Truyện một tâm hồn - Tự thuật của Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu - Các bản thảo

Thứ hai - 22/04/2024 07:05
Truyện một tâm hồn  - Tự thuật của Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu - Các bản thảo
Truyện một tâm hồn - Tự thuật của Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu - Các bản thảo
Truyện một tâm hồn
Tự thuật của Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu - Các bản thảo

-------------------------------
Nội Dung:
NHẬP ĐỂ TỔNG QUÁT.. 11
Bản thảo A: ĐỀ TẶNG MẸ ĐÁNG KÍNH AGNÈS DE JÉSUS. 26
Bản thảo B: THƯ VIẾT CHO SƠ MARIE DU SACRÉ-COEUR.. 128
Bản thảo C: ĐỀ TẶNG MẸ ĐÁNG KÍNH MARIE DE GONZAGUE.. 139

-------------------------------
SAINTE THÉRÈSE DE L’ENFANT-
JÉSUS ET DE LA SAINTE FACE
(HƯƠNG VIỆT)

CÁC BẢN THẢO TIỂU SỬ TỰ THUẬT
(Truyện một tâm hồn)
THÁNH NỮ TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU
 
MỘT VÀI SUY TƯ VỀ CON ĐƯỜNG THƠ ẤU THIÊNG LIÊNG CỦA THÁNH NỮ TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU

Tôi rất yêu thích Con Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng của Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Không những yêu thích, tôi còn đưa tinh thần Con Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng vào cuộc sống của tôi và rao giảng cho Quý Ông Bà, Anh Chị Em giáo dân hiểu biết, yêu thích và đưa vào cuộc sống Tinh Thần Thơ Ấu Thiêng Liêng của Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Tôi xin chia sẻ một vài suy tư về Con Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng của Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu trong năm điểm sau đây.

1 Ơn gọi của Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu trong Hội Thánh là Tình YêuĐể hiểu biết về ơn gọi của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu trong Hội Thánh là Tình Yêu, tôi xin trích một đoạn trong sách Tự Thuật của Thánh Nữ:

“Khi suy nghĩ về thân thể mầu nhiệm của Hội Thánh, con chẳng thấy mình thuộc loại chi thể nào trong các loại thánh Phaolô mô tả, hay đúng hơn con muốn đồng hoá mình trong mọi chi thể đó. Đức Ái đã cho con chìa khoá để tìm ra ơn gọi của con. Con hiểu rằng nếu Hội Thánh có một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Con hiểu rằng Hội Thánh có một Trái Tim và Trái Tim đó bừng cháy tình yêu. Con hiểu rằng chỉ có tình yêu mới làm cho các chi thể của Hội Thánh hoạt động và nếu Tình Yêu tắt ngúm thì các Tông Đồ sẽ chẳng loan báo Tin Mừng nữa, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình ra... Con hiểu rằng Tình Yêu bao trùm mọi ơn gọi và Tình Yêu là tất cả, nó bao trùm mọi nơi và mọi thời...; tắt một lời, Tình Yêu tồn tại mãi.
Bấy giờ, vào lúc Tình Yêu dạt dào ngây ngất, con đã reo lên: Ôi Giêsu, Tình Yêu của con. Ơn Gọi của con, cuối cùng con đã tìm thấy, Ơn Gọi của con, chính là Tình Yêu... Vâng, con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh và chỗ đứng này, ôi Thiên Chúa của con, chính Chúa đã ban cho con. Trong lòng Hội Thánh, Hiền Mẫu của con, con sẽ là Tình Yêu. Như thế, con sẽ là tất cả... và như thế, ước mơ của con sẽ được thực hiện...”

2. Làm mọi việc vì Tình Yêu Chúa để tôn vinh Chúa và cứu rỗi các linh hồn

Theo tinh thần của thánh Phaolô Tông Đồ, trong thư gởi tín hữu Côrintô, có nói:
“Dù ăn, dù uống hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10,31).
Yêu Chúa, Thánh nữ tận hiến hoàn toàn cho Chúa; thương người, Thánh Nữ sẵn lòng chịu cực chịu khó, phục vụ mọi người.
Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu hằng ngày dâng hy sinh, đau khổ và việc bổn phận hằng ngày để xin Chúa cứu các linh hồn. Khâu một mũi kim, Thánh Nữ cũng dâng cho Chúa: “Lạy Chúa, con xin dâng mũi kim khâu này cho Chúa vì Tình Yêu Chúa để làm vinh danh Chúa và xin Chúa cho con một linh hồn.”
Thánh Nữ chỉ sống ở trần gian này 24 năm, mà Thánh Nữ đã cứu được nhiều linh hồn ngang bằng với số linh hồn mà thánh Phanxicô Xaviê đã đi khắp Á châu rao giảng Tin Mừng cứu độ.
 
3. Tin tưởng phó thách vào Chúa

Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu luôn tin tưởng phó thách vào Chúa. Trong một lá thư gửi Chị Pauline, Thánh Nữ đã nói: “Em là quả bóng của Chúa Giêsu Hài Đồng, hoàn toàn tuỳ thuộc quyền sử dụng của Người.”
Chúa yêu ai thì ban cho người đó nhiều gánh nặng, nhiều đau khổ. Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng không ở ngoài thông lệ đó. Dù gặp đau khổ, thử thách nặng nề, Thánh Nữ Têrêsa luôn tuyệt đối tin tưởng phó thác vào Chúa. Thánh Nữ nói: “Chúa sẽ mệt mỏi, sẽ chán thử thách con, chứ không bao giờ con hoài nghi Chúa... Không phải vì con giữ được linh hồn sạch tội trọng mà con trông cậy vào Chúa đâu, cả khi con phạm tất cả các tội lỗi người ta có thể phạm, con vẫn không mất lòng tin tưởng phó thác vào Chúa. Lúc đó với lòng sám hối, ăn năn, con gieo toàn thân vào cánh tay Chúa cứu độ con... Tất cả các tội đó sẽ tan đi như giọt nước nhỏ, tan biến trong ngọn lửa yêu thương đang bùng cháy.”
Càng về cuối đời, Thánh Nữ Têrêsa càng phải chịu nhiều thử thách về cả tâm hồn và thể xác. Tuy nhiên Thánh Nữ luôn chiếu sáng một đức phó thác tuyệt vời.
Theo Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, ở trần gian này, chỉ cần thi hành một điều tối quan trọng, là dâng lên Chúa Giêsu tất cả những hy sinh nho nhỏ gặp trên đường đời. Sự thánh thiện không cốt tại làm việc này hay việc khác, nhưng hệ tại ở trạng thái linh hồn. Linh hồn phải khiêm tốn, phó thác trong tay Thiên Chúa toàn năng, phải nhận biết mình yếu đuối và cương quyết tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Và nhất là không được thất vọng vì những lỗi lầm đã phạm, vì nên biết rằng những trẻ nhỏ cũng thường té ngã.
Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã đưa ra hình ảnh sau đây để nói lên ích lợi của việc tin tưởng phó thác vào Chúa:
“Một em bé ở tầng trệt của một toà nhà cao tầng... Mẹ em đang ở tầng trên của toà nhà. Nếu em sốt ruột muốn lên gặp mẹ ở tầng trên, em bò từng bậc thang để lên gặp mẹ. Chắc chắn em sẽ bất lực, không thể dùng sức mình leo lên các cầu thang để gặp được mẹ em đâu. Nhưng nếu em cứ ở tầng trệt, năn nỉ mẹ cho em gặp mẹ. Vì thương con bà mẹ sẽ xuống tầng trệt để bế em lên với bà. Như vậy vừa nhẹ nhàng và mau lẹ!”
Chúng ta tin tưởng phó thác vào Chúa. Chúng ta cũng sẽ cảm thấy nhẹ nhõm, thanh thản, bình an và an toàn như em bé trong câu chuyện của Thánh Nữ Têrêsa kể trên đây.

4. Cầu nguyện cho các Linh mục và nhất là cho các vị Truyền giáo

Chị Têrêsa mới lên 15 tuổi đã xin được vào Dòng Kín ở Lisieux bên Pháp, tới tuổi 23 thì mắc bệnh lao phổi thổ huyết rất đau đớn. Chị được giáo dục rất tốt và đã tìm ra đường thơ ấu thiêng liêng: Hết mình phó thác cho Chúa và yêu thương mọi người. Khi ngã bệnh, Nữ tu chăm sóc phòng bệnh khuyên chị Têrêsa mỗi ngày nên đi bộ 15 phút. Một hôm, một Nữ tu thấy chị bước vất vả quá, thương hại bảo rằng chị về nằm nghỉ, có lẽ tốt hơn, đi thế chỉ thêm mệt. Chị Têrêsa trả lời: Vâng đúng thế. Nhưng chị có biết em lấy sức mạnh ở đâu mà đi được như vậy không? Em đi để cầu nguyện cho các vị Truyền giáo đang kiệt sức vì miệt mài lo mở mang Nước Chúa. Em muốn dâng lên Chúa những bước đi mệt nhọc này để cho các vị Tông đồ ấy đã mệt mỏi.

5. Cha mẹ hiền lành để đức cho con

“Thiên Chúa đã ban cho tôi một người cha và một người mẹ, xứng đáng sống ở trên trời hơn là ở dưới đất”. Đó là lời Thánh Nữ Têrêsa nói về cha mẹ ngài.
Cha mẹ của Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu là ông Louis Martin và bà Azélie Guérin, được phong chân phước vào ngày Chúa Nhật Truyền Giáo 19 tháng 10 năm 2008 tại Lisieux, nước Pháp.
Tôi xin chân thành cám ơn Đan Viện Cát Minh, 33 Tôn Đức Thắng, phường Bến Nghé, Quận 1, Tp. HCM, đã cung cấp tài liệu mới nhất (sách bằng tiếng Pháp, xuất bản năm 2005) để chúng tôi dịch thuật và xuất bản cuốn Tiểu Sử Tự Thuật của Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu.
Tôi cũng xin cám ơn Đan Viện Cát Minh đã sửa chữa bản dịch thuật của tôi cho đúng với ngôn ngữ chuyên môn của Đan Viện Cát Minh.
Tp. HCM, ngày 1 tháng 10 năm 2008
Linh mục Sêbastianô Đỗ Đức Phổ
 
-------------------------------

Lời tựa

Các Bản Thảo tiểu sự tự thật, quyển cuối của bộ “Ấn Bản Mới Bách Chu Niên” về các tác phẩm của Thánh Têrêsa Lisieux, là phần kết của một công trình đã khởi sự từ hai mươi ba năm trước...
Ngay từ đầu, công trình này đã được quyết định như thế. Nhóm chúng tôi sau khi được Cha Bernard Bro, OP. khởi xướng, đã bắt tay làm việc trong đường hướng của công trình do Cha Farnçois de Sainte-Marie thực hiện (các Bản Thảo năm 1956) mà nếu không có nó thì ấn bản này đã không thể thực hiện, hoặc có lẽ đã mang một hình thức khác hẳn. Chúng tôi muốn trình bày tất cả các tác phẩm khác của Thánh Nữ Têrêsa với cùng một đòi hỏi này, và hoàn thành với các chú thích mới về các Bản Thảo, đồng thời lưu ý tới các cơ sở vững chắc là Cha Farnçois và sự phong phú gói ghém trong việc nghiên cứu các bản văn khác.
Chương trình rộng lớn này đã tiến hành rất tốt, nhưng phải cần đến một thời gian hầu như quá lâu (23 năm làm việc), vì nhóm Bách Chu Niên đã phải chấp nhận những trường hợp bệnh tật và những thăng trầm khác của đời sống con người. Và cả cái chết nữa: chúng tôi dành cuốn sách này để tưởng nhớ Sơ Geneviève của tu viện Đaminh ở Clairefontaine, qua đời vào tháng 5 năm 1980. Chị là một thành viên của nhóm ngay từ đầu, đã cộng tác trong việc đối chiếu đầu tiên các cảo bản tiểu sử tự thuật (Mss III), và đã thực hiện việc đối chiếu thống nhất các tác phẩm của Têrêsa (xuất bản năm 1996); chị cũng đã tham gia vào mọi công việc của chúng tôi, qua việc nghiên cứu phê bình các cảo bản của Têrêsa và cuốn Truyện Một Tâm Hồn của năm 1898.
Việc hoàn thành “Ấn bản mới Bách Chu Niên” đã được tưởng thưởng bằng một niềm vui lớn: trong một cuộc triều yết Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tại Rôma ngày 18 tháng 2, 1993, nhóm Bách Chu Niên chúng tôi đã dâng lên ngài các tác phẩm đầy đủ của Thánh Nữ Têrêsa. Nhân dịp này, Đức Thánh Cha đã tuyên bố ngài thấy rất thuận lợi để xem xét việc tuyên phong Têrêsa làm “Tiến sĩ Hội Thánh.” Ngài nói: “Lý do trước tiên thánh nữ là một phụ nữ; rồi là một vị thánh rất trẻ, đã sống hầu như cùng thời với chúng ta, và có một ảnh hưởng lớn đối với quần chúng hôm nay.” Chúng ta đều biết rằng sự kiện này đã dẫn tới Tông thư “Divini amoris scientia” của Đức Gioan Phaolô II và cuộc cử hành tôn phong ngày 19 tháng 10, 1997 tại quảng trường Thánh Phêrô: Trước 60 ngàn khách hành hương từ khắp năm châu, Đức Thánh Cha đã tuyên phong Thánh Nữ Têrêsa là “Tiến sĩ Hội Thánh toàn cầu.”
Cũng trong dịp viếng thăm Rôma năm 1993 này, phái đoàn Têrêsa đã gặp Hồng Y Felici, Bộ Trưởng Thánh Bộ Phong Thánh, là cơ quan đang nghiên cứu “tư cách ứng viên” cho danh hiệu Tiến Sĩ của Thánh Têrêsa; sau đó phái đoàn cũng yết kiến Hồng Y Josef Ratzinger ở Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin, người sau này sẽ trở thành Giáo Hoàng Bênêđictô XVI. Trong dịp này, Đức Giáo Hoàng tương lai Bênêđictô XVI nói với chúng tôi trong tư cách một nhà thần học: “Hai mươi ba năm làm việc ư? Không quá dài đối với một công trình như thế. Dù sao, ấn bản bình luận của Bách Chu Niên là một thành phần không thể thiếu đối với các Thánh Bộ có liên quan (và trước hết là Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin) để có thể đưa ra phán quyết. Đối với danh hiệu Tiến Sĩ (Hội Thánh), tôi nghĩ cần hai tiêu chuẩn cơ bản: sự toả sáng thiêng liêng trên khắp thế giới và chiều sâu học thuyết. Chắc chắn Thánh Têrêsa đáp ứng đủ hai tiêu chuẩn này.”
Quyển sách này sẽ mang một hình thức rất dày đặc, nhất là trong các đoạn mà phần ghi chú dài hơn phần bản văn, khiến cho việc trình bày các trang sách không được cân đối mấy! Nhưng chúng tôi không thể đưa các ghi chú này xuống cuối sách vì sẽ rất bất tiện khi sử dụng.
Chúng tôi chỉ trích dẫn một số lượng tối thiểu các đoạn chú giải. Trước hết chúng tôi muốn giải thích Têrêsa bằng chính Têrêsa và các bản văn của ngài, bằng những người thân cận với ngài mà nay vẫn còn sống, các chị em của ngài, Luật Dòng, các tập tục trong tu viện, phụng vụ của thời đại, các sách ngài đọc thời thơ ấu, đặc biệt các sách của các bậc thầy thiêng liêng của ngài, nhất là Thánh Gioan Thánh Giá.
Sau cùng, thiết nghĩ không cần phải nói ra rằng chúng tôi hoàn thành công trình này với một tình cảm biết ơn đối với Thánh Têrêsa, mạch nước sống trào vọt không cạn, như chúng tôi đã cảm nghiệm trong biết bao nhiêu năm làm việc với nhóm Têrêsa của chúng tôi.
J.L.
17 tháng 5, 2005
Kỷ niệm 80 năm
ngày phong thánh Têrêsa Lisieux

-------------------------------
 
CÁC KÝ HIỆU SỬ DỤNG TRONG SÁCH NÀY.

AL    Annales de sainte Thérèse de Lisieux (revue).          Biên niên sử Têrêsa Lisieux (tập san).
BT    La Bible avec Thérèsa de Lisieux (Cerf/DDB, 1979).       Kinh Thánh với Têrêsa Lisieux.
CDT Centre de documentation thérésienne (Carmel de Lisieux).       Trung tâm tư liệu Têrêsa.
CE I, II, ...  Copie des Ecrits (pour le Procès de canonisation), 1910 (CE I, II, III, IV).   Bản sao các Bản Thảo (cho Án phong thánh).
CG    Correspondance générale de Thérèse de Lisieux (1972/1974); réédition dans la NEC (1991).   Thư từ chung của Têrêsa Lisieux (1972/1974); tái bản trong NEC (1992).
CJ     “Carnet jaune” de Mère Agnès de Jésus, publié en DE.    “Sổ tay vàng” của Mẹ Agnès de Jésus, xuất bản trong DE.
CMG I,...   Carnets manuscrits de soeur Geneviève (CMG I -IV).      Các tập bản thảo của Sơ Geneviève.
CRM          “Carnet rouge” de soeur Marie de la Trinité; x. VT, no. 74 -75, avril -juillet 1979         “Sổ tay đỏ” của Sơ Marie de la Trinité.
CS    Cantique spirituel de saint Jean de la Croix, trad. Des Carmélites de Paris, Ed. Douniol, Paris, 1875, 2 tomes (avec La Vie Flamme d’Amour et une analyse des oeuvres du saint en deux sermons par Mgr Landriot).      Linh Ca của Th. Gioan Thánh Giá, 1875, 2 quyển (với Cuộc Đời Bốc Cháy Tình Yêu và một phân tích sâu sắc về các tác phẩm của thánh nhân trong hai bài giảng của ĐC Landriot).
CSG Conseils et souvenirs publiés par soeur Geneviève (Céline), Cerf, 1973.          Các lời khuyên và kỷ niệm do sơ Geneviève (Céline) xuất bản, Cerf, 1973.
CSM Conseils et souvenirs relatés par soeur Marie de la Trinité, publiés dans VT, no. 73 (janvier 1979) et 77 (janvier 1980).     Các lời khuyên và kỷ niệm được Sơ Marie de la Trinité kể lại xuất bản trong VT, số 73 và 77.
CT    “Carnet de Tghérèse”, improprement désigné comme “Carnet scripturaire de Thérèse”; publié en VT, no. 78 -79, avril –juillet 1980.   “Sổ tay của Têrêsa”, cũng gọi không chính xác là “Sổ tay Kinh Thánh của Têrêsa”.
CV    Cinq “Cahiers verts” de Mère Agnès de Jésus, publiés en DE II (ou DP).          Năm “Quyển vở xanh” của Mẹ Agnès de Jésus.

DCL Documentation du Carmel de Lisieux.   Tư liệu dòng Cát Minh Lisieux.
DE    Derniers Entretiens (1971); réédition NEC (1992). Các Cuộc mạn đàm Cuối cùng (1971); tái bản NEC (1992).
DE/G         Derniers Entretiens, recueillis par soeur Geneviève.         Các Cuộc Mạn Đàm Cuối Cùng, do Sơ Geneviève sưu tầm.
DE/MSC   Derniers Entretiens, recueillis par soeur Marie du Sacré -Coeur.          Các Cuộc Mạn Đàm Cuối Cùng, Sơ Marie du Sacré -Coeur sưu tầm.
DE II (DP) Volume d’annexes des Derniers Entretiens (1971), repris sous le tiên tri Êlia Dernières Paroles dans la “Nouvelle Édition du Centenaire” (1992).       Quyển phụ trương cho Các Cuộc mạn đàm Cuối cùng (1971), in lại với nhan đề Các Lời Cuối Cùng trong “Nouvelle Édition du Centenaie” (1992).
DLTH        Album de photographies de Pierre Descouvemont et Helmuth Nils Loose, Thérèsa et Lisieux (Cerf, 1991). Album ảnh của Pierre Descouvemont và Helmuth Nils Loose, Têrêsa và Lisieux.
DP    Dernières Paroles; Cf. Supra, DE II.       Những Lời Cuối Cùng; xem ở trên, DE II.
HA 98, ...   Histoire d’une Ame, éd. 1898 (07 = 1907; 72 = 1972, etc...).   Truyện Một Tâm Hồn, ấn bản 1898 (07 = 1907; 72 = 1972, vv...).
Imitation    Imitation de Jésus -Christ, éd. Lamennais       Gương Chúa Giêsu, xb. Lamennais.
LC    Lettres des correspondants de Thérèse, numérotés, publiés en CG.    Các thư của người đương thời viết cho Têrêsa, đánh số, xb. trong CG.
LD    Lettres diverses des correspondants ou contemporains de Thérèse entre eux (en CG et VT).    Các thư của người đương thời của Têrêsa viết cho nhau (trong CG và VT).
LT     Lettres de Thérèse, numérotées (en CG et dans l’édition courante, Une course de géant - Lettres, 1977).      Các thư của Têrêsa, đánh số (trong CG và trong ấn bản phổ thông, Đường chạy của người khổng lồ - Thư tín, 1977).
Ms A          Manuscrit autobiographique, dédié à Mère Agnès de Jésus       Bản Thảo Tiểu Sử Tự Thuật, đề tặng Mẹ Agnès de Jésus (1895).
Ms B Lettre à soeur Marie du Sacré -Coeur, Manuscrit autobiographique (1896).          Thư gửi Sơ Marie du Sacré -Coeur, Bản Thảo Tiểu Sử Tự Thật (1896).
Ms C Manuscrit autobiographiqua, dédié à Mère Marie de Gonzague (1897).          Bản Thảo Tiểu Sử Tự Thuật, đề tặng Mẹ Marie de Gonzague (1897).
Mss I, II, III        Trois volumes du P. Farnçois de Sainte-Marie, accompagnant l’édition en fac -similé (1956) des Manuscrits autobiographiques.    Tác phẩm 3 quyển của Cha Farnçois de Sainte-Marie, đi kèm với ấn bản sao chụp (1956) Các Bản Thảo Tiểu Sử Tự Thuật...
Mes Armes          Mes Armes - Sainte Cécile, fascicule analysant en détail les PN 3 et 48 (Cerf/DDB, 1975).       Vũ Khí của Tôi - Thánh Nữ Cêcilia, tập sách nhỏ phân tích chi tiết trong PN 3 và 48 (1975).
NEC “nouvelle Edition du Centenaire” des Oeuvres complètes de Thérèse de Lisieux (1992), en sept volumes.  “Ấn Bản Mới của Nhóm Centenaire” về Toàn Bộ Tác phẩm của Têrêsa Lisieux (1992), 7 quyển.
NPPA        Notes des carmélites préparatoires au Procès Apostolique.        Các ghi chép của các nữ tu Cát Minh chuẩn bị cho Toà Án Tông Toà.
NPPO        Notes préparatoires au Procès de l’Ordinaire. Các ghi chép chuẩn bị cho Toà Án Bản Quyền Sở Tại.
NV    Novissima Verba, édition de Derniers Entretiens publiée en 1927.          Novissima Verba, ấn bản về Các cuộc mạn đàm Cuối Cùng, xb. Năm 1927.
OCL Office Central de Lisieux.    Văn phòng Trung ương Lisieux.
PA    Procès Apostolique, 1915 -1917 (publication: Teresianum, Rome, 1976).          Toà Án Tông Toà, 1915 -1917.
PN 1, ...      Les 54 Poésies de Thérèse, numérotation nouvelle (1979).       54 Bài Thơ của Têrêsa, đánh số thứ tự mới (1979).
PO    Procès de l’Ordinaire, 1910 -1911 (publication: Teresianum, Rome, 1973).          Toà Án Bản Quyền Sở Tại, 1910 -1911.
Prières        Nouvelle édition des Poésies de Thérèse I = Introductions et textes; II = notes (1979); réédition en un seul volume dans la NEC (1992)      Các Bài Thơ của Têrêsa, ấn bản mới; I + Giới thiệu và bản văn; II = chú thích (1979); tái bản thành 1 quyển duy nhất trong NEC (1992).
Pri 1, 2, ...  Les 21 Prières de Thérèse, numérotation nouvelle (1988).        21 Kinh Nguyện của Têrêsa, đánh số thứ tự mới (1988).
Prières        Edition des Prières (1988); réédité dans la NEC avec les Récréations (1992).       Xuất bản các Kinh Nguyện, (1988); tái bản trong NEC với Các Giờ Giải Trí.
PS     “Poésies supplémentaires” de Thérèsa, publiées en Poésies.      “Các Bài Thơ bổ sung” của Têrêsa, xuất bản trong Poésies.
RP 1, 2, ...  Les huit Récréations pieuses de Thérèse.         8 sáng tác Giải Trí đạo đức của Têrêsa.
Récréations         Editon des Récréaations pieuses (Théâtre au Carmel, 1985), réédition dans la NEC avec les Prières (1992).         Xuất bản Các Giờ Giải Trí đạo đức (kịch nghệ ở Cát Minh, 1985), tái bản trong NEC với Prières (1992).
TrH   Le Triomphe de l’Humilité, fascicule analysant en détail RP 7 (Cerf/DDB, 1975); réédition partielle dans là NEC, volume Récréations -Prières (1992).       Chiến Thắng của Đức Khiêm Nhường, tập sách nhỏ phân tích chi tiết RP 7; tái bản từng phần trong NEC, quyển Récréations -Prières (1992).
VT    Vie thérésienne, Lisieux (revue trimestrielle, depuis 1961).      Cuộc đời Têrêsa, Lisieux (tập san hằng quý, từ 1961).
VTL  Visage de Thérèse de Lisieux (1961), en deux volumes.  Diện mạo Têrêsa Lisieux (1961), hai quyển.

-------------------------------
 

NHẬP ĐỂ TỔNG QUÁT


Những biến đổi quan trọng của Truyện Một Tâm Hồn, hay các Bản thảo tiểu sử tự thuật của thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu và Thánh Nhan được chúng ta biết khá rõ nhờ ấn bản của Cha Phanxicô de Sainte-Marie dưới dạng sao chụp lại, kèm với ba quyển dẫn nhập, chú thích và phê bình văn bản, và các bảng đối chiếu (Carmel de Lisieux, 1956, chúng tôi trình bày các ký hiện Ms I, II, III), và nhờ ấn bản phổ thông được ra mắt vào năm tiếp theo. Ở đây chúng tôi sẽ tự giới hạn vào các tư liệu cơ bản, độc giả sẽ gặp các điểm bổ sung khác ở phần Chú Thích.

1. Hoàn cảnh

Chính nhờ người chị cả của Têrêsa là Sơ Marie du Sacré -Coeur, mà chúng ta có được hai trong ba bản văn vô giá này (và một cách gián tiếp, cả bản văn thứ ba). Chính chị này đã đích thân thuật lại câu truyện trước Toà Án của Bản Quyền sở tại (Podbrdo = Pocès de l’Ordinaire) khi trả lời câu hỏi: “Chị biết gì về xuất xứ của cảo bản này (Truyện Một Tâm Hồn) và tình trạng toàn vẹn của nó?”
“Vào một buổi chiều mùa đông, sau giờ kinh sách, chúng con đang ngồi sưởi cùng với chị Têrêsa, chị Geneviève và Mẹ Bề Trên Agnès de Jésus. Chị Têrêsa kể cho chúng con nghe vài ba nét về thời thơ ấu của mình. Bấy giờ con mới nói với Mẹ Bề Trên, Agnès de Jésus: “Chẳng lẽ Mẹ bằng lòng để cho em nó làm mấy bài thơ nho nhỏ để mua vui cho một ít người, mà không viết lại chút gì về các kỷ niệm thời thơ ấu của em sao? Mẹ thấy đấy, em là một thiên thần nhỏ không còn ở lại trần gian này bao lâu nữa đâu, có thể chúng ta sẽ mất hết những chi tiết quá thú vị đối với chúng ta.” Thoạt đầu Mẹ Bề Trên hơi do dự, nhưng vì chúng con quá nài nỉ, Mẹ đã nói với vị Tôi Tớ Chúa rằng Mẹ sẽ rất vui nếu em viết ra và trao cho Mẹ bản tường thuật về tuổi thơ ấu của em như một món quà cho ngày lễ của Mẹ (Bản thảo A). (...)
“Về sau, khi thấy chị Têrêsa bị bệnh nặng, Mẹ Agnès đã thuyết phục để Mẹ Bề Trên đương nhiệm là Mẹ Marie de Gonzague truyền cho chị Têrêsa kể lại lịch sử đời tu của chị, và đó là phần thứ hai của bản thảo (Bản thảo C). Sau cùng, đích thân con đã xin em trong cuộc tĩnh tâm cuối cùng của em (1896) là viết cho con về điều mà con gọi là “giáo thuyết nhỏ” của em. Em đã viết, và những trang này được thêm vào để làm thành phần thứ ba khi in ra “Câu truyện đời em” (Bản thảo B). Con tin chắc rằng chúng ta có thể dựa vào Bản thảo này để hiểu biết các tư tưởng và tình cảm của vị Đầy Tớ Chúa. Chị ấy đã viết một cách rất đơn sơ tự nhiên, nghĩ thế nào viết ra như thế” (PO, tr. 237).
Mẹ Agnès xác định rõ đó là “Vào đầu năm 1895, hai năm rưỡi trước khi chị Têrêsa qua đời”, và xác nhận lời kể của Sơ Marie du Sacré -Coeur (tuy không nhắc đến sự hiện diện của chị Geneviève). Mẹ nói rõ Têrêsa “cười gượng như thể bị người ta chế nhạo” và Mẹ nói tiếp:
“Người Tôi Tớ Chúa lập tức bắt đầu viết vì vâng lời, vì lúc ấy tôi là Bề Trên của chị ấy. Chị chỉ viết được vào các giờ rảnh rỗi, rồi trao quyển tập cho tôi ngày 20 tháng 1, 1896 để làm quà cho ngày lễ Bổn Mạng của tôi. Khi đi ngang qua chỗ tôi để đến ghế ngồi của mình, Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu bái gối và trao cho tôi kho báu này. Tôi chỉ đáp lại bằng một cái gật đầu đơn giản rồi để tập bản thảo lên ghế mà không mở ra xem. Mãi tới mùa xuân khi các cuộc bầu cử đã xong xuôi, tôi mới có thời giờ lấy ra đọc. Tôi thấy rõ nhân đức của Đầy Tớ Chúa, bởi vì sau khi thi hành đức vâng lời, chị ấy chẳng còn bận tâm gì, và không bao giờ hỏi xem tôi có đọc quyển tập của chị hay không, cũng chẳng hỏi tôi nghĩ gì về nó. Một hôm, tôi bảo chị ấy rằng tôi chưa có thời giờ để đọc gì cả, chị ấy chẳng tỏ dấu gì buồn lòng.
“Tôi thấy câu truyện chị kể không đầy đủ. Sơ Têrêsa Hài Đồng Giêsu chỉ nói nhiều về thời thơ ấu và tuổi thanh xuân của mình, như tôi đã yêu cầu; còn về đời tu chị chỉ phác hoạ vài nét; đoạn cuối của phần này tương ứng với trang 149 của cuốn sách được in ra (Truyện Một Tâm Hồn), ấn bản khổ 8, năm 1910.
“Tôi nghĩ sẽ rất đáng tiếc nếu chị ấy không triển khai sâu rộng những sự kiện đời tu của chị trong đan viện Cát Minh này, nhưng lúc đó tôi đã hết nhiệm kỳ Bề Trên và Mẹ Marie de Gonzague lên làm Bề Trên thay tôi. Tôi sợ Mẹ Bề Trên không quan tâm nhiều tới chuyện này giống như tôi, song tôi không dám nói gì với Mẹ. Nhưng cuối cùng, khi thấy chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu bệnh ngày càng nặng, tôi đã cố gắng thử làm điều bất khả thi. Tối ngày 2 tháng 6, 1897, bốn tháng trước khi chị Têrêsa qua đời, vào khoảng nửa đêm, tôi đến gõ cửa phòng Mẹ Bề Trên, tôi nói: “Thưa Mẹ, con nói với Mẹ, con không thể ngủ nổi nếu không tâm sự với Mẹ một điều bí mật. Khi con còn làm Bề Trên, chị Têrêsa có viết lại một ít kỷ niệm về thời thơ ấu của chị để vừa làm quà cho con vừa vì đức vâng lời. Hôm kia, con mới đọc và thấy rất hay, nhưng chắc Mẹ sẽ không tìm thấy ở đó điều gì quan trọng để viết trong thư báo tử về chị ấy, vì trong đó hầu như chẳng đả động gì đến đời tu của chị. Nếu Mẹ truyền cho chị viết, chắc chị sẽ viết điều gì nghiêm túc hơn, và con hoàn toàn tin chắc rằng Mẹ sẽ có được một cái gì tốt hơn gấp bội so với cái mà con có.” Chúa nhân lành đã chúc phúc cho đề nghị của tôi. Sáng hôm sau, Mẹ Bề Trên đã truyền cho chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu viết tiếp câu chuyện của mình” (PO, tr. 146-147; x. PA, tr. 201).
Về các hoàn cảnh viết ra Bản thảo B đề tặng chị Marie du Sacré -Coeur, độc giả có thể tìm thấy mọi chỉ dẫn cần thiết trong mục chú thích về bản văn này.
Chị của Têrêsa là Céline (tên dòng là Geneviève de Sainte -Thérèsa) là người đầu tiên được đọc các tập nhỏ của Bản Thảo A (Ms A) cũng cho các lời xác nhận thú vị về cách làm việc của Têrêsa: “Khi bắt đầu viết bản thảo, em ấy không hề có một ẩn ý nào cả. Em viết chỉ là vì vâng lời mà thôi, nhưng vẫn cố gắng kể lại một số sự kiện độc đáo của từng người chị ruột của mình, để làm mọi người vui vẻ, bằng việc thuật lại các kỷ niệm tuổi thơ của mình. Trên thực tế bản thảo của em đúng là một “kỷ niệm gia đình”, chỉ dành riêng cho các chị ruột của mình. Đó là lý do giải thích tại sao em viết thoải mái về tình thân mật gia đình, và cũng có nhiều lúc em giải thích rất tự nhiên đi vào cách chi tiết trẻ con mà nếu như biết trước rằng bản văn của mình sẽ vượt ra ngoài cái khung cảnh chị em trong nhà, hẳn em đã không dám viết ra những chi tiết ấy. Em không viết liền một mạch, mà chỉ cầm bút vào những lúc rảnh rỗi hiếm hoi mà Luật dòng và bổn phận trông coi các tập sinh của em cho phép. Em chẳng viết nháp gì cả, cứ cầm bút là viết ngay, vậy mà bản thảo của em không có chỗ nào gạch xoá” (PO, tr. 274).
Có nhiều điều để nói về lời phát biểu cuối cùng này, ngay cả khi chúng ta không kể đến các chỗ đã sửa chữa sau khi Têrêsa mất... Đặc biệt người ta biết rằng, vào những năm 1895 -1897, Têrêsa thường xuyên dùng đến dụng cụ cạo xoá. Tuy nhiên mô tả của Céline cho thấy rõ rằng các bản thảo này giống với thể văn thư tín hơn là thể văn ghi chép thân mật, càng không giống với các “khảo luận thiêng liêng”. Đây là một lăng kính quan trọng để đọc các bản văn này, không chỉ vì nó nói lên sức lôi cuốn và tự nhiên của văn phong Têrêsa, mà cả sự toả sáng lây lan của một tính cách con người trong sáng đối với tình yêu và ân sủng Thiên Chúa (x. Jean Guitton về các lời nói của Têrêsa, DE, tr. 119, số 26).
Chúng ta cũng hãy lưu ý đến lời mô tả dí dỏm của chính Têrêsa về công việc viết lách của mình: “Để viết về cuộc đời ‘bé nhỏ’ của mình, em không phải vò đầu bóp trán; em viết giống như mình đi câu cá; cứ cái gì chợt đến là vội viết ra ngay” (11.6.2). Nhưng lúc nào ngài cũng rất nghiêm túc với bổn phận, với “công tác” này của mình: “Ngay cả trong tháng sáu này là lúc chị tiếp tục viết về đời mình vì vâng lời, không còn chỉ viết trong những lúc rảnh rỗi như trước nữa, mà viết cả ngày, chị cũng vẫn coi quyển sổ tay của mình như một công việc bổn phận. Một hôm nghỉ viết, chị đã nói với tôi: “Em tự cho phép mình đọc sách một chút và đã bỏ không viết quyển tập của em hôm nay. Em đã quen coi việc viết lách này như bổn phận của mình, và em không muốn phí phạm một giây lát vào một chuyện gì khác.” Hiển nhiên Mẹ Bề Trên không hề hay biết chuyện này, vì Mẹ không hề muốn bắt Têrêsa làm một công việc gây mệt nhọc”.
Và Bản thảo C, Mẹ Agnès kể lại: “Khi Mẹ Marie de Gonzague xin Têrêsa hoàn tất bản thảo về đời mình, Têrêsa nói với tôi: ‘Con sẽ nói về đức ái huynh đệ, ồ! Con sẽ nói, vì con đã nhận được biết bao ánh sáng về đề tài này, con không muốn giữ riêng cho mình; con bảo đảm với Mẹ rằng ở trần gian này người ta không hiểu đức ái, thế nhưng nó lại là nhân đức chính’” (PA, tr. 173; x. PO, tr. 147 -148). Têrêsa cũng đã nghĩ tới việc viết về sách Diễm Ca (x. DE, tr. 440-441).

2. Các Bản thảo

Chúng tôi mượn lời mô tả sau đây của Cha Farnçois de Sainte-Marie về các bản thảo.
Bản thảo A. - “Gồm 87 tờ giấy đôi, khổ 22,5 x 17,5 cm, không đánh số trang. Mỗi trang gồm 25 hàng kẻ này in màu xanh rất nhạt nên thường không thấy được trên các bản chụp (của ấn bản chụp ‘fac -similé’). Têrêsa thường thêm một dòng thứ 26 ở đầu trang hay cuối trang.
Chất lượng giấy rất kém, được lấy từ hai quyển vở học trò (loại vở giá hai xu). (...) Tất cả được gộp chung lại trong một tờ bìa gấp đôi, bằng giấy Kraft thô”.
Có thể Têrêsa đã tách đôi ba quyển này thành sáu quyển nhỏ, lần lượt gồm 32 + 28 + 32 + 28 + 24 + 26 = 168 trang (tức là 84 tờ giấy đôi).
Bản thảo B. - “Ba tờ giấy viết thư, được kẻ ô rất rõ, mỗi tờ xếp làm đôi, tạo thành sáu tờ khổ 20 x 13 cm. Tờ thứ nhất dùng làm bìa kẹp số còn lại. Chỉ có năm tờ đầu tiên được viết hai mặt, không để chừa lề, chữ viết rất sát nhau, vì Thánh nữ vốn có tinh thần nghèo khó đã dùng hết mọi hàng kẻ ngang mà không để cách một hàng nào. Do đó người ta đếm trung bình mỗi tờ có khoảng 45 dòng.”
Bản thảo C. - “Đây là một quyển vở học trò chất lượng tốt, bìa cứng và bọc bằng vải lụa đen. (...) Quyển vở này có khổ là 19,5 x 15 cm, gồm 62 tờ đôi (không kể những trang dính liền với bìa). 36 tờ đầu viết cả hai mặt, không để chừa lề vả không đánh số trang. Tờ 37r0 (=mặt trước) cũng được viết. Mặt sau của tờ 37 (=37v0) và hai mươi lăm tờ cuối để trắng.
“Giấy có kẻ ô. Vì tinh thần nghèo khó, Têrêsa đã định dùng hết các dòng, nhưng vì vâng lời, ngài đã viết cứ một dòng lại cách một dòng, để lại một khoảng cách khá rộng giữa các dòng. Người ta đếm được 23 dòng mỗi trang”.

3. Têrêsa và việc xuất bản

Têrêsa viết các Bản thảo A và C vì vâng lời các Mẹ Bề Trên, còn Bản thảo B thì viết theo yêu cầu của chị ngài là Sơ Marie du Sacré -Coeur. Bản thân chị không hề có ý tưởng để lại một dấu vết gì bằng văn bản về các kỷ niệm và tư tưởng của mình. Thế nhưng, đối với chị, các lá thư và các vần thơ của chị vừa là một phương tiện để diễn tả vừa là một cách để loan truyền Tình Yêu của chị đối với Đức Kitô. Và ngay từ đầu chị đã biết rằng, bằng cách này hay cách khác, Bản thảo C sẽ được xuất bản, vì Mẹ Agnès đã đưa lý do để Mẹ Marie de Gonzague ra lệnh cho Têrêsa viết. Bản viết này sẽ dùng vào thư báo tang.
Têrêsa đã coi ý tưởng xuất bản này là rất nghiêm túc (x. Poésies, II, tr. 25tt), và đã có rất nhiều chỗ ám chỉ về điều này trong các Cuộc Mạn Đàm Cuối Cùng (một phần có lẽ để an ủi các bà chị của ngài). Ngay cả trước khi Mẹ Agnès gợi ý với Mẹ Marie de Gonzague, Têrêsa cũng đã nói vào ngày lễ Chúa Thăng Thiên: “Con rất muốn có một ‘luân thư’, vì con vẫn luôn nghĩ rằng con phải đền đáp các kinh nguyện cầu cho người chết mà các chị em Cát Minh sẽ đọc cho con. Con không hiểu rõ tại sao có những người không thích luân thư; hiểu biết về mình và biết một chút mình sẽ sống với ai trong cuộc sống vĩnh cửu quả là điều hết sức ngọt ngào” (CJ 27.5.1).
Càng ngày Têrêsa càng quan tâm hơn tới bài viết để lại sau khi chết này: “Trên giường hấp hối, chị đã gán cho việc xuất bản này một tầm quan trọng lớn, và coi nó như là một phương tiện làm việc tông đồ. Một hôm chị quả quyết với tôi: Cần phải xuất bản không chậm trễ bản thảo này sau khi con chết. Nếu Mẹ chậm trễ, nếu Mẹ sơ ý nói cho ai khác ngoại trừ Mẹ Bề Trên của chúng ta biết điều này, thì ma quỷ sẽ giăng hàng ngàn trở ngại để ngăn cản việc xuất bản rất quan trọng này. Nhưng nếu Mẹ làm hết sức để loại bỏ mọi cản trở, Mẹ không phải sợ bất kể khó khăn nào Mẹ gặp. Đối với sứ mạng của con, cũng như sứ mạng của Jeanne d’Arc, ‘ý của Chúa sẽ được thực hiện bất chấp sự ghen ghét của loài người.’ - Vậy phải chăng con nghĩ nhờ bản thảo này mà con sẽ mưu ích cho các linh hồn sao? - Vâng, đó là một phương thế mà Chúa nhân từ sẽ dùng để nhận lời con. Nó sẽ đem lại lợi ích cho mọi linh hồn, trừ những linh hồn đi trên những con đường phi thường” (Mẹ Agnès, PA, tr. 202).
Nhưng điều này không ngăn cản Têrêsa tỏ ra rất vô tư, hay nói đúng hơn là hoàn toàn suy phục thánh ý Chúa. Mẹ Agnès nói tiếp: “Khi tôi nói với Têrêsa rằng cũng có thể bản thảo sẽ bị Mẹ Bề Trên đốt đi, chị trả lời: ‘Ồ! Điều đó có hệ gì: có thể là Thiên Chúa không muốn dùng đến phương tiện này, mà Người muốn dùng các phương tiện khác’” (PO, tr. 148).
Không thể phủ nhận chuyện Têrêsa đã uỷ thác cho Mẹ Agnès làm “người chịu trách nhiệm về bản viết” của mình. Mẹ Agnès đã tuyên bố bằng lời thề rằng em của bà đã nói với bà: “Thưa Mẹ (Bề Trên), bất cứ điều gì Mẹ thấy thích hợp để gạch bỏ hay thêm vào trong sổ tay cuộc đời của con, thì hãy coi đó là chính con gạch bỏ hay thêm vào. Sau này Mẹ hãy nhớ điều ấy, và không phải áy náy gì về chuyện này” (PO, tr. 147); và một lần khác, về Bản thảo C: “Con đã không viết đúng điều con muốn viết, chị buồn bã nói với tôi, con cần bầu khí thanh vắng hơn để viết. Nhưng tư tưởng của con có đó rồi, Mẹ chỉ cần sắp xếp lại thôi” (PA, tr. 173). Cha Farnçois de Sainte-Mari bình luận rất chí lý: “Gạch bỏ, thêm vào, sắp xếp -ba công việc mà tác giả bản thảo đã dự kiến và tán thành trước, người biên tập đã thực hiện rất rộng rãi sau đó. Tất nhiên người ta có thể tranh cãi về sô lượng và tính chất thích hợp của các sửa đổi này. Nhưng vấn đề về quyền (biên tập) là điều không thể nghi ngờ: tờ ‘khống chỉ’ đã trao rồi” (Ms I, tr. 72).

4. “Truyện Một Tâm Hồn”

Tại Toà Án của Bản Quyền sở tại (PO), Mẹ Agnès đã khai: “Chính tôi đã đưa ra sáng kiến xuất bản tập Bản thảo này sau khi chị qua đời. Khi đọc các bản thảo đang có trong tay, tôi có cảm tưởng mình đang nắm giữ một kho báu có thể mang lại rất nhiều lợi ích cho các linh hồn. Đó là lý do khiến tôi nghĩ đến việc xuất bản tập Bản thảo này, với phép của Mẹ Bề Trên. Mẹ đã giao tập Bản thảo cho Cha Godefroy Madeleine, thuộc Kinh Sĩ Hội (...); sau báo cáo của cha, Đức Cha Hugonin, Giám mục của Bayeux và Lisieux cho phép in (7 -3 -1898). BẢn thảo của tôi đã được in với một vài chỗ hiệu đính theo chỉ dẫn của Cha Godefroy” (tr. 149).
Khi trả lời câu hỏi: “Cuốn sách đã in (Truyện Một Tâm Hồn) có hoàn toàn hoà hợp với bản viết tay của Đầy Tớ Chúa, để người ta có thể đọc một cách chắn chắn thay cho bản kia không?”, Mẹ Agnès đáp (ngày 17 -8 -1910): “Có một chút sửa đổi, nhưng không quan trọng bao nhiêu và không làm thay đổi ý chung và cơ bản của câu truyện. Các thay đổi này là: (1) bỏ một vài đoạn rất ngắn, liên quan tới các chi tiết thân mật của gia đình thời thơ ấu của chị; (2) bỏ một hay hai trang mà tôi thấy nội dung có vẻ không đáng để ý đối với các độc giả xa lạ với nếp sống Cát Minh; (3) sau cùng, vì câu truyện của bản thảo được chia thành ba phần, một viết cho tôi (chị Pauline của Têrêsa), phần thứ hai viết cho chị Marie của Têrêsa, và phần cuối cùng viết cho Mẹ Marie de Gonzague là Mẹ Bề Trên khi ấy; phần cuối này đứng tên trong việc xuất bản toàn bộ Bản thảo, và cần một chút sửa đổi về chi tiết trong các phần viết cho các chị của Têrêsa, để có thể có sự thống nhất hơn cho toàn Bản thảo, coi như tất cả Bản thảo này được viết cho chính Mẹ Marie de Gonzague” (tr. 149).
Sau lời chứng này, toà án đã quyết định “thiết lập một bản mẫu đích thực của Bản Thảo Tự thuật, theo các quy tắc về bản quyền liên quan tới nội dung, và ghép nó vào các tài liệu của Vụ Án” (PO. Tr. 599 -720), và người ta đã làm việc này ngày 29 tháng 8, 1911 (PO, tr. 599 -720).
Về tính cách của Mẹ Marie de Gonzague mà nhiều người coi như có biểu hiện ghen tương bệnh hoạn, có lẽ ta nên có thái độ dè dặt của Mẹ Agnès. Trong lời ghi chú ngày 22 tháng 11, 1907 (ở trang đầu tiên của Bản Thảo A; xem ở dưới), Mẹ Agnès gọi đó là một thái độ “tránh né”. Trong phiên toà của Bàn Quyền Sở Tại (PO) năm 1910, mẹ sẽ chỉ gợi ra mối bận tâm của mẹ là bảo đảm “sự thống nhất nhiều hơn” cho Truyện Một Tâm Hồn (xem ở trên). Chắc hẳn chúng ta phải đặt mình vào bối cảnh của thời đại ấy để hiểu đúng sáng kiến độc đáo này.
Năm 1898, Mẹ Marie de Gonzague đang làm bề trên tu viện, và nắm giữ uy quyền vững vàng trong cộng đoàn. Phải chăng do phản ứng của sự thận trọng đối với các nữ tu mà cả hai Mẹ Bề Trên này đã đồng tình giao cho Mẹ Marie de Gonzague trách nhiệm không những lo việc xuất bản, mà cả công tác truyền vâng phục khi ra lệnh cho Têrêsa viết ra các “kỷ niệm” của mình (vào các năm 1895, 1896 như được sửa lại, hay năm 1897 đối với Bản Thảo C)?
Lý do là từ trước đến giờ chưa từng có một mệnh lệnh nào giống như thế được truyền cho một ai khác. Nếu như cộng đoàn biết được rằng đó chỉ là một “lịch sử của gia đình”, một “mệnh lệnh” của Mẹ Agnès cho cô em gái của chính bà để làm vui lòng những người thân của cô..., thì biết đâu Bản Thảo A lại chẳng mất đi phần nào uy tín và giá trị thiêng liêng của nó dưới con mắt của các chị em nữ tu vốn không mấy quan tâm tới tầm quan trọng của “gia tộc Martin”? Vì vậy ta có thể nghĩ rằng, vì “mệnh lệnh” đến từ Mẹ Marie de Gonzague là người biết rõ Têrêsa từ năm cô lên 9 tuổi, nên Truyện Một Tâm Hồn tất yếu phải mang một giá trị “tôn giáo” hoàn toàn khác. Trong trường hợp này, vinh quang của Têrêsa vượt hẳn ra ngoài ranh giới của tu viện (và vì Mẹ Marie de Gonzague mất năm 1904), nên vào năm 1907 hay 1910, người ta không cần phải quá thận trọng đối với cộng đoàn, trước nhu cầu thực sự là cung cấp một lời giải thích cho các quan toà của giáo hội. Tuy nhiên lối cắt nghĩa về thái độ “tránh né” này vẫn chỉ là giả thuyết.
Còn về ý kiến cho rằng Mẹ Marie de Gonzague bị cám dỗ muốn đốt bỏ bản thảo, cần nhận xét rằng các chị của Têrêsa cũng đã từng làm như thế đối với một số tư liệu của gia đình: viết ra các bản sao, duyệt lại và sửa chữa cẩn thận, rồi đốt bỏ bản gốc, để tránh sau này người ta khỏi đem ra so sánh. Trường hợp này đặc biệt đúng đối với hầu như tất cả các lá thư của Bà Martin, mặc dù, theo lời Cha Piat, họ đốt các tư liệu như thế chỉ vì lý do “nhẹ dạ hồn nhiên” mà thôi.

5. Công trình của Mẹ Agnès

Nhờ việc xuất bản cuốn Truyện Một Tâm Hồn Lần Đầu năm 1898 trong “Ấn Bản Mới Bách Chu Niên”, qua so sánh, chúng ta có thể đánh giá được “những thay đổi ít quan trọng” đã được làm vào thời ấy. Nên lưu ý rằng đây không phải là công việc của kiểm duyệt viên, Cha Godefroy Madeleine, tuy chắc chắn ngài có bản văn ấy trong tay, không phải là một “bản sao”, mà là bản văn đã được chỉnh sửa bởi Mẹ Agnès, và ngài chỉ làm “một vài sửa chữ nhỏ về hình thức, nhưng hoàn toàn không liên quan tới nội dung” (PO, tr. 516; x. Ms I, tr. 76 -77).
Cha Farnçois de Sainte-Marie đã lập lại một cách hoàn hảo “vụ án” công trình của Mẹ Agnès, bằng cách lần lượt đóng vai công tố và bào chữa:
“Hẳn là không thể nào xuất bản nguyên văn các quyển sổ tay của Têrêsa. Vào thời mà người ta quá chú trọng tới sự trau chuốt hoàn thiện của văn phong và tôn trọng các quy ước văn chương một cách tỉ mỉ, ai mà dám đem in những bản nháp của một nữ tu trẻ không tên tuổi để bị nhạo cười và phản lại chính chị nữ tu ấy? Vì vậy cần phải chỉnh sửa lại phần nào cả về mặt nội dung lẫn hình thức. (...)
“Nhưng cũng phải nhìn nhận rằng người biên tập quyển Truyện Một Tâm Hồn đã đỏ ra khá hào phóng trong các phần sửa chữa. (...) Mẹ Agnès de Jésus đã sửa các trang sách này giống như bà đã từng sửa các bài luận còn non nớt của cô bé Têrêsa hồi gia đình còn ở Buissonnets. (...) Chính tâm lý và tính sôi nổi của bà đã khiến bà thích để lại một dấu ấn cá nhân trên các bài viết được trao cho bà, và bà đã trau chuốt lại hầu như rất thoải mái. Hơn nữa, đối với bà, điều cốt yếu là đi vào được các tâm hồn, làm điều có ích cho họ trong khi chống lại những ảnh hưởng còn sót lại của phái Jansen vẫn đang trôi nổi trong một số môi trường tôn giáo. Bà có cảm giác rằng Têrêsa là một công cụ tuyệt vời trong tay bà để thực hiện công trình này. Dù sao, bà nghĩ, vấn đề chữ nghĩa của các bài viết của Têrêsa không mấy quan trọng. Thậm chí cũng nên loại bỏ tất cả những gì có thể làm cho người đọc khó chịu hay xa tránh. Trên thực tế, Mẹ Agnès de Jésus đã viết lại tiểu sự tự thuật của Têrêsa. (...) Tất nhiên nội dung cơ bản của câu truyện vẫn y nguyên, cả đạo lý cốt yếu cũng vậy, nhưng hình thức thì khác vì tính cách của Mẹ Agnès không phải là tính cách của Têrêsa. (...) Chắc hẳn các thay đổi này không ngăn cản các tâm hồn đạt tới được con người đích thực của Têrêsa và đi sâu vào giáo lý của chị. Nhưng về mặt khoa học đúng nghĩa, sẽ vô ích khi tìm cách hoà giải các đòi hỏi của khoa phê bình hiện đại với cách thức mà bản văn gốc đã được chỉnh sửa. (...) Trong một bảng đối chiếu in song song hai bản văn và có ghi chú các khác biệt giữa hai bản, từ những khác biệt nhỏ nhất tới những khác biệt quan trọng nhất, có thể đếm được đến bảy ngàn chỗ khác biệt” (Ms I, tr. 78). Tiếc rằng bản nhất lãm này đã bị mai một.
Giữa các chọn lựa đáng tranh cãi nhất của Mẹ Agnès, có thể nhận ra những chỗ sửa đổi về thời gian, và vì thế dẫn đến sự thay đổi về bối cảnh, mà lá thư Têrêsa gửi cho chị Marie du Sacré -Coeur (Ms B) được dùng để kết luận cho toàn bộ Truyện Một Tâm Hồn, được trình bày như một “tiểu sử tự thuật”, trong khi Ms C được viết ít lâu trước khi ngài qua đời phản ánh diện mạo của Têrêsa lúc cuối đời. Ngay cả vào năm 1914, sau khi có công trình xác định lại những người mà mỗi bản thảo này thực sự được đề tặng, tình trạng không bình thường này vẫn còn tồn tại, mãi cho đến năm 1955; vấn đề này chỉ kết thúc với ấn bản của Cha Farnçois de Sainte-Marie.

6. Một sự tiến triển dần dần

Sau khi Mẹ Agnès hoàn thành nhanh chóng công việc hiệu đính, ấn bản đầu tiên của Truyện Một Tâm Hồn ra khỏi nhà in Saint -Paul, ở Bar -le -Duc, ngày 30 tháng 9, 1898, nghĩa là một năm sau khi Têrêsa qua đời. Ít lâu trước khi Têrêsa chết, chị Marie du Sacré -Coeur đã nói với cô em: “Chị thấy không biết phải an ủi Mẹ Agnès thế nào về cái chết (của em)” và Têrêsa đã trả lời: “Chị đừng lo, Mẹ Agnès de Jésus sẽ không có thời giờ để nghĩ đến đau đớn, vì cho tới cuối đời của Mẹ, Mẹ sẽ quá bận bịu về em đến nỗi không còn thời giờ nghĩ đến chuyện gì khác” (PO, tr. 255; x. PA, tr. 245; DE, tr. 659 -660). Một lần nữa, Têrêsa đã nói tiên tri rất đúng: quyển sách này chỉ được in một cách dè dặt với 2 ngàn bản, nhưng sẽ mau chóng được quảng bá và kèm theo nhiều phép lạ, “những cơn mưa hoà hồng” và những lá thư (mỗi ngày 50 lá thư vào năm 1911, 500 lá thư vào năm 1915), những lời xin cầu nguyện, những tấm ảnh và sách (nhiều lần tái bản Truyện Một Tâm Hồn, và nhiều bản dịch, đặc biệt kể từ 1901), những vật kỷ niệm (x. Ms I, tr. 80 -81), sau cùng là Án phong Chân Phước, tất cả công việc này phần lớn đè nặng trên vai Mẹ Agnès.
Khi gần đến ngày mở Án phong Chân Phước, vấn đề cơ bản được đặt ra. Mặc dù các nhân chứng đã cố gắng giảm nhẹ các sự khác biệt giữa các bản thảo gốc và bản Truyện Một Tâm Hồn (x. ở trên, số 4, Mẹ Agnès tại toà án PO, tr. 149), song các khác biệt này quá quan trọng khiến người ta không thể không chú ý. Trong ấn bản 1907, điều duy nhất mà độc giả được biết là bản thảo gốc đã bị cắt thành các chương. Rồi trong ấn bản 1914, người ta tái lập sự khác biệt giữa ba bản thảo (PA, tr. 202), sau khi chị Marie du Sacré -Coeur đã tái lập “bản thảo gốc theo nguyên trạng của nó”, và bản sao chính thức của bản thảo này đã được gửi sang Rôma” (sách đã dẫn). Nhưng Đức Cha Lemonier, giám mục Bayeux và Lisieux, quả quyết trong lá thứ đề tựa của ngài: “Sự sửa đổi này hầu như hoàn toàn không thay đổi bản văn đã được in cho tới nay”...
Ngài còn nói thêm trong Lời lưu ý độc giả ngày 6 tháng 3, 1924: “Một vài chỗ mà người ta nghĩ là nên xoá bỏ hay trau chuốt lại thì đa phần là để tránh sự lặp đi lặp lại; một vài chỗ là do thái độ dè dặt đối với người thứ ba hay vì tôn trọng sự riêng tư của gia đình. Nhưng những thay đổi này không nhiều lắm, cũng không mấy quan trọng, hơn nữa chúng cũng không ảnh hưởng tới sự thật nòng cốt của câu truyện hay nền tảng đạo lý. Tất cả các bản văn gốc đều được nạp vào hồ sơ của Vụ Án và ở đây chúng được in lại trọn vẹn thành những bản sao đích thực và được Toà kiểm chứng. Cũng chính Toà này đã đối chiếu các bản in với các bản văn gốc và nhìn nhận rằng các sự sửa đổi về hình thức hay một vài chỗ được đục bỏ không ảnh hưởng gì tới sự thật cơ bản của các bản văn đã xuất bản”(x. chú giải của Cha Farnçois de Sainte-Marie về Lời lưu ý này, trong Ms I, tr. 86 -87).

7. Việc sửa chữa các bản thảo

Tuy có các đề nghị trấn an chính thức này, Mẹ Agnès và các chị em vẫn không bớt lo lắng về các bản thảo của Têrêsa. Nội dung cơ bản của bản văn đã không có các thay đổi nào khác ngoài những thay đổi nêu trên, như ta có thể nhận thấy khi so sánh bản tái bản của Truyện Một Tâm Hồn (1898), trong “Ấn Bản Mới Bách Chu Niên” (1992) với các đoạn của Các Bản Thảo Lịch Sử Tự Thuật bị bỏ đi trong ấn bản HA 1995, được kiểm tra bởi Ms I, tr. 99 -129: mọi sự thay đổi cơ bản nào khác đều có thể nguy hại đến giá trị xác thực của quyển sách.
Nhưng người ta đã phải cố gắng hiệu đính các bản thảo của Têrêsa cho phù hợp với các chi tiết phụ thuộc liên quan tới vinh quang của Chị sau khi chị qua đời... Trước tiên là điều chỉnh các hậu quả phát sinh do yêu sách của Mẹ Marie de Gonzague (xem ở trên). Về vấn đề này, Mẹ Agnès đã viết như sau ngay trên quyển vở của Têrêsa, ở trang đầu tiên của Bản Thảo A:
Jésus.
Carmel de Lisieux
22 tháng 11, 1907

“Bản thảo của chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu gồm hai phần, nghĩa là hai quyển vở khác nhau. Quyển thứ nhất được viết do yêu cầu của chị ruột Pauline là chị Agnès de Jésus được bầu làm Bề Trên tu viện năm 1893. Quyển thứ hai được viết theo yêu cầu của Mẹ Marie de Gonzague, được bầu làm Bề Trên năm 1896. Mẹ Đáng Kính này chỉ đồng ý cho xuất bản Bản Thảo dưới tựa đề “Truyện Một Tâm Hồn” với điều kiện toàn bộ phải được đề tặng cho chính bà. Ít lâu sau khi tác phẩm được xuất bản, một tu sĩ của cộng đoàn xin Mẹ Marie de Gonzague cho chị xem quyển bản thảo gốc. Bà Mẹ này tuyệt đối không muốn cho người ta biết bằng bất cứ giá nào, kể cả bây giờ hay sau này, rằng phần thứ nhất của bản thảo không phải là đề tặng bà; vì vậy, (theo lời khuyên của một ai đó) bà đã quyết định cho đốt Bản Thảo đi. Để cứu Bản Thảo bị đốt, Mẹ Agnès de Jésus đề nghị xoá tên mình đi và thay vào bằng tên của Mẹ Marie de Gonzague. Đồng thời bà cũng dùng một dao cạo để cạo xoá một số đoạn chỉ viết riêng cho bà và không thể hợp với Mẹ Marie de Gonzague. Đó là lý do cắt nghĩa rất nhiều chỗ cạo xoá trên quyển vở này, và cũng cắt nghĩa những chỗ vô nghĩa do hệ quả tất nhiên của thái độ tránh né này.
“Vào lúc sắp sửa mở Án phong danh hiệu Đầy Tớ Chúa cho Têrêsa Hài Đồng Giêsu và Thánh Nhan, tác giả của Bản Thảo này, Mẹ Agnès de Jésus được lệnh theo lương tâm phải nói rõ sự thật bằng bản tường trình này và ký tên mình vào đó, cùng với các nhân chứng là ba nữ tu đáng tin thuộc ban cố vấn của bà.
Chị Agnès de Jésus, Bề Trên
 Chị Marie des Anges, Phó Bề Trên
Chị Madeleine de Jésus, Nhân Chứng
Chị Thérèse de St Augutin, Cố Vấn
“Trong lời tuyên bố này không thấy nhắc đến các trang đề tặng Sơ Marie du Sacré -Coeur và là chương 11 trong tiểu sử của chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu.”
Phía mặt sau của trang đầu này của Ms A có một lời chỉ dẫn khác, được viết hai năm rưỡi sau đó:
“Tháng 4 năm 1910, chị Marie du Sacré -Coeur (Marie), chị cả của Đầy Tớ Chúa, đã sử dụng các tư liệu để tái tạo lại một số đoạn đã bị xoá bỏ của Bản Thảo này.
Chị Agnès de Jésus
Nữ tu Cát Minh, Bề Trên
28 tháng 5, 1910”
Như vậy ta thấy có thêm lý do cắt nghĩa các chỗ cạo xoá: công việc tái tạo lại bản văn nguyên thuỷ bởi chị Marie, là người không hiểu biết nhiều về các đòi hỏi phê bình... Chị quên một số chỗ sửa chữa và cũng lợi dụng cơ hội này để sửa chữa một vài chi tiết. Và bản thân Mẹ Agnès, vốn là người cầu toàn, khi đọc các bản thảo của em gái mình qua nhiều năm, sẽ đưa vào các chỗ sửa đổi mới, về văn phong, chính tả, chấm câu. Các sửa đổi này đôi khi ảnh hưởng đến ý nghĩa (x. Ms I, tr. 91 -94).

8. Tiến tới một ấn bản phê bình

Ấn bản năm 1948 Các Thư của Têrêsa rất chính xác và đầy đủ nhờ công lao bền bỉ của Cha Combes cũng như tính kiên cường vừa dễ cảm vừa cố chấp của chị Geneviève (x. CG, tr. 39 -51), đã mở đường cho một phiên bản xác thực của Truyện Một Tâm Hồn, đặc biệt sau lời phát biểu “gần như tự thú” của Đức Cha Lemonnier năm 1924 (xem ở trên). Chúng ta cũng không thể quên lá thư rất hay mà Cha Combes đã viết cho chị Geneviève ngày 11 tháng 9, 1947 (CG, tr. 46tt).
Lại nữa, cùng lúc ấy, Cha Marie -Eugène de l’Enfant -Jésus, Tổng giám định của Dòng Cát Minh, viết cho Mẹ Agnès: “Hội Thánh đã lên tiếng. Sự thánh thiện và sứ mạng giáo thuyết của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã được cả thế giới nhìn nhận. Vì vậy từ nay thánh nữ là của Hội Thánh và của lịch sử. Để bác bỏ và tránh các cách nghĩa sai lạc hay thiếu sót, để đi sâu dần dần vào giáo thuyết và tâm hồn của Thánh Nhỏ, các tư liệu và văn bản được cung cấp dồi dào cho chúng tôi nhưng không đủ, chỉ có các bản văn gốc mới cho chúng tôi khám phá ra chuyển động của tư tưởng, nhịp điệu nào đó của cuộc đời và tất cả ánh sáng của các câu cú thường hết sức chính xác và hết sức vững vàng (thư ngày 3 tháng 9, 1947; Ms I, tr. 87 -88).
Năm 86 tuổi, Mẹ Agnès không còn đủ sức lực để cáng đáng công việc xuất bản này, vốn đã là một phần công trình của đời bà, và có nguy cơ làm đảo lộn những người hâm mộ cuối Truyện Một Tâm Hồn. Nhưng bà không phản đối và ngày 2 tháng 1 năm 1950, bà đã trối cho Sơ Geneviève: “Sau khi tôi chết, tôi trao phó cho chị thực hiện công việc này nhân danh tôi” (Ms I, tr. 88). Thế là Dòng Cát Minh Lisieux đồng loạt dấn mình vào công việc lo cho ấn bản bình giải và toàn diện về các tác phẩm của Têrêsa.

9. Một bản văn gần như dứt điểm

Sau khi Cha Combes không còn lo trông coi các bản thảo của Têrêsa vào năm 1950, Cha Farnçois de Sainte-Marie (Farnçois Liffort de Buffévent, 1910 -1961), tu sĩ dòng Cát Minh cải tổ, được chỉ định làm chủ nhiệm công trình. Với ấn bản sao chụp do cha thực hiện năm 1956, nhờ công trình tuyệt vời của Nhà In Draeger ở Montrouge, là một tiến bộ đáng kể, gần như là chung cuộc, được thực hiện trong lãnh vực ấn hành các bản thảo của Têrêsa, nhờ việc xuất bản kèm với các ghi chú lịch sử của Cha Farnçois, và nhất là nhờ công việc chuyên môn của Raymond Trillat và Félix Michaud dò xét về từng hàng chữ trong tất cả các đoạn thêm thắt, loại bỏ hay cạo xoá để tiến tới Các Bản Theo Tiểu Sử Tự Thuật (tên gọi mới cho tác phẩm của Têrêsa, để nói lên sự cắt đứt với bản văn trước). Bước tiến bộ và cắt đứt này được cụ thể hoá nơi đại chúng qua việc xuất bản các Bản Thảo này dưới dạng sách in vào năm 1957 (xem các lời biện minh của Cha Farnçois trong tác phẩm này, tr. IX -XV)
Chính ấn bản cuối cùng này được dùng làm cơ sở cho tác phẩm hiện nay của “Ấn Bản Mới Bách Chu Niên”, với các phần hiệu đính cần thiết do đòi hỏi của các phương pháp phê bình hiện đại (là điều không thể tránh khỏi sau 35 năm nghiên cứu về một bản văn đã bị đảo lộn một cách thô bạo như thế) và một sự trở về với ý nghĩa của chữ in mà Cha Farnçois de Sainte-Marie từng tin là nên cắt nghĩa một cách thông thoáng để diễn tả sự tự nhiên của tư tưởng và chữ viết của Têrêsa (sách đã dẫn, tr. XII). Xin xem các Chú Thích về việc thiết lập bản văn và các Chú Thích về phê bình văn bản.

10. Một con đường cứu rỗi chắc chắn

Kết thúc công việc đào sâu lâu dài này trong các bản văn của Têrêsa, chúng ta chỉ cần nhớ lại lời tuyên bố sau đây của Đức Thánh Cha Piô XI như một bản tóm lược tất cả sự phong phú gói ghém trong tác phẩm của thánh nữ. Trong thánh lễ phong thánh cho Têrêsa, ngày 17 tháng 5, 1925, Đức Thánh Cha đã tôn vinh chị nữ tu Cát Minh trẻ này là “Ngôi sao của triều đại giáo hoàng của ngài”:
“Vị thánh mới Têrêsa đã thấm nhuần đạo lý Tin Mừng và đã thực hành đạo lý ấy trong đời sống hằng ngày của chị. Hơn nữa, bằng lời nói và gương sáng, ngài đã dạy con đường Thơ Ấu thiêng liêng này cho các tập sinh trong tu viện chị, và đã tỏ lộ nó cho mọi người bằng các bài viết được phổ biến trên khắp thế giới, và chắc hẳn không một ai từng đọc mà không bị lôi cuốn, mà không đọc đi đọc lại một cách thích thú và hiệu quả. (...) Qua sự kiện đó ta thấy Thiên Chúa nhân lành đã khấng ban cho Chị tràn đầy Ơn Khôn Ngoan tuyệt vời. Chị đã kín múc từ trong các bài học giáo lý dồi dào học thuyết đức tin tinh tuyền, học thuyết tu đức trong quyển sách vàng Gương Chúa Giêsu, học thuyết thần bí của Cha ngài là thánh Gioan Thánh Giá. Nhất là Ngài đã nuôi dưỡng tinh thần và tâm hồn Ngài bằng việc chuyên cần suy gẫm Sách Thánh, và Thần Khí Sự Thật mở ra và giảng dạy cho Ngài những điều Người thường giấu kín đối với những bậc tài trí khôn ngoan, mà mạc khải cho những kẻ bé mọn. Thật vậy, theo lời chứng của vị tiền nhiệm của Chúng Tôi (là ĐTC Bênêđitô XV), Ngài đã học được một khoa học tuyệt vời về những điều siêu nhiên ‘khiến Ngài có thể vạch ra cho người khác một con đường cứu rỗi chắc chắn’.”
Độc giả có thể tìm thấy một Niên Biểu rất đầy đủ và nhiều “điểm mốc” của cuộc đời Têrêsa trong quyển Correspondance générale, và quyển Oeuvres complètes en un volume (Cerf/DDB, 1996).
 
Chú thích Về việc thiết lập bản văn

 Tiêu chuẩn
Như trong các quyển khác của “Ấn Bản Mới Bách Chu Niên”, các tờ bản thảo gốc của Têrêsa được chúng tôi ghép chung làm một với bản văn đã in thành sách (trong ngoặc), cũng như cách đánh số từng 5 hàng một để giúp tìm nhanh. (Trong bản dịch tiếng Việt này tôi chỉ giữ lại các số trang của bản thảo gốc chứ không đánh số hàng chữ - ĐVT).
 Kiểu chữ in
Kiểu chữ in cũng theo luật chung của các quyển trước: tất cả bản văn đều sử dụng kiểu chữ in romanin, bất chấp các kiểu chữ khác nhau của Têrêsa: lớn hay nhỏ, đứng hay nghiêng... (đây là điểm khác biệt cơ bản với chọn lựa của Cha Farnçois de Sainte-Marie, trong ấn bản hiện hành Các Bản Thảo Tiểu Sử Tự Thuật, năm 1957).
Chữ in kiểu chữ nghiêng các từ được Têrêsa gạch dưới một lần; kiểu CHỮ HOA NHỎ những từ được gạch dưới hai lần hay hơn (hiếm gặp). Tóm lại, kiểu chữ in được sử dụng theo các quy tắc đơn giản, không mang nghĩa giải thích. Các nhà chuyên môn có thể tham khảo ấn bản sao chụp (fac -similé) Các Bản Thảo Tiểu Sử Tự Thuật của năm 1956.
Phép chính tả đã được các chị ruột của ngài sửa lại hầu như mọi chỗ; không cần phải quay trở lại với lối chính tả thường viết sai của Têrêsa [Bản dịch tiếng Việt này bỏ qua các chú thích về chính tả vì chỉ liên quan tới tiếng Pháp - ĐVT]
 Chấm câu, chữ hoa
Theo sát tối đa bản văn của Têrêsa, trừ khi có nguy cơ nghịch nghĩa. Tái lập bao nhiêu có thể các dấu chấm lửng mà đôi khi có một ý nghĩa nào đó, đặc biệt là về cảm xúc, tuy con số các dấu chấm không luôn luôn rõ ràng. [Bản dịch tiếng Việt này không theo cách chấm câu của nguyên bản tiếng Pháp, nhưng dựa theo quy tắc chấm câu của tiếng Việt và theo nghĩa - ĐVT]
Các từ do một bàn tay lạ thêm thắt vào đều được đặt trong ngoặc vì xét là cần để hiểu bản văn.
 Các từ thêm vào hay sửa đổi so với ấn bản 1957
Về ấn bản phổ thông của Cha Farnçois de Sainte-Marie, sách này chỉ giữ lại các sửa đổi được coi là chắc chắn, sau một thời gian dài khoảng 17 năm đọc đi đọc lại bản văn, tuy đôi khi phải tránh các kết luận của các chuyên gia của Bản Thảo II. Cũng cần lưu ý rằng chính Cha Farnçois đã mờAi các chuyên gia này xem xét lại các kết luận của họ giữa các Bản Thảo II và ấn bản sách in năm 1957 (x. phần giới thiệu các “Chú Thích về phê bình văn bản” của chúng tôi ở cuối sách này).
 Các chú thích
Các chú thích của ấn bản bình luận này quá nhiều nên không tiện xếp xuống cuối sách (xem Lời Tựa ở đầu sách này). Chúng được đặt ở trang đối diện hay ở cuối trang văn bản. Các tham chiếu về các chú thích khác của ấn bản này hay của các quyển khác thuộc Ấn Bản Bách Chu Niên được đánh dấu +. Ví dụ: Xem Ms A, 30v0, 21 + hay CG, tr. 467 + c. [Trong bản dịch tiếng Việt tôi đã lược bỏ khá nhiều tham chiếu này vì xét là quá rắc rối và không cần thiết đối với độc giả Việt. Độc giả nào muốn nghiên cứu chi tiết hơn có thể đối chiếu trong nguyên bản tiếng Pháp: Sainte Thérèse de l’Enfant -Jésus et de la Sainte Face, Manuscrits autobiographiques, “Nouvelle Édition du Centenaire”, Édition critique intégrale. Éditions du Cerf -Desclée de Brouwer, 2005 - ĐVT]
 Các chỗ gạch dưới
Các chỗ gạch dưới được chuyển thành kiểu chữ in nghiêng trong sách này. Sau khi kiểm tra tất cả các chỗ gạch dưới, có vẻ như khá nhiều chỗ trong Ms A được gạch dưới bằng một loại mực khác (vàng hơn là đen) vì thế là do một thời gian sau. Nguyên thuỷ chỉ có một số ít chỗ gạch dưới, điều này xem ra phù hợp với tính cách của Têrêsa vào đầu năm 1895, đơn sơ hơn, tự nhiên hơn, và ít chú trọng về khía cạnh bình giải.

-------------------------------
 

Bản thảo A: ĐỀ TẶNG MẸ ĐÁNG KÍNH AGNÈS DE JÉSUS


G.M.G.T.   Tháng Giêng 18951
Giêsu +
Câu truyện tuổi xuân của một bông hoa nhỏ - Chúa ưu ái con đặc biệt - lòng nhân từ của Chúa - Song thân tuyệt vời - Con bé tinh quái có một không hai - Các chị lớn của con - Chị Céline yêu dấu - Các khuyết điểm của con - Tính tình của con - Con chọn tất cả - Mấy tên quỷ con ghê tởm.

Câu truyện tuổi xuân của một Bông Hoa trắng nhỏ2 tự viết ra và dâng tặng Mẹ Đáng Kính Agnès de Jésus.
Mẹ yêu quý, con đến với Mẹ, người hai lần là Mẹ của con, để thổ lộ câu chuyện tâm hồn con3 ... Hôm mẹ yêu cầu con làm điều này, con sợ nó sẽ làm con phải phân tâm vì quá bận nghĩ đến bản thân mình, nhưng ngay lúc đó Giêsu đã cho con cảm thấy rằng chỉ cần vâng lời là con sẽ làm đẹp lòng Người;4 vả lại con sẽ chỉ làm một việc duy nhất: Bắt đầu hát lên điều mà con phải hát đi hát lại mãi mãi đến muôn đời - “Lòng Nhân Từ của Chúa!!!”5 ... (Tv 88,2)6
Trước khi cầm bút, con đến quỳ trước tượng Đức Mẹ,7 (bức tượng đã ban cho gia đình chúng ta biết bao bằng chứng về lòng ưu ái hiền mẫu của Nữ Vương Thiên Quốc), con đã cầu xin Người dẫn dắt để tay con không viết ra dù chỉ một dòng nào không đẹp lòng Người. Sau đó con mở sách Tin Mừng và mắt con gặp ngay các lời này: “Đức Giêsu lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và họ đến với Người.” (Mc 3,13). Đây đúng là mầu nhiệm ơn gọi của con, của tất cả đời con, và trên hết là mầu nhiệm về các đặc ân Chúa Giêsu đoái ban cho linh hồn con... Người không gọi những kẻ xứng đáng, nhưng gọi những kẻ Người muốn,8 hay như lời Thánh Phaolô: “Thiên Chúa thương xót những ai Người muốn, và tỏ lòng nhân từ với những ai Người muốn tỏ lòng nhân từ... Vậy người ta được chọn không phải vì họ muốn hay chạy chọt, nhưng là do Thiên Chúa thương xót.” (Rm 9,15-16)9. Từ lâu con đã tự hỏi tại sao Thiên Chúa nhân lành lại có những sự thiên vị như thế, tại sao mọi linh hồn không được hưởng các ân huệ như nhau, và  con ngạc nhiên khi thấy Người rộng ban các ân huệ phi thường cho các Vị Thánh đã từng xúc phạm đến Người [2v0], như Thánh Phaolô, Thánh Âutinh, và có thể nói Người ép các ngài nhận các ân huệ của Người; hay khi con đọc hạnh các Thánh, con thấy Chúa thích chiều chuộng các ngài từ lúc còn trong nôi cho tới khi xuống mồ, mà không để một trở ngại nào trên đường ngăn cản các ngài vươn lên tới Người, và ban cho tâm hồn các ngài những ân sủng phi thường khiến cho vẻ trinh trong rực rỡ của tấm áo rửa tội của các ngài không thể nào bị phai mờ, con lại tự hỏi tại sao vô số những người man-di nghèo khổ chẳng hạn, đã phải chết ngay cả trước khi được nghe nói đến danh Thiên Chúa... Chúa Giêsu đã đoái thương dạy bảo con về mầu nhiệm này, Người đã đặt trước mắt con quyển sách thiên nhiên10 và con đã hiểu rằng mọi bông hoa Người đã dựng nên đều đẹp, vẻ rực rỡ của bông hồng và vẻ trắng tinh của bông huệ không át mất hương thơm của bông hoa tím bé nhỏ hay vẻ đơn sơ quyến rũ của bông hoa cúc đầu xuân... Con đã hiểu rằng nếu tất cả các bông hoa bé nhỏ đều muốn làm hoa hồng, thiên nhiên sẽ mất đi những vẻ trang sức của mùa xuân, và các cánh đồng sẽ không còn được tô điểm bằng các bông hoa bé nhỏ xinh xinh...
Trong thế giới các tâm hồn là vườn hoa của Chúa Giêsu cũng vậy. Người đã muốn làm ra các vị đại thánh có thể sánh ví với các bông huệ và bông hồng, nhưng Người cũng đã tạo ra các vị thánh nhỏ hơn và các vị này phải bằng lòng làm những bông hoa cúc mùa xuân hay những bông hoa tím được dựng nên để làm vui cái nhìn của Thiên Chúa nhân lành khi Người đặt họ xuống dưới chân Người. Vì sự trọn lành hệ tại việc thực thi ý muốn của Người,11 thể hiện thân phận mà Người muốn chúng ta thể hiện...
Con còn hiểu rằng tình yêu của Chúa được tỏ lộ trong một tâm hồn đơn sơ nhất không bao giờ chống lại ân sủng của Người cũng như trong một tâm hồn cao cả nhất, bởi lẽ đặc tính của tình yêu là hạ mình xuống.12 Nếu mọi tâm hồn đều giống tâm hồn của các Thánh Tiến Sĩ đã từng chiếu sáng Hội Thánh [3r0] bằng giáo thuyết trong sáng của các ngài, thì có vẻ như Thiên Chúa không hạ cố đủ để đi xuống tận cõi lòng của những kẻ hèn mọn. Nhưng Người đã dựng nên những trẻ nhỏ không hiểu biết gì mà chỉ biết bật lên những tiếng khóc yếu ớt, Người đã dựng nên những người man-di nghèo hèn chỉ có thiên nhiên làm luật hướng dẫn đời sống, đó chính là vì Người đã thương hạ cố xuống tận cõi lòng họ, họ chính là những hoa cỏ đồng nội của Người, những bông hoa đơn sơ làm Người say đắm... Khi hạ cố như vậy, Thiên Chúa nhân lành tỏ lộ sự cao cả vô biên của Người. Cũng như mặt trời chiếu sáng cùng một lúc các cây bá hương và từng bông hoa bé nhỏ như thể chỉ có một mình nó trên trái đất này, thì cũng thế, Chúa săn sóc đặc biệt từng tâm hồn như thể không có tâm hồn nào khác ngoài nó, và cũng như trong thiên nhiên mọi mùa được sắp đặt sao để có thể làm cho bông hoa cúc đơn hèn nhất trổ bông vào ngày đã định, thì cũng thế, mọi sự được sắp đặt cho lợi ích của mỗi tâm hồn.
Mẹ yêu dấu, chắc hẳn mẹ ngạc nhiên tự hỏi con đang muốn dẫn mẹ đến đâu, vì tới chỗ này con vẫn chưa kể điều gì giống như là tiểu sử đời con. Nhưng mẹ đã bảo con cứ viết thoải mái về tất cả những gì đến trong tư tưởng con, vì thế thực sự không phải con viết cho mẹ về cuộc đời con, mà về các tư tưởng của con về những ơn lành mà Thiên Chúa đã đoái thương ban cho con. Con đang vào thời kỳ của cuộc đời mà con có thể nhìn về quá khứ, tâm hồn con đã chín muồi trong lũng sâu của những thử thách bên trong cũng như bên ngoài, bây giờ giống như bông hoa được bão tố làm cho cứng cáp, con ngẩng đầu lên và thấy rằng các lời Thánh Vịnh 22 đang được thực hiện nơi con. (Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi... Dầu xuống tận thung lũng [3v0] tử thần, con sợ gì nguy khốn, vì Chúa ở cùng con, lạy Chúa! - Tv 22,1-4). Chúa luôn luôn đầy lòng thương cảm và dịu dàng đối với con... Người chậm giận và giàu lòng nhân từ!.. (Tv 102,8).13 Cũng thế, thưa mẹ, ở gần Mẹ con sung sướng được hát lên lòng nhân từ của Chúa... (Tv 88,2).14 Con chỉ viết cho một mình mẹ về tiểu sử bông hoa nhỏ mà Chúa Giêsu đã hái, nên con sẽ kể một cách thoải mái không dè giữ, không bận tâm đến văn phong hay rất nhiều những chỗ con sẽ đi xa đề. Lòng người mẹ luôn hiểu rõ con mình cả khi nó chỉ biết nói bập bẹ, vì vậy con tin chắc mẹ sẽ hiểu và đoán được lòng con, bởi vì mẹ đã uốn nắn quả tim con và dâng nó cho Giêsu!...
Con nghĩ nếu một bông hoa biết nói, nó sẽ chỉ đơn sơ nói ra những gì Chúa Nhân Lành đã làm cho nó mà không tìm cách che giấu các ơn huệ của Người; nó sẽ không giả bộ khiêm tốn để nói rằng nó xấu xí và không hương sắc, rằng mặt trời đã cướp mất vẻ rạng rỡ của nó và bão tố đã đánh giập thân của nó, nhưng nó lại nhìn nhận nơi nó tất cả những điều ngược lại. Bông hoa sắp kể chuyện mình cảm thấy vui sướng được công bố những sự chăm sóc hoàn toàn ban không của Chúa Giêsu, nó nhìn nhận rằng nơi bản thân nó chẳng có gì đáng để lôi kéo cái nhìn của Chúa, nhưng tất cả những gì tốt lành nơi nó đều chỉ là do lòng nhân từ Chúa... Chính Người đã làm nó nẩy sinh nơi một mảnh đất thánh và như thể hoàn toàn thấm nhuần một hương thơm trinh bạch. Chính Người đã cho nẩy sinh trước nó tám bông Huệ trắng tinh rực rỡ. Vì yêu thương, Người đã muốn giữ gìn bông hoa nhỏ của Người khỏi hơi độc của thế gian; khi hoa chỉ vừa hé mở, Chúa Cứu Thế đã bứng nó đem trồng trên núi Cát Minh, ở đó đang toả ngát [4r0] hương thơm của hai bông huệ đã từng bao bọc nó và dịu dàng ru nó ở tuổi xuân xanh của nó... Bảy năm đã qua kể từ khi bông hoa nhỏ bén rễ trong vườn hoa của Đấng Lang Quân của các trinh nữ và bây giờ ba bông Huệ kia đang cùng nhau khoe hương khoe sắc bên cạnh nó; ở một nơi xa hơn một chút, một bông huệ khác đang tươi nở dưới cái nhìn của Giêsu, còn hai thân cây hoa phúc đức đã trổ ra các bông hoa này thì nay đang được sum họp vĩnh viễn trên Quê Trời... Ở nơi ấy các thân cây hoa này đã gặp lại bốn bông huệ mà trái đất đã không được thấy hé nụ... Ôi! Xin Giêsu thương đừng để các bông hoa phải ở lại lâu trên bờ sông lạ15 trong cảnh xa nhà; xin cho nhành Huệ được sớm sum vầy trên Trời!16
Thưa mẹ, con vừa tóm tắt mấy lời về những gì Chúa Nhân Lành đã làm cho con. Bây giờ con sẽ đi vào chi tiết thời thơ ấu của con. Con biết rằng trong khi mọi người khác chỉ thấy ở đây một câu chuyện tẻ nhạt, thì cõi lòng hiền mẫu của mẹ sẽ thấy nó thật sự hấp dẫn... Và rồi những kỷ niệm con sắp gợi lại cũng là những kỷ niệm của mẹ, bởi vì tuổi thơ của con đã trải qua bên cạnh mẹ, và con được diễm phúc làm con của những Cha Mẹ tuyệt vời khôn sánh, đã ấp ủ chúng ta bằng cùng một sự chăm sóc ân cần và dịu dàng...
Ôi! Xin các ngài thương chúc phúc cho đứa con nhỏ nhất của các ngài, và giúp nó hát lên bài ca tán dương lòng nhân từ Chúa! (Tv 88,2)17...
Tiểu sử tâm hồn con cho tới khi vào tu viện Cát Minh, con phân biệt được ba thời kỳ rõ ràng:18 thời kỳ đầu tuy vắn vỏi nhưng cũng đầy kỷ niệm; nó trải dài từ khi con biết sử dụng trí khôn cho tới lúc Người Mẹ yêu dấu của chúng ta về quê trời.
[4v0] Chúa Nhân Lành đã ban cho con ơn có trí khôn từ rất sớm và đã ghi rất sâu vào trí nhớ con những kỷ niệm tuổi thơ, khiến con thấy những điều con sắp kể như thể vừa xảy ra hôm qua. Chắc hẳn vì yêu con, Giêsu đã cho con được biết người mẹ tuyệt vời mà Người đã ban cho con, nhưng bàn tay Thiên Chúa của Người đã vội đội triều thiên cho mẹ trên Thiên Đàng!...
Suốt cả đời con, Chúa Nhân Lành hằng thương ấp ủ con bằng biết bao tình yêu, các kỷ niệm đầu đời của con ghi đậm dấu ấn của những nụ cười và những sự chiều chuộng dịu dàng nhất!.. Nhưng nếu Người đã đặt rất nhiều tình yêu thương xung quanh con, thì Người cũng đã phú bẩm cho con một quả tim nhạy cảm và rất mực yêu thương, vì thế con rất yêu cha yêu mẹ và bộc lộ tình luyến ái của con đối với các ngài bằng muôn vàn cử chỉ âu yếm, vì bản chất con rất hồn nhiên cởi mở. Chỉ có điều là cách biểu lộ của con đôi khi rất kỳ lạ, chẳng hạn như trong đoạn thư sau đây của mẹ - “Con bé tinh quái hết chỗ nói, nó đến vuốt ve mẹ và cầu cho mẹ chết: - ‘Ôi! Con rất mong mẹ chết đi, mẹ nhỏ dễ thương của con!..’ Người ta mắng nó, nó đáp: - ‘Nhưng là để mẹ được lên trời, vì mẹ nói phải chết thì mới được lên trời.’ Trong lúc yêu thương quá trớn,19 nó cũng chúc cha nó chết!”
[5r0]20 Ngày 25 tháng 6 - 1874, lúc con mới 18 tháng tuổi, mẹ đã nói về con thế này: “Cha con vừa đặt một cây đu, con chị Céline thì sướng điên lên, nhưng phải xem con em chơi đu thế nào; rất tức cười, nó đứng lên giống như một cô thiếu nữ, không sợ tuột tay, rồi khi không đứng vững được, nó khóc. Người ta cột thêm vào phía trước con bé một sợi dây nữa, tuy thế mẹ vẫn không yên tâm khi nhìn thấy nó đứng trên đu quay.
“Mới đây có một chuyện  phiêu lưu nực cười xảy ra với con bé. Mẹ quen đi lễ lúc 5 giờ rưỡi, mấy ngày đầu mẹ không dám bỏ nó ở nhà một mình, nhưng khi thấy nó không bao giờ thức giấc nên cuối cùng mẹ đã quyết định để nó ở nhà. Mẹ đặt nó nằm trên giường mẹ và kéo cái nôi sát giường để nó không thể nào té. Một hôm mẹ quên kéo cái nôi. Mẹ về và không thấy con bé trên giường, cùng lúc ấy mẹ nghe thấy tiếng rên, mẹ nhìn lại và thấy con bé đang ngồi trên một chiếc ghế đặt ở đầu giường, cái đầu bé xíu của nó tựa vào cái gối dài và ngủ chập chờn vì ở tư thế không thoải mái. Mẹ không hiểu làm sao nó rơi ngồi xuống ghế, bởi vì nó đã nằm ngủ. Mẹ tạ ơn Chúa Nhân Lành vì con bé không sao cả, thật là Chúa Quan Phòng đã gìn giữ nó, nếu không nó đã lăn xuống đất; thiên thần của nó đã canh chừng và các linh hồn luyện ngục mà hằng ngày mẹ đọc một kinh để cầu xin cho con bé đã gìn giữ nó. Mẹ nghĩ như thế đó... Các con nghĩ thế nào tuỳ các con!”
Ở cuối thư mẹ viết: “Con bé vừa đưa bàn tay nhỏ nhắn lên mặt mẹ và ôm hôn mẹ. Con bé dễ thương không chịu rời mẹ tí nào cả, lúc nào nó cũng quấn quýt bên mẹ, nó rất thích ra vườn chơi, [5v0] nhưng nếu không thấy mẹ ở đó, nó không chịu ở lại và cứ khóc cho tới khi người ta đưa nó đến với mẹ...” (Đây là một đoạn của một lá thư khác): “Một hôm bé Têrêsa hỏi mẹ xem nó có được lên trời không? Mẹ bảo nó là có, nếu nó ngoan, và nó trả lời mẹ: ‘Vâng, nhưng nếu con không ngoan, con sẽ xuống hoả ngục à? Nhưng con biết con sẽ làm gì, con sẽ bay lên trời với mẹ, Chúa làm sao mà bắt con được?... Mẹ sẽ ôm chặt con trong lòng mẹ chứ?’ Nhìn vào mắt nó, mẹ thấy nó thực sự tin là Chúa Nhân Lành không thể làm gì nó nếu nó ở trong tay của mẹ nó...
“Marie cưng em lắm, Têrêsa cũng rất thương chị và rất sợ làm chị buồn. Hôm qua mẹ muốn cho nó một bông hồng vì biết nó rất thích, nhưng nó cứ khẩn khoản nài xin mẹ đừng cắt bông ấy, chị Marie đã cấm nó làm thế, nó xúc động đỏ mặt lên, dù vậy mẹ cũng cho nó hai bông, nó không còn dám ở trong nhà nữa. Dù mẹ nói đó là bông của mẹ nhưng cũng vô ích, ‘không, nó nói, đó là của chị Marie...” Nó là một đứa bé rất dễ xúc động. Mỗi khi phạm một lỗi nhỏ, nó muốn mọi người đều biết. Hôm qua sau khi vô ý làm rách một góc nhỏ của tấm thảm, coi nó tội nghiệp lắm, rồi phải đi nói với cha nó ngay. Bốn giờ sau ông mới về, chẳng ai còn nhớ đến chuyện này, nhưng nó vội chạy đến chị Marie và nói: “Xin chị nói với cha là em đã làm rách miếng thảm đi.” Và nó đứng đó như một tội nhân chờ bản án, nhưng nó tin chắc người ta sẽ tha thứ cho nó dễ dàng vì nó đã thú lỗi.”21
[4v0, tiếp] Con rất thương mẹ đỡ đầu22 của con. Không bộc lộ ra bên ngoài, nhưng con chú ý đến tất cả những gì người ta làm hay nói xung quanh [con], và hình như hồi ấy con đã biết nhận định sự việc cũng giống như bây giờ. Con chăm chú lắng nghe chị Marie dạy chị Céline để cũng làm giống như thế; [6r0] sau khi chị rời trường Thăm Viếng.23 Để được chị cho phép vào phòng chị lúc chị dạy học cho Céline, con phải rất ngoan ngoãn và làm mọi điều chị muốn. Con cũng được vô số quà tặng,24 dù là những món quà chẳng giá trị bao nhiêu, nhưng con cũng rất thích.
Con rất hãnh diện vì hai chị lớn của con, nhưng mẫu lý tưởng của con ở tuổi thơ chính là chị Pauline... Khi con bắt đầu biết nói và mẹ hỏi - “Con đang nghĩ gì?” con luôn luôn trả lời - “Chị Pauline!...” Một lần khác con lấy ngón tay viết lên ô cửa sổ và con nói - “Con viết: Pauline!...” Con thường được nghe người ta nói chắc chắn Pauline sẽ đi tu. Lúc ấy dù chưa biết rõ tu là gì, con vẫn nghĩ: Mình cũng sẽ đi tu. Đó là một trong những kỷ niệm đầu tiên [của con] và kể từ đó, con không bao giờ thay đổi ý định!... Mẹ yêu dấu, chính mẹ là người mà Giêsu đã chọn để đính ước con với Người, dù lúc ấy mẹ không ở bên con, nhưng đã có một sợi dây nối kết hai tâm hồn chúng ta... Mẹ là lý tưởng của con, con muốn được giống như mẹ, và chính gương sáng của mẹ đã lôi kéo con từ năm con hai tuổi đến với Lang Quân của các trinh nữ... Ôi, có biết bao suy nghĩ dịu ngọt con muốn thổ lộ với mẹ! - Nhưng con phải tiếp tục câu truyện của bông hoa nhỏ, câu truyện đầy đủ và khái quát của nó, còn nếu [con] muốn kể chi tiết về các mối tương quan của nó với “Pauline”, con phải bỏ qua mọi chuyện khác!...
Chị bé Léonie yêu dấu cũng chiếm một chỗ lớn trong tim con. Chị rất thương con, buổi tối chính chị trông con trong khi cả gia đình đi dạo... Con như thể vẫn còn nghe văng vẳng tiếng chị ru con bằng những điệu ru ngọt ngào... Chị tìm đủ cách để làm con vui, còn con thì rất áy náy mỗi khi làm chị buồn. [6v0] Con còn nhớ rất rõ ngày chị được rước lễ lần đầu, nhất là lúc chị bồng con trên tay để đưa vào nhà xứ với chị; đẹp biết bao, cảnh được bồng trên tay của một chị lớn mặc áo trắng tinh như con!... Tối hôm ấy gia đình cho con ngủ sớm vì con còn nhỏ quá không thể ở lại dự bữa tiệc linh đình được, nhưng con vẫn trông thấy Ba để lại đĩa tráng miệng và đem đến cho nữ hoàng tí hon của Ba, những miếng bánh thật hấp dẫn... Sáng hôm sau hay ít hôm sau, chúng ta cùng với mẹ đi thăm cô bạn nhỏ của chị Léonie; con nhớ hôm ấy người mẹ đáng yêu này đã đưa chúng ta ra phía sau một bức tường và cho chúng ta uống rượu sau bữa ăn tối (do bà Dagorau nghèo đãi chúng ta) vì mẹ không muốn làm buồn lòng người đàn bà tốt bụng này, nhưng cũng không muốn chúng ta thiếu món gì... A! lòng người mẹ tế nhị biết bao, và bà bộc lộ tình thương dịu dàng của bà bằng ngàn cách săn sóc ân cần mà không ai nghĩ tới!...
Bây giờ con mới nói về chị Céline yêu quý, người bạn nhỏ thời thơ ấu của con, những kỷ niệm quá nhiều, con không biết phải chọn những kỷ niệm nào. Con trích ra đây một vài đoạn thư mà mẹ đã viết cho chị ở trường Thăm Viếng, nhưng con không chép ra hết vì quá dài... Ngày 10 tháng 7 -187325 (năm con sinh ra), mẹ nói với chị thế này - “Chị vú nuôi đã đưa bé Têrêsa đi hôm thứ năm. Nó chỉ biết cười, nhất là con bé Céline làm nó thích thú, nó cười rạng rỡ với con bé, có thể nói nó đã thích chơi, chuyện ấy sẽ sớm xảy ra, nó đứng thẳng đơ trên đôi chân nhỏ của nó giống như một cái cọc nhỏ. Mẹ nghĩ nó sẽ mau biết đi và tính nết sẽ tốt; nó tỏ ra rất thông minh và có một khuôn mặt xinh xắn...”
[7r0] Nhưng đặc biệt sau khi con không còn ở với vú nuôi là lúc con bắt đầu tỏ lòng thân thiết đối với chị bé Céline yêu quý. Hai chị em chúng con rất hiểu nhau, chỉ có điều con thì náo động hơn và ít ngây thơ hơn chị, tuy con thua chị ba tuổi rưỡi, nhưng chúng con có vẻ như ngang tuổi.
Đây là một đoạn thư của Mẹ cho thấy chị Céline dịu dàng còn con dữ tợn như thế nào - “Con Céline của Mẹ hoàn toàn hướng về nhân đức, đó là tình cảm thâm sâu của con người nó, nó có một tâm hồn trong trắng và ghê tởm điều xấu. Còn con bé láu lỉnh kia thì không biết phải làm gì với nó. Nó còn quá nhỏ, quá lơ đãng, nó thông minh vượt xa con Céline, nhưng lại kém dịu dàng hơn và nhất là hết sức cứng đầu cứng cổ; khi nó nói “không” thì không gì có thể làm nó nhượng bộ, dù có nhốt nó cả ngày trong hầm tối cũng không thể bắt nó nói “có” được...
“Tuy nhiên nó có một tấm lòng vàng, nó rất biết chiều chuộng và thẳng thắn; thật lạ khi thấy nó cứ bám theo sau mẹ để thú tội - Mẹ ơi, con đã đẩy chị Céline ngã một lần, con đã đánh chị một lần, nhưng con sẽ không tái phạm nữa. - (Tất cả những gì nó làm nó đều như thế). Tối hôm thứ năm, đi dạo dọc nhà ga về, nó cứ nhất định đòi vào phòng đợi để tìm chị Pauline. Nó chạy lên phi trước với vẻ mặt hớn hở, nhưng khi thấy phải quay về mà không đi ngược lên phía đường sắt để gặp chị Pauline, nó cứ khóc suốt dọc đường.”26
Phần cuối này của lá thư làm con nhớ lại niềm hạnh phúc con cảm thấy khi thấy mẹ từ trường Thăm Viếng về nhà. Chính mẹ, mẹ của con, mẹ đã bế con trên tay, còn chị Marie bế Céline, trong khi con cứ hôn mẹ chùn chụt và ngả mình ra phía sau để ngắm nghía cái bím tóc to của mẹ... rồi mẹ cho con một bánh sôcôla mà mẹ đã để dành từ ba tháng, mẹ nghĩ nó đã làm con mừng đến thế nào!... Con cũng còn nhớ chuyến đi Mans,27 đó là lần đầu tiên con được đi xe lửa. Vui biết bao khi được một mình đi xe lửa với Mẹ!... Thế nhưng con không còn nhớ tại sao lúc ấy con bắt đầu khóc và bà Mẹ yêu dấu này đành phải giới thiệu với dì của con ở Mans một con bé lem luốc mặt đỏ gay vì đã khóc suốt dọc đường... Con không còn giữ được kỷ niệm gì về phòng khách ở đó, mà chỉ nhớ được lúc bà dì đưa cho con một con chuột bạch nhỏ và một cái giỏ nhỏ bằng giấy bìa đựng đầy những cục kẹo trên đó nằm trơ hai chiếc nhẫn thật đẹp bằng đường và to vừa bằng ngón tay con, lập tức con la lên - “Sướng quá! Sẽ có một chiếc nhẫn cho Céline.” Nhưng đau đớn thay! Con một tay xách cái quai giỏ còn tay kia con nắm lấy tay mẹ và chúng ta lên đường. Đi được vài bước, con nhìn xuống cái giỏ thì thấy kẹo của con đã vung vãi hết xuống đường, giống như những viên sỏi của cậu bé Poucet... Con nhìn kỹ hơn và thấy một trong hai chiếc nhẫn quý cũng chung số phận thê thảm với các viên kẹo... Con không còn gì để cho Céline nữa!... thế là nỗi đau đớn của con bùng lên, con đòi quay lại, nhưng hình như mẹ không để ý gì đến con. Quá sức chịu đựng rồi, con vừa khóc vừa gào lên... Con không thể hiểu nổi tại sao mẹ không chia sẻ nỗi đau của con và điều này càng làm con thêm đau đớn...
Bây giờ con trở lại với các lá thư mà mẹ đã nói về Céline và con, đó là cách tốt nhất con có thể dùng để cho mẹ hiểu rõ hơn về tính tình của con. Đây là một đoạn làm nổi bật những tật xấu của con - “Đây, [8r0] Céline đang chơi súc sắc với con bé, chúng cứ chốc chốc lại cãi nhau, Céline nhường nhịn để được một viên ngọc thiêng đính vào triều thiên. Mẹ buộc phải sửa lỗi con bé khi nó nổi cơn tam bành mỗi khi có chuyện không vừa ý nó, nó lăn ra đất giống như một kẻ thất vọng nghĩ mình đã mất tất cả, có những lúc nó cảm thấy bất lực đến phát ngộp. Đó là một đứa bé rất nóng nảy, nhưng cũng khá dễ thương và thông minh, nó nhớ được mọi chuyện.”28 Thưa mẹ, mẹ thấy con không phải là một bé gái hoàn toàn không có tật xấu! Thậm chí người ta còn không thể nói về con “Rằng con ngoan khi con ngủ”, vì ban đêm con còn quậy hơn cả ban ngày, con hất tung mọi chăn mền và rồi (cả khi đang ngủ) con cũng đập cả người vào thành giường; đau quá làm con thức giấc, bấy giờ con nói: - “Mẹ ơi, con bị đập rồi!.” Bà mẹ tội nghiệp buộc phải nhổm dậy và thấy trán con bị sưng u lên thật, thấy con bị đập; bà đắp mền lại cho con rồi đi ngủ tiếp, nhưng sau một lúc con lại bị đập lần nữa, khiến người ta phải cột con vào giường. Tối nào chị bé Céline cũng đến thắt lại nhiều sợi dây để tránh cho con bé ranh khỏi bị đập và làm mẹ thức giấc; phương pháp này tỏ ra hiệu quả, từ đó con đã ngoan ngoãn lúc ngủ... Con cũng còn một tật xấu khác nữa (lúc thức) nhưng Mẹ không nói đến trong các thư, đó là tính tự ái cao độ. Con chỉ kể ra đây một vài ví dụ thôi, sợ rằng câu chuyện của con quá dài. - Một hôm Mẹ bảo con - “Têrêsa cưng của mẹ, nếu con hôn đất, mẹ sẽ cho con một xu.” Một xu là cả một tài sản đối với con, và để có một xu ấy con không cần phải hạ thấp chiều cao của con bởi vì vóc người con thấp chẳng cách xa mặt đất bao nhiêu, nhưng tính kiêu hãnh của con nổi loạn trước [8v0] ý tưởng phải hôn đất, nên con đứng thẳng lên và nói - Ồ! Không đời nào, Mẹ ơi, con thà không có một xu còn hơn!...
Một lần khác chúng ta phải đi đến nhà Bà Monnier ở Grogny. Mẹ bảo chị Marie mặc cho con chiếc áo đầm đẹp màu thanh thiên có thêu ren nhưng không được để tay trần sợ cháy nắng. Con để chị mặc áo cho con với vẻ dửng dưng bình thường của những đứa bé ở tuổi con, nhưng trong lòng con nghĩ giá để tay trần hẳn mình sẽ xinh hơn.
Với một bản tính như thế, nếu con đã [được] nuôi dạy bởi những Cha Mẹ thiếu đạo đức hay thậm chí nếu giống như chị Céline đã được cô Louise quá nuông chiều,29 hẳn con đã ra xấu và có thể đã hư hỏng... Nhưng Giêsu đã trông chừng hiền thê bé bỏng của Người, Người đã muốn mọi sự trở nên có ích cho nó, kể cả các tật xấu của nó, vì khi chúng bị tiêu diệt từ sớm, chúng đã giúp nó lớn lên trong sự trọn lành... Vì con có tính tự ái và cũng có lòng yêu sự thiện ngay khi con vừa biết suy nghĩ nghiêm túc (từ khi còn rất bé), nên chỉ cần người ta bảo con rằng điều nào là không tốt, thì con sẽ không tái phạm điều ấy lần thứ hai... Con rất vui đọc thấy trong các thư của Mẹ rằng càng lớn lên con càng đem lại cho Mẹ nhiều niềm an ủi. Vì xung quanh con chỉ toàn là những gương lành, nên tự nhiên con muốn bắt chước. Đây là lời Mẹ viết năm 1876 - “Cho tới cả Têrêsa, đôi khi cũng cố làm các việc thực hành30... Nó là một đứa bé dễ thương, tinh tế giống như một cái bóng,31 rất sinh động, và  có con tim nhạy cảm. Céline và nó rất thương nhau, hai đứa chỉ cần có nhau là đủ vui đùa, ngày nào cũng vậy vừa khi ăn tối xong là Céline đi bắt ngay con gà trống nhỏ của nó, bất ngờ chộp được cả con gà mái cho Têrêsa, Mẹ thì chẳng bao giờ chộp được cả, còn nó thì nhanh như cắt, vừa nhảy tới là chộp ngay được con gà rồi hai đứa đem hai con gà đến góc của [9r0] lò sưởi và chơi đùa khá lâu. (Cô Rose đã tặng mẹ con gà trống và con gà mái này, Mẹ cho Céline con gà trống). Một hôm khác, Céline ngủ với mẹ, Têrêsa ngủ tầng hai ở giường của Céline, nó nài xin cô Louise đưa nó xuống nhà dưới thay quần áo, Louise leo lên kiếm nó nhưng thấy giường trống trơn. Têrêsa đã nghe tiếng Céline và đã xuống với chị. Louise bảo nó: “Vậy con không muốn xuống dưới thay quần áo à?” - “Ồ không, cô Louise dễ thương ơi, chúng em giống như hai con gà mái nhỏ, không muốn xa nhau đâu!” Vừa nói hai đứa vừa hôn nhau và ôm ghì lấy nhau... Rồi tối đến Louise, Céline và Léonie kéo nhau đi câu lạc bộ công giáo32 và bỏ con bé Têrêsa lại ở nhà. Con bé tội nghiệp hiểu rằng nó còn quá nhỏ không thể đến đó, nó nói: “Không sao, miễn là con được ngủ trên giường của Céline!” Nhưng không, người ta không muốn... nó chẳng nói chẳng rằng, ở lại một mình với cây đèn nhỏ của nó rồi mười lăm phút sau đã ngủ thiếp đi...”33
Một hôm khác mẹ còn viết: “Céline và Têrêsa không thể nào rời xa nhau, người ta không hề thấy có hai đứa trẻ nào thương nhau hơn, mỗi khi chị Marie đến kiếm Céline để dạy học cho nó là Têrêsa lại khóc oà lên. Trời ơi, nó sẽ sống sao đây? Cô bạn nhỏ của nó đi mất rồi!... Chị Marie thương hại nên cũng đưa nó vào lớp và con bé tội nghiệp này ngồi ngay ngắn trên ghế suốt hai hay ba giờ liền; người ta cho nó ít hạt cườm để xâu hay một miếng vải để khâu, nó không dám cựa quậy, nhưng chốc chốc lại thở dài thật to. Khi sợi chỉ của nó tuột kim và nó cố gắng xỏ lại, trông nó thật kỳ lạ, xỏ mãi không được mà cũng không dám quấy rầy chị Marie; rồi thấy hai giọt nước mắt to rơi xuống má... Marie [9v0] vội an ủi nó, xỏ kim cho nó và cô thiên thần nhỏ tội nghiệp mỉm cười trong nước mắt...”34
Thực thế, con nhớ mình không thể nào ở lại chỗ nào mà không có Céline. Con thà rời bàn ăn trước khi ăn món tráng miệng còn hơn là không đi theo chị ấy; vừa khi thấy chị đứng dậy khỏi bàn ăn là con liền ngoái lại phía sau chiếc ghế cao con đang ngồi và xin người ta nhấc con xuống để ra cùng chơi với chị; đôi khi chúng con đi chơi với con gái ông thị trưởng, con rất thích vì ở đó có công viên và những món đồ chơi đẹp mà nó đem khoe với chúng con, nhưng con đi, thực ra là để làm vui lòng Céline, riêng con thì thích ở lại trong khu vườn nhở ở nhà để cạo các bức tường, vì chúng con cạo đi tất cả các vảy nhỏ lấp lánh trên tường rồi đem về bán cho ba, và ba mua lại rất đàng hoàng.
Ngày Chúa nhật, vì con còn quá nhỏ không đi lễ được nên mẹ ở nhà trông con. Con tỏ ra ngoan và chỉ đi rón rén trong giờ lễ, nhưng vừa khi thấy cửa mở là con mừng điên lên, con nhảy bổ ra trước mặt cô chị bé xinh đẹp lúc ấy trang điểm như một ngôi nhà nguyện...35 rồi con bảo chị: “Ồ! Chị bé Céline, cho em bánh thánh ngay đi!” Thỉnh thoảng chị không có, vì đến trễ... Làm sao bây giờ? Con không chịu bỏ qua, đó là “thánh lễ của con”... Lập tức đã có cách giải quyết. - “Không có bánh thánh, thì tự làm ra bánh!” Nói là làm, Céline đi lấy cái ghế trèo lên mở tủ lấy ra chiếc bánh, cắt một miếng rồi hết sức nghiêm trang đọc một kinh Kính Mừng trên miếng bánh rồi đưa cho con. Con cầm miếng bánh làm dấu Thánh Giá rồi ăn một cách rất sốt sắng, và cảm thấy hương vị hoàn toàn [10r0] là bánh thánh... Chúng con thường cùng nhau làm những bài huấn đức, đây là một ví dụ con lấy trong các thư của mẹ - “Hai con bé cưng Céline và Têrêsa của chúng ta đúng là các thiên thần được chúc phúc. Têrêsa là niềm vui, là hạnh phúc và vinh dự của Marie, không thể tưởng tượng nổi nó tự hào về con bé như thế nào. Đúng là nó có những câu đối đáp sâu sắc rất hiếm thấy ở tuổi của nó, về phương diện này nó hơn hẳn con bé Céline gấp đôi tuổi nó. Một hôm Céline hỏi nó: - “Làm sao Chúa có thể ở trong một tấm bánh nhỏ xíu như thế?” Con bé đáp: “Có khó gì, vì Chúa là Đấng Toàn Năng mà.” - Toàn Năng nghĩa là gì? “Là làm được bất cứ những gì Người muốn!”36
Một hôm, chị Léonie nghĩ mình đã lớn không chơi búp bê nữa, chị đến tìm hai đứa chúng con, mang theo một giỏ đựng đầy áo đầm và những miếng vải đẹp để may các áo khác nữa, con búp bê của chị ở bên trên. - “Các em lấy đi, chị nói, chọn đi, chị cho các em tất cả đấy.” Céline giơ tay lấy cái hộp nhỏ đựng các dải trang sức mà chị thích. Đến lượt con, sau một lúc suy nghĩ con đưa ra ra và nói: - “Em chọn tất cả!”37 rồi cầm lấy cái giỏ mà không có thêm một nghi thức nào cả. Những người chứng kiến cảnh này thấy là rất đúng, còn chính Céline cũng chẳng hề nghĩ đến chuyện phàn nàn gì cả (hơn nữa chị ấy cũng không thiếu gì đồ chơi, cha đỡ đầu của chị cho chị vô số và cô Louise cũng tìm cách đáp ứng cho chị ấy tất cả những cái chị ấy thích).
Biến cố nho nhỏ này ở tuổi thơ của con là bản tóm lược của cả đời con; sau này khi con bắt đầu hiểu được sự trọn lành, con hiểu rằng muốn làm thánh thì phải chịu đau khổ nhiều, luôn luôn tìm kiếm điều hoàn hảo nhất và quên mình; con hiểu rằng sự trọn lành có nhiều cấp độ khác nhau và mỗi linh hồn [10v0] được tự do đáp lại các lời đề nghị của Chúa, làm ít hay làm nhiều cho Người, tóm lại là chọn lựa giữa những hy sinh mà Người đòi hỏi. Lúc ấy, giống như hồi ấu thơ, con đã kêu lên: “Lạy Chúa, con chọn tất cả. Con không muốn làm thánh nửa vời, con không sợ chịu đau khổ vì Chúa, con chỉ sợ một điều là giữ lại ý riêng con, xin Chúa hãy lấy nó đi, vì “Con chọn tất cả” những gì Chúa muốn!”
Con phải dừng lại, con vẫn chưa kể được hết với mẹ về tuổi trẻ của con, về đứa nhãi ranh bốn tuổi. Con nhớ lại một giấc mơ của con ở khoảng tuổi ấy và nó in sâu và trí tưởng tượng của con. Một đêm, con mơ thấy con đi dạo một mình trong vườn, vừa đi đến chân các bậc dẫn lên vườn, con bỗng hoảng hồn dừng lại: Ngay trước mặt con, gần chỗ lùm cây, con thấy chiếc thùng vôi và có hai tên quỷ con ghê tởm38 đang nhảy thoăn thoắt cực nhanh trên đó, mặc dù chân chúng bị xích giống như có các bàn ủi cột lại; thình lình chúng ném những tia nhìn rực lửa vào con, rồi cùng lúc ấy chúng lộ vẻ hoảng hốt hơn cả con, chúng gieo mình xuống chân thùng vôi và đi nấp trong đống quần áo phía trước mặt. Thấy chúng có vẻ nhát gan, con muốn xem chúng đang định làm gì và con tiến lại gần cửa sổ. Hai quỷ con tội nghiệp cứ chạy lăng xăng trên những cái bàn mà không biết làm cách nào có thể trốn khỏi cặp mắt con, đôi khi chúng chạy lại gần cửa sổ, mắt nhìn dáo dác xem con có còn ở đó không, và khi thấy con vẫn ở đó, chúng lại bắt đầu chạy điên khùng. - Giấc mơ này chẳng có gì là phi thường, nhưng con tin rằng Chúa Nhân Lành đã cho phép con nhớ lại để cho con thấy được rằng một linh hồn trong tình trạng ân sủng thì không phải sợ ma quỷ, vì chúng là những tên nhát gan, chúng chạy trốn cả cái nhìn của một đứa trẻ...
[11r0] Và đây còn một đoạn nữa con tìm thấy trong các thư của mẹ. Người mẹ yêu dấu đã linh cảm thấy giờ lưu đày của mình kết thúc:39 Mẹ chẳng có gì phải lo lắng về hai con bé, cả hai đứa đều rất ổn, bản chất chúng tuyệt vời, chắc chắn chúng sẽ là người tốt, Marie và con có thể dạy dỗ chúng. Céline thì không bao giờ phạm một lỗi nhỏ nào cố tình. Còn con bé út cũng sẽ là người tốt, dù có cho vàng nó cũng không nói dối; trong số các con, mẹ chưa thấy đứa nào có tinh thần giống như nó bao giờ.40
“Hôm trước nó đến tiệm tạp hoá với Céline và Louise, nó nói về các việc hy sinh của nó và tranh luận với Céline, bà chủ tiệm nói với Louise: Con bé nói những chuyện gì vậy? Khi nó chơi trong vườn, người ta chỉ nghe thấy nó nói về các việc hy sinh. Bà Gaucherin thò đầu ra cửa sổ để cố hiểu cuộc tranh luận về các việc hy sinh này có nghĩa là gì... Con bé dễ thương này là hạnh phúc của chúng ta, nó sẽ là người tốt, chúng ta đã thấy được mầm mống, nó chỉ nói đến Chúa Nhân Lành, bất kể thế nào nó cũng không bao giờ bỏ đọc kinh. Mẹ ước con thấy được nó kể các chuyện ngụ ngôn nho nhỏ, mẹ chưa từng thấy cảnh nào đẹp hơn thế, nó tự mình tìm ra cách diễn tả và âm điệu, nhưng nhất là khi nó nói: - Cậu bé tóc hoe vàng, mi nghĩ Thiên Chúa ở đâu nào? Và khi nói đến câu: - Người ở trên Trời xanh, nó đưa mắt nhìn lên trời với một vẻ biểu cảm của thiên thần, người ta không bao giờ chán khi nghe nó diễn tả đẹp đến thế, có một cái gì thiên thai trong cái nhìn của nó khiến người ta phải thích mê!...”41
Ôi thưa Mẹ! Ở tuổi ấy con hạnh phúc biết bao, con đã bắt đầu vui hưởng cuộc đời, nhân đức lôi cuốn con, và có lẽ như con cũng ở trong cùng tâm trạng như bây giờ, con đã có cả một phạm vi rộng lớn cho các hành động của con. - A! Những năm tuổi thơ rạng rỡ ánh mặt trời của con đã qua đi nhanh,42 nhưng chúng đã để lại nơi tâm hồn con dấu ấn ngọt ngào biết bao! Con sung sướng nhớ lại những ngày cha đưa chúng ta đến thăm căn nhà chòi,43 cách chi tiết nhỏ bé nhất đã ghi tạc vào lòng con... Đặc biệt con nhớ lại các cuộc đi dạo ngày Chúa nhật, luôn có Mẹ đi cùng... Con vẫn còn cảm thấy những ấn tượng sâu xa và thơ mộng nẩy sinh trong tâm hồn khi nhìn thấy những cánh đồng lúa chín vàng điểm những bông cúc lam và những bông hoa đồng nội. Từ hồi ấy con đã yêu những cảnh vật xa xa... Khoảng không gian và những cây sam khổng lồ cành rũ tới mặt đất đã để lại trong tim con một ấn tượng giống như con cảm nhận hôm nay mỗi khi đứng trước cảnh thiên nhiên. Trong các cuộc đi dạo này, chúng ta thường gặp những người nghèo, và bé Têrêsa bao giờ cũng là người lãnh trách nhiệm đem cho họ của bố thí, và nó rất sung sướng làm điều đó; nhưng cũng nhiều khi Ba thấy đường đi quá xa đối với nữ hoàng tí hon của ba, ba thường đưa nó về nhà sớm hơn những người khác (dù ba không thích về sớm), những lần như thế Céline thường an ủi em bằng cách đổ vào cái giỏ nhỏ xinh xắn của nó đầy những bông cúc đầu xuân để nó mang về, nhưng tiếc thay! Bà nội tốt lành44 thấy cháu của bà có quá nhiều hoa, nên bà cũng lấy đi một phần kha khá cho tượng Đức Mẹ của bà... Bé Têrêsa không thích như thế, nhưng nó chẳng nói gì cả, vì nó đã có thói quen không bao giờ phàn nàn, cả khi người ta lấy đi cái gì của nó, hay khi bị vu khống bất công, nó thích im lặng hơn là chữa mình, một nhân đức tự nhiên bẩm sinh chứ chẳng phải công lao gì của nó.... Phẩm chất tốt lành này mà mất đi thì thật tai hại biết bao! [12r0] Ồ! Quả thực mọi sự đều mỉm cười với con trên trái đất này, con tìm thấy những bông hoa dưới từng bước chân mình và tính khí vui vẻ của con cũng giúp làm cho cuộc đời con dễ chịu, nhưng một thời kỳ mới sắp sửa khởi sự cho tâm hồn con, con phải vượt qua lũng sâu của thử thách và chịu đau khổ ngay từ tuổi ấu thơ để có thể được hiến dâng sớm hơn cho Giêsu. Cũng như những bông hoa mùa xuân bắt đầu đâm chồi dưới lớp tuyết dày và nở hoa khi những tia nắng mặt trời đầu tiên xuất hiện, thì bông hoa nhỏ mà con viết lại những kỷ niệm này cũng phải trải qua mùa đông thử thách.

Mẹ mất - Pauline sẽ là mẹ của con - Ở Buissonnets - Các cuộc dạo chơi với Ba - Bố thí cho kẻ khó - Xưng tội lần đầu - Các ngày lễ và Chúa Nhật - Một lối giáo dục vừa cương vừa nhu - Buổi phát thưởng  - Người che mặt - Vệt nắng vàng.

... Mọi chi tiết về căn bệnh của mẹ yêu dấu của chúng ta vẫn còn rõ như in trong trí con, con nhớ nhất là những tuần lễ cuối cùng mẹ trải qua dưới trần gian, Céline và con giống như những đứa bé lưu đày tội nghiệp, mỗi sáng Bà Leriche1 đến đón và đưa chúng con sang ở nhà bà suốt cả ngày. Một hôm chúng con chưa kịp đọc kinh trước khi đi, nên trên đường đi Céline hỏi nhỏ con: “Có nên nói với bà là chúng mình chưa đọc kinh không...” - “Ồ! Có chứ” con đáp, thế là chị bé rụt rè nói với Bà Leriche, và bà trả lời - “Được rồi, các cháu sẽ đọc kinh” rồi đưa cả hai chúng con vào một căn phòng lớn rồi bà bỏ đi... Bấy giờ Céline nhìn con và nói: “Trời ạ! Không giống mẹ chút nào... Mẹ luôn luôn dạy chúng mình đọc kinh!...” Khi chơi đùa với bọn trẻ, chúng con lúc nào cũng tưởng nghĩ đến Mẹ yêu dấu của chúng ta. Có một lần người ta cho Céline một quả mơ đẹp lắm, chị cúi xuống nói rất nhỏ với con: “Chúng ta đừng ăn, để chị mang về cho Mẹ.” Buồn thay người Mẹ yêu dấu này bệnh đã quá nặng còn ăn gì được những hoa quả của trái đất; Mẹ sẽ chỉ còn có thể ăn no thoả vinh quang Thiên Chúa ở trên Trời và uống với Chúa Giêsu thứ rượu huyền nhiệm mà Người đã nói đến trong Bữa Tiệc Ly, rằng Người sẽ cho chúng ta cùng uống thứ rượu ấy trong vương quốc của Cha Người (Mt 26,39).2
Nghi thức xức dầu thánh cảm động cũng in sâu vào tâm hồn con; con như vẫn còn nhìn thấy chỗ con đứng bên cạnh Céline, tất cả [năm chị em] chúng ta đứng [12v0] xếp hàng theo tuổi và Cha đau khổ cũng ở đó khóc nức nở.
Ngày Mẹ ra đi3 hay sau hôm ấy, cha ôm con và bảo: “Con lại hôn mẹ lần cuối đi con.” Chẳng nói chẳng rằng, con đặt môi lên trán Mẹ yêu dấu... Con không nhớ mình có khóc nhiều lắm không, con cũng không kể cho ai những tình cảm sâu xa con cảm thấy... Con chỉ im lặng nhìn và nghe... chẳng ai có thời giờ để ý đến con, và con cũng thấy được nhiều điều mà người ta muốn giấu con, khi con đứng đối diện với nắp quan tài... con dừng lại nhìn nó một lúc lâu... chưa bao giờ con nhìn thấy những cái gì như thế, nhưng con hiểu... con còn quá nhỏ nên mặc dù tầm vóc Mẹ không cao lắm, con vẫn phải nghển đầu lên mới nhìn thấy phía trên và con thấy nó rất lớn... rất bi thương... Mười lăm năm sau,4 con cũng đứng trước một quan tài khác, quan tài của Mẹ Geneviève,5 nó cũng lớn bằng quan tài của mẹ và con hồi tưởng lại thời thơ ấu!... Tất cả các kỷ niệm dồn dập trở lại với con, vẫn là bé Têrêsa đang nhìn, nhưng nó đã lớn lên và cái quan tài trông có vẻ nhỏ đối với nó, nó không còn cần nghển đầu lên để nhìn cái quan tài, nó chỉ nghển đầu lên để chiêm ngắm Trời mà nó thấy vui tươi, vì tất cả những thử thách đã kết thúc và mùa đông của tâm hồn nó đã mãi mãi qua rồi (Dc 2,10-11)6...
Ngày mà Hội Thánh làm phép thi hài của người mẹ chúng ta, Chúa Nhân Lành đã thương ban cho con một người mẹ khác ở dưới đất, và Người muốn con được tự do chọn người mẹ ấy. Năm chị em chúng ta tụ tập lại với nhau, buồn bã nhìn nhau, cô Louise cũng có mặt và khi thấy Céline và con, cô nói: “Các cháu nhỏ tội nghiệp, các cháu không còn Mẹ nữa!” Lúc ấy Céline ném mình vào vòng tay chị Marie và nói - “Chị sẽ làm mẹ em.” Còn con, con vẫn quen làm [13r0] theo chị bé, nhưng con quay về phía mẹ, Mẹ của con, và như thể bức màn tương lai đã được xé ra, con gieo mình vào vòng tay mẹ và la lên: “Phần em, chị Pauline sẽ là Mẹ!”7
Như con đã nói trên kia, chính thời kỳ này con bước vào giai đoạn thứ hai của đời mình, giai đoạn đau đớn nhất trong ba giai đoạn, nhất là từ lúc người mà con chọn làm “Mẹ” thứ hai của con vào Dòng Cát Minh. Giai đoạn này trải dài từ năm con 4 tuổi rưỡi cho tới năm 14 tuổi,8 là thời kỳ con tìm lại được tính hồn nhiên của con đang khi bước vào cuộc sống chín chắn.
Thưa Mẹ, con phải nói với Mẹ rằng, kể từ khi mẹ chúng ta mất, tính tình vui vẻ của con đã thay đổi hoàn toàn, trước kia con năng động đến thế, cởi mở đến thế, nay trở nên nhút nhát và hiền lành, nhạy cảm quá mức. Chỉ một cái nhìn cũng đủ làm con khóc, chỉ mong không ai để ý đến con là con hài lòng, con không thể chịu đựng nổi sự có mặt của những người lạ và chỉ tìm lại được tính vui vẻ của mình trong vòng thân mật của gia đình... Con vẫn tiếp tục được bao bọc bởi sự dịu dàng tế nhị nhất. Quả tim quá dịu dàng của cha nay lại chất chứa thêm một tình yêu âu yếm của người mẹ.9 Thưa Mẹ, Mẹ và chị Marie chẳng phải là những người mẹ dịu dàng nhất, vô vị lợi nhất của con sao?... A! nếu Chúa Nhân Lành không đổ tràn những tia nắng ơn lành10 xuống bông hoa nhỏ của Người, hẳn nó sẽ không bao giờ có thể quen được với khí hậu của trái đất, nó còn quá yếu để có thể chịu đựng mưa bão, nó cần có sức nóng, sương sa dịu ngọt và những làn gió xuân nhè nhẹ, nó không bao giờ thiếu những ơn lành ấy, Giêsu đã cho nó tìm thấy, cả bên dưới những lớp tuyết dày của thử thách!...
Con không cảm thấy tiếc nuối gì khi rời Alençon, vì trẻ con thường thích thay đổi, và con rất vui khi đến ở Lisieux. Con vẫn còn nhớ chuyến đi ấy, nhớ buổi tối lúc đến nhà mợ, con vẫn còn thấy Jeanne và Marie đứng đón chúng ta ngoài cửa... Con rất vui vì có những cô em họ dễ thương như thế, con rất yêu các em và mợ con, nhất là cậu con, chỉ có điều là con sợ cậu và con cảm thấy không thoải mái như ở Buissonnets,11 nơi mà cuộc sống của con hạnh phúc thực sự... Từ sáng sớm Mẹ đã đến với con và hỏi con đã dâng trái tim cho Chúa chưa, rồi Mẹ thay đồ cho con, vừa thay vừa nói với con về Người và sau đó con đọc kinh bên cạnh Mẹ. Tiếp đến là bài học tập đọc, từ đầu tiên mà [con] biết đọc một mình là từ “Trời”. Mẹ đỡ đầu yêu dấu của con dạy con học viết, còn Mẹ, Mẹ của con, dạy con tất cả các môn khác; con học không dễ dàng lắm nhưng con có trí nhớ rất tốt. Giáo lý và nhất là lịch sử thánh là những môn con thích nhất, con học các môn ấy rất vui vẻ, còn môn ngữ pháp thường làm con chảy nước mắt12... Mẹ còn nhớ giống đực và giống cái chứ!
Lớp học vừa kết thúc là con leo ngay lên chòi gác13 để mang cho cha phù hiệu và điểm của con. Con sung sướng biết bao khi có thể khoe với người: “Con được 5 điểm tuyệt đối, chị Pauline là người đầu tiên đọc điểm ấy!” Vì khi con hỏi mẹ có phải con được 5 điểm tuyệt đối hay không thì mẹ trả lời là phải, đối với con thực ra phải trừ đi một điểm. Mẹ cũng cho con những điểm tốt, và sau khi con đã đạt được số điểm tốt ấy, con được lãnh một phần thưởng và được một ngày nghỉ học. Con còn nhớ những ngày ấy [14r0] đối với con dài hơn những ngày khác, điều này làm mẹ vui bởi vì nó chứng tỏ rằng con không muốn ở rảnh rỗi không làm gì cả. Tất cả các buổi chiều con đều đi dạo với cha; hai cha con cùng đi viếng Thánh Thể, mỗi ngày đến một nhà thờ mới, và nhờ đó lần đầu tiên con bước chân vào nhà nguyện tu viện Cát Minh,14 cha chỉ cho con xem chấn song của ca triều, và bảo con rằng có các nữ tu ở phía sau chấn song ấy. Con hoàn toàn không ngờ rằng chín năm sau con sẽ ở trong số các nữ tu ấy!...
Trong các lần đi dạo bao giờ cha cũng mua cho con một món quà nhỏ giá chừng một hai xu, sau khi đi dạo con trở về nhà, làm bài tập, phần thời gian còn lại, con chơi nhảy lò cò quanh cha trong vườn, vì con không biết chơi búp bê. Con thích thú mỗi khi chế rượu sâm banh bình dân bằng các hạt cỏ nhỏ và vỏ cây khô nhặt được dưới đất, chế xong con lập tức đem đến mời cha uống trong một cái chén thật xinh. Người cha yêu dấu cắt ngang công việc rồi mỉm cười làm bộ uống, và trước khi trả lại con chén rượu, cha thường hỏi con (với điệu bộ bí mật) xem có nên đổ đi hay không, có khi con nói có, nhưng thường con đem tách rượu quý của mình về để dùng lại nhiều lần... Con thích trồng những cây hoa nhỏ trong miếng vườn Cha cho con; con thích thú dựng các bàn thờ nho nhỏ trong các chỗ lõm sâu trong tường, mỗi khi dựng xong con chạy lại chỗ Cha, xin cha nhắm mắt lại cho tới khi con bảo mở mắt ra mới mở, rồi con kéo cha đi. Cha làm tất cả những gì con muốn và để con dẫn đến trước miếng vườn nhỏ của con, rồi con hô lên: “Cha, mở mắt ra!” Cha mở mắt ra [14v0] và để làm con vui, ông giả bộ ngây ngất và trầm trồ thán phục kiệt tác của con!. Con sẽ không bao giờ kết thúc được nếu con muốn kể ra hàng ngàn những chuyện độc đáo nho nhỏ như thế đang hiện ra ào ào trong trí nhớ con... A! làm sao con có thể kể lại tất cả những cử chỉ dịu dàng mà “Cha” hào phóng ban phát cho nữ hoàng tí hon của cha? Có những chuyện con tim cảm nhận, nhưng lời nói và thậm chí tư tưởng không thể nào diễn tả.
Con có được những ngày rất đẹp, những ngày mà đức vua yêu dấu của con đưa con đi câu cá với cha; con rất thích cảnh đồng quê, hoa cỏ và chim chóc!. Thỉnh thoảng con thử câu với cái cần câu nhỏ của con,15 nhưng con thích đến ngồi một mình trên bãi cỏ điểm bông hơn, những lúc ấy con chìm sâu vào tư tưởng, và mặc dù chưa biết nguyện ngắm là gì, tâm hồn con chìm đắm trong kinh nguyện thực sự. Con nghe thấy những tiếng động xa xa... Tiếng gió rì rào và cả tiếng kèn quân nhạc với những âm thanh lờ mờ ru hồn con vào một cảm giác dịu buồn... Trần gian này đối với con giống như một nơi lưu đày và con mơ về cõi Trời16... Buổi chiều qua mau, đã đến lúc phải về nhà ở Buissonnets, nhưng trước khi ra về, con lấy ra món lót dạ mà con mang theo trong cái giỏ nhỏ: chiếc bánh mứt xinh đẹp mà mẹ bỏ vào giỏ cho con hồi sáng bây giờ đã đổi màu: thay vì mau tươi tắn của nó, con chỉ còn thấy một màu hồng nhạt, cũ kỹ và khô khẳng... lúc ấy trần gian trở nên càng buồn thảm hơn đối với con và con hiểu rằng chỉ ở trên trời mới có niềm vui không gợn mây... Nhân tiện nhắc tới mây, con nhớ một hôm mây kéo đến che bầu trời quang đãng của miền quê và dông bão bắt đầu gầm thét, các tia chớp xé ngang những đám mây đen và con thấy có tiếng sét ở ngay bên, thay vì sợ hãi, con lại thấy ngất ngây vì nghĩ rằng Chúa Nhân Lành [15r0] đang ở rất gần con!. Cha thì hoàn toàn không thích thú như nữ hoàng nhỏ của ông, không phải vì dông bão làm ông sợ, nhưng vì những cây cỏ và những câu cúc đầu xuân (cây nào cũng cao hơn đầu con” loé lên những hạt ngọc lóng lánh, mà muốn ra tới đường phải đi qua rất nhiều đồng cỏ, thế là ông bố yêu dấu sợ những hạt kim cương17 làm ướt cô con gái cưng, nên bất chấp bộ đồ nghề câu cá, ông vẫn cứ cõng con bé trên lưng.
Trong những lần con đi dạo với cha, cha hay bảo con đưa của bố thí cho những người nghèo18 gặp trên đường. Một hôm gặp một người đang khó nhọc lết trên đôi nạng gỗ, con lại gần cho người ấy một xu, nhưng vì thấy mình không đến nỗi nghèo để nhận của bố thí, người ấy nhìn con với một nụ cười buồn sầu và từ chối nhận tiền của con. Thật khó diễn tả điều gì đang diễn ra trong lòng con, con muốn an ủi, vỗ về ông ấy, nhưng thay vì an ủi, con lại thấy như mình đã làm ông ấy tủi thân. Con chắc là ông bệnh tật đáng thương này đoán được ý nghĩ của con, vì con thấy ông ấy quay lại và mỉm cười với con. Cha vừa mua cho con một chiếc bánh ngọt, con rất muốn cho ông ấy nhưng không dám; tuy nhiên con vẫn muốn cho ông một cái gì mà ông không thể từ chối, vì con rất có thiện cảm với ông. Bấy giờ con nhớ đã từng nghe kể rằng vào ngày rước lễ lần đầu, người ta nhận được bất cứ điều gì họ xin, con cảm thấy an ủi với tư tưởng này, và tuy chỉ mới sáu tuổi, con đã tự nhủ: “Con sẽ cầu nguyện cho người nghèo này vào ngày con được rước lễ lần đầu.” Năm năm sau, con đã giữ lời hứa và con hy vọng Chúa Nhân Lành đã nhận lời cầu nguyện mà Người đã soi sáng cho con là cầu xin cho một trong số những chi thể đau khổ của Người...
[15v0] Con tha thiết yêu mến Chúa Nhân Lành và con thường xuyên dâng hiến Ngài tim con bằng cách dùng công thức vắn tắt mà mẹ đã dạy con;19 tuy nhiên một ngày kia, đúng hơn là một tối kia trong tháng 5, con đã phạm một lỗi đáng được kể lại, nó rất hữu ích để con biết tự khiêm và con nghĩ mình đã có lòng ăn năn trọn vẹn. - Vì quá nhỏ, không thể đi dự việc kính Đức Mẹ, con ở nhà với cô Victoire20 và cùng với cô ấy làm việc tháng kính Đức Mẹ trước bàn thờ nhỏ do con tự sắp đặt theo cách của con. Mọi sự đều nhỏ: Các cây đèn nhỏ và bình bông nhỏ, hai cây đèn nhỏ chiếu sáng tất cả các thứ ấy; thỉnh thoảng cô Victoire cũng bất ngờ cho con hai mẩu nến lớn nhưng rất hiếm. Vậy tối hôm đó, sau khi mọi sự đã được chuẩn bị sẵn sàng để đọc kinh, con nói với cô: “Cô Victoire, xin cô cất kinh hãy nhớ, con đốt nến.” Cô làm bộ xướng kinh nhưng rồi chẳng đọc gì cả, cứ nhìn con mà cười, trong khi con thì thấy các cây nến quý cứ cháy nhanh, con khẩn khoản xin cô cất kinh, cô vẫn tiếp tục im lặng, thế là con đứng dậy và bắt đầu la to rằng cô độc ác; không còn thái độ dịu dàng thường lệ, con lấy hết sức giậm mạnh chân xuống đất... Cô Victoire tội nghiệp này không còn cười nữa, cô kinh ngạc nhìn con và chìa ra cho con mẩu nến cô đã đem đến cho con. Sau khi trào ra những giọt nước mắt tức giận, con để rơi những giọt nước mắt thống hối chân thành, cùng với quyết tâm sẽ không bao giờ tái phạm nữa!.
Một lần khác con bị rơi vào lò sưởi, may là lúc ấy [16v0] không có lửa, cô Victoire chỉ phải đỡ con dậy và phủi hết tro trên người con thôi. Hôm ấy là thứ tư, đúng lúc mẹ đi tập hát với chị Marie thì mọi chuyện rắc rối xảy đến với con. Cũng hôm thứ tư ấy Cha Ducellier tới thăm.21 Cô Victoire nói với cha là cả nhà đi vắng chỉ còn một mình bé Têrêsa, cha vào trong nhà bếp xem con đang làm bài; con rất hãnh diện được tiếp cha giải tội của con bởi vì con vừa mới được xưng tội lần đầu22 một ít thời gian trước đó. Kỷ niệm dịu ngọt biết bao cho con! Ôi Mẹ yêu quý! Mẹ đã chuẩn bị cho con kỹ lưỡng biết bao! Mẹ bảo con rằng không phải con xưng tội với một người, mà là với Chúa Nhân Lành, và con đã hết lòng tin điều đó, nên con đã xưng tội với một tinh thần đức tin lớn lao và thậm chí con còn hỏi Mẹ con có cần phải nói với Cha Ducellier rằng con yêu mến ngài hết lòng không bởi vì chính với Chúa Nhân Lành mà con sẽ nói chuyện qua con người của ngài...
Được dạy dỗ đầy đủ tất cả những gì con phải nói và làm, con bước vào toà giải tội và quỳ gối xuống, nhưng khi mở Toà giải tội ra Cha Ducellier chẳng thấy có ai, con quá bé khiến đầu con chỉ vừa chạm tới kệ tựa tay, vì vậy cha bảo con đứng lên, con vâng lời đứng ngay lên và quay mặt thẳng về phía cha để nhìn cha cho rõ. Con xưng tội như một thiếu nữ và lãnh nhận phép lành một cách rất sốt sắng, vì Mẹ đã bảo con rằng lúc ấy các giọt nước mắt của Giêsu nhỏ sẽ rửa sạch hồn con. Con nhớ lời khuyên đầu tiên cha ban cho con là hãy đặc biệt sùng kính Đức Mẹ và con hứa tăng gấp đôi lòng yêu mến đối với Người.23 Khi ra khỏi toà giải tội, con cảm thấy khoan khoái, nhẹ nhõm với niềm vui quá lớn lao mà con chưa từng bao giờ cảm thấy trong tâm hồn. Kể từ đó, con đi xưng tội mỗi dịp đại lễ và đúng là một ngày lễ đối với con mỗi khi con đi xưng tội.
Các ngày lễ! A! từ này gợi lại cho con biết bao kỷ niệm... Các ngày lễ, con thích thú biết bao! Thưa Mẹ yêu quý, Mẹ đã cắt nghĩa rất hay cho con về tất cả các mầu nhiệm tiềm ẩn trong mỗi ngày lễ, khiến con cảm thấy các ngày lễ đúng là những ngày ở trên Trời. Con đặc biệt thích các cuộc rước kiệu Thánh Thể, con được tung hoa dưới chân Chúa Nhân Lành thật vui sướng chừng nào! nhưng trước khi để hoa rơi, con tung lên thật cao và con không bao giờ cảm thấy sung sướng cho bằng khi thấy các cánh hoa hồng của con tung lên chạm tới Mặt Nhật thánh...
Các ngày lễ! A! Nếu các đại lễ rất hiếm, thì mỗi tuần con có một ngày lễ mà lòng con hết sức yêu mến: Đó là “Ngày Chúa nhật”. Ngày Chúa nhật quả là ngày tuyệt vời! Đó là ngày của Chúa, ngày lễ nghỉ. Trước tiên con được ngủ nướng lâu hơn ngày thường, rồi mẹ Pauline chiều cô con gái nhỏ bằng việc mang sôcôla đến tận giường cho nó, rồi thay quần áo cho nó giống như một bà hoàng... Mẹ đỡ đầu đến uốn lại tóc cho cô con đỡ đầu và nó phụng phịu khi mẹ gỡ tóc nó, nhưng rồi nó lại vui vẻ đến nắm tay Đức Vua của nó, ngày hôm ấy ông ôm hôn nó âu yếm hơn thường lệ, rồi cả nhà đi lễ. Suốt dọc đường và cả trong nhà thờ, nữ hoàng nhỏ luôn luôn nắm chặt tay Cha, chỗ của nàng ở sát bên cạnh cha và khi buộc phải đi xuống phía dưới để nghe giảng, thì phải tìm hai chỗ bên cạnh nhau. Việc này không khó mấy, vì dường như ai ai cũng thấy một Ông Già24 đẹp lão với một cô con gái nhỏ tạo nên một hình ảnh quá dễ thương khiến người ta sẵn sàng nhường chỗ cho hai cha con. Cậu của con ngồi ở hàng ghế của các ông trùm, cậu rất vui mừng khi thấy cha con tìm được chỗ, cậu thường gọi con là [17v0] tia nắng nhỏ Mặt Trời của cậu... Con chẳng để ý đến chuyện người ta nhìn con, mà chỉ chăm chú nghe các bài giảng mặc dù con chẳng hiểu được bao nhiêu, bài đầu tiên con hiểu và làm con xúc động sâu xa là một bài về cuộc Khổ Nạn của Chúa do Cha Ducellier giảng, và từ đó con hiểu tất cả các bài giảng khác. Khi cha giảng nói về Thánh Nữ Têrêsa,25 ba cúi xuống thì thầm với con: “Nghe cho rõ nhé, nữ hoàng của ba, cha đang giảng về Thánh Bổn Mạng của con đó.” Thực vậy, con nghe rất kỹ, nhưng con nhìn sang ba nhiều hơn là nhìn lên cha giảng, khuôn mặt đăm chiêu của ba nói lên rất nhiều điều! Đôi khi không thể cầm được, nước mắt ba giàn giụa, ba như không còn sống ở dưới đất nữa, linh hồn ba được nhận chìm trong những chân lý vĩnh hằng... Tuy nhiên đường đời của ba còn lâu mới kết thúc, ba con phải trải qua nhiều năm trường trước khi Trời tươi đẹp mở ra trước cặp mắt ngất ngây của ba và Chúa sẽ lau khô những giọt nước mắt của người đầy tớ tốt lành và trung thành của Người!
Nhưng con phải kể tiếp về ngày Chúa nhật của con. Cái ngày vui vẻ này trôi quá nhanh khiến con thấy nó mang một màu sắc u buồn. Con nhớ mình cảm thấy hạnh phúc trọn vẹn cho tới giờ kinh tối, trong giờ kinh này, con nghĩ rằng ngày nghỉ sắp hết rồi... ngày mai sẽ lại phải tiếp tục sống, làm việc, học hành, và tim con cảm nhận cảnh lưu đày ở trần gian này... con khao khát được yên nghỉ vĩnh viễn trên Trời, ngày Chúa Nhật không tàn trên Quê Hương! Những lần đi dạo vào ngày Chúa nhật, trước khi trở về Buissonnets tâm hồn con cảm thấy buồn vì khi ấy gia đình không còn đầy đủ nữa. Để làm vui lòng Cậu, mỗi tối Chúa Nhật ba đều cho chị Marie hay chị Pauline ở lại với Cậu [18r0], con rất vui khi cũng được ở lại đó với một trong hai chị. Con thích như thế hơn là khi chỉ một mình con được mời, bởi vì người ta sẽ bớt chú ý tới con. Thích thú lớn nhất của con là được nghe những gì cậu nói, nhưng con không thích cậu hỏi con và con rất sợ khi cậu đặt con ngồi trên chỉ một đầu gối của cậu và hát bài Bộ Râu Xanh với một cung giọng ghê rợn... Thật vui sướng khi thấy ba đến đón chúng ta. Trên đường về con nhìn lên những ngôi sao lấp lánh dịu dàng26 và ngây ngất trước cảnh ấy... Đặc biệt con thích thú khi nhận ra một chùm những viên ngọc vàng27 có hình chữ T. Con chỉ cho cha xem và nói với ba rằng tên con đã được viết trên Trời (Lc 10,20),28 và rồi không muốn nhìn mặt đất u buồn này nữa, con xin ba dẫn con đi, và thế là con cứ ngẩng đầu nhìn lên trên không và miệt mài chiêm ngắm bầu trời đầy sao!
Có thể nói gì về những buổi tối mùa đông, nhất là những tối Chúa Nhật? A! Được ngồi trên đầu gối Ba29 cùng với Céline sau khi rời bàn cơ đam, con thấy ngọt ngào biết bao! Giọng hát hay, ba hát những khúc ca đổ vào tâm hồn con đầy tràn những tư tưởng thâm sâu... hay nhè nhẹ ru chúng ta bằng những bài thơ chứa đựng những sự thật vĩnh hằng... Rồi chúng ta lên nhà để đọc kinh chung và chỉ một mình nữ hoàng nhỏ được ngồi cạnh Đức Vua của nàng, chỉ cần nhìn ba thì biết các Thánh cầu nguyện như thế nào... Cuối cùng tất cả chúng ta xếp hàng theo tuổi đến chào chúc ba an giấc và nhận một nụ hôn, tất nhiên nữ hoàng đến cuối cùng, và để ôm hôn nàng, Đức Vua đỡ lấy khuỷu tay nàng và nàng la thật to: “Chúc Ba ngủ ngon”, tối nào cũng cùng một điệp khúc như thế... Sau đó má ôm con vào lòng và bồng con vào giường của Céline, bấy giờ con nói: “Chị Pauline, hôm nay em có ngoan không? Các thiên thần nhỏ có bay lượn quanh em không?” Câu trả lời luôn luôn là có, nếu không con sẽ khóc suốt đêm... Sau khi ôm hôn con cũng như má đỡ đầu của con, Pauline xuống lại nhà dưới và con bé Têrêsa tội nghiệp ở lại một mình trong bóng tối, nó cố tưởng tượng ra những thiên thần nhỏ bay lượn quanh nó nhưng chẳng có kết quả gì, vì không mấy chốc nỗi khiếp sợ đã xâm chiếm nó, bóng tối làm nó sợ, vì nằm trên giường nó không nhìn thấy những ngôi sao lấp lánh nhẹ nhàng...
Thưa Mẹ dấu yêu, con coi là một ân huệ thực sự khi được Mẹ tập cho quen khắc phục nỗi sợ bóng tối; ban tối thỉnh thoảng Mẹ sai con đi lấy một vật gì ở một phòng thật xa, nếu con chưa được hướng dẫn đủ, con hoảng sợ, còn bây giờ thì thật khó có gì có thể làm con sợ... Thỉnh thoảng con tự hỏi làm cách nào mà Mẹ có thể dưỡng dục con với chan chứa tình thương và sự tế nhị như thế, mà không làm con hư, vì quả thực Mẹ không bỏ qua một khiếm khuyết nào mà không sửa, Mẹ không bao giờ la rầy con vô cớ, Mẹ cũng không bao giờ thay đổi một điều Mẹ đã quyết. Con biết rõ điều đó nên con không thể và cũng không muốn đi một bước nếu Mẹ cấm, ngay cả ba cũng buộc phải theo ý Mẹ, không được sự đồng ý của Pauline thì con không được đi dạo và khi Ba bảo con đi, con trả lời: “Chị Pauline không muốn”; [19r0] thế là ba đến xin cho con, đôi khi để làm vừa lòng ba thì chị Pauline gật đầu, nhưng nhìn nét mặt Mẹ, con bé Têrêsa thấy rõ đó chỉ là miễn cưỡng, nó bắt đầu khóc mà không chịu để ai an ủi cho đến khi Pauline nói được và vui vẻ ôm hôn nó!
Khi bé Têrêsa bị bệnh, cứ đến mùa đông là nó lại bị như thế,30 thật không thể tả nổi nó được săn sóc cách dịu dàng từ mẫu như thế nào. Pauline đặt nó nằm trong giường của chị (một ân huệ không thể nào so sánh), rồi cho nó bất cứ thứ gì nó muốn. Một hôm Pauline lôi từ dưới cái gối một con dao nhỏ thật đẹp của mình và đưa cho con bé, làm cho nó mê tít không biết phải diễn tả như thế nào: “A! Pauline, nó kêu lên, Mẹ yêu con đến độ hy sinh con dao nhỏ xinh xinh của Mẹ cho con hay sao, con dao có ngôi sao bằng xà cừ?... Mẹ yêu con nhiều đến thế, Mẹ có thể hy sinh cả cái đồng hồ của Mẹ để giữ con khỏi chết không?...” - “Không chỉ để con khỏi chết, mẹ mới sẵn sàng cho con cái đồng hồ, mà chỉ để thấy con mau khỏi bệnh Mẹ cũng hy sinh ngay lập tức.” Nghe những lời này của Pauline, con hết sức ngạc nhiên và biết ơn đến nỗi không thể nào diễn tả nỗi... Vào mùa hè, đôi khi con bị ói, Pauline còn săn sóc con một cách dịu dàng hơn nữa. Để con vui, là phương thuốc hiệu quả nhất, Mẹ đưa con đi dạo trên chiếc xe cút kít quanh khắp vườn rồi trước khi cho con xuống khỏi xe, Mẹ đặt vào đó một bụi cúc đầu xuân xinh xinh và rất cẩn thận chở nó đi dạo đến khu vườn riêng của con, chị trồng nó với một lễ nghi trang trọng...
Cũng chính với Pauline là người mà con thổ lộ những tâm sự thâm sâu nhất, và là người làm sáng tỏ mọi hoài nghi của con... Có một lần con thắc mắc tại sao Chúa Nhân Lành [19v0] không ban vinh quang trên Trời bằng nhau cho tất cả những kẻ Người chọn, con sợ rằng mọi người không đều được hạnh phúc, Pauline bảo con đi lấy cái ly bự của Ba và đặt nó bên cạnh cái tách nhỏ xíu của con, rồi đổ nước đầy cả hai cái, sau đó Mẹ hỏi con cái nào đầy hơn. Con trả lời rằng cả hai đều đầy và không thể nào đổ thêm nước quá sức chứa của chúng. Lúc ấy mẹ yêu dấu của con làm con hiểu rằng ở trên Trời Chúa Nhân Lành sẽ ban cho các kẻ Người chọn đủ mức vinh quang mà họ có thể chứa nổi31 và như vậy người nhỏ nhất chẳng có gì để phân bì với người lớn nhất. Bằng cách ấy, thưa Mẹ dấu yêu, Mẹ đặt các sự thật huyền bí cao siêu nhất vừa với tầm hiểu biết của con, Mẹ biết ban cho linh hồn con của nuôi dưỡng cần thiết cho nó...
Con vui sướng biết bao mỗi năm khi tới lễ phát thưởng!32 Luôn luôn công bằng được tuân thủ và con chỉ nhận được những phần thưởng mình đáng được, một mình con đứng giữa đại hội gia tộc, con nghe Vua của Nước Pháp và nước Navarre tuyên bố về mình, tim con đập thình thịch khi nhận giải thưởng và vương miện... hình ảnh ấy đối với con giống như cuộc phán xét! Ngay sau lễ phát thưởng, Nữ Hoàng nhỏ cởi bỏ chiếc áo đầm trắng, rồi các chị vội vàng hoá trang cho nàng để nàng vào vai màn biểu diễn trọng đại!
A! Các ngày lễ gia đình này vui biết bao... Nhìn thấy Đức Vua yêu dấu của con rạng rỡ như thế, con khó có thể ngờ trước được những thử thách sẽ đến thăm cha!
Rồi một hôm, Chúa Nhân Lành cho con thấy trong một thị kiến thực sự lạ thường,33 hình ảnh sống động của thử thách                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                    mà Người chuẩn bị trước cho chúng ta, chén đắng thử thách đã đầy rồi.34
Ba đã đi xa từ nhiều ngày rồi, phải hai ngày nữa [20r0] mới về. Lúc ấy có lẽ là hai hay ba giờ chiều, trời nắng chang chang và tất cả cảnh vật có vẻ như trong lễ hội. Con ở một mình bên cửa sổ của cái chòi gác trông xuống khu vườn lớn, mắt nhìn thẳng phía trước, lòng trí đầy những tư tưởng vui vẻ, bỗng dưng con thấy đằng trước nhà giặt ở phía đối diện, một người đàn ông giống hệt Ba, cũng cùng vóc người và  cùng dáng đi, chỉ khác là người đàn ông này lưng còng nhiều hơn... Đầu ông che một miếng vải giống như cái tạp dề35 không rõ màu gì và  vì thế con không thấy được mặt ông. Ông đội chiếc nón giống như của Ba. Con thấy ông bước đều dọc theo miếng vườn nhỏ của con... Lập tức một cảm giác khiếp sợ xâm chiếm hồn con, nhưng sau một lát con nghĩ rằng chắc là Ba đã về và ông đang tìm chỗ nấp để gây bất ngờ cho con, thế là con gọi to với một giọng run run xúc động: - “Ba, Ba!...” Nhưng hình như nhân vật bí ẩn không nghe thấy, và vẫn tiếp tục bước đều mà không quay lại. Đưa mắt nhìn theo người lạ, con thấy ông đi về phía lùm cây ngăn đôi lối đi rộng, con đợi xem ông có trở lại ở phía bên kia các cây to không, nhưng thị kiến tiên tri đã biến mất!... Tất cả chỉ kéo dài một khoảnh khắc ngắn ngủi, nhưng nó đã in sâu vào tâm hồn con khiến cho mãi tận hôm nay, mười lăm năm sau... kỷ niệm này vẫn còn hiển hiện như thể đang ở trước mắt con...
Thưa Mẹ, lúc ấy chị Marie đang ở với Mẹ trong một căn phòng ăn thông với căn phòng con đang ở, nghe thấy tiếng con gọi Ba, chị ấy có linh cảm sợ hãi, và như sau này chị kể lại, chị nghĩ chắc chắn có điều gì phi thường xảy ra. Không để con thấy cảm xúc của chị, chị chạy đến bên con và hỏi con tại sao con lại gọi Ba đang khi ba còn ở Alençcon. [20v0] Bấy giờ con kể cho chị nghe cảnh con vừa trông thấy. Để trấn an con, chị Marie bảo con rằng chắc đó là cô Victoire dùng chiếc khăn tạp dề che mặt để nhát con, nhưng khi được hỏi thì cô Victoire quả quyết cô ấy đã không ra khỏi bếp; hơn nữa, con chắc chắn mình đã trông thấy một người đàn ông và người ấy có dáng giống Ba, thế là cả ba chúng con cùng đến chỗ có các cây to, nhưng vì không thấy một dấu gì chứng tỏ có người đã đi qua chỗ ấy, nên Mẹ đã bảo con đừng nghĩ đến chuyện này nữa...
Con không thể nào không nghĩ đến chuyện ấy, trí tưởng tượng của con thường xuyên tái hiện lại cho con cái cảnh huyền bí mà con đã trông thấy... rất nhiều lần con tìm cách gỡ bỏ tấm màn che giấu ý nghĩa của nó, vì tự thâm tâm con luôn tin chắc rằng thị kiến này có một ý nghĩa mà một ngày nào đó sẽ được tỏ lộ cho con. Ngày ấy còn phải đợi lâu, nhưng sau 14 năm, Chúa Nhân Lành đã tự mình xé rách tấm màn bí nhiệm. Trong khi đang đi nghỉ với Sơ Marie du Sacré -Coeur, như thường lệ chúng con nói về những chuyện ở đời sau và về những kỷ niệm thời thơ ấu, khi con nhắc lại cho chị ấy về thị kiến mà con đã thấy nằm lên 6 hay 7 tuổi, khi kể lại các chi tiết của cảnh tượng kỳ lạ này, đột nhiên chúng con hiểu ra ngay ý nghĩa của nó... Người mà con đã trông thấy đích thị là Ba, lưng đã còng vì tuổi tác... Đúng là Ba mang trên khuôn mặt đáng kính và trên cái đầu bạc phơ dấu hiệu của cơn thử thách vinh hiển của Ba36... Cũng như Thánh Nhan Đáng Tôn Thờ của Chúa Giêsu bị che giấu trong Cuộc Khổ Nạn của Người (Lc 22,64),37 thì khuôn mặt của người tôi tớ trung thành của Người cũng phải bị che giấu vào những ngày ông chịu đau khổ, để được tỏ lộ rạng ngời trên Quê Trời bên cạnh Chúa của mình là Ngôi Lời Hằng Hữu!... Chính lúc đang sống giữa ánh vinh quang khôn tả này, khi đang hiển trị trên Trời, mà Cha yêu dấu của chúng ta đã xin được cho chúng ta ơn hiểu rõ thị kiến [21r0] mà nữ hoàng bé nhỏ của người đã thấy ở cái tuổi mà người ta không sợ có ảo giác! Chính lúc đang sống trong vinh quang này mà người đã xin được cho chúng ta niềm an ủi ngọt ngào là hiểu rằng mười lăm năm trước cuộc thử thách lớn của chúng ta, Chúa Nhân Lành đã cho chúng ta thấy rồi, như một Người Cha cho các con cái thoáng thấy tương lai vinh quang mà Người đã dọn sẵn cho họ và Người thích nghĩ trước đến sản nghiệp vô giá mà họ sẽ được chia sẻ...
A! Tại sao Chúa Nhân Lành lại cho con ánh sáng này! Tại sao Người đã cho một đứa trẻ còn quá nhỏ thấy được một điều mà nó không thể hiểu, một điều mà nếu hiểu sẽ làm nó chết vì đau đớn, tại sao?... Đây là một trong các mầu nhiệm mà chúng ta chắc chắn sẽ hiểu khi ở trên Trời và sẽ làm chúng thán phục vĩnh viễn!...
Chúa tốt lành dường nào!. Người ban những thử thách vừa với sức chịu đựng của chúng ta. Như con vừa mới nói, con sẽ không bao giờ có thể chịu đựng nổi dù chỉ là ý nghĩ về những đắng cay mà tương lai dành cho con... Con thậm chí không thể nghĩ mà không cảm thấy run sợ rằng có ngày Ba sẽ chết... Có một lần ba đứng trên một cái thang cao và con đứng ngay dưới chân thang, Ba la lên: “Tránh xa ra con bé, Ba mà té thì Ba sẽ đè nát con mất.” Nghe nói thế, con cảm thấy trong lòng nổi loạn, và thay vì tránh xa, con lại cầm chặt thang và nghĩ: “Ít ra nếu Ba té, con cũng sẽ không phải đau đớn khi nhìn thấy Ba chết, vì con sẽ cùng chết với Ba!” Con không thể diễn tả con yêu Ba biết chừng nào, mọi cái nơi Ba đều làm cho con ngưỡng mộ; khi Ba giải thích cần tin tưởng của Ba cho con (như thể con đã là một thiếu nữ), con ngây thơ bảo rằng nếu Ba nói [21v0] tất cả những điều đó cho các quan chức lớn trong chính phủ, chắc chắn họ đặt Ba làm Vua và khi ấy nước Pháp sẽ hạnh phúc chưa từng thấy... Nhưng tự thâm tâm con tự mãn (và tự trách mình vì tư tưởng ích kỷ này) rằng chỉ một mình con biết rõ Ba, và nếu ba trở thành Vua của nước Pháp và nước Navarre, thì Ba sẽ phải khổ vì đó là số phận của tất cả các ông vua và nhất là ba sẽ không còn là Đức Vua của riêng con nữa!...
Năm con lên 6 hay 7 tuổi, Ba đưa chúng ta đi Trouville. Con sẽ không bao giờ quên được những ấn tượng về biển cả, con không thể không liên tục nhìn ngắm, vẻ uy hùng của nó, những tiếng sóng gầm, tất cả đều nói với hồn con về sự Cao Cả và Quyền Năng của Chúa Nhân Lành. Con nhớ khi đi dạo trên bãi biển, một Ông và một Bà nhìn con chạy vui vẻ quanh Ba, họ lại gần và hỏi xem có phải con là con của Ba không, và họ khen con đẹp. Ba trả lời là phải, nhưng con thấy Ba ra dấu cho họ đừng khen con... Đây là lần đầu tiên con nghe người ta nói con đẹp, điều này làm con thích thú, vì con không tin điều đó. Thưa Mẹ yêu dấu, Mẹ luôn luôn hết sức cẩn thận không để con nghe một lời nói nào có thể đưa sự phù phiếm len lỏi vào trong tâm hồn con. Vì con chỉ chú ý đến những lời nói của Mẹ và của chị Marie, và Mẹ không bao giờ nói với con dù chỉ một lời khen ngợi, nên con không đặt nặng giá trị những lời nói và những cái nhìn ngưỡng mộ của ông, bà kia. [22r0] Chiều đến, lúc mặt trời hình như ngụp lặn trong những lớp sóng mênh mông để lại phía trước nó một vệt sáng dài, con đến ngồi một mình trên một tảng đá cùng với Pauline... Khi ấy con nhớ lại câu truyện cảm động “Vệt nắng vàng!”38 Con ngắm nhìn thật lâu cái vệt sáng này, hình ảnh của ân sủng soi sáng đường đi cho con thuyền nhỏ với cánh buồm xinh xinh... Ngồi cạnh Pauline, con quyết tâm sẽ không bao giờ để tâm hồn mình rời xa cái nhìn của Giêsu, để tâm hồn con lướt sóng bình an tới thẳng Quê Hương Trên Trời!...
Cuộc đời con trôi qua bình lặng và hạnh phúc, có thể nói tình yêu mà con được bao bọc ở Buissonnets đã làm cho con lớn lên, và chắc chắn con đã khá lớn để bắt đầu chiến đấu, để bắt đầu biết về thế giới và những đau khổ tràn lan của thế giới...

Đời học trò tại Tu Viện - Hai ẩn sĩ tí hon - Céline rước lễ lần đầu - Pauline sắp đi mất rồi - Chứng bệnh lạ - Pauline mặc áo dòng - Các thiên thần hữu hình - Hai cậu mợ của con - Lòng tin và tình thương của Đức Vua yêu dấu - Đức Mẹ mỉm cười với con - Con đã chịu nhiều đau khổ.

Năm con được tám tuổi rưỡi thì chị Léonie rời trường nội trú và con đến thế chỗ chị ở Tu Viện.1 Con thường nghe nói thời gian sống ở trường nội trú là thời kỳ đẹp nhất và ngọt ngào nhất trong đời, nhưng đối với con thì không phải thế, năm năm  sống ở đó là những năm buồn bã nhất đời con, và nếu không có chị Celine cùng ở với con, hẳn con đã không thể ở lại đó dù chỉ một tháng mà không sinh bệnh... Bông hoa nhỏ đáng thương đã quen bám rễ mong manh của nó vào một mảnh đất tuyển chọn được dọn riêng cho nó, nên hình như nó thấy quá cực khổ khi phải ở giữa những bông hoa đủ loại với các chùm rễ ít tế nhị và nó buộc phải tìm nhựa sống cần thiết trong một mảnh đất chung! 
Thưa Mẹ yêu dấu, Mẹ đã dạy dỗ quá chu đáo, nên khi con vào trường nội trú, trình độ của con cao hơn cả so với các học sinh cùng tuổi, con được xếp trong [22v0] một lớp toàn là những học sinh lớn tuổi hơn con, một bạn khoảng 13 hay 14 tuổi không thông minh mấy, nhưng lại biết cách áp đặt ý muốn mình trên các bạn học và thậm chí trên cả các cô giáo. Hẳn là vì thấy con quá trẻ, lại hầu như luôn luôn đứng đầu lớp  và được tất cả các Sơ yêu thương, nên hẳn bạn ấy ganh tị-tuy là một sự ganh tị dễ tha thứ đối với một học sinh nội trú-khiến con phải trả giá đủ kiểu  cho các thành công nho nhỏ của con...
Với bản tính nhút nhát và tế nhị, con không biết đối phó thế nào chỉ biết khóc thầm, không than thở với ai ngay cả với mẹ về những đau khổ con phải chịu, nhưng con không có đủ nhân đức để vượt lên trên các nỗi khốn khổ ấy của cuộc đời và con tim bé nhỏ tội nghiệp của con rất đau khổ... May là mỗi tối con được về lại với tổ ấm gia đình, những lúc ấy lòng con phơi phới,  con nhảy vào lòng Đức Vua của con, khoe với ngài các điểm con đã được, và nụ hôn của ngài làm con quên hết ưu phiền... Con vui sướng biết bao khi đem khoe với ngài kết quả bài luận đầu tiên của con (một bài luận về (Lịch Sử Thánh), chỉ thiếu một điểm là con được điểm tối đa, vì con không biết tên cha của ông Môsê.  Thế là con được đứng nhất lớp và  được mang một huy chương bạc thật đẹp. Ba thưởng  cho con một đồng nhỏ bốn xu xinh xinh, con bỏ vào trong một cái hộp và hầu như thứ năm nào con cũng được một đồng mới cũng to như thế để bỏ vào hộp... (vào các dịp lễ lớn con lấy tiền trong chiếc hộp này để tặng quỹ quyên góp cho việc truyền bá Đức Tin hay cho các công cuộc tương tự). Rất đỗi sung sướng vì sự thành công của cô học trò nhỏ của mình, Pauline tặng cho nó một [23r0] cái vòng xinh xinh để khuyến khích nó tiếp tục chăm chỉ học tập. Con bé tội nghiệp thực sự cần những niềm vui gia đình này, vì nếu không có như thế, cuộc sống nội trú sẽ là quá cay cực cho nó.
Các chiều thứ năm đều nghỉ học, nhưng không giống như các buổi nghỉ học của Pauline, con không ở trên gác với Ba... Con không được chơi với Céline, con rất thích mỗi khi được ở một mình với chị ấy, nhưng con phải chơi với các đứa em họ và các bé Maudelonde,  đối với con là cả một cực hình, vì con không biết chơi giống như những đứa trẻ khác,  con không phải là một đứa bạn thú vị, tuy nhiên con cố gắng hết mình để bắt chước các bạn khác mà không được, con buồn lắm, nhất là khi phải qua suốt cả buổi chiều chơi nhảy ô. Điều duy nhất làm con vui, đó là đi dạo trong công viên ngôi sao,  lúc ấy con là người đầu tiên đi lăng xăng khắp nơi, hái vô số hoa và vì biết chọn các hoa đẹp nhất, con làm cho các bạn nhỏ của con rất thèm thuồng...
Một điều nữa làm con thích là mỗi khi tình cờ được ở một mình với bé Marie, khi nó không có Céline Maudelonde ở bên để lôi kéo nó vào những trò chơi bình thường, nó để cho con tuỳ ý chọn và con chọn một trò chơi mới hoàn toàn. Marie và Têrêsa trở thành hai ẩn sĩ chỉ có một túp lều tồi tàn, một thửa ruộng nhỏ xíu và ít rau để trồng. Cuộc sống của hai ẩn sĩ trôi qua trong chiêm niệm liên tục, nghĩa là khi một ẩn sĩ lo công việc lao động thì người kia lo cầu nguyện. Hai người thoả thuận mọi việc với nhau, giữ thinh lặng và giữ thái độ tu sĩ đến mức hoàn hảo. Khi mợ đến đem chúng con đi dạo, chúng con tiếp tục trò chơi cả trên đường phố. Hai vị ẩn sĩ [23v0] lần hạt chung với nhau, dùng ngón tay để không lộ ra lòng sốt sắng của mình, tuy nhiên một hôm vị ẩn sĩ nhỏ tuổi hơn quên mất điều đó nên khi vừa nhận cái bánh để ăn lót dạ, vị ấy đã làm dấu thánh giá thật to trước khi ăn, làm cho mọi người cười nhạo...
Marie và con luôn luôn có cùng ý kiến, có cùng sở thích khiến có lần sự hiệp nhất ý muốn của chúng con đã đi quá trớn. Một hôm từ Tu Viện về nhà, con nói với Marie: “Mình nhắm mắt lại, bạn dẫn mình nhé.” “Mình cũng muốn nhắm mắt” bạn ấy nói. Nói là làm, chẳng cần tranh cãi, mỗi người làm theo ý mình... Chúng con đi trên vỉa hè để không sợ xe cộ, sau một lúc chừng vài phút đi dạo thú vị ấy, sau khi thưởng thức thú đi bộ mà không phải nhìn, cả hai con bé cùng té rầm xuống đống thùng trước một cửa tiệm đúng hơn là làm đổ những chiếc thùng ấy, chủ tiệm giận dữ chạy ra dựng các thùng hàng của ông lên, hai người mù tự nguyện này đứng dậy bước thẳng những bước thật dài, mắt mở thật to, vừa đi vừa nghe những lời mắng mỏ của cô Jeanne lúc ấy cũng tức giận không kém gì ông chủ tiệm!... Và để phạt chúng con, cô đã quyết định tách hai đứa chúng con ra và từ hôm ấy Marie và  Céline đi với nhau còn con đi với cô Jeanne. Sự kiện ấy đã chấm dứt tình trạng hiệp nhất ý muốn quá trớn của chúng con và đây không phải là giải pháp xấu vì các chị lớn thì ngược lại, họ không bao giờ cùng ý kiến với nhau và thường cãi nhau suốt dọc đường. Thế là yên chuyện.
Con vẫn chưa nói gì về tương quan thân thiết của con với Céline. A! nếu kể ra tất cả, e rằng con không thể kết thúc...
Ở Lisieux các vai đã thay đổi, Céline trở thành con bé tinh nghịch còn Têrêsa chỉ còn là một cô bé khá dịu dàng nhưng quá hay khóc... Điều này không ngăn cản hai đứa cùng thương nhau thắm thiết hơn, đôi khi cũng có những cuộc cãi lộn nho nhỏ nhưng không nghiêm trọng và cơ bản là hai đứa luôn luôn tâm đầu ý hợp. Con có thể nói rằng không bao giờ chị bé yêu dấu của con làm con buồn,  nhưng đối với con chị giống như ánh mặt trời, luôn luôn tạo niềm vui cho con và an ủi con... Ai có thể tả được sự can trường của chị khi chị bảo vệ con tại Tu Viện lúc con bị ăn hiếp? Chị săn sóc sức khoẻ của con quá kỹ khiến đôi khi làm con khó chịu. Nhưng cái không làm con khó chịu là nhìn chị chơi, chị xếp cả đạo quân búp bê nhỏ của chúng con thành hàng rồi dạy cho chúng như một cô giáo tài ba, chỉ có điều chị chăm sóc cách nào để các học trò của chị luôn luôn ngoan ngoãn, còn các học trò của con luôn luôn bị tống ra cửa vì hạnh kiểm xấu... Bất cứ điều gì mới học được trong lớp chị, chị đều nói lại cho con làm con rất thích thú, và con coi chị như một cái giếng chứa đầy sự hiểu biết. Con được chị tặng danh hiệu: “con gái nhỏ của Céline”, và khi chị tức giận với con, lời nói nặng nhất để bộc lộ sự không bằng lòng của chị là bảo con: “Mi hết là con gái của ta rồi, hết rồi, ta sẽ mãi mãi nhớ chuyện này!” Thế là con chỉ còn nước khóc thút thít như bà Mađalêna, cầu xin chị coi con như con gái bé bỏng của chị, lập tức chị ôm choàng lấy con và hứa với con là sẽ không còn nhớ lại chuyện gì nữa! Để an ủi con, chị cầm lấy một con búp bê và [24v0] bảo nó: “Ôm hôn dì của con đi cưng.” Có một lần con búp bê hôn con quá vội khiến cả hai cánh tay tí hon của nó chọc vào mũi con. Không cố tình làm thế, Céline hoảng hốt nhìn con với con búp bê còn đang treo trên mũi; bà dì đẩy ngay đứa cháu ra rồi bắt đầu cười ồ lên một cách hồn nhiên vì một tai nạn kỳ lạ như thế.
Thú vị nhất là chúng con cùng nhau đến cửa hàng mua các món quà để tặng nhau, mỗi người đều cẩn thận giấu không cho nhau biết mình mua món gì. Vì chỉ có 10 xu, mà phải mua ít là 5 hay 6 món khác nhau, nên thi nhau xem ai mua được những món đẹp nhất. Ngây ngất trước những món quà mới mua được, chúng con háo hức đợi ngày đầu nêm để có thể tặng nhau các món quà tuyệt vời của mình. Đứa thức dậy trước thì nhanh nhẩu chúc đứa kia năm mới hạnh phúc, rồi tặng quà cho nhau và mỗi đứa đều ngây ngất trước những kho báu mua được với giá 10 xu!... Các món quà nho nhỏ này làm chúng con cũng vui gần bằng những món quà đẹp của cậu, nhưng đấy mới chỉ là phần mở đầu của những niềm vui. Ngày hôm ấy chúng con mau mắn thay quần áo rồi mỗi người đứng chờ sẵn để nhảy lên ôm cổ Ba, vừa khi Ba ra khỏi phòng; cả nhà vang lên tiếng cười nói rôm rả và Ba yêu dấu này tỏ vẻ hạnh phúc khi thấy chúng con vui như thế... Các món quà mà chị Marie và Pauline tặng cho các em gái nhỏ của các chị cũng không đắt giá gì lắm, nhưng cũng làm các em mừng hớn hở... A! Đó là vì chúng con ở tuổi không cảm thấy nhàm chán, tâm hồn chúng con hoàn toàn tươi mát nẩy nở như một bông hoa sung sướng đón nhận làn sương mai... Cùng một làn gió nhẹ đong đưa các tràng hoa của chúng con  và cái gì làm cho một đứa vui hay buồn [25v0] thì đồng thời cũng làm cho đứa kia vui hay buồn. Vâng, chúng con có những niềm vui chung, con đã cảm nghiệm điều này là vào ngày Rước Lễ lần đầu thật đẹp của chị Céline yêu dấu.  Con chưa vào học ở Tu Viện vì mới bảy tuổi, nhưng con đã giữ trong tim con kỷ niệm rất dịu ngọt về sự chuẩn bị mà Mẹ, thưa Mẹ yêu dấu của con, Mẹ đã làm cho Céline. Mỗi tối Mẹ đặt chị lên đầu gối và nói với chị về hành vi cao cả chị sẽ làm, còn con thì chăm chú lắng nghe để cũng tự chuẩn bị, nhưng Mẹ thường bảo con đi chỗ khác chơi vì con còn quá nhỏ, trong khi quả tim con đã khá lớn và con nghĩ bốn năm chuẩn bị để rước Chúa không phải là quá nhiều...
Có một tối con nghe Mẹ nói rằng từ ngày Rước Lễ lần đầu, em phải bắt đầu một cuộc sống mới, thì ngay lập tức con đã quyết tâm không đợi đến ngày ấy, mà con bắt đầu cuộc sống mới cùng lúc với Céline... Chưa bao giờ con cảm thấy con yêu chị như trong ba ngày tĩnh tâm của chị; lần đầu tiên trong đời, con phải xa chị, con không ngủ trên giường chị... Ngày đầu tiên, vì quên rằng chị sẽ không về nhà, con đã để dành một chùm đào nhỏ mà Ba đã mua cho con để ăn chung với chị, nên khi không thấy chị về, con đau khổ lắm. Ba liền an ủi con rằng đến sáng mai Ba sẽ dẫn con đến Tu Viện thăm Céline và con sẽ cho chị một chùm đào khác!... Ngày Céline Rước Lễ lần đầu đã để lại nơi con một ấn tượng giống như ấn tượng của ngày Rước Lễ lần đầu của con, ban sáng khi thức dậy một mình trong cái giường lớn, con cảm thấy mình tràn ngập niềm vui. “Ngày hôm nay đây! Ngày trọng đại đã đến...” con lặp đi lặp lại không biết mệt [25v0] những lời này. Dường như chính con sắp Rước Lễ lần đầu. Con tin là hôm ấy chính con đã nhận được những ơn lành lớn l ao, và con coi nó là ngày đẹp nhất đời con...
Con đã lùi hơi xa về dĩ vãng để nhớ lại cái kỷ niệm ngọt ngào êm đềm này, bây giờ con phải nói đến cơn thử thách đau đớn xé nát con tim của bé Têrêsa, khi Giêsu lấy đi mẹ Pauline dấu yêu dịu dàng của nó!...
Một hôm con nói với chị Pauline rằng con muốn làm một ẩn sĩ, cùng đi với chị vào một sa mạc xa xôi, chị bảo con rằng ước muốn của con cũng là ước muốn của chị, và chị sẽ đợi con con lớn đủ để ra đi. Tất nhiên chỉ là nói đùa thôi, nhưng bé Têrêsa coi lời nói ấy là nghiêm túc, và nó đã đau khổ chừng nào khi một hôm nó nghe thấy chị Pauline dấu yêu của nó nói với chị Marie về việc sắp vào Cát Minh. Con không biết Cát Minh là cái gì, nhưng con hiểu rằng Pauline sắp bỏ con để vào một tu viện, con hiểu rằng chị ấy sẽ không đợi con và con sắp mất người Mẹ thứ hai rồi!... Ôi! Làm sao con có thể nói lên nỗi ưu phiền trong lòng? Trong chốc lát con hiểu cuộc đời là gì, cho tới bấy giờ con chưa từng thấy nó buồn đến thế, nhưng nó hiện lên trước mặt con với tất cả thực tế của nó, con thấy cuộc đời chỉ là đau khổ và chia ly liên tục. Con rơi những giọt nước mắt cay đắng, vì con chưa hiểu được niềm vui của hy sinh, con còn yếu đuối¸ quá yếu đuối để coi là một ân sủng lớn lao khi biết chịu đựng một thử thách có vẻ vượt quá sức lực con!... Nếu con đã được biết trước một cách từ từ về sự ra đi của mẹ Pauline yêu dấu của con, có lẽ con đã không đau khổ như thế, [26r0] nhưng vì con biết điều ấy quá đường đột, nó trở nên như một lưỡi gươm đâm thấu lòng con ...
Mẹ yêu dấu, con luôn luôn nhớ Mẹ đã an ủi con dịu dàng biết bao... Rồi Mẹ cắt nghĩa cho con về cuộc sống ở Cát Minh, con thấy nó đẹp quá, khi hồi tưởng lại những điều Mẹ đã nói với con, con cảm thấy Cát Minh chính là sa mạc mà Chúa Nhân Lành cũng muốn con đi vào để ẩn mình... Con cảm nhận điều này quá mạnh khiến con không còn chút hoài nghi nào trong lòng, không phải là một giấc mơ trẻ con để mình bị lôi kéo theo, mà là sự chắc chắn về một ơn gọi của Chúa; con muốn vào Cát Minh không phải vì Pauline mà vì một mình Giêsu thôi... Con suy nghĩ nhiều điều mà lời nói không thể diễn tả, nhưng chúng để lại trong lòng con một mối an bình lớn lao.
Ngày hôm sau con thổ lộ tâm sự với Pauline, chị coi các ước nguyện của con như là ý Chúa, và chị nói con sẽ cùng với chị đến gặp Mẹ Bề Trên của Cát Minh và con phải nói cho Mẹ biết điều mà Chúa Nhân Lành cho con cảm nhận... Một ngày Chúa Nhật đã được chọn cho cuộc thăm viếng long trọng này, con rất bối rối khi biết rằng Marie G.  cũng đi với con, vì con còn quá nhỏ để gặp các Sơ Cát Minh. Nhưng phải tìm mọi cách để có thể ở lại một mình, và đây là ý tưởng chợt đến với con: con bảo Marie rằng vì được gặp Mẹ Bề Trên là một đặc ân, nên cần phải ngoan và rất lễ phép, vì vậy chúng ta phải thổ lộ cho người biết các bí ẩn của mình, nên mỗi đứa sẽ thay phiên nhau đi ra ngoài một lát để cho người kia ở lại một mình. Marie tin lời con ngay và tuy cảm thấy khó khăn để thổ lộ những bí ẩn mà nó không có, chúng con đã thay phiên nhau ở lại một mình với M.M. de G. (Mère Marie de Gonzague) [26v0] Sau khi nghe con thổ lộ những tâm sự quan trọng của mình, bà mẹ tốt lành này tin rằng con có ơn gọi, nhưng mẹ nói ở đây không nhận các thỉnh sinh 9 tuổi, phải đợi đến năm con 16 tuổi... Con đành phải chấp nhận bất chấp ước muốn cháy bỏng của con là được vào tu viện càng sớm càng tốt và được Rước Lễ lần đầu ngày chị Pauline mặc áo dòng... Hôm ấy là lần thứ hai con nhận được những lời khen. Sơ Th. De St. Augustin ra thăm con  và cứ luôn miệng khen con ngoan. Con không muốn đến Cát Minh để nhận những lời khen, và sau cuộc hội kiến này, con không ngừng lặp đi lặp lại với Chúa Nhân Lành rằng con muốn vào dòng Cát Minh vì một mình Người mà thôi.
Con cố tận dụng mấy tuần lễ chị Pauline yêu dấu của con còn ở lại ngoài đời, mỗi ngày Céline và con đều mua cho chị một chiếc bánh ngọt và kẹo, vì nghĩ rằng không lâu nữa chị sẽ không còn được ăn bánh kẹo; chúng con luôn luôn ở bên cạnh chị, không để cho chị một phút nghỉ ngơi. Cuối cùng ngày 2 tháng 10 đã đến, ngày của nước mắt và phúc lành, ngày Giêsu hái bông hoa đầu tiên của Người, bông hoa sẽ trở thành người mẹ của các bông hoa khác sẽ đến theo chị ít năm sau.
Con vẫn còn nhìn thấy nơi con được nhận nụ hôn cuối cùng của chị Pauline, sau đó mợ đưa tất cả chúng con đi lễ trong khi Ba lên núi Cát Minh dâng hy tế đầu tiên của ba... Cả nhà đều khóc sướt mướt đến nỗi khi thấy chúng con bước vào nhà thờ, người ta ngạc nhiên nhìn chúng con, nhưng con không quan tâm và cứ tiếp tục khóc, con tin rằng dù mọi sự đổ sập xung quanh con, con cũng không chút để ý, con nhìn bầu Trời xanh và ngạc nhiên tại sao mặt trời có thể chiếu sáng [27r0] chói chang như thế  trong khi tâm hồn con tràn ngập u buồn!...
Thưa Mẹ yêu dấu, có thể Mẹ cho rằng con đang phóng đại nỗi đớn đau của mình chăng? Con cũng biết rằng nỗi đau đớn này không thể to lớn đến thế, vì con có niềm hy vọng sẽ được gặp lại Mẹ ở Cát Minh, nhưng tâm hồn con còn XA mới chín, con phải trải qua nhiều lũng sâu trước khi đạt tới mục tiêu vô cùng mong ước...
Ngày 2 tháng 10 là ngày được ấn định để trở lại Tu Viện, vì vậy con phải đi đến đó dù lòng đang nặng ưu sầu... Buổi trưa mợ tới đón chúng con để đi Cát Minh và con thấy Pauline dấu yêu của con đứng sau chắn song sắt!... A! Con đau khổ biết bao ở phòng khách này của Cát Minh!  Vì con đang viết tiểu sử tâm hồn mình, nên con phải nói mọi sự cho Mẹ dấu yêu của con, và con thú thật rằng các đau khổ trước khi Mẹ vào tu viện chẳng là gì sánh với những đau khổ theo sau... Mỗi ngày thứ năm cả gia đình đều đến Cát Minh, và vì đã quen với tâm sự lòng với lòng với Pauline, mà con chỉ được vài ba phút ở cuối giờ thăm, tất nhiên thời gian ấy con chỉ khóc rồi đi với lòng tan nát... Con không hiểu rằng vì nể mợ mà Mẹ đã ưu tiên ngỏ lời với Jeanne và Marie trước, thay vì nói với các con gái nhỏ của Mẹ... Con không hiểu và con thầm nói trong lòng: “Pauline không còn nữa đối với con!!!” Thật ngạc nhiên khi thấy tinh thần con tổn thương biết bao giữa đau khổ, nó tổn thương đến độ không lâu sau con đã ngã bệnh.
Căn bệnh con mắc phải chắc chắn là do ma quỷ, giận dữ vì việc chị vào Cát Minh, nó muốn báo thù trên con về sự thiệt hại mà gia đình ta sẽ gây ra cho nó trong tương lai, nhưng nó không biết rằng [27v0] Nữ Vương Thiên Quốc dịu dàng đang canh chừng bông hoa bé nhỏ mong manh của Người, từ trên ngai cao Người mỉm cười với nó và sẵn sàng làm tan cơn bão vào đúng lúc mà bông hoa của Người sắp bị gãy giập vô phương cứu vãn...
Cuối năm ấy con bị một chứng nhức đầu liên miên nhưng hầu như nó không làm con đau đớn, con vẫn có thể tiếp tục việc học và không ai lo lắng về con, sự kiện này kéo dài cho tới lễ Phục Sinh 1883.  Vì Ba đã đi Paris với chị Marie và Léonie, nên mợ đưa con về nhà mợ cùng với Céline. Một tối kia, khi cậu đưa con đi với cậu, cậu kể cho con nghe về Má, về các kỷ niệm đã qua, với tấm lòng nhân hậu của cậu làm con cảm động và khóc, thế là cậu nói con quá đa cảm, con cần phải giải trí nhiều, và hai cậu mợ quyết định tạo niềm vui cho chúng con trong kỳ nghỉ lễ Phục Sinh; tối hôm ấy chúng con định đến câu lạc bộ công giáo, nhưng thấy con quá mệt, mợ đưa con lên giường, và đang khi thay quần áo, con run lên kỳ lạ. Mợ tưởng con bị lạnh nên lấy mền và các chai nước nóng đắp lên cho con, nhưng không gì có thể làm giảm cơn run của con hầu như suốt cả đêm. Cùng lúc các em họ con và Céline từ câu lạc bộ công giáo trở về, cậu ngạc nhiên khi thấy con rơi vào tình trạng mà cậu cho là rất trầm trọng, nhưng cậu không nói ra vì sợ mợ lo. Sáng hôm sau cậu đi mời bác sĩ Notta,  và cũng giống như cậu, bác sĩ nói con bị một căn bệnh rất nặng chưa hề có một đứa bé nào còn trẻ như thế mà mắc phải bao giờ. Cả nhà hết sức lo lắng, mợ buộc phải giữ con lại nhà mợ và săn sóc con với một sự ân cần từ mẫu tận tình. Khi Ba cùng các chị lớn từ Paris về, cô Aimmée  ra đón họ với vẻ mặt rầu rĩ đến độ chị Marie [28r0] tưởng rằng con đã chết... Nhưng căn bệnh này không làm con chết, đúng hơn nó giống căn bệnh của Lazarô để Thiên Chúa được tôn vinh (Ga 11,4) ... Thực tế đúng là con không chết, nhờ sự nhẫn nhục đáng khâm phục của Cha yêu dấu khi cha tưởng rằng “đứa con gái bé bỏng của cha sắp bị điên hay cũng có thể nó sắp sửa chết.” Và cũng nhờ sự nhẫn nhục của chị Marie!... A! Chị đã chịu đau khổ vì con... Con biết ơn chị biết chừng nào vì những sự săn sóc vô vị lợi mà chị đã dành cho con... Lòng chị nói cho chị biết con cần gì và đúng là lòng của người mẹ thì sáng suốt hơn lòng của một bác sĩ, nó đoán được điều gì thích hợp với căn bệnh của con mình...
Tội nghiệp chị Marie buộc phải dọn đến ở nhà cậu, vì lúc ấy không thể nào đưa con về Buissonnets được. Tuy nhiên lễ mặc áo dòng của chị Pauline đã đến gần, người ta tránh không nói chuyện này trước mặt con, sợ làm con đau khổ vì không thể đi, nhưng con thì cứ luôn miệng nói con sẽ khoẻ đủ để đi thăm chị Pauline dấu yêu. Và quả thực Chúa Nhân Lành không muốn từ chối niềm an ủi này hay đúng hơn Người muốn an ủi Hiền thê yêu dấu của Người đang quá đau khổ vì em bệnh tật... Con đã nhận thấy rằng Giêsu không muốn thử thách các con cái Người vào ngày lễ đính hôn của họ,  ngày lễ ấy phải không một bóng mây, nó phải là sự nếm cảm trước những niềm vui Thiên Đàng, chẳng phải Người đã chứng tỏ điều này 5 lần rồi sao? ... Thế là con được ôm hôn Mẹ dấu yêu, ngồi trên đầu gối Mẹ và mơn trớn vuốt ve Mẹ... Con được nhìn ngắm Mẹ thật rạng rỡ trong bộ áo trắng Hiền thê... A! đó là một ngày đẹp giữa cơn thử thách đen tối của con,  nhưng ngày ấy qua mau... Không được mấy chốc con đã phải lên xe đưa con rời xa Pauline... rời xa Cát Minh dấu yêu của con. Khi con về đến Buissonnets, người ta đặt con vào giường nghỉ dù con không muốn, vì con chắc chắn [28v0] mình hoàn toàn bình phục và không còn cần được săn sóc nữa. Tiếc thay, đó mới chỉ là khởi đầu cơn thử thách của con!... Hôm sau con lại bị lên cơn như trước, và căn bệnh trở nên trầm trọng không thể nào chữa khỏi, nếu xét theo tính toán của loài người... Con không biết mô tả thế nào một căn bệnh kỳ lạ như thế, bây giờ thì con tin đó là công trình của ma quỷ,  nhưng rất lâu sau khi khỏi bệnh, con đã tin rằng mình được sinh ra là để chịu đựng bệnh tật và đó là một việc tử đạo thực sự đối với linh hồn con...
Con nói điều này với chị Marie, chị cố hết sức trấn an con với lòng tốt lành vốn có của chị; con cũng kể ra ở toà giải tội và ở đó cha giải tội cũng cố làm con an tâm, ngài nói rằng không thể nào giả bộ bị bệnh nặng tới mức như con đã bị. Chắc chắn Chúa Nhân Lành muốn thanh luyện con và nhất là làm cho con hạ mình xuống nên đã để cho cuộc tử đạo âm thầm này diễn ra cho tới khi con vào Cát Minh, ở đó Cha linh hướng của chúng ta  như thể Chúa đã dùng bàn tay của ngài mà cất đi mọi mối hoài nghi của con, và từ đó con được hoàn toàn thanh thản.
Thật không ngạc nhiên điều con sợ mình giả bộ bị bệnh khi mà thực sự con không có bệnh, bởi vì con nói và làm những điều mà con không suy nghĩ, con hầu như luôn luôn mê sảng nói ra những lời vô nghĩa nhưng đồng thời con lại tin chắc rằng không một lúc nào mình bị mất khả năng sử dụng lý trí... Con thường xuyên giống như bất tỉnh, không thể cử động dù rất nhẹ, những lúc như thế con để người ta làm cho mình bất cứ điều gì người ta muốn, kể cả giết con, nhưng con vẫn nghe thấy những gì người ta nói xung quanh con và vẫn còn nhớ tất cả... Có một lần con không thể mở được mắt một lúc lâu, rồi lại mở được một lúc trong lúc con đang ở một mình...
Con tin rằng ma quỷ đã nhận được một quyền lực bên ngoài đối với con [29r0], nhưng nó không thể lại gần linh hồn hay tinh thần con, trừ phi là để thổi vào con những nỗi khiếp sợ  ghê gớm về một số chuyện,  chẳng hạn như đối với các thứ thuốc rất thông thường mà người ta không thể bắt con uống. Nhưng nếu Chúa Nhân Lành cho phép ma quỷ đến gần con, Người cũng gởi đến cho con các thiên thần hữu hình... Chị Marie lúc nào cũng ở bên giường săn sóc và an ủi con bằng tình âu yếm từ mẫu, chị không bao giờ tỏ một dấu hiệu khó chịu dù nhỏ bé nhất, vậy mà con đã làm khổ chị rất nhiều, khi không chịu để chị xa con. Dù vậy chị cũng phải đi dùng bữa với Ba, nhưng lúc chị đã đi rồi thì con cứ luôn miệng gọi chị. Cô Victoire có phận sự trông coi con đôi khi buộc phải đi tìm “Má” cưng của con, như con thường gọi chị như thế... Chỉ khi Marie muốn đi lễ hay đi thăm Pauline, thì con mới không nói gì cả...
Cả hai cậu mợ con cũng rất tốt đối với con; mợ yêu dấu của con ngày nào cũng đến thăm con và chiều chuộng con đủ kiểu. Các bạn bè khác của gia đình cũng đến thăm con, nhưng con xin chị Marie nói với họ rằng con không muốn gặp khách, vì con khó chịu khi “thấy người ta ngồi thành hàng quanh giường con giống như những củ hành và nhìn con như một con vật kỳ lạ.” Chỉ có cậu và mợ đến thăm là con thích.
Từ khi con mắc căn bệnh này, tình cảm của con đối với cậu mợ đã tăng lên đến mức con không tài nào diễn tả nổi. Con hiểu hơn bao giờ rằng đối với chúng ta cậu mợ không phải là những người bà con họ hàng bình thường. A! người Cha yêu dấu có lý khi thường xuyên lặp đi lặp lại những lời mà con vừa viết ra. Sau này, cha cảm nghiệm được rằng cha đã không lầm  và bây giờ cha phải bảo vệ và chúc phúc cho những người đã từng quảng đại săn sóc mình một cách tận tuỵ như thế... Phần con còn đang ở chốn lưu đày này, con không biết phải tỏ lòng biết ơn của mình như thế nào, con chỉ có một cách để lòng con được vơi nhẹ là Cầu nguyện cho những người bà con họ hàng mà con yêu mến, những người đã và đang đối xử rất tốt với con!
Chị Léonie cũng rất tốt với con, chị luôn cố làm con vui, dù rằng thỉnh thoảng con làm chị buồn vì chị thấy rằng chị Marie là người không thể thay thế bên con...
Còn chị Céline yêu dấu của con, có điều gì mà chị không làm cho Têrêsa của chị?... Ngày Chúa Nhật thay vì đi chơi, chị đến nhốt mình hằng giờ với một đứa em tội nghiệp giống như một đứa bé đần độn; quả thực [29v0] phải có lòng yêu thương mới không xa lánh con... A! các Chị yêu quý của em, em đã làm khổ các chị biết bao!... Không ai làm các chị buồn bằng em và cũng không ai nhận được nhiều yêu thương như các chị đã dành cho em... May thay, em có Trời để đền đáp thay cho em, Phu Quân của em rất giàu có và em sẽ lấy trong kho tình yêu của Người để đền đáp gấm trăm những gì các chị đã phải chịu đựng vì em...
Niềm an ủi lớn nhất của con lúc bị bệnh là nhận được một lá thư của Pauline... Con đọc, đọc đi đọc lại cho đến lúc thuộc lòng ... Có một lần, thưa Mẹ dấu yêu, mẹ gửi cho con một cái đồng hồ cát và một con búp bê bận áo dòng Cát Minh, không thể nào tả nổi con vui như thế nào... Không bằng lòng, cậu nói rằng thay vì làm con nghĩ đến Cát Minh, thì phải làm cho con quên đi, nhưng ngược lại con cảm thấy rằng chính niềm hy vọng một ngày kia trở thành một nữ tu Cát Minh đã làm cho con sống... Niềm vui của con là được làm việc cho Pauline, con đã làm được cho chị những việc nho nhỏ bằng giấy bìa và công việc quan trọng nhất của con là làm các vương miện bằng những bông cúc đầu xuân và bông tai chuột cho tượng Đức Mẹ. Chúng ta đang ở trong tháng 5, toàn thể thiên nhiên được trang điểm những bông hoa và phô diễn sự vui vẻ, chỉ có “bông hoa nhỏ” đang chết dần chết mòn và sẽ héo tàn mãi mãi... Tuy nhiên nó có một Mặt Trời bên cạnh nó, Mặt Trời này là Tượng Đức Mẹ phép lạ, bức tượng đã hai lần nói chuyện với mẹ chúng ta,  và thường xuyên, rất thường xuyên, bông hoa nhỏ hướng tràng hoa của nó về Ngôi Sao phúc đức này... Một hôm con thấy Ba vào trong phòng chị Marie, nơi con đang nằm; Ba đưa chị nhiều đồng tiền vàng và với một vẻ mặt rất buồn Ba bảo chị gửi thư đi Paris và xin dâng lễ ở nhà thờ Đức Mẹ Chiến Thắng  để cầu xin Người chữa bệnh cho con gái bé bỏng của Ba. A! Con cảm động biết bao khi thấy đức tin và tình yêu của đức vua yêu dấu của con, [30r0] con rất muốn nói với Ba rằng con đã khỏi bệnh, nhưng con đã nhiều lần tạo cho ba những niềm vui hão rồi. Nhưng ước muốn của con không thể làm nên phép lạ, vì phải có phép lạ mới chữa được con... Phải có một phép lạ và Đức Mẹ Chiến Thắng đã làm phép lạ ấy. Một Chúa Nhật  (trong tuần chín ngày với thánh lễ) chị Marie đi ra vườn và để con ở lại với chị Léonie đang đọc sách bên cửa sổ, sau mấy phút con bắt đầu gọi khe khẽ: “má... Má”. Vì quen nghe con luôn luôn gọi như thế, nên chị Léonie không để ý đến. Cứ như thế một lúc lâu, rồi con gọi to hơn và cuối cùng chị Marie quay vào, con thấy chị đã vào hẳn trong nhà rồi, nhưng con không nhận ra chị và con tiếp tục gọi to hơn nữa: “má...” Con rất đau khổ vì sự cố gắng miễn cưỡng và khó cắt nghĩa này, và chị Marie có lẽ còn đau khổ hơn con; sau khi cố gắng một cách vô ích để làm cho con thấy là chị đang ở bên con,  chị bắt đầu quỳ xuống cạnh giường con cùng với chị Léonie và Célinhe rồi quay về tượng Đức Mẹ và cầu nguyện cùng Đức Mẹ với lòng sốt sắng của một người mẹ xin cho con mình được sống, và chị Marie đã nhận được điều mình mong ước ...
Không tìm được sự trợ giúp nào ở trần gian, bé Têrêsa tội nghiệp cũng hướng về Người Mẹ trên Trời của nó, nó hết lòng cầu xin Người thương nó... Đột nhiên Đức Mẹ hiện ra thật xinh đẹp, đẹp đến nỗi con chưa bao giờ thấy có cái gì đẹp như thế, mặt Mẹ toát lên một vẻ nhân hậu và một sự dịu dàng khôn tả, nhưng cái thấm sâu tận đáy tâm hồn con là “nụ cười mê hồn của Đức Mẹ”.  Thế là mọi đau đớn của con đều tan biến, hai giọt nước mắt to trào ra khoé mắt và lặng lẽ chảy xuống má, nhưng đó là những giọt nước mắt của một niềm vui không pha trộn... A! con nghĩ, Đức Mẹ đã mỉm cười với con, con sung sướng quá... vâng [30v0] nhưng con sẽ không bao giờ kể lại cho ai cả, vì nếu kể lại, niềm hạnh phúc của con sẽ tan biến. Con nhẹ nhàng khép mắt lại, và con [thấy] chị Marie đang âu yếm nhìn con, nét mặt chị lộ vẻ xúc động và hình như chị nghi là Đức Mẹ đã ban cho con ơn gì đó... A! đích thị là nhờ chị, nhờ những lời cầu nguyện sốt sắng của chị mà con được hưởng nụ cười của Nữ Vương Thiên Quốc.  Khi thấy con nhìn chằm chằm vào Đức Mẹ, chị tự nhủ: “Têrêsa khỏi bệnh rồi!” Vâng, bông hoa nhỏ đã hồi sinh, Tia nắng chói chang đã từng sưởi ấm nó không thể cắt đứt các ơn lành của Người, Người không hành động một cách đường đột, nhưng một cách nhẹ nhàng êm ái, Người đã nâng bông hoa lên và làm nó cứng cáp,  khiến cho 5 năm sau, nó đã phát triển tốt tươi trên ngọn đồi màu mỡ Cát Minh.
Như con đã nói, chị Marie đã đoán được rằng Đức Mẹ đã ban cho con một ân huệ kín đáo nào đó, nên khi con ở một mình với chị, chị hỏi con đã nhìn thấy gì, và con không thể cưỡng lại được những câu hỏi quá dịu dàng và quá thúc bách như thế, và ngạc nhiên vì thấy bí mật của mình bị phát hiện dù con không tiết lộ ra, con đã thổ lộ tất cả câu chuyện cho chị Marie yêu dấu của con... Lạy Chúa,! Như con đã linh cảm trước, niềm hạnh phúc của con đã biến mất và đã đổi thành nỗi cay đắng;  suốt 4 năm hễ nhớ lại ân huệ khôn tả mà con đã nhận được, đã trở thành một nỗi khổ tâm đối với con, con chỉ tìm lại được niềm hạnh phúc của con khi ở dưới chân tượng Đức Mẹ Chiến Thắng, khi ấy con mới được trả lại trong tất cả sự viên mãn của ơn con đã nhận... Ân huệ thứ hai này của Đức Mẹ con sẽ kể lại sau. Bây giờ, thưa Mẹ yêu dấu, con phải nói với Mẹ tại sao niềm vui của con đã trở thành nỗi buồn. Sau khi chị Marie nghe con kể câu truyện cách ngây thơ và chân thành về “ân huệ của con”, chị xin con cho phép chị kể lại ở Cát Minh, con không thể nói không... Vậy vào dịp đến thăm Cát Minh dấu yêu lần đầu tiên,  con tràn ngập niềm vui khi nhìn thấy chị Pauline trong bộ áo của Đức Mẹ, [31r0] thật là những giây phút vô cùng ngọt ngào đối với hai chị em con... Có biết bao nhiêu chuyện để kể cho nhau nghe mà con không thể kể, tâm hồn con đã ứ tràn rồi... Mẹ Marie de Gonzague nhân hậu cũng ở đó, Mẹ tỏ ngàn dấu yêu thương đối với con, con còn thấy có các Sơ khác nữa, và các Sơ hỏi con về ân huệ con đã được, các chị hỏi con rằng Đức Mẹ có bế Chúa Giêsu Hài Đồng không, hay có nhiều ánh sáng không vv... Tất cả các câu hỏi này làm con bối rối và khó chịu, con chỉ có thể nói một điều này “Con thấy Đức Mẹ rất xinh đẹp... và con đã thấy Người mỉm cười với con”. Con chỉ còn ấn tượng về nét mặt của Người, và khi thấy các Sơ Cát Minh tưởng tượng ra đủ thứ chuyện (con đã bắt đầu khổ tâm về ân huệ của mình), con nghĩ mình đã nói dối... Giá như con đã giữ kín bí mật của mình, hẳn con đã không mất niềm hạnh phúc, nhưng Đức Mẹ đã cho phép xảy ra sự dằn vặt này là vì lợi ích cho linh hồn con, vì nếu không bị khổ não như thế, hẳn con sẽ có tư tưởng khoe khoang, thay vì sự hạ mình trở thành phần phúc cho con,  con không thể nhìn vào bản thân mình mà không có một cảm giác ghê sợ sâu sắc... A! Con đau khổ thế nào con sẽ chỉ có thể kể với Trời mà thôi!...
Nói về cuộc thăm viếng tu viện Cát Minh, lần đầu tiên, diễn ra ít thời gian sau khi Pauline vào dòng, con đã quên nói ở trên kia, nhưng có một chi tiết con không thể bỏ qua. Sáng hôm định đến phòng khách, khi nằm suy tư trên giường (vì đó là nơi con thường có những lời kinh nguyện sâu xa nhất và ngược lại với người hiền thê của sách Diễm Ca,  con luôn luôn tìm được Người Yêu ở đó), con tự hỏi khi vào ở Cát Minh mình sẽ lấy tên là gì, con biết ở tu viện đã có một Sơ Têrêsa Giêsu  rồi, nhưng con không thể bỏ đi cái tên Têrêsa quá đẹp của mình. Đột nhiên con nghĩ đến [v3v0] Giêsu Hài Đồng mà con rất yêu và con nói: “Ồ! Mình sẽ sung sướng biết bao nếu được gọi là Têrêsa Hài Đồng Giêsu!” Lúc ở phòng khách con chẳng nói gì về giấc mơ con mới có trong lúc hoàn toàn thức, nhưng khi Mẹ M. de Gonzague tốt lành hỏi các Sơ xem phải đặt tên con là gì,  bà bỗng nẩy ra ý tưởng gọi con bằng đúng cái tên con đã mơ thấy... con quá vui sướng và việc các tư tưởng gặp nhau một cách may mắn này đối với con là một bằng chứng về sự tế nhị của Giêsu Hài Đồng, Người Yêu của con.
Con còn quên một vài chi tiết nhỏ về tuổi thơ của con trước ngày Mẹ vào Cát Minh, con chưa kể với Mẹ về sự say mê của con đối với các tranh ảnh và việc đọc sách... Nhưng, thưa Mẹ dấu yêu, những tranh ảnh đẹp mà Mẹ thưởng cho con, tạo nên một trong những niềm vui ngọt ngào nhất và gây ấn tượng mạnh nhất để kích thích con thực hành nhân đức ... Nhìn ngắm các ảnh ấy làm con quên mất thời gian, ví dụ: Hình Bông hoa nhỏ của Chúa Bị Cầm Tù  nói với con nhiều điều làm con say mê. Nhìn thấy tên của chị Pauline viết dưới hình một bông hoa nhỏ, con ao ước sao cho tên của Têrêsa cũng được viết lên đó và con hiến mình cho Giêsu để được làm bông hoa nhỏ của Người... Con không biết chơi, nhưng con rất mê đọc sách  và con ước mong dành cả đời mình để đọc sách. May thay, con có các thiên thần ở trần gian này hướng dẫn con biết chọn các sách vừa giúp giải trí vừa nuôi dưỡng tâm hồn và tinh thần con, và rồi con chỉ có thể dành một số thời gian để đọc sách, điều ấy là một hy sinh lớn đối với con vì nó thường bị cắt ngang đúng lúc con đang đọc tới chỗ hấp dẫn nhất... Con say mê đọc sách cho tới khi con vào Cát Minh. Không thể kể ra số những sách đã qua tay con, thế mà Chúa Nhân Lành không bao giờ cho phép để cho con đọc dù chỉ một cuốn nào có hại cho con. Khi đọc một số truyện hào hiệp, lúc đầu con thường không cảm nhận được cái thực của cuộc đời. Nhưng không lâu sau Chúa đã giúp con [32r0] cảm nhận được rằng vinh quang đích thực sẽ tồn tại muôn đời và để đạt vinh quang ấy, không cần phải làm những công trình vang dội  nhưng là ẩn mình đi và thực hành nhân đức sao cho tay trái không biết việc tay phải làm (Mt 6,3)

Trở thành một vị thánh lớn - Bước đầu vào đời - Con suy nghĩ - Các bài giảng của Cha Domin - Nụ hôn đầu tiên của Giêsu - Hoà tan tình yêu - Đau khổ thu hút con - Chúa Thánh Thần viếng thăm - Có tiến sĩ tí hon - Quả tim nhạy cảm và đa tình - Dụ ngôn người thầy thuốc tốt lành - Căn bệnh bối rối - Tại nhà Cô Papineau - Con Đức Mẹ - Chị Marie, chỗ dựa duy nhất của hồn con - Kỳ nghỉ ở Trouville - Một cửa hàng thực sự - Chị Léonie tại nhà dòng Clara - Chị Marie tại nhà dòng Cát Minh.

Chính khi đọc truyện về hành động yêu nước của các anh hùng nước Pháp, đặc biệt các hành động của Đấng Đáng Kính JEANNE d’ARC,1 con có một niềm ước ao to lớn là bắt chước các hành động ấy, hình như con cảm được nơi mình cùng một nhiệt huyết đã thúc đẩy các hành động ấy, cùng một sự soi sáng từ Trời, lúc ấy con đã nhận được một ân huệ mà con đã luôn luôn coi là một trong các ân huệ lớn lao nhất đời con, bởi vì ở tuổi ấy con chưa nhận được những luồng ánh sáng2 như con đang được đổ tràn bây giờ. Con nghĩ mình được sinh ra để hưởng vinh quang,3 và khi con tìm phương tiện để đạt vinh quang ấy, Chúa Nhân Lành đã gợi lên nơi con các tình cảm mà con vừa viết ra. Người cũng cho con hiểu rằng vinh quang của con không phải là vinh quang của người đời, mà là trở thành một vị đại Thánh!!!... Ước muốn này có vẻ táo bạo nếu người ta biết con yếu đuối và khiếm khuyết như thế nào và con vẫn còn như thế sau bảy năm sống đời tu, tuy nhiên con luôn luôn cảm thấy cùng một sự tự tin gan dạ là mình sẽ trở thành một đại Thánh, vì con không dựa vào những công trạng vốn chẳng hề có của mình, nhưng con trông cậy vào Đấng là Nhân Đức, là Chính Sự Thánh Thiện, chỉ mình Người hài lòng với các cố gắng yếu ớt của con, sẽ nâng con lên tới Người, và bao phủ con bằng những công trạng vô hạn của Người, Người sẽ làm con nên Thánh. Bấy giờ con không nghĩ là phải chịu đau khổ nhiều mới đạt tới sự thánh thiện,4 nhưng không bao lâu sau, Chúa Nhân Lành sẽ chỉ cho con thấy điều đó khi Người gửi đến cho con các thử thách mà con đã kể ở trên... Bây giờ con phải tiếp tục câu truyện con đã bỏ dở ở trên. - Ba tháng sau khi con khỏi bệnh, Ba đưa chúng ta về thăm Alençon,5 đó là lần đầu tiên con về lại nơi này và con vui sướng biết bao khi thấy lại những nơi mà tuổi thơ của con đã trôi qua, [32v0], nhất là có thể cầu nguyện bên mộ Mẹ6 và cầu xin Người luôn luôn che chở con...
Chúa Nhân Lành đã thương ban ơn cho con chỉ biết thế gian vừa đủ để khinh chê nó và xa lánh nó. Có thể nói lần đầu tiên con bước vào thế gian chính là thời gian về thăm Alençon. Con chỉ thấy toàn là niềm vui, hạnh phúc xung quanh con, con được tiệc tùng, nuông chiều, ngưỡng mộ, nói tóm cuộc sống con trong mười lăm ngày chỉ toàn là hoa... Thú thật cuộc sống ấy rất quyến rũ đối với con. Sách Khôn Ngoan thật có lý khi nói: “Sự quyến rũ của những dục vọng thế gian làm mê hoặc cả những tâm hồn chất phác” (Kn 4,12). Ở tuổi lên mười, con tim dễ dàng choáng ngợp, nên con coi là một ân huệ lớn khi không ở lại Alençon; các bạn bè chúng con có ở đó đều quá thế tục, họ quá giỏi liên kết các niềm vui trần tục với việc phụng thờ Thiên Chúa. Họ không quan tâm đến cái chết,7 nhưng cái chết đã đến thăm rất nhiều người mà con quen biết, những người còn trẻ, giàu có và sung sướng!!! Con thích hồi tưởng lại những nơi mê hoặc mà họ đã sống, rồi tự hỏi mình bây giờ họ đang ở đâu, các lâu đài và các công viên nơi con nhìn thấy họ tận hưởng những tiện nghi của cuộc đời bây giờ ra sao rồi?... Và con thấy tất cả chỉ là phù vân và đau khổ dưới ánh Mặt Trời (Gv 2,11).8 Sự thiện độc nhất là yêu mến Thiên Chúa hết lòng và có tinh thần nghèo khó ở đời này (Mt 5,3).9
Có thể là Giêsu đã muốn cho con thấy thế gian trước cuộc thăm viếng lần đầu mà Người sẽ dành cho con, để con chọn một cách tự do hơn con đường mà con sẽ hứa đi theo. Thời kỳ Rước Lễ lần đầu của con vẫn còn ghi tạc trong tim con, như một kỷ niệm không mây mờ, có vẻ như con không thể nói được chuẩn bị tốt hơn như con đã được chuẩn bị, và rồi con đã được an vui, nỗi khổ tâm đã rời xa con gần một năm rồi. Giêsu muốn cho con được nếm cảm một niềm vui tuyệt hảo có thể có được ở trong lũng nước mắt này...
[33r0] Mẹ có còn nhớ, thưa Mẹ yêu dấu, cuốn sách nhỏ hấp dẫn10 mà Mẹ đã làm quà cho con ba tháng trước ngày con Rước Lễ lần đầu không?... Chính cuốn sách này đã giúp con chuẩn bị tâm hồn một cách liên tục và nhanh chóng, bởi vì cho dù con đã chuẩn bị tâm hồn từ lâu rồi,11 vẫn cần phải có một sức đẩy mới, lấp đầy nó bằng những bông hoa mới để Giêsu có thể vui thích nghỉ ngơi trong đó... Mỗi ngày con làm một số việc hy sinh kết thành bởi rất nhiều bông hoa, con đọc nhiều lời nguyện tắt hơn con số Mẹ đã ghi trong cuốn sách nhỏ của con cho mỗi ngày và các hành vi tình yêu này làm thành các nụ hoa.
Mỗi tuần Mẹ viết cho con một mẩu thư ngăn ngắn dễ thương, nó đổ tràn hồn con những tư tưởng thâm sâu và giúp con thực hành nhân đức, đó là một niềm an ủi cho cô con gái nhỏ của mẹ, nó phải làm một hy sinh quá lớn khi phải chấp nhận không được ngồi trên gối mẹ mỗi buổi tối để mẹ chuẩn bị cho, giống như mẹ đã làm cho chị bé Céline yêu dấu của nó. Chị Marie thế chỗ chị Pauline đối với con, con ngồi trên gối chị và chăm chú lắng nghe những lời chị nói. Con thấy cả trái tim quá lớn, quá quảng đại của chị được truyền sang con, giống như các chiến binh dạy cho con cái họ nghề chinh chiến, chị cũng nói với con về những cuộc chiến đấu của cuộc đời, về cành vạn tuế được trao cho kẻ chiến thắng... chị Marie cũng nói với con về những sự giàu sang bất tử mà chúng ta có thể thu tích mỗi ngày, về nỗi bất hạnh của việc bỏ qua không muốn chịu khó chìa tay ra đón lấy chúng, rồi chị chỉ cho con cách nên thánh nhờ trung thành với những chuyện bé nhỏ nhất, chị cho con tờ giấy nhỏ: “Về sự từ bỏ” mà con say mê suy gẫm mỗi ngày...
A! mẹ đỡ đầu của con giảng giải thật lợi khẩu! Con muốn rằng không chỉ một mình con được nghe những lời dạy dỗ sâu xa của chị, con cảm thấy mình được đánh động đến độ trong sự ngây thơ của mình, con tin rằng nếu những tội nhân ghê gớm nhất được nghe chị nói cũng có thể được đánh động giống như con, nhờ đó họ biết từ bỏ các của cải hư nát để chỉ muốn chiếm được [33v0] những của cải trên Trời... Vào thời ấy chưa có ai dạy con cách nguyện gẫm, trong khi con rất ước ao làm việc ấy. Nhưng vì chị Marie thấy con khá sốt sắng nên chỉ cho phép con đọc các kinh bình thường của con.12 Một hôm có bà giáo của con trong Trường Dòng hỏi con thường làm gì khi ở một mình vào các ngày nghỉ. Con trả lời Sơ rằng con thường vào một chỗ trống phía sau giường rồi kéo màn giường và ở đó “con suy nghĩ.”13 - Nhưng con suy nghĩ điều gì? Sơ hỏi con. - Con suy nghĩ về Thiên Chúa, về đời sống... về VĨNH CỬU, nói tóm là con suy nghĩ! Sơ ấy cười khoái chí, về sau sơ ấy thích nhắc con nhớ lại thời gian con suy nghĩ, và hỏi con có còn suy nghĩ nữa không... Bây giờ con hiểu ra rằng hồi ấy con đã nguyện ngắm mà không biết, và Chúa Nhân Lành đã dạy dỗ con trong bí mật.14
Ba tháng chuẩn bị qua mau, chẳng mấy chốc con đã phải đi tĩnh tâm và để tĩnh tâm thì phải ở nội trú, ngủ trong Tu Viện. Con không thể nào diễn tả được cái kỷ niệm ngọt ngào mà cuộc tĩnh tâm này đã để lại nơi con, thực ra nếu con đã phải chịu đau khổ nhiều ở trường nội trú, thì nay con đã được bù đắp vô vàn bởi niềm hạnh phúc khôn tả của các ngày sống trong niềm mong đợi Giêsu... Con không tin người ta có thể nếm cảm niềm vui này ở đâu khác ngoài các cộng đoàn tu sĩ, vì số trẻ em ở đó ít, nên các Sơ dễ chăm sóc đặc biệt cho từng em, và các bà giáo của chúng con lúc ấy quả thực đã săn sóc chúng con với đầy tình mẫu tử. Các Sơ chăm sóc con còn nhiều hơn các bạn khác, mỗi tối sơ phụ trách coi chúng con cầm chiếc đèn lồng nhỏ đến hôn con trên giường và tỏ lòng âu yếm của sơ đối với con. Một tối kia, cảm kích vì lòng nhân hậu của sơ, con nói với sơ rằng con sẽ tiết lộ cho sợ một bí mật, rồi nhẹ rút từ dưới cái gối đầu quyển sách nhỏ quý giá của con, con đưa cho sơ xem, mắt long lanh niềm vui... Buổi sáng, con rất thích xem các học sinh thức dậy khi nghe chuông báo thức [34r0] và cũng làm giống như các học sinh ấy, nhưng con chưa quen tự lo cho mình. Chị Marie không ở đó để cuộn tóc cho con, con buộc phải rụt rè cầm lược đi đến chỗ sơ trông coi phòng trang điểm. Sơ cười khi thấy một đứa con gái lớn 11 tuổi rồi mà chưa biết tự làm lấy, nhưng sơ cũng chải đầu cho con, chỉ có điều sơ chải không êm như chị Marie, dù thế con không dám kêu giống như con thường kêu mỗi ngày dưới bàn tay dịu dàng của mẹ đỡ đầu của con. Trong tuần phòng, con nghiệm ra rằng con là một đứa trẻ được quá nuông chiều và bao bọc như thể chẳng có ai khác ở đời này, nhất là trong số những trẻ bị mất mẹ... Ngày nào chị Marie và chị Léonie cũng cùng với Ba đến thăm con, cho con rất nhiều bánh kẹo, nhờ đó con không có cảm giác bị xa gia đình và không có điều gì làm mờ tối bầu Trời xinh đẹp của cuộc tĩnh tâm của con.
Con chăm chú lắng nghe các lời giáo huấn của Cha Domin15 và thậm chí con còn viết lại bản tóm tắt; về các tư tưởng của con, con không muốn viết ra tư tưởng nào cả, con nghĩ rằng mình nhớ, và đúng là thế... Thật vô cùng sung sướng được đến dự tất cả các giờ kinh Phụng vụ với các Sơ; con nổi bật trong đám các bạn nhờ có một cây Thánh Giá Lớn mà chị Léonie đã cho con và con đeo vào dây đai lưng giống như các vị truyền giáo, khiến cho các Sơ khó chịu vì nghĩ rằng con mang cây thánh giá ấy là để bắt chước Chị Cát Minh của con... A! đúng là tư tưởng con đang hướng về chị ấy, con biết chị Pauline của con cũng đang tĩnh tâm giống như con,16 không phải để đón Giêsu đến với chị, mà để chị tự hiến mình cho Giêsu, bầu khí tĩnh tâm trải qua trong mong đợi này vì thế đối với con quý giá gấp hai...
Con nhớ một buổi sáng người ta đưa con vào phòng bệnh vì con ho nhiều (từ lần con bị bệnh, các bà giáo rất để ý đến con, dù chỉ bị nhức đầu nhẹ, hay các Sơ thấy con xanh xao hơn thường ngày [34v0], các Sơ đều cho con đi dạo cho thoáng hay cho con nằm nghỉ trong phòng bệnh). Con thấy Céline yêu dấu của con bước vào, tuy đang tĩnh tâm, chị đã được phép đến thăm con để cho con một tấm ảnh làm con thích thú đó là ảnh “Bông hoa nhỏ của Chúa Bị Giam Tù”. Ôi! Thật vô cùng ngọt ngào khi nhận được kỷ niệm này từ bàn tay Céline! Chị khơi dậy nơi con biết bao tư tưởng yêu thương!
Buổi tối trước ngày trọng đại, con nhận phép xá giải lần thứ hai,17 việc xưng tội chung đã để lại một sự bình an lớn lao trong hồn con và Chúa Nhân Lành không cho phép một chút mây mờ nào làm vẩn đục nó. Chiều hôm ấy con đã xin lỗi cả gia đình lúc họ đến thăm con, nhưng con chỉ có thể nói bằng nước mắt, vì con quá xúc động... Chị Pauline không đến, nhưng con cảm thấy trái tim chị ở bên con, chị đã nhờ chị Marie gửi cho con một ảnh đẹp, con ngắm mãi không chán, và đem cho mọi người cùng ngắm! Con đã viết cho Cha Pichon18 để xin ngài cầu nguyện, con nói với ngài rằng chẳng bao lâu nữa con sẽ trở thành nữ tu Cát Minh và khi ấy ngài sẽ là cha linh hướng của con. (Bốn năm sau điều này đã xảy ra, vì tại Cát Minh con đã mở tâm hồn con ra với Ngài...) chị Marie đưa cho con một lá thư của ngài, con thật quá sung sướng! Mọi niềm hạnh phúc cùng đến với con. Điều làm con thích nhất trong thư của ngài là câu này: “Ngày mai cha sẽ bước lên Bàn Thánh cầu cho con và Pauline của con!” Ngày 8 tháng 5, Pauline và Têrêsa đã kết hợp với nhau và mỗi ngày càng thêm thắm thiết hơn, vì Giêsu hình như đã nối kết hai chị em lại và đổ đầy tràn ân sủng xuống cho cả hai...
Cuối cùng ngày tươi đẹp trong các ngày19 đã đến, tả làm sao được những kỷ niệm mà những chi tiết bé nhỏ nhất của ngày Thiên Quốc ấy đã để lại trong tâm hồn con!... Tiếng chuông báo thức hân hoan của bình minh, các nụ hôn trang trọng và dịu dàng của các bà giáo và các [35r0] bạn bè tuyệt vời... Phòng lớn đầy những bông tuyết phủ khắp mình mỗi đứa trẻ... Nhất là lúc bước vào nhà nguyện trong điệu hát kinh sáng của bài thánh ca du dương: “Ôi Bàn Thánh, các Thiên Thần chầu quanh!”20
Nhưng con không muốn đi sâu vào các chi tiết, đó là những thứ sẽ mất hết hương thơm nếu đưa ra ngoài trời, đó là những tư tưởng của tâm hồn mà khi đem diễn tả bằng ngôn ngữ của trần thế sẽ mất đi ý nghĩa thâm sâu và Thiên Quốc của chúng, chúng giống như “viên sỏi trắng sẽ được trao cho người chiến thắng, trên đó có khắc một cái tên mà chẳng ai biết được ngoài kẻ lãnh nhận nó.” (Kh 2,17: “Ai có tai, thì hãy nghe điều Thần Khí nói với các Hội Thánh: Ai thắng Ta sẽ ban cho manna đã được giấy kỹ; Ta sẽ ban cho nó một viên sỏi trắng, trên sỏi đó có khắc một tên mới; chẳng ai biết được tên ấy, ngoài kẻ lãnh nhận.”) A! Ngọt ngào biết bao nụ hôn đầu tiên Giêsu dành cho hồn con!21 Đó là nụ hôn tình yêu, con thấy mình được yêu, và con cũng nói: “Con yêu Chúa, con mãi mãi hiến mình con cho Chúa.” Không van xin, không tranh chấp, không hy sinh, đã từ lâu Giêsu và Têrêsa bé bỏng đáng thương đã nhìn nhau, và đã hiểu nhau... Nhưng hôm ấy không còn là một cái nhìn, mà là một sự hoà nhập, không còn là hai, Têrêsa đã biến tan giống như giọt nước tan trong đại dương.22 Chỉ còn lại một mình Giêsu, Người là Chủ, là Vua. Têrêsa đã không thể không xin Người cất đi tự do của nó,23 bởi vì tự do của nó làm nó sợ, nó cảm thấy mình quá yếu đuối, quá mỏng giòn khiến nó muốn mãi mãi được kết hợp với Sức Mạnh Thần Linh!24 ... Niềm vui của nó quá lớn, quá sâu đến nỗi nó không thể chứa nổi, những giọt nước mắt ngọt ngào bỗng trào ra trước sự ngạc nhiên của các bạn nó,25 sau đó chúng bàn tán với nhau: “Tại sao con bé khóc? Có gì làm nó khó chịu chăng?... - Không, có thể là vì nó không được thấy mẹ hay chị nó ở bên nó, người mà nó quá yêu thương và nay đang là nữ tu Cát Minh.” Các bạn con không hiểu rằng tất cả niềm vui Thiên Quốc đổ vào trong một quả tim, quả tim lưu đày không thể chịu đựng nổi niềm vui ấy mà không rơi nước mắt... Ô! Không, sự vắng mặt của mẹ không làm con đau khổ ngày con Rước Lễ lần đầu, chẳng phải Trời [35v0] đã ở trong hồn con rồi sao, chẳng phải mẹ đã có chỗ trong hồn con từ lâu rồi sao? Vì vậy khi nhận được cuộc viếng thăm của Giêsu, con cũng nhận được cuộc viếng thăm của mẹ dấu yêu, mẹ chúc phúc cho con và vui mừng vì hạnh phúc của con... Sự vắng mặt của chị Pauline không làm con khóc, tất nhiên con rất vui được thấy chị bên con, nhưng con đã chấp nhận hy sinh ấy từ lâu rồi; ngày hôm ấy, chỉ có niềm vui tràn ngập tim con, con kết hợp với Chị là người cũng đang vĩnh viễn hiến mình cho Đấng đang tự trao ban cho con một cách âu yếm!
Trưa hôm ấy con đọc kinh dâng mình cho Đức Trinh Nữ,26 rất hợp lý khi con được nhân danh các bạn con để nói với Người Mẹ Trên Trời của con, vì con đã bị mất người mẹ trần thế từ quá sớm... Con đem hết tâm hồn mình để nói với Người, hiến thánh con cho Người, giống như một đứa bé gieo mình vào vòng tay Mẹ nó và xin Người bảo vệ chở che nó. Dường như Đức Mẹ đã nhìn đến bông hoa nhỏ của Người và mỉm cười với nó, chẳng phải chính Người đã chữa nó lành bệnh bằng một nụ cười thực thụ sao?... Chẳng phải Người đã đặt Giêsu của Người, Bông Hoa Đồng Nội, Bông Huệ của thung lũng, vào trong đài của bông hoa nhỏ của Người sao? (Dc 2,1).27
Buổi tối hôm tươi đẹp ấy, con gặp lại gia đình trần gian của con. Tuy buổi sáng sau Thánh Lễ con đã được ôm hôn Ba và mọi người bà con họ hàng yêu dấu, nhưng bây giờ mới là cuộc sum họp thực sự, Ba cầm tay nữ hoàng nhỏ của Ba tiến về Cát Minh... Bấy giờ con thấy Pauline của con đã trở thành hiền thê của Giêsu, con thấy chị với chiếc khăn voan trắng giống như con và vương miện kết bằng hoa hồng... A! Niềm vui của con không một chút gợn đắng, con mong sớm được theo chị và cùng với chị đợi về Trời!
Con không dửng dưng với lễ hội gia đình diễn ra tối hôm con Rước lễ lần đầu, chiếc đồng hồ tay xinh xinh Đức Vua của con tặng làm con thích thú, nhưng niềm vui của con thanh thản và không có gì khuấy động sự bình an sâu xa trong hồn con.
Tối hôm ngày tươi đẹp ấy, chị Marie đưa con vào phòng của chị, vì những ngày nắng đẹp thường theo sau những buổi tối đen, chỉ có ngày Rước lễ lần đầu, độc nhất và [36r0] vĩnh cửu trên Trời mới không có chiều tà!
Sáng hôm sau ngày Rước lễ lần đầu vẫn còn là một ngày đẹp, nhưng nó đã có những dấu vết u buồn. Bộ khăn đẹp chị Marie đã mua cho con, tất cả các món quà con đã nhận được không làm cho lòng con thoả mãn, chỉ một mình Giêsu có thể làm con hài lòng, con khát mong giờ phút con được lãnh nhận Người lần thứ hai. Khoảng một tháng sau ngày rước lễ lần đầu,28 con đi xưng tội để mừng lễ Thăng Thiên và con đánh bạo xin được phép rước lễ. Thật không ngờ Cha xứ cho phép và con hạnh phúc đến quỳ trước Bàn Thánh giữa ba và chị Marie, cuộc thăm viếng lần thứ hai này của Giêsu đã để lại kỷ niệm dịu dàng biết bao nơi con! Nước mắt con lại chảy với một niềm ngọt ngào khôn tả, con luôn miệng thì thầm những lời này của Thánh Phaolô: “Không còn là tôi sống, mà là Giêsu sống trong tôi?” (Gl 2,20). Từ lần rước lễ này, con ngày càng cháy bỏng niềm khao khát rước Chúa. Con đã được phép rước lễ vào tất cả các lễ trọng.29 Buổi tối trước khi bắt đầu những ngày hạnh phúc này, chị Marie đặt con trên gối chị và chuẩn bị cho con giống như chị đã chuẩn bị cho con lần rước lễ lần đầu. Con nhớ có một lần chị nói với con về đau khổ, chị bảo con rằng có lẽ con sẽ không phải đi trên con đường đau khổ nhưng Chúa Nhân Lành sẽ bồng bế con như một trẻ thơ...
Ngày hôm sau, sau khi con rước lễ, các lời nói của chị Marie trở lại với tâm trí con; con cảm thấy trong lòng phát sinh một niềm khao khát mãnh liệt được chịu đau khổ30 và đồng thời một sự chắc chắn thâm sâu rằng Giêsu sẽ dành cho con rất nhiều thánh giá, con cảm thấy tràn trề những an ủi lớn lao đến nỗi con nhìn các thánh giá ấy như những ân huệ trọng đại nhất của đời con. Đau khổ bắt đầu lôi cuốn con, nó có sức hấp dẫn làm con say mê tuy không biết rõ chúng. Cho tới lúc ấy con đã từng chịu đau khổ mà không yêu đau khổ, nhưng từ hôm ấy con cảm thấy [36v0] một tình yêu thực sự đối với đau khổ. Con cũng cảm thấy ước muốn chỉ yêu một mình Chúa mà thôi, chỉ tìm thấy niềm vui nơi một mình Người. Trong khi rước lễ, con thường xuyên lặp lại những lời sách Gương Chúa Giêsu: “Ôi Giêsu! Sự ngọt ngào khôn tả, xin đổi mọi an ủi của trần gian thành cay đắng cho con!” Lời kinh này tự nhiên thốt ra từ môi con, không cần cố gắng, không gượng ép, hình như con lặp lại lời kinh ấy không phải bằng ý muốn, mà giống như một đứa trẻ nói lại những lời mà một người thân gợi lên cho nó... Mẹ yêu dấu, sau này con sẽ kể cho Mẹ biết Giêsu đã vui lòng thực hiện ước muốn như thế nào, Người luôn luôn là sự ngọt ngào duy nhất không thể tả của con như thế nào. Nếu con nói cho Mẹ tại đây bây giờ, thì buộc con sẽ phải đề cập đến giai đoạn tuổi thiếu nữ của con, nhưng bây giờ con còn rất nhiều chi tiết phải kể với Mẹ về tuổi thơ ấu của con.
Ít lâu sau khi con Rước Lễ lần đầu, con lại tĩnh tâm để dọn mình chịu phép Thêm Sức.31 Con dọn mình rất kỹ lưỡng để đón nhận Chúa Thánh Thần đến viếng thăm (Cv 1,14).32 Con không thể hiểu tại sao người ta có thể không mấy quan tâm tới việc lãnh nhận bí tích Tình Yêu này. Thông thường người ta chỉ có một ngày tĩnh tâm để chịu phép Thêm Sức, nhưng vì Đức cha bận việc không thể đến đúng ngày ấn định, nên con được niềm an ủi là có hai ngày để tĩnh tâm. Để giúp chúng con khuây khoả, bà giáo đưa chúng con lên Núi Cassin33 và ở đó con đã hái đầy vốc tay những bông cúc đầu xuân lớn cho ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa. A! hồn con vui sướng biết bao, giống như các Tông Đồ, con hân hoan trông đợi Chúa Thánh Thần ngự đến... (Cv 2,14-4).34 con vui mừng khi nghĩ đến mình sắp được trở thành một Kitô hữu hoàn toàn và nhất là được vĩnh viễn ghi trên trán dấu thánh giá bí nhiệm mà Đức Giám mục ghi lên khi đặt tay ban bí tích... Cuối cùng giờ hạnh phúc đã đến, con không cảm thấy luồng gió mạnh lúc Chúa Thánh Thần ngự xuống, nhưng là làn gió nhẹ mà tiên tri Elia đã nghe thấy rì rào trên núi Horép (1V 19,11-13).35 Ngày hôm ấy con lãnh nhận sức mạnh để chịu đau khổ, vì chẳng bao lâu nữa cuộc tử đạo của hồn con sẽ bắt đầu... Mẹ đỡ đầu của con là chị bé Léonie, chị quá xúc động không cầm nổi nước mắt suốt thời gian cử hành nghi lễ. Chị cùng lên rước lễ với con, vì con cũng còn được hạnh phúc kết hợp với Giêsu vào ngày trọng đại ấy.
Sau những ngày lễ ngọt ngào và không thể quên ấy, con trở lại nếp sống thường nhật, nghĩa là con phải trở lại nếp sống nội trú rất khổ sở đối với con. Hồi con Rước lễ lần đầu, con thích sống với các trẻ cùng tuổi với con, bạn nào cũng đầy thiện chí, cùng có quyết tâm thực hành nhân đức nghiêm túc giống như con. Còn bây giờ con phải chung đụng với các học sinh tính tình rất khác, hay lơ đãng, không thích giữ kỷ luật, điều đó làm con rất đau khổ. Tính con vui vẻ, nhưng con không biết hòa mình vào các trò chơi của các bạn cùng lứa tuổi với mình,36 thường thường vào giờ chơi, con chỉ đứng tựa vào một gốc cây để nhìn các bạn chơi từ đàng xa hay thả hồn theo những suy tư nghiêm túc! Con đã phát minh ra một trò chơi làm con thích, đó là chôn các con chim nhỏ mà con thấy nằm chết dưới các gốc cây. Nhiều bạn học muốn giúp để nghĩa trang chim của con trở nên rất xinh đẹp, có những cây và hoa trồng tuỳ theo kích thước của các chú chim nhỏ. Con còn thích kể lại những câu truyện con phịa ra mỗi khi chúng xuất hiện trong trí con, những lúc ấy các bạn con háo hức vây quanh con, đôi khi cũng có cả các học sinh lớn len lỏi vào giữa đám thính giả. Con kể cùng một câu chuyện trong nhiều ngày, vì con thêm chi tiết làm cho câu chuyện ngày càng trở nên hứng thú hơn khi con thấy những ấn tượng biểu hiện trên nét mặt các bạn của con, nhưng không lâu sau, bà giáo cấm con tiếp tục hành nghề hùng biện, bà muốn thấy chúng con chơi đùa và chạy nhảy chứ không phải diễn thuyết...
Con nhớ rất dễ ý nghĩa các điều con đã học, nhưng con thấy khó học thuộc từng chữ, kể cả đối với bài giáo lý. Tất cả các ngày trong năm trước khi con Rước lễ lần đầu, con xin phép được học bài trong các giờ chơi. Các cố gắng của con đã được đền đáp bằng sự thành công và con luôn luôn đứng nhất lớp. Nếu chẳng may vì chỉ quên một từ mà con phải mất hạng nhất, nỗi buồn của con được bộc lộ qua những giọt nước mắt cay đắng và thường được Cha Domin biết cách dỗ dành... Ngài rất hài lòng về con (không phải khi con khóc) và ngài gọi con là tiến sĩ nhỏ của ngài,37 vì tên con là Têrêsa. Có một lần học sinh đứng hạng sau con không biết đặt câu hỏi giáo lý38 cho bạn của bạn ấy, Cha hỏi hết một vòng khắp lớp mà không học sinh nào làm được, cuối cùng cha đến chỗ con và nói để xem con có xứng đáng vị trí nhất của lớp không. Với lòng khiêm nhường sâu thẳm của mình,39 con chỉ đợi có thế; con hiên ngang đứng dậy và làm điều được yêu cầu mà không vấp phải lỗi nào, trước sự ngạc nhiên của mọi người... Sau khi Rước lễ lần đầu, con tiếp tục nhiệt tình với môn giáo lý cho tới khi con rời nội trú. Con rất thành công trong việc học, hầu như luôn luôn đứng nhất lớp, thành công nhất là môn lịch sử và  viết văn. Tất cả các giáo viên dạy con đều coi con là một học sinh thông minh, khác hẳn với khi ở nhà cậu con, ở đó mọi người coi con là một con bé dốt nát, tốt và hiền, có phán đoán đúng, nhưng không có khả năng và vụng về... Con không ngạc nhiên về ý kiến này40 của cậu mợ con từ trước đến nay, lý do là vì con quá nhút nhát không dám phát biểu, còn khi viết thì nét chữ gà bới và chính tả của con không tự nhiên chút nào, vì thế không hấp dẫn... Trong các công việc may vá thêu thùa nho nhỏ và các việc khác, con cũng khá thành công, theo đánh giá của các giáo viên, nhưng cách thức ngượng nghịu và vụng về của con khi xử lý tác phẩm khiến người ta có ý kiến bất lợi về con cũng là điều dễ hiểu. Con coi ý kiến này của họ như một ân huệ, Chúa Nhân Lành muốn trái tim của con dành cho [38r0] một mình Người mà thôi, nên Người đã nhận lời cầu xin của con là “đổi mọi an ủi trần gian thành cay đắng cho con.” Con càng cần điều đó hơn bởi vì không phải là con vô cảm trước các lời khen ngợi.41 Người ta thường xuyên khen các bạn khác thông minh, còn con thì không bao giờ, từ đó con suy ra rằng mình không có trí thông minh, và con đành lòng chấp nhận mình không thông minh...
Quả tim dễ cảm và dạt dào yêu thương của con sẽ dễ dàng trao hiến nếu nó tìm được một quả tim hiểu được nó42... Con đã thử kết thân với các bạn gái cùng tuổi con, nhất là với hai trong số họ,43 con yêu họ và họ cũng yêu con theo như họ có thể; nhưng hỡi ơi! Quả tim của tạo vật thật là hẹp hòi và dễ thay đổi!!! Không lâu sau con thấy các bạn đã không hiểu tình yêu của con. Một người bạn của con buộc phải về nhà mà mấy tháng sau quay trở lại; trong thời gian bạn ấy đi vắng, con vẫn nghĩ tới bạn ấy, và giữ một chiếc nhẫn nhỏ quý giá mà bạn ấy đã tặng con. Khi gặp lại bạn ấy, con vui sướng biết chừng nào, nhưng hỡi ơi! Con chỉ nhận được một cái nhìn dửng dưng... Tình yêu của con đã không được bạn ấy hiểu, con cảm nhận được điều ấy và con không thèm ăn mày một tình cảm mà người ta từ chối. Nhưng Chúa Nhân Lành đã ban cho con một quả tim hết sức trung thành, khiến cho một khi nó đã yêu một cách trong sáng thì nó yêu mãi, vì thế con tiếp tục cầu nguyện cho bạn con và vẫn còn yêu bạn ấy... Khi thấy Céline lưu luyến với một trong các bà giáo của chị, con cũng muốn bắt chước chị, nhưng vì không biết cách chinh phục ân huệ của người khác nên con đã không thể thành công. Ôi sự ngu dốt tốt lành! Nó đã tránh được cho con những điều xấu to lớn! Con phải tạ ơn Giêsu biết chừng nào vì Người để cho con chỉ tìm thấy “sự cay đắng trong các mối tình bạn của trần gian”, vì với quả tim như của con, con dễ dàng bị sa lưới và gẫy cánh, như thế làm sao con còn có thể “bay bổng và yên nghỉ?” Một quả tim gắn bó với tình cảm của tạo vật thì có thể kết hiệp mật thiết với Chúa được không?44 Con nghĩ là không thể. Không uống chén độc [38v0] của tình yêu nồng cháy đối với tạo vật, con cảm thấy mình không lầm, con đã từng thấy biết bao tâm hồn bị quyến rũ bởi thứ ánh sáng giả tạo này, bay lên cao như những con thiêu thân đáng thương để rồi đôi cánh bị thiêu rụi, rồi quay trở lại ánh sáng thật và dịu dàng của tình yêu để được đôi cánh mới sáng hơn và  nhẹ hơn nhờ đó họ có thể bay về phía Giêsu, Lửa Thần Linh45 “đốt cháy nhưng không bị thiêu rụi.” (Xh 3,2).46 A! Con cảm thấy điều ấy, Giêsu biết rõ con quá yếu đuối, Người không để cho chịu cám dỗ, nếu không, con có thể bị thiêu rụi hoàn toàn bởi thứ ánh sáng hư ảo nếu con thấy nó chiếu vào mắt con... Thực tế đã không như thế, con đã chỉ gặp sự cay đắng ở những nơi mà các linh hồn mạnh mẽ gặp được niềm vui và họ thoát ra được nhờ lòng trung thành. Vì vậy con chẳng có công lao gì khi không bị tình yêu tạo vật chiếm đoạt, bởi vì con được giữ gìn chỉ là nhờ lòng thương vô biên của Chúa Nhân Lành! Con biết rằng không có Người, con có thể ngã sâu giống như Thánh Nữ Mađalêna và lời nói thâm thuý của Chúa với ông Simon vang dội trong tâm hồn con với một sự dịu dàng lạ lùng... Con biết điều này: “Ai được tha ít hơn thì yêu ít hơn” (Lc 7,40-47),47 con cũng biết Giêsu đã tha thứ cho con nhiều hơn Thánh Nữ Mađalêna, bởi vì Người đã tha thứ trước cho con, để ngăn con không vấp ngã. A! Ước chi con có thể giải thích được những gì con cảm nhận! Đây là một ví dụ có thể diễn tả phần nào tư tưởng của con. - Giả sử con trai của một bác sĩ giỏi48 vấp phải một hòn đá trên đường làm nó té ngã và bị gẫy chân, ngay lập tức cha cậu đến, âu yếm nâng dậy, săn sóc vết thương bằng tất cả tài nghệ của ông, và đứa con ấy sau khi mau chóng bình phục hoàn toàn đã tỏ lòng biết ơn người cha của cậu. Chắc chắn đứa con này có lý để yêu cha nó! Nhưng con muốn đưa ra một giả thiết khác. - Người cha biết trước rằng trên đường đi con ông sẽ gặp một hòn đá, ông vội vã đi trước nó và lấy hòn đá đi (mà không ai trông thấy). Chắc chắn đứa con này, [39r0]49 đối tượng của tình âu yếm dự phòng của ông, vì KHÔNG BIẾT đến tai nạn mà cha nó đã giải thoát cho nó, nên sẽ không tỏ lòng biết ơn cha và sẽ yêu mến cha ít hơn là nếu nó được cha chữa khỏi... nhưng nếu nó biết được rằng nó vừa thoát nguy hiểm, chẳng lẽ nó lại không yêu cha nó hơn sao? Đúng vậy, con chính là đứa con ấy, đối tượng tình yêu quan phòng của một người Cha đã không sai Ngôi Lời của mình đến50 để cứu những người công chính, nhưng để cứu những kẻ tội lỗi (Mt 9,13).51 Người muốn con yêu Người bởi vì Người đã tha thứ cho con, không chỉ tha nhiều, mà tha tất cả (Lc 7,47).52 Người không mong đợi con yêu Người nhiều như Thánh Mađalêna, nhưng Người muốn CON BIẾT rằng Người đã yêu con bằng một tình yêu quan phòng khôn tả, để bây giờ con yêu Người đến điên dại!53 Con nghe nói chưa từng gặp một tâm hồn thanh sạch mà lại yêu mến nhiều hơn một tâm hồn sám hối.54 A! Con rất muốn sửa lại câu nói ấy!...
Con đã đi khá xa đề rồi, con phải mau lại đề tài. - Năm tiếp theo ngày Rước Lễ lần đầu của con đã trôi qua hầu như hoàn toàn không gặp thử thách nào cho tâm hồn con, nhưng trong kỳ tĩnh tâm dọn mình Rước Lễ lần thứ hai,55 con bị một cơn bệnh bối rối khủng khiếp56 tấn công... Phải trải qua cơn khốn khổ này mới có thể hiểu rõ được nó, suốt một năm rưỡi con phải chịu đau khổ không thể nào tả nổi... Tất cả các tư tưởng và hành động đơn sơ nhất của con57 trở thành một vấn đề làm tâm hồn con rối loạn. Con chỉ được bình an khi thổ lộ những điều ấy với chị Marie,58 việc này làm con rất khổ sở, vì buộc con phải nói cho chị cả những tư tưởng kỳ cục mà con nghĩ về chính chị. Vừa khi gánh nặng của con được gỡ bỏ, con được một thoáng an bình, nhưng sự an bình này qua nhanh như tia chớp, và chẳng mấy chốc cuộc tử đạo lại bắt đầu. Chị Marie dấu yêu quả thật đã kiên nhẫn biết bao để nghe con [39v0] mà không bao giờ tỏ dấu gì khó chịu!... Con vừa mới từ Tu Viện trở về là chị đã làm tóc cho con để chuẩn bị cho hôm sau (vì để làm vui lòng Ba, ngày nào nữ hoàng bé nhỏ cũng cuộc tóc, gây ngạc nhiên cho các bạn bè và thầy cô vì họ chưa từng thấy đứa trẻ nào được cha mẹ cưng chiều như thế), trong khi ngồi làm tóc, con không ngừng khóc và kể lể cho chị mọi nỗi bối rối của con. Cuối năm học, chị Céline học xong đã trở về gia đình, để lại một mình Têrêsa tội nghiệp phải trở lại nội trú. Không lâu sau, nó ngã bệnh, vì niềm vui duy nhất giữ nó lại ở trường nội trú là được sống với Céline như hình với bóng, không có chị thì “cô con gái bé bỏng của chị” không thể nào ở lại... Thế là con phải rời Tu Viện năm 13 tuổi,59 và tiếp tục việc học của mình với nhiều bài học hằng tuần tại nhà “Bà Papinau”.60 Bà là một mẫu người tốt lành và học thức, nhưng có dáng dấp của một cô gái già; cô sống với mẹ, và thật thú vị khi nhìn cảnh gia đình nhỏ bé ba thành viên này (vì con méo cái là thành viên gia đình và con phải chịu đựng cảnh nó cứ gầm gừ trên các tập vở của con nhưng cũng thích dáng điệu dễ thương của nó). Con có cái lợi là được sống trong tình thân mật gia đình, vì gia đình con ở Buissonnets quá xa đối với cặp giò khá già nua của cô giáo,61 nên cô yêu cầu con đến học tại nhà cô. Mỗi khi con đến nơi, con thường chỉ gặp bà cụ Cochain, bà nhìn con bằng “cặp mắt to và sáng” rồi gọi với giọng bình thản và dằn từng tiếng: “Bà Pâpinau... Cô... Cô... Tê...rê đến rồi!” Cô con gái bà vội đáp lại bằng một giọng trẻ thơ: “Con đây, má.” Và bắt đầu học ngày. (Ngoài những kiến thức con nhận được) các giờ học này còn cho con cái lợi là biết về nếp sống ngoài đời... Ai có thể tin nổi cơ chứ! Trong căn phòng bày biện các đồ cổ này, bốn bề chung quanh toàn là sách vở. Con thường xuyên chứng kiến [40r0] các cuộc thăm viếng của đủ hạng người, các Linh Mục, các quý bà, quý cô, vv... Bà Cochain thường ra tiếp chuyện họ để cô con gái bà được rảnh để giảng bài cho con, nhưng những hôm như thể con chẳng học được gì cho ra trò. Con thường dí mũi vào sách, trong khi tai thì lắng nghe tất cả những gì người ta nói, thậm chí cả những gì mà lẽ ra con không nên nghe chút nào, tính phù phiếm lẻn vào tâm hồn quá dễ dàng!62... Một bà nói con có mái tóc đẹp... Bà khác trước khi ra về hỏi nhỏ xem con bé nào mà xinh thế,62 những câu nói sướng tai ấy tuy không nói trước mặt con, nhưng đã để lại trong tâm hồn con một ấn tượng thoả mãn, chứng tỏ con đầy lòng tự ái. Ôi! Con thương hại cho những linh hồn phải hư mất! Thật quá dễ đi lạc trong những con đường mòn đầy hoa của thế gian... Chắc chắn một tâm hồn cao thượng sẽ nhận thấy, vị ngọt mà thế gian cống hiến được xen lẫn với vị đắng và cái trống rỗng bao la của các ước vọng64 không thể được lấp đầy bởi các lời khen ngợi trong chốc lát... Nhưng nếu quả tim con đã không được nâng lên tới Chúa ngay từ khi nó tỉnh thức, nếu thế gian đã mỉm cười với con ngay từ khi con mới chào đời, thử hỏi con sẽ ra sao đây?... Ôi Mẹ dấu yêu, con phải ca ngợi lòng từ bi Chúa với tâm tình biết ơn như thế nào! (Tv 88,2)65... Lời sách Khôn Ngoan đã chẳng nói rằng, Người đã “kéo con ra khỏi thế gian trước khi tinh thần con bị hư đốn bởi sự hiểm độc của nó và linh hồn con bị mê hoặc, bởi những trò phỉnh gạt xảo trá của nó” đó sao? (Kn 4,11).66 Đức Mẹ cũng trông chừng bông hoa nhỏ của Người và không muốn nó héo tàn khi tiếp xúc với những sự vật của mặt đất, Người đã kéo nó lên núi của Người trước khi nó căng nhựa sống... Trong khi chờ đợi giờ phút ấy, Têrêsa bé nhỏ lớn lên trong lòng yêu mến Người Mẹ Thiên Quốc của nó, và để chứng tỏ tình yêu này, nó đã làm một hành vi đòi rất nhiều hy sinh; con sẽ kể lại trong mấy lời thôi, nhưng cũng hơi dài đấy...
[40v0] Hầu như ngay sau khi vào học trong Tu Viện, con đã được nhận vào hội Các Thiên Thần,67 con rất yêu mến các việc sùng kính của hội, vì con đặc biệt ham thích cầu nguyện với các Thiên Thần Hạnh Phúc và nhất là Thiên Thần mà Chúa đã ban làm bạn đồng hành với con trong cuộc đoạ đày trần gian này. Ít thời gian sau khi Rước lễ Lần Đầu, dải băng làm thỉnh sinh con cái Đức Mẹ được thay thế bằng dải băng hội viên Các Thiên Thần, nhưng con chưa được chính thức vào Hội Con Đức Mẹ thì đã rời Tu Viện rồi. Vì bỏ trường trước khi học xong, con không được nhận danh hiệu cựu học sinh. Phải thú thật rằng con không ham muốn đặc ân này, nhưng khi nghĩ rằng tất cả các chị con đều được làm “con Đức Mẹ”, con sợ mình không được là con của Mẹ Trên Trời bằng các chị, nên bằng mọi giá, con đã hết sức khiêm nhường đến xin phép được nhận vào Hội Con Đức Mẹ tại Tu Viện. Ngay từ đầu bà giáo không muốn từ chối con, nhưng đòi điều kiện là mỗi tuần con phải đến hai buổi chiều để chứng tỏ mình xứng đáng được tiếp nhận. Thay vì làm con thích thú, phép này đòi hỏi con quá nhiều hy sinh. Không giống các cựu học sinh khác, con không có các bà giáo bạn để có thể hàn huyên trong nhiều giờ, vì vậy con chỉ đến chào bào giáo rồi thinh lặng làm việc cho tới lúc hết giờ học. Chẳng ai để ý gì đến con, con chỉ biết đi lên phía nhà nguyện và ở lại đó trước Thánh Thể chờ tới lúc Ba đến đón con về, đó là niềm an ủi độc nhất của con, Giêsu chẳng phải là người bạn độc nhất của con đó sao? Con chỉ biết hàn huyên với Người, các cuộc trò chuyện với các loài thụ tạo, kể cả các cuộc trò chuyện đạo đức, cũng làm hồn con mệt mỏi... Con cảm thấy nói chuyện với Thiên Chúa thì giá trị hơn nói về Thiên Chúa, vì trong các cuộc trò chuyện thiêng liêng, tính tự ái của người ta thường xen vào rất nhiều... A! Con đến Tu Viện chỉ vì một mình Đức Mẹ mà thôi... Đôi khi con cảm thấy cô đơn, rất cô đơn, giống như hồi con còn sống ở nội trú; trong những lúc buồn và bệnh tật đi bách bộ trong khu sân lớn,68 con lẩm nhẩm những lời này và chúng luôn đem lại bình an và sức mạnh cho tâm hồn con: “Cuộc đời là thuyền trôi, không phải nơi ở của bạn!”69 Tuy con còn rất nhỏ, những lời này đã làm con thêm can đảm, và cả bây giờ cũng thế, tuy rằng những năm tháng đã làm phai nhoà biết bao ấn tượng đạo đức của tuổi thơ, hình ảnh con thuyền vẫn làm cho hồn con say mê và giúp nó chịu đựng cảnh đoạ đày trần gian... Sách Khôn Ngoan đã chẳng nói rằng: “Cũng tựa con tàu đi trên sóng nước, ai còn thấy dấu vết nó đã băng qua? Ai còn thấy lằn tàu trên sóng biển?” (Kn 5,10) Khi nghĩ tới những hình ảnh này, hồn con chìm vào cõi vô biên, con như thể đã chạm vào bến bờ vĩnh cửu... Con như thể nhận được những nụ hôn của Giêsu... Con tin mình nhìn thấy Mẹ Trên Trời đến đón con cùng với Ba... Mẹ... Bốn thiên thần nhỏ... Con tin rằng cuối cùng mình sẽ vĩnh viễn được hưởng đời sống gia đình thực sự và vĩnh cửu...
Trước khi được nhìn thấy gia đình sum họp trong Nhà Cha trên Trời, con còn phải trải qua nhiều cuộc ly biệt nữa. Năm con được nhận vào Hội Con Đức Mẹ,70 Người đã lấy mất của con chị Marie yêu dấu,71 nguồn nâng đỡ duy nhất của hồn con... Chính chị Marie đã dẫn dắt con, an ủi con, giúp con thực hành nhân đức, chị là vị ngôn sứ duy nhất của con. Đương nhiên chị Pauline vẫn giữ một chỗ cao trong tim con, nhưng Pauline thì ở xa, rất xa con!... Con đã phải chịu đựng để quen sống không có chị, để thấy giữa chị và con có những bức tường không thể vượt qua [41v0], nhưng cuối cùng con cũng nhận ra được thực tế đáng buồn này, con đã mất chị Pauline rồi, như thể chị đã chết đối với con. Chị luôn luôn thương con, cầu nguyện cho con, nhưng trong mắt con, Pauline yêu dấu của con đã trở thành một Bà Thánh, không thể nào hiểu được những chuyện trần gian, và  những nỗi khốn khổ của Têrêsa đáng thương của chị, nếu chị biết được, sẽ làm chị ngạc nhiên và không còn yêu thương nó như trước nữa... Hơn nữa, cho dù con có muốn thổ lộ những tư tưởng của con cho chị, như hồi còn ở Buissonnets, thì con cũng không thể làm được, vì mỗi lần thăm viếng thì chỉ chị Marie được gặp lâu thôi, còn Céline và con chỉ được đến đó vào phút cuối, chỉ đủ thời gian cho lòng se thắt... Vậy là trên thực tế con chỉ còn có chị Marie, có thể nói chị không thể thiếu đối với con, con thổ lộ các cơn bối rối của con cho một mình chị và con vâng lời chị đến nỗi không bao giờ cha giải tội biết được căn bệnh ghê tởm của con, vì con chỉ kể cho ngài đúng số các tội mà chị Marie cho phép con xưng, vì vậy cha giải tội nghĩ con là người ít bị bối rối nhất trên đời này, mặc dù con là người bối rối ở cấp cao nhất... Thế nên chị Marie biết rõ tất cả những gì diễn ra trong hồn con, chị cũng biết các ước vọng vào dòng Cát Minh của con và con yêu chị nhiều đến nỗi không thể sống mà thiếu chị. Hằng năm mợ đều mời chị em chúng con thay phiên nhau đến chơi nhà mợ ở Trouville, con rất thích đến đó, nhưng phải có chị Marie nữa cơ, còn khi không có chị, con buồn lắm. Có một lần con rất thích ở Trouville, đó là năm Ba đi thăm Constantinople. (Vì chúng con rất buồn khi Ba xa nhà), nên để làm chúng con khuây khoả, chị Marie cho chúng con, Céline và con, đi chơi 15 ngày ở bờ biển. Con vui lắm vì có Céline cùng đi chơi với con. Mợ tạo điều kiện cho chúng con vui chơi thoả thích: cỡi trên lưng lừa, đi câu lươn, vv... Con vẫn còn rất con nít [42r0] tuy đã 12 tuổi rồi, con còn nhớ niềm vui khi cột tóc bằng những dải vải màu thanh thiên mà mợ cho; con cũng còn nhớ trong lần xưng tội ở Trouville con đã xưng cả cái niềm vui tuổi thơ mà con là một tội... Một tối kia, con có một kinh nghiệm làm con ngạc nhiên lắm... Marie (Guérin) hầu như luôn luôn có tâm trạng đau khổ, rất thường hay khóc, trong khi mợ lúc nào cũng dỗ dành nó và tặng cho nó đủ các tên gọi dịu dàng nhất, vậy mà cô em này của con vẫn không ngớt miệng kêu rên nhức đầu. Con thì hầu như không ngày nào không nhức đầu,72 nhưng con không biết phàn nàn. Thế là một tối kia con muốn bắt chước Marie và bắt đầu ngồi khóc thút thít trên chiếc ghế bành ở một góc phòng. Lập tức Jeanne và mợ chạy đến bên con và hỏi con làm sao. Con trả lời y hệt Marie: “Con nhức đầu.” Có vẻ như con không biết than thở, nên con không làm được cho họ tin rằng chứng nhức đầu làm con khóc, nên thay vì dỗ dành, mợ nói với con giống như nói với một người lớn; Jeanne còn trách con không tin tưởng ở mợ, vì nó nghĩ con bị bối rối lương tâm... Cuối cùng con chỉ uổng công vô ích, và từ đó trở đi con quyết không bao giờ bắt chước người khác, đồng thời hiểu được ngụ ngôn “con lừa và con chó con.”73 Con là con lừa khi nhìn thấy người ta vuốt ve dỗ dành con chó con, thì cũng đến gác cái chân thô kệch của nó lên bàn, mong nhận được những cái vuốt ve; nhưng hỡi ơi! Tuy không bị những cú gậy giống như con lừa, nhưng quả thực con đã chịu cảnh “gậy ông đập lưng ông”, và cây gậy ấy đã chữa con suốt đời74 khỏi cái ước muốn thu hút sự chú ý của người ta, chỉ một lần cố làm như thế đã khiến con phải trả giá quá đắt!...
Năm sau là năm Mẹ Đỡ Đầu của con phải lên đường. Một lần nữa mợ lại mời con đến nhà mợ, nhưng lần này chỉ có một mình con, nên con cảm thấy mình như kẻ lưu lạc, [42v0] và chỉ sau hai hay ba ngày con đã ngã bệnh và người ta phải đưa con về Lisieux. Người ta sợ con bị bệnh nặng, nhưng thực ra chỉ là bệnh nhớ nhà ở Buissonnet, nên vừa khi đặt chân vàoừnhà con đã khoẻ hẳn... Đứa bé này chính là đứa mà Chúa Nhân Lành sẽ lấy đi chỗ dựa duy nhất gắn chặt nó vào cuộc sống!...
Vừa khi con biết rõ quyết tâm của chị Marie, con cương quyết không bao giờ còn tìm một thú vui nào dưới đất nữa75... Sau khi ra khỏi trường nội trú, con dọn đến ở phòng vẽ cũ của chị Pauline và trang trí nó theo ý mình. Đúng là một phòng triển lãm thực sự, bày biện toàn những đồ đạo đức và những đồ lạ, một cái vườn và một cái lồng chim... Phía cuối phòng gắn một cây thánh giá lớn bằng gỗ mun không có tượng chịu nạn, một vài bức tranh cho thích; trên một bức tường khác, một sọt đầy vải musơlin và các dải băng hồng với các loài cỏ và hoa đẹp; sau cùng trên bức tường cuối cùng là bức chân dung chị Pauline năm 10 tuổi ngồi một mình; phía dưới bức chân dung này con đặt một cái bàn trên đó con để một cái lồng chim lớn, trong đó nhốt một số lớn các thứ chim làm điếc tai các khách tới thăm bằng những tiếng hót líu lo của chúng, nhưng lại làm suy mê cô chủ nhỏ rất cưng chúng... Lại còn có cái “kệ nhỏ màu trắng” chất đầy các sách vở học tập của con, vv... Trên cái kệ này con để một tượng Đức Mẹ với nhiều chiếc bình luôn luôn cắm đầy hoa tươi, mấy cây đèn, xung quanh có rất nhiều tượng nhỏ của các Thánh Nam và Nữ, các giỏ nhỏ bằng vỏ sò, các hộp bằng giấy bìa, vv...! Sau cùng là cái vườn của con treo lơ lửng phía trước cửa sổ, nơi con chăm sóc các chậu hoa (những loài hoa hiếm nhất mà con có thể kiếm được); con cũng còn có một cái bồn hoa bên trong “viện bảo tàng” của con, ở đó con trồng các thứ cây cưng của con... Phía trước cửa sổ [43r0] con đặt chiếc bàn phủ một tấm thảm xanh, trên đó con đặt chiếc đồng hồ cát ở giữa, một tượng nhỏ Thánh Giuse, một cái hộp đồng hồ, các giỏ hoa, một bình mực, vv... Các đồ đạc cuối cùng của con là mấy chiếc ghế khập khiễng và chiếc giường búp bê xinh xinh của chị Pauline. Quả thực căn gác nghèo nàn này là cả một thế giới của con và giống như ông de Maistre, con có thể sáng tác một quyển sách nhan đề “Đi dạo quanh phòng tôi”. Con thích ở một mình hằng giờ trong căn phòng này để học và suy niệm trước cảnh đẹp trải ra trước mắt con... Khi biết tin chị Marie sắp ra đi, căn phòng này đối với con không còn sức lôi cuốn nữa. Con không muốn rời xa dù chỉ một lát bà chị yêu dấu sắp bay đi... Con đã tạo ra biết bao dịp cho chị thực hành đức kiên nhẫn; mỗi lần đi qua trước cửa phòng chị, con gõ cho đến khi chị mở và con ôm hôn chị bằng cả trái tim con, con muốn hôn chị thật là nhiều để dành cho suốt thời gian con phải xa chị.
Một tháng trước khi chị vào Cát Minh,76 Ba đưa chúng con về thăm Alençon, nhưng chuyến đi này khác xa chuyến đi lần đầu: con chỉ thấy buồn sầu cay đắng. Con không thể nào tả nổi những giọt nước mắt con để rơi trên mộ Má, vì con đã quên không mang theo một bó hoa cúc lam con đã chuẩn bị cho Má. Con tự làm khổ mình vì mọi chuyện, thật khác với bây giờ, Chúa đã ban cho con ơn không bị đánh gục bởi bất cứ chuyện tạm bợ nào. Mỗi khi nhớ lại thời gian qua, hồn con tràn ngập tâm tình biết ơn khi thấy những ân huệ con nhận được từ Trời, nó đã thay đổi hẳn con người con, khiến con không còn thể nhận ra chính mình nữa... Quả thật con ước ao được ơn “tuyệt đối làm chủ trên các hành động của con, làm chủ chứ không làm nô lệ chúng.” [43v0] Những lời này của Gương Chúa Giêsu đánh động tâm hồn con sâu xa, nhưng con phải mua ơn vô giá này bằng các ước vọng của con; con vẫn còn là một đứa bé dường như chẳng có ý muốn nào mà chỉ làm theo ý muốn của những người khác, vì thế những người ở Alençon cho rằng con thiếu bản lĩnh... Chính trong chuyến đi này Léonie thử đi vào dòng Clara.77 con đau khổ vì chuyện vào dòng một cách bất thường này của chị, vì con rất yêu chị và không được ôm hôn từ biệt chị.
Không bao giờ con quên được lòng hiền từ và vẻ bối rối của người Cha dễ thương này khi đến báo cho chúng con biết chị Léonie đã mặc áo dòng Clara... Giống như chúng con, ba thấy chuyện này khá kỳ lạ, nhưng ba không nói gì, vì thấy chị Marie rất bất mãn. Ba đưa chúng con tới tu viện và ở đó, con cảm thấy lòng se thắt, một cảm giác mà con chưa bao giờ có khi đứng trước một tu viện, ngược hẳn với cảm giác khoan khoái khi con đứng trước tu viện Cát Minh... Dáng vẻ của các chị nữ tu ở đó cũng không làm con phấn khởi hơn, và con không cảm thấy được lôi cuốn đến sống với các chị; nhưng chị Léonie yêu dấu trông cũng khá xinh xắn dưới bộ áo dòng mới, chị bảo chúng con nhìn kỹ cặp mắt chỉ vì chúng con sẽ không còn được thấy mắt chị nữa (các nữ tu Clara luôn luôn nhìn xuống đất), nhưng Chúa Nhân Lành đã thương chỉ để Léonie chịu hy sinh trong hai tháng rồi trở về cho chúng con thấy lại cặp mắt xanh thường xuyên ướt nước mắt của chị... Khi rời Alençon, con nghĩ chị ấy sẽ ở lại với các chị dòng Clara, vì thế con rời khu phố buồn hình trăng bán nguyệt với cõi lòng nặng trĩu. Chúng con chỉ còn lại ba chị em, và không lâu nữa chị Marie yêu dấu cũng sẽ bỏ chúng con mà đi... Ngày 15 tháng 10 là ngày ly biệt! Từ một gia đình đông người và vui vẻ ở Buissonnets, nay chỉ còn lại hai đứa út... Bầy chim câu đã rời tổ ấm, những con chim con lại cũng muốn bay theo, nhưng đôi cánh chúng [44r0] còn quá non chưa thể bung ra được. Chúa Nhân Lành muốn gọi đứa bé nhất và yếu đuối nhất đến với Người, vì thế Người đã cho nó phát triển đôi cánh thật mau. Người là Đấng thích chứng tỏ lòng nhân và sức mạnh của Người bằng các dụng cụ thấp hèn, nên Người đã thích kêu gọi con trước chị Céline là người đáng được ân huệ này hơn con, nhưng Giêsu biết rõ con yếu đuối như thế nào, chính vì vậy Người đã giấu kín con trước trong hốc đá (1C 1,26-29; Dc 2,14).78
Thời chị Marie vào dòng Cát Minh, con vẫn còn bị tình trạng bối rối nặng. Vì không còn chị để giãi bày tâm sự, con quay về phía Trời. Con hướng về bốn thiên thần nhỏ79 đã lên đó trước con, vì con nghĩ các tâm hồn vô tội này vốn không hề biết đến các rắc rối hay nỗi sợ, nên chắc chắn phải thương đến đứa em nhỏ tội nghiệp đang đau khổ ở trần gian. Con nói với các anh chị bằng sự đơn sơ của trẻ nhỏ, con nhắc các anh chị nhớ rằng em là út trong gia đình, em luôn luôn được thương nhiều nhất, được các chị âu yếm vỗ về dạt dào nhất, giả như các anh chị còn sống ở trần gian, chắc chắn em cũng được hưởng những tình cảm yêu thương của các anh chị như vậy... Việc các anh chị ra đi về Trời không phải là lý do làm anh chị quên em, ngược lại, vì các anh chị đang được hưởng những kho báu của Thiên Chúa, thì sẽ nhờ đó mà xin cho em được bình an và chứng tỏ cho em thấy rằng ở trên Trời người ta vẫn còn biết yêu thương!... Câu trả lời không phải đợi lâu, vì bình an đã sớm đổ tràn hồn con bằng những đợt sóng ngọt ngào và con hiểu rằng nếu con được yêu thương ở dưới đất, con cũng được yêu thương ở trên Trời... Từ lúc ấy con ngày càng tăng thêm lòng mộ mến các anh chị bé của con và con thích thường xuyên tâm sự với các anh chị, kể cho các anh chị về những nỗi buồn của kiếp lưu đày... Về ước muốn con sớm80 được đoàn tụ với các anh chị trên Quê Hương!...
Nếu Trời đổ đầy tràn ân huệ cho con, thì không phải là con đáng được, vì con vẫn còn rất khiếm khuyết. Đúng là con hết sức ao ước thực hành nhân đức, [44v0] nhưng con làm điều đó khá kỳ cục, như ví dụ sau đây: Vì là út trong n hà, con không quen tự lo cho mình. Céline thì dọn dẹp phng ngủ chung của chúng con còn con thì chẳng đụng đến một công việc gì trong nhà; sau khi chị Marie vào dòng Cát Minh, đôi khi để làm đẹp lòng Chúa, con cố gắng dọn giường, hay cất các chậu bông của chị Céline vào trong nhà mỗi buổi tối khi chị vắng mặt; như con vừa nói, chỉ là để làm đẹp lòng một mình Chúa mà thôi, vì thế lẽ ra con không được mong đợi lời cảm ơn của các tạo vật. Thế mà, than ôi nếu chẳng may Céline không tỏ vẻ vui mừng hay ngạc nhiên vì các việc phục vụ nho nhỏ của con, thì con không vui và tỏ lộ điều đó bằng những giọt nước mắt...
Tính quá nhạy cảm81 của con khiến con trở nên thực sự không thể chịu đựng nổi, vì thế nếu con vô tình làm mất lòng một người nào mà con yêu mến, thì thay vì khắc phục và không khóc, con lại khóc sướt mướt giống như bà Mađalêna, và rồi con lại khóc vì đã khóc... Mọi lý luận đều vô ích và con không thể nào sửa được cái khuyết điểm xấu xa này. Con không biết làm sao mình ấp ủ cái lý tưởng ngọt ngào vào dòng Cát Minh, khi mà con còn trong tã lót của tuổi thơ!82... Hẳn là Chúa phải làm một phép lạ để làm cho con lớn lên chỉ trong một chốc lát và phép lạ này Người đã làm vào ngày lễ Noel không thể nào quên,83 vào cái đêm ánh sáng rọi chiếu những niềm vui84 của Ba Ngôi Chí Thánh, cái đêm mà Giêsu Hài Nhi dịu hiền bé nhỏ chỉ trong một giờ đã biến đổi đêm tối tâm hồn con thành những dòng thác ánh sáng... Vào đêm hôm ấy, Người trở nên yếu đuối và đau khổ vì yêu con, để làm cho con nên mạnh mẽ và can đảm. Người mặc cho con áo giáp của Người, và từ cái đêm hồng phúc ấy, con không thua một trận chiến nào, trái lại con đi từ chiến thắng này đến chiến thắng khác, và có thể nói là con khởi sự “đường chạy của người khổng lồ!”85 [45r0] Nguồn nước mắt của con cạn đi và hoạ hoằn lắm nó mới lại mở ra nhưng rất hiếm, đúng như có người đã nói với con: “Con khóc quá nhiều lúc còn bé thì về sau con sẽ không còn nước mắt để khóc nữa!...”
 
Ơn Lễ Giáng Sinh - Cơn khát của Giêsu - Một kẻ tử tội: Pranzini, đứa con đầu lòng của con - Gương Chúa Giêsu và Arninjon - Các chân lý lớn của đạo - Trên căn chòi gác - Giêsu hướng đạo duy nhất - Lý tưởng của hạnh phúc - Tin tưởng mãnh liệt - Cậu Guérin không cho phép - Phép lạ đã được ban - Sự chống đối của Cha Bề Trên - Những rung động chưa từng thấy - Các tâm hồn trẻ thơ - Viếng thăm Đức Giám mục - Từ khi có trí khôn - không hết hy vọng.

Ngày 25 tháng 12 năm 1886 chính là ngày con được ơn ra khỏi tuổi ấu thơ, nói gọn là ơn hoán cải hoàn toàn. - Chúng con đi lễ nửa đêm về và con vừa mới được hạnh phúc tiếp rước Thiên Chúa hùng mạnh và quyền năng. Vừa về đến Buissonnets, con vui sướng chạy đến lấy đôi giày trong lò sưởi, một thói quen xưa đã đem lại biết bao niềm vui cho tuổi thơ của chúng con, và Céline vẫn muốn tiếp tục coi con như một đứa con nít vì con bé nhất nhà... Bà thì rất vui khi thấy con hạnh phúc, được nghe những tiếng reo vui mừng khi rút từng món quà bất ngờ trong các chiếc giày thần tiên, và niềm vui của Đức Vua yêu dấu của con càng làm cho hạnh phúc của con tăng lên rất nhiều. Nhưng Giêsu muốn cho con thấy rằng con phải bỏ đi những khuyết điểm của tuổi thơ, vì thế Người cũng lấy đi những niềm vui ngây thơ. Người đã làm cho Ba, trong tâm trạng mệt mỏi sau thánh lễ nửa đêm, tỏ ra chán ngán khi nhìn những chiếc giày của con và thốt ra những lời xé nát tin con: “May mà đây sẽ là năm cuối!” Con chạy ngay lên cầu thang để cất mũ, Céline biết tính nhạy cảm của con và nhận thấy những giọt nước mắt long lanh trong mắt con, nên chị cũng muốn khóc, vì chị rất yêu con và hiểu nỗi khổ tâm của con: “Têrêsa ơi! Chị nói, đừng xuống ngay, em sẽ rất đau khổ khi nhìn vào những chiếc giày của em.” Nhưng Têrêsa không còn như trước nữa, Giêsu đã biến đổi lòng nó rồi!1 Nuốt nước mắt, con đi nhanh xuống thang và nén những nhịp tim đập, con cầm lấy những chiếc giày và đặt chúng ra trước mặt Ba, con hớn hở lôi ra tất cả các món quà, mặt tỏ vẻ mừng rỡ như một nữ hoàng. Ba cười, ông cũng vui trở lại còn Céline thì tưởng là mình đang mơ!... May thay đó là một thực tại ngọt ngào, bé Têrêsa đã tìm lại được sức mạnh tâm hồn mà em đã mất năm 4 tuổi rưỡi2 và em sẽ giữ gìn được nó mãi mãi!...
[45v0] Cái đêm ánh sáng ấy đánh dấu khởi đầu thời kỳ thứ ba của đời con,3 thời kỳ đẹp nhất, đầy tràn ân sủng của Trời nhất. Công việc mà trong 10 năm con đã không làm được thì chỉ trong chốc lát Giêsu đã làm cho con, Người chỉ cần thiện chí của con, là cái mà con không bao giờ thiếu. Giống như các Tông đồ, con có thể thưa với Người: “Lạy Chúa, con đã thả lưới suốt đêm mà không bắt được gì cả.” (Lc 5,4-10)4 Người thương xót con hơn cả các môn đệ của Người, Giêsu đích thân cầm lưới, thả lưới và kéo lưới lên đầy cá... Người biến con trở thành một ngư phủ lưới các linh hồn, con cảm thấy ước vọng to lớn là làm việc để xin ơn hoán cải cho các tội nhân,5 một ước vọng mà con chưa từng cảm thấy mãnh liệt đến thế... Tóm lại, con cảm thấy đức ái đi vào lòng con, con cần phải quên mình để làm hài lòng6 người khác và từ lúc ấy con được hạnh phúc! Một Chúa Nhật, khi nhìn ảnh Chúa chịu treo trên Thập Giá, con bị đánh động bởi thấy máu đổ ra từ một tay Người, con rất đau đớn khi nghĩ rằng máy ấy đổ xuống đất mà chẳng có ai vội hứng lấy, và con quyết tâm lấy tinh thần đứng dưới chân Thập Giá để đón nhận sương sa Thần Linh7 từ đó chảy xuống, rồi đem rảy trên các linh hồn... Tiếng kêu của Giêsu trên Thánh Giá cũng vang dội liên tục trong lòng con: “Ta khát!” (Ga 19,28).8 Những lời này đốt lên nơi lòng con một ngọn lửa nhiệm mầu và rất mãnh liệt... Con muốn cho Người Yêu của con uống nước và con cảm thấy chính mình bị xâu xé vì cơn khát các linh hồn... Chưa phải là linh hồn của các linh mục9 thu hút con, mà là linh hồn của các đại tội nhân, con cháy bỏng niềm ước ao muốn giật thoát các linh hồn ấy khỏi lửa đời đời...
Để kích thích nhiệt tình của con, Chúa Nhân Lành, cho con thấy rằng Người hài lòng vì các ước muốn của con. - Con nghe nói có một phạm nhân vừa bị kết án tử hình vì những trọng tội ghê tởm,10 mọi dữ kiện cho thấy người ấy sẽ chết mà không hối cải. Con muốn bằng mọi giá phải ngăn ngừa anh ta khỏi xuống hoả ngục,11 và để đạt được điều này, con sử dụng mọi phương tiện có thể tưởng tượng ra: nghĩ rằng tự mình con chẳng thể làm được gì, con dâng [46r0] lên Chúa Nhân Lành mọi công phúc vô biên12 của Chúa Giêsu, các kho tàng của Hội Thánh, sau cùng con xin chị Céline xin một lễ cầu theo ý của con. Sở dĩ con không dám tự mình đi xin lễ, là vì sợ buộc phải thú thật rằng đó là để cầu cho Pranzini, kẻ tử tội. Con cũng không muốn nói rõ cho Céline biết, nhưng chị ấy cứ hỏi những câu hỏi nhẹ nhàng và thúc bách quá khiến con phải tiết lộ bí mật cho chị; thay vì cười nhạo con, chị xin con cho chị góp phần cải hoá tội nhân của con. Con chấp nhận với lòng biết ơn, vì con thực sự muốn rằng mọi tạo vật cùng hiệp sức với con để van nài ân sủng cho tội nhân ấy. Tự thâm tâm con có cảm giác chắc chắn rằng các ước vọng của chúng con đã được toại nguyện, nhưng để lấy can đảm tiếp tục cầu nguyện cho các tội nhân, con thưa với Chúa rằng con chắc chắn Người sẽ tha thứ cho anh Pranzini tội nghiệp kia, con tin chắc như thế cả khi anh ta không xưng tội và không tỏ một dấu hối cải nào, vì con tin tưởng vào lòng nhân từ vô biên của Giêsu. Nhưng con chỉ xin Người “một dấu hiệu” hối cải chỉ để an ủi con mà thôi... Lời cầu xin của con đã được chấp nhận từng chữ! Mặc dù Ba cấm không cho chúng con đọc báo, nhưng con tin rằng đọc những đoạn nói về Pranzini chắc không phải là không vâng lời Ba. Sau ngày tội nhân bị hành quyết, con có trong tay tờ báo: “La Croix”. Con vội vàng mở ra và con thấy gì?... A! Nước mắt con để lộ cảm xúc của con và con buộc phải ẩn mặt đi... Pranzini không xưng tội, anh ta lên đoạn đầu đài và chuẩn bị đưa đầu vào cái lỗ ghê sợ, thì đột nhiên, do một sự soi sáng bất ngờ, anh quay lại, cầm lấy tượng Chịu Nạn mà vị linh mục đưa cho anh rồi hôn ba lần vào các thương tích thánh của Chúa!... Sau đó linh hồn anh đến nhận bản án nhân từ của Đấng tuyên bố rằng trên Trời vui mừng vì một người tội lỗi hối cải còn hơn vì 99 người công chính không cần hối cải! (Lc 15,7).13
Con đã nhận được “dấu hiệu” con xin và dấu hiệu ấy là bản sao trung thực về [46v0] các ơn Giêsu đã ban cho con để kích thích con cầu nguyện cho những người tội lỗi. Chẳng phải trước những thương tích của Giêsu, khi nhìn thấy Máu Thánh Người đổ ra mà cơn khát các linh hồn đã đi vào lòng con sao? Con muốn cho các linh hồn ấy uống Máu thanh sạch này để rửa sạch các vết nhơ tội lỗi của họ, và đôi môi của “đứa con đầu lòng của con” đã tìm đến gắn chặt vào các thương tích thánh!!! Một lời đáp dịu dàng không thể tả xiết! A! Kể từ lúc nhận ơn huệ độc đáo này, ước muốn cứu các linh hồn cứ lớn lên trong con từng ngày. Con như thể được nghe Giêsu nói với con như với người phụ nữ Samarie: “Cho tôi uống nước!” (Ga 4,15). Đó là một cuộc trao đổi tình yêu đích thực; với các linh hồn, con cho họ Máu của Giêsu, với Giêsu, con dâng cho Người những linh hồn này sau khi đã được tưới mát bởi sương Trời, bằng cách đó con như thể làm cho Người giãn khát; và con càng cho Người uống, cơn khát của hồn con càng gia tăng, và cơn khát cháy bỏng này chính là thức uống ngọt ngào của tình yêu Người ban cho con...
Chỉ trong một thời gian ngắn, Thiên Chúa đã biết cách đưa con ra khỏi cái vòng chật hẹp con cứ xoay sở mãi mà không biết thoát ra cách nào. Khi nhìn thấy con đường Người dẫn con đi, lòng biết ơn của con tăng lên, nhưng con còn phải thích nghi với nó; cái bước dài nhất đã được thực hiện, nhưng con còn biết bao nhiêu điều phải từ bỏ. Được thoát khỏi những bối rối lương tâm và tính nhạy cảm thái quá, tinh thần con phát triển.14 Con luôn luôn yêu cái đẹp, cái cao cả, nhưng ở thời kỳ ấy con bị lôi kéo bởi một ước muốn hiểu biết quá độ. Không bằng lòng với các bài vở ở trường, con còn chăm chỉ tự học các môn đặc biệt như lịch sử và khoa học.15 Con dửng dưng với các môn khác, nhưng hai môn này thu hút tất cả sự chú ý của con, nên chỉ trong ít tháng, con đã thu lượm được nhiều kiến thức hơn cả trong những năm học ở trường. Ôi! Tất cả chỉ là phù vân và gây phiền muộn cho tinh thần (Gv 2,11).16 Con thường xuyên nhớ đến chương sách Gương Chúa Giêsu17 nói về các khoa học, nhưng con vẫn kiếm cách để tiếp tục học các môn ấy, tự nhủ rằng mình còn ở tuổi học hành, nên cũng chẳng có [47r0] thiệt hại gì. Con không tin rằng điều này làm mất lòng Chúa (mặc dù con nhìn nhận rằng đó là thời gian vô ích) vì con chỉ dùng một số giờ nhất định và con không muốn vượt quá để hãm dẹp ước muốn hiểu biết quá mạnh của con... Con đang ở đội tuổi nguy hiểm nhất đối với các thiếu nữ, nhưng Chúa Nhân Lành đã làm cho con điều ngôn sứ Êdêkiel thuật lại18 trong các lời sấm của ông: “Đi ngang qua chỗ tôi, Giêsu thấy tôi đã đến tuổi yêu đương, Người kết giao ước với tôi và [tôi] trở thành của Người... Người đã lấy áo choàng phủ lên người tôi, đã tắm rửa tôi trong dầu thơm quý, đã mặc cho tôi đồ gấm vóc, cho tôi đeo kiềng và đồ trang sức hảo hạng... Người đã nuôi tôi bằng tinh bột lúa miến, mật ong và dầu dư dật... Lúc ấy tôi trở nên xinh đẹp trước mắt Người và Người đã biến tôi thành một nữ hoàng quyền uy!” (Ed 16,8-13).19
Vâng, Giêsu đã làm tất cả những điều đó cho con, con có thể lặp lại từng từ mà con vừa viết và chứng minh rằng nó đã được thể hiện cho con, nhưng những ân huệ con kể trên kia đã là một chứng minh đủ rồi, con sẽ chỉ nói đến thứ lương thực mà Người đã ban “dư dật” cho con. Từ lâu con đã sống bằng “tinh bộ lúa miến” chứa trong sách Gương Chúa Giêsu, đó là quyển sách duy nhất mang lại lợi ích cho con, vì con chưa tìm thấy kho tàng ẩn giấu trong sách Các Tin Mừng.20 Con thuộc lòng hầu như từng chương trong quyển sách Gương Chúa Giêsu rất quý giá đối với con, cuốn sách nhỏ này không bao giờ rời con; mùa hè, con mang nó trong túi, mùa đông trong bao tay. Hơn nữa, ở nhà mợ mọi người đã có truyền thống giải trí bằng cách mở ra tình cờ một chỗ nào đó trong sách rồi bảo con đọc chương mà họ thấy trước mắt. Ở tuổi 14, với ước muốn hiểu biết của con, Chúa Nhân Lành thấy rằng cần phải kết hợp “tinh bột lúa miến với mật ong và dầu dư dật”. Mật ong và dầu này, Người cho con tìm thấy trong sách các bài giảng của Cha Arminjon, về ngày cùng tận của thế giới này và các mầu nhiệm của cuộc sống mai sau.21
Đọc sách này cũng còn là một trong các ân huệ lớn cho đời con. Con ngồi đọc bên cửa sổ phòng học của con, và nó đã tạo một ấn tượng quá sâu sắc và quá dịu dàng không thể nào tả nổi...
Tất cả các chân lý của đạo, các mầu nhiệm vĩnh cửu, đưa vào tâm hồn con một niềm hạnh phúc không phải của trần gian này... Con đã linh cảm trước được điều mà Thiên Chúa dành cho những ai yêu mến Người (không phải bằng mắt của người phàm mà bằng mắt của con tim), và  vì thấy rằng các hy sinh nhẹ nhàng của đời này không thể nào sánh được với các phần thưởng đời đời, con muốn yêu, yêu Giêsu bằng tất cả sự say đắm, trao tặng Người muôn vàn dấu chứng tình yêu bao lâu con còn có thể... Con chép lại nhiều đoạn về tình yêu trọn hảo và về sự đón tiếp mà Chúa Nhân Lành sẽ thực hiện cho các kẻ Người chọn vào lúc mà chính Người sẽ trở nên phần thưởng to lớn và vĩnh cửu, con không ngừng nhẩm đi nhẩm lại các lời yêu đương đang đốt cháy tim con... Céline trở thành bạn tâm sự chí thiết của các tư tưởng của con; kể từ ngày lễ Noel, chúng con có thể hiểu nhau, sự xa cách về tuổi không còn nữa, vì con đã lớn lên về vóc dáng22 và nhất là về ân sủng... Trước thời kỳ này con thường hay phàn nàn vì không bao giờ được biết các bí mật của Céline, chị bảo con rằng con còn quá bé, con phải cao lên bằng chiếc ghế đẩu thì chị mới có thể tin tưởng để tâm sự với con... Con thích trèo lên chiếc ghế đẩu mỗi khi ở bên cạnh chị, và con xin chị thổ lộ cõi lòng cho con, nhưng mánh khoé này của con chẳng tác dụng gì cả, giữa hai chúng con vẫn còn một khoảng cách!
Giêsu muốn chúng con cùng nhau tiến bộ, nên đã tạo nên trong lòng chúng con những sợi dây liên kết mạnh hơn cả những mối liên hệ máu mủ, Người làm chúng con trở thành những chị em linh hồn,23 bằng cách thể hiện nơi chúng con những lời của sách Tình Ca của Thánh Gioan Thánh Giá (nói Lang Quân, hiền thê thốt lên: (“Theo sau vết chân anh, các thiếu nữ bước đi nhẹ nhàng trên đường, sự đụng chạm của [48r0] tia lửa, rượu say tạo ra nơi họ những khát vọng thần linh thơm phức.” Vâng, đúng là chúng con đi theo vết chân Giêsu một cách nhẹ nhàng, các tia lửa tình yêu Người gieo đầy tay vào trong tâm hồn chúng con, rượu ngon và mạnh Người cho chúng con uống đã làm biến đi trước mắt chúng con những sự chóng qua, và tự đôi môi chúng con phát ra những khát vọng yêu đương do Người khơi dậy. Ngọt ngào biết bao những cuộc trò chuyện của chúng con mỗi tối trên căn chòi gác!24 Mắt nhìn về nơi xa xăm, chúng con chiêm ngắm vầng trăng già dịu dàng vươn lên sau những bóng cây to... Ánh trăng bạc nó đổ xuống vạn vật đang chìm vào giấc ngủ, các vì sao lấp lánh trong bầu trời xanh thăm thẳm... Làn gió đêm nhè nhẹ làm trôi đi những đám mây bạc, tất cả đều nâng hồn chúng con lên Trời, Trời quá đẹp mà chúng con mới chỉ ngắm nhìn được “mặt sau trong vắt” của nó...
Không biết con có lầm không nhưng có vẻ như việc thổ lộ cõi lòng của chúng con rất giống Monica và người con trai ngài khi các ngài ngây ngất trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ ở bến cảng Ostie! Dường như chúng con đã nhận được những ơn cũng cao trọng như các vị đại thánh. Như lời sách Gương Chúa Giêsu, Chúa Nhân Lành đôi khi tự mạc khải mình giữa một vầng sáng chói chang hay “nhẹ nhàng ẩn giấu dưới các hình các bóng”, Người đã thương tỏ lộ cho linh hồn chúng con bằng cách thức này, nhưng tấm màn ngăn cách Giêsu với chúng con thì trong suốt và mỏng biết bao! Không thể có hoài nghi, Đức Tin và Đức Cậy không còn cần nữa,25 lòng mến đã cho chúng ta tìm thấy ở dưới đất Người mà chúng ta đi tìm. “Gặp Người một mình, chúng con được Người tặng nụ hôn, để trong tương lai không ai có thể coi thường chúng con.” (xem Dc 8,1).26
Những ân huệ cao vời như thế không thể không sinh hoa kết quả, thậm chí rất dồi dào. Việc thực hành nhân đức trở nên nhẹ nhàng và tự nhiên; lúc đầu cuộc chiến đấu còn tỏ lộ trên nét mặt con, nhưng dần dần ấn tượng này biến đi và sự từ bỏ đối với con trở nên dễ dàng. Giêsu đã nói: [48v0] “Ai đã có thì sẽ được cho thêm, và sẽ có dư dật.” (Mt 13,12; 25,29).27 Người đã ban cho con vô vàn ân huệ khác nữa... Người ban chính Người cho con khi Rước Lễ, thường xuyên hơn cả điều con dám mong đợi. Con đã lấy nguyên tắc là không bỏ lỡ một lần rước lễ nào mà cha giải tội cho phép, nhưng để tự ngài quyết định số lần con được rước lễ, chứ con không đòi hỏi. Dạo ấy con chưa táo bạo như bây giờ, nếu không con đã hành động khác rồi, vì con tin chắc rằng một linh hồn phải nói với cha giải tội ước muốn được rước Chúa mà mình cảm thấy trong lòng. Người từ trời ngự xuống mỗi ngày không phải để ở lại trong bình vàng,28 nhưng để tìm ra một Trời khác quý báu đối với Người hơn Trời kia. Người muốn tìm ra Trời trong linh hồn chúng ta, được tạo dựng theo hình ảnh Người, là đền thờ sống của Ba Ngôi đáng tôn thờ! (xem St 1,26-27).29
Giêsu thấy rõ ước muốn và ý ngay lành của con, Người đã cho phép để trong tháng 5, cha giải tội bảo con rước lễ 4 lần mỗi tuần và sau khi cái tháng đẹp đẽ này qua đi, ngài còn cho con thêm một lần thứ năm mỗi khi có một lễ trọng. Những giọt nước mắt ngọt ngào chảy trên má con khi con ra khỏi toà giải tội; con thấy chính Giêsu muốn đích thân hiến mình cho con, vì con ở trong toà giải tội rất ít thời gian, ở đó con không bao giờ nói ra các tình cảm thâm sâu của mình, đường con đi đã thẳng băng, thật trong sáng khiến con không phải nhờ đến một người dẫn đường nào khác ngoài Giêsu... Con ví các cha linh hướng như là những tấm gương trung thành phản ánh Giêsu trong các linh hồn và con nói rằng đối với con Chúa Nhân Lành không cần sử dụng trung gian, nhưng Người hành động trực tiếp!...
Khi người làm vườn cẩn thận chăm sóc một trái cây mà họ muốn nó chín trái mùa, không bao giờ họ để nó ở lại trên cây, nhưng muốn bày nó ra thật hấp dẫn trên bàn ăn. Chính với ý định giống như thế mà Giêsu đổ tràn ân huệ của Người xuống bông hoa nhỏ của Người... Trong một lúc ngấy ngây vui sướng trong cuộc đời ở trần gian, Người đã reo lên: “Cha ơi, con chúc tụng Cha vì đã giấu những điều này với những kẻ tài trí khôn ngoan, và đã mạc khải cho những kẻ bé mọn” (Lc 10,21),30 Người muốn bung ra lòng từ bi của Người trong con; vì con thấp hèn yếu đuối, Người đã cúi xuống trên con, đã dạy con trong nơi bí mật những chuyện về tình yêu của Người. A! Nếu các bậc thông thái miệt mài với việc học trong đời họ mà đến hỏi con,31 hẳn họ sẽ kinh ngạc khi thấy một đứa bé mười bốn tuổi mà đã hiểu được những bí mật của sự hoàn thiện, những bí mật mà tất cả khoa học của họ không thể phát hiện cho họ, vì để có chúng, cần phải có tinh thần nghèo khó! (Mt 5,3).32
Như Thánh Gioan Thánh Giá nói trong sách linh ca của ngài: “Tôi không có người hướng đạo, không có ánh sáng, ngoại trừ ánh sáng chiếu trong tim tôi, ánh sáng này dẫn đường cho tôi đến nơi mà Đấng hiểu thấu tôi đang đợi tôi còn chắc chắn hơn cả ánh mặt trời chính ngọ.” Nơi ấy chính là Cát Minh; trước khi “nằm nghỉ dưới bóng của Đấng mà con mong ước” (Dc 2,3),33 con phải đi qua nhiều thử thách, nhưng tiếng gọi Thần Linh quá thúc bách khiến cho dù có phải bước qua lửa, con cũng bước qua để trung thành với Giêsu... Để khích lệ con trong ơn gọi, con chỉ tìm được một tâm hồn duy nhất, đó là tâm hồn của Mẹ dấu yêu của con... Tim con tìm được trong tim Mẹ một tiếng vang trung thành và không có Mẹ thì hẳn con đã không thể đi đến bến bờ hạnh phúc, là bến bờ đã đón nhận Mẹ từ 5 năm này trên mảnh đất ướt đẫm sương trời... Vâng, thưa Mẹ yêu dấu, con xa Mẹ đã 5 năm rồi, con cứ tưởng đã mất Mẹ, nhưng đúng lúc con gặp thử thách thì chính bàn tay Mẹ đã chỉ cho con con đường phải theo... Con cần đến sự nâng đỡ ấy mà các lần viếng thăm ở Cát Minh ngày càng làm cho con đau khổ vì con không thể thổ lộ ước muốn vào dòng mà không cảm thấy mình sẽ bị từ chối. Chị Marie thấy con còn quá trẻ nên đã cố hết sức ngăn cản con vào dòng; còn chính Mẹ, thưa Mẹ của con, để thử thách con, đôi khi Mẹ cũng cố làm nguội đi nhiệt huyết của con [49v0] để nếu con thực sự không có ơn gọi, con sẽ dừng lại ngay vì những chướng ngại xuất hiện ngay lúc con bắt đầu đáp lại tiếng gọi của Giêsu. Con không muốn cho Céline biết ước muốn vào Cát Minh khi con còn quá trẻ như thế, điều này càng làm cho con thêm đau khổ vì con thật khó giấu được chị điều gì... Nỗi khổ tâm này không kéo dài lâu, vì Chị bé yêu dấu của con sớm biết được quyết tâm của con.34 và thay vì ngăn cản con, chị đã chấp nhận sự hy sinh mà Chúa Nhân Lành đòi hỏi nơi chị, với một lòng can đảm đáng thán phục. Để hiểu được sự hy sinh này to lớn bao nhiêu, cần phải biết chúng con gắn bó với nhau mật thiết đến mức nào... Có thể nói chúng con sống chỉ có một lòng một ý; từ ít tháng nay35 hai chúng con vui hưởng cuộc sống cùng nhau một cách hạnh phúc hơn mọi thiếu nữ khác có thể mơ tưởng. Chung quanh chúng con, cái gì cũng thoả mãn các Sở thích của chúng con, chúng con được rất nhiều tự do thoải mái, cuối cùng con đã nói rằng cuộc sống của chúng con chính là Lý tưởng của hạnh phúc ở dưới đất này... Nhưng chúng con vừa có được thời gian nếm cảm cái lý tưởng của hạnh phúc này thì đã phải tự nguyện từ bỏ nó, và Céline yêu dấu của con không một chút phản kháng. Người mà Giêsu kêu gọi trước không phải là chị, lẽ ra chị có lý để phàn nàn... vì có cùng ơn gọi như con, lẽ ra chị phải được đi trước!36 nhưng cũng giống như thời các vị tử đạo, những người còn ở lại trong tù vui vẻ trao nụ hôn bình an cho các anh chị em đi trước để chiến đấu trong pháp trường và tự an ủi với tư tưởng rằng có thể mình sẽ được dành cho các trận chiến quan trọng hơn, thì cũng thế, Céline sẵn sàng để Têrêsa yêu dấu rời xa chị và chị ở lại một mình vì trận chiến vinh quang và đẫm máu mà Giêsu đã muốn dành cho chị như là người được sủng ái!
Thế là Céline trở thành bạn tâm giao về các cuộc chiến đấu và đau khổ của con, chị dự phần vào đó như thể là ơn gọi của chính chị; về phía chị, con không sợ bị phản đối, nhưng con không biết có cách nào để ngỏ ý với Ba... Làm sao có thể xin Ba xa rời nữ hoàng nhỏ của Ba, khi Ba vừa mới hy sinh ba cô con gái đầu của Ba?37 A! Tâm hồn con đã phải dằn vặt biết bao trước khi [50r0] thấy đủ can đảm để nói với Ba! Dẫu sao con cũng phải quyết định, vì con sắp mười bốn tuổi rưỡi rồi, chỉ còn sáu tháng nữa là đến đêm Noel hạnh phúc, đêm mà vào giờ này năm ngoái, con đã nhận được “ơn hoán cải” và đã quyết định vào dòng.38 bằng cầu nguyện và hy sinh? Phải đợi đến chiều sau khi đi đọc kinh chiều về, con mới tìm được cơ hội để nói với Ba yêu dấu của con. Ba đến ngồi ở cạnh bể nước mưa, ở đó, hai tay khoanh lại, ba nghiêm ngắm những điều kỳ diệu của thiên nhiên, mặt trời với những tia lửa đã dịu nhuộm vàng những ngọn cây cao, những chú chim nhỏ ríu rít hát kinh chiều. Khuôn mặt đẹp của Ba được vẻ thiên thai, con có cảm giác tâm hồn Ba tràn ngập an bình; không nói gì và mắt đã rưng rưng, con đến ngồi sát cạnh Ba. Ba âu yếm nhìn con và ôm đầu con tựa vào ngực Ba, Ba hỏi: “Nữ hoàng nhỏ của ba có chuyện gì?... Kể cho ba nghe đi...” Rồi đứng dậy như cố nén xúc động, Ba đi chầm chậm, tay vẫn áp sát đầu con vào ngực Ba. Trong nước mắt con thổ lộ ước muốn của con vào dòng Cát Minh, lúc ấy nước mắt Ba hào lẫn với nước mắt con, nhưng Ba không nói một lời nào ngăn cản ơn gọi của con, ba chỉ nhắc con rằng con còn quá trẻ làm sao có thể quyết định một việc quan trọng như thế. Nhưng con biện hộ cho lý tưởng của con khá vững, nên với bản chất đơn sơ ngay thẳng của Ba, Ba mau chóng được thuyết phục40 và tin rằng ước muốn của con cũng chính là ước muốn của Thiên Chúa, và với đức tin sâu xa, Ba thốt lên rằng Chúa Nhân Lành đã ban cho Ba cái vinh dự lớn lao là xin các con của Ba như thế. Hai cha con tiếp tục đi dạo một lúc lâu, tim con nhẹ nhõm vì lòng tốt mà người Cha tuyệt vời này đã tỏ ra khi đón nhận những lời tâm sự của con, [50v0] nó dịu dàng mở ra trong tim của Ba. Ba có vẻ vui vì niềm vui thanh thản mà sự hy sinh đem lại, ba nói với con giống như một vị thánh và con muốn nhớ lại các lời ba nói để viết ra ở đây, nhưng con chỉ giữ lại được một kỷ niệm quá ngọt ngào con không thể nào diễn tả ra được. Cái mà con nhớ rõ nhất là hành vi biểu tượng Đức Vua yêu dấu của con đã thực hiện mà không biết. Lại gần một bức tường hơi cao, ba chỉ cho con xem những cây hoa trắng nhỏ giống như những cây huệ được vẽ chấm phá,41 nhổ lấy một cây, ba vừa trao cho con vừa giải thích cho con thấy Chúa Nhân Lành đã cho nó lớn lên bằng sự chăm sóc ân cần như thế nào và đã giữ gìn nó cho đến hôm nay; nghe ba nói, con tưởng như nghe chính tiểu sử của mình vì những gì Giêsu đã làm cho cây hoa nhỏ rất giống những gì Người đã làm cho Têrêsa nhỏ... Con nhận lấy cây hoa nhỏ này như một kỷ vật. Con thấy khi nhổ nó, Ba đã nhổ hết rễ của nó lên, không để một sợi nào bị đứt; có vẻ như nó sẽ còn phải trồng trên một mảnh đất khác phì nhiêu hơn là mảnh đất phủ rêu mềm mại mà con đã trải qua những buổi sáng sớm... Ít phút trước đó, Ba đã làm con con cùng một hành động giống như thế khi cho phép con trèo lên núi Cát Minh, bỏ lại phía dưới thung lũng êm đềm đã chứng kiến những bước đi đầu đời của con.
Con kẹp cây hoa trắng nhỏ trong quyển Gương Chúa Giêsu, ở chương nhan đề: “Phải yêu Giêsu trên hết mọi sự”. Bây giờ nó vẫn còn nằm yên ở chỗ đó, chỉ có thân cây bị đứt gần rễ, có vẻ như Chúa Nhân Lành muốn bảo con rằng chẳng bao lâu nữa Người sẽ bẻ gẫy những mối quan hệ của bông hoa nhỏ của Người, không để nó héo tàn trên đất! (Tv 115,16).42
Sau khi được Ba chấp thuận, con tưởng chừng có thể ngang nhiên bay thẳng lên Cát Minh mà không còn gì phải sợ. Nhưng nhiều thử thách đau đớn còn thử ơn gọi của con. Con cảm thấy run sợ khi thổ lộ quyết định của con với cậu.43 Cậu tỏ ra hết sức dịu dàng đối với  con, nhưng, cậu không cho phép con đi và cấm con không được [51r0] đề cập với cậu về ơn gọi của con trước khi con 17 tuổi. Cho một đứa bé 15 tuổi vào dòng Cát Minh, cậu nói, là đi ngược lại sự khôn ngoan loài người. Người đời cho rằng nếp sống của tu sĩ Cát Minh là nếp sống triết gia,44 mà để một đứa trẻ không kinh nghiệm ôm ấp nếu sống ấy chính là làm ố danh cho đạo... Mọi người sẽ bàn tán, vv..., vv... Thậm chí cậu còn nói rằng để quyết định cho con đi, cần phải có một phép lạ. Thấy rằng dù có lý luận gì với Cậu cũng vô ích, con lui về, lòng chìm ngập cay đắng ê chề. Niềm an ủi duy nhất của con là cầu nguyện, con cầu xin Giêsu làm phép lạ được đòi hỏi này, vì chỉ có phép lạ con mới có thể đáp lại tiếng gọi của Người. Một thời gian khá lâu45 đã trôi qua trước khi con dám đến nói chuyện một lần nữa với cậu. Phải đến nhà cậu là một cực hình đối với con, còn cậu thì có vẻ như không còn nghĩ gì đến ơn gọi của con nữa. Nhưng về sau con biết rằng nỗi buồn của con đã tác động mạnh đến cậu theo hướng có lợi cho con. Trước khi Chúa Nhân Lành chiếu vào hồn con một tia hy vọng, Người muốn gửi đến cho con một cuộc tử đạo rất đau đớn kéo dài trong ba ngày.46 Ôi! Chưa bao giờ bằng trong cuộc thử thách này, con hiểu được nỗi đau khổ của Đức Mẹ và Thánh Giuse khi đi tìm Trẻ Giêsu... Con rơi vào một sa mạc buồn hay đúng hơn linh hồn con giống như chiếc thuyền nan mong manh không người lái trôi nổi bồng bềnh trong báo táp... Con biết Giêsu đang ở đó, trên con thuyền của con, nhưng đêm tối đen như mục khiến con không thể nào nhìn thấy Người, không có gì soi sáng con, thậm chí không một tia chớp xẹt qua trên màn mây mù. Dĩ nhiên ánh sáng của tia chớp trông buồn thật, nhưng ít ra, nếu bão đánh thật, thì con cũng còn có thể thoáng thấy Giêsu trong chốc lát... Đó là đêm tối, đêm tối thẳm thẳm của tâm hồn... Như Giêsu trong vườn hấp hối, con cảm thấy cô đơn, không tìm được nguồn an ủi dù là trên mặt đất hay ở trên Trời, Chúa Nhân Lành hình như đã bỏ rơi con!!! (Lc 22,39-46).47 Cảnh vật hình như chia sẻ nỗi buồn cay đắng của con, mặt trời hoàn toàn không ló dạng [51v0] và mưa đổ như thác. (Con đã nhận thấy rằng trong mọi hoàn cảnh nghiêm trọng của đời con, cảnh thiên nhiên là hình ảnh tâm hồn con. Những ngày con khóc lóc, Trời cũng khóc với con; những ngày con vui vẻ, Mặt Trời đổ tràn ánh sáng tươi vui và trời thanh không một gợn mây...)
Sau cùng, ngày thứ bốn lại nhằm đúng thứ bảy48 ngày dâng kính Nữ Vương Thiên Quốc dịu hiền, con đến gặp cậu con. Con vô cùng ngạc nhiên khi thấy cách cậu nhìn con và dắt con vào phòng cậu dù con không yêu cầu!... Thoạt đầu cậu trách yêu con là đã tỏ ra sợ cậu, rồi cậu nói với con là cậu không cần xin một phép lạ, cậu chỉ cầu xin Chúa Nhân Lành cho cậu “một sự xiêu lòng đơn giản” thôi và cậu đã được nhận lời... A! Cậu không còn bị cám dỗ  muốn nài xin phép lạ, vì phép lạ đã được ban rồi; 49 cậu không còn giống như hôm trước nữa. Không còn nhắc một chút gì tới “sự khôn ngoan nhân loại” nữa, cậu bảo con rằng con là một bông hoa nhỏ mà Chúa Nhân Lành muốn hái và cậu không phản đối nữa!...
Câu trả lời dứt khoát này thật xứng với cậu. Đây là lần thứ ba người tín hữu của một thế hệ khác cho phép một đứa cháu gái của ông đi ẩn mình xa thế giới. Mợ con cũng dịu dàng và khôn ngoan đáng khâm phục. Con nhớ trong thời kỳ con chịu thử thách, mợ không hề nói một lời nào làm gia tăng đau khổ cho con, con thấy mợ rất thương hại đứa cháu nhỏ Têrêsa của mợ, nên sau khi con được sự chấp thuận của cậu, con cũng được sự chấp thuận của mợ, dù rằng mợ đã tỏ hàng ngàn cách để cho thấy rằng việc con ra đi làm mợ rất buồn... Ôi! Những người bà con họ hàng yêu dấu của chúng con lúc ấy đâu có ngờ rằng họ sẽ còn phải chịu đựng gấp nhiều lần sự hy sinh như thế... Nhưng khi Thiên Chúa chìa tay ra xin, bàn tay của Người không bao giờ trống rỗng, các bạn hữu thân thiết nhất của Người có thể nhận được từ bàn tay ấy dồi dào sức mạnh và nghị lực họ cần... Tim con đã kéo con đi khá xa đề tài rồi, con phải quay trở lại thôi: - Sau câu trả lời của cậu, thưa Mẹ, Mẹ hiểu được [51v0, tiếp] con hân hoan như thế nào trên con đường trở về Buissonnets dưới “bầu trời đẹp, và mây mờ đã hoàn toàn tan đi!” Trong tâm hồn con đêm tối cũng đã hết, Giêsu thức dậy đã đem lại niềm vui cho con, tiếng sóng gầm đã lắng dịu; thay cho luồng gió thử thách, một làn gió nhẹ làm căng buồm con và con tin mình sắp sửa tới được bến bờ hạnh phúc mà con thấy ở rất gần rồi. Thực vậy nó đã ở rất gần thuyền con, nhưng còn nhiều cơn bão nữa sẽ đến làm cho nó không thấy được ngọn hải đăng của nó, làm nó sợ phải lạc đường không về được tới bến bờ nồng nàn mong ước...
Ít ngày sau khi được sự chấp thuận của Cậu, con đến gặp Mẹ,50 thưa Mẹ dấu yêu, và con nói với Mẹ niềm vui vì mọi thử thách đã qua, nhưng con đã sửng sốt và đau buồn biết bao khi nghe Mẹ nói Cha Bề Trên [52r0]51 không đồng ý cho con vào dòng trước 21 tuổi….
Không một ai đã nghĩ tới sự phản đối này, mà nó là khó vượt qua nhất; tuy nhiên không mất can đảm, đích thân con cùng với Ba và Céline52 đến thăm cha xứ, để cố đánh động lòng Cha bằng cách chứng tỏ rằng con thực sự có ơn gọi Cát Minh. Ngài tiếp chúng con rất lạnh lùng, dù người Cha dễ thương tuyệt vời của con có thêm lời nài xin cùng với con, vẫn không thể thay đổi được ý kiến của ngài. Ngài nói chỗ ở không đáng ngại, con có thể sống nếp sống Cát Minh ngay tại nhà, và nếu con không giữ kỷ luật thì cũng không mất tất cả, vv… Sau cùng ngài thêm rằng ngài chỉ là ở đại diện của Đức Cha và nếu Đức Cha chấp nhận cho con vào Cát Minh, thì ngài sẽ không thể nói gì… Con giàn giụa nước mắt ra khỏi nhà xứ, may mà con có cái dù che, vì trời đang mưa như trút. Cha không biết có thể an ủi con thế nào nữa… Ba hứa đưa con tới Bayeux ngay khi con muốn; vì con đã quyết đi tới cùng, con nói thậm chí con sẽ đi đến tận Đức Thánh Cha,53 nếu Đức Cha không cho con vào Cát Minh 15 tuổi… Rất nhiều sự kiện đã diễn ra54 trước chuyến đi của con tới Bayeux. Bề ngoài cuộc sống con vẫn như trước, con vẫn đi học, học vẽ với Céline, cô giáo tài ba này của con55 nhận thấy con có rất nhiều năng khiếu về nghệ thuật này của cô. Nhất là con lớn lên trong tình yêu Thiên Chúa, con cảm thấy trong lòng những rung động trước đây chưa từng thấy, thỉnh thoảng con có những đợt sóng yêu thương dạt dào thực sự.56 Một tối kia, không biết phải nói với Giêsu thế nào rằng con yêu Người và hết sức ước ao cho Người được yêu mến và tôn vinh mọi nơi, con đau đớn nghĩ đến cảnh Người không bao giờ có thể nhận được trong hoả ngục dù chỉ một hành vi yêu mến, nên con nói với Chúa rằng để làm vui lòng Người, con chấp nhận phải rơi xuống đó, để Người được yêu mến muôn đời trong chốn đáng nguyền rủa ấy… Con biết điều đó không thể nào làm cho Người được tôn vinh, vì Người chỉ muốn chúng ta được hạnh phúc, nhưng khi yêu [52v0] người ta cảm thấy cần nói cả ngàn điều điên rồ; nếu con nói như thế, không phải con không muốn ở trên Trời, nhưng lúc ấy Trời của con không là gì khác hơn Tình Yêu, và như Thánh Phaolô, con cảm thấy không gì có thể chia cắt con khỏi đối tượng Thần Linh con say đắm!…
Trước khi con rời bỏ thế gian, Chúa Nhân Lành cho con niềm an ủi là được chiêm ngắm rất gần các tâm hồn trẻ thơ,57 vì là con út trong gia đình, con chưa bao giờ có được hạnh phúc này. Đây là hoàn cảnh đáng buồn đã đem đến cho con cơ hội ấy: Người bà con của cô giúp việc cho chúng con, một phụ nữ nghèo, chết đang lúc ở tuổi xuân và để lại ba con thơ; trong thời gian bà nằm bệnh, chúng con đưa về nhà chúng con hai bé gái mà đứa lớn chưa đầy 6 tuổi. Con chăm sóc hai đứa bé ấy suốt ngày và con rất vui được thấy sự đơn sơ trong sáng của chúng khi chúng tin vào tất cả những gì con nói với chúng. Chắc hẳn Phép Rửa Tội đã gieo rất sâu vào tâm hồn chúng một mầm mống các nhân đức đối thần, vì các nhân đức này đã được tỏ lộ ngay từ tuổi ấu thơ và niềm hy vọng được những của cải đời sau đủ để làm chúng chấp nhận các hy sinh. Mỗi khi con muốn hai bé hoà thuận với nhau, thay vì hứa thưởng  đồ chơi và kẹo bánh cho đứa nào biết nhường đứa kia, con nói với chúng về các phần thưởng đời đời mà Hài Nhi Giêsu sẽ ban ở trên Trời cho những đứa bé ngoan; đứa lớn đã bắt đầu phát triển trí khôn nhìn con với cặp mắt long lanh, rồi nó hỏi con nhiều câu hỏi dễ thương về Hài Nhi Giêsu và Trời đẹp của Người, và nó phấn khởi hứa với con sẽ luôn luôn nhường em nó. Nó còn nói suốt đời sẽ không bao giờ quên những điều mà “cô cả” - nó gọi con như thế - đã nói với nó… Khi được nhìn thật gần các tâm hồn ngây thơ này, con hiểu ra rằng thật bất hạnh biết bao khi không chu đáo vun trồng các tâm hồn này ngay khi chúng vừa thức tỉnh, khi ấy chúng giống như miếng sáp mềm mại mà người ta có thể in trên đó các nhân đức nhưng cũng có thể in các điều xấu… Con hiểu được điều Chúa Giêsu đã nói trong Tin Mừng: Thà bị buộc cối đá mà ném xuống biển còn hơn gây gương mù cho một trong những đứa trẻ này (Mt 18,6).58 A! Biết bao linh hồn có thể nên thánh nếu được hướng dẫn đúng mức!
Con biết Chúa Nhân Lành không cần đến bất kỳ một ai để làm công việc của Người, nhưng cũng như Người để cho một người làm vườn giỏi chăm sóc các cây quý hiếm và khó trồng và ban cho họ kiến thức cần thiết để làm việc ấy, còn chính Người lo làm cho nó lớn lên, thì cũng thế, Giêsu muốn được giúp đỡ trong công việc Thần Linh của Người là vun trồng các linh hồn.
Chuyện gì sẽ xảy ra nếu một anh làm vườn vụng về không ghép các cây đúng cách? Nếu anh ta không biết rõ bản chất của mỗi cây mà lại muốn cho một cây đào nở ra những bông hồng?59 Hẳn anh ta sẽ làm chết cây mà tự bản chất là tốt và có thể sinh trái.
Chính vì thế cần phải biết nhận ra ngay từ tuổi thơ, điều mà Thiên Chúa đòi hỏi nơi các tâm hồn và giúp cho hoạt động ân sủng của Người, không nôn nóng cũng không trì trệ.
Giống như các chim con tập hót bằng cách nghe cha mẹ chúng hót, thì cũng thế, các trẻ thơ học được khoa học các nhân đức, bài ca siêu vời của Tình Yêu Thiên Chúa, từ nơi những tâm hồn có trách nhiệm đào luyện chúng cho cuộc đời.
Con còn nhớ trong số những chim con nuôi, có một con hoàng yến hót rất hay, và con cũng có một con hồng tước non mà con chăm sóc giống như một người mẹ, vì con đã nuôi nó từ trước khi nó biết đến hạnh phúc của tự do. Con chim non tội nghiệp bị giam cầm này không có bố mẹ dạy nó hót, nhưng mỗi ngày từ sáng tới tối nó được nghe những điệu hát líu lo của con hoàng yến bên cạnh, nên nó muốn bắt chước… Công việc này quả là khó đối với con hồng tước, hơn nữa cái giọng êm dịu của nó khó có thể hoà với cái gọng vang vang của thầy dạy nhạc của nó. Thật thú vị khi quan sát những cố gắng của con chim non tội nghiệp này, nhưng cuối cùng các cố gắng của nó đã được đền đáp, và tiếng hót của nó tuy nhẹ hơn nhiều nhưng giống hệt tiếng hót của con hoàng yến.
[53v0] Ôi, thưa Mẹ yêu dấu! Chính Mẹ là người đã dạy con hát… Chính giọng hát của Mẹ đã làm con say mê từ tuổi ấu thơ, và bây giờ con được an ủi khi nghe người ta nói con rất giống Mẹ‼! Con biết con vẫn còn thua xa, nhưng bất chấp sự yếu hèn của mình, con hy vọng con có thể muôn đời hát cùng một bản ca giống như Mẹ!
Trước khi vào Cát Minh, con còn trải nghiệm nhiều về cuộc đời và những đau khổ của thế giới,60 nhưng những chi tiết này có thể kéo con đi quá xa, nên bây giờ con phải tiếp tục câu truyện về ơn gọi của con. Ngày 31 tháng 10 là ngày ấn định để con lên đường đi Bayeux. Một mình con đi với Ba, lòng đầy hy vọng, nhưng cũng rất xúc động trước ý nghĩ phải tự giới thiệu mình tại Toà Giám Mục. Lần đầu tiên trong đời, con phải đi thăm một nhân vật mà không có các chị con đi theo, mà lại là thăm một Giám Mục!61 Vốn tính con không bao giờ nói gì khi người ta không hỏi con, nay con phải tự mình giải thích mục đích cuộc thăm viếng của con, trình bày những lý do thúc đẩy con xin vào dòng Cát Minh, tóm lại con phải chứng minh ơn gọi của con là chắc chắn. A! Chuyến đi này đòi con hy sinh nhiều quá! Hẳn là Thiên Chúa phải ban cho con một ơn đặc biệt con mới có thể khắc phục tính nhút nhát của mình… Cũng đúng là “Tình Yêu thì không bao giờ có cái gì là không thể làm được, vì nó tin rằng mọi sự đều có thể và đều được phép đối với nó”. Đúng là chỉ có tình yêu đối với Giêsu mới giúp con vượt qua được những khó khăn này và những khó khăn theo sau, vì Người muốn con phải mua ơn gọi của mình bằng những thử thách to lớn62…
Hôm nay khi con đang hưởng cảnh cô tịch của Cát Minh (con nằm nghỉ dưới bóng của Đấng mà con hằng say mến con thấy mình đã mua được hạnh phúc bằng một cái giá khá hời và con sẵn sàng chịu nhiều đau khổ hơn nữa để chiếm được nó nếu con chưa có nó.
Trời mưa tầm tã khi chúng con đến Bayeux. Ba không muốn khuôn mặt xinh đẹp của nữ hoàng nhỏ của ba bị ướt sũng khi vào Toà Giám Mục, nên đã cho nó lên xe khách để đi đến nhà thờ chánh toà. Đó là nơi các điều khổ sở của con bắt đầu. Đức Giám Mục và tất cả các linh mục đang dự một lễ an táng lớn.63 Nhà thờ chật ních những quý bà mặc đồ tang và mọi mắt đổ nhìn về phía con [54r0] trong bộ đầm màu sáng và chiếc nón trắng. Con muốn chạy ra khỏi nhà thay ngay nhưng không thể được, vì ở ngoài trời đang mưa. Để làm con xấu hổ hơn nữa, Chúa Nhân Lành đã để cho Ba với tính đơn sơ của một gia trưởng đưa con lên tận phía trên đầu của nhà thờ lớn. Vì không muốn làm Ba buồn, con bước theo Ba và cống hiến một chút giải trí cho những người dân tốt bụng của Bayeux mà con nghĩ là chưa hề quen biết họ… Sau cùng con có thể hít thở thoải mái trong một nhà nguyện ở phía sau bàn thờ chính và con ở đó một lúc lâu sốt sắng cầu nguyện trong khi chờ dứt cơn mưa để có thể ra ngoài. Đang khi đi xuống, Ba chỉ cho con ngắm vẻ đẹp của ngôi thánh đường, lúc này trông càng nguy nga vì trong nhà thờ không còn ai, nhưng con chỉ có một tư tưởng duy nhất trong đầu, còn mọi thứ khác con chẳng thấy hứng thú gì. Chúng con đi thẳng đến gặp Cha Révérony, là người đã biết cuộc viếng thăm của chúng con vì chính ngài đã định ngày cho chuyến đi này, nhưng ngài không ở nhà; thế là chúng con phải đi lang thang trong các đường phố buồn tênh, sau cùng chúng con đến gần Toà Giám Mục và Ba đưa con vào một khách sạn đẹp nhưng con chẳng thấy hứng thú gì để thưởng thức tài nghệ của đầu bếp khách sạn. Người cha yêu dấu này đối với con thật dịu dàng không thể tin nổi, ba bảo con đừng buồn, chắc chắn Đức cha sẽ chấp nhận lời xin của con. Sau khi nghỉ ngơi, chúng con quay lại chỗ Cha Révérony;64 cùng lúc ấy cũng có một quý ông đến, nhưng Cha Tổng đại diện lịch sự xin ông ấy đợi, và cho chúng con vào trước trong phòng của ngài (chắc là quý ông tội nghiệp kia phải rầu rĩ lắm vì cuộc trò chuyện của chúng con khá dài). Cha Révérony tỏ ra rất đáng mến, nhưng con tin rằng ngài rất ngạc nhiên vì mục đích chuyến thăm của chúng con; sau khi tươi cười nhìn con và hỏi vài câu, ngài nói với chúng con: “Tôi sẽ đưa hai cha con tới gặp Đức cha, xin mời đi theo tôi.” Thấy những giọt nước mắt long lanh trong mắt con, cha thêm: “A! Cha thấy những hạt kim cương rồi65… Không được để Đức cha nhìn thấy chúng đấy!” Ngài đưa chúng con đi qua nhiều gian phòng rất lớn, [54v0] treo các bức chân dung của các Giám mục; thấy mình đứng lọt thỏm trong những phòng khách thênh thang này, con có cảm giác mình chỉ là một con kiến và tự hỏi liệu mình có dám nói gì với Đức cha không. Ngài đang đi bách bộ trên hành lang giữa hai linh mục, con thấy Cha Révérony nói với Đức cha mấy câu gì đó, rồi chúng con đi theo cha về phòng đợi. Trong phòng có ba chiếc ghế bành khổng lồ kê trước cái lò sưởi lửa đang tí tách. Vừa thấy Đức cha bước vào, Ba quỳ gối xuống cạnh con để xin ngài ban phép lành, rồi Đức cha mời Ba ngồi xuống một chiếc ghế bành đối diện với ngài, và Cha Révérony bảo con ngồi xuống chiếc ghế ở giữa. Con lễ phép từ chối, nhưng cha cứ ép con ngồi và bảo để xem có biết vâng lời hay không. Lập tức con ngồi xuống không kịp suy nghĩ gì cả, và rất bối rối vì thấy mình lọt thỏm trong một chiếc ghế mà bốn đứa cỡ con có thể ngồi thoải mái… (đương nhiên con thì chẳng thoải mái chút nào!). Con hy vọng Ba sẽ lên tiếng nhưng Ba lại bảo con tự giải thích mục đích chuyến viếng thăm của chúng con. Con làm theo, hùng hồn bao nhiêu có thể, nhưng Đức cha vốn đã quen nghe hùng biện nên chẳng tỏ vẻ gì là ấn tượng với các lý do của con. Ngược lại, chỉ một lời thôi của Cha Bề Trên có tác dụng hơn nhiều, nhưng buồn thay con lại không nhận được lời ấy và sự phản đối của ngài hoàn toàn bất lợi cho con…
Đức cha hỏi con đã có ước muốn vào dòng Cát Minh lâu chưa: - “Ồ, thưa Đức cha, rất lâu rồi ạ…” - “Xem này, Cha Révérony vừa cười vừa nói, chắc con không thể nào nói rằng con đã có ước muốn này từ 15 năm rồi.” - “Đúng thế ạ, con cũng mỉm cười và đáp, nhưng cũng chẳng phải trừ đi nhiều, vì con đã ước ao đi tu từ khi con có trí khôn và con đã ước ao vào dòng Cát Minh ngay khi con được biết dòng này, vì trong dòng này con thấy rằng mọi ước vọng của hồn con sẽ được thoả mãn.” [55r0] Thưa Mẹ, con không chắc có nhớ đúng là con đã nói các lời như thế, có thể là con đã nói còn vụng về hơn, nhưng đại khái ý của con là như thế.
[54v0, tiếp theo) Đức cha thì tin rằng Ba con thích con tiếp tục ở lại bên Ba vài năm nữa, ngài không khỏi ngạc nhiên khi thấy Ba lại đứng về phía con và cầu xin cho con được phép bay đi lúc 15 tuổi. Nhưng tất cả đều vô ích; ngài nói rằng trước khi quyết định cần phải có ý kiến của Cha Bề Trên Dòng Cát Minh. Không gì làm con đau khổ hơn khi nghe điều ấy, vì con đã biết rõ sự phản đối của Cha Bề Trên, nên không còn nhớ lời dặn của Cha Révérony nữa, con không những cho Đức cha thấy các hạt kim cương của con, mà con còn tặng cho ngài nữa! Con thấy ngài cảm động ra mặt; bá lấy cổ con, ngài đặt đầu con tựa lên vài ngài và  xoa đầu con, một cử chỉ mà dường như chưa bao giờ có ai [55r0] nhận được như thế từ tay ngài. Ngài bảo con rằng chưa hết hy vọng đâu, ngài rất vui nếu con đi Rôma để làm chắc ơn gọi của con, và thay vì khóc, con phải vui lên. Ngài còn nói rằng tuần tới, khi đi Lisieux, ngài sẽ nói chuyện của con với Cha Xứ nhà thờ St. Jacques và chắc chắn con sẽ nhận được phúc đáp của ngài ở Ý. Con hiểu có nài nẵng thêm cũng vô ích, hơn nữa con cũng chẳng còn gì để nói sau khi đã vận dụng hết mọi tài khéo hùng biện của con rồi.
Đức cha dẫn chúng con ra ngoài vườn. Ba đã làm ngài rất vui khi nói rằng để có vẻ già hơn, con phải bới tóc cao lên. (Chuyện này không vô ích đâu, vì Đức cha mỗi khi nhắc đến “con gái nhỏ của ngài” ngài đều kể lại chuyện bới tóc này…). Cha Révéronay tiễn chúng con ra tới cổng vườn của Toà Giám Mục, ngài nói với Ba rằng chưa bao giờ ngài thấy cảnh này: “Một người cha nôn nóng hiến con mình cho Chúa và đứa con này cũng nôn nóng dâng hiến mình như thế.”
Ba xin ngài giải thích ít điều về chuyến hành hương, trong đó Ba hỏi ăn mặc thế nào khi yếu kiến Đức Thánh Cha. Con như còn thấy ba quay lại trước mặt Cha Révérony và hỏi: “Con ăn mặc thế này được chứ?” Ba cũng nói với Đức cha rằng nếu ngài không cho phép con của con vào Cát Minh, con sẽ đến tận Đức Giáo Hoàng để xin. Các lời nói và cử chỉ của Đức Vua yêu dấu của con sao mà đơn sơ nhưng cũng đẹp đến thế? Vẻ đơn sơ tự nhiên của Ba hẳn phải làm Đức cha rất hài lòng, vì ngài vốn quen ở những những nhân vật biết mọi quy tắc lịch sự của các phòng khách, chứ không quen với cảnh Vua của Nước Pháp và của Navarre66
Khi ra đến đường phố, nước mắt con lại bắt đầu chảy, không phải vì nỗi buồn của mình cho bằng vì thấy người Cha dấu yêu của mình vừa phải qua một chuyến đi vất vả vô ích… Ba đã tưởng có thể gửi điện mừng tới Cát Minh để loan báo câu trả lời tốt lành của Đức cha, giờ đây buộc phải [55v0] trở về tay không… A! Con đau khổ biết bao! Có vẻ như tương lai của con mãi mãi bị tan vỡ, càng lúc con càng thấy chuyện của con rối tung lên. Hồn con ngập chìm trong cay đắng, nhưng cũng tràn trề an bình, vì con chỉ tìm kiếm ý Chúa.
Vừa khi đặt chân tới Lisieux, con đến ngay tìm niềm an ủi ở Cát Minh và con đã tìm được nơi Mẹ, thưa Mẹ dấu yếu. Ô không! Con sẽ không bao giờ quên tất cả những đau khổ Mẹ đã phải chịu vì con. Nếu không sợ tục hoá khi đem áp dụng những lời này vào bản thân con, con có thể nói lên những lời mà Chúa Giêsu đã nói với các Tông Đồ vào đêm Chịu Nạn: “Chính anh em đã luôn luôn ở bên Thầy trong mọi gian nan thử thách của Thầy” (Lc 22,28)… Các chị dấu yêu của em cũng cho em rất nhiều niềm an ủi ngọt ngào như thế…
Ba ngày sau chuyến đi Bayeux, con phải thực hiện một chuyến đi dài hơn nhiều, chuyến đi đến thành đô vĩnh cửu67… A! Chuyến đi tuyệt vời! Chỉ một chuyến đi này cũng đủ dạy cho con nhiều điều hơn là những năm dài học tập,68 nó cho con thấy tất cả những điều xảy ra chỉ là phù vân và tất cả chỉ là phiền muộn dưới ánh mặt trời (Gv 2,11)… Nhưng con cũng đã được nhìn thấy biết bao điều tốt đẹp,69 đã được thưởng ngoạn những kiệt tác của nghệ thuật và tôn giáo, nhất là con đã được đặt chân lên cùng một mảnh đất của các Thánh Tông Đồ xưa mảnh đất được tưới gội bằng máu các Thánh Tử Đạo và linh hồn con được lớn lên khi tiếp xúc với các điều thánh thiện…
Con rất sung sướng được đến Rôma, nhưng con hiểu rõ lòng dạ người thế gian, họ nghĩ rằng Ba đưa con đi chơi là để con thay đổi ý tưởng của mình về đời sống tu trì; quả thực có những điều có thể làm lung lay một ơn gọi còn non yếu.
Chưa bao giờ sống giữa thế giới thượng lưu, lúc này Céline và con thấy mình đang ở giữa đoàn hành hương hầu như chỉ gồm những người quý tộc.70 A! Thay vì làm chúng con loá mắt, tất cả các tước hiệu và các danh xưng quý phái đối với chúng con chỉ là một làn khói… Từ xa tất cả những thứ đó thỉnh thoảng chỉ hất một chút bụi vào mắt con, nhưng nhìn gần, con thấy rằng “không phải cứ cái gì loé sáng đều là vàng cả” và con hiểu được lời này [56r0] của sách Gương Chúa Giêsu: “Chớ đuổi theo cái bóng mà người ta gọi là một vĩ nhân, chớ ước ao nhiều mối quan hệ, hay tình bạn đặc biệt với một người nào.”71
 
Con đã hiểu ơn gọi mình - Khởi hành từ Lisieux - Đức Mẹ Chiến Thắng - Thuỵ Sĩ - Ý - Nhà Thánh ở Loretta - Hí trường Colisê - Các hang toại đạo - Thánh Anê và Thánh Cécilia - Thăm Vatican - Dưới chân Đức Thánh Cha - Món đồ chơi bé nhỏ - Napôli và Pompêi - Assisi - Florence - Trở về Pháp - Quả bóng nhỏ - Ba tháng chan chứa ân sủng.

Con hiểu rằng sự cao cả đích thực là ở trong tâm hồn chứ không phải trong một cái tên, vì như lời ngôn sứ Isaia: “Chúa sẽ ban cho những kẻ Người chọn một cái tên khác” (Is 65,15), và Thánh Gioan cũng nói: “Kẻ chiến thắng sẽ được lãnh nhận một viên sỏi trắng, trên đó có khắc một tên mới mà chẳng ai biết được ngoài kẻ lãnh nhận nó.” (Kh 2,17)1 Vì thế ở trên Trời chúng ta sẽ biết được các danh hiệu quý tộc của chúng ta là gì. Khi ấy mỗi người sẽ được Thiên Chúa khen thưởng xứng đáng và ai ở dưới đất này muốn là người nghèo khổ nhất, bị quên lãng nhất vì tình yêu Giêsu, người ấy sẽ là kẻ cao cả nhất, quý trọng nhất và giàu sang nhất!
Kinh nghiệm thứ hai của con là về các linh mục.2 Vì chưa bao giờ sống gần gũi với các ngài, con không thể hiểu được mục đích chính cuộc cải cách của dòng Cát Minh. Cầu nguyện cho các người tội lỗi là điều làm con say mê, nhưng cầu nguyện cho các linh hồn các linh mục mà con tin là trong sáng hơn pha lê3 thì là điều làm con phải ngạc nhiên!
A! Ở Ý con đã hiểu ơn gọi của con, không cần phải đi đâu quá xa mới có được sự hiểu biết ích lợi như thế.
Trong một tháng, con đã sống gần nhiều linh mục thánh thiện và con đã thấy rằng, nếu phẩm chức cao vời của các ngài nâng các ngài lên trên các thiên thần, thì các ngài cũng vẫn là những con người yếu đuối mỏng giòn… Nếu các linh mục thánh thiện mà trong Tin Mừng Chúa Giêsu đã gọi là “muối của trần gian” chứng tỏ bằng hành vi của các ngài còn hết sức cần đến những lời cầu nguyện, thì phải nói gì về những linh mục nguội lạnh? Chúa Giêsu đã chẳng nói thêm: “Nếu muối đã ra lạt thì lấy gì ướp nó mặn lại được?” (Mt, 5,13).
Ôi thưa Mẹ! Ơn gọi giữ muối mặn cho các linh hồn thật đẹp biết bao! Ơn gọi này là ơn gọi Cát Minh, bởi vì mục đích duy nhất của các kinh nguyện và hy sinh của chúng ta là làm tông đồ cho các tông đồ,4 cầu nguyện cho các tông đồ trong khi họ rao giảng Tin Mừng cho các linh hồn bằng lời nói và nhất là bằng gương sáng của họ… [56v0] Con phải dừng ở đây, sợ rằng cứ tiếp tục nói về đề tài này con sẽ không bao giờ kết thúc!
Thưa Mẹ yêu dấu, con sẽ kể cho mẹ về chuyến đi với một vài chi tiết, xin Mẹ thứ lỗi nếu con nói nhiều chi tiết quá, vì con không suy nghĩ trước khi viết, và con viết ở nhiều lúc khác nhau vì con có ít thời giờ rảnh, nên câu truyện của con có thể làm Mẹ chán.. Điều an ủi con là nghĩ rằng ở trên Trời con sẽ kể lại cho Mẹ một lần nữa về các ân huệ con đã nhận được và lúc ấy con sẽ có thể kể bằng những lời lẽ hay hơn và hấp dẫn hơn… Lúc ấy sẽ chẳng có gì cắt đứng dòng tâm sự thâm sâu của chúng ta và chỉ với một cái nhìn, Mẹ sẽ hiểu được mọi sự… Con bây giờ con vẫn còn phải dùng lời lẽ của trần gian u buồn này, nên con sẽ thử kể lại với sự đơn sơ của một đứa nhỏ biết rõ tình thương của Mẹ nó!
Ngày 7 tháng 11 là ngày đoàn hành hương khởi hành từ Paris, nhưng Ba đã đưa chúng con đến thành phố này vài ngày trước để chúng con có dịp tham quan thành phố. Vào lúc ba giờ sáng,5 con đi qua thành phố Lisieux lúc ấy còn trong giấc ngủ; biết bao cảm tưởng tràn ngập tâm hồn con lúc ấy. Con cảm thấy mình đang đi về miền đất lạ và nhiều điều vĩ đại đang đợi con ở đó… Ba rất vui; khi tàu lửa bắt đầu chạy, Ba ngâm nga điệu hát cũ: “Lăn đi, lăn đi, chiếc xe thổ mộ của ta, chúng ta đang thênh thang trên đường.” Đến Paris buổi sáng, chúng con bắt đầu đi thăm thành phố ngay. Ông Bố dấu yêu không quản mệt nhọc để làm chúng con vui, nên chẳng mấy chốc chúng con đã thăm được mọi kỳ quan của thủ đô. Riêng con, con chỉ thấy một kỳ quan duy nhất làm con trìu mến, đó là nhà thờ “Đức Mẹ Chiến Thắng”.6 A! Con không thể nào diễn tả nổi những cảm nghĩ của con khi quỳ dưới chân tượng Đức Mẹ… Các ơn Mẹ ban cho con làm con cảm động đến ứa nước mắt vì sung sướng, giống như ngày con rước lễ lần đầu… Đức Mẹ đã làm con cảm nghiệm rằng đúng là Mẹ đã mỉm cười với con và đã chữa lành con. Con đã hiểu rằng Người săn sóc con, con là con của Người, nên từ nay con chỉ có thể gọi Người [52r0] một cách trìu mến bằng tên gọi “Má” mà thôi, vì tên gọi ấy đối với con còn dịu dàng hơn cả từ “mẫu thân”… Con đã sốt sắng biết chừng nào khi năn nỉ Má luôn giữ gìn con và sớm làm cho giấc mơ của con được thể hiện bằng cách giấu con dưới bóng áo choàng đồng trinh của Má! A! Đó là một trong các giấc mơ đầu tiên thời thơ ấu của con… Khi lớn lên, con đã hiểu rằng chính ở Cát Minh mà con có thể thực sự tìm thấy tấm áo choàng chở che của Đức Trinh Nữ và mọi ước vọng của con đều hướng về ngọn núi màu mỡ ấy…
Con còn cầu xin Đức Mẹ Chiến Thắng đẩy xa khỏi con bất cứ điều gì có thể làm hoen ố sự trinh trong của con. Không phải con không biết rằng trong một cuộc đi chơi như tại Ý, con có thể gặp rất nhiều điều có thể làm rối loạn lòng con, nhất là vì khi không biết đến sự xấu, con sợ phát hiện ra nó, khi không có kinh nghiệm rằng mọi sự đều là thanh sạch đối với những người thanh sạch (Tt 1,15)7, và tâm hồn đơn sơ ngay thẳng thì không thấy điều gì là xấu, vì quả thực sự xấu chỉ có trong những tâm hồn ô uế chứ không ở trong những vật vô tri giác… Con cũng cầu xin Thánh Giuse8 canh chừng con; từ nhỏ con đã có lòng sùng kính đặc biệt với Ngài, không khác gì tình yêu của con đối với Đức Mẹ. Mỗi ngày con đọc kinh này: “Lạy Thánh Giuse là Cha và Đấng bảo vệ các kẻ đồng trinh”, nên con thực hiện chuyến đi xa này mà không sợ hãi gì, con được bảo vệ quá kỹ khiến con nghĩ không sợ hãi gì.
Sau khi dâng mình cho Thánh Tâm Chúa trong Vương Cung Thánh Đường Montmartre,9 chúng con khởi hành từ Paris từ sáng sớm ngày thứ hai mồng 7;10 chẳng mấy chốc chúng con đã làm quen với những người trong đoàn hành hương. Bình thường tính con nhút nhát không dám nói năng, nhưng bấy giờ con cảm thấy hoàn toàn thoải mái; chính con cũng phải ngạc nhiên khi thấy mình nói chuyện thoải mái với các phu nhân đài các, các linh mục và  thậm chí cả Đức Giám mục Coutances. Con có cảm giác như thể mình đã luôn luôn sống trong cái thế giới ấy. Con nghĩ rằng [57v0] chúng con được mọi người rất yêu mến, và Ba có vẻ tự hào về hai cô con gái của ba, nhưng nếu ba tự hào về chúng con, chúng con cũng tự hào về ba, vì trong cả đoàn hành hương không có quý ông nào đẹp lão hơn hay nổi bật hơn Đức Vua yêu dấu của con; ba thích thấy Céline và con luôn xúm xít bên ba. Thường thường mỗi khi chúng con không ngồi trên xe và con đứng xa ba, ba thường gọi con lại để con đưa tay cho ba khoác giống như ở Lisieux… Cha Révérony để ý quan sát mọi hành vi của chúng con, con thường xuyên thấy ngài nhìn chúng con từ đàng xa; ở bàn ăn khi con không ngồi đối diện với ngài, ngài cũng thường tìm cách ngả người ra để thấy con và nghe con nói gì. Chắn hẳn ngài muốn biết rõ con để xác định con có khả năng làm tu sĩ Cát Minh hay không. Con nghĩ chắc ngài phải rất hài lòng bởi công việc kiểm tra của ngài, bởi vì vào cuối chuyến đi, ngài có vẻ hài hoà đối với con, còn ở Rôma ngài hoàn toàn đối nghịch với con, như sau này con sẽ kể. - Trước khi đến thành đô vĩnh cửu, mục tiêu cuộc hành hương của chúng con, chúng con có dịp được chiêm ngưỡng rất nhiều danh lam thắng cảnh. Trước tiên là nước Thuỵ Sĩ với những đỉnh núi mất hút trên tầng mây, các thác nước thiên hình vạn trạng trông đẹp như mơ, các thung lũng thăm thẳm phủ đầy loại cây dương xỉ khổng lồ và những cây thạch thảo hồng tươi. A! Thưa Mẹ dấu yêu, cảnh thiên nhiên thơ mộng này nhan nhản khắp nơi11 đã đem lại lợi ích cho hồn con, vì nó đưa hồn con lên tới Đấng thích ban phát những kiệt tác như thế trên mảnh đất đoạ đày chỉ tồn tại trong một ngày mà thôi… Con không đủ mắt để ngắm nhìn mọi sự. Đứng bên cửa toa xe lửa, con hầu như nín thở, con rất muốn ở cả hai bên toa xe để có thể nhìn thấy hết những cảnh đẹp làm say đắm lòng người, chứ không phải chỉ những cái đang trải rộng trước mặt con.
Thỉnh thoảng chúng con leo tới đỉnh một ngọn núi, phía dưới chân chúng con là [58r0] các vực thẳm mở ra mà mắt người không tài nào dò thấu chiều sâu của nó, như chỉ chực nuối trửng chúng con… Hay một ngôi làng nhỏ thơ mộng với các căn nhà gỗ xinh xinh và tháp chuông nhà thờ, lở lửng trên cao là những đám mây nhẹ trắng xoá… Xa xa là một cái hồ lớn còn óng ánh những tia nắng hoang hôn; các làn sóng nhẹ trong veo hút lấy màu Trời trong xanh trộn lẫn với ánh lửa của mặt trời chiều, phô bày ra trước những cặp mắt đầy thán phục của chúng con một quang cảnh thơ mộng và say đắm tuyệt vời chưa từng thấy… Phía chân trời bát ngát xa xa hiện lên những dãy núi mờ mờ ảo ảo mà mắt chúng con chỉ có thể nhận ra được nhờ những đỉnh phủ tuyết phản ánh mặt trời, tạo thêm nét lôi cuốn cho cái hồ thơ mộng…
Nhìn ngắm tất cả những vẻ đẹp này, tự trong hồn con nẩy sinh biết bao tư tưởng cao sâu. Con như đã hiểu được sự cao cả của Thiên Chúa và các điều kỳ diệu của Trời… Đời sống tu trì hiện ra với con đúng theo thực tế của nó với những sự gò ép, những hy sinh nho nhỏ được thực hiện trong âm thầm. Con hiểu rằng người ta dễ bị khép chặt trong chính mình biết bao, khiến họ quên mất mục đích siêu vời trong ơn gọi của mình và con tự nhủ: Sau này, khi gặp thử thách, khi nhốt mình trong đan viện Cát Minh, con sẽ chỉ có thể ngắm nhìn một góc rất nhỏ của Bầu Trời đầy sao, con sẽ nhớ lại những gì con thấy hôm nay, tư tưởng này sẽ cho con can đảm, con sẽ dễ quên đi những lợi lộc nhỏ mọn nghèo nàn của mình bằng cách nhìn thấy sự cao cả và quyền năng của Thiên Chúa, và chỉ yêu mến một mình Người. Con sẽ không gặp nỗi bất hạnh gắn bó với những thứ rác rưởi, vì bây giờ “Hồn con đã tiên cảm được những điều mà Giêsu dành cho những ai yêu mến Người!…” (1Cr 2,9)12
Sau khi đã được chiêm ngắm quyền năng của Chúa Nhân Lành, con còn được chiêm ngắm quyền năng mà Người ban cho các tạo vật của Người. Thành phố đầu tiên chúng con đến thăm ở Ý là Milan. Ngôi nhà thờ lớn toàn bằng đá hoa cương trắng với rất nhiều pho tượng gần như không thể nào đếm nổi [58v0] đã được chúng con quan sát tới từng chi tiết nhỏ bé nhất. Céline và con bạo lắm, hai chúng con luôn luôn là những người đi đầu ngay sau Đức cha, để có thể xem thấy hết tất cả những gì liên quan tới các thánh tích và được nghe rõ các lời cắt nghĩa; cũng vậy, khi ngài dâng Thánh Lễ trên mộ Thánh Charles, chúng con đứng với Ba ngay sau Bàn Thờ, đầu tựa vào chiếc hòm đựng di hài vị thánh trong bộ áo giáo hoàng, ở mọi nơi chúng con đều như thế… chỉ trừ những chỗ mà thiên chức Giám mục không cho phép, vì khi ấy chúng con biết lui bước trước sự Cao Cả… Bỏ lại đằng sau các quý bà nhát gan lấy tay che mặt sau khi đã leo lên tới tầng tháp chuông đầu tiên tô điểm ngôi thánh đường, chúng con đi theo các khách hành hương bạo nhất và leo lên tới tận tầng trên cùng của tháp chuông bằng đá hoa cương, từ đó trông xuống phía dưới, chúng con thích thú được ngắm thành phố Milan với số dân nhung nhúc giống như một bầy kiến nhỏ… Ra khỏi khu nhà thờ, chúng con bắt đầu cuộc tham quan bằng xe kéo dài suốt một tháng, và con được thoả nỗi ước mơ lăn bánh không biết mệt! Khu campo santo13 (“Vườn Thánh”) còn làm chúng con say mê hon cả ngôi nhà thờ lớn, tất cả các pho tượng bằng cẩm thạch trắng được tạc bởi những bàn tay điệu nghệ trông giống như người thật, được đặt một cách cẩu thả trên các ngôi mộ càng làm tăng sức cuốn hút của chúng. Người ta bị cám dỗ muốn an ủi những nhân vật tưởng tượng đang ở xung quanh mình. Nét biểu cảm của các pho tượng trông quá thật, sự đau đớn trông quá thanh thản và nỗi cam chịu khiến người ta không thể không nhìn nhận những tư tưởng về sự bất tử đầy ắp trong tâm hồn các nghệ nhân thực hiện các kiệt tác này. Chỗ này là một bé gái đang trải hoa lên mộ của cha mẹ em, khối cẩm thạch trông như đã mất đi trọng lượng của nó và các cánh hoa nhẹ như lướt qua giữa các ngón tay của đứa bé và bay đi theo gió, và làn gió ấy hình như [59r0] cũng thổi phất phơ tấm khăn tang che mặt của các bà vợ mất chồng và các dải băng cột tóc của các nhi nữ mất cha. Ba cũng ngây ngất như chúng con; lúc ở Thuỵ Sĩ, thấy ba mệt nhưng bây giờ nét tươi tỉnh đã lại hiện lên trên mặt Ba, Ba mê mẩn trước cảnh tượng tuyệt vời chúng con đang chiêm ngắm, tâm hồn nghệ sĩ của Ba được bộc lộ qua những nét biểu hiện của đức tin và thán phục hiện lên trên khuôn mặt đẹp của Ba. Một cụ ông (người Pháp) chắc là không có tâm hồn nghệ sĩ như chúng con, nhìn xéo qua chúng con và nói với một giọng bông đùa khó chịu, tuy có vẻ tiếc vì không thể chia sẻ sự ngưỡng mộ của chúng con: “A! Thì ra người Pháp cũng nồng nhiệt đấy chứ!” Con nghĩ lẽ ra ông già tội nghiệp này nên ở lại nhà thì hơn, vì ông có vẻ như không hài lòng với chuyến đi này, ông rất thường ở gần chúng con và miệng ông không ngớt than vãn, ông bất mãn với xe, với khách sạn, với những người khác, những thành phố, tóm lại ông bất mãn với mọi thứ… Vốn có tâm hồn cao thượng, Ba thường tìm cách an ủi ông, nhường chỗ cho ông, vv… tóm lại ở đâu Ba cũng thấy tốt cả, vì tính Ba đối ngược hẳn với tính của ông hàng xóm khó chịu của Ba… A! Chúng con đã nhìn thấy các tính cách khác nhau như thế nào, thật thú vị biết bao khi học biết được các cá tính của đời khi sắp từ bỏ đời!…
Ở Venise, cảnh vật thay đổi hoàn toàn. Thay vì tiếng ồn của các thành phố lớn, giữa cái khung cảnh tĩnh lặng người ta chỉ nghe thấy tiếng của những người chèo thuyền tam bản và tiếng vỗ xì xào của mái chéo chẻ sóng. Venise không phải không có nét duyên dáng, nhưng con thấy thành phố này buồn quá. Dinh thị trưởng thật nguy nga, nhưng cũng buồn tênh với các căn hộ lớn bày biện đủ các đồ vàng, đồ gỗ, các đồ cẩm thạch quý nhất vương quyền các bức danh hoạ của các bậc thầy nổi tiếng nhất. Đã từ lâu các mái vòm âm vang không còn được nghe giọng nói của các vị quan toà tuyên ra các phất quyết sinh sát trong các phòng lớn chúng con đã đi qua… Không còn cảnh đoạ đày của các tù nhân khốn khổ bị các ông thị trưởng nhốt trong các xà lim và [59v0] các hầm tối không một ai ngó tới… Khi đi thăm các nhà tù ghê rợn này, con tưởng mình đang ở thời các tử đạo và con rất muốn ở lại đó để noi gương các ngài!… Nhưng phải vội ra khỏi đó để qua cây “cầu thở phào”, gọi thế vì những tiếng thở phào nhẹ nhõm của những người tử tù khi thấy mình được giải phóng khỏi cảnh ghê rợn của các hầm tối mà ở đó họ thà chết còn hơn…
Sau Venise, chúng con đi thăm Padua, tại đây chúng con đã kính viếng cái lưỡi của Thánh Antôn, rồi chúng con đến Bologna nơi có thi hài Thánh Catarina còn giữ nụ hôn của Chúa Hài Nhi Giêsu. Con biết bao chi tiết thú vị con có thể kể ra ở mỗi thành phố và hàng ngày tình huống nho nhỏ đặc biệt của chuyến tham quan của chúng con, nhưng kể ra sẽ không bao giờ hết được, nên con sẽ chỉ viết một vài chi tiết chính thôi.
- Con mừng rỡ biết bao khi rời bỏ Bologna, con không thể chịu nổi thành phố này vì đám sinh viên vây kín như hàng rào trước mặt chúng con mỗi khi chúng con chẳng may phải đi bộ ngoài đường, và nhất là vì một chuyện phiêu lưu nho nhỏ xảy ra cho con14 với một sinh viên trong số họ. Con mừng vì đã chọn con đường đến Loretta. Con không ngạc nhiên vì Đức Mẹ đã chọn nơi này để đem Mái Nhà chúc phúc,15 bình an, và niềm vui của Mẹ đến đó, vì ở đó cảnh nghèo khổ là bà chúa ngự trị; mọi cái đều vẫn còn giữ lại vẻ mộc mạc sơ khai, nữ giới vẫn còn duy trì cách ăn bận cổ truyền Ý rất duyên dáng của họ, chứ không theo mốt Paris như các phụ nữ tại các thành phố khác. Tóm lại, Loretta làm con say mê! Con sẽ nói gì về Nhà Thánh?16… A! Con vô cùng xúc động khi ở dưới cùng mái nhà như Thánh Gia, chiêm ngắm những bức tường mà đôi mắt thánh của Giêsu đã từng nhìn, giẫm lên chính mảnh đất mà Thánh Giuse đã tưới đẫm mồ hôi, nơi Đức Mẹ đã bế Chúa Giêsu trên tay, sau khi đã cưu mang Người trong dạ đồng trinh… Con đã nhìn thấy căn phòng nhỏ nơi thiên sứ đến gặp Đức Trinh Nữ… Con đã đặt cỗ tràng hạt của con vào cái chén nhỏ của Giêsu… Các kỷ niệm này làm con ngất ngây!
[60r0] Nhưng niềm an ủi lớn lao nhất của chúng con là được rước chính Giêsu trong nhà của Người và được làm đền thờ sống động của Người (xem 1Cr 3,16) ngay tại nơi được vinh dự vì sự hiện diện của Người. Theo một tục lệ của Ý, trong mỗi nhà thờ, Bánh Thánh chỉ được giữ trên một bàn thờ, và chỉ ở đó người ta mới được rước Thánh Thể, bàn thờ này ở ngay trong Vương Cung Thánh Đường nơi có Nhà Thánh, được lưu giữ như một viên kim cương quý trong một cái hộp bằng cẩm thạch trắng. Chúng con hạnh phúc không phải vì điều đó, chúng con không muốn được rước lễ trong cái hộp cẩm thạch ấy, chúng con muốn được rước lễ trong chính viên kim cương. Vốn tính tình hiền hoà, Ba làm giống như mọi người, còn Céline và con đi tìm một linh mục để xin ngài đưa chúng con đi tham quan khắp nơi và lại đúng là vị đang chuẩn bị dâng lễ trong nhà thánh do một đặc ân. Ngài xin hai bánh lễ nhỏ rồi đặt trên chén thánh cùng với bánh lễ lớn của ngài, và thưa Mẹ dấu yêu, Mẹ có thể tưởng tượng chúng con đã sung sướng đến thế nào khi cả hai đứa cùng được rước lễ trong mái nhà chúc phúc này! Một hạnh phúc thiên đàng, không lời nói nào có thể diễn tả nổi. Vậy thì sẽ còn hạnh phúc đến đâu khi chúng ta sẽ được rước lễ trong nơi ở vĩnh cửu của Vua Trời? Khi ấy niềm vui của chúng ta sẽ không bao giờ cạn, sẽ không còn nỗi buồn của sự chia ly, và để mang theo một kỷ niệm về nhà, chúng ta sẽ không còn phải cạo một cách vụng trộm những bức tường đã được thánh hoá bằng sự hiện diện của Chúa, bởi vì nhà của Người sẽ là nhà của chúng ta muôn đời… Người không muốn cho chúng ta  mái nhà trần gian, Người chỉ muốn cho chúng ta xem thấy nó để làm chúng ta yêu mến nếp sống nghèo khổ và ẩn dật, mái nhà mà Người để dành cho chúng ta là vinh quang của Người, ở đó chúng ta sẽ không còn thấy Người bị che giấu dưới hình dạng của một hài nhi hay của một tấm bánh trắng, nhưng chúng ta sẽ được thấy Người thực sự trong vinh quang vô biên của Người‼! (1Ga 3,2).17
Bây giờ con còn phải kể về Rôma, mục đích chính của [60v0] chuyến đi của chúng con, nơi con tưởng gặp được niềm an ủi, nhưng lại tìm thấy thánh giá!… Khi chúng con đến nơi thì trời đã tối, và chúng con đang thiu thỉu ngủ thì bị đánh thức bởi tiếng la của các nhân viên nhà ra: “Rôma, Rôma”. Không phải mơ, con đã ở Rôma thật rồi!18…
Chúng con qua ngày đầu tiên bên ngoài tường thành, và có lẽ là ngày thú vị nhất, vì tất cả các đền đài đều giữ được dấu ấn cổ xưa của chúng, chứ không như ở nội thành Rôma các khách sạn và các cửa hàng đồ sộ nguy nga làm cho khách tham quan tưởng mình đang ở Paris. Cuộc dạo chơi ở vùng quê Rôma đã để lại nơi con một kỷ niệm ngọt ngào. Con sẽ không nói đến các nơi chúng con đã thăm, vì đã có rất nhiều sách mô tả đầy dủ về chúng rồi. Con chỉ nói về các cảm tưởng chính mình đã có. Một trong những cảm tưởng dịu dàng nhất là sự rung động của con khi đứng trước hí trường Côlôsê. Thế là cuối cùng con cũng đã được nhìn thấy cái hí trường này, nơi biết bao vị tử đạo đã đổ máu mình ra vì Chúa Giêsu. Con đã sẵn sàng để hôn mảnh đất đã được thánh hoá này, nhưng con bị vỡ mộng! Trung tâm chỉ là một đống đổ nát mà khách hành hương chỉ có thể đứng nhìn mà thôi, bởi vì lối vào đã bị chắn ngang bởi một hàng rào, hơn nữa cũng chẳng có ai dám liều mình đi sâu vào giữa đống đổ nát ấy... Có thể đến Rôma mà không xuống thăm Côlôsê được không? Con nghĩ không thể nào, con không còn nghe các lời dẫn giải của hướng dẫn viên nữa, trong đầu con chỉ có một ý tưởng duy nhất: xuống hí trường. Trông thấy một công nhân vác một cái thang đi ngang qua, con định hỏi anh ta, nhưng may thay con đã không thực hiện ý định của mình, nếu không anh ta sẽ cho con là một con bé khùng... Trong sách Tin Mừng có nói rằng bà Mađalêna luôn luôn ở bên mộ Chúa và cúi mình xuống19 nhiều lần để nhìn vào bên trong, rốt cuộc bà đã được nhìn thấy hai thiên sứ (Ga 20,11-12).20 Tuy con biết ước muốn của mình không thể nào thực hiện, nhưng cũng giống như bà, con [61r0] tiếp tục cúi thấp xuống phía đống đổ nát mà con muốn đi xuống; cuối cùng con không gặp được thiên thần, nhưng gặp được điều con tìm, con mừng rỡ reo lên vào nói với Céline: “Đến đây mau, chúng ta có thể đi qua!...” Lập tức chúng con băng qua hàng rào chỗ có đống đổ nát chất cao lên và thế là chúng con leo lên những đống xà bần đang chuồi xuống dưới chân.
Ba hết sức kinh ngạc vì sự gan lì của chúng con, ông gọi chúng con quay lại, nhưng hai kẻ vượt ngục này chẳng chịu nghe gì nữa; giống như các chiến binh giữa hiểm nguy cảm thấy mình thêm can đảm, niềm vui của chúng con cũng tăng lên theo sự vất vả mà chúng con trải qua để đạt tới đối tượng chúng con ao ước. Céline thì sáng suốt hơn con, chị đã nghe được lời giải thích của hướng dẫn viên và nhớ lại rằng anh ta vừa nói đến một đường nhỏ, chỗ ghi dấu Thánh Giá là chỗ các vị tử đạo chiến đấu, chị vội chạy đi tìm. Trong chốt lát chị đã tìm được, chúng con liền quỳ gối xuống mảnh đất thánh ấy, tâm hồn hai chị em chúng con cùng hoà lẫn với nhau trong cùng một kinh nguyện... Tim con đập thình thịch khi môi con chạm vào chỗ bụi đất đã từng thấm máu các Kitô hữu tiên khởi. Con xin Chúa cho con cũng được ơn tử đạo vì Chúa Giêsu như các ngài, và tự đáy lòng con cảm thấy lời cầu xin của con đã được Chúa chấp nhận!... Mọi sự xảy ra rất nhanh. Sau khi lượm mấy viên đá,21 chúng con quay trở lại bức tường đổ để tiếp tục cuộc mạo hiểm. Thấy chúng con quá hạnh phúc, Ba không nỡ cằn nhằn chúng con, con thấy Ba tỏ ra tự hào vì chúng con can đảm... Chúa Nhân Lành đã bảo vệ chúng con một cách nhãn tiền, vì các khách hành hương chẳng để ý gì tới các hành động của chúng con, họ đang mải nghe hướng dẫn viên chỉ cho xem các cấu trúc vòm xinh đẹp và giới thiệu về “các chú bé khờ và các kẻ tham lam đặt trên đó”,22 cả anh ta lẫn “đám các cha cụ” đều không biết gì về niềm vui đang tràn ngập tâm hồn chúng con...
Các hang toại đạo23 cũng để lại nơi con một ấn tượng ngọt ngào: chúng đúng như con [61v0] đã hình dung khi đọc tiểu sử của các thánh Tử Đạo. Sau khi đã qua ở đó một phần buổi trưa, mà con cảm thấy như chỉ ở đó một lúc ngắn ngủi con thấy bầu khí thật là thánh thiêng... Cũng phải mang chút gì đó từ các hang toại đạo về làm kỷ niệm, cho nên Céline và Têrêsa chờ cho đám người hành hương đi xa một chút rồi cùng lẻn vào tận cuối hang tới chỗ mộ Thánh Nữ Cécilia và lấy một ít đất đã được thánh hoá bởi sự hiện diện của ngài. Trước chuyến đi Rôma, con chưa có lòng sùng kính đặc biệt nào đối với vị thánh nữ này, nhưng khi đi thăm ngôi nhà của ngài nay đã được đổi thành một thánh đường,24 chỗ ngài chịu tử đạo, đồng thời biết rằng ngài đã được tuyên phong làm nữ hoàng âm nhạc, không phải vì giọng hát hay của ngài, cũng không vì tài nghệ âm nhạc của ngài, nhưng để tưởng nhớ bài ca trinh nữ mà ngài đã hát lên cho vị Hôn Phu Thiên Quốc kín ẩn trong tim ngài, con cảm thấy một điều gì đó còn hơn cả lòng sùng kính đối với ngài: một tình bạn đích thực và dịu dàng... Ngài trở thành vị thánh mến chuộng của con, trở thành bạn tâm sự thân thiết của con... Mọi cái nơi ngài đều làm con say mê, tinh thần từ bỏ của ngài, lòng tin tưởng vô hạn của ngài có sức làm cho các tâm hồn trở nên trinh khiết vì ngài không bao giờ ao ước những niềm vui nào khác ở cuộc sống này.
Thánh Cécilia giống như vị hôn thê trong sách Diễm Ca, nơi ngài con thấy “Một dàn hợp xướng giữa một doanh trại!...” (Dc 7,1).25 Cuộc đời ngài chỉ là một bài ca du dương giữa những thử thách đáng sợ và con không ngạc nhiên về điều này, vì “Tin Mừng thánh nằm tựa trên tim ngài!”26 Và Vị Hôn Phu của các trinh nữ nằm nghỉ trong tim ngài!...
Cuộc thăm viếng nhà thờ Thánh Anê27 cũng rất ngọt ngào đối với con. Đến nhà ngài con như được thăm lại một người bạn tuổi thơ. Con nói nhiều với ngài về người đang mang tên của ngài rất xứng đáng và con cố hết sức để lấy được một thánh tích của vị Thiên Thần bổng mạng của người Mẹ dấu yêu của con để mang vê tặng người, [62r0] nhưng chúng con không thể kiếm được gì ngoài một miếng đá màu đỏ rụng từ một bức tranh ghép đá có nguồn gốc từ thời Thánh Anê, bức tranh ấy Mẹ của con thường chiêm ngắm. Không thú vị sao khi chính vị Thánh này đã tặng cho chúng con cái chúng con đang tìm mà chúng con không được phép lấy?... Con luôn luôn coi đây là một cử chỉ rất tế nhị và là một bằng chứng về tình yêu luôn chăm sóc và che chở của Thánh Anê đối với người Mẹ dấu yêu của con!...
Chúng con đã qua sáu ngày đi thăm các kỳ quan chính của Rôma và đến ngày thứ bảy28 con đã được thấy kỳ quan vĩ đại nhất: “Đức Lêô XIII”29... Hôm ấy con vừa mong được thấy ngài vừa sợ ngài, ơn gọi của con lệ thuộc vào ngài, bởi vì con vẫn chưa nhận được câu trả lời của Đức cha, và qua một lá thư của Mẹ,30 Mẹ của con, con được biết Đức cha không còn nhiều thịnh tình đối với con, nên con chỉ còn chờ cái phao cứu sinh duy nhất của con là phép của Đức Thánh Cha... mà muốn nhận được cái phép này thì phải xin, phái dám nói trước mặt mọi người: nói “với Đức Thánh Cha”, con rùng mình trước ý tưởng này, nhưng nỗi khổ tâm con phải chịu trước buổi triều yết, chỉ một mình Chúa Nhân Lành biết, cùng với chị Céline yêu dấu của con. Con sẽ không bao giờ quên chỗ đứng của chị trong mọi thử thách của con, có thể nói ơn gọi của con là ơn gọi của chị. (Tình thương giữa hai chị em chúng con, các linh mục trong đoàn hành hương đều thấy rõ: một buổi tối, trong khi số người tụ tập quá đông mà thiếu ghế, Céline cho con ngồi lên gối chị và chúng con nhìn nhau thắm thiết khiến cho một linh mục phải thốt lên: “Coi chúng thương nhau không kìa! A! Hai chị em này không thể nào xa nhau bao giờ!” Vâng, chúng con thương nhau nhưng tình cảm của chúng con quá thanh khiết và quá mạnh khiến cho ý tưởng phải xa nhau không làm chúng con sợ, vì chúng con cảm thấy rằng dù biển xa sông rộng cũng không thể nào chia lìa chúng con... Céline thanh thản nhìn chiếc thuyền nan bé nhỏ [62v0] của con cập bến Cát Minh, chị kiên nhẫn ở lại bao lâu Chúa Nhân Lành vẫn còn muốn để chị ở lại trên đại dương bão táp của thế gian, vì chị chắc chắn đến lượt chị cũng sẽ an toàn cập bến ước mơ...)
Chúa Nhật 20 tháng 11,31 sau khi bận y phục theo nghi lễ Vatican (nghĩa là màu đen, với khăn trùm đầu thêu đăng-ten) và đeo phù hiệu lớn của Đức Lêô XIII với dải vải xanh trắng, chúng con đi vào điện Vatican trong nhà nguyện của Giáo Hoàng. Đến 8 giờ, nỗi xúc động của chúng con thật sâu xa khi nhìn thấy Đức Thánh Cha bước vào dâng Thánh Lễ... Sau khi ban phép lành cho rất đông khách hành hương tụ tập xung quanh ngài, ngài bước lên các bậc bàn thờ và với lòng sốt sắng xứng đáng với vị Đại Diện Chúa Giêsu, ngài cho chúng con thấy ngài đích thực là “Đức Thánh Cha”. Tim con đập mạnh và các lời cầu nguyện của con rất sốt sắng khi Giêsu ngự xuống trong đôi bàn tay vị Giáo Hoàng của Người, lòng con trao đổi tư tưởng. Bài Tin Mừng hôm ấy gồm những lời tuyệt vời này: “Đừng sợ, đoàn chiên bé nhỏ,32 vì Cha Thầy đã khấng ban vương quốc của Người cho các con” (Lc 12,32). Không, con không sợ, con hy vọng vương quốc Cát Minh sẽ sớm là của con. Lúc ấy con không nghĩ đến những lời khác của Chúa Giêsu: “Thầy dọn sẵn vương quốc của Thầy cho anh em, như Cha Thầy đã dọn sẵn cho Thầy” (Lc 22,29). Nghĩa là Thầy dọn sẵn cho anh em các thánh giá và thử thách, bằng cách ấy anh em sẽ xứng đáng thừa hưởng vương quốc mà anh em khát mong; vì Đức Kitô cần phải chịu đau khổ rồi mới vào trong vinh quang của Người, (Lc 24,26)33 nếu anh em muốn được ngồi bên cạnh Người, anh em cũng phải uống chén mà chính Người đã uống!... (Mt 20,21-23)34 Chén này Đức Thánh Cha đã nâng lên trước mặt con, nước mắt con hoà lẫn với thức uống đắng được dành cho con... Sau phần tạ Lễ, cuộc triều yết của Đức Thánh Cha bắt đầu. Đức Lêô XIII ngồi trên một chiếc ghế bành to, ngài mặc đơn giản [63r0] mộ áo chùng trắng, một cái choàng cùng màu và đầu chỉ đội một chiếc mũ chỏm nhỏ. Xung quanh ngài có các hồng y,35 tổng giám mục và giám mục, nhưng con chỉ nhìn thấy các vị ấy chung chung, vì đang mải để ý tới Đức Thánh Cha. Chúng con xếp hàng tiến qua trước mặt ngài, mỗi khách hành hương khi đi qua ngài thì quỳ gối xuống, hôn chân và tay Đức Lêô XIII, nhận phép lành của ngài rồi hai vệ binh giáo hoàng chạm vào người ấy theo nghi lễ để ra dấu cho người ấy đứng lên. Trước khi vào phòng yết kiến, con đã quyết tâm sẽ nói, nhưng khi thấy Cha Révérony bên tay phải Đức Thánh Cha, thì lòng can đảm của con biến đâu mất... Hầu như cùng lúc ấy có người thay mặt ngài cấm không ai được nói gì với Đức Lêô XIII,36 vì như thế cuộc triều yết sẽ rất lâu... Con quay sang chị Céline yêu dấu để dò ý chị: “Cứ nói! Chị bảo con”37 Một lát sau con đã quỳ dưới chân Đức Thánh Cha; sau khi con hôn chân Người, Người giơ tay ra cho con, nhưng thay vì hôn tay Người, con chắp tay con lại, cặp mắt đẫm lệ con ngước nhìn lên mặt Người và kêu lên: “Tâu Đức Thánh Cha, con muốn xin Ngài một ân huệ lớn!” Bấy giờ Đức Giáo Hoàng cúi đầu xuống sát mặt con, con nhìn thấy cặp mắt sâu và đen láy của ngài gắn chặt trên con và hình như đi thấu vào tận đáy hồn con. - “Tâu Đức Thánh Cha, con thưa, vì lễ kỷ niệm của Ngài, xin cho phép con được vào dòng Cát Minh năm 15 tuổi!...”
Hẳn là sự xúc động đã làm cho giọng con run run, còn Đức Thánh Cha thì quay sang Cha Révérony lúc ấy đang nhìn con với vẻ kinh ngạc vừa không bằng lòng, Đức Thánh Cha nói: “Ta không hiểu rõ lắm.” Giá như Chúa Nhân Lành cho phép, Người đã khiến cho Cha Révérony xin cho con được điều con mong, nhưng điều Người muốn ban cho con không phải là niềm an ủi mà là thánh giá. - “Tâu Đức Thánh Cha (Cha Tổng Đại Diện đáp), đứa trẻ này muốn được vào Dòng Cát Minh năm 15 tuổi, nhưng các đấng bề trên hiện đang xem xét vấn đề.” “Được rồi, con của Ta, Đức Thánh Cha vừa nói tiếp vừa hiền từ nhìn con, con hãy làm theo lời các bề trên bảo con.” Bấy giờ con tì hai tay [63v0] lên đầu gối Người và cố gắng một lần cuối cùng, con nói với giọng van nài: “Ôi! Tâu Đức Thánh Cha, nếu Ngài nói được, thì mọi người sẽ vâng theo!...” Người nhìn chằm chằm vào con và dằng từng tiếng các lời này: “Được... Được... Con sẽ vào dòng nếu Chúa Nhân Lành muốn...” (Giọng Người có cái gì đó quá thấm thía và quá thuyết phục khiến con như vẫn còn nghe thấy). Được khích lệ bởi lòng nhân hậu của Đức Thánh Cha, con còn muốn nói tiếp nhưng hai vệ binh lịch sự chạm tay vào con để bảo con đứng lên; thấy chưa đủ, họ cầm lấy cánh tay con và Cha Révérony giúp họ đỡ con dậy vì con vẫn còn chắp tay tì vào đầu gối Đức Lêô XII, và họ phải đến sức mạnh để lôi con ra khỏi chân Đức Thánh Cha... Lúc con bị lôi đi như thế, Đức Thánh Cha đặt tay lên môi con, rồi Người giơ tay ban phép lành cho con. Bấy giờ cặp mắt con đẫm lệ và Cha Révérony có thể nhìn ngắm những hạt kim cương cũng nhiều như hồi ngài thấy ở Bayeux... Hai vệ binh hầu như là khiêng con ra tới cửa, ở đó một anh vệ binh thứ ba đưa cho con một ảnh đeo của Đức Lêô XIII. Céline đi theo sau con và đã chứng kiến cảnh vừa diễn ra, chị cũng xúc động như con, nhưng chị đã can đảm xin phép lành của Đức Thánh Cha cho Dòng Cát Minh. Cha Révérony đáp với giọng không bằng lòng: “Dòng Cát Minh đã được phép lành rồi.”38 Đức Thánh Cha dịu dàng nói: “Ồ phải! Đã được phép lành rồi.” Trước chúng con, Ba đã đến dưới chân Đức Lêô XIII (cũng với các quý ông).39 Cha Révérony đã tỏ ra rất thiện cảm với Ba, giới thiệu Ba là Cha của hai sơ Cát Minh.40 Để tỏ dấu nhân hậu đặc biệt, Đức Giáo Hoàng đặt tay lên đầu đáng kính của Đức Vua yêu dấu của con,41 bằng cử chỉ ấy có vẻ như Người đóng một dấu ấn huyền nhiệm lên đầu của Ba, nhân danh Đấng mà Người là Đại Diện đích thực... A! Bây giờ người Cha này của bốn sơ Cát Minh đang ở trên Trời, không còn phải là bàn tay của Giáo Hoàng đặt trên trán cha [64r0] như là một cử chỉ tiên tri về cuộc tử đạo... Nhưng là bàn tay của vị Hôn Phu của các Trinh Nữ, của Vua Vinh Hiển, làm chói ngời cái đầu của Đầy Tớ Trung Thành của Người (Mt 25,21),42 và bàn tay đáng tôn thờ ấy sẽ mãi mãi đặt trên trán đã được bàn tay ấy tôn vinh!...
- Người Cha yêu dấu của con rất đỗi khổ tâm khi thấy con nước mắt giàn giụa lúc ra khỏi phòng triều yết, ba cố hết sức an ủi con nhưng vô ích... Tận đáy lòng con cảm thấy rất an bình, vì con tuyệt đối đã làm hết sức mình để có thể đáp lại điều Chúa Nhân Lành đòi hỏi nơi con, nhưng sự an bình này nằm sâu dưới đáy, còn nỗi cay đắng thì tràn ngập lòng con, vì Giêsu vẫn nín thinh. Người có vẻ như vắng mặt,43 không có gì tỏ lộ cho con thấy sự hiện diện của Người... Ngày hôm ấy cũng thế, mặt trời không dám chiếu sáng44 và bầu trời thanh thiên của nước Ý phủ bóng mây đen, cũng khóc lóc triền miên cùng với con... Thôi! Thế là hết, chuyến đi của con chẳng còn chút thú vị nào đối với con, vì mục đích của nó đã hỏng. Thế nhưng những lời nói cuối cùng của Đức Thánh Cha làm con được an ủi: chẳng phải đó là một lời tiên tri đích thực sao? Bất chấp mọi trở ngại, điều Chúa đã muốn thì phải được thực hiện. Người không cho phép các tạo vật làm theo ý chúng muốn, nhưng làm theo ý Người muốn... Từ ít lâu, con đã hiến mình con cho Hài Nhi Giêsu để làm món đồ chơi rẻ tiền của Người,45 con đã thưa Người đừng sử dụng con như một món đồ chơi đắt tiền mà trẻ em thích ngắm nhìn chứ không dám động vào, nhưng như một quả bóng bé nhỏ tầm thường mà Người có thể ném xuống đất, lấy chân đá, chọc thủng, vứt vào một xó hay ép vào tim Người nếu điều đó làm Người hài lòng; nói tóm, con muốn làm vui cho bé Giêsu, làm Người thích, con muốn phó mặc cho những sở thích hay thay đổi của Người... Người đã nhận lời cầu xin của con...
Ở Rôma, Giêsu đã chọc thủng món đồ chơi bé nhỏ của Người, Người muốn xem có gì ở trong đó và sau khi đã xem thấy, hài lòng vì đã khám phá được, Người bỏ rơi quả bóng nhỏ [64v0] và ngủ thiếp đi46 Người đã làm gì trong giấc ngủ ngọt ngào của Người và còn quả bóng nhỏ bị bỏ rơi thì sao?... Giêsu mơ thấy Người đang chơi với món đồ chơi ấy, ném nó đi rồi lại nhặt lên, và rồi sau khi đã đá cho nó lăn đi xa, Người ép nó vào tim, và không bao giờ cho phép nó rời xa bàn tay Người nữa...
Thưa Mẹ yêu dấu, Mẹ hiểu được quả bóng bé nhỏ buồn đến thế nào khi thấy mình lăn lóc dưới đất... Thế nhưng con vẫn không hết hy vọng khi chẳng có một tia hy vọng nào (Rm 4,18). Vài ngày sau cuộc triều yết Đức Thánh Cha, Ba có dịp đến thăm thầy Siméon, tốt bụng47 và ở đó Ba gặp Cha Révérony,48 lần này Cha tỏ ra rất dễ thương. Ba trách khéo Cha là đã không giúp con trong vụ khó khăn của con, rồi ông kể cho thầy Siméon về Nữ Hoàng nhỏ của ông. Ông thầy già đáng kính rất thích thú lắng nghe câu truyện Ba kể, thậm chí còn ghi chép đôi điều và nói với giọng cảm động: “Chuyện này chưa từng thấy ở Ý!”... Con tin rằng cuộc gặp mặt này này đã tạo một ấn tượng tốt với Cha Révérony; sau đó ngài, không ngừng tỏ cho con thấy rằng cuối cùng ngài cũng tin chắc về ơn gọi của con.
Hôm sau ngày đáng nhớ này, chúng con phải khởi hành từ sáng sớm để đi Napoli và Pompei. Để đón mừng chúng con, ngọn Vésuve nổ ầm ầm suốt cả ngày, và cùng với các phát đại bát của nó, nó bắn lên trên không một cột khói dày. Các dấu vết nó để lại trên khu phế tích Pompei thật là kinh khủng, chúng chứng tỏ quyền năng của Thiên Chúa: “Người nhìn xuống địa cầu và làm nó rung chuyển, Người chạm vào núi đá và biến nó thành mây khói...” (Tv 103,32).
Con thích được một mình đi thơ thẩn giữa đống phế tích này, thích mơ màng về sự mong manh của những chuyện người đời, nhưng số khách du lịch quá đông đã lấy mất một phần lớn nét lôi cuốn u buồn của cái thành phố đã bị phá huỷ này... Ở Napoli thì hoàn toàn ngược lại. Các chiếc xe song mã kéo rất nhiều tạo sức hấp dẫn kỳ diệu cho cuộc dạo chơi của chúng con tới tu viện Thánh Martino [65r0] toạ lạc trên một ngọn đồi cao trông xuống cả thành phố; chỉ tiếc là các chú ngựa chở chúng con cứ từng lúc lại cắn hàm thiếc và hơn một lần con đã tưởng đó là giây phút cuối cùng của mình rồi. Cho dù chú xà tích có mỏi miệng lặp lại những câu thần chú của các người lái xe Ý: “Áp-pi-po, áp-pi-pô...”49 nhưng cũng chẳng ăn thua gì, các con ngựa khốn khổ cứ muốn lật đổ xe, cuối cùng nhờ sự hộ phù của các thiên thần bản mệnh của chúng con, chúng con cũng đến được khách sạn tuyệt vời của mình. Trong suốt cuộc hành trình, chúng con luôn được ở trong các khách sạn của các bậc vua chúa, chưa bao giờ con ở giữa cảnh xa hoa như thế, quả đúng là trường hợp để nói rằng giàu sang không làm nên hạnh phúc, vì sống dưới một mái nhà tranh mà có niềm hy vọng được vào Cát Minh thì con cảm thấy sung sướng hơn là sống trong những ngôi nhà sơn son thiếp vàng, những bậc thang hoa cương trắng, những tấm thảm lụa mịn màng, mà trong lòng chất chứa cay đắng... A! Con cảm thấy điều đó một cách sâu sắc, niềm vui không nằm trong những đồ vật xung quanh chúng ta, nó nằm ở nơi sâu thẳm nhất tâm hồn chúng ta, người ta có thể có niềm vui trong một nhà tù cũng như trong một cung điện, bằng chứng là sống ở Cát Minh, dù giữa những thử thách cả bên trong lẫn bên ngoài, con vẫn thấy hạnh phúc hơn là giữa những tiện nghi của đời sống và nhất là sự êm đềm của tổ ấm gia đình!...
Hồn con chìm ngập trong ưu sầu, nhưng bề ngoài con vẫn không tỏ vẻ gì khác vì con tin rằng mình đã giữ kín được lời khẩn xin của con cùng Đức Thánh Cha; nhưng không lâu sau con biết được điều ngược lại, khi ở một mình trong xe với Céline (các người hành hương khác đều đã xuống xe đi vào quán ăn trong ít phút xe dừng lại), con trông thấy Cha Legoux, tổng đại diện của Coutances, mở cổng và cười cười nhìn con, ngài nói: “Sao, cô bé Cát Minh của chúng tôi thế nào rồi?...” Lúc ấy con hiểu rằng cả đoàn hành hương đều đã biết bí mật của con rồi,50 may mà không ai nói ra với con, nhưng cứ theo thái độ thiện cảm họ nhìn con, con biết rằng lời xin của con đã không gây một tác dụng xấu [65v0], ngược lại... Ở thị xã Assise, con có dịp lên chung xe với Cha Révérony, một ân huệ mà không một quý bà nào được hưởng trong suốt chuyến đi. Hoàn cảnh con nhận được sự ưu đãi này là thế này.
Sau khi đi thăm những nơi thấm đượm hương thơm nhân đức của Thánh Phanxicô và Thánh Clara, cuối cùng chúng con đến thăm tu viện Thánh Anê, em của Thánh Clara,51 con mải mê chiêm ngắm cái đầu của Thánh Nữ, đến khi con quay ra thì thấy tuột mất sợi dây lưng, đang khi con tìm kiếm Giêsu, đám đông thì một linh mục thấy con tội nghiệp nên đã giúp con tìm, [nhưng] sau khi tìm thấy rồi thì ngài cũng bỏ đi, để lại con một mình tiếp tục tìm kiếm, vì dây lưng thì đã có, nhưng không tài nào thắt vô được vì mất cái khoá... Cuối cùng con thấy nó lấp lánh ở một xó, con nhặt lên và việc gắn nó vào dây lưng không lâu, nhưng công việc trước đó thì lâu hơn nhiều, hơn nữa con lại phải một phen hốt hoảng khi thấy chỉ còn lại một mình ở giữa thánh đường, mọi xe đều đã đi cả, chỉ còn lại xe của Cha Révérony. Tình thế nào đây? Phải chạy đuổi theo đoàn xe mà con không còn thấy tăm hơi đâu nữa, chịu lỡ chuyến xe để làm cho Ba phải lo lắng, hay xin một chỗ trên xe của Cha Révérony?... Con quyết định chọn cách cuối cùng này. Làm ra vẻ duyên dáng nhất và ít bối rối bao nhiêu có thể, dù con đang hết sức bối rối, con trình bày cho ngài tình trạng nguy cấp của con và khiến cho chính ngài rơi vào tình trạng bối rối, vì trên xe của ngài toàn là các quý ông danh giá nhất trong đoàn hành hương, xe chật ních không còn dư một chỗ nào, nhưng một ông rất thanh lịch vội xuống xe và cho con lên xe ngồi vào chỗ của ông rồi ông ấy khiêm tốn đến ngồi cạnh chú xà ích. Con giống như con sóc mắc bẫy, hoàn toàn không thoải mái chút nào vì xung quanh con toàn là các bậc vị vọng và nhất là ngồi đối diện với con lại là nhân vật đáng sợ hơn cả. Tuy nhiên ngài tỏ ra [66r0] rất thiện cảm với con, thỉnh thoảng ngài lại cắt ngang câu chuyện với các quý ông kia để hỏi con về Cát Minh... Trước khi đến nhà ga, tất cả các bậc vị vọng đều rút những chiếc ví to của họ ra để cho chú đánh xe tiền (đã trả tiền rồi), con cũng làm theo họ và lấy cái ví nhỏ xíu của con ra, nhưng Cha Révérony nhất định không chịu cho con rút ra hai đồng tiền nhỏ xinh xinh, ngài thích cho một đồng tiền lớn cho cả ngài và con.
Một lần khác con ngồi cạnh ngài trên xe khách,52 ngài còn tỏ ra thiện cảm hơn và hứa sẽ làm tất cả những gì ngài có thể để con được vào Carmel... Các cuộc gặp gỡ nho nhỏ này tuy có xoa dịu phần nào vết thương của con, nhưng cũng không giúp cho chuyến về bớt buồn hơn chuyến đi, vì con không còn hy vọng gì “nơi Đức Thánh Cha” nữa, con không còn tìm thấy một sự trợ giúp nào ở dưới đất này, nơi đối với con là một mảnh đất khô cằn không một giọt nước (Tv 62,2),53 mọi hy vọng của con chỉ đặt vào một mình Thiên Chúa mà thôi... Con vừa trải nghiệm được rằng tìm đến với Chúa thì tốt hơn tìm đến với các thánh nhân của Người...
Nỗi buồn trong lòng không thể ngăn cản con cảm thấy hứng thú khi thăm viếng các nơi thánh. Ở Florence54 con sung sướng được chiêm ngưỡng thi hài Thánh Mađalêna Pazzi đặt giữa ca triều của các nữ tu Cát Minh và họ mở cửa lưới lớn cho chúng con vào; vì chúng con không biết được hưởng đặc ân này, nhiều người muốn chạm tràng hạt của mình vào mộ của Thánh Nữ, nhưng chỉ có một mình con có thể thò tay qua chắn song hàng rào ngăn cách chúng con, nên ai ai cũng đưa tràng hạt nhờ con và con rất hãnh diện làm nhiệm vụ này… Con luôn luôn cố tìm mọi cách để chạm vào tất cả,55 nên trong Nhà Thờ Thánh Giá tại Giêrusalem (của Rôma) chúng con có thể tôn kính nhiều mảnh của cây Thánh Giá thật, hai chiếc gai và một cây đinh thánh được cất giữ trong một cái hòm thánh rất đẹp mạ vàng, nhưng không có kính, và để tỏ lòng tôn kính thánh tích quý báu này, con cũng tìm cách thọc ngón tay qua một cái khe của hòm thánh và chạm được vào một cây đinh nhuốm máu Chúa Giêsu... Con thật là quá gan lì! May thay, Chúa Nhân Lành thấy rõ đáy lòng con và Người biết ý hướng trong sáng của con, Người cũng biết con không muốn làm điều gì mất lòng Người, con đối xử với Người giống như một trẻ thơ tin rằng mình được phép làm mọi sự và coi các kho báu của Cha mình cũng là của mình. (Lc 15,31)56 - con không hiểu nổi tại sao các phụ nữ ở Ý lại quá dễ bị vạ tuyệt thông đến thế,57 cứ lúc lúc người ta lại bảo chúng con: “Không được vào chỗ này. Không được vào chỗ kia, ai vào sẽ bị vạ tuyệt thông đấy!” Ôi! Tội nghiệp các phụ nữ, họ bị khinh dể quá mức! Nhưng số phụ nữ yêu mến Thiên Chúa thì đông hơn số đàn ông, và trong cuộc Khổ Nạn của Chúa chúng ta, các phụ nữ đã tỏ ra can đảm hơn các Tông đồ, vì các bà không sợ lời nhục mạ của bọn lính và dám đến lau Khuôn Mặt đáng kính thờ của Chúa Giêsu... Chắc hẳn vì vậy mà Người đã cho họ được chia phần sỉ nhục với Người ở trần gian này, vì Người đã chọn họ cho chính Người... Ở trên Trời Người sẽ chứng tỏ rằng tư tưởng của Người không phải là tư tưởng của phàm nhân (Is 55,8-9)59... Trong chuyến đi, nhiều lần con không đủ kiên nhẫn đợi tới lúc lên Trời mới trở thành người trước hết... Một hôm chúng con đi thăm một tu viện Cát Minh,60 vì không muốn chỉ đi theo các người hành hương khác trong các hành lang bên ngoài, con đã tiến sâu vào trong nội cấm... Thình lình con thấy một thầy già đứng từ xa ra hiệu cho con rời khỏi chỗ ấy, nhưng thay vì rời đi, con tiến lại gần thầy già và chỉ tay lên các bức tranh trong nội cấm và ra dấu cho thấy ấy rằng các bức tranh rất đẹp. Chắc hẳn vì mái tóc sau lưng con và dáng vẻ trẻ trung của con, thầy ấy biết con chỉ là một đứa bé, nên thầy mỉm cười hiền lành với con rồi lui đi vì biết rằng trước mặt thầy không phải là một kẻ thù; giá mà con biết nói tiếng Ý; con đã có thể nói cho thầy ấy biết con sẽ là một nữ tu Cát Minh trong tương lai, nhưng vì rào cản của tháp Babel (St 11,1-9),61 nên con chẳng làm được gì.
- Sau khi còn đi thăm Pisa và Genova,62 chúng con quay trở về Pháp. Trên đường [67r0] phong cảnh thật tuyệt vời, khi thì chúng con đi dọc theo bờ biển rất gần với tuyến đường sắt khiến con thấy các đợt sóng gần như đập tới sát người chúng con (cảnh tượng này là do một cơn bão, lúc ấy là buổi chiều, khiến cảnh vật càng trở nên hùng vĩ hơn), khi thì đi qua những cánh đồng bằng phủ đầy những cây cam trái chín mọng, những cây ôliu xanh tươi thưa lá, những cây cọ diễm lệ... Khi màn đêm buông xuống, chúng con trông thấy nhiều cảng biển nhỏ lấp lánh hàng ngàn ánh đèn, trong khi trên trời lấp lánh những ánh sao vừa xuất hiện... A! Cảm giác thơ mộng tuyệt vời tràn ngập hồn con trước tất cả những điều này mà con được ngắm nhìn lần đầu tiên và cũng là lần cuối trong đời!63... Con nhìn chúng biến mất nhưng lòng không hối tiếc, vì tim con khát mong các điều kỳ diệu khác, nó đã chiêm ngưỡng đủ những cái đẹp của trần gian này, còn những cái đẹp của Trời mới là đối tượng ước mong của nó, và để đem chúng đến cho các linh hồn, con muốn trở thành một tù nhân!64... Trước khi thấy mở ra trước mặt mình cánh cửa nhà tù chúc phúc mà con khát mong, con còn phải chiến đấu và chịu đau khổ, con cảm nghiệm được điều đó khi về đến Pháp, nhưng con tràn trề tin tưởng đến nỗi con không ngừng hy vọng mình sẽ được phép vào dòng ngày 25 tháng 12... Vừa về đến Lisieux,65 nơi chúng con đến thăm đầu tiên là nhà dòng Cát Minh, Một cuộc gặp gỡ tuyệt vời!. Có biết bao nhiêu chuyện để nói với nhau sau một tháng trời xa cách, con thấy tháng ấy dài hơn và con đã học được nhiều điều hơn là trong nhiều năm trời...
Ôi Mẹ dấu yêu! Thật dịu ngọt biết bao khi được gặp lại Mẹ, được mở ra với Mẹ tâm hồn bé nhỏ tội nghiệp và bị tổn thương của con. Vì Mẹ là người hiểu con rõ nhất, chỉ cần một lời nói, một cái nhìn là đủ để Mẹ đoán ra mọi sự! Con từ bỏ mình hoàn toàn, con đã làm tất cả những gì con có thể, tất cả, thậm chí nói cả với Đức Thánh Cha, và con không biết mình còn phải làm gì nữa. Mẹ bảo con viết thư cho Đức cha và nhắc lại lời hứa của ngài; con viết ngay, sớm bao nhiêu có thể, nhưng bằng những lời mà cậu thấy là hơi quá đơn giản, [67v0] Cậu đã viết lại cho con; lúc con sắp gởi đi, con nhận được thư của Mẹ, Mẹ bảo con đừng viết, đợi vài ngày nữa, con vâng ngay, vì con tin chắc đó là cách tốt nhất để con không phạm sai lầm. Cuối cùng, mười ngày trước lễ Noel,66 con gửi thư đi; vì tin chắc câu trả lời không phải đợi lâu, sáng nào, sau khi dự lễ con cũng cùng với Ba ra bưu điện, tin rằng ở đó con sẽ nhận được phép để bay đi, nhưng sáng nào con cũng vỡ mộng, nhưng nó không lay chuyển được niềm tin [của con]... Con cầu xin Giêsu bẻ gẫy xiềng xích cho con, Người bẻ gẫy nó (Tv 115,16), nhưng một cách hoàn toàn khác với cách con mong đợi... Ngày lễ Noel tươi đẹp đã đến mà Giêsu vẫn chưa thức giấc... Người bỏ quả bóng nhỏ của Người dưới đát, thậm chí không thèm ngó nhìn đến nó...
Tim con tan nát khi đi lễ nửa đêm, con cứ tưởng chác là được dự lễ phía sau hàng rào cấm của Cát Minh!... Thử thách này khá lớn cho đức tin của con, nhưng Đấng có quả tim tỉnh thức trong giấc ngủ (Dc 5,2)67 làm cho con hiểu ra rằng, với những ai có đức tin bằng một hạt cải (Mt 17,20),68 Người ban cho phép lạ và làm chuyển núi dời non, để làm vững mạnh đức tin quá bé nhỏ này; còn đối với những người thân thiết của Người, đối với Mẹ của Người, Người không làm phép lạ trước khi đã thử thách đức tin của họ. Chẳng phải Người đã để cho ông Ladarô chết đi, mặc dù hai chị em cô Mácta và Marie đã báo tin cho Người biết là em trai họ đau nặng hay sao? (Ga 11,1-4)69 Tại tiệc cưới Cana, Đức Mẹ đã xin Giêsu cứu giúp gia chủ, Người đã chẳng đáp lại rằng giờ của Người chưa đến sao? (x. Ga 2,1-11)... Nhưng sau khi thử thách, phần thưởng lớn chừng nào, nước hoá thành rượu... Ladarô sống lại! Giêsu cũng hành động như thế với Têrêsa bé nhỏ của Người; sau khi thử thách nó lâu ngày, Người thoả mãn mọi ước vọng của lòng nó...
Buổi trưa ngày lễ chói chang ấy con trải qua trong nước mắt; con đến thăm các Sơ Cát Minh; khi người ta mở cửa chấn song ra, con hết sức ngạc nhiên [68r0] khi nhìn thấy Hài Nhi Giêsu xinh đẹp tay cầm một quả bóng có viết tên con trên đó. Giêsu còn quá bé chưa biết nói, nên các Sơ Cát Minh thay Người hát mừng con một bài thánh ca do Mẹ yêu dấu sáng tác, từng lời của bài hát đổ vào hồn con một niềm an ủi ngọt ngào, con sẽ không bao giờ quên cõi lòng từ mẫu tế nhị này, nó luôn luôn ban tặng con những cử chỉ dịu dàng quý báu nhất... Sau khi đã cám ơn bằng những dòng nước mắt ngọt ngào, con kể lại nỗi ngạc nhiên mà chị Céline yêu dấu đã dành cho con lúc đi lễ nửa đêm về. Trong phòng con, giữa một cái chậu xinh đẹp, con thấy một con thuyền nhỏ chở Giêsu bé nhỏ đang ngủ với một quả bóng nhỏ bên cạnh, trên cánh buồn trắng Céline đã viết những lời này: “Ta ngủ nhưng lòng Ta thức” (Dc 5,2),70 và trên mạn thuyền một từ duy nhất: “Phó thác!” A! Nếu Giêsu chưa nói được với hiền thê bé nhỏ của Người, nếu cặp mắt thánh của Người vẫn nhắm lại, thì ít ra, Người đã tỏ mình ra cho nó qua các linh hồn thấu hiểu được tất cả những tình cảm tế nhị và tình yêu trong Tim Người...
Ngày đầu năm 1888, Giêsu còn tặng cho con món quà thánh giá của Người, nhưng lần này con phải vác một mình, vì nó vừa đau đớn vừa không thể hiểu được... Một lá thư của chị Pauline báo tin cho con rằng câu trả lời của Đức cha đã đến hôm 28, lễ Các Thánh Anh Hài, nhưng không cho con biết vì nhà dòng đã quyết định chỉ cho con vào dòng sau mùa chay. Con không thể cầm được nước mắt trước một sự chậm trễ như thế. Thử thách này có một tính chất đặc biệt đối với con, con thấy các mối liên hệ đối với thế giới của con bị chặt đứt (Tv 115,16)71 và lần này chính con tàu thánh đã từ chối không cho con chim câu bé nhỏ đáng thương lên tàu (St 7,13-16).72... Con nghĩ mình vô lý khi không vui vẻ chấp nhận ba tháng lưu đày, nhưng, mặc dù không tỏ ra, con cũng tin rằng thử thách này là quá lớn và làm con lớn lên nhiều trong sự từ bỏ73 và các nhân đức khác.
[68v0] Con đã qua ba tháng đầy hồng ân này cho tâm hồn như thế nào? Thoạt đầu con chợt nghĩ mình không nên ép mình sống một nếp sống gò bó như con vẫn quen sống, nhưng ngay sau đó con hiểu cái giá của thời gian được ban tặng cho con, nên con quyết định bước vào một nếp sống nghiêm túc và hãm mình hơn bao giờ.74 Khi nói đến hãm mình, con không có ý nói con làm các việc đền tội, trời! Con không bao giờ làm các việc ấy,75 hoàn toàn khác với các linh hồn tốt lành từ bé đã luôn thực hành mọi loại việc hãm mình, còn con không hề cảm thấy sức hấp dẫn của chúng; chắn hẳn đó là tính hèn nhát của con, vì cũng giống như Céline, con có thể sáng chế ra hàng ngàn cách hãm mình nho nhỏ, nhưng ngược lại, con luôn luôn để mình được bao bọc trong lớp bông êm ả và chiều chuộng như con chim nhỏ không cần làm việc đền tội... Việc hãm mình của con là bẻ gẫy ý riêng của con luôn thích áp đặt trên người khác,76 kiềm chế lời nói cãi lại, làm các việc phục vụ nho nhỏ mà không phô trương, ngồi mà không dựa lưng, vv... Chính bằng việc thực hành các việc nhỏ nhặt này mà con chuẩn bị để trở nên hiền thê của Giêsu, và con không thể nói được rằng thời gian chờ đợi này đã để lại cho con những kỷ niệm dịu ngọt như thế nào77... Ba tháng qua thật nhanh, cuối cùng giờ phút con nóng lòng mong đợi đã đến.
 
Vào Dòng Cát Minh - Mọi thứ làm con say mê - Gai nhiều hơn hoa hồng - Xưng tội với Cha Pichon - Con sẽ còn đơn sơ hơn nữa - Thánh Nhan - Hy tế trên bàn thờ - Con mặc áo dòng - Chiến thắng của Đức Vua của con - Chén cay đắng nhất - Thời kỳ đính ước của con - Các nhân đức bé nhỏ - Bộ áo cưới.

Thứ hai mồng 9 tháng 4, tu viện Cát Minh mừng lễ Truyền tin, được dời lại sau Mùa Chay. Hôm nay cũng là ngày được chọn để con vào dòng. Tối hôm trước, cả gia đình sum họp quanh bàn ăn, nơi con sẽ ngồi một lần cuối. A! Các cuộc sum họp thân mật như thế này mới xé lòng làm sao! Trong khi con đang muốn mình bị quên lãng, thì những người thân lại dành cho con vô vàn những cái vuốt ve, những lời nói âu yếm khiến con càng cảm thấy sự hồi sinh của cảnh chia ly... Đức Vua yêu dấu của con hầu như chẳng nói lời nào, nhưng người chăm chú nhìn con với biết bao tình thương... Mợ con thì thỉnh thoảng lại khóc, còn cậu thì dành cho con biết bao lời khen ngợi yêu thương. Hai cô em họ Jeanne và Marie cũng tỏ những cử chỉ dịu dàng đối với con, nhất là Marie, nó [69r0] kéo con ra riêng một chỗ rồi xin lỗi con vì những hành vi mà nó nghĩ là đã làm con buồn. Sau cùng là chị bé Léonie yêu dấu, vừa từ dòng Thăm Viếng trở về được vài tháng nay1 cũng dành cho con biết bao nụ hôn và những cái vuốt ve. Chỉ còn Céline là con chưa nói tới, nhưng Mẹ biết rồi đấy, thưa Mẹ dấu yêu, mẹ có thể tưởng tượng chúng con đã qua cái đêm cuối cùng ấy với nhau như thế nào... Buổi sáng ngày trọng đại, sau khi ngoái nhìn lại một lần cuối ngôi nhà Bsuissonnets yêu dấu, cái tổ ấm xinh đẹp của tuổi thơ con mà con sẽ không còn được gặp lại nữa, con khoác tay Đức Vua yêu dấu của con rồi leo lên núi Cát Minh... Giống như tối hôm trước, cả gia đình tụ tập lại để dự thánh lễ và rước lễ. Vừa khi Giêsu ngự vào lòng những người thân thương của con, con nghe thấy quanh con những tiếng nức nở nghẹn ngào, chỉ mình con là không rơi nước mắt, nhưng con thấy tim con đập dữ dội đến nỗi hầu như con không thể bước tới khi người ta đến ra hiệu cho con đi đến cổng tu viện, con cũng ráng bước tới nhưng trong lòng thầm nghĩ không biết mình có chết vì tim đập quá mạnh hay không... A! Giờ phút thật khó diễn tả, phải trải qua nó mới có thể biết nó như thế nào...
Con không để lộ cảm xúc ra bên ngoài; sau khi ôm hôn mọi người trong gia đình yêu dấu của con, con quỳ gối xuống trước mặt người Cha tuyệt vời của con để xin người chúc lành; để chúc lành cho con, chính người cũng quỳ gối xuống và vừa khóc vừa chúc lành cho con... Cảnh tượng này hẳn phải làm các thiên thần phì cười: một ông già dâng lên cho Chúa đứa con đang tuổi xuân mơn mởn! Một lát sau, các cửa của con tàu thánh đóng lại sau lưng con (St 7,16),2 ở đó con đón nhận những vòng tay ôm hôn của các chị yêu dấu đã từng đóng vai từ mẫu đối với con, từ nay các chị sẽ là mẫu mực cho con. Cuối cùng các ước vọng của con đã được toại nguyện, hồn con cảm thấy một niềm AN BÌNH quá dịu ngọt và sâu xa3 khiến con không thể nào [69v0] diễn tả nổi, và từ bảy năm rưỡi nay, niềm an bình sâu xa này luôn gắn chặt với con, nó không bao giờ rời bỏ con dù giữa những thử thách lớn lao nhất.
Giống như mọi thỉnh sinh khác, con được đưa tới ca triều ngay sau khi vào tu viện. Bên trong tối om vì đang đặt Mình Thánh Chúa,4 và điều đầu tiên đập vào mắt con là cặp mắt của Mẹ Geneviève thánh thiện của chúng ta5 chiếu thẳng vào con, con quỳ một lát dưới chân người để tạ ơn Thiên Chúa vì đã ban cho con được biết một vị thánh, sau đó con đi theo Mẹ Marie de Gonzague6 vào các nơi khác nhau trong tu viện; nơi nào cũng làm cho thích mê mẩm, con tưởng như mình được đưa vào trong một sa mạc, đặc biệt căn phòng nhỏ dành cho con7 làm con ngấy ngây, nhưng niềm vui con cảm thấy thật là thanh thản, một làn gió nhẹ nhất cũng không làm gợn mặt nước tĩnh lặng mà thuyền con xuôi dòng trên đó, không một gợn mây che tối bầu trời thanh thiên của con... A! Con đã được đền bù đầy đủ vì mọi thử thách của con... Với một niềm vui vô cùng sâu xa, con lặp đi lặp lại những lời này: “Mãi mãi, mãi mãi con sẽ ở đây!”...
Niềm hạnh phúc này không phù du, nó sẽ không bay đi cùng với cái ảo tưởng của những ngày đầu. Các ảo tưởng, Chúa Nhân Lành đã ban cho con ơn để con không có một Ảo tưởng nào khi vào Dòng Cát Minh: con đã thấy đời tu đúng như con đã mường tượng ra nó,8 không một hy sinh nào làm con ngạc nhiên, thế nhưng, như Mẹ biết, thưa Mẹ dấu yêu, những ngày đầu tiên, con đã gặp nhiều gai hơn là hoa hồng! Vâng, đau khổ đã dang cánh tay ra đón con và con âu yếm ngã vào vòng tay ấy... Điều con đến Cát Minh để làm, con đã nói lên dưới chân Chúa Giêsu Thánh Thể trong cuộc sát hạch để dọn mình tuyên khấn:9 “Con đến để cứu rỗi các linh hồn và nhất là để cầu nguyện cho các linh mục”. Muốn đạt một mục đích thì phải sử dụng phương tiện. Giêsu cho con hiểu rằng chính nhờ thập giá mà Người muốn ban cho con các linh hồn và niềm say mê của con đối với các linh hồn càng lớn lên, thì đau khổ cũng gia tăng. Đây là con đường con đi suốt 5 năm10 nhưng [70r0] nhìn vẻ bề ngoài, không có gì cho thấy con phải đau khổ mặc dù sự đau khổ ấy càng đau đớn hơn vì chỉ một mình con biết. A! Chúng ta sẽ ngạc nhiên biết bao vào ngày tận thế khi chúng ta được đọc tiểu sử của các tâm hồn! Sẽ có những người phải ngạc nhiên khi thấy đường lối ứng xử của con!...
Đúng là như thế, vì hai tháng sau khi con vào dòng, khi Cha Pichon đến dự lễ tuyên khấn của chị Marie du Sacré-Coeur, ngài phải ngạc nhiên khi thấy điều mà Chúa Nhân Lành làm nơi linh hồn con và ngài nói với con rằng tối hôm trước, khi nhìn con cầu nguyện tại ca triều, ngài nghĩ rằng lòng sốt sắng của con rất ngây thơ11 và con đường con đi rất êm ả. Cuộc bàn hỏi của con với Cha là một niềm an ủi lớn cho con, nhưng con phải che giấu nước mắt vì con cảm thấy khó cởi mở tâm hồn mình. Tuy nhiên con cũng đã xưng tội chung, vì con chưa bao giờ xưng tội chung; cuối cùng Cha nói với con những lời an ủi nhất mà tại linh hồn của con được nghe thấy: “Trước Nhan Thiên Chúa Nhân Lành, của Đức Mẹ và toàn thể các Thánh, cha tuyên bố là con chưa bao giờ phạm một trọng.12 Rồi ngài thêm: Hãy cảm tạ Chúa Nhân Lành vì điều Người làm cho con, vì nếu Người bỏ con, thay vì là một thiên thần nhỏ, con có thể trở thành một con quỷ nhỏ. A! Không phải khó khăn gì để con tin như thế, con cảm thấy mình quá yếu đuối và bất toàn, nhưng hồn con tràn ngập lòng biết ơn, con rất sợ làm hoen ố tấm áo Rửa Tội, một sự bảo đảm được nói ra từ miệng của một vị linh hướng như Mẹ Thánh Têrêsa mong muốn, đó là kết hợp sự hiểu biết với nhân đức,13 đối với con cũng giống như được nói ra từ miệng của chính Chúa Giêsu... Người Cha tốt lành này còn nói với con những lời dịu dàng đã in sâu vào lòng con: “con của cha, chớ gì Chúa Giêsu luôn luôn là Bề Trên và Tập Sư của con.” Quả thực Người là như thế và cũng là “linh hướng của con”. Nói thế không phải con muốn nói rằng tâm hồn con đã đóng kín đối với các Bề Trên của con, a! Hoàn toàn không, con luôn luôn cố gắng để nó như một quyển sách mở ra cho các ngài; [70v0] nhưng Mẹ Bề Trên luôn luôn yếu đau nên có rất ít thời gian chăm sóc đến con14 con biết người thương con nhiều lắm và hết sức nói tốt về con, nhưng Chúa Nhân Lành đã để cho người tỏ ra RẤT NGHIÊM KHẮC15 mà không biết điều đó; mỗi lần gặp ngài con đều phải hôn đất,16 kể cả trong các cuộc bàn hỏi của con với ngài... Quả là một ân huệ vô giá! Chúa Nhân Lành hành động một cách hữu hình như thế nơi kẻ thay mặt Người! Con sẽ ra sao nếu con là một “con búp bê” của cộng đoàn như người ta nghĩ? Có thể thay vì thấy Chúa nơi các Bề Trên, con lại coi các ngài chỉ là những con người và tim con vốn đã được giữ gìn cẩn thận ở ngoài đời sẽ bị ràng buộc bởi các mối quyến luyến nhân loại trong dòng kín? May là con được giữ gìn khỏi mối bất hạnh này. Hẳn là con rất yêu Mẹ Bề Trên, nhưng bằng một tình cảm tinh tuyền đưa con lên với vị Hôn Phu của lòng con...
Chị Tập Sư của chúng con đúng là một vị thánh,17 một mẫu mực hoàn hảo của các nữ tu Cát Minh đầu tiên; con ở suốt ngày với chị vì chị dạy con làm việc. Lòng tốt của chị đối với con thật vô giới hạn, thế nhưng hồn con không cảm thấy thoải mái... Con phải rất cố gắng18 mới làm được công việc bàn hỏi thiêng liêng, vì con không quen nói về tâm hồn mình, con không biết diễn tả thế nào những gì xảy ra trong tâm hồn. Một hôm, một Mẹ đã già và tốt lành19 hiểu được cảm nghĩ của con, mẹ ấy vừa cười vừa nói với con trong giờ giải trí: “Con gái nhỏ, hình như con chẳng có điều gì quan trọng để nói với các bề trên của con.” - Thưa Mẹ, sao Mẹ nói thế?... - “Vì tâm hồn con vô cùng đơn sơ,20 nhưng khi con trở nên hoàn hảo, con sẽ còn đơn sơ hơn nữa; càng đến gần Chúa, người ta càng trở nên đơn sơ hơn.” Bà Mẹ tốt lành này có lý, nhưng cái khó cởi mở tâm hồn do sự đơn sơ của con lại là một đau khổ thực sự, bây giờ con nhận ra điều đó, vì tuy con vẫn luôn luôn đơn sơ [71r0] nhưng bây giờ con diễn tả tư tưởng một cách rất dễ dàng.21
Con đã nói Giêsu là “Linh Hướng của con” - Khi vào Dòng Cát Minh, con đã làm quen với người được chỉ định sẽ dẫn dắt con, nhưng vừa khi ngài nhận con vào số con cái của ngài thì ngài đã phải đi tới chốn rất xa... Chỉ còn nhận được mỗi năm một lá thư của ngài trên tổng số 12 lá con viết cho ngài,22 tim con mau chóng quay về với vị Linh Hướng của các linh hướng và chính Người đã dạy dỗ con về thứ khoa học được giấu kín với những người khôn ngoan thông thái nhưng được mạc khải cho những kẻ bé mọn nhất (Lc 10,21).23
Bông hoa nhỏ được bứng trồng trên núi Cát Minh phải tươi nở dưới bóng Thập Giá; nước mắt và máu của Giêsu trở thành sương  sa cho nó và Mặt Trời của nó là Thánh Nhan Đáng Tôn Thờ phủ nước mắt... Cho tới lúc bấy giờ con chưa dò thấu sự sâu thẳm của các kho tàng giấu ẩn trong Thánh Nhan,24 chính nhờ Mẹ, thưa Mẹ dấu yêu, mà con học biết được các kho tàng ấy, và cũng như trước đây Mẹ đã đến cát Minh trước tất cả chúng con, thì Mẹ cũng là người đầu tiên đi sâu vào các mầu nhiệm tình yêu giấu ẩn nơi Khuôn Mặt Vị Hôn Phu của chúng ta; lúc ấy Mẹ đã gọi con và con đã hiểu... Con đã hiểu thế nào là vinh quang đích thực.25 Đấng mà vương quyền không thuộc về thế gian này đã cho con thấy rằng khôn ngoan đích thực là ở chỗ “muốn không được ai biết đến và bị coi là không - Niềm vui của con là biết tự coi khinh chính mình”26... A! Giống như khuôn mặt của Giêsu, con muốn “được giấu mặt thực sự, không một ai biết đến con trên trái đất này” (Is 53,3).27 Con khao khát được chịu đau khổ và bị lãng quên.
Con đường Chúa Nhân Lành hằng dẫn con đi thật là nhân từ biết bao, Người không bao giờ làm con ước muốn điều gì mà không ban cho con điều ấy,28 vì thế chén đắng của Người29 đối với con thật là ngọt ngào...
Sau các ngày lễ tưng bừng của tháng 5, các lễ tuyên khấn và đội lúp [71v0] của chị Marie yêu dấu, chị cả của gia đình mà cô em út có diễm phúc được đội triều thiên trong lễ cưới của chị, thử thách đã đến viếng chúng ta... Tháng 5 năm ngoái, Ba mắc chứng liệt hai chân,30 chúng ta đã lo lắng vô cùng, nhưng tính cách dũng cảm của Đức Vua yêu dấu của con sớm chiến thắng cơn bệnh và nỗi sợ của chúng ta đã tan biến. Nhưng trong chuyến đi Rôma, hơn một lần chúng con nhận thấy Ba rất dễ mệt, người không còn vui nhộn như mọi khi nữa... Điều con đặc biệt nhận thấy là chính nhờ các tiến bộ Ba đạt được trên con đường trọn lành theo gương Thánh Phanxicô Salê mà Ba đã đạt tới chỗ làm chủ bản chất sinh động tự nhiên của Ba tới mức hình như là Ba có bản tính dịu dàng nhất trên thế giới này... Ba hầu như chẳng còn bận tâm gì tới những chuyện đời, cuối cùng Chúa Nhân Lành đã đổ vào lòng Ba đầy tràn an ủi; trong những lần viếng Thánh Thể hằng ngày, Ba thường chảy nước mắt và khuôn mặt Ba toát lên một niềm hạnh phúc thiên thai... Khi chị Léonie rời dòng Thăm Viếng, Ba không tỏ vẻ buồn rầu, hoàn toàn không trách Chúa vì đã không chấp nhận lời cầu xin mà Ba đã dâng lên Người cho ơn gọi của con gái yêu của Ba, thậm chí Ba còn tỏ ra khá vui để đi đón chị...
Đây là cách Ba chứng tỏ đức tin của Ba mạnh biết bao khi chấp nhận xa lìa nữ hoàng nhỏ của Ba. Ba loan báo với các bạn bè của Ba ở Alençon về chuyện này như sau: - “Các Bạn rất thân mến, Têrêsa, nữ hoàng nhỏ của tôi, đã vào Dòng Cát Minh hôm qua!... Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể đòi hỏi một hy sinh như thế... Các bạn đừng buồn cho tôi, vì lòng tôi tràn trề niềm vui.”
Đã đến lúc một người tôi tớ trung thành như thế được thưởng công, thật công bằng khi lương bổng của Ba giống với lương bổng mà Thiên Chúa ban cho Vua Trời là Con Một của Người (Mt 25,21).31... Ba vừa dâng cho Thiên Chúa một Bàn Thờ,32 chính Ba là tế vật tuyển chọn để được sát tế trên bàn thờ với Chiên Con vô tì tích. [72r0] Thưa Mẹ yêu dấu, Mẹ biết rõ những nỗi đắng cay của chúng ta trong suốt tháng sáu33 và nhất là ngày 24 tháng 6 của năm 1888, các kỷ niệm ấy in đậm tận đáy lòng chúng ta, con chẳng cần viết ra ở đây... Ồ, thưa Mẹ của con! Chúng ta đã đau khổ biết chừng nào!... Và đó mới chỉ là khởi đầu cơn thử thách của chúng ta thôi... Nhưng thời kỳ mặc áo dòng của con đã đến,34 con đã được hội đồng nhà dòng chấp nhận, nhưng làm sao nghĩ đến việc tổ chức nghi lễ?35 Người ta đã tính chuyện cho con mặc áo thánh mà không đưa con ra ngoài36 nhưng rồi lại quyết định bảo con đợi. Hy vọng tới kỳ cùng, Cha yêu dấu của chúng ta sẽ hồi phục sau cơn bệnh lần thứ hai và Đức cha ấn định cử hành nghi lễ vào ngày 10 tháng 1.37 Sự chờ đợi sao mà lâu thế, nhưng ngày lễ đẹp tuyệt vời! Không thiếu một thứ gì, cả tuyết cũng không thiếu... Không nhớ con đã có lần nói với Mẹ về sở thích của con đối với tuyết chưa nhỉ? Hồi con rất bé, con say mê màu trắng của tuyết biết bao; một trong các thú vui lớn nhất của con là đi dạo dưới những bông tuyết. Tại sao con mê tuyết đến thế nhỉ?... Có lẽ vì mình là bông hoa nhỏ mùa đông nên con mắt tuổi thơ của con thấy đồ trang điểm đẹp nhất cho thiên nhiên phải là bộ áo choàng trắng tinh của nó... Sau cùng, con luôn luôn ao ước rằng ngày con được mặc áo dòng, cảnh thiên nhiên sẽ được trang điểm bằng bộ áo trắng tinh giống như con. Tối hôm trước ngày mong đợi này, con buồn nhìn ngắm bầu trời âm u thỉnh thoảng điểm một cơn mưa lất phất và nhiệt độ quá dịu khiến con không hy vọng ngày mai sẽ có tuyết. Sáng hôm sau tiết Trời vẫn không đổi,38 nhưng ngày lễ thật tưng bừng, và bông hoa đẹp nhất, say đắm nhất chính là Đức Vua yêu quý của con, chưa bao giờ thấy Ba đẹp đến thế, đĩnh đạc đến thế... Mọi người trầm trồ ngưỡng mộ ba, hôm ấy là ngày khải hoàn của ba, ngày lễ cuối cùng của ông ở trần gian này. Ba đã dâng hiến tất cả các con của ba cho Thiên Chúa, vì Céline cũng đã thổ lộ ơn gọi với ba, ba đã khóc vì sung sướng [và] cùng với chị đi tạ ơn Đấng đã “dành cho vinh dự được dâng hiến tất cả các con của mình”.
[72v0] Cuối phần lễ nghi, Đức cha cất lên bài Te Deum¸ một linh mục nhắc Đức cha rằng bài thánh ca này chỉ hát vào lễ tuyên khấn, nhưng đã lỡ cất lên rồi, bài thánh ca Tạ ơn cứ tiếp tục hát cho tới hết. Phải chăng lễ này đã trọn vẹn hoàn toàn vì trong đó gồm tóm mọi lễ khác? Sau khi ôm hôn Đức Vua yêu dấu của con lần cuối, con trở vào nội cấm, đối tượng đầu tiên con nhận thấy dưới hành lang là “Giêsu nhỏ màu hồng của con”39 đang mỉm cười với con giữa muôn bông hoa và ánh sáng, sau đó mắt con hướng thẳng về những bông tuyết... Sân trắng xoá giống như con. Một nghĩa cử tế nhị biết bao của Giêsu đối với con! Biết được ước muốn của hiền thê nhỏ của Người, Người đã cho nàng tuyết... Tuyết, có người phàm nào quyền năng tới mức có thể làm cho tuyết từ Trời rơi xuống để làm vui lòng người yêu của mình chăng?... Có thể những con người trần gian nêu lên câu hỏi như thế, nhưng điều chắc chắn là việc tuyết rơi ngày con mặc áo dòng đối với họ là một phép lạ nho nhỏ và cả thành phố đều kinh ngạc. Người ta biết là con rất thích tuyết... Càng hay, nó càng làm nổi bật sự chiều chuộng khôn tả của Phu Quân các trinh nữ... của Đấng yêu thích những bông Huệ trắng như TUYẾT!... Lễ xong, Đức cha đi vào nội cấm, ngài bộc lộ một lòng hiền phụ sâu xa đối với con. Con tin rằng ngài hãnh diện khi thấy con đã thành công, ngài nói với mọi người rằng con là “con gái nhỏ của ngài”. Mỗi lần gặp lại ngài sau ngày lễ tươi đẹp này, Đức cha luôn luôn tỏ lòng ưu ái đối với con, con nhớ nhất là cuộc viếng thăm của ngài40 vào dịp kỷ niệm Bách Chu Niên Thánh Gioan Thánh Giá, Cha Chúng Ta. Ngài ôm lấy đầu con, vuốt vẻ đủ kiểu, chưa bao giờ con được vinh dự đến thế! Đồng thời Chúa Nhân Lành làm con nghĩ tới các cái vuốt ve [73r0] mà Người sẽ ban dư tràn cho con trước mặt các thiên thần và các Thánh, mà ngay ở trần gian này Người đã ban cho con một hình ảnh yếu ớt về điều đó, con cảm thấy quá ư an ủi...
Như con vừa nói, ngày 10 tháng 1 là ngày khải hoàn của Đức Vua của con. Con ví nó với cảnh Đức Giêsu vào thành Giêrusalem ngày lễ lá (x. Mt 21,1-10), nó giống như cuộc khải hoàn của Thầy Chí Thánh chúng ta, vinh quang một ngày được tiếp nối bằng một cuộc khổ nạn đau thương41 và cuộc khổ nạn này không phải chỉ cho một mình Người; giống như cuộc khổ nạn của Đức Giêsu là một lưỡi gươm đâm thấu lòng Mẹ Chí Thánh của Người (Lc 2,35),42 thì lòng chúng ta cũng cảm nhận sâu sắc những thống khổ của người mà chúng ta yêu thương nhất trên đời... Con nhớ vào tháng 6 năm 1888, giữa những cơn thử thách đầu tiên của chúng ta, con nói: “Con đau khổ rất nhiều, nhưng con cảm thấy mình còn có thể chịu đựng những thử thách lớn lao hơn.” Lúc ấy con chưa nghĩ đến những thử thách sẽ được dành cho con... Con chưa biết rằng ngày 12 tháng 2, một tháng sau ngày con mặc áo dòng, Cha yêu dấu của chúng ta sẽ uống cái chén cay đắng nhất, nhục nhã nhất trong mọi chén đắng.43
A! Cái ngày hôm ấy con không còn có thể nói con có thể chịu đựng nhiều hơn được nữa!!! Lời nói không thể nào diễn tả nỗi ưu phiền của chúng ta, và con cũng sẽ không thử mô tả làm gì. Một ngày kia trên Trời chúng ta sẽ nói với nhau về những thử thách vinh hiển của chúng ta, nhưng ngay bây giờ chúng ta đã chẳng sung sướng vì đã chịu đựng chúng rồi sao? Vâng, ba năm thử thách của Ba44 đối với con xem là đáng yêu nhất, hiệu quả nhất trong suốt đời con, con không muốn đánh đổi 3 năm ấy lấy mọi cảm giác ngây ngất và mạc khải của các Thánh, lòng con tràn niềm tri ân khi nghĩ đến kho tàng vô giá khiến các Thiên Thần của triều đình Thiên Quốc cũng phải ghen tị...
Lòng ao ước chịu đau khổ của con đã đầy, nhưng sự say mê đau khổ vẫn không giảm nơi con, và  không lâu sau linh hồn con cũng chia sẻ những đau khổ của trái tim con [73v0]. Trạng thái khô khan là lương thực hằng ngày của con, con không có một an ủi nào, nhưng con vẫn là tạo vật hạnh phúc nhất,45 vì mọi ước muốn của con đều được toại nguyện...
Ôi Mẹ dấu yêu! Thử thách của chúng ta dịu dàng biết bao, bởi vì từ trái tim của tất cả chúng ta chỉ phát ra những tiếng than thở của tình yêu và lòng tri ân!... Chúng ta không còn đang bước đi trên những nẻo đường của sự trọn lành, mà cả 5 chị em chúng ta đều đang bay. Hai cô bé tội nghiệp đang lưu đày ở Caen46 tuy còn ở thế gian nhưng không còn thuộc về thế gian (Ga 17,14-16).47 A! Cơn thử thách đã làm nên những điều kỳ diệu biết bao nơi tâm hồn chị bé Céline dấu yêu của con! Tất cả các thư chị viết cho con vào thời kỳ này đều đậm nét nhẫn nhục và yêu mến... Và ai có thể diễn tả được những lần chúng con gặp nhau tại phòng khách tu viện?... A! Các chấn song cấm của Cát Minh không làm chúng ta xa cách, nhưng kết hợp tâm hồn chúng con một cách thắm thiết hơn, chúng con có cùng ý nghĩ, cùng ước muốn, cùng tình yêu đối với Giêsu và các linh hồn... Khi Céline và Têrêsa nói chuyện với nhau, không bao giờ có một lời nào về các chuyện thế gian xen vào trong câu truyện, tất cả đều đã là những truyện ở trên Trời (Pl 3,20).48 Giống như hồi xưa49 trên chòi gác, chúng con mơ ước những chuyện của đời sống vĩnh cửu và để sớm được hưởng niềm hạnh phúc vô tận ấy, chúng con đã chọn phần chia duy nhất ở đời này là “chịu đau khổ và khinh chê”.
Thời gian đính ước của con qua đi như thế... Nó khá dài đối với con bé Têrêsa tội nghiệp! Khi hết năm tập, Mẹ Bề Trên bảo con không nên nghĩ tới chuyện xin tuyên khấn,50 vì chắc chắn Cha Bề Trên sẽ bác đơn xin, con còn phải đợi thêm 8 tháng nữa... Thoạt tiên con cảm thấy khó chấp nhận sự hồi sinh to lớn này, nhưng ngay lập tức hồn con được ánh sáng chiếu soi, khi ấy con đang suy gẫm quyển “các nền tảng đời sống thiêng liêng”51 của Cha Surin, một hôm trong lúc nguyện gẫm, con hiểu rằng ước muốn tuyên khấn mãnh liệt của con bị pha trộn với rất nhiều tự ái; vì con đã hiến mình cho Giêsu để làm đẹp lòng Người, an ủi Người, [74r0] thì con không được ép buộc Người làm theo ý riêng con thay vì ý của Người; con cũng còn hiểu rằng một hiền thê phải được trang điểm cho ngày cưới của mình, mà con thì chẳng làm gì theo mục tiêu này... Thế là con nói với Giêsu: “Ôi Chúa của con! Con hứa với Chúa rằng con sẽ không xin tuyên những lời khấn thánh thiện của con, con sẽ đợi bao lâu tuỳ Chúa muốn, con chỉ không muốn vì lỗi của con mà con phải hoãn lại ngày kết hợp với Chúa, con cũng sẽ hết sức chăm lo để chuẩn bị cho mình một bộ áo cưới đẹp đính những viên ngọc quý,52 khi Chúa thấy nó được trang điểm khá lộng lẫy rồi, thì con tin chắc rằng không một tạo vật nào có thể ngăn cản Chúa đến với con để con được kết hợp muôn đời với Chúa, ôi Người Yêu của con!”...
Từ ngày mặc áo dòng, con đã nhận được biết bao ánh sáng về sự trọn lành tu trì, cách riêng về lời khấn Nghèo Khó.53 Trong thời kỳ thỉnh sinh, con thích có những đồ vật xinh đẹp để sử dụng và thích có trong tay tất cả những gì cần thiết. “Vị Linh hướng của con”54 kiên nhẫn chịu đựng điều đó, vì Người không muốn chỉ cho con thấy ngay một lúc tất cả mọi sự. Thông thường Người ban ánh sáng từng chút một. (Lúc con mới bắt đầu đời sống thiêng liêng, khoảng 13 hay 14 tuổi, con tự hỏi sau này mình sẽ tiến tới đâu, vì con nghĩ mình không thể nào hiểu khá hơn về sự trọn lành, nhưng con sớm nhận ra rằng càng tiến tới trên con đường trọn lành thì người ta càng thấy mình còn xa đích, vì thế bây giờ con vui vẻ chấp nhận thấy mình luôn luôn bất toàn...) Con quay trở lại với các bài học mà “Vị Linh hướng của con” ban cho con. Một hôm sau giờ kinh tối, con đi kiếm cái đèn nhỏ đặt trên kệ để đèn, kiếm mãi mà không thấy, lại đang là giờ yên lặng ngặt không thể hỏi ai... Con hiểu là một chị nào đó tưởng là đèn của mình55 nên đã lấy đi chiếc đèn dành cho con mà con đang rất cần; nhưng thay vì bực bội vì bị lấy mất đèn của mình, con lại cảm thấy rất vui khi nghĩ rằng đức khó nghèo hệ tại việc thấy mình bị tước mất không chỉ các vật mình ưa thích mà cả [74v0] các vật thiết yếu đối với mình, và thế là trong cái tối tăm bên ngoài con được soi sáng bên trong... Vào thời kỳ ấy con bị lôi cuốn thực sự, ham thích những đồ vật xấu xí nhất và bất tiện nhất, vì thế con rất vui khi thấy mình bị lấy mất cái bình nước nhỏ xinh xinh trong phòng và được thay bằng một cái bình to tướng sứt mẻ lởm chởm... con cũng có nhiều cố gắng để không tìm cách chữa lỗi, những cố gắng này quả là khó cho con, nhất là với Chị Giáo tập của chúng con là người mà con không muốn giấu giếm điều gì; sau đây là chiến thắng đầu tiên của con, không lớn lắm nhưng khá đắt giá đối với. - Một chiếc bình nhỏ để ở sau cửa sổ bị vỡ, Chị Giáo tập tưởng là con đã làm rớt nên đã chỉ cho con xem và bảo con lần sau đừng vô ý như thế nữa. Không cãi lại, con hôn đất rồi hứa sẽ cẩn thận hơn trong tương lai. - Các việc thực hành nhân đức nho nhỏ56 như thế đòi con phải hy sinh nhiều và con cần phải nghĩ rằng đến ngày phán xét cuối cùng, mọi sự sẽ được tỏ lộ (Mt 25,31-40),57 con đã nhận ra điều này: khi chúng ta làm bổn phận mình cách hoàn hảo thì không ai biết điều đó, nhưng ngược lại các khuyết điểm sẽ lộ ra ngay lập tức...
Vì không có điều kiện thực hành các nhân đức lớn lao, con chú tâm thực hành các nhân đức bé nhỏ, chẳng hạn con thích xếp lại các áo choàng mà các chị bỏ quên và làm cho các chị việc phục vụ nho nhỏ mà con có thể làm.
Con cũng được phú ban một lòng ham chuộng đặc biệt đối với các việc hy sinh, nó càng lớn lên thì con lại không có cách gì để thoả mãn nó... Việc hy sinh nhỏ bé duy nhất con làm ở ngoài đời là không dựa lưng khi ngồi thì bây giờ con cũng bị cấm vì sợ cong lưng. Lòng khao khát hãm mình đền tội của con chỉ được thoả mãn theo mức độ các bề trên cho phép... Các việc hãm mình con được phép làm mà không phải xin là hãm dẹp tính tự ái, là điều có ích cho con vượt xa các việc hãm dẹp thân xác...58
[75r0] Ngay sau khi mặc áo dòng, công tác của con là phục vụ trong nhà ăn59 công tác này cho con thêm cơ hội để đặt tính tự ái của mình về đúng chỗ của nó, nghĩa là đặt nó xuống dưới chân... Đúng là con cảm thấy rất an ủi khi được làm cùng một công tác với Mẹ, thưa Mẹ dấu yêu, và có thể chiêm ngắm thật gần các nhân đức của Mẹ, nhưng sự gần gũi này cũng là lý do khiến con phải đau khổ, vì con không còn được như xưa, không còn được tự do thổ lộ mọi sự với Mẹ; phải tuân giữ quy luật, con không thể cởi mở tâm hồn cho Mẹ, vì dù sao con đang ở Cát Minh chứ không còn ở Buissonnets dưới mái nhà tổ nữa60...
Tuy nhiên, Đức Trinh Nữ đã giúp con chuẩn bị tấm áo cho linh hồn con, vừa khi nó hoàn tất thì các trở ngại tự chúng cũng biến mất. Đức cha gửi đến cho con phép mà con đã xin, cộng đoàn vui lòng chấp nhận con và lễ tuyên khấn của con được ấn định vào ngày 8 tháng 9...
Những gì con vừa viết ra trong mấy câu có thể cần nhiều trang để nói chi tiết, nhưng những trang này sẽ không bao giờ được đọc ở trần gian này, không lâu nữa, thưa Mẹ dấu yêu, con sẽ kể cho Mẹ về tất cả các chuyện này trong nhà Cha của chúng ta trên Trời, nơi mà con tim của chúng ta đang thổn thức đợi trông!...
Tấm áo cưới của con đã sẵn sàng, lộng lẫy với những đồ châu báu mà Lang Quân đã tặng cho con, nhưng sự hào phóng của Người vẫn không cho thế là đủ. Người còn muốn tặng con một viên kim cương mới với vô vàn tia lấp lánh. Các đồ châu báu cổ là cơn thử thách của Ba với mọi hoàn cảnh đau đớn, còn viên kim cương mới là một thử thách bề ngoài rất nhỏ, nhưng đã làm con đau khổ rất nhiều. - Thời gian gần đây, sức khoẻ của người Cha yêu dấu của chúng ta đã khá hơn đôi chút; người ta cho ba ngồi xe rồi đẩy ra ngoài dạo chơi, thậm chí còn tính cho ba đi xe lửa61 đến thăm chúng ta. Đương nhiên Céline nghĩ ngay tới chuyện phải chọn ngày cử hành nghi thức con nhận lúp. Để ba không mệt, chị bảo, chị sẽ không để ba [75v0] dự hết nghi lễ, mà chỉ dự phần cuối, chị sẽ đón ba rồi dẫn ba hết sức nhẹ nhàng tới gần cửa chấn song cho Têrêsa nhận phép lành của ba. A! Con hiểu rõ biết bao lòng chị Céline dấu yêu qua nghĩa cử ấy... Quả đúng là “tình yêu không bao giờ viện cớ là không có thể,62 bởi vì nó tin rằng mọi sự đều có thể và mọi sự đều được phép”... Ngược lại sự thận trọng của loài người thì run rẩy trước mỗi bước đi63 và có thể nói là không dám đặt chân xuống đất, vả lại Chúa Nhân Lành vì muốn thử thách con nên đã dùng chị như một công cụ dễ sai bảo của Người, và ngày lễ cưới của con, con là đứa bé mồ côi thật sự, không còn người Cha trên trần gian này nữa, nhưng con có thể nhìn lên Trời với lòng tin tưởng và có thể nói lên hoàn toàn đúng sự thật: “Lạy Cha chúng con ở trên Trời.” (Mt 6,9: “Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.”)
 
Tĩnh tâm tuyên khấn - Cám dỗ hoài nghi về ơn gọi của con - Dòng sông ân sủng tràn bờ - Lễ nghi đội lúp - Mẹ Geneviève - Giọt nước mắt cuối cùng của một vị thánh - Dịch cúm - Hành vi tạ ơn - Cuộc tĩnh tâm với Cha Alexis - Mẹ Agnès được chọn - Tất cả chỉ là phù vân - Các bông hoa - Yêu hoa - Cha mất - Celine vào dòng - Thánh Gioan Thánh Giá - Trên hết là sách Tin Mừng - Hành vi hiến dâng - Câu truyện này sẽ kết thúc ra sao - Ý nghĩa các huy hiệu của con.

Trước khi kể cho Mẹ về cơn thử thách này, thưa Mẹ dấu yêu, con phải kể về cuộc tĩnh tâm chuẩn bị cho lễ tuyên khấn của con;1 thay vì những niềm vui, an vui, con chỉ cảm thấy khô khan tuyệt đối và hầu như bị bỏ rơi. Giêsu vẫn ngủ yên trên thuyền con như mọi khi2 (Mc 4,37-39);3 ôi! Con thấy rõ là rất hiếm các linh hồn để Người ngủ yên trong họ. Giêsu quá mệt vì luôn luôn phải ban phát hết ơn này đến ơn khác, nên Người phải vội lợi dụng sự nghỉ ngơi mà con dâng cho Người, chắc hẳn Người sẽ không thức dậy trước cuộc tĩnh tâm vĩnh cửu của con, nhưng điều này không làm con buồn, ngược lại nó làm con vui sướng vô cùng…
Quả thực con còn quá xa sự thánh thiện, chỉ riêng điều đó đã là một bằng chứng rồi; thay vì vui mừng vì tình trạng khô khan của mình,4 lẽ ra con phải coi tình trạng này là tại con kém sốt sắng và ít trung thành; lẽ ra con phải buồn vì đã ngủ gục (từ 7 năm nay)5 trong các giờ nguyện gẫm và tạ ơn, vậy mà con thì không buồn… Con nghĩ rằng những đứa con nít làm cho cha mẹ vui lúc ngủ cũng bằng lúc thức; con nghĩ rằng để giải phẫu bệnh nhân, các bác sĩ [76r0] làm cho họ ngủ trước đã. Cuối cùng con nghĩ rằng: “Người quá biết chúng ta được nhồi nắn bằng gì, hẳn Người nhớ: ta chỉ là cát bụi.” (Tv 102,14).
Vì vậy cuộc tĩnh tâm chuẩn bị tuyên khấn của con, cũng như mọi cuộc tĩnh tâm khác sau đó đều rất khô khan, tuy nhiên Chúa Nhân Lành cho con thấy rõ phương pháp để làm đẹp lòng Người và thực hành các nhân đức siêu vời, vậy mà con không nhận ra điều đó. Con thấy nhiều lần Giêsu không muốn con tích trữ lương thực, Người nuôi dưỡng con từng giây từng phút bằng một thứ của ăn hoàn toàn mới,6 con thấy nó có trong con mà không biết nó ở đó bằng cách nào… Con chỉ đơn sơ tin rằng chính Giêsu ẩn náu tận đáy tim nhỏ bé của con đã ban cho con ơn được chính Người hành động trong con và làm con nghĩ đến tất cả những điều Người muốn con làm trong lúc hiện tại.
Vài ngày trước lễ tuyên khấn, con có diễm phúc nhận phép lành của Đức Thánh Cha;7 con đã xin phép lành này cho Ba và cho con thông qua Thầy Siméon, và con cảm thấy vô cùng an ủi vì có thể đền ơn Ba yêu dấu đã đưa con đi viếng Rôma.
Sau cùng, ngày lễ cưới tuyệt vời của con đã đến.8 Hôm ấy trời không một gợn mây, nhưng tối hôm trước trong tâm hồn con đã nổi lên một cơn cuồng phong dữ dội chưa từng gặp… Trong tư tưởng con chưa từng có một chút nghi ngờ gì về ơn gọi của mình, vì thế con cần phải biết cơn thử thách này. Buổi tối khi đi Đàng Thánh Giá sau giờ Kinh Sách,9 ơn gọi của con xuất hiện với con như một giấc mơ, một ảo ảnh… Con thấy đời sống Cát Minh rất đẹp, nhưng ma quỷ xúi giục con tin chắc rằng đó không phải con đường dành cho con, rằng con đã lừa dối các bề trên khi tiến tới trên một con đường mà con không được kêu gọi… Sự tối tăm trong con lớn đến nỗi con chỉ thấy và chỉ hiểu được duy một điều này: Con không có ơn gọi!… Ôi! Làm sao diễn tả nổi mối âu lo trong tâm hồn con?… Có vẻ như (là điều vô lý, chứng tỏ cám dỗ này đến từ ma quỷ) nếu con nói ra các mối sợ hãi này của mình cho chị giáo tập, hẳn là chị sẽ ngăn không cho con tuyên khấn. Nhưng con muốn làm theo ý Chúa và thà quay trở về thế gian còn hơn là tiếp tục ở lại trong Dòng Cát Minh để làm theo ý riêng mình, vì thế con đến mời chị giáo tập ra ngoài10 và với tâm trạng hoàn toàn bối rối con giãi bày cho chị tình trạng tâm hồn con… May thay chị nhìn rõ hơn con và làm con hoàn toàn yên tâm; hơn nữa, hành vi khiêm nhường con làm đã xua đuổi được tên quỷ, có thể hắn nghĩ rằng con sẽ không dám đến thú thật cơn cám dỗ của mình; vừa khi con kể xong các mối nghi ngờ của con thì chúng biến đi hết. Tuy nhiên để làm cho hành vi khiêm nhường của con hoàn hảo, con còn muốn thổ lộ cơn cám dỗ kỳ lạ này của con với Mẹ Bề Trên, và Mẹ chỉ cười con thôi.
Sáng ngày 8 tháng 9, con cảm thấy chìm ngập trong dòng sông an bình (Is 66,12) và con đã tuyên các Lời Khấn Thánh của con trong niềm an bình này “vượt trên mọi tình cảm” (Pl 4,7).11… Con được kết hợp với Giêsu, không phải giữa sấm sét, nghĩa là các ơn phi thường, nhưng giữa cơn gió hiu hiu giống với cơn gió mà Thánh Êlia cha chúng ta nghe thấy trên núi (1V 19,11-13)12 … Con đã cầu xin biết bao ơn trong ngày ấy!… Con cảm thấy mình là Hoàng Hậu13 thực sự, vì thế con lợi dụng danh phận của mình để xin sự giải phóng cho những kẻ tù đày, xin các ân huệ của Đức Vua cho các thần dân vô ơn, sau cùng con muốn giải thoát mọi linh hồn khỏi luyện ngục và cho các tội nhân được trở lại… Con đã cầu nguyện nhiều cho Mẹ của con, các Chị dấu yêu của con… Cho cả gia đình nhưng đặc biệt cho người Cha yêu dấu của con, thánh thiện và quá bị thử thách14 … Con dâng mình cho Giêsu để Người thực hiện hoàn hảo nơi con ý muốn của Người mà không bao giờ bị các tạo vật ngăn trở… (Mt 6,10).15
[77r0] Ngày tươi đẹp ấy cũng qua đi giống như những ngày buồn nhất, vì những ngày tưng bừng nhất cũng có ngày hôm sau, nhưng con không cảm thấy buồn khi đến đặt triều thiên của con dưới chân Đức Mẹ, con cảm thấy thời gian không lấy mất được hạnh phúc của con… Quả là ngày đẹp biết bao khi được trở thành hiền thê của Giêsu trong ngày lễ sinh nhật Đức Mẹ! Chính là tượng Đức Mẹ nhỏ ngày nào đã giới thiệu bông hoa nhỏ của Người với Giêsu bé nhỏ… Ngày hôm ấy cái gì cũng nhỏ ngoại trừ các ân huệ, và sự an bình con nhận được, ngoại trừ niềm vui êm đềm con cảm nhận buổi tối khi nhìn những vì sao lấp lánh trên bầu trời, đồng thời nghĩ rằng không lâu nữa Trời đẹp sẽ mở ra trước cặp mắt say đắm của con và con có thể kết hợp với Phu Quân của con giữa niềm hân hoan vĩnh cửu…
Ngày 24 diễn ra nghi lễ đội lúp của con,16 cái gì cũng phủ đầy nước mắt. Ba không có mặt để chúc lành cho Nữ Hoàng của người... Cha (linh hướng) thì đang ở Canađa... Đức cha lẽ ra định đến ăn tối tại nhà cậu con thì bị bệnh nên cũng không đến được, nói tóm tát cả đều là buồn sầu cay đắng... Tuy nhiên niềm an bình, luôn luôn là niềm an bình lắng đọng dưới đáy chén đắng17... Ngày hôm ấy Giêsu để cho con không thể cầm nổi nước mắt, và không ai thấu hiểu những giọt nước mắt của con18... Thực vậy, con đã từng cầm được nước mắt trong những cơn thử thách lớn lao hơn nhiều, nhưng khi đó con được nâng đỡ bởi một ơn mạnh mẽ; còn ngày 24, Giêsu để mặc sức riêng của con và con đã chứng tỏ sức lực của mình nhỏ bé như thế nào.
Tám ngày sau lễ đội lúp của con là lễ cưới của Jeanne.19 Thưa Mẹ dấu yêu, gương sáng của em ấy đã dạy con biết bao nhiêu sự dịu dàng mà một hiền thê phải dành cho Phu Quân của mình, con thật không thể nào tả nổi. Con chăm chú nghe tất cả những gì con có thể học hỏi được, vì con không muốn dành cho Giêsu yêu dấu của con ít hơn những gì Jeanne dành cho Francis, một tạo vật đúng là hoàn hảo, nhưng dù sao cũng chỉ là một tạo vật!...
[77v0] Để giải trí, con cũng soạn một thiệp mời để so sánh với thiệp mời của em ấy, con đã thảo ra như thế này:
Thiệp Mời dự Lễ Thành Hôn20 của
Sơ Têrêsa Hài Đồng Giêsu và Thánh Nhan
 
Thiên Chúa Toàn Năng, Đấng Tạo Thành Trời Đất, Chủ Tể của Thế Giới, và Đức Trinh Nữ Hiển Vinh Marie, Nữ Vương Thiên Đình, hoan hỉ báo tin lễ Thành Hôn của Trưởng Nam Uy Nghi, Vua các vua và Chúa các chúa, với cô Têrêsa Martin, hiện là Phu Nhân và nữ Chúa của các vương quốc được Phu Quân Thần Linh ban làm của hồi môn, đó là: Giêsu Hài Đồng và Khổ Nạn, với các tước quý tộc là: Hài Đồng Giêsu và Thánh Nhan
 
Ông Louis Martin, Sở Hữu Chủ và Lãnh Chúa của Thái Ấp Đau Khổ và Nhục Nhã và Bà Martin, Quận Công và Thể Nữ của Thiên Đình, hoan hỉ báo tin lễ Vu Quy của ái nữ của chúng tôi, với Giêsu Ngôi Lời Thiên Chúa, Ngôi Hai của Chúa Ba Ngôi Đáng Tôn Thờ, Làm Người nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, và là Con Đức Marie, Nữ Vương Trời đất.

Vì không thể mời quý vị đến dự lễ chúc hôn cho đôi Tân Hôn trên núi Cát Minh ngày 8 tháng 9-1890, (chỉ triều thần thiên quốc được dự), tuy nhiên chúng tôi trân trọng kính mời quý vị đến dự Lễ Lại Mặt vào ngày mai, Ngày Vĩnh Cửu, ngày ấy Đức Giêsu Con Thiên Chúa sẽ ngự đến trên Mây Trời trong ánh quang Uy Nghiêm của Người, để xét xử kẻ sống và kẻ chết (Mt 25,31).21
Vì giờ giấc chưa được ấn định, kính mời quý vị hãy sẵn sàng và tỉnh thức (Mt 25,42-44).22
 
[78r0] Bây giờ, thưa Mẹ dấu yêu, con còn phải kể thêm gì nữa đây? A! Con nghĩ đã nói hết rồi, nhưng con vẫn chưa nói gì với Mẹ về niềm hạnh phúc của con khi được biết Mẹ Geneviève thánh thiện của chúng ta... Thật là một hồng ân vô giá; đúng thế, Chúa Nhân Lành vốn đã ban cho con biết bao hồng ân, Người còn thương cho con được sống với một vị Thánh, không phải không thể bắt chước, nhưng là một vị thánh đã nên thánh bằng các nhân đức âm thầm và bình thường... Hơn một lần con đã nhận được từ người những niềm an ủi lớn lao, nhất là vào một ngày Chúa Nhật kia. - Trong một lần thăm23 Mẹ Geneviève vắn tắt theo thông lệ, con gặp hai Sơ đang ở bên người, con tươi cười24 nhìn người và sửa soạn bước ra vì không thể để ba người ở bên cạnh người bệnh,25 nhưng người nhìn con với một dáng vẻ như được linh ứng và bảo con: “Đợi đã, con gái nhỏ, mẹ chỉ nói với con một lời vắn tắt thôi. Mỗi lần con đến, con đều xin mẹ cho con một đoá hoa thiêng; vậy hôm nay mẹ cho con đoá hoa này: Hãy phụng sự Thiên Chúa trong Hoan Lạc và bình an, con của mẹ, con hãy nhớ rằng Thiên Chúa chúng ta là Thiên Chúa của bình an.” Sau khi đơn sơ cảm ơn mẹ, bước ra mà cảm động đến chảy nước mắt vì tin rằng Chúa Nhân Lành đã biểu lộ tình trạng hồn con cho mẹ, hôm ấy con đang bị thử thách tột độ, đến như buồn phiền, trong đêm đen tối như thế con không còn biết Thiên Chúa có yêu con hay không, 26 thưa mẹ dấu yêu, mẹ biết rõ niềm vui và an ủi mà con cảm nhận được.
Chúa nhật tiếp theo, con muốn biết Mẹ Geneviève đã nhận được mạc khải gì, người quả quyết với con là người không nhận được mạc khải nào cả, lúc ấy con lại càng cảm phục vô cùng vì thấy Giêsu siêu vời đã sống trong mẹ tới mức là chính ngài nói và hành động trong mẹ. A! Con thấy sự thánh thiện ấy là thật nhất, thánh nhất, và là sự thánh thiện mà con ao ước bởi vì không có một ảo tưởng nào trong đó27...
[78v0] Ngày con tuyên khấn, con cũng được an ủi rất nhiều vì biết được từ chính miệng của Mẹ Geneviève rằng người cũng đã trải qua cùng một thử thách như con trước khi người tuyên khấn28... Mẹ dấu yêu, Mẹ còn nhớ chúng ta đã tìm được niềm an ủi nơi người vào những giờ phút thử thách lớn lao của chúng ta chứ?29... Sau cùng, kỷ niệm mà Mẹ Geneviève đã để lại trong lòng con là một kỷ niệm đầy ắp hương thơm... Ngày mà người về Trời,30 con xúc động đặc biệt, đó là lần đầu tiên con chứng kiến một cái chết, một cảnh tượng làm con ngây ngất31 ... Con đứng ngay chân giường của Mẹ thánh đang hấp hối, con chứng kiến mọi cử động nhỏ nhẹ nhất của người; đối với con có vẻ như trong hai giờ chứng kiến cảnh tượng ấy, hồn con lẽ ra phải cảm thấy tràn đầy sự sốt sắng, nhưng ngược lại, nó bị xâm chiếm bởi một thứ vô cảm nào đó, nhưng vào đúng lúc sinh nhật trên Trời của Mẹ Thánh Geneviève, nội tâm con biến đổi, chỉ trong nháy mắt con cảm thấy chứa chan niềm vui và một lòng sốt sắng khôn tả, giống như thể Mẹ Geneviève đã chia cho con một phần hạnh phúc của người đang được hưởng, bởi vì con tin chắc người đã đi thẳng lên Trời... Vào lúc sinh thời của người, một hôm con nói với người: “Ôi Mẹ của con! Mẹ sẽ không xuống luyện ngục đâu32...” - “Mẹ hy vọng là vậy,” người dịu dàng đáp... A! Chắc chắn Chúa Nhân Lành không làm thất vọng một niềm hy vọng đầy khiêm nhường như thế, tất cả những ân huệ chúng ta đã nhận được là một bằng chứng về điều này... Thưa Mẹ dấu yêu, sau khi Mẹ Geneviève chết, sơ nào cũng đòi cho được một vài thánh tích và Mẹ biết thánh tích con diễm phúc có được... Trong lúc Mẹ Geneviève hấp hối, con nhận thấy một giọt nước mắt long lanh trên mi mắt mẹ, giống như một viên kim cương, đó là giọt nước mắt cuối cùng trong mọi giọt nước mắt của người, nó đã không rơi xuống, con vẫn còn thấy nó lấp lánh khi thi hài Mẹ được đặt ở ca triều mà không ai nghĩ đến chuyện hứng lấy nó. Thế là con lấy một miếng vải mỏng, tối đến con mạnh bạo đến gần mà không ai nhìn thấy rồi thấm lấy giọt nước mắt cuối đời của một vị Thánh33 để làm kỷ niệm... Từ đó đến nay con luôn luôn giữ nó trong cái túi nhỏ [79r0] đựng các lời khấn của con.34
Con không đặt nặng tầm quan trọng vào các giấc mơ của mình,35 hơn nữa cũng hiếm khi con có những giấc mơ có ý nghĩa, thậm chí con còn tự hỏi tại sao con suy tư về Thiên Chúa suốt ngày, vậy mà con lại ít thấy Người trong giấc ngủ?... Thường thì con hay mơ thấy các rừng cây, hoa cỏ, các dòng suối và biển và hầu như con luôn luôn thấy những trẻ em xinh đẹp, con bắt bướm bắt chim mà chưa bao giờ con đã nhìn thấy. Mẹ dấu yêu, Mẹ thấy rõ các giấc mơ của con đều rất thơ mộng nhưng chẳng hề có chút bí nhiệm nào cả...
Sau khi Mẹ Geneviève qua đời, một hôm con có một giấc mơ rất an ủi, con mơ thấy Mẹ làm di chúc, cho mỗi sơ một vật gì của người; khi đến lượt con, con tưởng con không nhận được gì cả, vì người đã hết sạch, nhưng người ngẩng lên và nói với con, người nhấn mạnh rằng: “Còn con, mẹ để lại cho con quả tim của mẹ.”36
Một tháng sau khi Mẹ Thánh chúng ta qua đời, dịch cúm bùng phát trong cộng đoàn,37 chỉ một mình con và hai sơ khác còn đứng nổi. Không bao giờ con có thể tả hết những gì con đã chứng kiến, những gì con hiểu về sự sống và tất cả những điều xảy ra...
Ngày sinh nhật thứ 19 của con được mừng bằng một cái chết, tiếp ngay sau đó là hai cái chết nữa. Dạo ấy chỉ một mình con coi phòng thánh, vì chị phụ trách chính 38 bị bệnh rất nặng, nên một mình con phải chuẩn bị công việc chôn cất, mở cửa ca triều để dự thánh lễ, vv... Lúc ấy Chúa Nhân Lành đã ban cho con biết bao nhiêu ơn sức mạnh, bây giờ nghĩ lại con tự hỏi làm sao mình có thể làm tất cả những công việc ấy mà không cảm thấy sợ chút nào, cái chết ngự trị khắp nơi, những người còn có thể lê lết được thì chăm sóc những người bệnh nặng hơn, một sơ vừa trút hơi thở thì người ta đã buộc phải bỏ chị ấy lại một mình. Một buổi sáng khi thức dậy, con có linh cảm rằng Sơ Madeleine đã chết, phòng ngủ còn tối thui, không một ai ra khỏi phòng riêng, rốt cuộc con quyết định [79v0] đi vào phòng riêng của Sơ Madeleine vì thấy cửa phòng để mở; quả thực con nhìn thấy sơ ấy, mặc áo dòng và nằm chết trên giường, thế mà con không thấy sợ chút nào. Khi thấy sơ ấy không có nến phép, con đi kiếm cho sơ ấy một cây nến và cả một triều thiên hoa hồng.
Tối hôm Mẹ Phó Bề Trên của chúng ta qua đời, chỉ có một mình con với sơ coi phòng bệnh,39 thật không thể nào tưởng tượng nổi bầu khí ảm đảm của cộng đoàn vào lúc ấy, chỉ những ai còn đứng vững mới có thể có một ý tưởng về nó, nhưng ở giữa cảnh ảm đạm chết chóc ấy, con cảm thấy Chúa Nhân Lành đang canh chừng trên chúng ta. Các chị em hấp hối nhẹ nhàng bước sang một cuộc sống tốt đẹp hơn, ngay sau khi chết, các chị biểu hiện niềm vui và an bình toả ra trên nét mặt các chị, có thể nói đó là một giấc ngủ ngọt ngào; mà đúng là như vậy, bởi vì sau khi bộ mặt của thế giới này qua đi (1Cr 7,31),40 các chị em ấy sẽ thức dậy để hưởng niềm vui vĩnh cửu được dành cho những kẻ được tuyển chọn...
Trong suốt thời gian cộng đoạn chịu thử thách như thế, con có một niềm an ủi khôn tả là được rước lễ hằng ngày.41... A! Ngọt ngào biết bao!... Giêsu chiều chuộng con rất lâu, lâu hơn các hiền thê trung thành khác của Người, vì Người đã ban tặng Người cho con đang khi những người khác không được diễm phúc tiếp nhận Người. Con cũng rất sung sướng được chạm vào các bình thánh, chuẩn bị các mảnh vải lót nhỏ 42 để đón nhận Giêsu, con cảm thấy mình phải rất sốt sắng và con thường xuyên nhớ đến lời sau đây nói với một vị phó tế thánh thiện: “Hãy sống thánh thiện, hỡi người được đụng vào các bình thánh của Chúa.” (Is 52,11).43
Không thể nói rằng con thường nhận được những niềm an ủi lúc con cám ơn rước lễ, có lẽ đó là lúc con được ít an ủi nhất... Con thấy đó là điều rất tự nhiên bởi vì con hiến mình cho Giêsu không phải vì ước ao được Người thăm viếng để ban an ủi cho bản thân con, nhưng để làm đẹp lòng Đấng tự hiến mình cho con. - Con tưởng tượng tâm hồn con là một mảnh đất trống và con cầu xin Đức Mẹ lấy đi những vật ngổn ngang trên mảnh đất [80r0] không còn trống ấy, hồi con xin Người tự tay dựng lên cho con một túp lều xứng với Trời, trang hoàng nó bằng những đồ trang điểm của chính Người44 và rồi con mời tất cả các Thánh và các Thiên Thần đến làm một dàn hợp tấu tuyệt vời. Dường như con thấy rằng khi Giêsu ngự xuống hồn con, Người hài lòng vì được tiếp đón nồng hậu như thế và con cũng cảm thấy hài lòng... Tuy nhiên con không tránh được những lúc chia trí và ngủ gục, nhưng sau khi cám ơn, thấy rằng mình đã tệ như thế, con quyết tâm cả ngày hôm ấy sống trong tâm tình tạ ơn... Mẹ dấu yêu, Mẹ thấy con đi trên con đường hoàn toàn không có sợ hãi,45 con luôn luôn biết tìm ra phương thế để sống hạnh phúc và biết tận dụng những sự yếu đuối của mình... Chắc chắn điều này không làm cho Giêsu buồn, bởi vì hình như Người khuyến khích con đi trên con đường này. - Một hôm, trái với thường lệ, con hơi bối rối khi lên rước lễ, con nghĩ dường như Chúa Nhân Lành không hài lòng về con và con tự nhủ: “A! Nếu hôm nay con chỉ nhận được một nửa bánh thánh thì con buồn khổ lắm và con sẽ tin là Giêsu không vui khi ngự vào lòng con.” Con bước lên rước lễ... Ôi, hạnh phúc thay! Lần đầu tiên trong đời con thấy linh mục cầm hai tấm bánh thánh tách biệt nhau và trao cho con!... Mẹ hiểu được niềm vui và những giọt nước mắt ngọt ngào của con rớt xuống khi con cảm nghiệm được một lòng từ ái lớn lao như thế...
Sau năm con tuyên khấn, nghĩa là hai tháng trước khi Mẹ Geneviève qua đời, con nhận được những ân huệ to lớn trong kỳ tĩnh tâm.46
Bình thường các cuộc tĩnh tâm có cha giảng con lại cảm thấy đau khổ hơn các cuộc tĩnh tâm con làm một mình,47 nhưng năm ấy thì khác hẳn. Con đã làm một tuần chín ngày chuẩn bị với tất cả lòng sốt sắng, bất chấp tình cảm thầm kín trong con, vì con thấy có vẻ như cha giảng phòng không thể hiểu con,48 các ngài chủ yếu lo mưu ích cho các đại tội nhân chứ không phải [80v0] cho các tâm hồn đạo đức. Chúa Nhân Lành muốn cho con thấy rằng một mình Người là linh hướng của hồn con, nên Người đã dùng chính Cha này mà chỉ có một mình con thích mà thôi49... Dạo ấy con có những thử thách nội tâm nặng nề về đủ thứ (tới độ đôi khi con hoài nghi không biết có Trời hay không).50 Con nghĩ đã định không nói gì về tâm trạng của mình, vì con không biết phải diễn tả thế nào; nhưng vừa bước vào toà giải tội, con cảm thấy hồn con phơi phới. Con mới chỉ nói vài lời thì cha đã hiểu con một cách lạ lùng và thậm chí còn đoán được... Hồn con giống như một quyển sách mở toang và Cha đọc được rõ hơn cả chính con... Ngài thả con căng buồm trên những lớp sóng của lòng cậy trông và yêu mến,51 là điều lôi cuốn con rất mạnh nhưng con không dám tiến tới... Ngài nói rằng các lỗi của con không làm buồn lòng Chúa Nhân Lành,52 và thay mặt Chúa, ngài bảo con rằng phần ngài ngài biết Chúa rất hài lòng về con...
Ôi! Con sung sướng biết bao khi nghe những lời an ủi ấy! Con chưa bao giờ được nghe nói rằng các lỗi lầm không làm buồn lòng Chúa, sự bảo đảm này làm con tràn trề niềm vui, nó giúp con có thể kiên nhẫn chịu đựng cuộc sống lưu đày này... Tự đáy lòng con cảm thấy rõ rằng đúng là như thế, bởi vì Chúa Nhân Lành thì dịu dàng hơn cả một người Mẹ. Đúng thế, thưa Mẹ yêu dấu, chẳng phải chính Mẹ luôn luôn sẵn sàng tha thứ những hành vi thiếu tế nhị mà con vô tình làm cho Mẹ đó sao? Con đã từng có những cảm nghiệm ngọt ngào đó biết bao lần rồi! Không một lời trách móc nào đánh động con bằng chỉ một cái vuốt của Mẹ. Bản tính của con khiến cho sự sợ hãi luôn làm con chùn bước; nhưng với tình yêu thì con không chỉ là tiến tới mà là bay53...
Ôi Mẹ của con! Đặc biệt kể từ cái ngày hạnh phúc Mẹ được tuyển chọn54 mà con đã bay cao trên con đường tình yêu... Ngày hôm ấy, Pauline trở thành Giêsu sống động của con... Mẹ trở thành “Má!” của con một lần thứ hai.
[81r0] Từ ba năm nay55 con đã sớm được diễm phúc chiêm ngắm những điều kỳ diệu mà Giêsu thực hiện cho con nhờ Mẹ dấu yêu của con... Con thấy rằng chỉ đau khổ có thể sinh ra các linh hồn và hơn bao giờ hết, các lời cao cả này của Giêsu bộc lộ cho con thấy sự sâu xa của chúng: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.” (Ga 12,24-25).56 Mẹ đã chẳng có được một mùa bội thu đó sao? Mẹ đã gieo trong nước mắt,57 nhưng Mẹ sẽ sớm nhìn thấy kết quả công việc Mẹ làm, Mẹ sẽ trở về reo vui hớn hở, tay ôm những bó lúa nặng hạt... (Tv 125,5-6).58 Ôi Mẹ của con, giữa những bó lúa vàng này, bông hoa trắng nhỏ còn ẩn mình trên Trời nó sẽ có một tiếng nói để hát lên sự dịu dàng và các nhân đức nó thấy Mẹ thực hành hằng ngày trong bóng tối và sự thinh lặng của cuộc sống lưu đày...
Vâng, từ ba năm nay, con đã hiểu rất rõ những mầu nhiệm mà cho tới nay vẫn còn kín ẩn đối với con. Chúa Nhân Lành đã cho con thấy cùng một lòng nhân từ Người đã tỏ cho vua Salômôn thấy. Người không muốn con có một ước muốn nào mà không được thoả mãn, không chỉ các ước muốn nên trọn lành, mà cả các ước muốn mà con hiểu là phù vân, mà chưa trải nghiệm nó.
Thưa Mẹ dấu yêu, con luôn luôn coi Mẹ là mẫu lý tưởng của con, nên con muốn nên giống Mẹ trong mọi sự, và khi nhìn thấy Mẹ vẽ những bức tranh thật đẹp và làm những bài thơ tuyệt vời, con tự nhủ: “A! Con sẽ hạnh phúc biết bao nếu biết vẽ, biết diễn tả tư tưởng của mình thành những vần thơ nhờ đó đem được nhiều lợi ích cho các linh hồn...”59 Con không muốn cầu xin Chúa ban các năng khiếu tự nhiên ấy và các ước muốn của con được giấu ẩn dưới đáy tim con. Giêsu ẩn kín ở trong quả tim bé nhỏ này cũng thích tỏ cho nó biết rằng tất cả chỉ là phù vân và phiền não dưới ánh mặt trời (Gv 2,11)60... Trước sự ngạc nhiên của các chị em, người ta bảo con vẽ và Chúa Nhân Lành đã cho con biết lợi dụng các bài học mà Mẹ dấu yêu của con dạy con... Người còn muốn [81v0] con có thể theo gương Người để làm những bài thơ, sáng tác những áng văn hay61... Giống như Salômôn nhìn lại những tác phẩm tự tay mình làm ra một cách luống công vô ích, và thấy rằng tất cả chỉ là phù vân và phiền não,62 thì cũng thế, KINH NGHIỆM đã cho con biết rằng hạnh phúc chỉ hệ tại việc sống âm thầm, không màng chi đến những vật thụ tạo. Con đã hiểu rằng không có tình yêu thì mọi công trình chỉ là hư không, dù là các công trình rực rỡ nhất, như làm cho kẻ chết sống lại hay làm cho các dân tộc được hoán cải...
Thay vì làm hại con và đưa con tới chỗ ham thích phù vân, các năng khiếu mà Chúa Nhân Lành ban cho con (mà con không xin) đã đưa con lên với Người, con thấy chỉ một mình Người trường tồn bất biến, chỉ một mình Người có thể lấp đầy những khát vọng vô biên của con...
Con còn có các ước muốn thuộc loại khác hẳn mà Giêsu vui lòng thoả mãn, các sở thích trẻ con giống như sở thích về tuyết trong ngày con mặc áo dòng.
Mẹ dấu yêu, Mẹ thấy con yêu thích các loài hoa như thế nào; khi tự nhốt mình năm 15 tuổi, con đã khước từ mãi mãi cái thú chạy nhảy trên các cánh đồng lấp lánh những kho báu của mùa xuân: Vậy mà! Không bao giờ con có được nhiều hoa cho bằng từ khi con vào Cát Minh63... Các hôn phu thường có thói quen tặng hoa cho hiền thê của mình, Giêsu không quên điều đó, Người gởi tặng con vô số những bó hoa xa cúc lam, cúc đầu xuân, mỹ nhân hoa, vv... là những loài hoa con mê nhất. Còn có loài hoa nhỏ gọi là hoa hạt lúa tía mà con không gặp lại từ hồi gia đình ta còn ở Lisieux; con rất ước ao thấy lại loài hoa tuổi thơ này của con mà con thường hái trên các cánh đồng ở Alençon; chính ở Cát Minh nó đến mỉm cười với con và cho con thấy rằng trong những chuyện nhỏ nhất cũng như trong những chuyện lớn, Chúa Nhân Lành thương ban gấp bội ngay ở đời này cho những tâm hồn đã từ bỏ mọi sự vì yêu mến Người (Mt 19,29).64
Nhưng niềm ước ao thâm sâu nhất của con, lớn nhất của con, mà con nghĩ không bao giờ có thể thực hiện được [82r0], đó là chị Céline yêu dấu được vào cùng Dòng Cát Minh như chúng ta65... Ước mơ này con nghĩ quá khó trở thành hiện thực,66 được sống dưới cùng một mái nhà, chia sẻ những niềm vui và những nỗi buồn của người bạn nhỏ tuổi thơ, con đã quyết hy sinh trọn vẹn, con phó thác cho Giêsu tương lai của chị bé yêu dấu của con, và con quyết tâm sẵn sàng nhìn thấy chị đi đến một thế giới khác nếu cần.67 Điều duy nhất con không thể chấp nhận,68 đó là việc chị không là hiền thể của Giêsu, bởi vì chị cũng yêu Giêsu như con, nên con không thể thấy chị trao gởi trái tim mình cho một người phàm. Con đã rất đau khổ khi biết rằng chị bị ném vào thế gian giữa những hiểm nguy mà con không biết đến.69 Có thể nói từ khi con vào Cát Minh, tình yêu của con đối với Céline là một tình yêu hiền mẫu cũng như tỉ muội... Một hôm chị phải đi dự dạ hội,70 lòng con quá đau đớn khiến con phải van nài Chúa Nhân Lành ngăn cản đừng để chị khiêu vũ và thậm chỉ (ngược với thói quen của con) con đã đổ ra cả suối nước mắt. Giêsu đã thương nhận lời cầu của con, Người đã không cho phép hiền thê bé nhỏ của Người có thể khiêu vũ tối hôm ấy (mặc dù chị không hề bối rối để nhảy một cách duyên dáng khi cần). Sau khi đã mời chị đến dự mà chị không có cách nào từ chối, chàng hiệp sĩ của chị hoàn toàn không thể làm cho chị nhảy được; quá ngượng, chàng ta buộc phải dẫn bộ chị trở về chỗ ngồi rồi chuồn mất. Cuộc phiêu lưu có một không hai này làm con thêm tin tưởng và thêm yêu mến Đấng đã in dấu của Người trên trán con, thì đồng thời cũng đã in trên trán của chị Céline yêu dấu của con...
Ngày 29 tháng 7 năm ngoái, Chúa Nhân Lành khi bẻ gẫy các xiềng xích trói buộc người tôi tớ tuyệt vời của Người và gọi người ấy về lãnh phần thưởng đời đời,71 thì đồng thời cũng chặt đứt các xiềng xích  trói buộc hiền thê yêu dấu của Người với thế gian,72 chị đã hoàn thành sứ mạng đầu tiên của chị; lãnh nhiệm vụ thay mặt tất cả chúng ta để ở bên cạnh chăm sóc người Cha dịu dàng đáng yêu như thế, chị đã hoàn thành sứ mạng này giống như một thiên thần… Mà các thiên thần thì không ở lại [82v0] ở trần gian này, một khi đã hoàn thành ý muốn của Thiên Chúa, họ lập tức trở về ngay với Người, chính vì thế mà họ có cánh… Thiên thần của chúng ta cũng vỗ đôi cánh trắng ngần, sẵn sàng bay thật xa để tìm Giêsu, nhưng Giêsu lại cho nó bay thật gần… Céline vui lòng chấp nhận hy sinh to lớn làm đau lòng Têrêsa bé nhỏ… Suốt hai năm Céline đã giấu kín Têrêsa một bí mật73… Trời! Chính chị ấy cũng đã rất đau khổ!… Sau cùng, từ Trời cao, Đức Vua yêu dấu của con mà thời còn ở trần gian vốn không ưa sự chậm trễ, đã vội thu xếp những chuyện quá rắc rối của nàng Céline yêu dấu của ông, và ngày 14 tháng 9 chị đã đến sum họp với chúng ta!…74
Một hôm khi thấy các khó khăn không thể vượt qua, con thưa với Giêsu khi con cám ơn sau rước lễ: “Chúa ơi, Chúa biết con hết sức ước ao được biết Ba có lên thẳng trên Trời hay không, con không xin Chúa nói, chỉ xin cho con một dấu hiệu. Nếu Sơ A. De J. ưng thuận cho Céline vào dòng75 hoặc không gây trở ngại, đó sẽ là câu trả lời rằng Ba con được lên thẳng với Chúa.” Mẹ biết đấy, thưa Mẹ dấu yêu, sơ này thấy rằng chúng ta đã có ba chị em là quá rồi, nên không muốn nhận thêm một người nữa, nhưng Chúa Nhân Lành là Đấng nắm giữ con tim của các tạo vật và hướng nó theo ý Người, Người đã thay đổi thái độ của sơ ấy; người đầu tiên con gặp sau giờ cám ơn là chính sơ ấy, sơ gọi con với một vẻ rất đáng yêu, bảo con lên phòng Mẹ và Sơ nói với con về Céline, vừa nói vừa rơm rớm nước mắt…
A! Biết bao chuyện con phải cảm ơn Giêsu vì Người đã thoả mãn mọi ước muốn của con!…
Bây giờ con không còn ước muốn gì nữa, con chỉ còn ước muốn yêu Giêsu đến điên dại… Các ước muốn trẻ con của con đều đã bay đi. Chắc chắn con vẫn còn thích chưng hoa trên bàn thờ của Hài Nhi Giêsu, nhưng từ khi Người ban cho con Bông Hoa mà con ao ước là Céline yêu dấu, con không còn ước muốn bông hoa nào khác nữa, con dâng Người chính chị ấy [83r0] làm đoá hoa đẹp nhất của con…
Con cũng không còn ước muốn đau khổ hay chết,76 mặc dù con yêu mến cả hai, nhưng chỉ có tình yêu77 dẫn dắt con… Những thứ ấy con đã ước muốn từ lâu; con đã đau khổ và con đã tin rằng mình đã chạm tới bến Trời, tin rằng bông hoa nhỏ sẽ được hái ở tuổi xuân của nó… Nhưng bây giờ chỉ có sự phó thác là người dẫn đường cho con, con không có la bản nào khác!… Con không thể sốt sắng cầu xin điều gì khác ngoài việc thi hành trọn vẹn ý Chúa đối với hồn con mà không một loài thụ tạo nào có thể ngăn cản nó. Con có thể nói lên những lời này trong bài ca thiêng của Thánh Gioan Thánh Giá, Cha chúng ta: “Trong hầm rượu của Người Yêu tôi, tôi đã uống và khi ra ngoài cánh đồng này, tôi chẳng còn biết gì nữa và tôi đã lạc mất đoàn chiên mà tôi đã chăn trước đó78… Hồn tôi đã sử dụng mọi nguồn lực của nó để phục vụ Người, tôi không còn chăn chiên nữa, không còn nhiệm vụ nào khác nữa, vì bây giờ tất cả công việc của tôi là Yêu…” hay câu này: “Từ khi tôi cảm nghiệm điều đó, TÌNH YÊU hoạt động quá mạnh khiến nó biết tận dụng mọi sự, tốt cũng như xấu nơi tôi, và biến đổi hồn tôi thành CHÍNH NÓ.” Ôi Mẹ yêu dấu! Con đường của tình yêu êm dịu biết bao! Đương nhiên người ta có thể vấp ngã, có thể bất trung, nhưng tình yêu biết tận dụng tất cả, nó đã mau chóng thiêu rụi tất cả những gì làm mất lòng Giêsu, và chỉ để lại một niềm an bình khiêm tốn và sâu thẳm nơi đáy con tim…
A! Con đã kín múc được biết bao ánh sáng trong các tác phẩm của Thánh Gioan Thánh Giá, Cha chúng ta!79 Ở tuổi 17 và 18, con không có của ăn thiêng liêng nào khác, nhưng sau này mọi sách vở đều để lại sự khô khan trong tâm hồn con và bây giờ con vẫn còn ở trong tình trạng như thế. Mỗi khi mở một quyển sách của một tác giả thiêng liêng (dù là hay nhất và cảm động nhất), lập tức con thấy tim mình se lại và con đọc mà hầu như chẳng hiểu gì, hoặc nếu có hiểu thì tinh thần con cũng không thể suy gẫm… Trong sự bất lực ấy, Kinh Thánh và [83v0] Gương Chúa Giêsu đến cứu giúp con; nơi những sách này con tìm được của ăn rắn chắc và tinh tuyền. Nhưng trên hết là sách Tin Mừng,80 nguồn mạch cho các giờ suy niệm của con, ở đó con tìm thấy tất cả những gì cần cho tâm hồn nhỏ bé của con. Con luôn luôn khám phá ra ở đó những luồng ánh sáng mới, những ý nghĩa bí ẩn nhiệm mầu…
Con hiểu và cảm nghiệm thực sự rằng “Nước Thiên Chúa ở trong chúng ta.” (Lc 17,21).81 Giêsu không cần đến sách vở hay các tiến sĩ để dạy dỗ các tâm hồn, vì Người là Tiến sĩ của các Tiến sĩ, Người dạy mà không cần lời nói ồn ào82… Con không bao giờ nghe thấy Người nói, nhưng con cảm nhận Người ở trong con, từng giây từng phút, Người hướng dẫn, soi sáng con phải nói gì hay làm gì.83 Con khám phá đúng lúc những ánh sáng con cần mà con chưa thấy, con thường gặp những ánh sáng chan hoà nhất không phải trong những lúc con nguyện gẫm, nhưng là giữa những công việc bổn phận hằng ngày của con…
Ôi Mẹ dấu yêu! Sao biết bao ân huệ nhận được, làm sao con không thể không hát lên cùng với thánh vịnh gia: “Chúa thật là nhân từ, lòng thương xót Người tồn tại muôn đời.” (Tv 117,1).84 Con thấy rằng nếu mọi tạo vật đều được những ân huệ như con, thì không ai còn sợ Thiên Chúa, nhưng sẽ yêu mến Người đến điên dại, và bằng tình yêu chứ không phải run sợ, không một linh hồn nào còn cố tình làm Người buồn lòng… Tuy nhiên con hiểu rằng không linh hồn nào giống linh hồn nào, cần phải có các gia đình khác nhau để tôn vinh cách đặc biệt từng phẩm tính trọn lành của Thiên Chúa. Với con, Người đã ban cho Lòng thương xót vô biên và qua lòng thương xót ấy con chiêm ngưỡng và tôn thờ các phẩm tính khác của Thiên Chúa!… Như thế mọi sự trọn lành của Người đều rực rỡ tình yêu, ngay cả sự Công Bằng của Người (và có lẽ còn hơn mọi phẩm tính khác) cũng thấm nhiễm tình yêu…
Ngọt ngào biết bao niềm vui khi nghĩ rằng Thiên Chúa là Đấng Công Bằng, nghĩa là Người để ý đến các nỗi yếu hèn của chúng ta. Vậy thì con còn phải sợ gì? A! Thiên Chúa công bình vô cùng đã [84r0] hết lòng tha thứ mọi lỗi lầm của đứa con hoang đàng (Lc 15,21-24: “Bấy giờ người con nói rằng: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa…’ Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: ‘Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.’ Và họ bắt đầu ăn mừng.”), chẳng lẽ Người lại không Công Bằng đối với… con là kẻ “luôn luôn ở với Người” sao? (Lc 15,31)85
Ngày 9 tháng 6 lễ Chúa Ba Ngôi năm nay,86 con nhận được ơn hiểu hơn bao giờ rằng Giêsu muốn được yêu biết bao nhiêu.
Con nghĩ tới các tâm hồn tự hiến làm lễ vật hy sinh cho đức Công Bằng của Thiên Chúa, họ tự nguyện chịu các hình phạt dành cho các tội nhân, con thấy sự dâng hiến này quả là cao cả và quảng đại, nhưng con hoàn toàn không cảm thấy muốn làm như thế. “Ôi lạy Chúa! Con kêu lên tận đáy lòng mình, chỉ có sự Công Bằng của Chúa mới cần nhận những tâm hồn tự hiến làm lễ vật hy sinh sao?… Còn Tình Yêu thương xót của Người lại không cần những tâm hồn như thế?… Tình yêu ấy bị hiểu lầm, bị chối bỏ khắp nơi; những con tim mà Chúa muốn tuôn đổ tràn tình yêu ấy lại quay sang với các tạo vật để cầu cạnh chút hạnh phúc tình cảm khốn nạn của họ, thay vì gieo mình vào vòng tay Chúa và đón nhận Tình Yêu vô biên của Chúa… Ôi lạy Chúa! Tình Yêu của Chúa bị khinh dể sẽ ở lại trong Tim Chúa mãi được sao? Con nghĩ rằng nếu Chúa gặp thấy những tâm hồn tự hiến làm lễ vật toàn thiêu cho Tình Yêu Chúa, hẳn Chúa sẽ thiêu cháy thật nhanh,87 Chúa sẽ sung sướng vì không còn phải đè nén những làn sóng yêu thương vô bờ đang nghẹn ứ trong Chúa… Nếu Đức Công Bằng của Chúa thích bung ra, mà nó chỉ bung ra trên trái đất, thì Tình Yêu Thương Xót của Chúa càng ước ao ôm ấp các tâm hồn biết bao, bởi vì lòng Nhân Từ Thương Xót Chúa vươn lên tới tận Trời cao (Tv 35,6)88 … Ôi Giêsu của con! Chớ gì con là tế vật hạnh phúc ấy, xin hãy thiêu đốt tế vật của Chúa bằng ngọn lửa Tình Yêu Thần Linh của Chúa!…”
Thưa Mẹ dấu yêu, Mẹ là người đã cho phép con tận hiến cho Thiên Chúa như thế, Mẹ biết các dòng sông hay đúng hơn các đại dương ân sủng89 đã tràn vào hồn con… A! Từ cái ngày hạnh phúc ấy, con thấy Tình Yêu thấm nhập con và bao phủ con, con thấy từng giây từng phút Tình Yêu Thương Xót  này đổi mới con, thanh tẩy tâm hồn con và không để lại đó một dấu vết tội lỗi nào, và vì thế [84v0] con cũng không phải sợ luyện ngục90… Con biết tự mình con không đáng được vào chốn đền tội này, bởi vì chỉ những linh hồn lành thánh mới được vào đó, nhưng con cũng biết rằng Lửa Tình Yêu  có sức thanh tẩy mạnh hơn lửa luyện ngục, con biết rằng Giêsu không thể muốn chúng ta chịu những sự đau khổ vô ích và Người không gợi lên trong con những ước muốn nào mà Người không muốn đáp ứng thoả mãn ấy…
Ôi! Đường Tình dịu ngọt biết bao! Con hết sức muốn chăm chú thực thi ý Chúa luôn luôn với lòng phó thác lớn lao nhất! (Mt 6,10).91
Thưa Mẹ dấu yêu, đây là tất cả những gì con có thể nói với Mẹ về cuộc đời của Têrêsa nhỏ của Mẹ, tư Mẹ còn biết rõ hơn nó là gì và Giêsu đã làm gì cho nó. Xin Mẹ cũng tha thứ cho con vì đã lược bớt khá nhiều lịch sử đời tu của nó…
“Câu truyện bông hoa trắng nhỏ” này rồi sẽ kết thúc ra sao?92… Có thể bông hoa nhỏ sẽ được hái lúc đang tươi hay được bứng đi trồng ở một bến bờ khác93… con không biết được, nhưng điều con biết chắc chắn là con ở đâu thì Lòng thương xót của Thiên Chúa sẽ luôn luôn ở đó với con (Tv 22,6),94 con sẽ không bao giờ quên ơn người Mẹ dấu yêu đã dâng con cho Giêsu; muôn đời con sẽ hân hoan là một trong những bông hoa kết thành triều thiên của Mẹ… Muôn đời nó sẽ cùng người Mẹ dấu yêu này hát lên bài ca luôn luôn mới của Tình Yêu (Kh 14,3)95…
[85r0: trang trắng]
 
[85v0]        Ý Nghĩa các Huy Hiệu

Huy hiệu JHS là huy hiệu mà Giêsu đã thương ban làm của hồi môn cho hiền thê bé nhỏ đáng thương của Người. Con bé mồ côi của Bérésina96 đã trở thành Têrêsa Hài Đồng Giêsu và Thánh Nhan, đó là những tước hiệu quý tộc của nó, là sự giàu sang và hy vọng của nó. - Cây Nho chia huy hiệu thành hai phần còn là hình ảnh của Đấng đã thương nói với chúng ta: “Ta là Cây Nho và các con là những ngành nho. Ta muốn các con sinh ra cho Ta thật nhiều trái.” (Ga 15,5).97 Hai tàu lá vòng quanh, một là Thánh Nhan, một là Hài Nhi Giêsu, là hình ảnh của Têrêsa chỉ có một ước muốn trên đời là tự hiến như một chùm nho nhỏ98 để giải khát cho Giêsu, mua vui cho Người, để Người ép theo ý thích của Người và có thể làm Người giãn cơn khát cháy họng mà Người cảm thấy trong cuộc khổ nạn của Người. - Còn cây đàn hạc tượng trưng cho Têrêsa không ngừng muốn hát cho Giêsu nghe những giai điệu tình yêu.99
Huy hiệu FMT là huy hiệu của Marie-Françoise-Thérèse, bông hoa nhỏ của Đức Mẹ, bông hoa này cũng được vẽ như đang đón nhận những tia sáng hồng phúc của Sao Mai Dịu Dàng.100 - Mặt đất xanh rì biểu thị gia đình diễm phúc nơi bông hoa nhỏ đã lớn lên; xa xa người ta thấy một ngọn núi biểu thị nhà dòng Cát Minh. Chính tại nơi hồng phúc này Têrêsa đã chọn để vẽ lên các huy hiệu của mình hình lưỡi kiếm bốc lửa101 tình yêu nhờ đó nó đáng nhận cành thiên tuế tử đạo102 trong khi đợi tới ngày nó có thể thực sự đổ máu mình ra vì Người mình yêu. Bởi vì để đáp lại tất cả tình yêu của Giêsu, nó muốn làm cho Người những gì Người đã làm cho nó… nhưng Têrêsa không quên rằng nó chỉ là một cây sậy yếu ớt,103 nên nó cũng đã vẽ hình cây sậy lên huy hiệu của nó.
Hình tam giác chói sáng biểu thị Ba Ngôi Đáng Tôn Thờ, Đấng không ngừng đổ tràn những hồng ân vô giá104 trên tâm hồn của Têrêsa bé nhỏ tội nghiệp, vì thế với lòng biết ơn, nó sẽ không bao giờ quên câu châm ngôn: “Tình Yêu chỉ có thể đáp trả bằng Tình Yêu.”105

Hình huy hiệu: (trang 275 bản tiếng Pháp:)

Con sẽ ca ngợi Tình Thương Chúa đến muôn đời!…
Huy hiệu của Giêsu và của Têrêsa…106
          JHS   FMT
Những Ngày Hồng Ân107 Chúa ban cho Hiền Thê bé nhỏ của Người
 
Ngày sinh 2-1-1873 / Rửa tội 4-1-1884 / Đức Mẹ Mỉm Cười tháng 5-1883108 / Rước lễ Lần Đầu 8-5-1884 / Thêm Sức 14-6-1884 / Hoán cải 25-12-1886 / Yết kiến Đức Lêô XIII 20-11-1887 / Vào Cát Minh 9-4-1888 / Mặc áo dòng 10-11889 / Sự giàu sang của chúng ta109 12-2-1889 - Sát hạch theo giáo luật Phép lành của Đức Lêô XIII tháng 9-1890110 / Tuyên khấn 8-9-1890 / Đội lúp 24-9-1890 / Hiến dâng làm Hy tế cho Tình Yêu 9-6-1895.

------------------------------
 

Bản thảo B: THƯ VIẾT CHO SƠ MARIE DU SACRÉ-COEUR

 
[1r0]1        G.M.G.T.
Giêsu +
Một kỷ niệm về cuộc tĩnh tâm - Lòng tín thác của trẻ thơ - Đỉnh núi tình yêu - Các bí mật của Giêsu - Dông tố gầm thét - Giấc mơ đêm 10-5-1896 - Em thấy thật có Cõi Trời - Những hành động anh hùng nhất - Ơn gọi của em: Tình Yêu - Tình Yêu đáp trả Tình Yêu - Con cái Hội Thánh - Tung hoa - Tác động nhỏ mọn nhất - Con chim nhỏ - Không gì có thể làm nó sợ - Phượng Hoàng Thần Linh - Vực thẳm bốc lửa tình yêu.
Chị yêu dấu của em! Chị đã xin em  tặng chị một kỷ niệm về cuộc tĩnh tâm của em,  có thể là cuộc tĩnh tâm cuối cùng … Vì được Mẹ Bề Trên cho phép,  em rất vui được nói chuyện với chị là người hai lần là Chị của em, chị đã cho em mượn tiếng nói của chị và hứa nhân danh em là sẽ chỉ muốn phụng sự một mình Giêsu mà thôi (ngay từ khi em còn chưa biết nói…) Mẹ Đỡ Đầu bé nhỏ yêu dấu, người đang nói với chị tối nay  chính là đứa bé mà Chị đã dâng lên cho Chúa, đứa bé yêu chị như một đứa con yêu Mẹ mình … Chỉ khi ở trên Trời, Chị mới hiểu hết được tâm tình biết ơn ngập tràn tim em … Ôi Chị yêu dấu! Chị muốn biết những bí mật mà Giêsu tỏ lộ cho đứa con nhỏ của Chị,  nhưng em biết rằng Người cũng tỏ lộ cho Chị, vì chính chị là người đã dạy em biết đón nhận những lời dạy của Chúa. Tuy nhiên, em cũng sẽ thử bập bẹ,  dù em biết ngôn ngữ của loài người cũng chỉ có thể cảm nhận đôi chút mà thôi… (1Cr 2,9)
Chị tưởng em đang bơi lội trong những niềm an ủi?12 Ồ không đâu! An ủi của em là chẳng còn an ủi nào13 ở trần gian này. Giêsu không tỏ mình ra, cũng không cho em nghe tiếng Người, nhưng Người dạy em trong bí mật, không phải bằng sách vở,14 vì em chẳng hiểu những gì mình đọc, nhưng đôi khi em tìm được niềm an ủi trong một lời15 như lời sau đây em có được vào cuối giờ nguyện gẫm (sau khi đã ở lâu trong thinh lặng và khô khan): “Đây là thầy Ta ban cho con, người ấy sẽ dạy con biết phải làm gì. Ta muốn con đọc trong quyển sách cuộc đời, nơi chứa đựng khoa học Tình Yêu.”16 Khoa học Tình Yêu, vâng, đúng vậy! Lời này vang nhẹ vào tai của hồn em,17 em chỉ ao ước khoa học ấy, vì nó mà sau khi đã cho đi hết của cải của mình, em vẫn coi như mình chẳng cho đi gì cả18 giống như hiền thê trong sách Diễm Ca (Dc 8,7)19… Em hiểu rất rõ rằng chỉ có tình yêu mới làm chúng ta trở nên đẹp lòng Thiên Chúa, vì thế tình yêu này là của cải duy nhất mà em ham muốn. Giêsu thích tỏ cho em thấy rằng con đường dẫn tới lò lửa Thần Linh20 này là con đường tín thác của đứa bé ngủ yên không chút sợ hãi trong tay Cha nó… “Kẻ đơn sơ bé mọn hãy đến với Ta” (Cn 9,4),21 đó là lời Chúa Thánh Thần nói qua miệng Salômôn và cũng chính Thánh Thần Tình Yêu này còn nói rằng “Lòng nhân từ được ban cho những kẻ bé mọn” (Kn 6,7)22 Nhân danh Người, ngôn sứ Isaia quy tụ các con chiên nhỏ và ôm chặt chúng vào lòng” (Is 40,11),23 và như thể mọi lời hứa này còn chưa đủ, cũng chính vị ngôn sứ này vốn đã say sưa chiêm ngắm những vực thẳm vĩnh cửu đã thốt lên nhân danh Chúa “Như người mẹ âu yếm con thơ, Ta cũng sẽ an ủi vỗ về các ngươi, Ta sẽ ôm các ngươi vào lòng và sẽ nâng niu các ngươi trên đầu gối.” (Is 66,13-12)24 Ôi Mẹ Đỡ Đầu dấu yêu! Được nghe những lời như thế, người ta chỉ còn biết im lặng để lòng mình thổn thức với tâm tình biết ơn [1v0] và yêu mến… A! Nếu tất cả các tâm hồn yếu đuối và bất toàn cảm nhận được điều mà tâm hồn nhỏ bé nhất, như tâm hồn của Têrêsa bé bỏng của Chị đây cảm nhận, thì hẳn là không một tâm hồn nào sẽ thất vọng trước việc lên tới đỉnh núi tình yêu, bởi vì Giêsu không đòi hỏi các hành động to tát, mà chỉ đòi hỏi lòng tín thác và biết ơn,25 vì Người đã nói trong Thánh vịnh 49: “Bò của ngươi Ta nào có thiết; chiên của ngươi chẳng lẽ Ta ham! Vì thú rừng là của Ta hết thảy, cả ngàn muôn loài vật núi đồi. Mọi thứ chim trời, Ta đều biết rõ, động vật nơi hoang dã thuộc về Ta. Ta mà đói, Ta đâu cần nói ngươi hay, vì trái đất với mọi loài, chính Ta làm chủ. Thịt bò há là thức Ta ăn? Máu chiên há là đồ Ta uống?
Hãy tiến dâng Thiên Chúa lời ca ngợi và tạ ơn làm hy lễ.” (Tv 49,9-14) Đó là tất cả những gì Giêsu đòi hỏi chúng ta, Người chẳng cần gì các công trình của chúng ta, Người chỉ muốn tình yêu của chúng ta, bởi vì vị Thiên Chúa từng tuyên bố rằng Người đâu cần nói cho chúng ta biết Người đói, thì cũng là Đấng không ngại xin người phụ nữ Samari một chút nước (Ga 4,6-15).26 Người khát… Nhưng khi nói “Chị cho tôi xin chút nước uống,” thì cái mà Đấng Tạo Thành vũ trụ nài xin, chính là tình yêu của loài thụ tạo đáng thương của Người. Người khát tình yêu27… A! Hơn bao giờ hết, em cảm thấy28 Giêsu đang khát, Người chỉ gặp những con người vong ân bội nghĩa29 và hờ hững giữa các môn đệ của Người ở ngoài đời và ngay cả giữa các môn đệ riêng của người; buồn thay! Người chỉ gặp được rất ít những tâm hồn phó thác hoàn toàn cho Người, hiểu được tất cả sự dịu ngọt của Tình Yêu vô biên của Người.
Chị yêu dấu, chúng ta hạnh phúc biết bao khi hiểu được những bí mật thâm sâu của Lang Quân chúng ta.30 A! Nếu chị viết ra tất cả những gì chị biết, hẳn chúng ta sẽ có những trang tuyệt vời để đọc, nhưng em biết chắc Chị thích ấp ủ trong đáy lòng Chị “các Bí mật của Đức Vua”; còn em, chị lại bảo em, “Tuyên dương các công trình của Đấng Tối Cao là điều vinh dự” (Tb 12,7).31 Em thấy Chị có lý khi giữ im lặng, còn em viết những dòng này chỉ là để làm vui lòng Chị, vì em cảm thấy mình bất lực để nói lên32 những bí mật của Trời bằng những lời lẽ của trần gian, và rồi, sau khi đã viết hết trang này đến trang khác, em thấy mình vẫn chưa bắt đầu được tí gì… Có quá nhiều phối cảnh khác nhau, quá nhiều sắc thái muôn màu muôn vẻ, khiến cho duy chỉ có khay màu của Nhà Họ Sĩ Thiên Thai33 mới có thể cung cấp cho em, sau đêm tối của cuộc đời này, những màu sắc có thể vẽ lên những kỳ công mà Người giúp cho mắt hồn em khám phá ra.
Chị yêu dấu, Chị đã xin em viết về giấc mơ của em và về cái mà Chị gọi là “giáo thuyết bé nhỏ của em”… Em đã viết,34 nhưng viết quá tồi khiến em nghĩ rằng Chị không thể hiểu nổi. Có thể Chị sẽ cho rằng cách nói của em quá cường điệu… A! Xin Chị miễn thứ cho em, chắc là vì lối văn của em không được xuôi xắn, nhưng em bảo đảm với Chị rằng không hề có một chút cường điệu nào trong tâm hồn bé nhỏ của em, tất cả trong đó đều thư thái và trầm lắng35…
(Khi viết những lời này em nói với Giêsu, em cảm thấy như thế dễ diễn đạt các tư tưởng của mình hơn… Nhưng cũng không chắc nó giúp em diễn tả các tư tưởng ấy dễ hiểu hơn).
 
[2r0]           G.M.G.T.   8 tháng 9, 18961

(Gởi Sơ Marie du Sacré-Coeur yêu dấu của em.)
Ôi Giêsu, Người Yêu của con! Ai có thể diễn tả nổi việc Người dẫn dắt2 tâm hồn bé nhỏ3 của con bằng một sự dịu dàng âu yếm như thế nào? Người đã thích chiếu rọi tia ân sủng của Người như thế nào ngay giữa cơn dông tố tăm tối nhất?4… Giêsu, bão tố gầm thét dữ dội trong hồn con từ sau ngày lễ khải hoàn tươi đẹp của Người, ngày lễ Phục Sinh rạng rỡ, vào một ngày thứ bảy trong tháng 5,5 đang lúc nghĩ tới các giấc mộng huyền bí thỉnh thoảng được ban cho một số tâm hồn, con tự nhủ đó hẳn phải là một niềm an ủi ngọt ngào lắm, nhưng con không cầu xin được điều ấy. Buổi tối, khi nhìn những đám mây phủ kín bầu trời của nó, tâm hồn bé nhỏ của con lại tự nhủ rằng các giấc mơ đẹp không phải dành cho nó, và nó đã thiếp ngủ dưới cơn bão… Sáng hôm sau là ngày 10 tháng 5, Chúa Nhật thứ hai của tháng Đức Mẹ, có lẽ là ngày kỷ niệm6 việc Đức Mẹ đã thương mỉm cười bông hoa nhỏ của Người…
Khi ánh bình minh vừa xuất hiện, con thấy mình (trong giấc mơ) đang ở chỗ giống như một cái hành lang lớn có nhiều người khác cũng ở đó, nhưng họ đều ở xa xa, chỉ có Mẹ Bề Trên đứng gần con.7 Đột nhiên con thấy ba chị Cát Minh bận áo choàng và trùm khăn lúp lớn, con thấy có vẻ như các chị tiến đến Mẹ Bề Trên, nhưng con không biết các chị đã vào đây cách nào, chỉ biết chắc là họ đến từ Trời. Tự đáy lòng con thốt lên: A! Ước gì mình được nhìn thấy mặt của một trong ba chị Cát Minh này. Lúc ấy như thể đã nghe được lời ước của con, chị cao nhất trong các người thánh này tiến thẳng về phía con; lập tức con quỳ gối xuống. Ôi! Sung sướng tuyệt vời! Chị Cát Minh vén khăn lúp lên hay đúng hơn là nâng khăn lên và phủ lên cả người con8… Không chút do dự con nhận ra ngay đó là Mẹ Đáng Kính Anne de Jésus,9 sáng lập dòng Cát Minh tại Pháp. Mặt người rất đẹp, một vẻ đẹp thiên thai, không có một tia sáng nào chiếu ra từ khuôn mặt ấy, thế mà tuy bị khăn lúp phủ kín cả hai người chúng con,10 con vẫn thấy khuôn mặt thiên thai ấy sáng lên một thứ ánh sáng êm dịu khôn tả, thứ ánh sáng toả ra từ chính khuôn mặt ấy chứ không phải được phản chiếu…
Con không biết kể lại thế nào niềm hoan lạc của hồn con, những điều này chỉ có thể cảm nhận chứ không thể diễn tả… Nhiều tháng đã trôi qua11 kể từ giấc mơ êm ái này, thế mà cái kỷ niệm nó để lại trong tâm hồn con vẫn không mất đi vẻ sinh động và quyến rũ của Thiên Thai của nó… Con như vẫn còn trông thấy cái nhìn và nụ cười đầy yêu thương của Mẹ Đáng Kính. Con nghĩ rằng mình vẫn còn đang cảm thấy những cái vuốt ve âu yếm của người trên con.
… Thấy mình được yêu thương dịu dàng như thế, con dám thốt lên những lời này: “Ôi Mẹ của con! Con van xin Mẹ hãy nói cho con biết Chúa Nhân Lành còn để con sống lâu ở trần gian này nữa không? Hay Người sẽ sớm đến đón con?”12 Âu yếm nhìn con, Mẹ Thánh thì thầm: “Phải, sắp rồi, sắp rồi… Ta hứa với con như thế.” - “Thưa Mẹ, con thêm, xin mẹ nói cho con biết Chúa Nhân Lành có đòi con điều gì [2v0] hơn là những việc nhỏ mọn và những ước muốn của con không? Người có hài lòng về con không?”13 Nét mặt Mẹ Thánh để lộ một vẻ dịu dàng khôn sánh so với lần đầu người nói với con. Cái nhìn và những vuốt ve của người là những câu trả lời ngọt ngào nhất. Tuy nhiên người nói với con: “Chúa Nhân Lành không đòi con bất cứ điều gì khác,14 Người hài lòng, rất hài lòng!” Sau khi tiếp tục vuốt ve con một cách âu yếm còn hơn tất cả những người mẹ dịu dàng nhất thương con mình, con thấy người rời xa con… Tim con tràn ngập vui sướng, bấy giờ con nhớ tới các chị con, và muốn xin mấy ơn cho các chị, nhưng than hỡi… Con tỉnh dậy!
Ôi Giêsu! Lúc ấy cơn bão không gầm thét, bầu trời quang đãng êm ả… Con tin, con cảm thấy rằng có một Cõi Trời15 và nơi Cõi Trời ấy đang cư ngụ những linh hồn yêu thương con,16 coi con như con của các ngài… Ấn tượng này ở lại trong tim con và mỗi ngày một tăng lên vì cho tới lúc ấy con vẫn tuyệt đối hờ hững17 đối với MẸ Anne de Jésus, con không bao giờ cầu xin với người và con chỉ nghĩ đến người trong khi được nghe nói về người, nhưng rất hiếm khi. Và khi con hiểu được người yêu con như thế nào, con ít hờ hững với người hơn, thì tim con tan chảy vì yêu mến và biết ơn, không chỉ đối với Vị Thánh đã đến thăm con, mà còn đối với tất cả các cư dân Diễm Phúc trên Cõi Trời…
Ôi Người Yêu của em!18 Ơn này mới chỉ là mở đầu cho những ơn còn lớn lao hơn mà Người muốn đổ đầy hồn em. Hỡi Tình Yêu độc nhất của em, xin hãy để em nhắc lại với Người những ơn ấy hôm nay… Hôm nay, kỷ niệm lần thứ sáu ngày kết hợp của chúng ta… A! Giêsu, xin tha thứ cho em nếu em lý luận quá vô lý khi muốn kể lại những ước muốn, những niềm hy vọng chạm tới cõi vô biên, xin tha thứ và chữa lành tâm hồn em bằng cách cho nó điều nó trông mong‼!
Ôi Giêsu, được làm hiền thê của Người, làm tu sĩ Cát Minh, được làm mẹ các linh hồn19 nhờ kết hợp với Người, lẽ ra em phải cho là đủ rồi… Nhưng không… Chắc chắn ba đặc ân này đúng là ơn gọi của em: là tu sĩ Cát Minh, Hiền Thê và Mẹ, thế nhưng em còn cảm thấy các ơn gọi khác nữa20 em cảm thấy muốn làm Chiến Binh, Linh Mục, Tông Đồ, Tiến Sĩ, Tử Đạo, sau cùng, em cảm thấy nhu cầu, ước muốn thực hiện mọi công trình anh hùng nhất vì Người, ôi Giêsu… Con cảm thấy nơi mình lòng dũng cảm của một Quân Binh Thánh Giá, một vệ binh Giáo Hoàng, con muốn chết trên sa trường để bảo vệ Hội Thánh…
Em cảm thấy nơi em ơn gọi Linh Mục, ôi Giêsu, được cầm lấy Người trong đôi bàn tay em với biết bao yêu thương, em trao Người cho các linh hồn! Nhưng than ôi! Trong khi ước ao làm Linh Mục, em cảm phục và ganh tị với lòng khiêm nhường của Thánh Phanxicô Assisi, và em cảm thấy nơi mình ơn gọi bắt chước vị thánh này trong việc khước từ chức phẩm Tư Tế siêu vời.
Ôi Giêsu! Tình yêu của em, cuộc đời của em… Làm thế nào dung hoà được các ước muốn tương phản này? [3r0] Làm thế nào để thể thiện được các ước muốn của tâm hồn bé nhỏ tội nghiệp của em đây?
A! Bất chấp thân phận bé nhỏ này của mình, em muốn soi sáng các linh hồn giống như các Ngôn Sứ, các Tiến Sĩ, em có ơn gọi là Tông Đồ… Em muốn đi khắp mặt đất, rao giảng danh của Người và trồng cây Thập Giá vinh hiển của Người trên các mảnh đất vô đạo, đồng thời em muốn loan báo Tin Mừng trên khắp năm châu, cho tới tận những hải đảo xa xôi nhất (Is 66,19)21… Em muốn là nhà truyền giáo22 không phải chỉ trong vài năm, nhưng em muốn là như vậy từ khi có vũ trụ này cho tới ngày tận thế… Nhưng trên hết, ôi Vị Cứu Thế vô cùng yêu mến của em, em muốn đổ cho tới giọt máu cuối cùng vì Người…
Tử Đạo, đó là giấc mơ thời thanh xuân của em, giấc mơ ấy đã cùng lớn lên với em trong khuôn nội cấm của Dòng Cát Minh23… Nhưng cả ở điểm này em cũng cảm thấy giấc mơ của mình là một sự điên dại, bởi vì em không biết giới hạn vào một loại tử đạo nào… Để thoả mãn được em, phải là tất cả… Giống như Người, Lang Quân Đáng Tôn Thờ của em, em muốn bị đánh đòn và bị đóng đinh… Em muốn chết bị lột da như Thánh Batôlômêô… Như thánh Gioan, em muốn bị ném vào vạc dầu sôi, em muốn chịu mọi cực hình của các thánh tử đạo… Như Thánh Anê và Cécilia, em muốn giơ cổ ra cho lưỡi gươm và giống như chị Jeanne d’Arc, người chị yêu quý của em, em muốn đứng trên giàn thiêu mà miệng thì thầm tên Người, ôi Giêsu… Khi nghĩ đến những cực hình mà các Kitô hữu sẽ phải chịu vào thời của tên Phản Kitô, 24 tim em nhảy lên vui sướng và ước chi những cực hình ấy được dành cho em… giữa, Giêsu, nếu em muốn viết ra tất cả các ước muốn của mình, chắc em phải mượn quyển sách trường sinh của Người (Kh 20,12),25 trong đó thuật lại các hành động của tất cả các Thánh, và các hành động ấy em muốn làm tất cả vì Người…
Ôi Giêsu của em! Người sẽ trả lời thế nào cho tất cả các điều điên dại ấy của em?… Có tâm hồn nào hèn mọn hơn, bất lực hơn tâm hồn của em!26 Nhưng Chúa ơi, cũng chính vì sự yếu đuối của em mà Người thích đổ đầy lòng em những ước muốn trẻ con nhỏ bé của em, và hôm nay Người muốn đổ đầy những ước muốn khác lớn hơn cả vũ trụ…
Khi nguyện gẫm, các ước muốn của em giày vò và làm em phải chịu một cuộc tử đạo thực sự. Em mở các thư Thánh Phaolô ra để tìm phương giải cứu. Các chương 12 và 13 của thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô27 đập ngày vào mắt em… Em đọc thấy ở chương (= ch. 12) rằng không phải mọi người đều là tông đồ, ngôn sứ, tiến sĩ, vv… Rằng Hội Thánh  là một thân thể gồm nhiều bộ phận khác nhau và mắt không thể đồng thời là tay (1Cr 12,29.12.21).28
… Câu trả lời đã rõ nhưng không làm thoả mãn các ước vọng của em, nó không cho em sự bình an… Giống như bà Mađalêna cứ cúi mình mãi nhìn vào ngôi một trống và cuối cùng đã phát hiện được [3v0] điều mình tìm kiếm (Ga 20,11-18),29 thì em cũng thế, nhờ cúi xuống tận đáy thẳm hư vô của mình, em vươn cao lên mãi cho tới khi em đạt tới mục đích của mình30… Không nản lòng, em tiếp tục đọc và gặp được câu này làm em nhẹ nhõm: “Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả.” (1Cr 12,31). Và thánh Tông đồ cắt nghĩa tại sao mọi ơn cao trọng nhất đều chẳng là gì nếu không có Tình Yêu… Đức Ái là con đường trổi vượt31 dẫn tới Thiên Chúa một cách chắn chắn. Cuối cùng em đã tìm được sự yên nghỉ… Khi suy nghĩ về thân thể mầu nhiệm của Hội Thánh,32 em không nhận ra mình trong bất cứ bộ phận nào mà thánh Phaolô mô tả, hay đúng hơn em muốn nhận ra mình trong tất cả các bộ phận… Đức Ái cho em chìa khoá của ơn gọi em. Em hiểu rằng nếu Hội Thánh có một thân thể, gồm các bộ phận khác nhau, không thể thiếu bộ phận cần thiết nhất, cao trọng nhất (1Cr 13), thì em cũng hiểu rằng Hội Thánh có một Trái Tim, và Trái Tim này chính là Tình Yêu bốc lửa. Em hiểu rằng chỉ có Tình Yêu làm cho các bộ phận của Hội Thánh hoạt động, rằng nếu Tình Yêu ấy tắt đi, thì các Tông Đồ sẽ chẳng còn rao giảng Tin Mừng nữa, các vị Tử Đạo sẽ từ chối đổ máu mình ra… Em hiểu rằng Tình Yêu bao gồm mọi Ơn Gọi, rằng Tình Yêu là tất cả, nó bao trùm mọi thời gian và mọi không gian… Tóm lại, Tình Yêu là Vĩnh Cửu!…
Thế là trong vui sướng mê mẩn tột độ, em đã la lên: Ôi Giêsu Tình Yêu của em… Cuối cùng em đã tìm thấy ơn gọi của em, on gọi của em chính là Tình Yêu!…
Vâng, em đã tìm ra chỗ đứng của mình trong Hội Thánh, và chỗ đứng này, ôi Thiên Chúa của con, chính Người đã ban nó cho con33… trong Trái Tim của Hội Thánh là Mẹ con,34 con sẽ là Tình Yêu… Vì thế con sẽ là tất cả. Vì thế giấc mơ của con sẽ trở thành hiện thực‼!
Tại sao em lại nói đến một niềm vui sướng mê mẩn, không, nói thế này không đúng, đúng hơn đó là sự an bình thanh thản và thư thái của người đi biển khi nhìn thấy ngọn hải đăng sẽ dẫn họ đến bến… Ôi Hải Đăng sáng rực của Tình Yêu,35 em đã biết làm thế nào để đến được với Người rồi, em đã tìm ra được bí quyết để chiếm đoạt ngọn lửa của Người rồi.36
Em chỉ là một đứa trẻ, bất lực và yếu đuối, nhưng chính sự yếu đuối của em khiến em mạnh bạo hiến mình làm Hy Tế cho Tình Yêu của Người, ôi Giêsu.37 Xưa kia38 chỉ có các tế vật tinh tuyền và vô tì vết mới được Thiên Chúa Hùng Mạnh và Quyền Năng chấp nhận (Tv 23,8). Để thoả mãn Công Lý của Thiên Chúa, cần phải có các tế vật hoàn hảo (Lv 22,18-25), nhưng luật sợ hãi đã được thay thế bằng luật của Tình Yêu, và Tình Yêu đã chọn em làm lễ vật toàn thiêu, em, một tạo vật yếu đuối và bất toàn… Sự chọn lựa ấy không xứng với Tình Yêu sao?39 Vâng, để Tình Yêu được thoả mãn hoàn toàn, nó cần phải hạ mình xuống, hạ mình xuống tới tận hư vô và biến đổi cái hư vô này thành lửa40…
[4r0] Ôi Giêsu, em biết Tình Yêu chỉ có thể được đáp lại bằng Tình Yêu, và em cũng đã tìm và đã thấy được cách để làm tim em nhẹ nhõm khi lấy Tình Yêu đáp lại Tình Yêu của Người. - “Hãy dùng tiền của bất chính41 mà mua lấy bạn bè, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu” (Lc 16,9). Chúa ơi, đó chính là lời khuyên Người ban cho các môn đệ sau khi đã dạy họ rằng “Con cái bóng tối khôn ngoan hơn con cái sự sáng khi xử sự với đồng loại” (Lc 16,8). Là con cái ánh sáng, em đã hiểu rằng các ước vọng của em là muốn tất cả, ôm ấp tất cả các ơn gọi, các ước muốn ấy là những của cải rất có thể làm cho em trở thành bất chính, thế là em đã sử dụng chúng để mua lấy cho mình các bạn hữu… Nhớ tới lời xin của ngôn sứ Êlisê dám xin Cha mình là ngôn sứ Êlia ban cho mình gấp đôi thần trí của người (2V 2,9),42 em đến trước mặt các Thiên Thần và các Thánh và em thưa với các ngài: “Con là tạo vật nhỏ bé nhất, con biết thân phận khốn nạn và yếu đuối của mình, nhưng con cũng biết có biết bao tâm hồn cao thượng và quảng đại muốn làm điều lành, vì vậy con nài xin các ngài, các cư dân Hạnh phúc của Nước Trời, xin nhận con làm con của các ngài, và vinh quang  mà các ngài xin được cho con sẽ chỉ thuộc về các ngài mà thôi, nhưng xin nhận lời cầu xin của con, con biết lời cầu xin của con là quá táo bạo, nhưng con dám xin các ngài cầu xin cho con: được gấp đôi Tình Yêu của các ngài.43
Giêsu, em không thể hiểu thấu lời xin của em, em sợ em quá táo bạo trong các ước muốn của em… Em có thể chữa mình được rằng em chỉ là một đứa con nít, mà con nít thì không suy nghĩ đến ý nghĩa các lời nói của mình; tuy nhiên cha mẹ chúng khi được ngồi trên ngai, có vô số kho báu, thì họ không ngần ngại thoả mãn ước muốn của những đứa con bé nhỏ mà họ yêu mến như chính bản thân họ; để làm chúng vui, họ sẵn sàng làm những việc điên rồ, thậm chí tới mức nhu nhược… Đúng vậy! Em là ĐỨA CON của Hội Thánh, và Hội Thánh là Hoàng Hậu bởi vì là Hiền Thê của Người, ôi Đức Vua của các vua… Lòng của đứa trẻ không đòi hỏi sự giàu sang và Vinh quang, (ngay cả Vinh quang Thiên Quốc)… Nó hiểu rằng Vinh quang là quyền lợi của các Anh Chị của nó, là các Thiên Thần và các Thánh… Còn vinh quang của nó sẽ là ánh phản chiếu vinh quang phát ra từ trán người Mẹ của nó. Điều nó xin chính là Tình Yêu… Nó chỉ còn biết một điều duy nhất là yêu mến Người, ôi Giêsu… Các công trình lẫy lừng rạng rỡ đều bị cấm đối với nó, nó không thể rao giảng Tin Mừng, không thể đổ máu mình ra… nhưng có hề gì, các anh chị của nó làm thay cho nó, còn nó là đứa bé, nó đứng sát bên ngai Đức Vua và Hoàng Hậu (Kh 14,3),44 nó yêu mến thay cho các anh chị nó đang chiến đấu… Nhưng nó sẽ chứng minh Tình Yêu của nó thế nào đây, vì Tình Yêu phải chứng minh bằng việc làm? Phải rồi, con bé sẽ tung hoa45 sẽ làm toả ngát hương thơm trước ngai Đức Vua (Kh 8,3),46 nó sẽ dùng giọng oanh vàng của nó để hát lên bài ca Tình Yêu.
Vâng, hỡi Người Yêu của em, đời em sẽ tiêu hao47 đi như thế đó… Em chẳng có cách nào khác để tỏ tình với Người, ngoài việc tung hoa, nghĩa là không bỏ qua một hy sinh nào dù nhỏ nhặt nhất, không một cái nhìn, [4v0] một lời nói, nhưng lợi dụng mọi việc nhỏ bé nhất và làm tất cả vì yêu… Em muốn chịu đau khổ vì yêu và thậm chí vui hưởng vì yêu, bằng cách này em tung các bông hoa lên trước ngai Người, không bỏ sót một bông hoa nào mà không hái để tung lên Người… Rồi khi tung hoa, em sẽ hát, (người ta có thể khóc khi làm một hành động vui như thế được sao?), em sẽ hát ngay cả khi em phải hái hoa giữa những bụi gai48 và  khi gai càng dài, càng nhọn thì bài hát của em lại càng du dương.
Ôi Giêsu, các bông hoa và các bài ca của em có là gì cho Người? A! Em biết rất rõ làn hương thơm ngạt ngào, những cánh hoa mong manh và vô giá trị này, những bài tình ca này của trái tim nhỏ bé nhất sẽ làm Người say mê; vâng, những cái vặt vãnh này sẽ làm Người vui thú, sẽ làm cho Hội Thánh Khải Hoàn mỉm cười, Hội Thánh ấy sẽ nhặt những cánh hoa rơi vì tình yêu của em được chuyền qua bàn tay Thần Linh của Người,49 ôi Giêsu. Hội Thánh Thiên Quốc vì muốn vui đùa với đứa con nhỏ của mình, sẽ tung các cánh hoa này đã được bàn tay Người chạm vào làm cho có một giá trị vô biên, xuống Hội Thánh đau khổ để giúp Hội Thánh này giành chiến thắng!
Ôi Giêsu của em! Em yêu Người, em yêu Hội Thánh Mẹ của em, em biết rằng: “Một hành vi nhỏ mọn nhất vì tình yêu tinh tuyền50 thì có ích cho Hội Thánh hơn mọi công trình khác thu hợp lại” nhưng tình yêu tinh tuyền ấy có thật trong tim em chăng? Các ước muốn vô bờ của em phải chăng chỉ là một giấc mộng, một sự điên rồ? A! Nếu đúng là như thế, ôi Giêsu, xin Người soi lòng mở trí cho em, Người biết rõ là em đang đi tìm sự thật… Nếu các ước muốn của em quá liều lĩnh, xin Người hãy làm chúng biến đi bởi vì những ước muốn này làm em khổ cực nhiều lắm51… Tuy nhiên, ôi Giêsu, em cảm thấy sau khi đã khát khao những đỉnh cao nhất của Tình Yêu, mà nếu một ngày nào đó mà em không thể đạt tới đó, thì em cũng đã được nếm cảm sự dịu ngọt trong nỗi đau đớn của em, trong cơn điên dại của em, hơn là nếm cảm chính niềm vui của quê hương, trừ khi bằng một phép lạ mà Người cất khỏi ký ức em những niềm hy vọng trần thế này. Vậy xin hãy để [em] vui hưởng những khoái lạc của tình yêu trong cuộc đời lưu đày này. Xin để em thưởng thức những vị đắng dịu dàng của cuộc tử đạo của em…
Giêsu, Giêsu, nếu ước muốn Yêu Mến Người đã ngọt ngào như thế, thì chính tình trạng chiếm hữu, vui hưởng Tình Yêu sẽ còn ngọt ngào đến thế nào?
Làm thế nào mà một tâm hồn bất toàn như tâm hồn em lại có thể khát vọng chiếm hữu Tình Yêu sung mãn? Ôi Giêsu! Người Bạn đầu tiên, Người Bạn độc nhất của em, Người DUY NHẤT mà em yêu, xin hãy nói cho em biết mầu nhiệm này là gì? Tại sao Người không dành những khát vọng vô biên này cho các tâm hồn cao cả, các con Phượng Hoàng bay lượn mãi tận cõi cao xanh? Em thấy mình là một con chim nhỏ52 yếu ớt mới chỉ có mấy sợi lông tơ mong manh, em không phải một phượng hoàng, em chỉ có cặp mắt và quả tim của chim phượng (Đnl 32,11),52 vì mặc dù vô cùng nhỏ bé, em dám nhìn thẳng vào Mặt Trời Thần Linh, Mặt Trời Tình Yêu và tim em cảm thấy nơi Mặt Trời ấy tất cả [5r0] các khát vọng của Phượng Hoàng… Con chim nhỏ muốn bay54 tới Mặt Trời chói lọi lôi cuốn cặp mắt nó, nó muốn bắt chước các con Phượng Hoàng anh chị của nó bay vút lên tới tận Lò Lửa Thần Linh của Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh… Nhưng than ôi! Nó chỉ có thể giơ đôi cánh nhỏ của nó lên,55 còn bay lên cao thì khả năng bé nhỏ của nó không làm được! Nó sẽ ra sao đây? Chết vì phiền muộn khi thấy mình bất lực ư? Ồ không! Con chim nhỏ thậm chí còn không cảm thấy phiền muộn. Với một lòng tín thác táo bạo, nó cứ đứng yên gắn chặt cặp mắt vào Mặt Trời Thần Linh; dù mưa to hay gió lớn, không gì có thể làm nó sợ, và nếu các bóng mây mù có che khuất Ngôi Sao Tình Yêu, con chim nhỏ cũng không dời đi chỗ khác, nó biết rằng ở bên trên đám mây,56 Mặt Trời của nó vẫn luôn luôn chiếu sáng, ánh sáng rực rỡ của Mặt Trời ấy sẽ không thể bị che khuất dù chỉ trong chốc lát. Cũng có lúc57 quả tim của con chim nhỏ cảm thấy run sợ vì dông tố, dường như nó không tin có gì khác ngoài những đám mây phủ kín nó; đó chính là lúc vui sướng trọn vẹn58 đối với tạo vật bé nhỏ yếu đuối khốn khổ. Và sung sướng biết bao cho nó vì nó vẫn ở yên tại đó để nhìn thẳng vào ánh sáng vô hình59 mà đức tin nó không nhìn thấy‼! Ôi Giêsu, cho tới bây giờ, con hiểu được tình yêu của Người đối với con chim nhỏ, bởi vì nó không rời xa Người… Nhưng con biết và Người cũng biết, tạo vật nhỏ bé bất toàn này tuy vẫn đứng yên tại chỗ (nghĩa là dưới tia nắng Mặt Trời), nhưng đôi khi nó cũng để cho mình lơ đãng đối với60 bổn phận duy nhất của mình,61 nó mổ hạt thóc nhỏ ở bên phải và bên trái (Lc 10,41-42),42 đuổi theo một con sâu nhỏ… Rồi khi gặp vũng nước, nó làm ướt đám lông chưa mọc đủ của nó, nó thấy một bông hoa hấp dẫn, thế là đầu óc nó mải nghĩ về bông hoa ấy… Sau cùng, vì không thể bay lượn như chim phượng hoàng, con chim nhỏ lại mải lo những chuyện vớ vẩn ở đời.63 Thế nhưng sau tất cả các hành vi sai trái của nó, thay vì đến ẩn mình ở một góc xó để than khóc sự khốn nạn của nó64 và chết vì hối hận, con chim nhỏ quay về Mặt Trời Yêu Thương của nó, nó phơi đôi cánh nhỏ ướt đẫm của nó dưới các tia nắng ơn phước, nó rù rì như con chim én (Is 38,14)65 và hát lên bài ca phó thác dịu dàng của nó, kể lại chi tiết66 các sự bất trung của nó, và nhờ sự tín thác táo bạo của nó, nó đạt được Tình yêu tròn đầy và bao la hơn, lôi kéo được đầy tràn tình yêu của Đấng đến không để kêu gọi người công chính nhưng người tội lỗi (Mt 9,13)67… Nếu Ngôi Sao Đáng Tôn Thờ làm ngơ trước những rên rỉ thống thiết của tạo vật bé nhỏ của Người, nếu Người vẫn ẩn mặt… Mặc kệ! Tạo vật bé nhỏ cam chịu để mình bị ướt, nó chấp nhận chịu rét cóng và vẫn vui vì nỗi đau khổ mà nó đáng chịu… Ôi Giêsu! Con chim nhỏ của Người vui sướng biết bao vì mình yếu đuối và hèn mọn, nó sẽ ra sao nếu nó lớn lao?… Nó sẽ không bao giờ dám bạo gan xuất hiện trước mặt Người, không bao giờ dám thiếp ngủ trước Nhan Người68… Vâng, đó cũng còn là một sự yếu đuối của con chim nhỏ khi nó muốn nhìn thẳng vào Mặt Trời Thần Linh và các đám mây che khuất không cho nó thấy một tia nắng nào, dù không muốn nhưng cặp mắt bé nhỏ của nó cứ nhắm lại, cái đầu bé nhỏ của nó giấu dưới cánh nhỏ và con vật bé nhỏ tội nghiệp này ngủ thiếp đi mà vẫn tin rằng mình đang luôn luôn nhìn thẳng vào Ngôi Sao Yêu Dấu của nó. Khi tỉnh dậy, nó không buồn phiền, quả tim nhỏ bé của nó cảm thấy bình an, nó lại bắt đầu phận sự mến yêu của nó,69 nó kêu cầu các Thiên Thần và các Thánh đang bay cao vút như những Phượng Hoàng bay về Tổ Ấm khát vọng, đối tượng sự thèm muốn của nó [5v0], và các Anh Chị Phượng Hoàng cảm thấy thương hại đứa em bé bỏng, họ che chở nó, bảo vệ nó và giữ gìn  nó thoát khỏi móng vuốt của giống kền kền muốn xé xác nó. Những con kền kền, hình ảnh của quỷ dữ, con chim nhỏ không hề sợ chúng, nó hoàn toàn không phải là mồi ngon của chúng, nhưng là của Phượng Hoàng mà nó ngắm nhìn70 ở tâm điểm của Mặt Trời Tình Yêu. Ôi Ngôi Lời Thiên Chúa (Ga 1,1),71 chính Người là Phượng Hoàng đáng tôn thờ mà em yêu mến và lôi kéo em, khi hạ cố xuống mảnh đất lưu đày này chính Người đã muốn chịu đau khổ và chịu chết để lôi kéo các linh hồn tới tận lòng Tổ Ấm Vĩnh Cửu là Thiên Chúa Ba Ngôi diễm phúc, chính Người khi đi lên cõi Ánh Sáng không thể đạt thấu mà mãi mãi vẫn là nơi ở của Người (Mc 16,19),72 Người vẫn còn ở lại trong thung lũng nước mắt này (Tv 83,7),73 ẩn mình dưới hình một tấm bánh trắng… Ôi Phượng Hoàng Vĩnh Cửu, Người muốn nuôi em bằng bản thể thần linh của Người74 em, một tạo vật bé bỏng đáng thương, em sẽ phải rơi vào cõi hư vô nếu cái nhìn của Người không ban sự sống cho em từng giây từng phút. Ôi Giêsu! Hãy để em bộc lộ lòng biết ơn tột độ, hãy để em thưa với Người rằng tình yêu của Người đi đến mức điên dại… Người muốn gì trước sự Điên Dại này, Người không muốn tim em vọt lên tới Người sao? Lòng tín thác của em còn có giới hạn nào được nữa… A! Em biết rằng vì Người, các Thánh cũng đã làm những điều điên rồ, các ngài đã làm những điều vĩ đại vì các ngài là phượng hoàng…
Giêsu ơi, em quá nhỏ không thể làm những điều vĩ đại… Và điều điên rồ của em là hy vọng Tình Yêu của Người chấp nhận em làm lễ vật hy sinh… Sự điên rồ của em là cầu khẩn các Anh Chị Phượng Hoàng của em xin cho em được ơn bay lên tới Mặt Trời Tình Yêu bằng chính đôi cánh của Phượng Hoàng Thần Linh… (Đnl 32,11).75
Bao lâu tuỳ Người muốn,76 ôi Người Yêu của em, con chim nhỏ của Người sẽ chấp nhận không có sức lực và không có cánh, nó vẫn luôn luôn gắn chặt đôi mắt vào Người, nó muốn được say mê đi vì cái nhìn thần linh của Người,77 nó muốn trở thành con mồi của Tình Yêu Người… Ôi Phượng Hoàng Đáng Tôn Thờ, con hy vọng một ngày nào đó Người sẽ đón con chim nhỏ của Người, và cùng nó đi lên Tổ Ấm của Tình Yêu, Người sẽ mãi mãi dìm nó vào trong Vực Thẳm Cháy Bỏng của Tình Yêu này mà nó đã hiến dâng làm lễ vật hy sinh…
Ôi Giêsu! Ước chi con có thể nói được cho mọi tâm hồn bé nhỏ78 biết lòng khoan nhân khôn tả của Người79… Con cảm thấy rằng nếu Người tìm được một tâm hồn yếu đuối hơn, nhỏ mọn hơn tâm hồn con, hẳn Người sẽ thích đổ đầy nó những ân huệ còn lớn lao hơn nhiều, nếu nó phó mình với một lòng tin tưởng hoàn toàn vào lượng nhân từ vô biên của Người. Nhưng tại sao con lại muốn thông truyền những bí mật Tình Yêu của Người, ôi Giêsu, chẳng phải chỉ một mình Người đã dạy con các bí mật ấy, chẳng lẽ Người không thể tiết lộ những bí mật ấy cho các tâm hồn khác hay sao?… Vâng, con biết, và con đoán là Người sẽ làm điều đó, con cầu xin Người đưa mắt nhìn xuống số đông những tâm hồn bé mọn (Lc 10,21)80… Con nài xin Người tuyển chọn một đạo binh các tế vật bé mọn xứng đáng với TÌNH YÊU của Người!
Sơ Têrêsa Hài Đồng Giêsu
Và Thánh Nhan rất hèn mọn,
nữ tu Dòng Cát Minh.

--------------------------------
 

Bản thảo C: ĐỀ TẶNG MẸ ĐÁNG KÍNH MARIE DE GONZAGUE 

 
[1r0]81      G.M.G.T 

Dưới cái nóng thiêu đốt ban trưa - Nước tác sinh của sự hạ mình - Bông hoa nhỏ - Ngọn núi và hạt cát - Cái thang máy - Sống bé mọn - Coi tập viện - Đau khổ giữa niềm vui - Cơn ho ra máu  đầu tiên - Bàn ăn của những người tội lỗi - Bóng đêm dày đặc - Hành vi đức tin - Yêu đến chết vì yêu - Con không sợ sống lâu - Cùng gia đình  chiến đấu - Con đã chấp nhận kiếp đoạ đày - Tiếng gọi truyền giáo - Lời khấn vâng lời.
 
Mẹ yêu dấu của con!82 Mẹ đã cho con biết ý Mẹ83 muốn con cùng Mẹ hoàn tất công việc Ca Ngợi Lòng Thương Xót của Chúa (Tv 88,2).84 Bài ca ngọt ngào này con đã bắt đầu hát với người con yêu dấu của Mẹ là Agnès de Jésus, người đã được Chúa trao nhiệm vụ dẫn dắt con trong những ngày thơ ấu; vì vậy con đã cùng với người hát lên những hồng ân đã được ban cho bông hoa nhỏ của Đức Nữ Trinh, khi nó đang ở tuổi xuân cuộc đời. Nhưng giờ đây chính là với Mẹ mà con phải hát lên niềm hạnh phúc của bông hoa nhỏ này, vì bây giờ là lúc mà những tia nắng ngại ngùng của bình minh đã nhường chỗ cho cái nóng thiêu đốt của buổi trưa.85 Vâng, chính là cùng với Mẹ, thưa Mẹ yêu dấu, chính là để đáp lại ước muốn của Mẹ mà con sẽ thử kể lại những tình cảm của hồn con, tâm tình tri ân của con đối với Chúa Nhân Lành, đối với Mẹ là đại diện hữu hình của Người đối với con, vì chính trong bàn tay từ mẫu của Mẹ mà con được dâng hiến hoàn toàn cho Người. Ôi Mẹ của con, Mẹ còn nhớ ngày hôm ấy chứ?86 Vâng, con cảm thấy lòng Mẹ không thể nào quên được cái ngày ấy… Phần con, con phải đợi Cõi Trời tươi đẹp, vì ở trần gian này con không thể nào tìm được những lời lẽ có thể diễn tả điều đã diễn ra trong tim con vào cái ngày diễm phúc ấy.
Thưa Mẹ yêu dấu, còn một ngày nữa mà tâm hồn con gắn bó hơn nữa với tâm hồn Mẹ, nếu đó là điều có thể, đó là ngày mà Giêsu đặt trên vai Mẹ một lần nữa cái gánh nặng của chức vụ Bề Trên87 Thưa Mẹ dấu yêu, ngày hôm ấy Mẹ đã gieo trong nước mắt, nhưng ở trên Trời, Mẹ sẽ được tràn trề niềm vui [1v0] khi nhìn thấy những bó lúa vàng (Tv 125,5-6).88 Ôi thưa Mẹ, xin thứ lỗi cho tính đơn sơ trẻ con của con,89 con cảm thấy Mẹ sẽ cho phép con nói chuyện với Mẹ mà không phải dè giữ theo đúng phép tắc mà một tu sĩ được phép nói với Bề Trên của mình. Có thể con sẽ không luôn luôn giữ được những giới hạn mà người bề dưới phải giữ, nhưng thưa Mẹ, con dám nói đó là lỗi của Mẹ nếu con xử sự giống như một đứa trẻ đối với người Mẹ của mình,90 bởi vì Mẹ xử sự với con như một người Mẹ chứ không phải như một Bề Trên…
A! Thưa Mẹ dấu yêu, con biết rằng chính Thiên Chúa luôn luôn nói với con qua Mẹ. Nhiều sơ nghĩ rằng Mẹ quá nuông chiều con, rằng từ khi con bước vào tàu thánh (St 7,13),91 con chỉ nhận được từ Mẹ những sự nâng niu và khen ngợi, thế nhưng không phải như vậy, thưa Mẹ, trong quyển sổ tay ghi lại các kỷ niệm thời thơ ấu của con,92 Mẹ sẽ thấy rõ con nghĩ gì về một lối giáo dục vừa mạnh mẽ vừa từ mẫu mà con nhận được từ Mẹ. Tự đáy lòng con, con cảm ơn Mẹ đã không nuông chiều con. Giêsu biết rõ bông hoa nhỏ của Người cần có nước tác sinh của sự hạ mình,93 nó quá yếu không thể bén rễ nếu không có sự trợ giúp, và chính nhờ Mẹ, thưa Mẹ, mà ơn lành này đã được ban phát cho nó.
Từ một năm rưỡi nay,94 Giêsu đã muốn thay đổi cách làm cho bông hoa nhỏ lớn lên, chắc hẳn Người thấy nó đã được tưới nước đủ, vì bây giờ chính mặt trời làm cho nó lớn lên, Giêsu không còn muốn nó nhận được cái gì khác ngoài nụ cười mà Người vẫn ban cho nó qua Mẹ yêu dấu của con. Thay vì làm bông hoa nhỏ héo đi, mặt trời êm dịu này làm cho nó lớn lên tuyệt vời, dưới đáy chén đắng của nó nó vẫn còn khờ lại những giọt sương quý báu nó đã nhận được, và những giọt sương này luôn luôn nhắc nó nhớ rằng nó bé bỏng và yếu ớt… Mọi tạo vật có thể cúi xuống trên nó, ngưỡng mộ nó, tán tụng nó, con không hiểu tại sao, nhưng điều đó không thể tăng thêm một giọt niềm vui giả tạo vào cái niềm vui đích thực mà nó đang nếm cảm trong tim, vì nó thấy mình thực sự là gì95 trước mặt Chúa Nhân Lành: một chút hư vô nhỏ hèn đáng thương, ngoài ra chẳng có gì… Con nói con không hiểu tại sao, nhưng phải chăng là vì nó đã được giữ gìn  khỏi thứ nước những lời ca ngợi trong suốt thời gian cái chén nhỏ của nó chưa được đổ đầy giọt sương sự hạ mình? Bây giờ thì không còn nguy hiểm nữa, ngược lại, bông hoa nhỏ thấy sương mà nó được đổ tràn là quá ngọt ngào khiến nó hết sức cảnh giác để không đánh đổi giọt sương ấy lấy thứ nước quá nhạt nhẽo của những lời khen ngợi.
Mẹ dấu yêu, con không muốn kể về tình yêu  và lòng tin tưởng Mẹ dành cho con, Mẹ đừng nghĩ rằng quả tim đứa con của Mẹ vô cảm đối với những điều ấy, điều làm con cảm thấy rõ bây giờ96 là chẳng còn điều chi làm con phải sợ, ngược lại con có thể vui sướng kể lại với Chúa những on lành Người đã thương ban cho con. Nếu Người thích làm cho con có vẻ tốt hơn trực trạng của con, điều đó không quan trọng đối với con, vì Người tự do làm điều Người thích… Ôi thưa Mẹ, các đường lối Chúa dẫn đưa các linh hồn thì khác nhau lắm! Trong cuộc đời các Thánh, chúng ta thấy có nhiều vị không muốn để lại bất cứ điều gì thuộc về họ [2v0] sau khi họ chết, không một kỷ niệm, không một chữ viết, nhưng ngược lại cũng có những vị, như Mẹ Thánh Têrêsa của chúng ta,97 đã làm giàu cho Hội Thánh bằng các mạc khải cao siêu của các ngài mà không sợ tiết lộ các bí mật của Đức Vua, để các tâm hồn nhận biết và yêu mến Người nhiều hơn. Trong hai loại thánh này, loại thánh nào làm đẹp lòng Chúa Nhân Lành hơn? Con nghĩ, thưa Mẹ, cả hai loại thánh này đều làm đẹp lòng Người, vì cả hai đều đã đi theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần và vì Chúa đã nói: Hãy nói với người Công Chính rằng Mọi sự đều tốt (Is 3,10).98 Phải, mọi sự đều tốt, khi người ta chỉ tìm kiếm ý muốn của Giêsu, chính vì thế mà con, bông hoa nhỏ nghèo nàn, con vâng lời Giêsu khi cố gắng làm vui lòng Mẹ yêu dấu của con.
Thưa Mẹ dấu yêu, Mẹ biết con luôn luôn ước ao nên thánh, nhưng than ôi! Mỗi khi so sánh mình với các thánh, con luôn luôn nhận thấy giữa các ngài và con có một sự khác biệt giống như giữa một ngọn núi cao ngất trời với một hạt cát99 tăm tối bị khách qua đường chà đạp dưới chân; thay vì nản lòng, con tự nhủ: Chúa Nhân Lành không bao giờ gợi nên nơi lòng chúng ta những ước muốn bất khả thi,100 vì vậy bất chấp sự bé mọn của mình, con vẫn có thể khát vọng sự thánh thiện; con không thể làm cho mình lớn hơn được, vì vậy con phải bằng lòng chấp nhận thân phận mình với tất cả những khiếm khuyết của nó, nhưng con muốn tìm ra phương thế để lên Trời bằng một con đường nhỏ thẳng tắp, ngắn nhất, một con đường nhỏ hoàn toàn mới.101 Chúng ta đang sống trong thời đại phát minh,102 bây giờ không còn phải tốn hơi leo lên những bậc [3r0] cầu thang, tại các nhà giàu một chiếc thang máy103 thay thế nó rất tiện lợi. Con cũng muốn tìm cho mình một chiếc thang máy để đưa con lên tới Giêsu, vì con quá bé mọn không thể leo lên chiếc cầu thang gồ ghề của sự trọn lành.104 Thế là con đã đi tìm trong các sách hạnh các thánh những chỉ dẫn về chiếc thang máy mà con ao ước, và con đã đọc thấy những lời này từ miệng Đức Khôn Ngoan Vĩnh Cửu: Hỡi người bé mọn,105 hãy đến với Ta (Cn 9,4).106 Thế là con đã đến và nghĩ rằng mình đã thấy được cái mình tìm và, lạy Chúa, vì con muốn biết Chúa sẽ làm gì cho người bé mọn đã đáp lại tiếng gọi của Chúa, nên con tiếp tục tìm kiếm và đây là điều con đã tìm thấy: - Như mẹ hiền an ủi con thơ, Ta sẽ an ủi các ngươi như vậy. Ta sẽ ôm các ngươi vào lòng, và nâng niu trên đầu gối! (Is 66,13). A! Chưa hề nghe lời nào dịu dàng hơn, du dương hơn làm hồn con hả hê như thế, chiếc thang máy để đưa con lên Trời, đó chính là cánh tay của Người, ôi Giêsu!107 Vì vậy con chẳng cần phải lớn lên, con phải cứ tiếp tục bé mọn, con phải trở nên ngày càng bé mọn hơn.108 Ôi Thiên Chúa của con, Người đã đi quá sự mong đợi của con, và con muốn ca ngợi lòng thương xót của Người (Tv 88,2). “Người đã dạy dỗ con từ khi con còn nhỏ, và cho tới bây giờ con đã loan báo các kỳ công của Người. Và cho đến tuổi già, tóc bạc, lạy Thiên Chúa xin đừng bỏ rơi con” (Tv 70,17-18). Tuổi già ấy109 đối với con là khi nào? Con nghĩ nó có thể là ngay bây giờ, bởi vì trước mắt Thiên Chúa, hai ngàn năm cũng chỉ như hai mươi năm… cũng chỉ như một ngày (Tv 89,4).110 A! Mẹ dấu yêu, xin Mẹ đừng nghĩ con của Mẹ đang muốn lìa xa Mẹ… đừng nghĩ nó coi cái chết lúc bình minh là một ân huệ [3v0] lớn hơn cái chết lúc chiều tà. Điều nó tha thiết, điều nó ước ao duy nhất, đó là làm đẹp lòng Giêsu… Bây giờ có vẻ như Người đến gần nó để đem nó vào chỗ ở vinh quang của Người, đứa con của Mẹ mừng rỡ lắm. Từ lâu nó đã hiểu rằng Chúa Nhân Lành chẳng cần một ai (càng không cần con) để làm điều lành trên mặt đất này.
Thưa Mẹ, xin tha thứ nếu con làm Mẹ buồn… vì thực sự con chỉ muốn làm Mẹ vui… Nhưng Mẹ có tin rằng nếu các lời cầu nguyện của Mẹ không được chấp nhận ở dưới đất này; nếu Giêsu chia lìa đứa con với Mẹ nó trong ít ngày,111 thì các lời cầu nguyện ấy lại không được chấp nhận trên Trời chăng?
Con biết Mẹ muốn con hoàn thành bên cạnh Mẹ112 một sứ mạng rất dễ dàng, chẳng lẽ con không thể hoàn thành sứ mạng ấy khi ở trên Trời hay sao?… Như ngày kia Chúa Giêsu đã nói với Thánh Phêrô, Mẹ cũng bảo con: “Hãy chăn các chiên con của Thầy” (Ga 21,15), con ngạc nhiên nói với Mẹ rằng con “quá bé nhỏ”… Con đã nài xin chính Mẹ hãy chăn dắt113 các con chiên nhỏ và cho con cũng được nuôi cùng với chúng.114 Và Mẹ, thưa Mẹ dấu yêu, Mẹ đã đáp lại một chút ước muốn chính đáng của con, Mẹ đã chăn giữ các chiên con cùng với các chiên mẹ,115 nhưng đồng thời Mẹ cũng truyền cho con phải thường xuyên đưa chúng đi ăn cỏ dưới bóng mát,116 chỉ cho chúng những chỗ cỏ tươi tốt nhất và bổ dưỡng nhất, chỉ cho chúng thấy rõ những bông hoa rực rỡ mà không bao giờ được đụng vào (chỉ phải đạp chúng dưới chân thôi)… Thưa Mẹ dấu yêu, Mẹ đã không sợ con làm cho các chiên con của Mẹ đi lạc; kinh nghiệm non nớt của con và [4r0] tuổi trẻ của con không làm Mẹ lo sợ, có lẽ Mẹ nhớ rằng Chúa thường thích ban sự khôn ngoan cho những người bé mọn và một hôm ngây ngất trong hoan lạc, Người đã chúc tụng Cha vì đã giấu các điều bí mật của Người đối với những nhà thông thái nhưng đã mạc khải cho những kẻ bé mọn (Lc 10,21).117 Thưa Mẹ, Mẹ biết thật hiếm có những tâm hồn không lấy đầu óc thiển cận của mình mà đo quyền năng của Thiên Chúa, người ta cứ muốn rằng ở đâu trên mặt đất này cũng phải có các luật trừ, chỉ một mình Thiên Chúa không được quyền có ngoại lệ. Từ rất lâu con đã biết rằng người đời quen đo lường kinh nghiệm bằng số tuổi đời, vì ở tuổi thiếu niên, Thánh Vương Đavít đã hát lên với Chúa: - “Con còn trẻ và bị khinh dể.” (Ps 118,141).118 Nhưng cũng trong Thánh Vịnh 118 này, ngài đã không ngại nói lên: - “Con đã trở nên khôn ngoan hơn những người già: bởi vì con đã tìm kiếm ý Chúa… Lời Chúa là ngọn đèn soi bước chân con… Con sẵn sàng thi hành các mệnh lệnh của Người và con không phải sợ hãi chi…” (Tv 118, 100.105.60).
Mẹ yêu dấu, một hôm Mẹ đã không ngại bảo con rằng Chúa Nhân Lành soi sáng hồn con, thậm chí Người còn ban cho con kinh nghiệm của nhiều năm… Ôi thưa Mẹ! Bây giờ con quá bé nhỏ không thể khoe khoang, con quá bé nhỏ làm sao có thể nghĩ ra được những lời hay ý đẹp để làm Mẹ tưởng rằng con rất khiêm nhường, con chỉ chân nhận một điều là Đấng Toàn Năng đã làm những điều cao trọng nơi tâm hồn đứa con của Thánh Mẫu Người (Lc 1,49),119 và điều cao trọng nhất là Người đã tỏ cho nó thấy thân phận bé mọn, bất lực của nó. [4v0] Mẹ dấu yêu, Mẹ biết rõ rằng Chúa Nhân Lành đã thương đưa con qua rất nhiều loại thử thách, con đã chịu nhiều đau khổ từ khi con bước vào trần gian này, nhưng nếu thời thơ ấu con chịu đau khổ với lòng buồn phiền, thì bây giờ con không còn như thế nữa, con chịu đau khổ trong niềm vui và an bình, con thực sự sung sướng vì được chịu đau khổ. Ôi thưa Mẹ, Mẹ phải biết mọi bí mật của tâm hồn con thì mới không cười con khi đọc các dòng chữ này, vì nếu xét theo vẻ bề ngoài, có tâm hồn nào ít chịu thử thách hơn tâm hồn con? A! Nếu mà người ta thấy được cơn thử thách con phải chịu từ một năm nay,120 họ sẽ phải ngạc nhiên như thế nào!
Mẹ yêu dấu, Mẹ biết cơn thử thách ấy, nhưng con vẫn cứ nói với Mẹ, vì con coi nó như một ân huệ lớn con nhận được trong nhiệm kỳ Bề Trên hồng phúc của Mẹ.
Năm ngoái, Chúa Nhân Lành đã ban cho con niềm an ủi là được giữ chay trong mùa chay ở mức nghiêm nhặt nhất,121 chưa bao giờ con cảm thấy mình mạnh như thế, và con vẫn mạnh như thế cho tới lễ Phục Sinh. Nhưng ngày Thứ Sáu Tuần Thánh,122 Giêsu muốn ban cho con niềm hy vọng sớm được gặp Người trên Trời… Ôi! Kỷ niệm ấy đối với con ngọt ngào biết bao!… Sau khi ở lại bên Mồ Chúa123 cho tới nửa đêm, con trở về phòng, nhưng vừa ngả đầu xuống gối, con đã cảm thấy giống như có một cuộn sóng trào lên, trào lên sùng sục tới tận môi con. Con không biết đó là cái gì, nhưng con nghĩ có lẽ mình sắp chết và hồn con tràn ngập niềm vui sướng… [5r0] Nhưng vì đèn đã tắt,124 nên con tự nhủ phải đợi sáng hôm sau mới biết được tin vui, khi đi đến gần cửa sổ con có thể thấy rõ là mình đã không lầm… A! Tâm hồn con ngập tràn niềm an ủi to lớn, con tin chắc là vào ngày kỷ niệm cái chết của Người, Giêsu muốn cho con nghe được một tiếng gọi đầu tiên. Nó giống như một tiếng thì thầm nhè nhẹ và xa xa báo tin Lang Quân đang tới (Mt 25,6)125…
Con vô cũng sốt sắng khi dự giờ kinh Sáng và giờ hội xin lỗi.126 Con háo hức đợi tới phiên, con đến xin sự tha thứ của Mẹ, và thổ lộ cho Mẹ, thưa Mẹ yêu dấu, niềm hy vọng và hạnh phúc của con; nhưng con còn nói thêm rằng con không đau đớn gì cả (mà quả thật là thế) và con nài xin Mẹ đừng miễn trừ cho con điều gì đặc biệt. Thật vậy, con được niềm an ủi là sống ngày Thứ Sáu Tuần Thánh đúng như con ao ước. Những việc khắc khổ của Dòng Cát Minh cũng tỏ ra rất ngọt ngào đối với con, niềm hy vọng lên Trời làm con ngất ngây hân hoan. Chiều ngày hồng phúc ấy tới, phải đi nghỉ, và cũng giống như đêm hôm trước, Giêsu nhân lành cũng lại ban cho con cùng một dấu hiệu rằng ngày con vào cõi sống Vĩnh Hằng không còn xa… Lúc ấy con đã nếm cảm một đức tin quá sống động, quá rõ ràng, chỉ một tư tưởng về Trời đã làm con vui sướng hạnh phúc, con không thể [5v0] tin được rằng có những kẻ vô tín không có lòng tin. Con cho rằng những kẻ ấy nói ngược với lòng họ khi phủ nhận sự hiện hữu của Trời cao, Trời tươi đẹp, ở đó chính Thiên Chúa muốn là phần thưởng đời đời của họ (St 15,1).127 Vào những ngày vui của mùa Phục Sinh, Giêsu đã cho con cảm thấy rằng quả thật có những tâm hồn không có lòng tin, vì chối bỏ ơn Chúa họ đã đánh mất kho báu này là nguồn mạch của những niềm vui tinh tuyền và đích thực duy nhất. Người để cho hồn con bị xâm chiếm bởi những bóng tối dày đặc và tư tưởng về Trời quá ngọt ngào đối với con cho tới bây giờ chỉ còn là một lý do để con chiến đấu và day dứt… Cơn thử thách này không kéo dài trong vài ngày, vài tuần, nó sẽ chỉ chấm dứt vào giờ Chúa Nhân Lành đã ấn định… mà giờ ấy chưa đến… Con muốn có thể diễn tả điều con cảm thấy, nhưng thật không thể diễn tả nổi. Phải đi qua con đường hầm tăm tối này mới có thể hiểu nổi sự tối tăm của nó. Nhưng con sẽ thử cắt nghĩa nó bằng một sự so sánh.
Giả sử con được sinh ra tại một xứ sở phủ sương mù dày đặc, không bao giờ được ngắm cảnh thiên nhiên rực rỡ, được tưới đẫm và biến đổi bởi ánh nắng mặt trời chói lọi; cũng đúng là từ thời thơ ấu, con đã từng được nghe nói đến những cảnh đẹp tuyệt vời và con biết rằng nơi con đang ở không phải là quê hương của mình, nhưng có một quê hương khác mà con phải không ngừng khát mong (Dt 11,13-16).128 Đây không phải là một câu truyện bịa đặt của một cư dân trong xứ sở con đang ở, nhưng là một thực tế chắc chắn, bởi vì Vua của xứ có mặt trời chói lọi đã đến sống 33 năm [6r0] trong xứ sở của bóng tối. Buồn thay! Bóng tối đã hoàn toàn không hiểu rằng Vua Trời chính là ánh sáng của trần gian (Ga 1,5.9.10)… Nhưng lạy Chúa, con của Người đã hiểu được ánh sáng thần linh của Người, nó xin Người tha thứ cho các anh chị em nó,129 nó chấp nhận ăn bánh đau khổ130 lâu bao nhiêu tuỳ Người muốn, và nó hoàn toàn không muốn rời khỏi bàn ăn cay đắng này,131 nơi những người tội lỗi đáng thương ngồi ăn (Mt 9,10-11),132 trước ngày giờ Người đã ấn định… Nhưng nó lại không thể không nói nhân danh mình, nhân danh các anh chị em mình: Lạy Chúa, xin thương xót chúng con, vì chúng con là những tội nhân đáng thương? Ôi! Lạy Chúa, xin cho chúng con trở về trong tình trạng công chính (Lc 18,13)133… Xin cho tất cả những ai không được ngọn đuốc Đức Tin  sáng ngời chiếu soi, thì cuối cùng cũng được nhìn thấy ánh sáng của nó… Ôi Giêsu, nếu bàn ăn bị những kẻ tội lỗi làm ô uế cần phải được rửa sạch bởi một tâm hồn yêu mến Người, thì con rất muốn một mình ngồi ở bàn ăn ấy mà ăn bánh đau khổ cho tới khi Người muốn đưa con vào trong vương quốc sáng ngời của Người. Con chỉ xin Người một ơn duy nhất, đó là không bao giờ xúc phạm đến Người!134…
Thưa Mẹ yêu dấu, con viết chẳng có đầu đuôi gì cả, câu truyện nhỏ của con giống như một câu truyện thần tiên đột nhiên đổi thành một lời cầu nguyện, con không biết Mẹ có thấy hứng thú chút nào để đọc hết các tư tưởng lộn xộn và diễn tả luộm thuộm như thế này chăng. Sau cùng, thưa Mẹ, con viết vì vâng lời135 chứ không phải để làm thành một tác phẩm văn chương, vì vậy nếu con làm Mẹ chán, ít ra Mẹ cũng thấy được rằng đứa con của Mẹ đã chứng tỏ thiện chí của nó. Vì vậy con sẽ [6v0] không nản136 để tiếp tục câu truyện ví von nho nhỏ của con, từ chỗ con đã dừng lại. Con nói rằng từ thuở nhỏ con đã được ban cho niềm tin chắc là một ngày kia sẽ đi ra khỏi cái xứ sở buồn sầu và tối tăm. Con không chỉ tin những gì con nghe được từ những người thông minh hơn con, nhưng con còn cảm thấy tận đáy lòng mình những khát vọng đi đến một miền đất xinh đẹp hơn. Cũng như Christophe Colomb137 linh cảm rằng có một thế giới mới trong khi không một ai nghĩ tới, con cũng cảm thấy có một đất khác, một ngày kia sẽ làm nơi ở vững bền138 cho con, nhưng thình lình những đám sương mù quanh con trở nên dày hơn, chúng thấm sâu vào tận hồn con và bao phủ nó khiến con không thể nào tìm ra trong nó hình ảnh quá dịu ngọt của Quê Hương con, tất cả đều biến mất rồi! Tim con mệt mỏi rã rời vì bóng tối vây kín nó, khi con muốn cho nó nghỉ ngơi bằng cách nhớ về xứ sở chói loà mà con khao khát, thì sự giày vò của con lại tăng lên gấp bội, có vẻ như bóng tối đang mượn tiếng nói của những kẻ tội lỗi để nhạo cười  con: - Mi mơ tưởng ánh sáng, một xứ sở nức mọi mùi hương thêm êm dịu nhất,139 mi mơ tưởng chiếm hữu đời đời Đấng Tạo Thành tất cả những kỳ công ấy, mi tưởng một ngày nào đó sẽ ra khỏi đám mây mù vây bọc mi à, cứ mơ tưởng đi, cứ tiến lên đi, mà vui hưởng cái chết, nó sẽ không cho mi cái mi mong đợi đâu, mà chỉ là một đêm tối thăm thẳm.140
[7v0] Mẹ yêu dấu, hình ảnh mà con muốn mô tả cho Mẹ về những bóng tối che khuất hồn con là một hình ảnh mờ nhạt giống như mấy nét chấm phá, sánh với hình mẫu, tuy nhiên con không muốn viết thêm nữa, sợ có những lời lẽ phạm thượng chăng… Thậm chí con sợ mình đã nói quá nhiều về nó…
A! Xin Giêsu tha thứ cho con nếu con đã làm buồn lòng Người, nhưng Người biết rằng tuy con không được niềm an ủi Đức Tin dạy, thì con đã cố gắng là những công việc của đức tin. Con tin là mình đã làm những hành vi đức tin từ một năm nay nhiều hơn là trong cả đời con. Mỗi lần có dịp chiến đấu mới, khi các kẻ thù tới khiêu khích con, con sống dũng cảm, và biết rằng quyết đấu là hèn nhát, con quay lưng lại với địch thù141 và không thèm nhìn mặt chúng, nhưng con chạy thẳng về phía Giêsu của con, con nói với Người rằng con sẵn sàng đổ đến giọt máu cuối cùng để tuyên xưng có một Cõi Trời. Con thưa với Người rằng con mừng vì không được hưởng Cõi Trời tươi đẹp ở dưới đất này, để Người mở nó ra đời đời cho những kẻ đáng thương không có lòng tin. Và dù cơn thử thách này cướp mất mọi niềm vui thú của con, con vẫn có thể kêu lên: - “Lạy Chúa, con hớ hở reo vui vì mọi việc tay Ngài làm.” (Tv 91,5). Vì có niềm vui nào to lớn hơn niềm vui được chịu khổ vì tình yêu? Đau khổ càng thấm thía, càng ít được người khác biết đến, nó càng làm đẹp lòng Người, ôi Thiên Chúa của con, nhưng nếu ngay cả chính Người cũng không biết đến đau khổ của con, con vẫn sung sướng được chịu đau khổ nếu nhờ nó mà con có thể ngăn ngừa hay đền bù dù chỉ một lỗi phạm đến Đức Tin…
[7v0] Thưa Mẹ yêu dấu của con, có thể Mẹ sẽ cho rằng con cường điệu cơn thử thách của con. Thực ra, nếu Mẹ đánh giá theo những tình cảm con diễn tả trong các bài thơ nho nhỏ mà con đã sáng tác năm nay,142 thì mẹ thấy tâm hồn con có vẻ đầy tràn những niềm an ủi và tấm màn đức tin hầu như đã bị xé toang đối với nó, thế nhưng… Đối với con nó không còn là một tấm màn, mà là cả một bức tường143 dựng lên tới trời và che khuất bầu trời đầy sao… Khi con hát lên niềm hạnh phúc của cõi Trời, sự chiếm hữu vĩnh viễn Thiên Chúa, con chẳng cảm thấy một niềm vui nào, vì con chỉ đơn thuần hát lên điều con muốn tin. Đôi khi, quả thật cũng có một tia sáng nhỏ rọi vào bóng tối của con, lúc ấy cơn thử thách tạm ngưng trong chốc lát, nhưng rồi kỷ niệm về tia sáng này thay vì tạo niềm vui cho con, nó lại làm cho bóng tối của con thêm dày đặc hơn nữa.
Ôi thưa Mẹ, chưa bao giờ con cảm thấy mãnh liệt hơn lúc này rằng Chúa từ bi nhân hậu biết bao (Tv 102,8),144 Người chỉ gởi đến cho con sự thử thách này vào đúng lúc mà con có sức chịu nổi, nếu sớm hơn, có lẽ nó đã dìm con vào thất vọng145… Bây giờ nó cất đi tất cả những gì có thể là sự thoả mãn tự nhiên trong khát vọng của con về Cõi Trời… Mẹ yêu dấu, bao giờ con thấy không gì có thể ngăn cản con bay lên, vì con chẳng còn ước muốn to lớn nào khác hơn là muốn yêu đến chết vì yêu146… (9 tháng 6).
[8r0] Mẹ yêu dấu, con rất ngạc nhiên khi xem lại những gì con viết cho Mẹ hôm qua,147 nguệch ngoạc quá!… Tay con run đến nỗi không thể tiếp tục được và bây giờ thậm chí con ân hận vì đã ráng viết, hôm nay con hy vọng sẽ viết dễ đọc hơn, vì con không còn viết trên giường nữa, nhưng trong một chiếc ghế bành nhỏ xinh xắn và trắng tinh.
Ôi thưa Mẹ, con cảm thấy tất cả những gì con nói với Mẹ chẳng có đầu đuôi gì cả, nhưng con cũng cảm thấy là trước khi nói với Mẹ về quá khứ, con cần phải giãi bày với Mẹ những tình cảm con hiện có, sợ rằng để về sau con sẽ không còn nhớ gì cả. Trước tiên con muốn nói với Mẹ con xúc động biết bao trước tất cả các nghĩa cử âu yếm từ mẫu của Mẹ, a! Thưa Mẹ dấu yêu, xin Mẹ tin rằng quả tim đứa con của Mẹ ngập tràn niềm tri ân, nó sẽ không bao giờ quên tất cả những gì Mẹ trao ban cho nó…
Thưa Mẹ, điều làm con xúc động nhất là tuần cửu nhật mà Mẹ xin làm ở nhà thờ Đức Mẹ Chiến Thắng,148 các thánh lễ Mẹ xin để cầu cho con được khỏi bệnh. Con cảm thấy tất cả những kho báu thiêng liêng này đem lại lợi ích lớn cho hồn con: lúc bắt đầu tuần cửu nhật, thưa Mẹ, con đã nói với Mẹ rằng Đức Mẹ cần phải cho con khỏi bệnh hoặc Người cần phải đưa con về Trời, vì con thấy việc chăm sóc một tu sĩ trẻ bệnh tật là một gánh nặng149 cho Mẹ và cộng đoàn; bây giờ thì con vui lòng chịu bệnh tật suốt đời nếu điều đó làm đẹp lòng Chúa, thậm chí con sẵn sàng sống lâu ở đời này, con chỉ ao ước một ân huệ [8v0], đó là cuộc đời ấy bị xé nát bởi tình yêu.150
Ồ! Không con không sợ sống lâu, con không từ chối chiến đấu, vì Chúa là tảng đá con đứng trên đó, Người nâng tay con lên khi chiến đấu, nâng ngón tay con lúc ra trận. Người là khiên mộc của con, con trông cậy nơi Người (Tv 143,1-2).151 Và con cũng không bao giờ xin Chúa cho con chết trẻ,152 dù đúng là con luôn luôn hy vọng đó là ý của Chúa. Chúa thường hài lòng với ước muốn làm việc vì vinh danh Người153 và thưa Mẹ, Mẹ biết các ước muốn của con rất lớn, Mẹ cũng biết Giêsu đã đưa cho con hơn một chén đắng mà Người lại cất nó đi trước khi con uống (Lc 22,42),154 nhưng Người đã để con nếm vị đắng của nó trước đã.155 Mẹ yêu dấu, Thánh Vương Đavít có lý khi hát lên: Tốt đẹp biết bao, ngọt ngào biết bao cảnh anh em sống chung hoà hợp (Tv 132,1). Đúng là con vẫn thường cảm thấy điều đó, nhưng sự hoà hợp này phải diễn ra trên trần gian này giữa những sự hy sinh. Con đến Cát Minh hoàn toàn không phải để sống với các chị của con,156 mà chỉ là để đáp lại tiếng gọi của Giêsu. A! Con đã linh cảm sâu sắc rằng sống với các chị em mình hẳn phải là một mối đau khổ liên tục khi người ta không muốn dành một chút gì cho bản tính tự nhiên. Làm sao người ta có thể nói rằng xa cách người thân là điều hoàn hảo hơn… Có bao giờ người ta chê trách các anh em vì cũng chiến đấu trên một mặt trận, có bao giờ người ta chê trách họ vì cùng bay đi để giành lấy ngành vạn tuế tử đạo? Chắc chắn người ta đã thấy đúng [9r0] rằng không những họ khích lệ lẫn nhau, nhưng cuộc tử đạo của một người cũng là của tất cả. Cũng là như thế trong đời sống tu trì mà các nhà thần học gọi là một cuộc tử đạo. - Khi tự hiến cho Thiên Chúa, quả tim không mất đi sự âu yếm tự nhiên của nó, ngược lại sự dịu dàng âu yếm ấy lớn lên bằng cách trở nên tinh tuyền hơn và siêu thoát hơn.
Mẹ yêu dấu, con mến Mẹ bằng sự âu yếm này; con hạnh phúc được chiến đấu cùng gia đình157 vì vinh quang của Vua Trời, nhưng con cũng sẵn sàng bay đến một trận địa khác nếu Vị Tướng Quân158 tỏ cho con ước muốn của Người như thế. Không cần phải ra lệnh, chỉ cần một cái nhìn, một dấu hiệu đơn giản.
Từ khi bước vào con tàu diễm phúc,159 con luôn luôn nghĩ rằng nếu Giêsu không sớm đưa con về Trời, số phận con bồ câu nhỏ của Ông Nôê sẽ là số phận của con; con nghĩ rằng một ngày nào đó Chúa sẽ mở cửa sổ con tàu và bảo con hãy bay đi thật xa, thật xa, mang theo với con cành ôliu nhỏ tới các bờ biển ngoại đạo. Thưa Mẹ, tư tưởng này đã làm hồn con lớn lên, đã làm con bay lượn cao hơn mọi tạo vật.160 con đã hiểu rằng ngay cả ở Cát Minh vẫn còn có thể có những cuộc ly biệt,161 chỉ ở trên trời sự kết hợp mới hoàn toàn và vĩnh cửu, thế là con muốn rằng hồn con cư ngụ trên Trời, chỉ nhìn những sự vật dưới đất từ đàng xa. Con đã chấp nhận không những chỉ bản thân con bị đày ải giữa một dân xa lạ, mà điều còn cay đắng hơn nhiều đối với con, con đã chấp nhận cảnh lưu đày162 [9v0] của các chị con. Con sẽ không bao giờ quên cái ngày 2 tháng 8 năm 1896,163 hôm ấy là ngày lên đường của các nhà truyền giáo, người ta nghiêm túc nói đến cuộc ra đi của Mẹ Agnès de Jésus. A! Đương nhiên con không muốn có một hành động nào để ngăn cản việc ra đi của chị ấy; nhưng con hết sức buồn phiền, con thấy rằng tâm hồn quá nhạy cảm, quá tế nhị của chị164 không được dựng nên để sống giữa các tâm hồn không thể hiểu nó, và hàng ngàn tư tưởng dồn dập đến với con mà Giêsu thì vẫn làm thinh,165 Người không truyền lệnh nào cho bão táp (Mc 4,37-39)… Vậy con nói với Người: Lạy Chúa, vì yêu Chúa con chấp nhận tất cả: nếu Người muốn, con sẵn sàng chịu đau khổ đến chết vì buồn phiền. Giêsu hài lòng vì sự chấp nhận của con, nhưng mấy tháng sau, người ta nói đến cuộc ra đi của Sơ Geneviève và Sơ Marie de la Trinité; lại là một thứ đau khổ khác nữa rất thấm thía, con hình dung ra mọi thứ thử thách, mọi thứ chán nản mà hai chị ấy sẽ phải chịu, cuối cùng trời của con phủ ngợp mây đen… Chỉ có đáy tim của con là tĩnh lặng và an bình.
Thưa Mẹ dấu yêu, sự khôn ngoan của Mẹ đã có thể khám phá ra ý Chúa và nhân danh Người, Mẹ đã cấm các tập sinh bây giờ không được nghĩ đến việc rời bỏ cái nôi của tuổi thơ đời tu của họ, nhưng các nguyện vọng của họ thì Mẹ hiểu rất rõ, bởi vì thưa Mẹ, bản thân Mẹ hồi con trẻ đã từng xin được đi Sài Gòn,166 đó chính là các ước muốn của các bà mẹ thường tìm được âm vang trong tâm hồn [10r0] các con của họ. Ôi Mẹ dấu yêu, hẳn Mẹ biết rõ rằng ước muốn Tông đồ của Mẹ tìm được một âm vang trung thành nơi tâm hồn con, xin cho con được thổ lộ với Mẹ tại sao con đã từng ao ước và hiện vẫn còn ao ước rằng, nếu Đức Mẹ chữa con khỏi bệnh, con sẽ được rời bỏ cái ốc đảo thần tiên này, nơi mà con đang sống rất hạnh phúc dưới cái nhìn từ mẫu của Mẹ, để đi đến một miền đất xa lạ.
Thưa Mẹ, (Mẹ từng nói với con) để sống trong các nhà dòng Cát Minh ở nước ngoài, cần phải có một ơn gọi đặc biệt, nhiều tâm hồn tưởng rằng mình được ơn gọi đến đó nhưng thực ra thì không và Mẹ còn nói rằng con có ơn gọi ấy và chỉ có trở ngại duy nhất là sức khoẻ của con; con biết rõ là trở ngại ấy sẽ biến đi nếu Chúa kêu gọi con đi xa, vì vậy con sống hoàn toàn vô lo. Nếu một ngày nào đó con phải rời bỏ tu viện Cát Minh thân yêu của con, a! Điều đó không thể không gây đau đớn cho con, vì Giêsu đã không ban cho con một trái tim vô cảm, và chính vì nó có khả năng chịu đau khổ nên con ước ao trao hiến cho Giêsu tất cả những gì nó có thể trao hiến. Ở đây, thưa Mẹ dấu yêu, con sống mà không vướng mắc gánh nặng lo lắng gì về trần gian khốn khổ này, con chỉ có bổn phận chu toàn sứ mạng ngọt ngào và dễ dàng mà Mẹ đã trao phó cho con. Ở đây con được hưởng dồi dào những sự quan tâm từ mẫu của Mẹ, con không cảm thấy sự nghèo khó bởi vì con chẳng thiếu thứ gì. Nhưng nhất là, ở đây con được Mẹ và tất cả các chị em thương mến, và tình thương này quả là vô cùng dịu ngọt đối với con. Đó là lý do tại sao con mơ ước được sống trong một tu viện mà không ai biết đến con,167 ở đó con sẽ phải chịu cảnh nghèo khó, thiếu tình thương, cuối cùng là cảnh tâm hồn bị đoạ đày.
A! Không phải vì có ý đem việc phục vụ nào đó đến cho đan viện Cát Minh sẽ đón nhận con mà con sẵn sàng từ bỏ mọi cái quý giá đối với con. Chắc hẳn con sẽ làm hết sức mình, nhưng con biết mình chẳng có khả năng gì168 và con cũng biết rằng dù cố gắng hết sức mình con cũng chẳng làm được điều gì cho ra trò, vì như con vừa nói, con chẳng có một sự hiểu biết gì về các chuyện ở đời này. Vì vậy mục đích duy nhất của con là thực thi thánh ý Chúa, hy sinh bản thân mình vì Người, để làm đẹp lòng Người thôi (Mt 6,10).169
Con biết mình chẳng có ảo tưởng nào cả, vì khi người ta trông chờ một sự đau khổ thuần tuý, không pha trộn, thì niềm vui nhỏ bé nhất cũng trở thành một ngạc nhiên bất ngờ, và rồi, thưa Mẹ, Mẹ biết chính sự đau khổ trở thành niềm vui lớn khi người ta tìm kiếm nó như của châu báu nhất.
Ồ không! Không phải vì muốn hưởng hoa quả các việc làm của mình mà con muốn đi, vì nếu con nhắm mục đích ấy thì con sẽ không cảm được niềm an bình ngọt ngào tràn ngập tâm hồn con, và con sẽ đau khổ vì không thể thể hiện được ơn gọi của mình cho các xứ truyền giáo xa xôi. Từ lâu con đã không còn thuộc về mình nữa, con đã hiến mình hoàn toàn cho Giêsu,170 vì thế Người hoàn toàn tự do làm nơi con bất cứ điều gì Người muốn. Người đã cho con sức hấp dẫn của một cuộc lưu đày hoàn toàn, Người đã làm con hiểu tất cả các đau khổ mà con gặp ở đó, và hỏi con có muốn uống cạn chén đắng này không; ngay lập tức con giơ tay đỡ lấy chén khi Giêsu đưa cho con, nhưng Người rút tay lại và cho con hiểu rằng sự chấp nhận của con đủ làm Người hài lòng rồi.
[11r0] Ôi Mẹ yêu dấu, khi tuyên lời khấn vâng lời, người ta được giải thoát khỏi biết bao nỗi âu lo! Các tu sĩ đơn sơ quả là hạnh phúc, cái la bàn duy nhất của họ là ý muốn của các bề trên, họ luôn luôn được bảo đảm đi đúng đường, không sợ phải lầm lẫn cả khi họ thật chắc chắn là các bề trên sai lầm. Nhưng vừa khi họ không còn nhìn vào cái la bàn không thể sai, vừa khi họ rời khỏi con đường mà nó bảo phải theo, viện cớ là làm theo ý Chúa171 mà họ nghĩ là Chúa không soi sáng tốt cho những kẻ thay mặt Người, thì lập tức linh hồn đi lạc vào những con đường khô khan, ở đó nước ân sủng sẽ sớm thiếu hụt.
Mẹ yêu dấu, Mẹ là cái la bàn mà Giêsu ban cho con để dẫn đưa con chắc chắn tới bến vĩnh cửu. Con thấy dịu ngọt biết bao khi đăm đăm nhìn lên Mẹ và sau đó thi hành ý Chúa. Từ khi Người để con chịu những cơn cám dỗ về đức tin, Người đã gia tăng nơi con rất nhiều tinh thần đức tin, giúp con nhìn thấy nơi Mẹ không chỉ là một người mẹ yêu thương con và con yêu thương Mẹ, mà nhất là Mẹ làm con nhìn thấy Giêsu sống động172 trong tâm hồn Mẹ và truyền đạt ý Người cho con thông qua Mẹ. Thưa Mẹ, con biết rằng Mẹ cư xử với con như một tâm hồn yếu đuối, một đứa bé được cưng chiều, vì vậy con không gặp khó khăn khi mang gánh nặng của đức vâng lời, nhưng từ những gì con cảm nhận tự đáy tim, con thấy rằng mình cũng sẽ không thay đổi thái độ và tình yêu của con đối với Mẹ cũng sẽ không sút giảm, nếu [11v0] Mẹ thích đối xử nghiêm khắc với con, bởi vì như thế con càng thấy rằng chính vì ý muốn của Giêsu mà Mẹ đối xử như thế để làm lợi nhiều nhất cho hồn con.
 
Đức ái là gì - Yêu như Giêsu - Chớ xét đoán - Nụ cười dễ thương nhất của con - Đào vi thượng sách - Cho đi và để người ta lấy mất - Từ bỏ quyền lợi - Bác ái trong hành động - Cho vay mà không mong trả lại.

Năm nay,1 thưa Mẹ dấu yêu, Chúa Nhân Lành đã ban cho con ơn thấu hiểu đức ái có nghĩa là gì; đúng là trước kia con cũng đã hiểu, nhưng còn rất khiếm khuyết, con chưa đi sâu vào lời này của Giêsu: “Điều răn thứ hai cũng giống như điều răn thứ nhất: Ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình.” (Mt 22,39). Con đặc biệt chú tâm yêu mến Thiên Chúa và chính lúc yêu mến Người mà con hiểu được rằng tình yêu của con không thể chỉ ở ngoài môi miệng, vì: “Không phải những ai nói: lạy Chúa, lạy Chúa! Mà vào được Nước Trời, nhưng chỉ những ai thi hành ý muốn của Người.” (Mt 7,21). Ý của Chúa, Giêsu đã tỏ cho chúng ta biết nhiều lần, con có thể nói là ở mỗi trang trong Tin Mừng của Người, nhưng vào bữa tiệc cuối cùng, khi Người biết lòng các môn đệ của Người rạo rực một tình yêu cháy bỏng đối với Người sau khi Người vừa hiến mình cho họ trong mầu nhiệm Thánh Thể khôn tả, Đấng Cứu Thế dịu hiền này muốn ban cho họ một điều răn mới. Người nói với họ bằng một tình âu yếm khôn tả: Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau, và như Thầy đã yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau.2 Người ta cứ dấu này mà biết anh em là môn đệ Thầy, đó là anh em yêu thương nhau (Ga 13,34-35).
[12r0] Giêsu đã yêu thương các môn đệ Người như thế nào và tại sao Người đã yêu thương họ? A! Không phải vì các phẩm chất tự nhiên của họ có sức thu hút Người, vì giữa họ và Người có một khoảng cách vô tận, Người là sự hiểu biết, là Khôn Ngoan Vĩnh Cửu (Cl 2,3),3 còn họ là những ngư phủ nghèo, dốt nát và đầy những tư tưởng trần tục. Nhưng Người gọi họ là bạn hữu, là anh em của Người (Ga 15,15), Người muốn thấy họ được ngự trị với Người trong Nước của Cha Người (Lc 22,30), và để mở cửa Nước này cho họ, Người phải chịu chết trên thập giá vì Người đã nói: Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng mình vì người mình yêu (Ga 15,13).
Thưa Mẹ yêu dấu, khi suy niệm những lời này của Chúa Giêsu, con hiểu rằng tình yêu của con đối với chị em còn khiếm khuyết biết bao, con thấy rằng con chưa yêu thương các chị như Chúa yêu thương các chị. A! Bây giờ con hiểu rằng đức ái hoàn hảo là biết chịu đựng khuyết điểm của người khác, không ngạc nhiên vì sự yếu đuối của họ, bắt chước những hành vi nhân đức nhỏ bé nhất mà mình thấy được nơi họ, nhưng nhất là con hiểu rằng đức ái không thể đóng kín trong tim mình. Chúa Giêsu đã nói: Không ai đốt đèn rồi để ở dưới đáy thùng, nhưng đặt trên giá để soi sáng cho mọi người trong nhà (Mt 5,15).4 Đối với con, chiếc đèn này biểu trưng cho đức ái phải soi sáng, làm vui vẻ không chỉ những người mà mình yêu mến nhất, nhưng mọi người trong nhà, không trừ một ai.
Hồi Thiên Chúa truyền cho dân Người phải yêu người thân cận [12v0] như chính mình (Lv 19,18), Người chưa xuống trần gian, và vì biết rằng người ta yêu bản thân mình tới mức nào, nên Người không thể đòi hỏi các tạo vật của Người một tình yêu lớn hơn đối với người thân cận. Nhưng khi Đức Giêsu truyền cho các môn đệ điều răn mới, điều răn riêng của Người,5 như Người sẽ nói sau, thì Người không bảo phải yêu mến người thân cận như chính mình, nhưng phải yêu họ như Người, Giêsu, đã yêu họ, như Người sẽ yêu họ cho tới ngày tận thế…
A! Lạy Chúa, con biết Chúa không truyền điều gì bất khả thi,6 Chúa biết rõ hơn con sự yếu đuối của con, khuyết điểm của con, Chúa biết rõ không bao giờ con có thể yêu thương chị em như Chúa yêu các chị, nếu chính Chúa, ôi Giêsu của con, không yêu họ trong con. Chính vì Chúa muốn ban cho con ơn này mà Chúa đã truyền một giới răn mới. (Ga 13,34-35) - Ôi! Con yêu giới răn mới này biết bao, vì nó bảo đảm với con rằng ý của Chúa là yêu mến trong con mọi người mà Chúa truyền cho con yêu mến!
Vâng, con cảm thấy rằng khi con sống bác ái, thì chỉ có một mình Giêsu hành động trong con; và con càng kết hợp với Người, con càng yêu mến tất cả các chị em. Khi con muốn gia tăng tình yêu này nơi mình, nhất là khi ma quỷ tìm cách phơi bày ra trước mắt con các khuyết điểm của sơ này hay sơ kia mà con không mấy thiện cảm, con vội tìm kiếm các nhân đức của sơ, các ước muốn tốt lành của sơ, con tự nhủ rằng nếu con thấy đã có một lần sơ vấp ngã, thì chắc chắn sơ cũng đã giành được rất nhiều [13r0] chiến thắng nhưng sơ che giấu đi vì khiêm nhường, và thậm chí điều gì mà con thấy là một khiếm khuyết thì cũng rất có thể là do ý tốt muốn thực hiện một hành vi nhân đức. Con không thấy khó khăn gì để tin chắc điều này, vì con đã có một kinh nghiệm nho nhỏ chứng tỏ cho con thấy là không bao giờ được xét đoán người khác. Đang giờ chơi hôm ấy, chị coi cổng đánh hai tiếng chuông, có nghĩa là phải mở cổng lớn dành cho công nhân để chở các cây vào làm hang đá. Giờ chơi buồn tẻ, vì Mẹ không có ở đó, thưa Mẹ dấu yêu, và con nghĩ bụng sẽ rất vui nếu lúc này người ta kêu con đi phục vụ như người thứ ba. Đúng lúc ấy Mẹ Phó bảo con hoặc sơ đang ở gần con đi giúp, thế là con cởi bộ tạp dề ra, nhưng rất từ từ để sơ bạn có thể cởi xong trước con, vì con muốn nhường sơ ấy niềm vui được phục vụ như người thứ ba. Sơ quản lý nhìn chúng con và thấy con đứng dậy sau, sơ ấy bảo con: Ồ! Chị biết mà, em không thể nào chiếm được viên ngọc cho vương miện của em, em chậm chạp quá.
Đương nhiên cả cộng đoàn đều tin là con đã hành động theo tính ích kỷ của con và con không thể tin nổi một chuyện nhỏ nhặt như thế đã làm ích cho linh hồn con biết bao và làm con trở nên khoan dung đối với những yếu đuối của người khác. Nó cũng làm con tránh được tính tự phụ mỗi khi được người ta đánh giá thuận lợi vì con tự nhủ: Nếu người ta coi hành động nhân đức của con là khuyết điểm, thì người ta cũng có thể lầm [13v0] khi coi khuyết điểm của con là nhân đức.7 Lúc ấy con nói cùng với Thánh Phaolô: Dù có bị toà đời xét xử, tôi cũng chẳng coi là gì. Mà tôi, tôi cũng chẳng tự xét xử lấy mình, Đấng xét xử tôi chính là Chúa (1Cr 4,3-4). Vì thế để được xét xử khoan hồng, hay đúng hơn để không bị xét xử gì cả, con muốn luôn luôn có những tư tưởng bác ái vì Chúa Giêsu đã nói: Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán (Lc 6,37).
Thưa Mẹ, khi đọc những gì con vừa viết, có thể Mẹ nghĩ rằng con không gặp khó khăn gì trong việc thực hành bác ái. Đúng vậy, từ ít tháng nay con không còn phải chiến đấu để thực hành nhân đức tốt đẹp này, nói thế không phải là con không còn phạm lỗi nào, ôi! Con còn quá bất toàn trong chuyện này, nhưng con không mấy khó khăn để chỗi dậy sau khi vấp ngã, bởi vì trong một cuộc chiến kia, con đã giành được thắng lợi lớn, hơn nữa bây giờ còn có thiên binh đến giúp con, vì các ngài không đành lòng nhìn thấy con thua trận sau khi đã chiến thắng trong cuộc chiến vinh quang mà con sắp mô tả dưới đây.
Trong cộng đoàn có một chị có biệt tài làm con khó chịu trong mọi sự, mọi cử chỉ, lời nói và tính tình của chị ấy rất đáng ghét đối với con, thế nhưng đó lại là một nữ tu thánh thiện nên chắc chắn phải rất đáng yêu đối với Thiên Chúa. Vì không muốn chiều theo tính ác cảm tự nhiên mà con cảm thấy, con tự nhủ rằng đức ái không hệ tại tình cảm, nhưng hệ tại việc làm,8 thế là [14r0] con ra sức làm cho chị ấy điều mà con thường làm cho người con yêu mến nhất. Mỗi lần gặp chị ấy, con cầu nguyện cho chị, con dâng lên Chúa tất cả các nhân đức và các việc lành của chị ấy. Con cảm thấy điều ấy làm đẹp lòng Chúa Giêsu, vì không một nghệ nhân nào mà không thích các tác phẩm của mình được khen ngợi, và Giêsu, Nghệ Nhân của các tâm hồn hẳn là sung sướng khi người ta không dừng lại ở vẻ bề ngoài, nhưng đi sâu và tận bên trong thánh điện mà Người đã chọn làm chỗ ở của Người và ca tụng vẻ đẹp của nó. Con không chỉ bằng lòng với việc cầu nguyện nhiều cho chị đã làm con phải vất vả chiến đấu, con còn cố làm cho chị ấy mọi việc phục vụ mà con có thể làm, và khi con bị cám dỗ đối đáp lại chị ấy một cách khó chịu, con chỉ đơn giản nở một nụ cười dễ thương với chị ấy và cố gắng lảng sang chuyện khác, vì trong sách Gương Chúa Giêsu có nói: Tốt hơn nên để mỗi người theo quan niệm của họ hơn là dừng lại để tranh cãi.
Nhiều lần, không phải giờ chơi (con muốn nói là trong những giờ làm việc), khi có công việc phải làm chung với chị ấy, mà con phải chiến đấu dữ dội, con thường chạy trốn như một kẻ đào ngũ. Vì chị ấy tuyệt đối không biết cảm nghĩ của con đối với chị ấy, nên chị ấy không bao giờ nghi ngờ động cơ các thái độ của con và chị ấy vẫn tin chắc rằng tính nết của chị ấy làm con thích. Một hôm lúc giờ chơi, chị ấy nói với con những lời đại để như sau, với một vẻ rất hài lòng: “Chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu ơi, chị có thể cho em biết cái gì nơi em có sức thu hút chị đến với em như thế không9 vì mỗi lần gặp em, em thấy chị luôn luôn mỉm cười?” A! Cái thu hút con chính là Giêsu ẩn dưới đáy tâm hồn chị ấy… Giêsu làm cho những gì cay đắng nhất trở nên dịu ngọt nhất10… Con trả lời chị rằng em cười bởi vì con thích chị (đương nhiên con không thêm rằng đó là về phương diện thiêng liêng).
[14v0] Thưa Mẹ yêu dấu, như con đã nói, kế sách cuối cùng của con để không thua trận là chạy trốn, kế sách này con đã dùng từ thời con trong tập viện, nó đã giúp con luôn luôn thành công hoàn toàn. Thưa Mẹ, con muốn kể cho Mẹ nghe một ví dụ có thể làm Mẹ buồn cười. Một lần trong thời kỳ Mẹ bị bệnh viêm phổi, buổi sáng con rón rén đến phòng Mẹ để trả lại các chìa khoá cửa rước lễ,11 vì con coi phòng thánh; thật lòng con không thấy phiền toái gì khi có dịp đến gặp Mẹ như thế, thậm chí con còn rất hài lòng nhưng con cố không để lộ vẻ hài lòng ấy ra bên ngoài; một chị rất nhiệt tình và cũng rất thương con, khi thấy con bước vào phòng Mẹ, chị ấy sợ con làm Mẹ thức dậy nên muốn giật lấy chìa khoá, nhưng con cũng không phải tay vừa và không dại gì nhường cho chị ấy quyền lợi của mình. Con hết sức lịch sự nói với chị ấy rằng cũng giống như chị, con không hề muốn làm Mẹ thức giấc, còn chuyện trả lại chìa khoá là việc của con… Bây giờ thì con hiểu ra rằng phải chi con nhường cho chị ấy thì có tốt hơn không, vì chị ấy cũng trẻ nhưng lại kỳ cựu hơn con.12 Hồi ấy con không hiểu được như vậy, và vì dứt khoát muốn vào theo sau chị ấy mặc dù chị ấy đẩy cửa để ngăn không cho con vào, thế là tai hoạ thực sự đã xảy ra: tiếng động của chúng con làm Mẹ mở mắt ra… Lúc ấy, thưa Mẹ, mọi lỗi đều đổ lên đầu con, sơ tội nghiệp mà con vừa cưỡng lại bắt đầu xổ ra một tràng đại để như sau: Chính sơ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã làm ồn ào… Chúa ơi, nó đáng ghét làm sao!… vv… [15r0] Con thì nghĩ ngược lại, con rất muốn cãi lại, may thay con bỗng nẩy ra một ý tưởng sáng chói, con tự nhủ rằng nếu mình tự biện hộ, mình sẽ không thể giữ được bình an trong tâm hồn, nhưng đồng thời con cũng không đủ nhân đức để đứng đấy nghe chịu bị vu khống mà không đáp lại, vì thế phương sách giải thoát cuối cùng của con là chạy trốn. Nghĩ là làm, con bỏ đi không kèn không trống, để lại sơ ấy một mình cứ tiếp tục bài diễn thuyết giống như những lời nguyền Rủa của Camille chống lại Rôma.13 Trống ngực con đập thình thịch14 khiến con không thể nào đi xa xa, và con ngồi bệt xuống cầu thang để tận hưởng niềm an bình, kết quả không chiến mà thắng của con. Đó không phải là dũng cảm, nhưng con tin rằng tốt hơn không nên phơi mình ra mặt trận khi biết chắc mình sẽ thua, phải không thưa Mẹ? Buồn thay, khi nhớ lại thời tập viện của con, con thấy mình còn bất toàn biết bao… Con tự làm khổ mình vì những chuyện nho nhoi mà bây giờ chỉ là trò cười đối với con. A! Chúa thật tốt lành, Người đã làm tâm hồn con trưởng thành, đã chắp cho nó đôi cánh… Lưới giăng của những kẻ bẫy chim không thể làm con sợ, bởi vì: “Thật hoàn toàn vô ích lưới giăng ra trước loài có cánh” (Cn 1,17). Chắc chắn là thời kỳ sau này con vẫn còn đầy khuyết điểm, nhưng bây giờ con chẳng ngạc nhiên vì chuyện gì cả, con không còn tự giày vò khi thấy mình vẫy yếu đuối, ngược lại con tự hào vì sự yếu đuối của mình (2Cr 12,5)15 và hằng ngày con mong đợi phát hiện ra nơi mình những khuyết điểm mới. Khi nhớ rằng Đức Ái che phủ muôn vàn tội lỗi (1P 4,8),16 [15v0] con nhận được muôn vàn ơn lành từ kho tàng dồi dào17 này mà Giêsu đã mở ra cho con. Trong Tin Mừng, Chúa cắt nghĩa điều răn mới của Người hệ tại điều gì (Ga 13,34-35).18 Người nói trong Tin Mừng thánh Matthêu: Anh em đã nghe Luật dạy rằng: ‘Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những người ngược đãi anh em.’” (Mt 5,43-44) Chắc chắn ở Cát Minh người ta không gặp kẻ thù, nhưng vẫn có những mối thiện cảm, người ta cảm thấy bị lôi cuốn đến với sơ này hơn đến với sơ khác mà người ta đi một vòng xa để tránh gặp, vì vậy vô tình sơ ấy trở thành đối tượng bị ngược đãi. Nhưng! Giêsu bảo con rằng phải yêu sơ ấy, phải cầu nguyện cho sơ ấy, cho dù thái độ của sơ ấy khiến con nghĩ rằng sơ ấy không yêu con: “Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì có gì là ân với nghĩa? Ngay cả người tội lỗi cũng yêu thương kẻ yêu thương họ.” (Lc 6,32). Và chỉ yêu thôi không đủ, cần phải chứng tỏ điều đó. Người ta tự nhiên thích tặng quà cho bạn bè, nhất là tạo những bất ngờ, nhưng đó không phải là bác ái, vì những kẻ tội lỗi cũng làm như thế. Giêsu còn dạy con điều này: “Ai xin anh em hãy cho; và nếu ai lấy cái gì của anh em, anh em đừng đòi lại.” (Lc 6,30). Cho chị em khi họ xin, thì ít ngọt ngào hơn là hiến mình do sự thúc đẩy của con tim; hơn nữa, khi người ta xin một cách tử tế, thì cho, không đòi hỏi hy sinh, nhưng nếu chẳng may người ta xin với những lời lẽ thiếu tế nhị, tâm hồn lập tức chống lại nếu nó không có đức ái mạnh mẽ. Nó sẽ tìm đủ mọi lý do để từ chối [16r0] điều người ta xin, và chỉ sau khi đã nói cho người ấy biết sự thiếu tế nhị của họ, nó mới cho điều họ xin như là một ân huệ, hay làm cho họ một phục vụ nhỏ nhoi19 chỉ tốn một phần hai mươi lượng thời gian so với thời gian biện minh là mình có lý. Nếu cho bất cứ ai xin đã là điều khó, thì lại càng khó hơn khi để người ta lấy đi cái của mình mà không đòi lại.20 Ôi thưa Mẹ, con nói là khó, đúng hơn con phải nói là xem ra có vẻ khó, bởi vì ách của Chúa thì êm ái nhẹ nhàng (Mt 11,39), khi người ta chấp nhận nó, người ta lập tức cảm thấy nó ngọt ngào và người ta sẽ thốt lên cùng với tác giả Thánh vịnh: “được Chúa thương mở lòng mở trí, con chạy theo đường mệnh lệnh của Ngài.” (Tv 118,32). Chỉ có đức ái có thể làm tâm hồn con thanh thản, ôi Giêsu, từ khi ngọn lửa dịu ngọt này thiêu đốt nó, con hớn hở chạy trên con đường giới răn mới của Người (Ga 13,34-35)… Con muốn chạy trên con đường này cho tới ngày diễm phúc, là ngày được kết hợp với đoàn trinh nữ, con có thể đi theo Người trong không gian vô tận, vừa đi vừa hát bài ca mới (Kh 13,3-4), bài ca của Tình Yêu.
Con nói: Giêsu không muốn con đòi lại cái gì thuộc về con; việc này con thấy dễ dàng và tự nhiên bởi vì chẳng có gì thuộc về con cả. Các của cải ở đời này con đã khước từ qua lời khấn khó nghèo, vì vậy con không có quyền phàn nàn nếu người ta lấy đi cái gì không thuộc về con, ngược lại con phải vui mừng mỗi khi cảm thấy mình nghèo khó. Trước kia có vẻ như con chẳng cảm thấy dính bén với điều gì cả, nhưng từ khi hiểu những lời của giữa, con thấy trong nhiều dịp [16v0] con còn quá bất toàn. Ví dụ trong công tác vẽ,21 con biết rõ chẳng có cái gì là của con cả, nhưng khi vừa bắt tay vào việc, mà thấy các cây cọ và các bức tranh tất cả đều rối trật tự, hay nếu thấy mất cái thước hay con dao lập tức, con đã mất hết kiên nhẫn và con phải nắm chặt hai tay lại để lấy can đảm không cay cú đòi lại những đồ vật bị mất. Đôi khi cũng phải đòi lại những vật cần thiết, nhưng khi đòi lại với thái độ khiêm nhường, người ta sẽ không phạm đến lệnh truyền của Giêsu, ngược lại người ta hành động giống như những người nghèo chìa tay nhận cái họ cần, và nếu bị từ chối, họ không ngạc nhiên, bởi vì chẳng ai mắc nợ kẻ ăn xin. A! Tâm hồn người ta được tràn ngập an bình khi nó vượt lên trên những tình cảm tự nhiên… Không, không có niềm vui nào sánh được với niềm vui mà một người có tinh thần nghèo khó được nếm cảm (Mt 5,3). Nếu có tinh thần từ bỏ khi xin một điều gì cần thiết, và không những điều mình xin bị từ chối mà còn bị lấy mất cái mình có, thì theo lời khuyên của Giêsu: ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để nó lấy cả áo ngoài (Mt 5,40-42)… Bỏ cả áo ngoài, theo con nghĩ, có nghĩa là từ bỏ tới các quyền cuối cùng của mình, là coi mình như người đầy tớ, là nô lệ của người khác. Khi cởi bỏ áo ngoài rồi, người ta sẽ dễ đi hơn, dễ chạy hơn, vì vậy Giêsu còn nói thêm: Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm (Mt 5,41; Lc 6,30). Như vậy, [17r0] ai xin cái gì mà cho thì chưa đủ, còn phải đi trước các ước muốn của họ, có thái độ rất sẵn sàng và hân hạnh được phục vụ người ta và nếu người ta lấy vật gì đang dùng, không được ra vẻ tiếc xót, nhưng ngược lại phải tỏ ra vui vì được lấy đi vật ấy.
Mẹ yêu dấu, con còn xa mới thực hành được điều con hiểu,22 nhưng ước muốn duy nhất con có về nó cũng ban cho con niềm an bình.
Hôm nay hơn những người khác, con cảm thấy mình diễn tả ý tưởng quá kém cỏi. Con đã viết một thứ diễn văn về đức ái hẳn làm Mẹ mệt khi đọc, xin Mẹ tha lỗi, Mẹ hãy nghĩ rằng vào lúc này đây các Sơ y tá23 đang làm cho con điều con vừa diễn tả, các chị không ngại đi hai ngàn dặm trong khi chỉ cần hai mươi dặm đã đủ, vì vậy con được chiêm ngưỡng đức ái trong hành động!24 Chắc hẳn hồn con phải ngát hương thơm ở giữa những hành vi bác ái ấy, còn tâm trí con thì con thú thật là nó hơi bị tê liệt trước sự tận tuỵ như thế, và ngòi bút của con cũng mất đi tính nhanh nhạy của nó. Để có thể diễn tả tốt các ý tưởng của con, con phải giống như con chim lạc đàn25 (Tv 101,8) mà hiếm khi con gặp được số phận ấy, vì mỗi khi con bắt đầu viết là có một chị tốt bụng đi qua bên cạnh con, với cái chĩa ba trên vai. Chị ấy nghĩ sẽ làm con khuây khoả khi nói đôi câu với con. Nào cỏ khô, nào gà vịt, nào bác sĩ đến thăm, mọi thứ đều được lấy làm đầu câu chuyện; thật ra thì những lúc như thế không kéo dài lâu, nhưng không chỉ có một sơ bác ái tốt bụng mà thôi, bất ngờ lại một sơ khác lo việc phơi cỏ cũng đến đặt những bông hoa lên đầu gối con, chị nghĩ làm như thế có thể gợi hứng cho con làm thơ. Nhưng vào lúc này con không tìm kiếm những điều ấy, con thích các bông hoa vẫn còn ở lại đong đưa trên thân chúng. Cuối cùng, mệt mỏi khi cứ mở rồi lại đóng cuốn tập nổi danh này, con mở một quyển sách ra (nhưng nó không chịu mở) và con quả quyết sẽ chép lại các tư tưởng của các thánh vịnh và sách Tin Mừng cho ngày lễ của Mẹ Bề Trên.26 Con nói rất thật, vì con không tiếc các câu trích đâu… Mẹ dấu yêu, con tin rằng con sẽ làm Mẹ thích thú khi kể cho Mẹ nghe tất cả các cuộc phiêu lưu của con trong các lùm cây ở Cát Minh, không biết con có thể viết một mạch mười dòng liền mà không bị quấy rầy hay không, con không thể cười hay cảm thấy thích thú vì chuyện đó, nhưng vì tình yêu Chúa và các chị (quá tốt đối với con), con cố gắng tỏ ra rất bằng lòng và nhất là bằng lòng thực sự… Đấy, lại một chị phơi cỏ vừa rời chỗ con sau khi nói với con bằng một giọng thương cảm: “Sơ bé nhỏ tội nghiệp, chắc em mệt lắm vì phải viết suốt ngày như thế.” - “Sơ yên tâm đi, con trả lời, em có vẻ viết nhiều nhưng thực ra em hầu như chẳng viết gì cả.” - “Rất tốt, chị ấy thản nhiên nói với con, cứ như vậy đi, chị rất vui vì các chị đang phơi cỏ, và việc này chắc chắn gây chia trí cho em chút ít.” Thực ra việc ấy làm đầu óc con bị phân tán quá nhiều (ấy là chưa kể các cuộc viếng thăm của các chị y tá), nên con có nói rằng con hầu như chẳng viết gì cả cũng không phải là nói dối.
May mắn thay, con không dễ nản, để chứng minh điều này, thưa Mẹ, con sẽ giải thích luôn cho Mẹ điều mà Giêsu đã làm con hiểu về đề tài đức ái. Con mới chỉ nói với Mẹ về cái bề ngoài, bây giờ con muốn thổ lộ với Mẹ con hiểu thế nào về [18r0] thuần tuý thiêng liêng. Chắc là con sẽ sớm lẫn lộn giữa hai thứ đấy, nhưng thưa Mẹ, vì con nói với Mẹ, nên con chắc Mẹ sẽ không thấy khó khăn gì để nắm bắt tư tưởng lộn xộn của đứa con của Mẹ.
Ở Cát Minh không phải luôn luôn có thể thực hành từng chữ các lời Tin Mừng; đôi khi vì công tác, các chị buộc phải từ chối một việc phục vụ, nhưng khi đức ái đã ăn rễ sâu trong tâm hồn thì nó tự bộc lộ ra bên ngoài. Có một cách rất dễ thương để từ chối một việc mà mình không thể làm, khiến cho sự từ chối cũng làm vừa lòng người ta như đã làm. Đúng là người ta cảm thấy dễ chịu hơn khi yêu cầu một việc phục vụ với một sơ luôn luôn sẵn lòng, nhưng Đức Giêsu đã nói: “Ai xin thì hãy cho, ai muốn vay mượn thì đừng ngoảnh mặt đi” (Mt 5,42). Vì vậy đừng vì cớ buộc phải từ chối mà ngoảnh mặt đi với những chị em có thói quen luôn luôn yêu cầu người ta phục vụ mình. Cũng không nên mau mắn phục vụ để tỏ vẻ tốt bụng hay hy vọng một lần khác sẽ được phục vụ lại, vì Chúa cũng đã nói: “Nếu anh em cho vay mà hy vọng đòi lại được, thì còn gì là ân với nghĩa? Vì cả người tội lỗi cũng cho kẻ tội lỗi vay mượn để được trả lại sòng phẳng. Trái lại, anh em hãy làm ơn và cho vay mà chẳng hề hy vọng được đền trả. Như vậy phần thưởng  dành cho anh em sẽ lớn lao.” (Lc 6,34-35). Ồ vâng! Phần thưởng sẽ lớn lao ngay ở đời này… Cho vay mà không hề hy vọng được đền trả gì cả, điều này xem ra thật khó đối với bản tính con người, người ta thà cho hẳn còn hơn, vì một vật đã cho [18v0] thì không còn thuộc về mình nữa. Khi có người đến nói với ta bằng một giọng chắc nịch: “Chị ơi, em cần chị giúp trong vài giờ, nhưng chị yên tâm đi, em đã được phép của Mẹ và em sẽ trả lại chị thời gian mà chị cho em mượn, vì em biết chị đang bận.” Thật ra, khi người ta biết quá rõ rằng thời gian cho mượn sẽ không bao giờ có thể trả lại, thì người ta thường thích nói: “Em cho hẳn chị đấy. Nói thế sẽ làm thoả mãn tính tự ái của mình vì đó là một hành vi quảng đại hơn là cho mượn, hơn nữa con làm cho chị kia cảm thấy rằng ta không trông mong chị ấy đền đáp… Ôi! Những lời dạy của Chúa Giêsu trái ngược với các tình cảm tự nhiên của con người biết bao! Không có ơn sủng của Người, chúng ta chẳng những không thể hiểu được những lời dạy ấy, nói chi đến thực hành.
Thưa Mẹ, Giêsu đã ban cho đứa con của Mẹ ơn hiểu thấu các mầu nhiệm thẳm sâu của đức ái; giá mà nó có thể diễn tả điều nó hiểu,27 hẳn là Mẹ sẽ được nghe giai điệu Thiên Thai, nhưng tiếc thay! Con chỉ nói lên được những câu bập bẹ trẻ con để Mẹ nghe… Nếu con không có chính các lời của Giêsu làm chỗ dựa, hẳn con đã phải xin Mẹ cho con dẹp bỏ cây bút đi… Nhưng không, điều mà con đã bắt đầu làm vì vâng lời thì con cũng phải tiếp tục vì vâng lời.
Mẹ yêu dấu, hôm qua con viết rằng các của cải trần gian này không thuộc về con và con không thấy khó khăn gì để không bao giờ đòi chúng lại nếu người ta lấy đi của con. Các của cái trên Trời cũng không thuộc về con, Chúa Nhân Lành cho con mượn  và Người có thể [19r0] lấy lại mà con không có quyền gì để phàn nàn. Tuy nhiên những điều tốt lành trực tiếp do Chúa ban, như sự bột phá của trí thông minh và của con tim, những tư tưởng thâm sâu, tất cả làm thành một tài sản mà người ta gắn bó vào như một của cải mà không ai có quyền đụng vào… Ví dụ, nếu vô ý người ta kể cho một sơ nào đó một ít ánh sáng nhận được trong lúc nguyện gẫm và ít phút sau sơ này đem kể với một sơ khác như đó là tư tưởng của chính mình, thì sơ ấy đã lấy cái không thuộc về mình. Hay trong giờ chơi người ta nói thầm với chị bạn một lời nào đầy sáng suốt và khôn ngoan; nếu chị ấy lặp lại to tiếng mà không nói rõ tác giả của lời ấy, thì đây là một sự đánh cắp của sở hữu chủ mặc dù người này không đòi, nhưng rất muốn đòi lại và sẽ tìm cơ hội gần nhất để cho người ta biết đó là tư tưởng của mình bị ăn cắp.
 
Con lừa mang vật thánh - Bữa tiệc của người Pharisêu - Cây cọ nhỏ - Tình yêu đích thực - Trong vòng tay Chúa Nhân Lành - của ăn thiêng của tập sinh - Như người lính canh - Các vũ khí vô địch của con - Cầu nguyện - Giấm và đường - Bánh tăng lực của sự hạ mình - Các tâm hồn bất toàn - Sơ Saint Pierre - Gió xuân nhẹ - Suy niệm về đau khổ - Cậu em trai đầu tiên của con - Viết vì vâng lời - Nhà truyền giáo thứ hai - Hãy kéo em đi, đôi ta cùng chạy - Các lời của Người, ôi Giêsu - Mượn chính tình yêu của Người - Sắt và lửa - Hương thơm của Người Yêu.

Thưa Mẹ, con sẽ không thể nào diễn tả cho Mẹ rõ ràng đến thế các tình cảm đáng buồn này của bản tính con người, nếu con đã không thấy các tình cảm ấy trong lòng mình, và hẳn là con sẽ thích ru ngủ mình trong cái ảo tưởng êm đềm rằng chỉ mình con có những tình cảm như thế, nếu Mẹ đã không truyền cho con phải lắng nghe các cơn cám dỗ của các em tập sinh dấu yêu của Mẹ. Con đã học được rất nhiều điều nhờ thi hành sứ mạng Mẹ trao cho con, nhất là con cảm thấy buộc mình phải thực hành những gì con dạy cho người khác; vì vậy bây giờ con có thể nói ra điều này, Giêsu đã ban cho con ơn để con không dính bén với các của cải tinh thần và của con tim hơn các của cải của trần gian. Nếu tình cờ con nghĩ và nói một điều gì [19v0] làm vui lòng các chị em con, con thấy rất tự nhiên họ chiếm lấy nó như là của họ. Tư tưởng này thuộc về Chúa Thánh Thần chứ không thuộc về con, bởi vì Thánh Phaolô nói rằng nếu không có Thần Khí của Lòng Mến thì chúng ta không thể nào thưa lên với Cha trên Trời bằng tiếng “Cha ơi” được (Rm 8,15).1 Vì vậy Người hoàn toàn tự do sử dụng con2 để ban một tư tưởng tốt lành cho một tâm hồn; nếu con coi tư tưởng ấy là của mình, thì con cũng chẳng khác gì “con lừa mang vật thánh”,3 nó tưởng rằng những cái vái lạy người ta dành cho các Thánh là để vái lạy nó.
Con không khinh dể những tư tưởng thâm sâu nuôi dưỡng linh hồn và kết hợp linh hồn với Thiên Chúa, nhưng từ lâu con đã hiểu rằng không nên ỷ vào những tư tưởng ấy và cho rằng sự trọn lành hệ tại nhận được nhiều ánh sáng. Cần tin tưởng đẹp nhất cũng chẳng là gì nếu không có các việc làm; đúng là tư tưởng tốt có thể làm ích rất nhiều cho người khiêm tốn và tỏ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa vì Người cho họ thông phần vào bữa tiệc của một tâm hồn4 mà Người thích ban dồi dào ân sủng, nhưng nếu tâm hồn này tự mãn trong các tư tưởng đẹp của mình và cầu nguyện giống như người Pharisêu, thì trở nên giống một người phải chết đói trước một bàn đầy thức ăn, trong khi tất cả các khách mời được ăn dư dật và thỉnh thoảng ném một cái nhìn thèm muốn về phía nhân vật giàu sang như thế. A! Chỉ một mình Thiên Chúa biết tận đáy lòng con người… Tư tưởng của các loài thụ tạo thiển cận biết bao! Khi họ thấy một tâm hồn được soi sáng nhiều hơn các tâm hồn khác, lập tức [20r0] họ kết luận rằng Giêsu yêu họ ít hơn tâm hồn này, và cho rằng họ không được kêu gọi vươn tới cùng một sự trọn lành. - Từ bao giờ rồi Chúa đã không còn quyền sử dụng một tạo vật để ban phát của ăn cần thiết cho những tâm hồn mà Người yêu mến sao? Vào thời Pharaô, Chúa đã sử dụng quyền này, vì trong Kinh Thánh Người đã nói với ông vua này: “Ta đã cất nhắc ngươi lên, chính là để ngươi nên cớ cho mọi người thấy sức mạnh của Ta, và để cho danh Ta lẫy lừng trên khắp hoàn cầu” (Rm 9,17; Xh 9,16). Các thời đại nối tiếp nhau từ thời Đấng Tối Cao tuyên bố những lời ấy và kể từ đó, cách xử sự của Người vẫn không hề thay đổi, Người luôn luôn dùng các tạo vật của Người làm dụng cụ thực hiện công trình của Người trong các tâm hồn.
Nếu tấm vải người hoạ sĩ có thể nghĩ và nói, chắc chắn nó sẽ không phàn nàn rằng nó cứ bị tô đi tô lại không ngừng bởi một cây cọ.5 và nó cũng sẽ không ghen tị với số phận của cây cọ này vì nó biết vẻ đẹp nó có được, không phải là nhờ cây cọ mà là nhờ người hoạ sĩ điều khiển cây cọ. Phần mình, cây cọ cũng không thể tự phụ về kiệt tác do nó làm ra, nó biết rằng các hoạ sĩ không hề bối rối, họ coi thường các khó khăn, đôi khi họ thích sử dụng những dụng cụ tồi tàn và khiếm khuyết…
Mẹ yêu dấu, con là cây cọ nhỏ mà Giêsu đã chọn để vẽ lên hình ảnh của Người trong các tâm hồn được Mẹ giao phó cho con. Một hoạ sĩ không chỉ dùng một cây cọ, họ dùng ít là hai cây, cây thứ nhất lớn hữu dụng hơn, họ dùng để vẽ màu nền [20v0] thật nhanh lên khắp mặt tấm vải, còn cây kia, nhỏ hơn, họ dùng để vẽ các chi tiết.
Thưa Mẹ, Mẹ chính là cây cọ quý mà bàn tay Giêsu đã cầm với lòng yêu mến khi Người muốn vẽ một tác phẩm lớn trong tâm hồn của các con cái Mẹ, còn con là cây cọ nhỏ xíu mà Người thương dùng sau đó để vẽ cách chi tiết bé nhỏ nhất.
Lần đầu tiên Giêsu sử dụng cây cọ nhỏ của Người, đó là khoảng ngày 8 tháng 12 năm 1892,6 Con luôn luôn nhớ lại ngày hôm ấy như một thời gian ân sủng. Thưa Mẹ yêu dấu, con sẽ thổ lộ với Mẹ những kỷ niệm êm đềm này.
Năm 15 tuổi, khi con được diễm phúc vào Dòng Cát Minh, con gặp một bạn tập sinh7 đã vào trước con vài tháng, chị ấy hơn con 8 tuổi nhưng tính tình trẻ con của chị ấy làm con quên mất sự khác biệt về tuổi tác, và thưa Mẹ, Mẹ cũng sớm có niềm vui nhìn thấy hai đứa thỉnh sinh bé nhỏ của Mẹ tâm đầu ý hợp tuyệt vời và trở thành đôi bạn không thể chia lìa. Để nuôi dưỡng mối tình vừa chớm nở này mà Mẹ nghĩ là sẽ phải sinh hoa trái, Mẹ đã cho phép chúng con thỉnh thoáng có những cuộc hàn huyên thiêng liêng với nhau. Con thấy chị bạn nhỏ yêu dấu của con rất dễ thương vì bản chất hồn nhiên, tính tình cởi mở, nhưng mặt khác con lại ngạc nhiên khi thấy tình cảm của chị ấy đối với Mẹ không giống với tình cảm của con. Cũng có nhiều điều trong thái độ của chị ấy đối với các chị trong nhà mà con rất muốn chị ấy thay đổi… Từ dạo ấy, Chúa Nhân Lành đã làm con hiểu rằng [21r0] có những tâm hồn mà lòng nhân từ của Người chờ đợi không biết mệt, Người chỉ ban cho họ ánh sáng từng bước một, vì thế con cũng cố tránh không đi trước giờ của Người,8 và con kiên nhẫn đợi lúc Giêsu thích cho giờ ấy đến.
Một hôm khi suy nghĩ về phép mà Mẹ ban cho chúng con được hàn huyên với nhau theo Luật thánh của chúng ta: Để đốt cháy mạnh hơn tình yêu đối với Phu Quân của chúng con, con buồn sầu nghĩ rằng các cuộc trò chuyện của chúng con không đạt được mục đích mong muốn, lúc ấy Chúa Nhân Lành cho con cảm thấy rằng giờ ấn định đã đến và không còn phải sợ nói ra hoặc là con phải chấm dứt các cuộc trò chuyện không khác gì các cuộc trò chuyện của các bạn bè ở ngoài đời. Hôm ấy là Thứ Bảy, sáng hôm sau trong giờ cầu nguyện tạ ơn, con cầu khẩn Chúa Nhân Lành đặt vào  miệng lưỡi con những lời dịu dàng và thuyết phục, hay đúng hơn Chính Người nói qua con, Giêsu đã nhận lời cầu của con, Người đã để cho kết quả hoàn toàn thoả mãn niềm hy vọng của con, bởi vì: Những ai hướng mắt nhìn về Người sẽ được thấy ánh sáng và Ánh Sáng đã bừng lên trong đêm tối cho những ai có tâm hồn ngay thẳng (Tv 111,4).9 Lời thứ nhất được nói về con và lời thứ hai về bạn con, hai người có tâm hồn ngay thẳng thực sự…
Khi đến giờ chúng con định gặp nhau,10 chị bạn bé nhỏ đáng thương vừa nhìn con đã biết ngay con không giống như trước nữa; chị đỏ mặt ngồi bên cạnh con, còn con thì áp đầu chị lên ngực con, con vừa khóc vừa nói với chị [21v0] tất cả những gì con nghĩ về chị, nhưng bằng những lời rất dịu dàng, tỏ cho chị thấy con rất yêu thương chị khiến nước mắt chị cũng hoà lẫn với nước mắt con. Chị hết sức khiêm nhường nhìn nhận những điều con nói đều thật, chị hứa sẽ bắt đầu một cuộc sống mới rồi xin con nói cho chị biết các lỗi lầm của chị. Cuối cùng, lúc chúng con chia tay, tình yêu của chúng con đã trở nên hoàn toàn thiêng liêng, không vẩn một chút phàm trần. Nơi chúng con đã thể hiện câu Kinh Thánh này: “Một người anh em được anh em mình giúp đỡ thì giống như một thành trì kiên cố.” (Cn 18,19).11
Những gì Giêsu làm với cây cọ nhỏ của Người hẳn đã bị xoá sạch nếu Người không hành động qua Mẹ, thưa Mẹ là cây cọ lớn, để hoàn thành tác phẩm của Người trong tâm hồn mà Người muốn thuộc trọn về Người. Cơn thử thách này tỏ ra đắng đót đối với chị bạn nhỏ của con, nhưng lòng kiên quyết của Mẹ đã chiến thắng, và chính lúc ấy, con có thể an ủi chị, con đã giải thích cho chị, người mà Mẹ đã cho làm bạn với con giữa mọi chị khác, để chị biết tình yêu đích thực hệ tại điều gì. Con đã chỉ cho chị thấy người mà chị yêu là chính bản thân chị chứ không phải Mẹ; con nói cho chị biết con yêu Mẹ như thế nào, và các hy sinh con đã buộc mình phải làm lúc bắt đầu đời tu của con như thế nào để không lưu luyến một cách hoàn toàn vật chất giống như con chó lưu luyến chủ của nó. Tình yêu chỉ được nuôi dưỡng bằng hy sinh, tâm hồn càng từ khước những thoả mãn tự nhiên, thì sự âu yếm của nó càng trở nên mạnh hơn và vô vị lợi hơn.
Con nhớ hồi còn là thỉnh sinh, thỉnh thoảng con bị cám dỗ mãnh liệt [22r0] muốn đi vào phòng của Mẹ12 để tìm sự thoả mãn, tìm một vài giọt niềm vui, cám dỗ ấy mãnh liệt đến nỗi con buộc phải đi mau qua phía trước cửa phòng của Mẹ và nắm chặt tay vịn cầu thang. Những lúc như thế tâm trí con nẩy ra hàng ngàn điều con muốn xin phép Mẹ, nói cho cùng, thưa Mẹ dấu yêu, con tìm ra đủ mọi lý do để thoả mãn tính tự nhiên của mình… Bây giờ con vui biết bao vì ngay từ đầu đời tu, con đã kìm hãm được tất cả những thứ ấy, con đã được hưởng phần thưởng đã hứa cho những ai dũng cảm chiến đấu. Bây giờ con không còn cảm thấy cần phải khước từ mọi niềm an ủi của trái tim, vì tâm hồn con đã được kiện cường bởi Đấng Duy Nhất mà con muốn yêu mến. Con vui sướng thấy rằng khi yêu mến Người, tim con được mở rộng, nó có thể trao ban vô vàn tình âu yếm cho những người thân yêu, mà một tình yêu ích kỷ và vô bổ không thể nào sánh bằng.
Thưa Mẹ yêu dấu, con đã nhắc đến công việc đầu tiên13 mà Giêsu và Mẹ đã thương nhờ con thực hiện; đó mới chỉ là mở đầu cho những công việc sẽ được giao phó cho con. Khi con được giao nhiệm vụ đi sâu vào thánh điện của các tâm hồn,14 con lập tức thấy nó vượt quá sức lực mình, thế là con đặt mình vào trong tay Chúa Nhân Lành giống như một đứa bé và ẩn mặt trong tóc của Người, con thưa với Người: Lạy Chúa, con quá bé bỏng không thể nuôi nấng các con của Chúa; nếu Chúa muốn nhờ con để ban cho các em những điều thích hợp với mỗi người, thì xin hãy làm đầy bàn tay bé nhỏ của con, con sẽ không buông bỏ tay Người, không quay đầu lại, [22v0] con sẽ trao ban các kho tàng của Người cho tâm hồn nào đến xin con lương thực. Nếu tâm hồn ấy thấy hợp khẩu vị, con biết rằng đó không phải là nhờ con, mà hoàn toàn là nhờ Chúa; ngược lại, nếu tâm hồn ấy phàn nàn và thấy điều con cho họ đắng đót, con sẽ không cuống cuồng lên, con sẽ cố thuyết phục họ rằng của ăn này là do Chúa ban và sẽ tránh không đi tìm một thứ của ăn khác thay thế.
Thưa Mẹ, từ khi con hiểu rằng tự sức riêng con không làm được gì cả, con không còn cảm thấy nhiệm vụ Mẹ giao cho con là khó nữa,15 con đã cảm thấy rằng điều cần thiết duy nhất là phải ngày càng kết hợp mật thiết với Giêsu hơn, còn mọi thứ khác sẽ được ban thêm cho con (Lc 10,41-42; Mt 6,33). Trên thực tế lòng cậy trông của con không bao giờ bị đánh lừa16 (Rm 5,5), Chúa Nhân Lành đã thương đổ đầy bàn tay con bất cứ bao nhiêu lần mà con cần để có thể nuôi dưỡng tâm hồn các em. Thưa Mẹ yêu dấu, thú thật với Mẹ là nếu con đã dựa vào sức lực mình dù chỉ một chút thôi, thì hẳn con đã sớm phải chấp nhận thua trận17… Nhìn từ xa có vẻ như tất cả là màu hồng khi ta làm điều lành cho các linh hồn, giúp họ yêu mến Chúa nhiều hơn, và cuối cùng uốn nắn họ theo các quan điểm và tư tưởng của Người. Nhưng đến gần thì ngược lại, màu hồng đã biến mất… Ta cảm thấy rằng làm điều lành mà không có sự trợ giúp của Chúa là chuyện không thể nào làm được, giống như không thể làm cho mặt trời chiếu sáng ban đêm vậy… Ta cảm thấy phải tuyệt đối quên đi các Sở thích riêng, các quan niệm riêng của mình, và hướng dẫn các linh hồn bằng con đường Giêsu đã vạch ra cho họ, không được tìm cách làm cho họ đi [23r0] theo con đường riêng của ta. Nhưng như thế vẫn chưa phải là khó nhất, cái làm con phải trả giá đắt nhất là quan sát các lỗi lầm, các khiếm khuyết nhỏ nhất và quyết tử với chúng. Con đang định nói: khốn thân con, (nhưng không, nói thế là hèn nhát), vậy con nói: thật hạnh phúc cho các em con, từ khi con chiếm được chỗ trong vòng tay Giêsu, con giống như người lính canh quan sát quân địch từ trên tháp cao nhất của pháo đài. Không gì thoát được cặp mắt con; con thường ngạc nhiên không hiểu sao mình nhìn rõ thế18 và con nghĩ có thể chữa lỗi cho ngôn sứ Giona trong việc ông bỏ trốn thay vì đi loan báo cuộc huỷ diệt thành Ninivê (Gn 1,2-3).19 Con thà nhận ngàn lời trách mắng còn hơn là trách mắng người khác, nhưng con cảm thấy con rất cần phải chấp nhận nỗi đau khổ ấy20 bởi vì khi ta hành động theo tính tự nhiên, thì linh hồn mà ta muốn giúp họ phát hiện ra lỗi lầm, không thể hiểu được điều sai trái của họ, họ chỉ biết một điều duy nhất: Chị phụ trách hướng dẫn tôi nổi giận và thế là tất cả đổ lên đầu tôi mặc dù tôi hoàn toàn chỉ có ý tốt.
Con biết các con chiên nhỏ của Mẹ thấy con quá nghiêm khắc. Nếu chúng đọc những dòng này, có thể chúng sẽ nói con cần gì phải luôn theo sát chúng, cần gì phải nói với chúng bằng giọng nghiêm nghị khi chỉ cho chúng thấy bộ áo đẹp của chúng bị bẩn hay mang về cho chúng xem các dúm len áo của chúng bị xé rách và móc vào gai trên đường đi. Các con chiên nhỏ này muốn nói gì thì nói; nhưng tự thâm tâm, chúng cảm thấy con yêu chúng bằng một tình yêu đích thực, con không bao giờ bắt chước người chăn thuê thấy chó sói tới liền bỏ đàn chiên và [23v0] chạy trốn (Ga 10,10-15). Con sẵn sàng hiến mạng sống mình vì chúng, nhưng tình thương của con rất tinh tuyền khiến con không muốn để chúng biết. Nhờ ơn Giêsu, con không bao giờ tìm cách lấy lòng chúng, con hiểu rằng sứ mạng của con là dẫn đưa chúng đến với Thiên Chúa và giúp chúng hiểu rằng ở trần gian này, Mẹ chính là Chúa Giêsu hữu hình mà chúng phải yêu mến và kính trọng.
Thưa Mẹ yêu dấu, con đã nói với Mẹ rằng con đã học được nhiều điều khi dạy dỗ các em. Trước tiên con thấy rằng mọi tâm hồn đều có những cuộc chiến đấu gần gần như nhau, nhưng mặt khác các tâm hồn ấy cũng rất khác nhau khiến con không thấy khó để hiểu lời sau đây của Cha Pichon: “Giữa các tâm hồn có nhiều khác biệt còn hơn cả giữa các khuôn mặt. Vì vậy không thể nào hành động cùng một kiểu với một tâm hồn.”21 Với một số tâm hồn,22 con thấy  mình phải sống hèn mọn, không sợ hạ mình khi thú nhận các cuộc chiến đấu, các thất bại của mình; khi thấy con cũng có các sự yếu đuối giống như họ, các em nhỏ của con cũng thú nhận các lỗi lầm của các em và vui vì thấy con hiểu được các em qua kinh nghiệm. Ngược lại, với một số khác,23 con thấy rằng muốn làm ích cho họ thì phải với rất nhiều cương quyết và không bao giờ lùi bước trước một chuyện đã nói rồi. Trong trường hợp này, nhún nhường không phải là khiêm tốn mà là nhu nhược. Chúa Nhân Lành đã ban cho con ơn không sợ chiến đấu, con phải làm bổn phận mình với bất cứ giá nào. Hơn một lần con từng được nghe nói như thế này: “Nếu chị muốn được điều gì nơi em, chị phải cư xử hiền dịu với em, [24r0] còn nếu dùng vũ lực, chị sẽ chẳng được gì cả.” Phần con con biết rằng không ai là quan toà tốt cho chính mình và một đứa trẻ mà bác sĩ bắt nó chịu một cuộc phẫu thuật đau đớn nó sẽ không thể không la lên và nói rằng thuốc này còn tệ hơn cả bệnh tật; tuy nhiên nếu vài ngày sau nó khỏi bệnh, nó sẽ rất sung sướng vì có thể chạy nhảy và chơi đùa. Đối với các tâm hồn cũng thế, không lâu sau các em sẽ nhận ra rằng thuốc đắng đôi khi tốt hơn đường, và các em đã không sợ thú nhận điều đó. Thỉnh thoảng con không khỏi cười thầm khi chứng kiến một sự thay đổi như ảo thuật diễn ra ngày hôm sau… Các em đến nói với con: - “Hôm qua chị nghiêm khắc với em là đúng, lúc đầu em không chịu nổi, nhưng sau đó em nhớ lại tất cả và thấy rằng chị rất đúng.24… Nghe em đây: khi rời chỗ chị, em nghĩ thế là hết rồi, em tự nhủ: “Mình sẽ đi gặp Mẹ Bề Trên và nói với người rằng mình sẽ không còn tới với Sơ Têrêsa Hài Đồng Giêsu nữa.” Nhưng em lại nghĩ đó là do ma quỷ xúi giục và em thấy hình như chị đã cầu nguyện cho em, thế là em bình tĩnh trở lại và ánh sáng đã bắt đầu loé lên, nhưng bây giờ thì chị phải soi sáng cho em trọn vẹn và chính vì việc này mà em đến với chị hôm nay.” Cuộc trò chuyện diễn ra rất nhanh; con rất mừng vì đã luôn nghe theo tiếng nói của con tim mình, không dùng đến một lời nói cay đắng nào. Đúng, nhưng… Con mau lẹ nhận ra rằng không nên tiến xa hơn, một lời thôi cũng đủ để phá huỷ cả một lâu đài xinh đẹp được xây lên trong nước mắt. Nếu chẳng may con lỡ nói một lời nào có vẻ như làm giảm nhẹ điều con đã nói hôm trước, lập tức con thấy em nhỏ của con [24v0] cố tìm cách bám vào đó, lúc ấy con đọc trong lòng một kinh ngắn và sự thật luôn luôn chiến thắng. A! Chính kinh nguyện, chính sự hồi sinh làm nên tất cả sức mạnh của con, đó chính là những vũ khí vô địch mà Giêsu ban cho con, chúng còn đánh động các tâm hồn hơn nhiều so với những lời nói, con rất thường có kinh nghiệm về điều ấy. Một trong số các kinh nghiệm như thế đã để lại một ấn tượng ngọt ngào và sâu xa trong con.
Đó là vào mùa chay25 lúc ấy con chỉ phải chăm sóc một tập sinh duy nhất26 ở đây và con là thiên thần của tập sinh ấy. Một sáng kia, em ấy đến tìm con với vẻ mặt hớn hở: “A! Phải chi chị biết, em ấy nói, đêm qua em mơ thấy cái gì? Em đứng cạnh em gái của em và em muốn kéo nó ra khỏi tất cả những sự phù phiếm mà nó rất thích. Vì thế em đã cắt nghĩa câu thơ trong bài Sống Tình Yêu. - Yêu Giêsu, một sự thua lỗ lợi lộc dồi dào quá - Mọi hương thơm con dành cho Người mà không đòi lại. Em thấy rõ các lời em nói thấm vào tâm hồn nó nên em mừng khôn xiết. Sáng nay thức dậy, em nghĩ có thể Chúa Nhân Lành muốn em dâng tâm hồn này cho Người. Em có nên viết thư cho nó sau mùa chay để kể cho nó giấc mơ của em và nói với nó rằng Giêsu muốn nó thuộc trọn về Người không?”
Không cần suy nghĩ lâu, con nói với em rằng em có thể thử, nhưng trước tiên phải xin phép Mẹ Bề Trên đã. Vì mùa chay còn lâu mới hết, nên thưa Mẹ yêu dấu, Mẹ đã tỏ ra ngạc nhiên trước lời xin mà Mẹ cho là hấp tấp; và chắc chắn là do Chúa soi sáng, Mẹ đã trả lời rằng các nữ tu Cát Minh phải cứu rỗi các linh hồn [25r0] không phải bằng thư từ mà bằng lời cầu nguyện.
Khi biết được quyết định của Mẹ, con hiểu ngay rằng đó là quyết định của chính Giêsu, và con nói với Sơ Marie de Trinité: “Chúng ta phải bắt tay ngay vào việc, chúng ta hãy cầu nguyện thật nhiều. Chúng ta sẽ vui biết bao nếu đến cuối mùa chay lời cầu xin của chúng ta được Chúa chấp nhận! “Ôi! Lòng nhân từ vô biên của Chúa, Đấng luôn thương nghe lời cầu nguyện của các con cái Người… Khi hết mùa chay, thêm một tâm hồn nữa được thánh hiến cho Giêsu. Đúng là một phép lạ của ân sủng,27 phép lạ nhờ lòng sốt sắng của một tập sinh hèn mọn!
Thế mới biết sức mạnh của Kinh Nguyện quả là kỳ diệu! Ta có thể nói giống như một nữ hoàng28 muốn đến gặp Đức Vua lúc nào tuỳ ý và muốn xin gì thì được nấy. Chẳng cần phải đọc một công thức hoa mỹ trong sách vở nào để lời xin của mình có thể được chấp nhận, vì về chuyện này con dở lắm!… Ngoài Kinh Thần Vụ mà con thật không xứng đáng để đọc, con không có can đảm để đi tìm tòi những lời kinh đẹp trong các sách, rất dễ nhức đầu vì có quá nhiều!… Con không thể nào đọc hết được và cũng không biết chọn kinh nào bỏ kinh nào, vì thế con bắt chước những đứa bé chưa biết đọc, con chỉ đơn sơ nói với Chúa những gì con muốn nói, không làm những câu văn hay, vậy mà Người luôn luôn hiểu con… Kinh nguyện đối với con là một sự bộc phát của con tim, một cái nhìn đơn sơ hướng về Trời, một tiếng kêu tri ân và yêu mến29 giữa cơn thử thách cũng như giữa lúc tràn đầy niềm vui; sau cùng, [25v0] kinh  nguyện là một cái gì cao cả, siêu nhiên làm cho hồn con phơi phới và kết hợp con với Giêsu.
Nhưng thua Mẹ dấu yêu, con không muốn để Mẹ nghĩ rằng con không sốt sắng khi đọc các kinh nguyện chung trong cộng đoàn hay tại các ngôi đền.30 Ngược lại, con rất yêu mến các kinh nguyện cộng đoàn bởi vì Giêsu đã hứa Người hiện diện ở giữa những người họp nhau cầu nguyện nhân danh Người (Mt 18,19-20). Những lúc cầu nguyện chung như thế, con cảm thấy lòng sốt sắng của các chị em hỗ trợ cho lòng sốt sắng của con, nhưng khi lần chuỗi một mình, (con phải xấu hổ mà thú nhận rằng) con thấy vất vả hơn cả làm một việc đền tội31… Con cảm thấy con lần chuỗi quá kém; dù rất cố gắng suy niệm các mầu nhiệm của chuỗi Mân côi, nhưng con vẫn không thể nào định tâm được. Một thời gian dài con rất buồn và ngạc nhiên tại sao con thiếu sốt sắng khi lần hạt, vì con rất yêu mến Đức Mẹ nên lẽ ra con phải cảm thấy dễ dàng khi đọc các kinh mà Người rất thích để tôn vinh Người. Bây giờ con ít buồn hơn rồi, con nghĩ vì Nữ Vương trên Trời là Mẹ con¸ chắc Mẹ phải nhìn thấy thiện chí của con và hài lòng.
Thỉnh thoảng khi tâm hồn con quá khô khan khiến không thể nào rút ra được một tư tưởng để kết hợp con với Thiên Chúa, con đọc rất chậm một kinh “Lạy Cha” rồi lời chào của Thiên Sứ; lúc ấy các kinh này làm con ngây ngất, chúng nuôi dưỡng hồn con hơn là đọc vội vàng các kinh ấy hằng trăm lần…
Đức Mẹ tỏ cho con thấy Người không bất mãn với con [26r0], mỗi khi con kêu cầu Người, Người không bao giờ chần chờ bảo vệ con. Nếu con gặp một mối âu lo, một hoàn cảnh bối rối, con vội chạy ngay đến với Người và Người luôn luôn chăm lo cho lợi ích của con, như một bà Mẹ dịu dàng nhất trên đời… Biết bao lần khi nói chuyện với các tập sinh, con đột nhiên kêu cầu Người và cảm nhận ngay được những ơn lành của sự chở che từ mẫu của Người…
Các tập sinh thường nói với con: “Cái gì chị cũng có câu trả lời, em tưởng lần này làm chị bí chứ… Chị tìm đâu ra được điều chị nói vậy?” Thậm chí cũng có những tâm hồn ngây thơ nghĩ rằng con đọc được tư tưởng của họ bởi vì có những lúc con nói trước cho họ điều họ đang nghĩ trong đầu. Một tối kia, chị bạn của con32 đã giấu con một nỗi đau rất lớn của chị ấy. Sáng sớm hôm sau gặp chị ấy, chị tươi cười nói chuyện với con, còn con, con không trả lời câu chị ấy hỏi con, con nói với chị bằng một giọng chắc nịch: Chị có chuyện buồn đúng không? Chị ấy kinh ngạc nhìn con như thể con vừa làm cho mặt trăng rơi xuống chân chị. Nỗi kinh ngạc của chị quá lớn đến độ lây sang con, con bỗng cảm thấy một nỗi kinh hoàng siêu nhiên. Con chắc mình không có ơn đọc được tâm hồn người khác và điều đó càng làm con ngạc nhiên vì con đã nói rất đúng. Con cảm thấy Thiên Chúa rất gần, dù không nhận ra điều đó, con như một đứa trẻ đã nói những lời không xuất phát từ con nhưng từ Thiên Chúa.
Thưa Mẹ dấu yêu, Mẹ hiểu rằng mọi sự đều được phép đối với các tập sinh,33 [26v0] họ phải có thể nói với con điều họ nghĩ, điều tốt cũng như điều xấu. Điều này, họ càng được dễ dàng vì đối với con họ không phải tỏ lòng kính trọng như đối với một chị giáo tập. Con không thể nói rằng Giêsu đưa con đi trên con đường khiêm hạ bên ngoài. Người muốn hạ nhục tận đáy hồn con;34 dưới mắt những người khác, con thành công trong mọi sự con đi trên con đường danh vọng, theo mức độ có thể trong nhà tu. Con hiểu rằng con phải đi trên con đường nguy hiểm này không phải vì bản thân con, mà vì người khác. Thật vậy, nếu dưới con mắt các chị em trong cộng đoàn, con là một tu sĩ đầy khuyết điểm, bất tài, thiếu thông minh và phán đoán, hẳn Mẹ đã không thể nhờ con giúp Mẹ. Đó là lý do khiến Chúa Nhân Lành đã lấy tấm màn che phủ mọi khuyết điểm bên trong cũng như bên ngoài của con. Tấm màn này đôi khi giúp con nhận được những lời khen ngợi của các tập sinh, con cảm thấy họ khen con không phải vì tâng bốc mà là biểu hiện những tình cảm ngây thơ hồn nhiên của họ; thực tình điều đó không thể khiến con hợm mình, vì con luôn luôn nhớ trong trí mình thật sự là gì. Tuy nhiên, thỉnh thoảng con muốn nghe điều gì khác hơn các lời khen. Mẹ biết đấy, thưa Mẹ dấu yêu, con thích giấm hơn đường; hồn con cũng mệt mỏi vì món ăn quá ngọt, và lúc ấy Giêsu đã để người ta cho nó một đĩa rau trộn nhỏ, [27r0] nhiều giấm, nhiều gia vị, không thiếu một thứ gì, chỉ trừ có dầu, là cái cho nó thêm hương vị… Đĩa rau trộn nhỏ này được các tập sinh dọn cho con vào lúc mà con ít mong đợi nhất. Chúa Nhân Lành đã gỡ bỏ tấm màn che các khuyết điểm của con, thế là các em nhỏ dấu yêu của con nhìn rõ bản chất thật của con và không còn thấy con hoàn toàn hợp với sở thích của các em nữa. Với vẻ hồn nhiên làm con thích thú, các em giãi bày cho con tất cả những gì các em phải chiến đấu vì con, những gì các em không thích nơi con; cuối cùng, các em không còn e ngại gì nữa, giống như thể đó là chuyện của một người khác, vì các em biết hành động như thế các em làm con rất vui. A! Đúng là hơn cả một thú vui, đây là một bữa tiệc thịnh soạn làm hồn con tràn ngập niềm vui. Con không thể cắt nghĩa một chuyện vốn làm cho bản chất tự nhiên khó chịu lại tạo nên một niềm hạnh phúc lớn như thế; giá như không cảm nghiệm thực sự, hẳn con không thể nào tả nổi… Một hôm khi con đặc biệt ao ước được hạ mình, một tập sinh35 đã thể hiện rất tốt việc thoả mãn ước muốn này của con khiến con nghĩ ngay tới câu truyện tên Simy nguyền rủa vua Đavít (2S 16,10). Con tự nhủ: Đích thị là Chúa đã truyền cho em ấy nói với con tất cả những điều như thế… Và hồn con được thưởng thức một cách ngon lành và dư dật thứ của ăn cay đắng được dọn ra cho nó.
Chúa Nhân Lành thương chăm sóc con như vậy đó. Người không thể luôn luôn ban cho con lương thực bổ dưỡng của sự hạ mình bề ngoài, nhưng thỉnh thoảng Người lại dành cho con những vụn bánh rớt xuống từ bàn ăn của con cái (Mc 7,28). Ôi! Lòng nhân từ của Người cao cả biết bao (Tv 88,2), lòng nhân từ ấy [27v0] con chỉ có thể ca ngợi ở trên Trời mà thôi…
Mẹ yêu dấu, bởi vì con thử bắt đầu cùng với Mẹ ca ngợi lòng nhân từ vô biên ấy ở trần gian này, nên con còn phải kể cho Mẹ nghe một hồng ân mà con đã rút ra được từ sứ mạng Mẹ trao cho con. Trước kia mỗi khi con thấy một sơ nào làm điều đó có vẻ không đúng luật và gây khó chịu cho con, con thường nói với mình: À! Phải chi mình có thể nói cho sơ ấy biết mình nghĩ gì, chỉ cho sơ ấy thấy chỗ sai của sơ ấy, thì tốt biết bao nhiêu! Nhưng từ khi con tham dự vào nhiệm vụ sửa chữa, con đã hoàn toàn thay đổi cảm nghĩ ấy, thưa Mẹ, con quả quyết với Mẹ như thế. Khi con tình cờ thấy một sơ nào làm điều gì mà con nghĩ là không tốt, con thở phào nhẹ nhõm và tự nhủ: May phúc quá! Đó không phải là một tập sinh, mình không có trách nhiệm phải sửa chữa họ. Và rồi con mau mắn tìm cách chữa lỗi cho sơ ấy và nghĩ đến thiện chí mà chắc chắn sơ ấy có. A! Thưa Mẹ, từ khi con bị bệnh, sự chăm sóc ân cần mà Mẹ bao bọc con đã dạy con thêm biết bao điều về đức bác ái. Mẹ không ngại một thứ thuốc đắt tiền nào, và  nếu thuộc không hiệu quả, Mẹ cố tìm một thứ thuốc khác mà không hề nản lòng. Khi con ra sân chơi, Mẹ hết sức chu đáo không để con ở chỗ gió lùa, và cuối cùng, nếu con muốn kể ra mọi chuyện, chắc là con không bao giờ có thể kể hết.
Nghĩ tới tất cả những chuyện này, con tự nhủ mình phải cảm thông với những yếu đuối thiêng liêng của các chị em, giống như Mẹ đã tỏ ra đối với con, thưa Mẹ dấu yêu, khi săn sóc con với vô vàn tình thương như thế.
Con nhận thấy (và là điều rất tự nhiên) các sơ thánh thiện nhất [28r0] thường được thương nhiều nhất,36 người ta thích nói chuyện với họ, thích giúp đỡ họ việc này việc khác mà không cần họ xin, sau cùng các tâm hồn có khả năng chịu đựng sự thiếu kính trọng và thiếu tế nhị thì được mọi người bao bọc bằng tình thương mến. Với các tâm hồn này, có thể áp dụng lời này của Thánh Gioan Thánh Giá, Cha chúng ta: Mọi ơn lành được ban cho tôi khi tôi không còn tìm kiếm chúng vì lòng tự ái.
Ngược lại, các tâm hồn khiếm khuyết thường không được người khác tìm kiếm, đương nhiên người ta vẫn giao tiếp với họ trong giới hạn của phép lịch sự tu trì, nhưng người ta tránh trò chuyện thân thiết với họ vì sợ lỡ lời nói ra những điều không dễ chịu mấy. - Khi nói đến các tâm hồn khiếm khuyết, con không chỉ muốn nói đến các khuyết điểm thiêng liêng, bởi vì cả những tâm hồn thánh thiện nhất cũng chỉ hoàn hảo ở trên Trời, nhưng con muốn nói đến sự thiếu phán đoán, thiếu giáo dục, một số tính khí quá nhạy cảm, là những điều làm cho đời sống không mấy dễ chịu. Con biết rằng các khuyết điểm tinh thần này là mãn tính, khó có hy vọng chữa trị, nhưng con cũng biết rằng Mẹ của con cũng vẫn không thôi chăm sóc con, tìm hết cách xoa dịu con cả khi con phải nằm bệnh suốt đời. Từ đó con rút ra kết luận này: Trong các giờ chơi, những lúc rảnh rỗi, con phải tìm đến để trò chuyện với các sơ mà con không ưa mấy, để làm công việc của người Samarie nhân hậu cho các tâm hồn bị thương tổn này. Một lời nói, một nụ cười dễ thương, thường cũng đủ để làm cho một tâm hồn đang buồn phiền trở nên thoải mái; nhưng đó tuyệt đối không phải mục đích con nhắm tới khi thực thi bác ái, bởi vì con biết ngay là mình sẽ phải thất vọng: một lời con nói ra với tất cả ý tốt có thể bị cắt nghĩa hoàn toàn sai lạc. Cũng để không mất thời gian, con muốn trở nên dễ thương với hết mọi người [28v0] (và đặc biệt đối với các chị em khó thương nhất) để làm vui lòng Giêsu và đáp lại lời khuyên của Người trong Tin Mừng đại để như sau: - “Khi anh em đãi tiệc, chớ mời bà con họ hàng và bạn bè của anh em, vì họ sẽ mời lại anh em để đáp lễ và như vậy anh em đã nhận được phần thưởng  rồi; nhưng hãy mời những người nghèo khổ, què quặt và tê liệt, và anh em hãy mừng vì họ không có gì để đáp lễ anh em, vì Cha của anh em thấu suốt mọi bí ẩn sẽ ban phần thưởng cho anh em.” (Lc 14,12-14; Mt 6,4).
Một tu sĩ Cát Minh có thể đãi tiệc gì cho các chị em mình nếu không phải là yến tiệc thiêng liêng gồm có đức ái đáng yêu và vui tươi? Phần con, con không biết một loại yến tiệc nào khác và con muốn bắt chước Thánh Phaolô vui với người vui: đúng là ngài cũng khóc với người khóc (Rm 12,15) và những giọt nước mắt đôi khi cũng phải xuất hiện trong bữa tiệc mà con muốn phục vụ, nhưng con luôn luôn cố gắng sao cho đến cuối bữa tiệc này, những giọt nước mắt sẽ biến thành niềm vui (Ga 16,20), bởi vì Chúa thương những người biết cho đi một cách vui vẻ (2Cr 9,7).
Con còn nhớ một hành vi bác ái37 mà Chúa Nhân Lành đã soi sáng cho con thực hiện hồi con còn là tập sinh. Một hành vi nhỏ bé thôi, nhưng Cha chúng ta thấu suốt mọi bí ẩn thì để ý đến ý hướng hơn là mức độ to lớn của hành động, Người đã ban thưởng cho con rồi38 mà không cần phải đợi đến đời sau. Đó là thời gian mà Sơ St. Pierre vẫn còn đi lại được đến ca triều và nhà ăn. Giờ nguyện gẫm ban chiều, sơ được đưa đến ngồi trước mặt con: 10 phút trước 6 giờ, cần có một sơ đưa sơ ấy đến nhà ăn, vì dạo ấy các Sơ coi phòng bệnh có quá nhiều bệnh nhân nên không thể đến [29r0] đưa sơ ấy đi được. Con cảm thấy quá khó tình nguyện làm công việc phục vụ này, vì con biết Sơ St. Pierre rất khó tính không thể thay đổi người dẫn đường. Tuy nhiên con không muốn bỏ lỡ dịp thực thi bác ái này, con nhớ lại lời Chúa Giêsu: Điều gì anh em làm cho một trong những người anh em hèn mọn nhất của Thầy là anh em làm cho chính Thầy (Mt 25,40). Thế là với hết lòng khiêm tốn, con tình nguyện dẫn sơ ấy đi: chấp nhận làm công việc phục vụ này không phải là dễ đối với  con! Nhưng cuối cùng con đã làm với rất nhiều thiện chí và con đã hoàn toàn thành công.
Mỗi chiều khi thấy Sơ St. Pierre lắc lắc chiếc đồng hồ cát là con hiểu ý sơ ấy: Chúng ta đi nào. Không thể tưởng tượng nổi việc này lúc đầu khiến con khó đứng dậy như thế nào, nhưng con làm ngay lập tức, rồi bắt đầu ngay cả một chuỗi lễ nghi. Phải nhấc và mang chiếc ghế xếp đúng cách, nhất là không được vội, sau đó bắt đầu đi, phải đi theo sau người bệnh tội nghiệp này, vừa đi vừa đỡ lưng bà, và con làm việc này với tất cả sự nhẹ nhàng mà con có thể; nhưng nếu chẳng may sơ bước hụt, lập tức sơ tỏ vẻ như là con giữ sơ không chắc và làm sơ suýt té. - “Ối! Trời! Em đi nhanh quá, tôi ngã gẫy xương mất.” Nếu con cố đi chậm hơn thì sơ lại bảo: - “Theo tôi đi chứ, tôi không thấy tay em đâu cả, em buông tôi ra là tôi té đấy. Ôi! Tôi đã bảo là em còn quá trẻ không biết dẫn tôi mà.” Cuối cùng chúng con cũng đến được nhà cơm mà không xảy ra chuyện gì. Nhưng đến đó rồi thì lại có những khó khăn khác, phải đỡ Sơ St. Pierre ngồi xuống và phải đặt làm sao cho khéo [29v0] để không làm sơ bị đụng, sau đó phải xắn tay áo của sơ lên (cũng phải xắn đúng cách), sau đó con mới được tự do đi. Với hai hai bàn tay bị mất ngón, sơ phải loay hoay mãi mới lấy được bánh bỏ vào chén của sơ. Con nhận ra ngay điều đó nên mỗi buổi chiều con đều giúp sơ việc phục vụ nhỏ bé này trước khi để sơ ở lại. Vì sơ không yêu cầu con làm việc này, nên sơ rất xúc động vì sự chu đáo của con và chính nhờ việc phục vụ này mà con chiếm được cảm tình của sơ ấy và nhất là (sau này con mới biết)39 vì sau khi đã cắt bánh cho sơ xong, trước khi đi con còn dành cho sơ một nụ cười tươi nhất.
Thưa Mẹ yêu dấu, có thể Mẹ ngạc nhiên tại sao con lại kể cho Mẹ nghe hành vi bác ái nhỏ bé và đã xảy ra khá lâu này. A! Con làm thế là vì con cảm thấy nhờ sơ ấy mà con được ca ngợi lòng nhân từ của Chúa (Tv 88,2), Người đã thương cho con nhớ lại kỷ niệm này như một thứ hương thơm thúc đẩy con thực hành đức ái. Thỉnh thoảng con nhớ một số chi tiết thì nó giống như một làn gió xuân nhẹ thổi vào hồn con. Đây là một kỷ niệm như thế: Một tối mùa đông, con đang thi hành cái phận vụ nhỏ của con như mọi khi, trời lạnh và khuya… Thình lình con nghe có tiếng nhạc từ xa vang đến, con liền hình dung ra một phòng tiếp tân với rất nhiều ánh đèn chiếu sáng, đầy đồ trang trí lấp lánh, với những cô gái ăn mặc thanh lịch đang ca tụng và tâng bốc lẫn nhau theo kiểu người đời; rồi con nhìn sang người bệnh đau khổ mà con đang săn sóc; thay vì nghe thấy một điệu nhạc, con chỉ nghe thấy những tiếng rên rỉ từng đợt của người bệnh này; thay vì những đồ trang trí lấp lánh, [30r0] con thấy những tường gạch của nội cấm khắc khổ của chúng ta, ánh sáng yếu ớt chỉ cho thấy lờ mờ. Con không biết diễn tả thế nào những gì xảy ra trong hồn con, con chỉ biết rằng Chúa chiếu rọi những tia sáng chân lý trổi vượt hẳn ánh sáng tối tăm của các lễ hội phàm tục, con không thể tưởng tượng nổi sao mình được hạnh phúc như thế… A! Con không dại đánh đổi mười phút thực hành nhiệm vụ bác ái hèn mọn của mình để vui hưởng một ngày năm lễ hội phàm tục… Nếu giữa cơn đau khổ, giữa cuộc phấn đấu, chúng ta đã có thể hưởng được một giây lát hạnh phúc vượt xa mọi hạnh phúc trần gian này rồi, khi nghĩ rằng Chúa đã kéo chúng ta ra khỏi trần gian, thì ở trên Trời chúng ta sẽ còn hạnh phúc biết bao khi giữa niềm hân hoan và an nghỉ vĩnh cửu, chúng ta được nhìn thấy ân lành khôn tả mà Chúa dành cho chúng ta khi chọn chúng ta vào ở trong nhà Người, quê Trời đích thực? (St 28,17; Tv 26,4)…
Không phải mỗi khi thực hành bác ái con đều được hưởng những khoảnh khắc vui sướng ngấy ngây đâu, nhưng lúc đầu đời tu của con, Giêsu đã muốn cho con cảm nghiệm sự ngọt ngào biết bao khi nhìn Người trong tâm hồn các hiền thê của Người và mỗi khi con dắt Sơ St. Pierre đi, con đều làm việc ấy với tất cả lòng yêu thương tối đa mà con có thể làm, như thể con đang dắt chính Chúa Giêsu vậy. Mẹ yêu dấu, như con vừa nói, không phải lần nào thực hành bác ái con cũng đều cảm thấy ngọt ngào như thế đâu. Để chứng mình điều này, con xin kể cho Mẹ nghe một vài cuộc chiến đấu nho nhỏ mà chắc chắn sẽ làm Mẹ phải phì cười. Lâu rồi, vào giờ nguyện gẫm ban chiều, con được đặt ngồi trước một sơ có tính rất kỳ cục, và con nghĩ… Sơ được rất nhiều ơn soi sáng, bởi vì rất hiếm khi sơ dùng sách. [30v0] Đây là những gì con nhận thấy: Vừa khi đến chỗ ngồi, sơ ấy lập tức làm một tiếng động nhỏ kỳ lạ giống như tiếng người ta chà xát hai miếng vỏ sò vào nhau. Chỉ một mình con nghe thấy tiếng động ấy, vì tai con thính vô cùng (đôi khi hơi quá thính). Mẹ ạ, không thể nào tả cho Mẹ thấy tiếng động nhẹ ấy làm con bực bội đến như thế nào: con chỉ muốn ngoái đầu lại và nhìn thẳng vào kẻ gây chướng  mà con chắc là chính kẻ ấy cũng không để ý đến hành vi của mình, vì đó là cách duy nhất để người ấy tỉnh ngộ; nhưng tự thâm tâm con cảm thấy tốt hơn nên chịu đựng điều khó chịu này vì yêu mến Chúa và không làm sơ ấy buồn. Thế là con ngồi yên, cố gắng kết hiệp với Thiên Chúa để quên đi tiếng động nhẹ ấy… Nhưng vô ích, con cảm thấy vã mồ hôi và buộc phải tập trung suy niệm về sự đau khổ, nhưng khi chịu đau khổ, con tìm cách chịu đựng không phải với lòng chua chát, nhưng một cách vui vẻ và an bình, ít là trong tâm hồn, lúc ấy con cố gắng yêu thích chính cái tiếng động nhẹ nhưng quá khó chịu ấy; thay vì cố không nghe tiếng động ấy (là điều không thể), con tập trung chú ý để nghe nó giống như một bản hoà tấu du dương và tất cả giờ nguyện gẫm của con (không còn là giờ cầu nguyện yên tĩnh) con đã trải qua để dâng bản hoà tấu ấy lên cho Giêsu.
Một lần khác, ở trong nhà giặt con giặt trước mặt một sơ và sơ cứ thường làm bắn nước bẩn lên mặt con40 mỗi lần sơ ấy xả khăn trên bệ giặt. Phản ứng đầu tiên của con là lùi ngay ra đàng sau [31ro] lau mặt, để cho sơ ấy hiểu rằng sơ ấy nên nhẹ tay hơn, nhưng ngay lập tức con nghĩ mình quá ngu khi từ khước những kho báu được ban cho con một cách hào phóng như thế, và con tránh để không tỏ ra vẻ khó chịu. Con vận dụng hết cố gắng để ước muốn nhận được thật nhiều nước bẩn, cuối cùng con đã rất thành công để thực sự thích kiểu vảy nước mới lạ này và con tự hứa lần sau sẽ trở lại nơi may mắn này, nơi mình nhận được nhiều kho báu như thế.
Mẹ yêu dấu, Mẹ thấy con là một tâm hồn rất bé nhỏ chỉ có thể dâng hiến Chúa những điều rất bé nhỏ, vậy mà con vẫn thường để vụt mấy những hy sinh nhỏ bé mang lại niềm an bình lớn lao cho hồn con; nhưng con không nản lòng, con chấp nhận chịu mất đi một chút an bình và cố gắng lần sau sẽ tỉnh táo hơn.
A! Chúa quá tốt lành đối với con khiến con không thể nào sợ Người. Người luôn luôn ban cho con điều con ao ước, hay đúng hơn, Người làm con ước muốn điều Người muốn ban cho con, vì vậy một thời gian ngắn41 trước khi gặp cơn thử thách đức tin, con tự nhủ: Đúng là con không có những thử thách lớn bên ngoài, và để có những thử thách bên trong, có lẽ Chúa phải thay đổi đường đi của con, con không tin Người sẽ làm điều đó, tuy nhiên con không thể cứ mãi sống yên ổn như thế này42… Giêsu sẽ dùng cách nào để thử thách con đây? Câu trả lời không phải đợi lâu và Người chỉ cho con thấy rằng Đấng con yêu mến không thiếu gì phương tiện; không cần thay đổi đường con đi, Người gởi đến cho con cơn thử thách sẽ trộn lẫn mùi vị cay đắng cứu độ và mọi niềm vui của con.43 Không phải chỉ khi muốn thử thách con, Giêsu mới làm con cảm thấy ước muốn thử thách [31v0]. Từ khá lâu con đã có một ước muốn xem ra hoàn toàn không thể thực hiện được, đó là có một người anh linh mục,44 con thường nghĩ rằng nếu các anh bé nhỏ của con đã không bay về Trời, hẳn con được diễm phúc thấy các anh ấy bước lên bàn thờ; nhưng vì Chúa Nhân Lành đã chọn các anh con làm các thiên thần nhỏ nên con không còn có thể hy vọng ước mơ của con biến thành sự thật; và đây, không những Giêsu đã ban cho con ơn con ao ước, Ngài còn kết hợp con bằng sợi dây thiêng liêng với hai Tông đồ của Người để họ trở thành các anh của con… Thưa Mẹ dấu yêu, con muốn kể lại với Mẹ một cách chi tiết việc Giêsu thoả mãn ước muốn của con như thế nào, thậm chí còn vượt quá ước muốn này, vì con chỉ ước ao được một anh linh mục để mỗi ngày nhớ đến con trên bàn thánh.
Chính Mẹ Thánh Têrêsa của chúng ta45 đã gởi đến cho con làm quà lễ của ngài năm 1895 cậu em trai đầu tiên của con.46 Con đang bận công việc ở nhà giặt thì Mẹ Agnès de Jésus kéo con riêng ra và đọc cho con một lá thư Mẹ mới nhận được. Mẹ nói đó là một chủng sinh trẻ được Thánh Têrêsa soi sáng, đã đến xin để được một sơ chuyên lo cách riêng cho phần rỗi linh hồn của thầy ấy và giúp thầy bằng lời cầu nguyện và hy sinh khi thầy đi truyền giáo để có thể cứu rỗi nhiều linh hồn. Chủng sinh ấy hứa luôn luôn nhớ đến người sẽ trở thành chị của mình, mỗi khi thầy dâng Thánh Lễ. Mẹ Agnès de Jésus bảo con rằng Mẹ muốn con trở thành người chị của nhà truyền giáo tương lai này.
[32r0] Mẹ yêu dấu, không thể nào tả nổi niềm hạnh phúc của con lúc ấy, ước muốn của con được thoả mãn quá sức mong đợi đã làm phát sinh trong lòng con một niềm vui của trẻ con, vì con phải quay trở lại thời thơ ấu của mình mới tìm lại được kỷ niệm về những niềm vui vỡ bờ phấn khởi này mà tâm hồn con quá bé nhỏ không thể nào chứa nổi; từ nhiều năm nay con chưa bao giờ được nếm cả một niềm hạnh phúc lớn như thế. Con cảm thấy về phương diện này tâm hồn con trở nên mới mẻ, giống như thể lần đầu tiên người ta chạm vào những sợi dây đàn mà đã bao năm bị chìm trong quên lãng.
Con hiểu những nghĩa vụ con tự đặt ra cho mình, vì thế con bắt tay vào việc ngay47 bằng cách cố gắng tăng gấp đôi lòng sốt sắng của con. Phải thú thật là lúc đầu con không có được những niềm an ủi để khích thích nhiệt tình của mình. Vì sau một lá thư dễ thương48 với tất cả con tim và những tình cảm cao quý nhất để cảm ơn Mẹ Agnès de Jésus, cậu em trai này của con không cho thêm một thông tin vào về cuộc sống cho tới tháng 7 sau49 ngoại trừ một tấm thiệp cậu ấy gởi vào tháng 11 để báo là cậu ấy đang ở trong quân ngũ. Thưa Mẹ dấu yêu, Chúa Nhân Lành đã dành lại cho Mẹ nhiệm vụ hoàn tất công trình đã khởi sự,50 đương nhiên là nhờ kinh nguyện và hy sinh mà người ta có thể giúp đỡ các nhà truyền giáo, nhưng thỉnh thoảng khi Giêsu thích kết hợp hai tâm hồn để làm vinh danh Người, Người cho phép họ thỉnh thoảng có thể trao đổi tư tưởng với nhau và khích lệ nhau yêu mến Chúa nhiều hơn, nhưng để làm việc này cần có phép rõ ràng của Bề Trên,51 vì theo con, nếu không có phép như thế thì việc thư từ qua lại có thể gây thiệt hại cho người nữ tu Cát Minh liên tục bị lối sống quá bận tâm về mình chi phối [32v0] và như thế, việc trao đổi thư từ (dù lâu mới viết một lần) thay vì kết hợp mình với Thiên Chúa, nó sẽ làm cho mình luôn luôn bận tâm đến nó; và cứ tưởng tượng là mình đang làm những kỳ công vĩ đại, dưới danh nghĩa nhiệt tình, mà thực tế nó chỉ tạo ra sự phân tâm vô ích. Đối với con chuyện này cũng giống như bao chuyện khác, con cảm thấy rằng để việc thư từ đem lại lợi ích thì chỉ viết vì vâng lời và đối với con, viết thư là việc con ngại hơn là thích thú.52 Giống như trong, khi nói chuyện với một tập sinh, con cố hãm mình tránh không nêu những câu hỏi để thoả mãn tính tò mò của mình; nếu tập sinh này bắt đầu nói một điều thú vị rồi không kết thúc mà đã qua một đề tài khác làm con chán, con cố tránh không nhắc em ấy nhớ lại đề tài đã bỏ dở, vì con thấy rằng chúng ta sẽ chẳng đạt được lợi ích gì khi tìm kiếm bản thân mình.
Thưa Mẹ dấu yêu, con thấy mình vẫn chứng nào tật ấy, ngay bây giờ con cũng đang đi quá xa đề tài của mình, với tất cả những lý luận dài dòng, xin Mẹ tha lỗi và cho phép con lại lạc đề vào dịp khác vì con không thể làm khác được! Mẹ giống như Chúa Nhân Lành luôn luôn kiên nhẫn nghe con,53 khi con đơn sơ kể cho Người nghe mọi đau khổ và niềm vui của con như thể Người không biết gì vậy… Mẹ cũng thế, thưa Mẹ, từ lâu Mẹ đã biết những gì con suy nghĩ và mọi biến cố của cuộc đời con chẳng quan trọng gì, vì vậy con không biết nói cho Mẹ nghe điều gì mới cả. Con không thể nhịn cười khi nghĩ mình đang viết quá tỉ mỉ cho Mẹ rất nhiều chuyện [33r0] mà Mẹ cũng biết rõ như con. Sau cùng, thưa Mẹ dấu yêu, con vâng lời Mẹ mà viết và bây giờ nếu Mẹ thấy những trang con viết đây không đem lại hứng thú gì mà còn có thể làm Mẹ chia trí sau này, thì Mẹ cứ đốt nó đi54 thì con cũng đã không uổng phí thời gian… Nhưng con thích nói giỡn như một đứa trẻ, thưa Mẹ, xin Mẹ đừng nghĩ rằng con đang cố gắng tìm xem công việc bé mọn này của con có mang lại lợi ích gì không, con đã làm chỉ vì vâng lời55 và như thế đã đủ cho con rồi, con cũng chẳng thấy phiền hà gì nếu Mẹ đốt nó đi trước mắt con trước khi đọc nó.
Bây giờ con kể tiếp về những cậu em trai của con mà nay đang chiếm một chỗ quan trọng trong đời con. - Cuối tháng 5 năm ngoái,56 con nhớ một hôm Mẹ cho gọi con trước giờ ăn. Tim con đập thình thịch khi bước vào phòng Mẹ, thưa Mẹ dấu yêu; con tự hỏi không biết Mẹ có chuyện gì muốn nói với con, vì đây là lần đầu tiên Mẹ cho gọi con như thế. Sau khi bảo con ngồi, Mẹ hỏi con: - “Con có muốn chăm lo cho lợi ích thiêng liêng của một nhà truyền giáo57 sắp thụ phong linh mục rồi đi truyền giáo không?” Sau đó Mẹ đọc cho con nghe lá thư của linh mục trẻ này58 để con biết đích xác ngài yêu cầu điều gì. Cảm giác đầu tiên của con là vui sướng, rồi ngay sau đó là sợ. Con giải thích với Mẹ rằng con đã dâng hiến các việc lành bé mọn của con cho một Tông đồ tương lai, con nghĩ mình không thể làm điều ấy theo ý chỉ cho một ai khác nữa, và ngoài ra, còn có nhiều sơ khác tốt hơn con có thể đáp lại ước muốn của linh mục ấy. Nhưng mọi vấn nạn của con đều được giải toả, [33v0] Mẹ đã trả lời con rằng người ta có thể giúp nhiều anh em. Lúc ấy con hỏi Mẹ rằng đức vâng lời có thể làm tăng gấp đôi công đức hay không. Mẹ trả lời rằng có, rồi Mẹ nói với con nhiều điều giúp con hiểu rằng mình phải chấp nhận một cậu em mới nữa mà không có gì phải áy náy. Tự thâm tâm con, thưa Mẹ, con cũng nghĩ giống như Mẹ, vì “lòng nhiệt thành của một tu sĩ Cát Minh phải thiêu đốt cả thế giới”,59 con hy vọng với ơn Chúa giúp, con có thể làm ích cho nhiều hơn hai nhà truyền giáo, đồng thời không bỏ rơi các linh mục khác mà sứ mạng của các ngài cũng khó khăn không kém sứ mạng của các Tông đồ đi rao giảng cho những người lương dân. Sau cùng con muốn làm nữ tử của Hội Thánh60 giống như Mẹ Thánh Têrêsa xưa kia, và con muốn cầu nguyện theo các ý chỉ của Đức Thánh Cha, vì biết rằng các ý chỉ của Người ôm ấp cả vũ trụ. Đó là mục đích chung của đời con, nhưng mục đích ấy không ngăn cản con cầu nguyện và kết hợp một cách đặc biệt với công việc của các thiên thần nhỏ dấu yêu của con giá như họ đã là linh mục.61 Đúng thế! Đó là cách con kết hợp thiêng liêng với các Tông đồ mà Giêsu đã ban làm em của con: mọi sự thuộc về con thì đều thuộc về từng người em ấy62 (Lc 15,31); con cảm thấy Chúa Nhân Lành quá tốt để thông chia, Người quá giàu sang khiến Người ban cho con vô hạn những gì con xin Người… Nhưng thưa Mẹ, xin đừng nghĩ rằng con đang kể lể lôi thôi dài dòng.
Từ khi con có hai cậu em trai và các em gái tập sinh, nếu con muốn cầu xin cho mỗi tâm hồn này điều họ cần và kể ra chi tiết điều con xin, thì cả ngày cũng không đủ cho con và con còn sợ quên mất điều gì quan trọng. Với các tâm hồn đơn sơ, không cần những phương thế phức tạp, và con ở trong số đó. Một sáng kia, trong giờ kinh tạ ơn của con, Giêsu đã cho con một phương thế đơn sơ để hoàn thành sứ mạng của mình. Người đã làm con hiểu [34r0] lời này của sách Diễm Ca: “Hãy kéo em theo anh, đôi ta cùng chạy theo mùi hương thơm ngát của anh”63 (Dc 1,3). Ôi Giêsu, không cần phải nói: Trong khi lôi kéo con, xin hãy lôi kéo các linh hồn con yêu. Chỉ cần câu: “Xin lôi kéo con” là đủ rồi. Lạy Chúa, con hiểu khi một linh hồn để mình được lôi kéo bởi mùi hương say đắm của Người, linh hồn ấy sẽ không thể chỉ chạy một mình, mọi linh hồn nó yêu mến cũng được lôi kéo để chạy theo nó; chạy mà không bị thúc ép, không cần cố gắng, đó là kết quả tự nhiên của sức thu hút về phía Chúa. Cũng như dòng thác tuôn đổ ào ào vào biển cả và kéo theo nó mọi thứ nó gặp trên dòng chảy, thì cũng thế, ôi Giêsu của con, linh hồn nào ngụp lặn trong đại dương vô bờ của tình yêu Người thì cũng kéo theo với mình mọi kho tàng nó có… Lạy Chúa, Người biết rõ con không có kho tàng nào khác ngoài các tâm hồn mà Chúa đã thích cho kết hợp với tâm hồn con; các kho tàng này là do Chúa uỷ thác cho con, nên con dám mượn những lời mà Người đã thưa với Cha trên Trời vào buổi tối cuối cùng khi Người còn ở lại trái đất này, trong thân phận lữ khách và phải chết.64 Giêsu Yêu Dấu của con, con không biết khi nào cuộc sống lưu đày của con sẽ chấm dứt65… Sẽ còn hơn một buổi tối nữa Chúa thấy con ca hát lòng nhân từ Chúa (Tv 88,2) trên đất lưu đày này, nhưng cuối cùng, buổi tối cuối cùng cũng sẽ đến với con;66 lúc ấy con muốn con có thể nói với Người, ôi Thiên Chúa của con: “Con đã tôn vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con làm. Vậy, lạy Cha, giờ đây, xin Cha tôn vinh con bên Cha: Những kẻ Cha đã chọn từ giữa thế gian mà ban cho con, con đã cho họ biết danh Cha. Họ thuộc về Cha, Cha đã ban họ cho con, và họ đã tuân giữ lời Cha. Giờ đây họ biết rằng tất cả những gì Cha ban cho con đều do bởi Cha, vì con đã ban cho họ lời mà Cha đã ban cho con; họ đã nhận những lời ấy, họ biết thật rằng những lời ấy đã từ Cha mà đến, và họ đã tin là Cha đã sai con. Con cầu nguyện cho họ, là những kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha. [34v0] Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian; phần con, con đến cùng Cha. Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ trong danh Cha các môn đệ mà Cha đã ban cho con. Bây giờ con đến cùng Cha, và con nói những điều này lúc còn ở giữa thế gian, để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con. Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần. Họ không thuộc về thế gian, cũng như con đây không thuộc về thế gian. Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con.
Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con, để thế gian biết rằng Cha đã yêu họ như Cha đã yêu con” (Ga 17,4-24).67
Vâng, lạy Chúa, đó là những lời mà con muốn lặp lại theo Chúa, trước khi được bay lên trong vòng tay Chúa. Có thể con quá táo bạo chăng? Không đâu, từ lâu Người đã cho phép con được táo bạo đối với Người.68 Giống như  người cha của đứa con hoang đàng, Người đã nói với con: “Mọi sự của cha là của con” (Lc 15,31. Vì vậy, ôi Giêsu, những lời của Người cũng là của con và con có thể dùng những lời ấy để kéo những ơn lành của Cha trên Trời xuống trên các tâm hồn được kết hợp với con. Nhưng lạy Chúa, khi con nói con ở đâu thì con muốn rằng những ai đã được Người ban cho con cũng được ở đó với con, con không đòi rằng họ phải được đưa lên một vinh quang cao hơn vinh quang mà Người thích ban cho con, con chỉ muốn xin rằng một ngày kia tất cả chúng con cùng được sum họp trên Cõi Trời tươi đẹp của Người. Ôi Chúa của con, Chúa biết con không bao giờ ao ước điều gì ngoài việc yêu mến Chúa, con không tham vọng một vinh quang nào khác.69 [35r0] Tình yêu của Chúa đã sớm đến với con từ khi con còn thơ, đã lớn lên với con, và bây giờ nó là một vực thẳm mà con không thể nào dò thấu. Tình yêu lôi kéo tình yêu, ôi Giêsu của con, và tình yêu của con lao về phía Chúa, nó muốn đổ đầy vực thẳm lôi kéo nó, nhưng tiếc thay! Nó chẳng bằng một giọt sương sa biến mất trong đại dương!… Để yêu Chúa như Chúa yêu con, con phải mượn chính tình yêu của Chúa, chỉ như thế con mới tìm được sự an nghỉ. Ôi Giêsu của con, đây có thể là một ảo tưởng, nhưng con nghĩ Chúa không thể đổ đầy một tâm hồn nào, một tình yêu lớn hơn tình yêu Chúa đã đổ đầy hồn con; chính vì vậy con dám xin Chúa yêu thương những người Chúa đã ban cho con như Chúa đã yêu thương con (Ga 17,23). Một ngày kia trên Trời, nếu con phát hiện ra Chúa yêu thương họ hơn con, thì con sẽ rất vui mừng, vì ngay bây giờ con đã biết các linh hồn ấy xứng đáng với tình yêu của Chúa hơn tâm hồn con rất nhiều, nhưng còn đang ở dưới trần này, con không thể tưởng tượng nổi có một tình yêu nào bao la hơn tình yêu mà Chúa đã thích đổ đầy hồn con một cách vô điều kiện, mà con chẳng có chút công gì (Rm 3,24).70
Thưa Mẹ dấu yêu, cuối cùng con lại quay về với Mẹ, con rất đỗi ngạc nhiên 71 về những điều mình vừa viết, vì con không có ý viết ra như thế, nhưng vì đã viết rồi thì cứ để ý, nhưng trước khi kể tiếp câu chuyện các cậu em của con, thưa Mẹ, con muốn thưa Mẹ rằng con không áp dụng vào họ, mà áp dụng vào các tỉ muội của con, các lời đầu tiên con mượn trong Tin Mừng: “Con đã ban cho họ các lời mà Cha đã ban cho con, vv…” (Ga 17,8). Vì con không tin là mình có khả năng dạy dỗ72 các cha truyền giáo, may mà con chưa đến nỗi quá kiêu ngạo để làm việc đó! Con cũng chẳng có khả năng [35v0] ban một vài lời khuyên cho các em nhỏ của con, thưa Mẹ, nếu Mẹ là đại diện của Thiên Chúa không ban cho con làm việc ấy.
Đàng khác, khi viết những lời này và những lời tiếp theo của Chúa Giêsu con nghĩ đến các con trai thiêng liêng yêu dấu của Mẹ, là các cậu em của con - “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian… Con còn cầu xin cho những ai nhờ lời họ mà tin vào Cha” (Ga 17,15-20). Thật vậy, làm sao con có thể không cầu nguyện cho những tâm hồn mà họ sẽ cứu rỗi tại các xứ truyền giáo xa xôi nhờ lời rao giảng và đau khổ của họ?
Thưa Mẹ, con nghĩ cần giải thích thêm một vài điểm nữa về đoạn sách Diễm Ca: - “Hãy kéo em theo anh, đôi ta cùng chạy”, vì điều con muốn nói có hiểu ngầm đôi chút. Chúa Giêsu đã nói, “Không ai đến được với Tôi, nếu Cha tôi, Đấng đã sai Tôi, không lôi kéo người ấy” (Ga 6,44). Sau đó, bằng những dụ ngôn siêu vời,73 và thường cũng không dùng đến phương tiện quá quen thuộc với dân chúng này, Người dạy chúng ta rằng chỉ cần gõ là được mở, tìm là thấy, và khiêm tốn chìa tay ra xin là nhận được điều mình xin (Lc 11,9-13). Người còn nói rằng bất cứ điều gì chúng ta xin với Cha Người nhân danh Người thì Cha đều ban cho (Ga 16,23). Chắc hẳn vì vậy mà trước khi Chúa Giêsu sinh ra, Chúa Thánh Thần đã đọc cho người ta viết ra lời cầu nguyện tiên tri này: “Hãy kéo em theo anh, đôi ta cùng chạy”.
Vậy xin được lôi kéo có nghĩa là gì, nếu không phải là xin được kết hợp mật thiết với đối tượng thu hút con tim?74 Nếu lửa và sắt có lý trí và sắt nói với lửa: Hãy lôi kéo em, chẳng phải là nó chứng minh rằng nó muốn đồng nhất với lửa đến mức nó thâm nhập vào lửa [36r0] và hút lấy chất cháy bỏng của lửa và trở nên một với lửa sao? Thưa Mẹ yêu dấu, đây là lời cầu nguyện của con, con xin Giêsu lôi kéo con vào lửa tình yêu của Người, kết hợp con mật thiết với Người, để Người sống và hành động trong con. Con cảm thấy rằng lửa tình yêu càng thiêu cháy tim con, con càng nói: “Hãy lôi kéo con,” thì các linh hồn sẽ đến gần con (họ là những miếng vụn sắt bé nhỏ tội nghiệp và vô ích, nếu con không xa lìa lò lửa thần linh), những tâm hồn này càng chạy nhanh theo hương thơm ngào ngạt của Người Yêu của họ,75 vì một tâm hồn cháy lửa tình yêu không thể ở bất động, nhưng chắc chắn giống như Thánh Mađalêna, tâm hồn ấy giữ chặt lấy chân của Giêsu, và lắng nghe lời ngọt ngào và cháy bỏng của Người. Bề ngoài có vẻ chẳng cho gì cả, nhưng tâm hồn ấy cho đi nhiều hơn là cô Mátta phàn nàn đủ điều và cứ muốn cô em mình làm giống như mình. Giêsu không chê trách các công việc của cô Mátta (Lc 10,39-41); những công việc ấy Mẹ thánh của Người đã từng bận rộn suốt đời vì phải chuẩn bị các bữa ăn cho Thánh Gia. Cái mà Người muốn sửa sai chính là sự lo lắng thái quá của cô chủ nhà nhiệt tình của Người. Tất cả các thánh đã hiểu điều này và đặc biệt nhất có lẽ là các vị thánh đã đổ đầy vũ trụ bằng sự soi sáng của giáo lý Tin Mừng. Chẳng phải là trong nguyện gẫm76 mà các Thánh như Thánh Phaolô, Augustinô, Gioan Thánh Giá, Tôma Aquinô, Phanxicô, Đaminh và biết bao Người Bạn lỗi lạc khác của Thiên Chúa77 đã kín múc được khoa học Thần Linh này mà các thiên tài vĩ đại nhất từng say mê sao? Archimède một nhà Bác Học từng nói: “Hãy cho tôi một cái đòn bẩy, một điểm tựa, tôi sẽ nâng được cả thế giới này lên.” Điều mà Archmède không nhận được vì ông không xin với Thiên Chúa và chỉ liên quan tới phương diện vật chất, thì các Thánh đã nhận được [36v0] trọn vẹn. Đấng Toàn Năng đã ban cho các ngài điểm tựa là Chính Người, và chỉ một mình Người. Còn đòn bẩy là Kinh nguyện nung nấu lửa tình yêu, chính nhờ thế mà các ngài đã nâng được thế giới lên, chính vì thế mà các Thánh còn đang chiến đấu đã nâng thế giới lên và các vị Thánh trong tương lai cho tới ngày tận thế cũng sẽ nâng thế giới lên.
Thưa Mẹ dấu yêu, bây giờ con muốn nói với Mẹ những gì con hiểu về hương thơm ngào ngạt của Người Yêu (Dc 1,3).78 Vì Giêsu đã lên Trời, con chỉ có thể đi theo Người bằng các dấu vết Người để lại, nhưng các dấu vết này sáng rực và toả ngát hương thơm! Chỉ cần đưa mắt nhìn vào sách Tin Mừng, con lập tức hít được hương thơm cuộc đời của Giêsu và con biết phải chạy theo hướng nào… Con không chạy trước nhất, nhưng chạy sau cùng, thay vì đứng ở đàng trước giống như người Pharisêu, con đầy lòng tin tưởng lặp lại lời cầu nguyện khiêm tốn của người thu thuế (Lc 14,10; Lc 18,13), nhưng nhất là con bắt chước thái độ của Mađalêna (Lc 7,36-38),79 sự táo bạo đáng ngạc nhiên hay đúng hơn đầy tình yêu của bà làm rung động Trái Tim của Giêsu, nó cũng lôi cuốn trái tim con. Vâng, con cảm nhận được điều đó, cả khi tất cả các tội lỗi có thể phạm đè nặng trên lương tâm con, con vẫn gieo mình vào vòng tay của Giêsu với con tim tan nát vì hối hận, vì con biết Người thương đứa con hoang đàng biết bao khi nó quay trở về với Người. Đó lại chẳng phải là vì lòng nhân từ quan phòng của Chúa Nhân Lành đã gìn giữ hồn con khỏi tội trọng80 để con vươn lên Người [37r0] với đầy lòng tin tưởng và tình yêu đó sao?
 
Chú thích về phê bình văn bản

Trong Ms II, Cha François de Sainte-Marie đã thực hiện tuyệt vời một công trình thiết lập văn bản của Các Bản Thảo tiểu sử tự thuật, bắt đầu bằng một phê bình văn bản chặt chẽ dựa trên các công trình của hai chuyên gia chiết tự học là các ông Raymond Trillat và Félix Michaud. Nhưng qua kinh nghiệm ngài thấy rằng “các lãnh vực chuyên môn này thực ra rất tế nhị” và, trước khi phát hành ấn bản phổ thông, cha đã “yêu cầu các chuyên gia này tiếp tục công trình của họ” (nghĩa là xem lại các phân tích của họ về Ms II). Cha còn nói: “Công trình chuyên môn của ông Michaud trải rộng toàn thể bản văn. Ở một số kết luận, công trình này đối chọi với công trình nghiên cứu của ông Trillat. Vì vậy đã có một cuộc trao đổi quan điểm giữa hai chuyên gia này: Ông Trillat xem lại một số đánh giá của mình, và bảo lưu quan điểm của mình trên các điểm khác” (Các Bản Thảo tiểu sử tự thuật, ấn bản phổ thông, Carmel de Lisieux, 1957/1959, tr. XIX).
Sơ Cécile, dòng Cát Minh Lisieux, một trong các chuyên gia nòng cốt của Ấn Bản Bách Chu Niên, tuy đã thực hiện một nghiên cứu phê bình sâu về mọi bản văn khác của Têrêsa (Các Thư, Các Bài Thơ, Các Kịch Bản Giải Trí Đạo Đức, Các Kinh Nguyện), nhưng cũng đã hai lần xem lại vào năm 1974 và 1986, rồi hiệu đính hoàn toàn năm 1989, việc nghiên cứu các bản văn, cho thấy chúng đã trải qua biết bao thăng trầm (xem Nhập Đề Tổng Quát).
Trong phần lớn các trường hợp, công trình về Các Bản Thảo tiểu sử tự thuật đã xác nhận công trình của các chuyên gia của Cha François; vì vậy không cần công bố lại các công trình nghiên cứu này một cách chi tiết, nhiều khi gây nhàm chán. (Theo Ms I, “các chỗ sửa chữa về bản văn của Bản Thảo I” lên đến “khoảng một ngàn chỗ”).
Vì vậy ở đây chỉ đơn giản vạch ra những chỗ quan trọng và, cuối cùng, làm sáng tỏ những chỗ sửa chữa đã được đưa vào bản in trong ấn bản 1957 của Cha François de Sainte-Marie.
Về ấn bản phê bình này, điều quan trọng là làm sao giữ nó gần với bản văn của Têrêsa bao nhiêu có thể. Tuy nhiên ấn bản này, giống như ấn bản của Cha François, cũng đã sửa chữa một số chính tả (đã được các chịu ruột của Têrêsa sửa chữa rất nhiều, với các chỗ bỏ sót kỳ lạ) và sửa đổi nhẹ các chỗ chấm câu để giúp bản văn dễ đọc. Bù lại, ấn bản này đã thiết lập lại bao nhiêu có thể các dấu chấm lửng được dùng rất nhiều và là thành phần của văn phong và nhịp điệu của Têrêsa.
Ghi chú của người dịch:
Phần Chú Thích về Phê Bình Văn Bản này chủ yếu liên quan tới nguyên bản bằng tiếng Pháp, vì thế trong bản dịch tiếng Việt này chúng tôi chỉ giữ lại một số chú thích tối thiểu giúp làm sáng tỏ ý nghĩa một số từ hay câu không được rõ ràng lắm. Cách chi tiết khác, xin xem trong nguyên bản: Manuscrits autobiographiques, Notes de critique textuelle, tr. 421-435 - (ĐVT).
BẢN THẢO A
3v0, 9. - “như thế (ainsi) chứ không phải “cũng thế” (aussi): “sửa lại có xuất xứ lạ”, theo ghi nhận của Trillat (Ms II, tr. 85).
4r0, 14/19. - Nên nhớ đoạn văn do Sơ Marie du Sacré-Coeur chép lại đã được Michaud (ibid., tr. 111) nhìn nhận là xác thực.
6r0, 3. - Con cũng được người ta (on) tặng (Têrêsa); chị (elle) tặng (lạ).
7r0, 24. - bế trên tay (sur voter bras) (Têrêsa); bế trên hai tay (sur vos bras) (lạ).
18v0, 8. - chứa (contenir) (thay vì mang [porter], sửa lại có xuất xứ lạ để tránh lặp lại cùng một từ ở dòng 6), hợp với Ms II, tr. 112.
26r0, 25. - M.M. de G. (Têrêsa); Mẹ chúng ta (sửa lại).
26v0, 1. - Bà Mẹ tốt lành này (Têrêsa); Mẹ Marie de Gonzague (sửa lại).
81r0, 1. - Từ ba năm nay con đã sớm… (Têrêsa); từ lâu con đã… (lạ).
81r0, 13. - từ ba năm (Têrêsa); từ hai năm (lạ).
83r0, 20. - một niềm an bình khiêm tốn và sâu thẳm: sửa lại có xuất xứ nghi ngờ, nhưng có lẽ là của Têrêsa để tránh lặp lại từ dịu dàng. Nói là một niềm an bình dịu dàng và sâu thẳm nghe tự nhiên hơn.
BẢN THẢO B
Có rất ít khác biệt giữa bản văn xuất bản năm 1957 của Cha François de Sainte-Marie, trong ấn bản đầu tiên của Các Bản Thảo tiểu sử tự thuật, nên không cần nêu ra ở đây. Về phê bình văn bản của các trang này, có thể tham khảo Ms II (tr. 103-105), trong đó nói rõ như sau: “Các chỗ trau chuốt lại quá nhiều trong bản thảo này có vẻ là do viết quá nhanh và tình trạng mệt mỏi thái quá được lộ ra trên nét chữ”; cũng có thể thêm lý do nữa là tính xúc động quá mạnh của Têrêsa trong lời tuyên bố yêu thương bao la này.
Cũng nên nhớ là ở tờ 2r0, dòng 6 đến 8, đã được Têrêsa viết lại vào tháng 5-6/1897 trên một đoạn đã hoàn toàn bị cạo xoá.
Ở 4v0, 18, chữ chiến đấu (Hội Thánh chiến đấu) đã được sửa lại bởi Mẹ Agnès rất muộn, sau khi Sơ Marie de Sacré-Coeur qua đời năm 1940.
BẢN THẢO C
Ở phía trên tựa đề có lời tuyên bố của Mẹ Agnès. Xem chú thích ở bản văn của Têrêsa.
2r0, 20. - con [không] có: từ không do một bàn tay lạ thêm vào.
7v0, 24. - 9 tháng 6: thêm vào bằng bút chì, có lẽ sau khi biên soạn.
23r0, 14/15. - Lúc đầu Têrêsa viết dưới dạng trống ngôi (ngôi thứ ba số ít: la), sau đó sửa lại nhưng quên từ la thứ hai, sau được một bàn tay lạ sử thành me (“con”).
33v0, 3. - embraser một chữ “s”: thiêu đốt) (Têrêsa); embrasser (hai chữ “s”: ôm ấp) (Agnès de Jésus). Xem chú thích ở bản văn.
36v0, 23. - đã giữ gìn  hồn con khỏi tội trọng; lúc đầu: khỏi mọi tội.
37r0. - Ở phía đầu trang này, Têrêsa đã viết các lời cuối cùng của bản thảo của ngài: “với lòng tin tưởng và tình yêu”. Ông Raymond Trillat, một trong hai chuyên gia của Cha François de Sainte-Marie, đã viết năm 1956 (Mss II, tr. 110): “Tờ này đã bị cắt dưới dòng đầu tiên và phần lề giữ nó đã được dán vào tờ sau.” Trên tờ này, nghĩa là phía dưới những từ cuối cùng của Têrêsa, Mẹ Agnès đã viết:
“Sơ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã viết các dòng cuối cùng này bằng bút chì trên giường bệnh (tháng 7/1897).
“Sơ ấy không viết gì khác nữa trên quyển tập này, như người ta có thể nghĩ khi thấy trang giấy bị cắt.
“Trang này đã bị cắt vì một lý do không quan trọng.
Sơ Agnès de Jésus
Tu sĩ Cát Minh, Bề Trên”.
Đã từng có một truyền thuyết về số phận của trang giấy bị cắt mất này. Nhưng trang này đã được tìm lại năm 1970/1971; các hàng kẽ carô ăn khớp hoàn toàn với các hàng kẽ trên giấy của Têrêsa. Nó được gấp làm đôi và được Sơ Marie du Sacré-Coeur dùng để giữ các thư Têrêsa nhận được. Ở mặt sau có dòng chữ bằng bút chì do chính tay sơ này viết: “Tờ giấy bị cắt trong quyển tập thứ hai của Sơ Têrêsa Hài Đồng Giêsu”. Các người giữ hồ sơ lưu trữ đã đặt lại tờ giấy rời này vào cuối Ms C.
Quyển vở tập Têrêsa dùng có 124 trang (64 tờ đôi); còn dư 50 trang (25 tờ đôi) để giấy trắng.
Ở cuối quyển vở, trang cuối cùng dán vào tờ bìa đôi, Têrêsa đã viết bằng bút chì với nét chữ run run:
“Ecce quam bonum”
(“Tốt đẹp biết bao”).
--------------------------------
MỤC LỤC

- Một vài suy tư về Con Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng của Thánh Nữ Têrêsa H
Contents
MỘT VÀI SUY TƯ    3
VỀ CON ĐƯỜNG THƠ ẤU THIÊNG LIÊNG        3
CỦA THÁNH NỮ TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU   3
Lời tựa       8
CÁC KÝ HIỆU SỬ DỤNG TRONG SÁCH NÀY   12
NHẬP ĐỂ TỔNG QUÁT     20
Chú thích Về việc thiết lập bản văn       41
Bản Thảo A        44
BẢN THẢO       45
ĐỀ TẶNG MẸ ĐÁNG KÍNH        45
AGNÈS DE JÉSUS     45
Bản thảo “B”      272
THƯ VIẾT CHO         272
SƠ MARIE DU SACRÉ-COEUR 272
BẢN THẢO C    297
BẢN THẢO       298
ĐỀ TẶNG MẸ ĐÁNG KÍNH        298
MARIE DE GONZAGUE    298
Chú thích về phê bình văn bản     364
MỤC LỤC 368

ài Đồng Giêsu     3
- Lời tựa     8
- Các ký hiệu sử dụng trong sách này     12
- Nhập để tổng quát     20
- Chú thích về việc thiết lập bản văn      41

Bản thảo A
- Bản thảo đề tặng Mẹ Đáng Kính Agnès de Jésus   45
Câu truyện tuổi xuân của một bông hoa nhỏ - Chúa ưu ái con đặc biệt - lòng nhân từ của Chúa - Song thân tuyệt vời - Con bé tinh quái có một không hai - Các chị lớn của con - Chị Céline yêu dấu - Các khuyết điểm của con - Tính tình của con - Con chọn tất cả - Mấy tên quỷ con ghê tởm.
Mẹ mất - Pauline sẽ là mẹ của con - Ở Buissonnets - Các cuộc dạo chơi với Ba - Bố thí cho kẻ khó - Xưng tội lần đầu - Các ngày lễ và Chúa Nhật - Một lối giáo dục vừa cương vừa nhu - Buổi phát thưởng  - Người che mặt - Vệt nắng vàng.
Đời học trò lại Tu Viện - Hai ẩn sĩ tí hon - Céline rước lễ lần đầu - Pauline sắp đi mất rồi - chứng bệnh lạ - Pauline mặc áo dòng - Các thiên thần hữu hình - Hai cậu mợ của con - Lòng tin và tình thương của Đức Vua yêu dấu - Đức Mẹ mỉm cười với con - Con đã chịu nhiều đau khổ.
Trở thành một vị thánh lớn - Bước đầu vào đời - Con suy nghĩ - Các bài giảng của Cha Domin - Nụ hôn đầu tiên của Giêsu - Hoà tan tình yêu - Đau khổ thu hút con - Chúa Thánh Thần viếng thăm - Có tiến sĩ tí hon - Quả tim nhạy cảm và đa tình - Dụ ngôn người thầy thuốc tốt lành - Căn bệnh bối rối - Tại nhà Cô Papineau - Con Đức Mẹ - Chị Marie, chỗ dựa duy nhất của hồn con - Kỳ nghĩ ơ Trouville - Một cửa hàng thực sự - Chị Léonie tại nhà dòng Clara - Chị Marie tại nhà dòng Cát Minh.
Ơn Lễ Giáng Sinh - Cơn khát của Giêsu - Một kẻ tử tội: Pranzini, đứa con đầu lòng của con - Gương Chúa Giêsu và Arninjon - Các chân lý lớn của đạo - Trên căn chòi gác - Giêsu hướng đạo duy nhất - Lý tưởng của hạnh phúc - Tin tưởng mãnh liệt - Cậu Guérin không cho phép - Phép lạ đã được ban - Sự chống đối của Cha Bề Trên - Những rung động chưa từng thấy - Các tâm hồn trẻ thơ - Viếng thăm Đức Giám mục - Từ khi có trí khôn - không hết hy vọng.
Con đã hiểu ơn gọi mình - Khởi hành từ Lisieux - Đức Mẹ Chiến Thắng - Thuỵ Sĩ - Ý - Nhà Thánh ở Loretta - Hí trường Colisê - Các hang toại đạo - Thánh Anê và Thánh Cécilia - Thăm Vatican - Dưới chân Đức Thánh Cha - Món đồ chơi bé nhỏ - Napôli và Pompêi - Assisi - Florence - Trở về Pháp - Quả bóng nhỏ - Ba tháng chan chứa ân sủng.
Vào Dòng Cát Minh - Mọi thứ làm con say mê - Gai nhiều hơn hoa hồng - Xưng tội với Cha Pichon - Con sẽ còn đơn sơ hơn nữa - Thánh Nhan - Hy tế trên bàn thờ - Con mặc áo dòng - Chiến thắng của Đức Vua của con - Chén cay đắng nhất - Thời kỳ đính ước của con - Các nhân đức bé nhỏ - Bộ áo cưới.
Tĩnh tâm tuyên khấn - Cám dỗ hoài nghi về ơn gọi của con - Dòng sông ân sủng tràn bờ - Lễ nghi đội lúp - Mẹ Geneviève - Giọt nước mắt cuối cùng của một vị thánh - Dịch cúm - Hành vi tạ ơn - Cuộc tĩnh tâm với Cha Alexis - Mẹ Agnès được chọn - Tất cả chỉ là phù vân - Các bông hoa - Yêu hoa - Cha mất - Celine vào dòng - Thánh Gioan Thánh Giá - Trên hết là sách Tin Mừng - Hành vi hiến dâng - Câu truyện này sẽ kết thúc ra sao - Ý nghĩa các huy hiệu của con.

Bản thảo B
- Thư viết cho Sơ Marie du Sacré-Coeur         272
Một kỷ niệm về cuộc tĩnh tâm - Lòng tín thác của trẻ thơ - Đỉnh núi tình yêu - Các bí mật của Giêsu - Dông tố gầm thét - Giấc mơ đêm 10-5-1896 - Em thấy thật có Cõi Trời - Những hành động anh hùng nhất - Ơn gọi của em: Tình Yêu - Tình Yêu đáp trả Tình Yêu - Con cái Hội Thánh - Tung hoa - Tác động nhỏ mọn nhất - Con chim nhỏ - Không gì có thể làm nó sợ - Phượng Hoàng Thần Linh - Vực thẳm bốc lửa tình yêu.

Bản thảo C
- Bản thảo đề tặng Mẹ Đáng Kính Marie de Gonzague     298
Dưới cái nóng thiêu đốt ban trưa - Nước tác sinh của sự hạ mình - Bông hoa nhỏ - Ngọn núi và hạt cát - Cái thang máy - Sống bé mọn - Coi tập viện - Đau khổ giữa niềm vui - Cơn ho ra máu  đầu tiên - Bàn ăn của những người tội lỗi - Bóng đêm dày đặc - Hành vi đức tin - Yêu đến chết vì yêu - Con không sợ sống lâu - Cùng giữ gìn  chiến đấu - Con đã chấp nhận kiếp đoạ đày - Tiếng gọi truyền giáo - Lời khấn vâng lời.
Đức ái là gì - Yêu như Giêsu - Chớ xét đoán - Nụ cười dễ thương nhất của con - Đào vi thượng sách - Cho đi và để người ta lấy mất - Từ bỏ quyền lợi - Bác ái trong hành động - Cho vay mà không mong trả lại.
Con lừa mang vật thánh - Bữa tiệc của người Pharisêu - Cây cọ nhỏ - Tình yêu đích thực - Trong vòng tay Chúa Nhân Lành - của ăn thiêng của tập sinh - Người ngài lính canh - Các vũ khí vô địch của con - Cầu nguyện - Giấm và đường - Bánh tăng lực của sự hạ mình - Các tâm hồn bất toàn - Sơ Saint Pierre - Gió xuân nhẹ - Suy niệm về đau khổ - Cậu em trai đầu tiên của con - Viết vì vâng lời - Nhà truyền giáo thứ hai - Hãy kéo em đi, đôi ta cùng chạy - Các lời của Người, ôi Giêsu - Mượn chính tình yêu của Người - Sắt và lửa - Hương thơm của Người Yêu.

- Chú thích về phê bình văn bản   364

-------------------------------
 

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây