TINH THẦN THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU

Chủ nhật - 10/11/2019 05:02
TINH THẦN THÁNH TÊRÊSA
TINH THẦN THÁNH TÊRÊSA
TINH THẦN THÁNH TÊRÊSA
HÀI ĐỒNG GIÊSU
(L’Esprit de Saint Thérèse de L'Enfant Jésus)

Hoàng Trọng dịch
ĐAN VIỆN CÁT MINH SÀI GÒN
1970


NIHIL OBSTAT
Saigon, die 3-2-1970
Luca TRẦN VĂN HUY
Censor delegatus


IMPRIMATUR
Saigon, ngày 25-2-1970
+ KHÂM
Ep.aux & Vic.gen.


LỜI GIỚI THIỆU.. 2
LỜI NÓI ĐẦU.. 5
CHƯƠNG I:  TÌNH YÊU THIÊN CHÚA LÀ NGUỒN NGHỊ LỰC LÀM SUNG MÃN ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG CỦA THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU.. 6
ĐOẠN 1. GIÁO THUYẾT CỦA THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU VỀ GIÁ TRỊ CỦA TÌNH YÊU: TÌNH YÊU LÀ KHUÔN VÀNG THƯỚC NGỌC.. 7
ĐOẠN 2. NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA TÌNH YÊU:  CHUYÊN TÂM ĐẾN NHỮNG VIỆC  “ĐẸP LÒNG CHÚA” 10
ĐOẠN 3. NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA TÌNH YÊU CHÚA NƠI THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU.. 12
CHƯƠNG II: TÌNH YÊU CỦA THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU TRIỂN NỞ TRONG CÁC NHÂN ĐỨC.. 42
ĐOẠN 1. TÌM HIỀU VÀI NHÂN ĐỨC  CỦA THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU.. 42
ĐOẠN 2. ĐỨC TINH ĐƠN SƠ: ĐẶC ĐIỂM TRỔI VƯỢT CỦA THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU.. 99
CHƯƠNG III: TÌNH YÊU CỦA THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU HOÀN MỸ TRONG TINH THÂN THƠ ẤU, QUI HƯỚNG NGƯỜI VÀO “CON ĐƯỜNG NHỎ”. 113
TINH THẦN THƠ ẤU.. 114
CHƯƠNG IV: NHỮNG HOA TRÁI DIỄM PHÚC CỦA ĐỜI SỐNG TÌNH ÁI NƠI TÂM HỒN THÁNH TÊRÊSA GIÊSU HÀI ĐỒNG.. 124
PHẦN KẾT.. 134
PHỤ LỤC: GIÁO HỘI TUYÊN DƯƠNG TINH THẦN THÁNH TÊRÊSA HÀi ĐỒNG GIÊSU.. 140
1. TINH THẦN YÊU ĐƯƠNG VÀ TINH THẦN THƠ ẤU PHÚC ÂM.. 140
2. LÒNG NHIỆT THÀNH TRUYỀN GIÁO, QUAN THẦY CÁC XỨ TRUYỀN GIÁO.. 141
3. KINH TẬN HIẾN CHO TÌNH YÊU THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA NHÂN TỪ.. 142
4. NHỮNG BỨC CHÂN DUNG CỦA THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU.. 144
 

LỜI GIỚI THIỆU

                                   CỦA ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC SAIGON
Chúng ta đang sống trong một thời đại khoa học không gian, con người phát triển khả năng của mình để chinh phục vũ trụ và xây dựng một xã hội nhân loại huynh đệ tốt đẹp hơn, để người thành người hơn, để hình ảnh Thiên Chúa được trung thực và rõ ràng hơn.
Riêng trong lãnh vực Hội Thánh, chúng ta đang sống trong giai đoạn hậu Công Đồng với bao cuộc canh tân rộng lớn, tìm về nguồn Tin Mừng Chúa Kitô, đáp ứng nhu cầu cần thiết của thời đại.
Sau cùng, người Việt Nam chúng ta đang sống trong một hoàn cảnh đặc biệt bi thảm: chậm tiến, nghèo đói, cộng với hơn hai mươi năm chiến tranh với bao nhiêu hậu quả tai hại của nó: luân lý suy đồi, lương tri nhường chỗ cho đồng tiền, giới trẻ mất hết niềm tin, lẽ sống...
Thử hỏi trong bối cảnh cụ thể ấy, nêu lên vấn đề thiêng liêng, trình bày một vị thánh phải chăng là một việc thiếu thực tế, lỗi thời, vô dụng? Chắc hẳn là không. Dù thời đại nào, dù con người có thám hiểm được các tinh tú, hay có phát minh được gì đi nữa, vấn đề thiêng liêng vẫn luôn hợp thời, vì là vấn đề của con người. Tuy nhiên cách đặt vấn đề thì khác nhau tùy mỗi hoàn cảnh, mỗi thế hệ. Vì thế vị “thánh nhỏ” thành Lisieux xuất hiện giữa lòng kỷ nguyên khoa học tân tiến của chúng ta không phải là chuyện ngẫu nhiên, như lời Đức Giáo Hoàng Piô XII, lúc còn làm Hồng Y Đặc Sứ tới chủ sự lễ khánh thành Vương Cung Thánh Đường Lisieux đã nói:
“Đây là một điểm tuyệt diệu của Thành nữ: tự thân chỉ là một nữ tu hèn mọn, ẩn mình trong bốn bức tường nhà dòng, lại trao cho thời đại chúng ta, một thời đại tự kiêu về khoa học của mình một bài học đích đáng”. Hay như lời các Giáo sư Đại học Công giáo ghi trong tờ nội san: “Vì thời đại chúng ta chống cự, Thiên Chúa gửi đến vị thánh phó thác. Vì thời đại chúng ta cứng lòng chai đá, Thiên Chúa gửi đến vị thánh dịu hiền âu yếm. Vì thời đại chúng ta kiêu hãnh, Thiên Chúa gửi đến vị thánh khiêm cung từ tốn”.
Phải, Thánh nữ “bé mọn” là tiếng chuông lớn Thiên Chúa cho reo vang để thức tỉnh chúng ta. Chinh phục vũ trụ, xây dựng xã hội loài người, giúp người thành người hơn, đó chẳng những là sáng kiến riêng của loài người mà là sứ mạng Thiên Chúa trao cho , nhưng cứu cánh của loài người không dừng lại ở trần thế này, mà phải đạt đến cuộc sống thân tình với Chúa. Cuộc sống ấy chỉ toàn diện ở đời sau, nhưng phải bắt đầu ngay tự đời này, qua những việc thường ngày để thực hiện sứ mạng trần thế Chúa trao. Muốn thế con người phải luôn bước tới, hướng về tương lai. Nếu tương lai với bao bất ngờ của nó làm cho nhiều người sợ hãi không dám tiến bước mạo hiểm, thì gương phó thác của Thánh nữ tin cậy vào lòng từ bi của Cha trên trời, là một nhắc nhở và một nâng đỡ tinh thần quí báu cho những người đang chiến đấu trong bóng tối, chiến đấu cho một nhân loại vươn lên.    
Đàng khác Công đồng Vatican II đã bắt đầu một cuộc canh tân vĩ đại trong Hội Thánh, nhưng không vì thế mà vị “thánh nhỏ” thành Lisieux trở nên lỗi thời, trái lại có thể nói được cuộc cách mạng về tu đức của Người, tóm gọn trong mấy chữ: “Con Đường Nhỏ” hay “Thơ ấu thiêng liêng”, đã góp phần tích cực vào việc chuẩn bị Công Đồng mà chúng ta được phúc thừa hưởng. Cha Philippon, giáo sư thần học lỗi lạc đã tuyên bố: “Thánh cả Têrêsa Hài Đồng Giêsu, vị thánh đã khởi đầu trong Hội Thánh một kỷ nguyên mới về Tu đức, và sứ điệp của Người do Chúa Thánh Thần tràn ngập tâm hồn Người thúc đẩy, rất phù hợp với nhu cầu thời đại”.
Thật vậy, đọc lại Thủ Bản Tự thuật của Thánh nữ, người ta có ấn tượng như vừa được viết ra sau Công đồng Vatican II. Những câu như: “Nên thánh không có nghĩa là làm việc này việc nọ, nhưng chính là thái độ tâm hồn giữ mình khiêm tốn và bé nhỏ trong cánh tay Chúa, giúp mình ý thức tính yếu hèn của mình và tín nhiệm đến mức táo bạo vào lòng nhân lành của Cha”  thì có khác gì những đoạn văn trong Hiến Chế về Hội Thánh  hay Vui Mừng và Hy Vọng . Nên thánh, sống thân tình với Chúa qua những công việc nhỏ mọn thường ngày, không bận tâm đến của cải, đồ dùng, cả những gì cần thiết, chẳng hạn một hôm chị Têrêsa mất cái đèn dầu, có lẽ chị nào lấy lầm; chọn cho mình phần xấu, nhường của tốt hơn cho người khác, chọn bình nước sứt mẻ xấu xí; chịu đựng tính xấu, khuyết điểm người khác, vui lòng nhận quở trách oan; ở nhà giặt chịu đựng tính lơ đãng của một chị cứ để nước dơ bắn vào mặt, hay trong nhà nguyện, một chị có thói quen làm tiếng động bực mình; giúp đỡ một chị lớn tuổi bệnh tật khó tính... giúp đỡ chị em trong những việc nhỏ nhặt như xếp giúp áo choàng các chị bỏ quên...
Tóm lại; tất cả mọi việc tầm thường kia được làm với tất cả tâm hồn, không câu nệ hình thức, bề ngoài: “Tôi quyết dấn thân vào một cuộc sống nghiêm nhặt và hãm mình. Nhưng khi nói tới hãm mình, tôi không có ý nói là tôi đánh tội, vì tiếc là tôi không hề làm. Tôi rất xa những tâm hồn cao đẹp từ bé đã thực hành mọi thứ hãm mình phạt xác, vì tôi không thích như thế... Hãm mình của tôi có nghĩa là chế ngự ý riêng mình, luôn sẵn sàng phục vụ trong những việc nhỏ mọn mà không tìm cách đề cao.. “
Một quan niệm tu đức như thế lại chẳng tương ứng với nhu cầu của thời đại chúng ta, thời đại Công Đồng, thời đại tìm về nguồn Tin Mừng Chúa Kitô, tìm về tính đơn sơ của đời sống thiêng liêng, dẹp bỏ những gì hình thức, rườm rà bề ngoài mà thiếu thực chất bên trong đó sao? Đồng thời, với cuộc cách mạng quan niệm tu đức này, Thánh nữ thành Lisieux đi trước Công Đồng, Người cho chúng ta thấy nên thánh, đi đàng trọn lành không phải là đặc ân hay đặc quyền của các vị tu hành, của những bậc xuất chúng, làm những việc kinh thiên động địa, nhưng là ơn gọi vừa tầm sức của mỗi người dù ở trong hoàn cảnh nào, người học sinh bé nhỏ, em bé bán cà rem nghèo nàn, người công nhân vô danh, người nông phu lam lũ, hay người mẹ xóa mình đi trong công việc gia đình...
Riêng đối với dân tộc, đất nước Việt Nam, Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu còn có một mối liên hệ đặc biệt. Với đức thương yêu bao trùm vũ trụ, Thánh nữ đã ước ao được sang sống trên quê hương bé nhỏ của chúng ta. Nhưng ý Chúa nhiệm mầu, Thánh nữ đã từ trần khi mộng chưa thành. Có lẽ vì thế Việt Nam chúng ta được phép tin rằng điều mà Thánh nữ chưa thực hiện được ở trằn gian, Thánh nữ sẽ thực hiện trên trời, như lời Người quả quyết: “Ở thiên đàng tôi sẽ làm mưa hoa hồng hạnh phúc cho trần gian”. Nguyện xin Người mưa ân lộc xuống cho dân tộc Việt Nam, nhất là để tình yêu được phát triển trong xã hội oán thù, người bóc lột người, người hãm hại người, như Thánh nữ đã quả quyết: ‘‘Tôi tìm được sứ mạng của tôi. Sứ mạng của tôi là tình yêu. Tôi có sứ mạng làm cho người ta yêu mến Thiên Chúa như tôi yêu mến Ngài...” . Xin Người cũng làm bổn mạng cho những ai tiếp tục cố gắng thực hiện sứ mạng của Người trong xã hội Việt Nam.
Tóm lại, việc học hỏi Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, nghiên cứu để thực hiện “Đường bé nhỏ” của Người là một công trình hữu dụng, thiết thực, hợp thời đại, cách đặc biệt cho hoàn cảnh xã hội Việt Nam, không riêng cho giới tu sĩ mà cho tất cả mọi người, nhất là giới trẻ.
Phaolô NGUYỄN VĂN BÌNH
Tổng Giám Mục Saigon.

 

 LỜI NÓI ĐẦU

Cuốn sách này gồm những đoạn trích trong bút tích nguyên bản do chính Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu viết ra, hoặc do các Tập sinh của Thánh nữ ghi lại, và đã được ghi vào trong các bản cáo trạng dự án phong Chân Phước và Hiển Thánh cho Người. Ngoài ra còn những câu nói đã được Mẹ Agnès de Jesus (Chị Pauline của Têrêsa) ghi chép lại trong thời gian cuối cùng khi Têrêsa liệt giường mà phần lớn những lời đó đã được xuất bản trong cuốn Novissima Verba (Những lời nói cuối cùng).
Tất cả những tài liệu ấy đã được chọn lựa và sắp xếp lại với sự cộng tác tích cực và quí hóa của Cha Dubosq thuộc Tu Hội Xuân Bích, bấy giờ Ngài là Bề trên Đại Chủng viện Bayeux.
Những đoạn văn có liên hệ đến nhiều đề tài chưa được kể lại, mà chỉ được đặt vào những chỗ thích hợp nhất với tư tưởng chính của đề tài mà thôi. Đôi khi còn có những chuyển ý khéo léo đem lại phần hứng thú cho độc giả nữa.
                                                                     DÒNG KÍN CÁT MINH                                                                                                 LISIEUX
 

“Duy chỉ tình yêu Chúa thu hút tôi,
Còn bầy chiên, tôi chẳng nhọc trông coi,
Nhưng để chúng thảnh thơi nơi đồng cỏ
Tôi chỉ muốn thỏa lòng Chiên mới thôi.”
 

CHƯƠNG I:
TÌNH YÊU THIÊN CHÚA LÀ NGUỒN NGHỊ LỰC LÀM SUNG MÃN ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG CỦA THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU


Thánh Phaolô nói: “Anh em hãy khát vọng những ơn cao cả, rồi tôi sẽ chỉ cho anh em một con đường trọn hảo”
“Nếu tôi nói được các ngôn ngữ loài người, nói được tiếng nói các thiên thần mà không có đức mến, tôi chỉ như tiếng thanh la não bạt khua ấm ĩ. Nếu tôi được nói tiên tri, thông hiểu các mầu nhiệm, biết mọi khoa học, cả khi tôi có đức tin có thể chuyển núi dời non mà không có đức mến, tôi vẫn là không. Nếu tôi phân phát hết mọi của cải cho người nghèo, hay để cho ngọn lửa hồng thiêu đốt mà không có đức mến, những việc ấy chẳng đem lại ích lợi gì cho tôi.
“Đức mến là dây hoàn thiện
Đức mến tồn tại mãi mãi”.
“Hiện giờ có ba nhân đức: Tin, Cậy, Mến,
Nhưng đức Mến cao trọng hơn hết,
Vì yêu mến là giữ trọn lề luật”

Chúng ta hãy nghe những gì
“THÁNH TÊRÊSA NHỎ”
vị sứ giả của Thiên Chúa
muốn nói với chúng ta.
PIO XI
 

ĐOẠN 1. GIÁO THUYẾT CỦA THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU VỀ GIÁ TRỊ CỦA TÌNH YÊU: TÌNH YÊU LÀ KHUÔN VÀNG THƯỚC NGỌC


Thánh Têrêsa viết: “Ơn gọi của con, chính là Tình yêu”.- “Con ước ao được yêu Chúa Giêsu như chưa từng có ai đã yêu đến thế” - “Xin cho con được yêu Chúa Giêsu vô bờ bến”.- “Con muốn chiếm đoạt cành thiên tuế với bất cứ giá nào; nếu không bằng máu thì cũng phải bằng Tình Yêu”. - “Khoa học yêu thương?- Vâng con chỉ muốn học khoa học đó... Vì con chẳng muốn chi hơn là được yêu Chúa Giêsu đến điên dại!”
Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu không quan niệm rằng nhân đức đưa đến Tình Yêu Chúa, trái lại Tình Yêu là nguồn mạch phát sinh mọi sự hoàn thiện. Sách Giáo lý dạy: “Thiên Chúa đã tạo dựng nên ta để ta nhận biết, yêu mến và phụng sự Ngài.” Phải yêu mến Ngài rồi mới phụng sự Ngài.
Trung thành với châm ngôn đó, Têrêsa đã viết trong thư gửi cho người em họ thế này: “Em muốn xin chị chỉ cho em một phương thế để nên trọn lành ư? Chị chỉ biết có một phương thế duy nhất, đó là Tình Yêu” . Và khi chị em trong Dòng hỏi: “Chắc Chị phải chiến đấu vất vả lắm mới thắng được mình như thế?” Thánh nữ trả lời cách thâm thúy: “Chẳng phải vất vả như các chị tưởng đâu”.
Trong thư gửi chị Céline năm 1893, Têrêsa viết: “Em biết có những Cha Linh hướng khuyên con cái thiêng liêng nên thực hành những việc đạo đức để tiến bước trên đường trọn lành; còn Chúa Giêsu, Vị Linh Hướng của em không dạy em như thế, Ngài bảo em làm mọi việc vì Yêu mà thôi”.
Cho tới khi gần chết, Têrêsa đã nói được rằng:
“Trót đời con chỉ dâng hiến Chúa duy có Tình Yêu thôi”. Thánh nữ biết rằng Chúa Giêsu “khát khao ngự vào lòng ta” và Ngài quý trọng tình yêu của ta hơn mọi hiến vật. Vì thế Thánh nữ đã viết: “Không có Tình yêu, mọi việc dù vĩ đại đến đâu cũng chỉ là hư không. Chúa Giêsu không đòi ta phải làm những việc trọng đại, Ngài chỉ muốn ta phó thác và biết ơn”, nghĩa là yêu mến thôi.
Chính Ngài đã phán: “Ta cần gì chiên bò, vì mọi thú rừng là của Ta; có đói Ta cũng chẳng cần đến các ngươi, vì trái đất và mọi sự trong vũ trụ đều là của Ta. Ta đâu cần đến thịt bò tót và máu dê các ngươi dâng hiến. Ta chỉ muốn các ngươi dâng của lễ ca tụng và tạ ơn” .Thánh nữ nhớ lại lời Thánh Gioan Thánh Giá dạy rằng: “Một hành vi nhỏ mọn nhất được thực hiện vì tình mến tinh tuyền sẽ có ích cho Hội Thánh hơn là tất cả những công trình khác hợp lại” . Vi thế Thánh nữ luôn luôn tin tưởng vào tình yêu và xét đoán mọi việc theo tình yêu.
Khi đề cập đến đoạn Thánh vịnh trên. Thánh nữ viết: “Thiên Chúa đâu cần việc làm, Ngài chỉ muốn Tình Yêu. Chính Ngài đã tuyên bố rõ ràng rằng: có đói Ngài cũng chẳng cần cho chúng ta hay . Thế mà Ngài chẳng ngại xin thiếu phụ Samaria một ngụm nước uống... Chúa khát!.. Nhưng khi Ngài nói: ‘Cho Ta uống với’ , là Ngài xin tình yêu nơi thụ tạo đáng thương của Ngài, Ngài khát tình yêu!”
Trong các thư cũng như trong những lời huấn dụ, Thánh nữ luôn luôn nhắc lại rằng, Thiên Chúa đáng yêu mến vô cùng, chính Ngài đã yêu chúng ta trước, Ngài đi tìm kiếm tình yêu, Ngài thật tế nhị, và bằng lòng với chút tình yêu ta dành cho Ngài. Sau cùng Thánh nữ đề cập đến việc tình yêu đưa ta đến bậc trọn lành thế nào.
Trong thư gửi chị Céline, Thánh nữ đã viết: “Chính Chúa khao khát được ta yêu mến, Ngài đi ăn xin... tình yêu của ta. Có thể nói được là Ngài đã tự ý chịu ơn chúng ta. Và khi tình nguyện dâng, thì một xu nhỏ Chúa cũng quý”. Quả quyết như thế Thánh nữ đã dựa theo lời Thánh Gioan Thánh Giá:
“Mau hãy tới, bồ câu yêu dấu
vết thương lòng đã thấu nai tơ
Đồi cao bóng mát nhởn nhơ,
Cánh em gợi gió, nai tơ vương lòng. ”
Thánh nữ giải thích tư tưởng trên của Thánh tiến sĩ: “Nai bị thương kia chính là Vị Hôn Phu, không phải bởi sức quyến rũ của đồi cao, gió mát, nhưng bởi hơi gió thoảng của cánh chim bay. Vì chỉ một cái vỗ cánh cũng đủ gợi tình rồi”.
Về lời sách Diễm ca: “Sợi tóc vương trên cổ em đã làm Ta bị thương lòng” . Thánh nữ giải thích: “Nói rằng chi một sợi tóc mà có thể khơi sâu vết thương lòng. Chúa Giêsu muốn cho chúng ta biết, những tác động nhỏ mọn nhất được làm vì yêu mến cũng làm cho Ngải phải say mê”.
Theo ý kiến của Chị thánh: “Linh hồn thánh thiện nhất là linh hồn trung thành làm mọi việc vì yêu mến”. Trong bài thơ “Thiên thần bên máng cỏ” Thánh nữ đã đặt trên môi Chúa Hài Đồng những lời này:
“Linh hồn nhỏ nhất yêu Ta,
Trở thành Thiên Quốc cho Ta đó rồi.”
Khi nói về món đồ chơi, ống kính vạn hoa với các tập sinh, Thánh nữ giải thích tại sao chỉ có tình yêu mới có thể làm cho mọi việc có giá trị: “Bao lâu những việc ta làm, dù nhỏ mọn đến đâu, còn ở trong lò lửa yêu mến Chúa Ba Ngôi, như ba tấm kính ghép lại, thì Ngài ban cho những việc ấy một ánh phản chiếu, một vẻ đẹp diệu kỳ, và Chúa Giêsu thấy những tác động của ta bao giờ cũng đẹp đẽ. Nhưng một khi chúng ta rời khỏi trung tâm huyền diệu này thì mọi việc của ta chỉ còn là những rác rưởi dơ bẩn, vô giá trị”.
Thánh nữ còn nhắc lại lời của Thánh Tông đồ: “Không có tình yêu, thì những việc tốt đẹp nhất cũng chẳng giá trị gì; yêu là con đường tuyệt hảo chắc chắn đưa tới Thiên Chúa” , và khi nói về phần mình đã chọn, Thánh nữ kết luận: “Con hiểu rõ, nguyên tình yêu có thể làm cho ta trở nên đẹp lòng Thiên Chúa và tình yêu này chính là kho tàng quí báu độc nhất con hằng khát mong. Nhưng đối với Chúa, một khi con đã dâng hiến cho Ngài tất cả kho tàng ấy, con vẫn tưởng là chưa dâng gì cả” .
Thánh nữ còn nhấn mạnh hơn: “Con chẳng hề mơ ước phú quí vinh hoa, dù là vinh hoa trên trời, con chi khẩn xin một điều: ‘là Tình yêu’”.
Phải, tình yêu là đường duy nhất, là cùng đích và sau cùng là phần thưởng cho Thánh nữ; tình yêu tăng sức cho Người trong cơn đau khổ và giúp Người kiên vững” . Tình yêu cũng giống như bức thảm êm ái phủ kín tất cả gai góc, sỏi đá trên đường đi của Thánh nữ và cho Người cảm thấy gánh nặng nên nhẹ nhàng, đắng cay nên ngọt ngào và thích thủ” . Vì thế khi chọn con đường tắt và an toàn ấy, Thánh nữ đã tìm được viên “kim thạch” của người xưa, viên “kim thạch” này đã không biến đổi mọi sự nên vàng, nhưng đã biến tất cả nên nguồn hoan lạc cho Thánh nữ.
Thánh nữ không chỉ giúp đỡ và hướng dẫn các linh hồn yêu Chúa khi còn sinh thời, mà ngay khi gần qua đời Người còn tin tưởng sẽ tiếp tục sứ mệnh ấy cho đến tận thế; chính lúc ấy Người đã trịnh trọng tuyên bố lời cam kết, như một châm ngôn bất hủ của người hiệp sĩ, gắn liền với ký ức về Người: “Con muốn khi ở trên thiên đàng, con sẽ mưu ích cho trần gian”. Quả thế, tiên vàn Thánh nữ chỉ muốn phụ giúp các linh hồn, dẫn đưa họ về với Chúa qua ngả đường Tình Ái.
 

ĐOẠN 2. NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA TÌNH YÊU:  CHUYÊN TÂM ĐẾN NHỮNG VIỆC  “ĐẸP LÒNG CHÚA”


Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói: “Con luôn luôn sống bé nhỏ; con chỉ lo hái những hoa tình yêu và hy sinh dâng cho Chúa để làm vui lòng Ngài”.
Mấy ngày trước khi qua đời, Thánh nữ đã tóm tắt quãng đời yêu đương của mình thế này: “Con cố gắng làm việc chỉ cốt để làm vui lòng Chúa”.
Cũng nên lưu ý, những tư tưởng như “làm đẹp lòng Chúa Giêsu”, “yên ủi Chúa”, “làm vui lòng Chúa”, nổi bật hơn những ý nghĩ khác của Thánh nữ.
Nơi khác thánh nữ viết: “Những vị Đại Thánh đã làm việc cho vinh danh Chúa, còn con, con chỉ là tâm hồn bé mọn, con làm việc chỉ cốt làm vui lòng Chúa. Con chỉ muốn làm đóa hoa bé nhỏ thơ dại, một bông hồng vô tích sự trong tay Chúa, nhưng hương sắc của nó cũng đem lại cho Ngài đôi chút niềm vui”.
Lần khác, Thánh nữ quả quyết: “Con không muốn nhặt một cọng rác để giảm bớt lửa luyện tội cho con, con chỉ có ý làm mọi việc để làm vui lòng Chúa và cứu được nhiều linh hồn cho Chúa”. “Con hãy chịu khó làm việc như một chiến binh của Chúa Kitô”  đó là lời Thánh Phaolô khuyên môn đệ Timôthê.
Nơi khác Người còn nói rõ hơn: “Con không muốn lập công để được phúc thiên đàng đâu, nhưng lạy Chúa, con chỉ muốn làm việc lành vì yêu Chúa, làm đẹp lòng Chúa, yên ủi Thánh Tâm Chúa và cứu các linh hồn, để đời đời họ yêu mến Chúa”.
Thánh nữ viết cho Mẹ Bề trên về cái chết của mình: “Xin Mẹ đừng tưởng con nhỏ của Mẹ coi cái chết vào buổi bình minh là một đặc ân cao cả hơn cái chết lúc hoàng hôn, đối với con, ơn cao cả hơn hết, ơn con hằng khao khát, đó là ơn được làm hài lòng Chúa Giêsu”.
Theo Thánh nữ thì phần thưởng của tình yêu chính là được nên trọn lành. Trong thư gửi chị Léonie, Người đã viết: “Nếu chị muốn nên thánh, dễ lắm chị ạ; chị chỉ lo việc này, là làm đẹp lòng Chúa Giêsu”.
Chính nơi tình yêu này, Thánh nữ còn hy vọng được Chúa giúp đỡ nữa. Trong thư gửi chị Céline, Người viết: “Nếu chị trung thành làm đẹp lòng Chúa trong những việc nhỏ mọn, thì buộc lòng Ngài sẽ giúp chị trong những việc vĩ đại”.
“Yên ủi Chúa Giêsu” bị người đời lãnh đạm, vô ơn, tệ bạc, đó là công việc thường xuyên và liên lỉ của Thánh nữ. Ngay từ tấm bé, Người đã dâng mình cho Chúa Giêsu để được trở nên “đóa hoa nhỏ” của Ngài. Thánh nữ nói: “Con muốn an ủi Chúa, muốn được Chúa chăm sóc, vun xới và được chính bàn tay Ngài hái lấy”. Bấy giờ, Người dâng hiến cho Chúa hết tâm hồn, gắng sức làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự và chú tâm không bao giờ làm phiền lòng Ngài”.
Chúng ta còn thấy trong thư gửi cho Mẹ Agnès de Jésus, Têrêsa viết: “Con không muốn thấy Chúa Giêsu phải ưu phiền, con ao ước được lau các giọt lệ Chúa phải đổ ra vì kẻ tội lỗi bằng cách giúp họ ăn năn trở lại”.
Và trong một lúc quá đau khổ, Thánh nữ viết: “Chúng ta đừng phí thời giờ quý báu, chúng ta hãy mau mau cứu vớt các linh hồn! Bao linh hồn đang sa xuống hỏa ngục và Chúa Giêsu đang khóc..., còn chúng ta, chúng ta chỉ nghĩ đến đau khổ riêng tư mà chẳng biết an ủi Chúa!”
Trong Truyện Một Tâm Hồn, Têrêsa viết: “Tiếng Chúa hấp hối trên Thánh Giá ‘Cha khát’ còn vang dội mãi trong tâm hồn con từng giây phút để đốt lên lửa sốt mến lạ lùng và cháy mãi mãi. Con muốn dâng Đấng Chí Ái nước giải khát...”. Nếu Thánh nữ muốn cứu các linh hồn không những chỉ vì giúp họ đạt được hạnh phúc thiên đàng, nhưng cốt yếu là giúp họ yêu mến Chúa Giêsu và Chúa Giêsu được yêu mến. Người còn viết: “Trong cuộc đời vắn vỏi này, hay đúng hơn, trong đêm tăm tối của cuộc đời, chỉ có một việc phải làm là yêu mến, yêu mến Chúa Giêsu với tất cả tâm lực, và đem về cho Chúa nhiều linh hồn để họ yêu mến Chúa đời đời...”.
Một tập sinh tỏ nỗi lo âu sợ mất ơn Chúa vì những bất trung nhỏ mọn hằng ngày, được Thánh nữ an ủi: “Vì Chúa là Đấng khoan dung vô cùng, còn em lại có thiện chí, nên có mất mát chút tình yêu nào thì chỉ Chúa thiệt thòi mà thôi, chứ em chẳng sao đâu...”.
Và để Chúa khỏi bị thiệt thòi mất chút tình yêu nào, Têrêsa đã xin anh thiêng liêng của mình đọc kinh sau đây hằng ngày, bản kinh “gồm tóm những ước vọng của Thánh nữ”: “Lạy Cha nhân từ, vì danh Thánh Chúa Giêsu dịu hiền, vì danh Đức Nữ Trinh Maria và các Thánh, xin Chúa lấy tình yêu Thánh Linh thiêu đốt lòng em con và ban cho em con ơn làm cho nhiều người yêu mến Chúa”.
Chính Thánh nữ đã xin “cha anh” tiếp tục đọc kinh này cả sau khi mình đã qua đời, Thánh nữ viết tiếp: “Em chỉ ước một điều là thấy nhiều người yêu mến Chúa nhân từ, em thú thật, nếu ở trên thiên đàng em không thể giúp người ta yêu mến Chúa, thì em thích ở lại nơi lưu đày này hơn”.
Thánh nữ trung thành thực hành hy sinh để tiến tới đích. Người thấy rất ít người biết trung thành trong các hy sinh nhỏ mọn, vì đó là bằng chứng chắc chắn của tình yêu chân thực, Người ưu tư buồn sầu nói: “Ôi, trên đời này sao ít người chân thành yêu Chúa thế”. “Thiên Chúa được ít người yêu mến quá!”
Thánh nữ thấy nhiều người sợ phải yêu Chúa, vì yêu là phải hy sinh. Trong Truyện Một Tâm Hồn, Thánh nữ viết: “Lúc này hơn bao giờ hết, Chúa Giêsu đang khát tình yêu, mặc dù Ngài đang sống giữa những môn đệ thân tín của mình, ôi, số tâm hồn hoàn toàn tận hiến để đáp lại tình yêu âu yếm vô tận của Chúa quá ít!”.
Chính vì thấy loài người không nhận ra tình yêu Chúa nên Thánh nữ đã mở rộng tâm hồn như một vực thẳm vô tận để đón nhận tất cả tình yêu nồng nàn của Chúa bị đa số nhân loại từ khước và sau cùng Người được chết trong tình yêu ấy. Chính để tìm cách an ủi Chúa mà trong hết mọi việc làm vì yêu mến, Thánh nữ đã gặp được những phương pháp để thực hiện, vì “những tâm hồn đã được lửa tình yêu thiêu đốt không thể không hoạt động được”.

“Lạy Đấng Cao Cả Chúa Chí Tôn,
Duy mình Chúa đủ cho lòng con
Nơi Chúa đất trời con được cả,
Hoa con hái là chính Vua con.”
 

ĐOẠN 3. NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA TÌNH YÊU CHÚA NƠI THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU


1: TÌNH YÊU CẦN MẨN
“Con hãy chịu khó làm việc như một chiến binh của Chúa Kitô” , đó là lời Thánh Phaolô khuyên môn đệ Timôthê.

Sống trên đời này không phải để an hưởng một tình yêu diễm phúc, nhưng phải chiến đấu chống lại những khuynh hướng ác xấu luôn luôn dấy lên phản lại nước Chúa, và còn phải mở rộng nước Chúa bằng hoạt động của một tình yêu chinh phục. Đó là quan niệm của Thánh Têrêsa về cuộc sống trần thế và trong suốt cuộc sống “chiến đấu với cái khuynh hướng phản loạn”, Thánh nữ luôn luôn cho ta thấy rõ mục đích Người đã đề ra để tiến.
Trong thư gửi chị Céline, Têrêsa viết: “Không phải để sau này được triều thiên vinh hiển, hay để lập công nghiệp gì nhưng chỉ cốt để làm đẹp lòng Chúa Giêsu mà em lo cứu vớt các linh hồn cho Ngài!” Vì thế Thánh nữ hát lên:
An bình tôi là chiến đấu không ngơi
Cho nhiều người được vào nước Quê Trời...”.
Trong Tập “Kinh nguyện” Người than thở với Chúa thế này: “Lạy Chúa Giêsu, con sẽ chiến đấu cho tình yêu Chúa cho đến lúc hơi tàn. Vì xưa trên dương thế, Chúa đã chẳng muốn nghỉ ngơi chút nào, nên con xin tình nguyện theo vết chân Chúa, xin Chúa thêm can đảm cho con, võ trang cho con để con xông vào trận chiến!”
Và Thánh nữ đã chẳng bao giờ chịu buông khí giới đầu hàng, ngay cả mấy tuần trước khi chết, chị em trong nhà còn thấy Người cố gắng hy sinh từ bỏ mình trong mọi việc, nên các chị thốt lên: “Vậy chị còn muốn lập công mãi ư?”
Trước khi đi vào chi tiết của cuộc chiến từng bước một với bản tính tự nhiên, ta hãy xem quan niệm của Thánh nữ về những hy sinh trong cuộc chiến, và chúng ta sẽ thấy quan niệm về bậc trọn lành của Người không chút chi là “tĩnh tọa”, lười biếng.
Trước hết trong Truyện Một Tâm Hồn, Thánh nữ viết: “Nếu con không coi thường những tư tưởng cao đẹp có sức kết hiệp lòng ta với Chúa, thì từ lâu con cũng đã hiểu rằng con phải cẩn thận giữ mình kẻo quá ỷ lại vào những tư tưởng đó. Vì những tư tưởng cao đẹp nhất mà không đem ra thực hành, thì cũng chẳng có giá trị gì”.
Trong sách Judith  có câu này: “Bà đã hành động như một nữ anh hùng và lòng can đảm của bà được vững mạnh”. Cảm nghĩ của thánh nữ về lời ca tụng đó thế này: “Nhiều người thường chữa mình bằng những câu như: ‘Làm sao tôi có thể hy sinh được như thế’; nhưng xin họ cứ cố gắng thử đi! Đôi khi bước đầu thật khó đấy, nhưng tự khởi đầu mỗi công việc, Chúa nhân lành đều ban ơn, giúp ta lướt thắng chính mình, nếu biết đón nhận ơn giúp đó, thì lập tức linh hồn được ơn soi sáng, được kiện toàn và sẽ tiến từ chiến thắng này đến chiến thắng khác”.
Thánh nữ nói với một tập sinh: “Nếu chỉ khi nào có can đảm mới chiến đấu thì còn công nghiệp gì? Cần gì có can đảm hay không, cứ hành động như thể mình cỏ can đảm là đủ!”
“Chị muốn được thấy em lúc nào cũng hành động như một chiến binh dũng cảm không hề phàn nàn trước hy sinh vất vả, coi thường những vết thương của mình, nhưng quan tâm lo lắng đến vết thương của anh em đồng đội”.
Một tập sinh khác đọc đoạn sách Đức Huấn Ca: “Lòng thương xót Chúa sẽ thưởng công cho mỗi người tùy theo việc của họ” và đến hỏi Thánh nữ: “Sao Kinh Thánh lại nói ‘tùy theo công việc của họ’, trong khi Thánh Phaolô lại bảo ‘người ta được công chính hóa cách nhưng không bởi ơn thánh’”? Thánh Têrêsa cương quyết giải thích: “Nếu người ta tuyệt đối tin tưởng vào Chúa, nghĩa là quên mình đi và chỉ hoàn toàn tin cậy vào Chúa, thì lương thực của họ không gì khác hơn là hy sinh.” Và Người diễn tả thêm về tư tưởng ấy: “Phải làm tất cả mọi việc, hiến dâng không so đo, không tính toán, tự thoát liên lỷ; tắt một lời: phải minh chứng tình yêu của mình bằng mọi việc có thể làm. Nhưng thực ra những việc ta làm ấy có đáng là gì đâu, ta phải cậy nhờ vào Đấng duy nhất có thể thánh hóa mọi việc làm của ta, và ta phải nhận mình chỉ là “những đầy tớ vô ích” chỉ trông đợi Chúa nhân lành ban cho mọi sự ta khát mong.”
Ta sẽ gặp lại tư tưởng này khi Thánh nữ trình bày “Con Đường Thơ Ấu”. Ở đây ta hãy nhận định điểm này là Thánh nữ đã phải chiến đấu rất nhiều để “tự thoát từng giây phút” và Người cũng cần rất nhiều quả cảm để bảo vệ nước Chúa trong mình hằng bị các khuynh hưởng phản loạn tấn công. Những cuộc chiến này thường thấy nơi các Thánh khác, nhưng Thánh Têrêsa đã muốn đưa chúng ra ánh sáng để yên ủi và khích lệ những “linh hồn bé mọn” đang bị các tình dục lung lạc.
Chính nhờ ở sự luôn luôn cần mẫn và canh phòng mà Thánh nữ đã làm cho cuộc đời mình thành một vườn hoa nhân đức rực rỡ. Ở những chương sau ta sẽ dễ dàng nhận thấy công đức của Thánh nữ trong mỗi hành động, mỗi việc làm vì tình yêu. Chẳng hạn Người run sự trước hy sinh đau khổ vì cảm thấy con đường đưa về Quê Trời chật hẹp gồ ghề; nhưng với một lòng kiên trì sắt đá, một tinh thần tự chủ vững như bàn thạch, một lòng trung thành sắt son, Thánh nữ đã chiến thắng liên tiếp và tiến bước rất nhanh. Như Thánh nữ đã thú nhận, thì Người chạy với “những bước khổng lồ!”
Sau đây là một vài nét điển hình:
Trong Truyện Một Tâm Hồn có ghi nhận: Trong thời niên thiếu, tính quá nhạy cảm của Người đã là nguyên nhân luôn luôn gây đau khổ cho Người, Người nói: “Việc gì cũng làm con phải khổ tâm, con khóc không những vì chuyện lớn lao, mà cả vì những chuyện không đâu. Nếu rủi vô tình con làm phiền lòng ai, thay vì đi xin lỗi, con lại buồn đến sinh bệnh; thế nên đã lỗi lại lỗi thêm, và rồi con lại ân hận về lỗi đã phạm. Con lại khóc vì đã khóc”.
Nhưng cái ủy mị làm tê liệt mọi cố gắng này cũng giúp Thánh nữ lập nên chiến công. Chính Người đã kể lại: Sau lễ nửa đêm Sinh Nhật năm 1886, Người đã nghe một câu nói như: “chọc vào tim mình” nhưng “thay vì khóc” như mọi khi, Người đã can đảm ngăn chặn được dòng lệ, làm như không có gì xảy ra, đến nỗi mọi người tưởng Người không nghe thấy gì!
Thánh nữ rất thích học, nhưng vì sớm cảm thấy cái nguy của tính “ham biết thái quá” nên Người đã bớt tham khảo những sách khoa học, và để tâm học hỏi những sách đạo đức.
Thánh nữ đã phải chiến đấu rất nhiều với tính tự nhiên. Lúc gần vào Dòng, thất vọng vì Bề trên hoãn lại ba tháng. Thảnh nữ bị cám dỗ: “Đừng ép mình vào đời sống nhiệm nhặt như đã quen”. Nhưng ơn Chúa đã thắng: Người không để mất “thời giờ quí hóa và đã quyết định sống cuộc đời hy sinh khắc khổ hơn bao giờ hết”.
Như ta đã biết, Thánh nữ vốn có một trái tim dịu dàng, nhạy cảm; như phần đông bao người khác, tự nhiên Người thích yêu và được yêu...
Hồi còn ở ký túc xá, thấy mỗi học sinh quyến luyến với một cô giáo cách đặc biệt, Têrêsa kể lại: “Con cũng muốn bắt chước họ, nhưng con đã thất bại”. Đó chẳng phải là tiếng Chúa đáp lại lời nguyện xin hằng ngày “Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi những an ủi ngọt ngào trần thế nên cay đắng đau khổ cho con!” của Thánh nữ đó sao?
Têrêsa đã chọn một chị bạn, nhưng mối tình này chẳng được bao lâu cũng tan biến như mây khói, khiến Têrêsa càng cảm thấy thế thái nhân tình bạc bẽo, Thánh nữ kêu lên: “Ôi, con phải cảm tạ Chúa dường nào, vì Ngài đã cho con gặp thấy tình đời thật cay đắng. Một nữ nhi với một trái tim mềm yếu như con mà để mặc cho người ta lôi đi cắt cánh tỉa lông, thì làm sao còn có thể bay về nghỉ ngơi bên Chúa được nữa?”
Dầu sao Thánh nữ cũng phải thú nhận “trong những lúc bị mọi người ruồng bỏ, Người cũng cảm thấy buồn tủi...”. Những lúc như thế, phản ứng của Người là hướng tâm hồn lên Chúa và trong những “Giây phút yên tĩnh này, con cảm thấy tâm hồn tràn đầy an ủi. Con nhớ lại những khi ấy con thường lặp đi lặp lại lời thơ tuyệt tác mà khi xưa Ba hay đọc cho chúng ta nghe:
Thời gian là tàu vượt biển
Đâu phải là nhà vĩnh viễn cho ta.
Những lời ấy khích lệ con vô cùng; mỗi khi nghĩ tới những sự kiện đó, đôi mắt con lại đắm chìm vào cõi xa xăm vô tận, và hình như có lúc con cảm thấy như được chạm tới bến đời đời!”
Nhưng dầu sao Thánh nữ cũng công nhận bấy giờ Người chưa được hưởng nhiều ánh sáng bởi trời như sau này. “Khi ấy con chưa được cảm thấy niềm hoan lạc của hy sinh và đau khổ, linh hồn con còn non yếu quá; con còn kém nhân đức lắm nên chưa thể vươn mình lên trên những đau khổ, thế nên trái tim bé bỏng của con đã phải đau khổ rất nhiều”.
Trong luật Dòng có một vài việc hãm mình khiến Thánh nữ úy kỵ, nhưng Người vẫn trung thành ép mình tuân giữ, Người kể lại: “Khi cỏn ở Tập viện, vì quá nhút nhát, nên con rất khổ tâm mỗi khi phải xin phép Bề trên làm đôi việc hãm mình quen làm trong Dòng, nhưng con vẫn trung thành với việc ấy”.
“Con cũng cố gắng nhiều để không bao giờ chữa mình. Chiến thắng đầu tiên của con chẳng có gì là vĩ đại, nhưng con cũng phải vất vả lắm. Không hiểu chị nào để chiếc bình vỡ sau cửa sổ phòng con, Mẹ Giáo Tập tưởng con làm vỡ, nên trách con làm ăn bất cẩn, chẳng có thứ tự gì hết và bảo con lần sau phải cẩn thận hơn. Con chẳng cãi lại nửa lời; con chỉ cúi xuống hôn đất  và hứa lần sau con sẽ ý tứ hơn.”
“Vì còn kém nhân đức, nên con xin nói lại, những việc nhỏ mọn ấy làm con phải đau khổ lắm, và con cần phải nghĩ đến ngày tận thế tất cả những việc ấy sẽ được sáng tỏ”.
“Cũng vào thời kỳ này, con còn bị ma quỷ cám dỗ muốn thỏa mãn tính tự nhiên tìm kiếm đôi chút vui thích được gần mẹ Bề trên, ma quỷ bày vẽ ra trong trí con hàng trăm nghìn lý do để xin phép”. Nhưng Thánh nữ đã phản công mãnh liệt bẻ gẫy âm mưu tấn công của thù địch: “Con phải chạy thật nhanh qua cửa phòng mẹ Bề trên và phải bám chặt vào tay vịn cầu thang để khỏi quay bước trở lại.”
Nơi khác Thánh nữ còn thú nhận mình quá bất toàn, vì khi bắt đầu vẽ mà thấy bút mực bị vứt bỏ lộn xộn, hoặc mất một cái thước, một con dao, thì lúc đó hầu như con “không còn bình tĩnh nữa”. Vậy khi ấy Người làm gi? “Con cố kìm hãm tính nóng giận và dịu dàng đi xin lại những dụng cụ mà mình cần, mình thiếu”.
Như thế Thánh nữ đã nghiệm thấy cái khốn khổ của tính yếu đuối con người. Khi trình bày các chước cám dỗ của Tập Sinh, Người thêm: “Nếu chính con không trải qua những khó khăn ấy, hẳn con không trình bày rõ ràng được như thế”.
Nhưng Thánh nữ đã luôn luôn chiến thắng, và đây có thể coi là một bằng chứng: Tự nhiên Thánh nữ cảm thấy ác cảm với một nữ tu có tài làm phật ý Người trong hết mọi sự. Thánh nữ không chịu thua những cảm tính ấy và đây là chiến thuật đối phó của Người trong nhiều ngày tháng và sau cùng đã giúp Người thành công cho đến chiến thắng hoàn toàn: “Con cố gắng, - Người nói - làm cho chị ấy tất cả những gì con có thể dường như làm cho người con yêu mến nhất. Mỗi lần con gặp chị, con cầu nguyện cho chị, nhưng con chưa lấy thế làm đủ, con còn cố gắng giúp chị ngần nào có thể và khi con muốn đáp lại chị một cách bất nhã, con vội tươi tắn mỉm cười với chị. Đôi khi bị cám dỗ quá sức, và để chị kia không nhận ra, con liền vội bỏ chạy như một tên lính đào ngũ...’.
Thánh nữ vui vẻ thú nhận: “Phương thế này tuy chẳng có chi là anh hùng, nhưng bao giờ con cũng thành công!”.
Têrêsa còn tình nguyện đảm nhận công tác: mỗi buổi chiều dìu một chị bệnh lớn tuổi xuống phòng ăn, Thánh nữ chân nhận là “công việc này đối với Người thật rất khó khăn”.
Đối với những cơn cám dỗ bên trong, Thánh nữ luôn luôn có một thái độ cương quyết. Người viết về những cơn cám dỗ nghịch đức tin như thế này: “Mỗi khi kẻ thù muốn xông vào đánh con, lúc vào trận chiến con chiến đấu thật can đảm, nhưng khi biết rằng chiến đấu tay đôi với địch là hèn nhát, con liền bỏ chạy và không bao giờ nhìn mặt nó; và con chạy đến với Chúa Giêsu và thưa với Ngài, con sẵn sàng đổ hết máu mình ra để tuyên xưng có thiên đàng. Chúa quá hiểu tuyên xưng đức tin như thế, con chẳng được an ủi chút nào, nhưng con cố gắng chứng minh bằng việc làm: từ một năm qua con đã đọc kinh tuyên xưng Đức Tin nhiều hơn cả đời con”.
Nhưng Thánh nữ đã thực hiện và tuyên xưng Đức Tin trong sầu khổ, chính Người đã kể lại điều đó: “Khi con ca tụng hạnh phúc thiên đảng, và sự chiếm hữu Chúa đời đời con không cảm thấy chút vui hay an ủi nào, vì con chỉ ca tụng những điều con muốn tin mà thôi”.
Ngay cả những lần rước lễ mà Thánh nữ hết sức khao khát, Người cũng không được hưởng chút an ủi ngọt ngào nào; dầu vậy Người càng cố gắng dọn mình chu đáo hơn. Và đây là phương thế Người biến cảnh nghèo của mình nên giàu sang phong phú:
“Con hình dung linh hồn con như một thửa đất trống trải hoang vu và con xin Đức Nữ Trinh dọn sạch những thứ ngổn ngang tức là những bất toàn; rồi con xin chính tay Mẹ dọn cho con một lều xứng đáng với thiên đảng và dùng những món trang sức của Người để trang trí lều đó. Đoạn con mời các thánh trên trời xuống ca những khúc nhạc tình ái. Khi ấy con thấy hình như Chúa Giêsu hài lòng về cuộc đón rước linh đình này lắm, và chính con cũng thấy vui mừng”.
“Dù đã làm thế, con vẫn chia trí và buồn ngủ. Nên con thường dốc quyết tiếp tục cám ơn rước lễ suốt ngày, bởi con đã chẳng cám ơn nên khi ở ca triều”.
Một Tập sinh thú thật với Thánh nữ “trong lúc bị thử thách, em đã xin Chúa cho một giấc mơ khích lệ”. Thánh nữ khẳng khái trách: “A! không bao giờ em nên làm như vậy! Xin được an ủi!... Em muốn nên giống chị, thì em phải biết là chị chỉ nguyện cầu:
“Chúa Giêsu ơi, xin cứ ngủ yên,
An tâm con đợi bến miền thiên cung...”.
“Êm dịu dường nào được phụng sự Chúa trong màn đêm thử thách, vì chúng ta chỉ có quãng đời này để sống Đức Tin mà thôi.”
Thánh nữ còn nói cách Người hành động thế này: “Khi con không cảm thấy gì cả, lúc con phải khô khan, không thể cầu nguyện được, không thể làm được gì lớn lao, thì con tìm những dịp, những việc nhỏ mọn không đâu để làm vui lòng Chúa Giêsu: như một nụ cười, một lời nói dễ nghe, thay vì yên lặng trong vẻ buồn sầu. Nếu không thể làm gì nữa thì ít là con nhắc đi nhắc lại lời này “Con yêu mến Chúa”.
Nhưng cũng có những giờ phút linh hồn phải tăm tối, mây sầu giăng mắc ngay trên đầu, không những thân xác “mệt nhọc, vất vả” mà cả trong linh hồn cũng ê chề buồn chán thất vọng, Têrêsa cũng không tránh khỏi những lúc như thế; nhưng những thử thách ấy đã giúp Người thêm tin tưởng mãnh liệt hơn và Người đã sánh ví mình với một chim non lìa tổ. Têrêsa khiêm nhượng thở than:
“Ôi, lạy Chúa, đã bao lần con xao nhãng bổn phận duy nhất của con, con xa lìa khỏi Chúa, con làm ướt hết đôi cánh non nớt của con trong những vũng nước dơ bẩn trên đường đời. ‘Khi ấy con rên ri như con chím én’ , lời rên rỉ như mách bảo Chúa tất cả và Chúa đã nhớ lại hết. Ôi, Chúa vô cùng lân tuất, ‘Chúa đến chẳng phải để kêu gọi người lành, nhưng để gọi kẻ tội lỗi’” .
Thánh nữ luôn luôn liệt mình vào hạng những kẻ cùng khổ, bất lực, rất cần đến lòng thương xót vô hạn của Chúa, đồng thời không bao giờ quên cầu nguyện cho “các anh em tội lỗi” bằng cách cố gắng không ngừng làm những việc lành, Thánh nữ không chịu ngừng tay chiến đấu thiêng liêng; dù một giây phút, Người muốn:
“... Chiến trường dù có phơi thây;
Võ khí còn nắm trong tay chẳng rời!”

2: TÌNH YÊU QUÀNG ĐẠI

Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã kêu lên: “Ôi, lạy Chúa Giêsu, con biết rằng ‘Tình yêu phải đáp trả bằng tình yêu’  vì thế con đã ra công tìm kiếm và con chỉ thấy có một cách làm vơi nhẹ lòng con là lấy tình yêu của con đáp lại tình thương của Chúa”.
Phải, Thánh nữ “đã tìm kiếm” cách trả nợ tình yêu và trước tiên Người tưởng đã tìm thấy trong việc hoạt động tông đồ trợ giúp các linh hồn.
Trong cuộc hành hương Rôma, một lữ khách đã tặng Thánh nữ cuốn niên giám các nữ tu truyền giáo. Sau khi vui vẻ tiếp nhận. Người liền trao lại cho chị Người và nói: “Em không đọc đâu, vì em có một ước vọng quá mãnh liệt muốn dấn thân hoạt động tông đồ, nhưng em lại muốn ẩn mình trong tu viện để được hoàn toàn dâng hiến cho Chúa”.
Vì thế Thánh nữ đã muốn hy sinh tất cả những niềm an ủi và thỏa mãn của hoạt động tông đồ. Cũng chính vì thế mà Thánh nữ đã tìm thấy cách ‘làm vơi nhẹ cõi lòng’ bằng một hy sinh cao cả nhất, đó là hy sinh chính mình Người, Người nói: “Chỉ có tự hiến hoàn toàn mới đáng gọi là yêu mà thôi”.
Người còn nhắc lại thời thanh xuân của mình: “Khi vừa được biết con đường thánh thiện thì con đã hiểu rằng muốn nên thánh, phải chịu đau khổ nhiều, phải luôn tìm cách tiến lên và phải quên mình mãi mãi. Con hiểu rằng đường thánh thiện có nhiều cấp bậc và mỗi linh hồn được tự do đáp lại tiếng Chúa gọi. Họ có thể hành động ít hay nhiều, tùy theo mức độ tình yêu của họ. Tắt một lời, họ được hoàn toàn tự do chọn lựa những hy sinh Chúa đòi hỏi. Con đã kêu lên: “Lạy Chúa, con không muốn nên thánh nửa vời, con không sợ đau khổ vì Chúa! con chỉ sợ một điều là không bỏ được ý riêng con. Xin Chúa nhận lấy ý riêng con, con chọn tất cả những gì Chúa muốn.”
Thánh nữ đã có tập quán quảng đại với Chúa ngay từ khi còn nhỏ. Chính Thánh nữ khi gần chết đã tuyên bố rõ ràng: “Từ khi lên ba cho tới giờ, em chưa hề từ chối Chúa điều gì”, và trước khi rước lễ vỡ lòng, Têrêsa đã viết cho mẹ Agnès de Jésus: “Ngày nào con cũng cố gắng thực hành nhiều việc hy sinh nhỏ mọn. Con cố gắng không bỏ sót một hy sinh cỏn con nào. Con muốn thấy Chúa Giêsu được hài lòng khi ngự vào lòng con, ngày 8 tháng 5 tới, ước gì Chúa không còn muốn về thiên đàng nữa.”
Sau này trong thư gửi chị Céline, Têrêsa viết: “Chúng ta hãy dâng cho Chúa Giêsu, hãy dâng cho Ngài tất cả, hãy quảng đại với Ngài...”.
Mấy tuần trước khi chết, Thánh nữ đã tâm sự với một trong các chị của Người thế này: “Em đã thực hành rất nhiều việc hy sinh nhỏ mọn”. Người còn nói trong thư gửi mẹ Agnès de Jésus: “Con thích vẻ buồn tẻ của hy sinh ẩn khuất hằng ngày hơn tất cả những lần xuất thần”.
Trong Truyện Một Tâm Hồn, khi đề cập đến những việc vĩ đại như giảng đạo, tử đạo, mà mình không được phép làm, Người nói: “Nhưng có can chi, con là một con trẻ hằng túc trực bên ngai Vua, con yêu mến Vua thay cho những anh em phải giao tranh nơi chiến trường... Lạy Chúa, con chỉ có một cách để minh chứng lòng con mến Chúa đó là tung hoa, nghĩa là con không để mất một cơ hội nhỏ mọn nào: một liếc nhìn, một lời nói; con sẽ tận dụng tất cả những cái nhỏ nhặt đó, sẽ làm tất cả vì yêu Chúa. Con sẽ không gặp bông hoa nào mà không tách ra từng cánh để dâng Chúa!...”
Đó là chương trình hành động mà Thánh nữ đã theo sát từng chữ.
Trong chương hai và ba của sách này sẽ kể ra một vài nét nhân đức của Têrêsa, tuy nhiên không thể đào sâu một vấn đề gồm chứa cả 2.500 trang giấy trong bản án phong Chân Phước và Hiển Thánh cho Thánh nữ. Vả lại mục đích sách này chỉ có ý nêu lên tinh thần của Thánh nữ, chứ không chủ ý tường thuật các việc lành của Người.
Tinh thần đố chính là Tình yêu. Sách Gương Phúc nói: “Tình Yêu cao thượng không bến bờ, tình yêu mạnh như nước sôi tràn ra tứ phía.”
Thể chất Người thường đau yếu bệnh hoạn, tâm hồn thì đầy ứ đau khổ, thế mà trong một lần tâm sự, Thánh nữ còn tỏ ra tiếc nuối vì còn nhiều cám dỗ và đau khổ chưa lướt qua tâm hồn Người, Người mong chịu đựng hết các đau thương thử thách mà Người đã được miễn khỏi...
Người đã viết: “Chúa đã chẳng phú cho con một con tim nhạy cảm đó sao? Và chính vì tâm hồn con có sức chịu đựng, nên con muốn dâng cho Chúa Giêsu mọi thứ đau khổ mà tâm hồn con có thể chịu”.
Cũng một khuynh hướng quảng đại ấy đã thúc đẩy Thánh nữ mong được sang Việt Nam, là nơi đã yêu cầu Người đến.
“Ở đây con đã được chiều chuộng sung sướng và con thấy như vậy êm dịu quá; con mơ ước sống trong một đan viện không có ai quen biết con, nơi đó con sẽ được chịu cảnh đày ải tâm hồn”.
“Con muốn sang Nhà Kín Hà Nội để được chịu nhiều đau khổ hơn vì Chúa. Con muốn sang đó để được hoàn toàn cô độc, để không còn một an ủi nào, không còn chút vui trần thế nào nữa”.
Như mọi người vẫn biết, Thánh nữ hằng mong ước được chết để về hưởng Nhan Thánh Chúa, để được kết hiệp với Ngài đời đời. Dường như “trái tim Thánh nữ vỡ tung ra vì vui sướng” khi lần đầu tiên được nghe tiếng Chúa gọi vào dự tiệc thiên quốc. Thế mà trong thư gửi người anh thiêng liêng, Têrêsa đã thú nhận thế này: “Không bao giờ em xin Chúa cho em được chết sớm, vì em thấy như thế là hèn nhát”.
Quả thế chính Chúa Giêsu đã phán: “Bằng chứng cao cả nhất của tình yêu là chết cho người mình yêu” , vì tình yêu Chúa, ta có thể sẵn sàng hiến dâng mạng sống ta, không phải chỉ duy một lần bởi sự chết, nhưng là chết dần chết mòn mỗi ngày trong suốt quãng đời tại thế này.
Têrêsa đã hiểu rõ điều đó, Người thưa cùng Chúa: “Lạy Chúa, con sẵn sàng, con hoàn toàn không sợ hãi chút nào, nếu đẹp lòng Chúa, con vui lòng chịu hết các khổ đau nơi thân xác và trong tâm hồn suốt nhiều tháng năm. Con không sợ sống lâu, con cũng chẳng ngại chiến đấu”. “Chúa là đá tảng mà tôi được xây trên đó, Ngài tập cho tôi giao chiến, Ngài dạy tôi những ngón đấu tranh, Ngài là thuẫn đỡ của tôi, tôi trông cậy nơi Ngài” .
“Ước ao làm việc vì vinh danh Chúa thì Chúa cũng hài lòng rồi, nhưng lòng khát vọng của con thật vô biên... Phải, con sẵn sàng bỏ nơi này để bay tới chiến trưởng khác, nếu vị đại tướng Chí Thánh muốn, Ngài chẳng cần ra lệnh, chỉ một cái nhìn, một dấu hiệu là con sẵn sàng đi ngay”.
Với lòng hăng hái nhiệt thành làm cho nhiều người yêu mến Chúa. Thánh nữ viết: “Con muốn được làm thừa sai, không chỉ trong vài năm, nhưng, từ khi tạo thành trời đất cho đến tận thế!”
Tuy nhiên Người xác tín:
“Đường đời, ta phải bước đi,
Gian nan, hiểm trở; khó nguy thiếu gì”.
Thánh nữ thừa hiểu rằng con người quá mỏng giòn và trên quãng đường đời dài dằng dặc này, linh hồn phải vấn vương bao bụi trần, nhưng không trở ngại nào có thể ngăn cản được lòng nhiệt thành của Người, và như Người quả quyết: “Chính Thiên Chúa sẽ bù đắp lại tất cả, và:
“...Vì yêu con sống lưu đày
Quản chi tăm tối những ngày xa quê”.
Nơi Thánh Têrêsa Avila, ta cũng gặp thấy tư tưởng ấy: “Từ ngày tôi đảm nhiệm nhiều trách vụ, tôi lỗi phạm nhiều. Nhưng vì can đảm chiến đấu cho Chúa, và chỉ lo làm việc cho Ngài, nên tôi cảm thấy mỗi ngày được gần Chúa hơn”.
Trong truyện “Một Tâm Hồn”, khi kể lại những ý hướng cao thượng, Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu nói: “Lạy Đấng Chí Ái, con ước ao có thể khai sáng các tâm hồn, như các tiên tri, các thánh tiến sĩ. Con muốn đi khắp cùng trái đất để rao giảng Thánh Danh Chúa, để cắm cây Thánh Giá vinh hiển Chúa thật cao giữa đất các dân ngoại. Nhưng chỉ làm được có thế thôi con vẫn chưa mãn nguyện, con còn muốn rao giảng Tin Mừng Chúa mọi nơi trên trái đất này, cho tới những hải đảo xa xăm nhất...
“Trên hết, con muốn được tử đạo, đó cũng là một điên rồ khác nữa, vì con muốn chịu không chỉ một thứ hình khổ, mà là chịu hết mọi thứ hình khổ con mới mãn nguyện.
 “Cũng như Chúa, vị Hôn Phu Chí Thánh của con, con muốn được chịu đánh đòn, chịu đóng đinh... Con muốn chịu lột da như Thánh Batôlômêô, con muốn được bỏ vào vạc dầu sôi như Thánh Gioan tông đồ, con muốn được răng thú dữ nghiền nát như Thánh Inhaxiô Antiôkia để trở nên tấm bánh xứng đáng cho Chúa. Cùng với hai Thánh Agnès và Cécile con muốn đưa cổ cho lý hình chém, và như Thánh Jeanne d’Arc con muốn được thiêu sống trên đống lửa hồng trong khi miệng không ngừng tung hô Thánh Danh cực trọng Giêsu! Mỗi khi con nghĩ tới những khổ hình các tín hữu sẽ phải chịu vào thời quỷ vương, tâm hồn con cảm thấy phấn khởi và con khát khao được chịu tất cả những cực hình ấy. Lạy Chúa Giêsu chí ái, xin Chúa hãy mở Sách Hằng sống ghi chép huân nghiệp các Thánh, những huân nghiệp hiển hách ấy con muốn thực hiện tất cả để tỏ lòng con yêu Chúa!”
Những hàng trên đây đượm màu phấn khởi đầy nhiệt huyết, đó là “những ngọn lửa nhiệt thành, ngọn lửa yêu mến Chúa’’  nói lên tất cả lòng quảng đại nhiệt huyết của Thánh nữ, nhưng Têrêsa vẫn chưa cho đó là tâm tình làm đẹp lòng Chúa nhất, và trong thư gửi chị cả Marie, Thánh nữ đã giải thích những dòng trên. Những dòng sau đây tuy ngoài vấn đề đang trình bày, nhưng lại là niềm an ủi lớn lao cho những linh hồn dù quảng đại, song cũng phải nản chí trước lòng hăng say trên của Thánh nữ:
“Sao chị lại hỏi em xem chị có thể yêu mến Chúa như em kính mến Ngài được không?... Những ước vọng tử đạo của em có là gì đâu, em chẳng tin tưởng gì ở những ước vọng vô bờ bến mà em cảm thấy cả. Quả thật, người ta có thể coi đó là những ‘của cải thiêng liêng sinh bất công’ , khi người ta mãn nguyện với những tư tưởng ấy và họ tưởng đó đã là cao quí lắm rồi... Những ước vọng ấy là nguồn vui mà đôi khi Chúa Giêsu ban cho những linh hồn yếu hèn như em, và những linh hồn như thế lại nhiều lắm. Nhưng khi Ngài không ban thì lại cả một đặc ân chị ạ. Chính Ngài đã nói: ‘Lạy Cha, xin cho con khỏi uống chén này’  thế mà sao bây giờ chị lại nghĩ rằng những ước vọng kia là bằng chứng lòng yêu Chúa của em? Em thấy đó chưa phải là điều làm đẹp lòng Chúa chị ạ. Điều làm đẹp lòng Chúa chính là yêu thích cái chỗ nhỏ bé và thấp hèn của mình và nhắm mắt tin tưởng vào lòng thương xót vô biên của Chúa... Đó là kho tàng duy nhất vô biên của em và tại sao lại không thể là của chị?”
Tất cả “con Đường Thơ Ấu thiêng liêng” đã được tóm gọn trong những hàng trên.

3: TÌNH YÊU VÔ VỊ LỢI
“Con không ích kỷ vì con yêu Chúa chứ không yêu mình!”
Hai tháng trước khi qua đời, Thánh Têrêsa đã nói thế, và cả đời sống của Người đã minh chứng lời đó.
Khi còn ở Nhà Tập, Têrêsa đã viết cho mẹ Agnès de Jésus thế này: “Xin Mẹ cầu cùng Chúa Giêsu cho con biết yêu mến Ngài bằng một mối tình vô vị lợi; con không ước ao được cảm thấy yêu, miễn là Chúa Giêsu cảm thấy con yêu Ngài là đủ.”
Và trong tuần cấm phòng dọn mình khấn, Têrêsa viết lại: “Con nhỏ của Mẹ không uống rượu nho ngọt xứ Engaddi (Dc 1,13) nhưng xin Mẹ cầu nguyện cho nó biết dâng rượu ấy lại cho vị Hôn Phu của nó để cứu các linh hồn, như thế chắc nó sẽ được an ủi lắm.”
Thánh nữ còn viết tiếp: “Thưa Mẹ, linh hồn con luôn luôn phải tối tăm, nhưng con vẫn được hạnh phúc. Vâng, con rất sung sướng vì con không được chút an ủi nào. Con sẽ phải hổ thẹn, nếu tình yêu của con đối với Chúa Giêsu cũng giống như tình đời của bao thiếu nữ khác: họ chỉ mong được hôn phu tặng của nọ vật kia hoặc say đắm ngắm nhìn họ với những nụ cười ái ân duyên dáng. Không, Têrêsa đây, hôn thê nhỏ của Chúa Giêsu chỉ yêu Giêsu vì Giêsu mà thôi.”
Trong thư khác gửi chị cả Marie, Têrêsa còn viết: “Em nhỏ của chị đâu có được nghe những bài ca thiên quốc du dương, lễ rước đầu của em buồn tẻ lắm chị ạ. Chắc chị tưởng em buồn lắm? Không đâu chị ạ, em sung sướng theo Tân Lang của em vì Ngài thôi, chứ không vì những tặng phẩm. Em thấy chỉ có Ngài là xinh đẹp, đáng say mê, cả những khi Ngài không nói hoặc ẩn mặt đi!”
Chỉ khi nào hoàn toàn quên mình, người ta mới cảm thấy cái hạnh phúc này, chính Thánh nữ đã gọi đó, là thứ “Tình yêu anh hùng.”
Trong thư gửi chị Céline, Têrêsa viết: “Chị ơi, chúng ta hãy yêu Chúa Giêsu thật nhiều để có thể chịu đựng tất cả những đau khổ Ngài muốn, cả những lúc dường như khô khan lạnh lẽo... Yêu Chúa Giêsu mà không cảm thấy cái êm dịu của tình yêu, đó mới là tình yêu cao thượng và đó cũng là một cuộc tử đạo... Chị ơi! chúng ta hãy chịu tử đạo đi!...”
Trong thư khác Têrêsa viết: “Chị Bé ơi, chúng ta hãy dứt bỏ trần thế này để bay lên núi Tình Yêu, ở đó ta sẽ thấy linh hồn ta xinh đẹp như những bông huệ thơm tho trắng ngần. Chúng ta hãy gạt bỏ qua một bên những an ủi ngọt ngào để chỉ bám lấy một mình Chúa Giêsu mà thôi!”
Thánh nữ buồn rầu vì thấy “Chúa có rất ít bạn thân khi Chúa đứng thinh lặng trước các vị thẩm phán! (Mt 26,65). Ai cũng muốn phụng sự Chúa khi được Ngài an ủi, còn chả mấy ai theo Ngài khi Ngài ngủ trên thuyền giữa cơn giông bão, hoặc khi Ngài hấp hối trong vườn Cây Dầu. Vậy ai sẽ phụng sự Chúa Giêsu chỉ vì Ngài thôi? A, kẻ ấy sẽ chính là con!”...
Điều gì Thánh nữ đem dạy các Tập sinh thì Người cũng đã thực hành trọn hảo trước. Một Tập sinh nói với Thánh nữ: “Em sẽ kể lể cho Chúa Giêsu tất cả những nỗi khổ của em, rồi em sẽ khóc dưới chân Chúa để ít ra Ngài cũng hiểu lòng em và Ngài sẽ an ủi em”. Thánh nữ bảo: “Khóc lóc với Chúa ư? Em hãy thận trọng, đừng bao giờ làm như vậy. Trước mặt người đời em còn không nên tỏ mặt buồn, phương chi trước mặt Chúa. Em nghĩ xem, để Thánh Tâm Ngài được an ủi, Thầy Chí Thánh chỉ có các tu viện chúng ta; Ngài tới nhà chúng ta để nghỉ ngơi, để tạm quên đi những lời than vãn của các bạn hữu ngoài đời, vì người đời thường không hiểu giá trị những Thánh Giá Chúa gửi đến, nên họ thường khóc lóc than trách. Như thế em còn nỡ tâm hành động như bao người đời nữa sao? Thành thật mà nói, như thế đâu có phải là tình yêu vô vị lợi!
Bổn phận chúng ta là an ủi Chúa Giêsu chứ không phải để Ngài an ủi chúng ta... Chị biết Chúa Giêsu hiền từ lắm, nếu em có khóc với Ngài, thế nào Ngài cũng an ủi em, lau nước mắt cho em; nhưng rồi Ngài phải buồn bã ra đi, vì không được chút an ủi nào nơi linh hồn em”.
Trong truyện “Một Tâm Hồn”, Têrêsa còn viết về tuần phòng dọn mình Khấn Dòng thế này: “Ôi, con thấy rất ít người chịu để cho Chúa Giêsu ngủ yên trong linh hồn họ. Thầy nhân lành quá mệt nhọc vì phải luôn ban phát mọi ân phúc cho họ, nên con vừa mời là Ngài vội vào nghỉ ngay. Chắc Ngài sẽ chẳng phải thức dậy trước khi con vào tuần phòng đời đời, và con không lấy đó làm cực nhọc, trái lại con rất vui là khác”.
Trong thư gửi Mẹ Agnès de Jésus, Têrêsa viết: “Thưa Mẹ, trong những lần tâm sự với Chúa Giêsu, con chẳng được chút gì là vui thú cả, chỉ có khô khan và buồn ngủ, mà con không nỡ ngăn cản Ngài; con rất sung sướng vì Ngài đã không xử với con như với một kẻ xa lạ, Ngài chẳng ngại gì với con, vì con cam đoan với Mẹ, khi tâm sự với Ngài, con chẳng xin ân huệ gì”.
Trong tập thơ “Tại sao con mến Mẹ”, Têrêsa thưa với Đức Mẹ:
“Mẹ ơi hãy bảo Giêsu,
Của con Ngài cứ lấy đi những gì.
Với con, chớ ngại ngùng chi,
Hay Ngài ẩn mặt, con hằng đợi liên.
Tới ngày không bóng tối đêm
Đức Tin tan biến, vui liên con chờ.”
Niềm tin ấy làm cho tâm hồn Têrêsa phải trải qua một cơn thử thách nặng nề, nhưng Thánh nữ vẫn giữ được lòng yêu vô vị lợi. Những dòng sau đây cho thấy rõ điều đó:
“Lạy Chúa, đau khổ càng dữ dội, càng được ít người biết đến, thì càng làm cho Chúa thỏa lòng! Và giá như chính Chúa cũng không biết đến đau khổ con phải chịu thì con càng vui sướng hơn nữa, vì hy vọng với những giọt lệ con để rơi, con có thể sửa chữa hay tránh được một lỗi phạm đến Đức Tin”.
Sau này cùng với tư tưởng ấy, Thánh nữ lại nói: “Điều này, không thể có được, nhưng giá như chính Chúa cũng không biết đến những việc lành con làm, thì con không vì đó mà buồn chút nào. Vì thiết tha yêu Chúa nên con chỉ muốn làm đẹp lòng Ngài mà không cần được Ngài biết đến. Nếu Ngài biết việc con làm cho Ngài thì con sợ Ngài buộc lòng phải trả công cho con, con không muốn làm phiền Ngài thế!”
Ngay cả trong khi rước lễ, Chúa cũng đòi Thánh nữ phải có tình yêu vô vị lợi này. Trong truyện “Một Tâm Hồn” Người thú nhận: “Không có lúc nào mà con ít được an ủi bằng khi con rước lễ, dĩ nhiên là thế, vì con chẳng ước ao Chúa tới thăm để thỏa mãn lòng con, nhưng chỉ để đẹp lòng Chúa thôi”.
Thánh nữ đã quá hiểu trên đời này nhiều lúc chúng ta chán ngán cầu nguyện và nếu bền tâm cầu nguyện thì đó là chúng ta đã theo Chúa trong vườn Cây Dầu.
Một Tập sinh thú nhận với Thánh nữ là thích cấm phòng để nghỉ ngơi, Thánh nữ bảo: “Thế ra em chỉ thích cấm phòng để được nghỉ ngơi? Còn chị, chị chỉ thích cấm phòng để được hiến dâng cho Chúa nhiều hơn. Xin em hãy nhớ lời rất chí lý này của sách Gương Phúc: ‘Thoạt khi người ta tìm kiếm mình thì người ta không còn yêu nữa’”(Q.III, 5,7).
Trong thư gửi Mẹ Agnès de Jésus, Têrêsa viết: “Thưa Mẹ, tất cả ước vọng của con là được lo cho vinh danh Chúa Gíêsu; còn phần con, con phó thác vinh dự của con cho Ngài, con đã trao phó trọn con cho Ngài và nếu Ngài có quên con thì cũng tùy Ngài, vì con không còn thuộc về con nữa. Để con phải chờ đợi chắc Ngài sẽ nản trước con”.
Lời thách đố cảm động ấy khiến Thánh Tâm Chúa phải đáp lại...
Nhưng Thánh nữ nêu lên một giả thiết khác: Nếu hạnh phúc thiên đàng không tương ứng với ước vọng của Têrêsa thì sao? Đối với Têrêsa điều đó không hề gì cả, Người nói: “Chỉ được thấy Chúa cao sang hạnh phúc, con cũng sung sướng lắm rồi”.
Một hôm Thánh nữ tung hoa cho Thánh Giá Chúa ở giữa sân, chị em hỏi: “Chị muốn xin ơn gì đó?” Têrêsa vội đáp: “Em chẳng có ý xin ơn gì cả, em chỉ muốn làm đẹp lòng Chúa Giêsu thôi. Em không muốn cho để được nhận lãnh”.
Nơi khác Thánh nữ còn nói với một tập sinh: “Trong kinh giờ sáu (Sexta) có một câu thánh vịnh mà ngày nào chị cũng phải miễn cưỡng đọc: ‘Con hằng chuyên tâm giữ giới răn Chúa, vì Chúa sẽ thưởng công cho con’ (Tv 118,12). Khi đọc xong câu đó, chị thầm cải chính ngay: ‘Lạy Chúa Giêsu, Chúa biết rõ lòng con: chẳng phải vì ham phần thưởng mà con phụng sự Chúa đâu, mà chỉ vì con yêu Chúa và muốn cứu các linh hồn mà thôi’”.
Trong một bài thơ nhan đề “Sống vì Yêu” Têrêsa viết:
“Sống yêu đương chính là cho tất cả,
Trên đời này không đòi trả công lao,
Không tính toán, không kể cho là bao,
Vì đã yêu có khi nào suy tính.”
Ngay cả được Chúa ưu đãi hơn, Têrêsa cũng không muốn, vì chị nghĩ rằng Chúa sẽ vui hơn nếu Ngài được tự do ban phát các ơn. Còn về các linh hồn đã được giao phó cho Thánh nữ hướng dẫn, Người viết:
“Lạy Chúa, ngày kia ở thiên đàng, nếu con khám phá thấy Chúa thương các linh hồn ấy hơn con thì con sẽ vui biết bao, vì Chúa đã muốn như thế!”
Thánh nữ đã nói, cho dù rất mong mỏi được thấy Tôn Nhan Chúa, nhưng viễn ảnh một cuộc sống lâu dài vẫn không làm cho Người sợ hãi.
Chúng tôi không ngại lặp lại tư tưởng sau đây để làm nổi bật lên diện mạo đích thực của Têrêsa một lần nữa. Thánh nữ đã viết: “Giả như Chúa cho con biết nếu con bằng lòng chết bây giờ, con sẽ được triều thiên rất vinh hiển, nhưng nếu chết khi con 80 tuổi, vinh quang của con sẽ bị giảm nhiều nhưng như thế Chúa sẽ rất hài lòng; con sẽ thưa ngay với Chúa: ‘Lạy Chúa, xin cho con chết lúc con tám mươi tuổi, vì con không tìm vinh quang cho con; con chỉ tìm sự đẹp lòng Chúa’”.
Với tinh thần vô vị lợi ấy, Thánh nữ đã quả quyết: “Giá như con được khỏi bệnh, con cũng không thất vọng” - “Bình phục ư? Nếu Chúa muốn, con sẽ dâng hy sinh ấy cho Chúa”.
Một hôm được bác sĩ cho biết bệnh tình của chị đã ra nặng hơn. Têrêsa tỏ vẻ sung sướng, nhưng chị coi phòng bệnh bảo: “Thế ra Chị thích chết hơn sống”. Têrêsa vội đáp: “Không đâu, cam đoan với chị là nếu Chúa cho em khỏi bệnh thì em cũng rất vui được khỏe lại để phụng sự Chúa nơi trần gian này, vì Ngài muốn như vậy. Em đau đớn như chết đi được, dầu vậy, em vẫn sẵn sàng chịu lại cơn bệnh ấy.”

4: TÌNH YÊU TÉ NHỊ

“Thiên Chúa thích những kẻ hiến dâng cách vui vẻ” , Thánh Phaolô đã nói thế để ứng nghiệm lời tiên tri Malachie: “Các ngươi hãy lấy nước mắt mà bao phủ bàn thờ Chúa, hãy vây quanh bàn thờ Chúa mà khóc lóc, than van vì Chúa chẳng còn đoái nhìn lễ vật, cũng chẳng thèm đoái nhận của lễ tự tay các ngươi dâng hiến nữa” (Ml 2,13). Điều Chúa muốn là “đến dâng của lễ với bộ mặt hân hoan” (Gv 35,8) là của lễ được dâng lên với muôn lời ca tiếng hát” .
Vì chỉ muốn dâng cho Chúa những gì Ngài muốn, những gì làm đẹp lòng Ngài, nên Thánh nữ chú tâm luôn luôn mỉm cười dâng các hy sinh.
Khi giải thích lời Thánh Kinh: “Các ngươi thấy gì nơi vị hôn thê, nếu chẳng phải là những lời ca giữa trận tuyến?” (Dc 7,1) Thánh nữ đã viết: “Vâng, cuộc đời chúng ta là bãi chiến trường, chúng ta ngồi than khóc bên bờ sông Babilon: ‘Có lẽ nào ta hát thánh ca trên nơi đất lạ?’ (Tv 136,4). Nhưng dầu sao chúng ta vẫn phải hát lên. ‘Đời ta phải là một bài ca thánh thót’”. Vì thế trong một tập thơ, Têrêsa viết:
“Uy hùng khí giới trong tay,
Theo Ngài, can đảm ra ngay chiến trường.
Như người trinh nữ sắc hương
Chiến trường con hát coi thường gian nguy...
Mỉm cười tên đạn coi chi,
Trong tay Bạn Thánh lo gì gian truân,
Hát ca, dù chết tới gần,
Tay mang khí giới, tâm thần sợ chi.”
Trong truyện “Một Tâm Hồn”, Thánh nữ thú nhận việc lành mình làm không được hoàn hảo như lòng tha thiết mong ước. Người hối tiếc, nhưng tâm tình an bình và đầy yêu thương. Têrêsa sánh mình như một trẻ thơ thế này: “Vâng, đứa con nhỏ chỉ biết lấy hương thơm xông lên tòa Chúa, với một giọng ca trong trẻo, nó chỉ biết hát lên bản Thánh ca tình ái”.
Vâng, con còn hát, con sẽ hát hoài,
Dù trăm gai con vẫn hái hoa hồng,
Gai càng nhọn, tiếng hát con càng trong,
Gai càng dài lời ca càng thánh thót.
Chính Thánh nữ đã linh cảm, tình yêu tế nhị ấy sẽ đem lại nhiều lợi ích:
“Lạy Chúa Giêsu, những bông hoa và những lời ca của con có đem lại được gì cho Chúa? Vâng, con hiểu rằng trận mưa đượm hương thơm, những cánh hoa mỏng manh, những bản tình ái từ một con tim nhỏ bé phát ra dù sao cũng làm Chúa vui thích. Vâng, những cái vô nghĩa ấy sẽ làm cho Chúa và Hội Thánh khải hoàn mỉm cười. Các Thánh đón nhận những cánh hoa hồng này đem tiến dâng lên Chúa, xin Chúa mặc cho chúng một giá trị vô cùng rồi tung xuống các linh hồn đau khổ trong luyện ngục hầu dập tắt ngọn lửa tinh luyện, và sau cùng ban xuống cho Hội Thánh Chiến Đấu nơi trần gian hầu giúp Hội Thánh khải hoàn vinh thắng”.
Khi lên 14 tuổi, cũng với cảm quan ấy Têrêsa viết cho Mẹ Agnès de Jésus: “Con nghĩ mỗi lần vui chịu một đau khổ nào, thì trong cõi đời đời ta sẽ được yêu mến Chúa nhiều hơn”.
Những vần thơ sau đây cho ta thấy tình yêu tế nhị của Người trong thử thách, dưới một hình thức khác; Chúa Giêsu càng có vẻ quên Têrêsa, Têrêsa càng tỏ ra vui với Ngài:
Chúa ôi, kho báu khôn lường
Bỏ con, con biết tìm đường theo ai?
Nếu Chúa chẳng đoái hoài ve vuốt;
Con vẫn tươi cười trong nước mắt khổ đau...
Bình an con chẳng âu sầu,
Giêsu con đợi Ngài mau trở về.
Chẳng khi nào con hề thôi hát
Khúc tình ca thơm ngát ái ân.
Nơi khác Thánh nữ còn viết:
Mỉm cười với Chúa tôi thờ;
Đó là thiên quốc thỏa mơ ước rồi;
Dẫu Ngài thử đức tin tôi
Ngài đành ẩn mặt xem tôi thể nào
Tôi nguyền vững dạ không nao.
Đợi Ngài ngó lại, vẫn màu vui tươi,
Đó là thiên quốc của tôi!
Đi đôi với tình yêu tế nhị này, Têrêsa còn tỏ ra tình âu yếm khôn tả nhất là trong những giờ phút đau khổ, như được tỏ ra dưới nét sau đây. Trong thời gian bệnh cuối cùng, khi nhớ tới lời Phúc Âm: “Ta sẽ đến như kẻ trộm vào chính lúc các ngươi không ngờ” (Lc 12,40), Thánh nữ thường thích gọi Chúa là “Kẻ trộm thánh”; Một hôm thấy cơn bệnh của chị trầm trọng hơn, một nữ tu bảo: “Này chị, hôm nay nếu được gặp Đấng Trộm Thánh chắc chị sẽ vui lắm nhỉ”. Têrêsa đáp: “Ngay cả khi không trông thấy Ngài, em vẫn yêu Ngài nhiều lắm, em luôn hài lòng về tất cả những gì Ngài làm. Dù Ngài có đến ‘bắt trộm’ em đi hay không, em cũng vẫn yêu Ngài, dù Ngài lừa gạt em, em cũng vẫn ca tụng Ngài hết lời, và như thế là Ngài chẳng còn làm gì được em nữa”.
Nơi khác ta còn đọc thấy:
“Khi Ngài lánh mặt thử tôi,
Tinh yêu tôi sẽ gấp đôi với Ngài”.
Khi gần lìa đời Têrêsa đã nói với một chị của Người thế này: “Chớ gì chị được biết Chúa sẽ xử nhân hậu với em chừng nào trong ngày phán xét! Nhưng nếu Chúa tỏ ra hơi nghiêm khắc với em thì em vẫn thấy Ngài dịu hiền vì em biết rõ Ngài. Em quả quyết với chị rằng, nếu Chúa muốn giam em nơi luyện ngục em cũng rất bằng lòng. Em biết lúc ấy em sẽ làm gì rồi. Em sẽ bắt chước ba trẻ Do Thái trong lò lửa; em sẽ đi lại trong đó để hát những khúc ca tình ái.
Em cũng đã nghĩ, nếu khi bước vào thiên đàng mà chẳng thấy chi khác lạ, em cũng sẽ cố làm ra vẻ bỡ ngỡ lắm để Chúa vui... Và giả như có điều chi làm em thất vọng, thì cũng đừng lo, vì em biết phải làm thế nào để Ngài không nhận ra nỗi thất vọng của em...”.
Vốn sẵn tế nhị, nên không bao giờ Têrêsa phàn nàn gì về đời sống thiếu tiện nghi, ngay cả những câu nói rất tự nhiên như: Trời rét quá, nóng quá.
Thánh nữ nói: “Chúa yêu thương chúng ta vô cùng mà buộc lòng Ngài phải để chúng ta nơi trần gian khổ ải này để hoàn tất cuộc đời thử thách, thì Chúa đã khổ tâm lắm rồi. Cần gì chúng ta cứ liên lỉ than khổ với Ngài; chúng ta phải làm ra vẻ như không thấy khổ sở gì hết mới phải!”
Nếu nóng bức quá đến phải đổ mồ hôi, hoặc về mùa đông bị lạnh quá. Têrêsa có một tư tưởng rất tế nhị này “là chỉ lau mồ hôi hoặc xoa tay cách trộm vụng như để Chúa khỏi thấy...”.
Cũng vậy khi đánh tội theo luật dạy, Thánh nữ nói: “Con cố gắng mỉm cười để Chúa thấy con thanh thản thì tưởng là con không đau”.
Thấy một tập sinh cứ hay than thân trách phận, Thánh nữ bảo: “Chúa Giêsu thích những tâm hồn vui vẻ. Ngài yêu thích những ai luôn luôn mỉm cười. Đến bao giờ em mới để cho Ngài khỏi thấy những phiền muộn của em hoặc chừng nào em mới có thể vui vẻ thưa với Ngài: con rất sung sướng chịu đau khổ vì Chúa?”
Cũng vì thế Thánh nữ không muốn để Chúa biết những ơn mình muốn được ở đời này, vì sự phiền lòng Chúa khi Ngài phải từ chối không ban một ơn nào đó cho Thánh nữ! Chỗ khác Têrêsa quả quyết: “Nếu Chúa không ban ơn con xin, con càng yêu Chúa nhiều hơn”.
Khi Têrêsa liệt giường, chị em trong nhà nài ép Người đọc một kinh cầu xin mà nếu được Chúa thương nhận lời, Têrêsa sẽ sung sướng lắm, nhưng Têrêsa do dự. Sau cùng với một vẻ ngây thơ tuyệt vời, Người nói: “Em không đọc kinh ấy đâu, vì em muốn để Chúa tự do, Ngài làm gì tùy Ngài. Em đã cầu xin với Mẹ Maria, nhưng em không xin ơn đó; em để Mẹ lo liệu những ước vọng hèn mọn đó cho em, Mẹ có thể thưa cùng Chúa hay không là tùy Mẹ xét định để khỏi ép lòng Chúa nhận lời em”.
Sau này ở trên trời Têrêsa cũng muốn hành động như thế. Người nói: “Trước khi đón nhận những lời người ta nhờ con cầu bầu, con sẽ nhìn lên Chúa để dò xem thánh ý Chúa, kẻo con xin điều Ngài không muốn ban”.
Dẫu thế ta đừng tưởng trong mối tình tế nhị này Têrêsa không phải vất vả. Một hôm chị em phải hết sức thán phục vì thấy Têrêsa quảng đại chấp nhận cảnh Chúa ruồng bỏ và nỗi lo âu trong tâm hồn. Sau đó Têrêsa nói: Vâng, những dịp đó em mạnh dạn thưa cùng Chúa và các Thánh rằng em vẫn luôn luôn yêu mến các Ngài. Thực ra lúc đầu em cảm thấy khó khăn vô cùng. Chính những lúc “ca tụng Chúa hết lời” ấy, Têrêsa đã tìm được nghị lực và niềm vui, nhưng những lời ca tụng ấy là bức màn che giấu cơn cám dỗ nặng nề thôi. Trong truyện “Một Tâm Hồn” ta thường gặp thấy những đoạn tương tự như: “Lạy Chúa Giêsu, ai có thể tả xiết tình âu yếm, dịu dàng Chúa xử với linh hồn con!...” Rồi ngay sau đó Têrêsa lại thú nhận: “Giông tố gào thét dữ dội” và đối với Người, đó là đêm tối tăm, luôn luôn là đêm tối tăm dày đặc”.
Thế mà có khi Thánh nữ còn cho là chưa tế nhị đủ đối với Cha trên trời, vì không được chia đau khổ cùng Ngài trong mọi hoàn cảnh. Thánh nữ nói: “Chúa ban cho bất cứ cái gì em cũng thích, dù là những cái có vẻ không hoàn hảo so sánh với những cái Ngài ban cho kẻ khác”.
Một hôm có chị nói với Têrêsa: “Hôm nay chị phải chịu nhiều thử thách?” Têrêsa đáp: “Vâng, nhưng em thích được như thế... Chúa cho gì em cũng thích.”
Chính cái tập quán luôn ca tụng Chúa trong mọi sự đã giúp Thánh nữ rất nhiều trong việc thực hành đức bác ái huynh đệ.
Khi bị cám dỗ dừng tại xoi mói khuyết điểm nơi những chị mình ít có thiện cảm, Têrêsa nghĩ ngay đến việc làm đẹp lòng Chúa Giêsu bằng cách ca tụng những “kỳ công” của Ngài, và đây là bí quyết của Têrêsa thực hành đối với một chị trong Dòng vốn gây ác cảm cho Người: “Mỗi khi gặp chị con cầu nguyện cho chị, con dâng tất cả những nhân đức và công nghiệp của chị cho Chúa. Con cảm thấy làm như vậy làm đẹp Chúa Giêsu lắm, vì không có nghệ sĩ nào lại không thích người ta ca tụng tác phẩm của mình. Chúa Giêsu là Đấng tác tạo nên các tâm hồn, Ngài sẽ rất vui khi thấy ta không dừng lại ở bên ngoài nhưng đi sâu vào cõi thâm cung của linh hồn, nơi chính Chúa đã chọn làm ngai tòa ngự trị, để ca tụng vẻ đẹp huy hoàng ấy.”
Sau hết Thánh nữ đã tóm tắt cả mối tình tế nhị của mình thế này:
“Khi chết rồi, đời đời con sẽ được thấy Chúa nhân từ luôn muốn đổ tràn đầy tình yêu thương của Ngài trên con, còn con thì chẳng bao giờ còn có thể lấy hy sinh đau khổ để minh chứng tình con yêu Chúa nữa; vì thế ở đời này, nếu con không làm tất cả những gì con có thể để làm đẹp lòng Ngài, thì trong cõi đời đời con không còn thể làm gì đẹp ý Ngài nữa!”

5: TÌNH YÊU CHUNG THỦY

“Tình yêu mạnh như sự chết, và ghen tị dữ dội như hỏa hào” (Dc, 8,6), đó là lời Chúa Thánh Thần phán trong sách Diễm Ca. Vì thế ta thấy Thánh nữ hăng hái loại ra khỏi lòng mình tất cả mọi tình yêu không phải là tình yêu Chúa, và nhờ đó thánh hóa mọi cảm tình chính yếu khác.
Ngay từ tấm bé Têrêsa đã để lộ khuynh hướng tốt đẹp này. Ta hãy nghe Têrêsa kể lại khoảng thời gian sau khi rước Chúa lần đầu:
“Con cảm thấy niềm khát vọng bao la này là chỉ muốn được yêu một mình Giêsu, và chỉ tìm an vui trong một mình Ngài mà thôi”.
Thánh nữ còn viết tiếp: “Một khi để lòng vương vấn tình yêu thụ tạo thì làm sao còn có thể kết hiệp mật thiết với Chúa được nữa? Không thể nào như vậy được. Con thấy biết bao linh hồn bị lôi cuốn bởi những ánh sáng hão huyền trong cuộc đời, họ chạy theo phù hoa như những con thiêu thân lăn xả vào ngọn đèn mặc cho sém cánh để sau cùng họ dẫn tấm thân tàn phế về với Chúa Giêsu, là ngọn lửa thần linh bốc cháy mà không thiêu hủy!”.
Têrêsa đã sớm nhận ra Chúa Giêsu thích thực hiện ước vọng mình, và ánh sáng huyền ảo của thụ tạo không thể làm lóe mắt Chị được, duy có Chúa mới luôn luôn là nguồn êm ái tuyệt vời cho Chị.
“Tim con vừa nhóm lửa hồng,
Chính là ngọn lửa của lòng Ái Ân,
Giêsu đã mau chân chiếm lấỵ...
Mình Chúa thôi làm con thấy thỏa lòng.
Một điều con vẫn ước mong
Tình con yêu Chúa mênh mông vô bờ.”
Trong truyện “Một Tâm Hồn” Têrêsa còn viết: “Vâng, Chúa Giêsu là bạn tình độc nhất của con, con chỉ nói chuyện với một mình Ngài. Những cuộc đàm đạo với người đời dù đạo đức đến đâu cũng làm linh hồn con mệt mỏi.”
Trong tuần phòng chuẩn bị lãnh Tu Phục, Têrêsa đã viết cho Mẹ Agnès de Jésus thế này: “Thưa Mẹ, chỉ có một mình Chúa Giêsu làm con say đắm, Ngài muốn cho con thấy con sẽ lầm lớn nếu con thấy cái bóng dáng vẻ đẹp nào ngoài Chúa mà con tường là chính vẻ đẹp của Chúa. Thật, Vị Hôn Phu tương lai của con thương con chừng nào! Ngài thật là Chúa khả ái vì Ngài chẳng để một vật gì quyến rũ được con.
“Con chẳng muốn để lòng dính bén mảy may chút tình đời; con muốn hiến dâng tất cả cho Chúa Giêsu, vì chính Ngài đã cho con hiểu chỉ có Ngài mới là hạnh phúc toàn hảo, dù xem ra Ngài vắng mặt...
“Ưởc chi Mẹ biết lòng con lãnh đạm với sự vật trần thế đến mức nào! Mọi vẻ đẹp đời này con không màng tới. Con sẽ vô phúc biết bao, nếu con được tất cả những cái ấy!... Ôi, khi so sánh lòng con với những của cải đời này con thấy nó bao la vĩ đại quá, vì thế mọi của cải không thể làm phỉ lòng con, nhưng với Chúa Giêsu, con lại thấy trái tim con quá bé nhỏ!... con muốn yêu mến Chúa thật nhiều!”
Nhờ ánh sáng đức tin và thiện chí, Người mới có thể từ khước mọi sự vật trần thế này. Thánh nữ cũng thú nhận, Người chưa chết hẳn được với bản tính tự nhiên. Trong thư gửi cho chị Marie, Têrêsa viết: “Em thú thật với chị, lòng em rất khát khao được hạnh phúc, nhưng đồng thời em cũng hiểu không một tạo vật nào có thể giải khát em được!... Trái lại, nếu em càng uống nơi mạch đầy quyến rũ ấy em càng thấy khát dữ dội...
“Em chỉ biết có một dòng suối mà ‘ai uống cũng vẫn còn khát’ (Hc 34,20) nhưng khát rất dịu dàng”, ‘khát mà vẫn luôn được thoải mái’. Và để chỉ cho ta nguồn suối ấy, Thánh nữ lại trở về với điệp khúc yêu đương bất diệt: “Chịu đau khổ một mình Chúa biết”.
Trong thư gửi chị Céline, Têrêsa viết: “Ước gì mỗi giây phút đời chúng ta đều được hiến dâng cho một mình Chúa, và coi mọi thụ tạo khác như gió thoảng”.
Têrêsa đã thưa với Chúa:
Chúa ơi khi hết mọi người,
Bỏ con mãi mãi con thời vẫn an.
Suốt đời con chẳng thở than,
Gần kề bên Chúa, con hằng bước đi.
Ngày lễ Khấn Dòng, Têrêsa đã mang trên ngực bản kinh này: “Lạy Chúa Giêsu, ước gì từ đây con chỉ tìm Chúa và chỉ thấy một mình Chúa! Ước gì mọi thụ tạo là hư vô đối với con và con cũng là không đối với chúng!”
Tâm tình ấy mỗi ngày thêm thắm thiết hơn. Trong thư gửi Mẹ Agnès de Jésus, Têrêsa viết: “Phải cẩn thận gìn giữ tất cả cho Chúa Giêsu, làm việc cho một mình Chúa thì tốt đẹp biết bao và khi ấy lòng ta tràn đầy hoan lạc, hồn ta nhẹ nhàng thư thái!...”
Thánh nữ còn thích sánh mình với “hạt cát nhỏ bị vùi lấp” Têrêsa viết: “Chỉ có Chúa Giêsu! Không còn gì ngoài Chúa! Hạt cát nhỏ bé đến nỗi nếu nó mở lòng yêu một ai hay vật gì khác ngoài Chúa Giêsu, thi chẳng còn chỗ để yêu Đấng Chí Ái nữa...”.
Trong thư gửi Mẹ Agnès de Jésus, với một lối hành văn gợi hình, Têrêsa tả lại tuần phòng dọn mình khấn của chị thế này:
“Trước khi khởi hành, vị Hôn Phu của con hỏi con muốn đi tới xứ nào. Con thưa Ngài, con chỉ có một ước vọng là được lên đỉnh núi yêu đương. Lập tức con thấy trăm ngàn đường hiện ra trước mắt con, đường nào cũng tươi đẹp cả, con không biết chọn đường nào. Bấy giờ con thưa với Người Hướng Đạo Chí Thánh: ‘Lạy Chúa, Chúa quá biết con muốn đi đâu, và vì Ai mà con muốn leo núi, Chúa cũng thừa hiểu con yêu Ai và muốn làm đẹp lòng Ai. Và chỉ vì một mình Ngài mà con chấp nhận cuộc hành trình này; vậy xin Ngài cứ dẫn con đi đường nào tùy Ý Bạn Thánh của con, miễn sao đẹp ý Ngài là con tràn đầy hạnh phúc’.
“... Vị Hôn Phu của con không nói chi hết, và con cũng chẳng nói nửa lời, ngoài lời con nói là con yêu mến Ngài hơn bản thân con, và tự đáy lòng còn cảm thấy thật như vậy, vì con thuộc về Ngài hơn thuộc về con...
“Cuộc hành trình của con thực không có chi hấp dẫn, chẳng có chi an ủi; nhưng chính Chúa Giêsu đã lựa chọn cho con và con chỉ muốn làm đẹp lòng một mình Ngài, duy một mình Ngài thôi!...”
Trong thư gửi chị Marie, Têrêsa viết: “Em tin rằng công việc của Chúa Giêsu trong tuần phòng này là giúp em dứt bỏ tất cả những gì không phải là Ngài”.
Trong thư khác Têrêsa viết: “Thôi giã biệt các vui thú trần gian! Từ nay chỉ còn những niềm vui thiên quốc, đó chính là sự bình an thẳm sâu mà tất cả các tạo vật là hư không, phải nhường chỗ cho Đấng Tự Hữu chính là Thực Tại...”.
Tới đây ta cần lưu tâm điều này là đời tu trì của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã khởi đầu và tiếp diễn theo một nhịp sống mà từ thời thơ ấu đã hướng Người đến đỉnh thánh thiện. Suốt đời Têrêsa lúc nào cũng có một ước vọng là Chúa Giêsu. Những việc dù nhỏ mọn nhất cũng luôn hướng Têrêsa về Chúa.
Têrêsa thầm ước số phận của những bông hoa dại mọc trên sườn núi xa xôi, hoặc nơi thung lũng hoang vắng; Vì Têrêsa bảo: “Chúng được hạnh phúc hơn những bông hồng rực rỡ trong vườn, bởi lẽ chúng chẳng khoe sắc với các thụ tạo, mà chỉ để một mình Chúa nhìn ngắm thôi!”
Trong thư gửi chị Céline, “cũng là bạn lòng thời thơ ấu”, Têrêsa đã khuyên chị hãy trở nên “giọt sương nhỏ” của Chúa, Người viết:
“... Giọt sương nhỏ bé diễm phúc ơi, chị được một mình Chúa biết thôi đấy, chị chớ dừng chân lại để ngắm khúc sông lững lờ chảy trên đời, chị cũng đừng mơ ước số phận của những dòng suối xanh trong uốn mình nơi đồng nội. Tiếng suối róc rách êm đềm thực đấy, nhưng người đời có thể nghe được... và đài Hoa đồng nội (chính là Chúa) không thể chứa được nó...”.
Nơi khác, Thánh nữ kêu lên: “Lạy Chúa Giêsu, Thánh danh Chúa như dầu thơm chảy ra; con muốn được hoàn toàn ngụp lặn trong dầu thơm thần linh này, đề xa khỏi mắt tràn gian”.
Sau khi chứng kiến những cách ân cần chiều chuộng của đôi bạn trần gian, Têrêsa bày tỏ tư tưởng thầm kín mình: “Nhất định không một phụ nữ nào trên trần gian này chiều chồng bằng con chiều Chúa Giêsu... Từ nay con sẽ làm đẹp lòng Bạn Chí Thánh của con trong mọi việc, vì Ngài đã muốn nâng con lên hàng Hôn thê của Ngài”.
Vì thế Têrêsa ca hát cho Đấng Bạn linh hồn mình:
Duy chỉ tình yêu Chúa thu hút con,
Còn bầy chiên, con chẳng nhọc trông coi,
Nhưng để chúng thảnh thơi nơi đồng cỏ
Con chỉ muốn thỏa lòng Chiên Mới thôi.
Có một năm, chị coi vườn tỉa nhánh những cây dẻ bên lối đi trong vườn tu viện quá trễ; Thánh nữ vốn thích lối đi ấy lắm, nên khi thấy những cành lá xanh tươi nằm ngổn ngang dưới đất, thoạt đầu Người nuối tiếc, nhưng trấn tĩnh ngay, Người nghĩ:
“Nếu con ở trong một tu viện khác thì dù người ta chặt hết những cây dẻ của Dòng Kín Lisieux, có hệ gì đến con đâu. Buồn làm chi về những chuyện không đâu. Đấng Chí Ái của con sẽ thay thế tất cả cho con. Con chỉ muốn đi dạo dưới bóng mát những cây Tình Yêu của Chúa, những cành cây đó không có người trần thế nào đụng tay tới”.
Và cây đàn muôn điệu của Têrêsa vang lên khúc ca duy nhất này:
Lạy Đấng Cao Cả Chúa Chí Tôn,
Duy mình Chúa đủ cho lòng con
Nơi Chúa đất trời con được cả,
Hoa con hái là chính Vua con.
Vì đã dứt bỏ lòng quyến luyến của phù vân, nên Thánh nữ nhận thấy rõ tác động của Chúa trong hết mọi sự vật. Đối với Người mọi sự vui buồn sướng khổ, đều do từ tay Chúa mà đến chứ không trực tiếp đến từ thụ tạo. Vì thế lẽ nào Người không vui lòng đón nhận mọi nghịch cảnh xảy tới?
Chính Thánh nữ đã viết: “Đấng toàn năng đã cho chúng ta một nơi nương dựa là chính Ngài, và chỉ có Ngài mà thôi”.
Trong thư gửi chị Céline, Têrêsa lại viết: “Chính tay Chúa điều khiển mọi sự, trong mọi trường hợp ta phải nhận ra Ngài”.
Khi thất vọng và buồn đau não lòng, vì cha khả ái phải đau khổ như thánh Gióp xưa, trước ngày mặc Áo Dòng, Têrêsa đã viết cho chị Céline thế này:
“Làm sao em có thể tả xiết cõi lòng tan nát của em trong lúc này?... Vết thương lòng đau đớn quá chị ơi, em nhận thấy đó là do bàn tay thân hữu gây ra,(1) bàn tay của Chúa!... Quả thế, Chúa Giêsu đã để thật nhiều đồ nữ trang trong quả tráp của em, chắc chắn phải có viên thủy xoàn sáng chói nhất, và hôm nay Ngài đã trao cho em viên ngọc quí ấy... Chị ơi, khi giơ tay ra đón nhận tặng vật này, nước mắt em đã chảy chan hòa... cả khi viết những dòng chữ này cho chị, em cũng gần như không viết được nữa. Nhưng chính Chúa Giêsu đã điều khiển công việc này, nên em nhận thấy đó là ấn tín tình yêu của Ngài...”.
Thế thì Têrêsa là con người sắt đá sao? Têrêsa viết tiếp: “Em Têrêsa của chị chỉ biết nói với chị bằng ngôn ngữ của thiên đàng thôi. Chẳng phải bàn tay người trần thế nào đã gây ra điều đó đâu, nhưng chính là Chúa Giêsu, chính Ngài đã đoái nhìn đến chúng ta. Vậy chúng ta hãy vui lòng đón nhận cái gai nhọn Chúa gửi tới...”.
Trong một trường hợp đau khổ khác Têrêsa lại viết: “Ngày lễ Thành Hôn, chính tay Chúa Giêsu đã trang điểm cho Hôn Thê của Ngài: Phải, em nhận ra Ngài rồi, bàn tay Người Yêu của em không lầm khi chọn đồ trang sức cho em...”.
Trong thư gửi mẹ Agnès de Jésus, Têrêsa cũng nói: “Thưa mẹ, chính con ao ước được chịu những vết thương làm con đau đớn nhất... Con chỉ là ‘một cây sậy yếu đuối’ mọc bên bờ suối yêu đương và đau khổ, nhưng cây sậy chỉ uốn cong mà không bị gẫy và làm sao con gẫy được vì trong bất cứ trường hợp nào, dù đau khổ đến đâu con cũng chỉ thấy bàn tay êm ái của Chúa Giêsu thôi!”
Nhưng còn hơn một hạt cát, một cây sậy yếu đuối, Têrêsa là một vì sao tỏa muôn ánh quang huy hoàng và đây là một trong những tia sáng ấy, lẫn lộn với những ánh quang khiêm nhượng: Làm được bất cứ việc lành nào, Têrêsa cũng kể là công của Chúa Giêsu hết.
Ta hãy nghe Thánh nữ kể lại cuộc chiến thắng tình cảm vẻ vang dịp lễ Sinh nhật năm 1886, một cuộc chiến thắng hoàn toàn:
“Trong một giây lát Chúa Giêsu đã hoàn thành công việc mà con không thể làm nổi từ bao nhiêu năm nay, nhưng Ngài cũng hài lòng với thiện chí của con... Ngài làm cho con nên mạnh mẽ và can đảm hơn, Ngài võ trang cho con”.
Trong truyện “Một Tâm Hồn” Têrêsa đã quảng diễn tình trạng thiêng liêng: “Mỗi giây phút Chúa Giêsu nuôi linh hồn con bằng một của ăn mới lạ, con thấy nó ở trong con, mà không hiểu nó từ đâu đến. Con chỉ tin rằng chính Chúa Giêsu đã đem của ăn ấy đến cho linh hồn con. Ngài ẩn náu trong linh hồn bé mọn của con, Ngài hành động cách nhiệm mầu và soi sáng cho con hiểu biết thánh ý Ngài. Mỗi giây phút Ngài đều dẫn dắt và soi sáng cho con, con nhận thấy lúc nào cần đến là con được ngay ơn soi sáng mà từ trước con chưa hề được.”
Nơi khác Têrêsa vui vẻ nhắc lại: “Chính Chúa Giêsu làm tất cả, còn con, con không làm gì hết.”
Nếu Têrêsa có nghĩ đến việc chinh phục các linh hồn, thì Chị cũng chỉ cậy nhờ vào công nghiệp của Chúa Giêsu thôi:
“Cây nho thánh, xin hiệp con với Chúa
Xin chắp con cho liền nhánh với Ngài
Ngành yếu hèn sẽ đơm quả tốt tươi
Bao quả chín từ nay con dâng Chúa.”
Và cùng với tư tưởng ấy, Têrêsa tiếp:
“Con thấy rõ mọi việc lành công phúc,
Chẳng là chi trước mặt Đức Chúa Trời,
Muốn hy sinh được công phúc chút thôi,
Con dìm chúng, trong nơi Tim Thánh Chúa.”
Bởi nhận thấy giá trị ấy rất cao, nên Thánh nữ dám nói: “Nhặt một cây kim vì yêu Chúa cũng có thể làm một linh hồn trở lại”, rồi Thánh nữ vội thêm: “Nhưng chỉ mình Chúa Giêsu mới có thể nâng công việc của ta lên giá trị như thế.”
Khi cắt nghĩa về tình yêu huynh đệ, Têrêsa cũng có một xác tín ấy, Người nói: “Khi con bác ái, đó chính là Chúa Giêsu hành động trong con. Lạy Chúa Giêsu, con biết rằng không bao giờ Chúa đòi con làm một việc con không thể làm được; Chúa biết rõ con yếu hèn và bất toàn hơn chính con biết về con, Chúa cũng thấy chẳng bao giờ con có thể yêu mến chị em như Chúa yêu được, lạy Đấng cứu chuộc con, nếu chính Chúa không ở trong con để yêu mến các chị thay cho con!...”
Và khi được Bề trên trao nhiệm vụ trông coi các chị Nhà Tập, Têrêsa đã thốt lên: “Con thấy rõ tự sức riêng, con không thể làm được việc gì mặc dù công việc của con có vẻ đơn giản. Chúa Giêsu đã cho con hiểu con chẳng có thể an ủi được một linh hồn nào; vì muốn giúp ích cho linh hồn người ta mà không có ơn Chúa thì cũng khó như khiến mặt trời mọc giữa đêm khuya vậy”.
Trong thư gửi chị Céline, Têrêsa còn viết: “Những bài giảng thuyết hay nhất của các vị đại thánh cũng chẳng có thể cảm kích được lòng ai, nếu không có ơn Chúa đánh động bên trong; chỉ mình Chúa Giêsu biết rung điệu cây đàn của Ngài”.
Một ngày kia lúc Têrêsa gần qua đời, chị em đến cảm ơn Người về những lời khuyên nhủ, những gương lành Người để lại. Thánh nữ đáp lại: “Chính Chúa đã thích đặt những gì là tốt trong em để giúp em và để em chuyển đạt đến các chị, vì gió Thánh Thần Chúa muốn thổi đâu tùy ý Ngài...
“Các chị thấy linh hồn em được chiếu muôn ánh vàng rực rỡ, vì nó được ánh mặt trời Tình Yêu chiếu giãi, nếu mặt trời Tình Yêu ngưng chiếu trên em, lập tức linh hồn em trở nên tối tăm mù mịt”. Và khi chị em ca tụng Thánh nữ về đức kiên trì chịu đựng, Thánh nữ đã kêu lên: “Em! Em chưa hề nhẫn nại được giây phút nào; không phải chính em nhẫn nại đâu, các chị cứ lầm thôi!”
Nếu chẳng may bị lầm lỗi, Têrêsa than thở cùng Chúa:
Nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu
Con chạy đến ẩn mình
Con không phải khiếp kinh
Sức mạnh con là chính Chúa!
“Lạy Chúa nếu đôi khi vì yếu đuối con vấp ngã, chớ gì ngay lúc đó, cái nhìn thần linh của Chúa thanh tẩy tâm hồn con, thiêu hủy mọi khuyết điểm của con, như lửa biến đổi tất cả mọi sự thành lửa vậy”.
Lúc Têrêsa bệnh nặng, cha Bề Trên đan viện bảo: “Con không nên chết quá trẻ, con chưa kết được triều thiên của con”.
Têrêsa vội đáp: “Thưa Cha, cha nói rất đúng, nhưng đâu có phải con sắm triều thiên cho con mà Chúa Giêsu đã kết xong rồi!...”
Trong thư gửi chị Marie đề ngày 17-9-1896, Têrêsa viết: “Chúa Giêsu muốn ban không nước thiên đàng cho chúng ta”. Và khi nhớ đến lời Kinh Thánh: “Ta sẽ đến và đem theo phần thưởng để trả công cho mỗi người tùy theo công việc họ làm” (Kh 22,12), Têrêsa nói: “Lúc ấy Chúa Giêsu sẽ luống cuống với con lắm, vì con chẳng có công gì cả... Thế thì Ngài sẽ thưởng con với công nghiệp của chính Ngài vậy!”
Trong truyện “Một Tâm Hồn” Thảnh nữ viết:
“Con luôn cảm thấy trong con một niềm tin tưởng táo bạo là sẽ trở nên một vị đại thánh. Con không cậy dựa vào công đức của con, vì có đâu mà cậy, con chỉ trông cậy vào Đấng là chính nguồn Đức Hạnh, là nguồn Thánh Thiện. Chỉ duy có Ngài mới hài lòng về những cố gắng hèn mọn của con, Ngài sẽ nâng con lên tới Ngài, Ngài sẽ lấy công nghiệp của Ngài mà che phủ con và làm cho con nên Thánh”. Và trong bản kinh dâng mình cho Tình Yêu Thương Xót của Chúa, Thánh nữ viết:
“Lạy Chúa, khi đời con xế chiều, con sẽ ra trước mặt Chúa với hai bàn tay trắng, xin Chứa đừng tính những việc con làm, vì mọi công chính của chúng con đều có tì ố trước mặt Chúa (Is 64,5). Vậy con xin Chúa lấy sự công chính của Chúa mà mặc cho con, và xin Tình Yêu Chúa cho con được nhận lấy chính Chúa làm gia nghiệp đời đời”.
Rồi với niềm phấn khởi cao siêu, trong những trang sau hết truyện “Một Tâm Hồn”, chúng ta đã nghe Thánh nữ thốt lên:
“Ôi Chúa là Phượng Hoàng con tôn thờ, cái điên dại của con là hy vọng bay lên tới Chúa, bằng chính đôi cánh của Chúa”.

“Vâng, con sẽ hát, con còn hát mãi,
Dù trăm gai con vẫn hái hoa hồng,
Gai càng nhọn, tiếng hót con càng trong,
Gai càng dài lời ca càng thánh thót...”
 

CHƯƠNG II: TÌNH YÊU CỦA THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU TRIỂN NỞ TRONG CÁC NHÂN ĐỨC


Người yêu chạy lẹ và bay cao; lòng hớn hở tự do và không gì có thể ngăn cản được. Người yêu cho tất cả để được tất cả. Người yêu không bao giờ nghĩ mình không thể làm một việc nào, vì biết mình có thể và được phép làm tất cả. Vì thế người yêu làm được mọi việc và hoàn tất được những việc mà kẻ không yêu dù lao công tốn sức cũng không thể làm nổi.
“Tình yêu luôn luôn tỉnh thức cả trong giấc ngủ. Tình yêu không bị mệt nhọc nào làm rã rời, không lo sợ nào làm nao núng, không trói buộc nào có thể áp bức, nhưng như ngọn lửa hồng bùng cháy và thấu suốt mọi vật, tình yêu vươn mình lên cao và tự vạch một con đường chắc chắn vượt qua mọi trở ngại”.
 

ĐOẠN 1. TÌM HIỀU VÀI NHÂN ĐỨC  CỦA THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU


1: Đức Thờ Phượng

Tình yêu của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu được biểu lộ trước nhất trong sự cung kính mến yêu các Bí Tích và trong tất cả những gì có liên quan đến việc thờ phượng.
Thánh nữ có thể nói như tác giả Thánh Vịnh: “Lạy Chúa, con vui sướng trong lề luật Chúa; huấn giới của Chúa là nguồn hứng cho con ca hát giữa nơi lưu đầy này” .
Từ thuở bé, Têrêsa đã ham mộ học hỏi giáo lý để thỏa mãn lòng đạo đức sâu xa sẵn có nơi Người. Trong các lớp giáo lý, Cha tuyên úy nhận thấy Têrêsa trổi vượt hẳn các bạn khác, và ngài thích gọi Têrêsa là “tiến sĩ nhỏ”.        
Thánh nữ đã quyết chí gìn giữ tinh tuyền áo trắng Rửa Tội, và trung thành với những lời Mẹ đỡ đầu là chị Marie đã tuyên đọc thay mình bên giếng rửa tội. Chính Thánh nữ đã quả quyết: “Sau này ở trên trời em sẽ hết sức giúp cho nhiều trẻ nhỏ được chịu phép rửa tội; em đau đớn vì thấy quá nhiều trẻ nhỏ không được chịu Bí Tích này, nên đời đời chẳng bao giờ chúng được thấy Dung Nhan Chúa nhân lành”.
Têrêsa cầu xin với Chúa:
“Những mầm non con mến yêu tìm kiếm ấy
...
Khẩn xin Ngài lấy nước thánh thanh tẩy cho”.
Thánh nữ tỏ ra đặc biệt yêu thích trẻ nhỏ. Đôi mắt ngây thơ của chúng phản chiếu nét thanh khiết của linh hồn vô tội làm cho Têrêsa say mến. Vì “đó là hình ảnh Chúa Thánh Thần”, Thánh nữ nói thế. Nhân dịp dạy giáo lý cho hai em bé, Thánh nữ đã phải ngạc nhiên khen ngợi hạt giống các nhân đức đối thần do phép Rửa Tội làm nẩy sinh trong linh hồn các em.
Khi nói về lần xưng tội lần đầu, hồi sáu tuổi, với những lời duyên dáng. Têrêsa đã bộc lộ cho ta biết Người rất vui mừng khoan khoái như chưa bao giờ Người đã cảm thấy thế, “Và từ đó Têrêsa muốn năng đi xưng tội, vì Bí Tích này ban cho tâm hồn Người tràn đầy hoan lạc.”
Về sau Thánh nữ luôn luôn tìm được nguồn lợi ích lớn lao và êm ái thâm sâu mỗi khi chạy đến tòa Cáo giải, như Người nói, “để gột rửa những vết nhơ nhỏ mọn, cả những vết nhơ mà con không thấy”.
Têrêsa rất yêu mến phép Thánh Thể và có thể nói rước lễ là chính lúc Người được hưởng Thiên Đàng nơi trần thế, Thánh nữ ca tụng phép Thánh Thể:
Thiên đàng con giấu cả trong bánh mọn
Vì yêu đương, Giêsu bạn ẩn mình
Lò thiêng, con tới múc nguồn sức sinh
Đêm ngày Chúa nhân lành nghe con khấn,
Ôi! hạnh phúc, phút giây trong âu yếm
Đấng Chí Ái biến đổi con trong Người
Trong yêu đương, trong say đắm tuyệt vời
Thiên đàng đó, quê trời của con đó!
“Bé Têrêsa” đã chuẩn bị bốn năm trước, để rước lễ vỡ lòng, Người cảm thấy khổ tâm vì thời gian chờ đợi ấy quá lâu dài và còn phải hoãn lại nữa vì ngày sinh; Têrêsa than thở: “Nếu con sinh ra sớm hơn hai ngày thôi, thì con được rước Chúa sớm hơn một năm” .

Tuy còn nhỏ lắm nhưng mỗi khi thấy các chị lên rước lễ, Têrêsa không thể cầm được nước mắt. Một lần kia Têrêsa đã nói nhỏ với chị Marie rằng: “Chị cho em theo lên với nhá, cho em theo chị đi, không ai thấy em đâu, chị coi đông người thế kia, chẳng ai để ý đến em đâu.” Nhưng những ngày Đại Lễ trong Hội Thánh, bù lại cho Têrêsa và nuôi dưỡng lòng đạo đức tuổi thơ của Người. Trong truyện “Một Tâm Hồn” Têrêsa đã viết:
“Những ngày lễ! A, hai tiếng ‘ngày lễ’ gợi lại cho con biết bao kỷ niệm êm ái ngọt ngào!... Ngày lễ!... Con thích những ngày lễ biết bao! Các chị con đã giải thích rành mạch cho con về mầu nhiệm của mỗi ngày lễ. Phải, những ngày ấy ở trần gian này đã trở nên những ngày hạnh phúc Thiên Quốc cho con. Con thích nhất ngày rước kiệu Thánh Thể. Con sung sướng biết bao khi con được tung hoa trên đường Chúa đi qua. Nhưng trước khi để cho hoa rơi xuống đất, con phải tung thật cao, và không lúc nào con vui sướng bằng khi thấy những cánh hoa hồng của con chạm tới hào quang “Cực Thánh”.
Nhưng ngày sung sướng nhất của Têrêsa là ngày rước lễ lần đầu, ngày mà Têrêsa để lộ cho ta thấy tâm tình Người. “Thiên Thần Têrêsa” gọi sự rước lễ là “Nụ hôn Tình Yêu”. Têrêsa thưa với Chúa Giêsu rằng: “Lạy Chúa Giêsu, con yêu Chúa, trọn đời con là của Chúa”, rồi Người thêm: “Chúa và bé Têrêsa đã nhìn nhau và hiểu nhau từ lâu... Ngày ấy, cuộc gặp gỡ giữa con và Chúa Giêsu không còn là cái nhìn suông nữa. Nhưng là một cuộc kết hợp, Chúa và con không còn là hai. Têrêsa đã biến tan như giọt nước mất hút trong đại dương, chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu là Chúa, là Vua!”.
Từ ngày được Chúa viếng thăm, Têrêsa càng khao khát được rước Chúa hơn nữa. Sau này Thánh nữ nói: “Hằng ngày Chúa bỏ trời xuống chẳng phải để ngự trong bình vàng nhưng là để tìm lấy một Thiên Đàng khác trong linh hồn ta, ở đó Ngài lấy làm vui sướng.”
Thánh nữ còn căn dặn các linh hồn hay bối rối hãy đề phòng mưu mô của ma quỷ hằng tìm cách ngăn cản Chúa Giêsu ngự vào nhà tạm linh hồn yêu dấu; vì chúng biết “chúng sẽ chiếm đoạt hoàn toàn những linh hồn vắng bóng Chúa.”
Thánh nữ còn viết cho một tập sinh có tính quá lo sợ: “Cần phải có bánh Thiên Thần xuống cho linh hồn em như hạt sương thần linh để thêm sức và ban cho em những ơn cần thiết.”
Thánh nữ khát khao rước lễ hằng ngày và điều này đáng chú ý là Người cầu nguyện thật sốt sắng để Hội Thánh ban lại đặc ân xưa, là ban phép cho các tín hữu được rước lễ hằng ngày mỗi khi tham dự thánh lễ .
Đang khi Thánh nữ bệnh nặng, chị em thấy Người tỏ ra thật can đảm tới mức anh hùng để tận hưởng những ngày được rước lễ. Người đã cố lê bước đến nhà nguyện một cách rất đau đớn mệt nhọc đến nỗi bất cứ ai trông thấy và hiểu thấu tâm trạng Người đều phải rơi lệ. Nhưng trong năm tuần lễ cuối đời, Thánh nữ còn phải chịu đau khổ biết bao, khi mà bệnh thổ huyết và nghẹt thở khiến Người không còn rước lễ được nữa!
Tuy nhiên Chúa Giêsu, Đấng làm thỏa mãn những nguyện vọng của Têrêsa có chịu lìa xa khỏi “nhà tạm yêu dấu” đó không? Ngài đã chẳng ở đó cách nhiệm mầu đấy ư? Vì Ngài đã nhận lời kêu xin bạo dạn của người yêu: “Con không thể rước Chúa thật sự mỗi khi con muốn, nhưng lạy Chúa, Chúa chẳng phải là Đấng Toàn Năng hay sao? Vậy xin Chúa hãy ở lại trong con như trong nhà tạm; xin Chúa đừng bao giờ lìa xa tấm bánh nhỏ của Chúa...”.
Dẫu thế, sự không được rước lễ hằng ngày đã trở nên một cuộc tử đạo thực sự cho Thánh nữ và trên giường bệnh, Têrêsa đã hứa ngay khi về trời Người sẽ xin Chúa cho cộng đoàn được rước lễ hằng ngày. Quả nhiên điều đó đã được thực hiện ngay. Phải chăng là táo bạo khi nghĩ rằng nhờ lời bầu cử của Thánh Têrêsa cho toàn thể Hội Thánh mà Đức Thánh Cha Piô X đã ban sắc lệnh cho phép tín hữu rước lễ hằng ngày và cho thiếu nhi được rước lễ sớm?
Lòng yêu mến phép Thánh Thể ấy, đã làm cho Têrêsa đặc biệt quỷ trọng phẩm chức cao cả của linh mục. Suốt đời hầu như lúc nào Têrêsa cũng nuối tiếc vì không được làm linh mục. Vì thế Têrêsa đã thú nhận cách ngây thơ: “Được chết vào lúc 24 tuổi thật là hạnh phúc, vì các linh mục thường chưa được thụ phong vào trước tuổi này. Vậy nếu Chúa định cho con chết vào tuổi ấy là Ngài có ý tránh cho con khỏi buồn vì không được làm linh mục và sống trên đời này mà không hy vọng được chịu chức ấy bao giờ.”
Têrêsa thích đọc truyện Thánh nữ Barbe đem Mình Thánh Chúa cho Thánh Stanislas Kostka, Người bảo: “Tại sao Chúa lại không sai một thiên thần hay một vị linh mục, mà Chúa lại sai một trinh nữ đưa Mình Thánh? A, trên trời chắc chúng ta sẽ thấy nhiều điều lạ lùng lắm! Con nghĩ rằng ở đời này những ai khao khát thiên chức linh mục thì trên thiên đàng họ sẽ vui hưởng những đặc ân của thánh chức ấy.”
Thánh nữ rất vui sướng vì được giữ nhiệm vụ coi phòng Thánh, vì nhờ đó Người được chạm tới các bình Thánh và dọn các khăn Thánh.
Ai cũng biết Têrêsa “rất kính trọng các đồ Thánh”. Sự kính trọng ấy minh chứng Thánh nữ tin tưởng sâu xa và hiệu lực của các đồ Thánh.
Trong cơn bệnh sau hết, Thánh nữ nói: “Xin các chị đốt cho em cây nến phép, vì trông thấy nó em được nâng đỡ và em cảm thấy nó có sức xua đuổi ma quỷ.”
Cũng vì lòng trọng kính siêu nhiên ấy mà Têrêsa đã tìm đến các linh mục để xin các Ngài chỉ giáo. Thánh nữ chỉ thấy “bản kinh dâng mình cho Tình Yêu Thương Xót” của mình có giá trị sau khi đã đưa cho một nhà thần học chứng giám.
Thánh nữ tỏ ra triệt để vâng lời giáo quyền. Chỉ qua câu chuyện này, ta cũng rõ: Người rất thích một quyển sách kia, nhưng khi biết được tác giả cuốn sách ấy không kính trọng và không vâng phục Đức Giám Mục, Têrêsa liền vất đi tất cả các tác phẩm của ông, và không còn muốn nghe nói đến các tác phẩm cũng như tác giả là chính ông ta nữa.
Đối với lời dạy của các Bề trên và luật phép nhà, Têrêsa tuân giữ cặn kẽ. Trong một tập thơ, Thánh nữ đã viết:
Thần kiêu ngạo đang giữa lòng sự sáng
Cả tiếng kêu: “Ta chẳng muốn phục tùng!...
Còn phần con, cất tiếng chỉ cầu mong:
Đây con muốn, luôn luôn bằng tuân phục
Con cảm thấy trong con nguồn nghị lực
Chẳng xem sao toàn hỏa ngục, bạo cuồng
Với thuẫn che, áo giáp chẳng hề buông
Vũ khí ấy, chính là đức thuần phục.
Và:
Ôi lạy Chúa, là Vua vinh thắng
Còn gì hơn vâng Thánh Ý Ngài,
Vì nguyên một sự vâng lời
Ca tụng vinh thắng Chúa Trời ngàn năm!
Nơi khác Thánh nữ dạy rằng: “Một khi người ta không theo địa bàn là sự vâng phục, thì tức khắc linh hồn bị lạc vào những con đường khô khan thiếu nước ơn Thánh Chúa”.
Còn về phép Thêm Sức, Têrêsa đã lãnh nhận thế nào, chính Người kể lại trong truyện “Một Tâm Hồn”.
“Con chuẩn bị hết sức chu đáo để đón rước Chúa Thánh Thần. Con không thể hiểu tại sao người ta thờ ơ khi lãnh nhận Bí Tích Tình Yêu này. Ôi linh hồn con vui sướng chừng nào, cũng như các Tông Đồ xưa, con vui sướng chờ đợi Đấng An ủi Chúa đã hứa, con vui sướng vì sắp trở nên người Công Giáo hoàn toàn và đời đời được ghi trên trán dấu Thánh Giá Nhiệm Mầu của Bí Tích khôn tả này.”
Một hôm trong tuần phòng chuẩn bị chịu phép Thêm Sức, Têrêsa đã giải thích cho chị Céline biết bởi phép Thêm Sức, Chúa Thánh Thần chiếm lấy linh hồn ta như thế nào. Với một thứ ngôn ngữ của thiên đàng, với một cái nhìn bỗng nhiên rực lên sáng ngời, khiến chị Céline không chịu nổi, phải ngó xuống và ra khỏi đó, lòng tràn ngập một ấn tượng siêu nhiên không bao giờ phai mờ.
Ngày gần qua đời, lúc dọn mình chịu phép Xức Dầu người ta cũng thấy niềm phấn khởi cung kính ấy nơi Têrêsa. Sau khi chịu phép Xức dầu, Thánh nữ đầy vẻ cung kính và sung sướng ngắm nhìn đôi bàn tay của mình vừa được Xức Dầu Thánh và được các lời kinh của Hội Thánh thanh tẩy.
Thánh nữ rất có lòng quý mến Hội Thánh, Hội Thánh là mẹ của linh hồn Người. Thánh nữ hiên ngang nhắc lại lời này của Thánh Têrêsa Avilla: “Tôi là con của Hội Thánh”. Thánh nữ khẩn xin Đấng Cứu Thế:
Hội Thánh, Chúa muôn đời trường cửu
Nguyện hộ phù, con liên lỉ nài xin
Phận làm con, xin tự hiến tế mình
Vì Hội Thánh, con sống tình yêu mến.
Và Thánh nữ đã chẳng muốn “phơi thây giữa chiến trường để bảo vệ Hội Thánh đấy ư?...”
Thánh nữ nói: “Tất cả những gì con có hay lãnh nhận được, con đều dành cho Hội Thánh và các linh hồn...”.
Người còn nói: “Con nghĩ đến tất cả những việc lành con muốn làm sau khi chết: Giúp đỡ các linh mục, các Vị Thừa sai và toàn thể Hội Thánh.”
Người không bận tâm đến vinh quang bản thân. Thánh nữ nói: “Con là con của Hội Thánh, vinh quang của con là ánh quang rọi sáng từ trán Mẹ Hội Thánh.”
Lòng yêu mến Hội Thánh của Thánh nữ nảy sinh lòng hiếu kính đối với vị Lãnh Đạo Tối Cao, Đấng mà vì lòng tôn kính, giáo dân gọi là “Đức Thánh Cha”. Khi kể lại lần hành hương Rôma kinh thành muôn thuở, Thánh nữ đã diễn tả lòng cảm phục nồng nhiệt của mình đối với Đấng Đại Diện Chúa Kitô thế này: “Sau sáu ngày đi xem các kỳ quan của đế đô Rôma và đến ngày thứ bảy, con được xem một kỳ công vĩ đại nhất, là Đức Thánh Cha.”
Rồi sau khi gợi lại những danh lam thắng cảnh của nước Thụy Sĩ và Ý đã làm mình say mê, Têrêsa kết luận bằng những câu thơ này:
“Con thích nhất cái nhìn đầy sức sống,
Vị Giáo Hoàng thánh đức, đọng trên con.”
Và sau này, áp ngày khấn Dòng Têrêsa vui sướng biết bao khi nhận được “phép lành quý trọng” của Đức Thánh Cha. Theo Thánh nữ thì chính nhờ phép lành đó mà Người đã chiến thắng được cơn thử thách nặng nề trong linh hồn, được an bài cho Người vào cái giờ phút quyết định của cuộc đời.
Lòng sùng mộ Vị Thủ Lãnh Hội Thánh không những chỉ cô đọng trong nội tâm, tâm tình kính tin thôi, nhưng nó còn minh chứng cụ thể bằng việc làm. Chính Têrêsa viết:
“Con muốn cầu nguyện theo tất cả những ý chỉ của Vị Đại Diện Chúa Kitô; đó là mục đích chung của đời con”.
Thánh nữ còn có lòng tin tưởng sâu xa vào lời cầu nguyện. Đang lúc bệnh, Người muốn được người xung quanh nâng đỡ bằng lời cầu nguyện. Trong thư gửi cho một anh thiêng liêng, Têrêsa viết: “Em xin anh cầu nguyện cho em thật nhiều, lúc này em đang cần lời cầu nguyện lắm.”
Thánh nữ nhấn mạnh rằng những người hấp hối rất cần được ơn nhẫn nại và sức mạnh. Người xin với chị coi phòng bệnh: “Xin chị cầu nguyện cho những người hấp hối; chớ gì chị biết: Chỉ hơi một tý cũng có thể làm họ mất kiên nhẫn...” “Xin chị cầu cùng Mẹ Maria cho em, và nếu chị bệnh, em cũng sẽ cầu nguyện cho chị thật nhiều.”
Một ngày kia Thánh nữ nói: “Chúa muốn nói thế này, các linh hồn thông ơn Chúa cho nhau bằng kinh nguyện.” Người nói tiếp: “Con thường nghĩ tất cả những ơn con được có lẽ là nhờ một linh hồn nhỏ bé nào đó, mà chỉ khi nào về Thiên Đàng con mới biết được.”
Nơi khác Thánh nữ còn kể ra vô số ơn lành Người kín múc được trong “tín điều Hiệp Thông Các Thánh.”
Sau cùng Thánh nữ còn làm gương sáng về lòng trọng kính các kinh phụng vụ của Hội Thánh: Suốt đời Người coi là một vinh dự trọng đại mỗi khi hát thánh vịnh trong các giờ kinh phụng vụ, nhất là khi đọc Lời Nguyện một mình lớn tiếng như các Linh Mục, Đấng trung gian giữa Chúa và nhân loại.
Ở đây cũng vắn tắt nhắc lại là Thánh nữ cỏ lòng tôn kính Thiên Thần Bản Mệnh cách đặc biệt và Ngài đề tặng một bài thơ.
Với Thánh Cả Giuse, Têrêsa tôn kính cùng một tình mến như đối với Đức Nữ Trinh.
Với triều Thần Thánh trên trời Thánh nữ coi các Ngài như những bậc “phụ huynh” của mình ngay từ khi Người xin các Ngài nhận Người làm “nghĩa tử” và nhất là “ mối tình con thảo đối với Đức Trinh Nữ Maria”, Đấng mà Têrêsa nhận thấy có một quyền thế vô song. Người nói: “Khi ta cầu xin cùng các Thánh, các Ngài để ta phải đợi chờ đôi chút khiến ta có cảm tưởng là các Ngài phải đi đệ trình lên Chúa; nhưng khi cầu xin với Đức Mẹ, thì ta được Đức Mẹ cứu giúp ngay; các chị không để ý điều đó sao, cứ thử đi, các chị sẽ thấy”.
Trong tập thơ “Tại sao con mến Mẹ” Têrêsa đã ca tụng Mẹ thế này:
“Mẹ ơi giữa chốn lưu đầy,
Theo Mẹ con sống mỗi ngày đời con.
Ngắm trông Mẹ tâm hồn say đắm,
Thấy lòng Mẹ vực thẳm yêu đương.”

2: Tinh yêu tha nhân

Lòng bác ái đối với tha nhân của Thánh Têrêsa được biểu lộ như một trong những đặc tính đáng chú ý nhất do lòng Người mến Chúa.
Trong truyện “Một Tâm Hồn” Thánh nữ viết: “Con hết sức để tâm đến việc mến Chúa, và chính khi con kính mến Chúa thì Ngài cho con hiểu tường tận nghĩa vụ cao cả của Đức ái.”
Nơi Thánh nữ, Bác Ái đã mặc nhiều hình thức khác nhau. Người không ngừng nhắc lại lời của Thánh Gioan Tông Đồ: “Anh em hãy yêu thương nhau vì đó là giới răn của Chúa.” (2 Ga. 5) Vì là giới răn của Chúa, nên Têrêsa đã muốn đào sâu và đem ra thực hành không ngừng: yêu mến tha nhân với một cách tế nhị thanh cao như Người đã đối với Chúa.
Giới răn mới Chúa đã ban cho các Tông Đồ là “Yêu thương nhau như chính Chúa Giêsu đã yêu thương họ” (Ga 15,12). Giới răn ấy đã trở thành đề tài tuyệt diệu, được quảng diễn trong chương IX và X của cuốn truyện “Một Tâm Hồn”. Thánh nữ xác tín: “càng kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu thì Người càng yêu thương chị em nhiều hơn.”
Và đây là một đoạn trích trong luật Bác ái huynh đệ của Thánh nữ:
“Nếu con muốn gia tăng tình yêu chị em trong con mà ma quỷ lại phơi bày trước mắt con những khuyết điểm của các chị, thì con vội tìm nhân đức và các nguyện vọng ngay lành của các chị, con tự nhủ: Nếu con thấy chị lỗi phạm một lần, biết đâu có thể chị đã chiến thắng nhiều lần mà vì khiêm nhượng chị đã che giấu; và ngay cả điều mà con cho là lỗi phạm, thì rất có thể vì lòng ngay, đó lại là một việc lành”.
“A, bây giờ con mới hiểu bác ái chân thực ở tại chịu đựng khuyết điểm của tha nhân, không lấy làm lạ khi thấy kẻ khác lỗi phạm và thán phục khi thấy người khác làm được những việc lành dù nhỏ mọn; nhất là con đã hiểu bác ái không được giam hãm trong lòng, vì ‘không ai thắp đèn rồi đặt dưới đáy thùng, nhưng để trên giá đèn hầu soi cho mọi người trong nhà.’” (Lc 2,33). Thánh nữ kết luận: “Bác ái phải soi sáng và làm vui cho mọi người xung quanh”. Người tiếp:
“Bình an con khi mắt tràn ngấn lệ,
Trước tha nhân con tỏ mặt mỉm cười
Đau khổ nào cũng vẫn nét duyên tươi
Khi ta biết che vùi dưới hoa thắm.”
Vì thế Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu dạy các tập sinh trong giờ chơi không nên tìm giải trí và vui thích cho riêng mình, Người muốn các tập sinh của Người biết thực hành bác ái bằng cách mua vui cho chị em hơn cho chính mình.
Cũng như lòng mến Chúa, tình yêu tha nhân của Thánh nữ cũng đạt tới mức hoàn toàn vô vị lợi, vì Người đã thực hành từng chữ lời Phúc âm này: “Ai xin con cái gì, con hãy cho họ; ai lấy gì của con, con đừng đòi lại.” (Lc 6,30) “Ai muốn thưa kiện để đoạt lấy áo trong của con, con hãy cho luôn họ cả áo ngoài” (Mt 5,40). Theo Thảnh nữ, “cho áo ngoài nghĩa là từ bỏ cả những quyền lợi cuối cùng của mình và coi mình như đầy tớ mọi người.”
Thánh nữ còn mong ước cho đức ái của mình tế nhị hơn nữa, Người bảo: “Nhưng, đối với con, như thế vẫn chưa đủ, con còn phải đoán trước ý các chị muốn gì để giúp đỡ. Con phải tỏ ra thật ân cần và danh dự mỗi khi giúp đỡ kẻ khác và nếu có ai lấy mất vật gì con đang cần dùng, con phải tỏ ra sung sướng vì đã dứt bỏ được một vật.”
Nhưng nếu hoàn cảnh không cho phép được làm theo ý chị em. Thánh nữ dạy một cách từ chối hết sức “nhã nhặn đến nỗi người bị khước từ cũng hài lòng như được giúp đỡ”.
Thánh nữ không lầm lẫn về những hậu quả thực tiễn do tính dễ dãi khoan hồng của mình.
Vì Phúc Âm là luật sống của Chị, nên Têrêsa tuyên bố: “Con không được tránh mặt những chị em hay nhờ con giúp đỡ, vì Thầy Chí Thánh đã phán: ‘Con đừng tránh mặt kẻ muốn vay mượn con’” (Mt5,42).
Sau cùng Thánh nữ còn cẩn thận gạt bỏ những tính toán trần tục: “Con không nên làm ơn để tỏ ra là người hảo tâm hay nuôi hy vọng lần sau được giúp đỡ lại, vì Chúa đã dạy: ‘Nếu con cho ai vay mượn mà còn hy vọng họ sẽ trả lại, thì con được ích gì? Những người tội lỗi cũng cho vay mượn để được trả lại sòng phẳng. Phần các con, các con hãy làm ơn lành, hãy cho vay mà đừng mong được trả lại; như thế phần thưởng của các con sẽ trọng đại’” (Lc 6,34,35).
Với tinh thần ấy Thánh nữ đã nhượng lại tất cả cho tha nhân “cả những tư tưởng sâu xa và riêng tư, những sáng kiến, những tâm tình; đó là kho tàng mà ai ai cũng khư khư giữ chặt cho mình và coi như không ai có quyền đụng tới”.
Thánh nữ quả quyết là Người đã được ơn siêu thoát tất cả những của cải tinh thần, tâm tình lẫn vật chất.
Chị em công nhận Têrêsa đã thắng được tính ác cảm tự nhiên, đến nỗi một chị trước kia Têrêsa vốn có ác cảm, cứ tưởng Thánh nữ quí mến mình như bạn tâm giao.Thánh nữ đã xin làm phụ tá cho một nữ tu thật khó tính mà Thánh nữ biết mình sẽ phải khổ tâm không ít. Với lòng bác ái cao xa, Thánh nữ tình nguyện giúp đỡ một nữ tu tê bại; chị này khó tính đến nỗi gần như Têrêsa không thể nào làm vừa lòng chị được.
Têrêsa đã khuyến khích một tập sinh giúp việc tại phòng bệnh bằng những lời này: “Ôi nếu được bề trên trao cho công tác này, chị sẽ vui sướng biết bao. Chị biết công việc này đòi hỏi nhiều hy sinh bỏ mình lắm, nhưng thiết tưởng chị có thể chu toàn được với tất cả lòng mến yêu nồng nàn, khi nghĩ đến lời Chúa phán: ‘Cha đau yếu, các con đã nâng đỡ ủi an’ (Mt.25,38) Và để khích lệ tập sinh: ‘Bây giờ em phải hầu hạ người khác, nhưng rồi sẽ đến lượt Chúa Giêsu, Ngài sẽ đến hầu hạ em’” (Lc 12,37) vì chính Ngài đã nói thế.
Khi thấy các chị nhỏ có khuynh hướng chỉ sống cho riêng mình, Thánh nữ phản đối khuynh hướng đó bằng lời mời gọi họ hãy tận tình hơn, Thánh nữ bảo: “Sống cho riêng mình làm cho linh hồn ta ra nghèo nàn, ta phải vội vàng thực thi những công tác bác ái.”
Và đây là một chi tiết nhỏ nhặt, nhưng độc đáo và không thiếu vẻ mỹ lệ, nếu xét về ý hướng: Khi ở phòng bệnh, không bao giờ Têrêsa đuổi ruồi muỗi đến quấy rầy Người vì, như Người nói: “Con chẳng có thù địch nào khác, và Chúa nhân từ đã khuyên bảo hãy tha thứ cho những kẻ thù của mình, nên con vui lòng đón nhận dịp hy sinh nhỏ này để thực hành lời Chúa.”
Ta chỉ có thể lướt qua một đề tài phong phú của Thánh nữ nhờ những động tác thánh thiện của Người mà phần lớn còn ẩn tàng trong sự kín nhiệm của Thiên Chúa.
Thánh nữ cho rằng: Những việc hãm mình phạt xác không quan trọng lắm so với việc bác ái, Người trích dẫn một đoạn sách Isaia: “Chay giới mà Ta đòi phải chăng cốt làm cho tâm hồn ngươi phải buồn khổ, cho ngươi phải mặc áo nhặm, phải bỏ tro trên đầu. Phải chăng như vậy là chay giới đẹp lòng Chúa? Chay giới mà Ta muốn là cất gánh nặng cho những kẻ bị lao khổ; giải phóng cho những kẻ bị áp bức và cất đi tất cả những ách nặng đè trên kẻ khác” (Is,58,6).
Ở Chương IX trong truyện “Một Tâm Hồn” Têrêsa đã viết: “Con nhớ lại trong Kinh Thánh có nói: ‘Bác ái che lấp mọi tội lỗi’ (Cn 10,12) và con kín múc nguồn mạch phong phú đó trong Phúc Âm của Chúa. Con tìm kiếm trong nơi sâu thẳm của những lời đáng kính tôn này, và cùng với vua Thánh Đavit con kêu lên: ‘Con đã chạy trong đường giới răn Chúa, từ khi Chúa mở rộng lòng con’ (Tv 118,32). Chỉ có bác ái mới có thể mở rộng tâm hồn con... Lạy Chúa Giêsu, từ khi ngọn lửa êm ái ấy thiêu đốt lòng con, con vui sướng chạy theo đường giới răn mới của Chúa và con muốn chạy trên đường ấy mãi cho tới ngày diễm phúc, con được hiệp với đoàn trinh nữ theo Chúa vào cõi vô biên và hát bài Tân Ca của Chúa, bài ca Tình Ái.”
Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu thích thực thi bác ái chính là vì phần rỗi các linh hồn. Để khuyến khích một tập sinh biết quảng đại, Thánh nữ đã giả vờ như mình vẫn cần được khuyến khích. Trong thư gửi chị Céline, khi chị này còn ở ngoài thế gian , Têrêsa viết: “Em buộc lòng phải sử dụng một xâu chuỗi để đếm các việc hy sinh, những việc lành của em, em làm thế là vì bác ái đối với một chị bạn, để khích lệ chị ấy, nhưng em cam đoan với chị, điều ấy không làm em hài lòng mấy”.
Thánh nữ huấn luyện các tập sinh quen có những tư tưởng bác ái, Chị nói: “Khi các em bị cám dỗ xung khắc với ai, dù có tức giận đi nữa, phương thế tốt nhất để lấy lại bình an là cầu nguyện cho người ấy và xin Chúa thưởng công họ vì đã gây đau khổ cho các em.”
Thánh nữ còn thêm: “Để khỏi sa ngã, ta phải làm cho tâm hồn mình nên dịu hiền trước.”
Người thích nhắc lại lời này của sách Gương Phúc: “Để mặc mỗi người với quan niệm của họ thì tốt hơn là dừng lại mà tranh luận.” (Q.III 44,1)
“Muốn thuyết phục chị em để họ biết nhận lỗi dù khi mình hoàn toàn có lý, thì cũng không nên, vì mình đâu có chịu trách nhiệm về lối sống của người khác. Chúng ta không nên là những quan án nhưng chỉ nên là những thiên thần hòa bình thôi.”
Vì thế khi Thánh nữ thấy một chị sơ sót và lỡ phạm điều gì, thì trong nội tâm Người liền “chữa lỗi cho chị ấy và nghĩ rằng chị ấy có ý ngay lành.”
Thời gian bệnh, Têrêsa thấy chị y tá cẩn thận chọn những tấm vải lót mềm và êm cho mình, Người rút ra một kết luận: “Phải chăm sóc các linh hồn đau khổ như thế đấy, dù là những linh hồn bất toàn hơn cả...”, ôi, rất nhiều khi ta không suy đến điều đó, nên đã vô tình làm cho các linh hồn phải tổn thương, vì thiếu thận trọng, hay vì những cử chỉ thiếu tế nhị, trong khi ta cần săn sóc và nâng đỡ họ với tất cả khả năng của ta.
Trong truyện “Một Tâm Hồn” Têrêsa viết: “Vâng, con tưởng con cũng phải cảm thương những bệnh tật thiêng liêng của các chị em con, cũng như các chị đã thương giúp con lúc bệnh hoạn đau yếu.”
Lòng thương mến các linh hồn của Thánh nữ còn diễn tả đặc biệt hơn bởi lòng “nhiệt tình cứu các linh hồn.”
Thánh nữ kêu lên: “Con thương cảm cho các linh hồn đang phải hư mất; thật, sao dễ bị lạc vào con đường hương sắc trần gian đến thế!”
Thánh nữ muốn “cứu các linh hồn tội lỗi thoát khỏi lửa thiêu đốt đời đời bằng bất cứ giá nào”. Và để đạt được mục đích ấy Người đã quyết định hướng tâm trí mình đến chân Thánh Giá để hứng lấy hạt sương cứu rỗi của Chúa, rồi đem tung rải cho các linh hồn.
Năm lên 14 tuổi, Têrêsa đã coi ơn trở lại của tên sát nhân Pranzini như là một chiến thắng đầu tiên, vì Người đã cầu nguyện và hy sinh nhiều để xin được ơn ấy. Cũng chính vì muốn cứu rỗi các linh hồn mà Têrêsa đã vào Dòng Kín.
Trong cuộc khảo hạch theo Giáo luật trước khi khấn Dòng, Têrêsa đã thưa: “Con vào Dòng kín để cứu các linh hồn và để cầu nguyện cho hàng linh mục”.
Người nói:
“Giêsu, hãy nhớ Chúa ơi,
Yêu đời cầu nguyện, con rời thế gian,
Sống trong nhà Kín kêu van:
Tội nhân thống hối, thiên đàng thêm đông.”
Trong thư gửi cho một anh thiêng liêng, Têrêsa viết: “Em không chọn đời sống khắc khổ để đền tội riêng cho em, nhưng để đền tội thay kẻ khác.”
Chỗ khác Người nói: “Nếu em giàu có, em không thể đứng nhìn người nghèo đói mà không bố thí cho họ. Cũng thế, khi nào được chút của gì thiêng liêng, mà trong khi đó em thấy các linh hồn đang hòng hư mất, đang hòng xa xuống hỏa ngục, thì em cho họ tất cả những gì em có và em không còn một giây phút nào nữa để tự bảo: ‘Bây giờ tôi sẽ làm việc cho tôi’”.
Để ám chỉ lòng ngưỡng mộ thuở thanh xuân của mình đối với “Nữ chiến sĩ Jeanne d’Arc” Têrêsa viết cho một anh thiêng liêng thế này: “Thay vì nghe thấy tiếng từ trời cao kêu gọi vào cuộc chiến, em lại nghe thấy tự đáy tâm hồn một tiếng gọi êm đềm hơn, mãnh liệt hơn, đó là tiếng vị Hôn Phu của các trinh nữ gọi em vào những chiến công khác, vào những cuộc chinh phục hiển hách hơn và trong chốn cô tịch của đan viện Cát Minh em đã hiểu sứ mệnh của em là làm cho các tâm hồn yêu mến và quy phục Vua Trời.”
Trong chiến dịch thần linh ấy, Têrêsa vẫn chỉ có một khí giới duy nhất là Tình Yêu. Trong tập “kinh nguyện” Người viết: “Gươm giáo của con chính là tình yêu; với vũ khí này con đuổi quân ngoại xâm và con sẽ làm cho mọi người tuyên xưng Chúa Giêsu là Vua các tâm hồn.”
Tất cả những thử thách Thánh nữ phải chịu, Người đều dâng cho các linh hồn. Trong cơn cám dỗ nghịch đức tin, Thánh nữ đã thốt ra những lời tuyệt diệu này: “Lạy Chúa, đứa con nhỏ của Chúa đã hiểu nguồn sáng thần linh của Chúa rồi; con xin Chúa tha thứ cho anh em con không tin Chúa. Con xin nhận ăn phần bánh đau khổ bao lâu Chúa muốn. Vì yêu Chúa, con xin vui lòng đồng bàn đầy của cay đắng mà những tội nhân khốn khổ đang ăn và con chỉ chỗi dậy khi nào Chúa ra lệnh.
“Lạy Chúa, nếu cần một linh hồn yêu mến Chúa để rửa sạch bàn ăn đã bị những kẻ tội lỗi làm nhơ uế, thì con xin tình nguyện một mình ngồi đó ăn bánh châu lệ cho tới khi Chúa vui lòng đưa con vào nước vinh sáng.”
Trong thư gửi chị Céline, Têrêsa viết: “Chúa muốn phần rỗi các linh hồn tùy thuộc vào những hy sinh và tình yêu của chúng ta đối với Ngài. Chúng ta hãy dâng mọi hy sinh đau khổ cho Chúa Giêsu để cứu các linh hồn. Chị ơi, chúng ta hãy sống cho các linh hồn, chúng ta hãy là những tông đồ!”
Để hướng dẫn các tập sinh đi trên đường ấy, Thánh nữ đòi hỏi các em phải có một tâm hồn quảng đại. Một ngày giặt đồ, thấy một nữ tu trẻ không mau mắn đến nơi làm việc, Thánh nữ liền bảo: “Khi phải nuôi con thơ và phải làm việc để nuôi cả bầy con dại người ta cũng làm việc như chị thế ư?”
Tư tưởng cứu rỗi các linh hồn ám ảnh Thánh Têrêsa cho đến khi Người tới ngưỡng cửa đời đời và gợi hứng cho Người làm lời giao ước cảm động này:
“Con xin Chúa nhân lành đoái nhận những lời cầu nguyện được dâng lên, thay vì giảm bớt đau khổ cho con, thì xin ban ơn cứu rỗi cho các tội nhân”.
Thánh nữ đã hát cho Đấng Chí Ái:
Xin Chúa nhớ tiếng than đầy ân ái
Trên Thánh Giá từ Tim Chúa phát ra,
Nơi tim con in dấu vết đậm đà
Vâng... chính Chúa con thiết tha khao khát.
Con càng được lửa yêu thương nung đốt,
Càng khát khao dâng Chúa các linh hồn
Ngày đêm càng khao khát cháy tình thương,
Chúa ôi! xin hãy nhớ cho tường!
Việc thánh hóa các linh mục đã chiếm chỗ nhất trong lòng nhiệt thành tông đồ của Thánh nữ:
Trong những thư Têrêsa gửi cho chị Céline, ta đọc thấy mấy dòng này: “Những giây phút ngắn ngủi còn lại của đời ta, ta đừng để phí mất, ta hãy sử dụng thời giờ để cứu các linh hồn. Em cảm thấy Chúa Giêsu xin ta giải khát cho Ngài bằng cách dâng cho Ngài các linh hồn, nhất là linh hồn các linh mục. Vâng, chúng ta hãy cầu nguyện cho các linh mục, chớ gì đời sống chúng ta được hiến dâng vì các Ngài... Linh hồn các Ngài đáng lẽ phải tinh trắng hơn pha lê; nhưng tiếc thay, em nhận thấy có những linh mục đã không sống xứng đáng với thiên chức của mình. Vậy chị em ta hãy hy sinh cầu nguyện cho các Ngài... Mong chị thấu hiểu tiếng lòng em”.
Khi viết những hàng chữ trên, Têrêsa mới mười sáu tuổi. Sau này khi tự thuật đời mình, Thánh nữ trở lại vấn đề mà Người hằng ôm ấp bấy lâu: “Đẹp thay ơn gọi của chúng ta! Nhiệm vụ chúng ta là bảo tồn muối đất. Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện và hy sinh cho các tông đồ của Chúa, chính chúng ta phải trở nên tông đồ cho các Ngài đang khi các Ngài dùng lời nói và gương lành để rao giảng Tin Mừng cho anh chị em chúng ta.”
Trong tập thơ nhan đề “sống Tình Yêu” Têrêsa viết:
“Sống yêu đương, ôi lạy Thầy Chí Thánh
Là xin Thầy giãi muôn ánh lửa hồng
Cho hồn thanh linh mục được trắng trong
Hơn các Đấng Sêraphim thiên quốc”.
Sau cùng, lòng bác ái của Têrêsa cũng không quên các linh hồn đau khổ trong luyện ngục. Các đẳng đã được hưởng nhiều ân xá và việc lành của Thánh nữ nhường lại. Khi bệnh tình trở nên trầm trọng, và cơn nghẹt thở gia tăng, Người không thể đọc kinh ra tiếng được nữa, Người xin được ân huệ này là có thể đọc sáu kinh Lạy Cha, sáu kinh Kính Mừng để hưởng nhờ những ân xá hầu giúp các linh hồn nơi luyện ngục.
Lòng nhiệt thành của Thánh nữ còn thúc đẩy Người thi hành việc bác ái, bằng cách giúp đỡ chị em, Người thích nhắc lại: “Ơn đại xá chính yếu mà mọi người có thể lãnh nhận được, không cần phải có điều kiện thông thường, đó là đại xá của lòng bác ái che lấp mọi tội lỗi” (Cn 10,12).

3: CẢN TRỌNG, KHÔN NGOAN TRONG LỜI KHUYÊN BÀO

Tác giả sách Gương Phúc nói cho chúng ta: “Tình yêu thì khôn ngoan, mạnh mẽ, mau lẹ, chăm chỉ và thận trọng.” (Q.3. 5,7)
Nếp sống của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã giãi sáng ra tất cả những đặc tính ấy của Tình yêu.
Trong tập thơ nhan đề “tại sao con mến Mẹ” Têrêsa đã tỏ ra thán phục sự khôn ngoan của Đức Mẹ khi Ngài không cho Thánh Giuse hay biết Mầu Nhiệm Nhập Thể.
Thánh nữ viết: “Cứ để cho Người (Thánh Giuse) khóc kề bên nhà tạm (Đức Mẹ), (Người) che khuất vẻ đẹp thần linh Đấng cứu chuộc đời.”
Thánh nữ ca ngợi Người Mẹ Thiên Quốc về nhân đức mà Người gọi là “sự im lặng hùng hồn.”
“Đó khúc nhạc du dương và êm ái,
Nói cho con sự cao cả toàn năng.
Của tầm hồn đợi trông Chúa công bằng
Từ trời cao sẽ thi ân cứu giúp”.
“Giữ kín nhiều việc trong tâm hồn” (Lc 2,19) như Đức Mẹ, đó là nét yêu kiều duyên đáng của Têrêsa. Thánh nữ tâm sự:
“Không nói ra những khổ tâm của mình rất ích lợi, và có thêm được nhiều nghị lực!”
“Khi bị hiểu lầm và bị xét đoán sai, cần chi phải biện hộ giải thích? Ta cứ để cho nó qua đi, đừng nói chi hết, để mặc cho kẻ khác xét đoán, thật êm dịu biết bao! Ôi sự im lặng diễm phúc, nó để lại trong linh hồn ta biết bao bình an!”
Nhưng đối với ai không hiểu được giá trị của sự thinh lặng, Thánh nữ cũng công nhận nhân đức này rất khó giữ, trong vài trường hợp và thật đáng công khi thực hành nó, vì đau khổ mà không có người biết đến thì thường bản tính tự nhiên cảm thấy nặng nề hơn.

Thánh nữ chỉ mỉm cười khi thấy các tập sinh lầm tưởng mà đề cao những việc làm của mình. Một hôm có một chị đến khoe với Thánh nữ là đã thuyết phục được chị em phải theo ý kiến mình. Têrêsa kêu lên: “A! Chị đang đề cao mình đó; phần em không bao giờ em làm thế, em thích hơn, cùng với Chúa nhắc lại ‘Tôi không tìm vinh quang cho tôi, nhưng đã có Đấng khác làm điều ấy cho tôi’”. (Ga 8,50)
Nếu đầy tớ Chúa “không tìm vinh quang cho mình”, thì Người đã biết khôn ngoan làm cho tình yêu của mình triển nở tất cả những gì được phép. Là “con cái sự sáng” Thánh nữ muốn khôn khéo trong công việc của mình hơn con cái tối tăm trong công việc của họ.
Trong thư gửi chị Céline, ta đọc thấy những hàng này: “Chúa Giêsu dạy em biết lợi dụng tất cả, cái tốt cũng như cái xấu nơi em. Ngài dạy em biết cách sinh lợi ở Ngân Hàng Tình Yêu...”.
Và đây là một trong những “mánh tới” của Têrêsa: “Em tưởng nếu những hy sinh của chúng ta làm siêu lòng Chúa Giêsu thì những vui sướng của chúng ta cũng thu hút được Ngài. Muốn được thế chỉ cần thoát ra khỏi cái hạnh phúc ích kỷ, và hiến dâng cho Bạn Thánh chúng ta những niềm vui nho nhỏ mà Ngài gieo rắc trên đường đời để vui thỏa lòng ta và nâng nó lên với Ngài.”
Quả thực, Têrêsa yêu mến Thiên Chúa thắm thiết và hiểu biết lòng Chúa, nên Thánh nữ không thể tin rằng chỉ có tình yêu trong đau khổ mới làm vui lòng Chúa. Người biết Chúa dịu dàng hơn “người mẹ” và Chúa thích thấy ta mỉm cười. Vì thế Têrêsa đã vui sướng dâng cho Chúa những niềm vui cũng như nỗi khổ cực. Người viết: “Con muốn chịu đau khổ vì yêu Chúa và vui hưởng cũng vì yêu Chúa”.
Trong một tập thơ khác, Têrêsa viết:
“Đau phiền, hạnh phúc, hy sinh
Đó là những đóa hoa tình yêu con!...”
Và trong một thi ca khác:
“Vui mừng cùng với khổ đau
Con xin dâng Chúa đổi bao linh hồn;
Những hồn thơ ấu măng non...”.
Lại nữa:
“Hân hoan với những lệ mờ
Hiến cho ‘thợ gặt’ hưởng nhờ Chúa ơi!”
Và với Đức Trinh Nữ Maria, Têrêsa đã thưa rằng:
“Cái nhìn Mẹ, đuổi xa lòng sợ hãi
Dạy con rày, biết khóc biết mừng vui...”.
Và đây là một nét khôn ngoan khác: Thánh nữ bị chia trí trong giờ kinh nguyện và giờ cám ơn chăng? Có ai đến quấy rầy Thánh nữ sái giờ chăng? Ắt họ được lợi, vì tức thì Chị Thánh lấy dịp nhỏ đó mà cầu nguyện cho họ. Khi bị chia trí quá, Têrêsa dám thốt lên: “Lạy Chúa, con chấp nhận tất cả vì lòng mến Chúa, cho dù bị những tư tưởng kỳ dị nhất đến trong trí con và quấy rầy con”.
Giờ đây đứng trước một khuyết điểm hiển nhiên, Thánh nữ sẽ xử sự thế nào? Người nói: “Khi con phạm một lỗi lầm, con buồn, con hiểu ngay rằng nỗi buồn đó là hậu quả do sự bất trung của con, nhưng con vẫn biết khôn ngoan trong việc của con... con vội thưa với Chúa nhân lành: ‘Lạy Chúa, con biết con đáng chịu nỗi buồn này lắm, nhưng xin Chúa cho con coi nó như một sự thử thách mà vì yêu, Chúa gửi đến cho con. Con hối hận về tội lỗi con, nhưng con vui lòng vì có đau khổ này để dâng cho Chúa!’”
Cũng theo một lối suy luận như trên, khi nghĩ đến lỗi lầm của mình có thể là lý do làm cho Mặt Trời thần linh ẩn khuất. Người nói: “Nếu Chúa không muốn nghe lời khóc than rên xiết của tạo vật yếu hèn của Chúa, nếu Chúa cứ ẩn mặt, thì lạy Chúa, con xin nhận chịu giá rét này, và con vui mừng được chịu sự đau khổ đáng tội này”.
Trong thư gửi Mẹ Agnès de Jésus, Têrêsa viết: “Con dâng cho Chúa tất cả! và khi con không có gì để dâng cho Ngài, con dâng cho Ngài cái không không ấy...!”
Nhưng trong nỗi bất lực, Thánh nữ có một tư tưởng nổi bật: “Là làm cho trời cao thương xót mình, được các Thần Thánh cầu bầu và trở nên bạn thiết, hầu đang khi còn ở chốn khách đày, được các Đấng che chở và bảo vệ khỏi tay ma quỷ, rồi sau này được các Đấng tiếp nhận mình vào nhà đời đời” (Lc 16,9). Thế vẫn chưa đủ, Têrêsa còn ước mơ có thể yêu mến Chúa hơn chính các thánh đã từng yêu mến như Người thường nói cách hùng hồn là ước được yêu mến Chúa gấp đôi các đấng.
Ta hãy nghe Thánh nữ cầu nguyện: “Con trình diện trước mặt các thiên thần, cùng triều đình các thánh và con thưa với các ngài: Thưa các Ngài, con là tạo vật bé mọn nhất, con nhận biết sự yếu hèn của con, nhưng con cũng biết những tâm hồn cao thượng và quảng đại ham thích thi ân. Vậy con kính xin các Ngài là những công dân diễm phúc của thánh đô thiên quốc thương nhận con làm con cái. Vinh quang mà các Ngài giúp con thu đạt được sẽ thuộc về các Ngài hết; cúi xin các Ngài nhận lời con và cầu bầu cho con được gấp đôi tình mến của các Ngài!”
Thánh nữ đã ân cần ghi lại những hàng sau đây của nhà giảng thuyết trứ danh Taulère vì rất hợp với tư tưởng của Người về sự “Hiệp thông các Thánh”: “Nếu tôi yêu sự thiện trong tha nhân hơn chính họ yêu thích, thì sự thiện ấy thuộc về tôi hơn thuộc về họ. Nếu tôi yêu mến tất cả những ân huệ Chúa ban cho Thánh Phaolô, thì những ơn đó sẽ thuộc về tôi. Nhờ sự hiệp thông ấy, tôi có thể trở nên rất giàu có vì tôi được tất cả mọi sự thiện trên trời, dưới đất, nơi các Thiên Thần, các Thánh và tất cả những ai yêu mến Chúa.”
Những bài dạy các tập sinh, những lời khuyến dụ mà Thánh nữ khiêm nhường chỉ bảo các nữ tu đến xin Người, ta đều thấy dấu ấn của đức khôn ngoan tuyệt vời. Ngoài ra, ta còn thấy một đặc ân này nữa là Têrêsa đã biết áp dụng những phương thế rất khác biệt, tùy theo tính tình và hoàn cảnh để đạt tới đích mà Người đã nhắm trước và luôn bất di bất dịch, đó chính là một đặc ân phi thường được ban cho Thánh nữ.
Đây, trước hết về vấn đề hướng dẫn các linh hồn, những gì Thánh nữ suy tưởng và thực hành với một sự tinh tuyền trong ý tưởng hoàn toàn siêu thoát và một năng lực kiên trì; Người nói: “Trong mỗi trường hợp, lúc nào con cũng phải xả kỷ hy sinh. Vì thế con cảm thấy thư từ sẽ chỉ có được chút hiệu quả khi con ngại mà vẫn viết và viết chỉ vì vâng lời. Khi nói với một tập sinh con cũng phải cẩn thận hãm mình kẻo con hỏi những câu để thỏa mãn tính tọc mạch của con. Nếu con thấy em đang nói về câu chuyện thích thú rồi đột nhiên chuyển sang câu chuyện con không thích, thì con phải cẩn thận để con khỏi cắt ngang câu chuyện của em, vì con nghĩ rằng không ai có thể làm nên một việc lành nào, nếu họ tìm thỏa mãn cho riêng mình.”
Nơi khác Thánh nữ còn căn dặn: “Để một lời khiển trách mang lại hiệu quả, nó phải là một việc vì khổ tâm mà làm, và đừng làm vì nóng giận.”
Khi Thánh nữ cảm thấy không ai hiểu mình, “thì Người đưa trí tưởng tượng về Đức Trinh Nữ Maria và bao giờ Chúa Giêsu cũng chiến thắng. Kinh nguyện và hy sinh làm nên sức mạnh của Người. Kinh nguyện dạy cho Người biết thứ khí giới vô địch này có hiệu lực đánh động các linh hồn hơn mọi lời nói.”
Chúng ta đã nói, nhờ khiêm nhường khẩn xin, mà Têrêsa được ơn soi sáng, được ơn khôn ngoan trong việc hướng dẫn kẻ khác. Vì như Người nói trong truyện “Một tâm hồn”: Có những linh hồn mà lòng thương xót Chúa không mỏi mệt chờ đợi và Chúa chỉ soi sáng cho họ dần dần, nên con thận trọng không muốn tiến bước trước giờ Ngài đã định.”
Thánh nữ nhận định: “Con thấy rằng hết thảy các linh hồn đều phải chiến đấu như nhau, nhưng mặt khác các linh hồn ấy lại rất dị biệt đến nỗi ta không thể dùng một phương thế để lôi cuốn mọi người.” Vì thế phải tuyệt đối quên đi mọi sở thích riêng tư của mình, những quan niệm cá nhân, và hướng dẫn họ, không phải theo đường lối hay phương thức riêng của mình, nhưng theo con đường đặc biệt mà Chúa Giêsu đã hoạch định cho mỗi linh hồn.
Năm lên mười sáu tuổi, có chị bạn cùng ở nhà tập với Têrêsa, lớn hơn Người tám tuổi, được phép trò chuyện thường xuyên với Têrêsa. Nhưng chẳng bao lâu, nhận thấy những buổi tâm sự đó “không đạt tới mục đích mong muốn” “nghĩa là sự hoàn thiện bậc tu trì”, - Têrêsa đã nói rõ cho chị ấy biết tất cả ý nghĩ của mình để cùng theo hoặc chấm dứt những buổi chuyện trò nặng tình bạn hữu thế gian ấy.
Thánh nữ còn tuyên bố: “Chúa đã ban cho con ơn này là không sợ chiến đấu; con phải làm tròn bổn phận với bất cứ giá nào. Nhưng điều làm con thấy khó khăn nhất là xem xét, chỉ ra những lỗi lầm, những khuyết điểm nhỏ nhặt và làm cho các em phải chiến đấu quyết tử. Con thích bị khiển trách ngàn lần hơn là khiển trách ai một lần nào.”
“Trong việc dẫn dắt các linh hồn, đừng khi nào chúng ta buông xuôi để mặc cho việc qua đi hầu lấy giờ nghỉ ngơi. Chúng ta phải chiến đấu không ngừng dù không có hy vọng chiến thắng; mà thành công hay không có quan hệ gì! Nếu gặp một linh hồn khó dạy ta đừng nói: ‘Không còn làm gì được nữa!... Nó có hiểu gì đâu!... Thôi mặc kệ nó!... Tôi không làm gì hơn nữa được!...’ Ôi! Nói như thế là hèn nhát, ta phải làm việc bổn phận đến cùng.”
Lòng khoan dung và bác ái của Thánh Têrêsa đối với những linh hồn Người dẫn dắt không có chút gì là mềm yếu, nhu nhược mà ta còn thấy hai đức tính ấy dung hòa trong một sự cương quyết hiếm có.
Người giải thích rõ: “Không nên để cho lòng nhân hậu thoái hóa thành nhu nhược. Một khi lẽ phải đòi phải khiển trách ai, ta phải giữ vững lập trường, nhưng rồi không nên thương hại đến bối rối vì đã làm cho kẻ khác phải cực lòng, phải đau khổ, phải khóc. Chạy theo để an ủi họ, làm như thế là làm hại hơn là giúp ích cho họ. Cứ để mặc họ là làm cho họ không còn hy vọng ở người đời và phải quay về với Chúa, nhận lỗi lầm và hạ mình xuống trước mặt Người. Nếu không, họ sẽ quen thói được an ủi sau khi bị khiển trách đáng tội, và họ sẽ hành động như một đứa con cưng, giậm chân kêu la vì biết rằng cứ làm như thể mẹ nó sẽ đến lau nước mắt cho nó”.
Sau khi phải mất lâu giờ để giải thích cho một tập sinh vì em lấy làm khó mà nhận lỗi, Têrêsa nói: “Con phải chiến đấu nhiều, con đã thấm mệt, nhưng con không sợ chiến đấu, con vẫn bình an như khi suy gẫm. Vì Thánh ý Chúa mà con chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.”
“Đối với những linh hồn ta hướng dẫn, ta phải thành thực và nói ra điều mình suy tưởng. Phần con bao giờ con cũng làm như thế. Nếu vì đó người ta không ưa con, không hề gì; vả lại con đâu có tìm điều đó. Nếu ai không muốn biết rõ sự thực về mình thì đừng đến với con.”
Thánh nữ còn tìm cách gìn giữ các linh hồn khỏi mọi ảo tưởng. Người đã tiên báo cho mẹ Agnès de Jésus biết rằng sau khi Người qua đời, sẽ có nhiều Linh mục trẻ biết Người đã nhận hai cha thừa sai làm anh thiêng liêng cũng sẽ đến xin được đặc ân đó. Người bảo việc đó có thể sinh nguy hiểm.
“Con xác tín rằng bất kỳ ai trong chúng ta viết những điều con viết đây cũng sẽ nhận được lời ca tụng và tín nhiệm. Nhưng chỉ có kinh nguyện và hy sinh, chúng ta mới có thể làm ích cho Hội Thánh. Thư từ nên hết sức hạn chế và tuyệt đối không nên cho phép những chị nào quá bận tâm về điều đó, họ sẽ tưởng mình làm được những việc vĩ đại, nhưng thực ra họ chỉ làm tổn thương linh hồn mình và có khi còn sa vào cạm bẫy xảo quyệt của ma quỷ nữa.”
Thánh nữ còn nhấn mạnh hơn: “Thưa Mẹ, điều con vừa nói với Mẹ thực là quan trọng, sau này xin Mẹ đừng quên. Trong đan viện không nên dùng tiền bạc giả dối để mua chuộc các linh hồn... và thường thường những lời lẽ văn hoa chỉ là những trao đổi tiền bạc giả dối mà thôi...”.
Được chị em tín nhiệm, Têrêsa không tỏ ra kiêu kỳ, Người cũng không bao giờ tự phụ về điều đó. Một chị nói với Têrêsa rằng Chị được Chúa trao cho việc hướng dẫn các linh hồn đó là một đặc ân. Têrêsa trả lời: “Điều đó chẳng thêm gì cho em cả; thực ra trước mặt Chúa em thế nào, em vẫn là thế... Chẳng phải vì Ngài muốn đặt em làm thông ngôn của Ngài bên các chị mà Ngài thương em hơn đâu! Ngài đã đặt em làm nữ tỳ cho các chị thì đúng hơn. Chính vì các chị chứ không phải vì em mà Ngài đã ban cho em những duyên dáng và nhân đức như các chị thấy.”
“Những linh hồn được Chúa ưu đãi thì Chúa giữ lấy cho Ngài. Còn những linh hồn Chúa làm nổi bật lên thì Ngài lại phải ban những ơn đặc biệt để gìn giữ họ được luôn luôn tươi đẹp.”
“A! Những người ở địa vị cao hằng ngày phải nhận lấy những lời khen lao dua nịnh chẳng khác chi những liều thuốc độc, những làn hương nguy hại và linh hồn họ phải siêu thoát dường nào để khỏi bị nhiễm độc!”
Thánh nữ còn nói: “ Chúa muốn đặt ai làm đại diện của Ngài, điều đó không quan trọng.”
“Vâng, con biết là con hiểu điều đó lắm, Chúa chẳng cần ai, Ngài còn ít cần con hơn kẻ khác nữa để làm việc thiện trên mặt đất này.”
Với niềm xác tín đó, Thánh nữ nói tiếp với một lòng siêu thoát cao vời: “Nếu tập thủ bản của con không được đọc và đem đốt ngay trước mặt con, con cũng không buồn chút nào.”
Thánh nữ tránh hối hả khi làm việc, dầu vậy Người luôn luôn mau mắn chuyên cần vì Người biết “Chúa Giêsu không quở trách việc làm của Martha, nhưng chỉ trách bà vì quá lo lắng đó thôi.” (Lc 10,41) Và khi thấy một nữ tu trẻ quá lo lắng, Têrêsa bảo: “Chị hăng say quá lẽ trong công việc”. Và với một chị khác: “Chị lo lắng thái quá về công việc chị làm; trong lúc này chị có bận tâm đến những việc xẩy ra trong các đan viện khác hoặc các nữ tu ở đó có vội vã hay không? Công việc của họ có ngăn trở việc cầu nguyện của chị hay không? Vậy chị phải tách mình ra khỏi công việc chị làm và tận dụng thì giờ chỉ định cho mỗi công việc, với tâm hồn thanh thoát. Ngày trước em có đọc: Khi người Do Thái xây thành Giêrusalem, một tay xây, còn một tay cầm gươm giáo (Er 4,17). Đó chính là hình ảnh của chúng ta. Chúng ta phải làm việc một tay, còn một tay cầm khí giới để bảo vệ linh hồn mình khỏi lo ra chia trí làm ngăn trở kết hợp với Chúa.”
Thực vậy, sự kết hiệp với Chúa là một trong những lời căn dặn đặc biệt nhất của Thánh Nữ. Người đã quở trách một tập sinh hát Thánh Ca cách lơ đãng, một chị khác vô ý ngồi không ngay ngắn, rồi Thánh nữ buồn rầu nói: “Sao có lắm người hành động cẩu thả và lấy lệ thế! Còn những người tận tâm gắng sức làm việc thì rất hiếm!”
Thiên thần Têrêsa rất quý mến sự trong trắng tâm hồn. Người viết cho chị Céline: “Chúng ta hãy làm cho tâm hồn chúng ta trở nên một cảnh vườn đầy hoan lạc để Đấng Cứu Thế dịu hiền của chúng ta đến nghỉ ngơi. Chúng ta hãy trồng những cây huệ đẹp của lòng trinh khiết vì chúng ta là những nữ trinh... và chị cũng đừng quên đức “trinh khiết là sự thinh lặng hoàn toàn, xa cách mọi săn sóc thế tục, không những mọi săn sóc vô ích nhưng tất cả mọi săn sóc...”.
“Sống trinh khiết, được làm bạn trăm năm của Chúa Giêsu, đó thực là một ơn cao quí biết mấy! Hẳn đó là ơn cao cả vô cùng nên chỉ Đấng thanh sạch và thông minh hơn hết mọi thụ tạo đã yêu thích làm trinh nữ hơn là làm Mẹ Thiên Chúa...”
“Những linh hồn trong sạch hơn, thường bị cám dỗ nhiều hơn; họ thường phải sống trong tối tăm. Do đó họ tưởng mình đã mất sự trong trắng và tưởng những gai nhọn vây quanh để sâu xé rách nát vành hoa của họ. Nhưng không, những bông huệ ở giữa bụi gai lại là những bông hoa được bảo vệ hơn cả, và chính nơi những bông huệ ấy mà Chúa Giêsu được vui thỏa vì ‘phúc cho những ai biết kiên nhẫn chịu đau khổ trong cơn thử thách’” (Gc 1,12).
Thánh nữ muốn tránh cho “những bông huệ” của mình khỏi bị những sự thương yêu theo tình cảm làm tê liệt đời sống thiêng liêng. Với một linh hồn yếu đuối về phương diện này và thường bị buồn khổ, Thánh nữ viết: “Bi quan là một thử thách lớn lao... Nhưng nếu có thể làm được gì thì chị hãy cố gắng làm đi để giải thoát tâm hồn mình khỏi những lo lắng trần tục và nhất là các tạo vật, rồi chị hãy tin Chúa Giêsu sẽ thực hiện phần còn lại cho chị.”
Chính Thánh nữ đã tận dụng hết khôn ngoan để siêu thoát mọi tạo vật. Người gieo rắc niềm vui quanh mình và làm ơn cho kẻ khác, nhưng Người không mong được đáp lại bằng chút cảm tình hay biết ơn nào.
Có chị đã nói với Thánh Nữ: “Thật đáng buồn, đôi khi thay vì được biết ơn, mình chỉ nhận được vô ơn bạc bẽo; mỗi lần gặp như thế, em thật thất vọng vô cùng”. Têrêsa trả lời: “Mới đầu em cũng cảm thấy như vậy, nhưng không bao giờ em thất vọng, vì em không mong đợi được thưởng công ở trần gian này, em làm cho Chúa, như vậy em luôn luôn được trả công bội hậu rồi.”
Trong truyện “Một Tâm Hồn” Thánh nữ còn viết: “Con biết rằng nếu chỉ để tìm an ủi và tìm những cái vừa lòng mình, con sẽ mau chán nản, như một lời nói hoàn toàn vì ý ngay lành mà cũng có thể bị hiểu lầm. Vì thế để khỏi mất công và mất thì giờ, con chỉ cố gắng làm việc cho đẹp lòng Chúa và để đáp lại giáo huấn của Chúa trong Phúc Âm thôi”.
Do đó Thánh nữ tận tụy hy sinh với một tinh thần siêu thoát đến nỗi có lẽ “Người không thể làm cho Chúa hơn được nữa”.
Sau cùng với sự khôn ngoan, Têrêsa đã tìm được một phương pháp rất thực tiễn để chịu đau khổ, đó là chỉ nghĩ đến giây phút hiện tại. Trong một tập thơ, Người đã viết:
“Nghĩ đến mai hồn con buồn chán,
Những ngại ngùng tâm trạng đổi dời
Đớn đau thử thách Chúa ơi!
Hôm nay con muốn, thế thôi, đủ rồi”.
Thánh nữ còn có thể nói như tác giả Sách “Đức Huấn Ca” rằng: Tôi lắng tai nghe sự khôn ngoan. Với khôn ngoan, ngay từ đầu, tôi đã được thông minh và nhờ đó tôi thâu đạt được nhiều lợi ích.”  “và Chúa đã thưởng Người ơn lợi khẩu. Chúa đã làm cho sự khôn ngoan trong tâm hồn Người tuôn chảy ra như dòng suối.”

4: SAY MEN CHẤP NHẬN ĐAU KHỔ

Trong sách Thánh có lời: “Nước lũ không thể dập tắt nổi tình yêu; sóng cồn cũng chẳng tài nào vùi lấp được tình Ái” (Dc 8,7).
Sách Gương Phúc nói: “Tình yêu tận hiến cho Chúa và luôn tràn đầy tri ân cảm mến; dù thấy như mình bị bỏ rơi, tình yêu luôn tin tưởng vào Chúa” (3,5.7).
Đó là tình yêu của Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu khi Người chắp nhận đau khổ. Chính đó mà nhân đức hùng dũng của Người triển nở một cách kỳ diệu.
* * *
Như bao người khác, Têrêsa cũng đã tìm hiểu tại sao con người phải đau khổ. Chính Người đã viết:
“Sao Chúa nhân từ yêu thương chúng ta dường ấy lại có thể thản nhiên đang khi chúng ta phải đau khổ?...” Nhưng Thánh nữ đã mau chóng giải quyết được vấn đề và đã công nhận thử thách phát sinh những lợi ích vô giá, Người nói: “Không, không bao giờ Chúa vui sướng trên đau khổ của chúng ta; nhưng đau khổ cần thiết cho chúng ta. Vì thế Chúa làm ngơ để cho đau khổ xảy ra”.
Trong thư gửi cho chị Céline đã có lần Têrêsa viết: “Vâng, Thiên Chúa chẳng vui gì khi phải để chúng ta uống suối châu lệ. Nhưng Chúa biết đó là phương thế duy nhất để chuẩn bị cho chúng ta nhận biết Ngài như Ngài tự biết mình và để chúng ta nên giống Ngài!” (1 Cr 13,12 và Tv 81,6).
Thánh nữ còn tìm ra một động lực khác: Chúng ta chưa được sống nơi quê hương mình, nên cám dỗ phải tinh luyện chúng ta như thử vàng.
Lúc thiếu thời Người đã viết: “Trong các chén ta uống đều có mật đắng pha vào: nhưng con nhận thấy những gai nhọn giúp ta sống siêu thoát cách đắc lực và hướng tầm mắt ta lên cao khỏi thế giới hữu hình này.”
Sau đó, Người lại viết cho chị Céline: “Duy mình Chúa sắp đặt mọi biến cố trong cuộc đời lưu đày này của ta, đôi khi chính Ngài trao chén đắng cho ta. Chính Ngài cho phép những niềm vui trong sạch nhất biến thành những đau khổ, có thể nói được rằng ta không còn giờ thở cho thong thả nữa và để tâm hồn ta hướng về một mình Ngài thôi.”
Nơi khác, với đầy vẻ khiêm nhường, Thánh nữ bộc lộ với Mẹ Agnès de Jésus: “Chúa Jésus biết rõ nếu Ngài chỉ ban cho con một chút hình bóng hạnh phúc, là con sẽ bám riết lấy nó với tất cả nghị lực tâm hồn; vì thế Ngài không ban cho con cái hình bóng ấy. Ngài thích để con trong tối tăm hơn là ban cho con tia sáng giả dối không phải là Ngài!”
Thánh nữ thường nhìn cuộc đời thử thách nơi trần thế này như một cái thoáng qua “một đêm trải qua trong một quán trọ tồi tàn” .
Cái nhìn đó xoa dịu lòng Thánh nữ, đã chiếu rọi trên mọi khổ giá của Người một tia sáng hồng phúc vĩnh cửu, Người viết cho chị Céline: “Đời này chỉ là một ảo ảnh, một giấc mơ chóng qua. Giờ đây Thiên Chúa đã thấy chúng ta trong vinh quang rồi và Ngài vui sướng thấy ta được hạnh phúc trường sinh... Ôi! Những tư tưởng này giúp ích cho linh hồn em biết bao! Và bây giờ em đã hiểu tại sao Chúa để chúng ta phải đau khổ.”
Là một nữ tu còn rất trẻ, Têrêsa đã được nếm những hoa quả của đau khổ. Người viết: “Thử thách đã làm cho linh hồn con nên dày kinh nghiệm và mạnh mẽ đến nỗi không có gì ở thế gian này có thể làm nó buồn phiền được nữa.”
Thực vậy, khi gia đình Thánh nữ gặp gian nan, Người nhận thấy tâm hồn mình đã vượt trên mọi phù vân, Người cảm mến kêu lên: “Vậy thì Chúa Giêsu đã làm thế nào để tách lìa linh hồn chúng ta khỏi mọi tạo vật? A! Chính tay Ngài đánh; nhưng lại là cái đánh vì yêu...Thiên Chúa thật đáng ca ngợi, nhưng nhất là Ngài thật là đáng yêu mến”.
Thánh nữ thích đi sâu vào đời sống của Chúa Giêsu và của Đức Mẹ. Vì thấy Thiên Chúa cũng để cho các Ngài phải đau khổ, nên Thánh nữ lại càng yêu quý những đau khổ của mình. Thánh nữ nói: “Vì yêu thương chúng ta vô hạn, Chúa Giêsu đã chọn cho chúng ta một thánh giá quý trọng hơn hết... Tại sao chúng ta lại than trách khi mà ‘chính Chúa đã bị coi như một kẻ bị Chúa Cha đánh phạt và hạ nhục’” (Is 53,4).
Trong tập thơ “Tại sao con mến Mẹ” Têrêsa viết:
“Chính vì Vua Cả cõi trời
Đã muốn cho Mẹ chịu đời gian nan
Tâm hồn sầu thảm tân toan
Đau phiền ở thế là phần lợi to.”
Thánh nữ còn nói tiếp: “Giữa nơi đất khách này chúng ta còn gặp nhiều cây hoang dại, nhiều gai góc, nhưng đó chẳng phải là phần đã được trao cho Bạn Thánh chúng ta đó sao? Vậy đó cũng là phần của chúng ta, chúng ta phải xem là phần tốt, đẹp tuyệt vời...”.

Thánh nữ còn tỏ ra khao khát chịu đau khổ vì “tuy gai nhọn đâm xé chúng ta, nhưng nó để thoát ra hương thơm của tình yêu”.
Dưới gánh nặng đè con đau khổ
Con chứng minh Chúa Cả tình yêu
Sướng vui con chẳng muốn nhiều
Hy sinh dâng hiến sớm chiều mà thôi.
Thánh nữ biết rằng Thầy Chí Thánh đã dùng Thánh giá để cứu chuộc, và để cộng tác với Chúa trong việc cứu rỗi thế gian, chúng ta cũng phải chịu đau khổ với Ngài. Thánh nữ nhận xét với những dòng sau đây: “Chúa Giêsu đã yêu chúng ta bằng một tình yêu không thể hiểu được và rất tế nhị đến nỗi Ngài không muốn làm một việc gì mà không có chúng ta cộng tác với Ngài. Vì thế Ngài đã muốn cho chúng ta góp phần với Ngài trong việc cứu rỗi các linh hồn. Đấng tác tạo vũ trụ chờ đợi kinh nguyện và hy sinh của một linh hồn nhỏ bé nghèo hèn để cứu rỗi muôn người, như Chúa đã dùng Máu Thánh mình để cứu chuộc nó vậy.”
Trong thư gửi chị Céline, Thánh nữ viết:”Chúng ta phải sống hy sinh, nếu không, cuộc đời đâu còn có công phúc gì!”
Trong thư khác gửi chị Céline: “Ôi, chúng ta đừng bỏ phí mất cơn thử thách Chúa Giêsu gửi tới cho chúng ta, chúng ta đừng bỏ lỡ việc khai thác mỏ vàng này...”.
Thánh nữ coi những đau khổ trong tâm hồn của mình như một bảo đảm phần rỗi cho các linh hồn xiêu lạc đáng thương: “Em đã đọc thấy trong Phúc Âm: Chúa Chiên Lành đã bỏ cả bầy chiên lại trong nơi hoang vắng để đi tìm con chiên lạc... (Lc 15,4). Em cảm động lắm về sự tín nhiệm của Chúa, Chúa đã tin tưởng ở đoàn chiên còn lại. Làm sao chúng có thể trốn đi? Chúng đã được tình yêu nắm giữ rồi. Thì ra Chúa Chiên yêu dấu của linh hồn chúng ta xa vắng chúng ta để đi an ủi các tội nhân”.
Thực ra Thánh nữ thường nhận thấy sở dĩ Chúa thử thách những linh hồn có Đức Tin không lay chuyển nhiều hơn, là vì Ngài đã tín nhiệm vào tình yêu trung thành của họ.
Trong truyện “Một Tâm Hồn” Thánh nữ đã viết: “Chúa Giêsu dạy con biết rằng đối với một linh hồn có Đức Tin dù chỉ nhỏ bằng hạt cải thôi thì Ngài cũng ban nhiều phép lạ để củng cố Đức Tin nhỏ bé ấy. Còn đối với những bạn thân tín của Chúa, ngay cả đối với Mẹ Ngài, thì Chúa cũng vẫn thử thách Đức Tin của họ trước rồi mới ban ơn.”
Trong thư gửi chị Céline, với một lời văn đầy thi vị, Têrêsa viết: “Buổi bình minh của đời chúng ta đã trôi qua. Chúng ta vui hưởng những làn gió mát đượm hương thơm của buổi sớm mai. Nhưng đến khi vừng kim ô chiếu rọi ánh nắng gay gắt, Chúa Giêsu lại dẫn đưa chị em ta vào khu vườn của Ngài. Ngài bảo chúng ta thu lượm ‘mộc dược’ thử thách bằng cách tách lìa chúng ta khỏi mọi tạo vật và cất khỏi chúng ta cả niềm vui hưởng sự hiện diện của Ngài. Ngài muốn chúng ta không vì ân nghĩa mà yêu mến Ngài, nhưng chính Ngài phải là phần thưởng cho chúng ta.”
Thánh nữ nghĩ rằng chính vì tế nhị đối với tạo vật của Ngài mà Chúa muốn dùng thử thách như một phương thế để ta tỏ ra quảng đại đối với Ngài. Thánh nữ nói: “Nỗi cực phiền này là cử chỉ tế nhị của Chúa Giêsu, vì Ngài ước ao nhận nơi chúng ta một món quà.”

Người nói tiếp: “Chúa xin chúng ta bác ái đối với Ngài cũng như đối với một người nghèo khó. Ngài giơ tay xin ta chút tình yêu, được minh chứng bằng đau khổ và chiến đấu...”.
“Ngài muốn có thể nói với chúng ta cũng như đã nói với các tông đò xưa: “Chính các con đã luôn ở với Cha trong mọi cơn gian nan thử thách Cha đã chịu” (Lc 22,28).
Thánh nữ buồn rầu nói thêm: “Chúa Giêsu chịu thử thách, mầu nhiệm thay! Chúa mà cũng phải chịu thử thách ư? Vâng Chúa chịu thử thách, và nhiều khi ‘Ngài phải ép nho một mình’ (Is 63,3) ‘Ngài đi tìm kẻ an ủi’ mà chẳng gặp ai” (Tv 67,21).
Chính vì yêu mến đau khổ và thấy đau khổ có thể đem lại nhiều ân sủng, nên Têrêsa đã quí yêu đau khổ đến nỗi về cuối đời Người viết cho một anh thiêng liêng thế này:
“Từ lâu, đau khổ đã trở nên thiên đàng nơi trần thế cho em, và làm sao em sẽ có thể hợp với một nơi chỉ có toàn hỉ hoan và hạnh phúc, không hề vương chút âu sầu nào. Chúa Giêsu cần phải biến đổi linh hồn em nhiều lắm nếu không, có lẽ em không thể chịu được hạnh phúc đời đời.”
Và khi gần chết, lúc mà đau khổ phần xác và tinh thần đến tột độ, Thánh nữ quả quyết với Mẹ Bề Trên: “Thưa Mẹ, con đã không lầm, tất cả những gì con viết về hạnh phúc được chịu đau khổ của con là rất đúng...”.
***
Hạnh phúc được chịu đau khổ ấy, ta thấy được qua nhiều giai đoạn khác nhau trong cuộc đời của Têrêsa. Đó là hậu quả tất nhiên mà Têrêsa đã nhận xét về ý nghĩa và giá trị của đau khổ.
Rước lễ vỡ lòng được ít lâu, “lòng Người bừng cháy lên sự nhiệt thành muốn được chịu đau khổ, lòng khát mong được chịu đau khổ ấy trở nên sức quyến rũ Người, Người thấy trong đau khổ có những vẻ đẹp làm cho Người say mê.”
Tuy vậy, Thánh nữ nhận xét:
“Con thực tập nhân đức mãi đến năm 14 tuổi, mà không cảm thấy cái êm dịu của đau khổ. Con khát mong chịu đau khổ mà không nghĩ đến việc biến nó thành niềm vui cho con.”
Trong thư gửi cho anh thiêng liêng, Têrêsa viết: “Thánh giá đã theo em ngay từ khi em còn nằm trên nôi, và Chúa Giêsu đã làm cho em say mến Thánh Giá ấy.”
Thánh nữ nói: “một ngày sống mà không có đau khổ là một ngày phí đi.” Và “Đau khổ để chiếm được cành lá chiến thắng thì không có chi là quá đáng!”
Đó là tiếng gọi chiến đấu lúc thiếu thời của Người và sau này sẽ còn nghe Người lặp lại: “Các chị có biết ngày nào là ngày Chúa Nhật và lễ trọng của em không? Đó chính là những ngày Chúa nhân lành thử thách em nhiều”.
Trong tập thơ khác Người viết;
“Nếu đôi lần đắng cay đau khổ
Đến viếng thăm gõ cửa lòng con
Đau khổ vì Chúa, dịu êm nào bằng!”
Thánh nữ nói với các tập sinh: “ Hồi còn nhỏ mỗi sáng thức dậy, chị thường nghĩ ngay đến những vui buồn sẽ xảy ra trong ngày. Bây giờ thì trái lại, chị nghĩ đến ngày cực nhọc vất vả và đau khổ đang chờ đợi, chị hăng hái chỗi dậy vui vẻ và can đảm vì thấy trước, mình có nhiều dịp để minh chứng tình yêu đối với Chúa Giêsu và để kiếm sống cho con cái vì chị là Mẹ các linh hồn.”
Chúng ta còn đọc thấy trong quyển “Tự Thuật”: “Khi muốn đạt tới mục đích, thì phải dùng phương thế và Chúa Giêsu đã cho con biết Ngài muốn ban cho con các linh hồn qua đường Thánh Giá, mà con càng gặp nhiều Thánh Giá thì lòng khát khao chịu đau khổ càng gia tăng”.
Bây giờ ta hãy nghe Người viết cho chị Céline, vào lúc tâm hồn Người đau đớn tan nát vì cơn thử thách mà thân phụ khả kính của Người phải chịu: “Thực là một đặc ân của Chúa Giêsu! Ngài yêu thương chúng ta nên mới gửi cho chúng ta nỗi đau đớn lớn lao đến thế! Đời đời cảm mến tạ ơn Ngài cũng chưa đủ. Ngài đã ban cho chị em ta đầy dẫy ân huệ như Ngài đã ban cho các vị Đại Thánh”.
 “Từ nay, chị em ta chẳng còn gì để hy vọng dưới thế gian này nữa; chỉ còn lại cho chúng ta những đau khổ. Thực là số phận đáng khát mong!”
“A! Chẳng những em không than phiền Chúa Giêsu vì Ngài đã gửi Thánh Giá đến cho chúng ta, mà em còn không thể hiểu tại sao tình yêu vô biên của Chúa đã thúc đẩy Ngài đối xử với chúng ta như thế”.
Rồi, trong thư đề ngày 31 tháng 12 năm 1889, Têrêsa viết: “Một năm tốt đẹp vừa qua đi. Vâng, đó thật là một năm quý hóa đáng được Nước Trời, ước gì năm sắp tới cũng được như thế”.
Ngay từ tấm bé Têrêsa đã có một thị kiến tiên báo cơn thử thách đang đề cập đến ở đây. Chính Người đã tiết lộ điều đó trong tập hồi ký: “Ôi, con phải ca tụng Chúa dường nào vì cách Ngài đã đối xử với con: Ngài đã cho con thấy trước Thánh Giá rất quý trọng này, cũng như một người cha hé mở cho con cái thấy trước tương lai huy hoàng mà mình đã chuẩn bị cho chúng, và vì yêu thương, người cha hài lòng thấy những kho tàng vô giá kia sẽ là gia nghiệp của chúng!”
“Sau này ở trên trời chắc chúng ta sẽ thích nhắc lại với nhau những ngày tăm tối lưu đày khổ ải này. Vâng, ba năm đau đớn cha đã chịu, em thấy nó đáng yêu nhất, lợi ích nhất cho đời sống chúng ta, dù đổi lấy những cơn xuất thần cao siêu nhất, em cũng không đổi. Trước kho tàng vô giá này, tâm hồn em cảm mến kêu lên: ‘Lạy Chúa, con chúc tụng Chúa vì những năm tháng đầy ơn lành chúng con đã trải qua trong gian khổ’” (Tv 89,15).
Chúng ta còn gặp trên môi Thánh nữ những lời tương tự như thế giữa những cơn thử thách liên tiếp, những thử thách ấy “không làm cho Người buồn phiền, trái lại theo lời Người nói, chúng đã đem đến cho Người một sảng khoái tuyệt vời”. Thánh nữ đã viết:
“Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì mọi ơn Chúa đã ban cho con, nhất là đã luyện con trong lò đau khổ”.
Cũng thế, trong tập thơ “Sống Tình Yêu” Têrêsa đã viết:
“Sống yêu đương đâu phải nơi trần thế
Cắm lều mình chóp đỉnh Tabôrê,
Với Giêsu là trèo núi Calvê
Là nhìn thấy Kho tàng nơi Thánh Giá.
Trên Thiên quốc con sống đầy phước lạc
Vì không còn những thử thách âu sầu
Nhưng nơi đây, con muốn chịu khổ đau
Trong đau khổ con sổng vì yêu mến”.
Tới khi gần chết ta còn thấy Thánh nữ vẫn giữ được tâm tình này. Hai tháng trước khi qua đời, Thánh nữ đã bày tỏ với anh thiêng liêng Người thế này: “Em không mong được thoát khỏi đau khổ ở đời, nhưng đau khổ hợp với tình yêu, đó là mộng ước duy nhất của em giữa nơi châu lệ này.”
Và để khuyến khích người anh ấy trong sứ mệnh thừa sai đầy đau khổ và bách hại gian nguy, Têrêsa viết tiếp: “Chúa Giêsu muốn củng cố nước Ngài trong các tâm hồn bằng đau khổ và bách hại hơn là bằng những lời giảng thuyết lừng danh.”
Niềm vui tự nhiên cũng như siêu nhiên trong hy sinh không loại trừ nỗi cực phiền. Đây, Thánh Têrêsa giải thích vấn đề này dưới nhiều khía cạnh:
Trước hết trong cuộc chiến với chính mình Thánh nữ cũng cảm thấy nỗi gay go của việc hy sinh. Lúc còn là thỉnh sinh, Têrêsa đã gặp phải nhiều khó khăn do một chị trợ sĩ gây ra. Chị này rất tốt, nhưng hình như chị giữ phần việc tập cho Têrêsa kiên nhẫn. Têrêsa viết cho Mẹ Agnès de Jésus những hàng này: “Con là một quả bóng bị kim châm nhiều, con không thể chịu nổi nữa. Thật những lỗ nhỏ lắm nhưng lại làm con đau nhiều hơn một lỗ lớn vì lỗ lớn chỉ có một mà thôi, ôi quả bóng bé nhỏ phải run lên, nhưng con thật sung sướng, sung sướng vì được chịu tất cả những gì Chúa Giêsu gửi đến cho con...”.
Têrêsa còn viết cho chị Céline: “ Em chỉ có một niềm vui, đó là chịu đau khổ vì Chúa Giêsu, và niềm vui không cảm thấy này vượt hẳn mọi niềm vui khác.”
Về sau Thánh nữ còn khích lệ các tập sinh: “Ước gì các em thấy được Thiên Thần từ trời cao đang nhìn xem các em chiến đấu nơi chiến trường. Các Đấng đang đợi cuộc chiến kết thúc để choàng vòng hoa chiến thắng cho các em. Các em biết rằng chúng ta phải là những vị tử đạo nhỏ bé, phần của chúng ta là phải đạt được cành lá thắng trận!”
Một trong những bài thơ nói về Thánh Jeanne d’Arc, Têrêsa đã đặt trên môi vị Tổng Lãnh Thiên Thần khi trao gươm cho vị nữ anh hùng những lời sau đây:
Muốn vui chiến thắng phải giao công
Cành lá, triều thiên chớ vội mong
Trận tuyến, vinh quang còn tái diễn
Đấu tranh đắc lực mới nên công...
Khi bị cám dỗ nghịch đức tin, sinh nghi không còn biết có thiên đàng hay không, Thánh nữ nói:
“Con thưa với Chúa Giêsu, con sung sướng vì ở dưới thế này, dù với đôi mắt linh hồn, con cũng không thể chiêm ngắm thiên đàng đang chờ đợi con, để xin Chúa thương mở cửa thiên đàng cho những anh em không tin Chúa. Dù tối tăm cất mất hết mọi tâm tình vui sướng con vẫn có thể kêu lên: ‘Lạy Chúa, Chúa đã ban cho con tràn đầy hoan lạc bởi mọi việc Chúa đã làm’ (Tv 91,4). Vì còn niềm vui nào lớn hơn niềm vui được chịu đau khổ vì yêu Chúa.”
Khi gia đình gặp cảnh đớn đau, Têrêsa viết: “Ước vọng chịu đau khổ của con đã được thỏa mãn, nhưng lòng ham mộ chịu đau khổ của con vẫn không giảm bớt, linh hồn con cũng đã tức khắc thông phần thử thách mà tâm can con phải chịu. Sự khô khan đã gia tăng, con không được chút an ủi nào, dù từ trên trời hay ở dưới đất; nhưng, giữa ba đào khổ ải mà con hằng khao khát ấy, con vẫn cảm thấy sung sướng nhất đời.”
Những mâu thuẫn lạ lùng ấy đã cho ta thấy rõ niềm vui giữa cơn đau khổ: không cảm thấy vui thú chút nào, cũng không gặp được chút an ủi nào mà vẫn luôn hạnh phúc...!
Trong thư gửi Mẹ Agnès de Jésus, Têrêsa quả quyết: “Vâng, con chỉ tìm thấy hạnh phúc trong đau khổ không pha chút an ủi nào”.
Đó là điều Têrêsa đã muốn diễn tả khi nói đến niềm vui vô cảm, Người còn trình bày tư tưởng đó một cách rõ ràng trong thư gửi cho chị Marie: “Nếu chị ước ao cảm thấy vui, cảm thấy tha thiết với đau khổ, thì đó là chị tìm an ủi cho mình; và khi nào người ta thích mới làm thì còn gì là cực nhọc nữa?”
Bởi vậy Thánh nữ không cầu mong những cảm xúc tự nhiên được thông phần những cảm xúc của tâm hồn, Người viết: “Chúng ta đừng tưởng gặp được tình yêu mà không vương đau Khổ; bản tính tự nhiên của chúng ta còn đó, và nó ở đó không phải là không có ích đâu; nó giúp ta thu tích được biết bao của cải! Đó là kho tàng và là sinh kế của chúng ta”.
“Nếu cần ta hãy đau khổ trong đắng cay và chán nản. Chúa Giêsu cũng đã chịu đau khổ trong phiền muộn. Không phiền muộn thì thử hỏi linh hồn có đau khổ không? Còn chúng ta lại muốn đau khổ cách quảng đại và cao thượng, đúng là ảo tưởng!”
“Thật an ủi khi nghĩ tới Chúa Giêsu là Chúa mạnh mẽ, đã thấu hiểu tất cả mọi yếu đuối của chúng ta, Ngài đã run lên khi thấy chén đắng, chén đắng mà trước đây Ngài hằng khao khát.”
Thánh nữ đã không ngại thổ lộ nỗi buồn của lòng mình. Người đã viết cho chị Céline: “Thư của chị làm tâm hồn em buồn chán... Chị ơi, những tư tưởng của Chúa Giêsu không phải là những tư tưởng của chúng ta, ‘Đường lối của Ngài không phải là đường lối của chúng ta.’ (Is 55,8). Ngài trao cho chúng ta chén đắng mà bản tính yếu đuối của chúng ta có thể uống được... Chúng ta đừng từ chối chén đắng do Ngài dọn cho. Chứng ta hãy đau khổ trong bình an.
Thánh nữ công nhận rằng sự bình an đó chỉ ở tận sâu thẳm trong thâm tâm, vì cay đắng đã tràn ngập linh hồn Người...”.
Thánh nữ đã phải “khóc” khi giơ tay ra đón nhận Thánh Giá mà Người bảo đó là viên ngọc quý giá do Chúa Giêsu trao cho. Thánh nữ đã khóc đến nỗi “gần như không còn cầm được cây bút để viết”. Người viết cho chị Céline: “Chị ơi, phải vất vả lắm em mới có thể dâng Chúa Giêsu điều Ngài đòi hỏi, nhưng điều đó lại làm cho em vui sướng lắm! Hạnh phúc thay được vác Thánh Giá của chúng ta một cách yếu đuối!...”
“Phải sống lưu đày trên dương thế này thật là cực khổ, nhất là trong những giờ phút mà mọi người hầu như bỏ rơi chúng ta, nhưng đó chính là thời gian quý hóa. Đó chính là ngày cứu rỗi bừng sáng! (2 Cr. 6, 2).
Phần em, thân phận một hạt cát nhỏ mọn, em muốn bắt tay vào việc mà không can đảm, không nghị lực chi cả, vì biết rằng trong yếu đuối, sức mạnh sẽ được kiện toàn (2 Cr 12,9). Chính sự bất lực này sẽ giúp em thi hành công việc một cách dễ dàng. Em muốn làm việc vì yêu mến.”
Những lời Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu thốt lên trong thời gian bệnh nặng, lúc tâm hồn Người tràn ngập lo âu phiền muộn, chúng ta thấy Người vẫn chấp nhận đau khổ một cách yêu mến và vui vẻ để giúp ích hơn, những lời đó được ghi theo thứ tự ngày tháng như sau:
Một hôm, chị em hỏi: - Sao hôm nay chị vui vẻ thế?
Têrêsa đáp: “Vì hôm nay em được hai cực phiền nhỏ; không gì đem lại cho em những niềm vui nho nhỏ cho bằng những đau khổ cỏn con.”
- Chắc trước khi chết, chị sẽ phải đau khổ nhiều?
-        Ồ, các chị đừng lo, em chỉ ước mong có thế thôi!
“Em ước ao chịu đau khổ và em đã được mãn nguyện. Một buổi sáng kia, trong giờ cám ơn rước lễ, em cảm thấy phiền muộn tưởng như chết đi được, phiền muộn mà không chút an ủi nào! Nhưng cần phải thế để tô điểm linh hồn em nên xinh đẹp cho xứng đáng thiên đàng.”
Nơi khác Thánh nữ cũng nói: “Con thích được chịu đau khổ một mình; vừa khi có ai thương xót và săn sóc con thì con không còn vui sướng nữa.”
Một chị khác nói với Têrêsa: - Chắc chị đau đớn lắm?
- Vâng em thích thế, Têrêsa đáp.
“Chúa chúng ta chết trên thập giá giữa những lo âu phiền muộn. Tuy nhiên, đó là cái chết vì tình yêu cao đẹp nhất! Chết vì yêu không phải là chết trong hoan lạc ngây ngất.
“Chúa nhân lành đã thử thách con ngoài thân xác và trong tâm hồn để con có dịp minh chứng lòng con phó thác và yêu mến Ngài nhiều hơn.”
Thấy chị em ước mong cho mình mau hết đau đớn, Thánh nữ nói: “Các chị đừng ước mong điều đó, vì đau khổ chính là điều làm cho em hài lòng trong cuộc sống này!”
“Em không có khả năng để hưởng vui thú, em vẫn biết thế, nhưng em có rất nhiều khả năng để chịu đau khổ.”
Thấy trên bàn có một ly thuốc màu đỏ đẹp, trông như một thứ xi rô hảo hạng, Têrêsa giơ tay chỉ và nói với Mẹ Agnès de Jésus: “Mẹ xem ly nhỏ này, ai cũng tưởng nó đầy rượu ngon, nhưng thực ra con chưa thấy có thứ thuốc nào đắng hơn nó. Đó chính là hình ảnh cuộc đời con: trước mắt mọi người, đời con lúc nào cũng được phủ lên những màu sắc rực rỡ huy hoàng: mọi người đều tưởng như con được uống một thứ rượu ngon hảo hạng, mà thực ra nó là một thứ đắng cay. Con nói là đắng cay, nhưng đời con chẳng có gì là đắng cay cả, vì con đã biết biến đổi đắng cay trở nên vui sướng và êm ái.”
“Chỉ trong đau khổ con mới tìm được hạnh phúc và hoan lạc, và con đã đau khổ nhiều trên cõi trần này; phải chăng điều con nói không mấy đúng, vì thường khi lắm, người đời không thấy được những đau khổ của con.”
“Con nghĩ tới những lời của thánh Inhaxiô Antiokia. Con cũng thế, con cần phải để cho đau khổ nghiền nát con ra hầu trở nên tấm bánh của Chúa”.
“Con tưởng ma quỷ đã xin phép Chúa nhân lành lấy đau khổ dữ dội nhất để làm con thất đảm, để làm cho con mất kiên nhẫn và mất Đức Tin, nhưng con không muốn chịu đau khổ ít hơn...”.
Chị chỉ vào một chỗ rất tối trong vườn và nói với một trong các chị ruột của Người: “Kìa, Mẹ có thấy cái hốc tối kia không? Đó chính là phản ánh tình trạng linh hồn và thể xác con... Ôi, tối tăm lắm Mẹ ơi, nhưng ở đó con vẫn được bình an.”
Đó là những làn hương thơm của lòng say mến chấp nhận đau khổ xông lên từ “đóa hoa nhỏ” của Chúa Giêsu, đóa hoa ấy đã tươi nở dưới bóng Thánh Giá, đã được nước mắt và Máu Thánh Chúa như sương hồng phúc tưới gội và đã được Nhan Thánh đáng tôn thờ như mặt trời chiếu rọi.

5: KHIÊM NHƯỜNG

“Khi người công chinh ở tận vực sâu nghèo hèn của mình, để ngắm nhìn cái hư vô và bất lực nơi mình, khi họ thấy tường tận mình không thể nào tiến bước và bền đỗ, khi thấy mình đầy khuyết điểm và sơ xuất, bấy giờ họ mới ngụp sâu trong thung lũng Khiêm hạ. Sa chìm trong cơn cùng khổ và thấy mình quẫn bách, người công chính mới rên rỉ hướng lên kêu xin lòng thương xót của Chúa, họ ngắm nhìn cõi trời cao xa và cảm thấy mình bé bỏng... Thung lũng trở nên sâu thẳm... Vì thế, Chúa Giêsu là mặt trời từ trên cao tung giãi xuống tận thâm tâm kẻ khiêm nhường này muôn vàn tia sống huy hoàng. Bấy giờ Chúa không thể không xúc động và cũng không đè nén được lòng nhân hậu, vì khi ấy linh hồn có khả năng đón nhận. Bởi thế linh hồn được ơn Chúa giãi sáng và tình yêu Ngài ấp ủ” (CP. RUISBROCK)
Bây giờ chúng ta đề cập đến những nhân đức trực tiếp liên hệ tới “Con đường thơ ấu” của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Đức khiêm nhường giữ phần trọng yếu, đứng đầu các nhân đức ấy, vì theo lời Chân Phước Ruisbrock thì “khiêm nhường phát sinh tự do và tin tưởng, và bất lực của người khiêm hạ sẽ trở nên khôn ngoan”.
Trong thư gửi cho người em họ là Marie Guérin Thánh nữ viết: “Khi thấy mình cùng khốn, người ta không còn trông cậy ở mình nữa, nhưng họ chỉ còn cậy trông ở Đấng Chí Ái mà thôi.”
Vì Têrêsa chăm chú nhìn Chúa và nhờ đó biết Chúa, nên Thánh nữ đã chỉ hoàn toàn nương tựa vào một mình Chúa. Như thế khiêm nhượng đã trở nên nhân đức nổi bật nhất của Thánh nữ. Vì nếu Tình Yêu là nền móng xây đắp nên “con đường thơ ấu”, thì linh hồn nào bước đi trên đó là hiện thân đức khiêm nhượng, như ta sẽ thấy rõ sau khi nêu lên những đặc điểm chính yếu của nhân đức này nơi Thánh nữ.
Trước hết Thánh nữ đã định nghĩa rõ ràng: Ta phải tự hạ đến mức nào mới thực là có tinh thần khó nghèo: “Đây là giới hạn, ta phải hạ mình xuống để có thể trở nên nơi cho Chúa Giêsu ngự trị, đó là trở nên nghèo nàn đến nỗi ‘không còn chỗ để tựa đầu nữa...’” (Lc. 9,58). Và cũng về vấn đề này Người nói: “Thiên Chúa, Vị Thượng Khách của linh hồn chúng ta đã biết chúng ta nghèo hèn, nên Ngài đến với ý định tìm một căn lều trống trải, và Ngài chỉ đòi thế thôi...”.
Vì xác tín vào chân lý ấy và thấy rõ sự bất lực của mình trong mọi việc lành, nên Têrêsa đã tìm cách cởi bỏ lòng mình mỗi ngày càng nhiều hơn, mà Thánh nữ còn nghĩ rằng mình chưa được nên trống rỗng trong chính bản thân mình. Dầu vậy những tâm tình khiêm tốn Người đã bộc lộ trong mỗi cơ hội, đã cho thấy: Có vực thẳm khiêm hạ nào mà Người không xuống tới!
Mở đầu câu chuyện cuộc đời của mình, Têrêsa nhận thức rằng tự thân, mình không có gì có thể thu hút Chúa Giêsu đoái nhìn đến mình.
Người viết: “Chúa nhân lành đã muốn kêu gọi kẻ bé mọn và yếu hèn nhất trong chúng ta đến với Ngài và rồi Ngài vội vàng làm cho đôi cánh nó lớn lên. Ngài thích tỏ ra lòng nhân hậu và quyền thế Ngài bằng cách dùng những dụng cụ ít xứng đáng hơn! Ngài đã muốn gọi con trước chị Céline, mặc dù con biết chắc chị xứng đáng được đặc ân này hơn con, nhưng Chúa Giêsu biết con yếu đuối lắm, nên Ngài đã đưa con đi trước đến ẩn thân trong hốc đá vững vàng”.
Và khi nói tới cuộc đời đầy nguy hiểm của một thiếu nữ sống giữa đời, Têrêsa đã viết cho chị Céline thế này: “Nếu ở vào hoàn cảnh đó, có lẽ em đã phải hư đi từ lâu giữa cánh rừng mệnh mông đầy nguy hiểm ấy rồi!”
Trong cơn bệnh cuối cùng, một hôm khi Têrêsa chịu lễ, lúc cộng đoàn đọc kinh Cáo mình bên giường Thánh nữ, Người xúc động mãnh liệt vì nhớ mình, hèn hạ tội lỗi và sau đó Người bày tỏ với Mẹ Agnès de Jésus: “Con thấy Chúa Giêsu sắp ban mình cho con, và thú nhận tội lỗi như thế đối với con là một việc tự hạ rất cần: ‘Con thú nhận cùng Thiên Chúa, cùng Rất Thánh nữ Đồng Trinh Maria, cùng các Thánh, vì con đã phạm nhiều tội lỗi...’. Vâng, con thầm nghĩ chị em thiết tha cầu xin Chúa cùng các Thánh tha thứ mọi tội lỗi cho con thì rất đúng. Con cảm thông được tâm tình người thu thuế và con nhận thấy con là kẻ tội lỗi. Chúa nhân từ tỏ ra thương con quá bội, nên con vô cùng cảm động ngửa xin cả triều thần thánh cầu bầu cùng Chúa tha thứ tội lỗi cho con...”.
Thánh nữ cũng đã chép vào một tấm ảnh ngăn sách nguyện lời Phúc Âm này: “Lạy Chúa, Chúa biết rõ lòng con mến Chúa” (Ga. 21,16). “Nhưng xin Chúa thương xót con, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc. 18,13).
Ngay cả những lỗi không phạm cũng giúp Thánh nữ tự hạ. Người viết: “Chúa Giêsu muốn con yêu mến Ngài vì Ngài đã tha thứ cho con, không phải tha thứ nhiều, nhưng tha thứ tất cả...”. Và trong thư gửi chị Céline, Têrêsa viết: “Chúa Giêsu đã tha thứ trước cho em cả những tội em có thể phạm.”
Đi đôi với những tâm tình khiêm nhường ấy, sự ngờ vực chính bản thân đã phát triển nơi Têrêsa.
Năm lên 10 tuổi, lúc lưu trú tại nhà người bạn của thân phụ mình, Têrêsa được chiều chuộng nâng niu, Người kinh nghiệm rằng dù tâm hồn đã xa mọi điều ác xấu, thì những quyến rũ vụn vặt cũng lôi cuốn được (Kn 4,12). Têrêsa đã thú nhận, kinh nghiệm ấy làm cho Người thêm già dặn. Từ đó Người hằng lo sợ cho phận yếu hèn của mình và thấy mình được Chúa gìn giữ qua nhiều cơn nguy hiểm. Têrêsa khiêm nhường cảm tạ ơn Chúa, Người viết: “Con hiểu rằng Chúa biết con yếu hèn không thể đương đầu với cám dỗ và con sẽ bị thiêu hủy bởi ánh sáng huyền ảo giả dối của thụ tạo.”
Ít lâu sau Têrêsa lại cầu xin cùng Thánh Giuse là “Cha và Đấng Che Chở các kẻ đồng trinh” để xin Ngài gìn giữ bông huệ lòng khiết trinh của mình, Thánh nữ nói: “Con van xin Ngài đẩy xa con mọi dịp tội, vì chưa biết tội là gì nên con sợ có dịp khám phá thấy”.
Bởi quá sợ làm mất lòng Chúa nên vào năm 13 tuổi, sự sợ đó đã biến thành tính bối rối.
Ngày lễ Khấn Dòng Têrêsa cầu nguyện “Lạy Chúa Giêsu, Bạn Chí Thánh của con, xin Chúa hãy cất con đi hơn là để con dưới thế này mà phải vương tì ố vì cả lòng phạm một lỗi nhỏ mọn nào”.
Sau này trong cơn thử thách nghịch Đức Tin, Têrêsa kêu lên: “Lạy Chúa, con chỉ xin Chúa một ơn là đừng bao giờ để con xúc phạm đến Chúa”.
Trong tuần phòng chuẩn bị Khấn Dòng, Người viết cho Mẹ Agnès de Jésus:
“Mẹ hãy xin Chúa cho con được ơn đừng khi nào xúc phạm đến Ngài, hoặc có phạm lỗi thì chỉ là những lỗi không làm mất lòng Ngài.”
Sau khi đã bày tỏ linh hồn với một Cha Dòng, Têrêsa rất được an tâm, Cha quả quyết “những lỗi của Thánh nữ không làm phiền lòng Chúa...”. Và lời đoan chắc này đã giúp Têrêsa kiên trì chịu đựng cuộc lưu đày nơi trần thế.
Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu không những không tin cậy ở mình, nhưng Người còn có một ước muốn thánh thiện này là đừng ai biết đến mình và kể mình như không.
Ngày lễ khấn Dòng, Têrêsa đeo trên ngực tấm giấy viết những chữ này: “Con không mong ước gì hơn là được mọi người quên lãng... Con không ao ước được khinh chê, nguyền rủa, điều đó còn là quá vinh dự cho hạt cát, vì nếu người ta khinh chê một hạt cát, đó là người ta đã để ý đến nó rồi... Con ước mong không những được các thụ tạo mà cả chính con cũng lãng quên con nữa, để con không còn một ước muốn nào khác, ngoài ước muốn được yêu mến Chúa mà thôi.”
Người còn viết: “Hạnh phúc thay được sống ẩn dật không ai nhớ tưởng đến! Không ai biết đến, cả những người cùng sống chung với con!”
Trong truyện Một Tâm Hồn Têrêsa cho biết: “Trước khi nhập Dòng Kín, Chúa Giêsu đã cho Người hiểu rằng vinh quang chân thật và duy nhất là vinh quang trường cửu; muốn được vinh quang ấy không cần làm những việc hiển hách nhưng chỉ cần sống mai danh ẩn tích đối với mọi người và cả với chính mình nữa.”
Một tập sinh nói với Người: “Chị thật có phúc vì được Chúa chọn để chỉ cho các linh hồn biết ‘Đường thơ ấu thiêng liêng’”.
Thánh nữ đáp: “Sao chị lại có phúc về việc đó? Sao chị lại muốn Chúa dùng chị hơn kẻ khác? Miễn nước Chúa trị đến trong mọi tâm hồn, còn dụng cụ thì có quan chi!”
Một hôm trong câu chuyện thân mật, Thánh nữ nói mình ước ao được chết vì yêu Chúa, Người lại khiêm nhượng thêm rằng: “Nhưng không cần được biểu lộ điều đó, miễn có là đủ. Chúa chúng ta đã chết trên Thánh Giá vì yêu, và Mẹ coi đây, cơn hấp hối của Ngài như thế nào!”
Trong thư gửi cho chị Céline, Têrêsa viết: “Chúng ta đừng quên Chúa Giêsu là kho tàng ẩn giấu, ít linh hồn biết khám phá kho tàng quý hóa đó, vì họ chỉ ưa thích những gì hào nhoáng... “Mà để tìm kiếm vật gì giấu kín, thì người ta cũng phải ẩn mình đi’ . Ước chi đời chúng ta nên như một mầu nhiệm...”.
Thánh nữ chuyên cần thực thi những việc lành nhỏ mọn thật kín đáo, và vì Người muốn trung thành, và chỉ hành động dưới cái nhìn của Chúa Giêsu mà thôi, nên có nhiều việc Người làm mà không bao giờ có ai biết tới.
Về nỗi đơn độc trong tâm hồn, Têrêsa tâm sự: “Suốt năm năm trời đằng đẵng, cảnh cô đơn này vẫn là của riêng con, chỉ một mình con hay biết. Đó chính là bông hoa không được ai biết tới mà con muốn đem dâng cho Chúa Giêsu, bông hoa ấy chỉ tỏa hương thơm lên trời mà thôi.”
Ít lâu trước khi qua đời, Thánh nữ nói: “Trong sách tiên tri Isaia có chép: ‘Ngài không xinh đẹp, không rực rỡ, dung nhan Ngài như bị che kín, chúng ta đã thấy Ngài mà chẳng nhận ra Ngài...’ (Is 53,2-3). Những lời đó đã trở nên nền tảng việc tôn sùng Nhan Thánh Chúa cho con, hay nói đúng hơn, nền tảng lòng đạo đức cho con. Con cũng vậy, con ước mong được như Chúa Giêsu: không rực rỡ, không diễm lệ, và không được ai biết đến!”
Dù Têrêsa cho sự khinh chê là “quá vinh dự đối với mình”, nhưng ngay từ năm 14 tuổi, lời này của Thánh Gioan Thánh Giá đã khích lệ lòng nhiệt thành của Người: “Lạy Chúa, xin cho con được đau khổ và được người đời khinh chê”.
Người đã viết cho Mẹ Agnès de Jésus: “Ôi thiên đàng! thiên đàng! Con ước ao lên thiên đàng để được thấy Nhan Thánh Chúa để đời đời được chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt vời của Ngài; nhưng khi chờ đợi ngày vinh phúc ấy, con rất ước ao được chịu đau khổ và khinh chê ở đời này”.
Trong câu chuyện thân mật, Thánh nữ đã tâm sự với một tập sinh: nếu Người không thể ở được trong Dòng Kín, thì Người sẽ gửi thân vào trại cải huấn như một “hối nhân” để sống cuộc đời chịu khinh chê và không ai để ý đến.
“Con tha thiết ước ao được chịu sỉ nhục”, Thánh nữ quả quyết thế, và trong những ngày cuối đời, Người còn cảm thấy niềm vui chan chứa khi nghĩ rằng chị em đôi khi vẫn gặp thấy Người bất toàn. “Và niềm vui ấy làm cho con cảm thấy êm ái hơn tất cả những lời ca tụng, lời ca tụng chỉ làm cho con chán ngấy.”
Người thú nhận, và ta thấy Người rất thành thực: “Những lời khiển trách đối với Người như một bữa tiệc mỹ vị làm cho linh hồn Người tràn ngập niềm vui.” Nhưng chính Thánh nữ cũng ngạc nhiên về tâm tình đó. Người nói: “Không hiểu sao một việc mà tính tự nhiên không ưa như vậy, lại có thể làm cho con vui mừng dường ấy! Nếu chính bản thân con không có kinh nghiệm, chắc con không thể tin được...”.
Về những lời đôi khi người ta khen tặng Người, Têrêsa quả quyết: “Quả thực lời ca tụng đó chẳng gợi cho con chút tự đắc nào, vì con hằng nhớ tới những nỗi khốn cùng của con. Bông hoa nhỏ vẫn giữ kỹ trong đài hoa những giọt sương khiêm hạ quý hóa đã nhận được khi xưa, để luôn luôn nhắc nhủ mình là bé mọn và yếu đuối. Hết mọi thụ tạo có thể cúi nhìn nó, thán phục nó, hoặc tấm tắc khen ngợi nó, điều đó không bao giờ có thể thêm cho nó được một chút thỏa thích hư danh nào vào nguồn vui chân thực nó cảm thấy trong tâm hồn, vì nó nhận biết mình là một tạo vật bé mọn, hư vô, không hơn không kém, trước mặt Thiên Chúa!”
Thánh nữ đã nguyện xin: “Lạy Chúa Trời con, xin chớ để những lời khen tặng như dầu quá êm dịu cho bản tính tự nhiên làm yếu mềm đầu óc con” (Tv 140,5), nghĩa là tinh thần con, kẻo nó làm cho con tưởng con đã có những nhân đức mà nhiều lần con đã khổ công thực tập.”
Khi suy tới lời Philatô hỏi Chúa Giêsu: “Chân lý là gì?”, rồi ông bỏ đi không đợi Chúa trả lời (Ga 18,38), Thánh nữ nói: “Phần con, con luôn luôn thưa cùng Chúa: Lạy Chúa, con sẵn lòng đợi Chúa, xin Chúa hãy đáp lời con, khi con khiêm cung thưa cùng Chúa: Lạy Chúa, chân lý là gì? Xin cho con nhận thấy sự vật đúng với chân giá trị của chúng, xin đừng để giả trá mê hoặc con.”
Và Chúa đã hoàn toàn nhận lời Thánh nữ nài xin, nên Thánh nữ viết: “Ơn cao trọng nhất Đấng Toàn Năng đã ban cho con là làm cho con (Lc 1,49) thấy mình bé mọn, và con không thể làm được một việc lành nào.”
Ít ngày trưởc khi chết, Thánh nữ còn lưu ý đến điều đó: “Phần con, con chỉ có ánh sáng để nhìn thấy con là bé mọn hư không, ơn đó giúp con nhiều hơn là ánh sáng về Đức Tin.”
Trong cơn bệnh, có một lần Người quá yếu liệt, nên tỏ ra hơi buồn vì chị y tá không hiểu Người, Người liền kêu chị lại và nói trong nước mắt: “Xin chị tha thứ cho em!” Vài phút sau, trong câu chuyện thân mật, Người nói: “Con sung sướng nhận thấy mình bất toàn như vậy, và con rất cần lòng Chúa thương xót trong giờ lâm chung.”
Và để trả lời một câu hỏi, Người nói: “Em còn rất nhiều yếu đuối, nhưng em vẫn vui. Không phải em luôn vượt lên trên được những chuyện vụn vặt của thế trần này đâu; tỉ như em phải áy náy về một lỗi lầm đã nói hay đã làm, bấy giờ em sẽ hồi tâm và tự nhủ: Ôi! tôi vẫn còn ở bước đầu như xưa! Nhưng em nghĩ đến điều ấy với tâm hồn thật thanh thản và không chút phiền não. Thật là êm ái khi cảm thấy mình yếu đuối và bé mọn!”
Chúng ta còn đọc thấy trong Truyện Một Tâm Hồn: “Lạy Chúa, con vui sướng vì thấy mình yếu đuối và bé mọn trước mặt Chúa và tâm hồn con vẫn được bình an.”
Một lần, mấy tháng trước khi Thánh nữ qua đời, một chị nhờ Người giúp một việc, mà không biết Người đang bị cơn sốt hành hạ dữ dội. Khi ấy Mẹ Agnès de Jésus có mặt ở đó cũng nhận thấy vẻ bất mãn lộ ra trên nét mặt Têrêsa. Ngay tối hôm ấy, Têrêsa viết cho Mẹ những hàng này: “Hôm nay con đã để cho Mẹ thấy nhân đức của con, những kho tàng nhẫn nhục của con đó! Con giảng giải cho chị em thì hay ho lắm! Nhưng con vẫn hài lòng vì Mẹ thấy con kém nhân đức! Con tự nhận con dữ lắm! Nhưng con sung sướng vì con kém nhân đức hơn là nếu được Chúa nâng đỡ, để con nên gương kiên nhẫn cho kẻ khác; điều đó giúp ích cho con để con thấy rằng Chúa Giêsu bao giờ cũng thật dịu dàng và âu yếm với con!...”
Về sau Thánh nữ còn nói: “Khi ta khiêm nhượng chấp nhận mình bất toàn thì Chúa đến với ta ngay.”
Khi thuật lại câu chuyện trên cho một tập sinh, Thánh nữ nói: “Chị sung sướng vì chị ...x... nhận thấy chị không nhân đức gì cả, và chị cũng cảm thấy như thế.”
Thánh nữ còn tiến xa hơn nữa, Người coi những lần mình không hoàn toàn chiến thắng được bản thân là một ích lợi; mỗi lần thay vì thích thú nghĩ đến lòng quả cảm của mình, thì nhớ đến cuộc chiến đấu kia, lại giúp Người hạ mình ở khiêm nhượng.
Năm lên 16 tuổi, Têrêsa viết cho chị Céline thế này: “Chị muốn không khi nào sa ngã ư? Đối với em, sa ngã hằng giây phút cũng chẳng hệ gì! Vì nhờ đó em sẽ thấy mình yếu hèn, và em sẽ tìm được ích lợi lớn lao. Lạy Chúa, nếu Chúa chẳng ôm con vào lòng, thì con chẳng làm nên chuyện gì, và nếu Chúa để con một mình, thì tất nhiên Chúa bằng lòng thấy con ngã xuống. Vậy con chẳng lo lắng gì nữa, nhưng con sẽ luôn luôn giơ tay khẩn nguyện hướng về Chúa... Con không thể tin rằng Chúa nỡ bỏ con.”
Ta còn đọc thấy trong tập Tự Thuật của Người: “Bây giờ con cam chịu nhận thấy mình luôn luôn bất toàn, và con lấy thế làm vui.”
“Sau này có thể con nhận thấy rằng thời con đang sống đây, con có đầy yếu hèn, khuyết điểm, nhưng con không bỡ ngỡ chút nào, cho dầu con thấy con là chính sự yếu đuối, con cũng không buồn phiền, trái lại, con lấy làm vinh dự vì sự yếu hèn của con, và mỗi ngày con sẵn sàng khám phá thêm những khuyết điểm mới trong con.”
Trong thư gửi cho người em họ trước khi chị này nhập Dòng, Têrêsa viết: “Em sẽ lầm to, nếu em tưởng chị đang hăng hái tiến mạnh trên đường hy sinh. Thực sự, chị yếu đuối, yếu đuối lắm! Và mỗi ngày chị lại rút được một kinh nghiệm mới và bổ ích cho linh hồn. Nhưng Chúa Giêsu muốn dạy cho chị bí thuật này là lấy làm vinh dự về những yếu hèn của mình (2 Cr 11,5). Đó là một ơn cao cả, mà nhờ đấy tâm hồn chị tìm được bình an và nghỉ ngơi.” Trong Truyện Một Tâm Hồn Thánh nữ còn viết: “Vâng, con là một linh hồn bé nhỏ chỉ có thể dâng cho Chúa những việc cỏn con; thế mà con lại hay bỏ mất nhiều hy sinh nhỏ mọn có sức làm cho tâm hồn con được nhiều bình an; nhưng điều đó cũng không làm cho con thất vọng. Con cam lòng chịu mất đôi chút bình an, và lần sau con cố gắng cẩn thận hơn”.
Tóm lại, sự khiêm nhường rất chân thực này đã đặt Thánh nữ trên đỉnh cao xa trong sáng mà nơi đó những tâm tình khoe khoang, tự đắc không thể chạm đến được. Vì vậy, nói về các ơn Chúa, Têrêsa dám quả quyết: “Con thấy con không còn sợ hãi gì nữa, bây giờ con có thể khoan khoái dâng lại cho Chúa những điều thiện hảo mà Ngài đã muốn đặt để nơi con. Nếu Chúa muốn làm cho con ra vẻ tốt hơn con có, điều ấy chẳng hệ gì tới con. Chúa tự do hành động theo sở thích của Ngài”.
***
Những lời Têrêsa khuyên dạy các tập sinh thực tập nhân đức khiêm nhượng phản ánh tâm tình này: “Khi ta phạm một lỗi nào, không bao giờ ta nên qui trách cho một lý do tự nhiên, như: tại bệnh tật, thời khí, nhưng ta hãy nhận đó là tại ta còn bất toàn, và ta đừng ngã lòng. Vì sách Gương Phúc nói: Không phải những dịp đó làm cho con người nên giòn mỏng thêm, nhưng chúng chứng tỏ cái chân thực của con người” (GP. Q1.16,4)
“Người ta cho các chị là bất toàn là phải. Đó chính là điểm lợi cho các chị, bởi nhờ đó các chị có dịp tập khiêm nhượng. Khiêm nhượng không những ở tại nghĩ và nói rằng mình đầy khuyết điểm, nhưng còn ở tại vui sướng khi kẻ khác nghĩ và nói về ta như thế.”
“Có một chỗ mà không ai muốn, đó là chỗ rốt hết. Chỉ ở chỗ đó mới hết khoe khoang và phiền muộn. Nhưng “đường lối của con người không luôn luôn tuỳ quyền ước định của mình”  và đôi khi chúng ta còn thấy mình ước muốn làm những chi là hào nhoáng. Khi ấy chúng ta hãy khiêm nhượng kể mình vào số những kẻ bất toàn, chúng ta hãy liệt mình vào số những linh hồn nhỏ mọn rất cần được Chúa nâng đỡ từng phút giây. Vừa khi Chúa thấy chúng ta nhận mình là hư vô và thưa cùng Ngài rằng: ‘Lạy Chúa, chân con đã lảo đảo, nhưng Chúa nhân từ xót thương đã làm cho con nên vững mạnh’ (Tv 93,18) thì Ngài giơ tay dìu dắt chúng ta; còn nếu chúng ta muốn làm những việc to tát, dù lấy cớ là do lòng nhiệt thành đi nữa, thì Chúa sẽ bỏ mặc ta ngay. Vậy ta chỉ cần ở khiêm nhượng, vui lòng chịu đựng những bất toàn của mình. Đó là sự thánh thiện chân thực mà ta phải bước theo.”
Tham vọng của Thánh nữ là mong ước được “chỗ rốt hết” này, Người viết: “Chỉ cần đọc qua trang Phúc Âm, con liền được thưởng thức hương thơm ngọt ngào của cuộc đời Chúa Giêsu, và con biết con phải bước theo đường lối nào...”. Trong một tập thơ, Têrêsa viết:
Vì con, trên bờ sông vắng lạ
Muôn nhuốc nha, chịu cả, Chúa ôi!...
Âm thầm con muốn trên đời
Ở nơi rốt hết vì Ngài Giêsu!
Thánh nữ còn nói: “Một khi có lòng khiêm nhượng, tất nhiên ta sẵn lòng cho kẻ khác sai khiến.”
Thánh nữ còn nhấn mạnh điểm này với chị y tá: “Không những chị nên coi mình như một nữ tì hèn mọn của các bệnh nhân, mà còn như đứa nô lệ hèn mọn, ai ai cũng có quyền sai khiến, và thân phận nô lệ là không được nghĩ tới chuyện than phiền.”
Trong truyện Một Tâm Hồn, Thánh nữ viết: “Ta phải khiêm nhượng xin những gì mình thiếu thốn, như người nghèo đưa tay ra nhận của cần thiết. Và nếu có bị khước từ, họ cũng chẳng lạ gì, có ai nợ nần gì với ‘người ăn xin’ đâu.”
Thánh nữ còn viết cho chị Céline: “Nếu chị muốn chịu đựng trong an bình cơn thử thách bất mãn về mình, là chị sẽ dâng cho Chúa Giêsu một nơi nương ẩn êm ái, thật thì chị phải đau khổ, vì chị sẽ phải ở ngoài nhà linh hồn chị, nhưng chị đừng sợ, chị càng khó nghèo, Chúa Giêsu càng thương chị.”
Tính phân bì đã khéo ẩn trong lời này: “Em nản chí vì không thể bắt chước Chị yêu Chúa cách tế nhị được.” - Thánh nữ liền bảo: “Mỗi khi em bị tư tưởng ấy đến cám dỗ, em hay than thở với Chúa Giêsu thế này: Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa, vì con chẳng có chút tâm tình tế nhị nào cả, nhưng con vui sướng vì thấy các chị em khác được ơn ấy”. - Rồi Thánh nữ lại nói tiếp: “Như thế chắc đẹp lòng Chúa hơn là em không bao giờ lỗi phạm một điều nhỏ mọn nào.”
Một tập sinh khác nói: - A! Khi em nghĩ tới những điều em phải chiếm cho bằng được!...
-        Đúng hơn em nên nói là những điều phải để cho mất! Chị thấy rõ em đi lầm đường rồi đó! Em sẽ chẳng bao giờ tới đích đâu: Em muốn leo lên núi, nhưng Chúa lại muốn hạ em xuống. Ngài đang đợi em ở dưới thung lũng khiêm nhượng phì nhiêu màu mỡ.”
Để khuyến khích một chị khác buồn phiền vì thấy mình không đủ can đảm, Thánh nữ bảo: “Chị than phiền về điều mà đáng lẽ phải làm cho chị hết sức hạnh phúc. Thay vì buồn chán, chị hãy vui mừng lên mỗi khi thấy mình yếu đuối, vì Chúa nhân hậu đã cho chị có dịp cứu được nhiều linh hồn cho Người hơn.”
Trong thư gửi cho người em họ, Têrêsa viết: “Em muốn thấy kết quả những cố gắng của em à? Nhưng chính đó là điều Chúa Giêsu muốn giấu em. Ngài thích chỉ một mình Người thấy những kết quả cố gắng mà ta dâng kính Người để an ủi Người.”
Nơi khác Thánh nữ viết: “Hãy dâng cho Chúa hy sinh này: là không bao giờ tìm kiếm kết quả, nghĩa là suốt đời cảm thấy chán ngán chịu đau khổ, chịu sỉ nhục, chịu nhìn thấy những bông hoa mộng ước và thiện chí của mình tàn rơi không mang lại kết quả nào.”
Mặc dầu các Tông đồ cố gắng và đã vất vả thả lưới suốt đêm cũng vô hiệu, nhưng khi nhìn nhận mình bất lực, thì được một mẻ cá phi thường. Phép lạ ấy đã làm cho Têrêsa có một nhận xét chí lý này: “Nếu các Tông đồ chỉ bắt được vài con cá nhỏ, có lẽ Chúa không làm phép lạ ấy, nhưng vì các ông không bắt được con nào cả, nên quyền năng và lòng nhân từ Chúa đã làm cho lưới các ông đầy cá to! Đó là đặc tính của Chúa Giêsu: Ngài ban cho ta với tư cách là Thiên Chúa, nhưng Ngài muốn ta phải có lòng khiêm nhượng...”.
Chính trong cảm quan ấy mà Thánh nữ đã ước vọng “ra trước tòa Chúa với hai bàn tay trắng”, không có tài sản nào khác hơn là khiêm nhượng chấp nhận sự trần trụi của mình. Trong thư gửi chị Marie, Người viết: “Chị ơi, em xin chị hãy hiểu em, xin chị hãy hiểu rằng muốn yêu Chúa Giêsu và muốn nên của lễ cho tình yêu của Ngài, ta càng yếu đuối và khốn khổ bao nhiêu, thì ta càng thích hợp cho tác động của Tình Yêu Chúa thiêu đốt và biến hóa ta bấy nhiêu. Chị ước vọng trở nên của lễ cho Chúa thì đã đủ, miễn là luôn luôn bằng lòng ở trong tình trạng khó nghèo và bất lực, đó mới là điều khó, vì ‘ta tìm đâu ra người có tình thần khó nghèo thật sự? Phải tim ở nơi thật xa xôi...’”51, Sách Gương Phúc nói thế. Sách đó không bảo phải tìm trong số những tâm hồn cao thượng, nhưng bảo ở một nơi thật xa xôi, nghĩa là trong nơi thấp hèn, hư vô... A! Chúng ta hãy sống thật xa những gì là hào nhoáng bề ngoài, hãy yêu thích sự bé nhỏ của chúng ta, thích không cảm nếm gì hết, rồi Chúa Giêsu sẽ đến tìm chúng ta, dù chúng ta có ở xa thế nào đi nữa, Ngài cũng sẽ biến hóa chúng ta trở nên ngọn lửa yêu mến.

6: TIN TƯỞNG VÀO CHÚA

Lòng tha thiết yêu mến Chúa đã đưa Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đến chỗ triệt để tin tưởng vào Chúa. Trong thư gửi cho người anh thiêng liêng, Têrêsa đã viết: “Đường lối của em lả yêu mến và hoàn toàn tin tưởng vào Chúa. Em không hiểu tại sao lại có những linh hồn sợ một người Bạn quá dịu hiền như thế.”
Và Thánh nữ khuyến khích, thúc giục những linh hồn tín nhiệm Chị thì hãy tin tưởng và bắt chước Chị: “Chị đã thấy rõ linh hồn của em thật xứng là linh hồn của chị, vì linh hồn của em được Chúa kêu gọi đi lên với Ngài qua Thang máy Tin Yêu chứ không phải vất vả leo lên từng bậc thang khiếp sợ. Phải chăng sự sợ hãi đưa chúng ta đến công lý nghiêm khắc như người ta công bố cho các tội nhân? Nhưng Chúa sẽ không áp dụng thứ công lý ấy cho những kẻ yêu mến Ngài. Chúa vẫn quan tâm đến nỗi yếu hèn của chúng ta, Ngài biết tường tận bản tính chúng ta giòn mỏng, vậy em còn sợ gì nữa!”
“Phải, từ khi Chúa Giêsu cho chị hiểu tình yêu của Thánh Tâm Ngài, chị xin thú thật rằng, Ngài đã xua đuổi khỏi lòng chị mọi sợ hãi. Nhớ đến lỗi lầm đã qua khiến chị khiêm nhượng không bao giờ dám cậy vào sức riêng của minh, vì sức của chị là sự yếu đuối, lỗi lầm đó còn nói lên cho chị lòng thương xót và tình yêu của Chúa. Một khi với lòng tín cẩn như con thảo người ta trút vào lò lửa tiêu hủy của Tình Ái những lỗi lầm của mình, có lẽ nào chúng lại không được tiêu hủy đi?”
Trong tập thơ nhan đề “Sống Tình yêu” Têrêsa đã viết:
Sống Tình yêu là khử trừ sợ hãi,
Là không còn nhớ lại lỗi lầm qua;
Vết tội xưa, con không thấy, đã nhòa,
Trong lửa thánh tất cả đã xóa sạch!
Trong truyện Một Tâm Hồn Thánh nữ còn viết: “Con không bước đi trên đường sợ hãi, con luôn luôn biết tìm phương thế để được hạnh phúc và biết lợi dụng những nỗi khốn cùng của con. Chính Chúa Giêsu đã khích lệ con bước đi trên đường này.”
“Vâng, từ lâu con đã tin Chúa còn dịu hiền hơn người mẹ, và con hiểu tường tận tấm lòng từ mẫu! Con biết lòng người mẹ luôn luôn sẵn sàng tha thứ tất cả những lỗi lầm nhỏ mọn vô ý của đứa con.”
Thánh nữ còn tin tưởng hơn thế: không những chỉ được tha thứ; Người còn hy vọng được Chúa thưởng nữa. Người viết: “Trong khi tâm sự với Chúa Giêsu, con tỉ mỉ kể cho Ngài nghe tất cả những thất tín của con, vì con nghĩ rằng trong niềm phó thác mạnh dạn như thế, con sẽ chiếm được trái tim Ngài nhiều hơn và con tràn đầy tình yêu của Đấng không đến để gọi người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi.” (Mt. 9,3)
Trong thư gửi chị Céline, Têrêsa viết: “Quả thực em không luôn luôn trung tín đâu, nhưng không bao giờ em nản chí, em phó mình trong tay Chúa Giêsu. Như hạt sương nhỏ, em chìm sâu vào tận đài ‘Hoa Đồng Nội Cực Thánh’ và nơi đó em tìm lại được những gì đã mất, và còn hơn thế nữa...”.
Thánh nữ dám quả quyết: “Dù em có thấy lửa tình yêu như đã tắt lịm trong lòng, em cũng vẫn cố ném vào đống tro tàn những cọng rác nho nhỏ và em tin chắc lửa thế nào rồi cũng bùng cháy lại.”
Người nói với chị Céline : “Chúa Giêsu có thể làm được mọi sự; lòng trông cậy làm được phép lạ.”
Và Thánh nữ đã giải thích cho một tập sinh: “Nếu ta cậy trông Chúa ban cho ta một ơn gì mà Ngài không định ban, thì Ngài rất quyền thế và giàu có, vì danh dự, Ngài chẳng để ta thất vọng, và Ngài sẽ ban cho... Nhưng ta phải thưa với Ngài rằng: “Con biết rõ con không bao giờ xứng đáng được điều con ước mong. Con giơ tay kêu xin Chúa như một kẻ hành khất, con tin chắc Chúa sẽ nhận lời con.”
“Điều xúc phạm đến Chúa Giêsu và khiến Thánh Tâm Ngài phải sầu khổ đó là chúng ta thiếu tin tưởng vào Ngài.”
Ta còn đọc thấy trong kinh dâng mình của Thánh nữ: “Con cảm thấy nơi hồn con nhiều ước vọng bao la và, lạy Chúa, chính vì con tin tưởng vào Chúa, nên con xin Chúa hãy đến chiếm lấy linh hồn con.”
Và Thánh nữ còn cho ta biết cách Người chiếm hữu Chúa như thế nào:
“Con xin Chúa Giêsu đưa con vào lò lửa ái ân của Ngài, kết hiệp con với Ngài thật bền chặt để Ngài sống và hành động trong con.”
Điều Thánh nữ hằng mơ ước chính là: “Con càng cảm thấy lửa tình yêu nung nấu hồn con, con càng thưa cùng Chúa: “Xin Chúa hãy lôi kéo con” (Dc 1,3) và những linh hồn đến với con cũng chạy mau theo hương thơm của Đấng Chí Ái.
Khi nghĩ tới tất cả những gì mình đang mong đợi nơi Chúa và cả “hai tình mến” mà mình đã dám xin cùng triều thần thiên quốc, thì Thánh nữ dường như bỡ ngỡ về sự táo bạo của mình, Người kêu lên: “Ôi, những ước vọng bao la đó của con chẳng phải là ảo mộng, là điên dại sao? A! Nếu quả là thế, xin Chúa hãy soi sáng cho con; lạy Chúa, Chúa biết con đi tìm chân lý. Nếu những ước vọng của con chỉ là liều lĩnh, xin Chúa cho nó tan biến đi, vì những ước vọng ấy thật là những cực hình hành khổ con”.
Thánh nữ còn đi xa hơn nữa nên nói: nếu hạnh phúc thiên đàng không làm thỏa mãn những ước vọng Người hằng ấp ủ trong lòng, thi hạnh phúc thiên đàng còn kém hơn những niềm vui Người đã nếm hưởng nơi gian trần này. Người nói: “Con thú thực, nếu ngày kia, con không đạt tới những miền cao xa, nơi hồn con hằng ngưỡng vọng này, thì con cũng nếm được sự dịu ngọt trong cảnh đau khổ, trong cái điên dại của con, hơn là được hưởng sự dịu ngọt giữa nơi cực lạc muôn kiếp, trừ khi Chúa làm phép lạ, cất khỏi ký ức con những ước vọng ấy”.
Và tuy kết luận sau đây xem ra khó chấp nhận đối với Thánh nữ, thì nó cũng đem lại cho Người một sức mạnh mới để vươn lên: “Ôi, lạy Chúa Giêsu, nếu chỉ mới ước ao được yêu Chúa đã ngọt ngào thế, thì khi chiếm được tình yêu Chúa và đời đời được hưởng tình yêu ấy sẽ còn ngọt ngào đến thế nào!”
Tâm hồn Têrêsa tràn đầy khiêm tốn cậy trông, nên Người nhiệt thành muốn lôi cuốn hết mọi linh hồn theo đường lối đó: “A, nếu những linh hồn yếu đuối và bất toàn như con, cảm thấy điều con cảm thấy, thì không một linh hồn nào lại không hy vọng đạt tới đỉnh Tình Yêu”.
Thánh nữ không ngại khích lệ những người tội lỗi, Người viết trong truyện Một Tâm Hồn: “Tội trọng không làm con hết tin tưởng vào Chúa. Không, chẳng phải vì con được Chúa gìn giữ khỏi tội trọng mà con hướng lên Chúa với lòng cậy trông và yêu mến. Con cảm thấy cho dù lương tâm con có đầy những tội ác tầy trời mà con có thể phạm, con vẫn không mất lòng cậy trông. Với lòng thống hối tan nát, con sẽ lăn xả vào cánh tay Đấng Cứu Chuộc con. Con biết Ngài thương yêu đứa con hoang đàng, con đã nghe lời Ngài nói với Mađalêna, với thiếu phụ ngoại tình, với người đàn bà xứ Samaria. Không, không ai có thể làm con phải sợ hãi, vì con biết phải xử sự làm sao với Tình Yêu và lòng Xót Thương của Chúa. Con biết muôn vàn tội lỗi con sẽ tiêu tan trong nháy mắt như một giọt nước rơi vào giữa đống than hồng.
“Sách Hạnh các thánh ẩn tu trong sa mạc có kể lại câu truyện này: Một phụ nữ tội lỗi gây gương xấu trong cả vùng kia, được một vị ẩn tu khuyên ăn năn trở lại. Được ơn Chúa thúc giục, chị ta đã xin theo vị ẩn tu vào sa mạc để sống đời đền tội nhiệm nhặt. Ngay đêm thứ nhất của cuộc hành trình, trước khi tới chỗ ở, thì chị đã chết vì quá xúc động bởi lòng ăn năn thống hối trước tình yêu nhân hậu của Chúa. Chính lúc ấy vị ẩn tu trông thấy các thiên thần rước linh hồn chị vào lòng Chúa’’.
“Đó là một gương rất sống động về những gì con muốn nói mà không thể diễn tả được”.
Tiếp đó Thánh nữ trình bày những lý do khiến lòng Người say mến cậy trông vào tình yêu Chúa: “Lạy Ngôi Lời, lạy Đấng Cứu Chuộc con, chính Chúa là Phượng Hoàng con yêu mến đã thu hút con. Chính Chúa khi xuống chốn lưu đày này đã muốn chịu đau khổ và chịu chết để chiếm lấy các linh hồn và đem họ vào tận cung lòng Chúa Ba Ngôi cực thánh, Lò lửa ái ân muôn đời. Chính Chúa khi trở về nguồn sáng cao siêu còn muốn ẩn náu nơi thung lũng đầy nước mắt này dưới hình bánh nhỏ mọn để nuôi chúng con bằng chính bản thể của Chúa. Lạy Chúa Giêsu, xin cho phép con thưa cùng Chúa rằng: Tình Chúa yêu nhân loại chúng con đã đến mức điên rồ!... Trước tình yêu điên rồ ấy, làm sao lòng con lại không vươn lên tới Chúa? Làm sao lòng trông cậy con lại còn giới hạn? Ôi Giêsu, phải chi con nói được với tất cả những linh hồn bé mọn về lòng khoan dung khôn lường của Chúa! Con cảm thấy điều này, không thể có, nếu Chúa gặp một linh hồn nào yếu đuối hơn linh hồn con, chắc Chúa sẽ sẵn lòng ban những đặc ân còn vĩ đại hơn nữa, miễn là linh hồn ấy hoàn toàn cậy trông phó thác vào lòng thương xót vô biên của Chúa!”
Và đây là những lời sau hết nói lên lòng tin tưởng vào Chúa một cách rất đơn sơ: “Con không sợ phải chiến đấu trong giờ sau hết. Con không sợ ốm đau bệnh tật, cho dù đau đớn thế nào đi nữa, Chúa nhân lành đã luôn luôn nâng đỡ con, cứu giúp con và dẫn dắt con từ khi con còn tấm bé... Con trông cậy ở Ngài. Đau khổ có thể hoành hành đến tột độ, nhưng con tin chắc Chúa sẽ luôn luôn nâng đỡ con đến hơi thở cuối cùng”.
Như để đáp lại lời nguyện xin của Têrêsa, các thánh trên trời đã để Têrêsa phải chịu những cơn đau đớn ngoài thể xác và trong tâm hồn thật dữ dội. Người đã hãnh diện thốt lên: “Con tín các thánh muốn thấy con cậy trông Chúa đến mức nào!”.
“Chúa đã ban cho con đủ can đảm để đương đầu với mọi đau khổ... Lúc này con thấy không thể chịu đau khổ hơn được nữa, nhưng con vẫn không sợ, vì đau khổ càng chồng chất bao nhiêu, thì Chúa lại tăng thêm ơn chịu đựng cho con bấy nhiêu”.
Thánh nữ còn viết về lòng khiêm nhượng cậy trông: “Ôi, con chỉ là một chim non đáng thương hại với chút lông thưa thớt. Con không phải là phượng hoàng, con chỉ có đôi mắt và tấm lòng của phượng hoàng mà thôi... Vâng, dù con bé nhỏ tí ti, con cũng cả dám dán mắt nhìn Mặt Trời Tình Ái chí thánh và con nóng lòng băng mình lên tới Ngài. Con muốn bay lên, con muốn bắt chước phượng hoàng, nhưng tất cả những gì con có thể làm là chỉ nhấc nổi đôi cánh bé bỏng lên thôi, sức mọn hèn con không thể nào cất mình bay lên được.
Vậy số phận con sẽ ra sao? Đau đớn đến chết vì thấy mình bất lực sao? Không đâu, con không phàn nàn gì cả. Với lòng mạnh bạo phó thác, con muốn đứng đó đăm đăm nhìn Mặt Trời Chí Thánh dù có phải chết. Không gì có thể làm con nao núng, dù giông bão thét gào, dù mây mù che khuất Mặt Trời Tình Ái, đó chính là lúc thúc đẩy lòng con cậy trông Chúa đến vô biên. Và con nhất định không rời chỗ, vì biết rằng bên kia những áng mây dày đặc, Mặt Trời dịu dàng êm ái của con vẫn đang chiếu sáng!”

7: PHÓ THÁC CHO THIÊN CHỦA

Phó thác là “quả ngon ngọt của Tình Yêu” được liên kết mật thiết với lòng tin tưởng cậy trông và khiêm nhượng. (Augustinô).
Trong truyện Một Tâm Hồn, Thánh nữ Têrêsa Giêsu Hài Đồng đã nói: “Vì con bé mọn và yếu đuối nên Chúa Giêsu đã tự hạ đến với con và Ngài đã âu yếm dạy con những bí mật của Tình yêu”.
“Chúa vui lòng chỉ cho con biết đường duy nhất đưa tới lò lửa ái ân của Chúa: Đó là sự phó thác của đứa con thơ không sợ hãi, cứ ngủ yên trong cánh tay Cha mình”.
“Vâng, chỉ có sự phó thác hướng dẫn con. Con không có la bàn nào khác. Con không mong muốn gì hơn là làm trọn thánh ý Chúa nơi con”.
Khi còn ở ngoài thế gian, Têrêsa đã biết lấy việc làm đẹp lòng Chúa làm nơi an nghỉ duy nhất cho tâm hồn mình. Trong thời gian chuẩn bị nhập Dòng Kín, khi thấy công việc của Người rối ren, sự phó thác cho Chúa đã nâng đỡ Người. Lúc nào Người cũng được sự bình an sâu thẳm trong cõi lòng, vì Người chỉ tìm thảnh ý Chúa mà thôi.
Sau này chính Người kể lại: “Hồi ấy con đã biết dâng mình cho Chúa Giêsu Hài Đồng để nên đồ chơi rẻ tiền cho Chúa. Con xin Chúa đừng coi con như thứ đồ chơi đắt tiền mà trẻ con thường chỉ ngắm nhìn chứ không dám đụng chạm tới, nhưng hãy coi con như quả bóng nhỏ rẻ tiền: Ngài có thể quăng xuống đất, đá văng ra xa, chọc thủng rồi ném vào xó nhà hay âu yếm ôm ghì vào lòng, tùy ý Ngài. Tắt một lời, con chỉ muốn làm vui lòng Chúa Giêsu bé nhỏ và muốn hiến thân cho những sở thích ấu thơ của Ngài”.
Sau câu trả lời không dứt khoát của Đức Giáo Hoàng Lêô XIII, từ Rôma Têrêsa đã viết về cho Mẹ Agnès de Jésus những hàng này: “Ôi, thử thách của em lớn lao quá! Nhưng em chỉ là quả bóng nhỏ của Chúa Giêsu Hài đồng. Nếu Ngài muốn xé rách nó, tùy ý Ngài. Vâng, em chỉ muốn điều Ngài muốn...”.
Chính ngày lễ Khấn Dòng, Têrêsa đã cầu xin: “Lạy Đấng Chí Ái của lòng con, con xin dâng mình con cho Chúa, để thánh ý Chúa được hoàn toàn thực hiện nơi con”.
Vài năm sau Têrêsa lại viết cho chị Céline: “Ước nguyện của em là luôn luôn làm theo ý Chúa Giêsu. Chúng ta hãy để cho Chúa lấy hoặc cho đi tùy ý Ngài. Sự hoàn thiện ở tại làm theo thánh ý Chúa và dâng hiến toàn thân cho Ngài!”
Sau hết, ngay trước khi từ trần, Thánh nữ còn sáng tác một kinh cầu xin với Chúa Giêsu Hài Đồng, kinh này thực là âm hưởng trung thực những ước vọng đầu tiên của Thánh nữ: “Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, Kho tàng châu báu độc nhất của con, con phó trót thân con tùy sở thích Chúa, con không muốn niềm vui nào khác hơn là làm cho Chúa mỉm cười”.
Ngay ở trang đầu Truyện Một Tâm Hồn, sau khi so sánh các loại hoa khác nhau trong vườn, Têrêsa nhận xét: “Chúa thấy đẹp mắt khi dựng nên các vị Đại Thánh như hoa huệ trắng ngần, hoặc như hoa hồng khoe sắc rực rỡ; Chúa còn dựng nên những loài hoa bé nhỏ như hoa Bạch Cúc, hoa Má Tím cho vui mắt Ngài khi cúi nhìn xuống chân. Hoa nào càng vui lòng làm theo ý Chúa, thì càng nên trọn hảo”.
Thánh nữ còn nói: “Dầu có những người khác dâng cho Chúa ít hơn con, mà lại được nhiều công nghiệp, con vẫn thích hơn có ít công nghiệp trong khi dâng nhiều cho Chúa, nếu nhờ đó con làm trọn thánh ý Chúa”.
Một trong những thư cuối cùng Têrêsa viết: “Em không muốn về Quê Trời sớm hơn một phút theo ý riêng của em. Hạnh phúc duy nhất của em là luôn luôn sung sướng về những gì Chúa Giêsu trao ban”.
Trước đó mấy năm, Têrêsa cũng đã viết cho chị Céline: “Em muốn để Chúa Giêsu quản trị mọi lợi tức của em, để Ngài làm sinh lợi ở Ngân hàng Tình Yêu cho em. Em không muốn dây mình vào việc đó chút nào”.
Người nói tiếp: “Điều quan trọng đối với Têrêsa lúc này là phó thác, là hiến toàn thân cho Chúa”.
Thánh nữ cũng không ước mong thoát khỏi những cơn cám dỗ khủng khiếp nghịch Đức Tin:
“Bình an con, chính là thánh ý Chúa,
Giêsu ân tình duy nhất của con,
Sống yêu đương, sợ hãi không chút còn
Đêm như ngày, con một niềm yêu mến!”
Và: “Sống yêu đương là khi Chúa ngủ,
vẫn bình an trên sóng vỗ mưa gào,
Chúa lo gì, con không đánh thức đâu,
Trong an bình con đợi vào Thiên Quốc”.
Và, để diễn tả tâm tình phó thác hoàn toàn hơn nữa, Thánh nữ nói tiếp:
“Chúa nhớ chăng Thánh ý Ngài,
Nghỉ ngơi hạnh phúc nhất đời của con,
Con phó thác ngủ ngon, không sợ
Trong tay Ngài, Cứu Chúa của con”.
Trên bức họa Thánh Têrêsa Giêsu Hài Đồng sáng tác được đặt trong nhà nguyện Dòng Kín, người ta thấy một Thiên Thần nhỏ đang cầm cây đờn, Thiên Thần ngủ nhưng miệng vẫn điểm một nụ cười, còn khuỷu tay kia dựa bên nhà tạm. Đó là hình ảnh sự hoàn toàn phó thác với một tình yêu dầu sao vẫn luôn luôn sống động. Têrêsa nói: “Thiên Thần nhỏ ấy chính là con đó. Thiên Thần ngủ nhưng tâm hồn vẫn thức.” (Dc 5,2)
Trong một tập thơ khác Têrêsa viết:
“Trong tay Chúa, sợ gì cơn bão táp,
Phó trót mình... luật duy nhất đời con,
Bên lòng Chúa, kề Nhan Thánh, ngủ ngon
Đấy chính là Thiên Quốc lòng con đó!”
Theo Thánh nữ “Sống nhỏ bé, là không lo lắng gì cả”.
Và Người đã vạch ra lối sống này cho một linh hồn đang cơn sầu khổ: để lèo lái chiếc thuyền nhỏ bé của mình “Công việc duy nhất của đứa bé là phó thác, là để cho cánh buồm lướt theo chiều gió...”.
Ngay từ năm lên 16 tuổi, Têrêsa viết cho chị Céline những hàng này: “Đau khổ trong bình an, không phải là luôn luôn đau khổ với niềm an ủi, vì bình an không phải là niềm vui hay ít là niềm vui cảm thấy được... Muốn đau khổ trong bình an, chỉ cần muốn những gì Chúa muốn.”
Khi bàn đến việc có thể là Người lên đường sang nhà Kín Hà Nội thì Người chấp nhận không phải có ý nên hữu ích cho cộng đoàn đó, nhưng chỉ để thi hành thánh ý Chúa. Chính Thánh nữ đã minh chứng điều ấy: “Hiện nay con đang bệnh lắm và con chẳng khỏi được. Tuy nhiên con vẫn an lòng. Từ lâu con chẳng thuộc về con nữa, con đã trao phó toàn thân cho Chúa Giêsu... Ngài muốn làm gì con, tùy sở thích Ngài: Ngài đã ban cho con lòng ước mong sống kiếp lưu đày cho trọn vẹn, Ngài đã hỏi con có vui nhận uống chén đắng ấy không? Con vội giơ tay ra đón lấy, nhưng Ngài liền rút lại và tỏ cho con biết: nguyên sự chấp nhận thôi cũng đã làm Ngài hài lòng rồi.”
Và khi hai chị Người được chỉ định tạm thời đi thế Người, Thánh nữ nói: “Con vui nhận sống lưu đày với những người xa lạ; nhưng chén con cay đắng hơn nhiều khi chấp nhận cuộc sống lưu đày của các chị con. Ôi, con chẳng muốn nói lời nào để giữ các chị con lại, cho dù tâm hồn con phải đau đớn tan nát khi nghĩ tới những thử thách đang chờ đợi các chị.”
Trong việc vâng lời Bề Trên, Têrêsa cũng tỏ ra một tâm hồn phó thác tuyệt đối. Người bày tỏ với Mẹ Bề Trên: “Dường như con không thay đổi thái độ. Lòng hiếu thảo của con sẽ chẳng suy giảm chút nào, nếu Mẹ xử nghiêm khắc với con, thì con cũng vẫn nhìn thấy thánh ý Chúa, tỏ ra cách khác để mưu ích lớn lao cho linh hồn con.”
Thánh nữ hằng ước ao và tìm cách để được thuộc về Chúa Giêsu hơn nữa. Một hôm, một tập sinh kể cho Thánh nữ nghe những hiện tượng lạ lùng về kẻ bị thôi miên giao phó ý chí mình cho người thôi miên. Những chi tiết ấy làm cho Thánh nữ thích thú lắm. Hôm sau Người nói với em ấy: “Câu truyện em kể hôm qua đã giúp chị nhiều lắm, chị muốn được Chúa Giêsu thôi miên quá! Đó là tư tưởng đầu tiên của chị sáng nay khi vừa thức dậy... Trao phó cho Chúa toàn ý muốn của mình thật là êm đềm! Vâng, chị muốn Ngài chiếm trọn tài năng của chị, chị ước mong chớ chi không còn một hành vi nào là riêng tư nữa, nhưng tất cả là của Chúa và bởi Thánh Linh Chúa soi sáng hướng dẫn.”
Sự hoàn toàn phó thác để làm vui lòng Chúa khiến Têrêsa thản nhiên trước cái chết sắp đến, cũng như trước cuộc sống lâu dài, như ta đã xác nhận ở một vài chương trong tập sách này. Mỗi giây phút trên đời, Người đã minh chứng cho ta thấy rõ những tư tưởng đơn sơ và cao sâu này: “Điều lôi kéo tâm hồn em về thiên quốc, đó chính là tiếng Chúa gọi.”
Thực ra mục đích duy nhất của Thánh nữ là thi hành thánh ý Chúa mà không quan tâm gì đến, vui sướng hay nghỉ ngơi. Người nói: “Con đã hoàn toàn phó thác để sống, để chết, để khỏi bệnh, và cả đi Sàigòn nữa nếu Chúa muốn.”
Người còn viết trong truyện Một Tâm Hồn: “Con chẳng muốn chết mà cũng chẳng muốn sống. Nếu Chúa để cho con chọn, con sẽ chẳng chọn gì hết. Chúa muốn gì, con muốn cái ấy; Chúa làm gì, con thích cái ấy... Đừng tưởng rằng nếu khỏi bệnh con sẽ hủy bỏ hay thay đổi những dự tính nhỏ mọn của con. Không đâu Mẹ ạ, tuổi tác có nghĩa gì đối với Chúa, dầu con sống đến già nua, con cũng sẽ giữ tâm trạng bé thơ!”
“Chúa nhân lành muốn con phó thác cho Ngài như một trẻ thơ không lo lắng đến những gì người ta sẽ làm cho mình.”
“Con không hề muốn xin Chúa nhân lành một điều chi cả. Giả như ngày Rước Lễ vỡ lòng, nếu con đã xin: Lạy Chúa xin cho con được chết trẻ! thì hẳn giờ đây con sẽ ân hận lắm, vì như thế, con không chắc là con có chi tuân theo ý Chúa hay không.”
“Theo tính tự nhiên thì con thích chết hơn, nhưng linh hồn con đã khuất phục tính tự nhiên, và giờ đây con chỉ có thể thưa cùng Chúa:
“Con còn muốn sống lâu hơn,
Nếu là ý Chúa, còn ơn nào bằng.
về thiên quốc con hằng theo Chúa,
Vâng ý Ngài, con hứa xin theo.
Ái ân nung nấu sớm chiều,
Tình yêu thiêu đốt con nhiều tới khi...
Sống chết con có lo gì,
Yêu Chúa, hạnh phúc, con thì thế thôi!”
Một chị hỏi Têrêsa: “Nếu chị biết vài ngày nữa sẽ chết, chị có thích không? Chị không thích thế hơn là phải chịu tình trạng đau khổ ngày càng gia tăng trong nhiều năm tháng hay sao?”
-        “Ôi, em chẳng thích gì hết, điều duy nhất làm em hài lòng là vâng theo thánh ý Chúa.”
Thánh nữ còn nhắc đi nhắc lại mãi lời này: “Em chẳng thích cái nào hơn cái nào hết. Điều gì Thiên Chúa thích hơn và chọn cho em, đó chính là điều làm em thích hơn.”
“Nếu em chết mà không được chịu Phép Xức Dầu Thánh là tại Cha Nhân Lành chỉ đến tìm em cách đơn sơ vậy thôi. Chắc chắn rằng được chịu các phép sau hết trong giờ lâm chung là một đặc ân Chúa ban; nhưng nếu Chúa không ban cũng chẳng sao... vì TẤT CẢ ĐỀU LÀ HỒNG ÂN...
Từ khi còn bé, con đã say mê lời này của Thánh Gióp! “Dù Chúa có giết con, con cũng vẫn cậy trông Chúa.” (G 13,15). Nhưng con thú thực, con phải trải qua một thời gian khá lâu, mới tới đến bậc tín thác này. Nay con đã biết phó mình cho Chúa, Ngài đã ẵm con nơi cánh tay Ngài và đặt con vào đường phó thác.”
Một hôm, nhân nói về Luyện Ngục Thánh nữ bảo: “Em không lo, em sẽ luôn luôn bằng lòng chịu lý đoán của Chúa.”
Chị em khuyên Thánh nữ cầu xin để khỏi thổ huyết ban đêm, Người dịu dàng đáp lại: “Em không muốn tự ý xin điều đó, vậy các chị cầu xin cho em đi, nếu các chị muốn.”
Yên lặng một lát... Người nói tiếp: “Dầu sao tối nay em cũng xin ơn đó, vì các chị muốn thế. Nhưng tận thâm tâm, em không thể nào không thưa với Chúa để xin Ngài làm theo ý Ngài.”
Trong lúc truyện trò thân mật, Thánh nữ nói: “Hồi trước người ta đã ép em cầu xin cho cha em được khỏi bệnh ngày em khấn dòng, nhưng em chỉ có thể cầu nguyện theo công thức này: “Lạy Chúa, con nài xin Chúa, nếu đẹp lòng Chúa, xin cho ba con khỏi bệnh!”
“Trong những cơn thử thách gay go nhất, cũng như khi đến phiên em xướng câu Thánh Vịnh ở nhà nguyện, ước chi các chị biết em đọc câu: “In Te Domine speravi! - Lạy Chúa, con trông cậy vào Chúa" (Tv 30,1) với tâm tình sốt sắng cậy trông đến mức nào!”
Một hôm các tập sinh tỏ ra buồn khi thấy Người phải đau đớn quá, và họ lo sự bệnh tình Người còn trầm trọng hơn nữa, Thánh nữ nói với các em: “Các em nghĩ tới những đau khổ ngày mai là sai lắm, như thế là các em đã xen vào việc của Đấng Tạo Hóa! Chúng ta là những kẻ chạy trên đường yêu mến, thì không bao giờ nên phiền khổ chi cả.”
Một chị nói: “Em sẽ xin Đức Mẹ cho chị bớt khó thở”. Thánh nữ đáp: “Thôi hay để việc đó cho các Đấng trên trời định liệu”.
“Khi ta cầu xin với Đức Mẹ mà không thấy Mẹ nhận lời, đó là dấu chắc chắn Mẹ có lý do để từ chối, vậy ta không nên năn nỉ nữa.”
Một chị nhắc lại cho Thánh nữ lời Người đã cầu xin với Đức Mẹ:
“Mẹ ơi, hãy bảo Giêsu,
Với con đừng có ngại chi bao giờ...”
Têrêsa kêu lên: “Vâng, em không hề hối hận về điều ấy.”
Có chị muốn biết Thánh nữ có ước ao biết ngày chết của mình không, Người đáp lại: “Không đâu, chị ơi, em chẳng lo gì đến chuyện ấy cả, em đoan chắc với chị như thế!”
“Phải đau đớn bệnh tật mà trong lòng không được ơn an ủi, chắc khổ tâm lắm, phải không chị?”
- Vâng, nhưng đó là một đau khổ không làm em ngại ngùng. Em vui lòng chịu đau khổ, vì Chúa muốn như vậy.
Thánh nữ sợ mình không phó thác hoàn toàn cho Chúa, nên ngày kia Người thố lộ:
“Con lo lắng vì đã sợ chết, bởi thình lình con tự hỏi: chết là gì? Phải làm thế nào để chết? Nhưng chắc chắn con không sợ những chi xảy ra sau khi chết. Vả lại ngay sau đó con đã phó trót mình con cho Chúa...”.
Trong lúc dường như Têrêsa đang trong cơn hấp hối, Người nói: “Mặc dù Bác sĩ bảo em không phải hấp hối, nhưng dầu sao em cũng muốn hấp hối một lần.”
- Nhưng nếu được lựa chọn thì chị nghĩ sao?
- “Em chẳng lựa chọn chi hết.”
 

ĐOẠN 2. ĐỨC TINH ĐƠN SƠ: ĐẶC ĐIỂM TRỔI VƯỢT CỦA THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU


“Ta ước mong cho tất cả các con cùa Ta đều biết BÍ QUYẾT NÊN THÁNH của nữ tu Têrêsa Giêsu Hài Đồng
(ĐGH Bênêdictô XV)

Trong tập thơ nhan đề “Tại sao con mến Mẹ”, Têrêsa đã ca tụng Đức Nữ Vương Thiên Đình thế này:
“Nơi dương gian đoàn con nhỏ đông lắm
Không sợ gì, cứ ngắm Mẹ, Mẹ ơi,
Qua đường chung, Mẹ khôn sánh trên trời,
Xin Mẹ giúp, dẫn về nơi thiên quốc.”
Chính Têrêsa, “đoá hoa nhỏ” của Mẹ đã học hỏi và thấu hiểu tường tận gương mẫu tuyệt hảo về đức tính đơn sơ của Mẹ trong việc phụng sự Thiên Chúa.
Gương đơn sơ ấy chính Đức Mẹ đã nêu lên cho đoàn con cái soi chung. Vì thế Đức Mẹ là Mẹ của “những linh hồn bé mọn” mà “nơi dương gian đoàn con nhỏ ấy đông lắm”. Bởi thế Têrêsa đã cảm mến kêu lên:
“Đường chật hẹp dẫn về thiên quốc
Mẹ đã cho thấy trước tỏ tường
Vì Mẹ luôn sống khiêm nhường
Khiêm nhường hơn hết mọi đường, Mẹ ơi.”
 
Nhưng dầu sao ta cũng phải công nhận rằng khi bước đi trên “con đường bé mọn” kia, Têrêsa đã khám phá ra một nếp sống thường bị người đời coi rẻ, nếu không muốn nói là không ai biết đến, kể từ thời Đức Maria.
Thực ra, hỏi đã có mấy linh hồn thấu hiểu bài học Nazarét như Têrêsa? Và phải chăng Người đã được chọn sống một nếp sống hoàn toàn thông thường, nhưng với một lòng trung thành siêu nhiên và kiên trì, để làm hiện tỏ hơn nữa dấu vết con đường chật hẹp? Đó chính là điều Đức Thánh Cha Bênêdictô XV đã xác nhận trong bài diễn văn muôn đời đáng ghi nhớ, khi Ngài tuyên phong đức anh hùng trong các nhân đức của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu...
E rằng vượt quá giới hạn đề tài đã dự định, là chỉ đề cập đến tinh thần của người nữ tì Chúa, chương sau đây sẽ quảng diễn điều mà ta có thể gọi nơi Người là ơn gọi đặc biệt sống đức đơn sơ.

1: ĐƠN SƠ: ĐẬC ĐIỂM ĐỜI SỐNG TÊRÊSA

Rất nhiều trường hợp đã cho ta thấy rõ đặc điểm đơn sơ ấy. Trong đời sống của Têrêsa tất cả đều thông thường, tất cả đều ẩn khuất. Thực ra Thánh nữ phải đau khổ nhiều, nhưng không hề được một đặc ân nào Chúa ban, ngoài những ơn Chúa kín nhiệm và Quan Phòng thường dùng đề nâng đỡ các linh hồn trung tín theo đường lối thông thường của Ngài.
Để dẫn đưa Têrêsa đi sâu hơn vào “Con đương bé nhỏ khiêm cung” Thiên Chúa hình như đã che phủ các ơn ban cho Thánh nữ và cẩn thận giấu kín những đặc ân dành để cho Người. Vì thế khi còn nhỏ, ở Lisieux, ngoài cha và các chị của Têrêsa, nhiều khi hình như không ai biết gì đến những đức tính đặc biệt và về trí thông minh của Têrêsa. Chính Têrêsa đã bày tỏ: “Thường thường người ta hay khen trước mặt con trí thông minh của những người khác; còn trí thông minh của con, tuyệt nhiên không hề bao giờ có ai đá động gì tới; vì thế con cho là mình chẳng thông minh gì cả; và con chấp nhận như thế.”
Năm lên 15 tuổi, khi bước chân vào dòng Kín, Têrêsa không được ai khích lệ hoặc tặng khen một lời nào như thường có cho những chị em khác. Trái lại, Cha Bề Trên nhà Dòng, vẫn phản đối việc nhập Dòng của Têrêsa, Ngài đã nói với Têrêsa những lời nghiêm khắc,và sau cùng Ngài quay sang nói với Mẹ Bề Trên: “Thôi, thưa Mẹ, tôi vâng lời Đức Giám Mục, mà tôi chỉ là kẻ được ủy quyền, nhưng tôi ước mong mọi người trong nhà, sau này sẽ không phải hối hận vì đã nhận một thỉnh sinh trẻ như thế này.”
Một khi đã vào tàu thánh rồi, không vì trẻ tuổi mà Têrêsa được nuông chiều, Têrêsa còn bị quở trách, không được chuẩn chước chút nào.
Khi bỏ phiếu đề nghị cho Têrêsa Mặc Áo và khấn Dòng, nhiều chị đã không bằng lòng cho ba chị em Người cùng ở trong một nhà Dòng, nên các chị đã không chịu bỏ phiếu.
Nếu sau này Mẹ Bề Trên có trao cho Têrêsa nhiệm vụ huấn luyện các tập sinh, thì điều đó cũng chẳng danh dự chút nào; vì Người không được danh hiệu là bề trên Tập Viện, nhưng chỉ được coi như Chị Cả của Nhà Tập mà lẽ ra Người phải rời khỏi nhà Tập sau ba năm khấn dòng; nhưng vì nhiệm vụ đó nên Người ở lại Nhà Tập cho đến chết, không bao giờ được quyền thuộc về thành phần của Hội Đồng đan vìện.
Sau cùng, không khác chi Thánh Gioan Thánh Giá, mà nhiều người đồng thời đã nói: “Người đó chi là một tu sĩ dưới mức tầm thường.”
Têrêsa đã sống âm thầm, Người chẳng làm việc gì quan trọng trong Dòng, đến nỗi khi Người đau nặng gần chết, nhiều nữ tu đã tự hỏi: không biết khi chị Têrêsa chết rồi thi mẹ bề trên sẽ viết gì trong tiểu sử của chị?
Về phần Thánh trẻ, Chị lại vui sướng với cái vai trò thấp hèn như thế và chỉ ước mong được sống đơn sơ, ngay cả ở trên thiên đàng cũng vậy, như sẽ minh chứng sau đây:
Một tập sinh đánh bạo nói lên tư tưởng này: “Chị yêu mến Chúa quá, chắc Ngài sẽ ban cho chị nhiều ơn lạ lùng, chúng em sẽ thấy xác chị không phải hư nát!” Thánh nữ trả lời: “Ồ, làm gì có chuyện lạ lùng thế được. Như vậy là đi ra ngoài con đường “bé nhỏ khiêm nhường” của em rồi! Phải làm sao để các linh hồn bé nhỏ không thể phân bì với em đước chứ!”
Sau khi nhìn thoáng qua cuộc sống bề ngoài đơn sơ, chúng ta để ý đến đời sống nội tâm của Thánh nữ, thì cũng sẽ thấy nó khiêm tốn và không chút hào nhoáng, đến nỗi những linh hồn bị Chúa để bơ vơ cô độc nhất cũng không thể “phân bì” gì với Người được.
Chính Thánh nữ đã phải trải qua “lò lửa luyện lọc trước khi được nếm những hoa trái ngọt ngào của ơn phó thác hoàn toàn và tình yêu trọn hảo.”
Người cho chúng ta biết rằng cơn thử thách nặng nề về Đức Tin “không phải là một tấm màn che, nhưng là một bức tường cao ngất trời, che khuất cả bầu trời đầy tinh tú”. Người đã nói cho chúng ta về những bước đầu trong đời sống tu trì của mình: “Con phải bước đi trong đường hầm tối tăm.” Sau đó vài năm Người lại thổ lộ: “Chúa Giêsu vẫn ngủ mãi trong thuyền linh hồn con, khiến đôi khi con phải tự hỏi: không biết Chúa có yêu con không?”
Vì thế khi nghe người ta nói về ơn an ủi thiêng liêng mà Chúa ban cho vài linh hồn, Têrêsa đã kết luận: “Con tự nhủ, những ơn an ủi đó không dành cho con; phần con chỉ có đêm tối và đêm tối dày đặc...”.
Thánh nữ không được cảm nếm mình có khả năng thực thi nhân đức, và Người nhận thấy “Chúa Giêsu không muốn ban cho mình những ơn dự trữ,” Thánh nữ chỉ xin và Chúa chỉ ban nghị lực cho Người từng lúc và từng trường hợp để lướt thắng mình thôi.
Nếu Thánh nữ có biết được sự kín nhiệm trong hồn các tập sinh, thì cũng chẳng do một ơn giao cảm siêu nhiên nào. Chính Người đã quả quyết như thế trong một trường hợp rất đặc biệt; Người viết trong truyện Một Tâm Hồn: “Con không được ơn thấu rõ tâm hồn người ta, con chỉ nói lên những lời Chúa soi sáng cho con thôi.”
Mấy ngày trước khi Thánh nữ qua đời, Mẹ Agnès de Jésus hỏi Người: “Con không được ơn biết trước giờ chết sao?” Thánh nữ mỉm cười trả lời: “Ôi, thưa Mẹ, con biết trước sao được! Ước chi Mẹ biết con đang phải nghèo nàn đến mức nào! Con chẳng biết gì hơn điều Mẹ biết... Con cũng chẳng đoán được điều gì ngoài những cái con đang nhìn thấy và cảm thấy như Mẹ...”.

2. ĐƠN SƠ: ĐẶC ĐIỂM NƠI NHÂN ĐỨC CỦA TÊRÊSA

Với tính cách phổ quát của đức tính đơn sơ, không ai còn lạ gì khi thấy Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu chi thích thực tập những nhân đức nhỏ bé, dùng đủ mọi cách để chứng minh tình yêu cho Chúa.
Thánh nữ đã khiêm tốn nói: “Con khác xa các linh hồn thiện hảo, từ thuở nhỏ các ngài đã làm đủ mọi việc hãm mình phạt xác; con thì chỉ tập từ bỏ ý riêng, không bao giờ chữa mình, giúp đỡ những việc nhỏ mọn mà không khoe khoang, và trăm nghìn việc lặt vặt khác.”
Thực vậy, nhìn gương nhân đức của Thánh nữ rất đơn giản, những linh hồn bé nhỏ được tràn đầy hy vọng. Theo lời Đức Giám Mục Bossuet, thì điều đó có lẽ chỉ không thích hợp cho những người “đã chán ngán nếp sống đơn sơ, thông thường, vì họ bị lôi cuốn sống theo giác quan, vả lại họ không thành thực ăn năn hối cải, chỉ thích ca tụng những gì họ coi như không thể bắt chước được.”
Têrêsa không tìm những dịp lớn lao để tập nhân đức; nhưng những trường hợp nhỏ mọn nhất, thầm kín nhất lại hợp với sở thích của Người hơn cả.
Từ tấm bé Têrêsa “đã có thói quen không bao giờ phàn nàn kêu trách khi bị ai lấy mất của gì, và khi bị quở trách oan uổng, Têrêsa thích ở yên lặng hơn là chữa mình.”
Chính Chị đã thú nhận điều này trong Truyện Một Tâm Hồn: “Con say mê đọc sách, nhưng khi hết giờ, là con thôi ngay, dù đang đọc đoạn thật hấp dẫn.”
Têrêsa cũng không hé môi khi nghe chị cả bàn tính với cha, đừng cho “Nữ Hoàng Nhỏ” của cha học vẽ. Không ai có thẻ lường được nỗi hy sinh lớn lao ấy. Sau này Thánh nữ kể lại: “Hồi ấy con thích học vẽ lắm, nhưng không hiểu tại sao bấy giờ con có sức làm thinh như vậy.”
Trong Dòng, Người vẫn còn thích làm “những việc nhỏ mọn thầm kín như thế”, Người viết:
“Chúa ơi này đóa hoa hồng
Trên bàn thờ Chúa hương nồng sắc tươi,
Con đây mơ ước này thôi;
Tách từng cánh một, Chúa Trời, hiến dàng. “
Têrêsa thích làm những việc lặt vặt như “gấp xếp lại những áo choàng của các chị bỏ quên” và ‘tìm trăm nghìn cách để giúp đỡ chị em.”
Ngày nọ một chị bắt gặp Têrêsa đang chậm rãi uống một thứ thuốc đắng, liền bảo: “Uống lẹ lên chứ, uống một hơi cho hết đi!” Nhưng Têrêsa trả lời: “Không, em phải lợi dụng những dịp nhỏ mọn để hãm mình chứ, vì em không có khả năng làm được những việc lớn lao.”
Vì thế, những việc nhỏ mọn đến thế nào Têrêsa cũng không bỏ qua. Tất cả đều trở nên cho Người những dịp để tập nhân đức trung thành.
Một buổi tối kia, chị em thấy Người để con dao nhỏ ở ngoài cửa phòng, con dao mà ban ngày Người đã dùng. Sáng hôm sau chị em hỏi tại sao làm thế, Người cho biết: “Em không đem trả lại chỗ cũ được; vả, nó không phải là vật dụng trong phòng, nên em không muốn giữ nó ban đêm trong phòng.”
Theo gương Thánh Gioan Thánh Giá, Têrêsa thà thức dậy đi trả cái kim, hơn là giữ thêm một cái nữa, vì chỉ có phép giữ ba cái, như thói quen trong Dòng.
Tinh thần khó nghèo của Thánh nữ còn biểu lộ trong những việc nhỏ mọn nhất, như khi gọt bút chì, Người cẩn thận gom lại những mảnh vụn rơi ra để cho vào bếp.
Người có một cái đèn dầu, nhưng cái vặn bấc lên đã hỏng, phải dùng kim để lôi bấc lên, thế mà Người cũng hãm mình không đi xin cái khác.
Mới nhìn vào nếp sống ấy, ai cũng tưởng những việc nhỏ mọn kia chẳng là gì, không có gì vượt quá giới hạn của sự trung thành thông thường. Nhưng nhìn kỹ, người ta sẽ phải công nhận, đó là một sự anh hùng, âm thầm trung thảnh trong mọi chi tiết và trong mọi giây phút, luôn luôn kiên định không để lỡ mất một dịp nào mà không minh chứng tình yêu đối với Chúa.
Vậy, nếu chúng ta bỡ ngỡ trước những chi tiết đầy ý nghĩa của tấm lòng quảng đại thẳm sâu nơi Têrêsa, thì chúng ta hãy nhìn vào đời sống thánh thiện của Người: chúng ta sẽ thấy ngay khi nhận thức rằng mỗi canh chỉ mà Têrêsa dùng để dệt nên nếp sống ấy, là do Người thu lượm trong những biến cố thông thường của đời sống. Chỉ có tình yêu mới làm cho sợi chỉ ấy có giá trị vô cùng.
Thực ra những việc hãm mình của Têrêsa chẳng có chi dị thường: Chị không dùng những phương pháp tinh vi để hành hạ thân xác. Chị chi phó mặc cho Chúa quan phòng định liệu và rồi chờ đón những hy sinh Chúa gửi tới.
Năm đầu tiên ở Nhà Kín, trong những bữa ăn, Têrêsa được uống rượu tần, một thứ rượu bổ hơn đồ uống của các chị em khác. Nhưng Têrêsa lại ngồi bên cạnh một chị lớn hơn cũng được đặc ân uống cùng thứ rượu và cùng chai với mình. Chị này bị một thứ bệnh làm cho chị khát kinh khủng, nên chẳng để ý gì cả, nhiều khi uống hết cả phần của Têrêsa. Không dám lấy nước uống thay thế, sợ chị kia thẹn, nên hầu như Têrêsa nhịn uống hoàn toàn.
Ở nhà bếp, người ta cũng sớm biết Têrêsa, họ thầm khen Người, nhưng thường hơn thì họ lợi dụng để dọn đồ thừa cho Chị. Vì thế có khi nhiều ngày liên tiếp trong bữa ăn Người thường chỉ có mấy miếng cá chiên khô như gỗ, vì cứ chiên đi chiên lại nhiều lần.
Sau bảy năm trời liên tiếp như thế, Chúa muốn chấm dứt tình trạng ấy. Một chị bạn biết câu chuyện và động lòng thương Têrêsa nên thưa với Mẹ Bề Trên: “Thưa Mẹ con thấy có bổn phận phải thưa với Mẹ điều này là chị em đã làm mất sức khỏe của chị nhỏ Têrêsa Hài Đồng Giêsu!”
Nhưng Têrêsa vẫn luôn luôn vui vẻ lợi dụng việc nhỏ mọn hằng ngày đề tập từ bỏ mình. Chính Người đã kể lại trong Truyện Một Tâm Hồn: “Buổi tối kia khi đọc kinh xong Người tìm mãi không thấy cái đèn của mình ở đâu, vì có chị đã vô ý lấy đi. Thế là Têrêsa đành chịu ở trong tăm tối suốt một giờ đồng hồ mà lại là buổi tối Têrêsa định làm nhiều việc. Nhưng có hệ gì: “Thay vì buồn phiền bực tức, Têrêsa đã vui vẻ chịu đựng cảnh thiếu thốn vì nghĩ rằng nghèo khó không những ở tại thiếu thốn những thứ vừa ý, mà còn ở tại thiếu thốn cả những cái cần thiết nữa.”
Ngày mặc Áo Dòng, dù Têrêsa còn trẻ và kém sức khỏe nhưng Người cũng phải mặc những áo rất nặng. Têrêsa vẫn luôn vui tươi, không hề để lộ vẻ mệt nhọc và chỉ sau này khi gần chết Người mới tiết lộ điều đó.
Khi còn ở nhà tập, lần kia một chị muốn giúp ghim bộ Áo Đức Mẹ cho Têrêsa bằng chiếc kim lớn thường dùng để ghim Áo Đức Mẹ vào áo dòng, chị đã xâu gắn luôn vào cả vai Têrêsa. Têrêsa vui vẻ chịu đựng đau đớn này trong nhiều giờ, đau đớn không phải do Người gây ra và sau này Người thản nhiên bảo: “Hơi đau chút thôi.”
Nhanh chóng thích ứng theo ý Chúa trong hết mọi trường hợp, Người sẵn sàng chịu quấy rầy khi có ai gõ cửa, bằng cách không may thêm một mũi kim nào, ngưng bút hoặc cọ vẽ tức khắc để trả lời không trì hoãn.
Với cử chỉ rất tự nhiên và lịch thiệp trong nhiều cơ hội thực thi nhân đức, Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng còn làm nổi bật điểm đơn sơ.
Têrêsa tỏ ra vui tươi, bác ái và niềm nở, không có vẻ gì gò bó hoặc cố gắng bên ngoài, khiến ta phải thán phục nhưng lại không chú ý tới tột đỉnh của bậc hoàn thiện là công trình của ơn thánh mà dường như chỉ là sự triển nở của bản tính tự nhiên.
Cũng như lúc Têrêsa giúp một chị cao niên lo việc mở cửa Nhà Dòng, trong nhiều năm Người đã vâng lời chị này, mà tính tỉ mỉ lại thêm chậm chạp của chị đã làm cho Têrêsa phải kiên nhẫn không ngừng: chẳng hạn, phải để cái hộp thế này, phải ngồi thế kia v.v...và v.v...
Têrêsa vui vẻ dễ yêu làm cho người ta lầm tưởng Người không phải chiến đấu với bản thân, nhưng người nữ tì của Chúa, tính tình lại khác hẳn mà không bao giờ để cho ai đoán được cơn chiến đấu dữ dội đôi khi Người phải kiềm chế để giữ được mực dịu dàng không thay đổi.
Chính chị giữ cửa với Têrêsa kia, sau này khi về già đã nói: “Ôi, chị Têrêsa nhỏ yêu dấu ấy chính là một thiên thần, tôi thấy rõ điều đó”. Chị cũng nói thêm: “Tôi cỏ thể minh chứng là tôi đã làm cho chị hạnh phúc”. Nhưng mà không ai lầm như chị!
Người ta còn tìm thấy điểm tự nhiên và lanh trí trong câu chuyện sau đây, câu truyện làm nổi bật đức bác ái tế nhị của Têrêsa:
Một cựu Bề Trên vốn không chịu được mùi hoa thơm, nên không bằng lòng cho ai để hoa thơm nào dưới chân tượng Chúa Hài Đồng trên lối đi trong nhà. Một hôm thấy có một hoa hồng bằng giấy đặt nơi ấy, Mẹ liền gọi ngay Têrêsa đến bảo phải lấy đi. Nhưng muốn tránh cho Mẹ khỏi bẽ mặt vì lầm, Têrêsa vui vẻ reo lên: “Kìa Mẹ coi, ngày nay người ta khéo làm hoa giống thật quá, thoạt trông thấy ai cũng tưởng hoa mới hái ở ngoài vườn về.”
Nếu đôi khi cuộc chiến đấu trở nên ác liệt quá thì lại có những phương thế nhỏ rất đơn sơ và rất tự nhiên giúp Têrêsa chiến thắng. Cứ đọc qua đoạn sau đây trong truyện “Một Tâm Hồn” ta sẽ thấy rõ những phương thế ấy:
“Từ lâu trong giờ nguyện gẫm con ngồi gần một chị cứ động đạc hoài, lúc thì khua tràng hạt, khi thì động cái gì con không rõ, có lẽ chỉ có con là nghe thấy, vì tai con rất thính, mà con không làm sao diễn tả được nỗi bực mình của con. Con muốn quay nhìn để chị thôi khua động, nhưng con lại nghĩ: tốt hơn, là mình hãy cố gắng chịu, trước là vì lòng yêu Chúa, sau là để khỏi làm chị buồn.
“Rồi con ngồi yên, nhưng thỉnh thoảng mồ hôi lại toát ra, nên con đành phải nguyện ngắm bằng sự khó chịu đó. Sau cùng con đã tìm được cách chịu đựng trong an bình và vui vẻ, ít là nơi sâu thẳm của linh hồn. Bây giờ thay vì cố gắng tránh để khỏi nghe những tiếng động kia, điều này không thể được, con tập yêu thích những tiếng động khó chịu ấy, con chú ý để nghe cho rõ như nghe một bản nhạc thích thú, thế là giờ nguyện ngắm của con không còn là chuyện nguyện ngắm yên tĩnh nữa mà là dâng lên Chúa Giêsu bản nhạc du dương.”
Trong một dịp khác Têrêsa đã thắng mình bằng một phương pháp tương tự, nhưng đượm vẻ vui tươi dịu dàng, Người đã kể trong truyện Một Tâm Hồn thế này: “Ở nhà giặt, ngay trước mặt con, một chị đang giặt khăn tay, cứ chốc chốc lại làm bắn nước bẩn vào mặt con. Phản ứng đầu tiên là con muốn dang ra xa rồi lau mặt để làm cho chị kia biết phải giặt nhẹ tay hơn một chút, nhưng con lại nghĩ ngay nếu từ chối kho tàng quí giá người ta đang biếu mình cách quảng đại này thi thật là dại dột quá! Thế là con ở yên không tỏ vẻ gì khó chịu cả. Trái lại con còn cố gắng làm sao để cho nước bẩn bắn vào con nhiều hơn nữa, đến nỗi sau nửa giờ con thật tình thích cái kiểu xả khăn mới lạ này và con đã tự hứa mỗi khi có thể sẽ trở lại chỗ may mắn đó, nơi người ta đã tặng nhiều kho tàng quý giá.”
Điều mà Têrêsa không nói đến là cái “chỗ may mắn” mà Người chọn là chỗ xấu nhất về ánh sáng và thoáng khí.
Sau cùng đức tính đơn sơ của Thánh nữ luôn luôn được tìm thấy trong ý hướng trong sạch và siêu nhiên, đó chính là linh hồn của những việc Người làm. Người vâng lời là vâng lời chính Chúa trong các Bề Trên, vài ngày trước khi qua đời Người đã tiết lộ điều đó, nhờ thế Têrêsa đã “thấm nhiễm thói quen không bao giờ muốn xét xem những điều Bề Trên truyền dạy có ích lợi hay không.”
Với cái nhìn thẳng thắn ấy Têrêsa đã tuyệt trừ tất cả lo lắng cho mình.
Khi còn ở Nhà Tập, Mẹ Giám Tập đã truyền Têrêsa mỗi khi đau dạ dày phải trình cho người biết. Dù Têrêsa rất ngại làm điều đó, nhưng Têrêsa vẫn cố gắng chu toàn lệnh Bề Trên truyền dạy. Và vì ngày nào cũng đau, nên ngày nào Têrêsa cũng phải đến tường trình với Mẹ. Bấy giờ Mẹ lại quên khuấy đi mất lời truyền của mình, nên đã trách Têrêsa là hay kêu ca, nhưng Têrêsa vẫn cúi đầu chịu phiền trách, không hé môi chữa mình.
Lòng ước ao hành động với ý hướng đơn sơ ấy còn tỏ ra nơi lời thú nhận của Người trong cơn bệnh cuối cùng.
Một trong các chị của Người là y tá có phép thăm Người, nhưng đã sợ mình lạm dụng phép ấy trong giờ chơi chung, liền hỏi nếu ở vào trường hợp của mình, Têrêsa sẽ xử sự làm sao? Thánh nữ trả lời: “Em đi ngay đến phòng chơi, không hỏi thăm chị gì hết, và cẩn thận kẻo có người thấy em hy sinh. Nếu có ai kêu em vào phòng bệnh, thì em sẽ tinh luyện ý hướng của em là vào đó để làm vui cho chị ấy, chứ không phải là để làm vừa lòng em, để xin cho chị những ơn mà nếu em tìm thỏa mãn cho chính em, thì em sẽ không xin được. Còn riêng em, em được nhiều nghị lực bởi những hy sinh ấy.”
“Nếu đôi khi em lỡ làm trái với điều dự định, thì em không thất vọng, nhưng em cố gắng sửa chữa khuyết điểm ấy bằng cách tinh luyện bản thân hơn nữa.”
Sau khi đã đọc qua những dòng trên, tất nhiên ai cũng phải đồng thanh với Thánh nữ kết luận rằng: “Những cái nhỏ mọn không ra gì ấy, làm nên một cuộc tử đạo bằng những mũi kim châm.” Nhưng cuộc tử đạo âm thầm đó đã đem lại triều thiên vinh hiển sáng ngời cho Thánh nữ, nếu ngày nay Têrêsa được nên cao trọng, như lời tiên tri Zacharia, thì chính là vì “khi xưa người đã không khinh chê những việc hèn mọn.” (Dcr 4,10)

3: ĐƠN SƠ: ĐẶC ĐIỂM CỦA TINH THẦN THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐÒNG GIÊSU.

Trước khi học hỏi về tinh thần đơn sơ của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, chúng ta cần lưu ý đến điểm quan trọng này: Vị Thánh mà trong hết mọi phương diện đã trở nên khuôn vàng thước ngọc cho “các linh hồn bé nhỏ”, thì chính Người cũng đã chỉ có thể hiểu biết về giá trị của tính đơn sơ một cách dần dần mà thôi. Đức tính đơn sơ ấy chỉ hoàn toàn chiếu sáng nơi Người khi sự hoàn thiện của Người đã đến tột đinh.
Khi đề cập đến những việc hiển hách của một vài vị thánh trổi vượt quần chúng với những ơn đặc biệt của Chúa, Thánh nữ đã thú nhận là ngày xưa mình cũng đã từng bị cám dỗ mong được như vậy.
Thực ra khi còn là một thiếu nữ xuân thời, Têrêsa đã sùng mộ Thánh Jeanne d’ Arc và mơ ước noi gương Người trên một vài phương diện; nhưng Chúa Giêsu đã cho Têrêsa hiểu “khôn ngoan chân thực ở tại đơn sơ và chẳng cần phải vượt biển hay lên tận mây xanh mới kiếm được, nó ở vừa tầm sức ta, ngay dưới bàn tay ta.”52
Sau này trong nhà Kín, khuynh hướng ấy lại tái phát. Khi Têrêsa đọc hạnh các Thánh, thấy những việc hãm mình phi thường các Đấng làm, Têrêsa lại muốn bắt chước. Người viết: “Con có khuynh hướng muốn sống đời khổ hạnh.” Nhưng Chúa để cho Têrêsa bị chặn lại trên con đường đó. Chính Thánh nữ đã viết trong Truyện Một Tâm Hồn: “Con chỉ được phép làm việc hãm mình này, là chế ngự lòng tự ái, điều đó còn giúp ích cho con nhiều hơn là những việc hãm mình phạt xác.”
Vì đeo một Thánh giá nhỏ bằng sắt lâu ngày, nên Têrêsa đã sinh bệnh. Khi ấy Chúa soi sáng cho Người hiểu rõ và sau này Người giải thích: “Điều xảy ra cho con không phải là không quan trọng đâu, chính vì Chúa muốn cho con hiểu những việc hãm mình phạt xác là của các Thánh chứ không phải để cho con, hay cho những “linh hồn bé nhỏ” muốn bước đi trên con “đường thơ ấu thiẻng liêng”, mà ở đó không có chi ngoài nếp sống thông thường.”
Đến đây Têrêsa đã bước tới “bậc trọn lành” mà chính Người không ngờ, bậc trọn lành đó Đức Cha Gay đã diễn tả như sau:
“Đường thơ ấu thiêng liêng là một tình trạng hoàn hảo hơn tình yêu trong đau khổ. Vì không có chi làm cho con người phải hy sinh nhiều hơn là thành thật và an binh sống bé nhỏ.”
Ngày 3-8-1897, mấy tuần trước khi qua đời, Têrêsa còn khuyên một chị đến tâm giao với mình rằng phải giữ chừng mực trong khi làm việc hãm mình, vì thường thường ta hay làm theo tính tự nhiên hơn là do nhân đức.
Thánh nữ cũng viết cho anh thiêng liêng: “Em biết có nhiều vị thánh đã sống cuộc đời hãm mình phạt xác thật nhiệm nhặt lạ lùng để đền tội, nhưng anh nghĩ sao? ‘Trong nhà Cha Ta có nhiều chỗ” (Ga 14,2), Chúa Giêsu đã nói thế, và vì thế em chỉ biết theo con đường Chúa đã vạch ra cho em bằng cách cố gắng không lo gì đến mình nữa, và Chúa Giêsu muốn làm gì trong linh hồn em, em xin hoàn toàn giao phó cho Ngài hết.”
Bởi Têrêsa đã đơn sơ, nên cách nhận xét của Người cũng có một vài điểm thay đổi. Như trước kia để hãm mình trong việc ăn uống, thì khi ăn, Têrêsa thường cố tưởng tượng ra những thứ ghê tởm, hoặc trộn thêm rau đắng vào những món ăn ngon lành. Nhưng về sau Người nói: “Khi được ăn của gì ngon miệng, con cảm tạ Chúa và con tưởng như thế là đơn sơ hơn.”
Vì vậy nơi phòng ăn, Têrêsa không làm những việc hãm xác nào khác ngoài việc kiêng cữ do Luật Dòng dạy và Người dửng dưng đón nhận những món người ta dọn cho, ngon cũng như dở. Thánh nữ còn có những “kế nho nhỏ” hồn nhiên và duyên dáng này: “Gặp món gì mềm, ngon, con liền dâng cho Chúa Giêsu; còn món gì cứng, dai, thì con dâng cho Thánh Giuse, và còn Đức Mẹ dĩ nhiên có phần khác dành cho Ngài. Rủi khi người ta quên không dọn món gì cho con, thì con rất sung sướng, vì như vậy con nhịn ăn thật sự để dâng cho Chúa.”
Một hôm, chị em kể cho Thánh nữ nghe truyện một vị Linh Mục thánh thiện kia bị bệnh ngứa khổ sở vô cùng, nhưng vì hãm mình không bao giờ ngài đưa tay lên gãi. Chị nhỏ Têrêsa kêu lên: “Ôi, phải nghĩ rằng tất cả những việc hãm mình đều đáng ca tụng và đáng thưởng khi ta xác tín là Chúa đã muốn điều đó. Nếu ta có sai lầm trong hành động thì Ngài cũng động lòng vì tâm ý của ta.”
“Nhưng riêng em, chắc em không thể cầm mình và bận tâm thế được. Em đã thực thi nhân đức theo một nguyên tắc hoàn toàn khác biệt, như lời Mẹ Thánh Têrêsa đã dạy. ‘Thiên Chúa không xem xét một số những việc tỉ mỉ như chúng ta tưởng, vậy đừng để linh hồn chúng ta bị vướng mắc vào những việc ấy’.”53
Một hôm trong thời gian bệnh nặng, “Têrêsa khẩn khoản xin các chị cầu nguyện cho, dù mệt nhọc lắm các chị cũng quỳ xuống ngay, nhưng Têrêsa vội bảo: “Đừng, các chị đừng quỳ, cứ ngồi đi!”
Têrêsa còn đặc biệt sùng kính chân phước Théophane Vénard, thuộc hội các Cha Thừa Sai, Người giải thích: “Con mến Ngài lắm, vì Ngài là một vị Thánh nhỏ, nếp sống của Ngài thật thông thường, Ngài yêu mến gia đình. Con không thể hiểu tại sao có nhiều đấng thánh lại không yêu mến gia đình của mình...”.
Trong Truyện Một Tâm Hồn Têrêsa đã tỏ ra thán phục Đấng Sáng lập Nhà Kín Lisieux, đó là Mẹ đáng kính Geneviève de Sainte-Thérèse, Người nói: “Hạnh phúc của con lả được sống với một đấng thánh không phải không thể bắt chước được, nhưng một vị thánh với những nhân đức âm thầm và đơn sơ.”
Têrêsa còn nói tiếp: “Con thấy đó mới là sự thánh thiện chân thực nhất, cao vời nhất mà con hằng mơ ước, vì con thấy trong đó không có một ảo tưởng nào.”
Một lần kia, nhân nói về những ơn an ủi thiêng liêng, ơn hưởng kiến và ơn mạc khải, chị em liền hỏi Têrêsa có mơ ước những ơn đó không? Người trả lời: “Ồ không, không khi nào em mơ ước thấy Chúa nơi trần gian, dầu vậy em vẫn yêu mến Chúa nhiều!...”
“Đường nhỏ bé của em là không mơ ước xem thấy gì. Như các chị biết, em đã thưa với Chúa:
“Giêsu hãy nhớ, Chúa ơi,
Con không muốn thấy Chúa nơi cõi trần!”
Một trong các chị của Têrêsa nói với Người khi nào Người chết các thiên thần sẽ theo Chúa đến rước Người về thiên đàng trong ánh huy hoàng diễm lệ. Têrêsa trả lời: “Những hinh ảnh ấy chẳng giúp ích gì cho em cả, em chỉ sống bằng sự thật. Chính vì thế nên không bao giờ em muốn được hưởng thị kiến. Bao lâu còn sống trên dương thế này, không ai có thể thấy thiên đàng và các thần thánh rõ ràng được. Em chỉ thích đợi chờ cuộc hưởng kiến vĩnh cửu.”
Tâm hồn bình an và đơn sơ của Têrêsa không bao giờ khiếm khuyết, Người không ước ao điều gì hết, cả ơn được thấy trước, mà trong tương lai có thể làm cho các linh hồn nản chí. Vì thế nên khi chị em nói cho Người hy vọng được chết ngày 16 tháng 7 là ngày lễ Đức Mẹ Núi Cát Minh, Người hăng hái kêu lên: “Ôi ơn đó không hợp với “con đường nhỏ’ của em; vậy em sẽ đi ra ngoài con đường đó để chết sao?”
“Được chết vì yêu sau khi rước Chúa! Được chết vào ngày đại lễ! Điều đó quá tốt đẹp đối với em, những linh hồn nhỏ không thể bắt chước được. Trên đường thơ ấu của em chỉ có những việc hết sức đơn thường. Phải làm sao để tất cả những việc em làm, các linh hồn nhỏ cũng có thể thực hiện được.”
Mẹ Agnès de Jesus hỏi Người: “Đời sống thiêng liêng của con lúc này ra sao?” Bỡ ngỡ trước câu hỏi, Têrêsa đáp: “Đời sống thiêng liêng lúc này của con ư? Chỉ có đau khổ và đau khổ, thế thôi! Ngay những lời như: Lạy Chúa, con dâng đau khổ này cầu cho tổ quốc con... con cũng không dám thưa cùng Chúa. Chúa biết rõ phải dùng đau khổ của con vào việc gì, bởi con đã dâng cho Chúa tất cả để đẹp lòng Ngài. Có lẽ con sẽ mệt hết hơi, nếu cứ phải nói câu tương tự như: Xin Chúa ban ơn này cho ông nọ ơn khác cho bà kia... Chỉ khi nào có ai nhờ con cầu xin thì con mới cầu, sau đó con không nghĩ tới nữa. Khi con cầu nguyện cho một vài ý của các anh thừa sai của con, con không dâng những đau đớn con phải chịu, con chỉ đơn sơ thưa cùng Chúa: Lạy Chúa, xin ban cho linh hồn này tất cả những gì con ước ao cho chính con.”
Trong Truyện “Một tâm Hồn” Têrêsa còn viết: “Với những linh hồn đơn sơ không nên dùng những phương pháp phức tạp, và vì con cũng thuộc vào số những linh hồn đó, nên chính Chúa đã soi sáng cho con biết chu toàn bổn phận bằng một phương thế rất dễ dàng. Chúa đã cho con hiểu lời này trong Sách Diễm Ca: ‘Xin Chúa hãy lôi kéo con, chúng con chạy theo hương thơm của Chúa’” (Dc 1,3).
“Ôi, lạy Chúa Giêsu, con chẳng cần phải thưa thêm với Chúa: Khi lôi kéo con, xin Chúa cũng lôi kéo luôn cả những linh hồn con yêu mến! Con chi cần đơn sơ thưa: Xin Chúa hãy lôi kéo con là đủ rồi. Vâng, khi một linh hồn nào đã để cho hương thơm ngào ngạt của Chúa quyến rũ, linh hồn ấy sẽ không chạy một mình, nhưng tất cả các linh hồn mà nó yêu mến cũng chạy theo. Đó là hậu quả tất nhiên của kẻ hướng về Chúa.”
Têrêsa còn nói: “Muốn làm đẹp lòng Chúa, làm say mê Chúa, chả khó gì hết: ta chỉ cần yêu Chúa và quên mình đi, không quá bận tâm tới những lỗi lầm của mình...”.
“Vì thế khi lỡ phạm một điều nào thi con chỗi dậy ngay.”
“Một cái nhìn lên Chúa Giêsu và nhận biết sự khốn hèn của mình, đủ để đền bù được tất cả.”
Chính Têrêsa đã múc trong nguồn Phúc Âm những sinh lực dồi dào để nuôi dưỡng linh hồn mình. Và về cuối đời, Người đã có thể nói được: “Đối với con, các sách khác chẳng giúp gì cả, nguyên Phúc Âm đã đủ cho con.”
Têrêsa còn viết trong quyển Tự Thuật: “Sách Phúc Âm cung dưỡng cho con trong giờ suy gẫm hơn tất cả mọi sách khác, nhờ đó mà con kiếm được những của ăn cần thiết cho linh hồn bé mọn yếu đuối của con.”
“Con còn kiếm được trong Kinh Thánh và trong Sách Gương Chúa Giêsu một thứ manna ẩn kín vững chắc và tinh tuyền.”
Phàn nàn về một số nhà giảng thuyết có khuynh hướng trình bày Đức Mẹ trên một lãnh vực cao xa, không ai đến gần được, Têrêsa viết: Ước chi các ngài cho chúng ta thấy những nhân đức có thể thực thi được của Đức Mẹ! Đề cao những đặc ân của Mẹ, thật rất tốt, nhưng tốt hơn là các ngài nên dạy cho chúng ta bắt chước các nhân đức của Mẹ mới phải!
“Mẹ muốn được người đời noi gương hơn là ca tụng suông, và nếp sống của Mẹ thật rất đơn giản. Một bài giảng về Đức Mẹ dù có hay ho đến đâu người ta chỉ trầm trồ ca tụng, thì cũng chẳng đem lại lợi ích gì!”
Thánh nữ còn khuyên các tập sinh nên thực thi những nhân đức nhỏ mọn nhất, Người viết: “Các em hãy tin chắc điều này, dù viết những sách đạo đức, hoặc sáng tác những bài thơ cao siêu đến đâu, cũng không có công, bằng làm một việc hy sinh bỏ mình cỏn con.”

Têrêsa lại viết cho chị Céline: “Sự thánh thiện không ở tại nói những lời hay, suy nghĩ những tư tưởng cao siêu, hoặc cảm thấy những ý nghĩ tốt đẹp...”
“Thiên Chúa đâu có cần những công việc hiền hách, những ý tưởng cao đẹp. Nếu Ngài muốn những tư tưởng cao siêu, Ngài thiếu gì các thần trời thông minh thượng trí trổi vượt xa các thiên tài vĩ đại nhất của trần gian!”
 “Chúa Giêsu cũng chẳng xuống thế gian để tìm những đầu óc thông thái, hay những bậc anh tài... Ngải đã tự xưng là “Hoa Đồng Nội” (Dc 2,1) để cho ta thấy rằng Ngài yêu quý đức đơn sơ đến thế nào.”
“...Thánh Trẻ vui xướng, phúc thay
Ngồi trên tay Chúa thảnh thơi an nhàn.
Gian nan, một bước gian nan
Mọi nơi Chúa giúp, mình còn sợ chi.”
 

CHƯƠNG III: TÌNH YÊU CỦA THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU HOÀN MỸ TRONG TINH THÂN THƠ ẤU, QUI HƯỚNG NGƯỜI VÀO “CON ĐƯỜNG NHỎ”


“Hoàn toàn tín thác là đỉnh của Tình Yêu, mà tột đỉnh của Tình Yêu chính là Tinh Thần Thơ Ấu.” Đức Cha GAY
“THƠ ẤU THIÊNG LIÊNG LÀ ĐIỀU KIỆN THIẾT YẾU ĐỂ ĐƯỢC SỐNG ĐỜI ĐỜI: Mọi tín hữu hãy mau mắn bước vào đường này, là chính con đường mà Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã đạt tới bậc anh hùng.” ĐGH Bênêđictô XV

“Thiên Chúa thích làm cho mọi người trên thế giới biết cách thực thị hoàn hảo “Tinh Thần Thơ Ấu Thiêng Liêng” của Thánh Têrêsa. Sống hồn nhiên và trong sạch trong Tinh Thần này, Người tỏ ra đích thật là một vị Tôn Sư.” ĐGH Piô XI
 

“Là một giáo lý hợp thời, giờ nó đã đến, tất nhiên là khi nó mang lại những gì mà trí khôn ao ước và quyết liệt kiếm tìm trong tối tăm, sau bao nhiêu kinh nghiệm chua cay và mưu cơ vô hiệu, là khi nó có thể chữa lành một căn bệnh đau đớn của tư tưởng loài người.” CH. LE MAITRE S.J. Giáo sư Đại học Namur
 

TINH THẦN THƠ ẤU


“Khi ấy các môn đệ đến gần Chúa Giêsu và thưa Ngài rằng: ‘Thầy cho ai là cao trọng nhát trên nước Trời?’ - Chúa Gíêsu liền gọi một em bé đến, đặt em giữa các ông, và ôm em vào lòng (Mc. 9,35) Ngài bảo: ‘Thực, Thầy bảo thực: nếu anh em không hoán cải và không trở nên giống như trẻ nhỏ, anh em sẽ chẳng vào được nước trời đâu! Ai kể mình bé mọn như em nhỏ này thi người ấy là kẻ lớn nhất trong nước trời.’”(Mt 18,3-4)
“...Bấy giờ người ta đưa đến cho Chúa Giêsu các trẻ nhỏ để xin Người đặt tay trên chúng. Nhưng các môn đệ xua đuổi họ đi. Thấy thế Chúa Giêsu bất bình, bảo các ông (Mc 10,13-14): Hãy cẩn thận, chớ khinh thường một em nhỏ nào (Mt 18,6) và đừng ngăn cản chúng đến với Thầy, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng. Thực, Thầy bảo anh em, ai không tiếp đón nước Thiên Chúa như trẻ nhỏ, người đó sẽ chẳng được vào nước Thiên Chúa. Và Chúa ôm chúng, đặt tay và chúc lành cho chúng.” (Mc. 10,14-15,16)
“Khi ấy, được Chúa Thánh Thần phấn khích, Chúa Giêsu cất tiếng: “ Lạy Cha là Chúa Trời đất, con ngợi khen Cha vì Cha đã giấu những điều ấy với các bậc hiền triết khôn ngoan mà lại tỏ ra cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là sở thích của Cha.” (Lc.10,21)
Thánh Têrêsa đã viết: “Con hằng ước ao nên thánh, nhưng khốn nỗi, khi sánh mình với các đấng, con thấy con khác xa các ngài một trời một vực: các ngài như những ngọn núi cao ngất tận ngàn mây, còn con như hạt cát ti tiện nằm dưới chân khách bộ hành.
 “ Nhưng thay vì thất vọng, con đã tự nhủ: Chúa nhân lành đã không gợi ra những ước vọng không thể thực hiện được; nên dù con bé mọn, con cũng có thể khát vọng nên thánh! Làm cho mình lớn lên thì không thể được, có thế nào con cứ phải chịu như thế với vô số bất toàn của con, nhưng con muốn tìm cách lên trời bằng một con đường thẳng thật ngắn, con đường bé nhỏ hoàn toàn mới lạ!
“Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên đẩy những phát minh: bây giờ không còn phải cực nhọc leo từng bậc thang nữa; những người giàu đã thay thế thang cổ điển bằng thang máy, thật tiện lợi. Phần con, con cũng muốn tìm một chiếc thang máy để đưa con lên tới Chúa Giêsu; vì con nhỏ bé quá không thể leo lên những bậc thang cao dốc gồ ghề của bậc hoàn thiện được.
“Thế rồi con đi tìm chi dẫn trong các Sách Thánh, để biết “chiếc thang máy” là thứ con ao ước, và con gặp được những lời phát ra tự miệng Đấng Khôn Ngoan hằng hữu rằng: “Ai thật bé nhỏ, hãy đến với Ta” (Cn. 9,4), con liền chạy lại với Ngài, vì biết rằng con đã gặp được điều con đang tìm kiếm. Con còn muốn biết Chúa sẽ làm gì cho những kẻ thật bé nhỏ, nên con lại tiếp tục tim kiếm và con đã đọc được những hàng này: “Như người mẹ hiền âu yếm con thơ, Ta cũng sẽ an ủi vỗ về các con như vậy. Ta sẽ ôm vào lòng và Ta sẽ đu đưa trên đầu gối Ta. (Is 66,12,13)
“A, chưa bao giờ con nghe được những lời du dương, êm ái nào làm cho hồn con vui sướng hơn. Lạy Chúa Giêsu, chiếc thang máy nâng con lên tới Chúa, chính là đôi cánh tay của Chúa. Vì thế con chẳng cần lớn lên, trái lại con phải nhỏ đi, mỗi ngày con cần phải bé mãi đi.
“Lạy Chúa, Chúa đã ban cho con quá lòng con ước mong; còn con, con muốn đời đời ca ngợi lòng nhân từ xót thương của Chúa.”
Với “Tinh Thần Thơ Ẩu”, Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã gặp đỉnh hoàn thiện, cách biểu lộ cuối cùng của tình yêu và là phương thế duy nhất để Người tiến sâu vào cung lòng Thiên Chúa.
Trong truyện “Một Tâm Hồn” Têrêsa đã viết: “Con chỉ là một đứa trẻ bất lực yếu đuối, nhưng lạy Chúa Giêsu, chính vì yếu đuối, nên con bạo dạn dâng mình con làm của lễ toàn thiêu cho Tình Yêu Chúa!”
Thánh nữ biết chắc Chúa sẽ nhận của lễ mình tiến dâng, vì “tình yêu muốn được thoả mãn hoàn toàn thì cần phải hạ mình xuống đến tận hư vô.”
“Ngày xưa, chỉ những lễ tinh tuyền và không chút hoen ố (Xh 12,5) mới được Thiên Chúa Dũng Mãnh và Uy Quyền chấp nhận. Vì muốn đền tạ phép công bình Chúa, phải có những hiến vật hoàn hảo.(Ml 1,8.11,13). Nhưng ngày nay, luật Tình Yêu đã thay thế cho luật sợ hãi, và Tình Yêu đã chọn con làm lễ vật toàn thiêu, dù con chỉ là một thụ tạo yếu đuối và bất toàn.”
Thế rồi với sự bạo dạn thánh thiện, Têrêsa dựa vào cả những ưu phẩm của Thiên Chúa. Chưa thoả mãn với Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Chúa, Thánh nữ còn thấy cả trong Đức Công Bình của Chúa lý do để cậy trông.
Người tội lỗi cần đến lòng thương xót để được tha thứ, kẻ bé mọn cần đến sự công bình để được che chở. Chính vì công bình nên cha mẹ không thể đòi hỏi nơi con cái việc chúng không thể làm; cũng chính vì công bình nên cha mẹ phải che chở con cái, nuôi nấng chúng và còn phải chịu đựng cả những lỗi lầm của chúng nữa. Qua sự công bình nơi con người, Thánh nữ thoáng nhìn thấy một tia phản chiếu sự công bình rất nhân hậu và khoan dung của Thiên Chúa đối với nỗi yếu hèn của con người.
Trong thư gửi cho một người anh thiêng liêng, Têrêsa đã viết: “Nhiều người sợ Đức Công Bình của Thiên Chúa, còn em lại lấy đó làm nguồn vui và cậy trông cho em; Vâng, em cậy trông vào Đức Công Bình cũng như vào Lòng Xót Thương hải hà của Chúa. Chính vì Chúa Công Bình nên Chúa đầy lòng thương xót và âu yếm, Ngài chậm phạt và giàu lòng xót thương. Vì Chúa biết chúng ta giòn mỏng yếu đuối và Ngài nhớ chúng ta chỉ là tro bụi. Như một người cha hiền âu yếm con mình, Chúa nhân từ cũng xót thương chúng ta như thế!” (Tv 102,8,13,14).
Thảnh nữ nhận thấy: “Ngay cả những người nghèo túng, bao lâu con cái còn nhỏ dại, họ cũng cố gắng lo liệu cho chúng mọi sự cần thiết; nhưng một khi chúng đã lớn khôn, cha mẹ chúng không còn muốn nuôi nấng chúng nữa và bảo chúng: nay con hãy làm việc, con đã có thể tự lực mưu sinh. Phải, chính vì không muốn nghe những lời như thế nên con không muốn lớn lên, vì cảm thấy rằng con chẳng có thể tự lực mưu lấy được một cuộc sống đời đời trên thiên quốc”.
Mấy tuần trước khi chết, Têrêsa còn nói: “Con chẳng có thể dựa vào một việc làm nào của con để cậy trông. Vài ngày trước khi con lâm bệnh nặng, nhiều Nhà Kín đã yêu cầu nhà dòng dâng lời cầu nguyện cho những nữ tu đã qua đời. Khi ấy con không có giờ và bây giờ con đau nặng, nên con được miễn; nhưng con vẫn hài lòng nói nên rằng: Con đã chu toàn bổn phận (cầu nguyện) của con.
“Nhưng Chúa nhân từ lại muốn cho con thấy con bé nhỏ quá đến nỗi cả đời cũng chẳng trang trải xong món nợ thiêng liêng nào và Ngài muốn con sống nghèo nàn như thế mãi. Đó thực là một ơn soi sáng, một ơn Chúa ban thực sự. Khi ấy tâm hồn con tràn đầy thư thái và con đã lặp lại lời nguyện xin của Thánh Gioan Thánh Giá: “Xin Chúa hãy trang trải hết nợ nần cho con” và rồi con thấy tâm hồn tràn ngập bình an vì thấy mình hoàn toàn nghèo khó và mọi sự đều chỉ cậy nhờ vào Chúa.”
Têrêsa còn duyên dáng nói: “ Những Đấng Bảo Trợ con, những vị con mộ mến trên trời, là những Đấng đã trộm được thiên đàng, chẳng hạn như các Thánh Anh Hài, người trộm lành. Những Vị Đại Thánh thì dùng công đức của mình mà chiếm lấy thiên đàng... còn con, con muốn bắt chước người kẻ trộm, con muốn dùng mưu kế để được thiên đàng, mưu kế tình yêu sẽ mỏ cửa thiên đàng cho con và cho các tội nhân khốn khổ. Chính Chúa Thánh Thần đã khuyến khích con, vì Ngài đã phán trong sách Châm Ngôn: “Hỡi những kẻ bé mọn, hãy đến với Ta, hãy học cùng Ta sự tinh khôn.” (Cn 1,4;8,5).
Sự “tinh khôn” đặc biệt đã dạy cho Têrêsa hiểu: “Niềm vui của Chúa là được ở với con cái loài người” (Cn 8,31). Trong đời sống thiêng liêng, Têrêsa mô phỏng tất cả những nét duyên dáng của tuổi thơ, cả những cử chỉ ngây thơ con thảo của những đứa bé đối với người cha mà chúng yêu quý. Chính Têrêsa đã thưa với Chúa: “Con muốn yêu Chúa như một em bé...”.
“Con mong như em bé ngoan
Say sưa yêu Chúa với ngàn vuốt ve.”
Nơi khác Người hát:
“Được gọi Thiên Chúa là Cha,
Được làm con Chúa con ca lên rằng:
Chúa ôi, chính đó thiên đàng của con!”
Tác giả sách Gương Chúa Giêsu nói: “ Tình yêu giữa Chúa và linh hồn phát sinh một sự thân thiết lạ lùng.”54. Và chúng ta thấy Thánh nữ đã mạnh bạo áp dụng cho mình lời Tiên Tri Isaia sau đây: “Các ngươi sẽ được bú mớm, được ẵm bế trong lòng và được nâng niu trên đầu gối.” (Is 66,12,13). Những lời ấy đã an ủi Thánh nữ rất nhiều.
Sau khi xem tấm ảnh vẽ hình Chúa Giêsu với hai em nhỏ: em nhỏ hơn đang ngồi trên đầu gối Chúa và vuốt ve Chúa, còn em kia sợ sệt đang cung kính hôn tay Chúa; Têrêsa liền nói: em chính là đứa nhỏ đang ngồi trên đầu gối Chúa, đang ngửa mặt lên nhìn Chúa, ôm hôn Chúa mà không sợ hãi gì. Em không thích làm như đứa nhỏ kia, vì nó có vẻ người lớn, dè dặt quá...
Lần khác khi nói về đoạn Kinh Thánh: “Các thiên thần Sêraphim lấy cánh che mặt trước Tôn Nhan Chúa.” (Is.6,2). Têrêsa lên tiếng “Có chị bảo em: em sẽ được Chúa gọi về giữa các Sêraphim. Nếu đúng như thế, em sẽ không bắt chước các Ngài, em sẽ không che mặt đâu! Vì nếu che mặt, làm sao có thể tỏ tình yêu với Chúa được và làm sao Ngài có thể vuốt ve em được nữa.”
Những lời yêu đương của Người chưa phải là điểm cốt yếu cấu tạo nên tinh thần thơ ấu, mà Chị còn lồng nó vào những lời đầy sức sống và ý nghĩa thực tiễn. Những chương trên và cả những trang sau đây nữa mới cho chúng ta thấy rõ giáo thuyết về “con đường nhỏ” của Thánh Nữ.
Trước hết Têrêsa định nghĩa tâm hồn thơ ấu thế này:
“Sống bé mọn là nhận biết mình chỉ là hư vô; là không ngã lòng trước những lỗi lầm mình đã trót phạm, vì trẻ nhỏ thường ngã, nhưng chúng quá nhỏ nên cũng chẳng đau gì lắm.”
Vì thế Têrêsa đã thưa cùng Chúa:
“Bình an con là sống bé nhỏ,
Nên, khi con té ngã trên đường
Thật mau con chỗi dậy luôn
Giêsu nắm lấy tay con đỡ đần...”
Trong thư gửi chị Léonie, Têrêsa còn viết: “Phần em, em nhận thấy sự trọn lành rất dễ thực hiện. Thực ra em hiểu, với tình yêu thì đủ để chiếm được Chúa Giêsu. Chị hãy xem một đứa bé khi làm phiền lòng mẹ nó, hoặc làm mẹ nó nổi giận hoặc không vâng lời; nếu nó cứ đứng trong xó nhà mà phụng phịu la lối vì sợ bị phạt thì liệu mẹ nó có tha cho nó không? Nhưng nếu nó chạy lại giơ đôi tay nhỏ bé lên ôm chầm lấy mẹ và nói: “Mẹ hôn thương con đi, từ nay con không dám làm mất lòng mẹ nữa, thì chắc mẹ nó ôm nó vào lòng mà vuốt ve và quên hết lỗi lầm của nó; dù bà biết chắc con mình sẽ còn lỗi phạm, nhưng không sao, nếu đứa con biết lấy lòng mẹ nó nữa thì không bao giờ nó bị phạt...”.
“Bằng cách đó em đã chiếm được Chúa và được Chúa đón tiếp nồng hậu.”
Với kiểu nói tương tự, Têrêsa cũng viết cho anh thiêng liêng những lời này: “Chúa Cứu Thế hiền dịu đã quên những lỗi lầm của anh từ lâu rồi. Nguyên những ước vọng nên thánh của anh cũng đã hiện diện trước mặt Chúa và làm vui lòng Ngài. Xin anh chớ dừng lại dưới chân Chúa, nhưng hãy theo đà tiến thuở ban đầu nâng anh tới cánh tay Ngài. Em nghĩ rằng chỉ khi vì thói quen bất nhã mà con cái Chúa không chịu xin lỗi Chúa, thì Chúa mới nói: “Những vết thương mà con thấy nơi tay Ta, là do con cái nghĩa thiết trong nhà gây ra cho Ta đó.” (Der. 13,6). Còn đối với những kẻ yêu Chúa, mỗi lần lỗi phạm đều biết chạy đến gieo mình vào cánh tay Chúa để xin Ngài tha thứ, thì Chúa sẽ cảm động vui lòng tha thứ ngay. Bấy giờ Chúa sẽ nói cùng các thiên thần những lời người cha đứa con hoang đàng trong Phúc Âm: “Lấy nhẫn ra đây đeo cho cậu, và nào, chúng ta hãy vui lên” (Lc 15,2). Ôi, sao ít người biết Thánh Tâm Chúa tốt lành và nhân hậu xót thương thế! Quả thực, Ta phải biết hạ mình ở khiêm nhượng, nhận mình là hư vô, và đó chính là việc mà ít ai muốn làm.”
Têrêsa quyết chắc sống nhỏ bé làm cho Chúa hài lòng lắm và hy vọng rằng mình sẽ không bao giờ phạm tội trừ khi bởi tính yếu đuối, vì Têrêsa không cậy ở sức riêng mình, nhưng chỉ hoàn toàn phó thác cậy trông nơi Chúa. Người duyên dáng nói: “Em có thể lỗi trong những việc nhỏ mọn cho đến chết mà vẫn không sợ làm mất lòng Chúa, miễn là lúc nào em cũng sống khiêm nhượng và bé mọn. Hãy xem đứa bé: chúng làm bể, làm rách, té ngã hoài, nhưng chúng vẫn yêu cha mẹ chúng, và cha mẹ chúng vẫn yêu thương chúng.”
Thánh nữ còn quả quyết: “Trẻ nhỏ không tự đày đoạ mình.”
Nếu đọc trong tập “Huấn Dụ và Ghi Niệm1’ ta sẽ thấy Têrêsa ghi lại những lần rước lễ của Người: “Khi rước lễ, đôi lần con tưởng tượng linh hồn con như một đứa trẻ ba, bốn tuổi, vì ham chơi nên để quần áo dơ bẩn và xốc xếch lôi thôi - Những khốn khó này đến với con khi con chiến đấu với các linh hồn - Nhưng tức khắc Đức Mẹ đến bên con. Ngài cởi bỏ chiếc áo bẩn thỉu của con đi, Ngài buộc tóc lại cho con và trang điểm mái tóc con với chiếc băng vải tuyệt đẹp, hay với một bông hoa nhỏ... Thế là con nên duyên dáng và con được ngồi vào bàn tiệc với các thiên thần mà không mắc cỡ gì.”
Về những lần nguyện ngắm và cám ơn rước lễ khô khan, Têrêsa viết:
“Con phải thú nhận sở dĩ con khô khan là tại con thiếu hăng hái và trung thành. Con khổ tâm lắm vì cứ ngủ gục hoài trong giờ nguyện gẫm và cám ơn rước lễ. Tuy vậy con không buồn, vì con nghĩ dù ngủ hay thức thì trẻ nhỏ vẫn làm vui lòng cha mẹ chúng: con cũng nghĩ rằng Chúa thấy chúng ta giòn mỏng yếu đuối và Ngài nhớ chúng ta chỉ là cát bụi.” (Tv. 102,14)
Trong khi cầu nguyện, Thánh nữ cũng giữ thái độ ấy:
“Muốn được Chúa nhận lời không cần phải tìm trong sách những công thức cầu nguyện đã dọn sẵn. Nếu phải cầu nguyện như thế thì tội nghiệp con lắm. Riêng con, con làm như những đứa trẻ nhỏ không biết đọc, con chỉ đơn sơ thưa với Chúa điều con muốn xin là Chúa hiểu con ngay.”
Trong thư gửi anh thiêng liêng, Têrêsa tâm sự: “Đôi khi đọc những sách trình bày bậc trọn lành với trăm ngàn khó khăn, tâm trí bé nhỏ của em cảm thấy mỏi mệt, em phải xếp ngay lại cuốn sách thông thái đã làm đầu óc em choáng váng và tâm hồn em khô héo, rồi em mở Sách Thánh ra đọc. Lúc đó mọi sự đều bừng sáng lên, chỉ một lời trong Sách Thánh thôi cũng cho em thấy muôn ngàn chân trời mở ra mênh mông, em thấy bậc hoàn thiện hiện ra dễ dàng quá; chỉ cần nhận biết mình là hư vô và phó thác toàn thân cho Chúa như một trẻ thơ. Còn những sách cao siêu em không hiểu nổi, không thể theo được, em xin nhường lại cho những tâm hồn cao cả, những tâm trí siêu việt, em chỉ biết vui với thân phận nhỏ bé vì Chúa đã phán: “Chỉ những trẻ nhỏ và những ai giống như chúng mới được vào dự tiệc trên trời.” (Mt 19,14)
Têrêsa còn tiếp: “May mà nước trời có nhiều chỗ ở! Vì nếu chỉ có những chỗ và đường dẫn đưa tới đó như sách diễn tả mà em không hiểu, thì chắc em không vào đó được. Nhưng nếu đã có những chỗ cho các linh hồn cao cả như các đấng ẩn tu, các đấng sống đời khổ hạnh, thì cũng có chỗ cho những trẻ nhỏ; chỗ của chúng ta đã được chuẩn bị rồi, miễn là chúng ta cứ yêu mến Chúa thật nhiều: Chúa Cha trên trời, Chúa Giêsu và Thần Linh Tình Ái.”
Chị em kể ra nhiều cách thực tập nhân đức để xin Thánh nữ cho biết cách nào có hiệu lực đạt tới bậc thiện hảo hơn. Với một giọng nói được linh hứng, Thánh nữ tóm lược tư tưởng của mình như thế này: “Ồ, không, sự thánh thiện không thể căn cứ vào việc thực tập nào cả, nhưng hệ tại ở tâm trạng khiến ta sống khiêm nhượng và bé nhỏ trong tay Chúa, ý thức mình yếu đuối và mạnh bạo cậy trông vào lòng nhân lành xót thương của Chúa.”
Một chị đến phàn nàn với Thánh nữ là mình không tinh sáng đủ để hướng lòng về Chúa, và cũng chẳng biết cầu xin với Chúa làm sao, Thánh nữ bảo: “Một khi đã hoàn toàn phó thác cho Chúa, thì điều đó không cần thiết. Thật thì hồi tâm là tốt, nhưng hãy làm một cách êm ái, vì sự gò bó không làm sáng danh Chúa. Chúa đã biết trước những tư tưởng hay, những lời yêu đương mà ta muốn tìm kiếm để dâng Ngài, nên Ngài hài lòng với những ước muốn thánh thiện của ta, vì Ngài chẳng phải là cha hiền và ta chẳng phải là con thảo nhỏ bé của Ngài sao?”
“Chị nên nhớ chị nhỏ bé lắm, mà đã nhỏ bé thì không thể có ý tưởng cao đẹp.” Chị cần gì phải hiểu rõ điều Thiên Chúa muốn làm nơi chị; chị còn nhỏ bé quá mà!” Thánh nữ nói thêm: “Chúa hài lòng về công việc Ngài thực hiện trong một linh hồn biết cam chịu sự nghèo hèn của mình hơn là tạo dựng hàng triệu mặt trời và các tầng trời bao la.”
Têrêsa còn căn dặn các tập sinh: “Các em chỉ trích điều này điều nọ, hay muốn cho mọi người có một nhãn quan giống như mình thì thật là phi lý! Chúng ta muốn trở nên giống những trẻ nhỏ, mà đối với trẻ nhỏ thì không có cái gì tốt hơn cái gì cả. Mọi cái đều tốt... Vả lại nếu ta thấy cái gì có lý ta mới làm thì còn công phúc gì nữa.”
“Chúng ta nhỏ bé quá không thể vượt lên mọi trở ngại, vậy thì chúng ta hãy chui xuống dưới mà đi. Khi gặp bão tố, các linh hồn cao cả chỉ việc bay lên trên các tầng mây mà đi; còn chúng ta, chúng ta chỉ cần kiên nhẫn chịu đựng những trận mưa to gió lớn. Nếu rủi có bị ướt đôi chút cũng không sao, vì Mặt Trời Tình Ái sẽ làm cho chúng ta khô ráo ngay.”
Để nâng đỡ một chị đang trong cơn thử thách, Thánh nữ viết: “Nếu đêm tối làm cho đứa bé sợ hãi, nếu nó than van không trông thấy người bế nó, thì bảo nó hãy nhắm mắt lại, đó là hy sinh duy nhất Chúa Giêsu muốn nó làm. Nếu làm thế, nó sẽ không còn sợ gì đêm tối nữa, vì nó có trông thấy gì đâu, và rồi bình an, vui sướng tất nhiên sẽ tái hiện trong tâm hồn nó.”
Để minh chứng mình sống nhỏ bé làm cho Chúa Giêsu vui thích hơn, trong thư gửi chị Céline, Người dùng một kiểu so sánh mà Người rất thích: “Chị ơi, muốn thuộc về Chúa Giêsu, phải trở nên bé nhỏ, bé nhỏ như giọt sương... nguồn hạnh phúc, sự thánh thiện là ở đó. Đó cũng là một đặc ân cao cả Chúa ban; nhưng để nhận được đặc ân đó, ta phải ăn ở đơn sơ chừng nào. Ôi, hiếm có linh hồn mong muốn sống nhỏ bé mai danh ẩn tích! Họ bảo: “Là một dòng sông, một con suối chẳng hữu ích hơn một giọt sương sao? Một giọt sương thì làm nên trò trống gì? Giọt sương chẳng làm được việc gì hết, ngoài việc tưới mát trong giây lát cho đài hoa dại mỏng manh ngoài đồng nay còn mai mất.”
A! Sao chị không biết chính “Hoa đồng nội đích thực” kia (Dc 2,1) đã muốn sống kiếp lưu đày này với chúng ta và Ngài đã ở lại trong đêm tối cuộc đời. Biết rõ như thế, chắc chị sẽ hiểu hơn lời Chúa trách bà Matta: “Chỉ có một sự cần thiết...” (Lc 10,42).
Thấy một tập sinh ngã lòng về những lỗi lầm, Thánh nữ bảo: “Em làm cho chị nghĩ đến đứa trẻ còn chưa đứng vững, chưa biết đi mà nó cứ nằng nặc đòi leo lên đầu cầu thang để được gần mẹ nó, nó giơ chân yếu đuối bước lên bậc thứ nhất mà chỉ khổ công vô ích! Nó cứ té ngã luôn mà không sao bước lên được. Này, em hãy trở nên như đứa bé đó đi. Hãy chăm chỉ thực tập các nhân đức, nghĩa là hãy luôn luôn đưa bàn chân yếu ớt để tiến lên các bậc thang trọn lành, nhưng hãy nhớ luôn điều này là ngay bậc thang thứ nhất em cũng không thể tự mình bước lên được đâu! Vâng, Chúa chỉ đòi em có thiện chí thôi. Từ trên đầu cầu thang, Chúa đang yêu đương nhìn em, cho tới một ngày kia, chịu thua sự kiên trì cố gắng luống công của em, Ngài sẽ đích thân xuống bế em, đưa em vào nước Ngài, ở đó sẽ chẳng bao giờ em phải xa lià Ngài nữa.”
Thực ra Thánh nữ đã nói: “Sống bé mọn là không quy những việc lành mình làm về cho mình, là không tin tưởng mình có thể làm được chút việc lành nào, nhưng công nhận rằng chính Chúa nhân lành đã đặt để kho tàng đó trong tay đứa con nhỏ bé của Ngài để nó dùng đến khi cần.”
Vì thế, khi thấy chị em cố gắng “lập công tích đức” Thánh nữ nói: “ Các chị bảo là các chị muốn bắt chước em ư? Nhưng các chị vẫn chưa biết rằng em nghèo nàn lắm, Chúa chỉ ban ơn cho em khi nào em cần đến để thực tập nhân đức mà thôi”.
Và đây là những tâm tình của Têrêsa khi bề trên trao cho nhiệm vụ coi sóc các tập sinh, chính Têrêsa sau này kể lại cho Mẹ Bề trên:
“Thoạt tiên con thấy công việc vượt quá sức con, vì thế con vội chạy đến nép mình vào lòng Chúa, con bắt chước những trẻ nhỏ khi khiếp sợ chúi đầu vào vai cha minh, và con thưa cùng Chúa: Lạy Chúa, Chúa thấy con còn nhỏ quá, làm sao có thể nuôi cả bầy con của Chúa được. Nếu Chúa muốn dùng con để ban phát của ăn thích hợp cho mỗi đứa con của Chúa, thì xin Chúa hãy đổ đầy bàn tay nhỏ bé của con đây, và không rời khỏi tay, cũng không ngoảnh mặt đi, con sẽ phân phát kho tàng của Chúa cho linh hồn nào đến xin con của ăn”. Và Têrêsa đã nhận thấy “mỗi khi cần đến thì tay Người đầy tràn luôn.”
Về cách Chúa phán xét nghiêm nhặt những kẻ hướng dẫn linh hồn người khác mà Thánh Kinh đã nói tới, Thánh nữ quả quyết: “Những linh hồn bé mọn sẽ được phán xét rất nhân từ.” (Kn 6,6). Người ta có thể sống bé nhỏ cả trong những chức vụ thật lớn lao nhất và cả tới lúc da mồi tóc bạc. Nếu có sống đến tám mươi tuổi, con cũng cứ ở bé nhỏ như bây giờ, và như Sách Thánh đã nói: “Sau hết Chúa sẽ đứng lên để cứu vớt
những kẻ khiêm nhượng và hiền lành.” (Tv. 75,9). Sách Thánh không nói: “Chúa đứng lên để phán xét, nhưng “để cứu vớt.”
Trong thư gửi cho chị Céline, Têrêsa viết: “Em cố gắng hết sức để trở nên một trẻ nhỏ, như thế em không có gi phải chuẩn bị cả. Chính Chúa Giêsu đã đứng ra chịu mọi phí tổn cho cuộc hành trình của em, và cả tiền vào cửa Thiên Đàng cho em nữa.”
Khi bóng đời đã xế tàn Têrêsa còn nhắc lại:
“Kính thưa các Thánh Anh Hài,
Chúa ban gương sáng các Ngài em soi,
Trung thành em muốn cố noi
Sống như trẻ nhỏ cuộc đời trần gian”.
Mấy tuần trước khi từ trần, Têrêsa còn nói; “Ôi! Không bao giờ con muốn xin Chúa cho con được chịu đau khổ nhiều hơn nữa, vì con nhỏ bé quá! Sợ rằng con xin thì đau khổ sẽ thành của riêng con, con buộc lòng phải chịu một mình, mà có bao giờ một mình con làm nên cơ đồ gì đâu!”
Người còn nói: “Con giống như một đứa trẻ thật nhỏ, không biết suy tính, con chỉ biết chịu đau khổ từng giây phút mà không bận tâm về điều gì sẽ xảy ra nữa.”
Vì thế khi về tới cửa Thiên Đàng, Têrêsa có thể hát lên bài ca mà Người đã đặt trên môi Thánh Jeanne d’ Arc, vị thánh mà Têrêsa đặc biệt sùng mộ:
“Chúa ôi, danh dự, vinh quang,
Đời đời cho Chúa toàn năng vô cùng!
Đã cho con oai hùng thắng trận!
Con yếu hèn thân phận nữ nhi!”
 
“Giờ đây những ai đã biết chút ít về “cuộc đời Thánh Têrêsa nhỏ” đều phải cùng với mọi người đồng thanh ca tụng đời sống đặc biệt, đầy công phúc của Tinh Thần Thơ Ấu Thiêng Liêng. PHẢI, ĐÓ CHÍNH LÀ BÍ QUYẾT NÊN THÁNH.”55

“Những ước vọng nhỏ bé nhất của con đã được thực hiện... còn ước vọng lớn lao nhất: chết vì yêu mến, rồi cũng sẽ được thực hiện..”
 

CHƯƠNG IV: NHỮNG HOA TRÁI DIỄM PHÚC CỦA ĐỜI SỐNG TÌNH ÁI NƠI TÂM HỒN THÁNH TÊRÊSA GIÊSU HÀI ĐỒNG


“Tình yêu thật cao quý. Nó là một báu vật trên mọi báu vật... Nó giúp ta chịu đựng tất cả mọi thăng trầm trong cuộc sống với một tâm hồn bình thản. Tình yêu mang gánh nặng nhưng không cảm thấy nặng. Tình yêu làm dịu ngọt những nỗi đắng cay”. (Gương Chúa Giêsu Q.3. Ch 5,3).
“Hoa trái của tinh thần là VUI VẺ và bình an”(Gl. 5,22).
“NIỀM VUI trong Chúa là sức mạnh của chúng ta.” (II Esd. 8,10)
Chúa Thánh Thần phán: “Người công chính ở trong sự hoan hỉ và vui mừng; (Cn 29,6) vì khi con người hướng lòng về Chúa thì họ được tràn đầy hoan lạc” (Cn 39,6), Têrêsa luôn luôn hướng tình yêu về Chúa, lúc nào nơi Người cũng tỏa ra một nguồn hạnh phúc vui tươi.
Quả thực, lời Thánh Kinh nóí về Tôbia sau cơn hoạn nạn, bây giờ lại ứng nghiệm cách diệu kỳ nơi Têrêsa: “Từ nay, đời người sẽ được vui sướng và càng tiến tới trên đường trọn lành, người càng được hưởng bình an.” (Tb 14,4). Trên môi Têrêsa lúc nào cũng nở nụ cười hiền dịu khiến ta có thể lầm cái mặt thực của đời sống Người. Nhưng chỉ vì ta không am hiểu nguyên tắc và cũng không nghe lời này cùa Nữ tỳ Chúa; “ôi, khi vươn lên khỏi những cảm tính tự nhiên, linh hồn ta được tràn ngập bình an dường nào! Lúc đó không còn niềm vui nào có thể sánh được với niềm vui ấy.”
“Từ khi đức ái xâm nhập tâm hồn con và thôi thúc con phải luôn luôn quên mình đi, thì con được hạnh phúc thật”.
Như thế, niềm vui nơi Têrêsa là phần thưởng cho sự từ bỏ mình, là hoa trái diễm phúc của đời sống yêu đương, nó là “sức mạnh” và có thể nói, là “một nhân đức” riêng của Thánh nữ như đã được trình bày trong chương về “Tình Yêu tế nhị.”
Khuynh hướng ấy đã được triển nở nơi tâm hồn Têrêsa trong những dấu chỉ đầu tiên sau đây:
Năm lên mười ba tuổi Têrêsa đã thường thích viết vào tập vở lời này của Thánh François de Sales: “Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn.” Trong tập vở cùa Người nơi nào ta cũng thấy nhan nhản câu đó, nhiều lần trong một trang cũng một câu đó với những kiểu chữ khác nhau;
Như vậy tính âu sầu không thu hút được Têrêsa và Người đã cam đoan không muốn trở nên vị thánh buồn để khỏi là một vị thánh đảng buồn, như thế, dường như Người đã linh cảm lời Kinh Thánh: “Niềm vui trong tâm hồn là kho tàng vô tận của sự thánh thiện.” (Gv 30,22)
Sau này Têrêsa lại nói: “Người ta thường kể có một vài vị thánh rất nghiêm trang, cả trong những giờ chơi, em không muốn bắt chước những vị thánh như thế. Trái lại em đặc biệt sùng kính Chân Phước Théophane Vénard. Em mến thánh nhân lắm, vì phải đau đớn nhiều mà thánh nhân vẫn luôn luôn vui vẻ.’1
Cũng thế, Têrêsa “lúc nào cũng vui vẻ.”
Trong các giờ giải trí, Têrêsa kể chuyện rất vui, rất đạo đức, và đôi khi cũng rất ý vị, nhưng không bao giờ chế nhạo, bởi thế chị nào cũng thích nghe. Mỗi khi Têrêsa chưa kịp đến, chị em lại hỏi nhau: “Chị Têrêsa đâu rồi?” và giả như có ai bảo chị ấy hôm nay phải rửa chén đĩa, thì có vài chị trẻ tỏ ra tiếc, và một ít chị cao niên cũng phụ họa theo: “Thôi, thế là hôm nay mình mất cười rồi!”
Phần cuối trong tác phẩm này có vẻ khô khan, chúng tôi xin mạn phép kể vắn tắt vài nét vui tươi dịu hiền của Têrêsa.
Một buổi tối nọ, trong phòng bệnh, mẹ Agnès de Jésus và hai chị của Têrêsa ngồi bên người đã lâu giờ, nên mệt mỏi lại buồn nên ngủ thiếp đi. Một lát sau, Têrêsa hóm hỉnh cất tiếng gọi: “Phêrô, Giacôbê, Gioan!...”.
Lần khác, chị y tá đánh bẫy được một con chuột nhắt, chú chuột chưa chết nhưng chỉ bị thương nhẹ vì thế, mấy chị đem lại phía sau giường Têrêsa, thì thầm bàn tính kế hoạch kết liễu đời chú. Ngay lúc đó một tập sinh không biết gì về chuyện kia, đến khóc với Têrêsa đang đau nhiều. Để lau khô nước mắt em này, Têrêsa ra hiệu cho em đến tận nơi và nói nhỏ vào tai em: “Em có nghe chuyện chú chuột nhắt kia không? Em đem chú lại đây để bên cạnh Chị, lát nữa bác sĩ đến, Chị sẽ nhờ bác sĩ khám bệnh và chữa trị cho chú để xem chú chuột hay Chị, khỏi bệnh trước”.
Một lần kia, nhân câu chuyện về đức Khó Nghèo kết thúc cách quá trang trọng bằng những lời: “Đức thánh Khó Nghèo”, Têrêsa kêu to lên: “Ô, bà thánh Khó Nghèo! Bà thánh mà lại không được vào thiên đàng, lạ chưa!”. Chị em cười rộ lên. Thế là Têrêsa thành công.
Xuyên qua những mẩu chuyện lý thú như thế, chúng ta luôn luôn thấy được lòng tốt và tinh thần vui tươi của vị Thánh khả ái của chúng ta.
Trong một tập thơ Thánh Nữ viết:
“Trên trần thế lắm người vất vả
Tìm hạnh phúc, thật đã uổng công,
Nhưng con có sẵn trong lòng
Nguồn vui hạnh phúc khôn cùng đời con.”
“Thực hạnh phúc con còn quá lớn,
Vì điều chi con muốn, được liền
Lẽ nào con chẳng vui liên
Lẽ nào con chẳng tỏ niềm sướng vui?”
Thánh nữ cồn bảo các tập sinh: Không gì mâu thuẫn bằng sau khi đã công khai tuyên hứa trong ngày khấn dòng: “Con hoàn toàn tự ý và nhất quyết giữ Luật Nhà” mà các chị còn khó nhọc kéo lê gánh nặng cuộc sống tu trì!
Ý muốn của Thánh nữ luôn luôn phù hợp với Thánh ý Chúa, nên Thánh nữ đã có thể nói lên đúng sự thật: “Trên đời này con làm theo ý con thôi” và “Nơi trận tuyến của Chúa, Người hằng chiến đấu cách vui tươi luôn” (1 Mcb 3,2).
Thánh nữ còn nói: “Con luôn luôn biết tìm phương thế để được hạnh phúc và biết lợi dụng những khốn khổ của con”.
“Chẳng có chi làm con lo lắng,
Chẳng có chi khuấy động hồn con,
Hồn con ca hát véo von,
Sơn ca bay bổng vẫn còn kém xa!
Ngàn mây thấp là là ở dưới,
Hồn con bay tới cõi cao xanh
Kề ngay cửa bến thiên đình
Nơi Chúa thống trị uy linh muôn đời!”
Thánh nữ bảo một tập sinh: “Gương mặt là phản ánh tâm hồn, em nên giữ sao cho nét mặt lúc nào cũng bình thản, vui tươi như trẻ thơ luôn luôn hài lòng”.
Thánh nữ không muốn nghe thấy những lời như: “Đời buồn quá!” Người nói: “Cảnh lưu đày mới buồn, chứ đời có gì là chán đâu. Phải dùng từ ngữ đẹp này là sự sống để chỉ những gì bất tử, và, vì chúng ta đã hưởng sự sống ngay từ đời này, nên sự sống không có chi là buồn cả, nhưng là vui và rất vui”.
Như chúng ta đã thấy trong những câu trích ở tập ‘Tiếng hát hôm nay”, Thánh nữ chủ trương: phó thác là chỉ nghĩ tới ngày hôm nay. Đó là phương thế tuyệt hảo để trừ khử khỏi tâm hồn mọi âu lo. Ta còn thấy trong tập thơ đó những câu sau đây:
“Chúa ôi, nào có hệ chi,
Tương lai đen tối con thì khỏi lo,
Ngày mai xin Chúa giúp cho,
Ôi thôi, con chẳng thể lo được gì
...
Xin cho con tình yêu của Chúa,
ơn thánh Ngài, xin giữ hổn con,
Hôm nay thôi, chẳng gì hơn!”
Sau này Thánh nữ còn nói: “Con chỉ đau khổ trong giây phút hiện tại mà thôi. Chính vì lo lắng cho tương lai, than tiếc cho dĩ vãng nên người ta đâm ra chán nản thất vọng”.
Sách Châm Ngôn dạy rằng: “Tâm hồn vui trong Chúa là một buổi tiệc vĩnh viễn” (Cn 15,15). Chính vì Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu lúc nào cũng được vui sướng trong Chúa, nên tâm hồn Người luôn luôn sung mãn và vui mừng, ngay cả lúc nằm trên giường bệnh mà Ngưởi còn có thể nói: “Suốt ngày lúc nào con cũng được dự tiệc cưới thiêng liêng”.
“Ôi, sao Chúa cho con sung sướng thế! Phụng sự Chúa nơi dương gian này thật dễ dàng và êm ái ngọt ngào!”
Thực ra, lúc phụng sự Chúa chính là lúc Chúa cho dự tiệc cưới với Ngài.
Một hôm Têrêsa tránh, không hướng câu chuyện về đề tài mình thích. Người bảo: “Nếu con hành động cách khác, có lẽ con không được hạnh phúc. Nói cách khác, nếu Không dâng cho Chúa Giêsu những hoa trái yêu đương của con, thì chính con cũng chẳng được hưởng hương vị những hoa trái đó.” Vì luôn luôn thật tình cố gắng và cố gắng liên lỉ, nên Thánh nữ đã xin ngồi lại ở bàn đầy những thức ăn này.
Để ám chỉ thời thanh xuân của mình, Têrêsa đã viết: “Việc thực tập nhân đức trở nên êm ái và tự nhiên cho con. Lúc đầu con còn để lộ cơn chiến đấu trên nét mặt nhưng dần dần con thấy việc bỏ mình thật dễ dàng, ngay cả lúc mới vào cuộc chiến. Một khi con đã trung thành với ơn đầu tiên, thì Chúa Giêsu liền ban nhiều ơn khác cho con”.
Sau khi khiêm tốn kể ra vài hi sinh của mình, Têrêsa đã cho ta thấy những hoa trái của ơn Chúa. Người kể lại trong truyện: “Một Tâm Hồn”.
“Nhờ thực thi những việc không đâu này, mà con chuẩn bị trở nên vị hôn thê của Chúa Giêsu. Làm sao con kể cho xiết sự trung thành ấy làm con lớn lên trong đường phó thác, Khiêm nhượng và các nhân đức khác”.
Sau này nhờ lòng bác ái chuyên cần đó mà Thánh nữ đã thắng được tính ác cảm tự nhiên. Ta hãy nghe Người thú nhận: “Con phải công nhận rằng bình an trong linh hồn con được ngày nay là do Chúa thưởng công chiến đấu của con. Từ sau chiến thắng đó, đoàn binh thiên quốc đến cứu viện con, các đấng không còn đau lòng thấy con đầy thương tích, sau khi đã anh dũng chiến đấu”.
Chỗ khác Thánh nữ lại nói: “Chỉ có bác ái mới có thể mở rộng tâm hồn ta và hăng say thi hành bác ái”, Người bảo: “Vâng, ngay ở đời này phần thưởng đã lớn lao rồi. Đi con đường này chỉ có bước đầu tiên là khó khăn”.
Thánh nữ kể lại một việc bác ái mà kỷ niệm lưu lại nơi Người như: “Một làn hương thơm, một cơn gió mát nhẹ từ thiên cung thổi xuống”, vì khi Têrêsa chu toàn việc đó “Chúa từ trời cao đã giãi xuống tâm hồn Têrêsa những luồng ánh sáng chân thực vượt quá mọi tia sáng lu mờ của khoái lạc trần gian, đến nỗi nếu có đổi mười phút thi hành việc bác ái ấy lấy ngàn năm yến tiệc nơi trần gian, Chị cũng không đổi.
Và buổi tối hôm Têrêsa không đòi chiếc đèn bị lấy mất, lại kiên nhẫn ngồi trong phòng tối tăm, Người nhận thấy: “Trong màn đêm tăm tối ấy, linh hồn con được Chúa giãi sáng huy hoàng”.
Trước đó Thánh nữ cũng đã nói: “Nếu đáp lại ơn Chúa, linh hồn liền được tràn ngập ánh sáng ngay”.
Những lời ấy cũng như những lời sau đây mà chủng ta đã biết rất thích hợp với đề tài chúng ta đã bàn:
“Từ khi con không còn tìm kiếm mình con nữa, con sống hạnh phúc hơn người ta tưởng”.
“Ước gì mọi người biết những ơn họ sẽ được khi hoàn toàn từ bỏ mình”.
“Ách của Chúa thì êm ái và nhẹ nhàng, nhưng chỉ khi nào chấp nhận, người ta mới cảm thấy êm dịu”.
Thánh nữ còn cho các tập sinh biết giá trị khi để cho kẻ khác quấy rầy mình ngay từ lúc đầu mà không phàn nàn, đó chính là nguồn bình an. Người đã cho các chị thoáng thấy phần thưởng đang chờ đón họ:
“Chúa nhân từ dấu yêu ve vuốt
Làm chị em quên hết ưu phiền,
Ngàn gai chị bước đi lên,
Nghĩ minh bay bổng lướt trên mây ngàn...”.
Về những hy sinh tình cảm mà Têrêsa đã tự đặt ra để chống lại tính đa cảm, muốn được yêu thương, Người nhận thấy nhờ những hy sinh đó, mà ngày nay Người không còn bị chiến bại vì một việc chóng qua nào, Têrêsa quảng diễn cùng một vấn đề này: “Con thật sung sướng, vì ngay từ lúc mới vào tu, con đã biết siêu thoát! Con đã được phần thưởng Chúa hứa cho những kẻ can đảm chiến đấu. Bây giờ con thấy không cần phải khước từ những an ủi về tình cảm nữa, vì tâm hồn con đã được vững mạnh trong Chúa... Vì lòng con chỉ yêu một mình Chúa mà thôi, nên nó đã được lớn dần lên đến nỗi nó có thể yêu thương mọi người thân thích với một tâm tình thẳm sâu khôn lường hơn là khi nó tập trung vào một tình yêu ích kỷ không sinh sôi nẩy nở...”.
“A, Chúa nhân lành đã đưa hồn con lên, Chúa cũng cho con đôi cánh. Vì thế con không còn sợ lưới săn nữa, vì giăng lưới bắt loài có cánh chỉ uổng công mà thôi” (Cn 1,7).
Hồi chưa khấn dòng, Têrêsa được nghe hai nữ tu lần lượt nhận xét về mình với những ý kiến đối chọi nhau, mà cả hai đều thành thực bênh vực lập trường của họ. Sau đó Têrêsa nói: “Từ đây con không còn quan tâm gì đến dư luận nữa. Ý nghĩ ấy đã triển nở trong tâm trí con đến nỗi về sau những lời chê bai, khen lao đều không thể để lại trong tâm trí con một dấu vết cỏn con nào”.
Chúng ta còn kể như những thành quả của ơn sủng mà Chúa ban bởi lòng cậy trông tín thác vào Ngài: đó là một tâm trí minh mẫn trong việc hướng dẫn các linh hồn đi liền với sự siêu thoát bản thân triệt để.
Về việc coi sóc các tập sinh cũng như về những ơn Chúa nâng đỡ trong trách vụ đó, Têrêsa viết: “Từ khi con biết gieo mình vào lòng Chúa, con như người lính chiến đứng gác trên đồn canh kiên cố để quan sát địch quân, không gì có thể thoát khỏi tầm mắt con, lắm lúc chính con cũng phải ngạc nhiên sao con lại thấy quá rõ thế”.
Khi thi hành nhiệm vụ đã được trao phó, không bao giờ Têrêsa bối rối lo âu. Cứ xem Người duyên dáng diễn tả phương thức hành động, ta sẽ thấy rõ điều đó: “Những hạt thóc ngon lành Chúa đã đặt vào tay con, con đem vung bên phải, vãi bên trái cho đoàn chim nhỏ của con ăn, rồi con không còn lo nghĩ gì đến chuyện ấy nữa. Đôi khi con có cảm tưởng như mình chẳng gieo vãi gì hết, lúc khác, lại thấy việc đó rất hữu ích”. Nhưng Chúa lại bảo con: “Con cứ phân phát đi, cứ cho mãi đi, đừng lo chi đến kết quả”.
Nơi khác ta thấy một tương phản kỳ lạ, một tia hạnh phúc sáng ngời chiếu lên giữa màn đêm dày đặc, vì giữa những cơn cám dỗ hồ nghi về sự hiện hữu của thiên đàng đang đè nặng tâm hồn, Têrêsa đã diễn tả tâm trạng của “đóa hoa nhỏ” thế này: “Chắc Chúa Giêsu thấy đóa hoa ấy đã được tưới đầy đủ, nên Ngài cho nó lớn lên dưới ánh nắng gay gắt của mặt trời rực rỡ. Ngài chỉ thích được thấy nó mỉm cười...”.
Chúng ta còn thấy Thánh nữ vui vẻ và bình thản trước cái chết nữa, đó chính là những hoa trái mới mẻ của niềm vui.
Về câu Phúc Âm theo Thánh Marcô: “Ngài đã sống lại, không còn ở nơi chôn cất Ngài nữa” (Mc 16,6). Thánh nữ nói: “Nay con không còn nhạy cảm với mọi đau khổ như thuở còn bé. Nay con đã sống lại, không còn ở chỗ người ta tưởng. Nay con đã tới tình trạng không còn đau khổ được nữa, vì mọi đau khổ đã trở nên êm dịu đối với con”.
Têrêsa nói với Mẹ Agnès de Jésus: “Xin Mẹ đừng buồn vì thấy con đau ốm. Mẹ xem Chúa nhân lành lảm cho con hạnh phúc dường nào, con luôn luôn vui vẻ và hài lòng”.
Rồi nhìn bàn tay gầy ốm xanh xao, Têrêsa nói: “A, thấy thân thể con bị hao mòn, con vui mừng lắm!” Con muốn trợ lực “Đấng Trộm Lành” đến bắt con đi quá! Con thoáng thấy Ngài từ xa và con cầm mình không la lên: “Trộm!” Trái lại con thưa Ngài: Vào lối này! Vào lối này đi!”
Cha giải tội hỏi Têrêsa: “Con có cam lòng chết không?”
Thánh nữ trả lời: “Ôi thưa Cha, con tưởng chỉ cần cam lòng để sống, còn chết là nguồn vui cho con!”.
Trong cuốn Huấn Dụ và Ghi Niệm, chính Têrêsa cũng đã nối: “Thần chết đâu phải ma quái hay một quái tượng kinh khiếp như người ta thường vẽ trên các tranh ảnh. Sách Giáo lý dạy rằng ‘Chết là sự phân ly giữa linh hồn và thể xác’, chỉ có thế thôi. Vì thế con không sợ phải phân ly để được kết hiệp với Chúa muôn đời. Ôi, thấy mặt Chúa con sẽ vui mừng chừng nào, hạnh phúc nào hơn được xét xử bởi chính Đấng con yêu mến trên hết mọi sự!”
Mấy ngày trước khi chết Thánh nữ còn nói: “Con không bao giờ ước ao được chết vào ngày lễ trọng, vì chính cái chết của con sẽ là ngày lễ trọng rồi”.
Người ta vẫn còn nhớ những ước vọng của Têrêsa khi xưa: “Con muốn cho Chúa Giêsu chiếm hết mọi tài năng của con, đến nỗi không còn hành vi nào là nhân loại hoặc riêng tư của con nữa, nhưng tất cả đều trở nên những hoạt động thần linh, được soi sáng và hướng dẫn bởi Thánh Thần Tình Ái của Chúa”.
Tâm hồn con người được Chúa hoàn toàn xâm chiếm, đó là hoa trái rực rỡ của đời sống tình ái và Chúa đã thương ban cho chúng ta bảo đảm ấy qua miệng vị hôn thê nhỏ bé của Ngài. Lần kia trên giường bệnh, Têrêsa ngước nhìn trời. Một nữ tu cho đó là dấu chỉ yêu đương. Nhưng Têrêsa chỉ mỉm cười và sau đó nói với Mẹ Agnès de Jésus: “Thưa Mẹ, các chị chẳng biết nỗi đau khổ của con. Khi ngắm nhìn bầu trời xanh con chỉ thấy vẻ đẹp hữu hình. Còn bầu trời kia càng ngày càng đóng kín đối với con... Thoạt tiên con buồn vì những cảm tưởng của chị em, nhưng một tiếng tự trong thâm tâm trả lời cho con: ‘Phải đó, con nhìn trời vì yêu đó’. Vì linh hồn con đã hoàn toàn phó thác cho tình yêu Chúa, nên mọi tác động của con dù vô tình đến đâu cũng đã được đóng ấn tình yêu Chúa rồi”.
Và đó là hoa trái bình an và hạnh phúc Chúa ban cho lòng khiêm nhượng của Têrêsa.
Nếu Thánh nữ đã nhận mình bé nhỏ, không thể làm được việc gi lành thì bù lại, Thánh nữ hoàn toàn tựa nương vào Chúa Giêsu và nhắm mắt yêu Chúa mà thôi. Têrêsa đã diễn tả tư tưởng đò trong những vần thơ sau đây:
“Một trái tim nồng nàn thương mến
Con tựa nương, cần đến muôn đời
Thương con mọi lúc mọi nơi,
Thương con yếu đuối chẳng ngơi phút nào. “
Thánh nữ tin rằng không những Chúa tha thứ mọi tội lỗi cho đứa con nhỏ bẻ, nhưng hơn thế nữa, Thánh nữ còn thấy cả một nguồn lợi nơi lòng tha thứ của Chúa nữa, Người quả quyết: “Khi trở về với Chúa, ta còn được Chúa yêu thương hơn khi chưa phạm tội”.
“Vâng, với một tác động yêu thương, dù ta không cảm thấy gì, mọi tội lỗi đều được tha thứ hết, và còn hơn thế nữa. Chúa Giêsu mim cười và ban ơn giúp ta cách nhiệm mầu”.
Trong kinh dâng mình cho tình yêu, Thánh nữ cũng lại xin ơn Người đã xin ngày rước lễ lần đầu:
“Lạy Chúa, xin Chúa cất khỏi con sự tự do làm mất lòng Chúa...”.
Nhưng nếu Chúa không làm thế, Têrêsa còn lấy đâu được “hoa trái của cậy trông”?
A! Têrêsa sẽ hái trong sự thú nhận khiêm tốn những khuyết điểm của mình, vì khi ấy thiện chí sẽ che chở mình.
“Ôi, con thú nhận, con chưa thực hành được điều con hiểu, dầu vậy chỉ lòng chân thành ước ao thôi cũng đem lại bình an cho con”.
Thánh nữ nói thêm: “Hỡi bạn Chí Thánh, con nài xin chính Chúa hãy nên Đáng sửa chữa linh hồn con”.
Người lại kêu lên: “Ôi, con đường tình ái êm dịu biết bao! Khi đi trên con đường ấy chắc chắn người ta có thể sa ngã, thất tín, nhưng vì tình yêu biết lợi dụng tất cả, nên nó sẽ làm tiêu tan mọi điều phiền lòng Chúa Giêsu, và để lại tận đáy lòng nguồn bình an khiêm cung và sâu thẳm”.
Nhắc tới việc dâng mình cho tình yêu, Thánh Nữ quả quyết: “Từ ngày ấy, tình yêu đã thấm nhập con, bao phủ con; từng giây từng phút tình yêu thương xót Chúa canh tân con và làm cho linh hồn con sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Không, con không còn khiếp sợ lửa luyện ngục. Con biết Chúa Giêsu không thể muốn cho chúng ta phải chịu những đau khổ vô ích, và Ngài cũng không gợi lên trong con những ước vọng thánh thiện, nếu Ngài không muốn ban ơn cho con thực hiện những ước vọng ấy...”.
Trong thư gửi anh thiêng liêng, Têrêsa viết:
“Có lẽ nào Chúa chịu thua chúng ta về lòng quảng đại được? Có lẽ nào Ngài còn tinh luyện trong lửa luyện ngục những linh hồn đã tận hiến trong lửa tình yêu của Ngài?”.
Nơi khác Thánh Nữ viết: “Em tưởng những tâm hồn đã dâng hiến làm của lễ Toàn Thiêu cho Tình Yêu Chúa sẽ không bị phán xét, trái lại Chúa Giêsu sẽ vội ban hạnh phúc đời đời để thưởng chính tình yêu Ngài đang nóng cháy trong những tâm hồn ấy”.
Sau hết, điều đó cũng đã được thực hiện nơi chính bản thân Têrêsa, Người đã viết cho chị Céline:
“Em tưởng Chúa nhân lành chẳng cần gì thời gian để thực hiện công việc yêu đương của Ngài trong một linh hồn nào hết! Vì chỉ trong giây lát, một tia sáng tình yêu của Ngài có thể làm cho bông hoa của mình tươi nở trên cõi đời đời”.
Và Chúa đã nhậm lời cầu xin của Têrêsa, Thánh nữ nói: “Con khẩn xin Chúa thánh hoá con trong một thời gian ngắn cũng như con sống đến tuổi già, để con chóng được tiêu tan trong tình ái”.
Vâng, đối với Têrêsa, tình ái đã thay thế cho cuộc sống lâu dài: “Chúa không quan tâm đến thời gian, vì Chúa là Đấng Vĩnh Cửu, Ngài chỉ chú trọng đến Tình Ái mà thôi”.
“Chúa Giêsu ơi xin cứ ngủ yên,
An tâm con đợi tới miền thiên cung”
 

PHẦN KẾT


“Chỉ vì yêu, lòng con khao khát!
Khi hồn con lìa xác hèn này;
Chúa nên phần thưởng con ngay,
Trần gian của cải vơi đầy không mong.
ìinh Chúa con hằng say đắm,
Hãy thiêu con, khi bóng đời tàn!
Đó phần phúc, đó thiên đàng!
Con sống yêu Chúa muôn ngàn kiếp sau!...”
(Truyện Một Tâm Hồn)
“Lạy Chúa Giêsu, Phượng Hoàng đáng tôn thờ của lòng con, con sẽ còn đứng ngắm nhìn Chúa mãi, bao lâu Chúa muốn; Con muốn được say mê vì cái nhìn của Chúa, con muốn trở nên mồi ngon cho tình ái Chúa! Con hy vọng một ngày kia Chúa sẽ xuống bắt lấy con đem về lò Tình Á Chúa, và sau hết dìm con trong vực sâu cháy bỏng này để con sung sướng được trở nên lễ vật tận hiến cho Tình Ái Chúa đời đời!...”.
(Truyện Một Tâm Hồn)
Một hôm trên giường bệnh, Têrêsa cảm động ôn lại những biến cố quan trọng, cùng với những ơn Chúa đã ban cho trong cuộc đời ngắn ngủi của mình; Têrêsa than thở:
“Thực, đời con ngắn ngủi!”
Đúng thế, nhiều người lúc mới nhìn vào đời sống Thánh Nữ đã phải hết sức ngạc nhiên vì thấy cuộc đời dương thế của Người thật ngắn ngủi, thế mà ngày nay Thánh Nữ lại được tôn vinh vẻ vang trên Thiên Quốc cũng như nơi trần gian với một triều thiên vinh hiển và uy quyền. Nhưng tại sao họ không nghe lời Chúa: chỉ có tình yêu là có giá trị trước mặt Ngài. Nếu Ngài đã trao phó cho một nữ nhi nhỏ bé sứ mệnh rao truyền Tình Yêu Ngài cho thế nhân và cổ động mọi người kính yêu Ngài, như Ngài đáng yêu, thi đó chẳng phải để không còn ai có thể nhầm lẫn về giá trị của công việc và giá trị của tình yêu sao?
Khi suy niệm về thư thứ nhất Thánh Phaolô gởi giáo đoàn Côrintô, Têrêsa đã hiểu thấu được mầu nhiệm đầy an ủi này và bởi đó Thánh Nữ đã tìm được thứ linh dược làm dịu bớt những khát vọng nhiệt thành đang bừng cháy lên trong mình. Chính Thánh Nữ đã kể lại điều đó trong truyện Một Tâm Hồn.
“Khi suy niệm về nhiệm thể Giáo Hội, con chẳng thấy con thuộc riêng về một chi thể nào như Thánh Phaolô mô tả, hay nói đúng hơn, con muốn nhận thấy con trong hết mọi chi thể. Đức ái đã cho con chìa khoá ơn gọi của con. Con hiểu nếu nhiệm thể của Giáo Hội gồm nhiều chi thể khác nhau, thì phải có một cơ quan trọng yếu nhất, cao cả nhất, không thể thiếu được, con hiểu Giáo Hội có một trái tim và trái tim đó bừng cháy lửa yêu mến; con cũng hiểu rằng chỉ có tình yêu mới làm cho các cơ quan của Giáo Hội chuyển vận; nếu tình yêu đó tắt đi thì các Tông Đồ không còn rao giảng Phúc Âm, các vị tử đạo không còn muốn đổ máu mình ra nữa. Con hiểu tình yêu bao gồm mọi ơn kêu gọi, tình yêu là tất cả, tình yêu bao trùm cả thời gian lẫn không gian, bởi vì tình yêu là vĩnh cửu!”
Trong niềm vui mừng cực độ con đã kêu lên: “ Lạy Chúa Giêsu, Tình Ái của con, con tìm thấy ơn gọi của con rồi! Ơn gọi của con, chính là tình yêu! Vâng, con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong cung lòng Giáo Hội, và lạy Chúa, chỗ đó chính Chúa đã ban cho con: nơi cung lòng Giáo Hội, Mẹ con, con sẽ là Tình Yêu. Như thế con sẽ là tất cả: vậy giấc mộng con sẽ được thành tựu”.
Thánh Nữ còn nói:
“Lạy Chúa, Chúa đã biết con chỉ ước ao yêu mến Chúa, một mình Chúa mà thôi, mọi vinh quang khác con không màng tưởng đến. Tình yêu Chúa đã dìu dắt con từ tấm bé. Tình yêu ấy đã cùng lớn lên với con và bây giờ nó trở nên vực thẳm sâu không thể lường được. Tình yêu thu hút tình yêu, tình yêu con lao mình theo Chúa và muốn lấp đầy vực thẳm đang thu hút nó”.
Như chúng ta thấy, nếu Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu hiến mình làm “Của Lễ Toàn Thiêu cho Tình Yêu Thương Xót Chúa”, thì chính như Người đã nói “Có nhiều linh hồn tự hiến làm lễ vật cho đức Công Bình của Chúa trong khi không có ai tận hiến cho Tình Yêu của Ngài”, và tự đáy tâm hồn, Thánh Nữ kêu lên:
“Lạy Thầy Chí Thánh, chỉ có Đức Công Bình của Chúa mới cần hiến vật toàn thiêu thôi sao? Còn Tình Yêu lân tuất của Chúa lại không cần của lễ sao? Khắp nơi Tinh Yêu Chúa đều bị hắt hủi... còn những linh hồn Chúa muốn đổ tràn tình thương cho thì họ lại quay về với thụ tạo để cầu mong chút hạnh phúc với mối tình hèn hạ nhất thời, thay vì họ gieo mình vào lòng Chúa để được hạnh phúc ái ân trong Tình Thương vô biên của Chúa.
Ôi lạy Chúa, Tình Yêu bị khinh chê của Chúa sẽ ở lại trong Thánh Tâm Chúa mãi sao? Con nghĩ nếu Chúa thấy linh hồn nào tự hiến làm Của Lễ Toàn Thiêu cho tình yêu Chúa, chắc chắn Chúa sẽ mau chóng thiêu đốt linh hồn ấy và Chúa sung sướng để cho nguồn lửa yêu thương vô bờ đang nghẹn ứ trong Chúa cuồn cuộn bốc lên.
Nếu Đức Công Binh của Chúa chỉ bao trùm nơi trần thế mà còn muốn được vơi đi, phương chi tình thương hải hà của Chúa cao vượt cả ngàn mây xanh lại chẳng muốn thiêu đốt hết mọi tâm hồn sao! Ôi, Chúa Giêsu, ước chi chính con là Của Lễ Toàn Thiêu diễm phúc ấy; xin Chúa lấy lửa Tinh Yêu Chúa mà thiêu đốt của lễ bé mọn này!”
Thế là lần này Chúa không thể ở yên được nữa. Trong giây lát Ngài xé tan những làn mây che phủ Đức Tin và những thử thách còn tồn tại, mặc dầu từ trước linh hồn Ngài vẫn phấn khởi và Thánh Thần Tình Ái thiêu đốt Của Lễ Toàn Thiêu diễm phúc của Ngài.
Chắc chắn đó chỉ là một tia sáng, nhưng lại là một tia sáng đời đời, nếu không có phép lạ, có lẽ nó đã đưa linh hồn Têrêsa ra khỏi cõi đời này rồi.
Ta hãy nghe Thánh Nữ kể lại:
“Mấy ngày sau khi con đã dâng mình cho Tình Yêu Thương Xót của Chúa, đang lúc đi đàng Thánh Giá ở ca triều, bỗng chốc con cảm thấy một mũi tên lửa bắn vào lòng con nóng bỏng quá sức đến nỗi con tưởng chết ngay đi được. Con không thể nào giải thích nổi tâm trạng con lúc ấy ra sao, không sự so sánh nào có thể diễn tả được cường độ của ngọn lửa đó. Dường như có một sức mạnh vô hình đã dìm toàn thân con vào lửa. Ôi say nồng biết bao! Êm đềm khôn xiết kể! Có lẽ chỉ một phút nữa, một giây nữa là con chết”.
Thánh Nữ còn ước ao cho mọi người được nghiệm thấy nơi bản thân sức nóng bỏng khôn tả này, vì Người đã quả quyết: “Lúc ấy, không còn ai sợ hãi Chúa nữa, nhưng họ sẽ yêu Chúa đến cực độ”.
Đầy lòng phấn khởi, Thánh Nữ nói tiếp: “Phần con, Chúa đã ban cho con lòng Thương Xót vô biên của Chúa, nay con chỉ còn ước mong này là được yêu Chúa cho đến chết vì yêu”. Sau này chúng ta sẽ chứng kiến cái chết vì yêu đó...
Thánh Nữ còn viết: “Con không biết ngày nào sẽ chấm dứt cuộc lưu đày của con. Ôi Giêsu! Có lẽ còn nhiều buổi hoàng hôn nơi dương gian này, Chúa thấy con ca ngợi lòng Thương Xót của Chúa; nhưng sau hết một chiều kia, buổi chiều cuối cùng sẽ đến với con...”.
Và đây “buổi chiều Yêu Thuơng” đó đã đến rủ bóng trên Thánh Giá, trên đồi Calvê đã từng mang nặng đau thương qua nhiều năm tháng.
Têrêsa ngạc nhiên trước buổi chiều đó ư? Không! nhưng Người nói:
“Cái chết vì yêu mà con hằng ao ước, đó chính là cái chết của Chúa Giêsu trên Thánh Giá”.
Và trước lần xuất thần trong giây phút cuối đời, Thánh Nữ đã thưa hết Lời Fiat (Xin Vâng) và đã uống cạn chén đắng theo gương Thầy Chí Thánh.
Vị bác sĩ của nhà Kín đã phải xác nhận: “Tôi chưa từng thấy chứng bệnh đau ngực như thế bao giờ. Cơn đau đớn mà nữ tu trẻ tuổi này phải chịu thật ghê sợ, nhưng chị đã chịu với biết bao kiên nhẫn!”.
Chị em hỏi Thánh nữ nghĩ sao về lời nhận xét ấy của bác sĩ, thì Người đơn sơ trả lời: “Một lễ vật hy sinh bé mọn của Tình Yêu Chúa lại coi sự Chúa gởi đến cho là ghê sợ sao? Sự thực em phải đau đớn nhiều, nhưng chỉ vừa với sức chịu đựng của em mà thôi”.
Chúa đã phán bảo các Tông đồ rằng: “Thầy đi thì ích lợi cho các con” (Ga 16,7). Đệ tử trung thành và người yêu bé nhỏ của Chúa cũng nói được như thế: “Nếu con sung sướng được chết đi, thì chính vì ở trên trời con sẽ làm ích cho các linh hồn nhiều hơn là ở trần gian. Đối với con, sống chết không hệ gì. Con không biết ở trên trời con sẽ được những gì hơn những cái con được ở dưới thế. Con chỉ chắc điều này là con sẽ thấy Chúa nhân lành; còn việc sống với Chúa thì ngay ở đời này con đã hưởng hạnh phúc đó rồi”.
Khi đề cập đến hạnh phúc trên trời và sự nghỉ ngơi sau cuộc đời vất vả này. Thánh nữ nói: “Ôi, không phải những điều đó đã thu hút lòng con đâu! Con khát vọng về quê trời chính là để được yêu mến Chúa như lòng con sở nguyện và con có thể giúp nhiều người yêu mến Chúa và chúc tụng Chúa muôn đời.
Con chỉ hồi hộp mong đợi điều này là tình yêu con sẽ nhận lãnh và tình yêu con sẽ ban phát”.
Thánh nữ còn nhấn mạnh hơn khi Người cho biết: “Đây là những giấc mộng tương lai của con: yêu mến Chúa, được Chúa yêu, và rồi trở về thế gian để giúp người ta yêu mến Chúa Tình Yêu”.
Lần kia, sau khi chiêm ngắm thật lâu bức chân dung Thánh Nữ Jeanne d’Arc đang bị giam trong ngục, Têrêsa nói: “Các Thánh cũng bảo con: bao lâu còn bị xiềng xích, con không thể chu toàn sứ mệnh của con, nhưng sau khi chết, đó là thời gian có thể đi chinh phục”.
Ngày 17 tháng 7, với một giọng tiên tri, Têrêsa nói: “Con cảm thấy sứ mạng của con sắp bắt đầu rồi. Sứ mệnh của con là làm cho người ta yêu mến Chúa như chính con đã yêu mến Ngài, là đem hiến cho các linh hồn con đường nhỏ của con...”.
“Con muốn lên thiên đàng để mưu ích cho trần gian... Con sẽ làm mưa hoa hồng xuống. Con sẽ chẳng chịu nghỉ ngơi chút nào cho đến tận thế. Chỉ khi nào thiên sứ bảo: “Hết thời giờ rồi” (Kh 10,6) con mới chịu nghỉ tay, vì khi ấy số người được chọn đã đầy đủ...”.
Yên lặng một lát, Thánh Nữ nói thêm: “Nếu Chúa không muốn cho con thực hiện giấc mộng vĩ đại này là làm ơn cho trần thế sau khi chết, thi hẳn là Ngài không ban ước vọng ấy cho con, mà trái lại Ngài ban cho con khát vọng muốn nghỉ ngơi trong Ngài”.
Dù thân xác và tâm hồn lúc nào cũng phải đau đớn không ngớt, nhưng luôn luôn Thánh nữ bình tĩnh và phó thác trong tay Chúa như đứa con yêu dấu của Ngài. Và sau hết, ngày cuối cùng đã đến, đó thực là “buổi chiều cuối cùng” của cuộc lưu đày này.
Khi ấy, hơn bao giờ hết mới thực là “đau khổ không pha chút an ủi”. Trong cơn hấp hối ghê sợ kéo dài suốt mười hai tiếng đồng hồ, Thánh nữ đã kêu lên:
“Ôi, Lạy Chúa, ôi Lạy Nữ Trinh Maria dịu hiền, xin thương đến cứu giúp con!”
“Chén đắng đã đầy đến miệng! Không bao giờ con nghĩ con có thể chịu đau khổ đến thế này... Con chỉ có thể giải thích điều đó là tại lòng con quá khao khát cứu các linh hồn.”
“Ôi Lạy Chúa, xin tuân theo ý Chúa, nhưng xin Chúa thương xót con!...”
Têrêsa đang bị bão táp vùi dập và toàn thân Người như diễn lại cơn hấp hối đau thương của Chúa Cứu Thế lúc Ngài than thờ với Cha Ngài “Lạy Chúa Trời con, sao Chúa bỏ con?” (Mt 27,46).        Thánh Nữ cũng cố trấn tĩnh cơn đau đớn để cho mọi người xung quanh thấy rõ nơi sâu thẳm của linh hồn mình vẫn không thay đổi, Người nói: “Những gì con đã viết về ước vọng muốn chịu đau khổ nhiều vì Chúa của con đều rất chân thực.”, “Con không hối hận vì đã dâng mình làm Của Lễ cho Tình Yêu Chúa”.
Trước ngày 30-09-1897, Chị Céline đến xin Têrêsa một lời vĩnh biệt, Thánh Nữ bảo: “Em đã nói hết rồi... mọi sự đã hoàn tất (Ga 19,30)... Chỉ có Tình Yêu mớí đáng kể.” Vào lúc 7giờ15 phút chiều, sau kinh Truyền Tin (ngày 30-09-1897) mẹ Bề Trên bảo Têrêsa, có lẽ cơn hấp hối còn kéo dài, Thánh nữ can đảm trả lời, nhưng với một giọng nói như tắt lịm dần: “Vâng... Vâng... Thưa Mẹ, con không muốn được chịu đau khổ ít hơn!”
Rồi nhìn tượng Chúa chịu nạn đang nắm chặt trong tay, Thánh Nữ kêu lên: “Ôi, con yêu mến Chúa... lạy Chúa... con yêu mến Chúa”.
Những lời đó vừa buông giữa “đêm tối tăm của đức tin”, Thánh nữ liền gục xuống, đầu ngả về bên phải, rồi đột nhiên, như nghe thấy tiếng gọi từ trời, Người ngẩng đầu lên trong một cơn xuất thần tuyệt vời, ánh mắt sáng rực lên và hướng thẳng về trời, ôi cái nhìn diễm phúc! Ôi cử chỉ sống động. Một trong các chị của Người đã cố gắng họa lại cử điệu ấy trên một bức tranh tuyệt diệu, nhưng vẫn chưa lưỡi nào, chưa bút họa nào có thể diễn tả trung thực được sức sống động, sự bỡ ngỡ, vẻ ngất ngây của ánh mắt sáng ngời cùng với thái độ tin tưởng chắc chắn và bình thản. Điều ấy cho ta thấy người yêu của Chúa không lo sợ phải chịu phán xét, và thực xứng đáng “ra trước mặt Con Người” (Lc.21,26).
Tắt một lời, đó chính là mây mù bị xé tan, trời rộng mở, ánh sáng chiếu xuống và mũi tên tình yêu bắn ra, nhưng đây là ánh sáng tuyệt vời, vì không có một phép lạ thứ hai để giữ thiên thần Têrêsa lại nơi trần gian, vì thế đường canh tấm vải dệt nên cuộc đời dương thế của Thánh nữ đã bị đứt ra dưới vết thương tình yêu của Chúa.
Giờ đây linh hồn Têrêsa ở đâu?
Giáo Hội đã phán quyết: “Têrêsa đã được phong hiển thánh, Người đang khải hoàn trên cõi cao xa thiên quốc”.
Nhưng đồng thời Thiên Chúa đã cho ta thấy: Têrêsa vẫn còn nơi dương thế. Thánh nữ đang thực thi sứ mệnh: phổ biến và làm cho người ta yêu mến Tình Yêu Chúa, Tình Yêu Thương Xót của Chúa, lòng Cha nhân hậu đối với các tội nhân là chính chúng ta. Từ cõi thiên cung diễm phúc, nơi hưởng kiến, Thánh nữ vẫn theo dõi chúng ta và hoàn tất những việc trọng đại vô cùng trổi vượt những ước vọng bao la của Người là yêu mến và làm tông đồ.       
 

PHỤ LỤC: GIÁO HỘI TUYÊN DƯƠNG TINH THẦN THÁNH TÊRÊSA HÀi ĐỒNG GIÊSU

 

1. TINH THẦN YÊU ĐƯƠNG VÀ TINH THẦN THƠ ẤU PHÚC ÂM

Vị sứ giả của đường cứu rỗi đích thực.
“... Thánh Têrêsa mới này đã thấu triệt giáo lý Tin Mừng và đã đem ra thực hành trong đời sống thường nhật. Người nuôi tinh thần và tâm hồn mình bằng chuyên cần suy niệm Kinh Thánh, và Thần Chân Lý đã bày tỏ và giáo huấn Người những điều mà Ngài thường giấu các bậc hiền triết và khôn ngoan nhưng mạc khải cho kẻ khiêm hạ. Thực vậy, như vị Tiền Nhiệm của ta đã minh chứng, Thánh nữ thu thập được một khoa học siêu nhiên như thế, và Người đã cố thể vạch cho kẻ khác một con đường cứu rỗi đích thực”.
“Việc tham gia sung mãn ánh sáng thần linh và ơn Chúa, đã nhóm lên trong Têrêsa một ngọn lửa tình yêu rất mãnh liệt, đến nỗi Người chỉ còn sống vì lửa đó và siêu thoát mọi thụ tạo, sau cùng ngọn lửa ấy đã tận tiêu Người, ít lâu trước khi chết, Người đã chân thành thú nhận mình chẳng dâng gì cho Chúa nhân lành ngoài tình yêu”. Cố nhiên, cũng dưới ảnh hưởng của đức ái nồng nhiệt này, mà người trinh nữ thành Lisieux đã quyết định và chuyên tâm là thực thi mọi việc vì yêu mến Chúa Giêsu, trong mục tiêu duy nhất là làm đẹp lòng Ngài, an ủi Thánh Tâm Ngài và mang lại ơn cứu rỗi cho nhiều linh hồn để muôn đời họ yêu mến Chúa. Người khởi công hoạt động ngay sau khi về Quê Trời, bằng chứng là chúng ta đã được chứng kiến trận mưa hoa hồng mầu nhiệm này mà Chúa đã và còn ban phép cho Người tiếp tục mưa hoa hồng trên khắp mặt đất như Người đã đơn sơ tiên báo.
Vì thế, chư huynh khả kính và hiền tử rất thân yêu, Ta chân thành ước mong mọi Kitô hữu trở nên xứng đáng dự phần nguồn ơn sủng chan chứa qua sự trung gian của “Thánh Têrêsa nhỏ”. Nhưng Ta còn cầu mong hơn nữa cho họ biết ân cần chiêm ngắm để noi gương Người, hầu trở nên những trẻ thơ, vì theo lời Chúa Kitô, nếu không trở nên như con trẻ thì không thể vào được Nước Trời.
“Nếu đường Thơ ấu thiêng liêng này được phổ biến, thì việc canh tân xã hội loài người sẽ thể hiện dễ dàng biết bao, việc canh tân mà Ta đã đề xướng ngay từ đầu Triều Đại Giáo Hoàng Ta và đặc biệt khi công bố Cuộc Lễ long trọng này!”
Vậy Ta mượn lời nguyện của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu khi kết thúc Quyển Sách quí báu về Sự Sống của Người:
“Ôi Giêsu, con nài xin Chúa ghé mắt trông xem một số đông linh hồn bé nhỏ và xin Chúa hãy chọn nơi dương gian này một đạo binh, gồm những linh hồn hiến tế bé nhỏ xứng đáng với Tình Yêu Chúa”.
(Bài giảng cùa ĐGH Piô XI, trong Thánh Lễ Phong Thánh 17-5-1925)
 

2. LÒNG NHIỆT THÀNH TRUYỀN GIÁO, QUAN THẦY CÁC XỨ TRUYỀN GIÁO


Lòng sùng mộ Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu bành trướng trong thế giới Công giáo trên khắp năm châu, đã được biểu lộ qua tâm tình hoan hỉ trong cuộc phong hiển thánh cho Người. Cả những miền xa xôi, chưa biết Chúa, thì vị nữ tu dòng Carmel cũng vẫn mưa hoa hồng như Người đã hứa.
“... Với niềm xác tín rằng nơi Vườn Nho của Thiên Chúa, mùa gặt sẽ được dồi dào hơn nữa, nếu Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Đấng đầy lòng nhiệt thành truyền bá Đức Tin - mà mỗi người chúng ta đều biết hoạt động lạ lùng của Người trong các xứ ngoại đạo - được tôn phong Quan thầy các vị Thừa Sai, nơi họ truyền giáo... Với lòng đầy khoan hậu, Đức Thánh Cha Piô XI, khi tiếp nhận một số lớn lời thỉnh nguyện của các Giám mục, đã tuyên bố Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu với tước hiệu đặc biệt là Quan Thầy các vị Thừa Sai - Nam cũng như Nữ - và các xứ truyền giáo trên toàn thế giới.
Như thế, Thánh nữ trở nên Đấng Quan Thầy chính của họ, ngang hàng với Thánh Phanxicô Xaviê”.
Bản Sắc Lệnh cửa Thánh Bộ Nghi Lễ,
Ngày 14-121917.
J.M.J.T
 

3. KINH TẬN HIẾN CHO TÌNH YÊU THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA NHÂN TỪ

(Của Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu).
(Thánh nữ đặt kinh này trong sách Phúc Âm và ngày đêm mang trong mình)
Ôi! Lạy Chúa Ba Ngôi cực thánh, con muốn yêu mến Chúa và làm cho mọi người yêu mến Chúa, con muốn làm vinh quang Hội Thánh bằng cách cứu rỗi các linh hồn còn sống ở trần gian, và giải thoát các linh hồn đang đau khổ nơi luyện ngục. Con ước ao thực thi trọn thánh ý Chúa, và đạt đến độ vinh quang mà Chúa đã chuẩn bị cho con trên nước Trời. Tóm lại, con muốn nên Thánh, nhưng con cảm thấy bất lực, bởi đấy lạy Chúa, con xin chính Chúa hãy là sự thánh thiện của con.
Vì Chúa đã yêu con đến nỗi đã ban Con Một Chúa, để làm Đấng Cứu Thế và làm Hiền Phu con, nên mọi kho tàng công nghiệp của Người đều thuộc về con; con hân hoan dâng cho Chúa, nài xin Chúa chỉ nhìn con qua Nhan Thánh Chúa Giêsu và trong Thánh Tâm rực cháy tình yêu mến của Người.
Con cũng dâng lên Chúa tất cả công nghiệp của các thánh trên trời và dưới đất, các hoạt động yêu mến của các Ngài và của các Thiên Thần nữa. Sau hết, ôi lạy Chúa Ba Ngôi Diễm Phúc, con dâng Chúa Tình Yêu và công nghiệp của Đức Nữ Đồng Trinh, Mẹ yêu dấu, chính nhờ Người mà con phó thác của lễ này, và xin Mẹ dâng lên Chúa. Chúa Giêsu, Con rất thánh của Mẹ, là Bạn Lòng chí ái của con, khi còn ở trần gian đã nói: “Những gì các con nhân danh Ta mà xin cùng Cha Ta, thì Người sẽ ban cho các con”. Vậy con chắc chắn Chúa sẽ thương nhận ước muốn của con. ôi lạy Chúa, con biết, Chúa càng muốn ban thì càng làm cho người ta khát vọng. Ôi! Con không thể năng rước Chúa như con muốn, nhưng lạy Chúa, Chúa chẳng phải là Đấng Toàn Năng sao? Vậy xin Chúa hãy ở lại trong con như trong Nhà Tạm và đừng bao giờ lìa xa bánh nhỏ của Chúa...
Con muốn an ủi Chúa về những bạc tình của kẻ tội lỗi, xin Chúa cất khỏi con cái tự do làm phiền lòng Chúa, nếu bởi yếu đuối mà đôi khi con sa ngã, thì lập tức, xin ánh mắt thần linh của Chúa tẩy rửa linh hồn con, thiêu huỷ mọi bất toàn trong con, như lửa biến đổi mọi vật thành lửa...
Ôi lạy Chúa, còn cảm tạ Chúa về mọi hồng ân Chúa đã ban cho con, nhất là đã luyện con trong lò đau khổ. Đến ngày cuối đời, con sẽ hân hoan ngắm nhìn Chúa “tay cầm phủ việt Thánh Giá” bởi vì Chúa đã đoái ban cho con được dự phần vào Thánh Giá rất quí báu của Chúa, nên con hy vọng ở trên trời, con sẽ giống Chúa và thấy chói lọi nơi thân xác vinh hiển của con những thương tích của cuộc Khổ nạn Chúa...
Sau cuộc lưu đày nơi trần gian, con hy vọng được vui hưởng Chúa trên quê Trời, nhưng con không muốn thu tích công đức để lên trời, con chỉ muốn làm việc cho Tình yêu Chúa, với mục đích duy nhất là làm đẹp lòng Chúa, là an ủi Thánh Tâm Chúa, là cứu vớt nhiều linh hồn để họ cũng yêu mến Chúa đời đời.
Khi đời đã về chiều, con sẽ trình diện trước Nhan Chúa với đôi tay trống rỗng, vì lạy Chúa, con không xin Chúa đếm tính các việc con làm. Mọi công chính của chúng con đều có vết nhơ trước mặt Chúa! Vậy con muốn mặc lấy sự công chính của chính Chúa, và xin Tình Yêu Chúa cho con được chiếm hữu chính Chúa đời đời. Con không mong ước ngai tòa hay vương miện nào khác ngoài Chúa, ôi Bạn Lòng yêu mến của con.
Dưới mắt Chúa, thời giờ chẳng là bao, một ngày cũng như ngàn năm, vậy trong giây lát, Chúa có thể chuẩn bị con đến trước Tôn Nhan Chúa.
Để được sống liên lỉ trong Tình Yêu trọn hảo, CON XIN DÂNG MÌNH CON LÀM LỄ VẬT TOÀN THIÊU CHO TÌNH YÊU THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA, khẩn xin Chúa tận huỷ con không ngừng, và đổ tràn trào hồn con những làn sóng yêu thương vô biên đang nghẹn ứ trong Chúa, và như thế con sẽ trở nên tử đạo vì Tình Yêu Chúa, ôi, lạy Chúa Trời con!
Ước gì cuộc tử đạo này, sau khi đã chuẩn bị con ra trước Tôn Nhan Chúa, sẽ làm cho con chết đi, và hồn con bay thẳng về nguồn phúc đời đời của Tình Yêu Thương Xót Chúa.
Ôi lạy Chúa Chí ái, con muốn ở mỗi nhịp đập của trái tiím, là mỗi lần con tái dâng cho Chúa của lễ này muôn vạn lần cho đến khi bóng tối tan đi, con có thể đối diện với Chúa và dâng lại Tình Yêu con đời đời.
Marie-Françoise-Thérèse de l’Enfant-Jésus et de la Sainte-Face, rel. carm. ind.
Lễ Chúa Ba Ngôi, 9-6, năm Ân sủng 1895
 

4. NHỮNG BỨC CHÂN DUNG CỦA THÁNH TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU


Có một vài lời phê bình phản đối tính cách đích thực những bức chân dung trình bày trong quyển “Một Tâm Hồn”. Theo ý kiến nhiều người, những bức vẽ đó được phác hoạ theo trí tưởng tượng, để hiến cho người xem một hoạ phẩm được lý tưởng hoá. Vì những lời phê bình trên lan tràn, chúng tôi thấy cần tra xét cẩn thận về nguồn gốc và giá trị những bức chân dung bị tố cáo đó.
Chúng tôi đã điều tra tại Dòng Kín Lisieux, và được biết, hiện còn đang giữ trong hồ sơ của cộng đoàn, từ 12 đến 15 kiều ảnh, chụp từng nhóm nữ tu, trong đó có nữ tu Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Đó là những ảnh chụp trong các dịp lễ riêng của Đan Viện, nhất là vào những năm cuối đời nữ tỳ Chúa (1895,1896,1897).
Cuộc điều tra và đối chiếu những tài liệu trên, đem lại kết quả rõ ràng:
1. Trong khi chụp ảnh, đôi lần Thánh nữ không giữ được nét tươi tỉnh tự nhiên, vì thế một trong những tài liệu đã được tra xét, mặc dầu cũng giống như những cái khác, một bức ảnh không được nhuận sắc, chắc chắn không giống diện mạo đích thực của Têrêsa.
2. Sau khi tra cứu tỉ mỉ và chu đáo những nét đích thực của những tấm ảnh nói trên, chúng tôi nhận thấy tấm ảnh bán thân trình bày ở bìa quyển “Một Tâm Hồn” hội đủ những yếu tố đó.
Bởi thế, chúng tôi không ngần ngại công nhận, ảnh bán thân trên là chân dung đích thực và chính xác của Nữ tì Chúa vào khoảng năm 23 tuổi. Phỏng theo mẫu đó, ta có thể nhận chân giá trị các ảnh khác.
Lisieux, ngày 8/9/1915
+ THOMAS,
Giám mục Bayeux và Lisieux

Đây là một vài nét đích xác, có thể cung hiến cho những người muốn biết diện mạo thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu:
Tầm vóc cao lớn, tóc màu vàng hoe, đôi mắt xanh lục, chân mày thẳng và mảnh, miệng nhỏ, nét mặt thanh và đều đặn. Khuôn mặt cân đối, duyên dáng, nước da trắng ngần, luôn đượm vẻ thanh thản hiền hoà và an tĩnh. Cuối cùng, dáng đi trang nghiêm, đồng thời cũng đơn sơ và yêu kiều.

 

Tác giả: Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây