Những suy nghĩ vẩn vơ: Tập 1-5 Lm Nguyễn Hữu Triết
Tập 1: Những suy nghĩ vẩn vơ: AI SẼ GIẢI ĐƯỢC NỖI OAN KHIÊN
Tập 2: Những suy nghĩ vẩn vơ : DARWIN VÀ THUYẾT TIẾN HÓA
Tập 3: Những suy nghĩ vẩn vơ : TỶ LỆ "CHỌI”
Tập 4: Những suy nghĩ vẩn vơ : "KHÔNG GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP VÀ TỰ DO"
Tập 5: Những suy nghĩ vẩn vơ: THẾ GIỚI THẦN LINH
NHỮNG SUY NGHĨ VẪN VƠ - Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT
31/03/2011
(các trích đoạn Kinh Thánh lấy từ bản dịch do Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng vụ thực hiện năm 2006)
--------------------------------
Lời đầu
Loài người được Tạo Hóa tác thành hơn và khác loài vật ở chỗ có lý trí và tự do.
"Tự do là khả năng biểu lộ ý chí, hành động theo ý muốn của mình" (Đại Tự điển tiếng Việt – Hà Nội 1999, trang 1762), đây là quyền căn bản của mỗi người. Có tự do thì cũng có trách nhiệm, nghĩa là sẽ được thưởng hay chịu phạt trước tòa án lương tâm và Đấng Tối Cao, tùy theo lựa chọn đúng hay sai của mình.
Người viết chỉ muốn trình bày sự thật mà mình đã cảm nghiệm, còn quý độc giả đồng tình hay không, hoặc đồng tình một phần nào thì hoàn toàn thuộc quyền tự do của quý vị.
-------------------------
Bắt đầu từ câu chuyện trong Thánh Kinh : Cain vì ghen tức đã giết em ruột là Abilê ngoài cánh đồng rồi tỉnh bơ về nhà, Đức Chúa mới hỏi : "Em ngươi đâu ?", Cain trả lời : "Con có phải là đứa giữ em đâu ?". Đức Chúa Trời phán : "Máu nó đã kêu lên tới Ta". Cain hết đường chối quanh.[Gian ác và bất công đã bắt đầu phát triển sau khi ông bà nguyên tổ phạm tội.] (phần kết trang 62)
§ "Đánh chết vợ vì giận con mèo", đây là bi kịch của một gia đình : chị N. và người chồng sau (chồng trước đã mất vì tai nạn lao động) – Anh đi nhậu về, bắt con mèo chơi, nó chạy mất, anh la lên : "Đến con mèo cũng không thèm chơi với tao", rồi quay sang mẹ con chị N. : "Mẹ con mày cũng khinh dể tao", thế là gây sự, vô bếp đập nồi niêu xoong chảo, chị vào ngăn cản, tiện cây anh đập chị túi bụi không nương, cho tới khi chị gục ngã, con vào can anh cũng giáng cho 1 đòn tét đầu … Hàng xóm láng giềng tới đưa chị đi bệnh viện Bình Dương với nhiều vết thương trên đầu, gáy, lưng và đã không qua khỏi. Kẻ thủ ác đã bị bắt giam … (Hương Cầu – Báo Phụ Nữ ngày 21/4/2009). [Ác ơi là ác ! Ai sẽ giải được nỗi oan khiên cho chị N. ?] (phần kết trang 62)
§ "Mỹ phẩm giả, hậu quả thật" là tựa của một thông tin về mỹ phẩm giả kèm theo là tấm ảnh khuôn mặt của một phụ nữ xinh đẹp khoảng 30 tuổi với những mảng "đốm" đỏ cùng khắp. Với khuôn mặt này chắc chẳng ai dám ra đường hay gặp gỡ bạn bè. Hậu quả của một sự lường gạt trắng trợn, tiền mất tật mang (Nguyễn Cẩm – Báo Phụ Nữ ngày 21/04/2009).
[Bất công này ai sẽ phân xử ? Có thể kiện không ? Người ta vẫn nói "chờ vạ thì má đã sưng", kiện tụng khoản này thì cũng chỉ là "con kiến mà kiện củ khoai" ! Đáng thương thay những người dân vô tội.] (phần kết trang 62)
§ "Cảnh sát giao thông hiểu nhầm biển báo" - là bài của phóng viên K.T trên báo Thanh Niên ngày 22/4/2009 :
Trên quốc lộ 1A qua địa phận Bắc Ninh, biển báo tốc độ tối thiểu 60km và tối đa 80km đã bị CSGT hiểu là quá 60km là vi phạm … Thế là thoải mái phạt dân ! Sự thật đã được sáng tỏ và "đích thân ông phó Phòng CSGT đã đứng ra thừa nhận là sai và xin lỗi dân". Biết bao tài xế đi đúng luật lại bị phạt oan, cụ thể anh Tuấn Anh chạy 69km bị thổi phạt vì quá tốc độ – Trả lời báo chí, thượng tá Nguyễn Đức Tân, phó Phòng CSGT tỉnh Bắc Ninh đã lên tiếng xin lỗi người dân và cho biết những trường hợp bị phạt oan, nếu còn giữ biên lai sẽ được hoàn lại tiền, nhưng lấy được tiền không phải dễ !
Bức biếm họa của DAD ngay trang nhất vẽ 1 con đường vòng cung có biển báo 60km (tối thiểu),
80km (tối đa), một bàn tay cảnh sát chỉ gậy kiểm soát vào đầu xe du lịch, tài xế há hốc mồm la trời. Phía bên phải xe có một hố sâu những đồng tiền lăn xuống với dòng chữ : "Đã nộp về kho bạc và phân cho các đơn vị khác". Biếm họa đã nói lên hết nỗi oan dân đen phải chịu. Phạt oan đã vậy, trả lại sao đây ?
Với những người không còn giữ biên bản khoản phạt này kể như "toi". Bây giờ họ mới thắc mắc hỏi thủ tục để đòi tiền, muốn làm thủ tục phải có biên bản, muốn xin lại biên bản thì phải làm thủ tục, phải có xác minh …
[Điều đáng nói là khi người dân đến đòi tiền bị phạt oan,trước trụ sở Phòng CSGT luôn treo biển "Bận họp, không tiếp khách", nên không đòi được tiền và những thắc mắc của họ cũng không được ai giải đáp.]
Luật sư Nguyễn Đăng Quang cho rằng nếu xảy ra sự việc nêu trên, sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy và rất phức tạp trong việc giải quyết quyền lợi người dân, vì phải điều tra thời điểm, số người bị phạt oan, ai chịu trách nhiệm, tiền chi trả lấy từ ngân sách hay từ túi người làm sai ? Nếu lấy từ ngân sách chiếu theo luật phải qua nhiều thủ tục phức tạp.
Ông Nguyễn Quang Hòa, Giám đốc Kho bạc Nhà nước tỉnh Bắc Ninh cho rằng : lấy ngân sách mà chi là không đơn giản. Cũng theo ông Hòa, thông tư 89 của Bộ Tài chánh hướng dẫn tiền phạt nộp kho bạc sẽ được phân phối cho nhiều đơn vị, trong đó lực lượng Công an được trích 70%, Thanh tra Giao thông 10%, Ban An toàn Giao thông 10%, còn lại các lực lượng khác, như vậy nếu truy thu để trả lại, thì các ngành này cũng phải nộp lại, (nhưng liệu có ai đứng ra truy thu và có cơ quan nào nộp lại không ?), khó khăn nhất là số tiền này đã được dùng mua sắm phương tiện, thiết bị rồi.
…
Luật sư Quang còn nói thêm : Nhà nước chỉ hoàn lại khoản tiền mà người dân bị phạt, còn các thiệt hại khác do việc xử sai thì không thể lấy ngân sách ra mà trả, ấy là chưa kể trường hợp bị bấm lỗ bằng lái, tước giấy phép lái xe thì sẽ giải quyết như thế nào đây ?
[Thật là "sai 1 ly đi 1 dặm". Cứ ngồi mà tính thời gian đi lại làm thủ tục, chờ đợi cho tới khi lấy được tiền, tính thế nào về thiệt hại này ? Lại còn ngưng trệ công ăn việc làm … sự mệt mỏi thể xác, căng thẳng tinh thần, ảnh hưởng tới công việc và đời sống, thiệt hại này ai bù ai trả ? Oan thì có thể giải oan, nhưng bất công thì không thể bù do đó còn "nợ" mãi.] (phần kết trang 62)
§ Cũng trên báo Thanh Niên ngày 22/04/2009, bài "Vụ chữa bách bệnh bằng … chưởng" của Vũ Phương Thảo, thuốc của "thầy" Tám có độc tính cao.
Cụ thể có dùng cây vòi voi, theo bác sĩ Lê Thân – Bệnh viện Y học Cổ truyền tỉnh Quảng Nam: nếu dùng cây vòi voi để sắc nước uống như cách "thầy" Tám thì cực kỳ nguy hiểm. Đây là loại cây mọc hoang ở nhiều nơi, có độc tính cao đối với gan, gây đau bụng tiêu chảy, xuất huyết lan tỏa và có thể gây ung thư !
[Một việc làm tổn hại tới sức khỏe con người, tệ hơn nữa nguy hiểm đến tính mạng, thì làm sao bồi thường ? Oan nghiệt và bất công sẽ còn mãi.] (phần kết trang 62)
§ Báo Thanh Niên 21/04/2009 : "Một công dân đòi bồi thường 1,8 tỉ đồng" (Hoàng Tuấn) :
Ông Nguyễn Văn Tuấn sinh 1967, ngụ tại Suối Cát, Xuân Lộc, Đồng Nai, làm đơn gửi TAND tỉnh Đồng Nai đòi bồi thường oan sai trong thời gian 3 năm 6 tháng với số tiền 1,8 tỉ. Trong quá trình làm ăn, có vay mượn dẫn đến tranh chấp dân sự – Ngày21/04/2004, Công an Đồng Nai khởi tố bắt giam ông Tuấn về hành vi "lừa đảo, chiếm đoạt tài sản", đồng thời kê biên toàn bộ cơ sở kinh doanh xe gắn máy, làm mọi việc buôn bán bị tê liệt. Ngày 20/04/2006, Tòa án Đồng Nai tuyên phạt 10 năm tù giam, nhưng trong phiên xử phúc thẩm TAND tối cao tại Tp.HCM tuyên hủy án, đến 18/02/2009 Viện KSND tỉnh Đồng Nai đình chỉ vụ án, đình chỉ điều tra bị can vì cho rằng "chỉ là tranh chấp dân sự". Trong hơn 1,8 tỉ đòi bồi thường, ông Tuấn cho biết có hơn 100 triệu đồng bồi thường danh dự do phải ngồi tù oan, và 1,6 tỉ do 4 năm cơ sở bị kê biên !
[Lời bàn : liệu 100 triệu có bồi thường cân xứng được danh dự một con người, với tội danh "lừa đảo, chiếm đoạt tài sản", cùng với những thiệt hại thể xác, tinh thần trong 3 năm 6 tháng ngồi tù không ? Người ta thường nói "Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại", vậy 3 năm 6 tháng vị chi
1.275 ngày, thì bằng 1.275.000 năm ! Bạn nghĩ sao về sự công bằng ?] (phần kết trang 62)
§ "Đâm nhầm" là một thông tin trên báo Công An 23/04/2009 – Chuyện xảy ra ở thị xã Pleiku, giữa 2 nhóm thanh niên có chút mâu thuẫn với nhau rồi cự cãi, ẩu đả, một nhóm yếu thế rút lui nhưng sau đó thêm "vũ khí, quân số", kéo lên quán Ấn Tượng gặp mấy thanh niên đang ngồi uống cà phê, thế là nhóm này kéo vào chất vấn, rồi đâm chém loạn xạ. Kết quả : 1 thanh niên gục ngã chết tại chỗ, 1 chết trên đường đi cấp cứu, nghiệt ngã thay 2 bạn trẻ này chỉ là khách cà phê, chẳng ân oán với ai, cũng không hề biết băng nhóm này – Ngay hôm đó những kẻ thủ ác đã bị bắt và đang chờ đối mặt với tòa án. Thế nhưng giả như có "tử hình" kẻ ác thì 2 bạn trẻ này cũng không thể được "bồi thường" sự sống ! Còn bao nỗi đau của cha mẹ, anh chị em, vợ con họ (nếu có) ! Còn một tương lai đóng góp công sức xây dựng gia đình và xã hội ở phía trước
…
[Oan nghiệt mãi mãi oan nghiệt không thể giải !] (phần kết trang 62)
§ "Mua 5 giạ gạo phải trả 9 công ruộng" – Đó là bài tường thuật vấn đề nhức nhối : vay lãi cắt cổ. Bài của Gia Bách trên báo Thanh Niên ngày 25/04/2009 : Những vụ mùa thất bát khiến nông dân ở vùng U Minh lâm cảnh khốn cùng. Lợi dụng tình thế, ông Trưởng ấp đứng ra bán chịu gạo rồi tính lãi "trên trời".
Tại ấp 12 xã Nguyễn Phích (U Minh, Cà Mau), bà Nguyễn Thị Xê kể : "Năm 1999 tôi mua chịu của ông Dư Hoàng Tuấn (Trưởng ấp 12) 5 giạ gạo và 1 bao phân giá gốc khoảng 500.000 đồng, đến năm 2005 ông Tuấn đến báo tôi đã thiếu 10,4 triệu rồi ra điều kiện : nếu không có tiền trả thì tiếp tục tính lãi, còn nếu giao 9 công đất thì không tính lãi nữa, chừng nào tôi có đủ tiền trả thì chuộc lại đất, giờ gia đình tôi không mảnh ruộng, phải chạy gạo từng bữa".
Anh Út con bà Xê tiếp lời mẹ : "Đau đớn là khi gia đình tôi hỏi thuê lại đất của mình để làm
ruộng trả nợ thì ông Tuấn nói : phải đong lúa mặt 20 giạ thì mới cho thuê".
Không riêng bà Xê, ấp 12 còn có 2 trường hợp mua gạo thiếu phải trả đất cho ông Trưởng ấp. Trường hợp ông Lê Bu Gi, ông mua thiếu của ông Tuấn 250.000 đồng tiền gạo. Sau đó ông trả 5 giạ lúa, 50 đôi đũa và đào 1,5 công đất nhưng cuối cùng vẫn còn nợ ông Tuấn 4 triệu đồng. Quá bức xúc, ông Gi nhờ Chính quyền địa phương can thiệp thì được ông Nguyễn Hoàng Rắt, Chủ tịch UBND xã thờ ơ nói : "Vợ chồng ông Tuấn có cho vay đó, nhưng cho vay làm ăn chứ có gì đâu ? Vậy mà không trả người ta giờ tính xù, giật hay gì ?". [Trước cảnh "người bóc lột người" này, dân nghèo chỉ còn biết kêu Trời !]
§ "70-90% đàn ông có vợ vẫn ăn vụng" – Bài điều tra của L. Anh trên báo Tuổi Trẻ ngày
18/04/2009. "Thực tế cuộc sống mới và đa dạng khiến chuẩn mực xã hội trở thành chiếc khuôn đã chật" – nhận định của bà Khuất Thu Hồng, đồng Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển xã hội, và là người chủ trì hội thảo quốc tế "Sự trong sáng và tình dục, mâu thuẫn giữa chuẩn mực xã hội và thực tế", diễn ra tại Hà Nội từ 16 đến 18/04/2009. Theo nghiên cứu về hành vi tính dục ở nam giới : tỷ lệ nam giới đã kết hôn có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân có thể lên đến 70-90% … bia, rượu là tác nhân "đầu mối", có tới 90% các ông tìm đến gái mãi dâm sau khi uống rượu, bia. Liệu có bất công không khi các ông chồng không bao giờ chấp nhận vợ có hành vi "bay bướm" dù chỉ một chút thôi ? [Lại bất công, lại oan nghiệt – "Đau đớn thay phận đàn bà".] (phần kết trang 62)
§ "Đẫm máu ở New York", bài của Đỗ Hùng trên báo Thanh Niên ngày 05/04/2009 – Một vụ bắn giết kinh hoàng vừa xảy ra tại thành phố Binghamton, bang New York (Mỹ).
Trưa ngày 03/04/2009, một sát thủ xuất hiện với khẩu súng trên tay, bắn loạn xạ làm nhiều người chết, nhiều người khác bị thương.
60 phút sau cảnh sát mới làm chủ hiện trường, 1 người đàn ông nằm chết với 2 khẩu súng, vai đeo túi đựng nhiều đạn và thêm 1 con dao trong người, có mang căn cước với tên Jiverly Voong, 42 tuổi, nạn nhân là những học viên một lớp dạy tiếng Anh cho dân nhập cư từ nhiều quốc gia. Giấc mơ được sống và làm việc trên đất Mỹ đã tan theo sau những loạt đạn chết chóc, để lại nỗi đau cho biết bao gia đình, người thân
…
[Chuyện giết chóc vô cớ, hàng loạt cũng xảy ra không hiếm tại Mỹ, Đức và nhiều nước khác. Ai sẽ giải được nỗi oan này ?] (phần kết trang 62)
§ Bài tường thuật của Vũ Toàn trên báo Tuổi Trẻ ngày 10/11/2008, về trường hợp vợ chồng anh Thái, ngụ tại thôn 4 Lý Bắc, xã Thăng Bình, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Không ai ngờ câu chuyện buồn "Cái đêm hôm ấy là đêm gì ?" của nhà văn quá cố Phùng Gia Lộc viết năm 1983, từ 1 làng nhỏ bên bờ sông Chu, xã Phú Yên, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa – nay tái diễn tại 1 làng quê cũng thuộc tỉnh Thanh Hóa.
Tháng 03/2003, chị Nguyễn Thị Dương, 30 tuổi, vợ anh Mai Công Thái sinh con thứ 3, ngay sau đó họ bị phạt 200kg thóc (quy thành tiền là 500.000 đồng), theo quy định của UBND xã Thăng Bình, cộng với số thuế 4 vụ (mỗi vụ góp 17 khoản thuế tại địa phương), thì tổng cộng nợ là 2.426.440 đồng. Gia đình anh Thái thuộc hộ nghèo chỉ có 1,3 sào ruộng, vụ nào được mùa thì có 3 tạ thóc, mất mùa chỉ 1,2 tạ. Trong khi đó 1 vụ 6 tháng phải có 4,8 tạ mới đủ ăn, anh Thái phải vào Nam làm thợ hồ mới đủ chi dùng trong nhà, còn vợ anh Thái kể : "Cũng phải cố làm trả dần chứ để cán bộ bắc loa gọi tên nhục lắm". Giấy xin trả nợ dần của gia đình anh Thái không được xã chấp nhận, sau nhiều lần nghe loa nhắc tên gắt quá, chị Thái lên xã nộp khoản thuế trước, còn tiền phạt sinh con thứ 3 chờ chồng đem tiền về trả, nhưng xã không chịu bắt trả đủ. Chị Dương nhớ lại : "Bất ngờ sáng 01/11/2004, tôi đi chợ về thấy đoàn cán bộ 13 người do ông Nguyễn Thanh Tùng, Phó Chủ tịch xã (nay là Chủ tịch) làm Trưởng đoàn, ông Vũ Hữu Nghĩa – Trưởng ban chính sách kiêm kế toán ngân sách xã (nay bị kỷ luật do bị phát hiện chế độ thương binh giả) dẫn đầu đoàn đứng chật 2 gian nhà cấp 4. Ông Tùng tuyên bố : "Hôm nay chúng tôi đến tịch thu tài sản", chị Dương ôm con van lạy xin khất, ông Tùng gắt : "Không được, hôm nay không dây dưa nữa, không có tiền nộp thì lấy tài sản, trong nhà có gì thì thu cái đó". Chị vội van xin rồi chạy xuống nội vay tiền, nhưng nội cũng nghèo chẳng có gì để giúp, 30 phút sau chị về nhà thấy cảnh tan hoang, TV trong buồng, con lợn nái trong chuồng không còn nữa … "Tôi vội vào buồng tìm sợi dây chuyền 3 chỉ vàng (kỷ vật duy nhất bố mẹ cho ngày cưới) và 350.000 đồng để trong hộp dưới TV, nhưng cả 2 đã biến mất".
Ngày 05/11/2008 (sau 4 năm), ông Tùng - Chủ tịch UBND xã Thăng Bình tiếp xúc với P.V báo Tuổi Trẻ đã thừa nhận : "Trong quá trình cưỡng chế để thu nợ, đoàn công tác của xã có một số sai sót …". Sau đó chúng tôi được ông cán bộ Ủy ban mở tủ cho xem chiếc TV 21 inch đang niêm phong trong góc tủ. Sang nhà ông bảo vệ Ủy ban thấy con lợn nái, người nhà ông bảo vệ cho biết : "Lợn nặng khoảng 60kg, đã đẻ 8 lứa (mỗi năm 2 lứa), còn mỗi lứa lợn mẹ đẻ được bao nhiêu con thì không nhớ rõ".
Ngày 06/11/2008, làm việc với phóng viên báo Tuổi Trẻ, ông Trần Văn Tâm, Chủ tịch UBND huyện Nông Cống thừa nhận : "Cách cưỡng chế để thu nợ của UBND xã Thăng Bình đối với vợ chồng anh Thái là rất bậy bạ. Ngay sau đó chúng tôi đã kỷ luật và cảnh cáo ông Tùng và các cán bộ liên quan … Sắp tới UBND xã Thăng Bình sẽ trả lại TV và con heo cho anh Thái, anh Thái có nghĩa vụ trả nợ thuế cho xã, chưa đủ tiền thì trả dần". Cũng tại xã này còn vụ các đời Chủ tịch đua nhau bán đất.
Ông Hoàng Sỹ Dần, 72 tuổi, nguyên cán bộ quân đội ở xã Thăng Bình bức xúc kể : "Thật khó hiểu nổi vì sao mỗi nhiệm kỳ làm Chủ tịch xã Thăng Bình, là các ông ấy lần lượt xẻ đất bán vô tội vạ … người dân kẻ nộp tiền vào kho bạc, người nộp cho Chủ tịch UBND xã, người nộp cho cán bộ địa chính, họ nộp đã 3 năm nay nhưng vẫn không làm bìa đỏ, chưa được cắt đất …". Ông Đỗ Công Tiến, trú tại thôn 9, đưa giấy thu tiền nói : "Tôi mua lô đất 80m2 giá 26 triệu, nộp tiền đã 3 năm vẫn không có sổ đỏ, vì huyện khẳng định bán đất như vậy là sai quy định". Anh Ngọc Văn Triều, thôn 13 nêu chuyện tương tự : "Tháng 7/2008, tôi nộp 52 triệu cho Phòng Địa chính xã, mua 160m2, nay nghe nói xã gặp trục trặc phải chờ huyện về giải quyết mới cấp đất". Ông Lê Xuân Ẩm, 70 tuổi, đau xót không kém : "Nhà tôi vay tiền nộp từ 2005 tới nay vẫn chưa biết đất mình nằm ở đâu, mới đây lên hỏi, ông Tùng nói số tiền xã tiêu mất rồi, xã sẽ thu khoản khác nộp huyện mới cho cắt đất". Ông Tùng thừa nhận: "Ông Lê Xuân Thám trong 10 năm làm Chủ tịch xã (1993-2003) có bán 166 suất đất theo nghị quyết của Đảng ủy xã, đến nay số hộ mua đất chưa làm sổ đỏ. Sau đó ông Thám làm Bí thư, ông Mai Công Tuấn làm Chủ tịch UBND xã, bán 32 suất, số đất này chưa cấp cho dân trước khi ông Tuấn bị kỷ luật thì đã bán tiếp 73 suất đất nữa".
[Lời bàn : Ôi những oan sai, những bất công này, những thiệt hại này ai sẽ giải đây ? Chúng ta vẫn phê phán chế độ phong kiến xưa "cướp đêm là trộm, cướp ngày là quan", những ông quan này là gì đây ? Đúng là "quan quyền bách hại con vô cớ, nhưng lòng này sợ lời Chúa mà thôi" (Tv 119,161)] (phần kết trang 62)
§ "Hơn 56 lần đi kêu oan cho người, cho đất" – Báo Tuổi Trẻ ngày 10/11/2008 : Ông Dần và anh Thái trở thành bạn thân từ những đêm khuya ra tỉnh kêu oan. Cứ mỗi tháng 1 lần vào ngày 25 dương lịch, đôi bạn này rời làng từ 24 giờ để đến tỉnh Thanh Hóa bằng xe gắn máy lúc mờ sáng để xếp hàng lấy số vào tốp đầu tiên. Ông Dần giải thích : "Nếu đi muộn sẽ không đăng ký được tốp đầu tiên, và như thế khó lòng gặp được lãnh đạo tỉnh trong ngày hôm đó". Từ năm 2005 đến nay hai người vay hàng chục triệu đồng để đi kêu oan, ở tỉnh là 48 lần và hơn chục lần ở các cơ quan khác tại Hà Nội, nhưng việc đâu vẫn đó.
[Ai thấu được nỗi khổ của những công dân này !] (phần kết trang 62)
§ "Sau giải oan, trai tráng thành bệnh tật" – Bài báo của Việt Hùng (báo Tuổi Trẻ ngày
11/11/2008) : Trần Minh Hòa, 24 tuổi, trú phường Cẩm An, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, từ một thanh niên khỏe mạnh, cột trụ chính của gia đình, sau khi bị giam cầm oan ức 143 ngày, anh Hòa phải chống gậy đi lại. Anh Hòa được ông bà nội giao cho mảnh đất hương hỏa 547m2 cùng căn nhà sát biển Cửa Đại để hương khói phụng thờ tổ tiên. Gia đình anh Hòa như bao gia đình khác bám biển với con cá con tôm sinh sống qua ngày. Năm 2000 con đường ven biển Cửa Đại được mở, nhiều resorts được dựng lên. Nhà anh Hòa bị ảnh hưởng, bức xúc nhất là chuyện vệ sinh. Theo hồ sơ vụ án, sáng ngày 03/09/2007 anh Hòa cầm đơn đến phường Cẩm An xin phép xây nhà vệ sinh, diện tích khoảng 18m2 trên mảnh đất gia đình mình … Ông Phó Chủ tịch UBND phường Dương Văn Phu phê : "Không đồng ý cho ông Hòa xây dựng hố xí như đơn trình bày trên diện tích đất chưa được Nhà nước chấp thuận và đang bị cưỡng chế". Do hôm trước nghỉ bù lễ, UBND không làm việc, anh Hòa đã mua một số vật liệu và cho đào móng trước với suy nghĩ : đất nhà mình, mình xây nhà vệ sinh có gì sai phạm ! Sau đó được cán bộ đến lập biên bản xây dựng trái phép, biên bản chưa lập xong thì mảng tường mới xây ngã đổ, có 1 số cán bộ đứng đó bảo vệ hiện trường, anh Hòa từ trong nhà chạy ra (tưởng tường bị đập), cầm dao rượt đuổi mấy cán bộ đứng đó, sau đó anh vác dao vào nhà và không chịu ký biên bản vi phạm. Công an đưa anh Hòa về phường rồi 2 ngày sau Công an thị xã Hòa An khởi tố vụ án và bị can, bắt tạm giam anh Hòa. Viện KSND Hội An truy tố anh Hòa tội chống người thi hành công vụ. Thời gian bị tạm giam, anh Hòa bị sốt và được điều trị tại bệnh viện Hội An. Ngày 22/01/2008 Viện KSND Hội An tiếp tục ký lệnh tạm giam thêm 20 ngày nữa, tính từ 24/04/2008. Cùng ngày TAND Hội An ký quyết định hủy bỏ biện pháp tạm giam, anh Hòa được đưa từ trại tạm giam Công an Hội An về nhà sau 143 ngày bị tạm giam, với đôi chân cử động khó nhọc. Sau 2 lần trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, ngày 21/03/2008, TAND Hội An đưa vụ án ra xét xử và kết luận : "Bị cáo bức xúc rượt đuổi những người làm không đúng pháp luật, chưa đến mức độ phải truy cứu trách nhiệm hình sự, mà chỉ cần xử lý bằng biện pháp hành chính cũng thỏa đáng". Tòa tuyên bố anh Hòa không phạm tội. Về việc bị giam giữ 143 ngày, cơ quan thẩm quyền phải có trách nhiệm khôi phục danh dự, quyền lợi và ích lợi hợp pháp của anh Hòa theo quy định của pháp luật. Viện KSND Hội An kháng nghị, TAND tỉnh Quảng Nam mở phiên tòa phúc thẩm ngày 18/06/2008, bác kháng nghị và giữ nguyên án sơ thẩm.
Hơn 4 tháng từ khi có bản án phúc thẩm đến nay, không một tổ chức hay cá nhân nào đến thăm hỏi, nói lời xin lỗi. Rời nhà giam, người anh Hòa co quắp xanh xao, đi hết bệnh viện này tới bệnh viện khác, từ Đà Nẵng vào tới Tp.HCM chữa chạy. Bố mẹ anh Hòa già yếu bệnh tật, từ ngày anh Hòa bị bắt giam, ông bà kiệt lực, chỉ còn sống nhờ bà con giúp đỡ. Ông cho biết : "Từ ngày Hòa bị vào vòng lao lý, cả gia đình cũng lao theo xuống vực thẳm khánh kiệt".
Do có đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, phải chờ kết quả sau cùng, hành trình đi đòi lại công lý của gia đình anh Hòa vẫn còn gian nan.
Theo điều 287 bộ luật tố tụng hình sự, trong trường hợp này việc kháng nghị được tiến hành trong thời hạn 1 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực. Khi nào có kết quả, các cơ quan có liên quan mới có trách nhiệm tiến hành các công việc tiếp theo để giải quyết cho anh Hòa !
["Chờ được vạ thì chẳng còn má để mà sưng" ! Oan ơi là oan !] (phần kết trang 62)
§ Bài của Thanh Dũng : "Bán cá… tử thần", trên báo Thanh Niên ngày 24/04/2009.
Cá nóc là loài chứa nhiều độc chất, nhiều thông tin về những vụ tử vong vì ăn cá nóc đã được đăng tải. Theo Bộ Y tế, tại Việt Nam đã phát hiện được 4 họ cá nóc, 12 giống và 66 loài. Độc tố chứa nhiều nhất ở gan, trứng … mỗi người chỉ cần ăn 10gr cá nóc là có thể tử vong ; ban đầu nạn nhân sẽ cảm thấy tê môi và đầu lưỡi, sau đó đến tay chân … đi đứng loạng choạng, nôn mửa dữ dội, khó thở, hôn mê rồi hô hấp ngưng trệ, nạn nhân tử vong sau
1,5-8 giờ, nếu không kịp thời cứu chữa.
Thế mà vì lợi nhuận, cá nóc tươi, khô vẫn được tung ra thị trường. Từ đầu tháng 2 tới cuối tháng 4/2009, các cơ quan chức năng đã thu hồi được 35 tấn cá nóc cả tươi lẫn khô : Ngày
21/04/09 khi đột xuất kiểm tra 4 xe tải chở cá, công an huyện Châu Thành và cảnh sát môi trường tỉnh Kiên Giang đã phát hiện 18 tấn cá nóc xanh lưng gù, loài cực độc ; Ngày 26/02/09 khi kiểm tra điểm chế biến cá khô ở đường Đinh Tiên Hoàng, Rạch Giá, đoàn kiểm tra phát hiện
200kg cá nóc phơi chung với các cá khác … Làm việc với các cơ quan chức năng, ông Huy khai nhận từ ngày 22-23/03/09, ông đã thu gom 12 tấn cá nóc tươi từ các tàu đánh cá đem về sơ chế bán lại cho các đại lý và cơ sở chế biến cá khô. Trước khi bị tịch thu, ông đã tung ra thị trường 4 tấn cá nóc phơi khô.
[Nếu cứ tính 10gr cá nóc tiêu 1 mạng người, thì chỉ riêng vài con số vừa kê khai trên, 50 tấn có khả năng giết người vô tội là 5 triệu người. Ai xử cho nỗi oan và thiệt hại này ? Phạt hành chánh vài chục triệu nhằm nhò gì ? Và số tiền này có tới được gia đình những người thiệt mạng không ?]
§ Báo Thanh Niên 23/04/2009 có bài "Điều tra viên và Thẩm phán bắt tay nhận hối lộ" của phóng viên Đức Hòa : Ngày 22/04/2009, Cục CSĐT tội phạm về tham nhũng (C37) Bộ Công an có kết luận điều tra đề nghị Viện KSND tối cao truy tố bị can Vũ Ngọc Sơn – Điều tra viên Công an tỉnh Quảng Ninh, và bị can Nguyễn Ngọc Chính – Giám đốc Công ty Luật Chính Tâm về 2 tội : "làm môi giới hối lộ" và "lừa đảo chiếm đoạt tài sản". C37 cũng đề nghị truy tố : bị can Hà Công Tuấn – nguyên Thẩm phán TAND tỉnh Quảng Ninh về tội "nhận hối lộ" ; bị can Trần Thị Ngọc Tú – nhân viên Công ty Luật Chính Tâm về tội "môi giới hối lộ".
Theo kết luận điều tra, cuối tháng 04/2008, tổ công tác Bộ đội Biên phòng Quảng Ninh phối hợp với Công an tỉnh Quảng Ninh bắt quả tang Lý Chính Trung (quốc tịch Trung Quốc) đang vận chuyển hơn 7.000 viên thuốc giảm béo đưa vào Việt Nam tiêu thụ. Vụ án được trao cho điều tra viên Vũ Ngọc Sơn thụ lý.
Trong quá trình làm việc, Sơn và những nhân vật trên đã móc nối với nhau đòi 300 triệu, rồi thêm 200 triệu ngoài tiền dịch vụ của Công ty Chính Tâm, để trả tự do cho Chí Trung, gia đình bức xúc tố cáo. Sáng ngày 20/09/2008, khi Tuấn và Sơn đang nhận 200 triệu của vợ nạn nhân thì bị công an bắt quả tang.
[Lời bàn : theo nguyên tắc phòng dịch, 1 trường hợp phát hiện dịch thì có ít nhất 10 trường hợp chưa phát hiện được. Ở đây phát hiện được trường hợp này, chắc chắn còn bao nhiêu trường hợp khác trót lọt !
Bộ phim "Chạy án" được giới chuyên môn đánh giá cao và trao giải thưởng, khán giả cũng chú ý theo dõi và tán thưởng. Cán cân công lý mà bị bẻ cong như vậy thì dân còn đặt niềm tin vào đâu nữa ? Hai chữ Công Lý dường như không thể tìm được ở cõi trần đầy bụi bặm này !] (phần kết trang 62)
§ Những năm gần đây báo chí đăng nhiều vụ tòa án xử oan sai rồi phải xin lỗi, thương lượng hay bồi thường. Có cả những trường hợp tuyên án tử hình một hai lượt rồi tới cơ quan tối cao hủy án trả tự do ! Lại xin lỗi và thương lượng, bồi thường. Công lý ở đâu ! Câu hỏi chưa có lời đáp.
§ Báo Thanh Niên 02/05/2009 đăng bản tin : "Hoàng gia Hà Lan bị ám sát hụt" :
Giữa cuộc diễu hành rất đông dân chúng mừng Nữ hoàng, 1 chiếc xe màu đen do tài xế sát thủ Karst Tates 38 tuổi, lái tốc độ cao đâm xầm vào đám đông, tính vượt lên đâm vào xe Hoàng gia, nhưng nó đã dừng lại trước cột đèn, tài xế sát thủ được lôi ra bị thương nặng, được các bác sĩ cứu chữa nhưng không qua khỏi, anh tắt thở ít giờ sau đó do chấn thương não. Vụ án khép lại vì sát thủ đã chết nhưng hậu quả thật tai hại : 6 người chết, trong đó có 1 trẻ em và 12 người bị thương nặng. [Ai trả lại được 6 mạng người này ? Ai đền được thiệt hại do anh gây ra về sức khỏe thể xác, về vật chất và nhất là nỗi đau tinh thần cho gia đình và những người thân yêu của các nạn nhân ? Ảnh hưởng xấu này có khi còn gây tai hại cho mấy thế hệ tiếp theo nữa, nơi những đứa con mất cha mất mẹ, những người vợ mất chồng, những người chồng mất vợ, những người đang khỏe mạnh bỗng dưng mang tật nguyền … Ai có thể đong đếm được tai hại do một hành động điên cuồng của một tên sát thủ ? Công lý ở đâu ? Anh ta chết, những người vô tội, không thù không oán với anh cũng đã chết, không lẽ huề cả làng, người chết hết chuyện à ?] (phần kết trang 62)
§ Báo Phụ Nữ ngày 31/03/2009 và nhiều báo khác liên tiếp đưa tin về các phiên tòa xử Khmer Đỏ – kẻ tội đồ của "cánh đồng chết" : Tên Kaing Guek Eav thường gọi là Duch, cai ngục khét tiếng của nhà tù S21 (nguyên là trường trung học Tuol Sleng), nơi đây gần 18.000 người Campuchia nam nữ, già trẻ, lớn bé đã bị Duch chỉ huy cho tra tấn dã man và sát hại với những cực hình : mổ bụng, trấn nước, đốt cháy, đập đầu, móc treo, kềm kẹp, … đủ mọi thứ hình khổ dã man nhất trên trần đời. Gần 18.000 sọ người còn được xếp đầy các phòng của nhà tù S21 làm chứng tích tội ác của Duch và tay chân thuộc hạ. Nếu nói tới Khmer Đỏ trong những năm cai trị (1975-1979) thì phải kể tới tội diệt chủng chống đồng bào ruột thịt của mình : 1,8 triệu người bị giết với đủ mọi hình khổ dã man nhất, phải nói là "địa ngục trần gian", không thua gì thời Đức quốc xã.
[Thế mà Tòa án quốc tế ở Nam Vang tốn cả hàng trăm triệu dollars xét xử Duch hồi tháng
02/2009 chưa đưa ra được phán quyết cuối cùng, báo chí dự đoán án nặng nhất dành cho Duch cũng chỉ là tù chung thân (an dưỡng tới cuối đời), vì Campuchia không có án tử hình, mà giả như có tử hình, liệu có đền cân xứng tội ác đối với 18.000 sinh mạng và 18.000 gia đình nạn nhân không ? Cuối cùng thì Duch cũng già và cũng chết, vậy là huề cả làng à ? Cả tập đoàn 5, 6 thủ lãnh Khmer Đỏ, sát hại 1,8 triệu đồng bào mình, kẻ đã chết, người còn sống nay mai ra tòa, cùng lắm chung thân, rồi chết thế là hết chuyện, liệu có bất công nào lớn hơn bất công này ? Liệu có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau này? Có oan nghiệt nào lớn hơn oan nghiệt này không ?
Cao hơn 1 bậc, xa hơn 1 bậc, có thể nói tới tột đỉnh cái ác là thế chiến II (1939-1945) do tập đoàn Đức quốc xã mà Hitler lãnh đạo, đã cướp đi 67 triệu sinh mạng trên nhiều nước. Chưa kể hàng trăm triệu người bị thương tật có khi suốt đời, hàng tỷ tỷ dollars về thiệt hại cơ sở vật chất và bao nhiêu hậu quả tai hại khác kéo dài mãi tới nay và nhiều thế hệ sau nữa. Nguyên nước Do Thái mất 6 triệu người chết trong các trại tập trung, đúng là : "địa ngục trần gian", những cảnh kinh khủng tại các trại tập trung của Đức Quốc xã được diễn tả trong. cuốn tiểu thuyết "Giờ thứ 25" (XB 1949 của C.V Gheorghiu, nhà văn Rumani gốc Pháp 1916-1991) chỉ nói lên phần nào mà thôi.
