Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 4-A Bài 51-100: Hắn đi rửa, rồi trở lại trông thấy rõ ---------------------------------- Phúc Âm: Ga 9, 1-41 (bài dài): "Hắn đi rửa, rồi trở lại trông thấy rõ".
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Đức Giêsu chữa một người bị mù từ thuở mới sinh. Mới nghe qua, chúng ta thấy có vẻ không có gì khác với các phép lạ khác mà Đức Giêsu đã làm. Tuy nhiên, đối với thánh sử Gioan, việc Đức Giêsu làm phép lạ không chỉ đơn thuần là một phép lạ, nhưng đó là một dấu chỉ, để từ đó khơi dậy niềm tin và củng cố niềm tin cho các tông đồ và cả chúng ta ngày hôm nay. Điều này đã được chính vị thánh sử quả quyết trong lời kết sách Tin mừng của mình: “Các điều đã viết đây, là để anh em tin rằng: Đức Giêsu chính là Đức Kitô, Con Thiên Chúa; và bởi tin thì anh em được có sự sống nhờ Danh Ngài” (Ga 20, 31; x. Ga 2, 11).
1. Bóng tối và ánh sáng:Trở lại với câu chuyện trong bài Tin mừng: Khi ấy, trên đường đi, Đức Giêsu thấy một người mù từ khi mới sinh đang ngồi xin ăn bên vệ đường. Ngay lập tức, các môn đệ lên tiếng hỏi Ngài: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội, y hay cha mẹ y, khiến y bị mù từ thuở mới sinh?”.
Một câu hỏi hết sức tự nhiên, và có lẽ cũng là vấn nạn cho mỗi người chúng ta hôm nay trước các mầu nhiệm của sự dữ. Chúng ta vẫn không thể nào hiểu nổi tại sao nhiều người lành vẫn luôn gặp nhiều thử thách, trong khi có những kẻ đang sống cuộc sống vô luân, vẫn nhởn nhơ “ngoài vòng pháp luật”. Tuy nhiên, khi hỏi Đức Giêsu: “Ai đã phạm tội”, chúng ta thấy: các môn đệ đã không qui trách mọi sự cho Thiên Chúa, nhưng cũng đã nhận ra rằng: tội chính là nguyên nhân của mọi đau khổ. Vấn đề ở đây là tội của ai: Tội của người mù hay tội của cha mẹ anh. Nhưng ngay khi đặt vấn đề như vậy, các môn đệ cho thấy rằng dù con mắt thể lý của họ sáng, nhưng con mắt đức tin của họ vẫn chưa thật sáng. Đức Giêsu đã trả lời cho họ: “Không phải y, cũng chẳng phải cha mẹ y đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa được tỏ ra nơi y”. Khi nói như thế, Đức Giêsu không phủ nhận hậu quả của tội, nhưng Ngài muốn nhắm tới một việc xa hơn. Cho dù đó là tội của ai đi chăng nữa, nhưng nếu có lòng tin vào Ngài, và hoán cải, thì tất cả sẽ được chữa lành và cứu sống, bởi Đức Giêsu đến trong thế gian không phải để kết án, “nhưng để nhờ Ngài mà thế gian đựơc cứu” (Ga 3, 17). Chính lúc Thiên Chúa chữa lành những điều đã hư mất như thế, là một cách thế làm cho Danh Ngài càng được tỏ rạng, vì việc sửa chữa luôn luôn khó hơn là làm cái mới.
Tiếp tục theo lời kể của thánh Gioan, chúng ta thấy ngay sau khi người mù này được chữa lành, thì lập tức xảy ra nhiều cuộc tranh luận khác nhau. Trước hết là của những người láng giềng của người mù: Người thì nói đúng là anh ta; có kẻ lại bảo là một người khác giống anh ta. Còn anh ta thì bảo: “Chính tôi đây”. Nghe những tranh luận này, chúng ta cũng không biết ai là người mù thật.
Kế đó là những người Biệt phái, những người tự hào là thông thái, sáng suốt nhờ hiểu biết lề luật. Đối với họ Đức Giêsu “không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat”. Còn người mù thì quả quyết: “Đó là một tiên tri”. Như thế, anh mù đã dần dần nhận ra chân tính của Đức Giêsu nhờ việc anh ta được chữa lành và còn nhờ việc anh lắng nghe ý kiến của những người xung quanh: “Làm sao một người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?”. Còn những người Biệt phái vì mãi lệ thuộc vào những luật lệ cứng ngắc, nên đã không nhận ra căn tính của Đức Giêsu. Họ vẫn đang ở trong tối tăm, còn anh mù đã từng bước đi vào nơi ánh sáng. Và cuối cùng khi bị những người Biệt phái đuổi ra ngoài, anh lại được Đức Giêsu đón gặp, và trong lần gặp gỡ này, anh đã lớn tiếng tuyên xưng: “Lạy Thầy, tôi tin”. Gặp được Đức Giêsu, anh đã được chữa lành cả thể xác lẫn tâm linh. Anh đang thực sự bước đi trong ánh sáng của đức tin, ánh sáng ban sự sống của Đức Giêsu Kitô.
2. Bước đi trong ánh sáng của Thiên Chúa:Một người tự biết mình là “mù từ thuở mới sinh”, lúc đầu chỉ biết rằng: người làm cho mình được thấy là một người mang tên Giêsu nào đó, và rồi từng bước một, nhờ chính những tranh luận của những người chung quanh và nhất là nhờ tác động trực tiếp của Thiên Chúa, anh đã nhận ra Đức Giêsu chính là “một tiên tri”. Và cuối cùng anh đã tin rằng: Đức Giêsu chính là “Con Thiên Chúa”.
Trong khi đó, những người láng giềng, hàng ngày đều thấy anh, giờ đây, vì cứ mãi cố chấp trong những định kiến của mình, nên không nhận ra được anh chính là người mù trước kia. Và ngay cả những người Biệt phái cũng không hơn gì. Họ cứ mãi dựa vào những luật lệ cứng ngắc, vô hồn, tự lấy mình làm khuôn mẫu cho mọi người, nên cũng không nhận ra Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa, bởi lẽ: “Không ai có thể mở mắt cho người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa mà đến”. Những người này vẫn nhìn, nhưng họ không thấy.
Và không chỉ là đám dân Do thái, và những người Biệt phái khi xưa, mỗi người chúng ta ngày hôm nay cũng có thể đang “bị mù”. Chúng ta sẽ trở nên mù khi chỉ dựa vào vẻ bên ngoài để đánh giá anh chị em của mình. Đành rằng, vẻ bên ngoài cũng biểu lộ một phần nào con người bên trong của mỗi người, nhưng như thế vẫn chưa đủ. Cha ông chúng ta vẫn thường nói: “Hoạ hổ, hoạ bì, nan hoạ cốt; tri nhân, tri diện bất tri tâm”, “biết người, biết mặt, không biết được tâm hồn”. Ngay cả ngôn sứ Samuel, khi vừa vào đến nhà của Isai, ông cũng đã bị lầm lẫn bởi vẻ bên ngoài của Eliab, ông thưa với Thiên Chúa: “Có phải người xức dầu của Chúa đang ở trước mặt Chúa đây không?”. Nhưng Chúa đã phán với Samuel rằng: “Đừng nhìn xem diện mạo, vóc cao, vì Ta đã loại nó rồi; Ta không xem xét theo kiểu của con người, vì chưng con người nhìn xem bên ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn”.
Thiên Chúa không xem xét theo kiểu của con người. Ngài không đánh giá và phán xử chúng ta theo những điều chúng ta thực hiện bên ngoài. Dưới ánh sáng của Thiên Chúa chẳng có gì dấu kín mà không bị lộ ra. Ánh sáng của Thiên Chúa soi dọi đến tận cõi thâm sâu trong tâm hồn của mỗi người chúng ta, và Ngài thấu suốt mọi ngõ ngách, biết rõ từng ý nghĩ, từng toan tính trong tâm hồn của mỗi người chúng ta.
Do đó, để có thể nhìn thấy rõ, và không bị lầm lẫn, mỗi người chúng ta cần bước đi dưới ánh sáng của Lời Chúa. Chúng ta cần đến với Đức Giêsu là Nguồn sáng thật. Chính Đức Giêsu đã khẳng định: “Ta là sự sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống” (Ga 1, 12). Nhận được ánh sáng của Đức Giêsu từ ngày lãnh nhận phép Rửa, mỗi người chúng ta đã thoát ra khỏi bóng tối của sự chết. Do đó, theo lời dạy của thánh Phaolô, chúng ta “hãy ăn ở như con của sự sáng”. Và thánh nhân còn nói thêm: “Hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành, là công chính, chân thật. Anh em hãy nhận biết điều gì làm đẹp lòng Chúa, và đừng thông phần vào những việc con cái tối tăm không sinh lợi ích gì… Vì chưng, việc chúng làm cách thầm kín, dầu có nói ra cũng phải hổ thẹn”. Chúng ta hãy sống sao để “Ngẩng lên không thẹn với trời, cúi xuống không hổ với đất”.
Chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa mở con mắt tâm hồn của chúng ta, để chúng ta nhận ra tình yêu của Chúa trong cuộc đời mình, và nhận ra hình ảnh của Chúa nơi anh chị em đang sống chung quanh chúng ta. Nhờ đó, chúng ta có thể tin tưởng đặt trọn cuộc đời của chúng ta trong tay Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người. Trong niềm xác tín đó, giờ đây chúng ta cùng tuyên xưng đức tin.
Chủ đề xuyên suốt của Chúa Nhật IV Mùa Chay năm A này là: Chúa Giêsu là ánh sáng. Anh sáng chiếu soi để cho tiên tri Samuel có thể nhận ra người mà Thiên Chúa tuyển chọn làm vua Israel là David, cũng chính ánh sáng ấy đã dẫn đưa dân thành Ephêsô từ nơi thâm u tối tăm của sự chết là tội lỗi trở thành con cái ánh sáng trong giếng Rửa Tội. Và Đức Kitô đã truyền ánh sáng từ nơi mình sang cho anh mù bẩm sinh để anh được nhìn thấy Đấng ban sự sáng cho mình mà đi theo và loan truyền tình thương của Chúa.
Theo quan niệm của người Do Thái xưa vẫn cho rằng: Những gian nan khốn khó người ta gặp phải là do tội lỗi nên bị Thiên Chúa phạt, vì thế anh mù trong Tin Mừng hôm nay thuật lại, cũng không thóat khỏi ánh mắt không thiện cảm của những người chung quanh và cả những người thân. Cha mẹ coi anh như một của nợ nên đẩy anh ra khỏi nhà, không chia sẻ số phận hẩm hiu của anh, nên đã không đi tìm Chúa Giêsu để xin cứu chữa và cũng không cám ơn Chúa khi con được khỏi bệnh, cũng không bênh vực khi anh bị chất vấn. Cho nên khi anh được khỏi mù, anh đã không chạy về với cha mẹ. Còn những người láng giềng không nhận ra anh phải chăng anh đã bị người ta quên lãng ? Và những người thường gặp anh ăn xin thì không vui khi anh được sáng mắt, có nghĩa là họ không cảm thông chia sẻ với anh. Cả các môn đệ khi thấy anh bị mù họ cũng cho anh là người có tội hay cha mẹ anh, họ không thương xót, không cảm thông, cứu chữa. Qủa thật, anh mù rất cô đơn, vô cùng đau khổ trong kiếp sống tàn tật ăn xin, bị mọi người bỏ rơi, nguyền rủa.
Trong khi đó Chúa Giêsu không kết án, không qui tội mà cứu chữa anh, đã đưa anh đến miền ánh sáng của đức tin. Thật vậy:
1/ Anh mù đã tin một người là Giêsu đã mở mắt anh:
Anh nhận ra Chúa Giêsu khác hẳn những người khác: “ Người tên là Giêsu đã trộn ít bùn, xức vào mắt…tôi đi rửa và tôi nhìn thấy được”(c.11), một ông Giêsu quyền năng, vì chưa bao giờ người ta nghe nói là có ai mở mắt cho kẻ mù từ lúc mới sinh, thế mà ông Giêsu làm được như thế. Ông Giêsu đã yêu thương, ông không lên án mà cứu chữa (x.c.32). Còn những người khác chẳng những bất lực mà lại không có tình thương. C.32 cho thấy con người khoanh tay trước bệnh mù bẩm sinh. Mọi người chẳng những khoanh tay bất lực mà còn thiếu tình thương, chỉ biết lên án.
2/ Anh mù nhận ra Chúa Giêsu là ngôn sứ:
Người Biệt Phái không nhất trí với nhau về lai lịch của người đã chữa anh mù, vì Chúa Giêsu đã chữa anh vào ngày Sabat nên Chúa Giêsu không phải do Thiên Chúa vì không giữ ngày hưu lễ, nhưng có người lại nhấn mạnh đến việc Chúa đã chữa người mù nên Ngài không thể là có tội được. Còn anh mù thì lý luận: “ Nếu không phải người bởi Thiên Chúa mà đến thì ông ta đã chẳng làm gì được“(c.33) nên anh cương quyết xác nhận“Người là một vị ngôn sứ” (c.17b).
3/ Anh mù nhận ra Chúa Giêsu là người do Thiên Chúa:
Cuộc tranh luận và thái độ của những người Biệt Phái làm cho anh mù càng xác tín và thách thức họ “ hay các ông cũng muốn là môn đệ ông ấy”(c.27b), lời nói của anh nhìn nhận Chúa Giêsu là một bậc thầy trên cả những người Biệt Phái, đi một bước xa hơn nữa là anh đã cho họ một bài học: “ chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nhận lời những kẻ tội lỗi …xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh, nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến”(c.31-33). Khi anh được Chúa Giêsu làm cho sáng mắt thì anh trở thành ánh sáng của Ngài, trở thành dấu chỉ sáng chói của Ngài. Chính vì điều này mà sau đó người ta xua đuổi anh.
4/Người mù được Đức Giêsu cho biết Ngài là Con Người và anh đã tin:
Người Do Thái xua đuổi anh, còn Đức Giêsu thì tiếp nhận anh, điều đó cho thấy Chúa Giêsu luôn luôn là người đi bước trước, “Đức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh, và đi tìm gặp anh”(c.35). Trên hành trình đức tin phải có bước khởi đầu xuất phát từ Thiên Chúa. Và chính hành động này làm cho người mù có so sánh: Những người mệnh danh là cha mẹ dân thì xua đuổi anh trong khi Chúa Giêsu là người bị họ coi là người tội lỗi lại đón tiếp anh, cho nên niềm tin của anh vào Ngài càng lớn mạnh. Vì thế, khi nghe Chúa Giêsu hỏi: “anh có tin vào Con người không ?…chính Người đang nói với anh”(c.35b-37) thì anh sẵn sàng tuyên xưng đức tin “ Thưa Ngài tôi tin”. Liền đó anh sấp mình xuống trước mặt Người, lời nói và cử chỉ của anh chứng tỏ anh nhìn ra Đức Giêsu Thiên Chúa.
5/Sứ điệp Tin Mừng:
Chúa để xẩy ra đau khổ, tật nguyền để con người nhận thấy giới hạn của mình, và để liên đới sự đau khổ, khuyết tật của người khác cũng là đau khổ, khuyết tật của mọi người, nhờ đó sẽ kích thích cho con người tìm phương pháp cứu chữa, xoa dịu.Thái độ của chúng ta đối với đau khổ, tật nguyền, tội lỗi, bị xã hội khai trừ là một sự cảm thông đem tình thương Chúa đến cho họ, đây là một lời mời gọi hằng vang lên, thúc bách ta phải thi hành sứ mạng.Việc Chúa Giêsu không giữ ngày hưu lễ mà lại chữa anh mù bẩm sinh khỏi bệnh, cho chúng ta thấy Ngài có quyền trên lề luật(x.Lc.13,10-17) và Ngài đã đặt lề luật bên dưới con người (x.Mc.2,28). Qua đó, ta hiểu được Thiên Chúa của Đức Giêsu là Thiên Chúa yêu thương con người.Chúng ta thử xét xem, trong cuộc đời trên đường chúng ta đi có khi nào chúng ta xua đuổi ánh sáng được Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta không ?Chúng ta dùng bài này để cầu nguyện như thế nào ? và quyết sống ra sao ?
Lạy Chúa, là ánh sáng trường tồn bất biến, xin cho chúng con không cố chấp ngồi lì trong bóng đêm tội lỗi, nhưng biết nhận ra tình trạng đui mù tâm hồn của mình mà khiêm tốn, can đảm đi đến suối Siloe là Đức Kitô bằng lòng tin, lòng ăn năn sám hối và yêu mến để được dẫn vào nguồn sáng Phục Sinh của Chúa, hầu được hưởng ơn cứu độ.
Tôi là một người mù từ thuở mới sinh. Sáng nay, Đức Kitô đã làm cho mắt của tôi được THẤY trở lại, như một người bình thường, không bao giờ mang tật nguyền gì…
***
1.-Bao nhiêu năm sống trong cô đơn và khổ đau, suốt ngày đi ăn xin từ xóm làng này qua xóm làng khác. Từ đây, trở lại với xã hội loài người, tôi chỉ ước mong được cư xử và đãi ngộ như một con người có giá trị bình thường như mọi người. Có lời ăn tiếng nói, khi tiếp xúc và trao đổi. Được lắng nghe và coi trọng, khi tôi cất lời phát biểu, trình bày ý kiến riêng tư của mình. Khi được mọi người xác nhận phẩm chất làm người như vậy, tự nhiên tôi " vươn lên, hướng thượng ", cố gắng đóng góp phần mình, khi anh chị em bà con cần đến tôi.
2.-Ngoài ra, khi tôi có những hành động sai trái, lầm lỡ…ước vọng của tôi là được anh chị em hai bên cạnh trở nên cho tôi một ngọn đèn hướng dẫn và nâng đỡ, sẵn sàng chỉ bày cho tôi một cách cụ thể và rõ ràng tôi phải điều chỉnh thế nào hành động và ngôn ngữ của tôi. Sai lầm lúc bấy giờ không còn là một sai lầm, trái lại đã trở nên cho tôi một bài học cao quí, khả dĩ xây dựng cuộc đời và làm đẹp bộ mặt của tâm hồn.
3.-Nhu cầu thứ ba của tôi là có người dạy bảo những bài học ĐÁNH GIÁ , bằng cách chia sẻ và giải bày những định chuẩn rõ ràng và khách quan. Dựa vào đó, tôi xác định vị trí hay là chỗ đứng của tôi, trong lòng xã hội hay là trong lãnh vực nghề nghiệp.Cuộc sống bình thường luôn luôn có trên có dưới, có trước có sau, có trong có ngoài. Không ai dạy cho tôi những bảng thang giá trị hay là những qui luật ấy, tôi chỉ là hạt cát phiêu lưu, bất định " vô gia đình, vô tổ quốc và vô tôn giáo ".
***
Thay vì mang đến cho tôi ba quà tặng cao quí ấy - là xác nhận giá trị, hướng dẫn hành động và đánh giá cuộc sống - nhằm xây dựng bản thân và cuộc đời hằng ngày cho tôi… những người mà tôi gặp trên mọi nẻo đường đó đây chỉ tung ra " những lời tố cáo, phê bình, chỉ trích, mạ lị và chưởi bới ":
" Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư ? "
Với thái độ trịch thượng ấy, thay vì đón nhận và yêu thương tôi, họ đã trục xuất, khai trừ, loại thải tôi ra khỏi cung lòng của họ.
***
Hỡi ai là người Kitô-hữu - có nghĩa là Đức Kitô thứ hai, Alter Christus - thay vì xua đuổi tôi, hãy lấy một ít bùn đất, trộn với nước miếng của quí bạn, và đụng đến hai con mắt Đức Tin của tôi, để cho tôi có thể " nhìn thấy Mặt Trời Công Chính ", trong tất cả cuộc đời còn lại của tôi. Hãy có gan " làm phép lạ ", để cho tôi ngày ngày trở nên con cái của Thiên Chúa.
Kính thưa ông bà anh chị em, cộng đoàn chúng ta đanghọp nhau cử hành Chúa Nhật IV Mùa Chay, Chúa Nhật mà màu áo lễ có thể mượn sắc hồng của hoan vui rực sáng để thay sắc tím của khắc khổ u buồn; và từ Chúa Nhật nầy, các anh chị em Dự Tòng trên khắp thế giới đang có những ngày hân hoan náo nức để tiến về Giếng rửa Tội, tiến vào cuộc Tái Sinh thiêng liêng làm con cái ánh sáng trong mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô. Trong ý nghĩa ấy, phụng vụ Chúa Nhật IV Mùa Chay, với sứ điệp Lời Chúa mang trọng tâm “Ánh Sáng” đang khơi gợi chúng ta hãy biến cuộc hành trình đức tin thành một cuộc “hội ngộ” với Đức Kitô là nguồn ánh sáng, một cuộc đổi đời từ bóng tối của lầm lạc đui mù tiến về chân lý của rạng rỡ tin yêu. Thánh lễ hôm nay vừa là một gọi mời vừa là một cơ hội để chúng ta một lần nữa đặt niềm tin vào Thiên Chúa, quay trở về với Thiên Chúa và tiến đến gặp gỡ Thiên Chúa trong Đức Kitô, Đấng đang hiện diện trong Thánh lễ nầy để ban cho ta ánh quang rạng ngời của chân lý cứu độ.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi để xứng đáng cử hành Thánh lễ.
Giảng Lời Chúa:
Nổi bi đát nhất của một tù nhân đó là ngày vĩnh viễn bị ném vào ngục tối để không còn được nhìn thấy ánh sáng của ban ngày; và giây phút kinh hoàng nhất của môt tên tử tội là phút giây đợi chờ hành quyết để vĩnh biệt ánh sáng cuộc sống và bị đẩy vào đêm đen của miền âm u sự chết !
Quả thật, Ánh Sáng – Bóng Tối đó là hai đối cực tượng trưng cho hai cuộc sống, hai thế giới, hai lãnh vực hoàn toàn đối nghịch nhau, cách xa nhau, triệt tiêu nhau. Và trong ngữ nghĩa Kinh Thánh, Ánh Sáng là tượng trưng cho chân lý và sự sống, cho vinh quang Thiên Chúa, cho niềm tin yêu hy vọng, cho ơn cứu độ…Còn Bóng Tối là quê hương của lầm lạc, tội lối, ma quỷ, gian ác. Nếu Thiên Chúa ngay từ đầu đã dựng nên ánh sáng như thực tại đầu tiên của công trình sáng tạo; thì vào chiều Thứ Sáu, khi Con Chúa tắt hơi trên Đồi Sọ, bóng tối đã bao trùm không gian. Cũng vậy, nếu khi bình minh thức giấc, muôn tiếng chim ca hát để báo tin một ngày mới với cuộc sống mới bắt đầu, thì khi màn đêm buông xuống, có bao nhiêu toan tính đen tối của các thế lực tội ác ra tay hoạt động. Chính vì thế, các Sứ ngôn không ngần ngại loan báo viễn tượng về một “ngày mai rực sáng của thời đại Thiên Sai” để bỏ lại những ngày “lưu đầy sống kiếp lầm than lầm lũi bước đi trong miền âm u tử địa” (Is 9,1). Và khi thời Tân ước đến, Thánh Gioan đã không ngần ngại gọi Đức Kitô là “ánh sáng cho nhân loại, ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối không diệt được ánh sáng…là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1, 3-9).
Sứ điệp phụng vụ hôm nay tập chú vào “huyền nhiệm ánh sáng” để vừa dẫn lối đưa đường các anh chị em dự tòng đến một chọn lựa nghiêm túc: hoặc là ở lại trong bóng tối của lầm lạc và xa cách Thiên Chúa, hoặc là bước tới ngưỡng cửa của đời sống mới trong ánh quang của con cái sự sáng qua bí tích Rửa tội; đồng thời cũng gọi mời tất cả cộng đoàn tín hữu hãy mạnh mẽ tiến bước trên con đường của chân lý phúc âm và loại trừ mọi biểu hiện của cuộc sống ù lỳ trong bóng tối của tội lỗi.
1. Để nhìn thấy ánh sáng cần có “đôi mắt của Thiên Chúa”.
Ánh sáng có rực sáng bao nhiêu, ban ngày có rạng thế nào, thì đối với người mang đôi mắt mù, tất cả cũng chỉ là bóng tối. Cũng vậy, Thiên Chúa có toàn năng làm sao, có nhân hậu thế nào, và ơn cứu độ của Ngài có quí giá cần thiết mấy chăng nữa, mà con người không có được “đôi mắt đức tin” thì mãi mãi cũng chìm sâu trong đui mù lầm lạc. Chính vì thế, điều quan trọng đầu tiên để có được ánh sáng, để nhìn thấy ánh sáng đó chính là “đôi mắt sáng”. Nếu đôi mắt của I-sai ngày xưa chỉ nhìn thấy ‘diện mạo bên ngoài” thì với cái nhìn của Thiên Chúa, tiên tri Samuel đã “nhìn sâu tận đáy lòng”; và vì thế, cậu con trai út Đa-Vít đã được xức dầu tấn phong làm vua Ít-ra-en (BĐ 1). Tất cả chúng ta đều cần được trang bị “đôi mắt của Thiên Chúa”, tức là đôi mắt của lòng tin, cậy mến, là đôi mắt của lòng khiêm hạ, sám hối ăn năn, là đôi mắt của trái tim yêu thương quảng đại. Để có được “đôi mắt sáng thiêng liêng” nầy, chúng ta phải gắng sức thanh lọc cái nhìn, gột rửa phán đoán, tẩy trừ thiên kiến, để ánh nhìn về Thiên Chúa và nhìn đến anh em càng ngày càng rõ nét hơn, trong sáng hơn, chính xác hơn. Cũng chính vì mang nặng những chiếc “mặt nạ cồng kềnh”, những “đôi kính đen” của giả hình, kiêu căng, hợm hĩnh, đầy đố kỵ ghen ghét hận thù, mà với với bao nhiêu dấu lạ cả thể, như với dấu lạ “người mù từ lúc mới sinh được sáng mắt” trong chuyện kể của Tin mừng hôm nay, những ông biệt phái vẫn không nhận ra “Đấng Thiên Sai Cứu Thế nơi con người Giêsu Na-da-rét” để cuối cùng hè nhau đóng đinh Ngài vào thập giá. Trong khi đó, người mù vừa được chữa lành, bằng một đức tin đơn sơ khiêm hạ, lần đầu tiên diện kiến đã “quỳ xuống thân thưa: “Lạy Ngài Con Tin”. (TM).
Mùa Chay, phải chăng là Mùa để chúng ta vứt bỏ “chiếc mặt nạ cồng kềnh”, “đôi kính đen tăm tối” của cái tôi tội lối, biếng lười, gian dối, ích kỷ, ghen ghét, tham lam…và bao nhiêu tính hư tật xấu khác, để mang lấy “đôi mắt mới của Thiên Chúa” là niềm tin sống động, đức cậy vững bền, đức ái cụ thể, với cõi lòng sám hối khiêm hạ, với nhiệt tình phục vụ yêu thương, với quyết tâm hy sinh từ bỏ…Đó cũng chính là điều mà trong BĐ 2, Thánh Phaolô trong thư gởi giáo đoàn Ê-phê-sô đã nhắc bảo chúng ta: “xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng, mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công bình chân thật…”
2. Để có “đôi mắt của Thiên Chúa” hãy để Thiên Chúa chạm đến:
Nhưng không dễ gì chúng ta tự mình có được “đôi mắt của Thiên Chúa”, đôi mắt sáng thiêng liêng” thật sự để quan chiêm những thực tại thần linh, để nhìn ra những chân lý của ơn cứu độ. Nếu không gặp gỡ Đức Kitô, để Ngài lấy bùn trộn nước miếng xức lên đôi mắt mù, và sau đó vâng lệnh Ngài đi rửa nơi hồ Si-lô-ác, thì mãi mãi anh ta vẫn ngồi lại trong bóng tối mù lòa tội nghiệp. Và vượt qua cái nhìn thể lý với con mắt xác thịt, anh mù từ lúc mới sinh bị cho là “đồ sinh ra trong tội” đó đã lắng nghe tiếng Chúa, đã đón nhận mạc khải của Ngài: “Chính người đang nói với anh đây”, mà anh ta đã thấy được, đã cảm nghiệm được chân lý bằng thái độ giản đơn nhưng đong đầy ý nghĩa sâu sắc trọn vẹn: anh quỳ xuống và thân thưa: “Lạy Ngài con tin”. Trong khi đó, những ông biệt phái trang bị đầy mình những kiến thức thánh kinh và lề luật, nhưng cũng mang đầy những kiêu căng, giả hình và thiên kiến, cùng với trái tim đen tối đầy những mưu thâm chước độc, đố kỵ hận thù…đã mù tịt và điếc lác trước những “dấu lạ” đầy quyền năng và yêu thương của Đấng Cứu Thế, cho dù những dấu lạ đã từng xuất hiện với Ngài từ ánh Sao Bê-lem lúc Ngài chào đời cho đến việc đất động trời lay trên Đồi Sọ khi Ngài tắt thở.
Vâng, phải biết mở lòng ra, phải biết quỳ xuống, phải gặp gỡ Thiên Chúa, phải đối diện với Ngài, phải để Ngài chạm đến. Đó chính là tiếng kèn giục giã của Mùa Chay. Mà Thiên Chúa nào ở đâu xa lạ: Ngài có đây trong bí tích Thánh Thể, Ngài có đây, trong cuộc họp mặt cầu kinh của gia đình, Ngài có đây nơi Tòa Giải tội, Ngài có đây, nơi tràng hạt Mân Côi, Ngài có đây nơi những người ăn xin ta gặp hằng ngày, Ngài có đây trong những nghĩa cử hy sinh và chung thủy của vợ chồng, trong vâng lời hiếu thảo của con cái, trong tha thứ khoan dung của bạn bè…Ngài có đây trong những phục vụ âm thầm nhưng chan chứa yêu thương khiêm hạ, những quyết tâm đầy can đảm nói “không” trước những cám dỗ của ươn lười xác thịt… Và đó chính là sống Mùa Chay, là đang bước đi trong ánh sáng, là trên đường tiến về Phục Sinh.
Và nếu hiểu “Đạo là như thế”, Mùa Chay là như thế, thì chúng ta mãi mãi hoan ca như thánh vịnh đáp ca hôm nay: “Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi”, hay mạnh mẽ như lời Thánh Phaolô trong cuối BĐ 2 hôm nay: “Tỉnh giấc đi hỡi người đang ngủ ! Từ chốn tử vong trỗi dậy đi nào ! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi !”.
Vào thời Chúa Giêsu tại thế, có những người Do thái chịu ảnh hưởng thuyết Platô, tin rằng những đau khổ, bệnh tật phần xác được coi là hậu quả của việc tiền nhân làm bậy. Người Pharisêu cũng lên tiếng tố cáo người mù trong phúc âm đã phạm tội, hoặc cha mẹ anh ta đã phạm tội, nên anh ta mới bị mù. Còn các môn đệ Ðức Giêsu thì thắc mắc không biết tại tội anh ta hoặc tội của cha mẹ anh, khiến anh bị mù? Ðó cũng là điều mà tiền nhân ta thường nói: ‘Ðời cha ăn mặn, đời con khát nước’.
Lên tiếng khẳng định rằng người mắc bệnh mù từ khi mới sinh không phải do tội lỗi của ai gây ra, Ðức Giêsu trộn đất bùn với nước miếng rồi xoa vào mắt người mù và bảo anh ta đi rửa mắt ở hồ Silôác để được chữa lành. Nước miếng được y sĩ đông cũng như tây thời xưa dùng để chữa bệnh. Tuy nhiên theo lối suy luận thông thường thì việc trộn bùn vào nước miếng để chữa bệnh mù xem ra có vẻ lạ kỳ và còn thiếu vệ sinh. Dầu vậy, cảm thấy mất mát và buồn tủi vì không được nhìn thấy người và cảnh vật từ nhỏ, người mù sẵn sàng cộng tác với đường lối chữa trị của Chúa. Thế nên người ta mới nói: ‘Có hay đau mắt mới thương người mù’. Anh ta liền đến hồ rửa mắt và được phục hồi nhãn quang.
Sau khi anh được chữa khỏi thì xẩy ra cuộc tranh cãi làm sao người mù đươc sáng mắt. Vai chính bây giờ là người mù. Những nhân vật đóng những vai phụ khác trên sân khấu là người hàng xóm láng giềng, nhóm người Pharisêu, nhóm người Do thái và cha mẹ người mù. Còn Chúa Giêsu thì tạm thời lui vào hậu trường, để rồi lại xuất hiện trong màn chót. Trong số những người láng giềng, có người ngạc nhiên hỏi sao anh ta được khỏi, người khác lại tưởng không phải là anh ta, nhưng là ai khác cũng giống anh ta. Việc Chúa chữa người mù xẩy ra vào ngày Sabát là ngày cấm làm việc. Do đó nhóm người Pharisêu lại hỏi: sao anh ta được chữa lành? Có người nói ông Giêsu không phải là người của Thiên Chúa vì không giữ luật ngày Sabát. Người khác lại nói một người tội lỗi làm sao có thể làm việc chữa lành được như vậy?
Lúc này đến nhóm người Do thái có chức quyền vào cuộc. Họ hỏi cha mẹ người mù xem anh ta có phải là con ông bà không và làm sao anh ta được khỏi? Ông bà nhận anh ta là con mình. Còn việc làm sao anh ta được chữa khỏi, họ bảo để đương sự trả lời. Ðúng ra họ sợ người Do thái làm khó dễ nếu ai tuyên xưng Ðức Giêsu là Ðấng Kitô (Ga 9:22). Nhóm người Do thái lại gọi người mù lại tố cáo ông Giêsu là người tội lỗi. Câu trả lời hiển nhiên của người mù khiến cho nhóm người Do thái phải câm miệng: ‘Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã mở mắt người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được việc như vậy’ (Ga 9:32-33). Người Do thái không tìm được lý do nào để bác bỏ lý lẽ bình dị và hiển nhiên của người mù. Thế nên để trả đũa, họ đã dùng lời thoá mạ người mù rồi trục xuất anh ta ra khỏi đền thờ.
Nghe nói người mù bị trục xuất, Ðức Giêsu lại tái xuất hiện trên sân khấu, hỏi xem anh ta có tin vào Người không? Người mù tuyên xưng đức tin: ‘Dạ thưa, con tin’ (Ga 9:37). Cái tiến trình nhận lãnh đức tin của người mù đi qua ba giai đoạn, cũng gần giống tiến trình đi đến đức tin của người phụ nữ Samari tuần trước. Trước hết anh ta coi người chữa bệnh mù của anh như là một người mà thiên hạ gọi là ông Giêsu (Ga 9:11), rồi gọi Chúa là một ngôn sứ trước mặt người Pharisêu (Ga 9:17), và cuối cùng tuyên xưng Người bởi Thiên Chúa mà đến trước mặt người Do thái (Ga 9:35).
Thái độ của người mù khác hẳn với thái độ của người Pharisêu. Mặc dù bị nhóm người Pharisêu và người Do thái áp đảo và doạ nạt, người mù vẫn tỏ ra bình tĩnh, bác bẻ lý lẽ và những lời tố cáo của đối phương một cách thông minh. Người mù còn tỏ ra can đảm tuyên xưng đức tin vào Ðức Kitô mặc dù biết mình sẽ bị khai trừ ra khỏi đền thờ. Ðối với người Pharisêu, mắt tự nhiên của họ có thể nhìn thấy người mù được chữa lành, nhưng họ không nhận ra việc Ðức Kitô làm là do bàn tay Thiên Chúa. Họ không nhận thức được rằng Ðức Kitô cũng là chủ của ngày Sabát. Và họ cũng không nhận thức được rằng Thiên Chúa muốn cho loài người làm việc thiện hảo vào cả ngày Sabát nữa.
Bài trích sách Samuen quyển thứ nhất cho ta một ví dụ về việc xét đoán sai lầm của loài người. Ông Samuen được Chúa sai đến xức dầu cho một trong các con của ông Giesê lên làm vua. Khi nhìn thấy diện mạo cao lớn của Êliáp, Samuen tưởng đó là người phải được xức dầu tấn phong làm vua. Nhưng Chúa bảo Samuen: ‘Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Thiên Chúa thì thấy tận đáy lòng’ (l Sm16:7). Thiên Chúa muốn chia sẻ với ta cách thế nhìn coi và nhận định sự vật cách trung thực như Thánh Phaolô ghi nhận trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô: ‘Xưa kia anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái sự sáng’ (Ep 5:8).
Lời nguyện xin cho được thấy ánh sáng chân lý:
Lạy Ðấng toàn năng, con xin tạ ơn Ngài đã ban cho con
được nhìn thấy ánh sáng tự nhiên
và còn được thấy ánh sáng đức tin qua cha mẹ và người đỡ đầu.
Xin dạy con biết nhìn người và sự vật dưới ánh sáng chân lý
Nếu con bị mắc bệnh mù loà thiêng liêng như người Pharisêu,
xin cho con được nhận thức rằng con bị mù quáng
để con tìm đến Thầy thuốc thiêng liêng hầu được chữa trị.
Ðược phản chiếu ánh sáng siêu nhiên từ trời cao thẳm,
con lại được bước đi trong ánh sáng chân lý. Amen.
Chúng ta có thể nói cho nhau rằng: Chúa Nhật hôm nay là “Chúa Nhật hạnh phúc”. Bởi vì trọng tâm của sứ điệp phụng vụ chính là bài “TÁM MỐI PHÚC THẬT”, trong loạt “BÀI GIẢNG TRÊN NÚI” mà Đức Kitô đã long trọng công bố vào buổi khởi giảng Tin Mừng của Ngài. Đây cũng chính là trọng tâm sứ điệp mà Đức Kitô muốn ký thác cho muôn thế hệ Kitô hữu và cho toàn nhân loại như một “TIN MỪNG”, một định hướng sống, một trật tự luân lý mới và như một “cánh cửa của niềm hy vọng” để qua đó, chúng ta tiến bước vào miền hạnh phúc đích thực, vào “NƯỚC TRỜI”.
Cuộc sống đức tin đó là không ngừng hoán cải để sống theo Tin Mừng Tám Mối Phúc Thật; và giờ đây, chúng ta cùng sám hối để xứng đáng cử hành Tiệc Thánh.
Giảng Lời Chúa:
Trong những ngày Mùa Xuân đang về trên ngưỡng cửa, Tết đang trở lại trên mọi nẽo đường quê hương, chúng ta đang thấy tràn ngập trên những cánh thiệp chúc xuân, những hàng quà đón Tết, những trang trí từ ngoài đường phố cho đến tận trong nhà…đâu đâu cũng có những lời “CHÚC XUÂN, CHÚC TÊT” truyền thống thân thương: Năm Mới hạnh phúc, Mùa Xuân an khang, sức khỏe dồi dào, làm ăn phát đạt…Phải chăng đó là những biểu hiện chân chất của những ước mơ ngàn đời của nhân loại trước một thế giới vẫn còn dang dở, một cuộc sống vẫn hằn vết thương đau khổ lụy.
Tuy nhiên, những lời chúc ấy xem ra chỉ là những “sáo ngữ quen thuộc” chứ không là những giải pháp khả thi, càng không là phương cách tối hảo để dẫn bước con người tới hạnh phúc đích thực. Chính vì thế, có không ít người đã thất vọng não nề ngay cả khi Mùa Xuân đang đến:
Tôi có chờ đâu có đợi đâu
Đem chi Xuân đến gợi thêm sầu.
Với tôi xuân đến như vô nghĩa,
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau. (Chế Lan Viên)
Phải chăng đó cũng chính là kinh nghiệm ngàn đời của nhân loại mà ngay từ thuở hồng hoang Tổ Tông loài người đã từng nếm trãi. Bởi vì chính lúc hai ông bà A-đam-E-Va với tay hái “TRÁI CẤM HẠNH PHÚC”, tưởng đâu rằng một chân trời hạnh phúc huy hoàng mở ra trước mắt, thì cũng là lúc “thiên đàng sụp đổ”, nhường lại một kiếp nhân sinh đầy khổ lụy thương đau hun hút nối dài. Thứ “Trái Cấm hạnh phúc” đó cho đến mãi hôm nay vẫn còn là một sức cuốn hút ghê gớm, bởi vì nó đang mặc những lớp áo dễ thương, gần gũi với những nhu cầu của đời thường cuộc sống: tiền bạc, phương tiện, sắc đẹp, danh tiếng, bằng cấp, quyền lực, tình yêu, xác thịt, tận hưởng…Nhưng sau tất cả những ánh hào quang hạnh phúc ấy, điểm đến chung cuộc vẫn là nấm mồ quạnh quẽ và chiếc đầu lâu trơ trọi.
1. Hạnh phúc của Nước trời:
Thiên Chúa tình yêu đã nhập cuộc và dẫn lối đưa đường. Bởi vì nếu không, thì công trình “Tạo dựng” có nguy cơ hoàn toàn sụp đổ. Thiên Chúa muốn cho con người được hạnh phúc, một hạnh phúc đích thực mà Ngài đã thiết dựng ngay từ thuở ban đầu: được chia sẻ hạnh phúc với Ngài, được sống vĩnh cửu, được vào trong một vương quốc chỉ có tình yêu và chân lý, chỉ có tình huynh đệ anh em, chỉ có niềm vui và an bình, chỉ có hòa hợp thuận hòa thay vì rẻ chia thù oán, chỉ có phục vụ trao ban thay vì bóc lột khủng bố…Cái viễn tượng hạnh phúc nầy đã được diễn ngữ Kinh Thánh và lời giảng của Đức Kitô gọi tên là “NƯỚC TRỜI”.
Chúng ta không biết cái viễn tượng “Nước Trời” đầy lý tưởng và huyền diệu đó đến khi nào mỡi hiện thực hoàn toàn trên trần gian. Tuy nhiên, có một điều chúng ta xác tín: đó chính là “Nước Trời đã đến”, đã đến cách đây 2000 năm trong Đấng Em-ma-nu-en sinh ra tại Bê Lem trong một đêm mùa đông băng giá, đã đến trong anh chàng thanh niên Giê-su Người Na-da-rét, con Bác thợ mộc Giuse và Bà Maria, đã đến trong vị Rab-bi khó nghèo nhưng rao giảng bằng những lời quyền năng và những dấu lạ, đã đến trong tên tử tội Giê-su trên đồi Núi Sọ khi trước lúc tắt hơi còn long trọng công bố: “Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với Ta”. Đã đến nơi Nhà Tiệc Ly, trên bờ hồ Ti-bê-ri-át, dọc đường về Em-mau trong Đức Kitô phục sinh từ trong cõi chết….Và kể từ đó, Nước Trời cứ vươn lên đến mọi miền thế giới, đến mọi tâm hồn…
2. Con đường dẫn tới hạnh phúc đích thực: khó nghèo
Thế nhưng, để có được cái hạnh phúc đích thực đó, để đi vào cái Vương Quốc rạng ngời đó, Thiên Chúa đã phải từng bước dạy dỗ con người, thuyết phục con người chấp nhận phương án của Ngài, con đường và giải pháp chính Ngài đề nghị. Trong khi con người cứ mãi loay hoay chạy tìm cái bóng hạnh phúc của “vương quốc trần gian” qua những thực tại chóng tàn, thì Thiên Chúa không mệt mõi giới thiệu con đường hạnh phúc đích thực của “Nước trời”.
Lời của Sứ ngôn Sô-phô-ni-a trong Bài đọc I một hôm nay là một điển hình trong những sứ điệp dạy về con đường hạnh phúc của Thiên Chúa:
“Hỡi tất cả những ai nghèo hèn trong xứ sở,
Những kẻ thi hành mệnh lệnh của Thiên Chúa,
Hãy tìm sự công chính, hãy tìm đức khiêm nhường…
“Số dân Ít-ra-en còn sót lại
Sẽ không làm chuyện tàn ác bất công,
Cũng không ăn gian nói dối…
*Điều chúng ta nên ghi nhận đầu tiên ở đây đó chính là các hình tượng “những ai nghèo hèn”, “số dân Ít-ra-en sót lại”. Trong bình diện “Nước trời”, thì những đối tượng đó chính là những người đang cần ơn cứu độ của Thiên Chúa, là những người không có một bảo đảm vật chất nào để nương tựa, mà chỉ biết đặt niềm trông cậy vào Thiên Chúa, là những kẻ đang khao khát đợi trông Thiên Chúa ra tay nâng đỡ xót thương vì những thiếu thốn, ngặt nghèo và đang bị trăm ngàn lực cản bủa vây giăng mắc. Chính vì thế, họ là những kẻ ưu tiên được Thiên Chúa trao gởi cho Tin Mừng cứu độ.
*Nối tiếp truyền thống của các sứ ngôn và đưa tới một bình diện cụ thể hơn, rõ nét hơn, Đức Kitô đến loan báo: “Phúc cho ai khó nghèo, vì Nước Trời là của họ”. Toàn bộ bài giảng “Tám Mối Phúc Thật” mà tin Mừng Matthêô vừa nhắc lại cho chúng ta là “bản đúc kết” súc tích về con đường hạnh phúc đích thực Thiên Chúa đề nghị cho con người và cũng là “lời chúc thân thương của Thiên Chúa” dành cho những ai đang dấn thân trên con đường phúc thật ấy.
*Để cảm nhận được những lời chúc phúc nầy, chúng ta cứ mở Tin Mừng.
- Giàu có như ông ty trưởng Thuế vụ Gia-kê, nhưng ông vẫn là “kẻ nghèo có phúc”, vì ông đã dám tước bỏ cái địa vị cao sang để trèo lên cây sung mà nhìn Đức Kitô, rồi sau đó là cuộc đổi đời để yêu thương và chia sẻ.
- Bụi đời như cô gái làng chơi M.Mađalêna, nhưng lại là “kẻ nghèo có phúc” vì cô đã biết nhỏ những giọt nước mắt sám hối để xin ơn tha thứ.
- Phản bội như Phêrô 3 lần chối Chúa, nhưng cũng là “kẻ nghèo có phúc” vì ông đã khóc lóc trở về.
- Trần trụi khốn nạn như tên trộm bên hữu Chúa vào chiều Thứ Sáu Khổ nạn, nhưng anh ta là “kẻ nghèo có phúc” khi biết ngước mắt về phía Chúa để thân thưa: “Xin nhớ đến tôi khi Ngài vào Nước Ngài hôm nay”, và tức khắc đã được đáp trả: “Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi”.
Và chúng ta không quên dụ ngôn “Người Pharisiêu và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện”. Chúa Giêsu đã kết luận: “Người nầy ra về sẽ nên công chính, còn người kia thì không”. Người được nên công chính đó chính anh chàng thu thuế đứng cuối đền thờ đấm ngực ăn năn: “Lạy Chúa, xin xót thương con, vì con là kẻ có tội”. Quả thật anh chính là “kẻ nghèo có phúc”.
Và nối tiếp “đường đi của Tin Mừng” đó, suốt 2000 năm nay đã có biết bao nhiêu “kẻ nghèo có phúc”, như Anê, Cê-ci-li-a, Au-gus-ti-nô, Mo-ni-ca, Tê-rê-xa hài đồng, Phan-xi-cô As-si-si…như cha thánh Maximilien Kolbe, như Mẹ Á Thánh Têrêxa thành Calcutta, như Á Thánh An-rê Phú Yên, Các Thánh Tử đạo Việt nam…và hằng ngày, khắp nơi hôm nay, có biết bao nhiêu người dám “đập bể bình dầu thơm quí giá cuộc đời”, dám “bán đi những thửa ruộng màu mỡ cuộc sống” để phục vụ Đức Kitô trong đời thánh hiến, trong chức linh mục, trong vai trò giáo lý viên, tông đồ giáo dân…Trước mặt người đời, trong bậc thang xã hội hoặc với sinh mệnh chính trị, có thể họ là những kẻ thấp cổ bé miệng, là những người bị trù dập bách hại, là những thức “rác rưởi bỏ đi”, nhưng, như lời Thánh Phaolô trong Bài Đọc II hôm nay: “Những gì thế gian cho là điên dại thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh…”.
3. Con đường phúc thật hôm nay
Và nếu hiểu “Khó Nghèo” là như thế, cái phúc đích thực là như thế thì tất cả chúng ta đều là những “kẻ nghèo”, hay đúng hơn “phải trở nên khó nghèo”, bởi vì đó chính là đòi hỏi của Tin Mừng, là điều kiện để chiếm lĩnh Nước trời, để đi vào hạnh phúc vĩnh cửu. Thế nhưng, quả thật ngày hôm nay người ta hay dị ứng với chữ ‘nghèo”, mặc cảm với cái nghèo; và nói tới nghèo là cứ nghĩ ngay tới “miếng cơm manh áo, cái xe, cái nhà, con đi học, bệnh tật thuốc thang…”. Và cũng chính vì thế càng lúc con người càng trở nên nghèo nàn thực sự về phương diện tâm linh, khi cứ tất bật toan tính toàn chuyện làm ăn, “phá lẫm cũ xây lẫm mới”, để rồi khép kín trái tim và tâm hồn trước Thiên Chúa và anh em đồng loại.
Nếu Đức Kitô đã chọn sinh ra trong hang lừa máng cỏ, đã công bố Tin mừng cho những kẻ nghèo, đã chết như một tội nhân trần trụi trên khổ giá, đã lập Giáo Hội trên nền tảng các tông đồ là những dân chài chất phát, đã chấp nhận trở thành tấm bánh ly rượu để hiện diện mọi ngày với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể, hoặc trở nên đồng dạng đồng hình với những kẻ đói khát, tù tội, khổ đau…thì không có lý do gì chúng ta, những người Kitô hữu, lại cứ sống khác đi, lại chọn lựa con đường hạnh phúc khác với lối đi nẽo bước của Ngài.
Tuy nhiên, con người vốn bản tính hư hèn, yếu đuối, thích chuộng cái giàu sang của thế gian, thích tìm cái thoải mái, dễ chịu, hạnh phúc trần tục và thường quay lưng trước những đòi hỏi của Tin Mừng (như người thanh niên giàu có đã sụ mặt bỏ đi khi nghe Chúa Giê-su mời gọi: “Con hãy về bán hết mọi của cải, bố thí cho kẻ nghèo, rồi đến theo Ta”)…Cho nên chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau biết sống khó nghèo thực sự, như lời nguyện sau đây của đại thi hào Tagore:
Chỉ mong Ngài lấy đi
Mong chẳng còn gì thuộc về con
Mong chẳng còn gì là của con
Để con được trắng tay
Con chỉ còn Ngài để giữ lấy
Con được chọn Chúa mãi là của con
Chỉ mong Ngài xoá đi
Mong chẳng còn gì để chiếm hữu
Mong chẳng còn gì ràng buộc con
Để con được ngước lên
Con tìm được Ngài là chân lý
Con được cùng Chúa đồng hành luôn
Chỉ mong Ngài cất đi
Mong chẳng còn gì để nắm giữ
Mong chẳng còn gì mà tự tôn
Để con chỉ biết yêu
Yêu một mình Ngài trọn đời con
Con nhìn nhận Chúa chính Nguồn Tình Yêu.
1/ Đức Giêsu nói với các môn đệ: Người mù từ khi mới sanh không phải vì anh ta hay tại cha mẹ anh đã phạm tội…nhưng là để các việc Chúa Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. Khi tôi bị những bất hạnh trong đời, tôi đã có cảm nhận gì? Tôi đã đón nhận những người bệnh tật trong xã hội thế nào?
It was no sin, either of this man or … Rather, it was to let God"s works show forth in him. ( Ga. 9, 2-3 )
2/ Khi Đức Giêsu chữa lành cho người mù xong, trong nhóm Pharisêu có người trách là Đức Giêsu không thể là người của Thiên Chúa được, vì đã không giữ ngaỳ Sa-bát! Bạn có sáng suốt để làm việc bác aí hay chỉ giữ luật và lên án người khác? Trong gia đình bạn đã chú tâm đến những việc nào?
…the Pharisees:"this Man cannot be from the God, because he does not keep the Sabbath" ( Ga. 9, 16 )
3/ Người mù nhận biết và tin Đức Giêsu, nên Ngài nói: "Tôi đến thế gian là chính để xét xử những người không xem thấy được, và kẻ xem thấy lại nên đui mù." Tôi có nhân mình đui mù dốt nát, để thấy được Anh sáng của Chúa không? Người Pharisêu đã tự phụ nên họ đui mù, tôi có giống họ không ?
Jesus said: I came into this world to divide it, to make the sightless see and the seeing blind." ( Ga.9, 39-42 )
4/ Thánh Phaolô khuyên: "…bây giờ trong Chúa anh em là Anh Sáng, anh hãy ăn ở như con cái Anh Sáng. Nó sẽ đem lại tất cả những gì là luơng thiện, công chính và chân thật." Bạn có còn là bóng tối nữa không,Tại sao? Cách ăn ở của bạn trong xã hội như thế nào? Hoa quả của Anh Sáng là gì?
…but now you are light in the Lord. Well … Light produces goodness, justice and truth. ( Eph.5, 8-9 )
5/ Sách Tiên tri Sa-mu-en viết: " …Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng." Thánh Phaolô còn nhấn mạnh thêm: những gì bị vạch trần đều do Anh Sáng làm lộ ra…Tôi đã dấu kín những gì mà tưởng Chúa không biết? Lương tâm của tôi ở đâu? Tôi đã có cái nhìn bao la của Chúa hay chỉ nhìn theo ích kỷ và đam mê?
Man sees appearance but the Lord looks into the heart.,…all that then appears is light. (1Sam.16,7. Eph.5,13)
B-Câu Kinh Thánh tôi chọn để làm Châm ngôn Sống: ( The Best God"s Word )
*NGƯỜI KHÔNG XEM THẤY ĐƯỢC THẤY, KẺ XEM THẤY LẠI NÊN ĐUI MÙ. (Ga.9,39)
C- Tôi phải làm gì theo Lời Chúa dạy hôm nay: ( So what am I doing? / For action )
* Tôi có thể chọn 1 trong 5 gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để thực hành.
D- Tôi cầu nguyện và Sống lời tôi cầu nguyện: ( I pray and practice / Prayer for action )
1- Lạy Chúa, Đức Giêsu đã nói: Bao lâu thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng của thế gian. Xin Chúa chỉ cho con nhận ra mình còn tối tăm, để luôn tìm đến Chúa mở mắt tâm hồn cho con được thấy.
2- Thánh Phaolô đã tha thiết khuyên: Xưa kia anh em là bóng tối, nhung bây giờ trong Chúa anh em là Anh Sáng. Xin dạy con biết từ bỏ con người lầm lạc để trở nên lương thiện, công chính và chân thật
Lời hay ý đẹp: CẦN TẬP NHỮNG ĐỨC TÍNH NHÂN BẢN LÀM NGƯỜI TRƯỚC, RỒI TU LUYỆN CÁC NHÂN ĐỨC SIÊU NHIÊN, SẼ GIÚP BẠN SỐNG ĐẠO MAU TRƯỞNG THÀNH..
"Ai dã phạm tội để nó phải sinh ra mù lòa như vậy?".
Theo một quan niệm khá phổ biến trong thế giới cổ thời, thì có mọi liên hệ mật thiết giữa tội lỗi và bệnh tật thể lý (Xh 9, 1-12; Tv 38, 2-6 ; Ed 18, 20). Trong trường hợp các kẻ tàn tật bẩm sinh, một số giáo sĩ Do thái cho rằng là tại cha mẹ, kẻ khác bảo do chính đứa bé mà chứng tật đã phát sinh trong thời kỳ mang thai (Strack-bill. t.II, tr.528).
"Ta là ánh sáng thế gian": ở đây còn rõ ràng hơn ở 8,12. "ánh sáng" không phải là một định nghĩa siêu hình về con người Chúa Giêsu, nhưng là một cách mô tả ảnh hưởng của Người trên vũ trụ; Người là ánh sáng tạo nên cuộc phán xét và cứu rối trần gian.
"Người Do thái đồng lòng trục xuất anh ta khỏi hội đường". Vào thời biên soạn Tin Mừng, chắc chắn biện pháp trục xuất còn được thi hành trong dân Do thái. Có 3 loại. Nhẹ nhất là khiển trách (nozlpha) và phạm nhân bị tách biệt khoảng một tuần, hay hơn nữa là một tháng. Bậc thứ hai là loại trừ (nddui): trong vòng một tháng, phạm nhân phải ngồi bệt dưới đất mặc tang chế, để râu tóc mọc dài, không tắm rứa, đứng "ở nơi riêng biệt trong giờ cầu nguyện chung. Bậc thứ ba là trục xuất (herem), hình phạt đáng sợ nhất: nó kéo dài vô hạn định; đương sự có thể bị tịch thu tài sản; mọi liên lạc, dù là riêng tư, với tội nhân đều bất hợp pháp (Strack-bill. IV, 292-333). Hình như các đầu mục nhân dân đã áp đụng hình phạt này đối với những người theo Chúa Giêsu.
"Chúng ta biết Thiên Chúa không nhậm lời kẻ tội lỗi”. Đó là một chân lý phổ thông trong thế giới Thánh kinh (Is 1,15; Tv 66,18; 109,7 ; Cn 15,29 ; G 7,9; 5,13; Ga 16,23-27; 1Ga 3, 21-22).
"Để kẻ thấy được lại đui mù”: Dù ý nghĩa văn phạm của phân từ được dùng ở đây là thế nào chăng nữa (ngay cả người Hy Lạp, đặc biệt thánh Gioan Kim khẩu, cũng thú nhận trong: chữ ‘hin’ không luôn luôn chỉ mục đích, mà thỉnh thoảng chỉ một hậu quả), thì sự đui mù của các kẻ cứng lòng tm không phải là mục đích Thiên Chúa muốn trong mầu nhiệm tiền định, nhưng chỉ là một trong các hậu kết của thái độ họ đối với Chúa Kitô.
KẾT LUẬN
Trường hợp anh mù soi chiếu một cách sỗ sàng cảnh ngộ cụ thể của đức tin trong thế gian này: một cảnh ngộ bi đát. Việc nhìn nhận Chúa Giêsu Kitô và lòng trung thành với ánh sáng đòi hỏi người đó một sự đoạn tuyệt anh hùng; anh phải vượt thắng tất cả các áp lực và sợ hãi. Đức tin của anh bị thế gian truy nã, vì đức tin là chọn lựa theo Con Người trong cuộc chiến giữa ánh sáng và tối tăm. Nhưng trong cuộc tranh chấp này, đức tin là chiến thắng của sự sống.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Câu chuyện người mù chiếu dọi một luồng sáng gay gắt trên hành trình của ánh sáng trong thẳm sâu tâm hồn con người, trên các chướng ngại vật mà ánh sáng gặp phải và trên cuộc tranh chấp của nó với quyền lực tối tăm. Con người vừa là ánh sáng vừa là bóng tối. Họ mang trong mình khả năng trở thành mù lòa, khả năng tự viện ra nhiều lý do chính đáng để khỏi nhìn xem, khả năng tự tạo cho mình nhiều xác tín sai lạc, khả năng từ chối mở mắt khi bảo mình trông thấy. Nhưng ánh sáng trong họ cũng không kém đòi hỏi. Nó bắt buộc phải xét lại biết bao vấn đề, phải từ bỏ biết bao thói quen, phải đoạn tuyệt đôi khi với môi trường sống. Vì những thứ ấy dễ làm cho cái nhìn của con người bị sai lạc. Con người phải tìm lại cho được lòng trong trắng của tuổi ấu thơ vậy. Đó là tất cả những gì mà câu chuyện người mừ bẩm sinh muốn nói. Câu chuyện ấy đã diễn tả thành bi kịch lời Chúa Giêsu sau đây: đèn của thân thể là con mắt. Nếu mắt người lành lặn thì toàn thân người sẽ sáng láng. Nhưng nếu mắt người đau yếu, toàn thân ngươi sẽ ở trong tối tăm. Vậy nếu ánh sáng trong ngươi trở nên tối tăm, thì sẽ tối tăm biết mấy" (Mt 6, 22-23).
2) Câu chuyện người mù từ thuở mới sinh cho thấy cảnh ngộ của người tín hữu có thể bi thảm đến chừng nào (ngược với ý kiến của một số nhà hiện sinh vô thần xem đức tin như là một sự đào thoát an thân). Đức tin có thể đòi buộc ta phải đoạn vệ dữ dội với thế gian và phải anh hùng tuyên xưng chân lý. Việc nhìn nhận Chúa Giêsu như là Đấng được Thiên Chúa sai đã khiến anh mù bị khai trừ ra khỏi cộng đoàn. Người ta đuổi anh như đuổi một tội nhân. Ngay cả cha mẹ anh cũng từ chối bênh vực anh nữa. Đức tin bấy giờ có vẻ cô đơn. Nó bị tầm nã. Nhưng nó cần phải lượt thắng sự sợ hãi, lòng kính trọng của thế nhân, nỗi lo âu về dư luận người đời và phải cố gắng độc lập để đạt đến sự tự do đích thực, dù phải chịu muôn ngàn đau đớn.
3) Cử chỉ chúa Giêsu lấy bùn hòa với nước miếng xem ra kỳ dị; tuy nhiên có thể đoan chắc rằng người không để sự gì xảy ra cách ngẫu nhiên. Trước tiên, việc đó gợi cho ta nhớ đến câu chuyện trong Sáng Thế Ký mô tả Thiên Chúa lấy bùn đất tạo dựng con người đầu tiên (St 2,7). Khi bảo anh chàng kia bị mù là để công việc Thiên Chúa được tỏ hiện trong anh nhờ trung gian Đấng Ngài sai đến, Chúa Giêsu muốn tự giới thiệu mình như là kẻ có sứ mệnh tiếp tục công việc tạo dựng đã khởi đầu song chưa hoàn tất. Ngay từ những câu đầu tiên, Người tỏ ra như là Đấng được Tạo Hóa sai đến, làm lại cũng một cử chỉ để chữa lành con người mà tật nguyền là dấu chỉ của một sự thiếu thốn sâu xa hơn.
4) Giữa loài người chúng ta, có những kẻ không nhìn xem được; họ biết điều đó nhưng cảm thấy không thể chữa mình lành. Người mù bẩm sinh trong Tin Mừng là biểu tượng, là đại diện của họ: Và cũng như Chúa Giêsu đã làm cho bệnh nhân đó được lại mọi quan năng của con người, thì Người cũng mang đến cho những ai ý thức rõ sự ngu dốt và tối tăm của mình, ánh sáng nội tâm để làm tri thức đích thực; Người ban cho họ khả năng hiểu biết, phân biệt cái gì là thật và cái gì chỉ được bộ mã bên ngoài. Ngược lại, có nhiều kẻ chẳng ý thức tí nào về sự đui mù của mình; họ tự mãn về điều họ biết và không ao ước gì khác nữa. Những người đó bị đóng kín trong sự hiểu biết riêng tư, họ sẽ chẳng bao giờ đi xa hơn, và sẽ không tài nào đón nhận được những gì mà Chúa có thể cho họ khám phá một ngày nào đó.
5) Tại sao có nhiều đau khổ trong trần gian, mà ta không biết được nguyên do, mục đích. Đừng vội kết luận rằng những kẻ bất hạnh đang gánh chịu chúng là nạn nhân của một định mệnh mù quáng nào đó. Sớm muộn gì rồi Thiên Chúa cũng sẽ làm rạng rỡ nơi họ sức mạnh và lòng nhân ái của Ngài (Rm 8,28). Chính vì mục đích ấy mà Tobia đã bị đui mù, Gióp rơi vào cảnh cùng khốn và Ladarô phải bị chôn vùi trong nấm mộ.
1) Tường thuật này trình bày hai tiến trình: tiến trình từ mù tới sáng của người mù bẩm sinh, và tiến trình từ sáng tới mù của các người biệt phái:
TIẾN TRÌNH MÙ THÀNH SÁNG:
- Khởi điểm: anh hoàn toàn mù (c 1)
- Bước 1: Sau khi được Đức Giêsu ra tay can thiệp, ban đầu anh chỉ thấy Đức Giêsu là “một người” (c 11)
- Bước 2: Anh nhìn nhận Ngài là ”một vị ngôn sứ” (c 17)
- Bước 3: Ngài là “một người thánh thiện”, vì “Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi” (c 31).
- Buớc 4: Ngài là Kẻ do Thiên Chúa sai đến, vì “nếu người ấy không do Thiên Chúa sai đến mà không thể làm nên sự gì” (c 33).
- Điểm tới: Đức tin hoàn toàn: “Anh thưa, Lạy Chúa, con tin, rồi anh phục xuống lạy Ngài” (c 38)
TIẾN TRÌNH TỪ SÁNG THÀNH MÙ:
- Khởi điểm: một thái độ tự mãn tự kiêu. Họ luôn miệng nói “Chúng ta biết” (cc 24.19), “Chúng ta thấy” (cc 39.41), “Bộ chúng ta cũng mù ư” (c 40).
- Bước 1: Ngạc nhiên khi thấy anh mù được sáng, và tìm hiểu “làm sao mà anh thấy được?” (c 10), “Ông ấy đâu?” (c 12).
- Bước 2: Khi biết kẻ làm phép lạ là Đức Giêsu, họ phân vân: kẻ thì nói “người ấy không phải bởi Thiên Chúa”, kẻ khác bảo “Lẽ nào người có thội có thể làm những dấu lạ lùng như thế?” (c 16).
- Bước 3: Ngoan cố chỉ nhìn nhận Môsê và tiên thiên loại bỏ bất cứ ai khác: “Còn người ấy, chúng ta không biết bởi đâu mà có” (c 29).
- Điểm tới: hoàn toàn mù về mặt thiêng liêng (cc 40.41). Sự mù này còn nguy hiểm hơn sự mù thể xác: “Nhưng các ngươi lại nói “Chúng tôi sáng mắt” nên các ngươi vẫn mắc tội”.
2) Tường thuật này cũng cho ta thấy được một cách sống động đường đi của ánh sáng vào lòng con người, những chướng ngại vật mà ánh sáng đã gặp trên con đường đó, và trận chiến mà ánh sáng đang phải giao tranh với quyền lực của tối tăm. Bởi vì con người vừa là ánh sáng vừa là bóng tối, nơi con người đã có sẵn khả năng để mù quáng: đó là khả năng tự đặt cho mình những lý do rất tốt để khỏi nhìn thấy, tự tạo cho mình những điều hiển nhiên giả tạo và từ chối mở mắt vì bảo rằng mình “trông thấy”. Ấy là bởi vì ánh sáng rất đòi hỏi. Ánh sáng bó buộc con người phải xét lại biết bao điều, từ bỏ biết bao thói quen và đôi khi phải đoạn tuyệt với cả một môi trường sống. Cái nhìn của con người đã bị rối loạn vì tất cả những điều đó. Cho nên con người cần phải tìm lại sự trong trắng của thời thơ ấu. Đó là ý nghĩa của hoạt cảnh chữa lành người mù bẩm sinh. Hoạt cảnh này chẳng khác gì một vỡ kịch diễn lại một lời nói của Đức Giêsu: “Đèn của thân thể là con mắt. Vậy nếu mắt ngươi lành lặn thì toàn thân ngươi sáng láng. Nhưng nếu mắt ngươi hư hỏng thì toàn thân ngươi sẽ sầm tối. Vậy nếu ánh sáng nơi ngươi mà đã tối tăm thì sẽ tối tăm chừng nào!” (Mt 6,22-23).
3) Hoạt cảnh người mù bẩm sinh còn cho ta thấy rõ tình cảnh của người tín hữu bi đát đến mức nào: đức tin có thể đòi ta phải mạnh mẽ đoạn tuyệt với thế gian và phải can đảm tuyên xưng sự thật. Người mù đã bị trục xuất khỏi cộng đoàn vì đã nhìn nhận Đức Giêsu là sứ giả của Thiên Chúa. Người ta xua đuổi anh như xua đuổi một con người tội lỗi. Ngay cả cha mẹ anh cũng từ chối bênh vực anh. Những lúc đó đức tin xuất hiện như một nỗi cô đơn, đức tin bị đuổi bắt. Người mù phải vượt qua sự sợ hãi, lòng vị nễ người khác, mối quan tâm quá mức đến dư luận, và phải kiên trì chinh phục độc lập, bất chấp khổ đau để đến với tự do đích thực, tự do vì Thiên Chúa.
Mù lòa là một nỗi bất hạnh. Thà chết còn hơn bị mù. Người mù nhất là mù từ hồi bẩm sinh, không phải chỉ là một thiệt thòi cho đôi mắt, mà còn thiệt thòi cho toàn thể con người và cuộc đời. Thế giới xinh đẹp này đã chết đi trong lòng họ. Họ không có quan niệm gì về màu sắc, về hình dáng những người thân yêu. Ánh sáng và bóng tối cũng như văn minh tiến bộ cũng như không. Đã vậy, họ còn mang nặng mặc cảm tự ti, bất an, lệ thuộc và bị bỏ rơi.
Vì thế, chúng ta hiểu được nỗi khao khát được sáng, dù chỉ rất lờ mờ. Họ làm bất cứ chuyện gì để được sáng, như người mù bẩm sinh hôm nay đã vận dụng tới cả đức tin:
- Lạy Ngài con tin.
Đức tin của anh thật sáng giá. Anh tuyên xưng đức tin trước tòa án, trước công chúng và trước Chúa Giêsu, Đấng đã làm phép lạ cho anh. Vì tin vào Ngài mà anh bị cha mẹ tránh xa không bênh đỡ, bị hội đồng Do Thái trục xuất ra khỏi cộng đoàn, cắt đứt mọi liên hệ trong một thời gian dài vô hạn định. Người ta lên án anh:
- Toàn thân mày sinh ra trong đống tội lỗi.
Một mình anh cô đơn, đứng riêng một phe, tách biệt khỏi cộng đoàn chỉ vì đức tin. Đức tin làm cho chúng ta cũng phải “chia lìa” với cả những người thân yêu nhất trong gia đình, nhưng lại làm cho chúng ta gần gũi Thiên Chúa hơn cả.
Đức tin của người mù hôm nay cũng giúp chúng ta nhìn lại đời sống đức tin của mình.
Có người đời sống đức tin lên xuống như nhiệt độ của kẻ bị sốt. Nhất là đối với tuổi trẻ mới lớn, đang đứng trước những khúc quanh của muôn giòng thác tư tưởng.
Có người trưởng thành mà đời sống đức tin vẫn cứ lên xuống bất tử, chỉ vì họ sống theo cảm xúc, lệ thuộc vào ngoại cảnh hay vào những người chung quanh. Một đời sống đức tin lung lay như vậy nhất định sẽ không thể nào nhận biết Chúa, sẽ không thể nào nắm vững được Chúa, chưa tin nhận Chúa là Đấng phải tin cậy. Chúa phán:
- Phải thờ lạy Chúa trong tinh thần và chân lý.
Điều đó có nghĩa là phải thờ lạy Chúa với tất cả tấm lòng chân thành vì Chúa nhìn thấy tự bên trong. Nhưng đồng thời còn phải thờ lạy Chúa trong chân lý.
Trên thế giới này biết bao nhiêu người sùng kính và trung thành với giáo chủ của họ hơn chúng ta, nhưng họ không có chân lý hướng dẫn, còn chúng ta, chúng ta có chân lý hướng dẫn, nhưng chúng ta lại không chịu làm theo.
Thực vậy, có những người đời sống đức tin luôn thay đổi theo cảm xúc và tùy theo hứng. Đó là điều rất tệ hại. Họ không giúp ích gì cho ai được, vì chính họ cũng đang chao đảo, ngả nghiêng.
Ngoài ra, có những người cuộc sống trở nên quá êm ả bình thản, không một chút lo âu, không một sự phấn đấu, đức tin của họ cũng sẽ mau phai tàn. Vì cuộc đời quá bình thản, quá dư thừa, khiến họ không còn chiến đấu và cầu nguyện nữa. Trước mặt Chúa chúng ta không có một chiến tuyến nào rõ rệt để phải xử dụng đến đức tin. Đức tin lúc đó như một viên ngọc lu mờ vì không được mài dũa. Chúng ta xin Chúa đánh thức chúng ta dậy đừng để chúng ta sống trong cảnh êm xuôi ru ngủ để rồi xa lìa Chúa.
Sau cùng có những người đời sống đức tin đang vững chắc nhưng lại gặp nhiều thử thách nặng nề của hiểu lầm, của tai ương và bệnh tật. Trong trường hợp này, chúng ta hãy thận trọng. Đừng nhìn vào quá khứ hay hiện tại, nhưng hãy vươn tới tương lai. Phải nhắm tới mục đích của những khó khăn thử thách. Một người càng kiên vững, thì đức tin càng bị tôi luyên cho đến lúc gặp được chính Thiên Chúa.
Đừng để cho nghịch cảnh làm chủ đời sống đức tin. Nhưng hãy noi gương anh mù, can đảm tuyên xưng Chúa trước mặt mọi người vì đức tin đòi hỏi một lập trường công khai và quyết liệt.
Chuyện kể rằng, có một người mù lúc nào cũng kết thúc lời cầu nguyện của mình bằng câu: “Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con”.
Một hôm, người ta dẫn ông đến trước mộ thánh Tôma thành Cantorbery để xin Người chữa cho ông sáng mắt. Ong được nhận lời. Mắt ông liền mở ra. Cảnh vật tưng bừng reo vui trước mắt ông. Khi nỗi vui mừng đầu tiên trôi qua, ông mới chợt nhớ là mình đã quên thêm vào lời cầu nguyện câu kết thúc: “Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con”.
Ông liền trở lại viếng mộ thánh, và xin được mù trở lại nếu điều đó đem lại lợi ích cho linh hồn ông. Thế là ông lại mù như trước.
Người đàn ông trong câu chuyện trên đây tuy bị mù về đôi mắt thể xác, nhưng lại ngời sáng về đôi mắt đức tin. Đôi mắt đức tin của ông bừng sáng khi ông bằng lòng hy sinh đôi mắt tinh anh của thể xác để đổi lấy đôi mắt trong vắt của linh hồn.
Người mù từ lúc mới sinh trong Tin Mừng hôm nay quả là một tấm gương sáng chói cho mỗi người tín hữu chúng ta: Được chữa lành đôi mắt thể xác là một hồng ân cao cả. Nhưng còn tuyệt vời hơn nữa, chính Đức Giêsu đã khai mở đôi mắt đức tin cho anh, để anh nhận ra Người là một ngôn sứ, là người bởi Thiên Chúa mà đến, là Anh sáng của trần gian.
Nhưng đâu phải một sớm một chiều mà anh có được đức tin ngời sáng. Sau khi được sáng đôi mắt thể xác, anh đã phải mò mẫm đi trong đêm tối của đức tin. Anh đã phải vượt qua một chặng đường dài đầy cam go thử thách của tôn giáo, của lề luật, của những người Pharisêu sáng mắt mà như mù lòa. Con đường đi tới đức tin của anh là con đường đầy chông gai, nguy hiểm. Hành trình đức tin của anh cứ bị khựng lại bởi những lời hạch sách, ngăn đe, dọa nạt của giới lãnh đạo tôn giáo.
Cuối cùng, thì anh đã vượt qua cuộc hành trình đầy cam go để đến với đức tin ngời sáng, như đôi mắt của anh vừa được chữa lành. Trong khi người ta phủ nhận Đức Giêsu là người của Thiên Chúa, thậm chí còn kết án Người chữa bệnh vào ngày Sabbat, thì chính anh, người mù từ lúc mới sinh, lại can đảm bênh vực cho Đức Giêsu và dõng dạc tuyên xưng niềm tin của mình: “Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi, còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Jn 9, 31-33).
Lý luận của anh mù đã làm xôn xao giới lãnh đạo Do thái giáo, vì nếu Đức Giêsu là người tội lỗi như họ kết án thì làm sao có thể mở mắt cho người mù được? Hóa ra, người mù thì lại sáng mà người tưởng mình sáng lại hóa ra mù.
Họ mù quáng vì luôn cố chấp trong ý nghĩ lỗi thời, họ cho mình quyền nắm giữ đạo đức truyền thống, nên những gì đi ngược với truyền thống đều là sai lạc, phải loại trừ.
Họ mù quáng vì họ tự cao tự đại, luôn cho mình là người tinh thông luật đạo, lại thánh thiện đức độ hơn người, nên họ không bao giờ nhận mình sai sót lầm lỗi.
Họ mù quáng vì lòng họ chai đá, không cảm thông được nỗi bất hạnh của kẻ mù lòa, cũng chẳng chia sẻ được niềm vui của người được sáng mắt.
Và nhất là họ mù vì họ đã không nhận ra người đã làm cho anh mù được sáng mắt, chính là Đức Giêsu Kitô: “Đấng là ánh sáng thế gian”. Phải sống nhỏ bé trước mặt Chúa cả khi người ta là vua Đavid.
Nguy hiểm biết bao khi luôn cho mình đã nhìn rõ. Trong bao cái chi li của đời sống làm sao chúng ta nhìn thấy hết mọi vấn đề. Cái nhìn vừa mênh mông vừa thiếu sót làm sao! Cái nhìn sai nào cũng gây bất công và đau khổ cho người khác. Tiêu chuẩn để khỏi phải hối hận vì gây đau khổ cho người khác là hãy nhìn bằng đôi mắt xót thương.
Mù lòa thể xác đã là một bất hạnh không ai mong đợi, nhưng mù lòa tâm hồn còn là một tai họa khủng khiếp nhất. Người ta có thể trở nên mù lòa khi cố chấp không đón nhận sự thật: Sự thật về cái yếu đuối bất toàn của mình, sự thật về một Đức Kitô bởi Thiên Chúa mà đến, Đấng là Anh sáng thế gian. Chính người đã tuyên bố: “Sự thật sẽ giải thoát chúng con” (Jn 8, 32). Sự thật chính là Đức Kitô và những gì Người đã loan báo. Tin vào sự thật là tin rằng Người sẽ giải thoát chúng ta khỏi mù lòa thiêng liêng. Tin vào sự thật là tin rằng Người là Anh sáng thế gian. Tin vào sự thật là sẵn sàng bước theo Anh sáng của Người.
Đây là bài tường thuật một phép lạ hay sao? Không phải, Gioan nói lên điều này trong hai chi tiết trong câu 41. Ngài thuật lại bước đường đức tin với đầy đủ chi tiết. Đầu tiên, tất cả đều là những người mù. Cuối cùng, một người được sáng mắt và nhiều người bị mù. Chúng ta gặp gỡ với bóng đêm và với Giêsu – Ánh sáng.
Đó là bóng đêm sự dữ và tội lỗi. Đứng trước người mù từ khi mới sinh ra, các môn đệ muốn tìm hiểu.
- Làm sao người ta lại bị mù từ lúc mới sinh, lỗi tại ai?
Chúa Giêsu gạt bỏ một cách nhìn sai về sự vật: thiết lập quan hệ giữa người tàn tật và tội lỗi. Nhưng Ngài không đưa ra một lối giải thích khác, Ngài chỉ muốn là ánh sáng để chúng ta có thể sống điều chúng ta phải sống.
Điều ác kinh khủng nhất, màn đêm ghê gớm nhất, chính là thiếu vắng sự gặp gỡ này với ánh sáng: “Màn đêm tối, và Ta là ánh sáng”.
Phép lạ sẽ là dấu hiệu lớn lao này: Chúa Giêsu ban cho con mắt để được thấy. Nhưng từ chính dấu hiệu này, người mù hoàn toàn đạt được mục đích khi gặp gỡ Chúa Giêsu – Ánh sáng, và những “Người Do thái” (những người chống đối) thì bị thất bại. Người mù ra khỏi bóng đêm: “Lạy Chúa, tôi tin Ngài”. Còn người Do thái thì dấn mình vào bóng đêm: “Ông Giêsu này là người tội lỗi”.
Người mù tuyệt vời! Bổn mạng của những người tìm kiếm ánh sáng. Người mù một mực hướng tới mầu nhiệm Giêsu mà không để mình bị những “người thông thái” khủng bố, và thậm chí nói khôi hài khi mọi người run sợ. Ở đây Gioan viết một trang hết sức sống động, xen kẽ những câu hỏi và những thái độ tức giận: Người ấy là ai? Người ấy đã làm gì cho anh? Người ấy ở đâu? Người ấy là ai vậy? Và anh, anh bảo người ấy là ai? Người này không từ Thiên Chúa mà đến! Nhưng nếu thế thì làm sao người âý có thể làm được những điều như thế? Anh là môn đệ của người đó sao? Anh là kẻ sinh ra trong tội lỗi!
Họ nói “chúng tôi, chúng tôi là những người thông thài, thếmà họ không thấy gì. Người mù trả lời “tôi không biết gì hết”, và anh ta dần dần thấy ánh sáng. Anh nói: “người ấy”, rồi sau đó lại bảo “Ngài đến từ Thiên Chúa”, và cuối cùng là “Lạy Chúa!”.
Người ta có thể đọc đi đọc lại Phúc Âm mà vẫn không thấy Đức Giêsu. Ngay từ đầu, Gioan không ngừng lặp lại điều đó: “Ánh sáng chiếu soi đêm tối, nhưng đêm tối không hiểu được ánh sáng” (Ga 1,5). Đứng trước người mù “thấy” được Ngài và những người Pharisêu nhìn Ngài mà không thấy Ngài, Chúa Giêsu bắt buộc phải nhận xét điều xảy ra khi Ngài xuất hiện: “Người mù trở nên sáng mắt và người sáng mắt trở nên mù”.
Nhưng tôi biết, tôi thấy! Không, chúng ta đọc trang Phúc Âm này đến trang Phúc Âm khác, ngày này qua ngày khác, và chúng ta chỉ “ cố gắng” để thấy Ngài mà thôi. Chúng ta là những kẻ mù được Chúa Giêsu cho mắt hai lần: lần đầu để nhìn Ngài và lần sau để thấy Ngài. Chúng ta đừng ngần ngại lặp đi lặp lại lời cầu nguyện này cho tới giây phút cuối cuộc đời: “Lạy Chúa Giêsu, xin cho con những con mắt để được thấy Ngài”.
Câu chuyện hôm nay đặt ra trước mầu nhiệm khôn lường của sự từ khước ánh sáng. Phái Pharisiêu không tự truy vấn mình, kiểm thảo mình, lại từ chối sự thật hiển nhiên bằng cách khai trừ người mù được chữa lành. Để hiểu rõ hai chi tiết trong bài Tin Mừng, ta nên lưu ý điểm này là, theo quan niệm thông thường, nước miếng có sức chữa lành. Ta hiểu tại sao Chúa Giêsu đã làm bùn xức vào mắt người mù. Đức Kitô thường ghép hành động thần thiêng của Người vào trong các thực tại tự nhiên khiêm tốn nhất. Đàng khác, sở dĩ người Pharisiêu tố cáo người mù đã sinh ra trong tội, là vì theo đạo lý họ, bệnh tật là hình phạt về một lỗi phạm -ở đây là lỗi phạm của cha mẹ- Đó là điều mà Chúa phản đối. Câu chuyện về người mù đặt ra một cách gay cấn vấn đề đón nhận chân lý như thấy hiện ra khắp nơi trong các bản văn của thánh Gioan. Ở đây ta đứng lên trên cả vấn đề phép lạ và hiệu năng của phép lạ xét như dấu hiệu; ta đứng trước một sự mù quáng tinh thần không chịu nhìn xem chính cái dấu hiệu nữa. Lòng thù ghét có sức tạo nên một trạng thái tâm lý làm cho con người nên đui mù. Khi tâm hồn bị đóng kín lại, nó không còn thấy điều hiển nhiên nữa. Cả đến sự thật bên ngoài khách quan về việc người mù đã lành bệnh, ai ai cũng biết hết thế mà người Pharisiêu vẫn từ chối, vẫn bài bác. Có lần Chúa Giêsu đã phải nói với người Do thái rằng dù một phép lạ xảy ra trên trời (gây chấn động mạnh mẽ) cũng khó cho họ nhìn nhận.
Thái độ từ khước ánh sáng có nhiều đặc điểm. Sau đây là hai đặc điểm.
1) Người ta lấy một khía cạnh của sự thật, cô lập nó, dựng nó lên thành tuyệt đối, mà quên rằng nó tùy thuộc vào những yếu tố khác quan trọng hơn của sự thật ấy. Kiêng việc xác ngày lễ nghỉ là một điều luật. Giữ luật ấy là việc tốt. Nhưng nó lệ thuộc vào luật bác ái, luật này cao trọng hơn. Vậy mà người Do thái xem nó là một điều tuyệt đối. Nhân danh ngày ‘lễ nghỉ’ họ từ khước lòng bác ái. Lối suy nghĩ này là đầu giây mối nhợ của bao nhiêu vụ tranh luận, cãi cọ mà họ kéo Chúa Giêsu vào.
Trong Giáo Hội hiện nay cũng có nhiều hiện tượng thuộc loại này. Ví dụ: người ta tách riêng một ít trang Phúc Âm, coi đó là tuyệt đối, rồi sử dụng để biện minh cho bạo lực nhân danh Tin Mừng.
2) Người ta ngồi vào trong một hệ thống ý tưởng mà họ quyết đoán là đúng. Họ làm như thế có thể là vì trí khôn hướng chiều về đường ấy, vì một lợi ích nào, vì tình liên đới với phe nhóm… Nét tiêu biểu là ở chỗ họ coi mình là người biết, người sáng suốt, người hiểu rõ. Chúa Giêsu trách những người Pharisiêu vì họ nói: “Chúng tôi thấy”. Trước một não trạng như thế, khi chân lý xuất hiện một cách khác thường, nó sẽ không được nhìn nhận. Mà trong đời sống con người, chân lý của Chúa thường mặc những hình thức bất ngờ và gây khó chịu cho thói quen của ta. Chân lý ấy làm nổ tung mọi hệ thống tư tưởng và mọi chương trình hành động. Người Kitô hữu khi suy nghĩ cũng như lúc hành động phải chăm chú nhìn những dấu hiệu của Chúa.
Vào thập niên 1960, John Howard Griffin ngụy trang thành một người da đen đi chơi vòng quanh miền Nam. Ông muốn trực tiếp cảm nghiệm được sự kiện phải làm người da đen trong những năm ầm ĩ về vấn đề chủng tộc này. Griffin mô tả lại cảm nghiệm của mình trong một cuốn sách nhan đề Black Like Me (đen như tôi). Cuốn sách này về sau được dựng thành phim.
Tuy nhiên còn một khía cạnh khác trong cuộc đời của John Howard Griffin mà rất ít người biết đến: trong thế chiến thứ hai, John đã bị mù trong một vụ nổ máy bay suốt 12 năm sau đó, ông không trông thấy gì cả. Một hôm, trong khi bước xuống con phố cạnh nhà bố mẹ ông ở Texas, thình lình John bỗng thấy được "cát đỏ" (red sand) trước mắt ông. Thị giác của ông đã phục hồi trở lại mà chẳng hề báo trước. Về sau, một bác sĩ chuyên khoa mắt cắt nghĩa cho ông là vết máu tụ thần kinh thị giác do vụ nổ gây ra được khai thông, vì thế thị giác ông phục hồi trở lại. Khi bình luận về kinh nghiệm này, Griffin đã kể lại cho một phóng viên báo chí như sau:
"Quí bạn không cảm nghiệm được những gì mà một ông bố cảm nghiệm khi nhìn thấy con cái mình lần đầu tiên đâu. Cả bố với con đều tuyệt vời hơn tôi nghĩ rất nhiều"
Giai đoạn bi đát trong đời Griffin giúp anh ta đánh giá sâu sắc hơn câu chuyện của bài Phúc âm hôm nay, nó giúp chúng ta hiểu rõ hơn cảm giác người mù từ lúc mới sinh khi anh ta được Chúa Giêsu chữa lành thật kỳ kiệu như thế nào.
Tuy nhiên, trong câu chuyện người mù trên còn có một phép lạ thứ hai. Phép lạ này còn tuyệt diệu hơn: đó là đức tin hay còn gọi là ánh sáng thiêng liêng mà Đức Giêsu ban cho người mù ấy, chính phép lạ thứ hai này tức ân sủng đức tin đã khiến cho anh quì gối xuống nói với Đức Giêsu với tư cách là "Chúa". Thánh Gioan đã nhấn mạnh phép lạ thứ hai này tức ân sủng đức tin một cách thâm thuý trong bài Phúc âm hôm nay.
Chúng ta hãy xem xét kỹ hơn về điểm này.
Điều đầu tiên chúng ta để ý đến trong phép lạ này là phép lạ ấy diễn ra từ từ không xảy ra ngay tức khắc. Chẳng hạn, phản ứng đầu tiên của anh mù đối với Đức Giêsu là anh ta xem Đức Giêsu cũng giống như người bình thường khác. Vì thế, khi vài người hỏi anh ta về sự lành bệnh của mình, anh liền trả lời: "Cái ông có tên là Giêsu ấy lấy một ít bùn bôi lên mắt tôi và bảo tôi tới hồ Silôê rửa mặt. Thế là tôi đi và ngay khi rửa xong tôi liềân được trông thấy."
Đầu tiên gã mù chỉ coi Đức Giêsu như một người tuy khá đặc biệt nhưng dầu sao cũng chỉ là một con người.
Thế rồi anh ta bước qua nhận thức thứ hai về Đức Giêsu khi đám Pharisêu điều tra anh: "Mày bảo ông Giêsu chữa cho mày khỏi mù à! Vậy mày cho rằng ông ấy là ai?" anh ta liền đáp: "Ông ấy là một tiên tri". Câu trả lời trên đây chứng tỏ rõ ràng nhận thức của anh mù về Đức Giêsu đã nhảy vọt một bước vọt khổng lồ về phía trước. Càng suy nghĩ đến sự kiện xảy ra, gã ta càng xác tín Đức Giêsu không chỉ là một người như những người khác mà Ngài còn là một vị tiên tri. Điều này dẫn chúng ta đến nhận thức sau cùng của anh mù về Đức Giêsu.
Cuối ngày anh mù mới được gặp mặt đối mặt với Đức Giêsu, vì khi anh mù đi rửa mắt ở hồ Silôê về, thì Đức Giêsu, không còn quanh quẩn đó nữa. Lúc này, khi gặp lại anh mù, Đức Giêsu nhìn thẳng vào mắt và nói: "Anh có tin vào CON NGƯỜI" không? Anh ta trả lời: Thưa Ngài, xin nói cho tôi biết vị ấy là ai để tôi tin. Đức Giêsu trả lời: "Anh đã thấy vị ấy rồi, vị ấy chính là kẻ hiện đang nói chuyện với anh". Anh đáp ngay: "Lạy Chúa, con tin!" vừa nói anh vừa quì gối xuống trước mặt Đức Giêsu.
Như thế, nhận thức của anh về Chúa Giêsu đã nhảy bước cuối cùng về phía trước. Anh nhận ra Đức Giêsu không phải chỉ là một người bình thường hoặc một vị tiên tri, mà Ngài còn là Thiên Chúa, vị Chúa mà "muôn loài trên trời dưới đất, cả trong địa ngục phải quì gối" (Pl 2, 10). Ân sủng đức tin, hay "ánh sáng tâm linh" mà Đức Giêsu ban cho anh mù còn kỳ diệu hơn sự phục hồi thị giác cho anh nữa.
Không cần bàn bạc quá nhiều về ân sủng đức tin nơi anh mù nọ, chúng ta nên nhớ lại chúng ta cũng đã nhận được ân sủng đức tin này do Đức Giêsu ban cho trong bí tích rửa tội.
Trước khi thanh tẩy trong nước rửa tội, chúng ta cũng bị "đui mù tâm linh" như anh mù trong Phúc âm hôm nay. Nhưng sau khi được rửa tội, Đức Giêsu trở nên quí báu hơn nhiều đối với chúng ta. Ngài trở thành một kẻ hết sức thân mật đối với chúng ta.
Điều này dẫn đến điểm tương tự thứ hai giữa chúng ta và anh mù trong Phúc âm hôm nay. Ngoài việc nhận lãnh ân sủng đức tin, nhận thức của chúng ta về Chúa Giêsu cũng dần dần lớn lên giống như nơi anh mù ấy. Chẳng hạn khi còn rất bé chúng ta thường mường tượng Đức Giêsu là một con người phi thường. Đến lúc lớn lên. Nhận thức của chúng ta về Ngài cũng trưởng thành hơn. Cuối cùng nhận thức ấy đạt được hình thức viên mãn nhất: chúng ta nhận ra Ngài đúng như bản chất thực sự về Ngài, là Con Thiên Chúa. Điều thú vị là khi chúng ta càng học hỏi về Đức Giêsu thì Ngài càng trở nên cao cả hơn đối với chúng ta. Thông thường, có sự kiện đáng buồn trong các mối tương giao khác là càng tìm hiểu về kẻ khác chúng ta càng nhận khiếm khuyết của kẻ ấy. Nhưng trong trường hợp Đức Giêsu thì không như thế. Càng hiểu biết về Ngài, chúng ta càng thấy Ngài tuyệt diệu và vinh hiển hơn.
Để kết thúc, chúng ta hãy trích lại lời Albert Schweitzer ở cuối cuốn sách của ông nhan đề The Quest for The Historical Jesus (Tìm kiếm Giêsu Lịch sử) Schweitzer từng là nhạc sĩ dương cầm thính phòng ở Âu Châu. Ông đã từ bỏ nghề nghiệp âm nhạc của mình để trở thành một bác sĩ, và ông đã đến sống ở Phi châu với tư cách một thừa sai. Schweizer viết: "Chúa Giêsu đến với chúng ta như một người vô danh, chẳng khác nào thủơ xưa người đến với các tông đồ trên bờ biển. Ngài nói với chúng ta cũng chính những lời Ngài đã từng nói với họ: "Hãy theo Ta!". Và bất cứ ai chấp nhận lời mời gọi của Ngài thì dù họ thông thái hay tầm thường, trẻ trung hoặc già nua, Chúa Giêsu đều mạc khải chính Ngài cho họ ngay trong những truân chuyên và đau khổ của họ. Và qua kinh nghiệm riêng của mình, họ sẽ biết được "NGÀI là ai?".
Trong Tin Mừng Ga đoạn 9, mười câu từ 24-34, thấy diễn ra một cuộc đối chọi giữa hai ‘cái biết’: một của nhóm chức quyền Do thái, một của anh mù.
a) “Chúng ta biết rằng tên đó (Chúa Giêsu) là một đứa tội lỗi” (c.24).
aa) “Ông ấy là người tội lỗi ư? Tôi không biết. Một điều tôi biết được là: tôi đã mù, và rày tôi thấy được” (c.25).
b) “Chúng ta biết Thiên Chúa đã phán với Môsê (và truyền giữ luật Hưu lễ), còn hắn, chúng ta chẳng biết hắn tự đâu ra?” (c.29).
bb) “Chúng tôi biết Thiên Chúa không nhận lời hạng tội lỗi, nhưng ai thờ Chúa và làm theo ý Người, thì Người nhận lời kẻ ấy (bằng chứng là phép lạ chữa bệnh mù của tôi đây)… Nếu ông ấy đã không bởi Thiên Chúa mà đến, thì đã chẳng làm gì được” (c.31-33)
Ta có thể nhờ lời cổ nhân mà phân tích đoạn này. Tuân Tử (330TCN-227TCN) cho rằng: Điều mà ai cũng biết là: tri thức nào cũng đều bắt đầu từ ngũ quan, tiếp nhận ấn tượng; còn cái tâm thì suy xét, phân biệt các ấn tượng ấy mà biết. Tai, mắt, mũi, miệng… thì tiếp xúc với bên ngoài, nhận các ấn tượng, nhưng không có cái nào làm chủ sai khiến cái nào. Còn tâm đứng giữa, thì làm chủ để cai trị các ngũ quan, thâu gom tất cả về nó. Nó có cái năng lực suy xét, phân biệt; cho nên mới có câu: “Nhờ đâu mà biết? Đáp: Nhờ Tâm” (thiên: Giải tế). “Tâm không (hoạt) động, thì trắng đen ở ngay trước mắt mà không nom thấy, trống khua lớn ở bên cạnh mà tai không nghe” (Giải tế).
Đó là nói về cái biết đối với các vật có hình tượng…
Đối với đạo lý, muốn biết, thì tâm phải ở trong trạng thái “hư nhất nhi tĩnh”: “Hư” là trống không, ý nói đừng có sẵn thành kiến trước, mà làm tổn hại đến điều gì sắp tới. – “Nhất” là một, nghĩa là thường tâm ôm đồm nhiều quá, nên muốn biết một điều gì, thì phải chọn một điều thôi, tập trung vào đó, để cho cái biết được tinh vi. – “Tĩnh” là yên lặng. Bản chất tâm là luôn hoạt động, nhưng khi để ý vào một việc gì, tâm phải giữ cho bình tĩnh, đừng để cho huyễn mộng, tưởng tượng vẩn vơ… và những buồn phiền giao động mà làm rối loạn (Giải tế). Hồi xưa, Đức Khổng Tử cũng đã tâm niệm 4 điều quyết: không ức đoán, không võ đoán, không cố chấp, không chủ quan” (Tử tuyệt tứ: vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã. – Tử Hãn).
Muốn cho tâm được hư nhất nhi tĩnh, thì phải “tri dã cung” là nghĩ một cách kính cẩn, ngoài ra phải “tri dã lạc”, tâm phải ở trong một trạng thái hòa đồng làm một với thiên đạo, tức là phải thành: vừa trong sáng, vừa ngay thẳng, thành tâm, thiện chí (lấy theo Giản Chi…,sđd, t.I, 488tt, 606tt). Bây giờ áp dụng vào hai cái biết của đoạn trên, thì thấy:
Về a): Cái tâm của nhóm Biệt phái không ‘hư’ (trống rỗng), nhưng đã bị nhiều thành kiến chiếm cứ, và không ‘tĩnh’, tức là đã để cho nhiều đố kỵ bè phái, thiên kiến đối với Đức Giêsu (x. Ga 5, 15-18) làm giao động và làm lú lấp mà quên thiên đạo. Họ không xét đến cái tốt (chữa lành bệnh mù) mà chỉ bo bo nhìn vào việc không giữ Hưu lễ (mà họ đã chẻ tóc làm tư cho thành một luật nặng nề, cứng ngắc, nghẹt thở), và nhất là tưởng rằng đó là tất cả đạo.
Về aa): Anh mù đã dựa vào giác quan kinh nghiệm sự vật mà suy xét: đã mù (một sự kiện hữu hình), nay được sáng mắt (một sự kiện nữa). Và từ đó, anh để tâm suy xét phân biệt người chữa anh có là kẻ tội lỗi hay ngược lại, và đó là điều anh nói ra ở bb).
Về b): Cái tâm của họ không trống rỗng (‘hư’), đầy thành kiến; thêm vào đó không giữ cho ‘hòa đồng với thiên đạo’, và không thành thực, ngay thẳng, trong sáng. Họ chỉ biết luật Môsê (toàn mặt cấm kỵ) mà không thấy toàn bộ thiên đạo chép trong Kinh Thánh: Thiên Chúa yêu thương, dạy người ta yêu thương, và coi đó là điều quan trọng hơn hết, hơn cả muôn ngàn hy lễ, và yêu thương là giới luật trọng nhất gồm thâu mọi giới luật (x. Mc 12, 32-33). Nói nôm na, cái tâm của họ đã không được nỗ lực ‘trừ dục’, ‘thắng tà’ mà nên trong sáng, thành thực.
Về bb): Chính anh mù (được lành) lại sáng cái tâm ra mà nhìn nhận được cái thiên đạo ấy: “Ai thờ Chúa và làm theo ý Người” (mà ở đây ý Người là yêu thương, giúp đỡ nhau…), “thì Thiên Chúa nhận lời người ấy”. Nhận lời là làm phép lạ theo ý người ấy xin. Đang khi nhóm Biệt phái mù tịt không biết “hắn tự đâu ra” (mà họ là những người thông thái), vì cái tâm không ‘hư’, không ‘dã cung’, ‘dã lạc’, nên đâm mù quáng, chỉ dán mắt vào một bộ luật và khư khư giữ từng nét…; thì anh mù lại sáng mắt ra và chỉ cho họ biết nguồn gốc của Đức Giêsu là “bởi Thiên Chúa mà đến”, dựa theo thiên đạo này, tức quy luật chung, tự nhiên, mọi người nhìn nhận: Vì ai làm lành, ai gây phúc đức (ai phục vụ anh em mình), thì chỉ có thể từ Thiên Chúa mà ra, chứ không từ sự ác, từ ma quỷ, từ tội lỗi.
Lời dạy của triết gia Tuân Tử không phải là đã lỗi thời đâu!
Trong một chuyến đến thăm ngôi trường khiếm thị duy nhất của thành phố, tôi chạnh lòng nhìn cảnh một số em quờ quạng với chiếc gậy trên tay, có em lại bám vào vai bạn và cả hai cùng lần bước... Còn đến khi vào lớp, các em lại cẩn thận dùng những ngón tay nhỏ bé gầy guộc để đọc từng giòng chữ Braille trên trang giấy nổi...
Bất chợt, ánh mắt tôi dừng lại ở một em bé có đeo một mẫu ảnh Thánh Giá nho nhỏ trên ngực áo. Tiến lại gần, tôi làm quen với em và được biết rằng: Trước khi vào trường này, mẹ em đã đeo cây Thánh Giá này cho em và bảo: “Ðèn của thân thể người ta là đôi mắt, còn với con, thì Thánh Giá sẽ là cây đèn cho con đấy !"
Tôi ân cần hỏi em: “Thế em có thấy vui không ?" Em bé ngước nhìn lên với đôi mắt đục mờ, trả lời tôi: "Có chứ anh, em đã mất đôi mắt của thân thể, nhưng thật sự thì đôi mắt của tâm hồn em vẫn sáng !"
Nghe câu trả lời quả quyết ấy, tôi giật mình tự nhủ: Con mắt của tâm hồn mình có còn sáng hay đã tắt ngúm rồi nhỉ ?
(Trích Ðặc San CON ÐỨC MẸ, Xuân 2000)
* * * * *
Bạn than mến!
Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay tường thuật câu chuyện Ðức Giêsu đã chữa một người mù từ lúc mới sinh, một người lớn lên trong bóng đêm dầy đặc. Ngài cho anh được thấy ánh mặt trời lần đầu tiên, thấy khuôn mặt của những người thân thuộc. Nhưng quan trọng hơn, anh đã thấy và tin vào Ðức Giêsu, Ðấng là Ánh Sáng của thế giới. Sau khi được sáng mắt, anh đã bước vào một cuộc hành trình đức tin đầy cam go. Lúc đầu, Ðức Giêsu chỉ là một người mà anh không quen không biết. Sau đó, anh dám khẳng định trước mặt mọi người Ngài là một ngôn sứ, là người bởi Thiên Chúa mà đến. Cuối cùng, anh đã sấp mình để bày tỏ lòng tin vào Ngài. Ðức tin của anh lớn lên qua những hiểm nguy và đe dọa.
Ngược với thái độ hồn nhiên và bình an của anh là thái độ bối rối bất an của giới lãnh đạo Do Thái Giáo. Họ cứ hỏi đi hỏi lại về cách thức anh được chữa lành. Cha mẹ của anh cũng được điều tra cẩn thận. Trước những lập luận vững vàng của anh, họ chỉ biết chê anh là dốt nát và tội lỗi. Dựa vào một quan niệm hẹp hòi về việc giữ ngày sa bát, họ khẳng định Ðức Giêsu đã phạm tội khi chữa bệnh, tuy họ vẫn không hiểu tại sao một người tội lỗi lại có thể mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Giới lãnh đạo Do Thái Giáo không muốn coi Ðức Giêsu là người của Thiên Chúa, vì điều đó đòi họ phải thay đổi lối suy nghĩ và lối sống đạo, thay đổi bộ mặt tôn giáo của cha ông, nhất là đòi họ phải tin và theo Ngài.
Họ tự hào mình là người hiểu biết và đạo đức. Chính niềm tự hào này đã khiến họ khép lại, không có can đảm chấp nhận mình sai lầm, và cố chấp ở lại trong bóng tối.
Mù không phải là một tội. Cố ý không muốn thấy mới là tội . Chúng ta ai cũng sợ bị mù, nhưng lắm khi ta lại tự làm cho mình trở nên mù lòa, khi không chấp nhận thực tế về bản thân, khi né tránh sự thật và không muốn lắng nghe ai.
Như những người mù xem voi, mỗi người chúng ta chỉ thấy một phần của thực tại,
một phần nhỏ của chân lý. Cần khiêm tốn để nhận mình mù, mù về chính mình, mù về lãnh vực mình thông thạo, vì điều mình biết chỉ là phần nổi của tảng băng, vì con voi không giống như cái cột nhà hay cái quạt. Thay vì cãi nhau do có cái nhìn khác nhau, chúng ta có thể bổ túc cho nhau, để dần dần đến gần với chân lý trọn vẹn.
* * * * *
Lạy Chúa! Như thánh Phaolô trên đường về Ðamát, xin cho con trở nên mù lòa vì ánh sáng chói chang của Chúa, để nhờ biết mình mù lòa mà con được sáng mắt.
Xin cho con đừng sợ ánh sáng của Chúa, ánh sáng phá tan bóng tối trong con và đòi buộc con phải hoán cải.
Xin cho con đừng cố chấp ở lại trong bóng tối chỉ vì chút tự ái cỏn con.
Xin cho con biết khiêm tốn để đón nhận những tia sáng nhỏ mà Chúa vẫn gửi đến cho con mỗi ngày.
Và xin cho con hết lòng tìm kiếm Chân lý để Chân lý cho con được tự do và bình an. Amen
Nhìn vào hành trình làm nhân chứng khá cam go của người mù được sáng mắt, qua bài Tin Mừng hôm nay, tôi nhớ lại những gì mà chị Vũ Thủy, một thành viên khuyết tật của Huynh Đoàn Kitô Vua thuộc giáo xứ Mai Khôi, đã ghi lại cảm nghiệm của mình bằng vào những vần thơ thật xúc tích và cũng thật chân thành đơn sơ. Chị đã viết trong bài thơ "cô gái mù và ly cà phê trắng" tâm tình sâu lắng như sau:
"Ly cà phê trước mặt,
ngụm đắng nhuộm cuộc đời?
Cuộc đời trắng hay đen, thành công hay thất bại?
Hãy hỏi lòng mình chọn trắng hay đen."
Chị đã phải đấu tranh rất nghiệt ngã trước số phận khi đôi mắt của chị trở nên mù lòa lúc tuổi đời còn rất trẻ, tuổi ô mai nhí nhảnh. Bao nhiêu ước mơ chân chất thơ ngây giờ đây đổ ập xuống ngay trước cuộc đời đầy thơ mộng. Bao nhiêu dằn vặt chán chường tê tái khổ đau khi phải sống trong cảnh tối tăm, trong cay đắng tủi hờn....
Thế rồi, nhờ vào sự chăm bẵm yêu thương của cha mẹ, của anh chị em và bè bạn, chị cũng phần nào chấp nhận số phận đen bạc. Cho đến một ngày, chị nhận ra tiếng gọi thâm sâu của lời Chúa Giêsu nói với chị mà người thân của chị đã đọc cho chị nghe. Lời Chúa đã gieo vào tâm hồn chị một sự bừng sáng với một niềm ủi an bất tận khi chị suy đi nghĩ lại trong lòng Lời Hằng Sống: "Tất cả những ai đang vất vả và mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng." (Mt 11, 28)
Sau những lần gẫm suy và cầu nguyện, chị đã bừng sáng lên niềm tin tuyệt diệu như sau này chị ghi lại trong bài thơ "Món quà Thượng Đế":
Tôi cảm nhận như chị đã sống cùng với niềm vui của người mù bẩm sinh sau khi được "Đức Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù và bảo: "Anh hãy đến hồ Silốac mà rửa" (Silốac có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì thấy được." (Ga 9, 6-7). Quả thật, với tâm tình của một trẻ thơ đơn sơ trong trắng và hèn kém trong thân phận bùn đất của con người, chị được Chúa nhào nặn và tặng ban đôi mắt mù lòa như một món đồ chơi mà chị gọi tên là "món đồ chơi Thập Tự". Thế nhưng chưa hết:
"Theo năm tháng, Thập Tự lớn cùng tôi,
có những lúc trổ gai làm trái tim rướm máu,
lúc trơn bóng đẫm mồ hôi, tôi tần tảo.
Khi tôi ngã,
Cây Thập Tự vững vàng như giá đỡ,
tôi bám lấy cùng niềm tin trỗi dậy."
Chính những lúc như thế, tôi liên tưởng đến những cay đắng mà người mù từ thuở nhỏ đã phải gánh chịu trước những áp bức của nhóm Pharisêu: "Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?" Rồi họ trục xuất anh." (Ga 9, 34)
Và đây cũng chính là nỗi niềm mà Vũ Thủy đã thầm thì với Nàng Thơ:
"Khi bật khóc, Thập Tự âm thầm lau nước mắt cho tôi,
và tôi thấy trái tim thơ trẻ lại."
Nhưng qua sự nâng đỡ của nhiều người, nhất là thầy Phong, phụ trách Mái Ấm Thiên Ân, dậy cho chị chữ nổi (chữ braille) và vi tính cùng nhiều những bàn tay chia sẻ khác, nên chị đã gửi gấm tâm sự trong thơ:
"Cả bầu trời trước mặt,
đôi mắt con không thấy ánh mặt trời.
Nhưng với con, cuộc đời đầy nắng ấm,
Bởi quanh con, đã có những bàn tay
Trao cả con tim, xiết chặt tình người.
Đôi chân con bước đi vững chãi,
Bởi có những bàn chân đi mở lối tâm hồn
Gieo hy vọng cho người mù tăm tối.
Ly cà phê cho con ngọt ngào hơi sữa,
Bởi nó như cuộc sống đầy bao dung,
Đã cho con ngọt bùi trong cay đắng." Và rồi chị đã khẳng định với một niềm xác tín không còn lay chuyển: "Cuộc đời trắng hay đen?
Riêng cô gái mù thấy ly cà phê trắng,
Bởi dòng sữa yêu người, đời đã ban cho.
Cô gái tay hướng về Thượng Đế:
"Xin cảm ơn Người, Người mãi bên con!"
Một lần nữa, khi nghe vang lên những lời bộc bạch sâu xa và thấm đậm yêu thương này của Vũ Thủy, tôi vô cùng xúc động vì chị đã viết lên niềm tín thác tuyệt vời vào Đức Giêsu như anh mù trong Tin Mừng hôm nay đã thưa với Người rằng:
"Thưa Ngài, tôi tin". Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người." (Ga 9, 38)
Hiện nay, thay vì than khóc hết ngày rồi lại đêm, oán trách số phận hẩm hiu cô quạnh, chị đã vươn lên trong sức mạnh Thập Tự bằng cách quên mình để phục vụ cho những người đau khổ khác tức "sấp mình xuống trước mặt Người", bởi chính những người này là hiện thân của Đức Kitô vậy. Chị đã sống thâm sâu lời mặc khải của Đức Giêsu đã nói với anh mù cũng như với tất cả hậu thế:
"Tôi đến thế gian này,
chính là để xét xử:
cho người không thấy được thấy
và kẻ xem thấy lại nên đui mù." (Ga 9, 39)
Quả thật, có biết bao nhiêu người nhìn và chứng kiến những mảnh đời bất hạnh khác, nhưng đã quay mặt đi với họ. Còn chị Thủy đã không thấy tận mắt những người đau khổ kia, nhưng chị đã được Chúa ban cho một trái tim nồng nàn yêu thương trong sức mạnh Tình Yêu Thập Tự của Người.
Khi tôi đựơc gặp gỡ nghe chị bộc bạch sẻ chia, chị đã giúp tôi thêm sức mạnh để biết mở lòng ra với tha nhân đang sống trong cảnh tối tăm của thể xác bệnh hoạn, của tâm hồn đen tối trong lầm lạc sa ngã. Và tôi đã thấu hiểu trái tim của Chúa Giêsu khi Thần Khí Lời Ngài đang trào dâng trong tâm hồn và trái tim tôi là đừng bao giờ trở nên "kẻ xem thấy lại nên đui mù".
Mà hãy nhìn xem Vũ Thủy tích cực sống như thế nào để không còn trở nên đui mù một lần nữa:
"Khi tìm đến với những người trong đơn lẻ,
với Thập Tự bẻ đôi, tôi chia sẻ
hạnh phúc có, buồn đau cũng có,
và nỗi cô đơn cũng chẳng còn." (Món quà Thượng Đế)
Tôi xin mượn câu cuối cùng của chị Vũ Thủy, nhà thơ khiếm thị, trong bài thơ "Cô gái mù và ly cà phê trắng", mà dâng lên Chúa với tất cả tâm tình:
Giáo Hội mỗi ngày một rõ nét hơn, đang dẫn chúng ta đến gần với cội nguồn sự giải thoát và ơn: MC 4-A68
Giáo Hội mỗi ngày một rõ nét hơn, đang dẫn chúng ta đến gần với cội nguồn sự giải thoát và ơn Cứu Độ là chính Chúa Giêsu, Con Một Thiên Chúa. Ngài sẽ phải gánh lấy tội lỗi nhân loại và phải chết trên thập giá, để rồi phục sinh trong vinh quang. Nhờ cái chết và sự sống lại ấy, nhân loại tìm lại được sự sống, và được cứu rỗi.
Tuần trước, trên bờ giếng Giacóp, Chúa Giêsu đã giới thiệu với người thiếu phụ Samaritanô, Ngài chính là suối nước hằng sống. Suối nước làm vọt lên trong lòng con người mạch nước cứu độ và dẫn con người đến sự sống đời đời. Nước mà uống vào sẽ không còn phải khát nữa. Và tuần này, qua việc chữa lành người mù từ lúc mới sinh, Chúa Giêsu đã chính thức hơn giới thiệu cho mọi người về sự sáng tâm hồn, và việc con người nhờ Ngài mà được giải thoát khỏi sự tối tăm tâm hồn, khỏi đi trong tội lỗi.
Đói khát chính là một phần của kiếp sống con người. Nó gắn liền với bản năng sinh tồn của con người. Ai trong chúng ta cũng đói và cũng khát. Chính vì cái đói và khát ấy, khi được khỏa lấp, thì một nguồn sống tự nhiên được tuôn chảy trong con người, và mang lại cho con người niềm vui và hân hoan sung sướng. Tâm lý sống ấy, chúng ta có thể nhìn thấy, và cảm thấy ngay trong cuộc sống chính chúng ta và những người quanh ta. Hãy nhìn những nụ cười rạng rỡ khi các em nhỏ được bố mẹ cho ăn no nê bằng những món ăn ngon lành, thơm tho và bổ dưỡng. Được cho uống bằng những thức uống trong sạch và mát mẻ. Hình ảnh sinh động ấy sẽ hoàn toàn trái ngược khi so sánh với các em nhỏ ốm o, gầy gò, bệnh tật, và hết sức tiều tụy vì thiếu sinh dưỡng, thiếu thực phẩm tại các quốc gia nghèo đói.
Mù lòa hay bệnh tật cũng chính là một phần nữa trong đời sống con người. Ngày ngày có biết bao nhiêu người phải đau khổ vì bệnh này hay bệnh khác. Và những chứng bệnh ấy có lẽ là lý do chính đã cất đi sự sống của con người. Sinh, lão, bệnh, tử. Người thanh niên mù từ lúc mới sinh, do đó, đã trở thành hình ảnh mùa lòa tâm hồn của con người chúng ta. Tất cả chúng ta đều trở nên mù lòa trước ánh sáng cứu độ nếu như không được Chúa Giêsu khai mở và chữa lành. Chúa đã nói với những kẻ chối bỏ sự thật mù lòa ấy rằng: “Nếu các ngươi mù, thì các ngươi đã không mắc tội, nhưng các ngươi nói chúng tôi xem thấy, nên tội các ngươi vẫn còn đó” (Gioan 9: 41).
Tội gì khi một người sinh ra bị mù lòa? Các môn đệ cũng đã quan niệm một cách chật chội và sai lầm khi tưởng rằng sự mù lòa thể lý ấy là một tội như phần đông vẫn quan niệm: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội, y hay cha mẹ y, khiến y mù từ khi mới sinh?” (Gioan 9:2. Không phải do ai hết, Chúa Giêsu đã khẳng định như thế. Chỉ có sự mù lòa tâm linh mới làm cho con người đi trong bóng đêm tội lội và sa phạm tội lỗi. Vì sự mù lòa ấy khiến con người không nhìn thấy Thiên Chúa trong cuộc đời của mình.
Trong cả hai trường hợp, Chúa Giêsu đã đích thân tìm đến với con người và mặc khải nước trời cho con người. Đối với thiếu phụ Samaritanô trên bờ giếng Giacóp, Ngài đã mở lời và dọn đường cho chị đón nhận suối nước hằng sống trước bằng cách xin chị cho Ngài uống. Trường hợp anh mù từ lúc mới sinh tuy hoàn cảnh khác, nhưng cũng chính là Ngài đã tìm đến với anh và mặc khải Tin Mừng Cứu Độ cho anh. Thánh Gioan ghi: “Khi nghe anh bị xua đuổi, Ngài tìm gặp và hỏi anh: “Anh có tin Con Người không? “Gioan 9:35), và khi nghe anh xác tín niềm tin vào Ngài, Ngài liền mặc khải mình cho anh: “Là người đang nói với anh bây giờ” (Gioan 9:37).
Tóm lại, chính vì để trở thành nguồn suối ơn cứu độ và sự sống đời đời cho con người, Ngài đã chấp nhận cuộc khổ nạn và qua cuộc khổ nạn ấy, phục sinh từ cõi chết. Nhưng để con người có thể chấp nhận được mặc khải cao vời như thế, khó tin nhận như thế, Ngài đã từ từ dùng những hình ảnh cụ thể trong đời sống như nước cần thiết cho sự sống, và ánh sáng cần thiết cho con người.
Sự đói khổ phần xác là những hình ảnh đau khổ của kiếp người. Sự mù lòa phần xác là biểu tượng cho sự tăm tối của tâm hồn con người. Chúa không đến để cho con người một thứ nước uống rồi khỏi khát như cái nghĩa bình thường, mà là làm cho con người hiểu được giá trị của cơn khát tình yêu, sâu thẳm, và đồng thời ban cho con người thứ nước hằng sống để dầu giữa trăm ngàn đói khổ và thử thách, con người vẫn vững tin và tìm về với Ngài trong nguồn mạch sự sống thật.
Cũng thế, Ngài không làm cho con người khỏi mù lòa như rất nhiều người vẫn bị mù lòa và khiếm thị, nhưng qua hình ảnh mù lòa thể xác, Ngài muốn con người hiểu được sự tăm tối tâm linh là cái làm cho con người đi trong đêm tối của niềm tin và của cuộc đời. Và chỉ có Ngài là người có thể khai mở nhãn quan tâm linh ấy. Ngài sẽ ban lại cho ánh sáng niềm tin tất cả những ai tin nhận Ngài như anh mù từ lúc mới sinh, miễn là con người chấp nhận sự mù lòa của mình và đón nhận ánh sáng Tin Mừng của Ngài.
Điều làm cho chúng ta phải để tâm suy nghĩ trong biến cố này, chính là lời anh mù sau khi được chữa khỏi, đã nói với những thượng tế, kinh sư hạch hỏi anh về Chúa Giêsu. Anh đã dí dỏm mỉa mai họ: “Lạ thật: người đó đã mở mắt cho tôi, thế mà các ông không biết người đó ở đâu.” (Gioan 9:30). Hay có thể nói khác đi là: “Các ông khéo giả vờ thật. Biết rồi sao còn hỏi?” Và đó cũng là điều khiến chúng ta cần phải đem vào đời sống tâm linh của mình. Nhiều khi chúng ta biết Chúa đó, thấy Chúa đó, nhưng không tin nhận Ngài. Hoặc nếu tin nhận thì lại không đón nhận Ngài vào cuộc sống của mình. Một điều mà trong đời sống tâm linh thường ngày vẫn xẩy ra đối với chúng ta. Cái làm cho chúng ta không dám tin nhận và đón nhận Ngài là vì chúng ta không dám từ bỏ đi những gì thuộc về con người trần tục của mình. Hay nói một cách khác, chúng ta vẫn thích sống trong tình trạng mùa lòa của mình, vì sợ nhìn thấy ánh sáng, ánh sáng sẽ làm cho chúng ta thấy rõ sự thật về con người của mình.
“Anh có tin Con Người không? Anh ta trả lời, “Thưa ngài Đấng ấy là ai để tôi tin?” Chúa Giêsu đáp, “Anh đang thấy Ngài, đó là người đang nói với anh đây.” Anh liền thưa: “Lậy Ngài tôi tin”, rồi quỳ xuống thờ lậy Ngài” (Gioan 9:35-38). Đó là tất cả ý nghĩa của việc con người đón nhận Tin Mừng. Đó nhận ánh sáng mạc khải. Chúa vẫn có đó, quanh ta và hiện diện trong cuộc đời ta, nhưng chúng ta có nhận ra Ngài, và nhất là có tin nhận và thờ lậy Ngài hay không? Hoặc giả, chúng ta vẫn cho rằng mình sáng mắt để rồi bị lôi cuốn vào sự mù lòa tâm linh, và như Chúa Giêsu đã nói với bọn Phariesiêu: “Vì các ngươi nói mình sáng, nên các ngươi vẫn ở trong tội lỗi” (Gioan 9:41).
Bạn thấy Chúa Giê-su trong bài Phúc Âm hôm nay như thế nào, bạn thấy có khác thường không, bởi vì thường thường trước khi chữa lành người nào thì Ngài hỏi họ có tin Ngài không, sau đó mới chữa lành. Nhưng hôm nay Ngài rất linh động trong việc chữa lành, Ngài không hỏi anh mù có tin Ngài không, mà lập tức chữa cho anh được sáng mắt, rồi sau đó –khi gặp lại- Ngài mới hỏi có tin Ngài không, đúng là kỳ thật phải không bạn ?
Chúa Giê-su là một nhà mô phạm và nhà tâm lý đại tài, Ngài không hỏi người mù có tin Ngài không rồi mới chữa lành mắt cho anh, vì người mù không thấy Ngài và cũng chẳng thấy Ngài làm những phép lạ, cho nên nếu Chúa Giê-su hỏi có tin Ngài không thì sẽ là một điều hết sức cưỡng ép, cho nên khi người mù được sáng mắt, nhìn thấy Ngài rõ ràng, Ngài mới hỏi có tin Ngài không, câu trả lời của người mù bây giờ thật chắc chắn và chính xác: “Thưa Ngài, tôi tin.” Thế là đủ, và đức tin đã làm cho người mù đổi mới hoàn toàn, trở nên chứng nhân cho dức tin của mình.
Sự mù lòa của người Pa-ri-sêu thật rõ ràng khi nhìn thấy người mù được sáng mắt, họ đã cố tình như không thấy Chúa Giê-su những việc Chúa Giê-su đã lam cho người mù, bởi vì con mắt tâm hồn của họ đã bị mù bởi những kiêu ngạo và ghét ghen. Họ nhìn mà không thấy, cho nên Chúa Giê-su đã nói với họ: “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội.”
Bạn thân mến,
Trong cuộc sống đời thường, có những lúc chúng ta làm bộ sáng mắt lên án người này người nọ không biết gì, toàn là thứ đui mù cả; có những lúc chúng ta giả đui mù không thấy cái lẽ phải của người anh em, nhưng lại thấy cái sai trái của người có tiền có quyền; có những lúc chúng ta tự cho mình có con mắt công chính nhìn thấy rõ những sai trái của tha nhân, nhưng thật ra chính chúng ta là người mù trước tiên trước những hứa hẹn và quyền lợi bất chính của cá nhân.
Bạn và tôi hãy học như Chúa Giê-su không gượng ép khi đối xử với tha nhân, và có một đức tin thành thật chắc chắn như người mù, bởi vì con mắt xác thịt bị mù thì đã khổ, nhưng con mắt tâm hồn mà bị mù thì cái khổ và khốn nạn tăng lên cả vạn lần.
Khi ánh hoàng hôn từ từ buông xuống, vạn vật cũng chuẫn bị khép mình để bước vào sự yên lặng của màn đêm, một sự yên lặng bất động.
Khi ánh bình minh từ từ ló dạng, mọi vật bắt đầu vươn mình đón chào một sức sống mới, một sức sống mãnh liệt trong ánh sáng chan hoà của ngày mới. Mọi công việc đều được hoạt động dưới ánh sáng, nếu không có ánh sáng thì không thể làm gì được. Khi con người làm việc dưới ánh sáng dù cho là ánh sáng ban ngày hay ánh sáng nhân tạo đi nữa thì vẫn phải cố sức mà làm việc, có khi vì công việc mà con người phải vất vả mệt nhọc, nhưng vẫn phải cố gắng vượt qua tất cả. Ánh sáng được mang đến để cho con người có phương tiện thuận lợi mà làm việc. Nếu con người không biết tận dụng những lúc có ánh sáng thì thật là uổng phí, vì khi không còn ánh sáng, con người khó mà thực hiện công việc cho hoàn hảo. Nhưng khi có ánh sáng, không phải lúc nào công việc cũng thành công, cũng có những khó khăn của công việc cho dù với ánh sáng đòi buộc con người phải vượt qua với tất cả quyết tâm của mình.
Một người mù từ lúc mới sinh, nghĩa là anh ta được sinh ra trong bóng đêm của cuộc đời. Anh ta ngồi bất động bên vệ đường chờ người khác ban phát. Anh không hành động gì hết vì chung quanh anh chỉ là bóng tối, nên anh không lãnh trách nhiệm gì hết. Nhưng khi anh vừa sáng mắt, ánh bình minh chiếu vào cuộc đời, thì sự yên tĩnh của màn đêm không còn nữa, mà anh bắt đầu hoạt động, bắt đầu một ngày mới trong ánh sáng. Một ngày mới với tất cả trách nhiệm của cuộc đời. Anh phải đối diện với sự thật, anh phải chọn lựa để làm chứng cho những gì anh biết là sự thật, anh phải chịu trách nhiệm về mình và những việc làm của mình. Anh đã nhìn thấy ánh sáng, anh có trách nhiệm định hướng cho cuộc đời của chính anh, nghĩa là anh phải biết vượt qua những khó khăn trở ngại để bảo vệ hồng ân Chúa. Vừa mới được sáng mắt, anh bị khai trừ khỏi cộng đoàn, bị cha mẹ từ chối, nhưng anh nhất quyết bảo vệ cho ánh sáng mà anh vừa mới nhận được, cho dù phải đối diện với những khó khăn trở ngại.
Nhận được ánh sáng là một niềm vui, nhưng là niềm vui trong trách nhiệm. Có những người không dám nhận ánh sáng, không dám bước đi trong ánh sáng, mà chỉ thích màn đen của bóng đêm.
Mỗi người trong chúng ta nhìn lại cuộc sống của chính mình, xem đang bước đi trong bóng tối, hay đang bước đi trong ánh sáng. Chúng ta đã được lãnh Bí Tích Rửa Tội, đã nhận được ánh sáng của Chúa Kitô hướng dẫn, thế mà trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta muốn từ chối ánh sáng đó, để bước đi trong đêm tối của cuộc đời, để không ai biết, không ai nhìn thấy những hành động việc làm của chúng ta. Những lúc chúng ta muốn trốn chạy ánh sáng, để mọi người không nhìn thấy được con người thật của chúng ta. Đó là những lúc mình chỉ muốn ngồi hưởng những mối lợi không do công sức mình làm ra, những lúc chúng ta muốn cướp công lao cực khổ của người khác mà đem về làm của mình. Những lúc đó có phải chúng ta muốn mình như người mù ngồi bên vệ đường trông chờ vào những đồng tiền bố thí, có khi khó chịu vì người khác bố thí ít quá. Cũng có những lúc chúng ta chỉ muốn sống cho riêng mình chỉ biết hưởng thụ mà bất chấp đến những người chung quanh, không nhìn thấy được những giọt nước mắt phải chảy xuống vì hành động của chúng ta. Những lúc chúng ta không nhìn thấy được trách nhiệm phải làm, phải chu toàn: trách nhiệm của một người công giáo, trách nhiệm của một người trong xã hội, trách nhiệm làm cha, làm mẹ và cả trách nhiệm làm người. Như vậy chúng ta đang sống trong ánh sáng hay bóng tối?
Nếu chúng ta biết chấp nhận cuộc sống này, với trách nhiệm của đời người và nhận thức cách chính đáng, để chu toàn thật tốt đẹp, cho dù có những sóng gió cũng không làm cho mình chùn bước. Nếu chúng ta nhìn thấy được những việc tốt đẹp cần phải làm và sẳn sàng hành động cho dù phải gặp những khó khăn trở ngại cũng không sờn lòng. Đó là chúng ta đang bước đi trong ánh sáng thật của Chúa Kitô đã ban cho chúng ta.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa mở mắt tâm hồn chúng ta để nhìn thấy ánh sáng Chúa và luôn bước đi trong ánh sáng.
Ánh sáng là món quà quí giá nhất cho con người, nhất là cho người mù không nhìn thấy. Người ta thường nói: "Chính bóng tối đã kêu gọi (cần có) ánh sáng". Người mù, một khi được sáng mắt, sẽ thấy ánh sáng quí giá như thế nào. Chỉ khi nào người ta mù, không có ánh sáng, người ta mới hiểu được ánh sáng cần cho sự sống. Câu chuyện của bài Tin Mừng hôm nay nói về việc Chúa Giêsu chữa cho một anh mù từ khi mới sinh. Chính Chúa nói: "Ta là ánh sáng thế gian". Chính Chúa và Lời Chúa là ánh sáng, là của ăn tinh thần cho con người đang sống trong mù tối, vì không nhận ra Thiên Chúa. Đây là chủ đề mà Hội thánh muốn chúng ta suy niệm trong ngày Chúa Nhật hôm nay.
a/. Trước hết, có một vài câu cần tìm hiểu:
"Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến anh này sinh ra bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" Quan niệm xưa cho rằng người bị mù, hay bệnh tật chính là do tội lỗi của mình hay của người thân mình gây ra. Chúa Giêsu trong câu chuyện này đánh đổ quan niệm đó, Người nói: "không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ anh ta, nhưng để cho mọi người thấy được quyền năng và tình thương của Thiên Chúa."
Thầy là ánh sáng cho thế gian: lời tự xưng của Chúa Giêsu, cũng là sự thật. Chúa chính là ánh sáng, và ai đến với Người sẽ có được ánh sáng như câu chuyện anh mù được chữa lành trong bài Tin Mừng hôm nay.
Chúa nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn, thoa vào mắt người mù: người xưa tin nước miếng có sức chữa bệnh. Có lẽ Chúa muốn dùng cử chỉ tượng trưng để anh mù tin.
Có 3 thái độ cản trở con người đến để được Chúa Giêsu chữa lành: 1. của người Do Thái: mày sinh ra trong tội lỗi ngập đầu... Họ cho người bị bệnh mù bẩm sinh, là do tội của mình. Thật là đáng sợ khi nghĩ Thiên Chúa đã để anh mù bị bệnh, để trừng phạt anh ta. Hiểu như thế về Thiên Chúa là hoàn toàn sai lạc. Chúa nói: có người cha nào, con xin bánh lại cho con rắn hay con bò cạp? Cha trần gian mà còn đối xử với con cái mình như thế, huống chi Cha trên trời. 2. là thái độ của những người lân cận, cha mẹ của anh mù: lúc đầu họ ngạc nhiên vì anh mù được sáng mắt, sau cùng là sợ hãi, vì sợ bị vạ lây, đến nỗi tỏ ra hèn nhát và dửng dưng. 3. cách riêng là thái độ của nhóm Pharisêu, tư tế: họ ngoan cố phủ nhận Chúa Giêsu là ánh sáng là sự sống, dù họ thấy cả phép lạ Chúa cho người chết sống lại...Họ không đủ khiêm tốn để nhìn nhận sự thật. Họ là những con người đui mù thiêng liêng, họ không cần và cũng không muốn được Chúa chữa lành...
b/. Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu tiến trình Chúa Giêsu chữa lành tâm hồn cho anh mù: Trong câu chuyện chữa lành hôm nay, ta không thấy người mù cầu xin Chúa chữa bệnh cho mình. Cho dù nếu có mà Phúc Âm không ghi, ta cũng thấy rõ thái độ của Chúa Giêsu, muốn tự mình đi đến cứu chữa cho anh ta: Người lấy nước miếng trộn với đất xức mắt anh ta, rồi bảo anh đi đến hồ Siloê mà rửa. Anh đi đến đó rửa, và được khỏi. Sau khi anh được chữa bệnh phần xác, những người chứng kiến bị "sốc" và cứng lòng tin. Họ chất vấn anh mù. Anh công khai nói lên sự thật; chính thái độ này đã dẫn anh đi xa hơn trong niềm tin của mình. Sau đó, những người Pharisêu chất vấn nữa, nhất là khi họ biết anh được chữa lành trong ngày sabbat. Họ còn cho mời cả cha mẹ anh đến, cốt để tìm ra lý lẽ chối bỏ việc Chúa Giêsu chữa lành. Sau đó, Chúa hay biết anh bị "tấn công", Người đến gặp anh ta, tỏ mình cho anh ta biết Người là ai. Chính Chúa mời anh đi đến niềm tin. Anh mù đã không cưỡng lại, nên đã quì xuống thưa: "lạy Chúa, con tin." Anh đã được chữa lành đôi mắt tâm hồn...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Qua câu chuyện anh mù được chữa sáng mắt, ta là hạng người nào trong những hạng người trên? Có phải ta ở trong hạng của anh mù, và ta thấy mình cần được Chúa chữa cho lành, để ta được sáng mắt tâm hồn không?
Một trong những nỗi khổ của con người là không được nhìn thấy mọi sinh vật xung quanh. Có người từ khi mới sinh ra đã phải chịu sống trong cảnh tối tăm, mù mịt. Người khác thì trong quá trình sống do tai nạn hay căn bệnh gì đó làm cho họ mãi mãi không nhìn thấy nữa. Quả thật là một nỗi bất hạnh. Dầu vậy, nỗi bất hạnh đó rồi cũng có ngày qua đi. Cách riêng với với người công giáo thì chúng ta tin rằng căn bệnh mù đức tin mới thật là bất hạnh lớn nhất.
Nếu như tuần trước Chúa Giêsu mang đến cho ta nguồn nước hằng sống thì hôm nay Chúa Giêsu tiếp tục mạc khải chính Người là Đấng mang đến cho chúng ta ánh sáng đức tin.
Nhờ có ánh sáng đức tin mà chúng ta sẽ có được cái nhìn đức tin. Chính cái nhìn đức tin đó sẽ giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn theo cái nhìn của Chúa. Cái nhìn của Chúa không theo dáng vẻ bên ngoài mà nhìn tận sâu thẳm đáy lòng người - cái nhìn của tình thương.
Bài đọc 1 cho thấy Thiên Chúa sai tiên tri Samuel đến chọn một người thay thế cho vua Saolê. Khi thấy Êliap với tướng người khôi ngô tuấn tú, tiên tri nghĩ đây chính là người Thiên Chúa chọn. Thế nhưng, Thiên Chúa phán cùng tiên tri: " Đừng xét theo hình dáng và vóc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ nhìn thấy điều mắt thấy, còn Thiên Chúa nhìn thấy tận đáy lòng " . (1Sm 16, 7). Kế đến, Thiên Chúa đã chỉ cho tiên tri chọn Đavit là người con út của ông Giêsê.
Bước sang bài Tin mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu đem đến anh mù từ thuở mới sinh ánh sáng. Từ ánh sáng tự nhiên Chúa Giêsu đã cho anh được ánh sáng quý báu hơn là ánh sáng đức tin. Chúa Giêsu đã nhìn tận đáy lòng anh. Đang khi đó người Do thái ngay cả các Tông đồ nghĩ rằng do tội của anh hay của cha mẹ mà anh nên mù lòa như thế. Sau khi đã chữa lành cho anh " Chúa Giêsu hỏi: Anh có tin vào Con Người không? Anh đáp: Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin? Đức Giê-su trả lời: Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây. Anh nói: Thưa Ngài, tôi tin. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người " (Ga 9, 35b - 38).
Qua câu trả lời và cử chỉ sấp mình của anh, chúng ta thấy anh đã thật sự tin vào Chúa Giêsu. Anh tin Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đem đến cho anh ơn cứu độ. Như thế, Thiên Chúa biết chúng ta cần thấy những gì. Đặc biệt là những gì đem đến ơn cứu độ cho ta.
" Chuyện người thì sáng còn chuyện mình thì oán " . Đó là thái độ của những người không biết mình và không chấp nhận sự thật về mình. Thái độ và cách sống ấy thật nguy hiểm hơn trong cái nhìn đức tin. Chỉ khi nào nhìn ra được mình là thụ tạo yếu đuối, mỏng dòn và tội lỗi trước mặt Chúa thì chúng ta mới thật sự tin tưởng và phó thác trọn vẹn vào Chúa. Cũng thế, khi đó chúng ta mới có thể thông cảm và khiêm tốn trước anh chị em mình.
Có bao giờ bạn nghĩ mình bị mù lòa dù đang sống trong kỷ nguyên ánh sáng, dù mắt bạn vẫn bình thường không?
Lẽ ra chúng ta đang sống trong kỷ nguyên ánh sáng, đang sống trong thời đại mà nền văn minh con người phát triển đến đ ỉnh cao chưa từng thấy thì người ta được mở mang trí thức để có thể nhìn cuộc sống và con người d ưới nhiều khía cạnh. Thế nhưng người ta lại mù lòa, tầm nhìn bị giới hạn trước cuộc đời và tha nhân. Đây là vấn đề chính mà Chúa Giêsu đề cập trong Tin Mừng hôm nay.
Chúng ta đang bị mù khi nhìn và đánh giá cuộc sống hôm nay. Mù vì chỉ nhìn cuộc sống này trong phạm vi vật chất và cuộ sống này là cùng đích. Trong khi đó còn có một cái vì vượt xa và trên cả vật chất và cuộc sống con người có quá khứ, hiện tại và cả tương lai ở đời sau. Nếu như cuộc sống này bị đóng khung trong phạm vi vật chất thì thử hỏi đời người còn có ý nghĩa gì?
Cũng từ cái nhìn hạn hẹp v ề cuộc sống như thế dẫn đến cái nhìn về tha nhân cũng bị giới hạn, bị đóng khung. Người ta không còn thấy được những giá trị thiêng thiêng, không còn thấy giá trị nhân phẩm đang hiện diện trong anh em mình. Người ta chỉ nhìn và đánh giá n ười khác theo tiêu chuẩn hoàn toàn vật chất. Hai chữ tình nghĩa ngày nay dường như chỉ còn trên môi những thi sĩ, những nhà văn trong thơ văn hay tiểu thuy ết. Cái mà người ta tôn trọng hôm nay là tiền, quyền và địa vị. Vì thế khi muốn kết bạn thân thiện với ai người ta luôn nhìn người bạn ấy theo tiêu chuẩn này. Đây quả thật là một thứ mù lòa đáng sợ. Bệnh mù này không thể chữa khỏi vì người ta không biết mình đang mù hay do cố ý mù.
Cái mù thể lý trong Tin Mừng đã là một nỗi bất hạnh nhưng cái mù tinh thần của chúng ta hôm nay còn đáng sợ và nguy hiểm hơn. Vì khi lương tâm người ta trở nên mù tối thì người ta có thể làm bất kỳ điều gì mà không cần nghĩ đến tha nhân, xã hội. . . miễn bản thân mình có lợi.
Lời Chúa hôm nay như một luồng ánh sáng thiêng liêng soi sáng tâm hồn giúp chúng ta loại bỏ sự mù lòa nơi sâu thẳm của lòng mình để chúng ta có cái nhìn mới mẻ và linh thánh v ề cuộc sống và tha nhân.
Chúng ta hãy xem cách Chúa chọn một người để đặt làm vua lãnh đạo dân Chúa. Chúa không nhìn người ấy theo tiêu chuẩn mà người đời hay tìm kiếm. Nhưng Chúa nhìn thấu suốt tâm hồn, nhìn cái tấm lòng và cách thức đối xử của người đó với anh em. Để chọn một người lãnh đạo, Chúa không chọn một người tài ba lỗi lạc, nhưng lại chọn Đavít một người kém cỏi, yếu đuối...... nhưng nơi con người nhỏ bé ấy chứa đựng một con tim quảng đại biết sống vì người khác và dám chết cho anh em.
Chúng ta là con cái Thiên Chúa, nghĩa là con cái của Ánh Sáng, chúng ta hãy thực thi những gì thánh Phaolô nhắn nhủ trong bài đọc 2:
Chúng ta là con cái ánh sáng, hãy hành động như con cái sự sáng, hãy ăn ở như con cái sự sáng và hành động xứng với địa vị mà Đ ức Kitô đã mang lại cho chúng ta. Địa vị và nhân cách ấy là con Thiên Chúa. Chúng ta hãy sống xứng với ân ban cao trọng ấy!
Lạy Chúa! Như sen trong đầm lầy, xin giữ tâm hồn con thanh khiết.
Giữa m ột thế giới đầy những hình ảnh vẫn đục, xin gìn giữ mắt con.
Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc, xin giúp con biết trân trọng thân xác.
Giữa một thế giới đang bị ám ảnh bởi dục tình, xin thanh lọc lòng trí con.
Xin nâng con lên cao vượt qua những thèm muốn chiếm đoạt, để biết tận hiến trong yêu thương.
Xin đừng để con phung phí cuộc sống này chỉ vì những lợi ích thấp hèn.
Xin mở mắt tâm hồn con, để con thấy Chúa đang hiện hiện trong tha nhân.
Lạy Chúa, như sen trong đầm lầy, xin giữ tâm hồn con trong sáng. Amen.
Các nhà thơ thường thi vị hóa cặp mắt "như cửa sổ tâm hồn", chính nhờ cặp mắt mà con người mới có thể nhìn thấy ánh sáng để biểu lộ tình yêu, biểu lộ với các tương quan, ánh sáng tự nhiên để dẫn ta đến với các cảnh vật xung quanh. Còn ánh sáng tâm hồn để nối kết những mảnh đời, những con tim lạc điệu đến gần nhau hơn. Nhưng quan trọng hơn hết vẫn là ánh sáng đức tin cho con người "thấy" được Thiên Chúa và đến gần với Ngài hơn.
Trong công việc mục vụ thăm viếng, tôi có dịp đến thăm một bà già bị mù từ lúc bẩm sinh. Qua tâm sự tôi biết được sự khao khát lớn nhất của bà là được nhìn thấy ánh sáng để đi đọc kinh, xem lễ và làm việc dễ dàng hơn. Nhưng điều làm tôi nể phục là bà không bao giờ bỏ một lễ Missa nào, cho dù là trời mưa gió đường khó đi , hay lễ sớm trời tối. Bà vẫn đi dự lễ với cây gậy tre, bà mò mẫm từng bước một thật cực khổ. Bà cũng thuộc được rất nhiều câu Kinh Thánh và các kinh đọc hàng ngày.... Nhưng ngược lại, có rất nhiều người sáng mắt gần đó tôi không bao giờ thấy đi dự lễ Missa hàng ngày, mà chỉ thấy có mỗi ngày Chúa Nhật, khi được hỏi nguyên do tại sao, thì họ trả lời là do trời tối đi không được. Do đó tôi mới đi đến kết luận là nếu nhìn thấy ánh sáng thì mỗi người phải tự mình biết "mở mắt" ra để đón nhận ánh sáng.
Bà già mù tôi viếng thăm , tuy không thấy gì bên ngoài, cặp mắt bà đã bị hư từ lúc mới sinh, cũng giống như anh mù trong bài Ti n Mừng hôm nay. Hay nói đúng hơn cả hai chỉ bị mù con mắt thân xác, nhưng con mắt tâm hồn họ không mù. Họ đang chờ đợi một ánh sáng xuất hiện, chỉ cần một cơ hội là họ nhận ra, họ bước theo ngay. Trong suốt bài Tin Mừng là một hành trình của người mù, anh tiến vào ánh sáng đức tin một cách tiệm tiến. Tuy anh chỉ là người thụ ơn và đến lúc sáng mắt vẫn chưa biết người chữa mình là Ánh Sáng Thế Gian. Việc lành bệnh đối anh chỉ là điều không tưởng, nhưng đó lại là sự thật anh đã sáng mắt, mà anh chỉ biết mình được sáng mắt là nhờ ông Giêsu nào đó đã lấy bùn thoa vào mắt và anh vâng lời đi rửa và đã nhìn thấy.
Hành trình đức tin của anh mù không phải là một con đường dễ dàng, anh phải đi từ những nghịch cảnh đơn giản đến những tình huống phức tạp. Chính thái độ chấp nhận và hành trình dấn thân theo lời Chúa dạy mà mắt anh lập tức đã được mở ra, anh đã "Thấy" Chúa Giêsu không phải bằng cặp mắt xác thịt, mà còn cảm nhận thấy Ngài bằng cặp mắt đức tin. Người hành khất mù loà bẩm sinh, kẻ bị coi là tội lỗi bị xã hội từ chối, một hình phạt mà người Do Thái cho là nặng nề, nhục nhã nhất đã trở nên "dấu chỉ" sống động của những người được Đức Giêsu soi sáng và tái sinh.
Trong cuộc sống đạo, chúng ta không bị mù về con mắt thể xác, cũng không bị mù về con mắt tinh thần. Nhưng thực tế thì sao? Chúng ta vẫn chưa biết mở con mắt ra để sống trong ánh sáng đức tin. Rất nhiều lần ta sống như một kẻ mù loà. Mù vì không bao giờ thấy được những hồng ân Chúa ban để tạ ơn Người. Ta mù vì không thấy được những kỳ công quyền năng Chúa làm để mà ca tụng ngợi khen, mù loà vì đã không thấy được biết bao nhiêu điều thiện hảo mà những anh em đồng loại khác đã làm cho chúng ta để mà tạ ơn... Có những lúc chúng ta không bị mù loà nhưng lại cố ý đóng kín mắt để không nhìn thấy, cố ý bịt tai như bị tê liệt để không còn nghe thấy những điều khốn cực, nghèo khổ mà đáng ra tôi phải có bổn phận giúp đỡ, tê liệt trước những thiếu thốn của anh em xung quanh trong khi hiện tại tôi đang dư thừa.
Ngược lại với bà già mù mà tôi viếng thăm, là những người sáng mắt xung quanh. Cũng giống như những đầu mục Do Thái và những người Pharisêu hôm nay, tự kiêu tự mãn là minh "sáng mắt" chối bỏ những "dấu chỉ". Hậu quả là phải chịu đắm mình trong đêm tồi triền miên. Trong khi những người mù nhờ Đức Giêsu đã trở nên sáng mắt, thì những người tự cho mình là sáng mắt lại trở nên mù loà. Như Đức Giêsu đã cảnh cáo "Tôi đến thế gian này để xét xử cho người không xem thấy được thấy và kẻ xem thấy lại trở nên đui mù" (Ga 9, 39). Những người Phariseu tự cho mình là người sáng mắt lại trở nên mù loà. Chính sự cứng đầu kiêu căng đó đã tố cáo rằng không phải mắt họ bị mù loà. Nhưng là tâm hồn họ bị mù loà, lòng trí họ bị bóng đêm phủ lấp, đến nỗi họ không thể nhìn thấy được các dấu chỉ của Thiên Chúa. Và khi Ánh Sáng đến họ không chịu chấp nhận mà lại lao mình vào trong bóng tối u mê.
Lạy Chúa , xin Chúa biến đổi tâm hồn con trong Mùa Chay này, xin chữa lành bệnh mù tinh thần của chúng con, xin Chúa làm cho đôi mắt đức tin của chúng con được nhìn thấy. Xin Chúa làm cho chúng con thành những người biết nhận ra Chúa trong mọi sự và cảm nhận được rằng: Chúa là Ánh Sáng, là Sự Sống và là sự cứu rỗi. Amen
Cách thị trấn Cầu Ngang 2km, có một thôn xóm người ta gọi là Cà-tum. Cái xóm quê mùa dân dã giống như tên gọi ấy đến nay vẫn chưa biết đến dòng điện. Khi màn đêm buông xuống, cả một vùng tối bao la chỉ ẩn hiện một vài ánh đèn dầu leo lét. Người dân ở đây hằng đêm nhìn về góc trời thị trấn sáng rực mà ước mơ có một ngày ánh sáng của những bóng đèn điện chiếu toả trong ngôi nhà của mình.
Khao khát của người dân Cà-tum tựa như người mù mơ thấy được ánh sáng mặt trời, thấy được những đổi thay từng ngày của thế giới vật chất. Hạnh phúc biết bao cho người dân Cà-tum khi dòng điện được đưa về! Hạnh phúc biết bao cho người mù khi họ nhìn thấy ánh sáng!
Lời Chúa hôm nay đưa chúng ta đi từ biến cố Đức Giêsu chữa cho một người mù từ thuở mới sinh, đến một ý nghĩa siêu nhiên: tuyên xưng Đức Giêsu là ánh sáng thế gian. Anh mù từ lúc mới sinh đã sống trong tăm tối, tối cả thể xác lẫn tâm hồn. Thế nhưng, Đức Giêsu đã dùng quyền năng Thiên Chúa mà cho anh được sáng mắt, đồng thời mời gọi anh tiến tới ánh sáng đức tin. Anh mù quảng đại đón nhận ánh sáng đức tin ấy: "Lạy Ngài, tôi tin". Tâm hồn anh đã được chữa khỏi tật mù thiêng liêng và anh đã tuyên xưng Đức Giêsu là ánh sáng thế gian.
Niềm vui được lành bệnh và sự nhận biết Đức Giêsu Kitô làm anh mù can trường, dũng cảm tuyên xưng đức tin và chấp nhận bị trục xuất từ nhóm người biệt phái. Quả thật, những người biệt phái là nạn nhân của tinh thần hẹp hòi, cố chấp. Họ không nhìn thấy hạnh phúc mà Đức Giêsu mang đến cho anh mù, họ chỉ nhìn thấy sự việc Đức Giêsu đã vi phạm ngày Sa-bat khi chữa bệnh. Với cái nhìn hẹp hòi như thế, họ chỉ nhận ra Đức Giêsu là một người tội lỗi!
Thật là một định mệnh éo le: người mù từ lúc mới sinh đã được sáng cả thể xác lẫn tâm hồn; còn những người biệt phái vẫn tự hào sống trong ánh sáng lại hoá ra mù không nhìn thấy chân lý: "Ta là Ánh Sáng thế gian" (Gn 9,5).
Đức Giêsu là Ánh Sáng. Ánh Sáng đã đến, đang chờ đợi bạn tiếp nhận để chiếu soi, đổi mới cuộc đời bạn. Bạn quảng đại đón nhận hay từ chối để suốt đời sống trong u tối như những kẻ đui mù? Thật đáng tiếc cho những ai "chuộng bóng tối hơn ánh sáng" (Gn 3,19). Vậy bạn hãy chân thành đón nhận Ánh Sáng, nhất là ánh sáng lương tâm mà Chúa đang rọi chiếu cho bạn. Đừng kiêu ngạo chối từ, nhưng hãy khiêm tốn trông chờ ánh sáng chân lý. Đừng vị kỷ trước những đòi hỏi của Ánh Sáng, nhưng hãy sẵn sàng đón nhận lời mời gọi của Ánh sáng Lời Chúa. Có như thế, tâm hồn bạn sẽ trở nên trong sáng và Đức Kitô sẽ luôn chiếu sáng trên cuộc đời bạn (x. Ep 5,14).
Trên đường đi mua nước a-xít đậm đặc trở về để pha chế làm bình ắc-qui, anh Hiếu, thợ làm bình ắcqui, cố tránh một con chó chạy ngang qua đường, nên anh bị té xe. Những giọt a-xít từ chiếc bình bị vỡ đã bắn tung toé khắp người anh. Khủng khiếp nhất là một vài giọt đã văng trúng vào mắt anh và vĩnh viễn cướp đi đôi mắt của anh. Gặp lại anh trong cảnh mù loà, anh tâm sự: "sống trong cảnh mù loà và tối tăm này thật là khủng khiếp." Anh nói trong sự thất vọng và chán chường những lời như thế. Tôi hiểu được nỗi đau khổ quá lớn của anh và thầm cầu mong cho anh có đủ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng cơn đau đớn và buồn khổ mà anh đang gánh chịu. Nhưng khi đó, tôi lại suy nghĩ về một sư mù loà lớn lao hơn là sự mù loà về mặt tinh thần. Sống trong cảnh mù loà thể xác đã đau khổ như thế, thì sống trong sự mù loà về mặt thiêng liêng chắc chắn sẽ còn đau khổ hơn gấp nhiều lần. Vì những ai sống trong cảnh mù loà thiêng liêng sẽ không nhìn thấy được sự thật, không nhìn thấy ánh sáng thật mang lại sự sống đời đời cho họ. Ánh sáng đó chính là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành một người mù từ lúc mới sinh. Anh mù này đã gặp được chính nguồn sáng là chính Đức Giêsu. Ngài đã mở mắt cho anh và cứu chữa anh. Từ việc được sáng mắt thể xác, anh đã tiến đến việc sáng mắt tâm tâm hồn: nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhờ ơn Chúa trợ giúp anh. Đức Giêsu chính là Ánh sáng, Ánh sáng phát xuất từ Nguồn Sáng là Thiên Chúa, Ngài là Ánh sáng ban sự sống vĩnh cửu cho con người .
Thấu hiểu sự đau khổ của anh mù, Đức Giêsu đã cảm thương anh và tự nguyện đến cứu chữa anh. Ngài đã giải thoát anh khỏi đau khổ nơi thân xác như dấu chỉ của Sa tan đang đè nặng trên con người của anh. Việc chữa lành người mù từ lúc mới sinh cho ta thấy quyền năng của Thiên Chúa trên ma quỷ, trên sự tối tăm và sự chết. Đức Giêsu chính là Ánh sáng ban sự sống cho hết mọi người, đặc biệt là cho những ai biết nhận ra Ngài. Câu chuyện của người mù cũng chính là câu chuyện của chính chúng ta hôm nay. Chúng ta tuy không bị mù về thể xác, nhưng rất có thế chúng ta đang bị mù về tinh thần.
1. Mù vì không nhận ra sự thật.
Sự thật đó là:
- Thiên Chúa là Đấng Tạo hoá muôn loài và là Cha của tất cả chúng ta; còn tất cả chúng ta đều là anh em với nhau.
- Con người là hồn và xác được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh của Ngài
- Đức Giêsu là Con một duy nhất của Thiên Chúa, đã xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta. Ngài đã chịu muôn vàn đau khổ và sỉ nhục chỉ vì yêu chúng ta.
- Tất cả những gì chúng ta đang có đều là hồng ân của Chúa ban.
- Ơn Chúa chính là sự sống của chúng ta.
- Hội thánh Công Giáo do Chúa Giêsu sáng lập chính là người mẹ dịu hiền của tất cả chúng ta.
Những sự thật đó rất nhiều khi chúng ta không nhìn thấy. Như vậy, có thể nói là chúng ta đang sống trong cảnh mù loà về mặt tinh thần và thiêng liêng.
2. Mù vì không sống theo những giá trị Tin Mừng đòi hỏi:
Lời Chúa là sự thật, là ánh sáng soi đường con người tìm về Chân Thiện Mỹ, dẫn đưa con người về sự sống vĩnh cửu. Nhưng nhiều khi vì muốn sống và làm theo ý riêng, vì lười biếng, vì nhát sợ, vì lợi lộc thấp hèn và những thú vui chóng qua ở đời này mà chúng ta đã bỏ qua Lời của Thiên Chúa .
Chấp nhận sống theo Lời Chúa là chấp nhận lội ngược dòng, chấp nhận bước trên con đường chẳng mấy ai đi. Nhưng chắc chắn ở phía cuối của con đường ấy là một tương lai huy hoàng dành cho những ai can đảm và trung tín đến cùng.
Chúng ta hãy tha thiết cầu xin Chúa chữa cho mắt tâm hồn chúng ta khỏi cảnh mù tối thiêng liêng, để chúng ta biết nhìn ra sự thật, hiểu được giá trị lớn lao của Tin mừng và can đảm sống theo những giá trị đích thực đó. Đừng bao giờ tìm cách huỷ diệt ánh sáng chân lý vì kiêu ngạo hay vì thành kiến như những Biệt phái trong Tin mừng hôm nay. Đức Giêsu chính là Ánh sáng ban sự sống cho hết mọi người. Hãy hân hoan tìm đến với Ngài để được sống và sống muôn đời.
Thật là một hồng ân lớn khi “đôi mắt” chúng ta chiêm ngưỡng được vẻ đẹp chung quanh, chẳng hạn thấy được những người thân và những người mình yêu mến, chiêm ngắm ánh sáng lấp lánh của mặt trời lúc rạng đông, nếm hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên, nhìn thấy vạn vật, bầu trời, tinh tú và chứng kiến muôn hình vạn trạng của cuộc sống. Tất cả vũ trụ như bừng sáng với với chúng ta.
Chúng ta thường nói: “Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn” nghĩa là đôi mắt phản ánh tâm hồn và tấm lòng con người. Tục ngữ dân gian có câu: “Người khôn con mắt dịu hiền”, “Trán cao mắt sáng phân minh, là người học rộng, công danh tuyệt vời”. Người có tâm hồn thánh thiện thì đôi mắt bao giờ cũng đẹp; nhìn vào đôi mắt của trẻ thơ đã nói lên điều này. Mắt là cửa sổ để qua đó con người chiêm ngắm vẻ đẹp của vũ trụ vạn vật; để nhìn thấy những tấm gương những ngọn đèn soi sáng trong cuộc lữ hành trần thế.
Như thế, khi đôi mắt của ai đó không còn nhìn được nữa, thì lúc đó cảnh vật hết lung linh, không nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên, xung quanh họ tất cả chỉ còn lại một màu đen tối. Đó là nỗi bất hạnh của một con người với đôi mắt không nhìn thấy. Người mù về thể xác là người không thể nhận được các hình ảnh qua thần kinh thị giác và do đó không có ý niệm về mầu sắc. Chúng ta có thể liên tưởng đến sự “mù lòa” về tinh thần do cặp mắt đức tin đã bị che khuất, hay do tự cao tự đại, luôn cho mình là người thông suốt nhìn rõ mọi vấn đề, cho là thánh thiện đức độ hơn người, không nhìn thấy những sai sót của mình.
Tin mừng chủ nhật IV mùa chay năm A thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành đôi mắt cho anh mù từ lúc mới sinh (Ga 9, 1–41). Chữa lành đôi mắt thể xác là một hồng ân cao cả. Nhưng tuyệt vời hơn nữa, chính Đức Giêsu đã khai mở đôi mắt đức tin cho anh, để anh nhận ra Người là một ngôn sứ, là Thiên Chúa, là Ánh Sáng cho trần gian. Được chữa lành đôi mắt thể xác, đôi mắt đức tin của anh ngời sáng: “Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9, 33). Chúa Giêsu khẳng định: “Ta là sự sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ được ánh sáng ban sự sống” (Ga 1, 12). Nhận được ánh sáng của Chúa Giêsu qua bí tích thánh tẩy, chúng ta “sống như con cái của sự sáng” theo lời dạy của thánh Phaolô, vì “hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành, là công chính, chân thật” (Ep 5,8).
“Giàu hai con mắt, khó hai bàn tay”, câu thành ngữ đã diễn tả tầm quan trọng đặc biệt của đôi mắt. Như thế, cầu xin có được đôi mắt sáng là điều cần thiết, nhưng có được một tâm hồn đẹp và sáng ngời còn là điều cần thiết hơn. Xin cho mọi người biết mở mắt và mở lòng ra để thấy được nghĩa vụ mình phải làm cho người khác hạnh phúc, hơn là chỉ thấy quyền lợi và nhu cầu của mình. Mở mắt mở lòng để nhìn thấy cái đẹp, cái tốt nơi người khác; mở mắt mở lòng để sống yêu thương nhau.
Ôi lạy Chúa, mở cho con đôi mắt, Thấy tình yêu kỳ diệu Chúa khắp nơi Con mù lòa, bên vệ đường hành khất. Xin chữa con để nhìn thấy mặt Ngài. Cúi lạy Ngài, cho tai con nghe rõ, Tiếng tha nhân cầu khẩn lượng hải hà. Họ khổ đau, họ kêu gào than thở, Đừng để con cứ giả điếc làm ngơ. Cúi lạy Ngài, xin mở rộng tay con, Đừng nắm lại giữ khư khư tất cả. Trước cửa nhà có người nghèo đói lả, Xin dạy con biết chia sẻ vui lòng. Cúi lạy Ngài, cho chân con vững chãi, Để tiến lên dẫu đường sá hiểm nguy. Nguyện theo Ngài, thập giá đâu quản ngại, Chúa cầm tay mà dẫn bước con đi. (Thánh thi Kinh Sách, thứ năm tuần II)
Có một anh chàng nọ bị mú tư khi mới sinh. Anh rất có lòng đạo nên năng cầu nguyện tự phát và thường kết thúc lời nguyên bằng kết thúc lời cầu của mình bằng câu: "Xin Chúa ban cho con được sáng mắt « Nếu điều đó hữu ích cho phần rỗi của con". Một hôm, người ta dẫn ông mù đến trước mộ của thánh Tô-ma Can-tô-be-ry để xin Người làm phép lạ chữa lành cho cặp mắt của ông. Lời cầu nguyện của ông đã được chấp nhận và mắt của ông đã mở ra được để nhìn xem cảnh vật chung quanh và ca tụng tình thương cứu độ của Thiên Chúa. Khi niềm vui khỏi bệnh trôi qua, ông mới chợt nhớ là mình đã quên thêm vào lời cầu nguyện câu kết thúc quen thuộc: "Nếu điều đó có ích cho phần rỗi con".
Lập tức ông liền quay trở lại viếng mộ thánh nhân để xin được mù trở lại « Nếu điều đó đem lại lợi ích cho linh hồn con ». Sau lời cầu này, mắt ông đã bị mù như trước. Tuy nhiên từ ngày đó ông mù đã bằng lòng với sống an vui và không bao giờ còn muốn được sáng mắt nữa.
2) ĐÂU LÀ LÚC TRỜI SẮP SÁNG ?
Một vị ẩn sĩ hỏi các đồ đệ rằng: "Đâu là lúc đêm sắp tàn và ngày sắp đến ?" Nhiều câu trả lời của các học trò được nêu ra: Kẻ thì cho rằng đó là lúc ta có thể phân biệt từ xa một cây dừa với một cây cau. Người khác cho rằng đó là lúc ta có thể phân biệt được một con bò với một con trâu... Cuối cùng đáp án đúng nhất mà vị ẩn sĩ muốn dạy như sau: "Đó là khi ta nhìn người khác và nhận ra họ là anh em của ta".
3. SUY NIỆM:
1) Đức Giê-su chữa người mù từ khi mới sinh được sáng mắt:
Khi đi ngang qua, Đức Giê-su đã nhìn thấy một ngừời mù từ khi mới sinh đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Các môn đệ nêu thắc mắc theo quan điểm của người Do thái đương thời về tội lỗi như sau: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" Đức Giê-su không trực tiếp trả lời, mà Người chỉ nói:"Chuyện đó xẩy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh".
Tiếp đến Tin Mừng thuật lại việc chữa bệnh mù của Đức Giê-su bằng những cử chỉ mang tính biểu tượng như sau: "Đức Giêsu nhỏ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: "Anh hãy đi đến suối Si-lo-ê mà rửa (Si-lo-ê có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì thấy được" (Ga 9,6-7).
2) Cuộc điều tra của các đầu mục Do thái:
Những người Biệt phái không chấp nhận Đức Giê-su đã làm phép lạ chữa lành cho người bệnh mù nên họ đã mở một cuộc điều tra rộng rãi: Trước hết họ mời người bị mù đã được Đức Giê-su chữa lành đến tra vấn về những gì đã xảy ra cho anh, rồi cả những người láng giềng và cha mẹ của người mù cùng được mời đến để điều tra thực hư. Trước phép lạ hiển nhiên không thể phủ nhận được, các người Biệt phái đã tìm cách gây khó dễ cho người mù. Tuy nhiên anh mù này do đã có một đức tin kiên cường vào Đức Giê-su, nên anh không dễ dàng khuất phục trước cường quyền, anh đã thuật lại rành rẽ các việc Đức Gie-su đã làm để chữa bệnh cho anh và anh còn nói lên suy tư của anh về nguồn gốc thần linh của Người như sau: "Kể cũng lạ thật ! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi ! Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi. Còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì" (Ga 9,30-33).
3) Về tiến trình anh mù được sáng lòng để từng bước tin vào Đức Giê-su:
Trong suốt cuộc gặp gỡ đối thoại với Đức Giê-su, anh mù đã được Người soi sáng để từng bước khám phá sự thật về vai trò cứu độ của Người: Từ "một người tên là Giê-su" (11) đến "một vị Ngôn sứ !" (17), rồi "Người bởi Thiên Chúa mà đến" (33). Sau cùng khi đã được Đức Giê-su mặc khải mình là Con Người (35), là Tôi Trung của Thiên Chúa và là Đấng Thiên Sai, thì anh mù đã tuyên xưng đức tin: "Thưa Ngài, tôi tin" và anh thể hiện lòng tin bằng việc khiêm hạ sấp mình thờ lạy Người (37). Quả thật, chỉ những ai thực tâm muốn đi tìm Chúa mới được Người cho gặp và mới nhận được ơn Chúa chiếu soi ánh sáng để đạt được đức tin. Trái lại, những ai tự kiêu lại tưởng mình sáng mắt, có sự hiểu biết sự vật bề ngoài lại trở nên mù tối về đức tin, như Người đã nói: "Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù !" (39).
4) Sám hối canh tân trong Mùa Chay thánh:
- Những nguyên nhân của bệnh mù tinh thần: Thói ích kỷ làm chúng ta ra mù tối không nhìn thấy nhu cầu của tha nhân bên cạnh mà chỉ tìm kiếm thỏa mẫn các quyền lợi của mình như người giàu trong dụ ngôn anh La-da-rô nghèo khổ. Thói vô cảm làm chúng ta bị mù tình thương nên dễ làm ngơ trước những anh chị em đang cần được trợ giúp; Thói tự kiêu làm chúng ta bị mù không nhìn thấy thói hư bản thân mà chỉ thấy những điều xấu nơi tha nhân mình không thích. Mỗi người chúng ta đều đeo hai cái túi: Túi trước mặt là các ưu điểm và thành tích của mình, còn túi sau lưng đựng những thói hư tật xấu. Thường chúng ta chỉ thấy ưu điểm của mình và khuyết điểm của tha nhân. Để biết mình ra sao, chúng ta cần phải biết hồi tâm sám hối. Mùa Chay là thời kỳ thuận tiện để nhận biết thói hư của mình và quyết tâm tu sửa nên hoàn thiện hơn.
- Cần xét đoán dưới ánh sáng của Lời Chúa: Ngày xưa Đức Chúa đã hướng dẫn ngôn sứ Sa-mu-en chọn một trong các con của Giét-sê để xức dầu tấn phong làm vua như sau: "Đừng xét theo hình dáng và voc người cao lớn của nó, vì Ta đã gạt bỏ nó. Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm. Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng" (Sm 16,7). Hãy năng tham dự các buổi tĩnh tâm, hiệp sống Tin Mừng và chọn đọc những câu Lời Chúa phù hợp tinh thần sám hối trong các giờ kinh tối gia đình hằng ngày.
- Cần tập hành xử khiêm tốn: Trong bất cứ việc gì, cần ý thức mình chỉ thấy chỉ biết một phần sự thật, nên phải khiêm tốn tìm hiểu và học hỏi nơi tha nhân. Điều ta biết chỉ là phần nổi nhỏ bé của tảng băng nổi lên trên mặt biển. Còn những điều chưa biết thì to lớn và chìm sâu bên dưới mặt nước. Do đó, thay vì tranh cãi nhau như năm anh mù đi xem voi cãi nhau về những điều mình không biết rõ, chúng ta hãy khiêm tốn lắng nghe tha nhân. Hãy chấp nhận sự giới hạn của mình, chấp nhận những điều mình biết là chưa đầy đủ, chưa phải là chân lý để tiếp thu thêm kiến thức của tha nhân; Cần ý thức các ưu điểm của mình cũng chỉ có giới hạn như người xưa đã dạy: "Cao nhân tất hữu cao nhân trị" (Một người giỏi chắc chắn sẽ có người khác giỏi hơn đánh bại). Do đó chúng ta cần hành xử khiêm tốn để luôn tôn trọng tha nhân, biết lắng nghe ý kiến của người khác và sẵn sàng tiếp thu các góp ý để nhận ra con người thật của mình, vì "Việc người thì sáng, việc mình thì quáng!" và đó là phương thế giúp thành công trong mọi việc: "Biết mình biết người trăm trận trăm thắng". Cần biết lắng nghe tha nhân: Nghe không những lời khen mà cả những lời phê bình chê trách, và tránh xa những lời nịnh hót như người xưa dạy: "Ai khen ta mà khen phải thì là bạn ta. Ai chê ta mà chê phải là thầy ta. Còn ai nịnh hót ta đó chính là kẻ thù của ta vậy".
4. THẢO LUẬN:
Trong Mùa Chay này, Bạn sẽ làm gì để có thể nhận biết về con người thực của mình và quyết tâm tu sửa các thói hư tật xấu để ngày càng nên hoàn thiện giống như Đức Giê-su hơn?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU: Xin đừng để sự ác cảm và thành kiến che mắt, làm cho chúng con không nhìn thấy những ưu điểm của người khác. Xin cho chúng con luôn khiêm tốn nhận ra khuyết điểm lầm lỗi của mình để sửa sai. Xin cho chúng con biết nhìn thấy Chúa đang hiện diện trong thiên nhiên, nơi bản thân con và nhất là nơi anh em con để sẵn sàng yêu mến và khiêm nhường phục vụ họ như phục vụ chính Chúa hầu xứng đáng nên môn đệ thực sự của Người.
- LẠY CHÚA: hiện nay còn biết bao người đang mù chữ, mù kiến thức, mù giáo lý... Nhất là đang bịt tai nhắm mắt vì sự cứng lòng tin như những người Pha-ri-sêu khi xưa. Trong Mùa Chay này, xin cho chúng con biết dành thì giờ tham dự những cuộc tĩnh tâm để duyệt xét lại con người của mình. Xin cho chúng con ngày một hiểu biết Chúa để yêu mến Chúa, biết rõ con để không dám tự mãn và quyết tâm tu sửa các thói hư tật xấu để ngày một nên giống Chúa hơn.
Ánh sáng là năng lực rất cần thiết cho mọi sự sống từ con người, đến con vật, đên cây cỏ, vạn vật vv...Thiếu ánh sáng, con người sẽ đâm vào cảnh khốn cùng, sẽ rơi vào cảnh tang thương, chết chóc. Cây cối sẽ không tăng trưởng, phát triển được khi vạn vật, vũ trụ thiếu ánh sáng. Chúa nhật IV Mùa chay, Giáo hội muốn cho chúng ta nhận ra Ánh Sáng thật là Đức Kitô. Bởi vì, qua phép lạ Chúa Giêsu làm cho anh mù từ thuở bình sinh, Ngài muốn dẫn anh mù và cả nhân loại thoát khỏi sự mù tối tâm hồn để đưa vào vòng ánh sáng, biết đón nhận Ngài và tin tưởng đi theo Ngài...Vì Ngài là Ánh Sáng soi đường, chỉ lối cho nhân loại...
Tin mừng của thánh Gioan hôm nay thuật lại câu chuyện phép lạ thật sinh động, hấp dẫn, đưa chúng ta đi từ sự ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác. Những người Pharisêu cố ý tìm cách bắt bẻ Chúa Giêsu vì qua việc chữa lành cho anh mù từ thuở mới sinh được sáng mắt. Chúa Giêsu đã làm những cử chỉ thật đơn giản, xem ra phản cả khoa học, mà Ngài lại làm phép lạ vào ngày Sabbat, ngày người Do Thái kiêng kỵ, cấm đoán con người không được làm việc. Ngày Sabbat là ngày nghỉ...Chúa vượt lên trên cả những cấm kỵ, những rào cản phản Tin mừng. Ngài đến để đem tình thương cho con người.Ngài đến không phải để phá lề luật nhưng để làm cho lề luật được nên hoàn thiện. Do đó, những người Pharisêu căm tức, thù oán Ngài. Họ gán cho Chúa là người tội lỗi:" Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa, chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi " ( Ga 9, 24 ). Tuy nhiên, anh mù đã cương quyết tin nhận Thiên Chúa:" Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không tôi không biết.Tôi chỉ biết một điều, là trước đây tôi bị mù nay tôi nhìn thấy được " ( Ga 9, 25 ). Khi gặp lại Đức Giêsu, anh mù ta tuyên xưng: " Thưa Ngài, tôi tin ". Rồi anh sấp mình xuống thờ lạy Người ( Ga 9, 38 ). Sở dĩ, nhưng người Pharisêu, Kinh sư và giới lãnh đạo tôn giáo lúc đó không nhận, không tin Chúa bởi vì họ lòng chai dạ đá, họ cứng cỏi, đặc biệt họ sống trong sự tội, mà đang sống trong tội lỗi thì làm sao nhận và tin được Ngài...Một phép lạ tỏ tường như thế, nhưng người Pharisêu vẫn không nhận ra Chúa .Họ đang sống trong tối tăm mà cứ tưởng mình sáng. Họ đang sống trong tội lỗi mà cứ tưởng mình thánh thiện. Họ tự nhận:" Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao ? " ( Ga 9, 40 ) và Chúa Giêsu đã trả lời thẳng thừng với họ:" Nếu các ông mù, thì các ông đã chẳng có tội.nhưng vì các ông nói: chúng tôi nhìn thấy được, nên tội các ông vẫn còn đó " ( Ga 9, 41 ).
Chúa Giêsu đã làm một phép lạ mà muôn đời y khoa cũng vẫn phải bó tay. Điều này, cho chúng ta thấy quyền năng vô biên của Chúa. Chúa đã làm ch anh mù được sáng mắt một sự ước ao, trông đợi mà chỉ có Thiên Chúa mới làm được. Chúa đã làm ch anh mù được khỏi mù về thể lý, nhưng trên hết Chúa đã làm cho anh mù có đức tin để nhận ra Ngài và tin vào Ngài...Mù về thế lý đã vô cùng khổ sở nhưng có một thứ mù lòa kinh khủng khiến con người không thể nhìn ra sự thật, nhìn ra ánh sáng. Đó là thứ mù lòa tâm linh. Một sự mù lòa tinh thần do sống trong sự tội.
Anh mù hôm nay đã quá hạnh phúc vì Chúa đã chữa cho anh thấy được một sự thật hiển nhiên mà bất cứ một thầy thuốc giỏi giang đến mấy cũng không chữa được. Y khoa dù có tiến bộ vượt bực cũng không thể làm được điều ấy. Mùa chay là mùa chuẩn bị tâm hồn các dự tòng lãnh nhận bí tích thanh tẩy và giúp các tín hữu sống lại phép rửa tội họ đã lãnh nhận. Nên, các bài đọc đặc biệt các bài Tin mừng của thánh Gioan giúp các tân tòng nhận ra Chúa, tin và đi theo Chúa. Bí tích thanh tẩy đưa con người vào sự sống Thiên Chúa và giúp con người nhận ra Ánh sáng là chính Đức Kitô.Mùa chay là mùa ân sủng, mùa hồng ân để giúp chúng ta cơ hội thuận tiện sám hối, ăn năn và trở về với Chúa vì " Chúa là Đường,là Sự Thật và là Sự Sống ".
Ánh sáng rất cần cho sự sống, như lương thực: thức ăn, nước uống cần cho con người. Lời Chúa là ánh sáng soi đường, chỉ lối cho con người như của ăn nuôi sống tâm hồn như Chúa đã nói:" Thầy là ánh sáng cho thế gian " (Ga 9, 5 ).
Có hai vợ chồng đi tham quan một cửa hàng trưng bày tranh thuê lụa. Vừa bước tới cửa bà vợ đã chăm chú nhìn vào bên trong một hồi lâu rồi nhận xét: "Tranh gì đâu mà xấu vậy? Thêu người đàn bà chẳng giống ai!". Ông chồng vội bịt miệng bà và nói: "Không phải tranh đâu, đó là gương đấy. Đó là hình ảnh của bà được phản chiếu qua gương đấy! Chớ nhận xét hồ đồ!". Người đàn bà quá xấu hổ đành bỏ ra về.
Đó cũng là cảnh mù loà đáng thương của nhiều người trong chúng ta. Khi chúng ta phê bình chỉ trích người khác đang khi chính chúng ta vẫn còn đó đầy những lỗi lầm. Khi chúng ta chê bai anh em đang khi chúng ta vẫn còn đó những khuyết điểm và thói hư tật xấu. Chúng ta thường cắt nghĩa tốt về mình nhưng lại quá hà khắc về lối sống của tha nhân. Chúng ta thường mù loà về bản thân mình nhưng lại thích soi mói anh em. Đúng như cha ông ta vẫn nói:
"Chân mình còn lấm bê bê
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người".
Bài tin mừng hôm nay nói đến rất nhiều nhân vật nhưng chỉ có một người là sáng mắt thực sự. Người có mắt sáng là người biết nhìn nhận sự việc đúng sự thật. Người sáng mắt không lệch lạc về quan điểm, về sự việc. Người sáng mắt biết nhận định đúng về những gì đang diễn ra chung quanh. Đó là anh mù từ thuở mới sinh. Anh mù về thể xác nhưng sáng về tinh thần. Anh đã dám nhìn nhận sự thật cho dù vì đó mà anh bị trục xuất khỏi cộng đoàn. Anh đã công khai nói lên niềm tin của mình vào Đấng đã chữa lành cho anh. Cho dù anh gặp nhiều sự chống đối, nhiều hiểm nguy nhưng anh vẫn phải nói đúng sự thật về những gì đã diễn ra trong cuộc đời anh.
Nhưng tiếc thay nhiều người mắt sáng nhưng lại tối tâm hồn. Đó là các biệt phái đầy kiêu căng đã không thể nhìn thấy quyền năng của Chúa đang hiển thị trước mặt các ông. Đó là cha mẹ của anh mù vì sợ hãi đã lẩn trốn sự thật, không dám nói đúng sự thật cũng đồng nghĩa chấp nhận mình mù loà giữa đời. Người biệt phái vì lòng ghen ghét mà họ đã có cái nhìn lệch lạc về việc làm của Chúa Giêsu. Cha mẹ anh mù vì cầu an nên thiếu trách nhiệm với con và với người đã cứu con mình. Xem ra bệnh mù về tâm hồn có muôn vàn nguyên nhân dẫn đến mù loà. Và xem ra bệnh mù thể xác thì ít hơn bệnh mù về tinh thần. Bởi lẽ, mỗi một cách sống sai với lương tri con người đều được coi là căn bệnh mù loà của tâm hồn. Chúng ta có thể nhìn thấy những triệu chứng cũng như nguyên do của bệnh mù loà tâm hồn như sau:
Khi chúng ta quá ích kỷ dẫn đến không thấy nhu cầu của thân nhân để cảm thông và giúp đỡ.
Khi chúng ta quá vô tâm nên không thấy nỗi đau của anh em mà chính chúng ta đã gây nên cho họ.
Khi chúng ta quá lười biếng đến nỗi không còn thấy trách nhiệm và bổn phận của mình với gia đình và xã hội.
Khi chúng ta quá bảo thủ và thành kiến nên không thấy điều hay, điều tốt của tha nhân.
Khi vì phán đoán nông cạn, hời hợt làm chúng ta mù loà không thấy những giá trị của người anh em và khiến ta hay lên án một cách hồ đồ, thiếu công bình và bác ái.
Nhưng điều quan yếu hơn cả đối với các tín hữu trong Mùa Chay không phải chỉ là nhìn nhận sự khuyết tật mù loà của mình đế sám hối canh tân, đề cầu xin Chúa chữa lành mà còn phải có một đời sống đức tin như anh mù sau khi được sáng mắt sáng lòng.
Đó là một đức tin đầy lạc quan, biết reo vui cảm tạ Thiên Chúa vì những ơn đã lãnh nhận. Đó là một đức tin đầy can đảm, sẵn sàng trực diện với những cạm bãy thù nghịch của những kẻ đồng đạo tội lỗi hay đã bị thoái hoá. Và đó cũng còn là một đức tin vững vàng chấp nhận thiệt thòi cô đơn, vì dám làm chứng cho ánh sáng giữa bóng tối tội lỗi, sa đoạ của trần đời hôm nay.
Nguyện xin Chúa là ánh sáng trần gian soi lối cho chúng ta đi trong ánh sáng và chân lý. Xin cho chúng ta can đảm đoạn tuyệt với bóng tối tội lỗi và chân thành sống theo ánh sáng của lề luật và tình thương. Amen
Khi còn là sinh viên triết học, đã có nhiều lần tôi được đi thăm trường mù. Gặp những anh chị em mù, cảm giác của tôi là thương họ, tôi vẫn còn nhớ thật rõ những gương mặt thật rạng rỡ của những em học sinh mù, nhưng ẩn khuất một cái gì thật khó nói nơi họ, đó là họ không thể nhìn thấy người đối diện họ. Tin Mừng Chúa nhật thứ IV Mùa Chay trình bầy về một người mù từ thuở mới sinh. Người mù này đã được Chúa Giêsu làm phép lạ cho sáng mắt...
Tôi đã có dịp trò chuyện, thăm hỏi những anh chị em mù và đã được các anh chị em mù tâm sự rất nhiều về cuộc sống, về tình trạng mù lòa của mình và về những ước mơ, mơ ước các anh chị em mù mong muốn. Có thấy những người mù, có trò chuyện với họ, chúng ta mới cảm thấy chúng ta được hạnh phúc thế nào khi sáng mắt, bởi vì nhờ đôi mắt chúng ta được nhìn ánh sáng, vũ trụ và con người. Nỗi khổ của người mù là không thấy ánh sáng, đặc biệt đau khổ nhiều nhất là những người đã sáng mắt bỗng bị mù lòa, họ đã được thấy, nay bỗng không nhìn được nữa và tất cả đối với họ chỉ là mầu đen, chỉ là ê chề, thất vọng, nêu họ không được động viên, khuyến khích, nhất là khi họ không được khơi dậy niềm tin. Bài Tin Mừng của thánh Gioan 9, 1-41 thuật lại về một người mù từ lúc bẩm sinh.
Người mù này đã hạnh phúc biết bao khi được Chúa Giêsu làm cho sáng mắt. Tin Mừng cho hay người mù này trước và sau khi được Chúa chữa lành luôn khiêm nhường, luôn nhìn nhận thân phận đen đủi, hẩm hiu của mình. Người mù được Chúa chữa lành về mặt thể xác là một ân huệ cao cả. Nhưng cao cả hơn nữa, chính Chúa Giêsu đã khai mở đức tin cho người này khiến anh nhận ra Chúa là một ngôn sứ, là Người bởi Thiên Chúa mà đến, là Ánh Sáng thế gian. Tuy nhiên, để nhận ra Người đã chữa lành cho anh lại là một chuyện khác bởi vì anh đã phải vượt qua một cuộc hành trình đầy chông gai do anh chưa thể hiểu, do Lề luật của tôn giáo rào cản, do sự cứng cỏi, chống đối của những người Pharisêu có mắt nhưng lại mù lòa. Cuộc hành trình đi tới đức tin của anh cứ bị đe dọa, hạch sách, ngăn đe của giới có quyền, có chức, của giới lãnh đạo tôn giáo. Với sự cố gắng, với sự khai mở của Đức Giêsu Kitô, anh mù đã vượt qua được tất cả sự cam go, thử thách và dọa nạt từ nhiều phía và rồi anh đã tới được với đức tin ngời sáng. Chính anh đã bênh vực cho Đức Giêsu khi biết bao người phủ nhận phép lạ Chúa Giêsu mới làm cho người mù mắt, kết tội Chúa đã chữa lành ngày sabbat, là ngày nghỉ không được làm việc, không được chữa lành, không được cứu vớt. Anh đã không những bênh vực cho Chúa Giêsu mà còn dõng dạc tuyên xưng niềm tin của mình: " Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi, còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì " ( Ga 9, 31-33 ).
Anh mù đã nói rất chi lý bởi vì nếu Chúa Giêsu là người tội lỗi thì làm sao Ngài có thể làm phép lạ cho anh ta sáng mắt. Những người lên án Chúa tưởng mình sáng nhưng kỳ thực họ đang sống trong tình trạng tội lỗi và họ có mắt nhưng thực tế đang mù lòa. Những người Pharisêu, những Kinh sư, những người Do Thái cứng lòng, cố chấp, mù quáng, chai lì, họ làm sao nhận ra được Thiên Chúa, làm sao họ thấy được Chúa Giêsu, Đấng Mêsia, Đấng Thiên sai, Đấng cứu độ thế gian. Họ đã không thể nhận ra Người đã chữa anh mù đang đứng ở đó là chính Con Thiên Chúa: Đức Giêsu Kitô. Họ đã chai lì, họ đã mù lòa cả thể xác và tinh thần. Đây quả là một sự bất hạnh lớn lao cho họ.
Chúa Giêsu đã làm một phép lạ mà y khoa muôn thời đã bó tay vì mù từ bẩm sinh không thể chữa lành được. Chúa đã dùng quyền năng phi thường của Thiên Chúa để làm cho anh mù bị mù bẩm sinh được sáng mắt về mặt thể xác nhưng trên hết Ngài đã làm cho anh ta có đức tin để nhận ra Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa mà rất nhiều người sáng mắt không nhận ra.
Có một thứ mù lòa về tinh thần nghĩa là chìm đắm trong tối tăm tội lỗi thì thật khổ sở bởi vì họ không thể nhìn ra sự thật, họ tự kiêu, tự mãn, cố chấp, ương ngạnh trong suy nghĩ và trong cái nhìn của mình khiến họ không thể nhận ra Chúa là Ánh Sáng.
Anh mù hôm nay quả hạnh phúc và sung sướng biết bao khi Chúa mở mắt cho anh và mở đức tin cho anh để anh nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, là ánh Sáng chiếu soi thế gian. Chúa đã thắp sáng tin yêu đời của anh mù. Chúa luôn chờ đợi chúng ta, đặc biệt trong Mùa Chay, Chúa cho chúng ta một cơ hội, một dịp thuận tiện để chúng ta đến với Chúa Giêsu. Chắc chắn Chúa sẽ mở mắt đức tin, mở mắt tâm hồn cho chúng ta và thắp sáng tin yêu để chúng ta vui sống, vượt thắng mọi khó nguy, thử thách và chông gai trên cuộc hành trình đức tin của chúng ta.
Ngày xưa ở Ấn- độ, có một vị vua muốn tìm trò tiêu khiển, bèn nảy ra ý tưởng như sau: Vua cho quân lính đi lùng kiếm năm người mù bẩm sinh chưa hề biết con voi là gì để đưa về triều làm trò tiêu khiển. Rồi vua cho đưa đến một con voi khổng lồ và bảo năm anh mù:
Các ngươi chưa hề biết voi là gì thì hôm nay Trẫm sẽ cho các ngươi được biết. Các ngươi hãy tiến lại sờ voi rồi mô tả cho Trẫm và quần thần quanh đây biết hình hài con voi ra sao. Ai mô tả đúng nhất sẽ được trọng thưởng.
Sau một hồi sờ voi, anh thứ nhất tâu:
- Tâu bệ hạ! Con voi giống y như cột nhà! Đó là người sờ trúng chân voi.
Anh thứ hai thưa:
- Voi giống như cái quạt lớn. Đó là người sờ trúng tai voi.
- Voi giống như một khúc rễ cây ngoằn ngoèo! (đó là mô tả của anh sờ trúng vòi voi).
- Voi giống như một tảng đá lớn, tròn tròn! (đó là phát biểu của người sờ trúng bụng voi)
Anh thứ năm cho rằng bốn anh kia đều sai bét, và phần thưởng chắc chắn thuộc về mình. Anh đắc chí tâu:
- Lâu nay hạ thần tưởng rằng voi là con vật to ghê lắm. Nào ngờ giờ đây chính tay hạ thần sờ thấy voi chỉ giống như cái chổi cùn! (vì anh sờ trúng đuôi voi).
Anh nào cũng hăng say và quyết liệt bênh vực ý kiến của mình, cho rằng duy chỉ có mình là đúng và những người khác đều sai. Họ tranh cãi nhau kịch liệt. Người nầy chê trách người khác là ngu, là mù, là dốt nát! Rốt cuộc, chẳng ai chịu thua ai, cả năm người nổi khùng lên, xông vào đấm đá nhau hung tợn, máu mồm máu mũi trào ra thảm hại ...
Trong khi đó nhà vua và triều thần ôm bụng cười ngặt nghẽo! Cười cho sự mù quáng đáng thương.
Cả năm anh mù nầy đều thuộc diện mù loà bẩm sinh, nhưng đồng thời cũng là những người mù quáng nặng nề.
Người mù quáng chỉ biết một phần mà cứ tưởng rằng mình biết toàn bộ, chỉ mới am tường một khía cạnh mà cho là mình đã quán triệt hoàn toàn... và cho rằng những ai không suy nghĩ như mình, không cùng quan điểm với mình, không phát biểu như mình là sai lạc. Họ không hề chấp nhận ý kiến người khác, hoặc tìm cách triệt hạ người bất đồng quan điểm với mình.
Đây là căn bệnh tinh thần rất phổ biến trong xã hội loài người suốt dòng lịch sử và đã gây nhiều đổ vỡ đau thương cho nhân loại.
Những người biệt phái được đề cập trong bài Tin Mừng hôm nay cũng thuộc hạng người mù quáng. Mắt các ông tuy sáng nhưng tâm hồn hoàn toàn mù tối. Các ông đã từng nghe lời Chúa Giê-su dạy, từng thấy phép lạ Chúa Giê-su làm và một trong các phép lạ ấy là việc chữa lành người mù bẩm sinh đang xảy ra sờ sờ trước mắt. Vậy mà các ông vẫn không nhìn nhận Ngài do Thiên Chúa mà đến, lại còn nhẫn tâm trục xuất người mù vừa được Chúa Giê-su chữa lành ra khỏi cộng đồng chỉ vì người nầy không cùng quan điểm với các ông, không chối bỏ sự thật như các ông...
Đọc kinh thánh, ta thấy lòng ghen tị của Ca-in đã làm cho anh trở nên mù quáng, mù quáng đến độ ra tay giết hại A-ben là đứa em hoàn toàn vô tội chỉ vì lễ vật của A-ben đẹp lòng Thiên Chúa.
Lòng ghen tị cũng đã làm cho vua Sao-lê trở thành mù quáng. Ban đầu vua rất yêu thương Đa-vít, xem Đa-vít như con. Nhưng khi Đa-vít giết được tướng giặc khổng lồ Gô-li-át, dân chúng hoan hô ca ngợi Đa-vít còn hơn vua, nên vua đâm ra ghen tức, lòng trí hoá ra mù quáng khiến vua săn lùng Đa-vít như một ác thú tận thâm sơn cùng cốc, tìm mọi cách giết hại vị anh hùng tài ba dũng cảm nầy.
Đến lượt Đa-vít, khi được lên ngôi vua, cũng trở nên mù quáng vì tình dục. Do say đắm sắc đẹp của bà Bát-sa-bê, vợ của U-ri-a, nhà vua đã sa ngã phạm tội với bà, sau đó lại tìm cách giết U-ri-a chồng bà và rồi chính thức cưới bà ấy làm vợ. Mù quáng đến thế thì thật là khủng khiếp!
Như thế, người mù quáng tự làm cho mình bị suy thoái nghiêm trọng, trở thành người xấu xa và gây thiệt hại khôn lường cho người khác.
Ngoài ra, điều tệ hại nhất là người mù quáng ít khi tự thấy được sự mù quáng của mình, không nhận ra lầm lỗi của mình, kể cả những tội tày trời, nên ngày càng lún sâu trong tội, vô phương cứu chữa!
Lạy Chúa Giêsu, như những người biệt phái xưa, con là người mù quáng cần được Chúa xót thương.
Xin thương mở mắt tâm hồn con như Chúa đã mở mắt người mù bẩm sinh được thuật lại trong Tin Mừng hôm nay để con được thoát khỏi tối tăm lầm lạc và được hoan hỉ bước đi trong ánh sáng Tin Mừng.
Những bài đọc và nội dung của Thánh kinh Chúa Nhật thứ 4 mùa Chay chu kỳ năm A quá phong phú và chuyển tải nhiều thông điệp. Chúng ta chỉ khai triển vài khía cạnh của các thông điệp ấy. Những bài đọc này được Giáo hội Mỹ ưa chuộng và khai thác đặc biệt trong các giáo án dành cho các lớp dự tòng.
Nếu chỉ đọc thoáng qua, ta không thấy những móc xích liền lạc như cầu nối, nối kết nội dung cả 3 bài đọc lại với nhau. Nội dung chính là về ánh sáng. Ánh sáng là yếu tố cần thiết để các sinh vật tồn tại và phát triển. Ánh sáng cần thiết để ta nhìn rõ sự việc, để thẩm định chính xác vấn đề, để đạt tới quyết định đúng đắn, và qua đó sinh hiệu qủa phong phú.
Qua bài sách thánh tiên tri Samuel, tất cả chúng ta cảm thấy được rất an ủi vì Chúa là đấng thấu rõ tâm can con người. Ai cũng có nhiều ít khuyết điểm hay những mặc cảm trong cuộc sống. Có người buồn vì kém thông minh. Có người buồn vì cánh cửa cuộc đởi mình đóng lại, thiếu vắng cơ hội tốt. Có người buồn vì vóc dáng không sáng sủa. Có người buồn vì nhìn đã sáng sủa nhưng chiều cao lại khiêm tốn. Rất nhiều nỗi niềm và rất nhiều mặc cảm khác... Qua bài đọc này tại sao ta được an ủi? Vì Chúa là Đấng có cái nhìn thấu suốt. Chúa đọc được tâm can con người và thấu suốt nỗi lòng cũng như thiện chí của ta. Câu truyện Chúa thúc giục và hướng dẫn Samuel lựa chọn xức dầu phong vương 1 trong các con của Jesse là bằng chứng. Cả vị tiên tri cũng lầm tưởng khi được sai đến xức dầu ngưòi Chúa tuyển chọn. Ông đã tự nghĩ và phán quyết theo lối nhìn tự nhiên...chọn người có tướng tá, chọn nhân vật ra vẻ vóc dáng. Chúa đâ giáo huấn chính vị tiên tri và các người khác rằng đường lối của Chúa khác của người ta. Chúa không nhìn theo sự thẩm định hời hợt ngoại diện, theo vỏ bề ngoài, nhưng đạt thấu tâm can, đi vào đúng nội tâm con người. Chúa chính là nguồn sáng và là Đấng ban phát ánh sáng hiểu biết.
Trong giáo huấn cho giáo đoàn Ê phê sô, thánh Phaolô đã nhắn nhủ, đào sâu khía cạnh ánh sáng và bóng tối. Khi chưa nhận biết Chúa, chúng ta là con cái sự tối tăm và buớc đi trong bóng tối; một khi đã nhận biết, và có Thiên Chúa trong cuộc đời rồi, ta phải sống và hành xử như con cái sự sáng. Ở đây có một chi tiết liên quan đến tu đức của bí tích giải tội. Thánh Phaolô nói ta phải moi móc, phơi bày những việc làm cũ của sự tăm tối ra. Cũng như ánh nắng tia sáng mặt trời sẽ biến đổi và sàng lọc nước thải đá bị ô uế (sanitary field/pool) để biến thành lành mạnh tốt đẹp, ta cũng phải mạnh dạn phô bày những việc làm của tăm tối và tội lỗi để được ơn Chúa và Nguồn Sáng thanh lọc. Phaolô hiểu rõ tâm lý ngại ngùng và khó khăn của vấn đề: dù có ngại, có xấu hổ để ôn lại ký ức, để duyệt xét lại tội lỗi tâm linh, thì đó là việc làm rất cần thiết. Mọi việc khi đưọc phơi bày sẽ hiển lộ; khi đã hiển lộ sẽ là chính ánh sáng, là thiện hảo.
Câu truyện dài với nhiều chi tiết ly kỳ về việc Chúa chữa người mù từ lúc mới sinh, là trọng điểm Thánh kinh hôm nay. Nói đến ngũ giác con người, ta phải đồng ý rằng giác quan nào cũng quan trọng và đặc biệt, để giúp chúng ta sống phong phú đúng đời sống con người. Thính giác và thị giác còn là những giác quan đặc biệt hơn của sinh vật cao cấp. Ngoài công dụng thiết yếu cho nhu cầu bảo tồn đời sống, "thính & thị" còn cho ta cơ hội học hỏi, thưởng thúc sự phong phú của nghệ thuật, làm con người trổi vượt và tiến bộ vô cùng giữa muôn ngàn sinh vật. Thời nay chúng ta nghe nhiều về phương pháp thính thị (audio & video). Audio và Video là 2 động từ Latinh nghĩa đen là "tôi nghe", "tôi thấy"
Bị mù lòa là sự thiệt hại và mất mát vô cùng to lớn. Theo quan niệm người xưa trong thánh kinh, mù loà cũng như nhiều bệnh hoạn ghê gớm khác được gán cho là hậu qủa bị Trời phạt, do chính mình phạm tội hoặc gia đình, tổ tiên phạm tội. Không lạ gì, các môn đệ Chúa hỏi Ngài rằng anh thanh niên bị mù là do tội của anh ta hay của gia đình cha mẹ. Chúa xác định không phải do anh mà cũng không bởi cha mẹ anh, mà chỉ là "cơ hội" cho thiên hạ chung quanh được "xem thấy". Chúa muốn những người có mặt chứng kiến phép lạ sẽ nhìn thấy sự hiện diện và bàn tay Thiên Chúa và mong họ sẽ được mở mắt đức tin.
Sự mù loà thể xác chỉ là diễn tả của một thực tại khác còn khốc liệt hơn, đó là sự mù loà tâm linh. Thị giác con người quá quí hóa. Mất thị giác, con người mất phương tiện lớn lao để học hỏi, để tiến bộ, để thưởng thức, để tồn tại. Cho tới bây giờ khoa học và y học chỉ có thể giúp điều chỉnh thị giác, nếu bị những khuyết điểm như: loà, cận, viễn, loạn...chứ không thể chữa một người mù bẩm sinh để có ánh sáng được. Anh thanh niên mù trong Phúc âm qủa là qúa hạnh phúc. Từ mù lòa tăm tối nay anh được Chúa chạm đến chữa lành và cho được xem thấy. Anh ta qúa đỗi vui mừng tới độ khẳng khái quyết liệt tuyên xưng lòng yêu mến và nể phục tuyệt đối với nhân vật Giêsu. Anh ta không hề sơ sệt e dè những người Do Thái đầy ghen tương và thâm hiểm. Cha mẹ anh ta thì sợ lắm, sợ chuyện "cái miệng vạ cái thân". Vì thế để trả lời người Do thái đang ngang ngược ép cung, cha mẹ anh khéo léo nói rằng: "Cháu nó lớn rồi, các bác cứ nó mà hỏi đi ..."
Phúc âm Chúa nhật này đã bắt đầu dàn dựng bối cành cho cuộc thương khó của Chúa Giêsu mà chúng ta sê cử hành trong vài tuần nữa. Các trưởng tế, biệt phái, và viên chức Do thái mưu tính giết luôn cả Chúa Giêsu và người mù đuợc chữa lành này. Vị trí và ảnh hường của các nhóm người này thực sự bị đe dọa. Sự chữa lành người mù là cực kỳ siêu phàm, kéo theo sự thán phục và tin tưởng mãnh liệt nơi quần chúng! Quả thật chưa hề có mà cũng chẳng bao giờ có, dù ở giữa thế kỷ 21 với sự ra đời của computer cao cấp, như một ngã rẽ ngoạn mục của đời sống con người ngày hôm nay.
Mù lòa thể xác chỉ là phản ảnh một thực tại của mù lòa tâm linh. Khi ta không nhìn thấy sự thật khách quan nơi vấn đề hàng ngày là ta đã mù loà hiểu biết, mù lòa tri thức. Khi ta không nhận biết và đánh giá những thực tại tâm linh, là ta đã mù loà đức tin, mù lòa tâm linh. Chúa Giêsu đến để làm chứng về Thiên Chúa Cha và mong cho người ta qua Ngài nhận biết Cha. Chúa Giêsu không cần ta nài xin vẫn tự nguyện chữa lành ta, giúp ta được thấy. Trong nhiều câu truyện chữa lành trong Phúc âm, người ta phải xin rồi Chúa mới chữa cho. Trong trường hợp người mù này, Chúa chủ động đến với người mù và chữa anh ta. Đọc kỹ đoạn Thánh kinh này, ta thấy Ngài muốn chữa để những người khác được "thấy". Nghe thì thật tức cười: chữa mắt mù người này mà có mục đích cho những người khác được "thấy".
Oan nghiệt thay: trước dấu lạ, phép lạ nhãn tiền như vậy, nhóm biệt phái và đầu mục Do Thái lại quyết tâm chối bỏ, cố gây khó dễ, và âm mưu giết cả Giêsu lẫn người mù đã được chữa lành. Đó là chiêu giết người bịt miệng, diệt đối thủ, diệt luôn nhân chứng. Chấp nhận phép lạ này nhóm viên chức Do thái này hiển nhiên chấp nhận tầm ảnh hưỏng quan trọng của ngôi sao đang lên Giêsu ( a rising star); là chấp nhận mình bị yếu vai vế, bị mất đặc quyền đặc lợi... Ngược lại, người mù được chữa lành và dân chúng đơn thành thì hết lòng tin vào ông Giêsu. Đối chiếu trong cuộc đời, trong cuộc sống đức tin, có những điều nhãn tiền nhưng ta vẫn không thấy. Có những dấu chỉ của Chúa rất rõ ràng nhưng vì tác động và áp lực của đam mê, của tội lỗi ta vẫn cố tìm cách chối bỏ Chúa và tiếng Chúa.
Mù lòa thể xác chỉ phản ánh phần nào sự mù lòa tâm linh là thứ mù loà tàn hại và thê thảm hơn. Xin Chúa ban sức mạnh để con vượt qua đam mê và tội lỗi, để được sáng và được thấy. Xin ân sủng mùa Chay thánh giúp con đến gần Chúa và được thấy!
Giữa cõi u minh, cặp mắt loà.
Ngài thương chạm mở, thấy ngàn hoa.
Tâm linh mù tối, dọi nguồn sáng.
Chúa chữa tim con, lòng bão hòa.
Bản văn đọc hôm nay thuộc về “Các công việc, các dấu lạ và các cuộc tranh luận của Đức Giêsu (dịp các đại lễ Do Thái)” (Ga 5,1–10,42) với bố cục như sau:
B (5,1-47): Công việc Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, chữa người nằm liệt (vào một ngày sa-bát)
C (6,1-71): Dấu lạ nuôi năm ngàn người ăn no do bánh hằng sống (trước lễ Vượt Qua)
D (7,1–8,59): Đức Giêsu, nguồn nước hằng sống và ánh sáng cho trần gian (dịp lễ Lều)
D’(9,1-41): Hành vi ban khả năng nhìn cho một người mù nhờ ánh sáng của trần gian (vào một ngày sa-bát)
C’ (10,1-21): Các dụ ngôn về đàn chiên, cửa, việc trao ban mạng sống và người mục tử nhân lành
B’(10,22-42): Các công việc và chân tính của Đức Giêsu, Đấng Kitô, Con Thiên Chúa (dịp lễ Cung hiến)
Việc chữa lành anh mù bẩm sinh được tác giả TM IV ghi nhận như là mộttrong những “dấu lạ” quan trọng “để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (20,31).
Tác giả trung thành với cách viết của ngài: trình bày biến cố (= bình diện thực hành) và diễn từ giải nghĩa (= bình diện nhận thức). Phân tích kỹ hơn, ta thấy truyện được trình bày như một phiên tòa xử Đức Giêsu xuyên qua những cuộc gặp gỡ của anh mù với nhiều hạng người, để rồi cuối cùng lại chính Đức Giêsu là người đứng ra kết án. Tấn bi kịch đã được báo trước trong hai chương 7 và 8. Khi các thuộc hạ trở về mà không bắt Đức Giêsu, các thượng tế và người Pharisêu đã kêu lên: “Còn bọn dân đen này, thứ người không biết Lề Luật, đúng là quân bị nguyền rủa” (7,49). Đấy là như tiền đề cho việc họ nổi giận với người mù, vì anh ta “sinh ra trong tội”, mà lại dám lên mặt sửa dạy các “môn đệ của ông Môsê” (9,28-34). Câu truyện người đàn bà ngoại tình là mộtlý do thứ hai, bởi vì trong sự cố này, cũng vẫn là Đức Giêsu đã “tước vũ khí” của họ khi nói: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (8,7). Rồi sau đó là những câu nói đầy thách thức: 8,21.24.35-44.46.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Đức Giêsu và các môn đệ đối diện với anh mù (9,1-5); 2) Đức Giêsu chữa lành anh mù (9,6-7); 3) Cuộc xử án (9,8-33):
a) Láng giềng anh mù (9,8-12), b) Người Pharisêu (9,13-17), c) Cha mẹ anh mù (9,18-23), d) Người Pharisêu (9,24-34a);
4) Tuyên án (9,34b-41):
a) Anh mù bị người Pharisêu tống ra ngoài (9,34b), b) Anh mù được Đức Giêsu đón tiếp và anh tin nhận Người (9,35-38), c) Đức Giêsu kết án người Pharisêu (9,39-41).
Chúng ta có thể nhận ra bảy cuộc gặp gỡ trong truyện này:
1- Đức Giêsu và anh mù (chữa mắt: c. 6); 2- Anh mù và láng giềng (c. 8); 3- Anh mù và người Pharisêu (c. 13); 4- Anh mù và người Do Thái và cha mẹ (c. 18); 5- Anh mù và người Do Thái (c. 24); 6- Đức Giêsu và anh mù (tin: c. 35); 7- Đức Giêsu và người Pharisêu (c. 40).
3.- Vài điểm chú giải
- ai đã phạm tội (2): Mặc dù có sách Gióp, lý thuyết cổ truyền vẫn tồn tại: người ta nghĩ rằng có mộtquan hệ nhân quả trực tiếp giữa tội và bệnh tật. Về trường hợp một em bé mới sinh đã mắc bệnh tật, xem Xh 20,5.
- như vậy là để công trình của Thiên Chúa nơi anh được tỏ hiện (3): Các kinh sư nói đến việc Thiên Chúa ban cho loài người “những hình phạt tình yêu”, nghĩa là những sửa dạy mà nếu người ta quảng đại chấp nhận, sẽ đưa đến cho họ đời sống dài lâu và những phần thưởng. Nhưng hình như tư tưởng của Đức Giêsu ở đây hoăc ở Ga 11,4 không phải là như thế; Đức Giêsu lại cho thấy rằng Thiên Chúa vận hành lịch sử để tôn vinh Danh Người. Chúng ta có mộtví dụ rõ ràng ở Xh 9,16, được trích dẫn trong Rm 9,17.
- Thầy là ánh sáng cho trần gian (5): Rất có thể lời này được rút từ Is 49,6, trong đó Người Tôi Trung của Đức Chúa được mô tả như là mộtánh sáng cho muôn dân. Chính là trong dịp Lễ Lều mà Đức Giêsu đã tuyên bố lần đầu: “Chính tôi là ánh sáng cho trần gian” (8,12).
- nhổ nước miếng (6): Chỉ có Ga và Mc (7,33; 8,23) ghi lại rằng Đức Giêsu nhổ nước miếng. Người xưa coi nước miếng như là mộtthứ thuốc chữa mắt và cả những phần khác trên thân thể (Tacite, Historiae IV, 81). Dường như sức chữa bệnh của nước miếng sẽ gia tăng nếu trộn với đất hay đất sét. Đức Giêsu đã làm cử chỉ nhổ nước miếng mà trộn bùn không phải vì các thứ này cần để có thể làm phép lạ, nhưng là để “gây chuyện” với người Pharisêu.
- hồ Silôác (7): Hôm nay, ta còn thấy cái hồ này ở phía đông nam Giêrusalem, ở cuối thung lũng Tyrôpêôn. Con suối Gihôn đã cung cấp nước cho hồ này nhờ con kênh vua Xítkigia (Ézéchias) đã cho đào trong đá (x. 2 V 20,20; 2 Sb 32,30; Hc 48,17). Silôác có nghĩa là “người sai phái” (= người gửi [nước]). Tác giả Ga ghi nhận tên này, nhưng lại dịch như mộttừ ngữ ở thụ động cách: “Silôác có nghĩa là: người được sai phái” (c. 7). Rõ ràng ngài dùng từ ngữ như mộtbiểu tượng. Trong TM IV, hơn 40 lần Đức Giêsu được gọi là “Đấng được sai phái”, và Người cũng vừa nói với các môn đệ là Người phải “thực hiện công trình của Đấng đã sai phái Thầy” (c. 4). Vậy tác giả muốn nói rằng hồ Silôác, cũng như Đền Thờ, như lễ Vượt Qua, như ngày sa-bát, như mọi sự trong Israel, đều được quy hướng về Đức Giêsu và rút ra từ Người ý nghĩa vĩnh viễn và chân thật. Chính tên của cái hồ loan báo rằng Đấng Mêsia sẽ đến múc nước và thông ban cho nước hồ mộtsức mạnh thần linh.
Ngoài ra cái hồ này còn có mộtý nghĩa thiêng liêng. Ngôn sứ Is (8,6) đã coi cái hồ có dòng nước chảy êm ả này như mộtbiểu tượng về đời sống an bình của Israel dưới sự che chở của Thiên Chúa. Nhưng vị ngôn sứ cũng nhân danh Đức Chúa mà than thở rằng “dân này khinh dể nước mương Silôác chảy lững lờ”. Có lẽ tác giả coi sự từ khước này như mộtlời loan báo sự cứng lòng của người Do Thái thời Đức Giêsu.
Ngoài ra, nước hồ còn được dùng trong Lễ Lều. Mỗi ngày trong tuần Lễ Lều, người ta đi rước xuống hồ. Một tư tế long trọng múc nước, rồi đi rước lên Đền Thờ. Vị tư tế ấy vừa đổ nước trên bàn thờ vừa đọc những lời kinh theo nghi thức: họ xin Thiên Chúa ban mưa xuống cho mùa sắp tới; họ đọc những bài đọc Kinh Thánh tưởng niệm phép lạ nước vọt ra từ tảng đá trong sa mạc và loan báo việc canh tân thiêng liêng Sion vào thời Đấng Mêsia. Nhiều liên hệ giữa truyện anh mù và những biến cố dịp Lễ Lều trong TM IV (ch. 7 và 8) mời ta đọc phép lạ này dưới ánh sáng của lễ nghi Lễ Lều. Điều này càng có lý khi ta biết rằng lễ nước, Lễ Lều cũng là lễ ánh sáng. Mỗi buổi chiều, người ta đốt đèn đuốc trong Đền Thờ. Và ngôn sứ Dacaria đã mô tả Ngày của Đức Chúa như là mở đầu cho việc muôn dân cử hành Lễ Lều thật hùng vĩ (x. Dcr 14,7). Đây là khung cảnh rất phù hợp với lời tuyên bố của Đức Giêsu: “Tôi là ánh sáng cho trần gian” và với “dấu lạ” anh mù: có lễ ánh sáng, có việc rưới nước hồ Silôác và có những niềm hy vọng vào Đấng Mêsia.
Những dây liên hệ này soi sáng cho thấy ý nghĩa của biểu tượng “Đức Giêsu-Ánh-sáng-cho-trần-gian”, cũng như “dấu lạ” diễn tả biểu tượng này. Những phúc lành và việc tuôn đổ Thánh Thần, được tượng trưng trong dịp Lễ Lều bằng nước Silôác, sẽ được Đức Giêsu ban cho trần gian: trong tay Người, “nước mương Silôác chảy lững lờ” sẽ chan hòa ánh sáng và sức sống.
- những người Pharisêu (13): Những người phỏng vấn được gọi là Pharisêu trong cc. 13.15.16 (cả c. 40); ở cc. 18 và 22, thì được gọi là “người Do Thái”, là từ ngữ quen thuộc hơn với Ga.
- vì không giữ ngày sa-bát (16): Trong TM IV, từ ngữ sabbaton được dùng 13 lần (Ga 5,9.10.16.18; 7,22.23[2x]; 9,14.16; 19,31[2x]; 20,1.19). Những bản văn quan trọng nhất là các tranh luận về ngày sa-bát trong Ga 5,1-18; 7,19-24 và 9,14-16. Về việc chữa người mù, có những nhận định sau: Thứ nhất, bởi vì mạng sống của anh mù không bị đe dọa, lẽ ra Đức Giêsu nên chờ đến mộtngày khác mà chữa anh. Thứ hai, trong số ba mươi chín việc bị cấm làm trong ngày sa-bát (Mishna, Shabbath 7,2), có việc nhào trộn bột. Thứ ba, thể theo truyền thống sau này của Do Thái giáo (TalBab, Abodah Zarah 28b), có mộtý kiến nói rằng không được phép xức dầu vào mắt ngày sa-bát. Thứ tư, truyền thống (TalJer, Shabbath 14d và 17f) cũng cấm nhổ nước miếng lên mắt ngày sa-bát.
- một vị ngôn sứ (17): Hai vị ngôn sứ nổi tiếng với việc làm phép lạ chữa bệnh là Êlia và Êlisa (x. cả Is 38,21). Có lẽ anh này đang nghĩ đến việc ngôn sứ Êlisa bảo Naaman đi tắm trong sông Giođan. Ít ra có lẽ anh mù tin rằng Đức Giêsu có quyền lực thần linh và “ngôn sứ” là hạng người như thế.
- trục xuất khỏi hội đường (22): Dịch sát câu 22 là: “... kẻ nào tuyên xưng Người là Đấng Kitô, sẽ trở thành người-bị-trục-xuất-khỏi-hội-đường (aposynagôgos, do apo và synagôgê)”. Có lẽ tác giả đang nghĩ đến việc giới chức Do Thái loại các Kitô hữu gốc Do Thái khỏi hội đường (= dứt phép thông công) vào cuối thế kỷ i, sau khi Đền Thờ bị phá hủy.
- Chúng ta (24): Nicôđêmô đã dùng chủ ngữ này (3,2) để nói về uy tín của người Do Thái có học thức.
- Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa (24): Đây là mộtcông thức để thề trước khi làm chứng hoặc thú nhận mộtlỗi lầm (x. Gs 7,19). Nhưng cũng rất có thể tác giả muốn chơi chữ, bởi vì anh mù sẽ tôn vinh Thiên Chúa.
- Thiên Chúa đã nói với ông Môsê (29): Xem Xh 33,11; Ds 12,2-8.
- Chúng ta biết (30): Anh mù dùng chủ ngữ “chúng ta” của người Pharisêu (c. 24), y như Đức Giêsu ở 3,11 đã lấy lại chủ ngữ “chúng ta/tôi” của Nicôđêmô. Rõ ràng những đoạn này được dùng trong những cuộc bút chiến giữa người Do Thái và các Kitô hữu.
- Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi (31): Đây là mộtnguyên tắc Kinh Thánh quen thuộc (x. Is 1,15; 1 Ga 3,21).
- họ tống anh ra ngoài (34): Đây không phải là mộtviệc dứt phép thông công đúng nghĩa, nhưng chỉ là việc đuổi anh cho khuất mắt họ.
- Khi gặp lại anh (35): Hành vi này ngược lại với hành vi của người Pharisêu khi đuổi anh ra ngoài, và minh họa cho lời hứa của Đức Giêsu ở 6,37: “Ai đến với tôi, tôi sẽ không loại ra ngoài”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong TM IV, truyện anh mù được chữa lành có mộtvị trí trung tâm. Truyện này giống như mộttổng hợp về sứ mạng làm ánh sáng của Đức Giêsu trong thế gian và về cuộc xung đột giữa ánh sáng và bóng tối xảy ra giữa Đức Giêsu và người Do Thái. Bản văn đã được trình bày như mộtcuộc xử án, nhưng Đức Giêsu không trực tiếp đối đầu với các đối thủ. Bản án của Người chỉ được xác định qua việc kết án anh mù; Đức Giêsu chỉ xuất hiện lúc đầu để thực hiện “dấu lạ” và xác định ý nghĩa của “dấu lạ”, rồi xuất hiện ở cuối để uy nghi công bố bản án.
* Đức Giêsu và các môn đệ đối diện với anh mù (1-5)
Không ai xin Đức Giêsu chữa cho anh mù: chính Người bột phát chữa lành anh (9,1-7). Nghĩ đến số phận đáng thương của anh mù, các môn đệ nại đến mộtluận điểm quen thuộc trong dân Do Thái: Tại sao anh bị như thế? Do lỗi của ai? Các ông tìm cách quy kết trách nhiệm. Các ông nghĩ đến mộtlỗi chống lại Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu loại bỏ lối suy luận này. Sau này bản văn sẽ cho thấy tội lỗi thật chống lại Thiên Chúa là tội lỗi gì và nó đưa đến sự đui mù nào. Còn đối với người mù bẩm sinh, Đức Giêsu không nhìn lại đàng sau, Người nhìn tới trước: nhờ anh, Người có thể tỏ mình ra rõ ràng là ánh sáng thế gian. Cho ai đang ngạc nhiên về sự thiếu may mắn của anh mù, lòng thương xót và quyền lực của Thiên Chúa lại được tỏ lộ. Như thế, Đức Giêsu cho thấy ý nghĩa của những việc Người làm.
* Đức Giêsu chữa lành anh mù (6-7)
Khác với những hành vi quyền lực khác của Người, ở đây Đức Giêsu không chỉ hành động bằng lời nói của Người. Tác giả mô tả chi tiết những gì Người làm cho anh mù (9,6.11.14.15). Và cả anh này cũng phải làm mộtviệc: Tin vào lời Đức Giêsu, anh đi đến hồ nước rửa mắt và thấy được. “Silôác có nghĩa là: người được sai phái” (c. 7): Đức Giêsu chính là Đấng được Chúa Cha sai phái; chính là nước của Người, thứ nước đã hứa ban cho người phụ nữ Samari, mới chữa khỏi đui mù. Đức Giêsu không có mặt trong bốn cuộc gặp gỡ sau đó, nhưng tất cả đều xoay quanh những gì Người đã làm cho anh mù và về tương quan của Người với Thiên Chúa. Chính là qua các cuộc tranh luận này mà người lành bệnh được dẫn từng bước mộtđến chỗ thấy ai là người đã chữa lành anh. Các con mắt mà Đức Giêsu đã mở cho anh để anh thấy ánh nắng mặt trời, bây giờ lại mở ra để thấy “ánh sáng cho trần gian”.
* Cuộc xử án (8-34a)
Trong cuộc gặp gỡ với những người láng giềng (cc. 8-12), có một toan tính đầu tiên là giữ khoảng cách với sự thật quá hiển nhiên về cuộc chữa lành và tránh lấy lập trường đối với chuyện này. Người ta nghi ngờ về căn cước của người được chữa lành: không chắc chắn kẻ đang thấy đây là người mù từ lúc mới sinh lâu nay vẫn phải sống bằng việc hành khất, mà ai cũng biết. Tuy nhiên, anh khẳng định căn cước của anh và nói rõ ràng về những gì Đức Giêsu đã làm cho anh.
Khi ra trình diện người Pharisêu, anh lại phải mô tả những gì Đức Giêsu đã làm cho anh và cách thức anh lại thấy được (cc. 13-17). Họ tỏ ra khó chịu vì Đức Giêsu đã làm việc ấy trong ngày sa-bát, và thế là nêu lên câu hỏi, từ bây giờ sẽ là vấn đề nổi bật, về tương quan của Người với Thiên Chúa. Có những người coi quan niệm của họ về ngày sa-bát là tiêu chuẩn đánh giá duy nhất, nên cho rằng Đức Giêsu không thể đến từ Thiên Chúa. Những người khác nhìn nhận rằng việc chữa lành này là đặc biệt và không thể cho rằng Đức Giêsu là mộtngười tội lỗi. Bây giờ chính người được lành cũng bị buộc phải lấy lập trường: anh nhìn nhận Đức Giêsu là mộtngôn sứ, mộtngười được Thiên Chúa sai phái.
Mẩu đối thoại giữa người Do Thái và cha mẹ anh (cc. 18-23) đưa vào mộttoan tính khác nhằm giữ khoảng cách đối với sự thật. Bây giờ người ta nghi ngờ về tình trạng mù lòa trước đây của anh. Cha mẹ anh công nhận căn cước của anh và tình trạng mù lòa của anh từ khi mới chào đời, nhưng không muốn biết gì về việc chữa lành. Họ cúi đầu sợ hãi trước áp lực của quyền bính. Họ không muốn bị cô lập về mặt xã hội; do đó họ nhắm mắt lại trước ánh sáng.
Cuộc đối diện thứ hai của anh được lành với người Pharisêu (cc. 24-34a) đã phân rẽ các tâm trí. Sau khi mọi lý do đã bị loại bỏ và việc chữa lành đã được xác nhận, người ta không thể tránh khỏi việc lấy lập trường đối với người đã làm việc này. Người Pharisêu chỉ quan tâm tới “cách thức” chữa lành (x. cc. 15.19.26). Và bởi vì cách thức này vi phạm quan niệm của họ về ngày sa-bát, họ biết chắc chắn rằng Đức Giêsu là mộtkẻ tội lỗi. Lỗi mà Đức Giêsu đã phạm không phải là một lệnh truyền cho người được chữa lành, nhưng là hành động chính Người đã làm: “nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù” vào ngày sa-bát (c. 6). Một trường hợp như thế đã được minh nhiên tranh luận trong sách Talmud Babylon (x. Strack-Billerbeck II 533t).
Thật ra, các kinh sư cho phép, trong ngày sa-bát, được chữa con mắt bị bệnh trong trường hợp cấp tính, chứ không cho phép trong trường hợp mãn tính, như trường hợp anh mù bẩm sinh này. Ở đây “sự kiện” là việc chữa lành đã thực sự xảy ra không hề có tầm quan trọng nào đối với người Pharisêu. Nhưng đây lại chính là điểm mà anh mù bám vững, nhất định không nao núng (x. cc. 25.30.32). Khởi đi từ hành vi Đức Giêsu đã làm, anh nhận ra càng lúc càng rõ tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa. Đối lại với sự hiểu biết mà người Pharisêu cho rằng họ có về Đức Giêsu (cc. 24.29), anh đề ra sự hiểu biết của anh về Thiên Chúa, mà cả người Pharisêu cũng phải công nhận: “Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy” (c. 31). Do không chấp nhận Đức Giêsu, người Pharisêu cứ thắc mắc, nên đã phải nghe giọng mỉa mai của anh mù: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không nghe. Tại sao các ông lại còn muốn nghe nữa? Chẳng lẽ các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy sao?” (c. 27).
Từ hành vi phi thường Đức Giêsu đã làm và từ sự hiểu biết này về Thiên Chúa, anh rút ra hệ luận là Đức Giêsu không phải là mộtkẻ tội lỗi, nhưng là mộtngười làm theo ý muốn của Thiên Chúa và đến từ Thiên Chúa.
Ở đây, chúng ta có một ví dụ tiêu biểu về thái độ tích cực và tiêu cực khi đứng trước mộthành vi quyền lực Đức Giêsu đã thực hiện. Anh mù được lành không chỉ xử sự như mộtngười sung sướng vì có thể thấy và không quan tâm gì đến người đã chữa anh lành. Ngược lại, đối với anh, việc chữa lành thật sự đã trở thành mộtdấu chỉ đưa anh đến chỗ nhận biết dây liên kết giữa Thiên Chúa và Đức Giêsu. Người Pharisêu vẫn ở lại trong thái độ không muốn thấy và cứng lòng lại trong việc từ khước Đức Giêsu. Đối với những sự kiện cụ thể được anh mù nêu ra, họ chỉ có thể chống lại bằng cử chỉ bạo lực là tống anh ra ngoài. Tình thế của họ có nét mỉa mai đầy kịch tính (x. cc. 24 và 40): Trong c. 24, khi mời anh mù nói lên sự thật dưới cái nhìn của Thiên Chúa (“Hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây biết rằng ông ấy là kẻ tội lỗi”), người Pharisêu hẳn lại phải bảo vệ điều ngược lại với những gì họ biết: chữa lành một người mù không phải là dấu chỉ tội lỗi. Trong c. 40 (“Cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?”), họ phải thú nhận cách bi đát điều hiển nhiên: loại trừ kẻ đã chữa người mù chứng tỏ chính họ đang mù.
* Tuyên án (34b-41)
Cuộc gặp gỡ thứ hai giữa anh được lành và Đức Giêsu (cc. 35-38) xảy ra lần nữa vẫn do sáng kiến của Người. Đức Giêsu quan tâm đến người đã bị tống ra ngoài và giúp anh có thể thấy thêm nữa, bằng cách đưa anh đến chỗ tin vào Con Thiên Chúa. Nhờ cuộc tranh luận trước đó, càng ngày anh càng đến gần Đức Giêsu hơn và ngày càng mở ra hơn với tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa. Bây giờ Người tự mạc khải ra cho anh là người bị loại trừ biết Người là Con Thiên Chúa nhập thể, Người không đến thế gian trong ánh vinh quang huy hoàng, nhưng trong tình trạng đơn giản của thân phận con người và đi đến chỗ sẽ được giương cao trên thập giá (3,14; 6,35; 12,23.34). Anh mù được lành đã tin và quỳ xuống trước mặt Người, tức là làm mộtcử chỉ thờ phượng Thiên Chúa. Anh đã có thể thấy trọn vẹn phẩm cách và tầm quan trọng của Đức Giêsu. Khi chữa lành anh và hướng dẫn anh, Đức Giêsu đã ngày càng trở thành ánh sáng cho anh.
Cuối cùng, xảy ra cuộc đối đầu giữa Đức Giêsu và người Pharisêu (cc. 39-41). Các ông này đã phản ứng lại với mộtkhẳng định của Người về mộtphương diện quan trọng trong sứ mạng của Người: Người đã đến để cứu độ thế giới (3,17; 12,47); Người ở trong thế gian như là ánh sáng ban sự sống. Do Đức Giêsu không xuất hiện với mộtquyền lực to lớn, sự hiện diện của Người làm cho loài người chia rẽ nhau. Có những người đón nhận Người và chấp nhận sự trợ giúp của Người, được Người mở mắt và đi đến chỗ nhận biết thực tại trọn vẹn. Có những người khác lại loại trừ Người, nghĩ rằng họ đã biết mọi sự không cần Người và thế là họ thành đui mù thật sự. Khi mà thực tại đã trở nên ngày càng thấy rõ được, sự đui mù của những người ấy càng trầm trọng. Người Pharisêu muốn biết phải chăng điều này cũng đúng đối với họ. Họ đã xác định Đức Giêsu là một “kẻ tội lỗi” (9,24); bây giờ lại chính là Người đang mô tả lối xử sự của họ, mà gọi là “tội lỗi”, là thiếu sót đối với Thiên Chúa.
+ Kết luận
Đức Giêsu là ánh sáng cho trần gian trong tư cách là bao lâu Người còn ở trần gian, Người thực hiện những việc Chúa Cha giao phó cho Người (9,4-5). Người không phải là mộtánh sáng được áp đặt cho bất cứ ai không phân biệt. Điều ghi nhận được với người mù từ thuở mới sinh là nhờ Người, có những người trở thành thấy được và có những người lại trở nên đui mù (c. 39). Qua bảy cuộc gặp gỡ, trong đó Đức Giêsu chỉ có mặt ở lần đầu và hai lần cuối, ta thấy diễn ra mộttình huống đầy kịch tính và phong phú hậu quả. Từ việc chữa lành anh mù, từ những cuộc tranh luận với những người xung quanh Đức Giêsu và từ lời mạc khải về Đức Giêsu, người mù được dẫn đến chỗ thấy được hoàn toàn, tin và thờ phượng Đức Giêsu. Các đối thủ chỉ thấy Đức Giêsu là mộtngười tội lỗi, đã vi phạm Lề Luật và chống lại ý muốn của Thiên Chúa. Những gì Đức Giêsu đã làm và qua đó lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa được tỏ bày ra, đối với họ, lại là mộtcông trình chống lại Thiên Chúa. Ánh sáng làm cho người ta thấy Thiên Chúa, thấy Đấng Thiên Chúa sai phái và lễ dâng của Đấng ấy để cứu độ thế giới, lại làm cho mọi sự ra tối tăm đối với họ. Chỉ ai mở ra, ai chấp nhận được giáo huấn và hướng dẫn, mới có thể gặp Đức Giêsu và nhận được ánh sáng ban ơn cứu độ.
Như thế, chẳng phải là anh mù bẩm sinh hay cha mẹ anh ta là những người tội lỗi (x. c. 2t), nhưng những kẻ từ chối tin Đức Giêsu mới có tội (c. 40t). Một lần nữa, TM IV vượt xa hơn những tranh luận halakha (Midrash halakha là những lời giải thích các bản văn Kinh Thánh liên quan đến các bản văn luật pháp. Các Rabbi giải thích các khoản Luật ghi chép trong Kinh Thánh để dân chúng có thể áp dụng vào cuộc sống thường nhật. Mỗi thời đại có hoàn cảnh sống khác nhau, vì thế các khoản luật cần được giải thích và thích nghi với hoàn cảnh mới) liên hệ đến luật sa-bát, để đưa độc giả đến chỗ chọn đứng về phía Đức Giêsu, Đấng được Chúa Cha sai đến, hay là chống lại Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Hôm nay chúng ta có thể tự hỏi về thái độ của chúng ta khi đứng trước đau khổ của người khác. Chúng ta có tự hỏi là vì sao và do đâu mà có đau khổ này, hoặc mục đích của nỗi đau khổ này là gì chăng? Nhất là chúng ta có biết nhìn sự đau khổ của người khác như Đức Giêsu đã nhìn chăng? Không nên kết luận rằng những người phải khốn khổ là nạn nhân của mộtsố phận mù quáng. Một Kitô hữu chân chính không được nghĩ rằng Thiên Chúa trừng phạt người ta. Sớm hay muộn, Thiên Chúa sẽ làm rạng tỏ nơi họ quyền năng và lòng thương xót của Ngài (x. Rm 8,28).
2. Con đường anh mù đã rảo qua cho chúng ta hiểu cách thức Đức Giêsu hành động trong tư cách là “ánh sáng cho trần gian”. Người không chỉ hiện diện trên mặt đất, Người còn đi gặp loài người, chữa lành họ và dẫn họ đi tới, để họ thấy càng ngày càng rõ hơn là Người từ đâu đến và Người là ai. Dù sao, chúng ta cũng biết rằng không phải chính chúng ta sẽ bảo cho Đức Giêsu biết phải sống thế nào và phải làm gì. Chúng ta cần phải để cho Người chỉ cho biết Người là ai và Người muốn mang đến cho chúng ta điều gì.
3. Anh mù đã càng lúc càng hiểu rõ hơn việc anh được lành. Hôm nay tôi có thể tìm hiểu xem kinh nghiệm nào đã là khởi điểm để tôi hiểu Đức Giêsu ngày càng sâu xa hơn. Cần phải nhớ lại kinh nghiệm anh mù đã trải qua. Vì nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai phái, anh bị tống ra ngoài cộng đoàn; người ta đuổi anh như đuổi mộtkẻ tội lỗi. Cả cha mẹ anh cũng từ chối bảo vệ anh. Khi đó, niềm tin đưa đến hậu quả là sự cô đơn. Phải vượt lên trên nỗi sợ hãi, sự cả nể, mối bận tâm đến ý kiến của người đời, để có thể sống độc lập, và đi đến tự do chân chính.
4. Con người vừa là ánh sáng vừa là bóng tối. Con người có khả năng tự làm mình ra đui mù, đưa ra những lý do để khỏi thấy, tạo ra cho mình những xác tín giả trá, từ chối mở mắt ra, mà lại nói là mình “đang thấy”. Ánh sáng rất đòi hỏi: nó bắt ta xét lại nhiều chuyện, từ bỏ nhiều thói quen, đôi khi phải đoạn tuyệt với cả mộtmôi trường. Bị đui mù mà biết nhìn nhận mình thiếu ánh sáng và không thấy, thì không phải là mộttội; nhưng tự hào là mình biết tất cả về Thiên Chúa và về thế giới và từ chối ánh sáng đến từ Thiên Chúa, điều này đi ngược lại ý muốn của Thiên Chúa, nên là một tội.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta nhận thấy: Anh mù là một người can đảm và đầy thiện chí. Mặc dù ít học, nhưng lời lẽ của anh thật là khôn ngoan. Tâm hồn anh luôn rộng mở để đón nhận chân lý và luôn cố gắng thực hiện những điều tốt lành, cho dù có gặp phải những phức tạp và phiền toái. Ngoài ra anh còn có một chút châm biến đối với những kẻ rình rập bắt lỗi anh.
Trong khi đó cha mẹ anh lại không muốn dây dưa vào câu chuyện xảy ra. Hai ông bà đã trả lời một cách khôn khéo cho bọn biệt phái: Xin hãy hỏi cháu vì cháu nó đã có tuổi. Chủ đích của hai ông bà không phải là tìm kiếm sự thật, nhưng là tránh đi những khó dễ gặp phải.
Còn đám đông dân chúng thì sao? Một số người đã chứng kiến sự việc xảy ra. Nhưng một số kẻ khác, có phần đông hơn, đã không muốn đón nhận sự thật. Họ bàn tán, họ tranh luận và sau cùng họ chối bỏ sự thật. Để biện minh cho lập trường của mình, họ đã nại tới luật kiêng việc xác ngày Sabat, tức là ngày thứ bảy nơi người Do Thái. Họ đã suy diễn một cách hàm hồ: Người ta không được phép chữa bệnh trong ngày nghỉ lễ. Đó là một điều cấm. Vậy thì Đấng đã chữa lành trong ngày nghỉ lễ là ai, nếu không phải chỉ là một kẻ tội lỗi. Bọn biệt phái bực bội và tức tối. Thế nhưng, lời nguyền rủa và bạo lực không bao giờ là những chứng cứ có giá trị, trái lại nó là một dấu chỉ biểu lộ một niềm tin sai lạc mà thôi.
Chúa Giêsu hay biết anh mù đã bị trục xuất khỏi hội đường, bởi đó khi gặp anh, Ngài đã hỏi anh ta: Con có tin vào Con Người hay không? Anh ta liền thưa: Lạy Thầy, Thầy là ai để tôi tin vào Ngài? Chúa Giêsu nói: Con đã thấy, chính Ngài đang nói với con đây. Cõi lòng anh lúc này được rộng mở để đón nhận chân lý. Anh nói: Lạy Chúa, con xin tin. Anh quỳ gối trước mặt Ngài. Kể từ đó, anh bước theo Ngài và thuộc hẳn về Ngài.
Trong một bài báo bàn về đức tin, cha Jacques Loew đã xác quyết: Đức tin không phải là chấp nhận các công thức có sẵn, một lần thay cho tất cả, cũng không phải là như một chiếc bánh, chúng ta có thể chia ra làm nhiều phần. Trái lại đức tin chính là niềm cậy trông và phó thác, không phải vào tư tưởng và sức riêng của mình, nhưng là vào tình thương và quyền năng của Chúa.
Đời sống của Chúa chính là cái khuôn mẫu cho cuộc đời chúng ta noi theo. Nếu chúng ta tin vào Đức Kitô và lời Ngài giảng dạy, thì cách sống của chúng ta sẽ đổi khác, cách nhìn của chúng ta cũng đổi khác và cách đối xử của chúng ta cũng đổi khác. Thế nhưng chúng ta đã có một niềm tin như thế hay chưa, và hơn thế nữa, chúng ta đã thực sự sống niềm tin của chúng ta hay chưa?
Có những người mắt sáng nhưng lại nhìn sự vật qua lăng kính của những tư tưởng sai lầm, do đó đã trở thành mù. Một sự mù quáng còn trầm trọng và tai hại hơn cả cái mù nơi thể xác, vì nó khép kín tâm hồn trước tình thương và ơn sủng của Chúa. Đó là trường hợp của bọn Biệt phái trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay.
Thực vậy, đầu mối câu chuyện chỉ vì Chúa Giêsu đã chữa lành cho một người mù vào đúng ngày nghỉ lễ. Luật về ngày nghỉ lễ do bọn Biệt phái chủ trương cấm làm những việc Chúa Giêsu đã làm. Thế nhưng Chúa Giêsu đã làm điều cấm ấy, cho nên Ngài chỉ là một kẻ tội lỗi. Mà đã tội lỗi, thì không thể nào là người bởi Thiên Chúa, do đó không thể làm được phép lạ.
Cái lý luận chặt chẽ ấy đã che mắt họ, không cho họ nhận biết điều lạ lùng đang xảy ra. Được đặt trước sự thực, nhưng họ lại tìm cách chối bỏ sự thực ấy: Kẻ được chữa lành không phải là người mù họ thường thấy, nhưng chỉ là một người giống như hắn. Họ đã muốn phủ nhận ngay chính người được chữa lành. Họ hạch hỏi và làm khó dễ cả người cha lẫn người mẹ. Bản thân anh cũng bị tra hỏi, tất cả như muốn anh chối bỏ chính cái ơn huệ, chính cái thực tế diễn ra nơi con người anh.
Thế nhưng cuộc hạch hỏi này lại cho chúng ta thấy người sáng suốt lại chính là anh mù. Còn kẻ mù lại là bọn Biệt phái, vốn tự nhận mình là thông suốt đạo lý và lề luật. Anh mù đã muốn đi từ thực tế không thể chối cãi được, tìm hiểu về con người đã làm phép lạ, để rồi cuối cùng anh không phải chỉ được chữa để nhìn thấy sự vật chung quanh, mà còn được nhận biết ánh sáng của niềm tin, nhìn nhận Chúa Giêsu chính là Đấng từ trời đến, để thông chia cho mọi người sự sống Thiên Chúa.
Trong khi đó bọn Biệt phái lại muốn đi từ một cách hiểu về đạo giáo của họ để phán xét sự thật. Vì họ đã sai lầm trong cách hiểu và lý luận của mình, nên họ đã bị bưng bít, không thể nhận ra được sự thật, cũng như ý nghĩa của sự thật ấy.
Chúa Giêsu đã đảo ngược các hoàn cảnh. Người mù tin ở Ngài thì được khỏi và được dẫn đến chỗ nhìn nhận mạc khải của Chúa. Trái lại những kẻ vẫn tự khoe là thông thái và sáng suốt thì lại không thấy được Đấng đem ánh sáng cứu rỗi đến cho con người. Họ tự giam mình trong tối tăm của sự chết.
Đây cũng là hoàn cảnh của chúng ta. Thực vậy, một cản trở không nhỏ trên con đường đến với Chúa và nhận ra tiếng Ngài trong những biến cố của cuộc sống đó là cứ bám víu vào những tiên kiến và tự mãn với những điều chúng ta đã biết, bằng sự rập khuôn và óc câu nệ. Tất cả tạo nên một thứ hàng rào kiên cố ngăn cản chúng ta tiếp cận với sự thật để được cứu rỗi. Những người thủ cựu và cố chấp giống như những kẻ đeo cặp kính màu xám, thì nhìn cái gì cũng hoá ra xám. Họ giống như những anh mù sờ voi, phùng má trợn mắt bảo vệ lập trường của mình, mà chẳng ai nắm được sự thật.
Bọn Biệt phái đã căm thù Chúa Giêsu và cuối cùng đã tìm cách thủ tiêu Ngài chỉ vì không chấp nhận để Ngài phá vỡ cái hàng rào này của họ. Chúng ta cũng sẽ chỉ có ánh sáng của lòng tin khi nhìn nhận Chúa Giêsu chính là Đấng đem lại cho chúng ta ơn cứu rỗi mà thôi.
Xuyên qua Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy có hai loại mù: mù loà của đôi mắt thể xác và mù quáng của tâm hồn, của đầu óc.
Người mù bẩm sinh trong Tin Mừng hôm nay tuy bị mù đôi mắt thể xác nhưng anh ta lại sáng suốt hơn những người Pharisêu tự cho mình tinh thông.
Trong khi đó, những người Pharisêu tự hào là người khôn ngoan thông sáng, nhưng họ đang bị mù quáng mà chẳng hay. Họ bị thành kiến che mờ tâm trí nên họ không nhận ra Đức Giêsu là Đấng cứu độ nên họ đã không được đón nhận ơn cứu độ do Người tặng ban.
Những người mù loà thể xác hầu hết rất hiền hòa. Chưa từng nghe nói người mù gây ra tội ác hay phạm pháp bất cứ ở đâu. Họ là những người đáng thương và đáng kính.
Còn người mù quáng là những người thường gây ra lỗi lầm và tội ác nên họ thường bị người đời lên án khinh chê.
Có nhiều hình thức mù quáng gây ra hậu quả rất tai hại:
Mù quáng vì tham lam
Sách Các Vua có thuật lại câu chuyện hoàng hậu I-dơ-ven, vợ vua A-kháp, vì tham lam muốn chiếm đoạt vườn nho của ông lão nghèo Na-vốt, đã dàn dựng một vụ án quy kết Na-vốt tội nguyền rủa Thiên Chúa và nguyền rủa đức vua, rồi tuyên án ông phải bị ném đá chết. Lòng tham lam đã làm cho hoàng hậu I-dơ-ven ra mù quáng đến độ đang tâm giết hại một ông lão nghèo vô tội để chiếm đoạt vườn nho của ông ta. (sách các vua I, chương 21)
Mù quáng vì ghen tị
Sách Samuel ghi lại rằng vua Sa-un rất yêu thương Đavít, nhưng khi Đavít hạ được tên tướng giặc khổng lồ là Gô-li-át để cứu nguy cho quân dân Israel và quay trở về trong chiến thắng, “thì phụ nữ từ hết mọi thành của Israel kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Sa-un, với trống con, với tiếng reo mừng và tiếng não bạt. Họ vui đùa ca hát rằng: “Vua Sa-un hạ được hàng ngàn, còn Đavít hàng vạn”. Khi nghe lời đó, vua Sa-un uất lên vì ghen tị. Lòng ghen tị làm cho vua đâm ra mù quáng, đổi lòng yêu thương ra thù ghét và truy lùng Đavít khắp nơi quyết giết cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất nầy. (Samuen I, chương 18)
Mùa quáng vì dục tình
Về sau, khi vua Sa-un qua đời, Đavít được lên làm vua. Đavít lại đâm ra mê đắm sắc đẹp của bà Bát-sê-va. Dục vọng đã làm cho vua mù quáng đến độ lập mưu giết chồng bà là Uria để chính thức cưới bà nầy làm vợ. (Samuen II, chương 11)
Nói tóm lại, lòng người rất dễ trở nên mù quáng do tình dục, do lòng tham lam, kiêu căng, ghen tị… khiến người ta lún sâu vào vũng bùn tội ác lúc nào không hay.
Chứng mù quáng nầy tai hại gấp ngàn lần mù loà đôi mắt thể xác.
Có hai điều tai hại do mù quáng phát sinh:
Một là người mù quáng không tự biết tình trạng mù quáng của mình, nên không cảm thấy cần được cứu chữa. Thế là họ cứ bị mù quáng cho đến mãn đời, mà vì mù quáng suốt đời nên cũng thường mắc phải lầm lỗi suốt đời.
Hai là cho dù có nhận biết mình mù quáng đi nữa, người ta cũng không cho đó là điều nghiêm trọng, nên không thấy cần được cứu chữa.
Bất cứ người mù nào cũng khao khát được sáng; nhưng điều đáng tiếc là nhiều người mù quáng, vì không tự biết mình mù, nên không ước ao thoát khỏi tình trạng mù quáng hết sức tai hại của mình.
Nguyện xin Chúa Giêsu soi sáng để chúng ta nhận thức rằng mù quáng vô cùng tai hại và cố tìm cách cứu chữa mình khỏi chứng bệnh rất tai hại nầy.
Lạy Chúa Giêsu là ánh sáng cho trần gian, xin chiếu dọi ánh sáng Chúa vào tâm trí chúng con, cứu chúng con khỏi bị mù quáng do dục vọng gây nên, để chúng con khỏi hư mất đời đời nhưng được cứu độ và được sống, sống có nhân cách cao đẹp ở đời nầy và sống viên mãn trong thế giới hồng phúc mai sau.
Ánh sáng và bóng tối vẫn giao tranh ác liệt. Bóng tối không ngừng gieo rắc tai họa khắp nơi. Nhưng ánh sáng đã thắng lớn khi Đức Giêsu ra tay "để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa" (Ga 9,3) nơi "một người mù từ thuở mới sinh." (Ga 9,1)
Thui ra mới biết béo gầy
Mặt trận chia làm hai phe rõ rệt. Một bên là "môn đệ của ông Môsê" (Ga 9,28). Bên kia là "môn đệ của ông ấy" (Ga 9,28) tức là Đức Giêsu. "Các môn đệ của ông Môsê" lớn tiếng kết án Đức Giêsu "là người tội lỗi." (Ga 9,24) Cả anh mù cũng bị lên án: "Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu." (Ga 9,34) Tất cả "không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày Sabát." (Ga 9,16) Đó là tiêu chuẩn duy nhất đánh giá con người. Cả một màn đêm bao phủ tinh thần nệ luật. Bóng tối đã làm tê liệt khả năng đối thoại và nhìn nhận sự thật. Đúng như Chúa nói: "đêm đến, không ai có thẻ làm việc được." (Ga 9,4).
Không chỉ lên án Đức Giêsu, họ còn "đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô." (Ga 9,22) Anh mù bẩm sinh đã trở thành nạn nhân của lối nhìn khắt khe đó (x. Ga 9,34) Mặc dù biết rõ sẽ bị lên án, anh vẫn can đảm nói lên sự thật: "Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi ; còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy." (Ga 9,31) Lập luận đanh thép đó đương nhiên dẫn đến kết luận: Đức Giêsu là "người bởi Thiên Chúa mà đến." (Ga 9,33) Ý Thiên Chúa là tiêu chuẩn duy nhất để đánh giá và phân hạng con người.
Cuối cùng chiến thắng sẽ thuộc về ánh sáng. Quyền năng Thiên Chúa nơi Đức Giêsu đã đưa anh mù vào vùng ánh sáng. Phép lạ lớn lao đó không thể không tác động đến toàn thể con người và cuộc đời anh. Khi còn chìm ngập trong đêm tối, anh như mất tất cả. Sau khi "đến hồ Silôac mà rửa", anh đã "nhìn thấy được." (Ga 9,6-7) Ánh sáng đã thay đổi toàn diện con người anh. Anh rất bén nhậy trước nguồn ánh sáng đang ùa tràn vào con mắt và tâm hồn. Anh không thể không nói lên sự thật. Trước mặt những người Pharisêu anh dõng dạc làm chứng. Sau khi đã được mạc khải rõ về Con Người, anh còn tuyên xưng: "'Thưa Ngài, tôi tin.' Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người," (Ga 9,38) với tất cả niềm tri ân cảm tạ hồng ân giải thoát anh khỏi vùng tối tăm. "Người mù đã được sáng mắt, giờ đây độ sáng tinh thần đang tăng lên nhờ nhận ra Đức Giêsu." (Faley 1994,258) Anh đã sáng mắt sáng lòng.
Người mù bẩm sinh đã đón nhận được ánh sáng và nguồn ân sủng đó, nên đã thành một chứng nhân phi thường cho Đức Giêsu trước quyền bính. Tại sao anh có một sức mạnh lớn lao đó ? Còn ai cảm nghiệm được bề dầy của đêm tối bằng người mù bẩm sinh ? Phá sập bức tường tăm tối đó, Đức Giêsu đã chinh phục được trọn vẹn tâm hồn anh mù từ bẩm sinh. Mặc dù không biết Đức Giêsu xuất thân từ đâu (x. Ga 9,12), nhưng anh mù vẫn mạnh mẽ tuyên xưng "Người là một vị ngôn sứ" (Ga 9,17) và "tin vào Con Người," (Ga 9,35) Đấng từng hứa: "Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi." (Ga 12,32,34)
Phép lạ đã trở thành dấu chỉ rõ nét nhất về nguồn ân sủng đó. "Các môn đệ của ông Môsê" có dư phương tiện để tìm hiểu sự thật. Thế nhưng, dù nắm đầy đủ bằng chứng, họ vẫn không nhích được một bước. Không hi vọng có một chút thay đổi nào nơi những não trạng duy luật đó. Họ mất hết bén nhậy trước những thực tại tươi rói của Tin Mừng. Những đầu óc chai cứng đó không thể mở ra đón nhận bất cứ chân lý mới mẻ nào nữa. Đó là những người chỉ đọc một sách. Trái lại, người mù bẩm sinh chưa hề đọc cuốn sách nào lại dễ mở lòng đón nhận chân lý là Đức Giêsu. Trước luận điệu những người Pharisêu khăng khăng buộc tội Đức Giêsu, anh cương quyết bênh vực:
"Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi bị mù mà nay tôi nhìn thấy được !" (Ga 9,25) Nói thế có khác gì thánh Phaolô, đấng từng quả quyết: "Tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá." (1 Cr 2,2) Một chứng từ quá đủ để cho anh tìm ra sự thật giải thoát. Trái lại, vì không tìm ra sự thật đó, nên các người Pharisêu vẫn cứ luẩn quẩn tìm cách kết án Đức Giêsu là người tội lỗi. Càng tìm cách củng cố lập luận, càng bị sa lầy. Sau bốn lần hội kiến với các nhân chứng, họ vẫn không tìm ra sự thật. Đúng hơn, họ đã cố tình bẻ cong và cô lập sự thật. Không ai điếc bằng người không muốn nghe. Họ bắt buộc phải nghe một sự thật từ miệng Đức Giêsu: 'Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù.'"( Ga 9,39) Bởi đấy, nguy cơ lớn nhất đã đến, khi Đức Giêsu phán quyết: "Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: 'chúng tôi thấy', nên tội các ông vẫn còn đó." (Ga 9,41) Cuối cùng mới rõ trắng đen.
Ánh sáng trần gian
Sau khi bị lên án như thế, chắc chắn người Pharisêu vẫn chưa sáng mắt sáng lòng để nhận ra Đức Giêsu "là ánh sáng thế gian." (Ga 9,5) Họ đồng lõa với bóng tối. Ngày nay, bóng tối đó vẫn phủ ngập trân gian và lăm le triệt hạ ánh sáng. Thế nhưng, "bóng tối đã không diệt được ánh sáng." (Ga 1,5) Chẳng hạn, bóng tối tràn ngập xã hội Ấn độ khi một nhóm Ấn độ giáo cực đoan tấn công các tu sĩ Công giáo và thí điểm truyền giáo tại Sanjeli, vào ngày 2/3/2002 vừa qua (ZENIT.org-Fides 5/3/ 2002). Giáo Hội vẫn không tìm cách trả thù. Nhưng một đàng các người Kitô hữu Ấn độ kêu gọi những người thiện chí đoàn kết để cô lập nhóm quá khích cuồng tín và tái lập hòa bình. Đàng khác, Giáo Hội vẫn tin tưởng rằng "việc chung sống nhân danh tôn giáo là con đường dẫn tới hòa bình, chứ không phải là dịp tạo ra chiến tranh.
Thập điều Assisi hiện nay gây ấn tượng mạnh vì hòa bình trở thành một cam kết chung, chứ không phải chỉ là lời kêu gọi vượt qua những đối đầu kiểu chiến tranh." (Riccardi: ZENIT.org-Fides 5/3/ 2002) Hơn lúc nào, nhân loại cần đến "ánh sáng trần gian" để nhìn ra sự thật và chung sống hòa bình. ĐGH Gioan Phaolô II quả quyết Giáo Hội Công giáo "sẽ tiếp tục cam kết thập điều Assisi chân chính, sự tha thứ cho nhau và đồng tâm nhất trí với nhau sẽ hướng dẫn nhịp sống nhân loại trong đệ tam thiên niên kỷ này." (ZENIT.org-Fides 5/3/ 2002) Người còn cho biết "tinh thần và sự cam kết ở Assisi sẽ hướng dẫn mọi người thiện chí đi tìm chân lý, công lý, tự do, tình yêu để mỗi người có thể hưởng những quyền lợi bất khả nhượng và mỗi quốc gia được hòa bình." (ZENIT.org-Fides 5/3/ 2002) Điều 3 trong thập điều Assisi nói rõ: "Chúng tôi cam kết cổ võ một nền văn hóa đối thoại để sự hiểu biết và tin tưởng có thể phát triển giữa cá nhân và các dân tộc như những điều kiện để đạt đến một nền hòa bình đích thực." (CWNews 4/0/2002) Quả thực, khi con người chấp nhận đối thoại, vấn đề nào cũng có thể giải quyết được. Tôn trọng những khác biệt của nhau là điều kiện cần cho cuộc chung sống. Bởi thế, điều 5 trong thập điều Assisi quả quyết: "Chúng tôi cam kết thành tâm và kiên nhẫn dấn thân vào cuộc đối thoại, bất chấp những khác biệt, chúng tôi nhận thức rằng đối diện với những khác biệt đó có thể là một cơ hội lớn để hiểu biết nhau hơn." (CWNews 4/0/2002) Nhưng nếu không có "ánh sáng trần gian", chúng ta không thể thấy những nét kỳ diệu trong các tôn giáo và văn hóa. Bởi thế, Đức Giêsu mới bảo đảm cho muôn dân một cuộc sống phong phú và một nền hòa bình lâu dài.
Đứng trước thân phận đáng thương của một người bị mù lòa từ thuở mới lọt lòng mẹ, hay trước bất cứ một số kiếp hẩm hưu nào khác, người ta dễ dàng đặt câu hỏi: ‘tại sao?’. Tìm hiểu nguyên nhân sự việc là một đòi hỏi hợp lý của bất cứ đầu óc suy luận nào; và trong công việc đó, định luật ‘nhân - quả’ thường được áp dụng cách triệt để. “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?” Càng suy nghĩ theo lối thông thường đó thì câu trả lời của Đức Giêsu càng gây cho chúng ta kinh ngạc đến sửng sốt: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh”. Đó quả là một lối nhìn, một suy luận thật khác lạ, đi ra ngoài (đúng hơn: vượt lên trên) qui luật luận lý nhân quả, một điều mà lý trí tự nhiên khó ai chấp nhận nổi. Tuy nhiên chính lối nhìn và hiểu biết này mới là triết thuyết của Tin Mừng, vì nó chứa đựng bên trong một sức mạnh giải phóng đến kỳ lạ. Phải chăng đây chính là lô-gích mới mẻ đã được giới thiệu cho nhân loại? Không may, mỗi khi có một tia sáng mới lóe lên thì ánh sáng chói lọi của nó thoạt đầu dễ làm cho con mắt chúng ta bị xốn xang. Ánh sáng Tin Mừng cũng là như thế, thoạt nghe nó có vẻ điên rồ và phi lý siết bao!
Theo khẳng định của Đức Giêsu thì ‘nhận ra công trình của Thiên Chúa’ mới chính là nguyên nhân (hay mục đích) của biết bao sự kiện tang thương, tiêu cực đang xảy ra trên trần gian (động đất, sóng thần tàn phá Nhật Bản hay siêu bão hayan chỉ là nhưng ví dụ điển hình). Câu khảng định trên mới nghe ta tưởng như hoàn toàn phi lý, không thể chấp nhận được. Ta vẫn quen chia sẻ lối suy nghĩ phổ biến: ‘công trình của Thiên Chúa’ phải là điều gì hùng vĩ, hoàn hảo và tốt lành lắm; còn những bất toàn, tang thương không thể là công trình của Ngài. Nguyên nhân của các sự kiện đó nằm ở nơi khác… tội lỗi chẳng hạn; cùng lắm Thiên Chúa cũng chỉ ‘cho phép’ xảy ra vì một lý do nào đó, để thử thách, răn đe... Cách duy nhất để giải thích câu nói của Đức Giêsu là hiểu: ‘công trình của Thiên Chúa’ chính là lòng nhân ái xót thương mà Thiên Chúa đang ra công thực mạc khải và thực hiện, nhất là qua cuộc sống và cái chết thập giá của Giêsu Na-da-rét.
Trong trường hợp cụ thể của người mù từ lúc mới sinh, thì chính nhờ việc anh được chữa lành mà anh, và nhiều người khác nữa, nhận biết Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa nhân lành. “Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì”. Anh mù đã nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa đối với mình qua con người được sai đến là Đức Giêsu; và một khi đã nhận biết “chính đấng đang nói với anh đây” là vị đó, anh tin vào Người: “Thưa Ngài, tôi tin” và bái lạy Người. Đối với anh, vấn nạn tại sao mình bị mù, cũng như tại sao mình được chữa khỏi có lẽ không quan trọng lắm, điều quan trọng đối với anh là biết rằng mình được Thiên Chúa xót thương. Anh tin vào tình thương đó qua việc ông Giêsu đã chữa anh lành, cho dầu lúc đầu anh chưa biết Người là ai. Niềm tin này đã giúp anh vượt qua lý luận ‘nhân – quả’ để nhìn ra ‘công trình của Thiên Chúa’ là lòng nhân ái Ngài. Trong khi đó những người Pha-ri-sêu thông thái lại đã không vượt qua nổi cái lô-gich hẹp hòi: “mày sinh ra trong tội lỗi ngập đầu… chúng ta không biết ông Giêsu ấy bởi đâu mà đến”. Họ luẩn quẩn trong lối suy nghĩ nhân quả đó nên không thể tìm ra giải đáp thỏa đáng, và như thế sẽ tiếp tục mãi tình trạng đui mù là không thể nhận ra ‘công trình của lòng Chúa xót thương’. “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: ‘Chúng tôi thấy’, nên tội các ông vẫn còn!”
Như vậy niềm tin Kitô hữu phải giúp tôi vượt lên trên lối suy nghĩ ‘nhân-quả’ bình thường, để nhận ra công trình yêu thương Thiên Chúa từ nhân đang thực hiện qua mọi biến cố buồn vui đang xảy đến cho tôi và cho nhân loại. Nhìn lên Đức Giêsu chết treo trên thập giá, tôi không được luẩn quẩn mãi trong cái suy luận phức tạp ‘tại sao?’, nhưng với con mắt đức tin phải nhận ra ngay ‘công trình yêu thương’ Thiên Chúa đang liên tục thực hiện. Cũng với niềm tin này, tôi nhìn vào mọi biến cố hàng ngày đang xảy ra cho chính tôi và quanh tôi, nhất là khi chúng tiêu cực và vô lý tới độ không thể nào giải thích nổi, để nhận ra bằng chứng không thể chối cãi về sự hiện diện đầy nhân ái của Thiên Chúa là Cha.
Là Kitô hữu như Phaolô, giữa muôn sóng gió và đổ vỡ của cuộc sống, tôi sẽ luôn sống trong hy vọng và tín thác. Hãy “không để bất cứ điều gì làm bạn xao xuyến!” (‘nada te turbe’ Tê-rê-xa Avila) vì “không gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 8,39).
Lạy Chúa, xin hãy ban cho con ơn để được nhìn thấy trong mọi biến cố cuộc đời, nhất là khi đau khổ và tội lỗi ngập tràn,‘công trình cứu độ của Thiên Chúa đang được tỏ hiện’ nơi con. Xin cho con cặp mắt sáng như thánh Âu-tinh, để nhận ra ngay cả các tội mình đã từng phạm trong quá khứ đều là những ‘tội hồng phúc!’, vì qua đó, con càng có thể vững vàng hơn đặt trọn niềm tin vào Giêsu Thập Giá, biểu hiện trọn vẹn nhất của tình yêu nhân ái Chúa Cha không bao giờ xua đuổi ruồng bỏ con. Amen
Mù là một chứng bệnh gây nhiều đau khổ thiệt thòi, buồn tủi và nguy hiểm cho bệnh nhân. Người mù suốt đời, ngày cũng như đêm ở trong tối tăm, không xem thấy ánh sáng, không thể nhìn ngắm cảnh đẹp thiên
nhiên, màu sắc của vạn vật cũng như nét mặt xinh tươi của người thân yêu. Đó là những thiệt thòi rất lớn làm giảm thiểu sinh lực và hạnh phúc của cuộc đời.
Hơn nữa, người mù còn mặc cảm, coi mình là vô dụng, ăn bám và phải cậy nhờ người khác trong mọi sự, đi phải có người dắt, ăn phải có người đem đến tận tay, có khi liều mình gặp nguy hiểm sa lửa, sa nước, va chạm, vấp ngã thiệt đến tính mạng.
Mù là chứng bệnh gây đau khổ thiệt thòi cho bệnh nhân như vậy. Đàng khác, mù cũng là chứng bệnh nan y bất trị, ngày nay khoa học đã tiến bộ rất nhiều, người ta chữa được nhiều bệnh trước kia không thể điều trị, dù vậy, người ta chưa tìm được phương thuốc nào làm cho người mù sáng mắt.
Một việc mà con người sau bao cố gắng tìm tòi, cho đến nay vẫn chưa làm được thì Đức Kitô đã thực hiện một cách dễ dàng mau chóng như một trò chơi thích thú. Bài Phúc âm hôm nay thuật lại rằng: “Khi ấy, Chúa Giêsu gặp một người mù bẩm sinh đang ngồi ăn xin, Chúa nhổ xuống đất, lấy nước miếng(nước dãi) trộn thành bùn xoa lên mát người đó, rồi bảo đi tới hồ Si-lô-ê mà rửa. Anh đi ra và rửa, đoạn trở lại thì trông thấy mọi sự rõ ràng”. Đây là một phép lạ hiển nhiên, gây chấn động mạnh mẽ trong dân chúng. Theo công lệ tự nhiên, bùn chỉ có thể làm cho người ta đau mắt, nhưng trường hợp này bùn xoa vào mắt lại làm cho người mù được sáng. Như vậy, không phải do tính chất của nó mà do quyền năng của Đức Giêsu đã phú bẩm cho nó và dùng nó như chất liệu chữa bệnh phần xác.
Ta có thể nói, đây là hình ảnh các nhiệm tích mà Chúa sẽ lập, trong đó Chúa dùng những chất liệu bề ngoài để chữa tật bệnh linh hồn, thí dụ: nước trong phép Rửa tội, dầu thánh trong phép Xức dầu bệnh nhân. Sau nữa, phép lạ chữa người mù trong bài Phúc âm hôm nay cũng tượng trưng một việc vĩ đại hơn Chúa sẽ thực hiện, đó là làm cho người ta khỏi mù phần linh hồn, biết mở mắt trí khôn nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và là Cha nhân lành, nhìn nhân Đức Ki ô là Đấng Thiên Chúa sai xuống cứu độ loài người. Vì thế, sau khi người mù bẩm sinh, được Chúa cho sáng mắt, anh đã can đảm làm chứng về Chúa và bị người Do thái đuổi ra khỏi Đền thờ, Chúa đã đến gặp anh và hỏi: “Ngươi có tin Con Thiên Chúa không ?” – Anh nói: “Thưa Ngài, Con Thiên Chúa là ai để tôi tin”. – Chúa trả lời: “Ngươi đang nhìn thấy Ngài và Ngài đang nói với ngươi”.- Anh liền thưa: “Lạy Thày, con tin và anh sấp mình thờ lậy Chúa”. Từ đây, anh trở nên một tìn hữu nhiệt thành và một tông dồ can đảm. Đối với anh được khỏi mù phần xác là một sung sướng lớn lao, nhưng được khỏi mù phần linh hồn là một hạnh phúc lớn lao hơn nhiều, vì bệnh mù phần xác chỉ là một bất hạnh tương đối và tạm thời ở đời này, còn bệnh mù phần linh hồn làm mất hạnh phúc vĩnh cửu đời sau, không thể lấy gì bù lại được. Do đó, những năm ở trần gian, Chúa gặp rất nhiều người mù, nhưng chỉ một số ít được Chúa chữa khỏi, khi về trời Chúa cũng không để lại phương thuốc gì để chữa người mù sáng mắt. Nhưng phần linh hồn, Chúa còn dùng những phương thế hữu hình để soi sáng cho người ta biết Chúa và những chân lý trong Đạo. Những phương thế hữu hình đó thể hiện nhiều cách khác nhau: có khi là một lời khuyên với dòng nước mắt của người mẹ gia đình như bà thánh Mônica đã làm cho thánh Auguttinô là con mình trở lại Đạo chính; có khi là một hiện tượng gây xúc động xẩy đến như đám tang và thi hài tàn rữa của bà hoàng xinh đẹp nhất nước đã làm cho thánh Phanxicô bỏ địa vị chức quyền để tận hiến cuộc đời cho Chúa; có khi là một thất bại trong ước mơ, như việc thua kiện bất ngờ đã làm thánh Anphongsô bỏ đường danh vọng để dâng mình phục vụ Giáo Hội; có khi là gương sáng của người chung quanh như cử chỉ tôn sùng thành kính của người Ả rập đã làm cho cha Sac-lơ Phu-cô lấy lại được Đức tin đã mất từ thời niên thiếu…Tất cả những sự kiện hữu hình trên đây, ta có thể nói là như chất liệu Chúa đã dùng để làm cho người ta sáng mắt linh hồn, nhìn nhân được Chúa và trở lại với Ngài, cũng như Chúa đã dùng chất bùn làm cho anh mù bẩm sinh được sáng mắt rồi sau đó được sáng trí khôn để tuyên xưng Chúa và tôn thờ Ngài.
Tuy nhiên, chúng ta đừng quên rằng: ánh sáng làm cho người có mắt lành mạnh được dễ chịu và xem thấy sự vật, nhưng cũng làm cho người đau mắt khó chịu và chói lòa. Đức Giêsu là ánh sáng soi trần gian, những ai có thiện chí và tâm hồn ngay lành mới nhận được Ngài, còn những ai thiếu thiện chí và có thành kiến sẽ không nhìn nhận Chúa mà còn phản đối Ngài. Bài Phúc âm hôm nay chứng minh điều đó, đứng trước phép lạ hiển nhiên Chúa làm, người mù đã nhận Chúa và tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa, song những người biệt phái thì tìm mọi cách để chối bỏ phép lạ của Chúa và còn trục xuất những ai tuyên xưng Ngài là Đấng Kitô. Trước sự ngoan cố của họ, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Chính vì để xét xử mà Ta đã xuống trần gian để những ai không xem thấy thì được xem thấy và những kẻ xem thấy sẽ hóa nên mù”.
Để kết luận, chúng ta hãy xin Chúa cho ta một thiện chí và một tấm lòng ngay lành để chúng ta đón nhận được Chúa khi Ngài dùng các dấu chỉ bề ngoài mà đến gặp ta và tỏ cho ta nhận biết Người. Amen
Bài Phúc âm hôm nay thuật lại một phép lạ Đức Giêsu làm cho một người mù bẩm sinh được sáng: MC 4-A91
Bài Phúc âm hôm nay thuật lại một phép lạ Đức Giêsu làm cho một người mù bẩm sinh được sáng mắt.
Trước phép lạ hiển nhiên đó, ta thấy có bốn thái độ của những hạn người khác nhau:
- Trước hết là thái độ bàng quan của dân chúng. Họ đứng ngoài cuộc mà nhìn, không tham gia, coi như không liên hệ gì đến mình, do đó, họ phát biểu những ý kiến vu vơ trái ngược nhau. Kẻ thì đặt vấn đề “Phải chăng đây anh mù vẫn ngồi ăn xin ?”, người thì nói: “Chính là hắn ta”; kẻ khác lại bảo: “Không phải, nhưng là một tên khác giống như hắn”.
- Sau là thái độ hèn nhát, trốn trách nhiệm của cha mẹ anh mù, ông bà ta biết rõ anh mù là con mình, và anh ta đã được Chúa Giêsu chữa khỏi, nhưng ông bà không dám nói lên sự thật, không dám làm chứng cho Chúa, ông bà sợ liên can, bị phiền hà vì người Do thái đã bàn tính trục xuất khỏi hội đường bất cứ ai công khai nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô. Bởi đó, ông bà đẩy trách nhiệm cho con mình và nói: “Chúng tôi nhận nó là con chúng tôi và bị mù từ mới sinh… nhưng ai đã mở mắt cho nó thì chúng tôi không biết. Nó khôn lớn rồi, các ông hãy hỏi nó, nó sẽ tự trả lời các ông”.
- Thứ ba là thía độ ngoan cố và ác cảm của người biệt phái, vì các cảm với Chúa Giêsu, họ không muốn nhận Ngài là Đức Kitô. Lại còn ngăn cấm những ai nhìn nhận và làm chứng cho Ngài. Vì ngoan cố họ nhắm mắt trước một sự thật quá hiển nhiên và tìm mọi cách cho người khác phủ nhận sự thật đó. Nhưng không may cho họ, những lập luận ngụy biện của họ không thuyết phục được anh mù mà còn bị anh phỉ báng những lời lẽ đanh thép khiến họ phát khùng đến nỗi dùng quyền lực đàn áp công lý truc xuất anh ra khỏi hội đường. Thái độ ác cảm và ngoan cố của họ bị Chúa lên án khi Ngài tuyên bố: “Ta đến trần gian để cho những kẻ không xem thấy được xem thấy, còn những kẻ xem thấy trở nên mù”.
- Sau cùng, thái độ của anh mù là phục thiện, thẳng thắn và kiên cường. Người phục thiện luôn sẵn sàng từ bỏ quan điểm riêng mình để lằng nghe lẽ phải, nhìn nhận sự thật. Người luôn sẵn sàng bệnh vực lẽ phải, làm chứng cho sự thật theo tiếng lương tâm. Không quanh co dấu diếm, không chiều đời cho yên phận. Thánh Phaolô một lần đã phản đối thánh Phêrô vì không thẳng thắn. Đó là, trước khi những người Do thái đến thì thánh Phêrô ăn uông với người dân ngoại tân tòng, nhưng khi người Do thái đến thì Phêrô lẩn tránh vì sợ họ phê bình, Trước thái độ mập mờ không hợp tinh thần Phúc âm như vậy, ông Phaolô đã nói với ông Phêrô: “Ông là người Do thái mà muốn sống theo kiểu dân ngoại, có lẽ gì ông bắt người dân ngoại sống theo kiểu Do thái ?”(Gal 2, 12-13)
Trở lại người mù trong Phúc âm, chúng ta thấy anh ta rất phục thiện và thẳng thắn. Anh dám nhìn thẳng vào sự thật, mặc dù người khác cố tình phủ nhận. Khi người ta hỏi làm thế nào mà anh được sáng mắt, anh trả lời ngay: Ông mà thiên hạ gọi là Giêsu làm bùn xức mắt tôi, bảo tôi đến hồ Si-lô-ê mà rửa. Tôi đã đi, đã rửa và tôi trông thấy. Vì không che dấu được phép lạ Chúa Giêsu đã làm, những người Do thái đổi chiến lược vào uy tín của Ngài. Họ nói với anh mù: “Chúng tôi biết Thiên Chúa đã phán với ông Maisen, còn người đó, chúng ta không biết bởi đâu mà đến. Anh mù thẳng thắn trả lời cái đó mới lạ chứ ! Ông ấy đã mở mắt cho tôi mà các ngài không biết bởi đâu mà đến…” “Xưa nay chưa từng nghe nói có ai mở mắt cho người mù bẩm sinh, nếu người ấy không bởi Thiên Chúa. Qua cuộc rtanh luận đó, ta thấy anh mù rất phục thiện và thẳng thắn, hơn nữa anh còn tỏ ra kiên cường nghĩa là trung thành giữ vững lập trường không ngại khó khăn, không sợ đe dọa, sẵn sàng đón nhận hậu quả là bị trục xuất ra khỏi hội đường và bị coi như người ngoại giáo.
Ngày nay, Chúa đã về trời, Đạo Chúa đã được rao giảng khắp nơi và từ hai nghìn năm nay, thái độ của nhân loại đối với Đạo Chúa cũng như những người đồng thời với Chúa.
Trước hết, là những người bàng quan, không xét đến vấn đề tôn giáo, vì họ còn bận tâm làm những việc khác mà họ cho là thiết thực hơn.
Sau là những người tin Đạo, nhưng chỉ giữ Đạo tại tâm, không dám tuyên xưng Đạo ra trước mặt thiên hạ, không dám lên tiếng bệnh vực sự Đạo khi cần thiết, giống như bố mẹ anh mù trong bài Phúc âm hôm nay.
Thứ ba là những người ác cảm với Đạo và bách hại những ai tin Đạo, như những người biệt phái ác cảm với Chúa, cố tình phủ nhận phép lạ Chúa làm, và trục xuất những ai tuyên xưng Chúa là Đức Kitô.
Sau cùng là những người có tâm hồn trong sạch, ý chí ngay lành, đã tin theo Chúa và sẵn sàng chịu mọi khó khăn để trung thành với Chúa như các Thánh Tử Đạo mà lịch sử Giáo Hội đã ghi lại những tấm gương anh hùng.
Xưa, khi Đức Mẹ dâng Chúa trong Đền thờ, có cụ già Simêon ẵm Chúa trên tay, tuyên xưng Chúa là ánh sáng soi các dân tộc, cụ cũng nói tiên tri về tương lai của Chúa và thái độ người đời đối với Ngài. Cụ nói: “Trẻ này sẽ nên duyên cớ cho nhiều người vấp phạm và nhiều người chỗi dậy”(Lc 2, 34). Lời tiên tri đó đã ứng nghiệm. Cũng một cái đèn sáng nhưng sinh hiệu quả khác nhau tùy thái độ mỗi người trước cái đèn đó, ai quay mặt về hướng đèn sẽ nhìn thấy ánh sáng và biết đường đi, ai quay lưng lại, thì bản thân họ sẽ tạo nên bóng tối, làm họ vấp ngã.
Trong Phúc âm, Chúa cũng xưng mình là ánh sáng thế gian, ai theo Ngài sẽ không bước đi trong tối tăm.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta có một tâm hồn trong sạch, một ý chí ngay lành, một niềm tin vững mạnh để bước theo Chúa cho đến cùng. Chúa là đường, là sự thật, là sự sống, bước theo Chúa chúng ta sẽ không lầm lạc, ở trung thành với Chúa ta sẽ được sống đời đời.
Ngày xưa, mỗi khi ra khỏi nhà vào ban đêm, người Nhật Bản thường có thói quen tay cầm theo một chiếc lồng đèn. Chuyện kể rằng: Vào một đêm nọ, có một người mù đến thăm một người bạn cùng xóm. Lúc từ giã ra về, thấy anh bạn mù không cầm chiếc lồng đèn trên tay nên anh chủ nhà mới lấy chiếc lồng đèn của mình để đưa cho anh mù.
Nhưng anh mù từ chối và nói:
- Đối với một người mù như tôi thì ngày cũng như đêm, bóng tối cũng như ánh sáng. Cho nên chiếc lồng đèn này chẳng có ý nghĩa gì hết. Cầm nó theo cũng vô ích!
Người bạn mới giải thích:
- Tôi biết anh không cần chiếc lồng đèn để soi đường. Nhưng nếu anh không cầm nó trên tay thì người khác sẽ không thấy anh và có thể họ sẽ đụng vào người anh đấy!
Anh mù nghe anh bạn lý luận có lý nên đành nhận lấy chiếc lồng đèn và ra về. Đi được một đoạn đường, bất ngờ anh mù bị một người đi ngược chiều tông vào, đụng vào. Anh ta tức tối và la to lên:
- Bộ mày đui hả? Không thấy tao cầm chiếc lồng đèn trên tay sao?
Người kia trả lời như sau:
- Đúng là anh đang cầm một chiếc lồng đèn đấy. Nhưng ngọn đèn bên trong nó đã tắt rồi. Cho nên tôi không thấy anh. Xin lỗi anh bạn nhé!
Câu chuyện trên giúp cho chúng ta hiểu được: đi trong bóng đêm ai cũng cần có ánh sáng. Trong đêm tối, tưởng chừng như không cần thiết nhưng người mù cũng cần cầm đèn sáng trên tay. Anh cầm đèn không phải để cho mình nhưng để người khác thấy anh mà tránh hoặc có thể họ sẽ giúp đỡ anh. Trong đêm tối, người sáng mắt cũng cần ánh sáng. Ánh sáng giúp anh thấy đường đi, thấy người khác và biết được những chướng ngại vật trên đường. Ánh sáng giúp anh đi đúng đường, đúng hướng, không bị lầm đường lạc lối. Ai cũng cần có ánh sáng tự nhiên để nhận biết mình và thấy tha nhân.
Bài Tin Mừng của Chúa Nhật IV Mùa Chay hôm nay, Thánh Gioan cũng kể cho chúng ta nghe câu chuyện về anh mù. Anh này bị mù từ nhỏ, bị mù bẩm sinh. Vì mù nên anh không biết khuôn mặt của mình, không biết cha mẹ mình là ai và những người thân của mình như thế nào. Anh cũng không thấy được vẻ đẹp của vũ trụ và thiên nhiên. Cuộc sống của anh toàn là một màu đen. Ngày cũng như đêm. Đêm cũng như ngày. Ai cũng như nhau. Anh phải sống trong một tâm trạng buồn thảm và thất vọng hoàn toàn. Nhiều người cho rằng vì có tội nên anh mới bị trừng phạt như thế. Nhưng thật may, Chúa Giêsu đã thấy anh và chữa anh sáng mắt. Chúa không chỉ chữa cho anh được sáng đôi mắt thể xác, giúp anh thấy mình, thấy tha nhân, thấy cảnh vật xung quanh; nhưng quan trọng hơn, Ngài còn chữa lành đôi mắt đức tin của anh nữa. Chúa đã hỏi anh: “Anh có tin vào con người không? Anh đáp: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Chúa Giêsu trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin”. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” (Ga 9,35-38). Chúa cho anh được thấy Ngài, được gặp Ngài, được tin Ngài và thờ phượng Ngài.
Chúng ta là những người rất diễm phúc. Diễm phúc vì được Chúa ban cho đôi mắt lành lặn, một đôi mắt sáng. Ta hãy cám ơn Chúa về ân huệ đó. Tuy nhiên, đôi mắt thể xác của chúng ta sáng nhưng có thể đôi mắt tinh thần, đôi mắt tâm hồn, đôi mắt đức tin của ta bị mù loà; như Chúa Giêsu nói với những người Pharisêu: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù” (Ga 9,39). Đúng là có những người nhìn thấy, có những người sáng mắt nhưng tâm hồn của họ lại mù loà. Ta thường thấy có 3 loại mù loà tinh thần như sau:
1. Mù loà về bản thân
Mù vì không biết rõ mình; không biết những tài năng, những khả năng mà Thiên Chúa đã ban cho. Mù vì không thấy rõ những giới hạn, những khuyết điểm, những lỗi lầm, những sai trái của bản thân. Ta thường sáng chuyện của người nhưng lại mù tối, mù mờ chuyện của mình. Có khi ta cũng giống như những anh mù xem voi. Ta chỉ thấy một khía cạnh nhỏ của vấn đề mà vội vàng kết luận cho đó là đúng, là sự thật, là chân lý. Ta thường có những phán đoán sai lầm, chủ quan. Tệ hơn nữa là lương tâm của ta bị mù tối; không phân biệt được điều tốt và điều xấu; mất ý thức đối với tội.
2. Mù loà về tha nhân
Ta không muốn thấy những tài năng, những điểm tốt, điểm tích cực của anh chị em để mà học hỏi, khen ngợi; nhưng ngược lại, ta chỉ thích thấy những điểm tiêu cực, điểm xấu, khuyết điểm để chỉ trích, chê bai, coi thường và có khi hạ bệ người khác. Ta cũng thấy nhưng thấy một cách phiến diện, tiêu cực; ta cũng có thể bị mù về lòng nhân: thấy người khác đau khổ mà không chạnh lòng thương, biết người ta nghèo mà không ra tay giúp đỡ, ta làm ngơ vì không dám dấn thân nhập cuộc.
3. Mù loà về Thiên Chúa
Ta không nhận ra được sự hiện diện của Thiên Chúa trong vũ trụ này. Không thấy Thiên Chúa hiện diện trong Giáo Hội, nơi tha nhân, trong Lời Chúa và trong Thánh Thể. Ta không thấy Thiên Chúa đang đồng hành với mình; không cảm nghiệm được những kỳ công mà Thiên Chúa đã làm; và không tin có Thiên Chúa đang hiện hữu trong thế giới này.
Lạy Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian, xin Chúa hãy mở đôi mắt tinh thần của con để con thấy được những bất toàn, những giới hạn, những khuyết điểm của con. Xin Chúa hãy mở đôi mắt tâm hồn của con để con thấy được những điều hay, những điều tốt nơi anh chị em con. Xin Chúa hãy mở đôi mắt đức tin của con để con thấy Chúa, nhận ra Chúa và cảm nhận được tình yêu của Chúa dành cho con. Lạy Chúa, xin cho con được thấy. Amen.
Câu chuyện Chúa Giêsu chữa người mù trong Tin Mừng hôm nay, khiến chúng ta phải suy gẫm MC 4-A93
Câu chuyện Chúa Giêsu chữa người mù trong Tin Mừng hôm nay, khiến chúng ta phải suy gẫm về sự mù của chúng ta, cái mù trong tâm linh, như những người Pharisiêu.
Câu chuyện Tin Mừng cho thấy, sau khi được chữa lành thì người mù có được đức tin, còn những người Pharisiêu thì lại không tin. Anh mù sau khi được chữa lành thì nói với Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, tôi tin”. Rồi anh sắp mình xuống trước mặt Người. Còn những người Pharisiêu, dù sau khi tra hỏi cặn kẻ người mù, ai đã chửa cho anh, chửa như thế nào... và họ cũng đã được người mù quả quyết rằng chính Chúa Giêsu đã chửa cho mình, nhưng cuối cùng họ vẫn không tin.
Vì sao những người Pharisiêu lại không tin?
Trước nhất, là vì họ biết được một điều. Điều này lại rất quan trọng đối với họ: Chúa Giêsu chửa bệnh trong ngày Sabat. Ngài đã thực hiện chửa bệnh như một thầy lang và làm trong ngày Sabat, ngày mà theo luật Do Thái là cấm không được làm việc, để dành cho việc thờ phượng Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã vi phạm ngày Sabát, nên một số người Pharisiêu kết luận ngay rằng Ngài là người tội lỗi. Một số khác lại thắc mắc: “Một người tội lỗi sao lại làm được những dấu lạ như vậy?” (Ga 9,16). Họ đâm ra chia rẻ.
Ở đây, việc nhìn thấy tội nơi người khác đã khiến cho những người Pharisiêu đã không nhận ra được sự thật. Cái tội, cái xấu của người khác như là một tấm chắn hay một cặp kính đen thui, mà nếu ta đặt trước mắt, thì khiến ta không thấy, không hiểu biết được những việc khác trước mắt.
Điều này càng rõ hơn, ở phần Tin Mừng kế tiếp. “Họ lại hỏi người mù: ‘Còn anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?’ Anh đáp: “Người là một vị ngôn sứ!”. Họ đối lại: ‘Mày sinh ra đã tội lỗi ngập đầu, thế mà mày muốn làm thầy chúng ta ư?’ Rồi họ trục xuất anh” (Ga 9, 17,34).
“Mày sinh ra đã tội lội ngập đầu” là câu mà họ gán cho người mù từ mới sinh. Họ đã nhìn thấy sự bất hạnh, tật nguyền của kẻ khác là do tội lỗi. Nếu tật nguyền từ khi mới sinh thì đã tội lỗi ngập đầu từ lúc ấy! Quả thật, đây là cái nhìn về người khác một cách phi lý.
“... thế mà mày muốn làm thầy chúng ta ư”. Câu này biểu lộ sự khinh khi người khác và tỏ ra tự cao tự đại.
Như vậy, ở đây, có ba điều khiến làm cản trở con người chúng ta nhận ra sự thật hay cản trở cho đức tin:
Thứ nhất, khi thấy người khác phạm luật thì ta cho rằng người ấy tội lỗi. Nếu vi phạm điều luật nặng thì ta cho rằng là phạm tội nặng, bất kể tâm lòng hay lương tâm người ấy như thế nào. Ví dụ như: Người này đã ly dị tái hôn tức là phạm điều răn thứ sáu, người này có tội nặng; người kia nói dối lừa gạt, làm chứng gian, là kẻ đã phạm trọng tội nghịch điều răn thứ tám...
Thứ hai, khi thấy người khác tật nguyền, nghèo hèn, có thân phận đầy bất hạnh thì ta cho họ là tội lỗi. Đây là cái mù do thành kiến, do những kiến thức lạc hậu mà ta vẫn cứ khư khư giữ trong tâm trí.
Thứ ba, khi thấy người khác tật nguyền, nghèo hèn, thì khinh thường họ. Những người Pharisiêu khinh thường người mù, nói rằng: “...thế mà mày muốn làm thầy chúng ta ư?’ (Ga 9,34). Đây là cái mù do tự cao tự đại, cho mình hiểu biết hơn người khác.
Những người Pharisiêu đã không ngờ, họ mới là người mù, còn kẻ mù lại được sáng. Họ có đôi mắt sáng nhưng tâm linh thì mù tối. Còn người mù vừa được chửa khỏi mù thân xác vừa được sáng đôi mắt tâm linh.
Trong cuộc đời chúng ta cũng dễ rơi vào những cái mù tâm linh mà ta không ngờ tới. Những người ta tưởng họ mù nhưng họ lại sáng suốt.
Như trước đây ở Nữu Ước, một thành phố lớn, đang lúc đêm, bổng dưng cúp điện. Một người đàn ông tên John cũng bị kẹt trong đêm đen đó. anh ta bị lạc, quờ quạng và sợ hãi. Anh đi đụng vào một người lạ. Anh xin lỗi, nói với người này vài câu. Không ngờ rằng người này lại là một người biết anh, gợi ý giúp dẫn đưa John về nhà. Người lạ có vẻ thông thạo đường đi và không e sợ. Điều này làm John ngạc nhiên: “Quái lạ tối đen như thế này mà anh ta vẫn đi được dễ dàng”. Cuối cùng họ về đến nhà và John nhận ra người lạ. Đó là người mù trong xóm của anh. Chỉ lúc đó anh mới nhận ra rằng người đã dẫn anh đi trong đêm đen chính là một người mù. Như vậy, trong trường hợp này, kẻ có mắt lại không thấy, kẻ mù lại thấy. Suy nghĩ thêm về cái mù tâm linh, thì có thể kể như:
- Thành kiến là cái mù đối với sự thật. - Sự kiêu hãnh là cái mù đối với những lỗi lầm của chúng ta. - Tính ích kỷ là cái mù đối với nhu cầu của kẻ khác; - Sự dửng dưng chai đá là cái mù đối với đau khổ ta gây ra cho kẻ khác; - Duy vật là cái mù đối với những giá trị tâm linh.
Tất cả những cái trên đóng vai trò như một màng chắn cửa sổ. Nó không cho người ngồi trong nhà nhín thấy ra bên ngoài. Chúng ta có thể có đôi mắt tốt nhưng không thể thấy những gì là tốt, là đẹp, là chân lý.
Đức Giêsu đến là để mở mắt người mù. Ngài đã mở mắt cho ông Giakêu trưởng ban thu thuế, mở mắt cho người phụ nữ tội lỗi, cho người trộm lành, cho tất cả những ai muốn tìm thì tìm được con đường về nhà Cha.
Niềm tin vào Chúa Giêsu giúp chúng ta thấy trong bóng tối. Ngài như người bạn đường dẫn chúng ta đi trong đêm tối. Chúng ta hãy đi sát vào Ngài. Chúng ta hãy đặt hoàn toàn tin tưởng vào Ngài, Đấng đã nói rằng: “Ta là Ánh sáng thế gian. Ai theo Ta không đi trong tối tăm nhưng luôn có ánh sáng ban sự sống” (Ga 8,12).
Tin Mừng ghi lại nhiều lần Đức Giêsu làm cho người mù được sáng mắt, nhưng làm cho “người mù từ thuở mới sinh” được sáng mắt thì chỉ có một lần duy nhất và chỉ có Tin Mừng thứ tư ghi lại. là một tình trạng khốn cùng trong thời gian lâu dài và khó rõ căn nguyên. Tình trạng mù từ thuở mới sinh là nền cho câu hỏi nan giải của các môn đệ: “ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?" (Ga 9,2). Danh ngữ “các môn đệ” (số nhiều) chứng tỏ đây là câu hỏi của một tập thể chứ không chỉ một vài cá nhân. Câu hỏi của các môn đệ phát xuất từ lối suy nghĩ chung của người Do thái vẫn còn tồn tại cho đến thời Đức Giêsu: Mọi bệnh tật hay mọi nỗi bất hạnh đều là hậu quả của tội lỗi của chính đương sự hay của cha mẹ đương sự.
Quan niệm này được trình bày rất rõ trong câu chuyện của ông Job được ghi lại trong sách Job (G 4,7-8). Thật ra, ngày nay người ta cũng có thể thấy một số trường hợp bệnh tật là do chính những lỗi lầm con người gây nên. Người ta cũng phát hiện nhiều căn bệnh bẩm sinh của các trẻ em do chính những sai lầm của cha mẹ của chúng gây nên hoặc do di truyền. Kitô giáo cũng thừa nhận nguồn gốc sự ác, sự xấu là từ tội lỗi của con người (1Cr 15,22). Tuy nhiên, trong trình thuật này Đức Giêsu không hề coi tình trạng của Anh mù là do hậu quả của tội. Ngài không chấp nhận bất cứ một phương án nào do các môn đệ đưa ra. Ngài nói: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9,3). Đó là một lối trả lời hết sức lạ lùng. Câu trả lời này vừa giúp cho suy nghĩ của các môn đệ về đúng với quỹ đạo của nó, giải thoát cho các môn đệ khỏi một quan niệm tiêu cực vừa giúp cho anh mù thoát khỏi những cái nhìn soi mói, khinh bỉ của người đời.
Từ đầu đến giờ bệnh nhân chưa hề nói một lời nào, anh không xin chữa lành, chỉ có Đức Giêsu và các môn đệ nói về căn bệnh anh ta. Có thể anh ta cũng có cùng suy nghĩ với các môn đệ và những người Do thái khác: “mình bị mù từ thuở mới sinh có thể là do tội lỗi của cha mẹ mình hay ông bà mình”. Nếu thế, thì Đức Giêsu cũng bước đầu giải thoát cho anh khỏi cái suy nghĩ tiêu cực anh đang cùng với người khác khoác lên thân mình. Câu trả lời của Đức Giêsu thật tuyệt vời. Nó không những rũ bỏ tình trạng cùng cực của anh khỏi mọi ý nghĩ tiêu cực mà còn mặc lấy cho nó một ý nghĩa hết sức tốt đẹp: là phương tiện cho công trình Thiên Chúa được tỏ hiện. Từ một người tưởng chừng như không ngóc đầu lên nỗi anh bỗng được khoác lên vinh dự được cộng tác cách đặc biệt vào công việc của Chúa.
Công việc đó là công việc gì chưa biết, nhưng chắc chắn là một công việc hết sức khẩn thiết, cao trọng và có ý nghĩa đặc biệt đến sứ mạng của Đức Giêsu. Ngay sau đó Đức Giêsu đã tuyên bố: “Chúng ta phải thực hiện công trình của Đấng đã sai Thầy” (Ga 9,4). Động từ “phải” cho thấy tính chất khẩn thiết nếu không muốn nói là bắt buộc Đức Giêsu và các môn đệ phải làm. Việc ấy chắc rất cao trọng và tốt đẹp vì nó không phải của việc riêng của Đức Giêsu hay các môn đệ nhưng là việc của “Đấng đã sai Thầy”. Hơn nữa thực hiện công việc của Chúa Cha chính là lương thực của Đức Giêsu: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.”(Ga 4,34). Ngoài ra, Đức Giêsu còn bộc lộ bản chất của mình khi nói: “Tôi là ánh sáng thế gian”.
Tất cả những đặc tính đó cho thấy Đức Giêsu không thể không làm dấu lạ này dẫu rằng Anh mù chưa từng lên tiếng van xin. Và dĩ nhiên, theo logic của câu chuyện thì việc gì đến ắt sẽ đến. Đức Giêsu đã thực hiện dấu lạ chữa lành anh mù từ thuở mới sinh.
Đến đây, câu hỏi của các môn đệ nhằm tìm căn nguyên của một căn bệnh đã chuyển sang chính công việc của Thiên Chúa qua bàn tay Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu đã lấy bùn làm từ nước bọt của Ngài và đất để xức vào mắt anh để anh có thể nhìn thấy lại.
Trong dấu lạ này có một chi tiết phụ nhưng lại rất lý thú. Sau khi đã xức bùn vào mắt anh mù, Đức Giêsu bảo anh đến rửa ở hồ Siloam, sau khi rửa thì anh nhìn thấy được. Tác giả ghi chú: Siloam có nghĩa là “người được sai phái”. Người được sai phái chính là một trong những danh hiệu mà tác giả Tin Mừng thứ tư dùng cho Đức Giêsu. Như thế, đến rửa ở hồ Siloam còn có một ý nghĩa ẩn dụ khác. Đó là rửa trong chính chính Đức Giêsu, người được Chúa Cha sai đến. Đức Giêsu đã chứng tỏ Ngài là ánh sáng thế gian khi ban lại ánh sáng cho anh mù.
Dĩ nhiên, dấu lạ chữa lành anh mù lại chỉ là một tiền cảnh cho một dấu lạ khác có ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều. Tiến trình chữa lành anh mù trải qua hai gian đoạn chính: (1) hành động của Đức Giêsu: xức bùn vào mắt anh; (2) hành động của chính anh mù: đi rửa ở hồ Siloam. Đó cũng chính là biểu tượng hai giai đoạn cho cuộc chữa lành nội tâm anh mù sau này.
Sau khi Đức Giêsu làm dấu lạ, Ngài dường như biến mất để lại một mình anh mù đối diện với cuộc sống mới thường ngày của anh. Từ một người không ai để ý đến, hoặc chỉ để ý đến với cái nhìn coi thường và khinh bỉ anh bỗng trở nên một nhân vật nổi tiếng khắp kinh thành Giêsu-sa-lem trong những ngày sau đó. Anh đã phải đối diện và trả lời rất nhiều câu hỏi của nhiều nhóm người khác nhau về việc anh nhìn thấy được. Từ những người đi đường, những người xóm giềng, đến những chức sắc giáo hội như nhóm Pharisêu. Từ lúc nhìn thấy được, cuộc đời anh đâm ra rắc rối và trải qua nhiều cung bậc cảm xúc khi phải đối diện với nhiều nhóm người và phải trả lời nhiều câu hỏi như thế.
Tuy nhiên, tất cả những khó khăn vất vả xen lẫn niềm tự hào, hãnh diện ấy chính là những yếu tố hết sức cần thiết để anh từ từ “rửa trong người được sai phái” để rồi đạt được kết quả tốt đẹp nhất cho cuộc đời mình. Những rắc rối những ngày sau đó đã làm cho anh từng bước nhận ra Con Người (Đức Giêsu) là ai trong cuộc đời mình. Tác giả Tin Mừng đã mô tả hết sức tài tình từng bước khám phá Đức Giêsu của Anh mù.
Bước thứ 1: Trước những chất vấn của “những người láng giềng” (Ga 9,8) và “những người khác” cũng như “những người khác nữa” (Ga 9,9), Anh chỉ cho biết “Người đó tên là Giêsu”.
Bước thứ 2: Trước những chất vấn của những người Pharisêu, Anh ta tiến xa hơn một bước khi nói: “Người ấy là một ngôn sứ” (Ga 9,17).
Bước thứ 3: Một loạt những biện luận rất hợp lý của Anh để chứng minh cho nhóm Pharisêu và người Do thái biết: Đức Giêsu không phải là người tội lỗi (Ga 9,25) vì Thiên Chúa đã lắng nghe Ngài cầu xin (Ga 9,31) và Ngài đã làm được dấu lạ chưa từng thấy: “mở mắt cho người mù từ khi mới sinh” (Ga 9,32). Loạt biện luận ấy dẫn đến kết luận của chính Anh mù: Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa (Ga 9,33). Những lời biện luận mạnh mẽ và đầy thuyết phục ấy đã khiến Anh phải trả một giá quá đắt: “họ trục xuất anh ta” (Ga 9,34). Bị trục xuất khỏi hội đường là nỗi ám ảnh rất đáng sợ cho các tín hữu thời sơ khai. Chính vì thế mà cha mẹ Anh mù đã không dám nói gì về sự kiện Anh được chữa lành mà chỉ xác nhận là trước kia anh ta bị mù. Tác giả lý giải nguyên nhân của thái độ này là vì họ “sợ những người Do thái”. Quả thế, những người Do thái quyết định: Những ai tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô thì sẽ bị trở thành “người bị khai trừ khỏi hội đường” (Ga 9,22). Không giống như cha mẹ của mình, Anh mù đã mạnh dạn bày tỏ chính kiến của mình về Đức Giêsu. Đó chính là nguyên cớ khiến cho Anh bị trục xuất. Và đó cũng chính là cơ hội để cho anh đi đến bước cuối cùng trên chặng đường khám phá Đức Giêsu.
Bước thứ 4: Đức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: "Anh có tin vào Con Người không? Khi đã biết Con Người chính là “người đang nói với anh” (Ga 9,37) anh ta đã tuyên xưng: “Thưa Ngài, tôi tin” rồi “bái lạy Người” (Ga 9,38).
Hành trình tìm kiếm Đức Giêsu của Anh mù được tóm gọn lại như sau: “Người đó tên là Giêsu” “Người ấy là một ngôn sứ” “Người ấy đến từ Thiên Chúa” “Thưa Ngài, tôi tin” “bái lạy Người”.
Tin vào Đức Giêsu là điều rất quan trọng trong thần học Tin Mừng thứ tư bởi lẽ nó sẽ là yếu tố quyết định cho sự sống còn hay hư mất của một con người: “Ai tin vào người Con thì được sự sống đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào người Con thì không được sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên kẻ ấy” (Ga 3,36).
Như vậy, hai giai đoạn trong dấu lạ chữa lành người mù từ thuở mới sinh của Đức Giêsu được lên đến cao trào khi anh mù tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu. Việc tuyên xưng niềm tin ấy là một dấu hiệu cho thấy anh mù được chữa trị tận căn bệnh của mình. Đức Giêsu đã mở mắt cho anh nhìn thấy con đường dương gian, nhưng trên hết và tuyệt vời nhất là Ngài cho anh nhìn thấy con đường đưa đến sự sống vĩnh cửu. Tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu là mở ra cho Anh con đường sống mãi mãi.
Tạm kết
Dấu lạ chữa lành “anh mù tử thuở mới sinh” cho thấy một lối nhìn rất mới mẻ, đầy tích cực của Đức Giêsu trước những đau khổ bệnh tật. Thiên Chúa không hề muốn cho người ta đau khổ nhưng quả thật Ngài có thể “viết thẳng trên những đường cong”; Ngài có thể mặc cho đau khổ những giá trị thật cao vời. Đau khổ mà con người đang mang có thể trở nên một cơ hội tốt để Thiên Chúa làm công việc của Ngài. Thật vậy, việc chữa anh mù từ thuở mới sinh của Đức Giêsu đã cho thấy điều ấy. Có thể nói Đức Giêsu đã từng bước đưa anh từ trong đau khổ tối tăm bước ra cuộc đời đầy ánh sáng huy hoàng.
Lương thực của Đức Giêsu chính là “thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.” Tất cả những ai đang chịu gánh nặng của những đau khổ thể xác và đang ở trong sự mù loà về đức tin đều là đối tượng mà Đức Giêsu tìm kiếm và cứu chữa. Tất cả những cứu chữa bệnh tật của Ngài chỉ nhằm một điều: giúp cho người ta nhận biết Ngài, tuyên xưng niềm tin vào Ngài để được sự sống đời đời.
Dấu lạ chữa lành “anh mù từ thuở mới sinh” (9,1-38) cùng với dấu lạ “cho anh La-za-rô sống lại” (11,1-44) là hai dấu lạ cuối cùng, đánh dấu đỉnh điểm công trình của Đức Giêsu qua việc thực thi các dấu lạ. Hai dấu lạ này tỏ lộ rất rõ ràng hai vai trò của Đức Giêsu: là ánh sáng thế gian và là sự sống của thế gian. Cả hai được tóm lại trong câu tuyên bố của Đức Giêsu: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống" (Ga 8,12).
Tật nguyền không phải là tội. Nhất là người tật nguyền như Fanny Crosby đáng được toàn thể Giáo Hội Cơ Đốc Giáo kính phục. Fanny Crosby ( 1820 – 1915 ) là một người mù nhưng có hai điểm nổi bật. Bà thuộc lòng nhiều câu Kinh Thánh, gần như toàn bộ Tân Ước, Ngũ Kinh Môsê, Thánh Vịnh, Rút. Và sáng tác khoảng 8.000 bài thơ phổ nhạc.
Fanny Crosby sinh tại ngoại ô thành phố New York ngày 4.3.1820 trong một gia đình tín đồ yêu mến Chúa. Bé Fanny bị bịnh mắt từ lúc mới được 6 tuần lễ. Thiếu ánh sáng đã là bất hạnh và cùng cực rồi, mà cha Fanny lại qua đời khi em chưa đầy 12 tháng để Fanny lại cho mẹ và bà nội nuôi. Mỗi khi đi ngủ bà kể chuyện tích Kinh Thánh cho Fanny nghe. Fanny rất yêu thiên nhiên, yêu vẻ đẹp của đất trời, yêu ánh nắng ấm rực rỡ cùng mùi thơm của muôn hoa và tiếng chim hót rộn ràng.
Bù lại khuyết tật về mắt, Chúa cho Fanny có trí nhớ phi thường. Em có thể đọc các đoạn Kinh Thánh thật dài và nhớ rất lâu. Khả năng thiên phú về văn chương của em phát triển rất sớm. Năm 11 tuổi đã có thơ đăng báo. 15 tuổi, Fanny được nhận vào trường mù của thành phố New York. Cô trở thành sinh viên xuất sắc nhất trường về các môn văn chương, sử ký, triết học và khoa học. Âm nhạc là môn cô ưa thích nhất, cô chơi cả dương cầm và phong cầm. 24 tuổi, cô xuất bản tập thơ đầu tay tựa đề: Em gái mù và những vần thơ. 27 tuổi, cô được mời làm giáo sư tại trường mù và làm việc tại đó suốt 11 năm. Dù được học biết về Chúa Giêsu từ nhỏ nhưng mãi đến năm 30 tuổi, trong một buổi nhóm, sau khi nghe một bài Thánh Ca, Fanny mới thật sự cảm động dâng mình hầu việc Chúa. Từ đó trở đi, tất cả tài năng của cô được hiến dâng cho Chúa Giêsu.
Dù bà thiếu ánh sáng thiên nhiên nhưng ánh sáng công chính luôn đầy dẫy, đúng như lời mẹ đã nói khi xưa. Bà sốt sắng muốn phổ biến ánh sáng cứu rỗi đó cho những người chưa biết đến Chúa, vì bà luôn ý thức được việc phục vụ Chúa bằng cách “truyền rao sự chết của Chúa cho tới lúc Ngài đến” và luôn mang trong lòng trọng trách “lo vực người đang lưu vong, sẵn vớt kẻ giữa dòng, truyền danh Giêsu ban cứu ân cho tội nhân…” ( Mana Plus ).
Chúa Nhật 4 Mùa Chay được mệnh danh là Chúa Nhật Ánh Sáng, vì Tin Mừng theo Thánh Gioan tường thuật phép lạ Đức Giêsu chữa người mù được sáng mắt, lẫn sáng cả phần hồn. Tuy nhiên hành trình tìm Ánh Sáng của anh trải qua nhiều thách đố, tiêu biểu cho bất cứ ai muốn tìm thấy Ánh Sáng cứu rỗi.
Thách đố bản thân
Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy và bảo: "Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa." Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được. ( Ga 9, 6 ).
Thách đố đầu tiên là chính bản thân anh mù, liệu có dám hoàn toàn phó thác và cậy trông vào quyền năng Đức Giêsu hay không ? Hay lại nghi ngờ bùn đất lại làm viêm nhiễm thêm đôi mắt vốn đã hỏng từ khi lọt lòng ? Hoặc chỉ mong đợi biệt dược quý hiếm, đắt tiền, hay bác sĩ nhãn khoa tài giỏi mới cứu chữa nổi ? Không hề nghi ngại, so đo, ngờ vực, anh mù vui vẻ vâng phục Thánh Ý ngay lập tức.
Hơn nữa, ân huệ chỉ nhận được trọn vẹn, khi người nhận khao khát, sẵn sàng tích cực hợp tác, đón nhận, như thân hành đến hồ Silôê mà rửa. Vì Chúa luôn tôn trọng con người tự do chọn lựa. Thế còn Kitô hữu hôm nay, có dám noi gương, luôn sẵn sàng tuân theo Lời Chúa răn dạy hay không ?
Thách đố gia đình bỏ rơi
Đi theo tiếng Chúa gọi, cũng là từ bỏ tất cà, từ bản thân đến gia đình, bố mẹ, anh em, thân bằng quyến thuộc, để trung kiên theo Ơn Gọi rao giảng Tin Mừng và làm chứng nhân. Hôm nay, cha mẹ anh mù dù biết rõ tại sao con họ sáng mắt, cũng không dám ho he nói ra sự thật, kẻo mang họa. Như thế, anh mù mất chỗ dựa, mất hậu thuẫn huyết tộc gần gũi nhất, chỉ vì song thân lo mạng sống của họ, hơn là che chắn, bảo vệ, đồng hành với con.
“Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã khôn lớn rồi, tự nó nó nói về mình được” (Ga 9, 20 – 21 ).
Tuy nhiên anh mù chẳng hề tỏ ra nao núng, sợ hãi, dù đang cô đơn chống lại khuynh hướng chống Chúa, khước từ Đấng Cứu Thế. Niềm tin đang triển nở trong tâm hồn đã an ủi và che chở anh. Những thế lực thế gian đen tối luôn soi mói, rình rập, đe dọa, đàn áp, hòng dập tắt đi Ánh Sáng công chính và sự sống.
Thách đố xã hội bất nhất
Bá nhơn bá tánh, khó tìm được người đồng tình hay đồng hành trong đời. Nhất là can đảm đi theo Ánh Sáng thì càng đơn độc, lẻ loi, vì không xu thời, không a dua theo đời, không kiếm chác danh lợi phù phiếm, càng bị cô lập, cách ly ra khỏi xã hội thực dụng, cơ hội, hưởng thụ và duy vật. Anh mù thiệt dũng cảm, khí khái khẳng định với thiên hạ: “Chính tôi đây."
Mặc cho thiên hạ nghi ngờ, đoán non đoán già, anh minh chứng hùng hồn phép lạ, hồng ân, mà anh vinh dự được trao ban. Dù khi đó, anh mới chỉ đơn giản nhận ra “Người tên là Giêsu” thế thôi. Chỉ là người gia ân, làm phước cho anh. Thế nhưng anh không hề lung lạc, bị động theo đám đông hỗn độn, mà vô ơn bất nghĩa, chối phắt hổng phúc mới lãnh nhận.
Anh mù sáng mắt đã kiên quyết giữ vững lập trường, tôn trọng sự thật, xác tín lòng biết ơn và dũng cảm tuyên xưng công khai vị ân nhân. Anh đã vượt qua xã hội nhiễu nhương, hời hợt, chia rẽ, để trung thành với niềm tin, với Ánh Sáng giải thoát khỏi bóng đêm tăm tối cuộc đời.
Thách đố quyền lực thù địch
Nhưng có lẽ áp lực mãnh liệt nhất đối với anh mù vừa sáng mắt, chính là nhóm Pharisêu quá khích, hung hăng, thù hằn, thề bất cộng đái thiên với Đức Giêsu, Ánh Sáng Sự Sống. Họ có đủ thẩm quyền, để trừng phạt dứt phép thông công những ai bất tuân thủ theo họ. Họ cật vấn, dọa nạt, mớm lời, điều tra tới lui anh mù được sáng, hòng lung lạc anh phủ nhận kỳ công của Đức Giêsu. Nhưng trước sau như một, anh mù được chữa lành vẫn kiên quyết vững chãi lập trường, mà còn xưng tụng Đức Giêsu là một “ngôn sứ”. Một sự tiến bộ tinh thần rõ ràng. Ban đầu anh gọi ân nhân chỉ là “ông,” tiếp đến lại xưng là “ngôn sứ.” Đức Tin được chấp cánh mạnh mẽ bay cao.
Kết cuộc, anh bị tống cổ ra khỏi hội đường, buộc dứt phép thông công với cộng đoàn, chỉ vì anh không yếu đuối, nhu nhược, hèn nhát phản bội, lại can đảm làm chứng nhân Đức Giêsu, Ánh Sáng Cứu Độ.
Ngoạn mục vượt qua cả bốn thử thách cam go, bị trù dập, lên án, bị bỏ rơi, anh liền được Đức Giêsu tìm đến an ủi, che chở. Anh mù đã tìm được trọn vẹn Ánh Sáng tâm linh. “Anh nói: “Thưa Ngài, tôi tin”. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” ( Ga 9, 38 ).
“Đừng ham cãi vã sôi nổi, con sẽ ra mù quáng. Đam mê như mây mù, che khuất ánh sáng khôn ngoan của Thiên Chúa” ( Đường Hy Vọng, số 210 ).
Lạy Chúa Giêsu, xưa Người đã đoái thương mở mắt, mở lòng anh mù, nay xin Người cũng ban cho chúng con Ánh Sáng Sự Sống, dìu dắt chúng con vượt qua những thử thách khắc nghiệt của thân xác nặng nề, của tình cảm gia đình ủy mị, của sự dửng dưng, bất đồng của xã hội, lẫn của quyền lực đen trấn áp đe dọa.
Lạy Mẹ Maria, Đức Tin của Mẹ cũng trải qua biết bao phong ba thử thách, từ khi Mẹ “Xin Vâng.” Kính xin Mẹ phù hộ, cầu bầu chúng con luôn trung thành như Mẹ trong niềm phó thác, cậy trông. Amen.
Chúa Giêsu đã hứa rằng: "Thầy đi trước để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy." Đây là một lời hứa thật đẹp. Đẹp vì nó mở ra cho chúng ta một khung trời hy vọng vì ngày mai tốt đẹp hơn. Đẹp vì cuộc sống của chúng ta không đi vào ngõ cụt. Cuộc sống của chúng ta từ nay đã có một lối đi về. Cuộc sống của chúng ta không dừng lại ở cái chết là hết một kiếp người. Cuộc sống vẫn tiếp diễn. Cuộc sống được nối dài vĩnh viễn trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa là Cha, là cội nguồn sự sống.
Người ta kể rằng: Có một gia đình kia. Chồng là người ngoại đạo. Ông không tin vào Chúa. Ông còn luôn miệng nhạo báng, khinh miệt những hành vi thờ phượng kính mến Chúa. Ngược lại, bà vợ thì rất sùng đạo, luôn dạy con giữ đạo sốt sắng. Ngày nào bà cũng dắt con đi lễ cầu nguyện. Dù sống giữa hai niềm tin trái ngược nhau, nhưng đứa con trai duy nhất của họ vẫn hiếu thảo với cha mẹ. Cho tới một hôm, em lâm bệnh hiểm nghèo. Em biết rằng mình chẳng còn sống được bao lâu ở dương gian. Em đã mạnh dạn hỏi bố rằng: "Bố ơi, trong ít ngày nữa con sẽ không còn sống ở dương gian nữa! Con xin bố hãy dạy cho con biết, con phải tin theo ai? Theo bố hay theo mẹ? Tin theo bố thì chẳng có thiên đàng để tiếp tục sự sống, chẳng có Chúa hay có Mẹ để yêu thương và bảo vệ cho con được hạnh phúc đời đời? Còn tin theo mẹ, thì có Thiên Chúa là cha nhân lành sẽ ban thưởng hạnh phúc thiên đàng vĩnh cửu và có Mẹ Maria luôn bầu cử chở che.”
Ông bố nghe mà tái tê lòng. Ông ôm con vào lòng và nói: "Con hãy tin theo mẹ". Đứa bé lại nói tiếp: "Nhưng nếu bố không tin theo mẹ, thì làm sao con có thể chờ đợi bố ở trên thiên đàng được?" Trước lời nói đơn sơ và chân thành của em bé, ông bố đã không kiềm nổi những giọt nước mắt ứ tràn nơi khoé mắt, và để mặc cho nó tuôn tràn trên gò má già nua của ông. Kể từ ngày đó, ông đã đổi đời, ông chọn Chúa là lẽ sống và là cùng đích của đời mình.
Vâng câu nói: "Con hãy tin theo Mẹ" của người cha là câu nói hay nhất trong cuộc đời của ông. Câu này đã giúp cho con ông cảm thấy thanh thản khi bước vào đời sau. Câu này cũng giúp ông thay đổi đời sống mà từ trước tới nay ông đã cố tình không sống theo. Ông biết rằng phải có đời sau. Ông biết rằng là người thì hơn muôn loài muôn vật, vì con người có sự sống thần linh, con người có hồn thiêng bất tử. Thế nhưng, vì lười biếng và cố chấp ông đã không dám nhìn nhận sự thật từ trong sâu thẳm lòng mình là tin có Trời, có thần thánh, có hồn thiêng và cả đời sau. Ông lừa đối chính mình và lừa dối tha nhân. Hôm nay, ông đã phải nuốt những giọt nước mắt mặn đắng để nói lên sự thật của lòng mình trước mặt đứa con yêu dấu, sắp sửa từ giã ông tiến vào đời sau.
Thực vậy, là người ai cũng tin có đời sau. Là người ai cũng tin có quả phúc. Có thưởng có phạt đời sau. Từ trong sâu thẳm tâm hồn luôn có tiếng nói của Thượng Đế nhắc nhở con người phải sống ngay lành, sống thánh thiện như tình trạng ban đầu là "nhân chi sơ tính bản thiện." Sống đúng theo lề luật tối thượng của Thượng Đế, con người mới được bình an và hạnh phúc. Người khôn ngoan phải biết sống thuận theo ý trời mới được trời chúc phúc cho cuộc sống an khang hạnh phúc. Đạo lý đó đã được cha ông ta gom lại thành đạo lý tam tài: "Thiên thời - Địa lợi - Nhân hòa."
Chúa Giêsu trong tư cách là một con người. Ngài đã luôn tìm kiếm ý Cha trên trời để thực thi. Cuộc sống của Ngài luôn mang hai chiều kích: hướng về Thiên Chúa và hướng về tha nhân. Ngài phục vụ tha nhân để tôn vinh Thiên Chúa. Ngài phụng sự Thiên Chúa qua việc phục vụ nhân loại theo thánh ý Chúa Cha. Có thể nói, Ngài đã sống cả cuộc đời vì yêu thương nhân loại và tôn vinh Chúa Cha. Vì Chúa Cha mà Ngài đã nhập thể làm người. Vì Chúa Cha mà Ngài đã hy sinh chịu chết cho con người được sống dồi dào.
Là người Kitô hữu, chúng ta được mời gọi bước theo con đường Chúa Giêsu đã đi. Đó là con đường đi tìm thánh ý Chúa và thực thi đến hơi thở cuối cùng. Đó không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang mà là con đường hẹp, đầy chông gai giăng kín hành trình. Đó là con đường từ bỏ, đường thập giá, đường hiến tế đẫm máu trên đỉnh đồi Calve. Đó là con đường của tình yêu, tận hiến và hy sinh như thầy Chí Thánh Giêsu. Và như thế, đó chính là con đường duy nhất để chúng ta tiến vào nhà Cha, nơi đó, Chúa đã đi trước để dọn chỗ cho chúng ta.
Nguyện xin Chúa Giêsu Phục Sinh luôn đồng hành với chúng ta trong cuộc sống. Xin Người nâng đỡ những yếu đuối của chúng ta. Xin Người chỉ đường dẫn lối để chúng ta luôn tiến bước về nhà Cha trong an bình và thanh thoát với những bận rộn của cuộc sống bon chen hôm nay Amen!
Trước lời van xin của người mù, theo lời tường thuật của thánh Matthêu, thì Chúa Giêsu đã truyền dẫn anh ta đến và hỏi: Con muốn Ta làm gì cho con? Và anh ta đã thưa lên cùng Chúa Giêsu: Lạy Chúa, xin cho con được sáng. Phải chăng đây cũng là lời van xin chúng ta không ngừng kêu lêu cùng Chúa. Dĩ nhiên không phải là xin Chúa mở cho chúng ta cặp mắt thân xác, vì cặp mắt ấy cho đến ngày hôm nay đa số chúng ta đều lành lặn, và có khả năng ghi nhận những sự việc, nhưng là xin Chúa mở cho chúng ta cặp mắt tâm hồn. Thế nhưng mở cặp mắt tâm hồn để làm gì?
Tôi xin thưa trước hết là để chúng ta đánh giá đúng đắn những sự việc xảy ra. Thực vậy, ai trong chúng ta cũng đều biết danh vọng là phù du, con người là tro bụi, thế nhưng vì không biết đánh giá đúng mức, chúng ta đã đầu tư quá nhiều cho tiền bạc, cho địa vị và cho chính bản thân của mình, trong khi đó lại quên mất nỗi ưu tư số một là phần rỗi của linh hồn, như lời Chúa đã phán: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi. Dĩ nhiên Chúa Giêsu không hề có ý bảo chúng ta đừng lo lắng, đừng tìm kiếm chi cả, nhưng Người dạy chúng ta phải biết lo cái đáng lo và tìm cái đáng tìm trước hết, đó là Nước Thiên Chúa, đó là phần rỗi linh hồn bằng cách ăn ngay ở lành, xa tránh tội lỗi. Nhiều khi chúng ta cũng biết như thế, nhưng chúng ta lại không sống như thế, cho nên phải chăng chúng ta cũng chỉ là những người mù về phần hồn.
Tiếp đến xin Chúa mở cho chúng ta cặp mắt tâm hồn là để chúng ta nhận ra những chước mốc của ma quỷ đã được cài vào trong cuộc sống của chúng ta. Thực vậy, chúng ta thì yếu đuối và có thể sa ngã vấp phạm bất cứ lúc nào. Trong khi đó ma quỷ theo lời thánh Phêrô diễn tả, như sư tử lượn quanh tìm mồi cắn xé. Cái bẫy chúng cài đặt cho chúng ta là những cám dỗ, hay cụ thể hơn, là những dịp tội, đó là những hoàn cảnh thúc đẩy chúng ta dễ dàng vấp phạm. Một người đam mê cờ bạc lại hay lui tới những chỗ đỏ đen. Một người nghiêng chiều về xác thịt mà lại thường xuyên gặp gỡ thầm lén và riêng tư, thì chắc chắn có lúc sẽ sa ngã, sẽ vấp phạm, vì chơi dao có ngày đứt tay, lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy. Sống trong dịp tội mà không sai lỗi vấp phạm, thì đó là một phép lạ mà chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ thực hiện cho chúng ta. Nhiều lúc chúng ta cũng biết thế, nhưng vẫn lứ lao đầu vào lửa như những con thiêu thân. Phải chăng chúng ta cũng chỉ là những kẻ đui mù về phần tâm hồn mà thôi.
Chính vì thế mà trong giây phút này, một lần nữa chúng ta hãy kêu cầu: Xin cho con được nhìn thấy và xin cho con có đủ can đảm bước đi trên đường nẻo của Chúa.
Ông A: Có một tín hiệu đáng mừng, cho thấy sự suy giảm đạo đức đã chững lại, cái tốt đang được thổi bùng lên.
Ông B: Khi cuộc sống no đủ, người ta sẽ không tham tiền của người khác nữa. Ông A: - Giàu có thì nói làm gì. Có một người phụ nữ tên là Nguyễn Thị Hoài ở tỉnh Nghệ An nhặt được 10 triệu đồng ở ven đường. Cô ấy đã tìm đến khổ chủ trả lại dù bản thân rất nghèo, lại bị khuyết tật nặng.
Ông B:- Chắc khi nhặt được có người trông thấy nên mới đem trả chứ gì?
Ông A- Không hề, trên đường đi nhận tiền mai táng cho bố, cô này nhìn thấy bọc tiền trong đám cỏ, trên đường vắng tanh không một bóng người.
Ông B- Cô này bị tàn tật chắc cũng chẳng ăn uống được mấy nên số tiền đó không cần thiết lắm cho cuộc sống, giữ lại trong nhà, trộm cướp biết được đến 'hỏi thăm' thì khốn, trả cho yên chuyện.
Ông A:- Ai chẳng cần tiền, cô ấy có thể không ăn uống được nhiều nhưng tiền thuốc men là hết sức cần thiết. Một người luôn bị ốm đau, bệnh tật mà vượt qua được sức cám dỗ của đồng tiền như cô Hoài là rất đáng quý, thật đáng trân trọng. Bác không nên nghi ngờ người có lòng tốt như vậy.
Ông A:- Sở dĩ dạo này tôi mất niềm tin vào con người bởi đến đâu cũng gặp nhan nhản những kẻ giàu nứt đố đổ vách rồi mà vẫn tìm cách cấu véo, bòn rút của người nghèo. Những người như cô Hoài là hiếm hoi lắm, tôi tỏ ra nghi ngờ là để thử lòng bác thôi.
Đôi khi vì những gì diễn ra hằng ngày khiến chúng ta có cái nhìn sai lệch về thế giới chung quanh. Chúng ta thường đổ đồng mọi sự theo nhãn quan của mình. Nhất là vì lòng ích kỷ mà chúng ta nhìn người bằng ánh mắt xét nét, đa nghi. Cho dù họ làm việc tốt, họ làm việc thiện cũng bị chúng ta nhìn với ánh mắt nghi ngờ và kết án.
Nhất là giữa một thế giới gian ác, lắm thị phi khiến chúng ta luôn nhìn đời bắng ánh mắt bi quan. Chúng ta thường nhìn vấn đề trong cái nhìn tiêu cực hơn là tích cực. Giả dụ bây giờ được hỏi máy bay Malaysia mất tích ngày 08.03 vừa qua do nguyên do gì? Có lẽ đa phần sẽ trả lời là do khủng bố. Bởi thế giới ngày nay người ta quá quen với những hình ảnh khủng bố, máu đổ, chém giết, bom đạn.
Có một lần, một người nói với tôi họ mất một con gà và họ nghi ngờ người hàng xóm lấy trộm. Tôi hỏi rằng: Có bằng chứng không? Tại sao chị không nghi ngờ là con gà của mình nó bị con chồn bắt mất hay mèo hoang ăn mất. Vì nơi nhà chị là giữa đồng hoang . . .? Đừng kết án vội kẻo sai lầm tội nghiệp cho họ.
Đây cũng là cái nhìn cố hữu của những người biệt phái. Họ nhìn để bắt bẻ, để xem có đúng luật hay không? Thế nên, thường là họ tìm cách quy kết tội vào một con người. Những người biệt phái có lẽ cũng đã quá quen nhìn mọi sự trong cái nhìn bi quan nên họ không thể nhận ra cái tốt nơi tha nhân. Họ chỉ muốn phân tích theo chiều hướng tiêu cực hơn là tích cực.
Chúa Giê-su là Đấng có thể mang lại ánh sáng cho người mù. Ánh sáng của tâm hồn và thể xác. Mù kiểu nào cũng đáng thương, cũng tội nghiệp. Mù kiểu nào nhìn sự việc cũng khiếm khuyết, cũng không trọn vẹn, cũng sai lầm. Nhất là những người mù về tình người sẽ làm cho họ nhìn đời, nhìn người bằng ánh mắt ghen tương, giận hờn . . .
Thế nên, hãy để cho Chúa chữa trị con mắt của chúng ta. Hãy để cho Chúa mang lại ánh sáng cho cặp mắt chúng ta nhìn đời, nhìn người trong cái nhìn của yêu thương, của hy vọng. Một cái nhìn cuộc đời thật đơn giản, thật đáng yêu.
Đây cũng là cái nhìn mà Xuân Diệu đã từng nói:
Hãy nhìn đời bằng đôi mắt xanh non Hãy để trẻ con nói cái ngon của kẹo Hãy để cho bà nói má thơm của cháu Hãy nghe tuổi trẻ ca ngợi tình yêu
Khi nhìn đời bắng ánh mắt lạc quan sẽ giúp ta nhìn người trong cái nhìn thân thiện, nhìn cuộc đời mới đáng yêu làm sao! Nhìn người đi trước trong cái nhìn kính trọng, nhìn người đi sau trong cái nhìn trân trọng. Và hơn nữa, muốn nhìn đời cho đúng phải biết chỗ đứng của mình mới có cái nhìn chính xác về cuộc đời.
Đôi mắt xanh non cha xin của con Người đi trước xin của người sắp tới Biết chỗ đứng để nhìn cho thật mới Cuộc sống xanh non mãi mãi tươi giòn....
Xin Chúa Giêsu là ánh sáng trần gian soi sáng tâm trí để chúng ta biết nhìn đời thật đáng yêu, nhìn người bên cạnh thật đáng trân trọng. Xin đừng vì ích kỷ, mù quáng mà sống thiếu tình thân với tha nhân. Amen.
Chúa Giêsu chữa một người mù từ khi mới sinh và cho biết Chúa là ánh sáng chiếu soi trần gian.
1. Một cụ già trong một làng quê một hôm đặt câu hỏi cho các thanh niên: “Làm sao biết được trời còn tối hay đã sáng?” Một người trả lời:
- Khi ở tận chân trời có con trâu với con bò mà phân biệt được thì trời đã sáng; nếu không phân biệt được thì trời còn tối.
- Chưa đúng hẳn!
Một người khác:
- Khi ở mãi chân trời có cây dừa với cây chuối mà phân biệt được thì trời đã sáng; nếu không phân biệt được thì trời còn tối.
- Chưa đúng hẳn!
- Vậy cụ dạy thế nào ạ? - Khi có một người đến với chúng ta, bất kể tuổi tác, màu da, tiếng nói, tôn giáo, học vấn, tính tình, quá khứ... mà chúng ta nhận ra đó là một người anh em, thì trời đã sáng; nếu không thì trời còn tối.
2. Một vị Nhật hoàng sau khi làm việc căng thẳng muốn thư giãn, nên xin các quan tìm cho một người biết nói đùa. Người ta dẫn đến cho ông một thiền sư. Nhật hoàng:
- Ta muốn nhà ngươi nói đùa cho ta nghe. - Tâu bệ hạ, xin bệ hạ nói trước để hạ thần nói đùa theo. - Ta thấy nhà ngươi giống y hệt một con lợn! - Tâu bệ hạ, còn hạ thần thì thấy bệ hạ giống y hệt Đức Phật! - Tại sao ta bảo nhà ngươi là con lợn mà nhà ngươi lại bảo ta là Đức Phật? - Tâu bệ hạ, dễ hiểu lắm ạ: ai có tâm của Phật thì nhìn vào đâu cũng thấy Đức Phật; còn ai có tâm của lợn thì nhìn vào đâu cũng thấy lợn!
3. Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trái tim của Chúa, để con nhận thấy mọi người đều là anh em, và nhận thấy mọi anh em đều là hiện thân của Chúa.
Cuối thế kỷ 18 là thời kỳ được các triết gia gọi là Thời Kỳ Ánh Sáng, vì vào giai đoạn này nền triết học được hồi sinh và đem đến nhiều tư tưởng mới cho nhân loại, đồng thời đây cũng là thời kỳ khoa học kỹ thuật bắt đầu phát triển mạnh, nhiều người cho rằng với sự phát triển của cả lý trí và khoa học như thế, thế giới và con người được khai sáng khỏi những u mê lạc hậu, và nhất là những người cực đoan còn cho rằng đây là thời kỳ con người thoát ra khỏi sự ràng buộc của các tư tưởng tôn giáo, được giải thoát, được bay bổng trong bầu trời của ánh sáng tự do. Tuy nhiên những ước mơ và dự đoán đó không như con người dự tính, chính khoa học và cả triết học các thời kỳ sau đó đã để lại những khoảng trống tăm tối cho con người, và thay vì con người được khai sáng tự do, thì nó lại trói buộc con người vào những hình thức nô lệ mới của khoa học và công nghệ, nó mãi mãi cho thấy sự giới hạn và bất lực của con người.
Trong khi đó Lời Chúa của Chúa nhật thứ IV mùa chay lại giới thiệu cho chúng ta về Đức Giêsu là ánh sáng, Ngài đem ánh sáng đến thế gian để giải thoát con người khỏi sự mù tối của u mê lầm lạc, Ngài đem ánh sáng của Tin Mừng đến để giải thoát con người khỏi sự ràng buộc của bóng tối thế gian và vật chất, giúp con người sống đúng với địa vị phẩm giá mà Chúa trao ban.
Qua câu chuyện Chúa chữa người mù từ khi mới sinh, Thánh Gioan cho thấy Chúa đã khai sáng không chỉ cho người mù, mà còn cho mọi người chung quanh anh nữa. Người Do Thái thời Đức Giêsu bị bao trùm bởi rất nhiều những quan niệm sai lạc, kể cả các tông đồ cũng thế, các ông vẫn nghĩ rằng người thanh niên kia bị mù là do tội của anh ta hoặc tội của cha mẹ anh ta, nên họ mới hỏi Chúa Giêsu: “Anh bị mù do tội của anh hay tội của cha mẹ anh?” Nhưng Chúa Giêsu đã thay đổi suy nghĩ cổ hủ của các tông đồ, khi Ngài khẳng định với các ông: “Anh bị mù không phải vì tội của anh, cũng không bởi cha mẹ anh, nhưng là để mọi người được thấy công trình của Thiên Chúa được thể hiện nơi anh”. Cùng một sự kiện, nhưng Chúa muốn các tông đồ nhìn theo chiều hướng tích cực và trong cái nhìn tình yêu của Thiên Chúa, chứ không phải cái nhìn mang tính kết án.
Đối với người mù, Chúa Giêsu đã chạm đến mắt anh, tức là động chạm đến cả con người của anh, không chỉ chạm bằng tay, mà còn là sự đụng chạm gặp gỡ của trái tim, của tình yêu của một vị Thiên Chúa làm Người, dành cho một con người bất hạnh, bị xã hội loại bỏ, bị gán cho muôn vàn thứ tội. Ngài không chỉ mở mắt thể xác cho anh, mà Ngài còn mở mắt linh hồn để anh nhìn thấy Đức Giêsu là một vị ngôn Sứ, trong khi những người Biệt Phái bị bao trùm bởi bóng tối của sự tự cao tự phụ, cho mình cái quyền kết án người khác, họ bị thành kiến che mờ mắt, khiến họ chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu là một người vi phạm ngày Sabat. Sau khi được sáng mắt, thì người trước đây bị mù được khai sáng đã trở thành người hết sức bênh vực cho Đức Giêsu, anh khẳng định: “Ngài là một vị Ngôn Sứ”.
Với đám đông người Do Thái cũng thế, họ bị trói buộc trong những tập tục của mình, khiến họ khó lòng đón nhận được ánh sáng mới từ Tin Mừng của Chúa Giêsu, họ đến để gây áp lực với cha mẹ của anh mù: “Đây có phải là con ông bà không? Có phải nó bị mù từ khi mới sinh không? Tại sao bây giờ nó lại thấy?” Vì sợ bị trục xuất ra khỏi cộng đồng, nên cha mẹ anh mù đã để cho bóng đêm của sự sợ hãi giam giữ khiến họ không dám tuyên xưng Đức Giêsu là một Ngôn Sứ, mà họ đã nói tránh rằng: “Con tôi nó lớn rồi, các ông cứ hỏi nó.”
Còn đối với người mù đã được chữa lành, anh đã hoàn toàn thoát ra khỏi bóng đêm của sự sợ hãi cho dù người Do Thái đã nhiều lần chất vấn anh, lần này họ muốn anh nhân danh Thiên Chúa để vu cáo cho Đức Giêsu là người tội lỗi. Nhưng câu chuyện cho thấy anh đã bước một bước dài trong đời sống đức tin, anh không chỉ tin Đức Giêsu là một Ngôn sứ, mà giờ đây anh còn can đảm làm chứng và bênh vực Ngài, anh lặp lại việc Chúa Giêsu đã chữa anh và anh tuyên bố: “Trước đây tôi bị mù nhưng nay ông ấy đã chữa cho tôi được sáng.” Anh còn trở thành người giải thích về quyền năng của Thiên Chúa cho những người chung quanh:” Ai kính sợ Thiên Chúa, luôn làm theo ý Người thì Người nhậm lời kẻ ấy… nếu không phải bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ấy sẻ chẳng làm được gì.”
Trước một đức tin non nớt lại gặp thử thách bởi những thành kiến, quan niệm và tập tục của những người chung quanh, nên khi gặp lại anh, Chúa Giêsu đã dẫn anh lên một bước cao hơn, củng cố đức tin cho anh, khi Ngài mời gọi anh tuyên xưng đức tin: “Anh có tin vào Con Người không?” Anh thưa: “Đấng ấy là ai để tôi tin?” Chúa Giêsu xác nhận với anh: “Chính Đấng ấy đang nói với anh đây”. Và anh đã tuyên xưng: “Thưa Ngài tôi tin và sấp mình xuống trước mặt Ngài”. Đó là thái độ thể hiện sự vâng phục của đức tin nơi anh mù, anh sấp mình để thờ lạy Ngài.
Như thế, ánh sáng của đức tin khác với ánh sáng của khoa học, của triết học và khác hẳn với ánh sáng của tự nhiên, để nhìn thấy được ánh sáng này đòi phải có một con mắt của linh hồn thật trong sáng, vì cái nhìn của con mắt loài người bên ngoài có thể lầm lẫn, có thể đánh lừa và dẫn đến sai lạc, còn ánh sáng của Tin Mừng của Đức Giêsu thì chiếu dọi vào trong tâm hồn, những ai mở cửa tâm hồn, thì đón nhận được ánh sáng này, và những ai khiêm nhường thì sẽ được ánh sáng này dẫn lối và đưa đến hạnh phúc. Sách Samuel cũng cho thấy sự khác biệt giữa cái nhìn của Thiên Chúa và cái nhìn của con người trong việc Samuel được sai đi xức dầu chọn Đavít làm vua Israel. Con người chỉ nhìn và đánh giá sự việc theo cái nhìn và tiêu chuẩn bên ngoài, còn Thiên Chúa lại nhìn thấu tâm hồn và Ngài đánh giá tuyển chọn một con người là tùy ở thái độ tâm hồn của người đó sẵn sáng đáp lại lời mời gọi của Chúa.
Thưa quý OBACE, thánh Phaolô đã quả quyết rằng: “Nhờ ơn của Bí tích Thánh tẩy chúng ta đã trở nên con cái của ánh sáng, con cái của Tin Mừng và vì thế, chúng ta phải ăn ở, phải sống cho xứng đáng là con cái của ánh sáng, tức là phải sống công chính, ngay thẳng lương thiện, và không bao giờ được tán đồng, làm ngơ hay cộng tác với sự dữ và bóng tối”.
Mặc dù đã là con cái sự sáng, nhưng chúng ta vẫn bị ma quỷ lôi kéo chúng ta vào bóng tối hoặc vì để mình sống trong tình trạng tội lỗi gian dối, nên chúng ta sợ ánh sáng, sợ những gì là minh bạch. Còn rất nhiều những bóng tối đang bao trùm trong các gia đình, đó là bóng tối của bất hạnh, cãi vã, đổ vỡ, của sự bạo hành, bóng tối của gian dối, của việc làm ăn lươn lẹo, bất công. Giống như những người Do Thái, nhiều người đã sống trong sự cố chấp, bảo thủ trong sự sai lầm của mình, không dám đón nhận ánh sáng sự thật của Đức Kitô và Tin Mừng và vì thế, họ dùng nhiều lý do để gạt bỏ Đức Giêsu ra khỏi tâm hồn, ra khỏi công việc và đời sống của gia đình. Chúa Giêsu là Đấng đem đến cho chúng ta ánh sáng cứu độ, chỉ cho chúng ta con đường giải thoát, mời gọi chúng ta đón nhận tình yêu và sự săn sóc của Chúa, song nhiều người đã nhất định từ chối Ngài, và muốn tự mình bước đi trong bóng tối của thế gian, của ma quỷ và của dục vọng.
Trong xã hội ngày nay còn nhiều những bóng tối và sự mù lòa khác, sự mù lòa của những kẻ nhân danh khoa học để từ chối không tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa, xã hội ngày nay bị che phủ bởi bóng tối của sự gian dối, của bất công, khiến cho nhiều người bị lầm lạc và lẫn lộn không thể phân biệt đúng hay sai; sự tiến bộ của khoa học công nghệ cũng kéo theo nó bóng tối của sự ích kỷ, dửng dưng khiến cho nhiều người quên mất sự hiện diện của người bên cạnh. Bên cạnh đó còn bao nhiêu những triết lý, học thuyết sai lạc đang dẫn con người đi vào ngõ cụt, đang hủy hoại tâm hồn của nhiều thế hệ, biến nhiều tâm hồn trở nên khô cằn sỏi đá không còn nhạy bén trước lời mời gọi của Tin Mừng nữa.
Những loại bóng tối mù lòa này đang ảnh hưởng và bao trùm trên nhiều người trẻ, khiến cho nhiều bạn trẻ lạc đường mất hướng, sống một cuộc sống không có mục đích, không lý tưởng, hoặc biến nhiều người trẻ khác lao vào những hình bóng, ảo ảnh của danh vọng, địa vị, tiền bạc, và đoạn cuối của con đường này là sự bế tắc và trống rỗng. Chỉ có Đức Giêsu và Tin Mừng của Ngài mới là ánh sáng thật soi rọi cho chúng ta, giới răn và lề luật của Ngài sẽ chữa chúng ta khỏi sự mù lòa của thể xác và tâm hồn, tình yêu của Ngài sẽ dẫn lối chúng ta bước đi trong ánh sáng của tự do, của sự thật, của công lý.
Xin Chúa giúp chúng ta noi gương Mẹ Maria mạnh dạn mở tung mọi cánh cửa của tâm hồn để cho ánh sáng của Tin Mừng chiếu dọi vào mọi góc khuất của cuộc đời, biến chúng ta nên con cái của ánh sáng, giúp chúng ta loại trừ bóng tối của chết chóc, giúp mỗi người sống và hành động như là con cái của ánh sáng. Amen.