Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 4-A Bài 1-50: Hắn đi rửa, rồi trở lại trông thấy rõ ---------------------------------- Phúc Âm: Ga 9, 1-41 (bài dài): "Hắn đi rửa, rồi trở lại trông thấy rõ".
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi muốn chia sẻ hai điểm. Điểm thứ nhất đó là thái độ của những người chung quanh đối với anh mù.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi muốn chia sẻ hai điểm.
Điểm thứ nhất đó là thái độ của những người chung quanh đối với anh mù.
Nhìn thấy anh mù ngồi ăn xin bên vệ đường, thay vì xót thương thì người ta lại cho là đáng kiếp. Kẻ thì bảo tình trạng mù lòa ấy là do tội lỗi của cha mẹ, bởi vì Thiên Chúa trừng phạt tội lỗi của cha mẹ nơi con cái. Kẻ thì bảo Thiên Chúa thấy trước những tội lỗi, nên đã trừng phạt anh ta từ lúc mới sinh. Tựu trung lại chính tội lỗi và sự vi phạm giới luật Thiên Chúa đã dẫn tới tình trạng bi đát ấy.
Cuộc tranh luận không phân thắng bại và các môn đệ bèn phải thỉnh ý Chúa Giêsu. Các ông hỏi:
- Thưa Thầy, vậy thì ai đã phạm tội, anh hay cha mẹ của anh, để rồi bản thân anh bị mù lòa.
Chúa Giêsu, lúc bấy giờ có lẽ đã nhìn anh bằng một cái nhìn cảm thông. Con người ta thường tỏ ra cay độc khi xét đoán, nhưng Chúa thì khác, Ngài đã trả lời như sau:
- Không phải vì anh hay cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh.
Chúng ta là những người đau khổ. Nào là đau khổ phần hồn, nào là đau khổ phần xác. Chẳng hạn như bệnh tật, nghèo túng, tang tóc. Đau khổ như một cái gì gắn liền với thân phận con người, như một đám mây đen che phủ cuộc đời chúng ta. Và nhiều khi, trong những giờ phút tăm tối ấy, chúng ta đã kêu lên:
- Tôi đã làm gì nên tội mà phải khổ thế này.
Chúng ta hãy bình tĩnh và suy nghĩ, đồng thời dưới ánh sáng đức tin, chúng ta thấy đau khổ không phải chỉ là hậu quả của tội lỗi, mà nó còn mang một ý nghĩa cao cả hơn nhiều, bởi vì những công việc của Chúa phải được thực hiện nơi bản thân chúng ta.
Thực vậy, nếu chúng ta biết can đảm chấp nhận những gian nguy thử thách, thì tình thương và ân sủng của Chúa sẽ được biểu lộ nơi chúng ta. Vì thế, đừng phàn nàn oán trách, đừng bực bội tức tối như những kẻ không có đức tin. Hãy mang lấy cây thập giá đời mình như lời Chúa Giêsu đã truyền dạy.
Điểm thứ hai chúng ta cùng nhau chia sẻ, đó là phép lạ Chúa Giêsu đã thực hiện.
Phúc âm kể lại rằng: Ngài lấy nước bọt trộn lẫn với đất rồi bôi lên mắt anh và bảo:
- Hãy đi rửa ở giếng Siloe thì anh sẽ được khỏi.
Anh đã làm theo lời căn dặn của Chúa Giêsu và mắt anh đã được sáng. Trước phép lạ quá hiển nhiên ấy, người ta đâm nghi ngờ không biết có phải là chính anh hay không ? Để rồi anh đã phải lên tiếng xác nhận và kể lại những sự việc đã xảy đến với mình.
Chúng ta chia sẻ nỗi bất hạnh khi anh bị mù, cũng như niềm vui khi anh được sáng. Niềm tin tưởng và cậy trông của anh đã được ân thưởng một cách xứng đáng. Theo lời chỉ dẫn của Chúa Giêsu, anh đã đi rửa tại giếng Siloe và anh đã được khỏi. Từ đó chúng ta rút ra một kinh nghiệm sống, đó là ai tin tưởng vào Chúa, sẽ tìm thấy một nơi nương tựa còn vững hơn cả núi đá.
Đôi khi chúng ta than phiền về gánh nặng cuộc đời. Thiên Chúa biết cây thập giá chúng ta đang vác và với những hy sinh gian khổ. Ngài không bao giờ đặt trên vai chúng ta một gánh nặng vượt quá sức của chúng ta.
Hãy chấp nhận với lòng tin yêu để những hy sinh gian khổ đem lại lợi ích thiêng liêng cho chúng ta, bởi vì tất cả đều là hồng ân của Chúa.
Khi William Montague Dyke được 10 tuổi, cậu đã bị mù mắt trong một tai nạn. Mặc dù bị tàn tật, William đã tốt nghiệp đại học ở Anh Quốc với bằng danh dự ưu hạng. Khi còn ở nhà trường, anh đã yêu người con gái của một sĩ quan cao cấp của hải quân hoàng gia Anh, và họ đã hứa hôn với nhau. Không lâu trước đám cưới, William đã được giải phẫu với hy vọng có thể phục hồi lại thị giác, nếu cuộc giải phẫu thành công. Còn nếu thất bại, anh sẽ bị mù suốt đời. William đã muốn giữ nguyên những giải băng trên mặt cho đến ngày lễ cưới. Nếu cuộc giải phẫu thành công, anh muốn rằng người đầu tiên nhìn thấy sẽ là cô dâu.
Ngày đám cưới đã đến. Rất nhiều quan khách được mời, gồm cả hoàng gia, các thành phần trong nội các chính phủ, và nhiều vị thân hào nhân sĩ nổi tiếng trong xã hội. Tất cả đã qui tụ nhau lại để chứng kiến những lời đoan hứa của đôi tân hôn. Cha của chú rể, William Hart Dyke và ông bác sĩ giải phẫu mắt đứng bên cạnh chú rể với đôi mắt vẫn còn bị băng kín. Tiếng kèn trumpet từ chiếc đàn organ trỗi lên bắt đầu cho từng bước chân hồi hộp của cô dâu từ từ tiến bước trên nền vải trắng dẫn lên bàn thờ. Ngay khi cô dâu tới bàn thờ, bác sĩ giải phẫu lấy từ trong túi áo ra một cái kéo để cắt những miếng băng bịt mắt của William. Sự im lặng căng thẳng bao trùm lấy nguyện đường. Cả cộng đoàn nín thở chờ đợi xem William có thể nhìn thấy cô dâu đang đứng trước mặt chú rể hay không. Khi vừa đứng đối diện với cô dâu, những lời nói mừng rỡ của William vang lên khắp giáo đường: “Em đẹp hơn anh tưởng tượng nhiều !”
Tác giả đã kết luận câu chuyện bằng những hàng chữ như sau: “Một ngày nào đó những miếng băng che phủ con mắt của chúng ta sẽ được lấy đi. Khi chúng ta đối diện với Chúa Giêsu Kitô và nhìn thấy khuôn mặt của Ngài lần đầu tiên, vinh quang sáng ngời của Ngài sẽ chiếu sáng rực rỡ và huy hoàng hơn bất cứ cái gì chúng ta đã từng tưởng tượng ra trong cuộc đời này”.
Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu chữa người mù sáng mắt. Ngài không chỉ mang lại thị giác cho người mù, nhưng còn mang lại ánh sáng đức tin nữa. Anh được khỏi mù cả về thể lý lẫn tinh thần. Tự bản chất, câu chuyện chữa lành anh mù là câu chuyện của đức tin. Khi anh tuyên xưng đức tin nơi Chúa Giêsu, anh không chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu một cách thể lý, nhưng còn nhìn thấy Ngài là một Đấng được sai đến bởi Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ, Con Thiên Chúa, “ánh sáng các dân tộc” như Công đồng Vatican II đã viết:
“Chúa Kitô là ánh sáng các dân tộc: vậy, hội họp nhau đây trong Thánh Thần, thánh Công đồng nồng nàn ước nguyện rằng, bằng cách loan báo Tin mừng của Phúc âm cho tất cả các tạo vật, mình sẽ tỏa xuống trên mọi người sự sáng của Chúa Kitô đang chiếu sáng trên khuôn mặt của Giáo Hội” (Lumen Gentium, đoạn 1).
Augustinô là một người ngoại giáo trước khi gia nhập đạo Công giáo, trong khi mẹ của ngài, bà Monica lại là một người Công giáo rất đạo đức. Bà không ngừng cầu nguyện cho ngài. Ngay từ khi còn bé, cậu đã gây ra đủ mọi thứ vấn đề. Càng lớn càng trở nên tệ hơn, Augustinô đã bị dằn vặt bởi những nghi ngờ và sợ hãi. Đối với ngài, Thánh Kinh có vẻ như điên khùng ! Cuộc đời của Augustinô đã bắt đầu thay đổi từ khi kiếm được việc dạy học ở thành phố Milan, nước Ý. Ở đây, ngài có cơ hội nghe những bài giảng thu hút của thánh Ambrose, tổng giám mục Milan. Chính những bài giảng này đã lôi cuốn ngài đến nhà thờ thường xuyên. Và sau cùng, thánh Ambrose đã rửa tội và đưa Augustinô gia nhập Giáo Hội.
Sau khi trở lại, Augustinô đã viết: “Lạy Chúa, con đã yêu Chúa quá trễ. Tiếc thay sự đẹp đẽ của những ngày xa xưa… Con đã yêu Chúa quá trễ. Và kìa hãy xem Ngài đã ngự trị ở trong con, và con thì lại cứ kiếm tìm Ngài ở bên ngoài… Ngài đã ở với con, nhưng con lại không ở với Ngài… Ngài đã kêu gọi con, xuyên qua sự giả điếc làm ngơ của con. Ngài đã lóe sáng, chiếu soi và đánh tan sự mù lòa của con… Ngài đã đụng đến con và thiêu đốt con cháy lên trong sự an bình của Ngài”.
Trước ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, một cô gái đã chia sẻ câu chuyện của đời cô: “Ba tôi là người Công giáo, nhưng ông đã bỏ đạo khi lấy má tôi. Điều này làm ông nội tôi rất khổ tâm. Khi tôi được 15 tuổi thì ông tôi bị một chứng bệnh trong óc và chẳng bao lâu thì bị mù. Thấy hoàn cảnh tội nghiệp, tôi xin phép ba má về sống với ông tại một vùng quê, cách xa nhà thờ Công giáo khoảng 600 thước. Công việc chính của tôi tại đây, ngoài việc tiếp tục đến trường, là nấu ăn và dắt ông nội đến nhà thờ dự lễ vào mỗi sáng Chúa nhật. Trên quãng đường quen thuộc này, ông thường kể cho tôi những cảm nghiệm của ông về đức tin, về Thiên Chúa, về Chúa Kitô. Đôi khi nhắc lại những câu Kinh thánh hay những lời linh mục giảng dạy. Tôi luôn chăm chú nghe, không phải vì thích thú, nhưng vì muốn làm vui lòng ông.
Cho đến một lần kia, khi cùng với ông trên đường tới thánh đường tham dự lễ Giáng sinh, tôi cảm thấy như có một tiếng mời gọi huyền nhiệm nào đó đang vang dội trong tâm hồn, khiến tôi bồi hồi xúc động. Tôi kéo tay nội đi thật nhanh. Bỡ ngỡ, nội hỏi tôi: “Sao bữa nay con đi nhanh quá vậy ?” Tôi im lặng… Khi chúng tôi vừa đặt chân tới cửa nhà thờ, thì cặp mắt tôi như đã mờ hẳn đi vì những giọt lệ cứ trào ra. Không thể giữ lại những cảm xúc cho riêng mình, tôi ôm chầm lấy nội và nói: “Nội ơi, hôm nay con đã thực sự tìm thấy Chúa”. Ông hỏi: “Cháu nói thế có nghĩa là gì ?” “Nội biết không, những lời nội nói cho cháu nghe trên quãng đường này vào mỗi sáng Chúa nhật đã cho cháu ánh sáng để nhận ra Chúa. Cháu dẫn nội đến nhà thờ, nhưng chính nội đã dẫn cháu đến với Chúa”. Ngừng mấy giây lau khô những giọt lệ, cô gái tiếp: “Đó là lý do tại sao tôi có mặt trong lớp giáo lý này”.
Sách Giáo lý Công giáo số 89 viết rằng: “Có một mối liên hệ chặt chẽ giữa đời sống tinh thần của chúng ta và các tín điều. Các tín điều là những ánh sáng trên con đường đức tin của chúng ta, chúng soi sáng và làm cho con đường này được vững chắc. Ngược lại, nếu cuộc sống của chúng ta ngay thẳng, trí tuệ và tâm hồn chúng ta sẽ rộng mở để đón nhận ánh sáng của các tín điều đức tin”.
Albert Stauderman đã dùng một ví dụ cụ thể để nói về sức mạnh của đức tin: “Đức tin tạo nên sức mạnh và ân sủng của Thiên Chúa có hiệu quả trong đời sống của chúng ta. Ở đâu không có đức tin, thì ngay chính Thiên Chúa cũng không thể làm gì được. Xin trích dẫn một ví dụ cho dễ hiểu. Xung quanh chúng ta có rất nhiều làn sóng vô tuyến truyền thanh được phát ra từ các tổng đài. Nó thấm nhập vào mọi nơi chốn, nhưng nếu không có máy radio để đón nhận những làn sóng này, và phát ra âm thanh cho bạn nghe, thì những làn sóng đó cũng vô ích và không được ai biết tới. Xin bạn hãy nhớ rằng ở một nơi trên đường mục vụ của Chúa Giêsu, chính Ngài cũng đã không làm một phép lạ nào vì sự thiếu lòng tin của họ. Nếu Thiên Chúa không có một chút quyền lực nào trong cuộc đời của bạn như là Ngài vẫn có, thì hãy nhìn vào chính bên trong con người của bạn. Có lẽ cái đài radio nhận làn sóng của bạn đã bị tắt rồi. Đức tin có thể làm cho bạn tràn ngập sức mạnh của Thiên Chúa ; và ngược lại, vắng bóng đức tin sẽ làm cho bạn trở nên bất lực và thống khổ”. Khi Chúa Giêsu còn ở trần gian, Ngài là ánh sáng thế gian. Nhưng qua phép rửa tội, người Kitô hữu đã nhận được Ngôi Lời là “ánh sáng đích thực soi sáng mọi người”, và “sau khi được soi sáng như thế”. Họ trở nên “con của sự sáng”, và chính bản thân họ là “ánh sáng”. Không có sự đui mù nào đáng sợ cho bằng sự đui mù tinh thần. Không yêu mến tha nhân, không sống theo giảng huấn của Chúa Giêsu, đó là mù lòa tinh thần. Không sống trung thành với những lời hứa khi chịu phép rửa tội, không thực hành đức tin Công giáo, chểnh mảng tham dự bàn tiệc Thánh thể, đó là mù lòa tinh thần. Mùa chay là thời gian thuận tiện giúp chúng ta ra khỏi bóng tối của sự mù lòa tinh thần để đến với ánh sáng cứu độ của Chúa Giêsu Kitô.
Có một người kia, sinh ra đã bị mù, anh sống trong một gian phòng, bởi vì không nhìn thấy gì nên anh phủ nhận tất cả những gì những người chung quanh quả quyết là có: “Tôi không tin, vì tôi có thấy đâu nào”. Một vị lương y thấy vậy thì thương hại anh, ông đi tìm một thứ linh dược chữa cho anh được sáng mắt, anh sung sướng quá, tự phụ nói: “Giờ đây tôi đã thấy được tất cả sự thật chung quanh tôi rồi”. Nhưng có người nói với anh: “Bạn ơi, bạn mới chỉ thấy được những vật chung quanh bạn trong căn phòng này thôi. Như thế có là bao, ngoài kia người ta còn thấy được mặt trời, mặt trăng và các tinh tú hằng hà sa số, còn biết bao vật khác mà bạn chưa thấy, bạn đừng tự phụ như vậy”. Anh tỏ vẻ không tin, lại còn nói mạnh hơn: “Làm gì có được những cái đó, những gì có thể thấy được, tôi đã thấy tất cả rồi”.
Một vị y sĩ khác lên tận núi cao, gặp được Sơn Thần chỉ cho một thứ linh dược khác, đem về giúp cho anh được cặp mắt sáng hơn và thấy xa hơn. Bây giờ anh thấy được mặt trời, mặt trăng và các tinh tú trên không trung. Mừng quá và lòng tự phụ tự đắc lại tăng thêm, anh nói với mọi người: “Trước đây tôi không tin, nhưng bây giờ tôi thấy, tôi tin. Như thế giờ đây không còn có gì mà tôi chẳng thấy, chẳng biết, đâu còn ai hơn tôi được nữa”.
Thấy anh ta tự phụ như vậy, một hiền nhân nói với anh: “Cậu ơi, cậu vừa hết mù, nhưng cậu cũng vẫn chưa biết gì cả. Tại sao cậu lại quá tự phụ như thế ? Với chừng mực và giới hạn của tầm mắt, cậu làm gì biết có những vật ngoài ngàn dặm mà mắt cậu không làm sao thấy được. Cậu có thấy được những nguyên nhân nào đã cấu tạo ra cậu khi cậu còn nằm trong bào thai của mẹ cậu chăng ? Ngoài cái vũ trụ nhỏ bé mà cậu đang sống đây, còn không biết bao nhiêu vũ trụ khác vô cùng to lớn và nhiều không kể hết như cát ở bãi biển, cậu có thấy không ? Tại sao cậu dám tự phụ bảo rằng: “Tôi thấy cả, tôi biết cả rồi”. Cậu vẫn còn là một anh mù, cậu vẫn còn lấy tối làm sáng, lấy sáng làm tối”.
Đó là câu chuyện của một anh mù bẩm sinh ở An Độ. Còn câu chuyện của anh mù, cũng mù từ bẩm sinh, kể lại trong bài Tin Mừng, thì lại khác hẳn: trong khi mù và sau khi được sáng mắt, anh luôn khiêm nhường, luôn nhìn nhận thân phận hẩm hiu buồn tủi của mình. Ngược lại, những người sáng mắt thì lại mù tối, kiêu ngạo trong sự mù tối của mình, đó là những người Pharisêu. Chúng ta thấy sự khác biệt tàn nhẫn giữa đôi mắt của người mù và đôi mắt của những người Pharisêu. Đôi mắt thân xác của người này mù nhưng mắt tâm hồn anh lại sáng. Những người Pharisêu có đôi mắt thân xác không mù lòa, nhưng đôi mắt tâm hồn đã chết. Sự khác biệt đó là niềm tin và đức tin: anh mù được phép lạ đã tin Chúa Giêsu. Còn những người Pharisêu thấy phép lạ nhưng không tin Chúa.
Đây là một phép lạ đặc biệt chưa từng có trong nhân loại. Cho đến ngày nay, mặc dầu y khoa rất tiến bộ nhưng vẫn còn bó tay trước những người mù bẩm sinh. Còn đối với những người vì một lý do nào đó bị mù lòa thì y khoa có thể dùng một loại ra đa hay dùng con mắt của người khác thay vào thì có thể thấy được. Trường hợp anh mù trong Tin Mừng, Chúa Giêsu không làm thế, Ngài không thay mắt cho anh, Ngài dùng quyền năng Thiên Chúa để làm một phép lạ phi thường cho anh được sáng mắt. Nhưng trên hết con mắt đức tin của anh được bừng sáng, anh nhận ra Đức Kitô mà nhiều người sáng mắt không nhận ra.
Theo ý nghĩa tượng trưng, trong phạm vi thiêng liêng, bệnh mù về tinh thần là tình trạng mê muội của những người sống trong tội lỗi và tình trạng mù quáng của những kẻ cố chấp. Vậy hình thức thứ nhất của bệnh mù về tinh thần là tội lỗi, nó che lấp mắt linh hồn làm cho linh hồn không nhận ra Chúa và cũng chẳng nhận ra thánh ý Chúa. Vì thế, Kinh Thánh gọi những người sống trong tội lỗi như ngồi trong chỗ tối tăm, ngồi trong bóng đêm, ngồi trong bóng sự chết. Một hình thức khác của bệnh mù tinh thần là sự cố chấp, tức là bảo thủ trong sự lập luận sai lầm hay càn dở của mình và nhất định không chịu phục thiện. Chính vì thế mà nhiều lần Chúa Giêsu đã gọi những người Pharisêu là những kẻ mù quáng, bài Tin Mừng hôm nay là một điển hình. Chúa đã nói: “Tôi đến thế gian này chính là để những kẻ không xem thấy thì được xem thấy, còn những kẻ xem thấy sẽ trở nên đui mù”. Chúng ta thường nói về những người cố chấp: “Không ai điếc nặng cho bằng kẻ không muốn nghe”, thì chúng ta cũng có thể nói về những người mù tinh thần: “Không ai mù quáng nặng cho bằng kẻ mở mắt mà không muốn xem”.
Chúng ta có đang sống trong tình trạng mù lòa về tinh thần không ? Chúng ta tội lỗi và cố chấp ư ? Và hiện giờ chúng ta vẫn còn cố chấp trong tình trạng đó ư ? Không được đâu. Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu để Ngài thắp sáng cuộc đời chúng ta như Ngài đã thắp sáng cuộc đời người mù xưa kia. Nói khác đi, trên đời này không ai có thể giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, vì lý do ai cũng có tội, chỉ có một Đấng không có tội gì, tuyệt đối chí thánh, mới có quyền cứu giúp chúng ta mà thôi, đó là Chúa Giêsu. Vấn đề là chúng ta có bằng lòng đến với Chúa không ?
Người mù sung sướng biết bao khi đôi mắt anh mở ra và nhìn thấy Chúa Giêsu, vị ân nhân vĩ đại của mình. Chúa đã thắp sáng đời anh. Trong Mùa Chay, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu, vị đại ân nhân của chúng ta, để Chúa mở mắt tinh thần cho chúng ta, để Chúa thắp sáng đời chúng ta.
Thi sĩ W. H. Auden hiện đại là người đầu tiên đã gọi lịch sử thời chúng ta là "Thời Lo Sợ"; và từ đó danh từ ấy được truyền tụng vì nó nói lên đặc tính trong thời gian chúng ta đang sống-- cái cảm giác lo lắng, sợ hãi, nghi ngờ và khó khăn về tương lai. Đó là những cảm giác đang ảnh hưởng trên văn hoá chúng ta. Tất cả những điều ấy được biểu lộ qua văn thơ, ca nhạc và những nghệ thuật khác nữa. Nếu các bạn có dịp đi tham quan Viện Nghệ Thuật Hiện Đại ở thành phố New York, các bạn sẽ thấy một bức tranh diễn tả một cô ca sĩ bụi đời đang nằm ngủ nơi trống trải với cây đàn nằm bên cạnh cô do họa sĩ Andre Rousseau vẽ (bức tranh này thường được gọi là "Cha Đẻ" của tranh họa hiện đại). Bức tranh diễn tả một khung cảnh phía trước và xung quanh cô ta rất an bình chỉ trừ mập mờ phía sau là một con sư tử đang nhe nanh giương móng sắc như đe dọa; thế nhưng bức tranh không một lời giải thích hay một dấu hiệu nào để có thể hiểu tại sao lại xuất hiện một con sư tử hung dữ trong bức tranh thơ mộng như vậy. Đó là ẩn ý của người hoạ sĩ muốn như thế. Cũng vậy, những mối lo sợ của chúng ta thường không có lời giải nghĩa thích hợp, nhưng chúng luôn hiện diện ở đó và trong chúng ta.
Sự lo lắng liên tục mà chúng ta mang theo suốt ngày đêm sẽ lấy đi mọi hoan lạc trong đời sống, những giấc ngủ an lành, làm phí sức và hao tổn tinh thần chúng ta, nó cũng là nguyên nhân hay ít ra là một trong những nguyên tố góp phần gây ra các bệnh hoạn trong cơ thể. Thật sự, lúc nào chúng ta cũng có đầy những lo lắng, sợ hãi bởi vì không biết đời sống rồi sẽ đưa chúng ta tới đâu. Nào là "Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi làm hoặc không làm điều này, điều nọ?... Làm sao tôi biết chắc chứ?... Giả như anh ta hay chị ta làm điều ấy thì sao?..." Ôi! Đúng quá phải không?
Mỗi câu hỏi như một lời kêu cứu, thế mà trong cuộc sống hằng ngày, như chúng ta biết đó, nó chẳng được ai nghe đến. Đó cũng là điều xảy ra đối với những người Pharisiêu trong bài Tin Mừng hôm nay. Những người Pharisiêu đã làm phiền một anh thanh niên vì anh ta được Chúa Giêsu chữa cho khỏi mù trong ngày Sabbát. Họ muốn anh ta nói dối là Chúa Giêsu đã không chữa anh ta khỏi mù vì đối với họ ngay việc chữa lành trong ngày Sabbát cũng là phạm luật cấm. Theo cách giải thích luật gắt gao được áp dụng trên đời sống cũng như trong tôn giáo của họ thì việc làm của Chúa Giêsu không phải là dấu của quyền uy Thiên Chúa. Họ trói buộc Thiên Chúa vào luật điều tuân giữ ngày Sabbát của họ. Thiên Chúa được tự do nhận lời cầu xin của nhân loại từ Chúa Nhật đến ngày thứ Sáu, nhưng không được vào ngày thứ Bảy. Ngay cả Chúa cũng không được cho phép làm việc ngày Sabbát. Chúa Giêsu đã mang tin vui cho các bạn đó là Thiên Chúa luôn luôn lắng nghe lời kêu xin của nhân loại trong mọi lúc, bất kể ngày giờ nào. Ngài biết rất rõ các bạn đang bị đau ở đâu và từng vấn đề khó khăn của các bạn như thế nào. Ngài biết và lắng nghe từng nghi vấn hay lời kêu cứu ngay cả trước khi các bạn có thể nghĩ hay thốt ra. Ngài đã có sẵn từng câu trả lời cho mỗi nghi vấn và sẽ đến để cứu các bạn trong mọi nơi, mọi lúc nếu như các bạn để Ngài được tự do hành động.
Các bạn phải san bằng cái bức tường lo lắng, sợ hãi và nghi ngờ mà vô tình cách nào đó các bạn đã dựng nên làm ngăn cách giữa Chúa và các bạn. Bức tường này có hai vấn đề chính. Thứ nhất là mối lo lắng về tương lai vĩnh cửu của chúng ta. Những điều chúng ta đã hay không làm trong quá khứ còn theo đuổi ám ảnh chúng ta về ảnh hưởng cánh chung của mình. Chúng ta lo lắng khi thấy đời sống hiện tại xem ra không mang đến ý nghĩa nào về vĩnh cửu. Chúng ta lo sợ về sự chết: chúng ta sẽ ra đi vào cõi bất diệt và mọi người thân yêu của chúng ta cũng sẽ theo chân, và dầu có những lời nói tư tưởng tốt lành hay ho về cái chết đấy, chúng ta vẫn luôn lo sợ về thực chất của sự chết. Điều thứ hai đó là nỗi lo lắng về cuộc sống hằng ngày của ta. Nào là ăn gì, mặc chi, giải trí ra sao và thậm chí cả đến vấn đề đổ xăng gì nữa. Tôi tin chắc rằng các bạn cũng đồng ý với tôi đó là những nỗi lo lắng sợ hãi đó thường vượt quá mức chúng ta cần phải lo toan cho đời mình.
Vậy phải làm sao đây? Chúa Giêsu đã nhiều lần lập đi lập lại trong Phúc Âm rằng chúng ta sẽ chỉ lướt thắng những lo lắng sợ hãi đó khi chúng ta đáp trả tình yêu Thiên Chúa cách trọn vẹn và hoàn toàn tin tưởng vào Ngài. Mà cũng thật lạ lùng vì điều Chúa nói đó lại trở nên vấn đề khúc mắc cho chúng ta là những người hay đi nhà thờ, vậy mới buồn chứ. Chúng ta đã quá nhiều lần được nghe là hãy tin vào Chúa, tín thác nơi Ngài, đến độ nhiều khi chúng ta không còn muốn nghe nữa; và những lời đó đã trở nên như một sáo ngữ nhàm chán. Nhưng tin tưởng vào Thiên Chúa như Chúa Giêsu dạy chúng ta không đơn giản chỉ là lời hay ý đẹp, cũng không phải là câu ngớ ngẩn hay chỉ là cách biểu lộ bề ngoài của đạo giáo, tuy nhiên nó chính là cách sống đích thực của người theo Chúa. Đó chính là cách sống mà các bạn phải dâng phó hoàn toàn những lo lắng sợ hãi của mình cho tình yêu Thiên Chúa Hiện Hữu trong từng giây phút. Xin nhớ cho rằng tôi nói "dâng phó" chứ không phải "vứt bỏ", vì là thụ tạo hay chết nên chúng ta không thể dứt bỏ hết thảy những lo lắng sợ hãi đâu. Thế nhưng khi chúng ta tin vào tình thương và nâng đỡ của Thiên Chúa thì nó sẽ giúp chúng ta thoát được sự tiêu diệt của nỗi lo lắng, chính là cái cướp đi sự sống an bình của ta; đồng thời cũng giúp chúng ta xây dựng một cuộc sống tươi đẹp hơn.
Đức Giêsu đã chữa một người mù từ lúc mới sinh, một người lớn lên trong bóng đêm dầy đặc.
Ngài cho anh được thấy ánh mặt trời lần đầu tiên, thấy khuôn mặt của những người thân thuộc.
Nhưng quan trọng hơn, anh đã thấy và tin vào Đức Giêsu, Đấng là Ánh Sáng của thế giới.
Sau khi được sáng mắt, anh đã bước vào một cuộc hành trình đức tin đầy cam go.
Lúc đầu, Đức Giêsu chỉ là một người mà anh không rõ. Sau đó, anh dám khẳng định trước mặt mọi người Ngài là một ngôn sứ, là người bởi Thiên Chúa mà đến. Cuối cùng, anh đã sấp mình để bày tỏ lòng tin vào Ngài.
Đức tin của anh lớn lên qua những hiểm nguy và đe dọa.
Ngược với thái độ hồn nhiên và bình an của anh là thái độ bối rối bất an của giới lãnh đạo. Họ cứ hỏi đi hỏi lại về cách thức anh được chữa lành.
Cha mẹ của anh cũng được điều tra cẩn thận.
Trước những lập luận vững vàng của anh, họ chỉ biết chê anh là dốt nát và tội lỗi.
Dựa vào một quan niệm hẹp hòi về việc giữ ngày sa bát, họ khẳng định Đức Giêsu đã phạm tội khi chữa bệnh, tuy họ vẫn không hiểu tại sao một người tội lỗi lại có thể mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh.
Giới lãnh đạo Do thái giáo không muốn coi Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, vì điều đó đòi họ phải thay đổi lối nghĩ và lối sống đạo, thay đổi bộ mặt tôn giáo của cha ông, nhất là đòi họ phải tin và theo Ngài.
Họ tự hào mình hiểu biết và đạo đức. Chính niềm tự hào này đã khiến họ khép lại, không có can đảm chấp nhận mình sai lầm, và cố chấp ở lại trong bóng tối.
Mù không phải là một tội.
Cố ý không muốn thấy mới là tội đáng kể.
Chúng ta ai cũng sợ bị mù, nhưng lắm khi ta lại tự làm cho mình nên mù lòa, khi không chấp nhận thực tế về bản thân, khi né tránh sự thật và không muốn nghe ai.
Như những người mù xem voi, mỗi người chúng ta chỉ thấy một phần của thực tại, một phần nhỏ của chân lý. Cần khiêm tốn để nhận mình mù, mù về chính mình, mù về lãnh vực mình thông thạo, vì điều mình biết chỉ là phần nổi của tảng băng, vì con voi không giống như cái cột nhà hay cái quạt.
Thay vì cãi nhau do có cái nhìn khác nhau, chúng ta có thể bổ túc cho nhau, để dần dần đến gần chân lý trọn vẹn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Chúng ta đều ít nhiều mù lòa về chính mình. Theo ý bạn, làm sao chúng ta có thể ra khỏi sự mù lòa đó?
Tự ái, tự hào, tự cao, tự mãn... theo ý bạn, đây có phải là những thái độ khiến chúng ta khó đón nhận những góp ý nghiêm túc của người khác không?
Cầu Nguyện
Như thánh Phaolô trên đường về Đamát, xin cho con trở nên mù lòa vì ánh sáng chói chang của Chúa, để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa, ánh sáng phá tan bóng tối trong con và đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối chỉ vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con khiêm tốn để đón nhận những tia sáng nhỏ mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
Cuối cùng, xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý để Chân lý cho con được tự do.
Trong bài viết "Đôi mắt", Linh mục Nguyễn Tầm Thường đã suy niệm về đôi mắt mù loà của Nguyên Tổ đã đưa tội lỗi vào trần thế. Chúa Ki-tô đã chữa lành và trao ban cho nhân loại đôi mắt mới: Mắt Đức tin. Xin được mượn tư tưởng của Ngài để suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay: Chúa Giê-su chữa người mù từ thuở mới sinh.
"Mắt em là một dòng sông, Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em..." ( Lưu Trọng Lư )
Mắt là cảm hứng cho thi sĩ, nhạc sĩ. Mắt là hồn cho thơ, là sóng cho nhạc. Có người nhìn đôi mắt như mùa thu. Có người nhìn đôi mắt như dòng sông. Trong văn chương, nghệ thuật, cảm hứng về mắt bao giờ cũng là đôi mắt đẹp. Trái lại, khi Thánh Kinh nói về mắt lại nói về đôi mắt mù. Từ những trang đầu của sách Sách Sáng thế đã nói về mắt: "Rắn đã nói với người đàn bà: chẳng chết chóc gì đâu ! Quả nhiên Thiên Chúa biết, ngày nào các ngươi ăn nó mắt các ngươi sẽ mở ra và các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa, biết cả tốt xấu. Và người đàn bà đã nhìn; quả là cây ăn phải ngon... mà nhìn thì đã sướng mắt. Nó đáng quý thực, cái cây ấy để được tinh khôn. Và bà đã ăn... Và mắt cả hai người đã mở ra. Và chúng biết là chúng trần truồng" ( St 3, 4 - 7 ). (? Trích Nước mắt và hạnh phúc tr. 69 - 71 )
Đoạn Thánh Kinh nói về lịch sử sa ngã của loài người đã đề cập đến đôi mắt qua 3 tiến trình:
- Rắn hứa là mắt hai ông bà sẽ mở ra - E-và nhìn trái táo và thấy sướng mắt - Mắt hai người mở ra và thấy mình trần truồng.
Rắn hứa là mắt hai người sẽ mở ra để nhìn thấy mọi sự như Thiên Chúa, nhưng mắt đức tin đã nhắm lại nên không nhìn thấy điều mình muốn thấy. Họ không thấy mùa hoa nở rộ, những đồi cỏ bình yên, những dãi nắng hiền, những dòng suối êm ả. (sđd. tr 72 ). "Mà nhìn thì đã sướng mắt", cái nhìn ấy phải là đắm đuối, bằng cái nhìn đam mê đó, tội lỗi, khổ đau và sự chết đã vào trần thế.
Lời hứa của con rắn đã hiệu nghiệm: mắt cả hai người đã mở ra. Nhưng không phải mở ra để nhìn thấy vẻ đẹp mà nhìn thấy mình trần truồng. Mắt hai người đã mở ra. Câu Thánh kinh thật ngắn ngũi diễn tả cách tinh tế sự đau thương: mở ra cũng là lúc đóng lại. A-đam - E-và đã mở mắt, nhưng họ lẫn trốn không dám nhìn Thiên Chúa. Cả hai đã mở mắt nhưng để tìm lá che thân, không dám nhìn nhau. Khởi đầu lịch sử nhân loại là đôi mắt mù và sự mù loà chảy dọc theo thời gian mang tối tăm vào trong trần thế.
Chúa Ki-tô đã đến chữa lành sự mù loà ấy, hàn gắn lại vết thương thưở sa ngã của Nguyên Tổ.
Khi liên kết phép lạ Chúa Giê-su chữa người mù từ thưở mới sinh với sự mù loà của Nguyên tổ ta mới thấy ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Con Thiên Chúa đến trong thế gian. "Mù từ thưở mới sinh" là mù từ xa xưa, thưở địa đàng. Chúa Ki-tô đã mang ánh sáng cho thế gian, Ngài ban cho nhân loại đôi mắt mới: Mắt Đức Tin. Từ tiến trình đến ánh sáng tự nhiên, người mù có một hành trình tiếp cận ánh sáng đức tin.
Chúa Giê-su chữa lành đôi mắt thể lý và mắt tâm hồn của người mù. Chúa đã mở mắt đức tin để anh ta tin vào Chúa. Anh ta tin vào lời Chúa là đi rửa mắt ở hồ Si-lô-ác và đã công khai nói lên sự thật ca ngợi Chúa trước mặt những người Pha-ri-sêu đang tra vấn, khủng bố anh: Chính tôi đây đã được người mà thiên hạ gọi là Giê-su lấy bùn xức mắt tôi và bảo tôi hãy đi rửa ở hồ Si-lô-ác Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy. Lòng bắt đầu rộng mở nên anh ta nhận ra: Nếu người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì.
Bởi đó, khi gặp lại Chúa Giê-su và được hỏi: "Anh có tin Con Người không ?" thì anh đáp lại ngay: "Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin ?" Chúa Giê-su tỏ mình ra cho anh: "Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây". Anh liền đáp: "Lạy Thầy, tôi tin." Bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi thái độ quỳ xuống bái lạy.
Qua việc chữa lành đôi mắt thể lý, Chúa Giê-su trao ban ánh sáng đức tin cho đôi mắt tâm hồn. Thoát khỏi bóng tối triền miên của cuộc đời, bát ngát một bầu trời mới khi anh được sáng đôi mắt. Lớn lao hơn nữa làtâm hồn anh thênh thang chứa chan lòng mến, anh đã quỳ bái lạy với tất cả lòng tin. Phép lạ chữa người mù thưở mới sinh là một dấu chỉ minh chứng: Đức Giê-su là sự sáng thế gian, đã chữa lành sự mù loà của nhân loại với điều kiện: Tin vào Ngài.
Chúa Giê-su cũng chữa nhiều người mù loà tâm hồn. Người mở mắt cho Da-kêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi ( Lc 9, 1 - 10 ). Người mở mắt cho người đàn bà ngoại tình, giúp chị từ bỏ quá khứ lỗi lầm ( Lc 7, 36 - 50 ). Người mở mắt cho người trộm lành giúp nhận ra lòng Chúa xót thương ( Lc 23, 32 - 43 )...
Mỗi người chúng ta có lẽ không hoàn toàn mù tối tâm hồn, nhưng có những điểm tối mà ta thấy được. Chẳng hạn như những đam mê, tham vọng, hận thù, ghen ghét, kiêu căng, có thể làm ta mù tối không nhìn thấy sự tốt lành nơi tha nhân. Có một số người chỉ nhìn thấy điểm tối của người khác, chỉ nhìn thấy những lỗi lầm, những khuyết điểm mà không nhận ra những gì là xinh đẹp, những gì là cao quý, thánh thiện nơi họ. Cứ tiếp tục xét mình, ta sẽ thấy có nhiều điểm tối, sự mù tối của tâm hồn rất nguy hại. Chỉ có ánh sáng của Đức Ki-tô soi chiếu, chỉ có cái nhìn của Đấng tình yêu, mỗi người mới xoá tan những điểm tối đó. Chỉ có sự cầu nguyện và tin tưởng vào Đấng là ánh sáng thế gian, chúng ta mới có thể xua đuổi bóng tối ra khỏi tâm hồn và nhìn mọi sự trong ánh sáng Tin Mừng Đức Ki-tô.
Chúng ta đã bước vào Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay. Mùa Chay là mùa hoán cải, cải thiện đời sống và làm mới lại cuộc đời. Giáo Hội chuẩn bị hướng chúng ta vào tuần thánh để chiêm ngắm Đức Ki-tô Cứu Thế và các hiệu quả của ơn cứu độ mà Ngài mang đến qua cuộc khổ nạn, phục sinh của Ngài. Lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu Chúa Giê-su là sự sáng cho trần gian.
I. ĐỜI NGƯỜI CÓ HAI NỖI KHỔ:
Một con người đang sáng mắt, sẽ nhìn thấy vạn vật, bầu trời, tinh tú. Tất cả vũ trụ như bừng sáng với họ. Nhưng nếu vì một lý do nào đó, họ bị khiếm thị. Vạn vật như tối đen. Xung quanh con người chỉ nhuộm mầu đen tối. Họ như mất hết tất cả mọi sự. Cuộc đời của họ như bị chìm vào một bầu trời tăm tối. Tất cả giờ đây đối với người mù chỉ là u tối mà thôi. Đó là nỗi khổ của một con người bỗng mất đi sự sáng.
Ánh sáng rất cần thiết cho cuộc đời. Ta thử tưởng tượng, thế giới này không có ánh sáng. Vạn vật, sinh vật và con người đều không thể tồn tại. Thế giới không có ánh sáng là thế giới chết. Cây cỏ, loài vật và con người không thể nào phát triển tồn tại được. Con người lúc đó sẽ chìm ngập trong nỗi khổ của sự chết. Vì tối đồng nghĩa với chết. Đó là nỗi đau khổ của những người bị mất ánh sáng.
Nỗi khổ thứ hai là khi con người bị đè bẹp, bị vùi dập và bị đẩy ra bên lề, không được nhận biết. Mỗi người đều có nhân vị riêng của mình. Mỗi người đều phải được nhìn nhận. Ai cũng muốn được người khác biết tới. Dù mình là hèn kém hay thiếu tài năng. Không được nhìn nhận, con người sẽ vô cùng khổ cực, vì họ cảm thấy cô đơn, lẻ loi và bị bỏ rơi.
II. CHÚA GIÊ-SU CHỮA LÀNH NGƯỜI MÙ BẨM SINH:
Tin Mừng của thánh Gio-an trong trình thuật 9, 1 - 41 cho chúng ta chứng kiến một phép lạ rất ly kỳ, ngoạn mục. Chúa Giê-su đã gặp gỡ một người mù bẩm sinh và với con người đầy quyền năng, giầu tình thương xót, Ngài đã chữa lành anh mù, làm cho anh ta nhận ra ánh sáng. Với ngòi bút tài tình, với óc khôi hài hiếm có, thánh Gio-an trong đoạn Tin Mừng hôm nay đã diễn tả việc chữa lành anh mù một cách xem ra thiếu khoa học, khi Chúa Giê-su lấy nước miếng hòa với bùn mà đắp vào mắt anh mù, rồi nói với anh đi rửa mắt ở sông Si-lô-ác. Anh mù làm theo lời Chúa, đi rửa mắt ở sông Si-lô-ác và anh được sáng mắt. Với một phép lạ ly kỳ, tài tình và xem ra rất dân gian như các thầy lang băm ở muôn thời.
Chúa Giê-su đã làm cho anh mù sáng mắt. Tuy nhiên, các biệt phái và luật sĩ đã không tin vào phép lạ xem ra phản khoa học mà Chúa Giê-su vừa làm, nên họ đã cho mở cuộc điều tra để có cớ bắt tội Chúa Giê-su. Tuy nhiên, anh mù đã cương quyết xác nhận Chúa Giê-su đã chữa lành cho anh do quyền năng và tình thương của Chúa. Vì thế, anh nhất định phân bua với mọi người và ngay cả với các biệt phái, các luật sĩ: "Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì " ( Ga 1, 32 - 33 ).
Anh mù nhất quyết không âu lo, không sợ sệt, anh đã nói lên tất cả sự thật, cái sự thật hiển nhiên là trước kia anh ta mù lòa, giờ đây, anh ta được sáng. Vì vậy, khi gặp lại Chúa Giê-su, anh ta rất vui mừng và lòng tin đã xui khiến anh, thúc giục anh tin nhận Chúa Giê-su. Chúa Giê-su hỏi anh ta: "Anh có tin vào Con Người không ?" ( Ga 1, 35 ). Anh nói: "Thưa Ngài, tôi tin" ( Ga 1, 38 ). Rồi anh sấp mặt xuống trước mặt Người.
Phép lạ Chúa Giê-su làm cho anh mù bẩm sinh thấy lại ánh sáng tượng trưng cho việc Chúa Giê-su ban lại sự sáng siêu nhiên cho con người. Trong đêm phục sinh, qua nghi thức làm phép lửa, rước nến, công bố Tin Mừng Phục Sinh. Phụng vụ sẽ giới thiệu Đức Giê-su như sự sáng bừng lên trong đêm đen, dẫn đưa nhân loại mới về Đất Hứa là Nước Trời.
