“Tôi đã khóc, quê hương không níu lại” Của thời xưa, một thuở sống an bình Có đàn cò, bay rợp góc trời xanh Bầy trẻ nhỏ, tung tăng chiều ca hát. (thơ Hoàng Linh trang) Lc 21: 25-28, 34-36 Tiếng khóc của nhà thơ, sao quê hương một thời không níu kéo. Lo sợ của nhà Đạo, nay Chúa cảnh tỉnh, để suy tư. Suy tư, là tâm tư cùng niệm suy Lời Chúa phán, để tỉnh thức.
Trình thuật thánh Luca hôm nay, ghi lời Chúa cảnh tỉnh để dân con nhà Đạo biết được mà tỉnh thức. Với nguyện cầu. Nguyện và cầu, ngày Chúa đến. Nhân mùa Vọng.
Bài đọc 1 Chúa nhật đầu mùa Vọng, có tiên tri Giêrêmia loan báo việc Đức Chúa, Vua Vũ Trụ – Đấng Cứu Thế, nay sắp đến: “Ta sẽ cho mọc lên một Mầm Non, một Đấng Công Chính để nối nghiệp Đa-vít; Người sẽ trị nước theo lẽ công bình và chính trực.” (Gr 33: 15) Mầm Non đây, là nói Hài Nhi Chúa đến với đất miền Bêlem nhỏ bé, ta vẫn gọi: lần đầu Chúa đến.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay, còn dùng lời rất rõ để bày tỏ về ngày Cánh chung. Ngày Quang Lâm Chúa đến, vào lần sau. Ngài đến, dần vào thời thế tận, như có viết: “Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây, mà đến.” (Lc 21: 27)
Xét cho kỹ, giữa lần đầu Chúa đến và lần sau, vẫn có một nối kết, rất quan trọng. Không thể thiếu. Đó chính là điều, được thánh Phaolô nói ở bài đọc 2: “Chúa sẽ cho anh em được bền tâm vững chí, trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta quang lâm cùng các thánh của người.”( 1Th 3: 13). Ngày quang lâm, theo thánh nhân, vẫn xảy đến với cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Ở đây. Bây giờ. Hiểu như thế, ta sẽ cùng với Hội thánh đón chờ ngày Chúa đến lần sau, vào một ngày. Không ai biết.
Kể cũng lạ, Hội thánh của ta bắt đầu niên lịch phụng vụ bằng truyện kể về ngày thế tận. Phải lẽ hơn, sao Hội thánh không kể truyện Chúa tạo dựng trời đất. Tạo dựng con người? Hoặc, nói về ngày khai phóng Đạo Chúa. Về ngày nhập thể?
Hội thánh chọn kể như thế, để người người hiểu rằng đời người ở trần thế, chỉ là một hành trình. Là, cuộc hành hương. Không hơn không kém. Trong Kinh thánh, cũng như ở cuộc đời, khởi sự cũng như quá khứ của mọi việc, vẫn không là chuyện quan trọng. Hàng đầu. Tất cả, chỉ là sự kiện người người có mặt ở trần gian. Bởi, dù muốn dù không, ta cũng chẳng thể nào thay đổi được tình thế. Không thay và cũng chẳng đổi được điều gì. Tuy nhiên, tất cả vẫn đều ảnh hưởng lên những gì ta đang có. Đang sống. Xấu cũng như tốt.
Quan trọng, không phải là: chuyện xảy ra. Nhưng, là biết mình đang đi về đâu. Chỗ nào là điểm tới, cuộc đời. Sao lại thế? Để trả lời, siêu sao Yogi Berra, có lần từng nói: ”Ta phải cẩn trọng, vì không biết mình đang đi về đâu. Bởi, nếu không, sẽ chẳng bao giờ ta tới đuợc nơi đó.” Bởi thế nên, khi mình quyết đi về đâu, điều mình quyết định sẽ làm, sẽ tạo hoàn cảnh để ta có được một chọn lựa. Chọn, trở thành kỹ sư. Nhà kiến trúc. Hay, chỉ là phó thường dân. Nhất nhất, đều phải hoạch định trước. Có quyết tâm, mới thực hiện được điều mình mong muốn. Ngay chuyện trở thành thày dòng hoặc ẩn sĩ, ta cũng phải quyết định để có được một chọn lựa, cho đích đáng. Chọn cho đúng, để mình sẽ không ngoái cổ quay về chốn cũ. Mà, vẫn đầu cao mắt sáng, hướng về phía trước, thôi.
Các bài đọc hôm nay, thôi thúc ta giáp mặt với thực tại, của cuộc đời. Nhiều người, lâu nay vẫn cứ muốn vui hưởng đời mình, bằng hai phương cách. Một là, những muốn để thời gian năng lượng mà tạo hoàn cảnh để có thể “ăn chơi”, cho bõ thích. Nhưng, lại chẳng bao giờ đạt đích điểm mình muốn tới. Hoặc vui hưởng, bằng cách né tránh thực tế hằng ngày qua việc đầm mình với rượu chè, cờ bạc, ma tuý, dục tình, đam mê vật chất, hoặc tổng hợp cả hai. Như trình thuật nói rõ: người người “để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời.”(Lc 21: 34) Mà, nhiều phần thì những lo lắng ấy, là do chính mình tạo lấy.
Lo lắng có kẻ thù? Hay là, lo không đủ tiền? Phải chăng, lo như những người chỉ biết lo cho cuộc đời mình bị đe doạ , bị cạnh tranh, giành giựt, nơi thị trường, hoặc sở làm? Lo, là lo mất việc. Mất nồi cơm. Manh áo? Trên thực tế, địch thù lớn nhất của người người là chính nỗi lo, nỗi sợ. Đặc biết nhất, là tương lai vẫn cứ lo. Nhiều khi ta phải chọn lựa, hoặc đắn đo, là do nỗi ưu tư lo lắng ấy.
Đọc trình thuật hôm nay, ta sẽ hiểu ra rằng, người người sẽ còn lo lắng, nhiều hơn thế. Những lời cảnh báo, như: “Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống điạ cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.”(Lc 21: 27) Điều ghi đây, không có ý nói về tương lai, mai ngày của trái đất. Mà, đó là những điều vẫn xảy đến với muôn dân. Ở đây. Lúc này.
Và rồi, trình thuật nói tiếp về phản ứng của dân con đồ đệ là tín hữu , không thể là phản ứng của hãi sợ: “Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc.” (Lc 21: 28) Thái độ đứng thẳng/ngẩng đầu là thái độ tuỳ thuộc vào mỗi người. Có can dự. Có chọn lựa thứ tự ưu tiên. Nếu con người chủ yếu đặt nặng vào giá trị của nhà cửa, vật chất, rất tiền bạc… thì đương nhiên là ta sẽ ưu tư đặt hết đầu óc vào “ngày ấy” sắp đến.
Phần lớn ưu tư của con người là muốn thao túng tương lai. Là, khuynh loát thế giới. Tức là, nhận ra đó là việc rất khó làm. Đó, còn là phương án rất khó thực hiện. Thế nên, ta càng ưu tư, nếu cứ hiểu điều Chúa cảnh giác như một thực tại ta sẽ giáp mặt. Nếu cứ nghĩ rằng ngày ấy sẽ ảnh hưởng lên thực tế, ta sống.
Thực sự, có những điều ta có thể đổi thay. Nên, nếu cần, cứ thay đổi. Nếu những việc thật khó thay đổi, thì chỉ cần ta biết chấp nhận và sống trong vòng xoay của chúng. Khôn ngoan, là người biết nhận ra đâu thực, đâu hư. Và đó là nguồn cội để ta được bình an, trong tâm hồn. Cũng nên nhớ rằng, mọi đổi thay đều bắt đầu từ ta, rồi sẽ lan ra chung quanh. Lan đến mọi người.
Cuộc đời con người, như ta đang lái xe buýt. Ngồi lên đó, ta biết sẽ đi đâu. Về đâu. Với xe buýt cuộc đời, ta cũng cần biết đích điểm ta nhắm tới. Chứ không là ước mơ ta thêu dệt. Không như việc lái xe buýt, ta chẳng hề biết hành trình cuộc sống trải dài bao năm tháng. Có người hơn 90, người ngắn hơn, chỉ 30, 50. Nhưng chiều dài hành trình không quan trọng bằng ta làm gì trong chuỗi dài của hành trình ấy.
Với hành trình cuộc sống, trình thuật nay đưa ra một đề xuất, cũng tương tự. Nếu muốn mừng kính ngày Chúa đến lần đầu và chuẩn bị cho lần sau, việc cần làm là biết Chúa sẽ đến vào bất cứ lúc nào, trong ngày. Vì thế, Tin Mừng đề nghị: hành trình trên xe buýt cuộc đời, ta nên biết:
1. Sẵn sàng xuống xe, ở bất cứ trạm nào. Sẵn sàng gặp Chúa, mỗi khi Ngài gọi/mời ta đến với Ngài. Hiện tại hay tương lai. Điều quan trọng hơn cả là: chuẩn bị.
2. Không sợ. Cũng đừng lo. Lo và sợ, chẳng giải quyết được gì. Lo và sợ, những gì chưa xảy ra và có lẽ cũng chẳng bao giờ xảy ra, như ta tưởng. Lm Tony de Mello có lần nói: “Sao lại lo? Lo, cũng chết. Không lo, cũng chết. Vậy thì, việc gì phải lo? “
3. Cải thiện mối tương quan ta có với mọi người, quanh ta. Sống đúng nghĩa cuộc đời, không nằm ở câu hỏi: ta làm nghề gì? Thành công ra sao? Mà là, ta có quan hệ tốt đẹp với người chung quanh không? Người chung quanh, là: gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, cả người dưng, nữa.
4. Nắm bắt cơ hội để gần gũi Chúa. Ngài là Đấng vẫn đồng hành với ta, mọi nơi. Mọi lúc. Ta sẽ gặp Ngài. Sẽ chuyện trò với Ngài. Nghe lời Ngài. Giúp Ngài qua mỗi người. Mọi người. Hãy dùng mỗi kinh nghiệm gần gũi là gặp gỡ Ngài mà dệt thành tấm áo. Cho đời ta.
Vấn đề không phải để hỏi, lúc nào thì Chúa bảo ta ra khỏi xe buýt cuộc đời. Bởi, Ngài cũng không là người dưng khách lạ, đối với ta. Ta sẽ không nghe Ngài bảo: “Ta đâu biết người” Trái lại, ta sẵn sàng chào mừng Ngài khi Ngài gọi ta đến. Đó là đích điểm. Không có điểm nào khác. Khi đã biết thực hiện quyết tâm 4 bước như trên, ta chẳng cần lo lúc nào thì Chúa đến, mời gọi ta. Cứ sẵn sàng. Cứ “đứng thẳng và ngẩng đầu”, vì Chúa sẽ “Mời bạn, lên xe đang đợi.” Xem như thế, không cách nào hay hơn, để chuẩn bị đón ngày Chúa đến, rất Giáng Sinh. Cho bằng, tình chuẩn bị.
Trong tinh thần ngẩng đầu và đứng thẳng để chuẩn bị, ta hân hoan mà cất tiếng hát, hát rằng:
“Rồi mùa Đông đến, Rồi mùa Xuân đến, Cuộc đời vẫn quay đều.” (Lê Uyên và Phương – Lê uyên Phương)
Cuộc đời vẫn quay đều. Và cũng lại bắt đầu, ngày Chúa đến. Chúa đến, có “bầy trẻ nhỏ tung tăng chiều ca hát.” Có “tiếng khóc, quê hương không níu lại.” Có người người “Thuở sống, rất an bình”.
Và phù du như một giấc chiêm bao Tôi vẫn nuôi niềm hy vọng, ước ao Chân tiếp bước, mong đời mình ý nghĩa.” (thơ của SC)
Lc 3: 1-6
Với nhà thơ, đời sống của con người nhiều quanh co. Khúc rẽ. Rất phù du. Với nhà Đạo, đời người gồm cuộc sống, nhiều hy vọng. Ân huệ. Ý nghĩa.
Trình thuật hôm nay, thánh Luca ghi lại lời thánh Gioan kêu gọi, vẫn vang vọng. Thánh nhân gọi, là mời gọi mọi người hãy dọn đường, để Chúa đến. Gọi và mời, hãy dọn đường giống tiên tri thời trước từng lên tiếng. Gọi và mời như thế, thánh nhân đưa ra cả tình hình chính trị lẫn tôn giáo, thời của Chúa. Gọi và mời, hãy dọn đường, để Chúa thực hiện ơn cứu độ bằng kinh nghiệm khổ ải. Bi ai.
Kinh nghiệm bi ai và khổ ải, có kèm truyện kể về chính Ngài. Truyện, không giống như cổ sử La – Hy/Babylon, mang tính hoang đường. Thần thoại. Truyện các thánh kể, là sử hạnh có thời gian. Không gian. Có đặc thù, mọi người chọn làm quê hương. Quê hương Ngài chọn, là lịch sử. Có chữ viết. Có tình tiết. Cốt truyện.
Đặc thù Chúa tỏ bày hôm nay, thấy rõ ở giọng nói. Có âm lượng. Tỏ bày hình hài/diện mạo, lẫn âm sắc. Nhất nhất, mang tính chất Galilê/Do Thái. Rất A-ram. Sống động. Quê nhà. Nét riêng. Sống động ở nơi Ngài, còn chứa đựng đặc thù hoàn vũ, biểu tỏ cho dân con mọi thời am hiểu, nhờ mầu nhiệm Phúc Âm. Nét riêng tư – đặc thù, là điểm son được nhắc nhiều trong lời tuyên tín, có câu kinh. Là, lời kinh tuyên xưng niềm tin nơi Ngài. Với Ngài.
Trình thuật, nay kể về một nhân vật nổi bật, mang tên Gioan Tẩy Giả. Thánh nhân được Chúa chọn để loan báo Tin Vui Đấng Cứu Độ, đang kịp đến. Ngài kịp đến, vẫn đem theo lời gọi và mời rất thánh: “Hãy dọn đường Chúa đi!” (Lc 3: 4) Lời nhắn gửi đến dân con nhà Đạo, rất hôm nay.
Về lời nhắc nhở của thánh Gioan, sử gia Luca lại đã viết:“Ông đi khắp vùng ven sông Gio-đan, rao giảng, kêu gọi mọi người chịu phép rửa, tỏ lòng sám hối, để thứ tha.” (Lc 3: 3) Xem như thế, lời kêu gọi từ thánh Gioan, gồm tóm 3 phạm trù nối kết nhau, rất chặt chẽ, đó là: phép rửa, sám hối và thứ tha.
Phép rửa, là Bí tích Thanh Tẩy ban cho dân con nhà Đạo ngõ hầu người người được tháp nhập vào cộng đoàn dân con Chúa. Tẩy và rửa, là tác động huyền nhiệm mà dân con của Chúa vẫn tỏ lộ bằng động thái đầm mình sông Gio-đan. Đầm mình, để chứng tỏ niềm ao ước sàng sạch mọi tàng tích xấu xa, trong quá khứ.
Sàng sạch điều xấu xa, không phải là động tác máy móc, rất ma thuật. Nhưng, là cử chỉ tỏ bày một nuối tiếc. Sám hối. Rất quyết tâm. Bằng ngôn ngữ rất thánh mà sử gia Luca đã sử dụng, thanh tẩy là động tác thật tình sám hối. Sám hối, theo nguyên ngữ “metanoia” tiếng Hy Lạp, không là tiếc nuối/hối hận về những lỗi lầm mình vướng mắc. Nhưng là, đổi thay toàn bộ. Rất tận gốc. Đổi và thay, trong tương quan ta có, với Chúa. Với mọi người. Thay và đổi, rất chân phương. Thật tình. Triệt để.
Thay đổi hoặc hồi hướng, là hành động lôi kéo động thái biết bỏ qua mọi lỗi lầm. Tiếng Hy Lạp gọi đó là aphesis, tức Thứ tha. Thứ tha, còn mang thêm ý nghĩa của khai sáng. Giải toả. Chừa lối đường, để đi. Thứ tha, để ta xa rời mọi xích xiềng của lỗi phạm. Tức, Ác thần. Sự xấu. Thứ tha đây, còn được hiểu như trút được gánh nặng, đang đè chụp. Như tàu không gian vừa buông thả bình nhiên liệu, vẫn đeo mang bên hông mình. Thứ tha, còn là hoà giải với Chúa. Với những người làm ta đau đớn. Buồn bực. Sầu khổ. Thứ tha, là hoà giải với kẻ gây xung đột. Rẽ chia. Thứ tha và hoà giải, là chữa lành. Kiện toàn con người cho vẹn toàn. Hơn khi trước.
Thế đó, là cung cách mỗi người “dọn lòng để Chúa đến”. Thế đó, là âm vang Cựu Ước, được Hội thánh rút ra từ sách tiên tri Ba-rúc hầu đưa vào bài đọc 1 thánh lễ hôm nay. Thế đó, là kinh nghiệm bản thân ta nên có, ở thâm tâm. Là, kinh nghiệm về quyền uy cứu độ của Đức Chúa. Thế đó, còn là cung cách giúp ta mở lòng ra với quyền cao uy nghi của Thiên Chúa. Qua Đức Kitô.
Đáp lại lời gọi mời, theo nhiều cách thức:
Cách thứ nhất, vào mùa Vọng, ta có thói quen cử hành mừng kính ngày sinh của Chúa. Ở mùa này, ta được nghe lại lời gọi mời có thử và có thách. Thử thách, trong thanh tẩy. Thử thách, bằng sám hối. Với thứ tha. Thử và thách, là chuyện xảy đến, đã từ lâu. Nhưng vẫn cần đến canh tân. Cải hoá. Cải hoá, để xác nhận sự dấn bước quyết về với cộng đoàn tình thương, con của Chúa. Dấn bước, để tháp nhập vào Thân Mình trọn vẹn của Chúa. Dấn bước về với Chúa, để rồi Chúa sẽ đến với ta. Ngang qua người khác.
Cử hành mừng kính ngày Chúa đến, là để lòng mình mở rộng, mà hồi hướng. Trở về. Rộng mở/trở về, để ta sẽ vào phần thâm sâu của tâm trí, mà đổi thay. Rộng mở/trở về, để còn biết lắng tai nghe Chúa chào mời. Bảo ban. Và hỏi:”Chúa muốn con làm gì? Chúa muốn con sống ra sao? Cử hành mừng kính, vào khi tháp nhập vào thân Mình của Chúa, ta tìm ra phương thức giảng hoà với Chúa. Với những người từng đến với ta. Trong cuộc đời.
Đáp ứng thứ hai, là thực hiện vai trò của mỗi người, theo cung cách không khác gì công tác của thánh Gioan tẩy Giả. Tức: hành xử theo cách thế biết mở ngỏ lòng mình để Chúa Thánh Thần dễ dàng tiếp cận. Thánh hoá. Ra bài sai. Bài sai Ngài đưa ra, là chuyển tải thông điệp tình thương, hy vọng, và bình an đến với mọi người. Chuyển tải, hầu giúp san đồi/vạt lối, cho thật phẳng. Hầu khuyến khích mọi người hăng say làm thiện nguyện để trở thành chứng tá cho niềm vui Chúa hứa ban.
Khi xưa, thánh Gioan Thẩy Giả dễ dàng biết nghe tiếng Chúa mời gọi. Nơi sa mạc. Là, do thánh nhân có tâm trạng êm ắng. Tĩnh mịch. Các thánh nay sẽ khó nhận ra lời Chúa mời. Vì, quá ưu tư. Bận rộn. Những đắn đo. Nên, ai cũng cần có khung cảnh tĩnh mịch. Lặng êm. Hầu ứng đáp lời Chúa luôn gọi mời mọi người hãy ngưng lại mọi bon chen. Sôi nổi. Nóng bốc. Để kịp nghe tiếng Ngài., qua đề nghị của thánh Gioan Tẩy Giả.
Thánh Gioan thời trước, diễn tả tâm trạng chờ đón Chúa bằng ngôn ngữ thời thượng, đầy ảnh hình. Thánh gioan hôm nay, Hội thánh Chúa vẫn đề nghị người người tìm nơi vắng lặng, mà nghe ngóng. Nghe Chúa gọi mời, qua người đời. Ngóng Chúa lại đến, bằng lòng mến. Quyết lắng nghe tiếng Chúa bằng vào việc quan tâm đến mọi người, là thái độ cần có. Rất hôm nay. Thời buổi này.
Thời buổi hôm nay, cũng như mọi ngày/mọi thời, thánh Gioan nếu hiện diện, ngài cũng sẽ gióng lên một đề nghị ghi bằng lời lẽ giống lời thánh Phaolô, mô tả ở bài đọc 2: “Điều tôi khẩn khoản nài xin (Chúa), là xin cho lòng mến nơi anh em được ngày thêm dồi dào, khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, để nhận ra cái gì tốt hơn.” (Ph 1: 8)
Một nhân sĩ đương đại có tên Ronald Knox đã chuyển tải ngôn ngữ của thánh Gioan và Phaolô thời trước, bằng ngôn từ thời đại, bảo rằng: “Điều tôi cầu cho anh em, là tình thân thương nơi anh em sẽ ngày một sung mãn, tràn đầy nhiều hiểu biết. Để rồi, bằng vào nhận thức xuyên suốt này, anh em sẽ lượng định được giá trị của tình thương ấy. Bởi lẽ, không gì khiến làn mây tăm tối kéo đến che phủ kiến thức của anh em. Cũng chẳng che được mọi diễn tiến đang lớn mạnh trong lòng anh em, cho tới ngày Chúa đến.”
Xem thế thì, bằng ngôn ngữ giản đơn thời đương đại hoặc bằng ngôn từ bóng bảy của thời trước, ta vẫn có thể chuyển tải cho nhau các đề nghị cùng nhắc nhở, của thánh nhân. Thực hiện lời nhắc ấy, người người sẽ thấy sẵn sàng mừng đón Chúa quang lâm. Đến với mọi người.
Trong tình huống tươi vui chờ đón Chúa, ta hân hoan hát lên lời ca đầy phấn chấn, rằng: “Này em con chim gầy Chiều nay chim đứng dậy và nó hát líu lo thật dài, Cũng vì Hoà Bình đã về đây. Cũng vì Hoà Bình đã về đây.” (Phạm Duy – Bình Ca)
Hoà Bình đã về! Đó là lời vang vọng từ đấng thánh. Đó, là đề nghị từ các chứng nhân. Những người chứng, trong cuộc đời. Có “khúc rẽ quanh co”. Hy vọng. Tiếp bước chân nhà Đạo. Ở đời.
Dẫu phần ba phút, góc tư giây Dẫu trong thoáng mắt nhìn như chớp Cũng đủ cho nàng quên đắng cay.”
(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)
Lc 3: 10-18
Là nhà thơ, sao cứ khuyên “nàng hãy vui đi dẫu một ngày”. Quên đắng cay. Là nhà Đạo, sao vẫn nhủ “hãy vui lên nào, thiếu nữ Xion”. Đón chờ Chúa. Chờ Chúa đến, phụng vụ Mùa Vọng không thiếu câu ca/lời hát, rất khích lệ. Tuần lễ thứ ba.
Mùa vọng tuần lễ thứ ba, thánh Luca có giòng chảy lịch sử thánh, rất hân hoan. Phấn chấn. Nhiều thần hứng. Thần hứng Chúa vang vọng niềm vui an ủi , ta gặp ở hầu hết các bài đọc phụng vụ thánh, rất hôm nay. “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xion”, đây không chỉ là lời dẫn nhập trong nguyện cầu, đầu buổi lễ. “Reo vui lên”, còn thấy ở bài đọc 1 lời tiên tri ý nói:“Chúa sẽ vui mừng hoan hỷ, sẽ lấy tình thương của người mà đổi mới ngươi. Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội.” (Xê 3: 17)
Đối ứng với lời vui trên, lời đáp ca trong thánh lễ tuần này, cũng đã hợp giọng kêu mời mọi người “Hãy mừng rỡ reo hò, vì Đấng Thánh Israel quả thật vĩ đại”(Is 12: 2tt). Và, thánh Phaolô cũng nhắc nhở, ở bài đọc 2: “Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên đi hỡi anh em…” (Ph 3: 4). Tin Mừng hôm nay tuy không nói rõ, nhưng cũng cho mọi người thấy được cảm giác tươi vui mừng rỡ đang lớn mạnh, nơi muôn người.
Tươi vui mừng rỡ, là động thái căn bản của cuộc sống, nơi dân con nhà Đạo. Tươi vui mừng rỡ, không là thái độ suồng sã, giả lả khi sẻ san thị kiến sống với Đức Kitô. Tươi vui mừng rỡ, là kinh nghiệm thường tình của mọi Kitô-hữu. Thực tế, nhiều người chưa tạo được niềm tươi vui ấy, với môi trường sống, ở xung quanh. Chưa xác tín được thực tại cần sống có đổi mới. Với mọi người.
Thất khó mà xác tín cuộc sống đổi mới, khi nhiều người vẫn còn giữ đạo theo cung cách gượng ép. Bó buộc. Khó tươi vui lành mạnh, khi nhiều người chưa rũ bỏ được thú say mê mù quáng, ngoài Đạo. Làm sao có thể tươi vui lành mạnh, khi còn đó nỗi buồn của những người vẫn sống nửa vời, đời tín hữu. Vẫn sống u mê, như thể Chúa chưa đến, với con người. Vẫn lặng câm. Ơ hờ. Lờ lững.
Chính vì thái độ sống này, mà Karl Marx xưa đã lầm lẫn quan niệm tôn giáo như “thuốc phiện” được giới nhà giàu dùng để ru ngủ lớp đám dân đen lao động, thấp cổ bé họng. Nhưng “triết-gia-buồn” họ Marx lại vin vào chuyện sống “bề ngoài” để cho rằng tôn giáo đã dùng bài thuốc thúc ép người nghèo chấp nhận cảnh khốn khó/bất công trong cuộc sống. Chỉ trông vào viễn ảnh, sau khi chết.
Kinh nghiệm sống của ta cho thấy quan niệm của triết-gia-buồn ở trên chỉ là ngụy biện nhằm mục đích đả phá Đạo, mà thôi. Bởi lẽ, Đức Kitô đến, Ngài đem lại tự do, vui mừng và bình an cho mọi người. Vui mừng và bình an, không xảy ra thời mai hậu. Mà, là: ở đây. Ngay lúc này. Không ai có thể tự do hơn tín hữu Đức Kitô. Ta theo Chúa, không để chịu khổ nhục/bức ép, nhưng để được an vui sống đời Kitô hữu. Thánh Phêrô từng quả quyết: “Ta chẳng cần tìm điều gì khác, bởi đã có Lời ban sự sống rồi.”
Người xưa có câu: “thánh nhân buồn là loại hình buồn của bậc thánh” Cũng thế, nếu định nghĩa Kitô-hữu là tín hữu buồn, thì ngôn từ này, tự mâu thuẫn với chính nó. Nói thế, không có ý bảo rằng: nơi đời sống Kitô-hữu, không hề có ý niệm và kinh nghiệm của đau khổ. Tật bệnh. Mất mát. Mất mát và sầu bại là thành phần quan trọng của cuộc sống, nhưng đó chỉ là kinh nghiệm nhất thời. Tạm bợ. Trong đợi chờ một tương lai sáng sủa.
Kinh nghiệm sống của mọi người, đều được Chúa cảm thông. Ngài nhận đó, cho riêng Ngài. Kinh nghiệm nào cũng mang ý nghĩa thâm sâu. Đậm nét. Khi bắt gặp và chấp nhận ý nghĩa ấy, thì niềm vui và bình an nội tại, sẽ trở lại với chúng ta. Và niềm vui đến lại, không là chuyện bề ngoài. Bức bách. Mất tự do.
Niềm vui người tín hữu Đức Kitô nằm ở phần thâm sâu. Nơi tâm khảm. Rất sinh động. Không trộn lẫn với khổ đau thể xác, cảm xúc hoặc những hoàn cảnh khó khăn. Bên ngoài. Niềm an vui/hạnh phúc ấy, như Chúa nói, ta không thể tách rời khỏi ta, mà đem đi. Và, như Lm Tony de Mellos có đề cập đến trong cuốn ngài viết có nhan đề “Tầm nhận thức”: Ta có tất cả những gì mình cần đến, ở đây. Bây giờ. Đó là hạnh phúc. Chỉ mỗi tội, là: ta không định dạng được niềm an vui hạnh phúc ấy với những người hoặc sự vật mà ta không hề có, hoặc không thể có.”
Trình thuật nay nói thêm về việc Chúa đến. Ngài đến, theo cung cách được thánh Gioan Tẩy Giả rao truyền, bên sông Giođan. Nghe thánh nhân rao truyền, chúng dân khi ấy hỏi ngài một câu khá tế nhị: ”Vậychúng tôi phải làm gì?”(Lc 3: 12) Đây là câu gợi ý thánh sử Luca gửi đến với hết mọi người, khi ta chuẩn bị chờ đón Chúa. Vào dịp chờ đón Chúa có sám hối, không phải là để ta nuối tiếc những gì xảy ra với mình. Trong quá khứ. Mà, là gọi mời ta đổi mới thâm sâu. Ở đây. Bây giờ.
Thánh sử Luca diễn tả 3 loại người đã để tai nghe thánh Gioan rao truyền, vào thời ấy. Đó là: dân chúng, đám người thu thuế. Và, lính tráng. Với mỗi loại người, thánh nhân đưa câu ra trả lời, rất thích hợp. Hợp với cách sống của họ.
Với chúng dân bình thường, ngài bảo họ: hãy chia sẻ những gì mình có. Áo quần. Thực phẩm. Chia cho người đang cần đến, hơn mình. Nếu thật lòng hối lỗi, tức thật lòng muốn đổi mới, họ sẽ trở thành người anh, người chị với tất cả. Cả người dưng khách lạ, chưa một lần quen biết. Chúng nhân hôm nay, là chính chúng ta, những người đang chuẩn bị đón mừng Giáng Sinh, trong thừa mứa. Hãy sẻ san. Với mọi người. Cả trong và ngoài Đạo.
Với đám thu thuế thời của Chúa, thực dân La Mã vẫn tạo cho đám này thành lớp người tham ô nhũng lạm, để họ biến thành những cá thể lo chuyện riêng tư. Rủng rỉnh. Những túi tiền. Hệ thống tham nhũng ấy đã tạo một xáo trộn trong lối sống. Thành thử, thánh Gioan mới đề nghị với họ: “Đừng đòi hỏi quá mức ấn định”.
Với lớp lính tráng, cũng thế. Họ là những người không được lòng dân. Thế nên, lời khuyên của thánh Gioan xem ra rất thích hợp với những người có nghĩa vụ với đất nước, ở mọi thời: “Chớ hà hiếp. Đừng tống tiền. Hãy bằng lòng an phận với mức lương tiền, mình có”.
Nghe lời khuyên, người người cứ đinh ninh thánh Gioan là Đấng Mêsia phải đến. Và từ đó, ta có được một khẳng định về thiên chức của Đức Kitô. Ngài đích thực là Đấng Cứu Độ. Là Vua Vũ trụ, Đấng phải đến. Sẽ đến. Và, thánh Gioan xác định thêm về nhiệm tích thanh tẩy Chúa làm, là quyền uy/sức mạnh Chúa Thánh Linh. Chúa Tình Yêu đang hiện diện, với anh em. Vào mọi lúc. Ở mọi nơi.
Cũng thế. Ở thế giới hôm hôm nay, vai trò hợp tác hoán cải mọi người để về lại với Chúa, không chỉ nằm trong tay các đấng chủ quản Hội thánh, hoặc linh mục/tu sĩ thôi. Nhưng cả giáo dân, thầy cô, giảng viên giáo lý nữa. Nên hiểu rằng, các tông đồ truyền giáo bằng lời nói hoặc việc làm. Có chức thánh hay không chức thánh, đều mang trọng trách như thánh Gioan Tẩy Giả. Tức, rao truyền việc Chúa đến, bằng đời sống. Mỗi người và mọi người đều là công cụ Chúa dùng, để biết Chúa.
Như thánh Gioan, mọi người con của Chúa, cần nhận công tác Chúa trao, trong vui tươi. An bình. Nhận, trong hăng say. Phấn chấn. Phần còn lại, sức mạnh/quyền uy Chúa Thánh Thần, sẽ đảm bảo chuyện hoàn tất. Hơn lúc nào hết, Chúa cần sự hợp tác của mỗi người. Và mọi người. Thế nên, ta hãy nhận lời mà tra tay. Hành động. Nhận lời, như thánh Phêrô và Anrê khi trước từng là đệ tử thánh Gioan Tẩy Giả. Và, khi được Chúa gọi, các thánh đã theo Chúa, mà hợp tác đem mọi người về hiểu biết Ngài. Nghe Lời ngài. Đó là ý nghĩa đích thực của việc tông đồ, mục vụ. Của, rao giảng. Hôm nay.
Trong khí thế nghe theo đề nghị của các thành, ta hân hoan hát lời ca rất phấn khởi, rằng:
“Một chiều anh bước đi Em tiễn chân anh tận cuối đồi
Nghe dặn lời Rằng chiến đấu đừng sờn lòng Rằng sóng gió đừng sờn lòng Đừng nề gian khổ!” (Trần Hoàn – Lời Người Ra Đi)
Cũng thế. Ra đi rao giảng Lời của Chúa, cũng đừng sờn lòng. Đừng nệ khổ. Anh ơi. Em ơi. Vì Lời Chúa là sức mạnh/quyền uy tác động lên anh. Lên em. Suốt đời người.
Trong nắng thơm, trong tiếng nhạc thần bay Bút đề lên nền sáng báu năm mây Thơ chen lấn vô trong nguồn cảm giác”.
(dẫn nhập thơ Hàn Mặc Tử)
Lc 1: 39-44
Nhà thơ xưa, cứ “sống mãi với trăng sao, cùng gấm vóc”. Nhà Đạo nay, quyết giữ hoài niềm an vui hoan lạc cùng Mẹ Chúa Cứu Thế, hiện rõ ở trình thuật, rất hôm nay.
Trình thuật thánh Luca hôm nay ghi lại niềm hoan lạc/an vui của hai bà mẹ rất thánh, là Đức Maria và bà Êlisabét. Hoan lạc, trong tháng ngày chờ đợi. An vui, vẫn có Chúa ở cùng. Bài đọc 1, có lời tiên tri Mikha nhấn mạnh điều Chúa hứa gửi Đấng Cứu Chuộc đến, còn vang vọng:“Từ nơi ngươi, ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Israel.” (Mk 5: 1)
Là Đấng được gửi đến, Ngài “sẽ đứng lên chăn dắt họ. Và, họ sẽ được an cư lạc nghiệp…” Và: “Chính Ngài sẽ đem bình an cho mọi người”(Mk 5: 4) Bình an, là sự hài hoà giữa Thiên Chúa và dân con của Người. Bình và an, là sự giải hoà giữa các dân tộc. Là, tâm tình hoà hoãn giữa dân gian với môi trường sống, của muôn loài. Là, sự kiện ta quen gọi chữ Giáng Sinh, Chúa tháp nhập người phàm.
Lời Chúa hứa thật tuyệt vời. Thế nhưng, làm sao thành hiện thực tràn đầy được? Từ Tin Mừng của Chúa, ta xuống với thế giới thực tiễn. Từ lời sấm tiên tri đi vào xóm nhỏ của Israel. Có hai vị nữ lưu rất thánh là Đức Maria Mẹ Thiên Chúa và bà Êlisabét, mẹ thánh Gioan. Hai nhân vật làm nền cho chương trình cứu độ, của Đức Chúa. Cả hai đấng, làm nổi bật nhân vật chính yếu trong công trình cứu độ Hài nhi Giêsu.
Hai nữ lưu thánh đều đã mang thai từ ơn Chúa. Nhưng chính Đức Maria là người có sáng kiến đi thăm chị. Chính vì thế, dù vai vế của Mẹ chỉ là đàn em trong gia tộc, những Mẹ vẫn “hơn hẳn” mọi nữ lưu khác, do được cưu mang Con Thiên Chúa Hằng Sống. Thành thử, khi Mẹ gặp bà chị họ, thì hài nhi Gioan đã nhảy mừng trong bụng. Nhảy mừng trong bụng, là dấu hiệu xác nhận là thánh nhân lĩnh nhận thanh tẩy bằng Thần Khí Chúa. Một chứng xác được chị họ Êlisabét tuyên bố: “Thoạt nghe tiếng chào, hài nhi trong bụng chị nhảy lên vui sướng.” (Lc 1: 44)
Và nữ lưu Êlisabét cũng đã cảm kích lĩnh nhận sự hiện diện của Hài Nhi Chúa, bằng một xưng tụng, rất tiên tri:“Bởi đâu tôi được diễm phúc thế này, là: Mẹ Thiên Chúa lại đến thăm tôi.” (Lc 1: 43). Tuyên xưng của bà, ngụ ý: chính Đức Chúa đã ghé thăm bà. Và hiển nhiên, là: nhờ có được niềm tin và nguồn thần hứng Thánh Linh, bà mới nhận ra vai trò làm Mẹ Đức Chúa, nơi em mình.
Ở đây nữa, chủ đề mà thánh Luca ghi ở Tin Mừng, qua sự kiện Chúa đi bước trước, trong khiêm hạ. Ngài không chờ dân con mọi người đến với Ngài trước , mà chính Ngài đến trước nhất. Đến trước, cả vào khi chưa giáng hạ làm người. Việc này mang ý nghĩa: Chúa tỏ bày tính phục vụ người khác, chứ không để người khác phục vụ mình. Bằng vào việc phục vụ, người người nhận ra được Ngài là Chúa. Đó còn là ý nghĩa của Lời Ngài, nói về sau:“Các ông thưa: Lạy Thầy, lạy Chúa. Các ông nói phải. Vậy nếu Tôi là Thầy, là Chúa mà còn rửa chân cho các ông, thì cũng vậy các ông hãy đi mà rửa chân cho nhau.” (Ga 13: 13).
Ngay từ đầu, ý định của Đức Chúa là đem đến cho dân gian phàm trần ơn cứu độ và sự vẹn toàn/trinh trong, của cuộc sống. Thiên Chúa gửi Con Một của Ngài đến sống với người phàm. Như người phàm. Bằng mọi kiểu cách. Chỉ trừ lỗi phạm. Sợ hãi. Bất an. Chúa đến, mang tình yêu yêu trọn vẹn đến với ta. Để ta cũng làm như thế, với mọi người.
Điều này còn là ý nghĩa của lời nguyện nhập lễ hôm nay. Lời nguyện, nhắc ta trông vào cuộc sống của Chúa, có tình yêu. Cuộc sống ngang qua đau khổ, sự chết và sống lại, đến muôn đời. Giáng sinh, dù là mùa lễ có vui chơi. Ăn mừng. Ca hát, ăn mừng. Nhưng, cũng đừng quên cuộc sống thực tế có hy sinh. Lễ tế. Cuộc sống có đổi mới, với yêu thương. Đức độ. Chấp nhận nghèo. Nhưng không hèn.
Chính vào lúc, Chúa hiện diện trong cuộc sống với ta, như người phàm, là lúc ta nhận ra được sự sáng loé lên, như lời thánh Phaolô xác nhận với giáo đoàn Do Thái, ở bài đọc hai: “Chúa chẳng ưa thích hy lễ hiến tế”, nhưng Ngài chuẩn bị “một Thân Mình”, cho Con. Và hiệp cùng thân xác đích thực của người phàm, Người Con mới tế hiến chính Mình Ngài, cho Cha. Vô điều kiện.
Và từ đó, ta có thể cùng với các thánh trên nói được rằng: “Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài.” (Dt 10: 9) Thực thi, trong tư thế cùng Đức Chúa tế hiến toàn bộ sự sống với xác thân mình, cùng với Chúa. Đó mới là tình yêu chân chính. Mới là hy sinh đích thực. Không ai có thể làm hơn thế nữa. Không ai có thể làm được như Chúa. Làm được lễ tế hy sinh rất trọn vẹn. Hy sinh, đến độ chấp nhận một giáng hạ. Trong khó nghèo. Trong lưu lạc. Không nơi ngụ cư. Không nơi gối đầu.
Hiến trọn vẹn thân xác mình, Chúa thực hiện việc này trong toàn bộ cuộc sống. Của Ngài. Ngài chấp nhận tận hiến cuộc đời, việc này trải dàn trên các trang Kinh Thư Tin Mừng. Kết cục dẫn đến cuộc đối đầu bi ai giữa tình yêu với tham vọng. Ghét ghen. Cao ngạo. Kết cục của việc Ngài tận hiến còn dẫn đến cái chết thương đau, trên thập tự giá. Cửa ngõ dẫn đến Phục Sinh.
Giáng hạ làm người sống như ta, nhưng Chúa không hành xử giống như ta vào ngày Giáng Hạ thần thánh ấy. Không rong thả. Ăn chơi. Thừa mứa. Bất cần đời. Bởi, biết chắc rằng dẫu có thế nào, mình vẫn được cứu. Trái lại, Ngài mời gọi ta cùng Ngài thưa với Cha: “Này con đây. Con đến để làm theo thánh ý Cha.”
Giống như Đức Maria, Mẹ từng theo chân Con, để nói lời “Xin vâng, thuận theo ý Cha”. Suốt cuộc đời. Cách đây không lâu, trên các bảng quảng cáo tràn lan ở ngoài đời, người người vẫn cứ hỏi: “Bạn đã nói lời “đồng thuận” (tức Xin vâng), chưa?” Mừng lễ Chúa Giáng Sinh, tức mừng kính nói lời “Xin vâng theo ý Cha.” Vâng ý Chúa. Vâng, để chấp nhận thử thách/kinh nghiệm sống sẽ xẩy đến trong năm tới. Vâng, để đáp lời Chúa mời gọi. Vâng hết mọi sự. Vâng trong hân hoan. Mừng vui. Trông đợi.
Một phần trong ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh, là mình biết chiêm ngưỡng các kinh nghiệm sống Chúa từng trải. Cả kinh nghiệm “Xin vâng!” của Đức Mẹ nữa. Chiêm ngưỡng để học hỏi nơi các Ngài cung cách nói lời “Xin Vâng”, vô điều kiện. Xin vâng không tính toán. Hơn thua. Xin vâng. Bởi, đó chính là niềm vui và hạnh phúc đích thực nằm trong ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh. Không có quyết tâm “xin vâng” như thế, tất cả chỉ óng ánh lớp kim tuyến, hào nhoáng bên ngoài. Rất vô bổ.
Trong quyết tâm “xin vâng” như Mẹ, ta cứ hân hoan cùng hát với chư thánh, mọi người, rằng:
“Anh hãy cho em lời yêu thương, dắt em sang thăm miền thiên đường Em, rồi cúi đầu xin vâng, Cầu mong được riêng anh, và suốt đời tin anh…” (Vũ Thành An – Bài Không Tên Số 11)
Cứ xin vâng có yêu thương, như nghệ sĩ hát, để người người thấm nhuần ơn cứu độ, Chúa đã ban. Thấm nhuần rồi, “ta sẽ sống mãi với trăng sao gấm vóc”. Để, với lời thơ ý nhạc, ngợi khen Chúa. Mãi muôn đời.
Tháng mười hai, ai còn có chờ ai? Tình yêu buộc giữa hai đầu nỗi nhớ Giọt mưa rơi hay những giọt lệ dài… (thơ Trần Tường Vi)
Ga 1: 1-18
Tháng mười hai, có lời buồn. Hồi chuông đổ. Ngày Giáng hạ, có Chúa về. Lời nhập thể. Lời nhập thể, khởi đầu từ hừng đông buổi trần thế. Khởi đầu, có thánh sử ghi Lời Chúa. Rất trọn vẹn.
Trình thuật Lời Chúa ngày Giáng hạ, thánh sử Gioan ghi đậm nét gốc-nguồn của chính Chúa. “Lúc khởi đầu”, vẫn vang vọng Lời Đầu sách Khởi nguyên, Sáng Thế Ký. Ở nơi đây, thánh Gioan nói về một “khởi đầu” sớm sủa hơn. Lúc khởi đầu, không có nguồn ngọn đầu giây mối, nhưng đã trải dàn vô vàn chốn miên trường, là chính Chúa.
Thông thường ở đời, người người hay dùng lời để trao đổi. Rất nhiều kiểu. Có kiểu hời hợt, bề ngoài. Có kiểu sâu sắc, có tính xây dựng. Yêu thương. Giùm giúp. Cũng có kiểu, chỉ phá hoại. Gây chán nản nản, đầy lạm dụng. LỜI nhập thể, thì khác. LỜI, không chỉ đổi trao, những ý kiến. Lời năng động. Đem mọi sự đưa vào hiện hữu. Những hiện hữu bắt nguồn từ Lời Ngài.
Lời người đời, chỉ là những trao đổi giữa người nói. Nói, rất nên lời. Không chỉ miệng môi. Nói, bằng toàn thân xác. Đó là ý nghĩa của điều ta vẫn bảo: đấy là ngôn ngữ của thân xác. Ta trao đổi bằng lời rất kết quả, mà chẳng cần nói lời nào. Vẫn lặng thinh, như tình đã đặng. Nói bằng mắt. Bằng diện mạo. Nụ cười. Vui tươi. .
LỜI Chúa là Ngài biểu lộ điều gì đó, về Ngài. Ta thấy được, qua sự việc xảy đến với thế giới quanh ta. Do Ngài tạo. Như nhận định của nhà thơ nọ, có viết: “Thế giới nạp điện bằng sự cao cả của Thiên Chúa.” Sống ở môi trường linh thánh, ta hít thở bằng khí thiêng liêng. Rất Thánh. Hôm nay, ta mừng kính Lời Chúa thẩm nhập vào với thế giới theo cung cách rất khác biệt. Lời Chúa mặc lấy xác phàm như ta. Có thân xác như ta. Chia sẻ niềm vui/nỗi buồn, như ta.
Mặc lấy xác phàm, Lời Chúa đã nên hữu hình, khiến ta nhận ra được Ngài. Và hiểu Ngài, nhờ Đức Giêsu, Lời Chúa trở thành cầu nối giữa thân tâm ta với Ba Ngôi Đức Chúa, như thánh Gioan, từng viết:”Điều chúng tôi thấy và nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, và ta hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người.” (1Ga 1: 4)
Hai chủ đề thánh Gioan ghi ở Tin Mừng hôm nay, là: Lời Chúa ban sự Sống và sự Sáng. Ngài có nói “Tôi là Sự Sống và sự Sống Lại.” Ngài đem lại sự sống, cách trọn vẹn. Sự sống Ngài ban, không chỉ là sự sống theo nghĩa sinh lý, Mà là, sự sống trọn vẹn của con người. Thông thường, ta chỉ sử dụng có 10% khả năng sống vẫn tiềm ẩn, trong mỗi người. Tony de Mello có lần viết: “Phần lớn thời gian sống ở đời, ta chỉ sống có một nửa. Hoặc, có sống nhưng lại như những người đã và đang chết dần.”
Chúa nói: Ngài là Ánh Sáng thế gian. Và, chủ đề về Sự Sáng với tối tăm được thánh sử Gioan lặp đi lặp lại rất nhiều lần, trong Tin Mừng. Thánh nhân lặp lại, để nói rằng: Đức Giêsu đem ánh sáng vào với tối tăm, nơi con người. Chúa là Đường, là Sự-Thật-Toàn-Vẹn và là Sự Sống. Tràn đầy. Chúa ban cho ta thị kiến sống động, tức khả năng thấy được nhiều điều, qua tối tăm. Thấy, để ta lên đường vào với thế giới của xác thịt, có ánh sáng.
Cũng giống ngày ở Bê Lem, thôn làng nhỏ bé cách nay hơn hai ngàn năm, hôm nay Chúa vẫn ở với thế gian, chốn tối tăm. Do tăm tối, thế gian vẫn chưa biết Ngài. Thế gian vẫn là chốn miền của tăm tối. Của, bạo lực. Hãi sợ. Bởi thế nên, người đời chưa biết san sẻ thị kiến sống động, từ nơi Ngài. Với Ngài. Bởi thế, thánh Gioan mới thêm: “Ngài đã đến với nhà mình. Nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.” (Ga 1: 11) Người nhà hôm trước, là Do thái. Người nhà hôm nay là ta người Công giáo?
Là người nhà của Chúa, ta được tháp nhập vào Thân Mình Ngài. Cùng tin và gọi Chúa là Cha. Cha ơi! Là người nhà của Chúa, không cần phân biệt chủng tộc, tôn giáo. Đã rửa tội, hay chua. Người nhà của Chúa, là tất cả những ai thẩm nhập vào với sứ vụ Lời Chúa. Nơi Đức Giêsu. Rõ ràng Lời Chúa đã vào với nhân trần, có xác phàm. Tội lỗi.
Với những ai có mắt để thấy, sẽ nhận biết vinh quang của Lời Chúa đang thể hiện nơi Đức Giêsu, như bài đọc 2 hôm nay, tỏ bày: “Ngài là phản ảnh của vinh quang, là ấn tượng của bản thể Thiên Chúa.” (Dt 1: 3) Hợp lòng với thánh Phaolô, thánh giáo phụ Irênê, cũng có nói: “Vinh quang củ Thiên Chúa, là bản thể sống động, rất trọn vẹn.” Điều này áp dụng với mỗi người chúng ta, sao lại không thể áp dụng với Ngôi Lời mặc lấy xác phàm?
Quả thật, nếu chỉ chú trọng đến Bản vị của Chúa thôi, ta sẽ không nhận ra vinh quang của Thiên Chúa, nơi Ngôi Lời trọn vẹn. Đó là điều, mà con người không thể rút kinh nghiệm từng trải nơi cuộc sống. Vinh quang của Lời có xác phàm loài người che phủ. Nhờ có thế, người người được chung phần vinh quang của Chúa, qua đặc trưng của thân xác, tức lời nói. Đó cũng là ý tưởng mà thánh Phaolô muốn nói qua hình ảnh tấm gương, ta nhìn vào. Nhìn, để biết là ta có hình ảnh bất toàn cần gia tăng niềm tin tưởng, được giống Chúa.
Giống Chúa, vì Lời-mặc-xác-phàm, bao gồm trọn vẹn “ân sủng và sự thật”. Nhờ ân sủng và sự thật, ta được mời để sẻ san vinh quang của Chúa. Như các thánh xưa vẫn nói: “Nhờ sự vẹn toàn ta nhận từ Chúa, hết ân sủng này đến ân sủng khác… Ân sủng và sự thật ta đạt được qua Ngôi Lời, Đức Giêsu Con Thiên Chúa Hằng Sống.” Qua ân sủng, ta nhận ra tình thương vô điều kiện của Chúa, vẫn đổ tràn trên ta, bằng nhiều cách. Nhờ sự thật, ta được trọn vẹn thị kiến sống, đến từ Chúa. Thị kiến Chúa dựng nên ta. Ban cho ta, ngang qua Đức Giêsu.
Mùa Giáng Sinh, ta hãy cố mà đếm mà đong các ân sủng mình nhận được. Vào mùa Giáng Sinh, ta cũng cầu mong sao vẫn cứ lĩnh nhận tràn đầy mọi ân sủng và sự thật, từ Thiên Chúa. Lĩnh nhận vào tháng ngày đang từ từ đến. Cầu mong sao, ân sủng và sự thật của Chúa sẽ giúp ta đến với mọi người. Để sẻ san sự bình an và hạnh phúc, Lời mang đến.
Trong tình thần hân hoan ấy, ta hợp cùng mọi người hát lên lời ca đầy phấn chấn, rằng:
“Ngày đó có ta mơ ân tình dài buồn thắm nét môi duyên chưa thành lời một thoáng mơ rồi người về không nguôi người về không nguôi…” (Thanh Trang – Duyên Thề)
Mơ ân tình dài, xưa đã có. Mưa ân tình dài, nay vẫn về. Mưa ân huệ, hay mưa sự thật vẫn cứ về với dân con Chúa. Vì, Lời Chúa nay mặc xác phàm, làm người. Để người người sống mãi trong niềm tin. Có thương yêu. Ân huệ. Sự thật.
Thuở hồn nhiên con mới biết yêu người. Nghiêng ngó mãi, cũng trầm luân khói phủ, Chờ ta về, nối tiếp cuộc rong chơi.” (thơ Trần Như Xuyên)
Mt 2: 1-12
Có nối tiếp rong chơi trong đời, thì giòng đời cứ mãi dở dang. Dở dang, nào biết Chúa hiển hiện với nhân gian, đời muôn thuở. Theo cung cách mở lòng với dân gian người phàm, qua trình thuật.
Trình thuật hôm nay, kể về Hài Nhi Đức Chúa đã tỏ bày cho người dưng khách lạ, chốn ngoài Đạo. Các vị đến, để bái phục lạy thờ Chúa chấp nhận thân phận mọn hèn, trẻ thơ ngây. Và đây, còn là chủ đề mà thánh Mát-thêu có nhắc đến trong Tin Mừng, Lời Chúa dạy: “Hãy ra đi thâu nạp môn đồ, khắp muôn dân” (Mt 28: 19).
Nhưng, vấn đề là: trình thuật hôm nay có là bản tường trình về các nhà “đạo sĩ” , như một chi tiết hiển hiện rất thật?, hoặc, vẫn chỉ là là một truyện kể, rất nhỏ bé, không hơn không kém? Trước tiên, là truyện kể. Một tường trình đặt nặng lên các sự kiện ít thấy, như: nhiệt độ giảm sút còn 10 độ C. Trời đêm thanh vắng. Lác đác mưa rơi… Trình thuật Tin Mừng, dù chỉ là một truyện tích Thánh Kinh, nhưng lại mang nhiều ý nghĩa. Thành thử ra, khi đọc truyện tích Tin Mừng, ta cũng đừng nên hỏi: “Sự việc xảy ra có thật không ta?” Thật ra, cũng chỉ nên hỏi: ”Điều ấy có nghĩa gì, cho riêng mình?” Bởi, sự thật của truyện kể vẫn nằm trong ý nghĩa của nó. Chứ không phải ở sự việc này nọ có liên quan đến cốt truyện, mà thôi.
Xét về truyện, sự việc diễn ra ở đây, có phần mơ hồ chứ không rõ nét như một bài báo/bản tin, trên truyền thông. Bởi, khi có thông cáo trên báo/đài, người người đều muốn có giải mã cho câu mình hỏi: gì thế? Ai vậy? Tại sao? Ở đâu? Bao giờ? Sự việc diễn tiến ra sao? Truyện kể hôm nay thật khó mà có được câu giải mã thích hợp, cho các chấm hỏi, ở trên.
Thêm vào đó, Chúa Hài Đồng chốn quê nghèo miền Bê-Lem, ta chẳn thể nào biết hết được sự việc rất hiển và rất linh xảy đến vào thời khắc nào, sau Giáng Sinh. Kinh Sách không kể rõ chi tiết, là bởi điều đó không quan trọng bằng ý nghĩa của trình thuật. Theo truyền thống, Tin Mừng do thánh Mác-cô và Mát-thêu viết, cũng chẳng nói rõ về chuyện này.
Trả lời cho câu hỏi: các “nhân sĩ” Đông Phương, họ là ai? Các ngài, từ đâu đến? Thì, tiếng Hy Lạp gọi các ngài là “Magi”. Văn minh phương Tây coi các ngài, như một nhóm. Một giai cấp riêng biệt gồm các kinh sư, viện sĩ. Các ngài được mọi người tưởng nhớ, như giấc mộng. Như ước vọng, thì đúng hơn. Ước và vọng, của bậc chiêm tinh. Giải đoán. Rất “đạo sĩ”.
Mãi về sau, truyền thống Giáo hội gọi các ngài là “ba Vua” thuộc trời Đông, cố là để ứng nghiệm lời thánh vịnh 72 có câu: “Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm,hàng vương giả sẽ về triều cống. C những vua Ả-rập, Xơ-va, cũng đều tới tiến dâng lễ vật.”(Tv 72: 10). Và, sách Isaya, cũng nói: “Vua chúa sẽ thấy và đứng lên, chư hầu sẽ thấy và bái lạy.” (Is 49: 7)
Kinh Sách chẳng nói gì đến tên tuổi của các ngài. Gồm bao nhiêu vị? Chỉ biết là truyền thống Giáo hội, nói có 3. Và nếu đếm, mọi người đều thấy những 3 món quà. Nên, mới gọi tên 3 vị, là: Caspar, Balthazar và Melchior. Caspar, là vị được coi như da ngăm ngăm. Chính vì thế, ông được coi như đại diện cho dân con ở ngoài. Ngoài Đạo. Ngoài luồng. Nhưng ông vẫn đến với Chúa. Tin Mừng nói, các ông “xuất tự phương Đông”. Có thể là: Ba Tư, Đông Xyria, Ả Rập. Tức, thuộc vùng sâu vùng xa, ở Châu Á. Rất lạ, Thần học gia Aloysius Pieris có viết: “Điều đáng nói, là: việc này rất có nghĩa. Các đạo sĩ đến từ phương Đông, không có nghĩa họ là nhân sĩ địa phương nhận ra ánh sáng Chúa dẫn đường, về với Ngài.”
Trình thuật hôm nay, nói đến “vì sao lạ”. Sao lạ, có là “sao chổi”, “sao băng”, hoặc hiện tượng “Nổ lớn” giữa các hành tinh, mang ý nghĩa lớn với đạo sĩ? Và, chuyện dõi bước tìm ánh sao có thực không? Làm sao ta biết vì sao lạ mình tìm, lại “ở ngay trên đầu”? Bởi, có đi cả trăm cây số đường dài, thì “sao lạ” vẫn cứ ở trên, rất đỉnh đầu! Có lẽ, ta đang phí phạm thì giờ. Phí phạm cung cách nhìn ngắm sao lạ chiếu sáng?
Trình thuật, không đặt nặng lên sự kiện lịch sử. Nhưng tập trung vào bối cảnh thông thường của Tin Mừng thánh Mát-thêu. Tức: Thiên Chúa, ngang qua bản vị của Đức Giêsu, đã đi bước trước, để đến với thế gian. Và điều khác nữa, là; các nhà lãnh đạo tôn giáo, các vị thượng tế trong Kinh Sách, tuy biết rõ Đức Mêsia đã giáng hạ, ở đâu, hôm nào, vẫn chẳng tỏ bày cố gắng để tìm hiểu về Ngài.
Ngài giáng hạ ở ngay thôn làng bé nhỏ đất Bê-Lem, là “đầu thôn cuối xóm” với thành Giêrusalem là thế, mà bạo chúa Hêrôđê, đã phải vận dụng mọi phương cách để thực hiện việc quét sạch mối đe doạ xa vời. Không thiết thực. Không gây nguy đến ngai triều, của bạo chúa. Trong khi đó, người dưng khách lạ ở quê làng, lại đã bỏ thì giờ vàng ngọc ra mà tìm kiếm. Kiếm tìm, để rồi mải miết ra đi tìm về ánh sao đích thực, mà chiêm ngưỡng. Kiếm và tìm Vua Do Thái bé nhỏ, để dâng lời chúc tụng. Ngợi khen. Tặng phẩm vật.
Là những người cũng chúc tụng ngợi khen tặng phẩm vật, các vị đã tiến dâng “vàng”, “nhũ hương” và “dược thảo”. Quà tặng, là để ứng nghiệm sách Isaya đoạn 60 câu 6, được trích ở bài đọc 1, để nghiệm lại:“Họ đem vàng và nhũ hương”. Kinh Sách viết thêm: Vàng là biểu tượng cho tính rất Vua, của Đức Chúa. Nhũ hương, biểu trưng cho bản chất thần linh chí thánh của Đức Giêsu. Và dược thảo, biểu lộ niềm khổ đau, nỗi chết rất cứu độ. Tất cả, bao gồm những đức hạnh. Nguyện cầu. Khổ đau.
Hiên Linh hôm nay, cho ta biết: với Chúa, không ai là người dưng khách lạ. Hoặc, ngoài luồng. Với Ngài, tất cả đều là con cái Chúa. Được Chúa thương yêu. Ngài không phân biệt ngoại hình. Văn hoá. Không so đo hơn thiệt. Mọi người đều cùng một gia đình. Có cùng một Cha. Đều được phép gọi Ngài: Cha ơi!
Điều đó có nghĩa: mọi người trong ta đều là người anh, người chị, trong gia đình. Đối xử với nhau như anh em một nhà. Nhà Chúa. Dù, ta có khác về tôn giáo. Giai cấp. Sắc tộc. Nhưng, ta cùng một nhà với Ngài. Và trong nhà Ngài, không có chỗ cho thói tật kỳ thị. Phân biệt. Chia cách.
Các sự kiện kể trong trình thuật có thể mù mờ. Nhưng thông điệp Ngài gửi, thật rất rõ. Rất đậm đà tình thương. Thế nên, hãy cảm tạ Chúa vì nay không ai là “dân riêng Chúa chọn”. Dù bạn là Do Thái. Dù tôi là tín hữu Công giáo. Rất Kitô. Hãy cố cảm thông và nhận thức cho đúng. Nhận rằng: Thiên Chúa, Đấng Tạo dựng trời đất rất muôn loài, Ngài đi bước trước để đến với nhân gian trần thế, rất người phàm. Ta noi theo.
Là người phàm, ta nên đến với nhau. Đến, để gần nhau. Như người thân. Đến, mà làm chứng cho mọi người thấy: không ai là người dưng khách lạ. Nhưng, tất cả được gọi mời làm người thân. Rất gia đình. Vì, tất cả được kêu mời trở thành anh em, là thế đấy. Cả đến Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, cũng đã đến. Cả người giàu/kẻ nghèo. Người sang/kẻ hèn. Khoẻ mạnh/ốm đau, đều được Chúa quan tâm. Kêu mời đến với nhau. Thành gia đình. Người thân.
Cuối cùng, cũng nên tự hỏi: có ánh sao nào chiếu sáng đời mình, chăng? Khi xưa, đạo sĩ nhân hiền ngoài luồng, nhìn ánh sao đã biết đường, mà dấn bước. Nhưng người dân thị thành trong Đạo. Trong Chúa. Ở thành thánh Giêrusalem lại không biết đường, làm thế. Và cũng nên hỏi: tại sao Chúa gửi ánh sao chiếu sáng để gọi mời cả ta nữa, lúc này? Gọi để làm gì? Để nói những gì? Ngài có muốn ta dấn bước tìm Ngài? Theo ngài. Nơi người dưng khách lạ, mà phục vụ? Giúp đỡ? Giúp, những ai có vấn đề tương tự. Giúp những người chưa từng một lần tìm “Ánh Sao”, Chúa gửi. Đó là khúc ngoặt cuộc đời, đầy biến đổi. Là, khúc đoạn đường đời, người vẫn hỏi: đâu là tương lai cuộc đời, của ta?
Thánh Y-Nhã viết trong cuốn “Luyện tập Tinh thần” có nói về những người lập gia đình xong, đã hỏi:“Giờ thì, Chúa muôn tôi làm gì?” Hiển Linh lễ hội hôm nay, nhắc cho thấy: ta vẫn ngưng đọng ở chốn cũ. Ở giai đoạn tốt xấu, khó đổi thay. Có, quyết định đúng sai, khó huỷ hoại. Nhưng chẳng bao giờ là quá trễ, để ta kiếm tìm “sao lạ” cho riêng mình. Và cứ thế, hãy dõi theo ánh sao đêm, ngay điểm tụ, mình đang sống.
Nhân sĩ ngoài luồng không rõ vị trí sao lạ, dẫn mình đến. Các vị, vẫn ra đi. Ra đi, ghé chốn Bê-Lem. Mà gặp Chúa. Chắc chắn các ngài chẳng khi nào tiếc nuối việc mình quyết định. Ta cũng thế, nếu có quyết tâm. Lòng quả cảm. Và, niềm tin sẵn có để noi theo mẫu mực mình đã quyết, chắc rằng rồi ra, ta sẽ tiếc. Nếu quả là như thế, thì Hiển Linh hôm nay, sẽ là ngày để ta khởi đầu một quyết tâm, mà làm lại. Làm, như đạo sĩ phương Đông. Tìm Ánh Sao, Chúa dẫn đường. Về chốn thánh.
Trong quyết tâm ấy, ta thong dong vui hàt những lời đầy ý nghĩa, về dấn bước:
Theo em xuống phố trưa mai đang còn nhức mỏi đôi vai Theo em bước xuống cơn đau, bên ngoài nắng đã lên mau Cho nhau hết những mê say, cho nhau hết cả chua cay, những ngày…tình buồn” (Lê Uyên và Phương – Vũng Lầy Của Chúng Ta)
Tình có buồn, vì cứ theo em xuống “Vũng Lầy Của Chúng ta”. Nhưng, nếu ta tìm Chúa Đấng Hiển Linh có niềm yêu thương tín thác, và dấn bước, thì “ánh sao” ngày lễ hội sẽ soi đường chỉ lối đưa ta về với Sự Thật. Và Sự Sáng. Suốt đường đời.
Những ai ngổn ngang quá khứ của mình Những ai đang cố tẩy rửa “lý lịch đen” Để tìm chỗ định cư tâm hồn bằng mồ hôi chân thật.” (thơ Đỗ Trung Quân)
Lc 3: 15-16, 21-22
Người thành phố, hôm xưa tẩy rửa lý lịch đen, để tìm chỗ. Người nhà Đạo, hôm nay cũng rửa tẩy tâm hồn, như Đức Kitô để thánh Gioan thực hiện, như trình thuật từng đã ghi?
Trình thuật thánh Luca nay ghi lại một loạt các sự kiện lịch sử thánh, Chúa bày tỏ. Ngài tỏ bày trước nhất sự kiện Giáng hạ có một không hai, Chúa ở cùng. Cùng người tội lỗi, đớn hèn, “lý lịch đen”. Bần cùng. Cô phụ. Thấp kém. Tiếp đến, Ngài tỏ bày bằng Lễ Hiển Linh cho người ngoài Đạo. Ngoài luồng. Cùng đạo sĩ. Tỏ bày ngày hôm nay, Thiên Chúa hiện diện nơi Đức Kitô. Hoạt động trong Ngài và qua Ngài, như các thánh sử từng ghi chép.
Nhìn Chúa chấp nhận để cho thánh Gioan thanh tẩy, hẳn có người sẽ bảo: cần tẩy rửa, chỉ đám bần hàn lỗi phạm, nào phải Chúa? Hơn nữa, ta vẫn khẳng định: Chúa mặc lấy xác phàm làm người, mọi sự giống như ta, trừ tội lỗi. Đã vô tội, lại không lỗi, sao Chúa vẫn để cho rửa? Lại nữa, chính thánh Gioan từng xác quyết: “Có Đấng mạnh hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Ngài. Ngài sẽ làm phép rửa cho anh em, trong Thánh thần, và Lửa.” (Lc 3: 16)
Có hai chi tiết cần chú tâm hầu trả lời cho thắc mắc, nêu trên. Khi chấp nhận để cho Gioan thanh tẩy, Chúa tỏ cho thấy Ngài kết hợp trọn vẹn với con người. Thánh sử Gioan, viết: “Lời đã nhập xác phàm và ở giữa chúng ta” (Ga 1: 1). Thánh sử không viết: ngôi Lời đã thành người. Nhưng bảo: “Ngài đã nhập xác phàm”. Theo ngôn ngữ Kinh Sách, cụm từ “xác phàm” mang nghĩa hèn kém. Tồi tệ. Giống người phàm. Như ta. Nghĩa là, Chúa cũng có cảm xúc. Phản ứng. Quyết tâm. Như ta. Nhưng, Ngài khác ở chỗ: không phạm lỗi. Chẳng làm điều sằng bậy. Sai trái. Chính vì thế, nhóm Pharisêu trách cứ Ngài vẫn đồng bàn, ăn uống với kẻ yếu hèn. Tội lỗi.
Dù mang tư cách của Đấng Mêsia, Con Thiên Chúa, Ngài không đòi dấu hiệu ngoại hình cần ưu ái. Phân biệt. Đa phần vào mọi lúc, mọi người nhìn Ngài như bất cứ mọi người. Không bon chen. Tị nạnh. Làm phách. Chả thế mà, khi đến hội đường mà nguyện cầu, hàng xóm lân cận cứ ngỡ ngàng, chẳng hiểu được sự việc đang diễn tiến. Nói cách khác, những ai từng sống bên cạnh Ngài ở quê nhà nhiều năm nhiều tháng, vẫn không nhận ra được bản vị riêng tư, con người của Ngài.
Thứ đến, có điều khác biệt đang xảy đến vượt quá một tẩy rửa bình thường. Như thánh sử Luca viết: “Đức Giêsu cũng chịu phép rửa, đang khi Ngài nguyện cầu” (Lc 3: 21). Vào những lúc quan trọng trong cuộc đời công khai hoạt động của Đức Giêsu, thánh sử Luca đều trưng dẫn sự việc Chúa “đang nguyện cầu”. Và, đó là lúc “Thánh Thần Chúa ngự xuống trên Ngài theo hình dạng chim bồ câu.” Lại có tiếng của Cha, từ trời phán: “Con là Con Cha. Nay, Cha sinh ra Con.”(Lc 3: 22)
Theo cung cách người phàm, đây là hành vi xác nhận việc “uỷ thác” Đức Giêsu đến với mọi người. Có thể gọi đó là một kinh nghiệm từng trải về “Lễ Ngũ Tuần”. Một Lễ hội, qua đó Thiên Chúa là Cha ủng hộ/tiếp sức cho Con Ngài là Đức Kitô khởi đầu sứ vụ cứu nhân độ thế, rất chính thức.
Thành thử, ngang qua thanh tẩy, Đức Giêsu đã chính thức nhận “Bài Sai” ra đi thực hiện sứ vụ Cha Ngài uỷ thác mà giáo huấn, chữa lành và giải thoát các tâm hồn vẫn còn làm thân nô lệ tội lỗi. Xác phàm. Nhục thể. “Bài sai” Ngài lĩnh nhận, diễn tiến đến cao điểm vào lúc thống khổ. Chết nhục. Và Phục sinh, quang vinh.
“Bài sai” Chúa lĩnh nhận, được diễn tả bằng ảnh hình gói ghém ở bài đọc 1, ở sách Isaya và bài đọc 2, ở thư thánh Phaolô gửi Titô. Tiên tri Isaya quả quyết “Mọi thung lũng được lấp đầy. Núi đồi được bạt xuống. Nơi lồi lõm hoá thành đồng bằng, chốn gồ ghề thành đất phẳng phiu.” Và, Chúa đến qua Bản vị Đức Giêsu, khi ấy “Ngài chăn dắt đoàn chiên, như mục tử. Ngài tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Ngài ấp ủ trong lòng. Bầy chiên mẹ, Ngài tận tình dẫn dắt.” (Is 40: 10-11).
Bài đọc 2, thánh Phaolô nói: “Chúa đến đem ân sủng cứu độ cho mọi người. Ân sủng dạy ta từ bỏ lối sống vô luân, những đam mê trần tục.” Và, có như thế ơn thanh tẩy của chúng ta mới nối kết với phép rửa của Đức Giêsu. Bởi, “khi Đức Kitô là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu độ ta xuất hiện, Ngài cứu vớt ta. Cứu vớt, không vì ta tự sức mình làm nên, nhưng vì Ngài thương xót. Và, Ngài cứu ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần để ta được tái sinh và đổi mới.” (Tt 2: 5-6) Xem như thế, Ngôi Lời-mặc-xác-phàm đã giải thoát ta khỏi cảnh suy đồi. Sa ngã. Rất phạm lỗi.
Ngày Chúa nhận thanh tẩy, Thánh Thần ngự xuống trên Ngài. Ngự xuống, không phải cho riêng mình Ngài. Nhưng, để rồi Ngài đem “công chính đích thực” đến với mọi người. Một xã hội công chính.Ở nơi đó, mọi người đều có những gì mình cần. Ở chốn ấy, phẩm cách của họ được thượng tôn. Công nhận. Và, người người được sống trong tương quan đúng đắn. Xứng hợp. Tương quan, sống với nhau. Với Chúa. Trong yêu thương. Lành thánh. Dễ chịu.
Cùng với thánh Luca, thánh sử Mát-thêu cũng áp dụng lời tiên tri Isaya vào Tin Mừng, thánh nhân viết: “Người sẽ không cãi vã, không kêu to, chẳng ai nghe thấy Người lên tiếng giữa phố phường.Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi.” (Mt 12: 19-20).
Ở đây nữa, bằng vào những hình ảnh thật thơ mộng, đầy thương xót, thánh nhân diễn tả tâm tình của Đức Giêsu đón chào người tội lỗi. Ngồi cùng bàn với họ. Hoặc, như ảnh hình của vị Mục tử dám bỏ 99 chiên lành một chỗ, chỉ để ra đi tìm chú chiên lạc. Chân phương. Bé nhỏ. Để đem về.
Cũng trong tình huống áp dụng lời lẽ của tiên tri Isaya, để diễn tả tâm tình Đức Giêsu khi lĩnh nhận phép rửa, thánh sử Mát-thêu, ghi tiếp:“Người đưa công lý đến toàn thắng, và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Người.” (Mt 12: 20-21)
Tâm tình của Đức Giêsu khi nhận lãnh thanh tẩy, là tâm tình bất chấp mọi đối kháng. Chối bỏ. Và, thù địch từ bất cứ nơi đâu, ngài vẫn kiên trì đến cùng đích. Quả thật là thế. Cả vào lúc, chừng như Ngài bị huỷ hoại và tận cùng bằng cái chết khổ nhục, Ngài vẫn nối kết hài hoà cả triệu triệu người, thuộc mọi thế kỷ. Công cuộc cứu độ của Ngài đã giải thoát hết mọi người chúng ta. Đưa ta về chốn tự do, con cái Chúa. Đó chính là ý nghĩa đích thực của sự kiện “Chúa chịu thanh tẩy”. Bởi Thánh Thần. Đó, là “bài sai” Cha uỷ thác. Riêng cho Chúa.
Cử hành tiệc thánh mừng Chúa chịu thanh tẩy, nay còn là cơ hội để ta suy tư về chính ơn thanh tẩy, ta lĩnh nhận. Đây không là nghi thức công nhận ta thành người theo Chúa. Công giáo. Hoặc, Chính thống. Tin Lành. Anh giáo. Cũng không là tiệc tùng với lễ lạy kéo dài dăm phút, với những cử chỉ, động tác rất phù thuỷ. Nhưng, là khởi đầu một hành trình trải dài trong cuộc sống. Hành trình tăng trưởng và lớn lên trong Thân Mình của Đức Chúa. Qua tư cách thành viên.
Ơn thanh tẩy của ta, chính là kinh nghiệm của đời sống cộng đoàn. Không chỉ là đời sống tư riêng. Sự kiện của gia đình, dù rất giống. Thanh tẩy, như “bài sai” dẫn ta tham gia vào cuộc sống của Hội thánh. Tham gia, không như động thái thụ động. Miễn cưỡng. Bó buộc. Mà, như ngôn từ của vị tổng thống nọ, từng nói: “Hãy chớ hỏi Hội thánh làm được gì cho ta, nhưng ta làm gì được cho Hội thánh.” (John F. Kennedy).
Nhận thanh tẩy, mỗi người trong ta đều là chứng nhân sống động cho Tin Mừng. Là, muối cho thế gian. Là, phố xá trên đồi cao. Là, ánh ban mai toả khắp chốn. Cho mọi người. Thanh tẩy, là lời mời không kết đoạn. Mời gọi ta dấn bước theo chân Chúa. Mỗi ý mỗi lời của tiên tri Isaya đều áp dụng cho mỗi người. Những người từng lĩnh nhận ơn thanh tẩy. Như Đức Chúa.
Tham dự tiệc thánh hôm nay, ta cầu mong sao có được quyết tâm làm mới niềm tin ta vẫn giữ. Làm mới quyết tâm theo chân Chúa. Theo Chúa, để thực hiện “bài sai” Ngài gửi đến. Theo Ngài, để hợp tác với Chúa. Với mọi người. Trong công trình dựng xây Hội thánh. Dựng và xây cộng đoàn tình thương Nước Trời, vẫn diễn ra ở đây. Bây giờ.
Trong nhận thức như thế, hãy cất lên lời ca mà hát xướng, dù lời ca có buồn bã, như sau:
“Chiều chiều ngùi trông xa khơi mờ sóng Từng đàn chim bay trong ánh hoàng hôn Chơi vơi hồn ai tới chốn xa xôi! Khuất bóng Kim-Ô chiều tàn lâm ly mây trời bao la.”(Lâm Tuyền – Khúc Nhạc Ly Hương)
Ra đi, không mang tâm trạng ly hương/chiều tàn, nghệ sĩ hát. Nhưng, vẫn hiên ngang hùng dũng, với khí thế của người nhận “bài sai” thanh tẩy. Nhận, để lập hành trình đi vào cuộc sống yêu thương, có Hội thánh. Có cộng đoàn Nước Trời cùng đi. Cùng sống với ta. Trong cuộc đời.
Một mùa thu trước, rất xa xôi Đến nay tôi hiểu, thì tôi đã Làm lỡ tình duyên, cũ mất rồi”. (thơ T.T.Kh)
Lc 4: 1-13
Lời người từng bảo, nhà thơ nhớ. Nhớ mùa thu trước, xa xôi nhiều. Mùa, có Lời Chúa dạy, lại đã quên. Quên, tình Chúa chứng tỏ. Quên rằng, Lời hằng ghi dấu vết, ở khắp nơi.
Trình thuật, nay thánh sử nhắc ta nhớ về một mùa rất Chay kiêng. Chay kiêng, không nhắm chuyện xót xa. Đền tội. Dù, rất cần. Chay kiêng, hướng về Phục Sinh, ngay lúc này. Chay và kiêng, không là khía cạnh tiêu cực, đầy nản chí. Mà, để suy tư về niềm vui, không vật chất. Có sức bật.
Quả thật, Chay kiêng là giai đoạn quan trọng trong niên lịch Phụng vụ, của Hội thánh. Chay và kiêng, là ý nghĩa của lời nguyện ngay đầu lễ: “Lạy Chúa, xin giúp con hiểu ý nghĩa của thống khổ, nỗi chết và sự Sống Lại mà Đức Giêsu Con Chúa trải qua. Để, tất cả phản ánh lên cuộc đời chúng con.” Đó là ý nghĩa cuộc sống ta gìn giữ, suốt mọi ngày. Gìn và giữ, ít là mùa Chay kiêng này.
Chay Mùa kiêng cữ, những 6 tuần, được thiết lập để giúp ta suy tư tụng niệm, cho đúng cách. Bởi, Hội thánh vẫn coi Chay kiêng là mùa để dân con nhà Đạo biết mà để giờ ra, mà tịnh niệm. Tịnh tâm suy niệm hầu đào sâu niềm tin, cho thật vững. Đào sâu, có suy tư đổi mới, tái khởi đầu. Hội thánh ta, xưa nay vẫn khích lệ con dân hãy tuân giữ mùa Chay kiêng tâm tịnh, bằng các lễ lạy hằng ngày. Sau Công Đồng, ta có phụng vụ mới. Có bài đọc, xếp từng bộ. Bộ Cựu Ước. Với Tân Ước. Mỗi ngày, ta suy tư. Mỗi tuần, cứ tịnh tâm lẫn nguyện cầu, Chúa thánh hoá.
Bài đọc 1, nay có đoạn Môsê nói với dân con người Do thái sau 40 năm lưu lạc, ở sa mạc. Tổ tiên Môsê xưa chuẩn bị cho dân mình có cuộc đời mới. Ở đất hứa. Đời sống rất ý nghĩa đến hôm nay. Bằng vào truyền thống, Tin Mừng ngày Chay kiêng đầu Mùa, bàn về một cám dỗ rất mực. Cám dỗ cả Đức Chúa. Ở chốn vắng, rất sa mạc. Thoạt kết thúc 40 ngày chuẩn bị tâm tư nơi hoang vu sa mạc, Chúa giáp mặt thử sức, ngay đầu đời rao giảng. Thánh Luca đặt để sự kiện này, vào sau ngày Chúa chịu thanh tẩy. Và, trước lúc Ngài ra đi truyền rao sứ vụ mới, cho mọi người. Ở Nadarét.
Với Hội thánh tiên khởi, Chay kiêng tâm tịnh để khởi đầu, mọi công việc. Khởi đầu, để hồi hướng. Khởi đầu, hầu chuẩn bị mà về với đời cộng đoàn. Có thanh tẩy. Trợ lực. Suốt thời gian mừng Chúa Phục Sinh, ngày lễ vọng. Với tân tòng, suốt 6 tuần lễ này, người người chuẩn bị lĩnh nhận ơn thanh tẩy. Có cộng đoàn hiệp thông nguyện cầu, mau nối kết. Làm thân. Với mọi người.
Với người đã thanh tẩy, đây là khởi đầu mới. Một khởi đầu, để người người không còn “dậm chân tại chỗ” với thói tục xưa cũ, vốn quá quen. Khởi đầu, còn để ổn định với Đạo lý của Chúa, có thần hứng. Có hứng khởi. Đổi mới tận tâm can. Đổi và bỏ, mọi cặn bã đời sống, rất cũ xưa. Ù lì. Bất động.
Cơn cám dỗ Chúa gặp, được người người tóm gọn thành ba sự kiện xảy đến trong thời điểm khá cá biệt. Đúng hơn, cũng nên coi đây là ba điều căn bản Chúa vẫn gặp, trong quá trình thực hiện sứ vụ Cha giao phó. Suốt đời. Cám dỗ, không là hiện tượng thoáng phớt diễn tả giai đoạn nhất thời. Nhưng, cám dỗ đây là những trăn trở trong đời sống công khai của Chúa Cứu Thế. Ở mọi nơi. Mọi lúc.
Với thánh Mát-thêu và Mác-cô, cám dỗ vẫn rồi đến/rồi đi, theo từng chặp. Như có nói: “Người Pha-ri-sêu kéo ra và bắt đầu tranh luận với Đức Giê-su. Họ đòi Người tỏ dấu lạ từ trời, để thử thách.”(Mc 8: 11). “Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi thập giá đi!”(Mt 27: 40). Thánh Gioan, nói rõ hơn: “Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giê-su làm, thì nói: “Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến với thế gian! Nhưng Đức Giê-su biết họ sắp đến bắt mình đem đi tôn làm vua, nên Người lánh mặt, lên núi một mình.” (Ga 6: 14-15). Hôm nay đây, thử thách/cám dỗ đến với ta, theo nhiều cách. Rất khúc mắc.
Cám dỗ đầu, cốt biến sỏi đá thành cơm bánh. Cám dỗ cuối, lại muốn Chúa nhảy ùm khỏi nóc gia đền thờ, có ý thôi thúc Chúa từ bỏ nhiệm vụ làm Đấng Mêsia-Tôi Tớ. Chỉ muốn Ngài, thành “siêu sao” rất hấp dẫn. Hầu, đánh bóng con người Ngài. “Hãy theo tôi, vì tôi quan trọng nhất”, là cám dỗ thứ hai. Quyết muốn ta thờ phụng sự dữ/ác thần. Hầu, có được giàu sang, quyền bính. Rất uy lực.
Cám dỗ thứ hai, nhằm lôi kéo Chúa ra khỏi trục chính, do Cha uỷ thác. Trục đây, là ý hướng đến với con người. Bằng tình thương yêu. Phục vụ. Lôi và kéo, nhằm khuyến dụ Đấng sáng tạo mọi sự không còn dựng xây Vương quốc tình thương, phục vụ nữa. Ngược lại, ác thần/sự dữ chỉ muốn Ngài không chế cả một đế quốc. Có chư hầu phục dịch. Có người người đon đả, những đón chào..
“Trong những ngày ấy, Người không ăn gì cả”, điều này nhắc ta nhớ về sứ vụ của Môsê, ở sa mạc. Nhớ rằng, Môsê chấp nhận thông điệp Chúa gửi, mà truyên rao Lề Luật, Chúa ban phát. Với thánh Luca, trình thuật “cám dỗ” nối tiếp sự kiện Chúa ra đi thực hiện rao giảng, ngay ở hội đường thành Nadarét (Lc 4: 16-21).
Lời Chúa đối đáp thách thức của Ác thần/Sự Dữ rút từ Cựu Ước, Chúa mặc khải về Lề Luật. Thách thức đây, dọi lại lịch sử diễn ra với dân Chúa, ở sa mạc. Thách thức, là những kinh nghiệm sầu buồn, đói khổ suốt 40 năm. Hai thử thách, hai hậu luận. Một đằng: dân Do thái thất bại. Một đằng Đức Giêsu đã thành công. Bởi, Lời Ngài còn đó vẫn chứng minh:
-Lời người Do thái, vẫn càu nhàu chuyện chẳng đủ ăn. Đủ sống. Sao nuôi dân. Trong khi đó, Đức Giêsu vẫn nói: “Đã có lời chép: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, mà thôi.”(Lc 4: 4)
-Dân con mọi người cứ chạy theo ngẫu thần. Chỉ thờ bò. Sợ bụng đói. Trong khi đó, Chúa dạy: “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và thờ phượng mình Người thôi.”(Lc 4: 8)
-Dân con người Do thái lại cứ thách thức Chúa hết Massah, rồi Mêri-ba: “Ngài hãy thử cấp cho mọi người đủ nước uống đi”. Trong khi đó, Chúa đối xử hoàn toàn khác:“Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.”(Lc 4: 13).
Bằng vào chấp nhận một cám dỗ, Đức Giêsu đã tỏ cho thấy Ngài luôn trung thành với Cha. Ngài đủ tư cách để minh chứng rằng Ngài là Đấng Mêsia, thiên hạ chờ. Cám dỗ đây, là để cho thấy vai trò cứu độ của Chúa, quá rõ ràng. Đức Mêsia được trông đợi mang của ăn từ trời xuống. Nuôi dân con. Trông đợi các vương quốc lân bang sẽ tuỳ phục đất nuớc Do thái bé nhỏ. Tóm lại, cám dỗ đây, để cho thấy rõ thiên tính của Ngài.
Nói cám dỗ, người người thường liên tưởng đến dục tình. Dối trá. Ghét ghen. Hờn giận. Là, nói về ngồi lê. Nói xấu người khác. Về, bực tức. Oán hờn. Hoặc, những việc tương tự. Rất người phàm. Cám dỗ đây, quả thật đáng sợ. Nó khiến ta thèm có khả năng chế biến mọi sự, thành cơm áo. Thành kẻ giàu có. Rất danh vọng. Địa vị. Thèm được để ý. Thèm quyền hành. Bởi, có quyền là có thể hành quyền trên người khác. Là, đạt được mục đích mình nhắm đến. Là, có quyền/có thế. Có vai vế. Danh vọng.
Cái đáng sợ của cám dỗ, là nó biến thế giới người người thành đồ vật. Chỉ biết làm giàu. Tạo quyền thế. Cá thể. Cho riêng mình. Đáng sợ, vì nó làm cho xã hội loài người chỉ mải ganh đua/tranh giành mọi thứ. Đáng sợ, vì chuyện tạo tham lam. Điên cuồng. Giành sống, Tham đến độ, cứ tưởng mình đoạt được mọi thứ. Làm chủ mọi sự. Kỳ thực, mình cũng chẳng làm chủ được ai. Chẳng được gì.
Vương Quốc Chúa dựng xây, mang giá trị khác. Giá trị cần nhắm đến, trong mùa này, là chay kiêng/tụng niệm, chứ không phải chạy theo những thần và tượng của giàu sang. Thế lực. Danh vọng. Vương Quốc Chúa dựng, là đường lối Chúa muốn ta ngang qua. Là, đường hướng Nước Trời. Là, Đường để ta hướng thành con người trọn vẹn. Con người sống vì người khác. Cho người khác.
Đó là ý nghĩa đích thực của trình thuật hôm nay. Thời điểm, để ta bỏ giờ ra mà suy nghĩ. Suy, về giá trị của việc chay kiêng/tụng niệm. Nghĩ, về cuộc sống, có định hướng. Bài đọc 2, cũng có nói: “Kẻ tin vào Người sẽ không thất vọng. Không có khác biệt giữa người Do thái và Hy Lạp. Tất cả, đều có cùng một Chúa, Đấng quảng đại với những ai kêu cầu Người. Ai kêu cầu Danh Chúa, sẽ đưọc cứu.” (Rm 10: 11-13). Tức, sẽ thành tội ác, nếu có ai tìm cách ngăn cản người anh, người chị mình không được phép tiếp cận của cải thiêng liêng, do Chúa lập. Ngăn cản họ đến với cuộc sống có ý nghĩa, Chúa vẫn muốn.
“Ác thần bỏ đi, chờ khi khác”, có nghĩa: cuộc chiến với ác thần/sự dữ, chưa kết thúc. Nó sẽ trở lại. Vào dịp khác. Trở lại, trong suốt cuộc đời của Chúa. Cả vào lúc Chúa gặp tình trạng thập tử nhất sinh, trên thánh giá. Ta cũng thế, cuộc chiến đấu chống ác thần/sự dữ đâu đã chấm hết. Đây này, tính tham lam. Vị kỷ. Đố kỵ. Ghen tương. Hờn giận. Cả những ước ao có được hơn người. Có, chứ không cho. Không san sẻ với bất cứ ai. Có, để khống chế, chứ không để phục vụ. Con dân Đạo Chúa vẫn đang chịu những cám dỗ tương tự như Chúa đã chịu, vào thời trước. Ta chẳng biết, đó thôi.
Mùa Chay kiêng, ta chỉ thành công, nếu biết dựng xây xã hội đặt nặng vào yêu thương. Công bình. Vào, thông điệp Chúa gửi. Về sự thật. Yêu thương. Giùm giúp. Sẻ san. An bình. Về, những gì ta cần làm, mùa Chay kiêng. Nếu “bỏ lỡ tình duyên” mùa Chay khác, thì Chay này, đừng để trễ. Hãy làm lại.
Trong tinh thần Chay kiêng lại, ta quyết vươn lên mà vui hát. Hát, điều mình vẫn quyết rằng:
“Lạy Chúa! Lạy Chúa tôi! Nhân ái ban xuống đời. Lạy Chúa! Lạy Chúa tôi! Cho hiều hoà khắp nơi.” (Phạm Duy – Chúa Hoà Bình)
Nhân ái. Hiếu hoà. “Lời người bảo tôi”, mùa thu trước. Và thu này, Mùa Chay kiêng. Cũng nên tịnh tâm. Yêu thương. San sẻ. Với mọi người. Suốt cuộc đời.
“Người xưa cỡi hạc đi đâu tá” Hoàng Hạc lâu nay vẫn còn đây. Một phút hạc vàng thăm thẳm biệt, Ngàn năm mây trắng lững lờ bay.” (thơ Thôi Hiệu, bản dịch Trần Văn Ân)
Lc 9: 28-36
Cỡi hạc hay cỡi mây, vẫn là chuyện của người thi sĩ. Yêu người hay yêu Chúa, còn là chuyện của dân con. Con dân nhà Đạo hôm nay, lại được nghe bảo về yêu thương, nơi trình thuật.
Trình thuật thánh Luca diễn đạt, nay thêm ý. Ý, là ý tưởng về một nghịch thường nơi niềm tin, con dân Chúa. Tin rằng, mình có thể tìm gặp Chúa, ở thế gian. Qua thế gian. Tuy, thế gian không là quê đời, của mình. Mà, chỉ là hành trình tìm về nơi chốn có sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa của Sự thật. Tình thương. Đó là mục tiêu của sự thật. Cần duy trì.
Trên đường về, ta gặp nhiều điều rất cuốn hút. Cuốn và hút, như: nghề nghiệp. Tài chánh vững chãi. Giáo dục con cái. Nhà cửa ổn định. Nhất nhất, chỉ là bước đầu, của cuộc sống dài lâu. Ta không thể nào như vợ ông Lót, cứ quay nhìn về quá khứ. Nên, thành muối/đá. Đời người, như văn sĩ nọ, vấn so sánh tựa hồ một phim truyện, ở hí trường. Không thể yêu cầu phim dừng lại. Để, cứ sống với cảnh đẹp, mình ưng ý. Mà phải tiến tới. Tiến về phía/về nơi, mình cần đến.
Bài đọc 1 và Tin Mừng, đề cập: Chúa can thiệp vào cuộc sống. Của con người. Thánh sử Luca thì nói về sự kiện Chúa Biến hình. Cũng như thánh Mát-thêu và Mác-cô, ở Tin Mừng. Điều cần thiết, là biết rằng chuyện Biến hình này du nhập vào trình thuật, của thánh sử.
Trước lúc đó, thánh Phêrô nhân danh đồng Đạo và đồng môn, đã tuyên xưng Thầy Chí Ái là Đấng Mêsia. Là, Đức Kitô. Vua Cứu Thế, mọi người chờ. Đây là giây phút kinh thiên hoàng hà, để các thánh nhận ra rằng mình chỉ là dân nghèo thị thành, mà còn được vinh hạnh chọn lựa làm bạn đồng hành, với Đức Chúa. Hiểu như thế, các ngài mới bắt đầu có được thị kiến sống động về quyền uy. Vinh hạnh. Nằm trong quỹ đạo tương quan mật thiết. Tốt như thế.
Nhưng, cùng một lúc, các ngài lại về với thực tại của thế trần. Ngay lúc ấy, Thầy giảng giải ý nghĩa của đồng hành. Của quan hệ thân thương với Đức Mêsia. Không nơi nào, cao trọng hơn thế. Không cơ sở nào, uy tín đến như vậy. Ngược lại, cũng từ đó, có nhiều điều đã bắt đầu trở nên tồi tệ hơn. Đức Mêsia, Thầy Chí Thánh nay thành nhân vật bị người đời đeo đuổi. Ruồng bắt. Cứu Chúa của các ngài, sẽ bị bắt. Hành hạ. Và, xử lý.
Kịch bản ấy, nay không là bản kịch mà người đời đợi trông. Cũng chẳng ai mong sự việc sẽ xảy đến, với thế giới. Vì thế, các thánh thấy mình hụt hẫng. Không hiểu nổi. Không hiểu rằng, vì sao người đời lại xử tệ với Đức Mêsia Cứu Chúa của nhân loại? Chính đó là lúc, thánh Phêrô đã phát biểu thay cho đồng môn, đồng thuyền. Chính vì thế, thánh nhân đành lãnh nhận lời quở mắng, rất gay gắt: “Xa-tăng! Hãy cút xéo đi!” (Mt 4: 10) Kịch bản đây, còn là bối cảnh trình thuật. Rất hôm nay.
“Đức Giêsu lên núi cầu nguyện đem theo các ông Phêrô, Gioan và Giacôbê”. Với Kinh Thánh, “lên núi”, là lên đồi hoang/chốn vắng, có Chúa hiện diện. Lên núi, có thể là núi Ta-bo. Nhưng, địa danh núi thánh ở đây, không quan trọng. Quan trọng, là kinh nghiệm của ba vị thánh cả, đã chứng kiến sự kiện Biến Hình. Sự kiện, có một không hai, được Chúa chiếu sáng, nơi phận Ngài.
“Hai nhân vật đàm đạo với Người”, là nói về hai nhân vật cột trụ của Giao Ước. Các vị, hiện thân cho Tiên tri và Lề Luật. Tức là, thể hiện trọn vẹn truyền thống, của Do thái. Thánh Luca xem nơi đó, như kinh nghiệm một sự kiện xảy đến, với Giêrusalem. Nghĩa là, các nhân vật cột trụ trong Đạo nay nhận ra được rằng: điều xảy đến với Chúa, hoàn toàn phù hợp với truyền thống mà các ngài đại diện. Và, chấp nhận.
Môn đệ Chúa, tuy thế, vẫn không hiểu những điều đang xảy đến, với các ngài. Chính vì thế, các ngài vẫn như “ngủ thiếp” giống hệt thời điểm ở vườn Dầu, mãi về sau. Cũng may là, các thánh chợt tỉnh giấc. Và, đây là kinh nghiệm tổ phụ Abraham từng gặp, có đề cập đến, ở bài đọc 1.
“Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật hay!” Đã rất hay, nay lại được thánh Luca thêm một lời bình: “Thánh Phêrô không biết mình đang nói”, tức là: thánh nhân những muốn nấn ná kéo dài tình trạng ấy. Bởi, thánh nhân không biết rằng thực tại đời rao giảng, đang đợi Thầy. Đợi, cả các thánh hiệp lòng mà tiếp tay. Và lúc ấy, thánh Phêrô chợt như thấy mình đang bị “đám mây bao phủ”, nên mới hãi. Mới sợ. Hãi sợ, vì Chúa đang hiện diện bằng xương bằng thịt, ngay cạnh mình. Hãi và sợ, vì được Đức Mêsia, nền tảng của mọi truyền thống, vẫn hỗ trợ. Vẫn có Chúa chứng thực.
“Hãy vâng nghe Lời người!” Nghe, là nghe những gì Chúa mặc khải. Nghe, là nhận thức rằng Đấng Mêsia sẽ bị loại trừ. Ngài sẽ chấp nhận khổ đau. Chấp nhận cái chết ô nhực. Có nghe và nhận Lời người, mới có thể hiểu và chấp nhận làm đồ đệ của Ngài.
“Tiếng phán vừa dứt, chỉ thấy một mình Đức Giêsu”, là Đấng mà các thánh lâu nay đồng hành. Vẫn sống cùng và sống với, trong tình thân. Nhưng, “các môn đệ vẫn làm thinh”, chẳng nói chẳng rằng. Làm thinh, là tình đã thuận. Thuận, để học hỏi và hiểu biết về Người. Về, Đường Lối Chúa chọn. Về, điều mà các ngài cần đến vào lúc ấy. Cần, đến niềm tin. Cần tin tưởng trọn vẹn vào với Thầy. Tin tưởng vào Đức Giêsu. Tức, tin vào Chúa. Vào Đấng Mêsia. Như Cha đã định.
Ở đây nữa, Tin Mừng còn qui chiếu kinh nghiệm Abraham từng gặp. Ông bị thử thách. Cũng kinh hoàng. Cũng có “Bóng tối dầy đặc ập xuống trên ông”. Nhưng, ông vẫn cứ bỏ quê nhà, và cất bước ra đi. Đi, về nơi xa lạ. Như thế, Abraham đã “vâng nghe Lời Người”. Và, việc “nghe theo Lời Người” của ông, nay vang vọng ở Tân Ước. Việc “nghe theo” như ông làm, là nhận biết Chúa. Là, tin tưởng vào Người. Vì thế nên, Chúa đã lập Giao Uớc với ông. Có như thế, ông mới đạt kết quả, là: dòng dõi ông, sẽ hằng hà sa số. Như trăng sao. Như sông biển, rất lớn rộng.
Bài đọc 2, là một kết nối qua đó thánh Phaolô minh xác về cuộc sống có Chúa. Sống đích thực kinh nghiệm “biến hình”. Và, biến đổi. Tức, biến hình đổi dạng, vì:“Quê hương ta ở trên trời”. Trời đây, không theo nghĩa địa hình. Địa thế. Mà, là đích điểm của cuộc đời, ta có Chúa. Sống với Chúa. “Ta nóng lòng mong Chúa từ trời, đến cứu ta”. Ta mong Ngài đến “dùng quyền năng Ngài biến đổi thân xác yếu hèn của ta, hầu trở nên giống thân xác vinh hiển của Ngài.” (Ph 3: 21).
Cuối cùng, làm thế nào để việc biến hình/biến đổi này, xảy đến với ta? Câu trả lời sẽ là: “Hãy vâng nghe Lời Người”. Vâng nghe lời mời gọi, hãy sống và thực hiện điều Ngài dạy. Lời Ngài dạy, đã làm thánh Phêrô và đồ đệ kinh hoàng. Sửng sốt. Nhưng, vẫn tháp nhập kinh hoàng ấy vào với kinh nghiệm sống của chính mình. Kinh nghiệm, về một thị kiến năng động, của cuộc sống. Sống dấn bước theo Đường Ngài vạch sẵn. Sống dấn bước, trong tin tưởng. Có quyết tâm. Để rồi, Ngài đưa ta kết hợp hài hoà với Thiên Chúa là nguồn Cội của Sự Thật. Của, Tình Yêu. An Bình.
Với quyết tâm ấy, ta cứ vui lên mà cất tiếng hát mừng, ngày hạnh phúc. Hát rằng:
“Hôm nay ta yêu, yêu tình nước non ngập lòng Hôm nay ta thương, thương khắp nhân loại trên đời. Lời tha thiết, bài thơ khúc ca ân tình Ta sẽ xây nguồn vui dựng một ngày mai.” (Xuân Lôi & Y Vân-Bài Hát Của Người Tự Do)
Hãy cứ yêu, hôm nay. Dù tình ấy, có là yêu tình đất nước. Hay, yêu thương tình người. Trong đời. Vẫn dựng xây ngày mai tươi sáng. Ngày, có biến hình. Đổi mới. Hân hoan, thơ thới. Rất một đời.
Lào rào thu muộn lá soan rơi Tay trong tay nắm, tình trong mắt Lòng bốn mùa xuân, nguyệt bốn trời. (thơ Vũ Hoàng Chương)
Lc 13: 1-9
Xuân bốn mùa/tình trong mắt, là tâm tình người xưa, xôn xao nói. Lào rào thu/trong tay nắm, là tình Chúa xót thương, nguyệt bốn trời. Xót thương – nhân từ, Ngài thường ban cho dân con trong/ngoài Đạo, nhiều tình tự. Tình tự ấy, thánh sử còn ghi ở trình thuật, bấy lâu nay.
Trình thuật hôm nay thánh Luca nhấn mạnh đến tình Chúa thương yêu, không xoá nhoà. Không phôi pha. Không thay đổi. Tình Ngài rày thể hiện, một chữ Yêu. Yêu, là bản chất cốt thiết của Đức Chúa. Là, căn tính của Ngài. Nên, không thể nào không yêu. Yêu, là hơi ấm mặt trời, Ngài thổi tới. Cho người lành/kẻ dữ. Xấu/tốt, Ngài đều yêu. Đều, gửi đến chúng ta lời gọi mời hãy bắt chước Ngài mà thương yêu. Giùm giúp. Không điều kiện.
Liên tưởng đến Chúa là Đấng thương yêu rất mực, ta cũng nên bỏ qua một bên, những ý nghĩ sai trái về một Đức Chúa, rất giận dữ. Chuyên trừng phạt thế giới nhân trần. Tội lỗi. Bằng tai ương. Sầu khổ. Chết chóc.
Hãy xác tín rằng: tình Chúa thương ta vẫn cứ thế. Tình Ngài chẳng đổi và cũng chẳng thay. Dù, con người có tệ bạc trong hành xử, cách mấy nữa. Hiểu như thế, không có nghĩa là ta cứ đâm đầu làm liều, cả điều tốt/xấu, hay/dở rồi nghĩ rằng làm gì thì làm, Chúa vẫn thương yêu. Tha thứ. Rộng lượng. Mà, phải nghĩ là có 3 sự việc xảy đến qua bài đọc hôm nay, để răn đời:
-Ta không thể đạt được ơn cứu độ trọn vẹn, mà không do Tình Chúa xót thương, Hộ phù.
-Chúa chẳng khi nào trừng phạt con người chỉ vì họ hành xử tệ bạc. Với Chúa. Với nhau.
-Chúa sẽ không ban ơn cứu độ, nếu việc ấy đi ngược ý của ta, hoặc ta không hợp tác, với Ngài.
Quả thế. Dù, ta có lỗi phạm, Chúa vẫn thương yêu. Vẫn làm thế. Với hết mọi người. Dù, người người có làm trái ý Ngài. Vẫn phạm lỗi, tức: không còn yêu thương Chúa. Và, sẽ bỏ Ngài. Ngài vẫn cứ yêu. Bởi, tình yêu là động thái đến từ hai phía. Có tích luỹ. Yêu, chỉ mang tính trọn vẹn, khi đó là động thái hỗ tương. Thành thử, tình Chúa đối với ta sẽ không đầy tràn/trọn vẹn, nếu ta không mở lòng ra mà đón nhận. Mà, yêu thương Ngài. Khi ta lỗi phạm, Chúa vẫn yêu. Có khác chăng, chỉ một điểm: do chính ta dừng lại. Đóng lòng mình. Không yêu Chúa. Và như thế, chính ta cũng đã phá bỏ quan hệ yêu thương. Với Chúa.
Trình thuật hôm nay, có người đến với Đức Giêsu kể cho Ngài nghe chuyện người dân thành Galilê bị lính La Mã giết chết. Kể như thế, có phải họ muốn kích động Chúa, vốn là người Galilê, để Ngài chống lại nhà cầm quyền La Mã, ư? Để trả lời, Chúa kể về một sự kiện khác, và hỏi họ: “Phải chăng những người ấy chết vì tội của họ? Phải chăng đây là cách Chúa phạt? Nếu ta không bị như thế, phải chăng ta vô tội?”
Thường trong đời, ta vẫn nghe những lời bình về án phạt của Chúa, tựa như thế. Nói rõ hơn, ta gặp nhiều người cứ hỏi: nghe nói Chúa yêu thương loài người, mà sao không ngăn chặn khổ ải khỏi phải xảy ra? Nói thể, há chẳng kết luận rằng Chúa là tay phù thuỷ giật giây con rối, mà thôi, sao?
Khi có máy bay bị đám khủng bố đặt bom cho nổ, có ai dám bảo lỗi là do hành khách đáng nhận cái chết thàm như thế? Khi cả ngàn người chết tức tưởi vì thiên tai/khổ ải, phải chăng do Chúa phạt? Dịch bệnh SIDA ở Châu Phi có là cách Chúa phạt dân thường về tội dâm dục? Nếu như thế, dân lành ở huyện nhận máu cứu cấp, và trẻ em bị lây SIDA từ cung lòng người mẹ, cũng có tội sao? Chúa nào lại tệ bạc đến như thế? Chúa bớt thương yêu loài người sao? Người sống, có về với Chúa hơn không?
Lời Chúa cảnh báo:“Nếu không sám hối, các ông cũng sẽ chết như vậy.”(Lc 13: 5) Sám hối –tiếng Hy Lạp là metanoia- không chỉ là niềm ân hận chuyện đã qua, nhưng còn là: hồi hướng trở về, để thay đổi toàn diện lối sống của mình. Sống đáp trả. Và, mở lòng đáp ứng với Tình yêu của Thiên Chúa.
Điều Chúa nói ở trình thuật hôm nay, mang ý nghĩa sau đây:
-Ta thành công vượt trội trong đời sống. Có tiền của dư dật. Có nghề nghiệp/địa vị vững chãi… chưa chắc chứng tỏ ta là người tốt. Không lỗi phạm. Hoặc, được Chúa thương hơn. Về việc này, Đức Giêsu đã nói rõ, ở Tin Mừng:
-Cuộc sống khổ đau, không có nghĩa: vì Chúa hết thương ta; hoặc, vì ta tội lỗi nhiều.
Quả thật, kinh nghiệm sống ta từng trải, là dấu hiệu cho thấy tình Chúa vẫn thương ta. Dấu hiệu, ta vẫn được chúc phúc. Chúc phúc nhiều, với đầy đủ tinh thần, cảm xúc, vật chất, cốt để ta san sẻ với người khác. Ngõ hầu, ta trở nên máng tình yêu Chúa đổ tràn cho mọi người. Thiên tai. Bệnh tật. Thất bại, hoặc sầu khổ, là thông điệp Chúa gửi, để qua đó, ta thấy được dấu hiệu tình thương Chúa hiện diện. Nói cho cùng, ta có gặp nghịch cảnh mới lớn lên. Mới gần gũi Chúa. Gần, anh em đồng loại.
Tật bệnh quái ác như SIDA/ung thư, tuy nghiệt ngã, nhưng đã lôi kéo bạn bè/người thân về với yêu thương. Ấp ủ. Chăm sóc. Giàu sang/khoẻ khoắn thường dẫn con người, về với ích kỷ. Với cá nhân chủ nghĩa. Để rồi, ta quên đi mọi người. Bởi, nơi nào có tình yêu, ở đó có Chúa. Nơi nào không có Chúa, người người khó kiếm tìm tình yêu đích thực.
Bài đọc 2, thánh Phaolô nói về sự kiện dân Do thái theo chân Môsê đi vào chốn hoang vu sa mạc:
“Tất cả đều ở dưới cột mây (tức có Chúa). Tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. Cùng chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo Môsê. Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng. Cùng uống một thức uống linh thiêng (do Môsê lấy từ đá là Thiên Chúa); nhưng, phần đông không làm đẹp lòng Chúa; bằng chứng là họ đã ngã qụy, ở sa mạc.”
(1Cr 10: 1-5)
Cậy vào căn cước của người được rửa tội, không bảo đảm ta là người có ý thức/trách nhiệm. Nhận thanh tẩy. Xưng tội/rước lễ rất đầy đủ, chưa chắc đã đảm bảo là mình yêu Chúa. Là, mình thương yêu đồng loại. Bởi, rõ ràng là nhiều vị tham dự thánh lễ như cỗ máy, rất vô tình. Vẫn nhiều năm, mọi người đều đi lễ. Đều xưng tội đầy đủ “lễ nghi quân cách”, nhưng cuộc đời họ có dấu hiệu gì là tiến bộ. Có chứng tích gì là mình triển nở, có trách nhiệm. Bởi, lần nào cũng xưng bấy nhiêu tội. Đôi lúc không xưng, vì không còn gì để xưng. Khi ấy hãy xét xem, như có gì đang xảy ra trong đời đi Đạo, của mình.
Bài đọc hôm nay cũng yêu cầu ta nhìn về lại con người mình. Nhìn, để xem mình có là cây vả khô trái, nơi trình thuật? Tuy sống đấy. Nhưng không cho hoa. Cho quả. Chủ vườn phải xin thêm một năm nữa, để vun xới. Nhưng, nếu sau một năm mà nó vẫn không cho trái, cũng nên cắt bỏ.
Mùa Chay, vẫn là dịp thuận lợi để ta chăm bón cây vườn đời mình. Chăm, để xem nó có đậu quả. Có, sinh hoa kết trái không? Với nhiều người, đây có thể là năm cuối. Mùa Chay cuối. Để, họ có dịp chăm bón cây cuộc sống. Người Công giáo, được gọi mời không chỉ để sống như Công giáo. Sống, vẫn thế. Chẳng sinh sôi. Nẩy nở. Nhưng ngược lại, ai cũng đườc mời gọi trở nên con người đích thực. Biết yêu thương. Yêu Chúa. Thương hết mọi người đang chung sống. Với chính mình.
Ta cần ví dụ cụ thể, ư? Hãy tự hỏi lòng mình xem mình đã tạo được ảnh hưởng gì tốt đẹp, trong gia đình. Chòm xóm? Sở làm? Mình có thái độ thế nào với người dưng khách lạ, tức: những người không giúp ích điều gì, cho ta? Hãy hỏi xem, mình đã đóng góp được bao nhiêu. Cho thế giới? Đóng góp được gì, trong nỗ lực gầy dựng cộng đoàn lành mạnh, nơi ta sống. Nói cách khác, mình làm được những gì để dựng xây xã hội mình sống, cho tốt đẹp? Phải chăng, chỉ thoả mãn tham vọng riêng tư? Chỉ làm giàu/làm tốt cho gia đình, của riêng mình?
Cũng nên nhớ, tín hữu Đức Kitô cần chứng tỏ rằng: Chúa ở đâu và bao giờ cũng vẫn yêu ta. Tình yêu của Ngài chỉ hoàn tất, khi ta trở thành người biết thương yêu/giùm giúp hết mọi người. Thương đích thực. Yêu thật tình. Yêu thương, cả trong lời nói. Lẫn hành động.
Chẳng nên sợ Chúa, quá mức. Ngài đâu đã phạt, một ai. Ngài đâu đã trừng trị thế giới tội lỗi. Mỗi người trong ta, đều có quyền chọn lựa. Chọn, đến với Ngài. Chọn cuộc sống biết tỏ bày tình yêu của Ngài, đối với ta. Chọn, để mở lòng mình với Ngài. Chọn, nhưng không như người con đi hoang chọn đường xấu, cho riêng mình. Anh chọn xa Chúa. Xa Cha. Để rồi, tự đầm mình nơi vũng lầy cuộc đời, rất đáng thương. Ta chọn sao thì chọn. Chúa vẫn chờ. Ngài vẫn đợi ta quyết tâm. Trong âm thầm.
Trong đợi chờ một chọn lựa, ta hãy cùng hát lên lời quyết tâm chọn Chúa. Mọi ngày. Mà hát:
“Tôi, vẫn cứ tin luôn tin rằng Ngài luôn thương tôi. Tôi, vẫn cứ tin luôn cho dù gặp bao gian nguy.” (Thành tâm – Nếu)
Gặp hay chưa gặp. Có gian nguy. Đói khổ. Sầu buồn. Hãy cứ: “tay trong tay nắm, tình trong mắt”. “Lòng bốn mùa xuân”, quyết vẫn tin. Tin, Ngài thương ta. Tin, ta thương Ngài. Mãi mãi. Khôn nguôi.
“Ta như kẻ hoài nghi, đành bỏ cuộc, Ngôn ngữ buồn khánh kiệt, cửa tim đau. Ta vắt cạn, tận cùng trong nỗi nhớ, Bóng em về, tha thướt quẩn quanh đâu.” (thơ Vương Ngọc Long)
Lc 15: 1-3, 11-32
Ngày em về, bóng hình đâu tha thướt nữa. Thướt tha và quẩn quanh, là tình Cha đón em về từ đầu ngõ. Ngài vẫn chờ đón. Vẫn yêu. Tha thiết lắm. Yêu, như tình cha. Tình Chúa. Nào ai bằng.
Trình thuật hôm nay, thánh Luca cũng diễn tả dụ ngôn về tình cha. Tình Chúa. Rất yêu thương. Dù, em có lỗi phạm. Dù, anh/chị có cứng rắn, chẳng chấp nhận người em, nay cải hối.
“Cải hối” đây, lời kêu gọi không chỉ diễn tả tâm tình buồn rầu/tiếc nuối mà thôi, nhưng còn đòi đổi thay rất thâm sâu về hành xử, trong lai thời. Thay đổi tận gốc trong nhận thức về Chúa. Về, con người. Và, về mọi sự. Kêu gọi, là gọi mời ta tái lập tương quan với Chúa. Với Cha. Tái lập tương quan với mọi người và với mình. Là, hồi hướng trở về. Như ngã rẽ đích thực trong đời.
Có người nghĩ, rằng: cứ xưng tội cho sốt sắng vào mùa Chay kiêng; hoặc rước Chúa, trước Phục Sinh, là cũng đủ. Khỏi cần lo. Nhưng, hãy nhớ rằng: xưng thú lỗi phạm vào mùa Chay, không phải để xoá sạch mọi dấu vết sai trái/lỡ lầm trong quá khứ, thôi. Nhưng còn để quyết tâm một đổi mới. Đổi chính đời mình, cho mới mẻ. Đổi, để mình sẽ không tiếp tục hành xử theo như trước. Đổi, để rồi sẽ chú tâm vào cuộc sống với hiện tại. Có tương lai.
Tiến trình đổi mới vào mùa Chay, là để trở thành đồ đệ đích thực. Của Đức Chúa. Đồ đệ nay đổ mới, sẽ biết san sẻ mọi giá trị thâm sâu. Mọi tầm nhìn. Mọi thái độ của chính mình. Đổi, để như thánh Phaolô/cùng với thánh nhân, ta sẽ có tâm hồn. Có đường lối suy nghĩ, như Chúa dạy.
Trình thuật, nay còn cho thấy thái độ của Thiên Chúa là Cha, với người con sa đoạ. Thái độ, cho thấy Ngài rất thứ tha. Vẫn hoà giải với những ai có quan hệ mật thiết với Ngài. Cả người con, từng sai phạm. Bê tha. Mắc lỗi rất nhiều.
Bối cảnh dụ ngôn hôm nay, còn nói rõ: “Các người thu thuế, tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu, mà nghe Lời Ngài giảng giải.” Người Pharisêu, Kinh sư Biệt phái không chỉ xầm xì: “Ông này giao tiếp cả với phường tội lỗi”, nhưng còn nghe. Và thấy chướng. Thái độ của các “cụ” trên, chẳng khác nào các đấng bậc nhà mình. Bấy lâu nay.
Đối đáp lại, Chúa kể 3 truyện dụ ngôn. Một trong các truyện này, là dụ ngôn về chuyện xử thế giữa Cha/con. Dụ ngôn đầu, về chiên lạc. Về, bà goá mất bạc. Dụ ngôn “người con bỏ đi hoang” hôm nay, là chuyện nói về tình người Cha, tức: đấng bậc hiền lành hiện thân cho Đức Chúa.
Chẳng ai xa lạ gì về thái độ của người con đi hoang, đòi Cha nhân hiền chia chác gia tài, để mình tha hồ tiêu pha, vung vít. Chia chác, cho ăn chắc. Mà, chẳng chiụ chờ đến lúc cha nằm xuống. Cuối cùng, thì đời người em út sa sút. Bị người đời rẻ khinh. Thậm chí đến cám heo, cùng thức ăn tạp, cũng không đủ.
“Thế mà cha lại giết bê béo mừng nó”, đây là phản ứng của người anh cả. Cũng là, ứng xử của nhiều người. Của thời hiện tại. Có cả ta. Còn lòng Cha, duy nhất chỉ nghĩ là: làm sao kéo con về nơi chốn an lành vẫn dành sẵn, cho con. Cha không trách: “Vì, con xúc phạm đến danh dự của Cha. Của cả gia đình giòng tộc, đáng nguyền rủa.” Nhưng, Cha bảo: “Con ta đã chết, nay sống lại. Đã mất đi, nay lại tìm thấy.” (Lc 15: 24). Cứ thế, Cha vẫn tựa cửa, đứng đó chờ. Chờ con về, lòng Cha vẫn ở tư thế ấy. Lòng Cha, từ ngàn đời. Nào đổi thay.
Lòng Cha chẳng đổi thay. Không dùng áp lực. Cũng không cần gia nhân. Không cần cảnh sát. Không. Vì thương con, Cha vẫn chờ. Về với Cha hay không, còn tùy con. Do con. Phần Cha, Cha nay vẫn ngập tràn tình thương xót. Thương, cho vận nghèo. Xót, cho phận bèo. Của con. Nên, Cha vẫn đi bước trước. Vẫn đứng đầu ngõ, mà chờ con. Chẳng đòi hỏi lời con xin lỗi.
Tình Cha là thế. Nếu con hiểu lòng Cha hơn, hẳn là con sẽ biết: Cha chẳng cần gì lời hùng biện. Cầu van. Mà lập tức, Cha ra lệnh cho gia nhân giòng tộc, hãy đem mọi của ngon vật lạ Cha trân trọng, đem ra mà thết đãi, con trở về. Thết đãi với niềm vui tươi. Hoà giải. Thết và đãi, vì nay con biết hồi hướng, về với Cha.
Hành xử của Cha, là để đáp trả lời xầm xì của đấng bậc mô phạm, của mọi thời. Xầm xì rằng, Cha giao tế cả với phường tội lỗi. Hoang tàng. Tệ nạn. Cha chẳng cần lời biện minh, với giải oan. Cha chỉ muốn tỏ bày để con biết những tình tiết thân thương, mà tuân giữ. Và thực hiện. Với mọi người.
Và lúc này, người anh cả xuất đầu lộ diện. Không hiểu. Và, bất ưng. Vì đã tuân thủ mọi luật lệ, cùng giới răn. Đổi lại, là “công cốc”. Chẳng bù cho thằng em bê tha, la cà, cùng phường tội lỗi. Lại được đối xử tốt. Anh cả, làm sao hiểu lòng Cha hiền từ. Hay tha thứ. Anh chẳng thể nào hiệp thông vui mừng với Cha Già đầy lân tuất. Nên, anh từ chối không vào nhà, với Cha. Với mọi người. Cứ, làm người xa lạ. Phiền hà. Bực tức.
Đối với anh, Tình Chúa là Cha, cũng chỉ là tình tiết bất công. Kỳ thị. Rất nhiễu loạn bởi cái-gọi-là Tình Yêu. Thương xót. Lẫn thứ tha. Tha thứ, không giới hạn. Thứ tha, vô điều kiện. Hoà giải/hoà hợp của Ngài, là giải hoà không định mức. Chẳng so đo. Kèo nài. Phân bua.
Tình Cha thương, Ngài đâu xét nét việc con làm, trong quá khứ. Tình Ngài tha thứ, cũng chẳng ưu tư chuyện tương lai. Ngài chỉ xét, tương quan con có còn với Chúa. Với Cha. Với cộng đoàn, hiện tại con chung sống nữa không?. Dù, chỉ là tương quan rất ngắn. Rất hạn hẹp. Như, cảnh tình người trộm lành. Ở cạnh Chúa. Trên thập tự. Như, người nữ phụ đổ dầu thơm lau chân Chúa. Vì quá thương Ngài.
Về tương quan, giữa Thiên Chúa và loài nguời. Giữa người người. Với nhau. Nhất nhất, đều ngang qua, một kinh nghiệm. Kinh nghiệm về tha thứ. Của Thiên Chúa. Kinh nghiệm, để ta học đòi bắt chước, mà xử thế. Với nhau. Học đòi tha thứ, không hạn chế. Tha thứ, cả những người mang nặng những tình tiết của xung khắc. Rẽ chia, trong đời mình.
Tham dự Tiệc Lòng Mến hôm nay, ta cảm tạ Thiên Chúa vẫn sẵn sàng thứ tha cho ta. Ngài không những chỉ thứ tha mà thôi, nhưng Ngài còn mừng đón mọi người quyết hồi hướng, về lại với Ngài. Tuy nhiên, ta sẽ không dừng lại ở đó, để chỉ cám ơn suông. Nhưng còn phải học hỏi bắt chước Ngài mà xử thế với mọi người, cùng một cách. Như lời cầu Chúa dạy ở kinh lạy Cha: “Xin tha cho con mọi lỗi lầm con mắc phải, cũng như con từng thứ tha những người có lỗi đối với con.”
Tham dự Tiệc thánh, ta nguyện bắt chước Chúa, mà xem xét cung cách người người đang xử thế. Với nhau. Ở đây. Bây giờ. Không xét nét nỗi sầu buồn/đớn đau, thời dĩ vãng. Nhưng, học hỏi nơi Chúa, để có quan hệ bình thường, với mọi người. Làm thế, ta không những giải quyết được mọi bất hoà giữa ta với những người mình thù ghét. Làm thế, cuộc sống mọi người, cũng như ta, sẽ là cuộc sống tràn đầy bình an. Hài hoà. Đôi bên đều thắng lợi. An vui. Hoàn tất.
Trong tinh thần bắt chước Chúa đối xử tốt với mọi người, ta lại sẽ vui lên mà ca hát. Hát rằng:
“Tôi quyết từ nay yêu Chúa trong tình đằm thắm. Muốn để đền bù lại cõi đời bạc đen. (Hoài Đức/Nguyễn Khắc Xuyên-Cao Cung Lên)
Quyết yêu Chúa. Tình đằm thắm. Đền bù lại, cõi đời đen bạc. Không như “kẻ hoài nghi, đàn bỏ cuộc”. Mà như, người anh/người chị nơi Nước Trời ở trần gian, mình vẫn sống. Vui tươi. Hài hoà. Êm ấm. Suốt cuộc đời.
“Anh cho em mùa xuân bàn tay thơm sữa ngọt” dải đất liền chim hót,người yêu nhau trọn đời. mái nhà ai mới lợp,trẻ đùa vui nơi nơi.” (thơ Kim Tuấn)
Ga 23-35
Mùa xuân anh cho, có tay thơm mùi sữa. Xuân mùa Chúa tặng, vẫn trĩu nặng tình thương. Tình thương Chúa tặng, có hoa mầu khoe sắc thắm. Hân hoan cả một đời. Đời người rất hân hoan, nay được diễn tả ở trình thuật, theo thánh Gioan.
Trình thuật thánh Gioan hôm nay có Chúa tỏ bày một “cuộc sống mới”. Rất Phục Sinh. Sửa đổi thân mình,bằng nhiều cách. Có trời mới. Đất mới. Như đã viết ở sách Khải huyền. Tính tự “mới”, xuất hiện khá nhiều lần, ở bài đọc. Trong khi trình thuật của thánh Gioan nay ghi chú Lời Chúa, về giới lệnh rất mới. Vậy, “mới” ở đây, có nghĩa gì?
Cuộc sống mới trong Chúa. Có Chúa. Gồm tất cả những gì đã xảy đến với con người. Dù sớm muộn. Với bậc hiển thánh, cuộc sống mới chỉ xảy đến sau độ dài thời gian, khá nhiều ngày. Không thấy Chúa. Không gặp Chúa. Thánh Âu Tinh, Y Nhã, đều gặp gỡ Chúa, ở tâm linh. Thánh Têrêxa Hài Đồng, lại kết hợp cuộc sống có Chúa, ngay buổi sớm. Khi vừa đúng 24 tuổi. Còn chúng ta, vẫn luôn gặp gỡ Chúa, qua nhiều đợt sóng dâng trào nhiều trải nghiệm suốt nhiều chặng đường dài ở đời. Mỗi chặng, một kinh nghiệm. Một gặp gỡ. Có hiểu biết. Rất quyết tâm.
Cuộc sống mới, như trình thuật Chúa nói, đã qui về một “hồi hướng”. Có đổi thay. Xoay vòng. Người Hy Lạp gọi đó là metanoia. Tức, một thay đổi rất triệt để. Có thị kiến. Có đổi thay theo thứ tự ưu tiên, nơi cuộc đời. Tức, có động thái mới. Có giá trị cũng mới mẻ. Có tiêu chuẩn sống với Chúa. Với mọi người, lại rất mới.
Trình thuật, nay đưa ra một nền tảng giáo huấn, có chứa đựng thông điệp rất mới của Ngài. Thông điệp, không chỉ dạy ta tuân thủ 10 điều giới lệnh. Không chỉ nói về đời sống luân lý. Đạo đức, mà thôi. Thông điệp cũng chẳng bàn về sự sống thường xuyên chỉ lo mỗi chuyện xưng tội/rước lễ, mỗi một tuần. Cũng không phải chăng, để dạy ta biết dùng năng lực mình có, mà yêu Chúa.
Điều Ngài nhấn mạnh, là: hãy yêu thương hết mọi người, như Ngài hằng thương mến. Đó là giới lệnh rất mới. Cựu Ước từng dạy ta yêu Chúa hết lòng hết trí. Và cũng thương yêu người đồng loại, như chính mình. Đức Kitô thêm vào đó, một yếu tố mới, hầu xét nghiệm xem ta có là đồ đệ đích thực của Ngài không. Ta vẫn nhơ: lời vàng dẫn ta đến với tình thương yêu mà loài người thực hiện được, là: hãy sống hết mình vì người khác. Điều mới này, được xác chứng bằng việc Ngài từng chấp nhận khổ hình. Và nỗi chết. Và thực hiện sự sống lại hiển vinh để thương ta. Thương mình ta.
Mức độ tình yêu Ngài ban cho đời là để kêu mời mọi người hãy tìm ra cung cách mới, mà suy tư. Nhận thức. Để rồi, sẽ hành xử, trong tương tác, với người khác. Đó là xét nghiệm nhỏ để thử xem mức độ yêu thương ta dành cho Chúa, đạt đến mức độ nào. Vấn đề là: hãy tự kiểm điểm xem đó có là cung cách sống cuộc đời người tín hữu như ta vẫn thực hiện, hay không.
Là đồ đệ, ta không chỉ là cá nhân riêng lẻ, để mà sống. Nhưng còn là nhân vị luôn tương tác. Hỗ trợ. Là tín hữu, ta không chỉ được định danh là những người sống theo cung cách riêng rẽ. Sống có luân lý. Đạo đức mà thôi. Nhưng, còn sống theo cách tương tác/hỗ trợ mọi người. Bởi lẽ, người tín hữu mà lại sống rất riêng. Đơn độc. Xa cách. Là hành xử mâu thuẫn lại chức năng của mình. Bởi, lẽ cuộc sống của người Kitô hữu luôn được đo lường bằng mức độ tương tác. Với người khác. Tức, có tương quan đằm thắm, với mọi người.
Yêu thương – trìu mến, là cụm từ thường hay gây ngộ nhận. Nó bao hàm một tình huống có cảm xúc. Xót xa. Đậm đà. Như tình tự chiều chuộng. Gợi nhớ. Suy tưởng. Thương mến như thế, hẳn không là ý nghĩa mà thánh Gioan từng sử dụng. Ngài sử dụng cụm từ lòng mến theo nguyên ngữ tiếng Hy Lạp agapè, tức “lòng mến thương”. Dức khoát không mang dáng dấp trữ tình. Tức, tình tự giữa hai người nam nữ. Hoặc đồng tính. Vẫn hỗ tương.
Nói đúng hơn, cụm từ agapè hàm ngụ một động thái biết quan tâm đến người khác. Ưu tư săn sóc niềm vui sống của người khác. Chứ, không là tình cảm quay ngược về mình. Không cần biết “người khác” đó có đáp trả bằng ưu tư, rất tương tự. Hay không.
Đây là cung cách ta vẫn gặp thấy ở Đức Kitô. Tức, thái độ mà Chúa hiển thị với tội phạm. Kẻ sa đà. Người phạm lỗi. Đối với một số người, thật khó mà đề nghị: hãy thương mến những hung ác/dữ tợn, như: Hitler, Stalin, hoặc các tên sát nhân. Hiếp nguời. Cướp của, Điều đó, thật vô nghĩa. Nên, Đức Chúa chẳng trông mong gì ở ta, sẽ lập ra kịch bản giả tạo. Kệch cỡm. Khó tin.
Cách nào đó, có thể nói: thương hoặc mến Hitler, Stalin hoặc kẻ xấu bụng nào khác từng đem đến cho ta những tình huống khó xử. Khó chấp nhận. Tức những người, mà ta tin rằng đã làm ta khổ sở. Đớn đau. Khó sống. Hoặc, những người từng đối xử với ta theo cung cách không thể chấp nhận được. Nhưng, ta vẫn cứ “thương” và “mến” kẻ nghịch thù mình. Vẫn cứ nguyện cầu cho họ. Vẫn cầu Chúa chúc phúc họ. Để, họ có thể đổi thay cuộc sống, bằng cách nào đó, thích hợp hơn. Thích hợp, là phù hợp với cuộc sống tươi vui. An bình. Của chính mình.
Đó còn là lý do để ta có thể nói: đồ đệ Chúa thực ra chả có kẻ thù nào xứng danh là nghịch thù, thực sự. Đây là cách Chúa làm, khi Ngài nguyện cầu Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đã đóng đinh Ngài vào thập giá. Ngài không thương mến họ theo kiểu những người thân quen trong gia đình thương mến nhau. Nhưng, như những người đang cần sự soi sáng để có thể thực hiện điều tốt đẹp. Trong cuộc sống. Thực hiện, không để cho Chúa. Mà cho chính mình.
Khi quan tâm/chăm sóc cả những kẻ nghịch thù từng gây thương tổn cho Ngài, Chúa vẫn làm với ý nghĩa của “lòng mến” đậm sâu. Cả vào lúc Ngài chấp nhận cuộc khổ hình. Cùng cực. Và chết đi. Bài đọc 1., ở sách Công vụ, ta còn thấy một loại hình khác của lòng thương mến, nơi đồ đệ Chúa, như thánh Phaolô, Banaba. Hai thánh nhân từng kinh qua đủ mọi loại khó khăn/khổ ải, để thông điệp Chúa có thể đạt đến, với mọi người. Và người tín hữu Đức Kitô được hỗ trợ, hầu duy trì niềm tin nơi Chúa, cho đến cùng.
Một vấn đề đặt ra cho ta, mà hỏi rằng: là tín hữu, ta đã thực sự quan tâm/săn sóc người khác chưa? Người khác, là những kẻ đang có nhu cầu cấp bách nhất, dù cho có là cử chỉ yêu thương. Giùm giúp.Hay, ta vẫn chỉ lo lắng mỗi bản thân? Bạn bè? Cùng quyến thuộc, mà thôi? Guơng lành của Chúa, vẫn còn đó, chờ đợi ta. Chờ đợi, để ta biết mà san sẻ niềm tin. Tình thương yêu. Với hết mọi người. Càng nhiều càng tốt. Hãy cứ làm.
Bài đọc 2, sách Khải huyền mở ra cho ta ảnh hình về một sẻ san, rất đúng cách. Đúng cung cách, như Lời Chúa đã bộc lộ: nhờ biết san sẻ mà những người có tràn đầy “lòng mến” của Đức Chúa, đã có thể đi vào cuộc sống của mọi người. Bằng cách này, là: ngang qua những hỗ trợ/tương tác có lòng thương mến, đối với nhau. Nhờ đó, “trời mới”, “đất mới”. “Giêrusalem mới”, đã bắt đầu đi vào hiện thực. Đi vào, không phải ở thời tương lai. Mai hậu. Nơi nào đó. Nhưng, ở đây. Lúc này.
Thành thử, ngay bây giờ, việc ta cần làm, là: hãy dõi theo chân Chúa, Đấng có lòng mến tuôn trào với mọi người. Hãy dõi theo, để thực hiện cuộc đổi mới.
Trong quyết tâm thực hiện cuộc đổi mới, ta sẽ hát lên lời ca vang phấn khởi. Hát rằng:
“Tôi vẫn tin vào ngày mai, Là ngày tươi sáng đẹp trời. Tôi vẫn tin vào đổi thay, Tuy hôm nay, còn đây bao nhiêu nỗi đắng cay.” (Quốc Dũng – Tôi Vẫn Tin Một Ngày Mai)
Tin vào ngày mai, hay hôm nay, vẫn còn đó Lời Chúa. Lời bày tỏ, cho muôn người. Có “Mùa Xuân anh cho.” Có “bàn tay thơm, sữa ngọt.” Có “đất liền chim hót”. Người người yêu nhau. Suốt một đời.
“Hoa và trái, một đêm nào thức dậy” Nghe mộng đời xao xuyến, giấc xuân xanh. Con đường đó, một đêm nào trở lại, Cùng gió, mưa phùn trên cánh tay.” (thơ Trần Dạ Từ)
Ga 20: 1-18
Hoa trái, mới thức dậy đây thôi. Mà sao nhà thơ vội cảm kích. Cảm kích, để nghe lòng xao xuyến, giấc mộng lành. Đức Chúa, nay đà sống lại. Hẳn, người người vui mừng, sẽ nhiều năm?
Trình thuật hôm nay, nói lên tình tự dân con nhà Đạo, rất vui sống. Sống, niềm tin sâu xa, bắt rễ thực sự vào ý nghĩa, của Phục Sinh. Như thánh Phaolô quả quyết: “Nếu Chúa không sống lại, thì niềm tin của ta, ra hư luống.” Thực tế thấy cũng buồn, vì nhiều người vẫn cứ coi Thứ Sáu Thánh và nỗi chết của Chúa, làm chóp đỉnh của Tuần Lễ Thánh. Cũng may là, động thái ấy nay đã đổi. Và, càng ngày càng có nhiều người đặt trọng tâm Tam Nhật Thánh rất đúng vào Phụng vụ Lễ Vọng Phục Sinh, thôi.
Có người, còn diễn tả: không thấy Thân Mình Ngài trên thập giá, tức là Ngài đã dâng tặng hết cho Cha. Không còn trên đó, tức là Ngài đã về với vinh quang, có Cha Ngài. Về, để bỏ lại đằng sau ơn cứu độ, mở cho dân con ở lại. Không như thế, thì hành trình Ngài đi qua, chỉ uổng công.
Về Phục Sinh, đồ đệ Chúa ban đầu quá hãi sợ bọn họ gán ghép mình đồng phạm với Đức Chúa. Nhưng, các thánh đã biết trở về mà công bố Thầy mình đã sống lại. Ngài vẫn sống và ở với anh em, đến tận thế. Khi bị bắt bớ, giam giữ, hành hình, các thánh vẫn trở thành lý do cho niềm vui sống. Sống gắn liền với Thầy mình. Sống, san sẻ nỗi khổ của Thầy. Để rồi, tiến lên trong vinh quang.
Phục Sinh, không chỉ liên quan mỗi việc Chúa sống lại khiến đồ đệ kinh ngạc, thôi: nhưng còn mang nặng ý nghĩa cuộc sống, của mỗi người. Sống tin – yêu. Sống, chứng tỏ môt đổi thay tận gốc rễ. Sống cuộc sống có Phục Sinh, là lời mời gọi mọi người hãy đổi thay rất triệt để. Đổi thay căn bản, như đồ để Chúa đã thay đổi, tận thâm căn. Đổi và thay, không chỉ ở niềm tin, nơi tâm thức, nhưng bằng hành động đúng những điều mình đã tin. Đổi và thay, là công bố Phục Sinh bằng chính cuộc sống, của riêng mình.
Chủ đề hôm nay gồm việc công bố lẫn làm chứng: Chúa đã Sống Lại. Bài đọc 1, kể lại việc thánh Phêrô rửa tội cho gia đình Cornêlius, người ngoài cuộc đầu tiên đã hồi hướng trở về. Bằng vào việc đó, đã chứng tỏ: cộng đoàn tiên khởi đã biết san sẻ kinh nghiệm sống lại của các thánh, với mọi người. Thêm nữa, điều quan trọng là: tương quan ta có với Chúa được diễn tả bằng kinh nghiệm sống, có tuyên xưng: Chúa sống lại thật. Với kinh nghiệm từng trải, các thánh đã xác nhận Thầy mình tuy Ngài đã chết, nhưng đã sống lại thật. Niềm vui sống lại, nay râm ran lan truyền hết mọi người.
Bài đọc 2, cũng nêu lên một đề luận, hệt như thế. Thánh Phaolô vốn là nhà Biệt Phái triệt để vẫn muốn Đạo Chúa vẹn toàn. Thánh nhân đã cương quyết chỉnh sửa tín hữu nào bị coi như sống sai trệch Lề luật và Truyền thống, người Do Thái. Mãi đến khi, thánh nhân được Chúa Phục Sinh cho hiển thị, ngay trên đường tìm kiếm bách hại người tín hữu trên đường đi Đa-mát, mới hồi tâm.
Và từ đó, thánh nhân đã đổi thay, toàn bộc cuộc sống, của riêng ngài. Đồng thời, thánh nhân dùng nghị lực sẵn có, như khi tìm bắt dân con của Thầy, ngõ hầu giúp đỡ cả dân con người Do thái lẫn thần dân sống ở ngoài, biết được Chúa đã Phục Sinh. Vì mình. Để, người người biết thương yêu. Theo Chúa.
Tin Mừng, cho thấy thêm một kinh nghiệm về mộ phần trống vắng. Dấu hiệu chứng tỏ Chúa đã Phục Sinh. Maria Magđala thoạt đầu là người thấy đá tảng, bị lật người. Chị đi báo cho đồ đệ Chúa biết, để xứ trí. Kế đến, là thánh Gioan, người được Chúa dấu yêu, cũng vội cùng thánh Phêrô chạy đến mộ phần, để chứng kiến. Và, cả hai đều đã thấy. Đã hiểu. Và, đã tin. Tin rằng, Thầy trỗi dậy từ nỗi chết.
Và từ đó, cộng đoàn các thánh đã ra đi công bố việc Chúa chịu thống khổ, đến nỗi chết. Nhưng, Ngài đã sống lại thật. Như nói trước, ở Cựu Ước. Điều thêm nữa, là hiểu rằng: Đức Chúa đã Phục Sinh, tức có nghĩa là: Ngài không chỉ hồi phục mỗi Thân Mình đã chết, trên thập giá. Dù, ta không THẤY tận mắt cuộc Phục Sinh, như một sự kiện lịch sử. Nhưng vẫn TIN. Tin, vì đó là sự kiện niềm tin. Nói cách khác, đóng đinh Chúa hoặc nỗi niềm Thương Khó của Chúa là sự kiện lịch sử, trong khi đó, Phục Sinh là sự kiện rất niềm tin.
Chúa Phục Sinh, nay đi vào cuộc sống, rất mới. Ngài hiện diện bất cứ nơi nào đồ đệ có mặt. Và, Thân Mình Ngài trở nên hoàn toàn mới mẻ. Không còn hình hài, xác thịt nữa. Nhưng, thể hiện nơi Cộng đoàn dân con/đồ đệ, là chúng ta. Và từ đó, ta trở thành Thân Mình rất thánh, của Đức Chúa.
Phần sau trình thuật, thánh Phêrô và người đồ đệ được Thầy mến thương, đã về để kể những điều mình cảm nghiệm. Kể, để bầu bạn/dân con các thánh nghe mà biết. Kể rằng, duy có Maria Magđala, người nữ phụ từng phạm lỗi khi trước, đã tụt lại đằng sau. Là, mang nặng nỗi buồn đau, vì chính mình mục kích thấy Thầy đã chết, ngay trước mắt. Nhưng nay, Mình Thầy lại mất đi, không còn tang tích. Nhưng, thoạt lúc chị quay lại nhìn, thì Thầy mình đã có đó.
Kinh nghiệm về Chúa Phục Sinh, không là kinh nghiệm xác thịt, tai nghe mắt thấy. Bởi, Chúa Phục Sinh nay mang sắc thái người bình thường. Hình thù Ngài, giống mọi người. Thế nên, khi Maria Magđala chợt thấy Thầy, chị cứ ngỡ là người làm “vườn”. Kinh thánh, lập đi lập lại nhiều lần về chữ “vườn”. Đức Giêsu được chôn trong “vườn”. Vườn ở đây, là nơi tiên tổ loài người vấp phạm. Ơn cứu độ, cũng khởi sự từ nơi “vườn”. Nói chung, “vườn” là ý chỉ nơi Chúa thực hiện ơn cứu rỗi.
Đằng khác, Đức Giêsu tỏ lộ hình hài đã đổi mới của Ngài, bằng cách gọi đích danh tên mỗi người. Trường hợp Maria Magđala, là chứng cứ điển hình. Ngài gọi tên, chị quay lại. Và nhận ra Ngài. Tin Mừng thánh Gioan, cũng có viết: “Người mở cổng cho chiên đàn đi. Chiên con nghe Ngài gọi tên. Và Ngài dẫn chúng đi. Dẫn dắt chiên, Ngài luôn đi trước, chiên theo sau. Chúng nghe biết tiếng Ngài. Chúng không theo ai khác. Và, không chạy xa Ngài. Vì biết giọng Ngài.”
Tiệc thánh Phục Sinh nhắc nhớ ta về sứ vụ được uỷ thác cho thánh Phêrô, chị Maria Magđala và các môn đệ. Bài đọc 1, thánh Phêrô lập lại sứ vụ Chúa đã trao cho ông làm nhân chứng: “Chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với người, sau khi Người từ cõi chết sống lại.” (Cv 10: 41) .
Phải chăng: mỗi lần tham dự tiệc Thánh, chúng ta đều cùng ăn cùng uống với Đức Kitô Phục Sinh? Nếu như thế, đâu là thông điệp Ngài gửi đến, cho ta? Phải chăng ta nhận lãnh trách nhiệm làm nhân chứng cho Chúa Phục Sinh, chỉ bằng mỗi việc tham dự thánh lể ngày Chủ nhật, vậy thôi sao?
Thật sự, Lời Chúa ngang qua quả quyết của thánh Phêrô vẫn còn đó: “Người truyền cho chúng tôi phải rao giảng cho dân, và long trọng làm chứng rằng chính người là Đấng Thiên Chúa đặt làm thẩm phán, để xét sử kẻ sống và kẻ chết. Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ Dang người mà được ơn tha tội.” (Cv 10: 42-43). Chính đó, là sứ vụ, của chúng ta.
Theo ngôn ngữ đời thường hôm nay, thì: thánh Phêrô muốn bảo rằng: Đức Giêsu và đường lối mà Ngài đề nghị là tiêu chuẩn qua đó mọi người được đo lường, không theo tư cách một Kitô hữu, nhưng qua tư cách của người thường. Phó thác trọn vẹn vào Con Đường của Chúa, Đường Sự Thật và Sự Sống, là thực hiện một hoà giải đậm sâu với Chúa. Với các người anh/người chị, của chúng ta. Là, đem tự do. Công bằng. Và, bình an đến với thế giới. Là, chuẩn bị chính mình cho ngày đó. Ngày mà, tất cả trở nên một trong Đấng Cứu Độ. Ngài là Cha của Sự Thật. Của tình thương. Nhân Hậu.
Trong hiểu biết như thế, ta cùng nhau hát lên lời ca yêu đương phấn khởi của Sự Sống mới:
“Hy vọng thơm như má chớm đào, Anh chờ em tới hẹn chiêm bao. Dưới hoa, tưởng thấy ngàn sao rụng, Hoà lệ ân tình, nuôi khát khao.” (Phạm Đình Chương-Mộng Dưới Hoa)
Lệ ân tình, chan chứa lắm. Hy vọng thơm, khát khao thay. Tình ân – hy vọng, vẫn là thông điệp Ngài gửi đến cho tôi. Cho anh. Cho chị. Suốt cuộc đời.
“Nhánh cây tình, trổ nhiều lá mới” Lá vẫn phơi sầu, trên nắng hanh. Một thuở nào xa, anh đã tới, Rồi cũng vô tình, như lá xanh.” (thơ Hoàng Hương Trang)
Ga 20: 19-31
Cây tình ngoài đời, trổ lá mới. Người Tình trong Đạo, hồn vẫn xanh. Hồn xanh cây tình, người nhà Đạo, nay đón Chúa Phục Sinh. Có người còn sợ. Có kẻ chưa tin.
Mừng đón Chúa Phục Sinh, người người nay xử khác. Khác, như sách Công vụ Tông đồ, đã viết: “Người ta còn khiêng cả những người đau ốm ra tận đuờng phố đặt trên giường, trên chõng; để khi ông Phêrô đi qua, ít ra cái bóng của ông cũng phủ lên được một bệnh nhân nào đó.” (Cv 5: 15)
Trong cùng khí thế chào đón Chúa Sống Lại, các thánh còn kể:“Nhiều người, từ các thành chung quanh Giêrusalem, cũng lũ lượt kéo đến, đem theo những kẻ ốm đau cùng những người bị thần ô uế ám, và tất cả đều được chữa lành.” (Cv 5: 16).
Được chữa lành, họ mời gọi mọi người tung hô Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ. Nhưng không phải tất cả mọi người đều làm như thế. Bài đọc 1, diễn tả một tình huống khác, ngay ở đầu: “Không một ai dám nhập đoàn với họ. Nhưng dân thì ca tụng.”(Cv 5: 13) Điều này cho thấy, Hội thánh thời tiên khởi đã bị nhóm cầm quyền Đạo/đời rất nghi kỵ. Dè chừng. Trong khi dân con Chúa, lại tận tình chiêm ngưỡng.
Trình thuật thánh Gioan, nay đưa ta về với thời đầu, ở đó các thánh vẫn ngại ngần. Vẫn hãi sợ người Do Thái truy bắt. Sợ giới cầm quyền lùng tìm đồng phạm có mưu đồ lật đổ. Và, trong thoáng chốc, Thầy Chí Ái đã hiện diện giữa các ngài, với lời chúc: “Bình an cho anh em!”
“Bình an”, là một chúc phúc, vang vọng một lời mừng mà mọi người Do Thái vẫn gửi đến cho nhau, qua câu chào hỏi, rất “shalom”. Chúc phúc đây, là sự thể “Được Chúa ở cùng.” “Được sự bình an đậm sâu” Chúa đã làm. Như Ngài từng làm, khi cuồng phong dậy sóng, ở Biển Hồ. Xứ Galilê.
“Các môn đệ mừng, được thấy Chúa”, là niềm vui an bình, được có Chúa. Danh xưng Chúa được thánh Gioan lần đầu sử dụng, để nói lên việc Đức Giêsu Phục Sinh. Là, chính Chúa. Mừng Chúa Phục Sinh, không chỉ quây quần ngày tái ngộ; mà còn thể hiện công tác được Chúa khởi sự và trao ban: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.”(Ga 20: 21) Mừng Chúa Phục Sinh sai đi, còn bao hàm công tác thừa sai/mục vụ, mà mọi dân con theo Chúa, nay nhận lãnh. Chấp hành.
“Người thổi hơi vào các ông, và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Với thánh Gioan, đây là kinh nghiệm từng trải về Hiện Xuống, với môn đồ. Với thánh Luca, lễ Hiện Xuống/Ngũ Tuần chỉ xảy đến, vào 50 ngày sau Phục Sinh. Hai trình thuật, tuy có khác. Nhưng, vẫn mang nặng cùng ý nghĩa.
“Người thổi hơi” vang vọng câu truyện Sáng tạo trời đất. Vũ trụ. Con người. Ở thời đó, Thiên Chúa cũng “thổi hơi” thiết dựng con người theo ảnh hình của Ngài. Thổi hơi, nay đi vào hiện thực. Tức là, Ngài thực hiện cùng một động tác “trao ban” Thần Khí của Đường. Sự thật. Và, Sự Sống. Trao và ban, để rồi Ngài biến tất cả thành bản thể mới, tràn đầy Thần Khí của Cha. Và, Đức Kitô.
“Người thổi hơi”, là Ngài trao quyền uy sức mạnh của Ngài cho các thánh. Như Ngài từng căn dặn: “Anh em tha tội cho ai, người ấy được tha.” Nghĩa là, khi các thánh hành động nhân Đức Giêsu, các ngài đều có chung một thẩm quyền, rất như thế. Trước hết và trên hết, công tác của các thánh sẽ là: “tha thứ”. Tức, công việc hoà giải/hoà hợp con dân với Chúa. Với nhau. Tha, để tất cả nên một. Với Ngài. Và, trong Ngài.
Tha thứ, không chỉ là động thái mang tính pháp lý. Mà còn là một xác tín. Xác tín rằng: tội và lỗi không còn chế ngự một ai. Tha tội và thứ lỗi, là chữa lành mọi khuyết tật gây cách chia dân con, khỏi Đức Chúa. Cách và chia người người, với nhau. Chữa lành mọi tật, để rồi tất cả sẽ lại trở thành người anh/người chị trong gia đình. Gia đình mới, đặt căn bản trên sự thật. Tình yêu. Công lý. Đó, là công việc của Nước Trời. Đó, là động thái của mọi thành viên trong Cộng đoàn dân Chúa, ở trần thế.
Tuy nhiên, câu chuyện nay không ngừng ở đó. Đã có vấn đề của “Tôma”, một thành viên trong Nhóm Mười Hai. Ông không có mặt vào lễ Vượt Qua, Chúa Sống Lại. Chuyện thánh Tôma, tỏ lộ tính nghi ngờ. Là, chuyện xảy đến với mọi người. “Nếu tôi không thấy dấu đinh… sẽ chẳng tin”. Đây, cũng là thói quen ở đời thưòng, của mọi người. Thói quen, đời thường phải có chứng cớ. Để thuyết phục. Trước tất cả các sự kiện trong đời. Của mọi người.
“Tám ngày sau, có ông Tôma ở đó … các cửa đều đóng kín.” Cửa đóng kín, không là dấu hiệu cho thấy các thánh, vẫn còn sợ. Nhưng tỏ rõ: Chúa đã hiện diện. Lại nữa, Chúa còn chúc “bình an” cho các thánh. Ngài trực tiếp nói với đồ đệ “cứng lòng tin” Tôma: ”Hãy đem ngón tay ngươi đặt đây, này tay Thầy…Đừng ở như người cứng tin. Mà như người thành tín.” (Ga 20: 27)
Tiếp theo đó, là lời tuyên tín của toàn bộ Tin Mừng theo thánh Gioan: “Lạy Chúa tôi, và là Thiên Chúa của tôi.” Thánh Tôma được Chúa mời hãy sờ chạm vết thương, của Ngài. Nhưng chừng như ông không làm việc ấy, bằng tay chân. Mà chỉ xác chứng niềm tin của mình, không dựa trên chứng cớ của cảm xúc. Ông không nói: Lạy Thầy. Chính là Thầy, đây rồi”. Nhưng nói: “Lạy Chúa tôi, và là Thiên Chúa của tôi.” Đây là hành động có niềm tin thực thụ. Tin vào Đấng đang ở trước mặt mình. Đó là điều mà thánh Tôma có thể không thấy bằng cặp mắt thịt của ông. Nhưng, lại thấy bằng cặp mắt của niềm tin. Chính vì thế, ông mới nói lên. Như thế.
“Phúc thay những người không thấy mà tin”(Ga 20: 31), là câu nói đầy phấn kích, để nhắn gửi những ai không có được diễm phúc “thấy” bằng niềm tin như thánh Tôma. Đành rằng, tin vào Đức Kitô, bao gồm một số yếu tố “Thấy”. “Nhìn”. Và, “Nhận thức”. Diễm phúc này, dành cho những ai không thấy và không biết Đức Giêsu trong đời công khai phục vụ, của Ngài. Trước ngày Chúa chết. Trên thập giá.
Lại nữa, niềm tin giúp ta “thấy” Chúa nơi môi trường, ta đang sống. Đặc biệt hơn, nơi những người dẫy đầy/ngập tràn Thần Khí Chúa. Nơi, những người đem Chúa vào cuộc sống. Của chúng ta. Nơi những người, thấy được Ngài qua kẻ ốm đau. Tật bệnh. Nghèo hèn. Những người đang bị áp bức. Ở quanh ta. Những người, mang đến cho ta cơ hội ngàn vàng để biết. Để yêu. Và, minh chứng lòng vị tha. Ta có với Chúa.
Thấy được Ngài, là thấy Ngài hiện diện nơi thù địch của ta. Nơi, những người quyết hại ta. Hại, theo nghĩa: ta đang gặp thách thức trở thành Kitô-khác. Đối với họ. Thách và thức, để xem ta có dám thực hiện tình thương yêu vô điều kiện. Có, quan tâm săn sóc, hết mọi người, không.
Thấy được Chúa trong đời mình, là nhận ra rằng: Ngài đang đến với ta. Qua, tất cả mọi sự. Thấy được Ngài, là: ta tỏ ra rằng mình sẵn sàng tạo cơ hội đem Chúa đến với mọi người. Mọi ngày. Trước hết và trên hết, là tự hỏi: mình đã sẵn sàng nhận bài sai Chúa gửi, theo tư cách đồ đệ của Ngài, không? Tự hỏi và tự nhủ: phải trở thành người hoà giải/hoà hợp. Tác tạo bình an. Phá đổ mọi rào chắn của ghét ghen. Hờn giận. Thành kiến. Hãi sợ.
Muốn làm thế, ta phải quyết sống trọn vẹn, đời yêu thương. Giùm giúp. Xót thương. Sống công bằng. Với mọi người. Làm được thế, mới đúng ý nghĩa mừng Phục Sinh, cho phải lẽ. Có làm thế, Chúa mới sống thực nơi ta. Và, trong ta.
Trong quyết tâm như thế, ta hãy cất lên lời ca yêu thương thuở nào, nay cứ hát. Hát rằng:
“Ngồi kề bên nhau cất tiếng ca, say tình chan hoà, Ngàn mây xanh cùng sống ngút ngàn xa, Đời thắm tươi như ngàn hoa, Nắng say say như vang tiếng cười… thiết tha yêu đời.” (Trường Kỳ – Tình Yêu Trong Đời)
Thiết tha yêu đời. Và yêu người. Vì có Chúa hiện diện, ở trong đó. Vì người người đều phải là và sẽ là Kitô-Khác. Rất yêu thương. Yêu, như “cây tình trổ lá mới”. Vẫn rất xanh.
“Tình con tinh khiết” Như màn sương đêm. Xin cho trọn kiếp, được sống êm đềm.” (thơ Đào Tiến)
Ga 21: 1-19
Đức tinh khiết, còn là tình người trong cuộc. Vẫn cứ yêu. Màn sương đêm, vẫn là tình đời muôn kiếp. Trọn lòng mến. Rất êm đềm. Của đồ đệ. Như trình thuật được kể, rất hôm nay.
Trình thuật kể, là kể về sự kiện Chúa muốn biết tâm tình người đồ đệ. Về, tương quan ta có, với mọi người. Chúa hỏi, là hỏi ta có dịp xác chứng niềm tin nơi Ngài, trước sau như một. Về tính gan dạ. Dám nhận mình là con dân, của Đức Chúa. Là đồ đệ, ta không chỉ gắng sống hiền lành. Đôn hậu. Hoặc, thánh thiện. Là đã đủ. Nhưng, còn phải tự chấp nhận mọi chịu khó. Còn, làm những việc rất khó chịu. Rất khổ đau. Có như thế, mới có khả năng sẻ san vinh quang, của Ngài nữa.
Trình thuật hôm nay cho thấy: Chúa tỏ bày lòng Ngài cho đồ đệ. Khi các thánh nay quay về chốn cũ. Về, với ngành nghề ở Galilê. Với đánh lưới. Rất kinh nghiệm. Nhưng, lần này các thánh gặp ngay thất bại. Bởi lẽ, chẳng một ai nhớ lời Thầy từng nói: “Không Thầy, chẳng ai thành đạt được chuyện gì.” (Ga 1: 3) Như người lạ, Thầy đến với đồ đệ, rồi nói: “Anh em, có gì ăn không?” Chợt khi nghe Thầy nhủ khuyên: “Hãy ra khơi bủa lưới!” các thánh mới thu lượm được kết quả bất ngờ: tôm cá nhiều đến độ “lưới chịu không nổi”. Và khi đồ-đệ-được-Thầy-thương, mới nói: “Chúa đó!” (Ga 21: 7)
Thông thường, khi Tin Mừng viết về đồ-đệ-được-Chúa-thương-yêu là chỉ về thánh Gioan Tông đồ. Nhưng, trong bối cảnh Phục Sinh, cụm từ “đồ-đệ-được-Chúa-đoái-thương”, có ý chỉ về bất cứ người nào có tương quan mật thiết với Chúa. Trình thuật hôm nay nói “ghe thuyền” của các thánh, là có ý ám chỉ về cộng đoàn Hội thánh. Của Chúa. Và, đồ-đệ-được-Chúa-đoái-thương, chính là những ai gần cận với Ngài. Những người nhận ra được sự hiện diện của Chúa, nơi anh em.
Nhận ra Chúa, đồ-đệ-được-Chúa-đoái thương chợt thấy mình thật bất xứng. Qua phục sức. Thánh nhân bèn nhảy ùm xuống nước. Ẩn trốn. Vì mình mảy trần trụi. Cuối cùng thì, đồ đệ Chúa: người thì đưa thuyền vào bờ, mà nhặt cá. Kẻ, thì phát giác rằng: chính Người-Xa-Lạ-là-Thầy đã dọn bữa, có “than đỏ với cá nướng, đặt ở trên. Cả bánh nữa.” Và Thầy tiếp tục: “Đem lại đây, ít con cá các anh vừa bắt được.” (Ga 21: 10)
“Hãy đến mà lót dạ”, là lời mô tả về cảnh tình của Tiệc Thánh. Có Thầy hiện diện. Có Lời Chúa. Có đồ đệ nghe Thầy. Và đồ đệ, nay biết san sẻ những gì mình có. Vẫn đồng bàn, cùng lĩnh nhận ân sủng theo cung cách hiệp nhất. Cung cách rất tiên khởi. Ấm tình đồng đội.
Và, thánh sử lại đã ghi: “Không ai trong nhóm môn đệ dám hỏi ‘Ông là ai?’vì biết chắc chính là Ngài”. Đấy là khẳng định nói lên điều chính yếu, ta cần biết: Chúa đã Sống Lại thật. Ngài không còn mang hình hài xưa/cũ, như người người vẫn tưởng. Thầy Chí Thánh, nay mang hình hài đổi mới, giống mọi người . Hình hài của Chúa, chính là những người có lòng tin, biết Ngài hiện diện nơi người khác. Nơi những người, có diện mạo khác nhau. Khác xuất xứ. Khác cả lòng Đạo. Lẫn trạng huống.
Đồ đệ xưa, rày đã đến. Nên, mới nhận ra Ngài. Nhận ra hình hài của Ngài, không do đặc sủng Ngài ban tặng. Mà, qua tình huống của đời thường. Có như thế, ta mới cùng với thánh sử, cất lên lời ngợi ca Đấng Tạo Hoá ở bài đọc 2: “Tôi nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dười đất. Trong lòng đất. Ngoài biển khơi. Vạn vật ở nơi đó, đều đã tung hô: Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng, cùng danh dự. Vinh quang. Và quyền năng. Đến muôn thuở muôn đời.” (Kh 5: 13)
Là đồ-đệ-được-Chúa-thương thoạt nhận ra Thầy, qua bóng hình của “người lạ”, ta cũng được Chúa chỉ đích danh, để nhận biết. Và khi ấy, ta sẽ giúp mọi người nhận ra rằng: Chúa hiện diện với mọi người. Vào mọi tình huống. Ở đời thường. Có như thế, ta mới có thể giải thoát được tất cả. Có như thế, khuôn phép rao truyền Lời Chúa, mới đúng nghĩa. Mới được người người tra tay thực hiện.
Điều cần làm ngay sau đó, là: không chỉ nhận ra Chúa hiện diện nơi ta. Nhưng, là: biến sự hiện diện của Chúa trở thành một thực tại sống động. Cho mọi người. Sống quanh ta. Đồ đệ Chúa, không chỉ đòi ở phòng trên, để vui hưởng tình huống Chúa sống lại. Với bạn bè. Mà, về lại với cảnh sống cũ. Với thuyền. Với lưới. Cho riêng mình.
Và sau đó, đã thấy xảy đến một cảnh trí rất đặc biệt trong quan hệ giữa Chúa và thánh Phêrô. Tức, người đồ đệ luôn gần gũi Chúa. Và cũng xảy đến, một mặt là: sự hoà giải/hoà hợp giữa Đức Chúa và thánh Phêrô, sau khổ nạn. Mặc dù, thánh nhân đã quả quyết lòng trung trực phận mình vẫn có, với Chúa. Có, từ buổi Tạ Từ. Có đó, nhưng vẫn cả gan chối bay chối biến, những ba lần. Chối ở đây, là: ly khai khỏi liên hệ với Đức Kitô, có từ trước. Để rồi từ nay, bằng vào cung cách nhẹ nhàng nhất, Đức Chúa Phục Sinh, lại hỏi thêm: “Này anh Simôn, con ông Gioan, anh vẫn mến Thầy hơn các anh em này, đấy chứ?” (Ga 21: 15)
Và thánh nhân, nay học được bài học hôm trước. Và, nỗi niềm hiên ngang tự hào thời buổi trước, đã chấm hết. Và, thánh nhân đâu còn cao ngạo niềm tự hào dám so sánh mình, với đồng nghiệp. Ngược lại, ông chỉ nói cho riêng Thầy vừa đủ nghe: “Thưa Thầy có. Thầy biết con yêu mến Thầy.” (Ga 21: 15) Nói đến ba lần, là cung cách đếm số tương đương với những lần mình từng thoái thác, một quả quyết. Ba lần nhức nhối ấy, thánh nhân đành kết thúc bằng câu nói: “Thưa thầy, Thầy biết rõ mọi sự. Thầy biết con yêu mến Thầy.” (Ga 21: 17)
Sự thật, quả là thế. Sự thật làm quặn đau lòng chân thật. Nay đã rõ. Rõ, về những thoái thác và chối bỏ nay mang ý nghĩa một quay đầu. Bỏ đi. Không quay về. Lỗi lầm của Giuđa, là bằng chứng cụ thể nhất. Tuy nhiên, lỗi lầm đây, chỉ là thoáng chốc của yếu đuối. Tuyệt nhiên, không mang ý nghĩa của việc quay đầu, mà bỏ đi. Và, việc hối cải nơi toà cáo giải, cũng là chứng cứ về sự thật này.
Thực tế, có những đối thoại mang nhiều ý nghĩa hơn chỉ một thoáng chốc, rất hoà giải. Đó là, tiếp sức/trao cho nhau, một uỷ thác. Sứ vụ. Ấy đó, là sứ vụ Cha uỷ thác. Cho Ngài. Ấy nay, Ngài truyền cho Phêrô và các thánh, một câu nói: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy!”(Ga 21: 17). Đây, còn là trách vụ của Hội thánh. Trách vụ, đặt lên vai mọi người. Trách vụ ấy, Ngài không chỉ uỷ thác cho Giám mục. Linh mục. Tu sĩ thôi. Mà, tất cả. Từ cha mẹ. Thầy cô. Cho chí anh em. Chị em.
Đồ đệ Chúa, nay có trọng trách quay về lại Giêrusalem để khởi sự một rao truyền. Rao truyền, về sự sống. Của Chúa. Về Lời Ngài. Về hoạt động, khổ đau. Cũng như nỗi chết. Và sự sống lại của Chúa. Như đã được ghi ở bài đọc 1, sách Công Vụ. Nói, là nói về niềm vui các thánh lãnh nhận. Nói, là nói về ý nghĩa mới, trong cuộc sống. Của các thánh. Được thế, là do các thánh đã gặp Chúa. Đã biết sẻ san niềm vui mừng nhận ra Chúa. Nơi mọi người.
Tuy nhiên, có loại thông điệp mà không phải ai cũng muốn nghe. Đó, là cảnh báo về những lạm dụng quyền lực, sống chệch khỏi sứ vụ được uỷ thác. Hoặc, sống máy móc. Cứng ngắc. Hoặc các lực cản, từ giới lĩnh đạo ngoài đời. Trong Đạo. Buộc các thánh phải ngưng những gì mình đang thực hiện. Tuy nhiên, các thánh vẫn không làm thế. Bởi lẽ, động lực thúc đầy và dẫn dắt các ngài, đâu phải do tự quyền bính. Thế gian. Nhưng, do quyền uy của Chúa. Tức, do Tình yêu và Sự thật. Dù gì đi nữa, các ngài vẫn nhất quyết rao truyền Sự Thật ấy. Không ngừng nghỉ.
Là đồ đệ đích thực của Chúa, ta cũng có trọng trách rao truyền niềm tin. Và, cũng gặp nghịch cảnh, như các thánh. Không chỉ xảy vào thời truớc. Nhưng, bây giờ. Từng ngàn và từng vạn người anh/người chị của ta, cũng đang bị thử thách. Bách hại. Bị ghét bỏ. Khi rao truyền Tình yêu và Sự thật, của Đức Chúa. Các vị vẫn không sờn lòng. Nhờ thế mà, Tin Mừng Tình yêu và Sự thật, vẫn lan truyền. Vẫn sống động.
Trong tinh thần bất khuất trước khó khăn, ta sẽ cùng các thánh cứ vui lên mà hát mãi:
“Ha ha! Kinh thành vụt sáng. Ha ha! Kinh thành ầm vang. Ha ha! Kinh thành người đen lầu vàng. Ha ha! Kinh thành mạch máu. Ha ha! Kinh thành cần lao. Ha ha! Kinh thành mộng bền đêm sao.” (Phạm Duy Nhượng – Chiều Đô Thị)
Kinh thành của Chúa, nay vụt sáng. Vì, mọi người nay xây dựng mộng bền. Đêm sao. Với cần lao. Mạch máu. Để rao truyền Sự Thật và Tình Yêu. Của Đức Chúa.
“Chỉ mùi hương đầm ấm thanh tao” Không giấu được cứ bay dịu nhẹ cô gái như chùm hoa lặng lẽ nhờ hương thơm nói hộ tình yêu.” (thơ Phan Thị Thanh Nhàn)
Ga 10: 27-30
Hương thơm xưa, là mùi hoa lặng lẽ. Của cô bé. Mùi thơm nay, là những mê say. Của mọi người. Những người theo bước chân êm đềm, Của Mục Tử. Cùng chiên đàn, lặng lẽ. Vấn vương. Hương thơm của trình thuật, mãi hôm nay.
Trình thuật nay, thánh Gioan viết về tình tự của mục tử lẫn chiên đàn. Rất đầm ấm. Đầm và ấm, tình thân thương tương quan ta vẫn có. Với Chúa. Với Hội thánh. Ở mọi thời.
Ảnh hình về Mục Tử nhân hiền thời xưa/cũ, vẫn không nên hiểu theo nghĩa chữ, rất đen. Như ảnh hình của thú đàn, thoạt nhìn thấy ngây ngô/ngộ nghĩnh. Dễ hoảng sợ. Ảnh hình của chiên đàn trong Kinh Sách, là ảnh có điểm “nhấn” về Người Mục Tử rất chuyên chăm. Đi trước. Luôn săn sóc đàn con nhỏ. Chiên đàn và Chủ Chăn, vẫn nhận biết lẫn nhau. Tin tưởng nhau.
Tin Mừng còn nói rõ: dân con từng đàn và từng đàn được Cha uỷ thác giao cho Chúa. Vì, Ngài là Đường. Là, Sự Sống. Là, Sự thật. Chỉ mình Ngài, mới chăm nom dẫn dắt đàn con về với cội nguồn của Sự thật. Và sự Sống. Là, chính Chúa.
Là dân con, chiên đàn vẫn nghe/vẫn biết chất giọng của Vị Mục Tử chân chính. Đức Chúa của Sự Thật. Chiên đàn chỉ theo Ngài. Không theo ai. Trong sống đời làm chiên con của Chúa, người tín hữu vẫn nhận biết chất giọng của Đấng Bậc chăn dắt mình. Bằng nhiều cách. Thông thường, bẵng giọng nói của những ai đến với mình. Trong đời. Nếu không nhận ra, hẳn là dân con người mình sẽ như chiên lạc. Mất định hướng. Mất tất cả. Không còn thấy Chúa, để đi theo.
Mục tử Hội thánh, nay đang ở vào tình trạng mất thăng bằng. Trầm trọng. Châu Á, châu Phi nay dẫy đầy, nhiều con số các mục tử hăng say. Nhân hiền. Ở nơi khác, lại thiếu hụt đến độ đáng báo động. Châu Mỹ La tinh hiện có số Mục tử đang sa sút. Thảm hại. Nhiều nơi trên thế giới, giáo dân không còn cơ hội tham dự Tiệc Thánh, bẵng nhiều ngày. Thiếu hụt đến độ người người cứ tưởng thế đó là ý Chúa. Vậy, phải giải quyết sao cho hiệu quả? Nên chăng, thẩm định lại đường lối/cách thức?
Cử hành thánh lễ cầu cho ơn thiên triệu, ta đâu phải đến chỉ để đọc kinh! Hoặc nguyện cầu, rồi thôi. Có lẽ nay cũng là lúc, để ta thẩm định lại vai trò người tín hữu. Mỗi người/mỗi vị đều cảm nghiệm về ơn “gọi”. Đều nghe Cha mời gọi tìm gặp Chúa nơi người anh em. Ở khắp nơi. Tìm và gặp, để thiết lập một thế giới mới. Có tình người. Có Tình thương yêu. Và Sự thật. Rất giùm giúp. Như bài đọc 1 đà trích dẫn: “Tan buổi họp, nhiều người Do thái và đạo theo, tức những người tôn thờ Chúa, đã đi theo hai ông. Hai ông nói chuyện và khuyên nhủ họ gắn bó với ơn Chúa.” (Cv 13: 43)
Một khi có quyết tâm theo đường của Sự Sống, ta đã có ơn “gọi”. Tức, có trọng trách cảm nhận thế nào là “mời’. Thế nào là: “gọi”. Từ Đức Chúa. Mời và gọi, như chợt nhớ ra mình phải suy tư/kiếm tìm ý của Chúa. Đấng uỷ thác sứ vụ chăn dắt, đến với ta. Bởi, trong mọi trường hợp, dù xấu tốt, Chúa vẫn mời và vẫn gọi. Ngài gọi, từ nơi ta sống. Ngài mời ta chú ý nghe tiếng Ngài gọi. Và mời. Ngài gọi mời, qua Tin Mừng Ngài từng phổ biến. Đến hôm nay.
Mẹ Têrêsa Calcutta, lúc đầu mẹ cũng chỉ muốn đáp trả ơn “gọi” trở thành một nữ tu của hội dòng Loreto. Bình dị. Giản đơn, thôi. Nhưng về sau, mẹ không thể ngồi đó nhìn đám dân con nghèo hèn gục chết, trước cửa nhà. Và, mẹ quyết định ra đi lập tu hội chuyên lo cho người cùng quẫn. Đang chết đói.
Ơn “gọi” làm con cái Đức Chúa, đến trước cả ơn gọi về chuyên môn. Cả những nghề cao quý như thầy thuốc. Giáo chức. Làm cha làm mẹ, nữa. Là tín hữu, những người theo “Đường” của Chúa, ta vẫn quyết thực hiện “đường lối” sống động, Ngài uỷ thác. Quyết dấn thân theo Đường Ngài chỉ dẫn, là xả thân vào chốn đậm sâu. Đầy những người đói khát Tin Vui Mừng. Ngoài xã hội. Dấn thân vào chốn cộng đoàn dân con Chúa, để phục vụ. Phục vụ xã hội. Và Giáo hội.
Điều thường thấy nơi nhiều người, là não trạng của “chợ búa”, rất tiếp thị. Cứ lăng xăng. Bận rộn. Cả bên trong Hội thánh. Vẫn muốn Hội của các Thánh phải cung cấp nhiều dịch vụ, để hưởng lợi. Mà tuyệt nhiên, phần mình chẳng muốn đóng góp san sẻ bằng việc thực hiện các dịch vụ ấy. Cho mọi người. Vẫn cứ coi Hội (của các) Thánh như cơ quan cung cấp mục tử, nữ tu, nhà thờ, trường học và dịch vụ phúc lợi chuyên đào tạo những người hữu ích cho xã hội, mình cần đến. Tuy nhiên, cũng nên nhớ rằng: Hội (của các) Thánh nhất định không chỉ gồm các bậc vị vọng, ở bên trên. Nhưng, gồm cả chính ta. Chính anh. Chính là tôi. Với mọi người, ta cùng nhau kết hợp làm thành tổ chức chuyên cung cấp nhân sự. Dịch vụ. Là, “ổ cứng” lẫn “phần mềm”. Nhờ vào đó, cộng đoàn Hội Thánh sẽ tiếp tục, mà hoạt động.
Ta đang sống trong một xã hội, có chính quyền được bầu lên là để chăm lo cho nhu cầu vật chất của mọi người. Nhưng, quyền rất chính ấy, đến nay không hoàn thành trọng trách giúp đỡ những người đang có nhu cầu, nhiều hơn cả. Ta đang sống trong một nhóm hội/đoàn thể vẫn cạnh tranh nhau đem về cho mình thông điệp đầy thách thức. Thông điệp ấy, đòi ta cống hiến trọn vẹn nghị lực mình hiện có, ngõ hầu chăm nom bản thân mình. Và, gia đình mình.
Nếu coi đây là quà tặng nhưng-không, chỉ như công việc bình thường, không đáng bận tâm, ắt ta sẽ không nhận ra vai trò mình được uỷ thác. Với niềm tin người Kytô hữu, nhiều lúc ta cũng có thái độ rất thụ động. Tức, chỉ biết mỗi nguyện cầu. Đóng góp. Gọi dạ, bảo vâng thôi. Ta cũng làm một số việc thích hợp với cuộc sống, như tham dự thánh lễ hàng tuần. Tham dự thật đấy, nhưng vẫn mang cung cách thụ động. Vẫn nghe giảng giải theo cung cách “nghe qua rồi bỏ”. Tức, cứ để vị linh mục giảng và giải, cho hết giờ. Cứ để ca đoan hát xướng/nguyện cầu, thay cho ta. Vẫn cứ đi trễ, về sớm. Vấn đề cần tự hỏi: phải chăng đó là thực hiện ơn “gọi”, hay chăng?
Vào lần tới, nếu được bảo hãy nguyện cầu cho ơn “gọi”, có lẽ ta cũng nên tự hỏi: điều đó có ý nghĩa gì, đối với ta? Có nên cầu cho người khác, có ơn gọi? Có thể là, chính mình không thể trở thành là linh mục/tu sĩ, nhưng tự mình vẫn có thể khuyến khích con/cháu mình làm được thế. Hoặc, chính mình lại cản ngăn con cháu nghe theo lời mời/gọi của Đức Chúa, như người ngoài cuộc?
Trong đời người, chẳng bao giờ có chuyện miễn phí lẫn cho không. Cho không từ cái ăn, áo mặc, cho chí lễ lạy. Ta không thể giao cho người khác, làm hộ mình. Hãy nên bắt chước vị tổng thống nọ, mà bảo mình: “Đừng đòi hỏi, Hội thánh phải làm gì đề cứu vãn tình trạng sa sút ơn gọi?” Bởi lẽ, chính mình là Hội thánh. Bởi thế, lời nhắn nhủ nên đặt cho chính mình, sẽ là: “ta đã và đang làm gì trong giáo xứ/cộng đoàn? Ở đây? Hôm nay?” Nếu quả có chuyện thiếu hụt linh mục/tu sĩ cách trầm trọng, thì câu hỏi phải là: Ai là người nhận trách nhiệm giải quyết? Câu trả lời phải là: Người ấy, là chính ta.
Trước hết và trên hết, ơn “gọi” là ơn để thực hiện điều mà mỗi người trong ta, được Chúa mời. Là Kytô hữu, việc ấy phải được giải quyết đồng bộ. Có sự tiếp tay của bạn bè trong cùng Đạo Chúa. Thực tế, dân con trong Đạo phải quyết tâm mà dấn thân. Bằng việc phục vụ Hội thánh. Phục vụ theo cung cách thích hợp. Phục vụ theo tư cách của giáo dân. Tu sĩ. Linh mục. Mỗi người mỗi cách. Mỗi người mỗi địa vị. Cùng một trọng trách. Giống như nhau.
Điều trước hết và trên hết, là tầm nhận thức vai trò thiết thực, mình nhận lãnh. Nhận và lãnh, ân huệ ủy thác riêng mình. Nhận, để sống ơn “gọi” có chức năng đặc biệt. Thật quan yếu. Nếu tất cả đồng lòng làm thế, ta sẽ men theo lộ dài, khả dĩ giải quyết tình trạng thiếu hụt người mục tử. Để, Tiệc Thánh Thể sẽ tồn tại. Để, lời trăn trối của Thầy Chí Ái, cứ tiếp tục mãi.
Chắc chắn một điều, là: dân con Chúa sẽ trở thành nhân chứng và tử đạo biết định dạng cuộc sống của mình với Chiên Thiên Chúa, là chính Đức Giêsu Kitô. Đấng hy sinh cuộc đời mình để thế gian yêu thương nhau. Và khi đó, như bài đọc 2 đã xác nhận: “ta sẽ không còn phải đói khát. Không còn bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt và khí nóng hành hạ nữa. Vì Con Chiên đang ngự giữa ngai, sẽ chăn dắt dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ.” (Kh 7: 17)
Trong quyết tâm hiểu được điều đó, ta hãy vui lên mà hát lời ca đầy khí thế, của thời trước:
“Và dâng lên bao tâm hồn Đầy sức sống hòa tình đời. Tình phơi phới mừng ngày về Tràn đầy tin tưởng . .. Anh ơi!” (Trần Hoàn – Lời Người Ra Đi)
Mừng kính ơn “gọi”, là nhớ “lời người ra đi”. Đầy tin tưởng. Để rồi sẽ phục vụ hết mọi người. Trong mọi hoàn cảnh. Mọi tự thế. Chức vụ. Quyền hành. Như từng kể. Ở trên.
“Anh cho em mùa xuân, bàn tay thơm sữa ngọt” dải đất liền chim hót, người yêu nhau trọn đời. mái nhà ai mới lợp, trẻ đùa vui nơi nơi.” (thơ Kim Tuấn)
Ga 23-35
Mùa xuân anh cho, có tay thơm mùi sữa. Xuân mùa Chúa tặng, vẫn trĩu nặng tình thương. Tình thương Chúa tặng, có hoa mầu khoe sắc thắm. Hân hoan cả một đời. Đời người rất hân hoan, nay được diễn tả ở trình thuật, theo thánh Gioan.
Trình thuật thánh Gioan hôm nay có Chúa tỏ bày một “cuộc sống mới”. Rất Phục Sinh. Sửa đổi thân mình,bằng nhiều cách. Có trời mới. Đất mới. Như đã viết ở sách Khải huyền. Tĩnh tự “mới”, xuất hiện khá nhiều lần, ở bài đọc. Trong khi trình thuật của thánh Gioan nay ghi chú Lời Chúa, về giới lệnh rất mới. Vậy, “mới” ở đây, có nghĩa gì?
Cuộc sống mới trong Chúa. Có Chúa. Gồm tất cả những gì đã xảy đến với con người. Dù sớm muộn. Với bậc hiển thánh, cuộc sống mới chỉ xảy đến sau độ dài thời gian, khá nhiều ngày. Không thấy Chúa. Không gặp Chúa. Thánh Âu Tinh, Y Nhã, đều gặp gỡ Chúa, ở tâm linh. Thánh Têrêxa Hài Đồng, lại kết hợp cuộc sống có Chúa, ngay buổi sớm. Khi vừa đúng 24 tuổi. Còn chúng ta, vẫn luôn gặp gỡ Chúa, qua nhiều đợt sóng dâng trào nhiều trải nghiệm suốt nhiều chặng đường dài ở đời. Mỗi chặng, một kinh nghiệm. Một gặp gỡ. Có hiểu biết. Rất quyết tâm.
Cuộc sống mới, như trình thuật Chúa nói, đã qui về một “hồi hướng”. Có đổi thay. Xoay vòng. Người Hy Lạp gọi đó là meta-noia. Tức, một thay đổi rất triệt để. Có thị kiến. Có đổi thay theo thứ tự ưu tiên, nơi cuộc đời. Tức, có động thái mới. Có giá trị mới mẻ. Có tiêu chuẩn mới, sống với Chúa. Với mọi người.
Trình thuật, nay đưa ra một nền tảng giáo huấn, có chứa đựng thông điệp rất mới của Ngài. Thông điệp, không chỉ dạy ta tuân thủ 10 điều giới lệnh. Không chỉ nói về đời sống luân lý. Đạo đức, mà thôi. Thông điệp cũng chẳng bàn về sự sống thường xuyên chỉ lo mỗi chuyện xưng tội/rước lễ, mỗi một tuần. Cũng không phải để dạy ta biết dùng năng lực mình có, mà yêu Chúa.
Điều Ngài nhấn mạnh, là: hãy yêu thương hết mọi người, như Ngài hằng thương mến. Đó là giới lệnh rất mới. Cựu Ước từng dạy ta yêu Chúa hết lòng hết trí. Và cũng thương yêu người đồng loại, như chính mình. Đức Kitô thêm vào đó, một yếu tố mới, hầu xét nghiệm xem ta có là đồ đệ đích thực của Ngài không. Hãy nhớ rằng: lời vàng dẫn ta đến với tình thương yêu mà loài người thực hiện được, là: hãy sống hết mình vì người khác. Điều mới này, được xác chứng bằng việc Ngài từng chấp nhận khổ hình. Và nỗi chết. Và thực hiện sự sống lại hiển vinh để thương ta. Thương mình ta.
Mức độ tình yêu Ngài ban cho đời là để kêu mời mọi người hãy tìm ra cung cách mới, mà suy tư. Nhận thức. Để rồi, sẽ hành xử, trong tương tác, với người khác. Đó là xét nghiệm nhỏ để thử xem mức độ yêu thương ta dành cho Chúa, đạt đến mức độ nào. Vấn đề là: hãy tự kiểm điểm xem đó có là cung cách sống cuộc đời người tín hữu như ta vẫn thực hiện, hay không.
Là đồ đệ, ta không chỉ là cá nhân riêng lẻ, để sống. Nhưng còn là nhân vị luôn tương tác. Hỗ trợ. Là tín hữu, ta không chỉ được định danh là những người sống theo cung cách riêng rẽ. Sống có luân lý. Có đạo đức không thôi. Nhưng, còn sống theo cách tương tác/hỗ trợ mọi người. Bởi lẽ, người tín hữu mà lại sống rất riêng. Đơn độc. Xa cách. Là hành xử mâu thuẫn lại chức năng của mình. Bởi, lẽ cuộc sống của người Kitô hữu luôn được đo lường bằng mức độ tương tác. Với người khác. Tức, có tương quan đằm thắm, với mọi người.
Yêu thương – trìu mến, là cụm từ thường hay gây ngộ nhận. Nó bao hàm một tình huống có cảm xúc. Xót xa. Đậm đà. Như tình tự chiều chuộng. Gợi nhớ. Suy tưởng. Thương mến như thế, hẳn không là ý nghĩa mà thánh Gioan từng sử dụng. Ngài sử dụng cụm từ lòng mến theo nguyên ngữ tiếng Hy Lạp agapè, tức “lòng mến thương”. Dứt khoát không mang dáng dấp trữ tình. Tức, tình tự giữa hai người nam nữ. Hoặc đồng tính.
Nói đúng hơn, cụm từ agapè hàm ngụ một động thái biết quan tâm đến người khác. Ưu tư săn sóc niềm vui sống của người khác. Chứ, không là tình cảm quay ngược về mình. Không cần biết “người khác” đó có đáp trả bằng ưu tư, rất tương tự. Hay không.
Đây là cung cách ta vẫn gặp thấy ở Đức Kitô. Tức, thái độ mà Chúa hiển thị với tội phạm. Kẻ sa đà. Người phạm lỗi. Đối với một số người, thật khó mà đề nghị: hãy thương mến những hung ác/dữ tợn, như: Hitler, Stalin, hoặc các tên sát nhân. Hiếp nguời. Cướp của, Điều đó, thật vô nghĩa. Nên, Đức Chúa chẳng trông mong gì ở ta, sẽ lập ra kịch bản giả tạo. Kệch cỡm. Khó tin.
Cách nào đó, có thể nói: thương hoặc mến Hitler, Stalin hoặc kẻ xấu bụng nào khác từng đem đến cho ta những tình huống khó xử. Khó chấp nhận. Tức những người, mà ta tin rằng đã làm ta khổ sở. Đớn đau. Khó sống. Hoặc, những người từng đối xử với ta theo cung cách không thể chấp nhận được. Nhưng, ta vẫn cứ “thương” và “mến” kẻ nghịch thù mình. Vẫn cứ nguyện cầu cho họ. Vẫn cầu Chúa chúc phúc họ. Để, họ có thể đổi thay cuộc sống, bằng cách nào đó, thích hợp hơn. Thích hợp, là phù hợp với cuộc sống tươi vui. An bình. Của chính mình.
Đó còn là lý do để ta có thể nói: đồ đệ Chúa thực ra chả có kẻ thù nào xứng danh là nghịch thù, thực sự. Đây là cách Chúa làm, khi Ngài nguyện cầu Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đã đóng đinh Ngài vào thập giá. Ngài không thương mến họ theo kiểu những người thân quen trong gia đình thương mến nhau. Nhưng, như những người đang cần sự soi sáng để có thể thực hiện điều tốt đẹp. Trong cuộc sống. Thực hiện, không để cho Chúa. Mà cho chính mình.