Tại đất nước Liên Xô 23 triệu người đã chết với muôn vàn đau thương thiệt hại khác. Cuối cùng Hitler cùng vợ mới cưới tự sát trong căn hầm trú ẩn khi bại trận tại Berlin. Người chết hết chuyện, vụ án không ai xét xử (có xử là xử 1 số tay chân còn sống sót, thay hình đổi dạng sống chui lủi đâu đó một thời gian rồi bị phát hiện). Giả như Hitler còn sống bị bắt và đem ra xử với tội danh nặng nhất là tử hình với hình thức độc dữ nhất mà cách đây hơn 100 năm, vua quan Việt Nam đã áp dụng để "trừng trị" người theo đạo Gia-tô (hơn 100 ngàn người Công giáo đã bị giết) là bá đao hay tùng xẻo, hoặc với hình khổ ghê gớm nhất mà Philatô đã xử Chúa Giêsu là đóng đinh vào thập giá … thì liệu vài ba giờ quằn quại đau đớn … có đủ để đền 67 triệu mạng người chết thảm và hàng trăm triệu người thương tật, thiệt hại nhà cửa, của cải, tài sản vật chất hàng tỷ tỷ dollars, chưa kể thiệt hại tinh thần không thể cân đo đong đếm không ? Ai sẽ giải nỗi oan nghiệt này ?] (phần kết trang 62)
§ Báo Thanh Niên 09/05/2009 có bài "Bãi bỏ 340 loại phí, lệ phí" của N. Trần Tâm : Ngày 08/05/09 tại Tp.HCM, Bộ Tài Chính phối hợp Đại sứ quán Hàn Quốc đã tổ chức buổi đối thoại và phổ biến chính sách thuế, hải quan mới, … Theo Thứ trưởng Bộ Tài Chính Đỗ Hoàng Anh Tuấn, trong những năm qua, Bộ đã bãi bỏ 340 loại phí, lệ phí do các cơ quan trung ương và địa phương ban hành không đúng quy định.
[Lời bàn : 340 loại phí, lệ phí không đúng quy định, đã thu trong những năm qua, nay bãi bỏ liệu số tiền thu đó có được trả lại cho các doanh nhiệp không ? Có được tính thêm trượt giá không ? Thủ tục có phiền hà không ? Lẽ ra khi thu, người ta phải tới nơi nộp thì khi trả phải tới tận nơi giao, kể cả vốn lẫn lãi mới công bình ! Liệu điều này có thể xảy ra không ? Những văn bản ban hành không đúng quy định, liệu có gây ra hiệu ứng bất công không ? Người ra quy định sai có chịu trách nhiệm không ? Câu trả lời dành cho người đọc.]
§ Kỳ án 3 thanh niên phạm tội "hiếp dâm" (bài của Thái Uyên Phan Hậu, báo Thanh Niên ngày 02/06/2010). 3 thanh niên đó là Nguyễn Đình Tình 29 tuổi, Nguyễn Đình Lợi 30 tuổi và Nguyễn Đình Kiên 30 tuổi, ở vùng quê thuộc xã Yên Nghĩa, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây cũ (nay là phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông, Hà Nội).
Chuyện xảy ra vào cuối năm 2000, các cơ quan xét xử tỉnh Hà Tây cấp sơ thẩm và tòa phúc thẩm TAND tối cao Hà Nội đều tuyên các bị cáo phạm tội và phải nhận tổng cộng 41 năm tù về tội hiếp dâm và cướp tài sản, dù các bị cáo ở tòa nào cũng kêu oan. Đến tháng 01/2010, Viện KSND tối cao ra kháng nghị giám đốc thẩm đề nghị tuyên các bị cáo vô tội.
Theo cơ quan này, vụ việc hiếp dâm và cướp tài sản ở trạm bơm Yên Nghĩa là có thật, nhưng các cơ quan tố tụng đã vi phạm nghiêm trọng pháp luật tố tụng hình sự, thiếu khách quan. Các bản án đã căn cứ vào tài liệu điều tra thiếu khách quan để kết tội các bị cáo.
Viện KSND tối cao cũng chỉ ra hàng loạt tắc trách của các cơ quan tố tụng : thời điểm xảy ra vụ án – Tình, Kiên và Lợi có bằng chứng ngoại phạm, là đang đi dự sinh nhật bạn, có nhiều người làm chứng nhưng không được các cơ quan tố tụng quan tâm xét xử ; Vật chứng duy nhất là chiếc áo thủ phạm bỏ lại hiện trường, nạn nhân nhặt được nhưng hồ sơ lại thể hiện 1 chiếc áo khác. Thiệt hại không thể cân đo đong đếm !
Tình - trước khi bị bắt học cấp II, nhà nghèo phải bỏ học, lặn lội học nghề sửa xe máy để giúp bố mẹ, tới năm 2000 có ít vốn, Tình mở tiệm thì bị bắt, thanh danh bị bôi nhọ, gia đình túng quẫn vì vay chạy kêu oan …
Kiên đi tù 10 năm, gia đình ông Nguyễn Đình Thìn (bố Kiên) như ở trong địa ngục trước sự đàm tiếu của dư luận, sổ đỏ phải đi cầm để có tiền đi kêu oan cho con.
Còn Lợi khi bị bắt, cô em gái Nguyễn Thị Hà phải bỏ học do không chịu nổi lời dị nghị … Bản thân Lợi đang làm chủ cửa hàng sửa xe máy, lại có người yêu sắp cưới, sự việc xảy ra khiến dự định của đôi bạn trẻ tan vỡ, mặc dù không tin Lợi làm chuyện đồi bại, nhưng chờ đợi được 7 năm cũng đành phải lấy chồng xa xứ.
[Liệu những nỗi oan này có gì bù đắp cân xứng được không ? Thiệt hại tinh thần ? Danh thơm tiếng tốt ? Sức khỏe ? Vật chất ? Ảnh hưởng tâm lý quãng đời còn lại ? Chưa kể những bệnh tật từ trong nhà tù, như có phạm nhân ra khỏi tù đã bị nhiễm HIV do đại bàng hành hạ, bắt xâm … Điều đáng nói nhất là bất công này lại do cơ quan công lý "cầm cân nảy mực" gây ra].
Luật sư Trương Anh Tú (Đoàn luật sư Hà Nội), người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho 3 thanh niên nói trên trong phiên giám đốc thẩm nhấn mạnh – trong trường hợp xác định các bạn trẻ này bị oan thì dù tỉnh Hà Tây đã sát nhập vào Hà Nội, nhưng nhiều cá nhân tham gia điều tra, xét xử vụ án vẫn đang đương chức, giữ các vị trị quan trọng tại các cơ quan nhà nước, nên "cần phải xem xét toàn diện, không những về bồi thường nhà nước mà còn làm rõ trách nhiệm của những người trong các cơ quan tố tụng đã tham gia điều tra, xét xử vụ án".???
Cứ bình tĩnh đặt tay trên trán mà điểm lại lịch sử cổ kim, từ nỗi oan Abilê cho đến nỗi oan Nguyễn Trãi (vụ án Lệ Chi Viên), từ nỗi đau của thế chiến thứ I, thứ II cho đến nỗi oan nghiệt của biến cố 11/9/2001 (với gần 4.000 người chết trong một khoảnh khắc), từ nỗi oan của những cuộc đánh bom tự sát đến nỗi oan của những phụ huynh mất những đứa con duy nhất trong vụ động đất Tứ Xuyên (hàng chục ngàn người chết, trong đó có hàng ngàn trẻ em đang ở trường học), do xây trường chất lượng kém mà họ đã mítting dâng kiến nghị đòi truy cứu trách nhiệm (VTC9, chương trình 7 giờ sáng ngày 05/05/2009).
Xâu chuỗi lại các nỗi oan nỗi khổ biết bao nhiêu người phải chịu từ xưa tới nay, và sẽ còn mãi tới ngày tận cùng vụ trụ và thế giới, chúng ta có những nhận định sau đây :
1. Các nỗi oan nỗi khổ cứ mỗi ngày mỗi cao ngút trời không thể nào đong đếm được, nhà Phật tóm kết trong câu : "Đời là bể khổ".
2. Các nỗi oan nỗi khổ phần lớn đều do con người gây ra cho mình và cho nhau. Ngạn ngữ La-tinh có câu "Homo homini lupus" – nghĩa là "người là chó sói lẫn cho nhau". Nhiều nỗi khổ ta cho rằng tại Trời, tại thiên nhiên, tại số phận, … Xét cho cùng cũng tại con người cả. Phá sạch rừng thì chịu hậu quả là lũ quét. Các nhà máy công nghiệp thải khí độc, khí gây hiệu ứng nhà kính làm biến đổi môi trường, sinh bão tố, lũ lụt. Rác thải ngập trời, nước thải các nhà máy, … làm ô nhiễm môi trường, ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước, sinh trăm nghìn thứ bệnh tật cho con người. Trẻ em bị đần độn, bị tật nguyền từ khi mới sinh … thường do hóa chất độc hại trong môi trường sống, cũng có khi do bố mẹ nghiện ngập, chơi bời để lại "gia tài" cho con cái. Ngày nay báo chí nói nhiều tới nhân tai hơn thiên tai, mà kể cả thiên tai cực lớn như sóng thần, động đất, núi lửa phun trào, … cũng có thể có nguyên do từ sự khai thác quá mức dầu hỏa và nước ngầm, lòng đất bị rỗng nên phải chuyển động. Tóm lại, mọi tai họa xảy ra cho loài người và muôn vật đều có cội nguồn sâu xa từ tội ban đầu của con người nguyên thủy như Kinh Thánh nói : "Bởi một người mà tội đã xâm nhập vào trần gian, mà bởi tội thì có (mọi xáo trộn và) sự chết" – (Thánh Kinh Tân Ước, thư Roma đoạn 5 câu 12).
3. Trả lại cho con người sự công bằng tuyệt đối, đền bù mọi sự oan sai, đau khổ là chuyện không thể thực hiện nơi trần gian này.
4. Sự công bình là nỗi khát khao cháy bỏng, là nhu cầu thực sự của mọi người qua mọi thời đại và ở mọi nơi. Mở đầu tuyên ngôn độc lập của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ và của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là lời quả quyết : "Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng, Tạo Hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được trong những quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc" (sống trong yêu thương, công lý và bình an).
5. Theo định luật tâm lý xã hội : cái gì là nhu cầu phổ quát của mọi người, mọi nơi, mọi thời đại thì cái đó phải có. Thí dụ muôn loài sinh vật có chung nhu cầu thở, thì trong thực tế phải có khí để đáp ứng. Có nhu cầu nạp năng lượng để bảo tồn sự sống và phát triển thì thực tế phải có đồ ăn để đáp ứng. Có nhu cầu khát thì thực tế phải có nước để đáp ứng.
Vậy nhu cầu đói khát công lý, chắc chắn phải có công lý tuyệt đối để đáp ứng. Nhưng trên cõi đời này không tìm đâu ra công lý tuyệt đối, thỏa đáng thì chắc chắn phải có, ở đời sau nếu không có thì tất cả cuộc sống đầy bất công ở trần gian này là điều phi lý, không thể chấp nhận được (như những oan sai đã trình bày ở trên), và như vậy loài người không còn cái cao quý nhất mà Tạo Hóa ban cho, là nhân phẩm, mà bị hạ xuống ngang tầm thú vật, vì thế giới loài vật không có ý niệm về tự do, phẩm giá, trách nhiệm, công bằng, … ở đây mọi loài sống theo bản năng : cá lớn nuốt cá bé, hổ dữ xé chiên lành, mạnh được yếu thua …
Để củng cố cho niềm tin có một thế giới công minh chính trực, chúng ta thấy cách chung nhân loại đã bày tỏ qua những châm ngôn, tục ngữ đầy khôn ngoan :
- "Thiện giả thiện báo, ác giả ác báo" – Ở đời này làm sao có chuyện "ân đền oán trả" sòng phẳng, vậy thì phải chờ kiếp sau.
- "Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu, thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu" – Công lý ở đời này kiểu "con lạc đà chui qua lỗ kim" một cách dễ dàng thì câu nói trên vô nghĩa !
- "Đèn trời soi xét" hay "Ông Trời có mắt" – tức là có Đấng xét xử phân minh, thưởng phạt công bình. Trong bộ phim "ĐẤT VÀ NGƯỜI" được đánh giá cao, có một chi tiết đáng lưu ý : anh em ông Hàm, ông Thủ có một âm mưu thâm độc, tàn nhẫn để vu oan cho ông Phúc (người yêu cũ của bà Son, vợ ông Hàm). Ông Hàm bắt bà Son phải thực hiện, bà khóc lóc van lạy ông : "Ác quá, Trời có mắt, tôi không làm được đâu".
Lòng người khao khát công lý là vậy, lý trí con người tìm hiểu, lý luận biết chắc phải có như vậy, nhưng chưa tìm đâu ra một tiếng nói quyết định, dứt khoát, rõ ràng trừ đức tin Công giáo.
Quả vậy, Kinh Thánh đã mở cho chúng ta viễn ảnh đời sau :
§ "Tới bao giờ các ngươi còn xử án bất công, hay còn thiên vị phường gian ác ? Hãy bênh quyền lợi kẻ mồ côi, người hèn mọn, minh oan cho người khốn khổ, kẻ bần cùng. Giải phóng ai hèn mọn, ai nghèo túng, cứu khỏi nanh vuốt bọn ác nhân. Tâu Thượng Đế, xin Ngài đứng dậy mà xét xử địa cầu, vì chính Ngài làm chủ muôn dân" (Thánh Vịnh 82).
§ "Tội chúng con Chúa bày ra trước trước mặt, lỗi thầm kín Thánh Nhan đều soi tỏ" (Tv
90,8).
§ "Lạy Chúa là Chúa Trời trả báo. Lạy Chúa Trời trả báo xin Ngài quang lâm. Đấng xét xử địa cầu xin đứng dậy, trả cho lũ kiêu căng xứng việc chúng làm, (quân gian ác) chúng giết quả phụ, giết khách ngoại kiều, tàn sát cả cô nhi. Chúng bảo rằng Chúa đâu có thấy … Hãy lưu tâm này quân đần độn nhất trên đời, bao giờ mới nên khôn hỡi đồ ngu xuẩn ? Đấng từng gắn đôi tai há lại không nghe được ? Đấng nặn thành cặp mắt chẳng lẽ không thấy gì ? Đấng sửa trị muôn dân lẽ nào không trừng phạt ? Lẽ nào Chúa liên minh với bọn thẩm phán ác ôn, bọn gieo tai rắc họa chẳng kể chi luật pháp, lên án tử cho người vô tội ? Tội của chúng Người đổ trên đầu chúng. Người tiêu diệt chúng vì điều dữ chúng làm. Đức Chúa là Thiên Chúa của ta sẽ tiêu diệt chúng. Công lý rồi ra sẽ trở lại pháp đình. Mọi tâm hồn chính trực sẽ tuân theo" (Tv 94).
Vấn đề là bao giờ thì Chúa xét xử ? Kinh Thánh trả lời đó là ngày tận thế.
Các khoa học gia cũng đồng ý với Kinh Thánh về ngày tận thế. Họ tính ra mỗi 1 phút qua đi, mặt trời phải tiêu thụ 400 triệu tấn khí helium để giữ được ngọn lửa và sức nóng hàng triệu độ như hiện nay. Như vậy một số tỷ năm nữa nguồn khí helium sẽ cạn kiệt và mặt trời sẽ chết, như biết bao nhiêu mặt trời khác trong vũ trụ đã chết. Mặt trời chết kéo theo cái chết của trái đất và muôn vật trên nó, đó là ngày tận thế theo khoa thiên văn học.
Còn Kinh Thánh ? Thưa rất rõ ràng :
§ "Vậy mà Thiên Chúa đã nhắm mắt bỏ qua những thời người ta không nhận biết Ngài. Bây giờ Ngài truyền cho người ta rằng : mọi người ở mọi nơi phải sám hối. Vì Ngài đã ấn định một ngày để xét xử thiên hạ theo công lý, nhờ một người mà Ngài đã chỉ định (là Đức Giêsu) để bảo đảm điều ấy với mọi người, Thiên Chúa đã làm cho Vị này sống lại từ cõi chết"
(sách Tông Đồ Công Vụ đoạn 17, câu 31).
§ "Ngay sau những ngày gian nan ấy thì mặt trời sẽ tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống, chín tầng trời bị lay chuyển, bấy giờ dấu hiệu Con Người sẽ xuất hiện trên trời, bấy giờ mọi chi tộc trên mặt đất sẽ đấm ngực và sẽ thấy Con Người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến. Người sẽ sai các thiên sứ của Người thổi loa vang dậy, tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương, từ chân trời này tới chân trời kia" (Kinh Thánh Tân Ước, Tin Mừng Mátthêu đoạn 24, câu 29 đến 31).
Một vấn đề khác cũng là một chân lý nảy sinh từ cuộc phán xét chí công này, đó là sự kiện người chết sống lại. Thoạt nghe như chuyện không tưởng, phi lý là đàng khác.
Thánh Phaolô tới Athêna - thủ đô Hy Lạp, giảng cho các triết gia và dân chúng ở đó về Thiên Chúa tạo thành vũ trụ và chính Ngài cho kẻ chết sống lại : "Vừa nghe nói đến người chết sống lại, kẻ thì nhạo cười, kẻ thì nói : vấn đề ấy để khi khác chúng tôi sẽ nghe ông. Thế là ông Phaolô bỏ họ mà đi" (sách Tông đồ Công vụ đoạn 17, câu 32-33).
Người Hy Lạp thời xưa không tin, không chấp nhận. Ngày nay đại đa số dân chúng cũng không tin, không chấp nhận chân lý : kẻ chết sống lại, vì những lý do sau đây :
a). Thực tế ngày nay chẳng ai thấy kẻ chết sống lại. Mỗi ngày 24 tiếng qua đi, trên thế giới có 300.000 người chết, chỉ thấy đem chôn, đem thiêu … chưa thấy ai sống lại cả.
b). Không thể chứng minh bằng khoa học được : Con người ngoài phần tinh thần thì thể xác là vật chất, là tổng hợp các nguyên tố vật chất theo 1 tỷ lệ và 1 quy trình nào đó khi sống, tới khi chết xác bị phân hủy, tổng hợp nguyên tố bị phá vỡ, các nguyên tố lại trở về với "đồng đội" của nó. Không gì có thể tổng hợp các nguyên tố đó lại thành một thân xác sống động được.
Thế nhưng trong nhân loại hiện nay hơn 6 tỷ người, thì có khoảng 3 tỷ người tin và quyết chắc sẽ có ngày tận thế, thân xác cát bụi sẽ được tập hợp và sống lại thực sự. Họ vẫn đọc mỗi ngày : "Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy – Amen". Lý do :
1. Nếu người ta tin có Đấng Tạo Hóa quyền năng, tuyệt đối, bởi không mà tác tạo muôn loài như câu mở đầu của bộ Thánh Kinh quả quyết : "Tự ban đầu Thiên Chúa đã tạo thành trời và đất" (sách Sáng Thế đoạn 1, câu 1 : dĩ nhiên phải hiểu trời và đất là kiểu nói tổng quát bao gồm mọi sự, mọi loài trong vũ trụ này), thì người ta cũng phải tin Ngài sẽ dùng quyền năng mà làm cho kẻ chết sống lại.
"Tất cả những ai thấy Người Con và tin vào Người Con thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" (Kinh Thánh Tân Ước, Tin Mừng Gioan đoạn 6, câu 40).
"Điều không thể có đối với loài người thì trở thành có thể đối với Thiên Chúa : Đối với Thiên Chúa không có gì là không thể làm được" (Kinh Thánh Tân Ước, Tân Ước Luca đoạn 1, câu 37).
2. Lý trí chúng ta suy luận.
Chúng ta đã chứng minh ở trên về nhu cầu bức xúc đòi hỏi một cuộc xét xử công bằng : "Nợ 1 đồng xu cũng phải trả, cho 1 bát nước lã cũng được tính công". Mọi người phải được hưởng một chế độ công bình tuyệt đối, đến nỗi ngay những kẻ bị phạt cũng cảm nhận được lẽ công bình : Điều đó xứng với những gì mình làm. Không còn cảm thấy bị oan ức hay oán hận vì bị xử bất công.
Nếu chúng ta tin và quyết chắc thế giới đó có, để cuộc đời không thành vô lý và phi lý, thì chúng ta phải tin và chấp nhận sự kiện sống lại đúng như lời Kinh Thánh. Vì con người có thể xác và linh hồn. Hai yếu tố gắn bó chặt chẽ với nhau trong suốt quãng đời từ khi tượng hình trong dạ mẹ cho đến khi trút hơi thở cuối cùng. Tất cả những điều lành làm được đều có hồn và xác tham gia, tất cả những điều ác thực hiện cũng đều có hồn và xác tham gia : Hồn dùng tài năng của mình là trí khôn lên kế hoạch, tìm phương tiện, dùng ý chí tự do để quyết định chọn lựa và thúc đẩy thân xác thi hành - Cho nên khi chịu xét xử tối hậu thì phải xét xử cả hồn lẫn xác, khi thưởng công cũng phải thưởng cả hồn lẫn xác, và khi phạt tội cũng phạt cả hồn lẫn xác - Nếu chỉ thưởng phạt một bên thôi (hồn hoặc xác), thì lại rơi vào tình trạng bất công và đại bất công nữa, đây là điều phi lý không thể chấp nhận được.
Cho nên với những suy nghĩ vẩn vơ của tôi, tôi vững tin và luôn trông đợi :
Một cuộc xét xử chí công "sơ nhi bất lậu".
Một thế giới công bằng tuyệt đối.
Một cuộc sống lại rất ngoạn mục.
Và một kiếp sống vĩnh hằng trong hạnh phúc tuyệt đối cho cả hồn lẫn xác.
Đó chính là "trời mới đất mới, nơi công lý ngự trị" (Kh 21,1).
"Này đây TA (Đấng xét xử) sắp đến và sẽ trả lại cho mọi người xứng với những việc họ đã làm" (Kh 22,12).
Chỉ có thế tôi mới hết thắc mắc, mới có thể bình tĩnh chấp nhận kiếp sống đọa đầy này.
Lời Tâm Niệm
- Lạy Đấng thiêng liêng tối cao,
- Lạy Đấng Tạo Hóa,
- Lạy Đấng Tuyệt Đối,
- Lạy Thượng Đế,
- Lạy Ông Trời,
Chúng con đây là những thụ tạo đứng trên muôn vật trong vũ trụ. Chúng con đã được Ngài tạo dựng nên giống hình ảnh của Ngài là Thiên Chúa, vì chúng con có trí nhớ, có trí tuệ, có ý muốn, có tự do. Chúng con luôn thao thức trước những vấn đề :
1. Bởi đâu có vũ trụ này ?
2. Bởi đâu có bản thân chúng con ?
3. Đâu là mục đích của cuộc đời ?
4. Chết rồi sẽ đi về đâu ?
5. Làm điều thiện, ai sẽ thưởng công cho ?
6. Làm điều ác, ai sẽ phạt tội ?
7. Ai sẽ thỏa mãn khát vọng hạnh phúc tuyệt đối của chúng con ?
Chúng con muốn đi tìm chân lý, tìm ý nghĩa đích thực cho cuộc đời. Xin Ngài soi trí mở lòng cho chúng con, để chúng con được tìm thấy Ngài, và được niềm vui gọi Ngài là Cha, như hơn 2 tỷ Kitô hữu trên thế giới – Amen.
Tiến sĩ PHAN NHƯ NGỌC
pnngoc@gmx.net www.hoptinhhoply.org
"Tiến hóa bách ngũ thập niên, Cãi tranh bùng nổ như điên như rồ. Thêm vài suy nghĩ vẩn vơ,
Nhận hay không nhận, tự do mỗi người".
Tân Bình, ngày 31/03/2011
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT
----------------------------
Hiện nay địa chỉ của tôi :
Lm. Jos. Nguyễn Hữu Triết
387 Lê Văn Sỹ, phường 2, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.
Điện thoại : 38449497 – 0909721822
Quý độc giả muốn có thêm tài liệu hoặc có thắc mắc, xin liên lạc :
Email : josnhtriet@gmail.com
Cần sự tiếp tay:
Nếu quý độc giả thấy tập này có một chút gì tốt đẹp, hữu ích thì xin tiếp tay phổ biến cho bạn bè, con cháu, người thân quen bằng cách phôtô ra ít bản tặng họ, hay ít là chuyền tay tập này cho một người khác. Người viết hết lòng cám ơn.
Về đầu trang
-------------------------------------
Lời đầu
Loài người được Tạo Hóa tác thành hơn và khác loài vật ở chỗ có lý trí và tự do.
"Tự do là khả năng biểu lộ ý chí, hành động theo ý muốn của mình" (Đại Tự điển tiếng Việt – Ha Noi 1999, trang 1762), đây là quyền căn bản của mỗi người. Có tự do thì cũng có trách nhiệm, nghĩa là sẽ được thưởng hay chịu phạt trước tòa án lương tâm và Đấng Tối Cao, tùy theo lựa chọn đúng hay sai của mình.
Người viết chỉ muốn trình bày sự thật mà mình đã cảm nghiệm, còn quý độc gia đồng tình hay không, hoặc đồng tình một phần nào thì hoàn toàn thuộc quyền tự do của quý vị.
Năm 2009 đã được UNESCO chọn làm năm Charles Darwin với 2 kỷ niệm : 200 năm sinh (12/02/1809 – 12/02/2009) và 150 năm phát hành cuốn On The Origin of Species (Về nguồn gốc các chủng loại – 24/11/1859), cuốn sách đã gây tranh cãi rất lớn và dai dẳng suốt 150 năm chưa ngã ngũ và trên thực tế đã có ảnh hưởng lớn về nhiều mặt trên toàn thế giới.
Một cuộc hội thảo khoa học về đề tài này do Tòa thánh Vatican bảo trợ đã được tổ chức từ 3 – 07/03/2009 tại Viện Đại học Giáo Hoàng Gregôriô quy tụ nhieu nhà khoa học, thần học và triết học.
Charles Darwin sinh ngày 12/2/1809 tại tỉnh nhỏ Shrewbury phía Tây nước Anh trong một căn nhà có tên la Mount (núi), là đứa con thứ 5 trong 6 anh chị em. Ông nội Eramus Darwin là một bác sỹ đồng thời cũng là một nhà tư tưởng tự do tiếng tăm, bố Darwin là Robert Waring - bác sỹ tâm lý, giàu có đầy quyền lực. Darwin có lối sống khép kín, trầm tĩnh và hướng nội, niềm đam mê duy nhất của ông là thiên nhiên.
Ngày 22/01/1836, ở tuổi 22, với tư cách một nhà tự nhiên học, ông đi chu du 5 năm trên con tầu Beagle, chuyến đi này làm đảo lộn cuộc đời ong. Ông được dịp quan sát, thâu thập, khám phá nhiều điều kỳ diệu về địa chất (núi lửa vùng Nam Mỹ), các hóa thạch nhiều sinh vật đã tuyệt chủng – thực và động vật ở nhiều nơi … Lúc lên tầu Beagle ông vẫn còn tin câu chuyện Sáng Thế trong Thánh Kinh, nhưng khi về đến Luân Đôn, cái nhìn của ông đã hoàn toàn đổi khác. Ông bắt đầu hình thành lý thuyết riêng : Thuyết Tiến Hóa. Ông nhận ra rằng những chủng loại kế cận quan sát được đặc biệt ở đảo Galopagos (vùng Nam Mỹ) giống nhau vì cùng một họ, ông xây dựng một nguyên tắc để giải thích : các chủng loại hoàn toàn không bất biến như người ta thường nghĩ trước đây, mà biến đổi một cách ngau nhiên, liên tục, loài nào giỏi thích ứng sẽ tồn tại, loài nào kém thích nghi sẽ tuyệt chủng. Quy luật này gọi là quy luật Chọn lọc Tự nhien … Darwin đã ghi chép rất tỷ mỷ, thu thập dữ liệu chứng cứ cho bộ sách đồ sộ gồm 4 cuốn : The Voyage of the Beagle ; On the Origin of Species ; The Descent of Men và The Evolution of Emotion in Man and Animal.
Trong 4 cuốn để lại, nổi bật nhất là cuốn On the Origin of Species, trong đó ông trình bày cặn kẽ Thuyết Tiến Hóa qua các dữ kiện quan sát được.
Trong cuốn Tự Truyện ông cho biết 4 loài chim Filink của cùng 1 họ chim sẻ ở Nam Mỹ nhưng trải qua những điều kiện sống khác nhau trên đảo Galopagos mà chúng phải thích nghi, chúng đã phát triển các hình dạng khác nhau - "Đây là nguồn gốc của tất ca các ý tưởng của tôi". Các chủng loài kể cả loài người không được tạo ra một lần hoàn chỉnh và bất biến như Kinh Thánh đã dạy, mà luôn tiến hóa do nhu cầu sinh tồn đặt ra.
Tóm lại, 2 vấn đề lớn mà Darwin đã đặt ra trong cuốn On the Origin of Species là sự chọn lọc tự nhiên và địa vị con người bằng vai phải lứa với bất cứ loài động vật nào. Vị trí thượng đẳng của con người phải gạt bỏ đi (phần lược tóm bài của Vũ Lưu Xuân trong nguyệt san Cong giáo và Dân tộc số 171, trang 85-88).
Thế nhưng người đi tiên phong, nghiên cứu thảm thực vật và xây dựng Thuyết Tiến Hóa là ông Jean Baptiste de Monet Lamarck, nhà tự nhiên học Pháp (1744-1829). Sau nhiều năm nghiên cứu ông đã xuất bản những sách sau :
- Hệ động vật không xương sống (1801).
- Nghiên cứu tổ chức các loài (1802).
- Triết học động vật học (1809).
- Lịch sư tự nhiên động vật không xương sống (1815- 1822).
Ông xây dựng "Học thuyết thực chứng đau tiên về quá trình tiến hóa sinh học" từ lớp trùng cỏ, sinh vật nguyên thủy xuất hiện, theo ông, qua các thế hệ trực tiếp hoặc tự sinh dần dần hình thành các cơ the ngày càng phức tạp hơn. hai nguyên nhân chính của quá trình biến hóa này là khuynh hướng tự phát của sinh vật tới sự hoàn thiện và mặt khác là ảnh hưởng của hoàn cảnh bên ngoài. Sự thích nghi với môi trường, với lối sống, kéo theo sự thay đổi về nhu cầu tạo nên ở con vật nhưng thói quen mới và đến lượt mình nhưng thoi quen này lại tạo nên những sự thay đổi trong cơ thể, Lamarck tán thành tính di truyền các tính cách đã có được mặc dù chứng minh không được (Từ điển Tên Riêng Thế Giới, trang 1127).
Trong cuốn "Triết học động vật học" (La Philosophie Zoologique – 1809), Lamarck đã hệ thống hóa các định luật của Thuyet Tiến Hóa như sau :
1. Sự hình thành loài vật : các dạng sống trên mặt đất bắt nguồn từ vật chất thô sơ bằng con đường tự sinh.
2. Động lực phát sinh tiến hóa :
a). Động lực hiếu sinh (le dynamisme de la vie) khuynh hướng mãnh liệt, sâu xa phát triển các bộ phận.
b). Áp lực của hoàn cảnh ngoại lai : đặc tính chủng loại chỉ tương đối, có thể thay đổi để thích nghi vơi môi trường.
3. Các định luật tiến hóa :
a). Luật thích nghi : Bộ phận nào làm việc nhiều thì tiến hóa, bộ phận nào ít làm việc thì thoái hóa.
b). Luật di truyền các biến dị : Những biến dị chung cả cha lẫn mẹ thì có sự di truyền.
4. Nguồn gốc loài người : Loài người phát xuất từ nguồn gốc sinh vật.
Thuyet Tiến Hóa của Lamarck có ảnh hưởng rat lớn trên nhà tự nhiên học người Anh sau này là ông Charles Darwin (1809 – 1882). Darwin đã tổng hợp và hoàn chỉnh Thuyet Tiến Hóa của mình như sau qua tác phẩm "nổi đình đám" của ông là cuốn On the Origin of Species :
1. Lý thuyết về chủng loại : các sinh vật cùng loại có chung một tổ tiên ban đầu.
2. Có sự biến dị nơi các sinh vật :
a). Biến dị xác định : biến đổi đồng thời cho mọi cá thể cùng một nòi. Ví dụ cây vải ở miền Bắc sai quả, trái lại ở miền Nam không ra quả (do khí hậu và thổ nhưỡng không hợp).
b). Biến dị không xác định : biến đổi không ngừng nơi mỗi sinh vật nhưng không có tính cách đồng loạt.
c). Các biến dị được chia ra : Biến dị di truyền và biến dị không di truyền. Nguyên nhân gây ra sự biến dị là sự thay đổi điều kiện sống và sự lai giống.
3. Sự cạnh tranh sinh tồn :
a). Cạnh tranh với các chủng loại khác.
b). Cạnh tranh trong cùng chủng loại.
c). Cạnh tranh vơi thế giới vô cơ bất lợi.
Muôn loài muôn vật ngày nay kể cả loài người đều do quá trình tiến hóa và biến hóa hàng triệu triệu năm mà hình thành chứ khong do một cuộc Sáng Thế nào cả. Đó là kết luận chung.
Sau khi lược tóm Thuyết
Tiến Hóa của hai ông tổ Lamarck và Darwin, tới phần suy nghĩ vẩn vơ của người viết. Nói là vẩn vơ vì người viết không phải là nhà khoa học, không phải là nhà chuyên môn mà chỉ là một con người có trí khôn như những người khác và phần chắc kém cỏi hơn những người khác cho nên những gì gây thắc mắc ở đây chỉ là những suy tư chủ quan mời gọi người đọc cùng suy nghĩ và tự tìm ra giải đáp cho chính mình, cái gì "có lý", "hợp lý" thì chấp nhan, cái gì "vô lý", "không hợp lý", "phi lý" thì loại bỏ tùy theo tự do của mỗi người.
Vấn đề 1 : Về nguồn goc – "On the Origin of Species".
Giải thích nguồn gốc vũ trụ và muôn loài trong đó là 1 vấn đề lớn, phải giải quyết tận gốc. "Cây có cội, nước có nguồn", tiếng bình dân nói phải "tìm đến tổ chấy" mới thôi – vật này vật kia biến đổi tiến thoái … chỉ mới là cái ngọn, cái gốc của vấn đề là khởi thủy của muôn loài muôn vật trong vũ trụ này, đó là vật chất : chất liệu cơ bản của mọi loài hữu hình, không có vật chất thì cũng chẳng có vật nào tồn tại, lấy đâu ra cơ sở ma biến hóa hay tiến hóa ?
Vật chất theo tôi không dễ định nghĩa một chút nào, ngay cả đối vơi các nhà khoa học. Đại Từ Điển tiếng Việt – do nhà xuất bản Văn Hoa Thông Tin - 1999, trang 1804 định nghĩa : "Vật chat là hiện thưc khách quan, tồn tại ngoài ý thức và độc lập với ý thức của con người". Từ điển cho một ví dụ : "Vật chất quyết định tinh thần", thú thực vơi bạn đọc, người viết chưa hiểu rõ câu định nghĩa này.
Còn câu ví dụ : Vật chất quyết định tinh thần – thì người viết cho rằng vật chất ảnh hưởng tới tinh thần dễ chấp nhận hơn là "quyết định". Cây viết "bằng vàng" không thể tao ra một tác phẩm hay. Trong câu chuyện dân gian Lưu Bình và Dương Lễ, thì Lưu Bình được ăn sung mặc sướng, điều kiện vật chất dư thừa, trong khi Dương Lễ là con ăn người ở, được chủ thương cho học hành chắc là trăm bề thiếu thốn. Thế mà kết quả Dương
Lễ đậu, Lưu Bình rớt, đâu có phải vật chất dư giả là đương nhiên học giỏi đâu. Người ta thường nói "cái khó bó cái khôn", đây là ảnh hưởng của vật chất đối với tinh thần, nhưng không phải lúc nào cũng "quyết định", vì người ta cũng nói "cái khó ló cái khôn". Bác Hồ bị giam trong tù thì điều kiện vất chất thiếu thốn đến mức nào thế mà tác phẩm "Ngục Trung Nhật Ký" đã ra đời và đã làm cho Bác trở thành danh nhan văn hóa thế giới. Anh hùng dân tộc Nguyễn Tri Phương bị Pháp bắn trọng thương và bắt đem xuống tầu chiến, họ chiêu đãi sữa bò, xâm banh … nhưng Nguyễn Tri Phương từ chối het, kể cả thuốc men chữa trị vết thương, ông đã tuyệt thực cho đến chết. Thử hỏi vật chất và tinh thần, cái nào quyết định cái nào ? Nếu chỉ dựa vào phương pháp luyện thú để rồi rút ra kết luận có tính định luật chung cho loài người "vật chat quyết định tinh thần", thì theo toi điều đó không thuyết phục mà còn có vẻ hạ thấp phẩm giá con người.
Đã gọi là khoa học thì phải thực nghiệm, vậy cứ lấy một đống vật chất không có sự sống, để đó rồi mỗi ngày quan sát xem nó có sinh ra được cái gì là tinh thần không ? Nhà bác học Pasteur đã làm một thí nghiệm : đun soi diệt het mầm sống một dung dịch nước thịt trong ống nghiệm chân không, sau đó để nguội và quan sát nhieu tháng nhiều năm và kết luận : "chỉ có vật sống mới sinh ra được vật sống".
Tự điển Le Petit Larousse illustré – Nhà xuất bản Larousse Paris 2002 cho ta câu định nghĩa :
Vật chất : Matière = Substance particulière dont est faite une chose et connaissable par ses propiétés – Vật chất là một bản thể (hiểu nôm na là một chất liệu) riêng biệt nhờ nó mà một sự vật được làm thành và có thể nhận biết được bằng các đặc tính của nó.
Câu định nghĩa có cụ thể hơn câu của Đại Từ Điển Tiếng Việt một chút, nhưng vẫn phải dùng ngôn ngữ triết học mà chúng tôi, những người dân thường chẳng dễ gì hiểu được.
Theo cac nhà khoa học, ngày nay vật chất hiện hữu ở 3 thể : thể đặc (rắn), thể lỏng và thể hơi ; va dưới 2 dạng : hợp chất và đơn chất. Đơn vị nhỏ nhất của 1 hợp chất gọi là phân tử, đơn vị nhỏ nhất của 1 đơn chất gọi là nguyên tử. Các hợp chất đều được kết cấu bằng nhiều đơn chất. Hiện nay trong vũ trụ, các nhà khoa học định danh được hơn 100 đơn chất.
Ví dụ : nước là 1 hợp chất gồm 2 đơn chất H và O theo tỷ lệ H2O, nghĩa là khi tong hợp 2 nguyên tử H với 1 nguyên tử O, ta có 1 phân tử nước : H2O. Vật chất nếu chỉ gồm những vật cụ thể như cục đá, hòn đất, ly nước, khúc xương, miếng thịt, … thì cũng dễ nắm bắt, nhưng còn co những thứ siêu vật chất, rất khó nắm bắt đối với hàng dân dã như : ánh sáng, điện, từ trường, phóng xạ, X quang … đó cũng là những dạng vật chất – lại còn những thứ vật chất không tồn tại một mình được mà luôn phải dựa vào một vật cụ thể, danh từ triết học gọi là "tùy thể" khác biệt với "bản thể". Ví dụ : không có cái tròn, cái vuông tự tại mà chỉ có cai đĩa tròn, cái bàn vuông … cũng không bao giờ có mầu sắc tự tại : không có cái đen, cái trắng, cái vàng mà chỉ có tóc đen, mây trắng, hoa vàng, lá xanh … rõ ràng màu sắc là vật chất nhưng ta không thể nắm được cái vàng, cái xanh trên tay. Một ví dụ khác, ta cầm hộp quẹt bật lên, ta thấy rõ ngọn lửa, sờ vào thì thấy nóng, đồng thời có ánh sáng toa ra xung quanh, nhưng khi tắt quẹt đi thì ngọn lửa đó đi về đâu ? Cục gạch ta đập ra thì còn mớ xà bần, tờ báo ta đốt đi còn lại ít tro … ngọn lửa dập đi, chả còn gì cả ! Lửa là vật chất nhưng không tự tại vì chỉ là "tùy thể", không tự có bản thể mà luôn phải dựa vào 1 bản thể khác để tồn tại : 1 thanh củi cháy, 1 hòn than, 1 tờ giấy cháy, 1 tim đèn cháy, 1
luồng gaz cháy. Điều lạ lùng nữa là 1 đốm lửa nhỏ xíu mà hàng tỷ tỷ ngọn nến có thể châm mà ngọn lửa đầu tiên vẫn không nhỏ lại, không vơi đi, trong khi các vật chất khác chia riết chỉ còn (epsilon). Làm sao hiểu được tường tận ý niệm vật chất ?
Báo Tuổi Trẻ cuối tuần 15/3/2009, trang 20-21, tác giả Trang Anh (dịch theo Science et vie Junior 12/7) mục 100 kiến thức khoa học cần biết, số (38) : "Không ai biết vũ trũ được tạo ra từ những gì", bên cạnh đó có một hình biếm họa với phu đề "Tối là năng lượng, đen là vật chất, hừm … mờ mịt là những suy tưởng của ta". Số (39) : số phận của vũ trụ tùy thuộc vào việc nó chứa gì, noi tới "big bang" vụ nổ lơn làm bung ra vũ trụ – Các nhà khoa học dự đoán sẽ có ngày vũ tru co lại "big crunch" rồi lại có khả năng vũ trụ đông cứng "big chill", tiếp theo đó là vụ rách toạc tất cả vật chất "big rip". Rồi đâu là trung tâm, đâu là biên giới của vũ trụ ? Tầm nhìn của con người với sự hỗ trợ của tất cả thiết bị máy móc hiện đại nhất cũng chỉ giới hạn trong khoảng không gian 13-14 tỷ năm ánh sáng mà thôi, ngoài giới hạn đó là gì nưa ai mà hiểu thấu được ? Nhưng nếu suy cho cung ta có thể khẳng định không sai lầm rằng căn cội của thế giới này, vũ trụ này là cái chúng ta gọi là vật chất.
Bây giờ bàn tới vấn đề chính yếu của chúng ta và cũng là gốc của Thuyết Tiến Hóa, đó là vấn để nguồn gốc của vật chat.
Vấn đề 2 :
Vật chất từ đâu mà có ? Do cái gì biến hóa ra ? Sẽ chỉ có 2 câu trả lời : 1 của những người duy tâm và 1 của những người duy vật. Những người duy tâm thì dựa vào niềm tin, vào một Thiên Chúa sáng tạo – Ngài là Đấng toàn năng vô hình, vượt tren không gian và thời gian, chính Ngài đã sáng tạo vũ trụ và thế giới như lời Kinh Thánh khẳng định : "Tự ban đầu Thiên Chúa đã tạo dựng nên trời và đất" (sách Sáng Thế đoạn 1 câu 1), trời và đất là kiểu nói tổng quat, có nghĩa là mọi sự, mọi vật, từ hữu hình tới vô hình như kinh Tin Kính mà những người tin Chúa vẫn tuyên xưng mỗi ngày: "Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình". Niềm tin về một Đang cao cả, chí tôn, tạo dựng mọi loài là niềm tin phổ biến qua mọi thời đại và trên tuyệt đại đa số nhân loại. Đấng ấy tổ tiên người Việt Nam từ ngày xửa ngày xưa cho tới nay vẫn gọi là Ông Trời hoặc Ông Xanh hay Ông Thiên. Bà con ta vẫn thường lập bàn thờ Ông Thiên ngay sân nhà, ngày ngày hoa quả trầm nhang cúng bái, nơi cửa miệng đồng bào ta thường nghe những câu đậm niềm tin "Trời sinh, Trời dưỡng ; Trời sinh voi, Trời sinh cỏ ; Nhờ Trời, ơn Trời ; Trời ban, Trời soi xét" … Trong phim
"Đất và Người" được rất nhiều người ái mộ, đánh giá cao, có đoạn ông Hàm (con người tiêu biểu cho tầng lớp phong kiến, gia trưởng, chồng chủ vợ tôi), đã ra lệnh buộc bà Son vợ ông phải làm một điều đại ác, vu cáo dòng họ đối thủ cua họ Trịnh – bà Son đã run rẩy khóc lóc thưa với ông "Tôi không thể làm đâu, Trời có mắt …". Sách Châm Ngôn trong Kinh Thánh có câu : "Mắt Chúa Trời ở mọi nơi mọi chỗ, hằng dõi theo kẻ dữ người lành" (Cn 15,3).
Khi gặp những điều bất trắc, người ta vẫn buột miệng kêu "Trời ơi". Ý niệm về một Ông Trời tạo hóa đã được thể hiện trong ca dao tục ngữ, tức văn chương bình dân truyền khẩu, từ xửa từ xưa trước khi dân ta có chữ viết :
"Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày,
Lấy đầy bát cơm,
Lấy rơm đun bếp …"
***
"Con chim nó hót trên cành,
Nếu Trời không có thì mình có sao.
Con chim nó hót trên cao,
Nếu Trời không có làm sao có mình".
Đạo Trời từ xưa trên đất nước ta là quốc giáo. Các vua chúa ngày xưa vẫn tế Trời, ngày nay tế đàn Nam Giao ở Huế là một chứng tích cụ thể. Chỉ đến thế kỷ 18 trở về đây mới nảy sinh một bộ phận nhỏ trong nhân loại, dựa vào tiến bộ khoa học phủ nhận Chúa Trời, phủ nhận công trình Sáng Thế, cho rằng chỉ có chân lý khoa học mới là tuyệt đối, còn Thánh Kinh sai với khoa học là mê tín dị đoan, chân lý đức tin không có cơ sở vững chắc. Bằng chứng họ nêu ra là đoạn Kinh Thánh nói về Sáng Thế trong 7 ngày là vô lý không thể tin được, rồi ngày thứ nhat Chúa dựng nên ánh sáng tới ngày thứ tư Chúa mới dựng nên mặt trời mặt trăng và các tinh tu, như the là "sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông". Thánh Kinh còn cho rằng mặt trời xoay quanh trái đất nên có vụ thủ lãnh Giosuê chỉ mặt trời bảo nó đứng lai … điều này nhà thiên văn học Galileô đã chứng minh ngược lại và đã phải trả giá đắt khi ông dám bảo "Kinh Thánh sai".
"Ôi khờ dại thay những kẻ không biết và không hiểu Kinh Thánh". Ai cũng biết rằng các môn học đều có đối tượng riêng và có phương pháp riêng – Y học có đối tượng và phương pháp của y học, khảo cổ, sử học, sinh vật học, toán học, văn hoc … đều có đối tượng và phương pháp riêng, không thể lấy "râu ông mà cắm cằm bà" được. Vậy Thánh Kinh cũng có đối tượng và phương pháp riêng. Thánh Kinh không dạy khoa học nên không thí nghiệm, tính toán như khoa học. Thánh Kinh dạy Tôn giáo, dạy đức tin, dạy luân thường đạo lý, dạy chân lý … Cả đoạn sách Sáng Thế chỉ dạy những nội dung này :
1. Từ trươc muôn muôn thuở, trước khi có vũ trụ đã có một Đấng quyền năng vô cùng, Ngài tự hữu, không do ai tạo thành.
2. Mọi loài trong trời đất (vũ trụ) đều do Chúa tạo dựng và không có một loài nào, vật gì dù nhỏ bé đến đau, hữu hình hay vô hình mà không do Chúa tạo thành.
3. Chính Chúa ấn định việc nghỉ ngày cuối tuần.
4. Loài người có hồn có xác, cao cả hơn mọi loài hữu hình và là hình ảnh của Chúa.
5. Người nữ là bạn đường của người nam, cùng bản tính và đồng địa vị (bình đẳng) với người nam
6. Hôn nhân là do chính Chúa thiết lập.
7. Loài người (nguyên tổ) được Chúa ban ân huệ đặc biệt là tự do, nhưng tự do cũng dẫn tới trách nhiệm, mà vì có tự do, có trách nhiệm nên cần được thử thách. Rất tiếc, ông bà nguyên to đã không qua được thử thach này nên đã phạm tội và kéo theo hệ quả tai hại của tội là sự dữ và kết cuộc là cái chết. Thanh Phaolô đã quả quyết : "Bởi một ngươi mà tội lỗi đã vào thế gian và bởi tội thì có sự chết" (thư Roma đoạn 5 câu 12). Tuy nhiên Thiên Chúa giàu lòng thương xót đã lên kế hoạch cứu chuộc loài người mà Chúa Giêsu là người thực hiện và hoàn tất việc đó để từ đây "Ai tin vào Người thì sẽ được cứu độ, tức là được song đời đời" (Tin Mừng Gioan đoạn 3 câu 16).
Toàn thể đoạn văn Sáng Thế chỉ nhằm dạy nhưng chân ly nêu tren, còn lơi văn trình bày thì chỉ theo quan sát, kiến thức bình dân thời xa xưa ấy, không theo khoa học. Ví dụ sáng sớm ta thấy hừng đông trước rồi mới thấy mặt trời sau. Do đó tác giả Kinh Thánh kể ngày thứ nhất Thiên Chúa dựng nên ánh sáng, rồi ngày thứ tư mới dựng nên mặt trời mặt trăng và các tinh tú. Nếu 7 điểm nội dung nêu trên là sai thì mới bảo Kinh Thánh sai được, còn cách diễn tả thế này thế kia là quyền của tác giả, không thể so sánh với khoa học mà bảo rằng Kinh Thánh sai.
Trong lãnh vực văn chương, ta vẫn nói buổi sáng mặt trời mọc ở đàng Đông, buổi chiều mặt trời lặn ở đàng Tây – Chẳng đúng khoa học tí nào nhưng văn chương vẫn đúng, vẫn hay. Hoặc người ta dùng nhưng phương pháp tu từ như :
- Nhân cách hóa : hoa cười, biển hát, sông nước vỗ tay, …
- Ẩn dụ : làn sóng Cách mạng, mũi nhọn xuất khẩu, học sinh nay sáng dạ, học sinh kia tối dạ … ai dám bảo sai ?.
- Hoán dụ : làng này có bao nhiêu nóc nhà ? Nhà này có bao nhiêu khẩu ? Cho mày biết tay tao …
Bây giờ mận mơi hỏi đao,
Vườn xuân đã có lối vào hay chưa ?
Mận hỏi thì đào xin thưa,
Vườn xuân có lối, nhưng chưa ai vào.
- Phung dụ : chuyện "Lục súc tranh công", "Chuyện trí khôn ngươi đâu ?" hoặc bài thơ "Hổ nhớ rừng" cua Thế Lữ :
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa …
- Thể ty hay kiểu so sánh.
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Lấy cái vô hình không cân đo đong đếm được sánh với với cái hữu hình là quả núi, là nguồn nước … chẳng khoa học tí nào cả.
Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại thành hon núi cao.
Xét theo khoa học thì thật ngớ ngẩn, có 1 triệu cây chụm lại cũng chẳng thành hòn núi, vì cây là chất mộc, còn núi là chất đá, thế nhưng đây vẫn là chân ly vì câu nay chỉ có ý dạy "hợp quần gây sức mạnh".
Những người yêu nhau chẳng thể thieu được nhưng nụ hôn, một hình thức thể hiện tình cảm, nhưng dưới khuôn thước của ngành y học thì thật là mất vệ sinh và là cơ hội lây nhiem bệnh nhanh chóng nhất.
Nhưng ví dụ nêu trên chả ai nhân danh khoa học để phản đối, thế mà Thánh Kinh thì người ta chẳng cần tìm hiểu gì cả, cứ nhân danh khoa học mà chối bỏ, như thế liệu có công tâm hay không ? Nếu đã phủ nhận Thánh Kinh, phủ nhận công trình Sáng Thế thì các nhà khoa học phải giải quyết vấn đề nguồn gốc của vật chất là yếu tố cơ bản của muôn vật muôn loài. Vật chất ban đầu từ đâu mà có ? Tới đây thì các nhà khoa học vào ngõ bí, đành nhắm mắt phán : Vật chất tự nó mà có, vật chất tự hưu, không do ai trường tồn.
Chứng minh bằng khoa học ? Thưa không ai chứng minh được, không lấy gì để chứng minh được nên các nhà khoa học cũng phải đi tới điểm cuối cùng là Đức tin – Tin vật chất tự hữu va hằng hữu, bơi không còn lối thoát nào khác nữa trừ ra, là phải tin có Thượng Đế, có Chúa Trời sáng tạo mà thôi.
Kết thúc bằng Đức tin thì lý thuyết tiến hóa mệnh danh là khoa học rõ ràng cũng chẳng khoa hoc tí nao, vì cái mấu chốt, cái cốt lõi không mang tính khoa học, không theo đường lối khoa học mà duy tâm trăm phần trăm – Đức tin.
Có một mẩu chuyện liên quan tới nhà khoa học Newton. Ông đã thiết kế được một mô hình Thái Dương hệ tuyệt đẹp trong phòng, một hôm ông bạn không tin Sáng Thế tới thăm, khen ngợi het mình và hỏi ở đâu ra vậy ? Newton mỉm cười trả lời "Tự nhiên nó có đấy !". Ông bạn "Tôi không thể tin được !". Newton nhìn bạn, cười ngất …
Nếu so sánh hai niềm tin : một là tin Đức Chúa Trời tạo thành muôn vật, hai là tin vật chất tạo thành vạn vật, thì đối với tôi, tin Chúa Trời vẫn có lý hơn vì Ngài là một Ngôi vị toàn năng toàn trí, còn vật chất vô hồn, vô ngã, vô sinh, vô quyền lực thì làm sao có thể sắp xếp được công trình kỳ diệu với những định luật (kể cả luật tiến hóa) ky diệu như ta thấy ngày nay : Ở đâu có luật thì ở đấy phải có người làm ra luật, luật càng tinh vi kỳ diệu thì người làm ra luật phải cực kỳ thông minh, người ngu đã chẳng làm ra được luật chính xác huống hồ vật chất vô ngã, vô tri, vô giác làm sao tạo ra được luật pháp ? Thế nhưng những người phủ nhận Đấng sáng tạo vẫn cho rằng "không thấy Chúa mà tin có Chúa là mơ ho". Để trả lời, chúng ta hãy nghe Linh mục Piô Ngô Phúc Hậu ở vùng sâu vùng xa tuốt mũi Cà Mâu, kể chuyện trong "Bài Giảng Chúa Nhật" số tháng 5/2009, trang 97-101:
"Mình mở lớp giáo lý dành cho người chỉ tầm đạo chứ chưa muốn theo đạo. Bài đầu tiên là "Có Thiên Chúa và Thiên Chúa là Cha của chúng ta". Tay thì vẽ tranh. Miệng thì thuyết minh. Tay và miệng như 2 dòng nước cứ cuồn cuộn chảy. Thính giả cứ trợn mắt mà dòm, cứ vểnh tai mà nghe. Qua đã ! Bỗng có một ông xồn xồn giơ tay chặn họng mình.
- Không thấy Chúa mà tin có Chúa là mơ hồ.
- Rất đúng, nhưng chưa phải là duy nhất đúng.
- Tại sao ?
- Xét về một mặt nào đó, thì câu nói của anh là tuyệt vời. Nhưng xét về mặt khác, thì câu nói ấy chả đúng tí nào.
- Xin Linh mục noi rõ hơn.
- Câu nói của anh là tuyệt vời, vì chúng ta đang sống trong một thế giới đầy sự gian dối. Ông cha chúng ta đã phải thốt lên rằng : "Lưỡi không xương nhiều đường lắc léo". Quả vậy gian dối tràn lan từ vua chúa quan quyền cho đến hàng lê thứ.
Người làm chính trị nói dối để củng cố địa vị. Tào Tháo là mẫu người tiêu biểu vào hạng nhất.
Nhà quân sự có thể dùng người đẹp để chuyển trái bom giết người đến cho đối phương.
Người làm thương mại chú tâm tạo mẫu mã hấp dẫn để thu hút khách hàng hơn là tăng giá trị của phẩm chất. Đó cũng là một cách gian dối.
Vợ chồng yêu nhau là thế : "Ta với mình tuy hai mà một", vậy mà cũng giấu giếm nhau. Chồng có vợ bé mà cứ thề độc : "Tôi mà có vợ bé thì Bà Thủy bắt tôi, xe hủ lô cán tôi …". Vợ xúc lúa một bồ đem bán lấy tiền để ghi số đề, chồng thắc mắc : "Tại sao bồ lúa nhà mình mau vơi thế ?", thì vợ trả lơi tỉnh queo : "Biết đâu à".
Báo chí là tiếng nói đáng tin cậy như thế, vậy mà vẫn bị bia miệng chế giễu : "Nhà báo nói láo ăn tiền".
Sống ở một xã hội đầy gian dối như thế thì ai cả tin là bị lừa ngay. Bởi vậy, khi chưa thấy, thì cứ để đấy, đừng vội tin. Lập trường ấy là khôn ngoan tuyệt vơi. Nhưng xét về mặt khác, thì câu nói của anh chả đúng tí nào.
- Không dám đâu. Linh mục phải phân tích cụ thể, thì tôi mới chịu.
- Đồng ý. Tôi sẽ nói chuyện khoa học, rồi tôi sẽ dẫn chứng bằng đời sống thực tế.
Khoa học khẳng định rằng : "Vật chất không thể tự hữu".
Nếu vậy thì vật chất hiện hữu phải xuất phát từ một siêu vật chất. Siêu vật chất ấy ở ngoài tầm tay của khoa học. Khoa học chỉ làm việc với những gì có thể đong, đo, cân, đếm. Mà những cái "cân - đo - đong - đếm" ấy khoa học đã xác nhan là nó không
thể tự hữu. Vậy nếu ta bảo cái siêu vật chất ấy là Chúa thì chẳng có gì là mơ hồ. Khoa học không thể phủ nhận ý kiến ấy, vì nó ở ngoài tầm tay của khoa học.
Chuyện đời thường cho phép ta tin khi ta không thấy.
Anh ngoi ở đây. Tôi thấy. Tôi tin có anh. Nhưng tôi không thấy cha của anh. Dù vậy tôi vẫn có quyền khẳng định rằng anh có cha. Không nhưng thế, tôi còn biết rõ cha anh là đàn ông, mà không cần dựa trên bất cứ tài liệu nào.
Trong phòng lớp này có bàn, ghế, bảng, đèn điện, quạt điện. Ai làm ra những thứ này, thì ta không thấy. Nhưng chẳng ai trong chúng ta dám bảo rằng : "Chẳng có ai làm ra chúng". Nếu có ai đòi thấy tác giả đã rồi mới dám tin, bàn ghế do thợ mộc đóng, đèn điện và quạt điện do thợ nào đó lắp ráp, thì e rằng người ấy không bình thường. Câu nói lỡ miệng của mình làm cho bầu khi lớp học trở nên căng thẳng, mình vội lái sang chuyện tiếu lâm :
"Khi chưa có siêu âm, cô y tá hộ sản phải dòm cái "ấy" của đứa bé sơ sinh, rồi mới chạy ra hành lang báo tin cho thân nhân của bé đang nôn nóng chờ đợi : "con trai … con gái". Dòm và thấy trong trường hợp này là rất khoa học, rất chính xác.
"Nhưng nếu ông thanh tra giáo dục hỏi thầy cô đứng lớp rằng : tỉ lệ trai gái trong lớp này chênh lệch bao nhiêu, thì thầy cô khỏi cần dòm, khỏi cần thấy cái "ấy" cua các em, để trả lời cho ông thanh tra một cách khoa học và chính xác. Thầy cô cứ căn cứ trên Giấy Khai Sinh mà trả lời. Chính anh công an xã khi làm Giấy Khai Sinh, đến mục giới tính, anh cũng chỉ tin cha mẹ của bé, chứ không cần dòm và thấy".
Có rất nhiều trường hợp, không cần thấy mà vẫn tin được. Ông Newton, một nhà toán học vĩ đại đã nói lên điều đó : "Tôi không cần tin có Chúa nữa, vì tôi thấy Ngài quá rõ. Tôi thấy Ngài trong một bông hoa. Tôi thấy Ngài trong một cánh bướm".
Theo suy đoán của tôi, thì 99% những kiến thức ta đang có chồng chất trong đầu là do tin chứ không phải do thấy. Tất cả quý vị đang ngồi ở đây đều chưa bao giờ ra tới Hà Nội để thấy Hà Nội. Nhưng chúng ta vẫn tin có Hà Nội la thủ đo của nước Việt Nam yêu dấu. Ta tin lời dạy của thầy cô môn Sử – Địa. Mà chính thầy cô của chúng ta cũng chưa bao giờ thấy Hà Nội.
Tám mươi triệu dân Việt Nam hiện đang sống, chưa một ai thấy ông Trần Hưng Đạo chiến thắng trên song Bạch Đằng, chưa ai thấy vua Quang Trung vẻ vang với trận Đống Đa, nhưng tất cả đều tin và đều hãnh diện về lịch sử của dân tộc mình. Neu đòi phải thấy mới tin, thì mon Lịch Sử và Địa Ly của thế giới và của các dân toc sẽ bị xóa sổ trước nhất. Các trường học từ Mẫu giáo Mầm non cho tới các Đại học, Cao đẳng sẽ bị đóng cửa dần dần cho đến hết.
Nếu chỉ thấy rồi mới tin, thì tình nghĩa gia đình cũng phôi pha và tự hủy diệt. Cha mẹ kể chuyện về đời ông cố ông sơ, con cái vặn vẹo : "Cha mẹ đã thấy ông sơ chưa ? … Con không thấy, con không tin".
Trên đời có biết bao ông bà tiến sĩ, kiến thức cồng kềnh. Nhưng kiến thức ấy do thấy hay do tin ? Khỏi trả lời.
Tin có Chúa sáng tạo hay tin vật chất sáng thế, đàng nào dễ hơn ? Điều này hoàn toàn tuy thuộc tư do lựa chọn của mỗi người. Loài người hơn loài vật ở chỗ có trí khôn, có suy luận, biết phải trái … Thế mà không sử dụng trí khôn cho nên, để mình lầm lạc là một điều vô cùng đáng tiếc, đồng thời là một lỗi lầm phải trả giá nữa.
Thánh Gioan trong thơ thứ nhất của người, người đã viết : "Chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa đã đến và ban cho chúng ta trí khôn để nhận biết Thiên Chúa thật" (1Ga 5,20).
Bên cạnh vấn đề cơ bản là vật chất, nguồn gốc của tiến hóa, còn nhiều vấn đề khác cũng đồng thời đặt ra và đòi giải quyết cách khoa học.
Vấn đề 2 : Động lực tiến hóa.
Vật chất có sự kết hợp lại với nhau rồi biến hóa từ loài thấp tới loài cao. Lamarck chủ trương : "Các dạng trên mặt đất bắt nguồn từ vật chất thô sơ bằng con đường tự sinh". Động lực phát sinh tiến hoa là động lưc hiếu sinh (le dynamisme de la vie), khuynh hướng mãnh liệt phát triển các bộ phận sẵn có cùng với áp lực của những hoàn cảnh xung quanh. Darwin thì chủ trương : "Các chủng loại hoàn toàn không bất biến như người ta thường nghĩ trước kia, mà biến đổi một cách ngẫu nhiên, liên tục, loài nào giỏi thích ứng thì tồn tại" theo quy luật "chọn lọc tự nhien".
Nói gì thì nói, "chọn lọc từ nhien ; tự sinh, biến đổi ngẫu nhiên …" cũng cần phải có một chuyển động ban đầu. Giống như một tim thai, khi đã được hình thành và phát triển trong tử cung của người mẹ cùng với hệ tuần hoàn và hô hấp hoàn chỉnh, dòng máu của người mẹ vẫn liên tục chảy trong tim và huyết quản của thai nhi qua cuống nhau, nhịp tim của mẹ qua dòng máu nóng đã kích thích tim của con và cũng là động lực để tim thai khởi động bằng nhịp đập đầu tiên, và nhịp đập đầu tiên này là một phép mầu để rồi liên tục co bóp có khi hơn 100 năm mới ngừng nghỉ ! Thách các nhà khoa học chế ra một quả tim bằng chất dẻo rồi bơm đầy máu vào, ngồi chờ xem nhịp đập đầu tiên khởi động ! Chúng ta cứ tưởng tượng một vòng tròn 1 km xếp 300 chiếc xe hơi, đuôi chiếc nọ liền với đầu chiec kia, chỉ cần 1 chiếc khởi động có thể ảnh hưởng tới 299 chiếc khác, thế nhưng 300 chiếc xe cứ nằm đó, không có ai, không có máy móc remote nào khởi động thử hỏi để 1000 năm, vòng xe có khởi động được không ? Ai cũng có thể trả lời được thắc mắc này.
Nếu các nhà khoa học nói "tự sinh" thì sao những chiếc xe kia đã được trang bị đầy đủ bình ácqui, xăng nhớt … sao không thấy tự khởi động ? Còn những chiếc máy bay do thám không người lái thì vẫn có người điều khiển từ xa bằng vô tuyến, có cài đặt lộ trình này nọ cũng phải có người bấm nút khởi động chứ ?
Nếu "cãi cối" rằng đó là định luật tự nhiên, thì xin hỏi ai đã ra luật đó. Hễ có luật thì phải có người làm luật, không ai bảo Hiến pháp Việt Nam tự nhiên mà có. Cái mà chúng ta gọi là luật tự nhiên nó tinh vi vô cùng, kỳ diệu vô cùng, 2 mùa mưa-nắng hoặc 4 mùa xuân-hạ- thu-đông, hài hòa và chính xác, các quỹ đạo của hệ Thái Dương giữa khoảng không lơ lửng ai vẽ nên ? Trên trời hàng tỷ tỷ tinh tú bay với tốc độ hàng 100 ngàn km/giờ mà chuyện tac nghẽn giao thông không bao giờ có. Chuyện tai nạn chỉ là hy hữu … Trong khi đó, hệ thống giao thông của ta, nào mở đường, nào đèn báo, nào biển báo, nào cảnh sát giao thông … tốc độ thì như "rùa bò" thế mà ách tắc, tai nạn không ai đếm xuể ! Cái ta gọi là "ngẫu nhiên" vẫn phai có một nguyên nhân tác thành. Làm gì có chuyện ngẫu nhiên 2 hòn đá nằm bên nhau ! Hoặc do sét đánh bể làm 2 nằm cạnh nhau, hoặc do lở đất, hoặc do người ta khiêng đặt kế nhau …
Tất cả đều cần ít nhất là một chuyển động khởi đầu, không có là phi lý. Vậy chuyển động khởi đầu đó từ đâu mà có ? Người duy tâm bảo bởi Trời, bởi Thiên Chúa tác động. Còn người duy vật bảo chẳng bởi đâu cả mà tự nó có, tự nó khởi động. Cả hai cũng chỉ tin mà thôi. Bạn chọn phía nào là quyền tự do của bạn, nhưng bạn hay nhớ rằng tự do luôn kèm theo trách nhiệm đấy, bạn thử ra đương đi tự do xem có gì sẽ xảy ra !
Vấn đề 3 : Luật Thích Nghi.
Các nhà khoa học chủ trương Thuyet Tiến Hóa nêu ra định luật thích nghi hay cạnh tranh sinh tồn được phát biểu như sau : bộ phận nào làm việc nhiều, hoạt động nhiều thì tiến hóa, bo phận nào ít hoạt động sẽ thoái hóa. Trong việc cạnh tranh sinh tồn mạnh thì sống, yếu thì chết.
Quan sát những hiện tượng xung quanh ta, ta thấy có phần đúng. Một người thuận tay mặt, quen dùng tay mặt nhiều, tay mặt rắn chắc nở nang hơn tay trái một tí. Các lực sĩ đánh box ngày đêm tập luyện nên có vai u bắp thịt. Trong môi trường sống ta chỉ thấy cọp vồ nai, chứ không thấy nai ăn cọp bao giờ. The nhưng dường như định luật đó không đúng hoàn toàn mà theo lý thuyết thì một định luật khoa học bao giờ cũng đúng và tuyệt đối đúng : điện giải nước sẽ được H2 và O. Tổng hợp H2 và O se được nước. Nhưng Thuyết Tiến Hóa không hẳn thế. Hổ vồ nai đã bao trăm nghìn năm nay nhưng vẫn không diệt được chủng nai, mà ở một khía cạnh nào đó nai lại cần đàn hổ, báo, sử tử vì nếu không có chúng thì nạn "vật mãn" sẽ xảy ra, kiếm đâu được đồng cỏ cho nai và các bầy đàn khác !
Con người to béo, khỏe mạnh, con virus thì nhỏ bé yếu ớt, phơi nắng cũng đủ chết, nước 700 đã ngỏm rồi – thế mà con ngươi với bao nhiêu "quân quốc" hộ vệ, vẫn bị nó quật ngã. Ngày xưa chưa có vaccin phòng ngừa, mỗi lần xảy ra đại dịch, nhân loại vơi người đi ấy. Vậy thì phải đặt lại y niệm mạnh, yếu ở điểm nào !
Còn về nguyên lý hoạt động cũng phải xem lại. Ngày xưa người ta cứ cho ruột thừa là kết quả của luật thoái hóa, bộ phận ít hoạt động, teo dần rồi biến mất, nhưng khoa học tien tiến ngày nay khám phá ra nó có chức năng đàng hoàng, chẳng "thừa" chút nào cả ; Đôi tai chẳng nhúc nhích gì cả mà cũng không bị teo đi tóp lại hay rụng mất ! Còn về mặt phát triển chúng ta cứ quan sát bộ óc và trái tim con người, 2 bộ phận hoạt động mạnh nhất, liên tục từ bào thai cho tới khi lìa đời, có người cả hơn 1 thế kỷ, nhưng có vì hoạt động nhieu thế ma bộ óc người ta phát triển bằng bộ óc bò đâu ? Quả tim đập dữ vậy tính ra với kích thước bằng nắm tay, tim có thể ví như cái bơm không biết mệt mỏi, mỗi ngày nó bơm đến 7570 lít máu, đi qua 96.560 km mạch máu (không biết có in lầm từ 96.560m ?). Tim co bóp 60-100 lần mỗi phút (báo Tuổi Trẻ cuối tuần ngày 16/11/2008, trang 20), thế tại sao từ khi có con người tới nay tim không nở ra bằng quả bưởi hay quả dừa ? Trái lại lớn tim, lớn gan là có chuyện đấy, có thể "ngỏm" như chơi. Ở loài hươu cao cổ, chuyện biến hóa có vẻ "thưa", cỏ non ở mặt đất bạt ngàn hà cớ gì phải ăn mấy cành lá trên cao để rồi cái cổ dài ngoằng ra, cúi xuống hơi bị khó. Trong khi mấy chú dê lại khoái leo cao, cứ rướn cổ đứng trên 2 chân sau mà ăn lá cây, sao không thấy cổ dê dài ra cho thích hợp ! Chuyện cũng lạ đấy.
Vấn đề 4 : Biến hóa giữa các chủng loài.
Chính Darwin giải thích : các chủng loài hoàn toàn không bất biến như người ta thường nghĩ trươc kia, ma biến đổi một cách ngau nhiên liên tục, loài nào giỏi thích ứng sẽ tồn tại theo quy luật chọn lọc tự nhiên. Tóm lại các loài không cố định, loài này có thể biến qua loài kia để thích nghi với điều kiện sống. Báo Tuổi Trẻ cuối tuần (09/11/2008, trang 20) trình bày qua bài "Tiến hóa – một cau chuyện dài …", tác giả Trang Anh cho biết kết quả nghiên cứu của Darwin :
a). Cách đây nhiều triệu năm các đảo Galopagos là loại hình núi lửa trồi lên tư đại dương, thoạt tiên là dung nham, sau đó cỏ cây, côn trùng động vật bắt đầu đến theo sự đưa đẩy của gió và sóng biển. Trong số này có 1 loài chim nhỏ đến từ Nam Mỹ khoảng 500.000 đến 1 triệu năm trước.
b). Ở một trong các hòn đảo, có hạt lớn rơi từ cây xuống, loài chim trên dùng làm nguồn thức ăn, chúng sinh sản nhieu đến nỗi xảy ra cạnh tranh … vào mùa khô.
c). Để có cái ăn cần phải đập vỡ vỏ các hạt lớn … chính vì vậy trải qua nhiều đời, mỏ của chim Geospiza magnirostris trở nên to hơn so với tổ tiên chúng. Tất cả từ 1 sự đột biến ngẫu nhiên.
d). Theo Darwin, cái mỏ to lớn rất thuận lợi để đập vỡ các hạt làm thức ăn bảo tồn sự sống, theo thời gian chúng trở nên khác biệt đến mức không thể giao phối với loài cùng họ mỏ nhỏ nữa mà trở thành 1 loài riêng.
e). Trên 1 hòn đảo khác, nơi đây xương rồng ngự trị, 1 loài chim khác đã được hình thành do đột biến va tiến hóa, mỏ của nó dài hơn cho phép nó rỉa trái và hạt phấn của hoa xương rồng.
Nhận định : Thay đổi đôi chút, biến hóa đôi chút để thích nghi với môi trương sống là chuyện có thật như Darwin đã quan sát và ghi nhận, nhưng sự thay đổi này chỉ xảy ra ở những gì là phụ thuộc, còn cái chính yếu, tức là bản tính của 1 loài, 1 họ thì không thể nào thay đổi đến độ biến sang loài khác, bằng chứng là hàng ngày hàng giờ mọi loài đều phải thích nghi để tồn tai. Công việc này đã diễn ra liên tục từ khi tạo thành trời đất, thế mà cho tới nay chúng ta không thấy vật trung gian. Ví dụ loài khoáng vật, đất đá biến ra loài thực vật thì phải trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn thêm ra 1 tý, cục đá có rễ rồi có cành, có lá rồi mới ra cây được, từ xưa tới nay chưa hề ai thấy 1 cục đá có rễ cả ! Rồi loài thực vật biến ra động vật cũng vậy : phải có cây biết di chuyển, cây mọc lông, mọc cánh … còn nếu loài cầm biến ra loài thú thì phải gà 2 chân +
1/tỷ chân thứ 3, rồi 2/tỷ tiến tới gà 3 chân không hoàn chỉnh, rồi 3 chân hoàn chỉnh, rồi 3 chân cộng với 1/tỷ chân thứ 4 … đó là những vật trung gian. Thực tế không bao giờ có. Không tìm thấy hình ảnh "that" của đám học trò, thầy Cao Bá Quát "nửa ngươi, nửa ngợm, nửa đười ươi".
"Chính Darwin cũng phải thú nhận chưa tìm được những mẫu hóa thạch đánh dấu các giai đoạn chuyển tiếp cua sinh vật trong quá trình tiến hóa để củng cố cho cơ sở lý thuyết, vì thế cho dù chu trương tiến hóa theo luật kế thừa và tác động của chọn lọc tự nhiên, nhưng thuyết Darwin không cho biết sự biến đổi đến từ đâu và tính kế thừa diễn ra như thế nào" (Nguyệt san CGvDT số 171, trang 93).
Đã gọi là định luật khoa học thì phải có thực nghiệm, có bằng chứng cụ thể thật phổ biến, đâu đâu cũng có. Còn nếu chỉ quan sát một vài hiện tượng, không chứng nghiệm được mà đã ra định luật thì đó là áp đặt, võ đoán ma thôi, thiếu tính khoa học.
Nếu do phải mo hạt cứng mà loài chim Filink ở đảo Galopagos đã cần biến dạng mỏ cho to ra, cứng hơn biến thành 1 loài khác với chim cùng họ với mình thì tại sao con chim gõ kiến, ngày ngày phải mổ, đục thân cây gỗ cứng, chúng còn đáng sợ hơn khi sân bay vũ trụ ở Florida có lần đã cảnh báo và xua đuổi đàn chim gõ kiến vì sợ chúng chọc thủng cả vỏ phi thuyền, thế thì tại sao mỏ của chúng vẫn dài nhọn, cân xứng với thân hình nó chứ không to đùng ra như chiếc búa nhọn ? Con voi với thân hình "bồ tượng", mỗi ngày ăn cả trăm kilôgam cỏ, lá … chỉ 1 cái vòi làm việc liên tục, sao không thấy phát triển to hơn, dài hơn để lượm được nhiều cỏ hơn ? Loài rắn, loài lươn di chuyển thường xuyên như vậy sao không thấy mọc chân ra, trong khi con rít nhỏ tý, loài cuốn chiếu, di chuyển chậm mà có hàng trăm chân ?
Vấn đề 5 : Việc sinh sản, nối dõi nòi giống.
Căn cứ vào Thuyet Tiến Hóa, thì vấn đề tăng "dân số" chủ yếu do biến hóa : loài này biến ra loài kia, loài đơn giản biến ra loài phức tạp, vật chất vô cơ biến ra loài hữu cơ, thảo mộc biến ra cầm thú, cầm thú biến ra người – Thực tế điều mọi người trên thế gian có thể thấy và kiểm nghiệm được, đó là quá trình thụ tinh và sinh sản, loài nào sinh ra loài nấy, chó đẻ ra chó, heo đẻ ra heo.
Ông cha chúng ta từ xửa từ xưa đã nói : "Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu" (trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu), chẳng ai chăn nuôi, trồng trọt mà lại ngồi không chờ vạn vật biến hóa ra cho mình. Không ai có thể chap nhận được biến hóa kiểu đó dù chỉ là một người bình dân ít hoc.
Vấn đề 6 : Vấn đề sự sống – Món quà kỳ diệu khong thể hiểu được nơi các sinh vật trên trái đất này.
Đây cũng là vấn đề gai góc đặt ra cho Thuyết Tiến Hóa. Đối với vũ trụ vô biên thì trái đất chỉ hạt cát, lại còn sinh sau đẻ muộn nữa. Thế mà trái đất được ban tặng sự sống, còn tất cả các tinh tú trong vũ trụ cho tới ngay nay, vơi khoa học hiện đại, các nhà khoa học tiên tiến nhất vẫn chạy đua đi tìm sự sống ngoài trái đất nhưng chưa thấy. Gần đây các nhà khoa học đã dùng máy móc thăm dò, đào bới Mặt Trăng và sao Hỏa, cũng có vài thông tin là đã tìm thấy nước (dấu hieu cua sự sống), nhưng rồi những tin đó cũng bay vào quên lãng như "lông vịt" bay trong gió, hô hoán lên cho vui vậy !
Cách đây gần 50 năm, cơ quan NASA đã phóng lên 1 vệ tinh thăm dò có máy phát hình người của trái đất (và 1 số đồ dùng thông thương nữa thì phải), đồng thời có máy thu và phát các tín hiệu tiếng kêu, tiếng noi, tiếng chào cua nhiều dân tộc … hy vọng sẽ nhận được tín hiệu phản hồi của những sinh vật ngoài trái đất … Vệ tinh đã bay ra ngoài Thái Dương hệ và hiện đang phiêu lưu trong vũ trụ, nhưng vẫn "bặt vô âm tín".
Sự sống trên trái đất là một phép mầu, suy nghĩ một chút ai cũng có thể đặt vấn đề, nếu tiến hóa là luật chung bất di bất dịch của vũ trụ, thì tại làm sao hàng tỷ tỷ tinh tú, to hơn trái đất cả vạn lần, xưa hơn trái đất cả vạn lần, lại không có nhưng dạng sự sống như trái đất này ? Nếu cùng điều kiện vật chất ban đầu như nhau (cảnh hồng hoang vũ trụ), mà chỉ có trái đất có tiến hóa thì làm sao thành quy luật chung đươc ? Lý thuyết tiến hóa làm sao có cơ sở vững vàng được ? Nếu ai đó "cãi cối" cho rằng chuyện ngẫu nhiên, đột biến chỉ xảy ra 1 lần rơi nhằm trúng trái đất này thì xin hãy chứng minh cái "ngẫu nhiên", cái "đột biến" đó đi.
Trở lại vấn đề sự sống trên mặt đất này, chúng ta thấy có 3 cấp bậc : Sự sống thực vật
(sinh hồn) - Sự sống động vật
(giác hồn) - Sự sống loài người
(linh hồn). Các dạng sống ấy được sắp đặt từ thấp lên cao, càng cao càng phức tạp và tinh túy hơn, cây cối không bao giờ có cảm giác, cầm thú không bao giờ có tư tưởng, lý trí, ý chí, tự do …
Theo luật tiến hóa vật chất vô cơ vô năng tiến hóa ra loài hữu cơ dạng thực vật, thực vật vô cảm tiến hóa ra côn trùng, cầm thú hữu cam, cầm thu tiến hóa ra con người, có tất cả các dạng sống cấp dưới cộng thêm thượng tầng tinh thần là tư tưởng, tình cảm, lý trí, ý chí, tự do … ta gọi là linh hon. Quá trình tiến hóa này (theo Thuyet Tiến Hóa), hoàn toàn trái ngươc với đời sống thực tế. Chẳng ai thấy những vật trung gian tiến hóa bao giờ, chỉ thấy quá trình ngược lại, con người, cầm thú, cỏ cây chết đi phân hủy, trở về cát bụi mà thôi.
Quá trình tiến hóa còn trái ngược với chân ly ngàn đời của cuộc sống. Chân lý đó được phát biểu bằng câu ngạn ngữ La-tinh : "Nemo dat quod non habet" (không ai có thể cho người khác cái mà mình không có). Bạn có 5.000$, bạn chỉ có thể cho người khác tối đa là 5.000$, không thể cho thêm 1 xu nào nữa ! Đây là nguyên tac muôn ngàn đời vẫn đúng. Áp dụng vào quá trình tiến hóa vật chất vô cơ vô năng (không có sự sống) lấy đâu ra chất sống để hóa thân thành thực vật, đến lượt thực vật không có cảm giác, lấy đâu ra cảm giác mà hóa thân thành cầm thu, cầm thú không có linh hồn, lấy đâu ra linh hồn để hóa kiếp làm người. Đây mới nói tới điểm mấu chốt nhất là sinh hồn, giác hồn va linh hồn, còn muôn van bộ phận khac cấp dưới không có, lấy đâu mà cho cấp trên : cây cối lấy đâu ra máu, thịt, tay chân, phèo phổi mà hóa ra cầm thú ? Con vượn, con khỉ lấy đâu ra linh hồn để hóa kiếp thành người ? Nói về nguồn gốc của cả xác cả hon con người, thi sỹ Huy Cận trong tập thơ Lửa Thiêng (NXB. Đời Nay – 1940) có bài Thân Thể :
"Hỡi Thượng Đế ! Người nhìn xem,
Người đã cho thân thể bình thịt xương
để đựng chứa Linh Hon".
Có một điều nhỏ bé thôi, nhưng tôi vẫn tin là phép mầu, đó là việc con người cho tới nay dù đã cố gắng thực hành hàng trăm năm mà vẫn thất bại, đó là dạy cho loài linh trưởng tiếng nói của con người, dù phần thể xác người với khỉ giống nhau tới 90% và nhiều người vẫn tin và quả quyết "người bởi khỉ mà ra".
Không lẽ khỉ, vượn, vươn người lại ngu hơn con vẹt, con sáo là loài rất xa loài người, nhưng được dạy, chúng bắt chước được tiếng loài người.
Vấn đề 7 : cũng là vấn đề cuối
cùng mà người viết vẩn vơ suy nghĩ, đó là : Đã là luật tiến hóa thì phải xảy ra liên tục và tiến mãi, tại sao lại dừng ở con người không bien ra siêu người nữa ? Tương lai con người sẽ về đâu ? Liệu có mọc them 3 đầu 6 tay không ?
Điều đáng nói là ngày nay mọi bộ môn khoa học đều đòi hỏi đo chính xác tuyệt đối như toán học, vật lý, hóa học, … thế mà các trường học lại dạy về Thuyết Tiến Hóa với những định luật của nó như là chân ly khoa học, trong khi thực chất, theo ngươi viết đã trình bày, đây cũng chỉ là một giả thuyết, chưa có tính khoa học thực thụ, còn nhiều "lỗ hổng" mà ngay chính các tác giả Thuyết Tiến Hóa cũng không "lấp" được, đành phải "tin" thôi. Lẽ ra vấn đề giáo dục phải tôn trọng quyền tự do lý trí của con người, không được áp đặt một chiều. Lẽ ra phải xác định từ đầu đây cũng chỉ là một giả thuyết mà thôi, đồng thời cũng phải trình bày Thuyết Sáng Thế như là lý thuyết tâm linh mà đại đa số nhân loại từ ngàn xưa tới thế kỷ 19 vẫn tin nhận.
Các nhà khoa học vĩ đại như Newton, Pasteur, A. Einstein và tuyệt đại đa số các nhà khoa học Âu Mỹ khác từ thế kỷ 19 trở ve trước vẫn tin Thuyết Sáng Thế, "và ngay cả Darwin khi đặt chân lên tàu Beagle vẫn còn tin câu chuyện sáng thế trong Thánh Kinh, sau 5 năm tìm hiểu ở đảo Galopagos trở về Luân Đôn năm 1837, cách nhìn của ông mới thay đổi" (Nguyệt san CGvDT số 171, trang 86).
Tại Pháp từ đầu năm 2000 đã xuất hiện những bài thi tú tài (có chương trình tiến hóa) với câu trả lời như sau : "Tôi trả lời theo sách giáo khoa nhưng tôi vẫn không tin". "Một giáo viên khoa học về đời sống và trái đất, có mạng cá nhân - trên đó ông bảo vệ Thuyết Sáng Thế với tư cách một giáo sư tiến sỹ" (Sđđ trang 90).
Thế giới ngày nay có 6 tỷ người, thì ít nhất cũng có 1,5 tỷ người Hồi giáo tin Sáng The ; Khoảng hơn 2 tỷ người Kitô giáo (gồm Công giáo, Tin lành,
Anh giáo, Chính Thống …) vẫn tin Sáng Thế ; Khoảng 2 tỷ nhưng người ngoài Kitô giáo và Hồi giáo vẫn tin Trời, tin Giàng … họ cung không chấp nhận "sỏi đá biến ra cây cối – cây cối biến ra cầm thú và cầm thú biến ra người". Những người thờ Ông Bà không bao giờ thờ khỉ như tổ tiên mình cả. Đây là thực tế cuộc sống, không ai chối cãi được.
Trong xã hội tự do và văn minh, Thuyết Tiến Hóa của Darwin cũng chỉ là một trong hằng hà sa số các thuyet nhằm cùng một mục đích là để phủ nhận Đấng Tạo Hóa toàn năng hằng hưu.
Cách đây 4 năm, 100 nhà vật lý đã từng đoạt giải Nobel, tiêu biểu là Alexei A. Abrikosov, Masatoshi Hoshiba, Riccardo Giacconi, Wolfgang Ketterle, Carl E. Wieman, Jack S. Kilby, Martinus J.G. Veltman, Robert B. Laughlin, Horst L. Stomer, Dniel C. Tsui, Steven Chu, Claude Cohen Tannoudji, William D. Philips, … đã lên tiếng trong Hội Nghị Khoa Học tại Helsinki, thủ đô Phan Lan, tổ chức ngày 12/08/2005, đồng thanh tuyên bố : "Thuyết Tiến Hóa không có cơ sở khoa học, vì dựa trên quá nhiều định đề, và càng ngày, với đà tiến triển của khoa học, càng được chứng tỏ là sai lầm".
Tuy nhiên, tại một so nước, Thuyết Tiến Hóa của Darwin được trình bày như là thuyết duy nhất có tính chung cuộc và đầy đủ lý luận khoa học nhằm bài bác niềm tin tôn giáo. Nhưng chính ông Darwin, một người tín hữu theo đạo Thiên Chúa, trong tác phẩm của ông, tựa đề On the Origin of Species trang 62, ông đã phàn nàn vì người ta khi sử dụng tác phẩm của ông vì mục đích riêng của mình đã xén bớt những lời xác tín của ông rằng: "Chỉ có Thiên Chúa mới ban cho thụ tạo có hồn, tức có sự sống, nhất là con người có lý trí".
Để kết thúc
Nha bác học Albert Einstein nói : "Tôn giáo của tôi là sự hạ mình chiem ngưỡng Đấng vốn Than Linh, tối cao, vô hạn, đã tự bày tỏ chính Ngài trong những phần tử vô cùng nhỏ bé trong vũ trụ, để cho chúng ta, bằng tư duy thiển cận tầm thường của mình, cũng nhận biết đươc Ngài. Chính sự hiểu biết về những quy luật tuyệt vời của vũ trụ vĩ đại và kỳ diệu, đã đem đến cho tôi niềm tin sâu sắc về sự hiện diện của một Đấng quyền nang tối thượng đã sáng tạo nên vũ trụ, cái mà con người không the nào lãnh hội được bằng lý trí của mình. Đấng đó chính là Đức Chúa Trời của tôi" (Barnett Lincoin : The Universe and Dr. Einstein, p.95). Ông cũng tuyên bố : "Tôi sẽ đi Nhà thờ, lấy những lời dạy của Chúa Giêsu làm tín điều của mình" (Knight Treasure of Illustration p.217).
Lời Tâm Niệm:
- Lạy Đấng thiêng liêng tối cao,
- Lạy Đấng Tạo Hóa,
- Lạy Đấng Tuyệt Đối,
- Lạy Thượng Đế,
- Lạy Ông Trời,
Chúng con đây là những thụ tạo đứng tren muôn vật trong vũ trụ. Chúng con đã được Ngài tạo dựng nen giống hình ảnh của Ngài là Thiên Chúa, vì chúng con có trí nhớ, có trí tuệ, có ý muốn, có tự do. Chúng con luôn thao thức trước những vấn đề :
1. Bởi đâu có vũ trụ này ?
2. Bởi đâu có bản thân chúng con ?
3. Đâu là mục đích của cuộc đời ?
4. Chết rồi sẽ đi về đâu ?
5. Làm điều thiện, ai sẽ thưởng công cho ?
6. Làm điều ác, ai sẽ phạt tội ?
7. Ai sẽ thỏa mãn khát vọng hạnh phúc tuyệt đối của chúng con ?
Chúng con muốn đi tìm chân lý, tìm ý nghĩa đích thực cho cuộc đời. Xin Ngài soi trí mở lòng cho chúng con, để chúng con được tìm thấy Ngài, và được niềm vui gọi Ngài là Cha, như hơn 2 tỷ Kitô hữu trên thế giới – Amen.
"Tiến hóa bách ngũ thập niên,
Cãi tranh bùng no như điên như rồ.
Thêm vài suy nghĩ vẩn vơ,
Nhận hay không nhận, tự do mỗi người".
***
Cần sự tiếp tay
Nếu quý độc giả thấy tập này có một chút gì tốt đẹp, hữu ích thì xin tiếp tay phổ biến cho bạn bè, con cháu, người thân quen bằng cách phôtô ra ít bản tặng họ, hay ít là chuyền tay tập này cho một người khác.
Người viết hết lòng cám ơn.
Tân Bình, ngày 09/06/2009
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT
Về đầu trang
--------------------------------
LỜI ĐẦU
Loài người được Tạo Hóa tác thành hơn và khác loài vật ở chỗ có lý trí và tự do.
"Tự do là khả năng biểu lộ ý chí, hành động theo ý muốn của mình" (Đại Tự điển tiếng Việt – Hà Nội 1999, trang 1762), đây là quyền căn bản của mỗi người. Có tự do thì cũng có trách nhiệm, nghĩa là có thưởng và phạt tùy theo lựa chọn đúng hay sai.
Người viết tập này chỉ muốn trình bày sự thật mà mình đã cảm nghiệm, còn quý độc giả đồng tình hay không, hoặc đồng tình một phần nào thì hoàn toàn thuộc quyền tự do của quý vị.
Những phép mầu quanh ta
1. Chọi
Hàng năm cứ sắp bước vào kỳ thi tú tài là lại rộ lên những tin nóng về "đường vào đại học", nào là tin tức về những đổi mới hồ sơ, thể lệ thi, nào là tin về các lò luyện thi … và cuối cùng là thông tin "chọi". Sau khi đã tổng kết hồ sơ đăng ký của các đại học và nắm được chỉ tiêu đầu vào, các tỷ lệ "chọi" được thông tin để các thí sinh chuẩn bị hành trang lên "võ đài". Báo Thanh Niên ngày 10/6/2009 có thông tin sơ bộ về tỷ lệ "chọi". Thấp nhất là các đại học ngành Mỹ thuật, Âm nhạc : số đăng ký chưa đủ chỉ tiêu. Cao nhất là các đại học Y dược với tỷ lệ "chọi" là 1/33,4. Kể thì cũng ngán đấy, giống như lên võ đài mà để chiến thắng phải hạ knock out 34 võ sĩ vậy.
Thế nhưng có một cuộc chạy đua bắt buộc vào "Đại học kỳ diệu", vào được đại học này thì tương lai vô cùng xán lạn, còn không vào được thì phải "ngỏm", đó là quy luật ngàn đời bất di bất dịch. Chúng ta cứ thử tưởng tượng con đường vào "cổng" chỉ là 1 sợi cáp dài dằng dặc căng trên một vùng đầm lầy toàn cá sấu, các thí sinh phải đi, hoặc đu dây cáp đó với sức ép mãnh liệt từ phía sau, không thể lùi lại được, chỉ có 2 đường : tiến lên hay là chết ! Tới được cổng trường đã là kỳ công, bây giờ còn thử thách thứ hai khó hơn nữa, đó là cánh cổng bằng thép đóng chặt, khóa tự động, trên bề mặt cổng đen sỳ, chỉ có 1 điểm nhỏ bằng đầu kim : "điểm vàng" nằm đâu đó bất kỳ, thí sinh nào ấn trúng điểm đó thì cổng tự động mở ra một lỗ nhỏ vừa đủ chui lọt một người thôi, mọi thứ phụ tùng đều phải bỏ lại hết, lỗ sẽ tự động đóng lại chẳng ai vào được nữa (họa lắm mới có trường hợp trục trặc kỹ thuật lỗ chưa kịp khép lại, một vài anh chị đứng gần đó tìm dịp ăn theo chui tọt vô, quả là bất hợp pháp nhưng luật cho phép đã vào thì được ở). Còn nếu gõ cửa không trúng "điểm vàng" thì cứ việc "dài cổ" đợi cho tới khi kiệt sức lăn xuống đầm cá sấu. Những khó khăn tự nhiên đã vô cùng khắc nghiệt lại còn những rào chắn lối không thể vượt qua, đành chịu chết chùm chết đúm với nhau, mà cả trăm, có khi cả ngàn khóa thi, rào cản mới được tháo dỡ một lần, việc tập trung thí sinh và bắt buộc ứng thi thì tổ chức có khi mỗi ngày, có khi mỗi tuần vài lần hay một tháng bốn năm lần không chừng, mỗi kỳ tập trung từ 600 triệu đến 1 tỷ thí sinh. Như vậy tỳ lệ "chọi" tối thiểu là 1/600 triệu, tối đa thì không thể kể được, có thể
1/1 tỷ, 1/10 tỷ, 1/100 tỷ hoặc hơn nữa. Vì có những nơi kỳ thi tổ chức liên tục như nói trên và kéo dài cả 15 năm sau mới có 1 người đậu, có những trường hợp 20 năm, thậm chí 60 năm không trúng một thí sinh nào. Thật là cuộc thi "ác liệt". Điểm ngặt nghèo oái ăm hơn nữa là phía chủ quản mỗi tháng chỉ mở cổng có 1 lần bất kỳ, không thông báo rõ, thí sinh cứ đến cầu may mà thôi !
Đến đây bạn đọc sẽ cho là người viết nói phét chứ làm gì có cuộc thi nào như vậy, kể cả các vua chúa xưa kén phò mã cũng chẳng đến nỗi như thế.
Thưa bạn đọc, câu chuyện có thật 100% đấy mà chẳng phải ở đâu xa, nó diễn ra ngay giữa chúng ta thôi. Này nhé, tôi cũng như các bạn, chúng ta có mặt trên đời này là do đã trúng tuyển trong cuộc thi kỳ diệu ấy đó. Chúng ta là di thể của cha mẹ chúng ta, chúng ta có một nửa là nhiễm sắc thể của cha được khoa sinh học ký hiệu bằng X hoặc Y, và một nửa là nhiễm sắc thể của mẹ ký hiệu bằng X. Thí sinh mang cờ Y mà vào được cửa thì bạn là con trai vai u bắp thịt : "Vai 5 thước rộng, thân 10 thước cao" (Kiều). Thí sinh mang cờ X mà lọt vào cửa thì bạn sẽ là gái với "Làn thu thủy nét xuân sơn, hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh" (Kiều). Mỗi tháng mẹ chúng ta chỉ rụng trứng có 1 lần và thường
1 trứng thôi, chẳng báo trước ngày giờ nào cả. Mỗi lần cha mẹ kết hợp có tới 600 triệu tới 1 tỷ "chiến binh" vác cờ xông trận như thí sinh chạy đua ứng thí, và nếu 30 lần mới gặp 1 lần "đại học" mở cửa thì có phải cuộc tỷ thí đã tăng lên 1 chọi 30 tỷ còn gì ! Chỉ có 1 thí sinh bấm trúng được "điểm vàng" và chui tọt qua cửa, đó là thí sinh duy nhất đậu, cửa sẽ đóng chặt lại và tất cả các chiến binh khác đều ngỏm trong "đầm lầy cá sấu". [Trứng có vỏ cứng, chỉ có 1 điểm mềm (điểm vàng) mà tinh trùng có thể chọc thủng, chui vào, bỏ lại đuôi]. Họa hiếm lắm mới có một vài anh "lưu manh" kế cận thí sinh trúng cử, tận dụng cơ hội nghìn năm một thuở bám chặt vào anh kia cùng chui vào, đó là trường hợp sinh đôi, sinh ba … (rất hiếm). Trường hợp những vợ chồng hiếm muộn, cầu tự hết đền này chùa kia có khi 20 năm sau ngày cưới mới sinh con, gọi là con cầu tự, thì tỷ lệ chọi này là một trên mấy ngàn tỷ ! Kinh khiếp chưa !
Nói đến tận nguồn tận gốc như thế để mỗi người chúng ta nhận rõ được :
- Sự sống quý báu chừng nào : Hãy bảo vệ sự sống và góp phần xây dựng nền văn hóa sự sống, chống lại nền văn minh sự chết đang tràn lan khắp thế giới.
- Hạnh phúc chừng nào được có mặt ở trần gian để làm một cái gì đó tốt đẹp trước khi trở về cát bụi.
Trong bài giảng của thánh Phêrô Kim Ngôn – Giám mục, Tiến sĩ Hội Thánh (đầu thế kỷ 5 - AD) có đoạn như sau : "Hỡi con người ! Cớ sao bạn lại khinh mình như thế (không nhận ra địa vị cao quý của mình – dùng xác hồn để làm những điều tội lỗi xấu xa …) khi trước mặt Thiên Chúa bạn quý như vậy ? Đang khi Thiên Chúa tôn vinh bạn như thế, cớ sao bạn lại hạ nhục mình như vậy ? Bạn tìm hiểu mình được làm nên bởi đâu, cớ sao bạn lại không tìm xem bạn được tạo ra để làm gì ? Cả tòa nhà thế giới mà bạn xem thấy, chẳng phải là được dựng nên cho bạn đó sao ? Chính vì bạn mà ánh sáng lan tỏa xua tan bóng tối ; vì bạn mà đêm được phân, ngày được định ; chính vì bạn mà bầu trời rực rỡ ánh sáng muôn màu của mặt trời, mặt trăng và muôn vì tinh tú. Vì bạn mà trái đất được tô điểm đầy bông hoa cây trái. Chính vì bạn mà hằng hà sa số sinh vật, nào chim trời, nào cá nước, nào thú rừng được tạo nên, để niềm vui của thế giới mới được tạo thành khỏi tan biến trong cảnh hoang vu buồn thảm. Ngoài ra, Đấng Tạo Hóa của bạn còn nghĩ đến cách tăng thêm vinh dự cho bạn : Người làm cho bạn nên hình ảnh của Người, để hình ảnh cụ thể này làm dấu chỉ cho sự hiện diện vô hình của Đấng Tạo Thành nơi thế giới. (Trích "KINH SÁCH CÁC BÀI ĐỌC - Tập 3, Mùa Thường Niên", trang 724).
- Hãnh diện chừng nào khi chúng ta chiến thắng trong cuộc chạy đua, cuộc chiến, cuộc thi mà tỷ lệ chọi kinh khủng như vậy (giả như có 1 chiến binh nào khác cầm cờ chạy tới đích trước chúng ta, thì hẳn 1 người khác chứ không phải bản thân chúng ta có mặt trên đời này), vì thế không bao giờ được phép thất vọng tự vẫn, dù ta sinh ra bị khiếm khuyết tinh thần hay thể xác do những sự cố trong quá trình hình thành sự sống.
Chuyện lạ lùng như thế bạn có thể cho là chuyện tự nhiên, ngẫu nhiên hoặc do quá trình tiến hóa từ vật chất mà ra, đó là tự do của bạn, phần tôi, tôi luôn tin sự có mặt của tôi trên cõi đời này là một phép mầu của Chúa, càng tìm hiểu, càng chẳng hiểu gì, chỉ biết nói lên lời cảm tạ tình thương của Chúa Trời và công ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã cộng tác với Chúa mà thôi.
Tôi rất đồng ý với ông Huy Cận, nhà thơ thời tiền chiến (không Công giáo), có bài "Thân thể" trong tập Lửa Thiêng, NXB Đời Nay – Hà Nội, 1940, trang 23 :
Hỡi Thượng Đế !
Người nhìn xem, Người đã cho thân thể,
Bình thịt xương để đựng chứa linh hồn.
Người đã cho những bàn tay hoa nở,
Những cây chân,
chồi mạnh búp tơ măng,
gười thu góp gió mây trong miệng thở,
Nơi mắt ngời,
Người gửi ánh sao trăng ; Mắt sâu sáng thắp đèn soi vũ trụ, Và tai rền thu cất nhạc không gian ; Và tơ tóc ướp vạn mùa hương ủ,
Và ngực vang ngân điệu nhịp hoàn toàn ;
Và cổ đứng như mình cây vững chãi,
Và vai ngang như mặt nước xuôi dài :
Hỡi Thượng Đế, Người công phu biết mấy !
2. Thân thể người ta.
Nhớ lại hồi học lớp đồng ấu, sơ học trước năm 1950, trong môn vạn vật học có bài thân thể người ta, hồi đó người viết chỉ biết nhắm mắt nhắm mũi đọc thuộc lòng như cuốc kêu mùa hè : "Thân thể người ta có 3 phần : đầu, mình và chân tay …". 60 năm sau, có những giờ phút tĩnh tâm, nhìn lại đời mình, suy đi ngẫm lại mới ngộ ra :
"Phép mầu chẳng ở đâu xa,
Ở ngay trong chính thân ta rõ gần"
Báo Tuổi Trẻ cuối tuần ngày 16/11/2008, mục 100 kiến thức khoa học cần biết, bài của Trang Anh dịch theo Science et Vie Junior mô tả về thân thể con người như sau :
a). Não : não người ví như trung tâm chỉ huy vậy, nó nặng khoảng 1,5 kg gồm các nơrôn và thể vật chất khác nổi bồng bềnh trong một chất lỏng có tên gọi là dịch não tủy, não điều khiển tất cả các hệ của cơ thể (11 hệ) thông qua những dây thần kinh và hoóc môn.
Vấn đề ở đây là não vận động thế nào ? Đâu là cơ quan chủ quản điều hành các hệ trong con người : hệ thần kinh, hệ hô hấp, hệ tuần hoàn … Các hoạt động của con người gồm hoạt động ý thức và hoạt động vô thức. Ý thức như đưa tay ra lấy một vật gì đó. Vô thức như tim đập, dạ dày co bóp, thận lọc máu … tất cả đều tùy thuộc não. Nhưng ai là người điều phối các hoạt động này ? Không lẽ não là một cỗ máy tự động ? Trên đời này không thể có gì là tự động đúng nghĩa …
Cái máy điện mà không có người bấm nút hay cài đặt máy móc thì chẳng bao giờ khởi động được, dù mọi sự đã sẵn sàng, rồi còn những hoạt động đặc biệt của não làm phát sinh ý thức, tình cảm … não điều hành như thế nào ? Khoa học tiên tiến có thể chế ra bộ não nhân tạo cũng có những nơrôn và các thể vật chất khác nổi bồng bềnh trong dịch não tủy, liệu có thể tự động vận hành được chăng ? Dễ dàng hơn là dòng máu đỏ, thế mà cho tới ngày nay, các nhà khoa học chưa chế ra được máu nhân tạo, cứ phải kêu gọi, tổ chức hiến máu nhân đạo. Người duy vật thì cho rằng mọi sự do tự nhiên, ngẫu nhiên tiến hóa ra như vậy. Còn những người duy tâm thì tin chắc rằng chính hồn sống do Chúa trực tiếp tạo dựng ban cho mỗi người làm cho họ thành ngôi vị độc đáo, cá biệt, duy nhất trong vũ trụ này, trải qua mọi thời gian và không gian. Chính hồn sống đó điều hành mọi sự suốt quãng đời tại thế. Chúng ta vẫn nói : tôi nói, tôi suy nghĩ, tôi lên kế hoạch, tôi làm, tôi muốn, tôi không muốn … Không ai nói : óc tôi nói, óc tôi làm … Cái tôi thật kỳ diệu, thật độc đáo, không giống ai, không chung chạ được với ai, nhiều khi không muốn là mình nữa, muốn hóa thân thành một người khác cũng không được. Cái tôi đeo đẳng theo tôi suốt cuộc đời. Ngày nay người ta có thể thay ghép nhiều bộ phận : tim, phổi, gan, thận, … nhưng chưa ai thay được óc, nếu mai ngày các nhà bác học có thể thay được óc thì cái tôi vẫn tồn tại, không thể "quên mình" để chuyển sang ngôi vị của người cho bộ óc. Rồi khi chết là lúc tách rời hồn xác, không ai có thể kết hợp lại được để lại tiếp tục cuộc sống, trừ ra phép mầu của Chúa.
Xét cho cùng, cuộc sống con người quả là lạ lùng : sống, hoạt động, chết – tất cả đều lạ lùng không ai hiểu nổi, rồi còn vấn đề đời sống con người sau cái chết như thế nào ? Hồn sống sẽ đi về đâu và tồn tại thế nào ? Những vấn đề quan trọng này sẽ bàn vào dịp khác. Ở đây chỉ kết luận như sau : Không có óc ta không thể sống được, nhưng óc tự nó không thể làm gì được vì nó không phải "chủ quản", mà chỉ là dụng cụ vô ngã, chính vì thế mà óc không chịu trách nhiệm hình sự, tôi phạm luật, nhà nước bắt tôi chứ không bắt óc tôi, phạt tôi chứ không thể phạt óc tôi. Do đó, phải có cái tôi chủ động, chịu mọi trách nhiệm về hành vi của mình. Một bộ óc vật chất bầy nhầy, vô ngã, không thể làm nên cái tôi là bản vị, là nhân vị duy nhất trong vũ trụ. Khi 1 trứng của mẹ và 1 tinh trùng của cha riêng rẽ thì chỉ là 1 tế bào sống của cơ thể cha hay mẹ, nhưng từ khi tinh kết hợp với noãn làm thành phôi thì xuất hiện 1 con người mới với thể xác giống cha giống mẹ một phần, nhưng ngôi vị (nhân vị) thì khác cha khác mẹ hoàn toàn, người ta vẫn nói "cha sinh con, trời sinh tính". Khoa học không thể lý giải được cái ngôi vị đó từ đâu mà ra (vì noãn không có ngôi vị, tinh cũng vô ngã), chỉ còn một lối giải thích theo đức tin : Khi 2 tế bào sống kết hợp với nhau thì Chúa tạo dựng nên 1 hồn thiêng (linh hồn) cho cái "tổng hợp" đó, làm thành ngôi vị mới, chính ngôi vị này sẽ điều khiển bộ óc và toàn thân khi nó đã phát triển đầy đủ và sẽ chịu trách nhiệm về mọi hành vi trong suốt đời mình. Không có cha mẹ thì không thể có những ngôi vị của những đứa con, nhưng cha mẹ mỗi người lại chỉ có 1 ngôi vị duy nhất, dù có nên "một xương một thịt" vẫn không thể hòa trộn với nhau, san sẻ cho nhau. Ca dao có câu : "Mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai", vì vẫn là 2 thế giới như thế nên kinh nghiệm của những người sống trong bậc hôn nhân cho hay : "Không bao giờ chồng có thể thấu hiểu trọn
vẹn tâm hồn của vợ, như ý thức về tâm hồn mình và ngược lại cũng thế". Vợ chồng đã không chia sẻ cho nhau "ngôi vị" của mình thì cũng không thể chia sẻ ngôi vị cho con cái được. Họ chỉ là những phương tiện Chúa dùng để sáng tạo dòng dõi loài người. Đây là điều không khoa học nào lý giải được. Cám ơn Trời đã cho tôi bộ óc là "tổng hành dinh" của con người tôi và đời tôi.
b). Hệ tuần hoàn :
Hệ tuần hoàn bao gồm tim và các mạch máu. Thông qua các động mạch mà mỗi tế bào nhận được chất dinh dưỡng và khí oxy. Thông qua các tĩnh mạch mà khí CO2 và các chất thải của tế bào được thanh lọc. Máu nhờ nhịp đập của tim, di chuyển qua một mạng lưới "đường ống" phân nhánh chằng chịt có đường kính thay đổi : 6 mm đối với một động mạch lớn và nhỏ hơn 1.000 lần đối với một mao mạch.
Toàn bộ hệ thống mạch máu lớn nhỏ trong thân thể người ta dài 96.560km (không biết có lầm không ? 96,5km đã là quá xá rồi). Thật là một phép mầu ! (Trang Anh, Tuổi Trẻ cuối tuần, ngày 16/11/2008).
c). Phổi : là một bộ phận xốp, đàn hồi, ở trạng thái nghỉ mỗi phút có 5 lít máu và 4 lít khí đi qua phổi, nhưng ở trạng thái hoạt động có tới 160 lít khí và 30 lít máu đi qua. Nếu căng ra, các màng phế nang của phổi có thể phủ 1 diện tích 75m2. Phổi có nhiệm vụ cung cấp oxy mà tất cả các tế bào của cơ thể ta đều cần đến, đồng thời phổi giúp loại bỏ khí CO2 độc hại ra khỏi máu. Chúng ta vận hành bộ phận này bằng cách thở (Sđd trang 20-21). Nếu chủ tâm hít thở sâu thì đó là hành vi ý thức, còn thở bình thường hoặc thở trong giấc ngủ thì đó là hoạt động vô thức. Phổi cũng là cỗ máy bền bỉ dãn nở liên tục hàng trăm năm, chỉ cần 3-5 phút nghẹt thở là người ta chết. Phép mầu cả thể như thế mà mấy ai nhận biết, đáng tiếc thay ! Người ta lại còn vô tình (hút thuốc thụ động) hay cố ý làm tổn thương các tế bào phổi, các phế nang bằng rượu mạnh và khói thuốc chủ động hít vào : thuốc lá, thuốc lào, cần sa, bồ đà, thuốc phiện, … tất cả đều chứa nicôtin và 4000 độc tố khác. Chỉ vì một chút "phê phê" mà người ta tự hại mình và hại cả những người xung quanh, hành vi "cõng rắn cắn gà nhà" đích thực mà bản thân ta chẳng bao giờ lên án cả !
d). Trái tim : Phép mầu của Thượng Đế.
Không biết từ bao giờ nhưng chắc là lâu lắm rồi, trái tim được coi là biểu hiệu của tình yêu. Có lẽ do cảm giác hồi hộp, tim đập loạn xạ khi yêu, nhất là được tiếp cận với người mình yêu "nhất cự ly, nhì tốc độ", mà loài người đã nhất trí coi nó là biểu hiệu của tình yêu. Trái tim còn được hiểu theo nghĩa bóng bảy là tấm lòng, lòng tốt, từ tâm.
"Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" (Kiều)
Trái tim hoạt động ngoài tầm ý thức của con người, muốn hay không muốn, biết hay không biết, trái tim vẫn đập và năng suất làm việc của nó ngoài sức tưởng tượng của con người, từ cái đập đầu tiên trong bụng mẹ "tim thai", liên tục cho đến khi trút hơi thở cuối cùng, cụ già kỷ lục Guiness mới qua đời trung tuần tháng 07/2009 ở tuổi 114, nghĩa là trái tim cụ làm việc liên tục không ngơi nghỉ suốt 114 năm, có máy móc tân tiến nào chạy được như vậy không ? Vài con số của trái tim khiến ta ngạc nhiên : mỗi phút tim đập trung bình từ 60-100 lần, mỗi ngày đập từ 86.400 – 144.000 lần, chuyển tải 7.570 lít máu đi qua 96.560 km mạch máu trong khắp cơ thể, bế tắc ở chỗ nào (kẹt xe) là sức khỏe có vấn đề. Liệu khoa học tiến bộ có thể chế được một bộ phận nhân tạo vận hành y như vậy được không ? (Số liệu từ báo Tuổi Trẻ cuối tuần ngày 16/11/2008 của tác giả Trang Anh)
e). Máu là phép mầu của Thượng Đế.
Máu của một người tầm vóc trung bình có chứa 30.000 tỷ hồng huyết cầu và 50 tỷ bạch huyết cầu (nguyên sắc hồng và sắc bạch của huyết cầu đã là một phép mầu, năng lượng người ta nạp vào mấy khi có mầu đỏ, trừ đôi khi ăn củ dền đỏ, nhưng vào dạ dày hòa chung với cơm, cá, rau … chắc chẳng còn mầu nào rõ rệt, thế mà ta lại có hồng và bạch huyết cầu). Cùng là dòng máu đỏ của con người cả, nhưng mỗi người lại có nhóm máu khác nhau. Nhóm máu O, nhóm máu A, nhóm máu B, nhóm máu AB. Phải cùng nhóm máu mới tiếp cho nhau được, trừ nhóm máu O có thể tiếp ứng cho mọi nhóm máu, nhưng ngược lại thì không được. Cho tới bây giờ, chưa ai làm được máu nhân tạo, ngay cả máu bò, heo, khỉ rất gần máu người cũng không thể dùng được, lạ lùng là ở chỗ đó.
f). Hệ thống thần kinh mới "ghê gớm".
Hệ thần kinh của con người bao gồm 2 phần : hệ thần kinh trung ương (gồm não và tủy sống) và hệ thần kinh ngoại vi (gồm các dây thần kinh khác). Mỗi trung tâm thần kinh có chừng 12 tỷ tế bào thần kinh sinh hoạt nhất thống. Hệ thần kinh tạo thành một mạng truyền thông liên kết giữa các bộ phận của cơ thể giúp phản ứng thích hợp với môi trường bên ngoài. Ai có thể làm nổi hệ thống này ? (Trang Anh, Báo Tuổi Trẻ cuối tuần, 16/11/2008).
Về thân thể con người, chúng ta không thể nào nói hết được vì 1 cái móng tay, móng chân, 1 sợi tóc cũng là một "phép mầu". Một khuôn mặt chưa đầy hai tấc vuông diện tích với 8 bộ phận đặt ở vị trí cố định : 2 con mắt, 2 vành tai, 2 lỗ mũi, 1 cái miệng và 1 cái cằm, mỗi bộ phận lại có hình dáng gần như
cố định. Ấy thế mà trong hàng tỷ tỷ tỷ người từ ông bà nguyên tổ cho đến người sau hết thời tận thế, không thể tìm được 2 khuôn mặt giống hệt nhau 100%, ngay cả các cặp sinh đôi giống nhau như 2 giọt nước, nhưng vẫn có nét cá biệt – Quả là phép mầu !
Đầu ngón tay con người có chừng 2 phân vuông diện tích với những đường vân tay uốn lượn, ấy thế mà hàng tỷ tỷ tỷ người từ xưa tới nay và cho đến tận thế, không thể có 2 vân tay giống nhau 100%. Đúng là một phép mầu ! Thế giới từ ngày khám phá ra dấu vân tay, đã sử dụng để nhận dạng chính xác về phương diện hành chính và nhất là trong lãnh vực điều tra tội phạm.
Tóm lại, trong thế giới loài người, loài vật và sinh vật, mỗi bộ phận và cách vận hành của nó đều là một "phép mầu" mà con người dù tiến bộ đến đâu cũng chỉ biết tìm hiểu, phân tích, quan sát và ngưỡng mộ. Chưa thể và cũng không bao giờ có thể làm chủ hoàn toàn "sự sống", sáng tạo từ không ra
sự sống. Các nhà bác học giỏi nhất hiện nay cũng chưa thể làm ra một "cọng rau muống" cho ta ăn, chưa thể và cũng không bao giờ có thể làm ra một con muỗi, con kiến hay một con virus cực nhỏ bé ! Sự sống vẫn còn là một bí nhiệm trước mắt con người. Sự sống hoàn toàn thuộc quyền năng Thiên Chúa, Đấng đã tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình.
Một vài người xốc nổi khi thấy khoa học tiến bộ, các nhà bác học đã thực hiện việc thụ tinh trong ống nghiệm, đã thành công trong kỹ thuật sinh sản vô tính ở loài cừu, bò, chó,… và chắc chắn họ đang chạy đua trong kế hoạch sinh sản vô tính người để đạt danh hiệu "tiên khởi", dù luật các quốc gia còn đang cấm, thì đã vội tuyên bố : Con người đã thay trời làm chủ mọi sự. Hãy khiêm tốn chấp nhận thân phận bé nhỏ của mình bao lâu còn phải chết, dù có lên tới sao Hỏa hay sao Mộc đi nữa thì cũng có bao xa so với khoảng không vũ trụ ?
Xét cho cùng thụ tinh trong ống nghiệm cũng phải dùng nguyên liệu có sẵn là noãn và tinh, cũng phải theo tiến trình tự nhiên là kết hợp giữa tinh và noãn, có khác là dùng thủ thuật bơm tinh vào noãn cho chắc ăn hơn và nuôi lớn trong môi trường ống nghiệm, sau đó mới đặt vào tử cung để phát triển theo tự nhiên.
Còn sinh sản vô tính cũng phải dùng chất liệu có sẵn là noãn rồi thay vì tinh thì lấy một tế bào của mẹ, rút nhân noãn ra, cho tế bào này vào thay vì nhân và tinh, kế đó đặt vào tử cung cho phát triển bình thường tới ngày sinh. Kể thì quá lạ vì không cần dùng tinh của giống đực, mà chỉ dùng noãn và 1 tế bào sống của chủ thể cái mà thôi. Thế nhưng xét kỹ lại cũng không lạ gì, vì mỗi tế bào của chủ thể giống cái cũng có ADN của chủ thể giống đực, bố của nó hay ông nội, ông ngoại, ông cố, ông sơ của nó. Như thế "vô tính" theo danh nghĩa mà vẫn "hữu tính" trong thực tế. Có giỏi thì không cần dùng noãn nữa, cứ cắt miếng thịt ra trăm ngàn phần rồi cho phát triển ra trăm, ngàn con, như kỹ thuật cấy mô. Có giỏi nữa thì không cần dùng chất thịt, lấy một đấu cát rồi chế ra hàng vạn, hàng triệu sinh vật khác ! Cũng chưa giỏi, có giỏi thật thì không lấy gì hết, không một nguyên liệu nào cả, bởi không hoàn toàn (de nihilo fieri) [thuật ngữ La-tinh] hóa phép cho ra cái gì mình muốn. Thế mới tuyệt. Liệu khoa học có giúp con người tiến đến trình độ đó không ? Bác sỹ Alexis Carrel phải thú nhận : "Khi nhìn vào con người, phải công nhận đây là một hiện tượng thần kỳ và rất khó hiểu" (tác phẩm Con Người, trang 38-45).
3. Lương tâm :
Nói tới bộ phận này bộ phận kia theo cách khảo tả, là nói tới những vật hữu hình. Còn nói tới lương tâm thì chúng ta bước sang lãnh vực siêu hình rồi, nhưng vẫn phải nói dù chẳng ai thấy hình hài nó thế nào, mổ xác ra cũng không thấy nó nằm ở đâu. Nhưng có điều chắc 100% là nó vẫn hằng có mặt trong mỗi con người và đeo bám riết lấy con người đó cho tới khi trút hơi thở cuối cùng !
Lương tâm được định nghĩa là "nhận thức nội tâm của lẽ phải" – Ví dụ : lương tâm thầy thuốc ; lương tâm cắn rứt (Đại Từ Điển Tiếng Việt, 1999). Lương tâm gắn liền với cái tôi và đồng thời với ngôi vị. Nhưng cũng như trí khôn, phải đến một độ tuổi nào đó khi thân thể đã hoàn chỉnh hơn, nó mới phát huy dần dần những hoạt động của nó. Bình thường xã hội ấn định 7 tuổi là bắt đầu có trí khôn, thì cũng bắt đầu có lương tâm. Trí khôn và lương tâm tương tác với nhau, có mặt bên nhau như hình với bóng. Có trí khôn thì mới có lương tâm, mất trí khôn (mất ở đây không phải đánh rơi đi đâu mà là không có khả năng duy trì, dùng trí khôn, dù vẫn có đấy) thì cũng mất lương tâm.
Chức năng của lương tâm : lương tâm đóng vai trò như một quan tòa trong ta. Xưa nay thiên hạ vẫn nói "tòa án lương tâm" : mỗi khi ta làm 1 điều tốt đẹp, lương tâm khen thưởng ta, cho ta một niềm vui khôn tả. Mỗi khi ta làm 1 điều xấu, không hợp lẽ phải, lương tâm trách cứ ta, tố cáo ta và phạt ta bằng một nỗi buồn dai dẳng "lương tâm cắn rứt", sự ray rứt này có khi đeo bám ta suốt đời, mỗi lần nhớ lại thì lại là một lần đau đớn, ân hận trong lòng, cho tới khi "đền trả sòng phẳng" thì lương tâm mới yên. Ai cũng cảm nhận rằng lương tâm là của mình, ở trong mình, nhưng dường như không hoàn toàn thuộc về mình mà thuộc về một ai khác, lương tâm như sứ giả của Đấng Tối Cao ở với mình, vì nó không a tòng, đồng phạm với mình trong những điều sai trái (dù ta luôn ép nó đồng tình với ta), cho nên đạo Công giáo thì tin rằng "lương tâm là tiếng nói của Thiên Chúa trong mỗi người chúng ta".
Khoảng năm 1965 tại quận I, Sàigòn xưa – Tp. Hồ Chí Minh ngày nay, xảy ra một vụ trọng án, báo chí đăng tải sôi nổi : Tô Văn Giàu, buôn bán kim cương với bà Nguyễn Thị Ánh Nguyệt, 2 bên mua qua bán lại với nhau lâu năm, quen biết như người nhà. Một hôm bà Ánh Nguyệt mất tích, Tô Văn Giàu bị nghi có dính líu, cảnh sát khám nhà Tô Văn Giàu 3 lần không phát hiện dấu hiệu nào khả nghi, sau đó Giàu cũng sang Cao Mên qua ngã Gò Dầu – vụ án chìm một thời gian, sau đó con gái bà Nguyệt vẫn quả quyết xác mẹ cô vẫn còn ở nhà anh Giàu, cảnh sát khám kỹ lại, và phát hiện bà bị đập vào đầu bằng một cây gỗ vuông, xác vùi bên hông hầm trú ẩn sâu 2m ở dưới nền nhà. Hầm này được xây cẩn thận và lót gạch bông như một bể tắm (hồi đó dân Sàigòn hầu như nhà nào cũng phải có hầm tránh pháo kích). Lúc này Giàu đang ở Nam Vang nên cảnh sát không làm gì được, cuộc điều tra kể như chấm dứt thì bỗng đâu Tô Văn Giàu trở lại Việt Nam và đã tới đầu thú tại đồn cảnh sát quận I. Anh đã thú nhận tội giết người, cướp của (vì mẻ hột xoàn hôm ấy rất lớn), anh cũng cho biết lý do trở về là vì lương tâm cắn rứt, dằn vặt, đòi anh phải trả giá sòng phẳng. Cuối cùng trong trại biệt giam chờ ngày xét xử (cầm chắc án tử hình), Tô Văn Giàu đã xé quần áo làm giây treo cổ tự vẫn. Thế là vụ án được khép lại vì phạm nhân đã chết.
Câu chuyện này người viết theo dõi từ đầu tới cuối qua báo chí, ai cũng thắc mắc : nếu hắn ở luôn bên Cao Mên thì số tiền hắn mang qua cũng dư một đời sung túc, tại sao lại về đầu thú khi đã thoát vòng pháp luật ? Thưa rằng dù thoát luật quốc gia nhưng không thoát luật lương tâm.
Một trường hợp nữa của lương tâm : "Lời xin lỗi sau hơn 3 thập niên" – Một nhân viên của Sở Giao thông Vận tải ở bang Utah (Mỹ) cho biết vừa nhận được một bức thư xin lỗi lạ lùng nhất từ trước tới nay. Nội dung bức thư đề cập đến một việc làm xốc nổi do một người đàn ông thực hiện cách đây đã 35 năm. Chủ nhân của bức thư, ông Easton giải thích rằng hơn 30 năm trước vì tuổi trẻ bồng bột, ông đã lấy cắp biển báo Stop trên một con đường ở vùng ngoại ô Salt Lake nên giờ đây cảm thấy hối hận vô cùng. Hãng AP thuật lại, ông Easton đã nhiều lần liên lạc với bộ phận quản lý cung đường ấy nhưng họ nói không sao. Tuy nhiên, ông vẫn không tha thứ cho mình nên đã gửi kèm theo bức thư xin lỗi một tấm séc trị giá 600 USD với mong muốn các nhà chức trách cho dựng lại 3 tấm biển báo Stop trên đoạn đường ấy. (C.Nhung – Báo Thanh Niên 13/07/2009)
Tác phẩm "Tội Ác và Trừng Phạt" (1866), tiểu thuyết nổi tiếng của đại văn hào Nga : Fiodor Mikhailovitch Dostoievski (1821-1881), là một câu chuyện dài lý giải lương tâm : Raxcônhicốp, nhân vật chính là một sinh viên luật đang học tại thủ đô Pêtecbua, vốn xuất thân từ tầng lớp nông dân nghèo không đủ tiền cho anh ăn học, quá khó khăn, chật vật anh đành bỏ học. Do đời sống quá thiếu thốn lại tiêm nhiễm thứ triết lý người hùng muốn ra tay san bằng bất công xã hội, anh đến nhà mụ cầm đồ Alêna giàu có, lấy búa bổ vỡ sọ mụ, cướp tiền, vàng bạc, châu báu, vừa ôm ra cửa, gặp ngay bà Êlidabet, em gái mụ cầm đồ, hoảng quá anh giết luôn mụ này kéo xác vào nhà, phi tang rồi ôm của trốn đi, anh giấu toàn bộ của cướp được dưới một tảng đá, không xài một đồng nào dù anh không còn một xu dính túi. Sau vụ giết người khủng khiếp ấy, dù chưa bị khám phá và truy nã nhưng lương tâm Raxcônhicốp bị giày vò triền miên, anh như người mất hồn, ăn không ngon ngủ không yên, tâm thần hoảng loạn, đêm nằm mê sảng vật vã, toàn nghe thấy tiếng nguyền rủa "tên sát nhân". Ngày qua ngày anh cứ lang thang, uống rượu giải khuây, tình cờ trong một quán rượu, anh nói chuyện thân mật với một bác công nhân già nát rượu Macmêlađốp, bác tâm sự với anh về cảnh thất nghiệp, nghèo đói và về đứa con gái lớn yêu quý của bác là Xônhia, phải bán thân lấy tiền giúp bác nuôi đàn con nhỏ và người vợ kế trong cảnh đói rách bệnh tật … Một hôm đang khi lang thang ngoài phố, Raxcônhicốp nhận ra bác công nhân Macmêlađốp say rượu bị xe ngựa cán ngã lăn ra đường bất tỉnh, anh vội vàng cõng bác về nhà rồi bác qua đời, anh đã đứng ra lo ma chay cho gia đình Xônhia, Xônhia cảm phục và ngày càng gắn bó, yêu anh tha thiết. Raxônhicốp hạnh phúc trong tình yêu nhưng ngày đêm anh vẫn canh cánh trong lòng nỗi ray rứt lương tâm, cuối cùng anh đã phải thú nhận với Xônhia rằng anh ta đã giết người cướp của. Với anh bây giờ, hình phạt lớn nhất không phải là tù đầy, khổ sai mà là nỗi nhức nhối dai dẳng, sự dày vò lương tâm bởi anh đã giết chết nhân phẩm của mình và cắt đứt quan hệ với bao người thân yêu khác. Xônhia rất thông cảm với anh, rất yêu anh đã khuyên anh nên đầu thú, can đảm chấp nhận hình phạt, chỉ có thế tâm hồn anh mới được bình an. Sau 9 tháng dằn vặt, một buổi sáng anh đến tòa án tự thú : "Tôi đã phạm tội giết mụ cầm đồ và em gái mụ để cướp của". Cuối cùng sau khi điều tra, quan tòa cho rằng anh có vấn đề tâm thần, bị kích động đột xuất nên được miễn án tử hình, chỉ bị đi đày 8 năm tại Xibia. Xônhia, người con gái đau khổ với trái tim tràn ngập bác ái của Chúa, tự nguyện gắn bó mãi mãi với anh dù ở cùng trời cuối đất, sẵn sàng chờ đợi anh trở về (chuyện đã được dựng thành phim, và trong phim cảm động nhất là cảnh chia ly, giữa Raxcônhicốp và Xônhia, hai người ôm nhau thật lâu, chẳng nói lời nào, chỉ có nước mắt, anh cổ mang gông, chân mang xiềng trông thật thảm thương. Cuối cùng giờ ly biệt đến, Xônhia đã bất ngờ tháo dây chuyền có thập giá Chúa đeo vào cổ Raxcônhicốp như một lời nhắn gửi rằng : anh hãy mang lấy Thập giá Chúa và Thập giá sẽ là hành trang ủi an, nâng đỡ quãng đời lưu đày của anh). "Tội ác và Trừng phạt" là cuốn tiểu thuyết hoàn chỉnh và hay nhất trong toàn bộ hệ thống tác phẩm của Dostoievski, là một tác phẩm bi thảm nhất của nền văn học nhân loại … tác phẩm còn là một lời tố cáo mãnh liệt lớp người giàu có, quyền thế vô nhân đạo … (Nguyễn Trường Lịch trong Từ Điển Văn Học – Hà Nội 1983, trang 409-410). Có một chuyện "tếu" chẳng biết có thật hay không, nhưng cũng nói lên một sự thật đó là lương tâm luôn có mặt : người chồng bệnh nặng gần chết, gọi vợ lại nhẹ nhàng hỏi :
- Em biết đấy, anh sắp ra đi rồi, mấy chục năm mình sống với nhau không một lần cãi vã, nhưng có một điều anh cứ áy náy không yên, bây giờ chẳng còn gì để phải giấu giếm nhau, cho anh hỏi thật em một điều.
- Anh yêu, lời anh làm em đau đớn quá, làm gì được để anh thanh thản em sẽ làm.
- Vậy em trả lời thật cho anh : thằng út nhà mình là con của ai ?
- Em cũng rất khổ tâm, mong có cơ hội thú thật với anh.
- Em nói mau đi, giờ này thì chẳng còn gì phải ngại ngùng cả, anh rất sẵn sàng nghe.
- Anh đã rộng lượng thì em cũng xin thưa thật với anh, thằng út và chỉ có mình thằng út là con của anh thôi.
Vừa nghe hết câu nói của vợ, anh chồng nấc lên một tiếng rồi tắt thở. Người vợ đau đớn về cái chết của chồng nhưng cũng cảm thấy thanh thản trong lương tâm vì đã nói ra được sự thật nặng nề bấy lâu nay.
Chương trình truyền hình ngày 23/7/2009 có mẩu tin cùng hình ảnh anh chàng Naaman Dealer dùng một xe tải che chắn và làm thang để leo lên cửa sổ Bảo tàng Giêrusalem, lấy xà beng bẩy song sắt và chui vô ăn cắp 160 chiếc đồng hồ quý giá, trong đó có cả chiếc đồng hồ của hoàng hậu Marie Antoinette của nước Pháp đã bị chém đầu năm 1793 sau cuộc cách mạng 1789. Vụ trộm đã trót lọt và chính quyền Israel cũng bó tay kể từ năm 1983. Đến năm 2004, khi Dealer sắp qua đời tại Mỹ, anh mới thú nhận với vợ về vụ trộm đó, và lập tức cảnh sát Israel đã tiến hành thu hồi cổ vật nhưng không thể truy tố tội phạm, vì Dealer đã chết mà lại chết tại Mỹ, ngoài nước Israel. Điều gì khiến Dealer phải thú nhận sau khi đã ém nhẹm được 31 năm ? Đó là vấn đề lương tâm. Anh cần trút gánh nặng lương tâm trước khi chết để được thanh thản ra đi.
Ai tạo ra lương tâm ? Với kinh nghiệm bản thân, không ai có thể chối cãi sự hiện diện của lương tâm nơi bản thân mình. Vấn đề là lương tâm bởi đâu mà có ?
Có phải chính mình tạo ra không ? Hoàn toàn không, lương tâm vô hình, vô dạng, vô thanh, vô xú, làm sao tự mình tạo ra được ? Nếu có ai dám bảo tự mình tạo ra lương tâm thì cho biết đã tạo ra bằng chất liệu gì và vào lúc nào ? Nếu mình tự tạo ra thì phải tạo ra cái gì ủng hộ mình, ai lại tạo ra cái có thể phản đối mình, làm khổ mình, không bao che, xí xóa cho lỗi lầm của mình. Có phải do bố mẹ tạo ra bằng cách chia sẻ một phần lương tâm của bố mẹ như chuyện cấu tạo về thể xác ấy ? Hoàn toàn không, vì lương tâm của mỗi người tuyệt đối độc lập, chẳng ai giống ai, chỉ cảm nghiệm niềm vui cũng như nỗi ray rứt nơi mình chứ không cảm nghiệm được niềm vui, nỗi khổ của người khác (cùng lắm ta chỉ phỏng đoán theo những dấu hiệu bên ngoài để rồi "suy bụng ta ra bụng người" mà thôi), người xưa vẫn nói "cha sinh con, trời sinh tính", "bá nhân bá tính", chẳng ai giống ai, chẳng ai biết rõ tâm hồn người khác (kể cả giữa vợ chồng, cha con, mẹ con) như tâm hồn mình. Ca dao có câu "Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng".
Có phải do xã hội tạo ra không ? Cũng không phải, vì xã hội loài người nhiều hình thức, nhiều thể chế khác nhau, không thể tạo ra một cái phổ quát là lương tâm cho mọi người, mọi thời được (chỉ có thể ảnh hưởng phần nào do hệ thống luật mang tính đại chúng. Ví dụ : thuở xa xưa xã hội nào cũng đa thê, nên chuyên năm thê bảy thiếp là chuyện thường tình). Nhà xã hội học nổi danh của
Pháp, ông Durkheim nhận định : "Nhân cách con người chịu ảnh hưởng rất lớn từ những quy định và điều kiện xã hội".
Lương tâm được coi là tiếng nói của Chúa trong lòng mỗi người, là luật tự nhiên dành cho mỗi người chẳng cứ có tôn giáo hay không.
Có những nguyên tắc cơ bản về việc sử dụng lương tâm :
A. Trong trường hợp khẩn cấp không thể tham khảo được thì tuyệt đối phải nghe theo tiếng lương tâm (dù sự việc có sai thì trước mặt Chúa đương sự cũng vô tội).
B. Trường hợp có nghi ngờ tốt hay xấu mà có thời gian thì phải hỏi những người khôn ngoan, uy tín, trước khi quyết định (cha mẹ, ông bà, thầy cô, Linh mục, tu sĩ, …)
C. Mỗi người có bổn phận học hỏi luật pháp (luật đời, luật đạo, luật tự nhiên, luật Chúa, luật Giáo Hội) để trau dồi lương tâm, luyện cho mình một lương tâm ngay chính, là lương tâm lúc nào cũng chọn lựa phù hợp với luật tối thượng của Chúa. Làm biếng không chịu nghiên cứu học hỏi để rồi quyết định sai (mà cứ bảo theo lương tâm) thì phải chịu trách nhiệm.
D. Có nhiều loại lương tâm :
a). Lương tâm ngặt (chuyện không đáng gì cũng cho là rất trầm trọng).
b). Lương tâm rộng hay tháo thứ (chuyện nghiêm trọng lại coi là chẳng đáng gì).
c). Lương tâm bối rối (không phân biệt được cái nào đúng, cái nào sai, nên dùng dằng không quyết định được điều gì).
d). Lương tâm chai lỳ (do thói quen sống trong tội lỗi, thói quen làm điều ác nên vô cảm đối với sự thiện, có nhận ra mình làm sai cũng không đủ can đảm để "ân hận", lúc nào cũng sẵn sàng bỏ qua cho các hành động sai trái của mình dù vẫn nhận biết là sai).
e). Lương tâm sai lạc hay lương tâm đại chúng, vì làm theo những luật lệ không chính đáng nhưng do đa số đã quyết định vấn đề thành hợp pháp. Ví dụ : tại một số nước, Quốc hội đa số bỏ phiếu chấp nhận mãi dâm là một nghề hợp pháp, chấp nhận phá thai, chấp nhận hôn nhân đồng tính, chấp nhận nghiên cứu tế bào gốc, chấp nhận an tử, … hoặc một sự tiêu cực mà phần đông dân chúng thường xuyên vi phạm như không trung thực trong quảng cáo, trong thi cử hay trong đời sống : nói dối để gia đình khỏi xào xáo, nói dối để bệnh nhân không hoảng loạn … người dân trong vùng ảnh hưởng này không thấy áy náy vì pháp luật không cấm, không phạt, quần chúng cũng hành xử như vậy, riết rồi một cá nhân nào đó với lương tâm không nhạy bén cũng làm theo và thấy không có vấn đề gì cả, "người ta sao tôi vậy", đó là lập luận của họ.
Thực ra chỉ có lương tâm nào được luật của Chúa hướng dẫn mới thực sự là lương tâm ngay chính. Luật của xã hội chỉ tương đối thôi, vì mỗi nơi mỗi khác. Ngạn ngữ La-tinh có câu "bên này dẫy Pirênê là chân lý thì bên kia là sai lầm", thật vậy, ví dụ ở Việt Nam lấy vợ hai là vi phạm luật hôn nhân gia đình,là sai lương tâm, nhưng ở những nước Hồi giáo được lấy hợp pháp 4 vợ, ai đúng ai sai đây ? Do đó đi tới kết luận là chỉ lương tâm nào có những lựa chọn, quyết định hợp luật của Chúa thì mới được gọi là lương tâm ngay chính. Luật nào của xã hội mà trái với luật của Chúa thì người có lương tâm ngay chính không được áp dụng.
Những số đông nào đã ban hành những luật trái luật Chúa, để làm cho nhiều người sai lạc sẽ phải chịu trách nhiệm trước Đấng Tối Cao : "Khốn thay những kẻ đặt ra các luật lệ bất chính, những kẻ viết nên các chỉ thị áp bức … các ngươi sẽ làm chi khi đến ngày trừng phạt ?" (Is 10,1). Chỉ có lương tâm ngay chính mới là tiếng nói đích thực của Chúa.
Một chọn lựa theo lương tâm: Báo Thanh Niên số 203 ngày 22/7/2009 có bài "Dương Trương Thiên Lý rút khỏi phim Trần Thủ Độ" (Đỗ Tuấn thực hiện). Thiên Lý : "Xin đừng làm lệch lịch sử".
Biên tập viên phỏng vấn Thiên Lý : Thế thì sao Thiên Lý lại từ chối vai diễn trong tâm trạng mà theo Lý là "rất buồn, đau lòng và rơi nước mắt" ?
- "Những khó khăn khi lần đầu đóng phim, những nhọc nhằn, ăn uống kham khổ tôi đều vượt qua được vì nghĩ mình phải làm được điều lớn hơn, có ý nghĩa hơn cho xã hội, tuy nhiên khi quan điểm
nghệ thuật bất đồng, tôi gần như suy sụp và quyết định chọn giải pháp rút lui. Tôi không muốn hình ảnh một Trần Thị Dung nổi danh trong lịch sử dân tộc được dựng lên sai lệch. Những người làm phim có thể sợ phim nhàm chán khi làm theo lối chính luận nên muốn đưa những cảnh "tươi mát", gợi cảm vào … nếu đạo diễn có tài … đâu nhất thiết phải xây dựng một Linh từ quốc mẫu Trần Thị Dung gợi cảm với những cảnh hở hang trên phim. Thế hệ trẻ sẽ nghĩ gì, những bậc cao niên sẽ nghĩ gì khi thấy một Trần Thị Dung lồ lộ da thịt được khai thác triệt để trong phim ?".
BTV : Nói ra điều này Thiên Lý có sợ mất lòng nhà làm phim ?
- "Tôi biết khi nói ra có thể hơn 100 con người của đoàn làm phim buồn lòng, nhưng như thế còn hơn việc hàng triệu người Việt Nam phẫn nộ … Trân Thủ Độ là một bộ phim lịch sử kể về một nhân vật có thật được nhân dân tôn kính thì phải thật tôn trọng, vì vậy xin đừng làm lệch lịch sử – Hy vọng việc tôi làm sẽ khiến nhà làm phim nghĩ lại và thay đổi để thực hiện bộ phim đúng chất lượng, đúng nghĩa trong khả năng, bởi đây là một bộ phim dùng ngân sách để thực hiện nên không thể làm cẩu thả được".
(Á hậu Dương Trương Thiên Lý đã rất can đảm và chính xác trong lựa chọn này - nếu sự thật đúng là như vậy - đây chính là vấn đề của một lương tâm ngay thẳng, không bị khuất phục bởi tiền bạc hay áp lực bất cứ từ đâu).
Nếu mỗi người, mỗi sinh vật là một phép mầu thì trong môi trường sống chung quanh chúng ta còn có muôn vàn phép mầu khác, không thể nào kể hết được. Xin nêu ra một vài ví dụ điển hình rất gần gũi với con người và cũng rất tầm thường, người ta tiếp xúc, sử dụng hàng ngày dường như một chuyện rất tự nhiên chẳng ai thèm để ý tới huống hồ là tìm hiểu, suy nghĩ, khám phá về nó.
4. Phép mầu chuyển hóa nơi con người nói riêng.
Con giun đất chỉ ăn đất thế mà trong ruột con giun, đất vô cơ hóa ra chất hữu cơ, làm giun to ra, dài ra. Máy móc nào làm được việc này ? Con bò, con trâu, con voi, con thỏ, … chỉ ăn cỏ xanh ấy thế mà qua tiêu hóa, cỏ xanh biến thành máu đỏ, thịt đỏ, mỡ trắng … Một cây xanh hút nước và đất vô cơ, thế mà tạo ra hoa muôn mầu sặc sỡ, nguyên mầu sắc này từ đâu ra, ai cấp cho nó được ? Rồi còn kết trái kết hạt nữa ? Một đàn cá cảnh lặn sâu dưới nước, ăn rong rêu hay những phiêu sinh vật nhỏ hơn nó, thế mà lên mầu lên nước tuyệt đẹp, ngày đêm ngâm nước mà không phai nhạt đi, ai đã sơn mầu cho chúng ?
Còn đối với con người "ăn tạp, uống tạp" cả chất vô cơ lẫn hữu cơ, ấy thế mà qua tiêu hóa, những chất ấy biến thành thịt, máu, xương cốt, tim, gan, tủy, não của con người – Không máy móc nào có thể làm được, cho tới nay vẫn còn phải kêu gọi hiến máu nhân đạo, các nhà bác học chưa chế ra được máu nhân tạo.
5. Lửa : là một cái gần gũi thiết thân. Có mấy thanh niên, mấy ông mà không có cái quẹt trong túi áo, túi quần 24/24 giờ – chút chút lại quẹt mồi thuốc, có bà nội trợ nào một ngày không đôi ba lần tiếp xúc với lửa ? Thế nhưng mấy ai hiểu được bản tính của lửa ?
Lửa có từ thời tạo thiên lập địa, khi trời đất được tạo dựng là đã có lửa, các định tinh như mặt trời đều là quả cầu lửa nóng cả triệu độ. Đối với loài người, không ai xác định được con người biết lấy lửa và sử dụng lửa từ bao giờ, nhưng phỏng định được là từ rất lâu, thời con người còn ăn lông ở lỗ. Biết lấy lửa, giữ lửa và sử dụng lửa để phục vụ đời sống là một đặc trưng của loài người. Ở thế giới loài vật, mặc dù chúng xuất hiện trước loài người hàng tỷ năm, nhưng không con vật nào biết lấy lửa, giữ lửa và sử dụng lửa cho cuộc sống (cùng lắm thấy đám cháy tự nhiên thì bu lại gần để sưởi ấm khi trời lạnh giá).
Sự lạ lùng của lửa nằm ở các đặc điểm sau đây :
a). Rõ ràng là vật chất (thấy được, cảm giác được, đo được hiệu quả …) nhưng lại chẳng là vật chất ; vì trong 112 nguyên tố của vật chất không thấy nguyên tố nào là lửa cả. Không có ký hiệu vật lý hay hóa học (các nguyên tố đều có ký hiệu : Hydrô : H ; Ôxy : O ; Sắt : Fe ; Đồng : Cu …). Lửa không phải đơn chất cũng không phải hợp chất, nó có đó mà cũng không có đó, dễ gì khoa học lý giải được !
b). Hiệu quả thần kỳ : 3 hiệu quả cụ thể là ngọn lửa hay tia lửa (mầu vàng pha đỏ) hơi nóng và ánh sáng. Cả 3 xuất hiện đồng thời, tức khắc, không cái nào trước cái nào sau (ánh sáng có tốc độ cực nhanh : 300.000 km/giây).
c). Lửa không tồn tại độc lập mà phải dựa vào vật nào đó, ví dụ cây củi cháy, tờ giấy cháy, ngọn đèn cháy, luồng ga cháy, …
d). Chia sẻ mà không hề hao hụt. Vật chất khi chia đôi, bổ tư, phân tám thì phải nhỏ dần đi, chia miết tới lúc người ta không thể chia được nữa, theo lý thuyết thì gọi nó là nguyên tử (atome gốc tiếng Hy Lạp atomos, nghĩa là không thể chia được. Nhưng báo Tuổi Trẻ cuối tuần ngày 8/3/2009 có bài "Nguyên tử không phải là thành phần nhỏ nhất của vật chất", nghĩa là vẫn còn chia được). Một đốm lửa nhỏ đến nỗi nó xanh lè, vậy mà có thể mồi cho hàng tỷ tỷ ngọn nến khác và có khả năng đốt cháy cả vũ trụ nếu có đủ mồi, lạ lùng chưa ?
e). Sức phá hủy tàn khốc : người ta vẫn nói "giặc pha không bằng nhà cháy", những cái đốt cháy được thì trọng lượng của nó cũng mất cách lạ lùng. Ví dụ 1 tấn củi cho vào lò đốt, qua ngọn lửa còn lại đống tro chừng một vài ký là nhiều, nếu có lấy bao thâu hết khói bốc ra thì cũng chỉ được chừng một vài ký nữa. Vậy 996 ký sức nặng của tấn củi kia đi đâu ? Chẳng lên trời, chẳng xuống đất, chẳng vung vãi ra xung quanh, lạ lùng chưa ?
f). Khi tắt, ngọn lửa sẽ đi về đâu ? Con người khi tắt thở còn cái thây chình ình nằm đấy, cục gạch đập ra còn một mớ xà bần, tờ giấy đốt đi còn ít tro, ngọn lửa tắt đi còn lại cái gì và nó đi về đâu ? Chẳng ai trả lời được. Cái quẹt ga sau khi mồi thuốc, tắt lửa đi, ngọn lửa không chui vào hộp quẹt, chẳng trốn ở chỗ nào cả.
Còn bao nhiêu thắc mắc về ngọn lửa mà chẳng có câu trả lời, như ai vứt đốm lửa đầu tiên cho mặt trời bùng cháy từ khi có nó tới nay và cháy liên tục hàng tỷ năm nữa theo sự tính toán của các nhà khoa học (cứ mỗi phút qua đi phải có 400 triệu tấn khí helium cho mặt trời đốt cháy, các nhà khoa học dự tính khoảng 3 tỷ năm nữa, nguồn helium trong vũ trụ cạn kiệt và mặt trời sẽ chết, hậu quả sẽ ra sao ? Chúng ta biết mà không thể chống đỡ được). Rồi hiện tượng núi lửa phun trào thường xuyên trên thế giới. Chúng ta biết rằng lòng trái đất là magma (chất khoáng nóng chảy, hừng hực lửa, sền sệt như cháo) ; đất đá, quặng trong ruột trái đất đâu có phải nhiên liệu đốt cháy đâu – hơn nữa, lửa cháy được cần phải có oxy, mà trong lòng đất kín mít, làm gì có đủ oxy – thế mà magma cháy đỏ và khi tìm được một kẽ hở của vỏ trái đất là nổ tung lên, phun trào ra thành những dòng sông lửa đỏ rực, đốt cháy tất cả những gì nó bao phủ.
Nhớ trận phun lửa của núi Vesuve bên nước Italia vào năm 79 sau Công nguyên, cả thành phố Pompei hoa lệ bị chôn vùi dưới phún xuất thạch, trận phun lửa quá bất ngờ nên dân chúng trong thành hầu như chết hết.
Làm sao có lửa nơi không có củi rơm, không có oxy ? Không dễ hiểu đâu. Ấy là chưa nói tới chuyện ai đã châm lửa cho lòng đất ? Cũng như ai đã giữ lửa trong rốn trái đất hàng tỷ năm nay ? Nếu tính sự tiêu hao qua những đám cháy, lò nung, … thì để duy trì sức nóng nhiều ngàn độ đến nỗi nung chảy cả quặng, đất đá, … thì có đến mấy vạn trái đất này cũng không đủ "dính răng bà hỏa". Ấy thế mà trái đất chúng ta trong lòng cháy đỏ, ngoài vỏ muôn loài vẫn nhảy cà tưng – Thế mà không phải phép mầu sao ?
6. Tương tự như lửa, điện cũng là một phép mầu.
Người ta chỉ cảm nhận được hiệu quả ghê gớm của điện chứ không ai thấy điện nó ra làm sao, hình thù thế nào, cân nặng bao nhiêu, mầu sắc, mùi vị thế nào ? Không biết các nhà khoa học với kính hiển vi cực đại có thấy không chứ người bình dân thì đành chịu, chỉ biết có điện thì xài, khoái chí, tiện lợi lắm, cúp điện thì khổ lắm, mỗi lần điện lên giá thì cũng lo lắm, trả tiền điện cũng xót lắm, chứ điện ra làm sao, điện từ đâu có, điện di chuyển trong dây cáp như thế nào, ai đẩy mà tốc độ của điện nhanh như thế (300.000 km/giây bằng tốc độ ánh sáng), tắt máy phát điện thì điện đi về đâu ? Ngoài điện thông thường còn có điện giữa trời nữa, dynamô nào phát ra điện này để rồi mỗi cơn giông bão, sấm sét kinh hồn bạt vía ? Theo tôi khoa vật lý chỉ giải thích hiện tượng, ứng dụng các định luật là chủ yếu, chứ chưa thể đi tới tận nguồn gốc của vấn đề. Thử hỏi điện có phải vật chất không ? Nếu là vật chất sao trong bảng 112 nguyên tố không thấy có ? Vật chất thì phải ở một trong ba thể : khí, lỏng, đặc. Vậy điện nó ở thể nào ?
Sau hết chúng ta ghi nhận việc phát minh ra điện (thế kỷ 19) và sử dụng điện là một đặc điểm của loài người. Loài vật không con nào làm được như thế, cũng lưu ý có một loài cá phát ra một dòng điện dường như để tự vệ, nhưng đó là do tạo hóa ban tặng và nó cũng chỉ làm theo bản năng tự nhiên, chứ không bao giờ chủ động, ý thức làm chuyện đó.
Còn bao nhiêu thứ quanh ta, ta sử dụng, va chạm hàng ngày nhưng hiểu biết đến ngọn nguồn thì đã mấy ai ? Ví dụ như từ trường, lực hút, tia cực tím, tia bêta, tia gamma, tia X,
…
7. Một thực tại nữa mà ảnh hưởng của nó bao trùm muôn loài muôn vật trong vũ trụ này, đó là thời gian.
Thời gian là gì ? Đại Từ Điển Tiếng Việt – 1999, định nghĩa là "hình thức tồn tại cơ bản của vật chất, trong đó vật chất chuyển động liên tục không ngừng". Có lẽ chỉ có các nhà triết học siêu hình mới hiểu được định nghĩa này, còn tuyệt đại đa số dân chúng là người bình dân làm sao mà hiểu. Theo tôi đây chỉ là một lối giải thích phiến diện hơn là định nghĩa. Phiến diện ở chỗ nếu chỉ là hình thức tồn tại cơ bản của vật chất thì những giá trị tinh thần, những cái mà nhân loại xếp vào hàng văn hóa phi vật thể thì không có chỗ đứng trong thời gian à ? Giới bình dân chúng tôi chỉ biết rằng thời gian vô hình, vô dạng, vô thanh, vô xú, vô mầu, vô sắc, vô cân, vô lượng, chẳng biết nó từ đâu tới và biến đi đâu, chỉ cảm nhận được sự tồn tại của nó bằng những cột mốc chuyển động. Ngày xưa người ta đo thời gian bằng cách quan sát bóng nắng hay sự di chuyển của trái đất quanh mình và quanh mặt trời, rồi văn minh hơn, người ta chế ra đồng nước, đồng hồ cát, đồng hồ cơ học rồi đồng hồ điện tử. Thời gian có đặc tính là độc lập với mọi loài, mọi loài tùy thuộc vào nó chứ không ngược lại. Không ai điều khiển được thời gian. Nó cứ đủng đỉnh đến rồi đi và không bao giờ trở lại. Ca dao Việt Nam có câu :
"Thời giờ thấm thoắt thoi đưa, Nó đi đi mãi có chờ đợi ai".
Trên quả lắc một số đồng hồ cổ Tây Âu có ghi hàng chữ La- tinh : "Tempus fugit" – nghĩa là thời gian trốn chạy. Với những hình thái và đặc tính trên thì đối với chúng ta, thời gian quả là phép mầu mà chỉ có Chúa Trời mới tạo tác và làm chủ được thời gian.
Trong lễ nghi long trọng làm phép cây nến Phục sinh (hiện thân của Đức Giêsu sống lại), có những lời sau đây :
- Đức Giêsu Kitô vẫn là một.
- Hôm qua cũng như hôm nay.
- Là Alpha và Ômêga (hai chữ đầu và chữ cuối của bảng vần tiếng Hy Lạp).
- Nghĩa là khởi nguyên và tận cùng.
- Người làm chủ thời gian.
- Và muôn thế hệ.
- Vạn tuế Đức Kitô, Đấng vinh hiển quyền năng.
- Vạn vạn tuế – Amen.
(Trong khi đọc những câu này thì Chủ sự viết trên cây nến từng con số của năm dương lịch hiện tại. Ví dụ 2009).
Thời gian là thế đó.
Cũng cần lưu ý một điều là chỉ có loài người mới ý thức, cảm nghiệm được thời gian, mới có thể đếm năm tháng ngày giờ mình sống, mới có hồi ức nhớ lại được quá khứ, dù rất xa xưa thuở còn thơ bé, những kỷ niệm đầu đời, mới có khả năng suy đoán về tương lai và dự trù cho mình những gì cần thiết phải có, kể cả cỗ hòm hay lăng mộ như các kim tự tháp của các Pharaôn Ai Cập. Loài vật chỉ sống tự nhiên theo bản năng, không ý thức được thời gian, không đếm được ngày tháng, không có ký ức về dĩ vãng và cũng không biết gì về tương lai, càng không thể biết ngạc nhiên trước phép mầu thời gian.
8. Thế giới vô cùng nhỏ bé.
1 gam nước chứa 33.500 tỷ phân tử nước (H2O). 1 nguyên tử H do 1 dương điện tử và 1 âm điện tử làm thành. 1 nguyên tử O có 8 dương điện tử, 8 trung hòa tử và 8 âm điện tử. Cả ba thứ này kết thành 1 nguyên tử O lớn bằng 1/10 triệu ly.
Những nguyên tử này ví như một thái dương hệ. Các âm điện tử di chuyển quanh trung tâm với tốc độ 290.000 km/giây. Có một nguồn năng lượng lớn giữ các điện tử trong quỹ đạo của nó, và nếu rút được năng lượng ấy, ta sẽ có một năng lực phân tán phi thường (bom nguyên tử ứng dụng nguyên lý này).
"Những điện tử chạy quanh nhân nguyên tử với tốc độ 500 tỷ vòng/giây. Như thế số vòng của điện tử trong 1 giây đồng hồ lại nhiều hơn tổng số những giây đồng hồ tính từ Chúa Giáng sinh đến nay".
(Eymieux : Deux Arguments pour le Catholicisme p.114).
9. Trái đất là một phép mầu.
Chuyện lạ lùng nhất đối với trái đất là địa vị độc tôn của nó trong cả vũ trụ này, cho tới nay chỉ mình trái đất có sự sống, có loài người và muôn sinh vật khác – mặc dù trái đất rất nhỏ bé so với các định tinh và hành tinh khác, nó chỉ bằng 1/1.300.000 mặt trời. Còn sánh với những "anh chị khổng lồ"
khác trong hàng tỷ tỷ tỷ tinh tú trong vũ trụ, trái đất chỉ như hạt cát trên bờ đại dương thôi. Ấy thế mà trái đất được ưu đãi hơn mọi tinh tú khác, bao nhiêu máy móc thăm dò hiện đại cố tìm ra dấu vết sự sống trong vũ trụ, nhưng cho tới nay vẫn "bặt vô âm tín". Đó quả là lạ lùng !
Chuyện lạ thứ hai là : nguyên thủy trái đất chỉ là đất đá trơ trụi, rồi nguồn nước, sự sống được gieo vào từ bao giờ không ai biết, thế rồi sự sống bám rễ, phát triển cho tới nay trong một quy trình sản xuất và tiêu thụ khép kín, bao nhiêu miệng ăn, bao nhiêu loài ăn, cả cây cối cũng bám lấy đất mà ăn, ấy thế mà "mẹ đất" vẫn cung ứng được đủ thực phẩm cho muôn loài – vòng sản xuất khép kín hoàn toàn, thực phẩm không có nhập từ ngoài vũ trụ, ấy thế mà vẫn tự cung tự cấp được.
Tôi đã hỏi một kỹ sư rằng : người ta có thể chế ra 1 cái máy phát điện tự lực được không ? Nghĩa là dynamô phát ra một dòng điện cực mạnh, dòng điện ấy lại được dùng để chạy một động cơ kéo nổi dynamô kia, điện còn dư ra thì thắp sáng, đun nóng, … nghĩa là không cần dùng bất cứ động lực nào để chạy máy ngoài dòng điện nó tự phát ra ? Kỹ sư lắc đầu : "Đến tận thế cũng không thể được vì có sự tiêu hao năng lượng, dòng điện phát ra từ dynamô, không thể tái đầu tư vào một động cơ có
thể kéo nổi dynamô đó". Ấy thế mà trái đất của chúng ta làm được chuyện ấy đấy, lạ lùng chưa ? Cứ tưởng tượng tới một ngày nào đó, đất khô cằn không còn sản xuất ra của ăn cho muôn loài muôn vật nữa, thì lúc đó sẽ ra sao nhỉ ? Chắc tận thế quá !
Chuyện lạ thứ ba của trái đất là đường di chuyển của nó. Các nhà khoa học từ Galileo trở đi, đã khám phá ra trái đất chạy quanh mặt trời và xoay quanh mình. Xoay quanh mình thì 24 giờ được 1 vòng, còn chạy quanh mặt trời thì 365 ngày hết 1 vòng. Không có đường lối nào rõ rệt, cũng không có "bác tài" điều khiển, thế mà con đường vạn lý này gọi là quỹ đạo hình oval (quả trứng) luôn chính xác. Giả như trái đất bay sát mặt trời một tý thì mọi loài thành tro cả, hoặc bay ra xa một tý thì băng tuyết bao trùm cả địa cầu dầy không biết bao km, mà tốc độ của "cỗ xe" trái đất có vừa đâu : 108.000 km/giờ ! Ngày này qua ngày khác, năm này qua năm kia, đường đi lối về cứ chính xác, với hàng tỷ sao trời đua nhau chạy, đụng một phát là nát như tương. Gẫm xem như thế mới thấy trái đất quả là phép mầu của Thiên Chúa !
10. Thế giới cực lớn lao.
Địa cầu cách mặt trời 150 triệu km và di chuyển trong quỹ đạo với tốc độ 108.000 km/giờ. Sao Thủy (Mercure) cách mặt trời 65 triệu km, trong khi Tử Vương Tinh (Pluton) cách xa mặt trời đến 6 tỷ (6 ngàn triệu) km. Mặt trời lớn hơn trái đất 1.300.000 lần, và cũng chỉ là một trưởng nhóm trong hàng tỷ nhóm tinh tú khác trong ngân hà, mà vũ trụ lại còn cả hàng triệu ngân hà khác nữa.
Với viễn vọng kính thường người ta đếm được trên bầu trời 2.270.000 tinh tú, còn với viễn vọng kính hiện đại, thấy xa hơn mắt thường 1.500.000 lần, các nhà thiên văn có thể đếm được trên ngân hà từ 50 đến 80 tỷ sao. Sao Bắc Đẩu cách ta 440.000 tỷ km, còn các sao xa hơn phải tính bằng quang niên (9.460.800.000 km). Khoảng cách từ đầu đến cuối ngân hà là 100.000 quang niên.
Còn nhiều ngân hà khác chưa đếm được, và hiện nay mới đếm được chừng 2 triệu ngân hà : hệ thống Hercule có hàng triệu mặt trời, hệ thống Sagittaire có 800 triệu mặt trời, cách xa trái đất chừng 30.000 quang niên. Còn nhiều ngân hà khác cũng giống như ngân hà của chúng ta, ví dụ :
ngân hà Andromède gần ta hơn cả cũng cách xa ta khoảng 750.000 quang niên và có cả ngàn ngân hà khác luân chuyển quanh ta cách xa khoảng 1 tỷ quang niên.
Trước sự kỳ diệu của vũ trụ, Kinh Thánh đã ca lên : "Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm" (Tv 19,1) ; Và chúng ta phải đồng ý với nhà bác học Cuénot khi ông nói : "Đối với tôi, phép lạ của các phép lạ là vũ trụ này bao giờ cũng đi về trật tự chứ không rơi vào hỗn loạn".
Trước những phép mầu, các nhà khoa học nói gì ?
- Newton, nhà vật lý, thiên văn vĩ đại của nước Anh, khi dùng kính viễn vọng quan sát vũ trụ đã thốt lên : "Tôi thấy Thiên Chúa đi đi lại lại trước viễn vọng kính của tôi".
- Edison, nhà phát minh vĩ đại của Mỹ, ký tên trong sổ vàng khánh thành tháp Eiffel : "Edison, người rất kính trọng và rất cảm phục các kỹ sư, trong đó nổi nhất là Thiên Chúa".
- Nhà địa chất của Pháp Pière Terminer viết : "Từ tuổi trẻ cho đến trưởng thành tôi chỉ chuyên lo nghiên cứu khoa học thiên nhiên và không bao giờ vì đó mà giảm bớt đức tin-cậy-mến, xưa nay tôi vẫn tin và bây giờ tôi vẫn còn tin đạo Đức Kitô là chân lý, ngoài đạo ấy ra không thể cứu rỗi thế giới bằng cách nào khác …" (La Joie de connaitre, trang 8).
- Ngày 20/7/2009 vừa qua, thế giới cùng với nước Mỹ mừng 40 năm con người đặt chân lên mặt trăng (20/7/1969).Trước ngày xuất phát, bố của phi hành gia B. Aldrin đã trao cho con Thánh Vịnh số 8, bảo con lên đọc trên mặt trăng và anh đã thực hiện : "Oai phong Đức Chúa và phẩm giá con người".
"Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa chúng con, lẫy lừng thay danh Chúa trên khắp cả địa cầu !
Uy phong Ngài vượt quá trời cao.
Ngài cho miệng con thơ trẻ nhỏ, cất tiếng ngợi khen đối lại địch thù, khiến kẻ thù quân nghịch phải tiêu tan. Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm ? Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài muôn sự dưới chân.
Nào chiên bò đủ loại,
nào thú vật ngoài đồng, nào chim trời cá biển,
mọi loài ngang dọc khắp trùng dương.
Lạy ĐỨC CHÚA là Chúa chúng con,
lẫy lừng thay danh Chúa trên khắp cả địa cầu !"
***
Lời sách Khôn Ngoan sau đây sẽ tạm khép lại những suy nghĩ vẩn vơ tập 3 này.
"Ôi những kẻ dại khờ …
từ những vật hữu hình tốt đẹp,
chúng không đủ khả năng nhận ra Đấng hiện hữu –
và khi chiêm ngắm bao công trình,
chúng không nhận biết Đấng Hóa Công" (Kn 13,1).
***
Lời Tâm Niệm
- Lạy Đấng thiêng liêng tối cao,
- Lạy Đấng Tạo Hóa,
- Lạy Đấng Tuyệt Đối,
- Lạy Thượng Đế,
- Lạy Ông Trời,
Chúng con đây là những thụ tạo đứng trên muôn vật trong vũ trụ. Chúng con đã được Ngài tạo dựng nên giống hình ảnh của Ngài là Thiên Chúa, vì chúng con có trí nhớ, có trí tuệ, có ý muốn, có tự do.
Chúng con luôn thao thức trước những vấn đề :
1. Bởi đâu có vũ trụ này ?
2. Bởi đâu có bản thân chúng con ?
3. Đâu là mục đích của cuộc đời ?
4. Chết rồi sẽ đi về đâu ?
5. Làm điều thiện, ai sẽ thưởng công cho ?
6. Làm điều ác, ai sẽ phạt tội ?
7. Ai sẽ thỏa mãn khát vọng hạnh phúc tuyệt đối của chúng con ?
Chúng con muốn đi tìm chân lý, tìm ý nghĩa đích thực cho cuộc đời. Xin Ngài soi trí mở lòng cho chúng con, để chúng con được tìm thấy Ngài, và được niềm vui gọi Ngài là Cha, như hơn 2 tỷ Kitô hữu trên thế giới – Amen.
(Tiến sĩ Phan Như Ngọc, Email : pnngoc@gmx.net – Trích Bài giảng Chúa nhật - TGM, số 4/2007, trang 74)
Tân Bình, ngày 15/08/2009
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT
Về đầu trang
-------------------------------------------
LỜI ĐẦU
Loài người được Tạo Hóa tác thành hơn và khác loài vật ở chỗ có lý trí và tự do.
"Tự do là khả năng biểu lộ ý chí, hành động theo ý muốn của mình" (Đại Tự điển tiếng Việt – Hà Nội 1999, trang 1762), đây là quyền căn bản của mỗi người. Có tự do thì cũng có trách nhiệm, nghĩa là có thưởng và phạt tùy theo lựa chọn đúng hay sai.
Người viết tập này chỉ muốn trình bày sự thật mà mình đã cảm nghiệm, còn quý độc giả đồng tình hay không, hoặc đồng tình một phần nào thì hoàn toàn thuộc quyền tự do của quý vị.
NGHỊCH LÝ CỦA TỰ DO
(Càng tự do càng nô dịch, Càng nô dịch càng tự do)
***
I. KHƠI NGUỒN
Nói đến tự do là nói đến một giá trị tinh thần cao quý, tuyệt vời. Chúng ta đã quá quen với khẩu hiệu "Không gì quý hơn độc lập và tự do". Trên bình diện chính trị, xã hội, tự do được đánh giá cao như vậy đó. Cha ông chúng ta đã có một kiểu so sánh có cường điệu thật nhưng cũng nói lên giá trị của tự do : "Nhất nhật tại tù (mấttự do), thiên thu tại ngoại".
Tự do là một ân huệ đặc biệt đến nỗi người ta có thể hy sinh tất cả để đổi lấy nó : Những nô lệ thời xưa lao động vất vả, lầm than suốt một đời, chỉ mong được trả quyền tự do, tức là được giải phóng. Các nước bị trị phải đánh đổi biết bao nhiêu xương máu, để có được độc lập tự do.
Năm 70 sau Công nguyên, dân Do Thái nổi dậy đánh đuổi ngoại xâm Roma nhưng không cân sức, bị thất trận ở nhiều địa phương, cuối cùng rút vào thủ đô Giêrusalem cố thủ, nhưng sau nhiều tháng bị bao vây bởi hàng vạn quân Roma tinh nhuệ, dưới sự điều khiển của tướng Titô tài ba, Giêrusalem cạn lương thực, thiếu võ khí, quân số hao hụt nặng, nhất là bị cắt nguồn nước, đành thúc thủ – quân Roma xông vào đốt phá, cướp bóc, chém giết không nương tay, cả thành không còn mấy người trốn thoát – Đền thờ Giêrusalem bị đốt sau khi cướp sạch kho tàng đúng như lời Đức Giáo chủ Giêsu đã báo trước: "Giêrusalem !
Giêrusalem ! Đã bao lần ta muốn tập hợp con cái ngươi lại như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh mà ngươi không chịu thì này nhà của ngươi sẽ bị bỏ hoang … tại đây sẽ không còn tảng đá nào trên tảng đá nào, tất cả đều sẽ bị phá đổ" (Mt 23,37 – 24,3). Ngày nay tại thủ đô Roma, một khải hoàn môn hoành tráng vẫn tồn tại, trải qua gần 2000 năm mưa nắng, trên đó còn khắc các hình tượng cây đèn vàng 7 ngọn, bình, chén thánh cùng những đồ thờ phượng bằng vàng và bạc cướp về từ kho tàng của Đền thờ. Đây là đài kỷ niệm chiến thắng lẫy lừng của tướng Titô thuộc đế quốc La-mã cổ đại, và cũng là một chứng tích cho một cuộc đấu tranh đẫm máu giành tự do.
Chẳng nói đâu xa, ngay tại đất nước Việt Nam chúng ta tình cảnh cũng rất đau thương như cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã diễn tả qua một lời ca : "Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày, gia tài của mẹ để lại cho con, gia tài của mẹ một nước
Việt buồn". Để giành lại quyền tự do độc lập, dân tộc ta đã phải hy sinh biết bao nhiêu xương máu. Nếu tính từ thời lập quốc tới giờ thì biết bao nhiêu triệu sinh linh đã phải nằm xuống ! Không ai có thể thống kê được những mất mát về nhân mạng, về tinh thần, về vật chất chỉ vì mấy chữ Độc lập – Tự do. Các nước chậm phát triển khác trên thế giới như Lào, Campuchia, Cu-ba, … đặc biệt các nước nghèo châu Phi cũng phải hao xương tổn máu như vậy. Có điều đáng nói là khi đã giành được độc lập và tự do rồi thì những người có chức quyền phải phát huy lý tưởng cao đẹp đó bằng việc làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, người người tự do hạnh phúc thực sự, chứ không núp dưới chiêu bài độc lập tự do để giở trò lừa dối, bần cùng hóa đất nước, nô lệ hóa nhân dân, biến mình thành một tập đoàn thực dân mới, một thứ "chủ nô" mới như trường hợp nước bạn Campuchia dưới thời Pôn Bốt (1975-1979).
Năm 1975, tập đoàn lãnh đạo Pôn Bốt đã dựa vào sức dân đánh đuổi ngoại xâm giành được độc lập tự do, nhưng rồi họ đã cai trị đất nước một cách độc tài, tàn ác còn hơn cả chính quyền thực dân gấp trăm nghìn lần : gần 2 triệu đồng bào Campuchia đã bị tàn sát dã man. Nguyên tại một ngôi trường học ở Nông Pênh (đã biến thành nhà tù S21) 18.000 đồng bào đã bị sát hại dưới sự chỉ huy của cai ngục khét tiếng Kaing Guek Eav thường gọi là Duch. Đất nước lao xuống vực nghèo đói, bệnh tật đến nỗi Campuchia xưa vốn là "chum cá, là vựa lúa mà đã trở thành cánh đồng chết", thử hỏi tập đoàn Khờ Me Đỏ làm cách mạng cướp chính quyền, giành độc lập, tự do vì dân, cho dân hay vì những tham vọng ngông cuồng của họ ? Tại sao độc lập tự do, giải phóng rồi mà dân khổ thế ? Tôn giáo bị loại trừ, các nhà sư bị giết, chùa chiền, nhà thờ bị phá, quyền tư hữu bị tước đoạt, ngay cả quyền được sống cũng không có, thử hỏi ai còn dám nói đến tự do ngôn luận, tự do cư trú, tự do … và tự do … ? Những công dân chỉ còn như đàn vịt bị nhốt trong chuồng, muốn giết thịt bao nhiêu thì giết ! Đây là điển hình của sự lạm dụng tự do, dân chủ để Khờ Me Đỏ tự biến mình thành "chủ nô" mới thay cho "chủ nô" cũ ; "nội xâm" thế chỗ cho "ngoại xâm" và còn ác ôn hơn cả "ngoại xâm", liệu có ai chấp nhận được không ? Tự do đích thực đem lại hiệu quả tốt đẹp bao nhiêu, thì tự do bị lạm dụng gây ra hậu quả xấu xa bấy nhiêu.
Đây là vấn đề sử dụng tự do như thế nào, sẽ bàn tới ở phần sau.
Vào khoảng thập niên thập niên 80 của thế kỷ 20, một bộ phim nhiều tập rất ăn khách, đã thu hút được cảm tình và sự chú ý của cả dân Tp.HCM nói riêng và cả miền Nam, miền Bắc nói chung – Đi đâu cũng nghe bàn tán. Xó chợ, góc phố nào cũng có tranh luận sôi nổi về những tình tiết bức xúc và diễn tiến rất tâm lý : lúc mở lúc thắt khiến khán giả hồi hộp, đợi chờ nhất là phe các bà các cô – đó là bộ phim "Nô tỳ Insaura" của Brazil. Cô nữ tỳ tên là Insaura rất xinh đẹp, rất đạo đức thánh thiện, phục vụ cho một gia đình chủ đồn điền (dĩ nhiên là da trắng), bà chủ cũng rất đôn hậu, đẹp người đẹp nết, cư xử rất tốt với Insaura, nhưng ông chủ điển trai với bộ ria "kẽm gai" thì rất là xảo quyệt. Nhiều lần hứa trả tự do cho Insaura và cô cũng tràn trề hy vọng. Cô đã có người yêu xứng đôi vừa lứa, mối tình rất đẹp chỉ còn chờ ngày được tự do là tổ chức đám cưới, bà chủ cũng rất thuận tình nâng đỡ hai bạn trẻ nhưng ông chủ thật gian giảo, năm lần bảy lượt hứa rồi lại viện lý này lẽ nọ để thất hứa, khiến đôi trẻ tuyệt vọng đến tội nghiệp. Khán giả cũng thót tim chờ đợi và chờ mãi … Cái giá của tự do cao như thế, đắt như vậy đó !
II. VÀO ĐỀ
Nếu hỏi tự do là gì ? Chắc sẽ có nhiều người trả lời ngay, khỏi cần suy nghĩ, đó là "muốn làm gì thì làm", đây cũng là tâm lý chung, sự hiểu biết rất chung chung về "tự do". Ai cũng thích sống và làm theo ý riêng, sở thích riêng của mình, không bị thế lực nào cản trở. Cách hiểu như trên là mơ hồ, không tưởng và không thực tế. Kinh nghiệm bản thân cho thấy nhiều chuyện, nhiều lần chẳng thể muốn làm gì thì làm. Cứ thử xách xe ra đường tham gia giao thông xem mình có thể "tự do" muốn đi thế nào thì đi, bất kể đèn đỏ, đường cấm, bất kể tuyến đã phân, các phương tiện giao thông đằng trước, đằng sau, bên phải, bên trái và bất kể chú cảnh sát giao thông đang giơ gậy "chỉ huy", huýt còi bắt đáp xe vô lề ! Chín chắn hơn một chút, người ta mở các từ điển ra xem những nhà thông thái định nghĩa như thế nào :
1. Đại Từ Điển Tiếng Việt do Bộ Giáo dục và Đào tạo, Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam soạn, nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin ấn hành năm 1999, trang 1762, mục từ "tự do" :
Tự do : dt 1. Phạm trù triết học chỉ khả năng biểu hiện ý chí, hành động theo ý muốn của mình trên cơ sở nhận thức quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội – 2. Quyền được sống và hoạt động xã hội theo ý nguyện của mình, không bị cấm đoán, ràng buộc, xâm phạm.
2. Le Petit Larousse, NXB Larousse-Bordas 1994, trang 595 định nghĩa như sau :
Liberté : Possibilité d'agir, de penser, de s'exprimer selon ses propres choix – (khả năng hành động, suy nghĩ, thể hiện theo những chọn lựa riêng của mình).
3. Từ điển English-English- Vietnamese Dictionary, NXB. VHTT năm 2001 :
Liberty : 1. The state of not being a prisoner or slave – 2. The right or power to do as one chooses – (Tự do là tình trạng không phải là tù nhân hay nô lệ – Tự do là quyền hành động như mình chọn lựa).
Nhận định
Các từ điển là những chuẩn mực đáng tin cậy, chẳng thế mà hễ vấn đề nào người ta muốn biết chính xác, lập tức người ta tra các từ điển, từ điển "trả lời" thì người ta yên tâm và có thể trưng ra làm bằng chứng ủng hộ lập trường của mình.
Vấn đề định nghĩa tự do cũng vậy, một cá nhân nào đó không thể đủ uy tín nói ngược với từ điển, chúng ta phải khiêm tốn chấp nhận giới hạn của mình, thế nhưng theo những "suy nghĩ vẩn vơ" của tôi, tôi vẫn thấy các từ điển nước ngoài thiên về lý thuyết, không thực tế chút nào. Ví dụ cụ thể về việc tham gia giao thông nêu trên đã chứng minh quá rõ.
Còn Đại Từ Điển Tiếng Việt (sđd) trang 1763 mục từ "Tự do chủ nghĩa" : tt. "chỉ muốn làm theo ý riêng, không chịu sự ràng buộc vào nguyên tắc tổ chức, dẫn đến vô tổ chức, vô kỷ luật. Ví dụ một hành động tự do chủ nghĩa". Câu định nghĩa này cũng như câu định nghĩa tự do, có tính thực tế hơn : "… hành động theo ý muốn của mình trên cơ sở nhận thức quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội". Có nghĩa là không phải hành động bừa bãi theo ý muốn riêng của mình mà phải hành động "theo quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội". Ở đây chúng ta thấy xuất hiện những quy luật của chân, thiện, mỹ chi phối tự do, không cho phép nó hành động bừa bãi hại cho thiên nhiên, hại cho tha nhân và hại cho xã hội. Có một cái gì như nghịch lý "đã tự do rồi lại còn phải theo quy luật", nhưng những người có lương tri đều phải chấp nhận. Vì nếu không chấp nhận thì sẽ dẫn tới những điều phi lý và tồi tệ, như định nghĩa của "tự do chủ nghĩa" đã nêu ra.
III. TÌM HIỂU
1. Nguồn gốc của tự do
Bản Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ 1787 cũng như bản Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 2/9/1945, đều khẳng định
"Tất cả mọi người sinh ra bình đẳng, Tạo Hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được trong những quyền sống, quyền Tự Do và quyền mưu cầu hạnh phúc" (sống trong yêu thương, công lý và bình an), như vậy rõ ràng Tự do là một món quà vô giá, món quà công bằng (không ai hơn ai) mà Đấng Tạo Hóa ban tặng mọi người sinh ra trên trái đất này.
Cần lưu ý mấy điểm :
a). Tự do từ trên ban xuống, cụ thể hơn do Đấng Tạo Hóa cao cả quyền năng tuyệt đối vô song, Đấng ở ngoài và ở trên vũ trụ này đã tạo thành trời đất muôn vật, tiếng bình dân vẫn gọi là Ông Trời, chính Đấng ấy và chỉ có Đấng ấy mới có thể ban quyền tự do cho mọi người sinh ra trên trái đất này, từ người đầu tiên khi sáng tạo cho tới người cuối cùng trong ngày tận thế. Ngài phải là Đấng Tạo Hóa, nghĩa là có ngôi vị, và ngôi vị ấy phải là Đấng tự do tuyệt đối, nếu chỉ có tự do tương đối thì không thể ban cho mọi người, mọi thời được, vì ngạn ngữ La- tinh có câu : "Nemo dat quod non habet", nghĩa là "Không ai có thể cho người khác cái mình không có".
Nếu Ngài chỉ có một lượng tự do giới hạn thôi thì không thể ban rộng rãi cho mọi người, mọi thời được. Nếu chỉ là một thọ tạo như mặt trời mà nhiều dân tộc tôn thờ thì không thể có tự do là ưu phẩm của loài người và thần thánh để mà ban phát được, những lực lượng vô ngã như vũ trụ, thiên nhiên không thể có cái gì linh thiêng mà ban cả. Không ai sống từ trước thời sáng tạo, cho đến tận thế và sau tận thế nữa để mà phân phát tự do cho mọi người sinh ra trên trái đất này. Không ai đi được khắp trời đất, có mặt ở mọi nơi để mà ban tặng tự do cho mọi người từ khi tượng hình trong lòng mẹ. Vậy thì chỉ có Đấng Tạo Hóa quyền năng tuyệt đối, tự do tuyệt đối, là Chân-Thiện-Mỹ tuyệt đối, tồn tại muôn đời muôn thuở, đứng trên, đứng ngoài thời gian và không gian mới đủ quyền năng thực hiện việc ban tự do cho mọi người mọi thời.
b). Các loài sinh vật khác không phải là người hoặc thần thánh đều không được ban tặng tự do, nên cũng không bị truy cứu trách nhiệm.
Chương trình tivi SCTV12 tối 30/1/2010 chiếu những hình ảnh đặc biệt về công viên quốc gia Mỹ Giô-sê-mit tại Nêvađa. Đây là cả một cánh rừng rộng lớn còn hoang sơ, nơi có tới hơn 500 con gấu hoang dã sinh sống và được bảo vệ. Xe phải dừng khi thấy gấu qua đường. Đây là một nơi cắm trại lý tưởng, rất nhiều người tới sinh hoạt, nhất là những ngày cuối tuần. Một bãi đậu xe mênh mông hàng trăm chiếc đậu san sát bên nhau. Ban đêm, đàn gấu ra lùng sục đồ ăn, chúng đập bể kính xe, cạy cốp, bẻ gãy cửa để lấy trộm đồ ăn, thức uống. Hai "tướng" phá nhất đã được đeo tên có số là hai con gấu to Cody và Rosalia, rất nhiều xe đã bị phá phách như vậy. Năm 2008 có tới hơn 800 xe bị phá, tổng thiệt hại cả tỷ dollars. Phóng viên đã bình luận : "Đây là những kẻ trộm, những kẻ phá phách mà không phải trả giá".
Báo Phụ Nữ ngày 02/03/2010 đăng bài của Bá Mai : Vụ chó cắn chết người – Bà Phạm Thị Ngắn lén vào trang trại của ông Phạm Ngọc Thành mót cà phê bị 4 con chó bẹc-giê cắn chết, lôi xác đi 14m, cách nay mấy tuần được công an T/p Ban Ma Thuột xác định : anh Nguyễn Đình Sơn, người làm thuê trông chó không có mặt tại hiện trường nên không chịu trách nhiệm. Tất nhiên thủ phạm là chó thì không chịu trách nhiệm hình sự. Cơ quan công an đã thông báo đình chỉ điều tra và không khởi tố hình sự vụ án.
c). Một khi đã ban tặng tự do, chính Đấng Tạo Hóa cũng tuyệt đối tôn trọng quyền đó, kể cả trường hợp người ta lạm dụng tự do để xúc phạm đến Ngài, thậm chí từ bỏ, đối nghịch với Ngài … nhưng sẽ có ngày họ bị truy cứu trách nhiệm một cách công bằng. Đây là vấn đề "có vay có trả" mà.
d). Đấng Tạo Hóa cũng muốn và đòi buộc mọi người phải tôn trọng quyền tự do của nhau, không ai có quyền đặt ách thống trị trên người khác, "tất cả mọi người sinh ra bình đẳng". Đó cũng là quyền bình đẳng của mọi nước. Không một dân tộc nào ỷ thế mạnh hơn, đông hơn bắt một dân tộc khác làm nô lệ cho mình.
e). Món quà tự do mà loài người và thần thánh được ban tặng là món quà có mục đích rõ ràng, không phải được ban rồi thì muốn làm gì cũng được, hoàn toàn không có một trách nhiệm nào.
Cha mẹ cho con tiền mỗi ngày, mỗi tháng là để con ăn sáng, gửi xe, đóng học phí … đứa con sử dụng sai mục đích, nhất là sử dụng vào những điều xấu xa, có hại thì đương nhiên có lỗi với cha mẹ và có lỗi thì phải chịu phạt.
Câu chuyện về những yến bạc trong Kinh Thánh Tân Ước giúp ta hiểu phần nào về quyền lợi và trách nhiệm : "Quả thế, cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ. Sau một thời gian lâu dài, ông chủ đến tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ. Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói : "Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây". Ông chủ nói với người ấy : "Khá lắm ! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !" Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói : "Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây". Ông chủ nói với người ấy : "Khá lắm ! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !" Rồi người đã lãnh một yến cũng tiến lại gần và nói : "Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy !" Ông chủ đáp : "Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác ! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người
đã có mười yến. Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng" (Mt 25,14-30).
2. Bản chất của tự do
Tự do có tính thiêng liêng, thuộc lãnh vực tinh thần như trí khôn, tình cảm, ý chí, … là một thành phần của con người nhưng không cụ thể như trái tim, lá phổi, lá gan, … mà người ta có thể quan sát, mổ xẻ, cân, đo, …
Nếu con người được định nghĩa là một sinh vật có hồn và xác, thì tự do thuộc lãnh vực linh hồn. Xác thì lù lù ra đó, nhưng linh hồn chẳng ai thấy cả, ngay chính bản thân mỗi người cũng không cảm nhận được linh hồn mình ở đâu và như thế nào (một số người cho tới nay vẫn không tin mình có linh hồn).
Chúng ta chỉ có thể nhận ra linh hồn qua hai tài năng cụ thể của nó là lý trí và ý chí, tức là trí khôn và lòng muốn (câu chuyện dân gian "trí khôn tao để ở nhà" làm chứng điều đó).
Trong bản tuyên ngôn độc lập nói ở trên (trang 23) có lời khẳng định : "Tạo Hóa ban tự do, bình đẳng", cũng có nghĩa là Tạo Hóa đã ban linh hồn kết hợp với thân xác làm thành ngôi vị con người hay nhân vị, là cái gốc phát sinh lý trí, ý chí, tự do, tình cảm, … Tự do không bao giờ được ban lẻ loi một mình, nhưng luôn luôn trong tổng thể các tài năng liên kết của một ngôi vị, nơi loài người là nhân vị hay là "cái tôi". Tôi, anh, chị, nó hoặc chúng tôi, các anh các chị, chúng nó ước muốn, chọn lựa (tự do) và hành động theo sự lựa chọn đó.
a). Những yếu tố hay những thế lực trực tiếp chi phối tự do.
Các nhà khoa học tâm lý, siêu hình cho thấy có hai yếu tố chính là lý trí và ý chí và một yếu tố phụ là Đức Khôn ngoan chi phối tự do. Một chọn lựa mà không có lý trí can thiệp thì không có tự do. Ví dụ trẻ thơ trí khôn chưa hoàn chỉnh, những chọn lựa của chúng qua hành động chưa có tính tự do, mà mang nặng tính bản năng – Trẻ thơ "tè, ỵ" bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu và nếu không có người lớn chăm sóc thì các hắn có thể vô tư bốc bỏ vào mồm ! Những người điên loạn, nói năng, hành động lung tung nhưng không có tự do.
Một hành động có suy nghĩ, hiểu biết nhưng bị ép buộc thể lý hay tinh thần thì cũng không có tự do. Ví dụ trói một người lại rồi khiêng đi hoặc hăm dọa giết người ta để bắt người ta nộp tiền … Một hành động có hiểu biết (lý trí), có ý muốn (ý chí) là một hành động tự do nhưng chưa hoàn hảo nếu thiếu đức khôn ngoan (cũng là một tài năng của linh hồn). Ví dụ : một người có việc cần tới chợ Bến Thành :
- Lý trí xét xem đường nào gần nhất, dễ đi nhất, phương tiện nào tốt nhất, tiện lợi và tiết kiệm nhất …
- Ý chí quyết định đi, lấy xe ra.
- Đức khôn ngoan mách cách đi khôn khéo tránh tai nạn, đồng thời dự phòng bất trắc như : mang dư tiền theo lỡ hết xăng, hoặc cán đinh cần vá, hoặc phải bơm, phải gởi xe … lỡ có va quẹt thì đức khôn ngoan hướng dẫn cách hòa giải, không gây mâu thuẫn, dù bên kia có lỗi …
Tới đây chúng ta mới thấy rõ ràng ngay bản thân tự do cũng chẳng "tự do" tý nào cả, mà luôn lệ thuộc lý trí, ý chí và đức khôn ngoan. Càng lệ thuộc, gắn bó với lý trí, ý chí và đức khôn ngoan người ta càng tự do
– và ngược lại.
b). Các hành vi của con người.
Các khoa tâm lý và đạo đức học phân chia các sinh hoạt hay hành vi của con người thành 2 loại : hành vi nhân sinh và hành vi nhân linh. Hành vi nào có lý trí và ý chí can thiệp (tức là có tự do), là hành vi nhân linh – Ví dụ tôi đi học, tôi làm bài tập, tôi chơi thể thao, … Hành vi nào không có lý trí và ý chí can thiệp, đó là là hành vi nhân sinh – Ví dụ tim tôi đập, dạ dày tôi co bóp, phổi tôi nạp và nhả không khí, … Trong khoa luân lý học, một hành vi của người trưởng thành có thể sinh những hiệu quả sau đây :
A. Hành vi tiêu cực (điều xấu) :
- Có luật cấm nặng - đã hiểu biết - cố tình làm = tội nặng.
- Có luật cấm nhẹ - đã hiểu biết - cố tình làm = tội nhẹ.
- Có luật cấm - không biết gì.
- Cố tình làm = vô tội.
- Có luật cấm - có hiểu biết - không cố tình làm = vô tội.
- Có luật cấm - không hiểu biết - không cố tình ® vô tội.
Lưu ý : mức độ nặng nhẹ có thể gia giảm tùy mức độ hiểu biết và cố tình.
B. Hành vi tích cực (điều tốt)
- Có luật dạy làm – có hiểu biết – tự nguyện làm = có công trạng.
- Có luật dạy làm – không hiểu biết – tự nguyện làm = không có công trạng.
- Có luật dạy làm – có hiểu biết – không tự nguyện = không có công trạng.
- Không có luật dạy – có hiểu biết – tự nguyện làm – công trạng lớn hơn.
Lưu ý : công trạng có thể gia giảm tùy mức độ hiểu biết và tự nguyện.
Ví dụ : một nhà thám hiểm ở trong rừng di chuyển trên thảm lá khô, chẳng may tụt xuống hố sâu (do cành lá che phủ, không thấy) thiệt mạng. Người này vô tội – nhưng nếu anh thấy hố sâu chết người mà cứ cố ý nhảy xuống để tự tử, anh có tội tự sát.
Một ví dụ khác : một người dân thường không có luật buộc, hoặc trách nhiệm phải lấp ổ gà trên đường giao thông, nhưng khi thấy ổ gà, người dân hiểu là không tốt cho giao thông, họ tự nguyện đi lấp ổ gà đó để bà con qua lại được an toàn hơn – người công dân này có công trạng lớn hơn là người công nhân lục lộ, có lương, có bổn phận phải làm và anh cũng đã làm như vậy.
c). Cái khung của tự do đích thực hay những tiêu chí của
Càng phân tích, chúng ta càng nhận ra ý nghĩa thực của tự do không phải muốn làm gì thì làm, cứ tha hồ làm những gì mình muốn, mà là chọn lựa cách hành động theo những gì đã quy định. Mọi lãnh vực đều có những quy định, "Nước có quốc pháp, nhà có gia quy". Một học sinh tới trường, hành động theo nội quy của nhà trường, đó là một học sinh tự do – quậy phá sẽ bị xử phạt và bị loại trừ, cấm thi, cấm vào trường, lớp, bị đưa đi trại giáo huấn … Một người tham gia giao thông sẽ rất thoải mái, hiên ngang đi qua các chốt kiểm soát, chú cảnh sát là "bạn dân" nếu chấp hành đúng luật giao thông. Đó là người tự do trong lãnh vực giao thông … Ngược lại, nếu vi phạm điều gì đó, có gì bất hợp lệ thì sẽ coi chú cảnh sát giống "ông kẹ", lúc nào cũng nơm nớp sợ "mình được chào", không thấy thoải mái (tự do) tý nào cả. Người công dân bất cứ nước nào, chấp hành luật pháp quốc gia, họ là người tự do, trái lại, vi phạm điều này điều kia, họ có thể bị ở tù, hết tự do.
Có hàng ngàn, hàng vạn quy định, luật lệ trong mọi lãnh vực con người sống và sinh hoạt, nhưng có thể tóm gọn vào một khung tam giác, gọi là khuôn vàng thước ngọc : CHÂN– THIỆN – MỸ, đây là 3 tiêu chí hay 3 quy luật tổng quát ngàn đời. Bất kỳ ý tưởng, lời nói, việc làm nào nằm trong tam giác trên đều có tự do đích thực, trái lại chỉ cần trật ra ngoài một góc thôi, sẽ chỉ có tự do giả hiệu hay một hình thức nô lệ nào đó. Ba ví dụ nêu trên đều thiếu tính thiện và mỹ, có vẻ như họ hành động tự do, không thèm chấp hành các quy định, nhưng thực chất họ là nô lệ cho thói xấu ngông cuồng, cẩu thả. Anh say rượu cũng tuyên bố mình hành động tự do, nhưng có biết đâu anh là nô lệ những chai rượu và các chủ quán. Anh xì ke cũng tuyên bố mình tự do, nhưng thực sự là nô lệ của "bạo chúa Herôin", việc làm của anh thiếu cả chân, thiện, mỹ, anh đi mua bán xì ke lén lút thì đâu có chân chính ! Anh đem cái hại, cái khổ cho bản thân, gia đình và xã hội, thì đâu có thiện ! Thể xác anh thân tàn ma dại, tinh thần anh mất phẩm giá, còn gì là cao đẹp cho anh ! Hai điển hình "tự do" tại hai trong những nước được mệnh danh là tự do nhất thế giới :
§ Người đàn ông thích "mát mẻ" : Dù vào tù ra khám liên tục, ông Stephen Gough, cựu thành viên Hải quân hoàng gia Anh, vẫn không thể từ bỏ sở thích trần truồng nơi công cộng. Ông "nổi tiếng" sau cuộc đi bộ khỏa thân từ Anh đến Scotland năm 2003. Ông bị bắt tổng cộng 15 lần, trải qua 140 ngày đêm trong tù, nhưng 3 năm sau đó ông lại tiếp tục cuộc du hành khỏa thân với bạn gái Melamine Roberts. Gough bị cảnh cáo là sẽ bị bắt liên tục nếu bước ra khỏi nhà tù mà không có một "mảnh vải" (C.Nhung - Báo Thanh Niên, 18/12/2009).
§ "Khoe hàng" không đúng chỗ: Sau khi nhậu say bí tỉ, một thiếu nữ hứng chí chạy ra đường và vén áo lên để khoe đôi bồng đảo của mình, kết cục cô nàng bị một bác tài xe tải đâm sầm vào vì mải lo ngắm bộ ngực của cô. Theo CBS News, chiếc xe tải lao đến húc Cherelle Dudfield (18 tuổi) văng lên nắp ca-pô ngay sau khi cô kéo áo lên và chạy ra giữa 2 làn đường đứng khoe ngực được vài phút. Cú va chạm khiến cô Dudfield bị thương vài chỗ phải vào bệnh viện chữa trị. Trò nghịch dại của thiếu nữ này không chỉ khiến cô bị bầm dập khắp người, mà còn phải đóng phạt 200USD vì tội gây rối trật tự. Chuyện xảy ra tại thành phố Invercargill (New Zealand) (C.Nhung - Báo TN, 21/12/2009). Nhiều người chủ quan cho rằng cứ thoải mái làm những gì mình thích, để được thỏa mãn những đòi hỏi của cuộc sống là tự do, nhưng có biết đâu chính lúc đó mình lại là nô lệ "hạng nặng" nữa. Trong sách Thánh Kinh Tân Ước, Tin Mừng theo thánh Gioan (đoạn 8, câu 31-37) có thuật lại cuộc đối đáp giữa Chúa Giêsu và người Do Thái như sau : Vậy, Đức Giêsu nói với những người Do Thái đã tin Người : "Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi ; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông". Họ đáp : "Chúng tôi là dòng dõi ông Ápraham. Chúng tôi không hề làm nô lệ cho ai bao giờ. Làm sao ông lại nói : các ông sẽ được tự do ?" Đức Giêsu trả lời : "Thật, tôi bảo thật các ông : hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, người con mới được ở luôn mãi. Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do".
(Sự giải phóng của Đức Giêsu trước hết là làm cho người ta được rửa sạch mọi tội lỗi và mọi tính mê nết xấu, đây chính là ách của ma quỷ, sau đó kết hiệp họ với Đấng Tạo Hóa, là Chân-Thiện-Mỹ tuyệt đối, để họ có tự do thực sự).
IV. TÓM TẮT
Nói lan man về tự do tới đây, chúng ta có thể gút kết lại trong mấy điểm sau :
1. Tự do là một món quà vô cùng quý giá mà Đấng Tạo Hóa đã ban tặng cho mọi người, mọi thời, ai cũng như ai. Mọi người phải tôn trọng tự do của nhau, không ai được cướp của ai.
2. Tự do cũng như tất cả những gì Đấng Tạo Hóa ban đều có mục đích nhằm ích lợi, sự tốt đẹp cho loài người. Mục đích đó cũng là điều kiện, là nghĩa vụ con người cần phải hoàn thành, tương tự như chủ trương "khoán sản phẩm" ngày xưa : lãnh ruộng đất canh tác để sống và nộp phần khoán.
3. Chỉ có loài người và thần thánh mới được phú cho tự do.
4. Tự do không phá vỡ luật lệ, nhưng giúp cho luật lệ phát huy và đạt tới mục đích tối hậu là Chân-Thiện-Mỹ, đem lại lợi ích đích thực cho con người và muôn loài muôn vật.
5. Những luật lệ ban hành trái với Chân-Thiện-Mỹ, thì người hay tập thể ban hành phải chịu trách nhiệm về ảnh hưởng xấu rộng rãi, lâu dài của những luật lệ đó. Ví dụ : luật về hôn nhân đồng tính, an tử, hợp pháp hóa mãi dâm, …
6. Tự do là một đề tài "nói dễ, hiểu khó, thực hành càng khó hơn". Kinh nghiệm cho thấy ai cũng thích tự do, ủng hộ tự do, đấu tranh cho tự do, nhưng chính mình lại "cứ thích" làm nô lệ – kẻ thì nô lệ tiền tài, danh vọng, quyền uy, bạo lực, … người thì nô lệ điếu thuốc, chai rượu, bộ bài, tình dục (tứ đổ tường), … Như vậy thì ngoài những vị thần thánh cao cả ra, chẳng có ai tự do thực sự cả, tuy nhiên chúng ta luôn được mời gọi phấn đấu mỗi ngày để sống thanh thoát hơn, bớt nô lệ những thói hư tật xấu hơn.
7. Tự nguyện làm nô lệ cho Chân-Thiện-Mỹ, chúng ta sẽ thoát các xiềng xích nô lệ khác, và sẽ cảm nhận được tự do đích thực.
Đó chính là nghịch lý của tự do
V. NHẬN ĐỊNH
Những tiêu chí Chân-Thiện- Mỹ chỉ có giá trị tương đối ở đời này, cho nên tự do dựa vào đó cũng chỉ là tự do tương đối mà thôi. Tục ngữ La-tinh có câu : "Bên này dãy Py-rê-nê là sự thật, bên kia dãy Py-rê-nê là sự sai". Sở dĩ có tình trạng này là do cái giới hạn của muôn loài thọ tạo và sự biến chuyển của xã hội và của trời đất. - Về chân lý, trước thời Galilêô, mặt trời xoay quanh trái đất là chân lý ; sau thời Galilêô, trái đất xoay quanh mặt trời mới là sự thật. Chúng ta nói : mặt trời mọc, mặt trời lặn, hoa cười, biển hát, … về văn chương thì quá đúng, nhưng về khoa học thì quá sai ! Buổi tối ngắm trăng, chúng ta bảo : "Vầng trăng trên đầu chúng ta". Cũng lúc ấy có phi hành gia nào trên cung trăng nhìn về trái đất thì bảo : "Trái đất trên đầu chúng tôi".
- Về sự thiện, xưa quan niệm đông con nhiều cháu là thiện hảo : "Đa tử, đa tôn, đa phú quý" ; ngày nay 2 đứa con, bố mẹ đã la làng rồi ! Bây giờ mà các cụ già hiên ngang kể về thành tích 12, 14 đứa con thì các vợ chồng trẻ cũng như cả xã hội "hồn bay phách lạc".
- Một người qua đời là tin buồn cho tang quyến, thân hữu, nhưng có khi là tin không buồn cho trại hòm !
- Ngày xưa trong xã hội Nho giáo, câu chuyện "Quách Cự vì mẹ chôn con" trong Nhị Thập Tứ Hiếu được coi là lời của Thánh hiền, người ta dạy nhau từ đời này sang đời kia, ca tụng đó là hiếu thảo ; ngày nay chuyện này là vô nhân đạo, là phạm pháp và bố mẹ phải đi ở tù.
- Về cái đẹp cũng vậy, ngày xưa vẽ thiếu nữ phải "có xương có thịt" như bà Mona Liza thì mới đẹp ; ngày nay "mỏng và siêu mỏng" nữa kìa.
Mỗi trường phái quan niệm một cái đẹp khác nhau, phái tả chân thì phải giống y như mẫu mới đẹp ; phái chủ trương lập thể thì phải phá cách, lệch chuẩn như tranh Picassô mới đẹp. Câu chuyện về cái đẹp ở thế gian này cứ như bài thơ "Chồng thương chồng bảo" : Cô nàng "đêm nằm thì ngáy o o, chồng thương chồng bảo ngáy cho vui nhà".
Vậy thì liệu có Chân-Thiên- Mỹ tuyệt đối, là điều mà mọi người, mọi nơi, mọi thời đều hoan hỷ tung hô, ca tụng là đúng, là tốt, là đẹp viên mãn, tròn đầy không thể thêm hay bớt được tý nào không ?
Thưa có, chắc chắn là có và chỉ có nơi một Đấng Tạo Hóa, Ngài đã có Tự Do tuyệt đối để ban cho mọi người, mọi thời (đã nói ở trên), mà Tự Do tuyệt đối nằm trong khung Chân- Thiện-Mỹ tuyệt đối, nên Ngài phải có Chân-Thiện-Mỹ tuyệt đối, và hơn nữa, chính Ngài là Chân-Thiện-Mỹ tuyệt đối.
Chúa Giêsu với tư cách là Thiên Chúa, đã tuyên bố : "Tôi là con đường, là sự thật và là sự sống" (Ga 14,6).
Chúng ta có bổn phận phải tìm Đấng ấy mà tôn thờ, để qua đời tạm bợ này được chia sẻ Chân-Thiện-Mỹ tuyệt đối với Ngài.
Đối với tôi, Đấng ấy là Ông Trời, Thượng Đế hay Thiên Chúa. Còn đối với bạn, Đấng ấy là ai thì tùy bạn, nhưng xin bạn nhớ rằng : Đấng ấy sẽ tôn trọng tuyệt đối sự lựa chọn của bạn, lúc bạn nhắm mắt lìa đời, dù đó là lựa chọn nhất định không nhận Đấng Chân-Thiện- Mỹ tuyệt đối, có nghĩa là không thèm hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đây là tự do chọn lựa tối hậu, đời đời không bao giờ thay đổi được nữa.
***
Lời Tâm Niệm:
- Lạy Đấng thiêng liêng tối cao,
- Lạy Đấng Tạo Hóa,
- Lạy Đấng Tuyệt Đối,
- Lạy Thượng Đế,
- Lạy Ông Trời,
Chúng con đây là những thụ tạo đứng trên muôn vật trong vũ trụ. Chúng con đã được Ngài tạo dựng nên giống hình ảnh của Ngài là Thiên Chúa, vì chúng con có trí nhớ, có trí tuệ, có ý muốn, có tự do.
Chúng con luôn thao thức trước những vấn đề :
1. Bởi đâu có vũ trụ này ?
2. Bởi đâu có bản thân chúng con ?
3. Đâu là mục đích của cuộc đời ?
4. Chết rồi sẽ đi về đâu ?
5. Làm điều thiện, ai sẽ thưởng công cho ?
6. Làm điều ác, ai sẽ phạt tội ?
7. Ai sẽ thỏa mãn khát vọng hạnh phúc tuyệt đối của chúng con ?
Chúng con muốn đi tìm chân lý, tìm ý nghĩa đích thực cho cuộc đời. Xin Ngài soi trí mở lòng cho chúng con, để chúng con được tìm thấy Ngài, và được niềm vui gọi Ngài là Cha, như hơn 2 tỷ Kitô hữu trên thế giới – Amen.
(Tiến sĩ Phan Như Ngọc, Email : pnngoc@gmx.net – Trích Bài giảng Chúa nhật - TGM, số 4/2007, trang 74)
Tân Bình, ngày 10/03/2010
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT
Về đầu trang
---------------------------------
LỜI ĐẦU
Loài người được Tạo Hóa tác thành hơn và khác loài vật ở chỗ có lý trí và tự do.
"Tự do là khả năng biểu lộ ý chí, hành động theo ý muốn của mình" (Đại Tự điển tiếng Việt – Hà Nội 1999, trang 1762), đây là quyền căn bản của mỗi người. Có tự do thì cũng có trách nhiệm, nghĩa là có thưởng và phạt tùy theo lựa chọn đúng hay sai.
Người viết tập này chỉ muốn trình bày sự thật mà mình đã cảm nghiệm, còn quý độc giả đồng tình hay không, hoặc đồng tình một phần nào thì hoàn toàn thuộc quyền tự do của quý vị.
THẾ GIỚI THẦN LINH
I. LỜI DẪN
Người phàm mà nói chuyện về Thần Linh thì quả là to gan, phạm thượng. Con người quá bé bỏng trong cái vũ trụ bao la này, lại sinh sau đẻ muộn so với muôn loài muôn vật khác. Nói theo kiểu thời nay : "cái thứ ăn chưa xong, lo chưa tới" mà làm nên vương tướng gì. Thế nhưng nhà văn, nhà khoa học, nhà tư tưởng Pháp, Pascal (1623-1662) đã định nghĩa : "Con người là cây sậy biết suy nghĩ". Còn Kinh Thánh thì nói "Con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa". Sau khi tạo dựng, Chúa phán với con người "Hãy thống trị mặt đất, hãy làm bá chủ cá biển, chim trời và mọi giống vật bò trên mặt đất" (sách Sáng Thế 1,27-28).
Trong câu chuyện dân gian "Trí Khôn Ngươi Đâu ?", con hổ nói với con trâu : "Tại sao mày to xác như thế lại chịu để cho thằng người oắt con nó đánh mày, nó bắt mày kéo cày cực khổ ?". Con trâu trả lời : "Thưa anh, nó bé nhưng mà nó có trí khôn". Đúng là "bé bé hạt tiêu" vì có trí khôn, tức là được chia sẻ trí tuệ của Thiên Chúa, đồng nghĩa với kiểu nói "giống hình ảnh Thiên Chúa", nên con người có khả năng tiếp cận thế giới Thần Linh thông qua các hình thức tôn giáo hay đạo, cũng có nghĩa là con đường. Tôn giáo chân thật thì dẫn tới Thần Linh có thực, tôn giáo thiếu chân lý (tức là những hình thức mê tín dị đoan) thì dẫn đến Thần Linh ảo (do con người tưởng tượng ra chứ không có thật, như thế là quá nguy hiểm vì phó mạng sống mình cho những điều không có thật).
Ở thế giới vật chất này, chỉ con người mới có trí khôn nên cũng chỉ con người mới có tôn giáo (thế giới loài vật không thể có tôn giáo. Có voi, khỉ đầu đàn, có ong chúa, kiến chúa … nhưng đây chỉ là hình thức bầy đàn thuộc bản năng sinh tồn, chứ không phải tôn giáo tâm linh. Không bao giờ thấy các ong thợ bái lạy, dâng hương, dâng hoa cho ong chúa, hay những con voi, con khỉ … dâng đồ ăn, thức uống cho con đầu đàn, lại càng không bao giờ thấy con vật nào cúng bái những con đã chết …).
II. TÔN GIÁO CÓ CẦN THIẾT KHÔNG ?
Tôn giáo là điều thiết thân với con người. Tiến sỹ Lâm Ngữ Đường, nguyên Giám đốc Chương trình Văn hóa và Nghệ thuật của tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hóa Thế giới (UNESCO), trong một tập tự sự (do Hội Thánh Tin Lành phổ biến) đã phát biểu : "Câu hỏi quan trọng nhất trong đời sống là : Con người có thể sống mà không cần đến tôn giáo không? (sau hơn 30 năm tìm hiểu). Bây giờ thì tôi tin rằng nếu không có tôn giáo, con người không thể sống còn" (Sách "Lời chứng của tiến sỹ Lâm Ngữ Đường", trang 7).
Lời ca của một bài hát trong dĩa CD và VCD có tên là "Đôi Khi" của tác giả Thông Vi Vu : bài "Một mình không thể", làm mọi người phải suy nghĩ : "PK : Con chỉ là giọt nước giữa lòng biển cả mênh mông, một mình con không thể tưới mát cho ruộng đồng. Con chỉ là dấu trăng, nhẹ dìu câu hát ngân nga, một mình con không thể dệt nên bài tình ca.
ĐK : Một mình con không thể sống đơn độc hôm nay giữa dòng người giả dối, giữa cuộc sống quằn quại. Một mình con không thể sống cô quạnh bơ vơ, không một người nâng đỡ, không một Đấng chở che".
Thực tế trong xã hội loài người trải qua mọi thời, đã xuất hiện nhiều tôn giáo, và tôn giáo nào cũng có ít nhiều người theo, nhưng bên cạnh những người chấp nhận một niềm tin tôn giáo thì cũng có những người tự nhận là không tôn giáo từ trong lý lịch ra tới cuộc sống xã hội : không tin thần thánh, không tới Nhà thờ, Đền, Chùa, Miếu mạo, không cúng lễ, cầu kinh, … Thế nhưng có thực sự không tôn giáo không ? hay vẫn chấp nhận một thứ tôn giáo thay hình đổi dạng nào đó. Thí dụ tin theo một lý thuyết xã hội, tôn sùng một vị sáng tạo ra lý thuyết đó hay những vị có một chút thành công ở một phương diện nào đó, nhờ áp dụng lý thuyết trên. Thí dụ như cụ Darwin, cha đẻ của Thuyết Tiến Hóa, được một số người trên thế giới ái mộ tôn sùng chẳng khác gì một thần minh giáo chủ. Họ tạc tượng, vẽ chân dung để tôn kính ở nơi này nơi kia, lấy tên cụ đặt cho miền này xứ nọ, cũng đặt vòng hoa, dâng hương, xá lạy nơi mộ phần hoặc trước ảnh tượng cụ … Sách của cụ được coi như "Thánh Kinh".
Có những người khác hoàn toàn dị ứng với những gì là tâm linh, thần thánh, nhưng trong đời sống vẫn dựa dẫm vào một nhân vật quyền lực nào đó đã ban cho mình một địa vị xã hội, mà nhờ đó có cơm dư gạo thừa, đương nhiên là họ quý mến và muốn thể hiện lòng biết ơn qua những tượng ảnh, lễ nghi, đền, đài, … có những cặp hôn nhân xin được chúc phúc, trước tượng đài hay linh vị, người khác thì tới báo cáo thành tích hoặc khẩn cầu sự may mắn khi bắt đầu việc lớn … lời dạy của những vị này chẳng khác như các "điều răn, thánh chỉ" … Ai muốn thấy tận mắt, xin mời tới Lăng Ông bên chợ Bà Chiểu sẽ rõ, nhất là vào dịp Lễ, Tết. Đây không phải là hình thức tôn giáo hay sao ?
III. TIN AI ? THEO AI ?
Việc chọn lựa tin ai, thờ ai, theo ai, theo tôn giáo hay lý thuyết nào là quyền tự do của mỗi người, mọi người phải tôn trọng quyền tín ngưỡng hay không tín ngưỡng như trong Hiến pháp quy định, miễn là các tín ngưỡng hay không tín ngưỡng đó không trái với Chân Thiện Mỹ tuyệt đối. Cần ghi chú một điều là từ xưa tới nay, thỉnh thoảng lại xuất hiện một tôn giáo hay giáo phái có những chủ trương "kỳ quái", thế mà vẫn có người tin theo. Khoảng thập niên 90 của thế kỷ 20, một vài tôn giáo "nguy hiểm" phát sinh khiến cả thế giới lo ngại, đó là giáo phái "Chân lý tối thượng" do giáo chủ Aum ở Nhật khởi xướng, tín đồ lên tới trên 4.000, phát triển sang cả Liên Xô nữa. Chẳng biết giáo điều của giáo phái này như thế nào mà một bộ phận tín đồ nhiệt thành lại có những cơ sở sản xuất chất độc Sarin, rồi đem rải xuống đường tầu điện ngầm ở Tôkyô khiến hàng chục người chết và hàng ngàn người phải vào bệnh viện cấp cứu. Nghe nói giáo chủ Aum và một số tín đồ chủ chốt đã bị chính quyền Nhật bắt giữ và xử tử hình. Đó là chuyện ở đất Phù Tang, còn ở Hiệp Chủng Quốc cũng khoảng thời gian đó, có giáo phái "Cổng Trời" cũng quy tụ tín đồ đa số là thanh niên thiếu nữ tuổi sinh viên. Giáo điều của họ như thế nào không biết, chỉ biết có một buổi tập trung lễ bái gì không rõ, sau đó cả giáo chủ lẫn 63 tín đồ tự tử tập thể trong một tư thế rất tự nhiên : áo quần lịch sự, mỗi người nằm trên giường nệm phủ khăn trắng trong tư thế nghiêm túc, cùng uống thuốc độc chết, điều đặc biệt là trước khi chết còn quay video tất cả thành viên, mỗi người nói lời chào từ biệt bạn bè, thân nhân … Khi lực lượng cảnh sát phá được cửa trang trại Ai-kô, đưa được một số phụ nữ và trẻ con ra thì những thành viên kia đã chết, không cứu được ai !
Trước đó gần một thập niên, báo chí cũng đưa tin một giáo phái ở Âu châu quy tụ hơn 900 tín đồ đủ thành phần nam nữ, già trẻ, lớn bé vào một cánh rừng rồi cũng tự tử tập thể, hầu như không ai sống sót.
Cũng khoảng thời gian này, tại miền Hóc Môn bỗng dưng xuất hiện một giáo phái do một phụ nữ đứng đầu, chẳng biết nữ giáo chủ thuyết pháp thế nào mà cũng lôi kéo được một nhóm nhỏ tín đồ, điểm đặc biệt là để gia nhập "đạo", người tín đồ phải chặt 1 ngón tay (báo chí đưa tin có cả hình ảnh những bàn tay chỉ còn 4 ngón). Trước hiện tượng kỳ quái này, nhà nước đã can thiệp, xử lý, sau đó giáo phái tan rã, không nghe nói tới nữa.
Tiền bán thế kỷ 20, cụ thể là 1939-1945, nhà độc tài Đức Hitler bị ảnh hưởng bởi tư tưởng siêu nhân, siêu dân tộc, theo ông, dân tộc Đức và chỉ dân tộc Đức phải trở thành siêu dân tộc, bá chủ cả thế giới, ông đã say sưa lao vào cuộc thế chiến thứ II bằng cách đem đội quân "dữ dằn" đi xâm chiếm nhiều nước trên thế giới, bắt đầu từ châu Âu : Pháp, Ba- lan, Tiệp-khắc, Hungary, Rumany – kéo quân sang tận Nga, ông chủ trương diệt chủng, dân tộc bị tiêu diệt nhiều nhất là Do Thái … thần dân của ông tôn sùng ông như "Chúa Tể", hình tượng của ông có khắp nơi khắp chốn, lời của ông được cung kính đón nhận và thi hành triệt để như những giáo điều … Ông đã trở thành thần minh của một thứ tôn giáo thờ lãnh tụ, lời ông là thánh chỉ, tín đồ của ông là những tên phát xít cuồng nhiệt… rất may cho thế giới là ông đã bại trận vào năm 1945 và đã tự sát cùng vợ mới cưới trong 1 căn hầm trú ẩn tại Berlin, khi hồng quân Liên Xô và đồng minh tiến vào thủ đô giải phóng nước Đức. "Thần tượng sụp đổ" theo cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen.
Chẳng nói đâu xa, ngay bên nước láng giềng Thái Lan mấy ngày vừa qua (từ 15/3/2010), phe Áo Đỏ UDD đã kéo về thủ đô Bankok để biểu tình, lật đổ chính phủ để ủng hộ cựu thủ tướng Thaksin. Nghe các thủ lĩnh Áo Đỏ nói có hàng 100.000 người biểu tình, họ mặc áo đỏ màu máu, vây hãm những nơi trọng yếu, áo mặc in hình ông Thaksin, biểu ngữ ủng hộ ông Thaksin, hình ông Thaksin được giơ cao rợp trời. Các phương tiện thông tin còn cho biết "chiêu độc" hiến máu, một triệu cc, đổ trước cổng cũng như hàng rào quanh văn phòng chính phủ, trụ sở Đảng cầm quyền và tư dinh thủ tướng mà họ đang vây hãm …
Đứng về góc cạnh hiện tượng xã hội thì đây cũng là một hình thức tôn giáo tôn thờ lãnh tụ, dân nghèo, nhất là nông dân thọ ơn ông về chương trình nâng đỡ vật chất nào đó trong thời cầm quyền, đã tôn sùng ông, đã bênh vực ông và đã hy sinh đổ máu vì ông. Máu là biểu hiện của sự sống, hy sinh đến đổ máu vì ai là hiến tế cả mạng sống cho người đó. Các tôn giáo thường có hiến tế bằng máu : cúng ông bà, làm sao thiếu được gà luộc, cúng đình, cúng thành hoàng … phải có lợn quay, đồng bào Tây Nguyên cúng Giàng làm sao thiếu được lễ nghi đâm trâu. Đối với đạo Do Thái, của lễ sát tế là cực kỳ quan trọng – chiên, bò, dê là những lễ vật sát tế hay toàn thiêu – Thầy Cả thượng phẩm lấy máu của chúng rảy trên bàn thờ, rảy trên dân chúng, rảy trên nền gian cực thánh, bôi trên các sừng cong ở 4 góc hòm bia, máu đó là máu giao ước.
Năm 1947, khi phát hiện nền móng của thành phố cổ Giêricô ở Palestin, các nhà khảo cổ tìm thấy xác của một thiếu niên ở dưới chân cổng thành, đó là tục lệ sát tế chính con trai đầu lòng của vua thành đó cúng cho thần minh trong ngày đặt móng cổng thành.
Đức Giêsu cũng đã hiến tế Thiên Chúa, không phải bằng máu chiên bò mà bằng chính máu của mình đổ ra trên thập giá, Ngài gọi là "Máu giao ước mới đổ ra để mọi người được ơn tha tội" (Mt 26,28).
Trở lại vấn đề một triệu cc máu người ta đổ ra để đấu tranh chính trị. Nghe nói nhóm UDD hăm dọa sẽ có những chiêu độc hơn để lật đổ chính phủ, ủng hộ lãnh tụ Thaksin, sự kiện này được nhận định như thế nào ? Câu trả lời dành cho người đọc qua dư luận được phản ánh trên các phương tiện truyền thông.
Tại sao con người có trí khôn mà nhiều khi lại "dại" đến thế? Dễ bị lôi kéo, dụ dỗ đến thế ? Từ ông bà nguyên tổ bị dụ ăn "trái cấm", tới con cháu vẫn chưa tỉnh ngộ. Cuộc thăm dò mới đây khiến chúng ta không khỏi ngạc nhiên: Có hay không người ngoài hành tinh ?
"Có" là suy nghĩ của 20% người được hỏi trong cuộc thăm dò toàn cầu của Reuter Ipros,
23.000 người tại 22 nước đã tham gia. Kết quả cụ thể : 40% người ở Trung Quốc và Ấn Độ
tin có người ngoài hành tinh, trong khi những người ở Bỉ, Thụy Điển và Hà Lan tỏ ra nghi ngờ khả năng này nhất. Về chuyện này nam giới còn tin hơn phụ nữ với tỷ lệ tương ứng 22% và 17% (TQ, báo TN ngày 20/4/2010).
Nói tới đây, người viết chỉ muốn xác định là trên đời này, ai cũng phải cậy dựa vào một quyền lực siêu nhiên hoặc tự nhiên nào đó mới sống được, không ai là một hòn đảo đơn độc giữa biển khơi. Không ai dám tuyên bố mình sống tự túc tự cường từ A tới Z, không cậy dựa bất cứ thế lực nào cả, chứ người viết hoàn toàn không có ý bình luận về một tôn giáo nào, chỉ nêu lên những hiện tượng có hình thức tôn giáo để cùng nhau suy gẫm mà thôi.
Cách đây 200 năm, đại văn hào Nguyễn Du biện minh : "Xưa nay trong đạo đàn bà, Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường"
Nguyên việc là đàn ông hay đàn bà đã là "Đạo" rồi, còn ca dao thì nói :"Vẹn toàn một đạo phu thê, Trăm năm mưa nắng đi về có nhau"
Từ "Đạo đàn bà" tới "Đạo phu thê" sẽ dẫn tới "Đạo Ông Bà", nên thiết tưởng không ai là "không có đạo" trăm phần trăm cả !
Theo cái nhìn của Đức Giêsu thì kẻ mê tiền tài của cải cũng được gọi là tín đổ của "đạo tiền". Ngài nói : "Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được" (sách Tin Mừng theo thánh Mátthêu đoạn 6 câu 24).
Với những tín đồ của "Đạo Tiền", thì tiền được đặt lên địa vị thần minh để họ tôn thờ. rất nhiều cửa hàng hay tư gia chẳng những ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới, luôn có bàn thờ Thần Tài, hương khói nghi ngút. Nơi cửa miệng một bộ phận giới trẻ ngày nay, người ta thường nghe câu "thần chú" sau đây :
"Tiền là Tiên, là Phật, Là sức bật tuổi trẻ,
Là sức khỏe tuổi già, Là cái đà danh vọng, Là cái lọng che thân,
Là cán cân công lý, Có tiền là hết ý"
Ca dao có câu : "Có tiền mua tiên cũng được, Không tiền mua lược chẳng xong"
Còn cụ Nguyễn Du thì ngâm : "Trong tay sẵn có đồng tiền, Thì lòng đổi trắng thay đen khó gì"
Rõ ràng tiền là vị thần minh giáo chủ có không ít tín đồ trong nhân loại. Đây lại không phải là một loại hình tôn giáo sao ?
Đứng trước những nền văn hóa đa tôn giáo của nhân loại như đã trình bày, con người với lý trí và ý chí, tự do của mình, phải chọn đường mà đi như cổ nhân đã dạy : "Lương cầm trạch mộc nhi thê, Hiền thần trạch chủ nhi sự" (Chim khôn chọn cây mà đậu, người hiền chọn chúa mà thờ).
Chọn đúng thì được nhờ, chọn sai thì phải chịu thiệt không gỡ lại được. Câu chuyện của Trần Cung trong Tam Quốc Chí gợi ý cho chúng ta : Trần Cung là một người tài, đa mưu túc trí, thấy nhà Hán suy vong, Đổng Trác lộng hành, quan lại nhiễu nhương, cũng muốn góp sức phục hưng đất nước. Được biết Tào Tháo to gan dám âm mưu giết Đổng Trác nhưng bất thành, phải tạm thời lánh nạn, Trần Cung vốn là bạn cũ nên đi theo Tào Tháo. Cả hai tới một làng quê, vào nhà Lý Tả Xa, người quen thân với Tào Tháo để xin tá túc. Lý chủ nhân đầu đã bạc phơ, rất mừng gặp lại người bạn trẻ vội sai gia nhân chuẩn bị làm cỗ thết đãi, còn chính mình thì cưỡi la sang làng bên mua rượu hảo hạng về uống cho thỏa lòng. Ở nhà, Tào Tháo và Trần Cung nghe gia nhân ở phía sau nói qua nói lại với nhau, đứa thì bảo "trói rồi hãy đâm", đứa khác lại bảo "khỏi cần trói, tao chỉ thọc 1 nhát là xong". Tào Tháo nghi nhà này có âm mưu hại mình : cắt đầu về dâng thừa tướng để lãnh thưởng, thế là Tào Tháo kéo Trần Cung ra sau đâm chém một loạt, gia nhân chết sạch, vào trong bếp thấy dao thớt và con heo nằm đó, cả hai biết mình giết lầm, thế là lập tức lên ngựa phóng đi. Tới đầu làng gặp cụ Lý mua rượu về, ngạc nhiên hỏi : "Sao hai vị không ở lại ?". Tào Tháo chỉ phía sau nói : "Có gì ở phía sau đó", cụ Lý quay lại, Tào Tháo liền lẹ tay lia một nhát kiếm rồi ù té chạy bán sống bán chết. Tối hôm ấy cả hai vào quán trọ, Trần Cung mới hỏi Tào Tháo rằng mình đã giết lầm cả nhà họ Lý, còn một cụ già tốt bụng đi mua rượu về đãi mình, sao nỡ ra tay ác quá ! Tào Tháo trả lời : "Thà ta phụ người hơn là để người phụ ta. Lão già về nhà thấy cảnh tượng ấy lại để yên, không làm ầm ỹ lên à ? Rồi dân làng tới, lính quan truy đuổi liệu chúng ta thoát được không ? Lưỡi gươm ác thật nhưng chỉ đau một phút, còn để lão về nhà thấy cảnh tàn sát như vậy, lão sẽ đau đớn suốt đời, thôi đành chịu tiếng ác vậy". Nói xong Tào Tháo lăn ra ngủ, còn Trần Cung trằn trọc suốt đêm. Ông hối hận vì đã chọn lầm, tưởng gặp được minh chủ hóa ra tên gian tặc. Thế rồi quá nửa đêm, ông lặng lẽ bỏ Tào Tháo, một mình dắt ngựa trốn đi. Trần Cung là người nhân hậu, ban đầu ông cũng có ý định giết Tào Tháo để loại trừ người ác, nhưng ông bị dằn vặt lương tâm : "Hắn giết người, hắn là kẻ gian ác, mình với hắn không thù không oán mà ra tay giết hắn thì mình cũng gian ác như hắn thôi". Chính vì thế mà ông chọn giải pháp "tam thập lục kế, đào vi thượng sách". Nhưng tiếc thay cho Trần Cung lần thứ hai đi tìm minh chủ để phụng sự và cũng để nương tựa, lại trúng ngay Lã Bố, một dũng tướng sức mạnh hơn người, quân quốc cũng lắm, cát cứ một vùng, chính Lã Bố đã diệt được kẻ lộng hành trong triều là Đổng Trác, nhưng thực chất Lã Bố hữu dõng vô mưu, say mê tửu sắc, lại cao ngạo nên không thể lo đại sự được. Khi Tào Tháo kéo quân tới vây thành Bộc Dương, tình thế nguy ngập, thế mà Lã Bố vẫn tiệc rượu với Điêu Thuyền, ngày đêm hú hí. Trần Cung bày mưu : "Bây giờ tướng quân đem một nửa binh sĩ ra đóng trại ngoài thành một dặm, phòng thủ cho vững chắc, tôi và một nửa số quân giữ thành. Nếu giặc Tào đánh trại tướng quân, tôi ra cứu ứng đánh tập hậu. Nếu Tào tấn công thành, tướng quân kéo ra hãm sau lưng nó, chỉ nửa tháng nó hết lương là cuốn cờ chạy tuốt". Mưu kế rất hay nhưng Lã Bố không nghe vì quá bịn rịn với Điêu Thuyền – thế là Tào Thào dồn toàn lực lượng công phá thành, thành vỡ tan, cả Lã Bố lẫn Trần Cung đều bị trói đem về dưới trướng Tào Tháo. Tào Tháo mến tài của Trần Cung, phục lòng cương trực của ông, đàng khác cũng nghĩ lại tình xưa nghĩa cũ nên đã cởi trói, mở lời chiêu hàng, hứa đãi ngộ xứng đáng, nhưng Trần Cung một mực chửi té tát vào mặt Tào Tháo rồi khẳng khái đi ra pháp trường chịu chém. Còn Lã Bố như con heo bị nhốt trong rọ, năn nỉ xin hàng và hứa sẽ đem hết sức lực cùng Tào bình định thiên hạ. Nhưng Tào Tháo hiểu lòng dạ phản trắc của Lã Bố (đã giết bố nuôi Đổng Trác), bèn quát quân lính đem đi chém đầu tức khắc.
Câu chuyện Trần Cung là chuyện bên Tàu, còn bên ta cũng có chuyện Nguyễn Trãi hết lòng phụng sự vua Lê Thái Tổ, được ân ban, bổng lộc một thời, đến đời vua sau thì lại lôi ông và cả 3 họ ra chém đầu (chuyên án Lệ Chi Viên). Tướng Nguyễn Văn Thành theo hầu vua Gia Long từ hồi còn trai tráng, nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử, lập bao chiến công … cũng được ban chức quyền bổng lộc một thời, lộc chưa được hưởng bao nhiêu thì ông đã phải chết cùng với con
trai mình dưới triều vua Gia Long, nguyên do chỉ là một bài thơ có tính ngông nghênh của cậu "quý tử". Cái chết "lãng nhách" như thiên hạ vẫn nói "Chết sông, chết biển không chết, mà chết ở vũng chân trâu".
Những mẩu chuyện "trạch chủ nhi sự" như vậy quả là uổng phí một đời. Trong cuộc sống ai cũng có nhiều lựa chọn quan trọng : từ chọn trường, chọn ngành, chọn nghề cho đến chọn vợ kén chồng như ca dao đã dạy : "Chim khôn đậu mái nhà quan, Trai khôn chọn vợ, gái ngoan tìm chồng"
Chọn lựa nào cũng quan trọng cả, có khi quyết định sướng khổ cả một đời, nhưng theo thiển ý của người viết, có một chọn lựa quan nhất, sâu xa nhất và ảnh hưởng nhất tới hạnh phúc hiện tại và vĩnh cửu của con người, đó là chọn một tôn giáo để theo, mà tôn giáo ấy phải dẫn người ta tới vị thần minh quyết định hạnh phúc trường cửu của con người. Chọn đúng thì "ăn cả", chọn sai thì "ngã về không", và còn tệ hơn "không" nữa vì phải chịu nỗi bất hạnh đời đời kiếp kiếp.
IV. DỰA VÀO ĐÂU ĐỂ CHỌN ?
Trên thế gian này, tự cổ chí kim, tự kim chí tận, có hàng ngàn hàng vạn tôn giáo, tín ngưỡng, biết chọn thế nào đây? Thưa, trước hết phải dựa vào trí khôn, vào lương tâm Tạo Hóa đã ban, rồi phải dựa vào thầy dạy chân lý thực thụ, những sách vở, những bằng chứng sự thật chắc chắn trăm phần trăm thì mới có thể "quyết" được. Khoa học cũng nói lên chân lý mặc dù không phải là tất cả, nhưng nhờ chân lý khoa học mà người ta loại trừ được nhiều điều mê tín, dị đoan.
Trên báo Phụ Nữ ngày 23/3/2001 có bài "Đi tìm một nửa" của Trung Đức, với lời mở đầu : "Có một nhà thơ viết : Cái na ná tình yêu có đến trăm, nghìn nhưng đích thực tình yêu duy có một", tác giả viết tiếp: "Dầu vậy có rất nhiều người đã cầm nhầm … gây ra bao nhiêu đau khổ, rắc rối".
Mặt bằng tôn giáo cũng giống như vậy. Nếu thế giới hiện tại có hàng trăm, hàng nghìn tôn giáo thì thế giới thần linh (theo trí tưởng tượng của con người) cũng có hàng trăm hàng nghìn vị như thần thoại Hy Lạp diễn tả : nào là thần Jupiter, thần Anubis, thần Apollon, thần Osiris, thần Artemis, thần Aton, thần Atropos, thần Athéna, thần Aphrodite, thần Eros, thần Erato, thần Anteros … và chắc hẳn các vị thần phải ngang tài ngang sức với nhau, chẳng ai chịu thua ai thì mới có nhiều tôn giáo, như ta thấy vì mỗi tôn giáo thờ một vị thần minh tối cao, cũng giống như mặt bằng trái đất này, hiện nay chia thành hơn 200 mảnh lớn nhỏ (vẫn thường xảy ra tranh chấp biên giới), đó là hơn 200 nước, mỗi nước có vua hay tổng thống cai trị nước mình, nếu biết nhường nhịn nhau thì yên ổn, còn không biết nhường nhịn thì có chiến tranh, đó là chuyện "hàng ngày trên huyện" ấy mà.
Nếu có nhiều Đấng Tối Cao cùng tranh nhau sáng tạo thì không thể nào có sự thống nhất hài hòa nơi mỗi loài mỗi vật. Loài người sẽ có nhiều hình dạng, kẻ thì 1 lá gan, kẻ thì nhiều lá gan như ca dao diễn tả: "Đàn ông những chín lá gan, lá ở cùng vợ, lá toan cùng người"
Cũng sẽ có loại người "ba đầu, sáu tay, mười hai con mắt, như dân thường vẫn kể để dọa con nít. Vị trí của đôi mắt cũng không thể cố định như ta vẫn thấy, mà sẽ có "độc nhỡn", "tam nhỡn", rồi có mắt ở sau gáy, mắt ở rốn, … như các họa sỹ lập thể đã vẽ, nghĩa là sẽ có một thế giới vô cùng lộn xộn.
Nhưng nếu chỉ có một Đấng Tạo Hóa duy nhất, quyền năng tuyệt đối, vượt trên mọi thần thánh, chỉ mình Ngài tạo dựng vũ trụ và điều hành theo định luật tự nhiên thống nhất … thì cũng chỉ có một tôn giáo chân thực duy nhất mà thôi, những tôn giáo nào có đạo lý hợp với tôn giáo chân thực này đều có giá trị như những con sông nhỏ gom về một chút nước đổ vào sông cái - Con sông cái này đổ ra "biển khơi hạnh phúc", dẫn người ta tìm về nguồn cội đích thực là Đấng Tạo Hóa duy nhất
Nếu những con sông nhỏ đó không hòa nhập với sông cái thì sẽ bị mất hút trong rừng sâu núi thẳm, hay thấm trong sa mạc và bị bốc hơi.
Một bài toán chỉ có một đáp số, có thể có nhiều cách giải, cách giải nào ra đúng đáp số đều có thể chấp nhận được, nhưng ưu thế tuyệt đối phải dành cho cách giải nào dễ dàng và gọn gàng nhất. Cách giải hay mấy đi nữa mà sai đáp số thì cũng "công cốc" mà thôi. Đối với các tôn giáo cũng vậy, không thể có mâu thuẫn về chân lý. Điều tối quan trọng là tìm ra tôn giáo đúng nhất, tôn thờ một Đấng Tạo Hóa duy nhất, bảo đảm hạnh phúc vĩnh hằng viên mãn cho mình trăm phần trăm.
V. CHỦ TRƯƠNG CÀO BẰNG
Có nhiều người cho rằng nhiều đạo cũng là hình thức đa văn hóa và đạo nào cũng tốt, muốn theo đạo nào thì theo.
Trước hết, nếu nói đạo nào cũng tốt thì e rằng hơi hàm hồ, vì như trên đã trình bày, có những đạo hay giáo phái chủ trương tự tử là tốt, giết người vô tội là tốt, hủy hoại thân thể (chặt ngón tay) là tốt, thì "cái tốt" đó không thể chấp nhận được, không thể đánh giá ngang bằng với cái tốt bác ái, công bình, từ bi, hỉ xả được. Còn nói muốn theo đạo nào cũng được thì cũng "ba phải", thiếu khôn ngoan. Đối với nước Việt Nam thì thủ đô Hà Nội ở phía Bắc, dân miền Nam, miền Trung muốn ra Hà Nội, bắt buộc phải đi về hướng Bắc, cứ nhắm hướng Nam, hướng Đông, hướng Tây mà đi thì bao giờ tới nơi được ? Mà nếu có đi lộn cả vòng trái đất 40.000km từ hướng Nam lên thì liệu có đủ sức, đủ tiền và có khôn ngoan không ? Nếu đạo chỉ là chuyện "chơi chơi", chẳng ảnh hưởng gì tới đời sống, có cũng được mà không cũng được, cái này cũng được mà cái kia cũng chẳng sao thì chả nói làm gì, nhưng nếu theo Đạo là đầu tư cả cuộc đời của mình : hiện tại và tương lai, hữu hạn và vĩnh cửu, thì không thể thiếu thận trọng được.
Có chủ trương khác cho rằng ông bà mình đã theo Đạo nào thì con cháu cứ thế mà theo, cải Đạo, làm khác đi là bất hiếu. Xin được thưa lại rằng nếu là "Đạo đích thực" rồi thì không thể chọn Đạo khác, nhưng nếu ông bà mình vì lý do chủ quan nào đó mà chọn lựa chưa chính xác, thì việc con cháu điều chỉnh niềm tin cho chính xác, đem lại ích lợi to lớn, thì đấy mới là hiếu thảo, ông bà cũng được nở mày nở mặt. Ví dụ ông bà ta ngày xưa không có điều kiện học hành những kỹ nghệ mới, nên phải chấp nhận làm một nghề vất vả mà lại có thu nhập thấp, không lẽ con cháu ngày nay với cơ hội làm những nghề khác nhàn hơn, lương cao hơn, ổn định hơn lại không được làm chỉ vì sợ bỏ nghề tổ thì bất hiếu, không giữ được nguyên tắc "đất lề, quê thói", "giấy rách phải giữ lấy lề" ? Có ông bà nào lại không muốn con cháu mình đổi nghề để vươn lên cao, giàu có hơn, vững vàng hơn ? Ngày xưa ông bà ta chưa có ý niệm về khoa học nên mỗi lần nhật thực là đem kẻng, đem nồi đồng, đem vung nồi ra gõ, rồi lấy nhang vái lạy cho mặt trời khỏi bị "ăn thịt" ;
Ngày nay mỗi lần nhật thực, con cháu không làm như vậy, lại ngó lên dòm chơi, chẳng lẽ như thế là bất hiếu hay sao ?
Ngày xưa mỗi dịp Xuân về Tết đến, ông bà chúng ta tin đốt pháo để xua đuổi tà ma là chính, nghe tiếng nổ vui tai là phụ – Ngày nay để tránh nguy hiểm và ô nhiễm môi trường, chúng ta chấp hành lệnh nhà nước không đốt pháo, chẳng lẽ đó là bất hiếu sao ?
Xưa nay trong lễ Thanh Minh hoặc trong ma chay cúng giỗ, ông bà chúng ta có nghi thức đốt vàng mã, có một phố lớn ở Hà Nội chuyên bán hàng này, đó là phố Hàng Mã – Bây giờ cần phải lỗi "đạo hiếu" để bảo vệ môi trường, ta hãy nhìn sang đảo Đài Loan : "Chính quyền Đài Loan lên tiếng thúc dục người dân ngừng đốt nhang và vàng mã cho người quá cố, thay vào đó nên tưởng nhớ họ trên internet để bảo vệ môi trường. Lời kêu gọi trên được đưa ra vào trước lễ Thanh Minh năm nay. Vào dịp này người dân viếng mộ tổ tiên, đốt nhang cùng đủ loại vàng mã, từ nhà cửa, xe hơi đến viagra với niềm tin sẽ giúp người quá cố được hưởng cuộc sống sung túc và thoải mái bên kia thế giới. Đài Loan cảnh báo tập tục này làm trầm trọng thêm tình trạng ô nhiễm môi trường … Ngoài lượng lớn khí thải CO2 còn các độc chất khác như Benzene, Methylbenzene và Ethylbenzene có thể gây ung thư và nhiều bệnh khác" (Thụy Miên – Báo TN ngày 5/4/2010).
Ngày xưa ông bà chúng ta có tục đa thê, tảo hôn, lấy nhau trong dòng họ ; ngày nay con cháu theo luật hôn nhân gia đình : đơn hôn, tuổi lập gia đình trai 20, gái 18, họ hàng 3 đời bị cấm vì đồng huyết, không tốt cho giống nòi, làm như vậy là bất hiếu sao ? Xưa cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, ngày nay có buộc phải như vậy không ? Ngày xưa Đạo Nho dạy người phụ nữ phải "tam tòng" (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử), phụ nữ có chồng chết phải ở góa "thờ chồng nuôi con", mới là phụ nữ đảm đang, tiết hạnh. Có những chị chưa đầy 20 tuổi đã góa chồng, cứ ở vậy cho đến chết, không được phép đi tìm niềm hạnh phúc riêng tư – hỏi như vậy có nhân đạo không ? Có hợp lẽ trời, hợp lòng người không ? Cũng như tập tục xưa, khi chưa kịp cưới mà cha hay mẹ một bên chết đi, cả 2 phải để tang 3 năm, hết tang mới được tổ chức đám cưới, thử hỏi người chết liệu có hạnh phúc khi thấy con cái chờ đợi khổ sở như vậy không ? Quyền lập gia đình hợp pháp, quyền tái hôn hợp pháp cũng như quyền chọn cho mình một nghề nghiệp, một niềm tin thích hợp là những quyền sống cơ bản của con người, ai ai cũng phải tôn trọng, phải ủng hộ mới đúng chứ, sao lại cho là bất hiếu ?
Hơn nữa nếu có chọn một niềm tin mới, một Đạo mới thích hợp, dĩ nhiên cũng phải chọn Đạo nào giúp sống thảo hiếu hơn, bao gồm được những điều tốt đẹp căn bản trong niềm tin truyền thống, chứ ai lại đi chọn Đạo kém hơn, dạy những điều sai trái, bất hiếu. Nếu có một sự lựa chọn nào như vậy thì quả là bất hiếu thực sự. Tóm lại, chọn gì thì chọn, sống sao thì sống, miễn là tốt đẹp, chân thật, thánh thiện, gặp gỡ được Đấng Tối Cao và hạnh phúc vĩnh hằng thì đó là hiếu thảo, làm nở mặt nở mày cho tổ tiên ông bà. Còn chọn cái xấu, cái dở, sống xấu, sống gian dối, sống tồi thì lúc nào và ở đâu cũng làm hổ mặt ông bà, cha mẹ, đó là đại bất hiếu. Tục ngữ có câu : "Chó gầy hổ mặt người nuôi".
Chính vì thế mà chúng ta không cần phải e ngại trong việc chọn lựa niềm tin cho mình. Tôn giáo nào, tổ chức nào có tôn trọng tự do cá nhân, tự do lương tâm thì tổ chức đó, tôn giáo đó mới đáng quý. Nếu không tôn trọng tự do căn bản của con người thì phải kết luận rằng tổ chức đó, tôn giáo đó không đúng, không đáng tin theo.
Cũng có ý kiến cho rằng đạo tại tâm, sống lương thiện : không làm hại ai, giúp đỡ mọi người theo khả năng mình là tốt rồi, đâu cần phải theo đạo nào. Dĩ nhiên theo đạo là phải có Tâm, Tâm tốt thì cử chỉ, nói năng, hành động mới tốt. Cha ông chúng ta dạy "Hữu ư trung tất hình ư ngoại" (Có đầy trong lòng mới tràn ra bên ngoài), nhưng …Con người có xác có hồn, có nội tâm mà cũng có ngoại tại, lại chung sống trong một xã hội, chỉ có một phía thì chưa đủ. Có ai bảo rằng hiếu thảo tại tâm, để rồi miễn trừ cho mình những cử chỉ tôn kính ông bà, cha mẹ, miễn trừ việc vâng lời cha mẹ, miễn cả việc giúp đỡ cha mẹ khi già yếu và kể cả ma chay tang chế, giỗ chạp cũng "tại tâm" luôn ? Có đôi nam nữ nào yêu nhau mà chỉ "tại tâm", không nói một lời tỏ tình, chia sẻ, động viên, an ủi (nói thầm trong lòng đủ rồi), không một cái nắm tay thân ái, không một lần hò hẹn đi chơi với nhau, không một bông hoa, một món quà trao tặng, một tấm hình lưu niệm và cũng không cả một nụ hôn thân ái ? Có ai cưới vợ lấy chồng chỉ "tại tâm" thôi ? Chẳng cần lễ nghi, tiệc tùng, đưa dâu đón rể ?
Trong lãnh vực học thuật cũng chẳng ai học "tại tâm", thi "tại tâm" được. Tục ngữ ta có câu "không thầy đố mày làm nên", học thầy đã vậy còn phải học bạn nữa : "học thầy không tày học bạn", "học ăn, học nói, học gói, học mở", mọi chuyện nhất nhất đều phải có thầy hướng dẫn, có sách để nghiên cứu và phải miệt mài học hành, thi cử mới thành công được.
Vấn đề sai phạm, lỗi lầm thuộc bản tính con người. Ngạn ngữ La Tinh có câu "Errare humanum est" (sai lỗi là bản tính loài người). Thi sĩ Tản Đà cũng nói rất chí lý: "Mấy kẻ nên khôn đều có dại, Làm người có dại mới nên khôn"
Đạo cũng như đời đều có dự trù những biện pháp giáo dục, uốn nắn và cả chế tài trừng phạt nhằm giáo hóa con người và bảo vệ lợi ích chung. Không biết bạn đọc nghĩ sao, chứ người viết có cảm tưởng rằng "đạo tại tâm" là một cách ngụy biện của những kẻ lười biếng và cứng đầu cứng cổ, không muốn giữ đạo.
Nước có quốc pháp, nhà có gia quy, làng thôn có "lệ" hay hương ước, có khi còn hơn cả luật pháp vì "phép vua thua lệ làng", những trường hợp có sai phạm, lỗi lầm thì phải có biện pháp nhắc nhở, động viên, giáo dục, khiển trách và cuối cùng là sửa phạt.
Ngay tại Việt Nam, hệ thống pháp luật, ngành Tư pháp cũng vô cùng phức tạp, bao nhiêu luật sư, thẩm phán … ăn học "trầy vi tróc vảy" vậy mà oan sai trong xét xử vẫn đầy dẫy. Chương trình VTV1, lúc 19g30 ngày 3/4/2010 đưa tin về vụ oan sai nghiêm trọng nhất ở huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây, với 2 công dân bị tố cáo về tội hiếp dâm, cướp của, bị tù oan uổng mười mấy năm, tới nay ngành Tư pháp cấp cao xét thấy oan, tuyên bố vô tội, trả lại tự do và tìm giải pháp bồi thường danh dự và vật chất.
Nhân vụ này ngành Tư pháp còn cho biết hiện còn tồn đọng trên 12.000 vụ cần giải quyết bằng giám đốc thẩm và tái thẩm, thử hỏi "đạo tại tâm" thì "ta" sẽ xử "mình" như thế nào ? Phạm nhân nào cũng kêu oan và cũng xin giảm nhẹ hình phạt cả. Liệu ta vừa "cầm còi" vừa "đá banh" có công bằng không ? Có làm cho mọi người khẩu phục, tâm phục không ? Và công lý có được bảo vệ không ? Câu trả lời xin dành cho bạn đọc.
Còn vấn đề lương thiện, nếu chỉ dừng ở chỗ không làm hại ai, không phiền hà ai, giúp đỡ mọi người tùy khả năng thì cũng chưa đủ. Người lương thiện trước hết phải là người sống hữu tình hợp lý, có trước có sau, sống vô ơn thì không thể cho là lương thiện được. Mỗi ngày người ta phải thở 20.000 lít không khí, phải nhờ ánh sáng và hơi ấm của mặt trời, phải uống ít là 1 lít nước, phải ăn ít là 300 gram thực phẩm mới sống được. Tất cả những thứ đó loài người không ai làm ra để "bố thí" cho ta. Các nhà bác học giỏi giang như thế cũng chưa thể và không bao giờ có thể chế ra 1 cọng rau muống cho ta ăn, ngay cả cái chỗ ta đặt bàn chân để đứng được cũng là của ai đó chứ không phải là của mình, cứ ăn xài, cứ sử dụng những cái đó mà không biết ai đã cho mình, không một lời cám ơn, không một cử chỉ đáp nghĩa, vô ơn bạc ngãi như thế mà lương thiện ư ? Ca dao đã dạy : "Ơn ai một chút chớ quên, Phiền ai một chút để bên cạnh lòng"
Nhà tiên tri Isai của dân Do Thái sống 800 năm trước công nguyên đã nói : "Con bò còn biết chủ, con lừa còn biết cái máng cỏ nhà chủ nó, nhưng Israel thì không biết, dân Ta chẳng hiểu gì" (Is 1,3). Có thể nói : bao lâu người ta chưa tìm ra Đấng Tạo Hóa, đại ân nhân của muôn loài muôn vật mà thờ, thì bấy lâu chưa thể nói là sống lương thiện được.
VI. TÍN NGƯỠNG VÀ TÔN GIÁO
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam có điều khoản quy định "tự do tôn giáo, tín ngưỡng và không tôn giáo, không tín ngưỡng". Vậy tín ngưỡng với tôn giáo có gì khác biệt ?
1. Định nghĩa của các từ điển :
§ Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Paulus Huỳnh Tịnh Của, cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên, không có mục từ tín ngưỡng và mục từ tôn giáo.
§ Từ điển tôn giáo do NXB Phương Đông 2008, cũng không có mục từ tín ngưỡng và tôn giáo.
§ Từ điển Tôn Giáo do NXB Khoa Học Xã Hội (không đề năm), dịch từ bản tiếng Pháp Dictionaire des Religions – NXB Editions Chapitre Douze – Brucxelles – Paris ; trang 537 mục từ Religion – tôn giáo : là sự thờ cúng thần thánh, là sự thể hiện của cái thiêng (sacré) và sự tổ chức những nghi thức cá nhân và xã hội theo định chế.
Trang 248 : Foi – lòng tin, niềm tin (tín ngưỡng) : sự tán thành toàn tâm toàn ý đối với một học thuyết hay một tôn giáo.
§ Đại từ điển tiếng Việt do Bộ GD&ĐT, xuất bản 1999, mục từ Tôn giáo : 1-dt : hình thái ý thức xã hội hình thành nhờ vào lòng tin và sùng bái thượng đế, thần linh. 2-dt : các đạo nói riêng như đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Hồi … Không có mục từ tín ngưỡng.
2. Nhận định : Những định nghĩa của các từ điển chưa giúp ta dễ dàng phân biệt tín ngưỡng với tôn giáo. Theo thiển ý của người viết (chỉ là suy nghĩ riêng tư thôi) :
§ Từ Tín ngưỡng : Tín là tin, ngưỡng là mộ mến – Tin tưởng vào điều gì đó với lòng chân thành, mộ mến, thì đó là tín ngưỡng. Thí dụ tin vào số mệnh, tin cô hồn các đẳng, tin có thần linh, tin năm "hạn" người ta vẫn nói "49 chưa qua, 53 đã lại", tin cõi âm cũng sinh hoạt giống như cõi dương nên mới có chuyện gởi vàng mã, nhà cửa, tiền âm phủ, cô hầu và cả … viagra (dỏm) xuống nữa… Năm Hợi vừa qua tại miền Á Đông, các cặp vợ chồng phấn đấu "đẻ", vì tin con mình sẽ thành "heo vàng". Tín ngưỡng dường như có tính cá nhân hơn, đơn giản hơn, không cần phải có hệ thống giáo điều, hay chức sắc, lễ nghi cố định.
§ Từ Tôn giáo : Tôn là tôn thờ, tôn kính, giáo là là dạy dỗ, giáo hóa – Tôn giáo là một tổ chức có những giáo điều dạy người ta tôn thờ thần minh như là Đấng Chí Tôn, và dạy người ta biết sống với nhau cho phải phép. Tôn giáo luôn mang tính tập thể, tính cộng đồng, tính xã hội. Không có tôn giáo nào chỉ dành cho một cá nhân, trong khi tín ngưỡng thì có thể một mình tin điều này, điều nọ. Tôn giáo luôn bao hàm tín ngưỡng (có nhiều tín điều), nhưng tín ngưỡng không bao hàm tôn giáo.
a). Tôn giáo có thần minh rõ ràng (tôn thờ ai đó, cái gì đó - thí dụ Đức Chúa Trời, Đức Phật, Mặt Trời … như là Đấng Chí Tôn, quyết định vận mệnh của mình và cả vũ trụ).
[Tổ chức, tập đoàn nào (có khi mệnh danh là tôn giáo) nhưng thực chất không thờ một thần minh nào, mà giáo thuyết chỉ là những nguyên tắc giúp nhau rèn luyện, tổ chức xã hội mặt này mặt kia để nên hoàn hảo hơn, thì chỉ là một triết thuyết hơn là một tôn giáo].
Tín ngưỡng không hẳn phải có thần minh để thờ. Hồi còn nhỏ, người viết nhiều lần bị hóc xương cá, kêu khóc có khi nửa ngày. Trong làng có một ông già cất vó dạo tên Thống, nhà rất nghèo, lại điếc nặng không nghe được gì, nhưng có tài chữa hóc, cả làng đều tin, mỗi lần trẻ con bị hóc, bố mẹ đều đến gặp ông, giơ tầm tay đo thằng nhỏ bao lớn rồi chỉ vào cổ ra dấu, thế là ông ta hiểu và ra dấu bảo đi về. Ông không hề gặp đứa bé, thế mà chỉ mấy tiếng đồng hồ sau, đứa bé khỏi hóc. Chính người viết cũng được chữa khỏi không dưới 3 lần. Có người tò mò rình xem ông làm gì, thì chỉ thấy ông vào bếp, miệng lâm râm đọc câu "thần chú" gì đó. Dân làng tự trên xuống dưới, chẳng ai giải thích được bí mật này, ông lại điếc không ai hỏi được, nhưng họ tin có "sức mạnh" ngoại lai nào đó đã giúp ông, vì thực tế con em họ được chữa khỏi hóc xương (xin lưu ý một điều : làng tôi toàn tòng Công giáo, chỉ thờ Chúa Trời, ông cụ Thống cũng là tín hữu ngoan đạo, không tin dị đoan, không thờ "ma xó").
Ngày nay chúng ta nghe nói nhiều tới vấn đề "ngoại cảm" trong việc tìm hài cốt thân nhân, nhiều người đã phải nhờ tới "ngoại cảm" để tìm và đã thấy, thế là họ tin và rất tin, nhưng không thờ con người có khả năng "ngoại cảm".
b). Tôn giáo luôn có chỉ nam, tức là một bộ sách làm nền tảng. Ấn giáo có cuốn Vệ Đà ; Công giáo Chính Thống, Tin Lành, Anh giáo, Do Thái giáo có bộ Thánh Kinh ; Khổng giáo có Tứ Thư Ngũ Kinh ; Lão giáo có Đạo Đức kinh ; Hồi giáo có kinh Koran ; Phật giáo có kinh Kim Cương, kinh Pháp Hoa ; Phật giáo Hòa Hảo có Lời Sấm của Đức Huỳnh giáo chủ. Tín ngưỡng không hẳn phải dựa vào một cuốn sách nào
c). Tôn giáo có tổ chức, thứ bậc, chức sắc … có trường tu luyện và tấn phong các chức sắc, phân chia nhiệm vụ trong việc điều hành nội bộ và hoằng pháp (truyền giáo). Tín ngưỡng theo quan niệm là niềm tin cá nhân thì không thể có tổ chức như nói trên.
d). Tôn giáo luôn có những lễ nghi thờ cúng được quy định rõ ràng, chi tiết cho từng trường hợp, từng tình huống trong đời sống tập thể và cá nhân, tiếng chuyên môn gọi là Phụng vụ hay Phượng tự. Hàng năm, hàng tháng, hàng tuần có những lễ tiết nào, phải cúng bái làm sao, dâng những lễ vật gì, lễ phục ra sao ? … Tín ngưỡng không bị ràng buộc vào các lễ nghi như vậy. Tùy hoàn cảnh mà bày tỏ tâm tình của mình, miễn có sự thành kính là được.
Để rộng đường suy nghĩ, chúng ta có thêm mấy sự kiện sau đây :
A. Buổi tọa đàm "Những vần thơ của những vị tiên" tối ngày 2/4/2010, do Đại sứ quán Pháp tổ chức tại Trung tâm Văn hóa Pháp L'Espace (Hà Nội), tiến sỹ Nguyễn Xuân Diện, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, thuyết trình – Suốt nửa cuối thế kỷ 19 nhiều Thiện Đàn được mở ra khắp các tỉnh Bắc bộ, sau tràn vào Nam. Theo dõi hiện tượng "các vị tiên giáng bút" qua hàng vạn áng văn chương độc đáo trong 254 cuốn thơ văn giáng bút còn lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, theo đó : Giáng bút là hiện tượng "nhập thần", nội dung giáng bút là kêu gọi lòng yêu nước thương nòi, đề cao dân trí, bài trừ hủ tục …
Chính quyền thực dân giao cho Bùi Bằng Đoàn là tri phủ Xuân Trường điều tra, và đã báo cáo tên tỉnh : "Đó là việc tôn giáo thực, chứ không phải hoạt động chính trị như hương lý đã báo".
Sau đó Án Sát Nam Định là Mai Toàn Xuân cũng điều tra và báo cáo lên Thống sứ rằng : đây chỉ là hoạt động tôn giáo, không nên ngăn cấm.
Hai bản Nôm thơ tiên giáng bút được trưng bày là "Cứu kiếp hoàng kinh", in năm vua Tự Đức thứ 29 (1876), và cuốn "Nhị thập bát tú cứu thế chân kinh", Thanh Oai tục bản (không ghi năm). (Nguyễn Việt Chiến – báo TN ngày 11/4/2010).
B. Bài : "Bi hài quanh mả cá voi". Sự kiện cá voi chết dạt vào cửa biển Cái Cùng, xã Vĩnh Thịnh, huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu vào đầu năm Canh Dần vẫn còn là đề tài thu hút sự quan tâm của dân trong và ngoài tỉnh.
Số là theo chủ trương của tỉnh, bộ xương cá voi cần được lưu giữ nhằm phục vụ nhu cầu tín ngưỡng dân gian và du lịch, nên tỉnh đã quyết định xây mộ cá voi lộ thiên có lồng kính để du khách tham quan. Mộ này đã gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Đại diện Viện Hải Dương học Nha Trang đã đến khảo sát và kết luận : "Việc bảo quản bộ xương cá voi để phục vụ nhu cầu tín ngưỡng và du lịch là cần thiết … song phải có phương án xử lý thích hợp".
Tới nay hơn 200 triệu đồng dân đóng góp vào việc xây mộ cá voi đã không phát huy được tác dụng, thậm chí đang phản tác dụng (Trần Thanh Phong, báo TN ngày 11/4/2010).
C. Báo Thanh Niên ngày 16/4/2010 đưa tin và hình ảnh : Khối tượng Thần Xà chưa hoàn chỉnh được tìm thấy từ năm 1991 tại đền thờ Thái sư Lê Văn Thịnh (1038 - ?), di tích lịch sử thuộc tỉnh Bắc Ninh (xã Đông Cứu, huyện Gia Bình), bằng sa thạch : cao 0,76m - ngang 1,12m - dài 0,96m - nặng 3 tấn. Pho tượng hoàn chỉnh sẽ có cấu trúc lớn gấp 3 lần khối tượng đang được thờ. Nhiều mảnh tượng theo dự đoán đang còn nằm trong lòng khu đền thờ này (Xuân Thành).
D. Cách đây vài năm, báo chí cũng đưa tin về một phát hiện khảo cổ mới, đó là một miếu thờ chó con có tên hiệu đàng hoàng : Đền thờ Cẩu Nhi. Có đền thì thế nào cũng có hương hoa, cúng vái.
E. Tại số 184A đường Lê Văn Sỹ, quận 3, có một cái đình nhỏ không biết xây dựng tự bao giờ, trước đình có một bệ xi măng cao độ 60cm, ở trên để một khẩu súng bằng gang (hay sắt) vỡ, nòng cụt quá nửa trên, có mấy niềng sắt cùm lại (sợ bị lấy cắp đem cân ký), đình đó có tên là Đình Ông Súng, dĩ nhiên có đình miếu thì phải có hương nhang, cúng vái.
F. Cũng báo chí cách nay ít năm, có bài than phiền về nạn "Đền … giả" ở hội chùa Hương :
Ông bạn vừa du xuân hội chùa Hương xứ Bắc về, thông báo :
- Từ điển "đồ giả" nay phải bổ sung thêm mấy món giả mới : đền giả, chùa giả !
- Sao gọi là giả ?
- Là những đền, chùa người ta tự dựng lên, thờ cúng một ông thánh ông thần nào đó cũng do họ tự đặt ra, cốt là để thu tiền cúng của dân. Món kinh doanh tín ngưỡng này xem ra "một vốn … mười lời" nên đền lớn, đền nhỏ đua nhau mọc lên, rồi chủ đền í ới mời gọi khách thập phương ghé vào, có nơi dùng cả loa phóng thanh y như mời mua … mì gói !
- Dám "buôn thần bán thánh", tệ thật !
- Nghe nói chuyện này đã xảy ra từ mấy năm trước và cứ theo đà phát triển tới tới. Chính quyền địa phương đã thống kê có trên 40 "đền giả" như thế !
- Hội chùa Hương thu hút biết bao du khách trong nước và ngoài nước. Để mấy cái "của giả" ấy tồn tại thiệt là làm xấu đi bộ mặt Hương Sơn, làm phiền lòng khách đến viếng. Đến bao giờ mấy chục cái "đền giả" chuyên kinh doanh ấy sẽ bị dẹp hết đi ? (Bút Bi - Báo TT ngày 1/2/2001).
Đứng trước một "rừng" tín ngưỡng và tôn giáo trên trần gian, con người có 3 thái độ, tùy theo tự do lựa chọn của mỗi người, không ai có quyền xâm phạm tự do căn bản này
1. Một là thái độ của những người không tin bất cứ tôn giáo, tín ngưỡng nào vì họ cho rằng không có thế giới thần linh, chỉ có thế giới hiện thực, hữu hình đang diễn ra trước mắt chúng ta.
Trong bài "Nghiên cứu luận điểm về tôn giáo" của tác giả Minh Chi đăng trên báo Xưa và Nay, số Xuân Nhâm Ngọ 2002, trang 26 có đoạn như sau : "Phương pháp luận của Mác là quan sát mọi khái niệm, kể cả khái niệm tôn giáo không phải như một khái niệm trừu tượng để cho các triết gia say sưa tự biện, mà là như những sự kiện hiện thực và sống động diễn ra trong bối cảnh xã hội hiện thực và sống động, do vậy mà Mác thường nói : Tôn giáo là chuyện dưới đất, không phải là chuyện trên trời và chính con người tạo ra tôn giáo" (xem các tài liệu : Karl Marx – Critique de la philosophie du droit de Hegel Instruction – phê phán triết lý pháp quyền của Hegel bản tiếng Pháp – sur la religion – Editions sociales, trang 41).
Mác còn nói : "Tôn giáo là thuốc phiện của quần chúng" (La religion est l'opium du peuple), câu này thật ra chỉ là đoạn cuối của cả một đoạn văn dài của Mác, đoạn văn đó như sau : "Tôn giáo là tiếng than của con người bị áp bức, linh hồn của một thế giới không có trái tim cũng như nó là tinh thần của những điều kiện xã hội, trong đó tinh thần bị bài trừ. Tôn giáo là thuốc phiện của quần chúng" (là phương dược xoa dịu nỗi đau của quần chúng).
Tình trạng xã hội bi đát đó chính là tình trạng xã hội ở nước Đức thời Mác, cái thế giới "không có trái tim" ấy Mác thường gọi là chủ nghĩa tư bản dã man (Capitalisme sauvage), cho nên công bằng mà nói, với đoạn văn trên, Mác tỏ ra có thiện cảm với tôn giáo hơn là với chủ nghĩa tư bản (Minh Chi).
Không phải chỉ thời nay mà cách đây 2000 năm đã có những người không tin có đời sau, chỉ chấp nhận những gì ở đời này nên thánh Phaolô mới nói với họ : "Thế thì anh em cứ ăn đi, cứ uống đi, vì ngày mai anh em sẽ chết" (1Cr 15,32).
Ông quan và nhà văn Nguyễn Công Trứ cũng có chủ trương tương tự, đại khái như sau : Hãy chơi cho lăn cho lóc Kẻo cái già nó xồng xộc tới ngay "Nhân sinh bất hành lạc, Thiên tuế diệc vi thương" (Ở đời mà không ăn chơi thì dù có sống một nghìn năm cũng đáng thương)
2. Hai là thái độ của những người đơn sơ cho rằng đạo nào cũng tốt cả, chọn đạo nào cũng được, thì cứ việc chọn lấy một đạo mà theo, khỏi bận tâm suy nghĩ tìm tòi, học hỏi.
3. Ba là thái độ của những ai tin rằng "cây có cội, nước có nguồn", trời đất có Chủ, thì phải tìm cho bằng được Con Đường (đạo) dẫn tới Ông chủ tối cao này mà dựa dẫm, xin được nương bóng, chở che với những điều kiện:
- Ông chủ này phải là một ngôi vị tối cao có thật (không phải một thực tại vô ngã như tự nhiên, thiên nhiên hoặc vị thần do con người tưởng tượng ra rồi gán ghép cho quyền này phép nọ).
- Ông chủ này phải vượt trên thời gian và không gian (nếu còn lệ thuộc 2 yếu tố này thì không thể làm chủ trời đất được).
- Ông chủ này phải có trí thông minh và quyền năng vô cùng mới có thể tác thành và điều khiển vũ trụ.
- Ông chủ này phải có ý chí, tự do tuyệt đối, không lệ thuộc bất cứ cái gì.
- Ông chủ này phải chân thật, tốt lành, thánh thiện, mỹ miều tuyệt đối (chân thiện mỹ tuyệt đối), đáp ứng mọi khát vọng hạnh phúc sâu thẳm nhất của con người, nghĩa là có Ngài thì không còn thèm muốn, ước ao, khao khát bất cứ một điều gì nữa. Ở bên Ngài rồi thì không thể còn tình trạng kỳ thị nam nữ, coi rẻ sinh mạng, tự do, phẩm giá con người, dối trá bất công, nói chung là tiêu cực, xấu xa, tội lỗi dưới bất cứ hình thức nào.
- Ông chủ này phải là Đấng có quyền xét xử tối hậu và công minh, thưởng phạt rạch ròi như lời cổ nhân đã dạy : "Thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu".
- Ông chủ này phải trường tồn vĩnh cửu cùng với vương quốc của ông, không một quyền lực nào đe dọa được, muôn loài muôn vật dù muốn dù không rồi cũng sẽ phải trình diện ông như "lá rụng về cội" và đây là điểm hẹn cuối cùng, chung cuộc của cả thế giới và vũ trụ.
- Giáo lý của ông chủ này phải hoàn hảo, giải đáp được mọi vấn đề từ nguồn gốc của vũ trụ cho đến vận mệnh con người, không có gì mâu thuẫn, phi lý …
Bạn đọc thân mến, nếu bạn biết chắc chắn ông A, bà B hoặc vị nào đã có đủ các ưu phẩm trên thì cứ yên tâm mà phụng thờ hết sức lực, hết linh hồn, hết trí khôn. Nhưng nếu cho tới hôm nay bạn chưa tìm được chỗ dựa có đủ những yếu tố trên, thì hãy tiếp tục đi tìm, cho tới khi gặp được mới thôi. Đấng Tối Cao ấy chắc chắn đang chờ bạn và vẫn luôn luôn tôn trọng tự do của bạn - tục ngữ có câu : "Gái có công, chồng chẳng phụ", cha ông chúng ta từ bao đời đã dạy : "Hoàng thiên bất phụ hảo tâm nhân", cứ thành tâm tìm kiếm chắc chắn sẽ gặp.
Một giai thoại về cuộc đời của thánh Christopher (vị thánh rất được tôn kính ở châu Mỹ, được liệt vào danh sách Thánh Tử Đạo dưới thời hoàng đế Roma Decius 249-251) :
Ông là một vệ sỹ, thân hình rắn chắc, vạm vỡ, sức khỏe hơn người, lại rất giỏi võ nghệ, ông cũng là con người rất khẳng khái và trung tín, "nói là làm, thề là giữ". Ông thề rằng mình chỉ phụng thờ vị nào cao cả quyền uy nhất. Trong nước ông thấy không ai bằng vua, ông xin theo hầu, làm vệ sỹ cho vua, phụng sự hết mình, vua rất tin tưởng. Một hôm tối trời, nhà vua ra thượng uyển dạo chơi, ông theo hầu, bỗng dưng vua rùng mình và quay vội về hoàng cung, ông hỏi lý do, vua đáp : ta có cảm giác quỷ thần đang rình rập đâu đây nên ta sợ. Tối hôm ấy người vệ sỹ không ngủ được, nghĩ tới lời thề ông thấy vua thua quỷ nên ông quyết định trốn đi tìm quỷ để thờ. Tới một cánh rừng, quỷ hiện hình thực sự, nhận ông làm môn đệ, thế rồi hai thầy trò đi qua cánh rừng đó, bỗng quỷ dừng chân bảo ông rẽ sang đường khác, ông hỏi lý do, quỷ đáp : "Đằng kia có cây thập giá ai dựng ở đó, ta sợ lắm !". Thế là ông nhất định bỏ quỷ để tìm cây thập giá, quả có thật, ông dừng lại thờ "Ngài thập giá", rồi mệt quá, ông phủ phục ở đấy ngủ thiếp đi. Sáng sớm hôm sau, một bàn tay đặt trên vai ông, đánh thức dậy, té ra là vị ẩn tu trong một hang gần đó, hai người trao đổi, ông mới kể đầu đuôi câu chuyện, vị ẩn sỹ cho ông biết Đấng chịu đóng đinh trên thập giá là Chúa Tể trời đất, nếu ông tin nhận thì ở lại đây tìm hiểu, ông bằng lòng và được vị ẩn sỹ dạy dỗ rồi sai ông làm một lều ở bên dòng suối chảy xiết, để ông giúp người qua lại khỏi hiểm nguy, ông vui vẻ nhận nhiệm vụ và hoàn thành tốt. Một hôm vào buổi tối, hết khách bộ hành, ông cũng vào lều nghỉ sau khi đọc kinh cầu nguyện, bỗng ông nghe từ phía bên kia suối có tiếng trẻ con gọi, ông lội sang thì thấy một cậu bé chừng 7, 8 tuổi, ông mắng cho một trận : "Làm sao giờ này mà cháu còn dám đi qua đây, liều mạng quá đấy", thế rồi ông ngồi xuống xốc cậu bé lên vai, đi được mấy bước, ông thấy muốn sụm xuống vì sức nặng, ông mới ngoái cổ lên và nói : "Sao bé con thế này mà nặng như quả địa cầu vậy ?". Ông nghe có tiếng trả lời : "Ta còn là Chúa của cả địa cầu nữa", thế rồi cậu bé biến đi, ông hiểu rằng mình đã tìm được đúng địa chỉ, ông trung thành với nhiệm vụ đó cho đến chết và đã trở thành một vị thánh. Ngày nay người ta còn thấy rất nhiều ảnh tượng, phù điêu tạc một ông già chống gậy vác một cậu bé trên vai lội qua suối, đó chính là thánh Christopher (nguyên cái tên của Ngài cũng nói lên câu chuyện trên: Christo là Đấng Christ ; Fere là mang, vác).
Thay lời bạt
Bạn đọc thân mến, bạn hãy chắc chắn một điều là lúc nào bạn cũng hoàn toàn tự do trong việc chọn lựa niềm tin của mình, chỉ xin bạn suy nghĩ và tìm hiểu thật kỹ, vì chẳng ai trông chờ hái được chùm nho nơi bụi găng.
"Tiến hóa bách ngũ thập niên, Cãi tranh bùng nổ như điên như rồ. Thêm vài suy nghĩ vẩn vơ,
Nhận hay không nhận, tự do mỗi người".
Lời Tâm Niệm :
- Lạy Đấng thiêng liêng tối cao,
- Lạy Đấng Tạo Hóa,
- Lạy Đấng Tuyệt Đối,
- Lạy Thượng Đế,
- Lạy Ông Trời,
Chúng con đây là những thụ tạo đứng trên muôn vật trong vũ trụ. Chúng con đã được Ngài tạo dựng nên giống hình ảnh của Ngài là Thiên Chúa, vì chúng con có trí nhớ, có trí tuệ, có ý muốn, có tự do.
Chúng con luôn thao thức trước những vấn đề :
1. Bởi đâu có vũ trụ này ?
2. Bởi đâu có bản thân chúng con ?
3. Đâu là mục đích của cuộc đời ?
4. Chết rồi sẽ đi về đâu ?
5. Làm điều thiện, ai sẽ thưởng công cho ?
6. Làm điều ác, ai sẽ phạt tội ?
7. Ai sẽ thỏa mãn khát vọng hạnh phúc tuyệt đối của chúng con ?
Chúng con muốn đi tìm chân lý, tìm ý nghĩa đích thực cho cuộc đời. Xin Ngài soi trí mở lòng cho chúng con, để chúng con được tìm thấy Ngài, và được niềm vui gọi Ngài là Cha, như hơn 2 tỷ Kitô hữu trên thế giới – Amen.
(Tiến sĩ Phan Như Ngọc, Email : pnngoc@gmx.net – Trích Bài giảng Chúa nhật - TGM, số 4/2007, trang 74)
Tân Bình, ngày 18/04/2010
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT
Về đầu trang
Tác giả: Lm Nguyễn Hữu Triết
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn