất bằng cái nhìn linh thánh đầy yêu mến của Chúa Giêsu. Cùng với lòng nhiệt thành như vậy, Chị muốn cầu nguyện cho Danh Chúa cả sáng và Nước Chúa trị đến giữa chúng ta. Đấy sẽ là cách chị làm việc để giải thoát từng người. Khi bước vào Cát Minh, khát vọng của Têrêsa dường như có một mục đích đặc biệt nhằm vào xã hội: Con đến để cứu vớt các linh hồn và nhất là để cầu nguyện cho các linh mục. “Các linh hồn” thay cho “những con người”: thật là điển hình, và chúng ta chẳng thể nhìn thấy ở đấy có chút gì là tiêu cực. Têrêsa muốn gặp gỡ con người ở mức độ thâm sâu nhất; còn với Thiên Chúa, Ngài chính là điểm đến trực tiếp nhất. Têrêsa ý thức được vai trò và sự đồng trách nhiệm của Chị trong việc thần linh hoá con người: Giêsu dành cho chúng ta một tình yêu không thể hiểu nổi đến độ Ngài muốn chúng ta dự phần với Ngài trong việc cứu rỗi các linh hồn. Ngài chẳng muốn làm gì mà không có chúng ta. Đấng tạo thành vũ trụ chờ đợi lời cầu xin của một linh hồn bé mọn khốn khổ để cứu các linh hồn khác cũng đã được chuộc như nó bằng tất cả giá máu của Ngài. Vào cuối đời, ý thức hoạt động tông đồ của Têrêsa sẽ đạt được một mức độ đặc biệt, kết hợp với một quan tâm cao nhất dành cho những người đang sống bên cạnh Chị. Và, sau này, các Kitô đã hiểu Têrêsa rõ hơn. Biết bao nhà truyền giáo nuôi dưỡng mối thiện cảm đặc biệt đối với Chị Thánh nhỏ - chẳng bao giờ bước chân ra khỏi đan viện của mình. Biết bao tín hữu đơn sơ đã học biết được từ Têrêsa rằng, chính họ cũng có thể trở thành nhà truyền giáo, ở bất cứ nơi đâu họ hiện diện, trong ơn gọi được Chúa ban cho họ và trong những điều nhỏ nhặt hằng ngày, bằng lòng bác ái, việc cầu nguyện, có thể cả bằng những thập giá của họ nữa. Têrêsa sẽ trải nghiệm được tính chất dữ dội của những niềm ao ước nơi bản thân Chị: Ôi Giêsu... Ôi Đấng Tình Quân của em, em muốn rảo khắp thế gian... Chỉ một sứ mệnh thôi thì không đủ với em, em còn muốn loan báo Tin Mừng ra khắp năm châu và cho đến tận cùng những hải đảo xa xôi hẻo lánh nhất... Nhưng Têrêsa sẽ tìm được việc thực hiện hoài vọng của mình trong tình yêu, được xem như lực đẩy của thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô: Trong Trái Tim Hội Thánh, Mẹ của em, em sẽ là Tình Yêu... Như vậy, em sẽ là tất cả... Vậy là giấc mơ của em sẽ thành hiện thực!!!... Yêu, là việc có thể làm ở bất cứ nơi đâu. Từ Têrêsa Lisieux cho đến Têrêsa Calcutta, vượt quá mọi hoàn cảnh, những khác biệt chỉ nằm ở bên ngoài. Không gì giá trị đối với Chúa hơn tình yêu mà bạn đang sống. “Nếu tôi không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng” (1Cr 13,1). Ở ngưỡng tuổi mười lăm, Têrêsa Martin đã quyết định sống cho Chúa càng sớm càng tốt, theo cách triệt để nhất mà Chị có thể. Ước ao của Chị, ngay cả “niềm xác tín về một tiếng gọi của Chúa”, giúp Chị tránh không chống lại mọi ý kiến bài bác và những lời khuyên có ý tốt. Thời gian đối với Chị dường như đã chín muồi để chuyển sang hành động. Nơi ấy chính là Cát Minh trước khi “được ngồi dưới bóng Chàng, em thoả lòng mơ ước” (Dc 2,3), con còn phải trải qua rất nhiều thử thách, nhưng tiếng gọi Thần Linh hết sức thôi thúc đến độ nếu phải băng qua đám lửa thì con cũng sẽ làm để trung thành với Giêsu... Têrêsa vượt qua mọi trở ngại: trở ngại đến từ chính bố của Chị, từ Cát Minh - từ vị linh hướng, từ Đức Giám mục. Trong chuyến đi Rôma, Chị đích thân biện hộ cho ơn gọi của mình với Đức Thánh Cha! Cùng với tình yêu làm lý tưởng - gần như là hành trang duy nhất của mình - ngày 9 tháng 4 năm 1888, Têrêsa thấy mình đứng trước cửa đan viện. Chị ôm hôn bố và các thành viên trong gia đình lần cuối cùng. Tim đập rộn rã, Chị bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà cầu nguyện ấy. Chị sẽ chẳng nhìn thấy những đường phố của Lisieux nữa... Chị có sẵn sàng để thực hiện bước đi ấy không? Cô thiếu nữ mười lăm tuổi chắc chắn đã có được sự chắc chắn của một cô gái hai mươi. Và, tận sâu trong đáy lòng cô, một ánh sáng rực rỡ đang bừng lên! Cô được niềm vui tình yêu mang đi: Con là của Chúa và Chúa là của con! Điệp khúc của mọi thời! Têrêsa ví niềm phấn khởi thanh xuân của mình với thứ rượu ngon làm cho tâm hồn hoan hỉ và giúp quên đi biết bao điều. Cùng với thánh Phaolô, Chị ý thức không gì có thể tách Chị ra khỏi Thiên Chúa, Đấng đang cầm tù Chị. Chị đang sống trong “Thiên Đàng Tình Yêu”.
Niềm hạnh phúc ấy không chóng qua, không hề biến mất cùng với những ảo tưởng trong những ngày đầu tiên. Ảo tưởng ư? Chúa Nhân Lành đã ban ơn cho con không có một ảo tưởng nào khi bước vào Cát viện: con đã nhận ra đời thánh hiến hệt như con đã hình dung, chẳng một hy sinh nào khiến con phải ngạc nhiên. Quả là thực tế biết bao! Têrêsa đủ chín chắn để thực hiện bước đi. Tất nhiên, Chị còn phải chín chắn hơn nữa, Chị còn nhiều thời gian. Và cho dẫu đã nhìn thấy trước một cách rõ ràng, thì vẫn không thể phủ nhận đau khổ sẽ mang đến những chỉnh sức hết sức nhạy bén. Nhưng chính là bằng cách đó mà người ta trưởng thành. Tấm gương của chị Agnès có đóng vai trò nào trong quyết định của Têrêsa chăng? Có thể có, và dường như chúng ta khó mà phủ nhận. Người ta thường là một món quà được Chúa dùng người này để ban cho người khác. Sau khi mẹ qua đời, chị Agnès, đã trở thành “bà mẹ thứ hai” và là “người lý tưởng” đối với Têrêsa. Việc Agnès vào Cát viện (vài năm sau đó, đến lượt người chị thứ hai, Marie) là một yếu tố tâm lý đã giúp Têrêsa nhận ra tiếng gọi và hồng ân của Chúa. Nhưng Têrêsa biết rất rõ ràng, bằng phân tích thấu đáo, vào lúc khó đưa ra quyết định, Chị chỉ được dẫn dắt bởi việc Chị tự do hiến mình cho một kế hoạch mà Chị cảm nghiệm được như là phát xuất từ Thiên Chúa và do Thiên Chúa muốn. Chính vì thế mà, nhiều năm sau, Têrêsa mới nói ra điều này khi nhìn lại quá khứ cùng với óc phán đoán đã được thanh luyện và được soi sáng một cách sâu xa nhờ bởi sự gần gũi với Chúa: Đúng là chỉ có tình yêu duy nhất của Giêsu mới có thể làm cho con vượt qua những khó khăn trước mắt và những khó khăn sẽ đến...
“Cát Minh” là gì đối với Têrêsa? Thuở ấu thời, Têrêsa đã có ý định muốn sống một mình, trong một hoang địa xa xôi - cùng với chị Agnès. Sau này, khi nghe giải thích về ơn gọi của một nữ đan sĩ Cát Minh, Têrêsa liền cảm nhận được: Cát Minh chính là hoang địa mà Chúa Nhân Lành muốn con đến và ẩn mình ở đó... và muốn đến nơi ấy, chỉ vì một mình Giêsu... Vì một cuộc phiêu lưu với Chúa. Không ai nhìn thấy. Trong một nơi chỉ có Chúa. Khi vào Cát viện, Têrêsa đã hiểu rõ là mình không hề nhầm lẫn. Mọi sự dường như tuyệt diệu đối với con, con ngỡ mình được đưa vào một hoang địa, căn buồng nhỏ của chúng ta hấp dẫn con hơn cả, nhưng niềm vui con cảm nhận được thì thật là bình thản... Bằng một niềm vui sướng sâu sắc con lặp lại những lời này: “Mình được ở đây mãi mãi, mãi mãi!...” Rốt cuộc thì những ước ao của con đã được thoả mãn, linh hồn con ở trong một BÌNH AN hết sức ngọt ngào và sâu xa đến độ con chẳng thể nào diễn tả được và từ bảy năm rưỡi nay, sự bình an thâm sâu ấy vẫn luôn ở lại trong con. Hết sức mãnh liệt và nuốt lấy từng chữ, Têrêsa tập trung vào những lời Phaolô đã viết: “Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới... Sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa” (Cl 3,2-3). Ơn gọi, chính là một hồng ân. Với những ai chưa bắt đầu thì sẽ dễ hiểu hơn về việc người ta có hai đời sống: người ta có thể dùng một đời sống để khai thác và để dành đời sống kia; nếu mọi chuyện thành công, người ta sống đời sống thứ hai. Nhưng Têrêsa chỉ có một đời sống. Và Chị sống nó vì Chúa Giêsu. Chứ không vì điều gì khác. Trong nơi hoang địa. Không mong có thể hồi sinh những năm tháng đã qua. Đó chính là hồng ân ơn gọi. Khi ngẫm nghĩ về chuyến đi tuyệt diệu đến Rôma, ngang qua Thuỵ Sĩ và Ý, Têrêsa viết: Chưa bao giờ con bị vây quanh bởi bao nhiêu là hào nhoáng đến thế... Chao ôi! Con cảm thấy rất rõ niềm vui không có ở trong những sự vật chung quanh chúng ta, nhưng nằm tận sâu trong đáy linh hồn, người ta có thể sở hữu được nó trong một nhà tù cũng như trong một lâu đài, bằng chứng, con thấy hạnh phúc ở Cát Minh, thậm chí giữa những thử thách cả bên trong lẫn bên ngoài hơn là sống giữa thế gian được bao quanh bởi những tiện nghi cho cuộc sống và nhất là những ngọt ngào của tổ ấm gia đình!... Theo ý riêng của mình, Têrêsa từ bỏ hết mọi sự. Và việc băng qua hoang địa, rồi đây Chị sẽ biết! Ngôi nhà của Chị thật cô tịch và yên ắng, với những bức tường và các đồ dùng giản tiện biết bao. Cuộc sống ấy thật khắc nghiệt và có vẻ đơn điệu cùng với những giờ cầu nguyện hằng ngày, giấc ngủ bị giới hạn, chế độ ăn uống đạm bạc, thêm vào nữa là cái lạnh mùa đông. Nhưng đấy không phải là điều thanh luyện Têrêsa hơn cả. Nơi đây, đúng hơn là có một sự giải thoát chắc chắn: Chị có thể theo đuổi con đường riêng của mình, có thể vĩnh biệt cuộc sống được bảo bọc và trưởng giả nơi mái ấm gia đình. Cuộc sống mới này sẽ mang lại điều gì? Tương lai có vẻ bất định. Người ta biết bắt đầu từ đâu, nhưng không biết sẽ kết thúc ở chỗ nào. Có nhiều con đường băng qua hoang địa, như của Môsê và đoàn dân của ông, mà trong đó lòng dạ trở nên chai đá và nổi loạn, chỉ mong quay về với xứ sở của những thói quen thân thuộc và sự bảo đảm vật chất. Hoang mạc đối nghịch với tổ ấm trú thân. Dấn thân vô điều kiện cho Chúa, quan tâm đến tình yêu của Ngài và không lo cho bản thân, đón nhận tất cả vào trong mối bận tâm duy nhất ấy: như vậy mới thật là táo bạo. *** Chẳng có mấy thiếu nữ từng yêu mến một cách say sưa như Têrêsa yêu mến giữa, Chúa của Chị. Bước thẳng ngang qua giữa lòng hoang địa, Chị đi tìm Ngài, đó là con đường nhanh nhất. Cha thiêng liêng của Têrêsa ở Cát viện, thánh Gioan Thánh Giá, dạy cho Chị điều đó: đến với Đấng là mọi sự qua cái chẳng là gì. Cô tịch không phải là trống rỗng, nhưng là một cuộc viễn du hướng đến với Đấng Tình Quân đang cư ngụ nơi thuỷ đảo. Sự trống vắng được lấy đầy ý nghĩa. Hoang địa mang một chiều kích thâm sâu. Trong chuyện băng qua hoang địa thiêng liêng, Đấng Tình Quân không chỉ ở yên nơi thuỷ đạo, Ngài đã đồng hành với bạn rồi, tuy không nhận ra được, nhưng thực sự gần gũi, có thể nhìn thấy bằng con mắt đức tin, niềm vui đối với tâm hồn cầu nguyện. Khi Céline đi nghỉ hè, Têrêsa viết cho chị của mình: ... Những chân trời quyến rũ ngây ngất đang được mở ra trước mắt chị không nói nhiều với lòng chị sao? Em không nhìn thấy được tất cả những điều đó, nhưng em nói theo lời thánh Gioan Thánh Giá: “Con có nơi người con yêu dấu nào là núi đồi, nào là thung lũng hoang liêu xanh um cây rừng, vv...”. Và người yêu dấu ấy của em dạy dỗ tâm hồn em, Ngài cất tiếng trong thinh lặng, trong đêm tối. Thi thoảng, Têrêsa có cảm tưởng như đêm tối ập xuống trên hoang địa. Mọi thứ đều biến mất, Chị không còn nhìn thấy Đấng Vô Hình; bóng tối tràn ngập tâm hồn Chị, thế là đau khổ. Đấy là trải nghiệm hoang địa thâm sâu nhất. Trái tim của hoang địa là hoang địa của trái tim. Têrêsa không còn cảm nhận được Bàn Tay đang dắt Chị đi. Run rẩy, Chị nhìn quanh; người ta dễ bị cám dỗ để nghĩ rằng: Chúa chẳng ở nơi nào hết, chẳng có gì cả... Nhưng như vậy thì đâu có hợp lý theo Tin Mừng! “Phúc cho ai không thấy mà tin”, Chúa Giêsu nói (Ga 20,29). Tiến lên! Xa hơn nữa đi! Đừng lùi bước. “Con đường một khi đã được vạch ra, người ta không thể không đi tiếp” (Antoine de Saint-Exup). Càng mạo hiểu, Têrêsa càng chắc chắn: con đường ấy sẽ không mở ra với phép lạ. Chị dựa theo la bàn của mình: sách Tin Mừng. Một cách háo hức, Chị đọc những bài viết của Gioan Thánh Giá về hoang địa; ngài động viên Chị theo đuổi cho đến cùng. Têrêsa đang mạo hiểm dẫn đầu nhóm hai mươi phụ nữ. Một đoàn lữ hành, tiên phong cho dân Thiên Chúa đang bước đi, một nhóm ít người của Hội Thánh. Người chị em trẻ tuổi đã nhận được rất nhiều từ nhóm ấy! Đó là Cát Minh của Chị, các chị em chuyển lửa, chia sẻ với Chị kinh nghiệm của họ. Một ơn gọi chung nhất đã quy tụ họ từ nhiều nơi khác nhau, thành nhóm người đa dạng, dù cùng mặc chung một tu phục màu nâu! Cùng được thúc đẩy bởi chung một Thần Khí Thiên Chúa! Cộng đoàn của Têrêsa có thể là nghèo khó hơn cả một cộng đoàn trung bình của Cát Minh. Có một vài nhân cách ưu tú trong số họ, nhưng phần lớn là những chị em bình thường, có cả ưu điểm lẫn khuyết điểm; ngoài ra còn có một vài bản tính bị tổn thương sâu sắc. Dần dà Têrêsa sẽ nhận ra điều đó: ... thiếu phán đoán, thiếu giáo dục, một số tính khí nhạy cảm, tất cả những điều không làm cho cuộc sống trở nên thoải mái lắm. Con biết rõ những khuyết điểm đạo đức ấy đều khó chữa. Khi có thể, Têrêsa chọn đứng về phía những chị em đáng thương hơn: Đây là kết luận con đã rút ra được: trong giờ giải trí, lúc không bận bịu gì cả, con phải tìm cách tiếp cận những người chị em ít dễ chịu đối với con nhất, chu toàn bên cạnh những linh hồn bị thương tích ấy công việc của người Samaria tốt lành. Một lời nói, một nụ cười dễ thương, thường đủ làm tươi vui một linh hồn buồn bã. Soeur Têrêsa tiến hành cho họ bằng một lòng tận tuỵ không giới hạn. Đó là dấu hiệu cho thấy những hoài bão thiêng liêng của Chị đều lành thánh. Yêu mến Thiên Chúa, nghĩa là, trong một mức độ càng lúc càng gia tăng, cũng yêu mến tha nhân cụ thể, những người chung quanh ta. “Thật vậy, người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có”, Chúa Giêsu đã nói (Ga 12,8). *** Nhiều người thấy mình ở vào hoàn cảnh hoang địa của Têrêsa. Hoang địa có thể lan rộng trong trái tim con người dù con người không mong muốn. Ngay cả trong những tương quan xã hội, trong công việc thường nhật, ngay giữa thành phố lớn cũng vậy. Co thể gọi đó là: sự bất lực do bệnh tật hoặc khuyết tật tâm lý, sự cô độc, ngay cả trong hôn nhân, sự không thể hiểu, bất an xã hội, đau khổ vì tuổi già, buồn phiền, nỗi vất vả... Chẳng phải ai cũng có trải nghiệm hoang địa của riêng mình đó sao? Đấy là giờ phút cần đến một niềm tin tưởng sâu sắc, Têrêsa nói với chúng ta như vậy. Ôi! Đừng ở một mình! Giêsu đang ở cùng bạn. Hãy chuyển đổi nỗi khó nhọc của bạn thành tình yêu. Têrêsa làm cho hoang địa của Chị thành “trái tim Hội Thánh”. Trái tim Hội Thánh, nghĩa là bất cứ nơi đâu người ta cầu nguyện, làm việc bằng tình yêu, nơi đâu người ta chịu đau khổ cùng với ánh mắt nhìn lên Đấng chịu đóng đinh. Trong mắt Đức Kitô, Têrêsa khám phá ra con người. Chị vẫn luôn là “của Hội Thánh” phổ quát, có trách nhiệm với “hàng ngàn linh hồn”. Và sự đau khổ, Chị đã chủ tâm thích ứng nó với kế hoạch sống của mình: làm tông đồ “bằng cầu nguyện và hy sinh”. Khi đến lượt Céline tự hỏi liệu có phải mình cũng được gọi vào Cát Minh hay không Têrêsa đã động viên chị của mình bằng lý lẽ không ai ngờ: Đừng sợ gì cả, ở đây chị sẽ được thập giá và sự tuẫn đạo hơn bất cứ nơi nào khác! Không bao giờ tình yêu biến mất nơi chân trời của Têrêsa. Trong những bức thư viết về hoang địa, Chị sẽ không ngừng quay lại điểm ấy. Em muốn trao hiến tất cả cho giữa, em không muốn trao cho loài thụ tạo dù chỉ một nguyên tử của tình yêu trong em...
Chỉ một mình Giêsu là hiện hữu; mọi thứ khác đều ra hư không... Như vậy, chúng ta hãy yêu mến Ngài một cách dại cuồng... Sứ mệnh của chúng ta là hãy quên mình đi, hãy tự làm cho mình trở nên hư không... Chúng ta chẳng là gì cả... Thế nhưng Giêsu muốn phần rỗi của các linh hồn tuỳ thuộc vào những hy sinh của chúng ta, vào tình yêu của chúng ta... Chúng ta hãy hiểu lấy ánh mắt của Ngài!... Yêu mến Giêsu với hết sức lực của con tim chúng ta và cứu các linh hồn cho Ngài để Ngài được yêu mến... Ngoài việc hiệp nhất thân tình với sự nâng đỡ và động viên của đoàn lữ hành, còn có cả sức ảnh hưởng kềm hãm bước chân. Một số người, bằng cách cư xử của mình, muốn thuyết phục người khác đừng tiến bước theo kiểu Têrêsa, mà hãy dừng lại một lúc trong cuộc hành trình. Họ ngầm bảo rằng, cuộc viễn hành là không thể. Ngay cả một cha giải tội cũng trách cứ những ước ao của Têrêsa muốn “trở nên một nữ thánh và yêu Chúa như Têrêsa Avila đã yêu”. Những người như thế thật tự phụ. Têrêsa liền phản ứng: Nhưng, thưa cha, con không thấy ngài ước muốn ấy là liều lĩnh, bởi vì Chúa chúng ta đã nói: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện”. Trong một bức thư gởi Céline, Têrêsa khẳng định: Nên hoàn thiện như CHa của chị trên trời là Đấng hoàn thiện!... Ôi! Céline, những ước ao bất tận của chúng ta, do đó, không phải là những mơ mộng, cũng chẳng phải là ảo tưởng vì chính Giêsu đã đưa ra cho chúng ta huấn lệnh ấy!... Têrêsa thường nói về “sự điên rồi” của tình yêu, về những gì là dại cuồng trong tình yêu, như là đáp trả chân thực duy nhất với tình yêu rồ dại của Thiên Chúa dành cho con người.
Trong hoang địa, người ta chẳng nhìn thấy gì ngoài trời và cát. Từ lâu, Têrêsa đã bị bầu trời hấp dẫn. Bởi chưng Chị luôn có cảm tưởng mình sẽ chết trẻ, sẽ sớm có mặt ở “nơi cao ấy”. Giờ đây Chị cũng khám phá ra biểu tượng cát. Hạt cát vô danh, bé nhỏ, gần như vô hình, trở nên với Chị hình ảnh về đời sống ẩn dật, sự huỷ mình ra không và sự nghèo khó, những giá trị mà Chị miệt mài theo đuổi. Trong những năm đầu Têrêsa sống đời thánh hiến, biểu tượng hạt cát thâm nhập một cách kỳ diệu vào vũ trụ quan của Chị. Chị sống ẩn dật, trước mặt người đời, trong một đan viện. Từ lâu, Chị rất yêu chuộng những cử chỉ yêu thương nhỏ nhặt không thể nhìn thấy. Hơn nữa, việc cầu nguyện của Chị thật khô khan, cằn cỗi. Têrêsa gần như bị nghiền thành bụi dưới sức ép của đau khổ (chúng ta sẽ quay lại với điểm này sau). Người ta có thể xác định đời sống thiêng liêng của Chị vào thời kỳ này như là nỗi ước ao hoàn toàn biến mất để trở thành tình yêu tinh khôi nhất dành cho Chúa Giêsu. Người ta có thể vừa đầy chính mình lại vừa đầy Thiên Chúa được sao?... Có lẽ chính nhờ chị Agnès của mình mà Têrêsa, ngay trước lúc vào Cát viện, đã nhận được hình ảnh hạt cát. Chị hoàn toàn đồng hoá chính mình với hình ảnh ấy. Hãy cầu xin để con gái của chị luôn mãi là hạt cát bé nhỏ hết sức tối tăm, hết sức ẩn giấu dưới mắt mọi người, đến nỗi chỉ có Giêsu mới nhìn thấy nó; chớ gì nó càng lúc càng trở nên nhỏ bé, được thu nhỏ thành chẳng là gì cả... Như vậy, không chỉ là bé nhỏ, mà là càng lúc càng trở nên bé nhỏ hơn. “Ngài phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,30): những lời ấy của Gioan Tẩy Giả nói về Chúa Giêsu tóm kết toàn bộ những nỗ lực của Têrêsa. Những ước ao của Chị về sự nhỏ bé càng lúc càng trở nên cấp thiết và mãnh liệt. Chị nuối tiếc vì vẫn chưa đủ nhỏ bé, chưa đủ nhẹ nhàng. Trong ngày tuyên khấn, Têrêsa cầu nguyện: Giêsu, hãy là tất cả mọi sự... Ước gì những sự trần gian không bao giờ có thể làm xao xuyến tâm hồn con, cũng như không gì có thể quấy nhiễu niềm an bình của con. Giêsu ơi, con chỉ xin Ngài bình an cũng như tình yêu, tình yêu vô biên không một giới hạn nào khác ngoài Ngài, tình yêu không còn là con, mà là Ngài... Hãy làm cho con đừng bao giờ trở nên gánh nặng đối với cộng đoàn, đừng để ai bận tâm đến con, ngó ngàng đến con, nhưng bị giẫm đạp dưới chân, bị lãng quên như một hạt cát nhỏ thuộc về Ngài... Sau này, Mẹ Agnès sẽ nói về tính chất đặc trưng năm năm đầu tiên của Têrêsa trong đan viện như là: Lòng khiêm nhường và mối bận tâm với việc trung thành ngay cả trong những việc nhỏ nhất. *** Nếu sự hoàn thiện về tình yêu vẫn luôn là lý tưởng của Têrêsa, thì trong những năm đầu tiên sống đời đan sĩ Cát Minh, Chị hằng tin tưởng một cách ngây thơ rằng tình yêu cũng sẽ chỉ là con đường duy nhất dẫn đến lý tưởng. Chị còn phải học hỏi nhiều về sự bất lực của mình! Nhưng trước mắt, niềm ước ao sống khiêm nhường và huỷ mình ra không của Chị hoàn toàn ăn khớp với tình yêu - ý niệm tuyệt vời và tổng hợp tuyệt vời! Luôn trở nên bé nhỏ hơn, để có thể yêu nhiều hơn! Để yêu tha thiết hơn, yêu nguyên tuyền hơn, yêu liên lỉ hơn, bằng cách không ngừng khởi sự lại từ đầu! Têrêsa cảm nghiệm rõ ràng sự yếu đuối của mình, nhưng cố gắng biến đổi cảm nghiệm ấy thành chức năng của ba phương diện kia của tình yêu. Sự yếu đuối của Chị là một đồng loã với tình yêu của Chị. Giêsu trên đường lên Đỉnh Sọ đã phải ngã đến ba lần, còn chị, cô bé đáng thương, hẳn là chị sẽ không giống với phu quân của mình, nếu không muốn, khi cần, phải ngã đến hằng trăm lần để chứng tỏ với Ngài tình yêu của chị bằng cách đứng lên mạnh lẽ hơn cả trước khi vấp ngã!... Ôi! Thật đắt giá khi trao hiến Giêsu những gì Ngài đòi hỏi!... Giá ấy là cả một hạnh phúc lớn lao... Thật là vui sướng khôn nguôi khi mang lấy thánh giá của chúng ta MỘT CÁCH YẾU ỚT... Ôi! Đừng để mất thử thách mà Giêsu gởi đến cho chúng ta, đấy là một mỏ vàng để khai thác, chúng ta định bỏ lỡ cơ hội ư?... Hạt cát muốn bắt tay vào việc, không niềm vui, không can đảm, không sức lực, và tất cả những danh hiệu ấy sẽ tạo thuận lợi cho nó tiến hành, nó muốn làm việc bằng Tình Yêu. Cuộc Tuẫn đạo đang bắt đầu. Rõ ràng ước ao chịu đau khổ và bị lãng quên như thế không phải là chứng bạo dâm hay chủ thuyết thống khổ. Những gì được người nữ đan sĩ Cát Minh viết ra chỗ nào cũng đều cho thấy lòng quả cảm chịu đau khổ phát xuất từ tình yêu của Chị dành cho con người của Chúa Giêsu, với ý định chỉ làm đẹp lòng Ngài bằng chia sẻ số phận của Ngài cách trọn vẹn nhất, không bỏ qua một đòi hỏi nào nhỏ nhặt nhất của cuộc sống cụ thể làm đan sĩ Cát Minh. Chị hãy cầu nguyện cho hạt Cát nhỏ nhoi tội nghiệp, để nó luôn ở đúng nơi đúng chỗ của mình, nghĩa là dưới chân tất cả mọi người, chẳng ai màng đến nó, sự hiện hữu của nó có thể nói là vô danh, hạt cát không thích bị coi khinh, như thế thì vẫn còn tự hào quá đấy, bởi lẽ người ta sẽ buộc lòng phải chăm lo đến nó, nó chỉ muốn mỗi một điều, ấy là bị QUÊN LÃNG, bị cầm bằng như chẳng là gì... Nhưng nó muốn được Giêsu nhìn thấy. Vì vinh quang của Giêsu yêu dấu, tất cả chỉ có thế; còn vinh quang của riêng em, em phó mặc cho Ngài, và giả như Ngài có vẻ quên em rồi, thì nào! Ngài cứ việc, bởi vì em không còn thuộc về em nữa, mà là thuộc về Ngài... Ngài sẽ nhanh chán vì làm em phải chờ đợi hơn là chính em mòi mỏi đợi chờ Ngài. *** Têrêsa thường hay nhắc đến cụm từ “trở nên nhỏ bé”. Sau này cũng vậy. Tuy nhiên, cần phải nhận ra một chuyển vị quan trọng. Cũng một lều bạt ấy mà có thể lần lượt phủ trùm lên các loại mặt hàng khác nhau... Trong những năm đầu sống đời thánh hiến, sự nhỏ bé đối với Têrêsa, trước hết, đồng nghĩa với sự khiêm nhường, để phục vụ cho tình yêu của Chị đối với Chúa. Về sau, trở nên bé mọn hoặc nên trẻ thơ sẽ mang một ý nghĩa vượt qua sự khiêm nhường đơn thuần mà, tất nhiên, sẽ vẫn luôn là một thái độ nền tảng đối với Thiên Chúa và đòi hỏi tình yêu nguyên tuyền. Nhưng rồi sau này nữa, sự bé mọn, đối với Têrêsa, chủ yếu sẽ trở thành đồng nghiệp với niềm hy vọng đầy tin tưởng, niềm hy vọng của đứa con đối với cha mình. Sự bé mọn sẽ không còn lập tức được xem như để phục vụ tình yêu dành cho Thiên Chúa mà Têrêsa theo đuổi, nhưng rõ ràng hơn là phục vụ tình yêu đầy thương xót của Thiên Chúa dành cho Chị, một tình yêu mà Chị nhận lãnh. Như vậy, trong giai đoạn đầu này, Têrêsa được dẫn dắt bởi đức trông cậy. Cùng với sự giúp sức của ơn Chúa, Chị khát khao hy vọng đạt đỉnh tình yêu, và điều này xảy đến rất nhanh. Nhưng Chị vẫn còn phải thấm thía một cách sâu xa hơn nhiều về sự bất lực của bản thân trước khi chỉ đặt nền móng cho niềm trông cậy của mình trên sự trung tín của Thiên Chúa, đầy tình thương xót và giàu sáng kiến. Trước khi đắc thủ được ý thực hiện sinh, rằng chính Thiên Chúa và chỉ một mình Thiên Chúa thánh hoá chúng ta, Têrêsa phải trải qua một đêm dài của những gắng công vô ích (x. Ga 21). Nhưng sống, nghĩa là lớn lên, và có rất nhiều người chiến đấu với Thiên Chúa trước khi để mình bị Ngài khuất phục. Bước vào Cát viện, Têrêsa vẫn muốn cố đạt đến sự thánh thiện bằng sức riêng. Nhờ tình yêu của chính Chị. Chị nghĩ quá nhiều về chuyện: “Tôi sẽ hiến dâng tất cả cho Giêsu”, song lại chẳng mấy khi nghĩ là: “Giêsu sẽ cho tôi tất cả”. Chúng ta không thể minh hoạ điều đó rõ ràng hơn ngoài việc dùng lại đoạn viết trong một bức thư vào tháng 7 năm 1890. Têrêsa đã làn đan sĩ Cát Minh được hai năm mấy tháng, nhưng “ngọn lửa thiêng” vẫn luôn cháy sáng và không có gì chắc chắn là Chị sẽ trở nên một vị thánh, mặc dầu tình yêu của Chị vẫn ngày một nồng nàn hơn. Đàng rằng Têrêsa biết rõ mình yếu đuối, nhưng sự yếu đuối ấy luôn được xem là một cơ hội gần như đặc biệt để yêu mến một cách tinh khôi hơn. Sau này, khi đã đầy niềm tin tưởng, Chị sẽ phó thác sự yếu đuối của mình cho Chúa như một cơ may để giúp chúng ta chia sẻ hơn nữa tình yêu đầy nhân hậu của Ngài. Têrêsa viết cho cô em họ Marie Guérin: Nếu em chẳng là gì cả, thì chớ nên quên rằng Giêsu là tất cả; do đó; phải đánh mất cái tôi bé nhỏ không là gì của em vào trong cái tất cả vô biên của Ngài, và chỉ nghĩ đến cái là tất cả đáng yêu duy nhất ấy mà thôi... Khi người ta thấy mình quá khốn quẫn thì người ta không còn muốn đề cao mình nữa mà chỉ nhìn vào Đấng Tình Quân duy nhất!... Marie yêu quý của chị, phần chị, chị không có một phương thế nào khác để đạt đến sự hoàn thiện ngoài phương thế duy nhất, đó là “tình yêu”... Yêu mến, con tim của chúng ta được tạo thành để làm điều đó!... Không có con đường nào khác dẫn đến sự hoàn thiện, ngoại trừ tình yêu... Têrêsa còn phải triển nở nhiều hơn nữa trước khi khám phá được điều mà Chị gọi là “con đường bé nhỏ”. Sau một trực cảm rõ ràng về tình thương xót cứu độ của Thiên Chúa, sáu năm sau Têrêsa viết: Chỉ niềm tin tưởng, chứ chẳng phải gì khác, dẫn đưa chúng ta đến với Tình Yêu... Giờ thì chúng ta hãy theo sát diễn tiến ấy hơn nữa.
Một buổi tối tháng giêng năm 1895. Trên bầu trời đen sẫm lấp lánh các vì sao. Ở Lisieux, mọi sự đều yên ắng. Những người nghèo sưởi ấm bằng củi đốt, và trong các phòng khách những gia đình khá giả, những câu chuyện đời nổ ra rôm rả. Soeur Têrêsa lui mình vào sự cô tịch lặng lẽ trong căn buồng riêng. Bộ tu phục bằng vải thô mang lại cho Chị chút hơi ấm. Chị ngồi trên một chiếc băng ghế nhỏ, mà cùng với chiếc giường bằng gỗ cứng - gồm hai giá đỡ, ba tấm ván, một tấm đệm rơm - hợp thành toàn bộ vật dụng trong buồng. Têrêsa vừa tròn hai mươi tuổi và mới đó mà đã bảy năm Chị sống trong Cát viện. Cô thiếu nữ nay đã trở thành thanh nữ, vẫn phấn khởi như thuở nào, nhưng khôn ngoan và sống nội tâm hơn. Chị chỉ còn sống được ba mươi hai tháng nữa thôi. Trong thân xác Chị, chứng lao phổi vẫn tiếp tục sự huỷ diệt của nó một cách xảo quyệt. Têrêsa là một người nữ hạnh phúc. Tâm hồn Chị ngập tràn bình an, niềm vui và sự hiện diện của Chúa. Sự hiu quạnh nặng nề trong giờ phút đầu tiên của buổi tối giá lạnh có một điều gì đó mang hơi hướng yến tiệc. Căn buồng nhỏ ngập tràn Thiên Chúa. Têrêsa đặt giá sách nhỏ trên đầu gối và ghi lại những kỷ niệm tuổi thanh xuân. Mẹ Agnès, lúc này đang là bề trên, đã yêu cầu Chị làm như vậy. Sau một vài do dự về tính hữu ích của công việc mình làm, Têrêsa bắt đầu thực hiện một cách đơn sơ. Điều mà Chị muốn viết lúc này, ít nhắc đến “cuộc đời” của Chị hơn là vai trò của Đấng Tình Quân trong cuộc phiêu lưu tình ái của Chị. Thay vì thuật lại các sự kiện, tận đáy lòng Chị muốn nói về lòng nhân lành của Chúa, hồng ân của Chúa lộ qua tất cả các biến cố cuộc đời Chị. Ơn gọi, nỗi đau khổ, những chiến đấu, toàn bộ cuộc sống của Chị, thảy đều được đặt dưới dấu chỉ “mầu nhiệm”. Gần đây, mầu nhiệm ấy có một tên gọi: “Tình Thương Xót”. Con nhận ra mình đang ở vào một giai đoạn cuộc đời trong đó con có thể nhìn lại quá khứ, linh hồn con đã chín muồi trong lò luyện thử thách bên ngoài và cả bên trong, giờ thì như bông hoa đã được làm cho cứng cáp bởi mưa sa bão táp, con ngẩng lên và nhìn thấy những lời Thánh vịnh 22 đã được thực hiện trong con. “CHÚA là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Ngài cho tôi nằm nghỉ. Ngài đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Ngài dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Ngài. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng...” Chị đan sĩ trẻ ngừng lại một lúc. Ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn dầu chập chờn lay nhẹ trên bốn bức tường trần trụi của căn buồng. Đôi mắt Têrêsa mơ màng nhìn dọc theo bức tường màu trắng. Những kỷ niệm... Tất cả đều trôi qua quá nhanh. Như một cuộn phim, quá khứ hiện về trong tâm trí Chị...
Têrêsa thấy mình đang bước vào hoang địa Cát Minh, vào ngày 9 tháng 4 năm 1888, lòng dạt dào một niềm vui vô biên vô tận. Các chị em ân cần mừng đón. Phía sau lưng họ, một người tiếp đón khác, vô hình, đang có mặt: sự đau khổ. Vâng nỗi đau đớn đã chìa cánh tay nó ra cho con và con đã lao mình vào với nó bằng tình yêu... Khi muốn đạt được mục đích, người ta phải dùng các phương thế; Giêsu đã làm cho con hiểu ra rằng chính là bằng thập giá mà Ngài muốn trao cho con các linh hồn và lôi cuốn con đến với những đau khổ lớn theo mức độ gia tăng của sự đau khổ. Trong thời gian 5 năm, con đường ấy đã trở thành con đường của con nhưng bề ngoài, chẳng có gì cho thấy nỗi đau khổ của con càng lớn con càng chỉ biết chịu đựng một mình. Vậy, giai đoạn đau khổ dài ngày ấy có những gì? Têrêsa, trước hết, không nghĩ đến những lột bỏ bên ngoài mà đời sống Cát Minh đòi buộc, trong khi Chị, một thiếu nữ, không dồi dào sức khoẻ thể lý: sự tách biệt, những hãm mình trong việc ăn uống, ngủ nghỉ và nơi cư ngụ, tình trạng không được sưởi ấm đủ. Chị sẵn lòng chấp nhận tất cả những điều ấy, vì Chị muốn như vậy. Người ta có cảm tưởng mình cho đi một thứ gì đó và, đối với một tập sinh mới khởi sự, cảm giác được cho đi như thế là một yếu tố đầy khích lệ và thường là một giai đoạn khởi đầu hữu ích: qua đó người ta chờ đợi nhiều điều tốt đẹp, như thể đã nắm trong tay phương tiện để thành công; điều này mang lại niềm vui nội tâm và cảm giác an toàn trên con đường tiến về với Chúa. Nơi Têrêsa, thậm chí ngay từ ban đầu, chúng ta còn nhìn thấy một đánh giá quá cao sự hãm mình, nhưng các bề trên không cho phép Chị thực hành những việc đền tội thái quá. Thế nhưng, người ta rùng mình khi Têrêsa thổ lộ Chị đã đau khổ “đến chết được” vì những đêm đông giá lạnh của vùng Normandie. Đau khổ lớn nhất là đau khổ phát xuất từ những tương quan giữa con người với nhau. Sống cận kề bên nhau không phải lúc nào cũng dễ dàng: cũng những con người ấy, những gương mặt ấy, suốt cả cuộc đời... Mácta, cũng là tập sinh cùng thời với Têrêsa, không phải là người dễ chịu, rất thích khích bác. Trong suốt thời gian hai năm, Têrêsa đã phải khổ tâm rất nhiều với tập sư của mình. Marie des Anges, hiền lành và có cơ man nào là những lời khuyên bổ ích; nhưng nữ tập sinh trẻ Têrêsa, với ý chí ngay lành nhất thế gian, cũng không biết làm cách nào bảy tỏ được với vị này đời sống nội tâm của mình. Bên cạnh đó, còn có hai người chị ruột của Têrêsa: Agnès và Marie. Tuy rất thương yêu cả hai, nhưng Têrêsa không muốn và không thể duy trì mối tương quan gia đình thân thuộc với họ. Hoàn toàn không phải để được sống với những người chị ruột của mình mà con đến Cát Minh, nhưng chỉ là để đáp lại tiếng gọi của Chúa Giêsu mà thôi. Ôi! Con đã linh cảm được việc sống với những người chị ruột hẳn phải là một lý do để đau khổ không dứt, khi người ta không còn dành riêng một chút gì cho bản tính tự nhiên của mình nữa. Và nhất là còn có Mẹ Marie de Gonzague, người mà sau ba năm gián đoạn, sẽ tiếp tục làm bề trên trong suốt phần đời thánh hiến còn lại của Têrêsa. Có thể nói được Mẹ là con người thú vị, và trong thời gian đó, hầu như Têrêsa sẽ gắn bó với Mẹ, nhưng phần lớn thời gian, Mẹ bề trên tỏ ra khá lập dị và đa nghi, dễ dàng ngờ vực nhóm chị em “nhà Martin”, nhất là đối với Soeur Agnès, con người tài năng và tầm ảnh hưởng về sự đức độ đang ngày càng lan rộng. “Năm năm đau khổ” mà Têrêsa nói đến trùng khít với giai đoạn đầu tiên trong nhiệm kỳ bề trên của Mẹ Marie de Gonzague. Têrêsa viết một cách cẩn trọng: Mẹ bề trên của chúng ta thường đau yếu nên không đủ thì giờ quan tâm đến con đấy thôi. Con biết Mẹ ấy rất yêu con và nói về con bằng những lời tốt đẹp nhất, tuy nhiên Chúa Nhân Lành đã cho phép Mẹ ấy, một cách vô tình, tỏ ra HẾT SỨC NGHIÊM KHẮC; con không thể gặp Mẹ bề trên mà không cúi mình hôn lên mặt đất, và trong những lúc hiếm hoi được gặp Mẹ để trao đổi về chuyện thiêng liêng cũng vậy... Thật là một hồng ân vô giá!... Chúa Nhân Lành hoạt động thật là hữu hình nơi những ai đang thay mặt Ngài!... Con sẽ ra sao, nếu cứ được mọi người trong cộng đoàn cưng chiều như người ta lầm tưởng?... Sau này, trong một câu chuyện kể lại với Mẹ Marie de Gonzague, Têrêsa nhắc Mẹ nhớ lại “cách giáo dục vừa cứng vừa rắn vừa đầy tình mẫu tử của Mẹ. Nhưng, nhìn chung, phía mạnh thường chiến thắng. Ngày nào mà trên bầu trời chẳng có mây! Một hôm, Têrêsa thú nhận với một người chị em: Em có thể cam đoan với chị là em đã chiến đấu nhiều và không có lấy một ngày không đau khổ, không hề! Nhưng Chị không thích than vãn và ít nói rộng về chủ đề ấy, trái với mong muốn chúng ta khi muốn viết về linh hạnh của Chị: Tất cả những gì con vừa viết ra một cách vắn tắt, vì nếu mô tả chi tiết thì chắc là sẽ phải tốn nhiều trang giấy, nhưng những trang ấy sẽ chẳng bao giờ được đọc trên thế gian này... Và Chị khéo léo chuyển hướng suy nghĩ của chúng ta sang ngày tận thế.
Những giờ cầu nguyện sốt sắng, thần bí, mà Têrêsa từng trải qua trước khi vào Cát viện, rõ ràng là đã khiến Chị gia tăng ước ao sống đời cô tịch, ở đó, Chị có thể sống với Chúa mà không bị quấy nhiễu, được giải thoát khỏi mọi bận tâm, trừ việc yêu mến trong một chuỗi chiêm niệm không bị những tác động của thế gian làm xáo trộn. Nhưng mọi sự quay quắt qua hướng khác! Việc cầu nguyện lúc còn ở ngoài đời càng mang lại cho Chị sự an ủi bao nhiêu, thì nay càng trở nên khô khan và gây phân tâm bấy nhiêu, trong những giờ nguyện gẫm nơi Cát viện. “Ta sẽ đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình” (Hs 2,16): thế mà giờ đây, Têrêsa đang ở trong hoang địa, thì Đấng Phu Quân chẳng hé lấy một lời... Têrêsa thú nhận: Sự khô khan là lương thực hằng ngày của con, lẽ ra con phải đau buồn vì đã ngủ gật (từ 7 năm nay) trong giờ nguyện ngắm và tạ ơn. Những cuộc tĩnh tâm hằng năm của Chị lại càng khô khan hơn nữa. Giêsu vẫn say ngủ như mọi khi trên chiếc thuyền nan của con. Đối với một nữ đan sĩ trẻ Cát Minh, được kêu gọi bởi hình thức sống không ngừng tìm kiếm sự hiện diện của Chúa, thì tình cảnh bất ngờ ấy là một đòn choáng váng khiến chị chệch hướng! Dưới mắt của một tập sinh, sự thành công trong việc cầu nguyện thường là một thứ phong vũ biểu. Và mẫu gương của hai bậc tiền nhân vĩ đại của Cát Minh, Têrêsa Avila và Gioan Thánh Giá đã nhận được biết bao ơn ích thần bí, hẳn đã làm nổi lên nơi Têrêsa những tự vấn lương tâm về sự quảng đại của Chị. Nếu Têrêsa gán sự khô khan của mình cho tình trạng “thiếu lòng sốt sắng và sự trung tín”, thì thật là bất công khi người ta xem xét sự việc theo lối khách quan. Nhưng từ quan điểm đối với những gì Têrêsa chủ động nói ra, chúng ta không thể hoàn toàn loại bỏ những phát biểu áy như một công thức khiêm tốn đơn giản. Têrêsa ý thức được sự nghèo khó sâu sắc của mình và phải học sách sống với nó. Chị sẽ phải nhẫn nại kiến tạo cho mình những thái độ nội tâm mới, đó là cả một tiến trình dài theo năm tháng. Nhờ tình yêu của Chị gia tăng mà những thử thách ấy, rốt cuộc, mang lại hoa trái. Chúng tạo điều kiện cực kỳ thuận lợi cho việc “trở nên bé mọn” như hạt cát trong hoang địa cằn khô. Chúng không huỷ hoại tình yêu của Chị, nhưng kích thích Chị càng thêm khao khát. “Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏ đợi trông, như mảnh đất hoang khô căn, không giọt nước” (Tv 53,2). Lòng quảng đại của Têrêsa nhận được một dung mạo mới: Chúa Giêsu dạy Chị phương thế để làm đẹp lòng Ngài và thực hành những nhân đức cao cả nhất. Dần dà lòng khiêm nhường, việc từ bỏ, niềm tin tưởng và sự phó thác gia tăng. Têrêsa học cách phản ứng lại một cách uyển chuyển, dựa trên nền tảng một niềm tin được đánh thức và một tình yêu chân thành không màng đến lợi ích bản thân. Hôm nay hơn hôm qua, nếu điều đó có thể, em đã bị tước hết mọi sự an ủi [2r0]; em cảm ơn Giêsu vì đã nhận thấy điều đó tốt cho tâm hồn em, và rồi, biết đâu nếu Ngài an ủi em, em sẽ dừng lại nơi những vỗ về ngọt ngào ấy, nhưng Ngài muốn rằng tất cả phải được dành riêng cho Ngài!... Vậy thì, tất cả sẽ thuộc về Ngài, tất cả, ngay cả khi em không cảm thấy có chút gì có thể hiến tặng Ngài, và thế là tối hôm qua em sẽ dâng tặng Ngài cái không có chút gì ấy!... Phải chi chị biết được nỗi vui sướng của em lớn biết bao khi em không sở hữu gì cả để làm hài lòng Giêsu!... Đó là niềm vui được tinh lọc (nhưng không hề cảm thấy được). *** Sau hai năm rưỡi sống đời thánh hiến, Têrêsa cuối cùng cũng được chấp nhận cho tuyên khấn vào ngày 8 tháng 9 năm 1890! Trong thời gian tĩnh tâm chuẩn bị, hết sức khô khan, Têrêsa viết cho chị Agnès một bức thư, mang lại cho chúng ta một cái nhìn bao quát rất đúng về thái độ nội tâm của Chị vào lúc sắp bước vào cuộc dấn thân trọn vẹn. Nhưng con bé đơn côi tội nghiệp phải nói để chị hay về lộ trình chuyến đi của nó như sau. Trước khi khởi hành, Đức Phu Quân hình như muốn hỏi xem Hiền Thê muốn du hành đến xứ sở nào, muốn đi theo con đường nào, vv... Hiền Thê bé nhỏ đã trả lời là nàng chỉ có một ước muốn, đó là được lên tận đỉnh núi Tình Yêu. Để lên đến đấy, có nhiều con đường mở ra với nàng, trong số đó có biết bao con đường hoàn thiện đến độ nàng tự thấy mình không thể nào chọn ra được, bấy giờ nàng mới nói với người đi đường thánh thiêng của mình: “Ngài biết là em muốn đến đâu, biết là vì ai mà em muốn leo lên núi, vì ai mà em muốn đi cho đến cùng, Ngài biết ai là người em yêu và chỉ muốn làm hài lòng, chính vì một mình Ngài mà em thực hiện chuyến đi này, vậy hãy dẫn em đi trên những lối đi mà Ngài muốn rảo qua, miễn là Ngài hài lòng là em đã tràn trề hạnh phúc. Bấy giờ Giêsu nắm lấy tay em, và dẫn em vào một đường ngầm ở đó không lạnh không nóng, ánh mặt trời không chiếu tới và cả mưa gió cũng không đến được, một đường ngầm mà ở đó em chẳng nhìn thấy gì cả ngoài một ánh sáng lờ mờ, ánh sáng toả ra chung quanh những ánh mắt hạ thấp xuống trước gương mặt của Đức Phu Quân yêu dấu!... Phu Quân của em chẳng nói với em lời nào và em cũng chẳng nói gì ngoài câu em yêu chàng hơn cả em, và tận trong đáy lòng mình, em cảm thấy điều đó rất thật bởi vì em thuộc về Chàng hơn là thuộc về em!... Em không thấy chúng em đang tiến về phía đỉnh núi vì hành trình đang diễn ra dưới mặt đất, tuy nhiên với em thì hình như chúng em đang càng lúc càng đến gần mà không hiểu cách nào. Con đường em đang lần theo không mang lại một chút an ủi bởi vì chính Giêsu đã chọn nó, và vì em muốn an ủi một mình Ngài, chỉ một mình Ngài thôi!... Chúng ta luôn để ý thấy niềm xác tín của Têrêsa là tình yêu trung thành sẽ dẫn dắt Chị lên đỉnh núi mà Chị không biết chính xác là bằng cách nào. Con đường vẫn ngập chìm trong bóng tối nhưng, yêu nghĩa là nắm lấy tay Chúa và để Ngài dắt đi. Ở đây, có điều gì đó đang được chuẩn bị! Một hành động từ bỏ ngày càng mạnh mẽ đang lộ rõ ra mà, vào cuối năm 1894, sẽ mở ra trong việc khám phá con đường “thơ ấu” mang tính quyết định. Bấy giờ Têrêsa sẽ trải nghiệm được Chúa đang ẵm Chị trên tay và đưa Chị lên núi.
Một thử thách khác còn lớn hơn, và không thể thiếu, dẫn đưa Têrêsa đến với sự từ bỏ ngày càng triệt để hơn: sự suy nhược đầy đau đớn của ông Martin, như một lưỡi gươm, xâu xé trái tim cô con gái út của ông. Têrêsa vừa nhập Cát Minh thì xuất hiện những dấu hiệu báo trước về tình trạng suy sụp của bố. Ông già sáu mươi lăm tuổi nhanh chóng xuống sức. Chứng xơ cứng động mạch và những bệnh tật khác gây ra những hậu quả thảm hại về tâm thần. Ba tháng sau ngày Têrêsa bước vào Cát viện, bố của Chị hoàn toàn loạn trí và bỏ nhà đi. Ông đang ở đâu? Còn sống không? Sẽ ra sao đây? Người thân của ông lo lắng đến chết được... Lòng dạ xốn xang, ba cô con gái của ông ở Cát viện nghe nóng chuyện đi tìm bố một cách vô ích... Đúng là hoàn toàn bất lực... Têrêsa chỉ có thể ngước nhìn lên Chúa Giêsu bị đóng đinh. Bốn ngày sau, người ta tìm thấy ông Martin tại cảng le Havre. Do bệnh của bố lại tái phát, việc nhận tu phục của Têrêsa phải hoãn lại mấy tháng. Mọi thứ sẽ suôn sẻ chăng? Sự có mặt của người đàn ông có niềm tin sâu xa ấy trong nghi lễ ngày 10 tháng giêng năm 1889, đối với Têrêsa là một tia nắng mặt trời bừng lên giữa bầu trời u ám! Đức Vua yêu dấu của con, chưa bao giờ Bố đẹp đến thế, đĩnh đạc đến thế... Bố khiến mọi người phải thán phục, hôm đó là ngày khải hoàn của Bố, ngày lễ cuối cùng của Bố dưới cõi đời này. Ông Martin không được khoẻ. Ông thường bạ gì làm nấy, việc tính toán tiền bạc đã mất đi sự chính xác. Những thầy lang chữa bệnh tâm thần to nhỏ với nhau sự ra đi của Têrêsa, đứa con mà ông coi như con ngươi trong mắt ông, là căn nguyên khiến ông ngã bệnh. Têrêsa cảm nhận được những “châm chích” ấy... Thế gian đã không còn gì để nói với Chị nữa sao, sao có thể khác đi được... Chị đau khổ cay đắng... Chị viết cho Céline: Giêsu đang ở đây cùng với thập giá của Ngài!... Còn chúng ta, những sự thế gian làm gì chúng ta nào... Đâu phải quê hương của chúng ta là cái gốc gác quá ít xứng đáng này của một linh hồn bất tử... để rồi chúng ta cam tâm làm những con người gầy còm gặt lấy những rêu mốc mọc trên cái gốc gác ấy, tâm hồn chúng ta ở trên Trời chừng nào, thì chúng ta càng ít cảm thấy những mũi kim châm chừng nấy... Lúc này đây, cuộc sống của chúng ta là một cuộc tuẫn đạo và đến một ngày Giêsu sẽ ban cho chúng ta nhành lá vinh phúc. Chịu đau khổ và bị khinh bỉ! Thật cay đắng biết bao mà cũng thật vinh quang biết bao... Bi kịch lên đến cực điểm cua nó... Ông Martin lại mắc những áo giác mới và giấu mình trong nhà cùng với một khẩu súng lục. Người ta sợ cho mạng sống của hai cô con gái, Céline và Léonie, cùng người giúp việc, đang còn có mặt trong nhà. Nhờ sự giúp sức của một người bạn, người em vợ, Isidore Guérin tước được súng khỏi tay ông anh rể, đồng thời cũng ngay hôm đó, đưa ông đến điều trị nội trú tại viện tâm thần Caen... Chúng tôi ghi hôm đó là ngày 12 tháng 2 năm 1889... “Ngày chúng tôi rất giàu có”, sau này Têrêsa viết lại trong bản liệt kê “những ngày hồng ân” của Chị. Nhưng ngày hôm đó, lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn Chị! Ôi! Ngày đó con đã nói là mình không thể chịu đựng được thêm nữa!!!... Lời nói không thể diễn đạt được hết những lo lắng của chúng ta... Bố yêu dấu của chúng ta đã uống chén đắng nhất, khiêm hạ trong các chén. Và Têrêsa cùng uống với bố! Cho đến khi cạn chén... Cùng với bố, hạt cát cảm thấy bị giẫm đạp dưới mọi bàn chân, bị coi khinh, bị nghiền nát. “Đức Vua” cao quý của Têrêsa, điên khùng... trở thành câu chuyện đàm tiếu trong thành phố. Và cả gia đình của ông nữa. Dư luận vào thế kỷ XIX khá là cay nghiệt đối với những chứng bệnh ấy. Têrêsa nghĩ đến trào lưu mạnh được yếu thua đang rất thịnh hành thời bấy giờ. Nơi xa lia, một thân một mình trong viện tâm thần (cũng như Chị đang ở Cát viện), bố Chị được trao vào những bàn tay xa lạ, trong khi ông có đến năm cô con gái... Têrêsa đau đớn biết chừng nào! Tâm hồn Chị rướm máu! Mười lăm ngày sau, Chị viết: Giêsu là một vị hôn phu bằng máu (Xh 4,25)... Ngài muốn dành cho mình tất cả máu của trái tim. Đó là thánh giá lớn quá sức tưởng tượng của cháu. Ông Martin sẽ ở lại hơn ba năm trong viện tâm thần Caen. Mấy tháng sau, khu nhà Buissonnets trống vắng. Những người khác đến ở. Chẳng còn dấu tích gì về tuổi thơ của Têrêsa nữa. *** Theo thiển ý, chúng tôi cho rằng những bút ký của Têrêsa còn giúp khám phá giữa các dòng chữ một cuộc chiến đấu khác: sự bối rối của Chị đối với Chúa. Những gì vừa xảy ra đều gây nên rất nhiều bỡ ngỡ và hoang mang... Đối với Têrêsa, trải nghiệm về một người cha tốt lành, đạo đức và khôn ngoan là một yếu tố hết sức quan trọng trong việc kiến tạo nên hình ảnh Chị có về Thiên Chúa khi còn là một đứa bé và vào lúc Chị vừa được mười sáu tuổi. Bố là biểu tượng về Thiên Chúa. Lúc còn bé, Têrêsa đã phải nhìn bố để học cách cầu nguyện với các thánh. Cách đấy chưa đầy một năm, Chị còn thấy trong những lần chầu Thánh Thể hằng ngày, đôi mắt bố thường đẫm lệ và gương mặt bố toả ra một niềm hạnh phúc Thiên Đàng... Và từ Cát viện, Têrêsa cũng vừa mới viết: Khi nghĩ đến bố, bố nhỏ yêu quý của con ơi, tự nhiên con nghĩ đến Chúa nhân lành. Thế mà, đột nhiên, ông Martin lại nói và làm những điều hết sức rồ dại, bất nhất, điên khùng... Tấm gương phản chiếu Thiên Chúa vỡ tan thành nghìn mảnh. Bỗng dưng Thiên Chúa trở nên khác hẳn, xa lạ hơn, khó hiểu hơn... Và cô thiếu nữ mười sáu tuổi không thể không chạm trán với “Mầu nhiệm” của mình... Và dù muốn dù không, nơi cô bé hay suy nghĩ như Têrêsa, trong sự cô tịch của Cát viện và dưới sức đè nặng của sự đau khổ, những câu hỏi ngàn đời vẫn nổi lên - ngay cả khi cô tìm cách xua chúng đi. Sao Chúa lại cho phép chuyện ấy xảy ra? (Chúa, Đấng rất nhân lành...) Có công bằng không, đối với người đã trung thành phụng sự Chúa (nơi mỗi người đều ẩn giấu một ông Gióp ưa thắc mắc...), trong khi Têrêsa đã cầu nguyện rất nhiều, với biết bao sốt sắng... Thiên Chúa nhậm lời chúng ta như thế nào đây?). Đã hẳn, người ta nói - và Têrêsa cũng thường nói với nhiều nhấn mạnh - rằng sự đau khổ là một đặc ân dành cho những ai đặc biệt yêu mến Chúa và trên thiên đường mọi sự sẽ được khen thưởng và bù đắp. Nhưng có thật là có một thiên đường chăng?... Chớ chi câu hỏi mà đã có thể nổi lên nơi Têrêsa không đơn thuần chỉ là một giả thiết. (Câu hỏi sẽ còn xuất hiện một cách quyết liệt vào hai năm cuối đời Têrêsa, lúc Chị đã trở thành người khổng lồ trong đức tin!). Trong Thủ bản Tự Thuật của mình, Têrêsa đã cố tình không nói gì về giai đoạn bố Chị ở lại viện tâm thần, nhưng cũng để lọt ra một câu nói đầy ý nghĩa: Lúc bấy giờ con đang gặp phải đủ loại thử thách nặng nề trong tâm hồn (thậm chí con còn tự hỏi liệu Thiên Đàng có thật hay không nữa). Trong các bức thư Têrêsa viết, người ta cảm nhận được Chị biện hộ một cách hăng say đến chừng nào. Lối nói về “cuộc chiến đấu” xuất hiện một cách thật ấn tượng. Hơn bao giờ hết, Têrêsa khẳng định lòng tin của mình dù không thấy, không hiểu. Trung thành với Giêsu, Chị tuyên bố mình sẵn sàng chịu mọi đau khổ. Có khá nhiều những bực dọc trong các bức thư của Chị. Sao có thể khác được? Thời gian thật nghiệt ngã, cần phải chiến đấu, và Chị chỉ mới mười sáu, mười bảy tuổi... Đau đớn, đầy đau đớn, Chị hồi phục sau khi nhận “đòn đánh quá mạnh”. Nhưng, như Giêsu “đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8), Têrêsa cũng chín muồi trong cùng một “lò thử thách” ấy. Từ bùn đen mọc lên những bông hoa hiếm hoi. Khiêm nhường, lột bỏ, tin tưởng, phó thác: chúng ta đã nói đến những điều ấy trong bối cảnh cầu nguyện, và, hơn bao giờ hết, lời cầu nguyện là cần thiết trong sự đau khổ mới mẻ ấy. Sau này Têrêsa sẽ viết, trong lúc nhìn lại quá khứ: Ba năm đau đớn của Bố đối với con có vẻ như là những năm tháng đáng yêu nhất, trổ sinh nhiều hoa trái nhất trong cả cuộc đời chúng ta, con sẽ không đánh đổi chúng để lấy tất cả những cuộc xuất thần và những mạc khải của các Thánh, tâm hồn con tràn ngập tâm tình biết ơn khi nghĩ đến kho tàng vô giá ấy.
Cũng theo quan điểm thần học, sự tăng trưởng của Têrêsa thật đáng kinh ngạc. Tấm gương cũ của Chúa đã vỡ, Chị khám phá, một cách hết sức mãnh liệt và rõ ràng hơn xưa, một tấm gương khác của Chúa, tấm gương đích thực của Thiên Chúa: Giêsu, Đấng được Cha sai đến. Bởi chưng Giêsu, Đấng Phục Sinh, đã phải đau khổ trước đã! Trong cơn thử thách nặng nề và đầy bối rối của mình, Têrêsa sẽ học cách khám phá “Thánh Nhan” của Đức Chúa. Dường như Chị đã linh cảm trước được tương lai , nên vào ngày nhận tu phục, chị đan sĩ Cát Minh trẻ đã thêm vào tên của mình, “Têrêsa Hài Đồng Giêsu”, hai chữ “Thánh Nhan”. Từ đó về sau, việc noi gương và trở nên giống Chúa sẽ là hai lực lượng kết hiệp Têrêsa hơn nữa với Giêsu đau khổ. Chúa Giêsu dạy cho Chị lòng trung thành và tình yêu có thể đi đến đâu. Hai tháng sau đòn đánh choáng váng “Caen”, Têrêsa viết cho Céline: Để được là hôn thê của Giêsu, cần phải gióng với Giêsu, Giêsu đẫm máu, chịu đội mão gai!... Giêsu cháy bỏng tình yêu vì chúng ta... Hãy nhìn Thánh Nhan đáng tôn thờ của Ngài!... Nhìn vào đôi mắt dại đi đã khép lại của Ngài!... Nhìn các vế thương của Ngài... Hãy nhìn Giêsu qua Thánh Nhan của Ngài... Ở đấy chị sẽ thấy Ngài yêu ta đến chừng nào. Vâng, Thánh Nhan Giêsu rạng ngời nhưng nếu, giữa các thương tích và những dòng nước mắt mà còn hết sức đẹp đẽ đến thế, thì một khi ở trên Trời, chúng ta còn nhìn thấy Thánh Nhan ấy tuyệt diệu đến chừng nào nữa? Ôi! Thiên đàng... Thiên Đàng...! Ngay lúc ấy, Têrêsa thăm dò chiều sâu thẳm của các kho tàng ẩn giấu trong Thánh Nhan... những mầu nhiệm tình yêu ẩn giấu trên Gương Mặt Đấng Tình Quân. Mùa hè năm 1890, lần đầu tiên Têrêsa đọc rất dài, các chương 53 và 63 trong sách Isaia, nói về “gương mặt con người đau khổ, gánh lấy những đau đớn của chúng ta”, người “một mình ép lấy rượu nho, nhưng nhìn quan chẳng có ai giúp đỡ”. Càng lúc Têrêsa càng mở lòng ra với Kinh Thánh. Giêsu không chỉ là lý tưởng và tình yêu, mà còn là chân lý và luận chứng của Chị nữa. Têrêsa đã được Thánh Tẩy và được nuôi dạy trong đức tin. Đức tin ấy được khẳng định bởi lời giáo huấn và được nuôi dưỡng bằng việc đời sống thiêng liêng, cùng với những món ăn chính là sách Gương Phước và cuốn sách của Arminjo, Tận thế hôm nay và những mầu nhiệm về cuộc sống tương lai. Trong thời gian bố lâm bệnh, Têrêsa sẽ bước vào giai đoạn thứ ba: vượt đi từ một đức tin truyền thống để đến với đức tin tự giác và có trách nhiệm. Vào lúc Têrêsa đối đầu với nỗi đau khổ nặng nề của những người khác và của chính Chị, thì từ hoàn cảnh hiện sinh ấy lại nổi lên những vấn nạn muôn đời của con người. Không phải Têrêsa tự “đặt ra” cho mình những câu hỏi ấy một cách có hệ thống, nhưng trong cuộc sống đau khổ ấy, trong nơi thâm sâu nhất của bản thể Chị, chúng tự nổi lên trong tâm trí của Chị, ngay cả khi Chị xua đuổi ngay tức khắc bằng cách nại đến những câu trả lời đang rất phổ biến. Giờ đây, câu trả lời của đức tin, thông thường và được chấp nhận một cách chính đáng, được minh định và tán thành tuỳ theo mỗi người. Têrêsa là người hay suy nghĩ. Những chữ như “tìm kiếm”, “tìm được” và “hiểu” dễ dàng xuất hiện trên môi Chị, chỉ riêng trong Thủ bản Tự Thuật, ba chữ ấy đã lần lượt được nhắc đến 46, 137 và 144 lần. Đầu óc sắc sảo của Chị thiên về phê bình. Cô bé Normandie không muốn cái gì cũng “nhắm mắt mua liều!” Bản chất trí thông minh thực tiễn của cô đòi hỏi phải có những nền tảng đúng đắn trước khi chấp nhận cái siêu nhiên. Những vấn nạn thời hiện đại sẽ tiếp tục hiện lên trong tâm trí cô. “Chúng ta đang ở vào thời đại của những phát minh”, sau này Chị sẽ viết như vậy. Những gì chung chung không hấp dẫn được Chị, Chị thấy được sự phù phiếm của những kiểu trả lời vu vơ mà tự bản thân Chị, Chị đã có sẵn lý lẽ để bác bỏ. “Kiểu lý luận của người duy vật tệ hại nhất đang khiến em bận tâm”, Têrêsa tâm sự với chị Agnès ít lâu sau trước khi qua đời. Chị biết chính xác: “Sau này, đang khi không ngừng đưa ra những tiến bộ mới, khoa học sẽ giải thích mọi thứ một cách tự nhiên, người ta sẽ có lý do triệt để về tất cả những gì đang tồn tại và những gì đang có vấn đề, bởi lẽ còn rất nhiều điều để khám phá, vv...”. Quả là cô bé Têrêsa Martin chẳng có gì gọi là nghèo nàn cả! Trước lúc bước vào tuổi mười sáu, Têrêsa “vẫn chưa tìm ra những kho tàng ẩn giấu trong Tin Mừng”. Vài năm sau Chị mới có thể nói: Nhưng trên hết chính là Sách Tin Mừng nuôi dưỡng con trong những giờ nguyện gẫm, qua đó con tìm thấy tất cả những gì cần thiết cho linh hồn bé nhỏ đáng thương của mình. Con luôn khám phá được tự nơi Sách ấy những ánh sáng mới, n hoặc ý nghĩa ẩn kín và huyền nhiệm... Chị đã cắm rễ một cách chắn chắn vào Sách Tin Mừng. Chị hiểu sách ấy bằng trực giác: làm cách nào mà những chứng nhân đầu tiên ấy, những người thông minh và biết nhận xét như Matthêu, Luca, Gioan, Phaolô (vốn là người Do Thái và rõ ràng là đang thờ độc thần!), lại vượt qua được để đến với một niềm tin vào Đức Giêsu là Chúa và là Con Thiên Chúa nếu không có những lý do thiết yếu? Chính Têrêsa cũng sẽ luôn nhạy bén với những dấu chỉ kỳ diệu được Chúa Giêsu đưa ra. Chị thích đưa và các bản viết của mình; và với dấu chỉ trọng đại nhất, sự sống lại của Chúa Giêsu, dấu chỉ siêu việt nhất được Chúa Cha đưa ra, chứ ký linh thánh chứng thực sứ điệp của Đức Giêsu. Một năm trước khi chết, Têrêsa còn soạn riêng cho mình một “bản đối chiếu” với các trình thuật phục sinh!... Chị đã “chuẩn bị kỹ lưỡng” cho sách Tin Mừng của mình! Têrêsa là một người tìm kiếm trung thực. “Ôi Giêsu, Ngài biết em đang tìm kiếm chân lý”. Vài giờ trước khi trút hơi thở cuối cùng, Chị sẽ nói “Vâng, dường như lúc nào con cũng chỉ tìm kiếm chân lý”. Khi mà, từ chốn thần linh vượt quá thực tại trần thế, một Lời được nói với chúng ta qua Chúa Giêsu, thì một cách chân thành và chính trực, Têrêsa sẽ lắng nghe Lời ấy. Và khi phải đáp lại, Têrêsa sẽ dùng các bổn phận của mình và sẽ đưa ra sự đáp lại của mình, thậm chí còn ở mức cao nhất: “Yêu, nghĩa là cho đi hết và cho đi chính mình”. Têrêsa đã trải qua đêm tối đức tin, nhưng không bao giờ Chị ngừng trung thành với đức tin của mình. Đêm có thể buông xuống, gió bão có thể nổi lên, nhưng đối với Chị, vẫn luôn có sự kiện Giêsu, là điểm tựa của Chị. “Con chạy đến với Giêsu của mình”, Chị nói. Lúc viết ra câu này, Têrêsa đã có một trải nghiệm sâu sắc về thực tại và hoạt động của Chúa nơi Chị. Thế rồi, thật đơn giản, Chị không thể rời xa Chúa nữa... Nhưng trong thời gian bố lâm bệnh (chúng ta đang nhắc lại giai đoạn ấy) Chị vẫn chưa nhận được lời khẳng định thần linh phong phú ấy. Tuy nhiên, Chị vẫn đi đúng hướng. Trong nỗi buồn thấm thía của mình, Têrêsa khám phá Nhan Thánh Chúa Giêsu và rất thường chiêm ngắm. Bấy giờ Chị thấy rằng Chúa Cha đã không miễn cho Con yêu dấu của Ngài sự đau khổ và sự chết. Đức Giêsu đã nhận chịu sự đau khổ của mình trong tình yêu và Chúa Cha đã làm cho sự sống bùng lên trong sự chết. Đối với Têrêsa, mầu nhiệm khôn thấu về sự chết không còn hoàn toàn phi lý nữa và không còn mâu thuẫn với lòng nhân lành của Chúa Cha. “Giêsu” trở thành lý lẽ lớn của Chị và lời của Chúa, là niềm xác tín sâu xa của Chị. Rốt cuộc, Chị không có tham vọng biết rõ hơn Ngài... Từ nay về sau, đức tin của Chị thực sự là “đức tin Kitô giáo”. *** Têrêsa là một gương mặt hết sức hấp dẫn đối với thời đại chúng ta, bởi vì Chị đã biết được những thắc mắc của chúng ta và đã tìm ra câu trả lời. Nhưng hàng nghìn câu hỏi và cám dỗ không phải chỉ làm nên một hoài nghi thực sự. Têrêsa không bao giờ buông tay Giêsu ra. Khi mô tả đêm tối đức tin của mình, Chị sẽ nói rõ về “cơn giông tố”, “bóng tối”, “cuộc chiến đấu”, “nỗi đau đớn”, “thử thách”, “sương mù”, “đêm” và “bức tường”, và cả “những cám dỗ”, nhưng không hề có chữ nghi ngờ. Khi một câu hỏi được đặt ra với trí hiểu của Chị, điều đó không có nghĩa là bản thể sâu xa của Chị nghi ngờ Chúa không có câu trả lời hoặc không đưa ra cho một lối thoát. Chính vì thế mà, nói một cách chính xác, Têrêsa chưa bao giờ nổi loạn. Cứ mỗi lầm tìm lại được, trong Chúa và trong đức tin riêng của mình: Sự bình an... không bỏ mặc con giữa những thử thách nặng nề nhất. Nhưng, Chị còn nói thêm: Nói lên bình an, không nói lên niềm vui, hoặc chí ít là niềm vui được cảm thấy. Không phải Kitô hữu nào cũng đích thân trải qua sức khoẻ về đức tin mà Têrêsa đã từng trải qua. Họ cũng không tự mình thực hiện lại cuộc tìm kiếm. Khi có thể gắn bó với lời Chúa Giêsu, chúng ta mới có thể dựa theo những tín hữu đã đi trước chúng ta, theo đức tin của cộng đoàn Hội Thánh, của Đức Maria, chẳng hạn, và của các vị đại thánh vĩ đại, giống như Têrêsa. Đó là ơn huệ của Hội Thánh. “Con yêu Hội Thánh”, Têrêsa nói. Trong cuộc hành trình của mỗi người, chúng ta có thể vận dụng ánh sáng mà những người khác mang lại!
Thiếu nữ mười sáu, mười bảy tuổi ấy không chỉ đang trên đời trở thành một tín hữu vĩ đại, mà còn là một kẻ si tình đắm đuối! Khi yêu Ai đó, cô hiến mình hoàn toàn! Khi rời bỏ mái ấm gia đình, mục đích của cô thật rõ ràng: Em muốn nói với chị nhiều điều về hạt cát bé nhỏ nhưng em không có thời gian... (em muốn làm thánh...). Một hôm em đã được xem những lời khiến em hết sức thích thú, em không nhớ được vị thánh đã nói những lời ấy, đó là: “Tôi không phải là hoàn thiện, nhưng tôi muốn trở nên hoàn thiện”. Và Têrêsa nhấn mạnh hai chữ tôi muốn! Trong trao đổi thư tín của Chị từ những ngày đầu sống đời thánh hiến, điệp khúc ấy được lặp đi lặp lại: trở nên một “vị thánh”, “một vị thánh lớn”. Mẹ bề trên, Marie de Gonzague, còn đổ thêm dầu vào lửa, bằng một lời nhắc đến vị bổn mạng của Chị: “Con phải trở thành một nữ thánh Têrêsa thứ hai!” Têrêsa chuyển niềm xác tín của mình qua cho chị Céline: Tuy nhiên điều mà có thể [Céline] không biết, đó là tình yêu mà Giêsu mang đến cho, từ tình yêu đòi hỏi TẤT CẢ, không có gì không thể dành cho Ngài, Ngài không muốn đặt giới hạ nơi sự THÁNH THIỆN của Bông Huệ của Ngài, giới hạn của nó đối với Ngài chính là không có giới hạn nào cả!... Sao lại phải có giới hạn nhỉ? Chúng ta còn vĩ đại hơn cả vũ trụ, vào ngày mà chính chúng ta cũng được sống sự sống của Thiên Chúa... Nên thánh là gì? Làm sao mà Têrêsa có thể quan niệm khác đi ngoài một lời “thưa vâng” trọn vẹn đối với những đòi hỏi triệt để nhất của tình yêu, bất luận là thế nào? Lại một lần nữa, chính Céline là người mà Têrêsa thổ lộ tâm tình: Giêsu đòi hỏi nơi chị TẤT CẢ, TẤT CẢ, TẤT CẢ, như tất cả những gì mà Ngài có thể đòi hỏi nơi các thánh vĩ đại. Và Têrêsa nhấn mạnh chữ “tất cả” lần lượt hai, ba và năm lần. Nhưng Chị có biết rõ đó chính là cho đi mọi sự, hay không? Người ta có thể dự định như vậy một cách đầy phấn khởi, nhưng khi những đòi hỏi của tình yêu trào dâng cuồn cuộn, thì người ta rất nhanh cảm thấy mình nghèo nàn và bị lột sạch - ngay cả khi người ta là một thánh nữ Têrêsa Lisieux tương lai chăng nữa... Chúa Giêsu đến không để đem bình an, nhưng là gươm giáo (Mt 10,34) và thập giá mỗi ngày (Lc 9,23). Trò không hơn Thầy (Mt 10,24) là người mà, trong cơn bồi hồi xao xuyến, đã đẫm mồ hôi khi đau khổ và sự chết đang đến gần (Lc 22,44). Cô gái trẻ Têrêsa nhà Martin có biết là mình táo tợn, khi viết những dòng này chăng: Thật chẳng thể nào tin nổi nếu tâm hồn em lại có vẻ cao quý khi em coi trọng những tài sản thế gian, vì em thấy rằng tất cả có được tập trung lại thì cũng không làm cho nó hài lòng, nhưng khi em quý trọng Giêsu, thì Ngài lại có vẻ bé bỏng với em biết bao!... Em ước ao được yêu mến Ngài vô cùng!... Yêu Ngài như chưa bao giờ Ngài được yêu! Vậy là có một kiểu kỷ lục thế giới trong tình yêu Thiên Chúa! Như chúng ta đã thấy, Têrêsa muốn lập thành tích ngang bằng với một Têrêsa Avila, và nếu được, còn muốn vượt hơn. Một trận tranh tài thánh thiện đỉnh cao! Cuộc đối đầu giữa Đavít và gã khổng lồ Gôliát, mà trong đó người nhỏ bé hơn sẽ dùng mưu chước thánh thiện để bù cho sức lực thua kém của mình! *** Hoàn cảnh đau khổ nặng nề mà Têrêsa sớm rơi vào sẽ giúp Chị thấy được những giới hạn của mình. Nhưng, trước mắt, Chị tiếp tục xem sự yếu đuối và những sa ngã của mình như một bổ sung cho sự đau khổ mà cách nào đó đang làm thành một đặc ân, đồng thời cũng giúp Chị yêu mến một cách khiêm nhu và mãnh liệt hơn: không phải với ít tình yêu hơn, nhưng với một tình yêu thiết thực hơn! Chị tập sinh trẻ không chút xem nhẹ lý tưởng, không hề hạ giá lý tưởng ấy xuống! Tuy rằng những bức thư của Chị, trong một mức độ càng lúc càng gia tăng, cho thấy trải nghiệm mà Chị có về sự yếu đuối của bản thân: Thật là hồng ân, khi mỗi buổi sáng, để thực hành nhân đức, ta không cảm thấy cần chút can đảm, chút gắng sức nào. Giờ là lúc đặt rìu vào gốc cây(*); thay vì mất thời gian nhặt nhạnh một ít xái vàng, người ta khai thác những viên kim cương, thật là lợi biết bao khi đến cuối ngày... Em rất cần vay nơi chị một ít sức lực và can đảm, thứ can đảm mà đã giúp vượt qua tất cả ấy!... Têrêsa cũng nói mình “chính là sự yếu đuối”. Và nói cho cùng, yếu đuối chính là một cơ may: Chị ước sao cho trái tim chị như một ngọn lửa bốc lên về phía Ngài mà không gợn một chút khói, chị hãy lưu ý là làn khói bao quanh chị chỉ dành cho chị mà thôi; để không cho chị nhìn thấy được tình yêu chị dành cho Giêsu, chỉ một mình Ngài nhìn thấy. Ít nữa là vào lúc Ngài nhận được nó trọn vẹn, bởi vì hơi một tí mà Ngài đã tỏ cho ta thấy ngọn lửa ấy một chút, thì tính tự ái sẽ nhanh chóng ập đến như một ngọn gió nguy hại thổi tắt đi tất cả!... Thật là vui sướng khôn nguôi khi mang lấy thánh giá của chúng ta MỘT CÁCH YẾT ỚT. Giữa lúc đó, nhiều điều trở nên rõ ràng với Têrêsa. Đừng tưởng là chúng ta có thể yêu mà không phải đau khổ, không phải đau khổ nhiều... Bản thể đáng thương của chúng ta đang hiện hữu ở đây! Và không phải hiện hữu để chẳng là gì cả!... Đó chính là sự giàu có của chúng ta, là việc nuôi thân chúng ta!... Hãy chịu đau khổ một cách cay đắng, không cần can đảm!... “Giêsu đã phải chịu đau khổ với sự phiền muộn! Lẽ nào tâm hồn chịu đau khổ mà không phải muộn phiền...!” Thế nhưng chúng ta cứ muốn đau khổ một cách quảng đại, một cách vĩ đại!... Ôi chị Céline! Ảo tưởng quá đi thôi!... Chúng ta muốn mình chẳng bao giờ phải sa ngã ư?... Bất luận thế nào, lạy Chúa Giêsu, nếu mỗi lúc sa ngã, con nhìn thấy sự yếu đuối của con, thì với con, đấy chính là một thắng lợi lớn... Ít lâu trước khi được tuyên khấn, sau hai năm rưỡi sống đời thánh hiến, Chị sẽ thú nhận: Em nhầm, em yêu quý ạ, nếu tưởng rằng chị Têrêsa đáng thương của em luôn nhiệt thành bước đi trên con đường nhân đức, chị thật yếu đuối, yếu đuối vô cùng, mỗi ngày chị càng nhận ra điều đó hơn, nhưng này Marie, Giêsu thích dạy cho chị như đã dạy thánh Phaolô biết cách làm cho mình vẻ vang ngay trong những bất toàn của bản thân (2Cr 12,5), đó là cả một hồng ân cao cả và chị cầu xin Giêsu dạy em điều đó, vì chỉ có như thế mới tìm được sự bình an và sự nghỉ ngơi của tâm hồn.
Lý tưởng trổi vượt mà, trước mắt, Têrêsa có tham vọng đạt tới bằng chính những phương thế riêng của mình, đặt Chị đối diện với một bổn phận ghê gớm! Têrêsa không thể và không muốn để bất cứ điều gì lọt khỏi mối quan tâm đầy yêu mến của Chị! Sự ân cần của Chị đối với những điều nhỏ nhặt nhất càng tăng lên. Không chừa một kẽ hở nào! Trong biên bản phong thánh, các chị em sẽ nhấn mạnh đến sự chăm chút tỉ mẩn của Chị, sự trung thành của Chị đối với từng điểm nhỏ nhất trong nội quy, đức vâng phục đối với từng mong muốn nhỏ nhất được Mẹ Marie de Gonzague bày tỏ mà chính Mẹ, vài hôm sau, cũng chẳng còn nhớ nữa. Điều đó hẳn sẽ gần giống như sự quá thận trọng và ám ảnh, nếu như Têrêsa không được thôi thúc bởi ngọn lựa yêu mến. Trong các bức thư của Chị, thường thấy lặp đi lặp lại những cụm từ nhấn mạnh mối bận tâm phi thường của Chỉ đối với những việc nhỏ và giá trị của chúng: một “giọt nước mắt”, “một tiếng thở dài” một “ánh mắt”, một “cọng rơm”, một “mũi kim châm”... Ôi! Chúng ta hãy tận dụng, tận dụng những khoảnh khắc ngắn ngủi nhất, hãy làm như những kẻ hà tiện, hãy gắn bó với những gì dù nhỏ nhất dành cho Đấng Tình Quân!... Sự điên rồ trong tình yêu của Giêsu cũng phải được trả bằng chính giá ấy: Tình yêu Giêsu dành cho Céline thì chỉ một mình Giêsu mới hiểu được!... Giêsu đã làm những việc điên rồ vì Céline... Chớ gì Céline cũng làm những việc điên rồ vì Giêsu... Tình yêu chỉ được trả giá bằng tình yêu và các vết thương do tình yêu gây ra thì chỉ được chữa lành bằng tình yêu. Chữ “không thể” tạm thời bị gạt ra khỏi từ vựng của Chị: Tình yêu có thể làm tất cả, những việc không thể làm nhất, thì với tình yêu đều chẳng có gì là khó khăn, Chúa Giêsu không nhìn vào sự lớn lao cũng như tính chất khó khăn của các hành vi, song chỉ xem xem có được bao nhiêu tình yêu trong các hành vi ấy. Như vậy, không phải là “những gì” người ta làm, nhưng là làm “bằng cách nào” và “tại sao”, xác định giá trị của: Tình yêu nghèo nàn và yếu đuối của chúng ta... đúng là đôi khi có những lúc chúng ta xem thường việc thu tích kho tàng cho mình... nhưng trong một hành vi yêu thương, đã không cảm thấy, mọi sự đều được bù lại. Têrêsa cũng có cảm tưởng là tình yêu và sự đau khổ cùng nhau gia tăng: Bông huệ của Ngài càng lớn lên trong tình yêu, thì nó lại càng phải lớn lên trong đau khổ... Lý tưởng về việc tuẫn đạo, từ đó, làm nên phần chủ yếu trong thế giới của Têrêsa. Hồi mới chín tuổi, Chị đã nghe thấy giếng gọi bước vào cuộc phiêu lưu vĩ đại nên thánh khi đọc những hành vi anh hùng của Jeanne d’Arc. Têrêsa linh cảm thấy mình cũng được sinh ra cho vinh quang... Nhưng vinh quang của con sẽ không xuất hiện trước mắt loài hay chết mà sẽ làm cho con trở nên một nữ thánh vĩ đại!!! Jeanne d’Arc sẽ vẫn luôn là người chị linh hồn đối với Têrêsa; chị đan sĩ CÁt Minh chọn Jeanne d’Arc làm nữ anh hùng cho hai trong số các vở kịch của mình. Tuẫn đạo, như lời Têrêsa nhìn nhận, là giấc mơ thời tuổi trẻ của em. Giấc mơ ấy đã lớn lên cùng với em trong Cát viện.
Chị viết trong lá thư đầu tiên sau khi an táng bố: Nào chúng ta hãy cùng nhau bước vào đấu trường. Thà chết hơn là bỏ trốn khỏi đấu trường vinh quang mà tình yêu Giêsu đã đặt nó vào!... Phong trào bài giáo sĩ kịch liệt ở Pháp không loại trừ khả năng bách hại Hội Thánh, nhưng Têrêsa chẳng hề chờ đợi: Trước khi chết vì lưỡi gươm, chúng ta hãy chết vì những mũi kim đâm. Cuộc tuẫn đạo âm thầm, chỉ một mình Chúa biết..., tử đạo không vinh dự, không khải hoàn... Đó là tình yêu được đầy lên đến chủ nghĩa anh hùng... *** Ánh mắt đăm đăm nhìn vào Người Tôi Tớ Đau Khổ của Giavê, Têrêsa “khao khát được chịu đau khổ và bị lãng quên”. Cũng như vị cha thiêng liêng của mình, thánh Gioan Thánh Giá, Têrêsa đã chọn “cõi thế này” để chỉ chia sẻ “nỗi đau khổ và sự khinh miệt”. Nếu theo Têrêsa Avila, cuộc đời “chỉ là một đêm tối được trải qua trong một quán trọ tồi tàn”, thì người con gái của Thánh Nữ và cũng là con gái của Cát viện Lisieux cho rằng thà “ở trong một khách sạn hoàn toàn tồi còn hơn trong một khách sạn chỉ tồi có một nửa...”. Thế thì, “chịu đau khổ và còn chịu mãi!” Trong giai đoạn này, sự đau khổ mang một vầng hào quang. Ba tháng sau biến cố “Caen”, Têrêsa sẽ tiếp tục cho đến lúc định nghĩa sự thánh thiện như là ước muốn chịu đau khổ một cách đầy yêu mến và quả quyết: ... Sự thánh thiện không nằm ở chỗ nói lên những lời đẹp đẽ, để chỉ nghĩ đến, để chỉ cảm thấy... mà là ở chỗ chịu đau khổ và chịu đau khổ vì tất cả mọi sự. Và chị đan sĩ trẻ nhắc lại bài giảng tĩnh tâm của cha Pichon: “Sự thánh thiện! Phải chinh phục được nó bằng mũi gươm, phải chịu đau khổ... phải chịu hấp hối...”. Tất cả những gì mà giờ đây người ta đang chịu đựng liên quan đến chứng bệnh của bố người ta, chẳng phải là một cơ hội duy nhất đó sao? Thật là cả một đặc ân Giêsu ban cho chúng ta khi gởi đến cho chúng ta một nỗi đau khổ lớn như vậy... Ngài đổ đầy cho chúng ta các ân huệ của Ngài như đổ đầy nơi các vị thánh vĩ đại... Bây giờ chúng ta chẳng còn gì để hy vọng trên thế gian này nữa, không gì cả ngoài sự đau khổ và chỉ có đau khổ mà thôi, một khi chúng ta kết thúc, sự đau khổ vẫn dang tay chờ đón chúng ta. Ôi! Phúc phận đáng ước ao! Một cách vô thức, Têrêsa vẫn đinh ninh sự thánh thiện, rốt cuộc, phụ thuộc vào sự đau khổ của Chị và, do đó, phụ thuộc vào bản thân Chị. Người ta phải “chinh phục” sự thánh thiện. “Bằng mũi gươm!” Trả giá bằng chính máu của mình... Mỗi mẩu đau khổ là một đồng vàng người ta dùng để mua kho tàng phong phú của sự thánh thiện. Cơ hội thì vô số. Trong hoàn cảnh của mình, Têrêsa thấy mình “được bao quanh bởi một giàu có bất tận”. Thử thách ấy “là một mỏ vàng để khai thác”. Và Têrêsa nhắc lại với chị Marie những khuyên bảo mà ngày xưa chị đã đưa ra cho em gái của chị ở Buissonnets: Em vẫn còn nghe thấy chị bảo em: “Hãy nhìn những người buôn bán mà xem, họ kiếm tiền bằng cách trao cho nhau điều bất hảo, còn chúng ta, chúng ta có thể thu tích các kho tàng trên trời từng lúc mà không phải mang lại cho nhau điều ác, chúng ta chỉ phải cần đến một CÁI CÀO để thu nhặt kim cương ấy chứ!” Và em đã ra đi lòng đầy vui sướng, tràn trề những ý định tốt lành!... Có thể là, nếu không có chị, em đã không ở trong dòng Cát Minh!
Nếu nhìn lại, chúng ta có thể thấy việc giáo dục đạo đức dành cho Têrêsa thuở nhỏ đúng là ghi khá đậm dấu ấn về mối bận tâm chinh phục, thu tích, đạt được, ghi chép. Tất nhiên, nhờ đó mà đưa đến những hiệu quả tiêu cực đối với việc huấn luyện Têrêsa. Lòng quảng đại, năng lực và sự tiến bộ về mặt thiêng liêng của Chị đều được kích thích từ đó. Nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện cho thái độ “tự mình làm lấy” trong những nỗ lực về mặt tâm linh, trong khi tự bản tính, Têrêsa rất tham vọng và đầu óc kinh doanh. Theo thiển ý, chúng tôi cho rằng có thể người ta không bao giờ đánh mất quan điểm Têrêsa là con nhà buôn bán. Trong hai mươi năm, bố của Chị đã điều hành thành công một tiện đồng hồ - nữ trang. Hai năm trước khi Têrêsa chào đời, ông chuyển nhượng cửa hàng và tập trung hoàn toàn vào công việc kinh doanh của vợ, buôn bán đăng-ten mang lại nhiều lợi nhuận hơn. Thực hiện các giao dịch, làm việc, kiếm tiền, thu lãi và đầu tư, quyết đoán, tất cả những việc đó đều đặc thù ở nơi chôn nhau cắt rốn của bé Têrêsa. Cô bé hít thở không khí ấy, hoàn toàn giống như bốn người chị lớn mà sẽ có tầm ảnh hưởng đối với cô em nhỏ. Gia đình Martin hợp thành một gia đình kinh doanh, ngay cả trong địa hạt đời sống thiêng liêng và sự thánh thiện! Mới bốn tuổi, Têrêsa đã bắt đầu “thực dụng”: thực hiện và đếm những hy sinh tự nguyện nho nhỏ. Từ rất sớm, cô đã nhận được những bài học từ chị Agnès và, hằng năm, luôn có cuộc trao thưởng trang trọng trước dịp hè. Nhưng... chỉ những giải mà Têrêsa làm việc để được thưởng! Bao giờ cũng vậy, công bằng luôn được thực thi và con chỉ nhận những gì mình đáng được nhận mà thôi. Ý tưởng được triển khai tiếp một cách đầy ý nghĩa: Tim con đập rộn rã khi lãnh nhận các phần thưởng và vòng triều thiên... Con có cảm tưởng như đó là một hình ảnh về ngày phán xét!... Ngày phán xét, người ta sẽ nhận những phần thưởng mà người ta xứng đáng được nhận! Khi chị Agnès vào đan viện Cát Minh, chị Marie chịu trách nhiệm dạy dỗ. Hãy nghe cách mà bà chị lớn chuẩn bị cho Têrêsa, bấy giờ được mười một tuổi, rước lễ lần đầu: Con ngồi trên gối chị ấy và lắng nghe như nuốt từng lời chị ấy nói với con... Như những chiến binh lừng danh dạy cho con cái họ học nghề binh đao cung kiếm, chị ấy cũng nói với con về những cuộc chiến đấu với cuộc đời, về nhành nguyệt quế được trao cho người chiến thắng... Chị Marie còn nói về những của cải không bao giờ hư mất có thể dễ dàng thu tích hằng ngày, và sẽ thật là bất hạnh nếu bỏ qua, không chịu khó chìa tay ra để nắm lấy chúng. Cuộc chiến đấu, sự giàu có... và các phương thế: Rồi chị ấy chỉ cho con phương thế nên thánh bằng lòng trung thành với các việc nhỏ nhất; chị còn trao cho con một mẩu giấy nhỏ: “Nói về sự từ bỏ” mà con nghiền ngẫm một cách thích thú... Trở nên giàu có theo cách của một đầu óc kinh doanh, cùng với sự chính xác và tập trung của một người buôn bán đồng hồ, và trong việc sản xuất đăng-ten đòi hỏi nhiều tỉ mẩn: Điều đó nằm sẵn trong huyết quản của Têrêsa! Từ Cát viện, nữ tu Agnès cùng tham gia việc dạy dỗ! Chị đã biên soạn một cuốn sổ có nhiều hình trang trí rất đẹp, nội dung ứng với mười tuần và cứ mỗi ngày lại có bài kinh ngắn kèm theo hình một bông hoa. Để chuẩn bị cho việc rước lễ lần đầu, Têrêsa phải thường xuyên đọc bài kinh ngắn và thực hiện nhiều việc hy sinh nhỏ, được biểu tượng bằng bông hoa; Chị sẽ ghi vào cuốn sổ của mình và, vào ngày rước lễ lần đầu, sẽ dâng cho Chúa Giêsu. Têrêsa đúng là thiên thần! Chị không biết em hạnh phúc thế nào khi Marie chỉ cho em cuốn sách nhỏ xinh xắn của chị đâu. Em thấy nó rất hấp dẫn. Em chưa bao giờ thấy một cái gì đẹp đến thế và cứ nhìn nó mãi không biết mệt. Bao nhiêu là lời linh đẹp đẽ trong phần mở đầu! Em đã đọc những lời ấy một cách tha thiết với Giêsu bé nhỏ. Mọi ngày em đều ra sức hơn nữa để tập tành những gì mà em có thể, và làm hết sức mình để không bỏ qua một dịp nào cả. Em thầm đọc trong lòng những lời kinh ngắn ngủi toả hương thơm hoa hồng ấy, và có thể đọc hết sức thường xuyên chưng nào em có thể. Điểm số sẽ cao lắm đây! Trong vòng 48 ngày: 1949 hy sinh nhỏ (vị chi 27 hy sinh mỗi ngày) và 2773 lần đọc kinh ngắn (40 lần/ngày)! Việc giảng dạy ở nhà trường của đan viện cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của những việc tốt và sự bền tâm vững chí. Trong cuốn sổ tay ghi các bài giảng tĩnh tâm chuẩn bị cho lần rước lễ lần đầu của mình, Têrêsa viết: Con tự hứa là cố gắng trở nên tốt lành và có nhiều việc lành để dâng cho Chúa nhân lành. Chúng ta hãy quay lại với Cát viện, nơi mà giờ đây Têrêsa đang học tại ngôi trường đau khổ... Lúc này Têrêsa, hơn bao giờ hết, phải thực hiện những gì chị Marie đã dạy ngày xưa! Ngay trước lúc nhập dòng, Chị còn lặp lại với mình một lần dứt khoát: Em chỉ ao ước một điều là khi được vào Dòng Cát Minh, luôn được chịu khổ vì Chúa Giêsu. Cuộc sống qua nhanh đến nỗi đúng là có một triều thiên đẹp đẽ và một chút đau khổ còn hơn là một sự đều đặn không đau đớn.
Một ngày sống Cát Minh mà không có đau khổ là một ngày uổng phí. Hạt cát, bất chấp sự nhỏ nhoi của mình, muốn tự thực hiện cho mình những điều Vĩnh Hằng tuyệt diệu, nó cũng muốn làm như thế đối với những tâm hồn tội lỗi. Chiến đấu nhiều, đau khổ nhiều, đạt được những kho tàng thiêng liêng: chúng ta đã nhấn mạnh cách nói ấy của Têrêsa trong những năm đầu sống đời thánh hiến của Chị - cách nói thường đậm tính chiến đấu, đôi lúc đầy đau đớn, hay mang hơi hướng của việc “cân đối thu chi”. Nhưng, để giật lấy nhành lá hồng phúc, thì dù phải chịu đau khổ bao nhiêu đi nữa cũng chẳng có gì là quá nhiều... Và thêm vào đó là ý tưởng về sự thúc bách: Thời giờ qua nhanh quá, chị thấy nó cứ vuột khỏi tay mình một cách chớp nhoáng đáng sợ.
Chúng ta hãy khẩn trương kết lấy triều thiên cho mình... Lý tưởng quá cao vời và quá khó khăn đến độ, có thể nói được rằng, tình yêu của Têrêsa luôn chạy như lướt trên mặt đất. Nhưng điều đó là không thể, không phải việc của con người. Vì thế mới nghe thấy những lời Têrêsa than thở về sự hèn mọn, sự hâm hẩm, sự yếu đuối từng ngày của Chị. Têrêsa phải phát triển đời sống nội tâm và được thanh luyện trước khi trở nên hạnh phúc thấy mình trình diện Chúa với hai bàn tay trắng, sau khi đã hiểu rõ chính là Lòng Thương Xót của Ngài, chứ không phải nhờ sự trung thành tự định đoạt của Chị, mà Chị nhận được Thiên Chúa!
Còn có điều khác nữa. Những do dự không thể tránh khỏi, t, thực hành tình yêu hoàn thiện, âm thầm gợi lên nơi chị tập sinh nhiệt thành những vấn nạn lương tâm mà sẽ góp phần giúp cho sự thánh hoá của Chị nên hoàn hảo hơn. Têrêsa là người có một lương tâm hết sức tinh tế. Một lỗi phạm nhỏ nhất cũng đánh động mạnh đến lương tâm áy và có thể khai mào cho nhiều lo lắng và những hoài nghi về chính bản thân. Do tâm lý hết sức nhạy cảm, Têrêsa càng trở nên bén nhạy bởi tâm hồn thực sự quảng đại của Chị. Thuở còn bé, Chị đã thao thức suốt đêm vì nghĩ rằng Chúa nhân lành không mấy hài lòng về ngày đã qua của Chị. Về sau, sự bén nhạy ấy sẽ chuyển biến thành lo âu và đắn đo do một tước đoạt tình cảm tiềm tàng (kể từ khi mẹ qua đời) và cũng có thể do một khiếm khuyết hoàn toàn về giáo dục giới tính suốt những năm tháng dậy thì. Một khi đã vượt qua khủng hoảng ấy, thì dù muốn dù không, trong Têrêsa vẫn còn ẩn giấu một nỗi lo lắng. Chị đã phải trả một giá quá đắt do nền luân lý đương thời vốn nhìn đâu cũng thấy có tội lỗi nặng nề. Thật là nhẹ nhõm sâu sắc đối với Chị khi cha Pichon, ít lâu sau ngày Chị nhập Cát viện, cam đoan với Chị là chị chưa hề phạm tội trọng. Nhưng ngài còn nói thêm: “Nếu Chúa muốn bỏ rơi con, thì thay vì trở thành một thiên thần nhỏ, con sẽ trở nên một chú quý nhỏ”. “Ôi! Không khó để con tin như vậy”, Têrêsa tiếp lời, “vì con thấy mình yếu đuối và bất toàn”. Lý do khiến chị đau khổ thật lạ lùng:
Ở đây, rõ ràng là không phải chỉ có duy nhất một nỗi lo sợ về tình trạng tội lỗi thực sự, nhưng còn là một kiểu sĩ diện liên quan đến sự trung thành hoàn toàn của Têrêsa trong quá khứ đến mức không có một chút vấy bẩn... Do đó, liên quan đến một sự chăm lo cho bản thân trở nên “trọn vẹn” trước mắt Chúa, không chê vào đâu được, theo kiểu không bao giờ tự làm tổn thương chính mình bằng cách nhìn lại mình... Mối bận tâm thật là tốt đẹp, song có thể che giấu một thứ tự mãn tinh tế... Bất luận thế nào, chúng ta cũng vẫn nhận thấy mình còn xa mới theo được cách xử sự mà Têrêsa sẽ theo đuổi cho đến đỉnh cao sự chín chắn thiêng liêng của Chị, khi mà mỗi cái nhìn lại mình của Chị được hoà tan vào trong cái nhìn đầy tình thương xót vô biên vô tận và đầy ơn thánh hoá của Thiên Chúa: Giá như tôi có phạm tất cả mọi tội ác chăng nữa, tôi vẫn cứ luôn tin tưởng. Tôi cảm thấy tất cả những xúc phạm ấy giống như một giọt nước rơi vào một lò than hồng. *** Têrêsa đã có rất nhiều việc phải làm với vấn đề lỗi phạm. Soeur Agnès say này sẽ cho biết, vào lúc mới bắt đầu đời thánh hiến, nỗi lo sợ xúc phạm Thiên Chúa đã “đầu đọc” cuộc đời Têrêsa. Bởi lẽ, một cách tất yếu, Têrêsa có lỗi phạm, dù là lỗi phạm rất nhỏ. Và não trạng thời kỳ ấy ghi đậm dấu ấn của phái Khắc Kỷ: các lỗi phạm đều bị diễn giải một cách nghiêm khắc và bị quở trách gay gắt. Khi Têrêsa xưng tội với cha Youf rằng Chị thường rất khó chế ngự cơn buồn ngủ trong khi dự thánh lễ, thì vị tuyên uý của đan viện đã đưa ra cho Chị một lời khiển trách nặng nề bằng cách quả quyết là Chị xúc phạm đến Chúa! Các nữ tu khác cũng chẳng may mắn gì hơn... Thậm chí có hôm ngài còn khẳng định với một nữ tu: Con đáng thương của cha ơi, tất cả những gì cha có thể nói với con, đó là con đã đặt một chân xuống hoả ngục rồi và, nếu còn tiếp tục, con sẽ sớm đặt thêm chân còn lại vào nơi ấy. Nhưng Mẹ bề trên, Marie de Gonzague, thì lại an ủi: Yên tâm đi, chính mẹ đây, mẹ cũng đã đặt cả hai chân vào đấy rồi. Nỗi lo lắng của Têrêsa muốn trở nên hoàn toàn thanh sạch không thể chê trách sẽ dần dà dịu đi nhờ ngày càng ý thức được sự phán xét đầy đại lượng từ bi của Thiên Chúa. Điều này xuất hiện rõ ràng trong một bức thư Chị viết ít hôm trước ngày tuyên khấn: Xin chị cũng hãy nói với Ngài là hãy nhận lấy em trong ngày tuyên khấn ngay cả nếu như sau này em còn xúc phạm đến Ngài... Nhưng hình như với em, Giêsu có thể ban ơn để không còn xúc phạm Ngài nữa hoặc chỉ phạm những lầm lỗi không XÚC PHẠM ĐẾN NGÀI đồng thời để hạ mình và làm cho tình yêu mãnh liệt hơn thêm mà thôi. Đúng một năm sau ngày tuyên khấn 8.9.1890, Têrêsa gặp cha Prou trong cuộc tĩnh tâm thường niên. Cha đồng hành nói với Chị rằng những lỗi phạm của Chị “không làm đau lòng” Chúa nhân lành. Têrêsa nói là Chị chưa bao giờ nhận ra khả năng đó. Vị linh mục giúp Chị “căng buồm lướt đi trên những ngọn sóng của niềm tin tưởng và tình yêu”. Tuy sứ điệp đầy sức giải thoát, nhưng Têrêsa dường như không bao giờ dám dấn thân một cách vô tư giữa đại dương tình yêu đầy cảm thông của Thiên Chúa. Mười lăm tháng sau, cha Pichon một lần nữa phải nóng nảy nhắc Chị ổn định lại: Không, không, con không phạm tội trọng đâu. Cha cam đoan như vậy đấy. Không, người ta không thể phạm tội trong mà không biết. Không, sau khi đã được xá giải thì người ta không được nghi ngờ về tình trạng ân sủng của mình. Vậy, con hãy xua tan những lo lắng của mình đi. Chúa muốn như vậy và cha cũng ra lệnh cho con như thế. Hãy tin lời cha: chưa bao giờ, chưa bao giờ, con chưa bao giờ phạm một tội trọng nào cả (Thư ngày 20.1.1893).
Chắc chắn là lúc đầu, Têrêsa đã tin là có thể leo lên ngọn núi thánh thiện, với điều kiện là phải hăng say gắng sức. Chị vẫn chưa hiểu ra rằng, chỉ có hai “cánh tay” thánh hoá của Giêsu mới đưa được Chị lên tới đỉnh. Đúng là hình ảnh những cánh tay thường xuất hiện trong các thư từ của Chị, nhưng rõ ràng là Chị chỉ nhìn đến khả năng Chúa Giêsu bỏ mặc Chị nằm dưới đất. Như vậy cũng chẳng sao, sự nghèo khó của Chị sẽ trở nên một phương tiện gặt hái thành công cho lòng khiêm tốn, và cho cả tình yêu của Chị nữa. Sau này, quan điểm của Chị sẽ thay đổi: Giêsu chắc chắn sẽ nắm lấy Chị và đưa Chị đi; Ngài phải làm như vậy, nếu không, Chị sẽ chẳng bao giờ tới nơi; cứ mặc theo sức riêng của mình, Chị vẫn cứ luôn là một “hạt cát tối tăm”, còn sự thánh thiện thì như “một ngọn núi mà đỉnh của nó mất hút tận trời xanh”. Dần dà theo những năm tháng đầu đời thánh hiến, đang ngày một chín muồi niềm xác tín: “Con không thể tự mình nên thánh được, việc đó quá sức con!” Niềm ước ao ngày Chị tuyên khấn: “Tình yêu bất tận không có giới hạn nào khác ngoài Ngài”, đã trở thành bổ phận, không chỉ trổi vượt, nhưng còn siêu phàm. Têrêsa nhận thấy mình rất thường mắc lỗi, trong những “việc nhỏ”. Lần hồi Chị thấy mình bị đặt vào chân tường, rơi vào một cuộc đối đầu không lối thoát với sự bất lực của bản thân. Và vị Thiên Chúa yêu dấu luôn trở nên khả ái hơn. Bấy giờ, lý tưởng về tình yêu có qua có lại càng lúc càng trở thành cao quý hơn. Làm những gì Thiên Chúa đã làm cho chúng ta, làm sao để đạt được điều đó bây giờ? Tranh đua với Ngài như thế nào đây? Làm thế nào để đáp trả tương xứng? Trước mắt Chị, Thiên Chúa lớn nhanh hơn sức mạnh gia tăng trong trái tim Chị! Càng yêu mến, cầu nguyện, suy niệm Kinh Thánh và thánh Gioan Thánh Giá, Têrêsa càng cảm thấy một cách mãnh liệt giá trị vô song của Đấng Chí Thánh, của Bản Thể Tuyệt Đối là Tình Yêu vô tư... Và cái nhìn ấy gợi lên cho Chị, ở một mức cao, cảm giác về sự kém cỏi của mình. Giấc mơ đẹp đẽ về tình yêu của Chị - bạn đọc hãy đọc là: tình yêu riêng của Chị - sẽ phải bị phá huỷ và, trên đống đổ nát ấy, Thiên Chúa sẽ thực hiện giấc mơ của Ngài dành cho Têrêsa. Cho đến bây giờ, sự yếu kém của Têrêsa là một níu chân, một trở ngại đối với Chị, cần phải vượt qua. Nhưng, một cách nhẹ nhàng, Chị học được cách dùng con đường phó thác. Dưới sức nặng của chương trình quá tải, ý muốn thực hiện tình yêu hoàn thiện càng lùi sâu về sau hơn để nhường chỗ cho sáng kiến của Thiên Chúa. Tương quan “con-Ngài” dần dà phải chịu lấy một cuộc đảo ngược, bằng cách trở thành “Ngài-con”. Thái độ “con muốn làm điều đó và con sẽ làm cho Ngài” dần dần dịu xuống và trở nên đầy tin tưởng hơn: “Điều con không thể làm được, thì Ngài sẽ làm cho con”. Không phải là không đau khổ và không khủng hoảng mà Têrêsa đã trở nên nghèo khó. Nhưng, nhờ vậy, Chị học được cách buông ra. Sự nên thánh sẽ không còn là thành tích riêng của Chị nữa, nhưng là một ơn ban của Chúa. Rốt cuộc Chị sẽ học được cách tạ ơn Thiên Chúa, cách thánh hoá duy nhất. Điều này sẽ là bước ngoặt lớn vào cuối năm 1894! Nhưng chúng ta đang đi trước các biến cố; còn phải nhìn gần hơn nữa những gì đã xảy ra trong hai năm 1893 và 1894.
Tháng 2 năm 1893 - Têrêsa được hai mươi tuổi và gần năm năm sống đời thánh hiến - tình hình cộng đoàn thay đổi rõ ràng: Soeur Agnès thay Mẹ Marie de Gonzague làm bề trên! Một thời cai quản độc đoán, đôi lúc mang hơi hướng “mẹ ghẻ con chồng”, nhường chỗ cho sự dẫn dắt của “người mẹ thứ hai” của Têrêsa! Chị viết: Bản tính con vốn hay sợ đến nỗi làm con phải chùn bước; nhưng với tình yêu thì con không chỉ tiến tới mà con còn bay lên nữa... Ôi Mẹ yêu dấu! Nhất là từ ngày hồng phúc Mẹ được đắc cử, con cất cánh bay vào những con đường tình yêu... Ngày ấy, chị Pauline đã trở thành Giêsu sống động của con... Hơn nữa, kể từ ngày 10 tháng 5 năm 1892, ông Martin đã trở về lại với gia đình, bị bại liệt và dở điên dở khùng. Nếu thời gian đã phần nào đó làm cho vết thương liền sẹo, thì nỗi đau lòng và mối tủi nhục “Caen” giờ đây cũng trôi qua. Bầu khí tâm lý mà Têrêsa đang sống, do đó, đã trở nên ôn hoà hơn nhiều. Trong lúc nỗi đau khổ bên ngoài giảm xuống và nhận thức về sự bất lực của bản thân tăng lên, thì ước mơ của Chị về sự bé mọn - nhỏ bé như một hạt cát - thay đổi bản chất. Lúc này, rõ ràng Têrêsa ít có xu hướng hạ mình xuống trước mắt người khác, nhưng có ý thức muốn trở nên nghèo khó hơn nữa trước con mắt của chính mình. Không còn nhắm vào bất cứ điều gì làm cho mình trở nên vĩ đại hơn trước mắt mình nữa! Không còn muốn làm chủ sở hữu trong bất cứ địa hạt nào, ngay cả trong tình yêu riêng của mình! Sau đợt tĩnh tâm riêng vào năm 1892, Têrêsa viết cho Céline mấy dòng rất ý nghĩa, trong đó Chị bày tỏ những trực giác mới đang dần chín muồi: Giêsu bảo chúng ta - như bảo Giakêu - hãy xuống... Thế thì phải xuống đâu đây?... Chúng ta hãy nên nghèo khốn đến độ không có nơi gối đầu. Chị Céline yêu dấu, đó là điều mà Giêsu đã thực hiện trong lòng em trong thời gian em tĩnh tâm... Chị hiểu là ngài hành động ở trong tâm hồn mà. Vả chăng bên ngoài chẳng phải Ngài đã làm cho tiêu tán hết cả, qua cơn thử thách vô vàn đau đớn ở Caen đó sao?... Trong Bố yêu dấu của chúng ta, Giêsu đã đánh động đến phần bên ngoài hết sức nhạy cảm của con tim chúng ta, giờ thì hãy để Ngài làm điều đó, Ngài biết cách hoàn tất công việc của mình trong tâm hồn chúng ta... Điều mà Giêsu muốn là chúng ta hãy đón nhận Ngài vào lòng chúng ta. Dĩ nhiên, lòng chúng ta đang rảnh rang và không dành chỗ cho các thụ tạo, nhưng hỡi ôi! Em cảm thấy tâm hồn em không trống chỗ hoàn toàn và vì thế mà Giêsu bảo em hãy bước xuống. Niềm ao ước bị truất hữu và khát khao được tan biến đi, giờ đây đều tập trung ở mức thâm sâu và riêng tư nhất, việc nội tâm hoá vốn là hiện tượng bình thường nơi một người quảng đại tìm kiếm Thiên Chúa: theo năm tháng, người ấy hiểu rõ hơn sự kiêu ngạo và tính tự ái của họ nhạy bén và tinh vi đến độ nào. Trong những năm tháng vừa qua, 1888 đến 1892, Têrêsa đã chuyên tâm đặc biệt vào việc sống khiêm nhường, tìm cách đi qua mà không để một ai nhìn thấy, ngoài một mình Giêsu và nhờ đó mà trao hiến cho Ngài nhiều tình yêu hơn và tình yêu tinh tuyền hơn. Hai năm 1893-1894, trái lại, có thể được xác định như cuộc khám phá sự nghèo khó thiêng liêng: Têrêsa càng lúc càng phó thác vào sự ưu tiên hành động của Thiên Chúa nơi Chị và chờ Thiên Chúa đổ đầy sự bất lực của Chị bằng tình yêu của Ngài, bằng sức mạnh và sự đại lượng trong tình yêu của Ngài. *** Ngày 6 tháng 7 năm 1893, lần đầu tiên xuất hiện trong các bản viết của Chị một từ vựng mới: “phó thác”. Đã hẳn, Têrêsa đã biết đến từ ngữ ấy từ lâu, và, trong những khó khăn bao quanh việc nhập dòng của Chị, chắc chắn những người chị ruột đã động viên cô em gái về sự phó thác. Nhưng quả thực Têrêsa đã không đưa từ ngữ ấy vào trong kho từ vựng của mình, nó đã không trở nên một sở hữu về mặt tâm lý, vẫn chưa thực sự được chấp nhận như một điểm trong chương trình. Nếu đem so sánh, chẳng hạn, sự phó thác của Têrêsa lúc này với sự phó thác vào năm 1897, năm Chị qua đời, chúng ta sẽ thấy khác biết bao! Năm 1887, sự phó thác phát xuất từ thử thách; mười năm sau, lại phát xuất từ một nhận thức tích cực về Thiên Chúa, như Đấng lôi kéo Chị một cách đầy lòng nhân hậu về với Ngài. Năm 1887, sự phó thác được kèm theo với nỗi buồn phiền; về sau, nó trở thành nguồn vui sâu sắc. Trong năm 1887, sự phó thác bị giới hạn bởi những khó khăn cụ thể cần vượt thắng; về sau, nó trở thành một phong cách sống bao quát tất cả. Thế nhưng, sự phó thác mới xuất hiện vào năm 1893, và lần đầu tiên được gọi tên trong các bản viết của Chị, gần gũi với giai đoạn chung cuộc hơn là thời kỳ mở đầu. Chúng ta hãy nhường lời cho Têrêsa nói về những triển vọng mới của Chị. Ngày 6 tháng 7 năm 1893, Chị viết cho Céline, người mà Chị tin tưởng nhất: Công trạng không ở chỗ làm nhiều hoặc cho nhiều, song đúng hơn là nhận, là yêu mến nhiều... Hãy để Ngài nhận và cho đi tất cả những gì Ngài muốn, sự hoàn thiện là ở chỗ thực thi ý Ngài. Chúng ta đang xa với cách nhìn vào năm 1889 biết chừng nào! Sự thánh thiện lúc bấy giờ là phải “chinh phục bằng mũi gươm”, bằng con đường phần rỗi duy nhất của việc “chịu đau khổ vì mọi sự!” Lý tưởng của Têrêsa vẫn luôn là “yêu mến nhiều”, nhưng hoạt động cá nhân của Chị lại được đặt dưới dấu chỉ phó thác vào ý định của Thiên Chúa, bất kể ý định ấy được tỏ ra như thế nào, ngay cả khi đi ngược với chương trình cũ là “chịu đau khổ nhiều!” Và tình yêu của chị xem ra ít quan tâm đến chỗ đứng của mình! Thật dễ làm cho Giêsu hài lòng, dễ làm cho trái tim Ngài ngây ngất biết mấy, chỉ việc yêu mến không cần phải tự soi mình, không quá bận tâm đến những khuyết điểm của chính bản thân... Bức thư được tiếp tục với cùng một mạch văn như thế, đào sâu càng lúc càng sâu hơn. Têrêsa đã không trở nên hèn nhát hơn đối với những khiếm khuyết của mình, nhưng Giêsu dạy cho Chị biết rút ra lợi ích, từ điều thiện và điều ác mà nó gặp thấy trong bản thân. “Nhiệm cục cứu độ” của Chị mang một diện mạo khác: Ngài dạy cho nó biết dành dụm tình yêu hay đúng hơn, không phải nó mà chính Ngài dành dụm cho nó mà không nói cho nó biết Ngài làm như thế bằng cách nào, bởi chưng đó là công việc của Ngài chứ không phải của Têrêsa, điều mà nó quan tâm chính là hãy tư phó thác, hãy trao đi tất cả không chừa lại chút gì, ngay cả sự vui thú biết là đã dành dụm được bao nhiêu cũng không! Không có chỗ nào Têrêsa khuyến khích sự uể oải trong tình yêu. Chị không khuyên dùng một giải pháp dễ dãi, không tuyên bố một “ân huệ rẻ tiền” (Bonhoeffer). Nhưng, một cách dứt khoát, Chị bắt đầy hy vọng nhiều hơn từ Thiên Chúa. Chính vì thế mà Chị tương đối hoá sự yếu đuối của mình hơn. Chị trở nên bình tâm hơn với sự bất lực của mình: người ta làm tất cả những gì có thể, nhưng nhìn nhận rằng Chúa thật vĩ đại và đủ nhân lành để bổ khuyết những nhược điểm của chúng ta và làm cho sức mạnh của Ngài chiến thắng trong sự mỏng giòn của chúng ta. Từ nay, thái độ sẽ được mở ra hơn. Trong bức thư đang đọc, chúng ta thấy các dòng chữ, trước đó dùng nhiều dấu chấm và gần như không thể nhận ra, thì bây giờ đạt đến độ rõ ràng và rất mạch lạc: Người dẫn dắt em là Giêsu không dạy em dựa vào những hành vi của em (giống như lúc chuẩn bị rước lễ lần đầu - nhận định thêm của tác giả: Cha Conrad de Meester, không có trong nguyên văn bức thư của Têrêsa); Ngài dạy em thực hiện mọi sự bằng tình yêu, không từ chối Ngài điều gì, biết bằng lòng khi Ngài ban cho một cơ hội để chứng tỏ với Ngài là em yêu Ngài, nhưng (và đây chính là ý thức sâu xa mới! - nhận định thêm của Cha Conrad de Meester) là trong sự bình an, trong sự phó thác, chính Giêsu làm mọi sự, còn em thì chẳng làm gì cả. Cô con gái của hai nhà kinh doanh đã xếp cất cuốn sổ kế toán của mình! “Chính Giêsu làm mọi sự, còn em thì chẳng làm gì cả”. Đó là những lời do chính Têrêsa nói ra, quan điểm mới trong việc Chị tìm kiếm sự thánh thiện! Ý định nên thánh riêng của Chị chịu đầu hàng trên khắp mặt trận. Chị pha lẫn một sự hài hước quảng đại vào trong nhận xét về sự bất lực của bản thân và những nỗ lực riêng của Chị không còn là tuyệt đối nữa. Có thể chị sẽ cho là em luôn làm những gì em nói, - ít lâu sau Têrêsa viết cho Céline - Ôi không! không phải khi nào em cũng trung thành cả đâu, nhưng chẳng bao giờ em nản lòng, em phó thác mình trong tay Giêsu. Giọt sương càng đắm sâu trong đài hoa của bông hoa đồng nội thì càng gặp thấy lại ở đó tất cả những gì mà nó đã đánh mất và còn nhiều hơn thế (Dc 2,1). Mọi xu hướng đạt thành tích đều biến mất, tất cả tham vọng thu tích các kho tàng đều nhằm đến: “Không phải để làm vương miện cho em, hay để đạt được công trạng, nhưng chính là để làm đẹp lòng Giêsu”.
Chúng ta nên khẩn trương nêu lên một vấn đề. Tất cả những điều trên, phải chăng đã là “con đường bé mọn” lừng danh mà Têrêsa rất thường nói đến? Có gì hơn trong “con đường thơ ấu thiêng liêng”, trong thái độ con-của-Cha mà Têrêsa sắp chấp nhận cùng với nhiều hệ quả cho đến tận cốt lõi của sự nên thánh? Quả thật, chúng ta vừa nhận xét về sự nhấn mạnh một cách thực tiễn của Têrêsa, thuở còn thơ ấu, về sự trung thành với những “việc nhỏ”. Công trạng và sự tiến bộ: kể từ năm 1893, Têrêsa không còn trông chờ những thứ ấy từ nơi chính mình nữa, nhưng từ Thiên Chúa. Ý thức về sự bất lực của bản thân đã trở nên sâu sắc. Từ đó về sau, Têrêsa ít tìm cách tự biến đổi sự yếu đuối của Chị thành tình yêu, Chị thích để Chúa hành động hơn. Chị nhận ra việc dành ưu tiên cho tình yêu Thiên Chúa, không chỉ là nguồn mạch cho những hành vi yêu mến của chúng ta, nhưng còn làm cho các hành vi ấy nên hoàn thiện. Tất cả điều đó vẫn chưa phải là con đường thơ ấu thiêng liêng ư? Tất nhiên, tất cả điều ấy, có nghĩa là đã sống như con-của-Cha. Và toàn bộ những yếu tố ấy cũng như các thái độ đều sẽ được lồng vào quan điểm cuối cùng của Têrêsa. Suốt đời mình, Chị thu gom các vật liệu sẽ được dùng để xây nên bản tổng hợp của Chị. Tuy nhiên, cần phải nói rằng tất cả điều ấy vẫn chưa phải là “con đường bé mọn” đầy đủ của Têrêsa. Chúng ta phải xem xét Têrêsa một cách nghiêm túc khi Chị có ý định, đến một lúc cụ thể, khám phá một con đường mới. Trong khi tất cả các viên đá được tập trung ở công trường - ở đây, không định nó về tất cả các trường hợp - thì đống đá ấy cùng vẫn chưa làm nên ngôi nhà. Têrêsa phải cấu trúc lại lần cuối cùng quan điểm của mình về sự thánh thiện, xác định một thang bậc giá trị sau cùng. Năm 1893, Chị chỉ còn cách một bước với tổng hợp cuối cùng của Chị: “con đường bé mọn” của Chị. Nụ hoa đang chuẩn bị bừng nở. Chúng ta hãy nói bằng chính thuật ngữ của Chị vào tháng 7 năm 1893: Lúc bấy giờ Têrêsa đã nhận ra “trò chơi” của Chúa trong những bước đi của Chị tiến đến với sự nên thánh, nhưng không vì thế mà Chị hiểu được “Chúa hành động bằng cách nào để mang lại tình yêu của Ngài”. Vào lúc Chị khám phá ra “con đường bé mọn” của mình, Chúa sẽ mạc khải rõ ràng cho Chị cách mà ngài thánh hoá. Bấy giờ Têrêsa mới có thể hoàn toàn nhập cuộc chơi với Chúa. Lúc đó Chị sẽ nhìn thấy trước mắt mình con đường được soi sáng hoàn toàn. Và Chị có thể chạy nhanh đến mức nào trên một con đường đã được soi tỏ! Trước đó, Têrêsa đã bước đi như một người mù, cùng với tất cả những do dự, trì hoãn, những sai lầm. Giờ thì Chị sắp bay lên! Theo những gì được Têrêsa đích thân giải thích, chính Chúa mà cuộc khám phá của Chị hướng đến. Đây sẽ là cuộc khám phá Lòng Thương Xót của Ngài chính xác là Lòng Thương Xót. Dĩ nhiên, trước đó Chị cũng đã ý thức được lòng nhân lành hay cứu giúp của Ngài. Giờ đây Chị học được cách nhận ra rằng tình yêu của Thiên Chúa không chỉ hiện thực, hàng đầu và trung thành, nhưng còn là một tình yêu hướng xuống; tìm kiếm những gì nhỏ bé, vì nó nhỏ bé; và đẻ đổ đầy cho nó những ơn ích. Têrêsa khám phá lòng thương xót của Thiên Chúa như nguồn mạch từ đó phát sinh sự sống của Chị. Trong tình thương xót của Chúa, giờ đây Têrêsa nhìn thấy rõ ràng bí ẩn về ơn cứu chuộc và sự thánh hoá của Ngài. Việc chấp nhận những giới hạn của Chị vẫn hiện diện trong tổng hợp cuối cùng ấy; theo nghĩa nào đó, sự mở ra với Thiên Chúa khởi đi từ đấy. Nhưng sự bé mọn, thay vì chủ yếu là khiêm nhượng, thì từ nay về sau, lại chủ yếu là niềm tin tưởng. Trong niềm tin tưởng đầy khiêm tốn, sự bất lực được mang đến trước mặt Chúa và, đối với người thú nhận nó ra và ký thác cho lòng thương xót của Chúa, trở nên như một lời hứa can thiệp của Ngài.
Từ lâu, Têrêsa đã lặng lẽ và bình an trải qua sự sa sút sức khoẻ cuối cùng của bố, vào mùa xuân năm 1894. Được bao bọc bởi những chăm sóc tận tình của Céline và Léonie, ông Martin qua đời vào ngày 29 tháng 7. Ông đã tìm được Nơi Cư Ngụ cuối cùng của mình và Têrêsa cảm thấy ông ở rất gần với Chị. Cái chết của Bố không gây cho em tác động của một cái chết mà là một sự sống đích thực. Em đang gặp lại Bố sau 6 năm vắng bóng, em cảm thấy Bố ở quanh em, đang nhìn em và che chở cho em... Ngày 14 tháng 9, đến lượt Céline, vì tình yêu Giêsu, từ bỏ mọi sự để bước vào cộng đoàn Cát Minh Lisieux. Bốn chị em ruột trong một cộng đoàn nhỏ... Trường hợp duy nhất trong lịch sử Cát Minh! Têrêsa không phản đối và niềm vui của Chị thật lớn lao! Chị Céline yêu dấu của em, đừng sợ gì cả, Giêsu sẽ không đánh lừa chị đâu, nếu chị biết được tính nhu mì, sự ngây thơ trong trắng của chị kiến Ngài ngây ngất biết bao!... Phần em, em thấy lòng mình bị vò xé... Em đau lòng về chị đến nỗi hy vọng mình đừng là một trở ngại đối với ơn gọi của chị; tình cảm của chị em mình chẳng phải được tinh luyện như vàng ròng trong lò thử thách đó sao?... Trong số hành trang Céline mang theo, có chiếc máy ảnh mà nhờ nó chúng ta có nhiều bức chụp Têrêsa: Mẹ Agnès tỏ ra khá thoáng với kỹ thuật hiện đại ấy! Céline còn mang theo một cuốn sổ nhỏ mà về sau sẽ giữ một vai trò quan trọng trong cuộc đời Têrêsa. Nó chứa một tuyển tập những bản văn hay nhất trong Cựu Ước. Các nữ đan sĩ trẻ Cát Minh vốn không được phép đọc hết cuốn Cựu Ước đầy dẫy những chuyện “kỳ cục” ở trong đó, và Têrêsa cũng chỉ được tiếp cận với các bản văn phụng vụ cùng những sách thiêng liêng khác. Như vậy, cuốn sổ nhỏ ấy đúng là một món dự trữ được Céline mang lại và Têrêsa, độc giả say mê Kinh Thánh, chiếm lấy nó mà lòng vui rối rít! Và đột nhiên, mở ra một “con đường hoàn toàn mới mẻ” Ít lâu sau, và chắc chắn là trước cuối năm 1894, Têrêsa thực hiện cuộc khám phá tài tình của mình bằng cách nghiền ngẫm cuốn sổ nhỏ: Chị tìm thấy trong đó “con đường bé mọn” nổi tiếng của mình! Không cần phải thực hiện một phân tích chú giải khách quan các bản văn trong cuốn sổ, một câu trả lời của Chúa sẽ được gợi lên trong Chị trong lúc Chị vừa đọc vừa tìm kiếm: Têrêsa, trước hết mắc nợ việc khám phá của mình nơi một soi sáng riêng của Chúa Thánh Thần, giúp Chị “hiểu” các bản văn ấy “bằng trái tim” (Mt 13,15). Bản văn đối với Chị là chiếc thấu kính chiếu rọi toàn bộ kho tàng đức tin! Trong thời khắc hồng ân ấy, xuyên qua bề mặt vô tri của các bản văn, Têrêsa nhận ra rõ ràng những dòng sức mạnh của mạc khải. Chị trải nghiệm được cách mà những dòng chảy nền tảng của sự sống thần linh đổ đầy cho con sống của sự sống nơi Chị. Chính là trong một cách đọc thực sự “thiêng liêng” mà Thiên Chúa truyền đạt cho Chị những sứ điệp riêng về sự sống. Mấy tháng trước khi qua đời, Chị sẽ viết kể lại eurêka, “Tôi tìm được rồi!” của Chị. Lúc này bản thảo sẽ mang những dấu vết của một biên soạn đã được làm cho phong phú so với dữ kiện gốc: đã hai năm rưỡi trôi qua kia! Câu chuyện của Chị quá dài nên không thể thuật lại hết ở đây được. Chúng ta sẽ nêu ra năm điểm chính giúp người ta dễ phân biệt. 1. Trước hết Têrêsa nói về một ước ao cũ, mà chúng ta đã biết rõ: “Con luôn ước ao làm một vị thánh”. “Con đường bé mọn” mới (biểu thức của chính Têrêsa) mà Chị sắp khám phá, ngay từ đầu đã mở ra cho thấy tính cách thực dụng của nó. Tự nó không phải là một cứu cánh; nó là một giai đoạn chuyển tiếp, trung gian, dẫn đến nơi khác. Mục đích, chính là sự thánh thiện, sự bừng nở trọn vẹn của tình yêu. 2. Nhưng ai có thể làm cho tình yêu ấy bừng nở? Tự bản thân, Têrêsa không thể làm được điều đó. Song song với niềm ước ao cũ của Chị, đây là nhận định cũ về sự bất lực của Chị. Con lúc nào cũng muốn làm một vị thánh, nhưng hỡi ôi! con luôn nhận thấy, khi so sánh mình với các thánh, giữa các ngài và con có một sự khác biệt như một ngọn núi mà đỉnh của nó cao vút lên tận trời so với hạt cát tối tăm. Cả cuộc đời Chị, chúng ta nhìn thấy niềm ước ao chiến đấu với sự bất lực, cuộc chiến đấu tuyệt vọng của Giacóp với Giavê (St 32)! Trước một tuyên bố như vậy của Têrêsa, tất nhiên người ta có thể biện luận dựa trên những dữ kiện khách quan và tương đối hoá sự thánh thiện rất lớn của những người khác, cũng như đề cao việc đánh giá bản thân rất khiêm tốn của Têrêsa. Nhưng, ở đây, việc đó chẳng ích gì! Chỉ tình cảm chủ quan, riêng tư của Têrêsa mới quan trọng. Chính là từ đó mà Chị trù định con đường của mình (Hay nói chính xác hơn: Thiên Chúa soi sáng cho những ai khiêm nhường). Và do liên quan đến một vấn đề sống còn mà trong đó nhiều tín hữu, từng bước một, nhận ra kinh nghiệm riêng của họ, thì câu trả lời của vị nữ thánh Lisieux đã có thể tìm được tiếng vang hết sức phổ quát trong Hội Thánh. 3. Tiếp đến, chúng ta nhìn thấy phản xạ của một người từ lâu đã sống dưới ánh sáng mạc khải của Thiên Chúa và dần dà hiểu rõ được cách Thiên Chúa dùng để dẫn dắt chúng ta: một niềm xác tín sâu xa không cho người ấy nhượng bộ trước sự rối loạn và rủn chí nản lòng. Thay vì làm cho mình nản lòng, con tự bảo mình: Chúa nhân lành không thể gợi lên những ước muốn không thể thực hiện, vậy, bất chấp sự bé mọn của mình, con vẫn khát khao sự nên thánh. Ít có khả năng là, vào lúc diễn ra cuộc khám phá, Têrêsa đã lý luận rành mạch như thế. Chắc chắn đó là một trực giác bất ngờ và đầy tính giải thoát, tương tự như hạt giống, rơi vào nơi đất tốt đã được dọn sẵn từ lâu. Niềm xác tín sống động trong Têrêsa đã trở nên bất biến. Tự mình, tôi sẽ chẳng bao giờ đạt được, nhưng lòng tôi lại cấm tôi không được từ bỏ! Hãy nghe những lời của chính Chị: Tự lớn lên, thật không thể, con thế nào thì con chịu thế ấy cùng với những bất toàn của con. Nhưng con muốn tìm kiếm phương thế để đi về trời (cụ thể là Têrêsa muốn nói: để lên đến đỉnh của sự thánh thiện) bằng một con đường nhỏ rất thẳng, rất ngắn, một con đường nhỏ hoàn toàn mới. 4. Ý thức được sự bé mọn không thể tránh khỏi của bản thân vốn đã thử hết mọi cách, hoàn toàn tin vào sự bất lực của tình yêu của mình, Têrêsa tiếp cận với Kinh Thánh, với chính Thiên Chúa, để tìm một giải pháp. Sự phó thác vào năm 1893 không đủ sâu xa và sáng tỏ để làm cho Chị hoàn toàn hài lòng. Mọi sự vẫn chưa tiến triển đủ nhanh và chắc chắn. Chính vì thế mà lúc này Têrêsa đang tìm kiếm một “chiếc thang máy”, đi thẳng ngay lên, một thang máy thiêng liêng hướng đến sự thánh thiện cao nhất! “Thang máy”, chính là hình ảnh được Chị sử dụng, đúng là một sự mới mẻ! Trong chuyến đi Rôma, Têrêsa đã nhìn thấy những chiếc thang máy trong các khách sạn mà Chị ngụ lại; nếu vào thời điểm hiện nay, có thể Chị sẽ nói đến thang cuốn, cáp treo hoặc tàu không gian. Chị dùng chiếc thang máy, chẳng cần cố gắng cũng vẫn đi lên được, để thay vào chiếc “cầu thang” mà người ta phải cắm cúi leo lên. Bằng cầu thang, Chị đã chẳng thể lên đến nơi... 5. Cuối cùng Têrêsa sẽ tìm ra câu trả lời giải thoát! Chị đặc biệt xúc động khi đọc trong cuốn tập nhỏ bản văn Châm Ngôn 9,4: “Hỡi ai thật bé nhỏ, hãy lại đây”. Bé nhỏ... Têrêsa cảm thấm ình được gọi! Sự nhỏ bé: hạt cát nhỏ đã khao khát điều ấy từ lâu, theo nghĩa khiêm nhường. Nhưng sự bé nhỏ trong việc nên thánh, cũng chính là vấn đề mà Chị vật lộn với nó bấy lâu nay. Và giờ đây, trong sự bé nhỏ của mình, Chị có thể đến gần Chúa, Ngài muốn nói với Chị điều gì đó... Đầy tin tưởng, Têrêsa quay lại với Ngài, nghĩa là với một con tim đầy niềm cậy trông và một cách hết sức ân cần, Chị tiếp tục cuộc tìm kiếm của mình liên quan đến những gì Chúa vừa mạc khải về chính Ngài và việc Chị leo lên đỉnh núi thánh thiện. Và Chị đọc thấy điều gì trong những trang xa hơn? Chị tìm thấy ở đấy một viên kim cương lấp lánh, như chưa bao giờ Chị thấy lấp lánh đến vậy, Isaia 66,12-13: “Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy; sẽ bồng ẵm các ngươi bên hông, nâng niu các ngươi trên đầu gối”. Chúng ta vừa trích dẫn các đoạn văn đúng theo ngữ cảnh văn chương mà qua đó Têrêsa đã tìm thấy trong cuốn tập của Chị. Bản Thánh Kinh Giêrusalem dịch: “Ai là người đơn sơ? Hãy qua đây”. Bản dịch Kinh Thánh Đại Kết là: “Có người nào đơn sơ không? Hãy đến đây!” Biểu thức “thật bé nhỏ” cũng như ngữ điệu riêng “với Ta”, không có trong ngữ cảnh. Trong hai phiên bản ấy, hẳn Têrêsa có thể đã lướt qua bản văn mà không nhận ra ở đó ánh sáng mà Chị đã thấy toả sáng một cách hiệu quả. Thường thì Thiên Chúa đến với chúng ta qua những yếu tố ngẫu nhiên! Trong một cách dịch khác, hẳn Têrêsa đã phải chờ mới thực hiện cuộc khám phá của Chị... Hoặc tiến hành khám phá ở nơi khác... Bởi vì thời gian đã chín muồi và, một ngày kia, Têrêsa sẽ nhận được những gì mà lúc này Chị hiểu được! Bằng cách khác nhau, Thiên Chúa sẽ mạc khải cùng một sứ điệp. Vậy, ánh sáng phát ra từ bản văn Isaia quả là nhanh như chớp! Ôi! Chưa bao giờ có những lời âu yếm hơn, du dương hơn làm cho linh hồn con hoan hỉ đến vậy, chiếc thang máy đưa con lên tận trời chính là cánh tay Chúa, Ôi Giêsu! Vậy là lối nói biểu tượng một lần nữa được đưa ra: cánh tay Giêsu. Têrêsa qua đó cho thấy chính Thiên Chúa, chứ không phải con người, sẽ dẫn đưa Chị đến với sự thánh thiện. Với giá nào? Vì lẽ đó, con không cần phải lớn lên, trái lại, còn phải luôn nhỏ bé, càng lúc càng nhỏ bé hơn nữa. Cho đến khi Chị “hoàn toàn” nhỏ bé! Bấy giờ Chúa sẽ hoàn toàn cho Chị mọi sự. “Như bà mẹ cho đứa con của mình!” Cuối cùng Têrêsa đã hiểu! Rốt cuộc Chị đã nắm được rằng, bổn phận tiên quyết của Chị là hãy đón nhận, hoàn toàn ân cần, mở rộng mình ra với tình yêu cứu độ đầy tha thiết và bổ dưỡng từ trái tim đầy tình mẫu tử của Thiên Chúa! Têrêsa không được tự cứu chính mình nữa! Chị chấp nhận để mình được cứu, được thánh hoá và vì thế mà hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa đang dành cho chúng ta tình yêu nhưng không và tràn trề của Ngài. Từ trong tâm hồn Chị, vang lên bài ca chúc tụng: Ôi lạy Chúa, Chúa đã vượt quá mong đợi của con và con muốn hát mừng những xót thương của Chúa *** Chúng ta hãy đào sâu thêm nội dung của câu chuyện cất chứa nhiều hình ảnh ấy. Trong đó Thiên Chúa được mô tả là rất ân cần đối với con người, mời gọi họ mở lòng ra với tình âu yếm mạnh mẽ và nhưng không của Ngài. Nếu, trong đức tin và lòng biết ơn, con người nhượng bộ và tiến đến gần, thì Chúa chạm đến họ bằng tình yêu sáng tạo và nối kết của Ngài, làm cho họ nên quý giá và khả ái hơn, giống với chính Thiên Chúa hơn. Ân sủng của Thần Khí, “nước hằng sống” (x. Ga 4,10-14) thường làm cho tươi mới và làm cho sống động, thấm vào họ. “Ta sẽ ẵm bồng ngươi” - như bà mẹ ẵm bồng con mình bằng tình yêu! Tại tâm điểm mô tả của Têrêsa sáng bừng lên thực tại về “lòng thương xót” của Thiên Chúa, Đấng có một con tim (“cor”) đối với những gì là “cùng khốn”, Thiên Chúa nghiêng mình xuống với những gì bé mọn và bần cùng. Về phía mình, con người trưởng thành sẽ có can đảm để ra trước mặt Chúa trong toàn bộ sự nghèo khó thiêng liêng của họ, không miễn cưỡng cũng chẳng sợ hãi, nhưng với một niềm tin tưởng hoàn toàn. Để được đứng trong hàng ngũ những kẻ được mời gọi - hoặc đúng hơn, mọi người đều được mời gọi, mở mình ra với ơn ban của Chúa, con người hãy nhìn nhận mình “hoàn toàn nhỏ bé”, trong sự khiêm tốn phát sinh từ chỗ người ta thế nào thì thực sự xem mình như vậy và như là kẻ đang được Thiên Chúa yêu thương. Và trong lúc tiếp tục chuyển động, người ta sẽ phải “đến” với Thiên Chúa bằng một phó thác mù loà, vì sự mù loà là sự sáng suốt nhất trước vị Thiên Chúa và là vị Cha như các ngôn sứ và Chúa Con đã mạc khải cho chúng ta. Đó là cốt lõi của những gì Têrêsa đã nắm bắt bằng trực giác trong cuộc khám phá “con đường bé mọn” của Chị. Chị gọi con đường ấy là “hoàn toàn mới mẻ” bởi vì, sau một hành trình dài và khó nhọc băng qua khu rừng tăm tối và đám cây nhỏ, đột nhiên trước mắt Chị là một con đường thẳng tắp và sáng rõ mà Chị nhanh chóng bước vào một cách dứt khoát, không sợ nhầm lẫn. Hoàn toàn mới mẻ cũng bởi vì, bắc ngang qua trên thời kỳ của phái Khắc Kỷ, con đường nhỏ ấy trực tiếp nối liền với giữa, Đấng đã nói: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Ngài đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 1,18-19). Vào lúc bắt đầu cuộc khám phá, trực giác của Têrêsa vẫn chỉ mới phôi thai. Trong những năm tháng sau đó, Chị sẽ phải đồng hoá hoàn toàn những cách nhìn mới mẻ và giải phóng của mình, họ cách vận dụng, trong đời sống cụ thể, những phản xạ bằng lòng tin tưởng tuyệt đối, và phát biểu một cách ngôn sứ thông điệp Chị cho người khác. *** Giờ thì cuộc sống thay đổi nhiều quá! Mọi lo lắng của Têrêsa dành cho bản thân đã không còn. Cuộc đi tìm sự nên thánh của Chị cơ bản đã được giải phóng. Chính Chúa đang hướng đến với Chị! Đích thân Ngài đến gặp Chị! Con đường đang rộng mở và sáng rõ. Có một bài ca trong tâm hồn Têrêsa: Giêsu sẽ hoàn thiện cuộc đời tôi, Giêsu sẽ làm cho tôi nên thánh. Tôi sẽ làm hết sức, tôi sẽ làm tất cả những gì có thể, nhưng không phải tôi, mà chính Chúa sẽ làm trong tôi và bởi tôi... Và nếu tôi khiếm khuyết, Ngài sẽ bổ sung. Có thể từ chính cuộc sống này, từng bước một, hoặc, trong một biểu hiện hồng ân mạnh mẽ - như đêm Giáng Sinh xưa. Hoặc vào lúc gặp gỡ chung cuộc giữa hai chúng tôi, khi mà tôi sẽ sống một cách viên mãn... Têrêsa biết rõ điều đó với một niềm xác tín mù quáng: đó là con đường của tôi. Con đường cuối cùng mà tôi sẽ theo! Nếu tôi bước đi một cách hợp lý, con đường ấy sẽ đến nơi mà Chúa muốn thấy nó đến: trong sự dự phần sung mãn vào sự sống của chính Chúa mà Chúa đã khẳng định với mỗi con người. Chúa sẽ trao cho tôi tình yêu mà tôi không thể một mình đạt đến, và Ngài sẽ ban cho tình yêu ấy ngôn ngữ và những dấu chỉ của tình yêu, nhất là dấu chỉ của niềm tin tưởng. Tin Mừng thuật lại rằng một hôm, người ta đưa đến với Chúa Giêsu các trẻ nhỏ để Ngài đặt tay trên chúng. Các môn đệ la rầy chúng: Bọn trẻ con! Chúa đang có nhiều bổn phận quan trọng hơn nhiều! Và họ xua đuổi các em một cách thô bạo. Đến lượt Chúa Giêsu bực mình nói với họ: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (Mc 10,13-15). Chính là trong bối cảnh Tin Mừng ấy mà Têrêsa tự quyết định mình hãy “luôn” bé nhỏ. Bấy giờ Chị mới có thể, một cách thanh sạch và đơn sơ, “đón nhận” Nước Trời từ ban tay Chúa. Chúng ta cũng hãy dừng lại một lúc tại hai chi tiết quan trọng. Chúng ta đã thấy cách mà, từ đó về sau, Têrêsa tóm kết hành trình của Chị thành ý muốn trở nên “hoàn toàn bé mọn”, biểu thức được mượn từ sách Châm Ngôn 9,4. Trong những năm tháng tiếp theo, Chị thích được gọi là “người bé mọn nhất”. Đó chính là lý tưởng, khẩu hiệu, là chủ đề quán xuyến của Chị. Và Chị thích gạch chân bốn chữ ấy. Gạch chân các chữ thường là cách Chị dùng để nhấn mạnh một trích dẫn; ở đây là ngầm quy chiếu đến bản văn lớn trong Kinh Thánh đã khơi mào cho cách nhìn mới của Chị. Bằng bốn chữ ấy, Chị nói lên tất cả sự năng động của niềm tin tưởng và tình thương xót trung tín của Thiên Chúa! “Lòng Thương Xót”: một chi tiết gợi mở khác xuất hiện trong cách sử dụng từ ngữ ấy kể từ cuộc khám phá lớn của Têrêsa. Tất nhiên Chị đã biến đến chữ ấy từ lâu, đã nhiều lần gặp nó trong các sách Chị đọc, thường phát âm nó trong những buổi đọc Thánh vịnh chung với cộng đoàn. Nhưng trước cuối năm 1894, chữ ấy không có một tiếng vang nào trong Chị. Nó chẳng ngân vang. Toàn bộ những gì Chị viết trước thời gian ấy - chừng 350 trang thư, thơ và kịch - chỉ có một lần nhắc đến danh từ “lòng thương xót” và một lần tính từ “đầy lòng thương xót”. Sau cuộc khám phá của Chị, chúng ta gặp thấy, chỉ trong phần đầu Thủ bản Tự Thuật của Chị (Thủ bản A, dài chừng hai trăm trang giấy in), từ ngữ “đầy lòng thương xót” được nhắc đến hai mươi lần! Đúng là lòng đầy những gì thì miệng tự nói ra! Và khi mà, vào buổi tối tháng Giêng năm 1895 buốt giá, nữ tu bé mọn Têrêsa Hài Đồng Thánh Nhan khởi sự viết phần mở đầu cho Thủ bản Tự Thuật của mình, dưới ánh sáng ngọn đèn dầu leo lét, một bài ca chúc tụng trỗi lên trong lòng Chị hát mừng tình thương xót, mà chưa bao giờ Chị nhìn thấy rõ ràng đến thế, đang như một sợi chỉ vàng xuyên suốt tấm áo cuộc đời Chị. Sợi chỉ này, Chị sẽ giữ nó lại. Như một lời hứa đầy ắp những điều tốt đẹp, tương lai của Chị được đính vào đó: Chị còn ba mươi hai tháng nữa để sống trên trần gian này.
1895 là một năm tuyệt diệu đối với người nữ đan sĩ Cát Minh! Năm hạnh phúc nhất, toả nắng nhất trong toàn bộ cuộc đời Chị! Giờ đây Chị hai mươi hai tuổi và đã ở trong Cát viện được bảy năm. Chị thấy mình đang hoàn toàn ở tại “nhà mình”. Cuộc đời đan sĩ ở đấy đòi hỏi rất cao và Chị không được khoẻ như các chị em khác (Chị đang phải chịu những cơn đau họng), nhưng chưa bao giờ Chị thấy ơn gọi của mình đơn giản và bừng sáng nhiều triển vọng đến thế. “Sống tình yêu” - tháng 2 năm ấy, Chị sáng tác một bài thơ dài nói về chủ đề này. Hãy lắng nghe một vài khổ thơ. Sống Tình Yêu là cho đi tất cả Không kêu đòi lương bổng dưới trần gian Ôi! Không đo đếm, con cho đi và chắc chắn Khi yêu thương, người ta chẳng kể gì!... Trong Thánh Tâm, ngập tràn tình âu yếm Cho đi tất cả... Con chạy nhảy nhẹ nhàng Và chẳng còn gì ngoài kho tàng duy nhất Sống Tình Yêu. (...) Sống Tình Yêu là gìn giữ trong chính mình Một kho tàng lớn trong một chiếc bình sành Hỡi Đấng Tình Quân, con vô cùng yếu đuối Còn xa lắm con mới là thiên sứ! Nhưng nếu từng giờ qua mà con vẫn còn sa ngã Ngài lại đến nâng con trỗi dậy Cứ từng lúc Ngài rộng ban ân sủng Để cho con luôn được sống Tình Yêu. Trong cộng đoàn, lúc này Têrêsa vẫn còn khoẻ. Những tài năng của Chị được mọi người nhìn nhận và hay được chị em cậy nhờ. Khi có dịp, Têrêsa có thể vẽ và, cách nào đó, Chị đã trở thành thi sĩ của cộng đoàn; để mừng một khánh nhật, một lễ trao tu phục hoặc tuyên khấn, chỉ có duy nhất một địa chỉ cần tìm đến: Soeur Têrêsa! Để mừng lễ của Mẹ Bề trên, của các chị em cần vụ, những buổi giải trí ngày Lễ Giáng Sinh, Soeur Têrêsa sẽ sáng tác một vở kịch nhỏ! Trong thời gian hơn bốn năm,, Chị đã biết tám vở kịch (hai trong số đó rất quan trọng, nói về Jeanne d’Arc, thần tượng tuổi trẻ của Têrêsa) và năm mươi bốn bài thơ. Chính vì thế mà Mẹ Agnès xin Chị viết “những kỷ niệm tuổi thanh xuân” của Chị! Ngoài ra Chị còn một số thư tín. Và nhất là, Têrêsa rất bận rộn với các tập sinh! Khi Mẹ Agnès trở thành bề trên vào tháng giêng năm 1893, Mẹ đã yêu cầu em gái hai mươi tuổi của mình làm người phụ tá cho Mẹ Marie de Gonzague đang làm tập sư. Têrêsa tự xem mình như “chú chó săn nhỏ của chị chăn cừu!” Từ ban đầu, bổn phận của Chị không mấy nặng nề. Soeur Mácta là tập sinh duy nhất; chị này không thông minh lắm, nhưng rất vui vẻ với Têrêsa. Sáu tháng sau có thêm Marie Madeleine, cũng làm nữ tu cần vụ: Mẹ Agnès bảo chị này mỗi Chúa nhật hãy nói chuyện nửa giờ đồng hồ với Têrêsa, nhưng cứ đến Chúa nhật là chị nữ tu, vốn xuất thân từ vùng quê, cứ tìm đủ việc để làm hòng tránh đối thoại! Giữa lúc đó, sau khi đã khấn được ba năm, Têrêsa phải rời tập viện - mà không bao giờ có tiếng nói trong tu nghị, vì đã có hai chị ruột trong Cát viện - nhưng Chị xin được ở lại tập viện và được chấp thuận do tuổi còn trẻ. Chị sẽ ở lại đấy cho đến lúc qua đời... Bắt đầu từ hè năm 1894, chị phụ tá giám tập làm việc rất nghiêm túc! Đến tháng 6, Marie Chúa Ba Ngôi, người Paris năng động, nhập dòng; đây là người rất được Têrêsa thương mến, là tập sinh duy nhất, từ xưa đến nay, nhỏ tuổi hơn Têrêsa... Ba tháng sau, Céline đến - Thế là số chị em nhà Martin lên đến bốn! - và mười một tháng sau, đến lượt cô em họ Marie Guérin! Vui biết bao khi Mẹ Agnès đề nghị Têrêsa cầu nguyện và hy sinh cách đặc biệt cho một chủng sinh trẻ, Maurice Bellière! Một người “em linh mục” tương lai! Têrêsa, vốn không có em trai (đúng vậy, trong số bốn người con đã chết của gia đình, có hai người con trai), cảm thấy tràn trề hạnh phúc! Chị viết: Thưa Mẹ, không thể tả nổi niềm hạnh phúc của lúc ấy... Từ bao năm nay con chưa bao giờ được hưởng nếm loại hạnh phúc như thế. Con cảm thấy về phương diện này, linh hồn con thật mới mẻ, như thể người ta lần đầu tiên chạm đến những dây đàn mà cho đến lúc ấy còn bị bỏ quên. *** Dưới ánh sáng cuộc khám phá mới đây về “con đường bé mọn hoàn toàn mới mẻ” của Chị, Têrêsa thấy mình đang tắm mình trong đại dương lòng Chúa thương xót! Đầu năm 1895 ấy, khi phải viết về những kỷ niệm tuổi thanh xuân của mình, rõ ràng Chị sẽ nhấn mạnh về “Những xót thương của Chúa!!!... ... ...” Ba dấu chấm than, tiếp theo là những dấu chấm lửng, ý muốn nói rằng Lòng Thương Xót ấy tuyệt hảo hơn tất cả những gì người ta có thể nói về lòng thương xót! Đoạn mở đầu cho Thủ bản Tự Thuật của Têrêsa là một lời suy niệm sâu xa. Chị nhìn cuộc đời mình như là đối tượng của một “mầu nhiệm” lớn. Nhưng mầu nhiệm ấy không phải là không thể hiểu thấu. Nó đã trở nên rõ ràng và thân thuộc, và đột ngột xuất hiện ngoài sự mong đợi của người ta. Vấn đề không phải là do “xứng đáng”, nhưng là do được làm đối tượng cho ý muốn tốt lành của Ai đó. Têrêsa lại vận dụng lời thánh Phaolô: “Quả vậy, Thiên Chúa đã phán với ông Môsê: Ta muốn thương xót ai thì thương xót, muốn cảm thương ai thì cảm thương. Vậy người ta được chọn không phải vì muốn hay chạy vạy, nhưng vì được Thiên Chúa thương xót” (Rm 9,15-16). Sao lại có “mầu nhiệm” như thế nơi Thiên Chúa? Do đâu mà xem ra một số người được hưởng nhờ mầu nhiệm ấy hơn những người khác? Tại sao, Têrêsa tự hỏi, lại có sự đổ tràn lòng thương xót cho Phaolô, cho Augustin đến thế - và lẽ ra Chị có thể kết hợp mình vào số các vị ấy, nhưng Chị không một giây nghĩ đến điều đó -, trong khi những người khác thì chẳng bao giờ nhận được “đặc ân lạ lùng” nào? Sao lại có “những ưu đãi” như thế trong trái tim Chúa? “Từ lâu” tính chất tiền định ấy là một vấn đề đối với người nữ tu sống đời chiêm niệm. Giờ đây Chị đã nhận được những soi sáng giúp Chị hài lòng, dù là chỉ một chút. Chúa đã dạy Chị bằng “cuốn sách thiên nhiên”. Têrêsa yêu thích cuốn sách ấy! Một hôm Chị viết cho Céline: Nếu trong trật tự của thiên nhiên mà Giêsu thích gieo rắc dưới chân chúng ta những điều kỳ diệu làm cho ngây ngất như vậy, chỉ là để giúp chúng ta đoán ra những bí ẩn sâu kín hơn và trong một trật tự cao siêu hơn, đôi khi Ngài cũng hành động như thế trong các tâm hồn... Một lần nữa, thiên nhiên mở ra cho Chị một điều về những ý định thâm sâu của Thiên Chúa. Têrêsa đã khám phá trong sự đa dạng của muôn hoa rực rỡ một hình ảnh về chương trình cứu độ của Thiên Chúa trên nhân loại. Mỗi người dù lớn dù nhỏ, đều tôn vinh Chúa theo cách của mình. Những người bé nhỏ không phải là ít hoàn hảo hơn. Nếu bừng nở hoàn toàn, họ đều hoàn hảo trước mắt Chúa - hoàn toàn giống như bông hoa nào cũng đẹp. Vậy thì sự hoàn thiện trước mắt Thiên Chúa là gì? Têrêsa đưa ra một định nghĩa bậc thầy: “Sự hoàn thiện” nằm ở chỗ “Hãy là những gì mà Chúa muốn chúng ta là” - và, như vậy, còn ở chỗ, nhờ lòng thương xót của Chúa trợ giúp mà cuối cùng trở nên điều mà ngài muốn chúng ta là. Không ai có thể tuyên bố điều đó rõ ràng hơn. Mới đó mà sự thánh thiện đã trở nên thuận lợi! Tiếp theo là một câu trả lời thứ hai sâu sắc hơn, đậm chất Têrêsa hơn. Những người bé mọn có ơn gọi làm toả sáng rực rỡ lòng nhân lành của Thiên Chúa hơn! Đó là sứ mệnh cụ thể của họ. Hoạt động của hồng ân có thể phong nhiêu nơi người bé mọn nhất cũng như nơi người được ưu đãi nhất, với điều kiện họ tiếp tục hướng về với Chúa. Con đã hiểu ra rằng tình yêu của Chúa chúng ta được biểu lộ trong linh hồn đơn sơ nhất (và đây là điều kiện!) không hề cưỡng lại hồng ân của Ngài, cũng như trong linh hồn cao thượng nhất. Phải, không có những con người đáng thương ấy, Thiên Chúa sẽ không thể tỏ hết mình Ngài ra,
Trong khi hạ mình xuống thấp xuống - như với một đứa bé hoặc với một con người hoang dã, Têrêsa nói - Chúa nhân lành chứng tỏ sự vĩ đại vô cùng của Ngài. Sự nghèo khốn của chúng ta không ngăn được lòng thương xót của Ngài! Tương tự mặt trời chiếu soi những cây bá hương cùng lúc với từng bông hoa nhỏ như chỉ có một mình nó trên mặt đất, Chúa chúng ta cũng chăm sóc đặc biệt từng linh hồn như thể không có linh hồn nào giống nó; và cũng như trong thiên nhiên, tất cả các mùa đều được sắp xếp sao cho đến đúng ngày đã được định sẵn, làm bừng nở ngay cả bông hoa cúc đầu xuân tần thường nhất; cũng vậy đối với lợi ích của mỗi linh hồn. Tiếp đến, Têrêsa quay lại với câu chuyện đời mình. Viết Thủ bản Tự Thuật của mình là gì, nếu không phải là thuật lại những “ân huệ” của Thiên Chúa, những “ân cần hết sức vô tư của Chúa Giêsu” sao? Chị không nghĩ đến chuyện đưa vào đó lối giải thích về sự cộng tác của chính mình; từ kh chơi trò dành dụm tình yêu, công việc quyết toán của Chị không còn cập nhập nữa: Nó nhận ra nơi nó chẳng gì có thể hấp dẫn được những ánh mắt linh thánh của Ngài và chỉ có lòng thương xót của Ngài mới làm được tất cả những gì tốt lành cho nó... Tiếp cận mới ấy với tình yêu tình thấy cách biểu hiện của nó khi Têrêsa khẳng định: “đặc điểm của tình yêu là hạ mình xuống”. Điều này không đúng với mọi loại tình yêu. Trong tình thương mến của tôi đối với một người bạn, không hề có sự hạ mình nào cả, chúng tôi ngang nhau; trái lại, chỉ sự ngưỡng mộ mới khiến tôi ngước lên nhìn họ mà thôi; thái độ hạ cố gây cản trở cho tình bạn. Cũng vậy, tình bạn nối kết Ba Ngôi với nhau trong sự hiệp nhất của Thiên Chúa không có sự hạ thấp nào. Nhưng khi Thiên Chúa yêu thương con người - và đây là điều Têrêsa nghĩ đến - thì cơ bản đó là một tình yêu giữa đôi bên không bình đẳng, trong đó bên Vĩ Đại nhất chìa bàn tay ra cho bên bé mọn nhất. Chính Thiên Chúa bằng tình yêu mà kêu gọi con người đến với sự hiện hữu, đồng hành với họ bằng tình yêu và làm cho mối tương giao có thể diễn ra trong tình yêu bằng cách tự tỏ mình ra, không phải theo kiểu không thể đến gần, nhưng như một người Cha sáng tạo và niềm nở, như một người Anh cứu vớt.
Mọi sự là hồng ân, Têrêsa nói. Nhưng có nhiều hoàn cảnh trong cuộc sống người ta không nhận ra ngay tầm quan trọng của hồng ân. Chỉ với một quay ngược thời gian và ánh sáng của Chúa mà người ta mới nhận ra cách Thiên Chúa đồng hành cùng chúng ta bằng tình yêu, ngay cả trong những hoàn cảnh bình thường hoặc đầy cam go. Hồng ân lúc bấy giờ giống như một màu nền mà, sau một thời gian dài, mới xuất hiện xuyên qua lớp bề mặt. Thế là quá khứ có thể mang một dung mạo khác. Người ta không biết quá khứ mình một cách dứt khoát được. Khi cúi xuống một cách hết sức đặc biệt với quá khứ của mình, Têrêsa càng lúc càng ý thức rằng, mọi đời sống đều được dẫn dắt bởi Thiên Chúa. Lòng thương xót bao la của Thiên Chúa, Chị viết: Đây chính là mầu nhiệm về ơn gọi, về tất cả cuộc đời con và nhất là về những đặc ân mà Giêsu đã ban xuống trên linh hồn con... Lẽ ra Têrêsa đã có thể xoay lưng lại với Chúa, tốn thời gian vô ích, có thể rời bỏ con đường mà Chúa muốn dành cho Chị. Chị nói trong chuyến đi Alençon: Chung quanh con tràn ngập niềm vui và hạnh phúc, con được mọi người niềm nở đón tiếp, chiều chuộng, khen ngợi,... Phải thú nhận là cuộc sống ấy có nhiều quyến rũ đối với con... Mới có mười tuổi đầu nên tâm hồn dễ để cho mình bị choáng ngợp, vì thế mà con coi như là một hồng ân lớn khi không còn ở Alençon nữa; những bạn bè chúng ta gặp được ở nơi dấy đều quá phàm tục, họ lẫn lộn giữa những vui sướng thế gian và việc phụng sự Chúa Nhân Lành. Về tình bạn mãnh liệt của Chị với Giêsu: Với một con tim như của con, nếu không con sẽ để cho mình bị tóm bắt và bị cắt mất đôi cánh. Giờ đây, với lòng biết ơn, Chị nhận ra con tim của mình: Được nâng cao lên với Chúa từ khi thức giấc. Bây giờ con tim Chị đã hoàn toàn hướng về Chúa, trong đời sống cầu nguyện, đã dâng hiến cho vinh dự nguyên tuyền và tình yêu tinh khôi của Thiên Chúa, được kêu gọi thu xếp và sống trong tình yêu duy nhất ấy tất cả tình yêu đối với mọi người à mọi sự... Khi suy nghĩ về tất cả điều đó, Têrêsa nghĩ đến gương mặt thánh nữ Madeleine. Tận sâu trong đáy lòng, Chị cảm thấy mình rất gần gũi với vị nữ thánh ấy. Với tính nết như thế... hẳn là con đã trở nên rất dữ dằn và có thể đã tự đánh mất mình rồi... Con chẳng có công trạng gì khi không bị rơi vào bẫy tình yêu của loài thụ tạo, bởi vì chính lòng thương xót lớn lao của Chúa Nhân Lành đã giữ gìn con!... Con nhận ra rằng, nếu không có Ngài, hẳn là con đã có thể trầm luân như thánh nữ Mađalêna và lời nói sâu sắc của Chúa với ông Simon chọt vang lên hết sức dịu dàng trong linh hồn con... Con biết là “Ai được tha ít, thì yêu mến ít” (Lc 7,47), nhưng con cũng biết rằng Giêsu đã tha cho con nhiều hơn cả Thánh nữ Mađalêna, bởi vì Ngài đã tha cho con từ trước, đã ngăn không để con sa ngã. Têrêsa tin chắc rằng, cất đi những trở ngại thì người ta còn yêu mến nhiều hơn cả khi giúp đứng lên sau mỗi lần vấp ngã. Đây chính là điều mà Chúa đã làm cho Chị khi cất đi những cạm bẫy và những viên đá khiến Chị vấp ngã. Và, vì thế, Chị biết mình được yêu mãnh liệt bởi Đức Kitô, Đấng không đến vì những người công chính, nhưng đến vì những người tội lỗi (x. Mt 9,13). Còn kết luận của Chị? Ngài muốn con yêu mến Ngài vì đã được Ngài tha thứ, không phải được tha thứ nhiều, mà được tha thứ tất cả. Ngài không chờ đợi con yêu Ngài nhiều như Thánh Nữ Mađalêna, nhưng muốn CON BIẾT Ngài đã yêu thương con như thế nào, bằng một tình yêu toan liệu trước mà không thể diễn tả thành lời, để bây giờ con yêu Ngài đến điên dại!... Người ta thường bảo một linh hồn trong sạch thi yêu mến nhiều hơn một linh hồn sám hối ăn năn. Ôi! Con muốn chứng tỏ cho thấy câu nói ấy là câu nói dối biết chừng nào!... Một nhận biết bằng trực giác về lòng Chúa thương xót, với cưu mang mọi sự, đã giúp Chị lột mặt nạ một lời nguỵ biện lớn! Sự thanh sạch của tâm hồn làm cho Chị nên nghèo khó và khiêm tốn, ý thức là mình đã nhận lãnh mọi sự. *** Một cách đều đặn, Têrêsa tiếp tục viết trong cuốn vở của mình phần suy niệm dài và bổ ích. Quá khứ bừng tỉnh và đánh thức nơi Chị niềm phấn khởi mới và lòng biết ơn tha thiết. Trong lúc đối thoại với trải nghiệm của bản thân, Chị nghe Chúa nói với Chị. Buổi sáng mùa xuân thật rạng rỡ, trong ngày Chúa nhật Chúa Ba Ngôi, mồng 9 tháng 6 năm 1895! Và một cuộc gặp gỡ diệu kỳ sắp diễn ra trong tâm hồn Têrêsa trong lúc dự thánh lễ. Đột nhiên - sau khi đã được âm thầm chuẩn bị bởi cuộc khám phá của Chị về tình yêu mẫu tử của Thiên Chúa vừa mới đây và bởi việc nhiên lại tác động của Thiên Chúa trong cuộc đời Chị - Chị nhận được ơn hiểu biết hơn bao giờ hết rằng, Giêsu muốn được yêu đến chừng nào. Giêsu muốn được yêu đến chừng nào. Chị đã viết như vậy. Nhưng lối hành văn theo thể thụ động chứa đựng một sự ngạc nhiên. Được yêu, đối với Chúa Giêsu, nghĩa là chúng ta cho phép Ngài yêu chúng ta một cách chủ động. Và, đối với chúng ta, yêu, nghĩa là chúng ta chấp nhận để cho mình được Ngài yêu. Chúa Giêsu được yêu, khi Ngài có thể hoàn toàn yêu bạn, bạn yêu Chúa Giêsu, khi bạn hoàn toàn để cho mình được Ngài yêu. Têrêsa giải thích điều đó cho chúng ta: Con nhớ đến các linh hồn đang tự hiến mình như những lễ vật vì sự Công Chính của Chúa để chuyển hướng và lôi kéo về phía họ những trừng phạt dành riêng cho những kẻ tội lỗi. Đó là điểm khởi đầu của trực giác nơi Têrêsa! Sự cân bằng nghiêm khắc của Thiên Chúa, thật vậy, rất được đề cao vào thời kỳ nhuốm màu phái Khắc Kỷ ấy. Một cuốn sách viết về linh đạo Cát Minh, với tựa đề rất hay, Kho tàng Cát Minh, khuyên hãy hiến hết mình cho sự cân bằng và xem đó như một trong những mục đích của Dòng (Cha Piat nói một cách chính xác rằng một số đoạn trong tác phẩm ấy toát ra một tinh thần nhiệm nhặt và, thậm chí còn gây kinh hoàng nữa). Tại Cát viện Lisieux, người ta biết có những nữ tu thực hành cách hiến mình ấy hết sức quảng đại. Têrêsa, buổi sáng hôm đó, chợt cảm thấy bị thúc đẩy phải hiến mình cho Chúa mãnh liệt hơn, phản ứng đầu tiên của Chị là nghĩ ngay đến kiểu dâng hiến ấy, tuy nhiên Chị chẳng cảm thấy có chút thiện cảm nào. Làm thế nào mà một thụ tạo nhỏ bé như Chị lại có thể gánh trên đôi vai mảnh khảnh của mình một sức nặng vừa đau khổ vừa nặng nề đến vậy được? Ánh sáng mà sáng hôm đó làm Chị loá mắt, cũng thật khoan dung độ lượng. Mọi sự ngập chìm trong Ánh Nắng tình thương xót của Chúa mà từ nhiều tháng nay Chị thấy luôn dâng cao hơn. Và Chị cầu nguyện bằng tình yêu tha thiết: Ôi lạy Chúa! Chỉ có sự Công Chính của Chúa mới nhận lấy những linh hồn đang tự hiến tế làm của lễ thôi sao?... Còn Tình yêu đầy thương xót của Chúa thì không cần đến họ ư?... Đâu đâu tình yêu của Chúa cũng bị hiểu lầm, bị hất hủi; những tâm hồn mà trong đó Chúa muốn hào phóng ban cho tình yêu thì lại quay sang những thụ tạo để kêu xin hạnh phúc cùng với tình yêu thảm hải của chúng, thay vì lao vào con người tay Chúa và chấp nhận Tình Yêu bao la vô tận của Ngài... Ôi lạy Chúa! Tình Yêu bị rẻ rúng của Chúa có sẽ ở lại trong Trái Tim Chúa không? Con thấy là, nếu tìm thấy những linh hồn tự hiến mình làm của lễ toàn thiêu cho Tình Yêu Chúa, Chúa sẽ nhanh chóng thiêu cháy hết đi và cảm thấy hạnh phúc vì chẳng còn phải kìm nén những đợt sóng tình thương bất tận đang dâng trào trong Chúa... Nếu sự Công Chính của Chúa, vốn chỉ được mở rộng trên mặt đất, muốn ra tay trừng phạt bao nhiêu, thì Tình Yêu đầy Xót Thương của Chúa càng khao khát đốt cháy các linh hồn bấy nhiêu, bởi vì Lòng Thương Xót cua Chúa cao ngất trời xanh... (Tv 35,6). Ôi Giêsu của con ơi! Chớ gì con chính là lễ vật diễm phúc ấy, xin hãy lấy lửa Tình Yêu Linh Thánh của Chúa mà thiêu đốt của lễ của Ngài!...
Sau thánh lễ, Chị bắt đầu viết một “kết ước dâng hiến”. Việc này cho thấy sự nghiêm túc trong quyết định của Chị: đó là một cho đi dứt khoát! Tài liệu ấy xác định một thời khắc quan trọng và ưu việt trong hành trình thiêng liêng của Chị. Sự hài hoà giữa “con đường thơ ấu” và “lễ dâng chính mình của chị” thật ấn tượng. Sẽ là sai lầm khi cho rằng thời thơ ấu thiêng liêng là một chuyện, còn sự hiến dâng cho tình yêu đầy thương xót là một chuyện khác. Từ đó về sau, có một sự kết hợp mật thiết trong cuộc sống Têrêsa, tất cả đều xoay quanh cùng một trục và “sự dâng hiến” hoàn toàn nằm trong những viễn cảnh của “con đường bé mọn”. Hãy nhìn “kết ước” ấy một cách sát sao hơn. Nó bắt đầu như sau: Ôi lạy Chúa! Ôi Ba Ngôi hồng phúc, con muốn yêu Chúa và làm cho Chúa được yêu... Con muốn thực thi ý định của Ngài một cách hoàn hảo... Nói tóm lại, con muốn làm thánh, nhưng con cảm nhận được sự bất lực của mình và con cầu xin Chúa. Ôi lạy Chúa! Xin hãy là sự thánh thiện của con. Mục đích (nên thánh), hiện trạng (sự bất lực của Chị) và giải pháp (hoạt động thánh hoá của chính Thiên Chúa) không còn là những điều mới mẻ: những thực tại ấy đã trở thành tâm điểm vào giây phút quan trọng Têrêsa khám phá ra con đường bé mọn của Chị, cách đó hơn sáu tháng. Tiếp đến, Chị đan sĩ Cát Minh nói về nền tảng của lời cầu xin đầy tin tưởng mà Chị ngỏ với Chúa và chẳng là gì khác ngoài sự cho đi và những công trạng của nhân tính nơi Chúa Giêsu, toả rạng hào quang của tình yêu và những công nghiệp của Đức Maria, các thiên thần và các thánh. Ý thức được rằng, Chúa Cha sẽ ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta cầu xin nhân danh Đức Giêsu (Ga 16,23), Têrêsa lý giải - hoàn toàn giống như trong câu chuyện về “con đường bé mọn” của Chị - bằng cách nói những ước ao lớn của tâm hồn Chị chẳng thể nào là vô nghĩa được. Con biết, ôi lạy Chúa! Chúa càng muốn cho, thì Chúa càng làm cho ước ao thêm (Têrêsa mượn tư tưởng này của Gioan Thánh Giá). Con cảm thấy trong lòng con những ước muốn vô cùng to lớn và chính là với lòng tin tưởng mà con xin Chúa hãy đến chiếm hữu linh hồn con. Sau một đoạn quảng diễn - cầu nguyện bằng tình yêu, lòng biết ơn và niềm trông cậy - Têrêsa làm mới lại kế hoạch cũ của Chị sống hoàn toàn phụ thuộc vào lòng thương xót ân cần của Thiên Chúa, Đấng mà Chị tin tưởng hoàn toàn, bằng cách nói lên như một lời khấn về đức nghèo khó thiêng liêng hoàn hảo: Con không muốn thu góp những công nghiệp vì mục đích Thiên Đàng, con muốn làm việc chỉ vì tình yêu duy nhất của Chúa, nhằm mục đích duy nhất là làm đẹp lòng Chúa, an ủi Thánh Tâm Chúa và cứu vớt những linh hồn để họ yêu Chúa mãi mãi. Vào buổi xế chiều cuộc đời này, con sẽ trình diện trước Chúa với hai bàn tay trắng vì lạy Chúa con không xin Chúa tính toán những công việc của con. Tất cả những sự công chính của chúng con đều có những vết nhơ trước mắt Chúa. Vậy con muốn mặc lấy chính Sự Công Chính của Chúa và nhận lãnh từ Tình Yêu của Chúa sự chiếm hữu chính Chúa đến muôn đời. Con không có ngai vàng và vương miện nào khác ngoài Chúa, ôi Đấng Tình Quân của con! Têrêsa biết sự can thiệp đầy tình thương xót của Giêsu vượt quá những nỗ lực riêng của chúng ta đến chừng nào: Chỉ trong thoáng chốc, Chúa có thể chuẩn bị cho con đến trước mặt Chúa. Bấy giờ tiếp theo hành vi dâng hiến đúng nghĩa, tiến trình tất yếu sau khi đã hiểu rõ tình yêu đầy thương xót của Chúa: Để sống trong một hành vi yêu thương hoàn hảo, con hiến dâng mình như của lễ toàn thiêu cho tình yêu xót thương của Chúa, khẩn xin Ngài hãy đốt cháy con mãi mãi, để làm tràn ngập hồn con những ngọn sóng yêu đương vô biên vô tận đang bị giam hãm trong Ngài, và như vậy, con trở thành kẻ tuẫn đạo vì tình yêu Ngài, ôi Thiên Chúa của con...! Sau khi con đã chuẩn bị sẵn sàng trình diện trước nhan Chúa, ước gì sự tuẫn đạo này cuối cùng cũng làm cho con chết và linh hồn con không chút chậm trễ lao ngay vào sự ấp ủ muôn đời của Tình Ngài xót thương... Ôi Đấng Tình Quân của con, con muốn cứ mỗi nhịp đập con tim, con lặp lại sự tận hiến này cho Chúa, hàng vạn hàng triệu lần, cho đến khi, những bóng tối tiêu tan, con có thể nói lại với Chúa về tình yêu của con trong một diện đối diện muôn đời!... Trong một hành động mạnh mẽ đầy tin tưởng yêu thương, vượt quá giới hạn của sự nghèo khó nơi Chị và thời gian, Têrêsa gắn chặt mình vào trái tim đầy thương xót của Đấng Rất Thánh đang muốn đổ đầy hai bàn tay trắng mà sẽ, bằng tất cả niềm cậy trông, chìa ra với Ngài. Theo một nghĩa nhất định, “con đường bé mọn” kêu gọi “sự dâng hiến” tương ứng. Sự dâng hiến này giống như tâm điểm của “con đường bé mọn” và cách nó được phát biểu dưới hình thức cầu nguyện. Hợp với lễ dâng ấy người ta có thể hoàn toàn nói đến sự tiến bộ, sự tăng triển sâu xa, theo nghĩa mà trong đó Têrêsa sống và hiểu con đường bé mọn của Chị cách mạnh mẽ hơn - thực ra thì đã hơn sáu tháng trôi qua. “Hơn bao giờ hết”, Têrêsa đã hiểu được tình yêu đầy thương xót của Thiên Chúa, chưa bao giờ Chị phó thác vào tình yêu ấy đến vậy, và sự phó thác như thế trở nên một bản tính thứ hai. *** Cũng cần nêu ra ba nhận xét. Lối nói biểu tượng được Têrêsa đưa vào “kết ước” của Chị và trong Thủ bản A, 84r-v rất khác với câu chuyện về “con đường bé mọn” của Chị. Ở kia, Têrêsa sử dụng những hình ảnh như “hạt cát”, “đỉnh núi”, “đứa trẻ”, “thang máy” và những “cánh tay” ẵm bồng. Trừ chữ “cánh tay (không bồng ẵm, nhưng mà trong đó người ta lao mình vào), thì tất cả những biểu tượng ấy đều vắng mặt trong kết ước dâng hiến của Chị. Ở đây Chị nói về “những làn sóng” “chìm ngập”, “lễ vật” phải được “thiêu đốt” bởi “ngọn lửa” - và còn có “mặc lấy” sự công chính của Chúa, “ngai” và “triều thiên”, mà chính Thiên Chúa sẽ là tất cả những điều ấy. Nhưng nội dung chính, cốt lõi của trải nghiệm, chỉ là một. Từ đó về sau, trước mắt Têrêsa, tình yêu của Thiên Chúa thực chất là đầy thương xót và lòng thương xót tất nhiên thấm nhuần tình yêu. Tuy nhiên, người ta nhận ra rằng, từ đó về sau, biểu thức “tình yêu đầy thương xót” không còn xuất hiện thường xuyên trong từ vựng của Têrêsa nữa. Điều này đối với Chị có vẻ hơi thừa: nói bằng hai chữ mà người ta có thể nói bằng một chữ! Từ đó, chỉ một chữ thôi là đủ: “tình yêu”! Tình yêu, thật gọn ghẽ, bởi dưới mắt Chị, khi vấn đề là về tình yêu Thiên Chúa mang lại cho chúng ta, thì nhất thiết phải là đầy thương xót. Khi mà ở cuối phần đầu Thủ bản tự thuật của mình, Têrêsa lập ra một danh sách những ngày tháng đáng nhớ trong cuộc đời mình, Chị chỉ gọi ngày 9 tháng 6 năm 1895 một cách đơn giản: Lễ dâng chính mình cho “Tình Yêu”. Để kết thúc, theo quan điểm mục vụ, trong tâm trí Têrêsa việc dâng hiến cho Tình Yêu đầy thương xót ấy không thể dùng như một kiểu công thức ma thuật, một “tiểu xảo” thiêng liêng: khi đến lượt, chỉ cần đọc lên lời dâng hiến ấy một lần và thế là “xong” cho mọi ngày! Không, vận động đầy tin tưởng hướng về với Chúa sẽ phải trở nên cực kỳ cốt tử như “nhịp đập của trái tim”, mà Têrêsa nói đến. Vượt xa hơn lời nói, sự dâng hiến phải được lặp đi lặp lại trong đời sống cụ thể, đòi hỏi một bước ra khỏi chính mình một cách vui tươi và không mệt mỏi trong một hiến dâng cho Chúa đầy tin tưởng. Bởi vì bạn đã hiểu rõ hơn Bản Thể sâu xa nhất của Ngài! Thiên Chúa yêu thương là Tình Yêu! Yêu, nghĩa là sự ngây ngất của ngài, là sự sống của Ba Ngôi, là mầu nhiệm của Ngài, bí ẩn của việc Ngài tạo thành một cách nhưng không, và của ơn cứu chuộc, và của Thiên Đàng.
Dâng hiến chính mình cho Tình yêu, đối với Têrêsa, một đỉnh cao và đồng thời là bước khởi đầu cho một lên cao dần. Năm 1895, quả thực, đối với Chị, là “năm” của lòng Chúa thương xót! Ngày mồng 9 ấy đã tháo tung biết bao sự hăm hở! Quả thực, những con đê đã bị vỡ và những làn sóng tình yêu Thiên Chúa mà Chị đã kêu gọi trong lễ dâng của Chị ngập tràn khắp mảnh đất linh hồn Chị. Đó là một thời khắc lễ hội, long lanh sự sống! Một tràn ngập niềm vui và trải nghiệm Thiên Chúa. Bởi chưng, chưa bao giờ Chị đan sĩ chiêm niệm lại bị chinh phục bởi sự hiện diện cận kề của Thiên Chúa đến vậy. Hoang địa xưa kia đã được biến đổi. “Ta sẽ khai mở sông ngòi trên các đồi trọc, và khe suối dưới các lũng sâu. Ta sẽ biếng hoang địa thành hồ ao, biến đất khô nên mạch nước dồi dào” (Is 41,18). Trong trái tim Têrêsa đang sục sôi “những dòng nước hằng sống” mà Chúa Giêsu đã hứa (Ga 7,38-39). Thời kỳ này trong cuộc đời Têrêsa có một tính chất thần bí rõ ràng. Sáu tháng sau ngày tận hiến cho lòng Chúa thương xót, Chị gợi lên một đợt lũ khác: Mẹ biết những dòng sông, hay đúng hơn, những đại dương hồng ân đã đến tràn ngập linh hồn con... Ôi! Từ ngày diễm phúc ấy, với con dường như chỉ có Tình Yêu thâm nhập và bao vây lấy con, dường như Tình Yêu Đầy Xót Thương ấy đổi mới con từng giây từng phút, thanh tẩy linh hồn con và xoá sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Tức là sống trong bàn tay Thiên Chúa! Còn phản ứng của Chị thì sao? Bây giờ con chẳng còn một ước ao nào khác ngoài niềm ao ước được yêu mến Giêsu đến điên cuồng... Nhưng ước ao của Chị muốn lột bỏ hết mọi tham vọng riêng và mọi hoạch định theo ý riêng càng trở nên mạnh mẽ biết bao! Con đường nên thánh đã trở nên rõ ràng: Tuy nhiên, lúc nào con cũng cảm thấy cùng một niềm tin tưởng táo bạo sẽ trở nên một nữ Thánh vĩ đại, bởi lẽ con không cậy dựa vào công trạng vốn chẳng hề có nơi con, song con hy vọng vào Đấng là Nhân Đức, là chính sự Thánh Thiện, chỉ một mình Ngài mới hài lòng với những nỗ lực yếu ớt của con hòng nâng mình lên với Ngài và trong khi bao phủ lấy con bằng những công nghiệp khôn cùng của Ngài, Ngài sẽ làm con nên Thánh. Vì niềm trông cậy của Chị đã trở nên đậm chất thần học, được xây dựng, không phải trên chính Chị, nhưng là trên tình yêu của Đức Giêsu dành cho chúng ta, của Đức Giêsu là Đấng biến đổi những khiếm khuyết của chúng ta thành những không gian mở ra với sự hào phóng của Ngài. Con cũng không còn ước ao đau khổ hay chết, trong khi vẫn rất yêu thích chúng, nhưng chỉ tình yêu mới hấp dẫn con... Bây giờ thì chỉ có sự phó thác dẫn dắt con, con chẳng còn chiếc la bàn nào khác!... Con chẳng thể tha thiết xin thêm một điều gì được nữa, ngoại trừ việc thực thi trọn vẹn ý Chúa Nhân Lành (Mt 6,10) trên linh hồn con...
Những làn sóng ánh sáng vẫn được duy trì cho đến mùa xuân năm 1896. Bấy giờ con vui hưởng một niềm tin hết sức mãnh liệt, hết sức rõ ràng, đến nỗi ý nghĩ về Thiên Đàng đã làm con vô cùng hạnh phúc. Trong một lúc, tâm hồn Têrêsa tối sần lại, chỉ một lúc thôi. Ba năm nhiệm kỳ bề trên của Mẹ Agnès sẽ kết thúc vào ngày 21 tháng 3, và nhiều cơ hội Mẹ tái đắc cử. Nhưng sau bảy vòng bỏ phiếu đầy khó khăn... Mẹ Marie de Gonzague thắng phiếu. Khi Têrêsa, không có mặt trong buổi tu nghị, hay được tin ấy, Chị “hết sức kinh ngạc” - những người chứng kiến kể lại - nhưng Chị nhanh chóng trấn tĩnh... Và thế là bắt đầu Tuần Thánh, những ngày đầy ắp mầu nhiệm lớn lao của tình yêu Thiên Chúa! Trong khi đó, đêm hôm trước ngày thứ Sáu thánh, Têrêsa bị ho ra máu lần đầu tiên - đêm hôm sau, lại thêm lần khác nữa -, Chị đầy lòng vui sướng: dường như Chị đang nghe thấy một tiếng thì thầm từ xa báo tin Đấng Phu Quân đang đến gần. Nhưng vị hôn thê vẫn chưa sẵn sàng hoàn toàn. Đau khổ phải tiếp tục hoạt động thanh luyện của nó. Mặt trời biến mất đằng chân trời, màn đêm buông xuống và nhấn chìm Chị vào bóng tối đáng sợ. Đang khi Têrêsa du hành một cách thích thú trên “chiếc thang máy” hướng lên trời, thì đột nhiên, bị cắt điện: Chị không biết mình đang ở đâu, việc này còn kéo dài bao lâu nữa, có ai đến cứu giúp không?
Có phải đêm tối ấy buông xuống từ những đám mây đen chăng? Theo Thủ bản Tự Thuật B của Chị, nó có lẽ đã diễn ra trong “ngày lễ Phục sinh vui tươi” - như vậy là hai ngày sau lần Chị bị ho ra máu. Theo Thủ bản Chúa thì là vào “những ngày vui tươi trong mùa Phục Sinh”. Theo thiển ý, chúng tôi cho rằng đêm đen ấy chắc chắn có liên quan đến ngày thứ Sáu thánh. Linh cảm thần bí nơi Têrêsa biết: này Đấng Phu Quân đang đến! Nhưng cái cô bé ưa suy nghĩ duy thực tế trong Chị thì lại mau mắn cho rằng: chính là chứng lao phổi, thế là hết, thân xác mi sẽ sớm đi vào lòng đất và linh hồn mi sẽ về thiên đàng. Và... giả như không có thiên đàng thì sao? Câu hỏi mà chúng ta đã từng thấy nổi lên... Câu hỏi, giống như một nỗi ám ảnh, sẽ kịch liệt cắm sâu trong tâm trí mạnh mẽ của cô gái hai mươi ba tuổi. Câu hỏi bật lên từ nơi sâu thẳm của tinh thần mà, từ sau cái chết còn rất trẻ của người mẹ, đang cần một sự an toàn không ai có thể mang lại được, và giờ đây sắp bót ngạt trí thông minh của Chị bằng một thứ mực đen ngòm. Trong khi Têrêsa phải xa lìa thế gian - như một bà mẹ - để thực hiện một chuyến đi xa, rất xa về xứ sở không quen biết của Thiên Chúa, thì số phận lại đánh mất hết biểu tượng thân thuộc và trở nên xa lạ, gây nhiều lo lắng. Giêsu đã cho phép linh hồn con bị xâm chiếm bởi những bóng tối dày đặc hơn nữa và ý nghĩa về Thiên Đàng hết sức ngọt ngào đối với con đến nỗi trở thành mục đích duy nhất để chiến đấu và chịu đau khổ... Hơn những người khác, Têrêsa sẽ được thanh luyện trong đức tin của Chị, cho đến khi chỉ còn lại bức bạc không pha trộn và vàng ròng của sự hiến mình đi, vì một mình Giêsu: Giờ đây thử thách ấy cất đi tất cả những gì có thể là sự thoả mãn tự nhiên trong niềm ao ước của con về Thiên Đàng... Tại sao lúc bấy giờ Chị vẫn cứ tin chắc Thiên Đàng không phải là ánh chiếu những ước muốn lớn của chúng ta? Tại vì Giêsu: vì sự kiện Giêsu! Thiên đàng, Têrêsa viết, “không phải là một câu chuyện bịa đặt” bởi con người, nhưng là “một thực tại chắc chắn”, đối tượng của Tin Mừng đã được Giêsu loan báo. Hẳn người ta sẽ bị cám dỗ nghĩ rằng, “sương mù dày đặc” đang che phủ Thiên Đàng cũng ngăn cản mọi ánh mắt nhìn vào sứ mệnh thần linh của Chúa Giêsu, thậm chí cả sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nhưng hoàn toàn không phải vậy. Trong Thủ bản Tự Thuật của mình, Têrêsa chỉ mô tả những cám dỗ chống lại Thiên Đàng và Chị khẳng định rõ ràng với Mẹ Agnès rằng, Thiên Đàng (theo nghĩa đời sống mai hậu của chúng ta) là đối tượng của những đấu tranh nơi Chị; Chị cảm thấy sự cám dỗ như thế là đặc biệt đối với Chị và không thể giải thích hợp lý được, và gọi đó là “lạ kỳ và thiếu nhất quán”: Ôi! Nhưng tôi rất tin vào Chúa! Chính Thiên Đàng mới là nơi mà mọi sự hướng về, thật là lạ kỳ và thiếu nhất quán! Nhưng, bởi vì có sự kiện Giêsu, nên giữa đêm tối dày đặc, Chị vẫn có thể không nao núng trong niềm tin của mình vào Đời Sau. Bàn tay Giêsu nâng đỡ Chị: hồng ân, đức tin và kinh nghiệm về lòng nhân lành của Thiên Chúa là những sức mạnh thần thánh nâng đỡ Chị trong bóng tối. Têrêsa, một bệnh nhân, “đang lọt vào một cái hố đen ngòm cả hồn lẫn xác”, đôi khi “bầy rắn xấu xa rít lên bên tai Chị”. Nhưng Giêsu vẫn ở đó, và đức tin của Chị vẫn ở đó. Về những ý tưởng đen tối ám ảnh Chị, Chị khẳng định: Tất nhiên con chịu đựng chúng, nhưng trong lúc chịu đựng, con không ngừng thực hiện các hành vi đức tin. Chưa vui hưởng, nhưng trong đức tin, Chị đã sống thực thể Thiên Đàng: “Con không thấy rõ sau cái chết con sẽ có cái gì hơn là cái con đã có ở cuộc sống này. Con sẽ nhìn thấy Thiên Chúa tốt lành, thật vậy! Nhưng để được ở với Ngài, thì con đã hoàn toàn ở với Ngài trên trái đất này rồi”. Trong toàn bộ tiến trình ấy, Thiên Chúa thực hiện công việc thanh luyện của Ngài, như thánh Gioan Thánh Giá đã mô tả hết sức sâu sắc trong Đêm dày. Phải chăng Thiên Chúa gởi đến sự thanh luyện ấy? Hay Ngài kèm theo đó một diễn tiến tâm lý bằng hồng ân của Ngài? Muốn xác minh hay không, không quan trọng. Đối với Têrêsa, vấn đề trước mắt là tin tưởng, là giữ lòng cậy trông và yêu mến. Trong đau khổ, Chị muốn cùng Giêsu cứu vớt các linh hồn. Và Chị sẽ có thể nói cùng với thánh Phaolô: “Tôi đã đấu trong cuộc thi đấu cao đẹp, đã chạy hết chặng đường, đã giữ vững niềm tin” (2Tm 4,7).
Trong vai trò nhà sư phạm tuyệt vời, Thiên Chúa, trước hết, đã ban cho Têrêsa, trong nhiều tháng trời, một niềm vui trong sáng và dư tràn. Trải nghiệm này đã làm cho Chị chắc chắn hơn nữa về thực tại và Tình Yêu Thiên Chúa. Kỷ niệm ấy sẽ nâng đỡ Chị đôi chút trong đêm dày của mình. Têrêsa lúc này đang trải qua một “đường hầm tăm tối” và băng qua một “xứ sở buồn thảm”. Với Chị, dường như bóng tối đang chế giễu, đang la lớn: Mi mơ tưởng ánh sáng, một quê hương ngạt ngào hương thơm dịu ngọt nhất, mi mơ chiếm hữu đời đời Đấng Sáng Tạo mọi công trình kỳ diệu, mi tưởng có ngày bước ra khỏi đám sương mù đang vây quanh mi ư, vậy thì dcứ mơ đi, mơ nữa đi, để tận hưởng cái chết mà sẽ không mang lại cho mi những gì mi hy vọng, nhưng là một đêm đen sâu thẳm hơn, đêm của sự hư vô. Đột nhiên, Têrêsa dừng lại, hoảng hốt... Trời ơi! Những điều đó tuôn ra một cách tự nhiên từ ngọn bút của Chị... Con không muốn viết dài hơn về nó nữa, vì sợ báng bổ... Đôi lúc người ta bảo rằng, Thiên Chúa là một bức tường đối với Têrêsa. Điều đó không đúng. Têrêsa nói đức tin của Chị không còn là một “bức màn” trong suốt nữa - như mùa hè trước khi Chị vào Cát Minh, như trong mùa hè và mùa đông sau khi Chị thực hiện hành vi dâng hiến - nhưng như một “bức tường” vươn lên đến tận trời. Một lần nữa, lối nói biểu tượng được vận dụng. Tin, với lý trí của Chị, là như đúng trước một bức tường. Chính vì thế, đức tin đối với Chị lại càng khó khăn hơn. Nhưng Thiên Chúa không phải là một bức tường. Nếu đức tin của Têrêsa có cảm tưởng như đứng trước một bức tường mờ đục và không thể đi xuyên qua được, thì Thiên Chúa đứng cả phía bên kia lẫn bên này bức tường! Hoặc hiện diện ở phía bên kia, trong sự sống mầu nhiệm của Thiên Đàng, như Chúa Giêsu đã đến nói với chúng ta và như Têrêsa đang tin. Và Ngài ở phía bên này, tại trung điểm đời sống bị thử thách và đầy âu lo của Chị! Hơn bao giờ hết, Thiên Chúa đang hiện diện trong cuộc sống của Chị! Ngài là điểm tựa cho Têrêsa bám vào. Hơn bao giờ hết, Chúa Giêsu hiện diện trong ý nghĩ của Chị. Đức Giêsu thuở trước! Và Đức Giêsu của khoảnh khắc hiện tại! Têrêsa nắm lấy bàn tay chìa ra bằng lời nói và lời hứa của Ngài. Hễ mỗi khi có cuộc chiến đấu mới,... con chạy đến với Giêsu, thưa với Ngài rằng con sẵn sàng đổ đến giọt máu cuối cùng để tuyên xưng có một Thiên Đàng. Têrêsa làm cho biểu tượng về việc đổ máu mình ra vì đức tin trở nên đúng hoàn toàn, khi dùng chính máu mình chép lại kinh Tín Kính trong cuốn sách Tin Mừng của Chị. Thực ra, chưa bao giờ đức tin của Chị lại tinh khôi và mãnh liệt đến vậy! Giêsu biết rõ là trong khi hoàn toàn không có được niềm vui sướng vì Lòng Tin, thì ít nữa con cũng cố gắng thực thi những việc đức tin. Con tin rằng, một năm nay, con đã thực hiện nhiều hành vi đức tin hơn cả cuộc đời con. Niềm vui sướng, niềm vui được cảm nhận trong hành vi đức tin không còn nữa. Nhưng hơn bao giờ hết, có hoạt động “muốn tin” và hành động phù hợp với lời Chúa Giêsu. Trong đêm tối của lòng tin, Têrêsa không phải là kẻ không tin, nhưng là một kẻ tin rất vĩ đại! Giữa đêm tối đức tin, và rõ ràng là bằng tất cả niềm tin mù quáng của mình, Têrêsa tiếp tục trải nghiệm, ở mức thâm sâu hơn, niềm vui của tình yêu được cho đi. Và niềm vui - nghịch lý của đêm tối ấy - nhận ra Chúa thật đầy tình thương xót giữa những tối tăm ấy biết bao! Vì thế, mặc dầu thử thách ấy lấy đi khỏi con tất cả niềm hân hoan vui sướng, con vẫn có thể kêu lên: “Lạy CHÚA, sự nghiệp Ngài khiến con mừng rỡ, thấy việc tay Ngài làm, con phải reo lên” (Tv 91,5). Bởi chưng còn có sự mừng rỡ nào lớn hơn niềm vui được chịu đau khổ vì tình yêu Chúa nữa đây?... Sự đau khổ càng thâm sâu, thì càng không lộ ra trước mắt loài thụ tạo, càng làm Chúa vui hơn. Ôi lạy Chúa! Nhưng giá như vì cách nào đó mà Chúa không biết đến sự đau khổ của con, con vẫn cứ sung sướng vì sở hữu được nó, nếu nhờ nó mà con có thể ngăn chặn hoặc sửa chữa được dù chỉ một lỗi phạm đến Đức Tin... Chưa bao giờ con cảm thấy Chúa dịu dàng và đầy tình xót thương đến thế, Ngài đã gởi đến cho con thử thách vào lúc con đủ sức chịu đựng. Chưa bao giờ ân sủng lại hết sức phong phú đến vậy trong linh hồn Têrêsa. Bàn tay vô hình dẫn dắt Chị, Chị đã nắm lấy, Chị đang giữ chặt. Têrêsa không muốn biết điều đó nhiều hơn Chúa Giêsu. Chị vẫn xác tín rằng những kẻ không tin sẽ rất ngạc nhiên vào ngày họ ra trước mặt Chúa. Lúc ấy họ nói: “Lạy Chúa, khi nhìn thấy thế gian tuyệt diệu này, chúng con đã chọn cái ngẫu nhiên trước và chọn cái chẳng là gì sau”, Têrêsa mong Chúa trả lời với họ: “Hãy vào Nước Trời đi, nhiều người khác đã cầu nguyện cho các con”.
Bởi vì Têrêsa vẫn luôn có lý do trong đêm tối đức tin của Chị: Con nói với Ngài là con sung sướng vì không được tận hưởng Thiên Đàng tuyệt diệu ấy trên trần gian này để Ngài mãi mãi mở nó ra cho những kẻ vô tín ngưỡng đang thương. Ngày trước, Têrêsa không hiểu sao lại có những kẻ thực sự vô thần. Chị viết rằng: Họ nghĩ một đàng nói một nẻo khi phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Đàng. Giờ thì bằng kinh nghiệm riêng của mình, có biết bao công kích kịch liệt của lý trí đang nhằm vào sự phó thác vào lời Đức Giêsu. Từ lâu Chị đã biết sự chậm chạp tự nhiên và những lợi ích ích kỷ của chúng ta có thể làm chúng ta quay lưng lại với đức tin. Giờ đây Chị hiểu được vai trò của hồng ân trong hành vi đức tin và người ta có thể trung thành đến mức nào giữa đêm đen. Trong sự nghèo khó của mình, Chị biết mình liên đới với “những linh hồn không có lòng tin” và với “những người tội lỗi” mà Chị gọi là “anh em” của Chị, và cùng với họ, Chị ngồi vào “chiếc bàn ăn đầy cay đắng ấy”, sẵn sàng “ăn ở đấy món bánh thử thách” - để “tất cả những kẻ, không được chiếu sáng bằng ngọn đuốc đức tin, cuối cùng cũng nhìn thấy ngọn đuốc ấy sáng bừng lên”. Sách Giáo lý mới của Hà Lan viết về đêm tối của Têrêsa: “Không có gì còn lại từ đức tin của Chị, ngoại trừ sự phó thác cuối cùng: con muốn tin, hãy đến trợ giúp niềm tin ít ỏi của con. Như vậy, người thiếu nữ ấy đã trở thành một vị thánh, xứng đáng chiếm một chỗ t, những vị anh hùng đã được nêu trong thư gởi tín hữu Do Thái, chương 11. Giữa cơn khủng hoảng trần trọng về đức tin mà những người đồng thời với Chị, giới trí thức và thợ thuyền ở châu Âu, đang phải trải qua, Chị chịu đựng sự đau khổ này cùng với họ, trong một sự phó thác bằng tình yêu cao nhất hai lần trong chín tháng. Biết bao nhiêu cuộc đời đã tìm được sức sống của họ từ đó!” Như một Jeanne d’Arc khác, Têrêsa chiến đấu vì đức tin Hội Thánh và vì cuộc khải hoàn của sự thiện trên sự dữ. Rõ ràng là trong đêm tối đức tin của mình, Chị đã rung động với cuộc phiêu lưu kỳ diệu của một cô gái trẻ người Mỹ, tìm được nơi trú thân trong một tu viện trên đất Pháp, Diana Vaughan, hoán cải từ một tín đồ nhiệt thành thuộc giáo phái Luxiphe thần bí. Lúc bấy giờ Diana đang chiến đấu chống lại những sai lầm cũ của mình bằng cách cho xuất bản cuốn Hồi ký, gây tiếng vang lớn trong giới Công giáo Pháp và thậm chí cả ở nước ngoài. Đan viện Cát Minh Lisieux là một thành viên ủng hộ nhiệt tình Diana. Trong vở kịch, Chiến thắng của đức khiêm hạ, được soạn mừng lễ Mẹ bề trên Marie de Gonzague, Têrêsa viết: Ôi! Chớ chi bây giờ cô ấy được trở thành một Jeanne d’Arc mới nhỉ... Ước ao lớn nhất của em sẽ là, khi sứ mệnh của cô ấy hoàn tất, được [nhìn thấy cô ấy] kết hợp với Chúa Giêsu trong Cát viện nhỏ bé này của chúng ta. Têrêsa còn viết một bức thư cho Diana, kèm theo bức ảnh chụp Chị trong vai Jeanne d’Arc. Chị nhận được một thư trả lời mà Chị giữ gìn rất cẩn thận. Vì sợ bị những người Tam Điểm giết, Diana tiếp tục không ra mặt đến nỗi, về lâu về dài, nhiều người bắt đầu ngờ vực. Để chấm dứt lời đồn thổi ấy, cô gái tân tòng thông báo một cuộc họp báo tại Paris, vào ngày thứ Hai sau Lễ Phục Sinh, 19 tháng 4 năm 1897. Tại đây còn có cả chiếu phim. Hơn bốn trăm nhà báo, Công giáo và giới bài xích giáo sĩ, có mặt buổi tối hôm đó. Phía hậu trường là hình chiếu một bức ảnh, theo người ta nói, được gởi đến từ một đan viện Cát Minh, do một người ngưỡng một Diana, giới thiệu cô là “Jeanne d’Arc mới”. Đó chính là bức ảnh chụp Têrêsa. Thay vì Diana xuất hiện trên màn ảnh, thì Léo Taxil, thành viên hội Tam Điểm tự nhận mình đã cải đạo, và một cách hết sức tráo trở, từ từ hé lộ cách mà từ bấy lâu nay ông ta đã nhạo báng cộng đoàn Kitô hữu Pháp như thế nào: Diana không bao giờ có thực, chính ông ta đứng đằng sau màn lừa đảo ấy... Vài ngày sau, Têrêsa nhận được tường thuật về cuộc họp báo và câu chuyện về bức ảnh được chiếu lên... Chị xé vụn lá thư của Diana, tức là Léo Taxil, và đem ném vào chuồng phân. Hơn bao giờ hết, Chị hiểu rằng, “đúng là có những linh hồn không có đức tin, do lạm dụng các ân sủng, mà đánh mất đi kho tàng quý giá ấy”. Bây giờ Chị hiểu rõ hơn là vì ai mà Chị ngồi vào bàn những kẻ tội lỗi, vì ai mà Chị khẩn cầu lòng thương xót của Chúa. Bởi vì Têrêsa có một niềm tin tưởng rất lớn vào tình yêu cứu độ của Chúa. Chúng ta khám phá được điều đó trong một vở kịch khác, vào tháng giêng năm 1896, được viết để mừng lễ Mẹ Agnès, lúc ấy đang làm bề trên: Cuộc lánh sang Ai Cập. Như những kẻ không nhà, Đức Maria (chính Têrêsa đóng vai này!) và Giuse, cùng Hài Nhi Giêsu bị mắc kẹt trong hang của một gia đình... cướp cạn. Đức Maria chữa lành cho đứa nhỏ bị bệnh phong, Dimas. Nhưng Susanna, mẹ nó, vẫn lo lắng cho tương lai đứa trẻ: vì bị tiêm nhiễm môi trường xấu và các tì vết di truyền, không biết nó có đi theo con đường của cha nó không? Đức Maria làm cho bà ta hiểu là, quả thật, bà ta đừng nuôi ảo tưởng về đứa nhỏ Dimas, sẽ tốt hơn cha nó... Nhưng cái nhìn của Mẹ nhìn thấy trước tương lai và Mẹ tiên đoán rằng Con Trai Mẹ, một ngày kia, từ trên thập giá, sẽ nói với Dimas: “Hôm nay, anh sẽ ở trên thiên đàng với Tôi”. Lòng nhân lành của Đức Giêsu sẽ đi theo “người trộm lành” tương lai cho đến cùng! Ngài không mó bỏ dở công việc! Miễn là Dimas luôn giữ một sự mở lòng ra... Bởi vì, Têrêsa (trong vai Đức Maria) nói với Susanna: Hãy tin tưởng vào lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa Nhân Lành; lòng thương xót ấy đủ lớn lao để xoá sạch những tội ác nặng nề nhất khi tìm được một trái tim người mẹ đặt hết niềm tin tưởng vào đó. Giêsu không muốn người tội lỗi phải chết, nhưng muốn họ hoán cải và được sống đời đời (Ed 33,11). Như vậy, Têrêsa luôn là người đồng cứu chuộc trong tư tưởng, lời cầu nguyện, sự hy sinh của Chị. Hy sinh, ngay cả trong vở kịch này! Trong buổi trình diễn, Mẹ Agnès, nhân vật chính của dịp lễ, bực mình vì kiểu nói chuyện suồng sã của bọn cướp, những ca khúc bông lơn của chúng, cuộc đụng độ giữa các tập sinh diễn viên bằng những chiếc chai không (thật là cẩn thận) và vở kịch quá dài. Đến một lúc không chịu được nữa, Mẹ cho ngưng màn diễn. Trong cánh gà, Têrêsa lau vội mấy giọt nước mắt, cố mỉm cười trở lại. Từ đó về sau Chị chỉ viết những vở kịch ngắn...
Không hề chỉ vì bản thân mà Têrêsa đi theo con đường bé mọn của Chị và tin tưởng vào lòng thương xót của Chúa. Trong lúc, mà từ hai tháng nay, Chị bị bao bọc bởi bóng tố dày đặc nhất, thì Mẹ Marie de Gonzague đề nghị Chị cầu nguyện và hy sinh cho một “người anh em linh mục” thứ hai, Adolphe Roulland, sắp lên đường đi Trung Hoa. Riêng Chị, Chị đã bày tỏ ước muốn đi đến một đan viện Cát Minh truyền giáo, vào mùa thu năm 1896; người ta nghiêm túc nghĩ đến việc để Chị đi Hà Nội. Giai đoạn ấy, những ước ao đi truyền giáo của Chị đã đạt đến cao trào! Chị muốn, vì Giêsu, trở thành nhà truyền giáo, mọi lúc mọi nơi: những ước ao không thể dung hoà về mặt thời gian và không gian, sẽ kết thúc bằng việc hoà lẫn vào nhau trong ơn gọi của Chị: “trở thành tình yêu giữa lòng Hội Thánh”. Tất cả điều đó, Têrêsa đã mô tả trong Thủ bản Tự Thuật B, bức thư dài vào tháng 9 năm 1896 gởi người chị ruột Marie, tài liệu tu đức về một giá trị bất tử và hiến chương lớn của lời giáo huấn về con đường thơ ấu thiêng liêng của Têrêsa.
Trước hết, một đôi lời về kết cấu hình thức của Thủ bản này. Cách đây ít lâu, Têrêsa có cuộc nói chuyện với chị Marie, lúc ấy đề nghị Têrêsa viết cho mình “học thuyết nhỏ” của cô em gái. Têrêsa bắt đầu viết trong thời gian tĩnh tâm riêng trong năm 1896, ngày 8 tháng 9, kỷ niệm sáu năm ngày Chị tuyên khấn. Chị dùng hai tờ giấy vở có sẵn ô li, gấp làm đôi và viết kín lên đó: việc này mang lại cho chúng ta tám trang viết, mà theo niên biểu, đó là phần đầu của Thủ bản B. Sau đó, Têrêsa dùng một tờ giấy trắng khác, gấp nó làm bìa bao cho những tờ đã được viết kín và, như vậy, Chị lại thấy phát sinh thêm một “trang đầu” mới mà về sau chị cũng viết kín lên đó cho đến khi tiếp giáp với những trang đã viết. Từ đó, trong bản được in, phần được gọi là phần hai của Thủ bản B, thực ra là phần được viết trước, tính theo niên biểu. Về phần gọi là phần đầu, thì theo thứ tự thời gian, lại được viết sau: những trang này đã tóm kết và làm sáng tỏ cho những trang còn lại. Têrêsa sau đó luồn tác phẩm văn chương của mình vào khe cửa buồng Marie! Nhưng người chị không hiểu những trang viết của cô em cho lắm. Điểm cốt yếu của luận chứng vượt quá tầm hiểu biết của Chị. Chị cứ trố mắt trước những ước ao mãnh liệt của em gái và, chán nản, yêu cầu một lời giải thích thấu đáo... Câu trả lời đến nay: đó là bức thư số 197 của Têrêsa, viết vào ngày 17 tháng 9, một cố gắng mới nhằm hiệu đính điểm cốt yếu của “học thuyết nhỏ”, có thể gọi đây là phần ba của Thủ bản B! Chính là theo thứ tự ấy mà chúng tôi sẽ cố gắng trình bày những nét chủ đạo của những trang viết thuộc nền văn chương tu đức tuyệt vời nhất ấy.
1. Têrêsa, trước hết, thuật lại giấc mơ đầy khích lệ vào ngày 10 tháng 5. Trong lúc ngủ, chị thấy chân phước Anna Chúa Giêsu, cánh tay phải của thánh nữ Têrêsa Avila, người đã đưa cuộc cải cách của chính Têrêsa Avila từ Tây Ban Nha sang Pháp và Hà Lan. Têrêsa bắt đầu một cuộc đàm thoại ngắn với vị chân phước, muốn biết liệu Chị có thể sớm về Thiên Đàng và tiếp đến (hai câu hỏi đã ăn sâu trong tiềm thức của Chị!) Chị hỏi ngài: Hãy nói cho con biết có phải Chúa nhân lành không đòi hỏi điều gì khác nơi con ngoài những hành động và ao ước đáng thương của con không. Ngài có hài lòng về con không? Câu trả lời là có và Têrêsa tỉnh dậy lòng đầy vui sướng. Têrêsa xem giấc mơ ấy như một lời động viên của Chúa giữa cơn thử thách tối tăm của đức tin Chị và như một khẳng định về sự đúng đắn của con đường Chị đang đi. Bởi vì, quả thật, con đường bé mọn của CHị được tóm kết rõ ràng ở điểm như sau: làm hết sức mình “trong những việc bé mọn” trong khả năng con, và sau đó là “ước ao”: tin tưởng Chúa sẽ hài lòng về những cố gắng đầy bất lực của con và cuối cùng sẽ ban cho con những gì con không thể tự mình đắc thủ được. Câu chuyện về giấc mơ, từ lúc đó, trở thành một “khúc dạo đầu” tuyệt diệu cho “học thuyết nhỏ” của Chị. Chúng ta hãy dừng lại ở cụm từ “những việc bé mọn”. Đối với Têrêsa, đó không phải là những công việc được giảm nhẹ đầy thú vị hoặc rỗng tuếch. Người nữ tu chiêm niệm vĩ đại ấy chất đầy ý nghĩa vào những biểu thức được Chị sử dụng! Chị tin vào những gì mình nói ra, vì biết mình đã quán triệt sự nghèo khốn, những giới hạn của mình và chính là theo quan điểm rõ ràng đó mà chúng ta phải diễn dịch cách dùng thường xuyên chữ “bé mọn” trong Thủ bản này. Sự bé mọn là bầu dưỡng khí của Têrêsa. Nhưng nó chứa đựng sự cao quý biết bao! Bé mọn ở đây có nghĩa là sự sâu thẳm của đức khiêm nhường và quên mình, là chân thật và sẵn sàng cho đi, là không gian trống dành cho vị Thiên Chúa mà nơi Người Chị đang đặt hết hy vọng. Những con người nghèo khó ấy, Chúa Giêsu đã tuyên bố trong bài giảng trên núi là họ diễm phúc, và Têrêsa dứt khoát đặt mình đứng vào hàng ngũ họ. Chị xem những người bé mọn như là tầng lớp ưu tiên trong số các bạn hữu của Chúa Giêsu - đúng ra là tầng lớp mà Ngài yêu thương một cách tự nhiên. Bởi lẽ, nếu người ta không trở nên như trẻ nhỏ, người ta sẽ không được vào Nước Trời, Đức Giêsu đã nói như vậy với hết thảy mọi người (Mt 18,3). Têrêsa muốn tránh tất cả cái bóng của lòng kiêu căng! Và chính vì thế mà Chị nói lên “những bất trung”, “những yếu đuối” và những lỗi lầm của Chị. Thật ấn tượng khi thấy, trong bức thư này, Têrêsa gạch chân cụm từ “các linh hồn nhỏ” đến bảy lần. Chị biết những người ấy là một “đạo binh!” Đứng chung hàng ngũ với họ, Chị cảm thấy là đang ở nhà mình, chính họ là những người mà “học thuyết nhỏ” của Chị hướng đến. Thực ra, Têrêsa mô tả con đường mà ai cũng phải đi theo. 2. Sự bé mọn ấy không mâu thuẫn với lòng cao thượng, động lực thúc đẩy những “ước muốn vô tận” mà giờ đây Chỉ sẽ mô tả. Cùng với việc đào sâu tình yêu của Chị đối với Chúa Giêsu và đức tin của Chị trong lòng thương xót của Thiên Chúa, niềm hăng say tông đồ của Chị đã gia tăng và hướng ra khắp thế giới. Những khao khát mãnh liệt của Chị sẽ làm thành “cuộc tử đạo đích thực” của Chị, hoa quả tuẫn đạo đầu mùa vì tình yêu mà Chị đã nài xin trong hành vi “Dâng Hiến cho Tình Yêu” của Chị. Nỗi đau khổ nặng nề của Chị là ở chỗ Chị có quá nhiều ước muốn, thậm chí mâu thuẫn với nhau mà xem ra không thể làm cho thống nhất và hài hoà. Không một ước muốn nào có thể được thực hiện trọn vẹn trong ơn gọi sống đời ẩn dật của đan sĩ Cát Minh! Têrêsa muốn hiến mình đi một cách vô hạn, trong một cuộc sống hữu hạn. Đó là những “niềm hy vọng chạm đến vô biên”, “bao la hơn vũ trụ”, những “điên rồ”, thật quá “phi lý!” Không ai có thể cùng lúc thực hiện được hàng loạt những ước muốn quá rộng lớn đến vậy. Giữa giấc mơ và sự hữu hạn phát sinh ra một sự căng thẳng không thể chịu đựng nổi. Đó chính là nỗi đau đớn tột cùng của tình yêu vĩ đại. 3. Thủ bản B, tiếp đến, trình bày cho chúng ta thấy cách mà Têrêsa, một ngày ngày hè năm 1896, suy niệm các chương 12 và 13 trong thư Côrintô I, để tìm kiếm câu trả lời. Và Chúa Thánh Thần ban cho Chị ánh sáng và bình an! Chị hiểu được cách mà tình yêu, được Phaolô gọi là con đường vượt quá “quà tăng hoàn hảo nhất”, làm thành động lực thúc đẩy Hội Thánh. Giống như sự sống của thể xác phụ thuộc vào nhịp đập của trái tim, thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, tức là Hội Thánh, cũng sống tình yêu Thiên Chúa ở nơi đâu mà tâm hồn người ta có thể múc lấy, cho họ và cho những người khác. Tình yêu là quà tặng của Thiên Chúa cho lời nói và các bí tích của Hội Thánh nên sinh động - và có thể hoạt động bằng con đường rất kín ẩn. Em hiểu rằng chỉ có Tình Yêu mới làm cho các chi thể của Hội Thánh hoạt động, và nếu Tình Yêu ấy bị tắt đi, thì các Tông Đồ sẽ không loan báo Tin Mừng nữa, các Thánh Tuẫn Đạo sẽ từ chối đổ máu mình ra... Em hiểu rằng Tình Yêu bao gồm hết thảy mọi ơn gọi, Tình Yêu là tất cả, nó ôm lấy hết thời gian và không gian... Tóm lại, Tình Yêu là Vĩnh cửu!... Bấy giờ trong niềm vui sướng tột cùng khôn tả, em đã kêu lên: “Ôi! Giêsu Tình Yêu của em... Cuối cùng em đã tìm thấy ơn gọi của mình, ơn gọi của em chính là Tình Yêu. Vâng, em đã tìm ra chỗ của mình trong Hội Thánh, và chỗ ấy, ôi lạy Chúa, chính Ngài đã ban cho em... Trong Trái Tim Hội Thánh, Mẹ của em, em sẽ là Tình Yêu... Như vậy, em sẽ là tất cả... Vậy là giấc mơ của em sẽ thành hiện thực!!!... Têrêsa không ngừng theo đuổi lý tưởng của mình trước đó: tình yêu, trong sự sung mãn của việc nên thánh. Nhưng ở đây, tình yêu ấy nhận được sự sung mãn tông đồ của nó. Lý tưởng ngày xưa giờ đâu được hiểu theo nghĩa trọn vẹn hơn. Ý thức về cộng đoàn của Têrêsa sẽ vượt quá mọi giới hạn, tình yêu của Chị đối với Giêsu và Nước của Ngài trở nền thẳm sâu như đại dương, lớn rộng như bãi biển, trung thành cho đến chết. 4. Nhưng Têrêsa, có tung cánh bay lên quá cao, cò ôm ấp quá nhiều thứ chăng? Vươn tới tình yêu một cách mãnh liệt như thế, thì làm sao một bản thể bé nhỏ và bất lực thực hiện được lý tưởng ấy? Câu trả lời của Thủ bản B chứa đựng một lời kêu gọi được lặp lại, nhưng sâu xa hơn nhiều, gọi đến với “con đường bé mọn” của niềm tin tưởng hoàn toàn vào Thiên Chúa, Đấng sẽ đích thân dẫn dắt Chị lên tận đỉnh tình yêu. “Bí quyết” của Têrêsa, để đạt mục đích của Chị, chính là thái độ đón nhận triệt để! Quả thật, đầy lòng trông cậy, Têrêsa lặp lại hành vi dâng hiến của mình cho Thiên Chúa đầy tình xót thương. Em chỉ là một đứa bé, bất lực và yếu đuối, nhưng chính sự yếu đuối của em đã mang lại cho em sự dạn dĩ dâng mình làm Của LỄ cho Tình Yêu Ngài, ôi Giêsu! Và Têrêsa nhắc lại với chúng ta những con đường cứu độ mới mẻ mà Thiên Chúa đã mở ra kể từ khi ban cho chúng ta Con độc nhất của Ngài: tiếp theo sau Lề luật cũ là “luật Tình Yêu” của Đức Giêsu. Và Tình Yêu càng tự hạ thì càng tỏ ra cho thấy dung mạo tình thương xót của mình: Tình Yêu đã chọn chính em, thụ tạo yếu đuối và bất toàn, làm của lễ toàn thiêu... Lựa chọn ấy không xứng đáng với Tình Yêu sao? Vâng, để Tình Yêu được viên mãn, cần phải tự hạ mình cho đến mức huỷ mình ra không và biến sự hư không ấy thành ngọn lửa... 5. Sau đó, Têrêsa giải thích cách mà Chị sẽ dàn trải tình yêu đại độ của Chị đối với Giêsu và Hội Thánh giữa những người khác như thế nào. “Tình Yêu được minh chứng bằng việc làm”: một nguyên tắc lành thánh của Têrêsa, còn xa mới khuyến khích lối sống thụ động, tuy Chị vẫn dành quyền quyết định cho lòng thương xót hạ cố của Thiên Chúa. Ngay ở đây cùng vậy: Chị muốn nhận lấy tất cả tình yêu của mình từ chính Thiên Chúa, để sau đó diễn dịch tình yêu ấy thành những hành động cụ thể. Tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét cách mà tình yêu này, một cách hết sức triệt để, vẫn mang một dung mạo khiêm tốn và kín đáo, trong lúc được thể hiện trong mọi hoàn cảnh bình thường nhất và những hoạt động của đời sống thường nhật. Trong phúng dụ về con chim nhỏ, Têrêsa sẽ đưa ra cho chúng ta mô tả chi tiết về niềm tin tưởng của Chị trong lúc yếu đuối và bị thử thách đức tin. Người ta bị tác động mạnh, một phần bởi sự hiện diện của bình an, của niềm vui sướng, sự phó thác tuyệt đối và lòng trung thành với đức tin của Chị, mặt khác, bởi sự khước từ của Chị đối với sợ hãi, buồn sầu hoặc đào ngũ. Toàn bộ đoạn văn được viết dưới hình thức lời cầu nguyện mà, khi kết thúc, biểu lộ một niềm sốt mến tuyệt vời. Tư tưởng của Têrêsa sẽ được triển khai quanh trục lòng thương xót - niềm tin tưởng. Ôi Giêsu! Hãy để em, bằng niềm tri ân cực độ, nói với Chúa rằng tình yêu của Chúa đã đạt đến mức điên rồi... Làm thế nào mà trước sự điên rồ như thế, Chúa lại muốn trái tim em không vươn mình lao lên với Chúa? Làm sao niềm tín thác của em lại có giới hạn được đây?... Em thật quá đỗi nhỏ bé nên không thể làm được những việc lớn lao... Và sự điên rồ của riêng em, chính là hy vọng Tình Yêu của Chúa chấp nhận em như là của lễ... Có hôm, em đã hy vọng, ôi Đại Bàng Linh Thánh, Chúa sẽ đến tìm con chim nhỏ của Chúa, và cùng với nó trở về bên Lò Lửa Tình Yêu, Chúa sẽ dìm nó mãi mãi trong Vực Lửa hừng hực Tình Yêu mà nó đã dâng mình làm hy lễ. Ôi Giêsu! Làm sao có thể nói hết cho các linh hồn bé nhỏ biết được tình Chúa đoái thương khôn tả đến nhường nào?... Em cảm thấy nếu Chúa không thể tìm ra một linh hồn nào khác nhỏ bé, yếu đuối hơn linh hồn em, thì Chúa sẽ bằng lòng tuôn đổ cho linh hồn em nhiều hồng ân lớn lao hơn, nếu nó hoàn toàn tin tưởng phó thác vào tình thương xót bất tận của Chúa. Nhưng sao lại muốn chia sẻ những bí mật tình yêu của Chúa được, ôi Giêsu, chẳng phải một mình Chúa đã chỉ dạy cho em và Chúa không thể tỏ ra cho những người khác sao?...
Như chúng tôi đã giải thích, chỉ trong đợt hai mà Têrêsa đã viết ra những trang thực sự hình thành nên phần đầu của Thủ bản B. Lần nữa, những trang ấy làm sáng tỏ, một đằng, mục đích đang chi phối cuộc sống của Chị (“khoa học tình yêu” vượt lên trên hết mọi sự phong phú “của cải duy nhất mà em ham muốn”), và đằng khác, thái độ phải có để nhận được tình yêu ấy. Giêsu muốn chỉ ra cho em con đường duy nhất dẫn tới lò lửa Linh Thánh ấy. Đấy chính là con đường phó thác của đứa con bé bỏng yên ngủ trong vòng tay Cha nó... Để làm mấu chốt cho luận đề của mình, Têrêsa vận dụng hai bản văn Kinh Thánh vốn là nền tảng cho cuộc khám phá của Chị về con đường bé mọn. Bức thư gởi chị Marie ngày 17 tháng 9, là một cố gắng mới nhằm làm sáng tỏ những quan niệm của Têrêsa. Têrêsa biện luận rằng, những ước ao cháy bỏng muốn được tuẫn đạo của mình “chẳng là gì cả” và không hề làm nền tảng cho niềm tin tưởng vô hạn của mình. Đó cũng có thể là “những của cải thiêng liêng làm cho trở nên bất chính”, nếu người ta dựa vào đó mà lấy làm khoát trá! Ôi! Em cảm thấy hết sức rõ ràng không phải điều ấy làm Chúa Nhân Lành hài lòng trong linh hồn nhỏ bé của em đâu, điều làm đẹp lòng Ngài chính là nhìn thấy em yêu chuộng sự hèn mọn và nghèo khốn của chính em, là niềm cậy trông đến mù quáng của em vào lòng thương xót của Ngài... Đó là kho tàng duy nhất của em. Têrêsa sẽ giải thích một cách mạnh mẽ hơn nữa: Hãy hiểu là để yêu mến Giêsu, muốn trở nên hy lễ tình yêu, thì càng yếu đuối, không có ước ao, cũng chẳng có nhân đức nào, thì người ta càng hoàn toàn đặt mình vào sự dẫn dắt của Tình Yêu làm tiêu hao và biến đổi ấy... Chỉ một ao ước được trở nên hy lễ là đủ, nhưng còn phải chấp nhận mình luôn nghèo khốn và yếu đuối và điều khó khăn là ở đấy... Trong một nỗ lực hết mình nhằm diễn gả một cách cô đọng, Têrêsa có được một lời diễn đạt rất đơn giản, nhưng thật diệu kỳ: Chỉ niềm tin tưởng chứ chẳng phải gì khác dẫn đưa chúng ta đến được với Tình Yêu... Sáu năm trước đó, Têrêsa, lúc đang còn là tập sinh, cũng đã nói về con đường dẫn đến tình yêu, trong bức thư gởi Marie Guérin. Lối phát biểu lúc đó hoàn toàn khác: Chị không có một phương thế nào khác để đạt đến sự hoàn thiện ngoài phương thế duy nhất, đó là “Tình yêu”... Thời điểm đó, trong lòng Têrêsa đang rực cháy một niềm phấn khởi chưa được thử thách đủ bởi cuộc sống. Chị vẫn cậy dựa vào việc ngấm ngầm tin chắc là mình sẽ thành công bằng những gắng sức đầy quảng đại của bản thân nhằm thực hiện giấc mơ tình yêu của mình. Bất chấp tất cả sự quảng đại, Têrêsa đã phải trải qua những năm tháng bất lực, và một gia tăng dần dà sự soi sáng của Thiên Chúa mới giúp Chị đạt đến một cách nhìn mới và dứt khoát, trong đó mọi vinh dự đều chỉ dành cho một mình lòng thương xót của Chúa. Dĩ nhiên kinh nghiệm của Têrêsa phản ánh kinh nghiệm của tất cả Kitô hữu đã nghiêm túc tìm kiếm.
Trong một năm rưỡi vào cuối đời mình, Têrêsa tiếp tục làm việc để giới thiệu và bày tỏ học thuyết của Chị, nhằm truyền đạt lại bằng những lời lẽ thật súc tích nhưng cũng hết sức dễ hiểu. Do đó, chúng ta gặp thấy trong các bức thư của Chị tất cả những cách định nghĩa và mô tả thật trau chuốt mà trong đó Chị triển khai ý tưởng của mình về việc nên thánh. Các quan điểm của Chị đều hoàn toàn nhất quán: một “học thuyết” nhỏ. Học thuyết ấy có gì đó rất riêng: “con đường của con”, Chị nói, “cách thức của con”. Têrêsa nhận thấy là phải có một điều gì đó không bình thường, khác với dư luận chung của thời Chị đang sống. Bắt đầu từ Kinh Thánh, Têrêsa sẽ làm phong phú thêm hình ảnh mà Chị có về Thiên Chúa là Cha, đồng thời cũng hết sức hồn nhiên tô điểm cho hình ảnh ấy bằng chính kinh nghiệm bản thân về một người bố rất tốt lành và đầy cảm thông, ông Martin. Và hình ảnh về đứa con, mà Chị phác hoạ, phụ thuộc phần lớn vào tuổi thơ của Chị, rất gương mẫu và đầy sáng tạo. Đối với sự chú ý mà Têrêsa dồn vào Thiên Chúa là Cha như thế, chúng ta không thể suy diễn trong lòng sùng một của Chị là không quy Kitô. Đức Kitô luôn là trung tâm. Ngài là “Đức Phu Quân” của Chị, nhưng là một phu quân mặc lấy những thuộc tính rất là phụ tử. Và Têrêsa luôn là “hiền thê”, nhưng một hiền thê mà theo năm tháng, sẽ càng lúc càng trở như một người con. Nhiều yếu tố đã góp phần vào phát biểu rõ ràng và cách trình bày học thuyết của Têrêsa. Trước hết, đêm tối đau khổ thiêng liêng và, chẳng bao lâu, là đêm đen đau khổ thể lý của Chị. Đầy đau đớn, Chị phải bám vào những xác tín của niềm tin và những trực giác về niềm tin tưởng của mình, nuôi dưỡng chúng trong việc cầu nguyện và đồng hoá chúng một cách mãnh liệt hơn. Ở đây, cuộc sống đi sâu vào học thuyết. Kế đến, còn có hoạt động huấn luyện mà Chị được giao phó. Từ tháng 3 năm 1896, Chị có một bổn phận hoàn toàn như một giám tập - không danh nghĩa, vì chỉ thuộc về Mẹ Marie de Gonzague! - bên cạnh các nữ tu trẻ khao khát được giáo huấn. Têrêsa phải đồng hành và giúp đỡ họ, đưa ra cho họ những lời khuyên, trả lời những thắc mắc và cả những ý kiến bắt bẻ của họ nữa. Với họ, Têrêsa bày tỏ những xác tín sâu xa nhất của mình. Chị tìm các biểu tượng, các thí dụ, những hình ảnh minh hoạ, những giai thoại... Chị biết mình là người rao giảng Tin Mừng về con đường bé mọn của mình. Ngay cả bên ngoài bốn bức tường của đan viện, Chị cũng có các học trò! Chẳng hạn như cha Roulland, nhà truyền giáo mà Chị thường cầu nguyện và trao đổi thư từ. Chính là với vị này mà Chị bày tỏ rõ ràng nhất những tư tưởng của mình về sự hài hoà giữa lòng thương xót của Chúa và sự công chính của Ngài; bằng sự công chính, Thiên Chúa để ý đến sự mỏng giòn của chúng ta và từ đó Ngài trở nên đầy tình thương xót. Kế đến là chị Léonie, người ba lần tìm cách sống đời thánh hiến, nhưng cả ba lần đều thất bại. Léonie đang cần được động viên cách đặc biệt. Đây là kiểu mẫu điển hình về “linh hồn” nhỏ: yếu đuối, nhưng cũng đầy thiện cảm. Sau hết là đại chủng sinh Bellière, “người em tinh thần” đầu tiên của Têrêsa. Bellière còn trẻ, rất tình cảm, thậm chí còn đa cảm (thiếu sự giáo dục của người bố), chất chứa nhiều mặc cảm tội lỗi. Têrêsa hoàn toàn tin tưởng và có thể mở ra cho thầy chủng sinh trẻ ấy những khúc mắc trong học thuyết nhỏ của Chị. Những bức thư gởi Bellière, về điểm này, đều mang lại một toàn cảnh phong phú về tư tưởng của Têrêsa. Vào cuối đời Têrêsa, chúng ta thấy lớn lên nơi Chị ý thức ngôn sứ về việc phải thực thi một “sứ mệnh” đối với thế giới. Nhất là trong những buổi hỏi han mà các chị của Têrêsa thực hiện bên giường bệnh của Chị, Chị sẽ tỏ bày về chủ đề ấy.
Sau khi đã nghiên cứu sự gia tăng niềm tin tưởng của Têrêsa, chúng tôi muốn, bằng một cách khác, giải thích cấu trúc quan điểm của Chị. Những trực giác và trải nghiệm của Chị tương hợp với nhau như thế nào? Chúng ta có thể nói rằng, trong hoạt động thiêng liêng của Têrêsa, có hai sức mạnh hợp lưu với nhau. Trước hết, do bất lực không thể tự mình thực hiện được tình yêu hoàn thiện, Chị như đã xoay mình quay sang Chúa là Đấng mà “đối với Ngài, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). Điểm xuất phát là tiêu cực, kết quả thì lại tích cực. Đồng thời một sức mạnh thứ hai làm nổi rõ sức mạnh thứ nhất. Một vận động hướng tâm lôi kéo Têrêsa đến với Chúa như đến với trung tâm mới của mình. Bị quyến rũ bởi lòng thương xót của Thiên Chúa, Chị bị cuốn hút vào trong lĩnh vực riêng của Ngài. Ở đây, điểm xuất phát là tích cực, và kết quả nơi Têrêsa là một quên mình lớn lao hơn, để tái sinh trong Thiên Chúa.
Càng cảm nhận được cái chết đến gần, Têrêsa càng tự coi mình “yếu đuối” và “bất toàn” biết chừng nào. Chúng ta có nên cho rằng Chị đang thực sự tin như vậy, trong khi toàn thể những người chứng kiến đều đồng thanh ca tụng lòng trung thành của Chị? Trước hết, chúng ta hãy công nhận rằng những người chứng kiến ấy chỉ là khán giả. Là người ngoài cuộc, họ không thể lúc nào cũng thâm nhập được lãnh vực con tim người khác, nơi phẩm chất đạo đức của một hành vi đang được quyết định. Làm sao họ có thể dò thấu được những động cơ? Họ biết gì về những tình cảm ẩn giấu thâm sâu? Làm thế nào họ có thể đánh giá được mức độ kiên định trong việc đón nhận hồng ân? Đó là một địa hạt mà chỉ có Têrêsa và Chúa mới nắm bắt hoàn toàn. Chỉ có Chúa nhân lành mới thấu hiểu các tâm hồn, Chị viết. Cũng có những lỗi phạm xa xưa, không chủ ý, mà nơi nền tảng của chúng, người ta tìm thấy một căn nguyên không được thanh luyện. Ngoài ra, lương tâm tinh tế thuở ấu thời vẫn không ngừng phát triển nơi Têrêsa. Mỗi một lầm lỗi đều có âm hưởng của nó, ngay cả khi niềm vui sướng về lòng thương xót của Thiên Chúa trổi vượt hơn. Việc tin chắc rằng Thiên Chúa là Đấng hay cứu giúp không ngăn Chị nhân đôi sự mật thiết phi thường của Chị với Chúa bằng một sự kính cẩn hiến khi xảy ra đối với vẻ uy nghi của Ngài. Với sự tăng trưởng của Têrêsa trong việc nên thánh, thì khả năng nhạy bén đối với sự thiện và sự dữ càng gia tăng mãnh liệt. Thánh Gioan Thánh Giá đã giải thích, bằng những từ ngữ đầy xúc động, đêm giác quan xấu xa nào, đưa ngài lại gần Thiên Chúa, có thể tự tung tự tác trong một linh hồn. Dưới ánh sáng của Chúa, hạt bụi bé nhỏ nhất cũng trở nên rõ ràng. Từ lúc Têrêsa ngồi chung với những kẻ vô tín ngưỡng và tội lỗi nơi “bàn của các tội nhân”, trong lòng Chị cảm thấy liên đới với tất cả họ. Một buổi sáng, trong lúc đọc kinh Cáo Mình, Chị có cảm tưởng rõ ràng mình là một “Kẻ tội đồ lớn”. Dựa theo hình ảnh Chúa Giêsu bị đóng đinh, mà mười năm trước, đã thắp sáng trong Chị một khát khao tông đồ, giờ đây Chị viết: “Lạy Chúa, Chúa biết con yêu Chúa, nhưng xin Chúa hãy xót thương con, vì con là người tội lỗi”. Năm tháng trước lúc qua đời, Chị thú nhận với cha Bellière (lúc đó đang là đại chủng sinh): Ôi người anh em quý mến ơi! Xin thầy hãy tin con, Chúa nhân lành đã không ban cho thầy một người chị em có tâm hồn vĩ đại, mà là vô cùng hèn mọn và hết sức bất toàn. Những lời như vậy không phải nhằm gia tăng sự khiêm nhường hoặc che giấu mình đối với những người chung quanh. Têrêsa rất nghiêm túc khi nói về sự nghèo khó. Chị cưu mang con đường của mình một cách rõ ràng từ tình trạng bất toàn ấy, mà cùng với nhận thức về lòng Chúa thương xót, trở thành vùng đất màu mỡ cho niềm tin tưởng của Chị nẩy mầm. “Sự khiêm nhượng, chính là chân lý”, Chị nói theo người mang cùng tên như Chị và là bổng mạng của Chị, Têrêsa Avila. Điều này kích thích Chị nhìn thấy hết sức rõ ràng những việc kỳ diệu Chúa làm trong cuộc đời Chị đang bị các giới hạn giữ lại dưới mức lý tưởng. Bề ngoài, có thể chẳng có điều gì đáng chê trách Chị, nhưng bên trong, Chị nhìn chính mình bằng cái nhìn xuyên thấu và hoàn toàn được thanh luyện của một nữ thánh. Đừng cho rằng Têrêsa dạy người khác một con đường của lòng tin tưởng giữa tình trạng bất toàn của họ, mà không đích thân Chị chia sẻ tình trạng đó. Nếu Chị tiến bộ hơn những người khác, thì tất cả cũng đang cùng đi trên một con đường dẫn đến cùng một đỉnh núi. Dĩ nhiên là rất khích lệ khi, đến tận những tháng cuối đời của vị thánh nữ thành Lisieux, nghe Chị thú nhận tất cả những thiếu sót nhỏ nhoi của mình. Kể cả một chút nóng nảy trong lúc đau yếu - chỉ chốc lát thôi. Những dịp hy sinh nhỏ, Chị bỏ qua không nhắc đến. Và khi mà đức ái huynh đệ đã trở nên với Chị một bản tính thứ hai, thì Chị lại không mảy may để ý: Nói như vậy không phải là con không phạm phải sai lầm bao giờ. Ôi! Con vẫn quá bất toàn trong thực hành ấy... Nhưng tất cả nỗi buồn riêng tư về những vấp ngã của Chị đều được hoà tan trong niềm vui sướng vì sự thật: Mọi thụ tạo đều có thể nghiêng người xuống bên nó, thán phục nó, không ngớt khen ngợi nó, con không biết tại sao, nhưng việc đó chẳng hề đưa thêm một giọt nào cua thứ niềm vui giả tạo và trong niềm vui đích thực mà nó đang tận hưởng trong lòng, vì biết mình là gì dưới mắt Chúa Nhân Lành: chỉ là một sự hư không nhỏ nhoi tội nghiệp, ngoài ra chẳng có gì hơn nữa. Sự bất toàn ấy không phải chỉ là một dữ kiện. Nó, tát yếu, còn là một dữ kiện điều hoà bản tính con người nữa. Trong “Lễ Dâng Hiến cho Tình Yêu đầy tình thương xót của Chúa nhân lành”, Têrêsa khẳng định “mọi sự công chính của chúng ta đều có tì vết trước mắt Chúa” (Xh 64,5) và chị thực sự thấy trước rằng “do yếu đuối Chị sẽ có đôi lần sa ngã”. Chị viết: Không một đời sống con người nào được miễn trừ khỏi những lỗi lầm. Linh hồn thánh thiện nhất cũng sẽ chỉ hoàn thiện khi ở trên Trời. Quả thật: Người công chính sa ngã bảy lần mỗi ngày (Cn 24,16). Ba tháng trước khi qua đời, Têrêsa đưa ra một lời thú nhận thật ý nghĩa. Qua đó, chúng ta sẽ khám phá, như một tràn đầy hy vọng vào sức mạnh giải thoát của Thiên Chúa, một trực giác sâu xa về sự hoàn thiện gắn liền với mọi sự tăng trưởng của con người trong việc hướng về Chúa. Mỗi khi nhìn lại thời kỳ tập sinh là con thấy mình bất toàn biết bao... Con đã làm mình phải đau khổ vì những chuyện không đâu mà bây giờ con bật cười vì chúng. Chao ôi! Chúa thật nhân lành biết bao khi làm cho linh hồn con lớn lên, ban cho nó đôi cánh... Chắc chắn là thời gian sau đó con vẫn còn đầy những bất toàn, như bây giờ thì con chẳng ngạc nhiên chút nào nữa, thậm chí còn không lấy làm khổ tâm khi thấy mình là kẻ yếu đuối, trái lại, con còn cảm thấy tự hào về điều này (1Cr 12,5) và hằng ngày chờ đợi khám phá những bất toàn mới ở trong con.
Một cách khác nữa, ngay cả với những ước ao vô tận của mình, Têrêsa cũng đối chiếu cách sâu sắc với sự bất toàn của Chị. Yêu: hoàn toàn, không giới hạn, một cách vô tận, đã từng và đang là giấc mơ của cô gái trẻ ấy. Bằng mục đích đó, Chị đã trở nên nghèo khó, chuyên tâm cầu nguyện, tỉnh thức, trở nên sinh động bởi một ý thức thâm sâu về Đấng Vô Cùng. Ngày tuyên khấn, Chị cầu xin “tình yêu bất tận không có giới hạn nào khác ngoài Ngài... Tình yêu không còn là con nữa, nhưng là Ngài, ôi Giêsu yêu dấu”. Trong Lễ Dâng Hiến cho Tình Yêu, Chị nài xin “tình yêu hoàn hảo”, “cuộc tuẫn đạo vì tình yêu”. Thủ bản B nói về “sự sung mãn tình yêu”, và mười lần nhắc đến sự “điên rồ” của tình yêu ấy. Trong khi yêu, Têrêsa khám phá tất cả những khả năng tích cực được chôn giấu tận sâu trong tâm hồn con người. Chị ngây ngất với hương vị của việc yêu mến! Nơi mỗi hành vi tình yêu, Chị cảm thấy dậy lên trong lòng một lời kêu gọi: “nữa”, “nhiều hơn nữa đi!” Khả năng yêu của Chị không ngừng tăng lên. Con hạnh phúc khi thấy rằng, trong lúc yêu mến Ngài, trái tim trưởng thành lên và có thể mang lại một cách độc đáo nhiều tình âm yếm hơn nữa cho những kẻ thân yêu của nó, nó không tập trung vào một thứ tình yêu ích kỷ và vô ích. Khi hiến mình cho Chúa, trái tim không đánh mất sự âu yếm tự nhiên của nó, ngược lại, sự âu yếm ấy gia tăng bằng cách trở nên nguyên tuyền và linh thánh hơn. Mỗi thoả mãn yêu đương mang lại một khát khao mới. Tình Yêu Ngài là tuẫn đạo của riêng con Càng cảm thấy bừng trong con ngọn Lửa Linh hồn con càng ao ước được yêu Ngài... Xuyên suốt cuộc sống tình yêu của Chị, có khắc ghi niềm ước ao yêu mến Đấng Tình Quân như Ngài đáng được yêu, như Ngài thực sự xứng đáng, trong một đáp trả cân xứng với tình yêu mà Chị được yêu, sự cho đi ngang bằng với việc nhận lại. Têrêsa, người tình tha thiết, muốn yêu Chúa như Chúa yêu Chị. Thế nhưng, Chị thú nhận trong việc ấy có một thất bại khôn cùng - dẫu là rất thánh! Chúa vẫn không bao giờ được yêu mến ngang mức Ngài yêu mến chúng ta! Ngài sẽ luôn yêu chúng ta trước hết và yêu nhiều nhất. Luôn bị đánh bại và cứ mãi ở trong giấc mơ của mình, tình yêu phải thú nhận: “Thiên Chúa cao cả hơn lòng chúng ta” (1Ga 3,20). Thế nhưng, tình yêu không thể không khao khát sự cân xứng ấy. Thánh Gioan Thánh Giá nói rằng linh hồn ước ao “yêu mến Thiên Chúa cách tinh tuyền và hoàn hảo như cách Ngài đã yêu mến nó, ngõ hầu đáp lại tình Ngài... Điều mà nó hằng khao khát cả về mặt tự nhiên lẫn siêu nhiên. Thật vậy, một kẻ đang yêu chỉ có thể hài lòng khi cảm thấy mình cũng yêu nhiều như là mình được yêu” Mục tiêu của Têrêsa là trở thành một kênh dẫn mà qua đó tình yêu Thiên Chúa có thể chảy ngược lại với Ngài qua chúng ta. Nhưng làm thế nào để kênh dẫn ấy đủ rộng để tình yêu vô biên vô tận kia có thể chảy qua được? Và nếu người ta phạm những sai lầm thực sự, những tội lỗi thực sự: chẳng phải đó là những thứ làm trì trệ, làm giảm thiểu tình yêu sao? Dần dà Têrêsa sẽ khám phá một cách nghiệt ngã rằng chúng ta sẽ chẳng bao giờ yêu được Thiên Chúa như Ngài yêu chúng ta. Chúng ta vẫn luôn bị bỏ xa và phải nhìn nhận sự bất lực của tình yêu chúng ta. Vào những ngày cuối cuộc đời mình, vị nữ thánh sẽ phải đưa ra một thú nhận khiến người ta xúc động: Tình yêu của Chúa đã sớm đến với con từ thuở con còn thơ ấu, đã lớn lên cùng với con, và bây giờ nó đã trở thành một vực thẳm mà con chẳng thể nào dò thấu. Tình yêu lôi kéo tình yêu, vì thế, lạy Chúa Giêsu, tình yêu của con lao đến với Chúa, nó muốn lấp đầy vực thẳm lôi kéo nó, nhưng hỡi ôi! Nó còn nhỏ bé hơn cả giọt sương tan biến vào lòng biển cả!... Để yêu Chúa như Chúa yêu con, con phải mượn chính tình yêu của Chúa, chỉ lúc ấy con mới tìm được sự an nghỉ. Đến đây, có ba kết luận cần đưa ra: 1. Tình yêu của chúng ta cơ bản được kêu gọi để cho tình yêu lớn hơn của Thiên Chúa chiến thắng. Lần hồi nó có thể làm cho nổi bật lên rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta một cách hào phóng, yêu chúng ta trước hết, yêu chúng ta nhiều hơn, yêu chúng ta một cách nhân hậu. 2. Con người phải thực sự chấp nhận: những gì mình đang là, những gì mình có thể trở nên, không hơn không kém; nhìn nhận sự yếu kém không thể tránh khỏi của mình. Đức khiêm nhường là một yếu tố nền tảng đối với con đường của Têrêsa. 3. Tự thân tình yêu sẽ không bao giờ đến được nơi nó muốn đến. Ngay cả không bao giờ thất bại, nó cũng không thể trả được cho Chúa bằng cùng một giá của tình yêu. Chúng ta luôn là những con nợ. Từ đó mới phát sinh tầm quan trọng của lòng cậy trông. Chỉ còn mỗi việc, đó là cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin hãy làm lớn lên trong con tình yêu của chính Chúa. Hãy bổ sung nơi con tất cả những gì còn khiếm khuyết trong tình yêu của con đối với Chúa. Xin hãy đổ đầy đôi bàn tay trống rỗng của con, xin ban trái tim Chúa cho con”. Đó là chuyển động nội tâm mà chúng ta đã gặp vào những thời khắc gay go trong cuộc hành trình của Têrêsa: lúc khám phá “con đường bé mọn” của Chị (1894), lúc thực hiện hành vi Dâng Hiến (1985), trong Thủ bản B (1896). Chúng ta phát hiện chuyển động ấy trong mọi lãnh vực đời sống của Chị. Nhiều lần, trong các bài thơ của Chị, Têrêsa nói về niềm cậy trông của mình, bằng cách nhấn mạnh. Ôi! Để yêu Ngài, xin trao con ngàn vạn các linh hồn Nhưng vẫn còn quá ít, ôi Giuse, Hoàn Mỹ tuyệt vời Hãy trao con cả Trái Tim để con được yêu Ngài mãi. Và chỗ khác nữa: Ôi Giêsu, chính tình yêu của Chúa mà con kêu xin Chính tình yêu của Ngài phải biến đổi con Xin hãy đặt ngọn lửa thiêu đốt của Chúa trong trái tim con Và con có thể chúc tụng và yêu mến Ngài Vâng con sẽ có thể yêu Chúa như người ta yêu Và chúc tụng Chúa như người ta làm trên Thiên Quốc Con sẽ yêu Chúa bằng chính tình yêu Mà Chúa đã yêu con, Ôi Giêsu Ngôi Lời Vĩnh Cửu. Bằng tất cả niềm hăng say của mình, tình yêu có thể vươn lên tới Chúa , “Đấng làm cho lớn lên!” (1Cr 3,7). Bấp chấp mọi tưởng tượng không thể tưởng tượng nổi, con người chỉ có thể hy vọng, với đầy lòng tin tưởng, chính Thiên Chúa sẽ cho họ đạt đến mức giống vớ Ngài ở mức cao nhất, đạt đến sự dự phần lớn nhất vào Tình Yêu hoàn hảo của Ngài.
Quả thật, sẽ không bao giờ người ta yêu đủ; nhưng Chúa nhân lành, Đấng biết Ngài đã nhào nặn chúng ta bằng thứ bùn đất nào và yêu thương chúng ta hơn một người mẹ có thể yêu thương con mình, đã nói với chúng ta, Ngài không nói dối bao giờ, rằng Ngài sẽ không xua đuổi những ai chạy đến với Ngài... Chân phước Charles de Foucauld đã viết như vậy cho bà Bondy vào ngày cuối đời của ngài... Bị hấp dẫn bởi Lòng Thương Xót Têrêsa, người bé mọn, chịu thử thách, thấy mình đứng trước một trải nghiệm đầy sung sướng: Ôi lạy Chúa Giêsu, đây có thể chỉ là một ảo tưởng, nhưng với con dường như Chúa không thể đổ đầy cho một linh hồn nào, tình yêu lớn hơn tình yêu mà Chúa đã đổ đầy trong linh hồn con;... đang khi còn ở dưới thế này, con không thể tưởng tượng nổi có một tình yêu nào bao la vô tận hơn tình yêu Chúa đã hào phóng ban cho con một cách vô tư, chẳng cần con phải có chút công trạng nào (Rm 3,24). Trong một bó lúa, Chị chọn lấy bông lúa đẹp nhất và nói: Bông lúa này là hình ảnh linh hồn con: Chúa nhân lành đã đổ đầy hồng ân cho con vì con và vì nhiều người khác nữa. Và trải nghiệm làm sáng tỏ cái nhìn của Chị về Thiên Chúa - cái nhìn hết sức phù hợp với tất cả những gì Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta - và dạy Chị biết về những gì Chúa muốn nơi Chị: Con hiểu rằng tất cả các linh hồn đều không thể giống hệt nhau, phải có những gia đình khác nhau để tôn vinh cách đặc biệt từng sự hoàn thiện của Chúa Nhân Lành. Phần con, Ngài đã ban cho con Lòng Thương Xót bất tận của Ngài và chính là qua tình thương xót ấy mà con chiêm ngưỡng và tôn thờ những sự hoàn thiện khác của Chúa!... Bấy giờ, đối với con, tất cả mọi hoàn thiện đều toả sáng tình yêu, ngay cả Đức Công Chính (có khi còn hơn cả những đức khác) đối với con cũng chan chứa tình yêu... Thật là cả một niềm vui sướng ngọt ngào khi nghĩ rằng Chúa Nhân Lành là Đấng Công Chính, nghĩa là Ngài thấy những yếu đuối của chúng ta, hoàn toàn biết rõ sự mỏng giòn của bản tính chúng ta. Vậy con còn lo sợ điều gì nữa đây? Từ đó về sau, Kinh Thánh ngời sáng lòng nhân lành ấy của Thiên Chúa! Trong sách Thánh vịnh, các Thánh vịnh 23 (Chúa là Mục Tử) và 103 (Hồn ta hỡi, hãy chúc tụng Chúa) có vẻ như là hai Thánh vịnh được Têrêsa yêu thích hơn cả. Lúc này Chị hiểu rõ hơn rát nhiều những gì mình viết lúc mới bắt đầu sống đời thánh hiến: Giêsu là đức vua cầu hôn cô thôn nữ hèn mọn! Bằng tình yêu mà Chị dừng lại ở tình yêu cao cả đầy bao dung của Thiên Chúa được hiến trao qua nhân tính Đức Giêsu: bằng cuộc sống, cái chết, sự phục sinh, sự hiện diện của Ngài trong Thánh Thể... Chị thấm nhuần mầu nhiệm Vượt Qua biết bao: Đức Giêsu đang sống động, Ngài đang gần gũi với chúng ta, đang làm cho chúng ta sống lại! Con hiểu và nghiệm thấy “Nước Thiên Chúa đang ở trong chúng ta” (Lc 17,21). Giêsu chẳng cần bất cứ cuốn sách hay tiến sĩ nào để dạy dỗ các linh hồn, Ngài chính là Tiến Sĩ của mọi tiến sĩ và Ngài giáo huấn mà chẳng cần đến lời nói văn hoa bóng bẩy của người đời... Chẳng bao giờ nghe thấy Ngài nói, nhưng con cảm nhận được Ngài đang ở trong con, Ngài hướng dẫn con từng giây phút, gợi lên cho con những gì phải nói hoặc phải làm. Con để ý thấy biết bao lần Giêsu không muốn ban cho con những của dự phòng, Ngài nuôi dưỡng con từng lúc bằng một thứ lương thực hoàn toàn mới mẻ, con gặp thấy nó trong mình nhưng không biết làm thế nào mà nó lại ở đấy được... Con chỉ tin một cách đơn sơ rằng chính Ngài, ẩn mình tận trong đáy sâu con tim nhỏ bé tội nghiệp của con, đang ban cho con ơn hệ được chính Ngài hoạt động trong con và làm cho con nghĩ đến tất cả những gì Ngài muốn con thực hiện trong giây phút hiện tại. Hơn bao giờ hết, con hiểu rằng những biến cố dù nhỏ nhất trong cuộc đời chúng ta cũng đều dẫn đến với Chúa, chính Ngài làm cho chúng ta ước ao và mãn nguyện... Têrêsa nhắc lại lời thánh Phaolô: “Vì chính Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của anh em” (Pl 2,13). Ý chí, ơn ban ấy của Thiên Chúa từ lâu đã sống động nơi Têrêsa. Hành động, ơn này của Chúa đang được Chị chờ đợi từng ngày. Và “hành động” bằng cách nào? Toàn bộ chương trình của Chị đều nằm trong cuốn sách gối đầu giường của Chị, sách Tin Mừng. Con đường của con là tin yêu trọn vẹn, con không hiểu nổi những linh hồn cứ mãi lo sợ trước một tình bạn thiết tha đến thế. Thỉnh thoảng trong lúc đọc một vài khảo luận về thiêng liêng trong đó sự hoàn thiện được chứng minh qua hàng ngàn điều trăn trở, bị bao vây bởi hàng loạt ảo tưởng, tâm trí nhỏ hẹp đáng thương của con rất nhanh chóng bị mệt mỏi, con đóng cuốn sách thông thái đang khiến cho đầu óc con muốn vỡ tung ấy lại và gạt hết mọi sự khỏi lòng mình rồi cầm lấy Thánh Kinh. Bấy giờ mọi sự với con có vẻ ngời sáng lên, chỉ một lời thôi cũng đủ làm cho tâm hồn con khám phá ra những chân trời vô tận, sự hoàn thiện đối với con dường như dễ dàng hơn, con thấy chỉ cần nhìn nhận sự hư vô của mình và phó thác vào tay Chúa Nhân Lành như một trẻ thơ là đủ. Bởi lẽ, sau đó, trong lúc đọc Tin Mừng, Têrêsa đã bị đánh động bởi lòng thương xót của Thiên Chúa được bày tỏ cho chúng ta nơi Đức Giêsu. Chỉ cần đưa mắt nhìn vào sách Tin Mừng là con liền được hít thở những hương thơm cuộc đời Chúa Giêsu và biết phải chạy về hướng nào ngay... K, phải chỗ trước hết, nhưng là chỗ rốt cùng (Lc 14,10) mà con lao mình tới, thay vì chen mình ra trước như người pharisêu (Lc 18,3), con lặp lại, lòng đầy tin tưởng, lời cầu nguyện khiêm cung của người thu thuế, nhưng trước tiên, con bắt chước cách cư xử của Mađalêna (Lc 7,16-18), sự táo bạo lạ lùng, hay đúng hơn là sự táo bạo đầy yêu thương của vị Thánh Nữ làm ngây ngất Trái Tim Chúa Giêsu, quyến rũ trái tim con. Vâng, con cảm nhận được điều đó, cả khi tất cả mọi tội lỗi có thể phạm đè nặng trên trái tim con, con sẽ với tấm lòng tan nát vì ăn năn mà lao vào vòng tay Chúa Giêsu, bởi vì con biết rõ Ngài yêu dấu đứa con hoang đàng biết bao (Lc 15,20-24) khi nó quay về với Ngài. Nhiều lần Chị trích dẫn lời Chúa Giêsu: “Không phải những người khoẻ mạnh cần đến thầy thuốc, mà là những kẻ ốm đau... Tôi không đến để kêu gọi người công chính mà để kêu gọi kẻ tội lỗi” (Mt 9,12-13). Như một âm vang từ đoạn nói về con chiên lạc, lời khuyên này vang lên với Céline: ... Đừng sợ, con càng khốn đốn, thì Giêsu lại càng yêu thương con hơn; nếu đôi lúc con có lạc đường đôi chút, Ngài sẽ đi xa, thật xa để tìm con.
Giêsu còn hãnh diện hơn nữa về những gì Ngài đã làm trong tâm hồn chị ấy (Céline), bằng sự bé mọn, sự nghèo khốn của chị ấy, hơn là hãnh diện về việc đã tạo dựng nên triệu triệu mặt trời và các tầng trời vô tận! Chúa Giêsu giống với Chúa Cha! Vị “Cha”, như Ngài đã dạy chúng ta đọc, là điều làm cho Têrêsa tràn trề vui sướng. Một hôm, Céline đến chỗ Têrêsa, lúc đó Têrêsa tuy đang khâu vá nhưng lại rất tĩnht âm. - Em đang nghĩ gì vậy? - Céline hỏi. - Em đang suy niệm về kinh Lạy Cha - Têrêsa đáp. Thật quá ngọt ngào khi được gọi Chúa nhân lành là Cha chúng con! Và những giọt lệ long lanh trên đôi mắt Chị. Ba hình ảnh Ba hình ảnh có thể minh hoạ cách Têrêsa trải qua sự lớn lên của Chị trên đường nên thánh. Một cất cánh bay vào không gian Hình ảnh đầu tiên là hình ảnh về một vũ trụ giãn nở. Bằng cách so sánh Thiên Chúa với bầu trời vũ trụ, chúng ta có thể nói rằng con người, nhờ tình yêu (bởi vì Thiên Chúa là tình yêu), được cho phép thâm nhập vào trong bầu trời vũ trụ ấy. Nhưng càng yêu mến và càng thâm nhập sâu hơn nữa vào trong Thiên Chúa, thì dường như, với họ, vũ trụ của Thiên Chúa càng rộng mở ra hơn. Đúng vậy, trước mắt con người yêu mến Thiên Chúa nhiều hơn, thì Thiên Chúa càng lúc càng trở nên đáng yêu hơn. Càng chiếm hữu được Thiên Chúa, người ấy càng ý thức Thiên Chúa vuột ra khỏi họ hơn nữa. Nhờ ân sủng, con người được ở trong sự sống của Thiên Chúa, được dự phần với Ngài và đồng thời ước ao được chiếm hữu Ngài hơn. Như vậy bầu trời vũ trụ luôn lớn thêm lên. Bởi tình yêu càng lúc càng gia tăng mà con người tiến về trung tâm của Thiên Chúa, luôn sâu thẳm hơn, nhưng bởi sức giãn nở của vũ trụ linh thánh, sự thâm sâu của Thiên Chúa, cách nào đó, cách nhanh chóng rời xa con người: Deus intimior intimo meo, altior summo meo, “Thiên Chúa hiện diện với tôi còn mật thiết hơn tôi hiện diện với chính mình, nhưng Ngài cao cả hơn điều cao cả nhất trong tôi”. Mọi so sánh đều khập khễnh. So sánh của chúng ta đây cũng vậy, bởi lẽ Thiên Chúa không có “trung tâm”. Khi người ta sống tình yêu của Thiên Chúa, người ta ở trong Thiên Chúa, Đấng không thể phân chia. Nhưng điều chính yếu trong so sánh của chúng ta ý nói rằng, nhờ bởi tình yêu càng lúc càng lớn dần mà với nó, Thiên Chúa tự thông ban chính Ngài cho chúng ta, chúng ta càng lúc càng ý thức được Ngài có thể được yêu mến nhiều hơn nữa và Ngài phải như vậy. tình yêu là một chuyển động thường hằng, không bao giờ kết thúc. Đó là một exodus sine fine, một kiểu không ngừng ra khỏi bản thân. Nhưng trong chừng mực mà tình yêu lớn lao hơn ấy vuột khỏi chúng ta, thì sự thánh thiện được ban cho chúng ta như là một lý tưởng. Trước sự bất lực của chúng ta không thể yêu mến Thiên Chúa một cách xứng đáng trên trần gian này, ngay cả khi người ta khai thác được hết mọi cơ hội để yêu, thì lúc bấy giờ chỉ còn việc cầu xin Thiên Chúa làm cho điều không thể trở thành có thể và thông ban chính Ngài ngay lập tức và trọn vẹn cho người đang yêu. Và mặc dầu người đang yêu ấy biết là cách thức thông ban trọn vẹn như thế sẽ chỉ được tỏ lộ rõ ràng trên Thiên Đàng, họ vẫn không thể buộc mình không cầu xin. Và khi Thiên Chúa dường như chuẩn nhận lời cầu xin của họ và đưa họ vào sâu hơn nữa trong Ngài, thì tuy có vẻ khoảng cách được rút ngắn, nhưng bi kịch của lòng ước ao lại chỉ trở nên mãnh liệt hơn mà thôi. Như vậy, không có điểm dừng: càng yêu, Têrêsa càng muốn yêu thêm. Nếu đã có như vậy trong một tình yêu lý tưởng của con người, thì sao có thể khác đi được trong một tình bạn lý tưởng với Thiên Chúa? Với nụ cười trên môi, Têrêsa so sánh những quan niệm của Chị về sự nên thánh lúc mới mười bốn tuổi với những quan điểm vào lúc đã là Kitô hữu trưởng thành: (Từ lúc bắt đầu đời sống thiêng liêng, khoảng từ 13 đến 14 tuổi, con đã tự hỏi sau này mình sẽ gặt hái được những gì, bởi lẽ con tưởng là sẽ không thể hiểu rõ được sự hoàn thiện hơn nữa, con rất nhanh chóng nhận ra rằng càng tiến bộ trên con đường ấy, người ta càng thấy mình rời xa mục đích, vì thế mà giờ đây con phải cam chịu thấy mình luôn bất toàn và con đã vui mừng vì điều đó...). Càng đến gần, Chị càng phát hiện mình ở xa mục đích! Do đó Chị sẽ chẳng bao giờ yêu bằng tình yêu cuối cùng của mình. Tình yêu hiện tại của Chị không bắt kịp những ước mơ của Chị. Mỗi lần như thế, tình yêu của Chị phải trở thành niềm cậy trông vào Thiên Chúa.
Hình ảnh thứ hai là hình ảnh về một con đường mòn khúc khuỷu trên núi. Kinh nghiệm du lịch dạy chúng ta biết có một số ảo giác - và những hứng khởi như thế nào - có thể xảy đến trong việc leo núi. Người ta nhìn thấy một đỉnh núi và nghĩ: chúng ta hãy lên trên ấy. Và khi đã lên đến nơi, người ta lại nhìn thấy một đỉnh khác cao hơn. Thế là càng lúc càng đi lên cao, cho đến khi người ta lên đến đỉnh cuối cùng. Ta có thể áp dụng hình ảnh này vào sự tăng tiến của con người trong việc tiến đến với Thiên Chúa, duy chỉ có sự khác biệt là trong cuộc hành trình đến với Chúa, không có đỉnh cao cuối cùng. Tình yêu đích thực luôn nhìn thấy trước mắt mình nổi lên một đỉnh cao mới. Thiên Chúa luôn “xa hơn”. Yêu Thiên Chúa “giống” như Thiên Chúa yêu chúng ta xem ra chỉ là một giấc mơ, một thực tại không bao giờ đạt tới được, và luôn ở ngoài tầm tay, bởi vì con người chẳng bao giờ “trở thành” Thiên Chúa, họ chỉ được tạo thành theo “hình ảnh” của Ngài (St 1,26), điều đó kéo theo sự dự phần nhưng vẫn có khác biệt, sự hiệp nhất nhưng vẫn có khoảng cách. Tình yêu thật quảng đại, nó phải nhìn hận không thể leo lên đủ cao và phải cầu xin Thiên Chúa, từ trên đỉnh cao nhất, để Ngài “bước xuống” và mang chúng ta lên. Ở đây chúng ta gặp lại phúng dụ của Têrêsa về chú chim nhỏ và chim đại bàng. Nơi đại bàng, người ta có thể nhìn thấy “đôi mắt và quả tim”, sự sáng suốt và sự điên rồi của tình yêu, nhưng không thấy “đôi cánh” : do không thể bay, nên đại bàng phải đi xuống và mang chú chim nhỏ lên. Têrêsa cũng sẽ nói về “đôi cánh tay của Giêsu” mà sẽ làm thành “chiếc thang máy” đưa lên tới đỉnh. Tình yêu thánh thiện nhất vẫn không đủ để yêu mến Thiên Chúa như Ngài đáng được yêu mến. Rõ ràng, sự thánh thiện sẽ giúp nó trải nghiệm điều đó. Cũng như nó sẽ phải chấp nhận bản chất yếu đuối của mình và học cách trông cậy Chúa bổ sung cho sự bất lực của nó bằng việc cho đi chính mình. Niềm trông cậy như thế không có điểm dừng, nhưng càng lúc càng lớn lên thêm! Trông cậy, chính là tình yêu bắt đầu trổ bông. Không còn trông cậy thì sẽ bót ngạt nó. Thánh Gioan Thánh Giá nói rằng, tình yêu có thể khước từ tất cả đối với Đấng Phu Quân, trừ một ước ao được lớn lên, chiếm hữu và yêu mến Ngài hơn nữa. Để được nên đồng hình đồng dạng với Người Yêu Dấu, linh hồn say đắm Ngài không thể nào thôi mong ước Người Yêu Dấu ân thưởng và đáp đền cho tình yêu nó đã yêu mến Ngài và phục vụ Ngài. Nếu không, đó chẳng phải là tình yêu đích thực. Bởi lẽ tiền công và tiền thưởng cho tình yêu chẳng gì khác hơn là được yêu mến hơn nữa cho tới khi đạt tới tình yêu trọn hảo. Linh hồn chẳng ước mong gì hơn thế, bởi lẽ tình yêu chỉ có thể trả bằng chính tình yêu. [...] Linh hồn đang yêu mến không chờ cho nỗi nhọc nhằn chấm dứt nhưng chờ cho xong công việc vì công việc của nó là yêu. Linh hồn ấy chờ mong sự kết thúc và đỉnh điểm của tình yêu, tức là chờ mong sự hoàn thành và mức tuyệt hảo của việc yêu mến Thiên Chúa. Như vậy, niềm cậy trông không phải là sự suy thoái của một hiến dâng vô vị lợi cho một đòi hỏi vị lợi đối với bản thân. Lợi ích duy nhất của nó là trở nên vô vị lợi hơn bằng cách có thể hiến mình đi hơn nữa. Nó giống một thân cây nẩy mầm trên mảnh đất tình yêu và mang trong mình nó toàn bộ nhựa sống từ đất mùn tình yêu ấy. Hoàn toàn thấm đượm tình yêu mà từ đó nó được sinh ra, nó là một biểu hiện mạnh mẽ hơn về tình yêu mà nó muốn dẫn lên một mức cao hơn. Cũng vậy, nơi Têrêsa trải nghiệm tràn trề tình yêu, còn xuất hiện trong thuật ngữ riêng của Chị: Chị gọi là “Cha”, Đấng mà Chị đặt hết hy vọng vào đó và hành xử đối với Ngài “như một đứa con”. Têrêsa thường sử dụng không phân biệt các từ ngữ trông cậy, tin tưởng và phó thác. Phần lớn thời gian Chị gọi niềm trông cậy của Chị là “tin tưởng”. Từ ngữ diễn tả một tính chất rõ nét về sự mật thiết và một xác tín lớn hơn về việc được chuẩn nhận. Têrêsa ký thác mình vào sự trung tín của Thiên Chúa, đặt nền tảng trên tình yêu của Ngài, hiến mình làm vật thế chấp cho “lòng từ bi” (Tt 3,4) của Thiên Chúa, đánh cuộc dựa trên lòng nhân hậu của Ngài. Niềm tin tưởng của Chị vốn đã là một sự biết ơn trước và một lời kinh chúc tụng. Nó cũng chứa đựng một chờ đợi dành cho tha nhân, mà Chị có thể yêu mến hơn khi tình yêu của Chị lớn hơn nữa. Niềm tin tưởng của Têrêsa cầu nguyện: “Con trông cậy Chúa từ chính Chúa, vì Chúa và vì toàn thể nhân loại”. Niềm tin tưởng của Chị không được sống như một an toàn tuyệt đối đối với tương lai, cùng với sự đau khổ và bóng tối mà nó có thể gây ra. Đã hẳn, Chị mang lại một “sự bảo đảm đầy hân hoan”, nhưng Chị sẽ phải luôn được che chở, vì vẫn chưa có được sự chuẩn nhận. Sự tin tưởng không thể suy yếu dưới những tấn công của sự chậm chạp và những ngập ngừng của chúng ta mà lúc nào cũng muốn giới thiệu cho chúng ta niềm trông cậy như là một điều không tưởng. Bởi chưng, quả thật, lòng tin tưởng luôn hệ tại việc “vẫn hy vọng mặc dù không còn gì để hy vọng” (Rm 4,18). Một cách tích cực, nó sẽ là nguồn mạch sự sống năng động làm cho chúng ta từ bỏ chính mình, xé toang những giới hạn trong hiện tại và mở chúng ta ra với tương lai. Lòng tin tưởng đòi hỏi phải tách ra khỏi “cái hôm nay khép kín” và từ bỏ chính mình. Nhờ lòng tin tưởng, chúng ta có thể trở nên con người mới mà chúng ta muốn trở nên, nhưng chiến đấu với con người cũ mà chúng ta vẫn đang là và không sẵn lòng từ bỏ. Người ta thường gọi Têrêsa là “vị thánh của tình yêu”. Có lẽ người ta có thể nói chính xác hơn: vị thánh của “siêu tình yêu” - nếu có thể nói như vậy -, nghĩa là của niềm cậy trông mà, vượt quá một dâng hiến, tất nhiên là vậy rồi, nhưng bị giới hạn và tạm thời, khao khát một sự cho đi lớn hơn, vô hạn hơn, dứt khoát hơn: tình yêu như thế chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể cống hiến cho Têrêsa được. Tình yêu của Chị khước từ ở yên trong những gì đang là và kêu xin Thiên Chúa ban cho cái “chưa có” nơi bản thể của Chị. Tình yêu ấy luôn ý thức mình đang trong cuộc hành trình và suy nghĩ làm sao để có thể trở nên “tình yêu” hơn nữa. *** Niềm tin tưởng của Têrêsa là tổng hợp của cả cuộc sống hướng thần: phát xuất từ niềm tin và lòng nhân lành của Thiên Chúa, được chở đi bởi dòng sông hy vọng, đổ vào Tình Yêu mà Chị muốn hoà tan vào đó một cách mãnh liệt hơn. Thánh Ambrôsiô nói rằng, giữa tình yêu và đức trông cậy có một sacer circuitus, một chu trình thánh. Tình yêu mang lại niềm trông cậy. Niềm trông cậy làm cho yêu hơn nữa. Một tình yêu tha thiết hơn thì đưa đến một trông cậy mới. Một trông cậy mới vừa là sự biểu lộ tình yêu, vừa nài xin Thiên Chúa làm cho trở nên phong phú. Như vậy, trong cuộc sống, người ta đi từ trông cậy này sang trông cậy khác trong tình yêu, không ngừng vượt qua những đỉnh cao mới - cho đến ngày kết hiệp với Chúa trong thị kiến rõ ràng về thiên đàng, sau cuộc hành trình dài trên “con đường bé mọn”. Ngày trong niềm trông cậy, Thiên Chúa đã nhậm lời chúng ta rồi. Khi ngước mắt nhìn lên Ngài, tôi đã ý thức mạnh mẽ về lòng nhân lành tuyệt diệu của Ngài và tôi học cách thích nghi tốt hơn với mức độ của Ngài và những đòi hỏi của Ngài giúp cho trở nên cao quý. Lúc ấy, Thần Khí Ngài hoạt động bằng cách mời gọi tôi đến với sự quả cảm và sức mạnh mà Ngài ban cho. Có thể phải mất hàng năm trời người ta mới dần dà thấy có gì đó thay đổi..., sự bình an lặng lẽ được ban tặng, ý chí ngay lành gần như không biết mệt mỏi để bắt đầu lại, niềm vui vì cảm nhận Thiên Chúa là Cha, niềm xác tín những lầm lỡ và khiếm khuyết của chúng ta, nếu được thú nhận, chỉ là giọt nước rơi vào lò than hồng của tình yêu Thiên Chúa. Bất chấp sự nghèo khó của mình, vâng, nhờ nó, mà ai luôn giữ lòng tin tưởng thì càng trở nên “thuộc về Chúa” hơn. Nhược bằng không, họ sẽ được như vậy vào giờ của Chúa... Có thể, sau thời gian trông cậy hết sức lâu dài, Thiên Chúa sẽ cho bừng nở trong cuộc đời người ấy, như trong cuộc đời Têrêsa, những “hồng ân ngày lễ Giáng Sinh” nho nhỏ. Tuy nhiên, Têrêsa biết sự sống thần linh có thể ẩn giấu dưới bề mặt tâm lý và tính khí con người như thế nào. Một số người gần với Thiên Chúa hơn, nhưng những rối loạn và ức chế của họ không để lộ ra điều đó. Điều mà trước mắt chúng ta có vẻ chểnh mảng - Têrêsa nói - thì dưới mắt Thiên Chúa lại thường là chủ nghĩa anh hùng. Và Céline được báo trước về điều đó: Đến ngày sau hết, chị sẽ ngạc nhiên khi thấy các chị em của chị được giải thoát khỏi mọi bất toàn của họ và xuất hiện trước mắt chị như là những nữ thánh vĩ đại. Hiện giờ những “kẻ bé mọn” ấy không được ca ngợi và cũng chẳng có gì để khoe khoang, nhưng dưới mắt Chúa họ đều vĩ đại, bởi lẽ, trong sự nghèo hèn của họ, họ đầy niềm cậy trông. Tình yêu hoặc niềm trông cậy: cái nào sẽ có tiếng nói quyết định? Một cách ngẫu nhiên, cả ba Thủ bản của Têrêsa đều kết thúc bằng chứ “tình yêu”; chí ít thì chúng ta cũng có thể kết luận là Têrêsa lúc nào cũng có ý tưởng! Nhưng rốt cuộc Chị có nghĩ đến việc thực hiện và hoàn thành tình yêu ấy không? Hoặc chỉ nghĩ đến lý tưởng và, như vậy, nghĩ đến niềm hy vọng thôi? Trên đời, tiếng nói quyết định có thể là sự hy vọng. Bởi vì tình yêu đúng nghĩa, tự bản chất dẫn đến chỗ mong muốn nhiều hơn. Hy vọng, chính là tình yêu đang khao khát. Nó là tình yêu, đứng trên mái nhà, vươn hai tay lên trời để nài xin. Bằng hy vọng, tình yêu vươn ra khỏi tầm vóc của nó và lớn lên. Theo nghĩa này mà Têrêsa xác định con đường của Chị được làm nên bởi “niềm tin tưởng đầy yêu mến” : tin tưởng là thể từ diễn tả cái cốt lõi, tình yêu là tính từ chỉ ra sắc thái. Khi người ta hỏi Têrêsa bản chất con đường của Chị là gì, Chị trả lời: “Đó là con đường của tin tưởng và phó thác hoàn toàn”. Theo nghĩa nào đó, người ta có thể nói hy vọng chỉ là tiếng nói áp chót trên trần gian này. Tiếng nói cuối cùng được nói cho chúng ta bởi Đức Giêsu, trong lần gặp gỡ chung cuộc của chúng ta. Tiếng nói thực sự cuối cùng trên trần gian, đáp lại niềm trông cậy của chúng ta, là của Tình Yêu được viết hoa và xuất hiện cùng lúc với Lời đầu tiên, hoàn toàn mãn nguyện, của Thiên Chúa trên trời.
Một hình ảnh cuối cùng có thể làm sáng tỏ học thuyết của Têrêsa là hình ảnh về một chiếc cầu. Tuy đang yêu, nhưng Têrêsa vẫn ý thức được mình vẫn chưa có được sự sung mãn của tình yêu và thấy mình đang đứng trước một “vực thẳm” mà Chị muốn lấp đầy để đáp trả trọn vẹn với Đấng Tình Quân. Vực thẳm phải được băng qua. Các nền móng được đặt ở hai bên bờ vực. Phía bờ của con người, bản thể hữu hạn, trụ đỡ chính là lòng khiêm nhượng, giúp họ chấp nhận sự bất toàn và bất lực của họ. Phía bờ của Thiên Chúa, Bản thể vô hạn, trụ đỡ chính là Lòng Thương Xót mà con người tin tưởng. Khiêm nhường và lòng tin vào tình thương xót của Thiên Chúa là những điều kiện cốt thiết của niềm hy vọng. Trên những trụ đỡ ấy đã bắc ngang chiếc cầu của niềm tin tưởng đầy tình yêu, cho phép con người gặp được Thiên Chúa. Hoặc, nói chính xác hơn, chính Thiên Chúa đích thân đi qua chiếc cầu để đến gặp gỡ con người, để đổ đầy cho họ các ơn ban và dẫn đưa họ qua bờ bên kia. Vị Thiên Chúa tình yêu ấy lẽ nào có thể không nhậm lời con người hy vọng yêu mến Ngài tha thiết hơn. Điều đó có vẻ là không thể đối với Têrêsa. Người ta có thể áp dụng vào niềm hy vọng những gì Chị viết về lời nguyện xin mà thực ra là ngôn ngữ của niềm hy vọng chúng ta. Ôi! Chính việc cầu nguyện, việc hy sinh làm thành sức mạnh cho chúng ta, đó là những khí giới bách chiến bách thắng. Thế mới biết Lời Cầu Nguyện có sức mạnh đến chừng nào! Ta có thể nói giống như là một nữ hoàng muốn đến gặp đức vua bất kỳ lúc nào tuỳ ý và có thể xin được tất cả những gì mình muốn. Đấng Toàn Năng đã ban cho các ngài làm điểm tựa: chính Ngài, và chỉ một mình Ngài. Còn đòn bẩy chính là việc nguyện gẫm, làm rực cháy lên ngọn lửa tình yêu, và nhờ đó mà các ngài đã nâng cả thế giới này lên... Chính Chúa Giêsu đích thân dạy chúng ta bày to niềm hy vọng trong kinh Lạy Cha và, do đó, lời kinh này không thể không hiệu quả. Têrêsa nhấn mạnh cách Chúa Giêsu đã giới thiệu cho chúng ta sự hy vọng như là điều hợp lý và có cơ sở: ... Bằng những dụ ngôn tuyệt vời, và thường là, ngay cả khi không dùng đến phương thế hết sức quen thuộc ấy để nói với dân chúng, Ngài dạy chúng ta chỉ cần gõ là được mở, tìm là gặp, và khiêm tốn chìa tay ra xin là nhận được điều mình xin (Lc 11,9-13)... Ngài còn nói tất cả những gì người ta nhân danh Ngài mà cầu xin với Cha của Ngài, thì CHa Ngài đều ban cho (Ga 16,23). Những người chị ruột khẳng định Têrêsa không đặt bất kỳ giới hạn nào vào sự trông chờ của Chị: Sao Thiên Chúa có thể để cho mình bị thua về lòng quảng đại được? - Chị viết. Hạn chế những ước ao và hy vọng của em, tức là không nhận biết lòng nhân lành vô biên vô tận của Thiên Chúa! Những ước ao bất tận của em chính là sự giàu có của em và, đối với em, như vậy là lời Chúa Giêsu được thực hiện: “Ai có thì được cho thêm, và họ sẽ được dư dật”. Chị thường lặp lại lời của thánh Gioan Thánh Giá: “Hy vọng vào Thiên Chúa bao nhiêu, người ta nhận được từ nơi Ngài bấy nhiêu!” Nhưng không gì diễn dịch sức mạnh biến đổi của lòng tin tưởng rõ ràng bằng chính cuộc đời Têrêsa... “Chiếc thang máy” của Chị hoạt động thật hoàn hảo! Chị trải nghiệm được sự gián đoạn của Tình Yêu Đầy Thương Xót trong cuộc đời Chị! Lòng trung thành của Chị trở nên thật lớn lao và tình yêu huynh đệ của Chị là không giới hạn. Bằng mọi cách có thể, Chị khắc sâu sự tin tưởng ấy vào tâm trí những người chị em trẻ của mình. Khi nói về một đứa bé không thể bước lên bậc thang đầu tiên, Chị đưa ra lời khuyên: Hãy bằng lòng trở nên như em bé này. Bằng cách thực hành tất cả mọi nhân đức, các em hãy nhấc bàn chân bé nhỏ của mình lên để leo lên chiếc thang của sự thánh thiện. Các em sẽ không thành công, ngay cả việc bước lên bậc thang đầu tiên, nhưng Thiên Chúa tốt lành chỉ đòi hỏi thiện chí nơi các em. Khi các em bị thất bại sau khi đã cố gắng vô ích, Chúa sẽ đích thân bước xuống và ẵm các em lên, đưa các em vào vương quốc của Ngài cho đến muôn đời. Với nữ tu Marie Chúa Ba Ngôi đang muốn có thêm nghị lực, Têrêsa trả lời: Nếu Chúa nhân lành muốn chị yếu đuối và bất lực như một đứa bé, chị có cho là mình sẽ có ít công nghiệp hơn chăng...? Vậy chị hãy bằng lòng sẩy chân ở mỗi bước đi, ngay cả có bị ngã đi nữa, hãy bằng lòng vác thập giá của mình một cách yếu đuối, hãy yêu sự bất lực của mình, bấy giờ linh hồn chị mới rút ra được nhiều lợi ích hơn là nếu, có ân sủng năng đỡ, chị hoàn thành một cách nhiệt tình những hành động anh hùng nhưng lòng chị lại chất đầy sự thoả mãn cá nhân và kiêu căng. Về riêng mình, Têrêsa có suy nghĩ sáng suốt như sau: Con là một linh hồn hết sức bé nhỏ chỉ có thể dâng lên Chúa nhân lành những việc rất nhỏ bé, mà vẫn còn thường hay để lọt mất những hy sinh nhỏ bé mang lại cho linh hồn biết bao sự bình an như thế đấy; nhưng không nản lòng, con chấp nhận chịu mất đi một chút bình an và lần khác con sẽ cố tỉnh táo hơn. Nhưng Chị cũng không quên dụ ngôn về những người thợ giờ thứ mười một và đưa ra lời chú giải như sau: Các em có thấy không, nếu có làm mọi việc chỉ với những cố gắng nho nhỏ, chúng ta cũng hãy hy vọng tất cả từ lòng xót thương của Chúa nhân lành, chứ không phải từ những công việc tội nghiệp ấy, và chúng ta sẽ được ân thưởng ngang bằng với những vị thánh vĩ đại nhất. Việc làm hay là niềm tin tưởng? Câu hỏi có thể nổi lên: Phải chăng Têrêsa đã quá đề cao lòng tin tưởng mà chẳng lý đến công việc? Có phải Chị sẽ đi đến chỗ dạy cho người ta một khoa thần bí về sự yếu đuối? Chúng ta đang đứng trước nghịch lý muôn đời về một vị Thiên Chúa xứng đáng với lòng trung thành hoàn toàn của chúng ta và, đồng thời, đã yêu thương con người bất toàn biết nhìn nhận sự đáng thương của mình. Người ta gặp phải nghịch lý ấy suốt dọc Tin Vui về ơn cứu chuộc dành cho người nghèo. Tính chất đồng hiện hữu của bổn phận cá nhân chúng ta cùng với lòng thương xót tràn trề và hết sức lạnh lùng của Thiên Chúa vẫn luôn là một mầu nhiệm. Ngay cả trên bình diện ngôn từ, nghịch lý ấy cũng hiện diện nơi Têrêsa. Chị có những phát biểu như: “Tình yêu chỉ được trả bằng việc làm”. Một đàng, Chị nói “Giêsu không cần những công việc của chúng ta, nhưng chỉ cần tình yêu của chúng ta”. Con đường của con không phải một kiểu chủ thuyết “vô vi”, Têrêsa nói, cũng chẳng phải là phó thác thụ động. - và đàng khác, Chị muốn chết với “hai bàn tay không” và thừa nhận: “Nếu đã tìm cách tích góp công trạng, thì khi đến giờ đã định, hẳn là con sẽ thất vọng”. Tình yêu là một “dòng thác” cuốn phăng mọi thứ trên đường nó đi qua, nhưng khi phải tưởng thưởng cho những việc làm của Têrêsa, Thiên Chúa “sẽ rất bối rối, con không có những việc làm...” - bấy giờ hãy hy vọng Chúa sẽ trao thưởng cho con “theo những việc Chúa đã làm...”. Têrêsa không khuyến cáo chủ nghĩa hành động, nhưng cũng không dung thứ cho sự lừng khừng. Trong thời kỳ thực hiện Lễ Dâng Hiến cho Tình Yêu đầy lòng thương xót, Chị viết: Nghị lực là nhân đức cần thiết, với nghị lực thì người ta có thể dễ dàng đạt đến đỉnh cao của sự hoàn thiện. Về “hồng ân ngày Lễ Giáng Sinh” của mình, vốn xuất hiện như món quà của lòng thương xót tinh ròng, Chị nói thêm: Nhiều linh hồn bảo rằng: “Nhưng tôi không đủ sức để thực hiện việc hy sinh như vậy”. Chớ chi họ làm điều mà con đã làm: cố gắng hết mình! Chị nhấn mạnh lời Chúa Giêsu, mà theo đó người ta không vào Nước Trời bằng cách cứ kêu lên “Lạy Chúa! Lạy Chúa!”, nhưng “bằng cách thực hiện ý định của Thiên Chúa”, nhưng Chị cũng thích nhấn mạnh vai trò chính của “ý chí ngay lành”. Nghịch lý được hoá giải một phần, khi chúng ta phân tích nấc thang giá trị của Têrêsa. Giá trị đích thực, nội hàm, của một hành động là thực sự đặt trong tình yêu chứ không phải trong tầm quan trọng bên ngoài của nó. Tình yêu mang lại sự vĩ đại cho tất cả; không có tình yêu, hành động cao cả nhất cũng chỉ là nhỏ bé trước mắt Chúa. Chị viết: Con đã hiểu được rằng không có tình yêu, thì mọi công việc đều chỉ là hy vô, ngay cả những việc lừng lẫy nhất, như làm cho kẻ chết sống lại hay hoán cải các dân tộc... (1Cr 13). Không phải giá trị cũng chẳng phải sự thánh thiện bên ngoài các hành vi là quan trọng, nhưng chỉ quan trọng ở tình yêu được người ta đặt vào đó. Suy nghĩ những điều tốt đẹp và thánh thiện, viết sách, viết truyện các thánh cũng không giá trị bằng một hành vi yêu thương của Thiên Chúa, hoặc hành vi đáp trả khi tiếng chuông báo vang lên và gây khó chịu. Hơn nữa, tình yêu ấy, trước hết, hệ tại định hướng và ý hướng tích cực của con tim, ý chí muốn làm điều tốt, ngay cả khi hành động không đạt đến chỗ mỹ mãn. Hoạt động của tình yêu không buộc phải khớp hoàn toàn với một công việc. Trong khi công việc không đạt đến sự hoàn thành, thì có thể vẫn có nhiều tình yêu ngay từ khởi đầu của nó. Công việc được thực hiện bằng tình yêu rất thường chỉ được gọi là nỗ lực chính đáng, sự cố gắng, thiện chí khởi đầu lại không biết mệt mỏi: rõ ràng là khiếm khuyết, nhưng thực sự chất chứa tình yêu và là lời kêu gọi lòng thương xót của Thiên Chúa. Khi Têrêsa tương đối hoá những “việc làm”, Chị đã quen nhìn thấy những điều lớn lao và quan trọng, nổi bật, đập vào mắt, tất cả những gì Chị thích xác định bằng chữ “chói lọi”. Chị nghi ngờ mọi kiểu khai thác sự hãm mình thể lý và Chị xua đi mọi ước muốn về các hiện tượng thần bí phi thường. Những thứ đó không hề phù hợp với những “linh hồn nhỏ”, Chị nói, chúng thuộc về một con đường khác với “con đường bé mọn” của Chị. Chị thích sự thanh khiết và vô vị lợi của đức tin: Thật ngọt ngào khi được phụng sự Chúa nhân lành trong đêm tối của lòng tin, chúng ta có cuộc đời này chỉ để sống đức tin!... Đến đây, chúng ta đã hiểu rõ hơn tại sao Têrêsa có khuynh hướng tập trung lòng trung thành của mình vào tình yêu dành cho vô số những điều nhỏ nhặt bình thường hằng ngày, nằm trong khả năng của mọi người, không cần phải vận dụng đến giải pháp, dù là dễ nhất, hiển nhiên là vậy! Chủ nghĩa anh hùng không hề bị loại bỏ, nhưng được đưa trở lại vào trong hoàn cảnh quen thuộc của từng người. Dòng suối tình yêu được điều hướng đến với sự sống mỗi ngày. *** Khi trong Thủ bản B, Têrêsa trình bày cách Chị muốn nhận ra tất cả các ơn gọi bằng tình yêu, Chị thiết lập một kiểu kế hoạch làm việc: Vâng, hỡi Đấng Tình Quân yêu dấu của em, đó là cách mà cuộc sống em sẽ được tiêu hao... Em chẳng có cách nào để chứng tỏ tình yêu của em ngoài việc tung lên những cánh hoa, nghĩa là không để lọt mất một hy sinh nhỏ nhoi, một ánh mắt, một lời nói nào để tận dụng tất cả mọi việc nhỏ bé nhất và thực hiện chúng vì yêu mến... Em muốn chịu đau khổ vì yêu và thậm chí còn vui sướng vì yêu nữa, do đó em sẽ tung lên những cánh hoa ngay trước ngai của Ngài, em sẽ ngắt hết những cánh hoa... Rồi trong khi tung những cánh hoa ấy lên, em sẽ ca hát (làm sao có thể khóc khi làm một việc vui như vậy được?) em sẽ ca hát, ngay cả khi phải hái hoa giữa đám gai góc và gai càng sắc nhọn thì tiếng hát của em sẽ càng du dương hơn. Tất cả những điều nhỏ bé, thế đấy! “Những cánh hoa mỏng manh và chẳng có chút giá trị gì!. Những “thứ chẳng là gì”: một hy sinh nhỏ, một cái nhìn, một lời nói, một nụ cười... Nhưng thật là cả một làn gió đầy sự trung thành tuyệt đối thổi qua trong những trang viết ấy: lợi dụng “tất cả”, không để lọt “bất cứ” cơ hội nào... Không một chút ước ao thành tích, nhưng chỉ có tình yêu gợi hứng cho sự triệt để của Chị: “vì Ngài”, “bằng tình yêu” (lặp lại đến ba lần)! Chính vì thế mà niềm vui vỡ oà trong chương trình ấy, niềm vui mà ngay cả trong đau khổ cũng không bị che khuất! Nhưng đó không chỉ là một chương trình, một định hướng và một bổn phận, và Têrêsa thú nhận Chị chỉ là một “chú chim nhỏ yết ớt”, “một thụ tạo nhỏ bé bất toàn”, mà dần dà “để mình hơi lơ đễnh đôi chút đối với mối bận tâm duy nhất của mình”, nhìn nhận những “hành động xấu” và những “bất trung” của mình. Nhưng rồi lúc nào cũng vẫn cứ là ý chí ngay lành tuyệt diệu ấy! Dựa fào lòng thương xót vĩ đại của Thiên Chúa! Như thể Têrêsa từng yêu thích câu chuyện ngụ ngôn của Rabidranath Tagore, gợi lên hết sức rõ ràng sự phong phú của tình yêu mà có thể che giấu một hành vi rất nhỏ ẩn giấu bên trong. “Khi tôi đang hành khất từ nhà này sang nhà khác trên con đường làng, bỗng từ đàng xa, cỗ xe vàng của Ngài xuất hiện như một giấc mơ, quá kinh ngạc, tôi tự nhủ phải chăng đó là Vua của các Vua? Niềm mong đợi của tôi dâng lên rất cao, tôi nghĩ rằng những ngày khó khăn của tôi sẽ chấm dứt ngay bây giờ, và tôi đưa mắt tìm kiếm những quà tặng sẽ được cho mà không cần van xin, cũng như những đồng tiền sẽ được tung vãi khắp nơi trên bụi đất. Cỗ xe dừng lại bênh cạnh tôi. Ánh mắt Ngài đậu lại trên tôi, và Ngài bước xuống với nụ cười trên môi. Hạnh phúc của đời tôi, sau cùng đã đến. Lúc đó, thật bất ngờ Ngài lại đưa bàn tay phải ra và nói: “Bạn có gì để cho Ta không?” A! Phải chăng đây là cách đùa bỡn của một vị Vua khi đưa bàn tay hay bố thí ra trước mặt một người hành khất? Bối rối và ngỡ ngàng, tôi từ từ lấy trong chiếc bị của mình một hạt thóc thật nhỏ, thật nhỏ và trao cho Ngài. Nhưng thật ngạc nhiên biết bao, khi đến cuối ngày, lúc trút hết chiếc bị ăn xin của mình xuống đất, tôi nhìn thấy một hạt vàng nhỏ, thật nhỏ trong mớ thóc khốn khổ kia. Tôi khóc cay đắng, và ước ao phải chi tôi đã có can đảm để trao cho Ngài tất cả những gì mình có. Việc làm hay là niềm tin tưởng? Ở đây Têrêsa đưa ra một sự cân bằng tuyệt đẹp. Người ta yêu hết sức có thể, người ta cố chứng tỏ bằng các hành vi của mình, nhưng khi, vì bất lực, người ta không được như ý, người ta lại tin vào Đấng xót thương vô cùng. Trong lĩnh vực mà tình yêu của chúng ta - ơn Chúa ban cho tự do có trách nhiệm của chúng ta - thực sự có thể đạt được, nói phải cố gắng tự diễn dịch những hành vi của mình. Nếu ơn ban ấy gia tăng trong chúng ta, thì nó phải một lần nữa chứng tỏ tính xác thực của nó bằng một sự trung thành tương xứng trong bối cảnh cuộc sống cụ thể. Không có lòng trung thành với những gì Đức Chúa yêu dấu đòi hỏi, lòng tin tưởng bị kềm hãm trong tính chất tự phát của nó. Trong tất cả những gì Têrêsa viết về các việc làm, Chị luôn tha thiết dành hết vinh dự cho lòng thương xót của Chúa. Chính vì thế mà Chị tương đối hoá đóng góp riêng của mình. Với một tập sinh, Têrêsa giải thích rằng, con đường bé mọn của Chị chẳng là gì khác ngoài Đấng Tất Cả và cái chẳng là gì cả của thánh Gioan Thánh Giá: bằng con đường của cái chẳng là gì cả, người ta đến gần với Đấng Tất Cả. Nhưng Chị lưu ý rằng Đấng Tất Cả ấy đích thân đến gặp gỡ chúng ta và sự hiến mình hoàn toàn của chúng ta cho Ngài, rốt cuộc, phát xuất từ Ngài. Leo lên ư? Thiên Chúa muốn làm cho chúng đi xuống! Được gì không? Hãy nói là mất, mới đúng. Các bạn lúc nào cũng hy vọng là mình đã đến nơi; các bạn ngạc nhiên vì bị vấp ngã. Phải luôn chờ mình bị vấp ngã. Phải chấp nhận mình luôn nghèo khó và yếu đuối và điều khó khăn là ở đấy... Bởi vì tinh thần nghèo khó, như Têrêsa nhìn thấy, không bận tâm lo lắng đến thành quả những nỗ lực thiêng liêng của nó. Nó không để ý đến sự thành công, không muốn thấy và hiểu hết mọi sự. Nó sống đức tin và niềm tin tưởng. Tình yêu của Chị, chính là trao hết mình cho Chúa. Tình yêu ấy không lo lắng tự hỏi liệu mình có tiến bộ nhiều hay không. Thậm chí Têrêsa còn muốn phủ nhận tất cả những công trạng của mình. Có thể nói rằng Chị nhìn thấy trong đó một nguy cơ về sự tự mãn, một danh hiệu để người ta khoe khoang trước mặt Chúa. Tất cả những gì mang hơi hướng một nghi ngờ của lòng đạo đức về sự thưởng công và tính toán, đều trở nên hoàn toàn xa lạ đối với Chị. Không có chỗ nào Chị muốn làm giảm bớt sự phụ thuộc hoàn toàn của mình đối với lòng thương xót nguyên tuyền của Thiên Chúa; và, rốt cuộc, chính điều đó tạo nên công trạng lớn nhất của Chị! Chị sống bằng bàn tay Thiên Chúa và mở lòng ra một cách hoàn toàn phó thác vào tất cả những gì Ngài sẽ đòi hỏi và tất cả những gì Ngài sẽ ban cho, kể cả thông qua đau khổ: một trạng thái hiến mình vào giữa đôi tay của Đấng Tình Quân, Đấng mà Chị đặt hết hy vọng vào đó và chờ đợi sự can thiệp đầy thương xót của Ngài. Sau hết, điều mang tính nghịch lý nơi Têrêsa không được xoá bỏ. Nghịch lý ấy gắn liền với tình yêu của Thiên Chúa và của Têrêsa, bởi vì cả hai đều tìm cách làm cho nhau thăng tiến trong mọi sự. Có hai cực: cố gắng hành động, như thể mọi sự đều phụ thuộc vào bạn (và bạn có khả năng làm được nhiều việc); và bạn đến trước mặt Chúa, như thể mọi sự phụ thuộc vào Ngài (và rốt cuộc, mọi sự đều phát xuất từ nơi Ngài). Học thuyết của Têrêsa là một sự hài hoà không bỏ qua một cực nào trong hai cực đó, nhưng kết hợp chúng thành một tổng hợp cấp cao. Làm hết sức mình, và để Chúa làm phần còn lại... Thiên Chúa làm hết sức của Ngài, bạn hãy làm phần còn lại... Phải làm tất cả những gì đang có trong bản thân, Têrêsa nói, phải cho đi không tính toán, liên lỉ từ bỏ chính mình, tắt một lời, phải chứng tỏ tình yêu bằng tất cả những việc làm tốt lành trong khả năng. Nhưng kỳ thực, do tất cả điều đó chẳng là gì... nên, khi chúng ta đã làm hết những gì chúng ta tin mình phải làm, thì cần phải thú nhận chúng ta là những “tôi tớ vô dụng” (Lc 17,10), nhưng hy vọng Chúa nhân lành, bằng hồng ân, sẽ ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta mong muốn. Têrêsa không chịu được việc trở nên giàu có, bất luận giàu có sự gì! Ngay cả đã hoàn thành mọi công việc như của thánh Phaolô, con cũng vẫn tin mình là “tôi tớ vô dụng”, nhưng đây đúng là điều khiến con vui mừng, bởi vì, khi con chẳng có gì, con sẽ nhận được mọi sự từ Chúa nhân lành”. Trong sự giằng co giữa hoạt động và phó thác, tâm hồn Chị rõ ràng là nghiêng về phía phó thác, đây chính là đặc sủng của Chị và bí ẩn của sự khích lệ nơi con người Chị! Câu văn cuối hết trong Thủ bản Tự Thuật của Têrêsa - ngẫu n hiên trở thành câu nói cuối cùng của Chị, bởi đang bệnh nặng nên không thể viết tiếp được nữa - minh hoạ cách mà niềm tin tưởng của Chị không ỷ lại nhân đức riêng của Chị, nhưng dự vào lòng nhân lành của Thiên Chúa: Chẳng phải vì tình thương xót ân cần của Chúa Nhân Lành đã gìn giữ con khỏi tội trọng để con vươn lên với Ngài bằng niềm tin tưởng và tình yêu đó sao? Và Têrêsa khẩn khoản xin chị Agnès thêm vào ý tưởng sau đây: “Chị hãy nói rõ là nếu em có phạm tất cả mọi tội ác có thể phạm, thì em vẫn một lòng tín thác. Em cảm thấy mọi xúc phạm đều giống như một giọt nước rơi vào lò than hồng”. Người ta đã gán cho Têrêsa một định nghĩa về sự thánh thiện rất quen thuộc. Rất có khả năng xảy ra là chính Agnès đã đặt những lời sau đây vào miệng vị nữ thánh trẻ, nhưng cảm hứng thì hoàn toàn là của Têrêsa: Sự thánh thiện không nằm ở thực hành này hay thực hành khác, nó nằm trong một thái độ của tâm hồn làm cho chúng ta nên khiêm nhường và nhỏ bé trong cánh tay Chúa, ý thức được sự yếu đuối của chúng ta, và tin tưởng đến mức táo bạo vào lòng nhân lành của Chúa Cha. Con đường của Têrêsa đã trải qua một quá trình phát triển quan trọng. Để minh hoạ bằng hình ảnh, thì trước hết, bàn tay Chị tìm cách nắm lấy, giữ lấy, các ngón tay nắm chặt, lòng bàn tay hướng xuống. Chuyển biến diễn ra dần dần. Các ngón tay duỗi thẳng và buông ra, bàn tay lật lại, lòng bàn tay hướng lên, sẵn sàng cho đi và nhận lại rất nhiều. Hầu như cả cuộc đời Chị chỉ diễn ra mỗi một việc ấy. Nhưng việc ấy lại không phải chỉ làm bằng một cú trở bàn tay.
Người nữ đan sĩ Cát Minh Lisieux trẻ tuổi đã bày tỏ, qua các bản viết của mình, những quan điểm thần học rất thâm sâu về tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Chị không rút những điều ấy ra từ sách vở, nhưng đã đích thân khám phá, trong một tăng trưởng nội tâm lâu dài, dưới ánh sáng Thần Khí Thiên Chúa mà Chị phó thác mình vào đó bằng một khả năng nhạy bén được tinh luyện một cách phi thường. Gần như chẳng hay biết, Chị đã kết nối, sống thấu đáo, làm sáng tỏ và nhắc nhớ giữa cộng đoàn Hội Thánh, tâm điểm của sứ điệp Kitô giáo và vấn đề trọng tâm của Khoa thần học thánh Phaolô. Trong hai thư Galát và Rôma, Phaolô chứng minh người Pharisêu, đại biểu cho một bộ phận quan trọng trong Do Thái giáo, bất lực như thế nào trong việc tự thánh hoá bằng lề luật Môsê. Lề luật đặt ra cho họ một chương trình luân lý quá nhiều đòi hỏi và rối rắm mà họ không thể thực hiện bằng chính sức mình. Đấy chính là bi kịch của người Pharisêu: họ thấy mình đứng trước một bổn phận quá cao, nhưng không có sức mạnh bên trong để chu toàn. Lề luật, chỉ là Lề luật, đẩy họ quay lại với sức riêng để tự mình thực hiện một cách trung thành với Thiên Chúa Rất Thánh. Vì là Lề luật nêen chỉ dẫn đưa con người đến với một thái độ nệ luật, vốn khiên cưỡng, duy ý chí và bằng một sự trung thành không chê vào đâu được, tự mình trao cho mình một hào quang công chính, nhưng chẳng qua chỉ là một kiểu tự biện bạch và tôn vinh chính mình. Điều đó, một cách cơ bản, trái ngược - và Phaolô nhấn mạnh bằng một giọng bút chiến kịch liệt - với thái độ đạo đức của Kitô hữu vốn được mời gọi chờ đợi ơn cứu chuộc và lòng trung thành của họ đối với một Đấng Khác. Người Pharisêu, trái lại, dựa trên chính bản thân, họ phải tự mình nên thánh. Việc nên thánh là việc riêng của họ. Họ muốn đạt đến bằng những hành vi của riêng họ. Điều nói lên tính cách của họ, là một mưu cầu những việc mà qua đó họ cho là đủ với chính mình và không phù hợp với Kitô giáo như giá trị tiên quyết, bởi vì tình yêu Kitô giáo chỉ có thể là đáp lại, là một phản ứng, được đặt vào một hoạt động đầu tiên phát xuất từ Thiên Chúa và thấu nhập vào hoạt động của con người bằng hồng ân. Thật vậy, Ơn ban của Đức Kitô và Ơn ban của Thần Khí Ngài làm nổi rõ tình yêu của chúng ta, trước hết, nằm trong việc nhận lãnh đầy yêu mến và phó thác đầy tin tưởng. Nơi Đức Kitô, một cuộc cách mạng tận căn đã được thực hiện trong những gì liên quan đến tương quan của chúng ta với Thiên Chúa. Từ đó về sau, Thiên Chúa hoạt động qua trung gian của con người Đức Kitô - Đường, Sự Thật và Chân Lý - và qua trung gian của Chúa Thánh Thần, Đấng được ban cho chúng ta hết sức dồi dào và chúng ta mở lòng ra với Ngài. Phaolô đã hiểu rất rõ và chấp nhận một cách mạnh mẽ rằng, Đức Kitô đến phá vỡ Lề luật như hệ thống khép kín của việc tự mình thánh hoá mình và Ngài làm trọn Lề luật ấy bằng một sự chan chứa ân sủng, cũng như đóng đinh vào Thập Giá sự bất lực của Lề luật, như thánh Phaolô phát biểu. Hơn cả một quay về triệt để với tình yêu như là huấn lệnh đầu tiên và lớn nhất (điều này bị che giấu đối với phần lớn dân Israel), thì trước hết, Đức Giêsu ban cho chúng ta Thần Khí của Ngài một cách dồi dào, mang lại cho chúng ta một năng lực nội tại để sống luật mới. Hơi thổi sống động mà qua đó Thần Khí mang lại cho chúng ta sự thúc đẩy của Ngài được gọi là ân sủng. Chính ân sủng thánh hoá chúng ta - chứ không phải chính chúng ta phải tuân thủ Lề luật bằng sức riêng của mình. Thần Khí thâm nhập vào đời sống chúng ta bằng tình yêu, bởi vì Ngài đã được đổ tràn trong lòng chúng ta. Ngài thúc đẩy chúng ta đến gần Áp-ba-Cha bằng tình yêu. Tình yêu Đức Kitô dõi theo chúng ta, thánh Phaolô dạy chúng ta biết như vậy, Ngài vô cùng trung thành và không gì có thể tách chúng ta khỏi Ngài. Nhờ phép Rửa, chúng ta trở nên những người được dự phần với ơn cứu độ của Thần Khí Đức Kitô. Ân sủng là một sáng kiến đến với chúng ta từ Thiên Chúa, và trở nên xứng đáng nhờ cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu: chúng ta mở lòng ra với ân sủng bằng pistis, đức tin. Đức Kitô, ân sủng, đức tin: đó là trục mới mà xoay chung quanh nó là sự thánh thiện Kitô giáo. Chúng ta không cứu chính mình, Đức Kitô cứu chúng ta. Con người thì yếu đuối, nhưng nơi họ ân sủng của Thiên Chúa được thể hiện. Trong sức mạnh của sự thánh thiện nơi Đức Kitô, thậm chí con người cũng có thể tự hào về sự yếu đuối của mình. Trong Thiên Chúa, người ta mạnh vào chính lúc nhận ra sự yếu đuối của mình. Bởi lẽ, lúc bấy giờ họ ở trong những hoàn cảnh rất thuận lợi để từ bỏ chính mình và mở ra với Thiên Chúa. *** Theo một nghĩa nào đó, Têrêsa, đến lượt mình, phải khó nhọc tự vạch ra một con đường ngang qua vấn đề đã được Phaolô nói đến. Hoàn toàn như nơi Phaolô, chiến thắng phải trải qua thất bại, sự thất bại trong việc tự thánh hoá. Cuộc gặp gỡ đầu tiên của Phaolô với Đức Kitô phục sinh gây ra cho ngài một ấn tượng không phai. Khi Phaolô là người mà, “trong việc giữ đạo Do Thái đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với tôi: hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông” (Gl 1,14), bị ngã ngựa trên đường đi Đamát và té xuống đất, thì đấy chính là cú “sốc” lớn trong cuộc đời ngài; và ngài còn bị ngã ngựa hơn nữa theo nghĩa bóng của từ ngữ ấy. Nằm sóng sượt giữa con đường đầy bụi, ngài cũng ý thức được là mình đang gặm thứ bụi tinh thần: “Cả tôi cả Lề luật đều vô lý, nhưng Đức Giêsu mà tôi đang bách hại thì...”. Đó là một đêm tối và đồng thời là một ánh sáng, một thất bại và cũng là một mạc khải, một khủng hoảng và cũng đã là một triển vọng về sự giải thoát. Cú ngã của Phaolô là một khởi đầu để dần dà quay về, trong tư tưởng và tình cảm của ngài. Têrêsa cũng vậy, Chị cũng đã trải qua một bước ngoặt sâu xa như vậy. Cuộc hoán cải đầu tiên đã làm Chị mơ đến một sự thánh thiện lý tưởng: “Tình yêu không có giới hạn nào khác ngoài Ngài...”. Nhưng đạo lý hoàn thiện của Chị, dần dà, trở nên một vấn nạn giày vò Chị. Không ngừng gia tăng nơi Chị trải nghiệm về sự khiếm khuyết và nhận thức về một Thiên Chúa vượt quá mọi sự. Lý tưởng càng lúc càng vượt quá tầm Chị. Một cách nghiệt ngã, Chị thấy mình tiến thoái lưỡng nan mà giải pháp là chỉ có buông tay đầu hàng. Hoặc, Chị tự nhủ: “Giấc mơ tình yêu vô tận của mình là một ảo tưởng của tuổi trẻ đang tan biến đi trước thực tế; mình sẽ từ bỏ lý tưởng của mình, sẽ nhắm cao hơn, sẽ điều chỉnh lại những ước ao...”. Hoặc nữa là, Chị tự nhủ: “Mình sẽ phó thác cho Chúa hơn bao giờ hết, mình mạo hiểm thực hiện cú nhảy của lòng tin tưởng mù quáng vào sức mạnh của Chúa đang hoạt động trong mình đây...”. Việc Têrêsa đã chọn cách đầu hàng thứ hai là dấu hiệu tốt cho thấy Chúa Thánh Thần đang hướng dẫn Chị. Cuộc hoán cải thứ hai của Chị - sâu xa nhất - dẫn đưa Chị bằng chính hoạt động riêng của mình đến với một niềm tin tưởng hoàn toàn và bền bỉ vào Thiên Chúa. Bằng ý thức đầy đủ, Chị trao phó việc thánh hoá của mình vào tay Chúa Giêsu, Đấng thực hiện ơn cứu độ, sẽ đích thân hoàn thiện cho những nỗ lực riêng của Chị và làm cho chúng nên giá trị trong ngân hàng tình yêu đầy thương xót của Ngài. Đôi tay đầy ắp, Chúa Giêsu đến gặp đôi tay trống không của Têrêsa. Phải mất nhiều năm tháng, Têrêsa mới nhìn thấy rõ ràng, không phải trên lý thuyết, nhưng trên thực tế, người ta không chinh phục được Đấng Tình Quân, nhưng chính Ngài muốn đích thân tự trao hiến. Chính Ngài là Đấng Cứu Chuộc và Độ Trì, Ngài không phải là một pháo đài để đánh chiếm, cũng chẳng phải là một món thù lao để thu lấy. Có thể cũng cần phải bị thất vọng mới khám phá được hy vọng. Niềm hy vọng đích thực thì vượt quá giấc mơ. Bấy giờ con tim có thể mở ra bằng cách mới, trong một chờ đợi khoát đạt, chủ động và bền bỉ, sự sống và sự thánh thiện nơi Chúa. Sự thánh thiện là kết quả của khả năng sẵn sàng lãnh nhận và sự phó thác hơn là sự nhiệt thành và cần mẫn. Hoặc, chính xác hơn: sự cần mẫn và nỗ lực là điều kiện tất yếu, nhưng chỉ bấy nhiêu thôi. Điều thiết yếu xuất hiện như một quà tặng. Trong truyền thống Kitô giáo, điều đó được gọi là ân sủng. Ở đây, Têrêsa đã kết nối được với tâm điểm của Tin Mừng. “Tuổi thơ ấu thiêng liêng” của Chị (hãy lưu ý là chính Chị cũng chưa bao giờ dùng biểu thức này) là sống một cách thoải mái và triệt để “một tinh thần nghĩa tử, khiến chúng ta kêu lên Áp-ba, Cha ơi!” (Rm 8,15). Lễ Dâng của Chị cho Lòng Thương Xót là để công nhận hoàn toàn tính chất hợp lý của “tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ nơi Đức Giêsu Kitô và không gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu ấy” (Rm 8,39). Niềm “tin tưởng” của Chị là linh hồn của đức tin nơi Phaolô: phó thác đầy yêu mến vào ơn cứu độ của Thiên Chúa”. Như vậy, Têrêsa rất thích Thư gởi tín hữu Rôma, đến độ thường trích dẫn hoặc nhắc đến hàng chục lần. Trong cuốn kinh nhật tụng của mình, Chị ghi lại đoạn sau đây, tổng hợp giữa Rm 4,4-6 và 3,24: “Phúc cho ai được Thiên Chúa kể là công chính mà không xét đến việc làm. Người nào làm việc, thì lương trả cho người ấy không được kể là ân huệ, mà là nợ... Nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Giêsu Kitô”. Bây giờ Chị vui sướng khi biết được điều này: Đức Giêsu muốn chính mình là Đấng cứu độ, đó là vinh dự của Ngài! Người ta đã hơn một lần nhấn mạnh tầm quan trọng đại kết trong học thuyết Têrêsa. Cô gái trẻ này, Công giáo cho đến tận chân tơ kẽ tóc, đã khấn vâng phục hoàn toàn quyền bính Hội Thánh, bằng phong cách sống và các thói quen, đã tắm mình trong đời sống Công giáo đương thời, đã tìm được nền tảng và quan niệm về cuộc sống gần gũi hơn mà nhiều người chỉ dám đưa ra giả thiết bằng những gì mà phái Tin Lành nhấn mạnh như là giá trị trong di sản Kitô giáo về tín lý của công trình cứu chuộc.
Vào những năm cuối đời Têrêsa, người ta có thể thấy cách mà Chị mở rộng một cách cụ thể việc mở mình ra với sức mạnh của Thiên Chúa đang hoạt động trong Chị, với những địa hạt lớn về sự tiếp xúc của Chị với người bên cạnh, về hoạt động tông đồ và cầu nguyện. Sự thâm sâu huyền diệu của đức ái huynh đệ Càng khám phá gương mặt đích thực của Thiên Chúa, Têrêsa càng nhận ra gương mặt thật của tha nhân. Thật điển hình! Rõ ràng là trong năm 1897, năm cuối đời của Chị, khi ở đỉnh cao tình yêu dành cho Chúa, Chị nhận được “ơn hiểu biết đức ái là gì”. Tuy trước đó dường như Chị đã hiểu và sống đức ái ấy một cách gương mẫu trong cộng đoàn! Chị sẵn sàng vui lòng thừa nhận: “Quả thật, trước đây tôi đã hiểu được đức ái, nhưng chỉ hiểu một cách không hoàn hảo”. Vậy thì sự mới mẻ nằm ở đâu? Lúc này Têrêsa đã am hiểu cách đặc biệt những lời Chúa Giêsu: “Điều răn thứ hai cũng giống với điều răn thứ nhất” và “như Thầy thương yêu anh em, anh em cũng phải thương yêu nhau” (Mt 22,39 và Ga 13,14). Giống với, như... không ngừng ước ao giống với Đức Giêsu trong tình yêu của Ngài... Têrêsa giải thích rằng, tự mình, Chị không bao giờ có thể làm sản sinh ra được một sự mãnh liệt của tình yêu đến vậy. Nhưng kể từ khi Chị khám phá ra con đường bé mọn của mình, thì những biên giới của điều không thể đều bị xoá bỏ. Do đó, Chị để cho Chúa Giêsu hành động trong Chị; “Con không thể làm, vậy Chúa hãy đích thân làm trong con, con phó thác hoàn toàn vào Chúa...”. Và đó là trực giác lớn trong năm ấy: Giêsu đích thân yêu mến người khác trong tôi! Ôi! Lạy Chúa, con biết Chúa không hề ra lệnh làm những gì không thể làm, Chúa biết rõ hơn con sự yếu đuối, sự bất toàn của con, Chúa biết rõ con sẽ chẳng bao giờ có thể yêu thương các chị em con như Chúa yêu thương họ, nếu chính Chúa, ôi lạy Chúa Giêsu, không yêu họ trong con. Chính là vì muốn ban cho con ân huệ ấy mà Chúa đã đưa ra một huấn lệnh mới. - Ôi! Chớ chi con yêu mến người khác bởi vì họ mang lại cho con niềm tin chắc chắn rằng ý định của Chúa là yêu mến trong con tất cả những ai Chúa ra lệnh cho con yêu mến!... (Ga 13,34-35). Vâng con cảm thấy khi con sống bá ái, thì chỉ một mình Chúa Giêsu hoạt động trong con; càng kết hợp với Ngài, con càng yêu mến tất cả những người chị em của con. Têrêsa đã thâm nhập vào tận “những nơi thâm sâu huyền nhiệm” của đức ái! Têrêsa, và Giêsu yêu mến người khác ở trong Chị, chỉ là một! Giêsu, đang ở trong Chị, là linh hồn, mà Chị biểu lộ ra bên ngoài! Không chỉ Têrêsa và Giêsu, nhưng Giêsu và người khác cũng là một như vậy. Ngày xưa, tình yêu của Chị đối với tha nhân là một chiếc ghế đẩu nhỏ dùng để leo lên đến gần tình yêu Thiên Chúa hơn: “Con luôn chuyên tâm vào việc yêu Chúa...”. Giờ đây, con người không còn là một giai đoạn trung gian nữa, nhưng là tấm gương phản ánh Thiên Chúa. Mọi khoảng cách đối với tha nhân đã biến mất: Chị thấy “Giêsu ẩn mình sâu trong linh hồn” những người khác. Nơi hết người này sang người khác, đang lần lượt tôn chảy tình yêu của Giêsu trong tim Chị đến tình yêu của Giêsu trong tim người khác, đó là tình yêu mà cùng lúc làm hởi lòng hởi dạ và an ủi Têrêsa và tha nhân, xuất phát từ Thiên Chúa và quay về với Thiên Chúa. *** Trong Thủ bản Tự Thuật C, người ta sẽ bắt gặp một khảo luận ngắn, tinh tế và hiện thực, về đức ái huynh đệ, được viết một cách dí dỏm và khôn ngoan. Như vậy, với Têrêsa, đỉnh cao tình yêu tha nhân trong đức ái huynh đệ “hoàn hảo” là gì? Đức ái hoàn hảo cốt ở chỗ chịu đựng những khiếm khuyết của người khác, không lấy làm ngạc nhiên về những yếu đuối của họ, tự cảm hoá bản thân bằng những hành vi nhân đức nhỏ nhất mà người ta nhìn thấy họ thực hành... Thật chẳng có gì tích cực và xác thực hơn được! Nữ tu Têrêsa bé nhỏ, hết lòng phó thác vào công việc của Thiên Chúa vĩ đại nơi Chị, đã quyết định “từ chối hết những quyền lợi cuối cùng của mình!” Chị xem mình như là “tôi tớ, là nô lệ người khác”. Trong cộng đoàn, ngoài thời gian thinh lặng, cầu nguyện và cô tịch đã quy định trên thời khoá biểu, Chị miệt mài đắm mình vào việc phục vụ người khác. Cung cách đắm mình như thế bảo đảm sự tiến bộ cao nhất trong tình yêu, bởi lẽ “Tình yêu được nuôi sống bằng những hy sinh, linh hồn càng khước từ những thoả mãn tự nhiên, thì tình cảm âu yếm của nó càng trở nên mạnh mẽ và vô vị lợi”. Bấy giờ tình yêu đích thực sẽ nhanh chóng tìm được cách thể hiện phù hợp của nó: Đôi khi vì công việc, người ta phải miễn cưỡng từ chối một phục vụ, nhưng khi đức bác ái đã bén rễ sâu trong linh hồn thì sẽ được thể hiện ra bên ngoài. Có một cách hết sức tuyệt diệu để từ chối cái mà người ta không thể cho đi, và việc từ chối cũng mang lại sự hài lòng. Như vậy, Têrêsa cố gắng làm cho đời sống của những người khác và đời sống của chính mình trở nên một ngày lễ kéo dài! Với những phương thế thật bé mọn... Bằng ngôn ngữ của nét mặt, đôi tay, bằng những lời nói ra, và cả ý nghĩ của Chị... Con muốn trở nên khả ái đối với hết thảy mọi người (đặc biệt với những người chị em ít dễ thương nhất) để làm vui lòng Chúa Giêsu và đáp lại lời khuyên nhủ Ngài đưa ra trong Tin Mừng, đại để như sau: “Khi nào các con đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng kêu bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại, và như thế các con được đáp lễ rồi. Trái lại, khi đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, các con mới thật có phúc, vì Cha các con là Đấng thấu suốt những gì kín đáo sẽ trả công cho các con”. Bữa tiệc nào mà một nữ tu Cát Minh có thể đãi các chị em của mình nếu không phải là bữa tiệc thiêng liêng bao gồm đức ái dễ thương và vui tươi. Têrêsa đã bệnh khá nặng khi viết những dòng ấy... Nhưng hễ đi đến đâu, Chị luôn tạo ra sự nồng ấm đến đấy! Ngày 8 tháng 7 năm 1897, Chị xuống nằm tại phòng bệnh và sẽ không bao giờ rời khỏi đấy nữa. Người ta chuẩn bị những gì cần thiết cho việc xức dầu bệnh nhân, lúc đó, dấu hiệu sự chết đã đến gần... Trong đan viện, không khí thật ảm đạm. Có thể cũng chính những ngày này, Têrêsa đã viết những lời sau hết cho bản Tự Thuật của Chị, Mẹ Agnès đã ghi lại, vào ngày 9 tháng 7: “Người ta đã bắt được một con chuột trong phòng bệnh của Têrêsa. Nhân đó, em đã bày ra một câu chuyện, bằng cách bảo chúng tôi cứ mang con chuột bị thương đến cho em, em sẽ đặt con chuột nằm bên cạnh và sẽ bảo bác sĩ khám cho nó. Chúng tôi đã cười thoải mái, và Têrêsa rất hài lòng vì đã làm chúng tôi thích thú”. Từ đó, Têrêsa rất được yêu mến trong cộng đoàn. Điều này xuất hiện trong những gì Chị viết cho Mẹ Marie de Gonzague, tuy không phải là không có đôi chút xã giao: Ở nơi này, thưa Mẹ yêu quý, con sống không phải bận tâm đến những lo toan của thế gian khốn khổ, con chỉ phải chu toàn nhiệm vụ êm ái và dễ dàng mà Mẹ đã trao phó. Nơi đây, vì được dư tràn những ân cần hiền mẫu của Mẹ, nên con không cảm thấy nghèo khó vì chẳng bao giờ phải thiếu thốn điều chi. Nhưng nhất là, ở đây con được Mẹ và tất cả chị em yêu thương, và tình thương ấy rất ngọt ngào với con. Vì thế con mơ ước một đan viện mà ở đó sẽ chẳng ai biết đến con, con sẽ phải chịu đựng sự nghèo khổ, thiếu thốn tình thương, sau hết là sự lưu đày của con tim.
Trong hoạt động tông đồ của mình cũng vậy, Têrêsa trực tiếp tìm kiếm nơi Chúa nguồn cảm hứng, sức mạnh và sự thúc đẩy sống động của Thần Khí làm cho hạt giống nẩy mầm. Bởi vì Têrêsa đã thực hiện công việc tông đồ của Chị rồi! Do đó, chẳng cần phải rảo khắp mọi miền. Chị đan sĩ Cát Minh mà Đức Piô XI đã phong làm thánh bổn mạng các xứ truyền giáo trên toàn cầu cùng một danh hiệu như Phanxicô Xaviê, cũng là vị bổn mạng không chính thức công bố của hoạt động tông đồ tại gia, nơi bạn đang sống hàng ngày giữa những người chung quanh. Đối với bạn, tất nhiên những người đang sống chung quanh bạn được gọi là tổ ấm gia đình bạn, những người láng giềng, các đồng nghiệp. Với Têrêsa, thì đó chính là hai mươi lăm người chị em của Chị, nhóm nhỏ những người cùng trao đổi thư tín, các thành viên ruột thịt trong gia đình Chị và những người bạn thỉnh thoảng đến thăm Chị ở phòng khách, cha tuyên uý giải tội cho Chị và viên bác sĩ đến khám bệnh cho Chị tại phòng bệnh. Tình yêu đối với Chúa Giêsu và lòng nhiệt thành của Chị đối với Nước Cha cũng gợi lên cho Chị những phương diện hoạt động tông đồ khác nhau: chứng tỏ đức tin, một việc tốt lành vui tươi, ân cần lắng nghe, lời hay ý đẹp đúng lúc, lời khuyên nhủ động viên trong một bức thư... Trong tu viện của mình, Têrêsa đã có thể chu toàn một bổn phận cao cả bên cạnh năm tập sinh mà Chị đồng hành thiêng liêng với họ, không phải bằng sức riêng của Chị... “Con thấy ngay là bổn phận vượt quá sức con...”. Nhưng, bằng cách đặt hết mình vào trực giác trung tâm của con đường bé mọn, bổn phận của Chị trở nên hết sức đơn giản. Thế là con nói: “Lạy Chúa, con quá nhỏ bé nên không thể nuôi nổi các con cái Chúa được; nếu Chúa muốn thông qua con mà ban cho họ những gì thích hợp với từng người, thì xin hãy đổ đầy bàn tay nhỏ bé của con...”. Thưa MẸ, kể từ khi con hiểu ra tự mình chẳng làm gì được gì, thì bổn phận mà Mẹ đã đặt ra cho con có vẻ như càng khó khăn hơn, con nhận thấy điều cần thiết duy nhất chính là càng lúc càng phải kết hợp với Chúa Giêsu hơn nữa (Lc 10,41-42) còn tất cả những thứ kia sẽ được Ngài thêm cho (Mt 6,33). Quả thật niềm trông cậy của con chẳng bao giờ phải thất vọng (Rm 5,5), Chúa Nhân Lành đã đoái thương đổ đầy bàn tay nhỏ bé của con bất cứ lúc nào cần để con có thể nuôi sống linh hồn những người chị em của con. Dĩ nhiên, Têrêsa đã trao tất cả những tài năng của mình cho Chúa sử dụng, cầu xin Ngài không ngừng tinh luyện chúng. Và luôn là cả một trân trọng đối với nhân cách của hết thảy mọi người! Thú thực với Mẹ, thưa Mẹ yêu dấu, chỉ cần dựa dẫm sức mạnh của con một chút vào thế gian thôi, hẳn là con đã phải buông vũ khí... Từ xa có vẻ như việc mang lại lợi ích cho các linh hồn, làm cho họ yêu mến Chúa hơn nữa, để khuôn đúc họ theo các quan điểm và ý tưởng của Ngài, chỉ toàn một màu hồng. Gần hơn, thì hoàn toàn ngược lại, màu hồng đã biến mất... Người ta cảm thấy việc mang lại lợi ích cho các linh hồn, mà nếu không có sự trợ giúp của Chúa Nhân Lành, thì cũng chẳng thế nào làm được, khác nào làm cho mặt trời rực sáng trong đêm tối... Người ta cảm thấy tuyệt đối quên đi những sở thích riêng của mình, những quan niệm cá nhân và phải dẫn dắt các linh hồn đi theo con đường đã được Chúa Giêsu vạch ra, không cố tìm cách làm cho họ đi theo con đường riêng của họ. Kinh nghiệm dạy cho Chị biết: Người ta hoàn toàn khác nhau đến độ con chẳng khó khăn để hiểu ra những lời này của cha Pichon: “Có sự khác nhau giữa các linh hồn nhiều hơn giữa các khuôn mặt”. Và Chị cũng biết cả điều này nữa: ... Có những linh hồn mà tình thương xót của Ngài không chán phải đợi chờ, ban cho họ ánh sáng tuỳ từng mức độ. Do đó, Chị giữ mình để khỏi “đốt giai đoạn” khi giờ của Chúa chưa đến. Kết hiệp hết sức mật thiết với Ngài Như vậy, một kết hiệp thâm sâu với Đức Giêsu Kitô, đối với Têrêsa là điều kiện tất yếu để trở thành tông đồ nhiệt thành. Và, sau khi đã gặp gỡ người khác trong hoạt động tông đồ, Chị còn đưa họ đến với Chúa, trong lời cầu nguyện của mình. Têrêsa có trình bày với Ngài tất cả những thiếu thốn của họ không? Chị biết rõ những thiếu thốn ấy... Và Chị có những ước ao vô cùng lớn lao dành cho mỗi người trong số họ, cho những nhà truyền giáo, cho Hội Thánh toàn cầu... Làm thế nào để giải quyết được tất cả những ước ao ấy? Một buổi sáng, ánh sáng con đường bé mọn của Chị làm cho Chị hiểu rõ vấn đề ấy hơn nữa: Chúa Giêsu sẽ đích thân nghĩ đến tất cả những nhu cầu ấy, Têrêsa chỉ việc phó thác hết mình vào Ngài! Đây là những gì Chị giải thích với chúng ta: Với những linh hồn đơn sơ, không phải cần đến những phương thế phức tạp; vì con cũng là một linh hồn trong số đó, nên một buổi sáng lúc con đang tạ ơn, Chúa Giêsu đã ban cho con một phương thế đơn sơ để chu toàn bổn phận của mình. Ngài đã làm cho con hiểu những lời này của Diễm Ca: “Hãy kéo em theo anh, đôi ta cùng mau bước đến với mùi hương anh thơm ngát” (Dc 1,3). Ôi Giêsu, thế thì đâu cần phải nói: Trong lúc lôi kéo con, hãy lôi kéo những linh hồn con yêu mến làm gì nữa. Chỉ cần câu: “Hãy lôi kéo con” là đã đủ, lạy Chúa, con hiểu khi một linh hồn bị mùi hương của Chúa làm cho say mê thì sẽ không chạy một mình, mà tất cả các linh hồn khác nó yêu mến cũng bị lôi kéo theo sau: điều đó xảy đến một cách tự nhiên, không gượng ép, không phải cố gắng, đó là một hệ quả tất nhiên của sức thu hút đến với Chúa. Giống như một dòng thác tuôn đổ ầm ầm vào lòng đại dương kéo theo cùng với nó tất cả những gì gặp được trên những nơi nó chảy qua, thì cũng vậy, ôi lạy Chúa Giêsu, linh hồn nào đắm mình vào sâu trong đại dương tình yêu bao la vô tận của Chúa cũng lôi kéo theo mình tất cả những kho tàng mình sở hữu... Ôi! Têrêsa rất thường phân tâm và ngái ngủ trong những giờ kinh nguyện kéo dài, tuy luôn chiến đấu bằng lòng sốt sắng. Nhưng giờ đây, bằng đức tin và niềm tin tưởng Chị là xin Chúa Giêsu, vốn rất yêu quý Chị biết bao, hãy lôi kéo Chị. Cả việc cầu nguyện của Chị cũng vậy, Chị không muốn tự mình thực hiện, Chị cầu xin Giêsu đích thân sống và cầu nguyện trong Chị. Đây là lời cầu nguyện của con, con cầu xin Chúa Giêsu lôi kéo con vào trong lò lửa tình yêu của Ngài, kết hiệp con hết sức mật thiết với Ngài, để Ngài sống và hoạt động ở trong con (Gl 2,20). Têrêsa như bị Chúa Giêsu thôi miên. Tâm hồn Chị đắm mình vào trong Ngài cả ngày lẫn đêm. Con tin là con chưa bao giờ để qua ba phút mà không nghĩ đến Chúa nhân lành... Tất nhiên, người ta thường nhớ đến người mà mình yêu. Trong bài thơ Sống tình yêu do Chị sáng tác, Chị đã viết: Nơi những người yêu nhau, phải có sự cô tịch Có một cuộc tâm tình bất kể ngày đêm. Để cầu nguyện ban đêm, Têrêsa chỉ có thời gian nằm bệnh xá và đang khi chứng lao phổi đục khoét thân xác Chị. Vài tuần trước khi Têrêsa qua đời, Céline vào chỗ em gái nằm và thấy em mình đang chắp tay, mắt hướng lên trời. - Em đang làm gì vậy? Céline hỏi, phải gắng ngủ đi chứ... - Đau quá, em không ngủ được, thế là em cầu nguyện. - Vậy, em nói gì với Giêsu? - Chẳng nói gì cả, em yêu Ngài! Chúa Giêsu là sự cứu giúp của Chị trong cơn giông bão, ánh sáng của Chị trong đêm tối, là một phần thiên đàng đối với Chị trên trần gian: Thiên Đàng của con là được ở mãi trong sự hiện diện của Ngài: Được gọi Ngài là Cha ơi và được Ngài nhận làm con cái. Ngoài ra, kinh Lạy Cha đối với Chị mang một vẻ đẹp lạ lùng. Toàn bộ đời sống thiêng liêng của Chị là một chú giải sống động về những lời cầu xin đã được Chúa Giêsu dạy cho chúng ta. Têrêsa sống như một trong những anawim, người nghèo của Giavê, hy vọng phần rỗi của họ nơi Thiên Chúa, những con người khiêm nhường như Đức Maria, “đói nghèo, và được Chúa ban của đầy dư” (Lc 1,53). Chính vì thế mà Têrêsa càng lúc càng nên giống với Đức Maria. Chị rất yêu mến Đức Maria. Trong bài thơ cuối cùng của mình, Chị cố gắng nhắc lại điều ấy một lần nữa: “Ôi Maria, sao con lại yêu Mẹ!” Nơi Đức Maria, Têrêsa nhìn thấy người mẹ và hình ảnh của những người bé mọn đang cùng đi trên “con đường chung” của lòng tin và sự tin tưởng. Nadarét và Lisieux thật gần nhau. Nếu Têrêsa cần đến hai mươi lăm khổ thơ mới nói lên được “Chị yêu Đức Maria đến chừng nào”, thì lời tóm tắt hoàn toàn nằm trong những lời ở câu thơ cuối: “Con là con Mẹ”.
Chúa Giêsu đã nói: “Phúc ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Nghèo khó chính mình và mọi sự, Têrêsa giàu có Thiên Chúa nhờ bởi lòng tin tưởng vô hạn của Chị. Mọi sự là của chúng ta, Chị nói, mọi sự là để cho chúng ta, vì trong Giêsu, chúng ta có mọi sự.
Têrêsa biết Chúa luôn đến với Chị, như một hồng ân. Thiên Chúa trong tâm hồn Chị, và tương lai Chị trong tay Ngài! Chị đã chiếm hữu trước được mọi sự và hoàn toàn vui sướng. Trong khi không còn thiết tha ước ao điều gì hữu hạn, thì sự vô hạn, Chị biết là có thể đạt đến. Chị chẳng còn thiếu thốn gì và ý thức sự hiện diện đầy tình thương xót của Chúa Giêsu, bây giờ cũng như sau này, làm nẩy sinh trong Chị một niềm hạnh phúc sâu xa. Chị luôn “vui vẻ và hài lòng”. Giờ đây Chị sống trọn vẹn cuộc sống của mình như một cách Chúa đang nói và một hiểu hiện sự ân cần đầy tình phụ tử của Ngài. Ngay cả trong đêm tối đức tin và sự đau khổ thể lý ngày càng trầm trọng, thì tận sâu trong bản thể Chị vẫn luôn có sự bình an và niềm vui. Nụ cười của Chị thật điển hình giữa những người chị em của Chị; họ cảm thấy nó phát xuất từ cuộc tiếp xúc của chị với Chúa. Không một khoảnh khắc nào cuộc sống là dễ dàng thực sự đối với Têrêsa. Tôi đã tìm thấy hạnh phúc và niềm vui trên trần gian, nhưng chỉ trong đau khổ mà thôi, bởi vì tôi đã đau khổ nhiều dưới thế tạm này; phải làm cho các linh hồn biết được điều đó... Nhưng dần dà trong Chị hình thành một thay đổi cơ bản: Nếu trong tuổi thơ ấu con đã phải chịu đau khổ một cách buồn bã, thì bây giờ không còn như xưa nữa, còn đã chịu đựng một cách vui tươi và bình an, con thực sự hạnh phúc vì được chịu đau khổ. Cuộc sống trên thiên đàng sẽ nhanh chóng xảy đến, lễ Vượt Qua đã thực sự bắt đầu: Con như đang được sống lại... Ôi! Mọi người đừng đau lòng vì con. Con đã đến mức không thể đau khổ hơn nữa, bởi vì mọi đau khổ đang trở nên ngọt ngào đối với con. Lo âu, đau đớn, suy sụp sức khoẻ, một lời gây tổn thương, tất cả những điều ấy chỉ phớt qua linh hồn con mà thôi. Tận trong nơi sâu thẳm nhất của con người mình, Chị được cắm chặt vào Thiên Chúa. Được gắn bó với Chúa, Chị cảm thấy mình không dính dáng gì đến tất cả những gì không phải là Ngài và tất cả những gì Ngài không muốn. Chị thích những hình ảnh diễn tả sự nhẹ nhàng, nhanh chóng, đi lên: Chị có “đôi cánh”, Chị “bay lên”, Chị giống như một chú chim chiền chiện (tên gọi dân dã của chim ‘sơn ca’ - ND), chẳng ước ao điều gì ngoài việc lên thật cao trong Ánh Sáng vô tận. Sự bối rối, bất an, sự mất hết ảo tưởng không còn có thể nhốt Chị vào với chính mình được nữa. Bởi vì Chị tin! Vâng!!! Hồng ân biết bao khi có lòng tin! Nếu không có lòng tin, hẳn con đã mang lại cho mình cái chết mà không một phút giây do dự...
Con không hề bận lòng về tương lai, con chỉ tin chắc là Chúa nhân lành sẽ thực hiện ý định của Ngài, đó là hồng ân duy nhất con ao ước. Chị sống trong khoảnh khắc hiện tại ý định của Chúa: “Không có gì ngoài hôm nay”. Chúa nhân lành ban cho con can đảm ngang mức với những đau khổ của con. Con cảm thấy, ngay lúc này đây, con không thể chịu đựng thêm được nữa, nhưng con không sợ bởi vì nếu chúng gia tăng, Ngài cũng sẽ làm cho lòng can đảm của con gia tăng. Đôi khi người ta chịu đựng rất nhiều. Têrêsa thường nhắc lại châm ngôn sống của mình: “Mọi sự là hồng ân!” Lòng biết ơn luôn cư ngụ trong tâm hồn Chị. Và câu châm ngôn cũ: yêu, luôn yêu hơn nữa. Đó là âm điệu nền tảng của lời Chị cầu nguyện. Đã hẳn, Chị vẫn còn mắc những lỗi lầm rất nhỏ. Chỉ bằng một cái nhìn, Chị vừa nhìn thấy sự dư đầy của những hồng ân đã nhận được vừa nhìn thấy sự bé mọn muôn đời của mình. Nhưng: Từ khi Giêsu cho con hiểu được tình yêu của Trái Tim Ngài như vậy, thú thật với thầy (ở đây là thầy đại chủng sinh Bellière - ND) là Ngài đã xua tan khỏi trái tim con mọi nỗi lo sợ. Việc nhớ đến những lỗi phạm của mình khiến con hạ mình xuống, đưa con đến chỗ không bao giờ cậy dựa vào sức mình vốn chỉ là yếu đuối, nhưng càng nói cho con biết hơn nữa về lòng thương xót và tình yêu. Lẽ nào mà khi người ta đầy lòng tin tưởng thảo hiếu ném tất cả tội lỗi vào ngọn lửa mãnh liệt Tình Yêu mà chúng vẫn cứ tồn tại và quay lại được nữa sao? Trong viễn cảnh về niềm tin tưởng vô hạn, không còn chỗ cho luyện ngục. Vì thế mà Chị gọi đó là “nỗi lo cuối cùng của con”. Ngay cả khi không biết mình có đáng bị rơi vào nơi ấy hay không, Chị vẫn chẳng thể sợ nó, vì ý thức được rằng “ngọn lửa Tình Yêu còn thánh hoá hơn cả ngọn lửa luyện ngục”. Trong lúc nhớ rằng Đức Ái thì che phủ muôn vàn tội lỗi (1Cn 4,8), con kín múc được nhiều từ kho tàng phong nhiêu mà Chúa Giêsu đã mở ra trước mắt con. Thật thú vị khi so sánh ba câu văn của Têrêsa, được viết vào những lúc khác nhau trong đời Chị. Năm 1889, Chị viết khi đang là tập sinh: Chúng ta hãy khẩn trương kết lấy triều thiên cho mình. Bốn năm sau, Chị nói về những nỗ lực yêu mến của mình: Không phải để giành lấy triều thiên. Tiếp đến bốn năm sau nữa, năm 1897, Chị nhìn nhận: Con không làm nên triều thiên cho con, nhưng chính Chúa nhân lành đã làm.
Đã đến lúc gặp Chúa. Niềm ước ao của Têrêsa đạt đến độ chín muồi của nó, việc chuẩn nhận đã gần kề. Mọi sự trôi qua nhanh quá. Têrêsa mong đợi điều đó. Chưa bao giờ con cầu xin Chúa cho con chết lúc con trẻ cả, [1v0] điều đó với con có vẻ như là hèn nhát vậy, nhưng chính Ngài, ngay từ khi con còn nhỏ dại, đã đoái thương làm cho con tin một cách sâu sắc rằng cuộc chạy của con dưới thế này sẽ ngắn ngủi. Chính vì thế mà Chị vội sống một cách mãnh liệt. Khi đang là tập sinh tại ngôi trường đau khổ, Chị viết: Hãy nhìn cuộc sống dưới ánh sáng đích thực của nó... đó là một khoảnh khắc giữa hai sự vĩnh cửu... Trong lòng Têrêsa luôn nghĩ đến thời gian và sự vĩnh cửu. Cuộc sống đối với Chị dường như là một quà tặng của Chúa, nhưng đồng thời cũng là một bổn phận có kèm theo những hệ quả quan trọng: Vâng, cuộc sống là một kho tàng... mỗi một khoảnh khắc là một sự vĩnh hằng, vĩnh hằng của niềm vui sướng hướng về thiên đàng, vĩnh hằng vì được nhìn thấy Thiên Chúa diện đối diện (1Cr 13,12), được nên một với Ngài!... Chỉ còn một mình Giêsu là hiện hữu; mọi thứ khác đều ra hư không... Như vậy, chúng ta hãy yêu mến Giêsu một cách đại cuồng, hãy cứu lấy các linh hồn cho Ngài. Chúng ta còn vĩ đại hơn cả vũ trụ, vào ngày mà chính chúng ta cũng sống được sự sống của Thiên Chúa... Đó chính là thị kiến mùa xuân, đồng thời cũng là thị kiến mùa thu - mọi sự đều chỉ được diễn tả bằng một giọng an nhiên tự tại hơn: Càng gần ra trước mặt Chúa nhân lành, con càng hiểu rõ hơn bao giờ hết là có một điều quan trọng, đó là chỉ làm việc cho một mình Ngài mà thôi... Con muốn nói với thầy, thưa người Anh Em kính mến, hàng ngàn điều con hiểu đang nằm ở cửa vào cõi vĩnh hằng, nhưng con không chết đâu, con đi vào sự sống và tất cả những gì con có thể nói với thầy ở dưới thế này, thì từ Trời cao con sẽ làm cho thầy hiểu... Hơn bao giờ hết, Têrêsa có cái nhìn của đứa bé. Sự chín chắn thiêng liêng của Chị được biểu lộ bằng sự đơn sơ sâu sắc mà cùng với nó Chị nhìn thấy nơi mọi sự một tia chiếu của Ánh Sáng thần linh. Và như Han Fortmann nói trong giờ hấp hối: Trong giờ phút quyết định, có thể dễ dàng đạt tới ánh sáng hơn trong sự đơn điệu của đời sống thường nhật, khi cái chết đang còn ở tận chân trời. Có biết bao điều sáng rỡ trong cuộc sống: mùa xuân, hoa mimosa, tiếng chim hót, nhạc Mozart, tình yêu, rượu, đôi mắt bằng hữu, khiêu vũ. Có phải chúng đều cạnh tranh với “Ánh Sáng Vĩ Đại và Rạng Ngời” đấy không? Bằng kinh nghiệm chưa đủ chín chắn, thì đúng vậy. Vui vì các sự vật là điều hiển nhiên. Ánh Sáng Vĩ Đại cần được khám phá. Linh hồn phải nhắc nhở mình rằng những ánh sáng nhỏ đều phải bắt nguồn từ Ánh Sáng Vĩ Đại. Đối với trẻ nhỏ, điều này đôi khi là điều gì đó tự nó mà có. Têrêsa đã sẵn sàng để chết hay chưa? Đã và chưa. Lột bỏ hết mọi sự, Chị đang sẵn sàng nhận lại mọi sự: Bởi vì em đang làm hết sức mình để trở thành một em bé, cho nên chẳng có gì cần phải chuẩn bị cả. Giêsu đã phải tự tay trả lấy hết mọi chi phí của chuyến đi và vé vào Nước Trời... Nhưng, bằng một quan điểm khác, Chị vẫn chưa sẵn sàng, chưa xứng đáng để kết hiệp với Thiên Chúa Rất Thánh, và Chị biết, tự mình, Chị sẽ chẳng bao giờ sẵn sàng... Con cố gắng làm cho cuộc đời con trở nên một hoạt động tình yêu (Lc 7,47) và không còn bận lòng vì là một tâm hồn nhỏ bé nữa, trái lại, con vui sướng vì điều ấy. Đó lý do tại sao con dám hy vọng “ngày tháng lưu đày của con sẽ chóng qua”, nhưng như vậy không phải là do con đã sẵn sàng đâu; con cảm thấy mình sẽ chẳng bao giờ được như thế nếu Chúa không đích thân biến đổi con; Ngài có thể làm điều đó trong một thoáng chốc; sau những hồng ân mà Ngài đã đổ tràn cho con, con vẫn chờ đợi hồng ân của lòng thương xót vô biên nơi Ngài. Xét thấy không bao giờ, trên trần gian này, có thể đáp trả cân xứng được với tình yêu của Thiên Chúa, nên từ lâu trong Têrêsa luôn bừng lên niềm ước ao Thiên Đàng. Ở nơi ấy, Chị mới có thể yêu mến Thiên Chúa một cách sung mãn bằng chính tình yêu của Ngài. Ở nơi ấy, Chị mới có thể yêu mến Ngài một cách vô tận và gần gũi, như đã ước ao được yêu như vậy ngay từ dưới thế này. Lúc còn là tập sinh, Chị đã viết: Em khát khao Thiên Đàng biết bao, nơi ấy người ta sẽ yêu mến Giêsu hết lòng, hết cả trí khôn!... Giờ đây, ba tháng trước khi qua đời, Chị nói: Điều hấp dẫn con đến với Quê Trời, chính là tiếng gọi của Chúa, là niềm hy vọng cuối cùng được yêu mến Ngài như con hằng ao ước biết bao và ý tưởng muốn mình có thể làm cho Ngài được yêu mến bởi vô số các linh hồn sẽ chúc tụng Ngài mãi mãi. Bởi Chị đang có niềm xác tín ngọt ngào về điều này, ở trên Trời, Chị sẽ tiếp tục làm tông đồ dưới đất: Con cảm thấy mình sắp đi vào nơi an nghỉ... nhưng nhất là cảm thấy rằng sứ mệnh của con sắp bắt đầu, sứ mệnh trao cho các linh hồn con đường bé nhỏ của con, để họ yêu mến Chúa nhân lành như con yêu mến. Nếu Chúa nhân lành khấng nhận những ước nguyện của con, thì Thiên đàng của con sẽ xảy ra trên trái đất này cho đến tận thế. Vâng, con muốn dùng Thiên Đàng của con để làm việc thiện trên trái đất. *** Kết hợp với ao ước Thiên Đàng của Chị, nỗi mong chờ cái chết vì tình yêu của Chị càng lúc càng háo hức. Chị không dựa vào bệnh tật để về thiên đàng đâu, đó là một “bác tài” quá chậm. Chị chỉ còn dựa vào tình yêu mà thôi, hãy cầu xin Giêsu Nhân Hiền làm cho tất cả những lời cầu nguyện dành cho chị được dùng để gia tăng Ngọn Lửa làm chị phải tiêu hao đi... Ngay từ lúc bắt đầu sống đời thánh hiến, Têrêsa đã bừng cháy trong lòng vì những lời của thánh Gioan Thánh Giá, trong tác phẩm Ngọn lửa tình nồng của ngài: Quan trọng hơn cả là linh hồn tập luyện nhiều với Tình Yêu để, trong lúc mau mắn tiêu hao mình đi, nó không dừng lại ở dưới thế này, nhưng nhanh chóng đạt đến chỗ nhìn thấy Thiên Chúa của nó diện đối diện. Và Chị cầu nguyện với Ngài: Xin hãy xé toang tấm màn che khuất cuộc gặp gỡ ngọt ngào áy. Khi mà về sau này, Têrêsa luôn để ý hơn nữa đến sự bất lực của tình yêu trong Chị. Chị nhận thấy cái chết vì tình yêu như một khoảnh khắc mà trong đó, lần cuối cùng, tất cả tình yêu được cô đọng thành một hiến dâng tột đỉnh. Trong Lễ Dâng của Chị cho Tình Yêu đầy thương xót, Têrêsa đã xin cuộc tuẫn đạo tình yêu làm cho Chị được chết. Chúng ta thấy lời cầu nguyện ấy thường được lặp lại. Tuy nhiên ở đây có vị trí cho một diễn tiến sâu xa. Từ đầu, đúng hơn là Têrêsa trông chờ một cái chết theo như mô tả của thánh Gioan Thánh Giá: “Trong những rung cảm tuyệt vời và những tấn công ngọt ngào mà tình yêu mang đến”. Nhưng trong đêm tối của sự đau khổ thể lý và tinh thần, Chị thấy có rát ít những “rung cảm” và “tấn công”... Quản điểm của Chị về cái chết sẽ tiến triển. Bản chất của cái chết vì tình yêu không thay đổi, nhưng dạng thức thì thay đổi. Chị thường nhìn Đấng chịu đóng đinh và cuối cùng Chị hiểu ra: Chúa chúng ta đã chết trên Thập giá, trong bồi hồi xao xuyến, nhưng đó chính là cái chết đẹp nhất vì tình yêu... Chết vì tình yêu, không phải là chết trong những rung cảm. Cuối cùng, Chị sẽ nói cái chết vì tình yêu mà Chị ao ước “chính là cái chết của Giêsu trên thập giá”. Và cái chết như thế sẽ là cái chết của Chị.
Vào cuối cuộc đời này, con sẽ ra trước mặt Ngài với hai bàn tay trắng. Hai bàn tay trắng. Không gian mở ra với Chúa. Khi đến trước mặt Đấng Phu Quân Chí Ái của con, con sẽ chỉ có những ước ao riêng để dâng lên Ngài mà thôi. Giờ phút ấy nay đã đến, ngày 30 tháng 9 năm 1897. Vào lúc xế chiều, Têrêsa nói: Hình như con lúc nào cũng chỉ tìm kiếm sự thật; vâng, con đã hiểu được tâm hồn khiêm nhường... Con thấy có vẻ như con khiêm nhường. Chỉ một lát sau: Con không hối hận vì đã hiến mình cho Tình Yêu. Ôi! Không, con không hối hận, mà trái lại! Đã hơn mười chín giờ. Sao mặt trời vẫn chưa lặn? Têrêsa thốt ra những lời cuối cùng của Chị: Lạy Chúa, con yêu Ngài... Chị trút hơi thở cuối cùng. Thế là, diện đối diện! Tình Yêu hoàn toàn chiếm hữu Chị. Bao la như đại dương. Rực rỡ hơn mặt trời. Niềm vui khôn cùng, đời sống vĩnh cửu - cùng với Đức Maria và toàn thể các thánh. Thiên Chúa, tất cả trong tất cả! Niềm cậy trông đã hoàn tất công việc của mình.