Khi quan tâm/chăm sóc cả những kẻ nghịch thù từng gây thương tổn cho Ngài, Chúa vẫn làm với ý nghĩa của “lòng mến” đậm sâu. Cả vào lúc Ngài chấp nhận cuộc khổ hình. Cùng cực. Và chết đi. Bài đọc 1 sách Công vụ, ta còn thấy một loại hình khác của lòng thương mến, nơi đồ đệ Chúa, như thánh Phaolô, Banaba. Hai thánh nhân từng kinh qua đủ mọi loại khó khăn/khổ ải, để thông điệp Chúa có thể đạt đến, với mọi người. Và người tín hữu Đức Kitô được hỗ trợ, hầu duy trì niềm tin nơi Chúa, cho đến cùng.
Một vấn đề đặt ra cho ta, mà hỏi rằng: là tín hữu, ta đã thực sự quan tâm/săn sóc người khác chưa? Người khác, là những kẻ đang có nhu cầu cấp bách nhất, dù chỉ yêu thương. Giùm giúp.Hay, ta vẫn chỉ lo lắng mỗi bản thân? Bạn bè? Cùng quyến thuộc, mà thôi? Guơng lành của Chúa, vẫn còn đó, chờ đợi ta. Chờ đợi, để ta biết mà san sẻ niềm tin. Tình thương yêu. Với hết mọi người. Càng nhiều càng tốt. Hãy cứ làm.
Bài đọc 2, sách Khải huyền mở ra cho ta ảnh hình về một sẻ san, rất đúng cách. Đúng cung cách, như Lời Chúa đã bộc lộ: nhờ biết san sẻ mà những người có tràn đầy “lòng mến” của Đức Chúa, đã có thể đi vào cuộc sống của mọi người. Bằng cách này, là: ngang qua những hỗ trợ/tương tác có lòng thương mến, đối với nhau. Nhờ đó, “trời mới”, “đất mới”. “Giêrusalem mới”, đã bắt đầu đi vào hiện thực. Đi vào, không phải ở thời tương lai. Mai hậu. Nơi nào đó. Nhưng, ở đây. Lúc này.
Thành thử, ngay bây giờ, việc ta cần làm, là: hãy dõi theo chân Chúa, Đấng có lòng mến tuôn trào với mọi người. Hãy dõi theo, để thực hiện cuộc đổi mới.
Trong quyết tâm thực hiện cuộc đổi mới, ta sẽ hát lên lời ca vang phấn khởi, rằng:
“Tôi vẫn tin vào ngày mai, Là ngày tươi sang đẹp trời. Tôi vẫn tin vào đổi thay, Tuy hôm nay, còn đây bao nhiêu nỗi đắng cay.” (Quốc Dũng – Tôi Vẫn Tin Một Ngày Mai)
Tin vào ngày mai, hay hôm nay, vẫn còn đó Lời Chúa. Lời tỏ bày, cho muôn người. Có “mùa Xuân anh cho”. Có “bàn tay thơm, sữa ngọt”. Có “đất liền chim hót”. Người người yêu nhau. Suốt một đời.
“Lại về với những vần thơ” Nối dang dở để bây giờ trọn câu. Lại về với thuở yêu đầu, Quên đi anh nhé, dãi dầu đã qua.” (Thơ Tế Hanh)
Ga 14: 23-29
Thơ văn ở đời, vẫn trọn câu. Trọn thơ. Trọn vần. Dù dang dở. Dở dang, là tình tự lúc ban đầu. Tình tự nhà Đạo, ta có với Chúa. Với nhau. Vẫn lặng lẽ. Yên bình. Như trình thuật, từng đúc kết.
Trình thuật thánh Gioan, nay đúc kết Lời Chúa, trọn vẹn cả thơ văn. Lẫn ý tứ. Ý Chúa dạy, là Thần Khí, Cha sai đến. Ngài đến, dẫn ta ngang qua mọi hiềm khích. Cãi tranh. Về nhiều chuyện. Ngõ hầu ta yêu mến.
Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ Lời Thầy. Và, Cha Thầy yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. (Ga 14: 23) Như Chúa nói: điều làm chứng cho tình ta yêu Chúa, là mãi giữ Lời Ngài. Để rồi, ta sẽ trải nghiệm “Tình yêu” Chúa Cha. Có như thế, Cha và Thầy sẽ ở lại trong ta. Với ta. Đó là Lời vàng rất đáng quý, khả dĩ dẫn dắt ta đi vào đường ngay nẻo chính, suốt một đời.
Tình yêu, không là cảm giác, mà là động từ. Là, hành động. Lâu nay, ta vẫn nói: “Hôn nhân nay, đâu nào chất chứa tình yêu, nữa.” Cả đến “gia đình. Chòm xóm. Xã hội, nào có thấy xuất hiện tình yêu?” Nói như thế, không có nghĩa bảo rằng: không ai có được tình yêu (theo nghĩa cảm giác) nếu không yêu đương (theo nghĩa thực dụng). Tựa như Eliza Doolittle nói với thầy Higgins trong kịch bản “My Fair Lady”: “Thầy đừng nói về tình yêu, nhưng hãy chứng minh”. Ngày nay, ai trong chúng ta cũng có thể bắt đầu công việc chứng minh ấy. Chí ít, từ chính mình.
Với Đức Giêsu, Yêu đương vẫn có nghĩa là đương yêu. Yêu rất nhiều. Nói cách khác, tình yêu chỉ đạt thành tựu nhờ vào “giữ vững Lời Ngài”. “Lời”, không chỉ giới hạn nơi nghĩa “giới lệnh”, “tín điều”, hoặc một hành xử rất đạo đức như ta vẫn được dạy bảo, nên làm thế. “Lời” Ngài bao gồm rất nhiều thứ. “Lời”, gồm tóm những gì ta biết về Ngài. Nhờ Phúc Âm. Tức, những điều Ngài nói ra. Những việc Ngài từng làm. Quan hệ, Ngài vẫn có. Với mọi người. Đó, là nguyên tắc sống, của chính Ngài. Là, giá trị và động thái, Ngài xác chứng. Trước hết và trên hết, Lời Ngài là để dựng xây Vương Quốc Nước Trời. Ở muôn nơi.
Đức Giêsu, vốn là “Lời”. Chẳng phải, vì Lời xuất từ môi từ miệng rất thánh của Ngài. Nhưng, còn từ chính cuộc sống của Ngài. Ngay từ lúc, ở hang BêLem, chốn bò lừa. Cả vào khi, Ngài hấp hối trong ô nhục. Trên thập giá. Tuân giữ Lời Ngài, là mặc lấy cho mình tất cả những điều ấy. Tức, định danh với Lời. Biến Lời thành sự thể rất thực tế. Rất sống động. Trong đời mình. Có thể nói, “Lời” đến với ta, qua tương tác. Bằng vào kinh nghiệm ta từng trải. Ta từng có, với cộng đoàn niềm tin. “Lời”, chính là thực thể qua đó Chúa mặc khải cho ta biết, hết Sự Thật. “Lời” đến với ta, qua tạo dựng. Ở nơi đó, có Chúa là Đầu. Ở nơi đó, Ngài định hình mọi sự vật ngang qua Đấng Tạo Thành, là chính Cha.
Thần Khí Chúa trong “Lời” tỏ hiện nơi cộng đoàn Hội thánh, mang đủ tính chất, ngay từ đầu. Cả vào lúc, Chúa kêu mời các môn đệ, dấn bước theo chân Ngài. Thần Khí Chúa, nói với ta không chỉ ngang qua mỗi Đức Giáo Hoàng. Các Giám mục. Và, hàng ngũ linh mục, thôi. Nhưng, ngang qua mỗi người và mọi người. Tức, qua thành phần của Thân Mình Đức Kitô. Qua, hết mọi người. Từ già/trẻ, lớn/bé. Có học/vô học. Nam/nữ. Cho chí bầu bạn, và kẻ thù. Điều này nghe ra, ta tưởng như mới mẻ. Nhưng kỳ thực, đã có từ thời Hội thánh tiên khởi, như bài đọc 1 tường trình.
Bài đọc 1, cho thấy: nhiều vị không phải là người Do thái đã trở thành tín hữu Đức Kitô. Vẫn sống hài hoà. Hạnh phúc. Nhưng, có một số tín hữu gốc người Do thái, lại cứ muốn mọi người phải tuân thủ tục lệ vốn có từ thời cổ sử, rất Môsê. Nhất thứ, là chuyện cắt bì, cho nam nhân. Cũng thật khó, cho tín hữu có nguồn gốc người Do Thái, phải bỏ đi căn tính khác biệt. Mà họ cho rằng phải có để trở thành người của Chúa. Cho đồng nhất.
Bài đọc1, còn cho thấy: có một số Tông đồ và nhiều vị khác trong cộng đoàn không phải gốc người Do thái, đã nổi lên chống đối việc này. Kể ra, thật cũng khó mà thuyết phục được mọi người tuân theo lề thói cắt bì, khi nền y học giải phẫu lúc ấy chưa tiến bộ cho lắm. Cuối cùng thì, các thánh cũng đã đạt được một thoả thuận, là: có luật trừ. Trước nhất, là loại trừ luật cắt bì, theo tục lệ Do thái. Chỉ giữ lại, mỗi việc: “kiêng ăn đồ đã dâng cúng ngẫu thần. Kiêng ăn huyết. Kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết. Tránh gian dâm.” (Cv 15: 29).
Ngoài ra, với Hội thánh tiên khởi, cũng đã thấy có nhiều vị tuy không là người gốc Do thái, nhưng vẫn được trông đợi là phải giữ đôi điều luật dạy khi chung sống với tín hữu gốc người Do thái. Thánh Phaolô cũng đã khôn ngoan khi dùng lời lẽ khá tế nhị để viết cho giáo đoàn La Mã, như sau: “Anh em hãy chấp nhận. Đừng phê phán quan điểm. Có người tin là mình được ăn mọi sự, còn kẻ yếu thì đành ăn rau. Người ăn, cũng đừng khinh thị kẻ không ăn. Còn, kẻ không ăn cũng đừng xét đoán người ăn, vì Thiên Chúa đã chấp nhận họ.” (Rm 14: 1-3)
Trình thuật, nay cho thấy: đã có bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển Đạo Chúa. Có liên quan đến mô hình thay đổi cách triệt-để, ngõ hầu sự thật và cuộc sống thực tế, được mọi người biết đến. Mô hình thay đổi, vì một số người đã mở lòng mình để Chúa đến. Mời Chúa đến, ngang qua kinh nghiệm từng trải và hoàn cảnh sống, có phấn đấu. Mở lòng đây, là mở ra cho những gì mà cộng đoàn dân Chúa nay cần đến. Nhu cầu ấy, dù lớn nhỏ/tư riêng liên hệ đến sự sống, mỗi cá nhân.
Những năm về sau, thánh Phaolô từng cảnh báo dân con nhà Đạo về cung cách nệ cổ. Xưa cũ. Của lề luật. Như, lề thói cắt bì, và những tập tục thông thường khác của người Do thái. Trong thư gửi giáo đoàn Galát, thánh Phaolô có nói rõ: Anh chị em đã được giải phóng thật sự rồi, sao vẫn còn muốn trở về với thói lề xưa cũ ấy?
Cũng một khuynh hướng như thế, hiện đang thấy xuất hiện trong Hội thánh, hôm nay. Có nhiều vị trong Hội thánh, vẫn muốn vặn ngược kim đồng hồ, để về với quá khứ. Cứ muốn, làm sống lại các thói tục cổ xưa. Và, còn ép buộc người khác áp dụng nữa. Những người như thế, có chiều hướng dắt đưa Hội thánh đi vào đoạn kết, một cuộc đời. Hội thánh, trước nhất là cỗ xe. Là, phương tiện chuyển tải kinh nghiệm yêu thương của Đức Chúa, trải dàn đến với mọi người. Và, Hội thánh muốn trở nên trung thực với Thần Khí, cũng nên mở lòng mìnhra với thế giới. Bởi như lời một thần học gia nọ có lần viết: “Thế giới nay đang viết lịch trình để Hội thánh ngang qua.”
Chính vì Hội thánh biết nghe và nhìn vào tình cảnh của những người không phải là Do thái đã hồi hướng trở về, nên Hội thánh biết rằng mình đang được Thần Khí Chúa dẫn dắt. Một khi Hội thánh tự đóng kín lại thành một nhóm được tuyển chọn để rồi cứ ngồi ở trên mà phán xuống cho thế giới thi hành, thì khi ấy Hội thánh không còn là thánh hội, do Chúa thiết lập.
Với tư cách riêng tư hoặc tập thể, ta cũng nên tỉnh táo để có thể theo đường lối Chúa chỉ dạy. Ngõ hầu Chúa đến được với ta. trong cuộc sống. Nếu mỗi ngày ta dành cho Chúa dăm ba phút, và cứ thế tiếp tục mãi trong cuộc đời, ta sẽ trải nghiệm được tình thương yêu Ngài gửi đến với ta, mà san sẻ. Và từ đó, ta mới có thể cất bước mà ra đi. Vì người khác.
Đức Chúa vẫn muốn sẻ san với ta. Cho ta. Những gì Ngài có. Những gì Ngài từng trải nghiệm. trong cuộc sống rất người, của Ngài. Vấn đề là, ta có mở lòng ra để Ngài có cơ hội, mà ngự đến, hay không? Yêu, không là động từ, hoặc hành động rất từ từ. Mà, còn là con lộ hai chiều, ta rong bước.
Trong khí thế mở lòng để Tình Yêu đến, ta cứ vui lên mà ca hát. Hát, lời yêu thương rằng:
Vui lên. Hôm nay. Không chỉ vì ta được mùa lúa. Nhưng, vì Tình Yêu Chúa như lúa chín vàng, đà đến với ta. Đến cả với người trước đây thuộc gốc Do thái. Hoặc ngoài luồng. Trong Đạo. Tình Yêu đến, người người đều mãi vui. Suốt đời.
“Tôi vẫn chiêm bao rất nhẹ nhàng,” đèn khuya xanh biếc, mộng thường sang. Nhưng rồi em rõ, lòng tôi khổ, Em sẽ đi xa, trước giấc vàng? (thơ Đinh Hùng)
Ga 17: 20-26
Giấc vàng. Chiêm bao. Tuy nhẹ nhàng. Nhưng, vẫn sang. Lòng em khổ, mộng tuy sang. Vẫn cứ chiêm bao đời người, chỉ mỗi thế. Giấc vàng trình thuật, nay vang vọng một mời gọi. Ở đây. Mai ngày. Người người đều nghe biết.
Trình thuật, nay không chỉ vang vọng mỗi giấc vàng, mà còn là mời gọi gửi mọi người hãy thực hiện Lời Chúa. Ở Tin Mừng. Lời, mọi người nhớ. Vẫn đối thoại. Hiệp nhất. Có dân con.
Tình dân con ta nhớ, là nhớ phần cuối Lời Thầy nguyện cầu cho những ai dấn bước theo chân mềm của Ngài. Coi đó như thành quả của việc giảng rao. Và, dân con mọi người nay gồm tóm qua lời cầu Chúa dạy. Rày đã nhớ.
Nhớ nguyện cầu, là nhớ “Lời” Ngài thân thưa với Cha. Nhớ cả “Lời” thương yêu đoái hoài, với đồ đệ. Tức, các thánh nhân dịu hiền hằng tin Ngài là Vua. Và, là Chúa. Tình Ngài tỏ bày nơi “Lời” lành thánh. Nơi sứ vụ Ngài ủy thác. Cho dân con. Nguyện cầu, nay là nguyện chúc Ngài gửi tới các kẻ đến sau môn đồ, rất yêu dấu. Những kẻ có cùng một niềm tin. Trong hiệp nhất.
Hiệp nhất, điều Chúa muốn cho ai dấn bước theo Ngài, hãy xác tín. Hiệp nhất, là dấu hiệu cho thấy những gì Ngài khuyên dạy. Nay cần hiện thực. Hiện thực, nơi cuộc sống của đồ đệ. Hiệp nhất, là rập khuôn từ sự hiệp thông rất thánh, giữa Ngài và Cha. Hiệp nhất, còn là động lực thôi thúc thế gian biết rằng: chính Cha gửi Đức Giêsu đến với mình, để hiệp thông với Ngài. Với nhau.
Trên thực tế, cộng đoàn Hội thánh nay gồm tóm dân con đủ loại, ở xã hội. Những người thuộc mọi sắc tộc. Ngành nghề. Có mức độ khôn ngoan. Có kiến thức. Rất khác biệt. Khác, là vì mọi kẻ tin đều đến từ các nền văn hoá, rất cá biệt. Vì cá biệt, nên mọi hiệp thông nhất quán, khó hoà đồng. Vẫn luôn bất đồng. Có khi còn mang tính bạo động. Rất đấu tranh.
Tín hữu Chúa, cố kết hợp hài hoà mọi cá thể/hội đoàn đến với nhau. Trong hội ngộ. Đến với nhau, để trở thành cộng đoàn tình thương. Ở nơi đó, có sự tương kính. Chấp nhận. Ở nơi đó, người người cùng sống với nhau. Cùng thực hiện điều Chúa dạy. Để rồi, sẽ làm gương, minh chứng cho người ngoài biết, rằng: con dân Đạo Chúa, vẫn gắn bó. Thực hiện điều Chúa muốn.
Nhìn vào cuộc đời, có người vẫn nhìn vào sinh hoạt của cộng đoàn tình thương, dân con Chúa. Nhìn vào Hội thánh, để xem các thánh có thực hiện sự hiệp thông/hiệp nhất, như Chúa muốn, hay không? Nhìn vào thực tế, để biết rằng: Hội thánh bao gồm mọi thành phần khác biệt. Khác, chính kiến. Khác, văn hoá. Phụng vụ. Khác cả nền luân lý. Đạo đức. Nhưng, vẫn thể hiện điều mà trình thuật hôm nay đã nói đến?
“Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha ban cho con,” (Ga 17: 22) Vinh quang Chúa nơi trần thế, là sự khiêm hạ. Là, tinh thần phục vụ. Là, làm cho chính mình Ngài trở nên trống rỗng. Chính nhờ đó, Ngài được nâng lên cùng hàng với Cha. Vinh quang ấy, nay về ta. Nếu biết phản ánh một hiệp thông giữa Cha và Con. Hiệp thông-kép: tức, hiệp thông của Cha trong Con. Và, của Người Con với các kẻ dấn bước theo Ngài. Tự bản chất, sứ vụ của tín hữu, đơn giản chỉ như thế.
“Để họ hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương Con”, đây là dấu chỉ về sự hiện diện của Chúa Cha và Đức Giêsu, ở với ta. Là, tình Chúa đổ tràn nơi tâm can ta như thế nào. Tình ấy, cũng dâng trào với người anh/người chị của ta. Trong Đức Kitô.
Lời cầu của Chúa, còn tiếp: “Những người, mà Cha ban cho Con”, cũng sẻ san cuộc sống và vinh quang, cùng với Chua. Đây, là ý định của Thiên Chúa. Là, giấc mơ. Là, lời trối trăn, Chúa mặc khải cho kẻ dõi theo bước chân Ngài. Đây, còn là chúc phúc lớn lao Ngài dành cho ta. Là, được ở với Chúa. Khắp chốn. Đây, là mục tiêu của đời sống. Mọi chuyện khác, đều thứ yếu. Chính vì thế, Chúa còn thêm: “Để tình Cha yêu thương ở trong họ. Và, Con cũng ở trong họ nữa.” (Ga 17: 26). Đây, chính là tình thương yêu tràn đầy. Là chất dẻo, gắn bó mọi kẻ tin, vào với nhau.
Bài đọc 1, ta có được một người tràn đầy tình yêu thương của Đức Chúa: ông Têphanô. Ông là một trong bẩy người Do Thái gốc Hy Lạp, biết hồi hướng trở về. Để được chọn. Hầu phục vụ cộng đoàn dân Chúa, gốc Hy Lạp. Điều đặc biệt, là: ông được tràn đầy Thần Khí Chúa, nên đã phục vụ hăng say hết mọi người. Tranh luận với cộng đoàn Do thái, họ không thể thấy được sự khôn ngoan và Thần khí, ông rao giảng.
Bài đọc sách Công vụ, nay cho thấy tài hùng biện ông tỏ ra, để biện hộ cho niềm tin có Đức Chúa, Đấng Mêsia từng được hứa ban. Từ đầu sách đến cuối câu, tử sĩ Têphanô được Chúa phú ban cho thị kiến được gân Chúa, như ông mô tả:“Tôi thấy trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa.” (Cv 7: 56). Đứng ở đây, Chúa tỏ ý tôn trọng thánh nhân như một tử đạo. Một đồ đệ ngoan hiền. Điều lạ, là: thánh nhân cũng dùng cụm từ “Con Người”, là từ ngữ mà chỉ mình Chúa mới dùng đến.
Chính vì thế, những người kết tội thánh Têphanô không còn chần chừ gì nữa mà không ném đá ông. Cho đến chết. Và kẻ ném đá, lại đã trải áo cho thanh niên tên là Saolô, vị lãnh tụ của nhóm Nhiệt thành. Cuối cùng thì, tử đạo Têphanô đã lặp lại cũng một lời cầu, như Chúa, hôm trước:“Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này.” (Cv 7: 60) Ông là người đầu tiên chết cho Chúa. Cho Tin Mừng. Và, ông vinh dự được Hội thánh mừng kính lễ, sau Giáng sinh.
Nay thấy rõ một điều, là: có sự tương đồng giữa thánh Têphanô và Đức Giêsu. Cả hai đều bị giam giữ vì đã dám nói lên những lời nghịch ngạo chống lại lề luật. Cả hai đấng, đều đứng trước hội đường, rất pháp luật. Chúa thì nói rất ít. Còn thánh Têphanô lại có tài hùng biện, nói khá dài. Cả hai đấng đều bị lên án: làm chứng gian. Cả hai đấng, đều có chung thị kiến về Con Người, trong vinh quang. Đến khi chết, cả hai đấng cũng đều trao phó cuộc sống trong tay Cha và cùng cầu Cha tha tội cho kẻ hành hạ mình.
Xưa nay, trong Hội thánh có câu nói:“Máu tử đạo là hạt giống của niềm tin.” bởi thế nên, không còn nghi ngờ gì về ông Saolô, sau này trở thành Phaolô, cũng bị kích động về những gì mình chứng kiến, hôm ấy. Từ ngày ấy, thánh nhân đã chuyển đổi từ một Pharisêu nhiệt thành hẹp hòi đầu óc, để biến thành vị thừa sai lừng lẫy, nhất Hội thánh. Là người gây ảnh hưởng sâu rộng lên dáng hình của Hội thánh. Sâu và rộng, hơn mọi người cùng thời. Thánh Phaolô hăng say cổ vũ cho sự hiệp nhất, trong Đức Kitô. Cả với đồng đội người Do thái của mình. Để rồi, thánh nhân dám nói về Đức Kitô, rằng: “Tôi sống đấy, nhưng không phải tôi, mà là Chúa sống trong tôi.”
Sách Khải huyền, có lời kêu gọi từ Đức Chúa: hãy đáp ứng Lời Ngài mời gọi. Hãy theo bước chân Ngài. Sách Khải huyền, được viết vào thời kỳ bách hại. Thời, có những vị nghe tiếng Chúa gọi, mà theo Ngài. Thánh Gioan cũng nghe biết:“Ta sẽ đến. Và, Ta đem theo lương bổng để trả cho mỗi người tuỳ việc làm của mình” và trung thành kinh qua khổ ải. Cũng có người nhượng bộ. Nhưng, không ai chạy thoát khỏi tình yêu của Đức Chúa. Vì, Ngài là Alpha và Ômêga. Là, Đầu Hết và Cuối Hết. Như đã viết: “Là, Khởi Nguyên và Tận Cùng.” (Kh 22: 13). Mọi sự do Ngài. Không có Ngài, tất cả chẳng là gì cả. “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành; và không có Ngài, chẳng có gì được tạo thành.” ( Ga 1: 3) Ngài là kết đoạn của sự sống. Mọi hiện hữu.
“Phúc thay cho những kẻ giặt sạch áo mình”, đây là một trong bẩy mối phúc được thánh sử viết rải rách trong Sách Khải huyền. Kẻ “giặt sạch áo mình”, là những vị dám đổ máu mình ra, vì Tin Mừng. “Được quyền hưởng dùng cây Sự Sống”, là cây mà tổ tiên ta bị ngăn cấm. Đến gần. Ngăn, để chỉ có thể vào “thành” bằng cửa ngõ, có hy sinh. Chứ không qua cửa nào khác. Thành đây, là thành Giêrusalem, rất thiên quốc. Ở nơi đó, có sự hiệp nhất vĩnh hằng với Cha. Và, với Đức Giêsu, Con của Ngài.
Và như thế, câu đáp trả, là từ Thần Khí và Tân Nương Ngài, tức Hội thánh. Còn là, Tân nương của Đấng Mêsia, nay đã nói: “Xin Ngài ngự đến!” Tiếng Aram gọi là ‘Marana tha’, là tiếng mời gọi được phụng vụ thời tiên khởi dùng đến. Những ai khao khát Lời của Chúa. Khao khát Tình Yêu của Ngài, đều được mời: “Hãy đến!”
Hãy đến, còn là lời yêu cầu từ thâm tâm ta vẫn chuyển đến Chúa. Ở đây. Hôm nay. Ta vẫn kêu cầu Chúa đến lại, một lần nữa. Ngài đến, vào mọi thời khắc, của hôm nay. Trong cuộc sống, Có như thế, lòng ta mới dấy tràn Tình Thương Yêu của Chúa. Rồi từ đó, ta chuyển tải cho hết mọi người, trong cộng đoàn. Để rồi, cùng với mọi người, ta sẽ là nhân chứng cho Tình yêu. Và hiệp nhất. Tức, kinh nghiệm từng trải. Vẫn có thật. Ở với ta. Trong san sẻ.
Trong khí thế ấy, ta cùng nhau san sẻ tinh thần này, qua lời hát: “Hãy đến đấy! Ta reo hò mừng Chúa! Hãy tung hô Người, là núi đá, cứu độ ta! Ta hãy vào trước thánh nhan dâng lời cảm tạ, và tung hô Người theo điệu hát cung đàn!” (Thành Tâm – Hãy Đến Ta Reo Hò)
Hãy cứ đến. Cứ reo hò. Reo vang Tình Chúa. Là, “chiêm bao, rất nhẹ nhàng”. Là, Giấc vàng, mộng thường sang”. Cũng rất đẹp. Chúa vẫn dành cho mọi người.
Giận anh, không nỡ! Nhớ không thôi! Mưa buồn, mưa hắt, trong lòng ướt… Sợ quá đi, anh…”có một người”!…
(thơ T.T.Kh)
Lc 1: 1-4, 8-10
Sự việc hôm xưa, nhà thơ không hay biết. Mới kêu Trời. Rất sợ. Sử thánh hôm nay, người viết đà ghi mọi diễn tiến. Có người chứng. Ghi, là ghi sự việc Chúa làm, từ đầu, như trình thuật rày đã tả.
Trình thuật nay, thánh Luca nói rõ: dù thánh nhân không được diện kiến Đức Giêsu, nhưng vẫn ghi lại giáo huấn của Chúa. Ghi tỉ mỉ, để ta cùng suy. Suy cho kỹ, không theo cung cách của người viết tiểu sử. Về nhân vật. Mà, chỉ suy và niệm, về công trình cứu độ Chúa thực hiện. Công trình gồm sự sống, nỗi chết và sống lại, của Đức Chúa. Để ta biết mà sống. Sống, chấp nhận theo Chúa Giêsu, như Vua Cha. Là Đức Chúa.
Phần hai trình thuật, là bước nhảy vọt nơi bài viết. Nhảy, từ lời tự sự mở đầu trình thuật để nói ngay từ đầu. Về, cuộc đời công khai của Đức Chúa. Từ thôn làng Nadarét. Có truyện kể, về Truyền tin. Về, ông Dacaria. Về bà Êlisabét. Ngày sinh của thánh Gioan Tẩy giả. Về sự việc Giáng hạ của Chúa. Cho đến phép rửa Ngài nhận từ người anh họ, là thánh Gioan. Về một cám dỗ. Ở sa mạc. Nhảy, là nhảy từ chương 1 đến chương 4, rất Tin Mừng.
Tất cả tuần tự diễn tiến, như đã báo trước. Báo, để chuẩn bị cho cảnh trí hôm nay. Cảnh, khởi đầu cuộc đời công khai. Và sứ vụ của Chúa, ngay hôm trước. Hôm, Ngài đến sông Giođan, để nhận phép rửa. Rồi sau đó, có kinh nghiệm từng trải, ở sa mạc. Từ đó, có “Sức mạnh của Thần Khí Chúa” xuống trên Ngài. Kế đến, trở về Galilê. Và Nadarét, nơi Ngài trưởng thành. Lớn lên. Cùng các thánh.
Đời công khai của Chúa, là hành trình cứu thế rất giản đơn. Đơn thuần và giản dị, xuất từ làng Nadarét tới Giêrusalem. Tất cả, là trọng điểm trình thuật mà thánh Luca muốn diễn tả, ở Tin Mừng. Ở sách Công vụ Tông đồ. Qua trình thuật, thánh Luca không diễn đi diễn lại việc các tông đồ đi đi về về, từ Galilê đến kinh thành Giêrusalem. Bề thế. Nhưng ở nơi đây, chốn thị thành của bình an – vui sống, Đức Giêsu chịu mọi khổ nhục, để rồi Ngài chấp nhận nỗi chết. Từ đây, Ngài trỗi dậy về với sự sống vĩnh cửu. Và trở nên Đấng Cứu Thế. Rất miên trường. Cũng từ đây, đồ đệ Chúa ra đi đến với mọi miền. Đến nơi cùng tận trái đất mà rao giảng Tin Vui An Bình, của Đức Chúa.
Chính vì thế, ngay ngày đầu cuộc đời công khai, Chúa đã vào hội đường như Ngài vẫn làm và sẽ làm, mọi ngày Sabát. Như mọi người. Để, giống như người Do thái khác, Ngài sẽ tuân thủ và kiện toàn Lề luật, Ngài chủ trương. Ở hội đường, không có thượng tế. Hội đường, là nơi người người đến, để hội họp. Suy tư. Nguyện cầu. Suy, về Kinh Sách. Cầu, với mọi người.
Khi suy tư, Chúa đứng thẳng người mà đọc đoạn sách ngôn sứ Isaya, họ đưa Ngài. Sách, nói về việc Mêsia, Đấng sẽ đến. Việc xảy ra, là việc Chúa tuyên bố Ngài chính là Mêsia, Đấng mọi người đợi trông. Ngài áp dụng lời ngôn sứ, cho chính Ngài. Rất rõ ràng. Từng lời lẽ, như: “Thần Khí Chúa ngự trên Tôi. Ngài xức dầu, tấn phong Tôi…” (Lc 1: 18)
Xức dầu, tiếng Hy Lạp muốn nói: Ngài là Vua Cứu Độ. Đấng Mêsia. Là, Đức Kitô. Tất cả, chỉ một nghĩa. Một tuyên xưng. Chương trình. Bày tỏ. Ta vẫn chờ. Chờ, Chúa tuyên bố về một sứ vụ. Lời mọi người chờ, nay được tuyên bố theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Rất biểu tượng.
Tuyên bố hôm nay, gửi thẳng đến kẻ nghèo. Nghèo và hèn, về vật chất. Cả những người bị giam hãm. Chốn lao tù. Đui mù. Què quặt. Bị khai thác. Ức hiếp. Trong khi thánh Mát-thêu nói về người nghèo kẻ hèn, về tinh thần. Thì, thánh Luca nói thẳng về người nghèo đích thật. Kẻ đói ăn. Thiếu mặc. Người thực sự khóc dở. Chết dở. Tuyên bố Chúa gửi đến, là niềm hy vọng. Hy vọng, được chữa lành. Giải thoát. Giải thoát và chữa lành, không như phép lạ, trên đời. Mà là, thay đổi tận gốc rễ. Để rồi, cùng với Đức Giêsu, ta sẽ chấm dứt các tình trạng tồi tệ ấy.
Thông điệp Chúa gửi, ngay từ đầu, đã mang ý nghĩa tượng trưng. Như tác giả người Brasil là Paolo Freire viết trong cuốn “Sư phạm của người bị o ép”, đã nhấn mạnh: ở đâu còn có người giàu/kẻ nghèo, người mạnh/kẻ yếu, người áp bức/kẻ chịu áp lực, tất cả cần được giải thoát. Tất cả, sẽ đến với người nghèo thực sự, là người chưa phát triển đủ về mặt cảm xúc. Người đơn độc. Bị bỏ rơi. Bị choáng ngợp/đè bẹp vì của cải dư thừa, của người khác. Họ là những người nghèo thực sự. Như ta.
Số phận của những kẻ bị tù đày. Cầm cố. Chốn lao tù, nhưng không được đối xử một cách đúng phép. Những người sai phạm, cần được hoá giải. Để hồi hướng. Những người mong chờ được giải thoát. Vào một ngày rất xa vời. Những người tự do, nhưng vẫn sợ. Sợ bạo lực. Sợ khủng bố,. Sợ cả sự tự do, mình đang có. Tóm lại, họ là những người cần ta cầu bầu. Cưu mang. Gíúp đỡ.
“Cho người mù được sáng mắt”, mù loà, chưa hẳn là thương tật. Nhiều khi, chỉ là mù loà do thành kiến, ngu si, ganh tị hoặc một cảm xúc nào đó.
Nhà văn nọ, có viết: “Nhiều người vẫn sống cuộc đời tuyệt vọng, trong câm lặng.” Nhiều xã hội thường khoe khoang thành tích tự do no đủ, nhưng lại áp lực lên người dân của mình. Các nhà bất đồng chính kiến người Hoa, vẫn cứ phải đào thoát qua Mỹ để được sống một cách tự do. Dân chủ. Ở đây. Xã hội này, ta vẫn cần nhận ra rằng trong chừng mực nào đó, ta có sống dưới áp lực nào khiến ta vẫn làm được chuyện mà chẳng sợ ai, không?
Ngày hôm nay, lời của Chúa có tiếp cận được với ta không? Bài đọc 2, là câu trả lời thoả đáng cho câu hỏi này. Vấn đề là: người tín hữu Đức Kitô hôm nay vẫn còn sống theo chủ nghĩa cá nhân. Đơn độc. Người người vẫn tự mình quán xuyến mọi sự. Quán xuyến cả chuyện sống đời giáo dân nữa. Nhưng, ảnh hình mà thánh Phaolô muốn diễn tả ở đây, là ở điểm: chúng ta là chi thể của một Thân Mình. Mỗi chi thể tương tác với nhau qua việc cho đi và nhận lấy. Mỗi người đều nhận cũng một phần ân huệ, như nhau. Bằng nhau.
Bởi, nếu người nhận nhiều kẻ được ít, thì Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay không trở thành thực tại sống động, cho mọi người. Vì là chi thể của Thân Mình Chúa, hẳn là ta phải giùm giúp mọi người sống kinh nghiệm từng trải để làm giàu cho nhau. Làm giàu, bằng cách vượt thắng mọi cảnh nghèo hèn. Cơ cực. Cùng nhau tạo thị kiến sống động mà bỏ đi cảnh mù loà, trong nhận thức. Để, có được sự tự do giải thoát khỏi mọi áp bức. Bất công. Tệ nạn. Đó chính là, điều Chúa muốn ta có.
Cuối cùng, ta chưa nhận ra được sự tương phản việc tuyên bố về Lề luật ở bài đọc 1 với Lời của Chúa, ở Tin Mừng. Chưa nhận ra rằng: lề luật, vẫn là việc thiết yếu cho phẩm giá. Cho quyền làm người. Và, tự do. Nhưng, điều Chúa nói, có nội dung mới lạ, chính là: lòng thương xót. Đó mới khác.
Trong tinh thần đón nhận điều mới và lạ Chúa gửi đến, ta cứ vui mà ca mà hát, hát rằng:
“Thanh niên, thanh niên hoa thơm tuổi thơ
Tương lai, tương lai đang mong chờ ta
Vai ta gánh sơn hà, tay ta giữ quê nhà
Lòng rộn ràng say sưa như xuân mới.”
(Phạm Đình Chương – Bài Ca Tuổi Trẻ)
Đón nhận Lời Chúa, với lòng thương xót/Xót thương sẽ biến người người thành những bạn trẻ. Trẻ, để đưa vai gánh lấy sơn hà. Một giải. Giải sơn hà, rộng lớn như Tương Lai Nước Trời. Đang chờ ta.
“Tiếng hỏi tiếng chào, vang lối xóm” Pháo từng chiếc một, đốt liền tay. Mùa này quyết được, hơn mùa trước. Cứ gọi tung trời, gậy lão bay … (thơ Lưu Trọng Lư)
Lc 4: 21-30
Nhà thơ khi xưa, nói chuyện sấm. Tiên tri hôm nay kể chuyện Đạo. Chuyện vui trong Đạo, nay thánh sử ghi nhiều tình tiết. Rất trình thuật.
Trình hay thuật, vẫn là giòng chảy tường trình, thuật điều Chúa nói, rất khi xưa. Ưa ứng nghiệm lời Kinh Thánh, ở Cựu Ước. Lời Cựu Ước tiên tri Isaya, nay thể hiện nơi chính Đức Giêsu. Đấng Mêsia người người đợi trông. Thể hiện, cả ở Vương quốc của Ngài, qua chữa lành. Hoà giải và hoá giải. Những là, giải thoát dân con của Ngài khỏi quyền uy của sự dữ/ác thần.
Từ đầu, dân con đã kinh ngạc về điều Đức Giêsu làm, nên mới hỏi: “Trẻ trai này há chẳng phải là con bác Giuse, thợ mộc sao?” Nghĩa là, con bác thợ mộc mà cũng thông hiểu mọi sự, ư? Họ trông đợi gì nơi Đức Giêsu, khi “thấy” được việc Ngài làm? Chúa đọc được ý nghĩ của họ, nên Ngài bảo: “Thầy lang ơi, hãy cứu lấy mình!” Điều này, không nên hiểu theo nghĩa: Chúa chữa được gì cho chính Ngài. Mà là, việc Chúa làm cho cộng đoàn Nadarét là điều dội vang ở Ca-pha-na-um và nơi khác, ở Ga-li-lê.
Kế đó, Chúa nói: “Không ngôn sứ nào được chấp nhận ở quê mình.” (Lc 4: 24) Minh chứng điều này, Ngài đưa ra trường hợp ngôn sứ Ê-li-a và Ê-li-sa, hai vị được nối kết với việc Đấng Mêsia sẽ đến. Ê-li-a được gửi đến, là để trợ giúp bà goá ở Xi-đôn, vùng ngoài Do thái. Trong cơn đói . Ở trong vùng. Nhưng, sao ngôn sứ lại chỉ đến với người ngoại? Người Do thái cũng chịu một số phận, như người ngoài, chứ?
Cũng thế, ở Do thái, nhiều người phung hủi vẫn chờ và mong, được chữa lành. Thế mà, Ê-li-sa lại được gửi đến với Na-a-man. Tướng Xy-ri. Kẻ địch thù, của Do thái. Chúa kể chuyện, xem ra có vẻ khiêu khích? Trả lời vấn nạn này, cũng nên xem Tin Mừng thánh Mác-cô, có đoạn viết:
1. Dân thành Nadarét biết gia đình Chúa quá rõ, nên không sẵn sàng đón nhận Ngài. Họ cũng chẳng đón nhận thông điệp về Con người. Về sứ vụ Ngài thực hiện. Đây là ví dụ điển hình nói lên chuyện “bụt nhà không thiêng”. Tức, người quen không dễ chấp nhận chuyện “Ngài không chỉ là như thế, nhưng còn hơn thế nữa”.
2. Ở Tin Mừng thánh Mác-cô: Đức Giêsu chỉ chữa lành một đôi chút. Bởi, dân con ở đây không tin vào Ngài. Họ cũng chẳng có niềm tin nào hết. Ở đoạn khác, Tin Mừng cũng cho thấy: quyền uy Chúa chỉ chữa lành những ai thực sự tin tưởng. Hết lòng tin tưởng Ngài, thôi:“Hãy ra đi. Niềm tin của con đã cứu/đã chữa con.” Lời Chúa không mang tính khiêu khích. Kích động. Mà lời Ngài, chỉ diễn tả những gì xảy ra, ngay khi đó. Điều xảy đến, là: chính con dân Nadarét đã từ khước. Bác bỏ Ngài.
Trước nhất, dân con trong làng, là những người có thể nói lên mình cũng lĩnh nhận cùng một ân sủng. Một cung cách suy tư. Quyền bính, giống như thế. Nhưng khi quyền uy sức mạnh và ơn cứu độ trao cho Ngài, thì lại khác. Nên, khi nghe Chúa nói về chuyện dân con khó chấp nhận “bụt nhà mình”, họ lại xử sự như người ghen tức. Chỉ muốn xua đuổi khỏi thôn làng, nơi họ sống.
Nhưng, thánh Mác-cô nói: Ngài ngang qua làn mù sương, bỏ họ lại, mà ra đi. Đi, là đi vào cuộc sống của chính họ. Đi, bằng những lời gây khiếp sợ. Bằng, khuyến khích một nguyện cầu. Cầu, cho sự việc gây khiếp kinh, mình gặp phải. Sự việc, thường xảy đến với ta, như:
-Chúa ra đi, đến thẳng với ta. Với mọi người,
-Ta vẫn không nhận ra, là: Ngài đang hiện diện, ở với mình. Ngài là người sống quanh ta.
-Cả ta nữa, đôi lúc cũng khước từ Ngài,
Vì thế, Ngài mới đi. Đi một mình, không có ta. Và, vấn đề là: Ngài không bỏ rơi ta. Nhưng ngược lại, chính ta chối bỏ Ngài. Dù vậy, Ngài vẫn không tạo sức ép, bắt ta chấp nhận Ngài. Là tín hữu, ta cũng nên sẵn sàng mà đối đầu với tình huống nghịch chống lối sống Phúc Âm. Sống nghịch chống, thấy rõ ở bài đọc 2 trong đoạn thư do thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Cô-rin-tô, về quà tặng của Thánh Linh, ta vẫn nhận. Đó là tình yêu. Là, quà quý giá. Ơn đặc sủng.
Quả thật, tình yêu là quà đặc sủng. Yêu, là biết nhận lĩnh ơn đặc sủng. Rồi, cho đi. Cho, hết mọi người. Người Hy Lạp xưa, có 3 cụm từ để diễn tả chữ “yêu”, là: eros, philia và agapè. Nói tắt, eros, là tình yêu say mê, rất thể xác. Tình của người trẻ. Dễ vỡ tan. Philia, là tình bằng hữu. Rất cố hữu. Đậm sâu. Chân thật. Là, quan hệ hỗ tương giữa hai người. Tình, hàm ngụ sự mật thiết. Rất trinh trong. Là, tình yêu cao vời vợi. Nhưng, không là tất cả. Ở vợ chồng. Tình, của hai người. Mà thôi.
Agapè, là thứ tình mà thánh Phaolô muốn nói. Ở đây. Tình thân thương nhất loạt. Không điều kiện. Luôn mở ngỏ. Để, mọi người yêu thương nhau, không đòi đáp trả. Quay ngược lại. Là, Tình thương Chúa vẫn có. Với mọi người. Tình đặc thù, của những người đi theo Chúa. Thực tình mà đi theo. Tình vẫn có, trong tương quan với hết mọi người. Ở khắp nơi. Agapè, là Tình mà người người trao cho nhau. Cho, cả những kẻ hãm hại mình.
Thánh Phaolô nói: không có agapè tình rất mến, thì quà tặng của Chúa Thánh Linh sẽ mất ý nghĩa:
“Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của thần thiêng đi nữa, nếu không có lòng mến, thì tôi cũng chỉ như thanh la phèng phèng. Giả như tôi nói tiên tri, biết hết mọi điều, có niềm tin chuyển núi dời non mà lại không có lòng mến, thì tôi cũng chẳng là gì hết…” (1Cr 13: 2-5)
Thêm nữa, các đặc thù của lòng mến agape, là sự nhẫn nhục. Hiền hậu. Không ghen tương. Vênh vang. Tự đắc. Không làm điều bất chính. Không tìm tư lợi. Nóng giận. Hận thù. Không mừng khi thấy gian ác. Nhưng vui, khi thấy điều chân thật. Agapè lòng mến, biết thứ tha tất cả. Tin tưởng tất cả. Hy vọng tất cả. Chịu đựng tất cả. Lòng mến không bao giờ mất đi. Vẫn kiên trì. Bền vững. Các ví dụ điển hình về lòng mến rất agape, ta đã thấy có ở Martin Luther King. Ở Mahatma Ghandi. Những vị, quyết triệt hạ bạo lực. Rất mực thách thức. Khẳng định phẩm cách của mọi người. Cả thù địch, lẫn người thân.
Tuy vậy, người có lòng mến, vẫn thấy đớn đau, đến với mình. Tại sao?
Đớn đau/âu sầu là kết quả của lỗi phạm. Của cuộc đời rất xung và rất khắc với tình thương. Với sự thật, Xung và khắc, sản sinh đớn đau thể xác. Sản và sinh nhiều cảm xúc lẫn tâm thần. Đớn đau/âu sầu đến từ quyết tâm thực hiện cung cách của sự thật. Của tự do. Lòng thương xót. Phúc Âm hôm nay, là ví dụ cụ thể về quyết tấm ấy. Giống Đức Giêsu, Đấng thương yêu trọn vẹn, hơn ai hết. Ngài vẫn bị dân con người đời khước từ, ghét bỏ. Rồi, huỷ diệt. Ngài chấp nhận đớn đau/âu sầu, để duy trì sự tốt lành và trọn vẹn, nơi ta.
Mâu thuẫn/đối chọi còn thấy nơi tình thương yêu/giùm giúp, hết mọi người. Giúp, không ý đồ. Thành kiến. Nhưng, vẫn bị khước từ. Ghét bỏ. Ghét và bỏ, từ các đấng bậc đạo đức như Pharisêu/Biệt Phái, nữa. Một kinh nghiệm xương máu được ngôn sứ Giêrêmia diễn tả ở bài đọc 1, khi trích dẫn Lời Chúa: “Ta đã thánh hoá ngươi. Đặt ngươi làm ngôn sứ cho muôn dân.” Và, Chúa nói:”Chính Ta đã làm cho ngươi nên thành trì kiên cố. Nên cột sắt tường đồng, chống cả xứ.” (Gê 1: 18) Chống lại khước từ và ghét bỏ, Ngài cam kết:“Ta sẽ ở với người để giải thoát.” (Gê 1: 19)
Đó là kinh nghiệm từng trải, mà các ngôn sứ truyền rao Lời Chúa đã và sẽ gặp. Luôn mãi. Mặt khác, thong điệp về Sự Thật và Lòng mến đã bị khước từ, cùng bác bỏ. Người công chính, vẫn bị bách hại. Lợi dụng. Nhưng, được Chúa bổ sức để đương đầu với mọi âu sầu. Đớn đau. Đó là quyết tâm của một Martin Luther King, đã lướt thắng. Thắng, khi ông ra khỏi nơi cầm tù. Đày đoạ. Dù vậy, khác với âu sầu/đớn đau do lỗi phạm tạo ra, vẫn còn đó niềm vui nho nhỏ. Vui tự tại. Vui an bình, Chúa phú ban.
Với quyết tâm thực hiện lòng mến rất agapè, ta cứ hân hoan, mà ca hát. Hát rằng:
“Đời phai mau, người ghen nhau, Lòng vẫn cứ ngọt ngào, Miệng ru nhau những ân tình sâu.” (Phạm Duy – Đừng xa nhau)
Vẫn ngọt ngào. Ru tình sâu, Dù, tình ấy có làm mình đớn đau. Âu sầu. Khóc hận. Vẫn nói với mọi người, Lời Chúa: “Không ngôn sứ nào được chấp nhận ở quê mình”. Và ra đi, mà nhận lĩnh. Tình thương của Đức Chúa. Vẫn dành để, cho mọi người.
Cụm hoa đào say bừng mới nở. Như tiên nga vừa thức giấc thần tiên, Hoa thẹn-thò dương mắt ngạc-nhiên, (thơ Thế Lữ)
Lc 5: 1-11
Ngạc nhiên. Dương mắt. Hoa thẹn thò. Thẹn thò, là như tiên nga vừa tỉnh giấc nồng thần tiên. Ngoài cuộc. Kinh ngạc. Vểnh tai. Vẫn cứ thế, người trần thế hết từ kinh ngạc này đến sửng sốt nọ. Là, trạng huống của người nghe, khi Chúa nói. Ở trình thuật.
Trình thuật, thánh sử kể về 3 yếu tố trong đời sống người đi Đạo. Đó là: niềm tin, kinh nghiệm và tông đồ. Niềm tin ta gồm 2 yếu tố. Yếu tố đầu, thánh Phaolô đã diễn tả ở bài đọc 2. Ở bài này, thánh nhân tóm tắt sứ điệp mà con dân Đạo Chúa, vẫn thực hiện. Tin, là chấp nhận rằng sứ điệp Chúa gửi chính là sự thật. Đáng ta tin. Với nhà Đạo, niềm tin thường dừng lại, ở ngay đó. Nếu chấp nhận giáo huấn của Hội thánh, sao ta vẫn nghe người người kháo láo nhau: “Người này có lòng tin. Kẻ kia mất.”
Có một điều, là: nhiều người Công giáo cứ thích để giờ ra mà phân tích rất chi tiết, thế nào là chính thống. Thế nào không. Rồi từ đó, họ nghĩ rằng ai đi trệch khỏi niềm tin đích thực, sẽ bị lên án. Với người khác, niềm tin có thể làm ta đau đớn. Què quặt. Cố chấp.
Nhưng, cũng có lĩnh vực khác của niềm tin mà ta quên, hoặc không biết. Tin, là ý tưởng chủ chốt của Tin Mừng. Tiếng Hy lạp gọi là pistis, có nghĩa là: tin. Căn bản của niềm tin, lại là “hy vọng”. “Phó thác”. “Tin tưởng”. Tin vào Đức Giêsu, là đặt hết tin tưởng/phó thác, ở nơi Ngài. Vẫn có đôi chút khác biệt giữa câu nói “tôi tin anh/chị”, có nghĩa là: điều anh/chị nói, đều rất thực. Đáng để tâm. Đáng tin cậy. Trong khi đó, “tin vào anh/vào chị” lại có nghĩa: tôi sẵn sàng trao trọn con người tôi trong tay anh/tay chị. Hoặc, “Tôi tin điều anh/chị nói” và “tôi hoàn toàn tin tưởng vào anh/chị”. Điều này lại mang ý nghĩa khác hẳn. Áp dụng, một cách rất khác.
Cả hai lãnh vực của niềm tin đều có nghĩa, nếu đề cập đến tín hữu Đức Kitô. Ý nghĩa sau, mới là thử thách đích thực. Tin đích thực, không chỉ là chấp nhận nội dung sứ điệp, Chúa đem đến. Nhưng, còn hàm ngụ phó thác trọn vẹn, trong tay Chúa. Để Ngài dẫn dắt, cách trọn vẹn. Như trò chơi theo nhóm. Chơi kiểu này, ta để cho bản thân mình rơi vào vòng tay người khác. Tin rằng, người ấy sẽ không để mình rơi/té xuống sàn. Không chỉ lời trấn an: “Tôi sẽ không để anh/chị ngã đâu”, là đủ. Nhưng, cần mọi người tham gia, đóng góp vào việc nâng đỡ, người ấy nữa.
Phúc Âm nay nói lên cũng một điều, giống như thế. Thánh Phêrô và bạn chài của thánh nhân, đều là những chuyên gia, ngành chài lưới. Sau một đêm mệt nhoài đánh lưới, chẳng được gì. Ấy thế mà, khi Chúa thôi giảng về sứ điệp của niềm tin, Ngài đã đề nghị ngay với dân chài các thánh, hãy “ra khơi”. Bủa lưới. Thoạt khi ấy, đã có yếu tố hoài nghi lọt vào đầu. Hoài nghi, về Lời của Chúa, nên thánh Phêrô mới nói:
“Thưa Thầy chúng tôi đây (dân chuyên nghiệp) đã vất vả suốt đêm mà không bắt được gì. Nhưng vâng lời Thầy (là Đấng nghiệp dư), chúng tôi sẽ ra đi mà thả lưới”.
(Lc 5: 5)
Kết quả vượt quá sức tưởng tượng, của các thánh. “Các ngài đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá.” Đây là trắc nghiệm đầu tiên của niềm tin nơi Chúa. Nay, cũng vẫn là lời kêu gọi gửi đến với ta: “Hãy ra chỗ nước sâu, mà bắt cá….”. Có nghĩa là, cứ tin vào Tôi đi, các ông sẽ kinh ngạc, đến vui thích.” Quả thật, ta chẳng thể nào học đòi tin ai cho đến khi ta đạt lĩnh vực tin tưởng một cách vô điều kiện. Tin, vào Đường lối/cung cách Chúa làm. Tin, không chần chừ. Ái ngại. Không còn ngờ.
Đành rằng, kết quả vụ cá đã khá nhiều, là biểu tượng về những gì các thánh và những vị kế tục sẽ làm sau này, nhằm lôi kéo mọi người theo chân Chúa. Cứ tin và theo chân Chúa, chắc chắn mùa gặt nào cũng đạt kỷ lục. Thành tựu nào cũng đều tốt. Đó, là việc của Chúa. Việc của ta, chỉ là tin tưởng. Phó thác, mà thôi.
Yếu tố thứ hai của trình thuật hôm nay, là: kinh nghiệm. Kinh nghiệm nối kết niềm tin. Nhiều người được dạy: hãy chỉ giới hạn trong niềm tin Kitô giáo. Chỉ tin vào những gì được dạy. Ở nhà. Trong Hội thánh. Hoặc, ở trường thôi. Lịch sử từng chứng minh: có nhiều hiện tượng lạ kỳ nơi Đạo Chúa. Hiện tượng có được từ “kinh nghiệm”. Giám mục Ronald Knox, sau ngày trở về với Hội thánh, ông đã viết cuốn sách có tựa đề “Lòng phấn khởi”, để diễn tả tâm trạng của những người đã từng kinh nghiệm giữ Đạo. Nhưng, vẫn có cái nhìn vặn vẹo về sứ điệp của Đạo Chúa.
Ngày nay, khá nhiều người tự cho mình có ơn lạ về thị kiến. Ơn lạ, với sứ điệp đặc biệt Chúa phú ban. Được Đức Mẹ hiện ra, với riêng mình. Cùng lúc, nếu ta chỉ nhấn mạnh về một tín điều nào đó thôi, thì điều đó cũng không hẳn là tốt. Bởi, làm thế dễ biến Đạo Chúa thành một thứ tôn giáo bâng quơ. Không tình tiết. Một thứ lề luật. Hoặc, tôn giáo trừu tượng, theo nghĩa xấu. Xa vời tình thương, tương quan với Chúa. Với con người. Khác nào chuyện, ta quá đặt nặng chuyện linh mục mặc áo gì, mầu gì khi làm lễ. Trong khi đó, lại quên cảnh tình của người nghèo, đang chầu chực xin ăn xin, ở cửa nhà thờ.
Người Công giáo, trên hết và trước hết, là người có kinh nghiệm về Đức Chúa. Kinh nghiệm kiếm tìm tương quan mật thiết với Chúa, vào mọi lúc. Là, nhận ra rằng Ngài đang thử thách niềm tin ta có, để ta biết yêu thương, và xót xa. Là, thực hiện sự công chính. Sống tự do, mà giùm giúp. Tự do, trong hoà hoãn. Tự do, đối xử tử tế. Để chấp nhận. Chấp nhận kiếm tìm Ngài nơi mọi sự. Có như thế, ta mới sống đời an vui. An và vui, giữa mọi khổ đau. Sầu buồn. Bất ổn. Điều này còn quan trọng hơn là tìm cách giải thích nội dung ý nghĩa Chúa Ba Ngôi. Nội dung, tín điều Mẹ Vô Nhiễm. Có nhà văn Trung cổ nọ từng viết: “Tôi thích có kinh nghiệm sám hối hơn là tối ngày chỉ tìm định nghĩa ý tưởng đó, mà thôi.”
Chuyện thứ ba, là: “tông đồ”. Cụm từ này khác hẳn cụm từ “Làm thân đồ đệ Chúa”. Là đồ đệ, căn bản là trở thành người theo chân ai đó. Một vị thầy. Một cố vấn. Đồ đệ hay đệ tử, là người muốn học hỏi điều hay/lẽ phải, từ thầy mình. Học rồi áp dụng vào đời mình. Theo nghĩa này, thì mọi người chúng ta đều được gọi mời làm đồ đệ, của Đức Chúa.
Làm đồ đệ theo Chúa, không dừng lại ở đây mà còn đòi hỏi nhiều hơn nữa, như trong các bài đọc hôm nay. Đòi rằng, ta không chỉ nên theo chân Chúa. Biến Đường lối của Chúa, thành cung cách sống cho đời mình. Nhưng, còn truyền đạt sứ điệp của Chúa, đến với người khác.
Hơn nữa, đồ đệ có niềm tin phó thác, có kinh nghiệm còn là nhận biết thân phận của mình trong trình thuật hôm nay, khi thánh Phêrô sau lúc thất kinh về sự kiện đánh được cá/tôm nhiều đến rách lưới. Đã bị hớp hồn, về sự việc vừa xảy đến. Tức, thấy mình đang hiện diện trước sức mạnh/quyền uy của chính Chúa. Khi ấy, thánh nhân đã không còn ngạo mạn, cậy vào sức mình. Vào tài khéo léo của mình. Nhưng đã thấy mình thật nhỏ nhoi. Không là gì. Chẳng đáng kể.
Đó là lúc, thánh nhân thưa: “Lạy Chúa, xin tránh xa con vì con đây đầy lỗi phạm.” Quả thật, đây là dấu hiệu về kinh nghiệm ta có với Chúa. Ai từng giáp mặt Chúa, đều thấy mình chẳng là gì cả. Chỉ bé nhỏ. Xoàng xĩnh. Đó, là những điều ta thấy có ở cả ba bài đọc. Bài đọc 1, ngôn sứ Isaya nói: “Khốn thân tôi, tôi chết mất! Vì tôi là một ngưòi môi miệng ô uế, thế mà mắt tôi lại thấy được Đức Vua là Đức Chúa các đạo binh.” (Is 6: 5) Bài đọc 2, thánh Phaolô cũng kêu lên: “Tôi là người hèn mọn nhất trong số các Tông đồ, tôi không đáng được gọi là tông đồ.” (1 Cr 15: 9)
Dù thế cả thánh Phêrô, Phaolô lẫn ngôn sứ Isaya, vẫn được Hội thánh coi là tông đồ của Chúa. Cụm từ “tông đồ” rõ ràng chỉ định người được uỷ thác và sai đi chuyển tải một sứ điệp. Chỉ định việc thực hiện sứ vụ Thầy giao phó. Cả ba vị, đều được mời. Được gọi. Mỗi vị mỗi cách. Mỗi vị đều nhận chân rằng mình không chỉ là “Tín hữu Đức Kitô” mà thôi, nhưng còn là đồ đệ. Người theo chân Thầy. Là, tông đồ rao giảng. Là, sứ giả. Rất trung kiên.
Làm thế, các ngài không chỉ nói lên bằng lời, từ môi miệng. Nhưng, là chứng nhân. Chính mình ra như thế. Đã làm thế. Đó còn là ý nghĩa câu nói từ miệng ngôn sứ Isaya:
“Dạ con đây, xin hãy sai con đi!” Như thánh Phaolô cũng viết; “Tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả các vị khác, nhưng không phải tôi, mà là Thiên Chúa, cùng với tôi.” (1Cr 15: 10).
Và Chúa cũng nói với Phêrô:
“Từ nay, anh sẽ là người thu phục, chài lưới người.” (Lc 5: 11)
Cuối cùng, niềm tin dẫn đến nhiều điều tốt đẹp, nếu ta phó thác trọn vẹn nơi Chúa. Chúa sẽ tạo cho ta kinh nghiệm có một không hai. Tạo niềm vui biết để Chúa hoạt động trong cuộc sống của chính ta. Đây là kinh nghiệm ta cần san sẻ. Bởi, không phải vì ta được bảo: hãy làm thế. Mà còn vì, ta không thể không làm như thế. Sứ vụ của đồ đệ đích thực, sẽ đưa ta đến với sứ vụ đích thực. Là kinh nghiệm mà thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan từng bỏ tất cả, để theo Chúa.
Trong tinh thần dấn bước theo Chúa như các thánh đã làm, ta hãy hát lên lời ca vui, mà rằng:
“Người đi, đi không thôi; ngày thế giới lên nguồn vui. ngát như hương lúa mùa, sẽ lên đường trở về.” (Phạm Duy – Lữ Hành)
Cứ vui. Và cứ đi. Tự khắc sẽ có kinh nghiệm. Về niềm tin. Người đồ đệ, của Đức Chúa.
Em ban hạnh phúc chứa đầy tay. Dịu dàng áo trắng trong như suối Tỏa phất đôi hồn cánh mộng bay.
(thơ Huy Cận)
Lc 6: 17, 20-26
Hạnh phúc em đan, đầy tay đấy. Thần tiên đôi lứa, hồn mộng bay. Hạnh phúc Chúa ban, đâu như vậy. Thần tiên suốt ngày, nào chỉ cho mỗi đôi lứa. Thần tiên/hạnh phúc, Lời Chúa dạy, những phúc cùng hạnh, Chúa gửi đến hết muôn ngưòi. Gửi, như thánh Luca từng ghi chép và gửi gắm, nơi trình thuật.
Trình thuật hôm nay, rõ ràng thấy điều Chúa dạy về hạnh phúc. Hạnh phúc gắn liền với niềm tin, của mọi người. Rõ ràng, đã có niềm tin nơi giáo huấn Chúa gửi. Ngài gửi, không chỉ gửi cho các tông đồ Ngài chọn lựa, thôi. Nhưng cho cả dân con trong/ngoài Do thái. Tức, hết mọi người. Đây không là ơn gọi, mà là cung cách để ta có thể ngang qua đó mà sống cùng. Sống với, bất cứ ai.
Trình thuật giới thiệu bản văn thánh Luca bàn về “Hạnh Phúc”. Hiến chương cơ bản, khác với bản văn của thánh Mát-thêu. Với thánh Mát-thêu, là hiến chương 8 điều. Còn thánh Luca, lại những hai cặp 4 điều khoản, rất rõ ràng. Suy cho kỹ, ta sẽ cho rằng bản văn của thánh Luca gần gũi Lời dạy của Đức Giêsu hơn. Còn văn bản của thánh Mát-thêu, là suy tư của Hội thánh, thời tiên khởi.
Ở 4 điều khoản đầu hiến chương theo thánh Luca, hẳn sẽ có người hỏi: ai là người xét Lời Chúa như một việc nghiêm chỉnh? Với 4 điều khoản sau, có người sẽ nói: xã hội nay khuyến dụ mọi người chạy theo giàu sang/phú quý, để hưởng thụ. An hưởng – tiêu thụ, thú vui trần thế, dễ như chơi. Với người đời, tiền bạc, địa vị và quyền bính, là ba thứ quan trọng, dễ biến thành thần, thành tượng. Dễ lên ngôi. Được phụng thờ. Thờ như thế, có tạo hạnh phúc không? Là người Công Giáo, ta có thể vừa đạt thành quả, tức giàu sang, vừa là người lành thánh/siêng chăm, chăng?
Hiến chương Nước Trời, theo văn bản của thánh Luca gồm cả phúc/hoạ, là để gửi thẳng cho mọi người. Không trừ ai. Gửi, những người sống khó nghèo. Sầu buồn. Bụng rất đói. Họ gồm những người rất đông đảo, sống khắp nơi. Trên thế giới. Họ có mặt cả vào thời vi tính, thế kỷ này. Nói cho cùng, cục diện thế giới nay có gì khác lạ thời của Chúa, đâu. Mặc dù, thời nay ta có đủ phương tiện để giải quyết. Giải quyết cả chuyện tâm tư, lẫn tâm tình.
Chúa hướng về người nghèo/khổ. Những người chẳng bao giờ thấy mình sung sướng. Sống rất khổ. Chỉ vì họ quá nghèo. Quá đói. Phải chăng đây là một mâu thuẫn? Không! Hiến chương hạnh phúc Chúa nói đến, không là phần thưởng dành cho người không có khả năng, đạt đến. Hạnh phúc Chúa hứa ban, là tình Ngài yêu thương, rất mực. Dù, ta có khó khăn về vật chất. Dù, ta thiếu thốn rất nhiều điều. Chúa vẫn yêu.
Chúa yêu người nghèo, chẳng phải vì họ tốt lành hơn ai. Mà vì, họ mãi mãi vẫn cứ nghèo. Nghèo, về vật chất. Nghèo, cả tinh thần. Túng, cả những thứ cần thiết nhất, để sống cho ra người. Trong khi đó, người giàu có vẫn cứ phè phỡn. Ăn chơi. Phí phạm. Chẳng chú ý đến một ai. Chí ít, là người nghèo hèn. Người yếu kém. Đói ăn. Thiếu mặc.
Nghèo hèn, thường đính kèm theo sau, một tủi hổ. Sầu buồn. Dễ bực tức. Tuy thế, Chúa vẫn yêu. Ngài yêu hết mọi người. Yêu người nghèo, Ngài thương cả phần sâu thẳm sầu buồn, lẫn đói ăn. Thiếu thốn. Đây chính là thông điệp Ngài gửi đến, hết mọi người. Để người người, rồi sẽ nhớ. Nhớ, lắng tai mà nghe ra. Nhớ, để ưu tư/quan ngại đến người yếu nghèo. Sầu buồn. Đói kém.
Nghèo. Buồn. Thiếu điều kiện và thiếu phương tiện, không là dấu hiệu của một trừng phạt/bất ưng, do Chúa gửi. Ngược lại, là khác. Lời Chúa nói, không là hứa hẹn về một tương lai rực sáng. Cũng không là khích lệ, để mọi người đều làm thế. Mà là, sự kiện/lời lẽ, ta cần nghe. Cần biết. Bởi, ta vẫn được kêu mời làm chứng nhân cho Tình yêu Chúa ban tặng. Người khổ đau/nghèo hèn đều rất cần kinh nghiệm về tình Chúa yêu thương, nên mới để họ có được cảm nghiệm những chuyện như thế, ngang qua ta.
Nghèo. Đói. Thiếu mọi thứ trong đời, không là điều khiến ta trách cứ đặt điều cho Chúa. Nhưng, cho ta. Cho, những người thuộc nhóm/đoàn rủng rỉnh. Giàu sang. Ta không thể gọi mình là đồ đệ Chúa, trừ phi ta vẫn hăng say tranh đấu, chống lại cảnh nghèo và đói. Say và hăng, quyết cất bỏ đi mọi ưu tư/hãi sợ về những mối hoạ, còn tiếp diễn. Phi trừ ta lên án/giáng hoạ những ai đã giàu sang/mãn nguyện rồi, mà vẫn cứ khước từ giùm giúp người anh/người chị, đang còn thiếu. Xem thế, thì giàu sang chỉ là tai hoạ khi nó không được sẻ san cho những ai cần đến. Không phân biệt.
Không phân biệt, là bởi: Hội thánh là dấu chỉ của Vương Quốc Nước Trời. Ở nơi đó, người giàu/kẻ nghèo đều được chúc phúc. Mọi thiếu thốn, đều chấm dứt. Ở nơi đó, Vương quốc Nước Trời đã thực sự khởi đầu. Nếu có ai chưa nhận thấy, có lẽ cũng nên tìm lại lương tâm của mỗi một người, trong ta. Người giàu là những kẻ đáng ta lánh xa, chỉ khi họ không thực tâm san sẻ những gì mình dư dả, cho người người đang túng thiếu.
Vương Quốc Nước Trời Chúa định mẫu, sẽ không còn kẻ giàu/người nghèo nữa. Nhưng, của cải sẽ được phân phối đồng đều, cho mọi người. Đó là trọng tâm của Tông thư “Bước Tiến Muôn Dân” do Đức Giáo Hoàng Phaolô VI soạn thảo. Biến điều đó thành hiện thực, chắc sẽ chuyện dài lâu. Bởi, bao lâu ranh giới giàu/nghèo vẫn còn đó nỗi buồn, thì ta vẫn không thể trách Chúa hoặc Thầy Chí Ái được nữa. Nhưng, có lẽ chính mình cũng nên cúi đầu, mà nhận tội. Vì mình vẫn không thực hiện được điều Chúa uỷ thác, từ ngàn năm.
Lời chúc phúc cuối Chúa dành để cho những người từng bị bức bách. Lời chúc này, có hơi khác với ba điều Ngài kể trước. Lời chúc này, là lời Ngài muốn gửi đến với đồ đệ, của Ngài. Các vị được gọi mời nhận lãnh vai trò của ngôn sứ. Nhận lãnh trách nhiệm hãy rao truyền thông điệp Ngài vẫn gửi cho những kẻ không hề tin vào Ngài. Hoặc, chưa biết đến. Phúc cho những người này, về cả 3 thời điểm: quá khứ, hiện tại, và tương lai.
Trước nhất, hạnh phúc sẽ đến như một phần thưởng. Phần thưởng, của Nước Trời. Thứ đến, người người được chúc phúc, là vì tất cả chúng ta sẽ cùng nhau san sẻ mọi sự. Sẻ và san, dù có đau thương. Sầu khổ. Hoặc, bị chối bỏ. Như Chúa từng có kinh nghiệm sống. Có sống sầu buồn khổ đau, ta mới thương cảm cho Chúa từng đau khổ, sầu buồn. Thứ ba, được chúc phúc là vì những gì ta làm đều rất xứng. Xứng đáng, với truyền thống ngôn sứ cao cả, nơi Giao Ước.
Thời hôm nay, có nhiều ngôn sứ từng cảm nghiệm khổ đau. Sầu buồn. Khích bác. Kinh nghiệm đến độ, dám chết cho sự thật. Cho công bình. Tự do. Các vị từng có kinh nghiệm khổ đau/sầu buồn như: Giám mục Oscar Romero ở El Salvador. Như, Martin Luther King, ở Hoa Kỳ. Như, Mahatma Gandhi, ở Ấn Độ. Và nhiều vị khác đã và đang sống hiện thực điều Chúa chúc phúc, ở nhiều nơi. Có những nơi, rõ ràng hiển hiện trạng huống trong đó Hội thánh vẫn bị bức bách. Hành hạ. Khổ sở. Đếm kỹ, ta sẽ thấy là: thế kỷ 20 vừa qua, rất nhiều vị đã dám chết cho niềm tin vào Chúa, nhiều hơn các thế kỷ trước.
Sầu buồn/khổ đau nơi ngôn sứ, là niềm tự hào hứng khởi cho thế hệ mai rày. Ở khắp nơi. Quả là, ngôn sứ ngày nay vẫn kinh qua nhiều cảm nghiệm về khổ đau/sầu buồn. Các ngài sẽ không còn nuối tiếc việc mình làm. Không tiếc nuối, để giữ lòng thủy chung với Tin Mừng, của Chúa. Có vị lại đã viết: “Chúa hứa ban cho đồ đệ mình những ba điều: không biết hãi sợ. Tuyệt đối hạnh phúc. Luôn bị rắc rối.” Phải chăng đó là nghịch lý/nghịch thường của Đạo Chúa? Của tình yêu?
Chứng minh cho một đáp trả, ta hãy hát lên lời ca hùng hồn, đầy nghiệm suy. Như sau: “Đừng xôn xao, đừng khóc giấu, Đừng oán trách phận bèo, Vì sông xa vẫn trung thành theo.” (Phạm Duy – Đừng Xa Nhau)
Dù có là sông xa. Phận bèo. Cũng đừng oán trách. Khóc giấu với khóc thầm. Nhưng cứ trung thành, mà theo. Theo Chúa. Theo người anh người chị, trong cộng đoàn Nước Trời, từng đi trước.
“Con đường đá sỏi, mình từng đi” Từng hẹn hò xưa, từng thầm thì. Tình chết rồi, đường rêu đã phủ. Một thoáng ngậm ngùi thương tiếc chi? (thơ Hoàng Hương Trang)
Lk 7: 36-8:3
Đường sỏi đá em đi, cũng là đường mọi người tiến bước. Rêu đã phủ. Từng thầm thì. Tình đã chết. Thế, đường đời anh về, có là đường tình chào đón Chúa ghé thăm. Như, người nữ phụ ở trình thuật, đã làm ngày hôm trước.
Trình thuật ngày hôm trước, kể về người nữ phụ đổ dầu rửa chân Chúa, ở nhà Simôn Biệt Phái, rất Pharisêu. Trình thuật kể, là kể về người Pharisêu mời Chúa đến nhà mình, để có lợi. Thời của Chúa, nhóm Biệt Phái đông đến 6 ngàn ngưòi. Họ có mặt ở tận Palestin. Được quyền dạy dỗ ở nguyện đường. Ăn mặc, lại chỉnh tề. Và còn, tự coi như mình có quyền chú giải Lời Chúa và điều hành mọi chuyện ở đền thờ, rất oai phong.
Ý đồ của Biệt Phái Simôn, thật ra cũng không rõ rệt. Có thể, ông chỉ muốn khoa trương với mọi người, là: ông có khả năng mời Chúa đến nhà. Có thể là, ông chỉ muốn thách thức về cung cách Chúa hành xử. Giảng dạy. Đối ứng với tâm trạng đầy cao ngạo của ông, Chúa vẫn nhận lời cùng bàn với mọi giới. Từ nhóm người quyền thế. Đến đám tệ nạn. Bê tha. Tội lỗi. Ngài không kỳ thị, xa cách một ai. Dù người ấy sang/hèn. Giàu/nghèo. Ngài vẫn đến. Cùng ăn trên giường, theo thói tục của Do thái.
Thật sự, thì Biệt Phái Simôn hôm ấy, muốn đặt Ngài vào trạng thái khó xử. Nên, đã để ngỏ cửa cho người nữ phụ lăng loàn/tội lỗi, bước vào nhà. Để minh chứng, là nhà của bậc cao sang quyền quý, không đóng kín. Thách thức hôm nay, từa tựa truyện người nữ ngoại tình, đáng ném đá. Vào buổi khác.
Trình thuật hôm nay muốn chứng tỏ, hành vi của người nữ phụ, rất thật tình. Cũng giống như hành động của mọi phạm nhân khác, dẫy đầy ở xã hội. Phạm nhân hôm ấy chỉ muốn gặp Chúa, vì nghe nhiều về Ngài. Nên, muốn một lần được diện kiến. Thế nên, chị đã lẳng lặng bước vào trong, để gần Chúa, trước khi bị ngăn cản.
Thoạt thấy Ngài, chị đã bật khóc. Nước mắt dàn giụa đẫm ướt chân Ngài. Vội lau chân Ngài bằng suối tóc. Suối tóc đây, là biểu tượng chỉ muốn đậy che quá trình tội lỗi, đáng chê trách. Hành vi hôn chân đổ dầu, còn diễn tả trạng huống thống hối, rất thường tình. Của người xưa.
Biệt Phái Simôn, dù dễ tính cách mấy, cũng thấy khó chịu. Khó chấp nhận cảnh tượng người nữ lăng loàn không mời mà đến, dám dùng nước mắt lau chân Vị Thực Khách Cao Sang, ngay ở nhà mình. Ông bèn suy tính: nếu Đức Giêsu thực sự là Vị Ngôn Sứ như mọi người đồn, hẳn cũng biết người nữ phụ ấy tai tiếng đến thế nào. Chí ít, còn cho phép chị thực hiện ý đồ đầy xúc phạm, ngay trước mắt.
Đức Giêsu biết rõ người Biệt Phái tên Simôn, đang nghĩ gì. Định làm gì. Ngài bèn kể cho ông nghe một ví dụ. Để thử lòng. Để rồi, áp dụng vào tình huống đang xảy đến, chủ ý muốn nói: ông cũng là người rất có tội. Nhưng không biết mà thôi. Tội của ông, là không lịch sự đủ với đấng bậc cao sang vị vọng, trong giao tiếp. Không cho khách rửa tay chân. Cũng chẳng ôm hôn hoà bình. Chào đón. Theo phong tục thời buổi ấy.
“Tội của chị tuy nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị yêu mến nhiều.” (Lc 7: 47) Như thế có nghĩa: người nào yêu ít, được tha ít. Và điều này, được áp dụng cho mọi giới. Cả Biệt Phái. Kinh Sư. Lẫn nhà Đạo. Thế rồi, quay về phía nữ phụ, Chúa nói:“Tội của chị đã được tha!” (Lc 7: 48) Đây, là xác quyết thực tế, hơn là độc thái hoá giải. Vì thế, người cùng bàn mới tự hỏi: “Ông này là ai mà lại tha được tội?” Nghe thế, Chúa bèn thêm: “Lòng tin của chị đã cứu chị. Hãy đi bình an.” (Lc 7: 50)
Ở đây, muốn nhận rõ điểm đặc trưng nơi trình thuật, người nghe phải đi sâu vào truyện kể, để thấy được ý chủ lực, của tình tiết. Tình tiết, cho thấy sự bình an nội tại và sự tự do của Chúa, khi sự việc xảy đến. Chúa không lúng túng. Chẳng khó chịu. Ngài không rút lui. Cũng, không bảo người nữ phụ hãy ngưng làm.
Ở đây nữa, hành vi của chị mang nhiều cảm xúc. Hối hận. Và, thực khách hôm ấy –cũng như người nghe hôm nay- đều thấy bực bõ. Khó chịu. Trước cảnh ngứa tai. Gai mắt. Khá lạ kỳ. Chỉ có Chúa không tỏ dấu gì hết. Vì Ngài biết rõ việc chị làm. Và, Ngài chẳng bận tâm đến động thái của người bàng quan, đứng ngoài. Thường vẫn suy nghĩ khác. Và, hành động, theo cảm tính. Có khi còn bẻ quẹo.
Sự thật ở đây, người nữ phụ xử sự rất thật tình. Hối hận. Bận tâm. Nên, chị có được kết quả. Có được lòng mến tràn đầy, từ Đấng có quyền uy tha thứ. Ngài thứ tha, nhưng không phô trương uy quyền được Cha ban cho. Trái lại, sự hối cải và niềm tin nơi chị đã đem lại cho chị ơn thứ tha. Thứ tha, là hành động diễn tả tình thương dâng tràn, kịp đến. Yêu thương và lỗi phạm, hai phạm trù không thể có chung một đất đứng. Cả hai không thể cùng ở chung nơi một người. Người nữ phụ lăng loàn hôm ấy, đã thực tình thương mến Chúa. Nên vì thế, có thể chị không là kẻ bê tha. Rất đáng tội.
Xã hội hôm nay, rất nhiều người làm quấy dù chỉ một lần trong đời, nhưng vẫn bị các mũ chụp, kéo dài suốt cả quãng đời còn lại, của chính họ. Dù họ thực tình muốn sửa đổi. Thiên Chúa không xử sự với con người, ra như thế. Ngài xử với con người, theo tình thế của chính họ. Ở đây. Bây giờ. Quá khứ của con người, không quan trọng, đối với Chúa. Quan trọng chăng, chỉ mỗi điều, là nay ta sống như thế nào? Xử sự ra sao? Có tương quan với Chúa, với mọi người, không?
Bài đọc 1 liên kết truyện kể về người nữ phụ tội lỗi, với Đavít. Ông tuy là người đạo hạnh, nhưng cũng có quá trình cướp vợ của vị tướng dưới trướng, là Uriah. Ông đã đưa vị tướng này vào chỗ chết. Kịp đến khi, tiên tri Nathan vạch trần tội của mình, ông đã hối. Nhờ đó, mới được thứ tha. Bài đọc hôm nay cho thấy Chúa xử sự khác người phàm. Ngài đặt nặng vào tha thứ. Chứ, không trừng phạt.
Bài đọc 2, thánh Phaolô cũng đã viết:“Người phàm được nên công chính, không vì đã làm những điều Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô.” (Gl 2: 16) Đó, là khác biệt giữa hành vi của Biệt Phái Simôn với nữ phụ tội lỗi. Nhóm người Biệt Phái có thói quen coi trọng việc giữ Luật, thôi. Nên, đã xét đoán người khác, cách sai lầm. Trong tầm nhìn của nhóm này, thì nữ phụ tội lỗi hôm nay, không đáng có được chỗ đứng trong xã hội. Trong khi đó, nữ phụ tội lỗi chỉ biết đặt mình dưới chân Chúa, mà hối cải. Thế nên, Chúa chấp nhận tha thứ cho chị. Và, tội của chị được hoá giải, nhờ lòng tin.
Lòng tin, không là động thái tri thức. Mà, là tác động của tình thương. Tin tưởng. Nhiều người trong đời, vẫn có thể liệt kê cả một danh sách dài đằng đặc gồm các tín điều về lòng tin, nhưng suy nghĩ của họ tuy có khác với Biệt Phái Simôn hôm nay, nhưng vẫn có thành kiến. Tức, quyết không dung tha. Và, ít nói đến yêu thương. Tha thứ. Hãy hiểu rằng, nếu agape, là cụm từ diễn tả “lòng mến” của Chúa, thì pistis là ngôn ngữ nói lên niềm tin, mà ta cần có để đáp lại lòng mến ấy.
Thánh Phaolô đã có kinh nghiệm từng trải về chuyện chết với Lề Luật, để sống cho Thiên Chúa. Nên, có câu nói để đời, như sau: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.” (Gl 2: 20). Vì đã kết hợp với Chúa, nên thánh nhân đã yêu mến Chúa hết mình. Cũng tựa như người nữ phụ tội lỗi, ở trình thuật. Đó, là gương lành cho mọi người. Đó, là ảnh hình ta noi theo.
Về các nữ phụ đáng trân trọng, trong Kinh Sách, Dorothy Sayers có lần viết:
“Có lẽ, đó là điều làm ta không mấy lạ khi thấy người đầu tiên có mặt bên nôi Chúa, là phụ nữ. Và, người cuối cùng ở lại nơi thập giá, cũng là nữ phụ. Các vị, chưa từng quen nam nhân nào như Đệ Nhất Nam Nhân Ngôn sứ, và là Thầy dạy, không rầy la. Nhưng vẫn hạ mình. Phục vụ. Đó, sự thể rất dễ nực cười, nhưng cao cả biết bao. Đó là thân phận người phụ nữ, mọi thời. Mọi chốn.”
Thân phận ấy, cũng là thân phận của mọi người, trước mặt Chúa.
Trong tinh thần chấp nhận thân phận của người phàm, quyết ra đi hiên ngang mà ca hát:
“Anh hãy đi cùng tôi Đến mãi tận chân trời Lặng nghe từ đất mới Nói thầm về ngày mai” (Trịnh Công Sơn – Hãy đi cùng nhau)
Đi cùng tôi. Mãi tận chân trời. Đi, để đến với Chúa. Với mọi người. Trong đời. Đi, để thấy rằng Chúa vẫn chờ đợi mọi người. Nơi những kẻ mang thân phận bọt bèo, tội lỗi. Đang cần ta. Chờ ta.
“Tình tôi như đoá hoa hồng Ở mương oan trái, trong lòng tịch liêu. Kinh đô cát bụi bay nhiều, Tìm đâu thấy một người yêu hoa hồng.” (thơ Nguyễn Bính)
Lc 9: 18-24
Tình của tôi. Và, của mọi người. Đều như đoá hoa hồng. Tịch liêu. Oan trái. Nhiều cát bụi. Tình Chúa cao cả. Lâu rày, thấy muôn nơi. Với muôn người. Như trình thuật, đà diễn tả.
Trình thuật, nay diễn tả tình tự thân thương. Nhiều cung cách. Thân thương, qua nguyện cầu. Một mình. Nguyện cầu, lúc trước khi các biến cố quan trọng, kịp xảy đến. Với Chúa. Ở trần gian, khi thấy Chúa nguyện cầu, chắc có người sẽ thắc mắc tự hỏi: Đức Giêsu đường đường là Con Chúa, sao Ngài lại phải cầu? Ngài cầu, là cầu với ai? Cầu những gì? Hỏi như thế, tức chưa thông hiểu cầu nguyện. Cầu và nguyện, trước nhất là hiệp thông với Cha. Hiệp thông, trong nghe/nhìn và nói năng. Có khi, cũng chẳng bằng lời. Chỉ lặng thinh. Lặng lẽ/làm thinh với môi trường mình đang sống. Có Chúa.
Rõ ràng, Chúa vẫn nguyện cầu cùng Cha. Ngài trân trọng thực hiện ý Cha. Rất trọn vẹn. Thế nên, khi dọn cỗ cho 5000 người ăn xong, quần chúng đã muốn tôn Ngài làm Vua, và Ngài đã lẳng lặng tìm nơi vắng vẻ, mà nguyện cầu. Nguyện cầu lúc đó là cùng với Cha vượt thắng năng lực cám dỗ, từ quần chúng. Ngài dư biết, chuyện ấy không là đường lối Ngài men theo. Trong nguyện cầu, Ngài tiến dâng Cha một thỉnh nguyện. Những thỉnh và nguyện, của người phàm. Là, mong cho sao chúng dân/đồ đệ thực hiện điều Cha muốn.
Và, Chúa hỏi: “Dân chúng nói Thầy là ai?” Đồ đệ thưa: “Họ bảo Thầy là Gioan Tẩy Giả.” Đến khi ấy, Phêrô thánh nhân đứng ra đại diện cho đồng môn tuyên ngôn cùng Thầy: “Thầy là Đấng Mêsia Chúa gửi đến.” (Lc 9: 20) Rõ ràng, bằng vào câu trả lời thật vững chắc, thánh Phêrô nói lên tương quan thật gần giữa đồ đệ Chúa, với Thầy. Không giống như tình huống trong đó quần chúng hoặc Hêrôđê xử tội Chúa, đồ đệ nay nhận ra Thầy là ai. Các thánh, nay đã biết Thầy là Đấng Chí Tôn Chí Thánh, Cha gửi đến. Cứu độ. Mọi người chờ.
Ngay lúc ấy, Chúa căn dặn đồ đệ, đừng quảng bá phát giác đó. Bởi, có nói ra thì chúng dân mọi người cũng chẳng tài nào hiểu được ý nghĩa của sứ vụ, Chúa cưu mang. Cũng chẳng thể nào, mưòng tuợng ra được một Đấng Mêsia mà mọi người chờ, lại không làm những điều mà mọi người kỳ vọng. Là, đánh bại quân thù, của Do Thái. Đem họ về với vinh quang, thời xưa cũ. Chứ họ đâu có nghĩ, Chúa lại bị lên án, rất thất sủng. Còn bị hành hình như tội phạm, rất tầm thường.
Chính vì thế, người nghe mới thấy hỡi ôi, khi Chúa nói: “Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ. Bị, các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ. Bị giết đi, ngày thứ ba sẽ trỗi dậy.” (Lc 9: 22) Kể từ đó, đồ đệ Chúa mới bắt đầu học biết về Mêsia Cứu Thế, các ngài theo. Xem như thế, Đức Giêsu không còn là anh hung cái thế của thời đại. Cũng chẳng là, nhà quán quân đem hỵ vọng đến cho dân, hầu khởi nghĩa chống ngoại bang, đang áp chế. Ngài cũng đâu là lãnh tụ giải phóng, của chiến tranh. Thời đó.
Ngược lại, Mêsia đây là Đấng bị chính các lãnh đạo của dân mình phế bỏ. Cũng sẽ bị xử tử và hành hình, do thế lực ngoại bang, chuyên chèn ép. Chính vì thế, nên có lẽ đã có một thứ “im lặng dễ sợ” xảy ra ngay sau khi Chúa hỏi. Cả cho đến lúc, Phêrô thánh nhân tỏ bày sự bực tức, mà thánh Luca không ghi chép.
Với Đức Giêsu, vinh quang/toàn thắng sẽ đến, nhờ tình yêu. Bằng vào, trung thành với sự thật. Trung kiên. Vẹn toàn. Không bạo loạn. Như bài đọc 1 quả quyết: “Ta sẽ đổ ơn xuống cho nhà Đavit và dân cư Giêrusalem, giúp chúng biết sống đẹp lòng Ta và tha thiết nguyện cầu.” (Dcr 12: 10) Nguyện cầu, để rồi chính họ và các thế hệ về sau “sẽ ngườc nhìn Ta mà than khóc Đấng chúng đã đâm thâu”. (Dcr 12: 10)
Nhận biết Chúa là Đấng Mêsia. Và, thấy Chúa đau khổ mà tội nghiệp, thôi chưa đủ. Ta còn được mời gọi làm đồ đệ, theo chân Chúa. Hôm nay, Chúa còn kêu gọi mỗi đồ đệ như ta, cần thực hiện: từ bỏ chính mình. Cần lĩnh nhận, thập tự mỗi ngày. Để theo Chúa.
Từ bỏ mình, là điều chẳng ai muốn. Và, khó hiện thực. Trái lại, ai cũng được khuyến khích thăng tiến chính mình. Chấp nhận con người mình. Thế nhưng, thăng tiến cá nhân cũng trăm ngàn cách. Cách tốt, cũng như xấu. Nếu theo cách tự do. Thương yêu. Thật sự. Ta chỉ thực hiện được, tuỳ người khác. Tuỳ môi trường. Nhất là, tuỳ việc tự đánh bại, chính mình. Đánh bại tính vị kỷ. Tính tự cao. Tự đại. Hoặc, tự đánh bóng cá nhân. Và, chấp nhận thân phận bọt bèo. Của mình.
Cách tốt nhất, là mở lòng mình ra mà đón nhận giá trị trong sáng Tin Mừng gửi đến, với ta. Cho ta. Chấp nhận thập giá, không có nghĩa, là: ta cứ đi ra ngoài mà tìm khổ đau. Cùng quẫn. Rối mù. Bởi làm thế, sẽ vạ lây. Rối trí. Hỗn độn. Cách tốt khác, là chấp nhận những gì gửi đến với mình, trong cuộc sống. Rồi, cứ thế mà hành xử theo cung cách tích cực. Dựng xây. Ngõ hầu, thấy được tình yêu và ân sủng Chúa ban, ngang qua kinh nghiệm từng trải. Dù, có phải trải qua nhiều tháng ngày sầu buồn. Khổ đau.
Bất cứ ai biết sống năng động và thực tế, như Chúa dạy, chắc chắn sẽ vui lòng chấp nhận đường lối sống: biết từ bỏ. Kể cả chuyện bị khinh khi. Miệt thị. Như thánh Phaolô từng quả quyết: “Tất cả anh chị em chỉ là một trong Đức Kitô.”(Gl 3: 28). Là một, là chấp nhận cùng nhau làm việc, cho những gì là Chân. Thiện. Mỹ. Để yêu Chúa.
Có như thế, ta mới trở nên như thánh Phaolô gọi, là: “mặc lấy Đức Kitô”. “Trong Đức Kitô”. (Gl 3: 27) Điều này, làm ta nhớ chiếc áo trinh trong ta mặc, ngày thanh tẩy. Bởi, nhờ thanh tẩy, ta đi vào với gia đình mới. Gia đình này, gồm các người anh/người chị là con Chúa. Nơi gia đình này, không có tranh chấp. Kỳ thị. Như thánh Phaolô có nói thêm: “Không còn phân biệt Do thái hay Hy Lạp. Nô lệ hay tự do. Đàn ông hay đàn bà. Nhưng tất cả là một, trong Đức Kitô.” (Gl 3: 28)
Và khi đó, xã hội ta sẽ là xã hội của tình bằng hữu, rất thiết thân. Xã hội giải thoát khỏi mọi định kiến. Cãi tranh. Giành giựt. Nhưng, rất mực yêu thương yêu. Yêu Công lý. Thương hoà bình.
Trong ý thức sự thật, ta hãy cùng hát to với người anh/người chị, lời ca đầy phấn chấn:
“Giọt mưa trên lá bối rối, bồi hồi Ráo riết, miệt mài, anh biết yêu lần cuối. Giọt mưa trên lá bỡ ngỡ, xôn xao, Cuống quít, dạt dào, anh biết yêu lần đầu.” (Phạm Duy – Giọt Mưa Trên Lá)
Một khi đã yêu, dù lần đầu hay làn cuối, thì anh và tôi, ta vẫn cuống quít. Dạt dào. Ráo riết. Như bao giờ. Cuống quít thương. Miệt mài yêu. Như tình Chúa yêu ta. Đó chính là bài sai, ta cần thực hiện. Cho ta. Cho xã hội, mình sống.
“Anh phải về thôi, xa em thôi” Hoàng hôn yên lặng cũng theo về Giọt nắng cuối ngày rơi xuống tóc Mà lời từ biệt chẳng lên môi. (thơ Hoài Vũ)
Lc 9: 51-62
Anh về thôi. Xa em. Chẳng vì hoàng hôn yên lặng, giọt nắng cuối. Anh phải về, chắc bởi vì lời từ biệt chẳng lên tới bờ môi. Xa xôi. Một tâm tình. Tình ngoài đời, chỉ như thế. Rất chia phôi. Tình nhà Đạo, nay vẫn khác. Không phôi pha. Không, choáng rợp hoàng hôn yên lặng. Nắng rơi trên tóc. Nhưng, vẫn vui. Vui vì đợi chờ. Chờ anh chờ chị, chuyển lời Chúa bảo ban. Rất khích lệ.
Trình thuật Chúa bảo hãy theo Ngài mà đi muôn hướng. Hãy cứ đi. Đi đi, mà chẳng cần từ biệt. Trăn trối. Với một ai. Đi, như lịch sử thánh còn ghi rõ:“Tới ngày Đức Giêsu siêu thăng, Ngài quyết đi Giêrusalem, sai phái môn đệ đi trước.” (Lc 9: 51). Đi Giêrusalem, là để Ngài thể hiện cứu cánh cuộc đời, ơn cứu rỗi. Bởi, cũng tại Giêrusalem nơi đây, đồ đệ Chúa tụ họp thành cộng đoàn quyết thực hiện tiếp công trình, Ngài khởi xướng. Cũng từ đây, ý định cứu rỗi được Ngài bộc lộ, cho muôn người.
Đi Giêrusalem, vì đó là chốn thiêng Chúa hoàn tất kế hoạch Cha giao phó. Thoạt khi đến, Ngài đã thiết lập mẫu gương, và thử thách. Để dân con đồ đệ, cùng gia nhập. Cùng công trình. Hầu sẵn sàng chấp nhận bài sai Chúa vẫn gửi.
Chúa kêu mời dân con mọi người đi Giêrusalem mà theo Ngài. Người mở tai nghe lời mời, thật cũng nhiều. Nhưng, người đáp ứng lời gọi chẳng bao nhiêu. Chỉ có 3 nhóm. Nhóm người đầu, rất sốt sắng. Quả cảm. Quyết bảo rằng: Ngài đi đâu con theo đấy. Rất hăng say. Phấn khởi, nhưng chỉ lúc đầu thôi. Chợt đến khi giáp mặt thực tại, lại ngại ngần. Đắn đo. Lo lắng. Chí ít, là lúc Ngài biểu tỏ: “Chồn có hang, chim có tổ nhưng Con Người không có chỗ gối đầu.” (Lc 9: 58)
Không chốn gối đầu, tức: Ngài chẳng có gì, từ tiền tài. Danh vọng. Đến, cơ ngơi. Bất động sản. Nhất nhất, vẫn là không. Nhóm thứ hai, cũng muốn theo Chúa. Nhưng, lại lần lữa: hãy để tôi về chôn cất cha tôi đã.” Bởi thế nên, mới được Chúa dặn dò: “Hãy để kết chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, hãy đi rao báo Vương Quốc Nước Trời.” (Lc 9: 60). Nhóm này những muốn vuông tròn bổn phận người làm con, trước khi nghĩ đến người khác.
Thật ra khi Chúa khuyên bảo hãy bỏ mọi sự mà theo Ngài, Ngài đâu bắt ta chối bỏ tình thương và bổn phận của ta với gia đình. Điều Ngài muốn, là: hãy biết sắp xếp thứ tự ưu tiên, cho phải lẽ. Đòi hỏi dựng xây Nước Trời, tức thế giới của Sự thật. Của, lòng xót thương. Công lý. Tự do và an bình. Vẫn là ưu tiên cần đặt trước nhất. Đành rằng, đây là đòi không dễ bề hiện thực. Trong khi đó, người nghe dạy vẫn cứ vòng vo. Nên, khó đến đích.
Nhóm thứ ba, cũng muốn theo chân Chúa, đi Giêrusalem. Đi khắp bốn phương trời, để phục vụ. Nhưng, những người như anh thanh niên trong truyện kể, chỉ muốn sắp xếp cho dứt đoạn mọi công tác tư riêng, của chính mình. Nói nôm na, tức là: vẫn cứ vui chơi trước đã. Rồi tính sau. Thành thử, muốn trở thành đồ đệ đích thật của Chúa, thật chẳng nên chần chừ. Do dự. Bởi lời mời gọi, là gọi và mời ở đây. Hôm nay. Câu đáp trả, phải là bây giờ. Chỗ này. ngay tức khắc. Nhắc chuyện “cầm cày”, Chúa ám chỉ điều Cứu Ước nói đến, ở bài đọc 1.
Bài đọc 1 diễn tả cũng một cảnh “Êlia ra đi gặp Êlisha con ông Saphát đang cày ruộng.” Và thực tế, Êlisha những muốn từ biệt cha mẹ mình, nhưng đã kịp nghĩ ra, là: thày muốn mình đi ngay. Và, Êlisha sử dụng hết phương tiện sinh sống của mình, gồm cặp bò giết đi mà lễ tế. Lấy cày làm củi, hai tay không theo thày. Phục vụ thày.
Truyện kể ở Cựu Ước, không có ý khuyên mọi người xử sự từng chữ theo kiểu của Êlisha. Nhưng, muốn để ta suy tư về những gì khiến ta ngại ngần mà theo Chúa. Rào cản ấy, có thể là phương tiện vật chất. Cảm xúc. Hoặc, tài sản trí tuệ. Tức, những gắn bó ta vào với ham muốn vật chất. Thế trần. Cũng có thể là: những âu lo. Sợ hãi. Sợ, quá khứ. Hãi, tương lai. Nhất nhất mọi sự đều có thể gây ảnh hưởng lên quyết định ra đi, của mỗi người. Thực tế, ta mới chỉ sống có nửa đời. Hoặc, mới chỉ sống cuộc đời của người khác. Chứ không phải của riêng mình. Đó là điều thánh Phaolô muốn nói đến.
Bài đọc 2, thánh Phaolô nhấn mạnh đến tự do con cái Chúa, rất như sau: “Chính để chúng ta được tự do, mà Đức Kitô đã giải thoát.” (Gl 5: 1) Thánh nhân muốn nhấn mạnh điều này, là bởi cộng đoàn Galát vẫn còn nhiều người vừa hồi hướng trở về, đã bị thúc bách quay lại với lề thói cũ xưa của người Do thái. Điều trớ trêu, là: giống nhiều người, họ cũng lo sợ cho tương lai khi được giải thoát khỏi cảnh nô lệ. Đoạ đày.
Ngày nay cũng thế. Làm sao có được tự do, khi mình vẫn tự đoạ đày bằng những thói tục xưa xấu, như: thách thức giới có thẩm quyền với mình. Cứ ngang nhiên mà hút sách. Cứ phà khói thuốc lên mũi mắt của người khác. Hoặc, mở lớn âm thanh thùm thụp, điếc tai hàng xóm. Lái xe, thì hung hãn rú tay ga. Chẳng kiêng nể nhường nhịn người cùng đường, chung lối. Chỉ là người tự do, khi biết quan tâm đến người khác. Khi nhu cầu của người là thành chuyện thiết yếu đối với mình. Khi nhìn người đích thực là những người anh/người chị, cần ta giúp.
Thánh Phaolô còn cảnh báo: “Anh chị em đã được gọi để sống tự do. Nhưng, đừng lấy nê tự do để sống theo xác thịt. Trái lại, hãy lấy lòng mến mà phục vụ nhau.” (Gl 5: 13) Sống tự do, không có nghĩa: lẩn tránh thực tại cuộc đời, đầy ngang trái. Nhưng, can đảm mà giáp mặt nó. Sự sống có tự do, là chấp nhận mọi trọng trách để phục vụ ai đó. Chứ không phải để đổ vấy mọi trách nhiệm về những sai quấy. Vỡ đổ, lên người khác. Tức, dùng người khác làm vật tế thần.
Sống tự do, còn có nghĩa: nhất quyết không đeo bám, ỷ lại vào tiền tài, vật chất. Hoặc, của cải. Danh chức. Địa vị. Cả đến những thành tựu chói sáng, chỉ mang tính hợm hĩnh. Hời hợt. Chóng qua. Sống tự do con cái Chúa, đích thực là những người chỉ muốn thế giới trở nên tốt đẹp hơn. Một thế giới biết bảo vệ sự thật. Biết quan tâm, san sẻ những gì mình có với người khác. Một thế giới an ninh và hoà bình. Người có tự do, không chủ trương tước đoạt những thứ hay đẹp, khỏi kẻ khác. Nhưng, san sẻ chính mình. San và sẻ, trong tinh thần cho đi chứ không nhận vào.
Tự do như thế, ngoài Đức Kitô ra, ta vẫn thấy có nơi các vị như Êlisha. Phaolô. Hoặc, Giàm mục Oscar Romero. Mẹ Têrêxa thành Calcutta. Maximilian Kolbe. Dietrich Bonhoeffer và nhiều người khác. Tất cả, đều đã biết nói tiếng “Vâng” với Chúa. Với cuộc sống, dù thâm trầm. Khổ đau. Tự do, là biết theo Ngài đi Giêrusalem, không điều kiện vẫn đặt trước. Là, quyết đặt tay lên chiếc cày xới đất, không ngoái lui. Có thế, mới xứng đáng là dân con Đức Chúa. Mới gọi mình, là “Công giáo”. Chính tông. Đạo ròng.
Trong hiên ngang tự hào, làm con Chúa, rất tự do, ta cứ hát lên lời ca đầy phấn chấn, rằng:
“Kìa cô nhi không chút tình thân, Đây lớp tàn nhân Năm tháng đau thương thầm trôi Cùng cương quyết góp sức đồng tâm, Muôn dân vui, một đời vàng sáng tươi.” (Hùng Lân – Cô Gái Việt)
Không cần biết cô nhi kia/cô gái ấy, có là người Việt. Cũng chẳng cần hiểu người Việt này/ anh Tây kia, có là người Công giáo, đúng hay không. Là con dân Đức Chúa, ta vẫn có bổn phận phải chăm lo. Quan tâm mà giùm giúp. Gìum và giúp, để rồi mọi người sẽ khônh ổ thẹn, khi nghe tiếng Chúa mời gọi, đi Giêrusalem. Để, mở mang. Rao giảng. Rất Nước Trời.
“Hoa chanh, nở giữa vườn chanh.” “Thày u mình với chúng mình dân quê. Hôm qua em đi tỉnh về, Hương đồng gió nội, bay đi ít nhiều.” (thơ nguyễn Bính)
Lc 10: 1-12, 17-20
Hương đồng gió nội, có hoa chanh. Đâu chỉ dân mình, kịp thưởng thức. Quê mình. Tỉnh người. Vẫn cứ ngập tràn lúa chín, cần canh tác. Canh tác, như lời Thầy cảnh giác, bấy lâu nay.
Trình thuật thánh Luca, nay bàn nhiều về nhu cầu canh tác đồng lúa ngập tràn người của Chúa. Lời Ngài dạy: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít.” nói lên tình cảnh rất thật của Hội thánh thời tiên khởi. Cộng đoàn dân Chúa lúc ấy sống từng cụm, và từng cụm. Lẫn lộn trong đám dân ngoại, thờ đủ thần. Dị đoan. Phù phiếm. Ở đó, hạt cải nhỏ Hội thánh là, men trong bột, cần triển khai.
Hạt cải Hội thánh được Chúa gieo vãi, nay đạt kết quả, khả quan. Nay, có đến hàng tỷ người tin Chúa, đạt 1/5 mức dân địa cầu. Nhưng, vấn đề là: còn 80% số người trên thế giới, vẫn chưa nhận ra Đường lối Chúa dạy. Những, 80% trong số 7 tỷ người chưa tin rằng Chúa hiện diện, ở bên mình.
Trong số những người tự gọi là Kitô-hữu, được mấy ai hoạt động tích cực nơi đồng lúa chín ngập những người? Về thợ gặt, lâu nay người người chỉ nhớ đến vai trò của Giám mục. Linh mục và tu sĩ, thôi. Nhất nhất đều là nhận định, thời buổi trước. Buổi ban đầu, thợ gặt vẫn là những người quyết định dấn bước theo Chúa. Tức, những người vui lòng chấp nhận làm công tác mục vụ, rất mê say. Thật ra, không chỉ mỗi giám mục/linh mục/tu sĩ, mới làm việc ấy. Nhưng, là tất cả mọi người, tín hữu cũng như thường dân ở huyện, đều làm được. Thánh Phaolô kia, chỉ là giáo dân rất bình thường. Là, dân lao động chân tay giới khâu may lều bạt, hầu sinh sống. Và, biết bao người như thánh nhân, từng năng nổ, nhiệt tình giảng rao Lời Chúa. Rất hết mình.
Thời nay, cũng thế. Nghe biết Tin Mừng Lời Chúa, người người đều đã nghe. Đã được mời, dấn thân với công tác mục vụ, trong cánh đồng Lời Chúa, hết. Nhưng, nào mấy ai dám bỏ giờ ra mà thực hiện. Thực hiện Lời, hầu rao báo Tin An Bình cho kẻ chưa tin. Chưa biết. Ngày nay số người san sẻ niềm tin giống như ta, đà sa sút. Hẳn là dấu hiệu sai sót trong sống đời đi Đạo, của Hội thánh?
Lại nữa, trải qua 2000 năm hăng say rao giảng, Hội thánh chắc cũng nghĩ đây không là chuyện đáng để mọi người âu lo. Quan ngại? Vả lại, Thánh Thần Chúa vẫn có cách mời gọi mọi người làm việc cho Hội thánh, theo kiểu khác. Thích hợp hơn. Đó là ý của thánh Phaolô, ở bài đọc 2.
Bằng vào lá thư gửi giáo đoàn Galát, thánh Phaolô từng nhắc nhở: chẳng cần biết anh em có là người cắt bì hay không, đã rửa tội hay chưa, điều ấy không quan trọng. Quan trọng là: “Anh chị em đã trở nên thụ tạo mới.” Tức, đã thay đổi chính mình, theo ảnh hình của Chúa, điều đó mới thật quan trọng. Bởi, nếu không, thì việc rửa tội hoặc kinh nghiệm giữ Đạo và sống Đạo, chỉ là chuyện phụ.
Đạo của Chúa, tự bản chất, không là cùng đích. Nhưng quả là, là đường lối thiết thực để tất cả chúng ta trở thành con người đổi mới như Đức Chúa, từng khuyên bảo. Con người mới, đích thị bao hàm tính siêu việt nội tại của chính Ngài, Đấng luôn mời gọi ta trở nên người mới, rất như thế. Người mới, là người có cuộc sống toàn diện, rất chân thực. Biết quan tâm – thương xót, hết mọi người. Người mới, là người biết sống tự do. An bình. Hiền hoà.
Vì thế nên, Chúa còn dạy: “Anh em đừng mang theo tiền. Bao bị. Giày dép.”(Lc 10: 4) An bình – hiền hoà, trong cuộc sống, không nằm ở những gì mình sở hữu. Cũng chẳng là: tiền tài, danh vọng, hoặc các bất động sản đầu tư, hay tín dụng. Cũng chẳng là, vị thế cao sang. Đầu làng hay tiên chỉ. Uy danh quyền lực, thực vênh váo. Trái lại, an bình hiền hoà, nằm trong cuộc sống. Đầy năng động. Anh bình – hiền nằm ơ nơi an toàn, không ai có thể lấy đi mất.
Bài đọc hôm nay, xoay quanh ngôn từ mà tiên tri Isaya từng nói đến. Là, “ơn thái bình tựa giòng sông cả”(Is 66: 12). Hoặc, như thánh Phaolô vẫn thường bảo: “Sự bình an và lòng thương xót, là nhờ rập theo quy tắc sống có Chúa” (Gl 6: 16). Ở Tin Mừng, Chúa còn khuyên dân con đồ đệ đem “bình an đến với từng nhà.”, nữa (Lc 10: 5)
Bình an Ngài hứa, không đặt trên tâm tình, lẫn ngoại hình. Nhưng là, thứ bình an luôn tồn tại ở trong ta, dù ta có gặp phong ba/bão tố, rất rúng động. Bình an, là tâm tình Chúa đạt được vào lúc Ngài ưu tư nguyện cầu ở vườn Cây Dầu. Và thánh Phaolô cũng nói: “Bình an ta chỉ có, khi biết sẻ san thập giá Đức Kitô, mà thôi.”(Gl 6: 14)
Xem như thế, công tác hái gặt lúa tràn đồng Chúa mời gọi mọi người, chính là: đem bình an đến với muôn người. Để được thế, cần nhất sự yên ổn, ở hồn mình. Và, đồ đệ Chúa hôm nay chỉ có thể sẻ san nỗi niềm bình an ấy, khi biết gần gũi Chúa, mà thôi. Bình an Ngài phú ban, xã hội hôm nay chẳng thể nào tạo được, nếu người người luôn chi muốn tạo căng thẳng. Hãi sợ. Và, bất công.
Hôm nay nữa, dân con đồ đệ được Chúa gọi mời trở thành tá điền hãy cùng Chúa ra đi mà hái gặt, nơi đồng lúa xã hội, mình đang sống. Đồng lúa xã hội, mặt ngoài chừng như đã và đang đầy rặt những lúa. Rất giàu sang. Rất sung túc. Nhưng, kỳ thực vẫn thiếu sự an bình hiền hoà, tìm mãi không ra. Bởi thế nên, Chúa mời gọi mọi người hãy biến mình thành tá điền mà lao động. Lao động thật hăng say, để đồng lúa xã hội cứ từ từ biến thành kho lẫm chất chứa giá trị thực, của Phúc Âm. Giá trị, mà ít người biết đến. Nhưng, vẫn còn đó ngóng chờ.
Khi xưa, Chúa sai 72 môn đệ “đi khắp các làng mạc cùng thành luỹ, mà ghé viếng” (Lc 10: 1) Hôm nay, Chúa vẫn còn chờ dân con thợ gặt, lại sẽ ra đi nhân Danh Ngài, mà giảng rao. Là thành phần của Thân Mình Chúa, đồ đệ Ngài nào đã quên? Chúa đi đâu, Thân Mình Hội thánh của Ngài cũng sẽ đi. Ngài không lanh chanh ở phía trước, cũng chẳng lẽo đẽo theo sau. Nhưng đi cùng. Cùng đi. Cùng sánh vai nhịp bước. Quyết không lui.
Thành phần Thân Mình Chúa nếu không đi, thì làm sao Chúa cất bước! Thành phần Mình Chúa, luôn dãi bày dấu chỉ cho mọi người thấy chính Ngài đang hiện diện. Những gì đồ đệ Ngài nói, là chính Ngài đang nói. Hệt như Lời Ngài từng dạy bảo: “Ai nghe các ngươi là nghe Ta” (Lc 10: 16). Cuối cùng là, nếu không ai loan báo cho mọi người biết thông điệp đồng lúa chính của Ngài, thì ai mà biết đến?
Là dân con đồ đệ, hẳn mọi người chúng ta sẽ mừng vui hết mực, tràn đầy niềm cảm kích. Cảm kích, vì ai cũng thấy: mình có thể làm được nhiều điều, như Chúa từng làm. Cảm kích, khi đem niềm an bình – hiền hoà đến với tất cả. Làm người Công giáo, có bao giờ lòng tự hỏi lòng, là mình đã quyết tâm, nên giống Chúa? Nếu quả thực là chưa, ắt hẳn rằng nghi thức tẩy rửa cho dân con đồ đệ , người của Chúa, cũng chỉ giống như nghi thức “cắt bì” vô nghĩa, với con người thời đại. Hôm nay.
Khi đồ đệ Chúa quyết tâm theo chân Chúa, mà gặt lúa, vấn đề kế tiếp được đặt ra, là: ta bắt đầu từ nơi nào? Làm sao, biến đổi toàn xã hội? Câu trả lời đúng nhất, là: hãy bắt chước Mẹ Têrêxa thành Calcutta ra tay mà giúp đỡ từng người nghèo, ngay cạnh bên. Bởi, họ là những người đang cần ta giúp đỡ, rất khẩn thiết. Giống Mẹ Têrêxa, ta sẽ giúp từ từ, từng người một. Không vội vã.
Thế nên, dấn bước ra đi về đồng lúa chín rộ mà gặt hái, có nghĩa là: tạo hạnh phúc cho mọi người. Việc này còn quan trọng không thua gì việc mang lại hạnh phúc cho riêng mình. Đó, mới là cảm nghiệm bình an ta sẽ có, trong tâm hồn. Đó, chính là ý nghĩa của động tác đem hoà bình đến với mọi người. Và, một khi tất cả mọi người đều làm việc ấy, thì chắc chắn xã hội ta đang sống rồi ra sẽ biến đổi. Cũng chóng thôi. Đó, chính là điều Chúa luôn mởi gọi. Mỗi một người. Ở đây. Bây giờ.
Trong khí thế ứng đáp lời Chúa mời gọi, ta hân hoan tiến bước trong tiếng hát. Sẽ hát rằng: “Ta hãy đi cùng nhau Đến những làng quê nghèo. Hỏi thăm mùa lúa mới, Nghe giọng hò thật cao. Ta hãy vô rừng sâu, Với bác tiều phu già, Mừng vui từng giọt lệ, Ngày vui nhọc nhằn qua.” (Trịnh Công Sơn – Hãy đi Cùng Nhau)
Cùng nhau đi, về đồng lúa chín. Ở đó, có người em đang đợi chờ. Ở đó, có bàn tay anh giăng nhanh. Đem bình an Chúa hứa với mọi người. Ngài hứa ban niềm vui hiền hoà. Rất nội tại. Tuyệt vời.
“Ai có đi bên đường” Vô tình va cánh gió có nghe gì trong đó Một tiếng lòng ta vương. (thơ Phạm Thiên Thư)
Lc 10: 25-37
Tiếng lòng ta vương, ở bên đường. Đã vô tình va cánh gió? Nghe trong đó? Tiếng lòng nhà Đạo, nơi cuộc đời. Có là tâm tình gieo muôn nơi. Như trình thuật rày cho thấy?
Trình thuật hôm nay, thánh Luca ghi lời đáp giải của Đức Chúa, cho câu hỏi của nhà luật sĩ đặt, vào thời trước. Lời Chúa hôm nay nói lên ý nghĩa sống còn của dân con nhà Đạo chỉ đứng vững bao lâu mang tính phục vụ. Cho nhân loại, mà thôi. Thêm vào lời Chúa, thánh Giacôbê từng tuyên bố: “niềm tin không việc làm là niềm tin chết.” (Gc 2: 14)
Cũng thế, niềm tin không là việc chính đáng nếu không hành động hiện thực kèm theo. Quả là, ta bỏ ra khá nhiều thì giờ để nguyện cầu và tỏ bày niềm tín ta có, với Chúa. Theo cung cách riêng tư cũng như tập thể. Thế nhưng, tin-yêu phụng thờ có ý thức về sự đồng nhất giữa thụ tạo, và ý thức về tương quan ta có với nhau. Với Chúa. Đó mới là việc cần làm trước nhất. Hơn mọi sự.
Chúa gọi, là Ngài gọi mời tất cả mọi người. Không phân chia trên dưới. Cũng chẳng tách bạch trong ngoài. Rẽ chia. Niềm tin của ta, chỉ là niềm tin khi nó đưa ta xích lại gần nhau. Gần mọi người. Mà chẳng phân biệt gốc gác của người đó. Của một ai. Nếu không, sẽ chẳng là niềm tin chính đáng.
Trình thuật hôm nay là ví dụ cụ thể. Chúa kể ra. Có 4 nhân vật trong trình thuật: một thày tư tế người Do thái, một thày Lêvi, rất mộ đạo. Một người Samaritanô rất tầm thường. Chẳng chức tước. Không danh vị. Và, người còn lại là nạn nhân một vụ cướp bóc. Bị hãm hại. Những người trên, người nào cũng có địa vị. Có chức tước. Đầy tiền bạc. Chẳng cần giúp đỡ. Chỉ mỗi nạn nhân cần được giúp thôi. Thế nhưng, ở đây, ứng đáp của ba người qua đường, thật khác biệt.
Hai vị đầu, không để ý gì đến nạn nhân cả. Mà, chỉ bận tâm đến chức cao trọng. Lo ràng buộc “tu đức”. Chức phận. Luật Đạo, thôi. Bởi thế nên, hai đấng bậc vị vọng có đi ngang qua, cũng vội đến Giêrusalem, để lo chuyện đạo. Cho chúng dân. Hơn nữa, các vị này vẫn sợ dính phần/sờ chạm vào thương tích, với máu chảy đầm đìa, sẽ bị nhơ lây. Gây trở ngại cho nghi lễ ở đền thờ.
Kể chuyện này, Chúa không muốn đụng chạm đến luật lệ hoặc cách sống của mỗi người. Ngài chỉ muốn tỏ cho thấy tình cảnh người gặp nạn cần ưu tiên giúp đỡ hơn mọi ưu tư khác, của mấy người kia. Và ở đây, người biết quan tâm chăm sóc người bị nạn, lại ở ngoài. Ngoài Đạo. Ngoài đời. Ông nhanh chóng ứng xử để đáp ứng nhu cầu cấp bách của nạn nhân.
Rõ ràng là, người Samaritanô cũng vội vã hơn ai hết. Nhưng ông cũng đã nán lại, mà giúp đỡ. Và, đưa người gặp nạn đến quán trọ để được săn sóc. Cũng như trang trải mọi chi phí cho người lạ. Ngôn từ trong truyện được nhấn mạnh đến cụm từ “lòng thương xót”, đến hai lần. Thương xót đây, không có nghĩa là “thương hại”; tức, vừa thương vừa ái ngại. Chẳng muốn nhúng tay làm gì hết, Ở đây thương xót, là cảm xúc thân thương sâu sắc về tình huynh đệ. Qua đó, người có lòng thương có thể bước sâu vào nỗi thương đau của người gặp nạn, để san sẻ.
Thêm vào đó, cụm từ “người thân cận” ở trong truyện, chính là người có lòng “xót thương”. Xót xa và thương yêu, cả những khách lạ. Ngoại bang. Ngoài Đạo. Xót thương, mà chẳng cần ái ngại là mìng có thể bị liên lụy. Phiền hà. Xót thương, chỉ vì người gặp nạn, đang cần mình giúp đỡ. Chẳng sợ gì luật lệ, do ai đó đặt ra. Luật ở đây, là: luật ám chỉ không được dính líu/dự phần với người ngoài Do thái, dù để giúp đỡ.
Ngày nay, nếu quả thật người Công giáo biết sống theo cung cách của người Samaritanô trong truyện. Biết, xử sự với mọi người theo cung cách hiền hoà, giùm giúp như thế, hẳn là thế giới ta đang sống sẽ biến đổi rất nhiều, theo chiều hướng tốt đẹp. Là người trong Đạo, phải chăng ta vẫn còn thói quen nói những chuyện tiêu cực về người khác Đạo? Khác mầu da. Ngôn ngữ. Và tập quán? Được mấy ai có lòng hào hiệp, xót thương như anh Samaritanô ngoài Đạo, ở trong truyện?
Ngày nay, truyền thông báo chí nói nhiều, dẫn chứng nhiều về sự kiện người kỳ thị người. Người ghét ghen người. Ghét, kẻ ở ngoài. Ghen, cả với người ở trong. Và, hậu quả xảy đến, là: những động thái kỳ thị và phân biệt ấy, đem đến cho gia đình và xã hội, một thần tượng và văn hoá mới. Văn hoá của sự chết. Thần tượng của lòng đố kỵ. Ganh tương. Chém giết.
Về lại Hội thánh, câu hỏi đặt ra với người của thánh Hội là: ngày nay Hội thánh Chúa có còn đặt nặng vai trò trọng tâm của gia đình, ở xã hội, nữa hay không? Hội thánh có dùng thước đo phẩm chất của xã hội bằng tính thân cận trong gia đình Hội thánh mình, nữa hay không? Đời sống thân cận của gia đình ruột thịt có còn là thế mạnh cho xã hội nữa không? Hoặc, đời sống thân cận của gia đình vẫn là thế mạnh và mặt yếu kém của xã hội? Hội thánh có lo cho gia đình nghèo hèn, cô đơn, đổ vỡ hiện đang là hiện tượng rất thông thường? Hiện tượng này khiến nhiều người bận tâm, lo lắng. Chí ít, là ở các xã hội hôm nay đã phát triển.
Lại cũng có mối nguy khác, ít hiện rõ, thường vẫn thấy có ở xã hội, là người ta chỉ lo tập trung mọi sự vì lợi ích của gia đình mình thôi. Nhiều gia đình chỉ chuyên chăm lo lắng cho lợi ích của gia đình mình. Bất kể nhu cầu nào khác, của xã hội. Họ muốn rằng xã hội có trọng trách phải cung cấp mọi điều tốt đẹp, dành riêng cho gia đình họ thôi. Ngoài ra thì, sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi. Tất cả, là để vuông tròn tham vọng của gia đình, của riêng mình. Và xem những người cận thân hay cận lân, đều là thứ yếu cả.
Trình thuật hôm nay, kêu gọi mọi người hãy có tinh thần đối xử tốt đẹp với người thân cận. Để tất cả trở thành đại gia đình lý tưởng. Cộng đoàn thân thương. Chứ không là, xã hội khép kín. Hạn hẹp. Đầy tranh chấp. Nhiều tranh giành. Để, gia đình mình/cộng đoàn mình phải hơn người. Gia đình tốt trong cộng đoàn Nước Trời, phải là nơi chốn mà mọi người đem hết khả năng, tài cán ra mà phục vụ lợi ích chung. Lợi ích của cộng đoàn. Của xã hội. Cộng đoàn ấy, xã hội ấy, sẽ không có người dưng khách lạ, đứng ở ngoài. Mà, tất cả cùng chung là một.
Câu hỏi của người thanh niên trong trình thuật hôm nay: “Ai là người thân cận của tôi?” , sẽ là câu hỏi mà mỗi người trong ta cần đặt ra. Và, câu trả lời sẽ phải là câu đúng sự thật. Trong sống đời thực tế, cũng nên đặt câu hỏi theo cung cách khác, như: “Ai sẽ là người được tôi, được bạn giúp đỡ, hôm nay?” Hoặc, “Tôi sẽ nhìn người dưng khách lạ bằng cặp mắt nào đây?” Cũng nên thêm vào danh sách “người thân cận” của anh, của tôi không chỉ người dưng xa lạ, mà cả những người còn nghèo hèn. Yếu kém. Đớn đau. Tuyệt vọng, nữa.
Câu truyện Chúa kể ở trình thuật hôm nay, còn dẫn ta suy tư về nhiều điểm khác nữa, như: điều Chúa dạy, Ngài không chỉ dạy cho một nhóm người được tuyển, rất nhỏ. Nhưng, cho tất cả mọi người. Đó chính là lời mời gọi, gửi đến hết mọi người. Mọi xã hội. Tây cũng như ta. Già cũng như trẻ. Hãy biết để mà sống. Sống xứng đáng như bài đọc 1, còn nói rõ: “Mệnh lệnh (Chúa ban) không ở trên trời… Lời đó ở rất gần anh em. Ngay trong miệng. Trong lòng anh em, để anh em mang ra mà thực hành.” (ĐNL 30: 12-14)
Nói cách khác, Chúa mời gọi mọi người, không để ta trở thành siêu nhân sống bên ngoài cõi trời. Ngoài cõi đời. Nhưng, chính là những sự rất thật. Là, những điều ta cần xác tín về bản chất con người, của chúng ta.
Trong tinh thần lắng nghe và am hiểu điều Chúa dạy, ta hát lên lời ca đầy phấn khởi, rằng:
“Thanh niên, thanh niên hoa thơm tuổi thơ. Tương lai, tương lai đang mong chơ ta. Vai ta gánh sơn hà, tay ta giữ quê nhà, Lòng rộn ràng say sưa như xuân mới.” (Phạm Đình Chương – Bài Ca Tuổi Trẻ)
Tương lai với hoa thơm, vẫn cứ là cuộc đời, Chúa mời gọi ta nên sống. Sống yêu thương. Rất an bình. Như, Chúa căn dặn ở trình thuật, rất hôm nay.
“Môi cười, vết máu chưa se” Cành hoa gạo cũ, nằm nghe nắng hiền. Anh nằm nghe bước em lên, Ngoài song lá động, trên thềm áo bay.” (thơ Trần Dạ Từ)
Lc 10: 38-42
Nghe bước em lên. Có thể là, bước chân êm của nắng. Nắng hiền hoà. Không vết máu. Có áo bay. Văn chương thi phú thời nay, hay đến là tuyệt tác. Tình tự nhà Đạo bây giờ, luôn chờ khách quý. Như trình thuật, nay diễn tả.
Trình thuật thánh Luca ghi lại tình huống các thánh tông đồ quyết theo Chúa. Mãi khôn nguôi. Theo chân Chúa, là tỏ bày tính hiếu khách, như tục lệ của các dân tộc Ả rập hay Do thái ở Trung Đông, vẫn thường làm.
Ở đô thị Tây Phương, thì lại khác. Khác ở chỗ, đã khiến người miền quê hiếu khách, trở thành nạn nhân của lối sống thị thành. Và, người người nay bắt đầu “cửa đóng then cài”, chẳng cần ai. Chẳng cho ai. Mỗi lần nghe đập cửa, chủ nhà chỉ hé mở, để biết chắc là người gõ cửa có là bạn bè người thân, hay khách lạ, mới ra đón. Căn hộ dân dã khi xưa hân hoan chiều chuộng khách bao nhiêu, nay bỗng thành pháo đài lạnh tanh bấy nhiêu. Lạnh đến độ người khách lạ khó mà bước vào, nếu không báo trước. Vô hình chung, người tự cho mình là “văn minh”, “tân tiến”, “ăn học”, nay trở thành công cụ của thói tục khô cứng. Thiếu tình người.
Bài đọc hôm nay phản ánh cung cách trái nghịch với lối sống của người thời nay. Bài đọc 1, dựng lại bối cảnh ở sách Sáng Thế, là sách nói về tính hiếu khách của vợ chồng ông Abraham tiếp đón người lạ, trên gửi đến. Abraham không những chỉ thưa gửi với người lạ mặt như với một yếu nhân từ phương xa đến, ông còn mời khách ở lại để nghỉ ngơi. Ăn uống. Có tục lệ rửa chân. Rất ân cần. Chính vì lòng hiếu khách ấy, yếu nhân nhà trời hứa cho ông bà một mụn trai để nối dõi tông đường. Đây, sự lạ xảy đến không chỉ với vợ chồng ông thôi, mà cả với tập tục người Do thái nữa.
Tin Mừng này cho thấy một nghĩa cử khác, cũng nói lên lòng đon đả chào đón Chúa. Có lần, Chúa bảo:“Chồn có hang. Chim trời có tổ, chứ Con Người lại không có chỗ ngả đầu.” (Mt 8: 20). Không chỗ ngả đầu, chẳng vì Chúa cứ mải di chuyển, để rao giảng. Nhưng kỳ thực, Ngài đâu muốn dính líu vào với chất vật phàm tục, hoặc quà cáp mà đồ đệ bàn dân cứ dâng tiến. Ngài chỉ muốn dân con theo Ngài, tức những người anh/người chị trong gia đình lành thánh, hãy mở rộng vòng tay mà chào đón lẫn nhau, mỗi khi cần (Mc 10: 29-31). Bởi thế nên, chị em Maria-Martha trong truyện, là những người thực hiện đặc tính rất hiếu khách.
Ở xã hội năng động vội vã, ai mà không thấy tội nghiệp cho Martha cứ vất vả chuyện nấu nướng, với tiếp tân. Trong khi Maria cứ “bình chân như vại” lo mỗi việc chiêm niệm điều Chúa dạy. Thật cũng khó. Ở đây nữa, Tin Mừng không diễn tả việc tranh luận ai đúng/ai sai, nhưng nêu rõ nhiều đặc tính, ta phải có với Chúa. Đặc tính Ngài muốn, là ta biết chọn thứ tự ưu tiên, khi hành xử.
Cũng may là, trình thuật nay ghi thêm đoạn Chúa kể tiếp câu truyện người Samaritanô nhân hiền, hồi tuần trước. Hai trình thuật, kể rõ hai tình tiết rất khác nhau, nhưng lại bổ túc cho nhau. Truyện trước mở đầu bằng ý niệm thánh thiêng, nói về tình yêu với người cận thân. Và cận lân.
Truyện Chúa kể, Ngài dùng để dẫn chứng tình thương yêu phải như hành xử của người Samaritanô nhân hiền, ngoài Đạo. Ngài kể, là kể về thái độ của nhiều đấng bậc nhà Đạo chỉ muốn tránh né các tình huống dẫn đến phiền hà/rắc rối cho riêng mình. Dù, đó có là cảnh tình của người bị nạn. Bỏ rơi. Hay quên lãng.
Trình thuật, cũng cho thấy Martha thực tế hơn, trong công tác tiếp tân phục vụ khách ghé thăm. Có thể là, vào hôm ấy Chúa có đem theo dăm ba đồ đệ cùng đi đến. Thế nên, Martha mới lo âu thái quá, những muốn tỏ bày tính hiếu khách, của người mình. Nhưng ở đây, Chúa đặt nặng vào chiều kích sống động, ở nhiều người. Trong xử thế, Ngài muốn mọi người biết cách mà cân nhắc mọi việc trọng khinh, rất phân minh. Bởi, quan trọng hơn, vẫn là tương quan đích thực giữa con người và Đức Chúa. Giữa con người với nhau.
Cả hai trình thuật nay diễn tả khía cạnh tích cực trong tương quan giữa mọi người. Phải cân bằng. Làm dân con Đức Chúa, không phải cứ lăng xăng/năng động với chuyện yêu thương bác ái, thế là đủ. Cũng chẳng phải cứ bềnh bồng/nổi trôi làn mây vương vấn, mới đúng cách. Nhưng, phải thật tâm biết kết hợp hài hoà cả hai thứ. Đây là điều, mà các nhà chú giải gọi là “sự chiêm niệm năng động”. Đành rằng, cuối cùng rồi thì mọi hiệp thông/chiêm niệm trong sinh hoạt hằng ngày, vẫn là chuyện quan trọng. Còn lại, có hành xử năng nổ hay không chỉ là kinh nghiệm tiếp theo sau, mà thôi.
Chép Tin Mừng, thánh Luca chỉ muốn diễn đạt một số sự kiện tiểu biểu, tuy có khác với các thánh sử khác. Nhưng, khi viết về chuyện ác thần/sự dữ đem Chúa vào đồng hoang/chốn vắng nơi sa mạc, thánh sử vẫn không quên ghi nhận lời cảnh báo của Đức Chúa, nói rằng: “Người ta sống không chỉ nhờ có bánh.” (Mt 4: 4). Vào lúc có người đến báo cho Chúa biết rằng Mẹ và anh em Ngài đang tìm Ngài, thánh nhân ghi: “Phàm ai làm theo ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời, thì kẻ ấy chính là anh em. Là, Mẹ Ta.” (Mt 12: 50)
Thêm vào đó, khi có nữ phụ cất tiếng khen ngợi Chúa, cùng chúc tụng Mẹ Ngài đã cưu mang Ngài, đã cho Ngài bú mớm, thì thánh nhân đã ghi ngay câu để đời, từ Đức Chúa: “Đúng hơn phải nói: Phúc thay kẻ biết lắng nghe và tuân giữ lời Chúa.”(Lc 11: 28) Với trình thuật, nay chính Maria mới là người biết chọn “phần” tốt, hơn ai hết. Tốt ở đây, là biết lắng tai nghe lời Chúa dạy. Thành thử, những ai biết thận trọng để tai ra mà nghe Lời Chúa, kẻ đó ấy mới là người biết hành xử như lòng Chúa mong đợi.
Cuối cùng thì, khi tuân theo điều Chúa chỉ dạy, dân con người người mới thực hiện điều tốt đẹp cho người khác. Biết lo toan, không chỉ cho riêng mình, mà thôi. Nhưng, lo là lo làm thế nào để trần gian cõi đời người người được cải hoán. Hoàn chỉnh. Rất tốt đẹp. Có thế, Nước Trời mới được thể hiện. Có thế, dân con người đời mới thực sự vui hưởng hạnh phúc. Chúa phú ban.
Trong vui mừng nhận ra điều ấy, ta cứ cất tiếng ca vang giòng nhạc đầy phấn chấn, mà rằng: “Đường đêm sao yên vui, người đi quen lối, Tình trai nở bốn phương trời. Đàn em trong cơ ngơi, Nhờ đêm đưa tới, những ai làm ngát hoa đời. Nhẹ bàn chân, hương đêm ơi! Nhẹ bàn chân, hương đêm ơi! “ (Phạm Duy –Dạ Lai Hương)
Hương đêm. Cơ ngơi. Tình trai, nở bốn phương trời. Ngát hoa đời. Là, những tình tự thân thương của cộng đoàn dân con Chúa. Cộng đoàn ở đó người người biết chiêm ngưỡng. Lắng nghe. Như thái độ Maria chọn, khi gặp Ngài.
“Trong cơn khát, cháy lòng” Bỗng, tìm ra nguồn nưóc Mùi hương, không hẹn trước Tình yêu, đến bất ngờ.” (thơ Xuân Quỳnh)
Lc 11: 1-13
Khát cháy lòng, nhà thơ gặp tình yêu. Do ước hẹn. Nguyện cầu. Dù chốc lát. Nhờ lời cầu, nhà Đạo đạo đạt tình Chúa. Tình, do Ngài gợi ý. Chúc lành. Và, bảo ban.
Trình thuật, nay ghi lại tình Chúa gợi ý/bảo ban cho dân con biết mà nguyện cầu. Nguyện cầu, sao cho thích hợp với ý Cha. Ý Chúa. Nguyện cầu, không theo thói các thượng tế Do thái vẫn dạy. Lời cầu Chúa dạy, Ngài không dạy cách xin. Nhưng, cầu là để dễ đạt điều Chúa muốn.
Lời cầu “Lạy Cha”, nay do thánh Luca ghi, tuy ngắn hơn văn bản do thánh Matthêu chép, nhưng lại sâu sát với Lời Chúa hơn. Hai bản văn, đều xuất xứ cùng một mạch văn, duy nhất. Cả hai, nói lên ý Chúa muốn mọi người khẩn nguyện cho nhu cầu của cộng đoàn, mà các thánh đỡ đần.
Phụng vụ nguyện cầu lâu nay ta sử dụng, là văn bản của thánh Matthêu, đặt vào Tiệc Thánh. Vào, chuỗi Mân Côi. Giáo hội dùng nguyện cầu ấy, làm lời kinh rất nghe quen. Tuy quen, nhưng kỳ thực, lời cầu Ngài dạy, dù dài/ngắn, vẫn không là lời kinh hôm/sớm ta đọc. Nhưng, là danh sách các việc cần ta thực hiện, khi nguyện khấn. Do vậy, ta nên biết tập trung. Suy nghĩ. Khi khấn nguyện. Suy và nghĩ, để mỗi câu/mỗi ý, tự nó đứng vững. Tự nó, làm mạch chính cho ta chiêm niệm, như Chúa muốn.
Nội dung ta nguyện cầu, gồm ý nghĩa của mỗi cụm từ và mỗi câu, như sau:
Cụm từ “Lạy Cha”, trước hết và trên hết, là lời xưng hô khiến ta gần gũi với Chúa. Ta không gọi Ngài bằng Chúa. Thầy. Hoặc, Chánh Án. Cũng đâu coi Ngài là Đấng Tạo Thành trời đất, khi cất tiếng ngợi khen. Nhưng, chỉ thưa và gửi rất thân tình như với Cha ruột của mình. Thánh Phaolô còn dạy: xưng hô như thế, ta biết mình được cất nhắc vào chốn thâm cung mật thiết. Rất ấm cúng. Được phép gọi Ngài là: “Abba! Lạy Cha! tức, khẳng định rằng: “Thần Khí chứng thực ta là con Chúa” (Mt 8: 15), rất đúng. Thưa gửi Cha/con là lối xưng hô của các con trẻ, trên thế giới. Với ba. Với bố mình.
Xưng như thế, có nghĩa: tất cả chúng ta đều là anh/chị, là em với nhau. Anh/chị/em cùng một cha. Một bố. Thưa gửi Cha/con như thế, là lời xưng hô rất sốt sắng, có tác động. Tác và động, như một sự kiện cụ thể. Tác và động, vì Ngài đích thực là Cha ta, chứ không là Cha của ai khác. Và, khi thưa gửi Ngài là Cha như thế, ta không loại trừ một ai khỏi tình thân thương, rất gia đình.
“Xin cho Danh Cha được cả sáng”, là lối xưng tụng của người Do thái không chỉ nói lên căn cước của người nào. Xưng tụng như thế, là diễn tả trọn vẹn nhân cáchcủa người mà mình muốn xưng, muốn tụng. Môsê thời xưa, cũng thưa với Chúa, là Đấng lúc ấy ẩn mình trong bụi cây rực cháy. Ông vẫn muốn biết Danh tánh của Chúa để hiểu rõ Ngài là ai. Vậy nên, khi nguyện cầu xưng tụng Cha ta là Đức Chúa, ta không chỉ xưng và tụng Danh tánh của Đấng mà hết mọi người vẫn cung kính. Mến phục. Mà, hiểu rõ Ngài là ai? Thưa gửi như thế, cũng không là lời xưng hô dành cho những người chỉ muốn tránh né ngôn từ trịnh trọng. Để, mình khỏi tôn kính.
Hiểu được thế, thử hỏi: ai là người không muốn cho Danh Cha được cả sáng? Hỏi như vậy, là vì bản chất thánh thiêng của Cha không tuỳ thuộc vào ta. Điều ta hiểu và ta xin, là xin cho tính thánh thiêng ở nơi Danh Ngài, được mọi người biết. Không qua ngôn ngữ. Nhưng hiểu và biết như thế, là để ta thể hiện rõ trên thực tế, bằng cuộc sống. Nói cách khác, lời cầu rất thánh Chúa dạy, phải thực sự chiếu sáng cuộc sống của ta. Của muôn người.
“Nước Cha trị đến”, hiểu theo nghĩa: Nước của Ngài, là thế giới thân thương. Ở đó, mọi vật được Chúa để mắt đoái hoài, sẽ thành thực tại cuộc sống cho mọi người. Ở mọi chốn. Nuớc của Ngài, được dựng xây dựa trên sự thật. Tình thương. Và, lòng thương xót. Trên công bình. Tự do. Phẩm giá. Ta còn biết, ý Chúa rõ ràng là: thế giới thân thương ta đang sống phải là kinh nghiệm sẻ san đủ mọi thứ. Kinh nghiệm, tuỳ thuộc cung cách ta ứng đáp. Hợp tác. Đành rằng, một số yếu tố về Nước Cha dựng, vẫn gặp thấy rất nhiều, nơi cộng đoàn. Nước Cha trị, là cộng đoàn thực tiễn vẫn cần triển khai, hơn nữa. Nước của Ngài, vẫn dính liền với ta, qua xử thế.
“Xin cho chúng con lương thực hằng ngày”, là lời kinh trực tiếp nhắm vào nhu cầu cần thiết, của mỗi người. Rõ hơn cả, đó là nhu cầu hiện tại, ta đang cần. Cũng nên biết, lương thực hằng ngày ta vẫn xin, là cố ý chỉ về những ưu tư/phiền muộn, về ngày mai. Cầu và xin như thế, là ta đặt hết tin tưởng vào Chúa, Đấng chăm nom/săn sóc hết mọi người. Hết mọi thứ. Cầu là cầu như thế, nhưng ta vẫn cứ phải chấp nhận rằng: mọi người cũng có nhu cầu như ta. Chính đó, là thử thách. Là, tình thân.
“Xin tha tội cho chúng con, vì chúng con cũng tha cho những kẻ từng mắc lỗi với chúng con”, là lời khẩn cầu về những hành vi ta vướng mắc, trong quá khứ. Xin và cầu, là lời cầu có điều kiện. Điều kiện gắn liền ta vào với mọi người đang sống quanh ta. Điều kiện như thế, là vì ta cũng đã biết tha cho những ai làm điều tai hại, sai trái. Đến với ta. Một lần nữa, lời cầu nay đưa ta về với chính mình. Nguyện cầu đây, là lời cầu cho ta được san sẻ phẩm chất tốt đẹp của chính Chúa. Phẩm chất ấy, hiện rõ nơi lời Ngài bày tỏ hôm trước: sẵn sàng tha thứ đến “bảy mươi bảy lần bảy”.Tức, vô hạn định.
“Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ”, là lời cầu kết thúc mục đích là để Chúa gìn giữ mọi người thoát khỏi mọi thử thách, trong mai ngày. Thử và thách, khả dĩ giúp ta lướt vượt mọi cám dỗ. Thử và thách, có thể cũng rất khó. Và, rất nặng. Không dễ lướt thắng. Những thử và thách, dễ làm ta sa ngã. Dễ phản bội lời thề quyết chí theo Ngài.
Quả thật, Chúa không ngừng dạy ta cách thức để nguyện cầu. Trước nhất, Ngài kể dụ ngôn về người bạn hàng xóm cần bánh, vào nửa đêm. Vì tình chòm xóm, nên ai cũng hết mình. Dù, không muốn phiền lụy, nhưng buộc lòng phải ngồi dậy để tìm cái gì đó để cho, ngõ hầu không bị người kia hành hạ. Làm khó. Và cuối cùng, lời Chúa còn dạy: “Chính sự lì lợm đã khiến anh phải thức dậy để lấy mà cho đi những gì người kia muốn.”(Lc 11: 8) Thành thử, lời Chúa khuyên: cứ cầu, rồi sẽ được.
Tiếp đến, Chúa còn nhắc nhở: ta đang đối xử với Đấng-là-Cha rất đầy lòng thương yêu, chăm sóc, ở Trên Trời. Hơn mọi người cha, ở trần thế. Và, vì Cha Trên Trời vẫn làm thế, nên ta hãy cứ liên lỉ mà cầu mà xin, như thế ư?. Thật ra thì, mục đích của lời nguyện cầu hôm nay, không phải để nhắc Chúa nhớ đến những gì ta mong muốn. Cho bằng, đây lại là điều Chúa nhắc nhở: “Đừng nguyện cầu theo kiểu lải nhải, giống kẻ ngoại.”
Nhắc, là vì Chúa không muốn để người nguyện cầu cứ muốn thuyết phục Ngài, bắt Ngài phải chiều theo ý muốn của người ấy. Cầu, là để xác định lại, rằng: những gì ta xin, có là điều ta nghĩ mình chỉ cần, trong chốc lát? Cung cách nguyện cầu cũng như các đòi hỏi ta đưa ra, sẽ nói lên vị trí của ta trong tương quan với Chúa. Tương quan, giữa ta và mọi người,. Những người đang cùng sống, với ta. Với Chúa.
Liên tục nguyện cầu như Chúa dạy, là để giúp ta hiểu rằng mình nên nguyện và cầu điều gì?. Nguyện ra sao? Cầu thế nào? Để giúp ta thanh lọc và làm sáng tỏ giá trị của hy vọng. Hy vọng, dẫn đưa ta về với những gì thực sự cần thiết, để được cứu rỗi. Để, ta thực sự biết rõ: Chúa muốn mình làm gì? Có những gì? Có làm thế, ta mới ít chú trọng đến ước muốn của ta. Mới nhận ra là: Chúa mong chờ gì nơi ta.
Cuối cùng ra, mục tiêu và mục đích của mọi lời cầu vẫn là đào sâu kết hiệp vào với tương quan ta vẫn có, với Chúa.
Trong nhận thức rõ điều đó, ta lại sẽ hân hoan cát tiếng ca vang chúc tụng, rằng: “Chiều thơm, du hồn người bềnh bồng. Chiều không, im gọi người đợi mong. Chiều trông, cho mềm mây ươm nắng, Nắng đợi chiều nắng say, Nắng nhuộm chiều hây hây…” (Vũ Thành An – Bài Không Tên Số 8)
Nắng đợi chiều, nắng rất say. Người đợi người, cũng hây hây suốt một đời. Đợi người. Suốt đời. Để, ta cùng nhau đi vào tương quan có Chúa. Với người. Trọn cuộc đời.
“Con đường phượng tím chiều nay đổ,” Bóng lá che nghiêng một góc đời. Nghe trong cõi nhớ niềm xa xót, Chợt thoáng hiện về dấu yêu ơi.” (thơ Miên Thụy)
Lc 12: 13-21
Chiều phượng tím, vẫn đổ ở đường đời. Chỉ một chỗ. Vẫn che nghiêng một góc đời, đầy bóng lá. Tất cả, nay quay về nỗi nhớ. Chốn xa xôi. Lời vàng Chúa dạy chớ đặt nơi phù vân, giả dối.
Trình thuật, thánh Luca nay kể là kể về người thanh niên muốn Chúa làm chánh án phân biện nội vụ tranh chấp, nên đã trình:“Thưa Thày, xin Thày bảo anh tôi chia phần gia nghiệp, lại cho tôi.” (Lc 12:13) Ở Do thái, vị thượng tế vẫn phân giải mọi tranh chấp đất đai, cho mọi người. Ở đây, Chúa giải đáp theo chiều hướng không muốn dính líu vào với cãi tranh/kiện tụng. Ngài chỉ bày tỏ lập trường, ta nên có, rất rõ:“Anh em hãy coi chừng. Hãy giữ mình khỏi mọi thứ tham lam, không phải vì dư giả mà mạng sống con người được bảo đảm nhờ của cải đâu.”(Lc 12: 15)
Cũng có thể, người thanh niên trong truyện, là kẻ theo Chúa rất lâu. Nên, đây là dịp để ngang qua lời dẫn giải, Chúa dẫn dụ mọi người về cung cách thành dân con của Ngài. Cung cách, không nằm ở chỗ: ta có giải quyết công bằng mọi cãi tranh, ở nhà Đạo. Cho bằng, ta nên đặt ưu tiên cho sự việc/hành động nào khả dĩ chứng tỏ mình là con Chúa, rất đích thực.
Là con Chúa, người người hẳn nhận ra ưu tiên hàng đầu, trong xử thế. Xử sự ở cõi thế, sao cho người người được vui hưởng thành quả của cuộc đời nhiều hạnh phúc. Hạnh phúc cuộc đời, không nằm ở chuyện mình dư giả, với cơm cháo gạo tiền. Nhưng, biết đặt ưu tiên cho sự việc cần thiết. Như dụ ngôn Chúa trưng dẫn.
Dụ ngôn Chúa nay trưng và dẫn về thái độ của nhà phú hộ chỉ biết sinh lợi vật chất, rất bạc tiền. Dụ ngôn nay xoay quanh nhân vật chính, mỗi mình anh. Thanh niên trong truyện, cữ ngỡ rằng rằng mình là trọng tâm của mọi thứ. Những thứ khiến anh nghĩ mình là người trọng vọng. Biết lo toan. Lo những thứ/những việc khả dĩ giúp anh vui chơi hưởng thụ. Trọn cuộc đời.
Đó là ý nghĩ của riêng anh. Nhưng Lời Chúa, nay lại khác. Điều khác biệt, thấy rõ nơi lời của Thiên Chúa vẫn từng nhủ:“Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi mạng ngươi, thì những gì ngươi sắp sẵn đó, về tay ai?” (Lc 12: 20).
Về tay ai? là câu hỏi mà bài đọc 1, sách Giảng viên, nói lên cùng một ý nghĩ, hệt như thế: “Phù vân, quả là phù vân. Tất cả, là phù vân.” (Gv 1: 2). Phù vân vô bổ, là nhận định của người đời, xưa cũng như nay. Phù vân vô bổ, vì người công nhân cần mẫn, làm lụng ráo riết đến khi chết cũng chỉ để lại của cải cho những người siêng chăm, chẳng màng.
Lời Chúa nay dạy khác:“Kẻ thu tích của cải cho riêng mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì như thế đó.” (Lc 12: 21) Như thế đó, ý Chúa không hề phản đối chuyện làm lụng vất vả. Cật lực để giàu sang. Ngài chỉ nói đến giàu sang đích thực. Đến, tài sản không hư nát, nằm ở chỗ khác.
Phú hộ thời nay như Howard Hughes, dù lo toan chắt bóp và gom góp để dành những 2 tỷ đôla, thế mà ông lại vẫn sống những ngày cuối đời trong đơn độc. Sầu khổ. Không lường trước. Vẫn không biết trước được rồi mình cũng chết, cách vô ích. Chết rồi, nào có khác chi kẻ nghèo hèn, tuyệt vọng ở thị thành Calcutta, được Mẹ Têrêxa cứu vớt? Howard Hughes phú hộ chết trong sầu buồn, không ai thương. Chẳng ai tiếc. Đâu nào khác kẻ ăn xin ở xó xỉnh được chết trong vòng tay yêu thương của vị nữ tu hiền từ, Têrêxa Calcutta. Đó cũng là vấn đề, thánh Phaolô đề cập ở bài đọc 2.
Bài đọc 2, thánh Phaolô đề cập cũng một chuyện tương tự khi có thư gửi giáo đoàn Côlôsê, có đoạn viết:“Anh em hãy tìm những gì thuộc thượng giới, nơi có Chúa ngự trị… Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm đến những điều ở dưới đất.”(Cô 3: 1). Điều thánh Phaolô khuyến khích, là cảnh báo với cộng đoàn dân Chúa biết quan tâm đến giá trị đích thực của sự sống. Giá trị ấy nằm ở Lời vàng, ngài vẫn khuyên:
“Anh em hãy giết chết những gì thuộc về hạ giới, như: dâm bôn, ô uế, dục tình, đam mê xấu xa, và tính tham lam hà tiện, tức cũng thờ quấy, những ngẫu tượng.” (Lc 3: 5) Ở nơi đó, có nhiều hình thức ngẫu tượng, ta không biết. Ở nơi đó, còn có những là gian manh. Lừa đảo. Giả dạng ngoan hiền. Nhưng kỳ thực, lại chối bỏ một thực tế. Chối cả sự thực nằm nơi thế giới, ta sinh sống.
Dấn bước theo chân Chúa, có nghĩa là ”cởi bỏ mọi hành vi xưa cũ. Cởi bỏ con người cũ, vẫn âm thầm lẳng lặng, ở trong ta. Cởi bỏ, để ta có thể đặt trọn con người mới, nơi Đức Chúa. Cởi bỏ người cũ, tức là biết sẻ san cùng một thị kiến sống động. Cùng một giá trị/mục đích với những người Chúa đề nghị. Đề nghị Chúa đưa ra, bao gồm tiến triển về với kiến thức đích thực. Kiến thức ấy, không nằm ở tấm bằng đại học nổi tiếng. Nhưng, là nhận thức hiểu biết ý nghĩa cuộc sống. Ý nghĩa của “đổi mới bản thân” sao cho phản ánh ảnh hình của Đấng Tạo Thành trời Đất, có Đức Kitô là mẫu mực. Kiến thức, nằm ở mẫu mực nhằm để tăng trưởng giống Đức Ktiô. Giống Thiên Chúa.
Với Nước Trời, nơi xã hội ta đang sống, không cần những lo toan quyết tạo an toàn để đạt thừa kế. Cũng chẳng cần trúng Lôtô, với “số đề”. An toàn cuộc sống, là biến cải thân mình để trở nên thành viên đích thực của cộng đoàn Nước Trời đầy thương yêu, giùm giúp. An toàn cuộc sống với Nước Trời, vẫn là và phải là ưu tiên số 1, thật rõ nét. Ưu tiên dành cho ta, ngõ hầu ta tìm ra dấu hiệu khả thi, quyết thực hiện cho được cộng đoàn như thế.
Cộng Đoàn Nước Trời ta đang sống, bao gồm những người âm thầm chìm đắm trong tương quan thương yêu giùm giúp. Giúp hết mọi người. Thương hết mọi sự. Dù, sự vật ấy vẫn chỉ là môi trường sống. Dù, đó có là vật vô tri vô giác, chẳng một hồn xác giống như ta. Thương yêu giùm giúp bất kể người đó thuộc sắc tộc hèn hạ, rất thua kém. Yêu thương giùm giúp, là bởi tất cả đều là con của Chúa. Đều hợp thành chi thể Đức Kitô. Rất nhiệm mầu. Thật lành thánh.
Yêu thương giùm giúp chính là tài sản, cần lo toan. Là, an toàn đích thực, cho tương lai cuộc sống. Để mơ ước. Mơ và ước, chỉ một điều như thánh Phaolô đà quả quyết ở câu cuối: “Chỉ có Đức Kitô là tất cả và ở trong mọi ngưòi.” (Col 3: 11)
Trong quyết tâm thực hiện lời vàng rất thánh, ta hiên ngang ngẩng đầu lên mà hát. Hát rằng: “Ta yêu đồng xanh như đã thương con người. Ta thương đôi tình nhân kia, như gió thương yêu mây trời Nhưng sao giờ đây, chẳng thấy ai chung quanh ta. Đất trời như bãi tha ma, trên đồng hoang cỏ cháy…” (Lê Hự Hà/The Brothers Four – Đồng Xanh)
Đất trời như bãi tha ma, ư? Đâu phải thế. Đất trời lâu nay đã và vẫn là “đồng Xanh” chốn thiên thần. Có những người anh/người chị đã biết thương yêu giùm giúp, như Chúa dặn dò hết mọi người. Suốt mọi thời.
“Ngoài đê thẳm, không người đi vắng vẻ” Lũ chuồn chuồn giỡn nắng, đuổi nhau bay. Nhưng thỉnh thoảng, tiếng nhạc đồng buồn tẻ, Của vài người cưỡi ngựa, đến xua ngay.” (trích thơ “Trưa Hè” của Anh Thơ)
Lc 12: 32-48
Trưa hè, trên đê thẳm. Không người đi. Vắng vẻ. Đến là buồn tẻ, chốn đời người. Trời trong, mây giợn trắng. Tiếng nhạc đồng. Người cưỡi ngựa. Những xua ngay, đến phát sợ. Sợ, như đàn chiên bé nhỏ, có Chúa trấn an vui ban Nuớc của Ngài, nay hạnh phúc.
Tin Mừng, nay có thánh sử giãi bày niềm vui say hạnh phúc không nằm ở những chốn có vật-chất chất-chồng nhiều lo lắng. Và, Chúa lại dạy thêm: hãy nai nịt thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sáng mà chờ đón tương lai mai ngày, rày sẽ đến. Tương lai đến, là đến với tình huống có Chúa ở cùng, chẳng cần tích lũy của cải/tiền bạc, đồ hư nát. Tương lai mai ngày, là ngày Thầy bất chợt đến vào buổi canh hai/canh ba, đã tỉnh thức.
Tin Mừng, nay Chúa dạy mọi người hãy thận trọng vì ta không thể biết trước được khi nào thì Thầy đến. Ngài đến trong tư thế rất bất chợt. Đột xuất, như kẻ trộm. Chẳng đoán trước. Khi biết được, thì sự việc cũng quá trễ. Nên lỡ dở.
Dụ ngôn Tin Mừng Chúa kể về tình thương yêu, phục vụ, còn hồi hộp, hoành tráng nhiều hơn thế. Hồi hộp, bởi bản chất của thương yêu phục vụ là ý niệm của giàu sang/cao quý hơn cửa nhà, tài sản mà mình tạo sẵn. Cao quý hơn, vì yêu thương – phục vụ bày tỏ chất lượng cuộc sống, cần chăm sóc. Thực tế ở đời, nhiều người chỉ biết lưu tâm chăm sóc mỗi đất đai/vườn tược, mình làm chủ. Làm chủ thứ tài sản tưởng chừng như quý giá. Nhưng thực tế, đâu dài lâu?
Bài đọc 2, thánh Phaolô nói rõ: như Abraham nhận thức, cuộc sống của ta là như hành trình vào nơi không ai biết mình đi đâu, sẽ làm gì. Nên, cũng chẳng cần thận trọng hoặc mua bảo hiểm/bảo kê, cho vững bụng. Mà, là đức tin như thánh Phaolô nhận xét: “Nhờ đức tin, ông Abraham đã vâng nghe tiếng Chúa gọi mà ra đi đến một nơi ông sẽ được lãnh nhận làm gia nghiệp. Và, ông đã ra đi mà không biết mình đi về đâu.” (Dt 11: 8)
Thật ra, ai cũng muốn tự mình kiểm soát cuộc sống của riêng mình. Ngõ hầu chuẩn bị cho tương lai, mai ngày. Nhưng thực tế, thì lại khác. Giống như Abraham, ta chẳng tài nào biết được hành trình cuộc sống sẽ đưa ta đi về đâu. Chẳng ai biết được điểm kết đoạn, chặng đường dài. Nhiều năm tháng. Điểm ấy, có thể là điểm kết cuộc, trong đau buồn. Có khóc than. Và, chỉ khi nào tới nơi. Ta mới biết. Nhưng, lúc ấy cũng quá trễ. Nên, hối tiếc nhiều. Tiếc, cho tháng ngày đã qua, không nghe Lời Chúa dạy. Tiếc cho mình. Tiếc cho người. Một tiếc nuối, như mọi nuối tiếc mà ta thường có.
Hành trình Chúa nói ở Tin Mừng, không là cuộc lữ hành theo nghĩa có vận động, di chuyển. Mà, là cung cách và chất lượng, cũng như ý hướng của cuộc sống. Ta đang mang. Hành trình ấy, gồm tất cả kinh nghiệm sống ta sẽ có. Cả những tình huống xảy đến với mỗi người, để ứng phó. Hành trình ấy, cũng là những người ta từng gặp. Chạm mặt. Dù, mình đã chọn hay không. Hoặc, chỉ những tình cờ kéo đến. Và, ta vẫn phải đáp ứng. Đối đầu. Tất cả, là điểm khởi đầu để ta dấn bước. Đạt thành công. Cũng có thể là ân huệ và cơ hội giúp ta đáp trả sự thật. Tình thương yêu phục vụ để Chúa đi dần vào đời mình.
Cuộc sống, giống một hành hương. Di hành về quê hương ta hằng yêu dấu. Vẫn luôn chuyển động. Chuyển động, để hướng về khung trời khác tốt đẹp hơn. Hệt như Abraham và gia đình vẫn sống trong lều tạm, nhưng “trông đợi một thành có nền móng do chính Chúa tạo mẫu. Dựng xây.” (Dt 11: 10)
Trong cuộc sống thiết thực, ai cũng được bảo đảm là cuộc sống an ninh/an toàn cho mình. Nhưng niềm tin nơi Chúa, lại đề xuất cho mọi ngưòi chương trình hoàn toàn khác. Chương trình để sống theo cung cách thấm nhuần tình thương yêu và phục vụ cho Vương Quốc của Chúa. Có Chúa. Cuộc sống ở chốn sáng có công lý và an bình, do Chúa tạo mẫu. Dựng xây.
Cuộc sống có Chúa, là sống đích thực những điều Chúa răn dạy. Để, ta có thể dung nạp của cải chân phương. Đích thực. Của cải không bằng vật chất. Tục lụy. Nhưng, gồm giá trị cao quý Chúa dành để cho ta. Để rồi, ta sẽ lại san sẻ cho người khác. Những người vẫn đồng hành với ta, trong Nước Trời.
Cuộc sống có giá trị san sẻ, sẽ thôi thúc ta vào mọi lúc. Thôi thúc ta ra đi gặp Chúa, Đấng Cứu Độ. Đức Chúa, nay không còn ngư nơi cao xa, khó đạt. Nhưng đã hiển hiện nơi những người anh/người chị đang thiết tha, mong chờ. Chờ, ta giùm giúp. Mong người người biết sẻ san, những gì cần thiết mà họ không bao giờ đạt. Gặp Chúa, qua những người anh/người chị như thế, ta sẽ thấy mình từng sống với Ngài mà không biết. Sống với Ngài, ngang qua những người cần được ta thương mến. Phục vụ. Thương mến, phục vụ trong suốt chuyến di hành về quê hương yêu dấu, vẫn gọi là hành hương.
Trong nhận thức quyết tâm về một hành hương đầy ắp giá trị của yêu thương – phục vụ, ta cứ ngẩng đầu hiên ngang, tiến vế phía trước. Tiến và bước, miệng ca vang lời tự hào, có lời ca mà rằng:
“Ta như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm Da chân mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân trời Ôm vết thương rĩ máu ta cười dưới ánh mặt trời Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian Hỡi những ai gục xuống ngồi dậy hùng cường đi lên.” (Nguyễn Đức Quang – Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ)
Hùng cường đi lên, không chỉ di hành về với quê hương ngạo nghễ. Ở trời Nam. Nhưng, là hiên ngang bước vào Nước Trời có dân con Chúa, cùng chung sức. Sánh vai. Miệt mài, hầu thực hiện điều Chúa căn dặn. Trong yêu thương. Hiền hoà. Nhiều quyết tâm.
“Anh tặng em cả những ưu phiền” Trong câu hát cũ nghe bên chợ cầu. Còn hằn trong chữ trong câu, Nỗi đau ngày trước cày sâu mặt người.” (thơ Huy Cận)
Lc 12: 49-53
Tặng em, tặng cả ưu phiền. Ưu và phiền, nằm ở câu ca tiếng hát, nghe đâu đó. Có chợ cầu. Cày sâu lên mặt. Những nỗi đau. Của người đời. Cũng có thể, là lửa ngọn thiêu đốt, những tháng ngày. Nhưng tuyệt nhiên, không là lửa mà Chúa ném vào mặt đất. Như trình thuật ghi lại, rất hôm rày.
“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất”, lửa đây không là lửa tàn phá rừng nhiệt đới. Cháy mỗi năm. Lửa đây tạo hơi nóng. Ánh sáng. Thanh tẩy. Lửa, để rửa sạch. Là, dấu chỉ Chúa hiện diện với con dân/đồ đệ có Môsê rày chứng kiến. Là lửa cột, tháp tùng dân con người người ở Israel khi qua sa mạc. Rất nản lòng. Lửa Ngài ném, là lửa của Lễ Ngũ Tuần, ngày mà Thần Linh Chúa đến với Hội thánh, của chúng ta. Lửa tẩy sạch, giúp hồi hướng. Trở về. Để, giải thoát.
“Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải cho đến khi việc này hoàn tất!” (Lc 12: 49) Lời Chúa, không nói: Chúa phải chịu cuộc thanh tẩy, ở Gio-đan. Cụm từ “thanh tẩy” bao hàm sự ngập tràn, như cung cách của bí tích mà Hội thánh thời tiên khởi đã thực hiện. Trình thuật nay nối kết chặt chẽ giữa việc các tân tòng “đàm mình” trong nước với việc Chúa sống lại. Và, sự “thanh tẩy” mà Chúa đầm mình đến nỗi chết và sống lại, không theo nghĩa đau đớn/khốn khổ. Nhưng, điều Chúa muốn nói là về hiệu quả cứu độ, Ngài mang đến.
“Thầy đến không để ban hoà bình, mà la rẽ chia.” đây là câu nói mà người ở ngoài vẫn tìm đến, để chỉ trích. Để, cắt nghĩa về những rối rắm. Khó chịu. Xảy đến với thế giới mọi ngày. Có người còn coi đây như lời cảnh báo rất rối bời. Nghịch lời của Kinh thánh. Vào buổi Tạ Từ, Chúa đã chẳng nói với đồ đệ là Ngài sẽ gửi bình an mà thế gian chẳng thể cho sao? ta vẫn chẳng gọi Ngài là Vua An Bình, sao? Ta còn đọc ở Tin Mừng những lời lẽ như:
“Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.”(Ga 13: 35)
Lời Chúa nói, không thể coi là điềm báo trước hoặc lời lẽ diễn tả ý định Chúa làm. Nhưng, là lối diễn tả của thánh sử về hiện trạng của Hội thánh từ ngày được viết mãi đến hôm nay. Ở nhiều nơi, trên thế giới, cá nhân dân con đi Đạo hay cộng đoàn dân con của Chúa vẫn coi đây như một lời đe gửi đến chính quyền hoặc phe nhóm khác nhau. Cả các giáo phái khác biệt nữa. Cụ thể nhất là những sự việc xảy đến với các chế độ toàn trị, ở nhiều nơi. Lâu nay. Như câu hỏi của nhà độc tài quyền thế cỡ Staline cũng dám nói: “Giáo Chủ nhà anh có được bao nhiêu sư đoàn thiện chiến?”
Ngược giòng lịch sử của Hội thánh, hẳn ta thấy biết bao gia đình vẫn khổ sở vì thành viên nhà mình dám hồi qui làm người Công giáo? Nhiều người trong ta –đặc biệt là những vị sống ở xã hội chống đối Đạo Chúa- chắc chắn từng bị gia đình mình chối bỏ chỉ vì dám làm người Công giáo hoạt bát. Năng nổ. Cũng có trường hợp dân con Đạo Chúa bị người ngoài luồng hoặc trong Đạo bách hại.
Bài đọc 1, ngôn sứ Giêrêmia đưa ra sự kiện ông bị chính người dân mình phủ vùi “dưới hầm nước của hoàng tử Mankigiahu”. Ông bị thế, chỉ vì người nghe không muốn đón nhận sứ điệp của Chúa mà ông loan truyền. Và hôm nay, ở thời đại văn minh này, vẫn còn biết bao nhiêu vị bị ức hiếp đến tử đạo để giữ vững niềm tin, vào Đức Chúa.
Sứ điệp Chúa gửi, không bao giờ là bạo lực. Sứ điệp Ngài ban, bao hàm lòng thương xót/ mến yêu. Rất hoà hoãn. An bình. Dù, vẫn thách thức cả bất công, tham nhũng. Hoặc kỳ thị, lạm dụng. Cùng các hành vi lươn lẹo, phá bỏ phẩm giá con người. Thế nên, vai trò người rao giảng Lời Chúa, là dỗ dành người phiền muộn. Chứ không phải, làm muộn phiền, người được dành dỗ. Thế nên, khi rao giảng như thế, sẽ không tránh được những là tranh chấp. Đố kỵ. Dù không thích.
Bởi thế nên, khi hành Đạo ta không chủ trương hành hạ rẽ chia người đi Đạo. Mà, chỉ khuyến cáo người đi Đạo chớ có hành hạ, rất phiền Đạo. Bởi thế nên, Đạo của ta nhiều lúc rất bị tiếng là mang lại những hành hạ vô bổ, kông cần thiết. Và cũng bởi thế, nên khi bảo vệ sự thật, công chính cũng như phẩm hạnh và tự do của mọi người, ta thường bị chống đối, có khi còn bị phá phách, rất hành hạ, nữa. hành hạ và phá phách vì Lời Chúa. Vì, Tin Vui rất an bình. Vì, hoà bình vĩnh cửu.
Bởi thế nên, hãy cứ rộng lòng mà cảm kích trước số lược các chứng nhân chết vì Đạo Chúa. Cho Chúa.Tức, những vị dám làm chứng bằng cả cuộc đời để bảo vệ đường lối không giống người phàm trần nhưng vẫn tin. Tin vào Sự Thật. Vào công chính. Tự do. Quyền căn bản của con người. Đó cũng là ý nghĩa của bài đọc 2, qua thư thánh Phaolô gửi giaó đoàn Do Thái, có lời lẽ, như sau:
“Phần chúng ta, được nhần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh. Chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giêsu là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin. Chính Người đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa. Anh chị em hãy tưởng nhớ Đấng đã cam chịu để cho những ngu72i tội lỗi chống đối mình như thế; để anh em khỏi sờn lòng nản chí. Trong cuộc chiến đấu chống tội lỗi, anh chị em chưa chống trả đến mức phải đổ máu đâu.” (Dt 12: 1-4)
Tất cả là như thế. Tấ cả đều đã mang dấu tích: *của tấm gương hiền lành của Đức Giêsu, Đấng từng bị là đối tượng của nhiều bạo lực. *của đám mây đầy rặt các chứng nhân. Những người theo Chúa, dám chống lại bạo lực của sự dữ/ác thần. Ác và dữ, hiện rõ nơi hình thù của những chống đối đầy bạo lực vẫn thường trả giá rất cao để đeo đuổi thực hiện đến mút cùng. *một khích lệ gửi đến cho ta, để ta dõi bước theo chân Chúa. Bởi cả chúng ta nữa, cũng đâu đã và cũng sẽ chẳng phải trả giá rốt cùng mà tặng ban cuộc sống của chính mình. Nhưng trái lại, ta vẫn cần sự quả cảm để chiến đấu và rút kinh nghiệm về sự an bình nội tại mà chỉ mỗi Đức Kitô và Đường Lối của Ngài mới ban phát.
Trong tinh thần cảm kích con Đường Chúa đi, ta cứ hoan hỉ cất lên lời ca tiếng hát. Hát rằng:
“Hoa ngân vang lời ái ân Môi say cười gió Đông Em mơ lời tha thiết ân cần Sao sao ơi chờ gió đưa Thì thầm trong bóng đêm dịu êm Nghiêng cánh hoa chờ dư âm xa Trong bóng đêm màu môi phôi pha.” (Lê Uyên Phương – Đêm Chợ Phiên Mùa Đông)
Đường Chúa đi, đâu là Chợ Phiên Mùa Đông. Ở đó có lời mời tha thiết. Ân cần. Ân ái. Nhưng vẫn là những thì thầm trong bóng đêm. Dịu êm. Hiền hoà. Chúa vẫn chờ. Chờ anh. Chờ em. Ta đi mãi trên Đường có dấu chân của Chúa. Đi hoài và đi mãi rất khôn nguôi.
“Bao năm sương trắng bụi mờ, Bao năm tay trắng để giờ trắng…tay! Ta về qua ngõ chiều nay, Nghe mùa trăng lạnh từ ngày xa em.” (thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn)
Lc 13: 22-30
Trắng bụi mờ. Chờ nhiều năm. Lạnh mùa trăng. Xa vắng. Lặng thinh. Ngày xa em. Ấy đó, là tình tự ở đời. Giữa người. Về qua ngõ. Nghe mùa trăng. Là, tâm tình nhà Đạo. Chúa bảo mọi người. Ở trình thuật, hôm nay.
Trình thuật hôm nay thánh Luca ghi chép điều Chúa nói rõ cách thức qua cửa hẹp mà vào Nước Trời. Là, chốn không còn sự rẽ chia. căm thù. Hờn ghét, nữa. Không còn, ý tưởng vẫn để trong đầu, của người xưa “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” (Lc 13: 5) Câu hỏi trên, phản ánh niềm tin của nhiều người Do thái, thời của Chúa. Là, chỉ mình họ mới là “Dân được chọn”. Tức là, người ngoài luồng hoặc không tin không giữ lề luật của cha ông sẽ bị đào thải. Chẳng được cứu độ, như đã hứa.
Như mọi lần, Chúa không trả lời trực tiếp cho câu hỏi, mà Ngài lại đưa ra truyện kể với dụ ngôn, để cắt nghĩa. Dụ ngôn hôm nay, là việc qua được cửa hẹp. Là, chuyện người nhà từ chối không mở cửa cho người gõ cửa hỏi giúp đỡ, vào ban đêm. Để rồi, phải nghe những lời thống thiết, thật khủng khiếp: “Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến.” (Lc 13: 25)
Thành thử, khi đối đáp câu hỏi từ ai đó, Đức Giêsu không xác định hoặc chối bỏ là “chỉ một số ít người được cứu rỗi mà thôi”, đâu. Điều Chúa nói, chính là: ơn cứu thoát không đảm bảo cho bất cứ một ai. Bởi, không thể cậy vào chuyện: “Chúng tôi từng được ăn uống trước mặt ngài”, là đủ. Hoặc, cậy vào sự quen biết hoặc tự hào mình thuộc nhóm hội đoàn thể, hoặc mang danh tánh với bằng cấp, chức năng do Giáo hội chuẩn thuận, là được cứu! Chẳng phải thế. Trước mặt Chúa.
Chúa cũng chẳng khẳng định: chỉ ít người, là “được cứu”. Toàn bộ Tin Mừng thánh Luca, minh xác một điều, là: Đức giêsu mang đến với thế giới phàm trần tình yêu thương tự do, cho con người. Ở mọi chốn. Mọi thành phần. Không kỳ thị. Chẳng phân chia. Không ai bị đẩy lùi khỏi tình thương cứu độ, của Đức Chúa. Nên, người Đạo Chúa không nên hợm hĩnh. Rắp ranh. Giành giựt.
Vai trò tiên quyết trước hết của cộng đoàn nhà Đạo vân luôn là và chỉ là: giảng rao Tin Vui an bình về tình thương của Đức Chúa. Với thế giới. Rao và giảng, để sẻ san thông điệp Chúa gửi, làm nền tảng cho cuộc sống, ở đời. Với người người. Với hy vọng rằng, người người sẽ ứng đáp thông điệp của sự sống ấy qua việc chuyển hướng đời mình, cho đúng cách. Dân con Đạo Chúa sẽ xử trái, nếu cứ tưởng rằng chỉ có người mình mới xứng đáng với ân huệ độc đáo Chúa phú ban.
Và, dặn dò Chúa nói hôm nay còn vang vọng, là: nếu ta chỉ giảng và rao mỗi giáo lý Kinh Sách thôi, vẫn không đủ. Mà, toàn bộ cuộc sống cá nhân hay cộng đoàn của nhà Đạo, phải là lời rao báo cho ai đang kiếm tìm Sự Thật. Tình yêu. Và, Công lý. Tìm, mà sẻ san cuốc sống có yêu thương. Giùm giúp. Đỡ đần. Tìm và kiếm, mà chiến đấu chống bất công. Chống bạo lực. Đó, mới là ảnh hình đích thực của Hội thánh Nước Trời, ta thuộc về.
Ai là người “được cứu thoát”, rất đúng nghĩa? “Được cứu thoát”, là người biết sống chết trong quan hệ mật thiết với Chúa. Với mọi người. Là, sẻ san thị kiến sống động, mà Chúa cống hiến cho ta. Chúa vẫn bảo:”Chính ở điều này mà mọi người sẽ biết các ngươi là môn đồ của Ta: ấy là các ngươi có lòng yêu mến lẫn nhau.” (Yn 13: 35) Chỉ những người như thế, mới được cứu thoát. Mới được gọi là “người của Chúa”, tức môn đồ. Tức, những người sống có ý thức. Yêu thương. Và, trách nhiệm.
Khung cửa hẹp, Chúa nói ở trình thuật, Là, cửa ngõ dẫn vào cuộc đời tóm gọn bằng cụm “yêu thương. “Giùm giúp”. Yêu thương, là cụm từ mang nặng cả nghĩa bóng, lẫn nghĩa đen. Là, động thái dẫn đưa người người vào với lựa chọn, không dễ thể hiện. Nhiều người, nhiều vị đã thấy khó, vội vứt bỏ. Có người, lại đi tìm con lộ tẻ ngắn nhất, cho rằng như thế mới “rất người”. Mới tự nhiên, như cỏ cây. Thế đó, là ý nghĩa của hờn giận. Ghét ghen. Trả đũa.
Điều Chúa nói rất hôm nay, là thế này: nhiều người vẫn cứ tự coi mình là người thuộc Đạo rất chung, như Công Giáo. Nhưng, vẫn thường đón cửa lại, khi có người kêu gọi mình giúp đỡ. Vẫn có người nói ở đâu đó: “Tôi chẳng biết Anh/chị là ai hết”. Cũng chẳng quen biết.” Rồi lại hỏi: Sao Chúa lại không nhận ra tôi, người con yêu thương được thanh tẩy làm con Chúa. Người đạo hạnh, vẫn đều đặn tham dự thánh lễ, ngày của Chúa. Rất đều đặn? Sao Chúa nói, không còn biết tôi đây là người rất siêng chăm việc đạo đức. Vẫn thực thi công quả, chẳng hề quên?
Thật ra thì, đạo đức siêng chăm đâu là căn cước để định dạng, người của Chúa. Bởi ngày nay, được mấy ai nhận biết Chúa nơi những người bị bỏ rơi. Lơi là. Ghét bỏ. Mấy ai tìm cách giúp đỡ kẻ đau khổ. Nghèo hèn. Tủi hổ. Hoặc, vẫn coi họ như con cái Chúa. Như chính Chúa. Ở trong ta?
Quả thật là, một mai khi giáp mặt Chúa rất trực diện, người người sẽ ngạc nhiên không ít khi thấy rằng chính những người bị coi là “ngoại Đạo”, hay ngoài luồng lại là những người kịp đến với Chúa, trước nhất. Những người vẫn bị ta coi là vô Đạo. Lạc Đạo. Cặn bã của xã hội, nhưng biết thực hiện Lời Chúa trong yêu thương, hơn ai hết. Sẽ là người “được cứu thoát”, hơn chính ta.
Chúa quả quyết:“Thiên hạ từ Đông sang đoài, từ Nam tới Bắc, sẽ tề tựu đến dự tiệc nơi bàn thánh Nước Trời.”(Lc 13: 29) Bởi, Nước Trời vẫn dành để cho ai biết thực thi Lời Chúa, trong yêu thương. Giùm giúp. Đỡ đần. Người “được cứu thoát” đâu có bị điều tra căn cước xem có là nguời Công giáo. Chính thống. Hay đạo Hồi. Hoặc, là ai.
Hiện diện nơi Vương Quốc Nước Trời, vẫn là người thực thi điều Chúa dạy bằng động thái yêu thương. Đùm bọc. Sẻ san. Sẻ và san, những chua cay ngọt bùi, của cuộc sống. San và sẻ, Lời Chúa với hết mọi người. Cả những người không được biết đến. Hoặc, trọng dụng. Ở đâu đó. rất phương xa. Và khi đó, “Những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu. Và, có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.” (lc 13: 30) Trong danh sách người “được cứu thoát”. Rất rõ ràng.
Trong nhận thức rõ ràng điều Chúa dạy, ta cứ hiên ngang cảm nhận mà ca hát. Hát rằng:
“Giờ đây một mình tôi trên đường vắng Thầm mong người về vui duyên đằm thắm Hai đứa mình lại bước song đôi Như những chiều nào đã xa xôi Ta có nhau khi hoàng hôn rơi.” (Hoàng Trọng – Người Đi Chưa Về)
Có nhau khi hoàng hôn rơi. Có nhau, cả vào lúc người người “được cứu thoát”. Sẻ san nỗi vui mừng. Niềm hạnh phúc. Có Chúa. Có ta. Có cả mọi người. Ở Nước Trời.
“Nhớ khi em dỗi em hờn” Hai ta chia sẻ nắm cơm cháy vừng. Nhớ đêm nằm võng ngó trăng, Đếm ngôi sao sáng lại rằng sáng sao.” (thơ Diệp Chi)
Lc 14: 1, 7-14
Chia sẻ nắm cơm. Khi em dỗi hờn. Ngồi đếm sao. Khi sao lại sáng. Vẫn là tâm tình của anh. Của em. Của người. Rày vẫn nhớ. Còn nhớ hay chăng, hỡi người người. Hỡi em, và hỡi anh. Nhớ Lời dặn của Đức Chúa, ở trình thuật rất hôm nay.
Trình thuật, nay thánh Luca gợi nhớ dụ ngôn Chúa kể, để khuyên rằng: “Nước Trời giống như bàn tiệc”. Có sẻ chia. Những nắm cơm, vừng cháy. Của dân gian khắp chốn, ở đời người. Một đời, có những ngày mọi người đều sinh hoạt rất đặc biệt. Như Chúa làm.
“Một ngày Sabát kia, Đức Giêsu đến nhà một ông thủ lãnh Pharisêu để dùng bữa.” (Lc 14: 1) “Đến” ở đây, có thể là dịp để mọi người tỏ bày tình thương, rất huynh đệ. Nhưng, thánh sử lại viết: “Họ cố dò xét Ngài.” Dò xét, không phải để thán phục. Tò mò. Mà, xem Chúa có làm điều xằng bậy, ngày lành thánh. Để, có cớ mà “sửa lưng” Ngài. Và lên án, cả khi Ngài chưa nói đến một điều.
Dự tiệc ngày Sabát, Chúa không sợ nói với con người qua dụ ngôn. Bằng vào dụ ngôn, Ngài nói thẳng với thực khách. Những lời sau, là với chủ nhà. Bằng vào hai dụ ngôn, Ngài mời mọi người để tâm vào điều Ngài sắp nói. Điều ấy, vẫn là bài học để đời cho tất cả. Không chỉ một người.
Dụ ngôn đầu, là về phản ứng của thực khách khi ngồi bàn. Và, thánh sử lại đã ghi: “Ngài thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi.”(Lc 14: 7) Phàm các buổi tiệc tùng ở thị thành, chỗ ngồi là chuyện rất tế nhị. Trọng khinh. Ai quan trọng, đều ngồi gần chủ tiệc. Còn lại, chỉ là những người thân cô thế cô, rất xa vời. Có buổi tiệc, vị chủ mời còn đề tên thực khách trên tấm giấy, đặt ở trước. Ở đó, còn ghi rõ vai vế. Chức vụ. Mới đáng sợ. Ở tiệc cưới, có người còn kỹ hơn. Ít ai được ngồi gần nhà đám. Ngoại trừ người thân. Hoặc, đấng bậc có vai vế, rất quan trọng.
Với Chúa thì khác. Ngài chuyển đổi thứ tự của dân gian, người đời. Và căn dặn: “Anh em đừng chọn cỗ nhất mà ngồi.” Bởi, có thể là anh sẽ bị mời xuống ngồi ở bên dưới. Chốn thấp hèn. Ở nơi đó, sẽ buồn rầu. Chán nản. Với nhiều người, bị mời như thế đồng nghĩa với thiên tai. Cũng tai hại, cho thanh thế, trong giao tiếp. Thật ra, Chúa chẳng muốn người nghe hiểu dụ ngôn Ngài kể, theo nghĩa đen. Điều Ngài muốn nói: nơi Nước Trời, chỗ ngồi không là chuyện hệ trọng. Như ngoài đời.
Quan hệ với Chúa, với anh em, thứ tự trên dưới theo tôn giáo, sắc tộc, nghề nghiệp, giai cấp, chẳng là gì. Hệ trọng chăng, là mức độ yêu thương/phục vụ ta chứng tỏ với Chúa, qua tương quan với mọi người, thôi. Hệ trọng chăng, là: không nên sợ người khác đánh giá mình rất thấp. Nhưng quan trọng, là mức độ chăm lo/giùm giúp ta xử sự với mọi người.
Ở bài đọc 2, thánh Phaolô nhấn mạnh đến điều quan trọng như sau:
“Anh em đã tới núi Xion, thành đô Thiên Chúa hằng sống, là Giêrusalem trên trời… Anh em đã tới dự hội vui, dự đại hội giữa các con đầu lòng của Thiên Chúa, là những kẻ đã được ghi tên trên trời.” (Dt 12: 22)
Đó mới là điều quan trọng. Chứ không phải chỗ ngồi. Trên dưới.
Dụ ngôn tiếp, là điều Chúa muốn trực chỉ vị chủ tiệc, tức thủ lãnh nhóm Pharisêu: “Đừng mời bạn bè, bà con anh em, hoặc láng giềng giàu, kẻo họ cũng mời ông như thế, và ông đã được đáp lễ.” (Lc 14: 12) Nhìn vào xã hội hôm nay, chừng như người người vẫn làm như thế. Tiệc tùng nay cũng thế. Dự tiệc đình đám lễ hội vẫn cứ là can dự chuyện buôn bán. Kiếm tiền. Hoặc làm thân, vì mục đích đen tối? Tham ô? Nhũng loạn?
Chúa thì khác. Ngài đưa ra một đề nghị, ít khi thấy: “Khi đãi tiệc, ông hãy mời những người nghèo, tàn tật. Què quặt. Đui mù.” Tức, những người không có khả năng mời lại. Cho lại. Dù chỉ để tiến thân trong xã hội chú trọng đến điạ vị. Thứ hạng. Thế đứng. Để có chỗ ngồi.
Thần học gia Matthew Foc có lần nhìn đời như một chiếc thang dốc hoặc vòng quay tròn. Sống đời leo thang, người người có khuynh hướng cố leo, cố trèo lên đỉnh chóp. Cứ thấy mình mãi còn ở dưới, là cố gắng đạp người khác xuống, để mình lên. Với xã hội người đời, ăn trên ngồi chốc hoặc leo thang lên dốc, là tìm leo đến mút cùng. Chóp đỉnh. Dù, đó có là chốn doanh thương, thi cử, hay chỉ một chỗ ngồi, trên xe buýt. Bởi lẽ, xã hội ta sống là xã hội thang dốc, khuyến khích để ta leo.
Trình thuật đề nghị ta thiết lập một xã hội theo vòng tròn. Ở nơi đó, không có chỗ cho vị thế cao/thấp, trong/ngoài. Tất cả vẫn ngang hàng. Người người cùng giáp mặt. Tất cả đều định vị ở nơi chỗ tốt nhất. Nơi đó, người người đều quen biết nhau. Tôn trọng nhau. Đều ở vào vị thế sẻ san những gì mình đang có, mà lo cho những người hiện còn thiếu thốn. Hãy cứ đặt để bàn tròn. Cho mọi người. Tiệc sẵn sàng. Ai cũng đều có phần, khỏi cần lo. Mỗi người đều dùng đũa gắp mà tiếp tế thức ăn cho người ngồi cạnh. Hoặc, đối diện. Tiệc Nước Trời là tiệc sẻ san. Rất như thế.
Đó, có là điều không tưởng? Thiếu thực tế? Với xã hội phương Tây, chuyện ấy thật khó thực hiện, sớm chiều. Có khi phải mất cả thế hệ. Nhưng, áp dụng từ gia đình nhỏ. Nhóm hội, như cộng đoàn giáo xứ, cũng là điều hay. Rất nên làm.
Tiệc Thánh ta tham dự, nay mang dáng dấp một sẻ san. San và sẻ, cả bánh rượu. San và sẻ, Thân Mình và Máu Thánh của Đức Chúa. San và sẻ, Lời Chúa trong Tiệc Lòng Mến. Tiệc của gia đình lành thánh. Ở đó, đâu có chuyện phân chia trên/dưới, thấp/cao.
Tiệc Thánh là Tiệc của gia đình rất lành và rất thánh. Mọi thành viên trong đó đều vui vẻ. Phấn chấn. Cởi mở. Chẳng bao giờ cãi tranh. Giành giựt, dù chỗ ngồi. Hội thánh thời ban sơ đã thực hiện Tiệc Lòng Mến, rất như thế. Hội thánh hôm nay, chắc cũng không ngại ngần hiện thực đề nghị Chúa đưa ra nói trình thuật, hôm nay.
Trong khí thế chấp nhận đề nghị Chúa đưa ra, ta hãy vui hát những câu ca rất diễm tình, rằng:
“Chiều hôm nao, tiếng hát bay cao Quỳ bên nhau, trước Đấng Tôi Cao Hứa yêu nhau, trao câu thế, Chung sống trọn đời. Rồi mai đây, kiếp sống có đôi, Đời buồn vui, mãi mãi bên nhau. Khấn xin Mẹ, thương dắt dìu Tình yêu dâng cao.” (Thành Tâm – Diễn Tình Ca 3)
Hứa yêu nhau, không chỉ là lời hứa giữa hai người. Mãi bên nhau, không chỉ là quyết tâm của đôi lứa. Nhưng là, những quyết và tâm, của mọi người. Những người con của Mẹ thánh Giáo Hội. Của cuộc đời. Ở Nước Trời.
“Thôi em, nước mắt đừng rơi lã chã” em mãi là hai mươi tuổi Ta mãi là mùa xanh xưa. Giữ trọn tình người cho đẹp.” (thơ Quang Dũng)
Lc 14: 25-33
Nước mắt em, thôi đừng rơi lã chã. Thôi em nhé. Dù tuổi em. Tuổi anh. Và tuổi người, chỉ đôi mươi. Hay, cả một đời. Có là tuổi xanh xưa, tươi mát. Ta giữ mãi tình người. Nhé nghe anh. Cho đời luôn đẹp. Đẹp cả tình người. Tình Chúa. Rất hôm nay.
Tình Chúa hôm nay thánh sử đã ghi chép, để người người cố mà nhớ lấy. Nhớ mãi. Nhớ hoài một tình tự, như Tin Mừng thường vẫn nói. Nói về Tiệc, nơi Vương Quốc. Khiến người người đều vui.
Tiệc Chúa gọi mời mọi người, chẳng ai buồn đến dự. Khiến Ngài phải truyền cho gia nhân chòm xóm, chốn dân gian. Người nghèo, khốn khổ. Người què quặt, đui mù. Rày hãy đến. Đến dự Tiệc, Chúa khẩn mời bằng lời quyết liệt:“Ai đến với Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ của Tôi được.” (Lc 14: 26).
Thoạt nghe Lời, ta tưởng lời là những đối nghịch với ý Chúa muốn tỏ bày lòng xót thương. Như Ngài từng làm với nhạc mẫu thánh Phêrô. Với người Samaritanô. Và, Lazarô. Cùng chị em Maria và Martha? Phải chăng có điều gì đối chọi với lời răn: yêu thương kẻ thù?
So với Tin Mừng khác, Phúc Âm thánh Luca viết là viết cho những người theo Chúa với lời ghi chép rất đanh thép. Triệt để. Nghĩa là, ai muốn theo Chúa, nên đi trọn con đường Ngài vạch sẵn. Là, chấp nhận lối nhìn đời như Ngài muốn. Rồi quyết tâm theo Chúa đi vào hiện thực. Chứ không phải chỉ mỗi cam kết, rất hời hợt. Qua ngày. Như thái độ của người đời vẫn có. Mỗi ngày.
Rõ ràng, thánh Luca không có ý bảo: Chúa chỉ muốn ta tuân giữ lời Ngài, rất nghĩa đen. Tức, không mang ý nghĩa ghét bỏ mẹ cha. Chê cuộc sống, rất hiện tại. Ai hiểu thế, cũng có thể là người ấy sẽ chọn cái chết tự vẫn, mới đúng! Thật ra thì, hờn giận/ghen ghét và bạo động, chỉ là con đẻ của nỗi niềm sợ hãi. Khiếp kinh.
Trái lại, điều mà thánh sử ghi chép, là: ta được mời gọi tỏ lòng xót thương, yêu mến hết mọi người. Dù, họ là ai. Dù, họ chẳng quan hệ gì đối với ta. Tình yêu thực, sẽ đẩy lùi mọi hãi sợ. Hơn nữa, điều Chúa dạy, là: hãy xót thương thực sự như người Samaritanô trong dụ ngôn Tin Mừng. Như lời Chúa dạy khi ta nguyện cầu, cùng Cha. Nói tóm lại, dân con/đồ đệ của Chúa, biết mình thuộc cùng một gia đình. Và cũng biết, rằng: tất cả vẫn là anh chị em cùng nhà. Nhà của Chúa. Rất Nước Trời.
Vẫn là chuyện hệ trọng, nếu ta tiếp tục quan hệ mật thiết với Chúa. Vẫn có tương quan với mọi người anh em trong đời. Dù, họ khác chính kiến. Sắc tộc. Tôn giáo. Nghề nghiệp. Tuổi tác. Giới tính. Cung cách để đo lường mức độ mật thiết trong quan hệ với mọi người, không nằm ở giai cấp/chức năng. Nhưng, là mức độ yêu thương/giùm giúp ta dâng Chúa qua quan hệ với mọi người.
Điều quan trọng cũng chẳng ở vấn đề: ta có được người đời đánh giá thấp/cao? Cho bằng mức độ ta thực hiện chuyện giùm giúp/săn sóc với lòng thương mến, hết mọi người. Chúa gọi mời, là Ngài mời gọi mọi người cứ sâu lắng trong an bình nội tại. Bất luận vai trò/địa vị người ấy có cao sang/thấp hèn, ra sao.
Trong đối xử với mọi người, nếu chỉ thoả mãn ước muốn của người nhà mình, chẳng đếm xỉa gì đến nhu cầu của người khác, thì lúc đó ta đã xử sự không phải phép, với gia đình rộng lớn. Ở khắp nơi. Và như thế, ta đã không coi người khác như thành viên cùng nhà. Không là đồ đệ Chúa, rất đích thực. Chúa đã nói: “Những gì các người không làm cho một người nào trong các kẻ hèn mọn nhất này, là các người không làm cho chính mình Ta.” (Mt 25: 45)
Gia đình. Chòm xóm. Đất nước. Dù sai/đúng, vẫn không là khẩu hiệu tuyên truyền để lôi kéo đồ đệ về với Chúa. Bởi, cũng có lúc ta chối từ thành viên gia đình lớn. Vẫn cứ muốn ta tham gia nhóm hội đoàn thể của họ để rồi đưa ra những hành xử tai hại, thiếu quang minh chính đại. Thiếu xót thương. Ta không thể hỗ trợ người cùng nhà, mà kinh doanh lươn lẹo. Cũng không thể đồng hành chỉ với người thân, để thực hiện những động thái kỳ dị, Phân biệt. Nhưng, hãy chứng tỏ lòng xót thương/yêu mến mình vẫn có, với mọi người. Chứng và tỏ, bằng cách chống đối cách hành xử vô luân. Gây hại. Và, luôn quan ngại cho sự vui sống. Hài hoà. Của mọi người.
Lại có trường hợp tha hoá, của những người bỏ nhà ra đi. Người, chỉ biết làm lợi cho người khác nhưng chẳng quan tâm gì đến máu đỏ ruột mềm. Cùng nhà. Làm thế, là đã trái nghịch lời của Chúa, là Đấng chỉ muốn mọi người thành người thân cận. Rất cùng nhà. Từ đầu hết đến cuối hết, ở mút cùng của cuộc sống. Đó, là sự ghét ghen, mà Chúa chẳng bao giờ khích lệ.
Lòng xót thương/yêu mến mà Chúa nói, được thánh Phaolô diễn rộng ở bài đọc 2. Bằng vào thư gửi bạn Philômênon, thánh Phaolô yêu cầu bạn thân mình đón nhận người nô lệ trẻ độ trước có sai quấy. Nhưng, nay nhờ thánh nhân bảo ban, anh đã qui hồi trở thành người của Chúa. Và, thánh Phaolô cậy nhờ vào lòng xót thương/yêu mến của bạn mà nương tay coi người trẻ này “như người ruột thịt”, “trong khi tôi bị xiềng xích.” Thánh Phaolô muốn bạn mình đối xử với người nô lệ trẻ “như người anh em thân mến.” (Phi 13, 16).
Đó, là tha thứ. Là, đối xử cho phải đạo với người từng qui hồi, về với Đạo. Những người đã hồi hướng/đổi thay, cuộc đời mình. Thay và đổi, để mọi người từ nay quyết tin tưởng. Cậy nhờ. Hơn nữa, là nô lệ hay đã qui hồi làm Công giáo, thì ở tầm nhìn nào đó, anh đã là người anh/người chị đối với chủ nhân của anh, là Philômênon.
“Ghét cả mạng sống mình”, còn là điều Chúa muốn. Tức, ta nên sống cuộc đời xót thương/ yêu mến. Và, tin tưởng. Bởi, Chúa vẫn muốn cuộc sống của ta không còn những ham hố. Dính bén. Hoặc, tham vọng đầy mình. Cũng chẳng nên hãi sợ. Lo âu. Sầu buồn, mà làm chi. Hãy cứ tự do, mà sống. Vì vậy, Chúa nói: “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ của Tôi.” (Lc 14: 33) Từ bỏ, là cho đi. Cho, cả chính mình. Cho, không là giảm bớt tự do để thực hiện lòng xót thương/yêu mến, rất trung thực. Vì khi đó, “Cho” chỉ là ý nghĩa của ghét bỏ, mà thánh Luca đã diễn tả. Ở đây. Nơi trình thuật này.
Ý nghĩa của câu truyện Chúa vừa kể, chỉ cốt để minh hoạ. Minh hoạ rằng, quần chúng theo Ngài đã tỏ lòng phấn chấn. Rất khởi sắc. Nhưng, vấn đề là: họ đã sẵn sàng để theo chưa? Theo như thế, có mang ý nghĩa “dứt bỏ” mọi sự chăng? Bằng không, cũng chỉ như vị vua nọ ra chiến trường, mà không bàn thảo. Tính trước. Hoặc, như người khởi công xây dựng nhà, đà hết vốn. Không tính trước, sẽ bị mọi người cười chê. Thất bại.
Giả như người Công giáo chúng ta cũng đang trên Đường theo Chúa, mà không nhận ra những gì cần tính trước, rồi cũng sẽ thành trò cười cho thiên hạ. Cũng thất bại thôi. Tuy nhiên, ngôn từ của trình thuật hôm nay dù mang tính chất rất tiêu cực, cũng chỉ để nói lên rằng: ta sẽ để luột mất niềm an vui/hạnh phúc nơi cuộc sống mà Chúa đem đến. Hiến tặng cho ta. Cho mọi người.
Nhận thức ý nghĩa Chúa nhắn nhủ, ta cứ hiên ngang ngẩng đầu tiến bước, mà vui hát. Rằng: “Cả một trời yêu bao giờ trở lại Ôi ! Ta xa nhau tưởng chừng như đã Ôi ! Ta yêu nhau để lòng cứ ngỡ Tình bất phân ly – tình vẫn như mơ Đành nhủ lòng thôi giã từ kỷ niệm Cho qua bao năm mộng buồn quên dấu Nhưng sao bao năm ngày dài qua mãi Trong anh hôm nay thấy tình còn đây.” (Trần Quảng Nam – Mười Năm Tình Cũ)
Tình cũ. Hay, hiện thời. Vẫn là tình của Chúa. Của mọi người. Trong đời. Tình, bất phân ly. Như mơ. Dù trải “qua bao năm mộng buồn quên dấu”. Vẫn còn đây.
“Hoa vẫn ngát hương bay” Như ngày xưa đến lớp Như chiều nào bất chợt, Ta tìm em bơ vơ.” (thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn)
Lc 15: 1-32
Ngày xưa đến lớp. Đâu bất chợt. Ngày nay đến gặp. Được nhiều hơn. Nhiều, không là số lượng. Mà, về chất lượng lời Chúa. Những bảo ban. Lời Ngài ban, vẫn râm ran ghi chép một trình thuật.
Trình thuật, nay Thánh Luca ghi và chép Lời Ngài ban rất chất lượng. Ở mọi thời. Lời Ngài bảo, là phán bảo đầy những chất lượng. Cho cuộc sống. Điều này, rày thấy ở bài đọc 1, sách Xuất Hành. Ở sách ấy, Đức Chúa hành xử tưởng Ngài chừng như giận dữ, giống như ta. Chúa có giận, chỉ là khi dân con của Ngài vẫn thờ quấy, những ngẫu tượng. Ngài cũng giận, vào lúc dân con của Ngài chỉ cứng đầu. Phụ bạc. Ngài còn giận, cả vào khi Môsê cố thuyết phục. Và rốt cuộc, Ngài đã nguôi ngoai.
Trình thuật thánh Luca, nay cho thấy ba ảnh hình dụ ngôn diễn tả cùng tự sự, từ Đức Chúa. Khác Cựu Ước, dụ ngôn hôm nay mang ảnh hình về cùng chủ đề xót thương. Vì xót thương, nên Chúa mới cất công đem người lầm lỡ về với tương quan, rất trìu mến. Vì xót thương, Chúa đã bỏ chiên đàn ở lại, để kiếm tìm mỗi chiên con lạc bầy, đầy nguy biến. Ngài chẳng quở phạt. Nhưng vẫn mời chào mọi người hãy cùng vui. Như ngưòi goá phụ tìm được đồng tiền, rớt đâu đó.
Dụ ngôn về người con sa đà nhiều lầm lỡ, đã khiến người nghe nhận ra được tính hỉ xả/thứ tha nơi Cha Hiền, là Đức Chúa. Vì xót thương, vị cha hiền đã tha thứ tất cả. Để, tất cả được vui, khi người con đi hoang, nay trở về. Con về, để nhận lại tình thương yêu tha thứ, Cha ban phát. Về, để mọi người vui. Dù, người anh cả đại diện cho lớp người tuy ngoan hiền, đúng luật, nhưng thiếu lòng xót thương người thân thuộc, sống cùng nhà. Để rồi, có những động thái rất đáng tiếc.
Kể lại dụ ngôn, thánh Luca đã khởi đầu bằng một nhận định làm nền: “Các người thu thế và tội lỗi tìm đến Đức Giêsu để nghe Người rao giảng.”(Lc 15: 1) Kể như thế, thánh sử Luca nhắm hai chủ đích rõ rệt tương phản nhưng kết tác. Trước hết, là tương phản hành xử nơi những người tự cho mình là đạo đức. Sống đúng đắn. Rất hơn hẳn, mọi người. Tương phản tiếp, là những khác biệt về đường lối xử sự giữa người nhà Đạo (mà đại diện là anh cả), và dân con ở ngoài. Tương phản và khác biệt càng thấy rõ, nếu nhìn về tính khí vô luân. Phi đạo đức. Là tính khí, thể hiện rất rõ nơi người con thứ.
Trình thuật diễn tả nét đặc trưng của hai tính khí ấy qua động từ “tìm đến” và “nghe theo”. Tức, đặc trưng vẫn thấy nơi những người có quá khứ rất tồi tệ. Nhưng, một khi đã thật lòng “tìm đến” với Chúa, và chịu “nghe theo” điều Thầy dạy, họ không còn bị coi là người chìm đắm trong lầm lỡ. Tối tăm. Theo định nghĩa của sách vở, thì người chìm đắm trong tối tăm/lầm lỡ là người đã chấm hết, không còn muốn “tìm đến” Chúa. Cũng chẳng muốn tìm đến Thầy, để “nghe theo” Lời Thầy dạy dỗ, nữa.
Trong khi đó, Kinh sư/Biệt Phái lại vẫn nhìn mọi người bằng cặp mắt, đầy thành kiến. Dị nghị. Họ vẫn coi những người thấp hèn bên dưới, như kẻ lầm lỡ. Lỗi phạm. Nên, mới ung dung phiền trách: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với họ.” (Lc 15: 2) Đáp lại động thái ấy, Đức Giêsu không cãi tranh. Biện luận. Ngài chỉ đáp trả bằng dụ ngôn/truyện kể. Dụ ngôn nào cũng mang ý nghĩa nhắn nhủ: Chúa yêu thương hết mọi người. Chúa mong mỏi mọi người trở về với Ngài. Dù lầm lỡ, nếu biết trở về, Ngài đón tiếp rất linh đình. Mừng vui.
Tuy nhiên, cũng có nguy hiểm, là: ta dễ đi đến kết luận, rất “ba phải”. Và, đây lại không phải là điều Chúa muốn. “Ba phải” hoặc “huề vốn”, là ở điểm: ta cứ thế mà bảo: làm gì thì làm, sai sót cũng chẳng sao. Rồi ra, Chúa sẽ tha hết tất. Đó là triết lý của những người cuồng si. Đam mê. Vô độ. Không nghĩ đến hậu quả. Dù Chúa vẫn thương ta, nhưng đừng vì thế mà ra bê trễ. Bất cần.
Quan hệ với Chúa, có hai yếu tố rõ ràng cần tách bạch. Thứ nhất, tình Chúa thương ta là tình thương vô điều kiện. Bất kể người được yêu, có thế nào. Có làm điều sai quấy chống lại Chúa. Chống lại người anh em cùng nhà. Chống chính mình. Thì, tình Chúa vẫn thế. Truớc sau như một. Vẫn là thứ tình mà người Hy Lạp gọi là agapè. Tức, lòng thương yêu trìu mến. Chẳng đổi thay.
Là thánh nhân hay kẻ phạm lỗi, Chúa vẫn cứ yêu ta. Vẫn yêu, là bởi vì Ngài chính là Tình Thương Yêu đích thực. Ngài vẫn ban phát tình thương yêu vô điều kiện ấy, với mọi người. Bất kể người ấy là thánh nhân. Nhà độc tài. Hay, kẻ phạm pháp. Ngài vẫn bào: “Cần đến lương y, hẳn không phải người lành mạnh, mà là kẻ đau yếu.” (Mt 9: 12)
Mặc dù thế, ơn tha thứ từ Đức Chúa lại là chuyện khác. Tha thứ đây, không hẳn lúc nào cũng vô điều kiện. Như dụ ngôn “người con đi hoang trở về” cho thấy: người cha nhân hiền yêu thương rất mực người con thứ. Cha chẳng phiền hà khi nghĩ đến anh. Dù, anh tệ bạc. Chẳng đáng thương, theo lệ thường. Điều này người nghe thấy rõ trong câu nói: “Anh còn ở đằng xa, nhưng cha anh đã thấy. Và, ông chạnh lòng thương”. (Lc 15; 20)
Dù là thế, thứ tha ở đây chỉ mang ý nghĩa trọn vẹn khi người con thứ quyết tâm “hồi hướng quay trở về”. Quay trở về, là động thái rất cương quyết. Có chiến đấu nội tâm. Không chần chừ. Do dự. Nhưng, dũng mãnh. Bởi thế nên, không thể có tha thứ trọn vẹn, nếu không có hoà giải. Không thể có hoà giải, nếu vết thương lòng của những rẽ chia. Tranh giành không được hàn gắn. Chữa lành.
Cứ sự thường, người đời thường nghĩ: tha thứ chỉ mang tính “một chiều”. Họ tưởng rằng Chúa thứ tha, là Ngài tha thứ theo kiểu “đường một chiều”. Anh trước. Em sau. Thậm chí, có người còn suy tính: cứ thoải mái mà phạm lỗi. Chắc chắn rồi ra Chúa sẽ thứ tha. Chỉ cần đến toà cáo giải, là xong.
Thật sự, Bí tích hoà giải và tha thứ chỉ thành, khi người phạm lỗi biết sám hối. Biết tự hứa, sẽ xin chừa. Ở dụ ngôn Chúa kể, đó là quyết tâm của người con thứ sau khi trải qua tháng ngày u buồn sầu hận, vì sai sót. Nhờ quyết tâm sám hối của người con thứ, nên tương quan hành xử giữa Cha-con, mới hết sầu buồn sâu lắng. Tha thứ, diễn ra thực sự khi người phạm lỗi đã chạy đến thân thưa cùng Cha.
Và, người Cha hiền đã chẳng kể gì lỗi phạm của con, đã “chạnh lòng thương”, ngay khi con còn ở đằng xa. Hành xử cho phải phép, mới có thể về lại với tương quan mật thiết giữa Cha-con. Đây, chính là điều cần thiết, khi nhận biết những sai phạm/lỗi lầm, cần đổi thay. Đổi và thay, là việc cần làm người phạm lỗi biết mình bẻ gẫy mối tương quan thân tình. Với Cha. Với người anh. Với mọi người.
Tuy nhiên, có một sự rất thật trong dụ ngôn hôm nay, là người phạm lỗi đã đi bước trước, trong quyết tâm đổi thay. Quay về. Về với Cha. Và với Chúa. Đi bước trước, vì anh đoan chắc rằng mình sẽ được Cha tiếp đón, giống như xưa. Nghĩ thế, sẽ không còn chữ “nếu”, hoặc chữ “nhưng”. Chẳng đắn đo. Không đặt điều kiện. Còn, vị Cha hiền lại cũng chẳng nghĩ gì đến trừng phạt. Hoặc, bắt phải đền bù. Và, đây là ý kiến mà thánh Phaolô đã viện dẫn, ở bài đọc 2.
Thánh Phaolô xác nhận, là: chính ông từng là kẻ phạm lỗi khi tìm cách bắt bớ/gạch khỏi sổ bộ đời những người theo chân Chúa. Kịp đến khi khám phá ra được lòng xót thương vô bờ của Đức Chúa, thánh nhân đà quả quyết:“Đây là lời đáng tin cậy và đáng mọi người đón nhận: Đức Kitô đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên chính là tôi.” (1Tm 1: 15) Chính là nhờ vào lòng xót thương của Chúa, thánh nhân tiếp: “Đức Kitô muốn tỏ bày lòng đại lượng của Người mà đặt tôi làm gương cho những ai tin vào Người, để được sống muôn đời.” (1Tm 1: 16)
Làm gương ở đây, là cho những ai tin vào Người, không như các Kinh sư/Biệt phái chủ trương thực thi luật pháp, rất từng chữ. Nhưng là:
1. Yêu thương mọi người, một cách vô điều kiện, là yêu thương không tùy thuộc hành vi hoặc động thái của người đó, đối với ta.
2. Và, làm hết sức mình, để khi tha thứ ta sẽ hoà giải được với người mà ta cứ nghĩ là họ xử sự rất không phải, đối với ta.
Thực hiện điều này thật không dễ. Bởi, đó vẫn là những thách đố/chông gai trong cuộc sống. Tuy thế, đây cũng không phải là việc không thể thực hiện được. Hãy cứ thử chọn lựa giữa tha thứ và hờn giận/ganh ghét, hoặc trả đũa. Trả thù. Cứ thử xem, người có lòng khoan dung và kẻ chuyên cay cú, hỏi rằng: ai khổ hơn ai? Chắc chắn người khổ nhất sẽ là người chọn hờn giận. Ghét ghen. Cay cú. Vì họ vẫn chưa thể tha thứ. Cũng chẳng giải hoà được với ai.
Hiểu và biết những điều trên, hẳn là ta sẽ chọn theo đường lối Chúa dạy, mà thực hành. Thực và hành, chẳng phải vì Ngài là Chúa, mới dạy ta làm như thế. Nhưng, thực và hành, vì đó là đường lối tốt nhất, để lựa chọn. Người con thứ trong trình thuật đã học được bài học này, trong đau thương. Nay có lẽ, ta cũng nên học kinh nghiệm của anh, trong cảm kích. Và, xác tín.
Xác tín những điều như thế, ta cứ tiến về phía trước, mà ca hát. Hát rằng: “Triệu bàn chân chúng ta bước đi trên mặt đất này Trong tim con người là một đồng lúa mới, Ta nung sôi ý chí mặt trời Chặt cùm xích cho quê hương mỉm cười.” (Trịnh Công Sơn – Cho Quê Hương Mỉm Cười)
Quê hương ta hôm nay, không chỉ là mảnh đất. Mà, là quê hương, chính là lòng mình. Cõi lòng, cần chặt bỏ mọi cùm xích của ghét ghen. Hờn giận. Và, cay cú. Chặt bỏ, để thay vào đó bằng tình thương. Đỡ đần. Gìum giúp. Hết mọi người.
“Rồi buổi u sầu, em với tôi” “Nhìn nhau cũng đủ, lãng quên đời. Vài kề một mái, thơ phong nguyệt, Hạnh phúc xa xa, mỉm miệng cười.” (thơ Đinh Hùng)
Lc 16: 1-13
Mỉm miệng cười, khi anh hạnh phúc? U sầu rồi, em đến với tôi? Hạnh phúc với u sầu, vẫn cứ là thơ phong nguyệt. Nhìn nhau rồi cười mỉm, có còn là tình tự người nhà Đạo, mãi hôm nay.
Trình thuật hôm nay, thánh sử Luca lại đã kể về một tình tự ở đời người, vẫn rất thật. Thời xa xưa. Thời, mà ngôn sứ Amos có dịp ghé vương quốc Israel chốn giàu sang, khi ấy. Nhưng, là đằng sau sự giàu sang kinh tế/chính trị/tôn giáo, ông thấy cả một bầu trời buồn bã, đầy bất công. Bất công ở chỗ: người nghèo vẫn bị bóc lột. Người thấp cổ bé họng, vẫn chẳng có tiếng nói, với một ai. Lời ông viết, nay thấy dẫy đầy, trên thực tế. Thực tế, người người sống với nhau, vẫn lau chau lừa đảo. Gian lận. Vẫn phá bỏ nhiều giá trị cao quý. Vĩnh cửu.
Hai ngàn năm qua, nền văn minh các nước vẫn cứ tiến. Nhưng giá trị cao quý/vĩnh cửu lại đã suy đồi. Đảo lộn. Người nghèo vẫn cứ nghèo. Kẻ giàu lại giàu thêm. Cán cân phúc lợi ở xã hội, nay lỏng lẻo. Nhiều lãng phí. Con người ngày nay chỉ biết quan tâm đến chuyện làm giàu. Chẳng lý gì đến người nghèo đói. Xốn xang. Đâu biết gì chuyện thương yêu. Hiện tượng giết người cướp của, xảy ra như cơm bữa. Ai nấy đều nhận thấy tham nhũng với bất công, cứ lan rộng. Ở xã hội. Nhưng họ vẫn dửng dưng, như không biết. Dù các Đạo giáo có cảnh báo, nhưng nhiều người lại quả quyết: giàu nghèo đâu là chuyện Hội thánh, mà sao các ngài cứ bận tâm. Để mắt đến?
Rõ ràng, Chúa từng nói: “Giàu có, khó vào được Nước trời.” (Mt 19: 24) Khó đây, không vì người đó vẫn quyết tâm làm giàu. Mà là, muốn được mệnh danh là giàu sang, người người vẫn thích chọn kiểu tích lũy tiền của mà lẽ đáng ra những thứ ấy phải được phân phối đồng đều cho hết mọi người. Cũng thế, không một ai có thể nói mình rất kính yêu Đức Chúa, nhưng lại không lý gì đến người đồng loại, đang cùng khốn. Khó nghèo. Giàu có với bất công tuyệt nhiên không thể sống hoà đồng ở Nước Trời. Bởi, bất công với người đồng loại tức là: chối bỏ tình thương yêu, vốn là đặc trưng cuộc sống của dân con nhà Chúa.
Ngày nay, vấn đề kinh bang tế thế là chuyện tế nhị vì nó luôn đụng chạm/đòi hỏi mọi người phải thực hiện công bằng xã hội, tôn trọng phẩm giá cá nhân, thực thi quyền căn bản của con người, nghĩa là: những chuyện khiến mọi người –kể cả các tín hữu Đức Kitô cũng như cộng đồng dân Chúa- cần quan tâm. Cho nên, làm nhân tố tạo bất công/kỳ thị, tự khắc phải chối từ mọi thứ tình đang thôi thúc mọi người cần sống ở xã hội.
Với xã hội tư bản, là xã hội được xây dựng trên thi đua cạnh tranh, ai cũng cần tranh đua để sống còn. Và, trong bất cứ cuộc đua tranh/giành giựt dù chánh nghĩa, bao giờ cũng chỉ có một số ít người thắng, nhưng người thua lại rất nhiều. Ví dù ta có gọi ganh đua/tranh thắng là những hên xui/mayrủi” kiểu xổ số đi nữa, các tình huống tương tự vẫn dẫy đầy một chụp giựt tài sản của nhau, như chuyện thường ngày ở huyện. Nhưng, với huyện nhà Đạo, chuyện yêu thương nhịn nhường vẫn phải là đặc trưng, cần cổ vũ.
Đằng khác, không thể chấp nhận coi đó là chuyện bình thường được, khi vẫn còn rất nhiều người đang sống ở các khu nhà ổ chuột, không chịu nổi. Vẫn cứ phải quần quật làm việc ngày hơn 12 tiếng. Suốt tuần. Hoặc, vẫn có người cứ phải chịu cảnh đói khát/lầm than, suốt năm trường. Cứ phải bán máu. Ở đợ. Làm thân nô lệ tình dục, suốt cuộc sống.
Cũng không thể gọi đó là “chuyện bình thường ở huyện”, khi vẫn còn một số “đại gia” cứ nhởn nhơ “ăn trên ngồi chốc”. Phè phỡn. Vui chơi. Phung phí tiền bạc. Khai thác/bóc lột mồ hôi nước mắt của kẻ bần hàn, có cuộc sống dưới mức trung bình, mà phẩm giá cho phép. Không thể là “chuyện bình thường” được, khi cả đến con dân nhà Đạo, bằng cách này cách khác, đang góp phần dựng xây cảnh bất công. Cứ khuyến khích thúc đẩy con cháu ngoi trèo lên đẳng cấp cao sang, quyền 1uý. Rất giàu.
Vấn đề đặt ra hôm nay, không phải là ta quyết tâm cổ súy sự đồng đều toàn diện. Tuyệt đối. Thực tế, là ở nhiều lãnh vực đa phần dân chúng vẫn sống không đồng đều. Nhưng, về phẩm giá và quyền được bình đẳng của con người, không ai có thể tự cho mình “hơn hẳn” người khác. Là dân con theo Chúa, có ý thức, ta không thể nhân nhượng khiến giảm bớt nhân phẩm hoặc chí khí của con người, cách này cách khác. Càng nhận lãnh nhiều quà tặng, từ đâu đó, ta càng phải biết sẻ san cho những người đang cần nhiều hơn ta.
Bài đọc 2, tác giả thư gửi cho Timothê cũng đã khuyến khích đồ đệ hãy nguyện cầu cho những vị đang cầm quyền, ở nhiều nơi. Cầu, là nguyện cho họ biết sử dụng đúng đắn quyền hành mình đang nắm, để giúp đỡ mọi người dưới trướng được sống trong an lành. Tác giả bức thư (có thể là thánh Phaolô hoặc đấng chủ quản nào đó thuộc giáo hội tiên khởi), từng là nạn nhân bị giới cầm quyền thời đó hành hạ, chẳng khuyên ta nên hỗ trợ cách phải phép các chính sách mà nhà lãnh đạo của ta đề ra. Hội thánh không thể tự đồng hoá đặt mình vào với giới cầm quyền ở bất cứ nơi đâu trên thế giới. Chí ít, là khi giới chức cầm quyền ấy áp đặt chính sách bất công kỳ thị, lên người dân.
Trình thuật, nay nòi về cung cách quản cai khi điều hành mọi việc trong đời sống thực tế. Ở đời. Quản gia, là người nắm trọng trách quản trị/điều động các tài sản/đồ vật cho chủ mình. Vị quản gia được Chúa kể ở trình thuật là người bê tha. Xấu xa. Anh phung phí tài sản của chủ. Nên, khi biết mình sẽ bị nghỉ việc, bèn tìm cách ổn định tương lai cho riêng mình. Và người chủ khen anh “đã hành động khôn khéo, biết sử dụng cung cách rất bất công, hầu tránh thoát một kỷ luật. Dĩ nhiên, khi kể truyện, Đức Giêsu không có ý đề cao tính bất lương của người làm công cho chủ. Ngài chỉ muốn người nghe hôm ấy chú ý đến thái độ “nhìn xa trông rộng” của “con cái đời này”, mà thôi.
Tự như tác giả viết thư cho Timôthê, ở trình thuật hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến khía cạnh sáng suốt, điều nghiên, suy tính khi phải giải quyết việc gì cần đến trí óc. Phân tách. Chính đó là ý nghĩa của lời Ngài nói:
“Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng tiền của bất chính mà tạo tình thân bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào chốn vĩnh hằng.” (Lc 16: 9)
Đề cao cung cách giải quyết sự việc trong giao tế với đời, Đức Giêsu căn dặn người người hãy nhớ rằng mình chỉ là quả gia trông nom tài sản của chủ nhân ông mà thôi, chứ mình không phải là người thủ đắc tài sản ấy. Có nghĩa là, ta chẳng có quyền hạn gì trên bất cứ thứ gì mình đang tạm thời sử dụng. Là người Công giáo đích thực, biết rõ cung cách hành xử được Chúa chỉ dạy, ta sẽ không thể nói như người đời, rằng: “Tiền bạc/tài sản của tôi, tôi muốn làm gì thì làm chứ!”, là như thế.
Tựu trung, câu mà mọi người cần hỏi về thành quả của cuộc sống, sẽ không là: “Anh/chị gầy dựng được bao nhiêu cơ đồ, của cải, thế?” Mà là: “Anh/chị có sử dụng của cải mình đang tạm chiếm hữu vị mục đích tốt đẹp là tạo phúc lợi chung cho mọi người, hay không?” Đó chính là ý nghĩa của Lời Chúa khi Ngài căn dặn đồ đệ, về việc “tạo tình thân bạn bè”, ở trình thuật, rất hôm nay.
Trong hiểu biết điều Chúa dạy, ta lại hát lên lời ngợi ca hăng say, những ngày trước, mà rằng: “Vì những hồng ân Chúa thương ban tràn lan, Vì những kỳ công Chúa ra tay oai hùng.” Chúng con xin ngợi khen Cha! Chúng con xin tạ ơn Người Bây giờ và mãi mãi. Hallêluyah!” (Thành tâm – Xin ngợi Khen Cha)
Hãy cứ ngợi khen, và cảm tạ. Tạ ơn Cha, về cả những điều Ngài dạy dỗ. Dạy ta biết sống khôn khéo như người quản gia. Biết, yêu thương người đồng loại. Ở trong đời. Suốt nhiều thời.
“Há miệng cho hồn văng lên muôn trượng” Chơi vơi trong khí hậu, chin tầng mây. Ánh sáng lại sẽ tan vào hư lãng, Trời linh thiêng; cao cả gợi nồng say.” (thơ Hàn Mặc Tử)
Lc 16: 19-32
Miệng và hồn, những văng lên trên chín tầng mây. Ánh sáng và trời thiêng, cũng tan vào hư lãng. Vẫn cứ hỏi: thế đó, có là tình tự của nhà thơ? Trời cao cả. Gợi nồng say. Ấy vậy, có là tâm tư của nhà Đạo, như trình thuật thánh sử kể hôm nay?
Trình thuật, nay thánh sử Luca kể về người giàu có, bày yến tiệc. Trong khi đó, Ladarô nghèo hèn, ghẻ lở. Ở trước cổng. Thế mà, Ladarô vẫn được ẵm bế đưa vào lòng Abraham, hưởng phước lạc. Vậy, đâu là giáo huấn của Giáo Hội, vẫn rất thánh?
Thế giới ta sống, nay dẫy đầy nghịch cảnh, rất trớ trêu. Nên, vấn đề đặt ra, chẳng phải là: chúng dân ở cõi trần là ai? Làm gì? Sống ra sao? Mà là, những gì họ có thể làm? Làm được và được làm, để nêu gương. Điểm nhấn trình thuật hôm nay, là: nhiều khi ta sống niềm tin theo cung cách rất cá nhân. Chỉ tập trung vào chính mình. Chẳng nghĩ gì đến ai khác!
Điểm nhấn, thánh sử Luca muốn tạo tác động lên người đọc, là: ơn cứu độ cho mọi người chỉ có thể thành tựu, nếu như mỗi người biết ăn ở cho toàn hảo, toàn thiện. Tức, tránh xa mọi hành vi sai trái, chống đạo đức. Quên thờ Chúa. Hoặc đối xử tàn bạo với người khác. Sống bất toàn về: tính dục, lương thiện, công chính, vv.. Tuy nhiên, đó vẫn không phải là ảnh hình xấu xa, về người giàu có. Sang trọng.
Người giàu sang, có thể sẽ cật vấn lại: sao người bệnh như Ladarô không lo chữa trị bệnh ghẻ lở để còn lao động mà sinh sống? Có thể, người đọc như ta chẳng hiểu tại sao người giàu kia lại trở nên giàu có, đến như thế? Cũng có thể, anh sinh ra từ một gia đình khá giả. Được hưởng gia tài, ai để lại. Cũng có thể, chuyện giàu sang anh tạo được là do làm việc cật lực, nhiều giờ. Như vậy, chuyện ấy đâu có gì là xấu xa, khiến ta nghĩ đến trừng phạt? Tại sao người nghèo hèn bệnh tật như Ladarô lại được thưởng?
Có thể, có người nghĩ: Chúa thương kẻ nghèo, chẳng phải vì người ấy ăn ở tốt, nhưng chỉ vì người ấy “nghèo”, mà thôi. Nghèo, hiểu theo nghĩa bị lấy đi những gì mình cần thiết, hầu sống kiếp người, thích hợp với phẩm cách. Còn, người giàu có? Phải chăng giàu là điều xấu? Hay, vì họ trở thành giàu có, nên bị ghét ghen? Vậy, đâu là lẽ công bằng? Đâu là phải lẽ?
Công bằng của Chúa, là ở chỗ: sao người nghèo cứ mãi nằm dài dưới chân người giàu, chẳng ai dòm ngó. Người giàu, là người chẳng hiểu ý nghĩa thế nào là công bằng, chính trực. Họ chẳng hiểu thế nào là sống ở xã hội phải có tình người. Cũng chẳng thiết gì đến tín ngưỡng, giáo điều. Nhà trọc phú nói ở trình thuật, lâu nay vẫn thấy đầy trong Hội thánh. Hội thánh và thế giới hôm nay, đầy những người hằng tự nhủ: Chúa đâu có nói về mình? Tôi đây nào đã giàu? Vẫn lo toan chạy gạo từng bữa. Vẫn chăm lo cho gia đình, đấy thôi!
Về phương diện cá nhân, có lẽ cũng chẳng có ai giàu. Nhưng nhìn tổng thể, thì: xã hội ta đang sống là một xã hội sung túc. Trong đó, của cải được phân phối, rất không đều. Ta vẫn cứ nên tự kiểm xem mình có sống giống như người nghèo ở trình thuật, không? Tức, những người bị ai đó lấy đi những thứ cần để sống xứng hợp với nhân cách. Hãy tự kiểm xem mình có thờ ơ như người giàu kể trong trình thuật không? Và, thực tế hôm nay, người Công giáo vẫn ơ hờ, trước cảnh tượng có những Ladarô, ở khắp chốn? Trước cửa nhà thờ, chứ?
Về tổng thể, hãy tự hỏi: sao xã hội ta sống vẫn tiếp tục buôn, tiếp tục bán các đồ tiêu dùng cho các nước đang mở mang/kém cỏi, trong đó có cả triệu người vẫn sống dưới mức trung bình. Vẫn bị khai thác/bóc lột, qua đuờng lối mậu dịch “đẹp đẽ”, của ta? Sao xã hội ta mãi phát triển, trong khi xã hội bạn vẫn yếu kém? Đói nghèo? Phải chăng, vì họ lười biếng? Vì kém quản trị?
Người giàu có không biết rằng mọi sự cứ thế diễn tiến, nên van lơn:“Xin tổ phụ sai Ladarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm anh em nữa.” (Lc 16: 28) Anh van xin, vì e rằng: ở chốn luyện hình, người giàu có như anh rồi cũng hối hận. Bởi thế nên, anh có nhận định rất thực tế, về sự thể là:
“Môsê và các ngôn sứ kia mà họ còn không chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng tin.”(Lc 16: 31)
Hơn 2,000 năm qua, sứ điệp về giàu sang, và nghèo hèn/túng bấn, vẫn tiếp diễn. Và, vấn đề là: được bao người biết quan tâm đến điều này?
Một điểm khác ở trình thuật, cần tập trung suy nghĩ, là câu:“Ngày ngày yến tiệc linh đình” (Lc 16: 19) Tiệc đây, là tiệc Nước Trời. Nơi, Mình Thánh Chúa luôn hiện diện. Là, Tiệc Thánh ta tham gia vào các ngày của Chúa. Nhìn Tiệc Thánh, theo tầm nhìn của trình thuật hôm nay, có lẽ có người sẽ ngần ngại. Ngại và ngần, vì không nắm được ý chính, mà thánh sử muốn nói. Không thấy được rằng: lâu nay, mình vẫn chưa san sẻ thực phẩm Chúa ban từ Tiệc Thánh, cho những người thiếu thốn, sống từng ngày.
Người giàu có kể ở trình thuật, vẫn chưa biết được rằng: anh phải sẻ san những gì anh có ở tiệc linh đình. Dù rằng, anh vẫn có thể làm được ít nhất hai việc: thứ nhất, là sẻ san/ban phát thuốc men, để điều trị, dù biết rằng người nghèo khó như Ladarô vẫn đủ ăn. Việc này, chính là căn bản của tình thương mà mọi người đều có. Nhưng, đó vẫn không là mục đích của trình thuật.
Thứ đến, là biết quan tâm chăm sóc người khác, tức là: biết “cùng bàn” để sẻ san những gì mình nhận lãnh. Sẻ và san, thực phẩm cũng như nhu cầu cấp thiết theo phương cách đồng đều. Hợp phẩm giá. Không phân biệt về kiến thức, khả năng. Hoặc, mức độ tài sản. Quan tâm chăm sóc, để nhận ra rằng: nhu cầu của mọi người cần được phân phối, cho phải lẽ.
Điều trớ trêu, là: thực tế cuộc đời cho ta thấy: những người thường san sẻ nhiều hơn và tốt hơn cho người khác, là người nghèo, chứ không phải người giàu có. Bởi, khi đã giàu rồi, thì người người đều muốn giàu thêm, có thêm. Còn những người nghèo khó, họ chẳng có gì để đến nỗi phải sợ mất. Chẳng có điều gì khiến họ bận tâm cho tương lai, mai ngày. Và, điều mà họ bận tâm hơn cả, là: không muốn người khác rơi vào cảnh túng bấn, khó nghèo như mình. Khó và nghèo, là những chuyện rất khó, rất nghèo. Chẳng ai muốn theo. Chẳng ai muốn xảy đến với mình.
Trong cảm nhận điều Tin Mừng dạy, ta lại sẽ cất lên lời ca vang ngợi khen Chúa, để hát:
“Mừng hát, hỡi những ai lê đời khó nghèo! Mừng hát, hỡi những ai trơ trụi ngay trên giừng chết! Vì có Chúa Trời đất đang ở với ta.” Chúa yêu trần thế. Đã chết cho đời. Và đà sống lại. Hát lên người ơi!…” (Thành tâm/Sĩ Tín – Hallêluyah, hát lên người ơi)
Vâng. Dù giàu sang, đói nghèo hay khổ đau. Vẫn cứ hát. Hát những lời ngợi khen Thiên Chúa đã bảo ban. Bảo và ban, cho ta những Lời vàng ngọc. Để, ta biết sẻ san với mọi người, là con Chúa. Cùng sống ở cõi trần. Nhiều khác biệt.
“Sợi buồn con nhện giăng mau” Em ơi hãy ngủ, anh hầu quạt đây! Lòng anh, mở với quạt này; Trăm con chim mộng, về bay đầu giường.” (thơ Huy Cận)
Lc 17: 5-10
Anh hầu quạt, cùng chim mộng. Bay đầu giường. Hỏi đó, có là tâm tình của người đời. Ở mọi thời? Lòng em mở. Với yêu thương. Xin thưa, thế đó là tâm tình nhà Đạo. Ở khắp chốn. Với nhau.
Trình thuật, thánh Luca không đặt ra những câu hỏi và thưa như thế, nhưng thánh nhân nay viết về niềm tin-yêu. Tha thiết. Giữa mọi người. Trước hết, như quyết đoán của ngôn sứ Khabacúc, ở bài đọc 1, về: bất công, áp chế và hạch sách, ở khắp nơi. Nơi nào, cũng thấy hung hãn. Bạo tàn. Bèn cảnh báo:“Phá phách. Bạo tàn, đâu cũng thấy dẫy đầy tranh chấp, cãi cọ.” (Kb 1: 3),
Nhận định của ngôn sứ, nay mang dáng dấp một thị kiến rất “kết hậu”:
”Hãy viết lại thị kiến; và khắc vào tấm bia để mọi người đọc, cho xuôi chảy. Thị kiến tiến nhanh tới chỗ hoàn thành; không làm ai thất vọng. Thế nào nó cũng đến, không trì hoãn.” (Kb 2: 2-3)
Trình thuật, nay có tông đồ rất thánh đã nài van: ”Xin Thầy thêm cho chúng tôi một lòng tin.” (Lc 17: 5) Lời van xin của vị tông đồ rất thánh, cũng phản ánh tâm tình của cộng đoàn tiên khởi. Tâm tình muốn có thêm lòng tin, để kinh qua thời bách hại, bạo tàn, cứ tiếp diễn. Lời kinh trên, nay còn thấy ở Hội thánh Trung quốc. Nơi, vẫn còn thấy xảy đến những bách hại bằng nhiều cách. Bách hại dữ dội, thời Cách mạng văn hoá. Bách hại tinh tế, thời bây giờ. Vì thế nên, Hội thánh nơi đây vẫn xin Chúa, một niềm tin rất vững, để có thể tồn tại trước mọi áp lực, từ nhiều phía.
Điều mà các thánh quyết van xin, không chỉ là khả năng nhận thức giáo lý, với giáo điều; mà là: có niềm tín thác/cậy trông, rất thâm sâu. Vững mạnh. Xin được xác tín rằng: Chúa luôn ở bên ta, dù không thấy. Dù, có người cứ nghĩ là: Ngài ở rất xa, khiến con người chả khi nào với tới. Xin, là để chắc chắn có niềm xác tín rằng: Chúa vẫn đỡ nâng. Giùm giúp, hết mọi người. Vào mọi buổi.
Niềm xác tín ta xin, là để người người biết rằng: Chúa vẫn ban niềm tin vững chắc, rất đích thực. Nhưng không vì thế, mà ta có thể thoát được tất cả thực trạng của cuộc sống, luôn đấu tranh. Tranh giành. Khốn khổ. Trình thuật, nay tỏ rõ: sống đời Kitô hữu rất hay tin, là tin rằng: Chúa vẫn hứa chăm nom đùm bọc hết mọi người. Thế nhưng, Ngài đâu đã hẹn bãi bỏ mọi khổ đau, âu sầu và nỗi chết. Thế nên, gặp khi đau khổ, sầu buồn đến chết, người người hãy nhớ cho rằng: đến Con Một Ngài có nài van Chúa Cha cũng đâu cất đi chén đắng nhục nhằn đau đến chết được. Hãy hiểu rằng, âu sầu/chết chóc Ngài chịu, là để người người sống vinh quang, với Ngài. Buổi Phục Sinh.
Điều Chúa hứa hẹn, là: với niềm tin đạt được, ta có đủ sức mà chịu đựng mọi khổ đau, âu sầu, khi nó đến. Để ta có đủ sức mà chấp nhận, ngõ hầu sống tươi vui đầm ấm, trong Nước Trời mà Ngài tạo dựng. Trong tinh thần ấy, Chúa tiếp tục giáo huấn bằng một so sánh thân phận đồ đệ chân chính với đầy tớ chính chuyên, mới vừa lao động về, đã được bảo: “Mau lại đây, ngồi xuống mà dùng bữa!” (Lc 17: 7) Chứ đâu như người đời: vừa về đến nhà, đã bị sai bảo thêm việc khác, để khai thác.
Xem thế, thì: tương quan giữa ta với Chúa, không dựa trên đổi chác/bán buôn. Trục lợi. Tựa như kiểu của người đời. Như: tôi làm nhiều việc lành phúc đức, ắt Chúa phải ban thêm ơn. Như, ta vẫn nghe: “có đi có lại, mới toại lòng nhau.” Trái lại, tương quan với Chúa, là quan hệ thương yêu, nhằm mục đích đỡ đần. Phục vụ. Tuyệt nhiên, không đòi hỏi một đáp trả nào hết. Tất cả sức lực người người bỏ ra khi phục vụ người khác, chính là món quà Chúa tặng ban. Quà Chúa tặng, là những mời mọc đầy cảm kích, để khi hoàn tất, người phục vụ thấy xác có mệt, nhưng lòng mình không nản.
Quan hệ bình thường với Chúa và với người, là quan hệ rất yêu thương, không mang tính chất của người đời đòi đáp trả như: “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại”. Quan hệ với Chúa, và với người, luôn đính kèm niềm tươi vui hãnh tiến. Là, cho vô điều kiện. Cho, mà không đòi. Dù, chỉ đòi mỗi tiếng “cám ơn”, gọn ngắn. Cho, là san sẻ tình thương ta có. Là, sẻ san hạnh phúc/sướng vui, ta gầy dựng.
Chính vì thế, đừng nên tưởng Đạo Chúa, như ngân hàng chuyên ban phát lợi lộc. Như, ngân hàng ngoài đời, là chốn chỉ muốn cho vay, rồi lại đòi. Đạo Chúa cũng không là “siêu thị’, để người người vào đó mà kiếm tìm món đồ mình cần đến. Đạo Chúa, cũng không mang tinh thần của người anh cả, trong dụ ngôn “người con hoang”, vẫn cứ thưa:“Cha coi, đã bao năm trời con hầu hạ Cha, và chả khi nào dám trái lệnh, thế mà có bao giờ Cha ban dù chỉ một dê con vỗ béo, để ăn mừng?.” (Lc 15: 29).
Và, như: thánh Phaolô lại đã trần tình với đồ đệ thân yêu, ở bài đọc:“Tôi nhắc anh nên khơi dậy đặc sủng của Chúa, đặc sủng mà anh nhận được khi tôi đặt tay trên anh.” (2Tm 1: 6). Xem thế thì, một đời dấn bước theo Chúa mà phục vụ, không là niềm tự hào để ta vênh váo, mà chỉ là ứng xử nhằm khơi dậy đặc sủng Chúa vẫn ban. Đặc sủng Chúa ban, là ban cho mỗi người. Và, mọi người. Vấn đề là, đã có mấy ai biết khơi dậy đặc sủng ấy, để tiếp tục? Mấy ai từng đáp trả, mà vẫn quên?
Quà niềm tin nơi Chúa, không mang tính rụt rè. Nhút nhát. Hoặc đắn đo cho tương lai. Mai ngày. Nhưng, là:“Thần Khí khiến ta được đầy quyền uy/sức mạnh. Tình thương. Biết tự chủ.” Với Thần Khí, Ta sẽ không “hổ thẹn vì phải làm chứng cho Chúa”. Cũng không có nghĩa: sẽ đảo ngược những gì xã hội kỳ vọng. Hoặc, mất đi những gì cần cho an toàn xã hội mà Đạo Chúa đem đến.
Nhiều người trong ta, dù chẳng có kinh nghiệm sống khổ đau. Sầu buồn. Chết chóc. Nhưng cũng đừng vì thế mà quên bày tỏ sự hỗ trợ cho những ai đang sống và phục vụ người khác, để Tin Mừng Chúa lan rộng khắp chốn. Đừng ngại ngần kết liên/hỗ trợ người anh người chị trong Hội thánh, đang bị quyền lực đạo/đời uy hiếp, với bất cứ hình thức nào. Bất kỳ lý do nào, họ trưng dẫn.
Bài đọc hôm nay, thích hợp với cuộc sống của mỗi người. Mỗi ngày. Thích hợp, là bởi: đến bây giờ, nhiều người vẫn còn đấu tranh cho Sự Thật. Cho tự do, và phẩm giá. Những người từng đấu tranh phục vụ như thế, sẽ đem đến cho ta một cật vấn, hỏi rằng: ta làm được gì để hổ trợ họ? Xã hội hiện thời, vẫn còn đầy những thứ để ta có thể san sớt cho những người cần nhiều hơn ta. Rất nhiều người vẫn còn sống dưới mức trung bình, của nghèo túng. Vẫn bị đẩy lùi khỏi xã hội. Cuộc sống. Ở nơi đó, họ vẫn bị khinh chê. Dè bỉu. Thậm chí, còn bị khai thác/bóc lột đến tận xương.
Thậm chí, có nhiều người nay vẫn nghi ngờ, quở trách Chúa. Đổ lỗi cho Chúa là tác giả của những thương đau. Sầu buồn. Khổ ải. Vẫn ngầm trách Chúa, cho rằng: mọi tệ hại trong đời là kết quả của tạo dựng, không hợp thời. Tai ương/bệnh tật xảy đến, là do Giáo hội Chúa không đủ nhạy bén, nhúng tay vào. Thực hư, hẳn ai ai cũng đều biết nguyên do. Và, hậu quả. Chính đó, là ý nghĩa và động lực khiến Hội thánh nay khuyến khích dân con hãy cùng đồ đệ hôm trước, ngỏ với Chúa:”Xin thêm cho con, một niềm tin”. Rất vững chãi. Để, mọi người qua cơn bách hại tinh vi, về thần trí.
Ý thức điều mình cần biết, ta hãy cùng nhau tiến về phía trước, mà cất tiếng hát rằng:
“Người ơi, chiều nào có nắng vàng hiền hoà sưởi ấm nơi nơi? Người ơi, chiều nào có thu về cho tôi nhặt là thu rơi? Tình có, ghi lên đôi môi, Sầu có, phai nhoà cuộc đời, Người vẫn, thương yêu loài người và yên vui cuộc sống vui.” (Cung Tiến – Hương Xưa)
Hãy cứ yên vui yêu thương loài người. Dù, sầu đau có làm phai nhoà cuộc đời. Dù, tình đời có là tình “nhặt lá thu rơi”. Suốt đời. Bởi, vẫn còn đó các người anh/người chị của ta trong Hội thánh vẫn hát ru:”Em ơi, hãy ngủ… Anh hầu quạt đây!”, “Lòng anh mở với quạt này”… Vẫn, dùng “tiếng thùy dương” để đưa người em vào “ mộng bình thường”. Rất cuộc đời. Ở mọi thời.
“Niềm khát vọng, ta ghi vào huyết sử” Dưới chân em, thơ lạc mất linh hồn. Ta đau xót, trong mỗi giờ tình tự, Ta khóc nhiều, cả những lúc trao hôn.” (dẫn nhập từ thơ Đinh Hùng)
Lc 17: 11-19
Nhà thơ khóc, ông vẫn khóc cả những lúc trao hôn. Tình tự. Nhà Đạo buồn, người vẫn buồn cả vào khi thánh sử có ghi ở trình thuật, lời Thầy từng quở trách. Lâu nay.
Trình thuật thánh Luca hôm nay ghi, là ghi lại Lời Chúa từng trách quở những người chỉ biết xin ơn, chứ không biết cảm tạ. Duy, có người ngoại bang ở thôn làng gần biên giới, là còn biết. Người ngoại bang, ở thôn làng biên giới ấy, là một người bệnh phung vẫn đứng từ xa, mà kêu cứu. Kêu, để xin Ngài dủ lòng thương, mà cứu vớt: “Lạy Thày Giêsu, xin dủ lòng thương xót chúng tôi.” (Lc 17: 13).
Nghe người bệnh nài van, Đức Giêsu không thực hiện lời họ yêu cầu ngay tức thì. Mà chỉ khuyên: “Hãy đi mà trình diện với tư tế.” Và, thánh sử lại đã thêm:“Trong khi đi, họ thấy mình được sạch.” (Lc 17: 14). “Thấy mình được sạch”, là phần thưởng do lòng tin biết tuân giữ lời Chúa dạy. Chẳng nghi ngờ. Chẳng phản đối điều gì. Và, phần thưởng Chúa ban, là do tin vào Ngài.
“Hãy đi mà trình diện với tư tế”, là bởi, đối với họ, được lành sạch thôi, chưa đủ. Nhưng, còn phải theo đúng thủ tục thời bấy giờ; tức: phải chờ tư tế xác nhận mới chính thức được coi là sạch bệnh. Có như thế, mới được phép về lại với xã hội bình thường, để chung sống.
“Anh ta lại là người Samari”, điều này chứng tỏ: đồ đệ Chúa công nhận bệnh nhân là một người ngoại bang, lâu nay bị ghét bỏ. Hận thù. Thù và hận, cả về tinh thần lẫn thể xác. Thế nên, họ mới là người đáng thương, hơn ai hết. Và, vấn đề thánh sử nêu ra, là: sao 90% số người được chữa lành hôm ấy là dân được chọn, lại không về “sấp mình dưới chân Chúa, mà tạ ơn”? (Lc 17: 16).
Và, Đức Giêsu cũng nói lên điều đó:
“Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế, chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại mà tôn vinh Chúa, duy mỗi người ngoại bang này thôi?” (Lc 17: 17-19)
Ngoại bang, theo định nghĩa của hàng tư tế Do Thái, là: người ngoài luồng, biết mình không xứng đáng như dân được tuyển. Bởi, nghĩ mình không xứng đáng, nên khi được chữa lành, họ thấy: đây là ân huệ rất cao cả, từ Đức Chúa. Nên, càng phải biết ơn, nhiều hơn. Đây còn là nghịch lý vẫn cứ thấy trong Đạo. Những người hôm nay tự cho mình là đạo gốc/đạo ròng, có lẽ cũng thế.
“Hãy đứng dậy mà về! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh!” (Lc 17: 19) Câu Chúa nói, hướng người bệnh về với sự sống lại. Tức, cuộc sống mới. Bước theo Đường Chúa đi. Và khi, người bệnh nhận thức sâu sắc về những gì anh cảm kích, anh thấy mình cũng có kinh nghiệm sống về ơn cứu độ, đối với anh. Cứu độ đây, vượt tầm mức chữa lành, về thân xác. Toàn bộ con người bệnh nhân ngoài luồng, nay được tái tạo trong tương quan với Chúa. Với cộng đoàn lân bang.
Bệnh phung, nay đích thực không còn tác oai tác quái, như trước nữa. Nhưng ngày nay, mọi người đều thấy xuất hiện nhiều thứ phung cùi khác, đáng sợ hơn. Sợ, vì con người không thể kiểm soát, hoặc trừ khử được chúng. Phung cùi hôm nay mang dáng dấp khác biệt. Dễ lây lan. Dễ lờn thuốc. Thế giới nay đầy những phung cùi đáng sợ là bởi người người còn lơ là. Chểnh mảng. Chẳng ưu tư. Phung cùi thời đại, nay có thể kể: là ghét ghen. Kỳ thị. O ép. Đẩy lùi người khác khỏi xã hội.
Đáng sợ hơn nữa, là ngày nay người người coi kẻ khác nhưng một thứ phung cùi thời đại. Cứ đẩy lùi người bệnh khỏi đời sống cộng đoàn, bằng nhiều cách. Rất tinh vi. Nhức nhối. Dồn người bệnh vào với thế giới nhỏ bé. Thấp hèn. Rồi tránh xa. Phung cùi thời đại khiến nhiều người phải xa lánh, nay được biết dưới nhiều tên gọi, như: Siđa, tị nạn, HIV, đồng tính luyến ái, vv… Nên, vấn đề đặt ra, là: người Công giáo lâu nay đối xử với bệnh nhân này như thế nào? Ví thử người bệnh hôm nay cùng đến tham dự Tiệc Thánh, thì ta có dám chúc hoà bình, mà bắt tay, ôm chầm, và làm thân?
Cùng là dân con theo chân Chúa, người Công giáo không nên chỉ biết đến với những người như thế, mà còn phải thăng tiến phẩm giá và quyền lợi của những người khác mình, nữa. Khác, về giòng giống. Sắc tộc. Văn hoá. Khác, về tật nguyền cả thể xác lẫn tâm thần. Thật ra, không chỉ những người “khác hẳn ta” mới cần “trình diện với hàng tư tế”, mà cả ta nữa, nạn nhân của thành kiến/kỳ thị, cũng cần được tẩy sạch khỏi mọi hãi sợ. Vô thức. Bất tương nhượng. Chỉ có người truyền bệnh, chứ không phải nạn nhân của căn bệnh “bất tương nhượng” mới cần được giúp đỡ. Chữa lành.
Bài đọc 2, thánh Phaolô cũng nói đến những khó khăn. Vất vả mà người rao truyền Lời Chúa vẫn từng gặp: “Vì Tin Mừng, tôi phải chịu khổ, và mang cả xiềng xích như một tên gian phi.” (2Tm 2: 8-13) “Chịu khổ” đây, không chỉ chịu mối tiếng thị phi. Kỳ thị. Thậm chí, còn là cảnh tù đày, xiềng xích, đành phải chịu. Và, thánh Phaolô cam chịu những thứ đó, là để:”mưu ích cho những người Chúa chọn, ngõ hầu họ cũng đạt tới ơn cứu độ trong Đức Kitô Giêsu, và được hưởng vinh quang muôn đời.” (2Tm 2: 9-10)
Và hôm nay, thế giới còn nhiều người vẫn “chịu khổ” trong lao tù. Vẫn đang là nạn nhân của những cực hình. Bách hại. Đủ mọi loại. “Chịu khổ” vì họ là những người dám đón nhận và sẻ san Lời Chúa, cho người khác. Tuy thế, cực hình/bách hại không thể ngăn dừng Lời Chúa, đang lan truyền. Không ai và chẳng gì có thể ngăn dừng được việc rao truyền Lời Chúa, với muôn dân. Nhiều vị như thánh Phaolô lâu nay coi “xiềng xích/tù đày” như niềm hãnh diện/tươi vui cho mình, vì Lời Chúa.
Ngày nay, có lẽ cũng nên tự hỏi: chính mình hoặc cộng đoàn mình đã công nhiên hoặc thầm lặng coi ai như người “ngoài luồng”, không? Mình có “đẩy lùi” những người khác lạ về mầu da, ngôn ngữ, chính kiến khỏi xã hội tựa như “hàng tư tế” thời trước đối xử với người phung cùi, không?
Nói cho cùng, nếu gặp hoàn cảnh nhà mình có con hay cháu tự dưng tuyên bố muốn lập gia đình với người ngoài Đạo hay vô thần. Hoặc cho biết, là người đồng tính luyến ái. Hoặc vừa nhiễm bệnh Liệt Kháng, rất Siđa, thì ta đối xử với chúng như thế nào? Vẫn “đẩy lùi”/tống cổ chúng khỏi gia đình mình đang sống chăng? Hoặc, cứ thở than: Sao Chúa nỡ đem chuyện ấy đến với tôi, ư?
Điều cần làm hôm nay, là: cùng với người ngoại bang Samaritanô, ta cần được tẩy sạch và chữa lành khỏi mọi chất độc hại từ hệ thống xã hội nào đang làm méo mó tương quan giữa chúng ta. Và, cần tẩy sạch cung cách ta nhìn người bệnh phung cùi thời đại đang bị “đẩy lùi” khỏi xã hội. Ta cũng cần biết rằng: với Chúa, không có ai là “ngoài luồng”, hoặc phung cùi. Để “đẩy lùi”.
Tất cả chúng ta đều cùng một Cha. Cùng chung một gia đình. Tất cả, đều là con cái Chúa. Mọi người chúng ta đều là anh, là chị và là em của nhau. Đều cần đến tình thương yêu cùng một kiểu, như Chúa biểu tỏ, cho chúng ta.
Hiểu được tình thương yêu của người cùng Cha, ta hiên ngang hát khúc “Cho nhau”, như sau: “Cho nhau nào có gì đâu! Cho nhau dù có là bao, Cho nhau cho phút yêu đương lần đầu, Cho rất luôn luôn cuộc sầu, Cho tình, cho cả niềm đau.” (Phạm Duy – Cho Nhau)
Có cho nhau, tình thương yêu và cảm thông như được dạy, ai nấy sẽ hiểu được tình Chúa thương người phung-cùi-ngoài-luồng, đến độ nào. Tình Ngài, vẫn trải dàn với hết mọi người sẽ còn trải dài, mãi thiên thu. Để, mọi người con của Ngài biết yêu thương dựa dẫm, sống ở đời. Cho tươi đẹp.
“Dù đôi tay buông xuống” Chúng mình vẫn tin tưởng. Chúng mình vẫn say sưa. Chúng mình vẫn nhìn vào mắt nhau, để mở một chân trời rất rộng…” (thơ Nguyên Sa)
Lc 18: 1-8
Nhà thơ, xưa nay vẫn tin tưởng. Dù, đôi tay có buông xuống. Nhà Đạo, lâu rày vẫn nhủ nhắn: hãy chuyên chăm nguyện cầu, đừng nản chí. Dù, chỉ đạo đạt lên quan àn đôi điều, như trình thuật hôm nay, rày đề cập.
Trình thuật, nay đề cập về những thỉnh cầu, chốn dân gian. Thỉnh và cầu, theo hình thức khác nhau. Từ chúc tụng, tạ ơn cho chí cầu bàu. Thỉnh và cầu, là những ý thỉnh, nhờ thần khí. Lẫn câu kinh. Thỉnh cầu, là chiêm ngắm. Tụng niệm. Là, suy tư nguyện cầu trong im ắng. Riêng tư. Quyết thực hiện cùng một động thái với người khác, ở nguyện đường. Động thái, mà Hội thánh quen gọi là nghi thức Phụng vụ.
Bài đọc hôm nay tập trung vào những thỉnh cầu ta dâng Chúa hầu khẩn nguyện cho mình có được những điều mình cần, chứ không phải cầu được những gì mình muốn.
Bài đọc 1, kể về động thái thỉnh nguyện của Môsê vẫn phấn đấu, giơ tay mà cầu khẩn mỗi khi ông giơ tay nguyện cầu, để dân con người Do Thái mỹ mãn đạt mộng ước. Cứ mỗi lần ông nản chí/rã rời, thì người người đều thất bại. Lở dở. Và khi đó, là lúc ông cần hỗ trợ. Và vì thế, ông cứ phải giơ cao, giơ cao mãi cho đến khi đạt thắng lợi, mới thôi. Diễn tả ý/lời một khẩn nguyện ra như thế, dân con Đạo Chúa không cố ý phổ biến tệ nạn dị đoan, mê tín. Nhưng, chỉ muốn đưa ra một đề xuất, là: không có Chúa phụ giúp, người người chẳng bao giờ thành đạt, dù việc nhỏ.
Trình thuật, nay kể về dụ ngôn quan trên đối xử với bà goá nghèo, rất thấp hèn, là có ý bảo: mọi người trong/ngoài Đạo vẫn cứ nên kiếm tìm sự công chính/an vui, để mà sống. Giả như các quan trên ở đời chẳng lý gì chuyện kính sợ Thiên Chúa, là Đấng Oai Nghi đầy Quyền Phép, rất trên cao; và giả như người người, ở đời, không còn biết thỉnh cầu/khấn nguyện Đức Chúa nữa, thì: Thiên-Chúa-là-Tình-Yêu có đoái hoài đến người con đáng thương/vô vọng như bà goá, nữa không? Bài học nay Chúa gửi, qua dụ ngôn, vẫn là: hãy chuyên chăm nguyện cầu. Đừng nản chí.
Hãy chuyên chăm nguyện cầu, phải chăng thánh sử bảo: Hội thánh luôn khích lệ dân con nhà Đạo hãy cứ thế mà làm, với Đức Chúa? Chuyên chăm nguyện cầu, còn là: đừng nên xin xỏ nhiều thứ rất vật chất, như: trúng số, thi đậu. Hoặc, của dư của để, hầu mua sắm xe/nhà, các thứ như nữ trang/đồ đạc, dù vẫn cần. Trái lại, chỉ nên cầu nguyện sao cho Danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Thánh ý Cha thể hiện.
Thật ra, nhân vật đóng vai “bà goá” ở dụ ngôn, chỉ muốn nguyện cầu và khẩn khoản xin thực hiện những gì Chúa muốn bà làm trong cuộc sống, mà thôi. Ở đoạn khác, Đức Giêsu đã chẳng so sánh Thiên Chúa với Người Cha Hiền ở đời vẫn lưu tâm đến người con lưu lạc khắp nơi, chốn nợ đời này sao? Có bao giờ, Ngài ban cho dân con mình những là sỏi đá, thay cơm bánh? Có bao giờ, Ngài lại ban cho đàn con mình, những bò cạp/rắn rết khi con mình cần trứng ăn? Và, Chúa kết luận: cha hiền ở trần thế mà còn biết thế, huống hồ là Cha các con ở trên Trời, lại không biết sao?
Thiên Chúa chỉ ban bố cho dân con mình những điều tốt đẹp, khi họ kêu cầu Ngài những điều cần, mà thôi. Với thánh Luca, điều cần mà Chúa phú ban, là: gửi Thần Khí Chúa đến với ai kêu cầu. Chứ, không phải cơm bánh hằng ngày.
Vấn đề đặt ra hôm nay, là hãy hỏi: điều tốt đẹp Chúa vẫn ban cho con cái Ngài ở trần gian, là những gì? Có khi nào, con cái Chúa xin Ngài ban Thần Khí đến, mà Ngài lại từ chối, không? Điều cốt yếu, là: ta có cầu và có xin Chúa ban Thần Khí Ngài đến như thế, ta mới có thể giúp đỡ, thương yêu và phục vụ Ngài, cho tốt hơn.
Có cầu khẩn Thần Khí Chúa đến với mình, người người mới hiểu ý nghĩa sâu lắng, của Lời Ngài. Có cầu và khẩn theo cách thích hợp, ta mới trở thành sợi giây liên kết chuyển đạt tình thương của Ngài đến với mọi người được. Có nguyện cầu như thế, người người mới hiểu rõ ý Chúa. Và, khi hiểu được ý định của Chúa như thế, ta mới hoà hợp vào với ý muốn của riêng ta. Và khi ấy, cả hai sẽ nên một. Một lòng muốn. Một ý định. Và như thế, ta sẽ đạt mục đích như Chúa chờ mong.
Hiểu rõ dụ ngôn hôm nay, là hiểu theo nghĩa như thế. Tuy nhiên, cũng có người hiểu dụ ngôn theo cung cách phân vai trong kịch bản, ở ngoài đời. Phân vai kịch bản ở đời, thường người chỉ phân cho Chúa vai trò quan án như dụ ngôn. Còn chính mình, lại những muốn đảm nhận vai trò của bà goá, rất khiêm nhu. Từ tốn. Đảm nhận như thế, là để không còn quấy rầy Chúa bằng những xin xỏ/cầu kinh, quyết liệt. Quyết đạt cho được, điều mình mong muốn, rất khẩn khoản.
Nữ tu Melanie Svoboda, đặt giả thiết theo cách khác. Chị hỏi rằng: chuyện gì sẽ xảy đến nếu ta đổi cách phân vai khác với điều lâu nay mọi người vẫn làm, là: thay vì trao cho Chúa vai trò của quan án, ta tặng Ngài vai trò của bà goá? Đổi vai như thế, rất có lý và thích hợp. Thích hợp, là bởi: giống như phần đông quan án ở đời vẫn bất công. Không tuởng. Bất công đến độ, chẳng ai còn biết kính sợ Chúa nữa. Bất công là ở chỗ: ta không cho phép Chúa can dự vào đời sống riêng tư, của ta.
Giống quan án đời thường, người người vẫn kiên trì từ chối. Chẳng chịu nghe. Chẳng chịu nghe biết lời kêu van/khẩn cầu của người nghèo hèn/cùng khốn, sống quanh ta. Giống quan án/đấng bậc ở đời thường, là ở chỗ: ta không còn thiết tha chuyện người khác, tức những người vẫn muốn ta ngó ngàng. Giùm giúp.
Giả như Chúa chịu đóng vai trò bà goá như dụ ngôn hôm nay, chắc chắn Ngài sẽ kiên trì chờ đợi mọi người đến cầu khẩn. Ngài cũng sẽ không bỏ đi, nếu dân con của Ngài là quan án, cũng kêu nài. Ngài vẫn chờ và vẫn đợi đàn con thân thương có quyết định quan trọng, liên quan đến cuộc sống. Ngài đợi và chờ, cả khi người người nói tiếng “KHÔNG”, trong yêu thương. “KHÔNG”, cả khi mọi người cần giùm giúp. “KHÔNG” cả vào các chuyện cần chính trực.
Trái lại, Ngài vẫn kiên trì chờ đợi cho đến khi đàn con thân thương của Ngài thực hiện điều tốt đẹp, Ngài hằng khuyên bảo. Thực hiện động thái yêu thương, Ngài từng dạy. Và giống như Ngài, đàn con thân thương, ở dưới thế, sẽ thực hiện động thái yêu thương gửi đến mọi người. Bởi, như sách Khởi nguyên từng viết: con người là thụ tạo được dựng nên theo ảnh hình của Chúa. Nhưng, làm sao trở thành ảnh hình của Chúa được, khi Ngài vẫn yêu thương mọi người, mà mọi người chẳng buồn yêu thương nhau, như Ngài muốn?
Thành thử, mỗi khi nguyện cầu/khấn vái, ta cũng nên xin Chúa là Đấng rất kiên trì/bền vững trong đợi chờ, hãy khiến cho đàn con Ngài ở dưới thế, ngày càng trở nên giống hình ảnh, của Chúa hơn.
Trong khấn nguyện như thế, ta lại sẽ hân hoan hát lên lời ca hưng phấn, rất đợi chờ, rằng: “Con ơi, con ơi tiếng cười nở chan hòa Nhớ tới, nhớ tới biết bao trẻ thiếu nhà Ngoài đường trời đông giá Một đàn chim nhỏ bé Gọi về chia sớt miếng cơm khoanh cà.” (Phạm Duy – Người Về)
Khấn và nguyện, là cầu sao cho ý Chúa được thực hiện, với mọi người. Nguyện và khấn, là cầu sao cho người người được lĩnh nhận tình thương yêu Chúa dạy, bằng cuộc sống rất đời thường. Rất chuyên chăm. Giùm giúp và ủi an, như Chúa đã và đang làm cho ta.
“Chúng tôi trót ngẩng đầu, nhìn trước mặt” Trán mênh mông va chạm, cửa chân trời. Ngoảnh mặt lại đột nhiên, thơ mầu nhiệm, tiếng hát buồn đè xuống, nặng đôi vai.” (dẫn từ thơ Nguyên Sa)
Lc 18: 9-14
Thơ nhiệm mầu. Tiếng hát buồn. Đó, có là chân trời đè nặng đôi vai của nhà thơ? Râm ran cầu. Lời tâm nguyện. Đây, có là trạng thái mênh mang nhà Đạo, vẫn an vui. Tươi cười. Hớn hở?
Tâm tư nguyện cầu, là ý tưởng mà trình thuật thánh Luca nay dẫn người đọc về với lời dạy, Chúa vẫn khuyên. Lời Chúa khuyên, Ngài khuyên về tư thế của mọi người khi nguyện cầu. Thông thường, mỗi khi có người xúc phạm đến mình, ta thường phản ứng bằng động thái đớn đau. Phẫn nộ. Rồi, tìm cách đáp trả, bằng hận thù. Đáp trả, để ít ra người xúc phạm sẽ không làm như thế nữa. Trong mai ngày. Ai cũng thế. Duy, có Chúa thì không.
Chúa vẫn thương yêu người phạm lỗi. Về cụm từ “thương yêu”, không nên hiểu theo nghĩa ưu ái/mến mộ, cho bằng ước ao cho tạo thành trọn lành. Cả người mắc lỗi. Chúa không coi lỗi phạm như hành động xấu chống lại Ngài. Ngài coi người phạm lỗi chỉ như người sơ lỡ, cần chữa lành. Chính người phạm lỗi mới là người đau đớn. Buồn bực. Chứ không phải Chúa. Đây là ý nghĩa của dụ ngôn Chúa Chiên Lành và truyện “Người Con Đi Hoang”, kể khi trước.
Tin Mừng diễn tả sự khác biệt nguyện cầu giữa Biệt Phái và người thu thuế. Biệt Phái là phái nhóm “tốt lành/thành đạt”. Họ tuân giữ luật lệ, không thiếu một chữ. Họ nguyện cầu, ăn chay. Bố thí. Nhưng dù thế, Chúa vẫn không tuyên dương. Bởi, họ là người chỉ biết tập trung mọi sự về với chính mình. Họ tự hào nói:“Lạy Chúa, con tạ ơn Ngài, vì con không như kẻ khác. Không như tên thu thuế kia.” (Lc 18: 11). Nguyện cầu như thế, hẳn bảo rằng: “Lạy Chúa, Ngài phải biết ơn vì có đứa con tốt lành biết giữ luật cùng mọi giới răn Hội thánh khuyên giữ, giống như con…?
Nói như người Biệt phái, thì việc cầu nguyện, ăn chay, hay bố thí không vì yêu Chúa. Cũng chẳng vì thương tình người nghèo, chú nào hết. Chẳng qua, chỉ là thương yêu chính mình. Cho mình là trung tâm của vũ trụ. Thế giới. Chúa dùng chuyện của ông làm ví dụ, hẳn để răn dạy mọi người. Chúa chỉ trích động thái của Biệt Phái vì họ không nhớ rằng: những gì mình có, đều do Chúa. Chứ thật ra, mình có là gì. Hoặc, nào đã làm được gì, nếu không có Ngài giúp đỡ.
Viết truyện này, thánh sử hẳn muốn nhấn mạnh rằng: những kẻ tự cao tự đại/coi trời bằng vung, dễ bị lật. Còn, những người nhún nhường, được Chúa thương. Đó là giá trị trong đời, mà xã hội vẫn gợi nhớ. Chớ nên quên. Biết nhún nhường/tự hạ, ta sẽ thấy những vị như ngài Biệt phái nay đã thấy rất nhiều, ngoài xã hội. Nơi Hội thánh, ta cũng thấy không thiếu nhiều vị vẫn cứ tự hào mình là người Công giáo, rồi coi rẻ anh em Tin Lành/Thệ Phản, hoặc đạo khác.
So sánh động thái trên với đấng bậc Biệt phái khác nay biết hồi hướng, quay trở lại, để có những lời tự sự, như: “Tôi đã chiến đấu trong cuộc chiến chính nghĩa…” (2Tm 2: 7). Chiến đấu/hài lòng với công việc mình làm, nhưng khác hẳn động thái của nhân vật tự cao tự đại, ở trong truyện, thánh Phaolô biết nhún nhường dâng cho Chúa toàn bộ cuộc sống của ngài. Và quyết rằng: năng lượng mình đổ ra, không phải để rạng danh chính mình. Mà, để mọi người nhận ra được sức mạnh tình thương của Chúa, trong đời.
Đành rằng, người thu thuế vẫn là kẻ đáng chê đáng trách, trong xã hội. Anh chẳng kể gì việc giữ luật Do Thái, lại cứ lươn lẹo/khai thác bóc lột người nghèo, làm mọi việc chỉ tại lợi ích cho đám thực dân ngoài La Mã, thôi. Những kẻ đầy tội phạm như thế mà sao Chúa vẫn thương. Ngài vẫn nói: khi người thu thuế rời đền thờ, anh rời bỏ như hành xử của một bạn Đạo, trong khi Biệt Phái thì khác. Vẫn coi thường/ chối bỏ lời khuyên của Chúa, chẳng hề vương.
Có người sẽ bảo: sao lại có chuyện trái khuấy như thế? Phải chăng đây là công bằng của Chúa? Công bằng và trái khuấy, khác ở chỗ: người thu thuế thừa nhận mình là kẻ có tội. Tự mình, mình chẳng làm được gì nên chuyện. Cũng chẳng thay đổi được gì, cho tốt đẹp. Có chăng, mọi sự đều do Chúa. Nhờ Chúa giúp đỡ. Bởi đó, ông mới thưa: “Lạy Chúa, xin khấng thương tôi là đứa tội lỗi.” (Lc 18: 13). Và, Chúa chỉ cứu giúp những ai khiêm hạ biết mình có lỗi. Biết con người thật của mình. Nên, hoàn toàn trông chờ lòng nhân từ của Chúa.
Từ Tin Mừng hôm nay, người đọc có thể rút ra bài học này: biết mình tội lỗi, cũng là quà tặng Chúa ban. Như thánh Gioan từng viết:“Nếu nói ta thông hiệp với Chúa mà lại đi trong tối tăm, thì ta nói láo. Không làm đúng sự thật!… Và nếu nói: Ta không có tội, thì lúc ấy chính ta đã tự lừa dối mình. Và sự thật không có trong ta.” (1Yn 1: 6, 8)
Đấy là khó khăn trong đời người Biệt Phái. Khó ở chỗ: Họ nghĩ mình là bạn của Chúa. Nhưng lại đi trong tối tăm. Có mắt thật đấy, nhưng cũng như mù. Trái lại, người thu thuế lại là những kẻ biết mình có tội. Nên, mới xưng thú những lỗi và tội của mình trước Chúa. Trước mọi người. Xưng như thế, là mình không còn nói dối. Nhưng đã nắm vững sự thật, về mình. Buồn thay thế giới hôm nay, vẫn còn nhiều người cứ nghĩ mình hiểu Lời Chúa rất rõ. Nhưng lại thiếu một điều, là: không còn nhận ra mình vẫn thiếu sót rất nhiều. Nhiều tội. Nhiều sơ xuất. Rất mắc phạm. Trong đời.
Về những lỗi ta mắc phạm hôm nay, không chỉ vì ta không thành đạt trong hành xử hoặc giữ luật. Mà là, đã để mất đi quan hệ với Chúa. Với mọi người. Bởi, ai cũng có thể phạm lỗi với gia đình. Và, bạn bè/người thân. Cả với khách lạ người dưng, chưa từng gặp. Lỗi và tội mình mắc phạm, là đã mất thói quen yêu thương/giùm giúp,hết mọi người. Làm việc hoặc lo toan gì, cũng chỉ biết có mỗi mình, mà thôi.
Nhận thức sâu sắc những tội và lỗi mình mắc phải, không làm ta xa Chúa. Trái lại, đó vẫn là dấu hiệu cho thấy Chúa là phải thành phần cao quý trong đời ta. Và, cũng nhận ra rằng mình vẫn ước ao san sẻ tình thương Ngài tỏ bày. Và từ đó, biết được rằng kẻ đáng thương nhất trong đời, là người:
-vẫn nghĩ mình chẳng cần Chúa như: Biệt Phái nọ. Người Công giáo kia.
-vẫn cứ bảo: đời mình chưa từng biết sai phạm, trong quá khứ. Cũng như hiện tại.
-vẫn tự nhủ: Chúa chẳng bao giờ yêu thương kẻ lầm lỡ, lỗi phạm, trong nhiều điều.
Vào Phục Sinh, Phụng vụ thánh có nhắc đến “tội hồng phúc”, tức tội đóng đinh Chúa, vào thập giá. Đôi khi, cũng nên nghĩ là: ta cũng đã sai phạm như thế. Cũng vẫn phạm những lỗi rất “đáng tội”. vì yếu đuối. Nên, ta vẫn luôn cần sự giúp đỡ của Đức Chúa. Cần, sự hỗ trợ của mọi người.
Nhận thức mình có lỗi, cũng giúp mình biết sống rộng lượng. Để, hiểu rõ mọi người hơn. Hiểu, là họ cũng có điểm yếu, dễ lỗi phạm. Điều cần thiết là dù trong nỗi niềm sâu lắng dù rất tội, ta có cũng đừng rời xa Chúa, Đấng luôn ở cạnh mọi người để nâng đỡ, hỗ trợ. Nâng và đỡ, như bài đọc 1 nói: “Lời họ kêu xin sẽ vọng tới các tầng mây… Đức Chúa không trì hoãn, không bắt họ đợi lâu.” (Hc 35: 16, 19)
Trong nhận thức chính xác như thế, ta lại sẽ hân hoan cất lời ca phấn chấn, mà hát rằng: “Thôi ngủ đi em, mưa ru em ngủ, Tay em kết nụ, nuôi trọn một đời. Nuôi một đời người Mùa Xuân vừa đến, xin mãi ăn năn mà thôi…” (Trịnh Công Sơn – Ru Em Từng Ngón Xuân Nồng)
Vẫn cứ ru em, tuy không ngủ. Chỉ để nói: đừng quên hồng ân kết nụ, của Đức Chúa. Mưa vẫn ru em. Vẫn “nuôi một đời người”, là để: “mãi ăn năn mà thôi.” Ăn năn. Kết nụ. Là, động thái cần có để người người sẽ lại đạt tình thương yêu của Chúa, mình để mất. Lúc bất cẩn. Ngủ quên. Rày mãi mãi.
“Ta còn thấy bóng kẻ thơ ngây,” Rẽ lau vạch suối tới am mây, Nắng trần chan chát, lòng trần héo, Mịt mù dặm cát, một chòm cây.” (dẫn từ thơ Lưu Trọng Lư)
Lc 19: 1-10
Chòm cây hôm nay, đâu nào thấy dáng vẻ thơ ngây. Lòng trần héo. Lại đã chứng kiến cảnh anh trưởng ban thu thuế vốn rất giàu. Anh giàu mà không sang. Bởi nếu đã cao sang, anh sẽ không màng của cải, quyết để lại mà theo Chúa. Và, thánh sử nay kể về anh Dakêu giàu, ở trình thuật.
Trình thuật, thánh Luca nay mô tả cảnh trí trong đó người đọc thấy Chúa đi vào thành phố cổ Giêrikhô, rồi dừng bước. Nhiều lần, ta cũng thấy Ngài vẫn đi và đi mãi, không dừng bước. Ngài chỉ dừng, để thực hiện công trình Cha giao, rồi đi tiếp. Và hôm nay, Ngài dừng chân đề nghị với dân con nhà Đạo một bài học về giàu sang không sợ tai tiếng, để tiếp Chúa.
Nhân vật giàu sang mà thánh Luca nay trích dẫn, là vị trưởng nhóm thu thuế ở trong vùng. Anh rất giàu, nhưng lại bị người đời ghét bỏ. Duy mỗi Chúa đã không ngại ghé thăm anh dù có người xầm xì cho rằng nhà của anh không xứng để Ngài dừng ghé lại. Bất chấp dư luận dị nghị. Ngài vẫn đến . Đến, để tỏ bày tình thương yêu, với mọi người. Hầu cứu vớt.
Trình thuật kể rất nhiều về động thái của anh Dakêu người nhỏ thó, chìm khuất giữa đám đông. Cố gắng lắm, anh cũng chẳng tài nào tìm thấy Chúa. Thế nên, dù có vai vế trong xã hội, anh vẫn chẳng ngại xử sự như người tầm thường. Cũng trèo leo cây cao, nhìn cho dễ. Leo như thế, anh không còn bị đám đông che khuất mắt, hầu thực hiện ước vọng mình vẫn có. Leo lên cao để tìm Chúa, là tư thế của người giàu/quyền thế, ở xã hội.
Kể về anh, thánh Luca còn muốn kể, rằng: thông thường, ta không thể gặp Chúa khi cứ để quá nhiều thứ vây quanh làm khuất mắt. Nên, không thể nhìn thấy Sự Thật và Công Chính, đang xuất hiện trước mắt, bằng xương bằng thịt. Muốn nhìn thấy Đức Chúa của Sự Thật, người người phải xa rời đám đông. Chốn ồn ào. Bận rộn. Phải rời xa nguy cơ khiến người khác nhận ra mình. Xa và rời, những nguy cơ làm biến chất phẩm cách, của chính mình.
Rời xa và lên cao như thế, ta mới hiểu được mức độ ngạc nhiên của Dakêu trọc phú khi được Chúa đoái hoài, nhìn lên cây mà ới gọi. Ngài không chỉ gọi mà còn ngỏ ý: “Xuống mau đi! Vì hôm nay, Tôi sẽ lưu lại, ở nhà anh.” (Lc 19: 5).
Đây là lời tuyệt diệu, anh chưa từng nghe biết.
Cũng hệt như thế, ở Tiệc Thánh ta tham dự, Chúa vẫn nói với mọi người, cũng như thế. Ngài kêu mời, cùng một kiểu, gửi đến tất cả mọi người, ngỏ ý rằng Ngài sẽ đi vào cuộc đời, của mỗi người. Như sách Khải Huyền, có đoạn viết:
“Này, Ta đã đứng bên cửa và Ta gõ! Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ đi vào với nó.” (Kh 3: 20)
Vấn đề là: người nghe sẽ ứng đáp thế nào, khi gặp Ngài?
Với Dakêu, thì anh chẳng ngại ngần. Anh vẫn cố trèo và leo. Rất cao. Để “nhìn” Chúa cho thật rõ. Rồi khi Chúa gọi anh và lưu lại nhà của anh dù đám đông người dưng khách lạ, thêm phẫn uất và ngỡ ngàng, xầm xì rằng: “Nhà người tội lỗi, mà Ông ấy cũng ghé trọ.” (Lc 19: 7). Họ nói thế, vì vẫn không nhận ra được ý của Ngài. Ngài đâu thấy cần thiết phải đến nhà người lành mạnh, để lưu lại. Như Tin Mừng thánh Máccô đà dẫn chứng: “Có cần đến lương y, hẳn không phải là người lành mạnh, mà kẻ đau ốm! Ta không đến kêu gọi những người công chính, mà là những kẻ tội lỗi” (Mc 2: 17)
Ở đây nữa, nhận xét của đám người đứng ở ngoài, giống như động thái của kẻ cuồng tín. Giả hình. Vẫn tự coi mình có vai vế, rất bề thế, hơn hẳn mọi người khác. Vai vế, về tinh thần. Và, đạo lý. Nói cho cùng, nhiều người trong chúng ta cũng là kẻ mắc phạm lỗi này hay lỗi khác. Ở nhiều lúc.
Phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo. Và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai, cái gì, tôi xin đền lại gấp bốn.” Điều này đã chứng tỏ: sau khi gặp gỡ Chúa, anh giàu Dakêu đã biết hối. Đã, thực sự hồi hướng, quay về. Hồi hướng và quay về, không còn tham ô/những lạm quyền thế, bằng nhiều cách. Kể từ nay, anh quyết sẻ san những gì mình có, cho kẻ khó. Quyết đền bù những gì mình chiếm đoạt của ai khác.
So với anh giàu khác từng chu toàn điều răn và giới luật, lại được Chúa dạy: “Hãy đi mà bán hết của cải anh có, rồi theo tôi.” (Mt 19: 23). Nghe dạy thế, người giàu kia tiu nghỉu bỏ đi, mặt rầu rĩ. Còn anh giàu Dakêu, trước mắt của quần chúng, là tay tội lỗi đầy mình, vẫn đón nhận “ơn cứu độ” Chúa ban không chỉ cho anh, mà cả nhà, vì anh có quyết tâm chia sẻ tài sản mình có, cho người cùng khổ. Xem thế thì, chỉ bằng vào quyết tâm xử sự thật đúng cách, anh Dakêu đã trở thành người của Chúa. Người, có đủ đặc tính cần thiết để theo Chúa. Đức tính, của người biết sẻ san. Đồng sàng. Hồi hướng trở về sống với lệnh truyền của Đức Chúa.
Đọc Tin Mừng hôm nay theo cung cách của thánh sử Luca, người người sẽ nhận ra rằng: anh giàu Dakêu quyết định sẻ san tài sản của mình, là quyết định trong hiện tại. Anh dùng động từ ở thì hiện tại, và chủ từ ngôi thứ nhất số ít “Tôi cho”, tức “tôi” đang sẻ san. Ban phát. Còn, về những “chiếm đoạt” tài sản người khác, trong quá khứ, anh dùng động từ “đã lấy” của ai, thì “xin đền” cũng trong hiện tại, chứ không phải “sẽ đền”, trong tương lai.
Nói cách khác, là tay “giàu bẩn” rất đáng tội, anh vẫn là người tốt, rất tội nghiệp. Và, Đức Chúa nhìn ra điểm “rất tội nghiệp” nơi anh, nên Ngài đề nghị ghé lại nhà anh. Xem thế thì, khi phẩm bình việc làm của Chúa, đám đông quần chúng vẫn chăm chăm nhìn vào chức phận/nghề nghiệp của những người “rất đáng tội”, rồi đánh giá họ là ác thần/sự dữ. Những là: tham ô. Nhũng lạm. Vẫn coi anh như người bỉ ổi. Đáng bỏ rơi. Không nên đến gần. Đánh giá tính chất lành thánh của người nào khác theo dáng vẻ bề ngoài, hoặc danh chức, là thói quen của nhiều người trong chúng ta ở xã hội hôm nay. Cả trong và ngoài nhà Đạo.
Với Chúa, thì khác. Đánh giá con người, Ngài không chú trọng đến dáng vẻ bên ngoài hay chức phận của một ai. Nhưng, bằng vào tiềm lực của người đó, bên trong con người họ. Với tay thu thuế khác ở Tin Mừng, khi anh nguyện cầu cùng lúc với giới cao sang quyền quý, rất Biệt phái. Thái độc của tay thu thuế này khác hẳn động thái cao ngạo của vị Biệt Phái, rất hống hách. Và, Chúa luôn đề cao những ai biết sẻ san của cải mình có, cho người nghèo khó. Tức, Chúa chỉ nhìn và đánh giá từng cá thể độc nhất, chứ không “vơ đũa cả nắm’ hoặc chủ quan ôm đồm, hết mọi người. Nếu biết tự kiểm, hẳn người người cũng sẽ thấy mình từng ôm đồm nhận xét theo sắc thái tôn giáo, chủng tộc, cộng đoàn, rất chung chung. Mà quên mất thực chất nội tâm, mỗi cá thể.
Dù gì đi nữa, lời cuối Chúa nói ở trình thuật nay vẫn là:
“Hôm nay, ơn cứu độ đã đến với nhà này. Bởi, người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham.” (Lc 19: 10)
Quả là, cụm từ “con cháu tổ phụ Abraham” xưa nay vốn là danh xưng để chỉ những người Do thái tốt. Hạnh Đạo. Danh xưng này, đôi lúc áp dụng cho cả dân con Đạo Chúa, thời tiên khởi. Dấu chỉ sự việc này, là ở chỗ: anh “giàu bẩn” Dakêu đã đon đả dón rước Chúa, vào nhà. Đây vẫn là điều Chúa hằng kêu mời mọi người, trong cuộc sống. Mỗi ngày.
Bài học thánh sử nêu hôm nay, đã lôi cuốn người đọc đến với quyết tâm: không nhìn người khác theo cung cách rập khuôn. Thành kiến và gộp chung. Bởi, dầu sao thì mỗi người và mọi người vẫn là nhân vị độc đáo, duy nhất. Bắt chước anh Dakêu trong đời mình, nhiều lúc ta cũng nên rời đám đông để đến gần nhìn vào những người đang sống quanh ta. Nhìn, như bài đọc 1 nhận xét:
“Chúa xót thương mọi người. Vì Ngài làm được hết mọi sự. Ngài nhắm mắt làm ngơ, không nhìn vào lỗi tội của ai hết. Để họ còn ăn năn hối lỗi. Ví thử Ngài ghét bỏ loài nào, Ngài đã chẳng dựng nên họ.” (Kn 11: 22)
Nhìn người xung quanh, để rồi sẽ cùng với Phaolô thánh nhân, kêu mời mọi người đi vào nguyện cầu. Nguyện và cầu, để Chúa thân hành đến với ta, trong cuộc sống. Như Ngài đã đến với cả anh “giàu bẩn” Dakêu cũng rất tội: “Lúc nào chúng tôi cũng cầu nguyện cho anh em. Xin Thiên Chúa làm cho anh em được xứng đáng với ơn gọi. Và, xin người dùng quyền năng mà hoàn thành mọi thiện chí của anh em và mọi công việc anh em làm vì niềm tin.” (2 Th 1: 11)
Cứ nguyện cầu như thế, ta lại sẽ vang lên câu ca, để cùng hát. Hát rằng: “Anh chúc cho em đời yên vui đắm say Anh chúc cho em dù lòng nghe đắng cay Một ngày nào đó dẫu tình ta đã lỡ Một ngày nào đó ta vẫn yêu mãi người thôi… (Ngô Thụy Miên – Bài Tình Ca Cho Em)
Hãy cứ nguyện và cứ chúc. Cho em. Cho anh. Một lời cầu, để một đời sẽ mãi yêu người. Yêu đời. Mà thôi.
“Nhưng không chết người trai khói lửa”, Mà chết người gái nhỏ hậu phương Tôi về không gặp nàng. Má tôi ngồi bên mộ con, đầy bóng tối. (dẫn từ thơ Hữu Loan)
Lc 20: 27-38
Nhà thơ trong đời, lâu nay vẫn cứ than và khóc người gái nhỏ hậu phương, rày đã chết. Bè Sađốc khi xưa chẳng khóc chẳng than, vẫn râm ran gạn hỏi Chúa đôi câu để bắt bẻ, về sự sống sau khi chết. Sự sống sau khi chết, là đề tài nóng bỏng được thánh Luca kể ở trình thuật, hôm nay.
Trình thuật thánh sử kể, là kể về tâm tưởng của những người không tin vào sự sống, sau khi chết. Về, cảm nhận niềm tin yêu rất khác nhau. Khác, cả về cung cách diễn tả ý tưởng và niềm tin của mình, con dân nhà Đạo vốn chịu ảnh hưởng sách Khải Huyền, vẫn diễn tả đó là chốn ấm êm thiên đường, nơi người người gập mình quỳ lạy và đàn ca chúc tụng Chúa suốt đời người.
Thế nhưng, những hình ảnh ấy nay không còn thích hợp. Cũng chẳng giúp ích được người thời đại. Vì thế, có lẽ ta cũng nên hợp cùng tác giả sách chiêm niệm có tựa đề: “Mây mù phủ khuất nhận thức”, qua đó, tác giả bảo: ta chỉ biết Chúa khi nhận ra rằng mình chẳng hiểu gì về Ngài; hoặc cung cách Ngài bầy tỏ sự thật trong cuộc sống. Cũng vậy, ta chẳng thể nào hiểu được chính đời mình, mỗi khi giáp mặt cuộc sống có Chúa.
Trình thuật trước đó cho thấy Đức Giêsu hết bị đám Kinh sư/Biệt Phái dồn vào tư thế khó xử khi họ hỏi Ngài về việc đóng thuế cho César. Nay lại đến bè Sađốc quấy nhiễu. Sađốc là nhóm bè bị đám Biệt phái rất coi rẻ, vẫn cứ lân la với giới cầm quyền La Mã. Bọn họ là đám người chuyên ăn trên ngồi chốc rất quan liêu. Chuyên dò xét cộng đồng Do thái. Họ chỉ muốn ở vị trí cao sang Thượng Tế như Anna, Caipha.
Về lề luật, nhóm bè Sađốc vẫn tự cho mình là người hào phóng. Tuy niềm tin đi Đạo của họ, lại có phần cổ lỗ. Bảo thủ. Về Kinh Sách, nhóm bè này chủ trương chỉ chấp nhận mỗi Ngũ Thư, tức 5 cuốn sách đầu của kinh thánh gồm: Khởi nguyên, Xuất Hành, Lê vi, Dân số và Đệ Nhị luật. Ngoài các sách này ra, họ không chấp nhận mọi sách nào khác. Không những thế, họ còn đặt vấn đề khách quan của cách sách ấy. Vì thế, họ chẳng tin vào chuyện xác thân người phàm sẽ sống lại, sau khi chết. Chẳng tin thần thánh, lẫn thần linh thiên giới.
Đoạn sách được nhóm trích dẫn làm vấn nạn hỏi han Chúa, là sách Đệ Nhị Luật phối hợp với sách Ruth là sách mà họ chối bỏ tính sâu sắc và trung thực. Tất cả, được dùng làm ví dụ để xác chứng là họ vẫn câu nệ vào luật lệ. Chuyện 7 anh em lấy chung một vợ, được họ sử dụng để bẫy gài Chúa xem Ngài nói người vợ kia thuộc về ai, khi sống lại. Riêng họ, có một hay 7 chồng cũng chẳng thành vấn đề. Bởi, họ đâu có tin vào tương lai mai ngày, rày đã chết.
Thế nhưng, nếu Đức Giêsu tin vào sự sống ở đời sau, thì làm sao Ngài có thể trả lời câu hỏi ấy. Nếu bảo người kia là vợ của 7 ông chồng, thì há nào Chúa chấp nhận tệ đa phu/đa thê? Cuối cùng, chắc Ngài cũng phải kết luận rằng: chẳng có gì gọi sống lại, trong mai ngày, hết.
Với Chúa, việc ai là chồng của chị nọ, đâu là vấn đề. Bởi, cuộc sống mai ngày là trạng thái không giống trước. Tất cả, đều sống kết hiệp với Chúa. Với nhau. Khi còn ở đời này, người người vẫn được dạy: sống ở Nước Trời đời này, là sống có tương quan hoàn toàn mới. Với mọi người. Ở đó, người người sống có tình có nghĩa như trong gia đình mới. Ở đó, không có chuyện hỏi han: anh từ đâu tới? Chị thuộc sắc tộc nào? Tất cả là anh/là chị cùng chung một gia đình, của Chúa. Rất hoà hợp.
Ở đoạn khác, khi có người bảo: Mẹ và anh/em Ngài đang tìm Ngài, Chúa bèn hướng về các vị đang ngồi nghe, và Ngài bảo: “Nhìn này! Đây là mẹ Tôi. Này là anh em Tôi!” (Mc 3: 33-35). Đời sau cũng thế. Gia đình mình cũng đâu khác. Tương quan giữa người với người, sẽ không theo máu huyết. Sắc tộc. Hoặc, giai cấp. Tất cả, không còn thích hợp với Nước Trời, dù đời này hay đời sau. Nên, câu mà nhóm Sađốc định bẫy gài Chúa, chẳng có nghĩa gì ngoài một luận giải. Rất ngụy biện.
Lời Chúa nói: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ ai được xét đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, sẽ không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Họ không thể chết, vì ngang hàng với thiên thần. Họ là con cái Chúa, và là con cái sự sống lại.” (Lc 20: 34-36)
Viết như thế, thánh Luca muốn hướng người đọc về với những gì xảy ra trong Hội thánh tiên khởi. Các thánh tuy có gia đình, vẫn tình nguyện sống đời đơn chiếc để giải thoát chính mình, hầu lo cho Nước Trời. Sự việc ấy, là tương quan rất thánh với Nước Trời, thời vĩnh cửu.
Đối đáp lại bè Sađốc, Chúa sử dụng chính sách “gậy ông đập lưng ông”. Bè Sađốc dùng luật Môsê để bẫy Chúa, thì Ngài dùng Cựu Ước để nói: chính Môsê cho thấy những người đã chết nay quay về với cuộc sống. Đó là đoạn Xuất hành cho thấy Môsê đang đối diện bụi gai cháy bừng, có Lời Chúa.
Ở đoạn này, Môsê hỏi Danh Tánh Chúa, bèn được bảo:
“Ngươi nói với con cái Israel thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Chúa của Abraham, Isaac, Giacóp, sai tôi đến với anh em. Đó là Danh Ta cho đến muôn thuở. Là Danh Hiệu, các ngươi dùng mà kêu cầu Ta từ đời này đến đời kia.” (Xh 3: 13-15)
Nếu Chúa quả quyết rằng: Ngài không là Thiên Chúa của kẻ sống, thì sao Ngài nói được Ngài chính là Chúa của Abraham, Isaac và Giacóp một khi các vị không còn sống nữa? Và, nhóm bè Sađốc đành im lặng, chịu thua. Không còn lên mặt trích dẫn lề luật để cật vấn Chúa, nữa.
Bài đọc 1 trích sách Macabê kể về Antiôkhô IV vị vua độc tài, tàn bạo chỉ muốn dân mình theo văn hoá Hy Lạp, thôi. Để được thế, ông cấm cản mọi tập tục Do Thái, và vấy bẩn Đền thờ của họ. Kết quả là, ông gặp nhiều chống đối, từ mọi phía. Kể về ông, nay kinh thánh nói về tinh thần bất khuất của bà goá có 7 người con bị hãm hại, kiên quyết không chối bỏ niềm tin. Không ăn thịt uế tạp, cốt để chiều lòng vua.
Mục đích của truyện kể, là để nói: có những giá trị trong đời sống, còn quý hơn cả sự sống ở cõi đất. Và, đấng bậc lành thánh quyết nhận cái chết để bảo vệ giá trị ấy. Sự hy sinh của các thánh tử đạo tuy được coi là cái giá các ngài phải trả, nhưng các ngài lại nhận được phần thưởng quý giá khác, tức: gia nhập sự sống mới. Không sợ chết. Bởi thế nên, người con thứ tư nói:
“Tôi thà chết vì tay người đời khi dựa vào Lời Chúa đã hứa để hy vọng được Ngài cho sống lại. Còn ông, ông sẽ không đuợc sống lại, để hưởng sự sống.” (Mcb 7: 14)
Sự sống người Công giáo, cũng đặt nền tảng trên niềm hy vọng một ngày kia được kết hiệp với Chúa. Đấng, là điểm xuất phát hết mọi sự, để rồi tất cả cũng sẽ quay về với Ngài. Đó, là ý nghĩa của thư thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Rôma, khi thánh nhân quả quyết:
“Chúng ta biết: cho đến giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở. Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng rên siết trong lòng, cũng lãnh nhận Thần Khí như ân huệ mở đầu, nhưng trông đợi Chúa ban cho trọn quyền làm con, nghĩa là cứu chuộc thân xác chúng ta nữa.” (Rm 8: 22)
Niềm hy vọng mà thánh Phaolô nói, vẫn dựa trên niềm tin sắt đá. Vào sự tin tưởng nơi tình thương yêu của Thiên Chúa, vốn là nguồn gốc và đích điểm của sự sống. Đó không chỉ là hy vọng bình thường, mỗi ngày. Nhưng là hy vọng dẫn đến niềm tin vững chắc, rằng: một ngày kia, ta sẽ kinh nghiệm sống đời hiện tại, chưa kịp bắt.
Bài đọc hôm nay dẫn người nghe đi dần vào kết cục của năm Phụng vụ, khiến ta suy về đích điểm của mọi vật. Đích điểm chấm dứt sự sống của mỗi cá thể, như Kinh Tiền Tụng lễ An táng từng nhắc nhở: “Lạy Chúa, chúng con biết là sự sống của mọi người sẽ đổi thay, chứ không chấm dứt. Và khi thân xác chúng con ở đời này nằm xuống, chúng con sẽ đạt được chỗ đứng vững vàng, trên thiên quốc.”
Với lời cầu này, người còn sống biết mình phải làm gì khi đang sống những ngày còn lại, ở cõi đời. Sống, là hy vọng vào sự sống lại, đang trườn tới.
Hiểu như thế, ta hãy cất lên lời ca chúc tụng Đức Chúa của Sự sống và Sống lại, mà hát rằng:
“Allêluia! Lời Chúa dẫn soi con đường đi.
Allêluia! Lời Chúa khác chi như giòng suối.
Allêluia! Lời Chúa bánh thiêng ban nguồn sống.
Chúc cho người vui nghe yêu mến gẫm suy Lời luôn.”
(Thành Tâm – Tung Hô Lời Chúa)
Vâng. Cứ thế mà tung hô. Chúc tụng. Cứ thế để cho Lời Chúa sáng soi muôn người, rồi ra ta sẽ hiểu được sự sống trong hiện tại. Và, cả sự sống lại trong tương lai. Mai ngày.
Hoa hiểu cả những điều tôi chẳng nói Tôi đã qua bao thác ghềnh đá núi Qua thời gian tóc thoáng sợi màu mưa.”
(dẫn từ thơ Xuân Quỳnh)
Lc 21: 5-19
Với nhà thơ, hoa bè bạn vẫn hiểu điều mình muốn nói. Với nhà Đạo, hoa thời gian là thoáng sợi màu mưa. Là, thác ghềnh, đá núi, ta kinh nghiệm. Hoa lá/bạn bè vẫn chan chứa tình đời. Tình người. Và, tình Chúa ở thơ văn, rất Tin Mừng. Ở, trình thuật/truyện kể ta đón nhận, bấy lâu nay.
Trình thuật thánh Luca, nay nói về cảnh tình khắc nghiệt xảy đến với lai thời, ngày Chúa đến. Trình thuật Chúa bắt đầu bằng câu chuyện về Đền thờ Giêrusalem linh thánh. Đền thờ, được dùng làm biểu tượng cho tâm can/niềm tự hào của đời người Do Thái. Biểu tượng, chứng tỏ Chúa hiện diện với họ. Đền thờ vật chất, sẽ không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, nữa.
40 năm sau, Đền thờ uy nghi hoành tráng như Lời Chúa báo trước, đã thành bình địa khi Giêrusalem thất thủ dưới tay người ngoại giáo, rất Rô-Ma. Với người Đạo Chúa Do thái, điều Chúa nói, Ngài không nói về ngày kết tận của thế giới loài người, thôi. Mà, nhiều thế kỷ về sau, thánh Âu-Tinh và bầu bạn, cũng có cảm giác tương tự khi các vị nhìn cảnh thành phố La-Mã lọt vào tay quân bạo tàn, người phía Bắc.
Điều Chúa nói, khiến người nghe cứ tưởng sự việc sẽ diễn ra trong giao thời, chờ Đấng Mêsia đến. Ở đây, Chúa cảnh báo về những người mạo danh Ngài cứ dụ dỗ người nghe, làm theo ý họ. Ngày nay, các biến động về chiến tranh, thiên tai, lụt lội, không là dấu hiệu của kết tận. Không là thời Chúa đến, ngày sau hết. Cũng chẳng là dấu chỉ cơn giận, của Chúa. Bởi, Chúa của ta đâu là thế. Trình thuật muốn diễn tả đó là đố kỵ, ghét ghen, hận thù đang thống trị tâm can con người, thôi.
Chúa nói chưa hết lời. Và, Ngài diễn tả cũng chưa hết ý. Vẫn còn nhiều sự việc nằm lại nơi tâm tư những người theo chân Ngài. Họ chẳng ngạc nhiên/quẫn bức khi nghe Ngài bảo. Bởi, điều Ngài nói, là các hiện tượng không chỉ xảy đến với Hội thánh thời tiên khởi, mà, còn diễn tiến từng giai đoạn nhiều thế kỷ, mãi đến hôm nay.
“Trước khi sự việc ấy xảy ra, người ta sẽ tra tay bắt bớ và ngược đãi anh em, sẽ nộp anh em cho hội đường và bỏ tù, điệu anh em đến trước mặt vua chúa cùng quan quyền, vì Danh Thầy. Đó là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy.” (Lc 21: 12)
Tiếng Hy Lạp cụm từ chỉ cuộc tuẫn đạo, là cụm từ có nghĩa là “làm chứng”. Thế nên, tất cả các hiện tượng xảy đến, không là nguồn gốc của mọi hãi sợ, lo âu. Mà, chỉ là cơ hội để mọi người “làm chứng” cho Nước Trời. Làm chứng, cho thị kiến của Đức Chúa về đời người. Và, các vị bị tuẫn đạo từng chết vì bách hại, đều là nguồn gốc của niềm tự hào cộng đoàn Nước Trời. Là, mẫu mực cho mọi người nghe theo. Thời tiên khởi của các thánh, các vị tử đạo đều hiểu rằng máu đào các ngài đổ ra là hạt giống cho mọi người tin tưởng, vào Chúa.
“Anh em đừng ngại phải bào chữa cách nào. Chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan khiến tất cả địch thủ của anh em không tài nào chống chọi, hoặc cãi lại được.”
(Lc 21: 13)
Ngày nay, có nhiều bằng chứng cho thấy lời Chúa hứa đã thành hiện thực. Bản thân nhiều người cũng từng có kinh nghiệm về những đau đớn/bách hại do tin vào Chúa. Và sau đó, các ngài càng trở nên vững mạnh, hơn bao giờ hết.
Thông điệp Chúa gửi, nay cũng rất mạnh và rõ nghĩa. “Hãy kiên trì, rồi ra chiến thắng sẽ về tay anh em.” Đây không chỉ đơn giản là lời hứa hẹn suông. Nhưng về lâu về dài, chính Sự Thật, Tình Yêu và Công chính, sẽ thắng thế. Lịch sử kéo dài nhiều thế kỷ, dù có những điều xảy đến rất tan tác, rối bời; nhưng, các điều ấy vẫn cho thấy tiến trình diễn bày giá trị con người nằm ở nhiều nơi, nhiều chỗ.
Bằng chứng đã thấy có trong lời tiên tri Malaki ở bài đọc 1: “Vì này, ngày ấy đến đốt cháy như hoả lò. Mọi kẻ kiêu ngạo và kẻ làm điều gian ác sẽ như rơm rạ. Ngày ấy đến sẽ thiêu rụi chúng.” (Ma 3: 19) Nhưng, với những ai đặt nền tảng cuộc sống lên Sự Thật và bỏ hết thời gian còn lại để phục vụ Chúa và phục vụ người anh/người chị ở Nước Trời, thì “mặt trời công chính sẽ mọc lên, mang theo các tia sáng chữa lành bệnh.” (Ma 3: 20)
Nhưng, vấn đề là người người đã sẵn sàng chưa? Có chuẩn bị chờ đón ngày Chúa mời gọi mọi người đến với Ngài không? Nếu có, hà tất cứ phải sống làm sao, ăn nói làm sao cho xứng với tương lai mai ngày, rày có Chúa. Đúng hơn, hãy tập trung lo cho hiện tại, hôm nay. Như thánh Phaolô, từng khuyên các thánh ở Thessalônika, miền Bắc Hy Lạp, rằng:
“Các trợ tá cũng vậy, phải là người đàng hoàng, biết giữ lời. Không rượu chè say sưa, không kiếm tìm lợi lộc, thấp hèn. Phải bảo toàn mầu nhiệm đức tin trong lương tâm trong sạch.” (2Th 2: 8-9)
Khi viết cho giáo đoàn Thessalônikê, thánh Phaolô thấy Giáo hội ở đây xôn xao nhiều vì cứ tưởng ngày Chúa Quang Lâm đã gần kề, nên không bõ hăng say làm việc, hầu chờ Chúa. Và sự thể là, họ thuyết phục người khác cứ ở nhưng không, sống vô trật tự, như mình vẫn sống. Vì thế nên, thánh nhân mới gay gắt:
“Nhân danh Đức Giêsu Kitô, chúng tôi truyền cho anh em phải lánh mọi anh em nào sống vô trật tự, đi nghịch lại truyền thống họ chịu lấy nơi chúng tôi.” (2Th 3: 6)
Thánh Phaolô dứt quyết không chấp nhập động thái của những người sống như thế. Ngược lại, thánh nhân còn cương quyết:
“Trong Chúa Giêsu Kitô, chúng truyền cho anh em và những người như thế hãy yên thắm làm lụng mà nuôi lấy mình.” (2Th 3: 12)
Đây còn là lệnh truyền cho dân con Chúa, ở mọi thời.
Với người vững tin, Đức Giêsu luôn hiện diện nơi trọng tâm cuộc sống, của mỗi người. Tất cả được kêu mời tìm kiếm và gặp gỡ Ngài, ở mọi sự. Nơi mỗi người. Và, mọi người. Mọi thời. Muốn được thế, người người nên vào với thăng trầm của cuộc sống, chính mình. Với thế giới xung quanh. Và, coi đó như khung trời của bình an. Hạnh phúc.
Trong tin tưởng đón chờ Chúa đến lại, ta cứ hân hoan hát mãi lời ca đầy phấn kích, rằng:
“Từ thành đô ra đi muôn phương Hoà niềm vui trong bao yêu thương reo rắc khắp nơi nguồn vui sống. Tiếng gió lướt sóng mênh mông, mênh mông Dốc núi bát ngát chập chùng, chập chùng Đời tự do, say trong phong sương.” (Văn Phụng – Ta Vui Ca vang)
Sống tự do, hoà vui trong yêu thương, là sống hạnh phúc. Bất chấp mọi sóng ngầm, động đất, chiến tranh, đang bộc phát. Sống, là tin vào Lời Chúa đã phán hứa, với mọi người. Trong cũng như ngoài nhà Đạo. Ở khắp nơi. Mọi khung trời.
Tạt qua nhà người xưa thôi, sao nhà thơ đã nhủ lòng. Trúc đào còm cõi cây xanh vẫn nhìn. Lui tới chốn thiêng phụng thờ, nhà Đạo hẳn lòng những quyết tâm? Thập tự đó hiên ngang vội tìm. Nhà thơ hay nhà Đạo, có tìm cũng chẳng thấy Vua vũ trụ, còn đó rất ngóng đợi.
Trình thuật, nay thánh Luca kể về Đức Kitô Vua vũ trụ vẫn một lòng đợi trông, không suy xuyển. Là Vua, Ngài có đủ tư cách của Đấng Cứu Thế, Cao sang. Quyền quý. Lẽ đáng ra, Ngài phải được triều thần thánh trên trời/dưới đất gập mình phục lạy. Nhưng, trớ trêu thay, Vua vũ trụ nay đứng trước triều thần vua quan ở trần gian, cứ hạch hỏi: Ngài là ai? Sao thế này?
Bài đọc hôm nay diễn tả hai ảnh hình đối chọi nhau về Vua Kitô. Bài đọc 2, qua thư gửi cộng đoàn giáo dân ở Côlôssê, ta thấy Đức Vua hiên ngang. Toàn thắng:
“Ngài là hình ảnh Thiên Chúa vô hình. Là Trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo… là Đầu của thân thể, là Hội thánh… Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện nơi Ngài, nhờ Ngài mà muôn vật được hoà giải với mình. Nhờ máu Ngài đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1: 15-19)
Lời cuối thư nối kết Tin Mừng thánh Luca cho thấy ảnh hình khác biệt về Vua Kitô đang hạ mình chết nhục trên thập giá, để những người chế nhạo Ngài, cũng được cứu. Cứ sự thường, người người vẫn thích ảnh hình của một Đức Vua hiển vinh. Toàn thắng. Sáng láng.
Hội thánh, nay chọn ảnh hình rất khác biệt để dân con mừng kính Vua vũ trụ theo ý nghĩa đích thực. Đọc Tin Mừng, mọi người thấy Vua Cứu Độ xứng hợp với ý của Cha, Đấng vẫn chờ vẫn đợi con dân Ngài đến phục lụy.
Nếu Đức Giêsu là Vua vũ trụ, hẳn có người sẽ hỏi: thần dân Ngài đâu? Cận thần, quan đâu không thấy? Cung điện Ngài ở chốn nào? Sao, chỉ thấy mỗi đồi trơ trụi, ở Giêrusalem? Chốn hành quyết. Chết nhục. Chết ở đó, Ngài cũng không có đến một đồ đệ. Bạn bè/người thân, đều khuất lánh. Đồng hành với Ngài, lại là quân trộm cướp, cả hai bên. Còn, bên dưới là đám ô hợp, chỉ nhục mạ.
Chính ở nơi đây, Đức Giêsu đang đi vào giai đoạn vương giả nhất đời Ngài. Giai đoạn quan trọng tối thượng ta được biết. Khi giáng hạ làm người, Ngài ở giữa đám trẻ chăn chiên rất nghèo hèn, bên máng lừa. Để có thể ban tặng họ sự sống đích thực, Ngài đã hy sinh trọn thân mình. Hy sinh, vì người khác. Hy sinh trọn quyền lực. Bởi quyền lực Ngài, là khả năng dâng trọn đời mình để người khác được sống.
Lãnh tụ quanh Ngài, chỉ bêu riếu nhục mạ, chứ không thấy được Ngài, dù có mắt. Trớ trêu thay, cả vương triều quyền uy trên dưới, có mỗi tay tội đồ cùng chung số phận, đã nhìn và thấy, nên mới nói:
“Lạy Ông Giêsu, xin nhớ đến tôi khi Ngài về với Nước của Ngài!” (Lc 23: 43).
Chỉ mình anh là nhận ra ý nghĩa của tấm biển gỗ ghi trên thập tự “Giêsu Nadarét, Vua Do thái”(Lc 23: 38). Chỉ mỗi mình anh, là được Chúa căn dặn: “Hôm nay anh sẽ ở trên Thiên Đàng làm một với Tôi.”(Lc 23:43). Nếu không là Vua của các vua, hẳn đã ai dám hứa hẹn điều đó?
Những kẻ có mặt lúc ấy, đều nhắm mắt chẳng nhìn thấy. Họ chỉ nhạo Đức Vua như người đời:
“Hắn cứu ai đâu, chẳng cứu mình.” Nhạo và cười, là bởi họ không hiểu Lời Ngài xưa từng bảo: “Kẻ nào cố tìm sự sống, sẽ đánh mất. Kẻ nào đành mất sự sống vì Ta, sẽ gặp lại.” (Mt 19: 39). “Giả như hạt lúa gieo xuống đất không chết đi, sẽ trơ trọi một mình. Nhưng nếu chết đi, nó mới sai hoa lắm quả.” (Yn 12: 24)
Chính đó, uy quyền của Đức Vua. Quyền tác tạo sự sống, cho mọi người. Là dân con Đức Kitô, Vua vũ trụ, ta được mời gọi dấn bước theo chân Ngài, để cũng làm như thế. Có làm, ta mới là quần thần. Đồ đệ. Và, là bày tôi của Đức Vua muôn loài.
Là Vua, Ngài cũng có vương quốc để trị vì. Nhưng, Vương Quốc Ngài là nơi ta vẫn đến để nguyện cầu, mỗi khi lập lại lời Ngài, khi nguyện kinh “Lạy Cha”. Vương Quốc Ngài được diễn tả rất rõ trong Kinh Tiền Tụng vào Tiệc Thánh hôm nay:
“Đây là Vương quốc vĩnh cửu. Toàn cầu. Vương quốc của Sự Thật. Và, Sự Sống. Vương quốc lành thánh của công bằng. Tình thương. Và an bình.”
Có điều, là ta không chỉ là thần dân của Vua Vũ trụ là Ngài, mà thôi. Ta còn là đồng nhiệm trong công trình tác tạo Vưong Quốc ấy, nữa. Vương quốc ấy, nay đã ở với mọi người. Bài đọc 2 còn đó nhắc nhở: “Ngài là Đầu của thân thể, tức Hội thánh.” (2Cl 1: 18), tức: ta cùng một thân thể với Ngài, Đức Kitô Vua. Ta cùng sẻ san vương quyền. Cùng là tư tế. Cùng lãnh mọi trọng trách do quyền năng Ngài đem lại!
Bài đọc 2, cũng lại thêm:
“Ngài giải thoát ta khỏi quyền lực tăm tối và đưa vào Vương quốc của Con Chí Ái Ngài. Trong Ngài, ta có ơn cứu độ. Và, ơn tha tội.” (Cl 1: 13)
Nghĩa là, nhờ Ngài và với Ngài, ta đem bình an đến với mọi người nơi địa cầu. Nơi, Ngài từng khai phá nhờ cái chết khổ nhục, trên thập tự. Con đường ta đi vẫn còn dài, trước khi Vương Quốc Ngài nên hiện thực.
Từ nay đến ngày hiện thực Vương Quốc rất bình an của Vua vũ trụ, còn rất nhiều việc phải làm. Để hoà giải. Nhiều công trình kiến tạo hoà bình với trần gian, ta cần hoàn tất. Hoàn tất, cả công tác đem tự do, công lý, tình thương an hoà mà Ngài làm mẫu, để đưa về với muôn dân, ở thế trần.
Tiệc thánh mừng Đức Kitô Vua hôm nay là một thách thức. Là cơ hội, để ta nhận ra được lời ới gọi mời mọi người trở nên đích thực thần dân và đối tác của Đức Kitô Vua vũ trụ. Gọi và mời mọi người, hãy cứ kéo dài Vương Quốc rất bình và rất an của Ngài, để Vương Quốc ấy sẽ tồn tại mãi mãi, nơi mọi người.
Trong tinh thần tỉnh táo nghe lời mời gọi của Đức Kitô Vua vũ trụ, ta cứ hiên ngang hát:
“Nếu… tôi gặp Ngài chiều năm xưa trên đồi ấy,
Chết… treo thập hình vì yêu thương nhân loại tội lỗi.
Như …tên trộm cướp chẳng ai thương nhìn tới,
Nếu tôi gặp rồi, thì xin hỏi: tôi còn tin nữa thôi?
Tôi, vẫn cứ tin luôn, tin rằng: Ngài luôn thương tôi!
Tôi, vẫn cứ tin luôn, cho dù gặp bao gian nguy.”
(Thành Tâm – Nếu)
Ngài là Vua vũ trụ rất thực sự, thì đâu còn chữ “nếu” để hỏi. Vua Kitô đã hy sinh trọn mình Ngài, để thần dân/muôn người được sống. Sự thật ấy, còn gì để ngờ vực. Chân lý ấy, còn gì mà suy nghĩ. Đắn đo. Do dự. Sao ta không hăng hái bước theo chân Ngài mà mở rộng Vướng Quốc Nước Trời. Mở rộng tình thương yêu. Đỡ đần. Phục vụ. Để, nguời người sẽ tung hô: Vạn tuế Vua Giêsu. Vạn tuế Vua vũ trụ. Đến muôn ngàn đời.