III. DIỄM PHÚC VÀ BỔN PHẬN CỦA TA
Trong bài đọc 2 hôm nay, thánh Phao-lô đề cập đến diễm phúc, chúng ta đã được trở nên con cái sự sáng, nghĩa là được giải thoát khỏi cảnh tối tăm, được bình an trong cuộc sống, thấy rõ hướng đi và cùng đích đời mình không còn phải lo âu, sợ sệt như bài đáp ca hát lên: "Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, Ly rượu con đầy tràn chan chứa. " ( Tv 23, 4 - 5 )
Một điều khác chứng tỏ lòng thương xót của Chúa. Đó là Thiên Chúa đã thực hiện lòng xót thương của Ngài cách đặc biệt cho Đa-vit: Đa-vít được Chúa biết đến, kén chọn và xức dầu tấn phong. Đồng thời vì đã là con cái sự sáng, chúng ta cũng được mời gọi, sống đời sống mới, khử trừ những việc làm của tối tăm, thực thi những việc lành hầu tôn vinh Chúa và làm chứng cho Chúa.
Chúng ta có thể dùng lời của J. Potin trong "Jésus, l? histoire vraie" ( Cent. 1994, trang 364 ) để kết: "Trong lúc người mù được thấy, người Do-thái lại lao mình vào sự mù tối. Những dấu lạ Đức Giê-su làm cho họ thêm cứng lòng. Họ tưởng mình biết vì cho rằng mình biết Mô-sê và Lề Luật cấm chữa bệnh vào ngày Sa-bát. Thật ra họ từ chối ánh sáng thật. Với Đức Giê-su, thảm trạng này làm thành một trường hợp phải đặt thành "vấn đề" trong tiến trình ý định của Thiên Chúa, bởi lẽ những người không tin, người ngoại tìm thấy ánh sáng cho đức tin vào "Con Người", trong lúc đó, những kẻ "thấy", những người Do-thái lại trở nên mù tối, bị lóa mắt bởi những sự thật giả dối của họ. Đức Giê-su nói: "Vì thế họ ở trong tội lỗi của họ".
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được phép rửa chúng con đã lãnh nhận, vì phép rửa làm cho chúng con trở nên con cái Chúa, nghĩa là được ánh sáng sung mãn của Chúa chiếu rọi. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết nói như anh mù khi được sáng mắt: "Lạy Chúa, con tin".
Vui mừng trước thất bại của người khác, khổ sở khi người khác thành công. Chuyện không lạ gì trong nhân gian. Sẵn một định kiến không hay về Chúa Giê-su, người Do-thái, đúng hơn, những người lãnh đạo tôn giáo và chính quyền Do-thái luôn luôn có sẵn một cái nhìn, một lối nghĩ, nặng nề hơn: một não trạng đi từ thù ghét đến chống đối, và sau cùng là kết án Chúa Giê-su, và những ai có liên quan với Người, bất chấp tất cả, dù đó là lời nói hay, hành vi tốt, điều có lợi, việc cứu sống?
Bài Tin Mừng hôm nay là một trong rất nhiều những bằng chứng tố giác định kiến hẹp hòi, bất nhân ấy. Một người mù từ khi mới sinh, được Chúa Giê-su chữa cho sáng mắt, lại bị đuổi ra khỏi hội đường vì lý do: "Mày sinh ra trong tội". Thực ra anh ta chẳng làm gì nên tội, chỉ là người được chữa lành bệnh trong ngày Sabat, ngày lễ nghỉ của người Do-thái. Thế là bị kết tội vi phạm ngày lễ nghỉ.
Dấu lạ sáng mắt của anh - điều mà từ thuở mới sinh, anh không thể có được. Ngay từ lúc lọt lòng mẹ, anh đã phải chịu cảnh tối tăm, chắc chắn đã làm cho cha mẹ anh rất đau buồn. Lớn lên ý thức thân phận khiếm khuyết của mình, chắc anh cũng mang mặc cảm, và ước mơ được nhìn thấy - Lẽ ra dấu lạ được sáng mắt ấy, phải là một tin mừng, một niềm vui trọng đại cho tất cả những ai biết anh, những ai đã từng thấy anh phải đi ăn xin, và mạnh hơn nữa: những ai đã từng rút tiền cho anh. Lẽ ra dấu lạ kỳ diệu ấy phải được mọi người ca tụng và truyền cho nhau như một huyền nhiệm mà người bình thường không làm nỗi. Bằng chứng là từ thuở anh mới sinh cho đến bây giờ, chưa có ai, dù một mảy may, có thể giúp anh thấy được, dẫu chỉ là một cái nháy mắt. Lẽ ra sau dấu lạ được sáng mắt này, anh phải được mọi người chúc mừng mới đúng.
Nhưng hoàn toàn ngược lại, dấu lạ mà mọi người thời đó không ai dám nghĩ tới, lại bị coi là một hành động tội lỗi, kết quả được sáng mắt lại bị coi là kết quả của tội. Còn Đấng đã chữa anh khỏi mù, Đức Giê-su, hơn cả những thầy thuốc lúc bấy giờ ( đã không chữa được cho anh ), lại bị coi là một kẻ tội lỗi. Họ nói về Chúa Giê-su thế này: "Người đó không phải bởi Thiên Chúa... Chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi".
Chúng ta tự hỏi, tội lỗi có thể cho kết quả tốt không ? Và hành vi tội lỗi của người này có thể bù đắp được khiếm khuyết của người kia sao ? Chúa Giê-su trả lại hạnh phúc cho một người đau nỗi đau khiếm khuyết hạnh phúc ngay từ khi chưa biết nói, biết cười, đến khi bước vào tuổi trưởng thành, thì hành vi hoàn trả ấy lại là đứa con của tội lỗi sao ?
Đáng thương cho những người Do-thái thời Chúa Giê-su. Thay vì Chúa Giê-su trở nên chốn nương tựa cho niềm tin của họ vào Thiên Chúa, nhưng bởi đã nuôi sẵn trong tim, trong óc mình một định kiến ganh tỵ, thù ghét và chống đối, một định kiến ảo tưởng chỉ có bản thân mình mới có quyền vượt lên trên người khác, đã làm cho họ hoàn toàn đui mù. Cái mù đôi mắt, dù là một nỗi bất hạnh, nhưng không đáng sợ bằng cái mù tâm hồn. Đui mù tâm hồn làm cho người ta chỉ biết dừng lại trên chính mình và loại trừ người khác. Đui mù tâm hồn đưa người ta đến chỗ kết án anh em mà quên kiểm tra mình. Đui mù tâm hồn làm cho người ta không nhìn thấy gì hết mà chỉ sống ảo tưởng: Mình là trên, là nhất, còn mọi người xung quanh, dẫu có tốt đến đâu, cũng chỉ là sản phẩm của tội, của cái xấu.
Đáng thương cho những người Do-thái thời Chúa Giê-su. Bởi khi gán cho anh chị em mình bản án tội lỗi, mặc nhiên họ nhìn nhận bản thân họ vô tội. Nhưng những người "vô tội" như họ sao không làm nổi một dấu lạ, dẫu là một dấu lạ nhỏ nhất, còn những người bị kết án là tội lỗi lại làm nên một dấu lạ phi thường và được thừa hưởng kết quả tuyệt vời của dấu lạ ấy ? Đâu phải họ không nhận ra điều đó. Thánh Gio-an cho biết: "họ bất đồng ý kiến" vì một câu hỏi được nảy sinh: "Làm sao người tội lỗi lại có thể làm được những phép lạ thể ấy ?" Giá mà họ tận dụng lời hỏi này như một lời tra vấn lương tâm, có lẽ họ đã thay đổi não trạng. Nhưng đáng thương và cũng đáng tiếc cho những người lãnh đạo Do-thái thời đó, bởi điều ấy đã không xảy ra. Sẵn một định kiến xấu xa quá lớn về Chúa Giê-su, làm cho họ đui mù hoàn toàn. Một sự đui mù quá nguy hiểm.
Nhưng cũng đáng thương và đáng sợ vô cùng cho cả tôi và bạn, nếu chúng ta cũng có sẵn một định kiến nào đó không hay cho anh chị em mình. Xã hội đã có quá nhiều những định kiến như thế. Một người đã từng vướng vào tội ăn trộm, suốt đời anh ta chỉ là một tên ăn trộm. Một cô gái lỡ lầm ngã vào con đường buôn son, bán phấn, suốt đời cô trở thành nạn nhân của những lời dè pha không dứt. Một người vừa ra khỏi tù, gõ hết cửa nghề nghiệp này, đến cửa nghề nghiệp khác, không ai dám đón nhận. Một người lỡ sa vào nghiện ngập hay lỡ mắc bệnh AIDS, thay vì được thông cảm, suốt đời người ấy bị nhìn bằng ánh mắt tầm thường, khi dễ... Bởi đó, thay vì anh chị em của ta có thể nên tốt thì do định kiến của mọi người, đẩy họ rơi vào những hoàn cảnh còn bi đát hơn. Khi mang sẵn một định kiến xấu cho anh chị em, dẫu không ai mời ta làm quan án, ta trở thành quan án bất công.
Chúa Giê-su không bao giờ có sẵn một định kiến như thế. Chúa sẵn sàng quên hết lỗi của chị phụ nữ có sáu đời chồng mà Người gặp bên bờ giếng Gia-cóp, và cũng y như thế đối với người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang. Giọt nước mắt sámhối của cô Maria đổ trên chân Chúa Giê-su, đã làm cho Chúa ngay lập tức không còn nhớ đến tội của cô. Mãi mãi không ai nghe thấy Chúa nhắc tới sự tranh giành quyền lực của hai anh em Gia-cô-bê và Gio-an. Chúa cũng không bao giờ truất quyền làm Giáo Hoàng của Phê-rô, vì nông nổi mà chối Thầy đến ba lần chỉ trong vài tiếng đồng hồ. Chúa cũng không bao giờ mở lời trách móc Giu-da nặng nề: "Mày sinh ra trong tội", như người Do-thái lên án anh mù, dẫu Chúa Giê-su có quyền làm điều đó, vì Chúa là Chúa và Giu-da phạm tội tày trời: đan tâm bán đứng Thầy mình.
Trên thập giá, Chúa Giê-su đã cầu nguyện cho những kẻ nhẫn tâm giết mình: "Xin Cha tha cho họ..." Và Chúa cũng không bao giờ có sẵn một định kiến hẹp hòi nào đối với chính chúng ta. Trong đời bạn và tôi, có bao nhiêu lần đi xưng tội, là bấy nhiêu lần Chúa quyên tội ta, quên tất !...
Mùa Chay là mùa ăn năn sám hối. Hãy bắt đầu ăn năn sám hối bằng sự nhìn nhận và tin tưởng anh chị em quanh mình. Hãy gở bỏ cái mặt nạ xấu xa vô hình mà ta đã dán lên cuộc đời của một ai đó. Hãy xóa đi những định kiến xấu trong lòng ta. Bạn và tôi hãy nên giống Chúa Giê-su !
Người đàn ông mù đã "sáng" ra nhiều hơn nữa khi anh ta bị tra hỏi. Sau khi được chữa lành anh vẫn nói "tôi không biết". Nhưng sau một lúc tranh luận, anh ta cho rằng Đức Giêsu là "một vị ngôn sứ". Sau khi bị tra hỏi, anh ta tuyên xưng thêm rằng Đức Giêsu là "người bởi Thiên Chúa mà đến". Cuối cùng, khi thừa nhận mình dốt nát (hay là mù lòa) và được chính Đức Giêsu dạy bảo, anh ta thú nhận "Thưa Ngài, tôi tin."
Ngược laị với anh mù là những vị không những sáng mắt mà còn thông luật cuả Môsê và luật giáo hội nữa. Đầu tiên họ nhìn thấy phép lạ nhưng không biết do quyền của ai. Sau đó họ thắc mắc không biết ông có bị mù thực sự không. Cuối cùng họ kết luận là người đàn ông kia là một kẻ có tội và trục xuất anh (và cả Đức Giêsu nữa). Thế là họ đã bị đui mù hoàn toàn.
"Ta đến trong thế gian để gây chia rẽ", "chia rẽ" đây ngụ ý là ngày phán xét Chúa sẽ phân chia kẻ lành khỏi người dữ.
Một Điểm Chính
Đức Giêsu là ánh sáng cho thế gian.
Một người mù lòa tầm thường được thấy vì tin vào Đức Giêsu. Những người có chức vị cao trọng đầy quyền thế thì lại không nhìn ra ánh sáng chân lý. Kinh thánh hay nêu ra những mâu thuẫn như vậy. Một lần nữa, Đức Giêsu lại đảo lộn cả xã hội.
Suy Niệm
Tôi có nhận ra tình trạng mù lòa của tôi, và xin Chúa Giêsu ban cho ánh sáng không? Ngài có mở mắt cho tôi không?
Có khi nào lòng tự hào về kiến thức và khả năng tự lực làm cho tôi trở nên mù lòa không? Tôi đã làm gì để bị lâm vào tình trạng tăm tối đó?
1. Luật Mô-sê – do Thiên Chúa ban hành – kết án rất nặng những người lỗi luật sa-bát. Tại sao Đức Giê-su lại dám chữa bệnh trong ngày lề luật cấm làm việc? Ngài không tuân hành luật lệ chính Chúa Cha ban hành sao? Ngài làm gương xấu chăng? Ngài hành động theo nguyên tắc nào?
2. Lề luật có phải là mục đích của con người không? Mục đích của lề luật là gì? Giữa mục đích của lề luật và chính lề luật, cái nào trọng hơn? Con người phải thực hiện cái nào?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giê-su xem ra không nghiêm chỉnh giữ luật Mô-sê
Một trong những lý do khiến cho người ta không nhận ra các vị ngôn sứ trong thời đại của mình là các ngôn sứ ấy có vẻ như không sống đúng theo quan niệm triết học, thần học hay đạo đức của người đương thời. Người ta có lý của người ta. Lý của họ căn cứ trên sách vở đàng hoàng, họ cũng «nói có sách, mách có chứng» chứ không phải vô căn cứ. Thật vậy, một trong những điều khiến các kinh sư Do Thái không nhận ra Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế mà họ đang trông chờ, vì họ lý luận: «Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát».
Luật Mô-sê chỉ định rõ ràng phải thi hành thật nghiêm chỉnh luật nghỉ ngày sa-bát: «Ngày thứ bảy là ngày sa-bát kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi» (Xh 20,10). Vi phạm ngày sa-bát là một trọng tội đáng tử hình: «Các ngươi phải giữ ngày sa-bát, vì đó là ngày thánh đối với các ngươi. Kẻ nào vi phạm điều ấy, thì sẽ bị xử tử; phải, kẻ nào làm việc trong ngày ấy, sẽ bị khai trừ khỏi dân nó» (Xh 31,14; xem 35,2; Đnl 5,14). Như vậy, theo quan niệm của các kinh sư Do Thái, một người xuất phát từ Thiên Chúa ắt phải tuân giữ luật sa-bát thậm chí nghiêm chỉnh hơn họ. Nghĩ như thế xem ra rất hợp lý.
Thế mà Đức Giê-su lại chữa bệnh trong ngày sa-bát, là điều không được phép làm trong ngày ấy, mà câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay là một điển hình. Dưới mắt các kinh sư Do Thái, Ngài đã vi phạm luật này không phải chỉ có lần này, mà đã rất nhiều lần (xem Mt 12,1-2; 12,12-13; Lc 13,13; 14,3-4; Ga 5,8-11; 9,14). Nếu chiếu theo luật Mô-sê, Ngài đáng bị tử hình. Vì thế, rất nhiều lần họ tìm cách hãm hại và giết Ngài là để thi hành luật Mô-sê (xem Mt 12,14; Mc 3,6; 11,8; 12; v. v…). Để tránh hành động theo kiểu các kinh sư Do Thái, nhất là đối với những ngôn sứ của thời đại, chúng ta cần hiểu rõ hơn về lề luật.
2. Vai trò và giới hạn của lề luật
Trong xã hội cũng như Giáo Hội, không thể không có lề luật. Lề luật làm cho xã hội có tôn ti trật tự, nhờ đó có an ninh, tính mạng, của cải của mọi người được tôn trọng và bảo đảm. Trong tôn giáo, lề luật giúp mọi người thực hiện được lý tưởng của tôn giáo, là bản đồ chỉ dẫn con người tiến bộ trong lãnh vực tâm linh. Nói chung, trong xã hội con người, dù nhỏ bé như gia đình, hội đoàn, hay lớn lao như quốc gia, thế giới, xã hội nào cũng cần có luật lệ.
Tuy nhiên, luật lệ không phải là một cái gì tuyệt đối mà tất cả mọi người phải tuân theo trong tất cả mọi trường hợp. Có những điều còn cao trọng hơn lề luật: đó là tình yêu được phản ánh nơi lương tâm. Theo luân lý Ki-tô giáo, người Ki-tô hữu phải coi mệnh lệnh của lương tâm đã được giáo dục của mình hơn cả luật của chính Giáo Hội, và đương nhiên cả luật đời nữa. Luật tối thượng là luật của Thiên Chúa, là Tình Yêu, được biểu hiện nơi lương tâm ngay thẳng của con người. Đối với cá nhân, lương tâm ngay thẳng là tiêu chuẩn cuối cùng mà con người phải theo khi có những xung đột giữa các tiêu chuẩn phải theo, trong đó có lề luật. Sách Giáo lý chung viết: «Con người luôn luôn phải vâng theo phán đoán chắc chắn của lương tâm mình» (số 1800).
3. Luật lệ vì con người, chứ không phải con người vì lề luật
Trong Kitô giáo, luật lệ không phải là những nguyên lý tuyệt đối phải tuân theo, nó chỉ là một phương tiện bất toàn, vì trong nhiều trường hợp, phương tiện này lại đi ngược lại với mục đích. Xin đan cử một trường hợp mà tôi đã từng gặp: Một buổi chiều Chúa nhật, một lương y ở một vùng quê rất hiếm thầy thuốc nọ đang chuẩn bị đi lễ vì sáng chưa đi, thì có một bệnh nhân sốt rét đến năn nỉ hết lời xin ông ta chữa bệnh, vì bệnh thì nặng mà nhà thì quá xa, vả lại trời sắp tối. Nhưng nghĩ tới luật Giáo Hội buộc nặng phải đi dự lễ, ông ta đã quyết liệt từ chối mặc cho người bệnh ra sao thì ra, sau khi đã giải thích rõ lý do. Trường hợp này, ông thầy thuốc tuy giữ đúng luật Giáo Hội, nhưng lại hành động ngược lại với cốt tủy và mục đích của lề luật là tinh thần yêu thương (mến Chúa và yêu người). Một trường hợp khác: luật Chúa đòi hỏi người Kitô hữu phải luôn luôn nói sự thật, vì sự dối trá thường gây thiệt hại cho tha nhân hoặc cho chính mình. Mục đích của luật này là thực hiện đức ái. Nhưng trong một số trường hợp cá biệt (chẳng hạn bí mật quốc gia, hay khi bị kẻ địch điều tra về đồng bạn cùng chiến đấu cho lý tưởng, hay thầy thuốc với bệnh nhân ung thư), lời nói thật có thể gây thiệt hại nghiêm trọng cho xã hội, cho ích lợi chung, hay cho người vô tội, thì riêng trong trường hợp đó, việc nói sự thật đi ngược lại với mục đích của luật buộc nói sự thật. Những trường hợp tương tự như thế, người Kitô hữu không nên câu chấp vào lề luật: «Ngày sabát (hay lề luật) được làm ra vì con người, chứ không phải là con người được dựng nên vì ngày sabát (hay lề luật)» (Mc 2,27).
Theo Phaolô «Lề Luật là thánh và điều răn cũng là thánh, đều đúng và tốt» (Rm 7,12; 1Tm 1,8) vì nó diễn tả ý muốn của Thiên Chúa. Nhưng cũng theo Phao-lô, «lề luật không phải được lập ra cho những người công chính», mà cho những người còn yếu đuối, non nớt về trí huệ, về tâm linh (1Tm 1,9). Vì thế, không thể căn cứ vào việc giữ lề luật nghiêm chỉnh của một người mà cho rằng người ấy là công chính: «Sự công chính không hệ tại việc giữ luật pháp, vì nếu như vậy thì cái chết của Đức Kitô trở nên vô ích» (Gl 2,21). Sự công chính đòi hỏi một cái gì cao hơn nữa. Về vấn đề này, thánh Phao-lô nói rất rõ và rất nhiều: «Không ai được nên công chính trước mặt Thiên Chúa nhờ Lề Luật, đó là điều hiển nhiên, vì người công chính sống bởi đức tin» (Gl 3,11); «Trước nhan Chúa, không người phàm nào được nhìn nhận là công chính vì đã làm những gì Luật dạy. Luật chẳng qua chỉ làm cho người ta ý thức về tội» (Rm 3,20); «Người ta được nên công chính vì tin chứ không phải vì làm những gì luật dạy» (Rm 3,28), v.v…
4. Sự lợi hại của lề luật
Lề luật có thể là một con dao hai lưỡi: một đằng rất cần thiết và có lợi cho tâm linh, nhưng đằng khác có những bất lợi. Chẳng hạn khi người ta giữ luật một cách hoàn hảo thì họ lại dễ ỷ vào đó để tự hào, kiêu căng, tự cho mình là công chính, như trường hợp người Pharisiêu vào đền thờ cầu nguyện cùng với người thu thuế (xem Lc 18,9-14). Chính sự tự hào đó đã phá đổ tất cả mọi công trình giữ luật của ông. Một nhược điểm khác của lề luật là: tuy soi sáng cho tâm trí, nhưng lại không đem lại sức mạnh nội tâm để sống theo sự soi sáng đó. Người ta có thể biết rất rõ lề luật dạy phải làm thế này thế kia, nhưng không vì biết rõ luật mà người ta có động lực thúc đẩy để làm những điều luật đòi buộc, mà lắm khi lại bị thúc đẩy làm những điều trái với Lề Luật: «Điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm» (Rm 7,14). Chính vì thế mà người Do Thái, tuy có Lề Luật của Thiên Chúa – tức Luật Môsê – nhưng họ cũng tội lỗi không kém gì dân ngoại (xem Rm 2,17-18.21-24).
Điều quan trọng mà người Ki-tô hữu phải củng cố chính là tình yêu. Trong Ki-tô giáo, tình yêu chính là mục đích của lề luật: lề luật giúp người ta thể hiện tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Tình yêu làm cho người ta nên giống Thiên Chúa, hay nên công chính. Do đó, lề luật chỉ là phương tiện, còn tình yêu mới chính là mục đích. Đang khi lề luật không phải là một động lực thúc đẩy người ta làm điều thiện, thì tình yêu chính là một động lực rất mạnh. Nếu theo như Phao-lô, «lề luật không phải được lập ra cho những người công chính» (1Tm 1,9), điều đó có nghĩa là lề luật không được lập nên cho những người có tình yêu đích thực. Người có tình yêu đích thực – đối với Thiên Chúa và mọi người – thì chỉ cần hành động theo sự đòi hỏi hay thúc đẩy của tình yêu. Chính Đức Giê-su hành động theo sự thúc đẩy của tình yêu chứ không theo sự soi sáng của lề luật (xem Mt 12,11-12). Thánh Âu Tinh cũng nói: «Cứ yêu đi đã rồi muốn làm gì thì làm» (Ama et fac quod vis). Người có tình yêu đích thực tự nhiên sẽ làm đúng với lề luật. Và nếu họ có làm gì khác với lề luật, thì trường hợp đó, họ đã làm đúng hơn và cao hơn mức lề luật đòi hỏi.
Cầu nguyện
Lạy Cha, chúng con đang sống trong một thế giới đầy bất công. Tình yêu thúc đẩy chúng con phải làm một cái gì. Nhưng có biết bao nhiêu nguyên tắc của luân lý, của xã hội, của Giáo Hội ngăn cản chúng con: nào là không được bạo động, không nên dùng sức mạnh, không nên làm chính trị, v.v… Nhưng người cha hay người mẹ sẽ làm gì khi đứa con nhỏ của mình gặp nguy hiểm, đang bị hãm hiếp? Họ sẽ làm theo tình yêu thúc đẩy, hay sẽ theo luật lệ của xã hội? Lạy Cha, chúng con phải làm theo cái gì, theo sự thúc đẩy của tình yêu, của lương tâm, hay theo những nguyên tắc của con người, của xã hội, thậm chí của Giáo Hội đặt ra? Xin Cha hãy soi sáng cho chúng con. Ý Cha muốn thế nào?
1. Luật Môsê – cũng là luật của Thiên Chúa – buộc phải xử tử những kẻ ngoại tình bị bắt quả tang. Đức Giêsu có tuân theo luật ấy không? Tại sao?
2. Luật mới của Đức Giêsu – luật yêu thương – đòi hỏi những gì? Nếu không biết thông cảm và tha thứ, mà chỉ thích phán xử và kết án, ta có phải là kẻ giữ luật mới của Ngài không?
Suy tư gợi ý:
1. Các kinh sư Do Thái gài bẫy Đức Giêsu
Các nhà lãnh đạo Do Thái giáo muốn dùng trường hợp người phụ nữ ngoại tình này để gài bẫy Đức Giêsu hầu tìm ra cớ tố cáo Ngài. Nếu Ngài tuyên bố không nên ném đá phụ nữ này, thì Ngài đã không tuân luật Môsê. Môsê viết: «Nếu một người đàn ông bị bắt gặp đang nằm với một người đàn bà có chồng, thì cả hai phải bị xử tử» (Đnl 22,22; x. Lv 20,10). Mà Ngài đã không tuân luật Môsê, thì họ sẽ tố cáo Ngài trước dân chúng, và dân chúng buộc phải tẩy chay Ngài. Vì giữa luật Môsê và Ngài, thì dân chúng phải tin vào luật Môsê hơn. – Nếu Ngài tuyên bó6 phải ném đá, thì họ sẽ tố cáo Ngài với chính quyền Rôma, và Ngài sẽ bị chính quyền Rôma xét xử, vì Ngài đã vi phạm luật Rôma. Theo luật Rôma, người dân thuộc địa không có quyền lên án giết ai cả (x. Ga 18,31). Nhưng cách giải quyết của Ngài chẳng những giúp Ngài thoát cái bẫy này một cách tài tình, mà còn làm ê mặt các nhà lãnh đạo tôn giáo, đồng thời còn cho họ và cho chúng ta một bài học để đời.
2. Tại sao Đức Giêsu không tuân theo luật Môsê?
Luật Môsê là luật của Thiên Chúa (x.2Mcb 7,11; Tv 1,2; Lc 2,23-24). Thời Cựu ước, dân Do Thái ai nấy đều tin rằng đã là luật của Thiên Chúa thì sẽ là luật muôn đời không bao giờ thay đổi. Trong Kinh Thánh, có rất nhiều câu xác định luật này là luật vĩnh viễn cho con người (x. Xh 12,17.24; 27,21; 30,21; Lv 6,11.15; 7,34; Br 4,1; v.v…), là luật chung cho cả địa cầu (x.1Sb 16,14; 2Sm 7,19; Tv 105,7). Và con người phải tuân giữ luật, vì có như thế mới là tôn kính và yêu mến Thiên Chúa (Đnl 17,19; Gs 22,5; Hc 2,16; 15,1). Ai tuân giữ luật thì được hạnh phúc, được sống đời đời (Tv 119,1.165; Cn 29,18; Kn 6,18). Ai không giữ luật thì chính mình và cả con cháu ba bốn đời sẽ Thiên Chúa bị nguyền rủa, trừng phạt (x.1Sb 15,13; Xh 34,7; Er 7,26; Gr 19,15).
Vậy, luật Môsê buộc phải xử tử hình những kẻ phạm tội ngoại tình, tại sao Đức Giêsu không tuân theo luật ấy mà lại tìm cách tha cho người phụ nữ này? Đức Giêsu không giữ luật? Có phải vì Ngài không muốn vi phạm luật Rôma nên đành vi phạm luật Môsê? Hay Ngài chỉ muốn tìm cách nào thoát khỏi cái bẫy này? Hay Ngài là một nhà làm luật mới?
3. Đức Giêsu đến lập luật mới là luật yêu thương và tha thứ
Nhiều người tưởng rằng hễ đã là luật của Thiên Chúa thì sẽ là thứ luật muôn đời không thay đổi theo không gian và thời gian, nghĩa là luật của Ngài phải được áp dụng cho mọi dân tộc trong mọi thời đại. Nhưng không phải như vậy! Thiên Chúa lập luật cho con người chứ không phải cho Ngài. Luật đó vì con người, nên phải phù hợp với con người. Mà con người thì luôn luôn thay đổi: trình độ tâm linh và sự hiểu biết của con người luôn luôn tiến triển. Nên để phù hợp với con người, luật Chúa cũng phải thay đổi. Thật vậy, lịch sử cứu độ cho thấy luật cũ của Môsê đã được thay thế bằng luật mới của Đức Giêsu: «Ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể hiện mà không cần đến Luật Môsê» (Rm 3,21; x. Ep 2,15; Dt 7,18). Các tông đồ đã chính thức tuyên bố bãi bỏ luật Môsê (x. Cv 15,28-29).
Con người thời Cựu ước giống như nhân loại còn là trẻ con. Khi ta còn là trẻ con, cha mẹ ta ra luật cho ta, và bắt ta giữ. Nếu ta không giữ thì bị đòn, nếu ta giữ thì được khen thưởng. Động cơ giữ luật của ta là sợ phạt và ham thưởng. Nhưng khi lớn lên, ta không còn giữ những luật đơn sơ ngày xưa nữa, không giữ luật một cách nô lệ nữa. Động cơ khiến ta giữ luật không còn là sợ hãi hay ham thưởng nữa, mà là tình yêu (đối với Thiên Chúa, với chân, thiện, mỹ, với cha mẹ, với mọi người). Khi trưởng thành, ta biết điều nào là đúng, là hợp lý, là phù hợp với tình yêu, và ta biết ta phải hành động thế nào.
Thời Đức Giêsu, nhân loại đã trưởng thành về tâm linh hơn thời Môsê, nên Ngài đã khai mạc một kỷ nguyên mới, với luật mới của Ngài. Luật của Ngài chỉ có một khoản duy nhất: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34). Vì thế, Ngài cũng như chúng ta, những kẻ theo Ngài, không còn hành xử theo luật Môsê nữa, mà hành xử theo sự thúc đẩy của tình yêu.
4. Luật yêu thương đòi hỏi sự thông cảm và tha thứ
Tình yêu đòi hỏi phải thông cảm và tha thứ… Thông cảm vì bản thân ta cũng như mọi người khác đều rất yếu đuối và bị lệ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh. Kết cuộc, con người «ai cũng phạm tội» (Rm 5,12): «Không ai là người công chính, dẫu một người cũng không» (Rm 3,10; x.1Ga 1,10). Nếu mình cũng phạm tội, mà mình lại kết án người khác, thì quả thật có chút gì «vô liêm sỉ» ở trong đó.
Đức Giêsu tuy không hề phạm tội (x.1Pr 2,22), nhưng Ngài lại không lên án ai. Ngài đã từng chịu ma quỉ cám dỗ, nên Ngài rất am hiểu sự yếu đuối của con người. Vì thế, đứng trước người phụ nữ này, Ngài hiểu hết những tình huống đã dẫn chị ta đến với cơn cám dỗ, và từ cơn cám dỗ đến những hành vi tội lỗi. Ngài hoàn toàn thông cảm với chị. Ngài ghê tởm những kẻ tuy cũng cảm thấy mình yếu đuối như chị, cũng đã từng sa ngã khi gặp cám dỗ như chị, nhưng lại vẫn muốn kết án chị. Dường như kết án chị, họ mới thỏa mãn niềm kiêu hãnh phát xuất từ một ảo tưởng rằng họ vô tội. Họ thích sống trong ảo tưởng đó, và muốn củng cố ảo tưởng đó bằng cách kết án người khác. Họ nghĩ càng kết án thì càng chứng tỏ mình trong sạch, vô tội.
Đức Giêsu thấy ác tâm của họ, Ngài kêu gọi lương tâm họ, đánh thức tính liêm sỉ trong lòng họ. Ngài bảo họ: «Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi». Ngài biết đã là con người yếu đuối, nếu không có ơn siêu nhiên giúp, họ không thể nào tránh được tội lỗi. Lời nói của Ngài buộc họ phải tự xét lại chính mình. Và một khi đã tự xét mình một cách thành thật, chắc chắn ai cũng thấy ít nhiều tội lỗi của mình. Ngài đã cho họ một kinh nghiệm tâm linh: hãy thông cảm với tội lỗi của kẻ khác, vì chính bản thân mình cũng có tội.
Một khi đã thông cảm với tội lỗi người khác, thì chỉ còn biết tha thứ, bỏ qua, rồi lại tiếp tục yêu thương, tôn trọng họ.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con cảm thấy mình rất yếu đuối. Nhiều khi con đã phạm tội, và con đã từng phải xấu hổ vì tội của con. Nhưng lạ thay, khi thấy tha nhân chung quanh con phạm tội, nhiều khi con lại mạnh mẽ lên tiếng kết án họ. Khi con phạm tội, con muốn Cha và tha nhân thông cảm và tha thứ cho con. Nhưng khi người khác phạm tội, con lại không muốn thông cảm và tha thứ cho họ. Tại sao con lại mâu thuẫn như vậy? Con là như vậy sao? Trái tim con quả là bằng đá. Xin Cha hãy sửa dạy con. Cho con một trái tim bằng thịt thật sự, biết yêu thương, thông cảm với những yếu đuối của mọi người, và sẵn sàng tha thứ tất cả.
Khi phải đương đầu với nghịch cảnh, bất hạnh, khổ đau, không ít người đã kêu trách: "Thiên Chúa đâu rồi? Nếu có Thiên Chúa, tại sao Ngài lại để cho sự ác hoành hành trên chúng tôi?"
Trước một thảm kịch trong cuộc sống, có những người tức giận chối từ Thiên Chúa, nhưng cũng không ít tâm hồn vươn lên đứng vững trong niềm tin.
Tôi ngạc nhiên vô cùng về thái độ của dân Hoa Kỳ sau biến cố tang thương tại New Yord do bọn khủng bố cuồng tín gây ra trong năm vừa qua. Trước nhưng đổ nát hoang tàn và không khí tang thương bao trùm khắp nước, ấy thế mà người ta, từ già đến trẻ, từ cao sang quan quyền đến nghèo hèn thấp kém, đều cất vang tiếng hát: "God bless America" (Thượng Đế ban phúc lành cho Hoa Kỳ). Tôi tự hỏi: tại sao trước những đống gạch vụn và những xác người bấy nát mà họ lại cất lên được lời ca đó? Họ thấy được gì trong nỗi bất hạnh tột cùng của đất nước? Phải chăng vinh quang Thượng Đế đang tỏa sáng?
Khi sự bất hạnh xảy đến, nhiều người sẽ mau đi tìm nguyên nhân gây ra nó. Cũng như khi thấy người mù từ thuở mới sinh phải lao đao khốn đốn trong bóng tối triền miên cuộc đời, các môn đệ liền thắc mắc với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội, nó hay cha mẹ nó, để nó phải sinh ra mù lòa như thế?" Đức Giêsu trả lời: "Không phải nó cũng chẵng phải cha mẹ nó, nhưng để công việc của Thiên Chúa được tỏ rạng nơi y".
Song để vinh quang Thiên Chúa được rạng tỏ nơi mình, tức là để được thấy ánh sáng tự nhiên và ánh sáng siêu nhiên, người mù đã trải qua một hành trình thử thách gian nan. Sau bao tra vấn, khủng bố, khước từ của nhóm Pharisêu Biệt phái, anh đã dần dần nhận ra dung mạo đích thực của Đức Giêsu.
Lúc đầu anh chỉ xem Giêsu như một con người đặc biệt. Có lẽ từ xưa đến nay, anh chưa bao giờ gặp một nhân vật tốt lành như thế. Cho nên khi bị chất vấn "ai đã chữa lành anh?", anh chỉ biết trả lời: "Một người có tên Giêsu đã làm bùn xức mắt tôi và bảo tôi đi rửa ở hồ Silôe. Tôi rửa và thấy được".
Rồi khi được hỏi ý kiến: "Còn anh, anh nói sao về con người Giêsu đó?" Anh liền thưa: "Ngài là một tiên tri". Như thế trong nhận thức của anh mù mới được chữa lành, Đức Giêsu không chỉ là một con người thuần túy, nhưng còn là một con người được Thiên Chúa sai mang sứ điệp đến cho nhân loại.
Vì lời tuyên xưng Đức Giêsu là người của Thiên Chúa mà anh mù đã bị tống xuất ra khỏi hội đường Do thái. Thế nhưng khi người ta loại bỏ anh thì Đức Giêsu lại đón nhận anh, và mạc khải cho anh trọn vẹn hơn dung mạo của Ngài: "Khi nghe họ trục xuất anh mù, Chúa Giêsu gặp anh và nói: ngươi có tin Con Thiên Chúa không? Anh ta thưa: Thưa Ngài, đó là ai để tôi tin Người? Chúa Giêsu đáp: Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh. Anh liền thưa: Lạy Ngài, tôi tin. Nói xong anh liền sấp mình xuống bái lạy Ngài" (Gn 9:35-38).
Trên hành trình tiến đến ánh sáng tự nhiên, người mù đã trải qua ba giai đoạn: được sức bùn, đi rửa mắt, và mắt sáng. Riêng hành trình tiếp cận ánh sáng siêu nhiên, anh mù cũng đã trải qua ba bước nhảy trong việc khám phá chân dung đích thực của Chúa Giêsu: con người, Tiên tri, Thiên Chúa.
Những bước nhảy của niềm tin được kết tinh nơi hành vi quỳ xuống bái lạy. Đây là cao điểm của phép lạ "Chúa Chữa Người Mù": qua việc phục hồi thị giác tự nhiên, Đức Giêsu trao ban ánh sáng đức tin. Chính ánh sáng này sẽ mang lại niềm vui và sự sống trọn vẹn cho người ta.
Đi trong ánh sáng đức tin gọi là "thấy rõ đường đi nước bước", còn ngoài đó, mọi sự chỉ là tăm tối mịt mù. Có niềm tin vào Thiên Chúa, kẻ mù lòa thể lý khốn khó đường đời, hay lao đao cuộc sống, vẫn thấy rõ hướng đi hạnh phúc, tràn đầy hy vọng, và an vui tâm hồn.
Đối với người có đức tin vững mạnh vào Đức Giêsu, mọi tai họa, gian nguy, khốn khó sẽ là dịp giúp họ thấy rõ hơn dung nhan tươi sáng của Thiên Chúa tình yêu trong cuộc đời.
Tin vào Đức Giêsu, người ta sẽ nhận thấy rằng Ngài là Vị Tôn Sư trên tất cả tôn sư. Tin tưởng nơi Ngài, thì dù gian nguy có xảy đến, đối phương có quần thảo tan hoang, ta vẫn sẽ gặp được vinh quang chiến thắng trên mãnh lực của sự ác và sự tội. Bởi như lời thánh Phaolô xác quyết: "Đối với những ai yêu mến Thiên Chúa thì Ngài sẽ đồng công cộng tác biến mọi sự nên lành" (Rm 8:28).
Phép lạ Chúa Giêsu lấy bùn chữa một người mù từ mới sinh cho anh ta xem thấy được trong bài Phúc âm hôm nay có hai hậu quả đối nghịch:
Với bọn Biệt phái thì đó là một phép lạ làm họ điên đầu và dồn họ vào ngõ bí. Vì sự cố chấp mù quáng và thiếu bác ái bọn Biệt phái đã võ đoán:"Chúa Giêsu không phải bởi Thiên Chúa vì không giữ ngày Sabat"(Ga 9:16). Hơn thế nữa họ còn kết án Chúa Giêsu là người tội lỗi: "Phần chúng ta, chúng ta biết đó là một người tội lỗi" (Ga 9:24). Nhưng "làm sao một người tội lỗi mà lại làm được những phép lạ thể ấy?" (Ga 9:16). Họ chia rẽ nhau và đã bí lại càng bí thêm, bí đến độ thành ngu xuẩn vì thành kiến, khiến họ bị người mù mới được khỏi đó, một người ăn xin quê mùa thất học, dạy cho một bài học: "Đó mới thật là lạ: Người đã mở mắt tôi thế mà các ông không biết Người bởi đâu đến! Nhưng chúng tôi biết chắc rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi. Chỉ những ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Người thì kẻ đó mới được Thiên Chúa nghe lời. Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã mở mắt người mù từ mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì" (Ga 9:30-33). Thật là một bài học hùng hồn, chí lý và hoàn toàn hợp sự thật khiến bọn Biệt phái cắn răng chịu thua không dám nghe phải vội đuổi anh ta ra ngoài (Ga 9:34). Họ là những kẻ có mắt mà mù đúng như lời họ nói: "Thế ra chúng tôi mù cả ư?" (Ga 9:10). Đối với bọn Biệt phái cố chấp và kiêu căng thì như thế.
Nhưng đối với người ăn mày mù đơn sơ và thành tâm này, phép lạ trên lại có một hậu quả khác hẳn. Trước hết đối với mọi người đang hồ nghi và bàn tán, anh tự nhận chính mình đã được Chúa Giêsu làm phép lạ lấy bùn chữa mắt: "Chính là tôi đây..(đã được) Người mà thiên hạ gọi là Giêsu làm bùn xức mắt tôi và bảo hãy đi rửa ở ao Siôe. Tôi đã đi, đã rửa và đã trông thấy" (Ga 9:9-11). Anh nói lên sự thật để ca ngợi Thiên Chúa. Lại nữa tuy chưa biết Chúa Giêsu là ai, nhưng lòng anh đã rộng mở nên đã nhận ra rằng "Nếu Người đó không phải bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì" (Ga 9:33). Vì thế khi gặp lại Chúa Giêsu và được Người hỏi: "Ngươi có tin Con Thiên Chúa không?" thì anh ta mau mắn thưa lại ngay: "Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?" Và khi được Chúa Giêsu tỏ mình ra cho anh: "Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh đây" thì anh ta liền nói: "Lạy Thầy, tôi tin". Đức tin chân thành ấy còn được chứng minh bằng việc "anh sấp mình thờ lạy Người" (Ga 9:33-38). Chính đức tin ấy đã làm cho anh được sáng cả mắt xác thịt lẫn mắt linh hồn.
Để linh hồn chúng ta được Chúa chữa cho khỏi mù vì tội lỗi, chúng ta cũng hãy bắt chước người mù này vâng lời Chúa mau mắn đi rửa Linh hồn ở ao Silôe tức là nơi tòa Giải tội. Sau đó khi linh hồn được sáng rồi chúng ta hãy "ăn ở như con cái sự sáng" mà "hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành công chính và chân thật" (Eph 5:8-9). Đó cũng chính là tinh thần cải thiện đời sống của mùa Chay.
Lạy Chúa, tuần này con quyết đi tẩy rửa nơi tòa Giải tội để Linh hồn con được sáng.
Câu chuyện về một người mù được Chúa cho sáng mắt đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề. Một vấn đề cần suy nghĩ ở đây, đó là tính kiêu căng cố hữu nơi con người, một sự kiêu căng đã mang đến bao tai hại cho cá nhân, gia đình và xã hội về nhiều phương diện.
- Có tội, nhưng không bao giờ nhận mình có tội. - Bất lực nhưng vẫn tưởng mình có đầy khả năng. - Tối tăm mù lòa nhưng lại cho mình sáng suốt thông minh.
Khi chúng ta không thành thật khiêm nhượng và can đảm nhận ra sự bất lực, tối tăm và tội lỗi của kiếp người, thì không ai có thể giải thoát chúng ta được, kể cả Thiên Chúa. Đó là điều chúng ta đọc thấy trong câu truyện hôm nay. Người ăn xin, mù mắt nhưng tâm trí anh ta lại sáng suốt. Anh ý thức được thân phận cùng khốn của mình và nhận ra Đức Kitô là Đấng toàn năng và từ bi, nên anh đã chấp nhận sự can thiệp của Chúa. Nhờ bàn tay Chúa, không những cặp mắt thể xác của anh có thể nhìn rõ mọi sự vật, mà tâm trí của anh càng sáng chói thêm. Nhờ tâm trí này, anh đã tin rằng người chữa mắt cho anh "là một tiên tri", bởi vì "nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm gì được." Trái lại, những anh em Biệt Phái, dù có cặp mắt sáng để đọc và nghiên cứu Thánh Kinh, nhưng đã không nhận ra Đấng vừa thực hiện phép lạ đó là ai. Thái độ tiêu cực này chính là một thứ mù lòa tinh thần. Bởi vậy, Chúa Giêsu đã nói với những anh em đó: "Nếu anh em mù thì anh em không mắc tội; nhưng anh em nói: chúng tôi xem thấy, nên tội anh em còn đó."
Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta cũng gặp những người, tuy không sáng suốt và hiểu biết trong nhiều lãnh vực, nhưng lại có thể trở thành những ngọn đèn sáng dẫn chúng ta đến với Chúa.
Trước ngày lãnh nhận Bí tích Rửa tội, một cô gái đã chia sẻ với mọi người câu truyện của đời cô:
Ba tôi là người Công giáo, nhưng ông đã bỏ đạo khi lấy má tôi. Điều này làm ông nội tôi rất khổ tâm. Khi tôi được 15 tuổi thì ông tôi bị một chứng bệnh trong óc và chẳng bao lâu thì bị mù. Thấy hoàn cảnh tội nghiệp, tôi xin phép ba má về sống với ông tại một vùng quê, cách xa nhà thờ Công giáo khoảng 600 thước. Công việc chính của tôi tại đây, ngoài việc tiếp tục đến trường, là nấu ăn và dắt ông nội đến nhà thờ dự lễ vào mỗi sáng Chúa nhật. Trên quãng đường quen thuộc này, ông thường kể cho tôi những cảm nghiệm của ông về đức tin, về Thiên Chúa, về Chúa Kitô, đôi khi nhắc lại những câu Kinh Thánh hay những lời Linh mục giảng dạy. Tôi luôn luôn chăm chú nghe, không phải vì thích thú, nhưng vì muốn làm vui lòng ông. Cho đến một lần kia, khi cùng với ông trên đường tới thánh đường tham dự Lễ Giáng Sinh, tôi cảm thấy như có một tiếng mời gọi huyền nhiệm nào đó đang vang dội trong tâm hồn, khiến tôi bồi hồi xúc động. Tôi kéo tay nội đi thật nhanh. Bỡ ngỡ, nội hỏi tôi: "Sao bữa nay con đi nhanh quá vậy?", tôi im lặng... Khi chúng tôi vừa đặt chân tới của nhà thờ, thì cặp mắt tôi như đã mờ hẳn đi vì những giọt lệ cứ trào ra. Không thể giữ lại những cảm xúc cho riêng mình, tôi ôm chầm lấy nội và nói: "Nội ơi, hôm nay con đã thực sự tìm thấy Chúa." Ông hỏi: "Cháu nói thế có nghĩa là gì?" "Nội biết không, những lời Nội nói cho cháu nghe trên quãng đường này vào mỗi sáng Chúa Nhật đã cho cháu ánh sáng để nhận ra Chúa. Cháu dẫn nội đến nhà thờ, nhưng chính nội đã dẫn cháu đến với Chúa."
Ngừng mấy giây lau khô những giọt lệ, cô gái tiếp:
- Đó là lý do tại sao tôi có mặt trong lơp Giáo lý này.
Con người có ngũ quan. Nếu như hoàn cảnh bắt buộc chúng ta phải hủy bỏ một trong ngũ quan, chúng ta sẽ chọn lựa như thế nào: câm điếc hay là mù lòa, cụt tay, cụt chân!... Tất cả đều đáng sợ, chẳng ai muốn mình phải rơi vào tình trạng này. Nhưng bất đắc dĩ phải đắn đo suy nghĩ để chọn lựa, tôi tin rằng, sống trong cảnh mù lòa là điều đáng sợ nhất. Thật là bất hạnh đối với một trẻ ngay từ khi mở mắt chào đời đã phải sống trong tăm tối, phải chấp nhận một cuộc đời không thấy ánh sáng, không nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, con người cũng như cỏ cây! Lúc lớn lên có thể nghe mọi chuyện, có thể sờ mó tất cả, nhưng không thể nào hình dung ra được!
Bài Phúc âm hôm nay cũng nói về những sự việc xẩy ra bên lề của cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và một người bị mù từ thuở mới sinh. Anh ta không thể nào hiểu nổi, tại sao từ khi chào đời mình đã phải mang số phận hẩm hiu như thế này? Mình sinh ra đời làm người như thế này để làm gì? Đâu là ý nghĩa của cuộc đời tôi? Tôi đã làm gì nên tội để rồi phải sống bên lề xã hội, phải đi ăn xin! Phải chăng đây là hình phạt do tội lỗi của cha mẹ gây nên? Anh ta phải quờ quạng, sờ mó mọi vật chung quanh, mong sẽ khám phá ra ý nghĩa của cuộc sống, nhưng tất cả đều vô vọng. Chỉ có một làn da mong manh che đậy đôi mắt, nhưng anh có cảm giác, nó giống như một bức tường dầy đặc, không có cách nào đột phá, khai thông!
"Thà thắp nên một ngọn nến, còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối." Đức Giêsu đến và làm cho anh được thấy ánh sáng. Nhưng hành động của Đức Giêsu đã tạo nên xáo trộn. Tất cả đều bị lôi cuốn vào một cuộc tranh tụng sôi nổi. Họ đã chứng kiến phép lạ nhưng sự việc xảy ra không đúng lúc, bởi vì ngày Sabát. Đàng khác một số người lại nghĩ rằng, một kẻ tội lỗi không thể làm dấu lạ! Người mù đã được sáng mắt. Đó là sự thực không thể chối cãi, nhưng không ai dám tin vào mắt của mình. Cha mẹ của anh mù thì tìm cách thoái thác, tránh né. Anh mù thì quả quyết rằng, Đức Giêsu là một tiên tri.
Bài Phúc âm cũng phản ánh hình ảnh thực tế của cuộc sống con người ngày nay! Chúng ta có mắt nhưng nhiều khi giống như kẻ đui mù. Nhiều người đi ngang qua nhìn thấy anh mù, nhưng làm ngơ giống như không hề nhìn thấy.
Tương tự như thế, chúng ta chỉ để mắt nhìn những gì chúng ta muốn, chúng ta chỉ quan tâm đến những người chúng ta có cảm tình. Dĩ nhiên trong ngày có rất nhiều hình ảnh đập vào mắt, đặc biệt qua mạng lưới truyền hình với kỹ thuật tân tiến hiện nay. Chúng ta phải chọn lựa nhưng dựa vào tiêu chuẩn nào đây?
Đam mê dễ biến thành cực đoan, tình yêu cũng có thể thành mù quáng! Nhiều người vẫn tự hào nhìn nhận mình thuộc thành phần trí thức, gia đình gia giáo nhưng không bao giờ để tâm chú ý tới những cảnh bất công, bần cùng bên lề đường, những kẻ sống trong cảnh đầu đường xó chợ, phải đi bới rác để sống qua ngày. Thực tế cho thấy, còn có nhiều cảnh man rợ đáng sợ hơn cảnh mù lòa gấp ngàn lần. Đó chính là thái độ sống của những kẻ nghĩ rằng mình là kẻ sáng mắt, nhưng trong thực tế còn tệ hơn kẻ đui mù.
Người mù đã được Đức Giêsu chữa lành nhưng đồng thời cũng lột trần bộ mặt thật của những người chung quanh. Anh đã làm chứng tá cho Đức Giêsu. Người là ánh sáng đích thực, có sức làm tan biến lớp sương mù dầy đặc che phủ tầm mắt của chúng ta.
Qua bí tích Rửa tội, Đức Giêsu đã ban tặng cho chúng ta một cặp mắt lành mạnh. Nhờ đó chúng ta có thể khám phá những khía cạnh tốt đẹp nơi người anh em sống bên cạnh chúng ta. Chúng ta chỉ nhìn và khám phá ra thế giới muôn vẻ muôn màu ở chung quanh với con mắt đầy tình thương, với con mắt của đức tin, của tâm hồn.
Sau bài Tin Mừng Chúa nhựt trước mặc khải Chúa Giêsu là nước hằng sống, bài Tin Mừng hôm nay mặc khải thêm Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian.
Người mù trong bài tường thuật này đã dần dần thấy rõ hơn: thấy sự vật bằng con mắt thể xác, và thấy Đức Giêsu là Đấng Messia bằng con mắt đức tin.
Trái lại, do cố chấp không tin, những người pharisêu càng ngày càng mù tối hơn. Đến nỗi ở cuối câu chuyện họ phải nói “Thế ra chúng tôi cũng đui mù hay sao ?” Và Chúa Giêsu đã nói với họ: “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng các ông nói rằng ‘chúng tôi thấy’ nên tội các ông vẫn còn.
Như thế, Chúa Giêsu có thể chữa lành mọi cứng đui mù cả về thể xác lẫn tinh thần, nhưng với điều kiện là người “mù” phải ý thức mình mù và khiêm tốn xin Ngài cứu chữa.
B.... nẩy mầm.
1. Chúa Giêsu là Ánh sáng muôn dân (Lumen gentium). Đây là một chủ đề lớn, được chọn làm đề tựa cho một hiến chế của Công Đồng Vaticanô II. Ánh sáng của Chúa soi thẳm lòng người. Giúp con người nhìn ra ánh sáng của con tim. Giúp con người tìm về nhà Cha. Có những người mù loà, nhưng với lòng tin tưởng phó thác, đã nhìn được ánh sáng này. Ngược lại, có những con người tự phụ rằng mình sáng suốt lại chẳng nhìn ra được ánh sáng của Chúa.
2. Một học giả kia rất thông thái nhưng cũng rất đãng trí. Một hôm ông cỡi lừa đi thăm một người bạn. Dù đang cỡi lừa, ông vẫn cứ dán mắt vào quyển sách, tay buông lỏng dây cương. Do đó con lừa sau khi đi một đoạn đường đã quay trở lại chính ngôi nhà của ông. Ông tưởng đó là ngôi nhà của người bạn. Ông nhìn ngôi nhà từ trên xuống dưới, từ trước tới sau, và kết luận: “Ông bạn của ta cẩu thả quá, nhà hư gần sập tới nơi mà không sửa sang gì cả.” Vợ ông bước ra tiếp lời: “Ông nhận xét đúng đấy. Nhưng đây là ngôi nhà của chính ông”. Nhiều người rất sáng về chuyện người khác, nhưng rất mù về những khuyết điểm của chính mình. (Ernst Wilhelm Nusselein).
3. Một thiền sư hỏi các đồ đệ rằng “Lúc nào là lúc đêm tàn và ngày đến ?” Nhiều câu trả lời được đưa ra: kẻ thì cho rằng đó là lúc ta có thể phân biệt từ xa một cây dừa với một cây cau ; người thì cho rằng đó là lúc ta có thể phân biệt từ xa một con bò với một con trâu… Cuối cùng chỉ có một câu trả lời làm vừa lòng thiền sư, đó là: khi ta nhìn mọi người và nhận ra đó là anh em của ta.
Quả thật, có những thứ ta không thể thấy được bằng mắt, nhưng chỉ thấy d0 bằng con tim, bằng tình yêu…
Lạy Chúa, Chúa đã đốt lên ngọn lửa nơi tâm hồn anh mù để anh nhận ra Chúa. Xin Chúa cũng nhóm lên ngọn lửa tình yêu nơi trái tim con, để con thấy Chúa và nhận ra Ngài nơi những người quanh con. (Hosanna)
4. Ed Aldrin là phi hành gia đã đặt chân lên mặt trăng. Anh hy vọng rằng thành tựu khoa học này sẽ không làm cho loài người chúng ta bị mù quáng không thấy được những ý nghĩa siêu nhiên của nó. Anh kể: từ mặt trăng nhìn xuống, tôi thấy trái đất chỉ như một chiếc phi thuyền nhỏ tí xíu. Và anh giải thích: nhân loại là một gia đình ở dưới sự che chở của Chúa, và chúng ta phải sống theo cách đó.
5. Chỉ có cái nhìn với con tim mới giúp cho người ta thấy đúng sự việc (Saint-Exupery).
Ở Pháp có một Dòng tu đặc biệt. Một Dòng tu của người mù và chuyên lo giúp đỡ người mù. Dòng mang tên là Dòng Chị Em Mù của Thánh Phaolô ( Les Soellrs aveugles de Saint Paul), Dòng do một vị linh mục rất thương người mù thiết lập và đã nói rằng khi tôi chết rồi hãy mở tim tôi ra sẽ thấy hình một người mù ở trong.
Người mù là mộc bệnh nhân đáng thương hơn cả, vì một đời sống trong đem tối. Không có đực tin, người ta dễ thất vọng. Văn hào Montferland đã tự tử vì không chịu được cảnh sống như vậy.
Bài Phúc âm hôm nay, Thánh Gioan với một ngòi bút rất linh động, mô cả cuộc gặp gỡ của Chúa với một người mù từ thuở bình sinh và được Chúa chữa lành cho thấy ánh sáng. Câu chuyện gồm 3 phần: trước hết Chúa lấy nước miếng hòa lẫn với đất bùn xức vào mắt anh và bảo anh đi rửa trong suối Silốc Anh đi rửa và được sáng mắt. Đó là sự kiện.
Phần thứ hai: Nhóm Biệt phái và Pharisêu không tin, nên mở một cuộc điều tra cặn kẽ, ở ba cấp, nơi bà con láng giềng, nơi cha mẹ và nơi chính đương sự. Kết quả là: Chúa Giêsu là Đấng quyền năng mở mắt kẻ đui mù. Nhưng làm sao họ chấp nhận được. Vì chấp nhận tức là chối bỏ tết cả tòa nhà đạo giáo của họ. Nên họ quyết định gạt một sự thật hiển nhiên và gây khó dễ cho chính anh. Nhưng anh cương quyết phân bua: "Xưa nay chưa từng nghe nói có đã mở mắt một người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì".
Phần thứ ba nói về cuộc gặp gỡ lại giữa Chúa Giêsu và người mù vừa được sáng mắt và bị làm khó dễ. Anh vui mừng vì thấy ánh sáng. Nhất là được gặp vị đại ân nhân của mình và được Chúa mở con mắt tâm hồn: “Lạy thầy tôi tin”. Anh phục lạy Chúa, nhìn nhận Chúa là Thiên Chúa.
Đọc bài Phúc âm, chúng ta thấy việc Chúa làm khi chữa người mù sáng mắt có một ý nghĩa tượng trưng dụng ý. Chúa báo trước các phép Bí tích mà Chúa sẽ lập sau này. Ngài sẽ dùng những chất liệu bên ngoài như nước, dàu, bánh, rượu để ban ơn thánh bên trong cho chúng ta. Chúng ta cám ơn Chúa đã thánh hóa vật chất, dùng vật chất để chuyển đạt sự sống thiêng liêng cho chúng ta, nhất là khi biến rượu bánh nên Mình và Máu Thánh Chúa.
Lời của Chúa phán sau khi chữa lành người mù: “ta đến trong thế gian, để kẻ không thấy sẽ được thấy và kẻ thấy lại họa mù", thật đầy ý nghĩa.
Bác sĩ Alexis Canel danh tiếng được ơn trở lại tại Lộ Đức, trong khi một nhà vô thần cũng được chứng kiến một ơn lạ của Đức Mẹ cùng một lúc đã cố tình lờ đi và châm biếm. Trên mẫu ảnh lưu niệm quá vãng có ghi câu: "Người biết yêu tìm thấy Thiên Chúa. Nhưng Ngài lánh mặt đối với những những ai chỉ muốn tìm hiểu. Thật vậy, Tin là một cuộc gặp gỡ Thiên Chúa trong tình yêu chứ không phải chỉ là một việc tìm hiểu suông rồi dừng lại đó. Chúa phán: "Chính để phán xét mà Ta đã đến trong thế gian, ngõ hầu kẻ không thấy thì được thấy,và kẻ thấy được lại hóa mù. Thật vậy, trong đời sống, có những người sáng lại hóa ra mù, có người mù lại thấy ánh sáng. Vì họ khiêm nhường đón nhận Chúa trong Tin yêu. Kẻ tự cao tư đại như dạng biệt phái thì bị Chúa chúc dữ. "Nếu các ngươi mù thì các ngươi đã không mắc tội. Nhưng nay các ngươi nói: Chúng tôi sáng mắt vì tội các ngươi vẫn còn đó".
Lạy Chúa, xin cho con được ánh sáng. "Ta là sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh đáng ban sự sống"
Khi đi ra khỏi Đền Thờ, đi ngang qua, Đức Giêsu nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh
Khác với nhiều phép lạ, phép lạ này được làm không phải do một lời cầu xin chính Đức Giêsu chủ động đua ra sáng kiến: "Đức Giêsu trông thấy một người mù". Tôi có thế cầu nguyện từ chuyện Đó. Đức Giêsu trông thấy một người mù tôi có thế cầu nguyện từ chuyện Đó. Đức Giêsu trông thấy những thử thách của tôi.
Các môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này khi sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" Đức Giêsu trả lời: “không phải anh ta cũng không phải cha mẹ anh ta đã phạm tội nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy khi trời còn sáng, đêm đến không ai có thế làm được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian,Thầy là áng sáng thế gian".
Câu hỏi của các môn đệ cũng là của chúng ta, của tất cả mọi thời đại. Trước cái xấu, chúng ta tìm một giải đáp và chúng ta muốn tìm một người phạm tội. Những người xưa chỉ bằng lòng với một lý thuyết cổ xưa hơi quá đơn sơ một chút; sự xấu do bởi một tội lỗi những chính Đức Giêsu lại không đặt vấn đề như vậy. Hơn nữa người không đề ra một giải đáp nào: cái xấu vẫn không chấp nhận được, không thế biện minh được chỉ có một phản ứng bình thường, có tính nhân bản nhất về nền tảng, Đó là cố mà loại bỏ cái xấu xa này chẳng nào chúng ta có thế làm được. Và cuộc chiến đấu chống lại đau khổ không phải vô ích, hay cuối cùng chịu thất bại, bởi vì Đức Giêsu tỏ cho chúng ta biết rằng đây là cuộc chiến đấu của chính Thiên Chúa: hành động rõ rệt mà vì thế Đức Giêsu tự xưng mình "là người được sai đi". Được sai đi? Bởi ai? Thế thì, Đức Giêsu này, Người từ đâu mà đến?
Vấn đề về nguồn gốc của Người này lại còn quan trọng hơn thế, vì hẳn là người trông thấy toàn bộ việc thế gian chấm hết: Người biết Người sắp chết, đêm đã tới, và Người phải hành động bao lâu Người còn ở thế gian.
Cái chết mà Người thấy trước qua nỗi thù hận của các đối phương của Người (Ga 7,19-32-44 – 8,59), Đó sẽ là chiến thắng bề ngoài của sự xấu, chiến thắng của bóng đêm (Ga 13,30).
Nhưng "bóng tối không chặn được ánh sáng". (Ga l,5-9). Cám ơn Người, lạy Đức Giêsu. Vinh quang thuộc về Người, vì Người đã soi chiếu đêm tối của chúng con!
Nói xong, Đức Giêsu nhổ nước miếng xuống đất trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: "Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa" (Silôê có nghĩa là người được sai phái). Vậy anh ta đến hồ rửa, và khi về thì nhìn thấy được. Một mô tả cụ thể để lộ người chứng tận mắt, Gioan. Nước bọt của một số người, theo những người xưa, có một giá trị dược liệu chung nhất là, chúng ta khám phá ở Đó, thêm một lần nữa, cái thiên tài của Gioan, nhà thần học biểu tượng chủ nghĩa: và nhân thần học nhiệm tích...Vâng, người đàn ông mù từ thuở mới sinh này bên kia trường hợp cá nhân đầy xúc cảm, thực sự là một biểu tượng của nhân loại bị nhận chìm trong đêm tối, khi họ không biết Đức Giêsu, khi những đau khổ của loài người có vẻ như không có ý nghĩa. Và cái giếng Silôê này, bên kia vùng nước có thật của nó trong khu vực thấp trũng của Giêrusalem, thực sự là một biểu tượng của phép rửa thanh tẩy và chiếu sáng.
Điều làm cho Gioan, nhà thần học, chú ý, Đó trước hết không phải là con người kỳ diệu lạ lùng, được kể ngắn gọn chỉ bằng ba dòng, Đó chính là dấu hiệu biểu trưng mà Đức Giêsu đưa ra về chính mình và được biểu lộ qua cái tên huyền nhiệm của cái giếng "Silôê", có nghĩa trong tiếng Do Thái là “Shilloah", "Người được sai đi" được sai đi? Do ai?
Cái bản vị Giêsu, Đấng được sai đi, nêu ra nhiều vấn đề hoài nghi, xác định lập trường, tranh cãi, người là ai? Không người nào đã từng bao giờ đặt nhiều câu hỏi như thế.
Tại sao? Định mệnh của Người là gì? Phép lạ của người mù được chữa khỏi mới xong khi Đức Giêsu dường như vừa đi khỏi hiện trường. Nhưng vấn đề chính là về Người trong quá trình một vụ án kỳ lạ tập tục, thông qua bản thân của người dã được hướng lòng tốt của Đức Giêsu chúng ta sắp ngự vào bốn cuộc hỏi cung liên tiếp, ngày càng bất nhân nhưng cuối cùng, chính Đức Giêsu can thiệp lại để kiện lại những đối phương của Người.
VỤ KIỆN I:
Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: "Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin Đó sao?" Có người nói: "Chính hắn Đó! ". Kẻ khác lại rằng: "Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn Đó thôi?" Còn anh ta thì quả quyết: "Chính tôi đây!" Người ta liền hỏi: "Vậy, làm sao mắt anh lại mở rồi được như thế ?" Anh ta trả lời: "Người tên là Giêsu đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo: "Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa" tôi đã đi, và sau khi rửa tôi nhìn thấy được". Họ lại hỏi anh: "ông ấy ở đâu?". Anh ta đáp: “Tôi không biết".
Đó là những người hàng xóm đã làm cuộc điều tra đầu tiên: Cái gì đã diễn ra? Nó đã diễn ra như thế nào? Ai đã làm chuyện Đó? Lúc này chúng ta chỉ nghĩ tới một động tác tự nhiên vì có thiện cảm nên tò mò ngày nay vẫn còn có một số đông người cùng thời với chúng ta chỉ chú ý đến Đức Giêsu tới chỗ Đó: Người ta nhận xét một sự kiện.. nhưng nguời ta không muốn rắc rối cuộc đời và người ta không đi xa hơn. Còn về anh mù được chữa lành, chính anh ta trở về từ rất xa. Chúng ta lưu ý là anh ta chưa biết gì về Đức Giêsu cả, anh ta chỉ biết người ta gọi ông ấy là Giêsu.
VỤ KIỆN II:
Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pharisêu. Nhưng ngày Đức Giêsu trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày Sabát...Trong nhóm Phansêu, người thì nói: "ông ta không thế là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày Sabát; kẻ thì bảo: "Một người tội lỗi sao có thế làm được những dấu lạ như vậy?". Thế là họ đâm ra chia rẽ. Họ lại hỏi người mù: "Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?". Anh đáp: "Người là một vị ngôn sứ!"
Đứng trước Đức Giêsu, ý kiến bị phân rẽ: người này thì ủng hộ.. người kia thì chống đối... Người, con người có thiện chí, bắt đầu từ từ mà tiến lên. Ngoài ra Đó là những điều phiên nhiễu của những người điều tra muốn đẩy anh ta đi xa hơn bây giờ anh ta khẳng định: Đó là một ngôn sứ. Lạy Chúa, xin giúp chúng con tiến đi trong đức tin.
VỤ KIỆN III:
Người Do Thái không tin là trước đây anh bị mù mà nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến.. Cha mẹ anh ta đáp: "Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. . Xin các ông cứ hỏi nó, nó đã khôn lớn rồi, tự nó, nó nói về mình được”. Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do Thái thật vậy, người Do Thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào đám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô
Thế là một thái độ khác đối diện với Đức Giêsu Đó là một sự trốn chạy nhưng người ta chối từ, không muốn tự đặt cho mình một số vấn đề có thế gây ra liên lụy. Không thế tôi thường thuộc vào loại này ư ? Người ta có thế đừng nên làm gì để khỏi có nhiều chuyện !
VỤ KIỆN IV:
Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo: "Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa, chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi". Anh ta đáp: “ông ấy có phải là người tội lỗi không tôi không biết tôi chỉ biết có một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được!”. Họ liền mắng nhiếc anh: "Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với Môisê, nhưng chúng ta không biết ông ấy bởi đâu mà đến”. Anh đáp: "Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi!" Chúng ta biết: "Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi... Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đến mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến thì ông ta đã chẳng làm được gì". Họ đối lại: "Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?", Rồi họ trục xuất anh.
Những người Pharisêu bị lún sâu vào trong hệ thống của họ. Họ "biết"! Đó là tiếng họ lặp lại và tỏ rõ lòng tự mãn của họ. Họ chối từ biến đổi, trong khi dựa vào truyền thống chấp nhận cái mới của một người vi phạm ngày Sabát sẽ làm cho hệ thống giáo điều của họ lâm nguy. Như vậy, họ chối từ bằng chứng hiển nhiên. Và như thế họ phạm tội duy nhất có trong Tin Mừng theo Thánh Gioan: chối từ lòng tin... muốn là một người không tin... bịt mắt trước huyền nhiệm Đức Giêsu ta hãy chú ý đến cách sử dụng tinh vi của động từ “biết" nhờ Đó, người ta thấy rõ các cửa mở vào đức tin hay lối chặn cho sự không tin. 1/ Cha mẹ "biết" Đó chính là con trai họ... nhưng họ không muốn "biết" ai đã mở mắt cho con họ để không bị liên lụy (9,20-21). 2/ những người Pharisêu "biết" Đức Giêsu đã từ đâu đến (9,24-29): 3/. Anh mù, chính anh ta không biết Đức Giêsu đi đâu, không “biết" Đó có phải là một người tội lỗi không.. nhưng anh ta "biết" rằng anh ta đã được chữa khỏi và “biết" rằng Thiên Chúa không đoái nghe những người tội lỗi (9,12-25-31) còn chúng ta, chúng ta có đi tìm chân lý không? Chúng ta có bị chặn trước những hiểu biết của chúng ta không? Chúng ta có ham hiểu biết nhiều hơn không, mở con mắt đui mù của chúng ta ra không?
Đức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: "Anh có tin vào Con Người không?". Anh đáp: "Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin". Đức Giêsu trả lời: "Anh đã thấy Người chính Người đang nói với anh đây". Anh nói: "Thưa Ngài, tôi tin rồi anh sấp mình xuồng trước mặt Người".
Trong khi không người Pharisêu bị giam hãm trong sự vô tận của họ , thì anh mù, chính anh lại không ngừng tiến lên trong lòng tin, và chúng ta chú ý là lòng tin này chỉ đạt tới đỉnh cao theo sáng kiến và vấn đề bản vị của chính Đức Giêsu tất cả những câu hỏi mà các đối thủ đặt ra cho anh ta, đều làm cho anh tiến lên, nhưng sự tuyên xưng đức tin của anh ta chỉ thành tựu nhờ cuộc gặp gỡ bản thân của Đức Giêsu. Còn chúng ta, đức tin của chúng ta có tiến lên, theo gương của người mù này, người dần dần mở mắt trước huyền nhiệm, một cách tiệm tiến không? Ban đầu người ta chỉ đứng trước "ngước mà người ta gọi là Giêsu” (9,11). Và rồi người ta phát hiện "một ngôn sứ” (9,17).. một nguời nào đến từ “Thiên Chúa" (9,33)... và sau cùng "Con Người" (9,35) và "Chúa" (9,38) đây là sự trả miếng của Thiên Chúa người bất hạnh đáng thương đã tìm thấy hạnh phúc đích thực duy nhất. Mù từ thuở mới sinh, không được những người hàng xóm giúp đỡ nhiều lắm, không được cha mẹ nâng đỡ bị đuổi ra khỏi giáo đường như một tên bị bệnh ôn dịch.. nhưng niềm vui tin tưởng to lớn biết bao.
Đức Giêsu nói: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử họ: để người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!”. Những người Pharisêu đang ở Đó với Đức Giêsu nghe vậy liên lên tiếng: "Thế ra cả chúng tôi cũng đui hay sao?" Đức Giêsu bảo họ: “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy nên tội ác ông vẫn còn".
Đó là sự thật ngược hoàn toàn các tình huống: "tội lỗi” không ở chỗ những người Pharisêu đã đặt nó, chính họ là những người khinh miệt người tội lỗi bẩn thỉu này bị đánh dấu từ thuở mới sinh: và rồi sự đui mù đích thực không hề ở chỗ là họ đặt ra chính họ là những người mù, chỉ mình họ chối từ không trông thấy cái đập thẳng vào mắt họ.
Ta hãy chú ý đến điều Đức Giêsu khẳng định: không phải Thiên Chúa lên án họ theo bề ngoài,.. chính họ là những người tự lên án mình.
Cuộc phán xét chỉ đến chuẩn nhận cái mà người ta đây quyết định một cách tự do. Đó chính là sự phi lý tự sát của việc chối bỏ đức tin. Với Nicôđêmô, Đức Giêsu đã nói: Ai chối bỏ lòng tin thì đã bị lên án rồi... phán đoán là như thế này đây: những người ưa thích bóng tối hơn là ánh sáng. Bản thân Đức Giêsu buộc phải có một chọn lựa: phải chọn lựa! Trong Thánh Gioan, có một tác dụng thường xuyên giữa hai động từ “thấy" và "tin".. người ta trông thấy những dấu chỉ muốn mời gọi tin tưởng (Ga 1,50 - 3,36 - 4,48 - 6,26-36-40 - 9,39-41 - 11,45 - 20,8 - 20,29). Và Đức Giêsu, ở đây, khẳng định mạnh mẽ rằng những Người Pharisêu không thế dung tha vì không tin, bởi vì họ đã trông thấy dấu chỉ, bởi vì các ông trông thấy... tội các ông vẫn còn.
Con đường đi tới ánh sáng của người mù gồm nhiều bước. Nhưng đáng chú ý là đó không chỉ là những bước đi của con người mà còn là những bước đi của Đức Giêsu: Ngài đi những bước trước, người mù bước theo, và bước sau cùng cũng là của Ngài:
-Bước: "Đức Giêsu nhìn thấy" (câu ): Cuộc hành trình bắt đầu bằng cái nhìn này, cái nhìn của Chúa đi trước cái nhìn của con người.
-Bước 2: "Đức Giêsu thoa vào mắt người mu” (câu 7): sự tiếp xúc giữa Ngài với bệnh nhân chính là thần dược.
-Bước 3 "Ngài bảo: Hãy đi rửa ở hồ Silôê" (câu 7a): Đức Giêsu sai ta đi đến một nơi đã có sẵn từ lâu trước khi ta cần đến nó, và nơi này thực ra chỉ có năng lực cứu chữa nhờ Ngài mà thôi.
-Bước 4 "Người mù đi đến đó" (câu 7b): Bước đầu tiên của con người là sự vâng phục và phó thác. Đây là bước rất cần thiết.
-Bước 5 "Tôi đã nhìn thấy" (câu ), "Ngài là một ngôn sứ" (câu 7): Liền theo sau hồng ân nhận được là việc làm chứng cho Đấng mà ta tin, cho dù việc này dẫn đến cái giá phải trả là bị đuổi ra ngoài (câu 34).
-Bước 6 "Đức Giêsu đến gặp anh” (câu 35): Đến đây Đức Giêsu ban cho anh một thị giác còn quý hơn thị giác của cặp mắt anh, đó là thị giác của đức tin: anh tuyên xưng: "Lạy Chúa, con tin".
Đó cũng là những bước mà chúng ta phải cùng đi với Đức Giêsu trên cuộc hành trình của chúng ta.
2. Những cái làm cho ta mù
Để thấy rõ, chỉ một đôi mắt sáng chưa đủ, bởi vì không chỉ có mỗi một thứ bệnh mù là mù đôi mắt, mà còn nhiều thứ bệnh mù khác do nhiều nguyên nhân khác:
Tính ích làm ta mù không thấy nhu cầu của tha nhân. Tính vô cảm làm ta mù không thấy những việc ta đã làm đau lòng tha nhân. Tính tự phụ làm ta mù không thấy tha nhân cũng có nhân phẩm như mình. Tính kiêu căng làm ta mù không thấy khuyết điểm của mình. Những thành kiến làm ta mù không thấy sự thật. Sự hối hả làm ta mù không thấy vẻ đẹp của vũ trụ chung quanh. Khuynh hướng duy vật làm ta mù không thấy những giá trị thiêng liêng. Sự hời hợt làm ta mù không thấy giá trị thật của con người và khiến ta hay lên án.
3. Những thứ thị giác
"Người phàm chỉ nhìn thấy ngoài mặt, còn Chúa thì thấy tận cõi lòng" (Bài đọc I): Đối diện với người mù, các môn đệ chỉ thấy đây là một kẻ có tội nên bị phạt; các người Pharisêu tìm đủ mọi ngõ ngách để trốn thoát khỏi phải nhìn nhận sự thật về người mù; dân chúng thì không thể tin nổi sự việc mà họ vừa nhìn thấy. Còn Đức Giêsu, Ngài nhìn thấu cõi lòng của từng hạng người kể trên. Ta hãy tìm hiểu kỹ hơn cái nhìn của Đức Giêsu.
-Một cái nhìn ưu ái: Ngài không nhìn người mù bằng ánh mắt bàng quan, mà nhìn với lòng thương.
-Một cái nhìn không bị che mờ bởi những thành kiến (như các môn đệ), những hoài nghi (như dân chúng), những đố kị (như Pharisêu), những định chế xã hội xếp loại giai cấp con người.
-Một cái nhìn phát sinh hiệu quả: Ngài nhìn người mù và làm cho anh được thấy.
Chúng ta cần có cái nhìn của Chúa, như lời Thánh Phaolô trong bài đọc thứ II: "Anh em hãy xem xét điều gì làm đẹp lòng Thiên Chúa: Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, thưng hãy vạch trần những việc ấy ra mới phải".
4. Mảnh suy tư
Cách nay nhiều năm, vào một đêm kia có hiện tượng nguyệt thực toàn phần.
Ai nấy đều bàn tán về nó. Rất nhiều người đứng ngoài sân chờ nhiều tiếng đồng hồ để cuối cùng được nhìn ngắm nó trong một số phút ngắn ngủi.
Tôi tự hỏi: sao người ta lại quá chú ý đến sự biến mất của mặt trăng mà không chú ý đến sự xuất hiện của nó?
Và tôi nhớ đến một lời của Emerson: "Người ngu ngạc nhiên trước sự bất thường. Còn người khôn ngạc nhiên trước sự bình thường"
5. Chuyện minh họa.
a/ Đãng trí
Một học giả kia rất thông thái nhưng cũng rất đãng trí. Một hôm ông cỡi lừa đi thăm một người bạn. Dù đang cỡi lừa, ông vẫn cứ dán mắt vào quyển sách, tay buông lỏng dây cương. Do đó con lừa sau khi đi một đoạn đường dã quay trở lại chính ngôi nhà của ông. Ông tưởng dó là ngôi nhà của người bạn. Ông nhìn ngôi nhà từ trên xuống dưới, từ trước tới sau, và kết luận: "ông bạn của ta cẩu thả quá nhà hư gần sập tới nơi mà không sửa sang gì cả?
Vợ ông bước ra tiếp lời: "ông nhận xét đúng đấy. Nhưng đây là ngôi nhà của chính ông". Nhiều người rất sáng về chuyện người khác, nhưng rất mù về những khuyết điểm của chính mình.
b/ Làm sao phân biệt ngày với đêm
Một đạo sư hỏi các môn đệ họ có thể xác định như thế nào cái giây phút màn đêm chấm dứt và ngày bắt đầu. Một người nói:
-Khi người ta thấy một con vật ở đàng xa, và người ta có thể nói đó là con bò hay con ngựa.
Đạo sư bảo:
-Không phải vậy.
-Khi nhìn một cây ở đàng xa và người ta có thể nói đó là cây mận hay cây xoài.
Đạo sư vẫn bảo:
-Vẫn không phải.
Rồi ông nghiêm nghị nói:
-Khi các ngươi nhìn thẳng vào mặt một người đàn ông và các ngươi có thể nhận ra nơi ông ta một người anh em của mình; khi các ngươi nhìn thẳng vào mặt một người phụ nữ và các ngươi có thể nhận ra nơi bà ta một người chị em của mình. Nếu các ngươi không làm được như vậy thì dù mặt trời nó mọc tới đâu cũng vẫn còn là đêm.
Nếu trong phần Bài Tựa của Phúc âm thứ tư, chủ đề là “Ngô; Lời là Sự Sống và là sự sáng cho mọi người" (1,4-5) đã được giới thiệu một cách trang trọng, thì phải đến trung tâm cuốn sách, bằng ttrình thuật Đức Giêsu chữa lành cho nrời mù từ thuở mới sinh, chủ đê ấy mới được khai triển, để làm thành một dấu chỉ qua đó Đức Giê-su được trình bày là ánh Sáng cho trần gian, và sứ mạng của Ngài là dẫn đưa người ta vào Nguồn Sống. Trong bối cảnh Chúa nhật 4 Mùa Chay, dấu chỉ ấy được đọc lại như một nhắc nhớ: Chúa Ki-tô là Nguồn Sáng và là Nguồn Sống cho đời ; đồng thời cũng như một nhắc nhở: chỉ những cuộc đời biết vượt qua bóng tối để đến với ánh Sáng mới có khả năng đón nhận sự sống.
I.TỪ NHẬN THỨC VỀ BÓNG TỐI
1. “Giả như các ngươi đui mù,các ngươi đã chẳng có tội; nhưng nay các ngươi nói: chúng tôi sáng mắt, thì tội các ngươi vẫn còn lưu lại" (Ga 9,41)
Lời kết luận làm nên đỉnh cao của cả trình thuật chữa lành người mù từ thuở mới sinh, và như phản diện của lời tuyên tín: Đức Ki-tô là Sự Sáng thế gian. "Chính để phán xét mà Ta đã đến trong thế gian, ngõ hầu kẻ không thấy thì được thấy, và kẻ thấy được lại hoá đui mù (Ga 9,40)
Cũng trong thế phản diện ấy lại lộ hiện ra tầm quan trọng và điều kiện tiên quyết cho những ai muốn bước đi trong ánh Sáng: ấy là phải nhận biết bóng tối mù loà của chính mình. Chỉ những ai biết mình mù tối mới khát khao sự sáng và cũng mới chân thành đón nhận ánh Sáng.
2. Từ ghi nhận ấy, bài Tin Mừng cho thấy ít ra cũng cóhai thứ bóng tối mù loà.
Có thứ bóng tối mù loà thể lý mà đại biểu duy nhất ở đây chính là anh mù từ thuở mới sinh. Anh biết mình mù. Anh đang kiếm sống trong chính tình trạng tối tăm của mình. Và anh sẵn sàng trong khiêm tốn trước cách chữa trị lạ đời của Đức Giê-su. Anh không lấy mình làm chuẩn như kiểu đánh cược cầu may: đàng nào thì cũng mù rồi, nếu được chữa khỏi thì tốt, còn nếu không khỏi được hay không được khỏi thì cũng chẳng mất mát thiệt hại gì. Trái lại, anh lấy Đức Giê-su làm chuẩn để tin tưởng tuyệt đối vào Ngài, cho dẫu anh không biết và những kẻ xung quanh cũng chẳng hiểu gì về cách chữa trị ấy. Đó là thứ bóng tối biết tiếp nhận Ánh Sáng.
Nhưng cũng có thứ bóng tối mù loà tâm hồn mà đại biểu là mấy ông kinh sư và biệt phái. Họ tự mãn về tình trạng đạo đức sáng láng của mình, và đó chính là mấu chốt làm cho họ trở thành mù quáng chai lì cứng cỏi, không thể đón nhận đức tin. Đó là thứ bóng tối khước từ ánh Sáng.
Rõ ràng là nhận thức đúng về bóng tối mù loà của mình đã trở thành điều kiện tiên quyết để tiếp cận và tiếp nhận Ánh Sáng, còn ngược lại, là tự giam hãm trong bóng tối ; hay đúng hơn, một khi đã lấy mình làm ánh sáng cho mình, người ta không còn khiêm tốn để nhận ra và nhận lấy ánh Sáng Đức Ki-tô nữa.
II. ĐẾN TUYÊN XUNG VÀO ÁNH SÁNG
1. Nếu dưới khía cạnh nghịch lý, điều kiện để tiếp nhận Ánh Sáng đã được nêu lên, thì dưới khía cạnh Dấu chỉ, Dung mạo đích thực của Đức Giê-su lại được ghi nhận một cánh rõ nét. Đức Giê-su, Ngài là ánh Sáng và sẵn sàng trao ban ánh Sáng cho tất cả những ai tin vào Ngài. Ánh sáng ấy không phải là ánh sáng thể lý, mà chính là ánh Sáng cứu độ, ánh sáng chiếu soi tâm hồn để dẫn đưa vào Nguồn Sống. Nhưng đàng sau khía cạnh dấu chỉ ấy, bài tường thuật Phúc âm vẫn hữu ý phác vẽ lên những chặng đường phải đi qua để đến với ánh Sáng sự sống.
Trở lại trường hợp anh mù. Ban đầu, từ trong bóng tối mù loà bẩm sinh, anh chỉ biết Đức Giê-su như một người thi ân giữa muôn người thi ân khác trên nẻo đường xin ăn của anh ; nhưng khi anh đã đến suối Si-lô-ê rửa mắt và được sáng, anh đã bước sang chặng đường khác với nhận thức về một người có tên là Giê-su ; những ngày sau đó làm quen với ánh sáng, anh đã có thể ghi nhận thêm, dẫu vẫn còn trong tranh tối tranh sáng, về một Vị Ngôn Sứ hoặc về một Đấng bởi Thiên Chúa mà đến ; và chỉ đến khi gặp gỡ diện đối diện với Đức Giê-su, anh mới thật sự sáng mắt tâm hồn để khẳng định lời tuyên xưng của mình: Ngài là Ánh Sáng cho đời.
2. Trong khi những Kinh sư cùng Biệt phái còn mải mê với một vị Thiên Chúa xa vời, phù hợp với sự nhào nặn của họ, đến nỗi sa đà trong bóng tối không còn biết nhận ra Đấng Cứu Thế, để rồi đành đoạn sống thù nghịch với ánh Sáng ; thì ngược lại, anh mù chẳng biết một điều gì khác ngoài việc mình bị mù, nên anh đã có thể lên tiếng tuyên xưng: Đấng Cứu Thế chính là Ánh Sáng của Thiên Chúa chiếu soi trần gian, và là Thiên Chúa củaÁnh Sáng đã đến xua tan đi tăm tối cho những kiếp đời mù loà mà thiện chí thành tâm.
Nét oái ăm nhất của bài tường thuật chính là đây. Người khiêm nhường đã nhận được ánh Sáng, còn kẻ kiêu căng lại nên như mù tối. Người ngay lành được Chúa thương trở nên ánh Sáng cứu độ, còn kẻ tự mãn cuối cùng cũng sẽ thấy, nhưng là thấy Thiên Chúa là Ánh Sáng xét xử đời mình.
III. ĐỂ SỐNG NHƯ CON CÁI ÁNH SÁNG
1. Nhưng điều thiết thân hơn cả đối với các tín hữu trong Mùa Chay không phải chỉ là ghi nhận, mà còn là quyết chí trở về sám hối, nên cách sống đức tin của anh mù sau khi được sáng mắt sáng lòng đã trở thành một bài học không quên. Trong cốt cách của anh, người ta nhận thấy cả một đức tin đã được thắp lên và sẵn sàng chiếu toả trên mọi hành vi cuộc sống.
Đó là một đức tin đầy lạc quan, biết reo vui cảm tạ Thiên Chúa trước nỗi kinh ngạc của những kẻ đồng hương, mà vẫn không quên tiền sử mù loà của mình để tuyên xưng hơn nữa vào Thiên Chúa nguồn sáng. Đó là một đức tin đầy bản lĩnh, biết trả lời trước sự cật vấn của những kẻ đồng thời và sẵn sàng trực diện với những cạm bẫy thù nghịch của những kẻ đồng đạo mất hướng. Và đó cũng còn là một đức tin can đảm chấp nhận thiệt thòi cô đơn, vì dám làm chứng cho ánh Sáng giữa bóng tối lâu đời của một thứ đạo đức vụ luật và vụ lợi.
2. Một đức tin như thế chính là kiểu mẫu cho mềm tin hôm nay. Qua Bí tích Rửa Tội, tín hữu đã thật sự được Ánh Sáng Chúa Ki-tô chiếu toả để thoát khỏi cảnh mù loà bẩm sinh, nhưng vấn đề được đặt ra là liệu với chiều dài cuộc sống, người ta có còn để cho Ánh Sáng tiếp tục rọi chiếu trên mình nữa không, hay có sẵn sàng cộng tác để cho Ánh Sáng Chúa Ki-tô được chiếu soi đến những môi trường lân cận ?
Đây là một câu hỏi lớn mà lời đáp hoàn toàn tuỳ thuộc vào lối sống đức tin hiện tại. Không thể an tâm khi con mất đức tin cứ đánh giá mình và lượng giá người theo vóc dáng diện mạo. Coi chừng ! Mình quen nhìn mặt còn Thiên Chúa lại thích nhìn tấm lòng kìa ! (Bài đọc I). Cũng không thể an tâm với ánh sáng trong các việc đạo đức, lễ nghi, mà quên đi ánh sáng cần có và nên có trong đời sống xã hội. Thánh Phao-lô đã để lại lời nhắn gởi cho đến hôm nay vẫn còn nóng bỏng: "Hãy ăn ở như con cái Ánh Sáng, mà Ánh Sáng đem lại những gì lương thiện, công chính, chân thật" (Bài đọc 2). Và cũng chưa thể an tâm được dẫu mình đã chân thành đi trong Ánh Sáng, bởi còn đó mênh mông những tăm tối của cuộc đời bẩn chật như đang đợi chờ ánh sáng chứng nhân.
Nêu tên gọi Si-lô-ê đã có một nghĩa đặc biệt - được sai đi - trong trình thuật Phúc âm hôm nay, thì tín hữu cũng chỉ thật sự an tâm khi đã tích cực sống cho ánh Sáng, và bằng cuộc đời của mình làm cho ánh Sáng Chúa Ki-tô được lan toả vào những môi trường xung quanh, cho dẫu kết quả không dễ thấy, thành công không dễ đạt và nhiều khi thiện cảm cũng không dễ mà giữ được giữa cơn lốc cuộc đời. điều đáng lo hơn cả không phải là việc thế gian khước từ ánh Sáng, mà là việc mình không còn đủ ánh sáng đó mà soi chiếu, bởi lẽ không đủ sáng cũng có nghĩa là đang bị bóng tối phủ trùm ?
Kết luận
Tóm lại, Chúa nhật 4 Mùa Chay hôm nay là một lời tuyên xưng Chúa Ki-tô là Ánh Sáng dẫn đưa vào Nguồn Sống, nhưng để nếm thưởng được sự sống ấy, người ta phải đoạn tuyệt với bóng tối và chân thành sống theo và sống cho Ánh Sáng. "Lạy Chúa Ki-tô là Nguồn Sáng Cứu Độ, trong Ánh Sáng Ngài, chúng con nhận ra ánh sáng cho đời mình ".
LỜI NGUYỆN TÍN HŨU
Chủ Tế: Anh chị em thân mến, .
Chúa Ki-tô là ánh Sáng thế gian. Ai theo ánh Sáng, sẽ được dẫn đưa vào Nguồn Sống. Chúng ta cùng tin tưởng cầu xin.
Ý NGUYỆN:
1. Lời Chúa là Ánh Sáng. Chúng ta hãy cầu xin cho mọi tín hữu biết học và sống Lời Chúa một cách thiết thực trong Mùa Chay Thánh.
2. Được Rửa Tội là được đặt vào nẻo đường sáng. Chúng ta hãy cầu xin cho các Ki-tô hữu hôm nay luôn nhận ra căn tính của mình, để có thể sống đầy đủ bổn phận làm con cái sự sáng.
3. Tự bản chất Giáo Hội là truyền giáo. Chúng ta hãy cầu xin cho mọi thành viên trong Hội Thánh biết sống đời chứng nhân, để Ánh Sáng Chúa Ki-tô qua họ được chiếu dọi vào mọi địa bàn cuộc sống.
Chủ Tế: Lạy Chúa Ki-tô là Ánh Sáng và là Đấng luôn ban ánh sáng cho mọi người thành tâm. Xin thương thanh tẩy những ước nguyện của cộng đoàn chúng con bằng Ánh Sáng cứu độ, và xin thương cho chúng con hôm nay biết sống trong ánh Sáng Chúa, để mai sau chúng con được dẫn tới Chúa là Nguồn Sống vĩnh cửu. Người hằng sống hằng trị muôn đời.
Cũng như cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp, việc chữa lành người mù hồ Silôác là một trong những "dấu chỉ" lớn được Gioan ghi lại “để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người" (Ga 20.31).
Được đặt trung tâm cuốn sách, câu chuyện nổi bật như một tổng hợp sống động về sứ mệnh làm ánh sáng được Đức Giêsu hoàn tất trong thế gian này, và về cuộc xung độ gay gắt giữa ánh sáng và tối tăm qua bản thân Đức Giêsu và người Do-thái.
Câu chuyện còn giúp ta nhớ đến những câu khác trong Tin Mừng Gioan: "sự sáng đã đến trong thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng”(Ga 3,19) và “hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con cái ánh sáng”(Ga 12,36)
1. Sự Sáng đã đến trong thế gian
Trước khi hôm phép lạ, Đức Giêsu đã tuyến bố: "Thầy là ánh sáng thế gian"(c.5). Đây không phải là một câu định nghĩa siêu hình về con người Đức Giêsu nhưng là một cách mô tả ảnh hưởng của người trên vũ trụ; Người là ánh sáng tạo nên cuộc phán xét và cứu rỗi trần gian.
Tình thương cứu độ của người đã dừng lại trên người mù từ thuở mới sinh và Người đã làm hai hành động mang tính biểu tượng: “nhổ nước miếng xuống đất, trở thành bùn và xức vào mắt người mù" (c.6) rồi bảo anh ta: “Hãy đến hồ Silôác mà rửa”(c.7)
Người xưa thường xem nước miếng như một liều thuốc chữa mắt và chữa cả các phần khác của thân thể (x. Mc 7,33; 8,23) nhưng việc trở thành bùn khiến ta nghĩ đến việc tạo dựng con người, hay việc nhập thể của Ngôi Lời, hay hơn nữa, việc ơn thánh xâm nhập vào trong cuộc sống xác thể của ta. Ngoài ra, phải chăng Đức Giêsu còn muốn thử thách lòng tin của anh mà qua cử chỉ đó mời gọi anh tín thác vào Người.
Còn hồ Silôác, mà ngày nay ta còn thấy, nằm phía đông bắc Giêrusalem. Nó được suối Gihôn cung cấp nước cho nhờ con lạch mà vua Edêkia đã đào xuyên qua lớp đá (2V 20, 20; 2Sb 32,30; Hc 48,17). Silôác có nghĩa là: người gởi (nước) tới. Thánh Gioan dùng Chữ đó nhưng đã dịch ra như một thứ tiếng ở thể thụ động: “Kẻ được gởi đến”. Trong Tin Mừng thứ tư, Đức Giêsu hơn bốn mươi lần được gọi là "Đấng được sai đi" và Ngài vừa nói với các tông đồ rằng mình phải làm công việc của "Đấng đã sai" Người (c.4). Rõ ràng, Thánh Gioan muốn dẫn ta đi từ dấu chỉ đến Đấng mà dâu chỉ mạc khải: “Đấng được sai đến”
Việc Đức Giêsu xuất hiện đã chia con người ra làm hai phe: những người chấp nhận dấu chỉ và những người từ chối. Những người từ chối Đức Giêsu đã cố dựng nên một phiên tòa nhằm phạt tội ngươi mù và tố cáo Đức Giêsu nhưng Người làm cho phiên tòa bị lệch cân: những kẻ tố cáo người mù đã trở thành những bị cáo mù lòa. Người mù ngược lại, không những được sáng mắt về mặt thể lý mà còn được thấy Con Người và ánh sáng Đức tin vây phủ anh. Anh tự cho mình là ngu dốt nhưng lại nhận ra Đức Giêsu và tuyên xưng Ngài là Chúa.
2. Nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng
Trước phép lạ của Đức Giêsu, các người Pharisêu đã từ bỏ “dấu chỉ" và hơn nữa họ cho đó là tội lỗi, họ giam mình trong tự mãn khi họ nói: “Chúng ta biết ông ấy là người tội...chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nhận lời những kẻ tội lỗi...Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?”(cc.24.29.31.40)
Không những các đầu mục Do-thái tin rằng họ nắm giữ chân lý họ còn tỏ ra hằn học và điều đó lại càng làm cho họ mù lòa hơn trong một phiên tòa nhằm xét xử người mù đồng thời lên án Đức Giêsu. Họ âm mưu hại Người nhưng họ sẽ thua; cũng như rồi đây, họ sẽ bẽ bàng vời họ muốn Người phải chết nhưng Người lại Phục Sinh; thật đúng như lời Thánh Gioan đã nói: “Ánh sáng chiếu rong bóng tối, và bóng tối đã không triệt được ánh sáng”.(Ga 1,5)
Kết quả là trong lúc người mù được thấy, người Do- Thái lại lao mình vào sự mù tối. Những dấu lạ Đức Giêsu làm cho họ thêm cứng lòng vời họ từ chối ánh sáng thật. Ánh sáng thay vì chiếu soi và giải thoát họ, đã làm họ ra đui mù và kết án họ. Đối với họ, ngày của Đức Giêsu, ngày ánh sáng, đã trở nên ngày phán xét (c.39). Không phải là Thiên Chúa lên án họ từ bên ngoài nhưng chính họ tự kết án mình.
Sự hiện diện của Đức Giêsu luôn đòi con người phải chọn lựa. Trong Tin Mừng Thánh Gioan, luôn có sự tương ứng giữa hai động từ “thấy" và "tin": ta thấy những dấu hiệu mời gọi ta tin (Ga 1,50; 3,36; 4,48; 6,26.36.40; 9,39.41; 11,45; 20,8.29). Và đây, Đức Giêsu nhấn mạnh rằng các người Pharisêu “có tội" vì họ "đã thấy" Dấu chỉ”( x. Ga 9,40).
3. Hãy tin vào sự sáng
Đoạn Tin Mừng còn giúp ta suy niệm về cuộc hành trình thiêng liêng của anh mù từ lúc được chữa lành cho đền chỗ tin vào Đức Giêsu. Trong suốt câu chuyện, từ “bị mù" được lặp lại 15 lần tương ứng với từ “thấy" 13 lần; ở mỗi giai đoạn, công thức “Ngài đã mở mắt cho tôi" được lặp đi lặp lại tổng cộng 7 lần. Đây là con số hoàn hảo cố ý nói người mù đã hoàn toàn bình phục.
Sau khi anh mù được chữa lành, câu chuyện được tiếp tục như một phiên tòa gồm bốn giai đoạn: Trước hết các người láng giêng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta đã cố gắng tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra, xảy ra như thế nào và ai đã làm điều đó (cc 8-12). Và anh ta đã trả lời: “Người tên là Giêsu”(c. 11)
Tiếp theo, họ dẫn anh ta đến với những người Pharisêu (cc.13-18). Những người này bất đồng ý kiến với nhau, kẻ thuận người nghịch, và họ hỏi anh ta như hỏi một người trọng tài: “Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?” Và anh ta đáp lại: “Người là một vị ngôn sứ!”
Sau đó người Do thái gọi cha mẹ anh ta đến (cc. 18- 23) nhưng họ từ chối không trả lời. Họ “biết" anh mù là con của họ, nhưng họ "không muốn biết" ai đã mở mắt cho anh (cc 20-21). Ho né tránh vì sợ người Do-thái (c. 22)
Cuộc thẩm vấn thứ tư thật thú vị: các người Pharisêu “biết" Đức Giêsu là một người tội lỗi và “biết” rằng Thiên Chúa đã nói với Môisê...nhưng họ “không biết ông ấy bởi đâu đến”(c. 29); còn anh mù ngược lại "không biết" Đức Giêsu từ đâu mà đến nhưng "biết" là chính Người đã mở mắt cho anh và “biết" rằng Thiên Chúa không nhận lời những kẻ tội lỗi (cc l2.25.30). Anh ta dạy khôn cho họ nổi giận: “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày muốn làm thầy chúng ta ư?”
Cuối cùng, anh ta được gặp Đức Giêsu lần thứ hai. Sự chữa lành thể xác chỉ là một dấu chỉ của một sự chữa lành sâu xa hơn: từ nay anh “thấy" trong “niềm tin". Anh cất tiếng: “Thưa Ngai, Đấng ấy là ai để tôi tin”(c.36) và Đức Giêsu trả lời: "Anh đã thấy Người và chính Người đang nói với anh đây”(c.37)
Anh mù đã trải qua một cuộc hành trình dài trước khi khẳng định đức tin mình vào Đức Giêsu. Đức Giêsu đã đưa anh ta qua những chặng đường quyết định từ việc nhận biết một "Người tên là Giêsu”(c.11), một “Ngôn sứ”(c.17), “Người bởi Thiên Chúa mà đến”(c.33), “Con Người”(c.35) và “Chúa”(c.38); cuối cùng anh ta tuyên tín: “Thưa Ngài, tôi tin”, rồi anh ta sụp lạy; anh ta nhận ra thiện tính của Người, bởi vì theo Thánh Gioan, sự thờ lạy chỉ dành riêng cho một mình Thiên Chúa. Việc nhận ra Đức Giớiêu như là Đấng mạc khải cuối cùng của Thiên Chúa và thờ lạy Người chính là đỉnh cao của cuộc hành trình của anh mù. Và điều này chỉ có thể thực hiện được nhờ cuộc "gặp gỡ” cá vị với Đức Giêsu.
4. Để trở nên con cái ánh sáng
Ta có thể nói anh mù là “thánh bổn mạng" của những người đi tìm ánh sáng, những người tìm kiếm Đức Kitô hữu
Trước hết, anh là biểu tượng của nhân loại đang chìm trong bóng đêm của tội lỗi, bị chi phối bởi các thế lực tà thần, thiếu một vì sao dẫn lối như Gandhi đã nói: “Một cuộc sống không niềm tin tôn giáo là một cuộc sống không nguyên tắc. Mà sống không nguyên tắc thì khác chi chiếc tàu không bánh lái”. Và hồ Silôác thực sự tượng trưng cho Bí tích Rửa Tội có sức “thanh tẩy" và "chiếu sáng”.
Cuộc hành trình đi đến niềm tin của anh ta giúp ta suy nghĩ về những bước đi của người tân tòng tiến đến việc lãnh nhận Bí tích. Đó là một bước đường mầu nhiệm từ tối tăm đến ánh sáng, từ một nhân loại còn đóng kín trong vô nghĩa và lầm lạc, tới một nhân loại mở ra đón ánh sáng Đức Giêsu. Cũng như anh mù, người tân tòng phải trải qua nhiều thử thách như thái độ dửng dưng của gia dình, sự thù nghịch chống đối của xã hội. Cũng như anh mù, người tân tòng cũng được mời gọi sống cuộc gặp gỡ có tính quyết định. Ngày ấy, họ cũng sẽ hỏi: "Đấng ấy là ai?”, và Đức Giêsu sẽ trả lời: "Chính Người đang nói với anh đây", lúc đó họ cũng sấp mình xuống và nói: “Lạy Chúa, con tin”.
Và cuộc chiến gay gắt giữa ánh sáng và bóng tối vẫn không ngừng tiếp diễn trong đời sống Kitô hữu, khiến Thánh Phaolô phải nói: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm”(Rm7,19). Chính vì cảm nghiệm cách sâu sắc như thế nên Ngài đã nhắc nhở ta: "Anh em hãy ở như con cái ánh sáng...lương thiện, công chính và chân thật... Hãy xem xét điều gì đẹp lòng Thiên Chúa. Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối...”(Ep 5,8-11). Đức tin luôn đòi buộc ta phải đoạn tuyệt vì ma quỷ, thế gian xác thịt, và phải can đảm tuyên xưng chân lý.
Những ta không bao giờ nản lòng trông cậy vì ta không phấn đấu một mình. Ngày xưa, Đức Giêsu đã “nhìn thấy một người mù" và đã đi bước trước để đến với anh ta; thì giờ đây cũng vậy Người “thấy" những khó khăn của ta, và luôn sẵn sàng cứu giúp ta. Vì thế, với Tâm tình phó thác ta dâng lên Người lới cầu xin:
“Trong tận thâm cung cõi lòng, lạy Chúa!
Con khát mong mình mong ánh thiên thu
Sao bước đường đời
Luôn trắc trở âm u
Oi! Lạy Chúa.
Xin xót thương tha thứ tội tình
Xin chiếu soi vào đời con u tối
Xin xóa tan bào khờ dại sai lầm
Cho con sống trong tình yêu vĩnh cửu”.
Trong cuộc đời công khai Chúa, trước khi thực hiện một số phép lạ, (như cho Lazarô sống lại), hoặc sau khi đã thực hiện phép lạ cho một người nào (như chữa người mù từ lúc mới sinh ta vừa nghe) Chúa thường nhắc tới lòng tin. Thí dụ với người mù từ lúc mới sinh, Chúa hỏi: “Các con tin con Thiên Chúa không?”. Sở dĩ Ngài luôn luôn nhắc tới lòng tin, là vì tin vào Chúa, tin vào lời của Ngài, tin vào những mầu nhiệm trong đạo quả là cần thiết cho mọi tín hữu. Chính đức tin này đã biến những con người tầm thường, thành phi thường, biến họ thành những vị Thánh để Giáo Hội tôn kính, noi gương, và để Giáo Hội cầu xin sự giúp đỡ bảo trợ của các Ngài nơi Tòa Thánh.
Khi Thánh Borie Cao bị bắt, các tín hữu sợ liên lụy lên lám ngơ như không quen biết. Nhưnt thầy giảng Phêrô Nguyễn Khắc Tự (tử đạo ngày 10.7.1840, 32 tuổi) lẽo đẽo đi theo đám lính, vừa khóc, vừa xin theo. Thầy ước ao được phúc tử đạo, vì thầy mạnh mẽ tin vào phấn thưởng Chúa hứa ban cho những ai can đảm xưng danh Thánh Chúa. Quân lính thấy thế sinh nghi, bắt thầy đưa đến trước mặt Thánh Cao. Cha Cao vì không muốn thầy bị liên lụy, giả bộ không biết người thanh niên này là ai, còn bỏ tiền ra đẩ chuộc tự do cho anh ta. Nhưng thầy Tự đã quyết hy sinh vì Chúa. Thầy xác định mình là môn đệ của người bị bắt, còn năn nỉ với cha Cao: “Xin cha cho con theo cha đến cùng”. Trước khi thế anh hùng,vị Linh mục xúc động, tháo chiếc khăn quàng, xé làm hai, trao một phần cho người môn đệ, cũng là cộng sự viên đắc lự nhiều năm qua, và nói:
“Cầm lấy, con hãy giữ lấy miếng vải làm bằng chứng cho lời con đã hứa”.
Và thầy đã giữ miếng vải ấy cho đến ngày thầy tử đạo. Thầy bị giam với cha Cao gần 4 tháng.
Sau khi áp giải cha Cao và thầy Tự từ Bố Chánh về thị trấn Đồng Hới, quan cho nhốt riêng hai người. Nhiều lần hai cho con cùng với hai Linh mục Vũ Đình Khoa, Nguyễn Thời Điểm và trùm họ Nguyễn Hữu Quỳnh bị đưa ra tra khảo chung. Lần đầu tiên thầy Tự bị đánh đòn 20 roi vì không chịu khóa quá. Hôm sau quan cho điệu riêng thầy ra tra khảo: “Anh gặp đạo trưởng đã lâu chưa?” Thầy đáp: “Được 4 năm”. Quan hỏi tiếp: “Vậy anh gặp đạo trưởng ở đâu?”. Để tránh liên lụy tới mọi người, thầy nói: “Tôi gặp cha ở trên thuyền, và rồi chúng tôi ở chung với nhau”. Quan tức giận quát lên: “Nói láo, thằng này khai man. Líng đâu cho nó 30 roi”. Thềy Tự nhẫn nhục chịu đòn, không hề kêu một lời.
Những cuộc tra khảo, đòn vọt và ép buộc khóa quá như thế cứ tái diễn nhiều lần trong 4 tháng. Một hôm để ép cha Cao khai những nhà đã cho trú ẩn, quan lôi thầy ra đánh trước mặt mọi người. Vị Linh mục đã lanh trí khai tên những người đã chết, để thầy bới bị đòn. Thầy Tự luôn tỏ ra là một chứng nhân trung kiên, thầy còn khuyên nhủ các tín hữu đến thăm chấp nhận Thánh Ý Chúa, vững tâm giữ đạo và cầu nguyện cho nhau sống mạnh mẽ đức tin và can đảm. Thầy vận dụng hoàn cảnh để dạy Giáo lý và giảng Tin Mừng cho các bạn tù và lính canh hai lần, cha Ngôn đã khéo láo cải trang vào ngục thăm viếng và cho thầy rước lễ.
Ngày 24.11.1838, Đức Cha Borie Cao cùng hai Điểm và Khoa nhận được bản án tử hình và bị điệu đi xử. Cũng trong bản án đó, thầy Tự và một tù nhân khác, ông Antôn Quỳnh được vua Minh Mạng phê: “Tuy không phải là đạo trưởng, nhưng mù quáng cố chấp không kém, nên cũng thuộc vào những kẻ đáng ghét bỏ đi. Do đó, cả hai đều kết án xử giảo, nhưng chưa xử ngay”.
Vua Minh Mạng chấp thuận cho quan tỉnh Quảng Bình xử giảo thầy Tự và ông Quyènh ngày 10.7.1840. Một trăm lính dẫn thầy Tự và ông Quỳnh ra pháp trường. Đến nơi, hai vị hỏi chỗ xử Đức Cha Cao và hai Linh mục Khoa và Điểm năm trước, rồi dừng lại đúng chỗ đó mà cầu nguyện:
“Lạy Chúa, xin tạ ơn Chúa cho chúng con được ơn phúc như các Ngài…”
Thầy Tự và ông Quỳnh cùng nằm xuống, lính tòng giây qua cổ hai vị, xiết chặt hai đầu giây. Thi hài hai đấng tử đạo được đưa về Nghệ An chôn cất.
Trước và sau khi bị bắt vì đạo, cha Đaminh Xuyên (tử đạo ngày 26.11.1839, 53 tuổi) thường lặp lặp lại:
“Người khôn ngoan giàu đức tin và mạnh mẽ trong Đức cậy thì không sỡ gươm đao”.
Khi bắt được cha Xuyên, và biết cha giữ chứ quản lý của tòa Giám mục, các quan không những bắt cha bỏ đạo, mà còn đòi cha khai báo tài sản của địa phận. Để tra khảo, quan cho dùng mọi thứ hình, roi, đòn, kìm kẹp, sắt nung đỏ. Nhưng cha chỉ ngửa mặt lên trời kêu: “Giêsu, Maria, Lạy Chúa xin thương xót con…” Các thứ hình khổ liên tiếp hành hạ cha, khiến cha ngất đi. Quan tưởng cha đã chết, song thấy cha còn thở, nên biểu lính đưa về ngục. Sợ cha chết trước khi đạt được mục đích, Tổng Đốc Trịnh Quang Khanh cho gọi lương y đến thuốc men cho cha để cha sống thêm, đặng khai những tài sản mà ông tưởng tượng. Cha Đaminh dần dần bình phục, song quan thất vọng khi đòi cha phải khai những cái mà cha không có, cũng như không thể ép được Cha bỏ đức tin.
Ngày 25.10.1839, sau một Hội Nghị Án, tòa tuyên án xử tử cha vì tội làm đạo trưởng đạo Gia Tô.
Ngày 12 tháng 11, bản án tử triều đình ra tới Nam Định. Và ngày 26.11.1839 cha được dẫn đi xứ. Cha mang gông, đi bộ, dáng điệu thanh thản vui tươi. Khi quan hỏi, lần sau hết, có muốn xuất giáo để được tha, thì cha trả lời rằng “không”. Rồi cứ tiếp tục cầu nguyện cho đến nơi xử gọi là Bảy Mẫu. Cha Xuyên bị trói vào cọc và bị xử chém đầu.
Khi Helenkiller mới 2 tuổi, em bị bệnh nặng mất hết khả năng nhìn và nghe. Bạn hãy tưởng tượng bạn không có thể nhìn và nghe: khi Helen Keller được bảy tuổi, cô giáo Anne Sullivan đã tìm cách giải quyết công việc bề ngoài xem ra không thể làm được, là tiếp xúc với tâm trí của Helen nhờ xúc giác. Cô Anne Sullivan thực hiện một loại chữ cái, nhờ đó cô đánh vần trên bàn tay của Helen. Dần dần đứa trẻ có thể nối kết các chữ với các đồ vật, và rồi Helen tiến bọ rất nhanh. Trong ba năm., Helen đã có thể đọc và viết bằng chữ Braille. Năm lên 10, Helen đã kiên quyết hoàn thành bài diễn văn. Và năm 16 tuổi, Helen nhập học trường Đại học Radcliffe mà cô đã tốt nghiệp danh dự vào năm 1904. Cô trở thành một trong những người nữ có học vấn cao nhất thời đó. Bà Anne Sullivan đã kiên trì ở sát cạnh cô Helen tới khi bà qua đời năm 1936.
Tin Mừng hôm nay tường thụât cho chúng ta về việc Chúa Giêsu chữa lành bệnh cho một người mù. Chúa đã làm mọi sự có thể cho người mù đó. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên Ngài đã làm cho anh mù được sáng mắt. Anne Sullivan cũng đã làm mọi sự có thể cho Helen Keller. Bà đã giúp cho cô gái mù và điếc tiếp xúc được với thế giới bên ngoài. Theo một nghĩa nào đó, Anne Sullivan đã làm phép lạ, phép lạ của tình yêu và sự quan tâm. Bạn và tôi có thể làm cùng một loại phép lạ của tình yêu lo lắng cho những người khuyết tật, đặc biệt là người mù. Bất cứ cố gắng nào giúp đỡ cho người mù cũng làm đẹp lòng Chúa.
Tôi có thể làm gì ? Người mù rất muốn có ai đọc cho họ nghe báo chí, Kinh Thánh, tập truyện... bạn đọc cái gì và bao lâu là tùy ở thời gian và hoàn cảnh của bạn. Người mù không có phương tiện vận chuyển, họ ước được đưa tới cửa tiệm, gặp bác sĩ, hay đi thăm một người bạn. Nhiều người mù ước ao tham dự thánh lễ, hay những cử hành trong nhà thờ của chọ – bạn hãy nhớ, chúng ta đừng giới hạn lưu tâm chỉ vào người công giáo. Tại sao bạn không đưa họ đi với bạn, đi bách bộ, hay thăm viếng trong ít phút ? Bạn hãy nghĩ, nếu bạn mù thì sao đây ? Một ít người mù muốn làm việc tay chân. Bạn hãy dạy họ vài môn đơn giản nào đó.
Nếu bạn bị mù hay bị khuyết tật, bạn có muốn thỉnh thoảng được mời ăn tối hay dự tiệc, được đối xử như mọi người không ? Nếu có thể được, bạn hãy cung cấp hay tìm việc cho người mù, tuy nhiên cần giới hạn.
Mỗi người chúng ta có thể chia sẻ về vật chất với người mù, hay với những nhóm làm việc với và cho người mù. Như Anne Sullivan bạn hãy tìn ra những cách để giúp đỡ người mù cũng có thể dâng lên Thiên Chúa với lễ hy sinh trên bàn thờ. Điều đó quý giá biết bao !
Bài hát khởi đầu Thánh lễ vừa rồi nhắc nhở mỗi ngươi chúng ta hãy cố gắng sống thực hiện thánh ý Chúa trong đời sống của mình. Trước khi cử hành Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy nhìn lại những tầm lỗi của mình, xin Chúa tha thứ những tẫm lỗi mà chúng ta đã xúc phạm đến Ngài và tha nhân, đồng thời chúng ta hứa với Chúa sẽ canh tân đời sống của mình để mỗi ngày thực hiện thánh ý Chúa một cách trọn vẹn hơn.
Anh chị em thân mến!
Qua bài Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan kể lại cho chúng ta việc Chúa Giêsu chữa lành người mù từ khi mới sinh, và kế tiếp là cuộc tranh luận giữa những người Pharisiêu và anh mù được sáng mắt. Từ chi tiết này chúng ta thấy thánh Gioan không phải chỉ nhằm tường thuật phép lạ mà thôi, nhưng ngài còn muốn nói lên ý nghĩa thiêng liêng sâu xa của phép lạ qua việc anh mù được chữa lành con mắt đến việc anh nhận ra Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa, và anh sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà luyên xưng: "Lạy Thầy tôi tin".
Qua việc chữa lành này, thánh Gioan muốn làm nổi bật đức tin của anh mù. Bởi vì, mặc dù anh bị mù loà về thể xác, nhưng tâm hồn anh ta vẫn sáng suốt nhận ra Chúa trong một biến cố lạ lùng xảy ra trong đời sống của mình. Trong khi đó thì những người Pharisiêu, những kẻ tự cho mình là sáng mắt thì lại là những kẻ mù quáng nhất, mù quáng thiêng liêng không nhận ra ánh sáng sự thật của Chúa.
Như vậy, qua cùng một dấu chỉ, cùng một biến cố, cùng một việc chữa lành người mù từ khi mới sinh, chúng ta nhìn thấy những thái độ khác nhau: Thái độ của những người Pharisiêu không tin, thái độ của cha mẹ anh mù không dám tin, vì sợ bị thiệt thòi và thái độ của anh mù tin nhận Chúa: "Lạy Thầy, tôi tin".
Trước hết thái độ của người Pharisiêu ham quyền, ham danh vọng, muốn bảo vệ quyền ưu tiên của họ trong dân Do Thái. Có thể họ là những kẻ lợi dụng tôn giáo để xây dựng địa vị cá nhân của họ, cuối cùng đi đến chỗ từ chối Thiên Chúa: "Mt muốn làm môn đệ của Người đó thì mặc Mt, nhưng chúng ta là môn đệ của Môisê".
Còn thái độ của cha mẹ anh mù thì lo sợ trước những hệ lụy của kẻ khác, sợ những người Pharisiêu nên trốn tránh không muốn tìm hiểu nữa: "Con tôi đã có tuổi rồi, các ông hãy hỏi nó". Cha mẹ của anh sợ bị trục xuất ra khỏi hội đường, sợ bị mất quyền lợi trong cộng đoàn nên đã trả lời một cách khéo léo.
Thái độ thứ ba của anh mù: Anh bị mù nơi thể xác, nhưng lại không bị mù trong tinh thần, anh đã dùng lý trí để lý luận một cách vững chắc: "Nếu ông này là người tội lỗi thì không thể nào làm việc lạ này được. Chắc chắn người này phải là người của Thiên Chúa, không phải là người tội lỗi". Đây là một khám phá khởi đầu của việc nhận ra Chúa Giêsu, rồi vui lòng thành tâm thiện chí và can đảm, anh đã đi từ sự khám phá này sang sự khám phá khác về Chúa Giêsu. Khi hỏi cung đối chất tần thứ nhất thì anh ta quả quyết: "Thầy là người đến từ Thiên Chúa ". Rồi đến tần thứ hai anh ta tiến thêm một bước nữa: "ông này là vị tiên tri ", và cuối cùng anh đã trả lời một cách xác tín: " Thầy là Con Thiên Chúa". Vậy, nhờ Đức Giêsu đến mạc khải cho, anh sấp mình thờ Lạy Chúa và nói: "Lạy Thầy, tôi tin ".
Anh chị em thân mến!
Ước gì trong Mùa Chay này, mỗi người chúng ta hãy bắt chước anh mù biết khám phá ra sự hiện diện của Chúa qua biến cố vui buồn của cuộc sống mà Chúa thực hiện trong cuộc đời mỗi người chúng ta. Nếu chúng ta có tinh thần khiêm tốn, có ý chí ngay lành như anh mù thì chúng ta có thể nhận ra Chúa, chúng ta có thể tuyên xưng như anh mù: "Lạy Thầy, con tin”
Xin Thiên Chúa giúp mỗi người chúng ta có một tâm hồn trong sạch, thành tâm, thiện chí để nhận ra Chúa, và xin Chúa gìn giữ mỗi người chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưa qua kinh Tin Kính.
Trong các sách Phúc Âm , đây là phép lạ duy nhất ghi rõ người mắc bệnh từ bẩm sinh. Trong Công vụ, chúng ta được nghe hai lần về người tàn tật từ thuở sơ sinh (người què nơi Cửa Đẹp và người liệt chân tại Litrơ), nhưng trong truyện tích ghi lại trong Phúc Âm , đây là người duy nhất mang tật từ lúc mới sinh. Chắc anh ta nổi tiếng lắm, vì các môn đệ cũng biết rõ anh.
Khi thấy người mù, họ thừa dịp nêu ra cho Chúa Giêsu một vấn đề mà người Do thái đặc biệt quan tâm, nhưng vẫn còn là một vấn đề khó giải. Người Do thái đã kết hợp đau khổ với tội lỗi. Họ suy luận căn cứ trên câu khẳng định căn bản: nơi nào có đau khổ thì phải có tội lỗi ẩn núp đâu đó. Thế nên, họ hỏi Chúa Giêsu:”Người này bị đui mù, sự đui mù là do tội lỗi của chính anh hay của cha mẹ anh ?”Làm sao sự đui mù lại có thể do tội của chính anh được, vì anh bẩm sinh vốn đã bị đui mà ? Các thần học gia Do thái đưa ra hai câu trả lời cho vấn đề này:
1. Vài người trong số họ có một khái niệm lạ lùng về tội lỗi của một người trước khi sinh ra. Họ thật sự tin người ta có thể bắt đầu phạm tội khi hãy còn ở trong bụng mẹ. Trong câu truyện tưởng tượng giữa Antonius và rabi tộc trưởng Judah, Antonius hỏi: "Tội lỗi đã xâm nhập người ta khi nào, từ khi bào thai mới hình thành trong tử cung, hay vào lúc người ta sinh ra ?" Ban đầu vị rabi đáp:"Từ khi bào thai mới thành hình". Antonius phản đối quan điểm ấy và thuyết phục Judah bởi luận cứ của mình, vì Judah thừa nhận rằng, nếu sức thúc đẩy của tội ác bắt đầu lúc bào thai mới thành hình, thì đứa trẻ đã đạp lòng mẹ và tìm đường mà ra. Judah tìm được một câu trong Kinh Thánh để hậu thuẫn cho quan điểm của mình. Ông dựa vào Khởi Nguyên:"Tội lỗi rình rập trước cửa" và cho rằng, tội lỗi đang đợi một người tại cửa tử cung, ngay khi người ấy được sinh ra. Tuy nhiên, luận cứ ấy cho chúng ta thấy lúc đó đã có ý niệm tội lỗi vốn có trước khi người ta được sinh ra.
2. Vào thời Chúa Giêsu , người Do thái tin vào sự hiện hữu từ trước của linh hồn. Thật ra, họ lấy ý niệm đó từ Plato và người Hi lạp. Họ tin mỗi linh hồn vốn có trước công cuộc sáng tạo thế gian trong vườn địa đàng, hoặc ở trên tầng trời thứ bảy, hay trong một căn phòng nào đó, chờ nhập vào một thể xác. Người Hi lạp tin những linh hồn như thế vốn lành, và chính việc nhận vào thân xác đã khiến chúng nhiễm độc; nhưng có một số đạo sĩ Do thái lại tin các linh hồn ấy có tốt và có xấu. Tác giả sách Khôn Ngoan viết: "Tôi vốn là một con trẻ có bản tính ngay lành, một linh hồn ngay lành sa vào thân phận tôi" (8,19).
Vào thời Chúa Giêsu , có một số người Do thái cho rằng những khó khăn mà người ta gặp phải, ngay từ thuở sơ sinh, có thể do tội lỗi mà người ấy đã phạm từ trước khi được sinh ra. Đây là một ý niệm lạ lùng, chúng ta nghe có vẻ quái dị, nhưng qua đó, chúng ta thấy được ý niệm về một vũ trụ bị tội lỗi thấm nhiễm.
Cách giải thích khác, sự đau khổ của một người là do tội lỗi của cha mẹ người ấy. Ý niệm con cái thừa hưởng các hậu quả do tội lỗi, lỗi cha mẹ, gắn liền với tư tưởng Cựu Ước:"Ta là Giavê. là Thiên Chúa kỵ tà, hễ ai ghét ta, ta sẽ nhân tội tổ phụ phạt lại con cháu đến ba bốn đời " (Xh 20,5 ;34,7 ; Ds 14,18). Tác giả thánh vịnh nói về kẻ ác rằng:"Tội cha ông nó, trước Giavê, hãy bị nhắc đến; lỗi của mẹ nó không hề được xoá bỏ" (108, 4). Tiên tri Isaia nói:"Ta sẽ trả thù trên thân mình chúng... vì tội ác của các ngươi, và tội ác của cha ông các ngươi, ta sẽ đo lường cho chúng xứng việc chúng làm xưa trên thân mình chúng" (65,7). Một trong những chủ âm của Cựu Ước là , tội lỗi của tổ phụ luôn luôn thăm phạt con cháu họ. Phải nhớ chúng ta chẳng có ai sống một mình, và chẳng có ai chết một mình. Khi một người phạm tội, người ấy khơi động một chuỗi hậu quả không bao giờ chấm dứt.
Chúng ta thấy trong phân đoạn Lời Chúa này có hai nguyên tắc vĩnh cửu:
1. Chúa Giêsu cố tình không khai triển hoặc giải thích mối liên hệ giữa đau khổ và tội lỗi. Người bảo sở dĩ người này gặp khó khăn, nhằm tạo cơ hội để chứng tỏ khả năng của Thiên Chúa . Câu này đúng theo hai ý nghĩa:
a) Với tông đồ Gioan, các phép lạ luôn luôn là một dấu hiệu về sự vinh hiển và quyền năng của Thiên Chúa . Tác giả các Phúc Âm khác cho rằng phép lạ chứng tỏ lòng nhân từ, thương xót của Chúa Giêsu .Khi Chúa Giêsu nhìn thấy một đám đông người đang đói thì Ngài động lòng thương xót họ, bởi vì "như đàn chiên không người chăn" (Mc 6,34). Khi người phung tuyệt vọng đến xin chữa lành, thì Ngài động lòng thương xót. (Mc 1,41). Nhiều người bảo Phúc Âm thứ tư khác hẳn các Phúc Âm kia. Trong khi các Phúc Âm kia nhấn mạnh đến lòng thương xót, thì Gioan nhấn mạnh đến sự kiện bày tỏ quyền năng vinh quang của Thiên Chúa trong các phép lạ. Chắc chắn không có sự mâu thuẫn ở đây. Đó chỉ là hai cách nhìn khác nhau. Tại trung tâm của vấn đề, có chân lý tối cao là vinh quang của Thiên Chúa nằm trong sự nhân từ thương xót của Ngài, và không lúc nào Thiên Chúa có thể tỏ bày vinh quang bằng lúc biểu lộ sự thương xót của Ngài.
b) Còn một ý nghĩa khác trong việc người ấy gặp hoạn nạn để chứng minh quyền năng của Thiên Chúa . Hoạn nạn, sầu khổ, đau đớn, tuyệt vọng, mất mát luôn luôn là cơ hội bày tỏ ân điển của Chúa. Trước hết, nó cho phép người gặp hoạn nạn chứng tỏ hành động của Thiên Chúa . Khi hoạn nạn, tai họa giáng xuống trên một người không biết Chúa, người ấy có thể sẽ ngã quị; nhưng khi chúng xảy đến cho một người đang đồng đi cùng Thiên Chúa , chúng sẽ làm nổi bật sức mạnh và vẻ đẹp, đức nhẫn nhục và sự cao quí vốn ở trong lòng người ấy nhờ sự hiện diện của Chúa.
Người ta kể chuyện về một thánh đồ đang hấp hối trong cơn đau cùng cực, cụ kêu người trong gia đình đến và bảo: "Hãy đến xem một kitô hữu qua đời như thế nào". Chính lúc cuộc đời giáng cho chúng ta những đòn khủng khiếp, chúng ta có thể chứng tỏ cho thế gian biết một kitô hữu sống như thế nào, và nếu cần, chết như thế nào! Bất cứ loại đau khổ nào cũng là cơ hội chứng tỏ vinh quang Thiên Chúa trong đời sống chúng ta. Sau nữa, khi giúp đỡ những người đang gặp hoạn nạn, đau khổ, chúng ta có cơi hội chứng minh cho kẻ khác thấy vinh quang của Thiên Chúa . F. Laubach đã có một ý tưởng tuyệt diệu khi nghĩ Chúa Giêsu là Đường Đi, bước vào cuộc đời chúng ta. Chúng ta trở thành một phần của Đường Đi đó. Đại Lộ của Thiên Chúa đang chạy xuyên qua chúng ta. Khi chúng ta hiến thân, hiến của giúp đỡ người hoạn nạn, sầu khổ, đau đớn buồn rầu, bối rối là lúc Chúa đang dùng chúng ta là con đường, qua đó Ngài gởi sự cứu trợ của Ngài đến cho dân Ngài. Giúp đỡ đồng bào cần đến sự trợ giúp là bày tỏ vinh hiển của Thiên Chúa , vì như vậy chứng tỏ cho người ta thấy Thiên Chúa như thế nào.
2. Chúa tiếp tục bảo, Ngài và những người theo Ngài phải làm công việc của Thiên Chúa trong khi còn có thời giờ. Thiên Chúa ban cho loài người ban ngày để làm việc, ban đêm để nghỉ ngơi. Ngày sẽ qua đi, thì giờ làm việc sẽ hết. Với Chúa Giêsu , quả thật, Ngài phải gấp rút làm công việc Thiên Chúa đang khi còn ban ngày, vì đêm thập giá đang ở trước mặt. Điều đó cũng đúng với mọi người. Chúng ta chỉ có một thời gian đó. Tại Glasgow có một đồng hồ mặt trời, trên đó có ghi câu khẩu hiệu: "Hãy nghĩ đến thì giờ trước khi nó hết". Đừng bao giờ hoãn lại chờ đến lần khác, vì lần khác có thể sẽ chẳng bao giờ đến. Nhiệm vụ của chúng ta là phải tận dụng thời giờ của mình, vì không ai biết mình có bao nhiêu thời giờ để phục vụ Chúa Trời và đồng bào, đồng loại. Không có gì đau buồn cho bằng khi khám phá một cách thảm bại rằng, đã quá trễ để làm một việc nào đó, mà đáng lẽ đã làm xong rồi.
Nhưng có những cơ hội khác mà chúng ta có thể đánh mất. Chúa Giêsu phán: "Đang khi ta còn ở thế gian, ta là sự sáng thế gian". Khi nói như vậy, Chúa không bảo đời sống và công tác của Ngài có giới hạn, nhưng cơ hội để chúng ta nắm bắt lấy Ngài thì giới hạn. Mọi người đều có một cơ hội để nhận Chúa Giêsu làm chủ, làm Chúa, và làm Cứu Thế của mình, và nếu không bắt ngay lấy cơ hội đó, có thể nó sẽ chẳng bao giờ trở lại. Trong quyển "Tâm lý Tôn giáo". D.Starbuck có một số bản thống kê rất thích thú và đầy cảnh cáo về hạn tuổi và sự ăn năn tin nhận Chúa thường xảy ra. Sự ăn năn có thể đến thật sớm, khi lên bảy, lên tám. Nó tăng dần lên đến tuổi mười một, mười hai. Sau ba mươi tuổi thì họa hoằn lắm mới xảy ra. Thiên Chúa luôn luôn nói với chúng ta: "Đây là đúng thời điểm". Không phải vì quyền năng của Chúa Giêsu bị suy giảm, hay ánh sáng của Ngài lu mờ dần, nhưng nếu chúng ta cứ trì hoãn quyết định quan trọng, thì càng ngày có thể chúng ta càng ít quyết định hơn. Chúng ta phải làm việc, phải quyết định, trong khi còn ban ngày, trước khi màn đêm buông xuống.
Ông Thosma More là một Kitô hữu giáo dân rất nổi tiếng, sống cách đây hơn 400 năm. Ông là người giáo dân đầu tiên được bổ nhiệm làm quan chưởng ấn của triều Vua Henry VIII, nước Anh. Nhà vua rất quí mến Thomas More vì tài cao học rộng của ông, vì chí thông minh và đức tính thân hữu của ông. Nhưng Thomas More đã thất sủng cùng Vua khi ông từ chối công nhận Vua là Giáo chủ Anh giáo, và phản đối việc vua ly dị để kết hôn nữa. Vua Henry VIII đã xử trảm Thomas More năm 1535.
400 năm sau, Giáo hội công giáo đã tuyên phong Thomas More lên bậc hiển thánh. Có lẽ các bạn đã xem cuốn phim về cuộc đời thánh Thomas More, gọi là “Người của mọi mùa”.
Thánh Tomas More đã điều khiển gia đình sống đích thực là công giáo. Gia đình hàng ngày cầu nguyện cùng với bài đọc Kinh thánh ngắn. Ngài bàn luận về những tư tưởng thiêng liêng với vợ, con và những bạn bè đến thăm viếng. Ngài tham dự Thánh lễ hàng ngày, và đọc kinh Nhật tụng Đức Mẹ. Ngài cùng hát với Ca đoàn nhà thờ, và đôi khi giúp lễ nữa. Ngài niềm nở đón tiếp những người nghèo khổ, túng thiếu, cũng như những người học thức tài ba. Đó là một hoàn cảnh thật lý tưởng. Nhà thờ giúp đỡ Ngài, và Ngài giúp đỡ nhà thờ.
Tôi xin đề nghị là, chúng ta hãy làm điều gì giống như thế. Bạn có thể tham dự các cử hành Phụng vụ ở nhà thờ trong những ngày đang tới, hay thi hành Tuần thánh trong gia đình. Hãy bắt đầu hôm nay. Hãy đặt cành lá ở nơi xứng đáng, chẳng hạn để ở trong bình đặt trên bàn hay trên máy truyền hình. Hãy nói về ý nghĩa của nó – chúng ta tôn vinh Chúa Kitô là Vua với đám đông dân chúng trong ngày Chúa nhật lễ lá đầu tiên.
Thời gian từ bây giờ cho đến thứ năm tuần thánh, việc cầu nguyện trong gia đình phải dồi dào ý nghĩa và sốt sắng hơn. Bạn có rhể đọc một phần bài tường thuật về cuộc khổ nạn và sự chết của Chúa Kitô, như được công bố cho chúng ta nhiều lần trong tuần này.
Vào ngày thứ Năm Tuần Thánh. Bạn hãy tổ chức bữa ăn chung trong gia đình. Trong bữa ăn, một người, tốt nhất là người cha, nhắc lại cho mọi người về điều đã xảy ra vào ngày thứ năm Tuần Thánh đầu tiên: Chúa Giêsu cử hành Thánh lễ thứ nhất. Đó là lần đầu tiên Chúa Giêsu trao ban chính mình trong sự rước lễ. Chúa thiết lập chức linh mục công giáo. bạn hãy cầu nguyện cho các linh mục.
Mỗi gia đình công giáo thật phải có một tượng chịu nạn. Hãy đặt thánh giá ở nơi đặc biệt trong ngày thứ sáu Thánh này, để nhấn mạnh ý nghĩa của nó: nói về sự chết của Chúa Giêsu vì phần rỗi tất cả chúng ta. Thỉnh thoảng bạn hãy đứng hay quì trước tình yêu chịu treo trên Thánh giá vì bạn và cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chịu cực hình vì con, con muốn đáp lại lòng thương yêu. Trên hết, con sẽ cố gắng tham dự thánh lễ sốt sắng hơn. Ngày thứ năm và thứ sáu Tuần Thánh vẫn còn sống động cho con”.
Ngày thứ bảy, bạn hãy thắp một ngọn nến ở nơi đặc biệt trong nhà để làm tiêu biểu về Chúa Kitô, ánh sáng thế gian, ánh sáng chiếu rọi mọi chốn tối tăm của thế gian. Bạn hãy suy nghĩ , nhìn về ý nghĩa Lễ phục sinh.
Phải, gia đình bạn là nhà thờ. Bạn hãy cố gắng đổi mới mọi sự vì Chúa Kitô. Bạn hãy bắt đầu ở gia đình. Bạn hãy cử hành tuần thánh ở đó. Bạn cũng hãy cố gắng hiện diện ở đây, trong nhà thờ này. Bạn hãy làm mọi sự có thể để tưởng niệm những chân lý cao cả mà chúng ta là một sống lại trong tuần lễ đang tới.
Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, tôi muốn đưa ra câu hỏi:
- Thế nào là một người đui mù.
Hay nói một cách khác:
- Có mấy thứ đui mù?
Tôi xin thưa:
- Có hai thứ, đó là đui mù về phần xác và đui mù về phần hồn. Thế nhưng trước hết là những người đui mù về phần xác.
Những người đui mù về phần xác là những người cặp mắt không còn ghi nhận được những hình ảnh từ bên ngoài. Đây là một nỗi bất hạnh nặng nề và to lớn, vì họ mất đi một phương tiện làm giàu cho tâm hồn và làm đẹp cho cuộc sống.
Sở dĩ như vậy là vì như chúng ta thường nói:
- Con mắt là cửa sổ của linh hồn, nó được mở ra để ghi nhận cái thế giới bên ngoài.
Kể từ nay hai khung cửa ấy bị đóng lại vĩnh viễn, và cuộc đời của họ sẽ chìm trong một thứ đêm tối triền miên. Nỗi bất hạnh kể trên cũng chính là nỗi bất hạnh mà anh mù ở Giêricô đã gặp phải.
Thế nhưng còn một thứ đui mù khác, đó là đui mù về phần hồn. Người mắc chứng đui mù này, mặc dù cặp mắt thể xác của họ vẫn lành lặn, nhưng tâm hồn của họ, hay nói đúng hơn, trí khôn của họ không còn khả năng ghi nhận sự thật, và nếu có ghi nhận được, thì lại không đủ can đảm chấp nhận và sống theo sự thật.
Tiêu biểu cho hạng người đui mù về phần hồn là bọn biệt phái. Thực vậy, trước những phép lạ hiển nhiên của Chúa Giêsu, họ tìm cách chối bỏ và bóp méo sự thật.
Còn chúng ta thì sao ? Mặc dù Chúa đã ban cho chúng ta đôi mắt sáng, để chúng ta nhìn ngắm những kỳ công của Ngài, nhưng biết đâu chúng ta lại là những kẻ đui mù về phần hồn. Có nghĩa là chúng ta không có đủ can đảm nhìn nhận và sống theo sự thật.
Tôi xin đưa ra những thí dụ cụ thể.
Chẳng hạn như chúng ta đã biết ma quỉ như sư tử lượn quanh chúng ta để tìm mồi cắn xé, nó giăng bẫy hại chúng ta bằng những cám dỗ, bằng những dịp tội, tức là những hoàn cảnh thúc đẩy chúng ta dễ dàng sa ngã. Hơn nữa, bản tính con người chúng ta thì yếu đuối, có thể vấp phạm bất cứ lúc nào. Thế mà chúng ta lại cứ liều mình sống trong dịp tội.
Kẻ đam mê cờ bạc vẫn lui tới những chỗ đỏ đen. Kẻ đam mê rượu chè vẫn cứ lập tiết mục nọ tiết mục kia. Kẻ đam mê xác thịt vẫn cứ gặp gỡ thầm lén vụng trộm. Vì thế cho nên, lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy, chơi dao có ngày đứt tay, sống trong dịp tội mà không sa ngã thì đó là một phép lạ mà Chúa chẳng bao giờ thực hiện cho chúng ta. Phải chăng chúng ta cũng chỉ là những kẻ đui mù về phần hồn mà thôi ?
Chẳng hạn như ai trong chúng ta cũng biết: tội lỗi và những thói hư thường đem đến những hậu quả tai hại. Thói cờ bạc làm cho hao tốn tiền của khiến cho gia đình bị nheo nhóc. Thói rượu chè làm cho bản thân bị mất nhân phẩm và gia đình trở nên căng thẳng. Thói chơi bời làm chôn vùi danh dự và uy tín cá nhân cũng như làm cho gia đình bị rạn vỡ. Mặc dù biết là như thế, nhưng chúng ta vẫn cứ như con thiêu thân lao vào lửa, để rồi kéo theo những hệ lụy, những hậu quả không hay cho bản thân và cho người khác. Chúng ta giống như những người mà thánh vịnh đã diễn tả: - Họ có mắt mà không nhìn, có nhìn mà không thấy, có thấy thì cũng chẳng dám bước theo. Phải chăng chúng ta cũng chỉ là những kẻ đui mù về phần hồn mà thôi. Bởi đó, hãy xin Chúa mở cho chúng ta cặp mắt tâm hồn, để chúng ta nhìn rõ và bước đi trên đường nẻo của Chúa.
Khi bàn vè một vấn đề, ta thấy có nhiều ý kiến khác nhau. Sở dĩ có sự khác nhau là vì mỗi người nhìn vấn đề dưới một khía cạnh. Khá nhau vì trình độ nhận thức không đồng đều. Khác nhau do ảnh hưởng giáo dục và môi trường, v.v… Cùng là con người với nhau, nhưng cái nhìn và sự suy nghĩ đã khác nhau như vậy, huống hci là giữa con người hữu hạn và Thiên Chúa vô biên thì sự khác nhau còn lớn lao đến mức độ nào. Thánh Kinh đã viết: “Tư tưởng của Ta không phải là tử tưởng của các ngươi và đường lối của Ta không phải là đường lối của các ngươi”. Điều này được diễn tả cách rõ ràng trong các bài đọc Thánh Kinh hôm nay.
Trong bài đọc thứ nhất, sách Samuel kể lại rằng: Ông Samuel được Thiên Chúa sai đi xức dầu cho một trong các con trai của ông Ysai để làm vua dân Do Thái. Ông Ysai lần lượt đưa các con trai của mình ra trình diện ông Samuel. Ông Samuel tưởng Thiên Chúa sẽ chọn anh Eliab, một người con trai khôi ngô, tuấn tú và lực lưỡng làm vua, nhưng Thiên Chúa lại bảo: “Đừng xét theo diệm mạo và vóc người cao lớn của nó. Ta đã loại nó ra, vì Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm. Người phàm chỉ nhìn thấy ngoài mặt, còn Thiên Chúa thì thấy tận đáy lòng”.
Rồi bài Tin Mừng thuận lại việc Chúa Giêsu mở mắt cho một người mù từ thuở mới sinh. Cả các tông đồ lẫn những người Biệt Phái đã có cái nhìn về Thiên Chúa, về con người và về sự việc rất khác với Chúa Giêsu. Họ đả nghĩ rằng đương sự bị mù là do Thiên Chúa trừng phạt vì tội lỗi của chính anh hoặc của cha mẹ anh. Vì vậy, các tông đồ đã hỏi Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù ? Tội của anh ta hay tội của cha mẹ anh ta ?”. Các người Biệt Phái cũng nghĩ như thế khi họ mắng nhiếc anh mù: “Mày xinh ra trong đống tội mà mày muốn làm thầy chúng ta ư ?”. Họ đã kết tội anh mù rồi lại kết tội Chúa Giêsu: “Ông ta không phải là người của Thiên Chúa vì ông ấy không giữ ngày lễ nghỉ. Ông ấy là một người tội lỗi”.
Qua những phát biểu này, chúng ta nhận ra cái nhìn lệch lạc của họ về Thiên Chúa và về tha nhân.
Đối với họ, Thiên Chúa là một ông quan tòa nhiêm khắc, trừng phạt thẳng tay ngay trong đời này những con người tội lỗi. Và Thiên Chúa không bao giờ gần gũi với những người tội lỗi.
Còn những người gặp tai ương hoạn nạn trong đời ư ? Chính là vì họ đã phạm tội nên bị Thiên Chúa trừng phạt đích đáng.
Thế nhưng sự thật có phải như họ nghĩ không ? Chúa Giêsu đã cho các tông đồ, cho những người Biệt Phái và cho chúng ta biết về bức chân dung đích thức của Thiên Chúa. Thiên Chúa không phải là một quan tòa khắc nghiệt chỉ biết trừng phạt và loại trừ con người. Trái lại, người là Thiên Chúa của tình yêu, Thiên Chúa giàu lòng từ bi, thương xót và hay tha thứ. Chính Người đã cúi xuống để chữa lành những nỗi đau của con người chứ không bỏ rơi và xa lánh. Người cũng không loại trừ những con người tội lỗi, dù tội lỗi của họ chất chồng.
Còn về những tai ương hoạn nạn trong đời sống con người, không đương nhiên do tội của nạn nhân gây ra. Do đó, đừng vội kết án một cách hàm hồ. Chúa Giêsu đã trả lời cho các tông đồ: “Không phải tội của anh ta, cũng không phải tội của cha mẹ anh ta, nhưng là để cho các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh”
Thì ra người ta đã áp đặt cho Thiên Chúa một cách nhìn không phải là của Người, vì người ta tưởng Thiên Chúa cũng suy nghĩ như họ. Họ cũng đã vẽ ra một bức chân dung méo mó về Thiên Chúa và về con người. Vì vậy, khi Chúa Giêsu trình bày bức chân dung của Thiên Chúa không như họ nghĩ thì xung đột đã xảy ra.
Từ những suy nghĩ dựa trên đoạn Tin Mừng, chúng ta nhìn lại mình trong cuộc sống hằng ngày và chúng ta sẽ khám phá ra mình có những nét giống những người Biệt Phái hơn là giống Chúa Giêsu. Chúng ta cũng áp đặt cho Thiên Chúa những suy nghĩ và những cách nhìn của ta về mọi vấn đề. Ta ước mơ và câu xin điều này điều kia, và ta nghĩ rằng đó là những điều tốt cho ta. Nhưng biết đâu dưới cái nhìn của Thiên Chúa những điều đó chẳng tốt chút nào, và vì thế mà Người không ban cho ta điều chúng ta cầu xin. Cũng như đứa con nhỏ đòi chơi dao và nó nghĩ điều đó làm nó vui thích. Nhưng cha mẹ của nó thì không nghĩ vậy. Họ biết rằng nếu đưa dao cho con có thể nó sẽ chặt đứt tay hoặc dao sẽ đâm vào bụng nó. Hẳn đã nó những lúc chúng ta buồn bực và phẫn nộ với Thiên Chúa vì Người đã không ban cho ta điều ta cầu xin. Phải chăng những suy nghĩ trên lại không phản ảnh tình trạng mù lòa tâm linh đó sao ?
Cũng thế, ta thường nhìn anh em mình với một khung suy nghĩ tiền chế của ta. Nếu anh em không ở trong cái khung đó thì coi như là đồ bỏ, là hết xài. Mùa lòa là ở chỗ đó.
Vì vậy, tâm tình sám hối mà bài Tin Mừng hôm nay gợi lên cho ta là phải biết bỏ đi những cái nhìn sai lầm, chật hẹp, thiển cận và Thánh Phaolô đã khuyên nhủ chúng ta: “Anh em hãy có những tâm tư như Đức Kitô”. Học tập lối nhìn của Thiên Chúa, mang lấy tâm tư như Đức Kitô, đòi chúng ta phải biết lắng nghe Lời Chúa để biết suy nghĩ, biết đánh giá, biết chọn lựa mọi sự giống như Người.
Là người tín hữu, chúng ta biết rằng Chúa Giêsu đến để mang lại tự do cho con người, nhưng tự do ấy con người chỉ thực sự cảm nhận được khi biết tin tưởng, tôn trọng sự thật mà thôi. Chúa Giêsu đã từng nói với những người Do thái “Sự thật sẽ giải phóng các ngươi”, nhưng đối với Chúa Giêsu, sự thật không chỉ là vấn đề trừu tượng để bàn bạc, để lý giải, để tranh luận, mà sự thực là để thực thi. Đứng trước một người mù bất hạnh, thái độ của các môn đệ là tra vấn, là tìm hiểu sự thực xem ai là người có tội: “Tên mù từ bẩm sinh như thế do lỗi của nó hay là do tội của cha mẹ nó?”. Chúa Giêsu đã không mất giờ cho cuộc tranh luận lôi thôi ấy. Ngài chữa lành người mù, Ngài mang lại ánh sáng cho anh ta.
Khi con người không đón nhận và thực thi sự thật thì họ mắc phải một chứng bệnh hình như không còn thuốc chữa, đó là bệnh mù quáng. Đây là trường hợp của những người Biệt phái trong bài Tin mừng hôm nay. Một người mù lòa tàn tật được khỏi bệnh, lẽ ra phải là một tin vui được đón nhận và chia sẻ, thế nhưng trong tâm hồn của những người Biệt phái dường như không còn có chỗ đứng cho sự cảm thông, cho niềm vui của sự chia sẻ, cho tình người nữa. Sự chai lỳ đã giam hãm trong mù quáng đến độ không còn biết thế nào là khổ đau trước nỗi khổ của người khác và vui với niềm vui của người khác.
“Sự thật đã giải phóng các ngươi”, chúng ta chỉ thực sự được tự do khi chúng ta sống cho sự thực, và sống cho sự thực như chính Chúa Giêsu đã sống đó là sống yêu thương. Chỉ khi nào chúng ta biết nhận ra và tôn trọng phẩm giá của người khác, chỉ khi nào chúng ta biết sống cảm thông, chia sẻ, trao ban và tha thứ cho người khác, thì lúc đó chúng ta mới thực sự cảm nhận được ánh sáng của Chúa Kitô và tiến bước trong tự do đích thực.
Nguyện xin Chúa Kitô hướng dẫn chúng ta tiến bước trong ánh sáng của Ngài.
Mù lòa là một bất hạnh nhất trên đời. Người ta vẫn nói: “Thà chết đi còn hơn bị mù”. Vì thế, người mù là một kẻ bất hạnh và khổ sở triền miên, không phải chỉ là thiệt thòi đôi mắt, nhưng là một thiệt hại to lớn cho toàn thể con người, cho tất cả cuộc đời. Thế giới hữu hình xinh đẹp này chết đi trong lòng họ. Họ không có quan niệm gì về màu sắc, về hình bóng người thân yêu. Ánh sáng và bóng tối cũng như không. Văn minh tiến bộ họ không biết đến. Đã vậy, một đời sống mặc cảm, tự ti, bất an, lệ thuộc, bị bỏ rơi… hằng nung nấu và gậm nhấm cõi lòng đau khổ của họ. Cho nên, tâm trạng của họ là khao khát được sáng mắt, mong ước được nhìn thấy, dù chỉ lờ mờ cũng được. Vì thế, họ dám làm bất cứ chuyện gì để được sáng mắt. Như người mù bẩm sinh mà Tin mừng kể lại hôm nay. Anh ta vận dụng tới đức tin để được sáng mắt. Anh tuyên xưng đức tin trước tòa án, trước công chúng, và trước mặt Chúa Giêsu, Đấng ban phép lạ cho anh.
Vì tin vào Chúa Giêsu mà anh bị mọi người xa lánh, ngay cả cha mẹ anh cũng xa lánh anh, không bênh vực, bào chữa cho anh. Vì tin vào Chúa Giêsu mà anh bị loại trừ ra khỏi cộng đồng, cắt đứt mọi sinh hoạt liên hệ với gia đình và mọi người. Tất cả mọi người đều lên án anh: “Toàn thân mày sinh ra trong tội”. Anh phải đơn phương độc mã, một thân một mình đối phó với mọi người, chỉ vì vấn đề anh tin vào Chúa Giêsu. Nhưng chính vì lòng tin này mà Chúa Giêsu đã cho anh được sáng mắt. Đây là một phép lạ chưa từng thấy trong nhân loại. Cho đến ngày nay, mặc dầu khoa học, y khoa, nhất là nhãn khoa, đã có thể dùng một loại ra đa chữa cho người mù được thấy, hay dùng mắt của một người khác thay mắt cho người mù. Nhưng đó là đối với những người vì lý do nào đó mà bị mù. Còn đối với người mù bẩm sinh, thì khoa học vẫn còn bó tay. Trường hợp anh mù ở đây, Chúa Giêsu không dùng ra đa thay mắt cho anh, mà Ngài dùng quyền năng Thiên Chúa làm phép lạ cho anh được sáng mắt, và qua đó, anh được sáng con mắt đức tin: Anh thấy Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, mà những người sáng mắt không thấy.
Đức tin của người mù này giúp chúng ta nhìn lại đời sống đức tin của chúng ta. Sống ở đời, con người không thể nào thiếu vắng lòng tin hay niềm tin. Chúng ta không tin điều này thì tin điều khác. Chúng ta không tin người này thì tin người khác. Từ một em bé đến trường, em có tin cô giáo dạy học được, em mới đi học. Một người vô thần cũng có niềm tin, tin vào lý tưởng, tin vào chủ nghĩa. Cuộc sống chúng ta hằng ngày… trao đổi hàng quà, đồng tiền, công thợ… đều đặt vào lòng tin tưởng nhau. Chúng ta tin nhau, vợ chồng, cha mẹ, con cái, anh chị em tin nhau. Bạn bè, trường học, trao đổi xã hội… đều lấy lòng tin làm căn bản. Người ta có gần gũi nhau hay không, thương yêu nhau hay không… điều đó cũng tùy thuộc vào lòng tin. Tin là chuyện bình thường. Từ đó chúng ta dễ hiểu lòng tin trong lãnh vực tôn giáo. Trong Công giáo, trong đạo của chúng ta, gọi lòng tin là đức tin.
Theo nghĩa thông thường, tin là công nhận một điều gì, thật đúng với sự thật, qua thế giá của một người nào đó. Theo nghĩa thần học hay giáo lý: Tin là chấp nhận vững vàng những chân lý mạc khải, vì uy tín của Thiên Chúa. Đơn giản hơn, chúng ta có thể nói: tin là nghe và thực hành lời Chúa. Hoặc cũng có thể nói: tin là tuyên xưng Đức Giêsu là Thiên Chúa và đặt tất cả ước vọng, tài lực, sinh hoạt cho Ngài hướng dẫn. Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta gì cả, Ngài chỉ đòi hỏi chúng ta một đức tin sắt son vào Ngài. Có bấy nhiêu thôi. Nếu chúng ta không tin Ngài thì tin ai? Tin vào mình ư? Chúng ta tin vào người nào, chúng ta tin vào sức mạnh nào ư? Tốt thôi, nhưng chỉ dừng lại ở đó thì chẳng khác gì gánh vàng đem đổ sông Ngô, là xây nhà trên cát. Chúng ta tin Chúa? Dĩ nhiên rồi. Chúng ta tin lời Chúa? Chắc chắn rồi. Nhưng trước hết và trên hết là tin Chúa yêu thương chúng ta. Chúng ta tin Chúa là Cha rất gần gũi, thương yêu chúng ta, săn sóc chúng ta, quan phòng chúng ta, nghĩa là chúng ta tin Chúa có uy quyền và sức mạnh trên cuộc đời chúng ta. Và điều đặc biệt ta cần ghi nhớ hôm nay, là chúng ta tin Chúa có uy quyền và sức mạnh trên cuộc đời tội lỗi của chúng ta.
Chúng ta biết: tội lỗi làm con người bất an, buồn chán, lo âu… những hậu quả của tội lỗi luôn ám ảnh chúng ta, làm chúng ta mất đi niềm vui chân chính của nước trời, mất đi ánh sáng của Chúa. Và đã là tội nhân thì chạy đi đâu cũng không khỏi tội. Chỉ khi nào đến với Chúa qua bí tích của Chúa thì mới được tẩy sạch. Nói khác đi, trên đời này, không ai có thể giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, vì lý do ai cũng có tội. Chỉ có một Đấng không hề phạm tội, Đấng chiến thắng thế gian, chiến thắng tội lỗi, mới có quyền cứu giúp chúng ta. Vấn đề là chúng ta có tin vào sức mạnh cứu rỗi của Chúa không? Chúng ta có muốn thực sự được tự do của Chúa không? Chúng ta có bằng lòng chiến đấu để thoát ra ngoài những ràng buộc của tội lỗi không? Nếu muốn, chúng ta hãy đến với bí tích của Chúa và xưng tội mình ra. Xưng tội là bóc trần con người tội lỗi, là mổ xẻ những ung nhọt xấu xa, ghê tởm, để được lành mạnh và trở nên tốt đẹp.
Chúng ta xác tín: tội lỗi cắt đứt tình ta với Chúa, phép Giải tội sẽ nối liền lại. Tội lỗi làm ta đoạn giao với Chúa, phép Giải tội sẽ bắc lại nhịp cầu thông thương. Và như một bà lão nhà quê đã nói: “Phép Giải tội là một cái vé cần thiết để vào thiên đàng”.
Người phàm chỉ nhìn thấy ngoài mặt, còn Chúa thì thấy tận cõi lòng diện với người mù, các môn đệ chỉ thấy đây là một kẻ có tội nên bị phạt. Các người Pharisêu tìm đủ mọi ngõ ngách để trốn thoát khỏi phải nhìn nhận sự thật về người mù; dân chúng thì không thể tin nổi sự việc mà họ vừa nhìn thấy. Còn Đức Giêsu, Ngài nhìn thấu cõi lòng của từng hạng người kể trên. Ta hãy tìm hiểu kỹ hơn cái nhìn của Đức Giêsu.
- Một cái nhìn ưu ái: Ngài không nhìn người mù bằng ánh mắt bàng quang, mà nhìn với lòng thương.
- Một cái nhìn không bị che mờ bởi những thành kiến (như các môn đệ), những hoài nghi (như dân chúng), những đố kị (như pharisêu), những định chế xã hội xếp loại giai cấp con người.
- Một cái nhìn phát sinh hiệu quả: Ngài nhìn người mù và làm cho anh được thấy.
Chúng ta cần có cái nhìn của Chúa, như lời thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai: “Anh em hãy xem xét điều gì làm đẹp lòng Thiên Chúa. Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, nhưng hãy vạch trần những việc ấy ra mới phải”.
Ngoài ra để thấy rõ, chỉ một đôi mắt sáng chưa đủ, bởi vì không chỉ có mỗi một thứ bệnh mù là mù đôi mắt, mà còn nhiều thứ bệnh mù khác do nhiều nguyên nhân khác:
Tính ích kỷ làm ta mù không thấy nhu cầu của tha nhân. Tính vô cảm làm ta mù không thấy những việc ta đã làm đau lòng tha nhân. Tính tự phụ làm ta mù không thấy tha nhân cũng có nhân phẩm như mình. Tính kiêu căng làm ta mù không thấy khuyết điểm của mình.
Những thành kiến làm ta mù không thấy sự thật. Sự hối hả làm ta mù không thấy vẻ đẹp của vũ trụ chung quanh. Khuynh hướng duy vật làm ta mù không thấy những giá trị thiêng liêng. Sự hời hợt làm ta mù không thấy giá trị thật của con người và khiến ta hay lên án.
Một học giả kia rất thông thái nhưng cũng rất đãng trí. Một hôm ông cỡi lừa đi thăm một người bạn. Dù đang cỡi lừa, ông vẫn cứ dán mắt vào quyển sách, tay buông lỏng dây cương. Do đó con lừa sau khi đi một đoạn đường đã quay trở lại chính ngôi nhà của ông. Ông tưởng đó là ngôi nhà của người bạn. Ông nhìn ngôi nhà từ trên xuống dưới, từ trước tới sau, và kết luận: “Ông bạn của ta cẩu thả quá, nhà hư gần sập tới nơi mà không sửa sang gì cả”. Vợ ông bước ra tiếp lời: “Ông nhận xét đúng đấy. Nhưng đây là ngôi nhà của chính ông”. Nhiều người rất sáng về chuyện người khác, nhưng rất mù về những khuyết điểm của chính mình. (Ernst Wilhelm Nusselein).
Helen Keller, người mù nổi tiếng thế giới, tác giả hàng chục cuốn sách có giá trị. Bà dậy đại học và đi diễn thuyết nhiều nơi trên thế giới. Bà sinh năm 1880, 19 tháng sau, bà bị nóng sốt kịch liệt khiến bà điếc và mù. Khi nên năm tuổi, Keller được giáo sư Sullivan dạy đọc và viết bằng chữ nổi và đánh máy chữ đặc biệt. Cuộc đời bà đã được diễn tả thành cuốn phim rất cảm động (Encyclopedia, Funk & Wagnall).
Con người bất khuất đó vẫn không thắng nổi cái mù tăm tối, dù chỉ mù sau khi sinh. Còn loại mù trong lòng mẹ như anh mù trong Tin mừng hôm nay, thì dù khoa học hiện đại cũng phải bó tay. Thế mà Đức Giêsu đã chữa anh khỏi mù bằng phương pháp rất phản khoa học: “Người lấy nước miếng trộn với bùn và xức vào mắt anh” (Ga. 9, 7), cực kỳ lạ lùng ! không tưởng tượng được! nhưng có thực trăm phần trăm, vì đã xẩy ra giữa chốn đông người trong ngày lễ Sabat. Chính vì thế nhóm biệt phái đã ra sức điều tra cẩn thận. Họ điều tra anh, cha mẹ anh, những người thấy anh ăn mày. Họ rất bối rối vừa phủ nhận phép lạ vừa kết án Đức Giêsu đã phạm luật lễ nghỉ. Họ kết án cả anh mù: “Mày sinh ra trong tội lỗi ngập đầu” vì theo thành kiến thời đó, bệnh tật là hình phạt kẻ tội lỗi. Nếu họ kết án anh là kẻ tội lỗi bị phạt mù mà bây giờ anh đang sáng mắt thì họ phải nhận có phép lạ và Người chữa anh sáng mắt phải là Đấng có quyền tha tội. Nhưng thật trớ trêu ! họ đã tự mâu thuẫn, họ vừa kết án anh là kẻ tội lỗi vừa không tin Đức Giêsu đã chữa anh mù được sáng.
Biệt phái tự coi mình là thầy, là kẻ lãnh đạo tôn giáo. Thời Alexandria (năm 76-67 trước Công nguyên), họ còn lãnh đạo cả đời nữa. Ở địa vị đó họ không chịu thua ý kiến của kẻ mù hèn hạ. Tuy nhiên, ở trường hợp này rõ ràng anh mù lại sáng, còn họ lại trở nên mù, anh đã vạch rõ cái mù của họ: “Kể cũng lạ, các ông không biết ông ấy ở đâu đến, thế mà ông ấy lại là người mở mắt cho tôi ! ... Nếu ông ấy không bởi Thiên Chúa mà đến thì ông ấy chẳng làm được gì” (Ga. 9, 30-33)
Thế mới rõ kẻ tự phụ mình sáng, mình có quyền, rất khó thấy lẽ phải. Kẻ đơn sơ chân thành khiêm tốn lại được mặc khải ánh sáng: “Tôi đến thế gian này để xét xử: cho người không xem thấy, được thấy, và kẻ tự phụ xem thấy lại hóa đui mù”. Nghe thế họ đã vênh vang cự lại “thế cả chúng tôi cũng đui mù sao ?” Đức Giêsu bảo họ: “Nếu các ông đui, các ông chẳng có tội, nhưng các ông tự phụ: chúng tôi thấy, nên tội các ông còn đó”.
Nhiều lần Đức Kitô đã cảm tạ Chúa Cha: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì đã không mặc khải cho bậc khôn ngoan thông thái, mà lại mặc khải cho những kẻ bé mọn” (Mt. 11, 25-26). Đúng như thánh Phaolô giảng: “Thiên Chúa đã dùng sự thấp hèn để làm hạng khôn ngoan bị nhục nhã, đã dùng sự bất lực để làm kẻ kiêu hùng ra hèn hạ. Ngài đã chọn sự ti tiện, khinh bỉ, không không để phá hủi sự cao cả của thế gian để không ai dám vênh vang trước mặt Thiên Chúa” (1Cr. 1, 27-29).
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta tin theo Chúa là ánh sáng thế gian, đã ban ánh sáng cho con mắt thể xác cũng như tinh thần. Chúa ban ánh sáng thể xác cho con người tìm thấy nguồn tài nguyên phong phú như những đồng cỏ xanh tươi, những suối nước mát để bồi dưỡng cuộc sống hằng ngày (Tv. 22). Chúa ban ánh sáng tinh thần như soi sáng cho Samuel chọn Davit biết sống theo đường lối Chúa chỉ dậy để trở nên thánh vương cao cả dẫn dắt dân Chúa (Sm. 10, 1-13). Nhất là Chúa làm cho chúng ta nên con cái sự sáng nhờ phép Rửa tội như thánh Phaolô nói: “Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ trong Chúa anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái sự sáng ... là lương thiện, công chính và chân thật” (Eph. 5, 8-9).
Lạy Chúa là sự sáng linh hồn con, xin soi sáng cho con nhận biết những tội lỗi con, để Chúa thương cứu con như anh mù, khi Chúa hỏi: “Con có tin Con Người không ?” con biết mạnh dạn tuyên xưng: “Thưa Ngài, con tin”.
Để cảm thông được cảnh khổ của những người mù, hẵy thử hình dung xem bặn sẽ xử sự ra sao khi ánh đèn trong khu phố bạn vụt tắt.
Một buổi tối mùa đông, vào giờ tan sở, thủ đô Pari hoa lệ bị dìm vào bóng đêm do cúp điện đột xuất. Mọi người đều hốt hoảng vì không quen với bóng tối, nhất là những ai bị kẹt trong thang máy, hoặc trong các xe điện ngầm. Mới đến định cư ở Pari từ hai tháng nay, Maily cũng bị kẹt trên hè phố tối tăm của một thành phố mà cô chưa thông tỏ đường đi lối về. Cô cảm thấy lo âu, bất lực, sợ hãi. Bỗng nhiên cô vấp phải một người đi bộ phía trước vì không nhận ra người đó. Sau khi ngỏ lời xin lỗi, cô biết được chàng thanh niên đó sống gần khu phố của cô, nhưng hai người chưa từng có dịp làm quen. Cầm lấy bàn tay ấm áp của anh, cô yên tâm vì anh cứ rẽ đám đông mà đi và đưa cô về đến con ngõ trước nhà. Chính khi chia tay, Maily mới biết tại sao anh ta thuộc đường như vậy: Đó là chàng trai ấy bị mù: vì luôn sống trong tối tăm, anh ta đã quen “nhìn” sự vật hầu như nhờ “giác quan thứ sáu”. Thế mới hay rằng lắm khi người mù lại tỏ ra hơn kẻ sáng mắt.
Sự mù tối của tâm hồn
Phúc Âm hôm nay không chỉ thuật lại phép lạ Chúa Giêsu chữa anh mù về mặt thể lý; nhưng còn cho thấy việc Chúa mở mắt Đức tin để anh ta TIN VÀO NGÀI. Anh mù được chữa lành vì anh đã tin và làm theo lời Chúa dạy là đi rửa mắt ở hồ Silôác. Điều trái ngược trong câu chuyện này là anh mù, tuy bị mù loà, nhưng lại nhìn thấy những điều mà các người Pharisêu không thấy được: anh đă nhận ra lòng nhân lành của Chúa, đặt niềm tin nơi Chúa, khác hẳn thái độ của người Pharisêu mù loà, vì họ từ chối nhìn nhận phép lạ của Chúa và khước từ tin vào Người.
Để có thể nhìn rõ mọi sự, có được một đôi mắt tinh anh thôi chưa đủ. Bởi lẽ ngoài bệnh mù loà của thân xác còn có rất nhiều dạng mù loà khác, không cho phép chúng ta tiếp nhận ánh sáng của Chúa. Đó là lòng ích kỷ ngăn cản ta nhìn thấy nhu cầu của những anh em nghèo khổ; đó là sự kiêu căng không cho phép ta nhận ra những lỗi phạm của mình; đó là những thành kiến khiến ta bị bưng bít đối với sự thật; đó là lòng ham muốn vật chất khiến linh hồn ta không còn thấy được những giá trị thiêng liêng.
Bằng đôi mắt của tâm trí và của linh hồn, ta có thể nhìn ra những điều mà đôi mắt xác thịt không thể nhìn thấy được. Tuy nhiên, chỉ với đôi mắt đức tin, ta mới có thể nhìn thấy được những thực tại về Thiên Chúa và về ơn cứu độ. Phúc Âm hôm nay chính yếu là chuyện kể về đức tin. Thật vậy, cao điểm của câu chuyện này là ở việc anh mù tuyên xưng niềm tin của anh vào Đức Kitô khi nói: “Lạy Ngài tôi tin!” Nhờ tin, anh đã được chữa lành cả về thể xác lẫn tâm hồn.
Chúa Giêsu mở mắt cho những người mù loà
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu không chỉ chữa tật mù loà về thể lý, mà còn chữa tình trạng mù loà tâm hồn. Loạt người thứ hai này gồm những kẻ lầm lạc, thiếu khả năng nhìn thấy đường về nhà Cha. Người đã mở mắt cho ông Giakêu thấy được sự nguy hiểm của tiền tài đối với phần rỗi của ông (Lc 19,1-10); Người đã mở mắt cho một cô gái lỡ đường để cô dứt bỏ với quá khứ không mấy tốt đẹp của mình (Lc 7,36-50); Người cũng đã mở mắt cho người trộm lành cùng chịu đóng đinh với Người trên đồi Gôn-gô-tha, để anh ta nhận ra ánh sáng của lòng Chúa thương xót (Lc 23,32-43). Chính nhờ Chúa Giêsu, những người này đã tìm lại được ánh sáng dẫn đưa tới Nước Thiên Chúa. Ngược lại, những người Pharisêu vì cố chấp, cứng tin, nên đã bị bỏ lại trong bóng tối. Họ đã không tin nhận Chúa Giêsu, cũng không đón nhận ơn cải hoá được khơi dậy nơi lòng họ (Ga 9,41)
Cũng vậy, bằng cách này hay cách khác, mỗi người chúng ta đều vương phải những chứng mù loà bẩm sinh. Đó là những thói xấu và tội lỗi. Vậy chúng ta cần được Chúa Giêsu soi sáng, cứu chữa đôi mắt tâm hồn của chúng ta, từng bị mù loà do từ khước ánh sáng của Người. Chúa Giêsu luôn đến với mọi người đau yếu, tật bệnh, tội lỗi để kêu mời và giúp họ hoán cải và được chữa lành. Chúng ta hãy can đảm đến với Chúa, để Người chạm đến chỗ kín ẩn, thâm sâu nhất của lòng ta; đồng thời hãy vâng lời Người, chấp nhận đi gột rửa tâm hồn ta ở hồ Silôác thiêng liêng là Lời Chúa, trút lại đó cái mù loà của tâm hồn ta, để mặc lấy ánh sáng của Lời Chúa.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Đâu là tính cách đặc thù của anh mù, của cha mẹ anh, và của người Pharisêu? Bạn rút ra được bài học gì từ thái độ của họ đối với Chúa Giêsu?
2. Trong những ngày còn lại của mùa chay, bạn cảm thấy cần xin Chúa cất bỏ những chứng mù loà nào của tâm hồn bạn, hầu bạn sống gần hơn với Phúc Âm của Chúa, cũng như mở ra với tha nhân hơn?
Theo quan niệm chung, người mù là người không thể nhận được các hình ảnh qua thần kinh thị giác và do đó không có ý niệm về mầu sắc. Từ quan niệm này, chúng ta liên tưởng đến chứng mù khác, đó là sự mù lòa tinh thần, như chúng ta thường diễn tả: "nạn mù chữ", "tôi hoàn toàn mù tịt về vấn đề đó", "cặp mắt đức tin đã bị che khuất".
Hiểu như vậy, có những cặp mắt hoàn toàn hư hỏng, nhưng tinh thần lại rất lanh lợi, lương tâm rất bén nhậy và đức tin rất sáng suốt. Và ngược lại, có những cặp mắt không bao giờ phải mang kiếng, nhưng lại mù lòa, ít khi hay không bao giờ nhìn ra những chân lý mà mọi người đã chấp nhận. Điều này được minh chứng qua câu chuyện hôm nay: các anh em Biệt phái luôn tự hào là mình sáng suốt, chỉ có mình mới biết về Đấng Cứu Thế - và như thế, mới có thể hướng dẫn người khác đến với Thiên Chúa. Hơn thế, họ còn coi những người mù về thể lý là người đã mất cặp mắt đức tin do tội lỗi.
Trong khi đó, người mù từ khi mới sinh lại có cặp mắt thật sáng suốt, giúp anh nhận ra người thanh niên thành Nagiarét giữa đám đông là Đấng Cứu Thế, là con Vua Đavít... Thật vậy, khi những anh em Biệt phái nói: "người đó chúng ta không biết bởi đâu mà đến", anh mù đã trả lời: "Đó mới là điều lạ. Người đã mở mắt cho tôi mà các ông không biết người đó bởi đâu". Nói thế, anh muốn quả quyết rằng: một người có đầy quyền năng làm phép lạ, có đầy lòng xót thương để cứu vớt kẻ đau khổ, có chan hoà ánh sáng, chính là người đến từ Thiên Chúa. Các ông bảo các ông sáng, vậy mà các ông không nhận ra người đó là ai. Rồi anh tiếp: "Xưa nay chưa từng nghe nói ai đã mở mắt cho người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa, thì đã không làm được gì".
Những lời lẽ của anh chứng minh: anh không mù lòa chút nào - trái lại, rất sáng suốt. Trong khi đó, anh em Biệt phái vẫn cho mình là sáng suốt - ít nhất trong trường hợp này, lại mù lòa tới mức độ khó đối diện với Chúa Giêsu và chứng kiến phép lạ của Ngài, vẫn không nhận ra Ngài là ai. Đã thế, họ vẫn không chịu nhận ra mình mù lòa. Đây chính là một chứng mù bất trị, như Chúa Giêsu đã diễn tả: "Vì các ông không nhận mình là mù, cứ nói là mình vẫn xem thấy, nên tội các ông vẫn còn đó".
Cặp mắt đức tin của chúng ta đã được Chúa Giêsu đích thân mở cho, khi chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Và rồi từ đó, Chúa luôn tiếp tục ban ân sủng, để cặp mắt đó trong sáng hơn, nhìn rõ hơn. Tuy nhiên, khuynh hướng tội lỗi và các hoàn cảnh xấu, như một sự ô nhiễm môi trường, thường tạo nên những bất lợi cho cặp mắt đó, khiến hình ảnh Chúa bị lu mờ dần hoặc biến mất hoàn toàn trong tâm hồn mình, trong tha nhân - và nhiều khi trong cả những sinh hoạt đạo đức nữa. Đã vậy, nhiều khi chúng ta vẫn cứ "an tâm" với những hình thức đạo đức bên ngoài, coi đó là những dấu chỉ tốt, và luôn hãnh diện về những dấu chỉ đó... Nhưng thực ra, cặp mắt đức tin có thể đã yếu kém trầm trọng hoặc đang mang một thương tích nào đó.
Mùa Chay chính là thời gian thuận tiện để chúng ta đến với Chúa Kitô, vị bác sĩ nhân khoa tuyệt vời. Chính Ngài sẽ chăm sóc, trị liệu và cho các toa thuốc cần thiết. Nhờ thế, cặp mắt đức tin của mỗi người chúng ta mới luôn trong sáng và nhìn ra gì Chúa muốn chúng ta nhìn.
"Qua cơn bĩ cực" con người bước vào "thời thái lai" đồng thời ý thức được sự bất lực, giới hạn của quyền chức, danh vọng và tiền bạc. Có bệnh tật, chúng ta mới thấy sức khỏe là vàng và cảm thông được nỗi khổ của những ai ốm đau và tật nguyền.
Ý thức "sinh lão bệnh tử" là bể khổ, nên Phật giáo dậy chúng nhân phải diệt "tham, sân, si" là nguyên nhân. Biết đời là phúc như đại dương, nên Khổng Tử thì dậy môn sinh tam phúc "Thứ nhất là được làm người; thứ nhì là nam giới; thứ ba là vẹn toàn ngũ quan". Khổng và Phật giáo dậy đúng xét theo phương diện tâm-thể-lý và thực tiễn.
Nhưng với cái nhìn siêu nhiên và trái ngược, Đức Kitô khuyến khích tín hữu thực thi bát phúc: "tinh thần nghèo khó; sống hòa thuận; vui cảnh bắt bớ; mưu tìm hòa bình; khi khóc than; lúc bị nguyền rủa; đức năng thắng số; khao khát và kiếm tìm công lý". Như thế Đức Kitô dậy chúng ta phải tích cực chấp nhận và đối diện với thực thể; sống phó thác và kiên cường trong niềm tin; dấn thân phục vụ và cảm hóa tha nhân. Đặc biệt Chúa không dậy "tẩu vi thượng sách".
Bên giếng Siloe, người mù tật nguyền đau khổ vì kiếp "ký sinh" nghĩa là sống nhờ lòng hảo tâm của tha nhân. Người Do Thái quan niệm rằng anh ta bị tật nguyền vì "đời cha ăn mặm, đời con khát nước". Đức Kitô đã sửa sai quan niệm sai lầm và mặc cảm nầy: "không phải anh hay cha mẹ anh ta phạm tội, nhưng để Thiên Ý được tỏ lộ nơi anh... bao lâu Ta ở thế gian, Ta là sự sáng". Đức Kitô dùng anh làm đề tài chứng minh và quảng diễn Ngài là sự sáng và lên án "những người thấy mà không tin". Anh mù cảm động và hạnh phúc trước ơn lạ.
Anh công khai tôn vinh danh Giêsu, vị lang y trứ danh chưa từng thấy bao giờ. Biệt phái đã điên đầu vì tên Giêsu, nay lại phải trực diện với phép lạ bất ngờ Đức Kitô thực hiện ngày cấm kị Sabbat. Vì vụ luật, tự ái và cố chấp, Biệt phái, thay vì nhận ra Đấng Thiên Sai đang ở giữa họ, đã lấy quyền kẻ cả và nại cớ vi phạm luật Sabbat để phủ nhận, hạch hỏi và làm khó anh mù.
Anh mù đã khảng khái tin nhận và ca tụng Đức Kitô là Đấng thánh vì theo anh "Chúa không nhận lời kẻ có tội, nhưng người kính sợ Chúa". Thất học và mù chữ nhưng Thánh Linh đã dùng miệng anh để tranh luận sắc bén và làm Biệt Phái đuối lý và tức giận. Đức Kitô nhân cơ hội này kết luận "Ta đến để kẻ mù được thấy, và người thấy thành mù". Và "vì các ông nói: "chúng tôi thấy, nên tội các ngươi vẫn còn".
Yêu ai, phục ai, kính ai, thì mọi việc họ làm, mọi lời họ nói, mọi phương tiện họ xử dụng đều ngay thẳng và tốt lành. Ghét ai rồi thì "ghét cả tông ti họ hàng" và mọi sự họ làm đều sai trái. Đức Kitô kết án đó là mù thiêng liêng. Như vậy, chúng ta có nhiều cơ hội chứng tỏ nhân gian đang mù. Duy tâm, Duy lý, Duy vật, Duy thực nghiệm v...v... nếu làm chúng ta xa Chúa, chối bỏ Thánh Kinh, và ngờ vực Thiên Chúa hiện hữu là mù thiêng liêng. Tôn trọng tự do quá lố, sống lãng mạng, buông thả, vô luân và bất nhân là mù thiêng liêng. Chê trách Giáo hội thủ cựu để tự do ly thân, ly dị, tiền dâm hậu thú và phá thai là mù thiêng liêng. Lợi dụng tôn giáo để tìm phiếu, lập danh, kết bè đảng, tạo tranh chấp, gây hận thù và ghét ghen là mù thiêng liêng. Dùng những khuyết điểm cá nhân để bôi lọ tập thể Giáo hội theo kiểu "một con sâu làm rầu nồi canh" là mù thiêng liêng v...v... và Đức Kitô phán "bởi vậy tội họ vẫn còn y nguyên".
Đức tin trưởng thành phải khi sinh một cái nhìn lạc quan, hiểu biết và thông cảm. Đức tin vững mạnh phải hiểu trau chuốt lời "Hãy nghe và thực hành điều họ dậy, đừng theo việc họlàm". Đức tin thực tiễn phải tin Giáo hội không bao giờ dậy lầm về tín lý và luân lý. Và đức tin sống động phải luôn thấy Chúa hiện diện trong Giáo hội, nơi tha nhân, đặc biệt nơi người chúng ta không ưa, không thích và kẻ thù.
Như tuần trước đã chia sẻ, trong ba tuần giữa (III, IV, V) của Mùa Chay thuộc Chu Kỳ Phụng Niên Năm A, Phụng Vụ Lời Chúa (ba bài Phúc Âm theo Thánh Gioan, chứ không phải theo Thánh Mathêu) cho thấy tiến trình Mạc Khải tam đoạn về Con Người Giêsu là Đường Lối, là Sự Thật và là Sự Sống. Thật vậy, ở Chúa Nhật thứ III tuần trước, Chúa Giêsu đã Mạc Khải Người là Đường Lối, qua đoạn Phúc Âm trình thuật về việc Người tỏ mình ra cho phụ nữ tội lỗi ở miền đất Samaritanô ngoại lai, và làm cho chị nhận biết Người quả thực là Đức Kitô Thiên Sai, Vị sẽ dẫn con người đến cùng "Thiên Chúa là Thần Linh", Đấng muốn những ai tôn thờ Ngài phải "tôn thờ trong tinh thần và chân lý" (Jn 4:24), là tất cả những gì Người sẽ ban cho những ai tin vào Người, để từ họ sẽ vọt lên mạch nước sự sống đời đời là Thánh Thần (xem Jn 4:14, 7:38-39). Ở Chúa Nhật thứ IV tuần này, Chúa Giêsu đã Mạc Khải Người là Sự Thật, qua đoạn Phúc Âm trình thuật về việc Người tỏ mình ra cho một kẻ mù từ lúc mới sinh người Do Thái ở miền đất chính giáo Giuđêa. Bởi vì, trong đoạn trình thuật đây, Phúc Âm Thánh Gioan cho thấy Chúa Giêsu đã nói đến thực tại "Thày là ánh sáng thế gian" trước khi phục quang cho người mù này, cũng như nói đến tác dụng nơi việc hiện diện và hành động của Người: "Tôi đến để làm cho kẻ mù được thấy và kẻ thấy bị mù", sau khi đã chữa lành cho người mù ấy.
Tiến trình Mạc Khải của Chúa Giêsu trong cả ba trường hợp (Đường Lối, Sự Thật và Sự Sống) đều giống nhau, chẳng những theo chiều hướng của Phúc Âm Thánh Gioan ("Ánh sáng chiếu soi trong tăm tối" - Jn 1:5) mà còn theo đúng đường lối của Phúc Âm Thánh Mathêu thuộc Chu Kỳ Phụng Vụ Năm A nữa ("Cải thiện đời sống! Nước Trời đã đến" - Mt 4:17). Thật thế, theo chiều hướng của Phúc Âm Thánh Gioan, vì là "ánh sáng thật đã đến trong thế gian chiếu soi hết mọi người" mà Chúa Giêsu, như Phúc Âm hôm nay cho thấy, đã tự động, (chứ không cần hay không phải do yêu cầu hay kêu xin của đối tượng, vốn thường xẩy ra nơi bộ ba Phúc Âm Nhất Lãm), đến với người mù từ lúc mới sinh và chữa lành cho anh ta. Để làm gì? Nếu không phải để anh ta có thể nhìn thấy Người mà tin vào Người hay mới có thể tin vào Người. Phải, tuyệt đỉnh của việc Chúa Giêsu tỏ mình cho người mù từ lúc mới sinh này là ở chỗ đó. Ở chỗ, như Phúc Âm hôm nay cho biết: "Chúa Giêsu hay tin họ đuổi anh ta ra ngoài, Người tìm gặp anh mà hỏi: 'Anh có tin Con Thiên Chúa không?' Anh đáp: 'Thưa ông, Ngài là ai để tôi tin Ngài?' Chúa Giêsu phán: 'Anh đã nhìn thấy Ngài, Đấng đang nói với anh đây'. Anh ta liền nói: 'Lạy Chúa, tôi tin' rồi sấp mình xuống thờ lạy Người".
Tuy nhiên, trình thuật Mạc Khải này của Chúa Giêsu cũng hợp với đường lối của Phúc Âm Thánh Mathêu nữa. Nếu yếu tố nhân sinh (cải thiện đời sống) được đặt trước yếu tố Thần Linh (Nước Trời đã đến) thế nào, trong trình thuật Phúc Âm Thánh Gioan hôm nay chúng ta cũng thấy rõ điều đó. Thật vậy, ngay trước khi được Chúa Giêsu hoàn toàn tỏ mình ra cho mình, nghĩa là trước khi người mù từ lúc mới sinh chẳng những tuyên xưng đức tin mà còn tỏ cử chỉ phục xuống tôn thờ Người, anh ta đã phải tỏ lòng khát khao mong muốn biết Người là ai: "Thưa ông Ngài là ai để tôi tin Ngài?". Như thế, nếu anh ta không tỏ ra yếu tố nhân sinh quyết liệt này trước, thì thử hỏi anh ta có được thấy "Nước Trời đã đến" ngay trước đôi mắt vừa được chữa lành của anh ta hay chăng? Hoặc anh ta lại rơi vào trường hợp của chín trong mười người tật phong, sau khi được chữa lành, đã không hề quay trở lại để nhận biết Đấng đã chữa lành cho mình bằng việc tạ ơn Người, như một người ngoại lai trong họ đã làm (xem Lk 17:11-19). Thật ra, qua những đối đáp của anh ta với nhóm Pharisiêu, anh ta chẳng những đã tỏ ra niềm tin của mình vào Đấng đã chữa lành cho anh ta, mà còn hiên ngang làm chứng cho một Đấng anh ta chưa hề được trực diện, chưa hề được diện kiến dung nhan để có dịp dâng lời tạ ơn Người. Vì trước khi thấy đã tin rồi, (tin trước biết sau là như thế), nên khi anh ta vừa được hỏi "Anh có tin Con Thiên Chúa không?", anh liền tỏ ước muốn tin tưởng của mình ngay, nhờ đó, và cũng chỉ nhờ đó, anh mới được và đã được hoàn toàn thấy "Sự Thật", thấy được "Con Thiên Chúa" Làm Người.
Mạc Khải "Thày là Sự Thật" theo ý nghĩa của Mùa Chay
Thế nhưng, tại sao Giáo Hội lại đặt trình thuật của Phúc Âm Thánh Gioan về việc Chúa Giêsu chữa người mù từ lúc mới sinh này vào Mùa Chay, trước trình thuật về người phụ nữ Samaritanô và sau trình thuật về Lazarô được hồi sinh? Hay nói cách khác, đâu là ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay trong Mùa Chay?
Như đã đề cập đến ở hai bài chia sẻ, tuần về biến cố biến hình hai tuần trước và tuần về biến cố bên bờ giếng Giacóp vừa rồi, Mùa Chay là thời gian hướng về và sửa soạn cho Biến Cố Vượt Qua, tuyệt đỉnh của Mầu Nhiệm Kitô Giáo. Thế nhưng, con người không thể chấp nhận và nhờ đó mới có thể thông phần vào Biến Cố Vượt Qua này, một biến cố đã làm rung chuyển tận gốc rễ nền tảng đức tin của Nhóm 12 bấy giờ, nếu con người không chịu bỏ mình và nhờ đó mới có thể tin tưởng, nghĩa là mới có thể cùng Người Vượt Qua: "Tôi nói thật cho quí vị biết, ai nghe lời Tôi mà tin vào Đấng đã sai Tôi thì có sự sống trường sinh. Họ không bị luận phạt, song vượt qua sự chết mà vào sự sống" (Jn 5:24). Ngay trong biến cố biến hình, ba môn đệ đã chẳng nghe thấy có tiếng phán ra từ đám mây hay sao: "Đây là Con Ta yêu dấu, Ta hài lòng về Người. Hãy nghe lời Người" (Mt 17:5). Như thế, chính Cha trên trời cũng làm chứng về Con mình, để con người có thể tin tưởng Đấng Ngài sai.
Đó là lý do, hai tuần đầu của Mùa Chay, Giáo Hội đã khôn ngoan đặt bài Phúc Âm về biến cố Chúa Giêsu chịu cám dỗ trước biến cố Chúa Giêsu biến hình, với mục đích để củng cố đức tin Kitô hữu, tức để Kitô hữu thấy được ý nghĩa và mục đích sâu xa của bỏ mình và chịu đựng khổ đau. Ngay trong biến cố biến hình của mình, Chúa Giêsu cũng có ý hướng muốn củng cố đức tin của ba người môn đệ thân tín nhất của Người nữa. Bởi thế, cuối trình thuật về biến cố biến hình này, Người mới hướng các vị về biến cố Phục Sinh của Người: "Đừng nói với bất cứ ai những gì các con thấy cho đến khi Con Người từ trong cõi chết sống lại" (Mt 17:9). Về phía con người, cho dù đức tin của Nhóm 12, nhất là của cả 3 vị thân tín nhất đã được tận mắt chứng kiến vinh hiển của Con Thiên Chúa qua biến cố biến hình, có bị choáng váng tối tăm đến chối bỏ "Sự Thật", nhưng, nhờ những gì Thày đã làm trước hay báo trước về Người (xem Jn 13:19), cuối cùng họ cũng đã tin vào Người: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi" (Jn 20:28).
Như thế, nếu chứng từ là yếu tố thuộc về Mùa Phục Sinh thế nào, thì đức tin là yếu tố làm nên Mùa Chay như vậy. Đó là lý do Phụng Vụ Lời Chúa theo Phúc Âm Thánh Gioan cho ba tuần giữa (III, IV, V) của Chu Kỳ Phụng Niên Năm A nói chung, cũng như của Chúa Nhật Thứ III Mùa Chay hôm nay nói riêng, mới trình thuật về việc Chúa Giêsu tỏ mình ra để làm cho con người tin vào Người mà được sự sống đời đời. Bởi nguyên tội, con người đều là những người mù từ lúc mới sinh, không thể nào nhận biết "Thiên Chúa là Thần Linh" (Jn 4:24), nếu không được Ngài mở mắt tâm linh ra cho. Thật ra, Thiên Chúa luôn ở bên con người và tỏ mình cho con người, như trường hợp của người phụ nữ Samaritanô trong bài Phúc Âm tuần trước, hay của người mù từ lúc mới sinh trong bài Phúc Âm tuần này: "Ta chính là Đấng đang nói với chị/anh" (Jn 4:26; 9:37), với chúng ta.
Tuy nhiên, muốn nhận ra Người, như hai nhân vật trong hai bài Phúc Âm tuần trước và tuần này, chúng ta phải chân thành và khao khát tìm kiếm chân lý. Có thế, tới giây phút hội ngộ thần linh, giây phút cảm nghiệm thần linh, chúng ta mới nghe được tiếng của Người, nhận ra những gì Người đã nói với chúng ta, như trường hợp của người phụ nữ Samaritanô, hay những gì Người đã làm cho chúng ta, như trường hợp của người mù từ lúc mới sinh. Và từ cuộc hội ngộ thần linh này, chúng ta mới có thể loan báo về Người, như trường hợp của người đàn bà Samaritanô, hay mới có thể phục xuống thờ lạy Người, như trường hợp của người mù từ lúc mới sinh. Riêng trong trường hợp của Người mù từ lúc mới sinh, ngay trước khi gặp được Đấng phục quang cho mình, anh đã làm chứng về Người rồi, chứ không cần đợi đến sau khi nhận ra Người, như trường hợp của chị phụ nữ Samaritanô. Một con người sống theo lương tâm chân chính có thể làm chứng cho chân lý là thế: "Ai tìm kiếm chân lý sẽ nghe thấy tiếng của Tôi" (Jn 18:37) là thế; "chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi. Tôi biết chúng và chúng theo Tôi" (Jn 10:27) là như vậy. Nếu trong Biến Cố Vượt Qua, Chúa Giêsu muốn "làm chứng cho chân lý" (Jn 18:37) Người là Đấng Thiên Sai và Cha là Đấng đã sai Người, thì người mù từ lúc mới sinh hôm nay, qua những minh chứng hùng hồn theo lý lẽ tự nhiên cùng với cảm nghiệm thần linh của anh trước nhóm Pharisiêu thông luật, quả thực đã tin tưởng đúng như những gì Chúa Giêsu muốn đến để làm chứng: "Nếu người này không từ Thiên Chúa mà đến thì không thể nào làm được một việc như vậy" (Jn 9:33).
Vấn đề thực hành sống đạo: Mùa Chay là thời điểm hướng về Biến Cố Vượt Qua và sửa soạn cho Biến Cố Vượt Qua, bằng những việc củng cố Đức Tin, những tác động làm cho Kitô hữu nhờ đó có thể hiệp thông với Chúa Kitô Phục Sinh hơn. Bởi vậy, Mùa Chay sẽ chẳng có nghĩa gì, thậm chí những việc hy sinh hãm mình, chay tịnh phạt xác, ăn năn thống hối cũng chẳng có nghĩa lý gì, nếu con người không nhờ đó mà tin tưởng hơn, gắn bó với Chúa Kitô hơn, theo sát Người hơn, cảm thấy vinh dự vì thập giá của Người hơn. Đúng thế, chỉ có đức tin trưởng thành và mãnh liệt như thế, con người môn đệ Chúa Kitô mới thực sự là những chứng nhân sống động của Người và cho Người đến tận cùng trái đất mà thôi (xem Lk 24:48).
Sách Lẽ Sống có kể lại một câu chuyện có thật về một người mù từ thuở mới sinh. Ông ta rất đạo đức, sau mỗi khi xin một ơn gì cũng đều thêm câu "...nếu đẹp lòng Chúa và có ích cho phần rỗi của con". Trong suốt cả đời, hầu như mọi ơn ông xin, ông đều được hết, chỉ có ơn sáng mắt là không được mà thôi. Một ngày gần cuối đời, ông đến cầu nguyện nơi mộ thánh Phêrô và đột nhiên được sáng mắt. Ông vui vẻ quá sức, trở về nhà, vừa đi vừa ca hát om sòm tạ ơn Chúa. Đang ca hát ồn ào, ông chợt đứng sựng lại, im bặt và vội vã quay trở lại. Thì ra ông cụ đã già, hơi lẫn, đã quên không thêm lời cầu nguyện bất hủ. Lần nầy ông gục đầu xuống chân thành thưa: "Lạy Chúa, xin Chúa hãy cất đi ánh sáng nơi đôi mắt con, nếu đẹp lòng Chúa và có ích cho phần rỗi của con". Ông ta bị mù trở lại, nhưng lần nầy ông vẫn vui vẻ ra về và hát vang lời ca tụng tạ ơn Chúa.
Câu chuyện trên không có ý phản đối lại việc Chúa đã chữa cho người mù trong Phúc Âm được sáng mắt đâu, nhưng là để làm rõ nghĩa hơn lời Chúa đã phán: "Không phải y cũng chẵng phải cha mẹ y đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa được tỏ ra nơi y". Nếu ông cụ trong câu chuyện trên có bị mù là để dạy ta luôn biết cầu nguyện cho mình thuận theo thánh ý Chúa, thì anh chàng trong Phúc Âm bị mù là để quyền năng cũng như Thiên tính và Nhân tính của Chúa Giêsu được tỏ lộ ra.
Cả bốn Phúc âm đều có thuật chuyện Chúa Giêsu chữa cho người mù được sáng, nhưng chỉ riêng câu chuyện của thánh Gioan thì khác biệt hẳn với chuyện của các vị kia. Để chữa cho các người mù "khác" khi họ đến xin Chúa chữa, Ngài đã dùng những phương cách khác nhau. Riêng anh chàng mù trong câu chuyện hôm nay chúng ta không nghe nói anh ta đã đến xin được chữa bệnh.
Thánh Matthêu kể lại rằng Chúa chữa cho hai người mù lận, cả hai đều ở Giêricô, lúc họ đến xin chữa, Ngài chỉ cần phán bảo là họ được lành. Cả hai thánh Mátcô và Luca đều kể giống nhau về chuyện một người mù cũng ở thành Giêricô, Chúa Giêsu cũng đã chỉ cần phán bảo mà thôi. Riêng thánh Mátcô lại kể thêm một lần chữa bệnh mù của một người ở Bétsaiđa. Người này không được Chúa chữa cách công khai giữa đám đông như những người mù ở Giêricô mà Ngài đã dắt anh ta ra ngoài làng. Ngài cũng không phán bảo để chữa bệnh mà Ngài đã bôi nước bọt lên mắt anh. Ấy vậy mà anh cũng không nhìn thấy rõ ràng ngay, Ngài lại phải đặt tay trên mắt anh một lần nữa, anh mới nhìn rõ như người bình thường.
Để chữa cho anh chàng mù trong bài Phúc Âm hôm nay (không thấy nói rõ quê anh ở đâu cả), Chúa Giêsu đã mất công nhổ nước bọt xuống đất, hòa thành bùn, rồi bôi vào mắt anh. "Đất" và "bùn" nhắc ta nhớ lại câu chuyện Thiên Chúa tạo dựng loài người. Mới được tạo dựng, loài người xinh đẹp và tốt lành biết bao. Chỉ vì tổ tiên ta không vâng lời Chúa mà tội lỗi và bệnh tật đã nhập vào thế gian. Nhưng tình yêu của Thiên Chúa đã thắng vượt tất cả, Ngài đã cho Con Một của Ngài xuống thế để cứu chuộc chúng ta. Thánh Augustin khi giải thích đoạn Kinh thánh này cho rằng hành động nhổ nước bọt xuống đất của Chúa Giêsu là để diễn tả việc Ngôi Lời nhập thể. Lời của Chúa, Chúa Giêsu đã đến trong thế gian mặc lấy xác thịt bùn đất của loài người để cứu chữa lại những gì đã hư mất. Nếu tổ tiên ta không sa ngã thì chúng ta sẽ không bao giờ được Thiên Chúa sống yêu thương thân mật ở giữa chúng ta như ngày nay. Chẳng thế mà Hội thánh vẫn ca tụng rằng tội tổ tông là "tội hồng phúc" đó sao? Cho nên, chúng ta cũng không nên trách nguyên tổ ta nữa mà hãy cùng với Hội thánh chúc tụng vị Thiên Chúa vô cùng đáng yêu của chúng ta.
Sau khi bôi bùn vào mắt anh ta, Chúa Giêsu bảo anh ta đi rửa ở hồ Silôê. Thánh Gioan đã cẩn thận giải nghĩa tên hồ "Silôê có nghĩa là Sai đến" nữa. Sự kiện này không ngoài mục đích là vị thánh ký muốn nhắm đến là giới thiệu cho mọi người biết Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Sai, vị Cứu Tinh mà nhân loại đang đợi trông.
Những câu chuyện cãi vã lôi thôi giữa người mù được sáng và nhóm Pharisêu cũng là để làm sáng tỏ hơn hình ảnh của Đấng Cứu Thế, Ngài có quyền năng vô song đã chữa được bệnh mù từ thuở mới sinh và có quyền trên mọi luật lệ kể cả luật giữa ngày Sabát, vì Ngài là Thiên Chúa, là Đấng tạo thành các lề luật đó.
Bên cạnh những ý niệm cao siêu về Chúa Cứu Thế, thánh Gioan đã cho ta một bài học về cách sử dụng những may mắn hay rủi ro thường ngày. Hãy tiếp nhận mọi việc xảy ra nơi chúng ta như những cơ hội để làm sáng danh Chúa. Có phải là vô tình mà anh chàng mù gặp được Chúa Giêsu để Ngài chữa cho sáng hay không? Chắc chắn là không phải vô tình đâu, nhưng là một sự kiện nằm trong chương trình quan phòng của Thiên Chúa. Xin nhắc lại Lời Chúa: "Không phải y cũng chẳng phải cha mẹ y đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa được tỏ ra nơi y" nơi đây, để chúng ta luôn biết cầu nguyện thật chân thành như ông lão mù "... nếu đẹp lòng Chúa và có ích cho phần rỗi của con" mỗi khi ta cảm thấy cần phải xin Chúa làm cho chúng ta một phéo lạ nào.
Có hai loại người mù: mù thể lý và mù tâm linh. Mù thể lý là người có con mắt bị hư, hoặc từ lúc mới sinh hoặc do tai nạn, không nhìn thấy sự vật và con người xung quanh mình. Người mù không cảm nhận được cái đẹp của thiên nhiên, vạn vật; đi đứng khó khăn, phải dựa vào cây gậy để dò đường hoặc phải bám vào cánh tay của một người thân để tiến bước. Người mù thể lý có nỗi khổ riêng mà ít ai hiểu nổi. Nhưng còn có một loại người mù khác: đó là mù tâm linh. Người mù tâm linh thì dù có đôi mắt sáng, cũng không nhìn thấy con đường mình đi, cũng không nhận ra ý nghĩa của cuộc sống và gía trị của vạn vật. Có thể nói nỗi khổ của người mù tâm linh còn lớn hơn nỗi khổ của người mù thể lý, vì người ấy có mắt cũng như không, có sống nhưng chỉ là sống dật dờ, không định hướng. Cả người mù thể lý lẫn người mù tâm linh đều cần đến thày thuốc để được chữa lành. Câu chuyện Gio-an kể lại trong bài Phúc Âm hôm nay là một ví dụ.
2. Phúc âm Gio-an trình bày Đức Giê-su là Ánh Sáng trần gian:
Trước hết Gio-an kể lại câu chuyện Đức Giê-su chữa lành người mù mới sinh để mắt anh ta nhìn thấy được. Thế giới hiện hình trước đôi mắt ngạc nhiên và thích thú của anh. Cuộc đời anh thay đổi một cách quyết liệt, vì trước đây anh không thấy, bây giờ anh mới thấy. Chúng ta có thể hình dung niềm vui lớn lao như thế nào dâng trào trong tâm hồn anh !
Kế tiếp, Gio-an cho ta thấy Đức Giê-su không chỉ là một bác sĩ đại tài mà còn là một bác sĩ tâm linh, là Người mở đường vào thế giới linh thiêng, thế giới của Thiên Chúa. Con mắt tâm linh anh mù đã nhìn ra điều mà những người Pha-ri-sêu thông thái, ‘đạo đức’ không nhìn ra: Đức Giê-su là vị Ngôn Sứ, là Con Người, là Đấng đem ánh sáng của Thiên Chúa đến cho mọi người. Anh ta đã thấy và đã tin ! Cả đôi mắt thể lý và tâm linh của anh đều sáng, trong khi đôi mắt thể lý của những người Pha-ri-sêu thì sáng nhưng mắt tâm linh của họ lại tối tăm mù lòa.
Nhìn vào xã hội loài người hiện nay, chúng ta thấy có nhiều hạng người mù về tâm linh: Biết bao người theo đuổi chiến tranh, hận thù, tham vọng bá chủ; biết bao người bóc lột, đàn áp người khác để làm giầu… Họ có mắt mà không thấy việc họ làm là bất lương, bất chính. Họ cần được Đức Giê-su chữa lành con mắt tâm hồn.
3. Đem Anh Sáng là chính Chúa Giê-su Ki-tô cho người xung quanh:
Trước khi đem ánh sáng – là Chúa Giê-su – cho người khác, chúng ta phải tự hỏi: ‘Đức Giê-su có thật là ánh sáng cuộc đời tôi không ? Tôi có sống theo ánh sáng của Người không ? Tôi có đi theo con đường Người vạch ra không ?’ Thánh Phao-lô Tông Đồ trong thư Ê-phê-sô, đã hướng dẫn chúng ta phải sống như thế nào cho phù hợp với tư cách con cái sự sáng: Đó là sống lương thiện, công chính và chân thật; đó là thực hiện những điều đẹp lòng Chúa; đó còn là từ chối và tố giác những hành động của con cái bóng tối. Chúng ta sống như thế là chúng ta đã đem Đức Giê-su là ánh sáng cho người khác rồi. Sống được như thế không phải là chuyện dễ dàng trong hoàn cảnh hôm nay, vì môi trường chung quanh ta đầy rẫy bất lương, bất chính và gian trá. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, chúng ta còn phải tận dụng mọi cơ hội để giới thiệu Chúa Giê-su là Ánh sáng cho người xung quanh, để mọi người nhận ra Người là Ngôn Sứ, là Sứ Giả của Thiên Chúa, là Đường và là Sự Sống.
Lạy Chúa Giê-su là Ánh Sáng trần gian ! Xin Chúa chiếu sáng những người đang sống trong bóng tối của lầm lạc, u mê ! Lạy Chúa Giê-su là Ánh Sáng trần gian ! Xin Chúa mở mắt tâm hồn chúng con để chúng con nhìn thấy thiên nhiên vạn vật, và nhất là để chúng con nhìn ra Chúa trong cuộc đời chúng con, trong những người sống chung quanh chúng con, trong các biến cố xảy ra cho chúng con.
Chúng ta đang ở trong dịp lễ Lều là một trong những Đại lễ của người Dothái. Đây là lễ không chỉ giúp người Dothái ôn lại biến cố Xuất hành khi cha ông họ sống trong các lều trại ở sa mạc mà còn là dịp để cảm tạ Giavê Thiên Chúa về hoa mầu do ruộng đất mang lại. Dịp Đại lễ này, nước và ánh sáng là hai yếu tố quan trọng nhất làm nên nghi lễ bế mạc. Chúa Giêsu muốn dùng dịp này để minh chứng chính Người là Anh sáng thật, xuất phát từ Thiên Chúa khi làm cho anh mù từ thưở sơ sinh được thấy.
Người xưa quan niệm rằng bệnh tật là hậu quả do tội lỗi mang lại. Chính vì thế, khi gặp người mù từ thưở sơ sinh, các môn đệ không thể lý giải nổi. Bởi nếu anh bị mù từ trong dạ mẹ thì lỗi đó do ai, bố mẹ hay anh? Các thầy Dothái thì cho rằng đó là do tội của bố mẹ. Thế nhưng cũng có người cho rằng chính anh ta khi còn nằm trong bụng mẹ đã phạm tội. Vì thế, các môn đệ muốn Chúa Giêsu có ý kiến về vấn đề này.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu không bình phẩm, cũng không đưa ra một giả thuyết nào. Điều Người quan tâm chính là tình trạng bệnh tật của người mù, Người giúp để anh được nhìn thấy không chỉ ánh sáng mặt trời mà còn nhìn thấy ánh sáng đức tin phát xuất từ Thiên Chúa.
Chúa Giêsu lấy nước miếng luyện bùn để đắp lên mắt người mù. Thánh sử Máccô trong trình thuật của mình nói rằng Chúa Giêsu nhổ nước miếng và đặt tay vào mắt anh chứ không luyện bùn như trình thuật của Gioan. Điều này mang ý nghĩa gì? Chúng ta biết người xưa tin rằng trong nước miếng có dược chất có thể chữa lành bệnh. Chính sử gia Tacitus cũng đã ghi lại những dấu lạ chữa lành bệnh bằng nước miếng. Còn thánh Irênê đệ Lyon thì cho rằng cử chỉ Chúa Giêsu thực hiện nơi người mù chính là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa muốn làm cho thân xác của Ađam (vốn từ bùn đất) được nên hoàn thiện. Dù thế nào đi nữa, chính nước hồ Silôác- tượng trưng cho lề luật và đức khôn ngoan đến từ Thiên Chúa mà truyền thống Dothái giáo từng quan niệm, có khả năng làm cho người mù được sáng.
Anh mù được nhìn thấy. Niềm hạnh phúc tưởng chừng được lan truyền để mọi người cùng chung vui với anh, khốn thay, lại trở thành duyên cớ khiến anh gặp không ít phiền toái từ phía dân chúng cũng như mấy ông lãnh đạo tôn giáo. Nhưng đó cũng chính là hành trình để anh dần nhận ra niềm tin của mình và nghiễm nhiên trở thành người giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người.
Láng giềng thì nghi ngờ không biết anh có phải là anh mù thường hay mày mò đi ăn xin không. Không một chút giấu giếm, anh tường trình cho họ nghe những gì đã xảy ra với anh liên quan đến một người tên là Giêsu. Có lẽ vì không tin hay vì cần phải trình báo trường hợp này cho mấy ông thông luật suy xét mà láng giềng đã đưa anh đến với người Pharisêu.
Điều dễ thấy nơi mấy ông Pharisêu là họ nhìn ra ngay “tội đồ” của người đã cho anh sáng mắt. Thật vậy, cứ chiếu theo luật Môsê, Chúa Giêsu đã vi phạm ít nhất hai tội. Trước hết là tội chữa bệnh ngày Sabát khi không có lý do nguy tử. Rõ ràng là anh mù đâu phải trường hợp nguy tử như luật định. Thứ đến là tội dám luyện bùn đất là một trong những điều cấm trong ngày Đại lễ để chữa bệnh. Người Pharisêu không chỉ lên án hành động này của Chúa Giêsu, họ còn muốn lôi kéo anh mù về phe họ hay ít nữa là cũng nghĩ như họ. Tuy nhiên, anh không bị cuốn hút vào những âm mưu đó. Anh trình bày sự việc như nó vốn có. Anh không thêm bớt, anh chỉ cho họ thấy rằng tình trạng trước đây của anh là mù, nhưng nay, nhờ có Người, anh được sáng. Người Pharisêu và dân chúng suy nghĩ thế nào tuỳ họ, riêng anh, người đã chữa anh khỏi mù chính là “một vị Ngôn sứ”.
Không dừng lại ở đó, chúng ta còn thấy anh mù đã mạnh dạn tranh luận với người Pharisêu về Chúa Giêsu. Có lẽ anh không hiểu ý đồ của họ nên cứ tưởng rằng việc họ tìm hiểu xuất phát từ thiện ý muốn làm môn đệ Người. Vì thế anh không ngần ngại giới thiệu về Người. Hậu quả của việc làm đó, anh đã bị nhóm Pharisêu lên án và trục xuất ngay lập tức. Lý do đơn giản vì họ không chấp nhận người như anh làm thầy họ. Cuối cùng, niềm tin của anh trở nên trọn vẹn khi người đã chữa anh mạc khải cho anh biết chính Người là Đấng Thiên sai.
Chúa Giêsu chính là Anh sáng đích thực. Chính Người đã mang đến cho người mù niềm vui được chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt vời của vũ trụ- điều mà trước đây anh hoàn toàn không hề biết. Quan trọng hơn, anh còn được Chúa mở đôi mắt tâm hồn để anh nhận biết Đấng là Anh sáng phát xuất từ Thiên Chúa mà hôm nay chính Người đã mạc khải chân tính của Người cho anh là kẻ hèn mọn.
“Lạy Chúa, nhờ ánh sáng của Ngài, chúng còn được nhìn thấy ánh sáng” (Tv 35, 10). Xin cho mỗi người chúng ta cũng được Anh sáng Chúa chiếu soi để mắt tâm hồn chúng ta mở ra, đón nhận và tạ ơn về những ơn lành Thiên Chúa đã, đang và sẽ thực hiện giữa lòng nhân loại.
Ta nhìn thấy được là nhờ có ánh sáng. Đôi mắt là ánh sáng của thân thể. Nếu mắt hư hỏng, thì dù bên ngoài trời có sáng trưng, ta vẫn không thấy gì hết. Người bị hư mắt sống hoàn toàn trong đêm tối.
Có nhiều thứ đêm tối. Cũng như có nhiều loại mắt. Có thứ đêm tối u mê dốt nát. Ánh sáng văn hoá có đó. Sách vở chữ nghĩa có đó. Nhưng ta không đọc được. Vì ta mù chữ. Trí tuệ ta thiếu đôi mắt. Nên ta chìm trong đêm tối u mê.
Có thứ đêm tối phàm phu. Thiên nhiên có biết bao cảnh đẹp. Nhìn cảnh hoàng hôn, bình minh, người họa sĩ có thể xúc cảm vẽ nên những bức tranh tuyệt tác. Ta không cảm được vẻ đẹp của đất trời vì ta không có cặp mắt họa sĩ. Nghe chim ca, nhìn lá rụng, thi sĩ có thể viết nên những vần thơ. Còn ta, ta không nghe được sứ điệp của chim, không cảm được nỗi buồn của lá, vì ta không có tâm hồn, ánh mắt nhạy cảm của nhà thơ.
Có thứ đêm tối đức tin. Cuộc sống thần linh có đó. Thiên Chúa hiện hữu đó. Nhưng ta không thấy được nếu ta không có đức tin.
Đức tin là ánh sáng soi rọi vào thế giới vô hình, cho ta thấy được những điều mà người không tin không thấy. Đức tin là ngọn đèn soi cho ta bước đi trên con đường tiến về cuộc sống vĩnh cửu. Ngọn đèn ấy chỉ đủ sáng cho ta bước từng bước nhỏ. Trong khi bầu trời vẫn tối đen để ta phải phó thác tin yêu.
Tin là một thái độ dấn thân. Người mù đi ra giếng Si-lô-ê rửa theo lời dạy của Đức Giêsu vì anh tin. Anh có thể nghi ngờ. Rửa nước giếng có gì tốt đâu ? Nhưng anh đã đi vì anh tin lời Đức Giêsu. Tin rồi anh không ngồi lì một chỗ nhưng dấn thân, lên đường và hành động theo lời Đức Giêsu dạy.
Tin là một hành trình ngày càng gian khổ. Đức tin cần phải có thử thách. Thử thách như những bài học ngày càng cao, càng khó bắt người tin phải có thái độ lựa chọn ngày càng dứt khoát hơn. Ta hãy dõi theo hành trình của anh thanh niên bị mù.
Thoạt tiên, việc dấn thân của anh khá dễ dàng. Anh chỉ việc đi ra giếng Si-lô-ê rửa bùn đất mà Đức Giêsu đã đắp lên mắt anh.
Kế đó anh phải đối phó với một tình hình phức tạp hơn: Người ta nghi ngờ anh. Người ta tò mò xoi mói anh. Nhưng anh đã vững vàng vượt qua thử thách đó. Anh dõng dạc tuyên bố: Chính tôi là người mù đã ăn xin tại cổng thành.
Tình hình phức tạp hơn khi gia đình anh tỏ ra thờ ơ lãnh đạm. Anh khá đau lòng và cảm thấy cô đơn. Anh được sáng mắt. Anh có niềm tin. Đó là một biến cố quan trọng thay đổi toàn bộ đời anh. Thế mà những người thân thiết nhất là cha mẹ, anh chị em trong gia đình vẫn thờ ơ, lãnh đạm. Để vững niềm tin vào Chúa, anh đành chấp nhận hành trình đơn độc. Vì tin Chúa anh đành cam chịu sự thờ ơ lãnh đạm của những người thân. Trung thành với niềm tin đã làm trái tim anh ruớm máu.
Sự căng thẳng lên đến cực điểm khi anh phải đối đầu với quyền lực tôn giáo. Họ mạt sát anh là sinh ra trong tội lỗi. Họ tố cáo Đức Giêsu đã lỗi phạm luật nghỉ ngày Sabbat. Và sau cùng, họ khai trừ anh khỏi hội đường. Đây là hình phạt nặng nề nhục nhã nhất đối với người Do Thái. Bị gia đình từ bỏ. Giờ đây lại bị xã hội chối từ. Anh trở thành người cô đơn nhất. Đây là thử thách lớn lao nhất. Nhưng anh vẫn vững vàng vượt qua. Lựa chọn của anh giờ đây là dứt khoát. Mất tất cả chỉ để trung tín với niềm tin của mình.
Đúng lúc đau đớn nhất Đức Giêsu lại xuất hiện. Như để khen thưởng cho đức tin kiên vững của anh. Đức Giêsu tỏ cho anh biết Người là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa. Lập tức anh quỳ sấp mặt xuống thờ lạy Người. Hành trình niềm tin gian khổ thế là chấm dứt. Anh đã gặp được Đức Kitô.
Như thế niềm tin tăng dần theo với thử thách. Thử thách càng cao, đức tin càng mạnh. Thoạt tiên, anh coi Đức Giêsu chỉ là một con người, một người nào đó trong muôn vạn người: "Một người tên Giêsu đã xức bùn vào mắt tôi". Những câu hỏi của đám đông, những tra vấn của Pharisêu khiến anh suy nghĩ sâu xa hơn và anh nhận rằng: "Ngài thật là vị tiên tri". Khó khăn bắt bớ của giới chức tôn giáo thời đó lại khiến anh khẳng định: "Người từ Thiên Chúa mà đến". Và sau cùng anh đã nhận Đức Giêsu là "Con Thiên Chúa".
Đức tin giống như hạt ngọc bị lớp đất bụi che phủ. Những khó khăn thử thách giống như chiếc dũa, dũa sạch bụi đá. Càng dũa nhiều, ngọc càng sáng.
Đức tin giống như ngọn đèn. Thử thách gian khổ là dầu. Càng có nhiều dầu gian khổ, đèn đức tin càng toả sáng, càng toả nóng.
Hành trình đức tin của anh thanh niên mù chính là khuôn mẫu cho hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Anh thanh niên mù đã chiến đấu với những bóng tối vây phủ đức tin của anh. Anh đã kiên trì và đã chiến thắng. Anh đã ra khỏi tối tăm, gặp được Đức Kitô nguồn ánh sáng. Đời anh từ nay tràn ngập ánh sáng niềm tin. Còn tôi, tôi đã chiến đấu thế nào với những thế lực bóng tối đe doạ đức tin của tôi ? Những bóng tối nghi kỵ, những bóng tối thù hận, những bóng tối độc ác, những bóng tối tự mãn kiêu căng, những bóng tối dục vọng tội lỗi. Tôi có can đảm chiến đấu để phá tan những bóng tối đó không ?
Anh thanh niên mù đã giữ ngọn đèn đức tin khỏi mọi bão gió, lại còn đổ dầu đầy bình, giữ cho đèn cháy sáng cho đến khi gặp Đức Kitô. Ngày rửa tội, Chúa đã trao cho tôi ngọn đèn đức tin. Biết bao ngọn gió đã thổi ngang đời tôi, muốn dập tắt ngọn đèn đức tin của tôi. Liệu tôi có giữ được ngọn đèn đức tin cháy sáng cho đến ngày ra gặp mặt Chúa ?
Mùa Chay chính là cơ hội cho tôi khêu ngọn đèn đức tin cho sáng, đổ dầu đầy bình cho ngọn đèn đức tin cháy mãi. Dầu, đó là sự ăn chay, cầu nguyện, là thống hối, là hoà giải, là chia sẻ cho người túng thiếu.
Xin Đức Kitô là ánh sáng trần gian dẫn con đi suốt hành trình đức tin để con thoát mọi bóng tối, đến gặp Người là ánh sáng tinh tuyền, ánh sáng vĩnh cửu.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Bạn đã từng bị thử thách về đức tin chưa ? Bạn đã thắng vượt như thế nào ?
2- Từ khi được rửa tội đến nay, bạn có "biết" Chúa ngày càng rõ hơn không ?
3- Chúa đã tỏ mình ra cho bạn thế nào qua những thử thách trong cuộc đời ?
Phụng vụ tuần này còn tiếp tục dẫn dắt tín hữu suy niệm về ý nghĩa bí tích Rửa tội trong đêm vọng Phục sinh. Tuần trước là về nước ban sự sống đời đời. Hôm nay về ánh sáng (bài đọc 2 và 3) và sự cao trọng của ơn gọi làm công dân Nước Trời (bài đọc 1). Đa phần chúng ta lãnh Bí tích Thánh tẩy hồi mới lọt lòng mẹ, tức lâu lắm rồi, cho nên không còn ý thức sự phong phú của bí tích khởi sự đời sống Ki-tô hữu. Vậy thì cơ hội suy niệm lại thật là hữu ích.
Bài đọc 1 kể chuyện David được chọn làm vua Israel thay thế Saun. Vua này bị Thiên Chúa loại bỏ vì làm nhiều điều gian ác. Thiên Chúa sai tiên tri Samuel đến thành Bethléem với chiếc bình đầy dầu và tìm David, con Jessé để xức dầu cho ông. Jessé gọi lần lượt gọi 7 con trai của mình đến trước mặt vị tiên tri. Nhưng Thiên Chúa từ chối tất cả những đứa con đó, mặc dù chúng đều cao lớn và đẹp đẽ. Cuối cùng, Ngài chọn đứa con út David với đôi mắt sáng và đẹp trai. Tuy nhiên không phải hình dáng bên ngoài mà David được chọn. Kinh thánh nói chính là vì phẩm chất bên trong mà Thiên Chúa đã chọn ông. Liên tưởng đến các tín hữu, chúng ta cũng được chọn không phải vì lý do loài người, nhưng hoàn toàn bởi lòng tốt của Thiên Chúa. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu thành Côrintô viết: “Thưa anh em, anh em thử nghĩ lại xem: Khi anh em được Chúa kêu gọi thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái. Song những gì thế gian cho là điên dại thì Thiên Chúa đã chọn …(1 Cr 1, 26) để nhận lấy Thánh Thần của Thiên Chúa.”(1 Cr 2, 10) Dầu là dấu chỉ rõ ràng nhất chúng ta được hiệp thông với chức vụ của Chúa Giê-su là tư tế, tiên tri và vương đế cho đến cõi sống muôn đời. Còn gì sang trọng hơn địa vị người tín hữu trong thế gian này ?
Cho nên ở thư gửi tín hữu thành Êphêsô hôm nay, thánh nhân khuyên nhủ: “Thưa anh em, xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng, mà ánh sáng mang lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật.” Nhờ xức dầu bằng Thánh Thần khi chịu phép Rửa tội, chúng ta tiến đến ánh sáng Chúa Ki-tô, rời bỏ bóng tối tội lỗi, các tính hư nết xấu như say sưa, rượu chè, dâm đãng, những tội kéo cơn thịnh nộ của Thiên Chúa trên nhân loại. Tội lỗi là bóng tối, là đêm đen. Chỉ duy sự thánh thiện mới là ánh sáng, ánh sáng huy hoàng của Chúa Ki-tô. Hội thánh được mời gọi đến cùng ánh sáng. Thánh Phaolô dùng cụm từ “mặc lấy Chúa Ki-tô” chính là trong ý nghĩa này. Tác giả Prat viết: “Các tín hữu có những con mắt của một trái tim rực sáng. Họ là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày.(1 Tx 5, 5) Hơn thế nữa, ánh sáng thâm nhập họ khi chịu phép Rửa tội biến hoá họ thành những lò lửa rực sáng. Họ phản ánh và phân tán ánh sáng như những khối thuỷ tinh phản chiếu mặt trời. Họ rực rỡ như những ngọn đèn đặt vào thế gian. Họ chính là ánh sáng trong Đức Ki-tô. Như thế, Hội thánh chính là vương quốc ánh sáng mà Bí tích Rửa tội đã đưa chúng ta vào.” Có đối kháng tuyệt đối giữa tội lỗi và ánh sáng. Thánh Phaolô viết: “Thật thế, làm sao sự công chính lại liên kết với sự bất chính ? Làm sao Đức Ki-tô lại hoà hợp được với Bêlia (satan) ? Làm sao người tin lại chung phần được với người không tin ? Làm sao đền thờ Thiên Chúa lại đi đôi với tà thần được ? Vì chúng ta là đền thờ Thiên Chúa hằng sống.” (2 Cr 6, 14)
Bài đọc 2 hôm nay tiếp theo ý tưởng đó: “Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối. Trái lại, phải vạch trần những việc ấy mới đúng. Vì những việc chúng làm lén lút, thì nói đến là đã nhục nhã rồi. Nhưng tất cả những gì bị vạch trần, đều do ánh sáng làm lộ ra, thì trở nên ánh sáng.” Người ta có thể dễ dàng nhận ra ý nghĩa tương phản giữa ánh sáng và bóng tối, ám chỉ thần khí và xác thịt mà thánh Gioan đề cập đến trong bài Phúc âm hôm nay.
Để rộng đường suy niệm, trước hết xin ghi chép ý kiến của tác giả Patrica Datchuck Sanchez viết năm 1999 đăng trong nguyệt san “Celebration” về bài Tin Mừng. Cô nói mỗi khi đọc nó cô nhớ lại thời thơ ấu của mình, khi còn học tại trường mẫu giáo của các dì, lần đầu tiên cô được nghe chuyện về Helen Keller, một bé gái câm điếc từ 7 tuổi, đã nhờ cố gắng mà trở nên một trong các diễn giả, tác giả danh tiếng nhất của Hoa Kỳ ở thế kỷ 20. Helen Keller là con của một gia đình khá giả. Lúc 7 tuổi mắc bệnh hiểm nghèo đưa đến việc cô hoàn toàn bị câm và điếc khi khỏi bệnh. Gia đình thương hại, chiều chuộng hết mức, mặc cho con thoả mãn mọi ước muốn của mình. Sự mù loà của cô vượt xa bất hạnh thể lý. Nó cắt đứt cô khỏi mọi quan hệ thân yêu, đẩy cô vào cô đơn buồn thảm.
Nhưng Helen Keller rất thông minh. Cha mẹ thuê Annie Sullivan làm cô giáo dạy tư cho bé. Nhờ sự kiên trì của cô giáo, Helen Keller thắng được bệnh tật, vượt qua bất hạnh và trở nên danh tiếng. Trên sân khấu và trong màn ảnh lớn, giây phút “phá ngu” được diễn tả một cách thật mãnh liệt. Cô giáo Annie mang Helen ra chiếc giếng bơm và khi nước chảy xuống tay Helen, cô giáo làm hiệu từ “nước”. Hàng trăm lần như thế, bé Helen học được một từ. Bé đã liên hệ được giữa ký hiệu và thực tế. Dần dần bé học thêm các từ ngữ khác và tiến bộ rất nhanh. Tuy nhiên, giây phút đầu tiên là quan trọng. Nó khai mở cho bé vào thế giới bình thường của mọi người, giải phóng bé không những khỏi sự im lặng nặng nề của câm điếc mà còn cho bé tự do tiếp xúc với sự vật xung quanh. Quả là giây phút quyết liệt và huy hoàng. Nó cho phép bé sống một cuộc đời phong phú mà ít người có được. Ở nhà trường, chúng tôi phải phân tích và học hỏi một số những áng văn hay của cô. Cô đã ảnh hưởng trực tiếp vào tôi chứ không còn nghe về cô nữa. Cô giúp đỡ chúng tôi ngộ ra những ân huệ mà loài người được hưởng; xưa nay cứ ngỡ là quyền lợi tự nhiên; những giá trị quý báu cuộc sống tặng ban hằng ngày mà chúng ta coi là tầm thường. Cuộc “đột phá” của bé Helen tại giếng bơm khởi đầu một loạt những “phép lạ” khác của đời bé sau này và qua bé tất cả chúng ta đều được ân hưởng.
Tôi muốn nói: Câu chuyện người mù hôm nay tương tự trường hợp của Helen Keller. Ông ta được sáng mắt qua một đột biến ngoạn mục. Mùa chay này chúng ta cũng được “sáng lòng” qua những biến cố như vậy, nhờ ân huệ Chúa Giê-su. Tuy nhiên, đối với anh mù, đó mới chỉ là bước khởi đầu. Anh còn phải trải qua một hành trình đầy nhiêu khê: Khi Chúa Giê-su để ý đến anh ngồi ăn xin, Ngài muốn chữa lành thì các môn đệ đặt câu hỏi thần học: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta ?” Theo não trạng tôn giáo khi ấy, các bất hạnh của con người là hình phạt Thiên Chúa giáng xuống kẻ có tội hoặc do chính đương sự phạm hay cha mẹ gây nên. Tư tưởng này ngày nay vẫn phổ thông và người ta chờ đợi câu đáp tích cực: Chúng ta chịu đựng khổ đau bởi đã phạm tội. Không còn đường lối giải trình nào khác nữa. Ôn dịch, tai nạn, thảm hoạ, thiên tai, chẳng qua là hình phạt do tội lỗi làm nên. Nhưng phải chăng các nạn nhân sóng thần vừa qua tại đông nam Á châu cũng là do tội lỗi của họ ? Phải chăng hiện trạng mỗi người là do khiếm khuyết di truyền, khiếm khuyết giáo dục dưỡng nuôi ? Khiếm khuyết môi trường hoàn cảnh ? Hằng trăm nghi vấn tương tự được đặt ra cho khoa học luân lý, thần học, xã hội mà vẫn chưa tìm thấy câu trả lời thoả đáng.
Quay về với hoàn cảnh của anh mù trong Phúc âm, Chúa Giê-su trả lời dứt khoát: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội.” Nó là hoàn cảnh chung của toàn thể nhân loại xa lìa Thiên Chúa. Vì vậy, Ngài nói tiếp: “Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa tỏ hiện nơi anh.” Nói kiểu khác: Chúa Giê-su chính là công trình cứu độ của Thiên Chúa nơi trần gian. Cho nên, Chúa tiếp: “Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.” Ngài nhìn nhân loại theo quan điểm siêu nhiên, chứ không hoàn toàn tự nhiên. Ngài đến để cứu chữa loài người khỏi vòng tối tăm tội khiên và hậu quả khốc liêt của nó. Như có lần Ngài chữa lành kẻ bại liệt do bốn người khiêng mang đến, Ngài tuyên bố: “Này anh, tội của anh đã được tha rồi.”(Mc 9, 1) làm cho các kinh sư bực bội. Trường hợp của anh mù bẩm sinh hôm nay cũng vậy, Chúa chữa anh lành về thể lý và tinh thần thì các quyền bính Do thái lại trở nên mù tự ý (Aveuglement volontaire) do lòng kiêu ngạo của mình, không dám chấp nhận sự thật Thiên Chúa ban cho. Đây là điểm chúng ta cần lưu ý, bởi chúng ta cũng đầy dẫy những thành kiến, thậm chí định kiến về người khác không cùng phe với mình, hoặc những tổ chức, những tôn giáo khác. Có lẽ chúng ta cũng mù tự ý chăng ?
Qua câu chuyện hôm nay, Chúa Giê-su muốn đáp ứng nhu cầu khẩn thiết của người mù, tức muốn chữa nhân loại khỏi tối tăm về phần linh hồn. Ngài muốn khai sáng chúng ta khỏi những giới hạn và những quan niệm sai lầm về Thiên Chúa, về đồng loại, về tội phúc. Chúng ta cũng nên suy nghĩ thêm về câu chuyện đau khổ của con người và sự liên hệ giữa chúng với tội lỗi hình phạt. Chúa Giê-su khởi sự bằng cách chữa lành phần xác cho anh mù, nhưng không dừng lại tại đó mà tiến xa hơn, soi sáng cho anh nhận ra thân phận bị xã hội khinh bỉ, chà đạp để tiến đến tâm lý tự tin, độc lập, trưởng thành tinh thần. Anh đã có khả năng chống lại ý kiến của hội đồng Do thái, coi Chúa Giê-su và anh thuộc thành phần tội nhân. Anh thờ lạy Ngài như nguồn mạch đời sống mới của mình. Con đường của anh chạy song song với đời sống đức tin của chúng ta khi lãnh Bí tích Rửa tội. Từng bước chúng ta được Chúa Giê-su dẫn đến cùng Thiên Chúa. Nước khởi đầu cuộc hành trình đức tin và ánh sáng dẫn lối chân thật cho loài người đi đến cùng đích. Chúng ta đang ở giữa Mùa chay, giống như anh mù ở suối Silôê, chúng ta cũng được ơn thanh tẩy soi sáng cho biết thân phận mình.
Chúng ta có cơ hội kiểm tra các viễn tượng. Liệu chúng ta đã có những lựa chọn tốt hay chạy theo giả dối thế gian ? Liệu chúng ta ưa thích ánh sáng của Chúa Giê-su hay những ảo tưởng lầm lạc và bóng tối lừa đảo của Mammon và các tiện nghi xác thịt khác ? Cuộc sống khắc khổ đạm bạc hay say sưa nhung lụa ? Điều chi khiến chúng ta lầm đường lạc lối ? Gần đây tôi đi giảng thuyết ở thành phố Miami Hoa kỳ, một địa điểm khá tốt. Gió biển thổi hiu hiu khắp nơi. Tôi đi bộ một mình qua công viên vào buổi chiều tàn, say sưa ngắm mặt trời lặn từ từ trên nước biển. Quang cảnh thật huy hoàng. Mặt trời đỏ to như chiếc đĩa lớn với muôn hồng nghìn tía, làm ngây ngất tâm hồn. Nhưng trước khi tôi trở về với ý thức, thì mặt trời đã biến mất từ lúc nào, màn đêm đen nghịt buông xuống trên vạn vật. Người ta phải mò mẫn kiếm lối đi và rất dễ bị lạc trong các phố xá xa lạ như thế này. Đâu là hàng rào thấp bằng các dây thừng ? Đâu là giếng nước ? Có lẽ có cái ao ở đây ? Còn chỗ quẹo ngấp ? Tôi đã đậu xe ở đâu ? Hằng trăm câu hỏi, giống như các nghi vấn của cuộc đời, đúng không quý vị ? Ánh sáng lại dần dần biến mất mà không nhận thấy, khi chúng ta bị thu hút bởi mặt trời đang lặn. Lúc tỉnh ngộ mới chú ý đến các nhu cầu của mình và muốn có hết mọi sự: Tự do, độc lập, hạnh phúc, thoát khỏi mọi giới hạn ràng buộc ? Chăm lo các dự án, các chương trình ? Chúng ta lại bị thôi miên bởi những bận rộn của cuộc sống giống như người ngắm mặt trời lặn. Dĩ nhiên, chúng ta lại có ít ánh sáng soi đường dẫn dắt mình. Chúng ta lại bỏ bê các ưu tiên cần thiết như gia đình, lòng tin, cộng đồng giáo xứ. Chúng ta lại vướng chân vào cạm bẫy của satan. Ánh sáng lại phai nhoà, nguy hiểm khắp nơi. Chúa Giê-su trông thấy trước những khó khăn này xảy ra cho môn đệ và cho cả chúng ta nữa, nên Ngài phán: “Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy khi trời còn sáng, kẻo đêm đến không ai có thể làm việc được. Thầy là ánh sáng thế gian.”
Ở ý nghĩa nào đó, mù loà cũng là kết quả của hoàn cảnh mỗi người. Khi được sinh vào thế gian, tội lỗi đã chờ sẵn chúng ta. Chúng ta hít thở bằng không khí luân lý bị ô nhiễm nặng nề, bóng tối thâm nhập vào tận tâm can từ khi còn bé. Một tù nhân nặng ký đã kể với tôi rằng: Cha anh ta đang ngồi tù ở Soledad, người anh cả ở Folsom. Hai khám đường nổi tiếng của bang California. Tôi không mấy ngạc nhiên về việc anh bị giam giữ nghiêm ngặt tại đây, bởi vì đã lớn lên trong điều kiện như vậy. Liệu chúng ta có khả năng chống lại bóng tối định mệnh ? Thật là khó khăn nếu không có ơn Chúa trợ giúp: “Bao lâu còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.” Hôm nay, chúng ta có bài đọc Tin Mừng dài, xin hãy lắng nghe trọn vẹn, đừng thiếu chi tiết nào. Bởi nó là câu chuyện của chúng ta, của cộng đồng giáo xứ. Giống như anh mù, chúng ta đã tìm thấy Thiên Chúa, nguồn mạch sự sáng. Có lẽ, chúng ta không cần đến chữa lành thể lý, nhưng tâm linh thì rất cần, để nhìn tỏ tội lỗi mình, và những sai xót của cuộc đời. Chúng ta phải nhận ra mình là ai trước tôn nhan Thiên Chúa ? Chúng ta đến từ đâu và sẽ đi về đâu ? Cần phải làm chi trên đường đời ? Nhưng trước khi các việc đó xảy ra thì chúng ta đã được Chúa ban ơn “xem thấy”. Xem thấy Chúa Giê-su và những viễn tượng đúng hướng. Chính ơn ấy đã dẫn đưa mọi người đến buổi phụng vụ hôm nay. Chúng ta ý thức mình luôn cần Bí tích Thánh thể, ngõ hầu mắt được sáng, lòng được sốt mến mà đi trọn đường đời. Mùa chay cống hiến cho chúng ta thời giờ để thú nhận rằng: Mình đã nhiều lần vấp ngã trong đêm tối và cần trở lại với ánh sáng đã lãnh nhận khi chịu phép Thánh tẩy. Chúa Giê-su chính là ánh sáng đó. Ngài còn là sự khôn ngoan gìn giữ chúng ta khỏi rơi vào cạm bẫy thế gian lần nữa. Amen.
Theo truyền thống của Giáo Hội, chủ nhật thứ tư mùa chay là chủ nhật của vui mừng và hy vọng, vui mừng là vì chúng ta sẽ được cùng sống lại với Chúa Giêsu trong đêm phục sinh của Ngài, và hy vọng chờ ngày Ngài đến trong vinh quang phục sinh. Do đó mà trong bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta chia sẻ nổi vui mừng với người mù đã được Chúa Giêsu làm cho sáng mắt và thấy được.
Là người Kitô hữu, chúng ta đều biết rằng, ngoài con mắt xác thịt ra, thì chúng ta còn có thêm “con mắt tâm hồn” nữa, con mắt xác thịt thì chúng ta nhìn thấy mọi sự theo xác thịt và tính ích kỷ của chung ta; con mắt tâm hồn thì nhìn mọi sự theo sự hướng dẫn của Lời Chúa và giáo huấn của Giáo Hội.
Có một câu chuyện nhỏ như thế này:
Có con sâu róm đi ngang qua trước mặt con trâu, con trâu la lớn:”Trời ạ, nó xấu quá”.
Chúa Tạo vật nói: “Không, nó rất đẹp”.
-“Ngài cảm thấy nó đẹp ư ?”- Con trâu nghi ngờ và cảm thấy ghét, nói tiếp: “Ngài coi, toàn thân nó toàn là lông là lông, béo phệ ụt ịt, nhìn thấy tởm lợm”.
Chúa Tạo Vật nói: “Này con, con nhìn vẻ bên ngoài của nó, còn Ta, Ta nhìn vẻ bên trong của nó !”. (1)
Anh chị em thân mến,
Con trâu nhìn vẻ bên ngoài của con sâu róm bằng con mắt xác thịt, nên nó thấy con sâu róm rất xấu và tởm lợm muốn nôn mửa; nhưng Thiên Chúa lại nhìn vẻ bên trong của con sâu róm nên Ngài thấy nó rất đẹp.
Có rất nhiều lần chúng ta nhìn vẻ bên ngoài của người anh em chị em bằng con mắt xác thịt, nên chúng ta chỉ thấy họ toàn là những người xấu, những người tội lỗi đáng bị gạt ra bên ngoài xã hội, cho nên chúng ta không thèm qua lại với họ, thế là chúng ta đã tự mình xây một bức tường ngăn cách giữa chúng ta với tha nhân, giữa Thiên Chúa với chúng ta; con mắt xác thịt chính là những thành kiến nặng nề của mình, nó cũng là những kiêu ngạo của chúng ta và những suy nghĩ thiên vị của chúng ta trong cuộc sống đời thường.
Chúng ta tự hào mình là người sáng mắt, thông biết thiên văn địa lý, cho nên chúng ta coi thường tha nhân, thế nhưng con mắt tâm hồn của chúng ta đã bị mù mất tiêu mà chúng ta không biết.
Chúa Giêsu đã chữa cho người mù sáng mắt, và đồng thời, Ngài cũng mở mắt đức tin cho anh ta, để anh ta nhận thấy được người đang nói chuyện với mình chính là Đấng Messia. Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu chữa con mắt tâm hồn của mình, để chúng ta không còn nhìn thấy người tội lỗi là người đáng chết vì Chúa Giêsu không kết án họ, không còn nhìn thấy người nghèo là những người ăn bám vì Chúa Giêsu vẫn thương xót họ, không còn nhìn thấy những cô gái điếm là những người đáng bị ném đá vì Chúa Giêsu luôn sẵn sàng tha thứ cho họ…
Vui mừng vì mình được chữa lành hơn là bặm môi kết án anh em, hy vọng vì mình được cứu chuộc hơn là thở dài thất vọng vì anh em chị em mình, đó là sứ điệp của chủ nhật thứ tư mùa chay hôm nay vậy…
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay mặc khải cho chúng ta biết: Chúa Giê-su là ánh sáng thế gian qua việc Người gặp người mù từ thuở mới sinh và chữa lành anh, giúp anh nhìn thấy được. Dấu chỉ này nhắc nhở người Ki-tô hữu chúng ta: chỉ những ai biết vượt qua bóng tối để đến với ánh sáng mới có khả năng đón nhận sự sống đích thật cho đời mình. Xin được chia sẻ với hai ý sau đây:
1. Chúa Giê-su là ánh sáng thế gian
Trước khi làm phép lạ chữa lành người mù, Chúa Giê-su đã tuyên bố: “Thầy là ánh sáng cho trần gian” ( Ga 9, 5 ). Lời tuyên bố này cho thấy ảnh hưởng của Người trên vũ trụ vạn vật: Người là ánh sáng tạo nên cuộc phán xét và cứu rỗi nhân loại.
Người mù từ thuở mới sinh trong bài Tin Mừng đã nhận được tình thương cứu độ của Chúa Giê-su. Khi chữa lành cho anh, Người đã làm hai động tác mang tính biểu tượng: “Nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù” ( Ga 9, 6 ) rồi bảo anh: “Hãy đi đến hồ Si-lô-ác mà rửa” ( Ga 9, 7 ).
Người xưa thường xem nước miếng như một liều thuốc chữa mắt và chữa các phần khác của thân thể ( x.Mc 7, 33; 8, 23 ) nhưng việc trộn nước miếng với đất trở thành bùn rồi xức trên thân thể người khiến chúng ta nghĩ đến việc Thiên Chúa tạo dựng con người trong sách Sáng Thế, hay việc nhập thể của Ngôi Lời, hay xa hơn nữa, việc ơn thánh thâm nhập vào trong cuộc sống thể xác của loài người chúng ta. Ngoài ra, phải chăng Chúa Giê-su còn muốn thử thách lòng tin của người mù mà qua cử chỉ đó, mời gọi anh tín thác vào Người.
Còn tên gọi của hồ Si-lô-ác có nghĩa là “Đấng được sai đi”. Đấng ấy không ai khác là chính Chúa Giê-su đã được Chúa Cha sai đến trần gian để cứu độ nhân loại. Hồ Si-lô-ác còn là biểu tượng của phép thanh tẩy và chiếu sáng, Với tội nguyên tổ, loài người đã bị nhận chìm trong bóng đêm tăm tối và sự chết. Nhờ nước rửa tội, loài người được ơn tái sinh và trở nên con cái Chúa.
Chúa Giê-su là ánh sáng trần gian. Anh sáng xuất hiện khiến loài người chia làm hai phe: kẻ chấp nhận và người chối từ. Thật trớ trêu, kẻ chấp nhận rất ít – bài Tin Mừng vừa đọc chỉ nói tới anh mù, và người chối từ lại đông hơn, thực tế lại đông hơn một cách áp đảo – Bài Tin Mừng cho biết những kẻ từ chối Chúa Giê-su là những người Pha-ri-sêu, những người láng giềng với người mù và cả cha mẹ của anh.
2. Tin vào Chúa Giê-su – Anh sáng trần gian
Bài Tin Mừng giúp chúng ta suy niệm về cuộc hành trình thiêng liêng của người mù từ lúc được chữa lành cho đến lúc tin vào Chúa Giê-su. Và sau khi anh được Chúa chữa lành, câu chuyện được tiếp tục như một phiên tòa gồm bốn giai đoạn:
Giai đoạn 1: Những người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta từng là kẻ mù lòa, họ đã cố gắng điều tra vặn hỏi xem việc gì đã xảy ra, xảy ra như thế nào và ai đã làm điều đó ( Ga 9, 8 – 12 ). Người mù đã trả lời: “Người tên là Giê-su” ( Ga 9, 11 ).
Giai đoạn 2: Họ dẫn anh ta đến với những người Pha-ri-sêu ( Ga 9, 13 – 18 ). Những người này bất đồng ý kiến với nhau, kẻ thuận người nghịch. Họ hỏi anh ta: “Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh ?” Anh tuyên xưng khẳng khái: “Người là một vị ngôn sứ” ( Ga 9, 17 ).
Giai đoạn 3: Người Do-thái cho đòi cha mẹ anh ta đến ( Ga 9, 18 – 23 ) nhưng họ từ chối không trả lời. Họ “biết” anh mù là con của họ, nhưng họ “không muốn biết” ai đã mở mắt cho anh ( Ga 9, 20 – 21 ). Tin Mừng ghi rõ: Họ đã né tránh vì sợ người Do-thái ( Ga 9, 22 ).
Giai đoạn 4: Cuộc thẩm vấn ở giai đoạn này thật thú vị: Những người Pha-ri-sêu “biết” Chúa Giê-su là người tội lỗi vì không giữ luật Mô-sê như họ, họ còn “biết” rằng Thiên Chúa đã nói với Mô-sê thế này thế kia, nhưng họ lại “không biết ông ấy bởi đâu đến” ( Ga 9, 29 ).
Anh mù ngược lại, “không biết” Chúa Giê-su từ đâu mà đến, nhưng anh lại “biết” là chính Người đã mở mắt cho mình. Anh còn “biết” rất rõ rằng: Thiên Chúa không nhận lời những kẻ tội lỗi ( Ga 9, 12 . 25 . 30 ).
Cuối cùng, anh ta được gặp Chúa Giê-su lần thứ hai. Sự chữa lành thể xác chỉ là một dấu chỉ của một sự chữa lành tâm hồn: Từ nay, anh “thấy” mọi sự trong Niềm Tin. Anh cất tiếng: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin” ( Ga 9, 36 ) và Chúa Giê-su trả lời: “Anh đã thấy Người và chính Người đang nói với anh đây” ( Ga 9, 37 ).
Trải qua một cuộc hành trình dài, người mù mới khẳng định được Lòng Tin của mình vào Chúa Giê-su. Người đã đưa anh ta qua những chặng đường quyết định từ việc nhận biết một “Người tên là Giê-su”, một “ngôn sứ”, “Người bởi Thiên Chúa mà đến”, “Con Người” và “Chúa”. Cuối cùng anh tuyên xưng: “Thưa Ngài, tôi tin”, rồi anh quỳ sụp xuống lạy Người.
Việc người mù nhận ra Chúa Giê-su như là Đấng mạc khải cuối cùng của Thiên Chúa và thờ lạy Người chính là đỉnh cao của cuộc hành trình Lòng Tin của anh. Điều này chỉ có thể thực hiện được nhờ cuộc “gặp gỡ” cá vị, riêng tư với Chúa Giê-su. Đây cũng là hành trình Lòng Tin của mỗi người Ki-tô hữu chúng ta.
Truyện xưa kể rằng, có một thiền sư nọ hỏi các đồ đệ rằng: “Khi nào đêm tàn và ngày đến ?” Nhiều câu trả lời đã được đưa ra. Kẻ thì cho rằng, đó là lúc ta có thể phân biệt từ xa một cây dừa với một cây cau. Người khác thì cho rằng, đó là lúc ta có thể phân biệt từ xa một con bò với một con trâu... Cuối cùng, chỉ có một câu trả lời làm vừa lòng thiền sư, đó là: “Khi ta nhìn mọi người và nhận ra đó là... anh em của ta”.
Quả thật, có những thứ chúng ta không thể thấy được bằng cặp mắt xác thịt, nhưng chỉ thấy được bằng cặp mắt của con tim, của tấm lòng, của tình yêu...
Thế còn cách nhìn của Chúa Giê-su thì sao ? Đó là một cái nhìn ưu ái: Chúa Giê-su đã không nhìn người mù bằng ánh mắt bàng quan mà bằng chính lòng thương xót. Đó cũng là một cái nhìn không bị che mờ bởi những thành kiến như các môn đệ, những hoài nghi như dân chúng và những đố kị như cánh Pha-ri-sêu. Đó còn là một cái nhìn phát sinh hiệu quả: Chúa Giê-su nhìn người mù và làm cho anh được thấy.
Lạy Chúa Giê-su là Nguồn Sáng Cứu Độ, trong Ánh Sáng của Ngài, chúng con nhận ra ánh sáng đích thật soi dẫn cho cuộc đời chúng con. A-men.
Khác với phản ứng vui mừng, kêu cứu của những người mù khi nghe Chúa Giê-su đi ngang qua hoặc ở đâu đó gần nơi họ ngồi, anh mù của chúng ta hôm nay ngồi yên lặng. Quá nhiều âm thanh và tiếng động đủ loại, quá nhiều câu chuyện cãi vã, xô xát ở khu vực Đền Thờ này, thượng vàng hạ cám, suốt bao nhiêu năm ngồi ăn xin ở đây, khiến anh mù đâm ra vô cảm: ai làm gì cũng mặc, ai bị chuyện gì cũng chẳng liên can gì đến anh, miễn làm sao có người qua lại ném cho đồng bạc hoặc miếng bánh, mới là điều đáng quan tâm. Chúa Giê-su nhìn thấu sự thất vọng buông xuôi của anh mù: ”Không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ anh ta phạm tội”. Nhưng có một điều Chúa Giê-su không nói ra: nỗi đau thể xác tật nguyền có lẽ không bằng nỗi đau tinh thần. Cha mẹ anh đã không quan tâm đứa con bất hạnh này!
Tình thương èo uột, ít oi của cặp cha mẹ bất nhân này đã khiến họ nhìn thấy đưa con mù từ khi mới sinh, nay được sáng mắt như bao người khác, mà cũng chẳng chút mừng rỡ, không ôm ấp hỏi han nguyên do được lành sáng. Trái lại, câu nói mà nhiều người cho là “khôn ngoan” của cha mẹ anh mù này: ”Nó đã khôn lớn rồi, tự nó nói về mình được, xin các ông cứ hỏi thẳng nó”, thực chất chỉ là sự vô tâm vô tình và lạnh lùng đến đáng sợ. Không lạ gì mà sau màn đôi co lý sự với đám Pha-ri-sêu ( mà anh làm cho cứng họng ), anh mù không tìm về nhà, không muốn gặp cha mẹ nữa, nhưng lại ra đi, như đã từng ra đi. Vì đó mà gặp lại Chúa Giê-su.
Chúng ta phải thật sự biết ơn những người cha, người mẹ có con bị tàn phế, dị hình, quái tướng, không còn nhân dạng và sống đời thực vật, nhưng vẫn chăm chút yêu thương, cho dù lắm gia cảnh nghèo đói khó khăn. Nhìn những người ấy, rồi quay lại nhìn bản thân và gia đình chúng ta, mới thấy thật đáng xấu hổ, khi chỉ vì một vài thiếu thốn nho nhỏ, chỉ vì đôi chút khó khăn, thất bại nhất thời, mà trong nhà xãy ra lục đục, tiếng bấc tiếng chì, lắm khi dẫn đến tan nát vô phương cứu chữa.
Tôi chưa gặp được người, mà rất nhiều người cảm phục kính trọng gọi là “Thầy Phong”, một người khuyết tật quên mình, để chăm lo từng miếng ăn giấc ngủ và cả tương lai cho những em mù khác. Cha mẹ sinh ra. Cha mẹ bỏ rơi. Thầy Phong gom lại cả dưới Mái Ấm Thiên Ân, đem lại cho chúng không chỉ miếng cơm manh áo, mà sự an ủi, tình yêu thương, sự ấm áp của tình người. Miếng ăn dễ cho. Tình thương mới khó ! Chúa Giê-su nơi mỗi em mù. Chúa Giê-su nơi chính thầy Phong. Chúa Giê-su nơi chính những Nữ Tu Công Giáo, Phật Giáo, đã dồn hết yêu thương cho những đồng loại bất hạnh: những người phong cùi, những người bệnh tật bị xã hội xa lánh, bị cha mẹ và người thân bỏ rơi, những người không còn giá trị gì cho xã hội hoặc cho gia đình. Và dĩ nhiên, Chúa Giê-su không thể là và không thể có nơi những kẻ tự xưng là Ki-tô hữu, những kẻ có Đạo làm cha làm mẹ, nhưng coi sự sống, xem sự bất hạnh của thân nhân, của con cái, như những “món nợ” mà chỉ chờ có dịp là tống khứ đi !
Tôi đã đọc nhiều chuyện “cổ tích ngày nay”: một người chồng già ở Phúc Kiến, Trung Quốc, gánh bà vợ co quắp tàn phế trong cái giỏ, đi hàng ngàn cây số kiếm ăn, nhưng luôn vui sướng khi nhìn thấy và chăm sóc vợ. Sự ân cần, tình yêu thương làm cho không ai đọc, mà ngăn nổi nước mắt ! Tôi đã đọc thấy người vợ trẻ tên Nguyễn Thị Chức, ở Quảng Nam, mới 32 tuổi mà đã hơn 10 năm “gánh” chồng qua cửa tử, với một câu nói mà Chúa Giê-su không thể không chúc lành: ”Anh ấy còn sống: như thế, em còn có chồng và con em còn có cha !” Tôi cũng đã đọc thấy chuyện cô Tim, người phụ nữ trẻ đẹp Âu Châu muốn dành trọn đời để phục vụ vô vị lợi các trẻ em Việt Nam bị bỏ rơi.
Và chúng tôi, người Công Giáo, ngày ngày nghe nói về Bác Ai, ngày ngày cầu xin sống tinh thần bác ái, vậy do đâu mà càng ngày dường như chúng tôi càng vô cảm, chai đá và lạnh lùng trước nỗi đau của đồng loại ? Có người đưa ra nhận định không phải là vô căn cứ: theo họ, có lẽ do người Công Giáo “nghe” quá nhiều, mà “làm” quá ít, cho nên sự “so le, bất cân đối” ấy đã biến thành mãn tính, dần dà trở thành nếp nghĩ và hành xử thâm căn cố đế của đa số Ki-tô hữu. Có người còn so sánh: Ki-tô hữu ngoại quốc nghe bác ái, nhưng không thường đến Nhà Thờ, vì vậy họ vẫn chưa bị “xơ cứng” do việc nghe nhiều làm ít ! Lại cũng có suy nghĩ, rằng: người Công Giáo coi việc “xin” Lễ ( năm thì mười hoạ ), việc bỏ năm ba đồng vào giỏ xin tiền trong Lễ Chúa Nhật, là đã thực hiện bổn phận bác ái ! Một người bạn hỏi tôi: trong hàng ngàn người đóng góp cứu trợ ở toà soạn các báo, có bao nhiêu Ki-tô hữu ?
Một cử chỉ, một lời nói, có thể làm một kẻ đang thất vọng, chán chường, khốn khổ lấy lại niềm tin; nhưng một lời nói, một thái độ, thậm chí một ánh mắt khinh miệt, ghẻ lạnh, cũng có thể đẩy một người tới tuyệt vọng, buông xuôi, thù hận. Nhất là khi người đó lại là người thân, người lân cận, hàng xóm, đồng đạo !
Đâu rồi câu kinh vẫn đọc ngày ngày: ”Xin cho tâm hồn, ngôn ngữ và hành vi chúng con đều được thấm nhuần tinh thần của Chúa” ?
Năm nay hạn hán đe doạ trầm trọng khắp đất nước. Tất nhiên sẽ chỉ có người nghèo cơ cực, có nguy cơ đói khổ. Và rất nhiều người trong chúng ta sẽ cám ơn Chúa vì đã cho chúng ta no đủ, không bị đe doạ đói khát. Và chấm hết ! Mùa Chay, Mùa Hoà Giải: Hoà Giải hận thù, xúc phạm, nghi kỵ, chỉ là khía cạnh tiêu cực: cho mình, vì mình. Khía cạnh tích cực của Hoà Giải là những thiếu sót, vô tâm, vô tình, trái với tinh thần Phúc Âm: vì Chúa, cho tha nhân.
Trong những ngày gần đây, ngày nào báo chí cũng loan tin về nạn nhân sóng thần. Một trong những mẫu tin tôi đọc được như sau: “Roma, Jan 19,2005 ( Zenit ) Cơ quan Cứu Trợ Công Giáo Caritas – Italy kêu gọi các quốc gia trên thế giới hỗ trợ giúp đỡ để giảm bớt một nữa nghèo đói trên thế giới vào năm 2015. Theo như Cơ Quan Cứu Trợ Công Giáo “Cơn sóng thần thảm khốc Tsunami đã là một biến cố khủng khiếp đòi hỏi sự giúp đỡ khẩn cấp và nói lên sự yếu đuối, thiếu thốn của các nạn nhân của nghèo đói và bất công... Cũng vậy, những tai ương đang xẩy ra hàng ngày ở Nam bán cầu còn thê thảm và tệ hại hơn nhiều ! Hơn một tỷ con người đang sống trong tình trạng thiếu ăn thiếu mặc đến độ mất hết tất cả nhân phẩm.”
Vâng, hơn một tỉ người sống trong tình trạng thiếu ăn thiếu mặc đến độ mất hết tất cả nhân phẩm ! Con số một tỉ người nghèo, thật đáng sợ ! Bài Tin Mừng chúng ta vừa đọc nhắc đến người nghèo, người đói khát, người sầu khổ, người bị bách hại. Phải chăng một tỉ người bài báo nhắc đến, có liên quan đến bài Tin Mừng này ? Chúng ta hãy tìm hiểu xem:
1. Người nghèo mà Chúa Giê-su chúc phúc là người nghèo nào ? 2. Nước Trời mà Ngài tặng ban cho họ là gì ? 3. Mẫu người nghèo của Thiên Chúa.
Người nghèo
Chúng ta có thể hiểu chữ khó nghèo theo hai nghĩa: nghĩa xã hội, tức la người thiếu của cải và ở hạng dưới kẻ khác; nghĩa chính trị tức là kẻ không có quyền
Người nghèo là người không có của cải ( avoir ) và quyền hành ( pouvoir ). Đối với xã hội họ thuộc tầng lớp thấp cổ bé miệng, là lớp người khố rách áo ôm, là những người phong cùi bị xã hội ruồng bỏ, là những người què quặt, tàn tật, đui mù lê la nơi đầu đường xó chợ. Trong xã hội Do-thái thời Chúa Giê-su, người nghèo còn là phụ nữ vì họ bị liệt kê vào hàng tài sản của đàn ông. Người nghèo sống lệ thuộc vào người khác, không tự quyết định vận mạng đời mình được. Nói một cách nào đó, họ mong được ai đó giúp họ đổi đời. Dân Do-thái thời Chúa Giê-su đang mong Đấng Mê-si-a đến để giải thoát họ khỏi cảnh nghèo đói, khỏi ách thống trị của đế quốc Rô-ma.
Chúa Giê su chính là Đấng Mê-si-a mà họ mong đợ. Nhưng sứ mạng của Ngài không phải là giải phóng họ theo nghĩa chính trị. Ngài đến để giái phóng tâm linh con người. Khi Ngài nói: “Phúc cho người nghèo khó” là Ngài tuyên bố một thực tại dành sẵn cho họ. Ngài có thể nói với họ như vậy, vì Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến, mang sứ mạng mà Ngôn Sứ I-sai-a đã loan báo nhiều năm trước: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” ( Lc 4, 18 ).
Quả thật, đối với những ai có lòng tin, Chúa Giê-su thực sự là cái phúc cho họ. Ngài chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền, cho người mù được sáng mắt, què được đi, phong hủi được sạch, điếc được nghe. Ngài giải thoát kẻ ở trong ngục tù của sự dốt nát, kiêu căng, ích kỷ, tội lỗi, để đưa họ đến ánh sáng của Thiên Chúa thật – Thiên Chúa thật chứ không phải Thiên Chúa như họ tưởng và đang tôn thờ. Ngài dẫn họ vào Nuớc Trời, vào sự sống thực với Thiên Chúa ngay trên trần gian này: một sự sống xứng với phẩm giá con người.
Nhưng, người nghèo muốn trở nên có phúc cần một điều kiện. Đó là biết mở lòng ra để đón nhận cái phúc mà Thiên Chúa đã dành sẵn cho họ. Chúa Giê-su kêu gọi: ”Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” ( Mc 1, 15 ). Tin mừng đây chính là Chúa Giê-su, là con người phàm xác thịt sinh ra tại Bê Lem, sống tại Na-gia-rét, làm nghề mộc và đang trò chuyện với mọi người.
Ở đây, ta thấy cái Phúc mà Thiên Chúa dành cho người nghèo đã có sẵn đó. Thiên Chúa ban cho họ cách nhưng-không, còn việc nhận hay không nhận là quyền ở họ. Chúa Giê-su đã từng nói: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng.” ( Mt 19, 14 ). Vậy ai muốn nhận cái phúc của Thiên Chúa thì phải trở nên giống trẻ em. Điều đó nghĩa là gì ? Trẻ em đâu có công trạng gì. Chúng sống lệ thuộc vào cha mẹ từ chuyện ăn chuyện mặc, đến đi đứng, học hành...
Một đức tính người lớn thường tập cho trẻ con là biết vâng lời cha mẹ, nghĩa là phó thác cho cha mẹ mọi chuyện liên quan đến bản thân chúng. Vậy thì mọi thụ tạo Thiên Chúa dựng nên phải biết vâng lời Ngài. Trở nên trẻ em là trở nên trong sáng, hết lòng tin cậy nơi Chúa, chỉ làm theo ý muốn của Thiên Chúa. Ông A-đam và bà E-và đã không làm theo ý muốn của Thiên Chúa. Ông bà đã đánh mất cái phúc dành sẵn cho hai ông bà là được sống với Thiên Chúa nơi vườn địa đàng. Con cháu ông bà là chúng ta đây đang phải trầm luân nơi dương thế như là một hệ lụy.
Vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến để chỉ cho chúng ta cách thức tim lại cái Phúc đã đánh mất. Ta không tin vào Con của Người thì làm sao ta có phúc được ? Cái nghèo chỉ trở nên có Phúc khi ta biết kết nối nó vào Thiên Chúa. Sợi dây kết nối chính là đức tin. Con đường kết nối với Thiên Chúa chính là Đức Giê-su.
Vậy, người nghèo có Phúc hay không, không còn do Thiên Chúa mà do chính bản thân của người nghèo quyết định. Nếu họ biết mở lòng ra, biết xin Chúa giúp cho đổi đời để thành một thụ tạo mới trong Đức Ki-tô, thì chắc chắn lời chúc phúc của Chúa Giê-su trở thành hiện thực nơi bản thân họ.
Người nghèo bây giờ không chỉ là không dính bén về mặt của cải vật chất, nghèo về quyền lực xã hội – có thể nói đó là cái vỏ bên ngoài – mà còn thực sự nghèo trước mặt Chúa vì không cậy dựa vào của cải hay quyền lực thế gian. Họ chỉ cậy dựa vào Thiên Chúa mà thôi. Một cái nghèo đích thực từ trong tâm hồn, hay nói cách khác từ cái nghèo bề ngoài cần lột xác để trở thành nghèo thật sự bên trong. Và chỉ khi đó ta mới có thể nói được mình đích thực là “Người Nghèo”.
Tôi thiết nghĩ người nghèo mà Chúa Giê-su chúc phúc là tất cả mọi người. Nhưng nhận được Phúc chỉ là những ai biết hoán cải, là những ai nghèo đích thực trong tâm hồn, chứ không phải là người “chỉ nghèo vật chất, giả nghèo, hay nghèo nửa vời”.
Trong sách Tin Mừng, ông Gia-kêu là một trong những người có phúc. Ông là một người thu thuế rất giáu có vá bị dân Do-thái liệt vào hàng tội lỗi. Khi gặp Đức Giê su, ông đã lập tức đem một nửa tài sản phân phát cho người nghèo. Ông đền lại gấp 4 lần những gì ông gây thiệt hại cho người khac. Hệ quả của việc chấp nhận Đức Giê-su là ông thay đổi cái nhìn về của cải. Cái mà ông cho là quý nhất, cái mà ông đã ky cóp trong bao nhiêu năm trời, ông đem phân phát hết. Ông đã gắn đời mình vào Đức Giê-su, và vì thế, ông trở nên bất tử với Ngài trong sách Tin Mừng.
Còn biết bao trường hợp khác đáng cho chúng ta suy niệm. Mẹ Ma-ri-a, một thiếu nữ nghèo của cải nhưng giàu lòng tin. Mẹ đã tin vào lời sứ thần truyền và đã để cho Thiên Chúa thực hiện nơi Mẹ ý định cứu rỗi nhân loại của Người. Do đó Mẹ đã trở nên cao trọng hơn mọi phụ nữ khác trên trần gian này. Thánh Phan-xi-cô thành Át-xi-di, tổ phụ Dòng Anh Em Hèn Mọn, là người xuất thân từ một gia đình giàu có. Thánh nhân đã từ bỏ tất cả của cải vật chất để đeo đuổi cuộc sống nghèo khó không nhà cửa, không nơi gối đầu như Đức Giê-su.
Vậy khi nói đến người có tinh thần khó nghèo, ta không còn phân biệt theo tiêu chuẩn của cải, địa vị xã hội của người đó. Chỉ có một tiêu chuẩn duy nhất: nhận biết mình là hư không trước mặt Thiên Chúa và để cho Ngài hành động trên cuộc đời ta. Sợi dây gắn kết ta vào với Thiên Chúa chính là Đức Tin, tin và thực hiện giáo huấn của Đức Giê-su.
2. Nước Trời
Nước Trời hay Nước Thiên Chúa mà Chúa Giê-su ban tặng cho người nghèo là gì ? Chúa Giê su không hề xác định nội dung Nước Trời là gì. Ngài chỉ nói: “Anh em hãy sám hôi, vì Nước Trời đã đến gần.” ( Mt 4, 17 ). Ngài dùng dụ ngôn để nói về Nước Trời: Nước Trời giống như hạt cải rất nhỏ gieo trong ruộng, nhưng khi lớn lên nó trở thành cây rất to chim đậu được ( Mt 13, 32 ). Nước Trời giống như men làm dậy cả khối bột ( Mt 13, 33 ). Hay Nước Trời như viên ngọc quí người thương gia bán hết tài sản để mua ( Mt 13, 46 ). Hoặc Nước Trời như chiếc lưới có cá tốt lẫn cả xấu phải loại ra ( Mt 13, 47 ). Qua các dụ ngôn và các lời giảng dạy của Chúa Giê-su, ta có thể hiếu Nước Trời chính là Thiên Chúa, là quyền năng của Chúa. Nuớc Trời ở thể động, ở thế chuyển mình để hình thành.
Khi Chúa Giê-su nói: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” có nghĩa Nước Trời là sở hữu dành cho người nghèo khó. Vậy tiếng “Nước Trời”, “Nước Thiên Chúa” có hai khía cạnh: khía cạnh về Thiên Chúa là Vương Quyền của Người và khía cạnh về con người là Ơn Cứu Độ. Được Nước Trời cũng đồng nghĩa với được chính Thiên Chúa, được Người cứu độ..
Khi hai người yêu nhau, cái mà người ta mong muốn chiếm lấy nhất là chính người mình yêu. Và khi đã chiếm được người yêu rồi thì mọi cái khác của người yêu cũng đương nhiên thuộc về mình. Thiên Chúa yêu con người nên đã tặng ban chính mình Ngài cho nhân loại. Trong Tám Mối Phúc, Chúa Giê-su chỉ ban tặng có một điều, đó là chính Ngài, chính mối tương giao với Thiên Chúa. Điều trớ trêu trong thực tế, là con người chỉ muốn nhận lấy tài sản của Thiên Chúa chứ không phải nhận lấy chính Thiên Chúa.
3. Chúa Giê-su người nghèo số một
Trong thư gửi tín hữu Phi-lip-phê, Thánh Phao-lô viết: “Đức Giê su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.” ( Pl 2, 6 – 9 ).
Chúa Giê-su là hiện thân của Thiên Chúa cho nhân loại, nhưng khi sống kiếp con người, Ngài là một người nghèo đích thực. Nghèo về vật chất, nghèo về mọi phương diện. Suốt đời, Ngài chỉ thi hành ý Cha, rao giảng về Cha, quan tâm đến triếu đại của Cha. Ngài cũng là người sống trọn vẹn tám mối phúc mà Ngài rao giảng: sống nghèo khó không lệ thuộc vật chất, xót thương dân chúng lầm than, khiêm nhường trong cách ứng xử, sầu khổ trong Vườn Cây Dầu và bị bách hại cho đến chết trên thập giá. Trong mọi tình huống, Ngài luôn sống mật thiết với Cha. Ngài chính là người nghèo số một của Thiên Chúa.
Về Tám Mối Phúc, Đức Thánh Cha đã nói trong bài giảng cho Đại Hội Giới Trẻ tại Toronto năm 2002 như sau:
“Tụ tập chung quanh cây Thánh Giá của Chúa, chúng ta nhìn lên Ngài: Đức Giê-su không tự giới hạn Ngài trong việc công bố các Mối Phúc mà thôi, Ngài đã sống các Mối Phúc ! Khi nhìn lại cuộc đời Ngài, đọc lại Tin Mừng lần nữa, chúng ta kinh ngạc:người nghèo nhất trong những người nghèo, người hiền lành nhất trong những người nhân từ, người có tâm hồn thanh sạch nhất và đầy lòng thương xót nhất không ai khác hơn chính là Đức Giê-su. Các Mối Phúc không gì khác hơn là bản mô tả của một khuôn mặt, khuôn mặt của Ngài !
Đồng thời, các Mối Phúc diễn tả điều mà một người Ki-tô hữu phải trở nên. Bát Phúc là diện mạo của người môn đệ Chúa Giê-su, là hình ảnh của những ai đã chấp nhận Nước Trời và muốn đời họ hài hòa với những đòi hỏi của Tin Mừng. Với những người này Đức Giê-su nói với họ, gọi họ là "kẻ được chúc phúc".
Chúa Giê-su đã nên thận phận với con người để đưa con người trở về cái Phúc là được sống đúng nhân phẩm của mình trong tương quan với Thiên Chúa. Chính Ngài đã trở thành nguồn chúc phúc của Thiên Chúa. Xin Ngài giúp chúng ta trở nên khó nghèo như Ngài, và nhờ vậy, chúng ta cũng sẽ đem ân phúc của Thiên Chúa đến cho anh em.
Đói nghèo, lầm than, sống mất nhân phẩm là điều mà Chúa Giê-su muốn xóa bỏ. Thế nhưng lòng tham của con người đã đẩy thế giới này đến cảnh chết chóc, cơ cực. Con người sống quay cuồng trong sự huởng thụ tiện nghi vật chất, sống ích kỷ, chỉ nghĩ đến quyến lợi của cá nhân hoặc của tập thể nhỏ của mình, bất chấp các đau khổ họ gây ra cho người khác. Trước thực trạng đó, Đức Thánh Cha đã nhắn nhủ người trẻ như sau:
“Các bạn trẻ của mọi miền trên thế giới ! Qua việc nhìn lên Đức Giê-su, các con sẽ hiểu thế nào là nghèo trong tinh thần, hiền lành và thương xót; thế nào là tìm kiếm công lý, là nên trong sạch trong tâm hồn, là trở thành những người kiến tạo hòa bình.
Với ánh mắt chúng con dán chặt vào Ngài, các con sẽ khám phá ra con đường của sự tha thứ và hòa giải trong một thế giới thường xuyên bị tàn phá vì bạo lực và khủng bố. Các con đã thấy với sự tỏ tường bi đát khuôn mặt thảm hại của sự thù hận nhân loại. Chúng con đã thấy điều gì xảy ra một khi thù hận, tội lỗi và sự chết thắng thế. Nhưng hôm nay, lời Chúa Giê-su vang vọng giữa buổi tụ họp này. Tiếng Ngài là tiếng nói của sự sống, của hy vọng, của tha thứ; một tiếng nói của công lý và hòa bình. Chúng ta hãy lắng nghe tiếng nói này !”
Vâng, chúng ta quyết tâm lắng nghe tiếng Chúa Giê-su bằng cách siêng năng đọc và suy gẫm Lời Chúa, đối chiếu cuộc đời mình với Lời Chúa. Mỗi ngày hãy dành cho Chúa ít phút trong thinh lặng. Chỉ cần một ít phút để cho Chúa tác động, điều kỳ diệu sẽ xảy đến cho đời chúng ta !
Tám Mối Phúc Thật là Bản Hiến Chương Nước Trời, là Cương Lĩnh của Giáo hội Ki-tô giáo: Các nhà chú giải Thánh Kinh đều cho rằng đoạn Tin Mừng Mt 5, 1 – 12a trước hết là nội dung bài giảng trên núi của Đức Giê-su. Bài giảng ấy xác định những điều cốt yếu trong đời sống những người theo Chúa. Đó cũng là những điều kiện cần có để chúng ta thuộc về Nước Chúa. Có thể hiểu tất cả nội dung ấy được nói lên một lúc trong một bài giảng, mà cũng có thể hiểud9 Thánh chép Phúc Âm đã tập hợp tất cả các lời phát biểu của Chúa Giê-su trong ba năm sống công khai thành một bài giảng, trong khi thực tế Người nói ra điều này ở chỗ này điều khác ở chỗ khác.
Tám Mối Phúc Thật còn là đoạn văn Thánh Kinh miêu tả Chân Dung Đức Giê-su Ki -tô: Nhưng các nhà chú giải Thánh Kinh còn cho rằng đoạn Tin Mừng Mt 5, 1 – 12a không chỉ là bản Hiến Chương Nước Trời, là Cương Lĩnh của Giáo hội Ki-tô giáo, mà còn là bản văn mô tả chính Cuộc Đời của Chúa Giê-su Ki-tô, là bản phác họa Chân Dung của Chúa Giê-su Ki-tô. Cùng lúc với lời công bố, Đức Giê-su thực sự đã sống và thể hiện Tám Mối Phúc Thật ấy. Do đó chúng ta có thể quả quyết rằng:
Đức Giê-su là Đấng sống khó nghèo cả trong tinh thần lẫn trong đời sống thực tế. Nói cách khác Đức Giê-su đã sống khiêm nhường, tự hạ, không tích lũy cũng không dính bén của cải vật chất hoặc chức quyền, danh vọng, lạc thú: “Con cáo có hang, con chồn có tổ, còn Con Người không có chỗ tựa đầu”.
Đức Giê-su là Đấng sống hiền hành: Cả đời Đức Giê-su không làm hại ai, không gây thù oán với ai, trái lại đi tới đâu thì Chúa “thi ân giáng phúc tới đó”.
Đức Giê-su là Đấng đã trải qua những giờ phút sầu khổ tột cùng: Từ Vườn Cây Dầu đến Ngôi Mộ Đá là chặng đường thập giá cam go nhất mà Chúa đã trải qua, vì yêu thương con người và muốn cứu độ hết mọi sinh linh.
Đức Giê-su là Đấng luôn khát khao sự Công Chính: dù là Đấng Công Chính, không tỳ vết, không tội lỗi, Chúa Giê-su luôn hướng tâm hồn về Sự Thiện Tuyệt Đối và tìm kiếm việc thực thi Ý Cha là Sự Công Chính cao vời nhất.
Đức Giê-su là Đấng luôn xót thương người, nhất là những kẻ khổ sở: Người đã khóc trước mộ La-gia-rô, đã xúc động trước quan tài chàng thanh niên con bà goá thành Na-im, trước cảnh lầm than của dân chúng cũng như trước cảnh mấy ngàn người đi nghe Người giảng mà bị đói bị khát v.v...
Đức Giê-su là Đấng thanh sạch cả trong tâm hồn lẫn trong lời nói và hành động: Ở Người toát lên sự thánh thiện của Thiên Chúa khiến ai cũng muốn đến gần, ai cũng muốn chạm tay vào Người.
Đức Giê-su là Đấng bị bách hại, là Chiên bị đem đi giết mà không một lời kêu ca than trách.
Đức Giê-su là Đấng bị sỉ vả, vu khống và giết hại: Cuộc Khổ Nạn Thập Gía của Đức Giê-su là một trang bi hùng sử siêu thực và bất tử có sức cuốn hút các tâm hồn của mọi thời đại.
CHÚA GIÊ-SU MUỐN DẠY CHÚNG TA ĐIỀU GÌ ?
Hiển nhiên là Lời Chúa hôm nay dạy chúng ta sống Tám Mối Phúc Thật tức sống khó nghèo, hiền hành, nhẫn nại trong khổ đau, khát khao nên tốt lành công chính, biết xót thương người cùng khổ, có tâm hồn trong sạch, kiên cường chịu thiệt thòi và bách hại vì Danh và vì Nước Chúa. Nói cách sống động hơn, chúng tađöôc mời gọi noi gương bắt chước Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa xuống thế làm người là Đấng đã sống khó nghèo, hiền lành, nhẫn nại trong khổ đau, khát khao công chính, biết thương xót người, có tâm hồn trong sạch, kiên cường chịu thiệt thòi và bắt bớ vì Danh và vì Nước Chúa.
Vấn đề cốt yếu đối với chúng ta là làm thế nào để áp dụng Tám Mối Phúc Thật vào cuộc sống hằng ngày. Theo kinh nghiệm tu đức Ki-tô giáo, chúng ta không thể tập sống cả Tám Mối Phúc Thật trong cùng một lúc, mà nên tập thực hành một hai Mối Phúc Thật nào đó trong một thời điểm nhất định và một hai Mối Phúc Thật khác trong một thời điểm nhất định khác. Nhưng dựa vào đâu để chúng ta chọn lựa như thế ? Dựa vào một trong hai tiêu chuẩn sau đây: Tiêu chuẩn thứ nhất là ơn soi sáng và thúc đẩy của Thánh Thần Thiên Chúa. Ví dụ: khi chúng ta đọc đi đọc lại bản văn Tám Mối Phúc Thật mà lòng chúng ta cảm nhận được một lời mời gọi nào đó thì đó chính là ơn soi sáng và thúc đẩy của Thánh Thần để chúng ta chọn lựa.
Còn tiêu chuẩn thứ hai là nhu cầu tâm linh của chúng ta: thường mỗi người bị lôi kéo bởi một hay nhiều xu hướng tự nhiên và mạnh mẽ để nghiêng chiều về một đam mê nàođo: có người ham hố chức quyền, danh vọng, giầu sang; có người hướng chiều về xác thịt; có người có suy nghĩ tự cao tự đại, kiêu căng, khinh người; có người sợ nghèo, sợ khổ, sợ cực v.v... Tùy theo xu hướng tự nhiên của mình mà mỗi người chọn cho một quyết tâm thực hành: Nếu xu hướng tự nhiên của mình nghiêng về của cải vật chất thì mình quyết tâm sống khó nghèo. Hoặc nếu mình đang gặp cảnh khó khăn thì sẽ quyết tâm tập sống nhẫn nại chiụ đựng. Nếu mìnhđang bị ngược đãi, bất công, thành kiến thì sẽ tập sống Ơn Phúc bị bách hại vì công chính. Như thế chúng ta sẽ dần dần trở nên giống Chúa Giê-su Ki-tô Chúa chúng ta hơn.
“Lạy Chúa Giê-su, xin hãy giải thoát con, Khỏi ham muốn được yêu, Khỏi ham muốn được ca tụng, Khỏi ham muốn được vinh danh, Khỏi ham muốn được ca ngợi, Khỏi ham muốn được yêu thích hơn, Khỏi ham muốn được bàn hỏi, Khỏi ham muốn được chấp thuận, Khỏi ham muốn được nhiều người biết tới,
Lạy Chúa Giê-su, xin hãy giải thoát con, Khỏi lo sợ bị hạ nhục, Khỏi lo sợ bị khinh khi, Khỏi lo sợ bị khiển trách, Khỏi lo sợ bị vu khống, Khỏi lo sợ bị quên lãng, Khỏi lo sợ bị xử bất công, Khỏi lo sợ bị diễu cợt, Khỏi lo sợ bị nghi ngờ”. ( Mẹ Tê-rê-xa Calcutta, trich từ “A Simple Path” )
LTS: Giáo Sư Nguyễn Ngọc Lan, cựu linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, Tiến Sĩ Triết học Đại học Sorbonne, Pháp. Thao thức nhiều cho quê hương, dân tộc và Giáo Hội Mẹ, ray rứt với những thao thức khôn nguôi của kiếp người và dấu ấn của Thiên Chúa đặt để trong trái tim của con người muôn thuở. Bài viết được đăng trong sách cùng tên do nhà xuất bản TIN, Paris ấn hành năm 1997. Xin trân trọng giới thiệu. Hiện nay tác giả đang lâm bệnh tại tư gia Sàigòn. Xin hiệp thông và cầu nguyện cho tác giả.
“ Hôm nay có thể dùng màu hồng và được sử dụng phong cầm cũng như các nhạc cụ khác” (Những ngày lễ công giáo 1995-1996, tt 55-56).
“Hôm nay” là Chủ nhật IV Mùa Chay, đúng 3 tuần sau Chủ nhật đầu Mùa Chay và đúng 3 tuần trước Chủ nhật Phục Sinh, nghĩa là ngay chính giữa Mùa Chay Thánh. Hội Thánh bỗng muốn hôm nay là một Chủ nhật tưng bừng sớm. Không phải chỉ với màu hồng lễ phục và tiếng đàn phong cầm. Tù đầu lễ, Hội Thánh cho vang lên lời mời gọi của ngôn sứ Isaia như một nhật lệnh: “Mừng vui lên, Yêrusalem hỡi….và hân hoan hưởng nguồn an ủi chứa chan (Is 6, 10-11). Lời nguyện nhập lễ lại nêu rõ lý do: “Xin ban cho toàn thể Dân Chúa khắp hoàn cầu được lòng tin sống động để hăm hở đón mừng lễ Vượt Qua sắp tới.”
Mùa Chay là thời gian sám hối, đền tội đặc biệt vì tưởng niệm cuộc Thương khó và Tử Nạn của Chúa Giêsu. Nhưng không phải chỉ có thế. Mùa Chay chủ yếu là Mùa Vọng Phục Sinh. Người tín hữu không cứ phải chỉ nhớ mình là tro bụi và tối tăm mặt mũi trong tro bụi mịt mù. Trái lại, tâm hồn còn phải “được bừng sáng huy hoàng” (Lời nguyện hiệp lễ) và có “lòng tin sống động” là “hăm hở đón mừng lễ Vượt qua sắp tới”, đón mừng Chúa Kitô sống lại từ cõi chết và trông mong “xác loài người ngày sau sống lại.” Chủ nhật giữa Mùa Chay này được Phụng Vụ gọi là “Chủ nhật Mừng Vui lên.”
NIỀM-VUI-TUY-VẬY
Mừng vui là chuyện thường tình trong cuộc sống. Mừng một đám cưới, vui vì một trẻ thơ chào đời., đầy tháng, thôi nôi. Vui vì gia đình trên thuận dưới hoà., mừng vì làm ăn phát đạt hoặc thăng tiến trong nghề nghiệp. Niềm vui của kẻ đã khá giả còn trúng số độc đắc hay niềm vui của người ăn mày không dám đòi hỏi chi hết mà bỗng dưng được đãi xôi gấc hay một tô phở nóng sốt. Vui lớn, vui nhỏ, niềm vui cũng nhiều, cũng đa dạng như những nỗi buồn; nỗi khổ trong cõi người ta.
Nhưng “Mừng vui lên” như lời Hội Thánh mời gọi kẻ tin hôm nay không phải là chuyện thường tình. “Mừng vui lên” ngay giữa Mùa Chay là thời gian người tín hữu được kêu gọi phải nhìn thẳng vào cái phần sự dữ mang trong mình: tội lỗi, khổ đau và nỗi chết. Đồng thời cũng phải đối diện với tất cả sự dữ trần gian mà Chúa Giêsu đã phải gánh hết, lãnh đủ cho chính mình Ngài, vì chúng ta và thay cho chúng ta. Tóm lại “Mừng vui lên” giữa lúc người tín hữu đứng trước tất cả những nỗi bất hạnh của loài người và cuộc thụ nạn của Chúa Giêsu.
Nỗi bất hạnh không phải chỉ là văn chương trừu tượng nhưng là những gì rất thật đã từng bấu vào tim gan chúng ta. Nỗi bất hạnh đã từng là nước mắt, từng là xương máu. Nỗi bất hạnh mang một khuôn mặt cụ thể, thân quen của người bạn, người yêu, của vợ, của chồng, của một đứa con, một người mẹ hay của chính mình, khi “nghĩ mình, mình lại thương nỗi mình.” Hoặc mang hàng triệu khuôn mặt của cả một dân tộc này, đất nước nọ đang lâm cảnh nghèo đói, chiến tranh hay của cả một xã hội đang mất phương hướng, đang băng hoại tinh thần đạo đức. Thậm chí cả khuôn mặt chung của thế giới hôm nay, tuy văn minh tiến bộ hơn bao giờ hết nhưng không sao xóa hết được những vềt hằn cũ mà còn để lộ ra thêm những vết thương, những nét dị dạng mới.
Cuộc Thụ Nạn không chỉ có trên tranh, cho dẫu là trên những bức danh họa thời Trung Cổ. Cuộc Thụ nạn hiện thực và tàn khốc đến nỗi khi chưa nếm thử, Chúa Giêsu chỉ nghĩ tới đã “buồn phiền quá đỗi”, “mồ hôi Ngài như máu nặng nhỏ giọt rỏ xuống đất” (Mt 26,36-46 và Lc 22,39-46) và khi đã cạn chén, Ngài đã phải kêu lên tiếng kêu tuyệt vọng nhất của tác giả Thánh Vịnh mà cũng là tiếng kêu tuyệt vọng nhất của loài người” “Êli, Êli lama sabakthani, tức là: Lạy Thiên Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi! Nhân sao Người lại bỏ tôi?” (Tv 22,2; Mt 27,46).
Tuy vậy, cứ “Mừng vui lên, hỡi Yêrusalem…” Tuy vậy, hôm nay vẫn “có thể dùng màu hồng và được sử dụng phong cầm và các nhạc cụ khác.”
Tuy vậy mà niềm vui cứ hồng lên, cứ trỗi nhạc - quả là nghịch lý, là chướng tai gai mắt nhưng cũng lại là đặc biệt Kitô giáo. Niềm vui Kitô giáo không phải là chuyện thường tình chính vì là niềm-tuy-tuy-vậy. Niềm vui Hội Thánh mời gọi phải có ngay giữa Mùa Chay này không phải là thứ niềm vui dễ dãi như loại hạnh phúc tuyệt vời Coca-Cola hoặc hạnh phúc đắm say Tiger trên màn ảnh truyền hình, lại càng không hề là “thuốc phiện của nhân dân.” Nhưng cứ là Chủ nhật Hồng giữa Mùa Tím.
Nói cách khác, đây là niềm vui mà chỉ có lòng tin vào Chúa Kitô Sống Lại có thể đem đến cho chúng ta, có thể biện minh được mà thôi. Một niềm vui không hề lãng quên mồ hôi nước mắt nhân loại nhưng đảm nhận tất cả mồ hôi nước mắt ất trong Chúa Giêsu Kitô đã chết mà Sống Lại.
Chúa trên Thập Giá
Cũng là Chúa Niềm Vui.
Kitô hữu là Kitô hữu không phải để mà buồn nhưng là để mà vui. Đức Kitô là Chúa trên thập giá nhưng lại là Chúa Niềm Vui. Ngài không xuất hiện như chim báo bão. Ngài không hề là chuyên viên nói gở. Trái lại tất cả những gì Ngài đem lại cho đời, tất cả những gì Ngài nói với đời đều được công bố, loan báo. Từ lời truyền tin của Thiên sứ Gabriel, từ tiếng ca của thiên thần, thiên binh trong đêm Bêlem cho đến tiếng nói của người thanh niên áo trắng ngồi đợi trong mồ đá. Ngài công bố Niềm vui của Thiên Chúa: “Trên trời sẽ có vui mừng vì một người tội lỗi hối cải, hơn là vì chín mươi chín người công chính…” (Lc 15,6 và Mt 18,3). Và Niềm Vui cho con người: Phúc cho kẻ có tinh thần khó nghèo, Phúc cho kẻ hiền lành, Phúc cho kẻ ưu phiền, Phúc cho kẻ đói khát công chính, Phúc cho kẻ biết thương xót, Phúc cho kẻ tinh sạch trong lòng, Phúc cho kẻ tác tạo hoà bình, Phúc cho kẻ bị bắt bớ. Những Phúc và Phúc, không biết báo nhiêu là Niềm Vui. Cũng cứ là những Niềm-Vui-Tuy-Vậy. Vẫn cứ tuy vậy “hãy vui sướng và hân hoan” (Mt 5,1-12). Vẫn cứ là những Chủ nhật Hồng giữa Mùa Tím.
Chúa Giêsu không chỉ loan báo, công bố mà còn luôn sống Niềm Vui ấy trong đủ mọi sắc thái, ở đử mọi mức độ, không đơn điệu. Hãy đến mà xem Ngài đã làm gì tại tiệc cưới Ca-na: Ngài chỉ làm …rượu và rượu hảo hạng cho niềm vui rất thường tình cũng được tràn đầy. Hãy theo Ngài trên những nẻo đường Ngài đi: như các môn đồ của Gioan Tẩy Giả, ai cũng “tai nghe mắt thấy, Ngài cho “mù được sáng mắt và què được đi, phung hủi được sạch, và điếc được nghe cùng kẻ chết sống lại, và người nghèo khó được nghe loan báo Tin Mừng.” Ngài đi đến đâu là đem Niềm Vui đến đó, nhất là cho những kẻ bất hạnh nhất, những kẻ “vô phúc” nhất.
Gặp gỡ Ngài, người phụ nữ Samari (Ga 4, 1-30), người đàn bà ngoại tình (Ga 8,1-11), “đứa tội lỗi” sa nước mắt đẫm ướt chân Ngài rồi xõa tóc trên đầu cố lau cho sạch (Lc 7,36-50), bà goá thành Naim (Lc 7, 11-15), người phụ nữ Canaan (Mt 15, 21-28), người phụ nữ bệnh tật từ mười hai năm (Lc 8,43-48) – ôi những người phụ nữ tầm thường nhất của cái thời ở phương trời nào - thân phận đàn bà con gái đều chẳng đáng là bao- hoặc người mù từ thuở bình sinh như trong bài Tin Mừng hôm nay (Ga 9, 1-38), hoặc viên ty trưởng quan thuế thấp bé Zakkhê, nói chi đến những Maira và Martha, những Phêrô, Gioan và Giacôbê, gặp gỡ Ngài ai cũng được biết ngày vui nhất đời họ. Ngày Chủ Nhật Hồng.
Tại sao có Tin Mừng thường xuyên ấy? Tại sao có Niềm Vui tỏa lan ấy? Hoàn toàn không phải vì Ngài là một kẻ mơ mộng xa rời cuộc sống thực tế, nhưng chính là vì làm người trọn vẹn với con người, giữa lòng thực tại nhân sinh, chia sẻ đắng cay con hơn ngọi bùi trần thế, Ngài vẫn loan báo Nước Thiên Chúa và Sự Sống Lại của Ngài.
Nước Thiên Chúa không còn là một hứa hẹn xa vời nữa, Nước Thiên Chúa đã đến cùng với Ngài. Ngài là Thiên Chúa được ban luôn- không bao giờ đòi lại- cho loài người.
Cả cuộc đời Ngài hướng về Sự Sống Lại. Ngay cả trong giờ phút kề cận cuộc Tử nạn và Thập giá: “Quả thật, quả thật, Ta bảo anh em: anh em sẽ khóc, sẽ than: còn thế gian sẽ mừng rỡ; anh em sẽ ưu phiền, nhưng sự ưu phiền của anh em sẽ trở thành nhiềm vui. Đàn bà sinh con thì ưu phiền, vì giờ của bà đã đến; nhưng sinh con rồi thì không còn nhớ cơn khốn quẫn, vì niềm vui là đã có một người sinh ra trên thế gian. Anh em cũng vậy, bây giờ anh em phải ưu phiền, nhưng Ta sẽ gặp lại anh em và nỗi vui mừng của anh em không ai giật mất được.” (Ga 16,20-22).
Hội Thánh sống
và làm chứng cho Niềm Vui.
Chính Niềm-Vui-Tuy-Vậy này, Niềm Vui không ai giật mất được nữa là Niềm Vui Hội Thánh mời gọi chúng ta tham dự hôm nay. Hội Thánh vẫn sống và làm chứng cho Niềm Vui này một cách kỳ diệu, đặc biệt là thuở ban đầu.
Sách Công Vụ Tông Đồ cũng có thể gọi là sách “Niềm Vui Tông Đồ” hoặc “Hoan Ca Hội Thánh.” Cuộc sống không dễ dàng, không êm ả gì. Các tín hữu thuở ấy thường bị nghi kỵ, bị lùng bắt, bị bách hại, chí ít thì cũng bị gạt ra bên lề xã hội khi chưa phải sống chui rúc dưới các hầm mộ. Họ không có thánh đường cao rộng, không rước sách đình đám. Nhưng họ đã có Niềm Vui không ai giật mất được và không hề giấu giếm Niềm Vui ấy. Niềm Vui ngày Hiện Xuống đã đẩy tất cả ra đường để nói say sưa về Thiên Chúa tuy chưa phải là giờ để có thể say rượu (CV 2,1tt). Niềm Vui “bẻ bánh ở nhà, cùng nhau chia sẻ của nuôi thân, lòng đầy hân hoan dạ đơn thành…” (Cv 2,46). Niềm Vui của các Tông Đồ bị tống vào tù, bị đánh đòn rồi được thả cho về, lại: “hân hoan mà bước ra khỏi công nghị vì đã thấy mình đáng được chịu sỉ nhục vì Danh” (Cv 5,17-41).
Niềm Vui của Stêphanô một thân một mình đứng trước đám đông đang “tức uất lên và nghiến răng chống lại ông.” thì lại được đầy Thánh Thần mà hào hứng nói: “Này tôi thấy các tầng trời mở ra và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa.” (Cv 7,54-56). Rồi Niềm Vui trong một xứ thành Samari, khi “được nghe và thấy các dấu lạ Philip làm” mà “người người vui mừng, hớn hở.” (Cv 8,6-8). Cũng như ở Antiôkia xứ Pisidia, được nghe Phaolô rao giảng Tin Mừng cho họ, “người ngoại mừng rỡ và ca tụng Lời Chúa” (Cv 13,13-49). Viên hoạn quan sau khi được Philip rửa tội bên đường, “không còn thấy ông, đã tiếp tục hành trình cuộc sống vì ông sẽ mãi mãi được “thấy” Chúa Kitô là Ai (Cv 8,6-39). Trong cả đế quốc Roma ngạo nghễ kiêu sa, đã có một chỗ bất ngờ nhất:ngục giam Phaolô và Sila ở thành Philip vào lối nửa đêm. Động đất, các cửa mở toang, viên cai ngục run lẩy bẩy nhưng rồi lại cùng mọi người trong nhà ông đón nhận Tin Mừng, chịu thanh tấy. Thế là ông đưa Phaolô và Sila “lên nhà ông, cho dọn bàn ăn, và hân hoan với cả nhà vì đã được tin vào Chúa.” (Cv 14,15-34).
Cũng có thể “lần chuỗi” Niềm Vui như vậy trong cuộc đời và các thư của Thánh Phaolô. Không mấy ai có thể làm chứng cho Niềm Vui bất khuất và bất tận như Phaolô. Lời tâm sự trong Thư gửi các tín hữu Philip như đã đủ để tóm lại tất cả: “Mà nếu có phải đổ máu hoà dâng với hy sinh lễ tế của lòng tin nơi anh em, thì tôi vui mừng và cùng vui với anh em hết thảy. Cả anh em nữa cũng vậy, hãy vui mừng và hãy cùng vui mừng làm một với tôi.” (Pl 2,17-18).
Tin cũng là Vui.
“Cả anh em nữa cũng vậy…” Nhưng “hãy vui mừng” thôi chưa đủ. Niềm Vui tín hữu không phải là đột xuất, niềm vui xuân thu nhị kỳ, niềm vui theo thời vụ. Niềm Vui “hoa quả của Thần Khí” (Gl 6,22) cũng là Niềm Vui trường kỳ, gắn liền với Đức Tin. Tin từ Đức Giêsu Kitô là Tin Mừng. Đón nhận Tin Mừng, Kitô-hữu tin cũng là vui, không thể nào khác được, và trong bất cứ cảnh ngộ nào, không gì, không ai cướp mất được Niềm Vui ấy. Cho nên Phaolô còn nhấn mạnh thêm trong thư gửi tín hữu Philip: “Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi xin lập lại, hãy vui mừng!” (Ph 4,4).
Chúng ta có thể không cần kêu tên cực trọng hay làm dấu thánh giá liên hồi để chứng tỏ mình là Kitô- hữu. Nhưng không thể không luôn đánh dấu đời sống đức tin của mình bằng Niềm Vui. Thế kỷ trước, một triết gia vô-tín đã thách thức cả một thế hệ Kitô giáo có lẽ phần nào đã lây nhiễm bện buồn lãng mạn mênh mang xung quanh” “Ít nữa, là các người, các người là những kẻ tin mình được sống lại, các người hãy cho chúng tôi thấy mặt mũi sống lại của các người đi chứ.” Ngày nay thế giới tiến bộ vuợt bực về khoa học- kỹ thuật nhưng loài người vẫn cứ phải đương đầu với những bi kịch tầm vóc hành tinh, chiến tranh, thiếu đói, mù chữ, dịch bệnh. Từng người vẫn cứ phải đối diện với cô đơn, khổ đau, nỗi chết. Dán mắt suốt ngày vào màn ảnh truyền hình hay máy vi tính, người ta có thể lấy làm thú vị, được khuây khoả giải trí, nhưng đâu đã được gì hơn sự giải trí- đào thoát mà Pascal đã thấy rõ từ thế kẻ XVII. Niềm Vui đích thực không xuất hiện trên màn ảnh vi tính cũng như thời Pascal đã không thể gặp được trong rừng khi triều đình tổ chức đi săn. Xung quanh chúng ta, trong khu xóm, tại chỗ làm việc, ở ngoài đường, thiên hạ không thách thức chúng ta như triết gia vô-tín nọ, nhưng người người vẫn có quyền tìm nơi ánh mắt chúng ta chút gì của Ánh Sáng Phục Sinh, và trên môi chúng ta nụ cười kín đáo mà bất tận của lòng tin Chúa Kitô đã Sống Lại.
Cuộc sống người tín hữu có là Mùa Tím triền miên thế nào đi nữa thì ngày ngày – tuy vậy - vẫn phải là Chủ Nhật Hồng. Trong bất cứ cảnh ngộ nào, Niềm Vui cũng phải phản ảnh Lòng Tin. Niềm Vui thuộc về căn cước, cốt cách Kitô-hữu. Niềm Vui còn thuộc về sứ vụ của Hội Thánh. Hẳn không phải là tình cờ mà Hiến Chế Mục Vu của Công Đồng Vatican II bắt đầu và được gọi bằng hai chữ Gaudium et Spes. Vui Mừng và Hy Vọng. Loan báo Tin Mừng, Hội Thánh cũng trực giữ Niềm Vui cho thế gian năm chìm bảy nổi mà vẫn được Thiên Chúa yêu thương. Cho tới khi Chúa lại đến!
Không sợ Thiên Chúa chối bỏ, chỉ sợ con người bưng tai bịt mắt để khỏi nhận ra Thiên Chúa mà thôi. Đó là tâm tình của tôi khi suy niệm câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành người bị mù mắt từ khi mới sinh trong Tin Mừng Chúa nhận IV mùa Chay. Từ ngàn xưa, Thiên Chúa vẫn chỉ có một đường lối đó là trung thành ngỏ lời với con người. Người sử dụng mọi cách thức, mọi hoàn cảnh, mọi chiều kích để thế giới này, vũ trụ này nói chung và nơi cuộc đời của từng người nói riêng, ghi đậm dấu ấn lòng thương xót của Chúa. Tắt một lời, Thiên Chúa luôn tìm cách để gần gũi, để nên một với con người. Vì thế, Người không ngừng yêu thương tỏ mình cho con nguời. Chính Chúa Kitô là bằng chứng lớn lao cho tình yêu ấy.
Về phía con người, lẽ ra phải khát khao, phải vui mừng đón nhận, và đón nhận bằng tất cả niềm hạnh phúc của một thụ tạo được Đấng Tạo Hóa cúi xuống đoái thương, thì ngược lại, họ lại phản bội, lại ghanh ghét, chối từ, lắm lúc muốn thay quyền Thiên Chúa... Càng là những người kiêu ngạo, nắm quyền hành, mang bộ mặt đạo đức bao nhiêu, có khi lại là kẻ chống đồi Thiên Chúa nhiều bấy nhiêu.
Ngày Chúa Giêsu giáng sinh, qua thiên thần, Chúa tỏ mình cho các mục đồng. Những người bị coi là thấp bé này đã mở lòng đón nhận mạc khải của Chúa. Còn với các đạo sĩ, những người ngoại giáo, chỉ bằng một ánh sao lạ trên bầu trời phương Đông, Chúa đã ngỏ lời với họ. Các đạo sĩ chân thành đón nhận mạc khải. Bởi vậy, những tâm hồn đơn hèn, khiêm nhu của các mục đồng, của các đạo sĩ đã hạnh phúc nhiều vì là những người đầu tiên đón nhận Tin mừng Giáng sinh.
Cũng là một cách tỏ mình, có lẽ còn thế giá hơn sự tỏ mình bằng một ánh sao cho ba nhà đạo sĩ, đó là việc hoàng triều Hêrôđê và cả thành thánh Giêrusalem được các đạo sĩ đến với mình, mang theo Tin mừng Giáng sinh để ngỏ lời với Hêrôđê và cả Giêrusalem. Gọi là cách tỏ mình “thế giá”, bởi một ánh sao, dù có lạ, có sáng đến đâu, trước sau vẫn chỉ là một ánh sao. Trong khi để ngỏ lời với Hêrôđê và Giêrusalem, thì không phải chỉ là ánh sao, nhưng là những con người. Thiên Chúa đã dùng chính bản thân những nhà đạo sĩ để mời gọi cả hoàng triều Hêrôđê. Thiên Chúa vẫn trung thành và mãi mãi trung thành, dù con người có khép lòng mình lại, khép rất chặt, Thiên Chúa vẫn yêu thương mời gọi, vẫn kiên nhẫn đợi chờ, vẫn tha thiết lấp đầy khát vọng của họ bằng chính sự hiến thân của mình, trao ban chính mình làm gia nghiệp đời đời của họ.
Nhưng thật đáng tiếc cho Hêrôđê và tất cả những người thuộc về ông! Bởi tất cả đã không có một chút mảy may nào muốn mở lòng để nhận ra Thiên Chúa đang ngỏ lời với mình. Thật chua chát làm sao, bởi Hêrôđê và quần thần của ông không phải là những người ngoại giáo, không phải là những người ở xa xôi, hẻo lánh, tận trời Đông nào đó như các đạo sĩ, nhưng là ở rất gần nơi Thiên Chúa làm người vừa giáng sinh. Họ cũng không phải là những người nghèo dốt nát như các mục đồng, nhưng có đầy đủ mọi phương tiện: nguồn Kinh Thánh nắm trong tay; những nhà thông luật và hiểu biết Thánh Kinh luôn luôn vây quanh để sẵn sàng giải thích Thánh Kinh; phương tiện vật chất có dư thừa..., lại trở nên những tâm hồn chết lạnh vì thiếu vắng Thiên Chúa.
Hóa ra cái giàu của hoàng triều Hêrôđê lại chính là cái nghèo, nghèo không thể tưởng, ngèo đến mức trần trụi, đáng thương. Họ chỉ có mỗi bản thân của mình mà thôi. Ích kỷ đến thế làm sao có thể gặp Thiên Chúa, Đấng chỉ có yêu và xả thân vì yêu. Ích kỷ đến thế, vì thế cũng độc ác không vừa. Ông đã đóng chặt cửa lòng trước tin vui Chúa Cứu Thế giáng trần đã vậy, ông còn sợ Người tranh giành ngai vàng của ông, đến nỗi thẳng tay thanh trừng sự sống của Người. Không có Thiên Chúa trong lòng mình, không có bất cứ điều gì người ta không dám làm, dù tàn nhẫn đến đâu đi nữa. Bởi vậy, dù không thể giết chết Thiên Chúa làm người, Hêrôđê cũng đã giết chết vô vàn trẻ sơ sinh Dothái.Cũng vậy, câu chuyện Chúa chữa lành đôi mắt cho người mù từ khi mới sinh trong Tin Mừng Chúa nhật thứ IV hôm nay, thánh Gioan cho thấy điệp khúc của việc bưng tai, bịt mắt trước tình yêu, quyền năng của Thiên Chúa vẫn lặp lại.
Thay vì nhận ra Thiên Chúa nơi dấu lạ sáng mắt của anh mù, người biệt phái lại cho đó là hành vi của tội lỗi. Họ nói về Chúa Giêsu: “Chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi”, và nói về anh mù được chữa lành: “Mày sinh ra trong tội”. Còn chính bản thân họ thì sao? Khi khẳng định người khác tội lỗi, người Dothái đã cố tình để lộ một khẳng định về chính họ: họ là kẻ trong sạch, là người thuộc về Thiên Chúa. Chính miệng họ nói lên điều đó: “Chúng ta là môn đệ của Môisen. Chúng ta biết Thiên Chúa đã nói với Môisen, còn người đó, chúng ta không biết bởi đâu mà đến”. Nhưng ngay trong chính lời khẳng định mình là “môn đệ của Môisen”, là kẻ thuộc về Thiên Chúa, đã cho thấy chính họ mới là những kẻ đui mù trầm trọng: không thể biết Chúa Giêsu!
Đúng là nghịch lý. Nghịch lý đến mức mâu thuẫn lớn lao. Bởi người “tội lỗi” lại có thể làm nên những điều kỳ diệu quá tốt đẹp mà từ xưa chưa một ai làm nổi: mở mắt người mù từ khi chưa biết nói, biết cười. Còn “người sinh ra trong tội” lại thừa hưởng những điều kỳ diệu ấy cũng lớn lao không kém. Trong khi đó, những kẻ “vô tội” lại không bao giờ có thể chữa lành cho ai, càng không thể làm nổi một dấu lạ, dù là dấu lạ nhỏ nhất. Đó mới thực sự là điều mỉa mai đầy đau xót. Nỗi đau xót ấy mới chính là bài học vô giá dạy ta biết ý thức mình, ý thức thân phận mong manh của một con người đầy giới hạn, để ngay từ bây giờ, sẽ luôn luôn đón nhận anh chị em bằng tất cả tình yêu thương, sự chia sẻ và cảm thông.
Hóa ra người mù lại sáng, còn kẻ sáng lại mù. Anh mù được chữa lành có một đôi mắt tâm hồn sáng đến lạ thường. Đôi mắt ấy chính là đức tin mà anh đã đón nhận từ Chúa Giêsu. Đôi mắt đức tin của người mù đã giúp anh nhìn thấu đáo về người chữa lành cho mình: “Đó là một tiên tri”. Và khi đối diện với Chúa Giêsu, anh đã tuyên xưng: “Lạy Thầy, tôi tin”.
Trong khi khẳnh định về Chúa như thế, anh cũng đã vạch trần cái đui mù của người biệt phái: “Đó mới thật là điều lạ: người đó đã mở mắt cho tôi, thế mà các ông không biết người đó ở đâu. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi, mà hễ ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Chúa, thì kẻ đó mới được Chúa nghe lời. Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì”. Lời của anh mù được chữa lành đơn sơ quá, nhưng đẹp quá, hay quá, lý luận của anh chắc chắn quá. Giá mà những người biệt phái mềm lòng một chút, chỉ cần một chút thôi, đã có thể gặp gỡ Chúa Giêsu và đón nhận Người.
Nhưng nơi anh mù, đâu chỉ có những lời đầy can đảm như trên. Đứng trước quyền lực của tôn giáo và của xã hội thời ấy, chính đôi mắt đức tin đã cho anh lòng kiên trung không một chút sợ sệt. Anh khẳng khái để lên tiếng một cách dứt khoát, mạnh mẽ dẫu biết mình có thể gặp nguy hiểm, cuộc sống có thể mất bình an. Chẳng hạn anh đã nói: “Nếu đó là người tội lỗi, tôi không biết, tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy”; “Hay là các ông cũng muốn làm môn đệ Ngài chăng”...
Chúa đâu có hẹp hòi, chỉ có lòng người hẹp hòi mà thôi. Chúa đâu có đòi hỏi điều gì cao xa, hay vượt quá sức mình. Người chỉ cần một chút thiện chí của ta thôi là đã có thể trở thành điều kiện tốt để Người đến với ta. Chúa đâu có chối bỏ ai, chỉ có con người mới chối bỏ Chúa. Chúa luôn luôn dung thứ và tha thứ, chỉ có ta mới là kẻ vô tâm trước tình yêu của Chúa. Chúa luôn luôn mời gọi và ngỏ lời với ta, chỉ có ta khép chặt lòng mình, để khỏi đón nhận mạc khải của Người. Chúa vẫn là Thiên Chúa trung thành, chỉ có ta là không ngừng phản bội.
Sau cùng, chúng ta hãy mượn lời thánh Augustinô, để cùng thánh nhân nguyện xin Chúa ban cho mình thoát khỏi tình trạng mù lòa của tâm hồn, để có thể nhận ra Chúa nơi chính mình và nơi anh chị em:
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa. Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương và chỉ nghĩ đến Chúa. Ước gì con biết hảm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo Chúa luôn. Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa. Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa. Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa. Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen.
BÀI ĐỌC 1: 1 Sa-mu-en 16,1,6-7.10-13= Chúa phán với Samuen: “…người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng./ The Lord said to Samuen “ …because man sees the appearance, but the Lord looks into the heart.
BÀI ĐỌC 2: Ê-phê-xô 5, 8-14= Hãy ăn ở như con cái sự Sáng: Ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật./ Live as children of Light: for light produces every kind of goodness, and righteousness and true.
TIN MỪNG (Gospel): Gioan 9,1- 41= …Đêm đến không ai có thể làm việc được. Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là Ánh Sáng thế gian./ Night is coming when no one can work. While I am in the world, I am the light of the world.
A-Bạn và tôi cùng Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Some points of reflection, live out and share)
1-Thầy là Ánh Sáng thế gian: Khi các môn đệ nhìn thấy một người mù từ khi mới sinh, Đức Giêsu đã nói: “Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian.”( Ga 9, 5) Chúa muốn người Tín hữu hãy tiếp tục hoạt động như Thầy. Đời sống của tôi cần làm việc là sống tốt lành, như Đức Giêsu làm phép lạ chữa người mù. Ngài như nước hồ Si-lô-ác (người được sai phái)cho anh ta đến rửa để được nhìn thấy. Tôi cũng được sai đi để mang ánh sáng cho mọi người, để khỏi chìm đắm trong bóng tối của sự chết. Kể những việc làm của tôi cho tha nhân được nhìn thấy Chúa.
2-Kẻ xem thấy lại mù: Đức Giêsu muốn làm đảo lộn cách suy nghĩ cuả con người, khi họ tự cho mình là kiến thức như người Pharisêu thì họ lại trở nên đui mù, vì họ khép lòng trí trước Thiên Chúa và không thoát khỏi tội lỗi. Còn người nhận mình là đui mù dốt nát, thì lãnh nhận ơn mạc khải của Đức Kitô: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù.” (Ga 9,39) Nghe Chúa nói câu này, người Pharisêu tức giận là mình bị mù cả. Nên Đức Giêsu liền nói thẳng vào mặt họ: “Nêú các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘Chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn đó.”(Ga 9,41) Bấy lâu nay bạn nhận mình là kẻ dốt nát hay tự phụ về kiến thức của mình. Bạn cho một thí dụ cụ thể về khiêm tốn và tự phụ.
3- Chúa nhìn tận đáy lòng: Ngày đó, Chúa muốn tấn phong cho môt người làm vua, ông Sa-mu-en thấy Ê-li-áp, ông nghĩ chắc ông này đang ở trước mặt Chúa, nhưng Ngài phán: “Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Chúa thì thấy tận đáy lòng.”(1 Sam16,7) Người ta thường nói: có mắt như mù, vì chỉ thấy cái lợi trước mắt mà quên cái hại sau lưng. Thiếu gì anh chị ngày xưa đi xem mắt hỏi vợ đã bị lầm:Trời sinh con mắt là thương, người ghét ngó ít, người thương ngó hoài. Nói những cái hại thường do con mắt tôi gây ra.
4- Ánh sáng đem lại tất cả: Trong bài đọc 2, thánh Phaolô khuyên bạn bây giờ đang là ánh sáng, hãy ăn ở như ban ngày. Vì ánh sáng đem lại những điều lương thiện, công bằng và sự thật như sau: “Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng.” (Êph 5, 11) Nhờ Đức tin và phép Rửa, bạn đã thoát khỏi bóng tối, để chiếu tỏa ánh sáng cho người khác. Nhưng bạn lại lén lút làm những việc mờ ám, làm cho vợ chồng phải ly tan, Cộng đoàn Xã hội bị chia rẽ. Chia sẻ những việc bạn đã vạch trần để có công bằng và sự thật.
B- Câu Kinh Thánh bạn và tôi chọn để Sống là Ánh Sáng tuần naỳ: (The Best of God’s Word)
BAO LÂU THẦY CÒN Ở THẾ GIAN, THẦY LÀ ÁNH SÁNG CHO THẾ GIAN (Gioan 9, 5)
While I am in the world, I am the light of the world
C- Ngay bây giờ tôi phải làm gì: (So what am I doing/ For Action)
- Tôi chọn gợi ý số 4 ở phần A là can đảm vạch trần những việc làm mờ ám trong bóng tối, để có công bằng, sự thật.
- Bạn thực hiện khiêm tốn là công nhận mình đui mù, dốt nát, để xứng đáng lãnh nhận ơn Chúa mạc khải. (gợi ý 2)
D- Bạn và tôi cùng cầu nguyện và Sống cầu nguyện: (I pray and practice/ Pray in Action)
Lạy Cha, Đức Giêsu đã nói: Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!. Xin cho con biết nhận thấy mình hèn kém, không tự phụ về những gì Chúa ban, đừng cậy mình biết, nhưng lại không biết gì. Đừng trở nên mù loà vì khép kín tâm hồn trước nhan Chúa và than nhân.
Lời hay ý đẹp: MUỐN DẪN NGƯỜI KHÁC RA KHỎI TỐI TĂM, HÃY CHO HỌ THẤY ÁNH SÁNG CỦA BẠN
To lead others out of the darkness, let them see your light