SỨ MẠNG CỦA THÁNH GIUSE trong cuộc đời Chúa Kitô và Hội Thánh - Phan Tấn Thành

Chủ nhật - 18/07/2021 08:39
SỨ MẠNG CỦA THÁNH GIUSE trong cuộc đời Chúa Kitô và Hội Thánh - Phan Tấn Thành
SỨ MẠNG CỦA THÁNH GIUSE trong cuộc đời Chúa Kitô và Hội Thánh - Phan Tấn Thành
SỨ MẠNG CỦA THÁNH GIUSE
TRONG CUỘC ĐỜI CHÚA KITÔ
VÀ HỘI THÁNH

Phan Tấn Thành
Roma 2007
-------------------------------------------------
Nhập đề. 1
Chương một THÁNH GIUSE TRONG KINH THÁNH.. 3
MỤC 1 TIN MỪNG THÁNH MATTHÊU.. 4
MỤC 2 TIN MỪNG THÁNH LUCA.. 18
MỤC 3 TIN MỪNG THÁNH MARCÔ  VÀ THÁNH GIOAN.. 27
MỤC 4 NHỮNG HÌNH ẢNH TRONG CỰU ƯỚC
.. 29

Chương hai| THÁNH GIUSE  TRONG TRUYỀN THỐNG GIÁO HỘI 31
MỤC 1 CÁC TÁC PHẨM NGUỴ THƯ TÂN ƯỚC.. 31
MỤC 2 SỰ TIẾN TRIỂN THẦN HỌC VÀ PHỤNG VỤ.. 40
MỤC 3 HUẤN QUYỀN
.. 51

Chương ba SUY TƯ THẦN HỌC.. 57
MỤC 1 VAI TRÒ THÁNH GIUSE TRONG CUỘC ĐỜI CỦA ĐỨC GIÊSU.. 58
MỤC 2 THÁNH GIUSE TRONG ĐỜI SỐNG  CỦA HỘI THÁNH.. 73
MỤC 3 NHỮNG KINH NGUYỆN VÀ VIỆC TÔN KÍNH
.. 80

TÔNG HUẤN REDEMPTORIS CUSTOS ĐẤNG GÌN GIỮ CHÚA CỨU THẾ.. 99

------------------------------------------------

 

Nhập đề


Có nhiều cách thức trình bày chân dung của Thánh Gia, cũng tương tự như có nhiều cách thức trình bày Đức Maria. Những cuốn sách soạn để suy gẫm trong tháng ba dương lịch thường đề cao các nhân đức và phép lạ của Thánh Cả. Không thiếu tác phẩm được biên soạn dưới hình thức tiểu thuyết nhằm dựng lại cuộc đời gian truân của dưỡng phụ Chúa Giêsu. Về phía thần học, người ta chú trọng đến tương quan giữa Thánh Gia với Đức Mẹ (hôn nhân và khiết tịnh) hoặc so sánh đặc ân (vô nhiễm nguyên tội, hồn xác lên trời) .

Công đồng Vatican II đã mở ra một hướng đi mới trong thần học về Đức Maria. Một đàng, thần học cần dựa trên các dữ kiện của mạc khải (Thánh Kinh và Thánh Truyền), chứ không thả hồn theo các giả thuyết; đàng khác, cần hướng đến vai trò của Đức Maria trong mầu nhiệm của Đức Kitô và của Hội Thánh. Chương VIII của hiến chế Tín lý về Hội Thánh đã được soạn theo chiều hướng đó, Từ sau Công đồng, khoa Thánh Mẫu học đã tiến triển rất nhiều, cách riêng do sự thúc đẩy của Đức Gioan Phaolô II. Tiếc rằng những sách viết về Thánh Gia theo phương pháp thần học vừa nói vẫn còn ít. Trong tập sách này chúng tôi ước mong bổ túc phần nào sự thiếu sót đó, bằng cách trình bày vai trò của Thánh Gia trong mầu nhiệm của Đức Kitô và của Hội Thánh, dựa theo Tông huấn Redemptoris Custos của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II (ban hành ngày 15/8/1989). Hướng đi này giả thiết hai điều:

1. Cần chú ý đến dữ kiện của mạc khải, chứ không phải là các nguỵ thư hay các mạc khải tư;

2. Cần nêu bật vai trò của thánh Giuse trong chương trình cứu độ: ơn gọi của Người là phục vụ Chúa Cứu Thế, và vì thế trở nên mẫu gương cho Hội Thánh trải qua mọi thời đại tiếp tục sứ mạng thông truyền hồng ân cứu độ.

Tập sách gồm ba chương.

Chương Một. Thánh Giuse trong Kinh Thánh

Chúng ta sẽ tìm hiểu vai trò của thánh Giuse dựa theo các sách Tin Mừng, đặc biệt là trong các đoạn văn “Tin mừng thơ ấu” của thánh Matthêu và Luca. Những đoạn văn này không chỉ liên quan đến thánh Giuse mà thôi nhưng còn liên quan đến Đức Maria nữa. Nói cách khác, việc tìm hiểu thánh Giuse cũng giúp chúng ta hiểu biết hơn về Đức Maria cũng như sự hợp tác của cả hai vị trong sứ mạng phục vụ Chúa Cứu Thế.

Ngoài ra chúng ta cũng nên phân tích vài đoạn văn của Cựu Ước mà Hội Thánh tiên khởi và các giáo phụ quen trưng dẫn để làm sáng tỏ vai trò của thánh Giuse.

Chương Hai. Thánh Giuse trong Truyền thống Hội Thánh

Tân Ước để lại cho chúng ta hình ảnh của thánh Giuse như một con người thầm lặng: Người không nói một lời nào. Thánh Giuse vẫn tiếp tục giữ thinh lặng trong lịch sử Hội Thánh: đang khi phụng vụ đã phát triển lòng tôn kính các thánh tông đồ và tử đạo ngay từ những thế kỷ đầu tiên, thì mãi đến thế kỷ XVII lễ thánh Giuse mới được cử hành trong toàn thể Giáo Hội. Lãnh vực thần học được phát triển sớm hơn, bởi vì thánh Giuse đã được đề cập ngay từ thời các giáo phụ và kinh viện, đặc biệt là thánh Tôma Aquinô.

Từ cuối thế kỷ XIX, thánh Giuse thường được nhắc đến trong các văn kiện Huấn quyền, được đánh dấu bằng thông điệp Quamquam pluries của Đức Lêô XIII (15/8/1889). Tông huấn Redemptoris custos của Đức Gioan Phaolô II (15/8/1989) muốn kỷ niệm biến cố đó, đồng thời cũng mở ra một hướng đi mới cho thần học về thánh Giuse.

Chương Ba. Suy tư thần học

Dựa theo chiều hướng của văn kiện vừa nói, chúng tôi sẽ bàn về hai điểm:

1/ Vai trò của thánh Giuse trong cuộc đời của Chúa Giêsu, như là kẻ giữ gìn Đấng Cứu Thế: Người là chứng nhân cho mầu nhiệm nhập thể và cho căn cước của Đức Giêsu. Điều này sẽ được chứng tỏ khi tìm hiểu tương quan của thánh Giuse với Chúa Giêsu và Mẹ Maria.

2/ Vai trò của thánh Giuse trong đời sống của Hội Thánh. Thánh Giuse đã phục vụ Chúa Giêsu là đầu của Hội Thánh, và trở nên mẫu gương cho Hội Thánh trong việc phục vụ chương trình cứu độ. Tông huấn Redemptoris Custos đề cao vài nhân đức nổi bật nới thánh Giuse: đức tin; trung thành với bổn phận; thinh lặng chiêm niệm.

Sau những suy tư thần học, chúng tôi dành mục cuối cùng để tìm hiểu những hình thức phụng vụ và đạo đức dân gian dành để tôn kính thánh nhân.

Trong phần Phụ lục, chúng tôi sẽ trích nguyên văn tông huấn Redemptoris Custos, mà tập sách này có thể được xem như một thứ giới thiệu và chú giải, nhân dịp kỷ niệm 380 năm ngày cha Đắc Lộ đặt chân đến Cửa Bạng (19/3/1627), 40 năm ngày thành lập tỉnh dòng Đaminh Việt Nam (18/3/1967), và 80 năm thành lập dòng thánh Giuse Nha Trang (1/11/1926).

*********

 

Chương một
THÁNH GIUSE TRONG KINH THÁNH


Khi trình bày một nhân vật nào, người ta thường bắt đầu với một đoạn nói về tiểu sử, thân thế, sự nghiệp. Chúng ta biết gì về tiểu sử thánh Giuse?

Xin trả lời là các nguồn sử liệu về thánh Giuse rất hiếm. Thật ra điều này không có gì lạ, bởi vì vào thế kỷ thứ nhất của Kitô giáo các nguồn sử liệu không được phong phú. Ngay cả khi muốn viết cuộc đời Chúa Giêsu, các sử gia cũng thấy lúng túng khi muốn thu thập dữ liệu liên quan đến giai đoạn ẩn dật của Người, bởi vì các sách Tân Ước không cung cấp nhiều chi tiết. Sự khó khăn này càng gia tăng khi bước sang cuộc đời của các môn đệ của Chúa.

Riêng đối với thánh Giuse, những tài liệu lịch sử chắc chắn là các sách Tin Mừng, đặc biệt là những chương đầu của Tin Mừng thánh Matthêu và thánh Luca. Dù sao, khi so sánh với những tài liệu về Đức Maria, chúng ta nhận thấy rằng Đức Maria còn hiện diện trong.giai đoạn hoạt động công khai của Chúa Giêsu, và thậm chí sau khi Chúa Phục sinh và Lên trời; còn thánh Giuse thì không được nhắc tới nữa sau khi tìm lại Chúa Giêsu trong đền thờ lúc lên 12 tuổi.

Để bù đắp vào những lỗ hổng đó, trong các thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo, nhiều “Tin Mừng nguỵ thư” ra đời, nhằm mô tả chi tiết về con đường thơ ấu của Chúa Giêsu, hoặc về gốc tích và việc tạ thế của Đức Mẹ và thánh Giuse. Trước đây, các tài liệu này được sử dụng khá nhiều trong các bài giảng hoặc lưu truyền dân gian. Nhưng ngày nay, giá trị của chúng đã bị xét lại từ hai khía cạnh: lịch sử và thần học. Xét về khía cạnh lịch sử, các tài liệu đó phát sinh do óc tưởng tượng hơn là dựa theo dữ kiện khách quan. Xét về khía cạnh thần học, các tài liệu ấy ra đời do một quan niệm thiếu sót về chủ đích của các sách Tin Mừng. Thật vậy, các sách Tin Mừng không có ý định viết một tiểu sử về cuộc đời Chúa Giêsu cho bằng “loan báo Tin Mừng”, nghĩa là công bố cho nhân loại biết hồng ân cứu độ mà Thiên Chúa ban qua lời giảng, hành động và cuộc tử nạn của Đức Giêsu. Vì thế nếu ai muốn truy tầm nới các sách Tin Mừng những tài liệu để viết tiểu sử Đức Giêsu thì sẽ thất vọng; tuy nhiên, nếu ai muốn tìm hiểu sứ điệp cứu độ thì sẽ thấy đủ chất liệu.

Chúng ta cũng có thể nhận xét cách tương tự về thánh Giuse. Tân Ước không cung cấp các chi tiết về tiểu sử của Người (ngày và nơi sinh; ngày và nơi qua đời); tuy nhiên những đoạn văn Tin Mừng đã phác hoạ vai trò của Người trong việc hoàn tất chương trình cứu độ mà Thiên Chúa muốn thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô.

Trong chương này, chúng ta sẽ điểm qua những bản văn Tân Ước nói đến thánh Giuse, đặc biệt nơi Tin Mừng của thánh Matthêu và thánh Luca, và cố gắng khám phá ý nghĩa thần học của chúng. Ngoài ra, chúng ta cũng sẽ khảo sát những đoạn văn Cựu Ước đã được Hội Thánh tiên khởi áp dụng cho sứ mạng của thánh Giuse.


 

MỤC 1
TIN MỪNG THÁNH MATTHÊU


I. NHẬN XÉT TỔNG QUÁT
Trong bốn sách Tin Mừng, thánh Matthêu nói nhiều hơn hết về thánh Giuse: trong hai chương đầu, thánh Giuse giữ vị trí then chốt, và phần nào hoạ lại vai trò của tổ phụ Giuse trong Cựu Ước. Ngoài ra, Đức Giêsu được gọi là “con bác thợ mộc” ở Mt 13,55.

Thánh Luca cũng nhắc đến thánh Giuse trong hai chương đầu, tuy nhấn mạnh nhiều hơn đến Đức Maria. Dù sao, thánh Luca bổ túc thêm cho thánh Matthêu nhiều chi tiết để hiểu rõ hơn vai trò của thánh Giuse trong mầu nhiệm Nhập thể và Giáng sinh của Chúa Giêsu. Thánh Giuse còn được nhắc đến hai lần nữa trong Tin Mừng Luca vào lúc khai mạc sứ vụ công khai của Chúa Giêsu (Lc 3,23 và 4,22).

Thánh Giuse được nói đến hai lần trong Tin Mừng thánh Gioan (1,45; 6,42), nhưng hoàn toàn vắng bóng trong Tin Mừng thánh Marcô.

Trước hết, chúng ta bắt đầu khảo sát Tin Mừng thánh Matthêu, đặc biệt là hai chương đầu tiên, quen được đặt tên là “Tin Mừng thời niên thiếu” (hoặc “Tin Mừng thơ ấu”), tuy rằng thuật ngữ này không được chính xác lắm.

Thật vậy, chủ đích của hai chương đầu của Tin Mừng thánh Matthêu (48 câu) và Luca (132 câu) không hẳn là thuật lại gia thế của Chúa Giêsu và tuổi thơ ấu của Người (giai đoạn ẩn dật trước khi hoạt động công khai). Ngoài việc kể lại sự thụ thai trinh khiết trong cung lòng Đức Maria và sự giáng sinh tại Bêlem, hai thánh sử không nói gì thêm về những sinh hoạt thời thơ ấu của Chúa Giêsu (đừng kể việc thánh gia lánh nạn sang Ai Cập và việc ở lại trong đền thờ lúc lên 12 tuổi). Thử hỏi các thánh sử có chủ đích gì? Tại sao phải thêm hai chương này, trong khi thánh Maccô và thánh Gioan bắt đầu Tin Mừng với cuộc đời công khai của Đức Giêsu? Các học giả đã đưa ra nhiều ý kiến, có thể thu vào hai quan điểm.

1/ Quan điểm thứ nhất cho rằng đây là một thể văn đương thời giới thiệu các vĩ nhân với những điềm lạ xuất hiện trước khi chào đời, tự như Abraham, Môsê, Isaac, Samuel. Khuynh hướng này còn tăng hơn nữa nơi các “Tin Mừng nguỵ thư”. Tuy nhiên, chủ ý của người viết không chỉ là đề cao thân thế của nhân vật anh hùng, nhưng còn muốn chúc tụng Thiên Chúa đã đoái thương dân tộc ưu tuyển và đã phát đến những vị cứu tinh.

2/ Quan điểm thứ nhất cho rằng hai chương này là một thứ nhập đề cho toàn thể cuốn Tin Mừng. Tin Mừng cứu độ của Đức Kitô được hoàn tất với mầu nhiệm Vượt qua đã được phác hoạ ngay từ khi Người ra đời. Nói khác đi, Đức Kitô là Đấng Cứu Độ nhân loại ngay từ cuộc Nhập thể, tuy hồng ân này đạt đến cao điểm nơi cuộc Tử nạn và Phục sinh. Nơi thánh Matthêu, cốt yếu Tin Mừng có thể tóm gọn lại như thế này: Đức Giêsu là Con Thiên Chúa đến để cứu chuộc muôn dân, là Đấng Mêsia được hứa cho dân tộc Israel. Thế nhưng Người đã bị dân tộc này khước từ (vua Hêrôđê tìm cách thủ tiêu Người; cũng như về sau này các nhà lãnh đạo Do Thái sẽ lên án xử tử Người (Mt 27,1-2), đang khi đó Tin Mừng lại được dân ngoại đón nhận (các nhà chiêm tinh ở đây, cũng tựa như các dân tộc bên Đông bên Tây sẽ đến tham tự tiệc trong Nước Trời (Mt 8,11; 28,19).

Thiết tưởng hai quan điểm không trái nghịch nhau, bởi vì cả hai đều nhấn mạnh rằng không nên đọc “Tin Mừng thơ ấu” như là đọc chuyện thần thoại, nhưng cần phải khám phá ý nghĩa sâu xa của các trình thuật. Khuynh hướng thứ nhất cố gắng tìm hiểu ý nghĩa qua việc khảo sát thể văn, đối chiếu với các tác phẩm văn chương cổ điển. Khuynh hướng thứ hai chú trọng đến nội dung thần học, gắn liền với toàn bộ Tin Mừng. Theo nhãn giới này, “Tin Mừng niên thiếu” cũng có những nét giống với tự ngôn của Tin Mừng theo thánh Gioan, nói về nguồn gốc của Đức Giêsu trước thời kỳ hoạt động công khai, nguồn gốc bắt đầu từ khởi nguyên (Ga 1,1). Chúng tôi sẽ áp dụng đường hướng này khi tìm hiểu các bản văn.

Xét  về cấu trúc hai chương đầu theo Tin Mừng thánh Matthêu, đã có nhiều đề nghị phân đoạn.

1/ Một số ý kiến cho rằng toàn bộ sách Tin Mừng theo thánh Matthêu được phân thành 5 quyển sách tương tự như bộ Ngũ Thư của ông Môsê. Cụ thể là các lời giảng của Đức Giêsu được gom thành 5 bài giảng về Nước Trời:

a) bài giảng trên núi công bố Hiến chương Nước Trời, ở các chương 5-7;
b) bài giảng về sứ vụ rao giảng Nước Trời, chương 10;
c) bài giảng về câu dụ ngôn giải thích bản chất Nước Trời, chương 13;
d) bài giảng về kỷ luật nội bộ Hội Thánh, mầm mống của Nước Trời, chương 18;
e) bài giảng về sự thiết lập vĩnh viễn Nước Trời vào thời cánh chung, chương 24-25.

Hai chương đầu tiên xem ra đã gói ghém ý tưởng đó, với việc trưng dẫn 5 câu Kinh Thánh để kết húc 5 đoạn văn:

Nhập đề: Gia phả (1,1-17)

a) Isaia 7,14: Ơn gọi của Giuse (1,18-25)
b) Mikha 5,2: Vua Hêrôđê, các nhà chiêm tinh, Bêlem (2,1-12)
c) Hôsê 11,1: Trốn sang Ai Cập (2,13-15)
d) Giêrêmia 31,15: Tàn sát các anh hài (2,16-18)
e) Isaia 4,3) Tl 13,5?): Từ Ai Cập trở về Nadarét (2,19-23)

Dĩ nhiên các học giả còn đưa ra nhiều giả thuyết khác về cấu trúc của hai chương này, chẳng hạn:

2/ Dựa theo các giấc mơ của thánh Giuse dẫn tới hành động.

Trong Tân Ước, chỉ có Tin Mừng Matthêu đề cập đến giấc mơ như là một phương tiện mạc khải ý Chúa. Thánh sử ghi nhận 6 trường hợp được ghi nhận, trong đó 5 trường hợp nằm ở hai chương đầu, và cách riêng 4 trường hợp được dành cho ông Giuse (lấy bà Maria làm vợ; đưa thánh gia sang Ai Cập; trở về quê hương; định cư ở Nadarét. Trường hợp thứ năm dành cho các nhà chiêm tinh (2,12). Ba lần báo mộng cho ông Giuse được thuật lại theo một mô hình đồng nhất:

a) nhập đề: mô tả hoàn cảnh
b) công thức: “Này kìa sứ thần Chúa” hiện đến báo mộng cho ông rằng”
c) sứ điệp: thiên sứ trao cho ông một công tác “hãy đem” (hãy mang)
d) tuân hành: ông Giuse tuân hành
e) trích dẫn Kinh Thánh: để ứng nghiệm lời Chúa về một danh hiệu của Đức Giêsu: Emmanuel, Con (Thiên Chúa), người Nadarét.

3/ Dựa theo bốn câu hỏi xoay quanh căn cước của Đức Giêsu:

a) Ai (Quis)? Đức Giêsu Kitô (Mêsia), con vua Đavit, con của cụ Abraham, sinh bởi một phụ nữ (1,1-17).
b) Bằng cách nào (Quomodo)? Con Thiên Chúa đã trở nên con vua Đavit do ông Giuse thuộc dòng dõi Đavit chấp nhận hài nhi được thụ thai bởi Chúa Thánh Thần (1,18-25).
c) Ở đâu (Ubi)? Bêlem, thành phố Đavit, nhưng được các nhà chiêm tinh thuộc dân ngoại đến bái yết (2,1-12).
d) Từ đâu (Unde)? Từ Bêlem của người Do Thái, đi lánh nạn sang Ai Cập giống như ông Môsê, về miền Galilê của dân ngoại, định cư tại Nadarét.

4/ Dựa theo những cuộc di chuyển địa lý: Bêlem, Ai Cập, Nadarét.

a) chương 1 diễn ra tại Bêlem, thành phố vua Đavit.
b) chương 2: tường thuật việc di chuyển từ Bêlem sang vùng đất dân ngoại (Ai Cập), để rồi kết thúc với việc hồi hương về Israel và định cư tại Nadarét.
Những cuộc di chuyển này không phải là ngẫu nhiên, nhưng nằm trong toàn bộ lịch sử cứu độ: “Ngõ hầu lời ngôn sứ được nên trọn”: Đức Giêsu sinh tại Bêlem như là Mêsia lãnh tụ Israel dòng dõi vua Đavit (2,6); sang Ai Cập và ra khỏi đó như là Con Thiên Chúa (2,15); về Nadarét, trở thành biệt hiệu “Giêsu Nadarét” (2,23).
Sau phần giới thiệu tổng quát, bây giờ chúng ta hãy khảo sát bản văn.

II. GIA PHẢ ĐỨC GIÊSU KITÔ

“Đây là gia phả Đức Giêsu Kitô, con cháu vua Đavit, con cháu tổ phụ Abraham” (Mt 1,1).

Tin Mừng Matthêu mở đầu bằng một câu thoạt tiên xem ra mang tính cách cung khai lý lịch, kê khai dòng tộc. Thực ra, dụng ý của tác giả sâu xa hơn nhiều: đây không phải là lý lịch hành chánh cho bằng một lời tuyên xưng đức tin: “Đức Giêsu vừa là con cháu của vua Đavit (nghĩa là phần tử của dân Israel) vừa là con cháu tổ phụ Abraham (nghĩa là phần tử của dân ngoại)”.

Thánh sử muốn chứng tỏ cho dân Do Thái biết rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia (Kitô) được hứa cho miêu duệ của Đavit, qua gia phả của ông Giuse là con cháu Đavit (chương 1), qua sinh quán là Bêlem, thành phố vua Đavit (chương 2). Đồng thời Đức Giêsu cũng mang ơn cứu độ cho dân ngoại, bởi vì Người là con cháu của tổ phụ Abraham, kẻ đã nhận được lời hứa dành cho muôn dân: “Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Abraham, Isaac và Giacóp trong Nước Trời,  còn con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc, nghiến răng” (Mt 8,11-12). Trong chương 2, thánh sử cho thấy rằng các nhà chiêm tinh thuộc dân ngoại đi tìm vua mới giáng sinh để bái thờ, còn các nhà lãnh đạo tại Giêrusalem tỏ ra lãnh đạm với Người, và con đồng loã với vua Hêrôđê để giết Người.

Vì thế chúng ta đừng nên đọc gia phả của Đức Giêsu theo cặp mắt của cơ quan an ninh muốn truy tầm cặn kẽ gốc tích của Người. Thánh sử còn gói ghém nhiều dụng ý thần học trong đó nữa, đến nỗi có lúc phải gò ép các dữ liệu: “Từ tổ phụ Abraham đến vua Đavit là 14 đời; từ vua Đavit đến thời lưu đày ở Babylon là 14 đời; và từ thời lưu đày ở Babylon đến Đức Kitô cũng là 14 đời” (Mt 1,17). Con số 14 đời xem ra giả tạo khi áp dụng cho những thời kỳ dài ngắn khác nhau: từ tổ phụ Abraham (k.1850) đến vua Đavit (k.1000) thời gian là 850 năm, từ vua Đavit đến thời lưu đày ở Babylon (năm 598) là 400 năm, và từ thời lưu đày đến Đức Kitô là 600 năm. Làm sao những khoảng thời gian chênh lệch như vậy mà gồm 14 đời ngang nhau được? Để đếm trọn số 14, Matthêu buộc lòng gạt bỏ nhiều tên, và dĩ nhiên việc lựa chọn những ai đáng loại không phải là không có lý do, thì dụ: vua Giơhôgiakim con của vua Giôsigia (2V 36tt) vào thời lưu đày Babylon (lẽ ra phải nhắc đến ở câu 11).

Vấn đề chính yếu ở đây không phải là thống kê chính xác con số các thế hệ. Xem ra trọng tâm xoay quanh nhà vua Đavit: vua Đavit là thừa kế của lời hứa dành cho tổ phụ Abraham, và vua Đavit được Thiên Chúa hứa sẽ thiết lập một triều đại muôn đời (xc. 2Sm 7,12-16). Lời hứa ấy vẫn tồn tại bất chấp cuộc lưu đày ở Babylon, và nay được thực hiện nơi Đức Giêsu, là “Con vua Đavit” (Mt 9,27; 12,23; 15,22; 20,30.31; 21,9.15; 22,41-45). Đức Giêsu trở nên con vua Đavit qua móc xích của ông Giuse là con cháu Đavit, như sẽ nói sau.

Do đó, theo các nhà chú giải, con số 14 mang tính cách biểu tượng, vì tổng cộng số thứ tự của các phụ âm ghép thành tên David trong chữ Hipri: DWD (4+6+4).

Tóm lại, thánh Matthêu không chỉ liệt kê các dòng dõi tổ tiên của Đức Giêsu nhưng còn gói ghém một dụng ý khác nữa. Điều này có thể xác minh qua một chi tiết khác. Bản gia phả bắt đầu bằng danh từ genesis (câu 1) có nghĩa là “sự sinh ra” (generatio, chứ không chỉ là sách gia phả, gốc tích); danh từ này được lặp lại ở câu 18 (Iesu Christi autem generation sic erat). Xâu chuỗi các thế hệ được liên kết với nhau qua động từ “sinh ra” (generat): ông A sinh ông B; ông B sinh ông C, vv... từ câu 2 cho đến câu 16 (lặp lại 39 lần). Nhưng đến cuối thì xâu chuỗi bị gián đoạn: thay vì tiếp tục “ông Giacóp sinh ông Giuse, ông Giuse sinh ông Giêsu”, thánh Matthêu  lại viết: “Ông Giacóp sinh ông Giuse, chồng của bà Maria, bà là mẹ Đức Giêsu cũng gọi là Đấng Kitô” (c.16). Trước sự thắc mắc đương nhiên của độc giả, thánh sử tìm cách giải thích: “sự sinh ra Đức Giêsu Kitô là như thế này” (c.18). Đến đây ông Giuse trở thành nhân vật hàng đầu: ông là con cháu vua Đavit và truyền lại gia thế này cho Đức Giêsu mặc dù ông không phải là cha của Đức Giêsu theo phương diện sinh lý.

III. TRUYỀN TIN CHO THÁNH GIUSE (1,18-25)

Đoạn văn này thường được phân tích từ phía Đức Maria, nhưng ít khi được nhìn từ phía ông Giuse. Dù sao, thánh Luca nói đến thiên sứ Gabriel truyền tin cho Đức Maria về việc sinh hạ Chúa Giêsu; còn thánh Matthêu nói đến việc thiên sứ truyền tin cho thánh Giuse, không những để đánh tan một mọi nghi ngờ nhưng còn mạc khải sứ mạng của ông trong mầu nhiệm Nhập Thể. Thực vậy, vieệc truyền tin cho thánh Giuse không chỉ nhằm giải thích nguồn gốc của sự kiện Đức Maria có thai, nhưng còn mời gọi ông hãy tham gia vào việc hoàn tất chương trình của Thiên Chúa, đó là Đấng Mêsia thuộc dòng vua Đavit.

Trước khi đi vào nội dung, chúng ta nên nhớ rằng sách Tin Mừng của thánh Matthêu được viết cho dân Do Thái và sử dụng nhiều cách lập luận dựa theo nền văn hoá của họ. Người đọc phải làm quen với não trạng của họ, xét về mặt tín ngưỡng (dựa trên giao ước của Thiên Chúa với các tổ phụ), cũng như xét về phong tục xã hội. Sự hiểu biết tục lệ người Do Thái cần thiết để hiểu nhiều vấn đề liên quan đến hôn nhân giữa thánh Giuse và Mẹ Maria.

Tại nhiều dân tộc, trước khi cử hành lễ thành hôn (lễ cưới) thì có lễ đính hôn (lễ hỏi). Giá trị pháp lý của việc đính hôn thay đổi tuỳ nơi tuỳ thời. Ngày nay, việc đính hôn chỉ mang tính cách một lời hứa danh dự, chứ không có giá trị ràng buộc như là việc thành hôn (xc. Bộ Giáo luật điều 1062). Tuy nhiên, trong xã hội Do Thái thời xưa, việc đính hôn không những đặt ra nghĩa vụ ràng buộc đôi bên phải tiến tới việc kết hôn, mà còn mang theo nghĩa vụ chung thuỷ với nhau nữa. Luật pháp coi hai người đính hôn như là “vợ” và “chồng”. Vì thế, sự ngoại tình được coi như tội phạm ngay từ lúc đính hôn, chứ không phải từ lúc thành hôn (xc. Đnl 20,7; 22,23-25). Đàng khác, trong thời gian đính hôn, luật pháp cũng dự trù hai thủ tục để ly dị. Thủ tục thứ nhất mang tính cách công khai, khi người chồng tố cáo bà vợ ngoại tình, và như vậy bà phải những hình phạt dành cho tội ngoại tình  (ném đá: xc. Ga 8,5). Thủ tục thứ hai mang tính cách tư riêng: trước mặt hai nhân chứng, ông trao cho bà một tờ tuyên bố từ hôn.

Chuyện xảy ra là “Bà Maria... đã đính hôn với ông Giuse; nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do Chúa Thánh Thần” (1,18). Thánh Matthêu nói rằng bà Maria chỉ mới đính hôn với ông Giuse mà thôi. Nêu lưu ý là không tài liệu lịch sử nào nói đến tuổi tác của ông Giuse. Hình ảnh về ông Giuse đầu tóc bạc phơ là do ảnh hưởng của một nguỵ tư Tin Mừng tiên khởi thánh Giacôbê sẽ nói trong chương tới. Cũng không có tài liệu nào cho biết hai người đã đính hôn với nhau từ hồi nào và chừng nào tính chuyện về chung sống với nhau. Dù sao, thì ông đã là chồng của bà Maria rồi (Mt 1,16.19) và bà là vợ (Mt 1,20). Bỗng nhiên bà Maria đã mang thai. Theo lối hành văn của Matthêu (1,19), ông Giuse không muốn làm to chuyện, và đi tới quyết định từ hôn theo thủ tục thứ hai nói trên đây. Tuy nhiên, lý dò gì thúc đẩy ông hành động như vậy? Đây là đề tài tranh luận sôi nổi ngay từ thời các giáo phụ.

A. Lý do ly dị

Nói chung, các ý kiến của các nhà chú giải được xếp thành hai nhóm: một nhóm cho rằng ông Giuse không biết gì về nguồn gốc siêu nhiên của việc bà Maria mang thai, vì thế ông đâm ra nghi ngờ; nhóm thứ hai chủ trương rằng ông đã rõ đầu đuôi sự việc, nhưng không biết phải xử trí thế nào.

1/ Dựa theo nhóm ý kiến thứ nhất (chẳng hạn các giáo phụ; Giustinô, Gioan Kim Khẩu, Ambrôsiô, Augustinô, có lẽ chịu ảnh hưởng của “Tin mừng tiên khởi thánh Giacôbê”), ông Giuse đã nghi ngờ sự chung thuỷ của vợ mình, vì thế ông quyết định ly dị. Họ cũng nghĩ rằng Đức Maria giữ thái độ thinh lặng, hoặc vì dè dặt khiêm tốn, hoặc vì biết rằng không thể nào thuyết phục được ông Giuse.

2/ Nhóm thứ hai (đại diện bởi thánh Hiêrônimô thời giáo phụ, thánh Bênađô và thánh Tôma Aquinô thời Trung cổ) cho rằng thánh Giuse đã biết nguyên nhân khác thường của việc cưu mang của Đức Maria. Vào thời nay, ý kiến này được củng cố nhờ sự nghiên cứu ngữ học: thánh Matthêu viết rằng “trước khi hai ông bà về chung sống với nhau, thì thấy bà có thai”, ở thể văn không có chủ từ. Như vậy, có thể là tác giả chỉ trưng dẫn sự kiện, chứ không khẳng định “ai đã thấy”? Hơn nữa, câu văn không dứt ở chỗ “thấy bà có thai”, nhưng còn tiếp tục “do Chúa Thánh Thần”. Phải chăng dụng ý của Matthêu ở đây là muốn đề cao một mầu nhiệm vượt quá tầm hiểu biết của bà Maria cũng như của ông Giuse?

Thánh sử không xác định bằng cách nào ông Giuse biết được vợ mình có thai: tại vì sự kiện trờ trờ ra đó? Hay là do họ hàng bên vợ kháo láo? Hoặc vì chính bà đã tâm sự với chồng về sự lúng túng của mình?

B. Ông Giuse là người công chính

“Ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19).

Tại sao ông Giuse được gọi là công chính?

1/ Những ai chủ trương ông đã nghi ngờ bà Maria ngoại tình thì giải thích “công chính” theo nghĩa là tôn trọng luật pháp (công minh chính trực). Nếu người vợi (dù chỉ mới đính hôn) phạm tội ngoại tình, thì chồng buộc phải từ hôn (xc. Đnl 22,23-27). Ông ta có quyền lựa chọn một trong hai thủ tục như đã nói. Trường hợp này, ông Giuse chọn thủ tục tư riêng, bởi vì không muốn làm mất thanh danh của vợ. Như vậy, ông vừa tuân hành luật pháp, vừa tôn trọng sự cân bằng với bà vợ (xét vì ông chưa nắm vững các tình tiết của câu chuyện).

2/ Tuy nhiên, các nhà chú giải cận đại muốn đào sâu vấn đề hơn nữa, nghĩa là tìm hiểu ý nghĩa của từ “công chính” (dikaios) theo truyền thống Kinh Thánh. Hạn từ “công chính” được sử dụng nhiều lần trong Tin Mừng Matthêu, áp dụng cho những người mong chờ Thiên Chúa thực hiện những lời hứa (Mt 13,17; 23,29), hoặc cho các môn đệ sẽ được gia nhập Nước Thiên Chúa (Mt 13,43.49; 25,37.46). Thực vậy, theo Kinh Thánh, người công chính là kẻ đi theo đường lối của Chúa, như sách Khôn Ngoan đã liệt kê những gương mẫu ở chương 10 (4-20): Noe, Abraham, Lot, Giacóp, Giuse. Thánh vịnh ca ngợi người công chính vì họ sẽ lãnh được đất hứa (Tv 37,29), họ sẽ tươi tốt như cây dừa (Tv 92,12), họ sẽ được  ánh sáng Chúa chiếu dọi (Tv 112,4).

Trong bối cảnh này, ông Giuse được gọi là “công chính” là bởi vì ông mong đợi Chúa thực hiện những lời hứa. Ông sẵn sàng làm bất cứ điều gì Chúa muốn để hoàn tất chương trình của Ngài. Dự tính muốn bỏ bà Maria cách kín đáo không phải chỉ do sự tôn trọng luật pháp hay tôn trọng danh dự của bà thúc đẩy, nhưng còn có cái gì sâu xa hơn nữa. Ta có thể ví với thái độ của những người đối diện với một mầu nhiệm cao cả: họ thục lùi lại vì kính sợ, tựa như ông Môsê đã cởi dép khi tiến đến bụi gai cháy rực (St 3,5), tựa như ông Isaia thất kinh khi diện kiến Thiên Chúa cực thánh (Is 6,5), tựa như ông Simon sau khi chứng kiến mẻ lưới lạ thường (Lc 5,8). Ông Giuse được biết là bà Maria “có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần”, vì thế ông không dám chiếm hữu người con không phải là của mình. Vì thế ông toan tính rút lui.

Để củng cố thêm cho sự giải thích vừa rồi, cha Ignace de La Potterie nhận xét rằng cần phải xét lại các bản dịch cổ truyền. Thay vì “ông Giuse là người công chính không muốn tố giác bà”, cần phải dịch là “ông Giuse là người công chính không muốn tiết lộ [mầu nhiệm], quyết định rời bỏ bà kín đáo”. Động từ deigmatisai (ít được sử dụng trong tiếng Hy Lạp) tự nó chỉ có nghĩa là “thông báo, nói cho biết, đưa ra ánh sáng” (theo sự giải thích của Eusêbiô Cêsarêa), và tuỳ theo mạch văn mà thay đổi ý nghĩa: có thể là “tố cáo, tố giác” (điều xấu), “bày tỏ, tiết lộ” (điều tốt). Ông Giuse được bà Maria tâm sự về sự cưu mang do quyền năng Thánh Thần, và ông không dám tiết lộ mầu nhiệm này.

C. Sứ điệp của thiên sứ

Thánh Matthêu mô tả việc thiên sứ hiện ra với ông Giuse dựa theo những khuôn mẫu trong Cựu Ước về việc uỷ thác sứ mạng (chẳng hạn Giđêon Tl 6,11-24), hoặc tiên báo về tương lai của đứa trẻ (chẳng hạn Ismael trong St 16,11; Isaac trong St 17,19; Samson trong Tl 13,3-5.7).

- Trình thuật bắt đầu với việc gọi tên và danh hiệu mang theo một ơn gọi: “Này Giuse là con cháu Đavit” (1,20), cũng tựa như trước đây “Này Giđêon, người dũng sĩ” (Tl 6,12).

- “Đừng sợ”. Tân Ước thường dùng những lời này mỗi lần thiên sứ hiện ra, chẳng hạn để loan báo sự sinh hạ của ông Gioan Tiền Hô và Chúa Giêsu (Lc 1,13.30), để uỷ thác cho các phụ nữ loan báo việc Chúa Phục sinh (Mt 28,5.10), để cổ động tinh thần cho thánh Phaolô (Cv 18,9). Một cách tương tự như vậy, thiên sứ sắp sửa tỏ lộ cho ông Giuse một sứ mạng.

- Nội dung mạc khải: Thiên sứ muốn nói gì với ông Giuse?

1/ Theo nhóm ý kiến thứ nhất, ông Giuse nghi ngờ về sự chung thuỷ của vợ mình bởi vì ông không biết nguồn gốc của bào thai mà vợ mình đang mang. Vì thế thiên sứ đến giải thích nguyên nhân ngõ hầu đánh tan sự ngộ nhận. Như vậy, nội dung của mạc khải là: “Đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do Chúa Thánh Thần”.

2/ Tuy nhiên, lối giải thích ấy một đàng dựa trên giả thiết là ông Giuse nghi ngờ về vợ mình, đàng khác đã cắt ngang lời của thiên sứ. Sứ điệp không chỉ ngầm giải thích nguồn gốc sự cưu mang, nhưng còn mang theo một sứ mạng về phía ông Giuse nữa: “Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ” (1,21). Có lẽ ông Giuse đã biết là bà Maria mang thai do quyền năng Chúa Thánh Thần (chứ không phải vì ngoại tình), nhưng ông không biết phải xử trí thế nào, vì thế ông định tâm sẽ rút lui. Thiên sứ đến xác nhận rằng bà Maria mang thai do Chúa Thánh Thần; đồng thời bảo ông Giuse đừng rút lui nhưng cứ đưa bà Maria về với mình, bởi Chúa đã giao cho ông một sứ mạng, đó là đặt tên cho con trẻ, nghĩa là làm cha của con trẻ.

D. Vai trò của ông Giuse

Qua lời của thiên sứ, ta thấy nổi bật hai vai trò của ông Giuse trong chương trình của Thiên Chúa: chồng của bà Maria và cha của Đức Giêsu.

1/ Ông Giuse là chồng của bà Maria (1,16.19.20). Hai người tiếp tục thủ tục hôn phối: từ chỗ đính hôn đến chỗ kết hôn (Mt 1,24). Tuy nhiên, hai người không ăn ở với nhau: Ông không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai (1,25). Điều này không nhất thiết hàm ngụ rằng sau khi sinh con, thì hai ông bà lại ăn  ở với nhau! Tác giả chỉ muốn nói rằng Đức Giêsu sinh ra không do sự giao hợp thường tình, có thế thôi. Cụm từ “cho đến khi” không giả thiết một sự thay đổi tình trạng sau đó, chẳng hạn như khi Kinh Thánh viết rằng “Bà Michal không có con cho đến khi chết” (2Sm 6,23), hoặc Chúa Giêsu hứa sẽ hiện diện với các môn đệ cho đến ngày tận thế (Mt 28,20). Không ai tưởng tượng được rằng bà Michal sẽ có con sau khi chết, hoặc là Chúa Giêsu chỉ hiện diện với các môn đệ cho đến ngày tận thế mà thôi!

2/ Ông Giuse là cha của Đức Giêsu. Thiên hạ nhìn nhận Đức Giêsu là “con ông Giuse” (Mt 13,55). Tuy Đức Giêsu được sinh ra không do sự giao hợp của vợ chồng, nhưng ông Giuse thực sự là cha của Người, bởi vì ông là chồng của bà mẹ. Vai trò làm cha được biểu lộ qua việc ông đặt tên con con trẻ là Giêsu (1,25), cũng như những hành động sẽ nói tiếp theo. Ở đây, theo lời của sứ thần, ông cần phải làm cha của hài nhi bởi vì ông là “con cháu Đavit”, nhờ vậy hài nhi Giêsu được nhận vào hàng miêu duệ vua Đavit (Mt 1,16-17).

Hơn nữa, việc đặt tên cho con trẻ là Giêsu không chỉ là một hành vi hộ tích (cha đặt tên cho con), mà còn là một hành vi đức tin. Con trẻ sinh ra được xưng là “Giêsu”, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ (Mt 1,22).

“Tất cả sự việc này đã xảy ra là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Này đây, trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là: Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (1,23). Đoạn văn này được trích từ ngôn sứ Isaia 7,14. Thường người ta chú ý đến ý tưởng “một trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con trai” và từ đó nẩy sinh ra nhiều cuộc tranh luận, bởi vì nguyên bản Hipri không nói đến “trinh nữ” (betulah) mà chỉ là “thiếu nữ” (almah: một cô gái). Bản dịch Hy Lạp chuyển nghĩa là “trinh nữ”.

Tuy nhiên cũng có nhà chú giải nêu thắc mắc: đâu là điểm nhấn của Matthêu? Có phải là “trinh nữ thụ thai”, hay tên con trẻ là “Emmanuel” - Thiên Chúa ở cùng chúng ta? Có lý do để nghiêng về vế thứ hai, bởi vì Tin Mừng Matthêu kết thúc với lời tuyên xưng rằng “Này, Thầy ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế” Mt 28): Đức Giêsu đích thực là Emmanuel, bởi vì là Thiên Chúa đến ở với nhân loại kể từ lúc nhập thể cho đến tận cùng lịch sử. Dù sao đi nữa, thánh Matthêu không trích dẫn nguyên văn lời Isaia, nhưng đã thích nghi với thực tại mà vị ngôn sứ trước đó 8 thế kỷ không thể nào mường tượng được. Có lẽ ông Isaia không thể tưởng tượng nổi một trinh nữ sinh con! Điều này chỉ có thể xảy đến do sự can thiệp độc đáo của Thiên Chúa. Các Kitô hữu đã tin như vậy; rồi từ niềm xác tín đó, họ đã đọc lại Cựu Ước và khám phá ra những sự chuẩn bị mà nay trở nên trọn vẹn. Phương pháp này gặp thấy nhiều lần trong Tân Ước, đặc biệt nơi Tin Mừng Matthêu (41 lần). Như đã nói trên đây, trong hai chương đầu, Matthêu trưng dẫn 5 “lời” của Cựu Ước, nhưng không hoàn toàn lấy nguyên văn: có lúc ông sửa đổi đôi chút (Mt 1,23 = Is 7,14), có lúc ghép hai ba câu làm một (thí dụ: Mt 2,6 = Mk 5,1tt + 2Sm 5,2. Mt 2,22 = Tl 13,5.7 + Is 11,1).

Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này ở mục 4 (những đoạn văn Cựu Ước nói về thánh Giuse).

IV. CÁC NHÀ CHIÊM TINH (2,1-12)

 Thánh Matthêu mở đầu sách Tin Mừng với với việc khẳng định căn cước của Đức Giêsu là “con cháu vua Đavit và con cháu tổ phụ Abraham”. Xem ra chương Một được dành để chứng tỏ sự liên hệ của Chúa Giêsu với Đavit (vua dân Do Thái), và chương Hai được dành bàn đến mối liên hệ với ông Abraham (tổ phụ của muôn dân).

Chương hai mở đầu với biến cố các nhà chiêm tinh từ bên Đông đến bái lạy “Vua dân Do Thái” vừa mới sinh (2,2). Nên lưu ý là bản văn không nói đến “ba vua”: họ không phải là vua, cũng không chỉ có ba; con số này được suy đoán từ ba lễ phẩm mang đến (vàng, nhũ hương, mộc dược) Họ đợi gọi là magus, một danh từ mang nhiều ý nghĩa: các lãnh đạo tôn giáo (đạo sĩ), những hiền nhân quân tử, các nhà thiên văn. Họ đến từ phương Đông (xét theo địa lý của Palestina, nghĩa là có thể từ Arabia, Syria, hoặc Babylon). Họ đã nhận được một tín hiệu từ một ngôi sao mọc lên: đã có nhiều bút mực chảy ra để xác định bản chất của ngôi sao kỳ diệu này (sao chổi, chòm sao, hay chỉ là sao tưởng tượng?). Những vấn đề này không quan trọng lắm đối với vấn đề đang bàn, bởi vì có lẽ dụng ý của  Matthêu nằm ở chỗ khác, đó là so sánh thái độ của cấp lãnh đạo dân Do Thái với các lãnh đạo của dân ngoại.

Như đã biết, người Do Thái đang mong chờ Đấng Mêsia đến để tái lập vương triều Đavit, giải thoát dân tộc khỏi ách nô lệ ngoại bang (xc. Cv 1,6). Tuy nhiên, lúc ấy, tại Giêrusalem, vương quyền nắm trong tay triều đại Hêrôđê, dưới quyền kiểm soát của chính quyền Rôma. Ông HÊrôđê coi mình là “vua” chính thức (Mt 2,3) và không thể nào dung túng cho bất cứ ai đe doạ ngai báu của mình. Tuy các giới lãnh đạo tôn giáo và kinh sư tại Giêrusalem cũng biết đến các sấm ngôn, nhưng họ đứng về phía vua Hêrôđê, cho nên họ không đếm xỉa gì đến biến cố Chúa giáng sinh. Ngược lại, các nhà chiêm tinh thuộc dân ngoại thì lại háo hức đi tìm Chúa để thờ lạy. Việc chính quyền Giêrusalem khai trừ “vua người Do Thái” mới ra đời báo trước việc tẩy chay “Vua người Do Thái” mai sau, đưa đến việc đóng đinh Người trên thập giá (Mt 27,37).

Trong câu chuyện này, thánh Giuse đứng ở hậu trường. Tên của ông không được nhắc đến, bởi khi ở câu 11, thánh sử viết: “Họ vào nhà, thấy Hài nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình bái lạy Người”. Hiểu ngậm là thánh Giuse cũng hiện diện lúc đó, bởi vì cụm từ “Hài nhi và mẹ Người” được dùng bốn lần trong chương 2 (c. 13.14.20.21) bên cạnh thánh Giuse. Tuy nhiên, thiết tưởng nên ghi nhận sự hiện diện của thánh Giuse qua một lối hành văn khác, đó là ở chương 1, ông định bỏ bà Maria cách “kín đáo” (1,19); còn bây giờ vua Hêrôđê “kín đáo” tra vấn các nhà chiêm tinh (2,7). Cả hai hành vi diễn ra cách kín đáo (bí mật), nhưng một bên là muốn tìm hiểu ý Chúa, bên kia là trái ngược  ý Chúa. Sự đối chọi này tăng thêm ý nghĩa khi bước sang biến cố kế tiếp, khi âm mưu của vua Hêrôđê bị ông Giuse phá vỡ do một mạc khải từ trời.

V. LÁNH NẠN SANG AI CẬP (2,13-18)

Trong những đoạn tiếp của chương 2, ông Giuse trở thành nhân vật chính, với vai trò là bảo vệ “hài nhi và mẹ Người” (Mt 2,13.19.22). Ông tỏ ra thực sự là “người công chính” mau mắn tuân hành ý Chúa. Trước đây, ông vâng theo ý Chúa đón bà Maria về làm vợ; bây giờ ông vâng theo ý Chúa đưa thánh gia sang nước Ai Cập, rồi từ Ai Cập trở về quê hương, và đến định cư tại Nadarét.

Tại sao lánh nạn sang Ai Cập mà không sang nước khác? Đây không chí là vấn đề an ninh bản thân nhưng còn nằm trong kế hoạch cứu độ, như thánh sử Matthêu giải thích câu Kinh Thánh: “Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai Cập” (Hs 11,1). Ngôn sứ Hôsê nói đến dân Israel được Thiên Chúa thương yêu như đứa con và dẫn ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập; nhưng Matthêu áp dụng cho Đức Giêsu là Con Thiên Chúa: cũng như Môsê không những cứu dân mình ra khỏi cảnh nô lệ mà còn đưa vào đất Israel, Đức Giêsu - Thiên Chúa cứu độ - là ông Môsê mới, lãnh đạo đoàn dân được cứu thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi và đưa vào Nước Trời (Mt 2,21). Đó là kế hoạch của Thiên Chúa, và thánh Giuse góp phần vào sự thực hiện chương trình này.

VI. TRỞ VỀ NADARÉT (2,19-23)

Biến cố cuối cùng được thánh Matthêu nói trong chương 2 là ông Giuse đưa Thánh gia về quê hương Israel và định cư tại Nadarét.

Sau khi vua Hêrôđê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Ai Cập, báo mộng cho ông rằng: “Này ông, dậy đem Hài nhi và mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm giết Hài nhi đã chết rồi”. Ông liền chỗi dậy đưa Hài nhi và  muộn Người về đất Israel. Nhưng vì nghe biết Arkhêlao đã kế vị vua cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở tại một thành kia gọi là Nadarét, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi là người Nadarét.

Đoạn văn này hàm chứa hai lần thiên sứ báo mộng tương ứng với hai hành động của ông Giuse: trước hết là trở về quê hương, kế đó là định cư ở Nadarét.

Trước đây ông Giuse đã đưa thánh gia từ Bêlem lánh nạn sang Ai Cập. Vì thế khi tính chuyện hồi hương thì đương nhiên là trở về quê cũ ở miền Giuđê. Tuy nhiên, ý Chúa lại định cách khác: ông Giuse sẽ về Nadarét, ở miền Galilê (miền Bắc). Tất cả đều nằm trong chương trình của Thiên Chúa.

Nên lưu ý là các nhà chú giải Kinh Thánh không tìm thấy được một câu nào trong Cựu Ước nói là “Người sẽ được gọi là người Nadarét”. Vài học giả nghĩ rằng “người Nadarét” là một biến thể của tính từ “nazir”: kẻ được thánh hiến, giống như ông Samson được thánh hiến ngay từ lòng mẹ (Tl 13,5; 16,17); hoặc “neser”: chồi lộc, được nói đến t, Is 11,1 (Đấng Mêsia thuộc chồi Jesse là thân sinh của Đavit).

Ý kiến khác cho rằng thánh sử Matthêu không nghĩ tới một câu văn cụ thể nào trong Kinh Thánh cho bằng toàn thể kế hoạch của Thiên Chúa nói chung: Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem, thành phố của vua Đavit, nhưng sinh sống tại Nadarét, miền Galilê thuộc dân ngoại.

Dù sao, biệt hiệu của Người là “Giêsu Nadarét” (Mt 21,11; 26,71; xc. Cv 22,8; 24,5; 26,9). Đối với người đương thời, Nadarét là một chốn vô danh tiểu tốt, và đôi khi còn bị khinh miệt nữa (Mc 14,67). Vì thế họ không thể nào chấp nhận Đấng Mêsia xuất thân từ Nadarét được (Ga 1,46; 7,41-42.52). Điều trớ trêu là chính cư dân Nadarét cũng chẳng có thiện cảm với Đức Giêsu (Mt 13,53-58; Mc 6,1-6; Lc 4,14.22-29).

Ông Giuse lẳng lặng thi hành ý Chúa, tuy dù ông không am tường tất cả mọi tình thiết. Từ chương ba trở đi, thánh Matthêu chuyển sang giai đoạn hoạt động công khai của Đức Giêsu. Đến đây vai trò của ông Giuse trở nên lu mờ. Không ai biết được ông qua đời lúc nào. Tên ông còn được nhắc đến một lần nữa ở chương 13, khi thiên hạ thắc mắc về Đức Giêsu: “Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế? Ông không phải là con bác thợ mộc sao?”.

Qua đó, chúng ta biết được thánh Giuse làm nghề “thợ mộc”. Đoạn văn tương tự Mc 6,3 cho biết là Đức Giêsu cũng làm thợ mộc, và như vậy là Người được ông Giuse truyền nghề. Nên biết là “thợ mộc” (tektôn trong tiếng Hy Lạp) đã được các giáo phụ giải thích theo nhiều nghĩa: thợ mộc, thợ rèn, thợ nền (faber lignarius, o ferrarius, o morarius), tuy rằng ý kiến thông thường cho rằng thánh Giuse làm thợ mộc, thậm chí thánh Giustinô viết rằng Người đẽo cày và ách cho thú vậy (Dial. 88: PG 6,888). Dù sao, vào thờ bấy giờ “thợ mộc” không chỉ được xếp vào hạng “thủ công”, mà nhiều người thuộc hạng “sĩ” cũng làm thợ mộc, chẳng hạn Rabbi Shammai. Vì thế không lạ gì khi dân Israel bị phát lưu sang Babylon, các thợ mộc cũng bị bắt cùng với hàng quý tộc (Gr 24,1).

Theo nguỵ thư “Chuyện ly trần của ông Giuse thợ mộc”, thánh nhân qua đời khi đã cao niên (111 tuổi) lúc Chúa Giêsu sắp lên 20 tuổi! Thánh Matthêu không đả động gì đến cuộc ly trần của ông Giuse có lẽ vì thấy nhiệm vụ của Người đã hoàn tất. Từ nay, Chúa Giêsu sẽ bắt đầu mạc khải Tin Mừng cứu độ mà chủ đề là “Thiên Chúa là Cha trên trời”: các độc giả hãy dồn chú ý vào người Cha đó (xc. Mt 23,9).

VII. KẾT LUẬN

Trong hai chương đầu của Tin Mừng thánh Matthêu, ta thấy thánh Giuse giữ một vai trò quan trọng trong mầu nhiệm Nhập Thể. Ông được Chúa gọi tham gia vào việc Chúa Cứu thế ra đời cũng như che chở Hài nhi trong thời thơ ấu:

- bằng cách đưa bà Maria về sống chung: ông trở thành chồng của bà, và cha của Đức Giêsu, nhờ thế Người trở nên con cháu vua Đavit;

- bằng cách đặt tên cho Hài nhi là Giêsu, mạc khải chân tướng của Người như là “Thiên Chúa cứu chữa”; “Thiên Chúa ở với chúng ta” (Emmanuel);

- bằng cách bảo vệ Đức Giêsu khỏi bị vua Hêrôđê ám sát qua việc đưa thánh gia lánh nạn bên Ai Cập, rồi đưa về định cư tại Nadarét, nhờ thế Đức Giêsu trở thành ông Môsê mới và mang biệt hiệu “Giêsu Nadarét”.

Tóm lại, ông Giuse đã đóng vai trò quan trọng trong việc “nặn hình” Đức Giêsu theo chương trình cứu chuộc. Tuy nhiên, ông đã thi hành sứ mạng trong tinh thần vâng phục đức tin như một tôi trung của Thiên Chúa. Đối lại, vinh dự của ông ở chỗ làm “chồng của bà Maria” (Mt 1,16.19), và nhất là Đức Giêsu được coi là “con ông Giuse” (xc. Lc 4,22; Ga 6,42).

 

MỤC 2
TIN MỪNG THÁNH LUCA


Không thiếu người đã ví Tin Mừng Matthêu và Tin Mừng Luca như là “Tin Mừng về thánh Giuse” và “Tin Mừng về Đức Maria”. Sự đối chiếu ấy dựa trên nhiều chi tiết, đặc biệt khi so sánh hai cảnh truyền tin của thiên sứ nói ở chương đầu tiên. Tuy nhiên chưa chắc đó là dụng ý của hai thánh sự. Như đã thấy trong mục vừa rồi, có lẽ thánh Matthêu muốn trình bày Đức Giêsu như là con cháu Đavit, con cháu Abraham, Emmanuel; còn ông Giuse chỉ là một chứng nhân cho chân lý ấy. Còn dụng ý của hai chương đầu Tin Mừng Luca là gì? Một vài nhà chú giải cho rằng trọng tâm nằm ở chỗi đối chiếu hai nhân vật: Gioan Tiền hô và Đức Giêsu, qua cảnh truyền tin (1,5-25//26-38) và sinh hạ (1,57-66//2,1-21), và liên kết với nhau qua cảnh Đức Maria đi thăm viếng bà Elisabeth (1,39-56). Dù nói thế nào đi nữa, chắc là Luca không hề muốn so sánh Đức Giêsu với thánh Giuse. Ở đây, chúng tôi chỉ giới hạn vào việc nghiên cứu vai trò của thánh Giuse mà thôi.

I. NHẬN XÉT TỔNG QUÁT

Trong Tin Mừng Luca, thánh Giuse không được nổi bật như là trong Tin Mừng Matthêu.

A. Về văn bản

Sau đây là những đoạn văn có liên quan đến ông Giuse:

- Ở 1,27, trong cảnh truyền tin, Đức Giêsu được giới thiệu như là “một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse”.
- Ở chương 2, thánh Giuse thường xuất hiện bên cạnh Đức Maria, và đôi khi được gọi chung ở số nhiều: “họ”, “hai ông bà”.
- Sang chương 3, khi bước vào cuộc đời công khai của Đức Giêsu, ông Giuse được nhắc đến trong bản gia phả: “Đức Giêsu được coi là con ông Giuse, [ông Giuse] là con ông Hêli, [ông Hêli] con ông Matthat, vv” (Lc 3,23).
- Tại hội đường Nadarét, sau khi nghe bài giảng ra mắt, người ta bàn tán với nhau: “Ông này không phải là con ông Giuse sao?” (Lc 4,22).

B. Những điểm tương đồng

Hai thánh sử đồng nhất ở vài điểm căn bản liên quan đến đạo lý về việc cưu mang do quyền năng Thánh Thần:

- ông Giuse thuộc dòng tộc Đavit
- ông Giuse đã đính hôn với bà Maria
- bà Maria có thai trước khi hai người sống chung với nhau
- tên của Hài nhi do thiên sứ chỉ định: Giêsu, Cứu thế (Mt 1,21 = Lc 2,11), Con Thiên Chúa (Mt 2,15 = Lc 1,35).
- Đức Giêsu sinh tại Bêlem, dưới thời vua Hêrôđê (Mt 2,1 - Lc 1,5).
- Đức Giêsu trải qua thời thơ ấu ở Nadarét.

C. Những điểm khác biệt

Có nhiều khác biệt giữa hai thánh sử, đôi khi có thể xem như bổ túc cho nhau, nhưng đôi khi xem ra tương phản nhau.

1/ Luca cung cấp vài dữ kiện bổ túc cho Matthêu, chẳng hạn như cuộc giáng sinh của Chúa Giêsu tại Bêlem và các mục đồng đến thờ thờ lạy, việc cắt bì, dâng con trong đền thờ, và việc Hài nhi thất lạc trong đền thờ.

2/ Tuy nhiên, có vài chi biết xem ra trái ngược với Matthêu và đã gây ra nhiều tranh luận, chẳng hạn như:

- Nguyên quán và sinh quán của Đức Giêsu. Theo Matthêu, xem ra nguyên quá và sinh quán của Đức Giêsu là Bêlem, nơi mà ông Giuse đã có nhà ở (Mt 2,11); và thánh gia chỉ đến định cư ở Nadarét sau khi được thiên sứ chỉ định khi từ Ai Cập trở về. Theo Luca, nguyên quán của thánh Giuse và Đức Maria là Nadarét; hai ông bà về Bêlem để kiểm tra dân số, và không tìm được chỗ trọ. Bà Maria sinh Đức Giêsu tại Bêlem, và không rõ thánh gia trở về Nadarét lúc nào. Đàng khác, Luca không đả động đến việc lạnh nạn bên Ai Cập.

- Liên lạc với đền thờ. Theo Luca, 40 ngày sau khi sinh con, thánh Giuse và Đức Mẹ đem Đức Giêsu lên đền thờ để tiếng dâng cho Thiên Chúa. Điều này không được Matthêu nói tới. Trái lại, dân cư ở Giêrusalem xôn xao khi thấy các nhà chiêm tinh đến hỏi thăm tin tức về Vua Do Thái vừa mới ra đời, gây ra cảnh tàn sát các hài nhi ở Bêlem, buộc lòng thánh gia phải lánh nạn. Luca nói đến việc Đức Giêsu khi lên 12 tuổi thì đi theo cha mẹ từ Nadarét lên đền thờ. Phải chăng như vậy, thời gian lánh nạn ở Ai Cập không quá lâu dài?

Dĩ nhiên, các nhà chú giải Kinh Thánh đã đưa ra nhiều giả thuyết để giải thích những sự khác biệt giữa hai thánh sử. Có lẽ hai vị đã thu thập dữ liệu từ hai nguồn độc lập (Matthêu từ phía ông Giuse, và Luca từ phía Đức Giêsu). Họ đã không tìm cách trao đổi để kiểm chứng. Cả hai bản văn đã được nhận vào quy điển Sách Thánh. Chúng ta cần chấp nhận tất cả hai bản văn và tìm cách dung hợp các sự khác biệt trong tầm mức có thể.

II. VĂN BẢN

Chúng ta sẽ bắt đầu khảo sát bản gia phả ở chương 3, rồi sau đó trở lại thứ tự các biến cố nói ở chương 1 và chương 2: truyền tin cho Đức Maria, giáng sinh tại Bêlem, cắt bì, dâng con trong đền thờ, lạc con trong đền thờ.

A. Gia phả

Giữa hai bản gia phải theo Matthêu và theo Luca, có nhiều sự khác biệt không nhỏ và chắc hẳn không ngoài ý muốn của tác giả.

1/ Bối cảnh

- Tin Mừng Matthêu mở đầu bằng gia phả của Đức Giêsu “con cháu vua Đavit, con cháu tổ phụ Abraham” (1,1). Như đã thấy, xem ra điểm nhấn là Đức Giêsu là con cháu vua Đavit, là Đấng Mêsia được hứa cho các tổ phụ. Thứ tự đi từ trên xuống dưới, từ Abraham đến ông Giuse.

- Ở Tin Mừng Luca, bản gia phả được thuật lại ở chương 3, vào lúc Đức Giêsu bắt đầu thi hành sứ vụ, sau khi lãnh phép rửa: “Khi Đức Giêsu khởi sự rao giảng, Người trạc ba mươi tuổi. Thiên hạ tưởng Người là con ông Giuse, con ông Hêli, con ông Matthat, vv” theo thứ tự từ dưới lên trên, mãi đến tận ông Ađam.

Đừng kể thứ tự từ trên xuống (Mt: ông A sinh ông B), hoặc từ dưới lên (Lc: ông A con ông B), điều khác biệt quan trọng là ông Luca lên mãi tới nguyên tổ nhân loại là ông Ađam, “con của Thiên Chúa” (3,38). Như vậy, tầm nhìn của Luca rộng lớn hơn, khi cho thấy Đức Giêsu thuộc về dòng dõi của tất cả loài người, chứ không riêng một dân tộc nào. Điều này không những nằm trong thần học về ơn cứu độ phổ quát, nhưng còn được nêu bật trong bối cảnh mà gia phả được xen vào, nghĩa là tại ông Giorđan. Một đàng ông Gioan Tẩy giả cảnh cáo đồng bào rằng: “Các anh đừng vội nghĩ bụng rằng: ‘Chúng ta đã có tổ phụ Abraham’, vì tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham” (3,8). Cách đó không xa, khi Đức Giêsu chịu phép rửa thì có tiếng từ trời phán rằng: “Con là Con của Cha; ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con” (3,22). Chân tướng của Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa” (Lc 1,35), vì điều này quan trọng hơn biệt hiệu “con cháu vua Đavit” hay “con cháu tổ phụ Abraham” nơi ông Matthêu.

- Thánh Luca viết tác phẩm dành cho dân ngoại, vì thế ông không bận tâm đến việc móc nối với những lời hứa dành cho vua Đavit và dân tộc Israel. Tuy nhiên, thánh sử tôn trọng sự thật về Đức Giêsu thuộc dòng dõi vua Đavít. Khi truyền tin cho Đức Maria, thiên sứ nói: “Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng của Đavit, tổ thiên Người” (1,33). Thiên sứ báo tin cho các mục đồng rằng: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavit” (2,11). Cũng vì lý do đó mà ông Giuse cùng với bà Maria phải rời Nadarét về Bêlem để khai tên tuổi (2,4). Bằng cách nào Đức Giêsu thuộc dòng dõi vua Đavít? Chắc chắn không phải là do họ mẹ (Đức Maria) như sách Tiền Phúc Âm thánh Giacôbê nghĩ, nhưng là do ông Giuse. Ông Giuse là con cháu vua Đavít (3,23.31) và truyền lại dòng họ này cho Đức Giêsu. Bằng cách nào? Câu trả lời cũng tương tự như ông Matthêu, đó là ông Giuse là chồng của bà Maria, kẻ cưu mang Đức Giêsu do quyền năng của Chúa Thánh Thần.

- Bản gia phả của Matthêu được chia làm ba nhóm, mỗi nhóm 14 đời. Bản gia phả của Luca thì liệt kê 77 hàng tổ tiên lên tới Thiên Chúa. Hẳn là số 77 mang tính cách biểu tượng, chứ làm sao thu thập đầy đủ tên tuổi các bậc tổ tiên loài người được? 77 là biểu tượng cho cái gì? Có người cho rằng số 77 được ghép bởi hai số 77 kề nhau: số 7 tượng trưng cho sự hoàn thiện; có người tìm cách phân biệt 11 nhóm (3+3+2+3), mỗi nhóm 7 người.

- Trong hai bản danh sách, chỉ có sự trùng hợp từ ông Abraham đến vua Đavit. Sau đó, Matthêu thuật lại hậu duệ vua Davit từ phía ông Salomon (1Sbn 3,10-19), còn Luca thì theo ông Nathan (xc. 2Sm 5,14; 1Sbn 3,5). Hai danh sách gặp nhau nơi ông Santiel và Zerubbabel. Nhưng theo Matthêu, từ Salomon đến Santiel có 13 đời và từ Zerubbabel đến Đức Giêsu là 10 đời; theo Luca, từ Nathan đến Santiel có 19 đời và từ Zerubbabel đến Đức Giêsu là 19 đời.

- Tên thân sinh của thánh Giuse là ông Giacop (Mt) hay Hêli (Lc)? Có lẽ Matthêu muốn móc nối thánh Giuse với tổ phụ Giuse trong Cựu Ước, do đó thân sinh của cả hai trùng tên với nhau. Còn Luca có lẽ móc nối với vị tư tế Hêli vì liên tưởng đến câu chuyện của bà Anna và cậu Samuel, với nhiều nét tương tự với bà Elizabeth và cậu Gioan. Ngoài ra, theo một cách giải thích từ thời giáo phụ doEusêbiô Cêsarêa kể lại (Historia Ecclesiastica Iib. I, cap. VII), Giacop và Hêli là hai anh em cùng mẹ khác cha: bà Estha lấy ông Matthan (thuộc tộc Salomon) sinh ra Giacop; sau khi ông Matthan chết, bà tái giá với ông Matthat (thuộc tộc Nathan) và sinh ra Hêli. Vì Hêli chết mà không có con, nên Giacop lấy vợ của Hêli (theo luật Levir: xc. Mt 22,24) và sinh ra Giuse.

B. Truyền tin cho Đức Maria (1,26-38)

Như đã nói trên đây, Luca không có ý đối chọi cảnh truyền tin cho Đức Maria với cảnh truyền tin cho ông Giuse ở Tin Mừng Matthêu. Đúng hơn, Luca  đối chiếu hai ảnh truyền tin được nói trong chương 1, đó là cho ông Zacaria và cho Đức Maria:

- Truyền tin cho ông Zacaria, một tư tế, diễn ra ở đền thờ tại thủ đô Giêrusalem (1,11-22). Bà vợ ông son sẻ nhưng sẽ sinh ra một người con mang sứ mạng chuẩn bị lòng dân đón Chúa. Ông Zacaria nêu thắc mắc.

- Truyền tin cho Đức Maria, một thiếu nữ tầm thường, ở làng Nazereth miền Galilê (1,26-38). Cô là một trinh nữ, nhưng sẽ sinh ra một người con do quyền năng Thánh Thần, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Maria thuận nhân làm theo ý Chúa.

Xét về địa vị xã hội, Đức Maria kém ông Zacaria; nhưng xét về lòng tin thì thứ tự đảo ngược. Sự chênh lệch càng lớn hơn nữa khi so sánh bản thân ông Gioan và Đức Giêsu.

Trong cảnh truyền tin cho Đức Maria, ông Giuse nêu được đích danh bởi vì “thiên sứ Gabriel đến một thành miền Galilê gọi là Nazareth gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse thuộc nhà Đavít” (1,26-27). Nơi Luca, ta thấy hai dữ kiện trùng hợp với Matthêu: Bà Maria đã đính hôn với ông Giuse, và hai người chưa ăn ở với nhau (xc. 1,34). Tuy nhiên, có điểm khác biệt là sau đó Luca không nói gì về phản ứng của ông Giuse. Cho đến ngày lên đường về Bêlem để kiểm tra dân số, Đức Maria vẫn còn trong tình trạng đính hôn (Lc 2,5). Luca không bao giờ gọi Maria là “vợ ông Giuse” như Matthêu (1,20.24). Tuy nhiên, như chúng ta biết, theo luật Do Thái đương thời, những người đính hôn cũng có những nghĩa vụ pháp lý như những người kết hôn. Lý do của cuộc đính hon với Giuse đã được nêu rõ khi nói rằng “thuộc nhà Đavít” (1,26), và vì thế sẽ về Bêlem để kiểm tra dân số, tại đây Chúa Cứu Thế giáng sinh (2,4.11).

Thoạt tiên câu hỏi của Đức Maria với sứ thần mang tính mâu thuẫn. Tại sao cô đã đính hôn rồi mà còn hỏi: “Việc ấy xảy ra thế nào, vì tôi không biết người đàn ông?” (Lc 1,34). Tuy nhiên, động từ “biết” trong ngôn ngữ Hip-ri được hiểu về giao hợp, chứ không phải là biết tên biết tuổi mà thôi. Hai người đã đính hôn, nhưng chưa sống chung với nhau.

Đàng khác, cả hai thánh sử Luca và Matthêu đều trùng hợp ở nội dung căn bản, đó là Đức Maria cưu mang Chúa Giêsu do quyền năng Chúa Thánh Thần (Lc 1,35 // Mt 1,18.20).

C. Giáng sinh (2,1-20)

Như đã nói trên, thánh Luca không gọi bà Maria là “vợ” của ông Giuse: đây là điều khác với Matthêu. Mặt khác, thánh Luca không ngại để thánh Giuse làm “cha” của Đức Giêsu, điều mà Matthêu chỉ hiểu ngậm.

Dù sao, cho đến ngày sinh Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn chỉ là người “đính hôn” với ông Giuse (2,5). Tuy nhiên, trong chương hai này, mối tương quan giữa hai người đã được diễn tả như là “vợ chồng” và “cha mẹ” đi đôi với nhau.

- câu 6: “Khi hai người (= ho) đang ở đó (Bêlem) thì bà Maria  đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa”.

- câu 7: “bà... đặt con nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà (= họ) không tìm được chỗ trong nhà trọ.

- câu 16: “các mục đồng gặp bà Maria và ông Giuse, cùng với Hài nhi nằm trong máng cỏ”.

- câu 22: “Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Môsê, bà Maria và ông Giuse đem con lên Giêrusalem”.

- câu 27: “Vào lúc cha mẹ Hài nhi Giêsu đem con tới... thì ông Simêon ẵm lấy”.

- câu 33: “ Cha mẹ Hài nhi ngạc nhiên về những lời ông Simêon nói”.

- câu 39: “Khi hai ông bà (= họ) đã làm xong mọi việc... thì trở về Nazareth”.

- câu 41-46: “Cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem... Họ cùng lên đền... Họ trở về... Đức Giêsu ở lại trong đền thờ mà cha mẹ chẳng hay biết. Họ cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành... Không thấy con đâu, họ trở lại Giêrusalem. Sau ba ngày, họ mới tìm thấy con trong đền thờ.”

- Câu 48-51: “Khi thấy con, họ sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: Con ơi, sao lại xử với cha mẹ (= chúng tôi) như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ (= tôi) đây đã phải cực lòng tìm con! Người đáp: Sao cha mẹ (= các ngài) lại tìm con? Cha mẹ (= các ngài) không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao? Nhưng họ không hiểu lời Người vừa nói, Người đi xuống cùng với họ, trở về Nazareth và hằng vâng phục họ”.

Ở câu 7, Luca viết rằng bà Maria sinh “con trai đầu lòng”. Điều này không giả thiết rằng sau đó bà còn sinh nhiều con nữa! Thánh sử nhắc đến việc sinh con trai đầu lòng không chỉ vì muốn ghi nhận một hiện tượng sinh lý của người phụ nữ (lần đầu tiên sinh con) cho bằng dẫn nhập vào một biến cố khác sẽ nói sau, đó là sự dâng con trong đền thờ: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thành, dành cho Chúa” (2,23).

D. Cắt bì và đặt tên

Việc cắt bì và đặt tên cho Chúa Giêsu chỉ được Luca nói đến trong một câu (2,21) đang khi sự việc tương tự của ông Gioan Tiền hô lại được nói dài hơn (1,59-66).

Thoạt tiên xem ra thánh sử chỉ muốn thuật lại sự kiện này để chứng tỏ cha mẹ của hài nhi đều là những người nghiêm túc tuân hành luật lệ (xc. St 17,12tt; Lv 12,3). Tuy nhiên, điều quan trọng nằm ở chỗ đặt tên cho Hài nhi, tên gọi nói lên sứ mạng tương lai. Ở đây chúng ta chỉ chú ý đến việc cắt bì và đặt tên cho Chúa Giêsu mà thôi.

Ai chủ sự việc cắt bì? Thánh Luca không nói, có lẽ vì không quan trọng. Trong lịch sử Do Thái, thường là người cha (chẳng hạn ông Abraham cắt bì cho Isaac: St 21,4), nhưng đôi khi là à mẹ (Zippora cắt bì cho con của ông Môsê: Xh 4,25), hoặc một người nào khác.

Việc đặt tên mới thực sự là điều chủ yếu trong câu này: “Hài nhi được đặt ên là Giêsu; đó là tên mà sứ thần đã đặt trước khi Hài nhi thành thai trong lòng mẹ”. Câu văn được đặt ở thể thụ động, và không rõ ai giữ vai chủ động. Theo Matthêu, thì ông Giêsu đặt tên cho Hài nhi (1,21.25). Còn theo Luca, thì việc đặt tên xem ra được thiên sứ giao cho Đức Maria vào lúc truyền tin (1,31), cũng tương tự như việc đặt tên cho Gioan được giao cho ông Zacaria (1,13.63). Tuy nhiên, xét vì cả cha lẫn mẹ (bà Elizabeth: 1,60) đều tham gia vào việc đặt tên cho Gioan, ta có thể suy đoán rằng việc đặt tên cho Chúa Giêsu cũng có sự tham gia của “hai ông bà”, theo như mạch văn của toàn thể chương hai, mà chúng ta đã có dịp nhận xét. Xem ra vấn đề người chủ sự việc đặt tên không quan trọng cho bằng việc tuân hành một chỉ thị từ trời.

Nên lưu ý là Luca không giải thích ý nghĩa của tên “Giêsu” như là Matthêu (1,21: “Thiên Chúa cứu dân Người khỏi tội lỗi”)

E. Dâng Con trong đền thờ (2,22-35)

Các nhà chú giải đã ghi nhận một chi tiết khác thường trong trình thuật này, khi Luca viết rằng “khi đã đến kỳ thanh tẩy của họ theo luật Môsê, bà Maria và ông Giuse đem con lên đền thờ Giêrusalem”. Tại sao nói đến sự thanh tẩy của họ, nghĩa là của hai ông bà, trong khi luật thanh tẩy của Môsê chỉ ràng buộc bà mẹ (Lv 12,1-8)?

Có ý kiến cho rằng trong Tân Ước (bằng tiếng Hy Lạp), danh từ “thanh tẩy” (katharismos) bao hàm một nội dung rộng rãi (Mc 1,44; Lc 5,14; Ga 2,6; 3,25; Dt 1,3; 2 Pr 1,9), chứ không chỉ giới hạn vào lễ thanh tẩy dành cho các bà mẹ sau khi sinh con. Do đó, ở đây thánh Giuse cũng tham gia vào sự thanh tẩy, nghĩa là thi hành các nghi thức luật định. Một cách cụ thể, trong đoạn văn này hai ông bà lên đền thờ để thi hành những điều mà luật Chúa truyền (2,23.24.27.39), trong đó có việc tiến dâng con trai đầu lòng và chuộc lại (Xh 13,1.11tt). Nên lưu ý là có lẽ chính hai ông bà chủ sự việc tiến dâng (Lc 2,27), chứ không phải là ông Simeon. Ông này xuất hiện sau đó; ông bế hài nhi và chúc tụng Thiên Chúa.

Như đã nhận xét trên đây, trong trình thuật này, Luca nói đến thánh Giuse và Đức Maria không những qua đại danh từ ở số nhiều (Họ = hai ông bà) nhưng còn xác định là “cha mẹ của Hài nhi”: khi thi hành việc tiến dâng (2,27), khi được nghe những lời chúc tụng của ông Simeon (2,33).

F. Tìm lại Đức Giêsu trong đền thờ (2,41-50)

Thánh Luca trình bày Đức Maria và thánh Giuse không chỉ như những người giáo dục nhân bản cho Đức Giêsu, mà còn như là tấm gương trong việc tuân hành Luật Chúa: hai ông bà đã lên đền thờ dâng tiến con trai đầu lòng theo luật (2,22.39); hằng năm hai ông bà lên đền thờ dự lễ Vượt qua theo như luật định (2,41). Khi Đức Giêsu lên 12 tuổi, xảy ra sự cố là cậu ở lại trong đền thờ sau ngày lễ mà không báo trước cho cha mẹ.

Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và Mẹ Maria đã cho thấy những mối liên lạc đan chéo trong gia đình Nazareth.

- Đức Maria nói với Đức Giêsu: “con ơi”, theo lối xưng hô thân mật gia đình. Kế đó là lời trách móc cậu bé vì đã gây lo lắng cho “cha của con và mẹ”. Đức Maria nói thay cho ông Giuse, và đặt ông lên trước, theo thứ tự gia trưởng: “Con thấy không cha của con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!”

- Đức Giêsu trả lời chung cho cả hai người, với đại danh từ đặt ở số nhiều: “Tại sao các ngài tìm con? Các ngài không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” Đức Giêsu coi đền thờ như là “nhà” của Cha mình. Dĩ nhiên, “Cha” ở đây được hiểu về Thiên Chúa, chứ không phải là ông Giuse, như bà Maria vừa nói!

Thánh sử Luca nhận xét rằng ông Giuse và bà Maria là “cha mẹ” của Đức Giêsu; nhưng Đức Giêsu còn có một Cha khác. Tuy nhiên, dù Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa” (đã được nói trước ở 1,35), nhưng Người cũng phục tùng những kẻ giữ cương vị của cha mẹ trong gia đình.

Chương hai kết thúc với thời gian ẩn dật của Chúa Giêsu ở Nazareth cho tới khi hoạt động công khai. Tại đây, Đức Giêsu hấp thụ nền giáo dục nhân bản và đạo đức “ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa” (2,39).

III. KẾT LUẬN

Trong Tin Mừng Luca, vai trò của thánh Giuse không nổi bật như trong Tin Mừng Matthêu. Thánh Giuse là một nhân vật thầm lặng bên cạnh Đức Maria; tuy nhiên, sự hiện diện của ông không phải là dư thừa, bởi vì ông cũng góp phần vào việc thực hiện ý định của Thiên Chúa: khi về Bêlem để kiểm tra dân số, khi thi hành việc cắt bì và đặt tên cho Hài Nhi, khi dâng tiến Hài Nhi trong đền thờ, khi nuôi nấng dưỡng dục Hài Nhi ở Nazareth. Ông đáng được hưởng lời chúc phúc dành cho kẻ “lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,27).

Chúng ta nên ghi nhận vài dụng ngữ của thánh Luca khi bàn về những mối tương quan của thánh Giuse.

1. Với Đức Maria. Thánh Luca chỉ nói rằng Đức Maria là một trinh nữ đính hôn với ông Giuse, kể cả vào lúc về Bêlem. Tuy nhiên, trong suốt chương hai, Luca nhiều lần nói đến sự lệch lạc chặt chẽ giữa hai người khi dùng chủ từ ở số nhiều, - “họ” (hai ông bà) -: trong thời kỳ về Bêlem làm kiểm tra, lúc Chúa ra đời, khi đem con lên đền thờ để tiến dâng hay để dự lễ Vượt qua.

2. Với Đức Giêsu. Khi nói đến việc lên đền thờ dự lễ, thánh Luca viết rằng: “hằng năm cha mẹ của Người lên đền thờ” (Lc 2,41). Khi tìm lại Đức Giêsu, Đức Maria nói: “Này cha của con và mẹ (= tôi) phải cực lòng tìm con” (Lc 2,48). Như vậy, ở trong gia đình Nazareth, ông Giuse vẫn cư xử với Đức Giêsu như một người cha. Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng lưu ý rằng mình còn có một Cha lớn hơn (Lc 2,49). Thánh Giuse biết rằng Đức Giêsu không sinh ra do sự giao hợp thể lý, và thi hành chức vụ làm cha trong sự tôn trọng mối liên hệ độc nhất của Đức Giêsu với Chúa Cha. Nhưng những người ngoài gia đình, bởi vì họ không biết đến chuyện cưu mang khác thường, cho nên họ vẫn nghĩ rằng Đức Giêsu là “con của ông Giuse” (Lc 3,23).

Dù sao đi nữa, bên cạnh vấn đề “danh chính ngôn thuận”, thánh Luca đã nhìn nhận nhiều trách nhiệm của ông Giuse.

- Về phương diện pháp lý: tránh cho Đức Maria khỏi rơi vào tình trạng đẻ con không chồng; bảo đảm cho Đức Giêsu được mang dòng tộc Đavit.

- Về phương diện nhân bản. Thánh Giuse săn sóc Đức Maria trong thời kỳ thai nghén, và sinh nở. Cùng với Đức Maria, thánh Giuse có trách nhiệm dưỡng dục Hài Nhi Giêsu.

 

MỤC 3
TIN MỪNG THÁNH MARCÔ
VÀ THÁNH GIOAN


Trong Tân Ước, chỉ có hai cuốn Tin Mừng thánh Matthêu và Luca cung cấp nhiều dữ kiện hơn cả về thánh Giuse. Hai cuốn Tin Mừng kia thì sao?

I. TIN MỪNG THÁNH MARCÔ

Theo ý kiến các học giả, đây là cuốn Tin Mừng ra đời sớm nhất, và mở đầu với sứ vụ công khai của Đức Giêsu. Tin Mừng Marcô không đề cập đến thời thơ ấu của Đức Giêsu, vì thế không nhắc đến thánh Giuse.

Tuy nhiên, cũng có hai chi tiết đang để ý:

1. Thánh sử Maccô đã 5 lần gắn liền “Nazareth” với thân thế của Đức Giêsu: Nazareth không những ám chỉ nguyên quán (1,9; 14,67) mà còn trở thành biệt hiệu của Người (1,24; 10,47; 16,6).

2. Thánh sử Maccô là người duy nhất cho biết Đức Giêsu làm nghề “thợ mộc” (Mc 6,3).

Cả hai chi tiết này đều gián tiếp nói lên mối liên hệ với thánh Giuse: “cha nào con nấy”. Tuy nhiên, dưới một phương diện khác, liền sau khi nói đến “Đức Giêsu là thợ mộc”, thánh sử thêm rằng “con bà Maria” (6,3). Lối nói này hơi ngược đời, bởi vì tục lệ thường gắn con với người cha chứ không gắn với bà mẹ (thí dụ như: Simon con ông Gioan). Phải chăng bởi vì thánh sử muốn nêu bật việc sinh hạ khác thường của Đức Giêsu?

II. TIN MỪNG THÁNH GIOAN

Tin Mừng thánh Gioan chú trọng đến Đức Giêsu là “Con Thiên Chúa” hơn là con của ông Ađam”. Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa, hiện hữu từ muôn thuở, đã đến cắm lều ở giữa loài người (Ga 1,1.14).

Trong tác phẩm này, tên ông Giuse được nhắc đến hai lần:

1. Vào lúc  Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ và thâu nhận môn đệ, ông Philipphê mô tả thân thế của Người như sau: “Chúng tôi đã gặp ông Giêsu Nazareth, con ông Giuse” (1,45). Đây không phải là một chức danh giá gì, bởi vì ông Nathanael vặn lại: “Từ Nazareth, làm sao có cái gì hay được”. Ông Philipphê ôn tồn mời anh bạn: “Đến mà xem”. Qua cuộc đối đáp này, ta có thể ghi nhận rằng người đương thời khinh rẻ làng Nazareth. Đàng sau não trạng dân gian này, có lẽ còn có một quan điểm thần học nữa, đó là dân Do Thái không thể nào chấp nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, bởi vì vị này được tiên báo như là con vua Đavit, xuất thân từ Bêlem miền Giuđê (xc. 7,43-44): “Đức Giêsu mà lại xuất thân từ Galilê sao? Nào Kinh Thánh đã chẳng nói: Đấng Kitô xuất thân từ dòng dõi vua Đavit và từ Bêlem, làng của vua Đavit sao?”).

2. Điều này càng rõ hơn nữa khi Đức Giêsu tự xưng là “Bánh từ trời xuống”. Người nghe liền xầm xì: “Ông này chẳng phải là ông Giêsu, con ông Giuse đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: Tôi từ trời xuống?” (Ga 6,42).

Hai trường hợp nhắc đến Đức Giêsu như là “con ông Giuse” đều nằm trong bôi cảnh người Do Thái đặt vấn nạn về thiên tính của Đức Giêsu. Xem ra thánh Gioan muốn đối chọi giữa hai cái nhìn về nguồn gốc của Đức Giêsu: người đời chỉ có thể biết được nguồn gốc nhân tính của Người như là con ông Giuse và xuất thân từ Nazareth; cần phải có ơn trên thì mới nhận ra Người từ trời xuống (Ga 6,44), 7,28-29). Sự thay đổi viễn tượng có thể nhận thấy nơi Nathanael. Vào lúc đầu, ông tỏ ra thái độ ngờ vực cách tự nhiên: “Từ Nazareth, có cái gì hay được?” (Ga 1,46); nhưng sau khi đã gặp gỡ Đức Giêsu, ông thốt lên: “Thầy là Con Thiên Chúa, là Vua Israel” (Ga 1,49).

 

MỤC 4
NHỮNG HÌNH ẢNH TRONG CỰU ƯỚC


Lẽ ra mục “thánh Giuse trong Cựu Ước” phải đi trước mục “thánh Giuse trong Tân Ước”, nhưng đó là nói theo thứ tự thời gian chứ không theo ý nghĩa của lịch sử cứu độ. Thật vậy, phải chờ sự giải thích của Chúa Giêsu Phục sinh, các môn đệ mới hiểu được những đoạn văn nào trong Cựu Ước nói về Đấng Kitô (xc. Cv 8,34) chứ không riêng gì những đoạn nói về Đấng Mêsia ngự trên ngai Đavit

Một đặc trưng của Tin Mừng thánh Matthêu là việc sử dụng thuật ngữ “ngõ hầu ứng nghiệm lời ngôn sứ đã nói” (hoặc: để kiện toàn, hoàn tất, làm trọn, vv). Thuật ngữ này xuất hiện 41 lần trong toàn tác phẩm, và ngay trong hai chương đầu tiên đã gặp thấy 5 lần (1,23; 2,6.15.18.23). Tác giả muốn chứng minh cho các độc giả (người Do Thái) rằng Đức Giêsu thật là Đấng Mêsia mà Thiên Chúa hứa sẽ sai đến để cứu dân tộc. Người không chỉ là con cháu vua Đavit mà thôi, nhưng còn giữ vai trò ngang với ông Môsê nữa. Điều này được khẳng định trong bài giảng trên núi: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Một cách gián tiếp, sự kiện toàn được bày tỏ qua các phản đề tiếp đó: “Anh em đã nghe luật xưa rằng... còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết...” (Mt 5,21.27,31.33.38.43).

Dựa trên nguyên tắc đó, Giáo Hội tiên khởi cũng lục lọi trong Cựu Ước những đoạn văn có thể áp dụng cho Hội Thánh (chẳng hạn: giao ước, Dân Chúa, đoàn chiên, đền thánh, vv), cho Đức Maria (bà Eva, thiếu nữ Sion, vv). Một cách tương tự như vậy, các giáo phụ cũng cố gắng đi tìm những đoạn văn Cựu Ước có thể áp dụng cho thánh Giuse. Tuy có nhiều đường hướng đã được sử dụng (thí dụ những mẫu “người công chính” trong Cựu Ước), nhưng chúng tôi chỉ giới hạn vào một nhân vật cụ thể do chính thánh Matthêu gợi lên, đó là tổ phụ Giuse. Có nhiều điểm tương đồng giữa tổ phụ Giuse trong Cựu Ước và thánh Giuse.

- Xét về tên gọi, Giuse theo nguyên ngữ có nghĩa “Thiên Chúa đã tăng thêm” (St 30,22-24). Thân sinh của cả hai người đều mang tên là Giacóp (Mt 1,16). Xem ra Matthêu cũng muốn nhắc đến tân gọi của thân mẫu nữa khi trưng dẫn bà Rachel trong cảnh tàn sát các anh hài (1,18; xc. St 30,22-24).

- Một điểm tương đồng khá nổi bật là: cả hai người đã nhận được mạc khải qua giấc mộng. Tổ phụ Giuse đã nhận được giấc mộng báo trước sự nghiệp của mình (St 37,5-9 = 42,6-9) và ông cũng giải thích giấc mộng của người khác (St 41,12.16.25). Cả hai đã nắm bắt được ý định của Chúa qua giấc mộng.

- Lánh nạn qua Ai Cập. Tổ phụ Giuse bị các anh mưu toan ám hại, và nếm cảnh lưu vong bên Ai Cập (St 37,18-20.28). Thánh Giuse đưa thánh gia sang Ai Cập để tránh cuộc tàn sát của vua Hêrôđê (Mt 2,13.16).

- Dính líu tới nhà vua. Thánh Giuse đưa thánh gia sang Ai Cập vì vua Hêrôđê sợ tiếm vị, và phải chờ đến lúc nhà vua băng hà thì mới trở về quê hương. Tổ phụ Giuse tuy được lòng vua Pharaô, nhưng ông biết trước rằng khi nhà vua này qua đời thì dân Israel sẽ bị áp bức và buộc phải rời bỏ Ai Cập (Xh 1,8; 13,18-19).

- Con người liêm khiết. Tổ phụ Giuse là người ngay chính, không chiều theo lời dụ dỗ phạm tội (St 39,7-20). Thánh Giuse là người công chính và không muốn xúc phạm đến Đức Maria.

- Trách nhiệm. Tổ phụ Giuse được giao phó nhiều chức vụ quan trọng: quản lý ở nhà quan Potiphar (St 39,4), quản đốc trại giam (St 39,22), quản đốc hoàng gia Pharaô và quản trị toàn xứ Ai Cập (St 41,41-45). Thánh Giuse chịu trách nhiệm trông coi thánh gia tại Bêlem, Ai Cập, Nazareth.

Vào thời cận đại, nhiều vị Giáo hoàng thường đối chiếu thánh Giuse với tổ phụ Giuse, cách riêng khi nói đến vai trò bảo trọ Giáo Hội. Thế lực bầu cử của Người dựa theo câu nói của vua Pharaô “Ite ad Joseph” (Hãy đến cùng Giuse: St 41,55), đã được sử dụng từ thánh Bênađô (Homilia II Super missus est, PL 183,69-70).

KẾT LUẬN

Trong chương này chúng tôi chỉ giới hạn vào việt tìm hiểu ý nghĩa những đoạn văn Tân Ước nói về thánh Giuse. Trong những chương kế tiếp, chúng ta sẽ thấy tầm áp dụng của những đoạn văn đó để hiểu biết sứ mạng của Người cũng như mẫu gương cho các môn đệ Chúa Kitô. Một cách cụ thể, chúng ta sẽ thấy rằng tông huấn Redemptoris Custos của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II sẽ dựa trên những đoạn văn Tân Ước vừa nói tựa như những “mầu nhiệm kinh Mân Côi” để chiêm ngắm vai trò của thánh Giuse trong sứ mạng cứu độ của Chúa Kitô.

- Thánh nhân trở nên “môi giới” để Đức Giêsu trở thành “Con vua Đavit” hoàn tất những lời hứa về Đấng Mêsia.

- Thánh nhân đã “đặt tên” cho hài nhi là Giêsu, trình báo cho nhân loại biết Người là Đấng cứu tinh nhân loại, là Emmanuel.

- Thánh nhân đã “đăng ký” Đức Giêsu vào sổ kiểm tra của hoàng đế Rôma, để chứng thực Người là thành phần của thế giới nhân loại.

- Thánh nhân đã “dâng tiến” Đức Giêsu cho Chúa Cha, báo trước hy tế cứu chuộc trên thập giá.

- Thánh nhân không những đã bảo vệ hài nhi Giêsu tại Bêlem và Ai Cập, nhưng còn tạo điều kiện để Đức Giêsu trở thành “người Nazareth”, một danh hiệu gắn liền với sự nghiệp của Chúa Cứu Thế.

- Dĩ nhiên, thánh nhân đã góp phần không nhỏ trong việc giáo dục hài nhi Giêsu về nhân bản, đạo hạnh, cũng như nghề nghiệp.

Đó là cơ sở cho danh hiệu Redemptoris Custos (kẻ giữ gìn  Đấng Cứu Chuộc), Minister salutis (kẻ phục vụ ơn cứu độ) của tông huấn mà chúng ta sẽ nghiên cứu trong những chương tới.
 
 

Chương hai|
THÁNH GIUSE
TRONG TRUYỀN THỐNG GIÁO HỘI


Trong chương này chúng ta theo dõi sự phát triển về thần học và lòng tôn kính thánh Giuse trong lịch sử Giáo Hội. Trước tiên, chúng ta sẽ tìm hiểu những lưu truyền về thánh Giuse nơi các nguỵ thư Tân Ước (mục  1). Tiếp đến chúng ta sẽ điểm qua những đường hướng thần học bàn về thánh Giuse từ thời giáo phụ đến thời cận đại, cũng như sự tiến triển của lòng tôn kính thánh nhân (mục 2). Sau cùng, chúng ta sẽ phân tích những văn kiện Toà Thánh trong hai thế kỷ gần đây bàn về vai trò của Đấng được tôn phong làm Quan Thầy Giáo Hội (mục 3).

 

MỤC 1
CÁC TÁC PHẨM NGUỴ THƯ TÂN ƯỚC


Trong chương vừa rồi, khi phân tích các đoạn Tin Mừng nói về thánh Giuse, chúng ta thấy rằng các thánh sử không cung cấp một chi tiết nào về cuộc đời của Người: sinh năm nào, ở đâu? Đính hôn với bà Maria lúc nào? Qua đời hồi nào? Chôn chất ở đâu?

Đàng khác, chúng ta thấy nhiều bức tranh vẽ hình thánh n hân đầu tóc bạc phơ, hoặc cầm cành hoa huệ, hoặc nhắm mắt lìa trần với Đức Mẹ và Chúa Giêsu đứng bên cạnh. Các dữ kiện này dựa vào tài liệu nào?

Câu trả lời vắn tắt cho những câu hỏi vừa rồi là: Những chi tiết về cuộc đời thánh Giuse dựa theo những lưu truyền dân gian, được ghi lại trong các tác phẩm nguỵ thư Tân Ước. Trước khi đi vào chi tiết, cần xác định ý nghĩa của từ ngữ “nguỵ thư”.

I. KHÁI NIỆM

Theo nguyên ngữ Hy Lạp, apokryphos chỉ có nghĩa là “bí mật, giữ kín”, và được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Lúc đầu nó được dùng để áp dụng cho toàn thể Sách Thánh: cần phải cất giữ các tác phẩm này, không nên để lọt vào tay người ngoại (ý nghĩa này có lẽ do ảnh hưởng của các nhóm Ngộ đạo: chỉ có ai đã được khai tâm thì mới được đọc các sách thiên khải). Sau đó, nó được áp dụng cho những sách chỉ nên đọc tư, chứ không được phép đọc chính thức trong các buổi cử hành phụng vụ. Đến khi sổ bộ quy thư (libri canonici) được xác định, thì nó ám chỉ những sách nào không thuộc quy thư, vì thế cấm không được đọc công khai. Từ đó, người ta dịch là “nguỵ thư” (đối lại với “quy thư”), và mang một ý nghĩa xấu. Thực ra, các nguy thư không hẳn lúc nào cũng xấu. Một quyển sách có thể được xếp vào nguy thư bởi vì không phải là do các tông đồ viết, mặc dù nội dung của nó rất lành mạnh: thí dụ như “thư của Clêmentê”, “thư của Barnabê”. Lúc đầu có giáo đoàn coi đó như là quy thư và sau đó đã loại ra khỏi sổ quy thư (và trở thành nguỵ thư). Ngược lại, sách Khải Huyền của thánh Giuse từng bị coi là nguỵ thư nhưng sau đó được xấp vào quy thư. Ngày nay, các học giả đã dùng nhiều tiêu chuẩn khác nhau  để phân loại các apocrypha.

- Một số tác phẩm ra đời vào thời các thánh tông đồ, đã được vài giáo dân nhìn nhận làm Sách Thánh nhưng sau đó bị gạt ra bởi vì không do các Tông đồ viết. Những tác phẩm này được đặt tên là Văn chương Kitô giáo nguyên thuỷ, đó là: sách Điđakhê, thư Clêmentê, sách Mục tử của Hermas, thư của Barnabê. Ngược lại, một tác phẩm tuy mang danh một tông đồ nhưng sau khi bị lật tẩy thì đương nhiên bị xếp vào hàng nguỵ thư, chẳng hạn: thư thứ ba của thánh Phaolô gởi Côrintô, hoặc thư gởi Laođikia.

- Đa số các nguỵ thư ra đời sau thế kỷ II, dựa theo thể văn của các tác phẩm Tân Ước. Mục tiêu của các soạn giả khác nhau. Đôi khi vì muốn thoả mãn tính tò mò, bằng cách thêu dệt nhiều phép lạ. Đôi khi muốn biện minh cho một học thuyết nào đó (chẳng hạn chủ trương của nhóm Ngộ đạo, Ảo nhân thuyết). Các tác phẩm này được phân ra bốn loại: Tin Mừng, hoạt động tông đồ, thư, khải huyền. Nhiều tác phẩm chỉ được biết qua sự trích dẫn của các giáo phụ chứ không còn được lưu lại nguyên bản.

A. Tin Mừng

Tuy được gom một loại mang danh là “Tin Mừng nguỵ thư”, nhưng giá trị của chúng khác nhau xét về lịch sử cũng như đạo lý.

1. Một số tác phẩm ra đời đồng thời với các Tin Mừng quy điển, và dĩ nhiên là được xếp vào hạng nhất xét về giá trị lịch sử. Trong tiến trình biên soạn các sách Tin Mừng, các thánh sử đã sử dụng những nguồn tư liệu đã được thu thập trước đó, gồm các lời nói (đặc biệt là câu dụ ngôn). Vài tác giả đương thời cũng sử dụng những nguồn tư liệu đó và soạn ra tác phẩm song hành. Các sử gia đặt tên cho chúng là agrapha, (những lời nói của Chúa Giêsu). Thường các lời nói được thuật lại trong bối cảnh của một cuộc đàm thoại với các môn đệ, chẳng hạn như: Tin Mừng thánh Tôma, thu thập 114 câu nói của Chúa Giêsu, hoặc do tự Người dạy hoặc để trả lời cho câu hỏi mà môn đệ đặt ra; hoặc Cuộc đàm đạo của Chúa Cứu Thế, thuật lại cuộc đàm đạo của Chúa phục sinh với ông Giuđa và ông Matthêu, với thể văn tương tự như cuộc đàm đạo tại nhà Tiệc Ly theo Tin Mừng thánh Gioan.

2. Hạng thứ hai sử dụng các tư liệu vừa nói để soạn có vẻ những tác phẩm biện minh cho chủ thuyết nào đó, chẳng hạn hoặc phủ nhận nhân tính của Đức Giêsu (thuyết ảo thân), hoặc phủ nhận thiên tính của Người (các Tin Mừng của người Do Thái).

3. Hạng thứ ba chỉ mang danh là “Tin Mừng” theo nghĩa là kể lại cuộc đời của Chúa Giêsu, nhưng mục tiêu chúng không còn là loan báo Tin Mừng cứu độ cho bằng thoả mãn tính tò mò. Nội dung xoay quanh hai giai đoạn đặc biệt của cuộc đời của Chúa Cứu Thế, đó là thời thơ ấu và hồi tử nạn Phục sinh.

a) Một nhóm chú trọng đến nguồn gốc gia thế và thời thơ ấu của Chúa. Nổi tiếng nhất là Tin Mừng tiên khởi thánh Giacôbê, mà chúng tôi sẽ trở lại dưới đây. Tác phẩm này ra đời vào khoảng năm 150, và được quảng bá trong nhiều cộng đoàn phụng vụ bên Đông phương. Cùng với tác phẩm “Cuộc từ trần của Đức Maria” (Transitus Mariae) nó đánh dấu khởi điểm của lòng tôn kính Đức Maria trong các thế kỷ đầu tiên của Giáo Hội. Nói chung, các Tin Mừng thơ ấu thích kể lại các phép lạ xảy ra lúc Chúa Giêsu ra đời, lúc tị nạn bên Ai Cập và thời niên thiếu, chẳng hạn Tin Mừng thơ ấu của ông Tôma (khác với Tin Mừng thánh Tôma vừa nói trên).

b) Một nhóm chú trọng đến cuộc Tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu: Tin mừng ông Nicôđêmô, Tin Mừng thánh Phêrô.

B. Công vụ các Tông đồ

Nếu muốn theo sát nguyên bản thì phải dịch là “Những hoạt động của các Tông đồ” (Actus apostolorum), chứ không phải là “Công vụ” (Acta). Dù sao, tác giả không, chỉ đóng vai trò một ký giả ghi chép các biến cố đã xảy ra trong Hội Thánh nguyên thuỷ nhưng còn muốn trình bày một thần học về đường hướng truyền giáo của Hội Thánh.

Các tác phẩm nguỵ thư không còn duy trì viễn ảnh thần học, nhưng chỉ thích kể các phép lạ, có vẻ như muốn đề cao các Tông đồ như là các “siêu nhân” hoặc ít là “người hùng” của Kitô giáo. Các tác phẩm này ra đời vào thế  kỷ II. Các giáo phụ nhiều lần nhắc đến các “hoạt động của ông Phêrô” (soạn khoảng năm 180-190), của ông Phaolô (khoảng 185-195), Anrê, Gioan và Tôma.  “Hoạt động của ông Tôma” được duy trì trọn vẹn hơn cả trong bộ sưu tập 5 cuốn, lưu hành trong nhóm Manikê vào cuối thế kỷ IV.

C. Các thư

Ngoài các thư của thánh Phaolô được nhận vào sổ quy thư, còn một số thư khác được lưu hành giữa các giáo đoàn, chẳng hạn: thư thứ ba gởi Côrintô, thư gởi Laođikia, thư gởi Alêxanđria.

D. Khải huyền

Ngoài các sách Khải Huyền mang danh các thánh Tông đồ (Phêrô, Phaolô, Tôma, Stêphanô), tại vài nơi còn có các tác phẩm của đạo Do Thái, chẳng hạn: Sự thăng thiên của ông Isaia.

Nên biết là vào thời các giáo phụ, các tác phẩm vừa kể được đánh giá khác nhau. Có những tác phẩm được trích dẫn trong các bài giảng ngang hàng với các quy thư (vào lúc mà sổ quy thư chưa nhất định). Có những tác phẩm khác đã bị gạt bỏ bởi vì chứa đựng đạo lý sai lầm hoặc bởi vì chỉ lưu hành trong các nhóm lạc giá. Dưới phương diện lịch sử, giá trị của các tác phẩm này tuỳ thuộc vào những nguồn tư liệu, nghĩa là dựa theo những sự kiện có thể kiểm chứng được, hoặc do óc tưởng tượng bày ra, đó là chưa kể trường hợp sao chép.

II. NHỮNG NGUỴ THƯ LIÊN QUAN ĐẾN THÁNH GIUSE

Trong số những nguỵ thư nói đến thánh Giuse, ta có thể kể22:

1. Hoạt động của ông Ponxiô Pilatô

Từ giữa thế kỷ II, thánh Giustinô đã nói đến tác phẩm này. Sang các thế kỷ sau, tên của nó cũng được ông Tertullianô cũng như ông Eusêbiô Cêsarêa nhắc đến, nhưng không ai biết nội dung ra sao. Tác phẩm được lưu lại ngày nay là một phiên bản mới, được soạn vào thế kỷ IV, do một tác giả tự xưng là Anania. Tác phẩm mang tính cách hộ giáo, nhằm bênh vực Chúa Giêsu trước những lời tố cáo của dân Do Thái trước toà tổng trấn Pilatô.

Khi bàn về gia đình của Chúa Giêsu, chúng ta biết được những sự đàm tiếu và vu khống của người Do Thái thời ấy23: họ tố cáo Đức Giêsu là con hoang. Phần biện hộ chứng minh rằng Đức Maria đã lập giá thú với ông Giuse, và hai ông bà là người đức hạnh kính sợ Chúa.

2. Tin Mừng thánh Philipphê

Tác phẩm này ra đời khoảng đầu thế kỷ III, trong khung cảnh hộ giáo, chống lại lạc thuyết ngộ giáo (không chấp nhận rằng Chúa Giêsu có một thân xác con người).

Tác giả khẳng định rằng Đức Giêsu có thân xác con người. Đức Giêsu có hai người cha: Cha trên trời, và cha dưới đất là ông Giuse. Ông Giuse làm nghề thợ mộc. Ông trồng nhiều cây trong vườn để lấy gỗ. Gỗ thập giá được lấy từ vườn đó, và nhờ cây thập giá mà cửa thiên đàng đã được mở cho nhân loại.

Dù khẳng định rằng ông Giuse đã cấp thân xác con người cho Đức Giêsu, tác giả vẫn bênh vực sự trinh khiết của Đức Maria.

3. Tin Mừng thánh Phêrô

Ông Origène (In Mattheum 10,17: PG 13, 876-877) và Eusêbiô Cêsarêa (Historia Ecclesiastica: PG 20, 217.269-271) nhắc đến “Tin Mừng thánh Phêrô”, nhưng bản văn không được tồn tại đến nay. Nội dung tường thuật cuộc Tử nạn và Phục sinh của Chúa Giêsu. Vào lúc Chúa bị treo trên thập giá, tác giả không đả động gì đến bà thân mẫu hoặc các phụ nữ khác, ngoại trừ cô Maria Magđala và các anh em của Chúa. Theo ông, các anh em này là con mà ông Giuse đã có với đời vợ trước. Eusêbiô cho biết giám mục Serapion Antiokia đã liệt sách này vào loại lạc đạo.

4. Tin Mừng tiên khởi thánh Giacôbê

Tựa đề “Tin Mừng tiên khởi” (hay “Tiền Tin Mừng”: Protoevangelim) do ông Guillaume Postel đặt ra khi xuất bản năm 1522 tại Bâle, dựa vào tên của tác giả, tự xưng là Giacôbê, một người anh cùng cha khác mẹ với Chúa Giêsu. Tựa đề muốn nêu bật là tác phẩm này ra đời trước các quyển Phúc Âm chính quy. Thực ra các thủ bản cổ điển mang tựa đề chính xác hơn “việc sinh hạ Đức Maria” (De Nativitate Mariae = Gennêsis Marias) bởi vì nói nhiều đến Đức Maria. Tác phẩm này được viết bằng tiếng Hy Lạp vào hậu bán thế kỷ II, và đã được ông Origène nhắc đến.

Mục tiêu biên soạn có lẽ nhằm chống lại những vu khống của người Do Thái về thân thế của Chúa Giêsu, và đề cao việc cưu mang trinh khiết của Đức Maria. Tác giả đưa ra một nhân chứng là thánh Giacôbê, một nhân vật được người Do Thái kính nể.

Phần lớn tác  phẩm dành để nói tới nguồn gốc lai lịch của Đức Maria; còn thánh Giuse xuất hiện vào lúc Đức Maria thành hôn và mang thai. Nội dung gồm 24 chương ngắn, có thể chia làm 3 phần. Phần thứ nhất (gồm 16 chương đầu), kể lai lịch, thời thơ ấu Đức Maria cho tới lúc kết hôn với ông Giuse. Phần thứ hai (từ chương 17 đến 21) thuật lại những phép lạ chung quanh cuộc sinh hạ Chúa Giêsu. Phần chót (ba chương cuối từ 22 đến 24) kể chuyện vua Hêrêđê tàn sát các thiếu nhi ở Bêlem.

Tác phẩm mở đầu với cảnh ông Gioakim, một nhà phú hộ và quảng đại, bị một người tên là Rubel chế giễu vì không có con, và không muốn cho ông dâng lễ vật như các tín hữu khác. (Nên biết là xã hội Do Thái coi đôi vợ chồng không có con là bạc phước). Ông Gioakim buồn tủi vô hạn, vì thế đã rời bỏ nhà cửa và vào nơi hoang địa, ăn chay 40 đêm ngày, với lòng dốc quyết rằng nếu Chúa không đến viếng thăm thì ông sẽ không trở về nhà. Bà Anna, ở nhà cô quạnh, cũng buồn rầu và than khóc số phận hiếm muộn của mình chẳng khác gì thân phận goá bụa. Bà đã than khóc thảm thiết, vào một ngày lễ của dân tộc, một dịp hân hoan của toàn dân. Trông lên trời thấy những đàn chim bay nhảy, nhìn xuống nước thấy đàn cá bơi lội, bà lại càng tủi thân, bởi vì chúng được Thiên Chúa chúc phúc với hậu duệ đông đảo, còn mình thì giống như mảnh đất khô cằn không có sức sống.

Giữa lúc tuyệt vọng như vậy thì một thiên sứ hiện đến với bà Anna, báo tin cho biết Thiên Chúa đã nhậm lời của bà, và sẽ ban cho bà một hậu duệ sẽ được muôn đời nhắc đến. Nghe tin đó, ba Anna liền hứa rằng dù sinh con trai hay con gái thì cũng sẽ dâng nó cho Thiên Chúa để phục vụ nhà Chúa trót đời. Thiên sứ cũng hiện ra với ông Gioakim và loan tin như vậy. Ông liền đứng dậy trở về nhà, và truyền giết 10 con chiên, 12 con bò tơ để dâng lễ tạ ơn Chúa, và giết 100 con dê để đãi cả làng.

Câu chuyện vừa rồi nhắc lại những cuộc sinh hạ kỳ diệu nhờ sự can thiệp của Thiên Chúa mà ta gặp thấy trong Cựu Ước, chẳng hạn như ông Abraham (với bà Sara son sẻ), ông Samson cũng được sinh ra trong hoàn cảnh tương tự, hoặc như ông Samuel. Phép lạ không chỉ chứng tỏ bàn tay đặc biệt của Thiên Chúa, nhưng nhất là cho thấy sứ mạng dành cho người con sắp sinh ra. Tác giả sách Tiền Tin Mừng thánh Giacôbê cũng mang một não trạng đó, nghĩa là ông muốn nêu bật vai trò và sứ mạng mà Chúa sẽ dành cho Đức Maria.

Sau khi sinh con được 14 ngày, bà Anna đặt tên cho cô bé là Maria, một danh tánh khá quen thuộc trong dân Do Thái. Khi cô bé tròn một tuổi, song thân mời các tư tế và toàn dân dự lễ cai sữa; đây là cơ hội để bà Anna dâng lời ca tụng Thiên Chúa vì đã đoái nhìn đến mình và cất đi sự ô nhục vì son sẻ. Đến khi cô bé lên ba tuổi, thì song thân mang lên đền thờ. Cô bé hí hửng ở lại đó chứng không đòi theo bố mẹ trở về nhà.

Khi cô lên 12 tuổi và phải rời đền thờ, thì hội đồng các tư tế bàn định chuyện kết hôn qua một thủ tục diệu kỳ. Nhờ ơn trên soi sáng, thượng tế hô hào các chàng trai tới, mỗi người mang một cái que và đặt trong đền thờ. Sáng hôm sau, thượng tế vào đền thờ cầu nguyện thì thấy các que còn y nguyên như trước, và mỗi chàng lại vác que về nhà. Thế nhưng còn sót lại một que của ông Giuse và chủ nhận được gọi tới; khi ông Giuse vừa lấy lại cây que của mình thì một con chim bồ câu thoát ra từ cây que và đáp xuống trên đầu của ông Giuse. Thật đúng là dấu lạ! Nhưng ông Giuse không dám nhận cô Maria, viện cớ là mình đã già lại phải nuôi nấng một đàn con. Thầy cả phải doạ rằng nếu ai không tuân theo ý Chúa thì sẽ bị trời phạt; ông cụ sợ quá đành rước Maria về nhà.

Đưa cô về nhà rồi, ông Giuse ra đi kiếm việc làm (ông làm nghề xây cất). Đang khi đó, thiên thần hiện đến báo tin cho Đức Maria về việc thụ thai và sinh hạ Chúa Giêsu. Sáu tháng sau, ông Giuse trở về nhà thấy bạn mình mang bầu. Khỏi nói ai cũng đoán được tấn bi kịch diễn ra như thế nào. May thay, đến đêm thiên thần hiện ra giải thích đầu mối nguyên do. Nhưng đó mới là chuyện nội bộ giữa hai người; đến lượt hàng xóm và nhất là vị thượng tế trong đền thờ cũng trách móc ông Giuse vì đã xâm phạm tiết hạnh của bà Maria24. Cả ông Giuse lẫn cô Maria đều hết sức thanh minh nhưng vô ích. Sau cùng để kiểm chứng, thượng tế bắt hai phải uống nước đắng, theo luật của sách Dân Số (5,11-31) đã truyền khi người nào bị tố cáo về tội ngoại tình. Cả hai đều uống nước đắng nhưng không bị tác dụng; cả làng mừng rỡ tung hô Chúa. Ông Giuse đưa Maria về nhà cho tới ngày đi Bêlem. Còn nhiều phép lạ nữa xảy ra khi Đức Mẹ sinh con tại Bêlem và khi Hêrôđê truy nã các anh hài.

Ảnh hưởng của tác phẩm này trên các giáo phụ rất lớn: thánh Giuse được vẽ như một ông lão (goá vợ), mặc dù không thể xác định tuổi tác. Ông đã nghi ngờ vợ mình ngoại tình khi thấy bà mang bầu.

Nhiều tác phẩm nguỵ thư khác cũng lấy lại dữ liệu của Tiền Phúc Âm thánh Giacôbê: Tin Mừng mạo-Matthêu (Pseudo Mattheum, thế kỷ VII-VIII), Tin Mừng thơ ấu bằng tiếng arap (hay: Tin Mừng thơ ấu tiếng syriac, thế kỷ VI-VIII), Tin Mừng thơ ấu tiếng armêni (khoảng năm 590).

Ngoài những chi tiết liên quan đến thánh Giuse, thiết tưởng cũng nên ghi nhận những ảnh hưởng khác của tác phẩm đối với phụng vụ, cụ thể là danh tính của thân sinh Đức Maria (ông Gioakim và bà Anna) và lễ em dâng mình vào đền thờ.

5. Cuộc đời thơ ấu của Chúa Giêsu theo thánh Tôma

Đừng nên lẫn lộn với “Tin Mừng thánh Tôma) (một hợp tuyển các lời nói của Chúa Giêsu, được viết vào tiền bán thế kỷ II). Sách “Cuộc đời thơ ấu” (Ta paidika tu Kyriou) không chứa đựng đạo lý quan trọng, nhưng được viết ra do óc hiếu kỳ. Cậu bé Giêsu, con ông Giuse, thường quấy phá các bạn bè. Được thầy giáo và hàng xóm mách bảo, ông Giuse cũng chỉ trách lấy lệ, chứ không dám làm mạnh tay bởi vì ông biết con mình là một nhân vật khác thường. Trên thực tế, cậu bé làm phép lạ dễ như chơi, dù khi phụ giúp cha trong nghề thợ làm mộc, dù khi chơi giỡn với chúng bạn.

6. Chuyện ly trần của ông Giuse thợ mộc

Nội dung tường thuật những giây phút cuối đời của thánh Giuse, được Chúa Giêsu kể lại cho các môn đệ ở trên núi cây Dầu.

Có lẽ tác phẩm này xuất phát từ Ai Cập vào khoảng thế kỷ thứ IV-V; ngày nay chỉ còn giữ được thủ bản bằng tiếng arap và coptô. Một ý kiến khác cho rằng tác phẩm này ra đời sớm hơn nữa, không thế kỷ II, tại Nazareth, để đọc bên một thánh Giuse vào dịp giỗ ngày qua đời (ngày 26 tháng Abib theo lịch coptô, tương đương với ngày 2 tháng 8 dương lịch). Khi các Kitô hữu gốc Do Thái bị hoàng đế Eraclio (610-614) trục xuất khỏi Nazareth, họ di cư sang Ai Cập, mang theo bản văn và dịch ra tiếng địa phương (với nhiều chi tiết được thêm thắt).

Thánh Giuse quê tại Bêlem làm thợ mộc, nhưng cũng là người học thức. Ông lấy vợ và có 4 con trai: Giuđa, Giosep, Simon và Giacôbê, và hai con gái: Lisia và Lyđia.

Ông lấy bà Maisen, và bà đã mang thai cách lạ lùng. Một thiên sứ đã hiện ra đê giải thích cho ông. Sau khi sinh con, ông phải đưa hài nhi sang Ai Cập lánh nạn, cùng với bà Salomê. Sau một năm ngụ cư ở đất khách, ông đưa thánh giá trở về Nazareth. Các đứa con lớn của ông đã lập gia đình, chỉ còn đứa út (Giacôbê) ở lại sống chung với cậu Giêsu.

Lúc ông được 111 tuổi và dù sức khoẻ còn tốt, một thiên sứ hiện ra báo tin đã tới lúc ly trần. Ông lên đền thờ Giêrusalem cầu nguyện, và khi trở về Nazareth thì ngã bệnh. Ông đâm ra bàng hoàng lo sợ, nghĩ tới bao nhiêu tội lỗi đã phạm. Chúa Giêsu đã đến bên giường trấn an. Đức Maria cũng ở bên cạnh cùng với các con cái quây quần. Trước khi nhắm mắt, ông đã xin lỗi Đức Maria bởi vì đã có lúc nghi ngờ đức khiết tịnh của bà. Mọi người oà lên khóc. Đức Giêsu đã xin Thiên Chúa sai thiên thần Micae và Gabriel đưa linh hồn ông về trời. Đám tang được tổ chức long trọng ở Nazareth, do Chúa Giêsu chủ sự buổi cầu nguyện và hứa không để thân xác ông bị tan rữa.

Ở chương XIV, tác phẩm tóm tắt niên biểu cuộc đời của ông Giuse như sau: Lúc 40 tuổi ông lập gia đình với bà Melcha (hay Escha) và sống với bà này được 49 năm, sinh được bốn trai hai gái. Như vậy, khi vợ mất thì cụ đã được 89 tuổi rồi. Một năm sau, cụ được lệnh phải lấy cô Maria (lúc ấy mới có 12 tuổi). Sau đó hai năm, cô Maria có thai, và khi Chúa Giêsu ra đời thì cụ đã được 93 tuổi. Cụ qua đời khi Chúa Giêsu lên 18 tuổi, hưởng thọ 111 tuổi. Tại sao lại già quá vậy? Theo cha Pierre Benoit OP., tại vì tổ phụ Giuse trong Cựu Ước qua đời lúc 110 tuổi, nên ông Giuse trong Tân Ước phải được tăng thêm một tuổi!

Sau cùng, thiết tưởng nên ghi nhận lưu truyền về ngôi mộ của thánh Giuse: một lưu truyền cho rằng ngôi một của Người ở Nazareth, một lưu truyền khác cho rằng ngôi mộ ở Giêrusalem, bên cạnh thánh Gioakim và Anna.

Kết luận

Đừng kể những chi tiết được thêu dệt để thoả tính tò mò, ta thấy mối bận tâm chính của các lưu truyền này là bênh vực đạo lý về sự trinh khiết của Đức Maria: Người mang thai do quyền năng Thánh Thần, và suốt đời giữ mình trinh khiết. Tại sao các sách Phúc Âm lại nói đến các anh em của Chúa Giêsu? Nhằm trả lời câu hỏi đó, các tác giả sách nguỵ thư cho rằng họ là những người con mà thánh Giuse đã có với một bà vợ trước.

Ngày nay, khoa chú giải Kinh Thánh tìm cách giải thích cách khác (anh em theo nghĩa là anh em họ), nên không cần tới giả thuyết anh em cùng cha khác mẹ nữa. Ngoài ra cũng nên biết là ngay từ thời Trung cổ, thánh Tôma Aquinô đã bác bỏ những truyền kỳ đó, và quả quyết rằng thánh Giuse trinh khiết suốt đời (Summa Theologica, III, q.28, a.3, ad 5m). Nhiều bức tranh cũng vẽ thánh Giuse cây cây bông huệ tượng trưng cho sự trinh khiết.

Nên biết là tông huấn Redemptoris Custos không hề nhắc đến các dữ kiện do các nguỵ thư cung cấp: một đàng có lẽ bởi vì chúng không có giá trị lịch sử, đàng khác bởi vì tông huấn muốn chú ý đến mầu nhiệm cứu độ hơn là những chuyện hiếu kỳ.

 

MỤC 2
SỰ TIẾN TRIỂN THẦN HỌC VÀ PHỤNG VỤ


Tân Ước kể lại cho chúng ta bức chân dung của thánh Giuse âm thầm phục vụ Chúa Giêsu, chứ không nói một lời nào (khác với Đức Maria, mà các thánh sử còn ghi được 6 câu nói). Thánh Giuse trở thành biểu tượng cho sự thinh lặng. Sự thinh lặng này bao trùm cuộc đời của Người lúc sinh tiền và sau khi qua đời. Thực vậy, thánh Giuse đã bị rơi vào quên lãng, và mãi vào thời cận đại mới xuất hiện trong thần học và phụng vụ. Chúng ta sẽ theo dõi sự tiến triển về tâm thức của Giáo Hội trong thần học và phụng vụ trải qua thời các giáo phụ, trung đại và cận đại. Nên lưu ý là khi nói đến cánh tay phải/các tác phẩm thần học về thánh Giuse, chúng ta nên phân biệt nhiều cấp độ và hình thức: các giáo phụ đã nói đến thánh Giuse trong các bài giảng hoặc chú giải Tin Mừng; nhưng phải chờ đến thời cổ/cận đại mới thấy xuất hiện những khảo luận thần học hệ thống mạch lạc. Một cách tuần tự như vậy, khi nói đến phụng vụ, chúng tôi hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cách hình thức tôn kính công cũng như tư.

I. THỜI CÁC GIÁO PHỤ

A. Thần học

Không thể phủ nhận sự kiện nhiều giáo phụ đã trưng dẫn các tài liệu nguỵ thư vừa kể trong các bài giảng về thánh Giuse25. Tuy nhiên, nhiều vị khác cố gắng đào sâu khía cạnh thần học dựa trên các bản văn Kinh Thánh. Chúng ta có thể ghi nhận vài tác giả sau đây26:

Trong các tác phẩm chống lại phái ngộ đạo, thánh Irênê đã viết rằng: “Cũng như thánh Giuse đã chu toàn bổn phận vào việc dưỡng dục Chúa Kitô và săn sóc Đức Maria thì Người cũng là kẻ giữ gìn  và bảo vệ Hội Thánh, mà Đức Maria  là hình ảnh” (Adv. Haereses IV,23).

Ông Origène (+255?) đề cao sứ mạng đặc biệt của thánh Giuse như là kẻ được chọn để thu xếp việc giáng trần của Chúa (Hom. XIII in Lucam: PG 13,1832). Ông cũng cho rằng việc ghi tên Chúa Giêsu vào sổ kiểm tra dân số của hoàng đế Rôma mang một ý nghĩa nhiệm mầu: Chúa Giêsu muốn được kể vào số phần tử nhân loại.

Thánh Ephrem (+373) định nghĩa thánh Giuse là “thừa tác viên của nhiệm cục nhập thể” (Commento al Diatesseron, I, 26).

Thánh Ambrôsiô (+397) khẳng định rằng sự kết hiệp giữa Đức Maria và thánh Giuse là một giá thú thực sự chiếu theo luật Rôma, bởi vì hôn nhân tệ tại giao ước chứ không phải sự ăn nằm (De institutione virginis, 6, 41: PL 16, 316). Đồng thời thánh nhân cũng khẳng định đức khiết tịnh của thánh Giuse, bởi vì Người phải trở nên chứng nhân cho đức khiết tịnh của Đức Maria (Exp. Ev. Luc 2, : PL 5, 55).

Thánh Gioan Kim Khẩu (+407) tuyên bố rằng kể từ lúc đón nhận Đức Maria về nhà, thánh Giuse trở thành “thừa tác viên của nhiệm vục” (totius dispenstionis minister In Matthaeum, 5,3: PG 57, 57-58).

Thánh Hiêrônimô (+419-420) là người đầu tiên chống lại các lưu truyền của các nguỵ thư, coi như chuyện điên rồ (In evang. Matt. II,12,49-50: PL 26,88). Ông quả quyết rằng “kẻ đáng được gọi là thân phụ của Chúa thì trót đời giữ mình trinh khiết” (Adversus Helvidium, 19: PL 23,213).

Thánh Augustinô (+430) cho rằng chân lý đức tin về Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và thuộc dòng dõi Đavit gắn liền với chân lý về hôn nhân thực thụ của thánh Giuse với Đức Maria. Vì thế trong nhiều tác phẩm27, thánh Augustinô đã cố gắng chứng minh rằng: thánh Giuse là kẻ trinh khiết; hôn nhân với Đức Maria là giá thú thực sự; thánh Giuse là thân phụ của Chúa Giêsu một cách đúng đắn/độc đáo. Thánh Giuse là chồng của Đức Maria không phải vì ăn năm nhưng do tình yêu (non concubitu, sed affectu), không phải vì giao hợp thân xác nhưng là kết hợp tinh thần (copulatione animorum): Contra Faustum 23,8: PL 42,470: cf. Contra Iulianum, 5,12: PL 44,810). Hôn nhân của thánh Giuse và Đức Maria hội đủ ba điều kiện: con cái, chung thuỷ bởi vì không có ngoại tình; bí tích bởi vì không có ly dị (De nuptiis et concupiscentia 1,11,13: PL 44,421). Thánh Augustinô cũng nêu bật đức ái (caritas coniugalis) trong mối tương quan giữa hai vị thánh này.

Thánh Phêrô Kim Ngôn (+450) coi hôn nhân của Đức Maria với thánh Giuse như là sự thông tuệ/thành tựu của những đôi hôn nhân lý tưởng mà Cựu Ước đề cao, và đồng thời tiên báo cho đôi hôn nhân huyền nhiệm của Chúa Kitô với Hội Thánh (Sermo 146: PL 52,592). Thánh Giuse hôn phụ của Đức Maria cũng là hình ảnh của giám mục hôn phu của Giáo Hội trinh khiết và phong phú (Sermo 175: PL 52,657-658).

Thánh Maximô giám mục Torinô khẳng định rằng thánh Giuse không phải là một cụ già như tục truyền (Sermo 53: PL 57,639).

B. Phụng vụ

Thời các giáo phụ cũng trùng với giai đoạn tiến triển phụng vụ Kitô giáo, cách riêng từ thế kỷ IV, với sự thành hình các chu kỳ năm phụng vụ (mùa Phục Sinh và mùa Giáng Sinh) cũng như các nghi điển. Đối với việc tôn kính các thánh, sau các thánh Tông đồ và tử đạo, đến lượt các thánh giám mục và tu hành cũng được kính nhớ. Đối với Đức Maria, lòng sùng kính được phát triển từ sau khi Công đồng Ephêsô tuyên bố tín điều “Thiên Mẫu” (năm 451).

Thánh Giuse xuất hiện trong những bức tranh mô tả cảnh Chúa Giáng Sinh, chứ chưa được kính riêng biệt28. Một vài nhà khảo cổ cho rằng nguỵ thư “Sự ly trần của thánh Giuse thợ mộc” giả thiết một cuộc tưởng niệm ngày qua đời, được lịch Giáo Hội coptô bên Ai Cập mừng vào ngày 26 tháng Abib (tương đương với ngày 20 tháng 7 lịch Giulianô và ngày 2 tháng 8 theo dương lịch hiện nay). Tuy nhiên, khó xác định từ hồi này lễ này được cử hành.

II. THỜI TRUNG CỔ

Thời Trung cổ đánh dấu sự tiến triển lòng tôn kính thánh Giuse khởi đầu từ các dòng tu, và cũng có thể nói cách tương/tuần tự về tư tưởng thần học.

A. Thần học

Đặc trưng của thời Trung cổ là sự xuất hiện các trường phái kinh viện. Tuy nhiên, thánh Giuse được nói đến trong các bài giảng nhiều hơn là trong các tác phẩm thần học.

Ông Rémi d’Auxerre (+ k.900) đã xếp thánh Giuse vào hàng ngũ những cộng sự viên trực tiếp của công trình cứu chuộc nhờ đức vâng phục: “per inobedientiam Adae omnes perditi sumus; per bonum obedientiae Ioseph omnes ad pristinum statum revocamur” (Homilia 4: PL 131,889).

Thánh Bênađô đã so sánh thánh Giuse với tổ phụ Giuse trong Cựu Ước về quyền thế bầu cử “Ite ad Ioseph” (Homilia II super Missus est: PL 183,69s). Thánh Giuse là tôi tớ trung thành đã được Chúa đặt làm quản gia.

Các nhà thần học đầu tiên của dòng Đaminh đã nói đến thánh Giuse khi chú giải những đoạn Tin Mừng Luca, chẳng hạn như thánh Albertô (+1280)29. Đặc biệt thánh Giuse được trưng bày như mẫu gương cho các linh mục và mục tử. Trước đây, có người gán cho thánh Albertô như là soạn giả của bài kinh nguyện về thánh Giuse (Officium) theo lời yêu cầu của nhiều anh em trong dòng30. Tuy nhiên, khoa phê bình lịch sử đã phủ nhận điều này.

Từ thế kỷ XI, các nhà giáo luật và thần học tranh luận về bản chất hôn nhân của thánh Giuse với Đức Maria: hôn nhân thành sự hay không? Đâu là yếu tố cốt yếu của hôn nhân? Cuộc tranh cãi này cũng chịu ảnh hưởng của hai quan điểm về hôn nhân: Rôma (sự thoả thuận: pactio coniugalis) và Đức quốc (sự giao hợp: copulatio carnis). Dựa theo quan điểm Rôma, ông Petrus Lombardus nhìn nhận hôn nhân của thánh Giuse là thực hữu; đối lại, vì theo quan điểm Đức quốc, ông Gratianus phủ nhận giá trị hôn nhân của thánh Giuse.

Thánh Tôma Aquinô (+1274) đề cập đến thánh Giuse trong nhiều tác phẩm31. Trong bộ Summa Theologica (Tổng Luận Thần học), hôn nhân giữa Đức Maria và thánh Giuse được bàn ở trong phần thứ ba, khi nói đến những mầu nhiệm cuộc đời Chúa Cứu Thế (III, qq.28-29). Thánh Tôma khẳng định ba chân lý căn bản về thánh Giuse:

a) Hôn nhân với Đức Maria là một giá thú thật sự (chứ không phải giả tạo): Sum. Theol. III, q.29, a.2; IV Sent., dist. 30, q.2, a.2.

b) Thánh Giuse đã giữ gìn  đức trinh khiết trọn hảo suốt đời (Ad Galatas, c.1. lect.5; Super Mt. 12,46ss; Super Io. C.2; Sum. Theol. III q.28, a.3, ad 5).

c) Đức Maria và thánh Giuse đã khấn giữ khiết tịnh: trước khi kết hôn, lời khấn có điều kiện (tuỳ theo ý Chúa), và trở thành tuyệt đối sau khi kết hôn (Sum. Theol. III, q.28, a.4).

Tiếp nhận đạo lý của các giáo phụ, thánh Tôma cắt nghĩa rằng “các anh em của Chúa Giêsu” phải hiểu là anh em họ chứ không phải là anh em cùng cha khác mẹ. Cách riêng thánh Tôma đưa ra những lý lẽ giải thích vì sao Đức Trinh Nữ Maria cần lấy thánh Giuse làm chồng:

a) Những lý do về phía Chúa Giêsu:

(i) để Người không bị thiên hạ khước từ vì lý do là con hoang (thánh Ambrôsiô);
(ii) để người ta có thể truy cứu gia phả của Người (thánh Ambrôsiô);
(iii) để hài nhi được che chở khỏi những cuộc tấn công của ma quỷ (thánh Inhaxiô Antiôkia);
(iv) để hài nhi có người chăm sóc dưỡng dục.

b) Những lý do về phía Đức Maria:

(i) tránh cho Người khỏi bị ném đá về tội ngoại tình (thánh Hiêrônimô);
(ii) để giữ gìn  sự khiết trinh của Người (thánh Ambrôsiô);
(iii) để giúp đỡ Người (thánh Hiêrônimô).

c) Những lý do về phía chúng ta:

(i) để có người làm chứng về chân lý Đức Giêsu sinh bởi trinh nữ Maria (thánh Ambrôsiô);
(ii) để xác nhận những lời quả quyết của Đức Maria về sự trinh khiết của mình (thánh Ambrôsiô);
 (iii) để những trinh nữ nào đã vi phạm lời thề không có lý do biện minh cho lỗi của mình (thánh Ambrôsiô);
(iv) để trở nên biểu tượng cho Hội Thánh tuy là trinh nữ nhưng đã đính hôn với Chúa Giêsu (thánh Augustinô);
(v) để trong Hội Thánh những trinh nữ và những người kết bạn đều được kính trọng.

Những nguyên tắc vừa nói đã được các nhà thần học và giảng thuyết khai triển thành những sách suy gẫm về vị dưỡng phụ của Chúa Cứu Thế.

Những tác giả khác thời Trung cổ:

- Dòng Đaminh: thánh Vincentê Ferrier (+1419), thánh Antoninô (+1459)31.
- Dòng Phansinh: thánh Bonaventura (+1274). Ubertinô de Casale (+k. 1325). Thánh Bernarđinô Siena (+1444), trong một bài giảng về thánh Giuse (sermo de Sancto Joseph Sponso B. Virginis), đã chấp nhận rằng Người đã được sống lại và lên trời với Chúa Giêsu.

B. Phụng vụ

Bên Đông phương, từ thế kỷ X, Giáo Hội Constantinopolis mừng lễ thánh Giuse chung với các thánh tổ phụ (từ ông Abraham cho đến người hôn phu của Đức Maria) vào ngày 26 tháng chạp; và chung với vua Đavít và tông đồ Giacôbê vào Chúa nhận trong tuần bát nhật lễ Chúa Giáng Sinh.

Có lẽ do ảnh hưởng của các đoàn người hành hương Thánh địa trở về, lòng tôn kính thánh Giuse được nhen nhúm bên Tây phương. Ngôi nhà nguyện đầu tiên dâng kính thánh Giuse được cất tại Parma (Italia) vào năm 1074, và thánh đường đầu tiên được cung hiến cho Người tại Bologna (Italia) năm 1129.

Tên thánh Giuse được ghi vào Tử-đạo-thư (martyrologium) ở vài nơi bên Đức (Reichenau, Trier) vào ngày 19 hoặc 20 tháng 3 hằng năm. Tuy nhiên mãi đến thế kỷ XIII mới thấy bài lễ (officium) được sử dụng tại đan viện dòng Biển Đức tại Liège, nhưng các chứng tích vào thời này vẫn còn hiếm hoi.

Một bước tiến xa hơn được bắt đầu với sự xuất hiện các Dòng hành khất. Lễ thánh Giuse được mừng vào ngày 19 tháng 3 ở trong dòng Tôi Tớ Đức Mẹ (quyết định của tổng hội năm 1324), dong Phansinh (năm 1399), dòng Cátminh (cuối thế kỷ XIV). Theo đà đó, năm 1479, Đức Giáo Hoàng Sixtô IV (dòng Phansinh) truyền thêm lễ thánh Giuse vào sách nguyện và sách Lễ Rôma; nhưng quyết định chỉ có giá trị cho giáo phận Rôma. Phải chờ đến ngày 8/5/1621, Đức Grêgôriô XV mới truyền cử hành trong toàn Hội Thánh; thế nhưng nghị định không được chấp hành, và Đức Urbanô VIII đã lập lại vào năm 1642.

III. THỜI CẬN ĐẠI

Các sử gia không nhất trí trong việc ấn định lằn ranh giữa thời Trung đại và thời Cận đại. Ở đây, chúng tôi không theo sát tiêu chuẩn của các nhà sử học nhưng chỉ muốn nêu bật sự chuyển hướng về thần học và phụng vụ.

A. Thần học

Theo sự nhận xét của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XIV33, trong số những người tiên phong đã sử dụng ngòi bút để cổ động lòng tôn kính thánh Giuse phải kể đến hai nhân vật: linh mục Jean Gerson, chưởng ấn đại học Paris (1363-1429) và cha Isiđôrô de Isolanis, dòng Đaminh (k.1475-k.1528).

1) Cha Jean Gerson. Tên thật là Jean de Charlier (Gerson là tên của nguyên quán). Là chưởng ấn của đại học Paris từ năm 1395 lúc mới được 32 tuổi, cha dốc hết nhiệt tình vào việc giải quyết cuộc khủng hoảng của Giáo Hội lúc đó, bị phân chia giữa hai giáo hoàng Rôma và Avignon.

Cha đã viết nhiều bức thư, bài thơ và bài giảng để ca ngợi sứ mạng và sự thánh thiện của thánh Giuse cũng như thỉnh cầu giáo quyền thiết lập lễ tôn kính Thánh Cả34. Những bài giảng đầu tiên bắt đầu từ năm 1413, đặc biệt với khảo luận bằng tiếng Pháp Considérations sur saint Joseph, đưa ra những lý do để cổ động lòng tôn sùng thánh nhân. Tác phẩm chính là một trường thi (2957 câu) bằng tiếng Latinh tựa đề Josephina (khoảng năm 1414-16), thuật lại cuộc đời của thánh Giuse kể từ biến cố truyền tin cho đến lúc lìa đời. Sau cùng, trong thời gian họp Công đồng Constance, cha đã thuyết trình trước nghị phụ một bài giảng nhân lễ sinh nhật Đức Mẹ (8/9/1416) mang tính cách thuyết minh để thúc đẩy việc thành lập lễ thánh Giuse Sermo de nativitate gloriosae Virginis Mariae et de commendatione virginei sponsi eius Joseph.  Cha đã đề nghị thiết lập nhiều lễ kính: ngày ly trần, cuộc thành hôn với Đức Maria, và cha đã soạn sẵn bản văn phụng vụ.

Ngoài những động lực dựa trên các nhân đức của thánh Giuse (khiêm tốn, hiền hoà, tận tâm phục vụ), cha Gerson thâm tín rằng thánh nhân là người có thế lực để chuyển cầu cho Hội Thánh đang trải qua thời kỳ phân ly. Cha lập luận rằng thánh Giuse là gia trưởng ở Nazareth, và được Đức Maria và Chúa Giêsu suy phục. Uy tín này vẫn còn được duy trì ở trên trời. Cha Gerson, một nhà thần học bênh vực đạo lý Đức Maria vô nhiễm nguyên tội, cũng muốn cho thánh Giuse được thánh hoá từ lòng mẹ giống như thánh Gioan Tiền hô. Đường hướng thần học của cha là học hỏi thánh Giuse dựa theo thần học về Đức Maria, xét về các nhân đức và đặc ân35. Một hình ảnh khác cũng được phổ biến nhờ cha Gerson là “tam vị ở dưới trần” (Chúa Giêsu, Đức Mẹ, thánh Giuse) được trình bày như phản ánh mầu nhiệm “Tam Vị” ở trên trời.

2) Cha Isiđôrô Isolani. Chúng ta không biết chắc chắn về năm sinh và năm chết của cha Isiđôrô Isolani36. Chỉ biết rằng cha làm bề trên tu viện S. Maria delle Grazie tại Milanô (nơi có bực hoạ nổi tiếng Bữa Tiệc Ly của Lêônarđô Vinci) vào năm 1528.

Trước đó, từ năm 1517, cũng tại Milanô, cha đã xuất bản tác phẩm thần học De imperio militantis Ecclesiae. Nhiều tác phẩm khác được phát hành tại Pavia vào những năm kế tiếp (chẳng hạn những khảo luận chống lại Luthêrô (Disputationes catholicae quinque, 1522), cho thấy cha đã được thuyên chuyển đây đó để dạy học. Cũng vào năm 1522 tại Pavia, cha cho phát hành cuốn Tổng Luận Thần học về thánh Giuse, tuy cha bắt đầu biên soạn quyển này từ năm 1514, tại Fontanellato, cạnh tu việc có nhà thờ dâng kính thánh Giuse. Có lẽ cha chỉ dừng lại tu viện Fontanellato chừng hai ba năm, bởi vì vào năm 1517 cha đã trở về Milanô rồi. Cha qua đời khoảng năm 1528.

Như đã thấy trên đây, những bài giảng, suy niệm hoặc khảo luận về thánh Giuse đã ra đời từ thời các giáo phụ. Tuy nhiên, cha Isolani là người đầu tiên/đưa tin biên soạn một quyền sách thần học trình bày mạch lạc về người dưỡng phụ của Chúa Giêsu, với tựa đề Summa de donis S. Joseph. Lúc xuất bản tại Bologna (nơi cha đang làm giám học magister studii) năm 1522, cha Isolani đã đề tặng tác phẩm lên Đức Giáo Hoàng Ađrianô VI.

Tác phẩm được chia thành bốn phần, (giống như bốn mùa trong năm). Mỗi phần được chia thành nhiều chương, mỗi chương là một đề tài được trình bày theo lối văn của Sumama Theologica, nghĩa là: vấn nạn; thân bài, giải đáp.

(a) Phần thứ nhất gồm 17 chương, bàn về các hồng ân mà thánh Giuse đã lãnh nhận trước khi kết hôn với Đức Maria.

Trước hết (ch. 1-2) tác giả phân tích sáu nhân đức dựa theo danh tánh (danh là người) I.O.S.E.P.H, đó là: iustitia (công chính), oboedientia (vâng lời), sapientia (khôn ngoan), experientia (kinh nghiệm), patientia (nhẫn nhục), humilitas (khiêm nhường)37. Dù sao, tác giả không quên ý nghĩa của danh từ Iôsf trong Cựu Ước có nghĩa là “Giavê ban thêm” Iehosef augmentum, dựa theo sách Sáng Thế 30,24).

Thêm vào đó là các hồng ân: xứ sở (ch. 3), dòng dõi (ch. 4-8), sự thánh thiện ngay từ trong lòng mẹ (ch. 9-10). Theo tác giả, sự thánh thiện được ban nhằm đến chức vụ sẽ đảm nhận trong tương lai. Nếu ta chấp nhận được ông Giêrêmia và ông Gioan Tẩy Giả được thánh hoá ngay từ lòng mẹ bởi vì họ được tuyển chọn làm tiên tri cho Đấng Cứu Thế sẽ đến, thì tại sao lại không thể nghĩ đến một đặc ân tương tự cho thánh Giuse là kẻ đã ẵm bế, che chở, nuôi dưỡng Chúa Kitô?38

Hai chương 11-12 bàn đến hồng ân duyên dáng (pulchritudo: đẹp trai?). Không thể nào hình dung một người luôn sống bên cạnh Đức Giêsu và Mẹ Maria mà dung mạo xấu xí, già khụ! Người ta sẽ đàm tiếu chết! Sau khi nói đến ơn đồng trinh (ch. 13-14), ơn nghề thợ mộc (ch. 15), tác tỉa kết thúc phần thứ nhất với hồng ân các nhân đức trong cuộc đời thánh Giuse: khôn ngoan (prudentia), công chính (iustitita), đạo đức (pietas), thanh khiết, đầy tình mến thương, thanh bần (ch. 16-17).

(b) Phần thứ hai gồm 15 chương, bàn đến những hồng ân mà thánh Giuse nhận được sau khi kết hôn với Đức Maria. Đứng đầu là hồng ân được kết duyên với Đức Maria (ch. 1-2), rồi đến tuổi tác (ch. 3) và các đức tính do cuộc hôn nhân: bảo vệ Đức Maria và Hài Nhi, dưỡng phụ Đức Giêsu, ơn công chính (ch. 4-5), ơn được chứng kiến cuộc gặp gỡ của Đức Maria với bà Elisabeth (ch. 6), được thiên sứ truyền tin (ch. 7-8), được Đức Maria yêu quý (ch. 9), được thờ lạy Chúa Giáng Sinh (ch. 10), được đặt tên cho Hài  Nhi (ch. 11), được thiên thần năng hiện đến (ch. 12), được sống kề bên Chúa Cứu Thế và Thánh Mẫu (ch. 13), được tìm thấy Hài Nhi trong đền thánh (ch. 14) và sau cùng là ơn mến Chúa Giêsu hết lòng (ch. 15).

Đây là phần súc tích nhất về thần học, khi tác giả phải bảo vệ hôn nhân đích thực Đức Maria với thánh Giuse đồng thời với đức trinh khiết của hai vị. Nên biết là khi nói về tuổi tác vào lúc kết hôn, tác giả cho rằng thánh Giuse không trẻ lắm nhưng cũng không già lắm. Người thuộc tuổi trung niên, chín chắn, để có thể cáng đáng chức vụ dưỡng phụ Chúa Cứu Thế.

(c) Trong phần thứ ba (22 chương), tác giả dành ra 9 chương đầu để đối chiếu thánh Giuse với những phúc lành (benedictiones) được Chúa ban cho các tổ phụ (Ađam, Noe, Giacop, Giuse, Balaam, Môsê).

Hơn các thánh tổ phụ của Cựu Ước, thánh Giuse còn được lãnh nhận các hồng ân thời Tân Ước: ơn được lãnh bí tích Rửa tội (ch. 10), ơn thanh tịnh (ch. 11), bảy ơn Chúa Thánh Thần (ch. 12) hồng ân tám mối phúc thật (ch. 13-16).

Sau cùng, tác giả so sánh thánh Giuse với các thánh Tông đồ, các ngôn sứ, thánh sử, mục tử (ch. 17-22).

(d) Phần thứ bốn bàn về những ơn của thánh nhân khi chết và ơn được vinh hiển hồn xác trên trời. Tuy thú nhận là một vấn đề khó khăn, nhưng tác giả đã dành ra 10 chương để bàn về lúc từ trần (ch. 1), về việc xuống ngục tổ tông (limbô, ch. 2), về sự vinh quang cả hồn lẫn xác (ch. 3), về triều thiên (tử đạo, đồng trinh, tiến sĩ, ch. 4), và ơn các hoa trái (ch. 5). Ba chương 6-8 bàn về lễ phụng vụ kính thánh Giuse. Chương 9 lược thuật tiểu sử thánh Giuse dựa theo bài đọc của phụng vụ Đông phương (dịch từ tiếng Do Thái sang tiếng Latinh năm 1340), nơi mà thánh Giuse được kính hằng năm vào ngày 20 tháng 7. Chương chót kể lại phép lạ một người có lòng sùng kính thánh Giuse được tha nhân đón tiếp vào thiên đàng.

Kết luật là bài lễ phụng vụ (officium sancti Ioseph) do tác gỉa soạn và được Đức Ađrianô VI châu phê. Nên biết là từ năm 1508, dòng Đaminh đã mừng kính thánh Giuse trong lịch phụng vụ nhưng các bản văn kinh nguyện lấy từ phần chung (Commune confessorum). Cha Isolani soạn thêm phần riêng.

Tất cả các sử gia đều nhìn nhận tác phẩm của cha Isolani như nền tảng cho sự phát triển thần học về thánh Giuse39, một thứ thần học đúng nghĩa, dựa trên Kinh Thánh, các giáo phụ, các tiến sĩ Giáo Hội, các luận cứ (chứ không phải theo truyền kỳ hay cảm tính ướt át).

Những tác phẩm của cha Gerson và Isolani đã trở nên nguồn tài liệu dồi dào cho các nhà giảng thuyết và thần học trong các thế kỷ kế tiếp.

Thánh Francois de Sales (1567-1622), Sur les vertues de st Joseph. Les vrais entretiens spirituels n.19.

Giám mục Bénigne Bossuet (1627-1704) với hai bài giảng: Depositum custody và Quaesivit sibi Deus.

Trong số những người nhiệt thành cổ động lòng sùng kính thánh Giuse vào thời cận đại, chúng ta không thể nào bỏ qua thánh Têrêsa Avila (1515-1582). Tên thánh Giuse được đặt cho đan viện cải tổ ở Avila năm 1562, và 11 đan viện khác (trong số 17 đan viện được thiết lập)40. Dù sao, tất cả đan viện Cát Minh đều đặt tượng thánh Giuse cùng với châm ngôn “Ite ad Joseph” (do sáng kiến của cha Jeronimo Gracian).

Nhiều dòng tu ra đời vào thời cận đại cũng nhận thánh Giuse làm quan thầy, như sẽ thấy trong chương tới.

B. Phụng vụ

Những lễ kính thánh Giuse bắt đầu từ vài giáo phận hay dòng tu, dần dần được đưa vào lịch phụng vụ phổ quát:

Ngày 8/5/1621, Đức Grêgôriô XV truyền mừng lễ thánh Giuse vào ngày 19 tháng 3 như là lễ buộc trong toàn Hội Thánh. Ngày 4/2/1714, Đức Clêmentê XI phê chuẩn bản kinh mới cho Sách Nguyện với ba thánh thi: Te Ioseph, Caelitum Ioseph, Iste quem laeti.

- Năm 1725, lễ Hôn phối của thánh Giuse được Đức Bênêđitô XIII cho phép cử hành (vào ngày 23 tháng giếng) trong toàn Giáo Hội. Cũng chính vị Giáo hoàng này ghi tên thánh Giuse vào “kinh cầu Các Thánh” (liền sau tên thánh Gioan Tẩy giả) do sắc lệnh ngày 19/12/1726.

- Ngày 10/9/1847, Đức Piô IX ấn định lễ thánh Giuse bảo trở toàn thể Giáo Hội được cử hành vào ngày thứ tư tuần III sau lễ Phục Sinh. Ngày 8/12/1870, ngài tôn thánh Giuse làm bảo trợ Hội Thánh.

KẾT LUẬN

Trong mục này, chúng ta đã theo dõi sự tiến triển về tư tưởng thần học và lòng tôn kính thánh Giuse trải qua lịch sử. Đó là những dữ kiện sẽ được các văn kiện Toà Thánh sử dụng như sẽ thấy trong mục tới. Trước khi kết thúc, chúng ta hãy lượt qua vài đường hướng thần học về thánh Giuse trong những thế kỷ gần đây.

Từ sau Công đồng Trentô, thần học Công giáo bắt đầu phát triển nhiều thiên độc lập tựa như: thần học hộ giáo (Apologetica), Giáo Hội học (Ecclesiologia), Thánh Mẫu học (Mariologia). Theo đà đó, cũng có người muốn phát triển bộ môn thần học về thánh Giuse (Josephlogia). Giữa hai mốc điểm đó, chúng ta hãy rảo qua vài đường hướng:

- Nói chung, thánh Giuse được nhắc đến khi bàn về mầu nhiệm Nhập Thể (De Verbo Incarnato), nay gọi là Kitô học (Christologia). Dĩ nhiên, bối cảnh thích hợp hơn cả là Thánh Mẫu học (Mariologia), khi nói đến sự trinh khiết trọn đời của Đức Maria.

- Tuy nhiên cũng có vài tác phẩm được dành riêng cho thánh Giuse, chẳng hạn như: P. Morales, In cap. I Matth., de Christo, SMaisen Virgine... veroque eius Sponso, 2 voll., Paris 1869; G.M. Schenck, De s. Ioseph, Augsburg 1850; P.V. Mercier, St Ioseph d’après l’Ecriture et la tradition, Paris 1895; C.H. Jamar, Theologia s. Ioseph, Louvain 1897; G. Sinibaldi, La grandezza di san Giuseppe, Roma 1927: L.E. Dubois, St Joseph, VII ed., Paris 1929; A.H. Lépicier, Tractatus de s. Ioseph, III ed., Roma 1933; D. Byzy, St Joseph (Cahiers de la Vierge, 19), Paris 1936; J. Mueller, Der hl. Joseph, Innsbruck 1937; U. Holzmeister, De s. Ioseph quaestiones biblicae, Roma 1945, B. Llamera, Teologia de san José, Madrid 1953.

Các tác giả có khuynh hướng trình bày thánh Giuse với những ân huệ được ban kèm theo ơn gọi, cũng tựa như Đức Maria: trinh khiết, vô nhiễm nguyên tội, hồn xác lên trời.

Kể từ Công Đồng Vatican II, người ta chú trọng hơn đến vai trò phục vụ ơn cứu độ. Điều này giả thiết một sự thay đổi phương pháp, dựa trên Thánh Kinh và Thánh Truyền hơn là các suy diễn. Việc nghiên cứu thần học được thực hiện cách riêng do những trung tâm sau đây:

- Tây Ban Nha: Sociedad Espanola Josefina do cha J.A. Carrasco OCD thành lập ngày 30/8/1951 tại Valladolid, sau đó đổi tên thành Sociedad Ibero-americana de Josefolofia. Tạp chí nghiên cứu: Estudios Josefinos.

- Canada. Bên cạnh đền thánh Giuse ở Montréal, Trung tâm nghiên cứu Centre de Recherche et de Documentation được thiết lập từ năm 1952, và xuất bản tạp chí Cahiers de Joséphologie từ năm 1953 (đổi tên thành Cahiers de l’Oratoire Saint-Joseph từ năm 1996).

- Italia. Centro studi San Giuseppe (Viterbo), Movimento Giuseppino (Roma).
- Mexico: Centro de Documentacion y Estudios Josefinos de Mexico.
- Balan: Polskie Studium Jozefologiczne (Kaliszu).
- Đức: Arbeitskreis fuer Josefstudien (Kevelaer).

Thêm vào đó là nhiều Hội nghị thần học quốc tế về lịch sử lòng tôn kính thánh Giuse trải qua các thời đại, được tổ chức tại Roma (1970), Toledo (1976), Montréal (1980), Kalisz (Balan 1985), Mexico (1989), Roma (1993), Malta (1997), San Salvador (2001), Kevelaer (2005).

 

MỤC 3
HUẤN QUYỀN


Ngay từ những thế kỷ đầu tiên, trong các tín biểu (kinh Tín Kính), Giáo Hội đã tuyên xưng chân lý đức tin về Đức Maria thụ thai Chúa Giêsu do quyền năng Thánh Thần, và thực sự là thân mẫu của Con Thiên Chúa nhập thể (Công đồng Êphêsô năm 431). Những chân lý này trong trong truyền thống các thánh Tông đồ. Vào thời cận đại, huấn quyền đã tuyên bố tín điều Đức Maria vô nhiễm nguyên tội (1854) và hồn xác lên trời (1950).

Tuy nhiên Huấn quyền không tuyên bố tín điều nào về thánh Giuse, tuy một cách gián tiếp, thánh nhân được nhắc tới trong tín điều về Đức Maria thụ thai do quyền năng Chúa Thánh Thần, và tín điều về Đức Maria trọn đời đồng trinh.

I. NHỮNG VĂN KIỆN

Huấn quyền giữ thái độ im lặng đối với thánh Giuse mãi đến những thế kỷ gần đây khi thánh nhân được suy tôn làm Đấng bảo trợ của Hội Thánh41, bắt đầu từ lúc Đức Thánh Cha Piô XI. Trước tiên, chúng ta sẽ điểm qua những văn kiện chính, sau đó chúng ta sẽ dừng lại phân tích tông huấn Redemptoris Custos.

1. Đức Piô IX (1846-1878)

- Sắc lệnh của Bộ Nghi lễ Inclytus Patriarcha Joseph (10/9/1847), mở rộng ra toàn thể Giáo Hội lễ kính thánh Giuse bảo trợ (trước đây đã được cử hành vài địa phương và dòng tu), được cử hành vào thứ tư tuần III sau lễ Phục Sinh. Đây là lần đầu tiên, một văn kiện Toà Thánh trình bày những nguyên tắc thần học về thánh Giuse.

- Sắc lệnh Quemadmodum Deus (8/12/1970) tuyên bố thánh Giuse bảo trợ Hội Thánh, đáp lại lời thỉnh cầu của Công đồng Vatican I42. Tổ phụ Giuse trong Cựu Ước là hình ảnh của thánh Giuse, được đặt lên làm quản trị tài sản hoàng gia và phân phát lương thực; Thiên Chúa cũng trao cho thánh Giuse việc chăm sóc những nhu cầu của Hội Thánh.

2/ Đức Lêô XIII (1878-1903)

- Quan trọng nhất là Thông điệp Quamquam pluries (15/8/1889). Trình bày những lý do vì sao Giáo Hội nhận thánh Giuse làm bảo trợ. Lý do thứ nhất bởi vì thánh nhân được chia sẻ những ân huệ và phẩm giá của Đức Maria, nhờ vào mối dây hôn nhân. Lý do thứ hai là bởi vì mối tương quan hiền phụ với Chúa Giêsu: thánh nhân luôn luôn được Chúa Giêsu tỏ lòng tôn kính vâng phục. Lý do thứ ba là những đức tính của thánh Giuse trong việc chu toàn trách nhiệm với Đức Mẹ và Chúa Giêsu. Người vẫn tiếp tục vai trò bảo vệ Thánh Gia được nối dài nơi Hội Thánh. Tất cả mọi tầng lớp xã hội đều có thể chạy đến thánh Giuse: các gia trưởng, các đôi bạn, các người trinh khiết, các giới thượng lưu cũng như giới lao động. Thông điệp kèm theo kinh khẩn cầu thánh Giuse che chở Hội Thánh, được đọc trong tháng 10 cùng với kinh Mân Côi.

- Tông thư Neminem fugit (14/6/1892) thiết lập hiệp hội các gia đình được dâng hiến cho Thánh Gia.

3/ Đức Piô X (1901-1914)

Lòng tôn kính thánh Giuse của vị Giáo hoàng này phần nào bắt nguồn từ tên riêng của mình (Giuseppe Sarto). Ngài phê chuẩn kinh cầu thánh Giuse (18/3/1909).

4/ Đức Bênêđictô XV (1914-1922)

- Phê chuẩn kinh Tiền Tụng thánh Giuse trong sách Lễ Rôma (9/4/1919).

- Tự sắc Bonum sane (25/7/1920), nhân dịp kỷ niệm 50 năm thánh Giuse được tôn phong Bảo trợ Hội Thánh. Nhắc lại tầm quan trọng của việc cầu khẩn thánh Giuse để đáp lại những nhu cầu của thế giới sau thế chiến thứ nhất. Ngoài mẫu gương nhân đức cho giới lao động, thánh Giuse còn được giới thiệu như là bảo trợ những người sắp qua đời.

5/ Đức Piô XI (1922-1939)

- Huấn dụ ngày 19/3/1935, nêu bật mối liên hệ của thánh Giuse với sự hiệp nhất ngôi vị (unio hyposthatica) của Ngôi Lời nhập thể.

- Thông điệp Ad sacerdotii catholilci (20/12/1935) nói đến Chúa Giêsu đã được đào tạo ở Nazareth bởi Đức Maria và thánh Giuse, cả hai người đều trinh khiết.

- Thông điệp Divini Redemptoris (19/3/1937) trình bày thánh Giuse như khuôn mẫu cho giới lao động.

6/ Đức Piô XII (1939-1958)

Thiết lập lễ thánh Giuse lao động, và phê chuẩn những bản văn phụng vụ dùng vào dịp lễ (ngày 1/5/1955). LỄ này tha thế lễ thánh Giuse bảo trợ Hội Thánh.

7/ Đức Gioan XXIII (1958-1963)

Hơn một lần, ngài đã nhắc nhở rằng Giuse là tên thứ hai của mình (Angelo Giuseppe Roncalli). Hai sự kiện đáng ghi nhớ:

- Tông thư Le voice triệu tập Công đồng Vatican I (19/3/1961) đặt Công đồng dưới sự bảo trợ của thánh Giuse. Nhắc lại giáo huấn của các vị tiền nhiệm về vai trò của thánh Giuse đối với Giáo Hội.

- Sắc lệnh Bộ Nghi lễ (13/11/1962), ghi tên thánh Giuse vào Lễ Quy Rôma.

8/ Đức Phaolô VI 1963-1978)

Nhiều lần nói đến thánh Giuse trong các bài giảng hay huấn từ nhân lễ kính thánh nhân ngày 19/3 và 1/5. Nổi tiếng là bài suy niệm tại Nazareth (5/1/1964) nhân dịp hành hương kính viếng Thánh địa (được trích dẫn trong bài đọc Giờ Kinh Sách lễ Thánh Gia).

9/ Đức Gioan Phaolô II (1979-2005)

- Nhiều lần đề cập đến thánh Giuse trong các bài giảng nhân dịp lễ vào ngày 19/3, nêu bật vai trò của Người trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa (1982) và trong Hội Thánh (năm 1993 và 2001; 26/3/2003), cũng như những nhân đức nổi vượt, tựa như tín thác (1980), tin và cầu nguyện (1983). Thánh nhân cũng trở nên mẫu gương cho đời sống gia đình (năm 1981,1987, 1993, 1999).

- Thánh Giuse được nhắc đến trong nhiều văn kiện: thông điệp Redemptor hominis (4/3/1979) số 9; thông điệp Laborem exercens (14/9/1981) số 26; tông huấn Familiaris consortio (22/11/1981) số 86; thông điệp Dominum et vivificantem (18/5/1986) số 18 và 49; thông điệp Redemptoris mater (25/3/1987) khi ôn lại các biến cố thời thơ ấu của Chúa Giêsu; tông huấn Christifideles laici (30/12/1988); tông huấn Vita consecrate (25/3/1996) số 28).

- Văn kiện quan trọng nhất là tông huấn Redemptoris Custos sẽ được trình bày dưới đây43.

10/ Đức Bênêđictô XVI (2005-...)

Tên riêng là Joseph Ratzinger. Ngài đã dành một suy niệm ngắn về thánh Giuse trong huấn từ Chúa nhật thứ IV mùa Vọng năm 2005 (19/12) về sự thinh lặng, và nhân ngày lễ kính thánh nhân 19/3/2006.

II. TÔNG HUẤN REDEMPTORIS CUSTOS

Văn kiện quan trọng nhất của Toà Thánh từ sau Công Đồng Vatican II là tông huấn Redemptoris custos của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, được ban hành ngày 15/8/1989, để kỷ niệm 100 năm thông điệp Quamquam pluries của Đức Thánh Cha Lêô XIII (15/8/1889). Chúng tôi xin giới thiệu những nét đại cương.

A. Chiều hướng: Chương trình cứu độ

1/ Tựa đề của văn kiện này Redemptoris Custos (Đấng gìn giữ Chúa Cứu Thế) gợi lên nhiều văn kiện khác của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng mang danh từ “Redemptor”: thông điệp Redemptor hominis (3/3/1979) về Chúa Kitô; Thông điệp Redemptoris Mater (25/3/1987) về Đức Maria; rồi sau đó là Thông điệp Redemptoris Missio (7/12/1990) về hoạt động truyền giáo44.

2/ Phụ đề của tông huấn “về dung mạo và sứ mạng của thánh Giuse trong cuộc đời của Chúa Giêsu và của Hội Thánh” xác định rõ hơn viễn tượng của văn kiện này, đó là tìm hiểu vai trò của thánh Giuse trong kế hoạch cứu độ được thực hiện nơi Đức Kitô và tiếp tục nơi Hội Thánh.

3/ Những tư tưởng then chốt. Kế hoạch cứu độ nhân loại của Chúa Cha được thực hiện qua mầu nhiệm Nhập Thể và Vượt Qua của Đức Kitô. Mầu nhiệm Nhập Thể là nền tảng cho mầu nhiệm Vượt Qua. Do sự gắn bó chặt chẽ của các mầu nhiệm đó trong nhiệm cục cứu độ cho nên tuy thánh Giuse tham dự vào mầu nhiệm Nhập Thể hơn là mầu nhiệm vượt qua  nhưng Người cũng đáng được mang danh hiệu là “Đấng gìn giữ Chúa Cứu Thế” và “thừa tác viên của ơn cứu độ” (redemptoris custos, minister salutis)45. Người đã cộng tác vào việc thực hiện mầu nhiệm Nhập Thể bằng việc đảm nhận chức vụ làm chồng của Đức Maria và cha của Đức Giêsu. Nhằm chu toàn sứ mạng đó, thánh Giuse đã được chuẩn bị tâm hồn với những nhân đức thích ứng, cách riêng là yêu thương, tận tuỵ, chiêm niệm. Thánh Giuse vẫn còn tiếp tục sứ mạng của mình trong Hội Thánh. Mặc khác, Hội Thánh cũng nhận thấy nơi Người tấm gương trong việc thực thi cùng một sứ mạng là phục vụ nhiệm cục cứu độ.

B. Bố cục

Tông huấn gồm nhập đề và 6 chương. Chương Một và chương Hai có thể coi như một thứ “lectio divina”, suy gẫm những đoạn văn Tân Ước bàn về thánh Giuse. Những chương kế tiếp đào sâu vài chủ đề về hôn nhân gia đình (ch. 3), lao động (ch. 4), lắng nghe tiếng Chúa (ch. 5).

Nhập đề (số 1): Giải thích lý do ban hành tông huấn.

Chương Một: Khung cảnh của Tin Mừng.

Phân tích cảnh truyền tin của sứ thần (Mt 1,18-25), khởi đầu của sứ mạng thánh Giuse: chồng của Đức Maria thân mẫu của Đức Giêsu (số 2-3). So sánh với cảnh truyền tin cho Đức Maria, chúng ta nhận thấy điểm tương đồng là sự tuân phục lời Chúa bằng đức tin.

Chương Hai: Người được ký thác mầu nhiệm của Thiên Chúa.

Vai trò của thánh Giuse đối với Đức Maria và Chúa Giêsu dựa theo các trình thuật Phúc Âm (số 7-8), được ví như “hành trình đức tin” (số 4-6), trai qua những chặng đường của Chúa Cứu Thế: về Bêlem để kiểm tra dân số (số 9), Chúa giáng sinh (số 10), cắt bì và đặt tên cho Hài Nhi (số 11-12), dâng Hài Nhi vào đền thánh (số 13), lánh nạn sang Ai Cập (số 14), tìm lại Hài Nhi lạc trong đền thánh (số 15), trở về Nazareth (số 16).

Thánh Giuse hiện diện bên cạnh Chúa Cứu Thế như một kẻ phục vụ ơn cứu độ trong cương vị người làm cha.

Chương Ba: Người công chính – vị hôn phu (số 17-21).

Chương này phân tích mối tương quan của thánh Giuse với Đức Maria. Hôn nhân giữa hai vị làm nổi bật yếu tính của hôn nhân là “ý hợp tâm đầu” (liên kết tinh thần hoặc liên kết tâm hồn).

Chương Bốn: Lao động, biểu hiện của tình yêu.

Ý nghĩa của lao động như là biểu hiện của tình yêu và phương tiện nên thánh: thánh Giuse trở nên mẫu gương chon h, người làm môn đệ Chúa qua công việc thầm lặng thường nhật (số 22-24).

Chương Năm: Ưu tiên của đời sống nội tâm.

Giữa công việc hằng ngày, thánh Giuse vẫn duy trì được sự thinh lặng để lắng nghe tiếng Chúa. Người trở nên gương mẫu của đời nội tâm (số 25-27), như thánh Têrêsa Avila đã lưu ý.

Chương Sáu: Đấng bảo trợ Hội Thánh thời nay.

Vào buổi khó khăn của thời cận đại, các Đức Giáo Hoàng Piô IX, Lêo XIII, Phaolô VI đã xin thánh Giuse bảo trợ Giáo Hội. Thánh nhân luôn là kẻ che chở Hội Thánh trong công cuộc truyền giảng Tin Mừng.

C. Nhận xét về những nguồn dữ liệu

Những suy tư của tông huấn dựa trên những dữ kiện của Thánh Kinh và Thánh Truyền được trưng dẫn nhiều lần.

1/ Kinh Thánh

- Nói chung: trưng dẫn minh thị 80 lần trong bản văn, 4 lần gián tiếp trong các chú dẫn.

- Cựu Ước: 2 lần minh thị: St 17,13 (số 11, đối chiếu giao ước với Abaraham và giao ước mới của Đức Kitô); Hs 11,1 (số 14, lấy lại của Mt 2,14-15); 2 lần ám tàng: St 3,1-24) đối chiếu Ađam – Eva với Maria và Giuse, ở số 7); tổ phụ Giuse (chú dẫn số 4).

- Tân Ước: Nhiều nhất là Luca (30 lần và Matthêu (21 lần). Các tác phẩm khác: Ep (6 lần), Rm (4 lần), Cv (2 lần), Dt (2 lần), 1Cr (2 lần), 2Cr (2 lần), Gl - Pl - 1Pr  - 2Pr (1 lần).

Các bản văn Phúc Âm được trích dẫn nhiều hơn cả ở chương Hai (30 lần), chương Một (12 lần), chương Ba (11 lần), chương Sáu (3 lần), chương Năm (2 lần), chương Bốn (1 lần).

2/ Giáo p hụ và Tiến sĩ

- Thánh Augustinô 9 lần ở số 7 liên quan đến hôn nhân của Đức Mẹ và thánh Giuse.

- Origène: 2 lần ở số 8 và 9 (nota 27; 28).

- Thánh Irênêô và thánh Gioan Kim Khẩu được trưng dẫn gián tiếp ở số 1 (nota 1+4).

- Thánh Tôma Aquinô (được trưng dẫn 4 lần)46 . Đạo lý của vị này được coi như tổng hợp của truyền thống Kitô giáo về các chân lý cơ bản liên can đến hôn nhân giữa thánh Giuse và Đức Maria (nota 15, Suma Theologica III, q. 29, a.2), kèm theo các tác phẩm của thánh Augustinô. Đặc biệt ở chương Năm, “Ưu tiên của đời sống nội tâm”, thánh Tôma được trưng dẫn 3 lần (nota 38, 39, 41), để trình bày:

a/ khái niệm về lòng đạo đức (devotion: II-II, q.83, a.3., ad 2m), hệ tại tâm tình sẵn sàng phục vụ Chúa;

b/ sụ tiếp xúc với nhân tính Đức Kitô dẫn đưa tới sự kết hiệp với thiên tính (III, q.8, a.1, ad 1m);

c/ sự hài hoà giữa lòng yêu mến chân lý (caritas veritatis) với đòi hỏi của lòng yêu mến (necessitas caritatis), được thánh Tôma đề cập ở II-II, q.182, a.1, ad 3m.

3/ Phụng vụ

- Lịch sử các lễ kính thánh Giuse : (số 6; 16, 21; 22; 29).
- Bản văn phụng vụ lễ kính thánh Giuse và lễ ngoại lịch: (số 8; 31).
- Bản văn lễ Đức Mẹ (mầu nhiệm Nazareth): số 20.

4/ Huấn 12

Tông thư trích dẫn các văn kiện của Công Đồng Vatican II (Lumen Gentium, Dei Verbum), của các Giáo hoàng tiền nhiệm, hoặc những văn bản chính thức (thông điệp Quamquam pluries, sắc lệnh Quemadmodum Deus) hoặc những huấn Từ, bài giảng (của Đức Piô XII notas 26; Gioan XXIII nota 35; Phaolô VI, notas 16, 22, 36, 47), và kể cải vài văn kiện của chính Đức Gioan Phaolô II.

Dù sao, nên lưu ý là tông thư không hề nhắc tới các lưu truyền từ các nguỵ thư, lại càng không trích dẫn các thứ “mạc khải tư”.

Đó cũng là những chỉ dẫn quý báu cho công cuộc nghiên cứu thần học trong chương tới.
 
 

Chương ba
SUY TƯ THẦN HỌC


Trong hai chương trước đây, chúng ta đã thu thập những dữ kiện của Thánh Kinh và Thánh Truyền về thánh Giuse. Trong chương này, chúng ta sẽ xếp đặt những dữ kiện đó theo hệ thống, đồng thời cũng cố gắng tìm hiểu những lý lẽ giải thích đạo lý đức tin (intellectus fidei).

Như đã nói ở Nhập đề, Công Đồng Vatican II đã thay đổi đường hướng trình bày thần học về Đức Maria. Thay vì dừng lại ở những suy diễn về các đặc ân cao trọng mà Thiên Chúa đã ban cho Người, Công đồng đã muốn nhìn ngắm Người trong tương quan với Đức Giêsu và Hội Thánh. Dự theo chiều hướng đó, trong thông điệp Redemptoris Mater, Đức Gioan Phaolô II đã phân tích “cuộc lữ hành đức tin” của Đức Maria: tuy được uỷ thác vai trò độc nhất vô nhị trong chương trình của Thiên Chúa, Mẹ cũng đã trải qua nhiều thử thách gian truân giống như chúng ta. Vì thế Người rất gần gũi với chúng ta; hay cũng có thể nói ngược lại: chúng ta thấy mình gần gũi với Người như một kẻ đồng hành trong đức tin.

Chúng ta có thể nhận xét cách tương tự về đường hướng suy tư thần học của tông huấn Redemptoris Custos. Thay vì suy diễn các đặc ân cao trọng của thánh Giuse (vô nhiễm nguyên tội? hồn xác lên trời ?), Đức Gioan Phaolô II nhìn thánh Giuse trong vai trò phục vụ chương trình cứu độ, nghĩa là tương quan với Chúa Giêsu và với Hội Thánh. Theo chiều hướng ấy, chúng tôi sẽ lần lượt bàn về thánh Giuse trong cuộc đời của Đức Giêsu (mục 1), trong Hội Thánh (mục 2), trong phụng vụ (mục 3).

* Lưu ý: trong chương này, tông huấn Redemptoris Custos sẽ được viết tắt là RC.

 

MỤC 1
VAI TRÒ THÁNH GIUSE TRONG CUỘC ĐỜI CỦA ĐỨC GIÊSU


Trong những danh hiệu mà truyền thống đã dành cho thánh Giuse, Đức Gioan Phaolô II đã chọn hai diễn ngữ xem ra thích hợp nhất để diễn tả vai trò của Người trong chương trình của Thiên Chúa: Redemptoris custos (kẻ gìn giữ Chúa Cứu Thế) và Minister salutis [người phục vụ (thừa tác) ơn cứu độ]. Vai trò này được thể hiện qua chức năng là “cha của Đức Giêsu”, và Người trở nên cha của Đức Giêsu qua cuộc hôn nhân với Đức Trinh Nữ Maria, thân mẫu Đấng Cứu Thế.

“Cha của Đức Giêsu” - “Chồng của Đức Maria”: đó là hai chủ đề căn bản của những suy tư thần học về thánh Giuse từ thời các giáo phụ. Khác một điều là trước đây, người ta dừng lại ở chỗ tranh cãi vệ bản chất của “phụ tính” (cha theo nghĩa nào?) và “hôn nhân” (đâu là yếu tính của hôn nhân?), tông huấn RC muốn đào sâu hơn khía cạnh tương quan, nghĩa là trong mối liên hệ với Chúa Giêsu và với Đức Maria. Nhờ việc suy niệm các đoạn văn Thánh Kinh, chúng ta có thể khám phá ra khuôn mặt mới của “tình cha” và “hôn nhân” trong viễn ảnh của Nước Trời.

I. THÁNH GIUSE VỚI ĐỨC GIÊSU: CHA

Theo thứ tự thời gian và luận lý, lẽ ra cần phải bàn đến thánh Giuse là “chồng của Đức Maria” trước khi nói đến “cha của Đức Giêsu” (Người là cha bởi vì là chồng của mẹ), nhưng xét theo thứ tự thần học, thì mối tương quan với Chúa Giêsu cần được đặt lên hàng đầu. Sở dĩ thánh Giuse được mời gọi hãy lấy Đức Maria làm vợ là bởi vì ông được trao nhiệm vụ phục vụ cuộc Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Vai trò làm cha (“Kẻ giữ gìn  Đấng Cứu Chuộc”) nằm trong chương trình “phục vụ ơn cứu độ”. Cuộc phục vụ này bao hàm nhiều lãnh vực, đứng đầu là “chứng nhân cho mầu nhiệm Nhập Thể”.

A. Thánh Giuse chứng nhân cho mầu nhiệm Nhập Thể

Nhiều người tỏ ra thất vọng vì Tân Ước không cung cấp nhiều dữ kiện về cuộc đời thánh Giuse. Nói cho đúng, Tân Ước cũng không cung cấp dữ kiện dồi dào về cuộc đời của Đức Maria, và ngay cả về tiểu sử của Đức Giêsu nữa. Trọng tâm của Tân Ước dồn vào hai điểm chính: thân thế và sự nghiệp của Đức Giêsu Kitô. Nói cách khác, Tân Ước muốn trả lời cho hai câu hỏi: Đức Giêsu là ai? Đức Giêsu đã làm gì cho nhân loại? Hai câu hỏi này tương đương phần nào với mầu nhiệm Nhập Thể và mầu nhiệm Vượt qua của Người.

Đức Giêsu là ai? Các nhà chú giải Kinh Thánh nhận thấy một sự tiến triển trong cộng đoàn các môn đệ tiên khởi trong tâm thức và thân thế của Đức Giêsu, từ chỗ quan niệm Đức Giêsu như là Đấng Mêsia được nâng lên làm Con Thiên Chúa do sự phục sinh (xc. Rm 1,4) đến chỗ tin rằng Người là Lời hằng hữu của Thiên Chúa xuống thế làm người (Ga 1,1.14). Dù sao đi nữa, trong hai trình thuật truyền tin của Matthêu và Luca, thân thế của Đức Giêsu được mạc khả cho thánh Giuse và Đức Maria: họ là hai chứng nhân đầu tiên về đức tin của Hội Thánh. Thực vậy trong cuộc truyền tin cho Đức Maria, thiên sứ cho biết rằng Con Trẻ sẽ là: “Con Đấng Tối Cao và Con Thiên Chúa”. Còn trong cuộc truyền tin cho thánh Giuse, căn cước của người con sinh bởi Đức Maria là “Giêsu và Emmanuel”.

Thánh Giuse không những nhận được mạc khải của thiên sứ về thân thế của Đức Giêsu, nhưng còn được mời gọi hợp tác để chương trình của Thiên Chúa có thể thành tựu. Thực vậy, theo Tin Mừng Matthêu, ông Giuse được lệnh đưa bà Maria về làm vợ, ngõ hầu người con sinh ra bởi bà Maria được thừa hưởng dòng dõi vua Đavít, và như vậy là thực hiện những lời Chúa hứa liên quan tới Đấng Mêsia. Ông Giuse cũng được lệnh đặt tên cho Hài Nhi sinh ra bởi bà Maria là Giêsu, nhờ thế ông công bố chức phận của Người là “Thiên Chúa Cứu Chữa”, và cũng nhờ vậy mà ông giúp cho chương trình của Thiên Chúa Nhập Thể được hoàn tất, bởi vì người con sinh ra sẽ là Emmanuel (Thiên Chúa ở cùng chúng ta).

Cũng theo Tin Mừng Matthêu, (ở cuối chương Hai), ông Giuse còn tạo điều kiện để Đức Giêsu trở thành người Nazareth. Nazareth không những ám chỉ nguyên quán của Đức Giêsu mà còn nói đến thân phận của Người nữa. tuy Đức Giêsu là Đấng Mêsia, là con vua Đavít, nhưng Người không thiết lập vương triều Thiên Chúa theo thể chế cai trị trần gian: Người là Đấng Mêsia khiêm tốn, chịu đau khổ. Điều này đã gắn với danh hiệu “Nazareth”, một làng quê bị khinh miệt.

Tóm lại, thánh Giuse làm chứng nhân cho Đức Giêsu vừa là Đấng Mêsia thuộc hoàng tộc, vừa là Mêsia tôi tớ khiêm hạ của Thiên Chúa, vừa là Emmanuel.

Thánh Giuse thực thi vai trò chứng nhân bằng sự dấn thân của mình: bằng việc lấy Đức Maria làm vợ, bằng việc lên đường về Bêlem, bằng việc tuân hành luật truyền về sự cắt bì và dâng hiến con đầu lòng, khi lánh nạn qua Ai Cập, bằng việc từ Ai Cập trở về Nazareth; tắt một lời, bằng cách đảm nhận làm “cha của Đức Giêsu”.

B. Thánh Giuse là cha của Đức Giêsu

Khi phân tích các bản văn Tân Ước, chúng ta nhận thấy rằng Matthêu không gọi thánh Giuse là “cha của Đức Giêsu như là Luca. Tuy nhiên, ta có thể suy đoán dễ dàng từ lời thiên sứ truyền tin cho ông, bởi vì ông là chồng của bà Maria, và bà này sinh ra Đức Giêsu. Hơn nữa, không phải thánh Giuse chỉ mang danh nghĩa là “cha” mà còn thi hành những bổn phận của người cha theo luật lệ đương thời: đặt tên cho Con Trẻ (Matthêu), đăng ký vào sổ kiểm tra, cắt bì, dâng con đầu lòng (Luca).

1/ Thánh Giuse là cha theo nghĩa nào?

a) Trong lịch sử thần học, chúc vụ làm cha của thánh Giuse đã được đặt nhiều tên khác nhau:

  - “pater putativus” (“cha giả định”, coi như cha; dường như cha). Tính từ “putativus” bởi động từ “putari” dựa theo đoạn văn của Luca 3,23 (ut putabatur filius Joseph: thiên hạ nghĩ rằng Đức Giêsu là con ông Giuse).

- “pater adoptivus” (cha nuôi, dưỡng phụ). Tuy từ ngữ này đã trở thành phổ thông, nhưng không được chính xác dưới khía cạnh thần học, bởi vì mối tương quan dưỡng hệ mang tính cách “ngẫu nhiên”. Thực vậy, không ai kết hôn với ý định sẽ trở thành cha (hay mẹ) nuôi! Việc nhận con nuôi xảy ra sau khi kết hôn, vì một lý do ngoại tại thúc đẩy (thí dụ son sẻ, hoặc từ thiện). Ngược lại, mối dây phụ hệ giữa thánh Giuse với Đức Giêsu nằm ở ngay trong mục tiêu của hôn nhân: ông được lệnh trời phải lấy bà Maria để làm cha của Hài Nhi.

- “pater legalis” (cha theo pháp lý). Thực ra, danh hiệu “dưỡng phụ” cũng bao hàm cha theo nghĩa pháp lý rồi, nhưng khi sử dụng diễn ngữ “cha theo pháp lý” người ta còn muốn trưng ra một đặc tính của luật Do Thái, dự liệu những trường hợp nhìn nhập một người như là cha của đứa trẻ tuy nó được sinh ra không do sự giao hợp của ông với mẹ của nó. Điển hình là luật levir: khi một người qua đời mà không có con, thì bà vợ sẽ lấy em chồng, và đứa con sinh ra được coi như là con chính thức của chồng trước (xc. Đnl 25,5-6; xc. St 38,8; R 1; Mt 22,23).

b) Những từ ngữ trên đây tìm cách xác định tình cha của thánh Giuse bằng cách quy chiếu về các khuôn mẫu đã có trong xã hội. Phương pháp này đã bị chỉ trích bởi vì không đếm xỉa đến tính cách độc đáo của mối tương quan giữa thánh Giuse với Chúa Giêsu. Tính cách độc đáo (độc nhất vô nhị) nằm ở chỗ dung hoà hai điểm trái ngược: một đàng, thánh Giuse không phải là cha của Chúa Giêsu về thể lý; đàng khác, ông là cha “thật” của Chúa Giêsu Vì thế có người đã tạo ra những diễn ngữ mới, chẳng hạn như:

- “pater messianicus” (cha của vị Thiên Sai);

- “pater virgo” (cha đồng trinh), cũng như Đức Maria là “Mẹ đồng trinh);

- “pater spiritualis” (cha theo thần khí, linh phụ), mối tình cha đã được Thánh Linh biến đổi.

c) Thực ra, sự khó khăn trong việc diễn tả tình cha của thánh Giuse không phải chỉ vì Đức Giêsu sinh ra không bởi sự giao hợp vợ chồng (vì thế không phải là “con theo nghĩa thường tình), nhưng tại vì “cha thật” của Đức Giêsu là Chúa Cha, như Người đã nhắc khéo hai ông bà khi tìm gặp lại trong đền thờ (Lc 2,49). Nói cho cùng, sự khó khăn này không chỉ xảy ra chon g, cha (ông Giuse) mà cả cho bà mẹ (Đức Maria) nữa. Bà Maria có lẽ đã đau nhói đến tim khi nghe Đức Giêsu tuyên bố: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” (xc. Mc 3,34-35); nhưng sau khi định thần, bà có thể an tâm: “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, thì người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi”. Chúng ta có thể áp dụng phần nào cho thánh Giuse: ông đáng gọi là “cha của Đức Giêsu” trong tầm mức thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Thiết tưởng vinh dự của ông Giuse nằm ở chỗ đó: ông đã chấp nhận làm cha của Đức Giêsu do ý muốn của Thiên Chúa, và đồng thời ông giữ một vai trò như là đại diện của Thiên Chúa đối với Đức Giêsu.

2/ Ý nghĩa tình cha của thánh Giuse

Thánh Giuse thực sự là cha của Đức Giêsu ở dưới thế: ông đã giúp cho công cuộc Nhập thể của Ngôi Lời được trở nên trung thực hơn (RC 21). Thực vậy, Đức Giêsu là Thiên Chúa thật là là người thật. Đức Giêsu tỏ ra là con người thật khi sinh ra từ một gia đình con người, và lớn lên trong một gia đình con người. Thánh Giuse đã giúp cho Đức Giêsu “nên người”.

Ngoài những hành vi luật pháp đã nói trên đây, chúng ta có thể xét đến mối tình phụ tử giữa thánh Giuse và Đức Giêsu dựa theo tương quan tình cảm nhìn từ cả đôi bên (xc. RC 8).

a) Tình cha của thánh Giuse. Khi trả lời với Đức Maria trong đền thờ Giêrusalem, Chúa Giêsu nói rằng Người lo công chuyện của “Cha”, nghĩa là Chúa Cha. Tuy nhiên, điều này không đương nhiên phủ nhận vai trò làm cha của thánh Giuse. Một cách tương tự như vậy, khi Chúa Giêsu dạy các môn đệ rằng “anh em đừng gọi ai dưới đất là cha, vì chỉ có một Cha là Cha trên trời” (Mt 23,8), Người không muốn tiêu huỷ tất cả mọi tương quan cha con trong xã hội. Điều mà Chúa Giêsu muốn nên bật là một thứ tự trong liên hệ phụ tử: đứng hàng đầu là Thiên Chúa Cha, nguồn gốc của mọi thứ phụ hệ (xc. Ep 3,14); các tương quan phụ tử trên đời này cần phải quy chiếu về đó. Trong bối cảnh này, vai trò làm cha của thánh Giuse không xung khắc với Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu; trái lại, có thể khẳng định rằng thánh Giuse trở thành “hình ảnh” của Chúa Cha dưới đất, qua việc yêu mến, chăm nom, dưỡng dục. Thánh Giuse đã yêu mến Chúa Giêsu với những tâm tình của một người cha đối với con mình: tâm tình này chắc hẳn đã được thanh luyện và nâng cao vì được chia sẻ vào chính cội nguồn của tình phụ tử. Trên thực tế, thánh Giuse đã đem hết tâm tình để phục vụ Chúa Giêsu, qua những công tác cụ thể vừa liệt kê trên đây trong thời kỳ sinh hạ, và được tiếp nối với những công tác dưỡng dục nhân bản trong suốt thời ẩn dật.

b) Tình con của Chúa Giêsu. Tuy thánh Luca nêu bật rằng “Cha” của Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng liền đó, thánh sử viết tiếp rằng Đức Giêsu theo Đức Mẹ và ông Giuse trở về Nazareth, và “Người đã tùng phục họ” (Lc 2,50-51). Điều này cho phép suy đoán rằng Chúa Giêsu đã dành cho hai ngài tất cả những tâm tình theo hiếu của một người con. Người đã hấp thụ nền giáo dục của song thân, đã “tăng trưởng về khôn ngoan và ân nghĩa” (Lc 2,52), đã hấp thụ cả danh phận nghề nghiệp của cha mình: Người được nhìn nhận như là “con bác thợ mộc” (Mt 13,55), và thậm chí như là “thợ mộc” (Mc 6,3).

Sau khi phân tích mối liên hệ phụ tử dưới khía cạnh tâm lý, tông huấn RC còn muốn đi xa hơn nữa, khi gán cho những tâm tình của thánh Giuse đối với Chúa Giêsu một giá trị hy sinh cứu chuộc, qua những lời của Đức Phaolô VI: “Người đã biến cuộc đời mình thành một sự phục vụ, một Sư huynh Simeon cho mầu nhiệm Nhập Thể và cho sứ vụ cứu độ gắn kèm theo đó; đã sử dụng uy quyền pháp lý đối với Thánh Gia để trao ban bản thân, cuộc sống và công tác; đã biến đổi ơn gọi tự nhiên trong tình yêu gia đình thành nên một hiến tế siêu nhiên chính bản thân mình, trái tim và tất cả sức lực của mình cho tình yêu phục vụ Đấng Cứu Thế đã sinh ra trong nhà mình”.

3/ Tái khám phá tình cha ở thời thời đại hôm nay

Việc suy tư về mối liên hệ phụ tử giữa thánh Giuse và Chúa Giêsu không chỉ giới hạn vào phạm vi thần học, nhưng còn làm sáng tỏ vai trò của người cha dưới khía cạnh nhân bản: bản tính của tình cha là gì? vai trò của người cha như thế nào?

Theo quan niệm cổ truyền, người cha là kẻ truyền lại dòng họ và gia tài cho con cái: đó là “họ nội” (khác với họ ngoại, về đàng mẹ). Mối liên hệ xem ra chặt chẽ: “cha nào con nấy”.

Tuy nhiên, thực tế ra như chứng minh ngược lại: cha thuộc về “họ ngoại” chứ không thuộc “họ nội”! Người con được cưu mang chính tháng ở trong bụng mẹ; bà mẹ biết mình đang mang một đứa con trong lòng, đang khi lắm lần người cha không biết rằng mình đã có đứa con! Sau khi đứa con ra đời, nó vẫn thấy gần gũi với bà mẹ hơn là với người cha: ông thường vắng nhà, mải miết với công ăn việc làm, khoán trắng hết mọi chuyện gia đình cho “nội tướng” là bà mẹ. Người cha sống “ngoài gia đình”.

Dưới sự phân tích của ông Sigmund Freud, chức năng của người cha lai càng bạc bẽo hơn nữa. Người cha tượng trưng cho pháp luật, kiềm chế những ước muốn dục vọng của con cái. Vì thế sự trưởng thành của con cái đòi hỏi phải “giết cha”: con người cần được giải thoát khỏi những ràng buộc thì mới có thể phát triển tự do được. Tiếc rằng thực tế không xảy ra như vậy: thiếu cha, đứa con không cảm thấy thoải mái hơn, nhưng bơ vơ lạc lõng.

Trong bối cảnh xã hội này, nhiều cuộc học hỏi đã được tổ chức để tái khám phá chức năng của người cha. Chức vụ của người cha không chỉ giới hạn vào chuyện sinh con (bởi vì như thế chẳng khác thú vật cho lắm). Người cha có vai trò quan trọng hơn nữa trong việc giáo dục con cái mình: truyền thụ gia sản tinh thần (những kinh nghiệm bản thân, nghề nghiệp, dòng họ); tập cho đứa con tiếp xúc với xã hội; chấp nhận những cam go của thực tại, khác với những ước muốn theo cảm xúc. Nhất là người con cần cảm nhận tình yêu của cha, tuy rằng cách biểu lộ tình yêu này khác với tình yêu của người mẹ. Dù vậy, người con cần cảm nghiệm sự gần gũi của người cha, một người cha quan tâm đến nó, chứ không bù đầu vào chuyện công ăn việc làm.

Như đã nói trên đây, đối với Chúa Giêsu, thánh Giuse đã thực hiện vai trò làm cha như là đại diện cho Chúa Cha. Tâm lý học cho biết rằng nhiều lần chúng ta hình dung Thiên Chúa là cha dựa theo kinh nghiệm mà chúng ta có về thân sinh của mình. Như vậy, tình cha không chỉ là một thực tại tâm lý xã hội, nhưng còn mang chiều kích siêu nhiên nữa.

Nhận xét về tình cha trong liên hệ gia đình cũng có thể áp dụng cho những “cha tinh thần”. Truyền thống nhiều tôn giáo đã nhìn nhận vai trò của các “sư phụ” (thầy như cha). Truyền thống Kitô giáo cũng đã biến đến mối dây phụ tử tinh thần qua nơi các vị mục tử (sinh những người con cho Nước Trời, nhờ lời giảng và các bí tích ), các vị hướng dẫn tâm linh (abbas, kể từ các ẩn sĩ Ai Cập thế kỷ IV).

II. THÁNH GIUSE VỚI ĐỨC MARIA: CHỒNG

Trong tiếng Việt, mối tương quan vợ chồng được diễn tả qua nhiều từ ngữ: chồng được gọi là “hôn phu, phu quân, lang quân”; vợ là “hôn thê, hiền thê”. Hai người là “bạn trăm năm”. Tuy nhiên, ở đây, vì cần phân tích ý nghĩa thần học, chúng tôi xin sử dụng ngôn ngữ trực tiếp là vợ chồng47. Có lẽ không ít người sẽ cảm thấy chói tai khi gọi Đức Maria là “vợ” ông Giuse (hoặc gọi ông Giuse là chồng của Đức Maria), bởi vì hai người đã khấn giữ đồng trinh và không có quan hệ vợ chồng (hai người là “bạn rất thanh sạch”). Tuy nhiên, chính Tân Ước đã ghi nhận rõ ràng rằng thánh Giuse và Đức Maria là vợ chồng (xc. Mt 1,15.18-20.24; Lc 1,27; 2,5); thậm chí ông Giuse được lệnh của thiên sứ hãy lấy bà Maria làm vợ. Nói cách khác, hai ông bà trở thành vợ chồng do ý muốn của Chúa. Đối với chúng ta, điều quan trọng là cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của mối dây hôn nhân giữa thánh Giuse với Đức Maria. Hơn thế nữa, thánh Augustinô và Thánh Tôma Aquinô đã khẳng định sự chân thực của mối hôn nhân ấy48, rồi từ đó trình bày ý nghĩa cao quý của hôn nhân.

A. Hôn nhân của thánh Giuse trong ý định của Thiên Chúa

Như đã nói, dựa theo Tin Mừng Matthêu, thiên sứ đã kêu gọi thánh Giuse hãy lấy Đức Maria làm vợ. Trước đó, hai người đã đính hôn với nhau rồi, và chúng ta không biết vì lý do gì. nhưng từ khi thiên sứ hiện ra, thì hôn nhân này mang một ý nghĩa chính xác: ông Giuse cần phải lấy bà Maria làm vợ, để con trẻ sinh ra bởi bà Maria được nhận vào dòng dõi của vua Đavít. Ông Giuse cần phải lấy bà Maria làm vợ bởi vì ông được gọi làm cha của Đấng Mêsia (RC 2-3.7).

Đồng thời, cả Matthêu lẫn Luca đều nhấn mạnh rằng Đức Giêsu được sinh ra do quyền năng của Chúa Thánh Thần, chứ không do sự giao hợp giữa hai ông bà. Trong lịch sử Giáo Hội, khá nhiều cuộc tranh luận đã nẩy lên chung quanh cụm từ “do quyền năng của Chúa Thánh Thần”49.

- có ý kiến cho rằng đây là một huyền thoại (trinh nữ sinh con: parthenogenesis) gặp thấy nơi nhiều tôn giáo cổ truyền ở miền Địa Trung Hải;

- có ý kiến cho rằng cụm từ muốn nói đến một tác động của thần khí tạo dựng sự sống;

- có ý kiến cho rằng cụm từ này chỉ muốn nói rằng Chúa Giêsu là một món quà do Thiên Chúa trao tặng cho nhân loại mà thôi. Việc thụ thai xảy ra do sự giao hợp thường tình giữa ông Giuse và bà Maria.

- có ý kiến cho rằng cụm từ này không nhắm giải thích bản chất sự thụ thai của Đức Maria cho bằng nguồn gốc thần linh của Đức Giêsu: Đức Giêsu là con người thật, sinh bởi một bà mẹ thuộc về nhân loại; tuy nhiên, Đức Giêsu còn mang một nguyên uỷ siêu việt: Người là Con Thiên Chúa. Thật vậy, Đức Giêsu không chỉ là một con người giống như bao nhiêu con người khác, nhưng Người còn là Con Thiên Chúa.

Chúng tôi nghiên theo ý kiến cuối cùng này. Những cuộc tranh luận để giải thích cuộc thụ thai của Đức Giêsu dưới phương diện sinh học (y học) không ích lợi gì hết, bởi vì điều này không nằm trong lãnh vực mạc khải. Tân Ước chỉ nói cho chúng ta biết rằng “Đức Giêsu là Con Thiên Chúa và là con của bà Maria”. Dĩ nhiên là trong mỗi trường hợp, tiếng “con” mang một ý nghĩa riêng biệt: “Con Thiên Chúa” không thể hiểu như là con do Thiên Chúa sinh sản ra; một cách tương tự như vậy, “con của bà Maria” không thể hiểu như là con do cuộc giao hợp giữa bà với chồng mình! “Điều đó xảy đến thế nào được?” Đức Maria đã hỏi sự thần như vậy (Lc 1,34), và lời giải thích của sứ thần chẳng đi vào hết mọi ngóc ngách của phương diện sinh lý! Cả một mầu nhiệm bao trùm việc Thiên Chúa làm người do bởi Đức Trinh Nữ Maria.

Phải chăng vai trò của thánh Giuse trở nên thừa thãi trong câu chuyện này? Các giáo phụ không nghĩ như vậy, và họ cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của sự hiện diện của ông trong mầu nhiệm này. Các lý do ấy đã được thánh Tôma tóm tắt lại trong sách Tổng Luận Thần học (III pars, q.29): như thánh Ambrôsiô đã nói, thánh Giuse trở thành chứng nhân cho sự thụ thai trinh khiết của Đức Maria (ý kiến của các giáo phụ Ambrôsiô, Hiêrônimô, Augustinô). Thật vậy, nếu Đức Maria quả quyết rằng mình có con do một phép lạ thì không biết có ai tin nổi hay không; nhưng nếu chính người chồng của mình cũng chứng thực điều đó thì thiên hạ dễ chấp nhận hơn! Dù sao, đối với luật pháp đương thời, Đức Maria cần được thánh Giuse bảo vệ, kẻo bị ném đá vì tội ngoại tình. Đàng khác, Đức Maria cũng cần được thánh Giuse giúp đỡ trong suốt thời gian mang thai và nuôi dưỡng Hài Nhi Giêsu.

Ngoài những luận cứ còn nằm trên lý luận thường tình, các giáo phụ còn muốn tiến xa hơn nữa, đào sâu thêm khía cạnh triết học về bản chất hôn nhân, cũng như khía cạnh huyền bí của mối tình phu phụ.

B. Ý nghĩa của hôn nhân giữa thánh Giuse với Đức Maria

Trong lịch sử thần học, cuộc hôn nhân này đã được phân tích dưới nhiều góc cạnh khác nhau.

1/ Vào thời Trung cổ, các nhà luật học đã tranh luận với nhau về yếu tố cốt yếu của hôn nhân. Theo quan điểm của luật Rôma, hôn nhân được cấu thành do sự thoả thuận của ý chí (consensus); theo quan điểm của luật (copulation). Vì muốn dung hoà hai quan điểm đó, giáo luật đề ra học thuyết về “giá thú hữu hiệu và hoàn hợp” (ratum et consummatum). Dĩ nhiên, giá thú của thánh Giuse chỉ là “thành hiệu”, nhưng “bất hoàn hợp”!

2/ Trước đó, thánh Augustinô đã suy tư về bản chất hôn nhân dưới khía cạnh triết học và tâm lý, và đã nhìn thấy khuôn mẫu tuyệt vời nơi hôn nhân của thánh Giuse50. Theo quan điểm dân gian cổ truyền, mục tiêu của hôn nhân là sinh con đẻ cái, nối dõi tông đường. Nhìn dưới viễn tượng của thần học Kitô giáo, theo đó hôn nhân được nâng lên hàng bí tích, nghĩa là được gán thêm giá trị thánh thiêng, thánh Augustinô vạch ra ba thiện ích của hôn nhân là: con cái, trung tín và chung thuỷ. Tất cả ba thiện ích này đều đạt được nơi hôn nhân của thánh Giuse với Đức Maria (De nuptiis et concupiscentia, 1,11,13: được RC trích dẫn ở nota 14).

Hơn thế nữa, lý tưởng cao quý nhất của hôn nhân là sự hoà hợp (unio): hai người trở nên một. Tuy nhiên, không nên hiểu sự hoà hợp này về khía cạnh thể xác mà thôi; cần phải lên cao hơn nữa, đó là hoà hợp về tâm tình và về tinh thần (mentis affectus).

3/ Suy tư của RC

Như đã nói, tông huấn RC lặp lại đạo lý cổ truyền, khẳng định rằng hôn nhân của thánh Giuse với Đức Maria là giá thú thật sự: đây là một dữ kiện của Tân Ước. Tông huấn cũng trích dẫn những giải thích của thánh Augustinô và Thánh Tôma Aquinô về bản chất hôn nhân (RC số 7). Tuy nhiên, bên cạnh đặc tính hoà hợp về tâm tình và tinh thần, tông huấn còn muốn nêu bật nhiều yếu tố khác tạo nên sự thông hiệp giữa thánh Giuse và Đức Maria.

- Cả hai đều là mẫu gương của người tín hữu, đáp lại mạc khải của Thiên Chúa với sự tuân thuận (RC 4): Đức Maria với lời “xin vâng”, thánh Giuse với việc lấy Đức Maria về làm vợ.

- Cả hai đều liên đới với nhau trong việc bảo vệ “mầu nhiệm”, được ký thác hao người gìn giữ. Cả hai người đều giữ một vai trò tích cực trong kế hoạch cứu độ: Đức Maria qua chức vụ làm mẹ của Chúa Giêsu; thánh Giuse qua chức vụ làm cha của Chúa Giêsu qua hôn nhân với Đức Maria (RC 3).

- Cả hai đều đã nếm những thử thách của cuộc “lữ hành đức tin” (RC 4: Thông điệp Redemptoris mater). Mặc dù chấp nhận lời của thiên sứ nói về bản tính của Chúa Giêsu, Đức Maria chưa hiểu trọn tất cả sự súc tích của nó: Mẹ đã nghiền ngẫm lời Chúa trong lòng (Lc 2,19); Mẹ đã cảm thấy tâm can như bị lưỡi gươm đâm thâu (Lc 2,35); Mẹ không hiểu câu trả lời của Chúa Giêsu trong đền thờ sau ba ngày thất lạc (Lc 2,50). Vào dịp này, thánh Luca chú thích rằng thánh Giuse cũng chia sẻ cùng tâm trạng như vậy (“họ không hiểu lời Chúa nói”) Chúng ta cũng có thể suy đoán rằng ông cũng trải qua màn đen của đức tin kể từ khi thấy bà Maria có thai, và kéo dài suốt những chặng đường đi về Bêlem, lánh nạn về Ai Cập. Những gian nan thử thách xem ra hoàn toàn trái nghịch với bản tính thần linh của Đức Giêsu: chẳng lẽ Đấng Mêsia, Đấng “Thiên Chúa cứu độ” mà tỏ ra yếu ớt nhu nhược vậy sao? Thật là có lý để khẳng định rằng thánh Giuse  đã trải qua một tiến trình gay go để hiểu biết bản thân của Đức “Emmanuel”.

- Từ sự chia sẻ và liên đới vừa nói, chúng ta có thể hình dung sự khắng khít giữa hai vị: mối tình vợ chồng được Thần Khí đức ái nâng cấp để thông dự vào kế hoạch cứu độ. Mối tình của hai người thể hiện được lý tưởng “bí tích” mà thánh Phaolô đã diễn tả về tình yêu huyền nhiệm giữa Đức Kitô và Hội Thánh (RC 7).

Thiết tưởng không phải là thừa khi nhắc đến những cấp độ của tình yêu, từ chỗ chiếm hữu đến chỗ trao ban, mà thần học đã diễn tả qua những từ ngữ: eros, philia, agape, được Đức Bênêđictô XVI phân tích trong thông điệp Deus caritas est (số 3-8).

C. Sự trinh khiết của thánh Giuse

Trong lịch sử Giáo Hội, đức trinh khiết của thánh Giuse đã trở thành đề tài cho nhiều cuộc tranh luận, có thể tóm lại vào ba điểm như sau:

1/ phải chăng ông Giuse đã có một đời vợ trước khi lấy bà Maria?;
2/ phải chăng ông Giuse ăn ở sau khi bà Maria sinh con?;
3/ phải chăng ông Giuse khấn giữ đồng trinh?51

Hai câu hỏi đầu tiên được đặt ra do sự hiện diện của các “anh em của Đức Giêsu” trong các bản văn Phúc Âm (Mc 6,3). Để giải quyết vấn đề này, hai ý kiến được đưa ra:

1/ Ông Giuse đã có một đời vợ và đã có con. Sau đó, ông goá vợ, lấy bà Maria. Như thế “những anh em của Đức Giêsu” được hiểu như “những người anh cùng cha khác mẹ”. Đây là giải đáp của nhiều nguỵ thư Tin Mừng, cách riêng là “tiền Tin Mừng thánh Giacôbê” và được nhiều giáo phụ chấp nhận (các giáo phụ bên Đông phương: Origène, Epiphanius, Grêgôriô Nyssa, Cyrillô Alexandria, Theophylact, Theodoretus, Gioan Kim Khẩu; bên Tây phương: Ambrôsiô, Hilariô). Ảnh hưởng của nó trên dân gian cũng đáng kể, xét vì nhiều hoạ sĩ vẽ thánh Giuse như một cụ già. (Nên biết là cha Jean Gerson đã nêu vấn nạn như thế này: nếu thánh Giuse già lão như vậy thì làm sao đủ sức mà giúp đỡ Thánh Gia trong bao nhiêu việc nặng nề, chẳng hạn trong suốt cuộc hành trình sang Ai Cập)?

2/ Ý kiến thứ hai cho rằng sau khi đã sinh ra Chúa Giêsu, bà Maria có quan hệ bình thường với ông Giuse và sinh ra nhiều con nữa: như vậy họ là “em ruột của Chúa”. Lập luận này dựa theo hai câu văn của Tin Mừng:

- “Ông Giuse không ăn ở với bà, cho đến khi bà sinh một con trai” (Mt 1,25). Phải chăng sau khi sinh Chúa Giêsu, hai người lại có quan hệ vợ chồng?

- “Bà Maria sinh con trai đầu lòng” (Lc 2,7). Phải chăng bà còn sinh những con thứ nữa?

Những vấn nạn này đã được giải thích trong chương một. Ít là kể từ thế kỷ IV (tín biểu của thánh Epiphaniô năm 374; công đồng Constantinopolis II năm 553), Hội Thánh Công giáo tuyên xưng rằng Đức Maria “trọn đời đồng trinh”, trước và sau khi sinh con (xc. Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo số 499).

3/ Đối lại với hai ý kiến vừa rồi, ý kiến thứ ba khẳng định rằng thánh Giuse cũng hoàn toàn khiết tịnh: ông không có bà vợ nào trước bà Maria52, và thậm chí ông đã khấn giữ khiết tịnh cùng với bà Maria.

Tuy điều này không nằm trong đạo lý chính thức của Giáo Hội, nhưng đã được các nhà thần học khẳng định ngay từ thời Trung cổ, cách riêng với thánh Albertô và Thánh Tôma Aquinô (Summa Theologica, III, q.28, a.4). Các văn kiện của Huấn quyền vào thời cận đại cũng quả quyết như vậy53 (xc. RC 7; 20, trưng dẫn thông điệp Quamquam pluries).

Thực ra, nên phân biệt nhiều cấp độ chung quanh sự khiết trịnh trọn hảo của thánh Giuse:

- Không có đoạn văn nào trong Tân Ước nói đến sự khiết tịnh của thánh Giuse; và cũng không có đoạn văn nào trong Tân Ước khẳng định ngược lại. Vì thế, sự khiết tịnh trọn hảo của thánh Giuse là điều suy đoán dựa trên sự thánh thiện của ba nhân vật trong Thánh Gia Nazareth.

- Việc khẳng định đức khiết tịnh trọn hảo của thánh Giuse không nhất thiết đòi hỏi rằng Người đã “khấn hứa” hoặc riêng với Chúa hay cùng với Đức Maria54: không có tài liệu nào khẳng định điều đó (nhưng cũng không có tài liệu nào nói ngược lại). Thiết tưởng nên hiểu sự “khấn hứa” (votum) như là một điều dốc quyết của ý chí hơn là một thứ nghi thức đặc thù (xc. Summa Theol., II-II, q.152, a.4).

- Một thắc mắc đương nhiên sẽ nẩy lên: nếu đã quyết định giữ mình trinh khiết (nghĩa là dâng hiến trọn trái tim không chia sẻ cho Thiên Chúa), thì tại sao lại còn kết hôn? Đức Gioan Phaolô II, trong loạt bài huấn giáo về Đức Maria (bài 30, ngày 21/8/1996) đã trình bày vấn nạn và tìm cách trả lời như sau:

Vào lúc Truyền tin, Đức Maria ở trong tình trạng đính hôn. Thử hỏi: tại sao Người đã chấp nhận sự đính hôn một khi đã dốc lòng giữ mình trinh khiết suốt đời?

Thánh sử Luca đã nhận thấy sự khó khăn đó, nhưng ông chỉ ghi nhận tình hình mà không đưa ra một lời giải thích nào hết. Sự kiện thánh sử nêu bật quyết tâm sống trinh khiết của Đức Maria nhưng đồng thời ngài cũng trình bày như là vợ của ông Giuse là một dấu chỉ cho thấy cả hai chi tiết này đều đáng tin về khía cạnh lịch sử.

Có thể giả thiết rằng giữa ông Giuse và bà Maria, vào lúc đính hôn, họ đã đồng ý với nhau về cuộc sống trinh khiết. Mặt khác, Chúa Thánh Thần, Đấng đã gợi hứng cho Đức Maria lựa cho sự trinh khiết để nhằm tới mầu nhiệm Nhập Thể và đã muốn cho mầu nhiệm này diễn ra trong khung cảnh một gia đình thích hợp cho sự tăng trưởng của Hài Nhi, thì ắt là Ngài cũng có thể gợi nơi ông Giuse lý tưởng trinh khiết.

Sứ thần của Chúa, khi hiện ra với ông Giuse trong giấc mơ, đã nói như sau: “Này, ông Giuse, con vua Đavít, đừng sợ đón bà Maria về làm vợ, bởi vì đứa con mà bà sinh ra là do Thánh Thần” (Mt 1,20). Như vậy ông Giuse đã nhận được lời xác nhận ơn gọi sống con đường hôn nhân một cách hết sức đặc biệt.

Qua việc hiệp thông trinh khiết với người nữ đã được chọn để sinh hạ Đức Giêsu, Chúa đã gọi ông Giuse hợp tác vào việc thực hiện chương trình cứu chuộc.

Kiểu hôn nhân mà Chúa Thánh Thần hướng dẫn bà Maria và ông Giuse chỉ có thể hiểu được trong toàn bộ kế hoạch cứu độ và trong khung cảnh một linh đạo cao siêu. Việc thực hiện cụ thể mầu nhiệm Nhập Thể đòi hỏi một sự sinh hạ trinh khiết để nêu bật Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, và đồng thời đòi hỏi một gia đình để bảo đảm cho nhân cách của Hài Nhi được phát triển điều hoà.

Chính vì phải góp phần vào mầu nhiệm của Ngôi Lời nhập thể mà ông Giuse và bà Maria đã lãnh nhận ơn thánh để họ vừa sống đặc sủng trinh khiết vừa sống hồng ân hôn nhân. Sự thông thiệp tình yêu trinh khiết giữa Đức Maria và ông Giuse, tuy tạo nên một trường hợp hết sức đặc biệt, gắn liền với việc thực hiện mầu nhiệm Nhập Thể, nhưng vẫn là một hôn nhân đích thực (xc. Tông huấn Redemptoris Custos, số 7).

Chúng ta phải nhìn nhận rằng đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người: Đức Maria vừa là trinh nữ vừa là mẹ, thánh Giuse vừa trinh khiết vừa là chồng. Sự nghịch lý này chỉ có thể giải thích được ngay từ cội rễ của nó là mầu nhiệm Nhập Thể: Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là người.

Dù sao, trong chế độ Tân Ước, hai nếp sống hôn nhân và trinh khiết không tương phản nhau, nhưng được kêu gọi để bổ túc cho nhau trong việc diễn tả một mầu nhiệm của sự kết hiệp huyền nhiệm của Đức Kitô với Hội Thánh (xc. Ep 5,32). Dĩ nhiên, để có khả năng diễn tả mầu nhiệm này, chúng ta cần được ân sủng của Thiên Chúa: ân sủng để dâng hiến con tim không chia sẻ cho Thiên Chúa, ân sủng để trao ban hỗ tương trong đời vợ chồng.

Do đó, cũng như Đức Maria là mẫu gương cho các trinh nữ và các bà mẹ55, thì thánh Giuse cũng là mẫu gương và bảo trợ chon h, người chồng cũng như những người trinh khiết (nam hoặc nữ). Thiết tưởng trong quá khứ chúng ta thường nhấn mạnh rằng sự “độc thân vì Nước Trời” là một “ơn gọi” (một đặc sủng: xc 1Cr 7,7; Mt 19,10-12), nhưng ít lưu ý đến hôn nhân cũng là một “ơn gọi”: đôi bạn cần ân sủng của Chúa để đón nhận nhau theo đức ái chứ không chỉ vì đam mê (cũng chính thánh Giuse  nhận Đức Maria làm vợ “theo ý Chúa”. Bí tích hôn nhân được thiết lập nhằm đạt đến lý tưởng ấy.

III. NHỮNG ĐẶC ÂN VÀ NHÂN ĐỨC

Các tác phẩm thần học về thánh Giuse thường nói đến các đặc ân mà Thiên Chúa ban cho Người, dựa theo vài nguyên tắc chung của đường lối quan phòng đã được Thánh Tôma Aquinô phát biểu dựa theo giáo huấn của các giáo phụ.

1/ Khi Thiên Chúa đã tuyển chọn người nào vào một sứ mạng đặc biệt thì Người cũng ban những ơn huệ cần thiết (kể cả trên bình diện tự nhiên) để chu toàn sứ mạng (“illos quos Deus ad aliquid eligit, ita praeparat et disponit ut ad id ad quod eliguntur inveniantur idonei”: Summa Theologica III, q.27, a.4, c).

2/ Ai càng gần gũi với nguồn mạch ân sủng, thì càng nhận được những hiệu quả dồi dào của ân sủng (“quanto aliquid magis appropinquat principio in quolibet genere, tanto magis participat effectum illius principia”: Sum. Theol. III, q.27, a.5, c).

Từ những nguyên tắc vừa rồi, các nhà thần học lý luận thế này: ở trên đời này, có ai được Thiên Chúa uỷ thách trách vụ cao quý như là Đức Maria và thánh Giuse? Vì thế, sau Đức Mẹ, thánh Giuse chắc chắn đã lãnh nhận những ân huệ tương xứng với ơn gọi của mình. Một cách tương tự như vậy, ngoài Đức Mẹ ra, thử hỏi có ai gần gũi với Chúa Giêsu nguồn mạch ân sủng và thánh hoá như thánh Giuse? Vì thế chắc chắn là Người đã được thánh hoá bởi đủ mọi thứ nhân đức.

Nói chung, các tác giả thường bàn đến những đặc ân và nhân đức sau đây.

A. Những đặc ân

Cũng như Đức Maria được đặc ân vô nhiễm nguyên tội và hồn xác lên trời, hẳn thánh Giuse cũng được chia sẻ hai đặc ân ấy.

1/ Vô nhiễm nguyên tội

Dựa theo ý kiến của nhiều nhà thần học (Gerson, Isolani, thánh Anphong, vv) nếu thánh Gioan Tiền hô đã được thánh hoá ngay từ trong lòng mẹ (xc. Lc 1,41-44), thì đâu có lý do gì mà thánh Giuse lại không được ân huệ đó?

Tuy trước đây nhiều tác giả chấp nhận đạo lý “vô nhiễm nguyên tội” cách dễ dàng, như ngày nay, người ta tỏ ra dè dặt hơn. Lập luận của thần học không thể chỉ trên phương pháp suy diễn, nhưng còn phải được kiểm chứng với nền tảng mạc khải nữa. Việc thánh Giuse không mắc tội tổ tông không dựa trên cơ sở của Kinh Thánh và Huấn quyền.

2/ Hồn xác lên trời

Dựa theo đoạn văn của Mt 27,52-53 (sau khi Chúa Giêsu sống lại, nhiều vị thánh cũng được phục sinh), cha Francisco Suarez và thánh Francois de Sales cho rằng thánh Giuse cũng được liệt vào số những người đó, nghĩa là đã được sống lại cả linh hồn lẫn thân xác.

Về điểm này, chúng ta cũng có thể đưa ra nhận xét tương tự như đối với đặc ân vô nhiễm nguyên tội.

B. Những nhân đức

Chúng ta thấy trong Tân Ước, thánh Giuse đã được mệnh danh là “công chính” (công bình chính trực: Mt 1,19). Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là Người chỉ có một nhân đức mà thôi. Các nhà thần học tìm cách thiết lập danh sách các nhân đức dựa theo những tiêu chuẩn khác nhau.

Có lẽ cha Isolani là người đầu tiên tán giải các nhân đức của thánh Giuse dựa theo những chữ cái ghép thành tên riêng (IOSEPH trong tiếng Latin): Iustitia (công bằng), Oboedientia (vâng lời), Sapientia (khôn ngoan), Experientia (kinh nghiệm), Patientia (nhẫn nhục), Humilitas (khiêm nhường). Các nhà giảng thuyết như Bossuet không tiếc lời ca ngợi đời sống đức độ của Người, dựa theo danh sách cổ truyền các nhân đức (Tin, Cậy, Mến, Khôn ngoan, Công bằng, Mạnh bạo, Tiết độ), hoặc tám mối phúc thật, hoặc bảy ơn Chúa Thánh Thần. Một danh mục dài hơn có thể tìm thấy trong kinh cầu thánh Giuse.

Dĩ nhiên, mỗi thời đại thích nhấn mạnh đến một vài nhân đức đặc biệt. Một cách tương tự như vậy, mỗi hàng ngũ (giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân) hoặc chức nghiệp cũng thích đề cao một điểm nổi bật (lao động, thợ mộc), như sẽ thấy trong mục tới khi bàn về những mẫu gương.

Trong quá khứ, nhiều tác giả còn thêm hai phụ lục sau đây:

1/ So sánh vị trí cao trọng của thánh Giuse với các thánh khác, cách riêng với thánh Gioan Tiền hô (xc. Mt 11,11: “Trong số những phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả”), các thánh Tông đồ (luôn được xếp vào hàng đầu trong danh sách đặc sủng, thí dụ Ep 4,11).

 Người ta tìm cách phân biệt nhiều khía cạnh khác nhau. Ông Gioan Tẩy Giả lớn nhất xét theo Cựu Ước; sự so sánh này hết giá trị khi bước sang Tân Ước (“tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”: Mt 11,11). Thánh Giuse lớn xét về gần gũi với nguồn mọi ân sủng; các thánh Tông đồ xét về mặt phẩm trật.

2/ Cấp đẳng lòng sùng kính dành cho thánh Giuse. Theo thần học, các việc tôn kính được phân làm ba cấp độ: a) latria (adoratio): “thờ phượng”, dành riêng cho Thiên Chúa; b) dulia (veneratio): “tôn kính”, dành cho các thánh; c) hyperdulia, “biệt kính”, dành cho Đức Maria. Có người muốn chỉ định cấp thứ bốn cho thánh Giuse là protodulia.
Những văn kiện gần đây của Toà Thánh tuy tiến tục đề cao vị trí cao cả vô song của thánh Giuse trong kế hoạch cứu độ (thí dụ tông huấn RC số 8; 20), nhưng không đả động đến vấn đề so sánh cao thấp với các vị thánh khác.

 

MỤC 2
THÁNH GIUSE TRONG ĐỜI SỐNG
CỦA HỘI THÁNH


Trong mục vừa rồi, chúng ta tìm hiểu vai trò của thánh Giuse trong cuộc đời Chúa Giêsu: người được kêu gọi làm chồng của Đức Maria, và trở thành cha của Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên, trong giai đoạn Chúa Giêsu hoạt động công khai, Tân Ước không nhắc đến sự hiện diện của thánh Giuse nữa. Phải chăng sứ mạng của Người đã hoàn tất, và nên rút lui vòng bóng tối, cũng tựa như vị tiền hô dọn đường cho Đấng Mêsia (xc. Ga 3,30)? Nếu chỉ nhìn vào lịch sử Giáo Hội trong thiên niên kỷ thứ nhất, thì chúng ta có thể trả lời rằng: “đúng vậy!”: sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ chuyển chở Chúa Giêsu trong thời thơ ấu, thánh Giuse hoàn toàn bị rơi vào quên lãng, như chúng ta đã thấy trong chương trước (mục 2). Tuy nhiên, khi bước sang thiên niên kỷ thứ hai, và đặc biệt vào những thế kỷ gần đây, thánh Giuse không những được tôn kính trong phụng vụ, nhưng còn được Giáo Hội tôn phong làm “Bổn mạng” (hay Bảo trợ: Ecclesiae Patronus) của mình cách chính thức kể từ Đức Piô IX (Sắc lệnh Quemadmodum Deus ngày 8/12/1870) đáp lại thỉnh nguyện của Công đồng Vatican I.

Vì lý do gì Hội Thánh thời nay nhận ra một tương quan đặc biệt với thánh Giuse? Trong thông điệp Quamquam pluries (được tông huấn RC trưng dẫn một đoạn ở số 28), Đức LÊô XIII trả lời là dựa trên sứ mạng của thánh Giuse đối với Thánh Gia. “Ngôi nhà mà thánh Giuse cai quản với quyền hành của người cha đã chứa đựng những mầm sống của Hội Thánh sơ sinh. Cũng như Đức Trinh Nữ Maria là Mẹ của Chúa Giêsu thì cũng là Mẹ của tất cả mọi Kitô hữu; Chúa Giêsu là trưởng tử của các tín hữu và họ trở nên những người em của Chúa do ơn làm nghĩa tử nhờ sự cứu chuộc. Đó cũng là những lý do mà thánh Tổ phụ coi như mình được uỷ thác bảo trợ đoàn dân Kitô hữu họp thành Hội Thánh. Bởi vì là chồng của Đức Maria và là cha của Đức Giêsu Kitô cho nên thánh Giuse cũng có một thứ quyền phụ hệ đối với Hội Thánh. (...) Sứ mạng mà Chúa quan phòng trao cho thánh Giuse đã có một tiền mẫu ở nơi ông Giuse, con của cụ Giacop, được vua nước Ai Cập gọi là “vị cứu tinh của thế giới”. Cũng như ông Giuse xưa kia đã quản lý tốt đẹp n hoặc công việc trong nhà của chủ mình và phục vụ hữu ích cho cả nước, thì thánh Giuse, được đặt làm vị hộ thủ Đức Kitô, phải được nhìn nhận như là kẻ che chở và bảo vệ Hội Thánh  Hội Thánh là nhà của Chúa và là Nước Chúa ở dưới đất”.

Như vậy, việc nhìn nhận thánh Giuse làm Bảo trợ Giáo Hội dựa trên những nguyên tắc thần học sau đây: 1/ Hội Thánh là thân thể của Đức Kitô (xc. thánh Phaolô); 2/ Đức Maria thân mẫu của Chúa Giêsu cũng trở thành thân mẫu của Giáo Hội (xc. 19,26-27; Cv 1,14); 3/ Tín điều “các thánh thông công”: các thánh trên trời tiếp tục cầu nguyện cho các anh chị em của mình ở dưới thế. Vì thế, cũng như thánh Giuse xưa kia đã gìn giữ Chúa Giêsu khi còn ở dưới đất, thì ngày nay trên trời Người cũng tiếp tục chuyển cầu cho Giáo Hội là nhiệm thể của Chúa. Như Đức Maria được gọi là Mẹ của Giáo Hội, thì thánh Giuse, Đấng gìn giữ Chúa Cứu Thế, cũng được gọi là Đấng Bảo trợ Giáo Hội.

Như sẽ thấy trong mục tới, việc suy tôn thánh Giuse làm vị Bảo trợ đi kèm theo một lễ phụng vụ. Dù sao, trước khi được Toà Thánh chính thức tuyên bố làm Bảo trợ Giáo Hội, tước hiệu này đã được tôn kính tại nhiều địa phương, dòng tu. Dĩ nhiên, đã không thiếu giáo phận, quốc gia, dòng tu, hội đoàn, ban ngành nhìn nhận Người như Vị Bảo trợ. Nền tảng của việc suy tôn đó dựa trên hai lý do căn bản: bởi vì Người là mẫu gương, và bởi vì Người có thế lực chuyển cầu. Theo như lời của thánh Têrêsa Avila, thánh Giuse không chỉ là Đấng bảo trợ và chuyển cầu trong những ân huệ tinh thần mà ngay cả trong những ân huệ vật chất nữa.

I. MẪU GƯƠNG NHÂN ĐỨC

Thánh Giuse được coi như mẫu gương nhân đức cho mỗi tín hữu  cũng như cho toàn thể Hội Thánh.

A. Giuse người công chính

Trong những sách suy ngắm về thánh Giuse trong tháng ba dương lịch (cũng như trong kinh cầu kính thánh nhân), danh mục các nhân đức khá dài. Tông huấn RC muốn nêu bật vài khía cạnh thích hợp cách riêng trong thời đại chúng ta: đức tin, trung thành với bổn phận, chiêm niệm.

Chương ba của tông huấn mang tựa đề của một đức tính trích từ Tân Ước, đó là “người công chính” (Mt 1,19), và khai triển cách riêng việc thánh Giuse nhận Đức Maria làm vợ tuân theo ý Chúa.

1/ Mẫu gương đức tin

Tuy nhiên, một chủ đề khác được tông huấn khai triển ở nhiều đoạn là đức tin. Tin là thái độ của con người lắng nghe và tuân theo lời Chúa (xc. RC số 4, trưng dẫn Hiến chế về Mạc khải của Công Đồng Vatican II). Việc chấp nhận này không chỉ diễn ra một lần qua tiếng “Xin vâng”, nhưng được diễn tả ra hành động (xc. RC số 17), và kéo dài ra suốt đời. Cũng như Đức Maria, thánh Giuse trải qua nhiều thử thách trong cuộc “lữ hành đức tin” (RC 4; 6; 21).

Đừng kể những nỗi nhọc nhằn trong việc bảo vệ Thánh Gia (những cuộc di chuyển đi Bêlem, sang Ai Cập, về Nazareth), chắc hẳn sự thử thách lớn lao nhất của Đức Mẹ và thánh Giuse ở chỗi tin rằng người con của mình là “Thiên Chúa cứu chữa”, “Con Thiên Chúa”. Một cuộc “chạm trán” đã xảy ra tại đền thờ Giêrusalem, khi Đức Maria trách con mình đã gây lo lắng cho song thân, thì Chúa Giêsu đã trả lời bằng một câu mà “hai ông bà không hiểu nổi” (Lc 2,50).

2/ Mẫu gương trung tín với bổn phận

Đức tin không chi giới hạn trong phạm vi lý trí và ý chí, cũng như không thể nào giới hạn vào việc thưa “xin vâng”. Tông huấn RC số 17 đã đối chiếu hai trình thuật thiên sứ truyền tin cho Đức Maria và thánh Giuse, và nhận thấy rằng Đức Maria đã đáp lại bằng lời Fiat còn thánh Giuse đáp lại bằng sự thinh lặng. Thực ra, sự thuận tuân của thánh Giuse được diễn tả qua việc làm theo ý Chúa, qua việc chu toàn bổn phận của người chồng (đối với Đức Maria) và người cha (đối với Đức Giêsu).

Mặt khác, việc trung thành với bổn phận mang tính cách năng động, nghĩa là nhạy cảm với tiếng gọi của Chúa, và cụ thể là với tiếng gọi tình yêu. Tông huấn đã trình bày cho thấy thánh Giuse đã thực hiện chức vụ làm cha và làm chồng với một ý thức mới, dưới tác động của Chúa Thánh Thần: tất cả biến thành một cuộc hiến dâng và trao ban (RC 8; 19). Điều này cũng được ghi nhận một cách tổng quát hơn đối với các việc lam thường ngày: lao động được thánh hoá nhờ tình yêu dâng hiến (RC 24).

3/ Mẫu gương của đời chiêm niệm

Như vừa nói, thánh Giuse đã biểu lộ đức tin qua hành động. Tuy nhiên Người không phải là con người náo động. Tiếp theo chương 4 về lao động, chương 5 của tông huấn RC dành cho đời sống nội tâm. Thánh Giuse không những là con người thầm lặng nhưng nhất là con người chiêm niệm: Người sống trong số đối thoại thân tình với Thiên Chúa, tìm hiểu mầu nhiệm của Thiên Chúa qua những dấu chỉ của các biến cố, và đặc biệt qua dấu chỉ nhân tính của Đức Kitô.

Thánh Giuse trở thành mẫu gương chon h, ai được kêu gọi sống đời chiêm niệm, theo như thánh Thomas Aquinas đã nhấn mạnh (xc. RC 25). Nhưng cũng thể nói được là thánh Giuse trở thành mẫu gương cho tất cả các tín hữu, cách riêng những người hoạt động tông đồ, bởi vì hiệu quả của hoạt động tông đồ tuỳ thuộc vào mực độ kết hiệp với Thiên Chúa: “K, có Thầy, các con không làm gì được” (Ga 15,5; xc. RC 30).

Tông huấn đã trưng dẫn lý tưởng về sự hoà hợp giữa chiêm niệm và hoạt động dựa theo những diễn ngữ của thánh Augustinô và thánh Grêgôriô được thánh Tôma tóm tắt qua hai chiều hướng của lòng yêu mến (đức ái: charitas): a/ lòng yêu mến chân lý (amor charitatis), hiểu về Đức Kitô, chân lý hằng sống, đưa đến việc tìm kiếm tiếp xúc thân tình với Chúa; b/ những đòi hỏi của lòng yêu mến (necessitas charitatis), nghĩa là việc phục vụ tha nhân do đức ái thúc đẩy: vừa có thể hiểu như là đức ái muốn mang Chúa Kitô đến cho tha nhân, vừa như là đức ái phục vụ Chúa Kitô nơi tha nhân. Tất cả hai chiều hướng đều xoay quanh đức ái và Chúa Kitô.

B. Mẫu gương cho toàn thể Hội Thánh

Thánh Giuse được suy tôn làm vị bảo trợ Giáo Hội. Giáo Hội tin tưởng rằng Người sẽ tiếp tục bảo vệ và chuyển cầu cho Giáo Hội cũng như xưa kia Người đã bảo vệ Thánh Gia.

Đồng thời, Giáo Hội cũng nhìn lên thánh Giuse như một tấm gương trong công cuộc phục vụ ơn cứu độ (RC 31). Nói khác đi, Giáo Hội cũng nhận lãnh một sứ mạng tương tự như thánh Giuse, đó là bảo vệ những mầu nhiệm thánh. Sứ mạng này không chỉ giới hạn vào việc bảo vệ chân lý đức tin khỏi những lầm lạc, nhưng còn kèm theo nhiệm vụ loan báo Tin Mừng cho thế giới: hoặc truyền bá Tin Mừng cứu độ của Chúa Kitô chon h, người ở ngoài Giáo Hội, hoặc linh hoạt đức tin nơi những người đã tin Chúa nhưng thờ ơ với tôn giáo (xc. RC 29).

C. Mẫu gương cho các thành phần trong Giáo Hội

Ra như được soi sáng bởi một thứ trực giác đức tin, từ lâu nhiều thành phần xã hội hoặc hàng ngũ Dân Chúa đã tìm thấy nơi thánh Giuse một tấm gương và một người bầu cử, chẳng hạn như:

- Những người đính hôn và những người chồng: họ muốn học hỏi tấm gương tôn trọng người bạn của mình, tìm cách bảo vệ thay vì lợi dụng nàng.

- Những người cha: thánh Giuse là tấm gương của một người cha quan tâm đến việc dưỡng nuôi và giáo dục con cái, hợp tác với Cha trên trời.

- Những gia đình: thánh Giuse cùng với Mẹ Maria là mẫu gương của sự hoà hợp về tình yêu và đức tin, đặt ích chung lên trên sở thích cá nhân.

- Những người thợ: thánh Giuse là thợ mộc, đã cần cù làm việc đế kiếm kế sinh nhai, và đã dạy nghề cho con mình.

- Những người nghèo, những người tha hương, những người bị xã hội gạt ra bên lề: thánh Giuse cũng đã nếm cảnh đó tại Bêlem, Ai Cập, Nazareth.

- Những vị mục tử: thánh Giuse là mẫu gương của “cha tinh thần”, tận tuỵ phục vụ Giáo Hội.

- Những người chiêm niệm: thánh Giuse là mẫu gương của sự thinh lặng, dồn hết tâm trí vào việc sống thân mật với Chúa Giêsu.

- Những người lâm chung: thánh Giuse đã lìa đời với Chúa Giêsu và Đức Mẹ đứng bên cạnh. Vì vậy các tín hữu cũng cầu khẩn Người ơn được nhắm mắt an bình trong tình nghĩa với Chúa.

Tông huấn RC đã nhắc riêng đến một vài hàng ngũ:

1/ Các gia đình (RC 21-22): tổ hợp của sự sống, cầu nguyện, lao động. Gia đình là giáo hội gia thất (RC 5; 26). Tông huấn RC quy chiếu về nhiều văn kiện của Toà Thánh được trưng dẫn ở nota 17, đặc biệt là Tông Huấn Familiaris Consortio (22/11/1981).
2/ Giới công nhân, lao động, người nghèo (RC 23).
3/ Các người chiêm niệm (RC 25).

II. QUAN THẦY BẢO TRỢ

Như đã nói trên, trước khi được Toà Thánh chính thức công bố làm Đấng bảo trợ toàn thể Giáo Hội, thánh Giuse đã được tôn kính tại nhiều nơi dưới tước hiệu ấy. Ngoài ra, Người cũng còn được đặt làm quan thầy cho nhiều thành phần xã hội, các giáo đoàn địa phương. Chúng ta có thể kể ra vắn tắt:

A. Các quốc gia

- Áo: DGH Clêmentê X - 1675.
- Bohemia (miền của cộng hoà Séc): Hoàng đế Ferdinand III - 1655.
- Canada: DGH Urbanô VIII - 1637.
- Trung Hoà và Việt Nam: ĐGH Innocenntê XI tông hiến Sacrosancti Apostolatus 17/8/1678.
- Mexico: ĐGH Innocentê XI - 1679.
- Nga: ĐGH Piô XI - 1930.
- Peru: ĐGH Piô XII - 1957.

B. Các giáo phận

Vài trường hợp điển hình

- Mexico. Các giáo phận Tapachula (1957), Autlán và Chihuahua, Ciudad Guzman (1972), Culiacán (1991), Coatzacoalcos (1994). Các thành phố: Pueble de los Angeles (1611), Oxaca (1727), Mexico (1732), San Miguel el Grande (1764), Morelia (1949).

- Philippin. Các giáo phận San José de Antique, Daet, San José (1984).

- Pháp. Giáo phận Paris (1891). Các thành phố Avignon (1630), Verdun, Laneuville-à-Bayard (1966).

- Canada. Các giáo phận Ottawa (1848), Gravelbourg, Labrador-Schefferville, Mackenzie-Fort Smith, Winnipeg (1915).

- Hoa Kỳ. Các giáo phận Hartford (1962), Saint-Joseph-Kansas City, Anchorage, San José in California (1981).

- Việt Nam. Công đồng Đàng Ngoài họp tại Phố Hiến (14/2/1670) dưới sự chủ toạ của Đức Cha Lambert de la Motte xin nhận thánh Giuse làm quan thầy địa phận Đàng Ngoài, Đức Thánh Cha Clêmentê X chấp thuận (tông hiến Apostolatus Officium 23/12/1673).

Các giáo phận Quy Nhơn, Đà Lạt, Xuân Lộc cũng nhận thánh Giuse làm bảo trợ.

C. Các dòng tu

Có những dòng mang tên thánh Giuse và nhiều dòng chọn thánh Giuse làm bổn mạng:

a) Dòng thánh Giuse

theo tự điển các dòng tu (Dizionario degli istituti di Perfezione), hội dòng đầu tiên mang tên thánh Giuse được thành lập tại Genova (Italia) năm 1517. Từ đó đến nay đã có 244 dòng nam nữ mang tên thánh Giuse, đặc biệt 45 dòng nữ phát xuất từ hội dòng thánh Giuse (Soeurs de Saint Joseph) do cha Jacques Crétenet, SJ lập tại Le Puy (Pháp) năm 1650.

Tại Việt Nam có dòng thánh Giuse được cha Jean Sion, MEP thành lập tại nhà Đá, Phù Mỹ, Bình Định ngày 1/11/1926.

b) Nhiều dòng nhận làm bổn mạng

Nhiều dòng tu khác tuy không mang tên thánh Giuse nhưng đã nhận Người làm bổn mạng. Ví dụ dòng Cátminh cải tổ năm 1621, dòng Augustinô năm 1700, dòng Phansinh viện tu năm 1741, dòng Chúa Cứu Thế và dòng Hiến sĩ Đức Mẹ Vô Nhiễm.

Tại Việt Nam, thánh Giuse được Đức Cha Lambert de la Motte đặt làm bổn mạng cho các Hội dòng Mến Thánh Giá (1670).

D. Những thánh đường và hiệp hội

1/ Theo các sử gia, ngôi thánh đường đầu tiên được dâng kính thánh Giuse là nguyện đường do các cha dòng Biển Đức cất ở Bologna năm 1129. Thật khó đếm nổi hiện nay trên thế giới có bao nhiêu thánh đường được cung hiến cho Người. Đền thờ nổi tiếng nhất hiện nay có lẽ thánh điện tại Montréal (Canada), được xây cất do sáng kiến của Frère André (Alfred Besset, 1845-1937, được phong chân phước năm 1982), khởi công từ năm 1904 như một ngôi nhà nguyện nhỏ bé, nhưng hoàn tất năm 1969 với nóc lớn thứ nhì thế giới (chỉ thua đền thờ thánh Phêrô ở Rôma).

Một ngôi đền thờ vĩ được cất tại Barcelona kính Thánh Gia (Sagrada Familia) được khởi công từ năm 1882, với mục đích truyền bá lòng tôn kính thánh Giuse. Nhiều kiến trúc sư thời danh đã cộng gác vào việc xây cất (đến nay vẫn chưa hoàn thành), như ông Antoni Gaudí.

Tại Việt Nam, nhà thờ Chánh Toà Hà Nội mang tước hiệu thánh Giuse, cũng như hai chủng viện Sàigòn và Hànội.

2/ Thánh Giuse được nhận làm bổn mạng của nhiều hiệp hội đoàn thể Công giáo, cách riêng Hiệp hội các thợ mộc (Venerabile Arciconfraternita di san Giuseppe dei Falegnami, Rôma 1450), hiệp hội cầu nguyện cho những người lâm tử (Pia Unione del Transito di san Giuseppe per la salvezza dei morenti, Rôma 1913).

 

MỤC 3
NHỮNG KINH NGUYỆN VÀ VIỆC TÔN KÍNH


Giáo Hội nhìn nhận tầm quan trọng của thánh Giuse không chỉ qua những tuyên ngôn, những văn kiện, nhưng nhất là qua những việc tôn kính đạo đức. Trong chương hai, chúng tôi đã nói qua sự phát triển của lòng sùng kính thánh Giuse trải các thế kỷ. Trong mục này, chúng ta hãy tìm hiểu lịch sử và ý nghĩa của vài hình thức cụ thể, được xếp vào hai loại chính56:

1/ Những hình thức phụng vụ, theo lịch phổ quát và địa phương: lễ kính thánh Giuse ngày 19/3 (bài lễ; kinh Tiền Tụng và Phụng vụ giờ kinh); lễ ngoại lịch kính thánh Giuse; lễ Thánh Gia; lễ thánh Giuse lao động; lễ kính cuộc kết hôn; lễ kính thánh Giuse bảo trợ Hội Thánh; tưởng nhớ việc trốn sang Ai Cập.

2/ Những việc đạo đức dân gian.

a) các kinh nguyện: kinh cầu thánh Giuse; bảy sự vui buồn;

b) các thời điểm: thứ tư hàng tuần, tháng 3 dương lịch.

I. PHỤNG VỤ

Trước hết chúng ta sẽ tìm hiểu những lễ được ghi trong lịch phụng vụ phổ quát, sau đó là những lễ của vài địa phương, hoặc đã thuộc về quá khứ.

A. Ngày lễ chính: 19 tháng 3

Như đã nói trong chương 2, bên Đông phương, nghi điển Byzantin kính nhớ thánh Giuse chung với các thánh tổ phụ vào mùa Giáng sinh; riêng nghi điển Coptô (bên Ai Cập) mừng vào ngày 26 tháng Abib. Bên Tây phương ngày lễ chính được cử hành vào ngày 19 tháng 3, với một tiến trình lịch sử  kéo dài nhiều thế kỷ.

Lần đầu tiên tên thánh Giuse được nhắc đến vào ngày 19/3 là một cuốn “Tử đạo thư (martyrologium: nêu danh tánh của các thánh nhân dịp kỷ niệm ngày qua đời của các ngài) thế kỷ VIII của một đan viện Biển Đức ở Rheinau (thuộc tổng Zurigô, Thuỵ Sĩ). VÀo thế kỷ IX, một đan viện khác cũng thuộc dòng Biển Đức ở Reichenau (miền nam nước Đức tưởng nhớ Người vào ngày 19/3, và cũng có thể là nơi xuất phát phong trào phổ biến lòng tôn kính thánh nhân. “Tử đạo thư” thế kỷ X của Fulda đã đặt tiêu đề ngày 19/3 là: “Tại Bêlem, thánh Giuse, Đấng dưỡng nuôi Chúa” (In Bethleem, sancti Joseph, nutritoris Domini).

Người ta không rõ nguồn gốc mối liên hệ giữa ngày 19/3 với thánh Giuse. Một giả thuyết cho rằng trước kia đã có lễ thánh Giuse Antiokia vào ngày 20/3 trong nhiều “tử đạo thư”. Có thể do sự trùng tên cho nên lịch đã ghi thánh Giuse hôn phu của Đức Maria vào cùng ngày hoặc vào ngày hôm trước. Một giả thuyết nữa cho rằng thời xưa tại Rôma, ngày 19/3 là lễ của các người thợ tôn kính nữ thần Minerva; vì thế nó được thay thế bằng lễ kính thánh Giuse là một người thợ xem ra dễ hiểu. Tiếc rằng chưa có đủ bằng chứng lịch sử về lễ kính thánh Giuse thợ vào các thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo. Dù nguồn gốc như thế nào đi nữa, việc mừng lễ thánh Giuse vào ngày 19/3 đã được thành hình từ đầu thiên niên kỷ thứ hai.

Vào khoảng năm 1030, một đan viện dòng Biển Đức tại Winchester đã cử hành lễ thánh Giuse. Cũng trong thế kỷ này, Dòng Cát Minh từ thánh địa trở về châu Âu đã góp phần vào việc quảng bá lòng sùng kính.

Vào năm 1129 các đan sĩ Biển Đức thuộc đan viện thánh Hêlena đã cất một nhà thờ dâng kính thánh Giuse ở Borgo Galliera (thành phố Bologna, Italia). Có thể nói được đây là trung tâm phổ biến lòng sùng kính thánh nhân sang các nơi khác. Cũng tại nơi đây, tên thánh Giuse, vốn đã trở thành quen thuộc bên Đông phương, bắt đầu được đặt cho các trẻ em khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy. Có lẽ lòng đạo đức sở khởi kính thánh Giuse trong dòng Phansinh bắt nguồn do ảnh hưởng của cuộc tiếp xúc với Bologna.

Sang thế kỷ XIII, chúng ta tìm thấy những bản văn được soạn để mừng lễ. Tại Liège có một lời nguyện riêng cho thánh Giuse. Đan viện Biển Đức thánh Lorensô tại thành phố đó đã có toàn bộ kinh nguyện, với cung hát, để tôn kính Người. Đan viện thánh Florianô ở nước Áo có một quyển sách lễ với một bài lễ kính thánh Giuse, và một bài lễ khác kêu cầu những công nghiệp của Người “chống lại sự phỉ bang của phường tội lỗi”.

Trong thế kỷ XIII, các tu sĩ dòng Phansinh đã tự động mừng lễ thánh Giuse, và một “tử đạo thư” đã xếp ngày 19/3 như là ngày lễ duplex maior trong khi một quyển trước đó chỉ mừng với cấp duplex mino57. Tại Pháp nhà thờ Phansinh ở Toulouse có một nhà nguyện tôn kính thánh Giuse từ năm 1222, và vào ngày 7/71275 một nhà thờ kế cận tu viện Phansinh ở Bourbonnais miền Champagne đã được cung hiến long trọng với thánh hiệu này.

Những cuộc thập tự chinh cũng là cơ hội để mang những di tích thánh từ thánh địa về châu Âu, ví dụ như cây gậy của thánh Giuse, và chiếc nhẫn đính hôn Người trao tặng Đức Maria. Vào năm 1254, một nhà nguyện được xây cất trong nhà thờ thánh Lôrensô ở Joinville-sur-Marne (Pháp) để tôn kính dây thắt lưng và nơi đây đã trở thành trung tâm hành hương58. Có lẽ tại những nhà nguyện được cất lên để tôn kính thánh Giuse, lễ mừng kính Người được cử hành vào tháng 3.

Vào ngày 1/5/1324, dòng Tôi Tớ Đức Mẹ đã làm chủ nhà thờ thánh Giuse ở Bologna kể từ năm 1301, và họ đã phổ biến việc cử hành lễ này. Tổng hội dòng Phansinh vào năm 1399 cũng đã thiết lập lễ thánh Giuse với chín bài đọc trong giờ kinh Phụng vụ và một Thánh lễ sử dụng phần chung của các thánh “hiển tu”59 (Commune confessorum), đồng thời quyết định rằng lễ này phải được cử hành vĩnh viễn trong toàn dòng. Tuy nhiên, không rõ các quyết nghị này có ảnh hưởng đến đâu.

Tại Agrigento (nam Italia), nơi có các tu viện của dòng Phansinh, Đaminh, Cátminh, vào thế kỷ XIV đã lư hành “Kinh nguyện kính Thánh Cả Giuse, cha nuôi của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Officium Santissimi Joseph nutricii et patris adoptive Domini nostril Jesu Christi). Trong phần điệp ca của kinh Magnificat, Người được gọi là “dòng dõi ưu tuyển của Bêlem của Bêlem, được giải thoát khỏi mọi vết nhơ tội lỗi” (O proles almifica de Bethleem electa, gemma nimis ardua, ab omni labe erepta).

Những chi tiết vừa rồi nhằm trình bày nguồn gốc của việc mừng lính lễ trong tháng 3 cùng với việc phát triển ở phương Tây. Sang thế kỷ XV, ngày lễ mới bắt đầu được phổ biến hơn. Tại Công đồng Constance (1414-1418) các nghị phụ đã nghe cha Jean Gerson thuyết minh về lời bầu cử đầy quyền năng của thánh Giuse, Đấng đã sai khiến Hài Nhi Giêsu và Đấng có thể được kêu cầu cách hiệu nghiệm để chấm dứt nạn ly giáo đang gây đau khổ cho Hội Thánh. Cha Gerson đã xin Công đồng xem xét và phong ban cho thánh Giuse một danh dự lớn lao hơn. Tuy nhiên, xem ra ảnh hưởng của dòng Phansinh trong thế kỷ này mới thực là nhân tố chính cho việc bành trướng ngày lễ.

Các tu sĩ dòng Phansinh như thánh Bernardinô Siena (+1414) không chỉ giảng về thánh Giuse mà còn phân phát lược đồ các bài giảng nữa. Tu sĩ Bernardinô Feltre đã thiết lập ở khắp nước Ý những quỹ tín dụng (cho vay không lãi) mang tên là “những ngọn núi đạo đức” (Monte di pieta) đặt dưới sự bảo trợ của thánh Giuse. Năm 1461 ở Salamanca, tổng hội dòng Phansinh (nhánh nhiệm nhặt) đã ấn định ngày lễ vào 19/3. Năm 1471, một người bạn của cha Bernardinô Feltre và là nguyên Bề trên Tổng quyền của dòng Phansinh đắc cử Giáo Hoàng, đó là Đức Sixtô IV. Vào tháng 11 năm 1480, ngài cho phép dòng Phansinh được cử hành mừng lễ bậc duplex maior ngang hàng với các lễ Hiển Linh, Truyền Tin, và Phục Sinh. Mặc dầu là đặc ân được ban cấp cho một dòng tu, nhưng sự phê chuẩn công khai của Đức Thánh Cha đã mở đường cho việc bành trướng lễ rộng rãi hơn. Nhiều ấn bản của sách Lễ Rôma và Sách Nguyện, chẳng hạn như những quyển do tu sĩ Philipphê Rotingo ở Venise xuất bản năm 1481, đã sắp xếp ngày lễ với bậc duplex maior với bài đọc riêng. Người ta cho rằng Đức Sixtô IV đã mở rộng lễ này ra khắp Hội Thánh với cấp simplex, mặc dầu chưa có tính cách bắt buộc. Một ấn bản sách Lễ Rôma tại Venise do Giovanni Sessa in vào năm 1497 đăng lịch của dòng Phansinh với ngày lễ này và những bản văn riêng mà Sách Lễ của Đức Piô V sẽ sử dụng.

Qua thế kỷ XVI, người ta thấy sự bành trướng của việc cử hành lễ 19/3 trong các giáo phận và các dòng tu, với việc ghi tên trong các lịch phụng vụ cùng với việc xuất bản những bản văn dùng trong các Sách Lễ và Sách Nguyện. Việc cải tổ phụng vụ sau Công đồng Trentô đã thiết lập sự thống nhất các sách phụng vụ trong toàn thể nghi lễ Latinh. Khi Đức Piô V cho xuất bản Sách Nguyện (năm 1568) và Sách Lễ Rôma (năm 1570), ngày 19/3 được dành kính “thánh Giuse hiển tu” ở bậc duplex. Nói chung, những lời nguyện được trích từ bài lễ của các vị thánh khác (thánh Matthêu và thánh Tôma). Tuy nhiên, trong thế kỷ này, nhiều thánh thi và lời nguyện được sáng tác và sử dụng trong các lịch riêng, kể cả sau cuộc canh tân của Đức Piô V.

Theo lời yêu cầu của nhiều quốc gia và đoàn thể, Đức Grêgôriô XV tuyên bố lễ thánh Giuse là ngày lễ buộc trong toàn thể Giáo Hội (ngày 8/5/1621). Ngày 6/12/1670, Đức Clêmentê X nâng lên bậc duplex secundae classis, và soạn ba bài thánh thi cho giờ kinh Phụng vụ (kinh chiều: Te Ioseph celebrant; kinh sách: Caelitum, Ioseph, decus; kinh sáng: Iste, quem laeti).

Ngày 4/2/1714, Đức Clêmentê XI phê chuẩn những bản văn riêng cho ngày lễ 19/3, bao gồm những thánh thi đã được Đức Clêmentê X chứng nhận. Ngày 8/12/1870 Đức Piô X công bố thánh Giuse là bảo trợ của Hội Thánh và nâng lễ thánh Giuse lên bậc duplex primae classsis.

Trong thông điệp Quamquam pluries năm 1889, Đức Lêô XIII ước muốn rằng tại những nơi nào mà ngày 19/3 không phải là lễ buộc thì cũng nên được tuân giữ với lòng đạo đức và lòng nhiệt thành như ngày lễ buộc.

Năm 1911 Đức Piô X dời ngày lễ vào Chúa nhận sau ngày 18/3 như để giảm bớt số lượng ngày lễ buộc trong tuần. Tuy nhiên, chỉ sau ba tuần lễ, do những cuộc tranh luận về phụng vụ mùa Chay, lễ thánh Giuse được mừng trở lại vào ngày 19/3 ở bậc duplex primae classsis, nhưng không phải là lễ buộc, với tiêu đề mới “Lễ trọng kính thánh Giuse, bạn trăm năm Đức Trinh Nữ Maria, hiểu tu” (Commemoratio Sollemnis S. Ioseph, Sponsi BMaria.V. Confessoris). Với việc cải tổ phụng vụ năm 1913, ngày lễ được giảm xuống bậc duplex secundae classis.

Khi Đức Bênêđictô XV ban hành bộ Giáo luật năm 1917, điều khoản 1247 một lần nữa ấn định lễ thánh Giuse là ngày lễ buộc trong toàn thể Hội Thánh. Hậu quả là vài tháng sau, lễ phụng vụ được nâng lên bậc duplex primae classsis. Trong bộ Giáo luật 1983, lễ thánh Giuse là một trong mười ngày lễ buộc của Hội Thánh hoàn vũ, tuy Hội đồng Giám mục địa phương có thể xin loại bỏ các ngày lễ đó.

Năm 1956 quyết định quan trọng theo sau việc thiết lập “lễ thánh Giuse lao động” là huỷ bỏ “lễ thánh Giuse bảo trợ” được cử hành vào ngày thứ tư trong tuần thứ ba sau lễ Phục Sinh. Sắc lệnh này đã nối kết tiêu đề của lễ trọng này: “Bảo trợ Hội Thánh hoàn vũ” vào ngày lễ chính của thánh Giuse 19/3.

Năm 1969 trong lịch phụng vụ canh tân do Đức Phaolô VI ban hành, ngày 19/3 được xếp vào hàng lễ trọng và mang tiêu đề “Thánh Giuse, bạn trăm năm Đức Trinh Nữ Maria” (S. Ioseph, Sponsi BMaria.V.). Với sự thay đổi này, không chỉ ngày lễ cả cả tiêu đề “bảo trợ Hội Thánh hoàn vũ” cũng bị loại bỏ.

1/ Thánh lễ ngày 19/3

Sách Bài đọc ban hành năm 1969 ấn định ba bài đọc như sau: 2Sm 7,4.12-14a.16 (Đức Mêsia dòng dõi vua Đavít); Rm 4,13.16-18.22 (gương mẫu đức tin); Mt 1,16,18-21.24 hay Lc 2,41-51a.

Sách Lễ Rôma ban hành năm 1970 có những lời nguyện mới về thánh Giuse trong thánh lễ, đề cao vai trò của Người trong nhiệm cục cứu độ và về niềm vui của Hội Thánh có thánh Giuse như là mẫu gương và đấng bầu cử. Những bản văn hiện tại chú trọng đến thánh Giuse trong tương quan với Đức Kitô và với Hội Thánh:

- đối với Đức Kitô, thánh Giuse “đã hết lòng phục vụ Đức Kitô, Con Một Chúa”. “Chúa đã giao phó Con Một Chúa chăm sóc giữ gìn  như người cha lo cho con cái”.

- đối với Hội Thánh, thánh Giuse là vị bảo trợ được thánh nhân phù trợ ở dưới thế gian này thì cũng được cầu thay nguyện giúp trước toà Chúa”; đồng thời Người cũng là mẫu gương cho Hội Thánh trong việc “cộng tác với Đức Giêsu để hoàn tất công trình Người đã khởi đầu”, biết “phục vụ hy sinh suốt đời như người tôi trung”.

Kinh Tiền Tụng duy trì bản văn được Đức Bênêđictô XV châu phê ngày 9/4/1919, tóm ắt những điều chính yếu của Tin Mừng về vai trò thánh Giuse “người công chính, kết bạn với Đức Trinh Nữ Mẹ Chúa Trời... tôi tớ trung tín và khôn ngoan được trao phó coi sóc Thánh Gia” để thay quyền Chúa Cha “giữ gìn  Đức Giêsu Kitô, Con Một Chúa Nhập thể bởi quyền năng Thánh Thần).

2/ Phụng vụ các giờ kinh

Khi bàn về lịch sử lễ kính thánh Giuse, chúng ta đã đề cập đến sự phát triển của Sách Nguyện về lễ này. Vào thế kỷ XIII, một đan viện dòng Biển Đức ở Liège đã vó một bài nguyện riêng, và vào năm 1399, các tu sĩ dòng Phansinh đã đọc các giờ kinh với chín bài đọc. Đức Sixtô IV (1471-1484) thuộc dòng Phansinh đã đưa các bản văn này vào sách nguyện Rôma. Nhiều sách nguyện khác có kinh phụng vụ kính thánh Giuse vào thế kỷ XVI. Sau Công đồng Trentô, những bản văn được thống nhất dưới thời Đức Piô V (1566-1572) nhưng bản văn đầy đủ hơn được Đức Clêmentê XI công bố ngày 4/2/1714 mà người ta nói do chính ngài soạn ra. Những bản văn này không thay đổi trong hai thế kỷ rưỡi, cho đến khi duyệt lại sách Phụng vụ giờ kinh năm 1971 bao gồm những bản văn mới cho ngày lễ 19/3, lễ Thánh Gia, lễ thánh Giuse lao động.

3/ Lễ ngoại lịch kính thánh Giuse

Lễ ngoại lịch kính thánh Giuse bắt đầu xuất hiện vào thế kỷ XIII, và được đưa vào nhiều Sách lễ xuất bản vào thế kỷ XVI như ở Orleans, Paris, Strasbourg, Salzburg, Chalon và Reims.

Sắc lệnh năm 1883 cho phép các công nghị giáo phận và các cộng đoàn tu trì sáng tác các kinh nguyện ngoại lịch và ấn định những lễ ngoại lịch vào các ngày khác nhau trong tuần, riêng ngày thứ tư là: “Thánh Giuse, bạn của Đức Trinh Nữ Maria, bảo trợ của Hội Thánh Công giáo”. Tiêu đề này xuất hiện ở phần “Lễ nhớ ngoại lịch quanh năm” trong sách Lễ Rôma được xuất bản dưới thời Đức Lêô XIII, nhưng trong ấn bản của Đức Bênêđictô XV, tiêu đề chỉ còn giữ lại “Lễ thánh Giuse” mặc dầu các bản văn không thay đổi. Thỉnh thoảng giáo quyền ban phép cho một vài hội dòng được cử hành lễ nhớ ngoại lịch vào những dịp không bị ngăn trở bởi lịch phụng vụ.

Trong sách Lễ Rôma năm 1970, các thánh lễ ngoại lịch k, còn gắn với ngày nào đặc biệt trong tuần nữa, nhưng được xếp theo thứ tự hệ thống cấp bậc: bắt đầu với lễ Chúa Ba Ngôi, Đức Maria ở vị trí thứ 8, các thiên thần ở vị thế thứ 9, thánh Giuse được xếp vào hàng thứ 10, trước các tông đồ.

Ca nhập lễ trích từ Lc 12,42 và Ca hiệp lễ lấy từ Mt 25,21 nhằm trình bày thánh Giuse như mẫu người đầy tớ trung tín mà Đức Kitô nói đến. Lời tổng nguyện của bản văn cũ vẫn duy trì, trong khi lời nguyện trên lễ vật và lời nguyện hiệp lễ là những bản văn mới, xin vì mẫu gương và lời chuyển cầu của thánh Giuse, người công chính và vâng p hục cùng là thừa tác của các mầu nhiệm cứu độ giúp chúng ta sống thánh thiện và công chính trong tác vụ của mình.

B. Lễ Thánh Gia

Lòng tôn kính Thánh gia “Tam Vị ở trần gian” Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse mới phát triển ở những thế kỷ gần đây. Vào thế kỷ XVII, việc đạo đức đã trải rộng ở Âu châu và Canada, được hỗ trợ bởi những nhân vật như chân phước Marie de l’Icarnation dòng Ursuline, cha Jean Jacques Olier sáng lập tu hội Xuân Bích, và cha Pierre Marie Chaumonot, SJ. Năm 1665, giám mục Nouvelle France, chân phước Francois Xavier de Montmorency-Laval, đã cho phép huynh đoàn Thánh Gia Québec cử hành một lễ kính vào ngày 22/1. Khi kết lễ thánh Giuse được mùng vào ngày nay, lễ Thánh Gia được dời lên Chúa nhận thứ 2 sau lễ Hiển  Linh. Đặc ân này đã sớm mở rộng tới toàn thể giáo phận với bài lễ và kinh nguyện riêng.

Năm 1865 bài lễ và kinh nguyện riêng đã được phép sử dụng trong giáo phận Montréal, rồi cho toàn thể tỉnh Québec.

Tông thư Neminem fugit năm 1892 của Đức Lêô XIII đã phê chuẩn những quy chế của Hiệp hội Thánh gia quốc tế. Vào ngày giáp năm tông thư này, đáp lại những lời thỉnh cầu của nhiều giám mục, một thánh lễ và kinh phụng vụ mới về lễ này đã được chấp thuận với những bài thánh ca mà người ta cho rằng do chính Đức Lêô XIII sáng tác: Kinh Chiều O lux beata caelitum, kinh Sách Sacra iam splendent và kinh Sáng O gente felix hospital. Tất  cả những nơi và tổ chức đã được  phép mừng lễ có thể sử dụng những bản văn này và dĩ nhiên những giáo phận và hội dòng khác cũng có thể áp dụng phép này. Giáo quyền đã thống nhất việc mừng ngày lễ vào Chúa nhận thứ 3 sau lễ Hiển Linh.

Năm 1893, những giáo phận sau đây đã xin và đã được phép cử hành lễ này: Albano, Rome và các vùng phụ cận, Andria, Melfi, Rapolla, Acquapendente, Ariano, Chioggia, Lipari, Caizzzo, Trezzo và Trevisio trong tổng giáo phận Milan, tất cả ở trong nước Ý; Lavant ở Nam Tư; Tours và Hyons ở Pháp; Brugge ở Bỉ; Eichstatt ở Đức; năm 1894 tại Litomerice ở Tiệp Khắc; năm 1903 Biella ở Ý. Các hội dòng được phép cửa hành trong năm 1893-1894 bao gồm dòng Phansinh, dòng Chúa Cứu Thế, dòng Gioan Thiên Chúa, dòng Biển Đức Silvestrini và các tỉnh dòng Đaminh ở đảo Sicilia và Malta. Lễ được xếp vào bậc duplex maior. Tại Thánh địa, nhà thờ thánh Giuse ở Nazaret và thượng phụ Latinh ở Giêrusalem được phép cử hành lễ ngoại lịch về Thánh gia trong một số ngày.

Năm 1914 lễ Thánh gia được ấn định mừng vào ngày 19/1. Dưới thời Đức Bênêđictô XV, theo lời thỉnh cầu của nhiều vị giám mục, lễ này đã mở rộng cho toàn thể Hội Thánh với bậc duplex maior, vào Chúa nhật trong tuần bát nhật lễ Hiển Linh với những đặc ân giống như ngày Chúa nhật. Trong lịch canh tân 1969, lễ này là một trong bốn lễ được chỉ định thường xuyên mừng vào ngày Chúa nhật, ấn định vào Chúa nhật trong tuần bát nhật Giáng Sinh hoặc vào ngày 30/12 trong những năm không có ngày Chúa nhật trong tuần bát nhật.

Các bài đọc mới được thêm vào cho chu kỳ ba năm của thánh lễ là HC 3, một vài câu của Cl và hai đoạn Tin Mừng. Sách lễ năm 1969 đã thay đổi các lời nguyện. Năm 1971, những bản văn mới cho Phụng vụ các giờ kinh, bao gồm bài đọc trích ở diễn từ của Đức Phaolô VI, đã hoàn tất việc sửa đổi lễ này.

C. Lễ thánh Giuse lao động

Lễ này có nguồn gốc gần đây, mặc dầu việc chọn thánh Giuse làm bổn mạng giới công nhân và lao động có một lịch sử lâu dài. Ở đây chúng ta truy tầm một vài dấu vết trong hai thế kỷ vừa qua. Thí dụ trong diễn từ năm 1871, Đức Piô IX đã nhìn nhận rằng việc đặt tên thánh Giuse cho một hiệp hội tìm kiếm việc làm cho những người thất nghiệp thật là thích hợp bởi vì Người đã nuôi sống Thánh Gia. Đức Lêô XIII dành một vài đoạn trong thông điệp Quamquam pluries cho thánh Giuse như là kiểu mẫu và bổn mạng của những người lao động. Năm 1905 Đức Piô X ban ân xá cho một lời cầu nguyện với thánh Giuse, đề cao việc thánh nhân nghỉ việc vào ngày của Chúa và là gương mẫu cho tất cả các công nhân bắt chước. Năm sau, ngài cũng ban ân xá cho ai đọc kinh cầu nguyện với thánh Giuse, gương mẫu của các công nhân. Kinh cầu nguyện nổi tiếng này do chính ngài sáng tác. Năm 1909, kinh cầu thánh Giuse được chấp thuận bao gồm lời cầu “gương mẫu thợ thuyền”. Tự sắc Bonum Sane do Đức Bênêđictô XV ban hành năm 1920 đã đặt thánh Giuse như mẫu gương cho những người lao động để họ có thể học hỏi nơi Người.

Trong một bài huấn từ ngày 11/3/1945, Đức Piô XII đã đặt các hiệp hội các người lao động Công giáo Italia (ACLI) dưới sự bảo trợ của thánh Giuse. Để kỷ niệm mười năm biến cố này, ngài đã loan báo vào ngày 1/5/1955 việc thiết lập lễ thánh Giuse lao động trong phụng vụ, được cử hành ngày đầu tiên của tháng 5, để Kitô hoá ngày lao động trần thế. Ngày lễ muốn trưng bày người thợ khiêm tốn Nazaret như mẫu gương cho các người lao động, giúp họ nhận ra phẩm giá thật sự của sự làm việc và lôi kéo họ đến gần Đức Kitô.

Ngày 1/5/1956 những bản văn mới cho sách Lễ và sách Nguyện được ban hành với tiêu đề “Lễ trọng thánh Giuse lao động, chồng của Đức Trinh Nữ Maria, hiển tu”. Một đề tài quan trọng là công việc của thánh Giuse tiếp tục công việc của Thiên Chúa trong việc tạo dựng thế giới. Đặc biệt trong thanh thi kinh Sáng, (Te, pater Ioseph, ópifex) chúng ta kêu xin Thiên Chúa là Cha và là thợ đã làm nên tất cả mọi sự, đến giúp đỡ chúng ta trong công việc của mình, biết bắt chước thánh Giuse, người cũng là cha và là thợ. Chín bài đọc trích từ St 1-3, Đức Piô XII, thánh Albertô Cả, cùng với Cl 3 và Mt 13,54-58 được dùng cho các bài đọc trong thánh lễ và các giờ kinh nhỏ.

Bậc lễ trọng chỉ kéo dài một thời gian ngắn, bởi vì từ năm 1969 lễ này chỉ còn là lễ nhớ tự do. Tuy nhiên, các bài đọc của sách Lễ vẫn giữ như cũ, chỉ thêm vào một vài bản văn mới. Bản văn giờ kinh Phụng vụ đã chọn số 33-34 của Hiến chế mục vụ “Hội Thánh trong thế giới ngày nay” cho bài đọc kinh Sáng và kinh Chiều. Thánh Giuse được nhìn nhận như là bổn mạng và gương mẫu cho các người thợ và mặc dầu bậc lễ bị rút lại là lễ nhớ tự do, lễ này còn được cử hành long trọng tại nhiều nơi trên thế giới.

Trên đây là những lễ được mừng trong toàn thể Giáo Hội; tiếp theo là những lễ được mừng ở một vài địa phương hay thuộc về quá khứ.

D. Lễ kết hôn của Đức Maria và thánh Giuse

Tại Công đồng Constance năm 1416, cha Jean Gerson đã đề nghị các linh mục cử hành một lễ ngoại lịch kính nhớ việc kết hôn của Đức Maria và thánh Giuse vào ngày thứ năm của tuần III mùa Vọng vì thích hợp với đoạn Tin Mừng của ngày này. Năm 1474 cha Bernardinô Bustis thuộc dòng Phansinh đã viết một kinh phụng vụ cho ngày lễ. Năm 1537 các tu sĩ dòng Phansinh mừng lễ vào ngày 7/3, cả chăng bao lâu, dòng Tôi Tớ Đức Bà mừng ngày 8/3, dòng Đaminh vào ngày 22/1.

Năm 1684 Đức Innocentê XI cho phép cử hành trong vương quốc của Leopold I và sau đó ở Tây Ban Nha. Ở Pháp và Canada lễ mừng vào ngày 22/1 trong khi những huynh đoàn Balan mừng ngày 23/1. Năm 1725 Đức Bênêđictô mở rộng lễ này cho các quốc gia thuộc giáo Giáo hoàng và ấn định ngày lễ vào 23/1.

Trong thế kỷ XIX và XX, Toà Thánh ban phép đặc biệt cho nhiều nơi cử hành lễ, thông thường vào ngày 23/1, nhưng đôi khi vào các ngày khác. Ví dụ năm 1859 lễ được ghi vào ngày 11/2 trong sách kinh nguyện riêng cho tổng giáo phận Fribourg (và ngày 13/2 theo ấn bản 1894) và ngày 26/11 cho giáo phận Cordoba.

Năm 1961, Thánh bộ Nghi lễ ban hành một huấn thị loại bỏ các lễ đặc biệt trong những lịch riêng, trong đó có lễ kết hôn của Đức Maria và thánh Giuse, ngoại từ những nơi có một lý do đặc biệt để cử hành. Trong thời kỳ canh tân phụng vụ hậu Công Đồng Vatican II, lễ này một lần nữa được cho phép trong những lịch phụng vụ riêng. Ví dụ, năm 1989, dòng Hiến sĩ thánh Giuse (Oblati di San Giuseppe) được phép cử hành lễ “kết hôn của Đức Maria và thánh Giuse” như lễ kính vào ngày 23/1, với những bản văn riêng, trong đó có kinh Tiền Tụng như sau:

Cha đã cho Hội Thánh niềm vui cử hành lễ kết hôn thánh thiện của Đức Maria và thánh Giuse: nơi Đức Maria, đầy ân sủng và xứng đáng là mẹ Con Một của Cha, Cha đã báo cho biết sự khởi đầu của Hội Thánh, vị hôn thê xinh đẹp của Đức Kitô; Cha đã chọn thánh Giuse, người tôi tớ trung tính và khôn ngoan như là chồng của Đức Trinh Nữ Mẹ Thiên Chúa, và đặt người làm đầu gia đình của Cha, để trông coi người Con duy nhất của Cha, Đấng được thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần, là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con.

E. Lễ thánh Giuse bảo trợ Hội Thánh

Năm 1416 cha Jean Gerson, trong bài giảng cho các nghị phụ của Công đồng Constance, đã khẩn cầu thánh Giuse như là bảo trợ của Hội Thánh, với niềm hy vọng được thấy sự hiệp nhất trong Hội Thánh đang bị chia rẽ cho sự hiện diện của hai Giáo hoàng giả và một Giáo hoàng chính thức. Năm 1621 Tổng hội dòng Cátminh đã chọn thánh Giuse làm bảo trợ và người cha của toàn thể hội dòng. Năm 1680, Toà Thánh đã ban phép cho Dòng Cát Minh cử hành lễ thánh Giuse là bảo trợ. Lễ được cử hành vào Chúa nhật thứ 3 sau lễ Phục sinh với những bản văn riêng cho thánh lễ và các giờ kinh phụng vụ. Lễ đã được mở rộng cho dòng Augustinô năm 1700, dòng Đức Mẹ chuộc kẻ làm tôi năm 1702, giáo phận Mexico năm 1703 và chẳng bao lâu đến nhiều dòng tu và các giáo phận khác. Vào giữa thế kỷ XIX, lễ đã lan rộng đến nỗi vào ngày 10/9/1847 Đức Piô IX đã châu phê cho toàn thể Hội Thánh sách Lễ và sách Nguyện riêng cho lễ này, được cử hành vào Chúa nhật thứ 3 sau lễ Phục sinh như lễ bậc duplex secundae classis. Sắc lệnh quan trọng ngày 8/12/1870 công bố thánh Giuse bảo trợ toàn thể Hội Thánh tăng thêm lý do thần học cho việc cử hành, mặc dầu không thêm gì long trọng cho phụng vụ.

Năm 1911 sắc lệnh của Đức Piô X đã ấn định “Lễ trọng thánh Giuse, hiển tu, bảo trợ toàn thể Hội Thánh” được cử hành vào Chúa nhật thứ 3 sau lễ Phục sinh, như lễ bậc duplex primae classis với tuần bát nhật. Với những thay đổi năm 1913 nhằm tách rời các ngày lễ khỏi ngày Chúa nhật, lễ này được ấn định mừng vào ngày thứ tư trước Chúa nhận thứ 3 sau lễ Phục sinh, tuy vẫn duy trì tuần bát nhật và bậc lễ.

Năm 1956, sau khi thiết lập lễ thánh Giuse lao động, lễ này đã bị bỏ đi, nhưng ít là tiêu đề “Bảo trở của toàn thể Hội Thánh” được giữ lại bằng cách gắn thêm cho ngày lễ 19/3. Năm 1957 vì Dòng Cát Minh đã mừng lễ này hơn 300 năm nên được phép giữ lại trong lịch canh tân của họ như lễ bậc duplex primae classis với kinh phụng vụ và thánh lễ riêng vào ngày thứ tư trước Chúa nhận thứ 3 sau lễ Phục sinh.

Trong lịch phụng vụ 1969 lễ ngày 19/3 được đặt tên “thánh Giuse, chồng của Đức Maria” đã bỏ đi tiêu đề “bảo trợ Hội Thánh”.

Từ năm 1979, nhiều thỉnh cầu khôi phục lại tiêu đề do các Bề trên Tổng quyền, các Trung tâm và Hội thảo quốc tế về thánh Giuse đệ trình lên Toà Thánh, nhưng không được chấp thuận. Năm 1981, Thánh bộ Bí tích và phụng tự lặp lại phúc thư của Hồng Y Villot năm 1973, theo đó tước hiệu bảo trợ nên để trong lịch riêng hơn là trong lịch phổ quát. Cha Gauthier đã lưu ý rằng trong những ấn bản sách Lễ Rôma bằng tiếng Pháp, một số các thánh bảo trợ được ghi trong lịch riêng như các vị thánh bổn mạng của nước Pháp, Lục Xâm Bảo và châu Âu.

Trong tông huấn Redemptoris Custos, Đức Gioan Phaolô II xác nhận cách chính thức sự quan trọng của tước hiệu “bảo trợ Giáo Hội ngày nay” (chương VI) như sau:

Giáo Hội luôn phải kêu cầu thánh Giuse bảo trợ, không những để bảo vệ Giáo Hội khỏi những nguy hiểm không ngừng nẩy sinh, nhưng nhất là còn để nâng đỡ Giáo Hội trong những nỗ lực canh tân nhằm rao giảng Tin Mừng cho thế giới cũng như tái rao giảng Tin Mừng.

F. Lễ nhớ cuộc trốn sang Ai Cập

Dòng Chúa Cứu Thế đã cử hành lễ này vào Chúa nhật thứ tư của tháng 4. Năm 1856 lễ này được dời vào ngày 17/2. Giáo phận Castellammare di Stabia (gần Napoli, Italia) đã xin phép cử hành lễ này vào năm 1866 nhưng bị từ chối. Năm 1937 giáo quyền đã cho phép cử hành các lễ riêng tại đền thánh Giuse ở Allex (Drôme) bên Pháp: hoặc lễ kết hôn ngày 23/1 hay lễ nhớ cuộc trốn sang Ai Cập ngày 17/2. Năm 1958 nhà nguyện thánh Giuse ở Montréal đã được phép cử hành thánh lễ riêng như lễ duplex maior. Lời thỉnh cầu của họ ghi nhận rằng đây là một biến cố trong đời sống của Chúa, trong đó thánh Giuse đóng vai trò chính như là Đấng bảo trợ cho Người. Những bản văn của lễ này là Is 19,20-22 và Mt 2,13-15. Năm 1961, chỉ thị về việc sửa đổi các lịch phụng vụ riêng đã loại bỏ lễ này, ngoại trừ những nơi có sự liên kết đặc biệt của thánh lễ với biến cố này.

G. Tên thánh Giuse trong nghi thức cầu cho bệnh nhân và người hấp hối

Năm 1920 “Hiệp hội thánh Giuse chết lành” đã nhận được phép thêm vào những lời cầu nguyện đặc biệt đến thánh Giuse trong lễ ngoại lịch cho người hấp hối và cho người chết lành ở nhà thờ của họ tại khu phố Trionfale, Rôma, và chẳng bao lâu phép này được mở rộng cho tất cả các linh mục và các nhà của hiệp hội.

Vào ngày 9/8/1922 Thánh bộ Nghi lễ đã thêm vào sách nghi thức Rôma những lời cầu khẩn đến thánh Giuse trong nghi thức xức dầu thánh (nay là Xức dầu bệnh nhân), trong nghi thức trao phó linh hồn đang hấp hối và trong những lời cầu nguyện cho người mới qua đời.

Năm 1964 Toà Thánh phê chuẩn cho vùng Canada nói tiếng Pháp những lời cầu khẩn thánh Giuse trong nghi thức bí tích Xức dầu bệnh nhân, trong kinh cầu phó dâng linh hồn người đang hấp hối và người vừa tắt thở. Năm 1972 Nghi thức xức dầu và chăm sóc mục vụ cho bệnh nhân ban hành cho toàn thể Giáo Hội có nhắc tới thánh Giuse trong những lời cầu nguyện phó dâng người hấp hối và người sinh thì.

H. Tên thánh Giuse trong kinh nguyện Thánh Thể

Ít là từ năm 1815 nhiều thỉnh cầu được gởi về Rôma để xin ghi tên thánh Giuse vào trong các lời cầu nguyện của thánh lễ, bao gồm trong Lễ quy (nay gọi là kinh nguyện Thánh Thể). Trong nhiều năm hàng triệu chữ ký đã được thu thập cho lời thỉnh cầu này. Năm 1868, cha Lataste, OP, đã viết thư cho Đức Thánh Cha sẵn sàng dâng hiến chính mạng sống của mình cho việc công bố thánh Giuse là bảo trợ của Hội Thánh và ghi tên Người vào trong Lễ quy. Đức Piô IX đã chấp thuận đề nghị thứ nhất để đáp lại những thỉnh cầu của các nghị phụ Công đồng Vatican I, nhưng các ngài đã không ghi tên thánh Giuse vào trong Lễ quy. Đức Lêô XIII đã vui mừng vì nhiều lời thỉnh cầu gởi đến ngài, nhưng ngài cho rằng không thích hợp để thay đổi một kinh nguyện phụng vụ đã có từ lâu đời. Đức Piô X trả lời bằng miệng với Tổng Giám mục Camilli rằng mặc dầu đề nghị bị từ chối năm 1892 nhưng ngài có thể tiếp tục thúc đẩy phong trào ghi tên thánh Giuse vào trong Lễ quy.

Khi người ta đệ trình những thỉnh cầu này lên Đức Gioan XXIII, ngài cảm thấy đã đến thời cơ thuận tiện và ngài đã thông báo cho Thánh bộ Nghi lễ biết ý kiến riêng của ngài về vấn đề này. Tại Công Đồng Vatican II, nhiều giám mục đã thỉnh cầu việc ghi danh bằng những lời đề nghị mạnh mẽ. Ngày 13/11/1962, Đức Thánh Cha đã gây ngạc nhiên cho các nghị phụ khi, qua Hồng y Quốc Vụ Khanh, ngài thông báo sẽ thêm câu “và thánh Giuse, bạn của Đức Trinh Nữ Maria” ngay liền sau tên Maria trong Lễ quy. Ngài ước mong quyết định này có hiệu lực vào ngày 8/12 như biểu lộ ước muốn của Công đồng. Ngày 30/12 một ấn bản mới của sách Lễ Rôma đã ghi thêm tên thánh Giuse trong đó. Sau đó, Đức Gioan XXIII đã tặng nhà thờ Kalisz, Balan một trong những chiếc nhẫn của ngài để tưởng nhớ biến cố này và chiếc nhẫn này đã được gắn vào hình thánh Giuse vào dịp lễ Thánh Gia.

Tiếc rằng, 5 năm sau đó, ba kinh nguyện Thánh Thể  mới được ban hành lại không có tên thánh Giuse.

I. Tên thánh Giuse trong kinh cầu các Thánh

Thành phố Bologna là địa điểm đầu tiên đưa tên thánh Giuse vào trong kinh cầu các Thánh vào năm 1359. Vào thế kỷ XVI dòng Đaminh, Cátminh và nhiều dòng khác đã ghi tên thánh Giuse vào trong kinh cầu. Tuy nhiên, sau việc canh tân của Công đồng Trentô dưới thời Đức Piô V, tên thánh Giuse đã bị bỏ đi, do lỗi của nhà ain hơn là do sắc lệnh của cấp thẩm quyền. Sau khi đón nhận vô số thỉnh cầu và theo lời khuyên của Hồng Y Lambertini (Giáo hoàng Bênnêđictô XIV tương lai), vào ngày 19/12/1726, Đức Bênêđictô XIII đã thêm tên thánh Giuse vào trong kinh cầu, sau tên Đức Maria, các thiên thần và thánh Gioan Tẩy giả, nhưng trước tất cả các vị thánh khác.

II. NHỮNG VIỆC ĐẠO ĐỨC DÂN GIAN

Chúng tôi chỉ giới hạn vào một vài hình thức quen thuộc đối với giáo dân Việt Nam và bỏ qua những tập tục chỉ lưu hành ở vài nước châu Âu.

A. Những kinh nguyện

Bản kinh cầu thánh Giuse lâu đời nhất là của cha Jerónimo Gracián Dòng Cát Minh, xuất bản ở Rôma năm 1597 bằng tiếng Ý và Tây Ban Nha. Có thể ngài đã lấy từ quyển sách nhỏ về bảy sự buồn cùng bảy sự vui của thánh Giuse do Hiệp hội các thợ mộc in ở Perugia. Tuy nhiên, dường như ngài đã thêm vào nhiều lời cầu, và ấn bản tiếng Tây Ban Nha có 49 lời cầu trong khi bản tiếng Ý chỉ có 21.

Trong thời gian này nhiều kinh cầu của các thánh khác đã xuất hiện. Một vài bản kinh chứa đựng những lời cầu sai lầm về thần học; vì thế, năm 1601 dưới thời Đức Clêmentê VIII, Toà Thánh đã ra sắc lệnh tất cả các kinh cầu, ngoại trừ những kinh cầu đã được chấp thuận (đó là kinh cầu các thánh và kinh cầu Đức Bà Loreto) phải đệ trình để được duyệt y trước khi cho sử dụng công khai. Các hàng Giáo phẩm tại Ý và Tây Ban Nha giải thích và áp dụng sắc lệnh này cách chặt chẽ nên không sử dụng kinh cầu thánh Giuse trong hai nước này. Tại các nước khác ở Âu châu, hàng Giáo phẩm giải thích rằng sắc lệnh chỉ áp dụng cho các kinh cầu được đọc nơi công cộng chứ không áp dụng cho việc sử dụng riêng tư. Có hơn ba mươi phiên bản kinh cầu khác nhau, những bản kinh cầu ảnh hưởng nhất là của: chị María de San José Dòng Cát Minh (1548-1603), người bạn thân của thánh Têrêsa Avila và cha Gracián; thánh Francois de Sales trong lá thứ cho thánh nữ Gioanna Chantal năm 1614, vv... Trong những kinh cầu đa dạng, một vài lời cầu ca ngợi thánh Giuse, nhìn nhận vai trờ của Người trong thời thơ ấu của Chúa Kitô, sự hiệp nhất của Người với Đức Maria và những đặc ân của Người như là người chủ của Thánh Gia. Một vài kinh tóm tắt đời sống và sự ưu việt của Người, trong khi những kinh khác liệt kê những ân huệ chính với ước vọng sẽ đạt được nhờ lời chuyển cầu của Người. Một vài kinh chứa đựng những ý kiến đạo đức cá nhân chưa được Hội Thánh tuyên bố, ví dụ như sự thánh hoá của Người trong lòng mẹ và thân xác Người được đưa về trời, nhưng những điều này không bị Hội Thánh phải đối bởi vì nó phản ánh những ý tưởng thần học của thời đại.

Vào đầu thế kỷ XX, nhiều Giám mục tại châu Âu và châu Mỹ xin Toà Thánh phê chuẩn kinh cầu để được đọc công khai. Sau nhiều lần thỉnh nguyện bị từ chối, sau cùng tổng viện phụ dòng Trappe, cha Sébastien Wyart (+1904) đã soạn một kinh cầu để xin phê chuẩn. Tuy nhiên theo nhiều học giả, công thức của kinh cầu được Đức Piô X châu phê ngày 18/3/1909 và được lưu hành hiện nay là của Đức Hồng Y AMaria. Lépicier.

Kinh cầu thánh Giuse dựa theo khung sườn của kinh cầu Đức Bà, với bố cục như sau:

Sau phần dẫn nhập (kêu cầu Chúa Ba Ngôi và Đức Mẹ), là lời khẩn nài thánh Giuse kèm theo 25 danh hiệu. Có thể phân ra thành 6 nhóm:

a) sự thánh thiện (số 1);

b) nguồn gốc: dòng dõi vua Đavít và miêu duệ các tổ phụ (số 2-3);

c) các chức vụ được uỷ thác đối với Đức Maria (số 4-5) và với Chúa Giêsu (số 6-8);

d) các nhân đức nội tâm, gồm 6 nhân đức: công chính, khiết tịnh, khôn ngoan, mạnh bạo, vâng lời, trung thành (số 9-14);

e) các nhân đức trong tương quan với tha nhân: nhẫn nại, thanh bần, cần cù lao động, mẫu gương cho các gia trưởng (số 15-18);

f) bảo trợ: những người trinh khiết (số 19), các gia đình (số 20), những người túng quẫn (số 21), những người ốm đau và lâm tử (số 22-23), chống cự ma quỷ (số 24), bổn mạng Hội Thánh (số 25).

2/ Suy gẫm bảy sự buồn cùng bảy sự vui thánh Giuse 

Năm 1536 Cha Giovanni da Fano (+1539), một tu sĩ Capuchinô người Ý, đã phổ biến một việc đạo đức gọi là “bảy kinh Lạy Cha của thánh Giuse” trong một phụ lục của cuốn sách De arte unione. Cha nói rằng chính thánh Giuse đã khuyến khích thói tục ấy, khi hiện ra để cứu hai tu sĩ bị đắm tàu ở Flandre. Kinh này hoạ theo việc suy gẫm bảy sự đau đớn Đức Mẹ do các tu sĩ dòng Tôi tớ Đức Mẹ phổ biến.

Công thức hiện tại được gán cho chân phước Gennaro Sarnelli (+1744). Vào ngày 9/12/1819 Đức Piô VII ban ân xá cho việc đạo đức này. Ngoài ra ngày 22/1/1836 Đức Grêgoriô XVI cũng ban thêm ân xá cho việc thực hành “Bảy ngày Chúa nhật kính nhớ bảy sự buồn cùng bảy sự vui của thánh Giuse”.
Bảy sự vui buồn thánh Giuse suy gẫm những biến cố vui buồn của thánh Giuse, dựa theo những trình thuật Tin Mừng thơ ấu của thánh Matthêu và thánh Luca, đó là:

- Thứ nhất, Đức Mẹ mang thai Chúa Giêsu, gây ra nhiều băn khoăn cho thánh Giuse, nhưng sau đó được thiên thần giải thích.
- Thứ hai, khi chứng kiến cảnh khó nghèo của Chúa Giêsu khi sinh ra tại Bêlem.
- Thứ ba, khi làm phép cắt bì cho Chúa Giêsu.
- Thứ tư, khi cụ Simeon tiên báo những đau khổ của Chúa Giêsu.
- Thứ năm, khi trốn qua Ai Cập.
- Thứ sáu, khi trở về Nadarét.
- Thứ bảy, khi thì lạc mất và tìm lại Đức Giêsu trong đền thờ.

Sau mỗi cảnh suy niệm, đọc một kinh Lạy Cha và Kính Mừng, có thể thêm kinh Sáng Danh.

B. Những thời điểm dâng kính thánh Giuse

Ngoài những lễ phụng vụ, những kinh đọc, truyền thống dân gian còn dành vài thời điểm kính Ngài, đó là: ngày thứ tư hàng tuần và tháng 3 dương lịch.

1/ Thứ tư hàng tuần

Tục lệ Kitô giáo dành ngày thứ sáu để kính nhớ cuộc Tử nạn của Chúa, ngày thứ bảy kính Đức Mẹ, và ngày thứ tư kính thánh Giuse. Năm 1876, các suy huynh giáo dục dòng Mariste được phép tưởng nhớ thánh Giuse mỗi ngày thứ tư trong kinh Tiểu nhật khoá kính Đức Mẹ. Năm 1883 sách Lễ Rôma và sách Nguyện đã xếp thánh lễ ngoại lịch kính thánh Giuse vào ngày thứ tư.

Dưới khía cạnh lịch sử, các học giả không thấy một mối liên hệ nào giữa ngày thứ tư với thánh Giuse. Vào những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo, các tín hữu ăn chay mỗi tuần hai ngày (thứ tư và thứ sáu), khác với người Do Thái cũng ăn chay mỗi tuần hai ngày, nhưng là vào thứ hai và thứ năm. Theo sự giải thích của vài giáo phụ, ngày thứ sáu tưởng niệm Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá, còn ngày thứ tư tưởng nhớ ngày Chúa bị Giuđa phản bội. Không rõ từ hồi nào người ta dành thứ tư để kính thánh Giuse, và vì lý do gì. Tuy vậy, cũng có người bóp trán để giải thích thế này. Ngày thứ tư là ngày ở giữa tuần lễ, với nhịp độ làm việc cao, khác với nhịp độ uể oải hay cầm chứng của đầu tuần hay cuối tuần. Như vậy đáng để dành cho thánh Giuse, gương mẫu của sự cần cù làm việc.

2/ Tháng ba dương lịch: tháng thánh Giuse

Lễ thánh Giuse được mừng vào ngày 19/3 dần dần đưa đến sự phát triển nhiều việc đạo đức kính Người.

a) Trước tiên là tập tục chuẩn bị ngày lễ với một tuần cửu nhật.

Như đã nói, sự phát triển lòng đạo đức kính thánh Giuse đã tập trung vào ngày lễ chính của Người 19/3. Việc cử hành được nối dài với tuần bát nhật và được chuẩn bị với tuần chín ngày. Ngày 4/3/1713, Đức Clêmentê XI ban ân xá cho những người tham dự tuần cửu nhật được tổ chức tại nhà thờ thánh Inhaxiô tại Rôma.

b) Kế đó người ta kéo dài việc tôn kính thánh Giuse ra suốt tháng 3 dương lịch. Năm 1802 giáo xứ thánh Augustinô tại Modena (Italia) in một quyển sách nhỏ với tựa đề “Tháng hoa huệ, tháng ba dâng hiến thánh Giuse” (Il mese del Giglio, ossia il mese consacrato a Giuseppe). Kể từ đó, nhiều sách tương tự được xuất bản tại nhiều nơi, nổi tiếng nhất là tác phẩm của Giuseppe Marconi in tại Rôma năm 1810 (Il mese di marzo consacrato al glorioso patriarca San Giuseppe) và được dịch ra nhiều ngôn ngữ. Ngày 27/4/1865 Đức Piô IX ban ân xá cho những ai làm việc đạo đức trong một tháng để kính thánh Giuse. Sắc lệnh của Đức Piô IX ngày 4/2/1877 cho phép tính tháng thánh Giuse từ ngày 16/2 đến ngày 19/3. Giáo Hoàng Lêô XIII trong thông điệp Quamquam pluries năm 1889 đã khuyên nhủ thực hành chung việc đạo đức hằng ngày trong tháng ba để tôn kính thánh Giuse.

c) Ngày lễ được mừng vào ngày 19/3 đưa tới một tập khác là kính thánh Giuse  vào ngày 19 mỗi tháng. Năm 1884 Toà Thánh phê chuẩn thói quen lâu đời của giáo phận La Paz (Bolivia) đọc kinh nguyện và cử hành thánh lễ ngoại lịch vào ngày 19 của mỗi tháng khi không bị ngăn trở. Những đặc ân tương tự cũng được ban cấp cho nhiều chỗ khác, tựa như nhà nguyện của đại học Guatemala và một đan viện Cát Minh bên Tây Ban Nha.

Thay lời kết

Trong tập sách này chúng tôi đã trình bày một đường hướng thần học về thánh Giuse dự theo tông huấn Redemptoris Custos của Đức Gioan Phaolô II. Dĩ nhiên là còn rất nhiều thiếu sót.

Thứ nhất, cần phải đọc tông huấn này trong toàn bộ tư tưởng của Đức Thánh Cha, mà tựa đề đã gợi lên xoay quanh “Đấng Cứu Chuộc”: Redemptor hominis, Redemptoris mater, Redemptoris mission.

Thứ hai, cần phải bổ túc với những văn kiện khác của ngài nhắc đến thánh Giuse, đặc biệt về gia đình (Familiaris consortio), về lao động (Laborem exercens), và các bài giảng nhân lễ thánh Giuse.

Thứ ba, cần chấp nhận còn nhiều đường hướng khác nữa để nghiên cứu về thánh Giuse. Tông thư Redemptoris custos muốn nêu bật mối tương quan của Người với Đức Kitô (mầu nhiệm cứu chuộc), Đức Maria, Hội Thánh. Vai trò của Chúa Thánh Linh chỉ mới phớt qua. Thánh Linh không chỉ tác động nơi Đức Maria trong việc Ngôi Lời thụ thai, nhưng chắc hẳn là cả nơi thánh Giuse, qua việc nâng đỡ đức tin cho Người để đón nhận ý Chúa (số 3-4), qua việc tăng cường lòng nhiệt thành hy sinh phục vụ Đức Kitô (số 8), qua vieệc thánh hiến tình yêu với Đức Maria (số 18-19).

Tập sách này chỉ là một thứ nhập đề vào việc nghiên cứu thần học về thánh Giuse, chứ chưa thể kết thúc. Trước khi rút lui, chúng tôi xin giới thiệu vài địa chỉ internet để những người muốn tìm hiểu thêm.
 
THƯ TỊCH VỀ THÁNH GIUSE

THƯ TỊCH TỔNG QUÁT TRÊN INTERNET

Johannes Stoehr, Josefsbibliographie: http://www.teol.de/BIB-JOS.htm

NHỮNG TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU VỀ THÁNH GIUSE

Estudios Josefinos, Valladolid, Tây Ban Nha. Xuất bản từ năm 1947, do sáng kiến của cha J.A. Carrasco OCD. Indices 1977-2000 in n.108, vol. 54 (2000).

Cahiers de Joséphologie, Montréal, Canada, từ năm 1953.

NHỮNG HỘI NGHỊ QUỐC TẾ VỀ THÁNH GIUSE

AA. VV., Die Bedeutung des hl. Josef in der Heilsgeschichte. Akten des IX. Internationalen Symposions ber den hl. Josef, 2 Bde., Kevelaer 2006.

AA. VV., San José en el siglo XIX. Actas del sexton Simposio Internacional, in: Estudios Josefinos 39 (1995); Cahiers de Joséphologie 53 (1995).

AA. VV., San José en el siglo XVIII. Actas del quinto Simposio Internacional, in: Estudios Josefinos 45 (1991); cahiers de Joséphologie (1991) 39.

AA. VV., Presencia de San José en el siglo XVII. Actas del quarto Simposio Internacional (Kalisz, 22-29 septiembre 1985), Valladolid 1987; Estudios Josefinos 51 (1987) n.81-82; Cahiers de Joséphlogie (1987) vol.35.

AA. VV., San Giuseppe nel Seicento. Atti del terzo Simposio Internazionale su San Giuseppe, Libreria Editrice Murialdo, Roma 1981.

AA. VV., San José en el Renacimiento. Actas del Segundo Simposio Internacional, Toledo 1977, 882 pp.

AA. VV., San Giuseppe nei primi quindici secoli della Chiesa. Atti del Primo Simposio Internazionale, Roma 1971, 838 pp. = Estudios Josefinos 25 (1971).

NHỮNG CUỘC HỘI THẢO QUỐC TẾ VỀ THÁNH GIA

AA. VV., La Sagrada Familia en el siglo XVIII. Actas del Tercer Congreso Internacional sobre la Sagrada Familia (Barcelona, 6-10. 9. 1996), Barcelona 1997.

AA. VV., Actas del Segundo Congreso sobre la Sagrada Familia, Barcelona-Roma 1995.

AA. VV., Actas del Primer Congreso sobre la Sagrada Familia, Barcelona-Roma 1993.

AA. VV., La Sagrada Familia en los primeros XVI siglos de la iglesia, Actas del Congreso, Barcelona 1992.

NHỮNG TRUNG TÂM PHỔ BIẾN NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ THÁNH GIUSE: tài liệu thần học, bài giảng, kinh nguyện, hình ảnh

1/ Tiếng Pháp:

- Site international de chercheurs josephains pluridisciplinaire www.josephologie.info/

- Oratoire Saint Joseph du Mont-Royal: www.saint-joseph.org/

- Famille Saint Joseph: http://www.saint-joseph.fr/

2/ Tiếng Anh:

- Oblates of Saint Joseph in California: www.osjoseph.org (St Joseph in Scripture, Liturgy, Apocypha, Magisterium, Church Fathers).

3/ Tiếng Ý:

- Centro Studi San Giuseppe (Giuseppini del Murialdo): www.murialdo.org/sangiuseppe/centro.htm

- Movimento Giuseppino: http://www.osjcuria.org/movgiuseppino/

4/ Tiếng Tây Ban Nha:

- Centro Josefino Espanol (OCD, Valladolid): www.centrojosefino.org

- Movimiento de Vinh danh Cristiana, Medellin (Colombia): www.redemptoriscustos.org

- Centro Josefino de Centro America (Salvador): www.centroiph.org

5/ Tiếng Việt:

- Thánh Giuse quan thầy Giáo Hội Việt Nam (Lm. Nguyễn Phúc Kim) http://hivong.org/giusequanthayvn.php

TÀI LIỆU THAM KHẢO

AA. VV., Custodio del Redentor. Comentario a la exhortación apostolica “Redemptoris Custos”, in: Estudios Josefinos 44 (1990) n.87-88, pp. 3-266.

Doublier-Villette Christian Michel, Joéphologie. Etat de la question, Mémoire de Maitrise d’Archéologie, Lyon 2004.

Griffin Michael, St Joseph: a Theological Introduction, in: Cahiers de Joséphogie 1972, p. 219-251.

Stramare Tarcisio, San Giuseppe nella storia della salvezza, LDC, Torino 1993.

Id., Gesù lo chiamò Padre. Rassegna storico-dottrinale su san Giuseppe, LEV, Città del Vaticano 1997.

Id., Vangelo dei Misteri della Vita Nascosta di Gesù, Sardini, Bornato in Franciacorta 1998.

Id., San Giuseppe. Il custode del redentore nelle vita di Cristo e della Chiesa, Temi di Predicazione n.98, Napoli 2006.

Toschi Larry M., Joseph in the New Testament, Guardian of the Redeemer Book, Santa Cruz 1991.

Id., St Joseph in Liturgy. Liturgical and paraliturgical recognition of Saint Joseph, in: http://www.osjoseph.org/stjoseph/liturgy/index.php
---------------------------------

Phụ lục:

TÔNG HUẤN REDEMPTORIS CUSTOS
ĐẤNG GÌN GIỮ CHÚA CỨU THẾ

Về dung mạo và sứ mạng của thánh Giuse trong cuộc đời của Chúa Giêsu và của Hội thánh.

* Bản dịch của Học viện Đa Minh

Kính gởi các Giám mục,
Linh mục và Phó tế,
tu sĩ nam nữ,
và tất cả mọi tín hữu giáo dân,

NHẬP ĐỀ

1. Được kêu gọi gìn giữ Chúa Cứu Thế, “ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” (Mt 1,24)

Ngay từ những thế kỷ đầu, do cảm hứng từ Tin Mừng, các Giáo phụ đã chứng tỏ cho thấy rõ ràng rằng thánh Giuse, như đã ân cần săn sóc đức Maria và đã tận tình dạy dỗ đức Kitô trong niềm vui sướng, thì Người cũng là Đấng gìn giữ, bảo trợ Thân Mình của đức Kitô, tức là Giáo Hội mà Đức Thánh Trinh Nữ là hình bóng và là khuôn mẫu.

Nhân dịp kỷ niệm 100 năm công bố thông điệp Quamquam Pluries của ĐGH Lêô XIII2, và trong đường hướng tôn kính thánh Giuse đã có từ nhiều thế kỷ, tôi muốn cùng anh chị em suy niệm một vài tư tưởng về Đấng mà Thiên Chúa “đã trao phó cho việc gìn giữ kho tàng quý giá nhất của Người”3. Tôi vui mừng thực hiện công tác mục vụ này để làm tăng triển lòng sùng kính của mọi người đối với Đấng bảo trợ Giáo hội toàn cầu, cũng như làm tăng triển tình yêu đối với Đấng Cứu Thế mà thánh Giuse đã phục vụ một cách gương mẫu.

Như thế, không những toàn thể dân Kitô hữu sẽ nhiệt thành hơn trong việc chạy đến vói thánh Giuse và khẩn khoản nài xin Người bảo trợ, nhưng Dân Chúa còn nhìn thấy được cách thức khiêm nhường và khôn ngoan của thánh Giuse trong việc phục vụ và tham dự vào nhiệm cục cứu độ4.

Thật vậy, tôi nhận thấy rằng, nếu có được một suy tư mới mẻ về việc tham dự của vị Hôn phu đức Maria vào mầu nhiệm thần linh, thì Giáo hội, trong bước đường đi tới tương lai cùng với toàn thể nhân loại, sẽ không ngừng tìm thấy được căn tính của mình trong khung cảnh kế hoạch cứu độ, kế hoạch này đặt nền tảng trong mầu nhiệm Nhập The.

Không kể đức Maria, Thân mẫu của Ngôi Lời Nhập Thể, thánh Giuse Nadarét rõ ràng đã tham dự vào mầu nhiệm Nhập Thể nhiều hơn ai hết. Cùng với Đức Mẹ, thánh Giuse đã tham dự vào mầu nhiệm đó, đã được lôi cuốn vào trong thực tại của cùng một biến cố cứu độ, và Người đã là người được ký thác cùng một tình yêu, nhờ tình yêu đó, Chúa Cha vĩnh cửu đã “tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô” (Ep 1,5)

I. KHUNG CẢNH CỦA TIN MỪNG
CUỘC HÔN NHÂN VỚI ĐỨC MARIA

2. “Này ông Giuse, là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông ve, vì người con bà cưu mang là do Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi” (Mt 1,20-21)

Những lời này gói ghém điều cốt yếu của chân lý Thánh Kinh về thánh Giuse và về thời gian tại thế của Người mà các giáo phụ thường đặc biệt quy chiếu.

Thánh Mátthêu giải thích ý nghĩa thời gian đó bằng việc xác định cách sống của thánh Giuse. Tuy nhiên, để hiểu đầy đủ nội dung và văn mạch đoạn văn đó, cần phải đặt nó song song với đoạn Tin Mừng của Luca. Thật vậy, khi đối chiếu với câu: “Sau đây là gốc tích đức Giêsu Kitô: bà Maria mẹ Người, đã đính hôn với ông Giuse. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,18), ta thấy thiên chức làm mẹ “do bởi Chúa Thánh Thần” của Đức Maria trong bản văn của Luca nói về biến cố Truyền Tin được mô tả chi tiết và rõ ràng hơn. “Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc nhà Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria” (Lc 1,26-27). Những lời của sứ thần: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà” (Lc 1,28) làm cho Đức Maria bối rối và phải suy nghĩ. Khi đó thiên sứ trấn an đức Maria và bày tỏ cho bà biết ý định đặc biệt của Thiên Chúa đối với bà: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người” (Lc 1,30-32).

Trước đó một chút, thánh sử đã xác định rằng khi được sứ thần truyền tin, đức Maria “đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuôc nhà Đavít”. Tính chất của cuộc “hôn nhân” này được gián tiếp giải thích trong câu hỏi của đức Maria khi nghe thiên sứ báo việc sinh hạ một con trai: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng” (Lc 1,34). Khi đó, sứ thần trả lời: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế kẻ sắp sinh ra sẽ là thánh, sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). Đức Maria dù đã “kết hôn” với thánh Giuse, vẫn mãi mãi đồng trinh, bởi vì Con Trẻ Người cưu mang khi Truyền Tin là do Chúa Thánh Thần.

Về điểm này, bản văn Luca trùng hợp với Mt 1,18 và giúp giải thích cho điều chúng ta vừa đọc: (theo Matthêu), sau khi đính hôn với thánh Giuse, đức Maria “thấy mình có thai do bởi Chúa Thánh Thần”, điều đó hoàn toàn phù hợp với biến cố Truyền tin (ở Luca), nhất là với những lời cuối cùng của Đức Maria: “Xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói” (Lc 1,38). Đức Maria đáp lại ý định rõ ràng của Thiên Chúa, và ngày qua tháng lại, trước mặt nhân loại và thánh Giuse, đức Maria trở thành như một người có thai, như một phụ nữ sẽ sinh con và mang trong mình huyền nhiệm làm mẹ.

3. Trong hoàn cảnh như vậy, “ông Giuse, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1,19). Thánh Giuse không biết phải cư xử thế nào trước sự kiện làm mẹ “kỳ lạ” của Maria. Chắc chắn là thánh Giuse đã tìm cách giải đáp thắc mắc làm ông lo ngại, nhưng nhất là phải tìm lối thoát khỏi tình cảnh khó khăn này. Khi thánh Giuse “đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mông cho ông rằng: “Này ông Giuse là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai, và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội lỗi” (Mt 1,20-21)

Hai bản văn “Truyền Tin” của Matthêu và Luca có rất nhiều nét giống nhau. Sứ thần Thiên Chúa dẫn đưa Giuse vào huyền nhiệm làm mẹ của Maria. Người phụ nữ, theo pháp luật là hôn thê của thánh Giuse, tuy vẫn hoàn toàn đồng trinh, đã trở thành mẹ do Chúa Thánh Thần. Và khi người con trong lòng đức Maria chào đời thì sẽ được đặt tên là Giêsu. Đó là một tên gọi quen thuộc trong dân Ítraen và người ta thỉnh thoảng cũng đặt tên đó cho các trẻ em. Tuy nhiên, đây lại là người Con, theo lời hứa của Thiên Chúa, sẽ hoàn tất trọn vẹn ý nghĩa của tên đó: Giêsu, -Yêhôsua có nghĩa là Thiên Chúa cứu.

Sứ thần Thiên Chúa ngỏ lời với thánh Giuse như là “người chồng của Maria”, là người, khi đến thời đến buổi, sẽ đặt tên Giêsu cho con trẻ sinh ra do Trinh nữ đã đính hôn với ông. Như vậy khi ngỏ lời với thánh Giuse, sứ thần đã giao phó cho thánh Giuse những nghĩa vụ của một người cha trần thế đối với người con của đức Maria.

“Khi tỉnh giấc, ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà” (Mt 1,24). Thánh Giuse đã đón nhận đức Maria cùng với huyền nhiệm làm mẹ của Người, ông đón nhận Maria cùng với người con sẽ được sinh ra do quyền năng Chúa Thánh Thần: như thế thánh Giuse tỏ ra một ý muốn sẵn sàng, giống như đức Maria, đối với điều Thiên Chúa đã yêu cầu qua lời sứ thần.

II. NGƯỜI ĐƯỢC KÝ THÁC MẦU NHIỆM CỦA THIÊN CHÚA

4. Ít lâu sau biến cố Truyền Tin, đức Maria đi đến nhà Dacaria để thăm người bà con là Êlidabét. Khi nghe lời chào của đức Maria, Êlidabét “được tràn đầy Thánh Thần” (xc. Lc 1,41) đã đáp lại. Sau những lời có liên hệ chặt chẽ với lời chào của thiên sứ trong biến cố Truyền Tin, Êlidabét nói thêm: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45). Những lời này đã là tư tưởng then chốt của thông điệp Redemptoris Mater (Thân Mẫu Đấng Cứu Thế), trong đó tôi muốn đào sâu giáo huấn của Công đồng Vaticanô II: “Đức Trinh Nữ đã tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin, trung thành hiệp nhất với Con Mình cho đến bên thập giá”5, Mẹ “đi tiên phong”6 những người bước theo Chúa Kitô do lòng tin.

Bây giờ, vào lúc khởi đầu cuộc lữ hành này, đức tin của đức Maria đã gặp đức tin của thánh Giuse. Nếu bà Êlidabét đã nói với Mẹ Đấng Cứu Thế: “Phúc thay kẻ đã tin”, thì người ta cũng có thể phần nào áp dụng mối phúc ấy cho thánh Giuse, bởi vì ông đã chấp thuận lời Thiên Chúa ngỏ với ông trong giây phút quyết định đó. Nói đúng ra, ông Giuse không đáp lại “lời truyền tin” của sứ thần như đức Maria, nhưng ông đã “làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà”. Điều ông Giuse làm là một sự “tuân phục của lòng tin” rất thuần tuy (xc. Rm 1,5; 16,26; 1 Cr 10,5-6).

Ta có thể nói rằng điều ông Giuse làm đã nối kết Người một cách hết sức đăc biệt với đức tin của đức Maria: ông Giuse đã chấp nhận điều mà trước đó đức Maria đón nhận khi được truyền tin, như là một chân lý đến từ Thiên Chúa. Công đồng nói: “Phải bày tỏ sự tuân phục của lòng tin đối với Thiên Chúa mạc khải. Nhờ sư vâng phục đó, con người phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa một cách tự do, “dâng lên Thiên Chúa mạc khải sự quy phục hoàn toàn của lý trí và ý chí” đồng thời sẵn sàng chấp nhận mạc khải Người ban cho”7. Câu này, liên quan đến chính yếu tính của đức tin, được áp dụng trọn vẹn cho ông Giuse người Nadarét.

5. Như thế, thánh Giuse được đặc biệt trở thành người được ký thác mầu nhiệm “đã được giữ kín từ muôn thuở nơi Thiên Chúa” (xc Ep 3,9), cũng như đức Maria đã được ký thác như vậy trong giây phút quyết liệt mà thánh Tông đồ gọi là “khi thời gian tới hồi viên mãn”, tức là khi “Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà” để “cứu chuộc những ai sống dưới lề luật” để “ban cho họ ơn làm nghĩa tử” (xc Gl 4,4-5). Thánh Công đồng nói: “Thiên Chúa nhân lành và khôn ngoan đã muốn mạc khải chính mình và tỏ cho mọi người biết mầu nhiệm thánh ý Người (xc Ep 1,9). Nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Kitô, Ngôi Lời nhập thể, trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần bản tính của Thiên Chúa.” (xc Ep 2,18; 2 Pr 1,4)8.

Cùng với đức Maria, thánh Giuse là người đầu tiên được ký thác mầu nhiệm này của Thiên Chúa. Đồng thời và cùng với đức Maria, thánh Giuse tham dự vào giai đoạn cao điểm của Mạc Khải, tức là việc Thiên Chúa tỏ mình ra trong đức Kitô, và thánh Giuse đã tham dự từ giây phút khởi sự. Khi đọc bản văn của hai thánh sử Matthêu và Luca, người ta cũng có thể nói rằng thánh Giuse là người đầu tiên tham dự vào niềm tin của Mẹ Thiên Chúa, và như thế, thánh Giuse nâng đỡ bạn mình trong niềm tin vào điều thiên sứ loan báo, thánh Giuse cũng là người đã được Thiên Chúa đặt ở hàng đầu trên con đường lữ hành đức tin, con đường mà đức Maria, nhất là khởi từ đồi Can-vê và ngày Hiện xuống, sẽ là người đi tiên phong một cách tuyệt vời9.

6. Con đường cá biệt của thánh Giuse, cuộc lữ hành đức tin của Người sẽ kết thúc trước, nghĩa là trước khi đức Maria hiện diện dưới chân thập giá trên đồi Gôlgôtha và khi Đức Kitô đã về cùng Chúa Cha, trước khi Mẹ Maria trở lại nhà Tiệc ly vào ngày Giáo hội được sinh ra từ sức mạnh của Thánh Thần Chân lý và được bày tỏ cho thế giới. Tuy nhiên con đường đức tin của thánh Giuse cũng theo một hướng đó, hoàn toàn được quy định bởi cũng một mầu nhiệm; cùng với Mẹ Maria, thánh Giuse trở thành người đầu tiên được ký thác mầu nhiệm đó. Nhập thể và Cứu độ cùng làm nên môt thực thể duy nhất hữu cơ, bất khả phân, trong đó, “công cuộc mạc khải được thực hiện bằng các biến cố và lời nói liên kết mật thiết với nhau”10. Chính vì sự duy nhất này, đức Gioan XXIII, người rất mực tôn kính thánh Giuse, đã quyết định rằng, trong lễ quy Rô-ma, để muôn đời kính nhờ mầu nhiệm Cứu độ, danh tánh thánh Giuse được thêm vào bên cạnh tên đức Maria, trước các tông đồ, các thánh giáo hoàng và các thánh tử đạo11.

NHIỆM VỤ CỦA VAI TRÒ LÀM CHA

7. Như ta thấy từ các bản văn Tin Mừng, cuộc hôn nhân với đức Maria là nền tảng pháp lý cho vai trò làm cha của thánh Giuse. Chính để bảo đảm một sự hiện diện phụ tử bên cạnh đức Giêsu mà Thiên Chúa đã chọn thánh Giuse làm bạn của đức Maria. Như thế vai trò làm cha của thánh Giuse “mối tương quan này đưa thánh Giuse đến thật gần với đức Kitô, là cùng đích của mọi việc tuyển chọn và mọi ơn tiền định (xc Rm 8,28-29)” được thực hiện qua cuộc hôn nhân với đức Maria, nghĩa là qua đời sống gia đình.

Trong khi quả quyết rõ ràng rằng đức Giêsu được hoài thai nhờ Chúa Thánh Thần và đức Maria vẫn trọn vẹn đồng trinh (xc Mt 1,18-25; Lc 1,26-38), các thánh ký vẫn gọi thánh Giuse là chồng của đức Maria và đức Maria là vợ của thánh Giuse (xc Mt 1,16.18-24; Lc 1,27; 2,5).

Đối với Giáo hội cũng thế, nếu cần phải tuyên bố rằng đức Giêsu được cưu mang trong sự đồng trinh thì cũng cần phải bảo vệ cuộc hôn nhân giữa đức Maria và thánh Giuse, vì vai trò làm cha của thánh Giuse lệ thuộc, theo pháp lý, vào cuộc hôn nhân đó. Như thế, người ta hiểu tại sao dòng dõi đức Giêsu lại được kể theo gia phả thánh Giuse. Thánh Augustinô tự hỏi: Tại sao các dòng dõi đó lại không thể thuộc về gia phả của thánh Giuse được? Thánh Giuse không phải là chồng của đức Maria sao? (. . .) Qua lời nói đầy uy tín của sứ thần, Kinh thánh xác quyết rằng Giuse là chồng của đức Maria. Sứ thần nói: “Đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” Thánh Giuse được lệnh đặt tên cho Hài Nhi theo dòng họ mình, dù rằng Hài Nhi không sinh ra do ông. Sứ thần nói: “Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giêsu.” Kinh thánh biết rõ ràng là Đức Giêsu không sinh ra từ tinh trùng của thánh Giuse, bởi vì thánh Giuse còn đang bận tâm về nguồn gốc việc thụ thai của đức Maria, sứ thần đã nói với thánh Giuse: điều đó là do Thánh Thần. Tuy thế, quyền làm cha của thánh Giuse không mất đi, bởi vì thánh Giuse được lệnh lấy tên dòng họ mình đặt cho Con Trẻ. Sau cùng chính Đức Trinh Nữ Maria, dù ý thức rõ ràng mình đã thụ thai đức Kitô không do liên hệ hôn nhân với thánh Giuse, nhưng vẫn gọi thánh Giuse là cha của Đức Kitô”12.

Vì mối dây hôn phối liên kết hai người, nên người con trai của đức Maria cũng là con của thánh Giuse: “Vì mối dây hôn nhân trung tín này, cả hai xứng đáng được gọi là cha mẹ của đức Kitô, không phải chỉ có đức Maria được gọi là Mẹ, nhưng cả thánh Giuse cũng được gọi là Cha của đức Kitô và là người chồng của đức Maria, bởi vì cả hai trở thành cha mẹ không phải do xác thịt mà do tinh thần.”13 Trong cuôc hôn nhân này, không thiếu sót điều gì cả: “Nơi cha mẹ của đức Kitô, tất cả những thiện hảo của hôn nhân đã được thực hiện: sinh con, trung tín, bí tích. Như chúng ta biết, sinh con chính là Chúa Giêsu; trung tín bởi vì không hề có ngoại tình; và bí tích vì không có ly dị”14.

Khi phân tích cuộc hôn nhân này, thánh Augustinô cũng như thánh Tôma đều luôn luôn cho rằng bản chất của nó là do “sự liên kết chặt chẽ của hai tinh thần”, trong “sự liên kết của hai tâm hồn”, trong “sự đồng lòng”15, tất cả những yếu tố đó được tỏ hiện môt cách gương mẫu trong cuộc hôn nhân này. Vào lúc cao điểm của lịch sử cứu độ, khi Thiên Chúa mạc khải tình yêu của Người cho nhân loại qua việc ban Ngôi Lời, thì rõ ràng chính cuộc hôn nhân của Maria và Giuse, với trọn vẹn tự do, đã thực hiện được “sự dâng hiến chính mình trong hôn nhân” bằng cách đón nhận và diễn tả môt tình yêu như thế16. “Trong công cuôc đổi mới mọi sự trong Đức Kitô, hôn nhân cũng được thanh tẩy và đổi mới, trở thành một thực tại mới, một bí tích của Giao Ước mới. Và ở đây cũng như trong Giao Ước cũ, Giao Ước được khởi đầu với một đôi vợ chồng. Tuy nhiên, trong khi đôi vợ chồng Ađam và Evà là nguồn sự dữ lan tràn trên trần gian, thì đôi bạn thánh Giuse và đức Maria lại là cao điểm từ đó sự thánh thiện tuôn tràn trên toàn trái đất. Đấng Cứu thế đã bắt đầu công trình cứu độ của Người nhờ sự liên kết đồng trinh và thánh thiện này, trong đó thể hiện được tất cả ý muốn quyền năng của Người nhằm thanh tẩy và thánh hóa gia đình, là ngôi đền thánh của tình yêu và là cái nôi của sự sống”17.

Có biết bao bài học được rút ra cho đời sống gia đình ngày nay. Bởi vì “yếu tính của gia đình và các bổn phận gia đình dứt khoát phải được xác định bằng tình yêu” và vì “gia đình lãnh nhận trách nhiệm gìn giữ, bày tỏ và thông truyền tình yêu, là phản ảnh sống đông và là sự tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, vào tình yêu của Chúa Kitô đối với hiền thê của Người là Giáo hội”18, tất cả các gia đình Kitô giáo phải tìm thấy hình ảnh của mình trong gia đình thánh đó, “Giáo hội thu nhỏ”19 tuyệt diệu đó. Quả thât, nơi đây, do “ý định kỳ diệu của Thiên Chúa, Con Thiên Chúa đã sống ẩn dật suốt nhiều năm dài. Như thế, thánh gia là mô hình và là mẫu gương cho mọi gia đình Kitô giáo”20.

8. Thiên Chúa đã gọi thánh Giuse để trực tiếp phục vụ chính đức Giêsu và sứ vụ của Người qua việc thực thi trách nhiệm làm cha: chính bằng cách đó, vào thời viên mãn, thánh Giuse đã cộng tác vào mầu nhiệm cứu độ lớn lao và người đích thật là “thừa tác viên của ơn cứu độ”21. Trách nhiệm làm cha của thánh Giuse được diễn tả cụ thể trong sự kiện: “Người đã biến cuộc đời mình thành môt sự phục vụ, một sự hy sinh cho mầu nhiệm Nhập Thể và cho sứ vụ cứu độ gắn kèm theo đó; đã sử dụng uy quyền pháp lý đối với thánh gia để trao ban bản thân, cuộc sống và công tác; đã biến đổi ơn gọi tự nhiên trong tình yêu gia đình thành nên một hiến tế siêu nhiên chính bản thân mình, trái tim và tất cả sức lực của mình cho tình yêu phục vụ Đấng Cứu Thế đã sinh ra trong nhà mình”22.

Phụng vụ nhắc lại rằng “thánh Giuse đã được trao phó việc gìn giữ các mầu nhiệm cứu độ vào lúc bình minh của thời đại mới”23 và xác quyết rằng Người là “đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà Thiên Chúa đã trao phó thánh gia để Người coi sóc như người Cha đối với Con duy nhất”24-.

Đức Lêô XIII nhấn mạnh tính cách cao cả của sứ mệnh này: “Do phẩm cách rất cao sang, thánh Giuse sáng chói giữa mọi người, bởi vì do ý muốn của Thiên Chúa, thánh Giuse đã là người giữ gìn Con Thiên Chúa, và nhân loại nhìn lên Người như người Cha của mình; từ đó suy ra rằng Ngôi Lời Thiên Chúa đã khiêm nhường lụy phục thánh Giuse, đã vâng lời và đã thảo kính đối với thánh Giuse theo những nghĩa vụ đòi buộc mọi người con đối với cha mẹ mình”25.

Không thể quan niệm một trách vụ cao cả như thế lại không đòi những đức tính cần thiết để chu toàn. Như vậy, thánh Giuse, “nhờ ân huệ đặc biệt từ trời, có tất cả tình thương tự nhiên, tất cả sự ân cần âu yếm mà trái tim môt người cha có thể có được”26.

Cùng với quyền thế của một người cha đối với đức Giêsu, Thiên Chúa cũng ban cho thánh Giuse môt tình yêu xứng hợp, tình yêu bắt nguồn từ trong Chúa Cha, là “nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất.” (Ep 3,15)

Trong các sách Tin Mừng, trách vụ làm cha của thánh Giuse đối với đức Giêsu được mô tả rõ ràng. Thật vậy, tuy vẫn tôn trọng sự “hạ mình” vốn có trong nhiệm cục Nhập Thể, ơn cứu độ, nhờ nhân tính đức Giêsu, được thể hiện trong những hành vi làm nên đời sống gia đình hằng ngày. Các thánh ký đã rất quan tâm đến việc minh chứng rằng, trong đời sống đức Giêsu, không có điều gì là tình cờ và tất cả đều diễn ra theo kế hoạch Thiên Chúa đã thiết lập từ trước. Công thức thường được nhắc đi nhắc lại: “Điều đó xảy ra để hoàn tất . . . “ cũng như việc quy chiếu từng biến cố vào một bản văn Cựu ước là nhằm để nhấn mạnh sự duy nhất và liên tục trong dự định của Thiên Chúa, dự định đó hoàn thành trong Đức Kitô.

Qua biến cố Nhập Thể, “các lời hứa” và “các hình bóng” của Cựu ước trở thành “những thực tại”: các nơi chốn, các nhân vật, biến cố, nghi thức hòa lẫn vào nhau theo trật tự rõ ràng của Thiên Chúa, được các thiên thần loan báo và được các nhân vật nhạy cảm đặc biệt với lời Thiên Chúa đón nhận. Đức Maria là tôi tớ khiêm nhường của Thiên Chúa, được chuẩn bị từ muôn thuở cho sứ mệnh làm Mẹ Thiên Chúa; thánh Giuse là người Thiên Chúa đã chọn để làm “người sắp xếp cho việc Chúa sinh ra”27, là người có trách vụ bảo đảm cho việc Con Thiên Chúa đến trần gian “đúng như dự định”, trong sự tôn trọng những an bài của Thiên Chúa và những quy định của nhân loại. Tất cả đời sống “riêng tư” và “ẩn dật” của đức Giêsu được giao phó cho thánh Giuse coi sóc.

CUỘC KIỂM TRA DÂN SỐ

9. Khi trở về Bêlem để chịu kiểm tra dân số theo lệnh quyền bính hợp pháp, thánh Giuse đã hoàn thành một trách vụ quan trọng và có ý nghĩa đối vói Hài Nhi , đó là đăng ký chính thức với chính quyền dân sự của đế quốc: Hài Nhi được mang tên là “Giêsu, con ông Giuse Nadarét” (xc. Ga 1,45)

Việc ghi danh này cho thấy rõ ràng đức Giêsu thuộc dòng giống nhân loại, như môt người trong muôn người, là công dân của thế giới này, tuân theo các luật pháp và các định chế dân sự, nhưng Người cũng là “Đấng Cứu Độ thế giới”. Ông Origène diễn giải ý nghĩa thần học bao hàm trong sự kiện kịch sử này thật hay, đó không phải là một sự kiện bên lề: “Tôi sẽ làm gì với câu chuyện này, câu chuyện đồng thời kể về cuộc kiểm tra dân số đầu tiên của toàn thể thế giới vào thời hoàng đế Augustô, kể về cuộc hành trình của “Thánh Giuse cùng với đức Maria, người vợ đang mang thai” bước đi giữa lòng nhân loại để cùng đăng ký vào sổ nhân khẩu, kể về việc Chúa Giêsu sinh ra nơi trần gian trước khi cuộc kiểm tra nhân khẩu chấm dứt? Với những ai biết quan sát kỹ lưỡng, họ sẽ thấy những biến cố này là dấu hiệu của một mầu nhiệm. Đức Giêsu cũng phải chịu cuộc kiểm tra nhân khẩu trong lần kiểm tra của toàn thể thế giới, bởi vì Người muốn được ghi tên cùng với mọi người để thánh hóa mọi người, Người muốn có tên trong danh sách cùng với toàn thể thế giới, để cho thế giới được sống hiệp thông với Người. Sau cuộc kiểm tra này, Người muốn kiểm tra tất cả mọi người cùng với mình trong sổ hằng sống và với tất cả những ai đã tin nơi Người, Người muốn ghi tên họ trên trời cùng với các thánh của Đấng nắm giữ tất cả vinh quang và sức mạnh từ thế kỷ này sang thế kỷ kia. Amen”28.

GIÁNG SINH Ở BÊLEM

10. Là người quản lý “mầu nhiệm đã được giấu kín từ muôn thuở” trong Thiên Chúa và nay bắt đầu được thể hiện ra trước mắt mình khi “đến thời viên mãn”, thánh Giuse cùng với đức Maria trong đêm ở Bêlem, là nhân chứng đặc biệt của việc Con Thiên Chúa sinh ra nơi trần gian. Thánh Luca đã diễn tả việc đó như sau: “Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.” (Lc 2,6-7)

Thánh Giuse là nhân chứng nhãn tiền của việc sinh hạ này, diễn ra trong những điều kiện khiêm tốn của nhân loại, đó là lời tiên báo đầu tiên về việc “tự huỷ” (xc. Pl 2,5-8) mà Đức Kitô đã tự do chấp nhận để thứ tha tội lỗi. Đồng thời thánh Giuse cũng là nhân chứng việc các mục đồng tìm đến thờ lạy đức Giêsu sinh ra sau khi được thiên thần loan báo Tin Mừng lớn lao và diễm phúc đó (xc. Lc 2,15-16). Về sau, thánh Giuse còn là nhân chứng việc các đạo sĩ từ phương đông đến tỏ lòng tôn kính Chúa.(xc. Mt 2,11)

CẮT BÌ

11. Nhiệm vụ tôn giáo đầu tiên của người cha là cắt bì cho con trai: với nghi thức này (xc Lc 2,21) thánh Giuse thực thi quyền lợi và nghĩa vụ của Người đối với Đức Giêsu. Tất cả những nghi thức của Cựu ước chỉ là hình bóng của thực tại (xc Dt 9,9-10; 10,1), nguyên tắc đó giúp ta hiểu được tại sao đức Giêsu chấp nhận những nghi thức Cựu ước. Cũng như các nghi thức khác, nghi thức cắt bì được “hoàn tất” nơi đức Giêsu. Giao ước của Thiên Chúa với Ápraham mà việc cắt bì là dấu chỉ (xc St 17,13) đạt đến hiệu quả tròn đầy nơi đức Giêsu, bởi vì đức Giêsu là lời “Amen” của tất cả những lời hứa cũ (2 Cr 1,20) .

ĐẶT TÊN

12. Khi cắt bì, thánh Giuse đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu, đó là tên duy nhất mang lại ơn cứu độ (xc Cv 4,12) và ý nghĩa chính của tên đó được bày tỏ cho thánh Giuse vào lúc “truyền tin” cho Người: “Ông phải đặt tên cho Con Trẻ là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi” (Mt 1,21). Khi đặt tên cho Hài Nhi theo dòng họ mình, thánh Giuse đã tỏ ra quyền làm cha hợp pháp của mình đối với đức Giêsu, và khi đặt tên đó, thánh Giuse công bố sứ vụ cứu độ của Hài Nhi.

DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THỜ

13. Nghi thức này, được thánh Luca thuật lại (2,22tt), bao gồm việc chuộc lại người con đầu lòng và cũng soi sáng cho sự việc tương lai của đức Giêsu khi Người ở lại trong đền thờ lúc 12 tuổi.

Việc chuộc lại người con đầu lòng cũng là một nghĩa vụ của người cha và thánh Giuse đã chu toàn nghĩa vụ đó. Con đầu lòng tượng trưng cho Dân Giao ước, sẽ được cứu khỏi ách nô lệ để thuộc về Thiên Chúa. Trên bình diện này cũng thế, vì đức Giêsu là “giá chuộc” đích thật (xc 1 Cr 6,20; 7,23; 1 Pr 1,19), nên Người không chỉ “hoàn tất” nghi thức của Cựu ước, nhưng đồng thời Người cũng vượt qua nghi thức đó; thật vậy, Người không phải là đối tượng để chuộc lại nhưng là chính tác giả của việc cứu chuộc.

Thánh ký ghi nhận rằng: “Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Simêon nói về Người” (Lc 2,33) nhất là về điều ông nói trong bài ca chúc tụng Thiên Chúa, trong đó, ông giới thiệu đức Giêsu là “Ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân”, là “ánh sáng soi đường cho dân ngoại, và là vinh quang của Ítraen dân Người”, xa hơn một chút, ông nói Người cũng là “dấu hiệu bị người đời chống báng.” (Lc 2,30-34)

TRỐN SANG AI CẬP

14. Sau biến cố dâng con trong đền thờ, thánh Luca ghi: “Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nadarét, miền Galilê. Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.” (Lc 2,39-40)

Tuy nhiên, theo bản văn Mátthêu, trước khi trở về Galilê, còn có một biến cố rất quan trọng, trong đó, Thiên Chúa quan phòng lại nhờ đến thánh Giuse: “Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì kìa sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse rằng: “Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi đấy !”“ (Mt 2,13) Khi các nhà chiêm tinh từ phương đông đến, vua Hêrôđê biết “vua dân Do thái” (Mt 2,2) đã sinh ra, và khi họ bỏ đi, ông “sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bêlem và toàn vùng lân cận.” (Mt 2,16) Như thế, khi giết tất cả các trẻ em vùng đó, Hêrôđê muốn giết Đấng vừa sinh ra, “vua dân Do thái”, mà ông đã nghe nói khi các nhà chiêm tinh đến thăm viếng ở triều đình. Trong khi đó, sau khi đã nghe lời báo trong giấc mộng, thánh Giuse “đang đêm đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai cập. Ông ở đó cho đến khi vua Hêrôđê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: “Ta đã gọi Con Ta ra khỏi Ai cập.”“ (Mt 2,14-15; xc Hs 11,1)

Như vậy con đường của đức Giêsu từ Bêlem về Nadarét phải đi qua Ai cập. Cũng như Ítraen xưa, “từ tình trạng nô lệ”, đã bước theo con đường xuất hành để bắt đầu Giao ước cũ, thì cũng vậy, thánh Giuse, người được giao phó và cộng tác vào mầu nhiệm quan phòng của Thiên Chúa, cũng coi sóc Đấng thực hiện Giao ước mới trong bước lưu đày.

CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THỜ

15. Theo một nghĩa nào đó, từ biến cố Truyền Tin, thánh Giuse cùng với đức Maria đã hiện diện ở trung tâm mầu nhiệm từ muôn thuở vẫn ẩn giấu nơi Thiên Chúa và nay được tỏ hiện: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.” (Ga 1,14) Ngôi Lời ở giữa loài người và nơi Người sinh sống là thánh gia Nadarét, là một trong nhiều gia đình sinh sống tại thành phố nhỏ miền Galilê, một trong nhiều gia đình thuộc đất Ítraen. Tại đó, Đức Giêsu đã lớn lên: “Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.” (Lc 2,40) Các thánh sử đã cô đọng trong vài dòng cả một quãng đời dài “ẩn dật”, thời gian đức Giêsu dành cho việc chuẩn bị sứ vụ Thiên Sai. Suốt thời gian “ẩn dật” đó, chỉ có một biến cố được nêu lên, thánh Luca ghi lại như sau: “Dịp lễ Vượt Qua ở Giêrusalem lúc đức Giêsu được mười hai tuổi”.

Đức Giêsu tham dự vào cuộc lễ này như một người hành hương trẻ, cùng với đức Maria và thánh Giuse .Và rồi, “xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem mà cha mẹ chẳng hay biết” (Lc 2,43). Sau một ngày đàng, hai ông bà mới biết rằng mình lạc mất con, và họ bắt đầu đi tìm “giữa đám bà con và người quen thuộc, sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cũng phải ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đáp của cậu.” (Lc 2, 46-47) Mẹ Người nói: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con !” (Lc 2, 48) Câu trả lời của đức Giêsu khá lạ lùng đến nỗi hai ông bà “không hiểu nổi”. Người nói: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49-50) Thánh Giuse mà đức Maria vừa gọi là “cha của con” cũng nghe câu trả lời đó. Thật vậy, mọi người đều nói và “nghĩ rằng đức Giêsu là con ông Giuse theo như thiên hạ tưởng” (Lc 3,23). Câu trả lời trong đền thờ ít nhiều đã làm sống lại trong tâm trí người “cha giả định” câu nói mà Người đã nghe vào một đêm nọ, trước đó mười hai năm: “Này ông Giuse… đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần”. Từ đó, thánh Giuse hiểu rằng mình là người quản lý mầu nhiệm của Thiên Chúa, và hôm nay, khi lên mười hai tuổi, đức Giêsu rõ ràng nhắc lại mầu nhiệm đó: “Con có bổn phận ở nhà của Cha con.”

ĐỨC GIÊSU SINH SỐNG VÀ ĐƯỢC DƯỠNG DỤC TẠI NADARÉT

16. Đức Giêsu lớn lên “ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến” (Lc 2,51). Điều đó được thực hiện trong khung cảnh thánh gia, dưới sự chăm sóc của thánh Giuse, người có trách vụ cao cả là “dưỡng dục”, nghĩa là lo cơm ăn áo mặc cho Chúa Giêsu và dạy dỗ về lề luật cũng như huấn luyện nghề nghiệp cho Người theo trách nhiệm của một người cha.

Trong Thánh lễ, Giáo hội kính nhớ đức Maria trọn đời đồng trinh và thánh Giuse29 vì “người nuôi nấng Đấng mà các tín hữu phải nhận lấy mà ăn như bánh trường sinh”30.

Còn Đức Giêsu, Người “vâng phục cha mẹ” (Lc 2,51) kính cẩn đền đáp những chăm sóc của cha mẹ. Như thế, Người muốn thánh hóa những bổn phận của đời sống gia đình cũng như của công việc lao đông mà Người thực hiện cùng với thánh Giuse.

III. NGƯỜI CÔNG CHÍNH “ VỊ HÔN PHU

17. Trong suốt cuộc sống, một cuộc lữ hành trong đức tin, thánh Giuse cũng như đức Maria, luôn tuyệt đối trung thành với tiếng gọi của Thiên Chúa. Cuộc đời của đức Maria là sự thể hiện tột cùng lời “xin vâng” của ngày Truyền Tin, còn thánh Giuse, như chúng ta đã thấy, Người chẳng nói gì khi được “truyền tin”, nhưng chỉ “thực hiện như sứ thần Chúa dạy.” (Mt 1,24) Và việc thực hiện đầu tiên này là khởi điểm cho hành trình của thánh Giuse, Suốt cuộc hành trình đó, các thánh sử không ghi lại một lời nói nào của Người, nhưng sự im lặng của thánh Giuse có một tính hùng hồn đặc biệt: chính nhờ sự im lặng đó, người ta có thể hiểu được đầy đủ chân lý hàm chứa trong nhận định của Tin Mừng về thánh Giuse: “Đấng Công Chính” (Mt 1,19)

Cần phải hiểu rõ chân lý này, vì nó chứa đựng một trong những chứng từ quan trọng nhất về con người cũng như ơn gọi của mình. Qua các thời đại, Giáo hội ngày càng nghiên cứu chứng từ này một cách cẩn thận và ý thức hơn, dường như Giáo hội rút ra từ kho tàng của dung mạo đặc biệt này “cả cái mới lẫn cái cũ” (Mt 13, 52)

18. Trước hết, “người công chính” thành Nadarét có những tư cách nổi bật của một người chồng. Tin Mừng nói rằng đức Maria là “một thiếu nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse.” (Lc 1,27) Trước khi “mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở nơi Thiên Chúa” (Ep 3,9) bắt đầu thể hiện, Tin Mừng trình bày cho chúng ta hình ảnh một cặp vợ chồng. Theo phong tục Do thái, hôn nhân chia thành hai giai đoạn: trước hết người ta lập hôn thú theo pháp luật (hôn nhân thật sự) và chỉ sau đó một thời gian chú rể mới đón vợ mình về. Trước khi chung sống với đức Maria, thánh Giuse đã là “chồng” của cô rồi. Tuy vậy đức Maria vẫn giữ trong lòng ước nguyện dâng hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa. Chúng ta có thể đặt vấn đề ước nguyện đó dung hợp thế nào được với “hôn nhân”. Câu hỏi này chỉ được giải đáp qua diễn tiến các biến cố cứu độ, nghĩa là qua hành động đặc biệt của chính Thiên Chúa. Từ ngày Truyền tin, đức Maria hiểu rằng Mẹ phải thể hiện ước nguyện sống trinh khiết để hiến dâng cho Thiên Chúa một cách dứt khoát và trọn vẹn trong chính lúc trở thành Mẹ của Con Thiên Chúa. Thiên chức làm mẹ do tác động của Chúa Thánh Thần là một hình thức dâng hiến mà Thiên Chúa chờ đợi nơi đức Trinh Nữ đã kết hôn với thánh Giuse. Đức Maria thưa: “Xin Vâng”.

Sự kiện đức Trinh Nữ đã “đính hôn” với thánh Giuse cũng nằm trong chính chương trình của Thiên Chúa. Đó là điều mà các thánh sử Luca và Matthêu đã trình bày, nhất là nơi Matthêu. Những lời sứ thần nói với thánh Giuse rất có ý nghĩa “Đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20). Những lời này cho thấy mầu nhiệm nơi vị hôn thê của thánh Giuse: Maria vẫn đồng trinh trong việc làm mẹ. Nơi đức Maria, “Con Đấng Tối Cao” đón nhận một thân xác phàm nhân và trở nên “Con loài người”.

Khi nói với thánh Giuse qua lời sứ thần, Thiên Chúa như nói với người chồng của trinh nữ Nadarét. Điều đang được thực hiện nơi đức Maria do tác đông của Thánh Thần đồng thời cũng cho thấy một phê chuẩn đặc biệt cho mối liên hệ phu thê đã có giữa thánh Giuse và đức Maria. Sứ thần nói rõ ràng với thánh Giuse: “Đừng ngại đón bà Maria vợ ông về”. Như thế điều này xảy ra trước đó – tức là cuộc hôn nhân với đức Maria – là do thánh ý Thiên Chúa và vì vậy phải được duy trì. Trong thiên chức Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria phải tiếp tục sống như một “trinh nữ, hôn thê của một hôn phu.” (xc. Lc 1,27)

19. Qua những lời “truyền tin” báo mộng, thánh Giuse không những lắng nghe ý định của Thiên Chúa và ơn gọi khôn lường của bạn mình, nhưng Người còn lắng nghe ý nghĩa ơn gọi của chính mình. “Người công chính” này, theo tinh thần những truyền thống cao đẹp nhất của dân được chọn, đã yêu thương đức Trinh Nữ Nadarét và gắn bó với cô bằng mối dây phu phụ, giờ đây nữa, lại được Thiên Chúa kêu gọi sống tình yêu đó.

“Ông Giuse làm như sứ thần Chúa dạy và đón vợ về nhà”. Thai nhi trong lòng Mẹ là “do Chúa Thánh Thần”: qua những lời đó, phải chăng lại không thể kết luận rằng nơi thánh Giuse, tình yêu của môt người nam cũng được Chúa Thánh Thần đổi mới hay sao? Chẵng lẽ không thể cho rằng tình yêu Thiên Chúa mà Thánh Thần đổ tràn vào tâm hồn con người (xc Rm 5,5) đã tác động vào mọi tình yêu nhân loại một cách hoàn thiện nhất hay sao? Tình yêu đó cũng tác động “một cách hoàn toàn đặc biệt” vào tình yêu phu phụ của các cặp vợ chồng và khắc ghi vào đó những gì xứng đáng và tốt đẹp của con người, những gì mang ấn dấu của sự từ bỏ chính mình hoàn toàn, của giao ước giữa các cá vị, và của sự hiệp thông đích thật vào mầu nhiệm Ba Ngôi.

“Ông Giuse… đón vợ về nhà. Ông không ăn ở với ba, cho đến khi bà sinh môt con trai” (xc. Mt 1,24-25). Những lời này cho thấy một sự thân mật khác của đời sống hôn nhân. Tình thân mật sâu đậm đó, sự gắn bó tinh thần trong mối hiệp nhất và giao tiếp giữa hai con người “nam và nữ” phát xuất từ chính Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống (xc. Ga 6,63). Thánh Giuse vâng lệnh Chúa Thánh Thần đã tìm thấy nguồn suối tình yêu nơi Người, tình yêu của một người chồng, và tình yêu này lớn lao hơn điều mà “người công chính” có thể chờ đợi theo mức độ của trái tim con người.

20. Trong phụng vụ, đức Maria được xưng tụng là đã kết hiệp với “thánh Giuse, người công chính, bằng tình yêu vợ chồng và trinh khiết”31. Thật vậy, hai tình yêu đó cùng nói lên mầu nhiệm của Giáo hội “ Trinh Nữ và Hiền Thê “ mà cuộc hôn nhân giữa đức Maria và thánh Giuse là biểu tượng. “Trinh khiết và độc thân vì Nước Trời không làm giảm thiểu phẩm giá hôn nhân chút nào, ngược lại, nó giả thiết và củng cố phẩm giá ấy. Hôn nhân và trinh khiết là hai cách để diễn tả và sống mầu nhiệm duy nhất của Giao ước Thiên Chúa với dân Người”32, tức là sự hiệp thông tình yêu giữa Thiên Chúa và con người.

Qua sự tự hiến hoàn toàn, thánh Giuse diễn tả tình yêu quảng đại đối với Mẹ Thiên Chúa, dành cho Mẹ “sự dâng hiến chính mình trong hôn nhân”. Mặc dù đã quyết định ra đi để khỏi cản trở chương trình của Thiên Chúa đang thực hiện nơi đức Maria, nhưng theo lệnh rõ ràng của sứ thần, thánh Giuse đã đón đức Maria về nhà và tôn trọng việc Mẹ hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa.

Hơn nữa, qua cuộc hôn nhân với đức Maria, thánh Giuse đã có được phẩm giá độc nhất và các quyền đối với đức Giêsu. “Chắc chắn phẩm giá làm Mẹ Thiên Chúa rất cao vời, không thụ tạo nào cao hơn được nữa, nhưng vì thánh Giuse đã kết hiệp với đức Trinh Nữ bằng mối dây hôn nhân, nên hơn hết mọi người, chắc chắn Người cũng đạt đến gần phẩm giá siêu vời đó, phẩm giá đã làm cho Mẹ Thiên Chúa vượt hẳn trên mọi thụ tạo. Thật vậy, hôn nhân là một cộng đồng và là ơn hiệp nhất sâu xa hơn hết; sự hiệp nhất đó, tự nó, đưa tới sự chung nhau các thiện hảo giữa vợ chồng. Cũng thế, khi chọn thánh Giuse làm hôn phu của đức Maria, Thiên Chúa đã ban cho đức Maria không những một người bạn đời, môt chứng nhân của sự trinh khiết, một người bảo vệ danh dự, nhưng chính nhờ khế ước hôn nhân, còn là một người tham gia vào phẩm giá siêu vời của đức Maria”33.

21. Mối dây đức ái đó đã làm nên nếp sống của thánh gia, lúc đầu trong cảnh đạm bạc ở Bêlem, rồi trong cuộc lưu lạc sang Ai-cập, và sau cùng trong đời sống tại Nadarét. Giáo hội đặc biệt tôn kính gia đình này, đặt lên làm gương mẫu cho mọi gia đình. Gia đình Nadarét vừa hội nhập trực tiếp vào mầu nhiệm Nhập Thể vừa cũng làm nên một mầu nhiệm đặc biệt. Đồng thời, trong mầu nhiệm này “ cũng như trong mầu nhiệm Nhập Thể “ tình phụ tử có một vị trí: gia đình của Con Thiên Chúa mang hình thức nhân loại, được thiết lập do mầu nhiệm Thiên Chúa. Trong gia đình này, thánh Giuse là người cha; tư cách làm cha đó không do việc sinh sản; tuy nhiên cũng không phải là “giả danh” hay chỉ là “thay thế”, nhưng có đầy đủ tính cách đích thật của quyền làm cha theo khía cạnh nhân loại và của vai trò làm cha trong gia đình. Ở đây ta nhận thấy một hệ quả của mầu nhiệm Ngôi Hiệp: nhân tính được kết hiệp với Ngôi Vị duy nhất của Ngôi Lời, là Chúa Con, tức là đức Giêsu Kitô.

Không chỉ nguyên nhân tính, nhưng tất cả những gì của nhân loại cũng được “tiếp nhận” vào trong đức Kitô, đặc biệt là gia đình, khung cảnh đầu tiên của con người sống trên trần gian. Trong bối cảnh đó, cả quyền làm cha theo khía cạnh con người của thánh Giuse cũng được “tiếp nhận” trong đức Kitô.

Theo nguyên tắc đó, câu nói của đức Maria với Chúa Giêsu trong đền thờ mang ý nghĩa sâu xa: “Cha của con và mẹ đi tìm con.” Đó không phải là một câu nói bình thường: câu nói của Mẹ đức Giêsu cho thấy tất cả thực tại của mầu nhiệm Nhâp Thể, thực tại thuộc mầu nhiệm gia đình Nadarét. Chắc chắn, ngay từ đầu, “khi vâng phục trong niềm tin” để chấp nhận vai trò làm cha theo tính cách nhân loại đối với Chúa Giêsu, theo sự soi sáng của Chúa Thánh Thần ban cho con người qua đức tin, thì thánh Giuse cũng khám phá ngày càng rõ hơn hồng ân khôn lường của vai trò làm cha.

IV. LAO ĐÔNG, BIỂU HIỆN CỦA TÌNH YÊU

22. Một trong những biểu hiện thường nhật của tình yêu trong gia đình Nadarét là lao động. Bản văn Tin Mừng xác định cách thức thánh Giuse làm việc để nuôi gia đình: nghề thợ mộc. Từ ngữ ngắn gọn bao gồm tất cả cuộc đời của thánh Giuse. Còn đối với đức Giêsu, đó là nơi Người trải qua những năm tháng ẩn dật mà Tin Mừng nhấc đến sau biến cố trong đền thờ: “Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ trở về Nadarét và hằng “vâng phục” các ngài” (Lc 2,51). Vâng phục ở đây, tức là đức Giêsu vâng lời trong mái nhà Nadarét , cũng được hiểu là sự tham gia vào công việc lao động của thánh Giuse. Cậu bé được người ta gọi là “con bác thợ mộc” đã học nghề nơi người “được coi là cha”. Nếu trong kế hoạch của ơn cứu độ và của sự thánh thiện, gia đình Nadarét là một tấm gương và là kiểu mẫu cho các gia đình nhân loại, thì một cách tương tự, người ta cũng có thể nói như thế về công việc của Chúa Giêsu bên cạnh bác thợ mộc Giuse. Trong thời đại chúng ta, ngoài các ý nghĩa khác, Giáo hội đã nhấn mạnh đến giá trị lao động qua việc ấn định lễ kính nhớ thánh Giuse lao đông ngày 01.05. Lao động của con người, nhất là công việc tay chân, được nhấn mạnh đặc biệt trong Tin Mừng. Lao đông được đón nhận vào mầu nhiệm Nhâp Thể cùng với nhân tính của Con Thiên Chúa, và cũng được cứu đô một cách đặc biệt. Qua khung cảnh xưởng mộc, nơi Người làm việc cùng với Chúa Giêsu, thánh Giuse đã đưa công việc của con người đến gần mầu nhiệm cứu độ.

23. Trong thời gian đức Giêsu lớn lên “trong sự khôn ngoan, vóc dạng và ân sủng”, nhân đức cần cù làm việc có một vai trò quan trọng: vì “lao đông là một thiện hảo của con người”, “biến đổi thiên nhiên” và theo một nghĩa nào đó, “làm cho con người trở nên người hơn”34.

Tầm quan trọng của lao đông trong cuộc sống con người buộc người ta phải nhận thức và nhận lấy các yếu tố của nó hầu “giúp đỡ mọi người, nhờ lao đông, tiến lại gần Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo và Cứu Độ; thứ đến, tham gia vào chương trình cứu đô của Người đối với nhân loại và thế giới; ngoài ra còn giúp họ gắn bó hơn trong cuộc sống thân mật với Đức Kitô qua việc tham dự bằng đức tin sống động vào ba sứ vụ của Người: Tư Tế, Ngôn Sứ, vàVương Đế”35.

24. Cuối cùng là việc thánh hóa đời sống thường nhật: mỗi người phải hướng tới việc đó tùy theo hoàn cảnh của mình và nêu lên như một gương mẫu mọi người có thể noi theo: “Thánh Giuse là gương mẫu của những con người khiêm tốn mà Kitô giáo có thể dẫn đưa tới những vận mệnh lớn lao; thánh Giuse là bằng chứng cho thấy rằng, để là môn đệ tốt và đích thật của đức Kitô, không cần thiết phải có những “kỳ công” mà chỉ cần những nhân đức thông thường, nhân bản, đơn sơ nhưng phải là những nhân đức thật sự và đích đáng”36.

V. ĐỊA VỊ CAO TRỌNG CỦA ĐỜI SỐNG NỘI TÂM

25. Bầu khí thinh lặng quanh những gì liên quan đến con người thánh Giuse cũng lan tỏa đến công việc thợ mộc của Người trong ngôi nhà Nadarét. Tuy nhiên, đó là môt sự thinh lặng cho thấy được một cách đặc biệt con người nội tâm của thánh Giuse. Các sách Tin Mừng chỉ nói tới những gì “thánh Giuse làm”, nhưng cũng giúp chúng ta khám phá được “trong những hành động” luôn thấm nhuần sự thinh lặng của Người có một bầu khí chiêm niệm sâu xa. Hằng ngày thánh Giuse tiếp xúc với “mầu nhiệm được giấu kín từ bao thế hệ”, mầu nhiệm đã “cư ngụ” dưới mái gia đình của thánh Giuse. Sự kiện đó giúp ta hiểu tại sao thánh nữ Têrêxa Giêsu, vị cải tổ lớn của dòng Carmel chiêm niệm, đã trở nên người cổ võ cho việc canh tân lòng sùng kính đối với thánh Giuse trong Giáo hội Kitô giáo Tây phương.

26. Trong suốt cuộc đời, thánh Giuse đã thể hiện một sự hiến dâng tuyệt đối để đáp ứng những nhu cầu của cuôc sống của Đấng Cứu Thế trong nhà mình, sự hiến dâng đó nảy sinh “từ đời sống nội tâm rất sâu xa của Người, nhờ đó, Người nghe được những mệnh lệnh và tìm thấy những khích lệ thật đặc biệt; từ đời nội tâm đó, Người tìm được sự hợp lý và sức mạmh thích hợp cho những tâm hồn đơn sơ và trong sáng; từ đời nội tâm đó, Người có được những quyết định mạnh mẽ, chẳng hạn, mau mắn sẵn sàng tuân theo chương trình của Thiên Chúa trong ý muốn tự do, trong ơn gọi đích thật của con người, trong hạnh phúc hôn nhân; đồng thời chấp nhận hoàn cảnh, trách nhiệm cũng như những khó khăn của đời sống gia đình, và khước từ tình yêu hôn nhân tự nhiên, vốn làm nên và nuôi dưỡng đời sống gia đình, để có được một tình yêu trinh khiết không gì so sánh được”37.

Việc tuân phục Thiên Chúa như vậy, nghĩa là ý muốn mau mắn hiến dâng tất cả để phục vụ Thiên Chúa, không gì khác hơn là thể hiện lòng đạo đức (devotio), làm nên một trong những cách diễn tả của nhân đức thờ phượng (virtus religio)38.

27. Đời sống hiệp thông giữa thánh Giuse và đức Giêsu còn giúp chúng ta nhìn ngắm mầu nhiệm Nhập Thể một cách chính xác dưới khía cạnh nhân tính của đức Kitô, là dụng cụ hữu hiệu của thiên tính để thánh hóa nhân loại. “Nhờ thiên tính, những hành vi nhân loại của đức Kitô đã có tính cách cứu độ cho chúng ta, làm phát sinh trong chúng ta ân sủng về mặt công phúc cũng như hiệu năng39.

Trong số những hành vi này, các thánh ký đăc biệt nói tới những hành vi liên hệ với mầu nhiệm Vượt Qua; tuy nhiên các ngài đã không quên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đụng chạm thật sự tới Đức Giêsu trong những lần Người chữa bệnh (xc. thí dụ, Mc 1,41), hoặc bỏ đi ảnh hưởng của Người đối với Gioan Tẩy Giả khi cả hai còn trong bụng mẹ. (xc. Lc 1,41-44)

Như đã thấy, khi làm chứng cho đức Kitô, các tông đồ đã không bỏ qua việc mô tả Người được sinh ra, chịu cắt bì, được dâng trong đền thờ, trốn sang Ai-cập và đời sống ẩn dật tại Nadarét ; đó là vì “mầu nhiệm” của ân sủng hàm chứa trong những “hành vi” như thế, tất cả những hành vi đó đều có tính cách cứu dộ, vì tham dự vào cùng một nguồn suối tình yêu: thiên tính của Đức Kitô. Nếu tình yêu này, do nhân tính của đức Kitô, giãi sáng trên tất cả mọi người, thì hẳn nhiên những người đầu tiên được thừa hưởng là những người mà Thiên Chúa muốn đưa vào trong mối tình thân mật sâu xa nhất: đức Maria mẹ của Người, và thánh Giuse, người được coi là cha giả định của Người40.

Bởi vì tình yêu “phụ tử” của thánh Giuse không thể nào không ảnh hưởng đến tình yêu “con thảo” của Đức Giêsu, và ngược lại, tình yêu “con thảo” của Đức Giêsu không thể nào không ảnh hưởng đến tình yêu “phụ tử” của thánh Giuse, làm sao có thể thấu hiểu được chiều sâu của mối tương quan hết sức đặc biệt như vậy? Những tâm hồn nhạy cảm nhất đối với tác động tình yêu của Thiên Chúa sẽ thật sự tìm thấy nơi thánh Giuse mẫu gương sáng chói của đời sống nội tâm.

Ngoài ra, nhờ đức ái hoàn hảo, thánh Giuse đã lướt thắng được một cách tuyệt vời điều xem ra giằng co giữa đời sống hoạt động và đời sống chiêm niệm. Theo như cách phân biệt phổ thông giữa lòng yêu mến chân lý (charitas veritatis) và những đòi hỏi của lòng yêu mến (necessitas charitatis)41, chúng ta có thể nói rằng thánh Giuse đã cảm nghiệm được lòng yêu mến chân lý, nghĩa là tình yêu say mê chiêm ngắm chân lý của Thiên Chúa chiếu giãi từ nhân tính đức Kitô, cũng như cảm nghiệm được những đòi hỏi của lòng yêu mến, nghĩa là tình yêu phục vụ do sự đòi hỏi của việc bảo vệ và làm triển nở nhân tính ấy.

VI. ĐẤNG BẢO TRỢ GIÁO HỘI THỜI NAY

28. Trong những thời gian khó khăn, vì muốn dâng phó Giáo hội cho ơn bảo trợ đặc biệt của thánh Giuse, nên Đức Piô IX đã tuyên phong Người là “Đấng Bảo Trợ Giáo hội Công Giáo”42. Đức Thánh Cha biết rằng quyết định của mình không phải là không hợp thời, bởi vì, do phẩm tước hết sức cao cả mà Thiên Chúa đã ban cho Người Đầy Tớ trung thành này “không kể đối với đức Trinh Nữ bạn của Người, Giáo hội đã luôn hết sức tôn kính thánh Giuse vinh phúc, Giáo hội đã hết lòng ca tụng Người và đặc biệt chạy đến Người trong những lúc gian nan43.

Nhưng vì lý do gì Giáo hội lại tín nhiệm Người như thế? Đức Lêô XIII đã kể ra những lý do như sau: “Những lý lẽ để thánh Giuse được nhận làm Đấng Bảo Trợ đặc biệt của Giáo hội, và để Giáo hội hy vọng rất nhiều vào sự che chở và bảo hộ của Người chính yếu là vì thánh Giuse là chồng của đức Maria và mang danh là cha của Đức Giêsu Kitô (…). Thánh Giuse đã là người gìn giữ, đứng đầu và bảo vệ gia đình Chúa, chiếu theo luật pháp cũng như phù hợp với lẽ tự nhiên (…). Vì thế, như xưa kia thánh Giuse đã che chở gia đình Nazarét một cách thánh thiện ở mọi hoàn cảnh, thì ngày nay, thật là hợp lý và chính đáng, từ trời cao Người cũng che chở và bảo vệ Giáo hội của đức Giêsu Kitô như vậy.”44

29. Giáo hội luôn phải kêu cầu thánh Giuse bảo trợ, không những để bảo vệ Giáo hội khỏi những nguy hiểm không ngừng nẩy sinh, nhưng nhất là còn để nâng đỡ Giáo hội trong những nỗ lực canh tân nhằm rao giảng Tin Mừng cho thế giới cũng như tái rao giảng Tin Mừng lại cho các vùng, các quốc gia mà, như tôi đã viết trong Tông huấn “Kitô hữu giáo dân”, tôn giáo và đời sống Kitô hữu trước kia hết sức phong phú, và “ngày nay đang bị thử thách”45.

Để giới thiệu Tin Mừng đức Kitô hoặc là để trình bày lại đức Kitô cho những nơi đã bỏ mất hay bỏ quên Tin Mừng đó, Giáo hội cần phải có một “sức mạnh từ trời ban xuống” môt cách đặc biệt (xc. Lc 24,49; Cv 1,8), sức mạnh đó tất nhiên là do Chúa Thánh Thần ban , nhưng cũng nhờ sự chuyển cầu và gương mẫu của các thánh.

30. Ngoài sự bảo trợ hữu hiệu của thánh Giuse, Giáo hội còn tin tưởng vào gương mẫu đặc biệt của Người, không chỉ là tấm gương cho một bậc sống riêng biệt nào đó, nhưng được nêu lên cho tất cả cộng đồng Kitô hữu, bất cứ hoàn cảnh và trách vụ nào của mỗi người.

Như Hiến chế “Mạc Khải” của Công đồng Vatican II đã nói, thái độ nền tảng của toàn thể Giáo hội phải là thái độ “cung kính lắng nghe lời Thiên Chúa”46, nghĩa là tuyệt đối sẵn sàng để trung thành phục vụ ý định cứu độ của Thiên Chúa, được mạc khải qua đức Giêsu. Ngay từ khởi đầu ơn cứu độ con người, chúng ta đã thấy được, sau đức Maria, mẫu gương vâng lời thể hiện nơi thánh Giuse, Đấng đã đặc biệt trung thành thực thi các luật điều của Chúa.

Đức Phaolô VI kêu gọi hãy khẩn cầu thánh Giuse “như Giáo hội trong thời gian gần đây vẫn quen làm, trước tiên khẩn cầu cho chính Giáo hội, cho việc suy tư thần học về mối liên kết giữa hành động của Thiên Chúa và hành động của con người trong nhiệm cục lớn lao của ơn cứu độ, trong đó, điều thứ nhất, tức là hành đông của Thiên Chúa, đã hoàn toàn đầy đủ, trong khi điều thứ hai, tức là hành động của con người, của chúng ta, tuy vẫn hoàn toàn bất lực (xc. Ga 15,5) nhưng không bao giờ được chuẩn miễn khỏi một sự công tác khiêm tốn, vẫn cần thiết và cao trọng. Ngoài ra, Giáo hội khẩn cầu thánh Giuse là Đấng Bảo Trợ, vì Giáo hội có một khao khát sâu xa và rất hiện thực là muốn làm sinh động cuộc sống trần thế của mình, với các nhân đức đích thật của Tin Mừng, như thấy tỏa sáng nơi thánh Giuse”47.

31. Giáo hội biến những đòi hỏi đó thành lời khẩn cầu. Khi nhắc lại rằng, ở bình minh của thời đại mới, Thiên Chúa đã trao phó cho thánh Giuse việc gìn giữ các mầu nhiệm cứu độ, Giáo hội cũng xin Người ban cho Giáo hội được trung thành cộng tác vào công cuộc cứu độ, yêu mến công việc đó bằng một trái tim không chia sẻ, theo gương thánh Giuse, Đấng đã tự hiến trọn vẹn để phục vụ Ngôi Lời Nhập Thể, và cũng cho chúng ta được sống trong sự công chính và thánh thiện, nhờ sự nâng đỡ bằng gương mẫu và lời cầu của Người48.

Cách đây 100 năm, Đức Thánh Cha Lêô XIII đã khuyến khích thế giới Công giáo hãy cầu nguyện để được bảo trợ nhờ thánh Giuse, bổn mạng của toàn thể Giáo hội,. Thông điệp Quamquam Pluries đã nại tới “Tình yêu phụ tử của thánh Giuse đối với Hài nhi Giêsu”, nại tới “Đấng bảo trợ rất khôn ngoan của gia đình Thiên Chúa”, thông điệp “trao phó” cho Người “gia tài quý hoá mà đức Giêsu đã dành được bằng chính máu mình”. Từ khi đó, Giáo hội, như tôi đã nói đến lúc đầu, van xin thánh Giuse bảo trợ, nhờ “tình thương đã kết hợp Người với đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Mẹ Thiên Chúa”, và Giáo hội dâng phó cho Người tất cả những lo âu của mình, nhất là vì những đe dọa đang đè nặng trên gia đình nhân loại.

Và ngày nay nữa, chúng ta có rất nhiều lý do để cầu nguyện như vậy: “ Ôi Cha rất yêu dấu, xin canh giữ chúng con khỏi mọi vết nhơ của lầm lạc và nết xấu, … từ trời cao xin ban ân đức và nâng đỡ chúng con trong cuộc chiến chống lại thế lực tối tăm …; và cũng như xưa Cha đã giải thoát Hài Nhi Giêsu khỏi những nguy hiểm tính mạng, ngày nay xin bảo vệ Hội thánh của Thiên Chúa khỏi những cạm bẫy của kẻ thù và của mọi nghịch cảnh”49. Ngày nay chúng ta vẫn có những lý do để dâng phó mỗi người cho thánh Giuse.

32. Tôi hết lòng mong ước rằng việc gợi lại dung mạo của thánh Giuse lúc này sẽ đổi mới trong chúng ta lòng thiết tha cầu nguyện mà vị tiền nhiệm của tôi, cách đây môt thế kỷ, đã truyền phải thực hiện. Quả thật, chắc chắn rằng lời kinh đó và ngay chính dung mạo của thánh Giuse vẫn còn thích hợp đối với hiện tình của Giáo hội thời đại chúng ta, khi sắp bước vào thiên niên kỷ mới của Kitô giáo.

Công đồng Vaticanô II, môt lần nữa, lại làm cho tất cả chúng ta cảm nhận được “những kỳ công của Thiên Chúa”, “nhiệm cục cứu độ” mà thánh Giuse là thừa tác viên đặc biệt. Như vậy, khi dâng phó cho sự bảo trợ của Đấng mà chính Thiên Chúa đã “giao phó cho việc quản thủ những kho tàng quý báu và cao cả nhất của Người”50, thì đồng thời, chúng ta học nơi thánh Giuse cách thế phục vụ “nhiệm cục cứu độ”. Ước mong thánh Giuse trở thành một vị thầy đặc biệt cho chúng ta trong việc phục vụ sứ mệnh cứu đô của đức Kitô; đó là trách vụ của chúng ta, của tất cả và của từng người trong Giáo hội: của những đôi vợ chồng, của những bậc cha mẹ, của những người sinh sống bằng công việc do chính đôi tay mình, hay tất cả những công việc khác, của những người được kêu gọi sống đời chiêm niệm cũng như của những người được kêu gọi làm việc tông đồ.

Mang trong mình toàn bộ gia sản của Cựu ước, Đấng Công Chính cũng được đưa vào “khởi nguyên” của Giao Ước Mới và vĩnh cửu trong đức Giêsu Kitô. Ước mong Người sẽ chỉ dẫn cho chúng ta những nẻo đường của Giao ước cứu độ này ở ngưỡng cửa của thiên niên kỷ sắp tới, khi đó, “sự viên mãn của thời gian” trong mầu nhiệm khôn tả của mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể phải được tiếp diễn và phát triển!

Ước mong thánh Giuse ban cho Giáo hội và thế giới cũng như cho mỗi người chúng ta phúc lành của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần!

Ban hành tại Roma, cạnh đền thờ thánh Phêrô,
ngày 15.08.1989, đại lễ Đức Trinh Nữ Maria Hồn Xác Lên Trời,
năm thứ 11 triều đại giáo hoàng của tôi.

GIOAN PHAOLÔ II

 

Tác giả: Phan Tấn Thành

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây