Những suy nghĩ vẩn vơ: Tập 6-10 Lm Nguyễn Hữu Triết
Tập 6: Những suy nghĩ vẩn vơ: NHỮNG NẺO ĐƯỜNG
Tập 7: Những suy nghĩ vẩn vơ: HƠN CẢ NỖI OAN THỊ KÍNH
Tập 8: Những suy nghĩ vẩn vơ: "SỰ THẬT SẼ GIẢI THOÁT CÁC ÔNG"
Tập 9: Những suy nghĩ vẩn vơ: TUYỆT ĐỈNH CỦA LUẬT CŨNG LÀ TUYỆT ĐỈNH CỦA BẤT CÔNG
Tập 10: Những suy nghĩ vẩn nơ: CUỘC SỐNG KHÔNG GIỚI HẠN
LỜI ĐẦU
Loài người được Tạo Hóa tác thành hơn và khác loài vật ở chỗ có lý trí và tự do.
"Tự do là khả năng biểu lộ ý chí, hành động theo ý muốn của mình" (Đại Tự điển tiếng Việt – Hà Nội 1999, trang 1762), đây là quyền căn bản của mỗi người. Có tự do thì cũng có trách nhiệm, nghĩa là có thưởng và phạt tùy theo lựa chọn đúng hay sai.
Người viết tập này chỉ muốn trình bày sự thật mà mình đã cảm nghiệm, còn quý độc giả đồng tình hay không, hoặc đồng tình một phần nào thì hoàn toàn thuộc quyền tự do của quý vị.
NHỮNG NẺO ĐƯỜNG
Bạn và tôi kẻ Nam người Bắc xa nhau gần 2000km, tình cờ gặp nhau rồi thân quen như bè bạn và hơn nữa như anh em một nhà cùng một nguồn cội. Người xưa vẫn dạy : "Tứ hải giai huynh đệ" (người bốn bể đều là anh em). Lần gặp gỡ gần đây nhất nhân một chuyến công tác bạn ghé thăm, và khi từ giã bạn yêu cầu tôi kiếm cho bạn 1 cuốn sách nói về đạo Công giáo để bạn tìm hiểu. Yêu cầu của bạn thật tuyệt vời, vì càng hiểu nhau thì càng dễ cảm thông, gần gũi bạn bè mà chẳng hiểu gì về nhau thì cứ như bài ca "anh ở đầu sông em cuối sông", về xã giao thì vẫn tay bắt mặt mừng, nhưng trong thẳm sâu tâm hồn thì cứ như đứng bên hai bờ chiến tuyến, như thế thì niềm vui chưa trọn vẹn.
Từ hôm đó tôi để tâm tìm kiếm cuốn sách nào gọn gàng, dễ hiểu nhất mà chưa chọn được cuốn nào. "Đạo" thì rất ngắn ngủi, chỉ có 1 chữ nhưng lại dài vô cùng vô tận. Sách đạo thì có cả rừng, nhưng thôi, trước khi đọc sách, mời bạn gặp gỡ 1 viện sĩ Hàn lâm Pháp, nổi tiếng thế giới với tư tưởng rất tự do phóng khoáng.
Gặp gỡ Jean D'Ormesson :
"CUỘC SỐNG THẬT TUYỆT VỜI"
[Bài trả lời phỏng vấn của ông Jean D'Ormesson, Viện sĩ Viện hàn lâm Pháp, do nhà báo Alice Le Dréau thực hiện, đăng trên báo Pèlerin số 6679, ngày 2/12/2010]
- Tại sao ông lao vào viết cái mà ông gọi là một "cuốn tiểu thuyết về Vũ trụ" ?
- Bởi vì từ rất lâu rồi tôi sững sờ cảm nhận về sự hiện hữu. Khi còn bé, đôi khi đang chơi đùa, tôi dừng lại và tự hỏi : "Tôi đang làm gì đây ?". Rồi cách đây 5 năm, vào một ngày mùa hè, khi đang tắm trong biển Địa Trung Hải, lúc lên bờ, bỗng nhiên một cảm giác kinh ngạc, một cơn choáng váng xâm chiếm tôi. Tại sao có mặt trời ? Tại sao có biển ? Tại sao có núi đá ? Từ đó tôi đã có ý tưởng về một cuốn tiểu thuyết diễn tả sự ngạc nhiên được có mặt trên thế giới này.
- Với một câu hỏi lặp đi lặp lại trong cuốn sách : tại sao có cái gì đó, thay vì chẳng có gì hết ?
- Đúng, bởi vì sự sững sờ vì hiện hữu đẩy ta đến chỗ tự hỏi chúng ta từ đâu đến và đi đâu. Những vấn nạn muôn thuở. Do đó tôi muốn kể lại một cách đơn giản hóa từ Copernic cho đến Einstein đi qua Galilée và Hawking, khoa học đã dần dần cho phép giải thích việc tạo dựng nên thế giới như thế nào. Hiện nay, các nhà nghiên cứu nghĩ rằng – ngay cả lý thuyết này vẫn còn là một giả thuyết – cách đây 13,7 tỷ năm, vụ nổ big bang đã sinh ra vũ trụ. Đồng ý. Nhưng từ đó cũng nổi lên một câu hỏi mới : thế thì trước vụ nổ big bang đã có cái gì ? Là hư vô ? Hay là một cái gì khác vượt quá hiểu biết của chúng ta ?
- Cái gì khác đó, có nghĩa là ... Thiên Chúa ? Thế ông có tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa ?
- Tôi sinh ra trong một gia đình rất Công giáo, và tôi sẽ chết như một người Công giáo. Nhưng với câu hỏi của bạn, tôi phải thú thật là tôi không biết. Tôi hy vọng là Thiên Chúa hiện hữu. Hằng ngày, một bên tôi tiếp cận với những con người xác tín rằng có Chúa : như Chateaubriand, Claudel, Péguy ... Và bên kia là những người xác tín điều ngược lại : như Marx, Sartre ... Trong cả hai trường hợp đó, chẳng thể có được một chút bằng chứng nào. Nhưng tôi thích tin là có Chúa hơn. Đôi khi tôi cũng nghi ngờ. Tôi nghi ngờ về Thiên Chúa bởi vì tôi tin có Chúa. Có thể nói là tôi nghi ngờ về Thiên Chúa. Do đó tôi tự giải quyết là không chọn lựa và tự xếp mình vào loại những người theo thuyết không thể biết (agnostisques).
- Cuốn tiểu thuyết của ông nói về thời gian đang qua và về cái chết, mà ông đã đề cập đến với một sự hòa trộn giữa lý thuyết định mệnh và tính tinh nghịch. Ông viết : "Chúng ta sẽ không chết. Chúng ta đang chết, vào mỗi thời khắc của cuộc đời chúng ta". Một người theo thuyết không thể biết hết như ông mường tượng cái "đời sau" như thế nào ?
- Cái chết là một chủ đề luôn luôn làm cho tôi phải suy nghĩ đến. Việc năm nay tôi đã mừng sinh nhật 85 tuổi không làm cho vấn đề này trở nên cấp bách hơn trong đầu tôi. Nhưng thời gian trôi đi ám ảnh tôi. Cái chết không làm tôi sợ. Cái chết giải thoát chúng ta khỏi những áp lực công việc hàng ngày, khỏi đau khổ. Nhưng chết lại là điều gây nên vấn đề. Nói thế nào đây ? Có thể chẳng còn gì nữa sau khi chết. Có thể là sự hiện hữu của chúng ta chỉ là một dấu đóng và mở ngoặc giữa hai hư vô. Điều đó có thể làm tôi ngạc nhiên. Nhưng tôi tin là cuộc sống có một ý nghĩa, ý nghĩa đó không bị dừng lại vì chúng ta không còn nữa. Tôi tin rằng công bằng và chân lý, vốn thường bị ngăn trở dưới cõi đời này, hẳn phải hiện hữu ở đâu đó.
- Là một người theo thuyết không thể biết, nhưng ông lại có những xác tín chắn chắn ...
- Đúng vậy. Niềm trông cậy nơi Chúa của tôi mạnh mẽ đến nỗi gần như là đức tin.
- Ông có hài lòng về cuộc đời của ông không ?
- Có. Cho đến nay, cuộc đời tôi thật tuyệt vời. Tôi có nhiều may mắn. Nhờ cha tôi là một nhà ngoại giao, tôi đã được đi đây đi đó, được hưởng những tiện nghi vật chất và tinh thần lớn lao. Tôi đã rất được yêu thương. Từ khởi đầu sự nghiệp của mình, tôi cũng đã tự hỏi trở thành nhà văn có phải là một thiệt thòi không. Bởi vì hình như những tình cảm tốt đẹp không phải luôn luôn xuất phát từ thứ văn chương đẹp đẽ. Bi kịch, sự trơ trẽn, nước mắt đã đưa đến biết bao kiệt tác.
- Khả năng hướng đến niềm vui đã đem đến cho ông danh hiệu "nhà văn hạnh phúc". Danh hiệu này có phù hợp với ông không ?
- Lâu nay tôi đã được trao cho danh hiệu này. Tôi dễ dàng ngạc nhiên.
Tôi có thể ngây ngất trước cảnh mặt trời lặn. Tôi yêu cuộc sống. Tuy nhiên tôi cũng sáng suốt để thấy xã hội đang xấu đi. Những câu chuyện tình không kéo dài, con người mất công ăn việc làm. Rồi bạo lực, chiến tranh, bệnh tật ... Rõ ràng thế giới buồn thảm. Nhưng phải sống, phải sống ! Điều đó vẫn còn là một món quà !
- Ông mong muốn Chúa nói gì với ông khi ông đến trước mặt Ngài ?
- "Cha tha thứ cho con". Còn có thể mơ ước gì được hơn thế nữa ? Tôi cũng thường nghĩ đến cuộc gặp gỡ giả thiết đó. Và chắc chắn vị Thiên Chúa mà dù tôi không biết nhưng vẫn thực sự hiện hữu đó vẫn ám ảnh tôi nhiều.
- Nếu, sau khi chết, ông được đề nghị bắt đầu lại mọi chuyện ...
- Không hề có chuyện này ! Một cuộc đời đã đủ lắm rồi, nhất là khi cuộc đời đó tràn đầy. Hình phạt tồi tệ nhất đối với con người có lẽ là cho con người trở nên bất tử (ở thế gian này).
- Tuy vậy, ông ít nhiều cũng đang là như thế ... Chẳng phải là các viện sĩ Hàn lâm được mệnh danh là những người bất tử đó sao ?
- Cocteau đã khẳng định một cách chính xác : "Chúng ta bất tử trong quãng thời gian của cuộc đời của mình. Sau đó, chúng ta biến thành chiếc ghế bành". Tuy nhiên, quả thực là có hai cách để lại vết tích của mình trong lịch sử. Sinh con đẻ cái và thực hiện một tác phẩm. Tôi sẽ rất hạnh phúc nếu tác phẩm của tôi còn được đọc trong 50 năm nữa. Tôi nhận được những bức thư rất dễ thương, nhiều đến nỗi đọc không kịp. Theo năm tháng, tôi nhận thấy những người đọc tôi trẻ trung hơn, điều đó làm cho tôi rất vui. Dĩ nhiên tôi biết là không phải chỉ do những gì tôi viết, nhưng còn bởi vì tôi lên tiếng trên đài phát thanh, trên truyền hình. Bởi vì tôi còn hay bày trò. Mẹ tôi đã dạy cho tôi ba nguyên tắc : "Mọi thư từ đều đáng được trả lời", "Đừng tự mình gâychú ý" và "Đừng nói về mình" ... Bạn thấy đấy, thế là thành công !
- Quả thực là gia đình của mẹ ông rất bảo thủ. Còn bố lại tiến bộ hơn và theo cánh tả. Ông đã làm gì với sự pha trộn này ?
- Bố tôi đã được Mặt trận Bình dân bổ nhiệm làm đại sứ. Còn trong gia đình phía bên mẹ tôi, ông Léon Blum được coi như một người cánh tả. Nhưng ngược lại, bạn bè cùng khóa với ông ở Trường Cao đẳng thì lại coi ông là tư sản. Thực ra phải nói rằng tất cả họ là những người trốt-kít. Tóm lại, tất cả những điều đó dạy cho tôi lòng khoan dung. Đàng khác, có thể tôi đã đẩy tâm tình này hơi quá xa : tôi rất dễ bị ảnh hưởng. Theo kiểu nghĩ rằng những người đối nghịch với tôi thì có lý hơn tôi. Đó là một trong những lý do mà tôi đã không thể làm chính trị.
- Ông có một cháu gái 15 tuổi. Ông là một người ông như thế nào ?
- Không phải khoe khoang, nhưng tôi là người ông tốt nhất ! Trong khi, một cách khách quan, tôi không phải là một người cha tốt. Con gái tôi, Heloise, cho đến khi trở thành một nhà xuất bản, hoàn toàn là do mẹ giáo dục. Tôi không bao giờ tham gia vào đó. Mấy đứa cháu thật tuyệt diệu ! Bởi vì bạn chẳng phải chịu trách nhiệm gì về chúng. Bạn chỉ cần thương yêu chúng thôi. [...]
- Đối với ông, Mầu nhiệm nhập thể có quan trọng ?
Noen làm tôi nhớ lại những kỷ niệm thú vị của tuổi thơ. Những cuộc dạo chơi bằng xe trượt tuyết trong vùng quê Rumani lúc bố tôi làm việc ở đó ... Dưới một quan điểm thiêng liêng hơn, Noen cũng là một ngày lễ làm tôi say mê bởi vì nó nhắc nhở cái nhập thể ! Một Thiên Chúa làm người ở giữa con người : tuyệt vời ! ...
(H.P dịch – Nguyệt san báo CG&DT số 194, tháng 2/2011)
Tiếp theo xin mời bạn gặp gỡ tiến sĩ Phan Như Ngọc, nguyên giáo sư triết học duy vật, thành viên Viện Khoa học Vật lý, Viện Khoa học Nguyên tử Việt Nam.
Tôi sinh ra và lớn lên trong lòng miền Bắc nước Việt Nam XHCN. Suốt 10 năm trung học phổ thông tôi luôn luôn được dạy rằng vũ trụ này tự nhiên mà có, không có ông Trời nào hết. Rồi tôi vào học ngành Vật lý của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Tôi phải học Triết học Duy vật một cách có hệ thống, trong đó sợi chỉ đỏ xuyên suốt là quan điểm vật chất có trước, vật chất quyết định ý thức. Chỉ những gì con người cảm nhận được trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các giác quan mới tồn tại (hay hiện hữu).
Như thế hệ thống triết học này đương nhiên chối bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa, vì không ai có thể sờ đụng được hoặc cảm nhận được Ngài nhờ giác quan của mình. Lúc bấy giờ tôi cảm thấy điều này là đúng. Ai tin có Thiên Chúa, tôi đều coi là duy tâm, là mê tín dị đoan cả.
Sau khi tốt nghiệp, tôi làm nghề dạy học. Tôi vừa phải dạy vật lý vừa thông qua môn học này để giáo dục tư tưởng triết học này cho sinh viên. Vì thực tâm tin ở sự đúng đắn của hệ thống triết học này, nên tôi giảng dạy rất say sưa, không thấy gò bó gì cả. Mười ba năm dạy học là mười ba năm tôi bước đi trên con đường xa cách Thiên Chúa và chống lại đường lối của Ngài.
Năm 1976, tôi trở thành nghiên cứu sinh ở Hungary. Có chút bằng cấp nước ngoài rồi, tôi không dạy học nữa mà xin về làm ở Viện Vật lý thuộc Viện Khoa học Việt Nam. Về sau, tôi được cử làm trưởng phòng của Phòng Nghiên cứu Vật lý Hạt nhân, trong đó có sáu phó Tiến sĩ cùng làm việc. Chúng tôi đã từng ký kết và thực hiện hợp đồng với Cơ quan Nguyên tử Quốc tế (International Atomic Energy Agency) cộng tác nghiên cứu các phản ứng tổng hợp hạt nhân vào mục đích hòa bình. Tôi đã đi dự một số hội nghị khoa học quốc tế để báo cáo về các công trình nghiên cứu này.
Bước đường sự nghiệp của tôi, tuy chưa bằng ai, nhưng đối với tôi, có thể là toại nguyện. Chỗ làm việc của tôi thật lý tưởng.
Vì nhiều lý do, năm 1989, nhân một chuyến đi công tác nước ngoài, tôi đã xin ở lại Đức. Một hôm tôi đã gặp một nhà truyền đạo Hà Lan tên là Henk Wolthaus. Ông đến phát sách Kinh Thánh cho mọi người. Sau khi nói chuyện với ông một lát, tôi xin ông một quyển Kinh Thánh bằng tiếng Anh (vì không có Kinh Thánh bằng tiếng Việt) và một vài cuốn sách nhỏ khác. Tối hôm đó, tôi bắt đầu đọc thử các sách mới xin để xem sao.
Ngay từ dòng đầu Kinh Thánh tôi đã thấy vô lý. "Ban đầu Đức Chúa Trời đã dựng nên trời đất" (St 1,1). Lương tri tôi bật lò xo. Đó là phản ứng tự nhiên của một người đã sống gần 50 năm trong định kiến không tôn giáo. Nhưng rồi tôi nhớ lại, chính nhà bác học Newton cũng cho rằng sở dĩ các thiên thể chuyển động nhịp nhàng được là nhờ "cái hích đầu tiên" mà ngày trước tôi đã từng phân tích cho sinh viên đây là quan điểm hoàn toàn sai lầm. Tự nhiên tôi nghĩ rằng Newton, người phát minh ra định luật hấp dẫn vũ trụ được coi là phát minh vĩ đại nhất của lịch sử văn minh nhân loại lại có thể kém như thế ư ? Và tôi tự trả lời : "Không thể được, chắc là vì mình dốt, không hiểu được ông ta. Có lẽ Đức Chúa Trời có thật". Rồi tôi đọc tiếp câu chuyện Chúa sáng tạo vũ trụ trong vòng sáu ngày. Tất cả như một câu chuyện thần thoại dành cho trẻ con. Khi đọc tới Tân Ước, tôi cảm thấy có nhiều điều không thể chấp nhận được. Có thể tin chăng một người mù được sáng mắt, người cùi được sạch, người què được lành, người chết đã có mùi sống lại chỉ nhờ những lời phán ? Ai có thể đi bộ trên mặt nước, ra lệnh bắt bão tố vô tri phải dừng ?
Những phép lạ đầy dẫy trong Kinh Thánh làm cho cái đầu quen suy nghĩ theo kiểu vô tôn giáo của tôi không sao hiểu nổi. Đúng lúc ấy trong đầu tôi nảy ra một câu hỏi, mà bây giờ tôi biết chính Chúa đã đến gỡ rối cho tôi. Câu hỏi đó là : "Sức mạnh nào khiến cho hàng tỷ người trên thế giới, trong đó có hầu hết các nhà khoa học vĩ đại, mà tôi ngưỡng mộ, tin Kinh Thánh ? Họ cuồng tín hay chính mình ngu dốt ?".
Từ những cuốn sách mỏng xin của người truyền đạo Hà Lan, tôi đã đọc được những câu bất hủ sau :
§ Charles Dickens (Anh, 1812- 1879) viết : "Kinh Thánh Tân Ước chính là cuốn sách tốt nhất đã từng hoặc sẽ được biết đến trên thế giới" ;
§ Ngài Isaac Newton (Anh, 1642- 1727), nhà khoa học mà tôi đầy lòng khâm phục, đã kết luận : "Trong Kinh Thánh có nhiều biểu hiện chắc chắn về tính có thực hơn trong bất cứ một câu truyện nào chống lại sách đó" ;
§ Victor Hugo (Pháp, 1802-1885) viết : "Nước anh có 2 cuốn sách :
Kinh Thánh và Shakespear. Nước Anh sinh ra Shakespear, còn Kinh Thánh làm nên nước Anh" ;
§ Albert Einstein (Đức, 1879- 1955), nhà vật lý được coi là vĩ đại nhất của thế kỷ 20, đã phát biểu : "Khoa học không có tôn giáo là mù lòa. Tôn giáo mà thiếu khoa học là què quặt".
Lúc bấy giờ tôi chưa hiểu được nhiều ; nhưng Chúa biết tôi là người từng được học và làm khoa học, nên đã dùng tiếng nói của chính các nhà khoa học thật lớn để mở mắt cho tôi.
Tôi nhớ đến một câu nói của Newton : Sau khi ông đã phát minh ra "Định luật hấp dẫn vũ trụ" kỳ diệu, nhiều người đã hỏi ông làm cách nào mà ông đã có thể phát minh ra định luật vĩ đại như vậy, Newton vừa cười vừa trả lời : "Đó là nhờ tôi đã đứng trên vai những người khổng lồ".
Chúa như đang nhắc nhở tôi "Hãy đứng lên vai những người khổng lồ này thì con sẽ nhận ra chân lý của Ta". Quả nhiên tôi đã bị Ngài chinh phục dễ dàng. Cái tư tưởng không tôn giáo được tích lũy công phu và sử dụng bao nhiêu năm nay, bị đánh bật khỏi đầu óc tôi. Xưa nay tôi vẫn nghĩ đơn giản : "Không có Đức
Chúa Trời, vì không ai chứng minh được sự hiện diện của Ngài". Nhưng bây giờ tôi lại biết đặt câu hỏi mới : "Ai đã chứng minh được Đức Chúa Trời không hiện hữu ?". Tất cả chỉ dựa vào cảm giác của con người ; mà cảm giác thì không phải là một chứng minh khoa học. Người đang đứng ở trái đất thì nói rằng mặt trăng xoay quanh trái đất ; nhưng quan sát viên đứng ở mặt trăng sẽ bảo trái đất quay quanh mặt trăng. Ai đúng? Hơn nữa, có nhiều cái hiện hữu mà ta không thể nhận biết bằng cảm giác, chẳng hạn như trí khôn con người. Không có và không thể có một máy móc nào đo được trí khôn. Vì vậy quan niệm "có Chúa hay không có Chúa" là vấn đề Đức tin, nằm ngoài phạm vi của khoa học, của cảm giác. Nói theo ngôn ngữ khoa học, đây là những "tiền đề" (Axioms).
Thật ra, tiền đề "có Chúa" dễ tin hơn tiền đề "không có Chúa" nhiều. Nhà bác học Newton đã làm một mô hình hệ thống mặt trời rất đẹp để ngay trên bàn làm việc. Một hôm, có một người bạn không tôn giáo đến thăm. Ông bạn khen mô hình đẹp quá và hỏi : "Ai đã làm nên vậy ?". Newton cười hóm hỉnh trả lời : "Tự nhiên mà có đấy thôi !". Ông bạn không tin. Newton trả lời : "Thế tại sao cậu lại tin cả vũ trụ vĩ đại chuyển động nhịp nhàng này tự nhiên mà có không cần Đấng Sáng Tạo ?".
Tương tự, nếu đi làm về mà thấy có cơm dẻo canh ngọt trên bàn thì nhất định chúng ta phải tin rằng có bàn tay một người nào đó đã dọn sẵn. Chân lý đó thật quá đơn giản, vậy mà tại sao nhiều người (kể cả tôi trước đây) lại theo tiền đề "không có Chúa". Kinh Thánh có câu trả lời "vì tên ác thần của đời này (ma quỷ) đã làm cho tâm trí họ ra mù quáng" (2Cr 4,4).
Tính muôn màu muôn vẻ của thiên nhiên, tính di truyền kỳ diệu : Hạt giống nào sinh cây trái đó ; vẻ đẹp tuyệt vời của những nàng hoa ; sự hài hòa và hoàn thiện của cơ thể con người ; sự hùng vĩ của bầu trời đầy sao. Tất cả những sự mầu nhiệm đó cộng với những ý kiến của các vĩ nhân mà tôi hằng kính phục đã cho tôi nhận ra một Đức Chúa Trời toàn năng, toàn trí và toàn tài. Dần dà tôi cũng tin Kinh Thánh là Lời Hằng Sống của Đức Chúa Trời, vì dù đã được viết bởi hơn bốn mươi tác giả, ở những địa điểm khác nhau, trải qua khoảng thời gian 1500 năm, nhưng Kinh Thánh là một thể thống nhất. Từ đầu chí cuối Kinh Thánh nói về một chủ đề duy nhất, đó là kế hoạch cứu rỗi của Đức Chúa Trời dành cho nhân loại.
Thực ra đây cũng là vấn đề của đức tin, là tiền đề thứ hai cho mọi người theo Chúa.
Một trong những khái niệm khó giải nhất là khái niệm Đức Chúa Trời có Ba Ngôi một thể (Tam vị nhất thể). Cảm tạ Chúa đã tạo tôi thành một người nghiên cứu vật lý, nên điều này đối với tôi lại rất dễ chấp nhận khi so sánh với nước. Nước cũng có ba trạng thái là rắn, lỏng và hơi. Ba trạng thái vật chất ấy đều có cùng bản chất là H2O, có thể nói 3 là 1, 1 nhưng là 3. Ở đâu có 1 là có cả 3 trạng thái. Điều thật khó hiểu lại trở thành dễ hiểu, quá rõ ràng, mặc dù đây chỉ là một sự so sánh khập khiễng, một sự minh họa rất đại khái mà thôi.
Khi đã có những niềm tin cơ bản ấy (thừa nhận cả 2 tiền đề) thì mọi thắc mắc về các phép lạ đều được giải đáp dễ dàng. Đức Chúa Giêsu chính là Đức Chúa Trời hiện thân làm người như chúng ta. Như vậy, Người là Đấng Sáng Tạo. Chính Ngài đã tạo nên vũ trụ này, vốn là một phép lạ vĩ đại nhất, thì những phép lạ khác trong Tân Ước, như đi trên mặt nước, gọi người chết sống lại … đối với Ngài không có gì là khó thực hiện. Những lời dạy của Chúa Giêsu đã gây cho tôi nhiều xúc động, vì tôi thấy tình yêu của Ngài thật vô bờ bến. Ngài cũng phán : "Ta là đường, là chân lý và là nguồn sống. Nếu không nhờ Ta không ai đến được với Cha". Ngài không tìm đường đi tới hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng ta, mà Ngài chính là con đường dẫn chúng ta tới sự cứu rỗi linh hồn. Ngài không nói một chân lý nào khác, vì chính Ngài là chân lý tuyệt đối duy nhất. Và cũng chính Ngài là nguồn sống, vì tổ phụ Ađam của chúng ta đã nhờ sinh khí của Ngài mà trở thành một loài sinh linh. Người Việt Nam ta cũng tin có Ông Trời. Ca dao Việt Nam có bài :
"Lạy Trời mưa xuống,
lấy nước tôi uống,
lấy ruộng tôi cày,
lấy đầy bát cơm,
lấy rơm đun bếp"
Trời, Chúa Trời, Đấng Tạo Hóa, theo niềm tin của tổ tiên Việt Nam thật chân thành, vì các cụ tin có TRỜI che ĐẤT chở, vì "Trời có mắt" (Hoàng Thiên hữu nhãn). Trước cửa nhà nào cũng có BÀN THIÊN (bàn thờ Trời). Trời thương dân như cha mẹ thương con, nên dân Việt cũng cư xử với Trời như ông bà cha mẹ vậy. Không những khắp đồng quê, mà còn nơi đế đô phồn hoa, từ xưa các vua Việt Nam có bổn phận thay mặt dân tế Trời, thờ Chúa Trời. Đó là ý nghĩa LỄ TẾ NAM GIAO tại cố đô Huế.
Con người tưởng rằng họ có thể trực tiếp đến với Đức Chúa Trời, đến với Cha Thiên Thượng bằng năng lực riêng của mình, nhưng Chúa Giêsu cho biết rằng tội lỗi đã tạo ra một hố sâu ngăn cách giữa nhân loại với Đức Chúa Trời. Ngài cũng phán : "Này Ta đứng trước cửa mà gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta" (Kh 3,20).
Thật sự cảm động trước những lời dạy đầy tình thương đó, tôi đã quỳ gối ăn năn về những tội lỗi trong những năm sống không tôn giáo, và thành kính mời Ngài vào làm chủ cuộc đời mình. Từ đó, đời tôi hoàn toàn được đổi mới, tràn ngập ánh sáng bình an và hy vọng.
Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy xót xa ân hận vô cùng. Nếu linh hồn của lớp đàn em toâi đ dạy bị hư mất, thì chính tôi phải chịu một phần trách nhiệm. Tôi đã vô tình gây nên tội.
Thưa quý vị, với bài viết ngắn này tôi không thể nào nói hết được những phước hạnh mà Chúa đã ban cho tôi từ ngày tôi tin nhận Ngài.
Trước đây, tôi cứ nghĩ "chết là hết". Thật ra không phải thế. Kinh Thánh cho biết rằng chết là bắt đầu một cuộc sống mới, như hạt giống chết đi để bắt đầu sự sống của một cây xanh. Đức Chúa Giêsu dạy rằng
: "Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì không bị hư vong, nhưng có sự sống đời đời" (Ga 3,16).
[Bây giờ, khi đã tin Chúa, tôi thấy kế hoạch của Ngài đào tạo tôi thật quá diệu kỳ. Không có bàn tay chăm sóc của Ngài thì một thường dân như tôi làm sao có thể được ưu đãi như thế. Cảm ơn Chúa thật nhiều !]
Để kết thúc, xin phép cho tôi trích dẫn lời của Albert Einstein : "Tôn giáo của tôi là sự hạ mình chiêm ngưỡng Đấng vốn là Thần linh tối cao, vô hạn, đã tự bày tỏ chính Ngài trong những phần tử vô cùng nhỏ bé trong vũ trụ, để cho chúng ta, bằng tư duy thiển cận tầm thường của mình, cũng nhận biết được Ngài. Chính sự hiểu biết về những quy luật tuyệt vời của vũ trụ vĩ đại và kỳ diệu, đã đem đến cho tôi niềm tin sâu sắc về sự hiện diện của một Đấng quyền năng tối thượng đã sáng tạo nên vũ trụ, cái mà con người không thể nào lãnh hội được bằng lý trí của mình. Đấng đó chính là Đức Chúa Trời của tôi" (Barnett Lincoln : The Universe and Dr. Einstein, p.95). Ông cũng tuyên bố : "Tôi sẽ đi Nhà thờ, lấy những lời dạy của Chúa Giêsu làm tín điều của mình"
(Knight Treasure of Illustration p.217).
Cầu Chúa dùng bài làm chứng ngắn ngủi này để góp phần rất nhỏ giúp quý vị tin nhận Chúa Cứu Thế Giêsu, mời Ngài vào làm chủ cuộc đời mình và nhận được ơn cứu rỗi, tức là sự sống đời đời, mà chính Ngài đã hứa ban tặng cho những người tin.
Kinh Thánh dạy rằng: "Đức Chúa Trời là Tình Yêu Thương" (1Ga 4,16). Tin nhận Chúa Giêsu, quý vị sẽ nếm trải được tình yêu thương ngọt ngào ấy như hàng tỉ người trên khắp thế giới và như chính tôi đã từng kinh nghiệm được. Quý vị sẽ như một người con đi xa quay về
Nhà Cha của mình. Mọi thứ trước đây ở bên phải nay đều ở bên trái, và ngược lại, mọi thứ trước đây ở bên trái nay đều ở bên phải (như đại văn hào Lev Tonstoi – Nga đã nhận xét). Phước hạnh và tình thương của Chúa sẽ theo quý vị cho đến hết cuộc đời như Ngài đã hứa.
Chúa Giêsu mời bạn đi theo Ngài ! (mời chứ không ép buộc, áp đặt – Bạn hy luơn nhớ l Cha v Gio Hội luơn tơn trọng tự do tin v khơng tin của mọi người)
Chúa Giêsu nói : "Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,16).
Chúa Giêsu nói : "Phần tôi, tôi đến để cho anh chị em được sống, và sống dồi dào" (Ga 10,10).
"Chính Ta sẽ ban cho những ai khát được uống nơi nguồn nước trường sinh mà không phải trả tiền" (Kh 21,6).
Vui biết mấy, một ngày mai chúng ta sẽ gặp nhau ở Thiên đường, cùng nắm tay nhau ca hát tôn ngợi Đức Chúa Trời yêu quý, là Đấng sáng tạo đã dựng nên trời đất, vũ trụ, muôn loài, cũng như cả quý vị và tôi nữa ! Thật là một niềm hạnh phúc tuyệt vời !
Ước mong sẽ được trao đổi tâm tình thêm với quý vị qua các phương tiện thông tin hiện có.
Tiến sĩ PHAN NHƯ NGỌC pnngoc@gmx.net www.hoptinhhoply.org
(Trích trong Bài Giảng Chúa Nhật số 4/2007, tr.74) Sau khi gặp gỡ những nhân vật tầm cỡ đương thời như viện sĩ Viện Hàm lâm Pháp Jean D'Ormesson và tiến sĩ vật lý, nguyên tử học VN Phan Như Ngọc, chúng ta lại có duyên được tiếp cận những con người khổng lồ của thế giới như Einstein, Charles Diskens, Isaac Newton, chúng ta còn có một thống kê các nhà khoa học lừng danh thế giới từ thế kỷ 16-18, như :
- Nicola Copernic – nhà thiên văn học (Ba Lan, 1473-1543).
- Galileo Galilée – nhà thiên văn, toán học, vật lý (Ý, 1564-1642).
- Blaise Pascal – nhà bác học, nhà tư tưởng (Pháp, 1623-1662).
- Antoine Laurent de Lavoisier – nhà toán học (Pháp, 1743-1794).
- Alexsandro Volta – nhà vật lý (Ý, 1745-1827).
- Joseph Marie Jacquard – nhà chế tạo (Pháp, 1752-1834).
- Andre Ampère – nhà vật lý (Pháp, 1775-1836).
- G.W. Leibnit – nhà toán học, vật lý (Đức, 1646-1716).
Và những nhà khoa học khác, có tới 99% tin Thiên Chúa – Hẳn chúng ta phải thừa nhận rằng họ không phải hạng ngu si dốt nát đến nỗi bị lý thuyết viển vông này, tôn giáo sai lạc nọ lừa gạt. Họ đã tin có Trời, có Đấng Tạo Hóa. Họ đã khám phá ra Đạo chính là con đường dẫn tới Ngài, là Chân-Thiện-Mỹ tuyệt đối.
Từ đầu câu chuyện tới đây, chúng ta cứ coi là phần phiếm luận, bây giờ tôi trao vào tay bạn 1 tập sách nhỏ, gọn mà tôi đã đọc từ những năm 60 của thế kỷ trước, và nếu tôi không nhớ lầm thì tác giả tập này là cố Chính Lý của địa phận Phát Diệm, một linh mục lão thành uyên bác về Hán Nôm, La-tinh và Pháp văn, đã từng là giáo sư Chủng viện, rất đạo đức và rất có uy tín trong và ngoài giáo phận. Vào những năm đó mà ngài đã viết nhiều tập nhỏ như vậy, trình bày chân lý và tặng không cho độc giả, ngài tự bỏ tiền ra in rất nhiều, bằng chứng là cuốn này tái bản năm 1970 tại Sàigòn được ghi "nghìn thứ 15", ngài mất cách đây mấy chục năm ở tuổi đại thọ 90. Đây, "Tôi theo đạo Trời" – mời bạn hãy cầm lấy mà đọc (tolle et lege).
Về đầu trang
Lời nói đầu.
Đã có một thời, người ta bảo theo đạo Chúa là theo đạo của Tây, bỏ đạo của quốc gia dân tộc. Không phải thế. Đức Giêsu, Giáo Tổ của Đạo Trời sinh ra, sống và giảng đạo tại xứ Pha- lê-tin, miền Trung Đông, thuộc Á châu chúng ta, chứng không phải bên Tây phương.
Từ đó, Ngài sai các Tông đồ đi khắp thế gian truyền đạo. Người Tây phương nhận được Đạo trước, đem truyền lại cho ta. Như vậy, Đạo Chúa là Đạo của Trời, chẳng của riêng ai, chẳng của riêng nước nào.
1 Để càng thêm rõ ràng, chúng tôi mạn phép tu bổ đôi chút vào bản văn của tác giả mà chúng tôi tìm kiếm mãi vẫn không thể liên lạc được.
Hãy cứ xem : Người nào cũng muốn mình và gia đình mình được sống vui vẻ hạnh phúc trong một xã hội tốt đẹp và lành mạnh.
Nhìn ra thiên nhiên hùng vĩ và kỳ diệu, mọi loài mọi vật từ dưới đất cho chí trên trời đều xoay vần thứ tự lớp lang, còn trong lòng thì nghe thấy tiếng lương tâm dạy bảo thúc giục, nên ta mơ hồ tin có Ông Trời, có đấng vô cùng thông minh, cao cả, quyền phép vô biên tạo dựng vũ trụ càn khôn này, trong đó có mọi loài mọi vật và có loài người chúng ta.
Nhưng vì không được biết rõ, cho nên cứ tưởng Ông Trời ở mãi tận cõi thiên đình xa xôi nào đó, chẳng can dự gì vào chuyện đời, chuyện học hành, chuyện làm ăn, chuyện vui chuyện buồn của thế giới này.
Đáp lại những tâm tình tự nhiên ấy, đạo hay tôn giáo đến hướng dẫn ta làm lành lánh dữ để ngay đời này ta được sống yên hàn hạnh phúc. Đạo còn đến chỉ cho ta biết Ông Trời và con đường để siêu thoát lên cõi trên ở đời sau mà được sống với Ngài.
Giữa dòng đời bôn ba chìm nổi, ngoài những lúc bươn chải kiếm sống, chắc mỗi người chúng ta cũng có lúc lắng đọng tâm hồn để suy tư và tự hỏi : Mục đích tôi sống trên đời này để làm gì ?
Sau ít năm thời thơ ấu vui chơi học hành, lớn lên lấy vợ lấy chồng tạo lập sự nghiệp, nhiều khi vất vả kiếm cơm nuôi thân và nuôi gia đình. Thế rồi tuổi đời xế bóng, sức lực dần dần suy tàn, thường khi lại phải vật vã với bao bệnh tật của tuổi giả mắt mờ chân chậm ... ai ai cũng đều nhận thấy đời là mau qua chóng hết, thời gian vùn vụt như "bóng câu qua cửa sổ". Chưa hết, cho dù thành đạt giàu sang hay thất bại nghèo hèn, chẳng ai tránh khỏi đau khổ, bệnh tật và đều cho đời là chốn bể dâu sầu khổ, một thung lũng nhiều nước mắt hơn tiếng cười ... Rồi cuối cùng, bóng tử thần dần dần hiện ra trước mắt, và ai cũng phải đối mặt với cái chết. Nhưng vấn đề chính là :
- Chết rồi mình sẽ đi về đâu ?
- Số phận đời sau của mình sẽ như thế nào ?
Chẳng mấy ai thực lòng tin rằng chết rồi là hết như con trâu, con chó, vì có câu : "Nhân ư vạn vật duy linh" (ở giữa vạn vật chỉ có con người duy nhất có cái linh).
Cái gì do vật chất hợp lại, thì có hợp phải có tan, thể xác do vật chất hợp lại, sẽ chết và tan rã, nhưng mà cái linh trong ta là hồn thì không do vật chất hợp lại nên không thể tan mất, không thể chết. Do đó mới có câu : "Chết là thể xác, còn là tinh anh". Vì thế nên cha ông chúng ta xưa mới dạy rằng : "Sống gửi, thác về" (sinh ký, tử qui).
Vậy nếu không có cõi đời sau mà về, ở đó có một Ông Trời phân xử công minh, thì cuộc sống trần gian này đầy dẫy những bất công, những chuyện mạnh được yếu thua, những áp bức, những nỗi oan khiên của người thấp cổ bé miệng, nhỏ hèn vô tội ..., sẽ là một cuộc đời hoàn toàn phi lý (xem "Suy nghĩ vẩn vơ tập 1").
Do đó, người Việt Nam tin phải có Ông Trời, mà có Ông Trời thì phải có Đạo Trời, đạo của Ông Trời. Vậy ta hãy hỏi xem :
1. Đạo Trời là gì ?
Thưa : Là lòng tin tưởng ở một vị linh thiêng, hằng hữu, toàn tri, toàn năng, toàn thiện, chí công, chí minh, ngự trên trời. Nôm na gọi Đấng ấy là Ông Trời, là Tạo Hóa, là Thượng Đế, là Đấng Tối Cao, là Giàng – tùy tiếng nói của mỗi dân tộc. Đức Khổng Tử đã nói : "Duy Thiên vi đại" (chỉ có Trời là lớn) ; thày Chu Tử nói :
"Thượng Đế giả, Thiên chi Chúa tể giả" (Vua trên hết là Chúa trên trời).
2. Tại sao nhận biết có Trời ?
Tuy Ông Trời là Đấng linh thiêng, vô hình, không có thân xác như loài người, nên không ai thấy được, song hầu hết ai cũng tin là có. Không thấy thì khác mà không có thì khác. Có dòng điện chạy trong dây đồng, ta đâu có thấy, mà nó có đấy, cứ bật "công tắc" là đèn sáng ngay. Có gió đấy mà ta đâu có thấy, song ta nghe được tiếng gió rít qua khe cửa, ta thấy gió lay động cành cây.
Trời đã ban cho ta hơn loài vật ở chỗ không chỉ có mắt để thấy mà còn có trí để suy, sao ta chỉ dùng mắt có thấy hay không thấy mà đoán định về mọi sự ? Vậy hãy lấy mắt nhìn trời nhìn đất, và lấy trí mà suy nghĩ một chút thì sẽ nhận ra là có Ông Trời.
Ngay cả chữ "Thiên" ta thường dùng cũng nói đến Ông Trời. Nhìn vào gốc chữ Thiên ( 天) là bởi hai chữ : nhất (ㄧ) và đại (大) hợp lại mà thành. Ý nói : Đấng lớn nhất là Trời (天). Và nhìn vào vũ trụ bao la, tinh tú trăng sao luôn luôn trật tự xoay vần theo một định luật mà không do con người đặt ra, mặt trời chiếu tỏa ban ngày, vầng trăng soi sáng ban đêm ; nhìn vào muôn loài muôn vật nhất là con người được tạo nên đẹp đẽ, tinh vi, kỳ diệu, ta phải nhận rằng có một trí năng vô cùng thông minh đã nghĩ ra, một quyền năng vô hạn đã tác tạo ... Ta gọi là Tạo Hóa, Hóa Công, hoặc Đấng Tạo
Thành, hay bất cứ bằng một danh hiệu nào khác, điều đó không quan trọng, điều quan trọng là phải có Đấng tạo nên, chứ vạn vật không thể tự nhiên mà có được ...
Ta xem một chiếc đồng hồ,
Nếu không có thợ, bao giờ thành thân,
Phương chi máy tạo xoay vần,
Tứ thời bát tiết muôn phần lạ hơn,
Nên ta phải lấy trí khôn,
Luận rằng có Đấng chí tôn sinh thành.
Đức Khổng Tử nói : "Nhân tri nhân, bất khả dĩ bất tri Thiên" (người ta còn biết nhau, không thể nào không biết Trời được).
Con chim nó hót trên cành,
Nếu Trời không có, có mình làm sao ?
Con chim nó hót trên cao,
Nếu Trời không có thì sao có mình ?
Câu ca dao thật là giản dị, lý luận thật là đơn sơ nhưng rất thâm túy : Phải có một Ông Trời mới có con chim hót, và có con chim hót, ắt là phải có Ông Trời ! Tổ tiên, cha ông chúng ta đã suy nghĩ, đã lý luận để quả quyết là có Ông Trời, có Đấng Tạo Hóa. Các ngài đã để lại cho dân Việt chúng ta một gia sản văn hóa và tinh thần mà phần quý nhất của gia sản đó là phần nói cho chúng ta biết rằng có một Ông Trời, đó là Đấng Tạo Hóa, Đấng dựng nên mọi sự.
Ông Đổng Trọng Thư nói : "Thiên giả vạn vật chi tổ" (Trời là gốc của vạn vật).
Truyện kể rằng nhà bác học Isaac Newton, người đã khám phá ra định luật "Hấp lực vũ trụ", khi ông nhìn thấy quả táo rơi xuống đất. Ông đặt trên bàn ở văn phòng một mô hình hệ thống mặt trời rất đẹp, gồm mặt trời, mặt trăng, trái đất và các hành tinh … Một hôm có người bạn vô tín ngưỡng đến thăm, khen mô hình này đẹp và hỏi : "Ở đâu mà có mô hình đẹp ấy ?", Newton cười hóm hỉnh trả lời : "Tự nhiên mà có đấy !". Ông bạn kia cho là nói đùa, lúc ấy Newton mới hỏi vặn lại : "Nếu ông bạn không tin là tự nhiên mô hình này có, thì tại sao ông bạn lại tin rằng cả cái vũ trụ vĩ đại chuyển động nhịp nhàng, trật tự điều hòa này tự nhiên mà có, không cần Đấng sáng tạo ?".
Tiến sĩ vật lý thiên văn Trịnh Xuân Thuận cũng xác định : "Phương pháp khoa học không thể trả lời một cách trực tiếp về sự hiện hữu của Đấng
Tối Cao … Phần tôi, tôi sẵn sàng đánh cược cho sự hiện hữu của Người …" (Trích cuốn "Giai điệu bí ẩn" của tiến sĩ Trịnh Xuân Thuận, NXB Khoa học & Kỹ thuật – Hà Nội, tháng 5/2000, trang 311).
3. Những người tin tưởng ở Trời có nhiều không ?
Có thể nói được rằng hầu hết nhân loại đều tin ở Trời. Trong Kinh Dịch, quyển sách toàn khoa nổi tiếng ở phương Đông cũng dạy : "Người quân tử là người biết thờ Trời" (quân tử sự Thiên).
Trong văn học dân gian Việt Nam, Ông Trời, Chúa Tể trời đất được đề cập đến thường xuyên một cách rất tự nhiên :
"Trời sinh, trời dưỡng,
Trời cho ai, nấy hưởng"
Tính tự nhiên của con người, khi gặp nguy biến, đều kêu đến Trời : "Trời ơi !", gặp oan ức đều xin Trời chứng quả : "Ông Trời có mắt" ; giao dịch, kết ước với nhau cũng xin Trời làm chứng :
"Một lời đã trót thâm giao,
Dưới rày có đất, trên cao có Trời"
(Kiều)
Gặp tình thế khó khăn, gặp điều không hiểu không biết đều xin Trời lý giải hay xét xử : "Bắc thang lên hỏi Ông Trời".
Tất cả những điều đó nói lên trước nhất Ông Trời là một Vị ở trên cao chứ không phải là một người phàm trần như chúng ta, và thứ hai Ông Trời phải là một Vị thông minh, trí khôn sáng suốt, khôn ngoan siêu phàm, biết hết mọi sự, phân xử công minh.
Ta có khúc ca dao diễn tả lòng tin ở Trời một cách chân thành, thực tế rằng Ông Trời là Chủ Tể mọi sự, có quyền ban xuống cho loài người những điều cần thiết nhất cho cuộc sống của mình :
"Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày,
Lấy đầy bát cơm,
Lấy rơm đun bếp"
"Gặp thời là được thọ khang,
Tam đa ngũ phúc rõ ràng Trời cho"
4. Đạo Trời có phải riêng cho một nước nào không ?
Đạo Trời là chung cho mọi nước, mọi đời, vì Trời là : "Vạn vật chi Tổ", nên ai ai cũng phải thờ kính Trời, làm gì cũng không qua được mắt Trời, vì : "Thiên chi thông minh, vô sở bất cập" (Trời sáng suốt, không có gì mà không biết).
Đức Khổng Tử nói : "Minh đạo chi bản nguyên, xuất ư Thiên" (Đạo sáng suốt là bởi Trời ban xuống), chứ không phải do loài người đặt ra đâu, nên không thể gò ép vào một nước hay vào một thời đại nào được.
Vì thế, từ thời thượng cổ, tin vào Ông Trời đã trở thành đạo của người Việt. Tự bản sắc văn hóa, chúng ta là một dân tộc hữu thần. Chúng ta không những tin có Ông Trời, mà còn sống gắn bó với Ông Trời trong mọi sinh hoạt từ khi chào đời cho đến ngày từ giã cõi đời :
- Lúc sinh ra :
"Thông minh vốn sẵn tính Trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm"
(Kiều)
- Lúc lao động :
"Ơn Trời mưa nắng phải thì,
Nơi thì bừa cạn nơi thì cày sâu,
Công lênh chẳng quản bao lâu,
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng"
- Lúc kết duyên vợ chồng :
"Nhờ cô nhờ bác giúp lời,
Chị em giúp của,
Ông Trời định đôi"
- Lúc sinh sống ở đời :
"Khó giàu muôn sự tại Trời,
Nhân sinh ai cũng kiếp người mà thôi"
"Trời nào có phụ ai đâu,
Hay làm thì giàu, có chí thì nên"
- Nhưng luôn phải biết rằng :
"Mưu sự tại nhân,
Thành sự tại Thiên"
- Lúc chết :
"Trời kêu ai, người nấy dạ"
5. Nơi mỗi người, làm thế nào biết được Đạo Trời ?
Trời đã ban cho mỗi người có lương tri, lương tâm như ngọn đèn soi cho biết đâu là thật, đâu là dối, đâu là lành, đâu là dữ, đâu là phúc, đâu là tội, để ta lái mọi tư tưởng, hành động của ta sao cho hợp với đường lối của Trời.
Đức Khổng Tử nói : "Đạo bất viễn nhân" (Đạo không có xa người ta đâu), và : "Tri Thiên đạo, hành thân dĩ nhân nghĩa" (Biết Đạo Trời, thì ăn ở theo nhân nghĩa).
6. Mỗi người phải giữ Đạo Trời thế nào ?
Phải cố gắng hết sức mà tìm cho mình thấy rõ Đạo Trời, như lời dạy : "Tiễn kinh cức nhi tầm đại đạo" (Phải phát quang gai góc mà tìm ra đường lớn). Phải lấy Đạo mà hướng dẫn đời sống : "Dĩ đạo tuẫn thân". Theo lương tâm mà lấy điều thiện làm vui, lấy đạo đức làm trọng : "Vi thiện tối lạc, đạo lý tối đại".
Phải nhớ luật của Trời là làm lành sẽ được thưởng, làm dữ sẽ bị phạt :
- "Tác thiện giáng chi bách tường, tác bất thiện giáng chi bách ương" (Làm điều lành là kéo xuống cho mình trăm sự tốt, làm điều xấu là kéo đến muôn sự tai họa).
- "Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu" (lưới Trời rộng, thưa mà không lọt đâu).
7. Dân chúng từ xưa thờ kính Trời thế nào ?
Đạo Trời này không giáo lý, không tổ chức thành Giáo Hội, nhưng phổ biến rộng rãi từ hàng bao ngàn năm mà vẫn không có gì làm cho nó suy tàn được. Ông cha chúng ta tin có một Đấng vô hình, tạo dựng nên trời đất và tổ tiên mình. Đấng này phải được tôn thờ trên và trước tổ tiên, ông bà.
Xưa trong một nước, chỉ có vua được đại diện toàn dân mà tế lễ Trời, ba năm một lần, nước ta gọi Tế Nam Giao.
- Khi gặp tai nạn như ôn dịch, mất mùa, giặc giã, nhà vua cũng có thể tổ chức lễ tế Trời, để cầu đảo xin cho quốc thái dân an.
- Ở kinh đô có một đền gọi là Đền Kính Thiên, trong đó có để bài vị thờ, viết 4 chữ : "Hoàng Thiên Thượng Đế".
Tuy vua đã đại diện cho dân thờ Trời trong lễ Nam Giao, nhưng dân vẫn thấy cần phải thờ Trời hằng ngày, vì thế mỗi gia đình thường có bàn thờ trong nhà, hay là xây bàn thờ kính Thiên ngoài sân trước nhà, sớm tối vái lạy, và dâng hương nến, nhang đèn, hoa quả và chung nước tinh khiết để tò lòng tri ân. Xét như thế thì Đạo thờ Trời vẫn là đạo phổ thông nhất trong nhân loại.
8. Đạo Trời dạy ta phải cư xử với nhau thế nào ?
Đã nhận Trời làm gốc tổ (Thiên giả vạn vật chi tổ), nhận Trời làm cha mẹ sinh thành (Thiên vi phụ mẫu) thì phải coi mọi người là anh em (tứ hải giai huynh đệ) và cư xử với nhau là anh chị em trong đại gia đình nhân loại, vì tất cả đều là con của Trời. Đã coi nhau là anh em, thì sẽ lấy lòng thành mà đối đãi, tình thương mà bao bọc nhau.
Đức Khổng Tử nói : "Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân" (Điều mình không muốn, thì đừng làm cho người khác).
Ông Mặc Tử chủ trương : Kiêm ái, tức là yêu thương hết mọi người.
Những giáo điều về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, đều do lòng tin ở Trời mà xuất phát, đã là giường mối vững chắc cho nhiều dân tộc Á Đông, và đã đào tạo nhiều hiền nhân, quân tử : "Sỹ hy hiền, hiền hy thánh, Thánh hy Thiên" (người có học thì mong tới bậc hiền, người hiền mong tới bậc thánh, người thánh mong đạt tới thông cảm được với Trời).
Những bậc minh quân biết vị dân (như Lê Thánh Tôn), những tướng anh hùng biết vị nước (như Trần Hưng Đạo) đều tin tưởng ở Trời.
9. Đạo Trời có từ bao giờ ?
Đạo Trời có từ khi Trời tác tạo ra con người, Trời cho con người có trí khôn biết suy luận, biết hướng về Trời, biết tìm ý Trời thế nào mà hành động.
10. Ý Trời là thế nào ?
Ý tưởng là lương tri, lương tâm, mà Trời đã đặt trong lòng mỗi người, khác nào hạt giống đặt vào đất, sẽ dần dần nẩy mầm vươn lên thành cây, sinh hoa kết quả, thế là đạt tới mức độ mà ý Trời mong muốn (xem "Suy nghĩ vẩn vơ" tập 3, trang 48).
Ngay từ thời thượng cổ, các bậc tiền nhân làm gì cũng theo lương tri, lương tâm chỉ dẫn, nên đã để lại nhiều thành quả phúc đức, nêu gương tốt lành thánh thiện cho con cháu về sau. Các đời : Phục Hy, Thần Nông, Hoàng đế Nghiêu, Thuấn đã lấy việc thờ Trời làm trọng, lấy mệnh Trời hay thánh ý Trời làm luật lệ, nên dân chúng đã được thái bình, an cư lạc nghiệp, khiến đời sau có câu nói : "Ngày Nghiêu tháng Thuấn" để chỉ những ngày bằng yên, vui vẻ.
11. Đạo Trời đưa người ta đến đâu ?
Sau khi tin vào Đạo Trời, nói khác đi, sau khi tin vào Chúa, được lãnh phép Thánh tẩy, người ta được tái sinh thành Con Người Mới làm con cái Thượng Đế, thì tất nhiên là Đạo Trời đưa người ta về tới Trời, như đưa con cháu về với Tổ Tiên, vì Trời là gốc tổ của mọi người. Vì Trời là Đấng Tự Hữu, Toàn năng, Toàn thiện, Toàn mỹ, là nguồn hạnh phúc vô biên cho nên con người trở về với Trời là đạt tới hạnh phúc vô biên, vĩnh cửu mà tâm hồn khao khát, và khi đạt tới Trời, mọi ước vọng của mình sẽ được thỏa mãn hoàn toàn.
12. Thực hiện Đạo Trời có dễ không ?
Dễ hay khó là tại mỗi người : e ngại, rụt rè thì cho là khó ; can đảm, cương quyết thì không khó nữa.
"Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi,
Nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông"
(Nguyễn Bá Học)
Thực hiện Đạo Trời là sống theo lương tâm, làm lành lánh dữ ; mà làm điều lành là con đường đi lên cao, bao giờ cũng khó nhọc (tác thiện như đăng). Nhưng ở đời có khó mới có khôn ; có làm điều lành, có hy sinh rồi mới thấy kết quả hạnh phúc, mới được an vui (Vi thiện tối lạc).
13. Trên đường thực hiện Đạo Trời, người ta gặp những kẻ thù nào ?
Người ta gặp 3 kẻ thù :
- Một loại ở ngay trong mình, khác nào sâu bọ ở trong ruột cây, nếu không dùng thuốc cay đắng giết đi thì nó đục khoét ăn hết nhựa và làm đổ cây mất. Loại sâu bọ trong tâm con người chính là các tính mê nết xấu, các dục vọng đê hèn.
- Loại kẻ thù thứ hai ví như các chứng ngoại cảm do thời khí, tức là trào lưu của thế tục nổi lên cám dỗ, lôi cuốn vào hầm hố trụy lạc, sa đọa, giết hại tâm hồn con người.
- Loại kẻ thù thứ ba ví như kẻ cướp đường, đó là satan và ác quỷ, là những tà thần ghen ghét với con người, ngày đêm không ngừng tìm trăm mưu nghìn kế để ám hại con người.
Tắt một lời ba thù đó là : ma quỷ, thế gian và xác thịt.
14. Con người đối phó thế nào với 3 loại kẻ thù nói trên ?
Phải tự tu, tự tỉnh và kêu xin Trời giúp kịp thời :
a. Tự tu là ra sức sửa trị tính nết xấu, loại trừ những sâu mọt đục khoét trong mình.
b. Tự tỉnh là nhờ học hỏi Đạo, nhất là học hỏi ở sách Thánh Kinh như kim chỉ nam, hoặc như bức cẩm nang chỉ dạy cho mình mà biết tỉnh táo đề phòng, tránh xa những quyến rũ của tà ma ác quỷ và những cạm bẫy do thế tục giương lên để bắt mình.
c. Kêu cứu kịp thời là cầu nguyện van xin Trời hộ giúp để các thế lực hắc ám, tối tăm và satan ác quỷ, vốn mạnh mẽ và tinh khôn hơn ta, không làm hại được ta.
Kẻ lành thánh, người khôn ngoan nhờ 3 việc đó mà lúc nào cũng vững như kiềng 3 chân.
"Tự thiên tử chí ư thứ dân, dĩ tu thân vi bản" (từ vua quan trên cao cho chí thứ dân dưới thấp, ai ai cũng phải lấy việc tu thân sửa tánh làm căn cốt cuộc đời).
Ca dao nói :
"Chim khôn xa tránh lưới dò,
Người khôn tránh chốn ô đồ mới khôn"
Tục ngữ đã nói :
"Cứ giúp mình, rồi Trời sẽ giúp cho", tức là phần ta phải nỗ lực rồi Trời sẽ giúp cho ta.
15. Satan ác quỷ ở đâu ra mà mưu hại con người đến thế ?
Nó cũng là một loài do Trời sinh ra, rồi vì tự kiêu tự đại mà phản nghịch với Trời, nên trở thành ác quỷ đại gian đại ác, nó muốn phá việc của Trời, và ganh ghét không muốn cho con người là loài thấp hèn hơn nó trở về với Trời, được hưởng phúc mà nó đã mất, vì như thế thì Trời được vinh hiển và con người được hạnh phúc thật.
Satan không làm gì được Trời, nhưng chỉ làm hại được con người bằng cách lôi cuốn, dụ dỗ con người xa Trời, phản bội với Trời như nó. Người nào mắc mưu satan là đi đến chỗ tự hại mình và đồng khổ cực với nó sau này đời đời kiếp kiếp.
16. Có ai thắng được satan ác quỷ chưa ? Làm thế nào mà biết đã thắng ?
Các bậc thánh nhân lấy Đạo Trời làm lẽ sống, những người khôn ngoan bền chí, quyết giữ Đạo Trời dù chết cũng không bỏ. Những vị đó đã thắng được áp lực của satan, vì nó muốn cướp lòng trung thành của các vị ấy đối với Trời, mà không cướp được, tức là nó bại.
"Dù ai nói ngược nói xuôi,
Ta đây vẫn giữ Đạo Trời khăng khăng" (ca dao)
Còn các bậc thánh nhân khi tu thân lập đức thành công là thắng cuộc rồi. Sự thắng trận của các thánh nhân đôi khi cũng được Trời cho một vài điềm lạ để chứng quả, và nhân đó khuyến khích những người còn đang chiến đấu, chưa đến mức cuối cùng.
17. Đạo Trời từ xưa tới nay được công bố thế nào ?
Lịch sử Đạo Trời là lịch sử nhân loại, vì Đạo Trời là đường lối để Trời đi xuống với nhân loại để tái tạo ta, và cũng là đường lối để nhân loại đi lên với Trời. Đó là trở về nguồn chân phúc vô biên mà ta khát vọng. Đạo Trời được công bố bằng 2 hình thức :
Hình thức thứ nhất là in sẵn vào tâm hồn mỗi người khi sinh ra. Đến tuổi khôn, người ta nhìn thấy muôn loài muôn vật trên trời dưới đất muôn vẻ muôn sắc tốt đẹp, kỳ diệu thì nhận ra là phải có Đấng Tạo Hóa, mà suy phục và thờ lạy Ngài. Rồi trong lòng mình biết ý nghĩa thế nào là lành, đâu là phúc mà làm theo, thế nào là dữ là mà tránh xa. Và khi làm trái lương tâm, người ta thấy bứt rứt, sầu khổ.
Nhưng khi Trời thấy nhân loại một mặt không dùng trí thông minh của mình mà nhìn biết Trời, trái lại lầm lạc đi thờ các loài thọ tạo, dĩ chí cả cầm thú, rắn rít ... ; Mặt khác lương tâm con người không chịu làm lành lánh dữ, càng ngày thêm lún sâu vào sự dữ ... cho nên Trời quyết định dùng một phương án khác để cho loài người nhận biết Ngài, bỏ đàng lạc trở về tôn thờ Ngài là cứu cánh đời mình mà được sống và hạnh phúc, phương án đó, kế hoạch đó, là sai Con Một Ngài xuống trần nói cho nhân loại biết Trời là ai, Ngài dành sẵn hạnh phúc nào cho họ và Ngài chờ đợi loài người phải làm gì đáp lại.
Để thực hiện kế hoạch ấy, bắt đầu giai đoạn một : Trời chọn một dân tộc có thật trong lịch sử, đó là dân Do Thái, ở miền Trung Đông, trao cho sứ mạng duy trì, phổ biến ý niệm về Đạo Trời, kêu gọi các dân tộc khác giác ngộ từ bỏ những ngẫu tượng tà thần mà họ tự bày đặt ra để thờ bái mong cầu phước. Nhưng thật là viển vông, vì làm sao những vật do tay người đẽo gọt từ gỗ đá ấy có thể sinh phước cho loài người ?
Đạo luật của Trời xưa chỉ in trong lòng người, thì đã được in vào bia đá trên núi Sinai và trao cho thủ lãnh MÔSÊ đem công bố cho dân một cách long trọng vào khoảng 1500 năm trước Dương lịch, nhờ đó nhânloại sẽ sống tốt hơn, biết rõ ràng và chi tiết hơn những điều tốt, đẹp lòng Trời mà làm, những điều xấu nghịch ý Trời và làm hại cho mình mà tránh.
Giai đoạn hai cũng là việc xảy ra trong lịch sử nhân loại thật sự : Trời cử vị Con Trời giáng trần, mặc lấy xác thịt làm một con người để sống với con người chúng ta, có miệng lưỡi để trực tiếp chỉ bảo cho nhân loại đường lối của Đạo Trời, và cho chúng ta biết Trời thương chúng ta như Cha thương con, cùng dạy ta cách thức cầu nguyện thông cảm với Trời.
Vị Con Trời giáng trần đây chính là Đức Giêsu Kitô mà thân thế và sự nghiệp đã được lịch sử Đạo cũng như đời ghi nhận rõ ràng ; và sự giáng trần của Ngài đã dựng nên một cột mốc phân chia thời gian lịch sử nhân loại làm 2 giai đoạn như vừa nói trên :
- Trước ngài : tính từ Ngài lùi về trước.
- Sau Ngài : tính từ Ngài đến nay.
Và cũng từ ngày Đức Giêsu Kitô đi vào lịch sử nhân loại, Đạo Trời được sáng tỏ và mang thêm một tên mới là Thiên Chúa giáo, hay đúng hơn là : Kitô giáo.
18. Việc Đức Giêsu Kitô đến có lợi gì cho nhân loại ?
Lợi rất nhiều và rất lớn :
a. Nhờ sự hy sinh của Ngài, nhân loại được Thiên Chúa nhận vào hàng con cái và cho hưởng gia nghiệp Thiên quốc nếu họ trung thành với Ngài.
b. Nhờ lời giáo huấn của Ngài, nhân loại biết được gốc ngọn của mình, biết được lẽ sống chân chính, và đường lối trở về với Thiên Chúa.
c. Nhờ sự trung gian của Ngài, nhân loại được ơn thiêng hỗ trợ để thắng các mưu chước của satan và bè lũ, thắng các lôi cuốn của những cám dỗ xấu xa trên đời mà tiến tới quê thật là Nước Trời.
19. Sự nghiệp của Đức Giêsu Kitô còn tồn tại trong nhân loại bằng cách nào ?
Vì Đức Giêsu Kitô là một Vị Con Trời giáng thế, nên sau khi hoàn thành sứ mệnh Ngài đã về trời. Nhưng vì sự nghiệp của Ngài cần phải phổ cập đến mọi người và trong mọi thế hệ, nên Ngài đã thành lập một đoàn thể để duy trì, phổ biến những chân lý về Đạo Trời cho kẻ hậu lai khỏi bị satan lừa dối mà thiệt phần vĩnh phúc chăng.
Đoàn thể mà Đức Giêsu đã thành lập và để lại, đó là Hội Thánh Công giáo, do các vị Giáo Hoàng đại diện Ngài kế tiếp nhau lãnh đạo. Vị Giáo hoàng đầu tiên là thánh Phêrô, một môn đệ của Chúa Giêsu Kitô, và sau đó qua hàng mấy trăm vị khác đến vị Giáo hoàng đương kim (năm 2006) là Đức Bênêđictô 16.
Dù nhiều khi bị hiểu lầm, bị ghen ghét, bị bách hại, Hội Thánh vẫn phát triển, bất chấp mọi chướng ngại, khiến con số tín hữu Thiên Chúa giáo ngày nay đã tăng tới hơn 3 tỷ rồi, còn nếu tính riêng Kitô giáo thì gần 2 tỷ.
Muốn học hỏi để gia nhập Đạo Trời, tức Thiên Chúa giáo hay Kitô giáo, ta có thể căn cứ vào đâu và đến với ai ?
Căn cứ vào sử sách, vào uy tín và công cuộc của Hội Thánh đã thực hiện từ 2000 năm nay ở khắp các nước trên thế giới.
Bộ sách sử ghi chép và tường thuật Đạo Chúa là pho Thánh Kinh gồm phần Cựu Ước (Đạo Trời cũ) do ông Môsê ghi chép 1500 năm trước dương lịch, và phần Tân Ước (Đạo Trời mới) từ Đức Giêsu Kitô về sau, do các môn đệ Ngài ghi chép : đó là bộ sách được phổ biến rộng rãi nhất từ xưa đến nay, vì đã được dịch ra hơn 2000 thứ tiếng và in trên 3 tỷ cuốn.
Nước nào (kể cả nước Việt Nam chúng ta) cũng có sách Kinh Thánh và sách Giáo lý in bằng tiếng nước mình, nên việc học hỏi đạo được dễ dàng.
Sách Kinh Thánh là nền tảng của Đạo, đi Đạo mà không đọc, không học hỏi và suy gẫm Kinh Thánh thì làm sao hiểu biết và yêu mến tôn thờ Thiên Chúa, chẳng khác gì như lời người ta bảo là "ăn ốc, nói mò" là vậy.
Còn việc gia nhập Đạo cũng được các vị đại diện của Hội Thánh Công giáo chỉ bảo cặn kẽ và tiếp đón nồng hậu. Tuy vậy chúng tôi xin đưa ra một đề nghị tối cần thiết và có lợi tuyệt đối, là nếu vì một lẽ gì đó hiện tại việc ấy chưa thể làm ngay được, thì ngay bây giờ, sau khi đã đọc xong tập sách nhỏ này và đã cảm thấy đúng, độc giả có thể tự đáy lòng nói Kitô và Đạo Chúa, cụ thể :
- Tin Chúa Trời tạo dựng trời đất, thưởng phạt công minh.
- Tin Chúa có 3 Ngôi : là Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần, nhưng cùng 1 bản thể (tựa nước có 3 trạng thái).
- Tin Ngôi Con là Chúa Giêsu xuống thế làm người, chuộc tội nhân loại.
- Tin mình có linh hồn, có kiếp sau, mình cũng có lỗi lầm cần sám hối, mong được làm con Chúa và được về Trời hưởng hạnh phúc bất diệt.
(Giáo luật 865, Giáo lý CG số 1259-1260)
Thế là đã trở thành tín hữu rồi vậy. Vì Đạo cốt tại NIỀM TIN trong tâm hồn. Bởi niềm tin trong tâm hồn, ta đã thuộc về Đạo Chúa rồi vậy.
(Như thế thì có cần phải chính thức gia nhập đạo không ? Vẫn cần và rất cần nữa. Chính quy bao giờ cũng bảo đảm hơn khác nào đi trên cầu, còn không chính quy khác nào phải lội qua sông …)
Điều này là tối khẩn vì là chọn lựa "một mất một còn", nhất là khi phải đối diện với cái chết thì không còn cơ hội nào khác nữa.
Lòng Trời lượng cả bao dung,
Biết rồi không lẽ mà không quy hồi.
Xưa kia chỉ biết kêu "Trời",
Ngày nay lại biết rằng : "Trời là Cha".
Trần gian chưa phải là nhà,
Thiên đàng vĩnh phúc mới là chính quê.
Chữ rằng : sinh ký tử quy,
Nghĩa là : sống gởi thác về đời sau.
(Trước khi qua đời mà thực hiện như trên thì chắc chắn bạn được lên Thiên đàng).
20. Tại sao có người đang giữ đạo tự nhiên, ăn ngay ở lành, có danh thơm tiếng tốt rồi, mà khi gặp Đạo Trời, lại bỏ đạo tự nhiên để theo Đạo Trời ?
Vì đạo tự nhiên thực ra cũng là Đạo Trời, nhưng ở giai đoạn sơ khai, thô thiển, còn thiếu sót. Vả lại giữ đạo có phải cốt cho được danh thơm tiếng tốt ở đời này đâu, nhưng là cốt làm đầy đủ đức hiếu thảo đối với Trời, là Đấng sinh thành, dưỡng nuôi và thưởng phạt người ta sau này, nhờ đó mà đạt hạnh phúc thật. Vì thế khi người thiện tâm gặp được Đạo Trời ở giai đoạn hoàn toàn thì không thể không theo được.
Đức Giêsu Kitô đã ví Đạo Trời như viên ngọc quý giá đặc biệt mà một đời người chỉ gặp thấy một lần, nên ai khôn ngoan thật đều gom hết các thứ khác ít giá trị để đổi cho bằng được thứ ngọc hảo hạng này. Những ngọc khác nói đây có thể coi là luân lý đạo tự nhiên mà các bậc hiền nhân quân tử đã theo lương tâm thực hiện và phổ biến phần nào.
Các vị đó được coi là những sứ giả tiền phong của Đạo Trời. Bởi thế, khi chính Đạo Trời được công khai xuất hiện trong lịch sử với sự giáng trần của Đức Giêsu Kitô, Con Trời hằng sống, thì vai trò của các sứ giả tiền phong đương nhiên nhường bước, và lòng người tất nhiên hướng về Đạo Trời, là chỗ có chân lý hoàn toàn và thiện mỹ viên mãn vậy. (xem "Suy nghĩ vẩn vơ" tập 5, trang 51)
21. Đạo Trời đối với đạo ông bà tổ tiên thế nào ?
Không có Trời thì làm gì có ông bà tổ tiên, vì chính tổ tiên cũng nhờ Trời sinh Trời dưỡng, cũng do Trời đặt vào trần gian trong cái vũ trụ này, cho qua một cầu sinh tử dài lắm là ba vạn sáu ngàn ngày, rồi cũng phải từ giã cõi trần mà về với Trời : "Sinh ký, tử quy" là thế !
Đàng khác, chính đức hiếu nghĩa với tổ tiên cũng là do Trời in vào lòng ta, nên hiếu nghĩa cũng phải theo hướng Trời sắp đặt, vì vậy không nên dừng lại ở tổ tiên mà phải đi xa hơn nữa, đến tận Trời mới là hiếu nghĩa vẹn toàn, mới là chính đáng, vì Trời mới là gốc tổ mọi loài (Thiên vi vạn vật chi tổ), còn ông bà tổ tiên chỉ là những móc xích trung gian truyền sự sống đến ta mà thôi. Phận con cháu nhớ công ơn cúc dục cù lao, nuôi nấng dạy dỗ là điều chính đáng phải đạo, song không nên dừng lại ở đó.
Có người nghĩ rằng theo Đạo Trời thì không đơm cúng thực phẩm, đồ dùng cho ông bà nữa, sẽ để ông bà đói khổ nơi suối vàng, vì thế mà có người tuy mến Đạo Trời, vẫn chưa trở lại, nghĩ thế có đúng không ?
Việc cúng giỗ tổ tiên để tỏ lòng thương tiếc ông bà đã quá cố là việc tốt, Đạo Trời vẫn cho phép thực hiện, nhưng nghĩ rằng vong linh ông bà còn cần cơm gạo, bánh trái hay đồ dùng như khi còn sống thì không đúng, vì một khi đã quá cố, xác trở về bụi đất không còn ăn uống gì được nữa, linh hồn linh thiêng không cần vật chất như xác, bởi vậy cúng quảy thực phẩm, đồ dùng vật chất cho ông bà chỉ nên coi là hình thức thể hiện lòng hiếu thôi.
Việc hiếu nghĩa tốt nhất ta có thể làm là thành khẩn cầu xin với Trời mở lượng hải hà, nhất xá vạn xá, cho ông bà vào hưởng phúc với Trời sớm ngày nào hay ngày ấy ; đó là thiết thực và cần kíp hơn hết, vì việc đó mới thích hợp với hồn thiêng siêu vật chất.
Bên Công giáo, con cháu tỏ lòng hiếu thảo nhớ ơn tổ tiên ông bà bằng cách cầu nguyện hàng ngày cùng Thiên Chúa (Thượng Đế), và tùy dịp còn xin các linh mục dâng Thánh lễ mong Ngài ban ơn cho ông bà mau siêu thoát mà về hưởng phước vô cùng nơi Ngài.
Chẳng những riêng gia đình ấy mà lại cả xứ đạo, cả họ đạo cùng dâng Thánh lễ, đọc kinh cầu nguyện cho. Mỗi năm lại dành hẳn 1 tháng để toàn thể người có đạo trên thế giới hợp ý thỉnh cầu cho nữa.
Ngoài ra, các ngày kỷ niệm, tuần ba, tuần bảy, tuần ba mươi, tuần trăm ngày hay giỗ đầu, giỗ năm của ông bà, thì gia đình họp nhau cầu nguyện trước bàn kính ông bà, được đặt dưới bàn thờ Chúa, thắp nến, dâng hương, đơm bánh trái hoa quả để tỏ chút lòng thành xin ông bà chứng giám cho lòng thảo hiếu, biết ơn của con cháu. Xét thế, theo Đạo Trời, con cháu rất là hiếu nghĩa với ông bà tổ tiên, vì điều răn thứ 4 của Trời là phải "Thảo kính cha mẹ, ông bà, tổ tiên".
22. Có người nghĩ đạo nào cũng như đạo nào, đều dạy người ta ăn ngay ở lành, thì cần gì phải theo Đạo Chúa ?
Đạo có 2 phần : phần giáo lý và phần luân lý. Nếu chỉ nói phần luân lý là những điều dạy ăn ngay ở lành, cấm trộm cướp, giết người, tránh tà dâm, ... thì có thể nói hầu như các đạo đều dạy giống nhau ; nhưng nếu nói đến phần giáo lý thì Đạo Chúa khác xa các đạo khác, vì dạy cho người ta biết Thiên Chúa độc nhất và chân thật, và dạy cho biết cách sống thân tình thiết nghĩa với Thiên Chúa như con cái với Cha mình vậy. Mà giáo lý đó thì phải do chính Thiên Chúa truyền dạy mới biết được.
23. Có người biết Đạo Trời là cần cho mình, nhưng vì sinh kế bận rộn, vì còn muốn sống bừa bãi, vì ngại khó giữ, nên chưa dám trở lại, nghĩ thế có được không ?
Đạo lý tối đại, sao lại coi rẻ thế được. Sinh kế chỉ là phương tiện nhất thời, chứ có phải là cứu cánh của con người đâu. Dù ở đâu, đi đâu, dù bận rộn tối ngày, con người lúc nào cũng nhờ ơn Trời mà sống như cá trong nước vậy. Làm nên được gì cũng là do Trời phù giúp, "mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên", sao ta lại quên được vị đại ân nhân của ta là Trời ?
Còn nếu người ta muốn sống bừa bãi, ngoài kỷ luật của lương tâm, tức là người ta tự giảm giá và tự đặt mình vào tình trạng nguy hiểm luôn luôn, vì ta không biết mình chết lúc nào – sinh hữu kỳ, tử bất định – và chết rồi phải chịu phán xét ngay, lúc ấy hối cũng không kịp.
Biết Trời thưởng phạt sau này,
Muốn sau được thưởng thì rày phài lo.
Gắng công, Trời sẽ giúp cho,
Đạo lành gây dựng cơ đồ mai sau.
Hoàng đế Charles Quint (1500- 1558) - nước Đức, có một cái rương nhỏ, đi kinh lý đâu cũng mang theo, các quan nghĩ là đựng vàng ngọc quý giá. Một hôm, hoàng đế muốn cho các quan một bài học và hết thắc mắc, nên dạy mở rương trước mặt mọi người. Trong rương chỉ có một tấm khăn liệm ... Trước sự bỡ ngỡ của bá quan, hoàng đế cho biết mình dọn mình chết hàng ngày bằng cách mang theo khăn liệm, nhờ đó để tu thân tích đức, cố gắng làm việc phúc thiện, vì chỉ có những việc lành đó mới giúp ích cho mình đời sau mà thôi. Còn mọi sự vật ở đời này thì như :
Mây tán, tuyết tan,
Hoa tàn, nguyệt khuyết,
Mọi sự ở trên đời,
Một mai rồi cũng hết.
Việc lành, dữ mà thôi,
Sẽ theo ta khi chết.
***
{Trich "Toi theo EJ(J.O Trifi" - Saigon 6/6/1965, giấy phép số 3178/BTTIBC3/XB¬ Bcm tu b6 2006}
Về đầu trang
PHỤ LỤC
Xin trích sau đây vài cảm tưởng của một số nhân vật có tên tuổi đã trở lại Đạo Trời sau nhiều suy nghĩ, tìm tòi và thành tâm học hỏi ở nơi thiên nhiên, sử sách, bè bạn, ở cốt cách tinh hoa và ảnh hưởng tốt lành của Đạo.
1. Ông Lục Trung Tường, nhà ngoại giao Trung Hoa, từ nhỏ đã là môn sinh của sân Trình cửa Khổng và chỉ biết có đạo ông bà tổ tiên, sau khi đã gặp được đạo Công giáo như gặp được kho báu, đã trở lại và tiến xa trên đường đạo, đã hiến thân làm linh mục và đã làm đến Viện trưởng Tu viện. Ông nói :
"Ơn cứu độ là chỗ tập trung tất cả các nẻo đường, là chỗ độc nhất mà đức hiếu của loài người được tiếp vào đức hiếu thảo siêu nhiên mà Đức Kitô đã dạy và đã cho chúng ta hưởng thụ để kết hợp tất cả nhân loại với Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên Trời" (trích quyển "The Ways of Confucius and of Christ").
2. Ông Ngô Gia Lễ, Tri phủ Kim Sơn, Ninh Bình, Bắc Việt, vì tiếp xúc với nhiều người Công giáo, ông muốn tìm hiểu đạo lý, đã đọc sách Phúc Âm, đã nhận ra được tính cách siêu việt của Đức Kitô, Con Trời giáng thế. Ông đã trở lại để được tâm giao với Trời qua Đức Kitô. Ông nói :
"Tôi đã đọc Phúc Âm một cách thành kính. Tôi nhận thấy Đức Kitô không phải chỉ là một nhân vật khác thường. Ngài chính là Con Thượng Đế đã đến để cứu đời. Tôi là một trong những kẻ được Ngài tỏ mình ra nhờ đọc Phúc Âm" (trích sách "Ông Tổ đạo Công giáo").
3. Ông Trịnh Sùng Ngô, giáo sư triết lý Đại học Honolulu, nguyên đại sứ Trung Hoa Dân quốc tại Vatican. Từ nhỏ đã sinh trưởng trong gia đình thấm nhuần tư tưởng Tam giáo. Sau khi trở lại Đạo Thiên Chúa, ông đã giúp nhiều bạn hữu biết Đạo và đã đem hết tâm trí vào việc phiên dịch Thánh Kinh và Thánh Thi ra tiếng Trung Hoa. Ông nói :
"Thiên Chúa giáo là đạo bởi Trời. Người ta lầm nếu cho đó là đạo của Âu châu. Đạo đó không phải của Âu châu hay Á châu, không cũ, không mới. Tôi cảm thấy đạo đó tiềm ẩn ở trong tôi một cách sâu đậm hơn cả những đạo tôi đã hấp thụ từ khi sinh trưởng. Tôi biết ơn những đạo này vì đã làm đà đưa tôi đến với Đức Giêsu Kitô. Sau nhiều năm lạc lõng, nay tôi được đến với Đức Giêsu Kitô để ở luôn với Ngài, thật là vui sướng vô biên ! Tôi đã nhảy vọt lên trên thời gian rồi. Từ nay, sự sống và bản thể của tôi được đặt vào lãnh vực đời đời. Gia nhập Hội Thánh Chúa Kitô, tôi đã không thiệt mất gì, nhưng đã được hoàn toàn mãn nguyện" (trích cuốn "Par delà l'Est et l'Ouest").
Xin nói thêm về một vấn đề nhạy cảm đó là lập trường chính trị, Giáo Hội chủ trương thế nào ?
Chúa Giêsu đã tuyên bố rõ ràng : "Nước tôi không thuộc về thế gian này" (Ga 18,36).
Giáo Hội tôn trọng mọi thể chế hợp pháp, không muốn người Kitô hữu phải theo chế độ này, chống chế độ kia, song Giáo Hội muốn xác định người Kitô hữu có bổn phận trở nên người Công giáo tốt và người công dân tốt trong mọi chế độ chính trị (Đức Giáo Hoàng Bênêđictô 16 phát biểu ngày 13/5/2007).
Bộ Giáo sĩ đã ra sắc lệnh cấm các linh mục, tu sĩ công giáo làm chính trị.
Hội Đồng Giám mục Việt Nam cũng xác định : "Không bao giờ Giáo Hội Việt Nam có tham vọng thay thế chính quyền để điều hành đất nước, chỉ mong được rao giảng Tin Mừng và phục vụ đồng bào".
4. Ông Mashaba, một học giả Ấn Độ, sinh tại Bihar trong một gia đình theo Ấn giáo, sau du học bên Anh nhiều năm, tuy có tài về hành chánh, ông không nhận một công tác nào trong khối Liên hiệp Anh. Sẵn khuynh hướng về thần bí học, ông đã sống độc thân để nghiên cứu các tôn giáo. Sau 20 năm tìm tòi, suy luận về Ấn giáo, Bà la môn, Khổng giáo, Phật giáo, Lão giáo, Hồi giáo, Thần đạo Nhật Bổn, Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo và các phái Tin lành Âu Mỹ, ông đã phân tích như sau :
"Sở dĩ mỗi tôn giáo có một công dụng khác nhau là vì mỗi vị Giáo tổ nhìn thấy một khía cạnh đau khổ của con người và tìm cách cứu giúp theo khía cạnh đó. Bởi thế có thứ kêu gọi từ bi quảng đại, có thứ chủ trương diệt dục hy sinh, có thứ dùng hiếu thảo nhân nghĩa, có thứ giúp tu thân cứu đời, công bằng, bác ái ... nhưng không tôn giáo nào được đầy đủ như Thiên Chúa giáo, vì xây dựng cho con người một cuộc sống có ý nghĩa cao thượng, bảo đảm cho một tương lai hạnh phúc, và có nhiều đặc điểm mà các tôn giáo khác không có như :
a. Vị Giáo tổ bởi Trời giáng thế và đã được Sấm ký báo trước từ mấy ngàn năm trong lịch sử hẳn hoi, khác hẳn với những Giáo tổ khác chỉ là người trần tục.
b. Có từ trời xuống lập đạo thì đạo đó mới có khả năng đưa con người ta về Trời được.
c. Đạo Trời là như thuốc trường sinh, dùng thuốc này thì không cần thuốc nào nữa ; vì các đạo khác chỉ xoa dịu hay làm quên đau khổ trong một thời hạn, còn Đạo Trời chẳng những cứu khổ mà còn ban cho con người sự sống đời đời, vốn thật là ước vọng tột đỉnh của mỗi người.
d. Đức Giêsu Kitô đã chiến thắng sự chết, đã sống lại và về Trời, bảo lãnh cho cuộc hành trình của tín hữu trên đường đời (là sẽ về được tới Trời), và đó là hy vọng vững chắc của người tín hữu.
e. Vì mang sắc thái siêu phàm và chứa đựng những giá trị cao thượng vượt mức, nên Kitô giáo thường bị ghen tị, hiểu lầm hay lấn át, thế mà vẫn phát triển điều hòa, vẫn vững bền giữa mọi gian lao, thử thách, khiến cho nhiều kẻ trước kia thờ ơ, lãnh đạm hay thù ghét phải tìm hiểu, cảm phục, và do đó nhiều khi lại trở nên tín hữu nhiệt thành".
Ông kết luận bằng một ví dụ : "Trước khi mặt trời mọc, người ta đã thấy ánh sáng lờ mờ của nó. Vậy những điều tốt đẹp trong các đạo khác cũng là ánh sáng của Đạo Trời chiếu mờ mờ vào nhân loại, trước khi chính Con Trời giáng thế làm sáng tỏ hẳn Đạo Trời. Nay, ngày của cuộc đời đã đến lúc chính ngọ thì không ai mà không được ánh sáng Đạo Trời soi tới".
5. Tiến sĩ Lâm Ngữ Đường. Dù đã nhiều lần chúng ta được nghe những câu chuyện đặc biệt về những người theo các tôn giáo khác trở lại tin nhận Chúa, nhưng câu chuyện của Tiến sĩ Lâm Ngữ Đường mới thật đáng cho chúng ta chú ý. Ông Lâm Ngữ Đường sinh trưởng tại Trung Hoa, trong một gia đình Thiên Chúa Giáo. Ông học đạo từ thuở nhỏ, nhưng lớn lên ông bỏ đạo và trở thành môn đệ trung thành của Khổng Tử.
Sau khi tốt nghiệp Đại học Harvard Hoa Kỳ, Tiến sĩ Lâm Ngữ Đường sang Đức học thêm và sau đó trở về Trung Hoa, đảm trách nhiều chức vụ quan trọng trong ngành Văn hóa và Giáo dục : giáo sư Anh văn tại viện Đại học Quốc gia Bắc Kinh, đặc trách phần Anh ngữ của tờ Academia Sinica, chủ bút của nhiều tờ báo khác ở Á châu, Viện trưởng Viện Đại học Nam Dương ở Tân Gia Ba, Giám đốc Phân Bộ Văn hóa và Nghệ thuật của tổ chức UNESCO. Đó chỉ là một số chức vụ Tiến sĩ Lâm Ngữ Đường đã được đảm nhiệm.
Năm 1937, Tiến sĩ Lâm ngữ Đường xuất bản quyển The Importance of Living (Nguyễn Hiến Lê đã dịch sang tiếng Việt với tựa đề : "Một Quan Niệm Về Sống Đẹp"). Đây là quyển sách rất nổi tiếng của ông dẫn đầu số sách bán chạy nhất tại New York lúc đó. Trong quyển này, Tiến sĩ Lâm Ngữ Đường dành một chương nói về liên hệ với Thượng Đế, với tựa đề :
"Tại sao tôi muốn làm người ngoại đạo ?" Ông cho biết sở dĩ ông chống Thiên Chúa Giáo là vì đạo này quá "kiêu ngạo", cho rằng chỉ có mình biết được Thượng Đế. Về phương diện đạo đức, ông cho rằng đường lối của Khổng Giáo hay hơn Thiên Chúa Giáo trong việc hướng dẫn đời sống con người.
Tiến sĩ Lâm Ngữ Đường cũng viết thêm nhiều sách khác, phần lớn về văn hóa triết học Trung Hoa và Ấn Độ. Chính ông đã phát minh ra máy đánh chữ tiếng Trung Hoa. Tài năng của ông đã khiến ông trở thành biểu tượng của học giả Á Đông hiện đại. Trong mười năm cuối cùng của cuộc đời, tiến sĩ Lâm Ngữ Đường sống tại New York. Vợ ông là một tín đồ Thiên Chúa Giáo. Một Chúa nhật nọ, bà rủ ông đi Nhà thờ, và cuộc đời của ông đã được thay đổi. Câu chuyện tin Chúa của ông được ông ghi lại và đăng trong báo Presbyterian Life, xuất bản ngày 15/04/1959, dưới bài tựa đề : "Tại sao tôi trở lại với Thiên Chúa Giáo ?" :
"Những người đã hỏi tôi (có người hỏi với giọng vui sướng, có người với vẻ thất vọng) rằng, tại sao một người từng kể mình là người vô đạo như tôi lại trở về với Thiên Chúa Giáo ? Tôi trở về với đức tin và gia nhập Hội Thánh Chúa là vì tôi muốn quay về với một ý thức mới về Thượng Đế và tình yêu của Ngài, mà Chúa Jesus đã mặc khải cho tôi cách đơn giản và rõ ràng.
Câu hỏi quan trọng nhất trong đời sống là : 'Con người có thể sống mà không cần đến tôn giáo không ?'. Trong hơn 30 năm, tôn giáo duy nhất của tôi là chủ nghĩa nhân bản (humanism) hay nói đúng hơn là quan niệm của Khổng Giáo, cho rằng nhờ giáo dục con người có thể làm cho mình trở nên một con người toàn diện. Đây cũng là quan niệm chủ trương rằng con người thừa sức để giải quyết những vấn đề của chính mình. Bây giờ thì tôi tin rằng nếu không có tôn giáo, con người không thể nào sống còn, và sẽ chẳng bao giờ có thể tự giải quyết vấn đề của chính mình, một tôn giáo dựa vào khả năng tự trở nên toàn thiện để cứu giúp người thì chưa thể kể là tôn giáo".
[Trích "Lời chứng của Tiến sĩ Lâm Ngữ Đường"]
***
Trên đây chỉ là ví dụ của một vài nhân vật điển hình thôi, còn hàng năm ở đâu cũng có nhiều người thiện tâm thiện chí nhờ bè bạn, sách vở, báo chí hay giao thiệp với người bên giáo mà có dịp suy nghĩ, tìm hiểu và nhận thấy sự cần thiết của đạo, nên tìm cách trở về Đạo Trời. Mỗi năm, nếu thống kê cả thế giới, con số theo đạo không phải là nhỏ ; riêng ở Việt Nam, theo thống kê của Tổng Giáo phận Huế và Tổng Giáo phận Sàigòn, thì ví dụ trong năm 1961, số người trở lại Đạo Chúa là hơn 100.000 người, gồm đủ mọi lứa tuổi, mọi thành phần và giai cấp xã hội.
Về đầu trang
BẢN THỐNG KÊ ĐỐI CHIẾU NHÂN SỐ CÁC ĐẠO
Sau đây là bản thống kê nhân số các người theo hay không theo đạo trên toàn thế giới (năm 1969) của Liên hiệp Giáo hoàng Truyền giáo, chúng tôi xin trích đăng và chia làm 2 khối lớn.
1. Khối A gồm các đạo và các người tin tưởng ở Trời, thờ kính Trời, dù thuộc những giai đoạn khác nhau và có những điểm giáo lý không giống nhau.
2. Khối B gồm các đạo và các người chưa có hay không thấy rõ rệt lòng tin tưởng ở Trời.
1. Khối A :
- Những người giữ đạo tự nhiên, (Không thể biết hết).
- Khổng giáo 321.000.000
- Ấn giáo 444.063.000
- Phật giáo (đại chúng thờ Trời, kính Phật) 153.000.000
- Do thái giáo 13.946.000
- Hồi giáo 508.464.000
- Công giáo 613.761.000
- Chính Thống giáo 142.433.000
- Tin lành (các phái) 272.018.000
Tổng cộng 2.468.685.000
2. Khối B :
- Những người tự xưng là không tin có thần thánh gì cả.
- Những người còn thờ vật linh, tà ma, cây cối, thú vật hay mãnh lực thiên nhiên như gió, mưa, sấm sét, núi sống … Trong số này cũng có người biết Trời là trên hết, và vẫn sợ Trời hơn cả ; như vậy là còn tin ở Trời, tuy chưa phân biệt vì không gặp ai chỉ bảo.
Nếu dân số hoàn cầu cầu hơn 3 tỷ (3.319.000.000) người, mà số người tin ở Trời đã gần 2 tỷ rưỡi (2.468 triệu) thì số người vô tín rất ít. Ông Khổng Tử nói : Đã là người thế nào cũng phải có Đạo :
"Nhân hữu đạo, bảo thực, noãn y, dật cứ nhi vô giáo, tắc cận ư cầm thú" – (Làm người phải có Đạo, nếu chỉ tìm ăn no mặc ấm mà sống vô đạo thì có hơn gì con vật).
Các nhà hiền triết Hy Lạp cũng định nghĩa : "Con người là một vật có tôn giáo, và không có thành trì nào được thiết lập mà không lấy tôn giáo làm nền tảng" (Plutarque).
Chú thích :
Bản thống kế của Liên hiệp các Giáo đoàn Truyền giáo nêu trên là vào năm 1969, cho đến nay (2011), đã mấy thập niên trôi qua, nên đã có những bản thống kê mới : Trong số hơn 6 tỷ người hiện nay trên thế giới, không kể số những người theo đạo tự nhiên tin có Trời cách chung chung, mà chỉ kể những người tin có Thiên Chúa cách rõ ràng thì con số tổng quát bây giờ là hơn 3 tỷ.
Còn riêng những người theo đạo Công giáo đã tăng gấp đôi là hơn 1 tỷ, Hồi giáo 1,3 tỷ chưa kể đến người dân tộc thiểu số, các người thuộc các đạo khác và thậm chí những người tự xưng là không tôn giáo, nay đang công khai xin theo và đang rất cần người hướng dẫn để xin gia nhập Đạo Trời càng ngày càng đông.
***
Bạn thân mến, như ban đầu tôi đã thưa với bạn rằng, Đạo thật ngắn nhưng cũng rất dài, tới đây chúng ta mới chỉ đặt chân tới đường dẫn lên cầu vượt trần gian thôi. Cây cầu mới quan trọng, cây cầu đó chính là Đức Giêsu Kitô của Thánh Kinh mà tôi sẽ mời bạn đọc tiếp, nếu bạn còn thiện chí.
"Không ai có thể đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy"
(Tin Mừng theo thánh Gioan, đoạn 14 câu 16)
LỜI TÂM NIỆM
- Lạy Đấng thiêng liêng Tối cao,
- Lạy Đấng Tạo Hóa,
- Lạy Đấng Tuyệt Đối,
- Lạy Thượng Đế,
- Lạy Ông Trời,
Chúng con đây là những thọ tạo đứng trên muôn vật trong vũ trụ. Chúng con đã được Ngài tạo dựng nên giống hình ảnh của Ngài là Thiên Chúa, vì chúng con có trí nhớ, có trí tuệ, có ý muốn, có tự do.
Chúng con luôn thao thức trước những vấn đề :
1. Bởi đâu có vũ trụ này ?
2. Bởi đâu có bản thân chúng con ?
3. Đâu là mục đích của cuộc đời ?
4. Chết rồi sẽ đi về đâu ?
5. Làm điều thiện, ai sẽ thưởng công cho ?
6. Làm điều ác, ai sẽ phạt tội ?
7. Ai sẽ thỏa mãn khát vọng hạnh phúc tuyệt đối của chúng con ?
Chúng con muốn đi tìm chân lý, tìm ý nghĩa đích thực cho cuộc đời. Xin Ngài soi trí mở lòng cho chúng con, để chúng con được tìm thấy Ngài, và được niềm vui gọi Ngài là Cha, như hơn 2 tỉ Kitô hữu trên thế giới – Amen.
(Tiến sĩ Phan Như Ngọc – Trích Bài giảng
Chúa nhật - TGM, số 4/2007, trang 74)
[PS : Trong bài có một số cụm từ được thay thế bằng kiểu nói đồng nghĩa, nhằm tránh sự hiểu lầm không đáng có. Xin tác giả thông cảm].
Về đầu trang
---------------------------------------
LỜI ĐẦU
Loài người được Tạo Hóa tác thành hơn và khác loài vật ở chỗ có lý trí và tự do.
"Tự do là khả năng biểu lộ ý chí, hành động theo ý muốn của mình" (Đại Tự điển tiếng Việt – Hà Nội 1999, trang 1762), đây là quyền căn bản của mỗi người. Có tự do thì cũng có trách nhiệm, nghĩa là có thưởng và phạt tùy theo lựa chọn đúng hay sai.
Người viết tập này chỉ muốn trình bày sự thật mà mình đã cảm nghiệm, còn quý độc giả đồng tình hay không, hoặc đồng tình một phần nào thì hoàn toàn thuộc quyền tự do của quý vị.
HƠN CẢ NỖI OAN THỊ KÍNH
Nói tới nỗi oan khiên ở đời này, đối với các dân các nước khác thì không biết, nhưng với dân tộc Việt Nam ta thì trường hợp của Thị Kính là tiêu biểu nhất, là đỉnh cao nhất đã có mặt chẳng biết từ bao giờ trong văn chương bình dân, kho tàng văn chương lâu đời và rất phong phú của dân tộc ta, được truyền tụng từ đời này tới đời kia – nó bình dân và phổ biến đến nỗi trở thành tiếng kêu bột phát nơi cửa miệng người dân – hễ gặp những gì là oan trái, người ta đều thốt lên "nỗi oan Thị Kính" và ai cũng hiểu được, cảm nhận được "độ sâu", "độ sắc", "độ nhọn" của nỗi đau đớn, người ta không còn trông cậy vào ai ở trần gian được nữa, chỉ còn biết ngửa mặt lên "kêu Trời" mà thôi.
Chúng ta cùng ôn lại Quan Âm Tân truyện (Nguyễn Huệ Chi – Từ Điển Văn Học bộ mới, NXB Thế Giới 2004 – trang 1471-1473).
QUAN ÂM TÂN TRUYỆN
(Cuốn truyện mới về Phật Quan Âm)
Truyện thơ Nôm Việt Nam, thể lục bát, cũng quen gọi là Quan Âm Thị Kính, dài 786 câu, từ trước vẫn được lưu hành như một tác phẩm khuyết danh, nhưng với những phát hiện gần đây, đã có thể nói đến hai giả thuyết khác nhau về tác giả của nó : 1. Theo tìm tòi của Hoa Bằng, tác giả là Nguyễn Cấp, nhà văn Việt Nam sống vào nửa đầu thế kỷ XIX. Nguyễn Cấp người thôn Thượng, xã Nguyên Khiết, huyện Thọ Xương, nay thuộc nội thành Hà Nội, đỗ Giải nguyên khoa thi Hương năm Quý dậu (1812). Lúc đang làm Tri phủ Thiên Trường (1829), vì một chuyện lôi thôi trong kiện tụng mà vợ ông có dính líu, ông bị Tổng trấn Bắc Thành bắt giam rồi kết tội xử giảo. Nhưng ông tìm cách trốn thoát khỏi ngục, và trải qua nhiều nơi ẩn náu, sang tận Trung Quốc lại bị nhà Thanh đuổi trở về nước, cuối cùng, nhờ có Nguyễn Công Trứ (bấy giờ đang làm Tham Tán Quân Vụ ở Lạng Giang) che chở, ông trốn tại Lạng Giang và cắt tóc đi tu. Cuộc đời tù đày và lưu lạc đầy oan khuất nói trên khiến Nguyễn Cấp chán ghét sâu sắc chế độ quan lại nhà Nguyễn. Trước lúc mất, ông từng dặn lại con cháu đừng nối gót mình theo đòi thi cử. Tác phẩm Quan Âm Tân truyện được sáng tác vào lúc cuối đời cũng là sự thể hiện phần nào tâm sự ưu uất này – 2. Theo gia phả họ Đỗ ở Bắc Ninh do Dương Xuân Thự cung cấp, thì truyện Quan Âm Thị Kính lại do Đỗ Trọng Dư sáng tác. Đỗ Trọng Dư (7.X.1786 – 1868) người xã Đại Mão, huyện Siêu Loại, xứ Kinh Bắc, nay là tỉnh Bắc Ninh, đậu Hương cống năm 1819. Cuộc đời ông gặp hai chuyện oan khuất có ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý, tư tưởng của ông. Năm 1813 ông xin khai hộ tịch ở làng Bình Cầu để đi thi Hương. Cùng khoa ấy có người cháu ông cũng đi thi nhưng lại lấy hộ tịch ở làng Đông Miếu. Dân làng cho là hai ông đã mạo danh nên làm đơn tố cáo. Cả hai người phải lặn lội vào kinh đô Huế theo lệnh triệu để tâu trình mọi sự mới được giải oan. Sau này, khi đã được bổ Tri phủ Quốc Oai, gặp một Nho sinh nài xin một chức vị trong phủ không được, ông lại bị Nho sinh đó kết bè với một vài lính lệ kiện ông thu tiền dân không hợp lệ. Mặc dù các hào mục trong phủ đã vào tận tỉnh khiếu oan giúp, nhưng ông vẫn bị bãi chức, phải về nhà dạy học. Chán nản với thế sự, ông đã dồn tâm huyết viết truyện Quan Âm Thị Kính để gửi gắm lòng mình. Năm 1876, con ông là Cử nhân Đỗ Trọng Vĩ chép lại tác phẩm của ông. Trong bản in quốc ngữ vào năm 1948 vẫn còn giữ nguyên tên tác giả Đỗ Trọng Dư.
Quan Âm tân truyện là câu chuyện thương tâm về một người con gái nết na, hiền hậu, nhưng phải ôm một nỗi oan khó gỡ cho đến tận lúc chết. Nàng Thị Kính, con nhà nghèo, lấy chồng học trò tên là Thiện Sĩ. Một đêm, chồng học quá khuya, ngủ thiếp đi, vợ ngồi khâu bên cạnh, thấy một sợi râu mọc ngược cho là điềm xấu, sẵn dao cầm tay toan cắt đi. Chồng giật mình tỉnh dậy, tưởng vợ có bụng ác, hô hoán lên. Cha mẹ chồng chạy tới, một mực gán cho Thị Kính tội mưu giết chồng, và đuổi nàng về nhà cha mẹ đẻ. Thị Kính buồn tủi, đành ăn mặc giả trai tìm tới tụ ở chùa Vân Tự, mang tên Kính Tâm. Trong vùng có Thị Mầu, con gái phú ông, vốn tính lẳng lơ, lên chùa trông thấy Kính Tâm, ngỡ là trai, liền đem lòng say đắm, nhưng không được Kính Tâm đáp ứng. Trước sự thờ ơ của chú tiểu, không nén được lòng ham muốn, Thị Mầu trở về ăn nằm với người đầy tớ trai, và có mang. Bị hào lý trong làng tra hỏi, Thị Mầu đổ cho Kính Tâm. Vì thế Kính Tâm bị sư cụ bắt ra ở ngoài cổng chùa. Ít lâu sau, Thị Mầu sinh con trai đem tới chùa phó mặc cho chú tiểu. Kính Tâm thương trẻ sơ sinh, "gáo sữa mười phương" nuôi nấng đứa trẻ. Ba năm sau nàng mất. trước lúc mất, nàng viết lời minh oan gửi lại cho cha mẹ. Lúc liệm thi hài, mọi người mới rõ Kính Tâm là phụ nữ. Oan tình được cởi, nàng được siêu thăng làm Phật Quan Âm.
Nỗi oan Thị Kính thật lớn, tưởng chừng như không nỗi đau, nỗi oan nào "qua mặt" được. Thế nhưng còn có một nỗi oan lớn hơn và là cực lớn, không một nỗi oan nào có thể sánh được, đó là nỗi oan của Trời, người ta thường nói tới Thiên tai, nghĩa là tai ương phát xuất từ Trời. Đại thi hào Nguyễn Du mở đầu truyện Kiều đã quy cho Trời tất cả khổ đau của nàng Kiều suốt 15 năm lưu lạc, bị vùi dập trong chốn bùn nhơ với trăm cay nghìn đắng, đến nỗi Kiều tuyệt vọng, không còn biết bám víu vào đâu đành gieo mình xuống sông Tiền Đường tự vẫn:
"Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Lạ gì bỉ sắc tư phong
Trời Xanh quen thói má hồng đánh ghen"
Kết thúc truyện Kiều, cụ Tố Như cũng tóm gọn :
"Ngẫm hay muôn sự tại Trời
Trời kia đã bắt làm người có thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao"
Tuy nhiên tác giả truyện Kiều cũng khám phá ra cái "nghiệp" mới là nguyên nhân chính và cũng phần nào minh oan cho Trời, tuy có hơi muộn :
"Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn Trời gần Trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài"
Trong Tam Quốc Chí của La Quán Trung, Chu Du trước khi chết còn ngửa mặt lên Trời than trách : "Trời đã sinh Du sao còn sinh Lượng ?". Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm diễn nôm cũng mở đầu bằng một câu "trách Trời" : "Thuở Trời Đất nổi cơn gió bụi Khách má hồng ngàn nỗi truân chiên"
Trên đời này những kẻ được may mắn mặt này mặt khác mà nhận ra là do Trời ban, Trời độ hoặc "Trời che đất chở" hay ơn Trời ban, ơn trên phù hộ - thì tương đối ít, còn những kẻ gặp những điều chẳng như ý liền đổ "tại Trời" thì rất nhiều.
Linh mục Hồng Giáo OFM có bài "Tại sao ? Tại sao ?" đăng trên báo Công giáo & Dân tộc số 1803, tuần lễ 15–21/4/2011, trang 6-7 như sau : Ba ngày sau thảm họa động đất ở Nhật Bản, tôi nhận được lá thư điện tử của một người giáo dân Việt Nam sinh sống tại đó với mấy dòng chia sẻ sau đây làm tôi suy nghĩ : "… Đứa con gái của con học bên Mỹ gọi điện về khóc sướt mướt ; nó nói nó không tin Chúa, nó không đi nhà thờ nữa ; tại sao Chúa không cứu vớt mà lại để cho thảm họa này xảy ra như vậy ? Con chẳng khuyên nó được. Thôi, thì giờ nó đang bị sốc nên cứ để cho nó suy nghĩ như thế, rồi từ từ nó sẽ nghĩ lại, bố nhỉ ?"
Cách cư xử của bà mẹ rất khôn ngoan. Lúc này phải là lúc tỏ lòng yêu thương, cảm thông hơn là dạy bảo nhất là la mắng con. Tôi cũng tin rằng phản ứng của cháu gái là tự nhiên, nghĩa là bột phát trong một nỗi xúc động quá mãnh liệt thôi, và rồi đây cháu sẽ tìm lại được sự bình an và niềm tín thác vào Thiên Chúa mà lâu nay cháu vẫn có. Chắc trước vụ động đất và sóng thần khủng khiếp này nhiều người khác trong cuộc và thậm chí ngoài cuộc cũng đã nêu câu hỏi như cháu : Tại sao Chúa không ra tay giúp, nghĩa là ngăn chặn không để cho tai họa xảy ra ? Thắc mắc này có thể cho thấy một điều là : dù tin hay không tin, người ta vẫn nghĩ rằng một Đấng là Thiên Chúa thì phải là Đấng toàn năng và nhân từ đối với con người. Mà đã là toàn năng và từ bi thì Ngài không thể để cho một thiên tai như thế xảy ra khiến con người phải khốn khổ và phải chết một cách vô lý. Vậy tại sao ? Thắc mắc này là một thử thách thật sự, có thể làm lay chuyển đức tin của bao người Kitô hữu, không loại trừ có kẻ đã thất vọng và chối bỏ Chúa vĩnh viễn. Còn đối với người vô thần thì đây là bằng chứng Thiên Chúa chỉ do con người tưởng tượng ra chứ làm sao mà có được, vì rõ ràng "Ngài" chẳng làm chi được cho con người ?
Tôi nghĩ vấn nạn mà cháu gái người Nhật gốc Việt nêu là là "rất thật" và rất "người", - ý tôi muốn nói là chắc hẳn nó gắn liền vào bản tính con người một cách nào đó. Con người từ bao giờ vẫn nêu những câu hỏi căn bản : Tại sao đau khổ ? Tại sao chết ? Cuộc đời có ý nghĩa gì không ? … Và các tôn giáo là những cách trả lời khác nhau cho những thắc mắc đó. Những người có lòng tin thường có tâm lý chờ đợi nơi Đấng linh thiêng một sự che chở phù hộ riêng khi gặp gian nan thử thách, thậm chí nhiều khi họ còn cảm thấy mình có quyền chờ đợi sự can thiệp đặc biệt của Đấng mình tôn thờ … Tâm tình đó là tự nhiên. Và cả khi vì lòng tin tưởng và hy vọng của mình không được thần linh đáp ứng theo ý mình mà sinh ra phàn nàn trách móc, thì đó vẫn là chuyện bình thường, miễn là không đi xa hơn đến chỗ chối bỏ đức tin. Cũng không khác chi người Việt Nam tin Trời nên hễ gặp khó khăn nào, như nghèo đói, bệnh tật, thất bại trong nghề nghiệp, trong tình duyên, trong học hành, hay tai nạn rủi ro, là có phản ứng tự nhiên "kêu Trời" hoặc "trách Trời" :
"Trời ơi Trời ở không cân,
Kẻ ăn không hết,
người lần không ra"
Hoặc :
"Lá vàng thì ở trên cây,
Lá xanh rụng xuống,
Trời hay chăng Trời ?"
Hoặc :
"Bắc thang lên hỏi Ông Trời,
Sao không bố thí cho tôi tí chồng?"
(Ca dao)
Có một điều tôi thấy hơi lạ, là khi mọi chuyện xuôi chảy thuận lợi hoặc khi gặp điều may mắn thì ít ai nghĩ tới Ông Trời hoặc Thiên Chúa, nhưng hễ gặp thử thách (kể cả do chính mình gây ra) là ngay lập tức trách Trời, trách Chúa. Ngày xưa thánh Augustinô đã nhận xét : Thiên hạ thường dựa vào sự hiện diện của điều xấu, sự ác để kết luận là không có Thiên Chúa, nhưng ngài đặt câu hỏi ngược lại : Nếu không có Thiên Chúa thì bạn giải thích thế nào sự hiện diện của sự lành, điều thiện nhan nhản khắp nơi và ngay trong bản thân bạn ?
Trên đây tôi đã nhìn phản ứng của cháu gái Nhật-Việt như một việc bình thường, nhưng thật ra tôi biết cháu nêu lên một vấn đề lớn và không dễ trả lời : tại sao Thiên Chúa không ngăn cản các thiên tai có thể gây tai họa cho con người ?
Thiên tai là những tai họa do thiên nhiên gây ra. Nhưng thiên tai thật ra chỉ là những hiện tượng tự nhiên, những hoạt động bình thường của thiên nhiên theo quy luật mà thôi, chẳng qua vì không may mà có tác động xấu tới con người ở một mức rộng lớn nên ta mới gọi là thiên tai. Những hoạt động theo quy luật của thiên nhiên thì cứ liên miên xảy ra, hằng giây hằng phút trong vũ trụ bao la và trên trái đất ta ở, chúng to hay nhỏ, lợi hay hại, bình thường hay bất thường …, đó là đánh giá của conngười, không phải chuyện của thiên nhiên trời đất ; nếu muốn nói thiên nhiên mù quáng không đếm xỉa chi tới con người chúng ta cả - thì vẫn rất đúng. Nhưng biết sao được, không lẽ thiên nhiên cứ phải làm theo ý của ta sao ?
Đại thi hào Ấn Độ Tagore có lần nhận định rằng con người rất mâu thuẫn khi đòi thiên nhiên phải hoạt động theo ý của họ (mà đòi hỏi thiên nhiên là gián tiếp đòi hỏi Thượng Đế), ông nêu ví dụ : một bà mẹ tập đi cho đứa con nhỏ của mình sẽ vô cùng hạnh phúc khi thấy con bước đi được những bước đầu tiên trong đời, và được vậy tất nhiên là nền nhà phải cứng vững (như bình thường là thế), nhưng khi con té ngã bà lại trách tại sao nền nhà không mềm như tấm nệm cho con mình khỏi đau ? Nền nhà không thể khi cứng khi mềm liên hồi theo ý ta được. Đòi Thiên Chúa dùng quyền phép mình chế ngự thiên nhiên trong mọi trường hợp Ngài biết là sẽ gây tai họa cho con cái Ngài thì cũng gần như thế. Bạn thử nghĩ xem : giả sử Ngài liên tục can thiệp vào hoạt động của thiên nhiên theo ý con người thì hậu quả sẽ ra sao ? Đơn giản là thiên nhiên sẽ không thể tồn tại và do đó con người cũng vậy.
Chúa đã dựng nên thiên nhiên vạn vật cùng với các quy luật chi phối chúng – chúng ta gọi là định luật tự nhiên. Ngài cai quản chúng qua các định luật ấy. Nhờ các định luật đó mà mọi vật mọi loài tồn tại và phát triển. Nhưng người Công giáo biết rằng Chúa cũng đã dựng nên con người giống hình ảnh Ngài, có trí khôn, tự do và "đặt làm chủ mọi thọ tạo trên trái đất, để cai quản và sử dụng chúng" (Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng, số 12 ; xem sách Sáng Thế đoạn 1, câu 20-28). Như thế, Thiên Chúa cũng chia sẻ cho họ một phần quyền sáng tạo của Ngài. Quả thực, nhờ không ngừng hiểu biết được các định luật tự nhiên, con người vừa có thể sử dụng thiên nhiên cho lợi ích của mình, vừa hạn chế được các tác hại của thiên nhiên và góp phần hoàn thiện trái đất nơi họ sinh sống. Nhưng hiển nhiên là cũng chính con người phá hoại công trình tạo thành của Chúa khi lạm dụng quyền làm chủ của mình vượt quá ý muốn của Chúa Tạo Hóa, nhất là từ vài thế kỷ nay, với tiến bộ phi thường của khoa học kỹ thuật, con người đã hành xử như một bạo chúa, tự cho mình quyền muốn làm gì với thiên nhiên cũng được, không ngừng can thiệp sâu vào thiên nhiên đến độ phá hủy sự thăng bằng của môi trường tự nhiên, và hậu quả là biết bao đe dọa và thảm họa con người phải hứng chịu. Ngày nay nhiều thiên tai thật ra là nhân tai, như những trận lũ lụt ngày càng nhiều và dữ dội hơn tại miền Trung nước ta chẳng hạn là một phần hậu quả của việc tàn phá rừng núi và ngăn cản dòng chảy của sông ngòi. Ngày hôm nay, nhiều công trình của con người quay lại chống con người.
Đau khổ và sự chết là vấn nạn muôn thuở của con người. Công đồng Vaticanô II dạy : "Nếu thiếu căn bản là Thiên Chúa và thiếu niềm hy vọng vào đời sống vĩnh cửu thì phẩm giá con người sẽ bị tổn thương cách trầm trọng như thường thấy ngày nay, và những bí ẩn về sự sống, sự chết, về tội lỗi và đau khổ vẫn không giải đáp được, như thế con người nhiều khi rơi vào tuyệt vọng" (Hiến chế đã dẫn, số 21). Giáo Hội xác tín rằng "nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Kitô bí ẩn về đau khổ và sự chết được sáng tỏ, bí ẩn đó đè bẹp chúng ta nếu chúng ta không biết đến Phúc Âm. Chúa Kitô đã sống lại nhờ sự chết của mình. Người đã hủy diệt sự chết và Người đã ban cho ta dồi dào sự sống …" (nt, số 22).
Tuy đã có lời giải đáp, nhưng người tin Chúa không vì thế mà hết lo âu, sợ hãi khi đối diện với đau khổ và sự chết. Và nếu trong những lúc ấy, họ có thốt lên vì quá bức xúc : Chúa đâu rồi ? Chúa bỏ con sao ? thì cũng tự nhiên, không có gì sai lỗi, bởi vì chính Chúa Giêsu cũng đã cảm thấy "hãi hùng xao xuyến" (Mc 14,33) và "mồ hôi như những giọt máu rơi xuống đất" trước khi đi chịu nạn (Lc 22,44); rồi trên thập giá, trong đau khổ tột cùng Ngài còn kêu lên : "Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con ?" (Mc 15,34). Đó là phản ứng của con người tự nhiên, nhưng mau chóng lòng tin tưởng của người con nơi Ngài đã vượt lên trên tất cả. Trước lúc tắt thở, Ngài đã thưa với Cha : "Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha" (Lc 23,46).
Về đầu trang
***
Nhận định
[Phần này đơn giản chỉ là những suy nghĩ vẩn vơ của người viết. Bạn đọc hoàn toàn tự do phê phán, cân nhắc chuyện đúng sai, tùy theo lương tâm ngay thẳng của mình].
1. Thái độ "giận" Ông Trời của cô bé nào đó do quá xúc động có thể thông cảm được, nhưng xét cho cùng đấy cũng là "đổ oan" cho Trời mà thôi, biết đâu chuyện động đất, sóng thần lại chẳng do con người trực tiếp hay gián tiếp gây ra cho nhau. Này nhé vỏ trái đất phần cứng so với vỏ quả trứng thì mỏng hơn, thế mà hàng bao nhiêu thế kỷ nay con người đào bới, đục khoét nhất là từ khi công nghiệp nặng phát triển, những mỏ than, mỏ vàng, đồng, sắt, chì, bauxit … người ta khai thác hàng mấy cây số sâu dưới lòng đất, những giếng dầu được khoan chi chít sâu hàng chục cây số, mỗi ngày lôi lên hàng trăm triệu tấn, tầng nước ngầm được hút lên hàng trăm tỷ mét khối mỗi ngày, ấy là chưa kể những thành phố ngầm dưới lòng đất, những đường hầm dưới lòng biển Manche, lòng biển ở Đan Mạch và bên dưới các thành phố lớn như New York, Paris, Rôma, Bắc Kinh, Maxcơva, Luân Đôn, Berlin … (T/p Hồ Chí Minh cũng chuẩn bị hệ thống Mêtrô dưới lòng đất), làm sao mà lòng trái đất khỏi bị biến động, cầm giữ làm sao được những khối magma với áp lực cực mạnh lúc nào cũng chỉ chờ một kẽ hở là phun trào thành núi lửa. Vỏ trái đất rỗng như thế thì tránh sao khỏi sụt chỗ này, lở chỗ nọ, gây chấn động (động đất) mở ra những đường nứt rộng hàng chục, sâu hàng chục, dài hàng trăm cây số dưới lòng biển, nước đại dương ồ ạt dồn xuống và khi đầy tràn thì dội lên, làm thành sóng thần cao tới 25m (như đợt sóng thần 11/3 vừa qua). Sóng thì phải tìm đường giải tỏa và kéo theo tất tần tật những gì nó có thể kéo cho tới khi gặp đất cao hơn mới rút lui. Thiên nhiên phải vận hành theo quy luật ngàn đời của nó, con người đối đầu không được thì phải chấp nhận tiêu vong. Thế thì có lý do gì để "giận" Trời ?
Nếu những định luật tự nhiên mà bị đảo lộn thì con người cũng như muôn vật làm sao mà sống ? Lửa thì không cháy, không tỏa nhiệt, không phát ra ánh sáng, cây thì cắm ngọn xuống, chổng gốc rễ lên, nước thì chảy ngược từ lũng thấp lên núi cao. Không còn ý nghĩa của câu "nước mắt chảy xuống" ; ăn thay vì nuốt vào thì cứ trôi ra như mẹ Kiền Mục Liên khi còn trong địa ngục thì làm sao mà sống đây ? Có một giai thoại về Đức Khổng Phu Tử như sau : Một người học trò hỏi thầy Khổng Tử rằng có mệnh trời hay không ? Thầy trả lời : "Có mệnh trời nhưng không được phép ngồi dưới chân bức tường sắp đổ".
Báo Thanh Niên ngày 6/5/2011, trang 5 có bài viết của Lâm Viên "Nhận định ban đầu về hiện tượng bùn phun, nứt đất" (ở Việt Nam) : "Về nguyên nhân hiện tượng bùn phun trào ở Ninh Thuận (không phải Bình Thuận như tin Thanh Niên ngày 5/5 đã đưa), TS Đỗ Văn Lĩnh, Phó liên đoàn trưởng Liên đoàn Bản đồ địa chất miền Nam (Cục Địa chất và khoáng sản VN) cho rằng có 4 khả năng xảy ra : liên quan đến đới đứt gãy hoạt động, do gúi bùn dưới lòng đất hoạt động, do núi lửa bùn hoạt động hoặc do xung đột kiến tạo dưới lòng đất. Ông cũng nhận định hiện tượng nứt đất tại Di Linh liên quan đến đứt gãy Bảo Lâm (Lâm Đồng) – Tam Hiệp (Đồng Nai) có biểu hiện hoạt động trở lại. Tuy nhiên, muốn kết luận nguyên nhân chính xác phải đến hiện trường đo đạc cụ thể …
Trong khi đó, chiều qua 5/5, một cơn mưa lớn kéo dài khoảng 30 phút đổ ập xuống H. Di Linh (Lâm Đồng khiến hàng chục hộ dân trong khu vực đất nứt thêm hoảng sợ. Có mặt tại hiện trường, ông Nguyễn Canh, Chủ tịch UBND huyện Di Linh, cho hay : "Các vết nứt ở thị trấn Di Linh vừa qua ngày càng lan rộng. Mặt đường Nguyễn Văn Trỗi đã xuất hiện tổng cộng 7 vết nứt. Hiện tượng đất sụt lún trên mặt đường Hai Bà Trưng ngày càng trầm trọng và có độ chênh lệch trên 20cm".
Cùng ngày, ông Lương Văn Ngự, Phó giám đốc sở TN-MT tỉnh Lâm Đồng, cho biết kết quả khảo sát của Sở vào ngày 4/5 cho thấy diện tích vùng bị ảnh hưởng do nứt đất, sụt lún đất khoảng 15 ha (dài 500m, rộng 300m) ; vết nứt rộng nhất đo được là 15cm, chiều sâu có nơi hơn 2m. Theo nhận định sơ bộ của Sở này, có 2 nguyên nhân dẫn đến hiện tượng nứt đất, sụt lún đất tại Di Linh : Thứ nhất do cấu trúc địa chất khu vực này nền đất yếu, nằm sát vùng đất bùn nên xảy ra trượt lún nền. Thứ hai, do Nhà máy nước Di Linh bơm nước ngầm để sản xuất nước sạch, nên mực nước ngầm tụt, dẫn đến nứt đất".
Lòng đất của chúng ta rỗng như "hang chuột" do khai thác "tận diệt" để làm giàu nhất thời sao có thể tránh khỏi những biến động như trên. Ngày nay cụ Nguyễn Du có chỗi dậy chắc phải sửa lại câu Kiều : "Ngẫm hay trăm sự tại người" (thay vì tại Trời).
Trong nguyệt san Công giáo & Dân tộc số 196 tháng 4/2011, mục thời sự quốc tế trang 73, biên tập viên NBV đã viết : "Sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima (Nhật) đầu năm nay và vụ giải cứu thợ mỏ Chile năm ngoái nhắc nhở con người về cái giá phải trả cho việc phát triển nguồn năng lượng. Cộng đồng quốc tế đã lên tiếng kêu gọi xem xét lại tiêu chuẩn an toàn về hạt nhân cũng như an toàn hầm mỏ.
Trung bình mỗi năm, thế giới bị thiệt nhiều về nhân mạng và của cải cho công cuộc khai thác hầm mỏ (than, khoáng sản) và các giếng dầu. Thảm họa vẫn tiếp tục diễn ra, hàng ngàn người được cứu sống, nhưng vẫn có hàng ngàn người bị chôn vùi vĩnh viễn dưới lòng đất.
Vấn đề an toàn lao động tại các hầm mỏ và cơ sở hạt nhân đang là chủ đề nóng bỏng, thu hút sự quan tâm của cả thế giới". Những thảm họa chôn vùi hàng ngàn người dưới lòng đất chỉ là phần nhỏ, tai họa cho cả trái đất nơi loài người sinh sống, như động đất, sóng thần … mới lớn gấp bội. Thế mà cứ đổ "tại Trời" mới khổ chứ. Đổ thừa như thế để tránh kiểm điểm trách nhiệm của mình, đấy là thói quen của loài người.
2. Nếu xét ở bình diện cao hơn, rộng hơn thì thảm họa dân Nhật phải gánh chịu (14.000 người chết, 17.000 người mất tích, nhà cửa đổ nát, tính tổng thiệt hại tới 300 tỉ USD) cũng có lỗi của cả nhân loại.
Đây nhé, trái đất này được tạo dựng và được ban tặng chung cho mọi người, mọi dân tộc, hà cớ gì lại "phân lô" để chiếm giữ, nước mạnh chiếm phần to, giàu tài nguyên, nước yếu chịu phần bé, nghèo nàn, khô cằn, nhiều nguy hiểm. Đất đai, sông biển, tài nguyên của trái đất bị chia mảnh, đó là sự tranh cướp của loài người với nhau chứ đâu có phải sự phân chia của Trời. Tình trạng tranh cướp vẫn tồn tại và sẽ tồn tại đến tận thế, các nước láng giềng với nhau tranh giành biên giới, lính tráng vũ trang khí tài tập trung ỳ xèo đe dọa nhau (biên giới Campuchia–Thái Lan, Nam–Bắc Hàn, Nhật Bản–Liên Xô, Palestin– Israel, Pakistan–Ấn Độ …). Ai đã cho con người cái quyền làm như thế ? Giả như mọi người coi trái đất là mái nhà chung, chẳng phân biệt màu da, chủng tộc – cư xử với nhau công bằng và bác ái – đất rộng dân thưa như châu Đại Dương mà cho dân Nhật lập cư ở ké, tránh vành đai núi lửa, đất sụt… thì đâu có bị thiệt hại do thảm họa động đất, sóng thần hôm 11/3/2011. Nếu tài nguyên được chia đều để sống thì đâu có cảnh nghèo đói như một số nước ở châu Phi … như thế thì cả những trận động đất và sóng thần gây thiệt hại người và của cũng trực tiếp hay gián tiếp do con người cả đấy thôi, sao lại đổ cho Trời để rồi "giận" Ông Trời, nghỉ chơi với Ông Trời !
Tốt hơn hết là chúng ta khiêm tốn nhìn ra sự thật là lỗi lầm của chính chúng ta, để chấn chỉnh đồng thời cầu Trời ban phước lành cho những nạn nhân, giúp họ sớm khắc phục thảm họa. Phần chúng ta, những người hiện nay còn được sống bình an không bị ảnh hưởng nhiều bởi thảm họa, chúng ta động viên nhau giúp đỡ cho các nạn nhân trong tinh thần yêu thương đùm bọc "là lành đùm lá rách", và nếu có là "lá rách thì cũng đùm lấy lá nát", như thế có hay không ? Người ta vẫn nói "thà thắp lên 1 ngọn đèn dầu leo lét còn hơn là cứ ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối".
3. Bây giờ nói về những chuyện khác thiết thân với chúng ta. Trước hết là vấn đề hạt nhân, một phát minh vĩ đại của loài người nhưng cũng là con dao 2 lưỡi "lợi thì có lợi" nhưng rất nhiều khi "hàm răng chẳng còn". Ngay khi xảy ra sự cố nhà máy điện hạt nhân Fukushima (Nhật) ngày 11/3, các nước Âu châu và Mỹ châu đã vội vàng đề ra các biện pháp kiểm tra an toàn hạt nhân nghiêm nhặt.
Nguyệt san CGvDT số 196, trang 77 có bài "Điện hạt nhân" của NBV : Âu châu có 143 lò hạt nhân, tại 14 nước. Điện hạt nhân Pháp đứng hàng đầu với 58 nhà máy, chiếm 75% điện năng, Slovakia (53%), Bỉ (51%), Ucraina (48%). Đức chỉ có 17 nhà máy điện hạt nhân chiếm
25% điện năng. Pháp là cường quốc số hai về điện hạt nhân, sau Mỹ, đang vận động họp Hội nghị quốc tế vào tháng 5 này, để thông qua một bộ luật về an toàn hạt nhân. Hiện IAEA (cơ quan nguyên tử quốc tế) đã có các tiêu chuẩn an toàn hạt nhân được 72 nước thông qua năm 1986, sau vụ Chernobyl (vụ nổ lò hạt nhân khủng khiếp nhất từ trước đến bây giờ, bụi phóng xạ ảnh hưởng tới nhiều nước xung quanh, thiệt hại rất nhiều người, nhiều của)), nhưng không có tính ràng buộc pháp lý. Phi châu chỉ có Nam phi sở hữu 2 lò điện hạt nhân ở Koeberg, cung cấp 6% điện năng. Maroc, Algeria và Ai Cập hiện có 10 lò phản ứng hạt nhân, phục vụ công cuộc nghiên cứu.
Bất chấp thảm họa hạt nhân tại Nhật, các nước vùng Vịnh vẫn quyết tâm phát triển năng lượng hạt nhân. Arập thống nhất đang xây nhà máy 20 tỷ USD, Kuweit có kế hoạch xây 6 lò phản ứng hạt nhân.
Trong số 442 lò hạt nhân trên toàn thế giới, vùng Trung Đông mới bước vào cuộc chạy đua nguyên tử. Sau vụ Chernobyl, nhiều nước đã ngưng chương trình hạt nhân. Thảm họa hạt nhân Nhật hiện nay cũng khiến nhiều nước suy nghĩ lại.
Đức sẽ chấm dứt dùng điện hạt nhân : Đức trở thành nước công nghiệp đầu tiên chấm dứt dùng điện hạt nhân … Chính phủ Đức đã đóng cửa 8 nhà máy điện hạt nhân ngay sau sự cố điện hạt nhân ở Nhật, và dự trù đóng cửa 9 nhà máy còn lại vào năm 2022 (Thụy Miên – Lê Loan, báo Thanh Niên ngày 31/5/2011).
4. Vấn đề giàu nghèo – Đây là chuyện muôn thuở và muôn đời, ngoài việc kêu Trời, người ta không biết đổ lỗi cho ai. "Trời ơi ! Trời ở không cân, Kẻ ăn không hết, người lần không ra"
Thời nông nô, các chủ nông quyền lực nắm hết đất đai, ruộng vườn, đại đa số dân nghèo phải làm nô lệ để kiếm sống qua ngày, cuộc đời tối tăm lầm lũi.
Thời phong kiến, bọn cường hào ác bá, địa chủ, quân phiệt nắm hết ruộng đất, tài sản. Đại đa số dân chúng chấp nhận làm tá điền một nắng hai sương, sống trong cảnh nghèo đói, thiệt thòi, bị bóc lột.
Thời dân chủ tương đối khá hơn, lý thuyết thì hay đấy : Dân chủ có nghĩa là người dân được làm chủ mọi tài sản của đất nước, nhưng thực tế hố sâu giàu nghèo cũng chẳng kém thời phong kiến, có khi còn sâu hơn, xa hơn nữa, cứ nhìn xung quanh chúng ta và hướng ra toàn thế giới mà xem bao nhiêu kẻ "ăn không hết", bao nhiêu người "lần không ra" !
Tuyên ngôn độc lập 2/9/1946 của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã xác quyết : "Tạo Hóa dựng lên con người bình đẳng, ai cũng có quyền tự do, quyền sống…" – Tại sao lại có những người "giành" được nhiều của cải, đất đai, … có những người lao động suốt đời, cơm không đủ no, áo không đủ ấm, nói chi tới tiện nghi, đến trăm phương nghìn kế để hưởng thụ chất lượng cuộc sống.
Ở đây mới nói tới động từ "giành" có nghĩa là "xí được", chưa nói tới động từ "cướp đêm" hay "cướp ngày" dưới mọi hình thức tinh vi. Bạn nghĩ sao về đám cưới đình đám của hoàng tử William nước Anh tốn hơn 50 triệu USD, dân chúng nghỉ việc để xem đám cưới tính ra thiệt hại 10 tỷ USD (báo chí cuối tháng 4/2011), hay đám cưới con một quan chức lớn ở Ấn Độ tốn 28 triệu USD mà dân chúng nhiều người lên tiếng ca thán ? Trong khi đó hàng tỷ người trên thế giới mong được 1 USD/ngày để sống cũng chưa có ! Hai bài báo sau đây đủ tạo nên hình tượng của cái nghèo cho người ta "sờ được, ngửi thấy" :
a. "Nói chuyện trên trời" (báo Tuổi Trẻ ngày 13/3/2010 – Bút Bi) :
Trước tình hình nhiều công nhân ốm đói xanh xao và mỗi sáng vào ca với bước đi xiêu vẹo, thậm chí có người đang làm lăn ra ngất xỉu, hội nghị các ông chủ và liên hiệp các nhà bếp công nhân khẩn cấp họp bàn biện pháp cải thiện tình hình dù mỗi suất ăn đã có giá ... 5.000 đồng.
- Hàng tháng chúng tôi đã phát lương đều đặn - một ông chủ ném cái nhìn về phía liên hiệp các nhà bếp.
- Đủ muối, đủ mắm, rau xào có dầu và món canh không khi nào thiếu tóp mỡ ! - một bếp trưởng phản công. Đúng rồi, phải nói kẻo người ta tưởng cánh nhà bếp "cầm dầu sao khỏi dính tay". Như vậy đã rõ : chủ phát lương đủ, nhà bếp không tơ hào, vậy sao công nhân vẫn xanh lướt như tàu lá ?
- Vấn đề là công nhân thiếu kiến thức, không biết cân đối khẩu phần
- một vị sửa lại cái cà vạt trên cổ béo ngấn, khịt mũi - phải tổ chức nhiều cuộc hội thảo, truyền đạt kiến thức về bữa ăn cho công nhân. Đó là : phải đủ đạm, tinh bột, chất béo, chất xơ, đường ... Đó là chưa kể ăn quà vặt, hàng rong phải tuân thủ triệt để an toàn vệ sinh thực phẩm !
Sau một phút ngỡ ngàng, cả hội nghị vỗ tay rần rần : phải, chí phải, lỗi là do công nhân thiếu kiến thức về dinh dưỡng ! Hội nghị thành công và bàn tiệc được bày ra, bia khui lốp bốp.
Một toán công nhân xuống ca nãy giờ tò mò lắng nghe phát biểu, lắc đầu : "Lương thế này đến cơm còn không đủ ăn nói gì cân đối dinh dưỡng mấy cha nội. Nói chuyện trên trời !".
b. "70 tuổi vẫn long đong phận người" (báo Thanh Niên ngày 30/6/2010 – Trần Thế Vinh) : Một lần về miền Trung, tình cờ gặp một bà lão khoảng 70 tuổi đang bắt ốc tại một con sông, tôi nhận ra đó là bà Bảy Chê, ở làng Đông Bình, Triêm Đông I, Điện Phương (Điện Bàn, Quảng Nam).
Bà Bảy Chê đang bắt ốc trên sông Đầm.
Bà tên thật là Trần Thị Chê, ở cuối làng Đông Bình. Gia đình bà có 4 anh chị em, người chị cả lấy chồng xa quê biệt xứ từ những năm 60 thế kỷ trước, không biết giờ ở đâu ; người chị kế lấy chồng cùng làng cũng nghèo lại không may mang bệnh ung thư qua đời và anh trai tập kết ra Bắc từ năm 1954. Cha bà ngày xưa làm nghề cào hến, ngày đêm lặn hụp hết sông này đến sông khác, mẹ con bà thức khuya dậy sớm nấu hến gánh đi bán khắp làng kiếm mấy đồng bạc lẻ, mua gạo, mua khoai sống qua ngày.
Mùa mưa lũ, cha bà lại cùng với đôi nơm tre đi "úp" quanh ruộng làng hoặc "đứng trủ" (cất vó) dưới mưa gió buốt lạnh để kiếm vài con cá đồng. Cả gia đình sống trong một căn nhà vách đất, phên tre, mái rạ. Cha mẹ bà lần lượt ra đi, khi bà có chồng có con, chồng đi xa, bà lại phải nuôi con một mình. Công cụ kiếm sống của bà là chiếc thau nhôm cao cổ, cái rổ tre, ngày ngày lặn lội từ sông Đầm, đến sông Phú Chiêm rồi lên hói Lai Nghi để bắt ốc, mò cua. Nhiều lần bà suýt chết vì sụp hố nước sâu, ốc cua cũng theo nước trôi mất, đành về tay không. Những ngày như vậy, cả nhà đành phải nhịn đói.
Cho đến bây giờ tuổi đã 70, bà cũng phải lặn lội suốt ngày từ sáng đến chiều để nuôi người chồng bị bệnh, mất sức lao động ngồi tại chỗ. Các con bà ai cũng nghèo, họ không đủ để lo cho gia đình của mình, làm sao để phụ cha mẹ. Có những đêm mưa lạnh bà cũng phải lặn lội rất khuya để bắt ốc. Một hôm tôi đến nhà, bà đang lúi húi trong bếp lo bữa cơm chiều, bữa cơm chỉ có rau luộc và chén mắm cáy. Bà cho biết mỗi ngày từ việc mò cua bắt ốc, lúc nhiều nhất cũng được hai ba chục ngàn, gặp ngày nước lớn thì chỉ được năm mười ngàn. Nhìn lại, cả đời bà Bảy Chê phải chịu cực khổ suốt từ lúc nhỏ cho đến tuổi xế chiều, bao nhiêu nỗi lo toan vất vả dường như đọng lại hết trên khuôn mặt lam lũ của bà.
Rời nhà bà, tôi cứ nặng trĩu ưu tư, một kiếp người chưa có một ngày an nhàn, dù chỉ với mong ước rằng có được vài trăm ngàn đồng để thân già bớt được dăm bảy ngày lặn lội nơi ruộng cạn đồng sâu.
Báo Thanh Niên ngày 21/5/2011 cũng làm hàng tỷ người nghèo thất nghiệp phải nuốt nước miếng : Báo chí Anh tung tin Real đồng ý chuyển nhượng Ronaldo với giá 150 triệu bảng, Ronaldo sẽ là cầu thủ đắt giá nhất với mức lương 200.000 – 300.000 bảng/tuần ; Lương huấn luyện viên Mourinho 13,5 triệu Euro/năm ; Maradona 12 triệu Euro/năm – (hơn 1 tỷ tiền Việt Nam mỗi ngày, báo Thanh Niên ngày 23/5/2011).
Có người nói rằng giàu có không phải là tội, nghèo khó cũng chẳng phải là tội, đó là tình trạng xã hội tự nhiên chẳng có gì đáng bàn, ai giàu nấy hưởng, ai nghèo thì ráng chịu. Nói như vậy thì vẫn hàm hồ. Chúng ta phải xác định rằng giàu có mà do tài năng sáng kiến của mình, do cần cù tiết kiệm mà tích lũy được thì quả là không có tội, nếu do lợi thế chức quyền, mánh mung hay do những hành động phi pháp, hoặc do thừa kế từ đời cố tổ tới giờ đã trải qua nhiều giai đoạn bất minh, thì vẫn có tội tày đình – Còn những người nghèo khó do mất sức lao động, không có điều kiện để làm việc, xoay sở thì quả thật vô tội và đáng thương ; còn nghèo khó do lười biếng, do cờ bạc, rượu chè, chơi bời, xì ke ma túy để thân tàn ma dại không thể lao động kiếm sống được thì đó là tội chứ gì nữa, trách ai đây !
Đối với Đức Chúa Trời, thì chưa xét nguồn gốc của cải do đâu, chỉ nguyên thái độ hưởng thụ ích kỷ, không nghĩ tới người yếu kém hơn mình, không biết chia sẻ giúp đỡ đã là tội tày đình đáng phải xuống hỏa ngục ! Thánh Luca đã chép trong Tin Mừng dụ ngôn sau đây : "Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Ápraham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn.
Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Ápraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên : "Lạy tổ phụ Ápraham, xin thương xót con, và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát ; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm ! Ông Ápraham đáp : "Con ơi, hãy nhớ lại : suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi ; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.
Ông nhà giàu nói : "Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này ! Ông Ápraham đáp : "Chúng đã có Môsê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó. Ông nhà giàu nói : "Thưa tổ phụ Ápraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối. Ông Ápraham đáp : "Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin" (Lc 16,19-31).
5. Ngôi sao xấu – Những người có cuộc đời không mấy suôn sẻ, ngoại hình lại không được hấp dẫn dễ nhìn thường than thở : "Mình sinh ra nhằm ngôi sao xấu", có ý nói về một định mệnh hẩm hiu hay nói cách khác tại Ông Trời sinh ra mình không được đẹp nên khó tiến thân. Nhất là thời buổi hiện tại, tiêu chí ngoại hình là hết sức quan trọng : tuyển "osin" cũng phải ngoại hình khá mới được.
Liệu có ngôi sao xấu thật không ? Hoặc nói cách khác, Ông Trời có sinh ra ai tật nguyền, xấu xí hay không ? Bạn đọc nghĩ thế nào thì tùy các bạn còn người viết thì xác tín rằng không có ngôi sao xấu. Sao nào trên bầu trời cũng le lói cả, có mờ nhạt là do nó ở xa chúng ta quá đó thôi. Lòng Trời rộng hơn đại dương chứ đâu có hẹp như cái ao tù để rồi "ăn ở bất công" tạo ra người này đẹp, kẻ kia xấu, người này hoàn chỉnh, kẻ kia khiếm khuyết. Thánh Kinh Cựu Ước đã chẳng quả quyết : "Con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa" đó sao (sách Sáng Thế đoạn 1, câu 27), mà Thiên Chúa hay Ông Trời là Chân-Thiện-Mỹ tuyệt đối thì làm gì có "hình ảnh" xấu xí. Một họa sỹ, một nhà điêu khắc tạo nên một tác phẩm phải đẹp (theo tác giả), chứ có ai cất công vẽ vời đục đẽo ra một tác phẩm xấu bao giờ, trừ khi tác giả không có khả năng, tài cán (lực bất tòng tâm), vậy thì làm sao lý giải hiện tượng xã hội : kẻ đẹp, người xấu, kẻ khỏe người đau, kẻ béo người gầy, kẻ đầy đủ mọi bộ phận, lại lành lặn xinh đẹp, người bị khiếm khuyết, biến dạng đến nỗi đi lại cũng khó khăn, chẳng còn cơ hội để lao động kiếm sống, phải chịu thiệt thòi mọi mặt ? Nếu Trời không là tác nhân của tình trạng bi đát đó thì mọi sự tồi tệ chỉ tại con người mà thôi.
Này chúng ta sinh ra không "xinh đẹp" là do cha mẹ chúng ta hoặc ông bà chúng ta đã nghèo khổ, ăn uống thiếu thốn, suy dinh dưỡng, lại lao động cực nhọc, điều kiện y tế không có nên cưu mang chúng ta trong những điều kiện bất lợi, rồi sinh ra chúng ta bệnh tật, yếu đuối làm sao mà "xinh đẹp" được. Có khi do nhiễm bệnh đâu đó bởi người này người kia, hoặc bởi môi trường đã bị rải chất độc da cam, hoặc đã uống phải nước sông Thị Vải, sông Hồng, sông La Ngà, sông Đồng Nai và mọi nguồn nước đã bị ô nhiễm do nước thải các nhà máy đổ vào.
Chúng ta nghe báo chí nói tới làng ung thư ở ngoài Bắc, ở đó đa phần dân làng bị bệnh ung thư do nhiễm độc khí và nước thải từ một nhà máy nấu quặng nào đó xả ra. Dân làng nghèo đói không thể chuyển chỗ ở, Nhà nước cũng khó khăn chẳng dễ kiếm chỗ di dời cả một làng một xã, mà không phải chỉ di dời còn làm sao cho họ có đất trồng cấy, có công ăn việc làm để sinh sống nữa ! Đóng cửa nhà máy thì nhà nước không thu được lợi nhuận, nhiều ngàn công nhân thất nghiệp nên cứ để vậy rồi loay hoay tìm cách khắc phục hậu quả, đền bù chút đỉnh cho dân. Trường hợp nhà máy Vedan cũng vậy.
Còn trăm nghìn thứ do con người phát minh ra có giải quyết được một số đam mê của con người, nhưng tác hại cho con người thì không thể kể hết – thuốc lào, thuốc lá, thuốc lắc, thuốc phiện … gây ra hàng trăm trăm triệu cái chết trong năm. Một người nghiện ma túy, ung thư phổi làm khổ cả nhà, cả xóm và cả xã hội (do lây nhiễm).
Rượu bia, rượu mạnh giải quyết đam mê của một bộ phận dân chúng, nhưng lại sinh ra bệnh tật, tệ nạn mâu thuẫn và chết chóc, ưu phiền cho muôn ngàn người …
Xe cộ phát triển, nhập nhiều gây ra không biết bao nhiêu tai nạn, thương tật … một chiếc xe hơi xả khói cả xã hội phải "ngửi mùi".
Súng đạn, mìn, bom, nhất là nguyên tử … phục vụ hạnh phúc con người hay chỉ đe dọa, hủy diệt ? Hai cuộc thế chiến làm cho hàng trăm triệu người chết, hàng tỷ người bị thương tật, ảnh hưởng xấu cách này cách khác.
Nhiều thủy điện quá cũng làm hại môi trường, gây lũ lụt, bức tử các dòng sông : chỉ cần một đập thủy điện trên thượng nguồn sông Hồng, cả miền Bắc sẽ phải thất điên bát đảo. Còn ở miền Nam, chúng ta hãy đọc báo Tuổi Trẻ ngày 23/9/2010 : "11 dự án thủy điện de dọa sông Mékong" (bài của N.Triều – H.Giang) :
Trong thông cáo phát đi ngày 22/9, Quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF) cho biết hiện có 11 đập thủy điện được đề xuất xây dựng trên hạ lưu sông Mékong, đoạn chảy qua Lào, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam. Nếu chỉ một trong số những con đập này được xây dựng, nó sẽ phá vỡ sự kết nối hệ sinh thái của sông Mékong và dẫn đến một loạt tác động tiêu cực.
Cũng theo WWF, ngày 24/9 tại Bangkok (Thái Lan), lần đầu tiên các ngân hàng hàng đầu của Mỹ, châu Âu và châu Á sẽ cùng nhau gặp gỡ tại một hội thảo do WWF cùng các cơ quan phát triển khác đồng tổ chức. Cuộc họp sẽ tập trung bàn về các rủi ro về tài chính, xã hội và môi trường cũng như trách nhiệm đối với phát triển thủy điện trên hạ lưu sông Mékong và tìm giải pháp giảm thiểu những rủi ro này.
Đập Tam Hiệp gây nhiều vấn đề nghiêm trọng : Theo AFP, chính phủ Trung Quốc cho biết "Đập Tam Hiệp (lớn nhất thế giới) mang đến lợi ích to lớn nhưnglại có vấn đề cần khẩn trương giải quyết, như ổn định và cải thiện điều kiện đời sống cho người dân di dời (1,4 triệu dân), bảo vệ môi trường sinh thái và ngăn ngừa các tai biến địa chất" (đập khởi công 1993, hoàn thành 2008, nhấn chìm hàng ngàn làng xã và các di tích khảo cổ, hiệnnay cần hàng tỷ USD để khắc phục hậu quả về môi trường) – (Báo Thanh Niên ngày 20/5/2011 – Lê Loan).
Còn vụ khí hậu nóng lên do khí thải của các nhà máy bay lên không trung làm cho băng tuyết Bắc cực, Nam cực tan chảy. Các nhà khoa học tính khoảng 90 năm nữa mực nước biển sẽ dâng lên 1,6m, nhiều đảo, nhiều nước sẽ "chìm".
Báo Công an Tp.HCM ngày 27/5/2011 có bài "Vịnh Nha Trang đang hấp hối" : Vịnh Nha Trang một trong những vịnh đẹp nhất thế giới hiện đang "hấp hối" vì rác và ô nhiễm dưới mọi hình thức.
Chương trình INFO-TV ngày 29/5/2011 thông tin : Tới năm 2020, Việt Nam sẽ phải giải quyết 22 triệu tấn chất thải mỗi năm.
Loài người đang sống trong những điều kiện nguy hiểm như thế nhất là tuyệt đại đa số dân nghèo, làm sao không ảnh hưởng xấu tới con cái, cháu chắt :
- Thở khí ô nhiễm.
- Uống nước pha lẫn thuốc trừ sâu, dioxin, chất độc, chì, thủy ngân …
- Ăn thức ăn nhiễm đủ mọi thứ chất độc từ phóng xạ nguyên tử đến hóa chất.
- Mặc những chất vải cũng nhiễm độc, gây ung thư.
- Ở trong môi trường ngập rác – Tầng ôzôn bị thủng không đủ sức che chở cho làn da, khuôn mặt. Thử hỏi làm sao khỏe mạnh, xinh đẹp được. Lại còn hậu quả lâu dài của chiến tranh, diễn ra liên tục khi thì ở nơi này, lúc thì ở nơi nọ, thế giới hầu như chưa có một ngày thục sự bình yên – Người viết sinh ra trong chiến tranh, tuổi thơ được nuôi dưỡng dưới đạn bom, lớn lên trong loạn lạc, đói kém (trận đói thế kỷ năm Ất Dậu 1945, nguyên miền Bắc Việt Nam khoảng 2 triệu người chết đói), bây giờ trải qua tuổi già dưới hậu quả của chiến tranh, mìn bom vẫn còn bị chôn vùi đâu đó trên đất nước, rà gỡ chưa hết. VTV.9 chương trình Sáng Phương Nam sáng 25/5/2011 đưa tin : Israel lập được bản đồ nhờ vệ tinh hiện còn 200 triệu bãi mìn chôn vùi đó đây trên trái đất, bản đồ này sẽ giúp gỡ mìn ít nguy hiểm hơn. Ký ức kinh hoàng về những lần chạy loạn, nằm dưới con mương nghe ù tai tiếng máy bay, đại bác, … lâu lâu ký ức chiến tranh lại hiện về trong cơn ác mộng. Người viết nhiều khi cứ lẩn thẩn tự hỏi : Sao lại đánh nhau nhỉ ? Sao người miền Bắc lại giết người miền Nam và ngược lại ? Hận thù kéo dài nhiều chục năm từ thơi phân tranh Trịnh Nguyễn cho tới những năm gần đây, hàng trăm triệu người chết, què, cụt, mù, điếc, điên loạn, tâm lý trầm cảm, bất ổn do mất mát quá nhiều người thân và của cải. Tại sao nước Đức cũng có thời cách chia Đông Tây, cũng đối đầu thù địch rồi hòa hợp được, chẳng phí xương máu, đạn dược, tiền của, chẳng phí "nhời" chửi bới, vu khống hạ nhục nhau ? Ngày nay họ mạnh nhất châu Âu. Còn tại nước mình, người dân sống nhiều năm trong những điều kiện tâm sinh lý như vậy, làm sao không ảnh hưởng xấu tới dòng giống tương lai ! Con cái, cháu chắt lành lặn, xinh đẹp làm sao được ? Ấy là chưa kể bao nhiêu trường hợp người mẹ mang thai, sinh đẻ thiếu điều kiện thuận lợi : tinh thần bị ức chế do phiền não khổ sầu, thân xác bị bạo hành dã man. Báo Thanh Niên ngày 16/6/2010 đưa tin : "Một người vợ bị chồng hành hạ 14 năm" (bài của Gia Bách) : Đó là bà Nguyễn Thu Hằng (43 tuổi, ngụ ấp Gành Hào 1, xã Hòa Tân, TP Cà Mau, tỉnh Cà Mau), được lực lượng Công an xã Hòa Tân đưa về trụ sở ngày 15/6, trong tình trạng trên người có nhiều vết thương, tụ máu đỉnh đầu, 2 hốc mắt bầm tím, mặt sưng phù.
Ngày 15/6, tháp tùng đoàn công tác của Công an xã Hòa Tân, chúng tôi tìm đến nhà bà Nguyễn Thu Hằng. Biết có người trong nhà nhưng gọi mãi vẫn không có tiếng trả lời, buộc lòng lực lượng làm nhiệm vụ phải tìm cách vào nhà. Trong căn nhà tối om, một người đàn bà mặt sưng húp, bước từng bước chậm chạp. Trông bà gầy gò, mặt bầm tím, tay chân hằn những vết thâm đen ngang dọc, dấu tay cào cấu còn in rõ trên cổ ... Đó là bà Nguyễn Thu Hằng.
Hai hàng nước mắt chảy dài, bà Hằng nói những vết thương trên người là do chồng, ông Lê Đồng Khởi, đánh vào ngày 12/6. Nhưng rồi bà một mực không cho biết thông tin gì thêm, bảo rằng vợ chồng sống với nhau thì đánh nhau là chuyện bình thường và bà bị chồng đánh thường xuyên như thế đã 14 năm nay. Bà Hằng cũng không nhớ hết đã bao nhiêu lần bị chồng đánh những trận thừa chết thiếu sống. Thích là đánh .
Để làm rõ hành vi bạo hành vợ trong thời gian dài của ông Lê Đồng Khởi, Công an xã Hòa Tân tiến hành lấy lời khai đối với bà Nguyễn Thu Hằng. Sau hơn 4 giờ thuyết phục, bà Hằng mới kể lại một phần sự việc : "Cũng như những cặp vợ chồng khác, thời gian mới cưới vợ chồng tôi sống rất hạnh phúc. Nhưng 9 năm sau đó, tôi bắt đầu bị anh Khởi thường xuyên đánh đập. Làm công việc nhà không vừa ý anh cũng đánh, nói không vừa lòng anh cũng đánh, đôi lúc mời anh ăn cơm, lời mời không vừa lòng anh cũng đánh. Khi tôi sinh con thứ 2 (người con này năm nay 14 tuổi) anh bắt đầu đánh, đến khi sinh thằng út (9 tuổi) thì anh đánh nhiều hơn và nhiều lần đánh tôi đến xỉu. Thời gian đầu anh đánh, bà con láng giềng có đến can ngăn, nhưng mỗi lần bà con đến can ngăn là anh Khởi lại chửi bới, đòi chém nên sau đó không ai dám can thiệp vào mỗi khi ảnh đánh tôi".
Lời kể của bà Hằng luôn bị đứt quãng bởi từng cơn ho kéo dài. Một điều mà chúng tôi cũng như những điều tra viên không thể lý giải được là vì sao trong một thời gian dài bị chồng đánh đập tàn nhẫn nhưng bà Hằng vẫn không hé răng nửa lời. Trước cơ quan điều tra, bà luôn bênh vực chồng và đề nghị đừng xử lý bởi bà còn yêu chồng và muốn gia đình sum họp để lo cho các con. Cả 3 người con của bà hằng ngày chứng kiến cảnh cha đánh mẹ nhẫn tâm như thế nhưng vẫn một mực bênh vực cha.
Về đầu trang
Hàng xóm sợ bị trả thù :
Theo lời bà Phạm Thị Ly (ông Khởi gọi bằng dì), nhà sát cạnh nhà bà Hằng, thì : "Tôi và mẹ nó là cô cậu ruột, nhưng tôi từ nó lâu rồi. Nó là con người tàn nhẫn nhất mà tôi từng gặp. Mẹ nó nó cũng chửi, vợ nó thì nó muốn đánh là đánh, không có lý do. Có lần nó trấn nước vợ nó gần chết, đứa con gái tôi hay được chạy đến kéo con Hằng lên. Lúc đầu nó đánh vợ, gia đình tôi còn can ngăn nhưng mỗi lần can là nó chửi bới, hăm dọa nên tôi không dám nữa. Mà nói thật, nhiều lúc nghe nó đánh vợ, tôi vái Trời Đất cho vợ nó chết sớm cho bớt khổ thân, chứ sống mà bị hành hạ như thế chết còn sướng hơn".
Bà Ly là người duy nhất cùng xóm với bà Hằng dám nói về hành vi bạo hành của ông Lê Đồng Khởi. Còn những người bà con khác không ai dám hé răng vì sợ bị trả thù. Một người hàng xóm ông Khởi (xin được giấu tên) nói : "Tôi rất thương vợ thằng Khởi nhưng thằng Khởi quá hung hăng nên tôi không dám đứng ra làm nhân chứng, chỉ nhờ cơ quan chức năng đưa vợ nó đi điều trị và có biện pháp trừng trị thằng vũ phu đó". Còn một người bà con ruột thịt với ông Khởi bức xúc : "Vợ nó đi làm ở TP Cà Mau. Nó canh đến tháng vợ lĩnh lương là ra lấy tiền. Nếu vợ đưa không đủ tiền là nó xuống tay đánh không thương tiếc. Có lần, nó cột tóc vợ vô xe rồi chạy đi, may là vợ nó thoát ra được, nếu không lần đó chắc là chết. Mẹ nó can ngăn thiếu điều nó đánh mẹ nó luôn. Thậm chí có lúc nó dắt ghệ (bồ nhí - PV) về nhà mà con vợ nó không dám mở miệng nói lời nào".
Bác sĩ Lê Văn Tèo, Trưởng trạm Y tế xã Hòa Tân, người trực tiếp khám bệnh cho bà Hằng, nói : "Thật sự tôi không thể hình dung ra sự tàn nhẫn của người chồng này. Bà Hằng bị đa chấn thương phần mềm, đáng lo nhất là những vết thương phần đầu, cần phải đi giám định, chụp X-quang để có kết quả chính xác nhất".
Trao đổi với chúng tôi chiều 15/6, trung tá Phạm Thanh Tùng, Trưởng công an xã Hòa Tân, cho biết : "Trước mắt, để phòng ngừa hậu quả bởi ông Khởi hiện không biết đang ở đâu nên chúng tôi tạm thời không để bà Hằng về nhà trong thời gian này". Còn bà Đặng Kim Chung, Chủ tịch Hội Phụ nữ xã Hòa Tân, thông tin : "Trong thời gian chị Hằng điều trị, tiền viện phí, tiền thuốc, ăn ở trước mắt Hội sẽ đứng ra lo liệu. Tôi rất đau lòng khi chứng kiến sự vụ này. Thật là một hành động quá tàn nhẫn".
Đến tối qua, Công an xã Hòa Tân thông tin hôm nay (16/6) sẽ đưa bà Hằng đi giám định thương tật. Ông Lê Nghĩa Hiệp, em của ông Khởi cũng thay mặt gia đình cam kết trong ngày 16/6 sẽ đưa ông Khởi đến trình diện công an.
6. Ế chồng tại Trời :
"Bắc thang lên hỏi Ông Trời
Sao không bố thí cho tôi tí chồng"
(ca dao)
Trong mục Vườn Hồng của báo Thanh Niên Chủ nhật, nơi anh Bồ Câu chuyên gỡ rối tơ lòng, có lần một cô bé viết thơ hỏi : "Anh Bồ Câu ơi, có phải nỗi bất hạnh lớn nhất của người phụ nữ là ế chồng không anh ?". Anh Bồ Câu trả lời : "Em ạ, nỗi bất hạnh lớn nhất đối với một phụ nữ không phải là ế chồng, mà là lấy phải thằng chồng không ra gì". Câu trả lời có vẻ "nặng phần an ủi vỗ về" chứ thực sự nỗi khát khao có một tấm chồng vô cùng lớn lao. Thánh Kinh Cựu Ước trong phần xử phạt bà tổ phạm lỗi đã quyết : "Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi và nó sẽ thống trị ngươi" (St 3,16). Ca dao tục ngữ kết tinh của những gì là phổ biến nhất và chân thực nhất : (Tuổi xuân chẳng chịu lấy chồng) "Người ta lấy hết chổng mông mà gào"
Thật vật, ai có xem qua cuốn phim "Bến Đợi" thì thấy rõ những cô gái lỡ thì ế chồng khổ sở như thế nào, họ khát khao một tấm chồng đến mức nào. Đến nỗi chỉ cần một chàng thanh niên "vãng lai" qua một thoáng thôi, họ cũng sẵn sàng "gá nghĩa", miễn sao họ "còn lại mụn con". Chính diện thì
là nỗi khát con, nhưng ẩn khuất bên trong vẫn là khát khao một tấm chồng hay một mái ấm gia đình, như đũa đủ đôi, như chim liền cánh, như cây liền cành. Sở dĩ vuột tầm tay vì không níu kéo nổi – "cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm", cho nên suốt đời vẫn ngồi "bến đợi". Mục : Dịch vụ "thuê" chồng đăng trên báo Phụ Nữ ngày 12/1/2010, đã nói lên hết nỗi khát khao và cả nỗi cô độc của những phụ nữ "đơn thân".
Điều an ủi dễ tìm nhất là đổ thừa cho Ông Trời, số Trời, tại Trời hổng cho nên đành chịu vậy. Trường hợp trai gái yêu nhau mà không vượt qua được những rào cản của bản thân, gia đình và xã hội, cũng lại đổ cho Trời.
Đã khá lâu có một bài hát một thời rất phổ biến, đi đâu cũng nghe, con nít cũng thuộc, người viết không nhớ tên bài hát cũng như tác giả, nhưng vẫn nhớ câu mở đầu như sau : "Không phải tại anh cũng không phải tại em, tại Trời xui khiến nên chúng mình xa nhau
…"
Nếu đàn bà ế chồng khổ sở như thế thì đàn ông ế vợ cũng chẳng hơn gì, vì vấn đề nam nữ nó thuộc bản năng bảo tồn nòi giống cũng mạnh mẽ chẳng kém bản năng sinh tồn là bao. Nhiều người có lẽ sai lầm khi cho rằng đòi hỏi thỏa mãn tình dục là một nhu cầu. Nhu cầu theo nghĩa hẹp nhất là cái cần thiết cho sự sống, không có nó thì chết như khí thở, thực phẩm, nước uống, còn tình dục chưa phải là cái gì tối cần đến nỗi thiếu nó thì không thể sống được : thí dụ đứa trẻ từ sơ sinh tới lúc dậy thì đâu có vấn đề tình dục. Nhiều người tu hành hay tình nguyện sống độc thân, họ cũng đâu có chết. Những người góa bụa trong tuổi già họ cũng sống được cho đến khi lìa đời, không cần tái giá, tục huyền. Do đó tình dục chỉ là một khuynh hướng mạnh mẽ nằm trong bản năng bảo tồn nòi giống mà Tạo hóa đã an bài. Chủ trương cho đó là nhu cầu bức thiết dường như hàm ý biện minh cho sự thiếu kềm chế của mình mà thôi.
Như trên đã nói, tình dục là khuynh hướng mạnh mẽ của con người, do đó khi bị ức chế thì đàn ông cũng thất điên bát đảo. Người xưa vẫn nói "đàn ông không qua cái mông đàn bà" – tự cổ chí kim trong binh pháp hay chính pháp, mỹ nhân kế luôn hiệu quả, thất bại chỉ tại diễn tuồng dở mà thôi. Vua Salomon khôn ngoan là thế mà cũng ngã gục ; Hôlôphê tướng tài và mạnh như vậy vẫn bị bà Giuđítha chặt đầu (Thánh Kinh Cựu Ước).
"Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng" (Kiều)
Vua Trụ, Đổng Trác, Lã Bố … đều toi mạng cả ! Mới đây báo Tài Chánh (Trung Quốc) đã nói tới một phụ nữ Trung Quốc gốc Việt tên là Lý Vi – 48 tuổi, làm cho 15 quan tham bay chức, các quan ở các thành phố Vân Nam, Bắc Kinh, Thanh Đảo, Quảng Đông (nguyệt san Công giáo & Dân tộc số 194, trang 120 trong mục Thế giới 30 ngày qua).
Trận chiến vô cùng khốc liệt trong chuyện Iliat của đại thi hào Home (thế kỷ 9-8 trước Công nguyên) giữa quân Hy Lạp và thành Troy, chỉ vì cô nữ tỳ xinh đẹp Brizêix được chia cho tướng Asin mà chủ tướng Agamemnong lại cướp mất (Từ điển Văn học Bộ mới – 2004).
Bộ phim đình đám "Xích Bích" đã nêu rõ ý đồ xâm chiếm Giang Nam của Tào Tháo chỉ vì nàng Tiểu Kiều xinh đẹp vợ của Chu Du.
Thánh Gioan Tẩy Giả, vị Tiền Hô của Chúa Cứu Thế đã bị vua Hêrôđê chém đầu chỉ vì dám trách ông cưới nàng Hêrôđia, chị dâu xinh đẹp của ông (Mt 14,3-12).
Vua Salômôn quá từng trải trong "tình trường" đã phải thốt lên : "Tình yêu mãnh liệt như tử thần, cơn đam mê dữ dội như âm phủ" (Cựu Ước, sách Diễm Ca đoạn 8, câu 6).
Cha ông chúng ta đã nói "nhân sao vật vậy", cứ quan sát lũ chó đực trong mùa giao phối chúng khổ sở biết chừng nào, hầu hết là những tên "cố đấm ăn xôi" để rồi nộp mạng ! Đám bợm nhậu chỉ chờ có thế.
Những cuộc thăm dò, thống kê vấn đề xã hội cho thấy đàn ông đa thê nhiều hơn đàn bà đa phu, đàn ông tục huyền nhiều hơn đàn bà tái giá, đàn ông ngoại tình nhiều hơn đàn bà. Một thăm dò mới đây cho kết quả đáng giật mình : 70-90% đàn ông có gia đình rồi vẫn ngoại tình ! (Bài điều tra của L. Anh, báo Tuổi Trẻ ngày 18/4/2009). Chuyện đàn bà nó nhạy cảm đối với đàn ông đến nỗi chi phối cả những chuyện hệ trọng như thắng thua, danh dự của họ - Chương trình Sáng Phương Nam VTV.9 sáng 9/5/11 đưa tin và hình ảnh cuộc so tài đấu vật ở quảng trường Thời Đại – New York rất đông người xem 2 tay vật vạm vỡ "kẻ tám lạng người nửa cân", thuộc 2 cường quốc hàng đầu thế giới Nga-Mỹ. Kết quả Mỹ thắng, Nga thua. Huấn luyện viên hay trưởng đoàn Nga lên tiếng thanh minh : "Chúng tôi thua do thiếu tập trung, trước mắt chúng tôi là bảng quảng cáo quần áo lót phụ nữ - Chúng tôi bị phân tâm vì những cô gái đẹp nên mới thua".
§ "Nhũ" kế tại tòa !
Một luật sư ở T/p Chicago (Mỹ) khiếu nại luật sư đối thủ cố tình để một phụ nữ có ngực to ngồi cạnh mình tại tòa nhằm làm phân tán sự chú ý của bồi thẩm đoàn (ảnh).
Theo báo Chicago Sun-Times, Thomas Gooch nói mục đích duy nhất của người phụ nữ tên Daniella Atencia là "làm cho bồi thẩm đoàn mất tập trung vào vụ kiện đang diễn ra". Ông cho rằng đó là chiến thuật "bẩn" của đối thủ Dmitry Feofanov, trong vụ xử liên quan đến một chiếc xe đã qua sử dụng (T.Q, báo Thanh Niên ngày 28/5/2011).
Chuyện "đàn ông đàn bà" là chuyện muôn thuở và vô tận, nó chỉ chấm dứt vào ngày tận thế - Nhà thơ Tú Xương đã phát biểu rất thật với lòng mình : "Một trà một rượu một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó quấy ta Chừa được cái nào hay cái đó Có chăng chừa rượu với chừa trà"
Bà chúa thơ nôm họ Hồ còn "thành thật" hơn nữa, nhưng tế nhị lấy cái quạt che đậy ẩn ý của mình, đồng thời cũng muốn "chửi xéo" cả đàn bà lẫn đàn ông : "Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa…Phì phạch trong lòng đã sướng chưa ?" (Hồ Xuân Hương)
Chuyện đó nặng nề như món nợ, cứ vay cứ trả. Bài thơ "Cái nợ chồng con" :
"Hỡi chị em ơi có biết không ?
Một bên con khóc một bên chồng
…
Chồng con cái nợ là như thế
Hỡi chị em ơi có biết không ?"
(Hồ Xuân Hương)
Có lẽ bà chúa thơ nôm khi sáng tác bài này đã "ngấm" câu ca dao nói về cái nợ này trong đời sống phụ nữ nông thôn :
"…
Lợn kêu, con khóc, chồng đòi tòm tem"
Đòi hỏi của bản năng bảo tồn nòi giống nó ghê gớm như vậy, thế mà lại ế vợ ế chồng thì bế tắc hoàn toàn, người ta sẽ khổ sở biết chừng nào nếu không thăng hoa được khuynh hướng này bằng một lý tưởng cao đẹp hơn như là tôn giáo hay bác ái xã hội. Làng SOS là một tổ chức quốc tế nuôi trẻ mồ côi, phát triển trên toàn thế giới, yêu cầu của tổ chức này là tất cả những ai phục vụ làng SOS từ Giám đốc cho đến các "Mẹ" của mỗi nhà đều phải tình nguyện sống độc thân, dĩ nhiên khi nhận ai vào biên chế thì tổ chức sẽ bảo đảm cho cuộc sống của họ suốt đời.
Tình trạng ế ẩm là có thật trong xã hội ở mọi thời đại và cũng ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống xã hội, mặt tích cực thì ít nhưng mặt tiêu cực có lẽ nhiều.
Trai ế dễ đi tới chỗ "quậy", chơi bời, tam khoanh tứ đốm. Gái ế thì dễ uống "thuốc liều", nhẹ thì làm bé làm mọn, nặng thì sẵn sàng "xả láng" tuổi xoan, khi toan về già thì sẵn sàng nhận chức "tú bà, tú má". Dĩ nhiên không thể "vơ đũa cả nắm" ai có đeo kính màu đen hay màu xám nhìn vào đời sống xã hội thì cũng phải nhận ra những ngọn nến vẫn chiếu sáng, đó là những tâm hồn cao thượng tình nguyện sống độc thân vì những lý tưởng cao đẹp, hoặc những con người vì hoàn cảnh này hoàn cảnh nọ không thể lập gia đình nhưng họ có lòng đạo đức, tự trọng, can đảm chấp nhận thực tại, kềm chế được khuynh hướng xấu, biết thăng hoa cuộc sống của mình đồng thời đem lại nhiều cái hay cái đẹp cho đời.
Nhà thi sỹ "gió trăng" Hàn Mặc Tử của chúng ta đã có mối tình tha thiết, gia diết, cháy bỏng nhưng chẳng may ông bị bệnh cùi nên không xây dựng gia đình được, đành chấp nhận "ở ế", nhưng ông đã biến nỗi cô đơn thành những vần thơ tuyệt mỹ cho người đương thời và muôn thế hệ mai sau. Tác phẩm của ông nằm trong chương trình giáo khoa tiếng Việt. Đấy chúng ta xem "ế cũng có năm bảy đường" đấy chứ ! Đức Giêsu đã giải đáp câu hỏi về vấn đề hôn nhân, ly dị và độc thân như sau : Khi Đức Giê-su giảng dạy những điều ấy xong, Người rời khỏi miền Galilê và đi đến miền Giuđê, bên kia sông Giođan. Dân chúng lũ lượt đi theo Người, và Người đã chữa họ ở đó. Có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu để thử Người. Họ nói : "Thưa Thầy, có được phép rẫy vợ mình vì bất cứ lý do nào không ?" Người đáp : "Các ông không đọc thấy điều này sao : Thuở ban đầu, Đấng Tạo Hoá đã làm ra con người có nam có nữ, và Người đã phán : Vì thế, người nam sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly". Họ thưa với Người : "Thế sao ông Môsê lại truyền dạy cấp giấy ly dị mà rẫy vợ ?" Người bảo họ : "Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu. Tôi nói cho các ông biết : Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình".
Các môn đệ thưa Người : "Nếu làm chồng mà phải như thế đối với vợ, thì thà đừng lấy vợ còn hơn". Nhưng Người nói với các ông : "Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy, nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu. Quả vậy, có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng mẹ, họ đã không có khả năng ; có những người không thể kết hôn vì bị người ta hoạn ; lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu" (Mt 19,1-12).
Câu trả lời của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy rõ ràng Chúa Trời hay Ông Trời không bắt ai phải ế cả. Ngài tạo dựng con người có nam có nữ, là có ý cho họ sống hài hòa hạnh phúc để bảo đảm cho dòng dõi tương lai, vì thế ngoài những yếu tố chung nhất của loài người như có hồn có xác, với đầy đủ mắt mũi tay chân … những gì liên quan tới chức năng của mỗi phái thì có sự khác biệt, cái đàn ông thừa thì đàn bà thiếu, cái đàn bà thừa thì đàn ông lại thiếu, sự thừa thiếu đó nằm trong chủ ý của Ông Trời, đó là để hai bên cần có nhau, bổ túc cho nhau, cho nên nếu biết sống hòa hợp thì đơn vị gia đình sẽ vững mạnh, phát triển nhanh. Trong đời sống hôn nhân, khi tìm vợ kiếm chồng người ta thường nói "đi tìm cái nửa" của mình.
"Chim khôn đậu mái nhà quan
Trai khôn tìm vợ, gái ngoan tìm chồng"
Khi đã thành hôn họ gọi nhau là "mình" :
"Mình với ta tuy hai mà một
Ta với mình tuy một mà hai"
Vậy nếu Ông Trời không tạo ra cái "ế" (trừ những người tự nguyện vì lý tưởng cao đẹp được Ngài chấp nhận và ban phước), thì chỉ tại con người mà thôi. Đổ thừa cho Trời là phạm tội "vu khống" đấy ! Xin nêu lên một số nguyên nhân :
a. Do hủ tục "môn đăng hộ đối" của thời phong kiến và cả thời hiện tại nữa, làm cho biết bao đôi nam nữ yêu nhau tha thiết mà rốt cuộc không đến được với nhau, có người thì tự tử, có người thì thề độc "hổng thèm yêu" nữa.
b. Do tình trạng quá nghèo, không ai "đoái đến" – như trên đã nói nghèo là do người ta tham lam chiếm đoạt hết của cải Trời cho chung mọi loài, chiếm giữ thường thì do thủ đoạn, câu nói "người bóc lột người" nếu có sai thì chỉ sai 1% mà thôi, vì quá rõ những thủ đoạn như thế cho nên Chúa Giêsu mới tuyên bố : "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào Nước Trời" (Mt 19,24). Những người giàu chiếm giữ của cải lại sống ích kỷ xa hoa, không biết chia sẻ khiến hố chia cách giàu nghèo mỗi ngày mỗi sâu, mỗi rộng. Cái nghèo đi liền với cái khổ, ảnh hưởng tới cuộc sống và hôn nhân gia đình :
"Có tiền mua tiên cũng được
Không tiền mua lược không xong"
Bên Ấn Độ và miền Trung Đông còn tệ nạn "của hồi môn" nữa, ít của hồi môn là chỉ có ế.
c. Do bệnh nạn, tật nguyền. Chính loài người và những cái gọi là "tiến bộ" của loài người gây ra bệnh hoạn, tật nguyền : Rượu, thuốc lá, thuốc phiện, các nhà máy xả khói độc, xả nước thải, phát tán phóng xạ, các hóa chất độc hại, các phương tiện văn minh xe cộ, máy bay … làm ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm thực phẩm, ô nhiễm không gian (tiếng ồn), đâu đâu cũng ô nhiễm : Vụ nổ giếng dầu ở vịnh Mexicô ngày 20/4/2010 nửa năm chưa khắc phục được, hàng tỷ lít dầu tràn ra biển, tai hại không thể lường được.
Nguyên Tp.HCM mỗi ngày trên 5000 tấn rác, Hà Nội không còn chỗ đổ rác ! Chưa nói tới rác nguyên tử không biết đổ đi đâu, cuối cùng những nước giàu bỏ tiền ra thuê đất ở các nước nghèo để chôn vùi … Chưa kể gia tài di truyền ông cha nghiện ngập, chơi bời để "làm quà" cho con cháu và cũng thường là hậu quả của bạo hành (dù có tình trạng tồi tệ đó, chúng ta cũng không oán trách cha mẹ) : "Gã chồng man rợ" (Báo Thanh Niên ngày 17/06/2011) : Công an quận Đống Đa (Hà Nội) đã khống chế và bắt Đào Hải Thiện (29 tuổi) khi đang dùng dao chém vợ là Nguyễn Thị Kim Dung (29 tuổi) tại nhà riêng ở phường Phổ Quang, quận Đống Đa. Đáng chú ý là chị Dung đang mang thai tháng thứ 6, và phải nhập viện trong tình trạng thương tích khắp người (mang thai và sinh con trong tình trạng này tránh sao khỏi ảnh hưởng xấu, đó là bệnh hoạn, tật nguyền).
Xem thế thì mọi bệnh hoạn tật nguyền đều do tay con người tạo nên cả chứ Ông Trời khi tạo dựng con người thì hoàn chỉnh và vô cùng xinh đẹp "giống hình ảnh Chúa Trời" cơ mà !
d. Do thói "già kén kẹn hom" hay "kén cá, chọn canh", mối mai đủ đường mà cũng chẳng chịu, cứ đứng núi nọ trông núi kia cao, cuối cùng "lắm mối tối nằm không".
"Phương đau khổ tâm sự : từng trải qua nhiều mối tình, cô nhận thấy mình hình như thiếu sự dứt khoát và quyết đoán. Bạn bè cùng lứa đã có nơi có chốn, đứa hài lòng với hạnh phúc, đứa phàn nàn về ông chồng, đứa đầu tắt mặt tối với con mọn … dù có thế nào Phương cũng cứ thèm được được như chúng nó" (Tâm sự của cô Phương – Báo Phụ Nữ ngày 5/7/2010, mục Tình yêu & Hôn nhân).
e. Do không biết cân đối sự nghiệp với cuộc sống. Có nhiều người nhất là phụ nữ mải mê theo đuổi bằng cấp sự nghiệp, đến khi đậu được tiến sĩ này, làm được giám đốc nọ mới chợt nhận ra mình quá lứa, tuổi cao học rộng đám trẻ chỉ ngước trông chứ không với tới. Đám ngang tầm thì đã yên bề gia thất từ lâu, đành làm "bà cô" suốt đời. Nếu "cố đấm ăn xôi" thì chỉ còn nước chờ ông góa hay ly dị vợ, chấp nhận xài đồ "xế cần hen" (second hand).
f. Do người phụ nữ quá lanh lợi, tài năng mà lại không khéo "ém tài". Đàn ông chúa sợ những người này đành "kính nhi viễn chi". Có lẽ thi sĩ họ Hồ nằm trong trường hợp này nên đành chấp nhận làm "lẽ" để rồi kêu toáng lên :
"Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm thì mười họa chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn mướn không công
Thân này ví biết nhường này nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong"
g. Tại con người can thiệp thô bạo vào sự cân bằng phái tính của Tạo Hóa. Từ tạo thiên lập địa cho đến những thế kỷ gần đây, giới tính vẫn cân bằng tự nhiên, chẳng có chuyện trai thừa gái thiếu hay ngược lại. Lâu lâu tích tụ có khi trai thừa một tý thì lại xảy ra các cuộc chiến, thế là cánh mày râu chết bớt, lại trở về thế cân bằng. Chỉ khi con người trực tiếp can thiệp vào một cách thô bạo, mức chênh nguy hiểm mới xảy ra.
Thời Pharaô bên Ai Cập có chính sách khắc nghiệt của nhà vua với đám đông nô lệ Do Thái : "Các bà đỡ phải kiểm tra ngay, con gái thì để cho sống, còn con trai thì vứt xuống sông Nil" (Sách Xuất Hành). Còn ở Trung Quốc với pháp lệnh mỗi gia đình chỉ 1 con thôi, cộng thêm truyền thống thâm căn cố đế trọng nam khinh nữ : "nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô", "con gái là con người ta", chỉ có con trai mới nối dõi tông đường, "Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại" (có 3 điều bất hiếu, không con trai nối dõi tông đường là bất hiếu lớn nhất), lại còn kèm theo cái văn minh siêu âm biết ngay trai hay gái, thế là cứ con gái thì "phá", chọn cho bằng được thằng cu bi, nên mới mất cân đối trầm trọng. Trong 20 năm nữa chắc chắn sẽ có nhiều triệu con trai ở "giá" vì không kiếm đâu ra vợ. Báo chí đã đăng có trường hợp 1 phụ nữ Việt Nam bị bán sang Trung Quốc, một mình phải lấy cả 5 bố con làm chồng, khổ chưa !
Tại Việt Nam, ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến Tầu vẫn tồn tại, nên hiện nay cứ 112 trẻ trai chào đời thì mới có 100 trẻ gái đối lại, cứ đà này cũng sẽ có nhiều triệu con trai ế cho mà coi ! Rõ ràng tình trạng "bánh ế chiều hôm" hoàn toàn không tại Trời mà chỉ tại con người mà thôi.
h. Lý do cuối cùng, cũng là chung chung nhất đó là thiếu trau dồi, tu luyện và thiếu tình thương (ích kỷ, chỉ thích chọn phần hơn cho mình). Nếu bên A yếu kém mặt này mặt nọ : nghèo, kém nhan sắc, kém sức khỏe, kém văn hóa … biết nỗ lực trau dồi, bù đắp bằng những ưu thế khác, nhất là các nhân đức thì lo gì. Ông bà chúng ta đã chẳng nói "cái nết đánh chết cái đẹp", "cần cù bù khả năng" đó sao ? Còn bên B biết đại lượng, khiêm tốn, có chút ưu thế nào thì phải biết do Trời ban mới có (mất mấy hồi), để rồi sẵn sàng đón nhận một nửa "yếu" hơn mình để bao bọc, chở che, cùng nhau hạn chế những điểm tiêu cực, phát huy những điểm tích cực, như thế thì hay biết mấy !
Chương trình Sáng Phương Nam VTV.9 sáng ngày 21/5/2011, thông tin và hình ảnh đám cưới tập thể 50 đôi hôn phối, đại đa số là khuyết tật đã được Ả Rập Saudi tài trợ cho tổ chức đám cưới tại thành phố Naplus (Palestin), họ là những thanh niên thiếu nữ nghèo, lại khuyết tật, không có tiền tổ chức đám cưới.
Về đầu trang
KẾT LUẬN
1. "Tạo Hóa không làm ra cái chết, không vui gì khi thấy con người phải tiêu vong" (do tội ác của mình) – Đó là điều Thánh Kinh Cựu Ước quả quyết. Như chúng ta đã bàn giải với nhau từ đầu tập sách tới giờ, tất cả những cái ác, cái xấu xảy đến cho mỗi người chúng ta đều có nguyên nhân từ con người, hoặc trực tiếp (đánh đập, bạo hành, đâm chém, cướp bóc, lừa gạt, hoặc truyền lây các bệnh xã hội : giang mai, lậu mủ, sida, …), hoặc gián tiếp hại chúng ta (làm ô nhiễm nguồn nước, môi trường, khí thở, tra tấn chúng ta bằng tiếng ồn, bắt chúng ta ngửi mùi thuốc lá [hút thuốc thụ động] cho chúng ta ăn những thứ có nhiều hóa chất, phóng xạ, đồ chơi của con cái chúng ta cũng có chất độc hại, …) như vậy là không có thiên tai, chỉ có nhân tai mà thôi.
2. Đổ oan cho Trời, kêu trách Trời, giận Trời là điều vô lý, vô ích và chỉ có hại cho chúng ta, làm cho chúng ta thêm tội, thêm trách nhiệm nặng nề về thái độ và những lời bất xứng chúng ta thốt ra.
3. Tốt hơn hết chúng ta khiêm tốn cầu xin Trời cứu chữa, giúp chúng ta cách này cách khác hoặc cho những người xung quanh trợ lực chúng ta để khắc phục những hậu quả xấu.
4. Với những người trực tiếp làm hại chúng ta, chúng ta có quyền đòi hỏi sự công bằng xã hội bằng cách nhờ các cơ quan pháp luật giải quyết, Nhà nước nào cũng có trách nhiệm và có nhân sự cũng như phương tiện thanh toán tội phạm, bênh vực quyền lợi dân lành, Nhà nước mà bất lực thì chính những người lãnh đạo phải chịu trách nhiệm trước lương tâm, toàn dân và Thượng Đế.
5. Nhưng người gián tiếp hại chúng ta : do vấn đề mưu sinh mà họ gây tiếng ồn, làm ngành nghề gì cũng phải có nước thải, chất thải. Phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc tăng trọng … thì trực tiếp là giúp bảo vệ cây trồng, tăng trưởng vật nuôi, nhà máy thủy điện, nguyên tử là để có dồi dào nguồn điện nhưng do không kiểm soát được, hoặc ẩu tả trong việc xử lý chất thải, phóng xạ thế là gây tác hại ngấm ngầm và lâu dài cho mọi người. Trường hợp này chúng ta chẳng biết kiện ai và chẳng biết ai xử được mà kiện, đành phải chấp nhận "sống chung với lũ" thôi. Thế nhưng chúng ta cũng phải rút ra 2 quyết tâm : ü Một là trong cuộc sống, bất cứ làm gì, đi đâu, ở đâu không bao giờ chúng ta vi phạm đến quyền sống, đến sức khỏe và hạnh phúc của người khác, nếu không chính chúng ta phải chịu trách nhiệm với Ông Trời chứ chẳng thoát khỏi đâu. Sự cố Vedan, bổi thường hơn 100 tỷ liệu có cân xứng với những tác hại lâu dài, nghiêm trọng không ? Họ có tính được bao nhiêu con người ăn cá sông Thị Vải, uống nước sông Thị Vải, ăn rau, lúa do nước sông Thị Vải tưới để rồi phát sinh đủ mọi thứ bệnh tật tim gan phèo phổi, thận, ruột … tật nguyền như thế thì phải nghèo đói, dốt nát, xấu xí, chịu ế ẩm lấy đâu mà bảnh bao phơi phới được ? Bạn thử suy nghĩ mà xem những chuyện làm ăn khác, những nhà máy khác cũng vậy thôi, chắc gì khá hơn, nhỏ mọn như một mớ rau muống bạn mua ở chợ biết đâu lại chẳng đầy thuốc trừ sâu, nhớt trừ rệp … để rồi sâu chết, rệp chết thì người ăn cũng ngắc ngoái. (TN 5/6/11 đưa tin 120 du khách ở Đà Lạt ngộ độc thực phẩm phải vào bệnh viện, hai hôm sau đưa tin 290 du khách nhập viện cũng do ngộ độc thực phẩm)
Chương trình VTV.1 trưa ngày18/5/2011 vừa đưa tin tại tỉnh Giang Tô (Trung Quốc), dưa hấu tự vỡ tung chất đống trên cánh đồng. Tình trạng này được giải thích là do sử dụng quá mức thuốc tăng trưởng, kèm theo những cơn mưa lớn đã làm dưa tự vỡ tung (không biết con người ăn vào liệu có hậu quả xấu nào không đây ?). ü Hai là trong bất cứ hoàn cảnh tồi tệ nào chúng ta cũng không bi quan, thất vọng, còn được cái gì, còn được bao nhiêu chúng ta hãy duy trì, cải thiện, thăng tiến để xoay xở bảo đảm cuộc sống và hạnh phúc của mình và còn có khả năng cống hiến cho hạnh phúc tha nhân nữa, trừ trường hợp đối đế liệt toàn thân, không còn có thể cựa quậy được thì mới đành chịu phó thác cho lòng tốt của những người thân, của các tổ chức từ thiện xã hội và cuối cùng là phó thác cho Ông Trời.
Chúng ta phải khâm phục tiến sĩ vật lý Hawking của nước Anh, bị liệt toàn thân không biết từ bao giờ, chỉ còn bộ óc là sáng suốt chưa liệt, ông cố gắng ngồi xe lăn, nghiên cứu vật lý, chỉ dùng vi tính để giao tiếp, thế mà thành danh, thành công, ông trở thành giáo sư vật lý sáng giá của nhiều đại học, sách ông viết được xếp hạng bán chạy nhất. Tại Việt Nam chúng ta cũng có biết bao gương vượt khó, một Anh Quốc thiếu cả đôi tay mà là nhà chăn nuôi và nông nghiệp giỏi. Anh có vợ có con, có một gia đình đầm ấm hạnh phúc (báo chí nói nhiều về anh).
6. Bạn thuộc thành phần giàu có, tôi chúc mừng bạn nhưng tôi biết chắc bạn cũng có những nỗi khổ riêng. Cách đây mấy chục năm có một bộ phim rất ăn khách phát xuất từ Nam Mỹ, bộ phim nhiều tập : "Nhà giàu cũng khóc", tuy nhiên chúng ta cũng cần kiểm tra lại xem chuyện giàu có của chúng ta có thật sự 100% chính đáng không ? Hay có khi chúng ta chủ quan vẫn cho rằng mình làm ăn chân chính, đúng pháp luật, không lừa đảo, bóc lột ai. Bạn là giám đốc một nhà máy, lợi nhuận hàng tháng rất cao, thử hỏi bạn đã trả lương cho công nhân thật sự công bằng chưa ? Sản phẩm của bạn có đúng 100% chất lượng bạn quảng cáo không ? Buồn cười mấy cái quảng cáo hàng ngày về thuốc làm trắng da, áo quần giảm béo mà báo chí nêu lên. Còn nữa : nhà máy của bạn có thực sự 100% không ảnh hưởng xấu tới môi trường, tới người khác không ? Bạn là một ông lớn, bạn thanh liêm không nhận hối lộ, nhưng thử hỏi những bao bì quà cáp biếu xén có thực sự vì tình nghĩa bạn bè thân hữu không ? Điều này chỉ có bạn với Ông Trời biết thôi.
Chỉ nêu lên chuyện một công nhân viên chức Nhà nước hạng "quèn" thôi nhé, ví dụ hợp đồng lương tháng 3 triệu đồng, làm việc tuần 6 ngày (nghỉ ngày Chúa Nhật) mỗi ngày 8 giờ lao động : 7g-11g, nghỉ trưa, 13g-17g tan sở, dĩ nhiên lương không bao giờ được thiếu, tiền của Nhà nước, của nhân dân đóng góp, thử hỏi trong quá trình lao động anh chị công nhân đó có thì hành đúng hợp đồng không ? Có khi nào đi trễ về sớm không ? Có bớt giờ lao động ngồi tán gẫu, đi hút thuốc, đi uống trà, nhâm nhi cà phê … các chị có ngồi dũa móng tay, có đi mua chè mua cháo về ăn, có lấy đồ nghề ra trang điểm không ? Thế rồi những vi phạm rất nhỏ đó, lặp đi lặp lại hết tuần này, tháng nọ tới năm kia, rồi mấy chục năm nữa cho tới khi phụ nữ 55 tuổi, nam giới tới 60 tuổi về ăn lương hưu suốt đời – lao động chân chính, nghiêm túc quá đi chứ ! Trong khi toàn dân phải chịu hàng trăm thứ thuế thứ phí, liệu có gì bất công không ? Một công nhân viên "tép riu" còn thế thì những đại gia, giám đốc, quan to chức lớn này nọ với tài sản kếch xù thì sẽ ra sao ?
Nếu ai đó nhờ cánh tay khỏe, dài, đầu óc nhanh nhẹn, phương tiện máy móc nhiều hoặc nhờ chức vụ mà lỡ quá tay ôm quá nhiều tài sản của anh chị em mình bằng những đường lối hợp pháp tinh vi, có vẻ lương thiện nhưng thực chất không phải thế, thì chỉ còn cách sẵn sàng chia sẻ, đóng góp tối đa cho người nghèo, cho những phúc lợi toàn dân, cho từ thiện bác ái, đồng thời rà soát thật kỹ "bằng máy siêu âm" mọi hành vi làm giàu, tiêu xài của mình xem có hợp với lẽ công bằng và luật bác ái không, để rồi kịp thời điều chỉnh.
Tại các nước Âu Mỹ, được ảnh hưởng bởi Thiên Chúa giáo với lý tưởng công bình bác ái, tôn trọng mạng sống luôn được đề cao, các đại gia tỉ phú dễ hiến dâng tài sản làm từ thiện (một hình thức đền bù cho việc mình chiếm hữu nhiều). Đầu tháng 6/2010, hai nhà tỉ phú giàu nhất nước Mỹ : Ông Bill Gates và ông Warren Buffett (dù đã bỏ ra nhiều chục tỉ dollars làm từ thiện rồi) đã kêu gọi các tỉ phú Âu Mỹ hứa để lại ½ gia tài cho quỹ từ thiện khi qua đời, và lập tức nhận được 40 lời hứa. Chính Warren Buffett thì hứa chỉ giữ lại 1% cho gia đình, còn hiến 99%. Tới tháng 9/2010, hai ông sang thăm Trung Quốc và cũng kêu gọi như trên (nên nhớ số tỉ phú Trung Quốc không thua con số tỉ phú Mỹ), chỉ có đại gia Trần Quang Tiêu hăng hái đáp ứng, ông hứa tặng hết tài sản cho công tác từ thiện, còn thì im hơi lặng tiếng. Thống kê cho biết ít người Trung Quốc làm từ thiện. Năm 2009, một danh sách của chính phủ Trung Quốc thu thập từ 21 người hảo tâm nhất Trung Quốc cho thấy họ tặng tổng cộng 277 triệu USD, ít hơn một nửa so với 1 gia đình Mỹ, là nhà đầu tư Stanley Druckenmiller và vợ tặng trong cùng năm 2009 (Hạnh Nguyên, báo Tuổi Trẻ ngày 6/10/2010).
Tại Ấn Độ, trong bài "Lòng trắc ẩn mãi ở đàng kia" (Nguyễn Ngọc Thuần, báo Tuổi Trẻ ngày 31/10/2010) cho biết : Một căn nhà xây hết 1 tỉ dollars, 7 năm mới hoàn tất, tổng cộng 37.000m2, 27 tầng dành cho gia đình 6 người với 600 người phục vụ, nghĩa là cứ 1 người thì có 100 người phục vụ, căn nhà tỉ đô làm cho người ta chạnh lòng nhớ tới hình ảnh đối lập trong bộ phim "đình đám" : Triệu phú khu ổ chuột – Mumbai là cái tên gây nhức nhối vì có lẽ không thể kiếm đâu ra khu ổ chuột tồi tệ hơn Mumbai ở Ấn Độ … Cuộc sống người giàu càng làm cho trái tim người nghèo teo tóp hơn nữa.
Dường như (xin chỉ dám nói dường như thôi) ở những vùng, miền châu lục chịu ảnh hưởng nhiều của Kinh Thánh thì tính nhân đạo, sự sẻ chia, sự tôn trọng phẩm giá con người được khơi gợi nhiều hơn. Hầu hết các bảo tàng lớn ở Âu Mỹ đều bắt đầu từ sự hiến tặng những bộ sưu tập tư nhân, lý tưởng bình đẳng nam nữ của Thánh Kinh được cổ võ nhiều hơn ở Âu Mỹ, cụm từ "Lady First" cũng phát xuất từ châu Âu hay châu Mỹ rồi lan rộng khắp nơi. Trong khi tại châu Á con cháu chút chít của Khổng Mạnh vẫn nằm lòng "nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô", còn ông vua thì là "thiên tử" để rồi muốn làm trời làm đất gì thì làm, "dọc ngang nào biết trên đầu có ai". Chuyện xử tội, chém giết thì xã hội nào chẳng có, nhưng chiếc ghế điện, mũi thuốc độc hay chiếc máy chém ghê gớm đấy, nhưng vẫn "nhân đạo hơn", những cảnh lăng trì (chặt chân tay), ngựa xé (buộc tay chân tội nhân vào 4 con ngựa rồi quất cho nó xé người ra 4 mảnh), xử bá đao hay tùng xẻo (đánh 1 tiếng trống, lý hình cầm dao phay cắt 1 miếng thịt, róc thịt cho đến khi nạn nhân chết mới thôi), những trò này ta tiếp thu từ ông Tàu đấy, lại còn những vụ trừng phạt người dưới mồ : cùm mồ Lê Văn Duyệt, quật mồ anh em nhà Tây Sơn. Khi còn học ở Đại học Tổng hợp, người viết chứng kiến giáo sư cao tuổi Lê Trí Viễn khi nhắc lại cảnh vua chúa Việt Nam cấm đạo, xử tử những đạo trưởng, đạo hữu Công giáo bằng những cực hình như vậy, vị giáo sư khả kính dù là người ngoài đạo Công giáo cũng bật khóc vì xúc động. Hẳn chúng ta còn nhớ những hình ảnh đăng trên báo chí thời Pôn Pốt : một anh lính trẻ 2 tay xách 2 đầu lâu mới chém đi khơi khơi ngoài lộ, chẳng khác gì người ta xách 2 trái dừa ! Cái ác, cái vô nhân đạo như hiện hình cho người ta rờ thấy được !
Tấm hình được giải thưởng ảnh báo chí thế giới (World Press Photo) năm 2010 là của nhiếp ảnh gia Bieber, 44 tuổi. Ánh chụp 1 cô gái Afghanistan tên là Bibi Aisha, 18 tuổi, khá xinh đẹp bị xẻo mũi theo luật Sharia. Chuyện chưa từng có ở các nước Âu Mỹ thấm nhuần tinh thần Kitô giáo (Nguyệt san Công Giáo & Dân Tộc số 194, trang 118).
***
Bạn và tôi, chúng ta là những người phải gánh chịu nhiều thiệt thòi đau khổ, mà thành phần này lại là tuyệt đại đa số trong bất cứ xã hội nào, càng bi thảm hơn nơi các nước chậm tiến, đang phát triển. Chúng ta đau khổ vì nghèo đói không phải tại chúng ta lười biếng, mà tại những kẻ có thế mạnh hơn chúng ta chiếm giữ hết tài sản của đất nước, chỉ chừa cho chúng ta cái thừa cái thẹo để sống cầm hơi qua ngày đoạn tháng. Chúng ta đau khổ vì phải chịu nhiều bệnh tật do xã hội loài người trực tiếp hay gián tiếp gây ra. Đáng lẽ chúng ta không phải chịu như vậy, chúng ta đau khổ vì bị tật nguyền, khiếm khuyết nơi tinh thần hay thể xác và còn biết bao nỗi khổ khác nữa đè nặng trên cuộc đời chúng ta và sẽ đeo đuổi chúng ta cho đến chết. Lòng tự trọng không cho phép chúng ta làm những điều sai trái để cải thiện cuộc sống. Lòng đạo đức chân thực không cho phép chúng ta tự hủy hoại cuộc sống.
Vậy có còn niềm hy vọng nào cho chúng ta không ? Còn chỗ nào, còn ai cho chúng ta bám víu để gởi gấm linh hồn mình không ?
Thưa còn và lúc nào cũng còn, còn mãi đến muôn đời muôn kiếp. Niềm hy vọng đó chính là Ông Trời, là Chúa Trời vậy. Thánh Phaolô trong thư thứ 2 gửi tín hữu Côrintô đã viết : "Vì tôi tin nên tôi mới nói" (2Cr 4,13). Người viết xin thêm "vì tôi yêu mến bạn nên tôi phải nói". Quả thật bạn nghĩ coi, chúng ta là đồng hương với nhau, lên cao hơn nữa chúng ta là anh chị em với nhau có cùng một Cha trên Trời, vậy mà không trao cho nhau chiếc chìa khóa hạnh phúc thì thật là ích kỷ, thật đắc tội với Trời và với người. Tôi lấy 1 ví dụ : bạn biết 1 mạch nước trong lành không bao giờ cạn thế mà anh chị em bạn khát nước gần chết, bạn vẫn không chỉ chỗ, để họ chết khát, chết khô thử hỏi bạn có tội không ?
Vấn đề của chúng ta cũng vậy, mỗi khi gặp gỡ bạn dưới hình thức này hay hình thức khác, tôi đều nôn nao muốn giới thiệu với bạn, muốn ấn vào tay bạn chiếc chìa khóa hạnh phúc, nhưng lại sợ đụng chạm tự do của bạn, sợ bạn cho là "quảng cáo xạo" hay hơn nữa có "tính áp đặt". Hôm nay qua những gì đã trình bày, tôi xin được trân trọng, thành kính giới thiệu với bạn chiếc chìa khóa hạnh phúc. Đây chỉ là xin phép được giới thiệu mà thôi, bạn hoàn toàn tự do đón nhận hay từ chối, đó là quyền sống của bạn và mọi người phải tôn trọng. Bạn đón nhận tôi rất mừng vì mình có thêm một người anh chị em hạnh phúc ; Bạn từ chối, tôi cũng mừng vì đã làm xong bổn phận của mình mà Chúa Trời ủy thác. Đồng thời Chúa Trời cũng được tôn vinh vì sau này trong cuộc gặp gỡ, mặt đối mặt, không ai có thể kêu trách Chúa Trời vì đã không cho họ biết chìa khóa hạnh phúc, và sự trả công, ân thưởng của Ngài sẽ vô cùng đơn giản và vô cùng công minh, mỗi người chỉ việc ôm trọn gói "tự do" của mình mà hưởng. Tự do chọn gì, làm gì thì hưởng nấy, ai sao mặc họ. Tạ ơn Trời !
Bạn thắc mắc :
- chìa khóa hạnh phúc cụ thể là thế nào ?
- Hình thù ra sao ?
Xin thưa chìa khóa có 2 mặt :
§ Mặt một là tin nhận có Ông Trời, Đấng Tạo Hóa hay Thượng Đế chí tôn, quyền năng phép tắc, tạo dựng trời đất, đồng thời là Cha vô cùng nhân hậu, nuôi sống và ban hạnh phúc cho mọi loài. Tin nhận Ông Trời thì cũng tin nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, chính là hiện thân của Ông Trời đã hóa thân làm người, chỉ dạy chúng ta chìa khóa hạnh phúc.
§ Mặt hai là sống theo lý tưởng, chủ trương, chính sách đường lối của Ông Trời mà Đức Giêsu đã chỉ dạy trong Kinh Thánh mà ngày nay Hội Thánh Công giáo tiếp nối sứ mạng của Ngài, hướng dẫn muôn dân cho đến ngày tận thế. Sống theo đường lối này cũng có nghĩa là luôn luôn làm lành lánh dữ.
Bạn lại thắc mắc rằng chúng tôi nghèo khổ thế này, bị bóc lột, bị oan ức thế này, lại tật nguyền khiếm khuyết thế này sao có thể làm được việc thiện ?
Thưa việc thiện luôn ở bên ta, làm việc thiện không cần giàu, không cần khỏe, không cần đẹp, già trẻ lớn bé ai làm cũng được và cũng phải làm : nhặt 1 cọng rác trên đường đi để giữ sạch môi trường và bảo vệ nét đẹp của thiên nhiên cũng là một việc thiện đáng ghi nhận. Hồi người viết ở Đan Mạch, một hôm đi từ siêu thị về nhà đã chứng kiến 1 phụ nữ chừng 30 tuổi, ăn mặc lịch lãm, mặt mày lại xinh đẹp thế mà dù đi vội, cô vẫn cúi xuống lượm 1 tờ giấy mà kẻ vô ý nào đó đã để rơi, người viết nhớ mãi cử chỉ văn hóa cao độ đó và cũng phải bắt chước, thỉnh thoảng đi dạo buổi chiều, trên những vỉa hè hay bãi cỏ, có những mảnh giấy mỏng gió thổi bay dạt, người viết cũng cúi xuống lượm bỏ vào thùng rác. Có những ông bà cảm nhận được nét văn hóa đó bỗng dưng thành quen, gặp là giơ tay chào "Hi !", miệng cười tươi. Việc thiện dễ làm như thế đấy, nếu có khó thì chỉ tại chúng ta không "muốn" làm mà thôi.
Bạn nghèo ư ? Có nghèo bằng bà góa trong Thánh Kinh Tân Ước không ? Hai đồng tiền nhỏ của bà góa : Ngước mắt lên nhìn, Đức Giêsu thấy những người giàu đang bỏ tiền dâng cúng của họ vào thùng tiền. Người cũng thấy một bà goá túng thiếu kia bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm. Người liền nói : "Thầy bảo thật anh em : bà goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. Quả vậy, tất cả những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào thùng dâng cúng ; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình" (Lc 21,1-4). Kinh nghiệm cho hay những người nghèo thường có lòng rộng rãi, dễ làm từ thiện hơn những người giàu của mà nghèo lòng.
Bạn bị ốm đau, tật nguyền ư ? Vẫn làm việc thiện được. Việc thiện sẽ giúp bạn vơi đi nỗi đau và sống "hạnh phúc" vì đời sống của bạn không vô ích. Các bạn trẻ ở Tp.HCM vẫn còn tiếp tục "giấc mơ của Thúy" – Thúy, một sinh viên năng động, bị ung thư, cô vừa điều trị vừa lao đầu vào công tác từ thiện, giúp vui, thăm hỏi, phát quà cho các em mồ côi, bị ung thư, bị sida do mẹ truyền cho … Trên giường bệnh cô vẫn vui tươi với bạn bè, vẫn động viên các bạn và lên kế hoạch cho các bạn làm từ thiện. Thúy đã ra đi trong sự nuốintiếc của hàng ngàn bạn trẻ, và họ quyết tâm tiếp nối "giấc mơ của Thúy" tới bây giờ.
Chắc bạn còn nhớ chị Thu bị lây sida từ chồng, chồng chết, chị một mặt làm ăn nuôi con, một mặt hoạt động chống sida – chị đã giúp nhiều người hiểu biết về sida và phòng chống được lây nhiễm, chị đã được đề cử làm "đại sứ thiện chí" đi nhiều nước tham gia công tác chống sida.
Báo Dân Chúa Âu châu tháng 5/2010 đăng tin cô Chiara Bandano 19 tuổi, bị ung thư xương, sẽ được phong Chân phước ngày 25/9/2010. Cô sinh ngày 29/10/1971 tại miền bắc nước Ý, xinh xắn, nhanh nhẹn, linh hoạt, rất dễ quen, dễ mến. Cô hoạt động phong trào Focolare (nhóm Lửa Hồng) quy tụ các bạn trẻ thành những nhóm nhỏ, huấn luyện họ sống có lý tưởng, có chất lượng và hăng hái hoạt động bác ái xã hội. Năm 17 tuổi cô bị phát hiện ung thư xương, lẽ ra thì đau đớn, tuyệt vọng nhưng Bandano can đảm, vững tin cô nói với Chúa : "Lạy Chúa, nếu đây là thánh ý Chúa, con xin chấp nhận", cô từ chối dùng thuốc giảm đau trong điều trị, cô luôn cầu nguyện và dũng cảm chịu đựng đau đớn như lễ hy sinh dâng lên Chúa để cầu cho các bạn đồng trang lứa, cô nói : "Tôi muốn được chia sẻ càng nhiều càng tốt nỗi đau đớn của Chúa Giêsu trên thập giá". Năm 1990 cô qua đời trong sự bình an và sự thánh thiện ở tuổi mộng mơ 19, cô đã được phong Á Thánh ngày 25/9/2010 tại Rôma – Italia.
Chìa khóa hạnh phúc thực sự đã ở trong tầm tay của bạn đấy, chỉ cần với một cái là nắm được.
Tâm sự cuối cùng mà tôi muốn chia sẻ với bạn đó là một cuộc cá cược nhé !
Đây cuộc đời đau khổ thiệt thòi của tôi và các bạn nghèo, bệnh, khuyết tật, mỗi ngày mỗi giờ cứ trôi đi không ai giữ lại được, trôi mãi trôi mãi sẽ phải đến hồi kết thúc, đó là sự thật không ai có thể
chối cãi, không cần lý luận chứng minh. Nếu bạn không tin nhận Ông Trời, tức là Chúa Trời hay Thiên Chúa, không chấp nhận chủ trương, đường lối của Người, không làm việc thiện để khỏi hao tâm tổn sức, tức là tam không, thử hỏi bạn có được thêm cái gì không? Có ai sẽ thưởng cho cái tam không này của bạn không ? Tôi nghĩ bạn chẳng được gì tốt hơn mà có khi ngược lại càng ngày càng thấy tệ hơn. Đã có những kẻ to gan thù ghét Chúa nhưng kết cục họ đã chết, Chúa thì vẫn còn hoài. Người ta kể hồi trước cách mạng Pháp 1789, nhà văn, nhà cách mạng nổi tiếng lại rất ghét đạo, Voltaire đã dõng dạc tuyên bố : "20 năm nữa Thiên Chúa sẽ chết", (nghĩa là không còn ai thèm thờ Chúa nữa). Lạ thay đúng 20 năm sau Voltaire chết, còn những người đón nhận "chìa khóa hạnh phúc" tin thờ, đi theo Chúa thì cho tới nay mỗi năm mỗi tăng ! (thời ông Voltaire, dân số thế giới chừng 2 tỉ, Kitô hữu chừng 400 triệu, tới nay thế giới hơn 5 tỉ người, Kitô hữu gần 2 tỉ).
Tóm lại, không tin bạn chẳng được gì (có khi đối với bạn còn chắc chắn theo tôi, là mất tất cả), ngược lại nếu tin bạn cũng chẳng mất gì bây giờ, và giả như sau này không có gì cả bạn cũng chẳng mất mát gì. Nhưng nếu đời sau mà có thật 100% thì bạn được tất cả "hạnh phúc vĩnh hằng". Chúa Trời sẽ trả lại cho bạn tất cả những gì bạn đã chịu thiệt thòi ở đời này : bạn bị tật nguyền, xấu xí sẽ được trả lại sự xinh đẹp, lành lặn, hoàn chỉnh, nhưng với điều kiện là bạn tin Chúa Trời.
Nhà soạn nhạc thời danh người Đức Beethoven, 10 năm cuối đời ông bị điếc nặng, không còn nghe được gì, ông sáng tác bằng những âm thanh "tưởng tượng" mà thôi, trước khi qua đời ông đã thốt lên : "Về thiên đàng Chúa sẽ cho tôi nghe lại toàn bộ các bản nhạc của tôi".
Nhà phát minh vĩ đại Edison bị đột quỵ, khi hồi tỉnh ông đã nói :
"Phong cảnh bên kia tuyệt đẹp", rồi thản nhiên ra đi.
Nhà văn Mỹ Mark Twain đã nói lời từ giã : "Tạm biệt, nhưng chúng ta rồi sẽ lại gặp nhau" (Báo Kiến thức Thời nay số 747, trang 26 – Lữ Khách).
Tiến sĩ vật lý nguyên tử học Phan Như Ngọc đã gợi lên thắc mắc muôn thuở của mọi người : "Làm việc thiện, ai sẽ thưởng công cho tôi sau này ?". Đấng trả công chính là Chúa đó, không ai khác cả. Bạn còn nghi ngờ thì tôi hẹn bạn 10 năm, 20 năm, … 50 năm nữa nhé ! Những thời điểm đó chắc chắn tôi đã ra đi trước bạn, nhưng sẽ chờ gặp lại để xem kết quả "cá cược" !
Bạn hãy nghe lời của Chúa Trời :
§ "Phúc cho anh chị em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh chị em. Phúc cho chị anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh chị em được no lòng. Phúc cho anh chị em là những kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh chị em sẽ được vui cười" (Lc 6,20-21).
§ "Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới ; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc" (Lc 1,48).
§ "Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng" (Lc 1,53).
§ "Hãy vui mừng vì tên anh chị em đã được ghi trên trời" (Lc 10,20).
--------------
Hiện nay địa chỉ của tôi :
Lm. Jos. Nguyễn Hữu Triết
387 Lê Văn Sỹ, phường 2, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.
Điện thoại : 38449497 – 0909721822
Quý độc giả muốn có thêm tài liệu hoặc có thắc mắc, xin liên lạc
Email : josnhtriet@gmail.com
---------------------------
LỜI TÂM NIỆM
- Lạy Đấng thiêng liêng Tối cao,
- Lạy Đấng Tạo Hóa,
- Lạy Đấng Tuyệt Đối,
- Lạy Thượng Đế,
- Lạy Ông Trời,
Chúng con đây là những thọ tạo đứng trên muôn vật trong vũ trụ. Chúng con đã được Ngài tạo dựng nên giống hình ảnh của Ngài là Thiên Chúa, vì chúng con có trí nhớ, có trí tuệ, có ý muốn, có tự do.
Chúng con luôn thao thức trước những vấn đề :
1. Bởi đâu có vũ trụ này ?
2. Bởi đâu có bản thân chúng con ?
3. Đâu là mục đích của cuộc đời ?
4. Chết rồi sẽ đi về đâu ?
5. Làm điều thiện, ai sẽ thưởng công cho ?
(theo ai, thờ ai thì sẽ lãnh thưởng nơi người ấy, nếu người ấy to hơn Ông Trời)
6. Làm điều ác, ai sẽ phạt tội ?
7. Ai sẽ thỏa mãn khát vọng hạnh phúc tuyệt đối của chúng con ?
Chúng con muốn đi tìm chân lý, tìm ý nghĩa đích thực cho cuộc đời. Xin Ngài soi trí mở lòng cho chúng con, để chúng con được tìm thấy Ngài, và được niềm vui gọi Ngài là Cha, như hơn 2 tỉ Kitô hữu trên thế giới – Amen.
(Tiến sĩ Phan Như Ngọc, Email : pnngoc@gmx.net – Trích Bài giảng Chúa nhật - TGM, số 4/2007, trang 74)
Tân Bình, ngày 01/06/2011
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT
Về đầu trang
--------------------------------------
LỜI ĐẦU
Loài người được Tạo Hóa tác thành hơn và khác loài vật ở chỗ có lý trí và tự do.
"Tự do là khả năng biểu lộ ý chí, hành động theo ý muốn của mình" (Đại Tự điển tiếng Việt – Hà Nội 1999, trang 1762), đây là quyền căn bản của mỗi người. Có tự do thì cũng có trách nhiệm, nghĩa là có thưởng và phạt tùy theo lựa chọn đúng hay sai.
Người viết tập này chỉ muốn trình bày sự thật mà mình đã cảm nghiệm, còn quý độc giả đồng tình hay không, hoặc đồng tình một phần nào thì hoàn toàn thuộc quyền tự do của quý vị.
"SỰ THẬT SẼ GIẢI THOÁT CÁC ÔNG" (Ga 8,32)
Ghi chú : câu trên có hai nghĩa
1. Sự thật phơi trần tất cả cái đúng cái sai, cái tốt, cái xấu, không ai có thể bị lừa dối, đồng thời có thể có một cách giải quyết nào đó để khắc phục hậu quả … đây kể như một sự giải thoát nhưng rất tương đối.
2. Trường hợp loài người bất lực trong việc tìm ra sự thật (cô bé bị giết ở vườn mít không tìm ra thủ phạm)1, hoặc sự thật được phanh, 1 Nghi can Lê Bá Mai hai lần bị kết án tử hình rồi lại được tha bổng, nay đã bị bắt lại chờ xét xử tiếp (Báo TN ngày 19/5/2012) phui nhưng lại bất minh hay bất lực trong khâu giải quyết (5 người ở Đài Loan được ghép tạng của một nạn nhân nhiễm HIV hiến tặng), thì chỉ còn Đấng là Sự thật (Ga 14,6) mới có thể giải quyết thỏa đáng ở đời này và đời sau.
***
I. NHỮNG CÂU CHUYỆN TRONG KINH THÁNH
1. Cain và Aben (St 4,1-12).
Con người ăn ở với Evà, vợ mình. Bà thụ thai và sinh ra Cain. Bà nói : "Nhờ ĐỨC CHÚA, tôi đã được một người". Bà lại sinh ra Aben, em ông. Aben làm nghề chăn chiên, còn Cain làm nghề cày cấy đất đai. Sau một thời gian, Cain lấy hoa màu của đất đai làm lễ vật dâng lên ĐỨC CHÚA. Aben cũng dâng những con đầu lòng của bầy chiên cùng với mỡ của chúng. ĐỨC CHÚA đoái nhìn đến Aben và lễ vật của ông, nhưng Cain và lễ vật của ông thì Người không đoái nhìn. Cain giận lắm, sa sầm nét mặt. ĐỨC CHÚA phán với Cain : "Tại sao ngươi giận dữ ? Tại sao ngươi sa sầm nét mặt ? Nếu ngươi hành động tốt, có phải là ngươi sẽ ngẩng mặt lên không ? Nếu ngươi hành động không tốt, thì tội lỗi đang nằm phục ở cửa, nó thèm muốn ngươi ; nhưng ngươi phải chế ngự nó". Cain nói với em là Aben : "Chúng mình ra ngoài đồng đi !" Và khi hai người đang ở ngoài đồng thì Cain xông đến giết Aben, em mình.
ĐỨC CHÚA phán với Cain : "Aben em ngươi đâu rồi ?" Cain thưa : "Con không biết. Con là người giữ em con hay sao ?" ĐỨC CHÚA phán : "Ngươi đã làm gì vậy? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta ! Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em ngươi, do tay ngươi đổ ra. Ngươi có canh tác đất đai, nó cũng không còn cho ngươi hoa màu của nó nữa. Ngươi sẽ lang thang phiêu bạt trên mặt đất".
Ghi chú : Chủ ý của tác giả Kinh Thánh cho thấy sau khi tổ tông phạm tội thì tội lỗi bắt đầu lan truyền như một nạn dịch.
2. Ông Giuđa và bà Tama (St 38,1-30).
Thời ấy, ông Giuđa rời bỏ anh em, xuống thăm một người thành Ađulam tên là Khira. Tại đó ông Giuđa thấy con gái một người Canaan, tên ông này là Sua. Ông lấy nàng và ăn ở với nàng. Nàng có thai, sinh con trai, và ông đặt tên cho nó là E. Nàng lại có thai, sinh con trai, và ông đặt tên cho nó là Ônan. Một lần nữa, nàng lại sinh con trai, và ông đặt tên cho nó là Sêla. Ông đang ở Cơdíp khi nàng sinh nó.
Ông Giuđa cưới cho E, con trai đầu lòng của ông, một người vợ tên là Tama. E, con đầu lòng ông Giuđa, làm mất lòng ĐỨC CHÚA, nên ĐỨC CHÚA khiến cậu chết. Ông Giuđa bảo Ônan : "Con hãy ăn ở với chị dâu con, hãy chu toàn nhiệm vụ của một người em chồng, và làm cho anh con có người nối dõi". Ônan biết rằng dòng dõi sinh ra sẽ không phải là của mình, nên khi ăn ở với chị dâu, thì cậu lại cho tinh rơi xuống đất, để không cho anh cậu có người nối dõi. Hành động của cậu không đẹp lòng ĐỨC CHÚA, nên Người cũng khiến cậu chết. Ông Giuđa nói với Tama, con dâu ông : "Con cứ ở góa bên nhà cha con, chờ khi Sêla, con cha, lớn đã". Thật vậy, ông tự nhủ : "Lỡ ra cả thằng này nữa cũng phải chết như các anh nó !" Vậy Tama về ở bên nhà cha mình.
Ngày tháng trôi qua, người con gái ông Sua, là vợ ông Giuđa, qua đời. Mãn tang vợ, ông Giuđa, cùng với bạn là ông Khira, người Ađulam, lên Timna gặp các thợ xén lông chiên của ông. Người ta báo cho Tama hay rằng : "Này, cha chồng của chị đang lên Timna xén lông chiên của ông ấy !" Nàng liền bỏ áo bà goá, lấy khăn trùm lên, phủ kín mình, rồi ngồi ở lối vào Ênagim, một thành nằm trên đường đi Timna. Nàng làm thế vì thấy rằng Sêla đã lớn mà người ta không cho nàng làm vợ cậu.
Ông Giuđa trông thấy nàng, tưởng là một gái điếm, vì nàng đã che mặt. Ông rẽ qua phía nàng bên lề đường và nói : "Cho tôi đến với cô". Ông không biết nàng là con dâu ông. Nàng hỏi : "Ông cho em gì để đến với em ?" Ông đáp : "Tôi sẽ bắt một con dê con trong đàn gửi đến cho cô". Nàng lại nói : "Vậy xin ông cho em một vật làm tin, cho tới khi ông gửi đến". Ông hỏi : "Tôi phải cho cô vật gì làm tin ?" Nàng đáp : "Chiếc ấn của ông, sợi dây đeo ấn và cây gậy ông cầm ở tay". Ông đưa cho nàng những thứ đó, rồi đến với nàng, và nàng có thai với ông. Nàng đứng lên, đi khỏi, bỏ khăn trùm và mặc lại áo bà goá.
Ông Giuđa nhờ người bạn ở Ađulam mang dê con đến, để lấy lại vật làm tin từ tay người đàn bà, nhưng ông này không tìm thấy nàng. Ông này hỏi người địa phương : "Cô điếm thần ở Ênagim, vẫn ngồi trên đường, đâu rồi ?" Họ đã trả lời : "Ở đây chẳng hề có điếm thần" Ông về nói với ông Giuđa : "Tôi không tìm thấy cô ta. Người địa phương còn nói là ở đấy chẳng hề có điếm thần". Ông Giuđa nói : "Cô ta cứ việc giữ những thứ ấy ! Miễn sao chúng ta đừng bị chê cười. Tôi quả đã gửi con dê con này, còn anh lại không tìm thấy cô ấy !".
Khoảng ba tháng sau, người ta báo cho ông Giuđa rằng : "Tama, con dâu ông, đã đi làm điếm ; nó còn có thai vì làm điếm nữa !" Ông Giuđa nói : "Lôi nó ra mà thiêu sống !" Khi bị lôi ra, nàng nhờ người nói với cha chồng rằng : "Chính chủ những vật này đã làm cho con có thai !" Nàng còn nói : "Xin cha nhận ra xem chiếc ấn, sợi dây đeo ấn và cây gậy này là của ai". Ông Giuđa nhận ra và nói : "Nó công chính hơn tôi. Quả thực tôi đã không cho nó làm vợ Sêla, con trai tôi". Rồi ông không ăn ở với nàng nữa.
Đến ngày sinh, nàng sinh đôi. Khi nàng sinh thì một đứa thò tay ra, bà đỡ cầm lấy tay, buộc sợi chỉ đỏ vào và nói : "Đứa này ra trước". Rồi nó rụt tay vào, và đứa kia ra. Bà đỡ nói : "Thật mày đã xé rào !" Người ta bèn đặt tên cho nó là Perét. Sau đó, đứa trước mới ra, có sợi chỉ đỏ ở tay ; người ta đặt tên cho nó là Derác.
Ghi chú : Ý tác giả muốn nói : tổ phụ Giuđa kết án con dâu, té ra kết án chính mình vì đã không chấp hành luật của Chúa.
3. Vua Đavít phạm tội (2Sm 11,2- 12,15).
Vào một buổi chiều, vua Đavít từ trên giường trỗi dậy và đi bách bộ trên sân thượng đền vua. Từ sân thượng, vua thấy một người đàn bà đang tắm. Nàng nhan sắc tuyệt vời.
Vua Đavít sai người đi điều tra về người đàn bà, và người ta nói : "Đó chính là bà Bát Seva, con gái ông Êliam, vợ ông Urigia người Khết". Vua Đavít sai lính biệt phái đến đón nàng. Nàng đến với vua và vua nằm với nàng; khi ấy nàng mới thanh tẩy sau thời kỳ ô uế. Rồi nàng trở về nhà. Người đàn bà thụ thai. Nàng sai người đến báo tin cho vua Đavít rằng : "Tôi có thai".
Vua Đavít sai người đến nói với ông Giôáp: "Hãy sai Urigia, người Khết, về gặp ta". Ông Giôáp sai ông Urigia về gặp vua Đavít. Khi ông Urigia đến với vua, vua Đavít hỏi thăm về ông Giôáp, về quân binh, về chiến sự. Rồi vua
Đavít bảo ông Urigia : "Hãy xuống nhà của ngươi và rửa chân". Ông Urigia ra khỏi đền vua, có người bưng ra một phần thức ăn của nhà vua theo sau. Nhưng ông Urigia nằm ở cửa đền vua với tất cả các bề tôi của chúa thượng ông, và ông không xuống nhà mình.
Người ta báo tin cho vua Đavít rằng : "Ông Urigia đã không xuống nhà ông". Vua Đavít hỏi ông Urigia : "Chẳng phải ngươi đi đường xa mới về ư ? Tại sao ngươi không xuống nhà của ngươi ?" Ông Urigia thưa với vua Đavít : "Hòm Bia cũng như Isael và Giuđa đang ở lều, chủ tướng tôi là ông Giôáp và các bề tôi của chúa thượng đang đóng trại ở ngoài đồng trống, mà tôi đây lại về nhà ăn uống và nằm với vợ tôi sao ? Tôi xin lấy mạng sống của ngài, lấy chính mạng sống của ngài mà thề : tôi sẽ không làm điều ấy !" Vua Đavít bảo ông Urigia : "Hãy ở lại đây hôm nay nữa, ngày mai ta sẽ cho ngươi đi". Ông Urigia ở lại Giêrusalem ngày hôm đó …
Hôm sau vua gửi thư cho tướng Giôáp, vua viết : "Hãy đặt Urigia ở hàng đầu, chỗ mặt trận nặng nhất, rồi rút lui bỏ nó lại, để nó bị trúng thương mà chết".
Ông Giô-áp đang thám sát thành liền để ông Urigia ở chỗ ông biết là có quân hùng mạnh nhất. Người trong thành xông ra, giao chiến với ông Giôáp. Một số người trong quân binh, trong các bề tôi vua Đavít đã ngã gục, và ông Urigia, người Khết, cũng chết.
Ông Giôáp sai người về báo cho vua Đavít biết tất cả diễn tiến trận đánh. Ông ra lệnh cho người lính biệt phái rằng : "Khi anh kể tất cả diễn tiến trận đánh cho đức vua xong, nếu cơn giận đức vua nổi lên và người hỏi anh : Tại sao các ngươi lại đến gần thành mà giao chiến ? Các ngươi không biết là người ta bắn từ trên tường thành xuống sao ? Ai đã hạ Avimeléc, con ông Giơrúpbesét ? Chẳng phải một người đàn bà đã liệng xuống ông một thớt cối đá và ông đã chết tại Têvết đó sao ? Tại sao các ngươi lại đến gần tường thành ?', thì anh sẽ nói : 'Tôi tớ ngài là ông Urigia, người Khết, cũng đã chết".
Người lính biệt phái ra đi và đến báo cho vua Đavít biết mọi điều ông Giôáp đã sai anh về nói. Người lính biệt phái nói với vua Đavít : "Những người ấy đã mạnh hơn chúng tôi và đã xông ra đánh chúng tôi ở ngoài đồng, nhưng chúng tôi đã đẩy lui chúng cho đến lối vào cửa thành. Từ trên tường thành, lính bắn cung đã bắn xuống các bề tôi của ngài. Một số bề tôi đức vua đã chết, cả tôi tớ ngài là ông Urigia, người Khết, cũng đã chết".
Vua Đavít bảo người lính biệt phái : "Hãy nói với ông Giôáp thế này : Đừng bực mình về chuyện ấy, vì việc binh đao là thế : khi thì người này, khi thì người kia bị chém. Hãy mạnh mẽ tấn công và phá huỷ thành. Ngươi hãy khích lệ ông ấy".
Vợ ông Urigia nghe tin ông Urigia, chồng mình, đã chết, thì làm ma cho chồng. Khi tang lễ đã qua, vua Đavít sai người đi đón nàng về nhà mình. Nàng trở thành vợ vua và sinh cho vua một con trai. Nhưng hành động của vua Đavít không đẹp lòng ĐỨC CHÚA.
ĐỨC CHÚA sai ông Nathan đến với vua Đavít. Ông vào gặp vua và nói với vua: "Có hai người ở trong cùng một thành, một người giàu, một người nghèo. Người giàu thì có chiên dê và bò, nhiều lắm. Còn người nghèo chẳng có gì cả, ngoài con chiên cái nhỏ độc nhất ông đã mua. Ông nuôi nó, nó lớn lên ở bên ông, cùng với con cái ông, nó ăn chung bánh với ông, uống chung chén với ông, ngủ trong lòng ông : ông coi nó như một đứa con gái.
Có khách đến thăm người giàu, ông này tiếc của, không bắt chiên dê hay bò của mình mà làm thịt đãi người lữ khách đến thăm ông. Ông bắt con chiên cái của người nghèo mà làm thịt đãi người đến thăm ông".
Vua Đa-vít bừng bừng nổi giận với người ấy và nói với ông Nathan : "Có ĐỨC CHÚA hằng sống ! Kẻ nào làm điều ấy, thật đáng chết ! Nó phải đền gấp bốn con chiên cái, bởi vì nó đã làm chuyện ấy và đã không có lòng thương xót". Ông Nathan nói với vua Đavít : "Kẻ đó chính là ngài ! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Israel, phán thế này : Chính Ta đã xức dầu phong ngươi làm vua cai trị Israel, chính Ta đã giải thoát ngươi khỏi tay vua Saun. Ta đã ban cho ngươi nhà của chúa thượng ngươi, và đã đặt các người vợ của chúa thượng ngươi vào vòng tay ngươi. Ta đã cho ngươi nhà Israel và Giuđa. Nếu bấy nhiêu mà còn quá ít, thì Ta sẽ ban thêm cho ngươi gấp mấy lần như thế nữa. Vậy tại sao ngươi lại khinh dể lời ĐỨC CHÚA mà làm điều dữ trái mắt Người ? Ngươi đã dùng gươm đâm Urigia, người Khết ; vợ y, ngươi đã cướp làm vợ ngươi ; còn chính y, ngươi đã dùng gươm của con cái Ammon mà giết. Ấy vậy, gươm sẽ không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi, bởi vì ngươi đã khinh dể Ta và cướp vợ của Urigia, người Khết, làm vợ ngươi.
"ĐỨC CHÚA phán thế này : Ta sắp dùng chính nhà của ngươi mà gây họa cho ngươi. Ta sẽ bắt các vợ của ngươi trước mắt ngươi mà cho một người khác, và nó sẽ nằm với các vợ của ngươi giữa thanh thiên bạch nhật. Thật vậy, ngươi đã hành động lén lút, nhưng Ta, Ta sẽ làm điều ấy trước mặt toàn thể Israel và giữa thanh thiên bạch nhật".
Bấy giờ vua Đavít nói với ông Nathan : "Tôi đắc tội với ĐỨC CHÚA". Ông Nathan nói với vua Đavít : "Về phía ĐỨC CHÚA, Người đã bỏ qua tội của ngài ; ngài sẽ không phải chết. Thế nhưng vì trong việc này ngài đã cả gan khinh thị ĐỨC CHÚA, nên đứa trẻ ngài sinh được, chắc chắn sẽ phải chết". Rồi ông Nathan trở về nhà.
Ghi chú : Ý tác giả muốn trình bày: Thiên Chúa biết hết mọi sự, không có ai, không có gì qua mặt được Chúa – "thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu".
4. Bà Susanna và phán quyết của ông Đaniel (Đn 13,1-64).
Có một người ở tại Babylon, tên là Giôgiakim. Ông lấy vợ tên là Susanna. Bà là con gái ông Khenkigia ; bà rất xinh đẹp và kính sợ Chúa. Cha mẹ bà là người công chính, đã dạy dỗ con gái theo Luật Môsê. Ông Giôgiakim là người rất giàu, ông có một khu vườn bên cạnh nhà. Người Do Thái thường đến nhà ông, vì ông có thế giá hơn mọi người. Năm ấy, người ta đặt hai kỳ lão chọn trong dân làm thẩm phán. Đấng Chí Tôn đã phán về họ rằng : "Từ Babylon, đã phát xuất sự gian tà do những kỳ lão, những thẩm phán có vẻ như cai trị dân". Những kỳ lão này thường lui tới nhà ông Giôgiakim. Tất cả những ai có việc gì cần xét xử thì đến gặp họ. Giữa trưa, khi dân đã rút lui, bà Susanna vào đi dạo trong vườn của chồng. Hai kỳ lão thấy bà mỗi ngày vào đi dạo, thì sinh lòng ham muốn. Họ để tâm trí ra đồi bại, quay mắt đi để khỏi nhìn lên trời cao và chẳng nhớ đến những phán quyết công minh của Thiên Chúa. Cả hai người đều đắm đuối say mê bà, nhưng họ không cho nhau biết vết thương lòng của mình, bởi vì họ xấu hổ không dám tỏ bày lòng ham muốn chiếm được bà. Ngày ngày, họ nôn nao rình rập, mong nhìn thấy bà. Một hôm, họ nói với nhau : "Đến giờ ăn trưa rồi, ta đi về nhà thôi !" Thế rồi họ bước ra và chia tay. Nhưng sau đó, ông nào cũng trở lui và cả hai lại gặp nhau ở chỗ cũ. Khi đôi bên gạn hỏi nhau, họ mới thú nhận lòng ham muốn của mình. Và bấy giờ họ đồng lòng tìm dịp gặp bà lúc bà ở một mình. Họ đang nóng lòng chờ dịp thuận lợi, thì một hôm, bà Susanna đi vào vườn như các ngày trước, chỉ có hai tớ gái theo hầu. Vì trời nóng, bà muốn tắm trong vườn. Ở đó, chẳng có ai, ngoại trừ hai kỳ lão đang ẩn núp và rình xem. Bà bảo các tớ gái : "Đem cho ta dầu và thuốc thơm, rồi đóng cửa vườn lại để ta tắm". Các tớ gái làm như bà nói : các cô đóng cửa lại, đi ra phía cửa hông để lấy những thứ bà yêu cầu. Nhưng các cô không biết là các kỳ lão đang ẩn núp trong vườn.
Các cô vừa ra khỏi đó, thì hai kỳ lão liền chồm dậy, nhào tới chỗ bà và nói : "Này cửa vườn đã đóng ; chẳng ai thấy chúng ta đâu. Chúng tôi thèm muốn bà, bằng lòng trao thân cho chúng tôi đi ! Nếu không, chúng tôi sẽ làm chứng tố cáo rằng có một thanh niên ở với bà, và vì thế bà đã cho các tớ gái đi khỏi đây". Bà Susanna thở dài não nuột và nói : "Tôi bị khốn tứ bề ! Quả thật, nếu làm thế, tôi sẽ phải chết ; còn nếu không làm, tôi cũng không thoát khỏi tay các ông. Nhưng thà không làm gì cả mà sa vào tay các ông, còn hơn là phạm tội trước mặt Chúa !". Bà Susanna liền kêu lớn tiếng và hai kỳ lão cũng la lên để hại bà. Một ông chạy ra mở cửa vườn. Khi nghe tiếng kêu trong vườn, các gia nhân đổ xô vào cửa bên hông, để xem sự gì đã xảy ra cho bà. Và sau khi các kỳ lão kể lại chuyện đó, các tôi tớ rất lấy làm hổ thẹn, vì chưa bao giờ nghe nói như thế về bà Susanna.
Hôm sau, dân chúng tụ họp ở nhà ông Giôgiakim chồng bà. Hai kỳ lão kia cũng đến đó, lòng đầy gian ý hại bà, để làm cho bà phải chết. Họ nói trước mặt dân chúng : "Hãy sai người đi tìm Susanna, con gái ông Khenkigia, vợ ông Giôgiakim". Rồi người ta cho người đi tìm bà. Bà cũng đến đó với cha mẹ, con cái và tất cả thân nhân. Bà Susanna rất là duyên dáng, nhan sắc mặn mà. Vì bà che khăn, nên các tên khốn kiếp đó bắt phải lột khăn ra để ngắm nhan sắc của bà cho thoả. Mọi người thân cũng như tất cả những ai thấy bà, đều khóc. Từ giữa đám dân, hai kỳ lão đó đứng dậy đặt tay lên đầu bà. Còn bà thì vừa khóc vừa ngước mắt lên trời, vì bà đầy lòng trông cậy vào Chúa. Các kỳ lão nói : "Chúng tôi đang dạo chơi một mình trong vườn, thì mụ này đã vào với hai tớ gái, đóng cửa vườn lại, rồi cho các tớ gái đi ra. Một gã thanh niên núp sẵn ở đó, đến bên mụ và nằm với mụ. Lúc ấy, chúng tôi đang ở một góc vườn, thấy chuyện đồi bại, liền chạy tới. Chúng tôi thấy chúng ăn nằm với nhau, nhưng không tóm được gã thanh niên, vì hắn khoẻ hơn chúng tôi, và đã mở cửa chạy mất. Còn mụ này, chúng tôi bắt được và hỏi mụ ta xem gã thanh niên kia là ai. Nhưng mụ không chịu nói cho chúng tôi. Chúng tôi xin làm chứng về những điều ấy".
Nhưng bà Susanna kêu lớn tiếng rằng : "Lạy Thiên Chúa hằng hữu, Đấng am tường những điều bí ẩn và thấy hết mọi sự trước khi chúng xảy ra, Ngài biết là họ đã làm chứng gian hại con. Này con phải chết, tuy chẳng làm điều gì trong những điều họ đã vu cho con".
Chúa đã nghe tiếng bà kêu. Trong lúc bà bị điệu đi hành hình, Thiên Chúa đã đánh động tâm trí thánh thiện của một thiếu niên tên là Đaniel. Thiếu niên đó kêu lớn tiếng rằng : "Tôi vô can trong vụ đổ máu người phụ nữ này !" Toàn dân đều quay về phía cậu thiếu niên và hỏi : "Lời cậu vừa nói có nghĩa gì ?" Cậu đứng giữa họ và nói : "Các người ngu xuẩn đến thế sao, hỡi con cái Israel ? Các người đã lên án một người con gái Israel mà không xét hỏi và cũng không biết rõ sự việc ra sao ! Hãy trở lại nơi xét xử, vì những người kia đã làm chứng gian để hại người phụ nữ này".
Toàn dân vội vàng trở lại đó, và các kỳ lão nói với Đaniel : "Đến đây, hãy ngồi giữa chúng tôi và cho chúng tôi biết ý kiến, vì Thiên Chúa đã cho cậu được khôn ngoan như bậc lão thành". Đaniel nói : "Hãy tách riêng họ ra, rồi tôi sẽ xét hỏi". Sau khi họ đã bị tách ra rồi, Đaniel gọi một trong hai kỳ lão lại và nói : "Hỡi con người già đời trong đường gian ác, tội lỗi xưa ông đã phạm, nay lại tái diễn : ông đã xử bất công, kết án người vô can, tha bổng kẻ đắc tội, bất kể lời Chúa dạy : Ngươi chớ giết người vô tội và người công chính. Vậy bây giờ, nếu quả thật ông đã thấy bà kia, thì hãy nói ông đã thấy họ thông gian với nhau dưới cây nào ?" Người ấy đáp : "Dưới cây trắc". Đaniel nói : "Ông đã nói dối trắng trợn khiến ông phải mất mạng, vì thiên sứ của Thiên Chúa đã nhận được án lệnh của Người là chặt ông làm đôi". Sau khi cho người này ra, Đaniel truyền dẫn người kia vào, rồi nói : "Hỡi nòi giống Canaan, chứ không phải nòi giống Giuđa, sắc đẹp đã mê hoặc
ông, và tình dục đã làm cho ông ra hư hỏng. Các ông đã hành động như thế với các con gái Israel. Vì sợ, họ đã thông gian với các ông. Nhưng người con gái Giuđa này đã không chịu nổi sự gian tà của các ông. Vậy bây giờ, hãy nói cho tôi biết ông đã bắt quả tang họ thông gian với nhau dưới cây nào?" - Người ấy đáp : "Dưới cây dẻ". Đaniel mới bảo : "Cả ông nữa, ông cũng nói dối trắng trợn khiến ông phải mất mạng, vì thiên sứ của Thiên Chúa, tay cầm gươm, đang chờ để xẻ ông làm đôi nhằm tiêu diệt các ông".
Bấy giờ toàn thể cộng đồng lớn tiếng reo hò và chúc tụng Thiên Chúa, Đấng cứu những kẻ trông cậy vào Người. Rồi người ta quay lại chống hai kỳ lão, vì Đaniel đã dựa vào lời chính miệng các ông nói mà thuyết phục họ là các ông đã làm chứng gian. Theo luật Môsê, người ta giáng cho các ông hình phạt mà các ông định bắt người khác phải chịu, đó là giết các ông. Ngày ấy, máu người vô tội khỏi bị đổ oan. Vợ chồng ông Khenkigia cùng với con rể là Giôgiakim và mọi người thân thuộc đều ca ngợi Thiên Chúa về bà Susanna, con gái của họ, vì người ta đã không thấy điều gì bất xứng nơi bà. Từ ngày ấy trở đi, cậu Đaniel nên cao trọng trước mặt dân.
Ghi chú : Ý tác giả trình bày : "Ác giả ác báo", đó là định luật ngàn đời.
Về đầu trang
Nhận định
A. Với những người chưa quen và chưa hiểu Kinh Thánh, thì đây là xì-căng-đan lớn làm họ choáng váng mặt mày. Thánh Kinh là lời Chúa, là sách của Chúa, sách được gọi là "Thánh" mà sao lại kể những chuyện loạn luân, dâm ô tầy đình như vậy ?
Chu Văn Trình và Thái Vân trong bộ sách nhiều tập "Giatô thực dân chính sử" (phần nào giống "Tây Dương Giatô bí lục"), đã chỉ dựa vào những sự kiện này để phê phán nặng lời Thánh Kinh và Giáo Hội Công giáo. Các ông còn quả quyết những gì các ông sẽ phanh phui ra là những "sự thật" … mà "lịch sử nhân loại sẽ phê phán việc làm của ngài (Đức Giáo hoàng) và chúng tôi" (1/8/1993, Chu Văn Trình P.O box 598 Mt. Dora, Fl. 32757 – USA). Ngoài việc bóc tách những sự việc mà các tác giả cho là sát máu, loạn luân, dâm ô để lên án, họ còn đi tới "sự thật động trời" là kết luận ông Giêsu không bị đóng đinh thập ác mà là Simon người Syrênê – còn ông Giêsu cùng vợ với 2 con trai lưu vong sang Pháp lúc ấy ông đã 70 tuổi.… (sách đã dẫn tập 1 trang 13).
Xin hẹn các ông vài chục năm nữa, sẽ cùng những người đọc đối diện với Đấng là Sự thật tuyệt đối.
Những quy kết trên đây là chuyện của ông Trình và ông Vân, còn chúng ta khi bình tâm lại, chúng ta sẽ thấy như sau :
a. Nét đẹp nhất của Thánh Kinh là Sự Thật – Thánh Kinh, sách của Chúa là Đấng chân thật và là chân thiện mỹ tuyệt đối. Thánh Kinh chỉ dạy sự thật, dĩ nhiên đây là sự thật về Đức tin và Luân lý, chứ không bao hàm các môn học khác như toán, lý, hóa, sử, địa, … vì Thánh Kinh không nhằm dạy những môn đó – Cần lưu ý một điểm là nếu Thánh Kinh mà có một điều sai (về đức tin và luân lý) thì sẽ mất hết giá trị và sẽ bị phế bỏ.
b. Trong việc tìm hiểu và giải thích Thánh Kinh cần lưu ý 5 điều trọng yếu này :
- Điều 1 : Thánh Kinh phải được đọc và giải thích trong sự liên đới của toàn bộ Kinh Thánh – từng phần phải được hiểu trong tổng thể, giống như một bản hòa tấu, muốn phê bình, phân tích phải biết đọc tổng phổ – không thể tách riêng từng bè để phê phán. Thánh Kinh nếu băm vằm ra từng mảnh để phê bình thì cũng chẳng khác nào 4 anh xẩm (mù) xem voi : anh rờ vào cái vòi thì tuyên bố con voi như con đỉa vĩ đại, anh sờ vào cái chân thì tuyên bố con voi như cái cột đình, anh sờ vào cái tai thì tuyên bố con voi như cái quạt lớn, anh sờ vào cái đuôi thì tuyên bố con voi như cái chổi tầu cau.
- Điều 2 : Thánh Kinh là sách của Đức tin, đọc Thánh Kinh với lòng khiêm tốn, với óc tìm tòi đầy thiện chí, cái gì chưa rõ thì hỏi han, trao đổi, đó là thái độ của lòng tin, với thái độ này thì dù người ngoài Kitô giáo đọc Thánh Kinh vẫn tốt, vẫn tìm được lợi ích – thánh Cam Địa, nhà thơ vĩ đại Tagore hàng ngày vẫn đọc Thánh Kinh dù chưa là Kitô hữu. Đọc và giải thích Thánh Kinh mà không có đức tin, chỉ nhằm phê phán điều này điều nọ thì e rằng không tránh khỏi sự sai lầm và thái độ thiếu tôn trọng niềm tin của người khác.
- Điều 3 : Thánh Kinh là bộ sách cách nay ít nhất 2000 năm, những dân tộc được nhắc tới trong Thánh Kinh đều có những nền văn hóa bản địa, có những phong tục, tập quán, luật lệ, ngôn ngữ …khác chúng ta, và khác thời đại chúng ta, do đó nếu lấy những luật lệ, phong tục, những quy tắc, tiêu chuẩn của chúng ta thời hiện đại này mà chụp vào xã hội của bối cảnh Thánh Kinh để phán xét, thì đó là một sai lầm lớn trong khoa phê bình, nghiên cứu – Thí dụ luật cấm kết hôn trong dòng tộc 3 đời, thì mới có đây do khoa học khám phá ra tình trạng đồng huyết mà lấy nhau thì có nguy cơ suy giảm thể lực và nòi giống – Cách đây mấy nghìn năm, việc kết hôn trong dòng tộc là luật để bảo vệ nòi giống (không lai) và tài sản, cơ nghiệp (không bị phân tán), dựa vào luật hôn nhân gia đình hiện đại để kết án hôn nhân trong dòng tộc thời xưa là loạn luân, là phi luân … thì quả là bất công. Ngày nay có ai đem luật của Mỹ để xử những việc của Việt Nam và ngược lại ?
- Điều 4 : Muốn tìm hiểu, phê phán, dạy dỗ Thánh Kinh, phải dùng những tài liệu, những văn bản chính thức của Hội Thánh như cơ sở chính yếu. Đọc được vài bản dịch bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Việt mà lại không phải chính thức của Hội Thánh Công giáo, rồi còn dựa vào
các ngụy kinh như Phúc Âm thánh Tôma mà Giáo Hội Công giáo đã loại bỏ để phê bình Thánh Kinh thì không thể chấp nhận được.
- Điều 5 : Giải thích Thánh Kinh không phải là chuyện dễ, cứ có mảnh bằng cử nhân, tiến sĩ là có thể làm được. Nên nhớ trên thế giới cho đến nay có lẽ chỉ có hai bộ sách được nghiên cứu như một bộ môn riêng biệt, chuyên khoa, đó là Hồng Học và Thánh Kinh Học. Hồng Học chỉ học về bộ tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng của Trung Quốc, Hồng Học thì mới có gần đây thôi, có
Học viện và có cấp bằng chuyên môn hay không thì người viết không rõ, nhưng Thánh Kinh Học thì có trước đây cả ngàn năm và Học viện Thánh Kinh (ngang tầm các Viện Đại học danh tiếng), như Viện Thánh Kinh Rôma và Giêrusalem thì được thiết lập cách nay một thế kỷ, và chỉ có Học viện Thánh Kinh Rôma được cấp bằng cử nhân và tiến sĩ Kinh Thánh. Chắc chắn các nước đa số theo Tin Lành, Anh giáo như Anh, Đức, Mỹ… cũng có Học viện Thánh Kinh của riêng họ, ngay tại Việt Nam trước năm 1975 còn có Học viện Thánh Kinh Tin Lành ở Nha Trang.
Để vào học ở Viện Thánh Kinh Rôma và Giêrusalem, và để trở thành nhà nghiên cứu, chú giải Thánh Kinh chính thức, học viên sau tú tài, cử nhân, phải đủ điều kiện về ngôn ngữ, nghĩa là ngoài tiếng mẹ đẻ phải thông thạo ít là 3 trong các sinh ngữ Tây Âu : Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Ý … và thông thạo ít là 4 cổ ngữ La-tinh, Hy Lạp, Hêbrêu (Do Thái) và Aram, và 1 trong 3 ngôn ngữ Đông phương như Ai Cập, Ả Rập, Copt. rồi còn phải miệt mài chuyên chú học chỉ một môn này mà thôi trong ít là 9 năm, và phải thi đậu, được cấp bằng mới đủ tư cách giải thích Kinh Thánh. Không phải chỉ lõm bõm vài câu tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức … mà học được.
Linh mục Giuse Đỗ Quang Khang sau khi tốt nghiệp đại học đã có một thời đi dạy học rồi vào tu sau 6 năm làm Linh mục, rồi được gửi qua Học viện Thánh Kinh Rôma học, sau 9 năm mới về nước, ngài tâm sự : "Nếu vì bất cứ lý do gì mà nghỉ 1 tuần thôi thì không thể theo kịp nữa, phải bỏ giở mà về". Nếu Thánh Kinh là một cuốn sách vô giá trị thì thế giới văn minh này làm gì phải nhọc công và tốn kém như vậy ? Làm gì phải dịch ra hơn 2400 thứ tiếng, xuất bản hàng tỷ cuốn như vậy ? Và làm gì mỗi ngày có hàng tỷ người đọc và noi theo như vậy ?
c. Thánh Kinh không phải là sử ký thuần túy, nhưng có tính lịch sử rất cao, nghĩa là hoàn toàn tôn trọng sự thật, tác giả Thánh Kinh biết sao kể vậy, không bao giờ cố tình bóp méo sự thật, khác với lịch sử của các triều đại chính trị luôn có khuynh hướng "xấu che, tốt khoe", nhiều khi sử gia không muốn vậy nhưng do những áp lực nhiều phía nên buộc phải làm như vậy.
Thông thường người ta rất sợ sự thật, sợ đối mặt với sự thật, nhất là những sự thật không mấy tốt đẹp, do đó mới có vấn đề những người có thế lực "sát nhân diệt khẩu" trong mọi thời đại.
Một vua Hêrôđê (thế kỷ 1) loạn luân với chị dâu ngay khi anh mình còn sống, ông Gioan Tẩy Giả đã dũng cảm lên tiếng : "Ngài không được làm như vậy", lập tức ông bị bay đầu (Lc 3,19-20). Với ông vua khét tiếng độc ác này cũng như ông trùm độc tài Hítler, sử gia nào dám nói động tới những việc sai quấy các ông làm ? Với các vua chúa, những nhà độc tài khát máu khác cũng vậy.
Theo nhà nghiên cứu Trần Văn Chánh trong bài "Tản mạn quan điểm, phương pháp và thái độ nghiên cứu lịch sử" (Nguyệt san Công giáo & Dân tộc số 160, 162) :
(Ghi chú : từ trang 49 – 114 tư liệu có tính chuyên môn, ai cảm thấy không cần, có thể bỏ qua)
Những năm gần đây, nhiều vấn đề lịch sử nói chung hay nhân vật lịch sử nói riêng đã được giới nghiên cứu sử học xem xét lại, nhờ vậy vấn đề triều Nguyễn hay một vài nhân vật lịch sử nổi bật như vua Gia Long, các cụ Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh … cũng đã được đánh giá lại trong một tinh thần thông thoáng cởi mở hơn xưa rất nhiều, và việc làm này đều được mọi tầng lớp trong xã hội hoan nghênh tán đồng.
Có lẽ từ giờ trở đi, nhân dân Việt Nam khỏi phải mất công tranh cãi nhau dài dòng về tư cách tốt xấu của cụ Lê Văn Duyệt hay cụ Phan Thanh Giản nữa. Nghe tin cụ Lê Văn Duyệt được dựng tượng đồng, cụ Phan Thanh Giản được đánh giá tốt lại như thế, chắc không ai mừng gì riêng cho cá nhân các cụ, vì dù sao các cụ cũng đã ra người thiên cổ từ lâu, nhưng mừng cho nhân dân địa phương tại những nơi quê hương xứ sở của các cụ có được những tấm gương sáng rạch ròi để mà hãnh diện và noi theo. Và ở một đàng khác, mừng cho giới sử học ngày nay đã thoát ra được thời kỳ dài mông muội của chủ nghĩa giáo điều để có được những nhận thức sáng suốt đúng đắn hơn về một số vấn đề liên quan đến lịch sử và nhân vật lịch sử, nhờ thế đã xác nhận lại lần nữa cho chắc nịch những điều mà toàn dân thật ra đã có nhận thức từ lâu. Những sự đánh giá lại như thế mặc dù rất đáng khen, nhưng nếu xem xét bằng thái độ khiêm tốn khách quan trung thực, người ta có lẽ không nên hào hứng theo nghĩa các cụ vừa được những kẻ hậu sinh 'xá tội', mà phải hiểu theo chiều ngược lại là việc buộc tội lầm của một số người đánh giá sai trước đây chẳng những không bị phạt đền mà còn được các cụ (với đại diện là toàn thể nhân dân) khoan miễn cho nhẹ đi rất nhiều. Như thế là vui vẻ cả làng, người xưa và người nay có sự đề huề hợp tác chân thành.
Việc các cụ Lê, cụ Phan, cụ Trương Vĩnh Ký … trong một thời kỳ khá dài bị một bộ phận giới sử học quan niệm đánh giá xấu thường được người dân VN hiểu một cách thô sơ qua việc xóa bỏ tiểu sử trong sách giáo khoa, tượng thờ, tên đường hoặc tên trường học mang tên các cụ tại nhiều địa phương khác nhau, vì lý lịch các cụ phần nhiều đều có liên quan mật thiết đến triều Nguyễn, thời kỳ thực dân Pháp, hoặc với đạo Công giáo. Nhìn chung, người dân phần nhiều không nghiên cứu kỹ sử sách nhưng họ đều lấy làm hoang mang kinh ngạc trước việc một số cụ đang tốt bỗng nhiên hóa xấu. Bởi chỉ cần phán đoán theo lương tri thông thường không phải thông qua nghiên cứu sâu xa như Viện Sử học, ai cũng biết những người như cụ Lê Văn Duyệt được nhân dân trân trọng thờ phụng hương khói chuyên cần, như cụ Phan Thanh Giản từ bỏ cả mạng sống (cái quý nhất ở cá nhân con người) khi vì tình thế bức bách khách quan phải giao thành cho giặc, như cụ học giả Trương Vĩnh Ký trong và ngoài nước đều kính trọng dựng tượng thờ … thì không thể là những người tồi tệ phản dân hại nước cho được. Do vậy, nếu có những sự đánh giá cẩu thả sai lạc về các cụ trong một thời của một số người nào đó trong giới sử học hoặc chính quyền (chứ không phải của cả giới sử học hoặc của tất cả mọi người trong chính quyền) thì điều này gợi ý cần phải coi lại triệt để phương pháp và thái độ nghiên cứu lịch sử, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết trong tương lai khi cần áp dụng kiến thức và tư duy lịch sử soi xét, đánh giá những vấn đề hoặc nhân vật lịch sử khác. Điều quan trọng là những người đưa ra các đánh giá phải không được xuất phát từ một quan điểm giáo điều nào, cũng như ít nhất họ phải dựa trên cơ sở sử liệu đầy đủ đã được thẩm tra kỹ, và một mặt khác đôi khi họ cũng phải có tư cách – nhân cách tương đương hoặc cao hơn các đối tượng nhận sự đánh giá của họ. Một người viết được vài ba bài viết trên báo hoặc tập tiểu luận nhỏ về sử học, khi nhận xét về cụ Phan Thanh Giản chẳng hạn, ít nhất cũng phải biết để cân nhắc cụ là một người ăn học đàng hoàng, văn hay chữ tốt, đỗ Tiến sĩ với chất lượng cao thật sự, và từng giữ chức Tổng tài Quốc sử quán tổ chức biên soạn Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (53 quyền) vốn được coi là một bộ sử Việt biên soạn cẩn thận và đồ sộ nhất từ trước đến giờ.
Có một vấn đề cũ mèm được nói nhiều nhất có lẽ trong các giới nghiên cứu văn học và lịch sử, nhưng lại luôn bị áp dụng một cách lúng túng sai lạc do ảnh hưởng nặng nề của tệ giáo điều, đó là chủ nghĩa duy vật lịch sử mà về mặt áp dụng để nghiên cứu văn học – sử học thì quen gọi bằng cụm từ 'quan điểm lịch sử cụ thể'. Mác nói rằng không ai được chọn thời để sinh ra cũng như không ai được quyền lựa chọn lực lượng sản xuất cho mình, nói nôm na là khi người ta sinh ra thì nhiều cái đã có trước, không tùy thuộc vào ý muốn chủ quan của bất kỳ ai. Đó cũng là một khía cạnh quan trọng của cái gọi là bối cảnh hay hoàn cảnh lịch sử mà con người hầu như không thể thoát ra được. Ở một chỗ khác ông viết : "Quan điểm của tôi cho rằng sự phát triển của hình thái kinh tế của xã hội có thể coi như quá trình của tự nhiên và lịch sử của tự nhiên. Cho nên so với mọi quan điểm khác, quan điểm của tôi có thể có ít quy trách nhiệm cho cá nhân hơn về những quan hệ mà xét theo nghĩa xã hội, cá nhân đó trước sau vẫn là sản vật, dù cho về mặt chủ quan cá nhân đó có thoát khỏi những quan hệ ấy như thế nào chăng nữa" (Về những quy luật kinh tế trong chủ nghĩa xã hội, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1975, trang 12). Mác cũng nhận định thật tài tình "Lịch sử chẳng qua chỉ là hoạt động của con người theo đuổi mục đích của bản thân mình" (C.Mác và Ph. Ănghen, Gia đình thần thánh hay là phê phán sự phê phán có tính chất phê phán, NXB Sự Thật, Hà Nội, 1971, trang 163).
Nếu xét theo quan điểm đại loại như trên thì triều Nguyễn được dựng nên ứng vào thời kỳ sung mãn nhất của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật thế kỷ 19. Việc phát minh ra chiếc máy hơi nước giải phóng sức sản xuất cùng với việc khám phá thêm các đường hàng hải mới đã dẫn đến sự bành trướng của chủ nghĩa thực dân lúc đó đang cần thêm rất nhiều nguyên liệu, nhân công và thị trường tiêu thụ. Đây là diễn biến tất yếu khách quan trong quá trình phát triển của lịch sử chủ nghĩa tư bản thế giới. Nếu Pháp không dòm ngó Việt Nam trong lúc này thì cũng sẽ có một nước Bồ Đào Nha hay Y Pha Nho nào khác. Rủi thay, thực dân Pháp đã đặt tầm ngắm một cách thuận tiện vào Việt Nam giữa lúc trong nước còn đang chiến loạn nhiễu nhương, hai thế lực Nguyễn Ánh và nhà Tây sơn quần thảo nhau kịch liệt một mất một còn.
Trong lúc núng thế gặp được một số đoàn truyền giáo khi đó cũng đang muốn triển khai việc mở đạo hứa giúp, lẽ tất nhiên Nguyễn Ánh phải xem đây là một cơ hội, dù có thể là "một cái xấu cần thiết". Những đoàn truyền giáo này ngược lại đang cần tranh thủ sự ủng hộ vừa của chính quốc vừa của những ông chúa tể bản xứ, trong khi chủ nghĩa tư bản phương Tây cũng cần dựa vào những thế lực này để mở rộng các thị trường thuộc địa, Nguyễn Ánh thì cần súng ống tàu chiến đánh Tây Sơn, thế là một sự kết hợp nhuần nhuyễn trúng khía đã xảy ra một cách khách quan để thỏa mãn nhu cầu của tất cả các bên liên quan.
Việc đầu tiên và cấp bách Nguyễn Ánh cần làm là diệt được quân Tây Sơn trước đã bằng bất kỳ phương tiện nào, bởi mối thù 'chỉ non Tây thề chẳng đội trời chung', chứ hoàn toàn không cố ý muốn cầu thân với Pháp. Khía cạnh ngẫu nhiên của hoàn cảnh còn nằm ở chỗ ông là người theo tổ tiên vào lập nghiệp ở miền Nam trước nên có nhiều cơ hội tiếp xúc nhiều hơn với các nhà truyền giáo lúc đó đang cần liên lạc, tranh thủ sự che chở của ông để truyền đạo. Diệt được Tây Sơn rồi mọi việc sẽ tính sau, đó là mục tiêu cấp thời mang tính sách lược tình huống của vị vua sáng lập triều Nguyễn. Nói Nguyễn Ánh "cõng rắn cắn gà nhà" là không đúng với thực tại lịch sử khách quan, cũng như nói Alexandre de Rhodes hay Bá Đa Lộc làm môi giới giữa Pháp và triều Nguyễn là những tên thực dân phản động lại càng sai lầm hơn về mặt quan điểm lịch sử. Bằng cớ là sang thời Minh Mạng (từ 1920), Thiệu Trị, các vị vua con vua cháu này chẳng những không hợp tác với Tây mà còn thực hiện chính sách giết đạo tàn khốc (chứng tỏ không thân Pháp) để giải quyết cái di sản trớ trêu của lịch sử, và chỉ khoảng thời gian đó các nhà vua mới có thể dám làm như vậy (dù không phải việc đúng, tốt), do mối ân tình giữa vua cha (Nguyễn Ánh) với Bá Đa Lộc cùng một số tướng tá người Pháp coi như đã sạch nợ giang hồ.
Ngay như vua Quang Trung đại phá được quân Thanh trong trận Đống Đa (1789) mùa xuân năm Kỷ Dậu cũng vậy, nhiều tài liệu mới phát hiện gần đây cho biết một phần quan trọng là nhờ nhà vua đã biết sử dụng khéo léo các lực lượng hải khấu ở biển Đông. Trên thế giới cổ kim, không ít thành tích lẫy lừng được người đời ca tụng của một số nhân vật lịch sử đã được làm nên không phải lúc nào cũng bằng những con đường chính quy chính thống bằng phẳng, vấn đề chỉ là sự thật lịch sử đã được phơi bày trong các bộ chính sử ở mức độ thế nào mà thôi.
Tương tự như vậy và mở rộng vấn đề ở một cấp khái quát hơn, nếu xét trên quan điểm lịch sử, tạm lấy thế kỷ 19 làm mốc thí dụ, chủ nghĩa tư bản xuất hiện và bành trướng dưới hình thái chủ nghĩa thực dân là hậu quả tất yếu của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật thế kỷ 19 ; tiếp theo, phong trào cộng sản là hậu quả tất yếu phản ứng lại chủ nghĩa tư bản man rợ thời kỳ đầu, nó lại kết hợp một cách "khế cơ" (ăn khớp) với phong trào cách mạng dân tộc dân chủ và giải phóng dân tộc vừa chống phong kiến vừa chống thực dân ở một số nước thuộc địa trong thời kỳ "giải thực" toàn thế giới. Kết quả là một số chính quyền mang danh nghĩa chủ nghĩa cộng sản đã được thành lập, như trường hợp của Trung Quốc, Việt Nam và vài nước khác … Cứ thế lịch sử tuần tự nhi tiến, "trùng trùng duyên khởi", chắc chắn sẽ diễn biến đến những giai đoạn tiếp theo như có thể hiện thấy, với những thứ di sản thuộc loại ngoài ý muốn (đi kèm theo những mặt tốt của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc) vẫn đang tiếp tục giải quyết, như tệ nạn đặc quyền và tình trạng tham nhũng … ở một số nước. Riêng trường hợp các nước thực dân xâm lược, hiểu như một sự thể tất yếu không thể tránh khỏi của một thời kỳ phát triển nhất định trong lịch sử thế giới, trong khi đặt ách thống trị lên các quốc gia nhược tiểu, để phục vụ trước hết quyền lợi cho chính chủ nghĩa thực dân chứ không phải cho các dân tộc bản xứ bị nô lệ, nó cũng đã để lại, dù muốn hay không, một số di sản hữu ích "xài được" cho các dân tộc bị trị như khoa học – kỹ thuật, giáo dục, y tế, hành chính, các cơ sở hạ tầng nhà cửa đường sá cầu cống hiện đại, và đặc biệt là những tư tưởng về tự do dân chủ và cách mạng. Khi cục diện thế giới thay đổi, các dân tộc bị trị đến lượt mình đương nhiên đã sử dụng những thứ "xài được" đó chống lại ách áp bức bóc lột của chính thực dân, buộc các nước này phải buông tay bằng nhiều cách khác nhau (thông qua hoặc không cần thông qua cuộc chiến tranh giải phóng) để trao trả lại quyền độc lập tự chủ cho mình.
Trở lại cách nhìn thực tế lịch sử của một dân tộc hay một cộng đồng xã hội nào khác, có thể mượn cách diễn đạt khá tinh tế của ông Trần Bạch Đằng trong "Lời giới thiệu" sách Lê Văn Duyệt với vùng đất Nam Bộ (Bán nguyệt san Xưa & Nay và NXB Trẻ, 2002) : "Người viết sử có thể phân chia diễn biến của quá khứ thành nhiều chương, hồi, theo một chủ điểm yêu ghét nào đó, có khi còn được gọi là chính thống, nhưng bản thân lịch sử thì nó triển khai đan xen với vô số mâu thuẫn và cách xử lý mâu thuẫn, không từ trong một kịch bản có sẵn nào cả".
Trong chiều hướng "giải hóa" và "xét lại" phổ biến hiện nay để loại bỏ dần những cách đánh giá chính thống nhưng cực đoan và trái quan điểm lịch sử vì thiếu tính toàn diện, một số nhân vật cận đại ở Trung Quốc như Tăng Quốc Phiên, Tưởng Giới Thạch … có thời kỳ bị lên án cực độ ở lục địa, nay đã được người Trung Quốc nhìn nhận lại theo chiều hướng cởi mở hơn, và tư tưởng – tác phẩm của họ cũng được phổ biến khá nhiều trên các kệ sách ở mọi nơi.
Ngày nay, ở Trung Quốc không ai còn viết truyện hay làm phim để lên án Tần Thủy Hoàng là tàn bạo (mặc dù tàn bạo thật), Tào Tháo là gian hùng (mặc dù gian hùng thật) … làm gì nữa, vì như thế cũng vô ích. Trái lại một số đạo diễn có tài đã cố gắng dựng lên những bộ phim truyện hay mô tả toàn diện tính cách của một số nhân vật, đặt họ đúng vào bối cảnh cụ thể của một thời kỳ lịch sử nhất định tương ứng với những phong tục, tập quán cùng lề lối tư duy – hành động phản ánh cách hành xử của con người trong cả một giai đoạn lịch sử nhất định nào đó, do vậy mà Tần Thủy Hoàng hoặc Tào Tháo cũng có được những nét dễ thương đầy nhân tính song song với tính cách tàn bạo hoặc gian hùng không ai chối cãi của họ. Bộ phim Công tử Bạc Liêu được dựng ở Việt Nam khoảng hơn 10 năm trước sở dĩ không thành công là vì những người thực hiện mải lo phản ảnh khía cạnh tiêu cực của công tử nhắm vào chủ đề chống phong kiến nhiều hơn là nhìn "công tử" ở góc độ khách quan là một con người có gốc đại địa chủ thích ăn chơi nhưng tính tình hào sảng khả ái của vùng đất mới Nam Bộ.
Đánh giá nhân vật lịch sử vì thế rất cần có sự cân nhắc thận trọng nhiều mặt trong tất cả mọi trường hợp. Ở Việt Nam, ngoài các nhân vật lịch sử lớn như Nguyễn Ánh (gắn liền với cả triều Nguyễn), Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản … có lúc bị đánh giá nhầm, còn có những nhân vật khác như Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh… có thời gian khá dài cũng bị kết án oan về một số mặt cơ bản, khiến cho những con đường hay trường học mang tên họ đều bị xóa bỏ hết, và học sinh trong các nhà trường hoặc không biết gì về họ hoặc phải học hai môn Văn học, Lịch sử với những quan điểm và cách trình bày cực kỳ phiến diện.
Việc viết sử nói chung cũng thế, phải thận trọng giống như đánh giá nhân vật lịch sử. Ngoài nguyên tắc phải tôn trọng sự thật lịch sử trên cơ sở thu thập – phân tích – khảo chứng tư liệu và tôn trọng phương pháp sử học thuần túy, không để bị chi phối bởi bất kỳ giáo điều chính trị nào, người viết sử còn phải vận dụng chính xác cái gọi là "quan điểm lịch sử cụ thể" như đoạn trên của bài viết này đã cố gắng diễn giải. Ngoài ra họ còn phải hiểu đời một cách sâu sắc, thông đạt chính trị và nhân tình, hiểu được lý do các hoạt động của loài người, có tầm nhìn bao quát về tâm lý cuộc sống …, và tất cả những điều đó phải được thể hiện với một lương tri hay trực giác bén nhạy tối thiểu. Xét về các phương diện này, cho đến nay chúng ta vẫn có thể tạm coi bộ Việt Nam Sử Lược của cụ Trần Trọng Kim là một bộ "tín sử" hay nhất trong những bộ sử hiện có, bởi nó đã được cụ Trần căn cứ trên nhiều tài liệu rồi viết ra theo kiểu thấy sao nói vậy bằng cách nghĩ, cách diễn đạt thận trọng riêng của mình với một lương tâm khá trong sáng, trong đó cụ không hề có một lời khen ai hoặc mạt sát ai quá đáng, tuy rằng nó vẫn chưa đạt tiêu chuẩn khoa học đầy đủ của một bộ thông sử có tính toàn quốc. Như khi bình luận về tư cách của cụ Phan Thanh Giản, tác giả nói rất ngắn gọn mà thấm thía : "Bấy giờ ông đã già, đã ngoài 74 tuổi, làm quan thật là thanh liêm, nhưng chẳng may gặp phải khi nước có biến, biết thế mình không làm gì được, đem tấm lòng son sắt mà báo đền ơn nước cho hết bổn phận người làm tôi". Phải công tâm thừa nhận có một thời học sinh rất thích học môn Lịch sử một phần là nhờ bộ Việt Nam Sử Lược, với cách trình bày các sự kiện lịch sử vừa ngắn gọn mạch lạc vừa hấp dẫn, lời lẽ ôn nhu khiêm tốn, bình phẩm có mức độ, đọc hay như một bộ tiểu thuyết trường thiên của dân tộc. Còn hiện nay, người ta than rằng học sinh không thích môn lịch sử, dốt sử, thì cũng là một điều dễ hiểu và nên xem lại cách viết sử như là một hướng tiếp cận giải quyết vấn đề.
BIẾT SỬ
(Mùa tuyển sinh đại học, cao đẳng 2011) 99% bài thi tuyển sinh đại học môn sử có điểm dưới trung bình, đó là con số thống kê ở một số trường đại học đã công bố điểm.
Điều đáng lưu tâm ở chỗ không chỉ dưới trung bình mà ở mỗi trường có đến hàng trăm bài thi điểm 0, nghĩa là thí sinh không biết một chút gì về lịch sử !
Nhiều người bất ngờ với con số này, và rồi sau đó là những lý do. Dạy sử và học sử chính là căn nguyên dẫn đến kết quả tồi tệ này, có lẽ đó là lý do dễ đưa ra nhất. Sau bao nhiêu năm hết "chấn chỉnh" rồi đến "nói không", dường như ngành giáo dục lại tiếp tục phải … "nói không" với "chấn chỉnh" trước thực tế này. Một giảng viên đại học cho rằng, cứ năm nào thi tốt nghiệp THPT không có môn sử thì y như rằng kết quả điểm thi đại học môn này thấp. Lý do, các trường chỉ tập trung ôn luyện các môn thi tốt nghiệp, còn lại thì coi như… xong chương trình. Người dạy là vậy, người học cũng bị cuốn vào cái vòng ôn ôn luyện luyện cuối mùa của nhà trường đặt ra, nên không còn thời gian cũng như tâm sức ngó đến các môn học khác. Vậy là bao nhiêu kiến thức sau 12 năm chỉ còn là 6 môn thi tốt nghiệp. Nhưng thật trái khoáy, những em học sinh thi các chuyên ngành xã hội, sau khi tốt nghiệp đã không còn đủ thời gian để nhồi nhét bao nhiêu kiến thức của khối thi, dù cho chỉ là nhồi nhét. 99% điểm thi tuyển sinh đại học môn sử dưới trung bình khiến mỗi người thấy nhức nhối không phải chỉ do phương pháp dạy và học lấp ló đằng sau căn bệnh thành tích, mà là dấu hiệu của cách giáo dục truyền thống dân tộc cho thế hệ tương lai đã có điều không ổn. Lịch sử chỉ hấp dẫn và trở nên sâu sắc khi dựa trên thực tiễn đời sống xã hội, sức mạnh lịch sử không chỉ nằm trong các sự kiện xơ cứng mà quan trọng hơn là ý nghĩa của nó, nhưng điều đó chưa được quan tâm nhiều. Cho nên, đừng kết tội giới trẻ quay lưng với lịch sử mà vấn đề là cách truyền bá, giảng dạy cho học sinh từ nhà trường cũng như những ai có trách nhiệm. Kết quả học tập nói lên chất lượng đào tạo của nhà trường, nhưng chất lượng đào tạo không chỉ là điểm số mà cái đích là con người. Một học sinh vừa tốt nghiệp THPT có điểm 0 môn sử chưa hẳn là em đó không có kiến thức gì về lịch sử, nhưng có thể em đã không mong muốn, không thiết tha với lịch sử.
Văn là người, sử là gốc, khi mà các em không biết đến điều này thì sao có thể vững chãi trở thành chủ nhân tương lai đất nước. Và khi các em không biết để hiểu và sống với lịch sử của chính dân tộc mình, làm sao các em có thể làm tròn bổn phận của một Công dân ? Điều này đã không còn khu biệt trong trách nhiệm nhà trường nữa mà là trách nhiệm của thế hệ hôm nay đối với thế hệ mai sau.
(L.An - Báo SGGP 27/7/2011)
Lịch sử vốn là những diễn biến được mô tả lại bằng ngôn ngữ của kẻ chiến thắng nên trong những cuộc 'cải triều hoán đại' nó rất khó giữ được tính trung thực, khách quan hoàn toàn … Ở Trung Quốc, trong suốt thời kỳ Mao Trạch Đông cầm quyền, việc gì của Mao làm cũng được ca tụng, thành công gì trong các hoạt động khoa học, chính trị, văn hóa, … cũng đều được quy công cho sự lãnh đạo anh minh của Mao. Phải đợi đến khi ông chết (1976), nhiều sự thật lịch sử mới được phơi bày ra ánh sáng, hàng ngàn người bị kết án oan đưa đi lao động khổ sai trong thời Cách mạng Văn hóa được trả tự do, phục hồi danh dự ; bản thân Mao cũng được đánh giá lại …
Mặc dù những lý do nêu trên về điều kiện nghiệt ngã để có những bộ sử trung thực, về mặt lý thuyết chúng ta vẫn có thể nêu thêm những thực tế khác để xem xét vấn đề một cách tường tận thấu đáo thêm. Có một điều kiện lý tưởng vẫn còn nêu ra được, đó là nhà cầm quyền cũng phải trung thực nếu thật sự vì dân, nhận thức sự trung thực trong sử học như một điều quan trọng cần thiết có lợi ích lâu dài cho cả dân tộc, theo nghĩa lịch sử là tấm gương soi chung và là những bài học kinh nghiệm cần để rút tỉa cho công cuộc xây dựng tương lai đối với tất cả mọi thành viên công dân, và đối với đất nước, mà nếu trung thực thì tốt hơn là làm ngược lại. Để có sự trung thực, lẽ tất nhiên phải coi chân lý khoa học và lợi ích của nhân dân là luật pháp tối thượng, có tầm nhìn thần thông quảng đại, rộng mở, do đó sẽ không nhìn lịch sử hay nhân vật lịch sử bằng một tâm địa nhỏ nhen tầm thường. Một thực tế khác có thể cho thấy các nhà viết sử phương Tây dường như phóng khoáng hơn. Nếu các nhà sử học phương Tây (chủ yếu Pháp, Mỹ) cận hiện đại mà viết sử với một tâm hồn nhỏ nhen, không tôn trọng sự thật lịch sử hoặc chỉ vì những cái danh hão hay quyền lợi dân tộc hẹp hòi, chắc chắn họ sẽ bôi nhọ một số nhân vật lịch sử Việt Nam vốn từng là nguyên nhân sự chiến bại của quốc gia họ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân Việt Nam. Trái lại, họ thường đã mô tả một số nhân vật lịch sử Việt Nam như Nguyễn Thái Học, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp … với một lòng kính ái đặc biệt, đưa tên vào từ điển, một phần cũng nhờ vậy mà nước Việt Nam đến nay được rất nhiều quốc gia khác trên thế giới biết đến một cách trân trọng.
Trái lại với những thí dụ vừa kể trên đây là trường hợp một số sử gia Trung Quốc từ lâu và nhất là gần đây đã cố gắng bóp méo sự thật lịch sử, "tự viên kỳ thuyết" (vo tròn các sự kiện cho khớp với lý luận chủ quan của mình) để chứng minh các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc chủ quyền Trung Quốc. Làm như vậy trước mắt Trung Quốc nếu có thể lấy được Hoàng Sa,
Trường Sa của Việt Nam vinh viễn (?) thì đó chỉ là một lợi ích nhỏ thiển cận, hậu quả xấu lâu dài là làm cho cả nhân dân Trung Quốc nhiễm tư tưởng thực dụng thô thiển cùng thói quen nói láo, và như thế đã góp phần tiêu cực phá hoại cả nền văn hóa Trung Quốc vốn có rất nhiều nhân tố truyền thống tốt đẹp mà tổ tiên người Trung Quốc với những Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử, Tuân Tử … đã dày công xây đắp trong suốt mấy ngàn năm lịch sử. Đây là một trường hợp lợi bất cập hại khá rõ ràng có thể đem ra dẫn chứng cho lối làm việc bằng tâm địa nhỏ nhen không tôn trọng chân lý khoa học và lịch sử.
Đến đây có thể thấy rõ, trong khá nhiều trường hợp, sự chi phối của những quyền lợi chính trị nhất thời mang tính phe nhóm đôi khi có hại khi đặt toàn bộ vấn đề lợi ích ở mức độ dân tộc hay nhân loại trên một bình diện rộng lớn hơn, và có thể tạm rút ra một hệ luận : công việc nghiên cứu lịch sử, để có được tính trung thực cần thiết, đòi hỏi sự tôn trọng tính độc lập tự do của các sử gia, dù sử gia đó là tư nhân (như Trần Trọng Kim …) hay cán bộ đang hoạt động trong những cơ quan chuyên trách sử học, giáo dục của nhà nước cũng vậy. Nói chung hơn, theo kinh nghiệm hoạt động của Giáo sư Dân tộc học Nguyễn Đức Từ Chi dạy lại cho các học trò của mình thì muốn nghiên cứu lĩnh vực nào, tốt nhất đừng công tác tại cơ quan chuyên môn về lĩnh vực ấy … "Ngoài việc tránh được những phiền phức do cơ chế quản lý, việc này còn mang lại một lợi ích lớn hơn, đó là người nghiên cứu sẽ tránh được lối mòn, sự khuôn sáo, định kiến, hạn chế sự ảnh hưởng bởi 'tâm lý đám đông' trong nghiên cứu khoa học xã hội… Tất nhiên điều này đòi hỏi người nghiên cứu phải có bản lĩnh khoa học vững vàng" (xem Nguyễn Thị Hậu, "Vài lời cuối sách" trong quyển Khoa Học Soi Sáng Lịch Sử của Nguyễn Đức Hiệp, NXB Lao Động, 2007, trang 356).
Tại Việt Nam, chúng ta đã có khá nhiều tấm gương chứng tỏ được mối nguy hại một thời của lối viết sử dựa trên những quan điểm gọi là chính thống nhưng giáo điều, đầy định kiến, dẫn đến việc đánh giá sai lầm nhiều nhân vật lịch sử mà nay phải đánh giá lại, như giới sử học gần đây đã cố gắng làm và đã làm thành công đối với nhân vật Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản …
Ngoài khía cạnh quan điểm ra, nhiều sự kiện thuộc về sự thật lịch sử thể hiện trong các sách giáo khoa cũng cần được xem xét lại để điều chỉnh. Phong cách viết theo lối tự hào dân tộc hẹp hòi quá đáng hay theo kiểu "tốt khoe xấu che" cũng cần phải loại bỏ. Giáo sư NGND Nguyễn Văn Chiển trong một bài viết mới đây (tạp chí Tia Sáng số 9, ngày 5/5/2008), để nói về tính dũng cảm, khiêm tốn và trung thực của người trí thức, đã nhắc lại câu chuyện nhà sử học Trần Huy Liệu về việc trước khi mất, ông Liệu đã nói thật với học trò của mình rằng Lê Văn Tám không phải là con người có thật mà chỉ là một hình ảnh ông dựng lên để động viên phong trào kháng chiến mà thôi ! Tác giả bài viết còn nhắc đến một chuyện bịa lịch sử dạy cho cấp I phổ thông : Mai Thúc Loan vì bị gánh trái vải tươi (Lệ Chi) cống Dương Quý Phi mà cùng nông dân nổi dậy chống lại sự thống trị của nhà Đường ! … Gs-NGND Nguyễn Văn Chiển cũng trong ý tưởng đòi hỏi tính can đảm trung thực phải có của người trí thức, đã nhắc khen ông Nguyễn Mạnh Tường và ông Trần Đức Thảo, hai nhân vật trí thức Việt Nam lỗi lạc có thời gian vì trung thực đóng góp ý kiến xây dựng cho việc chung nhưng không hợp quan điểm "chính thống" mà bị "rút phép thông công", phải chịu oan và khốn khổ trong hầu suốt quãng đời còn lại (riêng Trần Đức Thảo sau khi chết, mới đây đã được minh oan công khai).
Như vậy để nói tiếp ý kiến Gs- NGND Nguyễn Văn Chiển, thiết tưởng đến lúc này, sau khoảng nửa thế kỷ, một vài nhân vật khác trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm cũng như toàn bộ vấn đề Nhân Văn Giai Phẩm cũng nên được giới nghiên cứu văn học – sử học đưa vào bàn hội nghị đánh giá lại một cách xác đáng công khai để rút ra thêm được nhiều bài học quý báu khác nữa cho cả nước rút tỉa. Làm được như vậy, giới văn học và sử học Việt Nam ghi thêm được một thành tích chói lọi mới, đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, và chắc chắn sẽ được mọi người mọi giới cả trong lẫn ngoài nước hoan nghênh nhiệt liệt vì góp phần làm thay đổi hẳn bầu không khí hoạt động văn hóa – tư tưởng theo chiều hướng tích cực nhất.
Cái "vùng cấm" Nhân Văn Giai Phẩm (1956-1958) không có văn bản giấy tờ tồn tại đúng năm chục năm nay trên thực tế đã được cả xã hội giải cấm dần vì trong những khoảng thời gian gần đây, không ít tác giả thuộc nhóm Nhân Văn Giai Phẩm đã có tác phẩm được in, thậm chí còn được cả giải thưởng. Lai rai đâu đó người ta đã bớt ngại khi công khai nhắc đến tên tuổi của nó, thậm chí còn mạnh dạn khen ngợi, như có thể kể trường hợp ý kiến của luật gia Lê Hiếu Đằng (Phó chủ tịch UBMTTQ.VN- Tp.HCM, Chủ tịch HĐQT Quỹ Bảo trợ Giáo dục và Đào tạo Tp.HCM) phát biểu trên báo Tuổi Trẻ (16/5/2008) khi người ta hỏi ông về thơ của một số tác giả trong nhóm : "Hiện nay thì tôi … lai rai thơ Phùng Quán, Trần Dần". Đọc "Chống tham ô lãng phí" của Phùng Quán làm năm 1956 mà thấy còn nguyên tính thời sự, như mới làm đây thôi. Tôi thuộc lòng bài "Nhất định thắng" của Trần Dần khi còn là sinh viên, giờ đọc lại vẫn thấy đầy xúc động… Phùng Quán, Trần Dần là những nhà thơ tài năng của Việt Nam. Họ là những người đi trước, thơ của họ mang tính dự báo rất lớn. Cái hay chính là ở tính dự báo đó. Cứ lật lại những trang thơ của họ mà xem, những điều họ nói cách nay mấy chục năm bây giờ đang xảy ra, nhức nhối, đau lòng.
Tại đây xin được mở thêm dấu ngoặc, trong Từ điển Văn học (bộ mới, 2004), một công trình đang được xã hội đánh giá cao, nhiều tác giả thuộc nhóm Nhân Văn Giai Phẩm đã được đưa vào giới thiệu một cách trân trọng, như Hữu Loan, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Phùng Quán, Trần Dần …, nội dung cũng nêu sơ lược những nhân vật này đã bị kỷ luật như thế nào sau khi tham gia vào nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Nhưng quyển từ điển giá trị nêu trên lại cũng có chút úy kỵ tránh né khi nó không cung cấp cho người sử dụng từ điển mục từ "Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm" (trong khi những nhóm khác như Đông Dương Tạp Chí, Hàn Thuyên, Nam Phong, Sáng Tạo, Tân Dân, Thanh Nghị, Tri Tân đều có đủ), nên khi cần tra cứu thì chẳng có để mà tra. Nếu các sinh viên học sinh vì tiếp tục thắc mắc cứ phải đi tra tìm ở những tài liệu công bố "lậu" ở đâu đó thì có khi lại nguy, hiểu theo nhiều nghĩa "nguy" khác nhau. Sự thiếu sót có lẽ bất đắc dĩ này tuy có thể thông cảm được, nhưng dù sao như thế cũng làm cho một từ điển lớn đáng tiêu biểu cho cả nước lại bị sai quy cách của khoa từ điển học, và điều này càng cho thấy sự cần thiết phải sớm đem vấn đề ra công khai phân tích mổ xẻ, hầu tránh cho giới nghiên cứu văn học – sử học những thứ nhếch nhác rụt rè không đáng có. Làm văn học – sử học mà nhếch nhác rụt rè thì thật khó coi và không thể chấp nhận được, vì không còn chi để gọi là "học" nữa! Chung quy cũng vẫn là cần sự can đảm, lòng trung thực và tính liêm chính trí thức của các nhà nghiên cứu văn học – sử học.
Một số sự kiện lịch sử hay cách đánh giá nhân vật lịch sử, nếu được điều chỉnh đúng, sẽ dẫn đến một số hệ quả thực tế tích cực tất nhiên trong đời sống người dân cũng như trong một phần của công tác giáo dục, như trường hợp tên Kim Ngọc đã được chọn đặt tên đường và tên vài trường học ở Vĩnh Phú khoảng ba năm trước, sau khi quan điểm về khoán sản phẩm trong nông nghiệp của ông Kim Ngọc có lúc bị kết án sai lầm đã được đánh giá lại tỏ rõ. Tương tự như tế, tượng cụ Phan Thanh Giản và trường học mang tên Phan Thanh Giản đang được phục hồi tại Bến Tre, tượng Lê Văn Duyệt đã được an vị tại lăng Ông Bà Chiểu hồi mấy tháng trước … Với đà này, rồi đây người ta cũng phải nghĩ đến việc đổi tên các công viên, rạp hát, trường học mang tên Lê Văn Tám thành công viên Lê Văn Duyệt, công viên Gia Long, rạp hát Đào Tấn, trường Trương Vĩnh Ký, trường Phạm Quỳnh … chẳng hạn …
Về mặt khách quan, cũng là sự thật lịch sử và chân lý cuộc đời, kẻ thù không phải lúc nào cũng xấu, còn "phe ta" thì luôn tuyệt vời. Hơn nữa cũng không phải có ai là kẻ thù thật sự hay vĩnh viễn, kể cả trong cùng một đất nước, một nòi giống hay giữa dân tộc này với dân tộc khác. Người Mỹ phải rút quân thảm hại trong cuộc chiến tranh Việt Nam năm 1975, trước đó họ có thể làm mọi cách để ngăn chặn "làn sóng cộng sản", dội bom miền Bắc, nhưng không có sử gia hay nhà báo nào của Mỹ viêt sách để bôi nhọ Việt cộng, mà chỉ cố gắng phân tích mọi khía cạnh để "biết người biết ta", cho hiểu được tại sao họ thất bại ở Việt Nam mà thôi. Đứng về mặt nào, người Mỹ như thế cũng có khía cạnh "mã thượng", tuy chưa phải thật sự anh hùng. Trong lịch sử Việt Nam, đã có trường hợp Lê Lợi – Nguyễn Trãi đánh tan xong giặc Minh còn cấp cho các tướng địch 500 chiếc thuyền với quân lương đầy đủ để chạy về cho tiện, cũng là một hành vi đáng xem là "mã thượng" của người xưa.
Có một phong cách viết sử không cần bôi bác kẻ thù, mà cứ việc xảy ra thế nào kể lại thế nấy theo đúng những tài liệu chữ viết hoặc truyền khẩu đã thu thập được. Có thể kể trường hợp sách Bản Triều Bạn Nghịch Liệt Truyện của học giả Giá Sơn Kiều Oánh Mậu, soạn trong năm Thành Thái thứ 3 (1901). Đây là sách của một ông quan triều Nguyễn viết về những kẻ phản nghịch chống lại "bản triều", nhưng cách thuật chuyện và thể hiện các nhân vật phản diện lại khách quan sinh động, còn cho thấy được những nét ưu điểm, khả ái và khí phách cá nhân của những kẻ bị tác giả xếp vào thành phần phản loạn, như Lê Văn Khôi, Cao Bá Quát và rất nhiều người khác
…
Cuộc đời thực, tức cũng là lịch sử, luôn phải có kẻ vầy người khác. Có kẻ xấu kẻ phản dân hại nước thì tính cách của người tốt người yêu nước mới bộc lộ rõ và được tôn vinh. Anh hùng tạo thời thế nhưng thời thế cũng có thể làm nên anh hùng. Nếu không có những cuộc loạn lạc thời cuối Xuân Thu đầu Chiến Quốc thì cũng không có những học thuyết của Nho gia, Đạo gia, Pháp gia … nở rộ, để lại những tinh hoa di sản tư tưởng của phương Đông ngày hôm nay. Thời thế tức là cái hôm nay chúng ta gọi "bối cảnh lịch sử" mà khi nghiên cứu bất kỳ một biến cố, phong trào, học phái nào, người nghiên cứu cũng không thể không xét đến nơi đến chốn … Trong lịch sử Việt Nam từng có những hạng trí thức không được dũng cảm cho lắm, vì tình thế bức bách phải lưu vong chạy theo quân giặc cho yên thân, như Trần Ích Tắc và Lê Tắc trong trận giao chiến với quân Nguyên đời Trần, nhưng họ cũng chưa kịp làm điều gì đồi bại đến nỗi, chỉ mong "cầu toàn tính mệnh ư loạn thế". Riêng Lê Tắc khi trốn sang Tàu còn viết được bộ An Nam Chí Lược để đời, được một người đương thời viết lời tựa khen là "không thua gì sách của Tư Mã Thiên và Ban Cố hồi trước", đã được cả Việt Nam và Trung Quốc in lại nhiều lần như một sử liệu có giá trị tham khảo tốt. Nếu buộc Lê Tắc phải là một nhân vật anh hùng, và trong bộ sử giá trị nói trên, phải nói xấu ít nhiều gì đó về kẻ thù Trung Quốc lúc bấy giờ thì ngày nay chúng ta cũng không có bộ An Nam Chí Lược …
Bình luận về con người trong lịch sử vì thế không thể thiếu sự thông đạt chính trị nhân tình, và đức công bình, luôn biết đặt con người vào trong hoàn cảnh cá nhân cùng với những mối tương tác nhân quả của các sự kiện chi phối bên ngoài, trên cái nền chung những bi kịch và nỗi thống khổ của nhân sinh và trong cái trào lưu sinh hoạt bất tuyệt của cuộc đời, từ đó có được quan điểm phóng khoáng mang chất triết lý sâu hơn về cuộc sống để có thể tiếp cận với chân lý lịch sử một cách khách quan toàn diện hơn, góp phần xây dựng một nền văn hóa hòa bình không mang tính sát phạt vì các kiểu thái độ cực đoan, phiến diện, căm thù có tính nguyên thủy của loài người chưa văn minh. Đó có lẽ cũng là thế giới quan hình thành nên thái độ, cách nhìn cùng những ý kiến bình luận đánh giá thâm trầm sâu sắc của Tư Mã Thiên (trong các bài "Tán", bài "Tự") đối với một số nhân vật và sự kiện lịch sử tiêu biểu ở Trung Quốc cổ đại, làm cho bộ Sử ký trở thành một bộ sách sử-triết-văn chương khuôn mẫu bất hủ.
Văn hóa là cái gì còn tồn tại bền lâu trong tâm trí, bàng bạc trong cách ứng xử hiện tại của con người sau khi mọi sự kiện, nhân vật, chế độ chính trị … đã qua đi. Mà bao nhiêu sự kiện, nhân vật, chế độ chính trị quá khứ đều đã phải tuần tự cứ qua đi như thế trong trường kỳ lịch sử, bất chấp cả không gian thời gian. Nhân vật lịch sử không nhất thiết phải là danh nhân, đều là con người nên có mặt tốt mặt xấu, có những lúc yếu mềm lầm lỗi nhẹ dạ, rồi ai cũng ra người thiên cổ dù đi trong gió ngược hay xuôi, nhưng tất cả đều có vai trò riêng trong một bối cảnh lịch sử nhất định. Việc đánh giá lịch sử cũng như các nhân vật lịch sử nếu chính xác, sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với lớp người đi sau chứ không cho lớp người trước, hiểu như là những bài học kinh nghiệm quý báu để rút tỉa áp dụng cho cuộc sống hiện tại và tương lai lâu dài, vì thế phải được thực hiện một cách khách quan và thận trọng, không nên bị ảnh hưởng bởi bất kỳ định kiến hay loại quan điểm chính trị thực dụng nhất thời nào.
Người ta thường nói tới những bài học lịch sử, nhưng muốn học được điều gì thì lịch sử phải là lịch sử của sự thật, của những sự kiện và biến cố có thật, đúng như chúng đã diễn ra trong quá khứ. Lịch sử được viết nên một cách giả dối do sự thêm thắt, thêu dệt hoặc tưởng tượng gán ghép đầy định kiến thì không thể dùng tham khảo, học hỏi gì được nếu không muốn nói là có hại. Bài học lịch sử là cái có sẵn, bất di bất dịch, điều quan trọng thuộc về tính cách con người biết tham khảo nó sáng suốt ra sao để hướng dẫn cho những hành động trong hiện tại và hướng tới xây dựng tương lai. Có những kinh nghiệm thành công và những kinh nghiệm thất bại, y như lẽ thường tình thành bại của con người (không có gì xấu), trong cách làm, cách hành xử liên quan đến việc trị nước tổng quát cũng như với từng công việc cụ thể đã được áp dụng trong những tình huống khác nhau. Kinh nghiệm nào nếu biết áp dụng cũng đều tốt nhưng riêng kinh nghiệm thất bại thì thường quý hơn, trước hết giúp tránh được vết xe đổ của những người đi trước (tiền xa chi giám). Chính vì lẽ đó công việc ghi lại lịch sử càng đòi hỏi gắt gao tính trung thực, phải nêu dù cả những chuyện xấu và những việc thất bại, kể cả "những cuộc bại trận thê thảm của quân ta" … Trái lại, khuynh hướng cường điệu ca tụng khía cạnh những võ công oanh liệt, lặp đi lặp lại quá nhiều, thường ít giá trị thực tế mà còn làm cho người ta trở nên kiêu mạn mất ý thức mất cảnh giác vô cùng tai hại. Chiến tranh là hành động bất đắc dĩ nếu không muốn nói là xuẩn ngốc, bởi nó luôn đem lại sự đau thương chết chóc cho tất cả các bên tham gia chiến cuộc. Trong mọi cuộc chiến tranh đều có kẻ thắng người thua, nhưng chiến công của một người hay nhóm lớn người này lại là sự đau khổ và thua thiệt của nhóm người khác chiến bại, nên nếu đứng từ góc độ nhân bản sẽ chẳng thấy có gì đáng để tự hào. Chiến tranh gây nên cái cảnh "đống xương Vô Định đã cao bằng đầu", hay "nhất tướng công thành vạn cốt khô" .. của biết bao thế hệ con người. Ở Úc và Tân Tây Lan, người dân chọn ngày 25/4 hàng năm làm ngày Anzac, một lễ lớn mang tính dân tộc, với lễ hội tưng bừng (còn hơn cả Quốc khánh Úc 26/1, Tân Tây Lan 06/2), không phải để kỷ niệm chiến thắng mà để ghi nhớ chiến bại. Đó là một ngày vào năm 1915, trong thế chiến I, liên quân Úc – Tân Tây Lan đã đổ bộ vào Gallipoli của Thổ Nhĩ Kỳ với hơn 8.000 lính Úc và 2.700 lính Tân Tây Lan bị giết, và từ đó đến nay nhân dân cả hai nước đều coi như một kinh nghiệm thất bại, tuy có bi hùng nhưng nếu tránh được càng tốt, vì dù sao cũng là một chuyện đau thương chung cho cả hai dân tộc.
Viết sử là loại công việc công phu tốn nhiều thời gian, ngoài tôn trọng sự thật trên cơ sở bám sát sử liệu còn đòi hỏi phải có sự nghiền ngẫm sâu xa, nêu lên được những bài học tham khảo cho các thế hệ hiện tại và tương lai, góp phần vun đắp nhân bản, nên không thể có sự tùy tiện, định kiến, gán ghép bóp méo sự thật, buồn vui yêu ghét thất thường, nay vầy nay khác, hay dựa dẫm quyền thế, xu phụ theo miệng nhà quan. Hai vợ chồng nhà sử học lừng danh người Mỹ Will và Ariel Durant (Will sinh năm 1885) bỏ ra đến 39 năm soạn bộ Lịch Sử Văn Minh (bản tiếng Anh 10 cuốn ; bản tiếng Pháp 33 cuốn với trên 14.000 trang), như vậy mà vẫn cứ nơm nớp lo sợ rằng mình chưa đủ tư liệu để tái hiện diện mạo lịch sử một cách trung thực. Khi gần cuối đời, họ đã viết thêm một quyển nhỏ cuối cùng : "Bài học của Lịch sử" như để thay lời kết luận cho toàn bộ sách, đúc kết lại rằng thời nào nước nào trước kia cũng có những kẻ loạn luân, độc ác ; đâu đâu cũng có tình trạng độc tài, tham nhũng, lộng quyền, cùng những thứ khác như thiên tai, bệnh dịch và chiến tranh …, song song với những hành vi có tính cách xây dựng tích cực của loài người. La Quán Trung mở đầu tiểu thuyết lịch sử Tam Quốc Diễn Nghĩa của mình bằng câu ngắn gọn "Thiên hạ hết loạn lại trị, hết trị lại loạn …", dường như đã thu tóm hết được yếu tính phổ quát của lịch sử. Tuy nhiên con người vẫn chưa chịu bó tay phó thác cho định mệnh, nên lịch sử cũng còn ghi lại được biết bao suy ngẫm, nỗ lực, công trình văn hóa, vật chất của con người để nhằm phát huy những mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực. Đã có một số nước, số nơi nêu được những tấm gương thành công trong việc không ngừng cải tiến những phương pháp và định chế cai trị nhằm tạo lập sự ổn định khá hơn ít nhất trong phạm vi của nước họ để ổn định xã hội, cải thiện cuộc sống người dân, hạn chế nạn độc tài, độc quyền, bằng cách áp dụng khế ước xã hội dưới hình thức chấp hành chung bản hiến pháp cùng những định chế dân chủ chính trị khác. Đó có lẽ cũng là bài học lịch sử chung lớn mà một số dân tộc khác còn đang lao đao lận đận trong cảnh nghèo khổ bệnh tật và trong các chế độ độc tài nên suy ngẫm, tham khảo và phấn đấu.
Hiểu lịch sử, theo nghĩa tích cực nhất là để yêu thương hơn con người, tạo được mối đồng cảm, trên cơ sở thấy được những mối dị biệt và hoàn cảnh khác nhau giữa các dân tộc, không phân biệt chế độ chính trị, màu da, trình độ phát triển, từ đó thúc đẩy sự đoàn kết hợp tác để cùng nhau chống chọi những thiên tai, bệnh tật, rủi ro đang đe dọa con người mỗi lúc một thêm hung hãn dồn dập trong điều kiện của cuộc khủng hoảng môi sinh toàn cầu hiện nay. Tấm lòng người viết sử vì thế cũng phải bao la, nhân đạo, mới có thể đảm đương được sứ mệnh, và mới đủ trùm lên được những gì mà kho lịch sử phong phú của quá khứ muốn khải thị lại cho con người.
(Trần Văn Chánh)
Tóm lại lịch sử mà thiếu sự thật thì không còn là lịch sử nữa. Nói rằng Thánh Kinh có tính lịch sử rất cao đó là tính trung thực hoàn toàn, diễn tả những sự thật trần trụi, thô nhám như vậy đó.
B. Tiêu chí nào để phân biệt một cuốn sách, một bộ phim khiêu dâm, bạo lực với một tác phẩm có tính giáo dục, khi cả hai cùng trình bày những cảnh bạo lực, dâm đãng ? Một tác phẩm trình bày bạo lực, đàng điếm mà kết cục người đọc, người xem nhận thấy có sự lạm tả và chủ ý khuyến khích người ta làm theo thì đó là tác phẩm bạo lực, khiêu dâm cần phải loại trừ, xử lý. Trái lại, sau khi xem, đọc mà người ta cảm thấy căm ghét, ghê tởm những điều đó và cần phải lên án, trừng phạt người có hành động đó, thì đấy là một tác phẩm tích cực, có tính giáo dục cao.
Thánh Kinh thuộc loại thứ hai này. Những câu chuyện chúng ta vừa đọc ở trên lên án tính gian giảo, mưu mô, xảo quyệt, tính chơi bời phóng túng của những người không giữ luật Chúa và đã có sự trừng phạt đích đáng : Tổ phụ Giuđa bị lật mặt nạ, phải bẽ bàng xấu hổ mà thú nhận "nó công chính hơn tôi, quả thật tôi đã không cho nó làm vợ Sêla, con trai tôi (theo luật nối dây của Môsê), rồi ông không ăn ở với nàng nữa (đã dốc lòng chừa cải)". Vua Đavít thì cúi đầu nhận tội và sám hối ăn năn, còn hai ông già "chăn dê" thì bị phanh thây. Từ cổ chí kim loài người phạm tội như Giuđa và Đavít thì vô kể, nhưng có mấy người can đảm thú nhận và sám hối, khắc phục hậu quả như các ngài ?
C. Các ông toàn là những nhân vật lớn cả, sao lại vấp ngã như vậy ?
Tục ngữ La-tinh có câu "Errare humanum est" (bản tính loài người là sai lỗi). Các cụ cũng là người bằng xương bằng thịt, có những đòi hỏi không hợp lý mà chẳng kềm chế nổi. Từ khi ông bà tổ tông phạm tội, ý chí con người trở nên yếu đuối, dễ hướng về điều dữ hơn điều lành. Phải có ơn Chúa phù trợ mới giữ được như lời Chúa Giêsu quả quyết : "Không có thầy các con không thể làm gì được" (Ga 15,5). Ở một tầng cao hơn, những lỗi phạm của các ông cũng nói lên lòng nhân ái và sự công bằng tuyệt đối của Chúa.
Bài học cực lớn cho các thế hệ mai sau là luôn phải đề phòng, cảnh giác nhất là trước những cám dỗ về tình dục và danh lợi. Không ai có thể nói mạnh được, không ai có thể tự sức mình mà đứng vững được mãi. Hãy nhớ thân phận cát bụi, yếu hèn, hãy nhớ "Errare humanum est" ; cây lim, cây sến vẫn có thể đổ - mạnh như Samson mà cuối cùng cũng thua nàng Đalila.
Thiên Chúa là Đấng trung tín và nhân hậu, bất chấp những yếu đuối, sai phạm của loài người, lời Chúa hứa vẫn được thực thi, Đấng Cứu Thế vẫn ra đời cứu nhân độ thế.
D. Hình như bên Âu Mỹ, người ta quý trọng sự thật hơn nước mình, nên khi sự thật đã được phơi bày thì người nói và làm sai sự thật vội xin lỗi mọi người, và những kẻ có chức có quyền mà nói dối thì lập tức xin từ chức. Quả thật họ sai trái nhưng cũng có điểm đáng quý là biết xấu hổ, biết tự xử, không để cho xã hội mất công "xét tư cách" của mình.
Vụ Watergate (nghe lén điện thoại) 1972–1974, tổng thống Mỹ Nixon đã xin từ chức vào ngày 9/8/1974 (Th. Vũ, báo SGGP 31/7/2011).
5. Chuồng lợn đêm hôm ấy
(Lm. Piô Ngô Phúc Hậu – Bài giảng Chúa Nhật tháng 8/2011).
11 giờ khuya. Từ nhà thờ dội về tiếng hô ào ạt :
- Đả đảo phản động ngoan cố !
- Đả đảo ! Đả đảo !
Con lợn sề giật mình chồm dậy, kêu ôộc ôộc. Bầy lợn con chen chúc nhau chui vào dưới bụng mẹ. Một nỗi hoang mang bao trùm.
Tiếng hô "đả đảo" vọng lại từ đồi cọ trập trùng, cứ nhỏ dần, nhỏ dần, rồi im bặt. Ánh đuốc bập bùng trong sân nhà thờ bỗng tản ra, xa dần, xa dần, rồi tắt lịm. Con lợn sề nghếch mõm cảnh giác. Chờ mãi chẳng thấy gì, bèn nằm kềnh xuống. Hai cặp giò ngắn tũn duỗi thẳng băng. Vô tư. Mười bầu vú tròn vo xếp thành hai hàng, chồng lên nhau, rất gọn ghẽ, rất đẹp mắt. Nhưng mà … ế, vì bầy lợn con tranh nhau chỗ ngủ, chứ không thèm giành nhau nuốm vú …
Đêm an bình lặng lẽ trôi. Con lợn sề và bầy con nằm im thin thít. Chỉ có tiếng muỗi kêu vo ve.
Bỗng có tiếng lao xao, to dần, to dần. Một bó đuốc rất to, rất cao đang tiến về phía chuồng lợn. Con lợn sề hộc lên một tiếng. Bốn chân cắm thẳng xuống đất, vênh mõm thách thức. Bầy lợn con xô nhau chạy trốn về phía đằng sau. Một nỗi kinh hoàng phủ kín chuồng lợn. Một chàng thanh niên, mặt choắt như mặt chuột, hét lên như sét đánh :
- Thằng ngoan cố kia.
(Im lặng)
- Tại sao mày không dạ ? Điếc hả ?
- Dạ, thưa cậu, con chưa kịp trả lời ạ.
- Tao cho mày ngủ với lợn, để mày chừa cái tội ngoan cố. Nghe chưa ?
- Dạ, thưa cậu, con nghe rồi ạ.
- Mày phải ngủ với lợn, nhưng tha cho mày khỏi phải ăn cứt lợn. Sáng mai sẽ có người đem cơm cho mày. Đừng bày chuyện trốn chuồng nghe chưa ? Trốn không được đâu. Mắt nhân dân sáng như đèn ôtô. Cấm xổng chuồng, nghe chưa ?
- Dạ, thưa cậu, con nghe rồi ạ. Con không trốn chuồng đâu. Ở với lợn, con thấy còn sướng hơn là ở với lũ người quỷ ám.
- Mày vẫn còn ngoan cố hả ?
Bốp ! Bốp ! Hự ! Hự !
Một cụ già lao đầu vào chuồng lợn, ngã quỵ trên bãi bùn nhớp nhúa. Con lợn sề lùi một bước, đứng vênh mõm tự vệ. Cặp mắt trợn trừng, tóe lửa hận thù. Nó muốn nhai nát người đàn ông lạ mặt, để bảo vệ bầy con bất lực đang trốn chui trốn nhủi.
Chàng thành niên mặt chuột nói vọng vào căn nhà lá có ngọn đèn dầu lạc đang leo lét cháy :
- Chú Kỳ ơi, chúng em về đây.
Chú trông chừng thằng phản động ngoan cố hộ chúng em nhá. Đừng cho nó ăn gì sất.
- Yên chí lớn. Để nó đấy cho tao.
Bó đuốc to và cao chìm dần vào trong đêm tối mịt mù. Con lợn sề lần mò đi tìm đống lá chuối khô, nằm kềnh xuống. Đàn lợn con lúp chúp đi theo tranh nhau nằm nghếch đầu lên bụng mẹ, vô tư như chưa có gì xảy ra.
Ông cụ già lặng lẽ đứng dậy, lật úp máng lợn xuống, ngồi lên trên. Hai cùi chõ chống lên hai đầu gối. Hai bàn tay bưng lấy mặt trầm tư.
Chuồng lợn tối om om im phăng phắc. Trong bóng tối mịt mù, trong tĩnh lặng tuyệt đối, những màn đấu tố hãi hùng hiện về rõ như ban ngày.
Màn một
Cụ già 60 tuổi quỳ lom khom trên đống gạch vụn. Đèn măng- sông rực sáng cho thấy cặp môi xám xịt của cụ đang mấp máy, đang thì thầm. Hàng ngàn người đang đứng ngồi lố nhố, đang nói chuyện léo nhéo. Bỗng có tiếng hét trên loa sắt : "Đồng bào im lặng".
Một cậu con trai mặt non choẹt, giạng chân, khuỳnh tay đứng trước mặt cụ già. Hắn suy nghĩ một lúc, lấy ngón tay trỏ gí vào trán cụ già.
- Thằng Thắng, mày biết tao là ai không ?
- Dạ, thưa cậu con biết ạ. Cậu vẫn giúp lễ hằng ngày ở nhà thờ này mà.
- Ngày Chúa Nhật thứ nhất mùa Chay mày tát tao một cái nảy đom đóm. Suýt nữa thì mặt tao đập vào tường. Mày có nhớ không ?
- Dạ, thưa cậu, con nhớ ạ. Con phải tát cậu để cậu chừa cái thói ăn vụng bánh lễ và uống vụng rượu lễ.
- Đả đảo cường hào ác bá đàn áp con cái nhân dân ta.
- Đả đảo ! Đả đảo !
- Yêu cầu tát vào mặt nó để trả thù.
Có tiếng quần chúng la lối.
Cậu thanh niên non choẹt tát vào mặt cụ già hai cái, cụ già ngã chúi xuống, rồi lom khom quỳ lên giữa tiếng vỗ tay rền rĩ …
Màn hai
Cụ già vẫn quỳ trên đống gạch vụn. Dáng vẻ mệt mỏi và tiều tụy. Ánh đèn măng-sông soi rõ dòng máu đỏ đang chảy xuống từ thái dương bên trái, cụ già có vẻ không quan tâm. Cặp môi sưng vù cứ mấp máy, cứ thì thầm.
Một người đàn bà cao to trên trung bình đứng sừng sững trước mặt cụ già đang nhìn xuống đống gạch vụn, một giọng the thé sắc buốt vang lên :
- Thằng Thắng. Nhìn thẳng vào mặt tao. Mày biết tao là ai không ?
- Dạ, thưa con biết ạ. Bà là bà quản dâng hoa thì ai mà chả biết.
- Năm ngoái mày sai tao đi tìm đường để mày trốn vào vùng tề. Mày còn nhớ không ?
- Dạ, thưa bà, con còn nhớ ạ.
- Đả đảo phản động !
- Đả đảo ! Đả đảo !
- Tao sẽ cho mày đi tù mọt gông. Nghe chưa ?
- Thưa bà, con nghe rồi ạ.
- Đả đảo ! Đả đảo !
Hàng ngàn người hô "đả đảo". Tiếng "đả đảo" vang đến tận đồi cọ, rồi vọng về, nghe rền rĩ như sấm ran. Người vô tư cũng cảm thấy buốt xương sống.
Màn ba
Một phụ nữ tuổi trung niên, đẹp gái, nhưng lỡ thời, phăm phăm đi tới, chỉ tay vào mặt cụ già.
- Thằng Thắng. Cho mày đứng lên để nhìn rõ mặt tao. Mày biết tao là ai không ?
- Dạ, thưa chị, con có biết ạ.
- Mày có nhớ mày làm gì tao hôm mồng Ba Tết vừa rồi không ?
- Dạ, thưa chị nói rõ con không hiểu ạ.
- À, mày ngoan cố thật. Mày làm gì tao, tao ghi chép hết. Để tao đọc cho mày nghe.
- 8g20 ngày mồng Ba Tết, sau khi quét tước dọn dẹp nhà bếp cho mày, tao lên chào mày để về, thì mày lôi tao vào phòng, mày … rồi mày cấm tao không được nói cho ai biết. Đấy, mày nhớ chưa ?
- Thưa chị, cái đó thì con chả biết. Chị tố điêu cho con. Con không nhận.
- Đả đảo phản động ngoan cố !
- Đả đảo ! Đả đảo !
- 11 giờ khuya rồi. Yêu cầu đồng bào giải tán. Cho thằng ngoan cố về ngủ chuồng lợn, tối mai lại đấu nữa.
Cụ già đang ôn lại quá khứ, thì bỗng có tiếng ho khe khẽ :
- Con lạy cha, xin cha tha tội cho con. Con tố điêu Cha, vì con sợ quá. Xin Cha tha cho con.
- Bà Kỳ đấy hả ? Tôi biết hết rồi. Tôi không chấp nhất ai hết. Bà đi vào mau đi, kẻo lỡ nó thấy thì khổ cả lũ.
- Con có nắm cơm gửi Cha.
Nắm cơm bó bằng mo cau, nặng chừng hơn một cân. Cha Thắng để nắm cơm lên đùi, bẹo từng tí bỏ vào miệng, nhai thật nhẹ nhàng như thằng ăn vụng. Con lợn sề ngửi thấy mùi cơm, lần mò đi tới, ủi mõm vào hai bàn chân khô khẳng của Cha Thắng. Cha Thắng bẹo cho nó một miếng cơm. Nó nhai chọp chọp. Bầy lợn con nghe thấy kéo nhau tới vây quanh Cha Thắng ủi mũi vào bàn chân, vào cẳng chân Cha Thắng. Thân thương như ruột thịt. Nắm cơm to bằng đầu gối cứ nhỏ dần, nhỏ dần. Trong bóng tối mịt mù, chỉ còn nghe tiếng nhai chọp chọp của bầy lợn và tiếng nhai nhóp nhép của Cha Thắng.
Nhận định
Bây giờ thì kẻ sống, nhất là những người đã chết hiểu được câu "Sự thật sẽ giải phóng các ông" (Ga 8,32).
"Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người cùng với các thiên thần của Người và bấy giờ Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm" (Mt 16,27).
a. Chuyện đã qua gần 60 năm những vẫn không mất tính thời sự vì chưa thể phai mờ nơi ký ức những người liên quan và chứng nhân còn sống.
b. Linh mục Ngô Phúc Hậu hiện nay 76 tuổi tường thuật vụ việc của chính Cha già cố nghĩa phụ của ngài chứ không phải ai khác, nên không thể bịa đặt.
c. Điều đáng suy nghĩ nhất là sự việc lại xảy ra ở một xứ đạo, nơi mọi người đã thuộc lòng điều răn thứ tám "chớ làm chứng dối" và câu Tin Mừng "có thì nói có, không thì nói không, thêm điều đặt chuyện là do ma quỷ" (Mt 5,37).
d. Làn gió nào đã thổi bùng ngọn lửa hận thù của dân chúng lên tột đỉnh như vậy ? Và tảng băng nào đã dập tắt được lửa hận trong lòng Lm. Thắng để nhẫn nhục chịu đựng và thứ tha ?
6. Cụ Phan Bội Châu bị qui oan
(Báo Kiến thức Ngày nay số 50, năm 1990).
Ai cũng biết gia đình cụ Phan từ mấy đời đều thuộc tầng lớp nhà nho nghèo. 35 năm, cụ Phan hoàn toàn thoát ly gia đình, xả thân hoạt động cho sự nghiệp cứu nước, trong đó 20 năm bôn ba hải ngoại (khi ở Nhật, khi ở Trung Quốc, khi ở Thái Lan) và 15 năm bị giam cầm ở Huế cho đến khi trút hơi thở cuối cùng.
Ấy thế mà trong thời kỳ cải cách ruộng đất (1955), đội cải cách địa phương qui cụ Phan thuộc thành phần giai cấp địa chủ ! Lý lẽ theo kiểu tam đoạn rất đơn giản là : cụ Phan học đỗ đạt cao, mà học đỗ đạt cao phải là con nhà giàu, mà nhà giàu tức thuộc giai cấp địa chủ. Cụ bị xử lý với hình thức : ảnh cụ đang treo ở nhà thờ họ Phan bị đem để ở chuồng trâu !
Cuối năm 1955, sửa sai cải cách ruộng đất, sự việc trên Hồ Chủ tịch nghe biết được. Tất nhiên là Hồ Chủ tịch phê bình, từ đó cụ Phan được xóa thành phần địa chủ và ảnh của cụ đưa trở lại treo ở nhà thờ như cũ. (Nguyễn Thiện Chí, sưu tầm qua lời kể của Đại tá Phan Thiện Cơ, cháu đích tôn cụ Phan)
7. Những chú cuội.
Linh mục Tiến Lộc có một người anh ruột ở lại miền Bắc sau năm 1954, khi đất nước Bắc Nam nối liền, ngài tìm mọi cách để về thăm anh sớm nhất. Với chiếc balô hành hương, đi đôi dép râu, đội chiếc nón cối bộ quần áo "nâu xồng" chẳng khác một bác nông dân tí nào, trừ ra cái thân hình bồ tượng hơn 80 kg.
Lần mò mãi về tới làng xưa mà nay mọi cái khác lạ hoàn toàn, đến nỗi không còn biết đường về nhà cũ. Gặp một đám choai choai đang đánh bài, chửi thề om sòm ở cổng làng ngài hỏi một em : "Này cháu ơi, cháu có biết nhà ông A ở đâu không ?", thằng bé ngước mắt nhìn người khách lạ buông một câu nghe muốn ù tai : "Đếch biết" (xin lỗi bạn đọc, để tôn trọng sự thật phải nhắc lại nguyên văn).
Người khách lạ thất vọng nói lời cám ơn rồi đi sâu vào trong làng, cuối cùng cũng tìm ra nhà ông anh ruột, anh em tay bắt mặt mừng, ôm nhau khóc vì sau 20 năm đứt liên lạc nay mới gặp lại. Cả nhà vui vẻ sửa soạn bữa trưa thì thằng con trai ông anh trở về, anh vội giới thiệu với em thằng con trai thừa tự của mình. Linh mục Tiến lộc nhận ra ngay thằng bé đánh bài ở đầu làng, ngẩn người nói với ông anh : "Em mới gặp nó đánh bài ở đầu làng, hỏi nhà anh, nó trả lời đếch biết. Anh dạy dỗ nó thế nào mà lại như vậy ?", ông anh chữa mình : "Chú biết đấy, thời buổi chiến tranh, mải lo cuộc sống, cũng dạy dỗ nó nhưng nó cũng đếch nghe". Linh mục Tiến Lộc chỉ còn biết lắc đầu.
Nhận định
Chúng ta tự hỏi nguyên nhân nào đã dẫn tới tình trạng một xã hội ít tôn trọng sự thật ? Chắc là có nhiều nguyên nhân, nhưng rõ ràng nhất và dễ nhận diện nhất vẫn là ảnh hưởng của chiến tranh.
Chiến tranh tiêu hao nhân lực và của cải vật chất, khiến người ta phải sống trong điều kiện khó khăn, ăn không đủ no (ăn độn), mặc không đủ ấm (vải vóc đều được phân phối hạn chế theo tem phiếu). Người ta thường có suy nghĩ đơn giản : của Hợp tác xã là của chung, mà "cha chung thì không ai khóc" cho nên chuyện thất thoát, hao hụt thóc lúa, ngô khoai của HTX là chuyện
"thường ngày trên huyện", chẳng mấy ai cho đó là tội gian dối cả, chỉ là tình thế cuộc sống mà thôi.
Một trích đoạn trong phim "Ông Bí Thư Tỉnh Ủy" chiếu trên VTV4 sáng 2/9/2011, nội dung như sau : Hai vợ chồng ông bí thư tỉnh ủy về nơi sơ tán vùng quê miền Bắc thăm ba đứa con được gửi ở nhà một người bạn xã viên HTX nông nghiệp. Ông bí thư thấy một đống lúa ở sân, hỏi ra mới vỡ lẽ đó là lúa "mót". Thằng con trai còn khoe lớp nó nhiều đứa đã nghỉ học để đi mót lúa … Ông bí thư hỏi ông xã viên tình hình thế nào thì được trả lời :
- Ấy, cha mẹ gặt phía trước, con cái theo sau mót lúa, nhiều lúc còn mót được những "tay" lúa nguyên bỏ sót, gộp lại thì lúa mót có khi còn hơn lúa HTX gánh về.
- Thế mỗi mẫu được bao nhiêu tấn ?
- Tối đa được một tấn hai thôi.
- Chết ! Học sinh thì bỏ học đi mót lúa, HTX canh tác thế nào mà chỉ có tấn hai một mẫu ? (ông bí thư nhăn mặt suy nghĩ)
Trong phim còn có cảnh xã viên tập trung ở sân đình đập lúa, đập 3, 4 nhát là quăng rơm ra (rơm đó được quản lý kỹ và chia đều cho các xã viên đem về nhà vò lại lấy lúa còn sót, rồi mới xếp rơm lại để lợp nhà) …
Cũng ngày 2/9/2011, Đài Truyền hình Tiền Giang cho biết trước thời kỳ đổi mới 1986, Việt Nam hàng năm phải nhập khẩu 1 triệu tấn lúa. Sau thời đổi mới (chấm dứt HTX), hàng năm Việt Nam xuất khẩu hàng triệu tấn lúa, gạo – cho tới nay đứng hạng nhì sau Thái Lan mà thôi.
Xin nói thêm về chuyện dài HTX nông nghiệp : Tại Giáo xứ Quảng Lâm (Bảo Lộc), mọi người phải vào HTX, Cha xứ là Linh mục Giuse Tuấn (cùng lớp với người viết, du học Rôma về) cũng trở thành xã viên, vác cuốc ra đồng như mọi người để được lãnh phần gạo theo tiêu chuẩn. Tình trạng hao hụt, mất mát cứ liên tục xảy ra không thể kiểm soát được. Có lần trong buổi họp, bức xúc quá, ông xã trưởng tuyên bố : "Trong xã này mọi người đều ăn cắp, trừ có Linh mục Tuấn mà thôi". Mọi người im lặng, rồi lại đâu vào đó, nghe kẻng họ đủng đỉnh ra đồng, nghe kẻng họ vác cuốc về nhà, ngày nào như ngày nấy (chính Linh mục Tuấn kể lại).
Tình trạng kinh tế xã hội đã vậy, thêm vào nữa tình trạng an ninh cũng đòi hỏi người dân nói chung và lớp con nít nói riêng phải che giấu sự thật, làm sao có thể chỉ nhà ông Chủ tịch xã, nhà ông Xã đội trưởng … cho một người lạ mặt !
Tại trường học thì hình ảnh chú bộ đội, chú công an là mẫu người lý tưởng của học sinh. Hầu hết các em khi được hỏi lớn lên làm gì, các em đã hăng hái trả lời rằng lớn lên cháu sẽ làm chú bộ đội, chú công an. Mà bộ đội và công an thì phải giữ bí mật và luôn cảnh giác với người lạ.
Những hoàn cảnh xã hội nêu trên cộng với sự lơi lỏng giáo dục đạo đức đã từng bước hình thành một bộ phận giới trẻ nói dối không biết ngượng.
Cái tội dối gian như một bệnh dịch lây lan nhanh chóng ra toàn xã hội, không chỉ giới trẻ gian dối
trong thi cử, trong làm ăn, giao dịch, mà cả một bộ phận người lớn, có danh có tước cũng không biết ngượng khi nói dối, cụ thể là trường hợp Công ty Cổ phần Dịch vụ SONADEZI xả thải ra sông Đồng Nai : Ngoài việc bị Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về môi trường (C49)
Bộ Công an bắt quả tang xả thải ra sông Đồng Nai vào khuya ngày 3/8/2011, Công ty CP-DV Sonadezi còn nhiều lần bị xử phạt hành chính do vi phạm bảo vệ môi trường.
Hôm 5/8, Sở TN-MT Đồng Nai đã có buổi làm việc với Cty CP- DV Sonadezi (thuộc Tổng công ty Sonadezi) để xem xét toàn bộ nội dung vi phạm về lĩnh vực môi trường. Qua kiểm tra thực tế, Sở TN-MT ghi nhận hệ thống vi sinh đã bị hư hỏng, đường ống dẫn hóa chất vào bể khử trùng và hệ thống khử màu không hoạt động. Giải trình với cơ quan chức năng, Cty Sonadezi lấy lý do một số doanh nghiệp dệt nhuộm có lưu lượng xả thải lớn với nhiệt độ và độ màu vượt giới hạn nên khi nhà máy tiếp nhận để xử lý đã làm ảnh hưởng đến việc xử lý sinh học. Trong quá trình tiến hành nâng cấp xử lý hóa lý lên bậc 2 thì đã bị C49 bắt quả tang.
Theo báo cáo của Thanh tra Sở TN-MT Đồng Nai, Cty CP-DV Sonadezi đã nhiều lần vi phạm quy định bảo vệ môi trường. Cụ thể năm 2009, đã 2 lần bị các cơ quan chức năng của tỉnh Đồng Nai xử phạt 34 triệu đồng về hành vi xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến dưới 5 lần. Đến năm 2010, bị Bộ TN-MT phạt số tiền 31 triệu đồng về hành vi thực hiện không đúng nội dung báo cáo đánh giá tác động môi trường ; quản lý vận chuyển xử lý chất thải nguy hại không đúng quy định ; xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến dưới 5 lần. Đầu năm 2011, Thanh tra Tổng cục Môi trường phát hiện nước thải sau xử lý tại rạch Bà Chèo (của KCN Long Thành) tiêu chuẩn về độ màu vượt 1,4 lần, coliform vượt 1,86 lần, mẫu nước mưa tại cửa xả cống số 4 vượt 3,9 lần, nitơ vượt 1,4 lần … Sau đó, Thanh tra Tổng cục Môi trường (Bộ TN-MT) ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 75 triệu đồng. Vừa mới nộp phạt xong thì đến nay, công ty này lại bị C49 bắt quả tang về vi phạm môi trường.
Trở lại khu vực rạch Bà Chèo vào sáng qua để tìm hiểu cuộc sống của người dân ở đây, chúng tôi gặp ông Lê Hộ (ấp 2, xã Tam An, H.Long Thành). "Chúng tôi ở cách con rạch này hơn 200m, nhưng nhiều năm nay, cứ nửa đêm là chúng tôi thở không nổi do xả thải. Các vườn cây ăn trái gần đây đều chết rạp, gà vịt không dám ra gần suối vì hơi nóng của nước thải và mức ô nhiễm quá cao. Lần nào tiếp xúc cử tri, dân cũng kiến nghị mà có ai giải quyết đâu ?", ông Lê Hộ bức xúc. Còn ông Kiều Hoàng Anh, Trưởng ấp 2, xã Tam An cũng nói gay gắt : "Suốt nhiều năm nay chúng tôi phát hiện cứ nửa đêm là bị xả nước thải ô nhiễm, không tài nào chịu được. Chúng tôi phản ánh nhiều lần nhưng họ chỉ nói là do sự cố nhưng không khắc phục. Sau đó họ vẫn xả năm này qua năm khác".
Trả lời câu hỏi của Báo Thanh Niên : "Vì sao là một doanh nghiệp nhà nước luôn được tỉnh Đồng Nai ca ngợi là đơn vị làm tốt công tác bảo vệ môi trường, nay lại xảy ra việc bê bối trong xả thải ?", Giám đốc Sở TN-MT Đồng Nai Lê Viết Hưng cho biết : "Sau khi có thông tin C49 bắt quả tang KCN Long Thành xả nước thải không đạt tiêu chuẩn ra môi trường, tôi hoàn toàn bất ngờ nên đã chỉ đạo kiểm tra ngay. Tôi bất ngờ ở chỗ Sonadezi là doanh nghiệp nhà nước có thương hiệu mạnh, được đánh giá tốt toàn diện trong lĩnh vực môi trường nhưng lại để xảy ra sự cố này. Tuy nhiên sai phạm như thế nào cần phải chờ cho đến khi C49 kết luận". (Kim Cương, báo Thanh Niên ngày 6/8/2011)
"Sonadezi không có cái gì là gian dối" Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty phát triển KCN (Sonadezi), đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Nai - bà Đỗ Thị Thu Hằng (ảnh) nhất mực khẳng định như vậy khi trả lời phỏng vấn báo chí bên hành lang QH chiều ngày 5/8.
Cuộc phỏng vấn diễn ra sau sự việc Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm môi trường (C49) Bộ Công an bắt quả tang Nhà máy xử lý nước thải tập trung của Cty CP- DV Sonadezi (KCN Long Thành, Đồng Nai) xả nước thải không đạt tiêu chuẩn ra môi trường.
- Rạng sáng ngày 4/8, Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm môi trường (C49) Bộ Công an bắt quả tang Nhà máy xử lý nước thải tập trung Sonadezi (KCN Long Thành, Đồng Nai) xả nước thải không đạt tiêu chuẩn ra môi trường, bà đã được báo cáo về thông tin này chưa ?
- Hiện tôi đang họp Quốc hội ở ngoài này, về cơ bản chủ trương của Sonadezi lúc nào cũng làm theo đúng quy định của pháp luật. Hiện công ty đang xem xét kỹ thuật, lúc nào có thông tin thì tôi sẽ cung cấp.
- Theo kết luận ban đầu của C49 thì đại diện phía công ty cũng đã ký vào biên bản rồi ?
- Bạn đã coi biên bản đó chưa ?
- Nói như vậy nghĩa là bà khẳng định không có biên bản đó?
- Tới giờ này tôi chưa có thông tin đầy đủ nên ở ngoài này tôi chưa thể trả lời được.
- Bà đã nhận được báo cáo của công ty về vụ việc này chưa ?
- Thứ nhất, đó là công ty thành viên, thứ hai là chuyện này có thể trên tổng công ty họ sẽ có báo cáo sau.
- Nhưng bà là Chủ tịch HĐQT của Sonadezi, chẳng lẽ đến giờ này bà vẫn chưa nhận được báo cáo về vụ việc này ?
- Đến giờ này báo cáo chi tiết thì chưa.
- Vậy thông tin ban đầu bà nhận được như thế nào ?
- Về nguyên lý thì lúc nào Sonadezi cũng làm theo đúng quy định.
- Bà bình luận thế nào về thông tin C49 đưa ra ?
- Cái đó sẽ có buổi làm việc cụ thể, chi tiết sau.
- Khi nào bà sẽ làm việc với cơ quan chức năng về vụ việc này?
- Hiện tôi đang họp ở ngoài này theo đúng quy định của kỳ họp. Khi nào họp xong tôi sẽ về làm việc với các cơ quan chức năng về vấn đề trên.
- Thông tin phía C49 đưa ra về việc xả thải chưa qua xử lý trong một đêm tới 9.300m3 và việc lắp đường ống ngầm đấu nối từ trong nhà máy ra hồ sinh thái thì sao ?
- Đảm bảo rằng Sonadezi không có cái gì là gian dối.
- Trong chương trình hành động khi tiếp xúc cử tri để vận động bầu cử, bà đã khẳng định quyết tâm bảo vệ môi trường ... ?
- (Ngắt lời) Đương nhiên đó là quan điểm từ đầu đến cuối nhất quán của Sonadezi.
Báo TN ngày 6/8/2011, Bảo Cầm (ghi)
Về tiến độ điều tra, thông tin từ C49 cho hay, đã lấy 3 mẫu nước tại bể xử lý sinh học và 1 mẫu bùn thải để tiến hành kiểm nghiệm. Trao đổi với báo Thanh Niên, đại tá Phan Hữu Vinh, Phó cục trưởng C49 nói, qua kiểm tra cho thấy hệ thống xử lý chưa đạt yêu cầu khi thải ra môi trường. Tuy nhiên, hiện nhà máy đã đấu nối với hơn 40 công ty nên nếu đề nghị ngưng hoạt động sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động các doanh nghiệp. Do đó, sau khi có kết quả phân tích mẫu sẽ có biện pháp xử lý tiếp theo.
Ông Võ Tuấn Nhân, Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học công nghệ - môi trường của QH : "Cần xử nghiêm hành vi xả thải ra môi trường" : Vụ Vedan xả thải chưa qua xử lý ra sông Thị Vải (Đồng Nai), chúng ta đã yêu cầu Chính phủ có chế tài xử lý thì tương tự như thế chúng ta phải tiếp tục, bất cứ công trình nào vi phạm xả thải, cũng phải xử lý nghiêm túc đúng pháp luật.
Luật Bảo vệ môi trường đòi hỏi phải có phê duyệt đánh giá tác động môi trường các nhà máy, hiện nay đa số được phê duyệt hết các đánh giá tác động nhưng trong quá trình thực thi chưa thực hiện được đúng như báo cáo đánh giá đó. Tình trạng này diễn ra trên thực tế rất nhiều. Do vậy yêu cầu các cơ quan quản lý tăng cường trách nhiệm hơn và phải chế tài nghiêm khắc với doanh nghiệp, khi triển khai đến thời điểm nào phải hoàn thành những công việc theo đánh giá tác động môi trường được phê duyệt đến đó. Theo tôi nếu đảm bảo đúng như cam kết đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt thì ô nhiễm là đương nhiên nhưng ở mức độ cho phép, còn hiện nay, các công ty xả thải ra môi trường vượt quá mức độ cho phép thì đây là việc chưa thực thi đúng quy định pháp luật, cần phải xử lý nghiêm minh và có chế tài mạnh mẽ.
Báo TN ngày 07/08/2011 phóng viên Kim Cương đăng tiếp với bài "Khó phủ nhận trách nhiệm" :
Với những gì đang xảy ra tại rạch Bà Chèo, khó có thể phủ nhận "Sonadezi không có cái gì gian dối" như phát biểu của ĐBQH Đỗ Thị Thu Hằng - Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Tổng công ty Sonadezi.
Sáng ngày 6/8, trở lại rạch Bà Chèo, nhiều người dân bày tỏ bức xúc trước phát biểu của Chủ tịch HĐQT trên Báo Thanh Niên. Sống gần hồ sinh thái chứa nước thải của Nhà máy xử lý nước thải của Cty CP-DV Sonadezi, gia đình bà Lê Thị Năm (75 tuổi, ngụ ấp 2, xã Tam An, H.Long Thành) có 8 đìa nuôi tôm cá nhưng nay đã phải bỏ hoang vì nguồn nước quá ô nhiễm, tôm cá không thể sống nổi. Còn anh Nguyễn Văn Nhân (trú ấp 2) cho biết anh làm nghề đánh bắt cá từ nhiều năm nay trên các con rạch như Rạch Mương, rạch Bà Chèo … thế nhưng mấy năm nay thì hầu như không làm ăn được gì. "Cá tôm làm gì mà sống nổi với nguồn nước đen ngòm, đặc quánh như nhớt xe mỗi khi nước thủy triều rút xuống", anh Nhân thở dài.
Nhiều hộ dân còn cho biết thêm, việc chăn nuôi gia cầm cũng không phát triển được vì mỗi khi uống phải nước ô nhiễm thì gà, vịt cũng lăn ra chết. Nhiều vườn sầu riêng và vườn dâu của người dân ven con rạch cũng phải đốn bỏ do bị thối gốc. "Trước việc nguồn nước bị ô nhiễm từ nước thải các nhà máy trong KCN Long Thành, chúng tôi đã có những phản ánh lên chính quyền các cấp, ngành nhưng đến nay chưa được giải quyết, cuối cùng phải cắn răng, chấp nhận sống chung với ô nhiễm", một người dân nói.
Đi cùng với chúng tôi, anh Nguyễn Thành Phát bức xúc : "Việc gây ô nhiễm nhiều năm qua làm dân chúng tôi điêu đứng. Vậy mà lãnh đạo Tổng công ty Sonadezi bảo không có gì gian dối. Chúng tôi mong cơ quan quản lý môi trường có đánh giá sai phạm và tính toán thiệt hại cho chúng tôi để lấy cơ sở đòi bồi thường".
"Công nghệ" xả trộm.
Khó có thể phủ nhận "Sonadezi không có cái gì gian dối" với chứng cứ mà Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường (C49) Bộ Công an lập vào ngày 4/8, trong đó có đề cập đến hành vi xả thải tinh vi.
Theo biên bản, nhà máy xử lý nước thải đã đặt tại hồ sinh thái một cửa xả sử dụng bằng khóa van tay nằm sâu dưới đất khoảng 80 - 100 cm. Sử dụng khóa van này, có thể đưa nước từ rạch Bà Chèo vào hồ khi thủy triều lên và xả ra khi thủy triều xuống thấp. Vào thời điểm lập biên bản (23 giờ 15 phút ngày 3/8), van khóa này được mở để nước từ trong hồ chảy ra rạch Bà Chèo, ra sông Đồng Nai với màu đen đặc và bốc mùi hôi thối.
Một trinh sát C49 cho biết : "Sau hơn một tháng theo dõi, chúng tôi phát hiện quy luật của nhà máy này như sau : do nước thải sau khi xử lý không đạt tiêu chuẩn, nếu thải ra rạch Bà Chèo rất dễ bị phát hiện nên họ tìm cách pha loãng với nước sông Đồng Nai. Rồi lợi dụng lúc thủy triều xuống hoặc trời mưa lớn, thì mở van để tống nước thải ra sông".
Cũng trong biên bản làm việc, Phó tổng giám đốc Cty CP-DV Sonadezi Trần Quang Thỏa thừa nhận để giảm chỉ tiêu ô nhiễm trong nước thải, công ty đợi khi thủy triều lên sẽ tích nước để pha loãng ô nhiễm, khi thủy triều rút kéo theo toàn bộ nước thải ra rạch Bà Chèo để chảy ra sông Đồng Nai.
Cũng cần nhắc lại, đây không phải lần đầu Cty CP-DV Sonadezi bị phát hiện hành vi gây ô nhiễm. Năm 2009, công ty này bị cơ quan chức năng tỉnh Đồng Nai xử phạt 34 triệu đồng (2 lần) do xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến 5 lần. Năm 2010, công ty bị Thanh tra Tổng cục Môi trường (Bộ TN-MT) xử phạt 31 triệu đồng và đến tháng 2/2011 bị phạt tiếp 75 triệu đồng về hành vi tương tự ...
Nhiều doanh nghiệp bức xúc.
Vào thời điểm mà C49 bắt quả tang, Cty CP-DV Sonadezi đang tiếp nhận xử lý nước thải cho 42 doanh nghiệp (trong đó có đến 80% nước thải từ dệt nhuộm). Sau khi nghe tin nhà máy xử lý bị C49 bắt quả tang xả nước thải chưa đạt tiêu chuẩn ra sông Đồng Nai, một số doanh nghiệp tỏ ra lo lắng. Lãnh đạo một công ty dệt (đề nghị không nêu tên) cho biết : "Trước khi đầu tư, chúng tôi tin tưởng vào sự quảng bá của Sonadezi nên mới ký hợp đồng xử lý nước thải. Nay thấy nhà máy bị bắt quả tang, nếu nặng đến mức cơ quan chức năng phải đình chỉ hoạt động thì ảnh hưởng rất lớn đến doanh nghiệp chúng tôi".
Lãnh đạo một nhà máy len đóng tại KCN Long Thành cũng bức xúc : "Sonadezi nhận tiền xử lý nước thải, nhưng xả thải không đạt chuẩn là khó chấp nhận. Với những gì đang diễn ra thì họ đã lừa dối chúng tôi".(Kim Cương)
Nhận định
a. Chuyện rõ mười mươi như vậy mà người có trách nhiệm vẫn quả quyết "không gian dối", không biết lương tâm họ thế nào ?
b. Bị phạt nhiều lần vì vi phạm, mỗi lần phạt mấy chục triệu, số tiền này có làm cho môi trường sạch như cũ không ? Cả đống dân bị hại có được ai đền bù "sòng phẳng" cho họ không ?
c. Cứ đà này thì sông Đồng Nai và bất cứ con sông, cái biển nào cũng bị bức tử, vấn đề là thời gian mà thôi, vì xử lý cách nào cũng còn bẩn, trừ khi chưng cất cho bốc hơi thì mới sạch được, nhưng vẫn còn cặn tức là còn ô nhiễm.
Sự thật được phơi bày, nhưng chưa đầy đủ và cũng chưa "giải phóng" chúng ta được.
Trong khi đó một vị đại biểu QH Việt Nam, cơ quan quyền lực cao nhất nước mà trắng trợn chối bỏ sự thật rành rành về những sai phạm của Cty Sonadezi, để hàng ngày Sonadezi cứ thu tiền xử lý nước thải của 42 công ty con nhưng lại xả nước bẩn mỗi ngày gần 10.000m3, một tháng là gần 300.000m3, một năm gần3.600.000m3 (chưa tính lâu hơn nữa). Bao nhiêu chất độc hại, cặn bã hòa vào nước sông Đồng Nai, rồi người dân phải trả tiền để mua lại nước ô nhiễm này về sử dụng, hậu quả tất yếu là bệnh tật và chết chóc, chỉ có Trời mới đo lường được hậu quả tai hại này. Ấy thế mà đối với xã hội của ta dường như đó chỉ là chuyện nhỏ, báo chí la to nhưng chỉ ỉm đi ít bữa rồi đâu cũng lại vào đấy, có ai mà kiểm tra mỗi ngày tất cả các nhà máy được. Quy trình : "Cam kết rồi kiểm tra, rồi phạt xong lại cam kết, lại kiểm tra, lại phạt", cứ như bánh xe luân hồi vậy.
Cuối cùng thì Cty Sonadezi bị xử phạt do xả thải vượt quy chuẩn từ 5-10 lần trong trường hợp thải lượng nước thải từ 5000m3/ngày đêm – thực hiện không đúng, không đầy đủ các nội dung trong cam kết bảo vệ môi trường đã được duyệt – vận hành không đúng, không đầy đủ, không thường xuyên hệ xử lý nước thải dẫn đến nước thải sau xử lý không đạt chuẩn. Tổng mức tiền phạt cho cả 3 hành vi trên là 405 triệu đồng (Nguyễn Triều, báo Tuổi Trẻ ngày 8/10/2011).
Chúng ta thử hỏi 405 triệu tiền phạt có lọc sạch được hết chất dơ bẩn đã thải ra sông Đồng Nai, đã ngấm xuống lòng đất, mạch nước ngầm, đã xâm nhập vào cỏ cây, tôm cá và con người, làm hại sức khỏe, gây bao bệnh tật và có bảo đảm sau khi nộp phạt nước thải sẽ sạch như nước tự nhiên không ?
8. Chuyện gian dối, lừa gạt trong quảng cáo, trong sản xuất thực phẩm, đồ tiêu dùng, đe dọa sức khỏe, xâm hại môi trường … hiện nay nhiều đến nỗi thống kê không kịp, chúng ta thử liếc qua các phương tiện truyền thông những ngày gần đây thôi :
§ Báo Thanh Niên 1/10/2010, bài "Kết quả phân tích AMS, 'Thóc thành Dền' là mẫu hiện đại" – Ai đã đem thóc hiện đại khang dân bỏ vào hố khai quật khảo cổ thành Dền, để rồi tốn bao nhiêu công sức, tiền của ? Sự thật này "chìm xuồng" (Quang Duẫn).
§ Báo Thanh Niên 12/4/2011 có bài "Bắt quả tang doanh nhiệp xả thải ra sông Giêng, đó là
Công ty TNHH TL" – chế biến cồn, xã Xuân Hòa, huyện Xuân Lộc, Đồng Nai). Nước thải được xả trực tiếp ra sông Ui (thượng nguồn sông Giêng) – (Quế Hà).
Cũng báo trên có bài "Đề nghị truy tố Chủ tịch HĐQT Công ty chạy án" – Vụ án giả chứng thư bảo lãnh ngân hàng. (Thái Sơn)
§ Báo Thanh Niên 20/5/2011 : Tổng Giám đốc IMF từ chức. Theo các phiên tòa diễn ra ở New York, thì ông Dominique Straus Kahn bị cô hầu phòng khách sạn Sofitel là Nafissatou Daillo tố cáo gian, cô này đã có thành tích "nói dối" nên tòa không tin lời khai của cô, sau cùng tòa đã tuyên bố ông Kahn vô tội và được trả tự do. Tội nghiệp ông Kahn bị một thời gian mang tai mang tiếng, lại còn phải từ chức giám đốc IMF nữa. (Tòa hủy án, TN ngày 24/8/2011 – Lan Chi).
§ Báo Thanh Niên 14/6/2011 có bài :
- "Tràn lan đồ chơi hàng Trung Quốc độc hại" (Hoàng Việt).
- "Nỗi cô đơn của sự thật" (Thái Sơn).
- "Ém tiền vận động viên, sự thật phơi bày" (Hoàng Quỳnh).
- "Cơn ác mộng thuốc kê đơn ở Mỹ" – mỗi ngày có khoảng 50 người Mỹ chết vì uống opioid quá liều (Thụy Miên).
- "Bất ổn ở Quảng Châu tạm lắng" – vụ việc bắt đầu hôm 10/6/2011, cảnh sát xô xát với một cặp vợ chồng bán hàng rong, dù chính quyền Quảng Châu khẳng định cả hai không hề hấn gì nhưng những thông tin lan truyền rằng người chồng bị đánh chết, còn người vợ đang mang thai cũng bị chấn thương nặng. Thế là bất ổn nổ ra phải điều hơn 1000 cảnh sát chống bạo động mới vãn hồi được trật tự : 25 người bị bắt (Lê Loan).
§ Báo Thanh Niên 16/6/2011 có bài "Quốc phòng Mỹ dính hàng dỏm Trung Quốc" (Trùng Quang).
§ Báo Thanh Niên 18/6/2011 :
- "Lập lờ nước mắm" – hiện ít người tiêu dùng có thể phân biệt được đâu là nước mắm pha chế công nghiệp (giá rẻ), đâu là nước mắm sản xuất theo phương thức truyền thống (giá cao) – (tác giả Quang Thuần & Quế Hà).
- "Thu hồi 12 sản phẩm nhiễm DEHP" (chất độc) – (tác giả Nam Sơn & Thanh Tùng).
- "Cá chết hàng loạt vì nước thải công nghiệp" (Nguyên Vũ).
- "Yêu cầu nhà máy giấy Lam Sơn xử lý tình trạng ô nhiễm" (Ngọc Minh).
§ Báo Phụ Nữ 24/6/2011 : Hotline 08.5436.6664 quảng cáo chỉ cần 5 giây phần bụng thu gọn 3cm (Ngọc Lâm & Nguyễn Cầm).
§ Báo SGGP 20/7/2011 có bài "Lắng nghe" – dự án xây dựng thủy điện ngốn cả trăm hecta rừng của vườn quốc gia lại được che phủ bằng một báo cáo đánh giá tác động môi trường … giả
… (Tư Quéo).
§ Báo SGGP 24/7/2011 có bài "Quảng cáo thiếu trung thực trên truyền hình, trách nhiệm không chỉ nhà đài ?" (Như Hoa).
§ Báo SGGP 29/7/2011 có bài "Khi khoa học bị chơi khăm" : Cuối cùng người ta đã "lật tẩy" báo cáo tác động môi trường dự án thủy điện Đồng Nai 6 và 6A là hàng dỏm, khi những người làm báo cáo đã chưa trực tiếp đến khảo sát vùng bị ảnh hưởng của dự án. Còn ở dự án nghĩa trang Vĩnh Hằng, khi chủ dự án khởi công xây dựng thì người dân mới tá hỏa vì phát hiện nghĩa trang có quy mô hàng ngàn ngôi mộ này chỉ nằm cách mép sông Đồng Nai chưa đầy 100m …" (Hoàng Quý).
§ Báo Công An Tp.HCM 29/7/2011 có bài :
- An toàn vệ sinh thực phẩm vẫn trong tình trạng báo động (Thu Thanh).
- Người chết vẫn ký nhận tiền trợ cấp (Lê Uyên & Lê Anh).
§ Báo SGGP 30/7/2011 có bài "Ăn xin giả lừa người nhân ái" (Hwan Niê – Thu Hà – Bích Phượng).
§ Báo SGGP 30/7/2011 có bài "Đường đi của những đồng tiền bẩn (Thanh Hằng).
§ Báo SGGP 31/7/2011 có bài "Công bố tài liệu mật vụ Watergate" (Th. Vũ).
§ Báo Tuổi Trẻ 3/8/2011 có bài :
- "Nạn mua điểm trong các đại học y ở Nga" (Lê Tiến & Trần Phương).
- "Buôn lậu bằng tàu ngầm" (Anh thư).
- "Tái chế dầu bẩn, mỡ thối" (Đức Thanh – Ngọc Khải – Minh Mẫn).
- "Dị ứng thực phẩm chức năng" (Ngọc Hà).
- "Hù" mắc bệnh nan y để bán thuốc (Đ.Nam & T.Vũ).
§ Chương trình truyền hình VTV2 tối 7/8/2011 : "Chế biến chè ở Thái Nguyên" – pha thêm bùn + phân lân + bột sắn nấu thành cháo còn pha thêm cả bột đá. Bình thường 5kg trà tươi mới được 1kg trà khô, pha chế kiểu trên chỉ 3,5kg trà tươi là được 1kg trà khô (dân nghiện trà Thái Nguyên một phen hú vía).
§ Báo Thanh Niên 12/8/2011 có bài "Trung-Hàn điều tra vụ dùng thi thể làm thuốc bổ" (dùng xác trẻ sơ sinh và bào thai). Đài SBS cũng đưa ra kết quả xét nghiệm ADN cho thấy đến 99,7% thuốc bột này là từ con người (thuốc bổ này đã nhập lậu vào Hàn Quốc) – (Thụy Miên).
§ Báo Thanh Niên 18/8/11 có bài :
- "Mất chức vì kê khai gian dối" (Bảo Cầm).
- "Phát hiện nhiều thẻ công nhân giả ở công trường nhà máy đạm Cà Mau" (Gia Bách).
- "Viện Kiểm sát xin lỗi, bồi thường người oan sai" (Lâm Viên).
- "Một cò lao động có 52 CMND" (Công Nguyên & Đàm Huy).
§ Chương trình truyền hình VTV2 tối 19/8/2011 : Công ty Nhuộm Thái Tuấn ở Đông Hưng Thuận (Hóc Môn) xả nước thải ra kênh Tham Lương mỗi ngày khoảng 630m3 mà chỉ có 30m3 qua xử lý
(chưa chắc đã đạt chuẩn). Máy quay cho xem dòng kênh đen xì, đỏ lòm thấy mà khiếp.
§ Báo Thanh Niên 24/8/2011 : "Cương quyết xử ly sai phạm", ông Bộ trưởng Tài nguyên Môi trường đã trả lời phỏng vấn như sau : "Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề rất 'nóng' hiện nay.
Trước đây chúng ta thu hút đầu tư, nhưng thời kỳ ban đầu lại chưa chú trọng đến môi trường nên dẫn đến hiện nay có nhiều doanh nghiệp xả nước thải chưa bảo đảm ra môi trường … cần phải có lộ trình để xử lý" (Quang Duẫn).
§ Chương trình truyền hình VTV1 ngày 31/8/2011 : "Công ty Giầy da ở Bến Cát xả và bỏ chất thải bừa bãi – kể từ tháng 8/2010 tới nay, tất cả chất thải không qua xử lý mà vứt bừa bãi quanh nhà máy, có khi tới hàng trăm tấn".
§ Chương trình truyền hình đài Long An tối 4/9/2011 đưa hình ảnh và nói về tình trạng ô nhiễm
thuốc trừ sâu ở làng hoa lớn nhất miền Bắc là Từ Liêm và Đan Phượng. Thuốc trừ sâu phun mịt mù, mùi nồng nặc – nhà dân gần đó phải che chắn cửa sổ, xây bít các lỗ thông hơi … nhưng vẫn chịu không nổi. Hồ ao cũng ô nhiễm do việc súc rửa bình xịt. Ở hai huyện có tới 200 điểm bán khoảng 3000 loại thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật … (sâu mà chết thì người cũng ngắc ngư).
§ Báo Thanh Niên 4/9/11 có bài :
- "Vào tù vì giả mạo giấy kết hôn" (Thục Minh).
- Vụ kiện "trứng thối" (Lê Nga).
§ Báo Thanh Niên 5/9/11 có bài :
- Cần dẹp loạn giặc cướp (cướp nghêu ở Cà Mau – tác giả Thanh Đông) "Không thể tin được : Nhìn hình ảnh một đoàn người với các phương tiện phạm tội gồm thuyền, lưới cào … sẵn sàng đi cướp nghêu giữa ban ngày mà tôi bàng hoàng. Tại sao chính quyền, các cơ quan chức năng địa phương lại để tình trạng này tồn tại ? Do yếu kém năng lực hay cố tình làm ngơ ? Phải ra tay và trừng trị nhóm người có hành vi phạm tội tập thể có tổ chức này. Nếu không, hiện tượng phạm tội tập thể ở Cà Mau sẽ dễ dàng lan rộng sang các địa phương khác".
- Nguy cơ website chính phủ giả ở Hà Lan (Thụy Miên).
§ Chương trình truyền hình HTV9 ngày 7/9/2011 có hình ảnh và lời bình : Khu công nghiệp Lê Minh Xuân huyện Bình Chánh có 127 đơn vị sản xuất lớn nhỏ, hàng trăm ống khói nhả khói đen kịt lên bầu trời, nước thải thì xả ra lạch, sông, có kiểm tra thì qua xử lý, không kiểm tra thì xả tự do ra môi trường, một người dân vừa chỉ vừa nói : "Nước đen và đặc như kẹo kéo".
§ Báo Thanh Niên ngày 8/9/2011 có tin : UBND tỉnh Gia Lai ra quyết định phạt công ty con TNHH Chế Biến Khoáng Sản K'Bang trên 142 triệu đồng vì xả thải vượt tiêu chuẩn hơn 8 lần, gây ô nhiễm sông Ba khiến hàng chục ngàn dân bị ảnh hưởng.
§ Chương trình truyền hình VTV9 ngày 8/9/2011 chiếu hình ảnh và thuyết minh về nguy cơ rác vũ trụ : Cho tới nay có khoảng 16.000 mảnh vỡ, vỏ tên lửa đã qua sử dụng đang bay lởn vởn trong không gian bao quanh trái đất với tốc độ 28.000 km/giờ, sức công phá khi va chạm không thua một quả đạn, nguy cơ các vệ tinh bị phá huy là rất gần, ISS nhiều lần phải "né".
Trong khoảng một thời gian ngắn và mặc dù chỉ có trong tay vài tờ báo, cũng chẳng có giờ nhiều mà theo dõi các kênh truyền hình, thế mà người viết cũng liệt kê được hàng loạt những sự việc liên quan tới tính gian dối gây hậu quả nghiêm trọng cho môi trường và người tiêu dùng, cũng như người dân vùng ảnh hưởng. Những phát hiện sai phạm có thể áp dụng nguyên tắc phòng dịch được, nghĩa là "cứ một trường hợp dịch được phát hiện thì có ít là 10 trường hợp chưa phát hiện ra".
9. Không biết bà con nghĩ thế nào chứ người viết thì hoàn toàn đồng ý với tác giả Nguyễn Tú trong mục Thời sự báo Thanh Niên 16/6/2011 như sau : 100% doanh nghiệp bị kiểm tra vi phạm Luật Bảo vệ môi trường. Trong hai ngày 14-15/6/2011, hội thảo "Xây dựng khung kế hoạch chiến lược quản lý ô nhiễm công nghiệp TP Đà Nẵng giai đoạn 2011-2020" do Sở Tài nguyên - Môi trường TP Đà Nẵng và dự án Quản lý nhà nước về môi trường cấp tỉnh tại Việt Nam tổ chức đã công bố những số liệu báo động. Kết quả thực hiện chương trình quản lý công nghiệp giai đoạn 2005-2010 tồn tại nhiều bất cập như hiện vẫn còn 3/6 khu công nghiệp TP Đà Nẵng chưa có hệ thống xử lý nước thải, 90% doanh nghiệp (DN) có hệ thống xử lý nước thải nhưng vận hành không thường xuyên hoặc không đúng quy trình, 14% DN chưa xây dựng báo cáo đánh giá tác động môi trường. Nghiêm trọng hơn, 100% trong tổng số 90 DN bị kiểm tra ngẫu nhiên đều vi phạm Luật Bảo vệ môi trường. Các DN nằm ngoài khu công nghiệp cũng "góp phần" vào tình trạng ô nhiễm nước thải và tiếng ồn.
Theo báo cáo của Sở Tài nguyên - Môi trường, nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do các DN đối phó trong khi năng lực, nhân lực và kinh phí của cơ quan chức năng còn hạn chế, hạ tầng khu công nghiệp chưa được đầu tư đúng mức, phân cấp quản lý chồng chéo và cơ quan chức năng thiếu phối hợp chặt chẽ.
KẾT LUẬN
a. Vấn đề "gian dối" dưới mọi hình thức trên đất nước chúng ta là một chuyện dài, càng ngày càng dài hơn, càng rộng hơn, càng cao hơn, càng sâu hơn.
b. Nếu lơi lỏng việc tuyên truyền, giáo dục bảo vệ môi trường, lại nhập nhằng, ấm ớ trong khâu xử lý sai phạm thì chẳng bao lâu nữa tất cả các dòng sông, các mạch nước ngầm, tất cả đất đai, bầu khí, biển khơi đều sẽ bị ô nhiễm hết, và sẽ xuất hiện hàng trăm, hàng ngàn xã ung thư trên cả nước (chứ không chỉ mới có một làng ung thư nào đó ở ngoài Bắc như hiện nay). Cây cối chết, tôm cá chết thì làm sao mà con người sống được (nhỏ mọn như chiếc bao nilon thôi cũng phải mất 500 năm mới phân hủy).
Bài toán khó nhất mà chúng ta chưa có thể giải được, đó là làm thế nào dung hòa giữa phát triển và môi trường. Nhiều nhà máy thì lắm chất thải, xử lý chất thải cho đạt yêu cầu, nghĩa là sạch như nước thiên nhiên, an toàn như đất tự nhiên là một điều không thể được và nếu được thì chi phí quá cao, nhà máy hết lợi nhuận. Đóng cửa nhà máy thì không có sản phẩm, dân thất nghiệp, nhà nước thất thu, không phát triển. Vậy thì chỉ còn giải pháp của cụ Nguyễn Du : "Cũng liều nhắm mắt đưa chân, Mà xem Con Tạo xoay vần đến đâu"
c. Chuyện nhắm mắt cho qua, điều khó mà tránh khỏi, nhất là ở xã hội Việt Nam, "văn hóa phong bao" đã trở thành "hơi thở" rồi, động một tí là "phong bao" đối phó, mấy ai thanh liêm đến mức từ chối "phong bao" dầy để cứ "thẳngnhư mực tầu" mà làm, mà "đường mực tầu" của ta cũng bị "khúc xạ" vì thiếu chuyên môn, liệu có thể đạt trình độ Viện Pasteur mỗi ngày xét nghiệm, cấp phép rồi mới được xả ra sông, biển ?
Người ta cũng thắc mắc có một thời khá dài ở miền Bắc, quan tài người quá cố không được khiêng tới nhà thờ, nhà chùa làm lễ nghi tôn giáo, lý do là sợ ô nhiễm môi trường. Trong khi đó thì những chất thải các nhà máy, các khu công nghiệp, độc hại, nguy hiểm gấp trăm gấp nghìn lần, lại cứ khơi khơi xả ra sông, ra biển, cặn bã thì chôn vùi hoặc lén đổ nơi các bãi đất trống, chỗ vắng người hay vứt bừa bãi quanh nhà máy như trường hợp công ty giầy da nào đó ở Bình Dương !
d. Về hậu quả của những việc gian dối vì lợi nhuận dưới mọi hình thức thì không ai có thể cân, đo, đong, đếm được, một dòng sông Đồng Nai trong xanh thơ mộng, mà hàng ngàn nhà máy lớn nhỏ từ thượng nguồn Lâm Đồng, qua vùng Định Quán – La Ngà, qua khu công nghiệp Trảng Bom, qua những trại nuôi heo cả vạn con ở vùng Hố Nai, qua hai khu đại công nghiệp Biên Hòa 1 và Biên Hòa 2 – Khu công nghiệp Long Thành – về tới T/p Hồ Chí Minh rồi ra tới Nhà Bè, tới biển. Tất cả nước thải, chất thải cứ tuôn xuống dòng sông, đúng là "trăm dâu đổ đầu tằm", làm sao mà bảo đảm dòng sông đem lại sức khỏe cho người và sinh vật ? Kết cục thì lợi nhuận vào túi một số người, bệnh tật và tai họa thì toàn dân và cả nước phải hứng chịu (cứ một sản phẩm, vật nuôi nơi bị ô nhiễm đi tới đâu thì gieo bệnh tật tới đó – một người bị ảnh hưởng ở vùng ô nhiễm kết hôn với một người nơi khác hoặc di chuyển đến nơi đó cũng đem theo hiểm họa lây nhiễm).
Sự thật có thể đã được phơi bày nhưng hậu quả tiêu cực thì không ai, không gì ở trên đời này xử lý công bình được. Do đó, như đã trình bày từ đầu : Sự thật ở trần gian không thể giải thoát chúng ta cách trọn vẹn được. Chỉ có Sự Thật Vĩnh Hằng – Đấng Tạo Hóa là Sự Thật tuyệt đối mới có thể giải thoát chúng ta một cách tuyệt hảo bằng một cuộc xét xử cuối cùng vào ngày chung cuộc : "Và mọi người sẽ chịu xét xử theo các việc họ đã làm" (sách Khải Huyền 20,3). Nếu không có cuộc giải thoát cuối cùng này thì bất công, gian dối vĩnh viễn ngự trị ở trần gian và cuộc sống sẽ trở thành phi lý.
------------------
Hiện nay địa chỉ của tôi :
Lm. Jos. Nguyễn Hữu Triết
387 Lê Văn Sỹ, phường 2, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.
Điện thoại : 38449497 – 0909721822
Quý độc giả muốn có thêm tài liệu
hoặc có thắc mắc, xin liên lạc :
Email : josnhtriet@gmail.com
------------------------
LỜI TÂM NIỆM
- Lạy Đấng thiêng liêng Tối cao,
- Lạy Đấng Tạo Hóa,
- Lạy Đấng Tuyệt Đối,
- Lạy Thượng Đế,
- Lạy Ông Trời,
Chúng con đây là những thọ tạo đứng trên muôn vật trong vũ trụ. Chúng con đã được Ngài tạo dựng nên giống hình ảnh của Ngài là Thiên Chúa, vì chúng con có trí nhớ, có trí tuệ, có ý muốn, có tự do.
Chúng con luôn thao thức trước những vấn đề :
1. Bởi đâu có vũ trụ này ?
2. Bởi đâu có bản thân chúng con ?
3. Đâu là mục đích của cuộc đời ?
4. Chết rồi sẽ đi về đâu ?
5. Làm điều thiện, ai sẽ thưởng công cho ?
(theo ai, thờ ai thì sẽ lãnh thưởng nơi người ấy, nếu người ấy to hơn Ông Trời)
6. Làm điều ác, ai sẽ phạt tội ?
7. Ai sẽ thỏa mãn khát vọng hạnh phúc tuyệt đối của chúng con ?
Chúng con muốn đi tìm chân lý, tìm ý nghĩa đích thực cho cuộc đời. Xin Ngài soi trí mở lòng cho chúng con, để chúng con được tìm thấy Ngài, và được niềm vui gọi Ngài là Cha, như hơn 2 tỉ Kitô hữu trên thế giới – Amen.
(Tiến sĩ Phan Như Ngọc, Email : pnngoc@gmx.net – Trích Bài giảng Chúa nhật - TGM, số 4/2007, trang 74)
Tân Bình, ngày 21/10/2011
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT
Về đầu trang
--------------------------------------------------------
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT - 25/11/2011
(các trích đoạn Kinh Thánh lấy từ bản dịch do Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ thực hiện năm 2006)
LỜI ĐẦU
Loài người được Tạo Hóa tác thành hơn và khác loài vật ở chỗ có lý trí và tự do.
"Tự do là khả năng biểu lộ ý chí, hành động theo ý muốn của mình" (Đại Tự điển tiếng Việt – Hà Nội 1999, trang 1762), đây là quyền căn bản của mỗi người. Có tự do thì cũng có trách nhiệm, nghĩa là có thưởng và phạt tùy theo lựa chọn đúng hay sai.
Người viết tập này chỉ muốn trình bày sự thật mà mình đã cảm nghiệm, còn quý độc giả đồng tình hay không, hoặc đồng tình một phần nào thì hoàn toàn thuộc quyền tự do của quý vị.
"SUMMUM JUS, SUMMA INJURIA" (Tuyệt đỉnh của luật cũng là tuyệt đỉnh của bất công)
Ghi chú : giáo sư Nguyễn Văn Dương đã đề trên trang nhất cuốn sách Giáo Khoa Trong Tín Chỉ Văn Minh Việt Nam tại Đại học Văn khoa thời trước 1975 như sau : "Người Hy Lạp để lại cho nhân loại cái đẹp – Đạo Công giáo để lại cho nhân loại sự tôn trọng con người – Người La Mã để lại cho nhân loại cái tinh túy của luật pháp".
Cho tới hôm nay, hễ nói tới luật pháp thì phải nói tới người La Mã. Có thể nói các bộ luật trên thế giới đều có tham khảo luật La Mã.
Câu thành ngữ nêu trên phát xuất từ tinh thần duy luật pháp của người La Mã. Mới nghe ta có cảm tưởng đây là điều mâu thuẫn và phi lý, nhưng thực tế cho thấy câu trên chẳng mâu thuẫn và phi lý chút nào. Xin mời từng bạn đọc ngồi vào ghế Chánh án nhé.
1. Câu chuyện Thánh Kinh 1V 21,1–16 : Ông Navốt từ chối, không chịu nhượng vườn nho của mình. Sau những sự việc đó, thì xảy ra chuyện ông Navốt người Gítrơen có một vườn nho bên cạnh cung điện vua Akháp, vua Samari. Vua Akháp nói với ông Navốt rằng : "Hãy nhượng vườn nho của ngươi cho ta, để ta làm vườn rau, vì nó ở ngay sát cạnh nhà ta. Để bù lại, ta sẽ cho ngươi một vườn nho tốt hơn, hay là, nếu ngươi muốn, giá bao nhiêu, ta sẽ trả bằng bạc". Nhưng ông Navốt thưa với vua Akháp : "Xin ĐỨC CHÚA đừng để tôi nhượng gia sản của tổ tiên tôi cho ngài !".
Vua Akháp và hoàng hậu Ideven
Vua Akháp trở về nhà buồn rầu và bực bội vì lời ông Navốt, người Gítrơen đã nói với vua : "Tôi sẽ không nhượng gia sản của tổ tiên tôi cho vua". Vua nằm trên giường, quay mặt đi, và không chịu ăn uống gì. Hoàng hậu Ideven đi vào, nói với vua : "Tại sao tâm thần vua buồn rầu, và vua không chịu ăn uống gì như vậy?" Vua trả lời : "Tôi đã nói chuyện với Navốt người Gítrơen và bảo nó : Hãy nhượng vườn nho của ngươi cho ta mà lấy tiền, hoặc, nếu ngươi muốn, ta sẽ đổi cho một vườn nho khác. Nhưng nó lại nói : Tôi không nhượng vườn nho của tôi cho vua được. Bấy giờ hoàng hậu Ideven nói với vua : Vua cai trị Israel hay thật ! Mời vua dậy mà ăn cho lòng phấn khởi lên ! Thiếp sẽ tặng vua vườn nho của Navốt người Gítrơen".
Ông Navốt bị giết
Bấy giờ, bà nhân danh vua Akháp viết thơ, rồi dùng con dấu của vua mà đóng ấn, và gửi cho các kỳ mục và thân hào cư ngụ trong thành với ông Navốt. Trong thơ bà viết rằng : "Hãy công bố một thời kỳ chay tịnh và đặt Navốt ngồi ở hàng đầu dân chúng. Hãy đặt hai đứa vô lại ngồi đối diện với nó, để chúng tố cáo nó : Ông đã nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua. Và hãy đem nó ra ngoài ném đá cho chết".
Dân chúng, kỳ mục và thân hào cư ngụ trong thành làm theo lệnh bà Ideven như trong thơ bà đã viết gửi cho họ. Họ công bố thời kỳ chay tịnh và đặt ông Navốt ngồi ở hàng đầu dân chúng. Rồi có hai kẻ vô lại đi vào, ngồi đối diện với ông. Những kẻ vô lại ấy tố cáo ông Navốt trước mặt dân rằng : "Navốt đã nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua". Họ liền đưa ông ra ngoài thành và ném đá ông. Ông đã chết. Họ sai người đi nói với bà Ideven : "Navốt đã bị ném đá chết". Khi bà Ideven nghe biết ông Navốt đã bị ném đá chết, thì nói với vua Akháp: "Xin vua đứng dậy và chiếm đoạt vườn nho của Navốt, người Gítrơen, kẻ đã từ chối không chịu nhượng cho ngài để lấy tiền, vì Navốt không còn sống nữa, nó chết rồi". Khi nghe biết ông Navốt đã chết, vua Akháp đứng dậy, xuống chiếm đoạt vườn nho của ông Navốt, người Gítrơen.
Nhận định
a. "Nước có quốc pháp (Hiến pháp), nhà có gia quy". Trong việc điều hành xã hội, luật lệ được coi là "cán cân công lý", xét xử đúng luật lệ được coi là công bằng, không đúng luật lệ là bất công. Ngay từ thời Môsê (thế kỷ 13 trước Công nguyên), dân Do Thái đã có bộ luật khá hoàn chỉnh, từ những việc lớn cho tới những việc nhỏ, tất cả đều được quy định rõ ràng, chi ly dựa trên các khoản luật : "Các ngươi nộp 1/10 bạc hà, hồi hương và thì là (rau thơm cải thiện bữa ăn) mà bỏ qua những điều hệ trọng nhất trong pháp luật là công bằng, bác ái và trung tín" (Mt 23,23). Những nhóm Kitô giáo ly khai (với Công giáo) vẫn trung tín với luật nộp thuế 1/10 của Cựu Ước. Báo Tuổi Trẻ ngày 19/10/2011, trong bài nói về Hội "Chờ Ngày Tận Thế" của H.Lộc và S.Bình, có đoạn như sau : "Chị ruột của bà H. (49 tuổi ở quận Tân Phú, Tp.HCM) theo lời xúi dục của nhóm đã rao bán căn nhà tại quận 4 với giá 1,3 tỷ đồng để đóng 130 triệu cho Hội (10%)".
Câu chuyện "Hai lão già dê" trong sách Đaniel, chương 13, cho thấy hai lão thông luật, lợi dụng triệt để luật nhân chứng để trả thù nàng Susana vì không chiều lòng họ. Thế nhưng Chúa đã cho tiên tri Đaniel (dù còn là con trẻ), phanh phui âm mưu độc ác của hai ông già đã cáo gian Susana và kết quả "gậy ông đập lưng ông", án các ông muốn xử Susana lại chính là án xử hai ông !
Trong cuộc xử án Chúa Giêsu, người ta cũng tận dụng luật nhân chứng : "Tuy có nhiều người làm chứng gian đến cáo, song không tìm được chứng nào cả. Sau cùng có hai người làm chứng dối đến thưa rằng: Người này nói Ta có phép phá Đền thờ Thiên Chúa, rồi nội ba ngày sẽ kiến thiết lại … Thượng tế (hỏi cử tọa) : Các người nghĩ làm sao ? Họ trả lời : Y đáng chết".
b. Về việc làm chứng, luật Môsê quy định : Một sự việc mà có hai người làm chứng thì được coi là sự thật, cứ chiếu theo luật mà xử
- "Phải xử tử kẻ sát nhân trước mặt các nhân chứng. Chớ luận tội người nào với chứng minh của một nhân chứng" (Ds 35,30). "Phải theo lời hai hoặc ba nhân chứng mới được xử tử kẻ đáng phải chết, chớ giết ai khi chỉ có một nhân chứng" (Đnl 17,6 ; x. Mt 26,60).
c. Trong chuyện vua Akháp và ông Navốt, hoàng hậu Ideven đã khai thác triệt để khoản luật về nhân chứng để giết ông Navốt cách hợp pháp, và Navốt trở thành nạn nhân của lề luật (nỗi oan chỉ Trời mới thấu).
Ôi Summum Jus, Summa Injuria !
2. Người lái buôn thành Venise – Vở kịch thời danh 5 hồi (1594) của nhà văn, nhà viết kịch thiên tài của nước Anh và thế giới qua mọi thời đại : Shakespeare (1564 – 1616).
- Antonio – người lái buôn thành Venise rất giàu có và thế lực. Ông có những tầu buôn lớn ở Anh, Pháp, Ấn Độ, Mexico, Tripoli, Barbarie và nhiều nơi khác. Ông là người Cơ Đốc giáo (đạo Kitô hay Thiên Chúa giáo), có lòng nhân hậu và rất tốt với bạn bè, nhưng đố kỵ với tính bủn xỉn của những tên tài phiệt Do Thái.
- Shylock – nhà tài phiệt Do Thái chuyên cho vay "cắt cổ", căm hận Antonio vì luôn bị ông này coi thường, miệt thị.
- Bassanio – bạn của Antonio, nghèo kiết xác nhưng lại muốn chơi sang, lúc nào cũng mơ mộng muốn đến Belmont để "cua" một cô gái mồ côi rất xinh đẹp và đức hạnh, lại được thừa kế một gia tài kếch xù, tên nàng là Portia.
Bassanio buồn bã tâm sự với Antonio, nói lên khao khát cháy bỏng của mình, nhưng lại không xu dính túi. Antonio hứa giúp anh thực hiện giấc mơ, nhưng hiện thời tài sản của ông còn lênh đênh trên biển cả, rải rác khắp năm châu, chưa thu về được. Ông đã nhất trí với Bassanio kế hoạch vay lão Shylock tiền với sự bảo lãnh của Antonio. Đây chính là cơ hội ngàn năm một thuở để ông Shylock dạy cho Antonio, đối thủ không đội trời chung của ông một bài học nhớ đời :
- Này, Bassanio, nghe nói chú định làm một chuyến du lịch thăm bà nào phải không ? Hôm nay, anh em mình trao đổi chuyện ấy nhé !
- Chắc anh thừa biết tài sản em hầu như khánh kiệt vì những sự hoang phí vô độ. Em mắc nợ như chúa chổm, và em đã chịu ơn anh quá nhiều, tiền bạc cũng như tình thương mến. Giờ đây, em lại phải cầu cứu đến anh lần nữa, mới mong trang trải nổi mọi chi phí.
- Tiền của anh cũng như của chú, bao giờ anh cũng sẵn lòng. Nào kể đi.
- Ở Belmont có cô gái mồ côi rất giàu, nàng đẹp khôn tả và đức hạnh tuyệt vời. Đôi mắt nàng dường như đã ngầm trao lời ước hẹn với em. Nàng tên là Portia, tiếng tăm nàng vang dội khắp nơi, nên gần xa nô nức, nhiều kẻ hâm mộ nàng tìm đến. Bên thái dương nàng, mái tóc hung óng ánh xõa xuống từng lọn như bộ lông cừu vàng. Như Jason1 hăm hở trên đường đến Colchide, những kẻ cầu hôn dập dìu đến 1 Bị chú là Pelias cướp ngôi vua, Jason đến đòi thì chú chàng hứa sẽ trao lại với điều kiện chàng phải đến Colchide lấy cho được bộ lông cừu vàng. Trong thần thoại "Những thủy thủ của con tàu Ácgô" của Hy Lạp cổ đại.
Belmont để mong chinh phục lòng nàng. Anh Antonio ơi ! Nếu em có đủ phương tiện đến đó tranh đua với họ. Cõi lòng em mách rằng, sự thành công chắc chắn sẽ mang lại hạnh phúc cho đời em.
- Chú cũng biết hiện giờ tất cả cơ nghiệp của anh đều còn trên mặt biển và lúc này, anh không có sẵn một số tiền lớn. Nhưng, anh có nhiều uy tín ở Venise. Nếu cần, anh sẽ dùng đến nó, để chú mày có vinh dự hiện diện ở Belmont, mà tán tỉnh cô nàng Portia xinh đẹp. Hãy dọ hỏi xem nơi nào cho vay tiền, anh cam đoan sẽ mượn đủ cho chú. Vay hỏi ai để có đủ tiền mặt, sắm sửa bộ cánh lịch sự cho một kẻ phong lưu quý phái ? Ai ? Nếu chẳng phải là ông chủ nhà băng giàu có, chuyên cho vay nặng lãi, lão Do Thái Shylock mà thiên hạ vẫn thấy rình rập cơ hội mỗi ngày trên cầu Rialto, xúng xính trong bộ áo rộng, vàng ệch, y phục bắt buộc của con dân Do Thái, đội cái mũ dạ hoặc lông thú, râu dài thậm thượt và tóc quăn tít lại. Bộ điệu xoàng xĩnh như thế, nhưng lãi có bạc triệu. Nhà lão nằm trong khu xóm nhớp nhúa, cứ tối đến là xích chặt lối vào, che mắt thiên hạ vô vàn báu vật : kim cương, châu ngọc quý giá và một cô gái đẹp, cô bé Jessica đỏm dáng. Cô ả láu lỉnh, đã biết cách kết giao với chàng quý tộc cơ đốc Lorenzo, kẻ đã nhìn thấy nàng qua khung cửa sổ, mở xuống dòng kinh. Lão Shylock thù ghét và hoài nghi tất cả những tín đồ cơ đốc giáo, lại vừa khinh bỉ họ. Khi Bassanio đề cập đến chuyện vay tiền, Shylock xin được suy nghĩ lại :
- Ba nghìn đuy-ca (đồng tiền bằng vàng), thưa ngài Bassanio. Phải thế không ?
- Đúng thế. Trong thời hạn ba tháng.
- Trong ba tháng à ? Tốt !
- Như tôi đã nói, Antonio sẽ đứng ra đảm bảo số tiền đó.
- Antonio đảm bảo à ? Tốt.
- Ông có thể giúp tôi không ? Ông có thỏa mãn tôi không ? Kìa, sao ông không trả lời ?
- Ba nghìn đuy-ca, trong ba tháng với sự đảm bảo của Antonio. Antonio tốt lắm !
- Thế nào ? Có bao giờ ông nghe nói khác về ông ta đâu ?
- Không, không. Thế này nhé ! Khi tôi nói rằng ông ta tốt, tôi nghĩ là ông ta dư sức trả nợ, tuy nhiên sản nghiệp của ông ta bấp bênh quá : ông ta có một chiếc tàu cất hàng đi Tripoli, một chiếc khác bên Ấn Độ ; trên cầu Rialto, tôi được biết ông ta có một chiếc thứ ba ở Mexico, chiếc thứ tư ở bên Anh và nhiều chiếc khác nữa rải rác thật xa. Nhưng mấy chiếc tàu, xét cho cùng, chỉ là những mảnh ván, và thủy thủ chỉ là những con người. có chuột đồng thì cũng có chuột nước, trộm cạn và trộm biển, tôi muốn nói lũ hải tặc ấy mà, không kể những hiểm nguy trên đại dương, bão tố, đá ngầm. Song le, người ấy dư sức trả đủ. Ba nghìn đuy-ca. Tôi nghĩ sự đảm bảo của ông ta có thể chấp nhận được. Tôi sẽ tính lại. Tôi có thể trao đổi với ông Antonio không ?
- Nếu ông vui lòng đến dự cơm tối với chúng tôi. Bassanio đáp, lòng mừng khấp khởi, quên mất vẻ khinh thị chàng vẫn dành cho lão trước đây.
- Sao, để ngửi mùi thịt lợn à ! – Shylock hét lên giận dữ - Tôi thích mua bán với các người, bàn chuyện với các người và làm các thứ khác. Nhưng tôi không muốn ăn uống cùng các người, cầu nguyện cùng các người. Mà ai đến kia nhỉ ?
- Chắc hẳn là Antonio – Bassanio đáp.
- Hắn ta có vẻ đạo đức giả quá ! – Shylock lầm bầm trong miệng. Ta ghét hắn ta, chỉ vì hắn là tín đồ cơ đốc, nhưng cũng vì hắn cho vay không lấy lãi, làm hạ phân suất lãi ở Venise. Nếu ta nắm được hắn trong tay, ta sẽ mặc tình thao túng cho bõ ghét. Hắn nhạo báng ta, chuyện làm ăn của ta, và những món lợi ta thu được một cách chân chính. Mẹ kiếp ! Ta mà tha hắn thì trời đày bộ tộc ta đi !
- Ông nghe tôi nói chứ, Shylock ?
- Tôi đang nhẩm tính các số vốn có sẵn và thấy chắc phải mượn thêm phần nào của gã Do Thái trong bộ tộc tôi. Nhưng ngài hãy yên lòng – lão hướng về Antonio nói tiếp – Ba nghìn đuy-ca trong ba tháng ! Tính thử tiền lời xem nào.
- Thế là chúng tôi có thể trông cậy vào ông, phải không, Shylock ? – Antonio hỏi gặng.
- Thưa ngài Antonio, biết bao lần, trên cầu Rialto, ngài đã trách móc tôi cho vay nặng lãi, lần nào tôi cũng nhún vai không buồn trả lời, vì sự nhẫn nhục là đặc tính riêng của dân tộc tôi. Ngài đã cho tôi là phản giáo, chó ghẻ, ngài nhổ toẹt vào áo chùng Do Thái của tôi, tất cả chỉ vì tôi toan tính theo ý mình, những cái thuộc về tôi. Nhưng hôm nay, hình như ngài cần đến tôi và ngài phán : "Shylock, chúng tôi cần tiền". Lời ngài sao mà ngọt ngào, thế mà chính ngài đã nhổ vào râu tôi, đạp vào người tôi, như đạp một con chó hoang, lởn vởn trước cửa nhà ngài. Hẳn tôi phải trả lời ngài : "một con chó có tiền không thưa ngài ? Chó mà có thể cho ngài vay ba nghìn đuy-ca à ? Hay tôi phải cúi gập người xuống chân ngài và khép nép thưa : Bẩm ngài nhân từ, thứ tư rồi, ngài khạc vào mặt tôi, ngày kia, ngài đấm đá tôi túi bụi, một lần khác, ngài mắng tôi là đồ chó ; đáp lại những cách đối xử dịu dàng đó, tôi rất lấy làm vui sướng được cho ngài vay thật nhiều tiền !".
- Nếu ông cho ta vay số bạc đó – Antonio ngạo mạn nói – đừng xem như cho một người bạn vay mà cứ cho là như với kẻ thù. Như thế, nếu ta trễ hạn, ông sẽ có được cái thích thú đưa ta ra pháp luật.
- Tatata ! Ngài lại nổi nóng rồi !
Tôi bao giờ cũng ao ước được là bạn các ngài ! được các ngài ưu ái, và quên hết mọi nỗi nhục nhã trước công chúng, mà ngài đã gây ra, cung phụng cho yêu cầu hiện tại của ngài, và tất cả chẳng tính một xu lời. Ngài nghĩ sao về đề nghị của tôi ?
- Nó có vẻ lương thiện đấy, Antonio trả lời sửng sốt.
- Vậy thì ngài hãy cùng tôi đến phòng chưởng khế ký giấy tờ, có điều - Ồ ! hoàn toàn để vui đùa thôi ! – Tôi sẽ ghi vào văn bản rằng, nếu ngài không hoàn đủ lại tôi món tiền đó, tại nơi nào, vào ngày nào, ngài sẽ được xóa sạch nợ, thì để tôi xẻo một khoảnh thịt chỉ bằng một livre (một đơn vị đo trọng lượng gần bẳng nửa kilô) thôi, trên phần nào của cơ thể ngài mà tôi thích !
- Sẵn lòng, Antonio nói, tôi còn cho rằng người Do Thái thật tốt bụng !
- Anh không thể ký mảnh giấy như thế để giúp đỡ em, Bassanio xúc động, phản đối. Thà cứ để mặc em thiếu thốn còn hơn.
- Bậy nào ! Đừng lo gì cả. Tàu sẽ cập bến một tháng trước khi mãn hạn giao kèo và sẽ mang đến cho anh chín lần giá trị tờ giấy này.
- Thánh Abraham ơi ! – Shylock tức giận cầu khẩn – Ngài thấy bọn tín đồ Thiên Chúa giáo đấy ! Tôi sẽ được gì nào, khi đòi hỏi điều kiện kia ? Một livre thịt, lấy ra từ một người, nào có đáng giá bằng ngần ấy thịt cừu, thịt bò hay thịt dê. Điều tôi làm chính là để mua ân phúc của Ngài đấy, Abraham ạ !
- Được rồi, Shylock, ta sẽ ký giấy.
- Nếu thế, cứ đến chờ tôi ở phòng chưởng khế, tôi tạt qua nhà, lấy tiền và sẽ gặp lại ngài trong giây lát.
…
Những thương nhân ở Venise, chẳng mấy động lòng vì cơn điên giận của Shylock : họ xầm xì với nhau về tin đồn : một chiếc tàu của Antonio vừa bị đắm ở một chỗ cạn hiểm nghèo, giữa eo biển cách biệt hai nước Pháp và Anh. Những chiếc tàu khác ở Mexico, Tripoli, Barbarie và Ấn Độ thì bặt tin tức. Rồi họ bàn tán cãi vã về sự phá sản có cơ xảy ra. Shylock đâm khùng vì giận tủi, phun ra toàn những lời dữ tợn :
- Tên Antonio khốn kiếp ! quen miệng khoe khoang ngoài phố lại gọi ta là thằng cắt cổ thiên hạ ! Hãy coi chừng tờ giấy nợ. A ! Hắn cho vay không cần lãi, vì lòng nhân ái cơ đốc giáo ! Liệu mà coi chừng tấm giấy nợ !
- Nhưng dù cho hắn có khánh tận đi nữa – có người vặn lại – ông cũng sẽ chẳng lóc thịt hắn. Ích gì nào ?
- Để làm mồi cho cá – Shylock cười khảy – Nếu thịt của hắn chẳng nuôi được gì hơn, thì nó nuôi mối hận của tôi. Hắn cười cợt những lần tôi thua lỗ, hắn chế nhạo các món lợi của tôi, hắn nhục mạ xứ sở tôi, hắn chen vào cuộc làm ăn của tôi. Vì lý do nào chứ ? Chỉ vì tôi là một người Do Thái. Chẳng lẽ người Do Thái lại không có mắt, có tay, có đầy đủ giác quan với mọi thứ tình cảm và những nỗi say mê à ? Họ chẳng ăn cùng một loại thực phẩm như người Cơ đốc hay sao? Chẳng phải người Do Thái cũng bị thương tích bởi cùng những loại vũ khí, cũng mắc phải những căn bệnh và được chữa trị bằng những vị thuốc giống như người Cơ đốc đó sao ? Chẳng phải mùa hè người Do Thái cũng nóng bức, mùa đông cũng lạnh buốt y như các tín đồ Cơ đốc đó sao ? Nếu các người đâm, chúng tôi không chảy máu à ? Nếu các người cù, chúng tôi không cười à? Các người đầu độc, chúng tôi không chết à ? Nếu các người xúc phạm chúng tôi, chúng tôi lại không trả thù à ? Nếu các người giống chúng tôi những cái đó, thì bất luận cái gì chúng tôi cũng giống các người hết. Kìa, anh bạn Tubal, có tìm thấy con gái tôi không ?
- Tôi đã nghe nói nhiều về cô gái ấy, nhưng chẳng làm sao gặp được, bác Shylock ạ !
- Chưa bao giờ - Shylock kêu lên – chưa bao giờ dân tộc ta lại đáng nguyền rủa như hôm nay ! Hai nghìn đồng đuy-ca và biết bao tư trang quý giá của tôi ! Tôi muốn thấy đứa con gái ngỗ nghịch gục chết dưới chân, tai còn đeo nữ trang. Sao nó chẳng bị chôn vùi dưới chân tôi với những đồng đuy-ca của tôi trong quan tài của nó. Chẳng biết tôi còn phải hao tốn bao nhiêu nữa mới tìm ra được nó. Thật là họa vô đơn chí ! Chẳng chút thỏa nguyện ! Mà cũng chẳng báo được thù ! Chẳng có tiếng thở than nào như tiếng than thở của ta, chẳng nước mắt nào như nước mắt của ta !
- Còn nhiều kẻ khác đau khổ - Tubal an ủi – lão Antonio, theo như tôi biết ở Gênes …
- Gì thế ! Một tai họa ? Một tai họa thảm khốc à ?
- Lão ta vừa mất chiếc tàu từ Tripoli về.
- Tạ ơn Chúa ! Có thật không đấy ? Ối ! tin đáng mừng !
- Thiên hạ đồn rằng ở Gênes, con gái ông tiêu phí trong một đêm tám mươi đồng đuy-ca.
- Ngươi cắm dao găm vào ngực ta đó ! Ối ! Chẳng bao giờ còn được thấy lại vàng của ta !
- Tôi vừa tới Venise – Tubal nói tiếp – với các chủ nợ của Antonio, họ quả quyết rằng hắn chỉ còn cách tuyên bố phá sản thôi.
- Thật hả dạ. Ta sẽ làm cho hắn đau đớn. Ta sẽ hành hạ hắn.
- Có kẻ đưa cho tôi xem chiếc nhẫn mà con gái ông đánh đổi với y để lấy một chú khỉ.
- Con đốn mạt ! Đó là chiếc nhẫn lam ngọc của ta. Ta mua hồi thời còn trẻ. Ta chẳng bao giờ chịu mất nó, dù để lấy cả một sa mạc đầy những khỉ.
- Chắc chắn lão Antonio sẽ bị khánh kiệt.
- Thông báo ngay cho một viên quan tư pháp, trước mười lăm ngày. Nếu hắn không trả được nợ, ta sẽ lóc tim của hắn. Nếu hắn trốn khỏi Venise, ta sẽ tiến hành mọi việc theo ý ta. Nào nhanh lên, Tubal, rồi trở lại gặp ta. Đi đi, bạn chí thiết của ta !
Thời gian trôi qua, kỳ hạn đã tới. Antonio không trả được nợ, nhưng Bassanio đã chiếm được Portia. Chính đang lúc tràn trề hạnh phúc, tin tức về nguy cơ của người bạn đã nổ ra. Lorenzo trình diện với Portia cô vợ mới cưới Jessica, và trao cho Bassanio một lá thư khiến anh tái mặt khi đọc qua. Portia, người vợ yêu thương và quả cảm, đã ngăn lại những lời chúc mừng của các bạn mới đến, và tỏ ra lo lắng về nỗi khốn quẫn của chồng.
- Này Portia hiền dịu – Bassanio thành thực tỏ bày – anh có nói khi ngỏ lời yêu em, rằng anh là một vương tôn, nhưng tài sản duy nhất của anh là dòng máu lưu thông trong huyết quản. Anh là thằng bịp, vì của cải anh chẳng đáng đồng xu ! Anh bạn hiền từ, quảng đại Antonio của anh đã tự khép mình dưới quyền lực một kẻ thù hiểm ác nhất của anh ấy đã yểm trợ cho anh.
Thư này báo tin vụ thất lạc tàu bè của anh ấy, còn tên Do Thái từ chối không nhận tiền, trị giá tờ giấy nợ, vì trễ hạn. Hai mươi thương gia, bạn của Antonio, cả vị đại thống lĩnh (Doge : người đứng đầu nhà nước cộng hòa Venise và cộng hòa Gênes do bầu cử) nữa và các bạn nhân sĩ, đã hết lời thuyết phục lão, nhưng vô ích. Lão nói lão thích một livre thịt của Antonio hơn là hai mươi lần số nợ. Chỉ nghĩ đến đó, Portia đã kinh khiếp rụng rời.
- Anh ấy nợ lão Do Thái bao nhiêu ?
– nàng hỏi. Ba nghìn đuy-ca, vay cho anh.
- Sao ? Không hơn à ? Hãy trả lão sáu nghìn, gấp hai, gấp ba lần còn hơn là phải thấy người bạn thân thiết mất đi, dù chỉ một sợi tóc. Bassanio ạ ! Chúng ta hãy đến nhà thờ ngay, chịu phép cưới, để em chính thức là vợ anh, rồi anh hãy tức tốc trở về Venise. Em sẽ đưa anh đủ vàng để trả gấp hai mươi lần món nợ cỏn con ấy. Nhanh lên, anh thân yêu, hãy lên đường.
Lễ cưới vừa xong, Bassanio lên xe và ra đi, Portia, chẳng nói với ai lời nào, đã ngẫm nghĩ ra giải pháp. Giao biệt thự cho Lorenzo và Jessica trông nom, nàng bảo rằng sẽ rút vào tu viện để chờ đợi chồng về.
Ta gặp lại Bassanio bên cạnh Antonio, trước phiên tòa trang nghiêm, dưới quyền chủ tọa của vị Đại thống lĩnh. Người ta đưa Shylock vào và vị Đại thống lĩnh liền đi ngay vào vấn đề, vừa giả vờ tin chắc rằng lão Do Thái chẳng thiết gì đến việc thưa kiện Antonio để đòi hỏi việc trả nợ vô nhân đạo, như đã ghi trong giấy. Shylock chẳng chút bận tâm gì đến tình cảm. Lão chỉ cần biết lão có đủ quyền không ? Nếu lão vẫn thích được một livre thịt thay vì ba nghìn đuy-ca, hay sáu nghìn do Bassanio đưa, hay thậm chí sáu lần số tiền sáu nghìn đó, thì luật pháp ở Venise có quyền chống lại không ? Đó là câu hỏi duy nhất lão đặt ra trước tòa.
Đại thống lĩnh cho đòi nhà thông thái, cố vấn pháp luật nổi tiếng Bellario, để giải quyết vấn đề hóc búa này. Người ta nóng lòng chờ ông. Ngay lúc đó, trong khi Antonio cam chịu, xin cứ để lão Do Thái thỏa mãn thù hận và Shylock thì mài con dao sắc. Người ta loan báo có một sứ giả từ Padoue đến, mang theo lá thư của vị bác học. Một viên thư ký luật sư mặt non choẹt dưới chiếc mũ vải đen gấp nếp, bước vào trình thư lên Đại thống lĩnh.
- Ngài Bellario – Đại thống lĩnh tuyên bố - tiến cử trước tòa một nhà bác học trẻ, đồng nghiệp của ngài. Ông ấy đâu ?
- Gần đây thôi, đang chờ Đức Ngài phúc đáp – viên thư ký kính cẩn thưa, và chúng ta nhận ra viên thư ký đó chính là cô hầu Nérissa.
- Cho mời vào, nhà bác học Balthazar sẽ thay thế Bellario, hiện lâm bệnh. Chưa bao giờ người được thấy một nhà bác học uyên thâm mà lại trẻ măng như thế này. Ông ấy kia ! Xin chúc mừng. Mời tôn ông an vị. Tôn ông đã có thẩm cứu vấn đề làm bận trí phiên tòa hôm nay rồi chứ ?
- Tôi biết rõ vụ kiện trong từng chi tiết – Balthazar nói, giọng sao giống giọng của Portia đến kỳ lạ
- Ở đây, ai là lái buôn và ai là người Do Thái ?
- Antonio và Shylock, cả hai đến gần đây.
- Shylock, ông đã khởi tố trước tòa một vụ kiện lạ lùng hy hữu, nhưng ông đã làm đúng thủ tục đến nỗi pháp luật ở Venise, không thể nào ngăn cản ông đeo đuổi vụ kiện. Còn ông, Antonio, ông có nhìn nhận giấy nợ này không ?
- Tôi thừa nhận, người lái buôn trả lời, giọng uể oải.
- Như vậy thì người Do Thái này phải có lòng khoan dung mới được.
- Nhưng ai có quyền buộc tôi phải khoan dung kia chứ ?
- Không thể cưỡng ép sự khoan dung được, ông Shylock ạ. Như cơn mưa ấm trên cánh đồng, nó rơi xuống để mang lại hạnh phúc cho kẻ nhận, cũng như người cho. Đó là một trong những biểu hiện của Thượng đế. Ông nghĩ xem, nếu không có khoan dung, chẳng có ai trong chúng ta mong được cứu rỗi. Hãy giảm bớt tính nghiêm khắc trong lời truy tố, nếu ông cứ cương quyết, buộc lòng pháp đình phải nghị án, chống người lái buôn.- Tôi chịu trách nhiệm hoàn toàn về hành động của tôi, tôi yêu cầu pháp luật.
- Antonio lâm vào tình trạng không trả nổi nợ à ? – Balthazar dò hỏi.
- Sao ? Bassanio nóng nảy chen vào. – Tôi xin trả cho Shylock, có cả phiên tòa chứng kiến, hai lần, mười lần số nợ. Hiển nhiên ở đây sự độc ác đang bóp chết sự vô tội. Tôi xin khẩn thiết thỉnh cầu các ngài, hãy đặt pháp luật dưới uy quyền các ngài. Xin hãy chọn một bất công nhỏ để mang lại một sự công bằng cao cả. Xin hãy bác lời yêu sách của con quỷ độc ác kia.
- Không một quyền lực nào ở Venise, - Balthazar trịnh trọng nói, - có thể sửa đổi một sắc lệnh đã ban hành.
- Chính một Đaniel2 đến đây phán xử chúng ta, Shylock kêu lên, hồ hởi. Ôi, vị pháp quan trẻ trung và sáng suốt, xin được kính cẩn nghiêng mình bái phục tôn ông.
- Đưa văn tự ta xem.
- Đây ạ, thưa nhà bác học vô cùng đáng kính.
- Này, Shylock, người ta trả ông gấp ba lần số nợ nhé !
2 một nhân vật chính quyển Thánh Kinh cùng tên. Bị lưu đày ở Babylon, ông một mực tuân hành pháp luật. Ông được xem như tiền thân của Đấng Christ và nhà tiên tri đại tài nhờ khoa đoán mộng.- Tôi đã trót thề với trời đất. Chẳng lẽ lại để lương tâm phải ray rứt vì sự bội ước. Dù cho được cả Venise, tôi sẽ chẳng bao giờ làm thế. Khi giấy nợ được thanh toán đúng như điều kiện trong đó, tôn ông có thể xé bỏ. Tôn ông là một quan tòa công minh, tôn ông đã trần thuật chính xác xự việc của tôi. Nhân danh luật pháp, tôi yêu cầu tôn ông phán quyết ngay.
- Tôi khẩn thiết van nài quý tòa cứ tiến hành xét xử, Antonio đáng thương, nhẫn nại lên tiếng.
- Vậy thì – Protia (kẻ hóa thân bác học Balthazar) hạ lệnh với vẻ buồn bã – ông chuẩn bị đưa ngực ra mà nhận nhát dao.
- Ồ ! Vị thẩm phán cao quý ! Ồ !
Người trai trẻ tài ba. Ôi ! Bậc thánh hiền, liêm khiết ! Tôn ông già giặn hơn là vẻ mặt bên ngoài. Văn tự đã ghi rõ. Ngực hắn ! Gần sát bên tim hắn. Chữ nghĩa thật minh bạch.
- Ông có sẵn cân ở đấy chứ, để cân thịt ?
- Tất cả đã sẵn sàng – Shylock vội vã nói.
- Và một chuyên viên phẫu thuật do ông đài thọ chi phí, để băng vết thương lại, vì e rằng con nợ của ông sẽ chết vì mất máu.
- Điều ấy không hề ghi trong văn tự. Tôi cố tìm nhưng chẳng thấy điều đó trong văn tự.
- Tôi đã sẵn sàng và có đủ can đảm. – Antonio cất giọng ảo não. Bassanio, đưa tay đây ! Đừng sầu khổ làm gì, định mệnh đã muốn anh thoát khỏi nỗi nhọc nhằn và ray rứt của tuổi già. Hãy kể với người vợ cao quý của chú về anh, nói với nàng anh đã thương mến chú biết bao. Anh bằng lòng trả cho lão Do Thái tất cả máu của tim anh.
- Anh Antonio ơi – Bassanio cuống cuồng hét lên – em đã cưới được một người vợ mà em yêu quý hơn cả cuộc đời em, nhưng em bằng lòng mất tất cả, vợ em, đời em và cả thế gian này để giải thoát anh khỏi con quỷ khát máu kia.
- Vợ nhà ngươi – Portia dịu dàng nói – chắc chẳng ơn ngươi chút nào, nếu nàng nghe ngươi nói.
- Tôi cũng rất yêu vợ tôi – Gratino phụ họa thêm – Nhưng tôi muốn thấy nàng trên trời để nàng có thể cầu xin đấng vạn năng nào đó làm động lòng tên Do Thái ác độc này.
- Ngươi nói thế trong lúc vắng nàng là đúng – Nérissa cất giọng khô khan, lãnh đạm – nếu không, ước nguyện của ngươi chắc sẽ gây sóng gió trong gia đình người đó.
- Chúng ta mất quá nhiều thời giờ !
– Lão Shylock cắt ngang – Tuyên án đi, tôi van tôn ông.
- Một livre thịt thuộc về ông ! Tòa án đã tuyên xử, luật pháp cho phép ông. Và ông phải xẻo giữa ngực.
- Ồ ! Quan tòa công minh ! Quan tòa thông thái ! Đó là phán quyết. Nào, chuẩn bị đi.
- Khoan đã. Chưa hết đâu. Văn tự không chấp nhận cho một giọt máu nào cả : lời lẽ thật rõ ràng. Hãy nhận cái gì thuộc về ông, một livre thịt, nhưng nếu ông làm rơi một giọt máu Cơ đốc, luật pháp ở Venise sẽ truyền lệnh tịch thu toàn bộ tài sản của ông cho Nhà nước cộng hòa.
- Ồ ! Vị thẩm phán công minh ! – Gratiano thở ra nhẹ nhõm, trút bỏ được mối ưu tư – Này lão Do Thái ! Quan tòa thông thái đấy chứ !
- Luật pháp thế à ! – Shylock kinh hoàng, hỏi lại – Nếu thế, tôi xin nhận số tiền của hắn. Ba lần số nợ, rồi cứ mà tha cho tên Cơ đốc.
- Thong thả đã ! Portia nói với Bassanio (chực đưa tiền ngay cho Shylock) – Chớ hấp tấp ! Những điều khoản trong văn tự phải được thực hiện từng chữ.
- Ồ ! Lão Do Thái ! Quan tòa thông minh thật ! – Gratiano nhấn mạnh.
- Chuẩn bị cắt thịt đi. Đừng cho rơi máu đấy. Nếu người cắt quá hay kém một livre, dù chỉ bằng một phần hai mươi hột thóc hay sức nặng một sợ tóc, ngươi phải chịu tử hình và tài sản bị tịch thu.
- Một Daniel thứ hai, lão Do Thái ơi, đúng là một Daniel !
- Trao cho tôi phần nợ chính để tôi đi, Shylock hầm hừ.
- Đương sự đã từ chối trước tòa – Portia dõng dạc nói. – Hắn sẽ nhận được những gì hắn xứng được như vậy. Hắn phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về hành động của hắn.- Sao cơ ? Tôi không được cả phần nợ chính nữa à ? Thế thì để quỷ ma trả cho hắn tờ giấy nợ. Tôi chẳng muốn lưu lại đây làm gì mất cả thì giờ.
- Khoan đã. Shylock ! Luật pháp Venise quy định rằng, nếu một người ngoài xâm phạm đến tính mạng một công dân, dù dưới hình thức nào, phân nửa tài sản kẻ đó phải giao cho đối thủ hắn, phân nửa kia sung vào công quỹ. Chỉ có Đại thống lĩnh mới có quyền ân xá tội chết. Ngươi đã phạm các tội đã viện dẫn. Hãy quỳ xuống mà thỉnh cầu sự khoan dung của Đại thống lĩnh.
- Để ngươi hiểu rõ sự khác biệt giữa tâm hồn chúng ta – Đại thống lĩnh phán với lòng bao dung – ta không đợi ngươi cầu xin rồi mới ban cho ngươi mạng sống. Phân nửa tài của ngươi giao thẳng vể Antonio, còn phân nửa kia, nhà nước sẽ chỉ thu tiền phạt, nếu ngươi chấp hành nghiêm chỉnh.
- Xin lấy cả mạng sống tôi đi – lão Do Thái ủ rũ nói – Đức Ngài lấy đi mọi phương tiện mưu sinh, khác nào Đức Ngài lấy đi mạng sống của tôi.
- Xin cứ để lại cho lão phân nửa gia sản – Antonio hào hiệp nói. – Tôi đủ hài lòng rồi. Phân nửa kia, tôi xin được quyền lấy làm của hôi môn cho con gái lão.
- Tôi bằng lòng – Shylock cuống quýt, hả hê vì lại thoát nạn dễ dàng đến thế. Nhưng cho phép tôi lui. Cứ gởi giấy tờ đến nhà, tôi ký tất. Tôi cảm thấy trong người không được khỏe.
- Xin Đức Ngài miễn thứ cho – bấy giờ Balthazar mới lên tiếng cáo từ Đại thống lĩnh. – Ngay tối nay, tôi phải về đến Padoue.
- Cho phép tôi được trả thù lao tôn ông bằng tất số ba nghìn đuy-ca tiền nợ của lão Do Thái, - Bassanio, vui mừng quá đỗi, bèn đề nghị.
- Cứu được ông bạn ông là tôi mãn nguyện lắm rồi. Nhưng nếu ông cứ khăng khăng đòi đền ơn đáp nghĩa, hãy trao tôi chiếc nhẫn ông đang đeo trên tay, để chứng tỏ chút thâm tình.
- Ơ kìa ! Có đáng gì đâu, cái món vật này. Tôi sẽ cho tìm chiếc nhẫn đẹp nhất Venise để kính dâng tôn ông. Còn cái này, mong tôn ông vui lòng miễn thứ.
- Tôi thấy rõ ông chỉ rộng rãi trong lời hứa, nhưng thôi được, thưa ông. Chúc ông được bình an.
Portia bước đi với vẻ đường hoàng, nhưng hơi phật ý. Antonio áy náy, tha thiết van nài Bassanio : ta chẳng làm được gì để đền ơn xứng đáng cho vị cứu tinh của mình sao ? Đến nỗi Bassanio ríu ríu cởi nhẫn trao cho tên hầu Gratiano mang đến cho nhà thông thái Balthazar, rồi hồi hộp nghĩ đến lúc về đến Balmont.
Trong khu vườn vằng vặc ánh trăng, tiếng nhạc êm dịu từ lâu đài vẳng đến : người ta đang chờ Portia vì nàng có báo trước ngày về. Đôi vợ chồng son, Jessica và Lorenzo, ngồi trên thảm cỏ nhung, nhìn bầu trời lấp lánh muôn sao, vừa đùa nghịch nhau, vừa nhớ lại những chuyện tình đẹp nhất, rồi Lorenzo say sưa giải thích cho Jessica nghe về sự hài hòa giữa các tinh cầu và mớ lý thuyết về âm nhạc của anh. Chính lúc đó, Portia bắt gặp họ. Suốt quãng đường về, mỗi lần gặp một mô đất có dựng thập tự, nàng đều thành tâm quỳ xuống, cầu nguyện xin trời ban phúc cho cuộc hôn nhân của mình.
Khoảnh khắc sau đó, Bassanio về tới, giới thiệu anh bạn Antonio với vợ, được nàng đón tiếp thật ân cần, nồng hậu. Buổi tiệc hội ngộ bỗng gián đoạn vì những lời qua tiếng lại, dấm dẳng giữa Nérissa và Gratiano : họ to tiếng và ta nghe Nérissa kịch liệt đòi lại chiếc nhẫn cô đã trao cho Gratiano mà anh chàng thề thốt sẽ giữ mãi. Thế mà giờ đây anh chàng lại bảo rằng biếu nó cho viên thư ký của nhà bác học Belthazar, để đền đáp công lao khó nhọc.
Portia nghiêm nghị lắc đầu :
- Gratiano, cậu thực đáng trách, cậu đã xử sự nông nổi đối với kỷ vật đầu tiên của vợ mình. Ta cũng có tặng ngài Bassanio của ta một chiếc nhẫn, và ta có thể thể nói thay chàng rằng chẳng bao giờ chàng lại chịu để mất nó vì bất cứ cái gì trên đời.
- Ấy đấy, - Gratiano kêu lên, quá mừng rỡ vì đã có dịp tự biện hộ - chính ngài đã tặng cho bác học Belthazar chiếc nhẫn ; kể ra ông ấy cũng rất xứng đáng, vả chăng, ông ta chẳng chịu nhận cái gì khác cả.
Bassanio rụng rời, loay hoay tìm đủ cách bào chữa, giải thích hoàn cảnh éo le của mình, nhưng Portia kiêu hãnh, lạnh lùng, chẳng muốn nghe gì cả. Antonio quá khổ sở, vì chính mình là nguyên nhân của mối bất hòa, muốn làm trung gian hàn gắn hai người. Portia giả vờ xiêu lòng và nhờ anh trao lại cho Bassanio chiếc nhẫn khác. Lần này Bassanio rối rít thề thốt, quyết gìn giữ nó đến hơi thở cuối cùng. Khỏi phải nói, hắn ta cũng biết rằng, Bassanio đã nhận ra chiếc nhẫn, còn Portia nói rõ trò giả trá và vai trò của mình trong việc bảo vệ cho Antonio : Nérissa và Gratiano, những nô bộc trung tín, đã vui vẻ giảng hòa và đêm tàn theo tiệc cưới, trước đây đã bị đình hoãn vì câu chuyện bi thảm của người lái buôn thành Venise.
(Trích đoạn "Người lái buôn thành Venise, nguyên tác : Le Marchant de Venise của đại văn hào Shakespeare, bản dịch của Nguyễn Bích Như và Trương Tùng, Hội Văn Học Nghệ thuật Quảng Nam – Đà Nẵng, xuất bản năm 1986)
Nhận định
a. Summum Jus ở đây là tinh thần thượng tôn pháp luật cách tuyệt đối : "Án tại hồ sơ", không sai một chấm một phảy trong luật pháp. Quan tòa đã phán : "Không quyền lực nào có thể thay đổi những điều đã quy định trong luật".
Lão Shylock cũng chỉ đòi có thế thôi, nên ông đã không chấp nhận khoản đền bù vì sai hẹn lên tới 9, 10 lần. Ông còn tuyên bố đổi cả thành Venise này để du di hợp đồng ông cũng không chịu, "luật là luật, cái gì đã viết là viết" (Ga 19,22). Đây là cơ hội Shylock trả thù Antonio cho danh dự của mình và dân tộc mình hơn là vụ kiện về tiền bạc.
b. Summa Injuria ở đây lại chính là sự bất công mà Shylock phải chịu khi quan tòa cứ đúng hợp đồng mà xử. Khi thấy đuối lý, Shylock năn nỉ xin lại chút tài sản của mình, mọi chuyện cho qua hết cũng không được. Thế là ông mất trắng 3000 đồng vàng, may mà Antonio còn "bác ái" dành nửa phần gia tài của lão chủ ngân hàng keo kiệt làm của hồi môn cho con gái lão, chứ nếu "thẳng thừng" ra thì lão mất hết, kể cả cái mạng già của lão. Tất cả đều do thiếu lòng bao dung mà ra cả.
3. Ngày hưu lễ vì con người – Trích "Nhật Ký Truyền Giáo" của Linh mục Ngô Phúc Hậu, tủ sách Đại Kết, NXB Tp.HCM 1996, trang 41-43.
Năm Căn, 16/8/1971
Ông Chín Kiểu năm nay đã ngót nghét bảy mươi. Ông mở quán nước ngay trước giáo điểm. Cứ sau mỗi giờ dạy học, mình lại đến đây nói chuyện dông dài với ông. Tuy là chuyện dông dài nhưng lại xoáy vòng trôn ốc. Hôm nay đường trôn ốc đã kết thúc, mình đi thẳng vào vấn đề.
- Nghe nói ông Chín có đạo phải không ?
- Ừa, hồi nhỏ tôi theo đạo Cha. Nhưng bỏ xưng tội mấy chục năm nay rồi.
- Vậy thì Chúa nhật tới này tôi mời ông Chín đi lễ nghe.
Câu nói của tôi như một tiếng sét làm rung chuyển trời đất. Ông Chín khóc hụ lên. Hai dòng lệ chảy xối xả. Hai môi giật giật như người động kinh. Tôi hoảng sợ ngồi chết trân. Năm phút sau, ông Chín lấy lại bình tĩnh và kể chuyện :
- Cha tôi đạo dòng, bỏ Hòa Thành xuống Cái Keo làm ăn. Con cái sinh ra đều lấy vợ chồng ngoại. Cha sở Hòa Thành phạt cha tôi không cho xưng tội rước lễ. Đến khi già yếu, biết mình không còn sống bao lâu nữa, ổng chèo xuồng 30 cây số từ đây lên tới Hòa Thành chầu chực suốt tuần thánh, năn nỉ xin xưng tội rước lễ mà không được. Ổng đành chèo xuồng trở về. Ổng buồn rồi ổng chết. Cha tôi chết không được chôn trong đất thánh.
Nói đến đây ông lại khóc hụ lên một lần nữa. Ông mếu máo nói với giọng hằn học :
- Cha tôi có làm điều gì thất đức đâu mà Hội Thánh đang tâm đày đọa ổng đến độ già rồi mà vẫn còn xua đuổi, chết rồi mà vẫn còn ghét bỏ …
Bầu khí ngộp thở. Tôi cáo từ ra về, lòng buồn man mác.
Năm Căn, 17/8/1971
Hôm nay mình đến thăm ông Chín Kiểu, hy vọng xoa dịu nỗi đau của ông. Nhưng trên cổ ông đã xuất hiện hình Đức Phật sáng chói. Thế là xong ! Lối vào đời ông đã bị kéo dây chì gai rồi !
Ổng đeo ảnh Phật để quyết liệt từ chối trở về với Chúa. Ổng đeo ảnh Phật để cảnh cáo mình : "Từ nay đừng khuyên tôi trở lại đạo nữa …".
Sau mấy chục năm bị nỗi đau cắn xé, hôm nay ông Chín đã xổ ra được. Giờ này có lẽ ông đang ngủ ngon. Trong giấc mơ những ngón tay ông đang mân mê ảnh Đức Phật từ bi. Còn mình thì giờ này vẫn chưa ngủ được. Một nỗi đau rấm rứt vừa xuất hiện và có lẽ nó sẽ cắn xé lương tâm của mình suốt đời.
Mình lan man nghĩ đến chuyện xưa. Tại giáo điểm nọ, bà Năm khuyến khích chồng con theo đạo, còn bà thì cứ khất lần. Mình dồn bà vào chân tường, nên bà đành tiết lộ nỗi lòng thầm kín. Bà kể :
"Hồi tôi còn bé, trong xóm tôi người ta theo đạo nhiều lắm. Ông cha Tây dạy : Theo đạo thì không được để bàn thờ ông bà. Sau ngày Rửa tội linh đình, ổng đi thăm các gia đình đạo mới. Tới một gia đình nọ, vừa tới cửa là ổng dậm chân bẹt bẹt, miệng la hét : Tại sao chưa cất cái bàn thờ kia ? Ổng nhất định không bước chân qua ngưỡng cửa cho tới khi cái bàn thờ ông bà bị khiêng bỏ ra nhà sau …".
Câu chuyện bà Năm kể còn dài lắm. Nhưng vừa nhớ đến chỗ cái bàn thờ bị khiêng bỏ ra nhà sau, mình cảm thấy có cái gì đăng đắng ở miệng, nghèn ngẹn ở cổ. Bây giờ mình mới hiểu được nỗi lòng của ông Chín. Ông Chín là người con có hiếu. Vì thương cha, ông hận Giáo Hội. Cha sở Hòa Thành tôn trọng luật lệ, nhưng không tôn trọng tình cảm của con người. Chỉ có ông Chín mới hiểu được rằng cha ông không thể không cưới vợ ngoại cho con và gả con cho người ngoại, bởi lẽ cha ông sống cô thân giữa vùng chỉ có người ngoại. Cũng chỉ có ông Chín mới thấy được cái tủi hận của một ông lão già gần đất xa trời mà không được xưng tội rước lễ. Chỉ có ông Chín mới cảm thấy cái đau đớn khi bị từ chối không được chôn cha mình trong đất thánh, nơi mà cha ông hằng mong ước.
Cha sở sau khi quyết liệt từ chối không cho ông lão già xưng tội rước lễ thì lòng vẫn an vui. Và sau khi quyết liệt từ chối không cho ông lão già chôn trong đất thánh, thì lương tâm vẫn bình thản. Đó là luật, luật của Hội Thánh.
Mình cay đắng tự hỏi : "Luật vị luật hay luật vị nhân sinh ? Con người vì ngày hưu lễ, hay ngày hưu lễ vì con người ?".
Đường lối mục vụ ấy có nên tồn tại nữa không ? Và các nhà truyền giáo có quyền áp đặt một thứ mục vụ như thế trên các tân tòng không ?
Nhận định
a. Giáo luật cũ 1917 có nhiều khoản phạt vạ "dứt phép thông công", một hình phạt khai trừ những phần tử vi phạm những khoản luật nặng, nhằm mục đích "răn đe" là chính. Cha sở Hòa Thành "thượng tôn pháp luật", cứ luật mà xử, không xét tới hoàn cảnh một gia đình Công giáo lọt vào giữa những anh chị em tôn giáo bạn, lại ở vùng sâu vùng xa hẻo lánh, thiếu phương tiện đi lại, có khi cả đời người không đi khỏi thôn, khỏi xã, tìm đâu ra người Công giáo để cưới vợ, gả chồng cho con ? Ông già tội nghiệp cũng muốn giữ đạo lắm chứ, thế mà kết cục đã trở thành nạn nhân của tinh thần "thượng tôn luật pháp".
b. Trước mặt người đời, ông già tội nghiệp phải chịu hình phạt "dứt phép thông công", nhưng với thiện chí và nhiệt tâm "chèo thuyền 30km lên Hòa Thành, chầu chực suốt Tuần thánh để được xưng tội rước lễ" mà Cha sở không cho. Nhưng chắc chắn Chúa đã thấu hiểu nguồn cơn, đã tha thứ cho ông và đã ban sự sống đời đời cho ông, dù thân xác ông có bị "cấm vận", không được chôn trong nghĩa trang Công giáo, nhưng đâu chẳng là đất thánh của Chúa ! Quả thật Summum Jus, Summa Injuria vậy.
c. Còn chuyện bà Năm thì từ hồi mới truyền giáo và mãi về sau này có một sự hiểu lầm về việc tôn thờ, một sự hiểu lầm tai hại đã dẫn đến bao nhiêu cuộc bách hại đạo Chúa. Đạo dạy chỉ thờ một Chúa Trời duy nhất, đúng nguyên tắc : "trung thần bất sự nhị quân" (không làm tôi hai chủ), nên không thể có một bàn thờ nào khác được, như thế là "nửa nạc nửa mỡ", làm cớ cho nhiều người noi theo, nên thái độ của ông cố Tây là kiên quyết bảo vệ "đạo lý", mà không hiểu bàn thờ ông bà chỉ là hình thức hiếu thảo như đạo Chúa dạy. Càng ngày giáo lương càng nhất trí với nhau là vừa thờ Chúa, vừa theo văn hóa dân tộc cúng bái để tỏ lòng hiếu kính tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Chỉ vì "hẹp hiểu" mới nên nỗi. Ôi
Summum Jus, Summa Injuria !
4. Thủy điện xả lũ "thần tốc", hạ lưu biến thành biển nước – Báo Thanh Niên ngày 9/11/2011.
Thủy điện Sông Tranh 2 xả lũ với mức 5.000 m3/giây (432 triệu m3/ngày), dù thông báo nhưng người dân vẫn không đối phó kịp. Toàn bộ hệ thống điện trên địa bàn bị cắt nguồn, người dân phải di tản trong đêm tối.
Rạng sáng 8/11, đỉnh lũ trên hai sông Vu Gia, Thu Bồn lên rất nhanh và đều vượt mức báo động 3 từ 0,3 - 0,8m do mưa to kéo dài cộng với các hồ thủy điện xả lũ với lưu lượng lớn suốt đêm 7/11. Đến 2 giờ sáng 8/11, lũ tràn qua QL1A, gây ngập sâu ở 7 điểm tại địa bàn Quế Sơn, Duy Xuyên, Điện Bàn …, gây ách tắc giao thông nghiêm trọng.
Hàng ngàn người chạy lũ trong đêm
Người dân ở H.Nông Sơn đã phải chạy lũ trong đêm, bắt đầu từ 21 giờ 30 tối 7/11, do nước lũ lên nhanh tràn vào trung tâm huyện. UBND huyện đã thông báo khẩn trên đài truyền thanh về thủy điện Sông Tranh 2 xả lũ với mức 5.000 m3/giây, nhưng người dân vẫn không đối phó kịp. Toàn bộ hệ thống điện trên địa bàn bị cắt nguồn, hơn 7.000 người di dời khẩn cấp trong đêm. Gần 100 ngàn ngôi nhà ở các huyện Nông Sơn, Thăng Bình, Điện Bàn, Duy Xuyên, Hội An, Đại Lộc ... bị ngập sâu từ 1,5 đến 2m. Nặng nhất là 2 huyện Duy Xuyên và Điện Bàn, mỗi nơi có trên 20 ngàn ngôi nhà ngập sâu trên 1,5m. Tại xã Duy Vinh (Duy Xuyên) có đến 90% ngôi nhà bị ngập sâu.
Nhận định
a. Xả lũ để bảo vệ thủy điện, đã thông báo trước 2 giờ là đúng quy định của Nhà nước. Nhân viên nhà máy thủy điện không có lỗi khi làm đúng quy định và dĩ nhiên không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc xả lũ.
b. Thực tế thì không thể cân đo, đong, đếm những thiệt hại do trận lũ này : 24 người chết, hàng ngàn ngôi nhà bị ngập, bị cuốn trôi, hàng ngàn người chạy lũ trong đêm … tài sản bị mất mát, phá hỏng chưa thể tính được.
Ôi Summum Jus, Summa Injuria !
5. Bài tường thuật của phóng viên
Vũ Toàn trên báo Tuổi Trẻ ngày 10/11/2008, về trường hợp vợ chồng anh Thái, ngụ tại thôn 4, Lý Bắc, xã Thăng Bình, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa, cả nhả khốn đốn vì sinh con thứ ba, bị phạt 200 kg thóc cộng thêm nợ thuế …
(Đọc lại Suy Nghĩ Vẩn Vơ tập 1 từ trang 24–32)
Nhận định
Xét cho cùng, UBND xã Thăng Bình (lúc đó) cũng chỉ hơi "mạnh tay" thi hành phép nước mà thôi. Quy định hình phạt sinh con thứ ba và 17 khoản thuế tại địa phương là "phép nước", UBND có bổn phận phải thi hành, nhưng cũng chính tại "quá thượng tôn pháp luật" mà gây nên bao hệ lụy bất công : "Người làm khổ người" – Ôi Summum Jus, Summa Injuria !
6. Trường hợp cai ngục Khmer Đỏ Kaing Guek Eav – thường gọi là Duck.
Duck cai quản nhà tù S21 (nguyên là trường trung học Tuol Sleng), người viết đã có dịp thăm nơi này vào năm 1990. Các phòng học chất đầy sọ và xương người cùng những công cụ tra tấn, sát hại … Số nạn nhân ở đây là 18.000 người.
Thế mà tòa án quốc tế xử mấy năm trời, tốn cả chục triệu dollars, cuối cùng cuối tháng 2/2009 ra được bản án 35 năm tù (vì Campuchea không có án tử hình). Năm nay Duck đã 80 tuổi, vậy căn cứ vào pháp luật thì đó là hình phạt tối đa (có nghĩa là cho ông "dưỡng già" mấy năn thôi !). So với tội diệt chủng : 14.000 sinh mạng, trước khi chết còn phải chịu bao nhiêu hình khổ dã man : mổ bụng, trấn nước, đốt cháy, đập đầu, móc treo, kềm kẹp, … hỏi rằng công bằng ở đâu ?
Nhận định
a. Xử tội thì phải theo luật nước : mức cao nhất là Summum Jus.
b. Tội thì quá nặng mà không có quy định hình phạt tương xứng trong luật pháp – té ra luật lại "bênh vực" tội nhân !
Ôi Summum Jus, Summa Injuria !
(Đọc lại Suy Nghĩ Vẩn Vơ tập 1 trang 49–54)
7. Trường hợp Lê Văn Luyện – Cuối tháng 8/2011, một vụ cướp của, giết người khủng khiếp xảy ra ở Bắc Giang, tiệm vàng Ngọc Bích bị cướp, 2 vợ chồng chủ tiệm và 1 đứa con nhỏ bị giết, 1 đứa con bị thương rất nặng, sống sót được đưa vào bệnh viện cấp cứu, tài sản bị lấy đi … Kẻ gây nên tội là Lê Văn Luyện, chưa đầy 18 tuổi, người cùng huyện. Sau khi thực hiện vụ cướp trót lọt, Luyện đã trốn sang Trung quốc, nhưng vì không có người quen nên lại trở về Việt Nam, tá túc nơi bà con ở gần biên giới, và đã bị bắt vào khoảng 16g30 ngảy 31/8/2011, tại khu vực mốc số 1057, xã Thuy Hùng, huyện Văn Lãng, Lạng Sơn. Luyện đã khai nhận một mình thực hiện vụ cướp và sát hại cả nhà chủ tiệm vàng Bích Ngọc, nhất là hành vi giết trẻ nhỏ rất dã man.
Công an hiện đang hoàn tất hồ sơ vụ án, nhưng theo nhận định ban đầu của luật sư Nguyễn Huy Thiệp (Đoàn luật sự Tp. Hà Nội) thì : dưới 18 tuổi không bị xử tử hình – Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì người vị thành niên (dưới 18 tuổi) không bị xử tử hình, tù chung thân đối với mọi hành vi phạm tội. Luật của chúng ta tính theo ngày, phải đủ tròn 18 tuổi mới phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về mặt hình sự. Sở dĩ có quy định này do bản chất người vị thành niên nhận thức chưa đầy đủ nên pháp luật của ta có quy định như vậy. Trong vụ án giết người, cướp tài sản này, nếu nghi can Lê Văn Luyện chưa đủ tròn 18 tuổi (theo hồ sơ lưu tại nơi cư trú và học bạ tiểu học thì Luyện sinh ngày 18/10/1993) thì khung hình phạt mà pháp luật Nhà nước ta quy định như vậy và phải tuân thủ quy định của pháp luật, dù tội ác đến đâu cũng không thể xử tử hình hay chung thân được. (Minh Quang, Anh Quang, Thân Hoàng – Báo Tuổi Trẻ 01/9/2011).
Nhận định
a. Tòa án chưa xét xử, chúng ta chưa biết kết quả ra sao, nhưng biết chắc tòa sẽ xử theo luật hình sự của nước ta.
b. Quy định dưới 18 tuổi không bị xử tử hình, chung thân đối với mọi hành vi tội phạm, đây là vấn đề nhân đạo với lý do chưa đủ tuổi thành niên thì chưa đủ chín chắn trong suy nghĩ và hành động.
Trường hợp Lê Văn Luyện quả thực còn thiếu chừng 2 tháng nữa mới tròn 18 tuổi (theo luật), nhưng thực tế cả về thể xác lẫn trí tuệ, Luyện đâu có "non" – một mình giết ba người, chém gần chết một người, cướp được tài sản, tiến trình thực hiện tội ác có tính toán, bài bản, đầy thủ đoạn gian ác. Âm mưu và hành động trót lọt như vậy thì trí tuệ của Luyện đâu có "vị thành niên" tí nào.
Tình huống pháp lý đặc biệt
Chưa hết bàng hoàng về hành vi man rợ của kẻ thủ ác trong vụ án, dư luận đang bức xúc khi có nhiều ý kiến của các luật sư cho rằng không thể xử tử hình hung thủ vì đương sự dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, đây là một tình huống pháp lý đặc biệt ...
Sự tàn bạo trong vụ thảm sát tiệm vàng ở Bắc Giang đã đạt đến đỉnh điểm. Điều làm mọi người thấy nhẹ lòng đôi chút là lực lượng công an đã nhanh chóng bắt giữ hung thủ Lê Văn Luyện. Nhưng mấy ngày qua, một vấn đề pháp lý nảy sinh khiến cho dư luận không khỏi ray rứt. Đó là kẻ thủ ác thiếu chừng hai tháng nữa mới đủ 18 tuổi để phải chịu án tử hình theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Dĩ nhiên tòa án không thể xử tử hình hung thủ nếu căn cứ vào các quy định pháp lý hiện hành. Nhưng cũng thật vô lý khi để một tội phạm như thế thoát tội chết. Nó sẽ tạo nên một tiền lệ quá xấu trong việc phòng chống tội phạm, có nguy cơ dẫn đến việc lạm dụng sự ưu ái đối với người dưới 18 tuổi.
Sự việc đã xảy ra, bằng chứng là sau vụ cướp ít bữa, một nhóm "choai choai" đã lên mạng "tôn vinh" Luyện như là "một anh hùng", khiến nhiều phụ huynh lo lắng, và tiếp theo là báo động của báo Thanh Niên 20/11/2011, bài của Hồ Trọng như sau :
Giáo dục nhóm tự xưng "đàn em của Lê Văn Luyện"
Ngày 18/11, lực lượng Công an H.Điện Bàn (Quảng Nam) đã xử lý, ngăn chặn hoạt động của một nhóm thiếu niên từ 14 – 16 tuổi tự xưng là nhóm "Sống về đêm", thu giữ 5 mã tấu và 3 tuýp sắt. Cả nhóm đã tự chế mã tấu và tuýp sắt khắc chữ "Sống về đêm", sau đó chụp hình tung lên mạng. Chúng còn tự xưng là đàn em của Lê Văn Luyện - kẻ đã giết 3 người và làm bị thương 1 người trong vụ án cướp vàng ở Bắc Giang. Công an đã giáo dục, buộc cả nhóm phải viết cam kết không vi phạm.
Việc hoàn toàn không áp dụng án tử hình và chung thân với người dưới 18 tuổi là một quy định cứng nhắc. Lẽ ra pháp luật phải có điều khoản dự liệu để áp dụng trong trường hợp quá đặc biệt, như thế tính răn đe mới cao. Điều 1 của Công ước về quyền trẻ em viết như sau : "Trong phạm vi công ước này, trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn". Như vậy chúng ta cũng có thể uy định trong những trường hợp phạm tội quá dã man, thì độ tuổi thành niên cần phải giảm xuống tùy trường hợp. Quy định này hoàn toàn không trái với tinh thần của Công ước về quyền trẻ em. Vì tinh thần chủ yếu của công ước này là bảo vệ quyền lợi chính đáng của trẻ em chứ không phải dung túng cho người dưới 18 tuổi làm điều tàn ác.
Thực tế thì việc thiếu 2 tháng tuổi không phải là nguyên nhân làm cho hung thủ Lê Văn Luyện thiếu nhận thức để hành xử như thế. Thật đau xót khi Luyện, thiếu 2 tháng nữa đủ
18 tuổi, lại được hưởng "quyền trẻ em", còn cháu bé nạn nhân mới 18 tháng tuổi lại không được hưởng quyền được sống - quyền căn bản nhất của quyền trẻ em. Tôi cho rằng các nhà làm luật phải xem lại vấn đề này để sửa đổi luật sao cho sát với thực tiễn hơn. Riêng đối với vụ án Lê Văn Luyện, nên chăng cần khởi động một lộ trình pháp lý đặc biệt để thủ phạm phải chịu sự trừng phạt xứng đáng với tội ác gây nên ? (Luật gia Trần Đình Thu – Báo Thanh Niên 3/9/2011).
c. Tội ác ngút trời như vậy mà không phải chịu hoàn toàn trách nhiệm hình sự thì quả là bất công. Ba mạng chết tức tưởi lấy gì bù đắp ? Một bé gái sống sót mang thương tật và nhất là nỗi kinh hoàng, sự mất mát về tình cảm và tâm lý suốt đời (em bỗng qua đêm trở thành mồ côi, đau đớn nào có thể lớn hơn ?), vài chục năm "ăn cơm tù" có bù dược tội lỗi không ?
Ôi Summum Jus, Summa Injuria !
8. Thảm kịch Na Uy – Thủ tướng Na Uy : Jens Stoltenberg đau đớn cho hay vụ tấn công kép ngày 22/7/2011 là "tội ác nghiêm trọng nhất ở nước này từ sau thế chiến thứ hai".
Hung thủ là một người cực đoan tên là Anders Behring Breivick, 32 tuổi, do bất đồng với Đảng cầm quyền về chính sách nhập cư dễ dãi, đã tự chế bom tấn công tòa nhà chính phủ ở Oslo vào lúc 15g30, làm 7 người thiệt mạng và 11 ngưởi bị thương, cơ sở vật chất bị hư nặng, khoảng 18g cùng ngày, Anders mặc đồ cảnh sát, mang nhiều súng đạn sang đảo Utoeya cách thủ đô Osla 20km, thảm sát đám đông khoảng 700 bạn trẻ dự trại thanh niên của Đảng Lao Động cầm quyền, làm 71 người chết và hàng trăm người bị thương trước khi Anders bị khống chế. Toàn dân Na Uy và cả thế giới đều kinh hoàng trước vụ thảm sát này (N.N.L.C, báo Thanh Niên 24/7/2011).
Nhận định
a. Tương tự vụ Lê Văn Luyện, hiện nay Nhà nước Na Uy chưa xử vụ này, nhưng chắc một điều tòa án sẽ phải xử theo luật quốc gia.
b. Luật hình sự Na Uy và các nước Bắc Âu rất "nhân đạo", không có án tử hình và dường như không có án chung thân, mức cao nhất chỉ 21 năm tù, và việc chấp hành ở tù cũng giống như học tín chỉ vậy, nghĩa là cho phạm nhân chọn thời điểm ở tù, sau một khoảng thời gian nào đó phạm nhân có thể xin ra tại ngoại, rồi lại xin vào tù, khi nào tính đủ mức án thì được trả tự do (theo người viết được nghe).
c. Nếu quả thật như vậy và cứ đúng luật mà xử, thì sẽ có độ vênh cực lớn giữa tội ác gây ra và hình phạt phải chịu. Còn sự bất công mà hàng trăm gia đình phải chịu thì không thể đong đếm được. Chúng ta có cảm tưởng luật không khử trừ được điều ác, không có sức răn đe người ác và dường như "dung dưỡng" tội ác !
Ôi Summum Jus, Summa Injuria !
9. Dư âm phim "Bí thư Tỉnh ủy" – chiếu trên truyền hình VTV4 ngày 28/9/2011.
Đây là bộ phim truyền hình nhiều tập, được đông đảo bà con ưa thích, đánh giá cao, được chiếu đi chiếu lại nhiều lần. Truyền hình ngày 28/9/2011 chỉ chiếu lại một tập nào đó thôi, nhưng cũng đủ cho chúng ta "vẩn vơ suy nghĩ". Bối cảnh là nông thôn mới miền Bắc XHCN, chế độ Hợp tác xã khắp nơi với khẩu hiệu già trẻ lớn bé ai cũng thuộc như húp cháo, đọc như vẹt : "Mình vì mọi người, mọi người vì mình – Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu – Phải làm cho dân giầu nước mạnh …".
Thực tế HTX Phước Vĩnh, xã viên đói nghèo, đời sống vô cùng cơ cực, thiếu thốn, đời sống xã hội, kinh tế càng ngày càng tụt lùi. Bí thư Tỉnh ủy Kim đã mạnh dạn tháo gỡ một số ràng buộc, mở cửa cho lãnh đạo cấp dưới bằng quyết định 86 chủ trương khoán hộ, khoán sản phẩm, khoán vật nuôi, cây trồng, chủ trương làm cho bà con phấn khởi và kết quả mỹ mãn. Lúa từ 1,3 tấn, tối đa là 1,8 tấn/mẫu, nay tăng vọt 3 tấn, có khi 5 tấn/mẫu. Lợn nghĩa vụ tăng gấp rưỡi, gấp đôi, bà con làng xã vô cùng phấn khởi trước quyết định đột phá này. Không còn hộ đói, hộ nghèo … không khí thi đua sản xuất hừng hực như ngọn lửa.
Nhưng chuyện được báo lên cấp trên, lãnh đạo cấp trên cử cán bộ lão thành Trung Chính xuống kiểm tra, mặc dù nghe tận tai, thấy tận mắt thành quả tốt đẹp, nhưng đứng trên quan điểm chính sách chung của cả nước, thì nghị quyết 86 là sai phạm lớn, phá vỡ những quy luật nền tảng, cố định, đi ra ngoài chủ trương, chính sách, đường lối chung, nên yêu cầu bí thư Tỉnh ủy phải kiểm điểm …
Nhận định
a. Cấp trên có lý khi căn cứ vào những quy tắc, đường lối được quốc hội thông qua, đây là phép nước rồi, cái gì sai phép nước là phải dẹp, phải bị kỷ luật.
b. Bí thư Tỉnh ủy không sai khi vì sự no ấm của dân và sự phồn vinh của đất nước (dân có của cải nhiều thì nộp thuế má nghĩa vụ cao cho Nhà nước), mà gác sang một bên những quy định, ràng buộc không còn phù hợp, để mạnh dạn cải cách.
c. Điều đáng nói ở đây là cứ phải chấp hành những quy định lỗi thời (luật là luật, không khoan nhượng), để rồi dân nghèo, dân đói, dân khổ cứ mặc dân, người làm tốt cho dân như bí thư Kim thì bị kiểm điểm, người duy trì "tình trạng nghèo đói" cho dân để giữ những nguyên tắc lỗi thời, như cán bộ Trung Chính thì lại được tín nhiệm, có khi còn lên chức, lên lương nữa.
Ôi Summum Jus, Summa Injuria !
10. 6cm đất và chiếc ghế thẩm phán (tác giả Ls. Phạm Công Hùng)
Còn nhớ một vụ án nhiều năm trước, khi đó tôi là chánh án tòa hành chính ở TAND một tỉnh mà vì lý do tế nhị, tôi xin không nêu tên. Nhà ông A và nhà ông B ở cạnh nhau, cách nhau phần đất có chiều ngang 1m. Cả hai nhà tranh chấp phần đất này nhưng hóa ra đất đó là đất công.
Nhà ông A quá cũ, tường lún, vách nứt nên ông sửa lại. Không có tiền nên không mướn thợ, ông A. tự làm, xây lại bức tường mới theo chân của bức tường cũ. Có lẽ vì dân tay ngang nên ông xây hơi xéo. Phần sau vách tường lại lấn sang ranh đất công khoảng 6cm. Ông B liền khiếu nại tới UBND TP (thuộc tỉnh) rằng ông A cất lố qua 6cm như vậy là lấn chiếm đất đai. Chủ tịch UBND TP ra quyết định buộc ông
A phải tháo dỡ phần 6cm xây lố và cưỡng chế vì ông A không chịu thực hiện. Ông A khởi kiện chủ tịch UBND TP ra TAND TP nhưng bị tòa sơ thẩm bác đơn. Ông liền làm đơn kháng cáo.
Sao cho đạt lý, thấu tình
Tôi được phân công xử phúc thẩm vụ án này. Khi nghiên cứu hồ sơ, tôi biết hoàn cảnh kinh tế ông A có nhiều khó khăn. Nếu căn nhà không có nguy cơ bị sập khi vào mùa mưa bão thì chắc ông đã không sửa lại. Bắt ông A tháo dỡ 6cm xây lố có nghĩa là phải đập bỏ nguyên cả phần tường, khi đó liệu ông có tiền sửa lại lần nữa hay không ? Trong khi miếng đất công có chiều ngang 1m, thật ra hơi trũng xuống, trông giống như cái khe nằm ở giữa hai ngôi nhà, lại ở vùng ngoại ô hẻo lánh. Từ lâu phần đất này bỏ trống và sau này có lẽ chính quyền sở tại cũng không sử dụng vào việc gì.
Nhận định
a. Nếu xét về mặt lý thì quyết định buộc tháo dỡ phần lấn chiếm đất công của chủ tịch UBND TP là không sai, bởi vì phần đất ông A xây lố sang dù chỉ là 6cm (trên chiều dài khoảng 4m) cũng là lấn chiếm đất đai. Tuy vậy, nếu tòa quyết định bác đơn kháng cáo, giữ y bản án sơ thẩm thì liệu có thấu tình không ? Ngược lại, tòa chấp nhận kháng cáo thì có đúng luật không ? Tôi suy nghĩ rất kỹ để tìm một đáp án vừa đạt lý vừa thấu tình, nghiêm minh, công bằng cho các đương sự.
b. Tại tòa, ông A trình bày : thật ra ông vô tình chứ không phải là cố ý ăn gian Nhà nước 6cm đất làm gì. Do phần tường phía sau có một vài đoạn còn sử dụng được nên ông đắp thêm ximăng lên thành ra mới lố 6cm. Đến khi UBND TP xuống đo đạc rồi ra quyết định, ông mới biết mình xây lố. Giờ nếu bắt đập bỏ 6cm thì toàn bộ ngôi nhà ông có thể bị ảnh hưởng. Gia đình vốn nghèo, sống chỉ nhờ vào vài công ruộng, khi sửa nhà ông phải mượn tiền bà con, nay Nhà nước kêu tháo dỡ thì ông không đủ tiền để cất lại phần tường bị đập bỏ, chứ đừng nói đến lỡ khi đập chấn động kéo theo hư hỏng các phần khác. Trong khi đó phần đất này không sử dụng vào việc gì.
c. Đại diện bên bị kiện vẫn giữ nguyên quan điểm của mình rằng ông A đã xây công trình trái phép trên phần đất công nên chủ tịch UBND TP ra quyết định buộc tháo dỡ là đúng chứ không sai luật.
Tôi phân tích rằng tòa đồng ý với quyết định của chủ tịch UBND TP, lấn sang phần nào là phải tháo dỡ phần đó, khi tiến hànhcưỡng chế thì cơ quan thi hành án phải tháo dỡ đúng 6cm, chứ không được tháo dỡ lố qua phần của ông A dù chỉ 0,5cm, như vậy mới công bằng đối với ông A. Tuy nhiên, khó ai mà tháo dỡ chính xác 6cm chiều ngang với chiều cao gần 5m của bức tường được. Vì vậy tòa mong UBND TP hãy nghĩ lại các quyết định của mình.
d. Cả hai bên đều đồng ý với những gì tôi nói. Tuy nhiên, bên bị kiện vẫn cho rằng không thể hủy các quyết định hành chính bị khởi kiện, bởi làm thế khiến người khác bắt chước xây trái phép theo. Tôi vẫn thuyết phục : việc hủy bỏ quyết định không thể tạo tiền lệ được, bởi khi ra quyết định hoặc xét xử phải dựa vào nhiều điểm chứ không phải đơn thuần luật cứng nhắc chỉ dựa vào một yếu tố mà thôi. Ở đây có cần thiết tháo dỡ 6cm - độ chừng bằng khoảng nửa cục gạch, trong khi phần đất đó chính quyền sở tại đâu có sử dụng vào việc gì. Nếu ông A có khả năng xây lại thì việc buộc tháo dỡ trong trường hợp này còn phải cân nhắc nhiều mặt, đằng này hoàn cảnh ông A rất khó khăn, phần nữa cũng do trình độ hiểu biết pháp luật của ông A còn hạn chế nên mới xảy ra chuyện trên.
Sau khi hội ý, đại diện UBND TP đồng ý hủy quyết định buộc tháo dỡ và cưỡng chế. Còn phần ông A thì rút đơn khởi kiện. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính theo quy định của pháp luật và bế mạc phiên tòa. Nhìn ông A vui mừng ra về, lòng tôi chợt dâng lên một cảm giác khó tả.
(Thẩm phán PHẠM CÔNG HÙNG – tòa phúc thẩm TAND tối cao tại Tp.HCM – Minh Tâm ghi, báo Tuổi Trẻ ngày 8/4/2011)
11. Siêu mẫu Ngọc Thúy bị kiện đòi hàng trăm tỉ đồng.
TAND Tp.HCM cho biết vừa thụ lý vụ kiện "Tranh chấp quyền sở hữu tài sản" giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Đức An (Việt kiều, quốc tịch Mỹ, ngụ tại P.Bến Nghé, Q.1, Tp.HCM) và bị đơn là bà Phạm Thị Ngọc Thúy (tức siêu mẫu Ngọc Thúy), vợ cũ của ông An. Số tài sản tranh chấp lên đến 288 tỉ đồng, gồm rất nhiều bất động sản và tài sản có giá trị lớn.
Theo đơn khởi kiện, ông An và Ngọc Thúy kết hôn vào năm 2006, đến năm 2008 thì cả hai ly hôn tại Mỹ. Từ năm 2007 đến 2008, ông An dùng nhiều tài sản tạo lập trước hôn nhân mua bất động sản, cổ phần ... tại Việt Nam. Do mang quốc tịch Mỹ nên ông An nhờ vợ đứng tên giùm.
Tòa thượng thẩm tòa án California, hạt Orange ngày 27/3/2008 tuyên toàn bộ hàng chục căn hộ, lô đất, biệt thự tại các dự án lớn ở Tp.HCM và Phan Thiết như Avalon Building, Sailing Tower, Sea Links ; 4 xe Mercedes, 2 xe Volkwagen, Porsche ... với tổng giá trị ước tính khoảng 288 tỉ đồng là của ông An.
Ông An nhiều lần yêu cầu bà Ngọc Thúy giao trả số tài sản này nhưng theo ông là bà Ngọc Thúy không giao mà còn có dấu hiệu tẩu tán tài sản, chuyển nhượng cho người khác đứng tên. Vì vậy, ông An khởi kiện bà Ngọc Thúy ra tòa, đề nghị tòa án buộc bà Thúy trả lại số tài sản này. (Lê Nga – Báo Thanh Niên 5/10/2011)
Án chồng án vụ siêu mẫu Ngọc Thúy bị kiện đòi 288 tỉ đồng
Xung quanh vụ siêu mẫu Ngọc Thúy bị kiện đòi khối tài sản khổng lồ lên đến 288 tỉ đồng nảy sinh nhiều vấn đề pháp lý đáng chú ý bên cạnh một số tình tiết mới.
Ông Nguyễn Đức An, chồng cũ của siêu mẫu Ngọc Thúy cho biết, năm 2006 ông tình cờ quen biết Ngọc Thúy tại Mỹ. Cả hai đăng ký kết hôn tại Mỹ vào 7/9/2006 (không làm thủ tục ghi chú kết hôn ở Sở Tư pháp Tp.HCM). Sau khi đăng ký kết hôn, Ngọc Thúy làm thủ tục trở thành thường trú nhân tại Mỹ và có thẻ xanh. Tuy nhiên, mối quan hệ này chỉ kéo dài hơn một năm, do xuất hiện nhiều bất đồng.
Ngày 20/11/2007, Ngọc Thúy và ông An đã ký một thỏa thuận ly hôn tại văn phòng luật sư của ông An. Tòa án California, hạt Orange, Mỹ, cũng đã ghi nhận sự thỏa thuận giữa hai bên đương sự. Theo đó, Ngọc Thúy được quyền nuôi con, ông An cấp dưỡng nuôi con 500 USD/tháng và cấp quyền giữ lại tài sản riêng, không có tài sản chung mà các bên có được trong hôn nhân ; các bất động sản, động sản, tài khoản ở VN là của ông An. Vào thời điểm này, giữa ông An và Ngọc Thúy chỉ mới có một con là Nguyễn Angelina Dior (sinh tháng 5/2007).
Sau khi ký thỏa thuận ly hôn này, mối quan hệ giữa hai người vẫn chưa có gì căng thẳng. Bằng chứng là giữa Ngọc Thúy và ông An có tiếp đứa con thứ 2, Nguyễn Valentina Dior (sinh 10/2008).
Liên tục kiện tụng
Khi có bản án ghi nhận sự thỏa thuận ly hôn, giữa hai bên liên tục không tìm được tiếng nói chung liên quan đến vấn đề tài sản. Ngọc Thúy không đồng ý chuyển các tài sản mà cô đứng tên giùm sang cho ông An.
Tháng 3/2010, ông An có đơn khởi kiện Ngọc Thúy ra TAND Q.1 yêu cầu giao lại những tài sản ở VN mà ông đã bỏ tiền mua và đòi quyền nuôi hai con. Theo đơn kiện, từ năm 2007 đến 2008 (trong thời gian kết hôn và sau khi đã ký thỏa thuận ly hôn), ông An dùng nhiều tài sản tạo lập trước hôn nhân mua bất động sản, động sản, mua cổ phần ... tại VN. Do mang quốc tịch Mỹ nên ông An nhờ Ngọc Thúy đứng tên giùm, gồm hàng chục căn hộ, lô đất, biệt thự tại các dự án lớn ở TP.HCM và Phan Thiết như Avalon Building, Sailing Tower, Sea Links Golf & County Club; nhiều xe ô tô… với tổng giá trị ước tính khoảng 288 tỉ đồng. Chỉ tính riêng số tiền tạm ứng án phí đã lên đến gần 200 triệu đồng.
Các luật sư nói gì ?
Mới đây, vụ tranh chấp "đình đám" này đã được TAND Q.1 chuyển lên cho TAND Tp.HCM thụ lý.
Dưới góc độ pháp lý, một lãnh đạo TAND Tp.HCM phân tích, những vụ án có yếu tố nước ngoài (có đương sự là người nước ngoài hoặc người VN định cư ở nước ngoài) thì sẽ căn cứ vào nơi cư trú (theo Luật Cư trú) của chủ thể tham gia tố tụng để quyết định thẩm quyền thụ lý. "Nếu chủ thể có nơi thường trú hoặc tạm trú không có thời hạn thì thuộc tòa cấp huyện ; nếu chủ thể tạm trú có thời hạn thì thuộc thẩm quyền của tòa án cấp tỉnh. Trong vụ kiện này, ông An chỉ có thẻ tạm trú có thời hạn nên thẩm quyền thuộc TAND Tp.HCM giải quyết", vị lãnh đạo này khẳng định.
Luật sư Phan Trung Hoài (Đoàn luật sư TP.HCM) phân tích thêm, đây là "vụ án dân sự có liên quan đến quyền đối với tài sản là bất động sản có trên lãnh thổ VN" mà theo quy định tại điều 411 Bộ luật Tố tụng dân sự, thuộc thẩm quyền chuyên biệt của tòa án VN. "Nếu tòa án Mỹ có phán quyết liên quan đến những bất động sản có trên lãnh thổ VN thì cũng không được cho công nhận và thi hành tại VN vì vi phạm thẩm quyền chuyên biệt này", luật sư Hoài đánh giá.
Góp thêm ý kiến, luật sư Cao Minh Triết (Đoàn luật sư tỉnh Tiền Giang) nói, cần phải xem xét rằng quan hệ hôn nhân giữa ông An và Ngọc Thúy được tiến hành ở nước ngoài và chưa ghi chú kết hôn theo quy định của pháp luật VN, nên không được công nhận tại VN. Theo luật sư Triết, tòa án sẽ thụ lý vụ kiện tranh chấp đòi tài sản này như giữa hai cá nhân bình thường với nhau, chứ không phải như chia khối tài sản chung hợp nhất giữa hai vợ chồng khi ly hôn. "Vì vậy, các bên phải chứng minh nguồn gốc tạo lập, cung cấp chứng cứ chứng minh là tài sản riêng. Tất nhiên, chứng cứ của ai mạnh người đó sẽ thắng", luật sư Triết nói. (Lê Nga – Báo Thanh Niên 16/10/2011).
Trong phạm vi đời thường, tức là trong quan hệ xã hội hàng ngày, chúng ta gặp không ít những "ca" tình ngay, lý gian, luật "chọi" công lý, nhất lá chuyện vay nợ thường ngày, nhiều khi vì tin nhau, vay nợ không cần giấy tờ, đến chừng bên vay giở chứng chối phắt nợ nần, bên cho vay chắc là phải đành chịu, bởi vì không có giấy tờ chứng minh thì chẳng kiện vào đâu được.
Trường hợp ông A cho ông B vay số tiền 1.000.000 đồng thời chế độ cũ (trước 1975), lúc đó 1 triệu là một gia tài lớn, người giầu tột đỉnh cũng chỉ được gọi "triệu phú" thôi, vì 1 triệu lúc đó quy ra vàng là 33 cây (30.000 đồng/lượng). Thời gian chiến tranh, loạn lạc, tứ tán mỗi người mỗi nơi, chưa có dịp gặp nhau để thanh toán, mãi tới bây giờ mới gặp lại và hai bên thương lượng với nhau.
Ông B đề nghị nhiều mức trả, nhưng ông A vẫn không chịu, cho rằng mình thiệt quá, cuối cùng phải nhờ pháp luật. Trước pháp luật ông A xác nhận số tiền cho vay 1 triệu đồng (tiền chế độ cũ), ông B xác nhận có vay số tiền như vậy. Ông A đòi quy ra vàng, nhưng luật sư của ông B căn cứ vào pháp luật và tiến trình quy đổi tiền tệ giữa chế độ cũ và chế độ mới.
§ Trước hết vay gì trả nấy, đó là quy định bất biến của luật pháp, vay tiền trả bằng tiền, vay thóc trả bằng thóc, vay vàng trả bằng vàng, không thể có chuyện vay tiền trả bằng vàng.
§ Giá trị đồng tiền đã chuyển dịch theo đúng luật pháp hiện hành qua 3 lần đổi tiền sau 1975 :
- Lần 1 : luật quy định 1 đồng tiền mới ăn 5.000 đồng tiền cũ.
- Lần 2 : luật quy định 1 đồng tiền mới ăn 10 đồng tiền đã quy đổi (tức là 50.000 tiền chế độ cũ).
- Lần 3 : luật quy định 1 đồng tiền mới phát hành ăn 1 đồng tiền hiện hành.
Như vậy số tiền vay 1 triệu đồng (chế độ cũ) sau quy đổi bằng 20 VNĐ. Vay nợ không kỳ hạn nên tính lãi theo ngân hàng "không kỳ hạn" là 2,4%/năm, với 20 đồng thì một năm được 0,48 đồng ; 36 năm được 17,28 đồng, cộng vốn, lãi là 37,28 đồng.
Nếu không có quy định nào khác mà cứ đúng nguyên tắc luật pháp vay gì trả nấy, giữ nguyên giá trị quy đổi theo thời gian cộng với lãi suất theo ngân hàng, thì với số tài sản lúc cho vay trị giá 33 cây vàng, tới thời điểm này được 37 đồng, hai hào, 8 xu !
Ôi Summum Jus, Summa Injuria !
Ghi chú : Hiện nay tiền xu, hào, đồng, 10 đồng, 100 đồng, 200 đồng chỉ tồn tại trên máy tính của các ngân hàng, thực tế đời thường, những thứ tiền này không còn ai thấy, họa chăng chỉ còn nơi các nhà sưu tập tiền mà thôi !
Nhận định
a. Hôn thú làm ở Mỹ chưa ghi chú theo pháp luật VN nên không được công nhận ở VN.
b. Tài sản thì ở VN nên những quyết định về tài sản khi ly hôn ở Mỹ không có hiệu lực ở VN.
c. Nếu giải quyết khiếu kiện ở VN như hai người thường (không phải vợ chồng) thì cứ theo nguyên tắc của luật : "Ai đứng tên sở hữu, người ấy là chủ".
d. Nếu xử như vậy thì có nguy cơ chủ của thực sự sẽ mất trắng (nếu bên đứng tên giùm không thành thực nhận mình chỉ đứng tên hộ và nếu tòa án không tìm được cách chứng minh tài sản không thuộc về người đứng tên hộ mà là của người khiều nại).
e. Nếu cứ xử "án tại hồ sơ", tên ai trên tài sản thì tài sản của người ấy, thì thật là bất công nếu thực sự người đứng tên chỉ là đứng tên hộ, không có tài sản.
Ôi Summum Jus, Summa Injuria !
12. Không cho chuyển một phần đất vườn thành đất ở.
Nhiều bạn đọc ở Q.12, huyện Hóc Môn (Tp.HCM) phản ảnh họ xin chuyển mục đích sử dụng một phần đất vườn thành đất ở để xây nhà nhưng UBND quận, huyện không giải quyết mà yêu cầu họ phải chuyển mục đích sử dụng nguyên thửa đất.
Trong khi đó, quận huyện phải thực hiện theo quyết định 19 năm 2009 của UBND Tp.HCM. Quyết định này quy định người dân muốn chuyển mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất ở phải chuyển cả thửa.
Cần 250m2, phải chuyển mục đích sử dụng 1.200m2 ?
Ông N.V.T. có 1.200m2 đất vườn cây ăn trái ở xã Đông Thạnh, huyện Hóc Môn. Hai vợ chồng ông mới về hưu, định xây một căn nhà nhỏ dưỡng già nên xin phép chuyển mục đích sử dụng 250m2 đất vườn thành đất ở để xin giấy phép xây dựng nhà. Cán bộ tiếp nhận hồ sơ nói ông phải chuyển mục đích sử dụng nguyên thửa 1.200m2 mới được UBND huyện giải quyết. Ông T. tính toán : nếu chuyển mục đích sử dụng thành đất ở hết 1.200m2 đất thì ông phải đóng trên 700 triệu đồng tiền sử dụng đất (tính theo giá đất do UBND TP ban hành). Ông T. cho rằng ông chỉ muốn xây nhà khoảng 250m2, phần đất còn lại để trồng cây ăn trái nhưng lại bị bắt chuyển tất cả thành đất ở là quá vô lý !
Ông Hồ Minh Dương, trưởng Phòng Tài nguyên - môi trường huyện Hóc Môn, cho biết phòng đã từ chối chuyển mục đích sử dụng một phần thửa đất của nhiều người dân chứ không riêng trường hợp của ông T.. Ông Dương cho rằng theo quyết định 19 năm 2009 của UBND TP về hạn mức tối thiểu để tách thửa đất thì phải chuyển mục đích sử dụng đất trọn thửa đất. Đất nông nghiệp muốn tách thửa phải bảo đảm mỗi thửa tách ra có diện tích từ 1.000m2 trở lên. Vì vậy, những người có đất nông nghiệp rộng hơn 2.000m2 thì có thể tách thành hai, ba ... thửa (có diện tích từ 1.000m2 trở lên) rồi sau đó chuyển thành đất ở cả thửa. Còn những trường hợp có đất nông nghiệp từ 2.000m2 trở xuống nếu muốn chuyển mục đích sử dụng thành đất ở đều phải chuyển trọn thửa đất vì không thể tách ra.
Không riêng ở huyện Hóc Môn, nhiều người dân ở Q.12, Thủ Đức ... khi xin chuyển mục đích sử dụng một phần thửa đất cũng bị từ chối. Ông Phan Phương Bình, phó Phòng Tài nguyên - môi trường Q.12, cho biết : do quy định phải chuyển thành đất ở cả thửa nên nhiều trường hợp người dân không đủ tiền để đóng tiền sử dụng đất (do diện tích vượt hạn mức đất ở phải đóng tiền sử dụng đất theo giá thị trường). (Khánh Yên – báo Tuổi Trẻ 7/11/2011).
Nhận định
a. Lãnh đạo quận, huyện phải thi hành lệnh cấp trên, đó là thượng tôn pháp luật.
b. Thực tế dân nghèo không thể có tiền đóng thuế để chuyển mục đích sử dụng cả thửa, họ cũng không cần "đất ở" thừa thãi như vậy.
c. Nếu "cứ luật mà làm" thì hậu quả là bất công, một là đóng thuế quá nặng, hai là (không đủ tiền đóng thuế cả thửa) không có phép xây nhà cứ việc lén "làm chòi" mà ở, từ đời cha ông tới đời con cháu !
Ôi Summum Jus, Summa Injuria !
13. Luật tỵ nạn.
Chương trình truyền hình VTV9 ngày 7/10/2011 nhắc tới trường hợp Cariles, người Cuba, chủ mưu phá hủy máy bay của hãng hàng không Cubana Airline ngày 6/10/1976, làm 73 người thiệt mạng.
Phạm nhân từ đó đến nay vẫn sống ở Mỹ, không bị xét xử, vì giữa hai nước kình địch, Cuba và Mỹ không ký thỏa thuận dẫn độ tội phạm. Mỹ lấy lý do "nhân đạo" rằng nếu bị trục xuất về Cuba, phạm nhân có thể bị tra tấn.
Chúng ta còn nhớ sau thế chiến II, Đức quốc xã thua trận, các sĩ quan cao cấp của Đức quốc xã còn sống sót, lập tức thay đổi họ tên, dùng phẫu thuật thẩm mỹ thay đổi cả hình dạng, nhân thân rồi trốn đi tỵ nạn ở các nước xa xôi, để tránh bị trả thù, một trong những tên đồ tể là Karl Adolf Eichmann (sinh 1906), cải dạng trốn sang Achentina ẩn dật ở đó tới năm 1962. Mật vụ Do Thái đi săn lùng, truy nã khắp nơi, vì tên này đã phạm tội diệt chủng Do Thái, họ đã khám phá ra nơi trú ẩn của Eichmann, mật vụ Do Thái đã sang tận Achentina bắt cóc Eichmann đưa về Giêrusalem xử tử năm 1962, bất kể việc vi phạm luật pháp của nước chủ nhà, cả thế giới xôn xao về vụ này (và cũng khâm phục mật vụ Do Thái).
Nhận định
Mỹ thi hành luật "không dẫn độ" nên Cuba đành chịu. Luật tỵ nạn có vẻ "nhân đạo" với một người, nhưng lại gây ra bất công lớn với hàng trăm người.
Ôi Summum Jus, Summa Injuria !
THAY PHẦN KẾT
(Trích trong tạp chí XƯA NAY – số 357 tháng 6/2010, của Hà Thúc Minh)
Công bằng chỉ được đặt ra khi xã hội không có hoặc thiếu công bằng. Người ta càng nói nhiều về công bằng bao nhiêu thì chứng tỏ xã hội càng thiếu công bằng bấy nhiêu. Đến nỗi công bằng trở thành ảo ảnh như hồ nước trên sa mạc mà thầy trò Đường Tăng nhiều lúc trông thấy phía trước nhưng chẳng bao giờ đến được bởi vì nó luôn ở phía trước. Có hay không có công bằng trên hành tinh này ? Chắc là "văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình" cho nên thiên hạ thường cảm thán "Trời sao Trời ở bất công" ! Tại sao người xấu vẫn sống nhởn nhơ trong khi người lương thiện lại lận đận cả đời, công bằng đâu rồi ? Nhà triết học người Đức, Kant không "bi quan" như vậy. Theo ông, công bằng nếu là thì tương lai ở thế giới bên này, đương nhiên sẽ là thì hiện tại ở thế giới bên kia. Không một ai có thể thoát khỏi luật nhân quả hiển nhiên này. Điều đó càng chứng tỏ rằng một cuộc sống sẽ được tiếp tục sau khi chết và sự hiện diện của Thượng đế để giải quyết công bằng. Như vậy có nghĩa là con người không thể tự mình thực hiện công bằng mà phải nhờ vào bàn tay của Thượng đế.
Phải chăng công bằng chỉ có ở thế giới bên kia chứ không có thể có ở thế giới bên này ? Phải chăng công bằng không nằm trong tầm với của con người ? Nếu như bản chất của cuộc sống là ích kỷ như Ikeda nhận xét thì công bằng chỉ là một giấc mơ hoa giữa ban ngày. Không phải chỉ có Ikeda mà ngay đến đại văn hào Voltaire cũng cho rằng năm ngón tay còn có ngón ngắn ngón dài huống chi cả cuộc đời này, công bằng khó lắm thay ! Nhà tỉ phú người Mỹ Bill Gates đang sống ở thế kỷ gọi là văn minh của nhân loại cũng thừa nhận rằng "cuộc sống là bất công, thôi thì hãy tập làm quen với nó đi vậy" (Life is not fair, get used to it).
Công bằng ? Hoặc là ráng chờ ở… thế giới bên kia hoặc là hãy tập làm quen với bất công ở thế giới bên này. Chẳng biết nên chọn cách nào hay là cứ "gẫm hay muôn sự tại Trời" !
Từ khai thiên lập địa đến nay, con người ở đâu cũng vậy, thường đánh đồng giữa công bằng và "bình quân". Nhưng càng ngày người ta càng nhận ra rằng công bằng không phải là bình quân. Bình quân triệt tiêu động lực của con người nhưng công bằng thì không. Chuyển từ bình quân sang giàu nghèo phân cực có nghĩa là chuyển từ cực nọ sang cực kia. Liệu cái "cực kia" đó có phát huy được động lực của con người hay là càng triệt tiêu hơn ? "Một bộ phận giàu trước" và "phân cực giàu nghèo" là hai sự việc hoàn toàn khác nhau. Một bên là thực hiện công bằng còn một bên lại tạo ra sự bất công. Hình như cuộc sống tự nó cũng đã chứng tỏ rằng một bước tiến tới cái gọi là giàu, mạnh đồng thời cũng là một bước thụt lùi khá dài của công bằng. Tham nhũng đang trở thành quốc nạn, mất dân chủ, vô cảm với dân, lợi dụng chức quyền làm ăn bất chính … hãy còn đó mọi lúc mọi nơi thì làm sao có thể gọi đó là công bằng được ?
Trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gô-ta, Mác đã nói đến nhiệm vụ hàng đầu của xã hội chủ nghĩa là phải thực hiện công bằng. Công bằng ở thế giới bên này chứ không phải ở thế giới bên kia. Công bằng không thể có được khi giai cấp thống trị chưa từ bỏ quyền lực. Thực hiện công bằng khi chưa đủ điều kiện cũng như không có công bằng khi đã có điều kiện đều đáng phê phán như nhau.
Nhưng, thế nào là công bằng ? Các ngành khoa học xã hội và nhân văn đang cố nắm bắt nó, cho dù nó là ảo ảnh hay hiện thực. Hai xu hướng chủ yếu nghiên cứu về công bằng về phân phối sản phẩm xã hội (Distributive Justice) và công bằng trong quan hệ đối xử (Retributive Justice). Ân oán trên đời nên giải quyết như thế nào là công bằng ? Chẳng biết nên lấy "oán báo oán" hay là "lấy ân báo oán" ? Nhưng thôi, chuyện đó để tính sau, bây giờ hãy bàn về công bằng trong phân phối của cải xã hội trước đã.
Trong Phê phán cương lĩnh Gô-ta, Mác nhận xét về công bằng ở chủ nghĩa cộng sản như sau : Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản đều giống nhau ở chỗ "mọi người đều làm hết sức mình" (From each according to his ablility), nhưng sức sản xuất của xã hội chủ nghĩa kém hơn nhiều so với xã hội cộng sản, cho nên ở xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thực hiện công bằng bằng nguyên tắc "phân phối theo năng lực" (Distribution according to work) chứ không phải theo nguyên tắc "hưởng theo nhu cầu" (Get mine get yours) như xã hội cộng sản. Chẳng biết xã hội hiện nay đã thực hiện được bao nhiêu ? Theo số liệu của Cục thống kê cuối năm 2009, tỷ lệ thất nghiệp là 4,65%, tỷ lệ người thiếu việc làm là 5,1%. Như vậy là ngay đến việc làm cũng chưa có lấy đâu ra cái gọi là "làm hết sức mình"? Ngay cán bộ, nhân viên nhà nước liệu có bao nhiêu phần trăm "làm hết sức mình" ? Còn phân phối thì ai dám bảo là đã căn cứ vào năng
lực lao động ? Tình trạng "người ăn không hết, kẻ lần không ra" vẫn còn đó, không phải là biểu hiện công bằng dựa theo năng lực mà chính là đang thách thức với công bằng. Thật ra cũng khó mà thuyết phục rằng xã hội hiện nay đang thực hiện nguyên tắc công bằng mà Mác đã đề xuất ! Cái gọi là hiện tượng tiêu cực trong xã hội không nhiều thì ít có lẽ cũng từ đó mà ra. Chẳng lẽ cái "danh" lại quan trọng hơn cái "thực" đến nhường ấy ?
Nói như vậy không có nghĩa là thiên hạ thiếu quan tâm hoặc ít nói tới công bằng. Ngược lại là đằng khác, công bằng đang được quan tâm và nói nhiều hơn bất cứ lúc nào hết. Tuy nhiên "quan tâm", "nói nhiều" … và thực hiện đến đâu lại là hai chuyện khác nhau. Có lẽ những con rồng "công bằng" đủ màu sắc trên giấy kia mới chỉ có một mắt cho nên chưa bay lên được ?
Phải chăng giàu, mạnh là tiền đề tất yếu của công bằng ? Nếu như "công bằng trước số không" là vô nghĩa thì "bất công trước số nhiều" liệu có ý nghĩa gì hơn không ? Khái niệm công bằng chỉ xuất hiện khi kinh tế xã hội tương đối phát triển chứ không phải khi xã hội còn nghèo nàn. Có người cho rằng con người ở xã hội nguyên thủy không hề cảm thấy bất công hay nghèo nàn. "Giàu", "nghèo" là khái niệm tương đối, là cảm nhận chủ quan của con người ở thế kỷ XXI đối với người xưa. Biết đâu trong tương lại xa xôi nào đó, con cháu chúng ta lấy làm thương hại cho cuộc sống nghèo nàn hiện nay ?
"Công bằng" là khái niệm thuộc nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, xã hội, đạo đức … vừa là sự thực vừa là giá trị, cho nên công bằng có thể thực hiện và cần phải thực hiện ngay khi xã hội hãy còn nghèo. Mọi người còn nhớ trước đây trong thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc, kinh tế còn nhiều khó khăn, Hồ Chí Minh đã trích câu nói của Khổng Tử trong sách Luận ngữ rằng "không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng, không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên" để giải quyết tình trạng thiếu thốn lúc bấy giờ. Như vậy có nghĩa là công bằng không phụ thuộc vào điều kiện vật chất cũng như kỹ thuật cao. Công bằng hoàn toàn nằm trong tầm tay trong khi giàu, mạnh xem ra hãy còn nhiều gian truân. Hơn nữa, giàu, mạnh lại được bắt đầu bằng chấp nhận cách biệt giàu, nghèo, có nghĩa là nếu không có bất công thì không thể giàu, mạnh được ? Cứ theo lo-gích đó thì càng giàu, mạnh càng bất công. Đối tượng của cách mạng không phải đánh đổ giàu, mạnh mà chính là xóa bỏ bất công. Nguyên nhân của nghèo nàn không phải chỉ do bản thân kinh tế mà còn do chính con người, nói cách khác là do bất công xã hội. Hai chuyên gia kinh tế nổi tiếng thế giới là Francis Moore Lappé và Joseph Collins trong Lương thực là thứ nhất (Food first, 1977) và Mười hai thần thoại về nạn đói thế giới (World Hunger Twelve myths, 1986) cũng nhận xét rằng đói kém hay lương thực thiếu hụt chính là do bất công trên thế giới. Hiện nay trên thế giới thường xuyên có hàng tỷ người thiếu đói trong khi lương thực trên thế giới thừa sức nuôi sống toàn nhân loại. Công bằng xã hội sẽ là động lực của giàu mạnh, bất công không những là lực cản mà con là nguyên nhân chủ yếu của phát triển kinh tế - xã hội không bền vững.
Lẽ nào giàu, mạnh cứ phải trượt dài trên đường cao tốc Bắc-Nam, để rồi bỏ rơi công bằng lại phía sau, nhọc nhằn, lẽo đẽo "đi một bước đường một đau" bên bờ sông Pô-kô giữa núi rừng Tây Nguyên một thời chiến tranh, một thời hòa bình …
(Hà Thúc Minh)
Nhận định
a. Công lý và bất công trên đời này luôn có mặt bên nhau, đan xen nhau như biểu đồ của lưỡng nghi vậy. Bất công là do thiếu công lý, mà công lý tuyệt đối thì chẳng bao giờ có trên đời này. Ngành pháp luật lấy cái cân có hai đĩa hai bên làm biểu tượng, người ta vẫn gọi "cán cân công lý", nhưng thử hỏi có hai đĩa cân nào cân bằng tuyệt đối không ? (đây có ý nói đĩa không mà thôi, chưa có gì đặt trên đó), không lẽ những hạt bụi hoặc những phân tử nước trong không khí rơi đều trên cả hai đĩa cân ? Cho dù chỉ 1 phần tỷ tỷ tỷ microgram ?
b. Công bằng là nền tảng của hạnh phúc, không có công bằng thì cũng không có hạnh phúc. Mà ước vọng của mọi người, mọi thời, mọi nơi là hạnh phúc tuyệt đối. Điều này không thể có ở trần gian.
c. Vậy không lẽ con người "linh ư vạn vật" sinh ra ở trên đời này chỉ là để gây bất công và chịu đựng sự bất công ? Rõ là phi lý, không thể chấp nhận được.
d. Tạo Hóa tác sinh con người ở trần gian này là để được hạnh phúc, sở dĩ chưa đạt hạnh phúc là vì giới hạn, khiếm khuyết của con người, do đó vô tình hay hữu ý làm nảy sinh những bất công là khiến con người bất hạnh.
Chương trình truyền hình VTV2 tối ngày 17/11/2011 chiếu lại khó họp Quốc hội mới đây, trong đó có đại biểu đứng lên yêu cầu Quốc hội "phải nghiên cứu kỹ, đối chiếu với thực tế đời sống rồi mới soạn luật, tránh những trường hợp luật dễ ra nhưng lại khó bỏ".
(Cụ thể của việc vội vàng ra luật mà không nghiên cứu thực tế, gây bức xúc cho dân, đó là luật không cho chuyển đổi một phần đất vườn thành đất ở, mà phải chuyển cả thửa. Tuyệt đại đa số dân nghèo lấy đâu ra tiền nộp thuế, chỉ còn một cách là cả đời ở lều trên phần đất của mình, có thể luật này sẽ phải điều chỉnh, mà điều chỉnh thì bộc lộ trình độ "non yếu" của nền luật pháp nước mình, hay đúng hơn là trình độ yếu kém của những người làm luật. Nếu không điều chỉnh thì khó tránh khỏi bất công cho dân chúng)
e. Cũng do giới hạn của loài người cho nên trên thế gian này chẳng bao giờ có bộ luật hoàn hảo 100%, ngay cả luật La Mã nữa – Một là do trí khôn nhỏ bé của loài người không thể nào dự trù, hay nói nôm na là vít hết mọi kẽ hở của một khoản luật, mà còn hở thì còn "lọt người lọt tội" ; Hai là khi xét xử, các thẩm phán cũng không thể nào biết hết mọi chi tiết trong vụ việc và quá trình thực hiện tội ác (không làm chủ được quá khứ) ; Ba là dù có biết điều phải làm để bảo vệ công lý, thì nhiều khi cũng không thể thực hiện được – ví dụ biết ông A đắp thêm 6cm tường lấn ra là sai, nhưng khi ra lệnh cưỡng chế, ai có thể bóc tách được đúng 6cm tường ra mà không làm hại tới cả bức tường và cả ngôi nhà sắp sập ? Cũng như trong vở kịch "Người lái buôn thành Venise", quan tòa biết rằng xẻo 1 cân thịt là đúng luật công bằng, nhưng ai thực hiện được việc này mà không chảy một 1 giọt máu, đồng thời không thừa không thiếu 1mg ?
f. Các bạn đọc nghĩ thế nào, chấp nhận thế nào thì tùy, nhưng bản thân người viết thì nhất định đòi công lý tuyệt đối, không chấp nhận một ly bất công nào. Nếu ở đời này không thể đòi được thì chắc chắn còn có đời sau vĩnh cửu để chúng ta đòi, lúc đó vị Chúa Tể trời đất – Đấng chí công vô tư, thấu suốt mọi bí ẩn : "thiên võng khôi khôi sơ nhi bất lậu", Đấng đó có quyền năng tuyệt đối, thừa khả năng "bóc tách 6cm tường, cắt đủ một cân thịt mà không chảy một giọt máu" như công lý đòi hỏi. Chỉ có Đấng đó mới có thể đem lại hạnh phúc tròn đầy và vĩnh cửu cho con người như lòng nó mơ ước :
- "Cha của anh, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn" (sách Tin Mừng theo thánh Mátthêu đoạn 6, câu 4).
- "Anh sẽ không ra khỏi ngục cho tới khi trả xong đồng xu cuối cùng" (sách Tin Mừng theo thánh Mátthêu đoạn 5, câu 26).
- "Đến ngày phán xét, người ta sẽ phải trả lời về mọi điều mình nói và mọi việc mình làm" (sách Tin Mừng theo thánh Mátthêu đoạn 12, câu 36).
- "Vì Con Người (Chúa Giêsu) sẽ ngự đến vào ngày tận thế trong vinh quang của Cha Người (Chúa Trời), cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm" (sách Tin Mừng theo thánh Mátthêu, đoạn 16, câu 27).
- "Chúa xét xử dân Người theo công lý và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn" (Thánh Vịnh 71 câu 2).
- "Chúa ngự đến xét xử trần gian, Người xét xử địa cầu theo đường công chính, xét xử muôn dân theo chân lý của Người" (Tv 96,13).
- Công lý, bình an và hạnh phúc tuyệt đối sẽ chỉ có trong Nước Chúa ở kiếp sau mà thôi, đó chính là trời mới, đất mới : "Núi đem lại cảnh hòa bình trăm họ, đồi rước về nền công lý vạn dân" (Tv 71,3).
- Ludwig Van Beethoven (nhà soạn nhạc Đức, 1770-1827) 10 năm cuối đời bị điếc nặng, lúc hấp hối ông nói hổn hển : "Về với Thượng Đế, tôi sẽ lại nghe thấy các bản nhạc của mình" (KTNN số 747, 10/5/2011, trang 26).
- Samuel Langhorne Ciemens, tức Mark Twain (nhà báo, nhà văn Mỹ, 1830-1910), trước khi lìa đời đã nói : "Tạm biệt nhưng chúng ta rồi sẽ gặp lại nhau" (Sđd trang 26).
- Thomas Alva Edison (nhà sáng chế Mỹ, 1847-1931), trước giờ lâm chung, nói với những người thân yêu : "Phong cảnh thế giới bên kia tuyệt đẹp" (Sđd trang 26).
LỜI TÂM NIỆM
- Lạy Đấng thiêng liêng Tối cao,
- Lạy Đấng Tạo Hóa,
- Lạy Đấng Tuyệt Đối,
- Lạy Thượng Đế,
- Lạy Ông Trời,
Chúng con đây là những thọ tạo đứng trên muôn vật trong vũ trụ. Chúng con đã được Ngài tạo dựng nên giống hình ảnh của Ngài là Thiên Chúa, vì chúng con có trí nhớ, có trí tuệ, có ý muốn, có tự do.
Chúng con luôn thao thức trước những vấn đề :
1. Bởi đâu có vũ trụ này ?
2. Bởi đâu có bản thân chúng con ?
3. Đâu là mục đích của cuộc đời ?
4. Chết rồi sẽ đi về đâu ?
5. Làm điều thiện, ai sẽ thưởng công cho ?
(theo ai, thờ ai thì sẽ lãnh thưởng nơi người ấy, nếu người ấy to hơn Ông Trời)
6. Làm điều ác, ai sẽ phạt tội ?
7. Ai sẽ thỏa mãn khát vọng hạnh phúc tuyệt đối của chúng con ?
Chúng con muốn đi tìm chân lý, tìm ý nghĩa đích thực cho cuộc đời. Xin Ngài soi trí mở lòng cho chúng con, để chúng con được tìm thấy Ngài, và được niềm vui gọi Ngài là Cha, như hơn 2 tỉ Kitô hữu trên thế giới – Amen.
(Tiến sĩ Phan Như Ngọc, Email : pnngoc@gmx.net – Trích Bài giảng Chúa nhật - TGM, số 4/2007, trang 74)
Tân Bình, ngày 25/11/2011
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT
Về đầu trang
----------------------------------------
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT
26/01/2013
LỜI ĐẦU
Loài người được Tạo Hóa tác thành hơn và khác loài vật ở chỗ có lý trí và tự do.
"Tự do là khả năng biểu lộ ý chí, hành động theo ý muốn của mình" (Đại Tự điển tiếng Việt – Hà Nội 1999, trang 1762), đây là quyền căn bản của mỗi người. Có tự do thì cũng có trách nhiệm, nghĩa là có thưởng và phạt tùy theo lựa chọn đúng hay sai.
Người viết tập này chỉ muốn trình bày sự thật mà mình đã cảm nghiệm, còn quý độc giả đồng tình hay không, hoặc đồng tình một phần nào thì hoàn toàn thuộc quyền tự do của quý vị.
"Tên tôi là Nick Vujicic. Khác biệt với hầu hết mọi người, tôi không tay, không chân ngay từ lúc lọt lòng. Hoàn cảnh nghiệt ngã tưởng đã có lúc nhấn chìm tôi nhưng rồi khát vọng sống mãnh liệt đã giúp tôi chiến thắng số phận. Tôi đi khắp thế giới, khích lệ hàng triệu người vượt lên nghịch cảnh bằng chính niềm tin, niềm hy vọng, tình yêu và lòng dũng cảm vốn có của họ để theo đuổi những ước mơ ..."
NICK VUJICIC
“Khi bạn không được ban phép màu, hãy để chính mình là điều kỳ diệu” là thông điệp mà chàng trai người Úc Nick Vujicic muốn nhắn gửi. Bạn đọc sẽ được biết tới những nghiệt ngã của số phận và nghị lực sống của anh qua nội dung được trích từ cuốn Cuộc sống không giới hạn (NXB Tổng hợp TP.HCM, Nguyễn Bích Lan dịch) do Trí Việt - First News cung cấp và giữ bản quyền.
Đứa trẻ không có chân tay
Khi tôi chào đời vào ngày 4/12/1982, thoạt đầu mẹ không được phép gặp tôi ... Mẹ tôi đếm từng giây để được nhìn thấy con mình. Đợi mãi không thấy người ta mang tôi đến, bà càng tin chắc có điều gì đó không ổn đã xảy ra.
Thay vì mang con đến cho mẹ bế, họ mời một bác sĩ nhi khoa tới và kéo nhau ra góc xa của căn phòng. Họ nhìn tôi rồi đưa mắt nhìn nhau. Khi nghe thấy tiếng khóc oa oa của một đứa trẻ sơ sinh khỏe mạnh cất lên, mẹ nhẹ cả người. Nhưng khi đó cha tôi, người cha mà trong lúc tôi chào đời đã để ý thấy con mình không có tay, cảm thấy choáng váng và người ta phải đưa ông ra khỏi phòng.
Nhìn thấy hình hài dị biệt của tôi, các bác sĩ và y tá không khỏi bàng hoàng, vội lấy khăn bọc tôi lại.
“Có chuyện gì vậy ? Chuyện gì đã xảy ra với con tôi vậy ?”, mẹ hỏi.
Thoạt đầu bác sĩ không trả lời, nhưng khi mẹ cứ khăng khăng hỏi dồn, ông ấy không còn cách nào khác hơn là trả lời mẹ bằng một thuật ngữ y khoa : “ðứa bé bị chứng phocamelia”.
Vốn là một y tá, mẹ tôi biết thuật ngữ đó dùng để chỉ tình trạng của những đứa trẻ sinh ra bị dị dạng hoặc thiếu mất các chi. Mẹ tôi không thể nào chấp nhận sự thật nghiệt ngã này.
Giữa lúc đó, người cha hốt hoảng của tôi ở bên ngoài phòng hộ sinh, tự hỏi những gì ông vừa nhìn thấy có phải là sự thật hay không. Khi bác sĩ nhi khoa đến nói chuyện, ông không kìm nén được, kêu lên đau đớn : “Con trai tôi, nó không có tay !”.
“Thực ra”, vị bác sĩ nói bằng giọng đầy cảm thông, “con trai anh không có cả tay lẫn chân”.
“Ông nói gì cơ ?”. Cha không thể nào tin được.
Bàng hoàng và vô cùng đau khổ, cha ngồi như một pho tượng, không thể thốt ra được một lời nào cho đến khi bản năng che chở của một người chồng, một người cha trỗi dậy. Ông chạy vội vào phòng để nói với mẹ tôi trước khi mẹ nhìn thấy tôi, nhưng thật buồn, khi vào đến nơi cha thấy mẹ đang nằm thẫn thờ trên giường, khóc rưng rức trong đau khổ. Các nhân viên y tế đã nói cho mẹ tôi biết cái sự thật choáng váng đó. Họ đề nghị đưa tôi đến cho mẹ tôi bế, nhưng mẹ tôi từ chối. Trong những giây phút đau khổ đến xé lòng ấy, mẹ đã bảo họ hãy đưa tôi đi chỗ khác.
Các cô y tá không cầm nổi nước mắt. Bà đỡ bật khóc. Và tất nhiên tôi cũng khóc ! Cuối cùng họ đặt tôi, đứa con tật nguyền đỏ hỏn được bọc trong những lớp khăn, xuống bên cạnh mẹ, và mẹ tôi không thể nào chịu đựng nổi những gì bà đang nhìn thấy : Con trai bà, đứa con đầu lòng mà bà mang nặng đẻ đau, chào đời không có tay, không có chân.
Thay vì mừng sự chào đời của tôi trong niềm vui, cha mẹ tôi và giáo đoàn than thở : “Nếu Chúa là đấng sáng tạo của tình yêu”, họ tự hỏi, “thì tại sao Người lại để cho một chuyện như thế xảy ra ?”.
Số phận bất hạnh hay món quà của tạo hóa ?
Cha mẹ tôi là những người Cơ ðốc giáo ngoan đạo, nhưng khi tôi chào đời với thân thể khiếm khuyết đến mức ấy họ bàng hoàng lắm, không biết Chúa Trời nghĩ gì. Thoạt đầu, họ cho rằng sẽ chẳng có hy vọng và tương lai nào dành cho tôi ; rằng tôi sẽ không bao giờ có thể sống một cuộc sống bình thường hay hữu ích.
Thế nhưng, cuộc sống của tôi hiện nay đã vượt quá xa những gì được hình dung ngày ấy. Hằng ngày tôi gặp rất nhiều người tôi chưa từng quen biết qua điện thoại bàn, email, qua tin nhắn trên điện thoại di động và qua mạng xã hội Twitter. Ở bất cứ nơi nào tôi tới, tại sân bay, khách sạn, ở tiệm ăn, mọi người đều nhận ra tôi, ôm chầm lấy và nói với tôi rằng bằng cách nào đó tôi đã tác động tích cực đến cuộc sống của họ. Tôi thực sự hạnh phúc. Tôi hạnh phúc đến ngẩn ngơ.
Điều mà ngày ấy bản thân tôi và gia đình không thể tiên lượng được là khuyết tật của tôi - “gánh nặng” của tôi - lại chính là một món quà, mang đến những cơ hội vô giá để tôi được gặp gỡ, cảm thông và thấu hiểu nỗi đau của những người khác, và an ủi họ.
…
Với hơn 1.600 bài phát biểu hùng hồn, Nick giờ đã trở thành một nhà diễn thuyết nổi tiếng, đã truyền cảm hứng vươn lên từ khó khăn cho hàng triệu người tại 24 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Anh đã trở thành ngọn đuốc sống "cháy" hết sức mãnh liệt trên toàn cầu. Chàng trai sinh năm 1982 này đã vinh dự được trao giải thưởng “Công dân trẻ nước Úc” nhờ sự vững gan bền chí của mình trong nỗ lực vượt lên số phận. (N.V – Báo Thanh Niên ngày 17/12/2012)
Ai có thể tin được rằng dù không chân không tay, Nick vẫn gõ vi tính với tốc độ 40 từ/phút ? (Sđđ)
Trước Nick 40 năm, nhà vật lý thiên tài Stephen Hawking cũng ở trong hoàn cảnh vô cùng bi đát : MỘT THIÊN TÀI TÀN TẬT LÀM ĐẢO LỘN MỌI HỌC THUYẾT VỀ NGUỒN GỐC VŨ TRỤ
Do một căn bệnh khủng khiếp tàn phá các tế bào não, Stephen Hawking không thể bước đi, đầu anh không thể thẳng đứng và anh chỉ "nói" được nhờ giọng nói của một máy điện toán. Tuy nhiên, anh lại là Giáo sư giảng dạy những học thuyết "cách mạng" cho hàng trăm sinh viên ở Trường đại học Cambridge và nhờ những học thuyết này, anh được mệnh danh là Galilée của thế kỷ 20.
Mặt trời nhợt nhạt của mùa đông kéo dài đã mọc lên trên thành phố Cambridge ở Anh, một thành phố nhỏ cách thủ đô London vài trăm km, là nơi sản sinh ra một trong những trường đại học nổi tiếng nhất thế giới : đại học Cambridge. Trên đường phố yên tĩnh, các sinh viên bình thản cưỡi xe đạp đến trường và bất ngờ thay, người ta trông thấy ở giữa đường một chiếc xe lăn chạy bằng điện. Trên xe là một người có gương mặt hốc hác, cổ quấn khăn quàng ca rô màu xám, miệng hơi hé mở, nhưng đầu cứ nghiêng sang một bên, anh ta di chuyển thật nhanh trên chiếc xe lăn nhờ một cái cần nhỏ. Anh ta tên Stephen Hawking và là một trong những nhà vật lý lý thuyết lỗi lạc nhất thế giới. Ngày nay, nhà nghiên cứu vật lý này đã trở thành tù nhân của chính thân xác mình, nhưng tư tưởng của anh thì không có gì giam hãm nổi. Hiện anh đang hướng về phía giảng đường của khoa toán học và vật lý học ứng dụng và chuẩn bị nói chuyện trước khoảng100 sinh viên. Cô y tá chăm sóc và người phụ tá chạy phía sau anh, định bắt kịp chiếc ghế điện quái quỷ, nhưng họ chỉ hoài công, Hawking đã đến trước và chờ đợi họ với nụ cười hiền hậu trên gương mặt. Anh nhìn vào màn ảnh nhỏ của máy điện toán gắn cố định trên tay ghế và thấy hàng trăm từ nối tiếp nhau hiện lên với một nhịp độ gia tăng. Anh chọn lựa các từ với đầu ngón tay bằng cách ấn lên một cái nắm tay. Và phía dưới màn ảnh dần dần hiện lên dòng chữ : "Chúng ta đã đến trễ". Vài giây sau đó, một giọng nói tổng hợp đọc lên câu này cho mọi người cùng nghe.
Tại sao lại có chuyện lạ như vậy ? Bởi vì Hawking không thể nói được. Cách đây hơn 10 năm, giọng nói của anh dần dần bị hỏng, và chỉ có một thiểu số người quen mới có thể hiểu được anh muốn nói gì. ðến năm 1985, sau lần bị viêm phổi, người ta phải nhét vào khí quản của anh một ống nhỏ. Anh được cứu sống nhưng vĩnh viễn bị câm. Nhờ vào giọng nói nhân tạo thiết kế trên một máy điện toán mini có một không hai trên thế giới mà nhà vật lý còn tiếp tục giao tiếp với mọi người. Nhờ đó mà anh còn theo đuổi được những công trình nghiên cứu của mình. Những phương trình phức tạp mà Hawking giải ra trên các danh mục thông tin dường như chẳng có gì gọi là bí mật đối với anh. Những cộng tác viên của anh đã từng ngạc nhiên thốt lên rằng : "Anh ta có được một trực giác không thể nào tưởng tượng được và một năng lực độc nhất vô nhị có thể cho phép anh ta thấy rõ một vũ trụ tới … 4 chiều".
Hawking sinh vào ngày 8/1/1942, đúng 3 thế kỷ sau khi Galilée mất. Một sự trùng hợp rất lý thú !
Ít lâu sau khi vào đại học Cambridge, Hawking nhận thấy anh ngày càng khó làm chủ những cử động của mình. Anh trở nên vụng về. ðôi khi vào sáng sớm, anh cảm thấy đôi chân như nặng ra và người cứ như bị hẫng. Sau khi đi khám, bác sĩ cho biết đây là chứng teo cơ một bên. ðiều đó có nghĩa là các tế bào thần kinh ở não sẽ dần dần bị hủy, bắt đầu từ các dây thần kinh hoạt động, ðó là chuyện xảy ra vào năm 1964, lúc Stephen Hawking mới được 22 tuổi, và kể từ đó, sinh mạng của anh được tính từng ngày. Nhưng Hawking không hề nản chí !
Một cuộc chạy đua giành giật từng giây sống giữa anh với thần chết đã diễn ra. Giọng nói đơn điệu của máy giải thích với tôi như sau : "Khi anh ở gần kề cái chết thì anh mới nhận ra rằng cuộc sống này rất đáng sống và có biết bao điều phải làm ngay".
Lòng can đảm này một phần Hawking đã rút lấy trong mối tình mà Jane Wilde, cô sinh viên hiền hậu, đã mang đến cho anh. Họ gặp nhau sau khi các bác sĩ đã đưa ra bản án vài tháng trước đó, và một năm sau họ lấy nhau.
Buổi nói chuyện đã kết thúc, Hawking quay về căn phòng làm việc nhỏ của mình ở khoa toán và vật lý ứng dụng với chiếc ghế giáo sư mà Newton đã độc chiếm trước đây. Anh làm việc giữa những tấm hình của người vợ và 3 đứa con : Robert 20 tuổi, Lucy 17 tuổi, và cậu út Timmy 8 tuổi.
"Ông hoàng vật lý" và cuộc đời gắn chặt với chiếc xe lăn
Trong một góc nhỏ có một bức ảnh thu hút sự chú ý của tôi, đó là hình Stephen Hawking diện kiến Giáo hoàng Jean-Paul II. Anh cho biết đây là kỷ niệm khi anh đến Vatican vào năm 181 để dự cuộc hội thảo về vũ trụ học do các thầy tu Dòng Tên tổ chức.
(Anh Tuấn lược dịch từ "Figaro Magazine" – Báo Kiến Thức Ngày Nay số 3, tháng 4/1988)
Mục Thế Giới 30 Ngày Qua
12/12/2012 : Nhà vật lý Stephen Hawking – đại học Cambridge, được trao giải Fundamental Physics Prize trị giá 3 triệu USD. Giải thưởng do tỷ phú Nga – Yuri Milner, lập từ tháng
7/2012 đã được trao cho 11 nhà khoa học. Giải thưởng khoa học này là giải lớn nhất từ trước đến nay. (Nguyệt san CG&DT số 216, tháng 12/2012)
Vừa rồi, 26/12/2012 trên nhật báo ðời Sống & Pháp Luật, biên tập viên Thanh Xuân có bài : "Chấn động thế giới – Nhà vật lý thiên văn số một thế giới với căn bệnh "hóa đá" kỳ lạ : Giáo sư Stephen Hawking là một trong những bộ óc thông thái nhất hành tinh nhưng ít ai biết khi còn nhỏ, ông học hành rất chểnh mảng. Ông lười học đến nỗi tới khi lên 8 ông mới bắt đầu biết đọc. Không những thế, ông mắc phải căn bệnh khiến toàn thân "hóa đá" (ALS) năm ông 21 tuổi sau khi tốt nghiệp xuất sắc đại học Oxford. Khi nhận được thông tin từ bác sĩ cho biết mình chỉ sống thêm được vài ba năm nữa, Stephen Hawking đưa mắt nhìn lên bầu trời. Và như có điều gì đó thôi thúc, ông lóe lên trong đầu suy nghĩ : "Mình còn rất nhiều việc chưa làm và đây là cơ hội cuối cùng". Chàng sinh viên trẻ bỗng nhận thấy giá trị cuộc sống và quyết sống có ích.
Nhận định
1. Sự thiệt thòi, nỗi đau đớn của Nick và Hawking thật quá lớn, chúng ta không thể đo lường được. Thân phận con người trên dương gian nhiều rủi ro, bất trắc không ai có thể tránh hết được. Chính chúng ta, tôi và các bạn, chúng ta cũng có những nỗi đau riêng, tinh thần hay thể chất có thể không quá lớn như Nick và Hawking, nhưng cũng không dễ vượt qua.
1.1 Có thể chúng ta đang ở trong tình trạng nghèo nàn túng bấn, thiếu trước hụt sau, không làm gì ra tiền, phải sống nhờ lòng hảo tâm của đồng bào …
1.2 Có thể chúng ta bệnh tật, yếu đau, lại mắc các chứng nan y mãn tính như tiểu đường, tim mạch, cao huyết áp, viêm xoang, đau bao tử, tai mũi họng … chúng ta chữa trị suốt đời cũng không hết, nhất là ung thư "đa dạng và đa hệ", hoặc ngay cả căn bệnh thế kỷ sida, chỉ hy vọng kéo dài cuộc sống được bao nhiêu hay bấy nhiêu.
1.3 Có thể chúng ta bị khuyết tật bẩm sinh hay do tai nạn, do chiến tranh, bom mìn … sự khiếm khuyết này đồng hành với ta suốt cuộc đời.
1.4 Có thể chúng ta lâm cảnh thất nghiệp : có thừa sức lao động nhưng không tìm được việc làm, chúng ta cứ phải sống những ngày mỏi mòn, săn đuổi, chờ đợi việc làm để lo cho cuộc sống của mình và gia đình.
1.5 Có thể chúng ta gặp tai họa do thiên nhiên, do những người xung quanh vô tình hay cố ý gây cho ta : vô tình như tai nạn giao thông – cố ý như em bé ở Bắc Kạn trong vụ cướp tiệm vàng, bị tên cướp chém lìa cánh tay và giết chết cả gia đình em … hoặc cô gái ở cầu Phú Mỹ bị bốn tên cướp chém gần lìa tay để cướp xe … đau đớn quá !
1.6 Có thể nỗi đau đó là vết thương tâm hồn rất khó hàn gắn như trường hợp vợ chồng bị phản bội, ruồng rẫy, bạo hành … bạn bè lừa đảo nhau …
Tóm lại, rất nhiều nỗi đau, nỗi đau đến từ nhiều phía, nỗi đau nào cũng có mũi nhọn thấu tim gan … nhà Phật tóm lại bằng một câu : "đời là bể khổ".
Đứng trước nỗi đau của mình hay của tha nhân, chúng ta đôi lúc cũng thắc mắc như những người thân yêu của anh Nick : "Nếu có Chúa Trời là Tình Yêu thì sao lại để xảy ra những khổ đau nhường ấy !", và đã không ít người mất niềm tin vào Chúa, đã buông xuôi, đã để cho đau khổ đè bẹp và cuối cùng của những bế tắc là thất vọng và tự tìm lối giải thoát bằng tự tử. Chính Nick hồi còn bé đã nghĩ ra kế hoạch tự tử bằng cách leo lên một ghế cao trong khi mẹ đang lúi húi làm bếp – Nick cứ bị giằng co bởi ý nghĩ : Lao xuống phía nào ? ðầu xuống trước hay mình xuống trước ? Cho ót xuống trước hay úp mặt xuống trước ? Chết đã vậy nhỡ không chết thì sao ?
Rồi lại nghĩ đến em, đến bố mẹ và cho rằng nếu mình chết thì mọi người sẽ khóc thảm thiết lắm, và họ sẽ bị dằn vặt cho rằng mình có lỗi vì đã không chăm sóc anh cho đủ - Tình thương yêu những người ruột thịt đã kéo anh ra khỏi "bóng tối sự chết", anh quyết sống và tìm hướng vươn lên …
2. Giải đáp cho thắc mắc hoài nghi về Thiên Chúa Tình Yêu – Ngài quả là Thiên Chúa Tình Yêu, Thiên Chúa chí thánh, không một cái gì không tốt có thể tồn tại nơi Ngài. Kinh Thánh quả quyết : "Mọi sự Ngài tạo dựng đều tốt đẹp" (St 1,12). Vậy thì những điều xấu xa, tồi tệ kia bởi đâu ra ?
Thưa hoàn toàn bởi con người lạm dụng tự do, gây ra cho mình và cho tha nhân.
2.1 Tình trạng nghèo đói không phải bởi Chúa tạo ra – Chúa tạo nên trời đất muôn vật là để cho loài người, và tài sản trời đất Chúa cho chung mọi người, nếu biết nhường nhịn chia sẻ, đùm bọc thì đâu có nghèo đói. ðằng này con người tự áp dụng luật "cá lớn nuốt cá bé, mạnh được yếu thua", nên tranh nhau chiếm hữu, nước mạnh chiếm phần tốt, nước yếu được phần xấu rồi lại đua nhau bóc lột : "người bóc lột người" mới có tình trạng phân hóa giàu nghèo hiện nay và thật không may chúng ta lại ở trong số những người nghèo đói bị "bóc lột" hết quyền lợi …
Nghèo đói do bất công
Báo Thanh Niên ngày 28/12/2012 mục Tôi có ý kiến :
- Bài "500 giờ dạy không lương" đăng trên Thanh Niên ngày 27/12/2012 nhận được nhiều phản hồi của bạn đọc.
- Quá bất công !
"Giáo viên mầm non đang trong tình trạng quá tải sức lao động, nhưng thực tế phải gọi là đang bị bóc lột sức lao động" – độc giả Phạm Phi Phao.
"Một năm 500 giờ dạy không được hưởng lương ! Người sử dụng lao động đã vi phạm bộ luật lao động, là hành vi vắt cạn sức lao động rất nghiêm trọng" – ðộc giả Nguyễn Tiến Dũng (Bình Trưng Tây, quận 12).
Ban CTBĐ đã tổng hợp 7 ý kiến có nội dung tương tự, bức xúc về vấn đề này.
2.2 Tình trạng bệnh tật, đau yếu … chỉ tại con người – Nguyên tổ loài người : ông Ađam và bà Eva được Chúa dựng nên trong tình trạng sức khỏe viên mãn … về sau do tội lỗi của loài người, do "tham sân si" loài người hại nhau … ích kỷ vứt rác bừa bãi, bệnh tật lây lan, ham lợi dùng hóa chất chế biến, bảo quản thực phẩm, ai ăn vào thì ráng chịu hậu quả là bệnh tật – Rượu, thuốc lá, sì ke … có hại mà cứ mê, cứ xài thì cứ ráng mà chịu. Sida chết người biết đấy nhưng cứ chích, cứ chơi bời … thì kêu ai bây giờ !
2.3 Tình trang bị khuyết tật – Mô hình con người mà Chúa tạo thành là hoàn chỉnh, cân đối, đẹp đẽ không thể chê vào đâu được. Chúng ta sinh ra bị dị tật bẩm sinh là do chất độc da cam, do bom đạn, do ảnh hưởng của rượu chè, của giang mai, lậu mủ … có khi do cha mẹ nghèo quá ăn không đủ chất, hoặc do bị bạo hành trong quá trình mang thai. Có rất nhiều nguyên nhân chủ quan và kháchquan, bên trong và bên ngoài đóng góp vào sự hình thành khuyết tật của chúng ta. Chúng ta cũng có thể bị khuyết tật do tai nạn giao thông hay các tai nạn khác, không loại trừ cả những vụ cướp giựt, đâm chém ngoài đường, ngoài chợ hoặc do chính chúng ta bất cẩn sẩy chân, ngã, vấp, gây cháy, nổ …có khi do ăn uống tích tụ độc chất phát sinh tiểu đường rồi bị đoạn chi, tháo khớp …
2.4 Tình trạng thất nghiệp – Chúng ta phải chịu là do cơ chế xã hội chưa hoàn hảo gây nên : Báo chí mới đăng vụ đất đai ở huyện ðông Triều, Quảng Ninh : thu hồi đất nông nghiệp của nông dân, bồi thường 38.000 đồng/m2 nhượng cho dự án đầu tư kinh doanh cái gì không biết, chỉ biết rằng nông dân không còn đất trồng cấy, họ quen nghề nông, không có chuyên môn, chưa được chuẩn bị chuyển đổi nghề nghiệp … bây giờ sống làm sao, ở làm sao đây ? Bồi thường 38.000 đồng/m2 đất cũng được, nhưng xin chỉ cho dân chỗ nào thuận lợi như đất đã thu mà giá cũng 38.000 đồng/m2 xem nào ! Xin làm công nhân xí nghiệp thì không có tay nghề ; xin làm bảo vệ cũng đòi "trình độ" có khi phải là bằng B anh văn, nông dân chân lấm tay bùn lấy đâu ra ! Tình trạng "mật ít ruồi nhiều" kiếm đâu ra việc làm ổn định mà sinh sống ? đương nhiên phải thất nghiệp, mà thất nghiệp thì luôn đồng nghĩa với nghèo đói khổ sở, cơ cực … Tài nguyên trời đất này Chúa cho chung mọi người cơ mà sao nó toàn biến thành của riêng của tầng lớp thế lực giàu có thôi !
2.5 Các tai họa – Tai họa gồm thiên tai và nhân tai, nhưng nhân tai là chủ yếu : lũ quét là do con người phá sạch rừng. Có lần báo chí đăng về vùng rừng miền Tây Ninh, dân phá sạch trong vòng mười năm, để trồng lại như cũ, bài báo cho biết phải mất 150 năm !
Khí hậu biến đổi, bão tố, sóng thần… do khí thải nhà máy làm bầu khí nóng lên, băng bắc và nam cực tan chảy không kềm chế được … Còn những tai nạn do con người gây nên làm khổ nhau thì muôn mặt, nào tai nạn giao thông, tai nạn nghề nghiệp, tai nạn do bất cẩn, tai nạn do cướp giựt đâm chém, đả thương …
2.6 Vết thương tâm hồn – Có những người giàu có tưởng chừng như hạnh phúc nhưng có thể tâm hồn bị thương tật. Kẻ thì vợ hư, người thì chồng hỏng, kẻ khác thì con cái quậy phá gây ra trăm nghìn nỗi đau. Cách nay 30 năm, nước Mêhicô có bộ phim rất hay, cuốn hút mọi tầng lớp dân chúng Việt Nam, đó là bộ phim "Người giàu cũng khóc", bộ phim này có thể tóm kết các nỗi đau tâm hồn.
3. Con đường giải thoát.
3.1 Nick và Hawking đã hé mở cho chúng ta một phần đường giải thoát, đó là can đảm chấp nhận sự thật về bản thân mình, chấp nhận tình trạng hiện tại của mình, không bi quan yếm thế mà luôn hy vọng, mơ ước và cố gắng hết sức, kiên trì, tận dụng những gì còn lại của mình để vươn lên, để sống có ích cho mình và cho người, cố gắng khám phá và rèn luyện "tài năng" ẩn giấu nơi mỗi người. Giống như Nick khám phá ra khả năng diễn thuyết, khả năng tiếp xúc của anh để rồi phát huy rộng rãi, đem lại lợi ích cho nhiều người. Không bao giờ để cho tuyệt vọng đè bẹp mình, cho dù ngày mai mình chết thì từ nay đến mai vẫn còn cơ hội làm những điều tốt đẹp. Một cô Thúy năm nào đã lạc quan làm việc thiện cho đến chết. Ngày nay lớp thanh niên vẫn còn nối tiếp "ước mơ của Thúy".
3.2 Tin tưởng nơi Chúa sẽ không bao giờ thất vọng : "Chẳng ai tin cậy Chúa mà lại phải nhục nhằn tủi hổ" (Tv 24,3) Những tình trạng tồi tệ kể trên vẫn có thể xảy ra trên đời này là do Chúa đã ban cho con người món quà quý giá là tự do, và Chúa tuyệt đối tôn trọng tự do của mỗi người, để rồi chung cuộc sẽ thưởng phạt họ tùy theo tự do lựa chọn của họ. Nếu không có một cuộc phán xét cuối cùng của cả nhân loại thì cuộc sống của chúng ta quả là phi lý và không có gì phi lý hơn. Vì biết bao nhiêu người chết trong nghèo đói, bệnh hoạn, thương tật, khuyết tật do sự tàn ác, bất công con người gây ra cho nhau. Bé gái ở Bắc Kạn, con chủ tiệm vàng ; cô gái ở cầu Phú Mỹ … bị kẻ ác chém rời tay, thương tật suốt đời không gì có thể bù đắp cân bằng được ; Cô sinh viên 23 tuổi ở thủ đô Ấn ðộ bị hãm hiếp tập thể trên xe buýt ngày 16/12/2012 đã chết ở Singpore sáng 29/12/2012, những kẻ gây ra nỗi đau thương và cái chết của cô đã bị bắt nhưng chưa bị xét xử (Internet – Thanh Phương), thế mà chết là hết, là huề cả làng, kẻ ác cũng như người lành, kẻ đè đầu bóp cổ người khác cũng như kẻ bị bóc lột thì còn đâu là công lý mà lòng người luôn khát khao – và ðấng Thượng ðế chí công không lẽ ngoảnh mặt làm ngơ. Như thế thì làm gì còn danh hiệu "Thượng ðế Chí Công", "Ông Trời có mắt", "Thiên Chúa Tình Yêu". Vì thế chắc chắn sẽ có ngày Chúa trả lại đầy đủ những phần thân thể bị khiếm khuyết cho chúng ta, như mô hình hoàn chỉnh ban đầu. Khi được Chúa cho sống lại ("Những ai đến với tôi, tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" – Ga 6,44), sẽ không còn cảnh cụt chân, cụt tay, mù mắt, thương tật nữa. Tình trạng giàu nghèo cũng bị xóa bỏ, mọi bất công sẽ bị loại trừ và mọi người sẽ bình đẳng với nhau, lãnh thưởng hay chịu phạt tùy theo sự tự do lựa chọn đúng hay sai của mình. Phán xét này thật công minh, không mảy may thiên vị, và những kẻ gây ra đau thương, mất mát cho người khác sẽ bị nghiêm trị. để được như thế, ngay từ bây giờ người ta phải tin tưởng, tôn thờ Chúa, chấp nhận tuân thủ các điều răn của Ngài như Chúa Giêsu đã dạy : "Muốn vào nước trời thì phải giữ các điều răn" (Mt 19,17). Tình trạng hiện tại chúng ta phải chấp nhận có khi cả đời như Nick và Hawking, Nick không hy vọng sẽ mọc lại tay chân được, Hawking cũng không hy vọng đứng lên được, nhưng sau này chắc chắn sẽ khác, sẽ hoàn chỉnh.
Bạn có tin không ? Bạn có muốn không ? Nếu bạn muốn, hãy tin và gia nhập Hội Thánh Chúa, bạn sẽ được. Tất cả tùy bạn đấy !
LỜI TÂM NIỆM
- Lạy Đấng thiêng liêng Tối cao,
- Lạy Đấng Tạo Hóa,
- Lạy Đấng Tuyệt Đối,
- Lạy Thượng Đế,
- Lạy Ông Trời,
Chúng con đây là những thọ tạo đứng trên muôn vật trong vũ trụ. Chúng con đã được Ngài tạo dựng nên giống hình ảnh của Ngài là Thiên Chúa, vì chúng con có trí nhớ, có trí tuệ, có ý muốn, có tự do.
Chúng con luôn thao thức trước những vấn đề :
1. Bởi đâu có vũ trụ này ?
2. Bởi đâu có bản thân chúng con ?
3. Đâu là mục đích của cuộc đời ?
4. Chết rồi sẽ đi về đâu ?
5. Làm điều thiện, ai sẽ thưởng công cho ?
(theo ai, thờ ai thì sẽ lãnh thưởng nơi người ấy, nếu người ấy to hơn Ông Trời)
6. Làm điều ác, ai sẽ phạt tội ?
7. Ai sẽ thỏa mãn khát vọng hạnh phúc tuyệt đối của chúng con ?
Chúng con muốn đi tìm chân lý, tìm ý nghĩa đích thực cho cuộc đời. Xin Ngài soi trí mở lòng cho chúng con, để chúng con được tìm thấy Ngài, và được niềm vui gọi Ngài là Cha, như hơn 2 tỉ Kitô hữu trên thế giới – Amen.
(Tiến sĩ Phan Như Ngọc, Email : pnngoc@gmx.net – Trích Bài giảng Chúa nhật - TGM, số 4/2007, trang 74)
Tân Bình, ngày 01/06/2011
Lm. Giuse NGUYỄN HỮU TRIẾT
Tác giả: Lm Nguyễn Hữu Triết
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn