Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 3-A Bài 101-150: Chúa Giêsu - Nguồn Nước Hằng Sống ---------------------------------- Phúc Âm: Ga 4, 5-42 (bài dài): "Mạch nước vọt đến sự sống đời đời".
Có lẽ trước tiên chúng ta thắc mắc: tại sao đang trong mùa Chay năm A, với bài Tin Mừng Mát-thêu, mà Phụng vụ Lời Chúa lại sử dụng bài Tin Mừng của thánh Gio-an liên tiếp cho ba Chúa Nhật III, IV và V? Là vì Giáo Hội muốn dùng những bài ấy cho Nghi thức Sát hạch các dự tòng về chân tính của Chúa Giê-su. “Chúa Giê-su là Đấng nào?” là chủ đề của mùa Chay năm A. Như chúng ta đã thấy, Chúa Giê-su bị cám dỗ về căn tính (tuần I), rồi ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a đã làm sáng tỏ sứ mệnh của Chúa Giê-su trong cuộc Chúa Hiển dung (tuần II). Tiếp đến, với Tin Mừng Gio-an, chân tính ấy được trình bày dưới ba danh hiệu: Nước hằng sống (tuần III), Ánh Sáng trần gian (tuần IV), Sự Sống Lại và Sự Sống (tuần V). Qua câu chuyện Chúa Giê-su đàm thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp, hôm nay chúng ta có dịp thấy mầu nhiệm Chúa Giê-su là Ánh Sáng trần gian được tỏ lộ một cách tuyệt vời.
Câu chuyện Chúa gặp người phụ nữ Sa-ma-ri có những tư tưởng quá phong phú và cũng không phải là xa lạ với hầu hết chúng ta. Nhưng có lẽ điều làm chúng ta thích thú nhất chính là tính năng động và khai mở dần dần của những đặc điểm và danh hiệu được hiểu về Chúa Giê-su, để cuối cùng đưa chúng ta vào tâm điểm: Chúa Giê-su là mạch nước đem lại sự sống đời đời. Mở đầu câu chuyện là lời thách đố của Chúa Giê-su: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống”. Kế tiếp, Chúa Giê-su mời gọi người phụ nữ đi vào cuộc khám phá lời hứa của Người: Nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời. Đây là sơ lược diễn tiến cuộc tranh luận giữa Chúa và người phụ nữ Sa-ma-ri. Trước hết chị ta lấy tổ phụ Gia-cóp ra mà “hù” Chúa Giê-su, nhưng rồi sau lời Chúa hứa ban nước hằng sống, thì chị nhận ra rằng Chúa Giê-su còn “lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp” nữa!
Tiếp theo là khám phá danh hiệu “ngôn sứ”. Sau khi Chúa nói cho chị biết về quá khứ và hiện tại chị muốn giấu kín mọi người, là chị đã có năm đời chồng và người đàn ông hiện thời cũng không phải là chồng của chị, chị đã không ngần ngại tuyên xưng: “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ”.
Cuộc tìm hiểu chân tính của Chúa chuyển sang lãnh vực thờ phượng. Chị vẫn hãnh diện với việc thờ phượng Thiên Chúa mà tổ tiên chị đã truyền lại cho con cháu tại núi Ga-ri-dim, một ngọn núi lớn hơn cả “đồi Xi-on” và bao quát một miền rộng lớn của xứ Sa-ma-ri. Chúa không tranh cãi, nhưng Người chỉ cho chị thấy chiều kích căn bản của việc thờ phượng không căn cứ vào nơi chốn như tại Giê-ru-sa-lem hay trên Ga-ri-dim, mà là thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật. Nhờ sự soi sáng tuyệt vời này, chị nhận ra Chúa Giê-su dường như là Đấng Mê-si-a, điều chính Người xác nhận với chị: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây”. Lời xác nhận này đã làm cho chị mạnh mẽ và can đảm đi rao truyền cho mọi người trong thành biết Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, để khi được tiếp xúc với Người thì chính họ đều biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian!
Sống sứ điệp Tin Mừng
Những bước mặc khải về chân tính Chúa Giê-su qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay rất là sống động. Chúa vẫn tiếp tục tỏ ra cho mỗi người chúng ta biết về con người và sứ mệnh của Chúa, với mỗi người một cách, không nhất thiết qua “cuộc tranh cãi” giống như trường hợp người phụ nữ Sa-ma-ri. Nhưng chắc chắn có một phương thức chung dành cho mọi người, đó là Chúa cho chúng ta biết về Người qua những sinh hoạt thường ngày của chúng ta, giống như người phụ nữ Sa-ma-ri đi kín nước tại giếng Gia-cóp. Chúa nói với chúng ta về Người khi chúng ta cầu nguyện, đọc và suy niệm Kinh Thánh. Chúa cho chúng ta biết về Người trong những việc bổn phận hằng ngày, trong những thử thách khó khăn. Chúa cho chúng ta nhận ra Người nơi những anh chị em và những người nghèo khổ yếu đau cần giúp đỡ. Tóm lại, Chúa muốn khơi lên trong lòng chúng ta một mạch nước đem lại sự sống đời đời!
Lộ trình phụng vụ Mùa Chay năm A dẫn đưa chúng ta sống con đường của các anh chị em dự tòng đang chuẩn bị lãnh nhận bí tích Rửa Tội, làm sống dậy trong chúng ta ơn Thánh Tẩy.
Giáo Hội luôn kết hợp lễ Vọng Phục Sinh với việc cử hành bí tích Rửa tội trong đó hiện thực mầu nhiệm cao cả của cuộc sống kitô: chết đi cho tội lỗi, tham dự vào sự sống mới trong Chúa Kitô phục sinh và nhận lấy Chúa Thánh Thần, Ðấng đã cho Ðức Giêsu từ cõi chết sống lại (x. Rm 8,11).
Thế nên, Chúa Nhật thứ nhất gọi là Chúa Nhật cám dỗ, vì giới thiệu các cám dỗ Chúa Giêsu phải chịu trong sa mạc, và mời gọi chúng ta đứng về phía Chúa Giêsu để chống lại các cám dỗ. Chúa Nhật này sau khi nghe chứng tá của các cha mẹ đỡ đầu, Giáo Hội cử hành việc tuyển chọn những người sẽ được nhận lãnh bí tích Rửa Tội trong đêm Vọng Phục Sinh.
Chúa Nhật thứ hai gọi là Chúa Nhật của tổ phụ Abraham và Chúa Nhật Hiển Dung. Bí Tích Rửa tội là bí tích của đức tin và thiên chức làm con Thiên Chúa: theo Abraham tin tưởng vào Chúa và ra đi để trở nên con cái Chúa.
Bước vào Chúa Nhật thứ ba, chúng ta nghe lại cuộc đối thoại nổi tiếng của Ðức Giêsu với người thiếu phụ Samaria, được tường thuật bởi Thánh Sử Gioan. Người thiếu phụ hằng ngày đi lấy nước từ một giếng nước cổ xưa, có từ thời của tổ phụ Giacóp. Và ngày hôm ấy, chị gặp Ðức Giêsu đang ngồi trên bờ giếng, mệt mỏi sau một chặng hành trình đường xa (x. Ga 4,5-42). Chúa Giêsu chính là nước hằng sống, Ngài làm cho con người đỡ khát, nước Chúa Thánh Thần. Chúa Nhật này Giáo Hội cử hành việc bỏ phiếu các tân tòng lần thứ nhất và trong tuần trao cho họ Kinh Tin Kính.
Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống
Vào những thế kỷ đầu của Kitô giáo, Các Giáo phụ đã sớm nhận ra nới « nước hằng sống » biểu tưởng của phép Rửa tội, mà Đức Kitô là chính Nguồn Nước ấy (9). Chúa Giêsu xin người đàn bà xứ Samaria nước uống, không phải lý do khát về thể lý cho bằng khát đức tin và khát sự sống đời đời. Đấng Cứu Thế giả vờ khát nước đến xin người đàn bà nước để trao ban thứ nước ân sủng khỏi khát đời đời. Đó chính là nguồn nước mà Tin Mừng nói tới khi Ngài xin nước của người đàn bà xứ Samaria… Thực ra, nguồn nước ấy không bao giờ cạn, Đấng là nước hằng sống không thể uống nước bị ô nhiễm ở vùng đất này. Câu hỏi được đặt ra: Phải chăng Đức Kitô khát nước ?
Vâng, Ngài khát, nhưng Ngài không khát nước trên mặt đất này, hay khát thức uống của con người, mà khát sự cứu chuộc nhân loại. Thánh Ephrem viết: “Khi khát nước, Chúa chúng ta đã ngó đầu vào miệng giếng; Ngài xin người đàn bà nước uống. Từ giếng nước, Ngài đã câu được một tâm hồn. Nhưng tâm hồn ấy đã lại câu tiếp được cả dân trong thành” (Thánh Thi Giáng sinh số 4, 43-44).
Tại sao Chúa Giêsu lại xin người đàn bà xứ Samaria nước uống khi bà đến kín đầy vò nước, không những thế, Ngài còn khẳng định rằng, Ngài có thể trao ban mạch nước dồi dào hơn từ giếng thiêng liêng nếu ai đến xin Ngài ?
Câu trả lời là vì dân Samaria thờ ngẫu tượng, nên Ngài khát đức tin của người đàn này. Chúa Giêsu nói: “Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà: ‘xin cho toi uống nước’, thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống (...) Tất cả những ai uống nước này sẽ còn khát: nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa ; vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời” (Ga 4, 10-14). Đúng như lời Kinh Tiền Tụng thánh lễ hôm nay diễn tả : “Lạy Chúa là Cha chí thánh ... Khi người phụ nữ xứ Sa-ma-ri cho nước uống, Người đã ban cho bà đức tin. Vì Người tha thiết ước mong bà tin vững mạnh, nên đã đốt lên trong lòng bà ngọn lửa yêu mến Chúa…”
Hình ảnh người tân tòng
Người đàn bà xứ Samaria là hình ảnh của người tân tòng, còn đang chịu sự ràng buộc của ma quỷ, năm đời chồng bà đã từ bỏ, người đàn ông thứ sáu đang sống với bà là tượng trưng. Giếng nước Giacóp thể hiện tiệc cưới của tâm hồn bà cử hành với Thiên Chúa đã được thanh tẩy bằng nước Rửa tội. Theo M. Dulaey thì: “Giữa thế kỷ thứ III, Origène giải thích rằng, giếng nước này là dấu chỉ giao ước giữa Thiên Chúa với dân Người và hiệp nhất tâm hồn với Thiên Chúa.”, từ nay bà tuyên xưng đức tin trước mặt mọi người và đi loan báo Đức Kitô cho dân làng bà, kết quả là: “Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng rằng: Ông ấy đã nói với tôi mọi việc tôi đã làm” (Ga 4, 39). Theo Origène “Vị Hôn Phu đích thực là Chúa Kitô (Ga 13, 181). Một khi người đàn bà này tìm thấy Ngài, bà liền chạy về loan báo cho dân làng biết: kể từ Origène, người đàn bà này là hình ảnh của người kitô hữu tuyên xưng đức tin của mình.”
Nguồn suối cứu độ là chính Đức Kitô
Đức Kitô, Đấng ngồi nghỉ trên miệng giếng chính là nguồn nước, từ cạnh sườn bên phải Ngài, tuôn trào dòng nước xót thương; một phụ nữ có sáu đời chồng đã được tẩy sạch bằng dòng nước hằng sống ấy. Thật ngưỡng mộ biết bao: một người phụ nữ nhẹ nhàng đến giếng Samaria kín nước, bà lấy nước từ dòng nước Giêsu ! Tìm được nước, bà ra đi với sự tiết hạnh. Ngay lập tức bà xưng thú các lỗi mà Chúa Giêsu ám chỉ, bà nhận ra Đức Kitô và loan báo Đấng Cứu Thế. Bà để vò nước xuống, mang ơn sủng vào thành ; vai nhẹ bớt, bà trở về tràn đầy sự thánh thiện… Đúng là ai đến trong tội lỗi sẽ trở về với sứ mạng tiên tri.
Nước hằng sống này đối với chúng ta là nguồn suối dâng trào sự sống đời đời, nước này không phải là nước hòa với Máu Chúa Kitô, đã chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu trên cây Thánh giá đó sao ? Đây không phải là các bí tích của Giáo hội mà Phép rửa trình bầy mầu nhiệm của nước ấy, để ám chỉ rằng nước đó phát sinh từ cái chết cứu độ của Đấng Cứu Thế đó hay sao? Trong mọi trường hợp, các Giáo phụ thấy nước tuôn chảy từ tảng đá do Môisen đập ra (Xh 17, 3-7) là hình ảnh tiên trưng của nước chẩy ra từ cạnh sườn Đấng Cứu Thế bị đóng đinh.
Mỗi người chúng ta đều có thể nhìn thấy chính mình nơi hình ảnh của người thiếu phụ Samari: Ðức Giêsu chờ đợi chúng ta, nhất là trong thời điểm của Mùa Chay này, để đối thoại với chúng ta, để nói với con tim của chúng ta. Chúng ta hãy dừng lại trong một khoảnh khắc thinh lặng, tại căn phòng của chính chúng ta, tại một ngôi thánh đường, hay tại một nơi nào đó trong ngôi nhà của chúng ta. Chúng ta hãy lắng nghe âm vang lời Ngài nói với chúng ta: “Nếu bạn nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban... ”
Lạy Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, xin giúp chúng con để chúng con không đánh mất cơ hội gặp gỡ này, là nơi chúng con có thể kín múc nguồn hạnh phúc đích thực cho cuộc đời chúng con. Amen.
“Niềm Vui Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và toàn thể đời sống của những người gặp gỡ Chúa Giêsu, những người để cho mình được Người cứu độ và giải thoát khỏi tội lỗi, sầu khổ, trống rỗng nội tâm và cô lập” ( Tông Huấn “Niềm Vui Tin Mừng”, số 1 ).
Trong cuộc sống hàng ngày, ai ai cũng có những cuộc gặp gỡ khác nhau. Có những lần gặp gỡ như gió thoảng mây trôi… thoáng qua không để lại dấu ấn nào. Và cũng có những lần gặp gỡ đã làm thay đổi cả một đời người.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samari bên giếng nước Giacóp. Nhân việc xin nước uống, Chúa đã hứa ban nước trường sinh cho chị.
1. “Cho tôi xin nước uống" ( Ga 4, 7 )
Bài Tin Mừng kể lại một cuộc gặp gỡ nhìn qua rất bình thường giữa một khách bộ hành khát nước và một phụ nữ đi múc nước. Người phụ nữ Samari mỗi ngày ra giếng kín nước. Tổ phụ Giacóp đã phát hiện ra giếng nước, nơi mà sau này người ta đặt tên là giếng Giacóp, như một tài sản quý giá cho con cháu ông đến đây lấy nước để uống và sinh hoạt. Giếng Giacóp sâu 39m nên việc múc nước cho người và gia súc uống rất khó nhọc. Tại Palestina, một đất nước khô khan, cằn cỗi thì nước cũng quý hóa như lúa, như gạo, nước là nguồn sống cơ bản của con người. Dân Israel ngày xưa đi trong sa mạc, không có nước uống, đã cảm thấy cái nguy sắp phải chết, nên kêu trách ông Môsê, bài đọc 1 kể lời trách móc đó: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai Cập để làm gì ? Có phải là để chúng tôi, con cái chúng tôi và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không ?”
Thế nhưng, cuộc gặp gỡ bên bờ giếng Giacóp thật lạ lùng. Sau một cuộc hành trình xa dưới nắng nóng, mệt mỏi, Chúa Giêsu khát nước, đến giếng nước và gặp người kín nước. Giếng nước có liên hệ tới vài câu chuyện trong Cựu ước. Ở miền Cận Đông thời xưa, giếng nước là nơi tốt nhất để gặp gỡ. Sách Sáng Thế cho hai ví dụ xảy ra ở giếng nước đều đánh dấu một biến cố quan trọng trong lịch sử dân Israel: người lão bộc của ông Abraham gặp cô Rêbêca vào trao nhẫn cưới, hỏi vợ cho Ixaác ( St 24, 10-27 ); Ông Giacóp và cô Rakhen gặp nhau tại giếng nước và nên duyên vợ chồng ( St 29, 1-14 ).
Chúa Giêsu mở đầu cuộc đối thoại bằng một lời nài xin. Xin nước uống là tạo dịp gặp gỡ, là bắc một nhịp cầu qua vực sâu ngăn cách hai dân tộc Samari và Do Thái vốn dĩ đã thù ghét và xa lánh nhau từ ngàn xưa. Chẳng ai hiểu nổi một bậc thầy như Chúa Giêsu lại nói chuyện và xin nước một phụ nữ Samari. Chúa Giêsu đã phá bỏ những hàng rào ngăn cách để xây dựng một cuộc đối thoại đích thực và bình đẳng.
Khát nước và xin nước uống là một điều tự nhiên bình thường. Nhưng ở đây không phải Chúa khát nên xin nước uống mà chỉ là dịp để Ngài đề cập đến một vấn đề quan trọng hơn. Chúa muốn nói cho người phụ nữ biết: chính chị là người đang khát, và Chúa cũng muốn nói cho chị biết: Ngài là ai, là người sẽ làm cho chị hết khát: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa”.
Từ việc xin nước uống, Chúa Giêsu đã cho người phụ nữ Samari biết Ngài là Đấng Cứu Thế khao khát nhân loại “Ngài là người đến tìm chúng ta trước. Ngài xin ta cho Ngài nước uống, vì Thiên Chúa khao khát chúng ta” ( GLCG # 2560 ).
2. “Nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” ( Ga 4, 14 ).
Những cuộc gặp gỡ đối thoại với Nicôđêmô, Matta và Maria, Lêvi, Dakêu… Chúa Giêsu đều giúp họ thay đổi cuộc đời.
Bài tường thuật cho thấy một quá trình thay đổi nhận thức của người phụ nữ về Chúa Giêsu. Trước hết chị ta nhận thấy Ngài là một khách bộ hành lạ mặt, một người Do Thái ( câu 9 ). Nhưng khi Chúa Giêsu tỏ ra thấu hiểu cuộc đời riêng tư của chị, thì chị nhận ra đó là một vị Ngôn Sứ ( câu 19 ). Cuối câu chuyện, chị được biết thêm Ngài là Đấng Kitô ( c. 25–26 ). Sau đó dân làng Samari tuyên xưng “Người thật là Đấng cứu độ trần gian” ( c. 42 ). Người phụ nữ Samari cũng thay đổi trong ngôn ngữ khi nói chuyện với Chúa. Lúc đầu chị gọi Chúa Giêsu là Ông, kế đó là thưa Ngài, rồi từ việc nhận thức Ngài là một tiên tri đến Đấng Thiên Sai.
Khi đã khám phá được con người của Chúa Giêsu, người phụ nữ Samari cũng khám phá ra được thứ nước mà Ngài muốn ban tặng. Lúc đầu, khi nghe nói đến nước, người phụ nữ nghĩ tới thứ nước trong giếng Giacóp. Nhưng rồi, từ thứ nước bên ngoài ấy, Chúa Giêsu đã dẫn người phụ nữ đi tìm thứ nước nằm ngay trong lòng con người, thứ nước đem lại sự sống đời đời. Thứ nước ấy chính là Thần Khí và Sự Thật.
Giống như Philipphê khi đã gặp được Chúa Giêsu liền đi tìm Nathanaen để loan báo Tin Mừng; bà Maria Magđala đã vội vã đi tìm các môn đệ và loan báo là đã gặp thấy Chúa; người phụ nữ Samari không còn quan tâm đến giếng nước và vò nước nữa, chị chạy một mạch về làng, thông báo về nước hằng sống vừa khám phá: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao ?” Mọi người tin lời chị, họ đến gặp Chúa Giêsu và họ cũng tin Ngài. Sau khi gặp Chúa, người phụ nữ đã tin và làm chứng cho Ngài giữa những người Samari trong làng. Chị đã dẫn đưa bà con trong làng đến gặp Đức Kitô, nguồn nước hằng sống. Dân làng sau khi gặp Chúa, đã xin Ngài ở lại với họ, và hân hoan tuyên xưng rằng: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”.
Giếng nước Giacóp là nơi gặp gỡ kỳ diệu làm biến đổi dân chúng cả làng Samari. Giếng nước đã là nguồn gợi hứng cho một phương pháp truyền giáo rất hiệu quả. Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII dùng hình ảnh Xứ Đạo với giếng nước đầu làng, từ nơi ấy mọi người có thể giải khát, tìm được sự tươi mát của Tin Mừng.
Sứ điệp Thượng Hội Đồng Giám Mục Thế Giới tháng 10 năm 2012, có đề nghị mô hình giếng nước đầu làng. Các nghị phụ đã liên hệ hình ảnh Chúa Giêsu bên bờ giếng Giacóp để nói về trách nhiệm của Giáo Hội hôm nay trước một thế giới đang khát khao chân lý. Giáo Hội có sứ mạng hướng dẫn và giới thiệu Chúa Giêsu là nguồn nước hằng sống. Chỉ có Ngài mới có thể lấp đầy cơn khát của nhân loại. “Như Chúa Giêsu bên giếng nước Xykha, Giáo Hội cũng cảm thấy phải ngồi cạnh những người nam nữ thời nay, để làm cho Chúa hiện diện trong cuộc sống của họ, nhờ đó họ có thể gặp Chúa, vì chỉ mình Ngài mới là nước ban sự sống vĩnh cửu đích thực” ( số 1 ).
Trong Thánh Lễ ngày 18.5.2003, tại Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sàigòn, Đức Hồng Y GB. Phạm Minh Mẫn ban huấn từ cho các vị đang phục vụ trong các Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ toàn Giáo Phận, ngài mong muốn Giáo Xứ cũng phải trở nên như một giếng nước đầu làng.
3. “Thờ phượng trong thần khí và sự thật” ( Ga 4, 23 )
Trong bài đọc II, Thánh Phaolô so sánh ơn Chúa Thánh Thần với một thứ nước kỳ diệu mà Thiên Chúa đổ vào lòng các tín hữu. Đó là Thánh Thần Tình Yêu. Thánh nhân viết: “trông đợi như thế ( nghĩa là trông đợi hưởng vinh quang với Chúa ), ta sẽ không thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần Người ban cho ta”.
Nước Hằng Sống mà Chúa Giêsu ban tặng chính là Thánh Thần Tình Yêu. Từ nay nhân loại thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật. Để giải thích điều này, Chúa Giêsu nói: “Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật”. Nếu Thiên Chúa là thần khí, thì để gặp Ngài, con người cũng phải dùng thần khí của mình tức tâm hồn mình để gặp Ngài. Vì chỉ có thần khí mới gặp được và hòa nhập được với thần khí. Như vậy nghĩa là phải gặp Ngài trong chính tâm hồn mình.
Thật vậy, nơi dễ gặp gỡ Thiên Chúa nhất, chính là cung lòng của mỗi người chúng ta. Không gì linh thánh bằng con người, hay tâm hồn con người, vì “con người là hình ảnh của Thiên Chúa” ( St 1, 26-27; 9, 6; Kn 2, 23 ). Và cũng không nơi nào linh thiêng bằng cung lòng con người: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em” ( 1Cr 3, 17; 6, 19 ). Có gặp được Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình, thì mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong Thánh Thể, trong Nhà Thờ, trong tha nhân, trong thiên nhiên. Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình mà mình không gặp được, thì mong gì gặp được Thiên Chúa ở bên ngoài ?
Thánh Augustinô đã từng than thở: “Con đã tìm Chúa ở ngoài con, nên con đã không gặp được Chúa của lòng con”. Muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, còn phải gặp Ngài trong sự thật. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự thật, vì thế, người gian dối, không thành thật thì không thể gặp được Ngài.
Lời mạc khải của Chúa Giêsu bên giếng Giacóp mời gọi chúng ta hãy tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi. Thờ phượng “trong thần khí” là thờ phượng theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần; thờ phượng “trong sự thật” là thờ phượng với tâm tình kết hợp với Chúa Giêsu, Đấng là Đường là Sự Thật và là Sự Sống. Thờ phượng Chúa Cha, dưới tác động của Chúa Thánh Thần và được nuôi dưỡng bằng mọi chân lý đến từ Chúa Giêsu. Khi tụ họp với nhau hay khi làm việc thờ phượng cách riêng rẽ, chúng ta đều được Thánh Thần trợ giúp để có thể cầu nguyện, ngợi khen, thờ phượng, cảm tạ, tuyên xưng Chúa Kitô và Thiên Chúa.( x. Ep 5, 18-20; 6, 18; Rm 8, 26-27; Cl 3, 16-17 ).
Hãy tin vào Chúa Giêsu để lãnh nhận nước hằng sống, hầu mang lại sự sống đời đời là chính là Thánh Thần Tình Yêu của Thiên Chúa. Tin là gặp gỡ Chúa Giêsu như người phụ nữ Samari và những người đồng hương của chị đã gặp và đã khám phá ra nguồn nước trường sinh. Niềm tin vào Chúa Giêsu là điều kiện cần thiết để được Ơn Cứu Độ, và niềm tin ấy là hoa quả của Thánh Thần ( x. Ga 5, 22; 1Cr 1, 9 ). Con người có niềm tin viên mãn cũng là con người đầy Thánh Thần ( Cv 6, 5; 11, 24 ). Sứ vụ của Thánh Thần là củng cố, làm cho niềm tin phát triển và trở nên viên mãn. Thánh Thần làm cho chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô là Con Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết khao khát, tìm kiếm và sống các mầu nhiệm Đức Tin trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
Khi ấy, Chúa Giêsu tới một thành gọi là Sykar thuộc xứ Samaria, gần phần đất Giacóp đã cho con là Giuse, ở đó có giếng của Giacóp. Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghỉ trên miệng giếng, lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu.
Một người đàn bà xứ Samaria đến xách nước, Chúa Giêsu bảo: "Xin bà cho tôi uống nước" (lúc ấy, các môn đệ đã vào thành mua thức ăn). Người đàn bà Samaria thưa lại: "Sao thế! Ông là người Do-thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ Samaria?" (Vì người Do-thái không giao thiệp gì với người Sa-maria).
Chúa Giêsu đáp: "Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà: "Xin cho tôi uống nước", thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống".
Người đàn bà nói: "Thưa Ngài, Ngài không có gì để múc, mà giếng thì sâu, vậy Ngài lấy đâu ra nước? Phải chăng Ngài trọng hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi, người đã cho chúng tôi giếng này và chính người đã uống nước giếng này cũng như các con cái và đoàn súc vật của người?"
Chúa Giêsu trả lời: "Ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời". Người đàn bà thưa: "Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát và khỏi phải đến đây xách nước nữa". Chúa Giêsu bảo: "Bà hãy đi gọi chồng bà rồi trở lại đây". Người đàn bà đáp: "Tôi không có chồng". Chúa Giêsu nói tiếp: "Bà nói "tôi không có chồng" là phải, vì bà có năm đời chồng rồi, và người đàn ông đang chung sống với bà bây giờ không phải là chồng bà, bà đã nói đúng đó".
Người đàn bà nói: "Thưa Ngài, tôi thấy rõ Ngài là một tiên tri. Cha ông chúng tôi đã thờ trên núi này, còn các ông, các ông lại bảo: phải thờ ở Giêrusalem".
Chúa Giêsu đáp: "Hỡi bà, hãy tin Ta, vì đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải ở trên núi này hay ở Giêrusalem. Các người thờ Ðấng mà các người không biết, còn chúng tôi thờ Ðấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ từ dân Do-thái mà đến. Nhưng đã đến giờ, và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn. Thiên Chúa là tinh thần, và những kẻ tôn thờ Người, phải tôn thờ trong tinh thần và trong chân lý".
Người đàn bà thưa: "Tôi biết Ðấng Messia mà người ta gọi là Kitô sẽ đến, và khi đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự". Chúa Giêsu bảo: "Ðấng ấy chính là Ta, là người đang nói với bà đây".
Vừa lúc đó các môn đệ về tới. Các ông ngạc nhiên thấy Ngài nói truyện với một người đàn bà. Nhưng không ai dám hỏi: "Thầy hỏi bà ta điều gì, hoặc: tại sao Thầy nói truyện với người đó?" Bấy giờ người đàn bà để vò xuống, chạy về thành bảo mọi người rằng: "Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng ông đó là Ðấng Kitô?" Dân chúng tuôn nhau ra khỏi thành và đến cùng Ngài, trong khi các môn đệ giục Ngài mà rằng: "Xin mời Thầy ăn". Nhưng Ngài đáp: "Thầy có của ăn mà các con không biết". Môn đệ hỏi nhau: "Ai đã mang đến cho Thầy ăn rồi chăng?" Chúa Giêsu nói: "Của Thầy ăn là làm theo ý Ðấng đã sai Thầy và chu toàn công việc Ngài. Các con chẳng nói: còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt đó ư? Nhưng Thầy bảo các con hãy đưa mắt mà nhìn xem đồng lúa chín vàng đã đến lúc gặt. Người gặt lãnh công và thu lúa thóc vào kho hằng sống, và như vậy kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Ðúng như câu tục ngữ: Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai các con đi gặt những gì các con không vất vả làm ra; những kẻ khác đã khó nhọc, còn các con thừa hưởng kết quả công lao của họ".
Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng rằng: "Ông ấy đã nói với tôi mọi việc tôi đã làm". Khi gặp Người, họ xin Người ở lại với họ. Và Người đã ở lại đó hai ngày, và vì nghe chính lời Người giảng dạy, số những kẻ tin ở Người thêm đông hẳn, họ bảo người đàn bà: "Giờ đây, không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Ðấng Cứu Thế". Suy Niệm:
Mùa Chay muốn giúp đỡ chúng ta canh tân ơn gọi làm con Chúa và chuẩn bị các tân tòng đón nhận ơn tái sinh. Phụng vụ hôm nay đã chọn các bài đọc để làm công việc trên. Ðặc biệt bài sách Xuất hành và bài Tin Mừng đã trực tiếp gợi đến Nước Rửa tội. Còn bài Thánh thư cũng phải hiểu theo Bí tích Thánh Tẩy. Thế nên Chúa nhật này là Chúa nhật Nước. Và chúng ta phải suy nghĩ về Nước trong Cựu Ước nơi Tân Ước và tại Giếng Rửa tội. A. Nước Trong Bài Sách Xuất Hành
Cựu Ước có rất nhiều bản văn nói đến Nước. Và điều đó cũng không có chi lạ. Dân Chúa đã từng sống lâu năm trong hoang địa; và ngay đất chảy sữa và mật mà Chúa ban cho Dân cũng nằm trong vùng cát đá và khô cạn. Trong bối cảnh đó, Nước dễ trở thành một chủ đề năng gặp trong suy tưởng. Ấy là chưa kể việc các dân tộc chung quanh luôn có khuynh hướng thần hóa nước, coi mùa lụt mùa khô là những dịp thần giận dỗi và tức bực. Các tác giả Thánh Kinh không bao giờ nghĩ như vậy và cực lực bài xích khuynh hướng tà giáo. Nước luôn luôn chỉ là một tạo vật nằm trong tay Chúa. Ðôi khi Người dùng Nước để đánh phạt hoặc cho Nước dâng thành hồng thủy phủ lấp tất cả mặt địa cầu tội lỗi, hoặc không cho mưa rơi để dân tội lỗi ăn năn thống hối. Nhưng thông thường hơn, Nước được coi như là nhân tố cứu sống. Nước đã có mặt trong việc tạo dựng vũ trụ và loài người. Nước tưới vườn Êđen thành địa đàng trần gian. Nước làm cho vạn vật sinh sôi nảy nở. Ðặc biệt, Nước gợi lên Ơn Chúa cứu độ. Không những người công chính được sánh ví như cây mọc bên suối nước, trổ sinh hoa quả đời sống tốt lành; mà nhất là nhờ Nước Biển Ðỏ và Nước sống Yorđan dựng lên thành tường, Dân Chúa đã thoát ách nô lệ và đi vào Hứa địa. Chúa lại hứa đến thời cứu thế, Nước sẽ chảy ra từ hông đền thờ mới làm vạn vật và loài người sống lại trong ân sủng.
Tuy nhiên chúng ta hãy dừng lại trong bài sách Xuất hành hôm nay. Tuy không phải là bản văn Cựu Ước hay nhất nói về Nước, nhưng cũng là một trong vài ba đoạn quan trọng hơn cả. Ngày ấy dân chúng khát nước. Họ đang ở giữa sa mạc, nên họ có càm ràm, tưởng cũng dễ hiểu. Tuy nhiên thái độ của họ đã có một ý nghĩa khác. Họ không khẩn nài cầu xin một ơn cần thiết. Ngược lại họ bực tức, trách móc vì đã được giải phóng. Họ định ném đá Môsê, người đã lãnh đạo họ ra khỏi đất nô lệ. Họ không còn biết Chúa có ở giữa họ nữa hay không? Thánh Kinh nói rõ: họ đã thử thách Chúa ở nơi đó, điều mà Ðức Kitô, trong bài Tin Mừng Chúa nhật I Mùa Chay, bảo không được phép làm. Nói cách khác, ở Massah và Mêribah, dân đã phạm tội, đã mất đức tin, đã thất sủng với Chúa.
Người đã xử thế nào? Giọng Người êm ái làm sao! Người dùng Môsê ban Nước cho Dân. Người đứng ở núi Horeb bảo ông đập đá để Nước chảy ra cho Dân uống. Nhưng ở đây cũng chú ý. Người bảo Môsê cầm cây gậy đã đập Nước Biển Ðỏ để nó rẽ ra cho Dân đi qua, rồi sau khép lại giết hết quân quốc Aicập. Cây gậy đã giải thoát Dân nay lại cứu sống Dân. Nước ở đá chảy ra để Dân uống không phải là không có tương quan gì với Nước Biển Ðỏ đã cứu Dân, vì ít ra cây gậy kia cũng nhắc lại cho những người uống nước hôm nay nhớ đến ngày Chúa đã giải thoát họ khỏi đất nô lệ. Vậy nếu cuộc vượt qua Biển Ðỏ thường được dùng để nói về Ơn Nước Rửa tội trong mầu nhiệm Vượt qua của Ðức Kitô, thì câu chuyện Môsê đập đá để có Nước chảy ra cho Dân uống, cũng thích hợp để đưa tâm trí chúng ta nghĩ tới Ðức Yêsu Kitô là Môsê mới sẽ ban Nước cứu sống và cứu độ cho những ai đến gần Người. Ðề tài này, bài Tin Mừng hôm nay trình bày rất lợi khẩu trong câu chuyện Ðức Kitô với người phụ nữ xứ Samari. B. Nước Trong Bài Tin Mừng
Ðức Yêsu hôm ấy đi đường mệt. Vào lúc trưa Người đến ngồi nghỉ bên bờ giếng Yacob trong khi các môn đệ đi mua đồ ăn. Một phụ nữ Samari đến kín nước. Người nói với bà ta: "Cho tôi uống với". Một câu nói bất ngờ lọt tới tai người phụ nữ, nhưng lại là một tia nước vọt ra từ lòng Ðức Yêsu để chảy thành suối lênh láng, sẽ làm tươi mát tâm hồn rất nhiều người vào buổi trưa, tức là vào lúc đang khát khao ơn cứu độ.
Quả thật, từ câu nói trên, dần dần Ðức Kitô đưa người thiếu phụ từ hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, từ chỗ đầu tiên chỉ thấy người nói với mình là một người đi đường (c.6), một người Dothái kỳ lạ dám tiếp xúc và xin nước một người đàn bà Samari vốn kình địch với Dothái (c.9); đến chỗ phỏng chừng Người là Vị vượt lên trên cả sự mâu thuẫn giữa Dothái và Samari, tức là vào bậc tổ phụ của cả hai dân tộc ấy (c.12); rồi hơn nữa có lẽ Người là một tiên tri (c.19); và cuối cùng là Ðấng Thiên Sai đến dạy dỗ loài người mọi sự (c.25). Mà tất cả những khám phá phong phú ấy, người phụ nữ kia đã dần dần làm được nhờ lời xin một ngụm nước và nhờ câu chuyện cứ tiếp diễn về đề tài Nước.
Không phải nước uống thường, có giá trị như vậy đâu! Người phụ nữ thoạt nghe tưởng người lữ hành kia nói đến nước giếng mà mình sắp múc. Nhưng Người thì ngay từ đầu đã chỉ muốn nói đến Nước sinh sống. Nước ban sự sống mà chính Người đang có (c.10). Nước ấy sẽ nên mạch suối trong người uống có nước vọt đến sự sống đời đời (c.14); chứ không như nước tù trong giếng nước, uống vào chỉ khỏi khát trong chốc lát.
Người phụ nữ chắc phải ngơ ngác, chẳng hiểu nước sinh sống ấy là gì, nhưng bà cứ xin Người ban cho mình thứ nước kỳ lạ đó. Và như vậy là cá đã cắn câu. Ðức Kitô chỉ muốn bà thấy mình nghèo khó và cần đến Người. Người rót nước sinh sống của Người vào lòng bà: hãy đi gọi chồng bà, rồi đến đây! Lời nói đánh trúng trái tim bà, giải quyết vấn đề lòng thòng cho tới nay. Và được nhẹ nhõm lương tâm luân lý đạo đức rồi, bà đặt vấn đề tôn giáo về tôn thờ chân thật. Và lại được giải đáp thỏa đáng. Nước sinh sống của Chúa đã tháo gỡ tội lỗi và mê muội trong lòng bà, bởi vì Nước của Người là Lời có sức mạnh thần linh, là giáo lý ban Thánh Thần, là mạc khải cứu độ sẽ ban Thần Trí làm suối có nước vọt đến sự sống đời đời ở trong lòng người tin yêu.
Người phụ nữ Samari chưa nhận được đến mức độ đó. Tuy nhiên Lời Chúa đã gỡ rối và chiếu soi tâm hồn bà. Bà thấy hạnh phúc rồi, nên lợi dụng lúc các môn đệ đi mua bán về, bà thoăn thoắt bỏ đi quên cả vò nước; về làng chia sẻ nỗi mừng với mọi người.
Câu chuyện còn tiếp diễn, nhưng chúng ta hãy dừng lại để thấy rõ Nước mà Ðức Kitô ban cho người ta vượt xa hẳn Nước mà Môsê đã ban cho Dân Dothái. Một đàng chỉ giải khát thân thể; còn đàng kia giải thoát chính tâm hồn. Nhưng Nước Rửa tội còn quý hóa hơn cả thứ Nước mà Ðức Kitô vừa ban cho người phụ nữ. Người chỉ mới ban cho bà ta một vài lời hằng sống; chứ như khi ban Nước Rửa tội cho Hội Thánh, không những Người đã ban đức tin đầy đủ mà còn đổ xuống chính Thánh Thần làm mạch suối có nước vọt đến sự sống đời đời. Và điều đó chúng ta có thể hiểu qua bài Thánh Thư và câu chuyện tiếp nối ở trên. C. Nước Tại Giếng Rửa Tội
Mở đầu bài thư, thánh Phaolô khẳng định chúng ta đã được nên công chính nhờ đức tin... và hy vọng sẽ được thông phần vinh quang của Thiên Chúa... Hy vọng như vậy sẽ không tủi hổ, vì lòng mến của Thiên Chúa đã được đổ xuống lòng ta nhờ bởi Thánh Thần Người đã ban cho ta.
Phúc chúng ta thật lớn. Và cho được như vậy, như thánh Phaolô khẳng định, Ðức Kitô đã phải chết vì ta. Ðó cũng là điều dường như thánh Yoan muốn diễn tả trong phần sau của bài Tin Mừng.
Các môn đệ đi mua thức ăn về. Họ mời Chúa; nhưng Người nói: Người đã có một thức ăn khác, là làm công việc Chúa Cha đã giao. Ðó là điều các môn đệ không biết, y như Ðức Maria và thánh Yuse vào hồi Chúa lên 12 tuổi. Người đã làm việc với người phụ nữ Samari. Người đã gieo thóc và sắp có kết quả rồi. Người đã vất vả đi truyền giáo và sẽ chịu chết, để các Tông đồ được gặt hái kết quả sau này. Và để làm chứng, thì kìa dân Sychar đang tuốn đến. Họ còn được nhiều ơn hơn người phụ nữ kia nữa, vì Ðức Kitô đang đến gặp họ không phải chỉ là Tiên tri và Thiên sai, mà còn là Cứu Thế, vì Người vừa nhắc đến mầu nhiệm Tử nạn.
Chúng ta chính là dân Sychar này. Chúng ta đã được tiếp xúc với Ðấng Kitô tử nạn vì tội thế gian. Không những Người đã ban Lời Chúa cho chúng ta, mà còn ban Thịt Máu Người nữa. Nhờ cuộc Tử nạn trên Thập giá, cạnh sườn Người đã để Nước và Máu chảy ra, là Nước Rửa tội trong mầu nhiệm Tử nạn. Nước này mới thật sự cứu độ và ban Thánh Thần làm mạch suối có nước vọt đến sự sống đời đời trong tâm hồn tín hữu.
Chúa bảo: Ai uống nước này không còn khát nữa. Chúng ta có giữ lời ấy không? Hay chúng ta vẫn còn khát, và khát nhiều? Khát dục vọng, khát của cải, khát vinh dự, khát đủ mọi sự thế gian đến nỗi nhiều lần càm ràm kêu trách và thử thách Chúa như dân Dothái hồi ở Massah? Thiên Chúa cũng ban Ðức Kitô cho chúng ta trong Thánh lễ này, để Người cầm gậy Thánh giá đập vào chính Thân thể Người, để Nước chảy ra theo Máu để Thánh Thần được ban cho chúng ta nhờ Hy lễ đổ máu này. Xin Thánh Thần tưới mát tâm hồn chúng ta, tiên diệt mọi dục vọng để chúng ta sống xứng đáng với Tin Mừng cứu độ, tức là hân hoan ngay trong thử thách.
Chính Chúa đã nhắn nhủ chúng ta khi nói với môn đệ: hãy ngước mắt lên và nhìn, đồng lúa đã chín vàng chờ gặt! Ta sai các ngươi đi gặt điều các ngươi không vất vả làm ra; có những kẻ khác đã vất vả rồi, còn các ngươi đã đến thừa hưởng công lao của họ.
Lời Chúa chắc chắn đúng ở bình diện Nước Trời. Ðức Kitô và bao thế hệ Tông đồ đã vất vả làm công việc của người gieo. Công việc tông đồ của chúng ta hiện nay, dù có vất vả đến đâu, cũng chỉ là áp dụng hiệu quả của mầu nhiệm Tử nạn - Phục sinh.
Nhưng Lời Chúa thiết tưởng cũng đúng ở bình diện xã hội. Mọi người đã làm việc vì ta... thì ta cũng phải sống cho mọi người.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Chúa Giê-su đến bên bờ giếng Gia-cóp với một chủ ý. Ngồi nghỉ mệt và xin nước uống chỉ là cái cớ để Người gặp gỡ một linh hồn cần được lãnh ơn cứu độ. Người phụ nữ Sa-ma-ri được gặp Chúa hôm nay phải vượt qua những rào cản thành kiến để nhận biết Đấng cứu độ. Nhưng đối với Chúa Giê-su, sự kiện người Do- thái không giao thiệp với người Sa-ma-ri không phải là bức tường ngăn cản ơn cứu độ dành cho hết thảy nhân loại. Vì thế Chúa Giê-su đưa ra một thách thức và mời gọi người phụ nữ Sa-ma-ri hãy can đảm và thành thực đáp lại. Người nói với chị: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với chị…”
Cuộc gặp gỡ hôm nay làm sao có thể gọi là một “ân huệ Thiên Chúa ban” và người đàn ông Do-thái ngồi trước mặt chị là ai mà lại có thể ban nước hằng sống? Trong cuộc khám phá này, Chúa Giê-su không đơn phương tỏ ra cho chị biết Người là ai, nhưng chính Người giúp chị tìm hiểu từ từ từng bước để chị tự mình nhận biết chân tính của Người. Qua cuộc đối thoại, Chúa Giê-su tạo cơ hội để chị bỏ đi dần dần thái độ thù nghịch giữa người Do-thái với người Sa-ma-ri. Nhưng mấu chốt của việc chị trở về với Thiên Chúa và khao khát thờ phượng Người “trong thần khí và sự thật” là nhờ thái độ nhân từ của Chúa Giê-su đối với cuộc sống không tốt đẹp của chị. Người khơi lại cuộc sống dĩ vãng và hiện tại của chị không phải để lên án chị. Trái lại, Chúa Giê-su còn ca ngợi lòng thành thực của chị: “Chị đã nói đúng”. Thành thực là bước đầu và nền tảng để đón nhận ơn cứu độ. Nếu chúng ta không thành thực nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi, chúng ta đâu có thấy mình cần được Chúa cứu độ!
Nhận biết mình tội lỗi là điều cần thiết, nhưng song song với nhận biết này, chúng ta cũng phải nhận biết Chúa Giê-su là Đấng nào. Từng bước, Chúa Giê-su giúp người phụ nữ Sa-ma-ri vượt qua thành kiến về người Do-thái để nhìn nhận Người là vị ngôn sứ, rồi là Đấng Mê-si-a và sau cùng là Đấng cứu độ trần gian. Nếu Chúa Giê-su đã giúp chị phá bỏ được kỳ thị chủng tộc giữa Do-thái và Sa-ma-ri, thì Người cũng giúp chị phá bỏ những ngăn cách trong việc thờ phượng Thiên Chúa. Thờ phượng Thiên Chúa là sống mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và là con đường đưa chúng ta tới lãnh nhận ơn cứu độ. Ơn cứu độ không phải là kho hàng độc quyền chứa tại Giê-ru-sa-lem hay trên núi Ga-ri-dim, nhưng từ chính tình yêu của Thiên Chúa tuôn đổ vào tâm hồn chúng ta qua sinh hoạt thờ phượng Người. Do đó, đặc tính cốt lõi của việc thờ phượng là biểu lộ tâm tình (trong tinh thần) và nhận biết Chúa yêu thương chúng ta (trong sự thật). Quả thực, đây chính là điều người phụ nữ Sa-ma-ri đang khát khao tìm kiếm! Đây chính là thứ nước ban sự sống đời đời mà Đấng cứu độ đang hiện diện trước mặt chị đã nói cho chị biết! Nhưng trên hết mọi sự, đây chính là một “ân huệ Thiên Chúa ban” qua Chúa Giê-su cho tất cả những ai khao khát được lãnh nhận ơn cứu độ.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Bài Tin Mừng hôm nay dành cho cuộc Sát hạch dự tòng lần thứ nhất, để những người sắp lãnh nhận Bí tích khai tâm có dịp tuyên xưng đức tin vào Chúa Ki-tô, nhưng cũng là bài Tin Mừng dành cho tất cả chúng ta, những người đã được diễm phúc làm con cái Chúa. Những khám phá của người phụ nữ Sa-ma-ri về Đấng cứu độ đòi hỏi chúng ta phải xét lại mấy điều.
Trước hết, câu truyện người phụ nữ Sa-ma-ri gặp Chúa Giê-su đòi chúng ta phải nhìn lại thân phận tội lỗi của mình, để ý thức mình cần được tình yêu Thiên Chúa cứu thoát khỏi tội lỗi và sự chết đời đời. Tiếp đến, câu truyện cho chúng ta thấy: qua Chúa Giê-su, Thiên Chúa không kết án chúng ta, nhưng Người muốn đặt vào tâm hồn chúng ta ơn cứu độ là “mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời”. Sau hết, mặc khải của Chúa Giê-su về việc thờ phượng Thiên Chúa giúp chúng ta nhìn lại cách sống đạo của mình xem chúng ta có thực sự thờ phượng Chúa “trong tinh thần và sự thật” hay không, nghĩa là chúng ta có thờ phượng Chúa bằng trái tim và đáp lại tình yêu cứu độ Người dành cho chúng ta không.
Gio 4:7-15: 7 Có một phụ nữ người Samari đến kín nước. Ðức Yêsu nói với bà ấy: "Cho tôi uống với". 8 Vì môn đồ Ngài đã vào thành mua thức ăn.9 Người phụ nữ Samari ấy mới nói với Ngài: "Làm sao ông là Do Thái mà lại xin uống với tôi là đàn bà Samari?", vì Do Thái không được chung đụng với người Samari. 10 Ðức Yêsu đáp lại và bảo bà ấy: "Nếu ngươi biết được ơn của Thiên Chúa, và ai là người nói với ngươi: Cho tôi uống với, thì chính ngươi đã khẩn xin và ngài sẽ cho nước sinh sống". 11 Bà ấy nói với Ngài: "Thưa Ngài, gàu Ngài không có, giếng thì lại sâu, vậy Ngài lấy đâu cho có nước sinh sống? 12 Dễ chừng Ngài lại lớn hơn Yacob cha chúng tôi, người đã cho chúng tôi giếng này, và người cũng uống nước đây nữa, cùng với con cái và gia súc của người?" 13 Ðức Yêsu đáp lại bà ấy: "Phàm ai uống nước này sẽ còn khát lại; 14 Nhưng kẻ nào một lần đã uống nước Ta sẽ ban, thì đời đời sẽ không khát nữa; nhưng nước Ta sẽ ban cho nó sẽ nên mạch suối trong nó có nước vọt đến sự sống đời đời". 15 Người phụ nữ mới nói với Ngài: "Thưa Ngài, xin Ngài ban cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây kín nước".
Tin mừng của Chúa nhật hôm nay gồm hầu như cả chương 4 (4:5-42). Chương 4 bắt đầu một khung cảnh và chủ đề mới. Chúa Giêsu rời Giuđêa đi về lại Galilêa và Người đi ngang qua Samaria (4:3), nơi đây xảy ra câu chuyện giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ. Khung cảnh gần hơn là bên giếng nước Giacóp. Chủ đề chính: - Chúa Giêsu và người phụ nữ Samaria: Mở đầu cuộc đối thoại (4:1-8); - Nước hằng sống (4:9-15); - Việc phụng thờ đích thật (4:16-26); - Mùa gặt (4:27-38); - Kết quả của việc truyền giáo tại Galilêa và Samaria (4:39-45).
Đoạn 4:9-15 3 gồm 3 lần trao đổi giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ: 7 và 9; 10-12; 13-15. Phần cuối của câu 9 là ghi chú của thánh sử. Xét về mặt ngữ nghĩa các trao đổi nầy liên hệ với nhau qua chủ đề nước. Cụm từ “đến múc nước” (4:7 và 15 ) đóng khung đoạn nầy.
Xin nước uống (4:7-9)
Chúa Giêsu xin người phụ nữ nước uống, “Cho tôi uống với” (c. 7). Chúa Giêsu khát nước sau hành trình dài. Điều nầy được xác nhận qua việc các môn đệ đi vào thành để mua thức ăn (9:4-8). Người lấy việc khát nước của mình để bắt đầu cuộc trao đổi về nước hằng sống (x. 4:10). Động từ “cho” dùng nhiều lần trong đoạn nầy (cc. 10.12.14 [2x].15). Cuộc trao đổi được đóng khung bởi lời mở đầu “cho tôi uống với” của Chúa Giêsu (c. 10) và kết thúc với lời xin ngược lại từ phía người phụ nữ “cho tôi nước nầy” (c. 15).
Người phụ nữ nầy chỉ hiểu theo nghĩa đen lời xin nước của Chúa Giêsu (c. 9). Lời xin nước của Chúa Giêsu bị bỏ ngõ, vì bà không trả lời trực tiếp lời xin nước của Chúa Giêsu và nói đến sự ngăn cách giữa hai người do thuộc hai miền khác nhau. Bà là người miền Samaria, trong khi Chúa Giêsu là người miền Giuđêa. Thánh sử cho lời giải thích về điều nầy (c. 9; Lc 10:25-37). Thời ấy, người do thái không chỉ tránh gặp người thuộc miền Samaria, mà cả tránh không nói chuyện với phụ nữ nơi công cộng. Phản ứng của các môn đệ khi thấy Chúa Giêsu nói chuyện với người phụ nữ Samaria cho thấy điều nầy (4:27). Ngay cả người phụ nữ cũng thắc mắc là có thể có một cuộc trao đổi như thế giữa bà và Chúa Giêsu hay không. Vào thời xưa giếng nước là thường là nơi gặp gỡ (x. Kn 24:11.15.17; 29:2-12).
Ban nước uống (4:10-12)
Trong lần trao đổi tiếp theo nầy, chủ đề nước chuyển sang khía cạnh khác, tập trung vào Chúa Giêsu là nước hằng sống, ân huệ của Thiên Chúa, và Người cũng là Đấng ban nước ấy cho những ai xin Người (c. 10). “Ân huệ của Thiên Chúa” (c. 10) nghĩa là ơn do Thiên Chúa ban cho. Ân huệ ấy được đồng hoá với Chúa Giêsu. Mệnh đề điều kiện “Nếu bà biết…” vừa có tính cách điều kiện là phải biết, vừa có tính cách mời gọi. Điều kiện tiên quyết là phải biết Người là ai, và khi cầu xin thì Người sẽ sẵn sàng ban nước hằng sống ấy. Ở đây Chúa Giêsu không dùng cách nói trực tiếp Người là nước hằng sống, dù Người gọi mình là “Tôi là Bánh hằng sống” (6:51). Nước gắn liền với sự sống như bánh vậy (6:35).
Người phụ nữ không hiểu ngôn ngữ của Chúa Giêsu (c. 11); như trường hợp của Nicôđêmô (3:3). Suy nghĩ của bà bị kẹt trong thế giới thể lý và tự nhiên nầy. Bà không hiểu làm sao Chúa Giêsu có thể: - có nước mà không cần đến cái gàu để múc nước, trong khi giếng lại sâu; - lớn hơn tổ phụ Giacóp, người đã truyền lại cho họ giếng nước nầy (Kn 49:22). Pothen, “do đâu” (c. 11) là một trong những từ then chốt của Gioan. Khi đối diện với Chúa Giêsu, nhiều người không hiểu do đâu mà đến những hiểu biết của Chúa Giêsu (1:48); những việc Người làm (2:9). Cũng thế người phụ nữ Samaria nầy không hiểu bởi đâu Người có thể có nước để ban cho (4:11). Trọng tâm của những thắc mắc “pothen” nầy là con người không hiểu nguồn gốc của Người (7:27; 8:14; 9:30; 19:9).
Người phụ nữ Samaria đưa ra một so sánh giữa Chúa Giêsu và tổ phụ Giacóp (c. 12). Câu hỏi của bà “Không lẽ ông cao trọng hơn Giacóp…?” tương tự câu hỏi người do thái đặt cho Chúa Giêsu “Không lẽ ông cao trọng hơn Abraham…?” (8:53). Bà đặt vấn đề là ai cao trọng hơn ai. Giacóp đã để lại giếng nước. Chúa Giêsu có thể hơn thế không? Chắc chắn là Người cao trọng hơn Giacóp, cũng như Người tuyên bố là cao trọng hơn Abraham, vì Người có trước Abraham (8:58). Cũng vậy Người cao trọng hơn Giacóp, vì Người ban “nước không hề khát” (c. 14) chứ không như nước tự nhiên lấy lên từ giếng của Giacóp. Điều nầy sẽ được nói đến trong những câu tiếp theo.
Nuớc uống ban sự sống (4:13-15)
Trong lời trao đổi sau cùng, Chúa Giêsu không trả lời những điều liên quan đến gàu nước, và tổ phụ Giacóp. Người giải thích phẩm tính của nước do Người ban bằng một so sánh giữa “nước nầy”, nghĩa là nước tự nhiên lấy lên từ giếng (c. 13) và “nước do Người ban cho” (c. 14). Uống “nước nầy” sẽ lại khát. Uống nước Người ban sẽ không bao giờ khát nữa. Chúa Giêsu tiếp tục mời gọi đến với Người để giãn khát, “ai khát hãy đến cùng Tôi và uống” (7:37; x. 6:35.51). Chúa Giêsu nói đến “mạch nước” (c. 14b), nhắc nhớ đến giếng nước tự nhiên (4:6). Trong Cựu ước, pēgē hydatos, “mạch nước” ám chỉ Thiên Chúa (x. Tv 36:9; Giêr. 2:13; 17:13), cũng thế trong sách Khải huyền, nước hằng sống phát xuất từ ngai của Thiên Chúa và Con Chiên (Kh 22:1; 7:17). Hallomai, có nghĩa là “phun lên” (mạch nước), và “nhảy lên”. Động từ nầy chỉ được dùng một lần duy nhất ở đây trong Gioan. Trong Công vụ Tông đồ, động từ nầy dùng cho hai người què (3:18; 14:10). Họ nhảy nhót lên sau khi đã được chữa lành. Có thể hiểu là việc làm cho mạch nước phun vọt lên, cũng như việc làm cho người què nhảy nhót được là do Thiên Chúa. Người hành động trong nước hằng sống, cũng như hành động trong việc chữa lành của các tông đồ. Và mục đích của hành động nầy là đưa đến “sự sống đời đời”. Vậy vì nước hằng sống nầy chính là Chúa Giêsu, khi ai lãnh nhận Người, Người sẽ hành động trong họ và đưa người ấy vào sự sống đời đời. Chúa Giêsu chính là sự sống (1:4; 14:6), nên tất cả những gì Người ban đều mang lại sự sống cho người lãnh nhận: nước (4:14), lương thực (6:27), bánh (6:33.35.48.51), thịt và máu của Người (6:53-54).
Thêm một lần nữa người phụ nữ nầy không hiểu lời Chúa Giêsu (c. 15). Bà chỉ nghĩ đến nhu cầu cụ thể hằng ngày “Thưa Thầy, xin cho tôi nước ấy để tôi khỏi phải đến đây múc nữa” (c. 15). Có thể bà nghĩ là Chúa Giêsu có một thứ nước phù phép, và bà xin thứ nước ấy. Cuộc đối thoại chẳng làm cho bà hiểu hơn. Tuy nhiên đó là cơ hội Người nói về nước hằng sống. Trong các phần tiếp theo, Chúa Giêsu sẽ phá vỡ sự vô tri nầy và sẽ làm cho bà nhận biết Người là ai.
Lời xin nước uống của Chúa Giêsu ám chỉ đến sự cứu độ của con người. Người sẽ lập lại lời tương tự trên thánh giá, “Ta khát” (19:28). Người khát khao người phụ nữ nầy được cứu độ; qua bà như biểu tượng, là cả dân miền Samaria và mọi người. Chúng ta khát khao được cứu độ?
Ta đã có dịp suy niệm về lòng tin của Chúa Giê-su nơi Thiên Chúa khi Người chống lại cám dỗ của ma quỷ trong hoang địa (CN I mùa Chay) và khi Người quyết định chấp nhận cuộc Thương khó trong lúc Hiển dung trên núi (CN II mùa Chay). Giờ đây, đến lượt ta phải xét lại lòng tin của ta vào Chúa Ki-tô như nền tảng để được đồng hình đồng dạng với Người và được Người cứu độ. Để giúp ta xét lại lòng tin ấy, Phụng vụ Lời Chúa kể lại câu truyện Cựu Ước về ông Mô-sê cùng dân Chúa đã thử thách Thiên Chúa trong sa mạc và câu truyện Tân Ước về cuộc gặp gỡ của Chúa Giê-su bên bờ giếng Gia-cóp với người phụ nữ Sa-ma-ri. Đồng thời đoạn thư thánh Phao-lô cũng mời gọi ta hãy hết lòng tin vào tình yêu Thiên Chúa, tình yêu sẽ cứu độ ta.
1. Lòng tin của ông Mô-sê và dân Ít-ra-en (bài đọc Cựu Ước – Xh 17:3-7)
Trong Cựu Ước, nhiều nơi chốn hoặc nhân vật được đặt tên là để nói lên sự cố đã xảy ra tại đó hoặc sứ mệnh người ấy sẽ thi hành. Trong câu truyện Cựu Ước hôm nay, hai địa danh Ma-xa và Mơ-ri-va trong sa mạc Xin có nghĩa là thử thách và gây sự. Đúng vậy, dân Ít-ra-en đã thử thách và gây sự với Thiên Chúa, Đấng đem họ ra khỏi ách nô lệ cho Ai-cập và đang đưa họ vào Đất hứa.
Ra đi và sống trong điều kiện khó khăn của sa mạc, mọi sự đều thiếu thốn chứ không được thoải mái như những ngày tại Ai-cập. Ngay cả những nhu cầu tối thiểu quan hệ tới sự sống còn cũng thiếu thốn, thí dụ của ăn nước uống. Rời Ai-cập, dân Ít-ra-en đóng trại tại Ê-lim. Lương thực mang theo từ Ai-cập bắt đầu cạn. Họ nhổ trại lên đường vào sa mạc, từ đây thử thách ngày càng nhiều và họ bắt đầu phàn nàn kêu trách Chúa và ông Mô-sê. Họ thèm ăn bánh với thịt và Chúa đã cho xuất hiện man-na cùng chim cút để họ được no nê (Xh 16). Tiếp tục lên đường tới sa mạc Xin, họ không có nước uống. Thế là lại thêm một màn kêu trách và dân chúng còn muốn ném đá ông Mô-sê cho chết nữa. Thiên Chúa can thiệp và Người dạy ông Mô-sê lấy cây gậy đã cứu dân tại sông Nin mà đập vào tảng đá ở núi Khô-rếp để nước chảy ra cho dân chúng uống. Tuy nhiên không chỉ có dân Ít-ra-en thử thách Chúa, mà chính lòng tin của ông Mô-sê cũng bị thử thách. Thiên Chúa dạy ông cầm gậy đập vào tảng đá chỉ một lần, nhưng ông lại đập hai lần. Do đó, ông đã bị Thiên Chúa trừng phạt không được vào Đất hứa cùng với dân chúng, nhưng phải chết bên kia bờ sông Gio-đan (Ds 20:1-13).
Lòng tin bị thử thách là điều có thể xảy đến cho mọi người, từ vị giáo hoàng cho đến người tín hữu, nhất là khi con người gặp phải những nghịch cảnh. Khi ta nghĩ rằng chỗ đứng của Chúa trong đời ta không còn ý nghĩa, lời Chúa không còn chiếu sáng đường đi của ta và thậm chí cả đến sự can thiệp của Chúa không như ta mong muốn, thì những lúc ấy chính ta đang thử thách Chúa và lòng tin của ta đang gặp hiểm nguy. Dân Ít-ra-en đả thử thách Thiên Chúa rằng: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” (Xh 17:7). Không riêng gì dân Ít-ra-en ngày xưa, mà mọi thời mọi nơi thứ thử thách ấy vẫn tái diễn trong tâm hồn mọi người. Thực ra, luôn có những dấu chỉ nói lên sự hiện diện của Chúa trong đời ta, nhưng rất nhiều khi ta không muốn đọc những dấu chỉ ấy, hoặc chỉ muốn thay thế những dấu chỉ ấy bằng những dấu chỉ do ta tạo nên. Thí dụ, nếu quả thực có Chúa trong đời tôi, thì tôi phải được khỏi bệnh, phải có việc làm, phải được ơn này ơn nọ… Trong câu truyện Cựu Ước, Chúa bảo Mô-sê: “Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đằng kia trước mặt ngươi, trên tảng đả ở núi Khô-rép”. Đúng thế, Chúa luôn luôn hiện diện trước mặt Mô-sê và Người cũng luôn hiện diện trước mặt ta, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Như vậy, ta không thể nghi ngờ gì về sự hiện diện của Chúa nữa.
2. Lòng tin vào Chúa Giê-su của người phụ nữ Sa-ma-ri (bài Tin Mừng – Ga 4:5-42)
Câu truyện Tân Ước không phải là câu truyện lòng tin Chúa bị thử thách mà là câu truyện nhận được lòng tin vào Chúa Giê-su. Vì Chúa là đối tượng lòng tin của ta nên đức tin được gọi là nhân đức đối thần. Chính Chúa và thế giá uy quyền của Người đã đem lại lòng tin cho ta, do đó đức tin là điều Chúa ban cho ta chứ không phải tự ta tạo ra được. Vậy ta hãy đi vào khung cảnh gặp gỡ giữa Chúa Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Xy-kha, để xem Chúa đã đem đức tin đến cho bà như thế nào.
Chúa Giê-su ngồi bên bờ giếng, chuẩn bị cho một cuộc gặp gỡ quan trọng với người phụ nữ Sa-ma-ri, một cuộc gặp gỡ để người ta nhận ra mình là ai: con người tội lỗi nhận biết và tin kính Chúa Giê-su là Đấng Cứu Độ. Từ câu chuyện xin nước uống, Chúa Giê-su đã khéo léo đưa tới việc khám phá ra căn tính của nhau. Về phía người phụ nữ Sa-ma-ri, căn tính dần dần được biểu lộ rõ rệt hơn. Trước hết bà chỉ là “một phụ nữ Sa-ma-ri”, sau đó bà là người “không có chồng”, rồi là người “đã có năm đời chồng” và cuối cùng là người đang sống với người đàn ông không phải là chồng! Căn tính càng lộ, hình ảnh của bà càng tối tăm thêm. Trái lại, càng nhận biết thân phận mình, bà càng tiến thêm trong cuộc khám phá căn tính của Chúa Giê-su. Về phần Chúa Giê-su, đầu tiên người phụ nữ Sa-ma-ri chỉ coi Chúa Giê-su là “người Do-thái”, dĩ nhiên là một người không thể thân thiện với người Sa-ma-ri. Tiếp theo là một nghi vấn của người phụ nữ Sa-ma-ri: “Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp?” Rồi sau khi Chúa Giê-su cho biết bà đang sống với người đàn ông không phải là chồng thì bà coi Chúa là “một ngôn sứ”. Sau cùng, được nghe Chúa giải thích về sự thờ phượng đích thực trong thần khí và sự thật, bà đã nghi ngờ Người chính là “Đấng Mê-si-a”. Tới lúc này, Chúa Giê-su đích thân mặc khải cho bà: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây”.
Đức tin của người phụ nữ Sa-ma-ri tiến triển từng giai đoạn. Tuy nhiên có một điểm rõ ràng trong câu truyện là khi bà càng thật lòng và khiêm nhượng nhìn nhận con người tội lỗi của bà thì bà càng thấy rõ hơn Chúa Giê-su là Đấng nào. Lòng tin tỷ lệ với lòng khiêm nhượng. Nếu ta càng khiêm nhượng nhìn nhận sự siêu việt của Chúa thì lòng tin của ta càng lớn. Đúng vậy, làm sao ta có thể được cứu độ nếu ta không tin Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế? Đây cũng là lý do Giáo Hội chọn bài Tin Mừng này cho cuộc sát hạch các dự tòng lần thứ nhất, để họ công khai tuyên xưng lòng tin vào Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế trước khi họ được rửa tội vào đêm Vọng Phục Sinh.
3. Lòng tin của ta vào Chúa Ki-tô, Đấng đã chết để cứu độ ta (bài đọc Tân Ước – Rm 5:1-2,5-8)
Thánh Phao-lô đã trình bày sự cần thiết của đức tin vào Chúa Ki-tô. Nhờ đức tin, chúng ta được trở nên con cái Chúa qua Bí tích Rửa tội và bắt đầu sống “niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa”. Hành trình đức tin của ta là hành trình tin rằng Thiên Chúa yêu thương ta. Mà bằng chứng của lòng yêu thương ấy chính là Chúa Ki-tô đã chết vì chúng ta. Thánh Phao-lô giúp ta nhận ra lòng yêu thương của Thiên Chúa như sau: “Khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta”. Tội lỗi đã làm cho ta hoàn toàn mất quyền đứng thẳng (jus-stare) trước mặt Chúa, nói khác đi là quyền làm con cái Chúa. Cái chết của Chúa Ki-tô đem lại cho ta sự công chính hóa (justification), tức là phục hồi cho ta quyền đứng thẳng trước mặt Chúa. Ta là kẻ tội lỗi, đâu có xứng đáng để Chúa Ki-tô chết vì ta. Thế mà Người đã vui lòng chịu chết vì ta để “mở lối cho ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa”, ân sủng được làm con Chúa và sống đời sống mới trong Thánh Thần. Cuộc hành trình đức tin của ta luôn được nuôi dưỡng bằng “tình yêu của Thiên Chúa đổ vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần”. Do đó, hành trình đức tin là một hành trình liên tục, một đàng Thiên Chúa cho ta thấy Người yêu thương ta, một đàng ta cố gắng nhận ra ý nghĩa tại sao Chúa Ki-tô đã chết vì ta để đáp lại tình yêu của Người bằng cách sống xứng đáng như con cái Chúa.
Tin Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế có nghĩa là tin rằng Người đã chết để chuộc lại những tội lỗi ta đã phạm. Đức tin đó cũng chính là đức tin người phụ nữ Sa-ma-ri đã tuyên xưng: “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. Tuy nhiên phải là một đức tin được phát triển, giống như đức tin của người phụ nữ Sa-ma-ri, bởi vì bà ấy “đã để vò nước lại” để chạy cho nhanh hơn vào thành và loan báo tin mừng về Đấng Mê-si-a cho những người trong thành. Nhờ thông tin nhanh chóng ấy, dân chúng trong thành được biết Chúa. “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”.
4. Sống Lời Chúa
Trong mùa Chay, đặt lại vấn đề đức tin là điều quan trọng. Tâm điểm của đời sống Ki-tô hữu là đức tin. Do đó, muốn có bất cứ sự thay đổi nào, ta cũng phải bắt đầu từ đức tin. Căn tính Ki-tô của ta đã được khởi đầu nhờ đức tin thì nó cũng cần được phát triển nhờ đức tin. Đức tin luôn luôn bị thử thách, vì nhờ có thử thách nên đức tin mới lớn mạnh được. Tuy nhiên đức tin cần được nuôi dưỡng do lòng khiêm nhượng và được biểu lộ qua việc làm. Ước gì mùa Chay sẽ là thời thuận tiện để ta sống đức tin của ta bằng việc làm cụ thể trong cuộc sống hằng ngày, nhờ đó mọi người chung quanh sẽ nhận biết ta là người Công giáo đích thực.
Suy nghĩ: Thánh Phao-lô viết: “Chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa”. Những lời này có ý nghĩa gì đối với tôi? Tôi có nhận thấy niềm hy vọng ấy không? Nó giúp tôi sống lạc quan như thế nào?
Cầu nguyện: Lạy Cha chí thánh, khi người phụ nữ xứ Sa-ma-ri cho Đức Ki-tô, Chúa chúng con, nước uống, Người đã ban cho bà đức tin. Vì Người tha thiết ước mong bà tin vững mạnh, nên đã đốt lên trong lòng bà ngọn lửa yêu mến Cha. Nay chúng con nhận biết mình yếu hèn lầm lỗi, và hết lòng sám hối ăn năn; xin Cha thương đoái nhìn chúng con và đưa tay nâng đỡ. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Kinh tiền tụng và lời nguyện nhập lễ, Chúa Nhật III mùa Chay)
Nhân loại có cần đươc cứu độ không ? Hình như nhu cầu hằng ngày đã lấn lướt mọi nhu cầu khác và nhất là không liên quan gì tới ơn cứu độ. Nhưng chính từ những nhu cầu ăn uống tầm thường hằng ngày, Đức Giêsu đã mạc khải chân lý vĩ đại.
TỪ ĐỘC THOẠI TỚI ĐỐI THOẠI
Thật là thú vị khi theo dõi cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và phụ nữ Samari tại bờ giếng Giacóp. Bình thường không thể có cuộc đối thoại như thế, vì “người Do thái không được giao thiệp với người Samari.” (Ga 4:9) Nhưng một ranh giới đã vượt qua, khi Đức Giêsu khéo léo bắt chuyện: “Chị cho tôi xin chút nước uống !” (Ga 4:7) Thường người ta chỉ ra kín nước ban sáng hay chiều. Chị đã cố ý ra giếng buổi trưa để tránh né những cái nhìn xăm xoi vào đời tư, vậy mà cũng không thoát khỏi. Nhưng cuộc gặp gỡ vượt quá sức tưởng tượng ban đầu.
Cuộc đối thoại nhiều lần như bị khựng lại. Nhiều lần có nguy cơ trở thành độc thoại. Vừa mở miệng, Đức Giêsu đã bị người phụ nữ “kê tủ đứng” rồi: “Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao ?” (Ga 4:8) Nhưng Đức Giêsu đã khai thông bế tắc một cách dễ dàng. Trước tiên, Người muốn cho chị khám phá con người đang đối diện với chị không phải chỉ là một tập hợp những yếu tố vật chất với những nhu cầu tầm thường. Nhưng đó là “ân huệ Thiên Chúa” (Ga 4:10) vô cùng vĩ đại mà chị không nhận ra. Vĩ đại vì từ nơi Người mạch “nước hằng sống” (Ga 4:10) sẽ tuôn trào cho toàn thể nhân loại. Đức Giêsu muốn chứng tỏ mình là Thiên sai. Vì “chỉ có Thiên sai mới có thể làm cho con người thỏa niềm ước mong.” (Life Application Study Bible 1991:1880) Cựu Ước từng tôn xưng Thiên Chúa là mạch nước hằng sống (Tv 36:9) và là suối nước trường sinh (Gr 17:13). Trong khi phụ nữ đó đề cao tổ phụ Giacóp như ân nhân của dân làng vì đã cung cấp nguồn nước cho bao thế hệ, Đức Giêsu lại muốn cho chị thấy mình trổi vượt hơn tổ phụ, vì “ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa.” (Ga 4:14)
Nói đến thế mà chị vẫn chưa hiểu ! Đúng là cảnh “ông nói gà, bà nói vịt”. Đức Giêsu tìm cách tháo gỡ dần dần cái vòng luẩn quẩn đó. Chị giật mình khi tất cả đời tư bị phơi bày ra ánh sáng. Làm sao một người xa lạ như Đức Giêsu có thể biết được chuyện chồng con của chị ?! Cứ tưởng Người như tất cả thanh niên khác, chị lấm lét thở dài: “Tôi không có chồng.” (Ga 4:17) Chị muốn làm một lá chắn thật dầy để che đậy tất cả bí mật màn the. Đức Giêsu cảm thấy thương hại cho người phụ nữ Samari. Người không kết án chị là người dối trá. Trái lại, Người dựa ngay vào lời chị để mạc khải một sự thật khiến chị phải thốt lên: “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ …” (Ga 4:19) Câu truyện đi vào khúc rẽ quan trọng. Một mạc khải lóe lên ngay trong đời thường. Phải lên núi cao biến hình, Đức Giêsu mới có thể mạc khải cho các môn đệ sự thật về mình. Ngay cả khi vào sa mạc chịu cám dỗ, phải có Thánh Linh hướng dẫn, Đức Giêsu mới xác định được căn tính giữa những tương quan chằng chịt trong trời đất.
Mỗi mạc khải đều kèm theo một lời mời gọi. Khi nhận ra Đức Giêsu là ngôn sứ, chị được kêu mời trở về với Thiên Chúa thật, một Thiên Chúa không lệ thuộc vào nơi chốn hay con người. Quả thực, “giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật vì Thiên Chúa là thần khí” (Ga 4:23-24) Những đầu óc đặc sệt vật chất không thể hiểu nổi Thiên Chúa. Bởi vậy, họ đóng khung Thiên Chúa trong những phạm trù hoàn toàn trần tục. Những tâm trí đó không thể thấy những nét kỳ diệu trong cuộc đối thoại vô cùng lý thú bên bờ giếng Giacóp hôm nay.
Nhờ sống lâu trong truyền thống tôn giáo, chị đã hiểu ngay được vấn đề khi nhìn nhận Đức Giêsu là ngôn sứ. Ngay từ nhỏ chị đã được nghe mạc khải về thời kỳ cứu độ: “Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” (Ga 4:25) Chụp ngay cơ hội, Đức Giêsu nói tất cả sự thật về mình: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.” (Ga 4:26) Niềm tin lên tới tột đỉnh khi chị nghe thấy trong lời Đức Giêsu vang vọng tiếng Giavê tự xác định chính mình với ông Môsê bên Ai cập (x. Xh 3:14) Tới đây chị không thể kìm hãm nổi tiếng thôi thúc trong tim nữa. Vô cùng kinh ngạc và sung sướng, “người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: ‘Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Oâng ấy không phải là Đấng Kitô sao ?’” (Ga 4:28-29) Phải chăng chị đã bỏ lại đằng sau tất cả biểu tượng của niềm tin cũ (vò nước bên bờ giếng Giacóp) để lao tới trước theo tiếng gọi của niềm tin mới vào Đức Giêsu ? Chị đã trở thành người loan báo Tin Mừng đầu tiên cho dân làng. Thực vậy, “có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng.” (Ga 4:39) Dầu sao, người rao giảng Tin Mừng cũng chỉ đóng vai trung gian. Muốn được cứu độ, người ta phải đích thân băng qua cầu đó. Sự thật ấy đã được các dân làng Samari chứng minh: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biêt ;rằng Người thật là Đấng cựu độ trần gian.” (Ga 4:42)
Bên cạnh cuộc đối thoại thú vị với phụ nữ Samari, Đức Giêsu còn lợi dụng mấy giây phút ngắn ngủi hàn huyên với các môn đệ để mạc khải một chân lý vĩ đại. Cũng như phụ nữ Samari, đầu óc các ông chỉ “sà sà ngọn cỏ”. Từ chủ đề “nước”, Đức Giêsu đã nói về “nước hằng sống” là Thánh Linh, mạc khải về bản chất Thiên Chúa là “thần khí”, và chính mình như “một ngôn sứ”, “Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô” và “Đấng cứu độ trần gian”. Còn chủ đề “lương thực” đưa tới một sự thật: “lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.” ( Ga 4:34) Như thế Người đã mạc khải về bản chất và sứ mạng của Ba Ngôi trong công cuộc cứu độ toàn thể nhân loại. Nhờ kiên nhẫn, Đức Giêsu đã biến phụ nữ Samari và các môn đệ thành những chứng nhân và sứ giả Tin Mừng.
CHỨNG TỪ SỐNG ĐỘNG.
Những sứ giả đó không được huấn luyện trong các trường đại học, nhưng ngay giữa chợ đời với những câu chuyện hằng ngày xoay quanh vấn đề ăn uống. Cơm áo là tầm thường ! Nhưng dưới cái nhìn của Đức Giêsu, chẳng có gì tầm thường đến nỗi không thể vận dụng vào việc mạc khải những chân lý cao siêu. Nhiều lần người môn đệ cũng đã đối thoại với Thày chí thánh ngang qua những thực tế tầm thường trong cuộc sống. Nếu không, làm sao những anh chị em Đa Minh Việt Nam, chẳng hạn, có thể đem niềm an ủi đến cho đồng bào đau khổ trong các trại phong, khuyết tật, ung bướu hay đến các em kém may mắn không được cắp sách đến trường, những đồng bào thiểu số trên cao nguyên? Khi cung cấp lương thực hay nguồn nước trong lành cho đồng bào, anh chị em đã gieo Tin Mừng hi vọng vào hoàn cảnh tăm tối của họ.
Những nỗ lực như thế vô cùng cần thiết để xoay đổi cục diện thế giới hôm nay. Các nhà lãnh đạo Công giáo và Hồi giáo Sunni đều cho rằng “lúc nào cũng cần phải chú ý tới các phương diện cơ bản của xã hội: đời sống gia đình, giáo dục, phát triển xã hội, ảnh hưởng thông tin đại chúng, cổ động công lý và tình liên đới trong những quốc gia và trên một tầm mức quốc tế.” (Zenit, Feb. 27, 2002) Có những hạng người cực đoan không bao giờ lắng nghe lẽ phải. “Đối thoại không đủ để chinh phục, nhưng cần phải cổ võ việc phát triển toàn diện” (Zenit, Feb. 27, 2002) mới lôi kéo những con người đó. Đó là đường lối Đức Giêsu chinh phục chị Samari và các môn đệ.
Nhờ Phụng vụ Lời Chúa hôm Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, chúng ta đã chiêm ngắm Đấng Cứu Thế với tư cách là Israel Mới, vượt thắng các cám dỗ của satan – hôm Chúa Nhật thứ hai, chiêm ngắm Ngài với tư cách Người Con Chí Ái tùng phục Chúa Cha. Hôm nay, chúng ta được tiếp tục chiêm ngắm Ngài trong vai trò Đấng ban Nước Trường Sinh.
Nói đến nước, chúng ta nghĩ ngay đến một điều kiện tối cần cho cuộc sống con người, một yếu tố không thể thiếu. Để sống, con người cần phải ăn và uống. Ngày nay, nhân loại đang lo ngại về tình trạng thiếu nước sạch, về hạn hán, về cuộc tranh dành nguồn nước.
Thế nhưng nói đến nước hoặc nói đến sự khát nước, chúng ta không chỉ dừng lại ở chuyện thuộc lãnh vực thể lý. Tuy rằng, theo bài sách Xuất Hành, Thiên Chúa đã ban nước uống cho đoàn dân đi trong sa mạc khô cháy. Tuy rằng, Đức Giêsu đã thật sự khát nước và phải xin nước uống, nhưng Lời Chúa muốn hướng chúng ta tới một thứ nước khác cần thiết cho ta hơn, nhưng tới những nỗi khát nghiêm trọng hơn cần được giải quyết.
Cuộc trò chuyện giữa Đức Giêsu và chị phụ nữ xứ Samaria đã có một diễn tiến hấp dẫn. Qua trao đổi, dần dần nhiều vấn đề lộ ra. Chị phụ nữ được dẫn đi từ chuyện nước giếng và sự khát nước, đến sự khát tình yêu đang khiến chị tìm “bến đỗ” nhất thời nơi một cuộc tình bất chính và đang khiến chị còn bất an về lương tâm, rồi đến sự khát chân lý, tức là: mong muốn được soi sáng thêm về đức tin, về Giáo lý về thần linh và cách thức tôn thờ, vì chị vẫn con hoang mang về những khác biệt giữa dân chị và dân Do thái. Như thế, nơi câu chuyện của chị có 3 sự khát: khát nước, khát tình yêu, khát chân lý. Nhưng ba sự khát ấy chỉ tượng trưng cho những sự khát sâu xa hơn nơi con người mọi thời đại.
Đó là nỗi khát khao sự bình an. Nỗi khát khao tìm được chân lý Và nỗi khát khao đạt được ơn cứu độ.
Thời trước cũng như thời chúng ta, lòng người luôn ít nhiều sôi sục những nỗi khát ấy. Và biết bao chủ trương, đường lối, niềm tin đã được đưa ra như giải phát đáng chấp nhận. Gần đây có nhiều giáo phái mới lạ xuất hiện, lôi kéo nhiều người đang hoang mang, mất hướng. Thế nhưng chẳng mấy đường lối hay giải pháp thỏa mãn được lòng người.
Có kẻ chạy theo tiền tài, đinh ninh rằng cứ giàu sang là đời sẽ hạnh phúc và mọi vấn đề sẽ được giải quyết, thế nhưng họ đã vỡ mộng.
Có kẻ đi vào con đường hưởng thụ, sống thoải mái buông thả, tưởng rằng thoát mọi ràng buộc luân lý là hạnh phúc, thế nhưng họ đã gặp sự chán chường, trống rỗng và càng thấy cuộc đời là phi lý.
Có kẻ chấp nhận gia nhập một giáo phái mới, một tín ngưỡng mới, nhưng chẳng bao lâu sau, họ vẫn thấy bất ổn và lạc lõng.
Với tư cách là kẻ tin, chúng ta xác tín chỉ có Đức Kitô là Đấng duy nhất làm thỏa được cơn khát tinh thần và tâm linh của con người. Chỉ một mình Ngài là Tảng Đá đích thực, từ đó vọt ra Nguồn Nước Hằng Sống. Nhờ tin nhận Ngài, chúng ta đang là những con người được bình an, đang có được sự thật đầy đủ, đang biết rõ đâu là phương hướng đúng đắn của đời mình. Nhất là, như lời Thánh Phaolô trong bài đọc 2, chúng ta đã có ơn cứu độ nhờ Đức Kitô đã yêu thương ta, chết vì ta ngay khi ta còn là tội nhân, để giao hòa ta với Thiên Chúa. Nhờ Đức Kitô, ta đã vượt qua được cơn khát sâu xa nhất, đó là khát ơn cứu độ.
Ta biết rằng rất nhiều người đã long đong tìm kiếm trong cuộc đời họ, cuối cùng đã được bình an khi gặp được Đức Kitô. Nhiều bạn trẻ, nhiều nạn nhân mắc những chứng nan y, đã tìm được niềm vui sống, khi biết đến con người và Giáo lý của Đức Giêsu.
Xin Chúa cho tất cả chúng ta vững vàng đi theo Chúa, không bao giờ mất công tìm kiếm nơi đâu khác ngoài Chúa, mỗi khi ta bị chao đảo, hoang mang, và cũng như Chúa đã trở nên Đấng ban Nước Trường Sinh, sau khi làm Con Chí Hiếu của Chúa Cha, một lòng tôn thờ Cha và thi hành thánh ý Cha, ta cũng nỗ lực sống đạo sốt sắng và an tâm, để làm chứng cho anh chị em khác, để nên chỗ dựa cho những kẻ còn loạng choạng trên đường đời.
Nước là hình ảnh biểu trưng cho Chúa nhật hôm nay. Thánh Gioan đã dựa vào hình ảnh giếng nước để dàn dựng cuộc đàm thoại về nước hằng sống. Sau lời dẫn nhập ngài đã tường thuật về cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với một phụ nữ người Samari bên giếng Giacóp. Bài tường thuật được trình bày qua ba giai đoạn. Mỗi giai đoạn kết thúc bằng một lời tuyên xưng. Đức Giêsu giống như người khách lạ. Người tìm cách làm quen với dân làng qua một người phụ nữ đang kín nước bên bờ giếng. Người phụ nữ này là nhân vật móc nối và qua bà Đức Giêsu được tiếp nhận vào trong làng. Ba giai đoạn của câu chuyện có ý trình bày về cách thế mà một nhà truyền giáo có thể dùng để tiếp cận với một cộng đoàn mà mình chưa quen biết.
Người phụ nữ Samari rất ý thức về sự khác biệt giữa người Do thái và dân tộc của mình. Mỗi ngày bà phải đi kín nước, thứ nước chỉ có khả năng làm đã khát trong chốc lát. Đức Giêsu, người khách bộ hành mệt lả mở miệng xin nước. Chỉ trong chốc lát lại trở thành người ban phát nước. Người giải thích về phẩm chất của thứ nước mà Người ban tặng. Ai uống nước này sẽ không bao giờ khát nữa, bởi vì chính Người là nguồn nước hằng sống. Như vậy niềm khao khát của con người về một cuộc sống hạnh phúc và đầy ý nghĩa được đổ đầy nơi Đức Giêsu. Người còn cho bà biết rằng, Người có khả năng thấu suốt những tâm tình sâu kín, tỷ dụ như đời sống vợ chồng của bà. Đoạn này kết thúc với lời tuyên xưng: „Tôi nhận biết ông là một ngôn sứ”.
Thánh Gioan dùng lời tuyên xưng này để tiếp tục dàn dựng cuộc nói chuyện: Người ngôn sứ phải có khả năng hoà giải cuộc tranh cãi về nơi thờ phượng giữa Do thái giáo và tôn giáo của người Samari. Sự xoá bỏ những khác biệt thuộc phạm vi tôn giáo cũng có những hệ quả cụ thể trong lãnh vực xã hội. Người phụ nữ vào thành kể cho mọi người nghe và giờ đây bà tự hỏi: „Phải chăng Người chính là Đấng cứu thế?”
Bà tin vào Đức Giêsu qua cuộc gặp gỡ trực tiếp với Người, nhất là dựa vào khả năng thông suất của Người về cuộc sống riêng tư của bà. Sau đó, qua lời tường thuật của bà với dân chúng Đức Giêsu đã thức tỉnh niềm tin nơi nhiều người. Họ đã ra tiếp đón Đức Giêsu. Giờ đây, họ tin không phải chỉ qua lời người khác kể lại nhưng là trực tiếp gặp gỡ chính Đức Giêsu. Lời của Người làm cho lòng tin của họ thêm vững mạnh. Họ nhận biết và tuyên xưng rằng: „Quả thật, Người là Đấng cứu độ trần gian”.
Phải chăng cuộc sống của con người ngày nay nhiều lúc cũng giống như hành trình trong sa mạc của dân Do thái xưa. Nhiều khi chúng ta cảm thấy bất hạnh, đói khát, bất lực. Lại có những lúc chúng ta cảm thấy dường như Thiên Chúa vắng mặt. Chúng ta thầm trách Ngài: Tại sao nói Thiên Chúa là Đấng đầy tình thương mà Ngài lại để chúng ta long đong khổ sở như thế này? Vì chúng ta tin nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa. Và như thánh Phaolô nói: Dầu phải sống trong gian truân, dầu phải bước đi trong sa mạc nắng cháy, chúng ta sẽ không phải thất vọng vì Thiên Chúa đã đổ tràn tình yêu vào lòng chúng ta. Chính Đức Giêsu cũng đã chết vì chúng ta.
Hai sự kiện được sắp xếp xen kẽ vào cuộc nói chuyện: Đức Giêsu mặc khải cho con người biết, Người chính là nguồn nước hằng sống; và cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và các mộn đệ của Người về cánh đồng truyền giáo, trước khi người phụ nữ vào thành kể cho mọi người nghe. Ý muốn của Chúa Cha hướng tới sự cứu độ con người. Ai tin vào Đức Giêsu, người ấy sẽ được giải thoát khỏi mọi lo sợ luôn vây quanh mình. Ai tin vào Đức Giêsu, người ấy sẽ trở nên vô vị lợi. Ai tin vào Đức Giêsu, người ấy có nhiệm vụ tiếp tục đưa dẫn người khác tới nguồn sống. Bởi vậy, Kitô hữu có nghĩa là Đức Giêsu cho người khác.
Phụng vụ Lời Chúa năm A sử dụng Tin Mừng Mát-thêu, nhưng các Chúa Nhật 3, 4 và 5 Mùa Chay lại trích dẫn Tin Mừng Gio-an cho phù hợp với Nghi thức Sát hạch dành cho những ứng viên lãnh nhận những Bí tích Khai tâm. Tuy nhiên bài Tin Mừng Gio-an vẫn tiếp tục khai triển chủ đề về Đấng Mê-si-a. Qua biến cố Biến đổi hình dạng trên núi Ta-bo, Chúa Giê-su đã mặc khải cho các môn đệ biết về chân tính và sứ mệnh của Đấng Mê-si-a. Với bài Tin Mừng hôm nay, qua cuộc đàm thoại giữa Chúa Giê-su với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Xy-kha, Chúa đã từ từ tỏ ra cho bà được biết Người chính là “Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô.” Tại Ga-li-lê, Chúa Giê-su muốn xác tín sứ mệnh của Đấng Mê-si-a như Người đã tiên báo về cuộc Thương khó, tức là Đấng sẽ chịu khổ nạn, chịu chết và sống lại để cứu chuộc nhân loại. Tại Sa-ma-ri, Người cho ta biết Đấng Mê-si-a là nguồn ơn cứu độ cho nhân loại. Ơn cứu độ ấy đến với ta qua Chúa Giê-su là nước hằng sống và mối tương quan đích thực giữa Thiên Chúa và nhân loại.
a) Diễn tiến mặc khải của Chúa Giê-su về chân tính của Người
Trước hết ta sẽ ngạc nhiên vì thánh sử Gio-an chủ ý trình bày một gương mẫu đức tin vào Chúa Giê-su rất đặc biệt qua câu truyện gặp gỡ giữa Chúa và người phụ nữ Sa-ma-ri. Nếu so sánh với câu truyện gặp gỡ giữa Chúa Giê-su và ông Ni-cô-đê-mô trong Ga 3:1-21, ta nhận ra những điểm khác nhau về hoàn cảnh, nhưng cách thức mặc khải lại giống nhau, tức là dần dần khai mở đưa ta tới nhận biết chân tính và sứ mệnh của Người. Ông Ni-cô-đê-mô thuộc nhóm Pha-ri-sêu tại Giê-ru-sa-lem, đến với Chúa Giê-su là do nhìn thấy những dấu lạ Người làm (Ga 3:2). Còn người phụ nữ Sa-ma-ri tuy là người rối đạo và sống buông thả, lại nhận biết Chúa từ chính những yếu hèn và khát vọng thờ phượng đích thực của mình. Như thế, rõ ràng thánh sử Gio-an muốn đề cao gương mẫu tin Chúa của người phụ nữ Sa-ma-ri như một đức tin hoàn hảo hơn.
Qua cuộc đàm thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri, Chúa Giê-su đã dần dần tỏ ra Người là ai. Khởi đầu diễn tiến mặc khải, Chúa Giê-su đưa ra những hình ảnh khó hiểu như nước hằng sống và nơi thờ phượng đích thực của những ai thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật. Mặc khải kết thúc với lời tuyên xưng của người phụ nữ Sa-ma-ri (Ga 4:29) và của nhiều người trong thành: “Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (Ga 4:42).
Diễn tiến mặc khải ấy mời gọi ta dần dần nhận biết và tin thật Chúa Giê-su là Đức Ki-tô, Đấng cứu độ trần gian. Qua những giai đoạn trong hành trình đức tin và hoàn cảnh sống, ta đều có thể khám phá được những góc cạnh khác biệt của con người và sứ mệnh Đấng Mê-si-a. Ta dần dần nhận biết Chúa Giê-su qua những hình ảnh khác nhau nhưng mỗi lúc một hoàn hảo hơn, cũng như người phụ nữ Sa-ma-ri đã lần lượt nhận biết Chúa Giê-su là “người lớn hơn tổ phụ Gia-cóp”, tiếp theo là “một ngôn sứ” và sau cùng là “Đấng Ki-tô.” Đức tin không tự trên trời rơi xuống để ta đem về cất giữ, nhưng là mối quan hệ giữa ta với Chúa, được thanh luyện và phát triển theo hoàn cảnh sống và “cơn khát” của ta. Đức tin hoặc mối quan hệ ấy liên kết ta với Chúa và ảnh hưởng đến lối sống của ta, để cuối cùng “ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16).
b) Nội dung mặc khải của Chúa Giê-su
Trong cuộc đàm thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri, Chúa Giê-su nói đến hai điểm: nước hằng sống và sự thờ phượng mới. Đó cũng là tất cả những gì cần thiết để ta sống và phát triển đức tin hoặc mối tương quan với Chúa.
Các học giả Kinh Thánh đều hiểu nước hằng sống Chúa Giê-su nói đây chính là giáo huấn của Người. “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra” (Đnl 8:3; Mt 4:4). Chúa Giê-su là Lời Thiên Chúa trở thành người phàm sống giữa nhân loại để dạy dỗ họ cho họ được cứu rỗi. Cứu rỗi của ta không phải là một hành động, nhưng là một tiến trình biến đổi nhờ lắng nghe và thực hành Tin Mừng của Chúa Giê-su. Tin Chúa Giê-su không phải chỉ là hành động kêu “lạy Chúa, lạy Chúa”, nhưng là sống và thực hành lời Chúa. Nước hằng sống cũng có thể hiểu là Thần Khí do Chúa Ki-tô thông ban cho ta. Ngược lại với tinh thần nô lệ cho Lề Luật, ta phải sống theo tinh thần tự do của con cái Thiên Chúa. Tinh thần tự do ấy là tinh thần Chúa Giê-su đã sống mối quan hệ với Chúa Cha và sẽ là “nước hằng sống” để ta sống như con cái đích thực của Thiên Chúa.
Điểm thứ hai của nội dung mặc khải là sự thờ phượng mới. Vậy đâu là sự thờ phượng cũ? Sự thờ phượng cũ đặt căn bản trên vấn đề nơi chốn (Đền Thờ Giê-ru-sa-lem hoặc núi Gơ-ri-dim) và chủng tộc (Do-thái hoặc Sa-ma-ri). Nhưng Thiên Chúa không chỉ ngự tại những nơi ấy hoặc cho những người ấy, mà Người phải ngự trị trong mỗi con người. Do đó, “giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4:23). “Giờ đã đến” và “lúc này đây” ám chỉ Chúa Giê-su. Trong Người, ta sẽ thực hành sự thờ phượng mới, mới trong hai khía cạnh: 1) thờ phượng Thiên Chúa Cha với thần khí của Chúa Giê-su, tức là với tinh thần tự do của con cái Chúa chứ không phải với tinh thần nô lệ sợ hãi; 2) thờ phượng Thiên Chúa Cha trong sự thật, tức là sự thật về Thiên Chúa yêu thế gian nên “sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ” (Ga 3:17). Nói tóm lại sự thờ phượng mới nhấn mạnh đến hai yếu tố người ta thiếu trước đây, đó là thờ phượng với tinh thần con cái Chúa và với tình yêu đáp trả tình yêu của Thiên Chúa.
Chân tính của Chúa Giê-su là Đấng Mê-si-a hoặc Đấng Cứu độ trần gian đã được tuyên xưng qua cuộc đàm thoại giữa Chúa với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Xy-kha. Đây cũng là niềm tin Giáo Hội muốn đề cao trong mùa Chay, đồng thời thúc giục ta phải đặt lại vấn đề sống đức tin vào Chúa Giê-su là Đấng cứu độ ta. Nói khác đi, ta vỗ ngực ta tin Chúa Giê-su và mong được Người cứu độ, nhưng ta có thực sự tiếp nhận Người là Lời Thiên Chúa dạy dỗ ta và cùng với Người đáp lại tình yêu vô biên của Thiên Chúa Cha không? Như thế, bài Tin Mừng hôm nay không chỉ dành cho những ứng viên chuẩn bị bước vào ngưỡng cửa Giáo Hội qua Nghi thức Sát hạch, nhưng cũng dành cho mọi người đã được rửa tội và muốn sống như những Ki-tô hữu đích thực nữa.
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Mùa Chay là thời gian thuận tiện để tôi “sám hối và tin vào Tin Mừng.” Vậy tôi đã bắt đầu những thay đổi nào trong việc sống mối quan hệ với Chúa Giê-su, Đấng cứu độ tôi?
Thử nhìn lại hành trình đức tin của tôi, tôi nhận ra được những hình ảnh nào về Chúa Giê-su? Những hình ảnh ấy mỗi ngày một hoàn hảo hơn hay vẫn là những hình ảnh ấu trĩ và thiếu sống động?
Chúa Giê-su là gương mẫu thờ phượng Thiên Chúa. Vậy tôi đã học được gì nơi Người?
Cầu nguyện:
“Lạy Cha, Cha muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý, chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giê-su, Con Cha. Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người chưa nhận biết Đức Giê-su, họ cũng là những người đã được cứu chuộc. Xin Cha thôi thúc nơi chúng con khát vọng truyền giáo, khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc, niềm vui và bình an của mình cho tha nhân, và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giê-su cho thế giới. Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất để loan báo Tin Mừng. Chúng con chỉ xin đến với những người bạn gần bên, giiúp họ quen biết Đức Giê-su và tin vào Ngài, qua đời sống yêu thương cụ thể của chúng con. Chúng con cũng cầu nguyện cho tất cả những ai đang xả thân lo việc truyền giáo. Xin Cha cho những cố gắng của chúng con sinh nhiều hoa trái. A-men.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 69)
Nếu chúng ta lấy ý tưởng "Thiên Chúa đã cứu độ và kêu gọi chúng ta... trong kế hoạch ân sủng của Người" qua bài đọc Tân Ước tuần trước (2 Tm 1:8-10) làm chủ đề về ơn cứu độ, thì quả thực bài đọc hôm nay (Rm 5:1-2,5-8) sẽ quảng diễn giáo lý về ơn cứu độ với những suy tư vô cùng sâu sắc của thánh Phao-lô. Và như thế sẽ có liên hệ cấu trúc chặt chẽ giữa các bài đọc Tân Ước của Phụng vụ Lời Chúa mùa Chay. Vậy chúng ta tiếp tục suy niệm chủ đề về ơn cứu độ qua bài đọc hôm nay.
Trong đoạn đầu (cc. 1-11) của chương 5, thánh Phao-lô nêu lên đề tài ơn cứu độ với những điểm chính, để sau đó ngài sẽ trình bày cặn kẽ trong những chương kế tiếp (chương 5-8).
Trước hết là ý niệm tổng quát về ơn cứu độ là gì. Ơn cứu độ phát xuất từ Thiên Chúa, khi Thiên Chúa biểu lộ sự công chính của Người bằng cách cứu con người ra khỏi tình trạng tuyệt vọng, không trừng phạt con người mà lại còn đích thân nối kết lại tương quan tốt đẹp với Người, chỉ cần họ tin vào Ðức Ki-tô Người sai đến trần gian. Nếu họ tin vào Ðức Ki-tô, sự công chính của Ðức Ki-tô sẽ làm cho con người nên công chính, và từ khi đó, con người đã đón nhận được ơn cứu độ mở đầu, chỉ còn chờ đợi ngày được ơn cứu độ hoàn toàn. Trong thời gian từ nay tới đó, đời sống Ki-tô hữu phải là đời sống theo Thánh Thần. Nói khác đi, ơn cứu độ là một tiến trình, khởi đầu với sự kiện chúng ta được trở nên công chính nhờ tin vào Ðức Giê-su Ki-tô (justification; jus = quyền, stare = đứng thẳng; tội nguyên tổ đã khiến con người không đứng thẳng được trước mặt Thiên Chúa, thì giờ đây nhờ Ðức Ki-tô đã chết cho chúng ta, chúng ta được phục hồi quyền đứng thẳng trước mặt Thiên Chúa), nhờ đó chúng ta có một đời sống mới, tức là sống theo Thánh Thần đang khi chúng ta sống ở trần gian này và chờ đợi ngày Ðức Ki-tô lại đến để phán xét và cho chúng ta được cứu độ hoàn toàn.
Ơn công chính hóa là điều "chúng ta đang được hiện nay." Thánh Phao-lô còn diễn tả thái độ của Ki-tô hữu là "tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên Chúa." Ðối với Ki-tô hữu, cuộc sống của chúng ta có cùng đích, có tương lai rõ rệt, tức là sẽ được hưởng vinh quang Thiên Chúa, chứ không phải sống vật vờ, tuyệt vọng và vô lý như những người không có niềm tin vào Ðức Ki-tô. Sống niềm hy vọng chắc chắn và được bảo đảm sẽ giúp Ki-tô có thái độ lạc quan giữa những gian truân cuộc đời, vì "có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta?" (Rm 8:31). Nhưng có lẽ đáng buồn là nhiều người trong chúng ta, mặc dù đã "đi đạo" từ bao nhiêu năm, nhưng vẫn chưa ý thức được mình đã được công chính hóa, tức là đã bước vào khởi đầu của ơn cứu độ rồi. Và người ta cũng không ý thức được là từ bước khởi đầu ấy họ được mời gọi sống một đời sống mới theo Thánh Thần. Do đó, ơn cứu độ đối với họ chỉ là một ý tưởng hết sức mơ hồ, chứ không phải là một thực tại họ đang sống và phải sống suốt những ngày còn ở trên trần gian này.
Ơn công chính hóa là hoàn toàn do công nghiệp Ðức Ki-tô đem lại cho chúng ta chứ không phải do chúng ta xứng đáng. Riêng chúng ta chỉ là "hạng người vô đạo" và là "những người tội lỗi." Là hạng người vô đạo, chúng ta tự sức mình chẳng làm được gì. Là những người tội lỗi, chúng ta không xứng đáng được hưởng nhờ gì qua cái chết của Ðức Ki-tô. Thế mà Ðức Ki-tô đã chết cho chúng ta. Ðiều này là một bằng chứng hùng hồn cho thấy "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3:16).
Bài đọc hôm nay chỉ giới hạn trong phần khởi đầu của ơn cứu độ, tức là việc công chính hóa nhờ Ðức Giê-su Ki-tô. Như chúng ta đã thấy, ơn cứu độ là một kế hoạch hoặc một tiến trình. Khởi đầu của kế hoạch, tức việc công chính hóa, sẽ đề ra cho Ki-tô hữu một lối sống mới là sống theo Thánh Thần. Vậy sử dụng đoạn thứ Rm 5:1-2,5-8 cho mùa Chay, Phụng vụ Lời Chúa muốn giới thiệu với chúng ta một đời sống mới mà mỗi người chúng ta phải cố gắng thực thi trong những ngày này. Trong những Chúa Nhật kế tiếp, Giáo Hội sẽ tiếp tục trình bày về đời sống mới này, với hy vọng mùa Chay sẽ là thời gian để chúng ta được biến đổi, chết đi con người cũ và tội lỗi của chúng ta, sống đời sống mới theo Thần Khí của Ðức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Từ trước tới nay, tôi hiểu thế nào về việc công chính hóa? Trình bày hôm nay của thánh Phao-lô có giúp tôi có cái nhìn mới về ý nghĩa cuộc sống Ki-tô hữu không?
Chúng ta được rửa tội làm con cái Chúa, tức là được lãnh nhận ơn công chính hóa. Nhưng chúng ta có tiếp tục sống khởi điểm của ơn cứu độ không? Nói khác đi, chúng ta có sống Bí tích Rửa tội, tức là sống đời sống mới không? Chúng ta có hiểu "được cứu độ" nghĩa là mỗi ngày ta được "Ki-tô hóa" không?
Thánh Thần giúp chúng ta nhận ra tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, đồng thời cũng giúp chúng ta đáp lại tình yêu ấy. Vậy chúng ta đã nhận ra hoạt động của Chúa Thánh Thần như thế nào?
Tôi có cách nào để học hỏi thêm về giáo lý ơn cứu độ không? Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm có thể đọc kinh sau đây: Lạy Chúa là Thần Khí Sự Sống và Tình Yêu, xin ban cho con một thời để yêu và một thời để sống; để con sống vì tình yêu Thiên Chúa, để con yêu vì cuộc sống muôn loài.
Xin dạy con biết yêu những điều tốt đẹp, cao quý, và biết ghét những điều đê tiện, xấu xa. Xin dạy con luôn sống vì những điều mình yêu và dám chết vì những điều mình ghét.
Xin cho con biết đưa tình yêu vào cuộc sống để mỗi giây phút sống con đều cảm nhận được niềm hạnh phúc yêu thương. Xin cho con biết đưa cuộc sống vào tình yêu để từng giây phút yêu, con đều làm cho cuộc sống thêm giá trị. Cuối cùng, xin cho con biết hòa nhập cả hai nên một: để sống là yêu và yêu là sống, vì hiểu được rằng Thiên Chúa Hằng Sống cũng chính là Thiên Chúa Tình Yêu. A-men.
Sứ điệp Mùa Chay năm 2011 có đoạn tóm tắt ba ý tưởng của bài Tin Mừng Chúa Nhật III Mùa Chay như sau: “Chị cho tôi xin nước uống” (Ga 4,7). Lời thỉnh cầu này của Chúa Giêsu với người phụ nữ Samaria, được tường thuật lại cho chúng ta trong phụng vụ của Chúa Nhật thứ ba, diễn tả tình yêu tha thiết của Thiên Chúa đối với mọi người và muốn khơi lên trong tâm hồn chúng ta ước muốn trao ban “nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” (câu 14). Đó là ân huệ Chúa Thánh Thần, Đấng biến các kitô hữu thành “những người thờ phượng đích thực”, có khả năng cầu xin Chúa Cha “trong tinh thần và chân lý” (câu 23). Chỉ duy nước này mới có thể làm đỡ cơn khát sự thiện, sự thật và vẻ đẹp của chúng ta ! Chỉ nước này, được ban cho chúng ta qua Chúa Con, mới có thể tưới mát những sa mạc của tâm hồn lo lắng và không được thỏa mãn “bao lâu nó không nghỉ yên bên Chúa”, theo kiểu nói danh tiếng của thánh Augustinô. (số 2).
1. “Cho tôi xin nước uống." (Ga 4,7).
Bài Tin Mừng kể lại một cuộc gặp gỡ nhìn qua rất bình thường giữa một khách bộ hành khát nước và một phụ nữ đi múc nước. Người phụ nữ Samaria mỗi ngày ra giếng kín nước. Giếng Giacóp sâu 39m nên việc múc nước cho người và gia súc uống rất khó nhọc. Tại Palestina, một đất nước khô khan, cằn cỗi thì nước cũng quý hóa như lúa, như gạo, nước là nguồn sống cơ bản của con người. Dân Israel ngày xưa đi trong sa mạc, không có nước uống, đã cảm thấy cái nguy sắp phải chết, nên đã kêu trách ông Môsê, bài đọc 1 kể lời trách móc đó: “Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai cập để làm gì? Có phải là để chúng tôi, con cái chúng tôi và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không?”.
Thế nhưng, cuộc gặp gỡ bên bờ giếng Giacóp thật lạ lùng. Sau một cuộc hành trình xa dưới nắng nóng, mệt mỏi, Chúa Giêsu khát nước, đến giếng nước và gặp người kín nước. Giếng nước có liên hệ tới vài câu chuyện trong Cựu ước. Ở miền Cận Đông thời xưa, giếng nước là nơi tốt nhất để gặp gỡ. Sách Sáng Thế cho hai ví dụ xảy ra ở giếng nước đều đánh dấu một biến cố quan trọng trong lịch sử dân Israel: người lão bộc của ông Abraham gặp cô Rêbêca vào trao nhẫn cưới, hỏi vợ cho Isaac (St 24,10-27); Ông Giacóp và cô Rakhen gặp nhau tại giếng nước và nên duyên vợ chồng (St 29,1-14).
Chúa Giêsu mở đầu cuộc đối thoại bằng một lời nài xin. Xin nước uống là tạo dịp gặp gỡ, là bắc một nhịp cầu qua vực sâu ngăn cách hai dân tộc Samaria và Do thái vốn dĩ đã thù ghét và xa lánh nhau từ ngàn xưa. Chẳng ai hiểu nổi một bậc thầy như Chúa Giêsu lại nói chuyện và xin nước một phụ nữ Samaria. Chúa Giêsu đã phá bỏ những hàng rào ngăn cách để xây dựng một cuộc đối thoại đích thực và bình đẳng.
Khát nước và xin nước uống là một điều tự nhiên bình thường. Nhưng ở đây không phải Chúa khát nên xin nước uống mà chỉ là dịp để Ngài đề cập đến một vấn đề quan trọng hơn. Chúa muốn nói cho phụ nữ biết: chính chị là người đang khát, và Chúa cũng muốn nói cho chị biết: Ngài là ai, là người sẽ làm cho chị hết khát: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa”.
Từ việc xin nước uống, Chúa Giêsu đã cho người phụ nữ Samaria biết Ngài là Đấng Cứu Thế khao khát nhân loại “Ngài là người đến tìm chúng ta trước. Ngài xin ta cho Ngài nước uống, vì Thiên Chúa khao khát chúng ta” (GLCG # 2560).
2. “Nước vọt lên đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14).
Những cuộc gặp gỡ đối thoại với Nicôđêmô,Matta và Maria, Lêvi, Giakêu… Chúa Giêsu đều giúp họ thay đổi cuộc đời.
Bài tường thuật cho thấy một quá trình thay đổi nhận thức của người phụ nữ về Chúa Giêsu. Trước hết chị ta nhận thấy Chúa Giêsu là một khách bộ hành lạ mặt, một người Do Thái (câu 9). Nhưng khi Chúa Giêsu tỏ ra thấu hiểu cuộc đời riêng tư của chị, thì chị nhận ra đó là một vị Ngôn Sứ (câu 19). Cuối câu chuyện, chị được biết thêm Ngài là Đấng Kitô (c.25–26). Sau đó dân làng Samaria tuyên xưng “Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (c.42). Người phụ nữ Samaria cũng thay đổi trong ngôn ngữ khi nói chuyện với Chúa. Lúc đầu chị gọi Chúa Giêsu là Ông, kế đó là Thưa Ngài, rồi từ việc nhận thức Ngài là một tiên tri đến Đấng Thiên Sai.
Khi đã khám phá được con người của Chúa Giêsu, người phụ nữ Samaria cũng khám phá ra được thứ nước mà Ngài muốn ban tặng. Lúc đầu, khi nghe nói đến nước, người phụ nữ nghĩ tới thứ nước trong giếng Giacóp. Nhưng rồi, từ thứ nước bên ngoài ấy, Chúa Giêsu đã dẫn người phụ nữ đi tìm thứ nước nằm ngay trong lòng con người, thứ nước đem lại sự sống đời đời. Thứ nước ấy chính là Thần khí và Sự thật.
Giống như Philipphê khi đã gặp được Chúa Giêsu liền đi tìm Nathanaen để loan báo Tin Mừng; Bà Maria Mađalêna đã vội vã đi tìm các môn đệ và loan báo là đã gặp thấy Chúa; Người phụ nữ Samaria không còn quan tâm đến giếng nước và vò nước nữa, chị chạy một mạch về làng, thông báo về nước hằng sống vừa khám phá: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?”. Mọi người tin lời chị, họ đến gặp Chúa Giêsu và họ cũng tin Chúa. Sau khi gặp Chúa, người phụ nữ đã tin và làm chứng cho Chúa giữa những người Samaria trong làng. Chị đã dẫn đưa bà con trong làng đến gặp Đức Kitô, nguồn nước hằng sống. Dân làng sau khi gặp Chúa, đã xin Chúa ở lại với họ, và hân hoan tuyên xưng rằng: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”.
3. “Thờ phượng trong thần khí và sự thật” (Ga 4,23).
Trong bài đọc II, thánh Phaolô so sánh ơn Chúa Thánh Thần với một thứ nước kỳ diệu mà Thiên Chúa đổ vào lòng các tín hữu. Đó là Thánh Thần tình yêu. Thánh nhân viết: “trông đợi như thế (nghĩa là trông đợi hưởng vinh quang với Chúa), ta sẽ không thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần Người ban cho ta”.
Nước Hằng Sống mà Chúa Giêsu ban tặng chính là Thánh Thần tình yêu. Từ nay nhân loại thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật. Để giải thích điều này, Chúa Giêsu nói: “Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật”. Nếu Thiên Chúa là thần khí, thì để gặp Ngài, con người cũng phải dùng thần khí của mình tức tâm hồn mình để gặp Ngài. Vì chỉ có thần khí mới gặp được và hòa nhập được với thần khí. Như vậy nghĩa là phải gặp Ngài trong chính tâm hồn mình. Thật vậy, nơi dễ gặp gỡ Thiên Chúa nhất, chính là cung lòng của mỗi người chúng ta. Không gì linh thánh bằng con người, hay tâm hồn con người, vì “con người là hình ảnh của Thiên Chúa” (St 1,26-27; 9,6; Kn 2,23).
Và cũng không nơi nào linh thiêng bằng cung lòng con người: “Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em” (1Cr 3,17; 6,19). Có gặp được Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình, thì mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong Thánh Thể, trong nhà thờ, trong tha nhân, trong thiên nhiên. Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình mà mình không gặp được, thì mong gì gặp được Thiên Chúa ở bên ngoài. Thánh Augustinô đã từng than thở: “Con đã tìm Chúa ở ngoài con, nên con đã không gặp được Chúa của lòng con”. Muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, còn phải gặp Ngài trong sự thật. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự thật, vì thế, người gian dối, không thành thật thì không thể gặp được Ngài.
Lời mạc khải của Chúa Giêsu bên giếng Giacóp mời gọi chúng ta hãy tôn thờ Thiên Chúa Ba Ngôi. Thờ phượng “trong thần khí” là thờ phượng theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần; thờ phượng “trong sự thật” là thờ phượng với tâm tình kết hợp với Chúa Giêsu, Đấng là Đường là Sự Thật và là Sự Sống. Thờ phượng Chúa Cha, dưới tác động của Chúa Thánh Thần và được nuôi dưỡng bằng mọi chân lý đến từ Chúa Giêsu. Khi tụ họp với nhau hay khi làm việc thờ phượng cách riêng rẽ, chúng ta đều được Thánh Thần trợ giúp để có thể cầu nguyện, ngợi khen, thờ phượng, cảm tạ, tuyên xưng Chúa Kitô và Thiên Chúa.(x. Ep 5,18-20; 6,18; Rm 8,26-27; Cl 3,16-17).
Hãy tin vào Chúa Giêsu để lãnh nhận nước hằng sống, hầu mang lại sự sống đời đời là chính là Thánh Thần tình yêu của Thiên Chúa. Tin là gặp gỡ Chúa Giêsu như người phụ nữ Samaria và những người đồng hương của chị đã gặp và đã khám phá ra nguồn nước trường sinh. Niềm tin vào Chúa Giêsu là điều kiện cần thiết để được ơn cứu độ, và niềm tin ấy là hoa quả của Thánh Thần (x. Ga 5,22; 1Cor 1,9). Con người có niềm tin viên mãn cũng là con người đầy Thánh Thần (Cv 6,5; 11,24). Sứ vụ của Thánh Thần là củng cố, làm cho niềm tin phát triển và trở nên viên mãn. Thánh Thần làm cho chúng ta trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô là Con Thiên Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết khao khát, tìm kiếm và sống các mầu nhiệm đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Amen.
Câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay như thế nào thì chúng ta đã rõ. Giáo hội cố ý cho đọc cả câu chuyện vì tính cách đặc biệt của nó. Qua câu truyện này, chúng ta có thể rút ra được một bài học... rất phù hợp với Mùa Chay: Bài học về sự trở lại. Có thể nói đây là một cuộc trở lại kiểu mẫu. Nội dung của một cuộc trở lại thường diễn tiến như sau:
1. Bắt đầu từ chỗ biết nhìn nhận quá khứ lỗi lầm của mình
Người đàn bà trong bài trong bài hôm nay là một người tội lỗi với một quá khứ không đáng tự hào chút nào cả! Trong cái quá khứ đó, chúng ta có thể tìm thấy một cuộc sống:
- xem ra chỉ có hiện tại mà không có tương lai,
- có lẽ chỉ có tình dục mà không có tình yêu,
- hình như chỉ có hưởng thụ mà không có phục vụ,
- xem ra chỉ có bay nhảy mà không có trách nhiệm.
Một quá khứ như thế hẳn là sẽ dẫn đến một hiện tại chẳng mấy tốt đẹp. Cuộc sống của bà ta lúc này có vẻ chẳng khác gì cuộc sống hoàn toàn nô lệ cho bản năng.
Rất may là bà ta được gặp Chúa. Cuộc gặp gỡ không có dự tính từ trước nhưng lại đem đến những kết quả thật lạ lùng. Chúa đã ấn một ngón tay vào đúng chỗ nhức nhối nhất trong cuộc đời của bà, để rồi sau đó Chúa đưa bà vào cuộc sống mới. Lúc bị Chúa phê phán về cuộc sống tội lỗi, bà ta đã không nói gì, bà ta im lặng chấp nhận.
Nhìn nhận mình có tội, nhìn nhận tội lỗi của mình đó là bước đầu tiên và cũng là bước thật quan trọng trên con đường trở lại.
2. Tin vào tình thương của Chúa
Lúc đầu khi mới gặp Chúa, thái độ của bà có vẻ rất đanh đá:
- Ông là người Do Thái mà lại xin nước uống với tôi là người Samaria sao?(Ga 4,9)
Người Do Thái không giao thiệp với người Samaria. Có nhiều lý do nhưng lý quan trọng nhất vẫn là vì hai bên không có cùng một cách biểu lộ lòng tin và nhất là không có sự nhất trí với nhau về nơi Thiên Chúa ngự.
Nhờ cuộc gặp gỡ này mà Chúa đã giải tỏa hết những lấn cấn mà bao lâu nay người ta đã vì đó mà bất hòa với nhau:
- Đã đến giờ và chính là lúc này những kẻ tôn thờ đích thực...sẽ thờ Thiên Chúa Cha trong Tinh thần và trong Chân Lý (Ga 4,23).
Nhìn lại quá trình của cuộc gặp gỡ, chúng ta thấy người đàn bà này đã có một chuyển biến rất rõ rệt trong cách nhìn của bà đối với Chúa.
- Lúc đầu, đối với bà, Chúa chỉ là một con người: "Ông là người Do Thái"(Ga 4,9)
- Sau khi Chúa "bật mí" cho bà ta biết là Ngài biết rất rõ về đời tư của bà và nhất là khi Chúa tỏ ra cảm thông với sự vất vả của bà cũng như sẵn sàng giúp bà thoát ra khỏi cuộc sống cơ cực của hiện tại thì bà đã có một cái nhìn khác về Chúa, một cái nhìn cao hơn: "Quả thực Ngài là một vị Tiên tri"(Ga 4,19)
- Và kết cuộc thì thật kỳ diệu: Sau khi Chúa chỉ cho bà cách thức để bà có thể tìm gặp được một Thiên Chúa đích thực thì hình ảnh về một đấng Messia mà muôn dân đang mong đợi đã thoáng hiện ra trong tâm trí của bà: "Tôi biết Đấng Messia mà người ta gọi là Ki-tô sẽ đến và khi đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự."(Ga 4,25)
3. Sống cuộc sống mới mà mình đã tìm lại được
Bắt đầu bằng một thái độ dứt khoát với quá khứ. Tin Mừng ghi rõ: "Bấy giờ người đàn bà bỏ vò nước xuống"(Ga 4,28) Một số nhà chủ giải Kinh Thánh cho rằng việc này có một ý nghĩa tượng trưng rất đặc biệt. Nó như một kết thúc cho một giai đoạn đã qua của một cuộc đời và mở đầu cho một gian đoạn mới.
Tiếp theo Tin Mừng ghi: Bà chạy về thành loan báo cho mọi người rằng:
- Ra mà xem một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng Ông đó là Đức Ki-tô?(Ga 4,29)
Đó là bước thứ hai trong cuộc sống mới: Bắt đầu sống cho Chúa bằng cách loan báo cho người ta biết Ngài.
Và cuối cùng là kết hợp với Ngài trong niềm tin dể được cùng chia sẻ cuộc sống hạnh phúc của những người tin Chúa:
- Giờ đây không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã dược nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là đấng Cứu Thế.(Ga 4,42)
Để kết thúc, xin tặng anh chị em câu chuyện:
Một Linh mục dòng Tên người Ailen, cha Doyle, nổi tiếng vì lòng hay giúp đỡ người khác và sự thánh thiện của cha. Một buổi tối, sau khi giảng một bài về sự truyền giáo, ngài đi ra đường và gặp một thiếu nữ. Ngài nói dịu dàng với họ:
- Con ạ, trời đã khuya. Con chưa về nhà sao?
Rồi, với tâm hồn nhiệt thành, Ngài nói tiếp:
- Đừng làm Chúa đau khổ. Ngài yêu con.
Năm tháng trôi qua. Vào một đêm nọ, có điện thoại của bề trên sai Ngài đi Dublin ngay lập tức, để gặp một người nữ sắp bị hành hình vào sáng mai. Người phụ nữ này yêu cầu được gặp Ngài. Ngài ra đi đến nơi lúc 5giờ sáng, và được dẫn ngay tới phòng giam của cô Fanny Cranbush, một cô gái bất lương đã bị kết án vì cộng tác với kẻ khác để đầu độc nhiều người. Vừa thấy linh mục, cô ấy quỳ gối và nói:
- Thưa cha, cảm ơn Chúa vì Cha đã đến đây.
- Nhưng con ạ, Cha chưa biết con, con cần gì?
- Cha không nhớ con sao? Hai năm trước đây Cha đã gặp con trên đường phố Yarmouth vào một đêm tối. Con là cô gái xấu nết, cả đời con là vậy. Cha đã nói với con: "Con ạ, trời đã khuya. Con chưa về nhà sao? Đừng làm Chúa đau khổ. Ngài yêu con." Ngài là ai? Con biết quá ít là Ngài. Con chưa bao giờ cầu nguyện và chưa bao giờ được rửa tội. Nhiều tuần lễ, con muốn lánh xa con đường tội lỗi, nhưng cái đói đã làm con phải phạm tội. Mỗi ngày con càng lún sâu trong tội, đến độ giờ đây con sắp bị treo cổ. Con đã tuyệt vọng, và không muốn gặp vị linh mục nào. Nhưng rồi con nhớ lại lời cha đã nói. Con khóc lên. Con ước muốn gặp Cha để nghe Cha con nói về Ngài Giêsu.
Cha dạy giáo lý cho cô ta với thời gian cho phép, trước khi rửa tội cho cô. Ngài lập một bàn thờ trong phòng giam, dâng Thánh lễ, cho cô ta rước lễ lần đầu cũng là lần cuối. Trên đường đi xử, cô thì thầm: "Thưa Cha, con quá đỗi hạnh phúc. Chúa Giêsu biết con ăn năn hối lỗi vì đã xúc phạm đến Ngài. Con biết Chúa Giêsu hằng yêu mến con. Amen."
Nhiều thôn bản miền núi lắp đặt ống dẫn nước tự chảy từ khe suối về cho dân làng. Người phụ nữ Samaria ra giếng múc nước và tại đó chị đã gặp và trao đổi với Chúa Giêsu. Chị đã khám phá ra Ngài như nguồn suối nước hằng sống. Và suối nước thiêng đó đã được chị dẫn về làng nên “có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu và lời chị làm chứng.” Đừng quên người dẫn nước này là một phụ nữ đã có năm đời chồng và đang sống ngoại hôn với người thứ sáu.
Mời Bạn: Ở chỗ bạn nghe Lời Chúa, đó là giếng Giacob của mình, bạn hãy làm sao đem dòng nước hằng sống Giêsu về làng xóm, gia đình mình như người phụ nữ kia.
Chia sẻ: Một số kitô hữu đang sống trong hoàn cảnh cần đem Chúa cho người khác (con cái bỏ đạo, người yêu muốn theo đạo, chung quanh toàn lương dân...) tôi có cách gì giúp họ không?
Sống Lời Chúa: Tôi quan tâm tới những người không biết Chúa sống quanh tôi. Tôi sống thế nào để họ nhận ra Chúa nơi tôi.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, nguồn nước nơi Chúa là nguồn sống luôn sẵn sàng tuôn đổ đến mọi nơi. Xin cho con ý thức rằng Chúa dùng con như là một phương tiện để giới thiệu Chúa cho mọi người chung quanh, không phải là để thêm gì cho Chúa nhưng là vì phần vinh phúc của con và là phần rỗi của mọi linh hồn.
Chủ đề của cuộc trao đổi bên bờ giếng giữa Đức Giêsu và người nữ Sa-ma-ri hiển nhiên liên quan tới ‘Nước Hằng Sống’, thứ nước mà Người hứa sẽ ban cho mọi tín hữu thông qua Tin Mừng Người rao giảng. Thế nhưng bản chất của thứ nước đó là gì thì vẫn chưa rõ ràng lắm; nước đó là thứ gì mà, “ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa”? Cụ thể hơn nữa sẽ là câu hỏi: cơn khát mà nước đó vĩnh viễn giải được là cơn khát gì? Nắm được hay trả lời được vấn nạn trên tức là hiểu được sứ mạng đích thực của Đức Giêsu và lý do tại sao ta lại đặt trọn niềm tin đời ta vào Người. Và để tìm ra câu trả lời thỏa đáng, có lẽ ta nên nhìn sâu hơn vào người phụ nữ Sa-ma-ri đang tiến tới bờ giếng Gia-cóp để kín nước, vì bà là đối tượng trực tiếp lúc đó của lời mời gọi: hãy kín lấy ‘nước hằng sống’. Cụ thể hơn nữa, ta tự hỏi, trong thâm tâm chị ta đang khát khao điều gì nhất, điều gì có thể khiến chị đi tới xác quyết: ông Giêsu này chính là đấng Ki-tô mà tôi hằng mong đợi?
Câu hỏi là, đối với một phụ nữ ‘đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị’ thì điều gì chị ta thực sự khao khát nhất? Một đời sống luân lý hoàn hảo chăng - không dám đâu! vì trong hoàn cảnh cụ thể của chị, điều này đơn giản là bất khả thi; vả lại xem ra Đức Giêsu cũng không đòi hỏi hoặc quở trách gì chị về điều đó - Người không có lấy một lời đòi chị phải rời bỏ ông chồng hờ. Ngoài tình dục là điều rất tự nhiên của đời sống vợ chồng, người phụ nữ này rất có thể, sau bao nỗi đắng cay ngay trong đời chung sống, đang ủ ấp trong lòng niềm khao khát có được một tình yêu đầy cảm thông và được chấp nhận, điều mà chị chưa từng tìm được nơi một ai, kể cả năm ông chồng trước, cũng như nơi người đàn ông chị hiện đang chung sống với; chị khao khát được thương cảm bao dung, được thứ tha trọn vẹn! Cuộc đối thoại tiếp sau đó cho thấy: hình như dung mạo Thiên Chúa mà chị đang âm thầm tìm kiếm và mong đợi cũng liên quan tới cái khát vọng này. Dầu không phải là nhà thần học để tranh luận vấn đề, phải thờ phượng Thiên Chúa ở nơi nào cho thích hợp nhất; nhưng chị đã thật sự vui mừng khi nghe người lữ hành ngồi bên bờ giếng công bố: “giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật”; một kiểu thờ phượng sẽ đáp ứng trọn vẹn niềm khát vọng ẩn chứa bên trong. Về diện mạo đấng Mê-si-a phải đến cũng tương tự như thế: khác với quan niệm về một đấng Ki-tô thống trị và quyền lực mà giới lãnh đạo vẫn thường quảng bá, chị chỉ mong vị đó “khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”, nhất là khi các điều đó đáp ứng được khát vọng thầm kín nhất của tâm hồn mình. Và một khi phát hiện ra con người mà lòng hằng mong đợi: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây!”, người phụ nữ Sa-ma-ri vội “để lại vò nước, chạy vào thành và nói với người ta; “Đến mà xem; có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là đấng Ki-tô sao?”
Thế rồi dân thành Xy-kha nghe người phụ nữ loan báo, đã đến gặp và mời Đức Giêsu lưu lại với họ… ‘và Người ở lại với họ hai ngày’. Trong thời gian đó, chắc chắn mỗi người trong số họ cũng đã, bằng kinh nghiệm của bản thân, khám phá ra rằng: ông Do Thái Giêsu này đúng là người có thể ban cho ‘nước hằng sống’ để rồi mỗi người trong họ đều có thể tự quả quyết: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”. Đối với những con người chất phác, mang trong mình những mảnh đời riêng tư khác nhau (mà người phụ nữ với sáu đời chồng chỉ là một điển hình…), thì khát vọng sâu xa nhất sẽ không là gì khác hơn một sự cảm thông sâu sắc và một lòng thương xót vô bờ. Họ đã khám phá ra rằng: ông Giêsu tới từ Na-da-rét đây đúng là người đáp ứng được khát vọng mãnh liệt thầm kín nhất ấy cho riêng mình. Và họ sẵn sàng tin theo ông, cho dầu ông có là người xa lạ, là cừu địch của họ về mặt xã hội chính trị. Họ đã khảng định niềm tin đó một cách thật rõ ràng và chân chất nhất: “Người thật là Đấng Cứu Độ!” Đó là một lời tuyên xưng biểu lộ thái độ hoàn toàn mãn nguyện, tương tự như khi tìm được nguồn nước mát của bao dung và thứ tha giữa cơn khát khô họng trong sa mạc nóng cháy da của cuộc đời. Đúng thực, Người là ‘nước hằng sống’ không phải trên lý thuyết, mà là cho những mảnh đời rất tư riêng!
Nếu quả đúng là như thế thì nội dung ‘nước hằng sống’ sẽ không còn nằm trong suy tư thần học này nọ, mà đã trở thành một vấn đề hết sức thiết thực và cá nhân. Mùa Chay được Hội Thánh dành cho tôi, chính là thời gian để tôi xác định được cơn khát của riêng mình (vì thế mà cần sám hối), hầu cho phép tôi tiến sâu hơn vào một tuyên xưng đầy xác tín và chân thành: Giêsu Ki-tô quả là Đấng đã, đang và sẽ tiếp tục mãi ban cho tôi thứ ‘Nước Hằng Sống’ tôi rất cần, là Đấng duy nhất giải được cơn khát khô họng của cõi lòng tôi. Người quả là ‘Đấng cứu độ’ của tôi và cho tôi!
Lạy Chúa, con cũng có một mảng đời riêng tư với những khát vọng cháy bỏng. Vào lúc đời xế bóng này, khát vọng lớn nhất con có chính là được cảm thông, thứ tha và xót thương; vì cũng như mọi kiếp người, cuộc sống con không tránh khỏi những khiếm khuyết, thiếu sót và tội lỗi. Nhưng như người đàn bà Sa-ma-ri bên bờ giếng, làm sao chính con có thể xác tín cho riêng mình rằng: chỉ có ‘nước hằng sống’, tức là lòng từ ái hải hà vô tận của Chúa, mới hoàn toàn giải được cơn khát cháy khô họng của con, bây giờ và cho đến muôn đời. Xin cho con luôn được phúc sống sâu xa cảm nghiệm Tin Mừng này, bây giờ và nhất là trong giờ chết. Amen.
Chúa Giêsu đã đưa ra một lời giải đáp. Ngài khẳng định rằng Thiên Chúa không bao giờ bị khoanh vùng, Ngài cũng không bao giờ là Chúa riêng của một người hay một dân tộc nào, bởi vì Ngài là Cha chung của mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Không một người nào, không một dân tộc nào và không một tôn giáo nào được độc quyền chiếm giữ Ngài cho riêng mình, hay nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ hiện diện trên đất nước của mình hay trong đền thờ của mình.
Không. Chúa Giêsu đã khẳng định với người thiếu phụ Samaria: Đã đến giờ ác ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem, nhưng sẽ thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật.
Thiên Chúa là thần khí, mà thần khí thì vô hình nên ở đâu cũng có. Thiên Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi: Trời là ngai toà của Ngài còn đất là bệ chân của Ngài. Ngài không cần nhà để ở và hơn nữa, không một nơi nào dù nguy nga tráng lệ đến đâu chăng nữa xứng đáng với Ngài. Trái lại Ngài có thể hiện diện ở bất kỳ nơi nào, nhất là qua mầu nhiệm nhập thể, Ngài có thể hiện diện trong chuồng bò tại Bêlem, tạm trú bên Ai Cập, vất vả tại xưởng thợ Nadarét, để rồi sau đó rảo bước khắp nơi trên mọi nẻo đường Palestine, đến với mọi người Do Thái, Hy Lạp, cũng như Rôma. Kẻ có đạo cũng như người ngoại đạo, người đạo đức cũng như kẻ tội lỗi.
Thiên Chúa là thần khí nên Ngài tự do tuyệt đối, không ai có thể giam hãm Ngài được. Thánh Phaolô khi đến Athen, đã gián tiếp nói cho dân Hy Lạp biết rằng họ cũng thờ phượng một Thiên Chúa như thánh nhân, tuy họ không biết Thiên Chúa ấy là Đấng nào và thánh nhân còn nhìn nhận rằng họ cũng thuộc dòng giống của Thiên Chúa, bởi vì chính nhờ nơi Thiên Chúa mà tất cả chúng ta được sống và hiện diện.
Một khi đã xác tín Thiên Chúa là Cha chung của mọi người, chúng ta không được nhân danh Ngài mà gây chia rẽ và hận thù, trái lại phải nhân danh Ngài mà yêu thương đoàn kết với nhau. Thực vậy đối với Chúa Giêsu thì cách thế diễn tả lòng kính mến Thiên Chúa một cách sâu xa và trọn vẹn nhất, đó là yêu thương anh em của mình. Cách thế phụng thờ Thiên Chúa đúng theo ý Ngài muốn, đó chính là phục vụ anh em. Bởi vì yêu mến Chúa thì phải tuân giữ điều răn của Ngài, mà điều răn Ngài truyền dạy đó là chúng ta phải yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta.
Bởi vậy, không phải khi chúng ta xây dựng những ngôi thánh đường hay những gian cung thánh nguy nga tráng lệ là chúng ta có thể làm cho mọi người nhận ra chúng ta là những kẻ thờ phượng Thiên Chúa đích thực, nhất là khi chúng ta dùng những đồng tiền bất chính để xây dựng nhà thờ. Trái lại chỉ có tình yêu thương anh em bằng tinh thần phục vụ, nhất là đối với những người khổ đau và nghèo túng, mới là cách thế chứng minh rằng Thiên Chúa hiện diện ở khắp nơi, và nhất là ở những nơi nào con người biết yêu thương và phục vụ lẫn nhau.
Ai trong chúng ta cũng biết: Nước cần thiết cho sự sống và nước là nguồn phát sinh sự sống. Các nhà khoa học đang hy vọng tìm thấy dấu vết của nước trên sao Hỏa, và khi đã tìm ra được nước, thì hy vọng người ta sẽ tìm ra sự sống trên đó. Lịch sử cũng cho thấy các nền văn minh trên thế giới đếu bắt nguồn từ những dòng sông như: Văn minh sông Nil, văn minh Lưỡng Hà, văn minh sông Hằng, ở Việt Nam có nền văn minh sông Hồng, sông Đồng Nai. Gần đây nhiều cuộc tranh chấp giữa các quốc gia cũng có liên quan đến việc tranh chấp nguồn nước như vùng sông Giođan, các nước vùng sông Mêkông. Đối với con người, 90% trong cơ thể là nước, vì thế người ta có thể nhịn ăn nhiều ngày, nhưng không thể nhịn khát lâu ngày được.
Thưa quý OBACE, nước quan trọng và cần thiết cho cuộc sống, cho vũ trụ như thế, nên hôm nay Lời Chúa cũng đề cập đến hình ảnh nguồn nước, nhưng không chỉ đơn thuần là nước tự nhiên, mà là nước đem lại sự sống đời đời.
Dân Israel đã trải qua kinh nghiệm thế nào là thiếu nước uống, khi họ hành trình trên sa mạc. Cái nắng và gió của sa mạc làm cho cơ thể mất nước mau chóng, nếu không có nước bổ sung kịp thời thì chắc chắn sẽ chết. Thế nhưng vấn đề trong câu chuyện Xuất Hành cho thấy, sở dĩ dân Do Thái muốn nổi loạn là vì họ quá khát, mà không phải chỉ một vài người mà cả một đoàn dân đông đúc cùng với súc vật, vì thế họ như nhìn thấy cái chết chắc chắn trước mắt. Cũng chính vì lý do này mà họ nổi loạn phản đối ông Môsê: Tại sao ông dẫn chúng tôi vào trong sa mạc để chúng tôi chết khát thế này? Những lời kêu trách như thế thể hiện sự mất kiên nhẫn và thiếu lòng tin ở nơi họ, mặc dù từ khi đưa dân ra khỏi Ai cập, Thiên Chúa đã làm biết bao phép lạ để bảo vệ họ, vậy mà họ vẫn nghi ngờ không tin vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa.
Một lần nữa để chiều lòng họ, và để cho họ thấy rằng Thiên Chúa luôn hiện diện bên họ, nghe tiếng họ kêu cầu và có thể biến những cái không thể thành có thể, Ngài không làm cho mạch nước phát xuất từ lòng đất, nhưng Ngài lại truyền cho Môsê dùng gậy đập lên tảng đá, và nước từ tảng đá chảy ra cho dân và súc vật uống thỏa thuê. Một tảng đá tưởng như khô cằn, mà lại trở thành mạch nước!
Câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến một mạch nước khác, mạch nước này phát xuất từ trong tâm hồn những người tin và đón nhận Ngài. Câu chuyện xảy ra tại bờ giếng Giacóp khi Chúa Giêsu gặp người phụ nữ xứ Samaria. Ngài khởi đầu câu chuyện bằng lời xin: “Chị cho tôi một miếng nước uống!” Với sự mở đầu này, Chúa Giêsu đã phá vỡ bức tường nghi kỵ ngăn cách mà người Do Thái đã dựng lên giữa họ và người Samaria, khiến cho người phụ nữ kia không khỏi ngạc nhiên: “Ông là người Do Thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Samaria nước uống?”. Từ việc là một người xin nước uống, qua câu chuyện, Chúa Giêsu đã chỉ cho chị thấy Ngài là Đấng sẽ ban một thứ nước hằng sống. Tuy nhiên người phụ nữ đã không dễ dàng hiểu được ý nghĩa của lời Chúa Giêsu nói, chị ta vẫn chỉ nghĩ đến dòng nước dưới giếng, và chị tự hào vì cái giếng này đã cung cấp nước cho tổ phụ Giacóp, cho con cháu, súc vật và còn cho đến lúc này. Nhưng Chúa Giêsu đã mạc khải rõ hơn: “Ai uống nước giếng này thì vẫn còn khát, còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ còn khát nữa, vì nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời”. Người phụ nữ liền xin: “Xin cho tôi thứ nước ấy để tôi hết khát”. Đến đây, thánh Gioan đã chỉ cho thấy Đức Giêsu, lúc đầu, Ngài là người xin nước uống, và bây giờ thì người phụ nữ lại là người xin nước từ nơi Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu lại là người ban nước ấy.
Chúa Giêsu đã đưa người phụ nữ Samari đi một bước xa hơn khi Ngài đụng chạm đến cái khát khao từ trong lòng của chị, khi Ngài nói với chị: “Chị đi gọi chồng chị rồi trở lại đây”. Chị ta đã phải thú nhận: “Tôi không có chồng”. Chúa Giêsu chỉ cho chị biết chị đã có năm đời chồng, nhưng vẫn không thỏa mãn, và hiện nay chị đang chung sống với một người đàn ông khác không phải là chồng chị. Cái khát khao tìm kiếm thỏa mãn xác thịt và dục vọng sẽ chẳng bao giờ được lấp đầy, và nó còn phản ánh một lối sống tự do buông thả của con người nơi người phụ nữ này. Nguyên nhân sâu xa của lối sống buông thả này, đó là vì họ không còn đặt Thiên Chúa làm trọng tâm của cuộc đời, và không đón nhận được sức sống mới từ Thiên Chúa. Cái khao khát thèm muốn của người phụ nữ này thể hiện cái khao khát thèm muốn của cả dân tộc Samari khi họ chối từ việc thờ phượng Thiên Chúa để thờ cúng các thần minh của dân ngoại, họ “ngoại tình’ trong đời sống đức tin phá bỏ giao ước với Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã giúp người Samaria này điều chỉnh lại suy nghĩ và cách thức thờ phượng Thiên Chúa sao cho phù hợp ý Chúa khi Ngài nói với chị: “Đã đến giờ các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa Cha trên núi này hay tại Giêrusalem… nhưng những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự thật”. Như thế, Chúa Giêsu muốn hướng con người đến sự thờ phượng đích thực là một sự thờ phượng phát xuất từ một tâm hồn chân thành nhìn nhận Thiên Chúa là Cha, là Chúa của mình, là Đấng quyền năng, và hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa, đón nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ. Khi có Thiên Chúa và Thánh Thần của Ngài trong tâm hồn, khi để cho Thánh Thần hướng dẫn, thì Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ làm cho sức sống thần linh của Thiên Chúa tuôn chảy trong tâm hồn và nuôi sống cuộc đời chúng ta. Đó chính là mạch nước mà Chúa Giêsu nói đến hôm nay.
Sức sống thần linh của Thiên Chúa sẽ trở thành nguồn mạch sự sống cho những ai để Chúa hiện diện trong tâm hồn mình. Thánh Phaolô đã giải thích điều này trong thư Rôma: “Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa… Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào tâm hồn chúng ta nhờ Thánh Thần của Người”. Chính tình yêu này làm phát sinh sự sống mới trong tâm hồn mỗi tín hữu.
Thưa quý OBACE, ngày hôm nay người ta cũng cảnh báo nhiều về việc ô nhiễm nguồn nước, thế giới có hàng tỷ người không có nước sạch để uống, mà họ phải sử dụng nguồn nước ô nhiễm và chứa nhiều chất thải độc hại. Cũng vậy, có thể đời sống của nhiều người, nhiều gia đình, của môi trường xung quanh chúng ta đang bị ô nhiễm trong đời sống thiêng liêng, ô nhiễm tâm hồn. Nhiều cha mẹ đã để cho nhiều nguồn nước độc hại đang chảy vào gia đình mình, đó có thể là phim ảnh, sách báo xấu đang đầu độc và hủy hoại tâm hồn con cái chúng ta, mà cha mẹ là người đã mất kiểm soát. Các máy vi tính, internet được nối kết vào từng phòng của gia đình, mà cha mẹ không biết rằng, hằng ngày, hàng đêm phim ảnh xấu xa đang chảy vào trong từng phòng của gia đình, đang ngấm vào tâm hồn con cái chúng ta.
Đáng lẽ, các thành viên trong gia đình phải được uống những dòng nước yêu thương, sự nhân ái hiền hòa từ nơi cha mẹ, thì ngược lại nguồn nước ô nhiễm còn là chính gương xấu nơi cha mẹ và người lớn trong đời sống cũng như trong làm ăn buôn bán, cách cư xử gian ác, thiếu bác ái, sự tranh chấp kèn cựa, sự giận ghét thù oán, nó đang là những chất độc hại từng ngày gây ô nhiễm bầu khí của gia đình và đang ngấm vào con cái chúng ta.
Lối sống ích kỷ, hưởng thụ, hẹp hòi nhỏ nhen, lối sống ăn chơi buông thả, đang chứng tỏ rằng giới trẻ ngày nay không khác gì người phụ nữ Samaria ngày xưa, họ đang khát khao tìm kiếm để thỏa mãn bản năng, họ đang uống phải dòng nước độc hại ô nhiễm là lối sống chạy theo vật chất, hưởng thụ, thực dụng, vô cảm từ môi trường xã hội, khiến cho nhiều người trẻ mất đi sức sống trẻ, mất đi ý thức phục vụ và cống hiến, đánh mất phẩm giá của một con người và phẩm giá là một người Công giáo.
Với sức riêng của mình, chúng ta không thể ngăn chặn được dòng chảy xấu xa độc hại ấy, nhưng nếu mỗi người biết cùng nhau đồng loạt ý thức và ra tay, chúng ta sẽ làm giảm bớt những chất độc như vừa nêu đang ngấm vào trong từng người từng gia đình. Mỗi người mỗi gia đình hãy sử dụng một hệ thống lọc đặc biệt là Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài, có sức khử trùng cực mạnh để ngăn chặn dòng nước ô nhiễm đang đe dọa các tâm hồn. Hãy đến với Bí tích Giải Tội tham dự Thánh Lễ, rước lễ thường xuyên, đó là hệ thống lưới lọc có khả năng loại trừ các chất độc hại là tội lỗi là thói xấu trong tâm hồn và còn tưới gội tẩy rửa tâm hồn chúng ta bằng nguồn nước sạch là tình yêu thương và sự tha thứ của Chúa.
Xin Đức Giêsu ban cho chúng ta nước sự sống của Ngài, để chúng ta không còn khát khao tìm kiếm những điều thấp hèn trong thế giới ngày nay nữa, và xin nguồn nước hằng sống của Đức Giêsu làm phát sinh tình yêu trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Amen.
Người ta kể rằng: có một người thợ đào vàng chết và lên thiên đàng. Ngay ở cổng thiên đàng, thánh Phê rô hỏi:
- Ở trần gian con làm nghề gì?
- Anh ta thưa: Con làm nghề đào vàng.
- Thánh Phê rô nói: Trên thiên đàng đã có quá nhiều thợ đào vàng rồi.
- Anh ta đáp: Thưa ngài, xin cứ cho con vô, để con cai trị bọn nó, kẻo chúng tham lam mà gây náo loạn thiên cung, làm sao dẹp loạn.
- Nhờ dẻo miệng anh ta cũng được thánh Phê rô cho vào thiên đàng. Anh ta đảo một vòng thiên đàng thì quả thật có rất nhiều tay thợ đào vàng đang ở thiên đàng. Anh ta liền rỉ tai rằng: ở hoả ngục vừa phát hiện ra một mỏ vàng mới. Các anh mau xuống đó mà đào. Thế là một thoáng qua đi, các tay đào vàng đã bỏ thiên đàng, vác cuốc, vác xẻng nhảy bổ xuống hoả ngục tìm vàng. Nhìn quanh nhìn quẩn chỉ còn lại một mình, anh cũng cảm thấy đứng ngồi không yên. Anh liền xin phép thánh Phê rô cho anh xuống tham quan một vòng hoả ngục xem sao. Thánh Phê rô mới bảo anh: đừng có mà ảo tưởng. Chẳng có mỏ vàng nào ở hoả ngục đâu! Chỉ có sự chết mà thôi! Nhưng anh ta nói: thưa ngài, chính con là người phao tin đồn đó, nhưng biết đâu ở đó lại có vàng thật thì sao? Vì bọn kia đã ra đi mãi mà chẳng thấy đứa nào quay trở lại. Chắc là có vàng thật! Nói xong, anh liền nhảy luôn xuống hoả ngục. Thế là cả đống, cả chùm ở dưới hoả ngục. Lòng tham của con người thật khôn cùng, sẵn sàng hy sinh cả hạnh phúc đời đời để thoả mãn cái khát vọng thấp hèn trần gian mau qua.
Có thể nói, đói khát vàng bạc, giầu sang chỉ là một trong muôn vàn cơn đói khát đang hành hạ và giết chết hàng vạn người. Có biết bao cơn khát của đam mê lầm lạc, của thú vui xác thịt, của tiền tài danh vọng đã đẩy bao người vào hố sâu của vực thẳm. Càng ngụp lặn trong vực thẳm, càng làm cho họ trở nên điên rồ đánh mất nhân cách, đánh mất tính người. Họ đã lầm. Vì tất cả những thứ đó không bao giờ làm thoả mãn cơn khát trong lòng họ. Vì được voi đòi tiên. Vì lòng tham vô đáy. Họ chỉ bắt được bóng chứ không bắt được mồi. Giếng sâu của lòng tham chỉ làm cho con người thất vọng, chán chường. Con người vẫn khao khát một điều gì đó vượt lên những ảo ảnh trần gian.
Người thiếu phụ bên bờ giếng Giacob hôm nay cũng thế. Mỗi ngày, chị phải ra giếng kín nước. Nhưng uống nước này là tự đầy đoạ mình. Dù chưa nhận ra, nhưng chị vẫn thao thức và bị dày vò vì một cơn khát nào đó mà những mối tình trần tục đã không giải khát nổi, đã không làm dịu đi sự thèm khát chút nào, càng đi sâu vào biển tình, chị càng thấy thiếu thốn.
Thánh Gioan đã nói "vì chị đã có 5 đời chồng". Nói 5 đời chồng không có nghĩa là một mình thiếu phụ đã đi lập gia đình năm đời chồng liên tiếp. Nhưng có lẽ là 5 mối tình bất chính. Và cả người thứ sáu cũng không thực sự là chồng. Như vậy, chị đã quan hệ bất chính một lúc với sáu người đàn ông nhưng không ai thực sự là chồng của chị. Chị là một phụ nữ trắc nết, bị xóm ngõ khinh miệt, loại trừ, chị phải đi kín nước vào giữa trưa hè nắng thay vì ban sáng hay chiều hôm như bao phụ nữ khác. Chị đi vào giờ này là để tránh gặp hàng xóm láng giềng. Nhưng không ngờ chị lại gặp Chúa Giê su. Lần gặp này đã thay đổi vận mạng cuộc đời của chị. Chúa Giê su đã mở lối thoát cho chị thật nhẹ nhàng, khi Chúa nói: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị cho tôi xin nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống. Ai uống nước này sẽ không còn khát nữa".
Chúa Giê su đã dẫn dắt chị đi từ ý niệm cụ thể vật chất đến siêu nhiên. Từ việc chính Chúa khát nước giữa trưa hè nắng đổ lửa đến một sự khát bỏng của tâm hồn khô cạn ơn thánh. Người thiếu phụ này hằng khao khát hạnh phúc và chị đã tìm sự thoả mãn trong lạc thú với nhiều người đàn ông một lúc, thế nhưng vẫn không thoả mãn cơn khát trong lòng chị.
Cuộc đời của thiếu phụ này là một thất bại dài đầy nghiệt ngã thất vọng. Cho đến khi gặp được Đấng Ky tô, chị ta mới nhận ra. "Còn ai uống nước tôi ban sẽ không bao giờ khát nữa". Nước Chúa ban là nước trường sinh. Nước này không có cặn bã của tham lam bất chính, của dục vọng đen tối, của đam mê lầm lạc. Nguồn nước ân thánh tinh khiết có khả năng chữa lành các thương tích của tâm hồn và làm hồi sinh những tâm hồn đang chết trong đam mê tội lỗi. Người ta nói trong thất bại thường có sự may mắn. Chị là người may mắn đầu tiên được lãnh nhận nguồn nước ân thánh đó. Thế là tâm hồn chị được tha thứ, được rửa sạch và đã khát, chị chẳng cần đến giếng Giacob và nước nữa, chị thoăn thoắt chạy vào thành báo tin cho dân làng biết có thứ nước hằng sống, nước trường sinh mà mọi người đang khao khát, đó là Đấng Ky tô là Thiên Chúa cứu độ, là Đấng Messia họ đang mong đợi. Vì chính Đấng ấy đã nói với chị: "Chính tôi là Đấng đang nói với chị đây".
Hôm nay Chúa viếng thăm người thiếu phụ Samaria và bà đã được tỉnh ngộ. Bà đã làm lại cuộc đời. Hằng ngày Chúa cũng đến thăm chúng ta qua thánh lễ, qua Lời Chúa và các bí tích, nhưng liệu chúng ta đã tìm được nguồn suối ân sủng của Ngài hay ta vẫn còn loay hoay ngụp lặn trong những ảo ảnh trần gian?
Mùa chay mời gọi chúng ta hãy tự kiểm điểm lại đời sống của mình: tôi đang khao khát những gì? Tôi đã tim được chúng chưa? Tôi thường tìm thoả mãn về những điều gì? Điều đó có giúp ta nên thánh hay đang huỷ hoại mình trong những cơn đói khát bất chính?
Lời Chúa vẫn mời gọi chúng ta: "ai uống nước này sẽ không còn khát nữa", chúng ta có tin và sống như thế hay không? Hay chúng ta vẫn đói khát của cải danh vọng, quyền thế để khi không được, chúng ta lại trách Chúa như dân Do Thái hồi ở Masa trong sa mạc năm xưa?
Có một câu chuyện mang tên “Lòng cảm thông”, có nội dung như sau:
Có một goá phụ giàu có nọ phụng dưỡng một tu sĩ trong 20 năm liền.
Bà xây cho vị tu sĩ này một tịnh xá ngay trong khu vườn vắng vẻ thanh tịnh của bà. Bà cung cấp cho ông đủ mọi thứ trong thời gian ông tu niệm. Bà rất đỗi sung sướng khi nhận thấy những tiến bộ của ông trong bước đường thiêng liêng, nhưng bà vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng. Để xem 20 năm hy sinh của bà có hoài công hay không, người đàn bà này quyết chí thử lòng kẻ tu trì.
Một hôm, bà cho tìm một cô gái trẻ đẹp, trả tiền cho cô và sai cô đến cám dỗ vị tu sĩ. Nửa đêm, trong lúc vị tu sĩ này đang ngồi thiền, cô gái xông cửa bước vào tịnh xá và dùng đủ mọi lời lẽ, cử chỉ để quyến rũ ông, nhưng vị tu sĩ vẫn một mực chìm đắm trong việc tụng niệm. Đến một lúc không còn chịu đựng được nổi sự tấn công của cô gái nữa, vị tu sĩ bèn quơ cái chổi đánh túi bụi vào người cô gái và tống cô ra ngoài.
Cô gái đến gặp người đàn bà và kể lại diễn tiến câu chuyện.
Người đàn bà hài lòng về sự thánh thiện của vị tu sĩ này ư? - Không! Nghe cô gái tường thuật xong, người đàn bà liền nổi giận thốt lên:
Hắn ta không biểu lộ một sự thông cảm nào với con, hắn ta không nói được một lời để khuyên bảo dạy dỗ con, 20 năm tu niệm ăn chay của hắn qủa là vô ích. Bởi vì hắn chưa đạt được điều thiết yếu trong cuộc sống, đó là lòng cảm thông.
Tìm đến con người
Thiên Chúa luôn đi bước trước để đến với con người. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”. (Ga.1,14).
Chúa Giêsu đã đi con đường băng ngang miền Samari, và Ngài đã mở đầu câu chuyện với một phụ nữ Samari bằng việc “xin nước uống”.
Thật ra, để có nước uống, Chúa Giêsu có cần phải “xin” người phụ nữ này không, khi mà người Samari và người Do-Thái xem nhau như kẻ thù? "Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?" Quả thế, người Do-thái không được giao thiệp với người Samari. (Ga 4,9) – Chắc hẳn là không! Chúa Giêsu đang đi với các môn đệ. Chắc các ông sẽ có cách lo liệu cho thầy mình qua cơn khát. Nên, việc Chúa Giêsu xin nước là để mở đầu câu chuyện trong “hòa bình”. Ngài đóng vai một người đang cần “sự giúp đỡ”, và người giúp đỡ sẽ dễ dàng đặt câu hỏi đối với người xin mình, vì họ cảm thấy mình quan trọng.
Cuộc đối thoại trong Tin Mửng hôm nay là sự trao đổi bằng những ngôn ngữ thật đẹp, thẳng thắn và chân thành, không có khoảng cách thận trọng e dè giữa đôi bên.
Tôn trọng con người
Thiên Chúa luôn yêu thương và tôn trọng con người, vì con người là con Thiên Chúa. “Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?” (Tv.8,5).
Thái độ “xin” là một thái độ “khiêm nhượng” và “tôn trọng” người mình xin. Trong tình yêu, luôn có sự kính trọng! Thái độ “lắng nghe” Chúa Giêsu nói của người phụ nữ Samari cho thấy ranh giới “nghi kỵ, thù hận” đã được tháo bỏ trong tâm hồn chị ấy. Ngay những lời nói sơ giao, người phụ nữ Samari đã thấy Chúa Giêsu, người đàn ông Do Thái này, là người “có thể đối thoại được”. Và điều ấy, cũng chính là sự mở đầu của niềm tin. – Không ai thèm nói chuyện với một người mà người ta hoàn toàn không thể tin tưởng!
Thái độ “phá bỏ cái giới hạn hẹp hòi” đã phân chia hai dân tộc anh em là người Samari và Do Thái đã tạo ra ngay trong lòng người phụ nữ “câu hỏi” đầu tiên:“người này là ai?”, vì sao là một người Do Thái lại có thể giao thiệp tự nhiên với một người Samari?
Diễn tiến câu chuyện, Chúa Giêsu đã tạo cho người phụ nữ Samari phải liên tiếp tự đặt câu hỏi về Ngài. Ta có thể suy ra những ý nghĩ trong lòng người phụ nữ này, tỷ như: Người này là ai mà biết tất cả những việc mình làm như thế? Người này là ai mà trả lời trôi chảy mọi điều mình thắc mắc như thế? Để rồi, người phụ nữ ấy đi dần đến nhận ra Ngài là một Ngôn sứ. Cuối cùng là Đức Kitô.
Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: "Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” (Ga.4,28-29).
Cứu chuộc con người.
Diễn tiến sự thay đổi trong lòng người phụ nữ Samari luôn là câu hỏi: “Người này là ai?”. Và trên bước đường rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu cũng luôn muốn con người tự tìm ra câu hỏi ấy cho chính mình. Bởi vì Niềm Tin phải là sự “nhận biết” Đấng Cứu Thế.
Chúa Giêsu hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?”. Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị ngôn sứ. Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Si-mon thưa: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. (Mt.16,13-16).
Nhận biết Con Người là ai? Giêsu Nagiarét là ai? Con người mới có thể đi tới Đức Tin. Tin vào Đức Kitô, con người mới nhận được “Nước Hằng Sống”, thứ nước đáp ứng đầy đủ mọi “cơn khát chính đáng” của con người, Những “khát vọng” mà cuộc đời không thể thỏa mãn được.
Chỉ có Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Chuộc con người, mới đem lại màu xanh sức sống cho những tâm hồn cằn cỗi kiếp nhân sinh.
Tất cả đều đến từ Tình Thương. Và Tình Thương luôn là điều cấp bách, vì con người quá thiếu.
Sẽ chẳng có câu chuyện Tin Mừng tuyệt đẹp hôm nay nếu Chúa Giêsu cũng tẩy chay người Samari, và lánh xa người phụ nữ Samari tội lỗi này, như thái độ tống khứ cô gái bằng vũ lực ra khỏi phòng của vị tu sĩ trong câu chuyện “lòng cảm thông” kể trên.
Hắn ta không biểu lộ một sự thông cảm nào với con, hắn ta không nói được một lời để khuyên bảo dạy dỗ con, 20 năm tu niệm ăn chay của hắn qủa là vô ích. Bởi vì hắn chưa đạt được điều thiết yếu trong cuộc sống, đó là lòng cảm thông.
Tràn ngập trong cuộc sống con người là những nỗi lòng âm thầm đau khổ, là những bon chen trong hạnh phúc phù phiếm, là khắc khoải lo toan, là những cơn khát triền miên mà con người cố gắng tìm cách thỏa mãn với những niềm vui hụt hẫng chóng qua.
Trong điều kiện sống của người Samari, xứ sở cao nguyên và sa mạc, có được “giếng nước” là xem như có tất cả. Nguồn nước là nguồn sống. Mạch nước là mạch sống. Nên “giếng nước” rất quan trọng, đó là sự sống còn của họ.
Chị ấy nói: "Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy.”(Ga.4,11-12).
Nhưng sự vui mừng của người phụ nữ Samari thật rất cảm động, ta có thể hình dung sự vui mừng của chị ấy khi bỏ tất cả những gì đang có để reo mừng và chạy vào thành để loan báo Tin Mừng mà chị vừa nhận được.
Sự vui mừng của người phụ nữ Samari cho thấy cuộc sống của chị tuy đã có rất nhiều nhưng còn đó cơn khát vô tận. “Người phụ nữ nói với Đức Giêsu: "Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” (Ga.4,15).
Không có một lời khiển trách nào đối với một người phụ nữ mà sáu người đàn ông bước qua cuộc đời chị không ai là chồng cả! Nhưng ở đây, niềm vui của chị khi đón nhận Lời Hằng Sống cũng chính là Sám Hối. Chị bỏ lại tất cả mọi thứ bên bờ giếng, cũng như bỏ lại quá khứ tội lỗi của cuộc đời mình, và đã đóng vai người đi loan báo Tin Mừng với niềm vui khôn tả!
Không có sự ngượng ngập hay hổ thẹn khi nhắc đến quá khứ đời mình, "Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm”. (Ga.4,29), vì chị không để tâm gì đến nó nữa, mà trong tâm trí chị giờ đây chỉ nhớ đến một điều là loan tin về Đấng Cứu Thế. “Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?" (Ga.4,29).
Truyền giáo
Thế giới vẫn còn đây cơn khát vô tận, dù sự khôn ngoan của con người đã lên đến đỉnh cao và cuộc sống con người đang rất giàu có.
Chỉ cần dành vài phút giây để nhìn vào thế giới hôm nay, để thấy đây đó bao cảnh thiên tai, chiến tranh, mất mát, đau thương. Để hiểu giá trị cát bụi, phù vân. Để nghe cơn khát bất tận của con người. Để chọn đâu là những chân giá trị. Để đi đúng con đường của sự sống đích thực.
Con đường Giêsu. “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.” (Ga 14,6)
Có thể nhận ra trong Tin Mừng hôm nay bài học tuyệt đẹp về truyền giáo:
Truyền giáo là yêu thương. "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: "Cho tôi chút nước uống", thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống.”
Truyền giáo là sứ mệnh. "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người”. (Ga.4,34).
Truyền giáo là cấp bách. “Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt? Nhưng này, Thầy bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!” (Ga.4,35).
Truyền giáo là hạnh phúc.“Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng.” (Ga.4,36).
Lạy Chúa, Xin cho con một con tim giàu lòng nhân ái, để con biết bước theo Chúa, với một tấm lòng dạt dào yêu thương. Amen.
Tin Mừng đề cập đến rất nhiều cuộc gặp gỡ. Có những cuộc gặp gỡ, bên ngoài xem ra rất thường tình, song lại là những cuộc gặp gỡ làm nên lịch sử. Điển hình là những cuộc gặp gỡ: giữa Chúa Giêsu và Giakêu, Chúa Giêsu và Lêvi, Chúa Giêsu và Simon Phêrô, Chúa Giêsu và người đàn bà ngoại tình, và hôm nay một cuộc gặp gỡ khác, cuộc gặp gỡ rất đặc biệt giữa Chúa Giêsu với người phụ nữ Samari. Dưới ngòi bút linh động của thánh sử Gioan, thì đây là cuộc gặp gỡ làm nên cuộc “cách mạng” lớn, cuộc “cách mạng” trên 3 bình diện: chủng tộc, giới tính và tôn giáo.
1. Cuộc cách mạng phá đổ hàng rào phân biệt về chủng tộc.
Chúng ta biết rằng mối bất hòa giữa dân Do Thái và dân Samaria bắt nguồn từ một câu truyện rất xa xưa. Khoảng năm 720 TCN, người Assiri xâm chiếm và thống trị vương quốc Samaria ở phía bắc. Người Samari bắt đầu cưới gả với người ngoại bang mới đến. Người Do Thái coi đó là trọng tội, không thể tha thứ. Vì họ đã làm mất thuần chủng Do Thái. Cho đến nay, trong gia đình Do Thái có một luật hết sức nghiêm khắc là, nếu có một đứa con trai hay con gái cưới vợ lấy chồng ngoại bang, thì người ta lập tức làm lễ an táng người con ấy, vì bị xem như đã chết rồi. Như vậy, đa số dân xứ Samaria thuộc vương quốc miền bắc bị đầy sang Mêđi và không bao giờ trở về nữa, họ bị đồng hóa với các dân tộc thống trị họ. Số người còn trong xứ lại cưới gả với dân ngoại bang được đưa đến đó, nên họ cũng mất luôn quyền làm công dân Dothái.
Về sau, vương quốc miền Nam, là Giuđêa cũng bị xâm lăng và bại trận. Dân chúng bị đày sang Babylon, nhưng không mất gốc, họ vẫn còn là dân Do Thái ngoan cố. Sau thời lưu đày trở về, công việc đầu tiên của họ là tu sửa lại Đền thờ Giêrusalem đã bị phá hủy. Người Samaria đến giúp đỡ, vì muốn được cùng làm công việc thánh thiêng ấy, nhưng họ bị khinh miệt và khước từ. Nhục vì bị từ khước, người Samaria quay lại chống đối kịch liệt dân Giuđêa.
Sự bất hòa còn gay gắt hơn, khi người Do Thái phản đạo là Manasê tìm cách xây một đền thờ đối lập trên núi Garizim, nằm trung tâm xứ Samaria mà người phụ nữ đã đề cập đến. Về sau, năm 129 TCN, quân Do Thái mở cuộc tấn công người Samaria và hủy diệt ngôi Đền thờ tại Garizim. Người Do Thái và Samaria lại càng thù ghét nhau hơn. Cuộc bất hòa giữa hai dân tộc, Do Thái và Samaria, đã có từ hơn bốn trăm năm, nhưng vẫn gay gắt vào thời Chúa Giêsu. Cho nên người đàn bà Samaria sửng sốt khi thấy Chúa Giêsu là một người Do Thái, lại bắt chuyện với mình, một người Samari. (x. Bài giảng của tác giả NT). Đó là bình diện thứ nhất mà cuộc cách mạng của Chúa Giêsu đã phá đổ, bình diện phân biệt chủng tộc.
2. Cuộc cách mạng phá đổ hàng rào kỳ thị về giới tính.
Người Samaria mà Chúa Giêsu gặp gỡ hôm nay lại là một phụ nữ. Trong khi luật cấm nam nhân chào hỏi phụ nữ giữa những nơi công cộng, cấm ngay cả với vợ, con gái hay chị em của mình nữa. Một số người Biệt phái còn nhắm nghiền mắt lại khi gặp phụ nữ ngoài đường phố. Một đạo sĩ bị bắt gặp nói chuyện công khai với phụ nữ thì kể như tiếng tăm sự nghiệp tiêu tan. Thế nhưng Chúa Giêsu lại trò chuyện với một người, chẳng những là phụ nữ, mà còn là một phụ nữ xấu nết, chồng con lăng nhăng, 5-6 lần rối. Không một người đàn ông đứng đắn nào, chứ đừng nói đến đạo sĩ, hay ngôn sứ, chịu để cho người ta thấy mình đứng chung hay trao đổi dù chỉ một lời với bà ta. Vậy mà điều đó lại xảy ra với Chúa Giêsu (x. Bài giảng của tác giả NT). Bởi thế khi các môn đệ trở về, trông thấy sự việc, họ cho là Thầy mình đã gây ra một xì-căng-đan, có nguy cơ “mất phần linh hồn”.
3. Cuộc cách mạng phá đổ hàng rào độc quyền về tôn giáo.
Những người Samari thờ phượng Thiên Chúa trên núi Garizim. Còn những người Dothái thờ phượng Thiên Chúa trên núi Sion, tức Giêrusalem. Và hai bên tranh cãi với nhau, thù ghét nhau.
Chúa Giêsu khẳng định: "Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Jêrusalem!” Cách nói thân tình của Người diễn tả một mạc khải quan trọng: thời kỳ cũ đã qua rồi và cách thờ phượng cũ đã chấm dứt. Nay là thời thiên sai, thời kỳ của ơn cứu độ phổ quát: "Đã đến lúc những người thờ phượng đích thực, sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần khí và sự thật”. Thờ phượng trong thần khí là thờ phượng theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần; thờ phượng trong sự thật là thờ phượng với tâm tình kết hợp với Đức Giêsu, Đấng đã xưng mình là đường, là sự thật và là sự sống.
Đức Giêsu đã khai mở và thiết lập giao ước mới. Nghi lễ cũ phải nhường cho nghi lễ mới. Ngài chính là của lễ mới và là Đền thờ duy nhất của Thiên Chúa Cha. Những ai tin nhận Ngài là Đấng Thiên sai, Đấng giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết, sẽ có được sự sống mới của Thiên Chúa cách đích thực. Tôn giáo nào đưa con người gặp gỡ được với Thiên Chúa trong Thánh Thần, trong Chân Lý, là tôn giáo được đón nhận. Đây hẳn là một cái nhìn mang tính cách mạng, cách mạng về nơi thờ phượng tôn giáo.
Nói khác đi, qua cuộc gặp gỡ với người phụ nữ Samaria, Chúa Giêsu đã phá vỡ các hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc và các lề thói chính thống của Do Thái giáo. Tại đây, Ngài đã thực hiện cuộc cách mạng giải phóng con người khỏi ý thức hệ, vốn trói buộc con người hàng chục thế kỷ. Tại đây, tính cách phổ quát của Tin mừng là khởi điểm. Tại đây, Thiên Chúa đang yêu thương thế gian, không bằng lý thuyết, nhưng bằng hành động, hành động đem lại ơn cứu độ. Dĩ nhiên, chỉ có Đấng là Mêsia, là Thiên Sai mới làm nên điều kỳ diệu đó. Ngài chính là Đấng mà Cựu Ước đã loan báo, Đấng Cứu Độ mà muôn dân đang trông đợi, Đấng đem lại Nước Hằng Sống cho con người. Amen.
Nước là nhu cầu thiết yếu để duy trì sự sống cho con người. Người ta có thể tuyệt thực và nhịn ăn trong nhiều ngày, nhưng khi cơ thể thiếu nước chỉ trong một thời gian ngắn, sức khoẻ của chúng ta sẽ suy kiệt dần và tính mạng bị đe dọa. Khi mang thân phận con người, Chúa Giêsu cũng đã từng kinh qua cái đói và những cơn khát. Ngài cần bánh để ăn và cũng cần nước để uống. Câu chuyện về Chúa Giêsu và người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp hôm nay là một khải thị sâu xa cho chúng ta về chân dung cứu thế của Đức Giêsu. Ngài chính là ‘Mạch Nước của Sự Sống’. “Ai uống nước này sẽ không bao giờ khát nữa. Nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước trào lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14). Đây là chủ đề mà các bài đọc Lời Chúa hôm nay quy chiếu vào.
Mảnh đời bầm dập nơi người thiếu phụ.
Câu chuyện khá dài được Thánh Gioan thuật lại trong chương 4 với nhiều chi tiết hàm ngậm những tư tưởng thần học rất sâu xa. Chúa Giêsu đang khát, một cái khát thể lý bình thường giống như mọi người, và Ngài xin nước để uống. Người thiếu phụ Samari cũng đang khát và chị đến giếng để múc nước. Nhưng nơi chị còn có một niềm khát khao sâu xa hơn, phát xuất từ mảnh đời nghiệt ngả chị đang trải qua. Chị đã có 5 đời chồng, nhưng chẳng ông nào ra ông nào, và hiện nay chị đang sống với một người đàn ông khác không phải chồng của mình. Xã hội thời đó chỉ xem phụ nữ như vật sở hữu của đàn ông để họ có con nối dõi. Phẩm giá của người phụ nữ hoàn toàn bị coi rẻ. Là con người cũng như bao người khác, chị cũng khát khao được làm người tử tế, được làm mẹ, làm vợ trong một mái ấm gia đình bình thường, nhưng hạnh phúc dường như đã vượt quá tầm tay của chị. Chúa Giêsu thấu tỏ tất cả. Ngài nhận ra cơn khát ẩn sâu nơi tâm hồn người thiếu phụ, và từ từ vén mở cho chị biết về Ngài, là chính ‘Mạch Nước Trường Sinh’. Trong nguồn nước ấy, mọi nỗi khát khao của kiếp người sẽ được hóa giải.
Vào tháng 11 năm 2004, nhân kỷ niệm 10 năm ban hành Tông huấn ‘Đời sống Thánh hiến’ (Vita Consecrata), Giáo hội tổ chức Đại hội tu sỹ ở Rôma trong 5 ngày. Cuộc họp qui tụ gần 900 đại biểu đến từ các nơi, gồm các Bề Trên thượng cấp của các dòng tu cùng các chuyên gia thần học và Thánh kinh, để thảo luận về đời sống thánh hiến. Đại hội đã chọn chủ đề ‘Đam mê Thiên Chúa và đam mê con người’ (Passion for Christ, passion for human) để các thành viên suy tư. Hiển thị chủ đề này là 2 biểu tượng về 2 người Samari: Người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp (Ga chương 4) và người Samaritanô nhân hậu (Lc 10,25-37). Câu chuyện về người phụ nữ trong bài Tin mừng hôm nay đã được kể lại, được hội nghị nghiền ngẫm và đào sâu để làm khung quy chiếu cho các tham dự viên, đặc biệt cho những ai sống đời thánh hiến. Người thiếu phụ Samari vốn chỉ là một phụ nữ ngoại giáo bình thường, chưa hề biết Đức Giêsu là ai và luôn bị người Do Thái xem như thù nghịch. Nhưng chị đã biết trải lòng mình ra để ngày càng đi sâu vào mối thân tình với Chúa Giêsu. Cuối cùng chị đã khám phá ra Ngài: Đức Kitô, Đấng Messia, là ‘Nguồn Nước Sự Sống’.
Sau khi được Đức Giêsu thấm nhập và biến đổi, người thiếu phụ đã bỏ vò nước lại bên bờ giếng và chạy vội về làng để ‘công bố Tin mừng’ cho đồng hương của chị. Chị đã gác lại cơn khát của thân xác, vì đã được thỏa mãn cơn khát thâm sâu trong tâm hồn. Người thiếu phụ vội vã đi truyền tải thứ nước trường sinh ấy cho những người cũng đang khát cháy giống như chị. Đây là mô hình về đức tin và về sứ vụ chia sẻ đức tin, giúp chúng ta học hỏi để noi theo.
Những mảnh đời bất hạnh nơi phận người.
Con người chúng ta được sinh ra trong tiếng khóc chào đời của chính mình và chết đi trong tiếng khóc tiễn đưa của những người thân quen. Cuộc sống con người mãi luôn là một ẩn số với bao khổ đau. Đức Phật đã dạy các môn sinh rằng, đời là bể khổ, và ai ai cũng có thể nhận ra điều này. Phật giáo tìm cách giải mã đau khổ bằng liệu pháp diệt dục. Một vài tôn giáo khác lại chủ trương né tránh. Ông tổ của triết học vô thần Marxism thì lại lý tưởng hóa bằng cách mơ tưởng đến một thiên đàng trần gian nơi không còn người bóc lột người, tất cả được no cơm ấm áo... Nhưng tất cả chỉ là những lý thuyết không tưởng. Chỉ duy nhất Đức Giêsu mới đem lại cho chúng ta chìa khóa giải quyết tận căn mầu nhiệm đau khổ bằng chính cái chết của Ngài trên Thập giá. Từ Thập gía, Chúa đưa dẫn con người đến vinh quang (per crucem ad lucem). Từ cái chết ô nhục, Ngài khai mở cho chúng ta sự sống trường cửu. Thập giá của Đức Giêsu là mạch nước vọt trào ơn cứu độ, hóa giải những cơn khát thâm sâu nhất nơi phận người. Điều đó Đức Giêsu đã nói với người thiếu phụ Samari mà hôm nay chúng ta được nghe Giáo hội đọc lại.
Ông Tổng thống Mitterand là nhà lãnh đạo của nước Pháp trong 14 năm và được dân Pháp quý mến, xem ông như một thần tượng. Trong những năm tháng cuối đời, ông có dịp nhìn lại cuộc đời đã qua và viết lại những dòng nhật ký đáng để chúng ta suy nghĩ. Trang nhật ký có tựa đề ‘Tôi đang chuẩn bị cái chết’. Ông viết: “Lúc nhỏ, tôi được dạy phải đọc kinh, nhưng thay vì đọc kinh tôi lại thích thinh lặng và suy niệm. Tôi suy niệm về tôi, về Thiên Chúa, và về ý nghĩa cuộc đời. Lắm khi tôi tự hỏi không biết tôi có tin Thiên Chúa hay không, nhưng từ trong thâm tâm, tôi luôn bị thúc đẩy phải tin Ngài. Nếu không tin, cuộc sống của tôi sẽ trở nên vô nghĩa và hoàn toàn trống rỗng.”
Ông viết tiếp: “Ai mà không cảm thấy khao khát muốn vươn tới hạnh phúc và muốn được sống mãi. Một lúc nào đó, bạn sẽ cảm thấy lẻ loi và bị mất hút trong thế giới vĩnh hằng. Pascal đã nói chính xác rằng sẽ đến lúc thân xác mong manh của bạn bị ngã đổ. Bạn sẽ chết, sẽ không còn hiện hữu nơi trần thế này nữa. Nhưng từ trong thâm sâu, bạn vẫn có ước muốn được trường tồn, được sống và được sống mãi. Niềm khao khát đó, không một thứ gì ở trần gian này có thể lấp đầy.”
Đó cũng là niềm khao khát của người thiếu phụ Samaria năm xưa và cũng là của mỗi người chúng ta ngày hôm nay. Ngày xưa, dân Do Thái đi trong sa mạc Sinai cũng khát (bài đọc 1), nhưng cái khát đó chỉ là hình bóng. Khát khao tình yêu và hạnh phúc là những ẩn số triền miên nơi kiếp người, và đáp án của ẩn số đó đã được Chúa Giêsu khải thị trong bài Tin mừng hôm nay.
Kết luận
Ngày xưa, có một đạo sĩ dạy cho các môn sinh bí quyết để tìm tới hạnh phúc. Ông giảng dạy rất uyên bác. Một thanh niên bặm trợn đến gặp ông và thách đố: “Thưa Thầy, Thầy giảng dạy rất thâm thúy, nhưng tôi chỉ xin hỏi Thầy một câu thôi. Trong tay tôi là một con chim, đố thầy biết đó là con chim sống hay con chim chết?” Câu hỏi ma mãnh của chàng trai nhằm gài bẫy vị đạo sỹ vì trong tay anh ta, con chim đang còn sống sẽ bị anh ta bóp chết, nếu vị đạo sỹ trả lời rằng đó là con chim sống. Nhìn nét mặt quỷ quyệt của người thanh niên trẻ, vị đạo sĩ nói thẳng vào mặt anh ta: “Con chim này sống hay chết là do anh.” Ông nói tiếp: “Cũng vậy, hạnh phúc có đến được với chúng ta hay không còn tùy thuộc vào sự lựa chọn tự do của mỗi người.
Trong mùa chay, Giáo hội mời gọi chúng ta sám hối để trở với Chúa và với nhau. Chúng ta hãy hướng về Thập giá Đức Giêsu, kín múc cho mình nguồn nước sự sống để tâm hồn chúng ta luôn được an bình và vươn đạt tới hạnh phúc trường cửu.
Từ cuối 2010, Liên Hiệp Quốc đã khẳng định rằng đến năm 2015 thì sẽ có đến 95% dân số trên địa cầu được sử dụng nước ngọt. Thực tế không hẳn là như vậy vì theo thẩm định của các chuyên gia, hiện tại hãy còn 1,1 tỷ người trên thế giới thiếu nước sạch. Còn căn cứ vào các số liệu được Diễn Đàn Quốc Tế về Nước cung cấp vào năm ngoái: hiện còn 4 tỷ người trên trái đất không có nước ngọt để dùng 24 giờ trên 24 và có tới 3 tỷ không có máy nước trong nhà.
Theo dự tính của Liên Hiệp Quốc thì đến năm 2020 nhu cầu về nước ngọt để phục vụ cho ngành công nghiệp sẽ tăng lên gấp đôi so với hiện tại; nhu cầu tiêu thụ của các hộ gia đình sẽ tăng thêm 130%; và 40% trên tổng số 9 tỷ con người sẽ sống ở những vùng bị thiếu nước…
Thế còn tại Việt Nam thống kê chính thức cho thấy hiện tại 92% dân cư đã có nước ở trong nhà. Tỷ lệ đó chỉ là 52% vào đầu thập niên 1990. Tuy nhiên theo một tổ chức phi chính phủ của Nhật thì ở thành phố 59% các hộ gia đình đã lắp máy nước trong nhà, 41% còn lại vẫn phải sử dụng nước giếng hoặc máy nước công cộng. Tại các làng quê Việt Nam, tỷ lệ nói trên rơi xuống còn 15%. Điều đáng quan ngại hơn cả vẫn theo tổ chức này, thì không một nơi nào tại Việt Nam, nước ngọt được coi là bảo đảm chất lượng an toàn. Người dân ở đây phải lọc nước và đun sôi trước khi uống.
Theo báo cáo của Ngân Hàng Thế Giới Turn Down the Heat vừa được công bố gần đây, nếu như nhiệt độ trái đất tăng thêm 4°C thì sẽ có từ 43 đến 50% nhân loại phải sống ở những vùng khô cằn. Nước bẩn là nguyên nhân gây nhiều bệnh tất và là khiến có tới 4.000 trẻ em tử vong mỗi ngày. Vẫn theo báo cáo nói trên, thiệt hại kinh tế do không có được hệ thống lọc nước an toàn có thể lên tới 7% GDP của một quốc gia ( viet.rfi.fr ).
Trong những nhu cầu căn bản, nước sạch có lẽ là hệ trọng bậc nhất. Vì nước nuôi sống, rửa sạch, điều hòa sinh thái. Tuy nhiên, còn có một loại nước quan trọng, cao siêu, cấp bách hơn nhiều: Nước Hằng Sống ! Hôm nay, sau một buổi hăng say giảng dạy, mệt mỏi, rã rời, khát khô cổ họng, Đức Giêsu xin người phụ nữ Samari cho nước uống.
Khiêm hạ
Ngỏ lời xin nước từ ngưởi đàn bà Samari, xóa đi ranh giới bất thân thiện giữa dân Do Thái và Samari, bỏ qua kỳ thị nam nữ, Đức Giêsu chủ động bắt chuyện với người phụ nữ xa lạ. Vượt qua truyền thống xã hội thành kiến, cừu địch, hiềm khích, bước qua lịch sự, tế nhị về đời tư cá nhân, cũng không đếm xỉa đến bất đồng niềm tin, Đức Giêsu phá bỏ hết mọi rào cản, đố kỵ, chia rẽ, thành kiến, thân hành đến với con chiên bị đối xử khá phân biệt trong xã hội được coi như “toàn tòng”. Người từng giải thích sự dấn thân: “Con Người đến để cứu vớt, chứ không phải để huỷ diệt; Ta đến không phải kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi” (Lc 5, 32 ).
Chẳng phải tình cờ bên giếng Giacóp, mà Đức Giêsu gặp người phụ nữ Samari. Song le, chính Người cố tình tìm đến, chờ đợi và tìm gặp. Bất chấp những chướng ngại bao đời thiên hạ dựng nên, Đức Giêsu vẫn thẳng thắn gặp gỡ người phụ nữ này, chẳng hề nao núng, ngại ngùng, e sợ, hay bối rối. Người một mực tiếp tục khiêm tốn hạ mình, chỉ vì quá đỗi yêu thương loài người lam lũ, đói khát sự thật, sự công chính. Hạ mình làm lữ khách lỡ bước độ đường, Người chủ động gần gũi, làm quen, chủ động xin nước, chủ động xin sự quan tâm, chủ động xin người ta thân thương nhìn đến, chia sẻ nước sạch. Không hề trịnh thượng ra lệnh, đòi hỏi hay bắt buộc phục vụ. Người tiếp tục xả kỷ vị tha cho đến khi trút hơi thở trên thập giá.
Đối thoại
Đức Giêsu không hề trách móc, cũng không kết án, chỉ nhắc chị phụ nữ nhìn lại tình trạng hôn nhân bất ổn định mà thôi, trắc nghiệm lòng thành thật của chị, để tha thứ và cứu rỗi. Với lòng khiêm nhường tận tụy, lòng khoan dung độ lượng, lòng từ bi nhân ái vô song, Đức Giêsu đã biến cuộc gặp gỡ vô tình thành hữu tình, có chủ đích rõ ràng, biến cuộc trò chuyện tưởng chừng vô bổ, thành cuộc đối thoại hữu ích.
Đối thoại trực tiếp, Đức Giêsu đã khéo léo dẫn dắt người phụ nữ đang còn đói khát tình yêu, đói khát hạnh phúc, vô vọng với tương lai mịt mờ, tìm thấy lối thoát cuộc đời. Nhận được nguồn mạch Nước Hằng Sống, vì ”Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” ( Ga 14, 6 ).
Bây giờ, con chiên vẫn có thể tiếp tục đối thoại với Vị Mục Tử Nhân Lành qua cầu nguyện hằng ngày.“Cha nói thứ nhất là cầu nguyện,” không phải vô căn cứ. Chúa Giêsu đã bảo: “Maria đã chọn phần nhất,”ngồi dưới chân Chúa, nghe Lời Chúa, mến yêu Chúa. Maria đã được Thánh Thể, Thánh Kinh và Thánh Nguyện. ( Đường Hy Vọng, số 129 ).
Cảm hóa
Từ thái độ dửng dưng, bất thân thiện, người phụ nữ Samari đã thay đổi hoàn toàn, thật ngoạn mục. Nàng gặp gỡ Đức Giêsu, thấm nhuần Lời Hằng Sống, đã biến đổi thành con chiên nhiệt thành, trở nên chứng nhân sống động, hăng say, khả tín và năng nổ, cuốn hút, chiêu mộ cả thành phố, đồng tâm gia nhập vào đoàn chiên duy nhất của Vị Mục Tử Nhân Lành.
Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: ”Đến mà xem: có một người đã nói với tôi, tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao ?” ( Ga 4, 28 – 29 ).
Đông đảo dân thành Xykha tin vào Đức Giêsu, đều được chung hưởng Nước Hằng Sống, từ lời loan báo nóng hổi của chị phụ nữ Samari kia. Cuộc gặp gỡ kỳ diệu với Đức Giêsu đơm hoa kết trái thật bội thu. Người đã gieo hạt giống Đức Tin vào nơi sỏi đá khô cằn, thù nghịch, nhưng kết quả vượt quá mong đợi.
Đối với người Kitô hữu, tin trước hết là chấp nhận, được cứu rỗi, được tha thứ, được yêu thương vô cùng. Chúa không phải là Đấng bắt con phải kính mến, nói đúng hơn, Chúa là Đấng mà con phải để cho Ngài yêu thương con vô hạn ( Đường Hy Vọng, số 288 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin thức tỉnh chúng con rằng, Chúa đang chờ sẵn bên ngoài tâm hồn, đang muốn đi vào tận con tim, trí óc, thân xác chúng con, để tâm tình, khuyên nhủ, răn bảo, dạy dỗ, an ủi, chỉ bảo đường ngay nẻo chính, để hóa giải cơn khát tâm linh, biến hóa chúng con nên con chiên ngoan của đoàn chiên duy nhất của Người.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp chúng con tìm đến nguồn mạch Nước Hằng Sống, để biến đổi, thánh hóa chúng con, cũng như cho chúng con biết chia sẻ và làm chứng với tha nhân về Nước Hằng Sống. Amen.
Hôm đó, Chúa Giêsu rời bỏ xứ Giuđêa, bởi vì sự thành công của Người tại đây đã làm cho bọn biệt phái bực bội và tức tối. Đồng thời chính Người cũng không muốn đi vào cuộc tranh chấp mà họ đã rắp tâm gài bẫy cho Người. Bởi đó Người đi lên Galilêa, băng qua miền Samaria. Và cũng chính tại Samaria, đã xảy ra một cuộc gặp gỡ, khởi đầu của việc rao giảng cho dân ngoại trên toàn thế giới.
Mệt mỏi vì đường xa, Chúa Giêsu đã ngồi nghỉ ở bờ giếng Giacóp, gần núi Garisim. Đã từ 400 năm qua, vì kình địch với người Do Thái, dân Samaria đã biến ngọn núi này trở thành một ngọn núi thánh để cạnh tranh với Giêrusalem. Thế rồi một người phụ nữ đến kín nước và Chúa Giêsu đã bắt chuyện với nàng. Trong cuộc đối thoại ấy, Chúa Giêsu muốn mượn hình ảnh nước tự nhiên trong lòng giếng để tỏ lộ những chân lý siêu nhiên và trao ban cho chúng ta một thứ nước làm phát sinh sự sống vĩnh cửu, đó là tình thương và ơn sủng của Người, hay nói một cách mạnh mẽ hơn, chính Người là thứ nước ban sự sống vĩnh cửu ấy.
Câu chuyện trên đây vốn được coi như một điển hình về khoa sư phạm tuyệt vời của Chúa đối với con người. Thực vậy, Chúa thâm nhập vào tâm trí chúng ta, để rồi sẽ làm nổ tung các giới hạn của nó, bắt nó mở rộng cửa đón nhận những chân lý cao cả hơn xuất phát từ Thiên Chúa, chứ không phải từ con người.
Trước hết, Chúa Giêsu gợi óc tò mò tìm hiểu những người phụ nữ. Muốn thế, Người đã đặt mình vào mức độ bình thường của đời sống hằng ngày. Từ hành động kín nước cua người phụ nữ, Người làm cho nàng thấy được rằng: không phải chỉ có thứ nước tự nhiên và những thực tại vật chất mới là quan trọng cho đời sống. Do đó, phản ứng đầu tiên của người phụ nữ đó là xin Thầy ban cho tôi thứ nước ấy.
Rồi Chúa đã làm cho nàng thắc mắc hoàn toàn khi thấy rằng Người nhìn thấy tận đáy lòng nàng: Chị hãy về gọi chồng chị lại đây. Lời đòi hỏi này đã đẩy người phụ nữ vào một hoàn cảnh nan giải, bởi đó nàng đã chuyển câu chuyện sang một hướng khác. Nàng hỏi Người về việc thờ phượng tại Giêrusalem, thì Chúa đã xác quyết phải thờ phượng trong tinh thần và trong chân lý. Nàng đề cập tới việc Đấng Cứu Thế sẽ đến giải thoát. Dựa vào đó Chúa Giêsu đã tự mạc khải mình ra: Đấng ấy chính là Ta, người đang nói với chị đây. Sau khi đã tin, người phụ nữ đã đi kể lại những điều đã xảy ra và kêu mọi người đến cùng Chúa.
Với chúng ta cũng thế, Chúa thường dùng những cái cụ thể để giới thiệu với chúng ta những thực tại siêu nhiên. Người hiện diện thật gần gũi trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có nhận biết Người hay không, có chấp nhận rằng không phải chỉ có của cải vật chất mới quan trọng, không phải chỉ có nước tự nhiên nuôi sống phần xác, mà hơn thế nữa, còn có một thứ nước siêu nhiên làm phát sinh sự sống vĩnh cửu.
Chúa Giêsu đi đường mỏi mệt nên ngồi xuống trên bờ giếng"; và Ngài nói với người phụ nữ Samari "Chị cho tôi xin chút nước uống". Chúa Giêsu xuống trần gian để chia sẻ kiếp sống của con người; Ngài cũng là một con người cụ thể, có những khó khăn của cuộc sống, có những vấn đề phải lo toan, có những vất vả đắng cay của một kiếp người như tất cả chúng ta. Chúa Giêsu cũng trải qua sự mỏi mệt và cơn khát của cuộc sống con người. Đừng ai nói rằng chỉ một mình tôi khổ nhất, chỉ một mình tôi bất hạnh nhất, cuộc đời của tôi khốn nạn nhất; vì đã có một Vị Thiên Chúa làm người và Ngài cũng "mỏi mệt", cũng "khát" như tất cả chúng ta.
Tuy nhiên, dân Israen đã khát và đã kêu than trách móc; người thiếu phụ Samari đã khát và mong chờ Chúa Giêsu cho mình một thứ nước uống vật chất, bà được "hết khát và khỏi đến đây lấy nước". Còn Chúa Giêsu, được chia sẻ cơn khát của con người, Ngài lại càng ước mong ban tặng một thứ Nước Trường Sinh có thể giúp nhân loại khỏi khát. Nước đó chính là bản thân Chúa Giêsu, là ơn Cứu độ của Chúa Giêsu, là Đấng có thể giải quyết "cơn khát" sâu xa giằng xé con người: "Đấng ấy chính là Ta, Người đang nói với chị đây."
Cơn khát trong sa mạc cuộc đời vẫn luôn là "Maxa" và "Mêriba", nghĩa là vẫn là nơi "thử thách" và "gây chuyện". Nếu chúng ta cứ kêu than và trách móc; nếu chúng ta cứ tưởng có thể "giải khát" bằng những thứ "nước tiền tài", "nước cơm bánh", "nước danh vọng", thì chúng ta đang tiếp tục cuộc thách thức Chúa như người Israen xưa.
Ngược lại, nếu chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng duy nhất có thể ban "Nước" để "ai uống Nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa", thì chúng ta cũng sẽ được cứu độ như người Samari; và được vui mừng như "Dân Samari xin Người ở lại với họ"… "vì chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Vị Cứu tinh của trần gian."
Con mang vác nặng quá rồi, Chúa ơi! Con chịu đựng không nổi nữa! Con đường con đi, chưa dài lắm Nhưng quá khứ đã đủ chất chồng; Con đã sống bao biến cố tang thương. Và nhiều lúc con xây xẩm mặt mày. Con mang vác nặng quá rồi, Chúa ơi! Con chịu đựng không nổi nữa! Nhưng hôm nay… Lạy Chúa! Có phải con mơ không? Con tin mình đã tìm thấy Điều mà từ lâu Chúa chờ đợi nơi con. Con tình cờ đọc được câu Thánh vịnh in nơi tấm hình: "Hãy vứt bỏ những lo lắng trong Chúa và chính Ngài sẽ nâng đỡ con luôn." Và con tin rằng, qua lời kinh đó, Chúa đang thực sự nói với con. (Michel Quoist)
Con người dù lớn hay nhỏ, dù già hay trẻ đều cần có thực phẩm và nước uống để nuôi thân. Thức ăn, nước uống trở thành nhu cầu không thể thiếu. Ăn uống không chưa đủ mà còn cần tình yêu để sống thảnh thơi, hạnh phúc. Chỉ có người thành tâm yêu ta mới có thể trao tặng tình yêu chân chính. Ngoài ra những tình yêu khác đều là lợi nhuận. Bản chất của lợi nhuận là thương mại vì thế có tình trạng buôn bán tình yêu.
Câu người ta thường nói ‘bác ái bắt đầu tại gia đình’ câu này ám chỉ gia đình là nơi thực hành đức ái. Như thế bác ái không phải tự nhiên mà có mà là phải học hỏi và thực hành. Gia đình là trường đầu tiên và là trường tốt nhất dậy sống và thực hành đức ái. Như thế bác ái sản xuất tại gia. Gia đình thiếu thực hành đức ái là hoả lò và những ai lớn lên trong hoả lò đều, nếu làm nhỏ trở thành tội phạm xã hội; nếu làm lớn trở thành tội đồ dân tộc bởi hành động của họ thiếu yêu thương, vắng tha thứ. Lịch sử thế giới ghi nhận nhiều tội đồ dân tộc xuất thân từ gia đình thiếu đức ái. Lớn lên trong hoàn cảnh con người đối xử dã man với nhau nên về sau thành thân họ cũng hành xử vô cùng độc ác với đồng chủng và đồng loại.
Vui lòng, hăng say làm việc vặt trong nhà là thực thi Đức ái. Dù là việc cỏn con nhưng hiệu quả của chúng lại rất lớn bởi vì những việc cỏn con kia thể hiện tình yêu qua hành động. Người ta không thể nhìn thấy tình yêu nhưng qua hành động yêu thương làm rung động con tim người khác. Khi một thành viên trong gia đình cố gắng sống tinh thần bác ái người đó vừa làm giầu cho chính mình vừa mang lại nguồn vui cho gia đình và hạnh phúc thay những bạn nào được trở thành bạn những người giầu tinh thần bác ái.
Chu toàn bổn phận chưa hẳn là thực thi bác ái nhưng sống thực thi bác ái lại hoàn thành tốt đẹp hơn những gì bổn phận đòi hỏi bởi làm với tâm tình yêu mến. Việc làm với tâm tình yêu mến giúp kẻ đau khổ được ủi an, người sầu muộn cảm thấy an ủi, kẻ cô đơn tìm được chỗ dựa và kẻ tuyệt vọng sống hy vọng. Người thực thi bác ái thường nhìn thấy tình người quan trọng và không để cho lỗi lầm nếu có, dị biệt mầu da, chủng tộc và khác biệt về chính kiến ngăn trở việc thực thi đức ái.
Đức Kitô thực hiện những điều này tại bờ giếng bên làng cho người phụ nữ thành Samarita ra đó múc nước. Chính Ngài tiến đến bắt đầu câu chuyện, xin chị cho nước uống. Từ nước giếng dẫn chị đến nước trường sinh. Đức Kitô gây ngạc nhiên cho chị phụ nữ và các tông đồ vì Ngài đàm thoại với người xứ Samarita, phạm vào luật cấm kị thời đó.
Đức Kitô xin chị nước uống bởi đi đường dài, trời nắng, Ngài khát. Ngày nay Ngài còn khát không phải nước giếng mà khát khao cho mọi người đến cùng Ngài. Ngài đã lập lại điều này trên thập tự. Ta khát. Khát khao đến với các tâm hồn từ chối đón nhận Ngài. Kẻ từ chối đón nhận Ngài thường hận Ngài vì lời Ngài mời họ tin theo chạm tự ái. Họ muốn lãnh đạo đâu muốn tin theo. Đức Kitô khát khao đến thăm nhà những Kitô hữu. Ngài khát khao đến trọ đêm nhà bạn. Ngài sinh nơi đồng vắng mùa đông nên Ngài ước ao được đón vào nhà mà không bị xua đuổi. Ngài khát khao nghe tiếng bạn nói, tiếng bạn cười, hơi thở ngập ngừng của người già cả, tiếng ngáy ngủ ngon của người suốt ngày vất vả lao nhọc, tiếng thở dài của kẻ có điều phiền muộn. Đức Kitô khát khao ban cho bạn nước trường sinh. Những ai chân thành đón nhận Ngài đều nhận được nước trường sinh không bao giờ cạn vì nước đó như lời Ngài nói sẽ trở thành suối nước trong từ tâm hồn, dẫn bạn đến suối nước trường sinh.
Chị phụ nữ thành Samarita đã cho Đức Kitô nước giếng, Ngài cám ơn cho lại nước trường sinh, thoả mãn lòng chị ước mơ.
Chúng ta nghe nói nhiều về nước nhưng ít ai có thể tưởng tượng được mức tàn phá khủng khiếp và tốc độ di chuyển thần tốc của nước. Nước di chuyển không trừ nơi nào, trên sông biển, trên cạn và cả trên không trung. Hạt sương nho nhỏ không đáng kể, cơn mưa rào không đáng sợ. Mưa tầm tã nhiều ngày quả là khủng khiếp. Hình ảnh sống động trên truyền hình của trận lũ lụt tại Úc châu và cơn động đất, tiếp theo là bão sóng thần tại Nhật mới đây gây kinh hoàng cho những ai nhìn thấy cảnh chết chóc, điêu tàn đang diễn ra trước mắt.
Không bỏ sót gì. Đi đến đâu nước kéo sập làng mạc, dinh thự, cột điện đến đó. Trong chớp nhoáng nước tràn sâu lục địa, vượt qua đại lộ, hất tung đoàn xe đang chạy, chiếc vất chơi vơi trên mái nhà, chiếc đắm chìm mất hút trong làn nước, chiếc xoáy tròn theo dòng thác lũ. Nước nhổ neo, vỗ nát con tầu đánh cá thành vạn mảnh trong nháy mắt. Trước sức mạnh vũ bão đó con người chỉ còn một chọn lựa duy nhất là chạy. May thì thoát, ngược lại là nạn nhân.
Biến cố lũ lụt vừa qua ít nhiều, giúp ta hình dung khung cảnh câu chuyện ghi trong sách Xuất Hành chương 14 ghi lại trong Cựu ước. Chúa sai Môise dùng cây gậy rẽ nước dẫn dân Ngài vượt Biển Đỏ ráo chân. Điều này cho biết Thiên Chúa làm chủ tất cả, từ biển khơi đến sông ngòi và ngay cả đường đi, chốn ở của nước. Nếu không, làm sao tổ phụ Môisen biết hòn đá nào có nước để gõ. Giữa samạc Zin khô cằn cát nóng bỏng. Thiên Chúa phán bảo ông gõ đá ra nước cho thấy Ngài là chủ tể muôn loài (Xh17). Làm chủ trời cao, đất liền, sa mạc, biển khơi, sông ngòi, và mọi sinh vật từ lòng biển đến lòng đất.
Nước trường sinh
Điều chắc chắn không phải nước nào cũng mang lại sự sống. Nước lụt và sóng thần tràn ngập nhưng dân chúng vùng đó lại thiếu nước uống. Vì nước bị nhiễm độc, uống vào làm mất sự sống. Thủy thủ trên biển cả bao la, bát ngát, luôn phải tiết kiệm nước vì sợ thiếu. Nghe có vẻ nghịch lí nhưng trật tự thiên nhiên Chúa tạo dựng như vậy. Đảo lộn trật tự này sẽ lãnh hậu quả tang thương.
Nước ngọt mang lại sự sống cho tôm cá, ngư sản nước ngọt. Nước mặn cho nước mặn, nước lợ cho nước lợ. Nước nào cho loại sinh vật tuỳ loại đó nếu trái với thiên nhiên sự sống bị thiệt thòi. Vì thế nước trần gian mang lại sự sống nơi trần gian. Nước thiên đàng mang lại sự sống thiên đàng.
Sức nước đi đến đâu tàn phá, quyét sạch mặt đất đến đó. Còn lại là tàn tích của đổ vỡ, điêu tàn và mặt đất nhẵn lớp phù sa. Nước trường sinh có sức mạnh tẩy rửa đời sống bên trong, đời sống nội tâm. Xoá bỏ quá khứ cuộc đời. Đào tận căn mọi gốc rễ tội lỗi của tâm hồn thống hối, ăn năn. Nước trường sinh tẩy xoá mọi tì ố, vết dơ, đố kị, thù hằn. Nước trường sinh quyét sạch tội đời bằng cách tẩy thói hư, rửa tật xấu, xoá ích kỉ, gột kiêu căng. Nước trường sinh làm mềm tâm hồn cứng cỏi, dịu cơn giận, giảm cơn đau. Nước trường sinh sưởi ấm con tim nguội lạnh, san bằng bất công, tiêu diệt áp bức, càn trước, quét sau, dọn sạch tâm hồn cho hạt giống thứ tha nảy mầm, cho tình người nở hoa. Thắt chặt tình thân ái, cảm thông, tình anh em, mở đường dẫn đến ăn năn, thống hối để nhận ơn thứ tha, giao hoà cùng Thiên Chúa và tha nhân.
Nước trường sinh không đến từ giòng sông, không gây nên bởi bão táp, biển khơi lộng gió hay va chạm dưới lòng đất sâu. Nước trường sinh thức tỉnh bởi sóng lòng, rung nhịp con tim, mời lương tâm lên tiếng thúc dục, giúp óc tỉnh ngủ nhận ra lỗi lầm. Tất cả do sức mạnh Lời Chúa vì lời Chúa là đèn soi, chiếu dọi tâm hồn.
Bên bờ giếng
Bên bờ giếng Đức Kitô đối thoại với người phụ nữ thành Samarita. Ngài hỏi xin chị nước uống. Chị thắc mắc ông không phải dân làng sao lại đến đây xin nước. Gây cho chị ngạc nhiên hơn nữa, Đức Kitô, người hỏi xin nước, giờ hứa ban nước cho ai thành tâm xin. Chị phụ nữ thành Samarita tự hỏi gầu không có làm sao có thể lấy nước từ giếng sâu. Thắc mắc bình thường kia là dịp tốt để Đức Kitô giải thích về nước trường sinh. Ngài hứa ban, không phải nước thường, nước giếng, nước sông, nước rạch vì thế không cần gầu để kín, múc. Loại nước đó uống rồi lại khát, cần uống tiếp. Nước đặc biệt mà Đức Kitô ban là nước trường sinh, không cần gầu để múc, kéo.
Ai uống nước này sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời. Gn 4,14
Làm sao để có được nước trường sinh.
Đổi tấm lòng
Đức Kitô cho biết nước Ngài ban sẽ thành mạch nước từ tấm lòng vọt lên mang lại sự sống. Như thế muốn nhận lãnh nước trường sinh chỉ có một cách duy nhất là nhìn đến tấm lòng, tìm ra nguồn nước hằng sống. Nguồn nước đó bị bụi đời che khuất, tội đời ngăn cản, thói đời lấp lối và tình đời làm bế tắc ống dẫn nước.
Tìm được nguyên nhân gây bệnh việc chữa trị xem ra có nhiều hy vọng hơn. Phủi sạch bụi đời sẽ tìm thấy nguồn nước. Từ giã tội đời nguồn nước được thông. Đổi đời để có cuộc đời mới. Nối kết tình người sẽ có nguồn sống mới. Dâng hiến cuộc đời sẽ nhận được đời mới. Giã từ lối sống trác táng để nhận lại cuộc sống mới tôn thờ Thiên Chúa.
Thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật c.24
Chúng ta cầu xin biết đổi đời thường lấy đời sống trường sinh. Dâng hiến đời sống trần gian lấy đời sống thiên quốc.
Lời Chúa trong Chúa nhật I Mùa Chay cho ta thấy rằng giữa muôn ngàn cám dỗ và đầy quyến rũ hiện nay chúng ta được mời gọi tỉnh táo để chọn theo Chúa. Hành trình theo Chúa dù là con đường thập giá với muôn vàn thử thách, nhưng không phải là con đường cụt dẫn đến diệt vong, mà là con đường đưa tới vinh quang như khung cảnh biến hình trên núi Tabor báo trước (Chúa Nhật II). Lời Chúa Chúa Nhật III Mùa Chay hôm nay giúp ta xác tín rằng theo Chúa sẽ tới được nguồn nước hằng sống. Hơn nữa theo Chúa sẽ tới được ánh sáng (Chúa Giêsu cho người mù bẩm sinh được thấy, Chúa Nhật IV) và sẽ tới được sự sống (Chúa Giêsu cho Ladarô sống lại, Chúa Nhật V mùa chay).
Theo Chúa để tới được nguồn sống hằng sống là một hành trình tiệm tiến của đức tin. Đó cũng là một hành trình phải vượt qua những trở ngại của khác biệt tôn giáo, văn hóa, giới tính, quan điểm, không gian địa lý, những nhu cầu tự nhiên và nhất là cái tôi của mình… để có thể đạt tới sự “thờ phượng Chúa Cha trong tinh thần và chân lý”.
1. Hành trình tiệm tiến của đức tin
Trong bài đọc I, trích sách Xuất hành, thuật lại việc dân chúng phải khổ cực và thiếu ăn khát uống trong hành trình qua sa mạc. Họ chán nản kêu trách Chúa và đòi ném đá Môsê. Họ nhớ dòng nước sông Nin mang lại phù sa màu mỡ, nhớ nồi thịt, nhớ củ hành củ tỏi. Họ đòi trở lại Ai cập dù cho phải chịu cảnh nô lệ. Thiên Chúa kiên nhẫn đã dùng chính hoàn cảnh thiếu nước ấy để hướng dẫn họ hiểu biết đâu là điều thiết yếu trong cuộc sống: Ngài muốn họ tin rằng sự cứu rỗi của họ ở phía trước là Đất hứa còn phía sau là ách nô lệ Ai cập. Do đó họ phải tin cậy vào Ngài để tiến tới phía trước dù hiện tại toàn khổ cực thiếu thốn.
Thiên Chúa bảo Môsê lấy gậy đập vào tảng đá để Nước chảy ra cho Dân uống để cứu dân khỏi chết khát. Việc này của Môsê trong hành trình sa mạc được coi như là hình ảnh báo trước cho Đức Kitô là Môsê mới và là nguồn mạch Nước hằng sống tuôn ban ơn cứu độ cho những ai tin vào Người. Đó cũng chính là điều mà Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta qua cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samari.
Trong cuộc gặp gỡ đó, Chúa Giêsu đã khéo léo dẫn đưa người phụ nữ từng bước tới đức tin. Trong cuộc đối thoại, Chúa Giêsu làm cho người phụ nữ đi từ bất ngờ nầy đến bất ngờ khác, đi từ nhu cầu thể lý để đi tới sự khao khát thiêng liêng; đi từ chỗ nhận ra nơi Đức Giêsu chỉ là một khách bộ hành mệt mỏi khát nước, xin nước uống đến chỗ nhìn nhận Ngài là nguồn mạch và xin Ngài ban nước hằng sống.
Thật vậy, chúng ta thấy, người phụ nữ đi từ cái nhìn nơi Chúa Giêsu chỉ là người lữ khách khát nước, một người đối nghịch (người Do Thái vốn không ưa người Samari), đến cái nhìn bắt đầu từ chỗ nửa tin nửa ngờ rằng Đức Giêsu vượt lên cả hàng tổ phụ của cả hai dân tộc; rồi sau đó nhìn nhận “Thưa ông, ông thật là một ngôn sứ”; rồi sau nữa tin nhận Ngài là Đấng Mêssia đến dạy dỗ loài người mọi sự và cuối cùng bà với dân thành Samari tuyên xưng “Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian” (Ga 4,42).
2. Vượt những cản trở để có thể đến được mạch nước hằng sống
Đó là một lộ trình đức tin và đón nhận mạc khải mà Chúa Giêsu dẫn dắt và mời gọi người phụ nữ, dân chúng Samari và các môn đệ. Ở đây không có sự áp đặt nào. Trong lộ trình đó chúng ta thấy để có thể đến tận nguồn mạch nước hằng sống là chính Đức Kitô, người ta phải vượt qua khá nhiều rào cản.
Người phụ nữ, qua giọng nói của Chúa Giêsu, nhận ra ngay ngài không phải là dân địa phương, nhưng bà vẫn tiếp nhận cuộc đối thoại. Hơn thế nữa, không chỉ vượt lên khác biệt địa lý, người phụ nữ cũng vượt qua rào cản tập tục và tôn giáo, vì theo tập tục người đàn ông không được nói chuyện với một người đàn bà lạ mặt mà lại là người Samari. Chính các môn đệ cũng lấy làm ngạc nhiên khi thấy thầy nói chuyện với bà.
Trong cuộc đối thoại, có những khoảnh khắc tưởng chừng như sẽ đi vào bế tắc: chẳng hạn như khi người phụ nữ hỏi: Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ, samari, cho ông nước uống sao? (Ga 4,9); hay khi bà nói: “Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Giacóp, người đã cho chúng tôi giếng này?”. Nhưng tất cả đều vượt qua những cản trở đó. Ngay cả khi Chúa Giêsu chuyển hướng cuộc đối thoại về cuộc sống riêng tư và quá khứ của người phụ nữ (mà có người cho là Chúa Giêsu thiếu tế nhị và lịch sự), nhưng bà lại nhận ra đó là tư cách của một ngôn sứ có khả năng đọc được trong tim của người đối thoại với mình… Từ đó Chúa Giêsu chuyển sang bình diện tôn giáo khi nói về việc “thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” để khai mở đức tin cho bà. Và sau đó bà lại là người đi báo tin cho dân chúng trong thành. “Có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm” (Ga 4, 39). 3. Chúa Giêsu, mãi mãi là nguồn nước hằng sống cho nhân loại
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ Samari cho ta thêm xác tín hơn nữa rằng: chỉ có Chúa Giêsu mới là Đấng làm thỏa mãn mọi cơn khát của nhân loại. Ngài giúp chúng ta biết đâu là sự khát khao đích thực và ý nghĩa của nó trong thế giới hôm nay. Dường như nhu cầu vật chất và tinh thần của con người tăng lên theo cấp số nhân trong khi các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm làm thỏa mãn nhu cầu của con người chỉ tăng theo cấp số cộng. Người ta không bao giờ đạt tới sự thỏa mãn các nhu cầu thực sự của mình hoặc nếu có chỉ là bề ngoài và bị các phương tiện khoa học kỹ thuật ngày nay đánh lừa. Là người tín hữu chúng ta xác tín chỉ có Chúa Giêsu mới thực sự là mạch nước trường sinh làm thỏa mãn mọi sự khát khao đích thực của con người từ trong tận thâm sâu của tâm hồn.
Đến lượt mình, chúng ta dù vô tình hay cố ý, đừng che lấp bịt lối không để người khác đến với nguồn nước hằng sống đó. Như Chúa Giêsu và người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy biết vượt mọi chướng ngại để có thể góp phần khai thông mạch nước ân sủng đến mọi dân, mọi nước, mọi thời đại. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói với chúng ta rằng: “chúng ta nên sợ bị giam hãm trong những cấu trúc làm cho chúng ta có một cảm giác an toàn giả tạo, những qui tắc biến chúng ta thành những quan tòa tàn nhẫn, với những thói quen làm cho chúng ta cảm thấy an thân” (Tông huấn Niềm vui của Tin mừng, số 49).
Đức Giáo Hoàng nhắn nhủ: “Chúng ta nhiều khi hành động như người ban phát ân sủng thay vì là người tạo điều kiện cho ân sủng. Nhưng Hội thánh không phải là trạm thu phí; Hội Thánh là nhà Cha, có chỗ cho mọi người, với tất cả các vấn đề của họ” (Tông huấn Niềm vui của Tin mừng, số 47). Chúng ta cũng như bao nhiêu người khác đều có vấn đề của mình. Chúng ta hãy khiêm nhường, dẹp bỏ cản trở lớn nhất, vấn đề lớn nhất là cái tôi của mình để đến với Chúa Giêsu, là nguồn mạch nước hằng sống sẽ làm thỏa mãn mọi con khát đích thực của chúng ta.
Bước vào Chúa nhật III Mùa Chay, chúng ta nghe lại cuộc đối thoại nổi tiếng của Ðức Giêsu với người thiếu phụ Samaria, được tường thuật bởi Thánh Sử Gioan. Người thiếu phụ hằng ngày đi lấy nước từ một giếng nước cổ xưa, có từ thời của tổ phụ Giacóp. Và ngày hôm ấy, chị gặp Ðức Giêsu đang ngồi trên bờ giếng, mệt mỏi sau một chặng hành trình đường xa (x. Ga 4,5-42). Chúa Giêsu chính là Nước Hằng Sống, Người đến làm cho con người khỏi khát nước Thánh Thần.
Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống
Vào những thế kỷ đầu của Kitô giáo, Các Giáo phụ đã sớm nhận ra nới « nước hằng sống » biểu tưởng của phép Rửa tội, mà Đức Kitô là chính Nguồn Nước ấy (9). Chúa Giêsu xin người đàn bà xứ Samaria nước uống, không phải lý do khát về thể lý cho bằng khát đức tin, khát sự sống đời đời, khát một linh hồn khô héo. Đấng Cứu Thế giả vờ khát nước đến xin người đàn bà nước để trao ban thứ nước ân sủng khỏi khát đời đời. Đó chính là nguồn nước mà Tin Mừng nói tới khi Người xin nước của người đàn bà xứ Samaria… Thực ra, nguồn nước ấy không bao giờ cạn, Đấng là Nước Hằng Sống không thể uống nước bị ô nhiễm ở vùng đất này. Câu hỏi được đặt ra:
Phải chăng Đức Kitô khát nước ?
Thưa, Người khát, nhưng không khát nước trên mặt đất này, hay khát thức uống của con người, mà khát các linh hồn, khát sự cứu chuộc nhân loại. Thánh Ephrem viết: “Khi khát nước, Chúa chúng ta đã ngó đầu vào miệng giếng; Ngài xin người đàn bà nước uống. Từ giếng nước, Ngài đã câu được một tâm hồn. Nhưng tâm hồn ấy đã lại câu tiếp được cả dân trong thành” (Thánh Thi Giáng sinh số 4, 43-44).
Tại sao Chúa Giêsu lại xin người đàn bà xứ Samaria nước uống khi bà đến kín đầy vò nước, không những thế, Người còn khẳng định mình có thể trao ban mạch nước dồi dào hơn từ giếng thiêng liêng nếu ai đến xin Người ?
Thưa, vì dân Samaria thờ ngẫu tượng, tâm trí họ hướng về địa giới, nên Chúa khát đức tin không chỉ của người đàn này mà cả và nhân loại. Chúa Giêsu nói: “Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà: ‘xin cho toi uống nước’, thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống (...) Tất cả những ai uống nước này sẽ còn khát: nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa ; vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời” (Ga 4, 10-14). Đúng như lời Kinh Tiền Tụng thánh lễ hôm nay diễn tả : “Lạy Chúa là Cha chí thánh ... Khi người phụ nữ xứ Samari cho nước uống, Người đã ban cho bà đức tin. Vì Người tha thiết ước mong bà tin vững mạnh, nên đã đốt lên trong lòng bà ngọn lửa yêu mến Chúa…”
Hình ảnh người tân tòng
Người đàn bà xứ Samaria là hình ảnh của người tân tòng, còn đang chịu sự ràng buộc của ma quỷ, năm đời chồng bà đã từ bỏ, người đàn ông thứ sáu đang sống với bà là tượng trưng. Giếng nước Giacóp thể hiện tiệc cưới của tâm hồn bà cử hành với Thiên Chúa đã được thanh tẩy bằng nước Rửa tội. Theo M. Dulaey thì: “Giữa thế kỷ thứ III, Origène giải thích rằng, giếng nước này là dấu chỉ giao ước giữa Thiên Chúa với dân Người và hiệp nhất tâm hồn với Thiên Chúa.” Từ nay, bà tuyên xưng đức tin trước mặt mọi người và đi loan báo Đức Kitô cho dân làng bà, kết quả là: “Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng rằng: Ông ấy đã nói với tôi mọi việc tôi đã làm” (Ga 4, 39). Theo Origène “Vị Hôn Phu đích thực là Chúa Kitô (Ga 13, 181). Một khi người đàn bà này tìm thấy Ngài, bà liền chạy về loan báo cho dân làng biết; người đàn bà này là hình ảnh của người kitô hữu tuyên xưng đức tin của mình.”
Nguồn suối cứu độ là chính Đức Kitô
Đức Kitô, Đấng ngồi nghỉ trên miệng giếng chính là nguồn nước, từ cạnh sườn bên phải Ngài, tuôn trào suối nước trường sinh; một phụ nữ có sáu đời chồng đã được tẩy sạch bằng dòng nước hằng sống ấy. Thật ngưỡng mộ biết bao: một người phụ nữ nhẹ nhàng đến giếng Samaria kín nước, bà múc nước từ giếng Giêsu ! Tìm được nước, bà ra đi với sự tiết hạnh. Ngay lập tức bà xưng thú các lỗi mà Đức Giêsu ám chỉ, bà nhận ra Đức Mêssia và loan báo Đấng Cứu Thế. Bà để vò nước xuống, mang ơn sủng vào thành ; vai nhẹ bớt tội lỗi, nhưng tràn đầy sự thánh thiện… Đúng là ai đến trong tội lỗi sẽ trở về với sứ mạng tiên tri.
Nước hằng sống này đối với chúng ta là nguồn suối dâng trào sự sống đời đời. Nước này không phải là nước hòa với Máu Chúa Kitô, đã chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu trên cây Thánh giá đó sao ? Đây không phải là các bí tích của Giáo hội mà Phép rửa trình bầy mầu nhiệm của nước ấy, để ám chỉ rằng nước đó phát sinh từ cái chết cứu độ của Đấng Cứu Thế đó hay sao? Trong mọi trường hợp, các Giáo phụ thấy nước tuôn chảy từ tảng đá do Môisen đập ra (Xh 17, 3-7) là hình ảnh tiên trưng của nước chẩy ra từ cạnh sườn Đấng Cứu Thế bị đóng đinh.
Mỗi người chúng ta đều có thể nhìn thấy chính mình nơi hình ảnh của người thiếu phụ Samari: Ðức Giêsu chờ đợi chúng ta, nhất là trong thời điểm của Mùa Chay, để đối thoại với chúng ta, nói với con tim của chúng ta. Người thiếu phụ Samari gặp được Chúa, bà xin Chúa, “Xin cho tôi nước ấy để tôi chẳng còn khát” (Mt 4, 15). Chúa đã cho bà, nhưng nước ấy, vò của bà không thể chứa được, bà phải để vò nước lại, đi loan báo cho dân làng, những người vẫn khước từ bà vì cái vò cũ (đời sống tội lỗi) nay bỏ vò đi họ liền đón nhận lời bà loan báo.
Phần chúng ta, để tiếp tục hành trình trong Mùa Chay Thánh, chúng ta cũng phải bỏ lại vò thói quen tội lỗi, chúng ta mới kín múc từ giếng Giêsu, Nước Hằng Sống, đựng vào trong tâm hồn trong sạch (vò đã được hoán cải), có thế, chúng ta mới kính múc được ân sủng của Thiên Chúa toàn năng. Như người đàn bà xứ Samria, chúng ta được mời gọi làm chứng cho người thời nay về niềm vui gặp gỡ Chúa, một cuộc gặp gỡ linh thiêng và cứu chuộc.
Lạy Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, xin giúp chúng con biết tận dụng cơ hội gặp gỡ này, là nơi chúng con có thể kín múc nguồn hạnh phúc đích thực cho cuộc đời chúng con. Amen.
Như chúng đã rõ, các bài Tin Mừng theo thánh Gio-an của Chúa Nhật 3, 4 và 5 mùa Chay năm A được lựa chọn để phù hợp với nghi thức tuyên xưng đức tin của các dự tòng, trước khi họ được rửa tội vào đêm Vọng Phục Sinh. Họ sẽ tuyên xưng Chúa Giê-su là nước hằng sống, là ánh sáng trần gian, là sự sống lại và sự sống. Tuy nhiên những chủ đề này cũng là cốt lõi của đức tin mà tất cả chúng ta nên ôn lại để sống tích cực hơn. Mùa Chay là thời gian thích hợp để chúng ta củng cố đức tin, chuẩn bị mừng lễ Phục Sinh là tột đỉnh của Năm Phụng vụ. Bài đọc 1 và bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm về ý nghĩa của nước, nước từ tảng đá chảy ra để cứu sống dân Ít-ra-en trong sa mạc và nhất là nước hằng sống Chúa Giê-su hứa ban cho người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp cũng như cho tất cả chúng ta.
Sau khi vượt qua Biển Đỏ, dân Ít-ra-en đóng trại ở nhiều nơi khác nhau. Tại Rơ-phi-đim, họ không có nước uống nên kêu trách ông Mô-sê. Ông đến kêu xin Chúa can thiệp và Người dạy ông dùng cây gậy đã đập xuống sông Nin để đập vào một tảng đá. Ông làm theo lời Thiên Chúa và từ tảng đá, nước chảy ra cho dân chúng có nước uống. Tuy nhiên, phép lạ nước chảy ra từ tảng đá không phải chỉ nhằm cứu sống dân Ít-ra-en, mà nó còn trả lời cho nghi vấn của họ “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” Có chứ, bởi vì chính Thiên Chúa đã hiện diện khi Người “đứng trên tảng đá ở núi Khô-rép” và ông Mô-sê dùng cây gậy quyền năng của Chúa đập trên tảng đá ấy. Dòng nước chảy ra từ tảng đá là biểu tượng của tình yêu Thiên Chúa, Đấng yêu thương giải phóng dân Người khỏi Ai-cập và đưa vào Đất Hứa. Nhưng hơn thế nữa, thánh Phao-lô còn coi tảng đá ấy là hình bóng báo trước tương lai khi ngài nói: “Họ (dân Ít-ra-en) cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ; tảng đá đây, chính là Đức Ki-tô”.
Qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay, chúng ta nghe Chúa Giê-su nói chuyện với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp. Đây là giếng nước do tổ phụ Gia-cóp để lại cho con cháu ngài tới ngày nay. Giữa vùng sa mạc khô cằn, nước giếng tổ phụ Gia-cóp thật quý giá vì đã nâng đỡ sự sống, từ chính ngài tới con cháu và đàn gia súc đều nhờ đó mà sống. Nhưng nay, Chúa Giê-su giới thiệu một thứ nước còn quý giá hơn nước giếng Gia-cóp gấp bội, vì như Chúa nói với người phụ nữ: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa”. Khát khao hạnh phúc đời đời là cơn khát ai cũng có và không thứ nước trần gian nào có thể giúp người ta hết khát.
Chỉ có Chúa Giê-su, Tảng Đá của Thiên Chúa hiện diện, mới là “mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” trong tâm hồn những ai đón nhận Người. Thí dụ cụ thể là chính người phụ nữ Sa-ma-ri. Chúa Giê-su đã hiểu được cơn khát sự công chính và bình an trong tâm hồn bà. Vì thế hôm nay Chúa đem nước cứu độ đến cho bà. Chúa dùng đủ mọi cách, nào là gợi chuyện, lan man từ chuyện giếng tới chuyện chồng con của bà, thậm chí cả chuyện tranh luận về nơi chốn thờ phượng nữa. Điều tuyệt vời là qua mỗi chuyện, Chúa Giê-su lại giúp bà nhận biết rõ hơn Người là Đấng nào: đầu tiên đối với bà, Chúa là “người Do-thái”, rồi là “ngôn sứ”, sau cùng là “Đấng Mê-si-a” (Đức Ki-tô). Nhưng tâm điểm của câu chuyện gặp gỡ vẫn là bà nhận biết Chúa Giê-su là Đấng ban nước hằng sống! Bởi vì sau khi nhận biết như thế, bà đã “để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: ‘Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?’” Để vò nước lại, vì bà đã tìm được thứ nước đem lại sự sống đời đời và giúp bà thỏa cơn khát ơn cứu độ!
Sống sứ điệp Lời Chúa
Câu chuyện Tin Mừng hôm nay chắc chắn không chỉ đánh động tâm hồn các anh chị em dự tòng, nhưng hết thảy chúng ta nữa. Chúa Giê-su là Tảng Đá của giao ước mới, từ đó một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời. Các anh chị em dự tòng đang khát Chúa! Còn chúng ta, có lẽ tốt nhất trong mùa Chay này, chúng ta hãy xem lại “cơn khát” của chúng ta là gì. Chúng ta đang khát gì? Tiền bạc, danh vọng? Bình an trong tâm hồn? Tình yêu Thiên Chúa? Giống như người phụ nữ Sa-ma-ri, chúng ta hãy thưa với Chúa: “Lạy Chúa, xin cho con thứ nước ấy, để con hết khát”. Chắc chắn Chúa sẽ đáp lời chúng ta!
Tin Mừng theo thánh Gioan cho biết, người đàn bà có sáu đời chồng, ra giếng múc nước vào buổi trưa, gặp Chúa Giêsu và được Chúa đánh thức tâm hồn, đó là người đàn bà xứ Samaria.
Samaria trước là vùng đất Do thái, vì thế, những người sinh sống tại đây cũng là người gốc Do thái. Nhưng qua nhiều đổi thay của đất nước, nhất là trong những lần bị đưa đi lưu đày, nhiều lần bị đặt dước ách đô hộ của các đế quốc, làm cho lịch sử biến chuyển không ít… Người Do thái ở Samaria không còn giữ được nguyên gốc Do thái. Họ ngày càng có nhiều mối dây liên hệ với dân ngoại. Do đó, người Samaria luôn luôn bị người Do thái khinh miệt, tránh mọi liên hệ gần gũi và tiếp xúc.
Nhưng Chúa Giêsu thì không. Người đã không đứng chung hàng ngũ với những người đồng hương để lên án con người, mà luôn ý thức vai trò cứu rỗi của mình: đưa con người từ tội lỗi về lại với sự thánh thiện.
Tin Mừng theo thánh Gioan viết: “Đức Giêsu tới thành gọi là Kikha thuộc xứ Samaria, gần phần đất Giacóp đã cho con là Giuse, ở đó có giếng Giacóp, Đức Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghỉ trên miệng giếng, lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu”(Ga 4,5-6).
Bỗng dưng một phụ nữ ra giếng múc nước. Chúa nhìn thấy tâm hồn chị. Chúa biết chị luôn sống trong mặc cảm của tội, bởi chị đã có đến “năm đời chồng và hiện người đang sống với chị không phải là chồng chị”. Nhưng Người cũng nhìn thấy khả năng đón nhận chân lý nơi chị, vì thế, chính Chúa lên tiếng trước: “Cho tôi chút nước uống”.
Chúa phá tan sự nghi kỵ. Chúa đã làm khiến ngạc nhiên không ít. Bởi không phải chỉ vì “Ông là người Do thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Samaria, cho ông nước uống”. Nhưng nếu theo dõi hết trình tự của câu chuyện, ta sẽ thấy, Chúa khiến chị phụ nữ phải đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.
Đúng hơn, khi đối thoại với Chúa Giêsu, người phụ nữ Samaria đã phải chuyển từ ngạc nhiên sơ khởi dần dần đi lên đến đỉnh điểm của đức tin.
Chỉ cần một chi tiết sau, đủ chứng minh tình cảm biến đổi từ thấp lên cao dần của chị: Khởi đầu chị gọi Chúa là “ông”, rồi chuyển sang gọi là “ngài”, kế đến là “đấng tiên tri”, cuối cùng là “Đấng Kitô”.
Chúa làm thay đổi hoàn toàn tình thế: Chúa, người xin, trở thành người cho; chị phụ nữ, người được xin, trở thành kẻ đón nhận.
Một loạt những lời nói của Chúa Giêsu đã biến chính Người thành Đấng trao ban, còn chị phụ nữ thành người thụ nhận:
- “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị: cho tôi chút nước, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4,10).
- “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14).
- “Đã đến giờ và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý. Đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn” (Ga 4, 23).
- Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong Thần Khí và sự thật (Ga 4, 34).
- Và sau hết, như một đoạn kết có hậu, một đoạn kết tất yếu phải có, Chúa Giêsu dứt khoát chỉ cho chị để chị nhận ra “Chân Lý” mà chị cần gặp, chị phải gặp. “Chân lý” ấy không phải ai khác mà là chính Chúa, Đấng đã tự mình tìm đến với chị: “Đấng Mêsia chính là Ta, Người đang nói với chị đây” (Ga 4, 26).
Bất cứ ai, khi được Chúa chạm đến, với điều kiện người ấy phải chấp nhận sự thật về mình, chấp nhận vạch trần con người tội lỗi của mình, đều được biến đổi. Một khi đã được biến đổi, người ấy lập tức trở thành chứng nhân của Chúa, chứng nhân của tình yêu tha thứ mà Chúa ban cho mình.
1. Biến đổi
Người phụ nữ Samaria chắc chắn đã phải giật thót mình khi “bị” một người xa lạ đánh đúng vào thái độ đùa nghịch với đạo đức, với luân lý mà chị đã quen sống từ trước đến nay.
Chị đã thật sự nhận ra mình trong phút chốc khi chị được Chúa soi sáng.
Không ai có thể thật sự thấy mình, cho đến khi soi mình trong sự hiện diện của Thiên Chúa.
Chị phụ nữ đã được Chúa buộc phải nhìn vào Chúa để từ đây, chị biến đổi chính mình.
Cú “giật mình” đã phải làm cho chị nhanh chóng thốt lên: “Tôi thấy ngài thật là một tiên tri…” (Ga 4, 19).
2. Chứng nhân
Thánh Gioan đã không bỏ qua chi tiết chị phụ nữ “bỏ vò nước lại” ngay tại chỗ chị đã gặp Chúa Giêsu. Tại sao lại bỏ vò nước? hành động này, tuy nhỏ, lại nói lên nhiều ý nghĩa lớn:
- Sự biến đổi ngoạn mục trong chị đã làm cho chị phải dẹp những gì là cồng kềnh vướng víu, để lập tức ra đi trong nhẹ nhỏm, trong thanh thoát.
- Sự biến đổi ấy đã làm cho chị sung sướng đến độ không còn nhớ việc ban đầu của mình.
Điều duy nhất quang trọng lúc này là chạm đến chân lý, là khám phá tận căn con người hèn hạ của mình, nhằm chứng minh với mọi người Đấng đã giúp mình khám phá chính bản thân mình.
- Sự biến đổi đã thôi thúc chị ra đi với “tốc độ”, ra đi càng nhanh càng tốt.
Chị nóng lòng, không phải với việc múc nước nữa, nhưng là làm sao phải hô thật to, nói thật nhiều cho mọi người biết Đấng Tiên Tri và chạm đến Người, như chính mình đã được biết, đã được chạm đến.
- Chị “bỏ lại” để chị còn quay lại. “Bỏ lại” là lý do tốt nhất để còn được quay lại.
Bắt đầu từ Chúa Giêsu, chị khám phá sự thật về mình.
Bắt đầu từ Chúa Giêsu chị biến đổi chính mình.
Bắt đầu từ Chúa Giêsu, chị ra đi loan báo ơn tái sinh.
Và rồi bắt đầu từ Chúa Giêsu, chị quay lại với Chúa Giêsu.
Chúa vẫn yêu thích tìm đến cùng chúng ta. Chúa muốn chúng ta mở lòng đón Chúa để được tái sinh và biến đổi đời mình.
Chúng ta hãy làm như chị người Samaria, đó là mềm lòng để Chúa uốn nắn. Từ nay ta sẽ trở về, biết chối từ quá khứ lầm lỡ đển vươn tới tương lai thánh thiện trong Chúa.
Bài Tin mừng Chúa Nhật hôm nay là cuộc trò chuyện giữa Đức Giêsu với người đàn bà xứ Samaria được thánh sử Gioan tường thuật lại.
Câu chuyện xảy ra trong bối cảnh Đức Giêsu tới thành Sykar thuộc xứ Samaria. Sau một quảng đường mệt nhọc, Đức Giêsu dừng chân nghỉ tại giếng Gia-cóp. Có lẽ Ngài rất khát nước, vì đó là giờ thứ sáu. Nhưng làm sao để có nước uống, vì giếng thì sâu, Ngài lại không có dụng cụ để múc nước. May mắn thay, lúc đó có một người đàn bà xứ Samaria tới lấy nước. Đức Giêsu nói với người đàn bà: “Xin bà cho tôi uống nước” (Ga 4,7). Nghe vậy, người đàn bà Samaria ngạc nhiên, vì từ lâu người Do thái và người Samaria không giao thiệp với nhau. Thậm chí họ là kẻ thù của nhau. Chính vì thế, người đàn bà mới trả lời với Đức Giêsu rằng: “Sao thế! Ông là người Do-thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ Samaria?” (Ga 4,9).
Thực ra, việc xin nước uống chỉ là cái cớ để Đức Giêsu bắt chuyện với người đàn bà. Mục đích của Đức Giêsu không phải là xin nước, nhưng Ngài muốn mạc khải cho bà biết những điều quan trọng về Ngài. Vì thế, sau khi nghe người đàn bà thắc mắc, Đức Giêsu mới bắt đầu vào nội dung chính của câu chuyện, Ngài nói với người đàn bà rằng: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị: cho tôi chút nước uống với, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4,10). Nghe những lời Đức Giêsu vừa nói, người đàn bà càng thắc mắc nhiều hơn. Đó cũng chính là sự chờ đợi của Đức Giêsu. Vì thế, Ngài mạc khải tiếp: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”(Ga 4,4,14). Giờ thì không phải Đức Giêsu xin chị uống nước mà chính chị mới là người xin Đức Giêsu uống nước. Chị nói: “Thưa Ngài, xin cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước”(Ga 4,15). Như vậy, Đức Giêsu đã mạc khải cho chị biết, chính Ngài là Đấng Kitô. Cho nên không phải ai khác, mà chính Ngài là người ban cho chị Nước Hằng Sống. Rồi Ngài còn mạc khải cho chị về việc tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Ngài nói: “Đã đến giờ và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý. Đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn” (Ga 4, 23).
Câu chuyện Tin mừng đến đây cho chúng ta thấy, Đức Giêsu đã đáp ứng niềm khát vọng sâu xa của người đàn bà. Bà đã biết về Đức Giêsu và tin nhận Ngài là Đấng Mêsia. Còn chúng ta: Đâu là niềm khát vọng của chúng ta? Chúng ta đã thực hiện sứ mạng đem “Nước” cho những người khác như thế nào?
1. Đâu là niềm khát vọng của chúng ta?
Trước hết, mỗi chúng ta cũng có những khát vọng thuộc lãnh vực tự nhiên: Khát nước, khát cơm ăn áo mặc, khát tình cảm, khát chân lý, khát tự do, khát yêu thương, khát công bằng, khát hạnh phúc… Nhưng những khát vọng này của chúng ta không bao giờ được thỏa mãn một cách tuyệt đối. Vì: uống nước rồi vẫn khát, ăn rồi vẫn đói; tình cảm không bao giờ đong đầy. Ngoài ra, với tâm lý “được voi đòi tiên” của con người thì sự thỏa mãn càng không bao giờ đủ. Chính người đàn bà xứ Samaria hằng ngày vẫn đến giếng Giacóp lấy nước. Bà đã có 5 đời chồng rồi, nhưng hiện vẫn sống với người chồng thứ 6. Hơn nữa, con người vẫn mong muốn những cái tuyệt đối, mà ở trần gian này không có cái gì là tuyệt đối: Tình yêu, công lý, tự do, hạnh phúc…chỉ là tương đối mà thôi.
Thứ đến, mỗi chúng ta cũng có những khát vọng thuộc lãnh vực siêu nhiên như: Khát đức tin, khát Chúa, khát Nước hằng sống, khát hạnh phúc Thiên đàng…Sự khát khao thuộc lãnh vực siêu nhiên này chúng ta chỉ được thỏa mãn nơi Chúa. Vì, "Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Chính Đức Giêsu cũng đã nói với người đàn bà: "Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4, 13-14).
Chính vì vậy, Mùa chay, Giáo hội kêu mời chúng ta khỏa lấp lòng khao khát sự sống siêu nhiên bằng việc gặp gỡ Đức Giêsu: qua Lời của Ngài, qua các Bí tích, nhất là Bí tích Giao hòa và Bí tích Thánh Thể. Chúng ta cũng có thể khỏa lấp lòng khao khát sự sống siêu nhiên bằng đời sống cầu nguyện và sự chia sẻ cơm áo cho tha nhân.
2. Chúng ta có sứ mạng đem “Nước Hằng Sống” cho những người khác?
Sau khi người đàn bà được Đức Giêsu “cho uống nước hằng sống,” bà đã chạy về thành và kêu gọi mọi người “Mau hãy đến xem, có một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng ông đó là Ðấng Kitô?” (Ga 4,29). Dân chúng tuôn nhau ra khỏi thành và đến cùng Ngài. Nhiều người tin vào Đức Giêsu do lời chứng của người đàn bà. Họ mời Đức Giêsu ở lại với họ hai ngày. Sau đó, họ nói rằng: “Giờ đây, không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Ðấng Cứu Thế” (Ga 4,42).
Sứ vụ của người đàn bà cũng là sứ vụ của mỗi người chúng ta. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã nói cho các môn đệ biết về công việc của Ngài: "Lương Thực của Thầy là làm theo ý Ðấng đã sai Thầy và chu toàn công việc của Ngài”(Ga 4,34). Công việc của Đức Giêsu là loan báo Tin mừng. Đó cũng là công việc của các Tông đồ và là công việc của mỗi người chúng ta. Công việc đó luôn có tính cấp bách. Chính Đức Giêsu đã cho biết: “Các con chẳng nói: còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt đó ư? Nhưng Thầy bảo các con hãy đưa mắt mà nhìn xem đồng lúa chín vàng đã đến lúc gặt. Người gặt lãnh công và thu lúa thóc vào kho hằng sống, và như vậy kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Ðúng như câu tục ngữ: Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai các con đi gặt những gì các con không vất vả làm ra; những kẻ khác đã khó nhọc, còn các con thừa hưởng kết quả công lao của họ" (Ga 4,35-38).
Để loan báo Tin mừng có hiệu quả, chúng ta cần phải luôn chủ động, đi bước trước để đến với tha nhân. Đức Giêsu đã luôn làm như thế. Ngài đã đi bước trước qua việc bắt đầu câu chuyện bằng việc xin nước người phụ nữ. Rồi sau đó, Ngài đã mời gọi người phụ nữ uống Nước Hằng Sống. Ngài đi bước trước đến bàn thu thuế và mời gọi ông Lêvi đi theo Ngài. Ngài đi bước trước để đến với ông Giakêu khi ông đang ở trên cây sung để cho ông biết “hôm nay tôi đến trọ nơi nhà ông.” Ngài đi bước trước đến đồng bàn với những người thu thuế và tội lỗi để mời gọi họ bỏ quá khứ tội lỗi để trở về với Ngài…
Chúng ta cũng phải noi gương Đức Giêsu, đi bước trước đến với những người cần đến chúng ta. Đặc biệt là những người đang gặp khó khăn trong đời sống đức tin. Những người gặp khó khăn trong đời sống gia đình. Những người bỏ Chúa và Giáo hội lâu năm. Những người đang bất hòa với chúng ta. Thậm chí là những người đang hằn thù, ghen ghét chúng ta. Chúng ta cần đi bước trước để bắt chuyện với họ, giúp họ nhận ra con người thật của mình, cần đến Chúa để họ trở về với Chúa và Giáo hội.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con biết từ bỏ tội lỗi, trở về với Chúa. Xin cho chúng con luôn biết khỏa lấp những khát khao trong cuộc sống bằng chính Chúa. Từ đó, chúng con trở thành những sứ giả đem Chúa đến với anh chị em và đem anh chị em trở về với Chúa. Amen.
Phải thờ phượng Thiên Chúa ở Sichem hay ở Giêrusalem?
Chúa Giêsu đã đưa ra một lời giải đáp. Ngài khẳng định rằng Thiên Chúa không bao giờ bị khoanh vùng, Ngài cũng không bao giờ là Chúa riêng của một người hay một dân tộc nào, bởi vì Ngài là Cha chung của mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Không một người nào, không một dân tộc nào và không một tôn giáo nào được độc quyền chiếm giữ Ngài cho riêng mình, hay nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ hiện diện trên đất nước của mình hay trong đền thờ của mình.
Không. Chúa Giêsu đã khẳng định với người thiếu phụ Samaria: Đã đến giờ ác ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem, nhưng sẽ thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật.
Thiên Chúa là thần khí, mà thần khí thì vô hình nên ở đâu cũng có. Thiên Chúa hiện diện ở khắp mọi nơi: Trời là ngai toà của Ngài còn đất là bệ chân của Ngài. Ngài không cần nhà để ở và hơn nữa, không một nơi nào dù nguy nga tráng lệ đến đâu chăng nữa xứng đáng với Ngài. Trái lại Ngài có thể hiện diện ở bất kỳ nơi nào, nhất là qua mầu nhiệm nhập thể, Ngài có thể hiện diện trong chuồng bò tại Bêlem, tạm trú bên Ai Cập, vất vả tại xưởng thợ Nadarét, để rồi sau đó rảo bước khắp nơi trên mọi nẻo đường Palestine, đến với mọi người Do Thái, Hy Lạp, cũng như Rôma. Kẻ có đạo cũng như người ngoại đạo, người đạo đức cũng như kẻ tội lỗi.
Thiên Chúa là thần khí nên Ngài tự do tuyệt đối, không ai có thể giam hãm Ngài được. Thánh Phaolô khi đến Athen, đã gián tiếp nói cho dân Hy Lạp biết rằng họ cũng thờ phượng một Thiên Chúa như thánh nhân, tuy họ không biết Thiên Chúa ấy là Đấng nào và thánh nhân còn nhìn nhận rằng họ cũng thuộc dòng giống của Thiên Chúa, bởi vì chính nhờ nơi Thiên Chúa mà tất cả chúng ta được sống và hiện diện.
Một khi đã xác tín Thiên Chúa là Cha chung của mọi người, chúng ta không được nhân danh Ngài mà gây chia rẽ và hận thù, trái lại phải nhân danh Ngài mà yêu thương đoàn kết với nhau. Thực vậy đối với Chúa Giêsu thì cách thế diễn tả lòng kính mến Thiên Chúa một cách sâu xa và trọn vẹn nhất, đó là yêu thương anh em của mình. Cách thế phụng thờ Thiên Chúa đúng theo ý Ngài muốn, đó chính là phục vụ anh em. Bởi vì yêu mến Chúa thì phải tuân giữ điều răn của Ngài, mà điều răn Ngài truyền dạy đó là chúng ta phải yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta.
Bởi vậy, không phải khi chúng ta xây dựng những ngôi thánh đường hay những gian cung thánh nguy nga tráng lệ là chúng ta có thể làm cho mọi người nhận ra chúng ta là những kẻ thờ phượng Thiên Chúa đích thực, nhất là khi chúng ta dùng những đồng tiền bất chính để xây dựng nhà thờ. Trái lại chỉ có tình yêu thương anh em bằng tinh thần phục vụ, nhất là đối với những người khổ đau và nghèo túng, mới là cách thế chứng minh rằng Thiên Chúa hiện diện ở khắp nơi, và nhất là ở những nơi nào con người biết yêu thương và phục vụ lẫn nhau.
Trang Tin Mừng Chúa nhật III Mùa Chay tới đây quả là tuyệt vời và để lại cho ta nhiều tâm tư suy nghĩ.
Chúa Giêsu, nhân câu chuyện bên bờ giếng nước Giacob và với cơn khát của thể xác đã gợi lên cơn khát của linh hồn, cơn khát Nước Hằng Sống chứ không phải là khát của cơ thể. Giản đơn, cơn khát của cơ thể dù được đáp ứng nhưng cũng chỉ tạm thời, chỉ cho cơ thể nhưng cơn khát Tâm Linh vẫn còn.
Con người có hay nói cách khác là sở hữu thể xác và tâm linh đời mình. Và rồi, nhiều lần nhiều lúc trong cuộc đời, con người chỉ chạy theo, chỉ tìm và có thể là giành giật, chụp giựt để thỏa mãn cơn khát của cơ thể mình, của ham muốn xác thịt mà quên lãng đi điều cần tìm nhất đó chính là cơn khát của Tâm Linh, cơn khát Nước Hằng Sống.
Chính Chúa Giêsu, trong thân phận làm người, Chúa Giêsu vẫn khắc khoải và vẫn khát cho đến giờ phút cuối cùng trên cây thập giá về Chúa Cha, về Nước Hằng Sống của đời mình. Hẳn, Chúa Giêsu cũng bị giằng co là bước xuống cây thập tự để thỏa mãn cơn khát của con người nhưng cũng bị giằng co chấp nhận vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự.
Cuối cùng, Chúa Giêsu cũng đã chiến thắng nhờ kết hợp với Thần Khí và Ngài đã phó thác đời mình trong tay Thần Khí.
5 đời chồng của người đàn bà bên bờ giếng Giacob cũng không làm thỏa mãn cơn khát đời đời của bà.
Quyền lực phủ vây con người vẫn không làm thỏa mãn được cơn khát đời đời của mỗi người.
Dẫu quyền lực như một đức giám mục của Giáo Phận cũng phải khép lòng bàn tay lại và lại phải mở lòng ra để xin Chúa là Cha cho mình thỏa mãn cơn khát của Thần Linh.
Còn nhớ tâm tình rất hay của linh mục đại diện linh mục đoàn tâm tư trước linh cữu Đức Cố Giám Mục Giuse Vũ Duy Thống: “...Và trước linh cửu Ðức Cha hôm nay, đoàn con Phan Thiết xin nguyện hứa đón nhận Di Sản của Ðức Cha để lại, là "sống khó nghèo, hiền lành, khiêm nhượng, kết hiệp khổ đau với Chúa Giêsu, yêu mến Mẹ Maria, và chết đời mình đi vì hạnh phúc của mọi người".
Chúng con xin tạ ơn Chúa. Chúng con xin hết lòng cảm ơn Ðức Cha. Chúng con xin Ðức Cha tha lỗi. Và cuối cùng, xin Ðức Cha cầu bàu cho Giáo phận Phan thiết nơi tòa Chúa, để đoàn chiên của Cha mỗi ngày thêm tuổi lớn, thêm khôn ngoan, thêm xinh đẹp nhờ biết noi gương nhân đức sáng ngời của Ðức Cha”.
Sự qua đi của một bậc vị vọng trong Giáo Hội, sự khép lại của một quyền lực mà Thiên Chúa đặt để nhắc nhớ cho ta cơn khát thật sự của cuộc đời này.
Ngày hôm nay, mỗi người chúng ta cũng không tránh khỏi cơn khát của thể xác nhưng rồi cũng không tránh khỏi cơn khát của linh hồn. Nhưng, đứng trước cùng đích của cuộc đời, ta hãy lắng đọng và trả lời thật tâm với Chúa rằng ta khát và ta khác cái gì?
Ta khát Thiên Chúa hay ta khát quyền lực thế gian? Ta khát Thiên Chúa hay ta khát tiền bạc thế gian? Ta khát Thiên Chúa hay ta khác tình cảm chóng qua trần tục của cuộc đời? Ta khát tìm vinh quang Thiên Chúa hay ta khát tìm vinh quang của đời ta?
Xin cho mỗi người chúng ta nhìn đến cùng đích của cuộc đời con người, nhìn đến sự ra đi của các đấng các bậc trong Hội Thánh hay ngoài Hội Thánh để nhìn ra căn tính thật sự của kiếp người để yêu thương nhau hơn, hiệp nhất với nhau hơn chứ không phải tranh giành quyền lực của nhau và với nhau.
Xin Chúa Giêsu là Đấng chịu đau khổ trong cuộc khổ đau cực đỉnh của phận người cho ta thấu hiểu quyền lực thực sự mà con người cần tìm, cơn khát cùng đích mà con người phải tìm.
-----------------------------------
MC 3-A135: Hãy đến giếng Giêsu để kín múc nước trường sinh
Trang Tin Mừng gợi lại cho ta hình ảnh Chúa Giêsu đến xin nước một phụ nữ Samari. Người phụ nữ đi kín nước uống, nghĩa là chị đang thực hiện một sinh hoạt hằng ngày và rất tình cờ gặp người đàn ông Do Thái. Vậy có hay không có khả năng: Chúa ngồi tại bờ giếng Giacóp để đón chờ chị ta? Đây là một điều cấm kỵ đối với người Do Thái: «Người Do Thái không được giao thiệp với người Samari» (Ga 4,9).
Khi chị nghe Đức Giêsu nói: "Chị cho tôi xin chút nước uống!", về tâm lý, tất nhiên chị “bị bất ngờ”, vì “người Do Thái không được giao thiệp với người Samari”. Chị đâm ra bối rối xen lẫn cảm giác thích thú với suy nghĩ “mình đang được một người đàn ông Do Thái (vốn đầy kiêu hãnh) nhờ vả”. Vậy là chị đang ở thế thượng phong, chủ động, ban phát… Câu trả lời của chị đã bộc lộ những cảm xúc trên: "Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?"
Việc tiếp xúc và xin nước của Ngài khiến cho phụ nữ này ngạc nhiên: «Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?».
Người phụ nữ này một đức tính hòa nhã và tinh thần cởi mở, bởi nếu không, thì chị đã “xả” vào ông này một mớ những câu khó nghe rồi (khùng, dở hơi… chẳng hạn). Có lẽ chị nghĩ: ‘Ông này khát quá nên nói lộn!’ Và chị bèn đưa ra chất vấn nhằm xác minh:"Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống?” và như để thanh minh với Đức Giêsu rằng: Tôi hiểu những điều ông vừa nói về cụm từ “nước hằng sống” nên tôi mới nói thêm câu “Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Giacóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy." Câu thoại của người phụ nữ lý thú ở chỗ cho ta nhận ra khả năng liên tưởng của chị rất dồi dào; Chị nghe nói về “nước hằng sống”, chị chợt liên tưởng và so sánh hơn kém giữa “Người đang nói với chị” và tổ phụ Giacóp. So sánh giữa nước giếng truyền thống và nước hằng sống.
Ta thấy ngay cả các tông đồ cũng ngạc nhiên không kém: «Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ Samari» (Ga 4,27). Không phải chỉ một lần mà khá nhiều lần Đức Giêsu đã vượt ra khỏi những quy định của tập tục xã hội, của tôn giáo, khi mà những quy định này đi ngược lại lương tri hay tình yêu tha nhân. Chính trong bối cảnh đặc biệt này, Đức Giêsu đã mặc khải một chân lý quan trọng: Ngài chính là nguồn mạch nước hằng sống.
Lúc Ngài xin chị Samari nước uống là «vào khoảng mười hai giờ trưa», khi các môn đệ Ngài đi mua thức ăn. Chỉ có một mình Ngài với chị. Bình thường các phụ nữ ra giếng chung của làng để múc nước vào ban sáng hoặc ban chiều cho đỡ nắng, riêng chị lại múc vào ban trưa.
Đọc tiếp đoạn Tin Mừng ta sẽ biết lý do: chị không phải là một phụ nữ đàng hoàng về mặt luân lý; chị đã có 5 đời chồng và hiện đang sống với một người không phải là chồng mình (x. Ga 4,16-18). Chắc hẳn chị không muốn chường mặt ra vào lúc đông người, sợ phải nghe những lời dị nghị không hay về mình. Thế mà Đức Giêsu lại chọn chị để mặc khải những chân lý quan trọng: việc thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật, nước hằng sống, đồng thời tỏ cho chị biết Ngài chính là Đấng Cứu Thế…
Và chị đã trở thành người loan báo Tin Mừng cho cả làng của chị, khiến cho «có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng» (Ga 4,39). Thật là lạ lùng cách làm việc của Ngài. Ngài không chọn người đàng hoàng, đạo đức để loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Ngài, mà lại chọn một phụ nữ bị mọi người khinh bỉ và coi là tội lỗi. Mà lại hữu hiệu! thế mới tài tình!
Nhân việc xin nước, Đức Giêsu giải thích cho chị hiểu thêm về điều Ngài đã nói về “nước hằng sống” với chủ điểm so sánh hơn kém rất rõ: "Ai uống nước (giếng) này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Có nghĩa là so sánh giữa “nước uống để giải khát và nước uống không để giải khát. Thứ nước tôi cho có đặc tính là sẽ làm cho “nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời." Có nghĩa là nếu Đức Giêsu ban cho chị loại nước ấy thì “chính chị là người sở hữu nguồn nước hằng sống ấy”, vậy thì còn gì bằng! Thứ nước mà Ngài Giêsu cho chị còn có thể ban cho chị “sự sống đời đời”.
Nước là một yếu tố tối cần thiết cho sự sống, đến nỗi có thể nói: chỗ nào không có nước thì không thể phát sinh sự sống, và sự sống không thể tồn tại được. Ai cũng phải uống nước mới sống được. Trong cơ thể con người, nước chiếm tới 72% trọng lượng. Nhưng thứ nước vật chất này cứ phải uống hoài, vì «ai uống nước này, sẽ lại khát». Đức Giêsu đã dựa vào tính chất này của nước vật chất để giới thiệu một thứ nước khác: «Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời». Chị Samari tưởng rằng Ngài muốn nói đến một thứ nước vật chất khác, uống vào thì không còn khát nữa, nhưng không phải. Ngay cả thứ nước trong câu «ai uống nước này, sẽ lại khát» cũng là một thứ nước theo nghĩa bóng.
Con người ai cũng khao khát hạnh phúc, thứ hạnh phúc đích thực và lâu bền. Và người trần, ai cũng đi tìm những phương tiện giúp mình hạnh phúc. Người thì tìm hạnh phúc trong tiền bạc, kẻ tìm trong quyền lực, người khác tìm trong vui thú xác thịt, v.v…
Nhưng hạnh phúc tìm được nơi những thứ ấy rất chóng qua, và thường để lại hậu quả là đau khổ. Người nghèo cảm thấy khổ vì thiếu tiền, nên nghĩ rằng phải có nhiều tiền mới hạnh phúc. Nhưng người có tiền lại khổ vì tiền như người ta vẫn nói: «Người giàu cũng khóc», «tiền không đem lại hạnh phúc». Người không con cái thì lấy đấy làm khổ và cho rằng phải có con mới hạnh phúc được; đến khi có con thì lại khổ vì con, do nó bất hiếu, hư đốn, bệnh tật, hoặc nó không theo ý mình.
Vì thế, chẳng mấy ai trên đời được hạnh phúc. Thứ hạnh phúc mà trần gian này cung cấp toàn là như vậy: hạnh phúc đấy, mà đau khổ cũng đấy! Nhiều điều của trần gian hôm trước đem lại hạnh phúc thì ngay hôm sau đã đem lại đau khổ!
Trần gian chỉ có thể cung cấp cho ta thứ hạnh phúc ấy: thứ hạnh phúc không thể thỏa mãn được lòng khao khát vô tận của con người, thứ hạnh phúc kiểu «uống rồi lại khát». Nhưng Đức Giêsu giới thiệu một thứ hạnh phúc mà Ngài có thể cung cấp là thứ hạnh phúc theo kiểu «uống vào sẽ không bao giờ khát nữa». Đó không phải là một cái gì vật chất có thể trao được, mà là một lối sống, một con đường sống, một tinh thần sống phải đem ra thực hành. Đó chính là sứ điệp Tin Mừng mà Ngài đã rao giảng và sống trọn vẹn suốt đời Ngài.
Thật sự rất nhiều người thật sự sống theo sứ điệp này đã cảm thấy hạnh phúc thật sự, thứ hạnh phúc không ai lấy mất được, cho dẫu họ có phải sống trong nghèo đói, túng thiếu, tù tội, tra tấn, hay bị gạt ra ngoài lề xã hội. Và người nào đã có được thứ hạnh phúc ấy, thì một cách tất yếu người ấy sẽ trở thành «một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời».
Từ việc Đức Giêsu và người phụ nữ Samari có một mối quan tâm chung là nước giếng. Chúa đã mở rộng phạm trù nước giải khát thành “nước hằng sống”. Từ đây, Chúa lại dẫn chị đến khái niệm “sự sống đời đời”. Ôi lạy Chúa! Thầy Vĩ Đại của chúng con, chỉ cần ba câu nói của Chúa mà đã khai lối nhìn của một người bình thường đang lom khom nhìn mặt đất bỗng nhiên đi vào triết học, tâm trí nghĩ đến đời sống vĩnh cửu, mơ sự sống đời đời. Ta đặt lại đời ta và ta nhìn lại ta đã theo Đức Giêsu bao năm rồi? Nhưng chúng ta đã thật sự hạnh phúc chưa? Nếu chưa, thiết tưởng chúng ta cần phải xét lại và thay đổi cách theo Ngài của chúng ta. Có thể ta chưa hiểu được đúng đường lối của Ngài, hay chưa có được tinh thần của Ngài, hay chưa thật sự sống đúng đường lối của Ngài. Biết bao người đã theo Ngài và đã cảm thấy thật sự hạnh phúc suốt cuộc đời trần gian đầy biến động này. Vậy tại sao ta chưa hạnh phúc?
“Cho thì có phúc hơn là nhận”. Qua việc xin người khác cho đi sự gì đó, đôi khi chúng ta làm họ giác ngộ và trưởng thành. Họ có dịp để bước vào thế giới biết chia sẻ tình thương. Tagore đã viết một dụ ngôn rất có ý nghĩa.
Ngày nọ có một người ăn xin đi khắp làng, nhưng anh chẳng xin được gì vì nhà nào cũng đóng cửa. Anh bèn tìm cách đi ra khỏi ngôi làng vào giữa lúc ban trưa nắng đổ. Mồ hôi nhễ nhãi, mệt mỏi vì đói, chán nản vì bị từ chối, anh ngồi xuống bên vệ đường. Bên cạnh anh là một cái túi chứa một nắm hạt bắp. Anh dự định chiều tối về nhà sẽ đem ra xay thành bột, làm một cái bánh ăn cứu đói.
Thình lình mắt anh sáng lên khi nhìn thấy chiếc xe của vua từ đằng xa đang tiến lại gần. “Nhà vua nổi tiếng là một người tử tế”, anh tự nghĩ. “Ngài sẽ không lỡ đi qua mà chẳng cho mình cái gì”. Rồi anh chuẩn bị đứng lên, chờ đợi hồi hộp. Anh thật khoái chí khi thấy chiếc xe của vua từ từ chậm lại. Quả vậy, nó đã ngừng lại ngay chỗ anh đứng với đôi bàn tay giang rộng chờ đợi xin xỏ.
Cửa xe mở ra và nhà vua xuất hiện. Người ăn xin cúi gập người xuống dự tính nói: “May phước thay, thưa hoàng đế. Xin ngài bố thí cho tôi tớ hèn mọn này một ít tiền”. Nhưng nhà vua đã chìa tay ra trước và nói: “Xin bạn dành cho vua một hạt bắp nhỏ được không?” Người ăn xin hoàn toàn ngỡ ngàng trước biến cố lạ lùng này. Lấy lại bình tĩnh, anh nói: “ Thưa hoàng đế, xin vâng lệnh”. Rồi mở chiếc bị ra, liếc nhanh vào trong, anh nhặt lấy một hạt bắp nhỏ nhất, và đưa cho vua với lời xin lỗi rằng đây là tất cả lương thực anh có. Nhà vua cám ơn anh, bước lên xe đi khỏi, để lại cho người ăn xin một cảm giác trống rỗng và thất vọng ê chề.
Suốt ngày ngồi ăn xin bên bên vệ đường mà chẳng được gì, khi hoàng hôn xuống anh trở về nhà buồn bã, mệt mỏi và đói bụng. Ngay khi về đến nhà anh bắt đầu làm bếp, đổ hết số hạt bắp trong bị ra. Khi kiểm tra lại những hạt bắp, anh giật mình khám phá thấy rằng hạt bắp nhỏ nhất đã được thay thế bằng một hạt vàng ròng cùng cỡ. Trong nuối tiếc, anh ngồi than thở rằng nếu biết được món quà nhà vua muốn cho, anh đã cho vua tất cả số bắp đang có trong bị. Nếu làm như thế, bây giờ anh đã trở thành một người giàu có và không bao giờ phải đi ăn xin nữa! Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu cũng áp dụng phương pháp giáo dục này khi Ngài hỏi người đàn bà Samaria: “Xin bà cho tôi nước uống”. Ngài thường khởi sự làm phép lạ bằng việc xin một điều gì trước. Ngài đã xin những người đầy tớ đổ đầy những chum nước trước khi biến thành rượu ở tiệc cưới Cana. Ngài đã xin năm chiếc bánh và hai con cá từ em bé trai để hóa bánh ra nhiều. Từ việc xin nước uống, Chúa Giêsu đã biểu lộ cho người đàn bà Samaria biết Ngài là Đấng Cứu Thế khao khát nhân loại. “Ngài là người đến tìm chúng ta trước. Ngài xin ta cho Ngài nước uống, vì Thiên Chúa khao khát chúng ta”. Thánh Gioan đã dùng câu chuyện người đàn bà Samaria bên giếng nước để làm nổi bật lên chủ đề của Tin Mừng thứ Tư được tóm tắt trong lời mở đầu như sau: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa”. Lòng thương xót của Thiên Chúa vượt ra khỏi mọi giới hạn về quốc gia, văn hóa, sắc tộc, và phái tính. Sự cứu rỗi được ban cho tất cả nhân loại.
-----------------------------
C3-A137: Ta sẽ cho nước hằng sống- Lm. Lâm Thái Sơn
Ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa.
Bài Phúc Âm hôm nay kể lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người đàn bà xứ Samaria: Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghỉ trên miệng giếng và xin nước uống v.v... Bài này ta đã từng nghe qua nhiều lần, nhưng để hiểu rõ tầm mức quan trọng, ta cầu đọc lại trong quan điểm lịch sử, biểu tượng và thực tiễn.
1. Quan điểm lịch sử: Muốn biết tại sao cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và bà xứ Samaria gây ra tai tiếng, chúng ta nên dựa vào biến cố lịch sử đã qua.
Mối bất hòa giữa người Do Thái và người Samaria đã xảy ra vào thế kỷ thứ 8 trước công nguyên, lúc mà người Axiri đến xâm chiếm đất Samaria, bắt đi lưu đày một phần lớn dân Samaria như một dân tộc tạp nhạp, lai căng lạc đạo; đã vậy, người Samaria không còn đi lễ ở Giêrusalem mà hành đạo ở đền núi Garidim... Vì không còn giao thiệp với Samaria, do đó bất cứ người Do Thái nào tiếp xúc với dân Samaria đều bị lên án, nặng nhất là người đàn ông Do Thái giao du với phụ nữ Samaria.
Trong tình thế đó, này đây Chúa Giêsu ngang nhiên nói chuyện với người đàn bà xứ Samaria mà không chút sợ sệt. Ngài còn tự do thoải mái ở lại thêm hai ngày nữa. Qua cuộc gặp gỡ và đối thoại này, Chúa Giêsu muốn cho ta thấy ý định của Ngài là dẹp thù hận. Vì đối với Thiên Chúa: không có ai là địch thù, không ai là người bị nguyền rủa và bị khai trừ, không ai mà không được tha thứ... Và Ngài còn ban phát Nước chảy ra sự sống đời đời cho tất cả mọi người, không phân chia giai cấp hoặc màu da sắc tộc, không phân biệt nguồn gốc xứ sở. Vì Thiên Chúa là Tình Thương cho tất cả.
2. Quan điểm biểu tượng: Ao hồ hay giếng nước thường là nơi của sự gặp gỡ (từ khách lạ trở nên bạn hữu), nhưng cũng có thể là nơi tranh chấp (vì tranh giành miếng nước mà trở nên cừu địch).
Giếng nước hay vũng nước, trong sa mạc hoặc những vùng đất khô cằn, không chỉ là nơi mà người người đều dừng lại múc lấy nước để phục hồi sức khỏe sau những ngày đường mệt lả khát nước, mà còn là nơi để người người cùng gặp gỡ, trao đổi câu chuyện và làm quen. Trong Kinh Thánh có những đoạn kể qua cuộc gặp gỡ nơi giếng nước đưa đến chuyện hôn nhân: người đầy tớ của ông Abraham gặp cô Rêbêca (St 24:10-27) từ đó lo chuyện cưới hỏi cho con ông chủ mình là Ygiaác. Ông Giacóp và cô Rakên (St 29:1-14) cũng gặp nhau tại giếng nước và hai người đã trở thành vợ chồng.
Vậy thì giếng nước trong bài Phúc Âm hôm nay, nơi mà Chúa Giêsu gặp người đàn bà xứ Samaria, cũng có tính cách biểu tượng: vì tại giếng nước này phát hiện một giao ước thiêng liêng, một cuộc đính hôn giữa Đức Kitô với nhân loại, cho dù loài người có bất xứng, đầy tràn tội lỗi... Ngài hứa ban "nước hằng sống" cho bất cứ ai tìm đến giải khát nơi Ngài và Ngài còn tuyên bố "từ nay mọi người sẽ không còn hành đạo tại núi này hay đền thờ nọ, nhưng đã đến lúc phải tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý".
Lời nói của Chúa Giêsu thật quá kỳ diệu, đánh động tâm hồn người đàn bà Samaria, khiến bà quên đi cả việc múc nước. Nước giếng không còn là mối bận tâm và không làm bà khao khát nữa, bà cũng không còn khao khát những mối tình trần tục (bà có sáu đời chồng), vì Lời Chúa vừa đem đến sự giải khát cho bà, và sau khi tin phục thì "nước Chúa (Lời Chúa) vừa ban cho bà thì nơi bà trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời", từ một người đàn bà xa lạ, bà đã trở nên môn đồ của Chúa qua việc để lại vò và chạy về thành loan báo cho mọi người: "Mau hãy đến xem... người đó là Đấng Kitô".
3. Quan điểm thực tiễn: Ta có thể khẳng định rằng đoạn Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta nhận rõ cuộc sống. Như xưa kia Chúa Giêsu đã làm phát sinh nước hằng sống nơi xứ Samaria, đất của dân ngoại, của những người bị miệt thị khinh chê... thì nay chúng ta cũng được mời gọi nên biết đón nhận những người Samaria, tức là những kẻ không cùng ý hướng tín ngưỡng với chúng ta và những kẻ bị người khác khinh thường loại bỏ, cũng như phải biết tôn trọng các giá trị của những người khác biệt với chúng ta.
Qua cuộc đối thoại với người phụ nữ Samaria, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta từ nay phải biết tìm đến uống nước Hằng Sống (các Bí Tích) phát sinh từ nơi Ngài: Lời Ngài tuôn chảy như một giòng suối đánh đổ những hiềm khích hận thù, tẩy sạch những kỳ thị bất công và loại bỏ việc sùng bái các tà thần ngẫu tượng (của cải tiền bạc, lợi danh quyền chức...) để chúng ta trở nên những con người hoàn toàn tự do, biết thật sự yêu thương tha nhân và "tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý".
“Đức Giêsu đến một thành xứ Samari, tên là Xy kha gần thửa đất ông Giacóp đã cho ông là ông Giuse. ở đấy có giếng của ông Giacóp. Người đi đường mỏi mệt, ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ, trưa. Có một người phụ nữ Samari đến lấy nước”.
Những trang viết lớn của Gioan thì không ai quên được. Ta có thể đọc chúng ở nhiều mức độ không đối lập nhau: 1. Một báu vật văn chương và thi ca. 2. Một ý nghĩa nội sinh từ diễn tiến kịch tính của các màn diễn. 3. Một sự nêu bật giá trị tâm lý tinh tế của Đức Giêsu. 4. Một sự phong phú những kỷ niệm Kinh Thánh được sử dụng lại. 5. Một cách sử dụng các ý nghĩa biểu tượng sâu xa của loài người. 6. Và, bên trong tất cả những thứ đó, một nền thần học nhiệm tích và Kitô học cực kỳ cụ thể.
Vâng hãy nếm trước hết ý nghĩa hiện thực của cảnh tượng: Đức Giêsu mệt nhọc, vật vã, kiệt sức vì một chuyến đi dài dưới ánh nắng ban trưa. Người lại ăn chay, ngay trước bữa ăn không thể làm được gì nữa, Người ngồi xuống đất, lưng tựa vào thành bờ giếng. Người khát nhưng không có thùng múc nước. Một phụ nữ tới, đội một vò nước, theo kiểu phương Đông. Khi tôi kiệt lực, và tôi không thể làm được gì nữa, tôi có thể cầu ông Giêsu này, Người biết chuyện đó là gì.
Đức Giêsu nói với chị ấy: "Chị cho tôi xin chút nước uống". Lúc đó các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. Người phụ nữ Samari liền nói: "Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông uống nước sao?”. Quả thế người Do Thái không được giao thiệp với người Samari, Đức Giêsu trả lời: "Nếu chị nhận ân huệ của Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị xin cho tôi chút nước uống thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống”.
Đức Giêsu, con người tự do, ở đây vi phạm ba điều cấm kị: về chủng tộc, về tôn giáo, về giới tính. Ở Phương Đông, người ta cấm nói với với một người đàn bà ở chỗ công khai.
Những tín đồ Do Thái tốt đều khinh miệt những người Samari; cho là những kẻ rối đạo và sùng bái thần tượng. Từ tám thế kỷ, người Samari và Do Thái đã hết sức thù hằn nhau một cách dữ tợn. Nhưng Đức Giêsu tự do Người không tin vào những cấm cản dứt khoát, những nhãn hiệu nẩy lửa, những khẩu hiệu quá đơn giản của những cách phân loại chính trị hay tôn giáo giữa người tốt và kẻ xấu.
Người phụ nữ ấy nói: “ Thưa ông, ông không có gầu mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Giacóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy”. Đức Giêsu trả lời: "Ai uống nước này sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”. Người phụ nữ nói với Đức Giêsu: "Thưa ông, xin cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi đến đây lấy nước".
Chúng ta bắt đầu đoán về tất cả nghệ thuật tâm lý của Đức Giêsu (và của Gioan). Đây không phải chỉ là một ngụm nước mà một người nước ngoài đầy bụi bặm xin Đức Giêsu mang đến, ở chỗ sâu thẳm nhất của sinh thể mình, một thứ khát khao khác. Người đốt cháy lên nỗi khát khao làm cho những nguồn nước chảy vọt lên ở trong lòng những người đàn ông và đàn bà... Nước! Nước là một thực tại của sự sống. Không có một sự sống nào mà không có nước! cái yếu tố xem ra tầm thường và quá đơn giản này, lại là quí giá nhất. Ngay trong những vùng trên địa cầu mà ở đó có nước dồi dào, thì ngày nay, người ta lại phát hiện được giá trị thiết yếu của nó: người ta bảo vệ, người ta để nó sang bên cạnh để nó không thiếu, người ta thanh lọc nó. Thế thì chẳng ngạc nhiên gì khi nước đã có một giá trị biểu tượng phổ biến trong tất cả mọi nền văn minh và tôn giáo trong Kinh Thánh. "Nước hằng sống" là chính hình ảnh Thiên Chúa ban sự sống (Gr 2,13; Is 12,3; 55,1; Ed 47,1; Dc 14,8). Biểu tượng nước đầy dẫy trong sách Tin Mừng Gioan; nước hóa rượu của Cana (Ga 2,7); nước mà trong đó người ốm muốn lặn xuống ở chỗ giếng Bết-da-tha (Ga 5,7); nước mở mắt cho người mù ở giếng Si-lô-ê (Ga 9,7), con sông nước hằng sống chảy từ ngực Đức Kitô được loan báo trên bậc thềm của Đền Thờ (Ga 7,38), nước của sự sống cho những ai muốn sinh lại bởi nước và Thánh Linh, được loan báo cho Ni-cô-đê-mô (Ga 8,5), sau cùng, nước chạy vọt ra từ cạnh sườn của Đấng chịu khổ hình thập giá (Ga 13,39). Bạn có một nguồn nước nơi bạn, bạn biết đó, từ ngày bạn chịu phép Thánh Tẩy.
Đức Giêsu bảo chị ấy: "Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây". Người phụ nữ đáp: "Tôi không có chồng". Đức Giêsu bảo: Chị nói tôi không có chồng là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng.
Biểu tượng miền Samari “bán mình làm đĩ” cho các thần tượng... mà cũng là người phụ nữ có thật. Đó là thân bèo giạt hoa trôi, cái đồ thừa thãi đáng thương, bị chìm xuống vực thẳm làm một thứ đồ chơi cho cả một nửa lố đàn ông. Thế thì ông là ai, anh chàng nước ngoài mệt phờ này, cái anh chàng Do Thái bị tẩy chay này, mà lại đoán ra vết thương lòng của tôi? Thế thì ông là ai, cái anh chàng dò xét cõi lòng phụ nữ với một sự tế nhị đến độ không làm người ta phải ngượng ngùng? ông là ai, cái người mà đã đoán được cả lòng tôi khát khao hạnh phúc mà những thứ tình qua đường của tôi không làm nguôi được ông là ai, cái anh bạn vô danh có vẻ muốn chìa tay cho tôi biết rằng, dù kinh nghiệm tôi trải qua có đau đớn thật, nhưng cuộc đời tôi có lẽ không phải là một thất bại?
Người phụ nữ nói với Người: 'Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ... Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này còn các anh lại bảo: Giêrusalem mới chính là nơi thờ phượng Thiên Chúa". Đức Giêsu nói: “Này chị, hãy tin tôi. Đã đến giờ các người thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay ở Giêrusalem. Các người thờ phượng Đấng các người không biết, còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng giờ đã đến và chính lúc này đây giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế Thiên Chúa là Thần Khí và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí vô sự thật”. Người phụ nữ thưa: tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự Đức Giêsu nói: "Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây".
Ôi đàn bà, cuộc đời của chị không phải đã hết, đã hỏng. Ôi, loài người, nỗi khát khao của người còn xâu xa hơn người tưởng. Ôi tội nhân, sự thất bại của người có lẽ sắp trở thành một nguồn suối.
Thờ phượng! Đấy là mục tiêu của Người! Ngươi không nghĩ đủ đâu. Nhưng tôi, tôi nhắc lại mười lần tiếng này: Thờ phượng. Ngươi được tạo thành cho Thiên Chúa. Ôi, đàn bà, tấm lòng ngươi quá lớn lao, nên không chỉ bằng lòng với những hạnh phúc rời rạc và tạm bợ! Tất cả những gì tận cùng đều ngắn ngủi.
Thờ phượng! Dù muốn hay không, con người đã được lập trình cho chuyện này. Chỉ một mình Thiên Chúa mới thanh thỏa được nhu cầu về vô hạn nơi chúng ta. Nỗi khát không những tái phát.
Thờ phượng! Thái độ huyền nhiệm của người đứng trước mặt Thiên Chúa, cõi lòng được ngoạm vào, hít vào, xoa dịu, no thỏa bởi Đấng trên cao!
Người phụ nữ Samari vẫn còn có nhiều vấn đề tôn giáo có tranh cãi: phải thờ phượng Thiên Chúa ở đâu?... trên núi Garizim, miền Samari, hay trên núi Si-on ở Giêrusalem? Câu trả lời của Đức Giêsu là một sự vi phạm Truyền Thống: dám nói rằng Đền Thờ và các nghi thức phụng vụ không còn quan trọng gì cả! Thật là phạm thượng! Sự thờ tự Thiên Chúa đích thực là điều đã được thúc đẩy trong cuộc đời chúng ta nhờ chính "Thần Khí". Đền Thờ Thiên Chúa đích thực là đền thờ mà Chân lý của Chính Đức Kitô đến khánh thành: đó là thân xác Người; và Đức Giêsu nhận được sự đón tiếp tốt nhất không phải chính tại miền Giu-đê, nhưng tại ngay giữa miền Samari: “Các ông thờ phượng điều mà các ông không biết!". Chính người "Do Thái" biết sự thật. Nhưng chính "anh rối đạo" lại được phụ quyền. Lạy Chúa, xin cho chúng con sự yêu thích thờ phượng trong Thần khí và trong sự thật.
Vừa lúc đó, các môn đệ trở về. Các ông ngạc nhiên vì Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế không ai dám hỏi Người "Thầy cần gì vậy?” hoặc "Thấy nói gì với chị ấy thế?". Người phụ nữ ấy để vò nước lại, vào thành và nói với người ta: "Đến mà xem, có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm, ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?". Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.
Tấm lòng của người phụ nữ đã được cứu thoát. Trong cuộc đời bị khô héo, một cuộc sống thấp lè tè dưới đất, hời hợt (tiêu thụ đủ loại), một nguồn nước đã vọt ra nơi chị ta. Chị không còn gì làm về cái giếng và cái vò nước này. Chị chạy đi thông báo về nước hằng sống mà chị vừa khám phá ra. Làm sao mà không kêu lên tin mừng cho cả làng nghe! Và chính cái quá khứ nặng nề tội lỗi của chị đã khiến cho chị thấy quá hợp để nói về Thiên Chúa: "Hãy đến xem có người đã yêu tôi với lòng xót thương". Câu chuyện này không phải là câu chuyện của bạn sao?.
Trong khi đó các môn đệ thưa với Người rằng: "Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa". Người nói với các ông: 'Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết". Các môn đệ mới hỏi nhau: "Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?". Đức Giêsu nói với các ông: lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người. Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt?" Nhưng này. Thầy bảo anh em: "Ngước mắt lên mà xem, đồng luá đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái. Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi đễ được sống muôn đời, và như thế cả người gieo lẫn người gặt đều hớn hở vui mừng. Thật vậy câu tục ngữ “kẻ này gieo người kia gặt" quả là đúng. Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả; còn anh em được vào hưởng công lao vất vả của họ.
Có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: Ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm. Vậy khi đến gặp Người dân Samari xin Người ở lại với họ và Người đã ở lại đó hai ngày. Số người tin vì lời Đức Giêsu nói còn đông hơn nữa. Họ bảo người phụ nữ: "Không còn phải lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật chính chúng tai đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng Cứu Độ trần gian".
Vâng, từng nấc một, Gioan đã đưa chúng ta xuốngchiếc giếng sâu, chính là huyền nhiệm về bản vị Đức Giêsu: một người nước ngoài đáng thương mệt nhoài và khát đến cháy cổ… một người Do Thái "biết Đấng mình thờ phượng" nhưng còn lớn hớn cả Giacóp, người sáng lập nước Israel, một ngôn sứ đọc được trong lòng người ta và đoán được những âu lo bị che khuất Đấng Mêsia được trông đợi đã làm chảy vọt lên nước hằng sống của cuộc sống muôn đời; và dạy cho loài người biết sự khát khao đích thực: Thờ phượng Thiên Chúa trong Thần khí và trong sự thật, tóm lại Đấng Cứu Độ trần gian.
Bao lâu còn chưa khám phá ra cái suối này, Đức Giêsu mà tất cả thức ăn của Người là thực hiện ý muốn của Chúa Cha, thì thế gian chết vì đói và khát cũng một thứ đồ ăn và thức uống đó luôn ở trong thực đơn nơi bàn tiệc của Giáo Hội. Phục sinh đến gần: phải chăng bạn sẽ ngã quỵ vì bệnh thiếu máu thiêng liêng ở gần ngay suối nước và bàn ăn? Và này bạn khát khao cái gì?
Sau những công việc tại Giêrusalem -xua đuổi những người buôn bán ra khỏi đền thờ, đàm đạo với Nicôđêmô về cuộc sống mới-, Đức Giêsu lên đường trở lại miền Galilê.
Trong cuộc hành trình này, Đức Giêsu đã không theo con đường người Do-thái vẫn đi là tránh băng qua miền Samari. Từ thời đế quốc Át-xy-ri, người Do-thái và người Samari vẫn kình địch nhau, không giao du với nhau, mmỗi miền có đền thờ riêng. Đức Giêsu biết điều đó và việc Người có mặt tại miền Samari không phải là chuyện tình cờ. Người có sứ mạng đến với mọi dân, mọi nước để đưa họ về với Thiên Chúa. Người là Đền Thờ mới, và Đền Thờ này được dành cho tất cả mọi người. Người là Đấng quy tụ nhân loại, nên chính Người sẽ phá vỡ những rào cản đang phân rẽ nhân loại. Tình yêu cao cả đã buộc Đức Giêsu phải có mặt tại Samari, miền đất thù nghịch với người Do-thái.
Đức Giêsu đã đến Samari như một người thừa sai, một người luôn có những ý nghĩ tốt đẹp về người khác. Như vậy, không một miền đất nào bị bỏ quên ; không một người nào lại không được Người nhớ đến, dù kẻ đó có thế nào chăng nữa.
Để hiểu rõ điều này, có thể so sánh thái độ của Đức Giêsu với thái độ của các môn đệ. Một làng thuộc Samari từ khước tiếp nhận Đức Giêsu vì Người đang hành hương lên Giêrusalem. Thấy thế, Gia-cô-bê và Gio-an đã bày tỏ phản ứng của "con sấm sét": "Thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu huỷ chúng nó không?" (Lc 9,54). Đức Giêsu lập tức quay lại và khiển trách các ông. Người đã tránh sang một làng lân cận. Người muốn đánh dấu lần Người đi qua cõi thế này bằng những hành vi nhân hậu, chứ không phải bằng những lần nỗ bùng lòng báo thù, và Người tìm cách ghi khắc cách xử sự này vào lòng các môn đệ.
Quả thế, Đức Giêsu đã đến trần gian để tạo nên một sự gắn bó, để kéo nhân loại và vũ trụ đến với Người. Đức Giêsu đi bước trước, nhưng Người không xuất hiện với những nét của một kẻ chinh phục đến thiết lập sự thống trị của mình, hoặc của một kẻ tuyên truyền rêu rao để áp đặt những ý tưởng của mình. Điều Đức Giêsu trao ban trước tiên, đó là trái tim và Người muốn nhận lại trái tim của người khác. Người đến với tư cách là một người bạn, một Đấng Cứu Thế, chứ không phải với tư cách quan toà đến xử án (xem Ga 3,17; 12,47).
Những tiến trình gặp gỡ
Cuộc nói chuyện dài giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari là những cấp độ tiến triển về mặc khải, về thiêng liêng mà điểm kết thúc là người phụ nữ nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Tinh.
Phản ứng đầu tiên của người phụ nữ khi nhìn thấy Đức Giêsu bên bờ giếng, nghe Người xin nước uống, là câu nói về dòng giống. Nhưng câu trả lời của Đức Giêsu cho chị hiểu rằng, ngay vào lúc này, Người là Đấng ban ơn chứ không phải là người nhận ơn. Chính chị mới là kẻ cần đến sự giúp đỡ của Người (x. Ga 4,10-11).
Khởi đầu, người phụ nữ chỉ coi Đức Giêsu như một người bộ hành mệt nhọc, đang cần nước uống, chứ không thấy được con người sâu xa của Người: chị thấy Đức Giêsu là người Do-thái, không biết Người là Con Thiên Chúa ; chị thấy một con người mỏi mệt chứ không phải là người nâng đỡ những tâm hổn yếu nhược ; chị nhìn thấy con người đang cần nước chứ không biết rằng chỉ mình Người có khả năng làm dịu cơn khát của trần gian.
Sau khi nghe câu trả lời của Đức Giêsu, tuy chưa hiểu rõ hơn về Người, nhưng chị cũng tỏ lòng kính trọng. Chị đỗi cách xưng hô: "Thưa Ngài". Tâm trí chị chưa vượt qua khỏi những quan niệm bình thường, chị vẫn nghĩ đến thứ nước uống tự nhiên, và mong muốn người đang đối thoại với chị cho chị thứ nước ấy, để chị khỏi phải đi múc.
Đến đây, Đức Giêsu đề cập đến điều bí ẩn nhất của tâm hổn chị. Người gợi lại đời sống của chị, không phải với cái nhìn từ trên cao hay với ánh mắt coi rẻ như một số người đàng hoàng trong đám dân Samari vẫn dành cho chị, nhưng là với tấm lòng muốn hoà giải chị với người chổng và giúp chị tiếp tục lại cuộc sống chung với chổng. Chỉ khi ấy chị mới có thể lãnh nhận nước trường sinh, và thay vì phải nô lệ một tình yêu bị cấm đoán, chị dấn thân vào tình yêu cao cả, và nhận được vẻ kiều diễm Đức Giêsu muốn ban cho chị. Cần phải thay đỗi nếp sống, phải dẹp bỏ mọi trở ngại, phải chân thành mới có thể đón nhận ơn cứu độ.
Một lần nữa, người phụ nữ lại đỗi cách xưng hô với Đức Giêsu ; chị coi Người là ngôn sứ. Đổng thời, chị đỗi sang đề tài tôn giáo. Và với vấn đề này, Đức Giêsu cũng đưa chị đến nguổn mạch sâu xa, đến vương quốc sự thật rất rộng lớn. Để đáp lại câu nói của người phụ nữ về Đức Mê-si-a, Đức Giêsu đã xác nhận: "Đấng ấy chính là Ta, người đang nói với chị đây." (Ga 4,26).
Từ nay, trung tâm của việc tế tự không phải là Giêrusalem, cũng không phải là núi Ga-ri-zim, nhưng chính là Đức Kitô.
Và giai đoạn cuối cùng đã đến. Người phụ nữ nói với người khác về Đức Giêsu, chị nhận Người là Đức Kitô. Chị không hề kể cho những người đổng hương về vấn đề thờ phượng Thiên Chúa, nhưng chị nói rõ những điều Người đã nói về đời sống của chị, cả những tội lmỗi còn giấu kín. Chị nói lên điều mà người ta nghĩ rằng chị nên giấu đi. Người phụ nữ Samari thực là một trong những người truyền giáo đầu tiên của Kitô giáo. Nhiều người đã tin lời chị.
Người phụ nữ đến giếng để múc nước, nhưng khi tìm được Nguổn mạch đích thực, chị đã bỏ lại vò nước, như các môn đệ đã từng bỏ lại lưới và thuyền.
Từ một người xa lạ, chị đã trở thành môn đệ của Đức Kitô. Từ nhận xét ban đầu: người ngổi bên bờ giếng là người Do-thái, chị đã nhận ra người ấy là Đức Kitô, là Đấng Cứu Tinh.
Một kinh nghiệm cho mọi người
Người phụ nữ Samari đã nhận ra Đức Giêsu. Ở đây không phải là một phép lạ có tính cách hữu hình ; không là việc chữa lành bệnh, không là việc làm cho sáng mắt. Điều kì diệu đã xảy ra nơi tâm hổn tội lmỗi của người phụ nữ. Qua việc giải thoát tâm hổn khỏi tội lmỗi, Đức Giêsu đã nhận được tước hiệu vinh quang, mặc dù Người chưa chịu treo trên thập giá.
Tước hiệu vinh quang: "Vị Cứu Tinh của trần gian "không phải chỉ là cảm nghiệm riêng của người phụ nữ, nhưng còn là của cả một đám đông dân chúng. Họ đã nghe câu chuyện người phụ nữ thuật lại và họ đã đến gặp Đức Giêsu, đã nghe lời Người giảng dạy và đã tin.
Như vậy, cây thập giá vẫn hiện diện trong suốt cuộc đời Đức Giêsu, và đã đem lại hậu quả trước khi Người bị treo lên.
Và Đức Giêsu đã quên hẳn cơn khát, quên cả sự mệt nhọc. Người đã bắt đầu chu toàn sứ mệnh của Người khi hướng dẫn người phụ nữ tội lmỗi đến đức tin, thay đỗi lối sống: đưa về cho Chúa Cha những người biết thờ phượng theo thần khí và sự thật. Hình ảnh đám đông người Samari đến gặp Đức Giêsu lại không phải là hình ảnh báo trước rằng Tin Mừng sẽ được loan báo đến tận cùng cõi đất?
Đức Giêsu đã có mặt tại Samari với tư cách của một Vị Cứu Tinh đầy nhân hậu. Người đã đến để cứu vớt, để xoá bỏ những hận thù, để mặc khải những điều sâu xa. Tại đó, Người đã kiên nhẫn thuyết phục người phụ nữ phóng túng về hạnh kiểm. Trong câu chuyện này, lòng nhân hậu của Người thật là một an ủi, một nguổn mạch dịu mát tất cả những ai đang mang trong lòng những phiền muộn, những thất bại và cay đắng.
Hãy đến gặp Đức Giêsu hãy thưa chuyện với Người để thấy rằng mình được yêu thương. Người đang chờ... Hãy nghe lời Người nói: Nếu anh, nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban...
“Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn tái sinh. Gặp gỡ Đức Kitô chân thành mình gặp mình. Gặp gỡ Đức Kitô nảy sinh tình đệ huynh”.
Có lẽ tất cả chúng ta đều thuộc những lời ca trên đây của bài hát “Gặp gỡ Đức Kitô”. Những lời ca này có thể áp dụng rất thích hợp vào bài Tin Mừng hôm nay: Người phụ nữ Samari gặp gỡ Đức Kitô. Cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời của chị. Chuyển biến như thế nào?
Hôm ấy, Chúa Giêsu và các môn đệ đi bộ từ miền Giu-đê trở về miền Ga-li-lê, có lẽ đã qua mấy ngày đường dưới nắng hè gay gắt. Trên đường đi, Chúa và các môn đệ đi qua thị trấn Xy-kha, thuộc lãnh thổ Samari, ở đó cố một cái giếng mà tổ phụ Giacóp đã đào dưới chân núi Ga-ri-dim. Giếng này sâu khoảng 39 m nên muốn uống nước, phải có gầu và dây dài thì mới kín múc được.
Khi tới đây, các môn đệ rẽ vào chợ để mua thức ăn trưa, còn Chúa Giêsu tới ngồi nghỉ chân bên bờ giếng. Cùng lúc ấy có một phụ nữ đội vò tới kín nước. Như vậy, người phụ nữ Samari này đi kín nước thì tình cờ gặp Chúa, chứ chị không hay biết gì và cũng không có ý định gặp Chúa. Chúa đang ngồi nghỉ chân bên bờ giếng, chị tới kín nước thì gặp Chúa, và Chúa đã gợi chuyện với chị bằng việc xin nước. Nhưng không phải Chúa khát mà xin nước uống, Chúa muốn dùng việc xin nước để nói về một vấn đề quan trọng hơn, có thể nói Chúa giả vờ xin nước để gợi chuyện. Ngài muốn nói cho chị biết: chính chị là người đang khát, và Chúa cũng muốn nói cho chị biết Ngài là ai, là người sẽ làm cho chị hết khát: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa” tức là gặp được Chúa là có tất cả, không còn khát mong gì khác nữa.
Chúa nói vậy, người phụ nữ không hiểu gì hết, nên Chúa đi thêm bước nữa, Ngài nói với chị về cuộc đời riêng tư của chị, khi đó chị nhận ra Ngài là một tiên tri, một ngôn sứ. Chúng ta thấy Chúa Giêsu không kết án, cũng không trách chị đã có đến năm đời chồng rưỡi. Đó không phải là điều Chúa muốn nói, điều Chúa muốn là chị nhận ra Ngài là ai, và Chúa đã thành công. Từ không biết đến nghi ngờ, từ nghi ngờ đến nhận biết. Chị nghi ngờ người đang nói với chị không phải là bất cứ ai, và chị đã nhận ra khuôn mặt mới: không phải chỉ là một ngôn sứ mà là Đấng Mê-si-a, Đấng Thiên Sai mọi người đang mong đợi.
Như vậy, người phụ nữ Samari gặp gỡ Đức Kitô, cuộc gặp gỡ đã biến đổi cuộc đời chị. Chị đã nhận được ơn tái sinh, tức là ơn đổi mới cuộc đời. Và chị cũng gặp được chính mình. Tin Mừng không cho chúng ta biết chị đã có quyết định thế nào, đã tổ chức lại cuộc sống của chị ra sao. Nhưng chúng ta có quyền tưởng tượng rằng: khi về nhà, chị không còn có thể sống như trước khi xảy ra cuộc kỳ ngộ này, chị không thể tiếp tục sống như trước mà cần phải đổi thay: chị sẽ sống đàng hoàng hơn, ít ích kỷ hơn, có thể yêu thương sâu xa hơn vì tim chị đã đổi thay. Thực vậy, muốn cho con tim biến đổi, cải hóa, thì phải đi vào tận chiều sâu của tâm hồn, phải đối diện, phải giáp mặt, phải chạm trán với chính cõi lòng mình, đúng như bài ca chúng ta hát: “Gặp gỡ Đức Kitô, chân thành mình gặp mình”.
Đàng khác, cuộc gặp gỡ của chị Samari với Đức Kitô cũng nảy sinh tình đệ huynh: hai dân tộc Do Thái và Samari có một mối thù truyền kiếp. Mặc dầu xưa kia họ cùng một dòng tộc Giacóp, nhưng họ đã chia rẽ nhau từ năm 935 trước công nguyên, khi vua Sa-lô-môn băng hà. Người miền bắc là Samari xây đền thờ riêng tại núi Ga-ri-dim, còn miền nam là Giu-đa, vẫn chọn Giêrusalem làm chính. hai bên kình địch nhau, cuộc bất hòa kéo dài đã hơn 400 năm, nhưng họ vẫn hoặc công khai, hoặc ngấm ngầm thù ghét nhau và tìm cách hại nhau. Cho nên lúc đầu chúng ta thấy người phụ nữ Samari ngạc nhiên, khi thấy Chúa Giêsu là một người Do Thái, lại nói chuyện với chị ta. Nhưng đối với Chúa Giêsu, Ngài biết tất cả, Ngài vượt trên tất cả, với lòng nhẫn nại và một chút khéo léo về tâm lý, Chúa đã chinh phục được lòng người và Ngài đã thực hiện việc hòa giải và hòa hợp trong dân tộc Ngài. Người phụ nữ đã hòa giải được sự rạn nứt, giằng co trong chính tâm hồn chị, hòa giải với Thiên Chúa, và hòa giải với đồng bào, hòa giải giữa hai dân tộc Do Thái và Samari.
Nói đến kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô, chúng ta hãy nhớ đến ông Gia-kêu lùn trong Tin Mừng, chính ông đã thú nhận: “Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô của tôi rất độc đáo, phải thú thực rằng: tôi là một người thu thuế không mấy liêm chính, thế nhưng từ lúc gặp Đức Kitô, cuộc đời tôi đã thay đổi hẳn”. Như vậy, chúng ta có thêm bằng chứng về kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô. Và đây cũng là bài học nhắc nhở chúng ta.
Thực vậy, chị Samari gặp Đức Kitô, ông Gia-kêu gặp Đức Kitô, cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến, đã làm đổi thay cuộc đời của hai người ấy. Đúng vậy, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi những ai khát vọng tìm Ngài, tình thương của Ngài cao vượt trên muôn ngàn tội lỗi hư hèn của con người.
Như người phụ nữ Samari, như ông Gia-kêu, chúng ta cũng cảm nhận được sự yếu đuối tội lỗi của chúng ta, nếu chúng ta đến với Chúa bằng lòng ăn năn sám hối, chúng ta sẽ gặp Ngài, chúng ta sẽ nhận được tình yêu thương khoan dung của Ngài. Tóm lại, nếu chúng ta muốn thay đổi hay đổi mới cuộc đời mình, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu, hãy gặp gỡ Ngài, bởi vì chỉ có Ngài mới làm cho cuộc đời chúng ta đáng sống, sống vui, sống mạnh, và sống có ý nghĩa.
Cùng với Giáo Hội, hôm nay chúng ta tiến vào Chúa Nhật III Mùa Chay. Mùa Chay là mùa hồng ân Chúa ban cho mỗi người chúng ta có thời gian thuận tiện để tĩnh tâm, suy nghĩ và hoán cải... nhằm xây dựng đời sống thiêng liêng ngày một thăng tiến hơn. Qua đó, chúng ta có thể phát triển đến độ viên mãn hồng ân trọng đại mà chúng ta đã lãnh nhận trong ngày lãnh nhận bí tích Rửa tội, để trở nên những phần tử sống động hơn của Giáo hội và ngày càng trở nên những người con đích thực của Thiên Chúa. Hôm nay chính chúng ta đã nghe và tin lời Chúa. Hơn thế nữa, chúng ta thực sự đã gặp được Đức Giêsu Kitô, Đấng luôn ban cho chúng ta nước hằng sống là Mình và Máu Thánh Ngài. Chúng ta hãy noi gương Ngài để chia sẻ những gì chúng ta đã lãnh nhận từ Thánh Thể mà trao ban cho tha nhân.
Trên con đường dẫn dân Ít-ra-en về đất hứa, Giavê Thiên Chúa đã dùng sa mạc làm trường học để huấn luyện, thanh tẩy và để hội tụ niềm tin của họ vào một mình Thiên Chúa duy nhất. Và ở giữa sa mạc, thỉnh thoảng người lữ hành có thể tìm một vùng cây cối xanh tươi, dịu mát để múc lấy sức sống từ mạch nước quí giá là Đức Giêsu Kitô. Theo một ý nghĩa nào đó, tiến vào bốn mươi ngày của Mùa Chay là chúng ta đang nối gót dân Ít-ra-en xưa kia trong cuộc hành trình xuyên qua sa mạc trần gian để tiến vào Đất hứa. Hơn nữa, chúng ta dõi theo bước chân của Đức Giêsu Kitô đi vào hoang địa để ăn chay và cầu nguyện. Qua đó, đào sâu thêm ý nghĩa của cuộc sống và nhận định lại bậc thang giá trị của đời sống chứng nhân.
Bài Tin Mừng hôm nay dẫn chúng ta đến bên giếng nước trong lành để mời gọi chúng ta dõi theo bước chân của người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng. Bà đến để xách nước, nhưng lúc rời khỏi nơi đây bà đã bỏ chiếc vò đựng nước lại. Bởi lẽ, nơi giếng nước bà đã gặp gỡ một nhân vật có khả năng giải thích những vấn nạn mà bà hằng ôm ấp bấy lâu nay. Nhân vật ấy có khả năng giúp bà thoả mãn mọi khát vọng cũng như mở ra cho bà một chân trời mới, một hướng đi mới. Chính qua cuộc đối thoại với người lữ hành, bà đã cảm nhận được niềm vui chân thật chan chứa trong tâm hồn. Vậy, trên hành trình xuyên qua sa mạc của Mùa Chay, Đức Giêsu cũng đang ngồi bên bờ giếng để mời gọi chúng ta đến kín múc nguồn nước hằng sống là chính Ngài. Chính nhờ nguồn nước hằng sống ấy giúp chúng ta không bao giờ khát nữa.
Cũng như người phụ nữ Sa-ma-ri, hôm nay chúng ta đang quây quần bên Thánh Thể Chúa Giê-su để gặp gỡ và lắng nghe lời Ngài nói. Và chúng ta đã mang chính nguồn sống mà chúng ta đã lãnh nhận là Chúa Giêsu Thánh Thể, để từ nguồn sống cao quí thiêng liêng này, chúng ta có thể hướng dẫn tha nhân đến với Ngài, hay ít ra là cố gắng thể hiện thực tại Nước Trời trong gia đình, lối xóm và chính trong môi trường chúng ta đang sống và làm việc. Một Nước Trời của công lý, hoà bình và là nơi tình yêu chân thật được thể hiện qua sự hiệp nhất, cảm thông, liên đới và sẻ chia. Có như thế nguồn sống và lương thực mà Đức Giê-su thông ban cho chúng ta trong bí tích Thánh Thể mới trở nên như những nguồn nước trong lành, mang sức sống mãnh liệt cho xã hội. Bởi vì xã hội còn đầy dẫy những ích kỷ, ghen ghét, hận thù, độc tài, mưu sát, hối lộ, tham nhũng và những hành động bất công như sự chà đạp lên các quyền lợi chính đáng của con người.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, trong Mùa Chay và Phục Sinh sắp tới, lời giảng dạy của Chúa, nhất là cuộc khổ nạn và cái chết thảm thương của Ngài, đã nói lên quá đủ về sự nặng nề của tội lỗi, về sự cao trọng quý báu của ơn Chúa, nhất là ơn thánh hóa. Xin cho chúng con biết cố gắng tìm cách xác tín mạnh mẽ vào giá trị của ơn Chúa, hay đúng hơn của sức sống siêu nhiên thần linh mà Chúa đã ban; sau đó xin cho chúng con biết sống theo những gì mình đã xác tín và làm hết sức mình để bảo vệ và toả lan sự sống ấy cho những người chưa nhận biết nguồn nước hằng sống là chính Đức Giê-su Kitô. Amen.
Có một tình yêu không bao giờ "vẹn câu thề", nhưng đã lưu lại những khúc ca chơi vơi như biển tình lai láng.
Ngày mai em đi Biển nhớ tên em gọi về Gọi hồn liễu rũ lê thê Gọi bờ cát trắng đêm khuya Ngày mai em đi Đồi núi nghiêng nghiêng đợi chờ Sỏi đá trông em từng giờ Nghe buồn nhịp chân bơ vơ… [1]
Trịnh Công Sơn đứng ở đâu để “gọi bờ cát trắng đêm khuya” mà thấy “sỏi đá trông em từng giờ”? Riêng Chúa Giêsu đến bên bờ giếng Giacóp để gợi lên những giá trị lớn lao và sâu thẳm trong lòng thiếu phụ Samari. Không phải sỏi đá, nhưng ngay trong tâm hồn em, Thiên Chúa đang trông em từng giờ. Cuộc trao đổi thật kỳ thú và mở ra nhiều chân trời mới.
TRỞ LỰC PHẢI VƯỢT QUA
Hôm đó, giữa trưa hè nóng cháy, sau một chặng đường dài mỏi mệt, Chúa Giêsu đến bên bờ giếng Giacóp. Lúc này, chắc chắn các môn đệ nhìn Chúa không giống trên núi hiển dung chút nào. Như thế mới thật là “người” chứ! Không còn cái gì trong thế giới loài người Chúa không chia sẻ! Càng chiêm ngưỡng Chúa trong thực tại con người, càng thấy Người gần gũi trong những mỏng giòn, lo lắng, đau khổ.
Cơn đói khát càng làm tăng vẻ mệt mỏi. Các môn đệ vội vào chợ mua ít thực phẩm ăn trưa. Giữa lúc môn đệ ra đi, tình cờ một thiếu phụ đến kín nước và bắt gặp Chúa đang ngồi chờ... Nếu là một chàng thanh niên Do thái khác, Chúa đã phải tránh ra một nơi, trước khi cô ấy đến bờ giếng. Nhưng không, Chúa vẫn ngồi đó như hẹn hò từ lâu.
Mở đầu câu truyện là một lời van xin: "Chị cho tôi xin chút nước uống!" (Ga 4:7) Thật ngược đời! Chúa là nguồn của mọi nguồn suối lại phải xin một chút nước uống cho đỡ khát. Thiên Chúa không bao giờ đến với chúng ta như một ân nhân. Trước hết Người đến với chúng ta như một hành khất van xin tình yêu. Toàn bộ Tin Mừng đều cho thấy rõ điều đó. Chúa Giêsu không bao giờ có thái độ kênh kiệu như một người có quyền thống trị. Trước những người môn đệ như Giakêu và Phêrô, Chúa luôn tỏ ra nhỏ bé đợi chờ câu trả lời, van xin tình yêu: “Ông có muốn không?”, “Anh có yêu mến tôi không?”
Thực tế, trong mối tương giao nhân loại, một tình yêu đích thực bao giờ cũng phải van xin. Chính từ giây phút biết người ta cần mình, một sinh vật mới bắt đầu sống hay sống lại. Chúa Kitô luôn là người ăn mày tình yêu chúng ta. Từ thái độ khiêm tốn đó, Chúa đã đi sâu vào tâm hồn con người. Nhất là khi gặp phụ nữ Samari, một người ngoại bang và tội lỗi, Người cũng không thay đổi giọng điệu hành khất đó, dù biết rõ mình là một người Do thái. Có nhiều hàng rào ngăn cản phụ nữ này tiếp xúc với Chúa. Chính cô cũng lên tiếng cảnh giác Chúa điều đó. Nhưng Chúa vẫn cương quyết vượt qua những rào cản về xã hội và chủng tộc. Nhờ đâu?
Trước hết, nhờ Thánh Linh, Chúa thấy tất cả những rào cản đó hoàn toàn bất công vì đã bóp nghẹt tự do và sự sống con người trong những truyền thống phi lý. Chúa tuyệt đối tự do, nên không thể chấp nhận những bất công đó. Chính vì muốn mạc khải mầu nhiệm Nhập thể sâu nhiệm, rao giảng sứ điệp tình yêu và lòng nhân hậu của Thiên Chúa, Đức Giêsu đã được sai đến với mọi người nam nữ, nhất là những người nghèo khổ, bị tước đoạt, bị mất mát nhiều nhất.
Nếu Chúa Giêsu vượt qua mọi công ước và rào cản, chính vì trước mắt Người, không có ai bị loại trừ. Dù hoàn cảnh xã hội, đạo đức, hay tôn giáo, dù quá khứ có ra sao, ai cũng có thể gặp gỡ Chúa, miễn bằng lòng chấp nhận ân huệ Thiên Chúa đang hiện diện giữa tâm hồn và cuộc sống. Không có gì ngăn trở con người đến với Chúa.
Vấn đề chính yếu là làm sao gặp gỡ Thiên Chúa, khám phá ra tình yêu quảng đại của Người. Nhưng cuộc gặp gỡ này luôn đòi hỏi sự thật. Tình yêu không thủ đoạn. Không thể đóng kịch với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã bắt vào cuộc đối thoại với thiếu phụ Samari và dựa trên những nền tảng sâu xa, vì Người bắt nàng phải nhìn sâu vào tâm hồn. Người nói: “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây." Người phụ nữ đáp: “Tôi không có chồng." (Ga 4:16.17) Qua cuộc trao đổi này, Chúa không muốn bắt tội để hạ nhục nàng, nhưng muốn giúp nàng lớn lên và biết mở tâm hồn đón nhận sự thật. Từ trước tới nay, nàng sống trong sự dối trá, nên hoàn toàn mất tự do. Dối trá trong cuộc đời tư riêng cũng như trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Sự thật không biết nghiêng về đâu.
Sự thật chưa xuất hiện vì những tranh chấp tôn giáo giữa Do thái và Samari hầu như bất tận. Họ tưởng có thể nhốt Thiên Chúa vào một nơi mình mong muốn. Người Do thái muốn Chúa chỉ ngự trong đền thờ Giêrusalem. Trái lại, người Samari muốn trên núi Garizim. Nơi thờ phượng, Kinh thánh, truyền thống đều khác với Do thái, đến nỗi người Samari bị khinh miệt như dân ngoại đạo và bị loại trừ. Thật là một bất công quá sâu xa.
Làm sao giải quyết mối bất công tệ hại này? Nếu đứng về phía Do thái, chắc chắn Chúa sẽ bị người Samari căm thù và ghét bỏ. Nếu đứng về phía Samari, người Do thái sẽ không để Chúa yên. Không phải bị giằng co mà Chúa tìm lối thoát qua một lập luận siêu thực. Chúa đã bắt đầu cho nàng biết một sự thật cốt yếu: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa” (Ga 4:11) trong tâm hồn chị, thì chính Thiên Chúa sẽ đến cư ngụ trong chị! Đó là điều cơ bản, là khởi điểm và đích điểm của toàn thể cuộc sống.
Như thế Chúa đã đánh thức ý thức chị về sự hiện diện của Thiên Chúa ngay trong tâm hồn mình và làm cho chị có thể chia sẻ sự hiện diện ấy với người khác bằng một việc thờ phượng đích thực. Người đánh thức chị về ân sủng đã có sẵn trong chị. Vấn đề không phải là nơi thờ phượng, nhưng là phải thờ phượng bằng cách nào. Thờ phượng trong Thần khí và sự thật nghĩa là thờ phượng nhờ ý thức Thánh Linh đang nằm sâu trong con người. Chính Thánh Linh làm cho chị có thể ca ngợi và tôn vinh Thiên Chúa. Thờ phượng đích thực là tôn kính Thiên Chúa bằng cách quảng đại cống hiến tất cả những gì mình đang có cho vị Đại Ân Nhân của đời chị. Thế là một phép lạ đã xảy đến với chị. Nàng không thể đứng yên. Thoát khỏi những ràng buộc của tâm địa hẹp hòi, nàng đã lao mình vào vòng đam mê cứu rỗi toàn thể nhân loại. Thế là nàng đã chạy vô làng để loan báo cho dân chúng. Chúa đã ném lửa vào tâm hồn nàng. Toàn thể xóm làng đã cháy sáng trong Thần Khí và sự thật! Từ nay dân làng sẽ trở thành những người thờ phượng đích thực. Tự do tôn giáo chính là đây! Giêrusalem hay Garizim mất hẳn hấp lực. Từ nay trung tâm thu hút mọi người sẽ là chính Đức Kitô, như dân làng tuyên xưng (x. Ga 4:42).
LÀM NGƯỜI TỰ DO
Nhờ gặp gỡ Chúa Kitô, thiếu phụ Samari đã trở thành con người tự do đích thực về ba mặt cá nhân, xã hội và tôn giáo. Nàng không còn mặc cảm làm người phụ nữ Samari nữa. Những tội lỗi quá khứ cũng không cầm chân được nàng. Nàng hoàn toàn làm người tự do, không còn lệ thuộc vào truyền thống, đẳng cấp xã hội và nơi chốn thờ phượng Thiên Chúa nữa. Từ nay nàng sẽ chỉ có một nơi thờ phượng duy nhất là trong Thần Khí và sự thật.
Bình thường, thiếu phụ Samari không dám xuất hiện trước đám đông, vì đời tư không được dân chúng tán thành.[2] Nhưng sau khi tiếp xúc với Chúa, tất cả con người nàng đã thay đổi. Nàng đã có đầy đủ sức mạnh để quy tụ mọi người về bên Chúa. Nàng nhận thức rõ ràng “trong và nhờ ĐứcGiêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, thế giới và con người nắm bắt chân lý đích thực và toàn vẹn.”[3] Qua cuộc trao đổi, nàng mới nhận ra Thiên Chúa gần mình hơn mình tưởng. Người hiện diện ngay trong tâm hồn con người. “Càng sống hiệp thông với Thiên Chúa, con người càng được tăng cường sức mạnh và được giải thoát ngay trong bản tính đặc biệt và tự do nổi bật của họ.”[4] Nếu không nhờ Người, làm sao nàng có thể nhận ra hồng phúc được hầu truyện với Đấng Thiên Sai (x. Ga 4:39)? Làm sao tâm hồn nàng được đánh thức để cảm thấy Thiên Chúa đang hiện diện? Làm sao nàng được giải thoát khỏi mặc cảm thân phận phụ nữ Samari? Làm sao nhận ra cách thờ phượng đích thực, không lệ thuộc Giêrusalem và Garizim? Từ nay Do thái không còn lấy lý do gì áp chế người Samari nữa! Bất công sẽ chẳng còn!
Muốn đạt đến tình trạng tốt đẹp đó, cần phải nỗ lực nhìn mọi sự trong ánh sáng đức tin. Chỉ đức tin mới cho chúng ta thấy “trong Đức Kitô, chính Thiên Chúa được mạc khải như một ngươi Cha và phú ban sự sống cho chúng ta. Trong Đức Kitô, con người lãnh nhận mọi sự như ân huệ từ Thiên Chúa một cách tự do và khiêm tốn. Con người sở hữu vạn vật khi nhận biết và nhờ kinh nghiệm biết vạn vật đều lệ thuộc Thiên Chúa, phát xuất từ Thiên Chúa và hướng về Thiên Chúa.”[5] Phải mất bao nhiêu thời gian và công sức, Chúa Giêsu mới có thể thuyết phục thiếu phụ Samari nhận ra chân lý đó? Một khi đã thấy rõ thực tại ấy, nàng cảm thấy như bay trên mọi thứ biên giới trần gian. Không còn ngăn trở nào khiến nàng chùn bước trong công cuộc rao giảng Chúa Kitô cho mọi người.
Khi đã nhận ra chân lý đó, những tranh chấp về con người, xã hội và tôn giáo không còn ý nghĩa gì nữa. Chỉ Thiên Chúa mới có quyền trên mọi sự. Chỉ Thiên Chúa mới liên kết tất cả. Sự lệ thuộc vào Thiên Chúa không phá hủy tự do của con người. Nói khác, “vì con người là một thụ tạo, nên không có gì mâu thuẫn giữa tự do và sự lệ thuộc vào Thiên Chúa.”[6]
Bởi thế, khi được mạc khải về sự thờ phượng đích thực trong Thần Khí và sự thật, thiếu phụ Samari mới cảm thấy hết căng thẳng và nhận ra giá trị cao cả nơi con người Chúa Giêsu và chính mình. Quả thực, tự do tôn giáo là “quyền sống trong sự thật của niềm tin và phù hợp với nhân phẩm cao cả.”[7] Hơn nữa, “sự tôn trọng nhân phẩm đòi người khác phải nhìn nhận chiều cạnh tôn giáo của con người.”[8] Khi áp đặt niềm tin của mình trên người khác, rõ ràng con người không còn tôn trọng “quyền tự do lương tâm và tự do tôn giáo là một trong những điều tốt đẹp nhất của mỗi người.”[9]
Chính vì lệ thuộc vào truyền thống và đền thờ cũng như Kinh thánh mỗi bên, cả Do thái lẫn Samari không thể thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và sự thật. Dựa vào lề luật và phong tục riêng, họ còn định đoạt cái gì tốt xấu cho chính mình và người khác. Trước khi gặp gỡ Chúa, chắc chắn thiếu phụ Samari và dân làng đã sống trong sự hậm hực vì bị người Do thái chèn ép, khinh thị và lên án như loài quỷ sứ xấu xa, mặc dù họ cùng chung một lời hứa về Đấng Cứu Thế như dân Do Thái. Đó là một bất công nghiêm trọng nhất.
KHÔNG HẸN MÀ HÒ
Nếu không gặp được Đức Giêsu, thiếu phụ và dân làng Samari mãi mãi sống sau những ranh giới phân chia con người với nhau và với Thiên Chúa. Quanh năm suốt tháng, họ chỉ biết những nhu cầu thường ngày và niềm tin cũ kỹ. Rất may, khi gặp Chúa, họ đã uống được nước “đem lại sư sống đời đời” (Ga 4:14) khiến cuộc sống họ thăng hoa trong thần khí và sự thật.
Bốn thế kỷ sau khi Chúa ra đời, giống như thiếu phụ Samari, thánh Augustinô cuối cùng cũng tìm được mạch nước hằng sống đó. Trong cuốn sách “Tự thuật,” viết giữa khoảng năm 397 và 400, thánh nhân cho thấy “trong ánh sáng Thiên Chúa, nỗi khốn cùng của con người trở thành lời ca tụng và tri ân Thiên Chúa, vì Thiên Chúa yêu thương và chấp nhận chúng ta. Người biến đổi và nâng chúng ta lên tới Người.”[10] Khác với thiếu phụ Samari, thánh Augustinô không chỉ làm cho một làng gặp gỡ Đấng Thiên Sai. Thực vậy, “khi qua đời, thánh Agustino đã không để lại gì, ngoại trừ thư viện có rất nhiều thủ bản quý hiếm gồm cả các bút tích của người, mà thánh nhân dặn dò phải bảo trì. Qua các bút tích đó thánh nhân vẫn sống động và hiện diện giữa chúng ta ngày nay và tín hữu thuộc mọi thời đại”[11] để mọi người có thể tìm thấy công lý đích thực cho cuộc sống.
Nếu không phát xuất từ Thiên Chúa và con tim nhân loại, công lý sẽ đánh mất sự ấm áp của tình người và trở thành vô tâm. Chỉ Chúa Kitô mới có thể công bố và thiết lập một nền công lý đem lại ấm no, hạnh phúc cho con người, vì Người là điểm gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người. Thế mới biết, vì không có Thần Khí và sự thật, bọn Pharisêu chỉ tập trung vào hình thức của tôn giáo và lề luật. Họ đã phá hủy công lý tận nền tảng.
Ngày nay, nhìn vào nền công lý trong xã hội Việt Nam, chúng ta thấy gì? Công lý đó có đem lại hạnh phúc, ấm no cho toàn dân không? Qua giọng điệu tiêu biểu của chế độ sau đây, chúng ta sẽ mới thấy công lý bị đảo lộn tới mức nào. “Ông Nguyễn Thế Doanh, Trưởng Ban Tôn giáo của Chính phủ,- cho rằng dưới chế độ Xã hội chủ nghĩa, tất cả đất đai đều quyền sở hữu của Nhà nước.”[12] Chỉ có xã hội chủ nghĩa mới có thứ công lý như vậy! Công lý đã bị phá hủy hoàn toàn. Thử bỏ súng xuống xem nhà nước có dám lý luận như vậy không? Có người còn nói nhà nước là cha mẹ nhân dân, nên có thể phân phát của cải cho ai tùy ý. Nếu đúng thế, “tại sao khi qui hoạch đất đai để mở rộng phố xá, đô thị, hay lập khu công nghiệp, chính phủ lại phải bồi thường giải tỏa làm chi? Đất của Nhà nước thì cứ sử dụng như “đất chùa”, đâu cần phải thương lượng với ai!”[13] Thế mới biết khi nào cần, người ta có thể xoay đủ chiều để cho vừa cái bụng tham và củng chế độ bất công thối nát của mình, mặc cho dân oan đang đang rên siết khắp nơi.
Tóm lại, nhờ gặp gỡ Chúa Kitô, thiếu phụ Samari đã được giải oan. Từ mặc cảm tội lỗi, nàng đã tìm được một chỗ đứng trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Những bất công về xã hội và tôn giáo cũng biến mất, vì Chúa đã chỉ cho nàng biết đường lối thờ phượng đích thực chỉ có trong Thần Khí và sự thật. Gặp gỡ Chúa Kitô là gặp con đường giải thoát và đưa tới công lý thực sự trên mặt đất.
Gặp gỡ Chúa Kitô là tìm thấy công lý, “vì công lý xây dựng mối tương quan ngôi vị vững chắc giữa Thiên Chúa và dân Người qua Giao ước và Luật. Nhờ đó, chúng ta biết đường đi nước bước của Thiên Chúa và lòng từ bi của Người. Nhưng công lý cũng thiết lập những mối tương quan vững chắc đó giữa con người, dạy chúng ta biết kính trọng nhau và phát triển những mối tương quan chính đáng đưa đến hòa bình và hòa hợp. ”[14] Chúa Kitô xứng đáng là Đấng cứu độ toàn thể nhân loại vì đã thiết lập được công lý trên trần gian.
Tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế là đi gặp gỡ mọi người, và xác tín rằng họ đang được Chúa Giêsu tìm kiếm, yêu thương và cứu độ, bất chấp hoàn cảnh và lai lịch họ ra sao.
Tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế là không bao giờ thất vọng về tình trạng thù nghịch và xung đột giữa chúng ta, nhưng tin tưởng Chúa Giêsu có thể bẻ gẫy mọi rào cản để quy tụ tất cả trong công lý và tình yêu duy nhất của Người.
Tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu thế là chiêm ngắm Chúa trong hình dạng mệt mỏi, nhưng lại là Đấng duy nhất có thể củng cố cuộc đời của những ai đang bị thương tổn, đổ vỡ và khai thác. Trên thập giá, một trong lời sau cùng cũng là lời đầu tiên Chúa đã ngỏ với thiếu phụ Samari: “Tôi khát!” Người sẽ ăn mày tình thương chúng ta. Nhưng từ trái tim Người, những mạch nước hằng sống tuôn ra cho tất những ai đang đói khát công lý và tình yêu trên mặt đất.
Lạy Chúa, ngày nay chúng con đang sống giữa bao nhiêu thành kiến và bất công. Xin Chúa sai Thần Khí đến để sự thật là Đức Kitô đem lại sự giải thoát và hạnh phúc đích thực cho chúng con. Amen.
Để hiểu rõ cuộc đấu lý của người phụ nữ xứ Samaria với Chúa Giêsu, cũng như đường lối Chúa dùng để đưa dẫn chị đến việc trao ban cho chị nước hằng sống, ta cần tìm hiểu sơ qua bối cảnh địa dư, lịch sử, chính trị và tôn giáo của dân Do thái thời bấy giờ. Nước Do thái thời Chúa Giêsu được chia thành ba miền giống như ba miền Trung, Nam, Bắc Việt Nam dưới thời Pháp thuộc. Từ thế kỷ thứ tám trước kỷ nguyên, miền trung của họ là đất Samaria, bị ngoại bang là người Átxiria chiếm đóng và đô hộ. Luật pháp Do thái cấm người Do thái kết hôn với người khác đạo, cũng như người ngoại bang. Tuy nhiên người Do thái ở Samaria cuối cùng đã chấp nhận dân đô hộ, lập gia đình với thực dân, rồi tiêm nhiễm những phong tục tập quán ngoại bang. Điều đó khiến người Do thái ở miền nam là Giuđê phẫn nộ, coi rẻ người Samari, cho họ là dân lai căng, không còn thuần tuý Do thái nữa.
Sau này miền Giuđê cũng bị đô hộ. Tuy nhiên người Do thái ở đây nhất định không chịu đồng hoá với dân ngoại bang. Khi người Do thái xây lại đền thờ Giêrusalem, người Samari ngỏ ý muốn giúp đỡ, nhưng người Do thái từ chối. Rồi một việc khác xẩy ra là một vị đại giáo trưởng Do thái còn âm mưu cho đốt đền thờ của người Samari. Những thái độ và hành động đó làm cho người Samari căm phẫn, khiến cho hai dân tộc, trước kia thuộc cùng dòng giống, càng ngày càng xa cách. Do đó mà người Do thái từ miền bắc là Galilê muốn xuống miền nam, và ngược lại người Do thái ở miền nam muốn lên miền bắc, không thèm đi qua đất Samaria, nhưng lại đi vòng xa hơn để đạt tới đích. Để giúp cho dễ hình dung, ta có thể tưởng tượng ra người Bắc Việt muốn vào Nam Việt, hay người Nam Việt ra Bắc Việt, không thèm đi qua Trung Việt, nhưng vòng qua đất Lào để tới đích. Vì thế mà hai dân Do thái và Samari thường không giao thiệp với nhau vì mang mối thù truyền kiếp này. Tuy nhiên người Samari vẫn nhận biết Thiên Chúa của người Do thái và họ tin theo bộ sách Ngũ kinh của người Do thái. Họ cũng trông đợi Đấng Cứu thế đến như người Do thái.
Phúc Âm hôm nay kể lại chuyến hành trình của Chúa Giêsu đến thành Xikha thuộc xứ Samaria. Chúa đã không đi vòng để tránh đặt chân lên đất Samaria như những người Do thái khác quen làm, nhưng đi thẳng vào đất Samaria. Và khi dừng chân nghỉ mệt bên bờ giếng Giacóp, Chúa đụng độ người phụ nữ xứ Samaria đi kéo nước. Nước mang hai ý nghĩa và công hiệu quan trọng. Người ta cần nước để rửa sạch. Loài người, loài vật và cả thực vật cần nước uống để sống. Người Do thái trong sa mạc khát nước nên kêu trách Môisê đã đem con đi bỏ chợ như bài trích sách Xuất hành hôm nay kể lại. Môisê xin Chúa can thiệp. Chúa bảo Môisê cầm gậy đập trên tảng đá đê nước chảy ra cho dân uống.
Đối diện với người phụ nữ có vẻ nghi kị và ác cảm, Chúa đành cố gắng phá tan bức tường vô hình ngăn cách bằng cách đặt mình vào thế yếu để xin chị cho nước uống. Phong tục Do thái thời bấy giờ không cho phép đàn ông nói chuyện với đàn bà nơi công cộng nhất là hàng giáo sĩ và những người có địa vị như Chúa Giêsu. Vì thế mà người phụ nữ bèn mỉa mai nói Chúa là người Do thái mà lại xin chị là người Samari cho nước uống sao? Để trả lời Chúa bảo nếu chị nhận ra ơn Chúa và người nói với chị là ai, chị sẽ xin người cho uống nước hằng sống. Chị liền bắt bẻ, nói Chúa không có gầu mà giếng lại sâu, sao lấy đâu ra nước hằng sống.
Chúa phán bảo chị: Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa (Ga 4:14). Chộp lấy cơ hội, người phụ nữ liền xin cho được nước hằng sống - mặc dù chị chưa hiểu là nước gì - để từ nay không phải đi xa múc nước nữa. Lúc này chị đã nhận ra Chúa Giêsu có gì để ban tặng cho chị. Đến đây Chúa đánh động một niềm thức tỉnh nơi chị bằng cách đưa ra ánh sáng cái thực tại của đời sống cá nhân chị, khi chị nói chị không có chồng. Chúa bảo chị đã có năm đời chồng và người đang sống với chị không phải là chồng chị. Lúc này người phụ nữ nhận ra nơi Chúa có cái tri giác luân lý, nên nói: Tôi thấy ông thật là một ngôn sứ (Ga 4:19).
Toan đổi đề tài, người phụ nữ hỏi Chúa xem người ta phải phụng thờ Thiên Chúa ở đâu? Chúa bảo chị không nên quan tâm đến việc tranh chấp về nơi thờ phượng vì sẽ đến giờ khi người ta không hẳn chỉ thờ phượng Chúa ở Giêrusalem hay ở Samaria, nhưng là thờ phượng Chúa ở khắp mọi nơi trên khắp mặt địa cầu. Chị cũng hiểu biết khi Đức Kitô đến, Người sẽ loan báo cho người ta mọi sự. Câu chuyện tiếp diễn đến đây, thì người phụ nữ vội vã trở về kể cho người làng xóm về những gì mà tai và mắt chị đã nghe và thấy và cảm nghiệm được. Người làng tuốn ra gặp Chúa. Cùng với chị, họ đặt tin tưởng vào Chúa Giêsu là Đấng cứu thế.
Cuộc đối chất giữa người phụ nữ với Chúa Giêsu cho thấy không những chị ta có vẻ lý sự, mà còn đanh đá là khác - đanh đá dễ sợ. Tuy nhiên xét cho cùng thì chị ta cũng không đến nỗi đáng sợ mấy vì chị biết phục thiện và biết mở lòng. Nếu thực sự đanh đá và cứng lòng, chị ta đã có thể nói với Chúa đừng có tò mò mà xía vô chuyện riêng tư của đời chị. Đứng trước một người nào đó có cái tri giác luân lý, người ta thường nể nang, không muốn chống đối. Đối diện với Đức Giêsu là người mà người phụ nữ nhận ra có tri giác luân lý, chị ta phải nhận cái thực tại về đời sống cá nhân của mình và để cho lòng mềm ra.
Từ câu chuyện xin nước uống, Chúa đưa chị đến việc dần dà mở tâm hồn chị. Chị ta đã nhận ra ơn cứu độ từ việc coi Chúa Giêsu chỉ là một người Do thái thường, qua việc xưng Chúa là ngài, đến việc nhận ra Chúa là một ngôn sứ và cuối cùng tin Chúa là Đấng Cứu thế: Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao (Ga 4:29)? Như vậy câu chuyện Phúc Âm cho thấy Chúa đến mang ơn cứu độ không những chỉ riêng cho người Do thái, nhưng còn cho dân ngoại qua việc ban tặng nước hằng sống cho người phụ nữ Samari. Nước hằng sống theo thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma chính là tìn yêu của Thiên Chúa đổ vào lòng ta, nhờ Thánh thần của Người (Rm 5:5).
Lạy Chúa, xưa kia một thời tổ tiên chúng con cũng là dân ngoại. Nhờ các nhà truyền giáo, mà tổ tiên con đã được ơn nhận lãnh đức tin. Do đó con cũng được thừa hưởng ơn được uống nước hằng sống. Nếu con đi lầm đường lạc lối về phương diện nào đó trong đời sống, xin cho con được ơn biết thức tỉnh tâm hồn như người phụ nữ Samari, để con được tiếp tục uống nước hằng sống. Amen.
Nước là một trong những thứ cần thiết cho sự sống. Mọi nơi và mọi thời đều cần nước. Cỏ cây, sinh vật đều cần nước. Con người thì càng cần nước hơn. Sau không khí, nước là yếu tố quan trọng của đời sống. Có nước mới có rau cỏ, mới có sự sống. Đối với Ả Rập hay Tây Tạng, đối với khách bộ hành trong sa mạc thì mỗi giọt nước là một giọt máu trong thân thể. Trái lại, khi chúng ta sống ở ruộng đồng hay miền sông nước, chúng ta không thấy quý nước như những người ở trên vùng cao hay đi trong sa mạc. Có nhiều khi còn sợ nước gây úng thủy ngập lụt. Chúng ta là những người giàu có nước uống, nước giếng, nước sông, nước hồ, nước ao, nước mưa, nước trái cây và mỗi ngày chúng ta dùng từ 200 đến 500 lít nước để ăn uống, tắm giặt, tha hồ thoải mái.
Nước là tác phẩm do Thiên Chúa tạo dựng. Nước tạo nên sự tươi mát. Bất cứ nơi đâu, dù là sa mạc mà có nước chảy vào, tức thì có ngay mầu xanh của cây cối. Đứng trước một dòng nước, ai lại không muốn tâm hồn mình được tươi mới. Những ngày hè nóng bức, chúng ta uống nước đá, tắm nước sông hay gặp nước mưa thì quả thực là mát mẻ. Từ vạn vật cho đến lòng người,tất cả đều được đổi mới. Tiếp đến nước tinh luyện và tẩy sạch. Chúa Giêsu đã rửa chân cho các môn đệ trong ý nghĩa thanh tẩy ấy và đã dùng dòng nước rửa tội để xóa bỏ mọi dấu vết của tội lỗi. Nếu như nước thường do Thiên Chúa dựng nên còn có ích cho việc dinh dưỡng, thì Chúa càng có quyền để làm nên một thứ nước trường sinh như chính Ngài đã quả quyết với ông Nicôđêmô và người thiếu phụ Samaria. Nước hằng sống của Chúa là nước cứu độ, ai uống vào sẽ không bao giờ khát và không còn mơ ước một thứ gì trên trần gian này nữa. Nước hằng sống này xuất phát từ trái tim ngập tràn yêu thương của Ngài, đã hoán cải được biết bao nhiêu người, không lẽ lại chẳng níu kéo được chúng ta ra khỏi vũng lầy tội lỗi.
Trong bài Phúc âm hôm nay khi mở đầu câu chuyện với người phụ nữ Samari, Đức Giêsu là những nhịp cầu nối liền những dòng sông ngăn cách. Thái độ gần gũi của Người là nhịp cầu xóa đi biên giới ngăn cách chủng tộc, tôn giáo. Lời Người chính là nhịp cầu đưa vào đời sống thần linh. Đức Giêsu gặp người phụ nữ bên bờ giếng nước. Người phụ nữ nhìn Đức Giêsu bằng ánh mắt khinh miệt. Dưới mắt chị, đó chỉ là một người Do Thái đáng xa lánh. Còn tệ hại hơn nữa, anh chàng Do Thái này nghèo nàn, đang đói khát, mệt mỏi, chỉ chờ xin chút nước uống. Chị hơn Ngài vì chị có tất cả. Chị có giếng nước của tổ tiên. Đối với người Sêmít, có nước là có tất cả. Ở giữa vùng sa mạc mênh mông, nơi nào có nước là nơi ấy có sự sống. Vì nhờ nước, cây cỏ mọc lên xanh tươi, gia súc có lương thực, con người mới sống được. Ai chiếm được nguồn nước, người ấy lập tức trở nên giàu có. Không những người phụ nữ có giếng nước mà còn có cả bình múc nước. Chị còn có gia đình, còn có Đền Thờ vững chắc xây dựng trên núi Garizim.
Nhưng Đức Giêsu đã phá tan sự an thân giả tạo của chị. Người cho chị thấy giếng nước của chị chỉ là phù du, vì giếng ấy không cho nước Hằng Sống. Người cho chị thấy hạnh phúc gia đình mà chị đang có chỉ là hư ảo, vì hạnh phúc ấy xây dựng trên một mối duyên hờ. Người cho chị thấy niềm tin của chị vào đền thờ chỉ là ngụy tín, vì Đền Thờ chỉ là gạch đá vô hồn không có Chúa ngự trong đó.
Trong phút chốc chị trở nên nghèo nàn. Trước kia chị tưởng mình có tất cả, nay chị chợt thấy mình trắng tay. Trước kia chị tưởng là mình giàu có, nay chị nhận thức rõ mình thật nghèo. Lấy đi tất cả những lớp vỏ phù du bọt bèo, chị thấy mình trơ trụi, khốn cùng. Nhưng từ đáy vực khốn cùng ấy, một niềm tin nhen nhúm, một mạch sối trào dâng... Chị chợt tỉnh ngộ. Những thứ mà trước kia chị tưởng là thành luỹ che chở cuộc đời, hóa ra chỉ là những tảng ngăn chặn nguồn suối. Tháo gỡ đá đi rồi mạch suối dào dạt trào tuôn.
Những thứ mà trước kia chị tưởng là nơi nương tựa êm ái hóa ra chỉ là tổ kén giam kín đời sâu. Trút bỏ được lớp vỏ xù xì cũ kỹ, sâu nay hóa bướm đẹp lộng lẫy, tự do bay tung tăng khắp chốn. Thì ra của cải, dục vọng, tôn giáo vụ hình thức, là những tấm màn che mắt chị, không cho chị nhận ra Chúa Giêsu Đấng Cứu thế. Ta hãy trở lại phút đầu tiên, khi Đức Chúa Giêsu ngỏ lời xin nước. Lúc ấy bị các tấm màn che mắt, chị chỉ thấy một anh chàng Do Thái: "Ông là Do Thái mà lại xin nước tôi ư?". Nhưng lời Chúa như lưỡi gươm sắc bén, phá tan màn mây mù che mắt chị. Nhát gươm thư nhất vung lên, một mảnh vảy mắt rơi xuống chị nhìn ra người đối diện: "Cao cả hơn tổ phụ Giacóp". Nhát gươm thứ hai vung lên, một mảnh vảy nữa rơi xuống, chị nhận ra Người là "một tiên tri". Một nhát gươm nữa vun lên, mảnh vảy cuối cùng rơi xuống. Chị nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế và chị tin vào Người.
Niềm tin trào dâng. Hạnh phúc trào dâng. Chị quên cả bình múc nước, quên cả múc nước chạy về làng báo loan tin vui. Chị để quên chiếc bình, vì chiếc bình từ nay trở nên vô dụng. Cùng với chiếc bình, chị bỏ lại cả giếng nước, cả người chồng hờ, cả ngôi Đền Thờ trống rỗng.
Lời Chúa như lưỡi gương sắc bén chẻ đôi đời chị. Mảnh đời cũ để lại bên giếng kho tàng của trần gian. Mảnh đời mới ngụp lặn trong dòng suối đức tin, kho tàng thiên quốc. Lời Chúa là ngọn đèn soi đường, nên chị bước đi những bước lẹ làng vững chắc hướng về sự sống mới. Lời Chúa là chiếc cầu đưa chị vào đời sống thần linh. Chị bỏ lại bên này cầu cái bình múc nước, vì bên kia cầu chị đã có mạch nước Trường Sinh. Chị bỏ lại bên này cầu mối duyên hờ, vì bên kia cầu chị đã gặp được tình yêu đích thực. Chị bỏ lại bên này cầu ngôi đền thờ trống rỗng, vì bên kia cầu chị gặp được Đấng chị phải tôn thờ trong tinh thần và chân lý. Chị như cánh đại bàng bay bổng trên trời cao vời những đường bay rất đẹp.
Người phụ nữ đã trút bỏ mọi gánh nặng kéo trì đôi cánh, nên chị bay vút trên trời cao. Ta vẫn còn bên này cầu. Những gì người phụ nữ bỏ lại, ta ôm lấy mang về. Ta vẫn còn ôm ấp những giấc mơ trần tục. Của cải, dục vọng vẫn là những tảng đá ngăn chặn dòng nước đức tin. Những ảo tưởng, những thứ đạo đức vụ hình thức, giả hiệu vẫn còn che chắn không cho ta nhận biết chính mình, và vì thế, ta không bao giờ gặp được Chúa. Xin Lời Chúa như lưỡi gươm tách rõ trắng đen để ta dứt lìa tội lỗi, thoát khỏi thói an tâm giả tạo, thói đạo đức hình thức. Xin Lời Chúa tháo đi những tảng đá trì trệ để dòng suối tin yêu khai thông, để nước mắt sám hối tuôn trào rửa sạch hồn ta, và để tình yêu bừng nở đem cho ta hạnh phúc chân thật.
Lạy Chúa, xin mở mắt tâm hồn chúng con để chúng con nhận ra Chúa để chúng con luôn làm theo điều Chúa muốn. Amen.
Nếu anh chị em biết tôi thương yêu anh chị em dường nào!
Hôm đó dân làng Cồn Cát (Kôn Kơ Xâm) uống rượu cần chung với nhau tại nhà rông, có một số dân làng bên cạnh cũng được mời. Ông Hồ Mua tới mời bốn vị thừa sai người ngoại quốc lên nhà rông uống rượu với ông, rượu riêng của ông. Mọi người đã tụ tập và trò chuyện ồn ào, hơi men bốc lên đầu. Ông Hồ Mua uống ít, gương mặt có vẻ lo âu.
Nhóm người ngoại quốc ngồi tại nhà rông khá lâu mới thấy ông Hồ Mua đứng phắt dậy, và bằng một giọng oang oang, ông nói:
"Tôi biết có nhiều người đã kết tội tôi vì làm bạn thân với những người Kinh xa lạ này, và tôi cũng nhận thấy người ta trách tôi tại sao lại mời họ đến dự buổi tiệc rượu này. Tại sao những người Kinh này lại có những kẻ thù ở giữa chúng ta? Họ đã làm điều gì xấu đối với chúng ta? Họ đã phạm điều bất công nào? Nếu họ đã ăn gạo của các người thì họ trả tiền sòng phẳng và không ai buộc các người phải bán cho họ thứ gì. Có ai trong các người, từ đứa bé cho đến ông già, đã bị họ làm điều gì xúc phạm? Hãy đứng lên xem nào, các người là những kẻ chỉ biết nói thầm nói lén và âm mưu ác đức trong bóng tối. Đồ hèn nhát, người nào dám trả lời tôi, hãy đứng lên xem! Phải, tôi nói thẳng trước mặt cả làng, tôi thương những người xa lạ này, bởi vì họ tốt lành, và chỉ mình tôi biết đối xử công bình với họ."
Vừa dứt lời, ông Hồ Mua bỗng nhảy bổ tới cạnh bếp lửa, chụp lấy một thanh củi đang cháy và cắm ngay vào miệng, rồi gọi đích danh tên đầu đảng âm mưu sát hại nhóm thừa sai ngoại quốc và nói: "Nếu mày dám chống lại tao, thằng hèn nhát, thì hăy cắn vào thanh củi này tiếp theo tao. Hãy thề kết hận với tao như tao thề kết hận với mày."
Tôi đã hứng chịu bao nhiêu nhọc nhằn vất vả!
Một sự im lặng căng thẳng đè nặng trên căn nhà trước đó vang lên tiếng chuyện trò huyên náo, đến độ người ta có thể nghe thấy tiếng ruồi bay giữa gian nhà đông đặc những người. Không ai dám đứng lên đối đáp với ông Hồ Mua. Tên đầu đảng bị gọi đích danh, run lên như tàu lá trước gió thổi. Chàng ta xin lỗi ríu rít. Và màn kịch chấm dứt ở đó.
Riêng cha Đỗ Đình Bộ (Dourisboure) và các bạn thừa sai người ngoại quốc chưa biết tiếng Bana, nên không hiểu gì về màn kịch nói trên. Ba năm sau tên đầu đảng trở lại đạo và được chịu phép rửa, các ngài mới rõ câu chuyện. Khi ấy nhớ tới tội tày đình anh suýt gây nên, anh vô cùng hối hận và đã sấp mình dưới chân cha Cung (Combes) và xưng thú. Anh nói với cha Cung: Thưa cha, khốn cho con là kẻ đã từng mưu sát cha. Nhưng bây giờ, nếu ai muốn tấn công cha, thì con sẽ sẵn sàng bảo vệ cha và chết vì cha. Người đó sẽ phải bước qua xác chết của con mới có thể làm hại được cha."
Nhất là tôi đã phải xa lìa người mẹ tốt lành thánh thiện với biết bao đau lòng đứt ruột!
Quả thật, khác hẳn với bối cảnh ba năm về trước, khi cha Bộ và các thừa sai mới tới làng Cồn Cát, mọi người đều chạy trốn. Cha Bộ đã đau lòng ghi lại như sau: "Khi thấy anh chị em dân tộc chạy trốn chúng tôi, thì tim tôi như ứa máu, quặn đau không sao kể xiết! Chúa Giêsu nhân hậu đã nói với người đàn bà xứ Samari rằng: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: cho tôi chút nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống" (Ga 4,10). Những lời dịu dàng này thường đến với tâm trí tôi. Đôi khi, vì không thể làm cho anh chị em dân tộc hiểu được mình; cũng không làm sao cho tiếng nói của mình đến tai họ được, tôi la lên từ xa, với những kẻ chạy trốn: Hỡi anh chị em dân tộc đáng thương và yêu quí! Ước gì anh chị em biết tôi thương yêu anh chị em dường nào và tôi muốn làm điều tốt lành cho anh chị em, tôi đã từng hứng chịu bao nhiêu nhọc nhằn vất vả, đã vượt biển cả, xem thường bão tố! Ước chi anh chị em biết được tổ quốc tôi như thế nào mà tôi đành lìa bỏ vì anh chị em! Nhất là anh chị em biết người mẹ tốt lành, thánh thiện của tôi ở nơi đó, cách xa đây hàng ngàn dặm, mà tôi phải xa lìa với biết bao đau lòng đứt ruột! Và tất cả những điều đó tôi chịu chỉ vì thương yêu anh chị em, thế mà anh chị em lại chạy trốn tôi, lại sợ tôi là người bạn tốt nhất của anh chị em!"
Trong câu chuyện vừa kể theo Dân Làng Hồ, Sàigòn 1972, cha Đỗ Đình Bộ ước ao biết bao để anh chị em dân tộc Bana nhận ra tình thương ngài dành cho họ: Còn trong Tin Mừng hôm nay, chính Đức Giêsu ước ao biết bao dân ngoại Samari nhận ra cái mới Người mang lại cho họ: Đó là suối nước vọt tới sự sống vô cùng vô tận; đó là nền phụng tự đích thực hợp với Đấng là Thần Khí. Cái mới ấy nối tiếp một loạt cái mới khác trong Tin Mừng Gioan dưới biểu tượng rượu mới tại Cana; Đền thờ mới chính là thân thể Đức Giêsu; cuộc tái sinh vượt bậc trong nước và Thần Khí. Đức Giêsu nhấn mạnh về của ăn Người dùng thường ngày là thể hiện ý của Thiên Chúa Cha. Ý ấy phần nào nhắm thẳng cánh đồng truyền giáo đã chín muồi cho việc gặt hái.
Khi ấy Đức Giêsu rời bỏ xứ Giuđê ở miền Nam, lên Galilê theo hướng Bắc. Người đi xuyên qua xứ Samari và vì mệt nhọc, Người ngồi nghỉ cạnh giếng nước do tổ phụ Giacóp đào, mà ngày nay người dân vẫn còn đến kín nước. Chính nơi đây diễn ra hai cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari (cc.7-26); giữa Đức Giêsu và các môn đệ (cc.31-38).
Với người phụ nữ Samari, Đức Giêsu cho biết chính Người mang lại suối nước vọt tới sự sống đời đời (c.14) vượt hẳn thứ nước từ giếng Giacóp. Kế đó, Đức Giêsu cho phụ nữ ấy nhận ra Người biết tất cả quá khứ của bà, đó là điều khiến bà đặt niềm tin vào Đức Giêsu (c.19).
Người phụ nữ Samari còn được cho biết về phượng tự trong thần khí và sự thật: "Giờ đã đến... những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế" (c.23).
+ Với các môn đệ, Đức Giêsu cho họ biết "Lương thực của Thầy là thi hành y muốn của Đấng đã sai Thầy và hoàn tất công trình của Người." (c.34). Người còn gợi ý để họ phóng cái nhìn về cánh đồng truyền giáo đã chín vàng đang chờ đợi ngày gặt (c.35).
Kết luận: Nhiều người Samari tin Đức Giêsu thật là Đấng cứu độ trần gian (c.42).
Tác giả Lam Tuyền có bài thơ nổi tiếng mang tên Đi Tìm: “Tôi khao khát một mối tình, Một tình yêu chỉ riêng dành cho tôi, Để ngày tôi ngắm tôi soi, Để đêm đắp áo cho người xông hương, Để xa tôi nhớ tôi thương, Để gần tôi thấy thiên đường ở bên, Để khi trống trãi ưu phiền, Ngã vào lòng bạn là tan hết sầu, Để khi nước lớn sông sâu, Được cầm tay bạn qua cầu bình yên, Tôi đang khao khát đi tìm, Một tình yêu chỉ là riêng của mình”. Nếu “Khao khát một tình yêu chỉ là riêng của mình”, thì hôm nay phụng vụ lời Chúa sẽ chỉ cho chúng ta tìm gặp.
Câu chuyện về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với người phụ nữ Samari là một trong những trang đẹp nhất của Tin Mừng Gioan. Chúa Giêsu đã cố tình đi ngang qua vùng đất Samari là vùng đất của dân ngoại; Đã dừng lại tại bờ giếng Giacop là nơi thỏa mãn cơn khát thể lý của người dân trong vùng, là nơi để mọi người trong vùng có thể gặp gỡ, tâm sự, chia sẻ với nhau. Điểm đặc biệt là người phụ nữ này lại đi lấy nước vào buổi trưa, thời gian nắng gay gắt, ít người đi lấy nước. Nếu như vậy thì chắc chắn chị không thể gặp gỡ, không thể chia sẻ, tâm sự với những người dân trong vùng đó. Và đó là điều cố tình của chị. Chị chỉ muốn sống cô độc trong tội lỗi của mình. Chị sợ phải đối diện với người khác, đối diện với sự thật.
Nhưng Chúa Giêsu đã không để cho chị yên trong bình an giả tạo. Ngài đã khoấy động tâm hồn chị để những cặn bã, những dơ dáy bấy lâu nay vốn nằm yên phải trồi lên, để từ đó Ngài gạn đục, khơi trong cho tâm hồn chị. Chị định đi lấy nước, thứ nước chỉ làm thỏa mãn cơn khát vật chất, và sẽ còn khát mãi, nhưng chị đã gặp được nguồn nước làm thỏa mãn tâm hồn chị và không bao giờ khát nữa.
Những tội lỗi như hòn đá nặng trĩu lấp đầy tâm hồn chị bấy lâu nay. Giờ đây nhờ biết quăng ra khỏi tâm hồn mình để nhường cho một nỗi khao khát. Chính lúc đó Đức Kitô đã lấp đầy tâm hồn chị bằng một tình yêu đổi mới, một tình yêu cứu độ.
Muốn gia đình, cộng đoàn được tốt, thì từng người phải dám chấp nhận sự thật nơi bản thân mình, không được che lấp, dối gạt nhau. Thường thì người ta chỉ công khai và thích công khai những điều tốt, còn những sai lầm thì cố giấu diếm cho đến khi không còn giấu diếm được thì thôi. Dĩ nhiên có những sai lầm, những tội lỗi không thể nói ra trước mặt mọi người. Đối diện với sự thật là dám chấp nhận những tội lỗi của mình và quyết tâm không tái phạm nữa, sau đó đến với tòa giải tội để xưng thú tất cả.
Có những người đi xưng tội mà cố tình giấu diếm hoặc nói tránh đi, nói một cách chung chung. Ví dụ “Thưa cha con xúc phạm đến Chúa nhiều lắm, xin cha tha tội cho con”. “Thưa cha con làm nhiều điều xấu lắm, xin cha tha tội cho con”. Không xúc phạm đến Chúa, không làm điều xấu thì đi xưng tội làm chi, mà cụ thể đó là gì?… Khi chưa dám đối diện với sự thật, là chúng ta chưa thành tâm trở về với Chúa.
Nói tóm lại, phụng vụ lời Chúa hôm nay cho chúng ta biết Đức Kitô là Nước Hằng Sống sẽ lấp đầy mọi khao khát trong tâm hồn chúng ta. Khi đến với Ngài, chúng ta sẽ không bao giờ khát nữa. Muốn có được nguồn nước đó chúng ta phải đến gần Ngài để được Ngài dạy bảo, được Ngài cho thấy con người thật của chúng ta. Đồng thời phải dám chấp nhận con người thật của mình với những yếu đuối, tội lỗi và mạnh dạn quay trở về với Chúa.
“Thiên Chúa là Tình Yêu”. Khi chúng ta biết “khao khát một Tình Yêu” là chúng ta đang đến gần Chúa. Khi chúng ta có được Tình Yêu của Chúa là chúng ta đang lấp đầy tất cả, là chúng ta “đang nghỉ yên bên Chúa, nguồn hạnh phúc đời con”.
Trong truyền thống Kinh Thánh, cái giếng đã là nơi khởi đầu của nhiều cuộc tình duyên. Vậy “cái giếng Xykha” gợi nhớ đến cuộc “tình duyên” nào? Trong Cựu Ước, Israel thường được giới thiệu là hôn thê của Đức Chúa. Israel-hôn thê thường thất trung, ngoại tình với các thần Ai Cập, Átsua, Babylon, Ba Tư, Rôma. Câu truyện người phụ nữ Samari hẳn là câu truyện của dân Israel mà Đức Giêsu đến gặp và muốn dẫn về với Đức Chúa. Hơn nữa, Tin Mừng IV còn giới thiệu Đức Giêsu như chàng rễ và nhân loại như một hôn thê tội lỗi, mà Người đến để đưa về sống trung thành. (Lm. FX. Vũ Phan Long).
Sách Sáng thế kể chuyện Abraham chọn vợ cho trai Isaac. Abraham sai người lão bộc lên đường đến xứ Aram Naharaim, đến thành của Nakhor. Lão bộc cho lạc đà phục xuống bên ngoài thành, bên giếng nước đầu làng, vào lúc xế chiều, lúc phụ nữ ra kín nước. Rêbecca đi ra, cô gái nhan sắc tuyệt đẹp. Cô múc nước đầy vò. Lão bộc chạy lại đón cô và nói: Làm ơn cho tôi uống ngụm nước nơi vò của cô. Cô đáp: Xin ông uống. Rồi cô lanh chai hạ vò xuống và cho ông uống. Cho lão uống xong, cô nói: tôi sẽ kín nước cho lạc đà của ông nữa cho đến khi nào chúng uống xong. Rồi cô lanh chai đổ vò nước vào máng và còn chạy tới giếng để múc nước và cô đã cho cả mấy con lạc đà uống…Sau đó, lão bộc đưa Rebecca về. Isaac tổ chức tiệc cưới với Rêbecca. Dòng dõi Israel lớn mạnh từ đó. (x.St 24,10-21).
Tin mừng hôm nay kể về cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu với một người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacop. Nơi đây như “Giếng nước đầu làng Samari”, người phụ nữ tin vào Ngài và dân làng Samari tin vào Đức Giêsu Đấng Cứu Độ.
Sau một hành trình dài, Đức Giêsu và các môn đệ ngồi nghỉ tại bờ giếng Giacop, thuộc miền Samari. Có một phụ nữ Samari đến múc nước. Đức Giêsu chủ động khởi đầu câu chuyện bằng việc xin nước uống: Chị cho tôi xin chút nước. Người phụ nữ Samari lúc đầu chỉ hiểu người đàn ông xa lạ này xin nước múc lên từ giếng sâu. Nhưng Đức Giêsu đã khiến cho chị đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác khi nói với chị: Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị: Cho tôi xin chút nước, thì hẳn chị đã xin người ấy ban cho chị nước hằng sống. Đức Giêsu bắt đầu bằng việc uống nước để nói về một nguồn nước đặc biệt hơn đó là Nước Hằng Sống. Nguồn nước do chính Ngài đem đến cho trần gian, có sức thanh tẩy tâm hồn con người và đem đến cho con người sự sống đời đời. Nguồn nước này sẽ được ban tặng nhưng không, cho những ai được Thiên Chúa ban ơn để tin vào Đức Giêsu.
Qua cuộc gặp gỡ bên bờ giếng Giacop, chúng ta nhận ra cả một khoa sư phạm Đức Giêsu đã vận dụng để đưa người phụ nữ đến đức tin. Trước tiên, Ngài khơi lên sự tò mò để chị tìm hiểu, qua việc nhắc đến một công việc tầm thường làm mỗi ngày, là đến giếng kín nước để giải tỏa cơn khát thể lý. Từ đó, Ngài gợi đến một thực tại khác là Nước Hằng Sống: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”. Đến đây chính chị xin Đức Giêsu uống nước: “Thưa Ngài, xin cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước”. Như vậy, Đức Giêsu đã mạc khải cho chị biết, chính Ngài là Đấng Kitô. Cho nên không phải ai khác, mà chính Ngài là người ban cho chị Nước Hằng Sống. Rồi Ngài còn mạc khải cho chị về việc tôn thờ Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý: “Đã đến giờ và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý. Đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn”. Sau khi chị được Đức Giêsu “cho uống nước hằng sống” liền chạy về làng và kêu gọi mọi người: “Mau hãy đến xem, có một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng ông ấy là Ðấng Kitô?”. Dân chúng tuôn nhau ra khỏi thành và đến cùng Ngài. Được Đức Giêsu chấp nhận ở lại với họ, dân làng Samari đã nhìn nhận Ngài như là “Đấng Cứu độ trần gian”, như là Đấng đã được Chúa Cha ban vì lòng yêu thương và được sai phái đến để cứu độ trần gian. Nay họ tin là nhờ chính tương quan trực tiếp với Đức Giêsu chứ không dựa vào lời chứng của người phụ nữ nữa. Lời chứng ấy đưa họ đến chỗ nghe Đức Giêsu để đào sâu đức tin, và bây giờ đức tin đó có thể thực sự bắt đầu triển nở.
Bên giếng nước Giacóp, “giếng nước đầu làng” cuộc gặp gỡ đã làm thay đổi cuộc đời con người và cả dân làng Samari.
1- Giếng nước, những lợi ích tự nhiên
Giếng nước đầu làng là một hình ảnh quá quen thuộc, đến nỗi nó trở nên gần gũi, thân thiết như của riêng mình, trải qua thế hệ này đến thế hệ khác mà không ai cần biết nó có tự bao giờ. Tuy nhiên có thể khẳng định rằng, nó được hình thành từ lúc những người đầu tiên dừng bước trên mảnh đất mà sau này gọi là “làng” hay “thôn”. Vì nước là một nhu cầu không thể thiếu đối với đời sống của con người cũng như của mọi tạo vật khác.Vì vậy, giếng nước chẳng những là nơi cung cấp nước cho người dân trong làng, mà còn là nơi gặp gỡ để trò chuyện, để trao đổi tâm tình mỗi khi người ta ra đó để kín nước mang về nhà. Nó cũng còn là nơi dừng chân của khách bộ hành đi đường xa mỏi mệt vì bên cạnh giếng là cây đa cổ thụ có bóng che mát cho khách. Khát nước, khách có thể xuống giếng vốc nước bằng hai bàn tay chụm lại, hoặc lấy nón lá múc nước mà uống thỏa thuê, an lành. Giếng nước là một không gian đáp ứng hai nhu cầu của con người: vừa là nơi gặp gỡ thân tình, vừa là nơi cung cấp nước uống cho nhu cầu thể chất và cũng còn là nơi dừng chân của khách bộ hành qua đường, đồng thời còn là nơi nhắc nhở người ta nhớ đến cội nguồn sâu thẳm và thiêng liêng.
2- Giáo xứ, những lợi ích siêu nhiên
Nhu cầu thứ hai của con người là đời sống thiêng liêng. Giáo xứ là giếng nước đầu làng. Ví von này thật gần gũi và giàu ý nghĩa. Dân trong thôn làng luôn đến giếng múc nước. Cũng thế, giáo dân luôn liên đới với cộng đoàn giáo xứ, nơi đây là “giếng nước” mầu nhiệm chan chứa ân sủng từ nguồn mạch sự sống Thiên Chúa.
Nhà thờ giáo xứ là “Nhà thờ phượng”, “Nhà cầu nguyện”, nơi người tín hữu đến đó hằng ngày để lãnh nhận thánh ân, rồi vào đời chia sẻ và sống chứng nhân.
Cái giếng nước đầu làng, ngoài những lợi ích nhân bản và tự nhiên, nó còn nhắc nhở người ta “uống nước nhớ nguồn”. Nguồn ở đây vừa hiểu là nơi phát sinh mạch nước, tuôn chảy về giếng, vừa hướng về những bậc tiền nhân trong làng đã khơi dòng nước này cho các thế hệ hậu sinh. Còn giáo xứ, các Linh mục cai quản ở đây, làm sao để người tín hữu sống mầu nhiệm đức tin, giúp họ thăng tiến về nhân cách của những người tin, và nhất là mỗi ngày người ta thấy mình đã tiến triển trong tình huynh đệ, tiến triển trên đường kết hiệp với mầu nhiệm thánh giá và phục sinh (x. Giếng nước đầu làng, Khải Triều).
Bốn hình ảnh Giáo xứ
Thánh Gioan Phaolô II trong Tông Huấn “Người Kitô hữu giáo dân” đã đưa ra bốn hình ảnh về giáo xứ, cộng đoàn Phục Sinh, cộng đoàn Thánh Thể.
* Giáo xứ là một gia đình của Thiên Chúa chan hoà tình bác ái huynh đệ. Mọi người được đón tiếp chân thành, được sống trong bầu khí bác ái, được cảm thấy mình được kính trọng, được yêu thương che chở. Ai cũng cảm thấy mình thuộc về giáo xứ là một vinh dự.
* Giáo xứ là một cộng đoàn nuôi dưỡng đức tin. Mọi người được bồi dưỡng đức tin, được kêu gọi sống đức tin, được giúp hiểu biết các vấn đề đức tin. Các Thánh lễ, các giờ giao lý, các buổi cầu nguyện luôn hướng về Thiên Chúa. Nhờ Lời Chúa và lời Giáo hội soi sáng mà người tín hưũ hiểu biết về những biến cố cuộc đời.
* Giáo xứ là một cộng đoàn có tổ chức. Mọi người được sắp xếp trong một hệ thống trật tự, có phân công, có trách nhiệm.Tất cả liên hệ với nhau trong tinh thần hiệp thông, cộng tác, trách nhiệm để xây dựng giáo xứ tốt đẹp.
* Giáo xứ là một cộng đoàn truyền giáo. Đây là hình ảnh mà Công Đồng Vatian II đề cao nhất, hình ảnh cộng đoàn truyền giáo. Mọi người được nuôi dưỡng đức tin, được sống tình bác ái để ra đi truyền giáo, loan báo Tin Mừng Phục Sinh, rao truyền niềm vui, niềm hy vọng như cộng đoàn Nhóm Mười Hai đã ra đi đến với muôn dân.
Giáo xứ vững mạnh thì luôn hướng đến việc huấn luyện đào tạo những con người phục vụ.
Ở nhà thờ, các tín hữu được nghe được học được thấm nhuần chân lý đức tin đặt nền trên Thánh kinh. Chân lý có tính cứu độ, thánh hoá, sáng tạo, giúp con người có tinh thần trách nhiệm cao, có lương tâm nhạy bén trước sự lành sự xấu, có khát vọng đi sâu đi xa vào các giá trị xây dựng và phát triển con người xã hội. Từ đó họ sẽ trở thành người phục vụ cho chân lý.
Ở nhà thờ, các tín hữu đón nhận sự sống thiêng liêng. Sự sống này rất dồi dào phong phú làm cho họ nên giống hình ảnh Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Với sự sống này, người tín hữu không chỉ sống cho mình mà còn sống cho người khác, dám sinh sinh cho người khác. Từ đó, họ trở thành người phục vụ sự sống.
Ở nhà thờ, các tín hữu được chia sẻ tình yêu thương của mọi người trong Hội Thánh. Chia sẻ là cho đi và đón nhận. Tình chia sẻ này được xây dựng trên sự hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ đó, họ trở thành người phục vụ cho tình hiệp thông.
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và các Tông đồ đã làm thay đổi số phận của những con người lênh đênh trên biển hồ ngày trước. Cuộc gặp gỡ ấy là khởi đầu cho công cuộc thay đổi thế giới và làm nên những huyền diệu trong lịch sử nhân loại.
Bên bờ giếng Giacop, người phụ nữ Samaria gặp Đức Giêsu, cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời chị và dân làng Samaria đã tin Ngài như là “Đấng Cứu độ trần gian”.
Giáo xứ “giếng nước đầu làng”, nơi người tín hữu hàng ngày đến gặp Đức Kitô Đấng Cứu Độ, nhờ đó họ trở thành con người mới, với trái tim mới, sống yêu thương và hy sinh phục vụ.
Xin cho mỗi tín hữu được gặp Chúa mỗi ngày trong suốt cuộc đời của mình. Amen.
Phải chăng bạn sẽ làm một điều tốt đẹp cho một người lạnh nhạt với bạn hoặc đối xử với bạn như một kẻ thù không?
Chúa Giêsu đã làm điều đó và còn hơn thế nữa! Ngài đã đối xử với người Sa-ma-ri, là những người không đội trời chung với người Do Thái, với lòng nhân hậu và sự tôn trọng. Người Sa-ma-ri là những người sống ở khu vực giữa Galilê và Judea của Israel, và người Do Thái sống trong phần đất còn lại của Israel đã được chia cắt từ hàng thế kỷ. Họ không có giao thiệp với nhau, tránh tất cả các giao tiếp xã hội, thậm chí cả việc trao đổi mua bán, và kết hôn. Nếu họ đối mặt nhau trên đường đi thì không lạ gì, nếu họ thể hiện sự thù ghét nhau ra mặt.
Khi Chúa Giêsu quyết định đi qua Sa-ma-ri, Ngài dừng lại tại giếng Gia-cóp vì đã giữa trưa và Ngài vừa mệt mỏi vì cuộc hành trình vừa cảm thấy khát nước. Giếng Gia-cóp cách thành gần đó ít nhất 2,4 kilomét, gọi là thành Sychar. Không dễ dàng để lấy nước từ giếng này vì nó sâu hơn 30 mét. Chúa Giêsu lại không có dây cũng không có thùng để lấy nước.
Khi một người phụ nữ Sa-ma-ri xuất hiện tại bờ giếng, cả hai đều bất ngờ. Tại sao một người phụ nữ Sa-ma-ri lại đi 2,4 kilomét trong cái nóng giữa trưa để lấy nước tại một giếng nước ở vùng hẻo lánh hơn là lấy nước trong vùng địa phương của chị? Chị là một người bị ruồng bỏ và không được hoan nghênh giữa những người cùng làng của chị. Chúa Giêsu sau đó đã làm một điều mà không người Người Do Thái đàng hoàng nào nghĩ sẽ dám làm điều đó.
Ngài tìm đến với chị ấy, do đó Ngài đã mạo hiểm nghi thức về sự ô uế và bị khinh miệt từ người Do Thái đồng bào của Ngài. Ngài cũng đã làm một điều mà không có một giáo sĩ Do Thái nghiêm ngặt nào dám làm ở nơi công cộng mà không thiệt hại cho danh tiếng của mình. Ngài đối xử với phụ nữ như Ngài sẽ đối xử với bạn bè của Ngài – Ngài chào chị và nói chuyện rất lâu với chị ấy.
Việc Chúa Giêsu chủ động chào hỏi người phụ nữ là sự phỉ báng cho cả người Do Thái và người Sa-ma-ri vì chị là người phụ nữ ngoại tình và cũng là người tội lỗi công khai. Không một Người Do Thái hoặc người Samari đứng đắn nào dám nghĩ sẽ bị nhìn thấy với một người phụ nữ như vậy, một mình nói chuyện với chị ấy?
Chúa Giêsu đã phá vỡ những rào cản của định kiến, thù ghét, và truyền thống để mang lại tin vui của sự bình an và hòa giải cho người Do Thái, người Sa-ma-ri, và dân ngoại như nhau. Ngài đã chứng minh tính phổ quát của Tin Mừng trong cả lời nói và việc làm.
Không một ai bị tước khỏi tình yêu của Thiên Chúa và tin mừng của ơn cứu rỗi. Chỉ có một điều có thể giữ chúng ta xa Thiên Chúa và tình yêu cứu chuộc – là sự kiêu ngạo bướng bỉnh và sự cố ý chống đối của chúng ta.
Chúa Giêsu trao đổi gì với người phụ nữ Sa–ma–ri về nguồn nước?
Nước trong đất khô cằn thì lại khan hiếm. Người ta có thể sống mà không có thức ăn trong vài ngày, nhưng không thể không có nước. Nước là nguồn của sự sống và sự phát triển cho tất cả các sinh vật. Khi mưa đến trong sa mạc, thì nước biến các khu đất hoang thành một cánh đồng màu mỡ.
Chúa Giêsu nói về một loại nước hằng sống, vô tận, tươi mát, tinh khiết. Nguồn nước tươi mát từ một dòng suối vô tận thường được liên tưởng tới nước trong một hồ hoặc bể chứa nước.
Khi người Do Thái phàn nàn về tình trạng thiếu nước trong nơi hoang địa, Thiên Chúa đã dạy Mô-sê đánh vào một tảng đá và một dòng suối nước trong lành chảy vọt ra (Xh 17: 6). Mặc dù người Do Thái không tin Thiên Chúa đã chăm sóc họ trong nơi hoang địa, dầu vậy, Thiên Chúa vẫn ban cho họ mạch nước dồi dào thông qua sự can thiệp của người tôi tớ Chúa là Mô-sê.
Hình ảnh của “nước hằng sống” được sử dụng xuyên suốt Kinh Thánh như một biểu tượng của sự khôn ngoan của Thiên Chúa, một sự khôn ngoan truyền tải sự sống và ơn lành cho tất cả những ai đón nhận nó. “Giáo huấn của người khôn ngoan là nguồn mạch sự sống” (Châm ngôn 13:14). “Nước Hằng Sống” cũng là một biểu tượng đối với người Do Thái về sự khao khát Thiên Chúa của một tâm hồn.
Mạch nước mà Chúa Giêsu nói là biểu tường của Chúa Thánh Thần và công việc Ngài canh tân và duy trì chúng ta theo hình ảnh của Thiên Chúa trong chúng ta, một sự sống mới xuất phát từ Thiên Chúa. Sự sống mà Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta làm cho chúng ta thành một “thụ tạo mới” trong Chúa Giêsu Kitô (2 Cr 5:17). Bạn có khao khát Thiên Chúa sự sống của Chúa Thánh Thần trong bạn không?
Hippolytus (170-236 AD), một tác giả Kitô Giáo tiên khởi và là nhà thần học gia sống ở Rôma, giải thích về tầm quan trọng của công việc của Chúa Thánh Thần trong chúng ta:
“Đó là nước của Chúa Thánh Thần: mạch nước làm mới lại địa đàng, làm phong phú mặt đất, ban sự sống cho các sinh vật. Đó là nước rửa tội của Đức Kitô, đó là sự sống của chúng ta Nếu bạn sống với đức tin nhờ mạch nước canh tân này bạn từ bỏ Satan là kẻ thù của bạn và bạn tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa của bạn. Bạn không còn là nô lệ mà trở thành một nghĩa tử. Bạn tiến đến với sự sáng như mặt trời và chiếu sáng rực rỡ với công lý. Bạn tiến lên như một người con của Thiên Chúa và đồng thừa tự với Đức Kitô.” (Từ một bài giảng, về lễ Hiển Dung)
Thánh Basil Cả (330-379 AD), một thầy dạy tuyệt vời của Kitô Giáo tiên khởi và là giám mục Hy Lạp Caesarea, cũng nói tương tự:
“Chúa Thánh Thần khôi phục lại địa đàng cho chúng ta và con đường lên trời và nghĩa tử như con cái Thiên Chúa; Ngài làm thấm nhuần niềm tin rằng chúng ta có thể gọi Thiên Chúa là Cha và Ngài ban cho chúng ta ân sủng của Đức Kitô để trở thành con cái của ánh sáng và tận hưởng vinh quang vĩnh cửu. Nói cách khác, Ngài ban sự viên mãn của ơn lành trong thế hệ này và thế hệ tương lai; chúng ta có thể chiêm ngưỡng ngay bây giờ sự phản chiếu của niềm tin của điều đã hứa về một ngày nào đó chúng ta sẽ tận hưởng niềm vui. Nếu đây là sự thưởng nếm trước thì thực tế sẽ là gì? Nếu đây là những thành quả đầu tiên, thì những gì sẽ được gặt hái? “(Trích Khảo Luận, Chúa Thánh Thần)
“Lạy Chúa Giêsu, tâm hồn con khao khát Chúa. Xin lấp đầy trong con Thánh Thần của Ngài để con có thể luôn tìm thấy niềm vui trong sự hiện diện của Ngài và cảm nghiệm niềm vui của việc làm theo thánh ý Ngài.”
Lòng Thương Xót Của Chúa Giêsu Dành Cho Những Người Bị Kinh Miệt
“Thiên Chúa biểu lộ tình yêu của Ngài cho chúng ta.”- Romans 5: 8 người phụ nữ Samari đến giếng Giacóp cũng vào khoảng giữa trưa sau khi tất cả dân làng khác đã đến lấy nước giếng (xem Ga 4: 6). Chị có thể cố gắng để tránh những người xem thường chị. Chị có thể thậm chí xem thường bản thân và trong sự giận ghét bản thân mình chị đã không muốn bị nhìn thấy ở nơi công cộng.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã ở giếng – chờ đợi ở đó một mình Ngài để trao ban những mặc khải tuyệt vời cho một nhân vật mà không ai nghĩ đến. Ngài đã nói chuyện với chị về món quà của nước hằng sống (Ga 4:10) trở thành trong chị “… một nguồn nước nước mang lại sự sống đời đời” (Ga 4:14).
Sau khi bắt đầu mặc khải với người phụ nữ về Chúa Thánh Thần và Phép Rửa, Chúa Giêsu đã nói với chị ấy rằng Ngài là Đấng Mê-si-a (Ga 4:26). Người phụ nữ Sa-ma-ri sau đó trở thành một nhà truyền giáo thực sự, khi chị đã làm cho nhiều người dân làng của chị tin vào Chúa Giêsu (Ga 4:39). Chúa Giêsu, trong tình thương của Ngài, đã chọn người phụ nữ bị khinh miệt này để nhận những mặc khải vĩ đại nhất. Chúa Giêsu làm cho chị ấy thành nhân chứng của Ngài và ban ân sủng cho việc truyền giáo của chị. Thiên Chúa “chọn những kẻ thấp hèn và bị khinh miệt nhất trên thế gian, họ là những người không có gì cả” (1 Cr 1:28).
Nếu cuộc sống của bạn giống như vậy, thì hầu như không ai tôn trọng bạn, nếu bạn đã hủy hoại cuộc sống của bạn, bạn vẫn có thể có “một tương lai tràn đầy hy vọng” (Gr 29:11), vì Chúa Giêsu “giàu lòng thương xót” (Ep 2: 4). Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con.
Cầu nguyện: Lạy Cha, trong Mùa Chay này xin cho con đi vào sự xâu thẩm của trái tim thương xót của Chúa Giêsu (xem Mt 11:29).
Xác tín: “Họ nói với người phụ nữ: ‘không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian’” (Ga 4:42)
Tác giả: Don Schwager Chuyển ngữ: Lm. Phaolô Trần Quốc Bảo
Ngôn ngữ biểu tượng, nghịch lý và kỹ thuật hành văn hiểu lầm trong Tin Mừng Gio-an
I. Bản văn Ga 4,5-15
II. Dẫn nhập
III. Phân tích
1. Ngôn ngữ biểu tượng và nghịch lý 2. Kỹ thuật hành văn dị nghĩa, gây hiểu lầm 3. Cuộc gặp gỡ, đối thoại vượt trên mọi thứ rào cản
IV. Kết luận
I. Bản văn Ga 4,5-15 (Bản văn Gio-an, TIN MỪNG và BA THƯ)
5 Vậy Người [Đức Giê-su] đến một thành Sa-ma-ri, gọi là Xy-kha, gần thửa đất mà Gia-cóp đã cho Giu-se, con của ông ấy. 6 Ở đó có giếng Gia-cóp. Đức Giê-su vất vả vì đi đường nên ngồi xuống bờ giếng. Lúc đó khoảng giờ thứ sáu [12 giờ trưa]. 7 Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với chị ấy: “Cho Tôi uống với.” 8 Vì các môn đệ của Người đã đi vào thành để mua thức ăn. 9 Người phụ nữ Sa-ma-ri nói với Người: “Làm sao Ông là người Do Thái lại xin tôi nước uống, mà tôi là một phụ nữ Sa-ma-ri?” Vì người Do Thái không giao thiệp với người Sa-ma-ri. 10 Đức Giê-su trả lời và nói với chị ấy: “Nếu chị nhận biết ân huệ của Thiên Chúa và ai là người nói với chị: ‘Cho Tôi uống với’, hẳn chị đã xin người ấy và người ấy đã ban cho chị nước sự sống.” 11 [Chị ấy] nói với Người: “Thưa Ông, Ông không có gầu và giếng lại sâu. Vậy, Ông có nước sự sống từ đâu? 12 Chẳng lẽ Ông lớn hơn cha của chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này, chính người đã uống nơi giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của người nữa?” 13 Đức Giê-su trả lời và nói với chị ấy: “Bất kỳ ai uống nước này sẽ lại khát. 14 Nhưng ai uống nước mà chính Tôi sẽ ban cho kẻ ấy, đời đời sẽ không khát. Nhưng nước mà Tôi sẽ ban cho người ấy sẽ trở nên nơi người ấy một mạch nước vọt lên sự sống đời đời.” 15 Người phụ nữ nói với Người: “Thưa Ông, xin Ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây múc nước.”
Đoạn văn Ga 4,5-15 thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp vào lúc giữa trưa, khi ấy Đức Giê-su vất vả vì đi đường nên ngồi xuống bờ giếng (4,6). Đoạn Tin Mừng này vừa là ví dụ điển hình của việc tin vào Đức Giê-su, nghĩa là dám từ bỏ con đường mình đang đi để tuyên xưng niềm tin vào Người, vừa là mặc khải về căn tính của Đức Giê-su một cách nghịch lý: Người có nước sự sống lại đang khát nước và phải xin nước để uống.
Câu chuyện về người phụ nữ Sa-ma-ri chỉ có trong Tin Mừng Gio-an và được trình bày cách độc đáo với kiểu hành văn đặc thù của Tin Mừng Gio-an, phần sau sẽ phân tích ba đề tài trong đoạn văn Ga 4,5-15:
(1) Ngôn ngữ biểu tượng và nghịch lý: “Khát nước hằng ngày” và “khát nước sự sống”.
(2) Kỹ thuật hành văn dị nghĩa, gây hiểu lầm, nhằm giúp độc giả hiểu đúng mặc khải.
(3) Cuộc gặp gỡ và đối thoại vượt trên mọi thứ rào cản như: Tôn giáo, phái tính và nơi thờ phượng. Đây là cuộc gặp gỡ có khả năng làm nẩy sinh sự đón nhận lẫn nhau và dẫn đến sự sống đích thực, sự thờ phượng đích thực và niềm tin đích thực.
III. Phân tích
1. Ngôn ngữ biểu tượng và nghịch lý
Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp mô tả sự tìm kiếm của hai con người. Đức Giê-su là người xin nước uống vì Người vất vả đi đường lúc giữa trưa. Người nói với người phụ nữ: “Xin chị cho Tôi nước uống” (4,7). Còn người phụ nữ Sa-ma-ri là người thường xuyên vất vả tới giếng múc nước nên cũng xin nước uống. Chị ấy nói với Đức Giê-su: “Thưa Ông, xin Ông cho tôi thứ nước ấy [nước sự sống], để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (4,15). Câu chuyện về “khát nước” và “lấy nước” bên bờ giếng mở đầu và kết thúc bằng hai lời xin: Người có “nước hằng sống” (dịch sát: “nước sự sống”) thì xin “nước hằng ngày”. Còn người có gầu để múc nước giếng, nghĩa là có “nước hằng ngày” lại xin “nước sự sống”.
Câu chuyện nói đến hai thứ nước và hai thứ khát. Đức Giê-su nói về sự khác biệt giữa “nước giếng” và “nước sự sống” như sau: “13 Bất kỳ ai uống nước này [nước giếng] sẽ lại khát. 14 Nhưng ai uống nước mà chính Tôi sẽ ban cho kẻ ấy, đời đời sẽ không khát. Nhưng nước mà Tôi sẽ ban cho người ấy sẽ trở nên nơi người ấy một mạch nước vọt lên sự sống đời đời” (4,13-14). “Nước hằng ngày” là thứ nước uống vào sẽ lại khát, còn “nước sự sống” là thứ nước uống vào sẽ không bao giờ khát nữa.
Như thế trong cuộc đối thoại, danh từ “nước” (hudôr) và động từ “khát” (dipsaô) vừa có nghĩa đen, vừa có nghĩa biểu tượng. Nghĩa đen là nước uống hằng ngày, nghĩa biểu tượng là “nước đích thực” mà Đức Giê-su ban tặng cho những ai tin vào Người. Để phân biệt, Đức Giê-su gọi thứ nước này là “nước sự sống” (hudôr zôn). “Khát nước” theo nghĩa đen là khát nước uống hằng ngày. “Khát” theo nghĩa biểu tượng là “khát nước sự sống”, nghĩa là khao khát sự thật, khát được biết ai là đấng cứu độ trần gian, khát tâm linh, khát sự thờ phượng đích thực, khao khát gặp được ai đó đáng tin và để tin. Như thế, nghĩa biểu tượng của “nước” và “khát nước” nhằm trình bày mặc khải. Tuy nhiên trong mạch văn, nghĩa đen của việc “khát nước” cũng mặc khải về căn tính của Đức Giê-su: Đức Giê-su là con người như bao người khác và nhân tính của Đức Giê-su được tỏ lộ qua kiểu hành văn tương phản, hài hước và nghịch lý: Người tự cho mình có “nước sự sống”, uống vào thì đời đời sẽ không khát, nhưng người ấy lại đang khát và phải xin người phụ nữ Sa-ma-ri nước để uống: “Chị cho Tôi uống với” (4,7). Theo mạch văn, nước hằng ngày quan trọng, vì chính Đức Giê-su đã mệt mỏi vì đi đường và Người xin nước uống. Như thế, nhu cầu về nước hằng ngày diễn tả thân phận làm người của Đức Giê-su. Người là con người như mọi người, sống trọn vẹn thân phận làm người. Người cũng đói, khát, vất vả thi hành sứ vụ như bao người khác.
Đồng thời bản văn cho phép hiểu đói, khát, vất vả theo nghĩa biểu tượng. Đức Giê-su khao khát rao giảng Tin Mừng. Người chấp nhận vất vả để dẫn đưa những con chiên lạc về cùng một ràn chiên. Nghĩa biểu tượng của động từ “khát” được gợi ý trong cách kể chuyện. Thực vậy, điều nói rõ trong bản văn là Đức Giê-su khát nước và Người xin nước để uống, nhưng trình thuật không kể việc Đức Giê-su uống nước mà đi thẳng vào trọng tâm câu chuyện là mặc khải của Đức Giê-su về căn tính và sứ vụ của Người. Khi người phụ nữ hỏi: “Làm sao Ông là người Do Thái lại xin tôi nướcuống, mà tôi là một phụ nữ Sa-ma-ri?” (4,9), Đức Giê-su không trả lời câu hỏi này mà đi thẳng vào điều Người muốn mặc khải cho chị: “Nếu chị nhận biết ân huệ của Thiên Chúa và ai là người nói với chị: ‘Cho Tôi uống với’, hẳn chị đã xin người ấy và người ấy đã ban cho chị nước sự sống” (4,10).
Chi tiết Đức Giê-su xin nước uống vừa là mặc khải về nhân tính của Đức Giê-su, vừa đề cao vai trò của người phụ nữ. Đức Giê-su đang cần đến sự giúp đỡ của chị, đồng thời Người đề nghị với chị thứ nước Người có khả năng ban cho chị: “Nước sự sống”. Đức Giê-su tôn trọng quá khứ, hiện tại và tương lai của chị, Người mặc khải để chị biết Người là ai và chị được tự do lựa chọn con đường của mình, lựa chọn tin vào ai và tin vào điều gì.
2. Kỹ thuật hành văn dị nghĩa, gây hiểu lầm
Hành trình tìm kiếm của người phụ nữ Sa-ma-ri được trình bày qua kỹ thuật hành văn gây hiểu lầm. Trước hết chị hiểu lầm “nước giếng” là “nước sự sống”, vì chị nói với Đức Giê-su: “Thưa Ông, Ông không có gầu và giếng lại sâu. Vậy, Ông có nước sự sống từ đâu?” (4,12). Trong mạch văn, quà tặng của Đức Giê-su là “nước sự sống”, dịch sát: “nước sống” (hudôr zôn) theo nghĩa nước sống động, sinh động (living water) chứ không phải nước tù trong ao. Người phụ nữ đã hiểu “nước sống” theo nghĩa đen. Thứ đến, chị hiểu lầm về “khát nước giếng” và “khát nước sự sống” khi chị nói với Đức Giê-su: “Thưa Ông, xin ông cho Tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây múc nước” (4,15).
Trao đổi về đề tài “nước uống” và “khát nước” kết thúc ở đây (4,15) vì xem ra chị ấy hoàn toàn không hiểu ý nghĩa của “nước sự sống” như Đức Giê-su muốn. Để tiếp tục cuộc đối thoại, Đức Giê-su quyết định thay đổi đề tài, Người với chị: “Hãy đi gọi chồng của chị, rồi trở lại đây” (4,16). Mục đích kỹ thuật hành văn gây hiểu lầm trên đây muốn nói với độc giả rằng: Đừng nghĩ và đừng hiểu sai như nhân vật trong câu chuyện. Nói cách khác, nhờ sự hiểu lầm của người phụ nữ Sa-ma-ri trong trình thuật mà độc giả có cơ may hiểu đúng và phân biệt rõ nghĩa đen và nghĩa biểu tượng của “nước giếng” và “nước sự sống”. Nhờ đó độc giả hiểu tại sao Đức Giê-su có “nước sự sống” mà phải “xin nước giếng” để uống.
Đến cuối trình thuật (4,39-42), độc giả sẽ nhận ra rằng không phải dùng gầu để múc “nước sự sống” như người phụ nữ Sa-ma-ri đã nghĩ (4,11), nhưng để có nước sự sống, con người cần đón nhận và tin vào Đức Giê-su. Câu chuyện kết thúc khi những người Sa-ma-ri trong thành Xy-kha đến gặp Đức Giê-su và họ nói với người phụ nữ: “Không còn phải vì lời của chị mà chúng tôi tin. Vì chính chúng tôi đã nghe và đã biết rằng Người thật là Đấng cứu độ thế gian.” Như thế, “TIN”, “NGHE”, “BIẾT” Đức Giê-su và tuyên xưng Người là “ĐẤNG CỨU ĐỘ TRẦN GIAN” thì có “nước sự sống” nơi mình. Đó là thứ nước “sẽ trở nên nơi người ấy một mạch nước vọt lên sự sống đời đời” (4,14).
3. Cuộc gặp gỡ, đối thoại vượt trên mọi thứ rào cản
Ý nghĩa thứ ba của trình thuật là cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri đã vượt trên mọi thứ rào cản. Câu chuyện mở đầu với sự ngạc nhiên của người phụ nữ: “Làm sao Ông là người Do Thái lại xin tôi nước uống, mà tôi là một phụ nữ Sa-ma-ri?” (4,9). Câu hỏi này cho thấy khoảng cách giữa hai bên, cụ thể là sự khác biệt về nguồn gốc và niềm tin (Do Thái – Sa-ma-ri), rào cản phái tính (nam – nữ), khác nhau về nơi thờ phượng (Giê-ru-sa-lem – Gơ-ri-dim). Tuy vậy, câu chuyện kết thúc trong niềm tin và đón nhận lẫn nhau. Nhờ lời loan báo của người phụ nữ, những người Sa-ma-ri trong thành Xy-kha đến với Đức Giê-su và “xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày” (4,40). Cuộc gặp gỡ kết thúc tốt đẹp khi người thuật chuyện cho biết kết quả việc Đức Giê-su ở lại với họ như sau: “Nhiều người hơn nữa đã tin, nhờ lời của Người” (4,41). Cuộc gặp gỡ mở đầu với nhiều trở ngại, nhưng Đức Giê-su đã vượt trên mọi thứ rào cản để dẫn người nghe đến lựa chọn đón nhận lời mặc khải và tin vào Người.
IV. Kết luận
Có thể rút ra từ Ga 4,5-15 ba bài học: (1) Ngôn ngữ và văn chương Gio-an. (2) Hành trình tìm kiếm nước sự sống. (3) Cách thức gặp gỡ và đối thoại đích thực.
(1) Bài học thứ nhất liên quan đến ngôn ngữ và văn chương Gio-an. Trong Tin Mừng Gio-an, tác giả thường dùng ngôn ngữ biểu tượng, dị nghĩa và gây hiểu lầm. Trong Ga 4,7-15, danh từ “nước” và động từ “khát” vừa có nghĩa đen vừa có nghĩa biểu tượng và cả hai nghĩa đều quan trọng. Các từ dị nghĩa trong bản văn thường làm cho người nghe hiểu lầm. Đức Giê-su nói theo nghĩa biểu tượng thì người nghe hiểu theo nghĩa đen. Đây là kỹ thuật hành văn nhằm giúp độc giả hiểu đúng lời Đức Giê-su, nghĩa là nhận ra nhân vật trong câu chuyện hiểu sai, hiểu lầm lời của Người.
Tin Mừng Gio-an thường trình bày đề tài cách nghịch lý. Chẳng hạn người ban nước sự sống lại phải xin nước uống. Kiểu hành văn này làm lộ ra căn tính của Đức Giê-su: Người là Con Thiên Chúa (ban nước sự sống) và Người là con người (khát nước và xin nước uống). Sự nghịch lý này sẽ đạt đến đỉnh cao trên thập giá: Chết trên thập giá là tôn vinh.
(2) Bài học thứ hai là hành trình tìm kiếm “nước sự sống”. Câu chuyện mời gọi độc giả hãy coi trọng cả hai thứ nước: “nước sự sống” và “nước hằng ngày”. Đừng chỉ chú trọng tìm “nước sự sống” mà xem nhẹ công việc làm ăn để “có nước hằng ngày”. Cách hiểu của người phụ nữ Sa-ma-ri: “Thưa Ông, xin Ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây múc nước” là đã hiểu sai về “nước sự sống”. Để có “nước sự sống” con người cần không ngừng khao khát đối thoại với Đức Giê-su và hiểu đúng lời mặc khải của Người. Từ đó, “đến với”, “tin” và “ở lại” với Người. Đó là cách con người đón nhận “nước sự sống”, thứ nước sẽ làm thoả mãn mọi khát vọng của con người.
(3) Bài học thứ ba là cách thức gặp gỡ và đối thoại với người khác. Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri đã diễn ra ở một nơi cụ thể: giếng Gia-cóp, gần thành Xy-kha miền Sa-ma-ri. Đồng thời trình thuật mời gọi độc giả áp dụng cuộc gặp gỡ bên bờ giếng Gia-cóp vào những cuộc gặp gỡ hằng ngày trong hoàn cảnh cụ thể của mỗi người. Đó là những cuộc gặp gỡ có khả năng giải thoát khỏi mọi hình thức ngăn cách và khác biệt về niềm tin, giới tính hay nơi thờ phượng. Từ đó làm nẩy sinh đối thoại đích thực trong sự chia sẻ và tôn trọng lẫn nhau. Nếu như đối thoại và gặp gỡ dẫn đến sự hiểu biết “Đức Giê-su là ai” và “nước sự sống là gì” thì độc giả đang sống Lời Chúa và đang làm sống lại cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri trong thế giới hôm nay./. Ngày 03 tháng 03 năm 2013.
Con người mọi nơi mọi thời vẫn khao khát đi tìm Chân lý. Chân lý quan trọng đối với đời sống MC 3-A150
Con người mọi nơi mọi thời vẫn khao khát đi tìm Chân lý. Chân lý quan trọng đối với đời sống thiêng liêng, như nước cần cho sự sống hằng ngày. Trong cuộc tìm kiếm này, có những khi người ta lầm lạc, chỉ nhìn thấy Chân lý qua những bóng hình mờ nhạt, thậm chí là ảo ảnh hão huyền.
Cuộc tìm kiếm Chân lý của nhân loại đã được phác họa trong thời xuất hành. Dân Do Thái trong hành trình sa mạc đói khát khổ sở suốt 40 năm. Hành trình này vừa giải thoát họ khỏi ách nô lệ, vừa dẫn đưa họ về miền đất mà Thiên Chúa đã hứa cho tổ tiên. Việc thiếu nước dẫn tới sự kiện dân nổi loạn chống lại ông Môisê. Nhờ quyền năng của Chúa, ông Môisê đã lấy cây gập đập vào tảng đá và nước từ đó chảy ra (Bài đọc I). Bài đọc Cựu ước trong thánh lễ hôm nay muốn khẳng định với chúng ta: kiếm tìm Chân lý là một tiến trình lâu dài, đòi hỏi phải kiên nhẫn và vâng theo lệnh của Thiên Chúa.
Câu chuyện không chỉ nhắm tới nước cho dân khỏi khát, mà còn là giáo huấn về ân sủng sẽ được ban sau này qua Đức Giêsu Kitô, Đấng được tôn vinh là Đá. Chúa Giêsu đã đến trần gian để chỉ cho nhân loại con đường đạt tới Chân lý. Người đã tuyên bố: “Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống”.
Bài Tin Mừng là cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ xứ Samaria. Có rất nhiều chi tiết phong phú trong đoạn văn này. Đây là một cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và một con người; giữa một người Do Thái và một người Samaria; giữa một vị Ngôn sứ và một người đang khao khát tìm Chân lý.
Người phụ nữ Samaria là đại diện cho cả nhân loại đang tìm kiếm Chúa. Chị đã có năm đời chồng, và người đang chung sống hiện tại không phải là chồng chị. Chi tiết này muốn diễn tả, con người đi tìm kiếm Chúa, nhưng có những lúc lầm tưởng về Ngài. Họ tìm kiếm Ngài nơi lạc thú và nơi những ảo ảnh thế gian. Vì thế mà họ không cảm thấy no đầy, giống như một người phụ nữ đã năm đời chồng mà không thấy hạnh phúc. Chị vẫn tiếp tục đi tìm kiếm. Khi gặp gỡ Chúa Giêsu, người phụ nữ dần dần hiểu ra Ngài là vị Ngôn sứ, là Đấng có thể đem cho bản thân chị sự bình an, niềm vui và ơn cứu độ. Có nhà chú giải Kinh Thánh nghiên cứu văn hóa và tín ngưỡng của xứ Samaria và cho biết người xứ này thờ 5 vị thần. Có thể tác giả Gioan muốn nói tới việc thờ các ngẫu thần không đem cho con người sự giải thoát và không lấp đầy những khát vọng siêu nhiên của họ. Đức Giêsu đến trần gian để giải phóng con người khỏi những ngẫu thần, hướng tâm hồn họ về Thiên Chúa là Đấng mọi người phải yêu mến và tôn thờ. Sự tôn thờ đích thực không còn phụ thuộc vào không gian, nơi chốn, tức là phải đến chỗ này chỗ nọ (cụ thể là ở Giêrusalem hay đồi Garizim), nhưng bất cứ ai, bất cứ nơi nào, khi họ thực hiện việc tôn thờ “trong tinh thần và Chân lý”, thì đó là việc tôn thờ đẹp lòng Chúa và lời cầu nguyện của họ sẽ được Ngài chấp nhận.
Cuộc gặp gỡ này cũng là một cuộc đối thoại kiên nhẫn, dần dần từng bước. Chúa Giêsu đã chủ động phá tan mọi rào cản: đó là sự giao tiếp giữa người Do Thái và dân ngoại; Người nam và người nữ; Không gian là bờ giếng lãng mạn và thời gian là buổi trưa vắng vẻ. Điều này cho thấy, nếu muốn loan báo Chân lý, cần phải vượt qua mọi thành kiến, khiêm tốn chủ động đối thoại trong sự tôn trọng lẫn nhau. Chúng ta thấy Chúa Giêsu không một lời phê phán cuộc sống cá nhân của chị, cũng như cách thức thờ phượng trên núi Garizim của người Samaria.
Chúa Giêsu đã khởi đi từ nước thế gian tới nước hằng sống. Nước này là ân huệ Chúa ban nơi Đức Giêsu và là giáo huấn của Người. Giáo huấn đem lại cho con người niềm vui siêu nhiên và sự bình an trong tâm hồn. Nhờ nước hằng sống, con người không còn đi tìm kiếm một thần linh nào khác. Họ được gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng họ tôn thờ, không phải ở đây hay ở kia, nhưng trong tinh thần và chân lý. Thánh Phaolô đã khẳng định: “Nhờ Đức Kitô Chúa chúng ta, con người trở nên công chính và được bình an với Thiên Chúa” (Bài đọc II)
Cũng như dân Do Thái trong hành trình sa mạc cần có nước để tồn tại, trong cuộc lữ hành thiêng liêng, chúng ta cũng cần có nước nước hằng sống để lớn lên mỗi ngày. Mùa Chay giúp ta sống tinh thần sa mạc, phác họa 40 năm dân riêng trên đường về Đất hứa, 40 ngày Chúa Giêsu cầu nguyện trong hoang địa. Mùa Chay giúp ta định hướng cuộc đời, để tìm kiếm Chân lý, đón nhận dòng nước ân sủng Thiên Chúa ban qua Đức Giêsu. Một cách cụ thể, chúng ta đón nhận nước hằng sống qua các bí tích, nhất là bí tích Hòa giải và bí tích Thánh Thể. Nhờ hai bí tích này, chúng ta được đổi mới và được nuôi dưỡng bằng sức sống siêu nhiên.
Người phụ nữ Samaria sau khi gặp gỡ Chúa đã bỏ lại vò nước bên bờ giếng. Trước đó, mục đích của chị là đến giếng kín nước. Chị chạy vào thành, giới thiệu Chúa với những người trong thành. Chi tiết này gợi ý cho chúng ta, một khi sống tinh thần của Mùa Chay, chúng ta cũng có bổn phận đưa nhiều người khác đến với Chúa, giúp họ gặp gỡ Ngài và cùng với họ đón nhận nước trường sinh. Việc gặp gỡ Chúa phải dẫn chúng ta giao hòa với anh chị em xung quanh, mang cho họ niềm vui và an bình. Câu chuyện kết thúc với những hình ảnh tốt đẹp: những người dân trong thành Samaria (họ là những người dân ngoại!) đều tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu độ trần gian. Không còn nghi kỵ do mối thù truyền kiếp, không còn thành kiến mặc cảm về dòng dõi sắc tộc. Tất cả đều là con cái của Thiên Chúa. Câu chuyện mở ra một chân trời mới. Đó là viễn cảnh tương lai, hình ảnh của Nước Trời nơi trần gian.