Người cha kia có hai đứa con trai: đứa anh tử tế, đứa em ngang tàng.
Vợ ông chết đã lâu, nên ông rất thương hai đứa con, nhất là đứa con út.
Một tối kia, ông ngồi bóp trán suy nghĩ. Ông lo sợ cho tương lai đứa con út giờ đây đang đi chơi khuya chưa về. Bỗng ông nghe những tiếng chân đang bước về phía mình. Đó là tiếng chân của đứa con út. Nó ngang tàng đi thẳng tới ông và xẵng xái nói: “Con không thích ở nhà nữa. Con muốn đi ra khỏi chỗ nầy. Xin cha hãy chia gia tài cho con”.
Người cha buồn rầu nói: “Mẹ con đã chết, bỏ cha một mình. Giờ đây con lại nhẩn tâm để cha sống cô độc sao?”
Đứa con út cứ nằng nặc đòi hỏi: “Cha cứ cho con phần gia tài của con để con đi. Ngày mai, con đi”.
Người cha khóc. Ông biết đứa con của mình đã quá hư hỏng. Tối hôm đó, ông không ngủ được.
Sáng mai, người cha phân chia gia tài cho đứa con ngỗ nghịch. Đứa con lạnh lùng lãnh phần gia tài. Nó sung sướng nghĩ đến những thú vui nó được hưởng với bạn bè. Nó không thèm chào từ giã cha nó. Cha nó ứa nước mắt nhìn theo nó và nói: “Con ơi, khi nào con muốn, con hãy về với cha. Cha luôn sẵn sàng đợi chờ con”. Nhưng đứa con ngỗ nghịch đã biến khuất ở cuối đường.
2. Quyết trở về lại.
Đứa con út trẩy đi phương xa.
Với tiền bạc sẵn có, nó tự do ăn chơi, tiêu xài phung phí không tiếc tay. Những ngày đầu là những ngày đầy thơ mộng. Nhưng rồi túi tiền cạn sạch. Ở nơi chốn lạ quê người, nó bị bỏ rơi. Áo rách, không tiền vá; đói bụng, không bánh ăn.
Ác thay, nạn đói ác liệt lại nổi lên trong miền đó. Nó phải đi chăn heo ngoài đồng. Đói quá, nó định múc lấy đồ của heo để ăn, nhưng ông chủ đập nó, vì sợ hết của heo ăn. Nó quá buồn tủi! Và trong cơn sầu buồn da diết đó, một hình ảnh đáng yêu nổi lên trong đầu nó: người cha đáng yêu mà mình đã bỏ để ra đi. Nó nghĩ đến cha nó: “Ôi, nhà cha ta có biết bao nhiêu người làm thuê có đủ cơm bánh dư dật, thế mà ta phải chết đói ở đây sao? Không, ta không ở đây nữa. Ta sẽ trở về nhà cha ta”.
Sau khi suy nghĩ như vậy, đứa con hoang đàng cảm động quỳ xuống, chắp hai tay lại, ngước mắt nhìn lên trời, cầu nguyện: “Lạy cha, con đã phạm tội đến trời, con đã có lỗi với cha, con không đáng được gọi là con của cha nữa”. Và anh ta gục đầu xuống, khóc thảm thiết.
Đứng dậy, anh ta ra đi, bỏ nơi xa lạ, trở về nhà cha.
Trên đường về quê, anh ta phải đi ngang qua những khu rừng hẻo lánh. Trong cảnh âm u tịch mịch, dưới bóng những cây to lớn, thỉnh thoảng anh ta dừng lại, cố nhớ rõ trong trí những tội lỗi đã làm tan nát trái tim cha mình. Anh ta nhất định khi trở về gặp cha, sẽ thú tất cả tội lỗi với người cha thân ái. Và anh ta đau đớn lặp đi lặp lại: “Cha ôi! Cha tốt lành quá! Con thật xấu xa độc ác. Giờ đây, tâm hồn con quá đau đớn. Xin Cha tha tội cho con”.
3. Được cha đợi chờ và nồng nhiệt tiếp đón.
Chiều nào, khách bộ hành cũng thấy một ông lão đứng ngoài đường, trông về phía xa. Gặp ai đi xa về, ông cũng chận lại hỏi: “Ông đi xa về, bà đi xa về, có gặp thằng út của tôi ở đâu không? Nó ra đi biệt tăm đã lâu. Tôi nhớ nó quá! Ai gặp nó, cho tôi nhắn lời thăm chút”.
Khách đi xa về, lắc đầu...
Màn đêm buông xuống. Người cha lững thững quay gót trở về, lòng nhớ mãi đứa con yêu dấu giờ đây không biết ở phương nao.
Bỗng một chiều kia, khi che bàn tay lên đôi mắt để nhìn về phía xa, người cha run lên vì sung sướng: “Kìa, con tôi đang trở về. Ôi, con yêu dấu của cha ơi, cha chỉ mong được sống đến giây phút nầy”.
Rồi như được một sức mạnh phi thường thúc đẩy, ông chạy đến ôm chầm đứa con hồi lâu, quên tất cả những bội bạc của đứa con bất hiếu, và cũng quên rằng con mình đang mặc quần áo rách rưới, tóc tai bù xù, mặt mày hốc hác vì đói khát và đầy những bụi lấm.
Trước cử chỉ đó, người con hoang đàng khóc nức nở, khóc vì hổ thẹn, nhưng cũng khóc vì sung sướng. Nó muốn cúi xuống ôm hôn chân người cha để tỏ dấu ăn năn, nhưng không thể được vì cha nó ôm cứng nó trong lòng. Nó liền nhìn vào mặt người cha và ấp úng nói: “Lạy cha, con đã phạm tội đến Trời, con đã phạm lỗi với cha. Con không còn đáng được gọi là con của cha nữa. Xin cha hãy xem con như một tên đầy tớ trong nhà mà thôi. Con muốn đền tội con”.
4. Người cha vui mừng
Người cha bịt miệng con lại, không cho con nói. Ông giục con mau về nhà. Lúc về tới nhà, những tên đầy tớ trong nhà cười nhạo đứa con rách nát, nhưng người cha nghiêm nghị nói: “Hãy mau lấy bộ áo đẹp nhất ra đây để con ta mặc. Hãy đưa nhẫn cho con ta đeo. Hãy mang giày đến cho con ta xỏ. Hãy bắt con bê béo làm tiệc ăn mừng, vì con ta đã trở về. Con ta, ta tưởng đã chết, nay sống lại. Con ta, ta tưởng đã lạc mất, nay được tìm thấy”.
5. Thiên Chúa là Cha.
Ngài rất yêu thương chúng ta là con cái của Ngài.
Khi phạm tội, chúng ta là những đứa con hoang đàng, bỏ Chúa để chạy theo ma quỷ, xác thịt, thế gian. Nhưng than ôi, sau một thời gian tự do bay nhảy, phóng túng, chúng ta chán chường, buồn phiền và thất vọng.
Khi chúng ta lạm dụng sự tự do Chúa ban để sống tội lỗi, chúng ta ngây thơ nghĩ rằng mình được sung sướng hạnh phúc, nhưng chúng ta sẽ chóng thất vọng buồn phiền. Rồi cùng với thời gian, lương tâm chúng ta sẽ bị giày vò vì dằn vặt, ưu tư và tủi hận.
Không có Chúa là Cha yêu thương chúng ta, cuộc đời chúng ta sẽ trống rỗng, đen tối và buồn phiền. Không có Chúa, con người chúng ta không thể tạo nỗi cho mình một cuộc sống thăng bằng, phong phú và hạnh phúc được.
Khi trở về với Chúa, người tội lỗi quyết từ bỏ nếp sống hoang đàng xấu xa của mình. Họ quyết không để cho ma quỷ, xác thịt, thế gian lôi cuốn và gạt gẫm họ đến chỗ hư mất nữa. Họ quyết điều khiển linh hồn và thân xác của mình theo con đường các giới răn của Chúa dạy. Họ hy sinh hãm mình bên trong và bên ngoài. Họ sống đời cầu nguyện sốt sắng, vì họ biết ơn Chúa là hết sức cần thiết để giúp họ đứng vững và tiến bước trên con đường nhân đức thánh thiện. Họ luôn tìm cách treo cao gương tốt trước mặt mọi người để cuộc sống hiện tại của họ làm sáng danh Chúa và để đền tội cho cuộc sống quá khứ của họ đã làm ố danh Chúa. Lúc đó, họ mới chính là người tội lỗi thành thực ăn năn hối cải và trở về với Chúa.
Mỗi người chúng ta phải hiểu rằng Thiên Chúa không phải là một quan án nghiêm khắc, không phải là một vị vua độc tài và độc ác, nhưng Thiên Chúa là đấng chăn chiên lành (ngài luôn luôn đi tìm con chiên lạc, và khi gặp nó trong bụi gai, ngài tìm cách vác nó trên vai, sung sướng đem về nhà); Thiên Chúa như người đàn bà kia đánh rơi mất đồng tiền (người đàn bà thắp đèn đi tìm mọi góc xó trong nhà, và khi tìm được thì báo tin vui cho mọi người biết); và nhất là Thiên Chúa như một người Cha nhân hậu (sau bao ngày buồn rầu vì đứa con ngỗ nghịch ra đi biệt tăm, nay lòng tràn trề vui sướng khi thấy bóng dáng người con ngỗ nghịch từ xa trở về).
Thiên Chúa luôn mở rộng cánh tay bao dung để chờ đón con người tội lỗi ăn năn trở về với ngài.
Tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người tội lỗi chúng ta là thế đó: là mong đợi, là tiếp đón, là vui mừng, là tha thứ khi con người tội lỗi trở về gặp lại Ngài là Chúa tình thương của họ, là Cha yêu thương của họ. Amen.
Sau tiếng gọi cửa nhà ông Mạc Văn Mỹ, sinh sống cạnh Nhà Thờ Xóm Chiếu, một chàng trai cao lớn ra đón chúng tôi bằng nụ cười hiền hậu và một cách giao tiếp chào hỏi khá nhanh nhẹn. Ít ai có thể nghĩ rằng đây là chàng trai Mạc Đăng Mừng đã từng bị hội chứng Down từ khi mới chào đời. Tuy nhiên, qua những năm phấn đấu không ngừng cùng với sự đồng hành của người cha, hiện nay chàng trai này đã biết chơi đàn Organ, bơi lội, đai nâu võ Aikido và đặc biệt anh vừa nhận chứng chỉ nghề tại trường Đại Học Văn Lang với chuyên ngành đồ họa.
Tiếp chúng tôi trong căn nhà nhỏ luôn rộn rã tiếng cười, ông Mạc Văn Mỹ ( bố của Mừng, 66 tuổi ) vui mừng đem khoe cuốn album hình ảnh của con trai trong lớp học đàn, học võ và những tấm huy chương Mừng đạt được trong các kỳ thi thể dục thể thao. Bắt đầu câu chuyện về cuộc đời và nghị lực của cậu con trai mình, ông Mạc Văn Mỹ cho hay, ông và vợ mình là bà Đặng Thị An ( 66 tuổi ) cưới nhau vào năm 1970, sinh được Mừng năm 1988. Từ khi biết Mừng mắc chứng Down, ông Mỹ như mất đi tất cả, nhiều lần ông định đầu hàng nghịch cảnh, nhưng ông nghĩ lại vì thương cho số phận chẳng may của con trai mình. Ông Mỹ đã đưa Mừng đi nhiều nơi chữa trị nhưng không có kết quả. Không muốn con chấp nhận số phận, ông Mỹ đã tự tìm hiểu nhiều phương pháp tự dạy cho con học và tập cho con vượt qua căn bệnh để hòa nhập cùng cộng đồng.
Ông Mỹ bồi hồi nhớ lại: “Không muốn con bị người khác chê cười, nên tôi đã tìm phương pháp để dạy cho con biết học Anh văn, học nghề và học nhiều thứ khác để cháu được phát triển tư duy một cách bình thường". Những ngày đầu tiên cho con đi học ông Mỹ muốn con mình được học đàn, để kích thích các dây thần kinh lên não. Nhiều lần ông Mỹ tìm đến các nơi dạy đàn để đăng ký cho con học, nhưng đều bị từ chối. Không bỏ cuộc, nhiều tháng liền ông tìm đến phòng dạy đàn ở Nhà Thờ để học lỏm cách đánh đàn, rồi về bàn với vợ gom góp tiền mua đàn về dạy cho con tập đánh đàn. Ngoài việc dạy con đánh đàn, ông Mỹ còn dành thời gian mỗi buổi chiều để tập cho Mừng đi trên những viên đá xanh, giúp kích thích các dây thần kinh từ lòng bàn chân lên não, khiến việc tiếp thu của Mừng nhạy bén hơn.
“Khi đó tôi gõ cửa nơi bán đàn để xin cho con vào học, nhưng thầy bảo con tôi bị bệnh thế thì học được gì. Lúc đó buồn lắm nhưng tôi bảo với họ, là nếu con tôi biết đánh đàn, thì phải nhận dạy cho cháu, thế là họ cho đánh thử, khi con đánh được một đoạn nhạc, thì họ tỏ ra rất ngạc nhiên và sau đó nhận dạy cháu đến bây giờ”, ông Mừng tâm sự.
Đến năm Mừng theo học ở trường Võ Thị Sáu, ông Mỹ phải đưa đón con đi học, rồi ngồi lại trường để đợi đón con về. Những ngày nghỉ, ông dạy cho con trai học thêm Anh văn. Thấy việc học phổ thông quá khó đối với con, ông quyết định cho Mừng nghỉ học lớp 9 và tìm trường dạy nghề đồ họa cho Mừng theo học. Với những môn học có tính sáng tạo, Mừng tỏ ra rất thích thú. Những ngày con đến học môn đồ họa ở trường Đại Học Văn Lang, ông Mỹ xin thầy dạy cho phép được vào học cùng con, những ghi chú của thầy cô dặn dò ông tỉ mỉ ghi chép lại, để về nhà giảng lại cho con. Cứ như thế sau 5 tháng Mừng đã hoàn thành khóa học chứng chỉ nghề kỹ thuật đồ họa. Ngoài khóa học trên, ông Mỹ còn cho con mình tham gia rất nhiều khóa học khác như: kỹ năng sống, võ thuật, Anh văn… để Mừng có điều kiện phát triển tốt và tăng tính tư duy hơn. ( Hành trình 27 năm của người cha biến đứa con bị bệnh Down thành người bình thường, Tri Thức Trẻ ).
Người cha kể trên chứa chan tình phụ tử, mới kiên nhẫn suốt 27 năm dạy dỗ, huấn luyện đứa con bệnh hoạn nên người hữu dụng, thật đáng khâm phục. Nhưng còn có một Người Cha tuyệt vời hơn thế nữa, luôn thương yêu, thương nhớ, thương xót con cái ngay từ khi lọt lòng mẹ đến trọn cả cuộc đời. Đó chính là Người Cha Tuyệt Hảo ở dụ ngôn trong Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay.
Đức Giêsu chuẩn bị rất chu đáo trước khi bắt đầu thuật dụ ngôn này. Người cẩn thận giáo đầu bằng hai dụ ngôn con chiên đi lạc và đồng tiền bị đánh mất, tha thiết mời gọi lòng ăn năn, sám hối. Vào nội dung chính, Đức Giêsu phác hoạ chân dung Người Cha Tuyệt Hảo, tràn trề tình yêu dành cho hai người con, mặc dù cả hai người đều không cảm nghiệm thấu đáo tình phụ tử vĩ đại đó.
Thương yêu
Người con thứ nói với cha rằng: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng”. Và người cha đã chia của cải cho hai con. Không hề can ngăn, thắc mắc, khó dễ, lưỡng lự, người cha yêu thương con quá đỗi, sẵn sàng chiều theo ý con, mặc dầu người cha nhìn thấy tương lai đen tối, mịt mù của con. Người Cha thương yêu ban cho con đầy đủ tài sản, hình hài, tâm trí, lẫn linh hồn. Hơn thế nữa, Người còn ưu ái trao thêm sức mạnh, tài năng, nghị lực, ý chí, chẳng thiếu thốn chi cả. Chàng trai thứ hăm hở vào đời chinh phục lợi danh, chinh phục địa vị, chinh phục cả những bóng hồng. Thế nhưng, chẳng bao lâu, chính chàng lại bị thế gian khắc phục, bị chế ngự bởi tiền tài, chức tước, lợi lộc, đam mê, hưởng thụ. Chàng trở nên nô lệ cho thân xác, vật chất, thế gian.
Tuy Đức Giêsu đã khẳng nhận: “Ai phạm tội thì thành nô lệ cho tội. Mà kẻ nô lệ thì không được ở trong nhà luôn mãi, ( chỉ ) người con mới được ở luôn mãi” ( Ga 8, 34-35 ), nhưng tình phụ tử cao cả vẫn tìm cách cứu vãn con người khỏi thân phận nô lệ: “Vậy, nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự tự do” ( Ga 8, 36 ). Vì thương yêu, Thiên Chúa Cha ban chính Con mình, là Đức Giêsu nhập thể làm người, chịu khổ nạn, chịu chết để cứu chuộc, nhân loại mới thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi, trở lại làm con Chúa.
Thương nhớ
Mặc dù thương con vô ngần, Người Cha đành gạt nước mắt, thổn thức nhìn con ra đi, trái tim Cha rướm máu đào, cũng đành nín thinh, cam chịu. Khi con đi xa rồi, Người Cha thương nhớ con da diết, ngày ngày đều ra đầu ngõ lóng ngóng, mong tin con, chờ đón con về. Chàng trai thứ trở về thật, vì sa cơ thất thế, vì chẳng còn chốn nương thân, cũng chẳng có gì có thể làm dịu cơn đói khát dai dẳng bao tháng ngày. Chỉ còn con đường sống duy nhất là trở về với Người Cha thân thương.
Có lẽ chàng trai nghe được lời mời gọi thương nhớ của Cha: "Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi" ( Mt 11, 28 ). Chàng dứt khoát trở về nhà Cha.
Anh ta còn ở đằng xa, thì Người Cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để.Ôi giây phút trùng phùng hội ngộ, những giọt nước mắt nóng bỏng, vui sướng, lăn trên gò má nhăn nheo, dãi dầu mưa nắng mòn mỏi đợi chờ.
Thương xót
Nhìn thấy con thảm hại, rách rưới, gầy gò, ốm yếu, xanh xao, Người Cha chạnh lòng thương xót, không kịp để con nói hết lời tạ tội, đã chủ động chạy đến ôm hôn con, vội sai gia nhân mang áo mới, nhẫn ngọc, giầy da cho chàng. Giải thoát chàng khỏi kiếp vong thân, nô lệ, phục hồi lập tức phận làm con cho chàng. Rồi Người hân hoan mở tiệc, mời hàng xóm láng giềng đến chung vui, bởi “Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” Làm sao diễn tả nổi niềm vui tưng bừng trên Thiên Quốc, khi có người hoán cải hồi hương. “Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng, vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” ( Lc 15, 10 ).
Nhưng cuộc vui chưa được trọn vẹn, khi người anh cả cố chấp, đố kỵ, hẹp hòi, không thèm nhận lại người em hoang đàng trở về. Anh giận dỗi không chịu vào nhà dự tiệc. Như vậy, tuy ở nhà với Cha, nhưng người anh cả gần mặt cách lòng, tâm hồn đi hoang từ lâu. Làm sao hiểu nổi Lòng Thương Xót vô ngần của Người Cha.
Vậy người anh cả có vâng lời Cha, đón tiếp em mình, hay người em có thật lòng yêu thương và trở lại mãi với Người Cha và anh ? Dụ ngôn vẫn còn bỏ ngỏ cái kết hoàn toàn có hậu, thiếu vĩ thanh. Bởi vì Đức Giêsu muốn mời gọi từng Kitô hữu, sẵn sàng nhập vai vào hai người con, cùng diễn tả cuộc đoàn tụ, hiệp nhất, yêu thương, bình an và hạnh phúc trong nhà Người Cha Tuyệt Hảo.
Mới đây, Đức Giáo Hoàng Phanxicô giới thiệu về Người Cha với mười lăm trẻ em từ khắp thế giới, trong buổi gặp gỡ chiều thứ hai, 22-02-2016, tại thính phòng Phaolô VI:“Đừng sợ nếu con lỡ phạm tội. Tình yêu của Chúa Giêsu lớn hơn hết mọi sự, cứ đến với Chúa và để Chúa ôm con.” ( JB. Thái Hoà, Andrea Tornielli, Vatican Insider ).
“Hạnh phúc của một người không căn cứ ở của cải, chức vụ, nhưng ở tình yêu, mà người ấy tập yêu suốt đời.” ( Đường Hy Vọng, số 462 ).
Lạy Chúa Giêsu chí ái, xin dủ lòng thương xót chúng con, vốn như hai người anh em trong dụ ngôn, người bỏ nhà ra đi hoang, người ở nhà mà xa cách Cha. Xin Chúa đánh động tâm hồn chúng con biết quy hướng về sự thiện, tốt lành, thánh đức, để chúng con can đảm từ bỏ cám dỗ, thế gian, xác thịt, mà ăn năm sám hối trở về tình yêu của Người Cha Nhân lành, để chúng con biết khoan dung hầu được tha thứ, biết cho đi hầu được lãnh nhận, biết yêu thương để được hưởng Lòng Thương Xót.
Lạy Mẹ Maria, xưa Mẹ luôn gần gũi, đồng hành với Con Mẹ, xin Mẹ đừng để chúng con xa rời Chúa, đừng nghe theo đam mê, dục vọng, tiền bạc, danh vọng mà bỏ nhà Cha Nhân Lành. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con luôn biết sám hối trở về, biết yêu thương tha thứ cho nhau, để luôn được sống trong tình yêu Chúa. Amen.
Trong mỗi chúng ta đều có hai con người – hai bộ mặt. Một con người luôn hướng thiện với lương tâm tốt, nhân chi sơ tính bổn thiện, đó là tiếng nói động viên của Thiên Chúa: “Hãy hoàn thiện như Cha trên trời” ( Mt 5, 48 ). Một con người theo hướng ác với lương tâm lệch lạc, đó là tiếng nói xúi giục của ma quỷ: “Chẳng chết chóc gì đâu !” ( St 3, 4 ). Hai con người, nhưng chỉ một cuộc đời. Vì thế, với hai con người đó, chúng ta gọi là “hai nửa cuộc đời”.
Hai con người hoặc hai “nửa” đó luôn giằng co khiến chúng ta phải thực sự can đảm và dứt khoát mới có thể hành động đúng. Khó thật! Thánh Phaolô đã phải than thở: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm” ( Rm 7, 15 ).
Mỗi chúng ta có hai con người nên mỗi chúng ta cũng có hai bộ mặt và hai tính cách: hiền và dữ, tươi cười và nhăn nhó, đẹp và xấu, mềm và cứng, đen và trắng...
Trình thuật Lc 15, 11-32 là dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu” ( trước đây gọi là dụ ngôn “Đứa Con Hoang Đàng” ). Đây là dụ ngôn điển hình nhất trong ba dụ ngôn về Lòng Chúa Thương Xót, và là dụ ngôn rất thực tế – hai dụ ngôn kia là “Con Chiên Đi Lạc” ( Lc 15, 4-7; Mt 18, 12-14 ) và “Đồng Bạc Bị Mất” ( Lc 15, 8-10 ).
Trong dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu” có hai người con, một BƯỚNG BỈNH và một NGOAN NGOÃN. Đó là hình ảnh “hai con người” trong chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta thường chỉ “nhắm” vào tội của người con thứ mà “làm ngơ” tội của người con trưởng ( con cả ).
Một hôm, khi thấy các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Ngài giảng, những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” ( Lc 15, 2 ). Có thể chúng ta không nói ra, nhưng có lẽ chúng ta cũng đã từng “liếc mắt sắc như dao cau” hoặc dè bỉu, hoặc có các động thái tương tự câu nói đó của họ. Nghe họ rỉ tai nhau như vậy, Chúa Giêsu kể một hơi dài với ba dụ ngôn về Lòng Thương Xót. Một trong ba dụ ngôn ( Lc 15, 11-32 ) là câu chuyện “rất quen” như thế này…
Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con”. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.
Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói ! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy. Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha”.
Bấy giờ người con nói rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa”. Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Và họ bắt đầu ăn mừng.
Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ”. Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng !”
Nhưng người cha nói với anh ta: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
Vâng, chẳng cần đọc lại hoặc nghe lại vì chắc hẳn tất cả chúng ta đã “thuộc lòng” dụ ngôn này rồi, càng nhiều tuổi càng nghe nhiều. Người cha không dùng quyền mà ép nó. Thiên Chúa hoàn toàn cho chúng ta tự do, không hề bắt buộc, thế nên chúng ta không thể trốn tránh trách nhiệm hoặc tự biện hộ với bất cứ lý do gì – nghĩa là chúng ta không thể viện cớ “tại, vì, bởi, nếu, giá mà…”
BỘ MẶT THỨ NHẤT: NGƯỜI CON THỨ
Bản chất con người luôn muốn chứng tỏ “bản lĩnh” của mình, nghĩa là chúng ta muốn nổi dậy, thích tự do, không muốn bị gò bó. Người con thứ là “bản chất xấu” trong chúng ta. Lúc nào nó cũng tìm dịp để nổi dậy, sơ hở một chút là nó vùng lên ngay. Nó biết “đi hoang” là sai trái, nhưng nó có nhiều lý do để chống chế, tự biện hộ, và tự cho là mình hành động đúng. Trong khi đó, thằng quỷ kiêu ngạo lại cứ rỉ rả bên tai: “Chẳng chết chóc gì đâu mà sợ !” ( St 3, 4 ). Thế là chúng ta cứ “vô tư” mà phạm tội !
Cám dỗ nào cũng ngọt ngào, cám dỗ nào cũng đẹp, không ngọt ngào và không đẹp thì làm sao lôi cuốn ? Cũng như quảng cáo nào cũng bắt mắt, bùi tai, mua và dùng rồi mới biết là… bị lừa ! Những người đi lừa người khác luôn khéo nói, như thế mới có thể chiếm dụng tài sản của người khác, như thế nhiều người mới mắc lừa. Miệng ăn, núi lở. Tiền rừng cũng hết, bạc biển cũng cạn. Sau khi ăn chơi phung phí và trác táng, không còn một xu dính túi, người con thứ mới nhận thấy mình… sai, vì sống khổ sở quá, đến nỗi thèm cám heo cũng không ai cho mà ăn. Đắn đo, nghĩ tới nghĩ lui, hết cách, bị triệt buộc, chỉ còn “đường binh” cuối là trở về với cha mà thôi.
Sự trở về nghe chừng đơn giản, ngắn gọn, nhưng thực ra không hề dễ dàng, cam go lắm. Trước khi cất bước trở về, người con thứ phải chiến đấu với chính mình rất dữ dội, giằng xé nát lòng, suy nghĩ nát óc. Đi xa về mà te tua tơi tả thì ai mà coi được! Phải “mặt dày” lắm mới có thể trở về. Một sự giằng co nữa là ngại với cha, xấu hổ lắm, không biết cha có nhận mình về hay lại đuổi đi. Gay go thật !
Vì ở bước đường cùng, người con thứ phải quyết trở về để tìm đường sống, bất đắc dĩ phải làm vậy thôi. Nó không dám mong gì hơn, chỉ dám hy vọng mong manh là cha sẽ nhận nó như đầy tớ hoặc người làm công thôi. Nhưng thật bất ngờ, người cha không chỉ tha thứ tội lỗi cho nó mà còn phục hồi cương vị làm con yêu dấu và mở tiệc liên hoan y như nó là quan trạng vinh quy bái tổ vậy. Nước mắt vẫn chảy xuôi. Tình phụ tử kỳ diệu thật !
BỘ MẶT THỨ NHÌ: NGƯỜI CON TRƯỞNG
Người con trưởng là con cả hoặc anh hai. Chúng ta tưởng đứa con này khôn ngoan, lễ phép, nhưng không phải vậy, có thể có “khôn” nhưng chưa “ngoan”. Tại sao ? Nó đã nhẫn tâm phủ nhận tình huynh đệ, tình máu mủ ruột rà, lại còn kiêu ngạo khi tự nhận mình là đứa con hiếu thảo, đồng thời so đo và đố kỵ: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về thì cha lại giết bê béo ăn mừng !” Rõ ràng anh ta ở bên cha nhưng không hề thật lòng yêu thương cha, chỉ nhắm tới gia tài. Vì thế, khi thấy thằng em “trời đánh” trở về và được cha mở tiệc mừng, thằng anh ghen tức, sợ phần gia tài còn lại sẽ bị thằng em “ăn chia”.
Không chỉ ghen tương và đố kỵ, thằng anh còn mặc nhiên coi thường tình phụ tử, nó ở gần cha mà lòng lại xa cha. Nhìn người con trưởng, chúng ta thấy nó có vẻ bình thường và là đứa con ngoan ngoãn, nhưng thực ra nó nhiều tội lắm ! Loại “con người” này cũng vẫn thường xuất hiện ở trong mỗi chúng ta. Có thể chúng ta không nói ra bằng lời, nhưng qua các động thái, chúng ta vẫn ngầm cho mình là người đạo đức hơn người khác: Tưới cây trong khu Nhà Thờ, quét Nhà Thờ, tham gia hội đoàn Legio, huynh đoàn Đa Minh, hội Con Đức Mẹ, hội Phạt Tạ Thánh Tâm, hội Cầu Nguyện, cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót, ca đoàn, giúp lễ, đọc Sách Thánh, làm việc từ thiện… Tham gia như vậy cũng rất tốt, nhưng hãy coi chừng: Đừng chỉ chú trọng bề nổi mà thiếu chiều sâu. Hãy hoạt động để sáng danh Chúa thực sự chứ đừng “đánh bóng” chính mình !
Điều MUỐN và điều CẦN không giống nhau. Có rất nhiều điều chúng ta ước muốn lắm, nhưng trong số đó vẫn có những điều thực sự không cần thiết. Ví dụ, chúng ta mua quần này, áo nọ, giày nọ, dép kia, thay đổi điện thoại đời mới, máy chụp hình... Thế nhưng có những thứ đó hoàn toàn là lãng phí, chỉ là đua đòi, chứ thực sự chưa hoặc không cần thiết. Chúng ta thường bị ảo giác trước vẻ hào nhoáng của các vật, bị chúng làm lóa mắt, do đó mà chúng ta sẵn sàng “vung tay quá trán” và hoang phí. Đó là chúng ta bị những ham muốn lừa dối. Về lĩnh vực tâm linh cũng tương tự !
Cuộc đời như sân khấu vậy, người ta hóa trang đủ kiểu khiến người khác khó nhận biết. Các sản phẩm ngày nay cũng khó nhận ra cái nào thật hoặc giả, hàng hiệu hoặc hàng nhái. Trong cuộc sống tâm linh cũng vậy, chúng ta vẫn có nhiều loại “mặt nạ”. Phải thực sự can đảm mới đủ sức lột mặt nạ để có thể luôn luôn cứ là chính mình !
Trong chúng ta cũng có hai “con người” như hai người cầu nguyện tại Đền Thờ – người thu thuế và người Pharisêu ( x. Lc 18, 9-14 ). Ước gì chúng ta “mặc lấy” con người của người-thu-thuế-khiêm-nhường, nhưng “cởi bỏ” con người của người-Pharisêu-kiêu-ngạo.
Mùa Chay, chúng ta hãy cùng nhau “lột xác” theo lời khuyên của Thánh Phaolô: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” ( Ep 4, 22-14 ).
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin cho con biết Chúa và biết con, để con sống đúng theo Thánh Ý Ngài và nhân từ với tha nhân; xin giúp con can đảm chết cho tội lỗi để được sống lại vinh quang với Đức Kitô Giêsu. Amen.
Nghĩa là chết như những người Do Thái bị Phi-la-tô giết hay như những người Do Thái khác bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết. Còn nếu như những người Do Thái và chúng ta sám hối thì chuyện gì sẽ xẩy ra? Ba bài Thánh Kinh Chúa Nhật IV Mùa Chay cho chúng ta câu trả lời đầy đủ: (*) Nếu sám hối thì những người Do Thái và chúng ta sẽ được vào Đất Hứa, sẽ được cử hành Lễ Vượt Qua để cảm tạ Thiên Chúa về ơn được cứu thoát khỏi cảnh nô lệ. (*) Nếu sám hối thì những người Do Thái và chúng ta sẽ được làm hòa cùng Thiên Chúa là Đấng không muốn một ai phải chết và đã sai Con Một Người đến trần gian để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. (*) Nếu sám hối thì những người Do Thái và chúng ta sẽ được Thiên Chúa là CHA tha thứ và đón nhận lại trong nhà của Người, như người cha nhân hậu đón nhận đứa con hư trở về sau chuỗi ngày đi hoang, phung phá của cải thừa kế là ơn huệ của Chúa và làm mất cả phẩm giá cao quý của mình khi phạm tội. Không những Thiên Chúa đón nhận lại mà còn bù đắp một cách rộng rãi ngoài sức tưởng tượng cho kẻ quay về.
Chúng ta hãy dành thời gian tìm hiểu, suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện để biết cách phải sống thế nào với Thiên Chúa là Cha từ bi nhân hậu luôn rộng lòng thứ tha cho kẻ ăn năn sám hối.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: Gs 5, 9a.10-12: Sau khi vào Đất Hứa, dân Chúa mừng Lễ Vượt Qua.
9 Sau khi dân Ít-ra-en vào Đất Hứa, Đức Chúa phán với ông Giô-suê: "Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai Cập." 10 Con cái Ít-ra-en đóng trại ở Ghin-gan và cử hành lễ Vượt Qua ngày mười bốn trong tháng, vào buổi chiều, trong vùng thảo nguyên Giê-ri-khô. 11 Hôm sau lễ Vượt Qua, họ đã dùng thổ sản trong xứ, tức là bánh không men và hạt lúa rang, vào đúng ngày đó. 12 Hôm sau, không còn man-na nữa, khi họ dùng thổ sản trong xứ; thế là con cái Ít-ra-en không còn có man-na nữa. Năm ấy, họ đã dùng hoa màu của đất Ca-na-an.
(2) Bài đọc 2: 2 Cr 5,17-21: Thiên Chúa đã cho chúng ta được hòa giải với Người trong Đức Ki-tô.
17 Thưa anh em, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. 18 Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Ki-tô mà cho chúng ta được hòa giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hòa giải. 19 Thật vậy, trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hòa giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hòa giải. 20 Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Ki-tô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Ki-tô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa. 21 Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.
(3) Bài Tin Mừng: Lc 15,1-3.11-32: Em con đây đã chết mà nay sống lại.
1 Khi ấy tất cả các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. 2 Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." 3 Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này: 11 "Một người kia có hai con trai. 12 Người con thứ nói với cha rằng: "Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. 13 Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. 14 "Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, 15 nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. 16 Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho.17 Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: "Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!
18 Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, 19 chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy. 20 Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. 21 Bấy giờ người con nói rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. ..22 Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, 23 rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! 24 Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng. 25 "Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, 26 liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. 27 Người ấy trả lời: "Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ. 28 Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. 29 Cậu trả lời cha: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. 30 Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng! 31 "Nhưng người cha nói với anh ta: "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. 32 Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy."
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Gs 5, 9a.10-12) là một đoạn văn tuy ngắn nhưng rất quan trọng đối với lịch sử Ít-ra-en và lịch sử Cứu Độ. Cuộc giải thoát và xuất hành của Ít-ra-en chỉ trọn vẹn ý nghĩa khi họ đặt chân vào Đất Hứa. Quảng thời gian 40 năm đi loanh quanh trong sa mạc (không lớn lắm) là thời gian thanh tẩy và thử thách lòng tin. Lịch sử đã cho thấy không phải tất cả mọi người Ít-ra-en đã vượt qua Biển Đỏ đều đặt chân vào Đất Ca-na-an. Rất nhiều người đã chết trong cuộc lữ hành xuyên qua hoang địa, kể cả ông Mô-sê. Chỉ những người vững lòng tin vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa mới được cùng ông Giô-suê bước vào vùng Đất Hứa mà thôi. Ngay cả chính ông Mô-sê cũng không được vinh hạnh này.
Trong đoạn sách Giô-suê trên, chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng có kế hoạch đàng hoàng, có chương trình hẳn hoi, có dự phòng tất cả. Hành động nào, lời nói nào của Thiên Chúa hay Chúa muốn dân riêng thực hiện cũng mang một ý nghĩa. Mỗi hành động, mỗi lời nói ấy có thời điểm của nó. Ví dụ trong sa mạc dân sống nhờ man-na, trong Đất Hứa dân sống bằng bánh là sản phẩm làm từ lúa là sản phẩm của đất và dân sẽ cử hành lễ Vượt Qua mà tưởng nhớ công ơn giải thoát của Thiên Chúa.
(2) Bài đọc 2 (2 Cr 5,17-21) là những lời giãi bày chí lý của Thánh Phao-lô Tông đồ nhằm khuyên nhủ các tín hữu Cô-rin-tô hãy biết làm hòa với Thiên Chúa là Đấng luôn mở rộng tấm lòng và bàn tay để thứ tha tội lỗi. Bằng chứng hùng hồn là Con Một Thiên Chúa -là Chúa Giê-su Ki-tô- đã mang lấy tội lỗi nhân loại trên hai vai của Người, để loài người được hòa giải, được thứ tha.
Trong đoạn 2 Cr 5,17-21 trên, chúng ta thấy Thiên Chúa đã yêu thương, rộng lượng và sáng tạo như thế nào để loài người chúng ta không phải chết vì tội lỗi do chúng ta đã phạm; mà trái lại, chúng ta còn được thứ tha và hòa giải với chính Đấng mà chúng ta xúc phạm. Thiên Chúa thực hiện công trình kỳ diệu này nhờ Con Một Người là Chúa Giê-su Ki-tô Đấng đã hy sinh mạng sống mình trên Thập Giá, để chuộc lại cho Thiên Chúa những tội nhân là tất cả chúng ta.
(3) Bài Tin Mừng (Lc 15,1-3.11-32) là một trong ba dụ ngôn và là dụ ngôn nhiều ý nghĩa nhất về lòng thương xót, thứ tha của Thiên Chúa trong Tin Mừng Lu-ca. Câu truyện người con hoang đàng chỉ làm nổi bật tấm lòng của người cha nhân hậu.
Qua dụ ngôn người cha nhân hậu trong Phúc Âm Lc 15,1-3.11-32, Chúa Giê-su muốn cho chúng ta thấy tấm lòng của Thiên Chúa là như thế nào khi một người con dại dột sống theo ý mình là: (a) bỏ nhà cha đi hoang, (b) phung phí tài sản là ơn huệ của Thiên Chúa, (c) tìm thú vui trần tục, chóng qua trong đời sống tội lỗi. Những hành động ấy là tội tày trời phạm đến Thiên Chúa và làm mất tư cách và quyền làm con.
Nhưng đối với Thiên Chúa, mà biểu tượng là người cha trong dụ ngôn, thì chỉ có một điều đáng kể là việc người con sám hối trở về. Nên Thiên Chúa đã thể hiện tấm lòng của mình một cách tuyệt vời: (a) quên hết quá khứ mà chỉ nghĩ tới hiện tại và tương lai nên vui sướng đón nhận con, (b) bù đắp một cách ngoài sức tưởng tượng cho đứa con dại dột mà đi hoang, đứa con “đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm thấy”, (c) bênh vực đứa con hư trở về khi người anh có thái độ phản đối và so sánh.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: dù yếu đuối, tội lỗi đến mức nào đi nữa, chúng ta cũng có thể vững tâm trông cậy vào lòng Chúa là Cha yêu thương và tha thứ mà ăn năn sám hối và quay trở về với Thiên Chúa để được Người thứ tha, đón nhận và hồi phục chức danh làm nghĩa tử mà chúng ta đã dại dột đánh mất khi phạm tội xúc phạm đến Người.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi xét mình xem:
• Tôi ý thức như thế nào về tình trạng yếu đuối và tội lỗi của mình?
• Tôi có thật sự muốn từ bỏ tội lỗi và cải thiện tình trạng yếu đuối về mặt tâm linh của mình không?
• Tôi có đặt hết lòng cậy trông, tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa là Cha mà ăn năn sám hối và quay trở về với Thiên Chúa không?
• Tôi có thực sự trân trọng và khát khao tư cách làm con của Cha trên trời không? Tôi đã làm những gì để thể hiện lòng trân trọng và khát khao ấy?
IV. CẦU NGUYỆN
(Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)
1. Lạy Thiên Chúa là Cha cực thánh, người con đi hoang đã sám hối trở về mà thưa cùng Cha: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa.” Chúng con cũng xin thưa với Cha như thế vì chúng con đã thấm thía cách về thân phận yếu hèn và tội lỗi của mình. Chúng con chỉ còn biết trông cậy vào lòng thương bao la của Cha mà nài xin Cha tha thứ tội lỗi cho chúng con mà thôi. Lạy Cha, chúng con cầu xin Cha. Xin Cha nhận lời chúng con.
2. Lạy Thiên Chúa là Cha từ bi nhân hậu và giầu lòng xót thương, Cha đã ôm chầm lấy đứa con đi hoang trở về mà nói với gia nhân: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” Chúng con cảm tạ Cha về ơn thứ tha và muôn vàn ơn khác mà Cha đã ban cho chúng con mỗi lần chúng con ăn ăn thống hối về tội lỗi của mình và quay trở về với Cha. Chúng con vô cùng sung sướng được Cha đón nhận lại trong nhà Cha. Lạy Cha, chúng con cầu xin Cha. Xin Cha nhận lời chúng con.
3. Lạy Chúa Giê-su là Đấng Cứu Chuộc muôn dân, muôn người, Chúa đã đến trần gian để giải thoát tội nhân ra khỏi vòng tội lỗi và đưa họ về Nhà Cha, như lời Phúc Âm đã chép: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." Chúng con chạy đến với Chúa như những người thu thuế và người tội lỗi trong Phúc Âm, để được có Chúa là bạn. Xin Chúa đón nhận và rửa sạch tâm hồn và thay đổi cuộc sống chúng con để chúng con được “đồng bàn” với Chúa. Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
Cha Boscô thường xuyên vào thăm trại tù thiếu nhi phạm pháp. Một hôm ngài xin ban giám thị cho ngài dẫn các tù nhân đó đi cắm trại ở khu rừng mát mẻ ngoài thành phố Tôrinô. Mọi người ngạc nhiên chưa thấy ai dám cho tù nhân tự do ra ngoài. Ban Giám thị sợ tù nhân trốn hết, họ phải tù thay. Cha Boscô cam đoan nếu có trẻ nào trốn, ngài sẽ tù thế, buộc lòng họ phải chấp thuận và cho một đội lính đi canh. Nhưng ngài khăng khăng không cần lính, chỉ mình ngài lo thôi. Thế là nhà tù mở cửa, các em ào ào ra và xếp thành hàng đôi đi ra rừng cắm trại. Chúng thi đua nhau các trò chơi, ca hát, chạy nhảy, làm trò đủ kiểu em nào cũng hăng say hoạt động vui chơi thỏa thích vô cùng. Em nào cũng răm rắp theo lệnh Cha. Chiều về, ngài dẫn một đoàn thiếu nhi ngoan ngoãn vui vẻ trở vào tù. Ban quản tù điểm danh không thiếu một tên. Họ sửng sốt như thấy phép lạ. Thánh Boscô đã chinh phục được những con ngựa bất kham nhỏ bé nhờ tình yêu tha thiết đối với các thiếu nhi phạm pháp đó.
Tình yêu của thánh nhân làm cho những tâm hồn đã chết được sống lại. Còn hơn nữa, tình yêu của Đức Giêsu làm cho những người thu thuế và tội lỗi đã chết được sống lại, như Tin Mừng kể: “Các người thu thuế và tội lỗi thường đến gần Đức Giêsu mà nghe Người giảng, thấy vậy, những người thuộc phái Pharisiêu và các kinh sư xì xầm với nhau: Ông này niềm nở đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng. Đức Giêsu mới nói với họ 3 dụ ngôn: Chiên lạc, đồng tiền lạc mất và tình phụ tử”.Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy tình phụ tử của Thiên Chúa thương yêu tội nhân thế nào qua câu chuyện một người cha có hai đứa con.
Đứa con thứ bắt cha phải chia gia tài cho nó, được của rồi nó không thèm nói một lời cám ơn, không thèm báo cáo cho cha biết nó làm gì, nó đi đâu, nó ra đi không một lời từ biệt, không hề ngoảnh mặt lại nhìn cha. Nó tự coi mình là tuyệt đối, không còn biết có cha, không còn ai hơn nó. Đứa con thứ là điển hình của những kẻ hoàn toàn bất hiếu với Thiên Chúa, chối bỏ Thiên Chúa, tự cho mình là chủ tất cả của cải trong trời đất, dầu họ không làm ra được một hạt thóc mà còn phá hoại những kho tàng vô tận của trời cho. Thời đại ngày nay, con người đã quá phá sản vào chi phí chế tạo vũ khí giết người hàng loạt, chi phí những thứ ăn chơi ma túy, rượu chè, si mê đàng điếm gây ra những bệnh tật. Họ còn phá hủy những rừng cây dưới đất, đến tầng khí quyển trên trời, làm đảo lộn sinh thái, ô nhiễm môi trường, gây ra những bão lụt, nóng bức, giá lạnh kinh khủng. Nhận ra những thảm họa khốn cùng đó, con người đang ăn năn sám hối, sửa chữa lỗi lầm như đứa con đi hoang trở về thú tội: “Lạy Chúa, con thật đắc tội với trời và với Cha…”.
Thiên Chúa như người cha giàu lòng thương xót, chỉ biết thi ân giáng phúc muôn vàn cho con người một cách quảng đại và bao dung tha thứ và rất tôn trọng con người hơn những người cha tôn trọng tự do con cái. Ngài không thẳng tay trừng phạt, chỉ biết nhẫn nại chờ đợi đứa con trở về. Vừa khi thấy nó trở về, Ngài chạy lại ôm chầm, hôn nó hồi lâu, không cần nghe nó xin lỗi, dầu nó trở về chỉ vì thấy khổ, không sống được nữa, nó chỉ mong về được ăn cho no, cho thoát khổ, thoát chết. Còn cha nó chỉ thấy nó rách rưới, tiều tụy, đói khổ, nên đã sai đầy tớ mau mau lấy áo mới đẹp nhất, xỏ nhẫn quý nhất cho nó để nó xứng đáng là cậu ấm, cục cưng của cha và mở tiệc giết bê mập ăn mừng: “Vì con ta đã chết, nay đã sống, đã mất, nay tìm thấy”.
Thực ra, thật khó kiếm được người cha trần gian nào như thế! Chỉ có Cha trên trời mới thương yêu con người đến thế thôi, vì Ngài: “Đã dựng nên mặt trời soi sáng cho kẻ công chính cũng như bất lương, làm mưa xuống cho kẻ lành cũng như người dữ… Ngài còn yêu thương vô cùng hơn nữa. Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống”.
Dù con người bất trung đến đâu, Thiên Chúa vẫn yêu thương, như tiên tri Ôsê ví Thiên Chúa như một người chồng vẫn yêu thương người vợ bất trung bất nghĩa (Ôsê 3, 1; 11, 1-9). Thiên Chúa cũng thương yêu loài người như Giavê đã thương yêu dân Israel: Bất cứ giá nào Ngài cũng giải thoát dân khỏi cảnh nô lệ khốn cùng của Ai Cập. Bất cứ giá nào, bội bạc, phản loạn đến đâu, Ngài vẫn cho manna từ trời rơi xuống và mạch nước từ tảng đá chảy ra nuôi sống họ suốt 40 năm vượt qua sa mạc để về đất hứa, hân hoan vui sướng mừng đại lễ Vượt qua trong đất chảy sữa và mật (Bài I).
Trong niềm vui dự đại tiệc lễ mừng đó, Thánh Phaolô trong Bài đọc II còn nhắc nhở chúng ta đến một niềm vui vô cùng lớn lao hơn nữa là được trở nên tạo vật mới, được kết hợp với Đức Kitô sống công chính trước mặt Thiên Chúa. Tình phụ tử của Thiên Chúa thương yêu con người đến tột độ, nhưng con người lại ghen tương, oán ghét nhau như đứa con cả đối với em, như Pharisiêu và kinh sư đối với thu thuế và tội lỗi, không muốn tha thứ, không muốn chúng trở về cùng Cha, chỉ muốn chúng bị nguyền rủa, mất đi, chết đi để độc quyền hưởng lợi lộc chiếm đoạt gia tài. Họ như lính cai tù chỉ biết bắt nhốt trừng phạt những kẻ bé mọn phạm pháp.
Lạy Chúa, con cũng là đứa con đi hoang tù tội, xin Chúa thường xuyên đến viếng thăm, nâng đỡ ủi an và giải thoát khỏi tù đày tội lỗi để con được sống lại, được đứng dậy trở về dự đại tiệc thánh và luôn luôn ở bên Chúa. Lạy Chúa, tâm trạng con còn giống như đứa con cả, như lính cai tù, xin Chúa can ngăn, dạy dỗ con biết tha thiết thương yêu anh em mình như Chúa thương yêu con. Amen.
("Mừng vui lên … - Lætare) là chủ đề của Chúa nhật IV Mùa Chay. Từ phụng vụ lễ ca cho đến màu sắc phụng vụ, tím chuyển sang hồng, màu của bình minh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối, nay Giáo hội tạm dừng để chuẩn bị tốt hơn niềm Phục Sinh. Nghỉ để cảm tạ Chúa vì những gì ta đã làm, xin Chúa ban thêm nghị lực để bước tiếp những chặng cuối.
Lời ca nhập lễ: ("Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành!... Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa. ") (Tv 121,1). Niềm vui dâng trào thể hiện qua các dụ ngôn: "Con chiên lạc": Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng … kêu bạn hữu …mà nói rằng: "Anh em hãy chia vui với tôi …: "Trên trời sẽ vui mừng …" (x. Lc 15, 4-7). Hay dụ ngôn " Đồng bạc đánh mất": "Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em …đến mà rằng: "Chị em hãy vui mừng với tôi … ". Cũng vậy…: Các Thiên Thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng …"(x. Lc 15, 8-10). Nhưng cụ thể hơn cả vẫn là dụ ngôn "Tình phụ tử ": Người cha bảo: … phải ăn tiệc mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy" (x. Lc 15, 11-32). Nếu như hai dụ ngôn trước nói về sự vui mừng hay chung vui, thì dụ ngôn "Tình phụ tử là phải ăn tiệc và vui mừng". Thiên Chúa là Cha mở khao tiệc ăn mừng con người tội lỗi chúng ta trở về với Chúa. Chúng ta không thể vui mừng sao được, khi có Thiên Chúa là Cha, Đấng Giầu Lòng Thương Xót, rất mực yêu thương chúng ta, đến hy sinh chính Con Một vì chúng ta khi chúng ta còn là tội nhân. Chúng ta đặt mình vào cương vị của người con thứ và tự sự, để khám phá ra tình yêu của Thiên Chúa yêu mỗi người chúng ta biết chừng nào, vui mừng mà đáp trả.
"Từ bỏ cha tôi là người hết mực thương tôi, tôi thật đã làm điều sai trái; tôi đã phung phí hết tiền của vào cuộc đời trác táng, thân tôi tan nát và dơ bẩn, làm thế nào cha tôi có thể nhận ra tôi là con trai mình? Tôi sẽ sấp mình xuống dưới chân cha tôi, lấy nước mắt lau chân cha tôi và khẩn xin cha tôi coi tôi như người làm công của cha"... Người cha, từ ngày con bỏ nhà ra đi, ông thương con, ngày ngày ra ngóng con trở về, nên khi ông thấy nó từ đàng xa, ông quên cả tuổi già và quên luôn cuộc sống phóng đãng của con trai ông, ông chạy tới ôm choàng lấy cổ nó và hôn lấy lấy hôn để. Thằng con trai ông hết sức kinh ngạc về tình yêu mà cha nó dành cho nó, nó kêu lên…: "Con không còn xứng đáng được gọi là con cha nữa, xin cha coi con như người làm công của cha"(Lc 15,). Không, không, con trai của cha, người cha nó kêu lên…, tiếng kêu xóa sạch lỗi lầm của con, và tình cha tuôn trào xuống người con bằng hành động: "phải ăn tiệc và vui mừng "(Lc 15, 32). "Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy" (Lc 15, 22-24).
Khi quan sát hình ảnh người cha ôm người con, nghe người cha nói với người con và liên tưởng tới Vì Thiên Chúa là Cha xử với chúng ta là tội nhân như thế. Thánh Gioan Maria Vianney cha sở họ Ars đã thốt lên rằng: Đây hình ảnh tuyệt đẹp về sự vĩ đại của lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân khốn khổ nhất!... Ôi Thiên Chúa của con, rằng tội lỗi là một cái gì đó thật khủng khiếp! Làm thế nào chúng con có thể phạm tội được? Nhưng tất cả chúng con là những kẻ khốn nạn, ngay khi chúng con còn là tội nhân, thì Thiên Chúa đã yêu thương chúng con trước. Lòng thương xót của Thiên Chúa cộng với lòng trắc ẩn. Tình yêu của Đấng Cứu Thế thật bất ngờ bởi ân sủng của Ngài trước các tội nhân, Ngài ôm hôn tội nhân, trao ban cho họ sự an ủi tuyệt vời…Ôi khoảnh khắc tuyệt với! Chúng ta mà hiểu được thì chúng ta sẽ rất hạnh phúc! Nhưng than ôi, chúng ta không phù hợp với ơn thánh, nên những khoảnh khắc hạnh phúc tuyệt vời ấy biến mất…Chao ôi, đâu là điều mà tội nhân tin tưởng, cho dù tội lỗi đến đâu đi chăng nữa, thì hãy biết và tin rằng lòng thương xót của Thiên Chúa là vô cùng vô hạn! (Trích bài giảng thứ Chúa nhật III Mùa Chay của thánh Gioan Maria Vianney).
Người cha mất con, ngày ngày ngóng chờ con trở về là hình ảnh của Thiên Chúa là Cha luôn cháy lửa tình yêu đối với nhân loại, cha ôm con vào lòng, không đơn giản chỉ là tội nhân, nhưng là kẻ có tội biết ăn năn, đó là một con người biết đọc lại các biến cố đời mình, hiểu được những gì đã xảy đến với mình để sửa chữa, tái lập trật tự trong đời sống và quyết tâm: "Tôi sẽ trỗi dậy và trở về với cha tôi" (Lc 15,18), nhưng thực tế, ai trỗi dậy và ai trở về với cha mình. Vì thế, cuộc gặp gỡ giữa người cha và người con, khơi dậy sự trở về trong ân sủng của người con, đơn giản không chỉ là ơn tha tội nhưng không do Thiên Chúa ban. Đây là cuộc gặp gỡ của niềm tin mà người con tội lỗi đã đặt để vào lòng thương xót của người cha ấy, cuộc gặp gỡ này mang dấu ấn của vòng tay cha và con tìm thấy được tình yêu trìu mến.
Chúa Giêsu đồng bàn với quân tội lỗi, nhưng Người không đến để hợp thức hóa tội lỗi, làm cho những kẻ lầm lỗi cứng lòng, hay ngày càng tội tề hơn. Người đến để loan báo rằng họ có thể sống khác để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa không mệt mỏi khi tha thứ, không nản vì sự thờ ơ, hay khác biệt của những con người.
Vậy, hãy trở về với Chúa bằng lòng thống hối ăn năn, cậy nhờ vào lòng thương xót của Chúa, Đấng Giầu Lòng Thương Xót, dẫn dắt con người tới bàn tiệc như người cha đã chuẩn bị cho con mình. Đúng như thế, tội nhân được tha thứ là con người của niềm vui và tác động của ân sủng.
Lễ Phục Sinh không mời gọi chúng ta bước vào con đường sầu khổ. Trái lại, cứu chuộc chúng ta khỏi đắng cay buồn phiền, nghèo đói và chết chóc, lễ Phục Sinh mang lại cho chúng ta niềm vui ngày Đại lễ. Hòa giải được với Thiên Chúa và hòa giải với nhau, chúng ta sẽ cảm nhận được niềm vui thiêng thánh.
Giờ đây chúng ta hãy ngước nhìn về Chúa và ngẫm nghĩ về tấm lòng của Thiên Chúa và lao mình vào vòng tay của Chúa, để cho tình thương lân tuất của Cha làm ta hồi sinh.
Lạy Mẹ Maria, người mẹ khoan nhân, Mẹ của Lòng Thương Xót, xin giúp đỡ chúng con. Amen.
Có một bà mẹ ngoại giáo đến gặp tôi và trình bày về hoàn cảnh của gia đình bà rằng: Vợ chồng tôi sinh được một thằng con trai. Lúc nhỏ, nó rất ngoan ngoãn, dễ thương. Chúng tôi nuôi dạy và cố gắng cho nó học hành tử tế.
Tốt nghiệp đại học xong, nó lấy vợ. Nhưng hai đứa ở với nhau chẳng được bao lâu thì chia tay. Từ đó, nó theo bạn bè xấu, sa vào các tệ nạn xã hội: Nghiện ma tuý, cờ bạc, rượu chè, trai gái. Dịp tết vừa qua, nó đi uống rượu về, đập nát các đồ dùng trong gia đình chúng tôi. Vợ chồng chúng tôi khuyên bảo, nhưng nó chẳng nghe. Thậm chí, nó còn chửi lại, đòi đánh cả vợ chồng chúng tôi. Chúng tôi rất thương nó, mong muốn nó hiểu được tình thương của cha mẹ để biết trở về làm người lương thiện. Nhiều người khuyên bàn chúng tôi nên báo với công an để đưa nó đi cai nghiện, nhưng chúng tôi không dám làm vậy, vì thương nó. Không còn cách nào khác, tôi đến đây xin Cha thương giúp cầu xin ơn trên phù hộ cho nó.
Câu chuyện trên đây phản ánh phần nào câu chuyện chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng hôm nay. Mặc dù Thánh Luca không kể lại khoảng thời gian từ lúc sinh ra cho tới khi đứa con hoang đàng xin chia gia tài, nhưng kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta biết: Đây là thời gian cực khổ nhất của cha mẹ. Cha mẹ nào cũng mong muốn cho thời gian này qua đi mong chóng để khi con cái trưởng thành mà nhờ vả. Đặc biệt khi cha mẹ về già, được nó phụng dưỡng. Nhưng không ai biết trước chữ ngờ. Thay vì phụng dưỡng cha, nó lại xin chia gia tài. Nó nhẫn tâm để mặc cha già lủi thủi một mình ở nhà. Theo thói quen của người Do thái, muốn được chia gia tài phải chờ đến lúc cha mẹ qua đời. Nếu xin chia gia tài khi cha mẹ còn sống thì chẳng khác gì muốn cha mẹ chết đi. Dầu vậy, người cha vẫn sẵn sàng chấp nhận chia gia tài cho nó. Nhận được gia tài từ người cha, nó trẩy đi phương xa ăn chơi trác táng với bọn điếm. Hết tiền, hết bạc, nó phải chăn heo và mong muốn ăn cả những thứ heo ăn mà không được. Khi thiếu thốn đủ điều, nó mới nghĩ đến người cha. Nghĩ đến cha không phải vì thương cha nhưng vì miếng ăn: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!” (Lc 15,17). Vì miếng ăn nên nó mới quyết tâm trở về.
Nếu chúng ta là người cha trong câu chuyện trên đây, chúng ta có dễ dàng đón nhận người con bất hiếu như thế hay không, hay chúng ta cũng cư xử giống như người anh cả: Không thể chấp nhận một đứa con sau khi phung phí hết tài sản với bọn điếm, nay trở về với hai bàn tay trắng. Nếu có chấp nhận thì cũng phải dạy cho nó một bài học để đời.
Nhưng suy nghĩ của chúng ta khác hẳn với những gì xảy ra trong câu chuyện. Từ khi đứa con ra đi, người cha luôn trông ngóng đợi chờ và mong muốn con trai của mình trở về. Vì vậy, khi trông thấy nó từ xa, Thánh Luca diễn tả nỗi vui mừng của người cha bằng các cụm từ: Động lòng thương, chạy, ôm choàng lấy cổ, hôn nó hồi lâu. Khi đã đưa nó vào nhà, ông sai các đầy tớ: Mặc áo đẹp, đeo nhẫn, xỏ dầy… Cuối cùng, ông sai người nhà mổ bê béo để ăn mừng. Như vậy, chúng ta thấy người cha đã tìm mọi cách để phục hồi nhân phẩm và địa vị cho đứa con đã một thời đi hoang.
Thế nhưng, hành động của người cha nhân từ bao nhiêu thì người con cả lại tỏ thái độ khó chịu, ghen tỵ bấy nhiêu. Anh ta không chấp nhận thái độ của cha mình đối xử khoan dung đối với đứa con thứ như vậy. Vì thế, “anh nổi giận và quyết định không vào nhà”(x. Lc 15,28). Anh nói: "Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm, nay trở về thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó"(Lc 15,29-30).
Người cha trong câu chuyện trên đây là hình ảnh của Thiên Chúa nhân hậu, Ngài luôn luôn yêu thương con cái, không quản ngại gì, không so đo tính toán, không cậu nệ, không sợ người ta trách móc.
Người con thứ là hình ảnh của những người thu thuế, tội lỗi đến nghe lời Chúa Giêsu rao giảng và quyết tâm ăn năn thống hối trở về làm người lương thiện.
Người con cả là hình ảnh của những người biệt phái, luật sĩ luôn tự cho mình là đạo đức, thánh thiện, không chịu hiểu về tình thương của Chúa Giêsu, thậm chí khi thấy Ngài quan tâm đến người tội lỗi và thấy họ ăn uống với Chúa thì ghen tức, lên án cả chính Chúa nữa.
Xét mình lại, có khi chúng ta thấy dáng dấp của chúng ta trong hình ảnh của người con thứ. Chúng ta được sống trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa qua Cha mẹ, Giáo xứ, Giáo Hội, nhưng chúng ta vẫn cố tình “đi hoang” khi chúng ta bỏ cầu nguyện, đọc kinh, xem lễ…Đặc biệt, nhiều khi chúng ta cả lòng phạm tội trọng mất lòng Chúa. Cũng có khi chúng ta thấy dáng dấp của chúng ta nơi người con cả. Đó là khi chúng ta có thái độ kiêu ngạo, ích kỷ không muốn cho người anh em của chúng ta trở về để hưởng tình thương của Thiên Chúa.
Mùa chay là mùa hoán cải, mùa trở về. Chúng ta hãy mạnh dạn đứng dậy và quyết tâm trở về với Chúa. Một người cha phải quyết tâm từ bỏ một cuộc sống bê tha trong rượu chè, bài bạc, trác táng để trở về với mái ấm gia đình. Một người mẹ phải từ bỏ những thói hư tật xấu để chu toàn nhiệm vụ làm mẹ, làm vợ. Những cặp vợ chồng cơm không lành, canh không ngọt, đang sống bên bờ của đổ vỡ, biết suy nghĩ lại, để sống trọn vẹn ý nghĩa vợ chồng. Những người con hoang đàng biết thống hối trở về cùng cha. Những gia đình luôn lục đục vì những giận hờn nhỏ nhen biết dẹp bỏ tự ái, vượt qua những sóng gió để đưa gia đình đến hạnh phúc. Đó chính là những hình thức thống hối ăn năn, giao hòa để trở về với Thiên Chúa. Khi thực sự có lòng thống hối ăn năn quyết tâm trở về thì dầu “Tội có đỏ như son cũng sẽ nên trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều cũng nên trắng như bông” (x. Is 1, 18).
Một nhà truyền giáo trong vùng Thái Bình Dương có kể lại sự kiện như sau: Ngày nọ có một người đàn bà bước vào lều của ngài với đôi bàn tay nắm chặt cát ướt. Bà hỏi ngài: Cha có biết cái gì trong tay con không?
Vị linh mục đáp: Hình như chị đang cầm cát trong tay thì phải?
Người đàn bà lại hỏi tiếp: Cha có biết tại sao con mang cát ấy đến đây không?
Nhà truyền giáo lắc đầu. Người đàn bà liền giải thích: Thưa cha, đây là tội lỗi của con, tội của con nhiều như cát biển, làm sao con có thể được tha thứ?
Lúc bấy giờ vị linh mục mới an ủi: Có phải chị lấy cát từ bờ biển không, vậy chị hãy quay trở lại bờ biển và giống như các em bé vẫn thường làm, chị hãy xây lên một núi cát, rồi chị ngồi đó và ngắm những đợt sóng biển, sóng biển sẽ vỗ vào bờ và cuốn đi ngọn núi cát của chị. Ơn tha thứ của Chúa cũng giống như thế, lòng nhân từ của Ngài bao la như đại dương, chị hãy thành tâm thống hối và Chúa sẽ tha thứ cho chị.
Lạy Chúa, xin cho mỗi chúng con đừng bỏ đi hoang như người con thứ, đừng kiêu ngạo, ích kỷ như người con cả. Xin cho chúng con luôn tin tưởng nơi lòng thương xót của Chúa để biết đứng dậy trở về mỗi khi sa ngã. Xin cho chúng con có lòng nhân hậu tha thứ như tấm lòng của Chúa. Amen.
Không phải là không có lý do khi người ta gọi chuyện này là chuyện ngắn vĩ đại nhất thế giới. Theo luật Do Thái, người cha không được tự do phân chia gia tài mình tuỳ ý thích, đứa con cả đương nhiên được 2/3, đứa con thứ 1/3 gia tài (Đnl 21,17). Không phải là một việc lạ khi một người cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông muốn được nghỉ ngơi khỏi hoạt động kinh doanh. Nhưng có một sự vô tâm trơ tráo nơi đứa con thứ khi nó đề xuất việc chia gia tài này. Thực ra nó đã nói “Cha hãy cho con ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì con cũng được lãnh khi cha chết, và hãy để con ra khỏi nơi này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì nó phải có một bài học đắt giá, và ông đã cho như ý nó xin. Tức khắc đứa con lấy phần riêng của nó và bỏ nhà ra đi.
Hắn nhanh chóng tiêu xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc cấm kỵ đối với người Do Thái, vì luật nói: “đáng rủa xả kẻ nào chăn heo”. Và Chúa Giêsu cho nhân loại tội lỗi một lời khuyên chưa từng có “Khi nó trở về với chính mình (nó tỉnh ngộ)”. Chúa Giêsu tin là bao lâu con người còn xa cách và chống nghịch với Thiên Chúa thì con người không thực sự là con người, con người chỉ thực sự là chính mình khi con người đang trên đường trở về nhà. Có một điều kỳ diệu nơi Chúa Giêsu là Ngài không tin rằng con người hư hỏng hoàn toàn. Ngài không bao giờ tin rằng ai đó có thể tôn vinh Thiên Chúa bằng cách phỉ báng con người, Ngài tin rằng con người không bao giờ được thực sự là mình cho đến khi nào con người trở về nhà với Chúa.
Cho nên đứa con đã nhất định trở về nhà và xin cha nhận lại mình không phải để làm con, nhưng làm một tên nô lệ mạt hạng trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà cha. Theo một nghĩa thì người nô lệ là một phần tử của gia đình, nhưng đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào. Vậy khi đứa con đã về nhà –theo bản Hy văn tốt nhất- cha chàng không để chàng kịp mở miệng xin làm đầy tớ. Ông đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tiêu biểu sự tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, vì nếu ai cho kẻ khác chiếc nhẫn ấn tín của mình thì cũng như uỷ quyền cho người đó thay thế mình; đôi giày là dấu hiệu làm con khác với nô lệ vì con cái trong gia đình mới mang giày, còn nô lệ thì không được. (Ước mong của người nô lệ trong bài ca của người da đen là mau đến thời kỳ mà “mọi con cái Chúa được mang giày” vì đi giày là dấu hiệu sự tự do). Và một bữa tiệc được bày ra để mọi người ăn mừng đứa con hoang đàng trở về. Chúng ta dừng lại ở đây, thử nhìn xem chân lý trong dụ ngôn này.
1. Không nên gọi dụ ngôn này là dụ ngôn về người con hoang đàng vì đứa con không phải là nhân vật chính, phải gọi là dụ ngôn về Người Cha Nhân Lành, bởi vì nó cho ta biết về tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.
2. Dụ ngôn này nói nhiều về sự tha thứ của Thiên Chúa. Người cha hẳn đã chờ đứa con trở về nhà, vì ông trông thấy từ đằng xa. Đứa con gặp cha thì cha liền tha thứ cho con và không một lời trách móc. Có nhiều cách tha thứ, có tha thứ được ban cho như một ân huệ, và tệ hơn nữa là khi một kẻ nào đó được tha thứ nhưng bao giờ cũng kèm theo một dấu hiệu, một lời nói, một ngăm đe rằng tội vẫn còn để đó. Một lần kia, Lincoln được hỏi ông sẽ đối xử thế nào với quân phiến loạn Miền Nam, khi họ thua trận và trở lại liên hiệp với Hoa Kỳ. Người hỏi câu ấy nghĩ rằng ông sẽ báo thù họ ghê gớm, nhưng Lincoln trả lời “Tôi sẽ đối xử với họ như họ chưa bao giờ ly khai với chúng ta”. Thật lạ lùng tình yêu của Chúa khi Ngài tha thứ chúng ta y như vậy. Nhưng câu chuyện đến đây chưa chấm dứt. Người anh cả đi về, anh thực sự buồn rầu vì em anh đã trở về. Người anh cả đại diện cho Pharisêu tự kiêu, tự mãn, họ thà xem thấy tội nhân bị tiêu diệt hơn là được cứu. Có mấy điều nổi bật nơi người anh cả. 1. Tất cả thái độ của anh chứng tỏ rằng bao nhiêu năm anh vâng lời cha chẳng qua chỉ là một bổn phận buồn rầu, chứ không phải là công việc của tình yêu.
2. Thái độ của anh là thái độ thiếu hẳn sự cảm thông. Anh nói về người em nhưng không dùng tiếng “em tôi” nhưng dùng chữ “con của cha”. Chàng là thứ người tự tôn, sẵn sàng đạp kẻ nào đã ngã xuống rãnh bùn hôi hám càng ngã sâu hơn nữa.
3. Tâm địa chàng rất dơ bẩn. Câu chuyện không nói tới gái điếm. Chính miệng chàng nói ra. Hẳn chàng đã nghi ngờ, tố cáo em chàng về thứ tội chính chàng muốn. Một lần nữa chúng ta lại gặp một chân lý diệu kỳ là hoán cải, xưng tội với Chúa dễ hơn xưng tội với loài người. Thiên Chúa xét xử nhân từ hơn những người ngoại đạo. Tình yêu Chúa rộng lớn hơn tình yêu của loài người. Đứng trước một tình yêu như vậy, chúng ta không thể không chìm sâu trong kinh ngạc, ngợi khen và yêu mến Ngài hơn.
Ta đang bước vào những ngày cuối của Mùa Chay. Trang Tin Mừng Chúa nhật IV mùa Chay hôm nay mời gọi chúng ta cảm nhận được và nhất là sống được trong niềm vui, niềm hạnh phúc của một người vừa thoát một hoạn nạn, một đau buồn, một cơn ác mộng và đang sống trong một thực tế an toàn và thanh thản.
Có bao giờ chúng ta trải qua khốn khó để rồi ta cảm được kinh nghiệm đó chưa?
Phải chăng đó là kinh nghiệm của một người tưởng mình mắc bệnh nan y đang chờ chết, nhưng sau khi đi kiểm tra sức khỏe, làm các xét nghiệm, gặp bác sĩ khám và nhận được kết quả tốt đẹp là không có gì đáng ngại, sẽ khỏi. Ðó là trải nghiệm của hai vợ chồng cắn đắng nhau, gây gỗ nhau tưởng đã đi đến chỗ đỗ vỡ, nhưng sau đó tìm lại được sự tha thứ, sự giải hòa và ôm nhau trong nước mắt. Ðó là kinh nghiệm của người vừa an toàn thoát khỏi một tai nạn kinh hoàng.
Đứng trước những cảnh bi thương đau đớn đó, trong hoàn cảnh đó ta sẽ cảm thấy thấm thía ý nhị của Thánh vịnh 124: "Hồn tôi như cánh chim đã vượt thoát bẫy của người đánh chim, bẫy đã tan tành muôn mảnh, còn chúng tôi, chúng tôi đã thoát".
Đoạn sách Giosuê mà ta vừa nghe đã kể lại sự vui mừng hạnh phúc của dân Do Thái sau khi thoát khỏi nô lệ Ai Cập và nhất là sau khi đặt chân đến miền Ðất Hứa. Từ nay, họ không còn phải đối diện với những ngày lang thang sa mạc gian lao, nguy hiểm. Qua đau khổ, dân Chúa chọn đã về đến quê hương Chúa đã hứa ban cho Abraham làm gia nghiệp, nơi đó tổ tiên của họ là Abraham, Isaác, Giacóp đã sống.
Đến đất mới, dân Chúa đã xây dựng lại, đã khai khẩn đất đai làm mùa và nhất là đã bắt đầu tiêu dùng những thổ sản quê hương, từ ruộng đất và lao công của họ. Vui hưởng ân lành của Chúa cảm thấy hạnh phúc tràn trề. Trong tình yêu thương săn sóc của Chúa, họ đã hát lên thánh vịnh 33 dùng làm đáp ca "Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi và các bạn khỏi hổ ngươi bẻ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn".
Sang tâm tình của thánh Phaolô đã nhắc cho giáo đoàn Côrintô một hạnh phúc to lớn, không hạnh phúc, không niềm vui nào có thể so sánh được. Ðó là hạnh phúc của con người trở thành tạo vật mới, trở thành con Chúa trong Chúa Giêsu Kitô.
Công cuộc tái tạo hay nói khác đi là trở thành tạo vật mới đó được thực hiện nhờ sự giao hòa lại cùng Thiên Chúa.
Cũng vì tội lỗi và chính tội lỗi làm cho con người sống xa Chúa, cắt đứt mọi liên lạc cùng Chúa, cuộc đời bị mất hướng, đời sống trở thành vô nghĩa, nhất là nguy hiểm diệt vong đang chờ đón. Nhưng may mắn cho nhân loại, cho chúng ta, thánh Phaolô bảo: "Vì Chúa Kitô, chúng tôi van nài anh chị em hãy giao hòa lại với Thiên Chúa, Ðấng không hề biết tội thì Thiên Chúa làm cho nên thân tội vì chúng ta, để trong Ngài, chúng ta trở nên công chính trước Thiên Chúa".
Không còn niềm vui nào bằng, từ tội lỗi trở thành công chính, từ nô lệ sự dữ trở thành con Thiên Chúa, từ đứng bên bờ diệt vong trở thành sống đời đời, trong ân sủng và tình thương. Niềm vui được cứu thoát nô lệ Ai Cập về Ðất Hứa của dân Do Thái trong sách Giosuê, nơi bài đọc thứ nhất không thể nào so sánh được với niềm vui to lớn của con người từ nô lệ tội lỗi trở về làm con cái Thiên Chúa.
Với Trang Tin Mừng quá quen thuộc, thuộc đến độ ta có thể nhớ nằm lòng từng chi tiết, từng câu nói của các nhân vật trong dụ ngôn mà ta quen gọi là “dụ ngôn người con hoang đàng”.
Ta thấy Chúa Giêsu đưa ra một thí dụ tuyệt vời, rõ ràng dễ hiểu và nổi tiếng, ai cũng biết cả. Ðể an ủi để khích lệ người tội lỗi hãy biết suy nghĩ, hãy biết dứt khoát đứng dậy và mạnh dạn tuyên bố: "Tôi muốn ra đi trở về với Cha tôi", Chúa Giêsu đưa ra hai người con tiêu biểu cho hai cuộc trở về.
Và rồi ta thấy hình ảnh của người con phung phá trở về trong tình yêu của cha mình, của mái ấm gia đình. Người con cả cần phải trở về trong tình anh em, phải biết tha thứ cho em mình, phải biết hòa nhập vào niềm vui của gia đình. Sự trở về trong tình anh em này cũng có một tầm quan trọng giống như sự trở về cùng tình cha con.
Trái ngược lại với người em, người con cả dầu tự hào là luôn sống trung thành với Cha, nhưng nếu khước từ tình anh em, thì anh vẫn là người ngoài cuộc không vào nhà và không cùng chung hưởng hạnh phúc niềm vui của gia đình. Nếu anh không vào chính là tự ý anh không vào. Người cha vẫn luôn mở rộng cửa nhà, mở rộng vòng tay, mở rộng cõi lòng năn nỉ anh.
Vậy niềm vui thật của cuộc trở về trong tình yêu thương của Chúa phải có hai chiều kích, trở về cùng Thiên Chúa là Cha và trở về cùng anh chị em của mình, chính là tha thứ, làm hòa lại với nhau, giải tỏa những hận thù và sống trong tình yêu thương. Ðó là niềm vui thật, niềm vui mà ca nhập lễ kêu mời "Mừng vui lên hỡi Giêrusalem, tề tựu cả về đây hỡi những ai hằng mến yêu thành. Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng hân hoan tận hưởng niềm an ủi chứa chan".
Với trang Tin Mừng này, ta sẽ noi gương ai? ta sẽ làm gì?
Không thể ngồi đó để nói suông như bao người đã nói, ta phải làm một hành động chứng tỏ ta nhất định đứng dậy lên đường trở về nhà cha ta, để sống lại trong hạnh phúc của tình yêu thương nồng thắm của Người.
Đơn giản, chỉ cần một sự cố gắng, một hành động thực tế có thể là một sự dốc lòng từ bỏ một tật xấu đã từng làm tôi đau buồn, đã kéo ghì tôi trong tội lỗi hay đã làm cho những người thân yêu trong gia đình tôi phải khổ.
Bước đi một bước nữa, ta học bài học từ người anh: Ta không đứng để cho Cha tôi phải năn nỉ. Ta hãy biết tha thứ cho người khác, hãy hòa mình vào niềm vui của gia đình, nhất là chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa là Cha ta khi một người anh chị em tôi trở về nhà Cha.
Ta vẫn xin Chúa cho ta vượt qua con người yếu đuối của ta để ta có lòng chạnh thương như người Cha để tha thứ, để đón nhận tất cả những yếu đuối của anh chị em đồng loại. Và phần ta, trong tư cách là người con, ta biết trở về với Cha để ta nhận được lòng thương xót của Cha.
Có một câu chuyện kể lại như sau: một bà già thường đến gõ phòng cha xứ, kể cho ngài nghe rằng: đêm qua Chúa mới hiện ra với bà.
Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, cha xứ bảo: “Lần sau nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Người ‘Cha xứ con có tội gì nặng nhất?’ Sau đó tới kể cho tôi nghe”. Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì bà đã trúng kế của ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.
- “Thưa cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con”. - “Thế bà có hỏi Ngài không?” - “Thưa có chứ”.
Cha xứ bắt đầu hồi hộp: - “Bà hỏi thế nào?” - “Thì con hỏi y như Cha đã bảo: ‘Cha xứ con có tội gì nặng nhất?’”
Cha xứ càng hồi hộp thêm: - “Vậy Chúa có trả lời không?” - “Có chứ”.
Cha xứ thở phào nhẹ nhõm!!! (Kể theo ĐHY. Fx. Nguyễn Văn Thuận).
Vâng! Thiên Chúa của chúng ta là như vậy. Ngài yêu thương và sẵn lòng tha thứ mọi lỗi lầm cho chúng ta. Tình yêu của Người là một tình yêu luôn đi bước trước và hướng tha. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi Đức Giêsu kể các dụ ngôn hôm nay.
1. Thiên Chúa là Đấng Thương Xót
Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu nhiều lần và nhiều cách Ngài mạc khải về lòng thương xót của Thiên Chúa cho các Tông đồ và dân chúng. Rõ nét nhất chính là nơi ba dụ ngôn: con chiên lạc, đồng xu đánh mất và người cha nhân hậu (x. Lc 15,1-32).
“Nơi các dụ ngôn này, chúng ta thấy toát lên một điều rõ rệt, đó là Thiên Chúa luôn sung sướng, vui mừng hân hoan khi thực hiện được một hành vi tha thứ, đây là điểm cốt lõi của Tin Mừng và của đức tin, vì lòng thương xót tỏ hiện như một sức mạnh vượt thắng tất cả, đong đầy trái tim bằng tình yêu thương và mang lại an ủi bằng ơn tha thứ” (x. Tông Sắc LTX., số 9).
Căn tính này thật rõ nét nơi hình ảnh người cha nhân hậu. Nơi người cha này, ông đã không màng chi đến tội lỗi của đứa con hư thân mất nết, ông cũng chẳng mong anh ta phải nói lên lời xin lỗi sau những tháng ngày sa đọa... Nhưng, với ông, ông chỉ canh cánh một điều là: mong sao nó trở về để tha thứ và yêu thương. Thế nên, khi thấy đứa con tội lỗi trở về trong thân hình tiều tụy thê lương, ngay lập tức, một loạt cử chỉ phi thường của tình yêu đã được ông hành động như: chạy ra, ôm hôn, truyền mang áo đẹp mặc cho cậu, xỏ vào tay, mang dép vào chân và mở tiệc ăn mừng (x. Lc 15, 20-23). Niềm vui tha thứ này diễn tả niềm vui Nước Trời, bởi lẽ, Thiên Chúa “muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (x. Mt. 9, 12-13), nên: "Giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối" (Lc. 15, 10). Đây cũng là biểu hiện của sự thành công và quyền năng của Thiên Chúa khi lòng thương xót của Người đến được với đối tượng cần ơn tha thứ, vì: “Thực thi lòng thương xót là đặc điểm riêng của Thiên Chúa, và đó là cách thức đặc biệt để Ngài bày tỏ sự toàn năng của Ngài” (Thánh Tôma Aquinô, Summa Theologiae, II-II, q. 30, a. 4).
Chính vì lẽ đó, nên khi Đức Giêsu đến trần gian, Ngài đã sống và mạc khải cụ thể cách trung thành về lòng thương xót của Thiên Chúa cho nhân loại qua chính cuộc đời, hành động, lời rao giảng và nhất là nơi cái chết trên thập giá, để qua đó, nhân loại hiểu được rằng: “Thiên Chúa là Tình Yêu”.
2. Sứ điệp cho Giáo Hội
Phụng vụ hôm nay, Đức Giêsu muốn mặc khải cho Giáo Hội là hiền thê của Ngài biết rằng: “Lòng thương xót là bản chất của Thiên Chúa. Chính lòng thương xót này đã nuôi dưỡng, chống đỡ và trở thành mục đích của Người”.
Điều này đã được Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc đến trong Tông Sắc về Lòng Thương Xót. Ngài viết: “Trụ cột nâng đỡ đời sống Giáo Hội chính là lòng thương xót. Tất cả các hoạt động mục vụ của Giáo Hội cần phải được thấm đẫm sự dịu dàng; không một sứ điệp và chứng từ nào của Giáo Hội trước thế giới lại có thể vắng bóng lòng thương xót. Tình yêu, thương xót và thông cảm chính là phương thế để củng cố tính cách đáng tin của Giáo Hội”. Và ngài cảnh tỉnh: “Có lẽ từ lâu chúng ta đã quên trình bày và sống theo lối đi của lòng thương xót. [...] Thật đáng buồn khi nhận ra trải nghiệm về tha thứ ngày càng trở nên hiếm thấy trong nền văn hóa ngày nay. Kể cả đôi khi từ ngữ này dường như cũng đang dần biến mất! Tuy nhiên, không có chứng từ của sự tha thứ, thì đời sống sẽ cằn cỗi không sinh hoa trái, như bị cô lập trong vùng hoang mạc trống vắng!”. Và ngài mời gọi: “Đã đến lúc Giáo Hội phải thực thi phận vụ hân hoan loan báo sự tha thứ. Đã đến lúc trở về với điều căn bản là mang lấy những yếu hèn và khó khăn của anh chị em chúng ta. Sự tha thứ là động lực làm bừng lên sức sống mới và truyền thêm can đảm để giữ vững niềm hy vọng cho tương lai” (x. Tông Sắc LTX., số 10).
Lời mời gọi thực thi lòng thương xót dành cho Giáo Hội là hiền thê của Đức Giêsu, thì cũng là lời kêu mời dành riêng cho mỗi chúng ta.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
“Hãy thương xót như Cha các con là Đấng đầy lòng thương xót” (Lc 6,36). Đây là: “Luật căn bản được đặt vào trái tim của những ai biết dùng đôi mắt chân thành để nhìn vào người anh em gặp thấy trên đường đời. Lòng thương xót là con đường nối kết Thiên Chúa với con người, hướng lòng chúng ta về niềm hy vọng sẽ được yêu thương luôn mãi, bất chấp tội lỗi của chúng ta” (x. Tông Sắc LTX., số 2).
Qua các dụ ngôn hôm nay, là Kitô hữu, chúng ta được mời gọi mặc lấy tâm tình của Thiên Chúa, đó là quảng đại, tha thứ, nhẫn nại và yêu thương.
Vì: “Nếu Chúa đã chà đạp và ném mọi tội lỗi chúng ta xuống lòng biển sâu” (x. Mk 7,18-19), thì đến lượt chúng ta, mỗi người cũng phải vứt bỏ tội lỗi của anh chị em mình sang một bên, để chỉ còn tình yêu và lòng tha thứ ngự trị nơi hành động, lời nói và tâm tưởng của ta.
Muốn làm được điều đó, chúng ta phải cảm nghiệm được sự vĩ đại của tình yêu mà Thiên Chúa đang dành cho mình, bởi lẽ: nhiều lúc, chúng ta cũng hoang đàng như người con thứ, cũng phung phí tiền bạc, thời giờ, sức khỏe và Ơn Thánh cách vô bổ; hay nhiều khi chúng ta cũng kiêu ngạo, tự phụ, để rồi khinh bỉ, rũ bỏ và loại trừ những người tội lỗi, không cho họ có cơ hội để trở về với lòng thương xót của Thiên Chúa như người con cả... ấy thế mà Chúa vẫn thương. Đây là mầu nhiệm vĩ đại, vì Thiên Chúa của chúng ta là như thế. Ngài luôn quên hết mọi lỗi lầm của ta và chỉ mong một điều, đó là ơn tha thứ được đến với ta mãi mãi.
Mong sao, ngay trong giây phút này, mỗi người chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của người con thứ để thưa lên với Đấng Giàu Lòng Thương Xót rằng: “Lạy Chúa xin tha thứ cho con vì con là kẻ có tội”; đồng thời tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa vì Ngài đã phán: “Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông” (Is 1, 18), và hãy biết tha thứ như Thiên Chúa là Đấng hay Thương Xót để chúng ta cũng được Thiên Chúa xót thương. Amen.
Giữa màu tím của Mùa Chay Thánh, hôm nay Giáo Hội dành Chúa Nhật thứ IV gọi là Chúa Nhật hồng. Màu hồng ấy nói lên niềm vui mừng vì được yêu thương, được đón nhận và tha thứ. Cho dù con người có lỗi lầm và ở trong tình trạng nào đi nữa, nhưng..."Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hơn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi."(Tv 33,6) Bởi vì Chúa nhân hậu và tốt lành biết mấy. Vì thế, chúng ta hãy chiêm ngắm tình yêu không biên giới của người cha khi đón nhận vô điều kiện đứa con thứ tội lỗi trở về và nhẫn nại xót thương với người con cả - là một mạc khải cốt yếu về Thiên Chúa mà chính Chúa Giêsu muốn vén mở cho chúng ta. Thiên Chúa, như người cha không bao giờ thất vọng về những đứa con của mình.
Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn về người cha nhân hậu, một câu chuyện sống động, bởi vì những người lãnh đạo tôn giáo thời ấy đã tức giận về việc Người ăn uống với những người tội lỗi và thu thuế. Thế nên, trong dụ ngôn này không phải là người con thứ mà người cha mới là trung tâm của dụ ngôn.
Người cha đã yêu thương, tôn trọng tự do và quyền tự trị của các con mình. Ông đau khổ chấp nhận để con ra đi. Nhưng ông hy vọng rằng sẽ có một ngày khi con trưởng thành, nó sẽ hiểu được tình yêu của cha nó.
Với ý nghĩ nổi loạn và không muốn phục tùng cha, người con thứ đã muốn được nắm quyền tài sản của anh "Xin cho con phần tài sản con được hưởng."(Lc 15,12) Anh ta nghĩ sẽ được tự do khi rời khỏi cha và sẽ có cuộc sống hạnh phúc hơn mà không cần cha. Đây phải chăng cũng là tư tưởng của nhiều người trong thời đại chúng ta: Chống đối, bất tuân phục và từ chối Thiên Chúa!
Rời xa cha và mái nhà... anh ta tự do, tự lập và bắt đầu sống phung phí. Với một cuộc sống ăn chơi sa đọa, dẫn đến tiêu tán hết tài sản là lẽ dĩ nhiên. "Khát vọng tự do" nghe có vẻ nhẹ nhàng và dễ thương. Thế nhưng, ma quỉ luôn có trăm phương ngàn kế lôi kéo và hấp dẫn chúng ta đi theo và đi đến nguy cơ suy tàn, hư mất.
Phúc thay anh ta nhận ra sự khốn cùng của mình và quyết tâm trở về "Anh ta đứng lên và đi về cùng cha...Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha." (Lc 15, 20a.21) Đây là một bước can đảm và quan trọng. Có trở về, anh mới được phục hồi địa vị là con, mặc dù anh chỉ ước ao được là đầy tớ. Chỉ trờ về, anh mới nhận ra lòng tha thứ và tình yêu vô bờ của cha.
Và đây là những gì cha của anh thực hiện để đón đứa con ngỗ nghịch trở về "Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh và hôn lấy hôn để." (Lc 15,20) Người cha già nhiều năm tháng mòn mỏi chờ con thì sức cạn, mắt mờ...! Thế mà, từ đằng xa ông đã nhận ra bóng dáng con mình và ông chạy. Chạy để rút ngắn thời gian dù chỉ là vài phút để được sớm gặp con vì ông đã trông ngóng từng giây. Sức mạnh của tình yêu khiến chân ông khỏe và mắt ông sáng hơn. Ông hôn lấy hôn để con, đúng ra là chỗ dành cho hình phạt vì tội nó. Choàng tay ôm con để che phủ hết tội lỗi của con. Tình yêu bao dung đã giữ ông không tính tội con mà thay vào đó là chăm sóc những vết thương của con để nó không còn một vết sẹo hay sự xấu hổ, ngại ngùng nào. Ông đã sinh lại con một lần nữa.
Chẳng cần nghe con thú lỗi, ông chỉ còn yêu thương và vui mừng. Bây giờ tất cả việc phải làm là "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân và...mở tiệc ăn mừng."(Lc 15,22-23) Ân phúc anh nhận được từ cha hơn cả những gì anh mơ ước. Tấm áo mới nói lên tình thương cha vẫn dành cho con và tất cả y phục ấy anh mang nói lên rằng "Con vẫn là con cha như thuở nào." Vì tội lỗi và vì cuộc sống xa gia đình, nay con đã trở về, đón nhận tình tha thứ của Cha và hiểu sâu hơn tình yêu cha dành cho con và bây giờ con được yêu thương biết bao. Thế nhưng, còn anh cả của con, người vẫn ở trong gia đình thì sao?
Chúng ta thường nghĩ câu chuyện này là chuyện nói về người con thứ. Thế nhưng, như Chúa Giêsu đã nói với những người Pharisiêu và vấn đề là về người con cả hơn là người con thứ. Hãy chú ý đến sự tức giận vì ganh tị của anh cả, người không đón nhận niềm vui dạt dào của cha anh ta và tự tách khỏi những người trong nhà của mình. Thay vì phục vụ cha với tình con thảo, anh chỉ có tư tưởng là phải hầu hạ. Là con nhưng anh luôn sống với tinh thần là đầy tớ. Dù ở trong nhà, ngay bên cha nhưng lòng anh lại xa cha mình biết bao! Thiếu tình yêu với cha nên anh cũng chẳng thể yêu thương em mình. Anh ta đã không hiểu một điều lớn lao đó là tình yêu của cha dành cho anh!
Mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy tự vấn để biết mình đang ở trong vai của nhân vật nào trong dụ ngôn: Chúng ta đã tha thứ cách quảng đại như người cha đã tha cho đứa con thứ của mình và nhẫn nại yêu thương con cả? Tất cả chúng ta đều có lỗi lầm, lúc này hay lúc khác. Hãy nhận ra sự thật về mình và can đảm đứng lên, trở về với anh em, cha mẹ và nhất là Cha trên Trời để cảm nhận, đón nhận tình yêu tha thứ mà Cha luôn dành cho ta. Chúng ta cũng đã cảm thấy ganh tị và từ chối những ai được ưu ái và thương yêu hơn chúng ta.
Là con thứ hay con cả, chúng ta cũng hãy tin tưởng vào Lòng Xót Thương của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Đấng tha thứ không cùng và đón tiếp vô hạn những người con lầm lỗi, thương tích. Nhưng không chỉ tha thứ, mà Cha còn vui mở tiệc mừng con trở về như chính Chúa Giêsu đã nói "Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối..."(Lc 15,7) và dành cho con tất cả gia sản của Cha "Con à, tất cả những gì của cha đều là của con."(Lc 15,31) Vậy không thể chần chừ hay chậm trễ nữa. Hãy trở về với Cha.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con lòng can đảm và sáng suốt để nhận biết những điều xấu, những lỗi tội của chúng con và quyết tâm trở về thực sự với Chúa trong Mùa Chay Thánh này. Amen.
Người Việt Nam thường có câu: hãy “nhanh khi nghe – chậm khi nói”. Nghe để đấy, nghe để biết chuyện, suy nghĩ bàn hỏi mới là người khôn ngoan. Còn kẻ dại khờ thì dễ tin, dễ bị khích động và dễ kết án hùa theo đám đông.
Có rất nhiều trường hợp thương tâm đã xảy ra chỉ vì nhanh nghe, nhanh nói, dễ tin vào lời người khác để hành động điên cuồng gây nên những đau khổ do hiểu lầm, nhẹ dạ mang lại. Có rất nhiều lần chính chúng ta cũng vì quá tin người mà hành động thiếu suy nghĩ khi ném đá anh em. Cũng có rất nhiều lần chính chúng ta cũng khổ sở, chẳng biết phân bua thế nào vì bị người khác hiểu lầm, dựng chuyện làm hại chúng ta.
- Mả cha nó, nghèo mạt kiếp tiền đâu ăn gà, nó ăn gà bà, nó chết bất đắc cho mà xem. Ông giáo buồn lắm, ngã bệnh, qua đời. Thương tình, hàng xóm lo ma chay.
Tý hớn hở vì nhà nó đông vui.
Trời đổ mưa.
Thằng Tý la lớn:
- Con gà vô nhà, dậy bắt làm thịt ba ơi.
Mọi người nhìn theo. Thì ra, một con cóc dưới kẹt tủ đang giương mắt nhìn lên quan tài ông giáo.
Hóa ra, nhà ông giáo ăn thịt cóc nhưng lại nói thịt gà để cho con trẻ khỏi thèm thịt gà! Thật là oan gia. Chỉ vì một lời kết án vu vơ đã làm mất đi một mạng người thật là đáng tiếc!
Thế nên, ở đời đừng vội kết tội cho người khác. Hãy bao dung độ lượng và tha thứ. Có những chuyện thấy vậy mà không phải vậy, nên cần cẩn trọng lời nói. Có những sự thật cũng cần được cảm thông hơn là kết án, vì có khi chính chúng ta cũng trải qua những lần lầm lỗi như thế.
Lời Chúa hôm nay cho ta thấy thái độ của Chúa Giêsu thật từ tâm. Ngài không hùa theo đám đông để kết án người đàn bà tội lỗi. Dù rằng tội người này theo lời của người Do Thái là “rõ mười mươi”. Dù rằng là tội quả tang nhưng cũng cần cảm thông và tha thứ. Ngài đã đi bước trước trong sự tha thứ khi Ngài nói: “Tôi không kết án chị đâu”. Ngài cũng nhắc nhở những người chung quanh đừng dễ dàng kết án người khác, đừng dễ dàng chửi bởi anh em, bởi vì: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá ném trước đi”. Ngài còn tạo cơ hội cho người phụ nữ chuộc lại lỗi lầm: “Chị hãy về và từ này đừng phạm tội nữa”.
Đức Giêsu là Thiên Chúa rất thánh thiện vô cùng. Ngài không hề sai phạm một lầm lỗi nào, thế mà Ngài vẫn luôn luôn thông cảm được với sự yếu đuối của người tội lỗi. Ngài không kết án mà sẵn sàng tha thứ. Còn chúng ta, chúng ta cũng yếu đuối như tất cả mọi người, thế mà ta lại khó thông cảm với những yếu đuối của người khác, nhất là khi họ làm thiệt hại đến ta, đến quyền lợi, danh tiếng, hay cản trở ý muốn của ta.
Ở đời: “Ai nên khôn mà không dại một lần”, thế nên, làm người cần có sự khiêm nhu để nhìn lại mình và để cảm thông với anh em. Có thể ta dễ dàng kết án người khác. Có thể chúng ta không muốn gương xấu trong môi trường chúng ta. Nhưng liệu chúng ta làm ầm ĩ lên, hoặc mạnh tay ném đá kẻ có tội chúng ta sẽ được gì khi mất anh em , mất bạn bè vì sự nóng giận của chúng ta?
Mùa chay là mùa giúp chúng ta nhận ra thân phận yếu đuối của mình để sám hối và cũng để cảm thông với lỗi lầm của anh em. Đừng kết án anh em. Đừng đẩy anh em vào đường cùng. Đừng lên án xử anh em, nhưng hãy bao dung và tha thứ cho nhau. Hãy nhớ lời Chúa dạy: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá ném trước đi”.
Xin cho chúng ta học nơi Chúa bài học của bao dung và tha thứ để chúng ta luôn lấy lòng từ bi, nhân hậu mà đối xử với nhau. Xin cho chúng ta cũng nhận ra mình là con nợ đã từng được Chúa tha thứ để đừng bao giờ hà khắc, kết án anh em. Xin Chúa giúp chúng ta học nơi Chúa luôn “chậm bất bình và rất mực khoan nhân” để đối xử với nhau trong bác ái yêu thương. Amen.
Suốt đời vô tội, cứ lẽ thường, thì không thể. Kinh nghiệm bản thân mỗi người đã cho chúng ta thấy rõ điều ấy.
Đã là người thì ai cũng có những xu hướng xấu, chỉ có điều khác lọai, và khác mức độ mà thôi, chẳng hạn có người ham thú xác thịt, người khác tham lam của cải, hoặc ích kỷ nhỏ nhen, ghen tương đố kỵ, nói hành nói xấu… Với ý thức đó, lẽ ra nó phải dẫn con người tới sự khiêm nhường và thông cảm với những tật xấu nơi người khác, thế nhưng rất nhiều khi con người lại muốn mình trở nên quan tòa để luận tội, kết án anh em mình. Những kinh sư và người Phariseu trong tin mừng chúng ta vừa nghe là một bằng chứng điển hình cho ta thấy rõ điều đó.
Những kinh sư và biệt phái họ luôn tự cho mình là những tín đồ mộ đạo, họ tự đặt mình trên tòa cao, tự ban cho mình quyền kết án và loại trừ những người mà họ cho là tội lỗi. Hôm nay, họ xúm nhau kết án chị phụ nữ ngoại tình. Mỗi người một hòn đá. Mỗi người một khuôn mặt mang đầy sát khí hôi tanh. Họ sẵn sàng trị tội một người để làm gương cho nhiều người. Tất cả đang sẵn sàng một án tử hình cho người phụ nữ thấp cổ bé miệng, lại cô thân cô thế. Thế nhưng, số phận của chị ta thật may mắn bởi vì: Chị đã được chính Chúa Giêsu, vị quan án kiêm luật sư, một vị cực kỳ khôn ngoan và nhân ái bào chữa và cứu chị thoát khỏi cái án tử đang treo lơ lửng trên đầu: “Tôi không kết án chị đâu - Hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Một câu nói mở ra con đường sống cho kẻ bị kết án. Các biệt phái và kinh sư muốn Chúa làm quan toà giết chết, nhưng Ngài lại là vị quan toà cứu sống. Chỉ vài phút trước đó, người ta hung hăng tố cáo, mời Chúa xét xử người phụ nữ, không ngờ Ngài lại xét xử họ. Người ta đợi chờ Chúa kết án người phụ nữ, không ngờ Ngài lại kết án họ. Người ta mang đá ném vào người phụ nữ đáng thương, không ngờ Chúa lại ném đá vào chính lương tâm của họ.
Nhìn lại và đối chiếu hai thái độ: một bên là Chúa Giêsu, bên kia là những kẻ lên án người khác, mỗi người chúng ta thấy gì? Chúng ta có nhận ra một mâu thuẫn lớn, lớn lắm, lớn vô cùng hay không, đó là: Chỉ có mỗi một mình Thiên Chúa là Đấng vô tội, và Chúa Giêsu chẳng biết phạm tội là gì, lại tha thứ một cách quá dễ dàng. Chỉ có mỗi một mình Thiên Chúa mới có quyền kết án tội nhân, thì Chúa Giêsu, Đấng là Thiên Chúa lại tha thứ một cách quá nhanh chóng, tha thứ vô điều kiện. Còn con người với nhau, đầy khiếm khuyết, vô vàn lỗi lầm, cũng chẳng bao giờ được quyền xét đoán ai, chẳng bao giờ được quyền kết án ai, lại cứ tìm cái xấu của người khác để mà kết án, trị tội nhau. Cuộc sống hôm nay vẫn có đó những viên đá ác nghiệt, những viên đá của vô tâm, hững hờ, của nghi ngờ ganh ghét, những viên đá ném vào người anh em từ những tâm hồn hẹp hòi, u ám, những con tim chai lì của ác độc tự kiêu. Vâng! Con người ngày hôm nay cũng đang có những cách sống và thái độ sống không khác gì các kinh sư và Pharisêu. Đó là thái độ dửng dưng trước tội. Làm sự tội mà không biết mình tội.
Sống trong sự tội mà cho rằng mình không mắc tội. Đang ngoại tình mà cứ tưởng mình trong sạch cứ kết án người khác.
Thật vậy, tội ngoại tình đa dạng và nhiều kiểu lắm chứ không phải đơn thuần chỉ là chuyện ăn nằm với người khác mà thôi đâu. Khi người ta bỏ Chúa đi thờ ngẫu tượng và các thần xa lạ khác thì lúc đó người ta đang phạm tội ngoại tình đấy. Khi đi cầu cơ, đi coi bói, chơi bùa, chơi ngải, cúng vái các tượng thần để xin chữa bịnh, xin cho làm ăn phát tài …
Khi cúi gập mình xuống để tôn thờ thần sex, làm nô lệ cho thần khoái lạc, suốt ngày chỉ tôn thờ những thú vui trụy lạc, lao đầu vào những thú vui giải trí thiếu lành mạnh nhưng vẫn nghĩ rằng xã hội nhiều người làm như thế, nên tôi làm cũng chẳng sao. Rồi tự do yêu đương, tự do quan hệ, tự do luyến ái theo kiểu “tình yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi em cũng chẳng hề hối tiếc”.
Khi quỳ xuống bái lạy Thần Tài, và cắm đầu cắm cổ làm nô lệ cho nó, bỏ cả nhà thờ nhà thánh, bỏ lễ, bỏ đọc kinh và bỏ luôn không lãnh nhận các phép bí tích …
Khi đã chịu phép Rửa Tội đàng hoàng nhưng lại đi chùa, đi thắp hương, đi cúng vái ông này bà nọ…… Là khi ấy, con người đang phạm tội ngoại tình, đang ngấp nghé bỏ nhà để đi… kiếm bò lạc đấy.
Ước gì, qua lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta nhận ra rằng: Trước mặt Thiên Chúa, ai cũng là tội nhân, nên hãy đứng trước tấm gương của lương tâm mình để nhìn thấy cái lọ lem của mình, để nhìn thấy tâm hồn đen đủi xấu xa của mình. Hãy cầm lấy viên đá không phải để ném người khác, mà là để vạch lên ngực, lên tim của mình cho chảy máu và ăn năn sám hối rồi hãy bỏ nó xuống đất. Và theo gương Chúa mà đối xử với nhau: đừng bao giờ kết án ai hay vào hùa với ai để kết án người khác; đừng đấm ngực ai, nhưng hãy đấm ngực mình, nhìn nhận mình cũng chẳng khá hơn ai, mình cũng đầy những tội lỗi và thiếu sót, cần ăn năn sám hối để được tha thứ. Đó cũng là lời kêu gọi tha thiết cho mỗi người trong tuần cuối cùng của Mùa Chay này. Amen.
Hôm ấy, vừa tảng sáng, Chúa Giêsu trở lại đền thờ. Toàn dân đến với Ngài. Ngài ngồi giảng dạy họ.
Từ đàng xa, một đám đông đang hớn hở như bắt được một tin vui. Đám đông xô đẩy, lôi kéo một phụ nữ quần áo xốc xếch, tóc rối bù, mặt mày tái mét. Có tiếng quát tháo: “ Đi, đi tới đây! Đồ nhơ nhớp!”
Lại cũng những người kinh sư và Pharisiêu! Chuyện gì nữa đây?
Họ dẫn đến trước mặt Ngài một người phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị đứng ở giữa, rồi nói với Ngài: “ Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách luật ông Môi sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy , Thầy nghĩ sao?”.
Chúa Giêsu không trả lời, Ngài cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất.
Một câu chuyện xưa kể rằng: Một người bị bắt vì tội ăn trộm. Anh bị giải đến trước mặt vua. Nhà vua ra lệnh treo cổ phạm nhân. Trên đường đi đến giá treo cổ, phạm nhân tiết lộ cho viên cai ngục:
- Tôi có một điều bí mật do cha tôi truyền lại, nhưng rất tiếc tôi phải chết, nên đành phải chôn vuì bí mật ấy theo cái chết của tôi.
Viên cai ngục tò mò:
- Bí mật gì, nói mau!
Tên trộm lưỡng lự một lúc rồi nói:
- Tôi có bí quyết có thể gieo một hạt lựu, và làm cho nó mọc lên và trổ sinh hoa trái chỉ trong một đêm.
Nghe lạ, viên cai ngục áp giải phạm nhân trở lại với vua. Vua ra lệnh cho anh làm thử. Anh đào một lỗ nhỏ dưới đất, cầm hạt lựu lên và nói:
- Thưa bệ hạ, để thực hiện được bí quyết này, hạt giống này phải do tay một người chưa bao giờ lấy cắp của ai bất cứ thứ gì không phải của mình. Tôi đây là một tên trộm nên không thể trồng nó được.
Vua quay sang một viên quan rồi bảo:
- Ngài có thể gieo hạt giống này chứ?
Viên quan nọ từ chối:
- Khi còn trẻ, tôi có giữ một vài thứ không phải của tôi.
Anh ăn rộm quay sang người giữ kho của triều đình và bảo:
- Vậy ngài có thể trồng được không?
Người giữ kho cũng từ chối:
- Từ nhiều năm nay, tôi đã giữ nhiều tiền bạc. Hiện giờ tôi cũng đã giữ một ít tiền cho bản thân tôi.
Cuối cùng chỉ còn lại nhà vua, tên trộm quay sang vua và tâu:
- Có lẽ bệ hạ trồng được hạt giống này!
Nhưng nhà vua vội nói:
- Ta xấu hổ mà phải nói rằng có một lần ta đã lấy chiếc đồng hồ của cha ta.
Tên trộm kết luận:
- Tất cả các ngài đều là những người sang giàu, có uyền lực, và không còn thiếu gì nữa. Thế mà chẳng ai trong các ngài có thể trồng được hạt giống này; trong khi đó, tôi chỉ vì đói mà ăn cắp một thứ nhỏ nhoi, một túi gạo mà lại bị kết án treo cổ.
Và nhà vua đã tha chết cho anh.
Đó là câu chuyện của thế gian. Trở lại câu chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình:
Người phụ nữ ấy đang đứng trước mặt Chúa Giêsu. Những kinh sư và người Pharisiêu phấn kích như tìm được một chiến lợi phẩm, vừa tỏ ra mình có công trạng vừa thầm gài bẩy Ngài xem Ngài đối xử thế nào để có bằng cứ tố cáo Ngài. Chúa Giêsu không trả lời, Ngài cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Họ thầm nghĩ: Phen này thì ông ta bí rồi, và họ cứ thế hỏi mãi, nên Chúa Giêsu ngẩng đầu lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ nhìn nhau, rồi bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ người lớn tuổi.
Mục đích của các kinh sư và người Pharisiêu là gài bẩy Chúa Giêsu: Ném đá hay không ném đá? Nếu Ngài bảo đừng ném đá, thì họ sẽ kết án Ngài là người khuyến khích người ta chống lại luật Môisê; nếu Ngài bảo hãy ném đá, thì họ sẽ quy kết cho Ngài là người không nhân hậu. Nhưng Chúa Giêsu không trả lời liền cho họ, nhưng để cho họ có thời gian tự vấn lương tâm để nhìn vào chính bản thân mình đã đáng lên án, kết tội người khác chưa.
Sự thinh lặng thức tỉnh lòng người: Chúa Giêsu thinh lặng, phớt lờ những lời tố giác của họ có lẽ cũng vì Ngài muốn cho họ biết rằng: Không ai là người không có sai phạm. Ai cũng là những người có tội, có ai trong sạch hơn ai đâu, bêu xấu, kết án người khác để làm gì, có ích lợi gì đâu? Và qua đó, Ngài cũng tỏ thái độ chán ghét bọn giả hình cho mình là người đạo đức thánh thiện. Thái độ phớt lờ chuyện người phụ nữ phạm tội là cách thức Ngài đánh động lương tri của con người. Ngài chẳng buồn trả lời; nhưng hỏi mãi, Ngài đành phải lên tiếng: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Đó là một câu nói thức tỉnh lương tri những người giả dối, đạo đức giả.
Nghe nói thế, họ chột dạ và lẳng lặng rút lui, trước tiên là những người lớn tuổi. Và có lẽ, trên đường rút lui, có những người đã xầm xì với nhau: Ngoại tình! sao không bắt cả hai mà chỉ buộc tội có một mình người phụ nữ kia nhỉ?
Chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu và người phụ nữ. Ngài ngẩng nhìn lên và hỏi: “ Này chị, họ đâu cả rồi? Họ không lên án chị sao?” Người đàn bà đáp: “ Thưa ông, không có ai cả”. Chúa Giêsu nói với chị ta: “ Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”
Ít ra trong đám người Pharisiêu, luật sĩ hôm ấy và ngay cả chúng ta hôm nay còn có chút lương tri đã không giả hình vô tội để ném đá người phụ nữ kia, và đã có cơ hội để nhìn lại chính bản thân mình: Không ai là người vô tội. Người lên án cũng chẳng phải là người tốt. Nếu phải ném đá, thì mọi người đều phải chung số phận!
Lên án người khác, nhìn thấy lỗi lầm của người khác thì dễ hơn là lên án và nhìn ra lỗi lầm của chính mình. Người đáng phê phán và kết án lại là người tự cho mình là công chính. Không ai là công chính và cũng không ai là vô tội. Sám hối và tin vào Tin Mừng là con đường dẫn chúng ta đến lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là con đường chúng ta phải nổ lực vươn tới như thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philliphê đã xác nhận: “ Không phải do sự công chính của tôi dựa vào lề Luật, nhưng do sự công chính bởi tin Đức Giêsu Kitô…Không phải là tôi đã đạt đến cùng đích, hoặc đã trở nên hoàn hảo, nhưng tôi đang theo đuổi để chiếm lấy…” (Phil. 3: 13-14)
Thiên Tình yêu của Thiên Chúa không phân biệt đối xử. Tình yêu của Thiên Chúa muốn cứu vớt hết mọi người.
Thiên Chúa lên án tội lỗi, nhưng Ngài không kết án tội nhân. Bản thân tội lỗi không cần lòng thương xót, nhưng bản thân tội nhân thì cần. Điều Thiên Chúa cần là lòng sám hối, ăn năn và hoà giải với Ngài nhờ Đức Giêsu Kitô.
Chúa Giêsu xuống trần gian để giao hoà những người chưa giao hoà với Thiên Chúa; thánh Phaolô trong thư thứ 2 gửi tín hữu Côrintô đã viết:“ Thật vậy, trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được giao hòa với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hòa giải” (2 Cor. 5: 19).
Lòng thương xót của Thiên Chúa không chấp tội chúng ta, không lên án quá khứ lỗi lầm của chúng ta. Qua Đức Kitô, lòng thương xót của Thiên Chúa sẽ mở đường trong hoang địa, sẽ khơi dòng sông nơi vùng đất khô cằn như lời Người đã phán trong sách tiên tri Isaia: “ Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa. Đây Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện, như các ngươi sẽ biết; Ta sẽ mở đường trong hoang địa và khơi sông nơi đất khô…(Is. 43: 18-19)
Lời nói âu yếm dịu dàng của Chúa Giêsu với người phụ nữ cũng là lời nói âu yếm ngọt ngào đối với tất cả chúng ta là những tội nhân: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”
Hòa giải là lời mời gọi khẩn thiết của Mùa Chay. Hòa giải với Chúa và hòa giải với anh chị em mình. Tuy vậy, hòa giải với Chúa là việc dễ dàng, trong khi hòa giải với anh em là một làm hết sức khó khăn. Trong cuộc sống trần gian, con người “đầu đội trời, chân đạp đất”. Họ vừa có tương quan với đất và tương quan với trời. Họ cũng không là những ốc đảo tách biệt cô đơn, nhưng sống chung với nhau và cần đến nhau. Hòa giải với anh chị em sẽ giúp chúng ta xây dựng cuộc sống lý tưởng, làm thành một gia đình trong tình huynh đệ thân thương.
Câu chuyện “Người cha nhân hậu” là một trong những áng văn chương tuyệt vời nhất của Kinh Thánh. Câu chuyện ấy nhấn mạnh tới lòng nhân hậu của Thiên Chúa, mà nhân vật người cha là biểu tượng. Người cha tôn trọng tự do của người con thứ, sẵn sàng để nó ra đi. Người cha ấy cũng luôn mong ngóng đợi chờ và vẫn tin chắc có ngày nó trở lại. Sự trở về của người con là niềm vui lớn lao của người cha, đến nỗi ông mở tiệc tưng bừng để đón con trở về. Bởi lẽ, như ông nói, con ông đã mất mà nay lại tìm thấy, đã chết mà nay đã sống lại. Còn niềm vui nào lớn hơn là tìm thấy của cải đã mất và gặp lại người thân đã chết? Vì thế mà niềm vui hội ngộ càng tưng bừng lớn lao.
Tuy vậy, nếu Thiên Chúa là cha bao dung nhân hậu, sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi của con người, thì con người lại hà khắc và cứng nhắc đối với nhau. Mỗi người trong chúng ta đều đã có lần cảm nhận điều đó nơi chính bản thân và nơi những người xung quanh. Có ba nhân vật trong câu chuyện Chúa Giêsu kể, cả ba nhân vật đều là nam giới. Người con cả, từ lúc ban đầu xem ra là người tử tế, vì khi người con thứ đòi chia gia tài và bỏ nhà ra đi, thì anh vẫn ở lại với cha mình. Tuy vậy, những gì anh nói với Cha, xem ra là những uất ức được dồn nén trong nhiều năm: “Cha coi, con ở với cha bao nhiêu năm….”. Người cha giật mình nhận ra, mặc dù thân xác đứa con cả vẫn ở với cha mình, mà tâm hồn nó lại xa vời vợi. Nó phủ nhận tình huynh đệ máu mủ khi gọi em mình là “thằng con của cha kia”. Người cha đau khổ nhận ra rằng, ông đã mất cả hai đứa con, mỗi đứa một cách khác nhau.
Nhân vật người con cả giúp chúng ta liên tưởng đến mối tương quan với tha nhân. Nhiều người trong chúng ta có khuynh hướng giống như người con cả, luôn cố chấp, ích kỷ và ôm mối hận thù. Hình ảnh người con cả cho thấy một thái độ chủ quan tự tin, nghĩ rằng mình là người ngay thẳng và là người đạo đức, coi mình là tiêu chuẩn để đánh giá và phê phán người khác. Cả ba nhân vật trong câu chuyện đều nhắn gửi đến chúng ta những thông điệp quan trọng: Thiên Chúa là Cha yêu thương. Ngài nhân hậu bao dung và rộng lòng tha thứ. Người con thứ tượng trưng cho người lầm lạc tội lỗi, nay quyết tâm chỗi dậy trở về để sống trong tình yêu thương của cha mình. Người con cả là những người cố chấp và khó hòa đồng với những người xung quanh, thậm chí ngăn cản họ, không cho về với Chúa. Cả người con thứ và người con cả đều cần phải trở về. Cả hai đều phải tự vấn lương tâm về đời sống quá khứ của mình, đồng thời nhận ra Chúa nhân hậu bao dung, từ đó cố gắng sống tốt như người cha hằng mong muốn.
Tôi muốn ra đi, trở về với cha tôi và thưa người rằng: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa”. Đó là điều người con thứ đã chuẩn bị sẵn để khi gặp cha sẽ nói. Tuy vậy, người cha không để cho con nói hết những gì nó đã chuẩn bị. Tình thương của Thiên Chúa mênh mông vời vợi, không cần những công thức, nhưng chan hòa như đại dương, phủ lấp những yếu đuối của phận người.
Chúng ta đã đi đến nửa chặng đường của Mùa Chay. Lời mời gọi hòa giải lại vang lên, nhắc chúng ta lên đường trở về. Thánh Phaolô năn nỉ chúng ta: “Vì Đức Kitô, chúng tôi van nài anh em hãy giao hòa với Thiên Chúa” (Bài đọc II). Hòa giải với Ngài sẽ đem cho chúng ta hạnh phúc và bình an, đồng thời tạo nên một cuộc sống trần thế an bình. Niềm vui của hòa giải, được phụng vụ so sánh như niềm vui của người Do Thái đến đất hứa sau 40 năm hành trình sa mạc. Họ không còn lang thang phiêu bạt nữa, nhưng được định cư ở miền đất Chúa hứa cho cha ông họ và được hưởng những thổ sản của địa phương. Họ được chứng kiến những gì trước đây chì là lời hứa, nay thành hiện thực ngay trước mắt. Họ như người con thứ trong Tin Mừng, được trở về nhà của mình, không còn là khách lạ (Bài đọc I). Mỗi chúng ta cũng vậy, khi thành tâm sám hối, chúng ta được nối lại mối tình cha con đối với Chúa và mối tình huynh đệ đối với anh chị em mình.
Hãy sám hối! Hãy trở về! Lời gọi ấy đang vang lên trong đời sống và trong tâm hồn mỗi chúng ta. Trở về với Chúa và trở về với anh chị em, đó chính là thông điệp được nhấn mạnh của Phụng vụ hôm nay. Hiệu quả của Mùa Chay tùy thuộc vào thiện chí hòa giải đối với anh chị em mình.
Sống trên đời này, ai cũng có quyền mơ ước hạnh phúc và tự do tìm sống theo lý tưởng đẹp nhất mà mình đã định hình. Cha mẹ thương con, nhưng con cháu có hiểu, có nhận ra chúng được yêu thương không lại là chuyện khác, cũng vì lý do đó mà nhiều đấng bậc vẫn ưu tư cho rằng: cha mẹ sinh con, trời sinh tính. Biết bao người con vì hiểu sai, hiểu không đúng, hiểu không hết tấm lòng của mẹ cha, nên đã vội trách móc: nuôi con chẳng dạy chẳng răn, thà rằng nuôi lợn lấy lòng mà ăn, thật xấu hổ ! Để thấy được thế nào “văn võ song toàn, công dung ngôn hạnh”, người đời thường cho rằng cần có khuôn, có nghệ nhân nhào nắn ; để kín múc được mạch nước mát trong, người ta phải chấp nhận một chân lý: cây có cội nước có nguồn. Cây tốt sinh trái tốt, nguồn trong sẽ cho nước sạch, nước mát, cha mẹ là núi là sông, con cháu hiếu thuận bõ công sinh thành.
Tục ngữ có câu: con dại cái mang, tội quy về trưởng, xem ra thật là bất công, nếu quy trách nhiệm: con hư tại mẹ, cháu hư tại bà, đúng là người ta chỉ xét đến lý mà quên tình hoặc nói đến tính xã hội mà quên xét đến tự do thuộc phạm vi tâm linh của một cá nhân. Để cho thấy vì sao con cháu hư hỏng, vì sao mọi người đều bất xứng, tội lỗi, trước Thiên Chúa là Cha ; Chúa Giêsu kể dụ ngôn “người cha nhân hậu”, nói lên lý do tại sao con người cần quay trở về với nguồn yêu thương, thưa đó là tiến trình nhận biết mình. Thiếu tiền, cuộc sống gia đình có thể trở nên nặng nề ; thiếu tình, người ta dễ nghi ngờ, chấp nhất, dè chừng nhau. Dụ ngôn không lên án lý lẽ, tình cảm, sai trái, thuộc về ai, cũng không phá hỏng tương quan gia đình, nhưng diễn tả một tấm lòng bao dung vừa đủ lý đủ tình, đủ tính thuyết phục, hàn gắn lại phẩm giá mà con cái cố ý, hay vô tình làm hư hỏng.
Nhìn vào tình trạng gia đình hôm nay: đau khổ bất hoà, “tiền hết, tình tan, đời tàn”, không phải vì vợ chồng đói nghèo vật chất, không phải do cha mẹ chưa khôn chưa khéo đủ với con cháu, cũng không hẳn vì con cái lười biếng. Nói theo xã hội tính là vì con người ích kỷ, thiếu cảm thông với nhau. Nói theo phương diện đạo đức, do gia đình thiếu tình yêu thương, không đủ ơn Chúa, thay vì bổ túc nâng đỡ nhau, họ lại lấy thước đo công bằng lý lẽ phân tranh thắng thua, đúng sai. Dụ ngôn cho thấy ưu tiên số một của con cái không hẳn là tiền của, người con thứ đi hoang, người con trưởng quần quật lao động làm việc bên cha, cả hai đều mất phương hướng, không nhận ra được tình yêu thương của gia đình. Trở về cội nguồn yêu thương, là trở về cõi lòng mình, trở về sau tháng ngày đi hoang, trở về sau tháng năm hiểu sai, hiểu chưa đủ chưa đúng Thiên Chúa là Cha, chúng ta là con, Thiên Chúa không phải là ông chủ, chúng ta không phải là đầy tớ.
Kinh nghiệm của tiền nhân cho biết: ai chiến thắng không hề chiến bại, ai nên khôn chẳng dại đôi lần. (Tố Hữu). Thực ra, sai lầm, thiếu sót, bất hiếu, không minh định nổi Đấng giầu lòng yêu thương ở đâu, đó là vì ta ảo tưởng khả năng hiểu biết của mình. Vấp ngã, đối diện với nguy hiểm chết người, rồi đứng dậy, trở về, nhưng về đâu ? về gia đình, nơi ta được sinh ra ? về với Thiên Chúa là cội nguồn yêu thương ? có phải tất cả đều chung một tâm tình là trở về cõi lòng mình không ? Khi đưa ra dụ ngôn, Chúa Giêsu mở ra cho các luật sĩ, biệt phái, cho cả chúng ta, vì có thật lòng nhìn đến lối sống hiện tại của mình, ta mới biết mình cần phải sám hối, hầu nhận ra Thiên Chúa là Cha nhân hậu. Đi hoang, hư hỏng như người con thứ, hiểu sai, hiểu không đúng về đấng bậc sinh thành của mình đều gọi là bất hiếu. Khi nào ta hồi tâm trở về với con người thật như đứa con đi hoang, khi nào ta đủ bình tĩnh để lắng nghe như người con cả: “hỡi con, mọi sự của cha là của con”, ta mới hiểu được tấm lòng bao dung của Thiên Chúa, đủ cảm nhận Thiên Chúa là cội nguồn yêu thương.
Người cha nhân hậu đối với con cái, đối với tội nhân không phải là người cha nhu nhược ; người cha vĩ đại là người cha biết giúp những đứa con nhận ra chúng được yêu thương, được hưởng phần gia nghiệp đời đời. Ngày hôm nay không phải là không còn những đứa con ngỗ nghịch đi hoang, cũng không phải là không có những bà mẹ hằng hy sinh hãm mình cầu nguyện hết nước mắt vì yêu thương con. Con đi hoang, con hiểu sai về cha mẹ, vẫn gọi là con hư, con bất hiếu ; cha mẹ có chậm, có khù khờ cũng không ai có thể xoá đi thiên chức cao cả mà Thiên Chúa đã đặt để, nối kết, trong mối tương quan yêu thương. Xung quanh chúng ta biết bao người có của ăn của để, nhưng con cái nay đau mai ốm, lâu hay mau gì rồi cũng khánh kiệt. Dù là con đại gia, nhưng lười biếng, chỉ lo tìm hưởng thụ, thiên hạ cũng xếp vào loại gia đình vô phúc mà thôi. Mang hình ảnh là luật sĩ biệt phái, là con thứ hay con trưởng, là linh mục tu sĩ, là người tín hữu tài giỏi hay bình dân, chúng ta đều có cơ hội để cảm nhận Thiên Chúa là Cha đầy lòng nhân ái, nếu ta tin tưởng, sám hối trở về với cõi lòng, trở về với cội nguồn yêu thương. Amen.
Tình Cha cao vời, không gì sánh ví, Với những phân tích điều này trong dụ ngôn người cha nhân từ: Tự do, hy vọng, lòng thương xót và niềm vui. Chúng ta khám phá lại niềm trong Chúa đã bị đánh mất vì những lỗi phạm.
Tình yêu cho con tự do.
Người cha nhân từ không phản ứng gì khi người con đòi chia gia tài để trảy đi phương xa làm ăn. Đối với người Do Thái thời Chúa Giêsu, bổn phận người cha là giáo dục con cái toàn diện, từ đời sống đạo đức, tinh thần, nhân bản và cả nghề nghiệp. Khi đã trưởng thành, người cha rút lui váo bóng tối, để người con tự thân lớn lên giữa cuộc đời. Với hình ảnh đó, người cha nhân từ chính là Thiên Chúa tự xoá mình đi để con người hiện hữu. Thông thường, thời Chúa Giê su, cha mẹ sắp đặt cho con những sự việc tương lai, nhưng câu truyện, chính người con tự quyết cho mình tương lai. Người cha chấp nhận mọi đề nghị của người con, chấp nhận để con tự quyết và tự chịu trách nhiệm về điều người con lựa chọn. Đã bao lần con người đã tự quyết nhiều chuyện mà không cần có Chúa, Chúa vẫn chấp nhận tự xoá mình đi để con người tự quyết.
Niềm hy vọng của cha.
Trao con người con tự do, và người cha luôn hy vọng về người con trong việc ra đi. Người cha âm thầm cầu nguyện cho con gặt hái được thành công, không phải là để cha mẹ được thêm danh dự nhờ người con. Người cha hy vọng nó được khôn ra nhờ trải nghiệm của nó. Câu truyện thành công giữa đời đâu dễ dàng gì? Cầm cục tiền khá lớn, chưa có hoạch định gì, bởi chỉ mong thoát khỏi vòng ta cha, ra khỏi nhà Chúa. Cám dỗ ăn chơi, tiêu xài luôn mời mọc bao quanh. Khi con người muốn tự quyết cho mình ngoài Thiên Chúa. Con người thường thất bại. Bởi chỉ có chiều ngang thiếu chiều dọc làm sao phát triển? Người cha chờ đợi trước ngõ, vẫn hy vọng một ngày nào đó người con sẽ hiểu ra vấn đề, để trở về ăn năn sám hối. Khi không cần có Chúa là chiều dọc, hướng lên, thì con người chỉ có chiều ngang và bước đi chúi mũi và lầm lũi giữa đời cô quạnh.
Lòng thương xót.
Biểu hiện lòng thương xót là những dự đoán linh cảm được về những sự kiện xấu đến với người con. Kinh nghiệm của cha mẹ thường thấy bồn chốn, lo lắng về đứa con ở xa, như linh cảm điều dữ nào đó đang đổ dồn trên nó. Người cha đứng ngồi không yên, nghe tin vùng đứa con đang ở đang mất mùa, đói kém. Chiều chiều ra đứng đầu ngõ đợi tin con.
Khi vừa thấy con từ đàng xa. Hành động của tình thương là chạy đến, thay vì người con chạy mau đến quỳ dưới chân cha, thì người cha lại chạy đếm ôm con. Lòng trắc ẩn của Chúa dường như hiểu hết những hư hoại của con, không trách móc, không lên án, chỉ có lòng thương xót ôm lấy con. Vì tình thương lớn lao đó, người con mới nhận ra chính mình: “Thưa cha, con đắc tội với trời và với cha, con không đáng gọi là con cha nữa” (lc 15, 21).
Niềm vui của cha.
Như những ngày còn thơ bé, con là niềm vui của cha mẹ, những chiều tan sở về đón con. Đứa con tan trường, chạy đến bên cha mẹ đang đón đợi, Cha mẹ vui mừng thấy con mạnh khoẻ, vui chơi, học hành với bạn bè, ngoan hiền. Chạy xe đưa con đi đâu đó chơi vài vòng, mua vài bánh, trà sữa gì đó cho con vui, trước khi về nhà.
Niềm vui của người cha nhân hậu thấy con trở về cũng vui như thế, đeo nhẫn, mặc lại bộ quần áo mới, mở tiệc mừng… Chỉ với một lý do: “con ta đây đã chết mà nay đã sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15, 24). Chúa đợi tìm con, khi cho con tự do ra khỏi vòng tay Chúa. Chúa mừng vui khi con tội lỗi, hoen úa, quay trở về. Niềm vui của con lại được thắp lên trong niềm vui của Chúa.
Người cha nhân hậu, là bản tin mừng hay nhất của những con người lầm lạc trở về bên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con nhận ra những tội lỗi của con đã đắc tội với trời và với Chúa, để quay trở về hưởng niềm vui của Chúa.
Những người tội lỗi được mời, Ăn năn hối cải, đổi đời canh tân. Các thầy biệt phái dự phần, Nghĩ mình công chính, không cần phải lo. Dụ ngôn Chúa dậy thước đo, Người con trai thứ, chia kho gia tài. Tiêu pha xa xỉ sòng bài, Ăn chơi phung phí, tiêu xài phá tan. Đến khi sạch túi khóc than, Bạn bè hất hủi, miên man khổ nghèo. Vào miền xin chỗ chăn heo, Muốn ăn cặn bã, đói meo trong lòng. Hồi tâm hoán cải ước mong, Trở về mái ấm, bên lòng cha yêu. Quyết tâm dũ bỏ mọi điều, Về nhà xin lỗi, con tiêu hết tiền. Cha già đối xử nhân hiền, Ôm con tha thứ, ân thiêng đổ tràn. Người anh ghen tị trách than, Công bằng phán đoán, thế gian nội tình.
Trong Mùa Chay, hầu như ai cũng thích nghe bài Phúc Âm nói về người con phung phá. Lại có số người nghĩ về lòng cha nhân hậu. Sau khi nghe câu truyện, chúng ta có nhiều cảm tình với người em phung phá hơn là người anh ghen tương ở nhà.
Người con phung phá gom góp tất cả tiền bạc và ra đi tiêu xài hoang phí. Anh tiêu hết tiền hết bạc bị bạn bè bỏ rơi, rồi thất nghiệp và rơi vào tình trạng điêu tàn. Đây là cơ hội tốt cho anh hồi tâm. Anh đã cảm nhận sự trống vắng, tồi tụy và cô đơn của mình. Anh đã thú nhận lỗi lầm và quyết định thay đổi cuộc sống. Anh can đảm quyết định đứng dậy trở về nhà cha, dù cha xử thế nào anh cũng chấp nhận. Đây là giây phút trọng đại và ân huệ trong đời. Xuống tới cùng tận khổ đau, anh nhận được tình cha yêu thương độ lượng và thứ tha để rồi làm lại cuộc đời. Quay đầu là bờ.
Còn người anh trưởng ở nhà với cha. Mọi sự của cha là của con. Khi người em trở về, vì ghen tị, anh đã có thái độ bất kính với cha. Chúng ta có thể hiểu được tâm trạng của người anh. Đây là một phản ứng rất tự nhiên, mà mỗi người chúng ta thường vấp phải. Khi có những người tội lỗi, ăn chơi trụy lạc hoặc lầm lạc trở về, chúng ta thường xì xèo và bàn tán. Đôi khi còn có những thái độ khinh bỉ đối với họ.
Trở về là một niềm vui. Chúa nói rằng một người tội lỗi hối cải trở về thì ngay cả các thiên thần trên trời cũng vui mừng. Truyện kể: Có một người du côn. Anh là võ sĩ trở lại đạo. Ngày kia người bạn của anh, gặp và hỏi anh: Tôi nghe anh mới tòng giáo, thật là tức cười. Anh nói: Sao lại tức cười chứ! Đó là điều tốt nhất mà. Người bạn nói: Nếu vậy, liệu anh xóa nổi chân tướng du côn cao bồi ngày trước chăng. Những vết sẹo trên mặt anh tố cáo tung tích của anh. Anh nói: Tôi không ngại chi về truyện đó. Những vết sẹo kia nay trở thành cửa sổ cho ơn Chúa tuôn đổ vào hồn tôi.
Khi chúng ta trở về cùng Chúa, cho dầu chúng ta đã phạm nhiều tội, nhưng khi tội lỗi đã được tha và có thể còn dấu vết của ký ức. Đây chính là dấu vết tình thương của Chúa. Thái độ của người cha già thật đáng trân trọng. Nhìn thấy con hoang trở về từ đàng xa thì vội chạy ra ôm hôn con hồi lâu. Cha đã hiểu và tha thứ tất cả. Cha xóa sạch lỗi lầm của con. Tình yêu thương nhân hậu của cha quá bao la. Tình yêu đã phủ lấp tất cả những lỗi lầm. Hãy trở về cùng Chúa, Chúa là Cha Nhân Hậu đang chờ đón chúng ta với cánh tay rộng mở.
Người con trai nhỏ xin cha cho phần gia tài anh ta được hưởng trước khi người cha chết là một nhục mạ cho cha anh. Luật lệ thời đó qui định anh được hưởng một phần ba gia tài sau khi cha anh chết. Đòi được chia phần trước khi cha chết có khác chi anh coi như cha đã chết nên anh mới đòi hưởng phần gia nghiệp thuộc về anh. Ngạc nhiên thay cha anh chiều í anh, ban cho điều anh yêu cầu. Thoả mãn yêu cầu của anh, người cha biết anh sẽ ra đi, gia đình sẽ phân tán, nhưng cha anh chấp thuận. Điều cha anh sợ hãi nay thành sự thật, nhận được phần của cải, anh mau chóng cuốn gói ra đi, đi đến phương xa. Chữ ‘phương xa’ không chỉ nói đến một nơi nào đó xa xăm mà còn ngầm diễn tả nhiều í nghĩa khác nữa bởi ‘Ở đó, anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình’ c.13b
Thứ nhất, tình nghĩa cha con từ nay trở nên nhạt nhẽo, trở thành xa lạ. Đối với cha anh, tình cha con không thay đổi, không phai nhạt, nhưng nó trở nên ngày mong mỏi, đêm nhớ thương. Riêng anh, tình cha trở nên xa lạ, nhạt nhẽo. Người cha đau khổ vì mất con, trong khi người con vui mừng vì điều anh khao khát, ước mơ có ngày cất cánh tung bay nơi phương trời xa lạ sắp thành sự thật.
Thứ hai, nơi phương xa anh từ bỏ cuộc sống cũ, lao vào nếp sống mới. Nề nếp, gia phong, tập quán, cách giao tế, cách ăn uống và ngay cả niềm tin của anh, tất cả đều xáo trộn, ngược hẳn với lối sống mới. Đây là lối sống của dân ngoại, những người không cùng niềm tin.
Thứ ba, phương xa đây chính là vùng đất của dân ngoại, những người tin vào sức mạnh của của cải, vật chất, và thế lực trong xã hội. Tiền bạc chính là chúa của họ. Đời sống con nguời được đo bằng giá trị, của cải người đó có trong tay. Nhiều tiền được trọng vọng, ít tiền bị coi thường và không tiền, người đó chỉ hơn con vật một chút. Phung phí hết tiền, anh xin đi chăn heo và muốn ăn thực phẩm heo ăn, chủ cũng không cho. Điều này cho biết giá trị nào trọng hơn.
Thứ tư, phương xa đây còn cho biết Yahweh, Đấng anh tôn thờ từ thuở nhỏ giờ trở nên cách xa. Anh từ bỏ Yahweh. Sống phóng đãng là sống đời lạc thú. Muốn thế cần có tiền. Không tiền không ai tiếp đón. Hết tiền anh bị coi rẻ, khinh thường và cuối cùng bị xua đuổi. Khi con người coi trọng tiền, họ đón người có tiền, nhạt nhẽo với người ít tiền và xua đuổi người không tiền. Đói khát, đau khổ, tủi hổ, thất vọng không luôn dẫn con người trở về đường lành; trái lại con người lại tìm cách đổ thừa cho người khác để bảo vệ hành động của mình. Một số lại trách móc Thiên Chúa tại sao để cho con khổ đến thế. Người con nhỏ nhìn lại cách người xa lạ đối xử với anh. Anh nhận ra anh đã phung phí. Phung phí tiền bạc, phung phí sức khoẻ, phung phí thời gian, phung phí tài năng. Nhục nhã, đau khổ, đói khát không giúp anh trở về con đường lành. Anh đứng dậy trở về vì anh hồi tâm, nhận ra tình thương cha dành cho anh, đối xử tốt với công nhân, nhẹ nhàng với ăn đầy tớ trong nhà. Nhận biết anh đã đi quá xa, đã phạm tội không riêng với cha anh mà còn phạm đến trời nữa. Chính vì hồi tâm, chính vì tình thương và lòng độ lượng, thương người của cha giúp anh mạnh dạn trở về, hy vọng lòng rộng lượng của cha nhận anh vào làm việc. Từ xa người cha nhận ra anh, ông vội chạy ra ôm choàng lấy con, không để cho con kịp nói lời xin lỗi. Ông vui mừng mở tiệc ăn mừng. Bởi theo ông, con ông đã mất, nay tìm thấy, đã chết, nay sống lại c.24. Niềm vui còn dạt dào hơn bởi không phải ông tìm thấy mà chính là con ông. Anh đánh mất tương lai, nay tìm thấy. Anh mất hy vọng nơi cha anh, nay tìm thấy. Anh mất con đuờng lành, nay tìm thấy. Tình yêu dành cho cha đã chết, nay sống lại. Anh nhận ra tình cha anh bao la, rộng lượng hơn tội anh phạm. Anh đã tìm thấy con đường sống, con đường dẫn đến yêu thương, tha thứ. Tình cha trong anh được nối kết. Chính những điều này giúp người cha vui mừng thiết tiệc mừng con trở về.
Lời Chúa của Chúa Nhật IV Mùa Chay tiếp tục những gì đã được bắt đầu trong tuần trước; đó là: niềm vui khi trở về với Chúa hay đúng hơn là niềmvui sinh hoa trái tốt khi Thiên Chúa đến. Chúng ta dừng lại giây phút để hỏi chính mình: tuần sống vừa qua, tôi có sinh được hoa trái tốt nào để dâng cho Chúa khi Ngàingựđến trong tâm hồn tôi qua Lời của Ngài và Thánh Thể không?
Trong năm phụng vụ của Giáo Hội, Mùa Vọng và Mùa Chay được đánh dấu với màu tím, màu của tỉnh thức đểđón Chúa và sám hối đểtrở về với Chúa. Điều đáng để chúng ta lưu ýtrong hai mùa này là: trong các Chúa Nhật của hai mùa này, mỗi mùa có một Chúa Nhật nói về niềm vui: Chúa Nhật III Mùa Vọng [niềm vui vì Chúa đã đến gần] và Chúa Nhật IV Mùa Chay [niềm vui vì được Chúa tha thứ khi trở về], là Chúa Nhật hôm nay. Vì vậy, chúng ta thấy đề tài chính của Chúa Nhật hôm nay là niềm vui của những người trở về với Chúa. Và nguồn gốc của niềm vui này được tìm thấy trong hình ảnh của dân Israel trong Đất Hứa:tận hưởng những “thổ sản trong xứ” trong bài đọc 1,và trong hình ảnhcủa người con hoang đàng trở về:tận hưởng bàn tiệc với thịt béo rượu ngon trong bài Tin Mừng. Một cách ngắn gọn, chúng ta tìm thấy lý do của niềm vui cho Chúa Nhật hôm nay trong bài đọc 1, đó là: “Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Aicập” (Gs 5:9a). Hôm nay, Thiên Chúa sẽ cất khỏi chúng ta nỗi ô nhục khi làm nô lệ cho tội lỗi nếu chúng ta quyết tâm trở về với Ngài.
Thánh Phaolô, trong bài đọc 2, nói đến niềm vui trở về với Thiên Chúa qua hình ảnh “thọ tạo mới” mà Chúa Giêsu mang lại cho chúng ta: “Thưa anh em, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo mới. Cái cũđã qua, và cái mới đãcó đây rồi” (2 Cr 5:17).TheoThánh Phaolô, chỉ trong Đức Giêsu Kitô chúng ta mới có được niềm vui đích thật, vì chỉ qua Ngài mà chúng ta được hoà giải với Chúa Cha.Không những thế, khi đã được hoà giải với Thiên Chúa trong Đức Kitô, chúng ta trở thành những người “công bố lời hoà giải” (2 Cr 5:19). Như vậy, chúng ta chỉ có được niềm vui trọn vẹn khi chúng ta hoà giải với Chúa và với nhau. Kinh nghiệm cuộc sống dạy chúng ta rằng: hoà giải với Chúa thì dễ hơn hoà giải với anh chị em của mình. Kinh nghiệm này được Thánh Luca trình bày trong hình ảnh của người cha và hai người con trong Tin Mừng hôm nay.
Để có thể hiểu rõ hơn sứ điệp của bài Tin Mừng cho bối cảnh sống hôm nay, chúng ta cần đọc nó với lăng kính của các mối tương quan trong gia đình: chồng với vợ, cha mẹ với con cái và giữa con cái với nhau[hay trong cộng đoàn đời tu: bề trên với nhau, bề trên với bề dưới,và giữa bề dưới với nhau]. Chi tiết đầu tiên chúng ta cần biết là bài Tin Mừng của Chúa Nhật hôm nay đã được đọc vào thứ bảy tuần II Mùa Chay. Hơn nữa, câu chuyện này chỉ tìm thấy trong Tin Mừng Thánh Luca. Đó là một dụ ngôn, một câu chuyện hay một vở kịch gồm có ba vai diễn: người cha, người con cả và người con thứ. Trước đây, chúng ta gọidụ ngôn này là dụngôn người con hoang đàng. Nhưng ngày nay, nó được gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu vì nhân vật chính trong dụ ngôn không phải là người con út, người thường được xem là người con hoang đàng. Chúng ta cùng nhau phân tích ba vai diễn này [từ lăng kính của các mối tương quan trong gia đình hay cộng đoàn đời tu] để xem chúng ta đang đóng vai nào trong vở kịch đầy yêu thương của Thiên Chúa.
Người con thứ: cậu được xem là người đại diện cho những ai theo chủ nghĩa “duy vật,” “duy thực dụng,” và “duy tiêu thụ.” Điều này được thể hiện qua những chi tiết sau: cậu xin cha cậu phần tài sản cậu được hưởng, cậu thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa, cậu sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình (x. Lc 15:12-13); khi đã ăn tiêu hết sạch, lâm cảnh túng thiếu, và đã cố gắng kiếm miếng ăn bằng cách đi ởđợ cho người khác, nhu cầu vật chất của cậu vẫn không được thoả mãn (x. Lc 15:14-17) nên cậu trởvề với gia đình đơn giản vì: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!” (Lc 15:17). Động lực chính để cậu trở về là cái ăn cái mặc, chứ không phải là tình thương của gia đình. Những chi tiết này cho chúng ta thấy: cậucon út là người đặt vậtchất lên trên cácmối tương quan của mình với những thành viên khác trong gia đình. Và khi nhận ra vật chất không phải là thứ mang lạihạnh phúc thật trong cuộc sống, cậu mới ý thức được tầm quan trọng của các mối tương quan trong gia đình. Điều này khuyến cáochúng ta rằng: hạnh phúc trong gia đình không hệtại ở vật chất, nhưng hệ tại nhữngmối tương quan thân thiết, đầy yêu thươngchúng ta có với những thành viên khác trong gia đình, vìkhi chúng ta “xa cơ lỡ vận,” tiền của sẽ bỏ chúng ta ra đi, chỉ có những người thân trong gia đình luôn ở bên chúng ta. Đừng chờđến khi mất người thân và khi gia đình tan vỡmới nhận ra rằng vật chất không phải là tất cả, không phải là thứmang lại hạnh phúc cho gia đình [cộng đoàn], nhưng là tình yêu, sự cảm thông và tha thứ mà mỗi thành viên dành cho nhau.
Thật sự, không có gì sai khi cậu con thứ đến xin cha cậu chia phần gia tài thuộc về cậu. Điều sai ở đây là cậu bỏ nhà ra đi, đi khỏi vòng tay yêu thương của người cha và các thành viên khác trong gia đình. Trong văn hoá thời đó, “bỏ đi khỏi gia đình” đồng nghĩa với “chết.”Điều này giải thích câu nói của người cha với người anh cả: “Nhưng người cha nói với anh ta: ‘Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con.Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy’” (Lc 15:31-32). Hành trình trở về của người con thứ cũng chính là hành trình trở về với Thiên Chúa của mỗi người chúng ta. Trong hành trình trở về này, chúng ta luôn phải ý thức rằng: khi rơi vào “vực sâu” của tội lỗi, của cuộc sống xa Thiên Chúa, không ai và không có gì có thể làm chúng ta trở về ngoại trừý thức được việc chúng ta được Thiên Chúa yêu cách tuyệt đối và vô điều kiện.
Người con trưởng: cậu đại diện cho những người “bằng mặt chứ không bằng lòng.” Tương quan của cậu với người cha và người em chỉ mang tính “pháp lý” [“con ghẻ”] chứ không mang tính ruột thịt. Thánh Luca chỉ ra điều này trong những chi tiết sau: cậu ở trong nhà, nhưng với thái độ của một người “đầy tớ” chứ không phải là của một người con: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè” (Lc 15:29); cậu phủ nhận em của mình: “Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!” (Lc 15:30). Nơi người con trưởng, chúng ta nhận ra điều chúng ta thường gọi là: “giận quá mất khôn.” Thật vậy, vì giận dữ, cậu đã làm tổn hại và từ chối các mối tương quan trong gia đình. Nhưng chúng ta tự hỏi, điều gì làm cho người con trưởng tức giận? Thánh Luca cho chúng ta thấy lý do chính là lòng tốt của người cha dành cho người em: “‘em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ.’Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà” (Lc 15:27-28). Chúng ta thấy nơi người con trưởng hình ảnh của mỗi người chúng ta là những người đôi khi đặt của cải lên trên tình thântrong gia đình. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng hành xử như người con trưởng. Chúng ta xem vật chất quan trọng hơn nhân phẩm của người thân trong gia đình. Hệ quả là khi những giá trị vật chất của chúng ta bịđe doạ,chúng ta tỏ thái độ giận dữ và từ chối vào tham dự bàn tiệc để nhận lại người thân“đã mất” và“đã chết”. Hãy tránh thái độgiận dữ trong gia đình vì nó sẽ giết chết dần các mối tương quan trong gia đình.
Trước khi phân tích hình ảnh người cha, điều làm chúng ta ngạc nhiên ở hai người con là việc người con thứ cuối cùnglà nhân vật chính của bữa tiệc; còn người con trưởng là người được mời hay “năn nỉ” vào dự tiệc. Người con thứ bây giờở trong nhà, còn người con trưởng thì ởngoài. Cuối cùng, ai là người con hoang đàng? Người con thứ hay người con trưởng? Đây là câu hỏi cho mỗi người chúng ta.Nhiều khi chúng ta cũng nghĩ tôi thánh thiện và tôi đang ởtrong nhà Chúa, còn người anh chị em của chúng ta tội lỗi nên họ sẽ bịở ngoài. Hãy cẩn thận! Có thể chúng ta đang ở ngoài và anh chị em của chúng ta đang ở trong và dự tiệc với Thiên Chúa.
Người cha: ông là hình ảnh lý tưởng chocác bậc làm cha làm mẹ [và những người lãnh đạo cộng đoàn tu trì]. Chúng ta có thể học từ người cha những đức tính cần thiết cho các mối tương quan trong gia đình [và cộng đoàn] sau: (1) ông luôn đặt các tương quan trong gia đình [cộng đoàn] lên vị trí quan trọng nhất. Điều này được diễn tả trong hành động sẵn sàng chia gia tài cho con thứ mà không tỏ thái độ khó chịu hoặc tra hỏi; khi người con thứ ra đi, mỗi ngày ông vẫn đứng chờ và mong cậu trở về; khi người con thứ trở về, ông không nổi giận và không quan tâm gì về những của cải người con thứđã phung phí mà chỉ quan tâm đến nhân phẩm của người con; (2) ông luôn trung thành với ơn gọi làm cha của mình và với tình yêu của mìnhdành cho các con. Nói cách khác, dù hai người con có nhìn ông thế nào [người con thứ muốn trở thành người làm công và như vậy xem ông như ông chủ và người con trưởng cũng thế, xem mình như người hầu], ông vẫn luôn xem chúng là con của ông; (3)ôngluôn bên cạnh các con dù chúng ở bên trong hoặc bên ngoài gia đình. Nói đúng hơn, ông luôn bên cạnh các con khi chúng mắc lỗi lầm. Chúng ta thấy ông ở ngoài để chờ người con thứ, người đi hoang đàng; và khi cậu trở về, thì ông lại rangoài với người con trưởng đang giận dữđể thuyết phục cậu vào ngồi chung bàn tiệc với em của mình. Hình ảnh này là hình ảnh của Thiên Chúa giàu lòng xót thương: Ngài luôn yêu và chờ đợi chúng ta dù chúng ta có đi xa tình yêu của Ngài.
Như chúng ta đã nói ở trên: trở về với Chúa thì dễ hơn trở về với anh chị em của mình [làm hoà với Chúa thì dễ hơn làm hoà với người khác]. Chi tiết này được phản chiếu trong hình ảnh của người con trưởng. Bài Tin Mừng hôm nay kết lửng với việc người cha cố gắng thuyết phục người con trưởng vào nhà và đón nhận em của mình trở về: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con.Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”(Lc 15:31-32).Thánh Luca không cho chúng ta biết cuối cùng người con trưởng có vào để nhận lại người em của mình hay không. Thánh Luca có lý do khi kết như thế vì ngài muốn chúng ta là người viết đoạn kết cho câu chuyện này. Cụ thể là chúng ta đặtmình vào trong vị trí của ngườicon trưởngvà tự hỏi chính mình:liệu tôicó vào không? Nếu Chúa muốn chúng ta ngay bây giờ đón nhận một người anh chị em mà chúng ta thù ghét [hay hờn giận], liệu chúng ta có làm điều đó không?
Câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay là câu chuyện của một gia đình. Một gia đình có một người cha và hai người con. Về phương diện xã hội ta thấy đây là một gia đình thành đạt. Thế nhưng sự thành đạt đã không đủ sức để tạo nên sự tin tưởng yêu thương trong gia đình.
Người cha và hai người con.
Người cha trong xã hội Do Thái là người cha đầy uy quyền. Ông là người chủ sự các giờ kinh và có những quyết định mà con cái phải vâng theo. Tắt một lời đây là người thay mặt Thiên Chúa trong việc cai quản, chăm sóc và lo lắng cho gia đình.
Người cha trong câu chuyện hôm nay là một người tài giỏi. Sự thành đạt của gia đình này phải nói là do công sức của ông. Ông đã xây dựng được gia đình có thế giá trong xã hội. Thế nhưng gia đình này vẫn chưa có được sự tin tưởng và yêu thương nhau như những điều kiện cần thiết để cho gia đình có được nhiều niềm vui và hạnh phúc.
Hai người con: Cả hai người con trong câu chuyện hôm nay đều là những người không có được sự hiểu biết rõ ràng về người cha của mình. Chính sự thiếu hiểu biết này đã đem đến những hệ luỵ không được tốt đẹp lắm cho gia đình. Người con thứ đã bỏ nhà ra đi. Sự ra đi của nó đã tạo nên một sự nhớ nhung mênh mông trong lòng của người cha nhưng người cha cứ sẵn lòng chịu vậy cho tới khi nó thân tàn ma dại quay đầu trở về.
Người con cả cũng chẳng hiểu biết rõ cha của mình. Trong đầu óc của nó, người cha dường như chẳng quan tâm gì tới sự có mặt của nó trong gia đình mặc dù nó đã hết lòng chu toàn mọi bổn phận như một đứa con thảo hiếu. Hơn thế, nó còn cảm thấy thua thiệt khi người cha đối xử quảng đại với em của nó. Chính vì thế mà nó đã không bằng lòng với cách đối xử của người cha khi ông hoan hỉ đón nhận người con thứ trở về.
Tóm lại, cả hai người con đều chẳng có người nào hiểu rõ về cha của mình. Chính sự thiếu hiểu biết đó đã đưa đến những cách ứng xứ không được đẹp trong tương quan cha-con, huynh-đệ trong gia đình làm cho gia đình không được hạnh phúc.
Bài học.
Có thể nói qua câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay chúng ta có thể rút ra được một bài học rất cần thiết cho cuộc sống làm người cũng như làm con Thiên Chúa. Bài học đó chính là sự thiếu hiểu biết về nhau và về Thiên Chúa.
a). Trong cuộc sống làm người sự thiếu hiểu biết về nhau nhiều khi đã đưa đến những chuyện đau lòng khó lường.
Quan hệ giữa một cô gái trẻ và mẹ chồng luôn ở trong tình trạng căng thẳng. Cô gái cảm thấy mẹ chồng luôn muốn đối đầu với cô, luôn muốn gây khó dễ cho cô. Trong đầu cô luôn nghĩ cách đối phó với mẹ chồng.
Một hôm, cô gái đến bệnh viện hỏi một nữ bác sỹ:
– Thưa bác sỹ, có phương thuốc nào hiệu nghiệm có thể đầu độc được mẹ chồng tôi không? Tôi không thể nào chịu đựng nổi sự ngược đãi của bà ấy.
Bác sỹ nghe xong, không hề ngăn cản mà mỉm cười nói:
– Tôi sẽ kê cho cô một toa thuốc có tên gọi “bùn chua”.
Mỗi ngày trước bữa ăn cô cho mẹ chồng uống một viên. Chỉ có điều khi đưa thuốc cho mẹ chồng uống, cô phải giả vờ tỏ ra là một con dâu hiền thảo, để mẹ chồng khỏi nghi ngờ. Ba tháng sau, mẹ chồng cô sẽ thay đổi.
Ba tháng sau, cô gái trẻ ấy lại một lần nữa đến gặp bác sỹ ấy nói:
– Thưa bác sỹ, tôi không muốn đầu độc mẹ chồng tôi nữa.
– Tại sao cô lại thay đổi ý định vậy?
– Từ khi tôi nghe theo lời bác sỹ, mỗi ngày trước bữa ăn, tôi lễ phép đưa thuốc cho mẹ chồng uống. Sau một thời gian, thái độ của mẹ chồng đối với tôi bỗng thay đổi. Bà ấy trở nên rất thân thiện với tôi. Hơn nữa còn giành việc để làm, để cho tôi nghỉ ngơi nhiều hơn, quan tâm chăm sóc tôi giống như mẹ đẻ. Vì thế, tôi muốn cứu mẹ chồng tôi.
Cô gái vừa khóc lóc vừa nói:
– Bác sỹ kê cho tôi một toa thuốc giải độc. Xin bác sỹ hãy cứu mẹ chồng tôi?
Nghe cô gái nói xong, bác sỹ mỉm cười nói:
– “Bùn chua” thực ra là một loại thuốc giúp người ta ăn ngon miệng. Vì cô đưa thuốc cho mẹ chồng với thái độ vui vẻ lễ phép nên mẹ chồng cô cảm kích trước hành động hiếu thuận này của cô, đồng thời bắt đầu đối xử tốt với cô. Cô nên nhớ rằng, muốn người khác đối xử với mình như thế nào, thì trước tiên phải đối xử với người khác như thế ấy.
b). Đối với Thiên Chúa cũng vậy. Sự thiếu hiểu biết về Thiên Chúa đã làm cho bao người mất đi nhiều niềm vui và hạnh phúc cho cuộc đời mình.
Một vị tướng lãnh người Mỹ, khi nói về tôn giáo thì tỏ vẻ nhạo báng, khinh bỉ. Ngược lại, bà vợ của ông ta thì khá đạo đức. Ngay từ đầu bà đã thành công trong việc in vào trí óc đứa con gái duy nhất – mà cả hai đều yêu thương đậm đà – tình yêu đối với Thiên Chúa và tôn giáo, mặc dù nó bị ảnh hưởng không tốt từ người cha. Rồi một hôm em bé bỗng đau nặng. Tình trạng của em ngày càng nặng làm cả nhà thất vọng.
– Ba, Ba yêu quý của con – em nói- trong vài giờ nữa con sẽ chết. Con xin ba nói cho con biết con phải tin cái gì, tin vào ai, hay là tin vào những gì má nói cho con biết về Thiên Chúa và về Nước Trời?
Vị tướng bị giao động mạnh, nước mắt chảy quanh tròng, ông trả lời:
– Con của Ba, con hãy tin vào những gì má con luôn nói!.
– Như vậy Ba cũng phải tin vào Thiên Chúa chứ?
Đây là câu hỏi Lôgích của em. Và người cha đã không bao giờ quên lời cầu xin cuối cùng này của đứa con gái. Ông trở về lại với Giáo hội mà ông đã từ bỏ từ lâu và ông thực cảm thấy hạnh phúc trăm lần hơn trước.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa. Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa. Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn. Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa. Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa. Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa. Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen. (Thánh Âu-Tinh)
Dụ ngôn Đức Giêsu kể trong Tin mừng hôm nay, có thể nói là một trong những trang Tin mừng đẹp nhất. Đẹp vì Tin mừng hé mở cho chúng ta thấy được tấm lòng của Thiên Chúa giàu lòng xót thương. Đẹp vì dụ ngôn nói đến lòng thương xót của Thiên Chúa chủ động đi tìm con người. Ngài đi tìm một Phaolô đang trên đường lầm lạc bắt đạo. Ngài đi tìm một Lêvi đang ngồi nơi bàn thu thuế. Ngài đi tìm một Giakêu đang trên cây sung và lưu lại tại nhà ông. Chúa như là người mục tử đi tìm con chiên lạc. Chúa như người cha nhân hậu ngày ngày ra đầu ngõ mong tìm đứa con hư đốn trở về.
Để đi tìm con người, Thiên Chúa phải từ bỏ trời cao đi xuống đất thấp nhập thể làm người. Phải từ bỏ mạng sống để cho con người được sống. Thực là mầu nhiệm tình thương ngàn đời ai hiểu thấu. Tình thương Ngài cao hơn ngàn tội lỗi. Do đó, không tội lỗi nào mà Ngài không tha thứ. Không vết thương nào mà Ngài không chữa lành. Không nỗi buồn nào mà Ngài không an ủi, bởi vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Tình thương Chúa thật rõ nét qua câu chuyện “Người cha nhân hậu” trong Tin mừng Chúa nhật hôm nay.
Theo truyền thống phương đông, gia tài chỉ được chia sau khi cha mẹ đã qua đời. Xin chia gia tài lúc cha mẹ còn sống chẳng khác nào cầu mong cha mẹ mau chết đi. Vậy mà ở đây người cha sẵn sàng chia gia tài cho những đứa con của mình. Sau khi thỏa mãn ước nguyện, người con út thu quén tất cả tài sản trẩy đi phương xa.
Nơi đây, anh ta ăn chơi tiêu xài phung phí với bọn đàng điếm. Với lối ăn chơi như thế, chẳng mấy chốc thì tiền hết sạch. Hết tiền, hết bạc thì bạn bè cũng xa lánh. Đúng như lời sách Huấn Ca nói: “Có bạn là bạn đồng bàn, vào ngày tai họa chẳng tìm thấy ai”(Hc 6, 10).
Cùng đường sinh sống, anh ta đành phải đi ở mướn chăn heo và hèn hạ đến nỗi thèm cả cám heo, ăn cho đỡ đói mà cũng chẳng ai cho. Lúc bấy giờ anh ta hồi tâm và quyết định trở về thú tội với cha không phải vì lòng hiếu thảo nhưng để giải quyết cái bụng đói. Điều đáng nói ở đây, là anh đánh mất nhân phẩm, đánh mất mối tương quan tình nghĩa cha con, khi anh thưa với cha mình “Con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như người làm công thôi”.
Trong khi đó người cha ở nhà hằng nhớ con da diết, đêm ngày thương nhớ đứa con yêu. Ngày ngày ông ra tận đầu ngõ mong tìm đứa con trở về. Đến khi thấy bóng dáng con mình từ đàng xa, ông không bệ vệ và lững thững chắp tay sau lưng đi tới theo cung cách của các đại gia bề thế. Ông quên luôn tư cách đạo mạo của người cha trong một gia đình đông phương nề nếp. Ông không nhớ mình đang là một bậc vị vọng sang trọng.
Nhìn thấy con, ông không hạch hỏi gì, cũng chẳng nói năng chi, ông chạnh lòng thương, chạy đến, ôm chầm lấy và hôn nó hồi lâu. Ông thấy nó lem luốc, hôi hám, bẩn thỉu, nó tệ hại và bệ rạc làm sao! Mặc kệ, ông càng chạnh lòng thương con hơn. Ông bảo đầy tớ hãy mau đem áo mới, giầy mới, nhẫn vàng phục hồi nhân phẩm cho con mình, và còn ra lệnh giết bê béo mở tiệc ăn mừng nữa.
Trong khi đó, người con cả, sống trong nhà cha mà tâm hồn nó xa cha biết bao. Nó không hề biết chia sẻ tình thương, những ưu tư, hoài bão của cha. Khi hay biết đứa em trở về và người cha mở tiệc ăn mừng, anh ta tỏ ra giận dữ chối từ đứa em lớn tiếng với cha “Thằng con của cha kia”, chứ không phải là em của mình. Nhưng người cha vẫn bao dung nhẹ nhàng khuyên bảo: “Con ơi! Con luôn ở với cha, mọi sự của cha đều là của con”. Người con tuy ở trong gia đình, nhưng tâm hồn nó không thuộc về gia đình. Nó làm việc không phải với tâm tình của một người con hiếu thảo coi “mọi sự của cha là của con”, nhưng làm việc như một người làm công. Anh ta coi con bê nhỏ, coi bạn bè hơn tình nghĩa cha con. Như vậy, nếu người con út cần một cuộc trở về thì anh con cả cần tới hai cuộc trở về: về với cha và về với em.
Qua dụ ngôn này, Đức Giêsu mặc khải cho chúng ta thấu hiểu Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Ngài luôn sẵn sàng mở toang cõi lòng nhân hậu chờ đón con cái mình, để yêu thương và tha thứ, bất kể chúng ta như thế nào.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta đóng vai nào trong ba nhân vật trên. Chắc chắn không ai dám cho mình đóng vai người cha trong dụ ngôn, bởi lẽ chỉ mình Thiên Chúa mới có tấm lòng bao la nhân từ như thế. Thế còn hai nhân vật kia thì sao?
Biết đâu chúng ta mang dung mạo của người con út, lạc xa đường ngay nẻo chính, chìm đắm trong tội lỗi xấu xa, phung phí của cải Chúa ban như: thời giờ, sức khỏe, tiền bạc… chạy theo những đam mê bất chính mà quên đi ân tình của Thiên Chúa.
Rất có thể chúng ta đóng vai người con cả. Khi tuân giữ được một vài điều đạo đức bên ngoài như: đọc kinh, dự lễ, làm việc lành phúc đức… chúng ta tự khoác lên mình một chiếc áo thánh thiện, tự gán cho mình một nhãn hiệu tốt, coi mình đạo đức hơn những người khác, và loại trừ anh em đồng loại ra khỏi con tim của mình.
Vì thế, chúng ta là con út hay con cả, chúng ta cũng phải trở về. Nếu chúng ta chưa đi hoang trong đời sống, thì cũng có nhiều lần chúng ta đi hoang trong tâm hồn, đánh mất tình nghĩa giữa ta với Chúa. Và đôi khi cũng chỉ vì một chút của cải của cha mẹ để lại, mà chúng ta chối từ anh em ruột thịt của mình.
Xin cho chúng ta xác tín Chúa là người cha yêu thương chúng ta trước khi chúng ta yêu Ngài; đi tìm chúng ta trước khi chúng ta đi tìm Ngài, tha thứ cho chúng ta trước khi chúng ta xin lỗi Ngài. Với tâm tình sám hối trở về, chúng ta cùng thưa lên với Chúa: Lạy Cha! Tin lòng Cha bao la luôn thứ tha vạn lần ngã xa; Lạy Cha! Tin lòng Cha thương con, con chỉ mong gặp lại tình thương. Amen.
Giặt là hành động “rửa” quần áo, nhưng không thể chỉ “giặt” mà còn phải “giũ” – giũ cho sạch. Việt ngữ thường kết hợp hai động tác đó thành “giặt giũ”. Ngày xưa, chính Đức Chúa đã truyền lệnh cho ông Mô-sê: “Hãy đến với dân và bảo họ: hôm nay và ngày mai phải giữ mình cho khỏi nhiễm uế, phải giặt quần áo, và đến ngày kia phải sẵn sàng, vì ngày kia Đức Chúa sẽ ngự xuống trên núi Xi-nai trước mắt toàn dân” (Xh 19:10-11). Cựu Ước đề cập động từ “giặt” 24 lần, Tân Ước đề cập 4 lần, đặc biệt là câu này: “Phúc thay những kẻ giặt sạch áo mình, để được quyền hưởng dùng cây Sự Sống và qua cửa mà vào Thành!” (Kh 22:14).
Làm gì cũng mệt, giặt giũ cũng vậy, đồ càng bẩn thì giặt càng mệt. Tương tự, chiếc áo tinh thần càng bẩn càng khó giặt, chỉ có thể giặt bằng loại “thuốc tẩy” đặc biệt là Bửu Huyết Đức Giêsu Kitô. Thông thường, muốn bỏ một điều xấu hoặc một thói xấu thì người ta phải dám – nghĩa là phải can đảm. Có can đảm mới có thể tin tưởng, có tin tưởng mới có thể dứt khoát “đứng dậy” và “trở về”. Người con hoang đàng yếu đuối phần xác nhưng lại đủ mạnh tinh thần nên đã có sự can đảm và dám dứt khoát để trở về mái nhà xưa, mong được chuộc tội với người cha, và chính người cha cũng đã can đảm và dứt khoát mới có thể nhìn nhận đứa con hư là người con yêu như trước.
Thuở xưa, Đức Chúa xác định với ông Giô-suê: “Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai-cập” (Gs 5:9). Vì thế, người ta đã gọi tên nơi ấy là Ghin-gan cho đến ngày nay. Con cái Ít-ra-en đóng trại ở Ghin-gan và cử hành Lễ Vượt Qua ngày mười bốn trong tháng, vào buổi chiều, trong vùng thảo nguyên Giê-ri-khô. Đó là hồng ân Thiên Chúa đã trao ban cho dân Ít-ra-en, cả người tốt lẫn người chưa tốt, cũng như mưa xuống cho mọi người mà chẳng phân biệt ai sang hay hèn, khôn hay dại, tín nhân hay vô thần.
Cuộc sống của dân Ít-ra-en giản dị, nhờ hồng ân nhưng vẫn phải hợp tác bằng sức lao động hằng ngày: “Hôm sau lễ Vượt Qua, họ đã dùng thổ sản trong xứ, tức là bánh không men và hạt lúa rang, vào đúng ngày đó. Hôm sau, không còn man-na nữa, khi họ dùng thổ sản trong xứ; thế là con cái Ít-ra-en không còn có man-na nữa. Năm ấy, họ đã dùng hoa màu của đất Ca-na-an” (Gs 5:11-12). Làm việc để biết giá trị của lao động và ý nghĩa của cực khổ. Hưởng dùng những gì do mình làm ra mới biết trân quý sự nỗ lực của bản thân, nếu cứ an nhàn thì người ta dễ ảo tưởng, ỷ lại và kiêu ngạo.
Dù chúng ta tốt hay xấu thì nguồn mạch Hồng Ân của Thiên Chúa vẫn luôn tuôn tràn, lòng thương xót của Ngài chẳng bao giờ giảm sút chút nào. Cảm nhận được điều đó nên Thánh Vịnh gia xác định: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi” (Tv 34:2). Tại sao vậy? Lý do rất minh nhiên: “Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa, xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên” (Tv 34:3). Đó là chứng cớ sống động, không thể chối bỏ, thế nên không thể không nói ra để chia sẻ với người khác.
Tất nhiên không chỉ có vậy, bất cứ những ai cảm nhận được tình yêu bao la của Thiên Chúa thì chắc chắn không thể thụ động, nghĩa là bằng cách nào đó, họ sẽ tích cực kêu gọi: “Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người. Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng. Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi” (Tv 34:4-6). Yêu nhiều thì lợi nhiều, cụ thể là được tha thứ nhiều (x. Lc 7:36-50). Tình yêu mạnh hơn mọi thứ, bất chấp cả tử thần. Thánh Antôn Maria Claret đã tha thiết ước muốn: “Lạy Chúa Giêsu, con muốn yêu mến Ngài hết lòng, hết con người và hết sức con. Con xin tận hiến cho Ngài mọi tư tưởng, ước muốn, lời nói và hành động của con, những gì con có và những gì có thể. Con xin sử dụng những gì con có để vinh danh Ngài, theo Thánh Ý Ngài”.
Thiên Chúa là Đấng thương xót, luôn chạnh lòng thương xót, chỉ muốn cứu người ta thoát khỏi đau khổ. Thế nên Ngài luôn lắng nghe và thấu hiểu mọi nỗi niềm. Thánh Vịnh gia khiêm nhường và chân thành tâm sự: “Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn” (Tv 34:7). Cầu xin là một dạng cầu nguyện, và cầu nguyện là sức mạnh phi thường. Thánh Louis De Montfort: “Hãy cầu nguyện với lòng tin tưởng sâu sắc, lòng tin tưởng dựa trên sự thiện và sự đại lượng vô hạn của Thiên Chúa, dựa vào lời hứa của Đức Giêsu Kitô. Thiên Chúa là nguồn mạch nước hằng sống không ngừng tuôn chảy vào tâm hồn những người cầu nguyện”.
Ai chuyên cần cầu nguyện thì được nhiều ơn thánh và đủ sức biến đổi. Thánh Phaolô xác định: “Ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi” (2 Cr 5:17). Đó là cách canh tân, càng ngày càng mới hơn. Nhưng không phải do công sức của chúng ta, mà “mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải” (2 Cr 5:18). Thánh nhân giải thích: “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người KHÔNG CÒN CHẤP TỘI nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải. Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa” (2 Cr 5:19-20). Hòa giải với Thiên Chúa thì tất nhiên cũng phải hòa giải với tha nhân, đó là một cách để “giặt sạch” chiếc áo đời đầy vết bẩn tội lỗi của mình.
Chúng ta biết rằng Thánh Phaolô là một học giả của nhóm Pharisêu, chữ nghĩa đầy mình, nhưng ông không văn hoa bóng bẩy mà lại viết rất rõ ràng và thực tế: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5:21). Tình yêu Thiên Chúa quá kỳ diệu, quá cao siêu, chúng ta không thể nào lý giải được, mà chỉ có thể cúi đầu kính tin, chúc tụng và cảm tạ không ngừng.
Thời đó, các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Ngài giảng điều hay lẽ phải, dạy lời thiêng ý thánh, nhờ đó mà có thêm ý lực sống. Thấy thế, nhóm người Pharisêu và kinh sư tỏ vẻ khó chịu – vì tự nhận mình thông suốt và đạo đức hơn người, và họ xầm xì với nhau về Chúa Giêsu: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lc 15:2). Lưỡi không xương đủ đường lắt léo. Tình trạng này rất thường thấy trong cộng đồng: Xét người hơn xét mình. Đó là một dạng kiêu ngạo được che đậy khá tinh vi dưới nhiều dạng thức, không khác gì người Pharisêu dám chê trách người thu thuế ngay khi cầu nguyện (x. Lc 18:9-14). Đó là dạng “phạm tội ngay khi làm việc đạo đức”. Ôi chao, người ta sai mười mươi mà vẫn cho mình là đúng, là hay. Kẻ vỗ ngực tự làm kềm kẹp chính mình, người đấm ngực tự giải thoát chính mình.
Chúa Giêsu biết rõ họ đang thầm nghĩ và toan tính điều gì, nên Ngài kể cho họ nghe dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu” (Lc 15:11-32) – cũng gọi là dụ ngôn “Đứa Con Hoang Đàng”. Ngài ôn tồn: Một người kia có hai cậu con trai. Có lẽ do vọng ngoại và bị bạn bè xấu rủ rê nên cậu nhỏ nói với cha: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng”. Chắc là người cha cũng ngạc nhiên, nhưng ông vẫn chiều theo ý nó mà phân chia của cải cho hai cậu. Ít ngày sau, cậu nhỏ thu góp tất cả rồi ra đi, không hẹn ngày về. Ở nơi nào đó, cậu ta sống phóng đãng, ăn chơi sa đọa, phung phí hết tài sản của mình, bất cần tương lai.
Miệng ăn, núi lở. Chẳng bao lâu, cậu ta tiêu xài hết sạch, nhưng không may trong vùng ấy lại xảy ra một nạn đói khủng khiếp. Cậu ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng, và người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Trong cơn bĩ cực, cái đói nhói cái khổ, cậu ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng mà cũng không dám, bởi vì chẳng ai cho. Thật thê thảm! Bấy giờ cậu ta hồi tâm và nhớ nhà. Cậu ta biết rằng có nhiều người làm công cho cha mà vẫn được cơm dư gạo thừa, còn cậu ta ở đây lại đói meo, chỉ có nước chờ chết thôi. Cậu ta quyết định trở về và sẽ thú tội với cha, rồi xin cha nhận mình như người làm công thôi, chứ chẳng dám hy vọng gì hơn. Sau quá trình giằng co tư tưởng, cậu ta dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ, lấy hết can đảm đi về ngay, không dám nán lại giây phút nào nữa. Và nước mắt bao giờ cũng chẳng xuống…
Rất quan trọng đối với động thái dứt khoát. Đó là từ bỏ chính mình, dám “chết” cho tội lỗi, “chết” cho những gì bất chính nơi mình. Đau khổ, thất bại, thua cuộc, lâm bước đường cùng, bệnh tật, tai bay vạ gió,… đó là những lúc tiếng Chúa đang thẳng thắn nói thật với chúng ta. Tài sản cá nhân của chúng ta không là tiền bạc, của cải, vàng bạc, vật chất… mà là tính tự phụ, tính ích kỷ, thói kiêu căng, thói lọc lừa, gian dối, mưu thâm kế độc,… Và rồi một lúc nào đó, chúng ta cũng “trắng tay” và không dám “đứng thẳng” mà ngước nhìn đời. Khi bị “triệt buộc”, người ta lâm cảnh tiến thoái lưỡng nan, nhưng nếu can đảm dứt khoát với quá khứ thì thật phúc thay, bởi vì Thiên Chúa nhân từ vẫn luôn dành cho chúng ta lòng thương xót nguyên vẹn: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (1 Sb 16:34 và 41; 2 Sb 5:13; 2 Sb 7:3 và 6; Er 3:11; Tv 100:5; Tv 106:1; Tv 107:1; Tv 118:1-4 và 29; Tv 136:1-26).
Mới về gần đến nhà, cậu nhỏ đã được cha ra đón. Cậu biết thân biết phận mình khốn nạn nên cậu bật khóc và nói với cha: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa”. Cậu xấu hổ lắm. Nhưng người cha vẫn chờ giây phút này từ ngày cậu dứt tình ra đi. Thế là nó đã biết lỗi, người cha vui mừng liền bảo các đầy tớ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Tiệc mừng làm ngay, ăn ngay, không thể trì hoãn sự sung sướng như thế, mặc dù lúc đó vắng mặt cậu lớn. Ôi, Lòng Thương Xót của Chúa quá bao la và vô cùng kỳ diệu!
Trong khi đang tiệc mừng rôm rả, người con cả của ông vẫn ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ”. Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Người cha ra năn nỉ, nhưng anh ta tỏ vẻ khó chịu và so đo: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”.
Rõ ràng cháy nhà mới ra mặt chuột. Đâu hẳn là con ngoan khi vẫn ở nhà và làm việc cho cha, chứ không chơi bời lêu lổng, không hoang đáng chi địa, cũng chẳng cờ bạc hoặc rượu chè. Lúc có “sự cố” mới biết, lâu nay cậu lớn có vẻ ngoan ngoãn đấy, nhưng trong lòng chẳng tốt lành gì đối với cha mình. Thái độ ngang ngạnh và lời nói xấc xược bây giờ chứng tỏ cậu ta thực sự nổi loạn: không bằng lòng người cha và chẳng ưa thằng em. Chúng ta cũng thế thôi, bằng mặt mà chẳng bằng lòng, cũng chỉ là những đứa con bất hiếu, vẫn thường so đo và tính toán như cậu lớn trong dụ ngôn này. Tính kiêu ngạo luôn chờ cơ hội, từ manh nha biến thành manh động chỉ trong tích tắc. Cái tôi ích kỷ cũng chỉ chực vùng lên bất cứ lúc nào, với nhiều cách biện hộ cho sự tồi tệ của mình. Thật chí lý với nhận xét của Benjamin Franklin (1706-1790, tổng thống Mỹ): “Half a truth is often a great lie – Một nửa sự thật thường là điều dối trá to lớn”.
Rất có thể lúc nghe cậu lớn nói vậy, người cha đã bật khóc vì quá đau lòng, thế nhưng ông vẫn chịu đựng, nhẫn nhịn, điềm đạm và ôn tồn nói với nó: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Người cha lý luận tuyệt vời quá. Tình yêu thương khỏa lấp mọi khoảng trống và thắng vượt mọi thứ.
Quả thật, Thiên Chúa vô cùng nhân từ và kiên nhẫn, Ngài đã chấp nhận bỏ 99 người đạo đức để đi tìm chỉ một người lầm đường lạc lối, vì Ngài “không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Mt 18:14). Ôi, Thiên Chúa “ngược đời” quá mà cũng kỳ diệu quá! Nếu Ngài không “khác người” như vậy thì chúng ta hết đường “về nhà” như cậu nhỏ và cũng hết lý luận kiêu căng như cậu lớn. Vì thế, chúng ta phải dứt khoát bỏ ngay thói bạc tình của cậu lớn và thói hoang tưởng như cậu nhỏ. Nói chung, thằng nào cũng bất nhân, chẳng thằng nào có hiếu với cha mình!
Lạy Thiên Chúa nhân lành, chúng con thật là khốn nạn, thế mà vẫn mạo nhận là “chiên ngoan”. Chúng con biết tội rồi, xin Ngài thương xót và biến đổi chúng con nên khí cụ của Ngài, xin dập tắt thói kiêu sa, tính hợm mình nơi chúng con, xin giúp chúng con nhận biết mình là tội nhân ngu xuẩn để có thể đoạn tuyệt với quá khứ đen tối mà kịp trở về trong thời gian còn được cậy nhờ lòng thương xót của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Thiên Chúa dựng nên con người có hồn có xác. Ngài còn ban cho họ lý trí và tự do để sống theo thánh ý Ngài. Tự do là tặng phẩm vô giá Thiên Chúa đã tặng ban cho con người để họ tự do trung thành với Chúa hay phản bội Ngài. Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. Vì thế, tự do là con dao hai lưỡi, nếu biết dùng nó cho đúng thì sống, mà dùng sai thì chết.
Chính vì con người có quyền tự do nên họ đã phạm tội chống lại Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót, Ngài vẫn yêu thương con người khi họ còn ở trong vòng tội lỗi, Ngài kiên nhẫn chờ đợi, kêu mời và tạo mọi điều kiện để họ trở về sống trong ân tình của Ngài. Dụ ngôn đứa con hoang đàng hôm nay nói lên chân lý đó.
Thánh Luca đặc biệt nói về lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa qua ba dụ ngôn, mà dụ ngôn người con hoang đàng là sâu sắc hơn cả. Con người yếu đuối và hay sa ngã.. Nguyên tổ Adong Evà đã sử dụng sai tự do của mình, đã sa ngã, nhưng Chúa vẫn thứ tha. Rồi đến lượt con cháu ông bà cũng đi vào vết xe cũ đó, nhưng Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi, kêu gọi họ trở về để được ơn tha thứ. Đavít, Madalena, Phaolô, Augustinô, Charles de Foucauld… đã đi vào con đường tăm tối và đã được giải thoát sang vùng ánh sáng tự do.
Có lẽ mỗi người đều sẽ phải nếm nỗi chua xót vì đã sử dụng tự do sai trái ! Tất cả đã đúc thành cái giá cắt cổ mà Con Thiên Chúa phải trả thay bằng chính mạng sống mình. Bài học sâu sắc của đứa con hoang đàng đã trở thành tiêu biểu cho những người dám chân thành và cam đảm làm cuộc trở về với Người Cha Nhân Hậu.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Gs 5,9-12.
Trong 40 năm trên đường về Đất Hứa, Thiên Chúa đã nuôi dưỡng dân Do thái bằng manna, ai muốn ăn bao nhiêu thì ăn, không bị hạn chế, nhưng khi đã đặt chân lên Đất Hứa rồi, mannna thôi rơi, và dân bắt đầu ăn thổ sản trong xứ.
Cuộc xuất hành về Đất Hứa đã kết thúc, họ mừng lễ Vượt Qua đầu tiên để tạ ơn Chúa đã thực thi lời hứa trong giai đoạn quyết định vừa qua. Từ nay, lễ Vượt qua được ấn định vào ngày 14 tháng Nisan hàng năm giúp dân Do thái luôn nhớ đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với họ.
Trong cuộc hành trình về quê trời, Mình Thánh Chúa là manna được Thiên Chúa ban cho loài người, một thứ thần lương nhiệm mầu nuôi sống linh hồn chúng ta và đem chúng ta đến sự sống đời đời.
+ Bài đọc 2: 2Cr 5, 17-21.
Thiên Chúa là Đấng trung thành và thương xót, đã dùng Đức Kitô mà giao hòa chúng ta với Người, đã gánh tội của chúng ta và làm cho chúng ta được thông phần sự sống của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã cho chúng ta được tái sinh nhờ Bí tích rửa tội để sống một đời sống mới.
Nhưng điều đã được thực hiện dứt khoát một lần trong Đức Kitô còn phải được thực hiện nơi từng người: đó là tầm quan trọng của sứ mạng hòa giải được giao phó cho các vị Tông đồ. Do đó, Giáo hội có sứ mạng làm cho những ơn ích của sự hòa giải ấy được đến với mọi người.
+ Bài Tin mừng: Lc 15,1-3.11-32.
Thiên Chúa luôn giầu lòng thương xót và tha thứ đối với tất cả mọi người. Thánh Luca đã diễn tả lòng thương xót đó qua 3 dụ ngôn:
– Dụ ngôn con chiên lạc (Lc 15,4-7). – Dụ ngôn đồng tiền bị mất (Lc 15,8-10). – Dụ ngôn đứa con hoang đàng (Lc 15,1-3.11-33).
Trong dụ ngôn người con hoang đàng này, ta thấy người cha có hai đặc điểm: tôn trọng tự do của con, sẵn sàng chia gia tài cho con, và nhất là sẵn sàng tha thứ, luôn mong đợi con trở về ngay khi nó chưa hối lỗi. Người con thứ không phải là mẫu mực một kẻ tội lỗi hồi tâm: anh ta không có vẻ ăn năn thống hối thực sự, anh ta chỉ đi theo hướng có lợi, nghĩa là trở về cho khỏi bị chết đói.
Tuy thế, Thiên Chúa là người Cha tốt lành và nhẫn nại, Ngài tìm mọi cách để cứu chúng ta. Ngài đợi chờ chúng ta qua nhiều năm tháng dài. Ngài vui sướng đón nhận chúng ta vào cánh tay Ngài vì chúng ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Tình thương dạt dào, đó là lời mời gọi của Cha trên trời dành cho hết mọi người con của Ngài, dù họ biết bao lỗi lầm, dù họ chưa sẵn sàng trở về với Ngài.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Trở về với Cha nhân hậu
I. BA MÀN CỦA MỘT VỞ KỊCH.
Theo giáo thuyết của các giáo sĩ Do thái thì những người thu thuế và tội lỗi bị tách ra khỏi cộng đồng tôn giáo và xã hội Do thái. Nhưng ở đây những người này lại đến gần Đức Giêsu để nghe Ngài giảng và họ còn mời Ngài đến dùng bữa tại nhà mình.
Thấy thái độ Đức Giêsu đón tiếp những người thu thuế và tội lỗi trái với giáo thuyết của Do thái, nên biệt phái và luật sĩ là những người chủ trương giữ luật rất khắt khe đã kêu trách Đức Giêsu. Họ kêu trách Ngài về hai điểm:
a) “Ông này đón tiếp những người tội lỗi”: Người Do thái hành động theo châm ngôn sau: Thiên Chúa yêu thương những người công chính và gớm ghét những người tội lỗi. Bởi vì Thiên Chúa gớm ghét người tội lỗi nên người Do thái cũng phải làm như thế. Nhưng ở đây Đức Giêsu làm ngược lại: Ngài đón tiếp các tội nhân.
b) “Và cùng ăn với chúng”: Không những tiếp đón những người tội lỗi mà Đức Giêsu còn đi xa hơn: là cùng ăn với họ. Thông thường bữa ăn diễn tả thân hữu liên đới giữa con người với nhau. Vì thế, ở đây với hai thái độ “Cùng ăn với họ” Đức Giêsu cho thấy Ngài muốn hiệp thông với chính những người tội lỗi. Ngài muốn cứu giúp những người tội lỗi và chính Ngài là nơi nương tựa cho những kẻ bị bỏ rơi.
Trong chương 15, ta thấy Đức Giêsu đã kể ra 3 dụ ngôn có ý nhằm vào luật sĩ và biệt phái vì họ tự cho mình là công chính mà khinh khi những người tội lỗi và những người bị loại trừ.. Ba dụ ngôn ấy là:
– Con chiên lạc (Lc 15,4-7). – Đồng tiền bị mất (Lc 15,8-10). – Đứa con hoang đàng (Lc 15,11-32).
Ba dụ ngôn này được ngắt nhịp bằng một điệp khúc ca tụng tình thương Thiên Chúa được bầy tỏ nơi Đức Giêsu; tình thương ấy dành cho những người không được yêu thương và không đáng yêu, những người một cách gián tiếp lên án sự nghiệt ngã và nghiêm khắc mà những kẻ tự phụ là công chính dành cho họ. Phụng vụ hôm nay không ghi lại hai dụ ngôn trên mà chỉ ghi lại dụ ngôn thứ ba là dụ ngôn đứa con hoang đàng, tức là dụ ngôn về tình phụ tử. Dụ ngôn này thật quí báu, do được một mình Luca kể lại, vì nó đặc biệt phù hợp với tinh thần của sách Tin mừng này. Trong dụ ngôn đứa con hoang đàng, những nhân vật được nêu ra ở đây có tính cách ám chỉ:
– Người kia tức là người cha: ám chỉ Thiên Chúa. – Người con cả: ám chỉ dân Do thái, cách riêng các luật sĩ và biệt phái. – Người con thứ: ám chỉ người có tội.
Màn thứ nhất: Người cha chia gia tài.
Theo luật của người Do thái, người cha không được tự do phân chia gia tài mình tùy ý thích, đứa con cả đương nhiên được hai phần ba, đứa con thứ một phần ba (Đnl 21,1). Theo phong tục của nhiều dân tộc, người con chỉ được phép chia gia tài khi người cha đã chết. Cha còn sống mà đòi chia gia tài, chẳng khác nào muốn nguyền rủa cho cha chết sớm ! Nhưng đứa con thứ bất hiếu trong dụ ngôn này đã đòi cha chia gia tài sớm. Nó làm thế như có ý nói: “Cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng được lãnh khi cha chết, và hãy để tôi đi ra khỏi nhà này”.
Người cha không tranh luận gì, ông muốn tôn trọng sự tự do của nó. Ôâng cũng hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì nó phải có một bài học đắt giá, và ông đã chia gia tài cho nó. Tức khắc đứa con lấy phần riêng của nó và bỏ nhà ra đi.
Màn thứ hai: Đứa con thứ ra đi và trở về.
Nhận được phần gia tài rồi, hắn lên đường đi đến một phương xa, chơi bời trác táng, giao du với những quân du côn, với những cô gái đĩ điếm. Tiêu xài như thế thì đến núi cũng phải lở. Chẳng bao lâu hắn đã tiêu xài hết tiền của, đồng thời nạn đói cũng xẩy ra tại miền ấy. Hắn phải đi kiếm việc làm cho qua ngày, nhưng tìm được việc làm đâu có dễ, hắn chỉ xin được chăn heo, mà đối với người Do thái chăn heo là một điều xấu hổ, mất phẩm giá, vì heo là một con vật ô uế (Đnl 14,8).
Sống trong cảnh nhục nhãø và túng thiếu đến cùng cực, hắn mới hồi tâm lại: ở nhà cha tôi thiếu gì của ăn, đến đứa đầy tớ cũng còn thừa cơm bánh, còn tôi ở đây thì phải cùng cực, muốn ăn cám heo người ta cũng không cho ăn. Ở trong hoàn cảnh này thì vô phương giải quyết, chỉ còn cách trở về kiếm miếng cơm cho khỏi chết. Hắn nghĩ thế này: tôi sẽ trở về xin lỗi cha và chỉ dám xin cho ở nhà cha với phận mọn là đứa tôi tớ thôi, đâu dám nghĩ đến chuyện được nhận lại làm con. Nhưng làm một tên nô lệ mạt trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà cha, theo một nghĩa, thì nô lệ là một phần tử trong gia đình, nhưng đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào.
Sau khi đã suy nghĩ rất hung, hắn lên đường trở về, và mọi điều dự đoán của hắn đều sai hết. Thánh Luca đã mô tả:”Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ôâng chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói:”Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng đáng gọi là con cha nữa…” Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng:”Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng ! Vì con tay đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Và họ bắt đầu ăn mừng.
Màn thứ ba: Người anh cả giận dữ.
Đáng buồn thay, khi về đến nhà thấy người ta đang liên hoan ăn mừng người con thứ đã trở về, người anh cả giận điên lên không chịu vào nhà. Anh không chịu vào nhà vì anh không thể tha thứ cho người em lầm lỡ. Anh không chịu vào nhà vì anh sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm. Anh không chịu vào nhà vì anh không thể hiểu được tấm lòng nhân hậu của người cha.
Hóa ra, bấy lâu nay anh sống trong nhà cha mà như ở bên ngoài: anh không trái lệnh cha chỉ để làm tròn bổn phận chứ không phải vì yêu mến cha. Anh không hề gọi người em mình là “em tôi” mà là “thằng con của cha kia”. Anh không cảm thông với người em lầm lỡ, cũng không chia sẻ nỗi khổ của người cha mất con. Anh ta là người tự tôn, sẵn sàng đạp kẻ nào đã ngã xuống rãnh bùn hôi thối càng ngã sâu hơn nữa.
II. BA MÀN KỊCH ĐỐI VỚI CHÚNG TA.
Thiên Chúa giầu lòng thương xót.
Thiên Chúa là người cha giầu lòng thương xót, chỉ biết thi ân giáng phúc muôn vàn cho con người một cách quảng đại và bao dung tha thứ, và rất tôn trọng con người hơn những người cha tôn trọng tự do con cái. Ngài không thẳng tay trừng phạt, chỉ biết nhẫn nại chờ đợi đứa con trở về. Vừa khi thấy nó trở về, Ngài chạy lại ôm chằm, hôn nó một hồi lâu, không cần nghe nó xin lỗi, vì nó trở về chỉ vì thống khổ, không sống được nữa, nó chỉ mong về được ăn cho no, thoát khổ, thoát chết.
Thái độ của người cha thật tuyệt vời, ông không để cho nó kịp mở miệng xin làm đầy tớ. Ôâng đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tượng trưng cho việc được tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, vì nếu ai cho kẻ khác chiếc nhẫn ấn tín của mình thì cũng như ủy quyền cho người đó thay thế mình. Đôi giầy là dấu hiệu làm con khác với nô lệ vì con cái trong gia đình mới mang giầy, còn nô lệ thì không. Và một yến tiệc được bầy ra để mọi người ăn mừng đứa con đi hoang nay đã trở về nhà cha.
Ta thường gọi dụ ngôn này là dụ ngôn “đứa con hoang đàng”, nhưng có lẽ phải gọi là dụ ngôn “Người cha nhân hậu” mới đúng, vì nó cho ta biết về tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.
Người cha hẳn đã mỏi mắt trông chờ đứa con trở về nhà, vì ông trông thấy con từ đàng xa. Khi con gặp cha thì cha liền tha thứ cho con và không một lời trách móc. Có nhiều cách tha thứ, có sự tha thứ được ban cho như một ân huệ, và tệ hơn nữa là khi một kẻ nào đó được tha thứ nhưng bao giờ cũng kèm theo một dấu hiệu, một lời nói, một ngăm đe rằng tội người ấy vẫn còn giữ đó.Hôm nay đứa con đi hoang biết mình đáng bị trừng phạt. Do đó, nếu người cha trừng phạt thì nó cũng sẵn sàng chịu đựng. Lòng nó nhẹ đi. Nhưng nó không vui. Chính sự tha thứ của người cha mới đem lại cho nó niềm vui thực sự.
Truyện: Tổng thống Abraham Lincoln.
Một lần kia, Lincoln được hỏi ông sẽ đối xử thế nào với quân phiến loạn miền Nam, khi họ thua trận và trở lại liên hiệp với Hoa kỳ ? Người hỏi câu ấy nghĩ rằng ông sẽ báo thù họ ghê gớm, nhưng Lincoln trả lời:”Tôi sẽ đối xử với họ dường như chưa bao giờ họ ly khai với chúng tôi”.
Đây là một dụ ngôn có tầm vóc thần học. Dụ ngôn của ân huệ Chúa ban cho con người. Dụ ngôn về tình yêu nhưng không Cha ban cho mọi người, dầu tội lỗi mấy đi nữa. Cha muốn họ tham dự niềm vui, muốn mời gọi họ khám phá ra tình huynh đệ chân chính. Làm sao không nhìn ra qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn trao tặng cho chúng ta bí mật trong cách cư xử và đời sống của Ngài ? Ngài là người Con được Cha sai đến loan báo sự hòa giải cho các tội nhân. Đó là những người mà Đức Giêsu khắc họa hình ảnh nơi người em và đó cũng là những người được mời gọi nhận ra chính mình nơi hình ảnh của người anh (Fiches dominicales).
Truyện: Đứa con hoang đàng của Phật giáo.
Trong giáo lý nhà Phật cũng có câu chuyện gọi là “Dụ ngôn người con hoang đàng”. Câu chuyện kể về một người con bỏ cha, lên đường đi đến một nơi xa xôi sinh sống theo sự tự do phóng khoáng của mình. Vì ăn chơi thái quá anh trở nên nghèo khổ. Người cha ở nhà, sau bao năm tháng chờ đợi không thấy con trở về, đành lên đường đi tìm con. Sau nhiều năm tìm kiếm, hỏi han, người cha đã tìm ra được tung tích của người con mình. Nhưng người con lại không thể nào nhận ra được cha nó, một ông già đầy quyền lực và cao sang. Người con vẫn tiếp tục từ chối và lẩn trốn. Người cha rất đau lòng để con mình lẩn trốn như vậy, nhưng ông ra lệnh cho gia nhân theo dõi cậu, mướn cậu vào nhà làm việc cho ông. Sau đó, người cha vứt bỏ quần áo sang trọng, ngọc ngà của mình đi, đóng vai một người đầy tớ để có cơ hội gần gũi và chinh phục người con. Qua nhiều năm thân thiết người cha đã chinh phục được trọn vẹn tình cảm của cậu. Sau cùng vào cuối đời, người cha mới tiết lộ cho biết anh là con của ông và được quyền thừa kế tất cả gia tài của cha để lại.
(Nguyễn văn Thái, Sống lời Chúa giữa dòng đời, năm C, tr 128)
Câu chuyện này không khác gì lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với loài người. Thiên Chúa luôn yêu thương tìm kiếm con người. Còn con người cứ lẩn trốn, để rồi sau cùng, Thiên Chúa phải sai Con Một xuống thế, làm người đầy tớ đau khổ (Is 53,10-12), dùng cái chết của mình để thuyết phục và nói cho con người biết chức vị làm con cái Thiên Chúa của mình với quyền thừa kế hạnh phúc đời đời trên Nước Trời (Ga 3,16-17).
Người con di hoang đã mất nay lại tìm thấy.
Người con thứ được xác định là một tay ăn chơi trác táng… Nhưng khi đã hết nhẵn tiền thì anh mới cảm thấy hối tiếc cho bản thân mình. Nỗi đau của bản thân khiến anh nhận ra được nỗi đau mà anh đã gây ra cho người cha của anh. Do đó, anh tự nhủ “Tôi sẽ trở về với cha tôi, và xin lỗi người”. Đây là một quyết định can đảm vì đã thất bại và còn vác mặt về mà xin lỗi thì thật là xấu hổ.
Đúng thế, thậât dễ dàng trở về nhà, khi bạn là một người anh hùng, với chiến công và vinh quang. Nhưng đứa con hoang đàng không có một chiến công nào để đem về cho anh, anh không hề có thành quả nào, để nhờ đó, anh xứng đáng được khen ngợi, đón tiếp và yêu thương. Anh đang trở về nhà, với đôi bàn tay trống rỗng. Tệ hơn nữa, anh đang trở về nhà, lòng nặng trĩu xấu hổ và nhục nhã.
Nhưng thật ngạc nhiên, khi người cha nhìn thấy anh trở về đang tiến lại với ông, ông liền chạnh lòng thương, và một phút sau đó, cha con đã ôm chầm lấy nhau. Người cha đã không chỉ chấp nhận cho anh trở về, mà còn đón tiếp anh nữa. Tất cả tội lỗi của anh đều được tha thứ.
Phát hiện vĩ đại nhất mà người con hoang đàng đã nhận ra đó là anh vẫn được yêu thương, trong tình trạng tội lỗi của anh. Người cha không bao giờ ngừng yêu thương anh. Trong tấm lòng nhân hậu của người cha, anh luôn đuợc yêu thương, đó không những là một điều tốt, nhưng khi vẫn được yêu thương ngay trong tình trạng tội lỗi, thì quả là một cảm nghiệm tuyệt vời.
Sự tha thứ của Thiên Chúa không phải là sự tha thứ lạnh lùng, nửa vời, nhưng là sự tha thứ nồng ấm và quảng đại. Thiên Chúa không chỉ tha thứ cho chúng ta, mà Ngài còn yêu thương chúng ta, và để cho chúng ta nhận biết được tình yêu thương đó (MC Carthy).
“Giây phút người con hoang đàng quỳ gối và khóc lóc, anh ta đã biến cảnh lãng phí tài sản của mình bên những cô gái điếm, cảnh chăn heo và thèm khát những thức ăn của heo, trở thành những giây phút đẹp đẽ và thánh thiện trong cuộc đời của mình. Hầu hết mọi người khó mà thấu hiểu được ý tưởng đó. Tôi dám nói rằng người ta phải chịu cảnh tù tội, thì mới thấu hiểu được điều đó. Nếu như vậy, thì có thể thời gian sống trong tù thật đáng giá”(Oscar Wilde).
Truyện: Chúa quên hết tội rồi.
Một bà già thường đến gõ phòng cha xứ, kể cho ngài nghe rằng đêm qua Chúa mới hiện ra với bà. Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, Cha xứ bảo:”Lần sau nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Ngài “Cha xứ con có tội gì nặng nhất ? sau đó tới kể cho tôi nghe”. Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì bà đã trúng kế của Ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.
– Thưa cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con. – Thế bà có hỏi Ngài không ? – Thưa có chứ.
Cha xứ bắt đầu hồi hộp: – Bà hỏi thế nào ? – Thì con hỏi y như Cha đã bảo: ”Cha xứ con có tội gì nặng nhất” ?
Cha xứ càng hồi hộp thêm: – Vậy Chúa có trả lời không ? – Có chứ . Bây giờ thì cha xứ lo lắng thật sự: – Chúa nói sao ? – Chúa nói:”Ta đã quên hết rồi.
Cha xứ thở phào nhẹ nhõm. (Kể theo ĐHY PX Nguyễn văn Thuận)
Người anh cả bất hợp tác.
Người anh cả trở về nhà và anh thực sự buồn rầu vì em của anh đã trở về. Người anh cả đại diện cho các giáo sĩ Do thái tự kiêu, tự mãn, họ thà xem thấy tội nhân bị tiêu diệt hơn là được cứu. Anh ta trách em về những lầm lạc của nó. Đây là một dấu chỉ cho thấy anh ta không hiểu lòng tốt của cha. Bao lâu anh này còn quá tự tín vào bản thân và những công trạng của mình, ganh ghét và khinh bỉ, đầy chua xót và giận dữ, không hoán cải và giao hòa với cha và với em mình, thì bàn tiệc chưa thể hoàn toàn là bữa tiệc liên hoan mừng cuộc gặp gỡ và tái ngộ.
Thái độ của người anh cả đối với người em trai phản ảnh lại thái độ của người biệt phái đối với tội nhân. Mặc dù là những người rất đạo đức, nhưng họ vẫn cho rằng tội lỗi xứng đáng bị kết án hơn là cứu độ. Nhưng lòng đạo đức có công dụng gì, nếu nó không làm cho người ta trở nên thương cảm hơn đối với những kẻ bị sa ngã ? Nếu chúng ta tự nhận thấy mình thông cảm với người anh cả, thì điều này càng chứng tỏ rằng tính cách người biệt phái đó đang ở trong chúng ta. Người anh cả này ghen tức chỉ muốn ông bố giết quách đứa em đi cho bõ ghét, không thể tha thứ được.
Truyện: Người cha giết con.
Nhà truyền giáo T.R. Stevenson ở Thượng hải kể: một thương gia giầu có ở Quảng đông có hai con trai. Người con lớn thường kết bè tụ đảng với bọn bất lương phá phách xóm làng. Một lần, quá túng, hắn dẫn cả một băng về cướp ngay tại nhà mình. Khi tội hắn bị lộ, người cha cho người đến nói với hắn: nếu biết đường cải tà qui chính thì sẽ được tha. Người nhắn còn bảo đây là lần gia ân cuối cùng của ông chủ. Hắn chầm chậm đứng lên và quay về nhà cha. Một bữa tiệc đón tiếp xem ra cũng vui vẻ, nhưng trong đĩa thức ăn của hắn có bỏ thuốc độc. Hắn chết ngay đêm đó, nhưng người cha không bị ra tòa vì theo luật Trung hoa, cha có quyền giết con.
Từ câu chuyện này, các nhà truyền giáo thường đem đối chiếu với đoạn 15 Tin mừng theo thánh Luca mà chúng ta đọc hôm nay.
Suy nghĩ về dụ ngôn này, chúng ta dễ cảm thông với người con hoang đàng và dễ lên án thái độ cố chấp của người anh cả. Nhưng rồi sự suy nghĩ ấy lại đưa chúng ta đến một suy nghĩ khác:
Nói người phải nghĩ đến ta Suy đi nghĩ lại hóa ra chính mình.
Người cha có hai người con: người con đây là ai ? Và đứa con hoang đàng chỉ ai ? Các nhà chú giải không đồng ý kiến.
Các nhà chú giải thời xưa cho rằng: người con cả chỉ người Do thái, con hoang đàng chỉ dân ngoại.
Ngày nay quan niệm đó hầu như bị bỏ, mà còn hai ý kiến sau đây: – Một ý kiến cho rằng: con cả chỉ người biệt phái, con hoang đàng chỉ tội nhân. Người biệt phái lẩm bẩm kêu trách Chúa vì thái độ đối với tội nhân.
– Ý kiến thứ hai cho rằng: con cả chỉ người lành, con hoang đàng chỉ tội nhân. Kẻ lành không hiểu được thái độ Chúa đối với tội nhân trở lại. Xem chừng người ta nghiêng về ý kiến thứ nhất.
Chúng ta là hạng người nào ? Dầu là anh cả, dầu là đứa con hoang đàng, tất cả đều phải sám hối, đều phải trở về, đừng cứng lòng trước ơn Chúa. Trong cuốn Au Gré de Sa Grâce, linh mục André Louf có đề cập đến không những kẻ tội lỗi cứng lòng (pécheurs endurcis) mà còn những người ngay chính (justes endurcis) cũng cứng lòng nữa. Người con hoang đàng là hình ảnh của những người tội lỗi, còn người anh cả có thể là hình ảnh của những người ngay chính cứng lòng. Người tự coi mình công chính, đạo đức mà cứng lòng và tự mãn thì thật khó mà sám hối, trở về.
Có lẽ thái độ của người anh tự coi mình công chính và ganh tị là hình ảnh gợi cho tất cả chúng ta, những người cảm thấy mình làm mọi sự đều đúng, đều tốt đẹp và đạo đức. Chúng ta biết mình là người tốt nên dễ dàng phê phán những người khác. Chúng ta đã mang trong mình tự mãn vì nghĩ rằng Thiên Chúa đang ngự trị trong đời sống của mình.
Chúng ta đã ở vào giữa Mùa Chay, chỉ còn một thời gian nữa là đến lễ Phục sinh. Mùa Chay là mùa được kêu mời trở lại, chúng ta hãy can đảm nhận khuyết điểm, sai phạm của mình, để mạnh dạn trở về cùng Chúa, cùng Giáo hội của Ngài. Thiên Chúa nhân từ trong vai người cha nhân hậu và yêu thương hôm nay, bảo đảm cho sự lầm lỗi của con người yếu đuối, sẽ được tha thứ. Ngài là Cha của tất cả mọi người, Ngài đang chờ đợi từng người một trở về. Đừng nghĩ rằng tội lỗi mình quá nặng, nên không thể giao hòa với Chúa. Cũng đừng cho rằng ân sủng của Chúa không đủ để phục hồi tội lỗi của mình. Hãy thống hối, hãy trở về, sẽ được thứ tha hết mọi lỗi lầm lớn nhỏ. Hãy tạ ơn Chúa, vì tạ ơn là có khả năng ý thức mình là kẻ có tội, và từ đó tập chú vào lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa.
Có niềm vui nào lớn hơn niềm vui của người cha tìm lại được đứa con đã mất và có hạnh phúc nào lớn hơn hạnh phúc của người cha có đứa con tưởng đã chết mà nay nó vẫn còn sống? Người cha ấy có một trái tim đầy bao dung, vòng tay luôn rộng mở để đón chờ đứa con hoang đàng trở về. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh người cha nhân hậu để diễn tả chân dung của Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
Trước lời đề nghị chia gia tài của người con thứ, người cha có cảm thấy tình yêu của mình bị xúc phạm nặng nề không? Không biết trong lòng ông đang nổi cơn sóng nào nhưng ông đã chia gia tài cho hai con; và dù đau lòng chứng kiến người con thứ thu gom của cải của mình để dứt áo ra đi, ông vẫn rất tôn trọng tự do của nó. Chỉ biết rằng, từ ngày vắng con, ông luôn đứng ngồi không yên. Tình yêu ông dành cho con dường như không hề vơi giảm nhưng càng gia tăng. Bởi thương con, ông luôn mong ngóng để đón nó trở về, sáng sáng ra ngõ với niềm hy vọng, chiều chiều về nhà với cõi lòng đau thương. Tình yêu ấy được ẩn chứa trong từng thao thức đợi chờ, trong sự bao dung tha thứ, trong sự sẵn sàng đón nhận một đứa con bất hiếu trở về. Người con cả vẫn luôn bên ông, luôn ngoan ngoãn, chăm chỉ làm việc nhưng dù nó tốt đến đâu thì vẫn không thể khỏa lấp chỗ của người con thứ. Với ông, mỗi đứa con đều có một vị trí độc nhất.
Sự chờ đợi của người cha đã không trở nên vô vọng, người con thứ đã trở về. Người cha đã trông thấy con trước, hàng loạt hành động liên tiếp nhau: Mắt thấy, chân chạy, tay ôm, má kề, môi hôn, choàng áo, xỏ nhẫn, đi dép, giết bê béo ăn mừng,… tất cả đều diễn tả niềm vui của ông như vỡ òa, tình thương con chan chứa. Trở về với cha, người con hoang đàng đã nhận lại tất cả và còn hơn thế nữa, lúc này anh mới thực sự hiểu cha thương mình, mới nhận ra lỗi lầm của mình. Ở trong vòng tay cha, anh vẫn là con của cha. Nếu như vì xấu hổ, vì tự ái và bất cần đời mà anh không nhận mình đã đi lầm đường để hồi tâm trở về thì mãi mãi anh chẳng bao giờ biết được mình có một người cha tuyệt vời.
Biết cha giết bê béo, mở tiệc thiết đãi mừng em trở về, người anh cả nổi giận không chịu vào nhà. Anh không mong chờ em mình trở về vì anh đâu có xem nó là em. Anh thấy cha bất công với mình nên tự ái. Nếu người anh thấy em mình thân tàn ma dại khi trở về thì có lẽ anh cũng đoán biết em mình đã gặp cảnh khốn cùng thế nào, đã phải khổ sở ra sao, đã phải trả giá đắt cho chọn lựa của mình như thế nào. Anh chỉ thấy nó “đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về thì cha lại giết bê béo ăn mừng!” (Lc15,30). Anh chỉ thấy mình vất vả cực nhọc “bao năm trời để hầu hạ cha” nhưng lại chẳng được cha ưu ái. Anh không thấy hạnh phúc được sống trong nhà cha vì anh không nhận ra chính mình cũng là con vì thế nên anh không thể vui với cha và cũng chẳng thể mừng cho em.
Lạy Chúa! Xin ban cho con có lòng khiêm tốn để nhìn nhận sự thật về chính mình, để nhận ra tội lỗi con đã phạm mà “đứng lên đi về cùng Chúa là Cha”. Xin giúp con cảm nhận Chúa thương con để con cũng biết mở rộng trái tim để đón nhận người anh chị em, nhất là đón nhận những ai con không ưa và họ cũng không ưa con. Amen
Cuộc chơi nào cũng đến hồi kết thúc. Nếu chơi trong sự lành mạnh để giải tỏa căng thẳng sẽ đem lại niềm vui, tạo thêm nhiều bạn bè; nếu chơi trong các đam mê của xác thịt, dục vọng thì sẽ trở thất bại, ê chề, chán nản. Đối với người đời, người thất bại thì chẳng còn gì giá trị, bị khinh chê và rồi chôn vùi mình trong bóng tối. Nhưng đối với Chúa thì khác, Chúa không bỏ mặc họ mà hằng trông chờ, yêu thương khi họ trở về bởi Ngài luôn giàu lòng thương xót.
Vì Chúa Giêsu sống khác với cách nghĩ của người đời nên những người Pharisêu và các Kinh sư không ngừng xầm xì về việc những người tội lỗi lui tới với Ngài. Bấy giờ, Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn “Người con hoang đàng” để diễn tả trái tim nhân hậu bao dung đầy sự tha thứ, đầy tràn yêu thương của người cha là Thiên Chúa.
Người con thứ xin cha chia tài sản. Sau đó, anh thu góp tất cả những gì thuộc về mình đi một nơi xa và ăn chơi phung phá để thỏa mãn sự ham muốn của thân xác. Tiền bạc có chất núi thì ăn và chơi mãi cũng hết. Sau khi xài hết dồng bạc cuối cùng, anh rơi vào tận đáy cặn bã của cuộc đời. Anh phải đi “ở đợ” cho một người dân nghèo. Hằng ngày anh đi chăn heo và ao ước lấy đậu muồng heo nhét cho đầy bụng. Thời dân Do thái xưa, heo là những con vật thuộc dạng ô uế, anh đã phải chăn heo mỗi ngày nên anh là kẻ luôn bị ô uế. Không còn gì nữa, tiền đã hết, danh dự chẳng còn, chỉ còn nỗi nhớ đến người cha giàu có sẽ cho anh cuộc sống no đầy vẫn vấn vương trong lòng. Nỗi nhớ ấy thúc đẩy anh đứng lên trở về với cha.
Người cha, sau khi người con bỏ đi, ngày đêm trông ngóng người con trở về, trông ngóng trong niềm hy vọng, ngày ngày ra đầu ngõ hướng mắt chốn xa xa. Bởi đó, khi vừa thấy người con ở đàng xa, thì người cha chạy ra ôm cổ hôn lấy hôn để người con (x. Lc15,20). Niềm vui, sự sung sướng hạnh phúc đã che lấp lý trí của người cha, người cha không kịp nghe lời xin lỗi của con mà liền gọi các đầy tớ lấy tất cả những gì ông đã chuẩn bị từ lâu để đem ra cho người con mặc: nhẫn, quần áo, giầy dép và còn giết cả con bê béo làm thịt ăn mừng. Người cha đã khôi phục địa vị danh dự cho người con. Ông không nhớ gì nữa về những lời nói, hành động của người con khi anh ta bỏ đi. Trong ông, chỉ còn lại nỗi nhớ thương về người con. Sự trông chờ nhớ nhung và hành động hối hả vui mừng khi người con trở về của người cha diễn tả hình ảnh Thiên Chúa. Ngài hằng trông ngóng dõi bước những người con lầm lạc trở về, những người con đang mải mê theo thế gian. Hờn thế nữa, Ngài đã trao ban con một của Ngài để nhờ con của Ngài mà những người con tội lỗi cũng được trở về. Ngài muốn khôi phục địa vị danh phẩm làm con Thiên Chúa cho những ai biết từ bỏ tội lỗi để quay trở về với Ngài.
Phần chúng ta, chúng ta có can đảm dứt bỏ các đam mê chủ nghĩa hưởng thụ không? Có thật sự muốn trở về làm con Thiên Chúa không ? Khi ở trong bước đường cùng, chúng ta có dám nghĩ về tình yêu cha mẹ, tình yêu Thiên Chúa mà trở về chăng? Chính mỗi người tự mở cánh cửa sự sống cho mình. Chúng ta có tự do để chọn lựa trở về hay tiếp tục chôn vùi mình. Thiên Chúa hằng luôn trông chờ để thi ân giáng phúc cho chúng ta. Hãy trở về, trở về hưởng hạnh phúc trong cung lòng Cha.
Lạy Cha, gần đến gần đại lễ Vượt Qua, xin cho chúng con mau nhanh chân quay trở về với Chúa cả bên trong lẫn bên ngoài để chúng con được sống trong lòng thương xót và tình yêu Chúa. Amen
Mùa chay, chúng ta được mời gọi tin vào tình thương của Chúa là Cha để trở về làm hòa với Chúa và với anh em. Trong năm mục vụ đồng hành với các Gia đình đau khổ, chúng ta suy niệm về niềm vui và hạnh phúc của người cha trong câu chuyện, khi ông tìm lại được những đứa con đã hư mất và niềm vui khi thấy con cái anh em trong gia đình hòa thuận thương yêu nhau.
Trước hết, bài đọc một kể lại niềm vui trở về của dân tộc Israel. Đối với Thiên Chúa Israel không khác nào một đứa con hoang đàng, bướng bỉnh. Đã nhiều lần qua các ngôn sứ, Thiên Chúa đã ấu yếm gọi Israel là “con ta”, Ngài chăm sóc nâng niu nó như vú nuôi chăm sóc trẻ thơ. Từ cảnh lưu đày tại Ai Cập, bị hành hạ áp bức, Thiên Chúa đã gọi Môsê, trao cho ông nhiệm vụ đưa dân vượt thoát khỏi Ai Cập, dẫn họ băng qua sa mạc để về đất hứa. Thiên Chúa đã ban lề luật để hướng dẫn Israel, uốn nắn, sửa phạt mỗi khi Israel đi lạc xa đường lối của Thiên Chúa. Dân Israel dường như vẫn không nhận ra tình yêu thương của Thiên Chúa, họ dễ thay lòng đổi dạ, tử bỏ Thiên Chúa, chạy theo các thần minh và lối sống dân ngoại. Vậy mà Thiên Chúa vẫn trung thành, Ngài vẫn một mực yêu thương và tha thứ cho họ.
Câu chuyện sách Giôsuê kể lại cách bình dân cho thấy Thiên Chúa như người cha trong gia đình, vui và hạnh phúc vì mình đã làm tất cả mọi sự có thể cho con, và giờ đây lại vui và hạnh phúc khi thấy con cái đoàn tụ xum vầy. Khi nhìn thấy con cái vui và hạnh phúc, cha mẹ có thể quên tất cả nhọc nhằn, đau khổ các Ngài đã trải qua. Có thể nói chỉ những ai đã làm cha mẹ mới có thể hình dung được niềm vui này của Thiên Chúa: Khi Israel đã vào Đất Hứa, Thiên Chúa đã tuyên bố: “Hôm nay, Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai Cập”.
Con cái Israel đã thể hiện niềm vui như những đứa con xum họp nô đùa trước mặt cha mẹ mình. Chúng cảm thấy được an toàn khi có sự hiện diện của cha mẹ. Sách Giôsuê kể: Ngay khi vào đến Đất Hứa, dân Do Thái đã cử hành đại lễ Vượt Qua đầu tiên để tạ ơn Thiên Chúa vì tình yêu thương và ơn giải thoát Thiên Chúa đã làm cho họ. Cũng từ đại lễ này đánh dấu ngày chấm dứt việc Chúa cho Manna từ trên trời rơi xuống, thay vào đó, Chúa cho họ được hưởng dùng thổ sản ngay trên mảnh đất mới này.
Nếu như câu chuyện sách Giôsuê kể lại niềm vui của dân tộc Israel trong ngày trở về quê cha đất tổ, và niềm vui của Thiên Chúa là Cha khi thấy con cái hạnh phúc, thì bài Tin Mừng nói đến niềm vui của người cha trong ngày những đứa con hư hỏng trở về. Nhìn vào gia đình trong câu chuyện vừa nghe, chúng ta thấy đây quả là một gia đình đau khổ. Chắc chắn gia đình này không nghèo về vật chất, vì người cha có nhiều tiền của để chia cho các con, có đầy tớ, người làm đông đúc, chứng tỏ ruộng đất cũng rất nhiều. Nhưng người cha này lại hết sức đau khổ vì những đứa con.
Nỗi khổ đầu tiên của ông là đứa con thứ, nó quậy phá gia đình, đòi chia tiền của, gia tài, nó bỏ nhà ra đi và phung phí hết tiền của của cha. Cách nó sống và đối xử với ông còn tệ hơn nữa, nó không quan tâm đến người cha, nó chỉ mong cho cha nó chết để nó được tự do bay nhảy và được thêm nhiều của hồi môn. Chúng ta cứ thử đặt trường hợp đó là thằng con trai trong gia đình mình, thì sẽ hình dung ra nỗi khổ tâm của người cha lớn lao biết là chừng nào. Ông héo hắt đêm ngày, mất ăn mất ngủ vì thương nó, vì thấy nó sa đà với bạn xấu và tương lai của nó sẽ rất là đen tối, nhưng dường như nó đã vuột khỏi tầm tay của ông, ông chỉ còn biết hy vọng đợi chờ.
Nỗi khổ thứ hai của gia đình này là đứa con cả. Nó là trai trưởng trong gia đình mà nó đối xử với ông như người dưng nước lã. Nó làm việc trong nhà không phải vì ý thức nhà là nhà của nó, là gia tài của nó, nên nó sống và làm việc không khác những kẻ đầy tớ. Khi nói chuyện với người cha, nó vùng vằng hằn học, nó tính toán hơn thiệt với cha: “Cha coi, đã bao năm tôi hầu hạ cha không hề trái lệnh, nhưng chưa bao giờ cha cho tôi được một con dê nhỏ để nhậu với chúng bạn”.Điều đó chứng tỏ nó coi trọng con dê hơn tình nghĩa, coi trong bạn bè hơn gia đình và hơn cả người cha. Một đứa con trưởng là niềm hy vọng của cả gia đình, gia tộc, giờ đây nó sống trong nhà mà như người ngoài, nó sống gần cha mà lòng đã đi xa. Có nỗi đau khổ nào hơn nỗi đau khổ này của người cha trong câu chuyện.
Người cha này không chỉ đau khổ vì con cái hư hỏng mà còn vì chúng xâu xé, bất hòa với nhau. Gia đình chỉ có hai anh em, vậy mà do ghen tị, chúng không nhìn mặt nhau. Có lẽ, đây cũng là một trong những lý do khiến cho đứa em bỏ nhà ra đi, vì nó ở trong nhà nhưng không cảm nhận được tình huynh đệ và vì nó không chịu nổi ánh mắt khinh bỉ của người anh. Chính người anh trong câu chuyện đã nói lên điều đó khi anh trả lời với cha: “Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí tài sản với bọn điếm, nay trở về, cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng”.Trong mắt của người con cả, đứa em dường như không có liên hệ máu thịt gì với anh, nó chỉ là con của bố anh, một đứa ăn chơi đàng điếm. Vì vậy, anh không buồn nói chuyện với nó cũng như không muốn nhìn mặt nó.
Trải qua nỗi đau khổ dày vò trong đời sống gia đình như thế, người cha không nóng nảy chửi bới, trái lại ông vẫn lấy tình thương, sự tha thứ và kiên nhẫn để đón nhận lại hai đứa con và để hòa giải chúng với nhau. Ông đã vô cùng vui mừng khi đứa con thứ trở về, đã quên cả tuổi già của ông, ngày ngày ông tựa cửa đợi con. Khi thấy nó từ xa, ông không ngần ngại chạy ra ôm chầm lấy nó và cũng không quan tâm đến tình trạng hôi hám và những lời xin lỗi của nó. Trông thấy nó trở về là tình phụ tử của ông đã phủ lấp tất cả, đã tha thứ tất cả, bất kể nó về vì lý do gì và dù nó như thế nào, nó vẫn là con ông. Ông tuyên bố: “Chúng ta phải ăn mừng vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”.
Cũng vậy, trong lúc mọi người vui mừng thì ông lại phải bước ra ngoài để tìm đứa con cả, vì nó dằn dỗi không chịu vào nhà. Ông tìm nó, ông xin nó, năn nỉ mời nó vào nhà để chung hưởng niềm vui với mọi người trong ngày đứa con thứ trở về. Ông nói với nó: “Con à, con luôn ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con”.Ông cho nó thấy rằng, dù lòng nó xa ông cũng không khác gì đứa em, nhưng ông vẫn không xa nó, dù nó không thương ông, nhưng ông vẫn thương nó và em nó. Ông cố gắng để giải thích cho nó nhận ra niềm vui ngày em nó trở về, ông giúp nó gạt bỏ sự ganh tị thù hằn, làm hòa với em, đón nhận người em vì: “Chúng ta phải ăn mừng, vì em con đây đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”.
Thưa quý OBACE, không niềm vui nào lớn hơn niềm vui tìm lại được cái mình đã mất, đặc biệt của bị mất lại là chính đứa con của mình, hạnh phúc gia đình của mình. Chúng ta là con cái trong gia đình, có Thiên Chúa là cha. Có thể chúng ta cũng giống như hai đứa con trong câu chuyện, đã tìm cách ra khỏi nhà Cha của mình, hoặc dù còn ở trong nhà nhưng hồn đã ra ngoài. Thiên Chúa yêu thương, Ngài vẫn đợi chờ chúng ta trở về với Ngài, Ngài sẵn sàng chạy ra để ôm chúng ta vào lòng, Ngài không quan tâm đến quá khứ của ta đã gây ra, Ngài chỉ muốn nói lời yêu thương và tha thứ cho ta mà thôi. Có thể chúng ta sống với Chúa cách dửng dưng vô hồn, không nhận ra rằng mọi sự chúng ta đang có, đang được, là của Chúa ban, nên chúng ta nghĩ mình như một kẻ làm công kiếm tiền của Chúa. Có khi chúng ta cũng kể lể tính toán thiệt hơn với chúa, vì ghen tị với người bên cạnh, ta than trách Chúa và không nhìn nhận anh chị em chung quanh. Thiên Chúa muốn chúng ta trở về, bước vào nhà Chúa, để cảm nhận được tình thương của Chúa, sống tình huynh đệ, cùng dự tiệc chung vui với Chúa, đừng hờ hững với Chúa nữa.
Chúng ta cũng cầu nguyện cho các gia đình, nhất là những cha mẹ đang đau khổ vì con cái, biết tin tưởng vào Thiên Chúa, tìm đến với Chúa trong cầu nguyện và thánh lễ để được an ủi, nâng đỡ, hướng dẫn. Xin cho các bậc cha mẹ biết nhìn vào người cha trong câu chuyện để sống quảng đại và tha thứ cho con cái và tha thứ cho nhau, nỗ lực, chủ động bước đến với nhau, lắng nghe, thấu hiểu, cảm thông và đón nhận nhau, nhờ đó gia đình tìm lại được niềm vui như gia đình trong dụ ngôn Chúa kể hôm nay. Amen.
Chúng ta bàn về dụ ngôn thứ ba trong ba dụ ngôn mà trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu sử dụng để dạy ta hiểu về tình yêu Thiên Chúa.
Ngày xưa người ta thích gọi dụ ngôn thứ ba này là dụ ngôn Người con hoang đàng. Nhưng bây giờ, nhiều người không đồng ý như thế. Họ thích gọi dụ ngôn là dụ ngôn Người Cha nhân hậu.
Có lẽ cách gọi sau hay hơn cách gọi trước vì, rõ ràng, dụng ý của thánh Luca khi viết dụ ngôn này, đã cho thấy vai trò của người cha chủ động trong tình yêu của ông. Ông đã dành cho các con của mình một tình yêu vượt quá tình yêu bình thường của một người cha. Vì thế, ông đáng được gọi là người cha nhân hậu, bởi lòng nhân hậu của ông vượt trên lòng nhân hậu mà ta có thể bắt gặp đâu đó trong đời thường, xung quanh cuộc sống của ta.
Ngang qua hình ảnh người cha nhân hậu, thánh Luca muốn dẫn ta tới gặp tình yêu của Thiên Chúa. Đó là một tình yêu lớn không thể tưởng, không thể hiểu nổi bởi nó vượt quá sức những gì ta có thể tưởng nghĩ, có thể hiểu được: một tình yêu vĩ đại không gì sánh bằng.
Đó là mối tình đậm đà, đằm thắm của một người Cha vĩnh cửu yêu những người con trần thế. Đó là mối tình quý giá của Thiên Chúa yêu con người. Đó là mối tình cao siêu, bền chặt của Đấng Tạo Hóa yêu thụ tạo.
Cho ta suy niệm về tình yêu tuyệt đỉnh của Thiên Chúa, Hội Thánh mời gọi ta trở về cùng Thiên Chúa và trở nên giống Thiên Chúa. Hội Thánh dạy ta hãy để cho tình yêu của Chúa ngự trị trên cuộc đời mình.
Ta hãy tin tưởng ngã vào tình yêu của Người, để được Người thông cảm, vỗ về, nâng niu, đón nhận như tình yêu khôn tả của một người cha dành cho đứa con hoang đàng trở về.
Bởi đó, dụ ngôn được mang tên là Người Cha nhân hậu lại càng ý nghĩa hơn, có sức mời gọi mạnh hơn, tích cực hơn, giúp ta hiểu rằng, khi bản thân trở về với Chúa, trước hết, là do tình yêu của Chúa, nại vào tình Chúa yêu ta, chứ không phải tự mình ta.
Bởi nếu con người có cố gắng vươn lên, thì đó cũng chỉ là nỗ lực cộng tác của bản thân vào tình yêu của Chúa mà thôi. Chính Chúa là Đấng đoái nhìn đến ta. Chính Chúa chủ động tuôn đổ yêu thương và tha thứ.
Nơi tòa giải tội, tôi đã từng gặp nhiều hối nhân bỏ xưng tội, bỏ rước lễ lâu năm. Tôi nhận ra tất cả họ đều cảm nghiệm tình trạng bất hạnh của mình. Xa Chúa, họ mất bình an hoàn toàn. Họ chới với, cô đơn, tuyệt vọng. Họ hổ thẹn và muốn chạy trốn hết mọi người.
Lẽ ra, khi thấy mình mất mát như thế, họ phải đến tòa giải tội. Nhưng thật trớ trêu, càng xa Chúa, họ càng sợ tòa giải tội, bởi họ dư biết rằng, đến với tòa giải tội cũng đồng nghĩa với việc họ phải đối diện cùng lương tâm của mình. Mà lương tâm có bao giờ tha thứ hay bao che cho ai.
Vỉ thế, họ cố tìm cách chạy trốn. Bao nhiêu năm cố gắng chạy trốn lương tâm, phiêu lưu trong tội lỗi, con người ta chỉ còn lại nơi mình toàn những chán chường, thất vọng.
Ngược lại, do một động lực nào đó, họ lên đường về lại cùng Chúa, họ sẽ bắt gặp một tình yêu đại lượng không gì bằng. Họ sẽ lấy lại tất cả quyền làm con Thiên Chúa. Tâm hồn sẽ bình an vô cùng. Họ thấy mình như vừa sống lại sau một thời gian chính mình giết chết mình. Họ sẽ khóc. Giọt nước mắt trong tiếng nghẹn ngào sẽ là giọt hạnh phúc tuôn trào trên khóe mắt.
Hãy nhớ, mỗi một lần ta phạm tội là mỗi một lần ta bứt ra khỏi tình yêu của Chúa. Nhưng tình yêu của Chúa lại vượt lên trên mọi tính toán, mọi đo lường của ta. Người con hoang đàng trong Tin Mừng chỉ xin cha anh đối xử với anh như một người làm công. Nhưng cha anh lại hồi phục cho anh mọi giá trị làm con. Anh là con, chứ không phải làm công.
Vậy, chúng ta hãy trở về cùng Chúa. Người đang chờ đợi chúng ta. Chúng ta là đứa con hoang đàng, nhưng không bị bỏ rơi. Chỉ cần trở về cùng Chúa bằng việc ăn năn tội, xưng thú tội lỗi, là chúng ta lại được Chúa trả lại mọi giá trị làm con của Chúa cho ta.
Chỉ có con cái mới bỏ cha mình, còn người làm cha không dễ gì dứt bỏ con cái. Ta không sợ Thiên Chúa từ bỏ ta, vì Người yêu ta như yêu chính bản thân Người. Chỉ có ta là đã nhiều lần từ chối tình yêu của Chúa mà thôi.
Lạy Chúa, chúng con thấy mình vẫn rơi vào tội lỗi của người con hoang đàng, bởi biết bao nhiêu lần chúng con đã phạm tội. Chúng con thèm tự do quyết định đời mình, nhưng tự do ấy biến chúng con thành nô lệ, một thứ nô lệ đớn hèn, đó là nô lệ cho tội lỗi. Xin lôi kéo chúng con về cùng Chúa. Xin tha thứ tội lỗi chúng con. Xin ban sức mạnh để từ nay, chúng con quyết tâm chừa bỏ tội lỗi của mình. Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tin tưởng phó thác tuyệt đối vào tình yêu của Chúa. Chúng con biết, nhiều lần, chúng con cũng giống như người con hoang đàng bỏ Chúa mà ra đi theo thế gian, theo tiếng gọi của chước cám dỗ. Xin tha thứ cho chúng con. Xin uốn nắn lòng chúng con, để từ đây, nhất là trong mùa Chay thánh này, chúng con làm lại những gì đã đánh mất và xứng đáng hơn với tình yêu vô bờ của Chúa. Amen.
Theo truyền thống phụng vụ, Chúa Nhật IV Mùa Chay là Chúa Nhật của niềm vui. Chúa Nhật này đặt một thời gian tạm nghỉ trong thời kỳ chay tịnh và tham dự trước niềm hân hoan của biến cố Phục Sinh.
Gs 5: 9-12
Hãy vui lên vì Thiên Chúa đã giữ lời hứa. Dân Do thái đã tiến vào Đất Hứa và cử hành lễ Vượt Qua ở đây. Một kỷ nguyên mới bắt đầu đối với họ.
2Cr 5: 17-21
Hãy vui lên vì nhờ Đức Ki-tô, con người đã đạt được ơn hòa giải với Thiên Chúa; nhờ đó người Ki-tô hữu trở nên những con người được đổi mới.
Lc 15: 1-3, 11-32
Hãy vui lên với Chúa Cha, Đấng đón tiếp đứa con hoang đàng trở về trong niềm vui vỡ tràn.
BÀI ĐỌC I (Gs 5: 9-12)
Sách Giô-suê, sách được đặt nhan đề theo tên nhân vật chính của sách, kể việc dân Do thái vào Đất Hứa và chinh phục dần dần miền đất này của dân bản địa Ca-na-an. Sách Đệ Nhị Luật đã được hoàn tất với chuyện tích về cái chết của ông Mô-sê, sách Giô-suê tường thuật các biến cố tiếp theo sau. Ông Mô-sê đã trao phó sự nghiệp của mình cho ông Giô-suê tiếp nối. Thời kỳ hoang địa được tiếp nối với thời kỳ chinh phục. Thời nô lệ bên Ai-cập và thời túng thiếu trong hoang địa được tiếp nối với kỷ nguyên của cuộc đời tự do và an cư lạc nghiệp. Lịch sử đã sang trang. Việc dân Do thái vào xứ sở Ca-na-an được định vị vào cuối thế kỷ thứ mười ba trước Công Nguyên. Cuộc chinh phục thật sự chỉ được hoàn tất dưới triều đại vua Đa-vít, hai thế kỷ sau đó.
Chuyện tích này được viết theo thể loại “sử thi”, bao gồm những yếu tố kỳ diệu. Ngoài ra, lịch sử của dân Ít-ra-en là lịch sử của dân Thiên Chúa, một kỳ tích lịch sử thường được nối kết với một kỳ tích phụng vụ. Sự kiện này hiển hiện rất rõ nét trong chuyện tích chúng ta đọc hôm nay.
Lễ Vượt Qua ở Ghin-gan
Dân Do thái đã vượt qua sông Gio-đan vào lúc nước sông dâng cao. Vì thế, họ không thể vượt qua sông nếu Thiên Chúa đã không can thiệp bằng cách ngăn dòng nước thành chỗ khô cạn cho dân băng qua (Gs 3: 14-17). Như thế, tái diễn lại phép lạ Biển Đỏ (Xh 14: 21-22). Rõ ràng tác giả đã muốn đối chiếu cuộc xuất hành ra khỏi đất Ai-cập và cuộc xuất hành ra khỏi hoang địa; cuộc vượt qua sông Gio-đan họa lại cuộc vượt qua Biển Đỏ; lễ Vượt Qua tiến vào Đất Hứa đối xứng với lễ Vượt Qua giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập.
Tuy nhiên, nhiều yếu tố cổ xưa chứng thực nền tảng lịch sử của câu chuyện. Về phương diện truyền thống, lễ Vượt Qua ở Ghin-gan được kể ra trong văn chương Do thái; tuy nhiên, việc cử hành lễ Vượt Qua được xác định vào ngày mười bốn trong tháng là phần thêm vào sau khi lịch phụng vụ được quy định. Ghin-gan được định vị không xa thành Giê-ri-cô. Địa danh Ghin-gan theo tiếng Híp-ri có nghĩa“vòng tròn”. Truyền thống nối kết địa danh này với cử chỉ của ông Gio-suê: để tưởng niệm mãi mãi cuộc tiến vào Đất Hứa, ông Giô-suê truyền lệnh dựng mười hai tảng đá thành một vòng tròn, đại diện mười hai chi tộc của dân Ít-ra-en (Gs 4: 1-9). Vào thiên niên kỷ thứ hai, người ta vẫn còn ở trong nền văn minh đồ đá. Miền Pa-lét-tin còn lưu lại nhiều dấu vết của nơi cúng tế được dựng bởi những tảng đá.
Một giai đoạn mới
“Hôm sau lễ Vượt Qua, họ đã dùng thổ sản trong xứ, tức là bánh không men và hạt lúa rang”. Đây là lần đầu tiên kể ra mối liên hệ giữa lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, hai ngày lễ tự nguồn gốc vốn biệt phân. Nhưng nhà biên soạn không nhằm nhấn mạnh mối liên hệ này; khi kể thêm “hạt lúa rang”, ông muốn độc giả lưu ý đến lương thực được thay đổi tận căn, điều này đối với dân Do thái đánh dấu việc tiến vào Đất Hứa, vì miền Giê-ri-cô vốn nổi tiếng về thổ sản của mình, nhờ thời tiết thuận hòa.
“Không còn man-na nữa”. Man-na, thức ăn rất đạm bạc giúp dân Do thái sống còn trong hoang địa, từ nay không còn cần thiết nữa. Dân Do thái đã đặt chân lên xứ sở của các tổ phụ, mà lòng nhân ái của Đức Chúa đã cho họ trở lại khi “cất khỏi họ cái ô nhục của người Ai-cập”. Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta về đứa con hoang đàng. Chán ngấy cơm thừa canh cặn, cậu trở về nhà cha, ở đó cậu nhận được mọi ân huệ đổi đời của cậu; vì thế, cậu cũng được “cất khỏi cái ô nhục” của quá khứ.
BÀI ĐỌC II (2Cr 5: 17-21)
Giáo Đoàn Cô-rin-tô, mà thánh Phao-lô đã sáng lập vào những năm 50-52, bị chao đảo bởi nhiều cuộc khủng hoảng giữa những năm 54 và 57. Do những khủng hoảng này mà thánh Phao-lô đã viết ít nhất bốn bức thơ gửi tín hữu Cô-rin-tô này. Thư thứ nhất và thư thứ ba đã bị thất lạc; bức thư mà chúng ta gọi “thư thứ nhất”, thực ra là thư thứ hai và bức thư mà chúng ta gọi “thư thứ hai”, thực ra là thư thứ tư. Thư thứ hai này gửi cho các tín hữu Cô-rin-tô được viết trong tâm trạng bình an; nhưng để hiệu đính mọi việc và trả lời dứt khoát cho những công kích mà thánh nhân đã là đối tượng, thánh Phao-lô buộc phải biện minh sứ vụ của mình mà thánh nhân nâng lên cho đến mức định nghĩa sứ vụ của mình là sứ vụ Tông Đồ đích thật.
Tông Đồ và cộng tác viên của Chúa Ki-tô
Tâm tình sâu kín nâng đỡ vị tông đồ: xác tín mình là cộng tác viên của Chúa Ki-tô, có sứ mạng “hòa giải” giữa Thiên Chúa và loài người, sứ mạng mà Đức Ki-tô đã thiết lập theo ý định của Chúa Cha. Chính ở nơi Chúa Cha mà công trình cứu độ loài người phải được quy hướng về, tức là một “cuộc tạo dựng mới”: “Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi”. Người Ki-tô hữu là một “thọ tạo mới”, vì họ đã được tha thứ mọi tội lỗi của mình.
Thánh Phao-lô xúc động về sự cao cả của sứ mạng hòa giải này, nhờ đó mà các cộng tác viên của ngài và chính ngài trở thành những “sứ giả thay mặt Đức Ki-tô”. Thánh nhân lập lại cùng một diễn ngữ này trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô: “Anh em cũng hãy cầu nguyện cho tôi nữa, để khi tôi mở miệng nói, thì Thiên Chúa ban lời cho tôi, hầu tôi mạnh dạn loan báo mầu nhiệm của Tin Mừng; tôi là sứ giả của Tin Mừng này cả khi tôi đang bị xiềng xích” (Ep 6: 19-20).
Hãy hòa giải với Thiên Chúa
“Thiên Chúa đã cho thế gian được hòa giải với Người”. Qua câu này, thánh Phao-lô nhấn mạnh rằng sáng kiến đến từ Thiên Chúa; nhưng con người phải đáp trả sáng kiến này, đó là mở lòng mình ra mà đón tiếp lời đề nghị này. Cũng như người con hoang đàng quyết định trở về nhà cha, nhưng chính người cha đề xướng hòa giải với cậu, tức là tha thứ cho cậu.
Mầu nhiệm của Thiên Chúa là tình yêu của Ngài dành cho nhân loại được thể hiện ở nơi Đức Ki-tô, “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta”. Điều mà thánh Phao-lô muốn làm sáng tỏ, chính là một sự trao đổi hai phía: Đức Ki-tô tự đồng hóa mình một cách nào đó với tội nhân; còn tội nhân, nếu hòa giải, có thể dự phần vào sự thánh thiện của Thiên Chúa.
TIN MỪNG (Lc 15: 1-3, 11-32)
Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” thuộc một tập hợp bao gồm ba dụ ngôn: “Con chiên lạc”, “Đồng bạc bị đánh mất” và “Người cha nhân hậu”, chúng hình thành nên câu trả lời của Đức Giê-su cho những người Pha-ri-sêu và các kinh sư, họ bất bình vì thấy Ngài đón tiếp niềm nở những người tội lỗi (Lc 15: 1-3).
Trước đây, Đức Giê-su đã gặp phải phản ứng bất bình như thế và đã trả lời ngắn gọn và đanh thép: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn” (Lc 5: 31-32). Ở đây, Đức Giê-su phát biểu ý kiến của mình theo cách khác, gợi hình và cụ thể: Ngài sánh ví thái độ của Ngài với thái độ của người chăn chiên, trèo non lặn suối, quyết tìm cho bằng được một con chiên lạc (15: 4-7); hoặc với thái độ của người đàn bà, thắp đèn quét nhà, moi móc mọi xó xỉnh quyết tìm cho bằng được một đồng quan bị đánh mất (15: 8-10); hay còn với thái độ của một người cha mở tiệc ăn mừng vì “đứa con hoang đàng” trở về sau năm tháng phiêu bạt (Lc 15: 11-32). Hai dụ ngôn “Con chiên lạc” và “Đồng bạc bị đánh mất”, thánh Lu-ca có chung với thánh Mát-thêu, chỉ duy dụ ngôn “Người cha nhân hậu”là riêng của thánh Lu-ca. Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” nổi tiếng nhất được dàn dựng thành bức tranh bộ đôi: bức tranh thứ nhất về người con thứ với người cha (15: 11-24), và bức tranh thứ hai về người con cả với người cha (15: 25-32).
Đứa con thứ với người cha (15: 11-24)
A- Đứa con thứ hoang đàng
Bức tranh về cách hành xử của người con thứ có chủ ý được tô cho thật đen. Cậu nài nỉ xin cha chia phần gia tài mà mình được hưởng, một thái độ như thế không bao giờ được xem là hiếu để cả. Rồi cậu bỏ nhà ra đi và hoang phí tất cả gia sản của mình vào một cuộc sống chơi bời trác táng; lúc đó cậu lâm vào cảnh túng thiếu đành phải chấp nhận làm tôi đến nỗi phải đi chăn heo, mà đối với người Do thái là những con vật ô uế, một nghề cấm kỵ. Như vậy cậu đã xuống cho đến tận cảnh cùng khốn của mình, không chỉ về phương diện vật chất mà còn cả về phương diện phẩm giá: “Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho”.
Trong cảnh bần cùng tận mức này, bị cái đói giày vò, cậu mới nghĩ đến việc trở về nhà cha mình. Lý do thúc đẩy cậu cất bước trở về chẳng có gì là cao thượng cả, chẳng qua chỉ vì tình thế bắt buộc thôi: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!”. Để đạt được mục đích của mình, cậu sẵn sàng hạ mình thú tội và cầu xin cha tha thứ. Những điều cậu suy tính trong lòng chẳng qua chỉ là vụ lợi thôi, nhưng đây là bước khởi đầu của một cuộc hoán cải, một cuộc đổi đời, một cuộc trở về cùng cha mình.
B- Tấm lòng nhân hậu của người cha
Tấm lòng của người cha được họa nên bằng những ý tứ rất súc tích. Thái độ của người cha đối với cậu con thứ này khiến chúng ta phải ngạc nhiên. Ông tôn trọng sự tự do của cậu và đáp ứng mọi yêu cầu của cậu, thậm chí khác với thái độ của người chăn chiên và người đàn bà nội trợ, ông không lặn lội đi tìm cậu. Chính thái độ vồn vả ân cần đón tiếp cậu khi cậu trở về mới là điều dụ ngôn mời gọi người đọc chú ý tới.
“Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy”: Câu này cho thấy tấm lòng của ông. Từ khi đứa con ra đi khỏi nhà cha, ông hằng ngày tựa cửa mong ngóng đứa con trở về. Vì thế, khi thấy bóng dáng của con ông còn thấp thoáng từ xa, ông đã nhận ra cậu. Khi nhìn thấy bóng dáng thất thiểu của con mình từ xa, ông“chạnh lòng thương” (động từ Hy ngữ này có một nghĩa rất mạnh: mối cảm xúc dâng lên tận đáy lòng), và “chạy ra ôm cổ con và hôn lấy hôn để” (cách đón tiếp vồn vả khác thường này vượt quá khuôn phép uy nghiêm của một người cha mà tập tục Đông Phương quy định). Như vậy, vì tình cha, ông đã tha thứ cho cậu trước khi cậu ngỏ lời xin tha thứ.
Quả thật, trong câu chuyện, ông cắt ngang không cho cậu thú nhận mọi tội lỗi của mình và cầu xin cha tha thứ, để tránh cho cậu đi đến tận cùng của sự nhục nhã, nhưng cũng để cho thấy lòng tha thứ vô điều kiện của ông đối với con mình. Còn tế nhị hơn nữa, ông không ngỏ lời trực tiếp với cậu, nhưng truyền lệnh cho các đầy tớ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!”: áo đẹp nhất để thay thế bộ quần áo rách tả tơi của kẻ bần cùng, chiếc nhẫn xỏ vào tay để chỉ địa vị cao quý trong xã hội, đôi dép xỏ vào chân để chỉ cậu không còn là người làm thuê hay kẻ nô lệ nữa, bởi vì từ nay đứa con trở về không chỉ được phục hồi nhân phẩm của mình, nhưng cũng được kính trọng như xưa kia; lại còn tổ chức một bữa tiệc để cả nhà cùng chia sẻ niềm vui đoàn tụ. Lý do mà người cha đưa ra để vui mừng, đó là: “Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Đối với ông, việc con vắng mặt trong gia đình được xem như đã chết, nhưng nhất là sự tha thứ của ông làm cho người con trở thành một con người mới.
Tất cả mọi chú ý của câu chuyện đều hướng đến tình cha cao vời đầy xúc động này, chứ không tấm lòng hoán cải của đứa con hoang đàng. Dụ ngôn muốn minh họa thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân. Thiên Chúa yêu thương họ như người cha yêu thương đứa con của mình. Việc Chúa Giê-su mở rộng vòng tay đón tiếp những người tội lỗi là mặc khải tấm lòng yêu thương vô bờ của Chúa Cha. Dụ ngôn này chỉ cho thấy rằng Thiên Chúa đã đến gặp gỡ nhân loại để cứu thoát họ khỏi cảnh nô lệ của tội lỗi. Ơn tha thứ của Thiên Chúa phục hồi con người trong phẩm giá của mình. Ở nơi hậu cảnh của dụ ngôn này, người ta đọc thấy bí tích Hòa Giải của Thiên Chúa với con người.
Người con cả với người cha (15: 25-32)
A- Người con cả bất khoan dung
Thái độ của người con cả phản chiếu thái độ của những người Pha-ri-sêu và các kinh sư, họ đại diện cho những giá trị đạo đức của Cựu Ước, phân biệt rạch ròi đức công chính với tội lỗi. Lời trách cứ của người con cả ngỏ lời với cha cậu tương tự như thái độ bất bình của giai cấp lãnh đạo Do thái về cách hành xử của Chúa Giê-su đối với những người tội lỗi. Người con cả phẩn uất trách cứ cha mình: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho con lấy được một con dê để con ăn mừng với bạn bè”. Rõ ràng, những lời trách cứ này minh họa sống động cung cách đạo đức của những người Pha-ri-sêu, họ tự hào tự phụ tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật, kiêu hãnh mình là người công chính mà khinh chê lên án những người khác. Chân dung của người con cả này là lời mời gọi vượt qua thái độ duy luật để mở rộng tấm lòng trước tình thương yêu.
B- Tấm lòng nhân hậu của người cha
“Nhưng cha cậu năn nỉ”: Cách xử sự của ông đối với đứa con thứ hoang đàng như thế nào thì cách xử sự của ông đối với đứa con cả bất khoan dung cũng như vậy. Vì đứa con cả giận dỗi không chịu tham dự niềm vui đoàn tụ, người cha ra ngồi bên cạnh cậu và năn nỉ cậu. Vả lại, ông nói với cậu bằng một cung giọng nhất mực trìu mến. Ông yêu thương hai đứa con mình như nhau; ông muốn giúp cậu khám phá chiều kích tình yêu này. Tình phụ tử không làm tổn thương đến sự công bình nhưng vượt quá sự công bình.
Để đáp lại lời trách cứ của cậu: “Cha coi, đã bao nhiêu năm con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh”, người cha trả lời: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha”như một lời nhắc khéo cho cậu hiểu điều mà ông cần là “tình cha con” chứ không phải là “nghĩa chủ tớ”. Để đáp lại lời trách cứ của cậu về một con dê con để ăn mừng với chúng bạn chỉ là niềm ước mơ, người cha trả lời: “Tất cả những gì của cha đều là của con”. Để đáp lại thái độ dứt tình đoạn nghĩa của cậu đối với người em hoang đàng: “Còn thằng con của ông đó, sau khi đã nuốt hết của cải của ông với bọn điếm, nay trở về, thì ông lại giết bê béo ăn mừng”, người cha từ tốn trả lời:“Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
Như vậy, dụ ngôn này trước đây thường được đặt nhan đề là “đứa con hoang đàng”, nhưng phải được gọi “tấm lòng nhân hậu của người cha” mới đúng, bởi vì nhân vật chính trong câu chuyện không phải là đứa con thứ hoang đàng cũng không phải người con cả bất khoan dung mà là tấm lòng nhân hậu của người cha. Phải nói rằng đứa con thứ hoang đàng cũng như người con cả bất khoan dung chẳng qua chỉ để thắp sáng tấm lòng nhân hậu của người cha mà thôi. Vì thế, câu chuyện này được đọc trong Mùa Chay Thánh này không chỉ mời gọi những tội nhân mà cả những người tự cho mình công chính cũng cần đến việc ăn năn sám hối, vì điều Thiên Chúa cần ở nơi mỗi người chúng ta là tấm lòng của người con đối với Cha trên trời của mình và tình nghĩa anh em trong tình yêu của Cha.
Các bài đọc Chúa nhật IV Mùa Chay, năm C, đặc biệt bài Tin Mừng của thánh Luca nói lên Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha. Hình ảnh người Cha bao dung, nhân từ gây ấn tượng mạnh mẽ nơi tâm hồn của nhiều người khiến con người, nhân loại và mỗi người có đức tin phải hồi tâm suy nghĩ…Tâm tình đổi mới, hoán cải là điều cần thiết để người môn đệ của Chúa gần gũi Chúa…
Đọc Tin Mừng của thánh Luca luôn luôn chúng ta bắt gặp đôi mắt hiền từ của Chúa. Đôi mắt đã nhìn Vua Đa Vít, ánh mắt đã nhìn Phêrô…Anh mắt đã làm cho Vua Đavít phải hối cải khi nhận ra con người phản nghịch, tội lỗi của mình. Đôi mắt dịu hiền, đầy cảm thương đã khiến Phêrô gục đầu khóc lóc hồi tâm, quay trở về với Chúa. Chúng ta nhận ra tấm lòng yêu thương, nhân hậu của Thiên Chúa Cha đã được Đức Giêsu tỏ bầy trong dụ ngôn “ Người Cha nhân hậu “. Lòng thương xót của người Cha được diễn tả nơi tấm lòng đầy xót thương của mình. Tin Mừng của thánh Luca ở đây cho hay:” Người Cha không tiếc xót với con, đã chia gia tài cho người con thứ tuy biết con mình đua đòi, biếng nhác, nhưng người Cha đã sẵn sàng trao sòng phẳng phần gia sản cho người con thứ. Tin Mừng cho hay:” Người con thứ trẩy đi phương xa, khuất bóng người Cha, ở nơi xa xôi, người con thứ đã phung phí hết tiền bạc, tài sản Cha mình chia cho đến nỗi người con lâm vào cảnh khốn quẫn. Nó đi làm công và ông chủ bắt nó đi chăn heo ở ngoài đồng. Sự dí dỏm của Tin Mừng cho thấy người con này muốn ăn cả cám heo để thốn cho đầy bụng vì những cơn đói hoành hành, nhưng cám heo cũng chẳng đủ để khỏa lấp cơn đói của nó…Lúc đó, người con thứ mới nhớ lại:” Ở nhà của Cha nó, của cải dư dật, thức ăn luôn đầy…Nếu cứ ở đây chắc nó sẽ chết đói “. Lòng nhân từ của người Cha được diễn tả rất thâm thúy:” Người con thứ trở về, người Cha không trách móc, không nghiêm nghị, không từ con…trái lại khi thấy dáng cậu ta từ xa, ông đã chạy tới ( đây là hành động đi bước trước của Cha, ông không để cho người con phải ngượng nghịu, khó xử…). Ông đã làm một cử chỉ đẹp tuyệt vời: chạy lại, ôm chầm lấy đứa con, hôn hít, vui sướng đến chảy nước mắt ròng ròng…
Lòng nhân từ đã làm cho người Cha quên đi tất cả khi người con hoang trở về, giờ đây trước mặt Cha già chỉ là đứa con đáng thương, đứa con mà người Cha hằng mong đợi mỏi mòn. Đứa con mà ông tưởng đã chết, nay lại tìm thấy. Ông vui mừng mở tiệc ăn mừng, hân hoan đàn ca múa hát. Vì con ông đã mất nay lại tìm được. Ông vui sướng cùng với tất cả khách mời dự tiệc hôm nay…Thái độ của người anh cả: nổi giận, trách móc Cha già đến nỗi người Cha phải ra tận cổng phân trần, năn nỉ, anh ta mới chịu vào nhà…
Đây là câu chuyện rất đẹp nói về Lòng Thương Xót, nhân từ của người Cha. Lòng nhân từ của một Thiên Chúa giầu tình thương, đầy lòng nhân hậu, chậm bất bình và hết mực khoan dung. Người Cha dùng tình thương hơn là dùng hình phạt, dùng sự hiền từ hơn là sự nổi giận…
Câu chuyện của thánh Luca nói về người con hoang đàng diễn tả hai thái độ của hai người con. Người anh cả tuy sống trong nhà với Cha nhưng trái tim anh ở ngoài, anh sống ích kỷ, cố chấp, không thứ tha. Anh không cảm thông với nỗi khốn khô của em. Anh không hiểu được sự can đảm, khiêm nhường quay trở về của người em mình! Người anh cả đại diện cho nhóm Kinh sư, Pharisêu luôn cho mình là đạo đức, tự mãn coi mình là trung tâm là hơn người (xem du ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện ).Các nhóm này luôn coi mình được hưởng ơn cứu độ và những người khác tội lỗi nên phải chết vv…
Vâng, cả hai người anh cả, người con thứ đều phải quay về, đều phải hồi tâm sám hối, đều phải đổi mới, và bước vào nhà Cha, ẩn nấp trong trái tim đầy yêu thương của Cha.
Thiên Chúa luôn chờ đợi con người quay trở về với Ngài để lãnh nhận ơn tha thứ, lòng thương xót của Ngài…Mùa chay là cơ hội, là dịp thuận tiện để con người trở về với Chúa. Những phương thế: ăn chay, cầu nguyện, làm phước bố thí là những phương thế cần thiết để con người sống lành, sống thánh.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con trái tim rộng mở để chúng con luôn cảm thông, tha thứ và yêu thương tha nhân. Xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con:” Yêu như Chúa yêu “. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Thái độ của người con thứ khi phung phí hết tài sản Cha chia cho? 2.Thái độ của người anh cả khi nghe gia nhân báo tin em của anh đã trở về bình an? 3.Thái độ của người Cha già ? 4.Đoạn Tin Mừng hôm nay dạy chúng ta điều gì ?
Thấu cảm được nỗi khốn khổ của cuộc đời, nhận ra thân phận tội lỗi của mình trước dung nhan Chúa, tâm hồn tôi được mời gọi trở về với căn nhà chung. Căn nhà ấy được bao bọc bởi vũ trụ vạn vật, có anh chị em sum vầy bên Cha là Chúa cả trời đất. Tình yêu và lòng tha thứ là lương thực làm cho cả gia đình luôn xanh tươi, ươm mầm sự sống.
Lòng khao khát trở về với thế giới đại đồng là khát vọng sâu thẳm trong mỗi con người. Dù ở phương trời nào, con người cũng ước mơ về một ngày được cùng nhau chung sống trong một gia đình nhân loại hòa thuận. Chính cái nhận thức đau thương của sự ly tán, sự đổ vỡ trong mọi tương quan đã kéo con người hướng về bình minh của ngày hòa thuận ấy.
Dân Israel năm xưa ước mơ được trở về miền đất mà Thiên Chúa đã hứa ban với tổ tiên họ. Đất hứa ấy luôn là nỗi khát vọng nung nấu đêm ngày trong tâm hồn họ. Ngày được bước chân vào miền đất hứa mang tên Canaan, họ vui mừng khôn tả. Thế rồi thành thánh Giê-ru-sa-lem được dựng xây làm nơi quy tụ đại gia đình Israel trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhưng khi Giê-ru-sa-lem trở thành đống tro tàn, họ mới nhận ra Thành thánh đích thực phải là nơi quy tụ mọi dân tộc trên mặt đất.
Cái triết lý đại đồng được diễn tả và quảng bá khắp mọi nơi hầu đạt tới: “tứ hải giai huynh đệ” – tất cả mọi người là anh chị em với nhau; hay phương trời “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” – nơi không còn cao thấp, mọi sự đều bình đẳng, đều giác ngộ sự thật; ngay cả một xã hội “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Mọi tài sản đều là của chung”. Nhưng cho dù gia đình ấy được diễn tả thế nào thì nơi đó luôn phải có một người cha.
Chúa Giê-su đã dùng dụ ngôn “Người cha nhân hậu” để diễn tả sự khao khát trong kiệt quệ của con người muốn trở về với gia đình, và tấm lòng yêu thương tha thứ của người cha bao dung đón nhận.
Người con, một nhân vật điển hình, quyết định ra đi, rời xa gia đình, xa người cha để tự lập, tự định đoạt lấy cuộc sống của mình. Nó không muốn lệ thuộc vào cha. Tình trạng cuộc sống nhục nhã bi thương của người con sau đó được diễn tả với hàng loạt hình ảnh: sa đọa vào con đường ăn chơi trác táng, phung phí hết tiền của; làm người đầy tớ; sống với bầy lợn, một biểu tượng của sự xấu xa, ô nhớp của ma quỷ; ăn những thức ăn cặn bã… Quyết định ra đi của anh là sai lầm trầm trọng. Nay anh dứt khoát trở về với gia đình, về với cha mình và đặt mình dưới sự điều khiển của cha. Quyết định trở về ấy là lựa chọn khôn ngoan.
Người cha trong câu chuyện đã âm thầm dõi bước theo con, chờ đợi con. Giây phút “chạy ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu” bộc lộ một tâm hồn ngập tràn tình yêu và tha thứ nơi người cha. Trái tim yêu của người cha đã nổ tung và phủ lấp đứa con lạc bước nay đang trong vòng tay trìu mến của ông. Người cha đã quên đi tất cả những gì đã qua và chỉ còn biết một đứa con yếu ớt đang được mình ôm ấp. Người con thủ thỉ chấp nhận phận mình, chỉ xin được làm đầy tớ của cha. Nhưng chính khi người con thổ lộ tâm tình ấy, người cha đã quyết định đặt người con vào đúng vị trí của nó, vị trí của một người con trong gia đình. Cả nhà ngập tràn niềm hân hoan trong bữa tiệc mừng đón người con trở về.
Hãy tỉnh giấc, hãy ăn năn, hãy sám hối, hãy trở về! Lời mời gọi ấy luôn vang vọng bên tai hay trong tận cõi lòng của người lữ khách đã chót đi hoang. Những con đường, những lộ trình được mở ra để dẫn lối tội nhân trở về đàng lành. Đường nào thì cũng vẫn chỉ là con đường. Bao lâu con người còn trên đường là bấy lâu nó vẫn còn là kẻ lữ khách. Tận cuối con đường ta mới tới một gia đình yên vui, nơi ấy người cha đang ngóng chờ.
Được trở về với gia đình nhân loại trong sự che trở của Cha cả trời đất là cùng đích của đời người. Chính trong gia đình ấy, ta được biến đổi bởi lòng từ ái của Cha. Thánh Phaolô đã quả quyết sự biến đổi ấy: để ta được trở nên con người mới, được giao hòa với Chúa là Cha Nhân Lành, được trở nên công chính. Tình thương và lòng thương xót của Cha là phương dược xoa dịu và chữa lành mọi vết thương trong tâm hồn ta. Lòng bao dung của Cha đặt ta vào vị trí làm con của Ngài.
Lạy Cha là Chúa cả trời đất, xin đừng để con đi hoang lạc bước theo sở thích của con. Xin Cha giữ con luôn được ở trong mái nhà Cha! Xin uốn nắn tâm hồn con và dạy con luôn biết tìm về khi lỡ bước xa chân.
Có bao giờ chúng ta cảm thấy hối hận vì những thái độ vong ân bội nghĩa với tình thương mà cha mẹ, bạn bè dành cho chúng ta không? Có bao giờ chúng ta đã làm tổn thương đến người đã hy sinh cho chúng ta không?
Mời mọi người cùng lắng nghe câu chuyện thật cảm động về người mẹ hy sinh một mắt cho con, đổi lại là sự vô tâm của đứa con, nhưng bà luôn bao dung tha thứ cho con.
Chuyện kể qua lời tâm sự của một người đàn ông như sau: suốt thời thơ ấu và cả khi lớn lên, lúc nào tôi cũng ghét mẹ. Lý do chính có lẽ vì bà chỉ có một con mắt. Bà là đầu đề để bạn bè trong lớp chế giễu, châm chọc tôi. Mỗi lần bà đến trường tìm tôi là tôi cảm thấy tủi hổ. Sao bà lại xuất hiện ở đây? Tôi lơ bà đi, ném cho bà một cái nhìn đầy căm ghét rồi chạy biến.
Lúc ấy, tôi xấu hổ chỉ muốn bà biến mất khỏi cuộc đời tôi. Ngày hôm đó đi học về, tôi nói thẳng với bà: “Mẹ chỉ muốn biến con thành trò cười!”. Mẹ tôi không nói gì. Tôi cũng chẳng thèm để ý gì đến cảm xúc của mẹ.
Lớn lên, tôi lập gia đình. Vợ tôi là con nhà gia thế. Tôi giấu nàng về bà mẹ của mình và nói dối mình mồ côi từ nhỏ. Tôi hài lòng với mái ấm nhỏ và những tiện nghi vật chất có được ở TP Sài gòn.
Thế nhưng một ngày kia, mẹ bất chợt đến thăm. Nhiều năm rồi bà không gặp tôi. Thậm chí bà cũng chưa bao giờ nhìn thấy các cháu. Khi thấy một bà già trông có vẻ lam lũ đứng trước cửa, mấy đứa con tôi có đứa cười nhạo, có đứa hoảng sợ. Tôi vừa giận vừa lo vợ tôi biết chuyện nên hét lên: “Sao bà dám đến đây làm con tôi sợ thế? Đi khỏi đây ngay!”. Mẹ tôi chỉ nhỏ nhẹ trả lời: “Ồ, xin lỗi, tôi nhầm địa chỉ!” và lặng lẽ quay đi.
Một hôm, nhận được lá thư mời họp mặt của trường cũ gửi đến, tôi nói với vợ là phải đi công tác. Sau buổi họp mặt, tôi ghé qua căn nhà của mẹ vì tò mò hơn là muốn thăm mẹ. Mấy người hàng xóm nói rằng, mẹ tôi đã mất vài ngày trước đó và hàngxómđã lo mai táng chobà.Họ nói rằng tội nghiệp cho bà vì đã hy sinh một mắt để tặng cho cậu, còn bán cả gia tài để chữa trị cho cậu, và bà vẫn luôn hãnh diện vì điều đó.
Người con trai đã chạy oà vào nhà, ngã quỵ trước di ảnh mà khóc:”mẹ ơi, con đã sai rồi. Con nợ mẹ một lời xin lỗi”.
Con người luôn có lầm lỗi. Con người thường cho mình có quyền được người khác chăm sóc và luôn có xu huớng cho rằng tài sản mình có là do mình làm ra. Đó chính là thái độ vô ơn mà chúng ta vẫn thấy trong cuộc sống. Conphu5 ơn cha mẹ. Vợ chồng phụ ơn nhau. Bè bạn nhận ơn báo oán . . .
Phải chăng con người chúng ta cũng từng cư xử như thế với Chúa? Chúng ta vẫn vô tâm và phụ ân tình Ngài? Thế nhưng, Thiên Chúa dường như không tính toán thiệt hơn khi yêu thương loài người chúng ta. Bởi Ngài là Đấng nhân từ, chậm bất bình và rất mực khoan nhân.Lòng nhân từ của Ngài thể hiện qua sự kiên nhẫn với lỗi lầm của con người. Cho dù con người có sa đi ngã lại trong lầm lỗi, Ngài vẫn thứ tha. Lòng nhân từ của Ngài thể hiện qua lòng bao dung, cho dù con người có đốn mạt đến đâu, Ngài cũng sẵn lòng dang rộng tay tha thứ nếu biết ăn năn trở về.
Tình thương đó được Chúa Giê-su phác hoạ qua dụ ngôn Người cha nhân từ. Một người cha không hề oán trách khi con đòi chia gia tài. Không hề oán trách khi con phung phí hết tài sản. Không hề trách mắng khi con thành tâm trở về. Tình thương của Cha còn thể hiện qua tấm lòng luôn khao khát chờ mong con trở về. Người cha ngày ngày ngóng con trở về. Và chỉ cần nhìn thấy con từ đằng xa, Cha đã chạy ra ôm con vào lòng. Cha đã quên cả quá khứ đi hoang của con.
Xem ra tình yêu của Ngài cũng rất mangtính nhân loại vì: “Yêu nhau mọi việc chẳng nề – Một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa”. Hay yêu điên cuồng đến độ xem củ ấu cũng tròn, quả bồ hòn cũng ngọt…; Tình yêu là thế! Vì yêu mà người ta có thể bỏ qua mọi nhược điểm, khuyết tật của nhau, sẽ làm tất cả để bổ túc cho nhau nên trọn vẹn hơn.
Xin cho chúng ta luôn tin tưởng vào lòng Chúa xót thương. Luôn can đảm trở về sau những lần vấp ngã, và luôn tín thác vào Chúa luôn mãi.
Ước gì chúng ta cũng biết noi gương Ngài mà sống bao dung với nhau. Xin đừng chấp nhất tội nhau nhưng luôn quên đi hận thù, oán ghét ghen tương, quên đi bao lỗi lầm bản tính con người để xây dựng tình hiệp nhất yêu thương. Amen
Hiện nay, cộng đồng người Việt Nam nói chung và cộng đồng người Phật Giáo Việt Nam nói riêng, đang xôn xao về vụ việc “Thỉnh vong oan gia trái chủ” ở chùa Ba Vàng, tỉnh Quảng Ninh, thành phố Uông Bí. Theo Hòa Thượng Thích Nhật Từ, thì việc thỉnh vong đó không có trong Phật Pháp và xúc phạm nặng nề đối với Giáo Hội Phật Giáo, làm ảnh hưởng xấu cho Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam.
Thế nhưng “Thỉnh Vong Oan Gia Trái Chủ” nghĩa là gì? Thỉnh là mời về; Vong là Vong hồn; Oan Gia là kẻ thù; Trái Chủ là Chủ nợ. “Thỉnh vong oan gia trái chủ” nghĩa là Mời hồn kẻ thù về để trả nợ; xem họ muốn đòi bao nhiêu và phải trả thế nào. Đó là việc làm của thầy trò Thích Trúc Minh và bà Phạm thị Yến ở chùa Ba Vàng. Có khi chủ nợ đòi cả trên 100 triệu. Nếu không có tiền thì làm công quả cho chùa.
Thầy Thích Trúc Minh đã lý luận rằng điều ông làm là có trong giáo lý Phật Giáo, trong kinh “Từ bi sám pháp”. Hòa Thượng Thích Nhật Từ nói: Đó không phải là KINH, mà chỉ là một bài viết. Vì KINH phải là Lời của Đức Phật dạy. “Từ bi sám pháp” là bài viết về việc từ bi sám hối, có nghĩa là phương pháp sám hối.
Qua đó, ta cũng hiểu tại sao người Công Giáo chúng ta gọi là KINH THÁNH. KINH Thánh là Lời Chúa dạy.
Trong bài “Từ bi sám pháp” chỉ nói về phương pháp SÁM HỐI bằng lòng từ bi mà thôi. Theo phương pháp này,việc SÁM HỐI có ba việc phải làm: một là thừa nhận lầm lỗi của mình; hai là chuyển nghiệp và ba là làm các việc lành. Có như thế, mới giải oan, mới tháo gỡ những oan trái bằng tha thứ, từ bi, hỉ xả.
Theo ví dụ của Hòa Thượng Thích Nhật Từ: Ví dụ mình nghèo. Muốn chuyển nghiệp nghèo hay chuyển kiếp nghèo thì ta phải cố gắng học hỏi, kiên trì, chịu khó làm việc và đầu tư thì mình sẽ hết nghèo. Nghĩa là có đủ ăn đủ mặc hay có của ăn của để.
Tôi thấy sự chuyển nghiệp này trong dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu. Trong dụ ngôn này, người con hoang đàng đã chuyển nghiệp. Sau khi đã ăn chơi hoang đàng, hết tiền hết của; rồi phải đi chăn heo, khổ cực; không có cơm mà ăn, thậm chí muốn lấy đồ heo ăn cho đầy bụng cũng chẳng ai cho. Trong hoàn cảnh cùng cực đó, anh ta mới sực nghĩ rằng: ở nhà cha mình, có bao nhiêu người làm công được cơm dư gạo thừa; rồi anh ta tự nhủ: Thôi thì, tôi không đáng là con thì ít ra như một người làm công thôi. Và anh ta đã đứng lên trở về và nói với Cha mình rằng: “Thưa Cha, con đã đắc tội với Trời và với Cha, chẳng còn đáng gọi là con Cha nữa” (Lc 15, 21).
Thế nhưng, người Cha thấy con mình về và đã không chấp nhận việc đó. Con thì vẫn là con, chứ không thể là người làm công được, nên phải mặc aso mới, đeo nhẫn, mang dép và làm tiệc để ăn mừng.
Ta thấy người con hoàng đàng đó đã ăn năn sám hối.
Anh ta đã thừa nhận tội lỗi của mình vì: Thưa Cha, con đã đắc tội với Trời và với Cha. Anh ta tội gì? Anh ta đắc tội gì với Trời? Đắc tội gì với người Cha? Anh ta mang tội “đi hoang”. Với Trời, anh ta mang tội “sống phóng đãng”, “tứ đổ tường” như: Rượu chè, cờ bạc, trai gái, hút sách. Với Cha anh ta, anh mang tội “Phung phí hết tài sản”(x. Lc 15,13).
Thứ đến là anh ta muốn chuyển nghiệp, muốn đổi đời. Anh ta muốn chuyển từ không có gì ăn đến được ăn cơm no; chuyển từ CON sang người làm công.
Thứ ba, anh ta đã làm việc tốt. Việc tốt của anh ta là TRỞ VỀ. Anh ta trở về, không chơi bời phóng đãng nữa. Anh ta muốn trở về dù là với tư cách người làm công cũng được và làm ăn chân chính.
Anh ta đã có lòng từ bi đối với chính con người và cuộc đời của anh ta. Con người của anh ta không phải đói rét; cuộc đời anh ta không bị tan biến trong trụy lạc. Và anh ta đã chuyển được nghiệp của mình, không chỉ theo ý của anh ta mà thôi, nhưng còn vượt xa điều anh muốn nữa. Đó là anh ta vẫn là con theo lòng nhân hậu của Cha.
Người ta nói: “một giọt máu đào hơn ao nước lã” mà. “Hổ dữ không ăn thịt con”, huống chi một người cha nhân lành, làm sao có thể chấp nhận người con mình là người làm công có chứ. Người Cha nhân lành đó chính là Thiên Chúa và người con hoang đàng đó chính là mỗi người chúng ta.
Chúng ta không cần phải “thỉnh vong oan gia trái chủ” làm chi cho lằng nhằng rắc rối, lại tốn tiền. Hãy ăn năn sám hối thực tình như người con hoang đàng đó đi. Hãy ăn năn sám hối về những gì mình đã lầm lỗi; đã làm hại người này người kia; cách này cách khác và ra sức đền bù bao có thể. Nhất là kiên quyết từ nay trở đi không làm hại ai nữa; thay vào đó là giúp đỡ, làm điều tốt, điều lành cho mình và cho người khác. Ta sẽ chuyển được nghiệp của ta.
Ta chuyển nghiệp theo “Người con hoang đàng” trong dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu. Vì đó chính là KINH; là KINH thánh; là KINH CHÚA, theo Lời Chúa dạy. Có thể nói: Đứa con hoang đàng trở về là một con đường chuyển nghiệp. Ta hãy chuyển nghiệp cho chính mình; cho chính cuộc đời của mình, thì thế giới này cũng sẽ chuyển; đời sống con người cũng sẽ chuyển. Mọi người sẽ được sống trong bình an và hạnh phúc. An bình ở đời này và hạnh phúc ở đời sau.
Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay là trang Tin Mừng đẹp nhất của Kinh Thánh. Dụ ngôn này đã khiến cho mọi con tim phải xúc động. Nó có một sức mạnh đến ngạc nhiên, bởi con người không bao giờ hình dung được một vị Thiên Chúa có những cách hành xử đầy lòng thương xót như thế! Vì sự độc đáo đó, câu chuyện khiến chúng ta không thể nào quên được.
Dụ ngôn này đề cập đến ba nhân vật chính, thu hút sự chú ý của chúng ta. Mỗi nhân vật là tấm gương giúp chúng ta soi mình, để khám phá bản thân ở trong đó. Bởi thế, chúng ta cần tìm hiểu từng nhân vật của dụ ngôn:
1- Một người cha nhân hậu
Dụ ngôn trước hết tập trung vào dung mạo người cha. Có thể nói ông là nhân vật chính của dụ ngôn. Ông không phải là một người cha nghiêm khắc, gia trưởng, quyền hành và độc đoán. Nhưng là một người cha rất giàu lòng nhân hậu, khoan dung, và thương xót đối với con cái của mình. Ông có hai người con trai. Người con thứ xin chia gia tài. Ông sẵn sàng chia gia tài cho nó. Vì yêu thương và tôn trọng tự do của con, người cha đã để cho người con thứ rời bỏ gia đình ra đi.
Khi người con thứ đi xa, ông ở nhà thương nhớ, mòn mỏi và trông chờ nó trở về. Sau khi đã phung phí hết tài sản, người con thứ trở về trong tư thế thân tàn ma dại, hai bàn tay trắng, người cha vui mừng, ra đón, ôm lấy nó, hôn lấy hôn để, rồi truyền cho đầy tớ mang giày, mặc áo đẹp cho cậu, và còn mở tiệc mừng.
Người cha trong dụ ngôn chính là hiện thân Thiên Chúa của Kitô giáo, một vị Thiên Chúa được Chúa Giêsu Mạc khải cho chúng ta với danh Người là Đấng giàu lòng thương xót. Người là vị Thiên Chúa nhân hậu, chậm bất bình và rất mực khoan dung. Người không phải là một vị Thiên Chúa nghiêm khắc như một ông chủ, một tên cai ngục, hay một tên hung thần như một số người quan niệm.
Đó là dung mạo đích thực của Thiên Chúa. Bởi lẽ, bản chất của Thiên Chúa là thương xót. Thiên Chúa cứu độ con người nhờ lòng thương xót. Quyền năng của Thiên Chúa thể hiện lúc Người xót thương, hơn là lúc Người luận phạt. Lòng thương xót Chúa từ đời nọ tới đời kia, lớn hơn tội lỗi và vượt thắng mọi sự dữ. Dung mạo Thiên Chúa thương xót là niềm hy vọng và nguồn an ủi cho mọi tội nhân tìm về.
2- Một người con hoang đàng
Nhân vật thứ hai trong dụ ngôn phải kể đến người con thứ. Anh ở với cha, sung sướng có, hạnh phúc có, nhưng anh không nhận ra tình thương của cha. Anh cũng không ý thức mình là con của cha và chỉ nghĩ mình là một người làm công trong nhà. Nơi anh, ẩn chứa một quan niệm méo mó về người cha như một viên cai ngục làm mất tự do của mình. Anh đã quyết định bỏ nhà, trẩy đi phương xa, tìm kiếm cuộc sống mới.
Ở đó, anh phung phí hết tài sản với bọn đàng điếm, thân tàn ma dại, tiền mất tật mang. Anh phải xin đi chăn heo, ở với heo, ăn thức ăn của heo. Theo Kinh Thánh, heo là một loài ô uế. Chi tiết này cho thấy anh đã đánh mất nhân phẩm, ngang hàng với một loài súc vật. Đó là sự vong thân nền tảng của một người khi bỏ nhà, xa cha.
Tuy nhiên, nơi con người này vẫn còn le lói một chút gì đó hướng thiện, đáng trân quý. Anh hồi tưởng lại cuộc sống sung túc ở nhà với cha và từ đó, anh quyết tâm chỗi dậy trở về với cha và thưa: “Con đã đắc tội với Trời và với cha, con không đáng gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công.” Đó là hành vi sám hối và là cuộc trở về của anh.
Người con thứ là hiện thân của tất cả những ai trong Giáo Hội đã được đón nhận phép Rửa, ở trong Giáo Hội, nhưng nay, đã bỏ Chúa, bỏ Giáo Hội; họ không sống đúng với tư cách là con cái Chúa, không thực hành niềm tin tôn giáo, không còn sống đạo nữa. Chúng ta hãy cầu nguyện cho họ được ơn hoán cải và trở về với Chúa qua việc thực hành niềm tin của mình.
Người con thứ là hiện thân của tất cả những ai đã đi hoang và chìm đắm trong những con đường tội lỗi như rượu chè, cờ bạc, trai gái dâm đãng… Họ đánh mất nhân phẩm con người và phẩm giá làm con Chúa. Những người này được mời gọi hoán cải và trở về với Chúa, nếu không sẽ phải vong thân. Thiên Chúa là Cha nhân hậu luôn chờ đợi người con hoang trở về. Hãy quay trở về với Cha.
3- Một người anh ganh tỵ
Có lẽ chúng ta thường ít để ý đến người con cả. Nhưng anh cũng là đại diện cho rất nhiều người trong Giáo Hội. Anh ở bên cha, chu toàn mọi công việc được cha giao phó, nhưng lại là một người thiếu lòng thương xót, phê phán và ganh tỵ với người em của mình. Vì thế, anh cũng phàn nàn và trách móc người cha, anh không cảm nhận tình thương của cha. Anh ở gần cha về thể lý nhưng lại xa cha và một cách nào đó hoang đàng về tinh thần.
Người con cả là hiện thân của rất nhiều người trong chúng ta, những người không chối bỏ Chúa, không rời xa Giáo Hội, những người xưng tội, rước lễ, tham dự thánh lễ đầy đủ, nhưng lại thiếu lòng yêu mến Chúa và lòng thương xót đối với tha nhân.
Anh là hiện thân của những người quanh năm suốt tháng ở trong cộng đoàn, trong giáo xứ, trong gia đình, làm tốt các bổn phận với Chúa nhưng hay chỉ trích, phàn nàn, ganh tỵ và gây chia rẽ với anh chị em mình. Những người này cũng cần sám hối và trở về với Cha.
Như vậy, trong dụ ngôn, hình ảnh người cha chính là dung mạo của Thiên Chúa chúng ta, hình ảnh người con thứ và con cả là mỗi người chúng ta. Chúng ta cần sám hối, cần khám phá lòng thương xót Chúa để sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa.
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin dũ lòng thương xót, tha thứ mọi tội lỗi và bất xứng của chúng con. Amen!
Chúa Giêsu dùng một dụ ngôn để chứng minh cho chúng ta thấy tình yêu của Cha trên trời, một tình yêu không mệt mõi, không cưỡng bách và luôn nhẫn nại.
Hạnh phúc cho chúng ta biết bao vì chúng ta có một người cha rất mực nhân từ và đầy quyền năng ! Chúng ta có cảm thấy hạnh phúc không ?
Cha chúng ta trên trời luôn rộng lượng tha thứ cho chúng ta, không bao giờ trách cứ lỗi lầm chúng ta, dù chúng ta có bội bạc đến cỡ nào, Ngài luôn đón chờ chúng ta, vui mừng khi chúng ta trở về với Ngài. Chúng ta là những đứa con phản bội, vô ơn. Được cưng chiều hết mực, nhưng vẫn không muốn sống với Cha mà chỉ muốn tung hoành theo ý mình. Cha biết chúng ta dại khờ và nông nổi, nhưng Cha không bao giờ ép buộc chúng ta, luôn tôn trọng tự do của chúng ta, dù biết rằng Ngài có thể đòi buộc chúng ta theo ý Ngài. Chúng ta không muốn theo ý Ngài, Ngài cũng không nài ép chúng ta. Ngài nhẫn nại chờ đợi cho đến lúc chúng ta ý thức được sự khờ dại của mình và trở về trong vòng tay yêu thương của Ngài. Đó phải chăng là hạnh phúc tuyệt vời của chúng ta là những đứa con vô tâm ?
Hãy tạ ơn Cha vì biết bao nhiêu lần chúng ta hoang phí ơn lành của Cha, sử dụng những ơn lành đó để phục vụ những ước muốn ngông cuồng của chúng ta. Chúng ta muốn làm nô lệ tội lỗi và những ước muốn đê hèn của chúng ta hơn sống trong tình yêu của Cha, dưới mái nhà thân yêu của Cha. Nhưng khi chúng ta tả tơi, nghèo đói trở về, Cha luôn ôm chúng ta vào lòng, vui mừng đón nhận chúng ta, trả lại cho chúng ta những gì chúng ta đã mất, nhất là cho chúng ta trở lại làm con của Ngài khi chúng ta không còn xứng đáng. Ôi tình yêu vô bờ của Cha !
Hơn nữa, vì chúng ta, Cha chúng ta đã hy sinh Người Con Một yêu quí của Ngài, sai Con Ngài đến trần gian,chết trên thập hình cứu vớt chúng ta. Chúng ta có nhìn thấy không ? Vì chúng ta, Ngài không tiếc gì với chúng ta, chúng ta còn tiếc gì với Ngài ? Chúng ta còn thèm muốn củ hành củ tỏi Ai Cập nữa không ? Hãy trở về với Cha nhân từ, hãy giũ bỏ những ước mơ đê hèn của chúng ta để cùng chung sống với Cha trong tình yêu. Tình yêu Chúa quí hơn mạng sống. Chúng ta còn ước mơ gì nữa ? Cha đang chờ đợi chúng ta từng ngày, từng lúc. Mùa Chay chính là lúc chúng ta kiểm lại xem, thế gian mang lại cho chúng ta những gì ngoài một mớ tro bụi nhơ nhớp, là lúc nhìn lại bản thân mình còn gì ngoài đống tội khổng lồ chưa tẩy xóa, những đam mê chưa dứt khoát ? Phải quyết định trở về với Cha, vì ở nhà Cha ta, những tên đầy tớ còn no đủ hơn chúng ta. Chúng ta làm nô lệ ma quỷ, nó đã tước đoạt tất cả gia tài sản nghiệp của Cha, biến chúng ta thành nô lệ, chăn một lũ heo nhơ bẩn. Chúng ta chưa tỉnh thức sao ?
“ Hãy trở về với Ta”, qua lời tiên tri Gioen, Cha trên trời không thôi kêu mời chúng ta. Hãy chăm chú lắng nghe và đứng dậy trở về, đừng chậm trễ. Có những người trong chúng ta, như người anh cả, không muốn dón nhận em mình, ganh tị vì Cha vẫn yêu thương đứa con hư hỏng, đòi hỏi của cải mà không yêu thương, phản đối tình yêu của Cha. Nhưng Cha vẫn nhẫn nại giúp cho anh hiểu tình yêu quan trọng hơn của cải, mạng sống vẫn quí hơn mọi sự. Yêu thương để cùng chung sống trong vòng tay của Cha, dưới mái nhà êm đềm của Cha hơn là tranh chấp những chuyện nhỏ nhen. Chúng ta hẹp hòi, nhưng Cha vẫn quảng đại. Chúng ta cố chấp, nhưng Cha luôn là Tình Yêu.
Vì yêu thương chúng ta yếu hèn khờ dại, Cha trên trời đã sai Con Một của Ngài đến trần gian nói lên một cách cụ thể tình yêu của Cha, dẫn chúng ta về với Cha, vì Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Ngài. Ngài gánh lấy mọi tội lỗi chúng ta và treo nó lên thập giá. Giờ đây, nhờ Ngài, chúng ta được đến với Cha để hưởng sự êm đềm của tình yêu Cha. Giờ đây, ai ở trong Ngài sẽ là một tạo vật mới. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu, Đấng gánh tội trần gian đã hòa mình với chúng ta khi cho chúng ta ăn lấy Ngài, nên một với Ngài, cùng Ngài yêu mến Chúa Cha, cùng Ngài làm sáng danh Cha. Hôm nay Cha trên trời giết Con Chiên yêu quí của ngài để ăn mừng vì chúng ta trở về với Ngài, vì con Ta đã mất nay được tìm thấy, đã chết nay đã sống lại. Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa !
Đoạn văn mở đầu bài Tin Mừng hôm nay (CN IV/MC -C – Lc 15, 1-3.11-32) có nêu nhận định của đám người Pha-ri-sêu và các kinh sư về Đức Giê-su Ki-tô: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” Biết quá rõ về đám người này chỉ chuyên đi “nhìn người” để săm soi, xét nét, rồi kết án nọ kia, nên Đức Giê-su liền kể cho nghe 3 dụ ngôn liền: “Con chiên bị mất”, “Đồng bạc bị đánh mất”, “Người cha nhân hậu”. Thông qua 3 dụ ngôn, Đức Ki-tô nhấn mạnh đến hiệu quả của việc sám hối. Ở 2 dụ ngôn trước, Người kết luận: “Tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”.
Đến dụ ngôn thứ 3 (“Người cha nhân hậu” – Lc 15, 11-32) thì Người diễn tả một cách rõ ràng về hành động ăn năn sám hối của người con hoang đàng: “Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chay ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa.” (Lc 15, 20-21). Và chính nhờ vậy mà anh được người cha vui mừng đón tiếp rất nồng hậu (“Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay đã sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng.” – Lc 15 22-24”).
Một đứa con hoang đàng tội lỗi biết ăn năn hối cải trở về với gia đình hoặc một con chiên lạc mất mà tìm lại được, mở tịêc mời bà con lối xóm đến chung vui thì còn có thể hiểu được; nhưng đến như mất một đồng quan tiền mà tìm lại được cũng mời hàng xóm tới chung vui thì… kỳ quá! Thực tế có thể không có chuyện đó, nhưng đây là một dụ ngôn nên những hành động biểu hiện bên ngoài chỉ là một cách diễn tả ngụ ý bên trong. Và ẩn ý trong cả ba dụ ngôn đó chính là: “giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối” (Lc 15, 10). Con chiên hay đồng bạc chỉ là một hình ảnh ẩn dụ về một người lầm lạc, sa vòng tội lỗi (như người con hoang đàng). Và mục đích chính của dụ ngôn nhắm tới chính là biểu hiện tấm lòng bao dung độ lượng đầy tính nhân đạo của chủ nhân đồng tiền, người chủ của đàn chiên hay người cha nhân hậu của đứa con hoang đàng.
Nói đến tội lỗi là nói đến bản chất con người. Là con người thì không ai là không có những thiếu sót, lỗi lầm, “nhân vô thập toàn” là điều hiển nhiên. Vấn đề đặt ra là bản thân có nhìn ra được những sai lầm tội lỗi hay không, và khi đã nhận ra những thiếu sót lầm lỗi, thì có biết ăn năn hối cải hay không. Nho giáo ngày xưa có đề ra một phương cách để nhìn lại bản thân, tự kiểm điểm. Đó là “diện bích” (đối diện với bức vách – nhìn vách), một phương cách rất hay, cũng giống như nhìn vào gương để thấy rõ được diện mạo của minh, thì nhìn vào tấm vách trống trơn sẽ thấy rõ được chân tướng của mình.
Khi “nhìn lại mình” như vậy, sẽ xảy ra 2 trường hợp: hoặc chủ quan hoặc khách quan. Nếu quá chủ quan sẽ rơi vào 2 thái độ: có người chỉ thấy toàn những tội lỗi khuyết tật, và cũng có người chỉ thấy toàn những điều tốt đẹp mà mình có được; và đó chính là 2 thái độ cực đoan: một bên là mặc cảm tự ti quá mức và một bên là tự kiêu ngạo mạn cũng… quá đà! Tuy nhiên, không tính đến 2 thái độ cực đoan ấy, thì nói chung, khi “nhìn lại mình” con người thấy rõ được sự thật, được chân tướng của mình. Sự thật ấy có thể bị che phủ bởi những yếu tố chủ quan như tự ái, tự kiêu, tự mãn, định kiến, mặc cảm; hoặc những yếu tố khách quan như dư luận, hoàn cảnh, môi trường sống.
Ôi chao! Chỉ là nhìn lại mình mà cũng có lúc thế này, lúc thế khác; có lúc đưa cái tôi lên tận mây xanh, thì cũng có lúc nhấn cái tôi xuống tận bùn đen. Vì thế, thái độ cần có khi nhìn lại mình là phải chân thành, khiêm tốn và can đảm mới có thể nhận ra sự thật về chính mình. Và khi đã nhận ra sự thật về mình, thì lại cũng rất cần phải chân thành, khiêm tốn và can đảm bày tỏ sự ăn năn hối tiếc về những sai lầm, tội lỗi đã vấp phạm. Hãy nhìn vào tấm gương hai người con trong dụ ngôn thú ba (Lc 15, 11-32) để rút ra bài học cho bản thân. Không học đòi thói ăn chơi phung phí, để “nước đến chân mới nhảy” như người con thứ hai; cũng không nên như người anh cả đố kỵ, ghen tương, rồi khép chặt cửa lòng khi gặp người anh em cùng khốn.
Xét đến cùng, cuộc sống của con người tuyệt nhiên không phải hoàn toàn do những sự việc phát sinh của cuộc sống quyết định; mà là do thái độ cùng với tâm tình và cung cách nhìn sự việc (quan điểm) của chính con người quyết định. Vâng, chỉ có nhìn lại mình, sẵn sàng “xé lòng” ra mà sám hối, ăn năn về những sai lầm, những vấp phạm của minh, đồng thời mở rộng trái tim ra với Thiên Chúa và với anh em (mến Chúa yêu người); nhiên hậu mới có thể trở về cùng Thiên Chúa và được Người mở rộng vòng tay ân tình ra đón nhận. Nói cách khác, khi người tín hữu “xé lòng” ra mà ăn năn sám hối thì cũng ví như bản thân đã chết đi vì tội lỗi, để được sống lại trong vinh quang Phục Sinh của Đức Ki-tô (“Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô thì chúng ta cũng sẽ được cùng sống lại với Người” – Rm 6, 8; “Thật vậy, nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được hoà giải với Thiên Chúa, thì việc họ được thâu nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống?” – Rm 11, 15).
Sám hối để trở về cùng Người Cha Nhân Lành cũng tức là thể hiện tinh thần hoà giải với Thiên Chúa và với anh em. Muốn đạt được hiệu quả tốt thì phải biết đổi mới tận gốc rễ con người của minh, mà muốn đổi mới thì phải biết nhìn lại mình để thấy được những sai lầm tội lỗi và quyết tâm thống hối. Cũng bởi vì “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6), nên chỉ còn một cách là hãy biến tất cả những ước muốn hoà giải, những tâm tình sám hối thành hành động cụ thể để thông qua Đức Ki-tô – nhờ Người, với Người và trong Người – mà trở về cùng Cha trên trời. Và cũng chỉ có duy nhất một con đường là hãy đến với Đức Ki-tô, gặp gỡ Người, sẽ được Người trang bị cho đầy đủ hành trang để trở về cùng Chúa Cha nhân lành, hằng hữu.
Tóm lại, thông qua dụ ngôn, người Ki-tô hữu cần phải biết nhìn lại mình mà hoán cải (sám hối) để hòa giải với Thiên Chúa và với anh em, như mong ước của Đức Thánh Cha Phan-xi-cô trong sứ điệp Mùa Chay 2019: “Chúng ta hãy để sự ích kỷ, để cái nhìn bị gắn chặt vào bản thân mình, lại đàng sau chúng ta, và hãy hướng về Đại Lễ Phục Sinh của Chúa Giê-su; những người anh chị em của chúng ta đang gặp cảnh khốn cùng nên trở thành những người thân cận của chúng ta, tức những người mà chúng ta chia sẻ với họ những kho tàng tinh thần và vật chất của mình. Và như thế, khi chúng ta đón nhận cuộc chiến thắng của Chúa Ki-tô trên tội lỗi và sự chết vào trong cuộc sống cụ thể của chúng ta, chúng ta cũng sẽ kéo được sức mạnh có sức biến đổi của Ngài xuống trên thế giới thụ tạo.” Ước được như vậy. Amen.
Bài Tin Mừng Chúa nhật thứ TƯ mùa chay, Thánh Luca cho chúng con nghe lại dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Người. Trình thuật này chúng con đã nghe biết bao lần, với nhiều cách gọi khác nhau. Có vị chú giải lấy tựa đề: Người con hoang đàng. Cũng trích đoạn này, có vị đặt tựa: Chuyện về lòng nhân hâu của người cha. Vị khác lại đặt: Lòng thương xót của Thiên Chúa . . . tựu trung nói về người Cha trong Tin mừng, thể hiện tình yêu thương tha thứ tuyệt đối của Thiên Chúa với con người.
Người Cha trong tin mừng chính là Thiên Chúa, đấng luôn ngóng trông con mình tội lỗi trở về, đã củng cố cho con niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa. Hành động người con hoang đàng trở về là một mẫu gương cho con trong đời sống. Con cũng bao lần bỏ nhà ra đi, cũng bao lần đựoc Cha chia gia tài là ơn Chúa, là khả năng, là phúc lộc. . . vậy mà con vẫn từ khước, ra đi, phung phá, sa vào mọi điều xấu. Đã nhiều lúc lâm vào tình trạng kiệt quệ, thay vì trở về với cha, con lại tìm đến cầu cứu nơi các thế lực đen tối khác, tìm đến quyền năng của ác thần để mong thóat ra khỏi cơn nguy nan. Con không nhận ra Chúa vẫn giang tay gọi mời.
Là con cái, đã bao lần chúng con phản nghịch lại tình thương của cha mẹ, hay toan tính rời xa tình yêu thương của cha mẹ. Muốn rời bỏ tổ ấm gia đình để được tự do sống theo bản năng, sở thích. Không nhận ra được tình yêu vô bờ của người cha, người mẹ mãi tận tụy vì con. Khi có lỗi, không tự nhận mình lỗi phạm, không biết quay trở về xin ơn thứ tha mà vẫn cố đắm chìm trong sa đọa.
Những người cha trần thế hôm nay, trong chúng con không ít người gặp hoàn cảnh con cái ngỗ nghịch, không khác chi người con thứ trong Tin mừng. Mà còn hơn thế nữa. Có những đứa con không chỉ cãi lời cha mẹ, đòi chia gia tài khi cha mẹ còn sống, hăm dọa sẽ bỏ đi, sẽ làm những điều phi pháp mà cha mẹ phải chịu trách nhiệm liên đới. Thậm chí có những người con đe dọa tính mạng song thân, đuổi cha mẹ ra khỏi nhà. . . Gặp những người con không hề biết sống đạo lý con người, không nghe lời khuyên bảo của người khác, đối xử bất nhẫn với các đấng sinh thành thì làm cha, làm mẹ đau khổ biết bao. Chúng con có đủ can đảm cam tâm chịu đựng, cầu nguyện cho con cái được ơn trở về, sẵn sàng tha thứ như người cha trong Tin mừng hôm nay? Hay tìm cách khử trừ, loại bỏ những đứa con ngỗ nghịch của mình ?
Lạy Chúa,
Xin cho con khi nhận biết tình Chúa yêu con, con dám can đảm đứng lên, rời bỏ quá khứ tội lỗi để trở về với Cha, Đấng là Cha hết mọi người. Con biết rằng thân phận con thì mỏng dòn yếu đuối. Con biết được, khi trở về ở nhà rồi, được mấy ngày, lại tìm cách kiếm ít tiền của rồi trốn đi, ăn chơi, sa ngã. Tái đi tái lại bao lần. Sợ Cha rầy la, không chấp nhận, nên con ngã lòng đến nỗi bỏ đi thật xa. Tư tưởng ấy tồn tại trong con, cho thấy lòng tin của con vào tình thương của Chúa còn non yếu.
Xin Chúa giúp con, xin Người ban thêm đức tin cho con.
Xin cho con nhân mùa Chay Thánh này, biết nhìn nhận mình yếu đuối, phải cây dựa vào Lòng Chúa xót thương, biết thưa lên như người con thứ trong Tin Mừng: “Cha ơi! Nay con đã về, tội đầy cùng trời với Cha. Bao nhiêu tháng năm hoang đàng, một lần ghi dấu ăn năn. Con xin làm người tôi hầu, về đây bên Cha dấu yêu. Rồi đây những khi ưu sầu, con được tình Cha xót thương nhiều ” . AMEN.
Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Nhật IV MC cho chúng ta một “dấu ấn” về hình ảnh một “Người Cha nhân hậu”. Vâng, ý nghĩa của Đoạn Tin Mừng trên quá quen thuộc với chúng ta, nhưng thật ra cũng còn xa lạ với nhiều người, với những người chưa từng được nghe hay đọc, với những người chưa từng được ai nói đến, hoặc với những người tín hữu thờ ơ, hay chưa bao giờ thực thi dù chỉ một lần.
Vâng, thưa quý vị, Đoạn Lời Chúa hôm nay, nếu xét về “công bằng”, thì Người Cha “có lỗi”, bởi vì, sự công bằng của thế gian là có “công thì thưởng”, “có tội thì phạt”. Tại sao, “Người Cha” bất công thế ?!
Nhưng , sự công bằng nơi Người Cha đó là “ LÒNG THƯƠNG XÓT”, vâng, Lòng Thương Xót nơi Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của phàm nhân, khi nói đến “công bằng” là nói đến “đền, trả”. Nhưng , khi nói đến “Lòng Thương Xót” là nói đến tình thương, mà nói đến tình thương là nói đến tha thứ. Tha thứ không có nghĩa là “thất bại” hay nhu nhược, yếu kém, mà tha thứ là ”sức mạnh” đến từ Thiên Chúa qua Thập giá Đức Kitô.
Chúng ta hãy xét qua từng thái độ của ba người trong Đoạn Tin Mừng hôm nay nhé.
Thứ nhất: Người cha nhân hậu.
Khi người cha trong Tin Mừng thấy người con tội lỗi quay về, thì ông ta ôm người con, hôn lấy , hôn để. Điều nầy thể hiện vai trò làm cha “thật sự”, người cha trong Tin Mừng được mệnh danh là ” Người cha nhân hậu”, vì cử chỉ nầy, sau đó ông gọi gia nhân làm tất cả những gì có thể để bù đắp cho người con đi xa trở về.
Vâng, người cha chỉ có một khái niệm duy nhất là ” con ta đã lạc mất nay được tìm thấy”, chúng ta thấy “tâm tình” của người cha là không quát mắng, không giận dữ, không trả đũa. Mà, ông như bị mất “báu vật” nay tìm được, dù có đồng tình hay không, chúng ta hãy đặt mình trong “tâm trạng” của người cha. Ông không coi người con là “ tội lỗi” là đồ bỏ, đồ vứt đi, mà là sự “thương nhớ”, thương hớ vì “ báu vật” được tìm thấy.
Vâng, đó là tâm trạng của người cha, ông ta không coi sự phung phá của đứa con xa cách, mà ông “tỏa lan” ánh sáng của tình thương, bao trùm đứa con đi xa trở về. Theo đó, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa bao dung cách lạ lùng, bao dung dẫn đến tình thương, tình thương dẫn đến tha thứ. Thái độ người cha thật là nhân hậu, ông không thể làm theo người con cả, dù người con cả là người “con ngoan”, bởi vì , ông “làm cha”.
Thái độ người cha cho chúng ta biết một “ phương pháp” trọng yếu , đó là”xây dựng một gia đình”. Ông không thể từ khước người con, dù trong lòng ông đau khổ. Người con cả chỉ biết , khi nhìn thấy bên ngoài, ông hiểu được bên trong. Người cha nhân hậu không đối xử bất công với đứa con ngoan, vì ông nói:” Mọi sự của cha là của con…”, “… nhưng em con đã chết, nay tìm thấy”.
Chúng ta có khi nào yêu thích những món đồ cũ, khi chúng bị lạc lâu ngày , bỗng nhiên tìm thấy không?! Lúc đó, chúng ta sẽ cảm nghiệm “tâm tình” của người cha trong Tin Mừng hôm nay.
Thứ hai: Thái độ của người con tội lỗi.
Tội lỗi phải đi với hình phạt, dù người cha không trách phạt, lương tâm, tức bên trong đứa con vẫn áy náy, đó là tâm tình “ thống hối”. Tâm tình nầy anh ta đã có trước khi về nhà, tâm tình “sám hối” chân thành. Khi về đến, dù chưa kịp thổ lộ, người cha vẫn tha thứ, bởi vì, ông đọc và biết được bên trong của đứa con xa nhà, bởi vì , hằng ngày ông trong mong, chờ đợi, mặc nhiên, ông cảm thấu “tâm tình” của đứa con xa nhà, vâng, đó là “ khoa tâm lý” của người làm cha. Vì vậy, ông đạt được nhân cách “ làm cha”. Thái độ bao dung mà người cha nhân hậu nầy có và làm được bởi vì ông ta “ rất giàu có”. Vâng, hình ảnh nầy, người cha phàm nhân ngày nay khó bắt chước, vì Người Cha nhân hậu trong Kinh Thánh chính là Thiên Chúa, là Đấng giàu có tất cả, trong đó lòng nhân hậu là trên hết. Người con tội lỗi có một đặc điểm là “ lòng tin “ vào cha của mình, điểm yếu của anh ta là tội lỗi, nhưng, điểm mạnh là ” lòng tin” vào cha mình. Vâng, lòng tin khôi phục tình thương, tình thương đẫn đến sám hối chân thành, anh ta “ tin“ cha mình nhân hậu hơn tất cả mọi người anh ta gặp. Như thế, người con xa nhà, người con đi hoang vẫn mang trong mình một “ điểm mạnh”, đó là tình thương của cha mình.
Vậy chúng ta, hãy quay về với Thiên Chúa là Cha, Đấng giàu lòng thương xót, nhất là Người là Thiên Chúa toàn năng, thì không một uy quyền nào cao hơn Thiên Chúa, kể cả tội lỗi và satan.
Thứ ba: Thái độ người con cả.
Người con cả hình thức thì “tuyệt vời”, bởi vì anh ta là người có hiếu, biết chu toàn trong ngoài, tính toán rạch ròi, mang lại nhiều hữu dụng cho người cha. Nhưng, anh ta không có “ nội tâm”, bên trong anh ta chỉ là: oán trách, chỉ trích, so đo, tính toán hơn thiệt, từ đó anh ta thiếu đi lòng bao dung, như vậy nhân cách tốt của anh ta chưa đủ, vì anh ta còn thiếu “ nội tâm “ là tấm lòng bác ái, vì anh ta không biết thương em mình, thì gia nhân hay người ngoài chắc gì anh ta thương. Theo đó, người con cả thiếu “ Lòng Thương Xót”, dù mọi sự của cha là của anh, nhưng anh ta không thể có cái mà người cha có, đó là: “ tấm lòng nhân hậu” . Nhân hậu không phải là “ tào lao”, ai xin gì cũng cho, mà là phải biết “vâng theo” Lòng Nhân Hậu của Thiên Chúa. Điều đó có nghĩa là luôn luôn cầu nguyện để xin ơn “ khôn ngoan”.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy cho chúng con biết “ Lòng nhân hậu “ của Chúa Cha, Đấng là tình yêu muôn thuở qua “Dụ ngôn người cha nhân hậu“. Xin thương cho chúng con biết suy niệm hằng ngày để đừng bao giờ thất vọng khi sa ngã, nhưng biết chỗi dậy, tín thác, cậy trông cách chân thành “Lòng Thương Xót” của Cha mà trở về, hầu đón nhận ơn tha thứ và bình an ./. Amen
Thưa quý vị, lời nguyện giải tội chính là nói đến Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi cho chúng ta qua trung gian là Giáo Hội, đại diện là vị linh mục, vì mục đích Thiên Chúa ban Đấng Cứu Thế cho nhân loại là để ban ơn tha thứ cho phàm nhân tội lỗi.
“ Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng giàu lòng thương xót, Cha đã dùng cái chết và sự Phục Sinh của Đức Giêsu- Kitô, Con Cha, Chúa chúng con mà giao hòa thế gian với Cha và để ban ơn Thánh Thần tha tội. Xin Cha dùng tác vụ đã ban cho Hội Thánh mà ban cho chúng con ơn tha thứ và bình an “ ./. Amen
Đó là lời nguyện mà vị linh mục đọc để giải tội cho chúng ta khi chúng ta đi xưng tội. Khi xưng tội là chúng ta nói với Chúa như chúng ta nói với “Người Cha nhân hậu”:” Thưa Cha, con đã phạm tội đến Cha, con không đáng làm con Cha nữa”. Nhưng , Người sẽ vỗ về chúng ta qua vị linh mục. “ Vậy , cha tha tội cho con. Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần “ .
Vâng, và như vậy, chúng ta được giao hòa với Thiên Chúa là “Người Cha nhân hậu”, chúng ta thấy thật hạnh phúc, vì chúng ta mặc được tâm tình của người con hoang đàng. Mong thay.
Heo. Còn gọi là lợn, con vật của mọi thời đại bị xem là xấu xa, tục tĩu, dơ dáy, bẩn thỉu… tuy nhiên nói toẹt móng lợn ra thì nó lại cần thiết trong đời sống hằng ngày với đa số mọi người, chỉ một số ít người không có nhu cầu…ăn thịt heo.
Thưa các bạn!
Tin Mừng tuần IV Mùa Chay C tường thuật câu chuyện rất thực, rất sống động và đầy cảm xúc. Thiết tưởng là tín hữu Kitô khi nói đến nó đều thuộc nằm lòng và nhớ như in từng nhân vật (Lc 15,1-3.11-32).
Thực tế, rất nhiều tác giả tốn nhiều thời gian và giấy mực viết rất hay, bàn rất kỹ, suy niệm rất sâu sắc về các nhân vật như: người cha già, người con cả, người con thứ, người làm công, áo, nhẫn, dép, con bê béo…
Hôm nay, bần đạo thật ‘to gan bạo phổi’ xin mạo muội bàn đến một chút xíu về đề tài này, xem ra rất nhạy cảm và tế nhị. Thiết nghĩ, ít ai dám ‘đá động’ tới, có lẽ vì phong tục, tập quán, đạo đức, văn hóa chăng?…
Xin kể mẩu chuyện vui. Một hôm, cha xứ tới nhà dùng cơm với gia đình gồm hai vợ chồng và một bé gái.
Cha xứ hỏi bé: “Con biết trên thiên đàng người ta gọi nhau bằng gì không?”
Bé đáp tỉnh bơ: “Thưa cha, bằng em”.
Cha xứ lấy làm ngạc nhiên: “Sao con lại trả lời như thế?”
Bé liền đáp: “Tôi hôm qua, con nghe ba con nói chuyện điện thoại rằng: Em là thiên đàng của anh”.
Cha xứ: ???!!!…
Thưa các bạn!
Phương tiện thông tin đại chúng ngày càng hiện đại và phát triển như điện thoại thông minh, Tivi ba chiều, vi tính cực mỏng, mạng internet cực nhanh… Phải chăng nó là con dao hai lưỡi, giúp ta thăng hoa và có thể lên tới thiên đàng, nhưng nó cũng đưa ta tới chỗ hôi hám và ô uế dưới đáy địa ngục?
Nếu đem so sánh, hình ảnh con heo trong câu chuyện có thể còn cao quý hơn là người con thứ, tại sao ư? Vì heo còn được ăn đồ heo ăn như đậu muồng hay cám heo, thế nhưng người con thứ thèm và muốn ăn những thứ đó nhưng không ai cho ăn.
Thánh Luca kể: “Khi anh ta đã ăn tiêu hết, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho” (15,14-16).
Thưa các bạn!
Thu góp tiền của và tài sản cộng với sự tự do phóng khoáng dễ dàng đưa người ta đến chỗ họ hàng với Trư Bát Giới tham-sân-si. Thiên Chúa ban cho con người có tự do để lắng nghe tiếng Chúa và sống theo thánh ý Ngài là thân thiết với họ hàng Giêsu, người Cha nhân hậu, khoan dung và tha thứ.
Tự do là tặng phẩm vô giá Thiên Chúa tặng ban cho con người và Ngài luôn luôn tôn trọng sự tự do của con người. Có tự do người ta có thể trung thành với Chúa hay phản bội Ngài, có thể thuộc họ Nhân hay họ Trư. Do đó, tự do là con dao hai lưỡi, nếu dùng đúng thì sống, mà dùng sai thì chết.
Ước chi, “bạn và tôi” có thể sống như thánh Phaolo: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Xin cầu chúc cho nhau cuối tuần vui vẻ và Mùa Chay sốt sắng. Amen
Đó là lời kêu gọi của Thánh Augustinô được cha Raniero Cantalamessa vị giảng thuyết của phủ Giáo hoàng chọn làm chủ đề cho một bài chia sẻ với giáo triều Rôma trong năm nay. Cha đã trích lời của thánh Augustinô để mở đầu buổi tĩnh tâm như sau:“Trở về với trái tim bạn. Tại sao bạn lại ra khỏi chính mình? Ra khỏi chính mình, bạn sẽ diệt vong. Tại sao lại theo những con đường bỏ vắng? Hãy trở về từ cảnh lang thang từng đưa bạn đi quá xa như thế và hãy trở về với Chúa. Hãy làm nhanh lên.”Chắc chắn đó là kinh nghiệm bản thân của thánh Augustinô trong cuộc đi hoang và trở về với Chúa. Đó cũng là ý nghĩa của phụng vụ Lời Chúa hôm nay.
Sách Giôsuê trong bài đọc I cho thấy dân Do Thái ở trong giai đoạn thứ ba của lịch sử cứu độ: Thiên Chúa cho họ được vào chiếm hữu đất hứa. Đó là một hành trình của cuộc trở về, không phải Ghin-gan là nơi họ xuất phát, nhưng là biểu tượng của sự đoàn viên trong niềm vui và hạnh phúc, vì: “Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai Cập” (Gs 5, 9a).
Bài Tin Mừng nổi tiếng của Luca hôm nay cho thấy cuộc trở về của đứa con hoang đàng. Nếu lấy lời bài hát “Chắc ai đó sẽ về” của Sơn Tùng M-TP thì sẽ thấy nỗi lòng của người cha mong đợi cuộc trở về của đứa con. Xin được phép thay từ anh-em trong bài hát bằng cha-con trong bối cảnh này: “Con đi xa quá, con đi xa cha quá. Có biết nơi đây cha vẫn đứng một nơi giấc mơ. Cha chờ đợi một cơn mưa sẽ xóa sạch giọt nước mắt. Ngồi trong đêm bơ vơ cha thấy đau con có biết không? Con ơi cha nhớ, con ơi cha rất nhớ. Từng câu nói ánh mắt của con giờ này ở nơi đâu? Chắc ai đó sẽ sớm quay lại thôi… Cầm bông hoa trên tay nước mắt rơi. Cha nhớ con!” Cuộc trở về của đứa con hoang đàng trong hoàn cảnh này nằm trong sự chờ đợi của cha nó. Qua đó cho thấy tấm lòng của người cha không bao giờ từ bỏ đứa con của mình, dù nó có ra làm sao chăng nữa.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy cuộc ra đi của người anh, mặc dù anh ta đang ở nhà. Đứa em đi thật xa về thể lý nhưng đã cảm nghiệm ra không ở đâu bằng nhà mình. Còn người anh dù đang ở nhà, nhưng đã đi hoang vì tâm hồn anh đã lạnh nhạt, phôi phai tình nghĩa với cha và với em. Chính vì thế ra đi là muốn tìm một hơi ấm tình yêu khác, còn khi trở về là khám phá ra không ai yêu mình bằng người đang ở nhà. Và cũng vì lẽ đó mà đi hoang chính là sự nổi loạn để xô đẩy tình yêu chân chính hầu kiếm tìm thỏa mãn những ảo giác của đam mê ; và trở về thực sự là trở về với cõi lòng mình, vì chính tự đáy lòng là nơi xuất phát những cám dỗ để cất bước ra đi.
Mùa Chay là thời gian để chúng ta nghiệm xét những cuộc đi hoang và trở về trong đời sống đức tin nơi cõi lòng mình xét theo những điều vừa tìm hiểu trên.
Đứa con hoang đàng có người cha tuyệt vời, nhưng anh không cảm nhận được, vì anh muốn thỏa mãn những ảo giác của đam mê. Đây là điểm chính yếu của mọi cuộc đi hoang trong đời sống đức tin. Chúng ta có một vì Thiên Chúa tuyệt vời, nhưng thường không đáp ứng được những nhu cầu phàm tục của chúng ta, nên chúng ta “ra đi” để tìm kiếm những ảo giác của sự thỏa mãn. Thờ phượng Thiên Chúa một cách đúng đắn bằng việc cầu nguyện và những nghi thức Phụng vụ, cũng như những việc đạo đức tinh tuyền không thỏa mãn ảo giác đức tin của con người, mà họ muốn Thiên Chúa của họ phải chữa bệnh qua nước phép, qua “đôi tay thần thánh” sờ đâu khỏi đó… Càng nặng nề hơn khi tưởng rằng Thiên Chúa của ta không đủ quyền năng để thực hiện những nhu cầu của ta, nên ta tìm đến với những thế lực khác. Đó là một cuộc đi hoang để bỏ đi tài sản quý giá mà ta đang có ở nhà.
Đứa con hoang đàng đã mất hết tất cả, đã phải chấp nhận đồng phận với đàn heo là biểu tượng của sự ô uế. Nó tưởng sẽ được, ai ngờ lại mất… thì cũng vậy, trong đời sống đức tin những cuộc đi hoang lìa xa Thiên Chúa để tìm kiếm những cảm giác ảo rồi cũng sẽ mất hết tất cả. Tuy nhiên người cha vẫn ngóng chờ. Thiên Chúa vẫn giang rộng vòng tay để một cuộc trở về sẽ đem lại hạnh phúc cho đứa con và những ai bỏ kiếp đi hoang.
Trở về để sống với cha và sống chung với anh, sống cùng mọi người trong nhà. Người anh không chấp nhận điều đó. Anh ta muốn gia tài chứ không phải tình nghĩa cha con, huynh đệ. Trở về trước hết là trong chính con người ta để thấy ta đầy những đam mê và hoang tưởng, nhưng tất cả chỉ là phù vân. Chúa biết tất cả những điều đó như người cha biết chắc trước khi đứa con ra đi, nhưng ông cứ để nó tự do. Trở về với Chúa vì tin tưởng rằng không ai thương ta bằng Chúa. Từ đây tất cả đời sống của ta đều quy hướng về Chúa để phần nào đền đáp ân tình mà Chúa đã dành cho ta. Trở về với anh em trong nhà vì ta chưa đoàn kết với nhau. Đó là điều làm cho cha mẹ buồn nhất; cũng chính là điều làm cho trăn trở của Chúa trong Giáo hội vẫn còn đó: “Xin cho họ nên một”. Anh em chung một nhà, con cùng một Cha thì hãy cùng nhau làm “cho Danh Cha được cả sáng” khi anh em chung tay góp sức lo cho gia tài của cha mình được phát triển. Gia tài cao quý đó chính là tình yêu thương.
Nguyện nhờ lời bầu cử của Đức Trinh Nữ Maria và Thánh Cả Giuse cho mỗi người chúng con biết bỏ kiếp đi hoang để tìm về với nguồn hạnh phúc ; biết dẹp qua những ganh tị, nhỏ nhoi hằng ngày để sống tình bác ái huynh đệ với nhau. Xin giúp chúng con biết khởi sự bằng cuộc trở về trong chính cõi lòng.
Thời buổi ngày nay đầy rẫy tin giả, kể cả trong đạo cũng có fake news. Xin được chia sẻ 3 tin giả về Chúa trong đời sống tôn giáo thường ngày, và 3 Tin Mừng về Chúa rút ra từ dụ ngôn Phúc Âm tuần này. Người cha trong dụ ngôn là hình ảnh thực sự về Thiên Chúa là cha mà như mẹ hết lòng thương con.
1. Thiên Chúa không phải là vị thần nghiêm minh trừng phạt, nhưng là cha tha thứ yêu thương. Người ta thường quan niệm: nếu phạm tội thì sẽ bị Chúa phạt. Không đúng. Dụ ngôn cho thấy người con chịu đau khổ không phải vì cha phạt, mà vì anh ta đã lựa chọn ích kỷ, xa rời tình cha. Còn khi con sám hối trở về, cha không trừng phạt, cha tha thứ hết. Cha chỉ nhìn thấy con chứ không thấy tội. Rồi với tất cả tình thương, cha ôm con vào lòng, mặc quần áo đẹp cho con. Ôi, cha mà như mẹ hết lòng thương con. Thế nên, tin giả đồn thổi Chúa nghiêm minh trừng phạt, nhưng Tin Mừng công bố Chúa là cha tha thứ yêu thương.
2. Thiên Chúa không phải là vị thần áp bức, mà là Đấng ban tặng tự do. Người ta thường nghĩ rằng: đi đạo phải tuân giữ đủ thứ luật lệ. Chúa như vị thần áp bức con người. Không đúng. Dụ ngôn cho thấy người con đòi chia gia tài, cha đồng ý. Người con bỏ nhà ra đi, cha tôn trọng lựa chọn của con. Thêm vào đó, dù mong con trở về, nhưng cha không đi tìm bắt con về, vì cha tôn trọng tự do của con. Thế nên, tin giả đồn thổi Chúa là vị thần áp bức, nhưng Tin Mừng công bố Chúa là Đấng ban tặng tự do.
3. Thiên Chúa không phải là vị thần gieo nỗi buồn, mà là Đấng đem niềm vui. Người ta thường nghĩ khi thờ phượng Chúa thì nét mặt phải nghiêm trang đượm buồn. Nhiều người sống đạo mà cứ buồn như mùa chay thương khó, chẳng có chút niềm vui Phục sinh. Dụ ngôn cho thấy, khi con trở về, cha làm tất cả để đem niềm vui cho con: nào là ôm hôn con, mặc quần áo đẹp cho con, và mở tiệc ăn mừng. Con thất bại trở về mà cha vẫn mở tiệc mừng công khai. Cha không sợ mất mặt, cha chỉ muốn con vui. Thế nên, tin giả đồn thổi Chúa là vị thần gieo nỗi buồn, nhưng Tin Mừng công bố Chúa là Đấng đem niềm vui.
Quả thật, Tin Mừng công bố rõ ràng: Thiên Chúa là Đấng yêu thương tha thứ, ban tặng tự do và đem niềm vui cho con người. Chúng ta hãy mang trong mình trái tim của Chúa, để sống thể hiện rõ hình ảnh Chúa là cha mà như mẹ hết lòng yêu thương. Amen.
Như chúng ta biết Thiên Chúa đối nghịch với sự dữ và tội lỗi, nhưng lại rất nhân từ và thương xót những người có tội. Điều này được diễn tả và đề cập đến rất nhiều trong Tin mừng thánh Lu-ca. Qua những dụ ngôn như con chiên lạc, đồng xu đánh mất, người phụ nữ ngoại tình, kẻ trộm lành, và nhất là người con hoang đàng trong bài Tin mừng mà chúng ta vừa nghe hôm nay, chúng ta có thể nhận biết rằng dù con người chúng ta có tội lỗi đến đâu, cũng vẫn còn có cơ hội để ăn năn hối cải trở về với Chúa, là Cha Nhân Từ, và làm lại cuộc đời. Sự hư mất chỉ do thiếu thiện chí, thất vọng, cứng lòng hay từ chối ơn Chúa mà thôi.
Bài Tin Mừng hôm nay kể cho chúng ta nghe câu truyện dụ ngôn đứa con hoang đàng, nhưng chính xác hơn, là dụ ngôn Người Cha Nhân Từ. Dụ ngôn này rất quen thuộc, chúng ta cũng đã nghe nhiều lần và có lẽ cũng được nghe rất nhiều bài giảng về dụ ngôn này. Vì thế tôi muốn kể cho ông bà anh chị em nghe câu truyện tương tự về một người con trai khác. Người thanh niên này sinh ra trong một gia đình Công giáo, nhưng anh thú nhận rằng anh đã không sống như một người Công giáo tốt. Cha anh là một công chức lớn trong chính quyền, cho nên anh thừa hưởng không những tiền bạc mà còn quyền lực của một gia đình giàu có và thế lực. Lúc được 16 tuổi anh tự cho mình là một người được gọi là “có một cái óc trống rỗng”, và tự hào là một người được coi như là: “quay lưng lại với Chúa và không giữ giới răn của Ngài.”
Sau đó anh bị bắt cóc và bán đi như một nhân công nô lệ, đi lao động khổ cực trong một nông trại ở một quốc gia xa xôi. Giống như người con hoang đàng, anh cô đơn không có bạn bè và đói khổ vì thiếu thức ăn, thức uống và không nơi trú ngụ. Lúc đó, anh hồi tâm và cảm thấy hối hận. Anh đã học được một bài học quan trọng cho cuộc đời qua sự vâng phục và những sự đói khổ trong cuộc sống. Anh đã tâm sự rằng: “God showed me how to have faith in him forever, as one who is never to be doubted.” Tôi xin được dịch ra như sau: “Chúa đã chỉ cho tôi biết thế nào để có niềm tin vào Ngài mãi mãi, như là một người không bao giờ bị nghi ngờ.”
Sau 6 năm trời lao động khổ nhục trong nông trại, một ngày kia anh nghe chính Chúa nói, như nói vào tai anh rằng: Ngài sẽ giải thoát anh, và sẽ cho anh biết lúc và khi nào, và sẽ chỉ đường bước cho anh trốn thoát. Như một phép lạ, Chúa đã chỉ đường, che chở và hướng dẫn anh trốn thoát và tìm đường về tới nhà an toàn. Như người con hoang đàng, anh trở về nhà với một con người hoàn toàn đổi mới. Tuy cha mẹ ngăn cản và muốn anh ở nhà, nhưng anh muốn phục vụ Chúa và sau đó trở thành một linh mục. Hơn nữa vì yêu mến tha nhân, người thanh niên, lúc đó là một linh mục, muốn trở lại phục vụ nơi những người đã bắt cóc và bắt anh lao động cực nhọc để chỉ dạy và hướng dẫn họ về Chúa, và đã toại nguyện. Sau khi vượt qua những khó khăn và trở ngại, cùng với sự từ chối của chính quyền, và một sự phải bội của một người bạn đã tiết lộ thân thế và đời sống xã hội quá khứ, người thanh niên này đã đến với, và phục vụ những người trước đây đã bắt anh lao động khổ cực, với chức vụ là một vị Giám mục. Nhưng khi đến nơi, vị Giám mục này đã không được đón tiếp với những cánh tay mở rộng, nhưng, tôi xin được đọc những dòng chữ ngài đã viết, “Daily I expect either murder, or robbery, or enslavement.” Tôi xin được tạm dịch: “Hằng ngày, tôi đợi chờ sự bị giết hay bị cướp bóc hay bị hành hạ.” Và ngài đã viết trong một nơi khác như sau: “Họ đã bao vây và bắt tôi cùng với những người đồng hành với tôi. Và trong ngày đó, họ đã sẵn sàng giết tôi nhưng ngày giờ của tôi chưa đến. Những gì họ tìm thấy với chúng tôi mang theo, họ đã cướp và tịch thu, còn tôi họ đã xích tôi lại.”
Vị Giám mục này không nao núng và sợ hãi cho dù nếu bị giết, vì ngài nghĩ rằng đó là một hành động cao quí nhất của tình yêu của ngài với Chúa, được tử vì đạo. Nhưng Chúa đã có đường lối của Chúa, và Chúa đã không muốn ngài trở thành một vị tử đạo. Sau hơn 30 năm dài phục vụ Chúa và những người đã bắt ngài làm nô lệ, công việc tông đồ của ngài đã được Chúa chúc phúc, cũng như gặt hái được nhiều hoa trái tốt cho Chúa. Ngài đã phong chức cho nhiều Giám mục và linh mục, thiết lập nhiều tu viện, chủng viện và trường học. Và cũng trong những năm đó, ngài đã chứng kiến hàng ngàn người trở lại, nếu không nói là tất cả quốc gia Ái-nhĩ-lan. Có lẽ có người có thể đoán ra, tôi đang kể lại cuộc đời của thánh nào, đó là thánh Patrick, vị thánh bổn mạng của quốc gia Ái-nhĩ-lan, mừng kính Chúa nhật, ngày 17 tháng Ba vừa qua. Công việc tông đồ của ngài đã thành công quá tốt đẹp, vì chỉ trong vòng mấy chục năm, quốc gia Ái-nhĩ-lan đã gởi đi nhiều nhà truyền giáo để hồi sinh đức tin của Châu Âu lúc đó đang trong thời suy thoái. Và những nhà truyền giáo Ái-nhĩ-lan cũng đã có những ảnh hưởng lớn lao đến Giáo hội Công giáo Hoa kỳ này.
Thật vậy, qua dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta khám phá ra lòng nhân từ và thương xót của Chúa đối với chúng ta là những con người yếu đuối và tội lỗi. Cho dù chúng ta có tội lỗi đến đâu, như người con hoang đàng, hay người phụ nữ ngoại tình, hay thánh Au-gút-ti-nô hay thánh Patrick, đều có cơ may ăn năn hối cải để làm lại cuộc đời, trở thành khí cụ, sứ giả tình yêu và ơn sủng của Chúa cho mọi người. Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta cho dù chúng ta như thế nào, vì vậy, chúng ta cũng không bao giờ được thất vọng, trái lại, trong bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta cũng phải tín thác vào tình yêu thương tha thứ của Chúa. Nhưng muốn nhận được lòng thương xót và tình yêu tha thứ của Chúa, một điều quan trọng và cần thiết là chúng ta phải biết hồi tâm, tỉnh ngộ nhận ra những yếu đuối, tội lỗi, ăn năn thống hối, và can đảm quay trở về với Chúa. Xin Chúa ban cho chúng ta một niềm xác tín vào Thiên Chúa là Cha Nhân Từ, thương giúp chúng ta trở thành những người con biết sống lời Chúa dạy, biết hy sinh, quảng đại và hiệp nhất trong gia đình của Chúa, và trở thành sứ giả tình yêu và lòng thương xót của Ngài.
Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” là một trong những áng văn chương đẹp nhất của Kinh Thánh, bởi nó diễn tả dung mạo Thiên Chúa qua những đặc tính rất “người”. Nhân vật người cha phản ánh sự bao dung nhân từ của Chúa. Ngài sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi cho chúng ta. Không những thế, Ngài còn yêu thương dành cho chúng ta những điều tốt lành. Việc người cha sai gia nhân mang nhẫn, dày dép, áo đẹp cho cậu con trước đây đã đi hoang đàng cho thấy, người con thứ đã thực sự được tái hòa nhập vào gia đình, nghĩa là người cha đã quên quá khứ của anh, đã tha thứ cho anh và vẫn thương mến anh như ngày nào.
Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” có ý nghĩa đặc biệt trong Năm Thánh Lòng Thương Xót. Mỗi chi tiết trong câu chuyện đều mang ý nghĩa sâu sắc và đều gợi ý cho chúng ta suy tư về đức tính của người cha. Kể từ ngày con thứ ra đi, ông vẫn đợi chờ và vẫn hy vọng có ngày nó trở về. Ông còn chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ để thết tiệc trong ngày vui mừng ấy. Niềm vui trở về trước hết là niềm vui của người con hoang đàng, nhưng đó cũng là niềm vui của người cha. Chúa Giêsu đã nói đến việc “trên trời cũng vui mừng” khi một tội nhân ăn năn sám hối. Mỗi tội nhân trở về là niềm vui của Thiên Chúa và niềm vui của con người. Cũng như người cha trong dụ ngôn, Thiên Chúa luôn chờ đợi chúng ta trở về để tha thứ, bao bọc chúng ta trong ân sủng và tình yêu thương. Dù tội lỗi đến đâu đi nữa, con người vẫn không mất niềm hy vọng, vì Thiên Chúa là Cha hay xót thương.
Trong khi mọi người đều vui trước sự trở về của người con thứ, thì có một người không vui, đó là người con cả. Kế từ ngày người con thứ đi hoang, anh con cả vẫn ở với cha mình. Tuy vậy, xem ra anh chỉ gần cha về thể lý, mà lòng anh cũng xa vắng, không hơn gì em mình. Khi thấy cậu em trở về, anh không chỉ không vui mà tỏ ra ghen tỵ giận dỗi. Anh khó chịu với cả người cha, vì cho rằng cha anh không công bằng. Anh tự cho mình là người hiếu thảo, hầu hạ cha. Anh đòi phải phân biệt rõ ràng công với tội, ân với oán. Lối suy nghĩ của người con cả cũng là suy nghĩ của nhiều người trong chúng ta. Chúng ta tự cho mình là những người hoàn hảo, là những người “sống trong nhà”, trong khi thực tế, tâm hồn chúng ta xa Chúa. Chính lối sống và cách suy nghĩ ấy làm cho chúng ta xa cách Ngài. Người con cả cũng như người con thứ, đều phải trở về để thay đổi cuộc sống, sám hối lỗi lầm, trở thành con người mới. Nên nhớ bối cảnh của dụ ngôn này, được Chúa Giêsu kể để đối lại những lời xầm xì của những người biệt phái và luật sĩ, khi họ thấy Người thân thiện với người thu thuế và người tội lỗi.
Mùa Chay là mùa trở về. Khi nói đến trở về, có nghĩa là ta còn ở xa. Khi nói trở về, cũng có nghĩa ta về với nhà mình, với những người thân thiết. Trở về bao giờ cũng là giờ phút đong đầy niềm vui. Những người rời quê hương đi làm ăn xa, dịp tết hay những ngày giỗ chạp, bao giờ cũng trở về nhà mình để sum họp quây quần. Dù phải vượt qua chặng đường dài, mệt mỏi và tốn kém họ cũng không quản ngại, vì gặp gỡ đoàn tụ mang lại cho họ niềm vui. Thánh Phaolô năm nỉ chúng ta: “Vì Đức Kitô, chúng tôi van nài anh em hãy giao hòa với Thiên Chúa” (Bài đọc II). Giao hòa với Chúa tức là trở về với Ngài, như người con hoang đàng nhận ra những lỗi lầm để xin ơn tha thứ và được sống trong tình Cha.
Tác giả sách Giosuê ghi lại một biến cố quan trọng trong lịch sử Do Thái. Đó là sự chấm dứt đời sống lữ hành sa mạc, khởi đầu định cư. Đây cũng là lần đầu tiên họ cử hành long trọng lễ Vượt Qua, kể từ ngày ra khỏi Ai Cập. Từ nay, cuộc sống của họ được ổn định. Họ có thể trồng cấy và ăn những sản phẩm mình làm ra. Đây chính là phần đất mà Chúa đã hứa với tổ tiên của họ. Được định cư nơi đất mới, họ vui mừng hân hoan và nhận ra cánh tay hùng mạnh của Chúa và sự trung tín của Ngài đối với dân riêng. Trong hành trình sa mạc, mặc dầu nhiều lần họ phạm tội, Thiên Chúa vẫn yêu thương và tha thứ cho họ, vì Ngài là Cha và là Đấng giải phóng của họ.
Mỗi chúng ta đều có thể nhận ra bản thân mình qua 3 nhân vật chính của dụ ngôn: đó là hình ảnh người cha, người con thứ, và người con cả. Có thể chúng ta ở vị trí của người cha, cần phải đón nhận và tha thứ cho người khác đã xúc phạm đến mình. Có thể chúng ta giống như người con thứ, đã bỏ nhà đi hoang, nay sám hối trở về và nhận ra tình Chúa bao dung nhân từ. Cũng có thể chúng ta giống như người con cả, ghen tương vì thấy người khác được những điều tốt lành. Dù là nhân vật nào đi nữa, thì lời mời gọi sám hối trở về cũng đều cấp thiết. Nếu khiêm tốn nhận mình cần được thương xót và cần được ơn tha thứ, chắc chắn chúng ta sẽ được tràn đầy niềm vui, niềm vui dành cho người trở về.
Đức cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận nói rằng: Chúa Giê-su có một khuyết điểm là hay quên. Ngài đã quên tội lỗi của Gia-kêu. Ngài quên tội của Madalena. Ngài cũng quên tội của kẻ trộm lành trên thập giá. Quên đến nỗi chẳng luận tội họ mà còn hứa thiên đàng cho họ qua lời nói: “Ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Có một bà già thường đến gõ cửa phòng Cha xứ, kể cho ngài nghe rằng đêm qua Chúa mới hiện ra với bà. Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, Cha xứ bảo: “Lần sau, nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Ngài: ‘Cha xứ con có tội gì nặng nhất ?’, sau đó tới kể cho tôi nghe”. Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì bà đã trúng kế của ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.
– Thưa Cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con. – Thế bà có hỏi Ngài không ? – Thưa có chứ.
Cha xứ bắt đầu hồi hộp: – Bà hỏi thế nào ? – Thì con hỏi y như Cha đã bảo: “Cha xứ con có tội gì nặng nhất ?”
Cha xứ càng hồi hộp thêm: – Vậy Chúa có trả lời không ? – Có chứ.
Bây giờ thì cha xứ lo lắng thật sự: – Chúa nói sao ? – Chúa nói: “Ta đã quên hết rồi” Cha xứ thở phào nhẹ nhỏm!
Thiên Chúa là Đấng rất nhân từ. Lòng nhân từ của Ngài thể hiện qua sự kiên nhẫn với lỗi lầm của con người. Cho dù con người có sa đi ngã lại trong lầm lỗi, Ngài vẫn thứ tha. Lòng nhân từ của Ngài thể hiện qua lòng bao dung, cho dù con người có đốn mạt đến đâu, Ngài cũng sẵn lòng dang rộng tay tha thứ nếu biết ăn năn trở về.
Tình thương đó được Chúa Giê-su phác hoạ qua dụ ngôn Người cha nhân từ. Một người cha không hề oán trách khi con đòi chia gia tài. Không hề oán trách khi con phung phí hết tài sản. Không hề trách mắng khi con thành tâm trở về. Tình thương của Cha còn thể hiện qua tấm lòng luôn khao khát chờ mong con trở về. Người cha ngày ngày ngóng con trở về. Và chỉ cần nhìn thấy con từ đằng xa, Cha đã chạy ra ôm con vào lòng. Ngài đã quên cả quá khứ đi hoang của con.
Xem ra tình yêu của Ngài cũng rất nhân loại vì: “Yêu nhau mọi việc chẳng nề – Một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa”. Hay yêu điên cuồng đến độ xem củ ấu cũng tròn, quả bồ hòn cũng ngọt…; Tình yêu là thế! Vì yêu mà người ta có thể bỏ qua mọi nhược điểm, khuyết tật của nhau, sẽ làm tất cả để bổ túc cho nhau nên trọn vẹn hơn.
Xin cho chúng ta luôn tin tưởng vào lòng Chúa xót thương. Luôn can đảm trở về sau những lần vấp ngã, và luôn tín thác vào Chúa luôn mãi.
Ước gì chúng ta cũng biết noi gương Ngài mà sống bao dung với nhau. Xin đừng chấp nhất tội nhau nhưng luôn quên đi hận thù, oán ghét ghen tương, quên đi bao lỗi lầm bản tính con người để xây dựng tình hiệp nhất yêu thương. Amen.
Vào tháng 8/2014, Đức Thánh Cha Fancis viếng thăm Hàn Quốc. Cuộc viếng thăm này diễn ra không lâu sau vụ đắm phà làm thiệt mạng nhiều người, trong đó đa số là học sinh. Gia đình của các nạn nhân đang biểu tình đòi chính quyền phải điều tra rõ ràng nguyên nhân và người chịu trách nhiệm vụ tai nạn này. Trên đường đi, Đức Thánh Cha đã dừng lại để thăm và an ủi các gia đình của nạn nhân. Những người này đã cài lên ngực áo Đức Thánh Cha một miếng tang đen. Khi đến dinh Tổng thống, Đức Ông tháp tùng Đức Thánh Cha thưa với Ngài: Xin Đức Thánh Cha gỡ băng tang xuống, vì không tế nhị về mặt ngoại giao khi gặp Tổng thống. Đức Thánh Cha trả lời: Ai muốn nghĩ gì thì nghĩ, tôi làm theo tiếng nói của trái tim.
Thưa quý OBACE, người ta hay nói phụ nữ hành động bằng trái tim, còn đàn ông hành động theo lý trí. Thiên Chúa của chúng ta thì dường như hành động theo trái tim nhiều hơn. Người cha nhìn bên ngoài có thể nghiêm khắc, khô khan như cây xương rồng, nhưng cây xương rồng lại là cây rất nhiều nhựa, chỉ cần chạm đến thôi thì dòng nhựa đã trào ra. Thiên Chúa của chúng ta mặc dù là một Thiên Chúa công thẳng, nhưng trước hết, Ngài vẫn là một người cha hay thương xót, dễ chạnh lòng đối với con cái.
Tin Mừng Luca hôm nay đã mô tả Thiên Chúa qua câu chuyện Người Cha thương xót. Ngài hành động hoàn toàn theo trái tim nhắc bảo. Khi thấy Chúa Giêsu lui tới với những người thu thuế và tội lỗi, những người biệt phái tỏ ra khó chịu, xầm xì: Ông này giao du ăn uống với phường tội lỗi. Chúa Giêsu đã kể cho họ câu chuyện về người cha nhân từ xót thương.
Một người kia có hai con trai. Ông yêu thương chăm sóc cho cả hai đứa con vì con cái là giọt máu, là tài sản lớn nhất của ông. Nhưng, dường như hai đứa con đều không cảm nhận được tình thương của Cha, chúng không biết rằng chúng được yêu thương. Vì thế, chúng tỏ ra hững hờ với tình yêu thương của cha, khiến cho người cha vô cùng đau khổ, như bị con cái bỏ rơi ngay trong nhà.
Đứa con thứ nói với ông: Thưa cha, xin cha chia gia tài cho con. Người cha không hỏi thêm gì, ông đã chia gia tài cho nó. Sau đó, nó ôm mớ gia tài ra đi. Hành động này đã gây đau khổ vô cùng cho người cha, nhưng ông vẫn cắn răng chịu đựng vì tôn trọng tự do của nó. Khi nó đòi chia gia tài, có nghĩa là nó coi ông đã chết. Khi ôm tiền của ra đi, nó quyết định dứt nghĩa đoạn tình với ông. Người cha đau khổ trong lòng, nhưng ông vẫn không ngăn cản nó, vì ông biết rằng, ông có thể giữ được thân xác nó, nhưng không thể giữ được lòng nó một khi lòng nó đã muốn ra đi. Khi quyết định ra đi là nó quyết định từ bỏ tình nghĩa, sự êm ấm của gia đình, từ bỏ mối liên hệ cha con với ông.
Chỉ con cái có thể bỏ được cha mẹ, còn cha mẹ không thể bỏ được con cái. Mặc dù đứa con thứ từ chối tình thương của ông, bỏ nhà ra đi, nhưng ông vẫn không thể bỏ con. Ông vẫn hy vọng một ngày nào đó con ông sẽ quay về. Ngày ngày, ông tựa cửa chờ con. Ông đã chuẩn bị sẵn một con bê béo, để bất cứ lúc nào nó về thì ông sẽ ăn mừng. Nó mang hết của cải, đồ đạc của nó ra đi, ông đã chuẩn bị sẵn cho nó áo mới, giày mới và nhẫn mới để khi nó về, nó có cái mà mặc.
Câu chuyện cho thấy, khi xa rời Thiên Chúa là cha, tự tách ra khỏi tình thương của Thiên Chúa, con người sẽ suy thoái trầm trọng. Người con thứ đã tiêu tán hết tiền của, sa sút và bị đói. Anh không còn một chút nhân phẩm danh dự nào nữa, đã phải chấp nhận đi chăn heo, tranh giành đồ ăn của heo cho đỡ đói nhưng cũng không ai cho. Chỉ khi không còn chỗ nào bám víu nương tựa, anh mới nhớ lại thời huy hoàng hạnh phúc khi còn được ở với cha, trong nhà cha. Anh tự nhủ: Biết bao người làm công ở nhà cha ta được ăn uống dư thừa, còn ta ở đây lại chết đói ! Thôi, ta đứng lên đi về cùng cha và thưa với người: Thưa cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công của cha.
Anh nghĩ rằng mình không xứng đáng để được yêu thương và cũng không dám đón nhận lòng xót thương của cha. Nhưng đối với người cha thì khác, ông vẫn tựa cửa chờ ngày con ông trở về. Khi bóng nó còn ở đàng xa, ông đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm lấy nó và hôn lấy hôn để. Ông dường như đã quên hết những điều phiền muộn, đau khổ nó đã gây ra cho ông. Ông đã quên hết quá khứ của nó, trước mắt ông là đứa con bé nhỏ đi xa trở về. Ông ôm nó vì nó là con ông.
Người cha đã không nổi giận, không chê nó dơ bẩn, ông dường như không cần nó nói lời xin lỗi. Người con thứ thưa với cha: Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, chẳng còn đáng được gọi là con cha nữa. Chỉ nghe đến đó thôi, ông đã ngắt lời và sai đầy tớ: Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào tay, xỏ dép vào chân cậu, mau đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta ăn mừng ! Vì con ta đây đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.
Việc làm của người cha thể hiện lòng thương xót vô hạn của ông. Người Việt hay nói: nước mắt chảy xuôi. Người cha này không những tha thứ cho con, nhưng ông còn giang rộng tay đón con trở về và trả lại cho người con hoang đàng địa vị, danh dự là một cậu chủ trong gia đình. Cho dù đứa con thứ trở về không phải vì nó thương nhớ ông, động lực để nó trở về là do nó quá đói, không còn nơi nương tựa. Nó trở về chỉ xin làm đầy tớ trong nhà để kiếm miếng ăn. Nhưng đối với người cha, việc nó trở về đã khiến ông vui mừng. Ông không cần quan tâm nó về vì lý do gì, ông chỉ biết nó là con ông.
Lòng thương xót quảng đại của người cha trong câu chuyện không chỉ dành cho đứa con út, nhưng còn dành cho đứa con cả. Anh tuy không ra đi nhưng anh sống trong nhà với vẻ tự hào tự mãn. Anh cho rằng mình vẫn chu toàn mọi việc trong nhà không chút chểnh mảng. Nghe tin người em trở về, người anh không vui. Nghe nói cha mở tiệc ăn mừng, anh giận dỗi không vào nhà. Người cha trước đây đã chạy ra đón đứa con thứ trở về, thì lúc này, ông lại chạy ra để năn nỉ người anh cả, mời anh vào nhà, dù người con cả vùng vằng giận dỗi: Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho một con dê để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi đã nuốt hết của cải của cha, thì cha lại giết bê béo ăn mừng.
Lời anh nói đã bộc lộ thái độ, tâm tình và tương quan của anh đối với cha và đối với người em. Anh tỏ ra ghen tị hẹp hòi với em và coi cha mình như ông chủ chứ không phải là cha của anh. Câu chuyện cho thấy người cha, lại một lần nữa cúi xuống, mở lòng ra với người con cả, mời gọi anh trở lại với địa vị làm Cậu Cả trong gia đình. Ông ôn tồn nói với anh: Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, vì em con đây đã chết nay sống lại đã mất nay lại tìm thấy.
Trái tim của người cha luôn mở rộng và hết sức độ lượng. Ông xác định lại cho người con cả thấy, anh luôn ở trong trái tim của ông. Anh được ông tin tưởng, trao phó công việc điều hành và địa vị của anh là cậu cả trong đình. Anh còn được thừa hưởng tất cả tài sản của ông. Người cha cũng muốn người con cả thay đổi cái nhìn hẹp hòi, ghen tỵ về người em của mình. Ông nhắc cho người con cả thấy rằng, tình gia đình, tình huynh đệ là cao quý cần phải trân trọng và vun đắp: Nhưng chúng ta phải ăn mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.
Hình ảnh người cha trong câu chuyện là hình ảnh của Thiên Chúa. Ngài là cha nhân hậu, là Đấng giàu lòng xót thương. Ngài luôn giang rộng đôi tay để đón chúng ta trở về, để ôm chúng ta vào lòng, chỉ vì chúng ta là con của Ngài. Cho dù chúng ta có tệ bạc bỏ nhà ra đi như người con thứ, đã phá hết tài sản Chúa ban, đã ăn chơi hoang đàng, Thiên Chúa vẫn tha thứ cho chúng ta, miễn là chúng ta quay trở về và thành tâm thưa với Ngài rằng: Thưa Cha, con đã lỗi phạm đến Cha, con không đáng được gọi là con Cha nữa. Thiên Chúa sẽ quên hết quá khứ của ta, Ngài sẽ để cho trái tim của Ngài mở ra, để cho lòng thương xót của Ngài tuôn trào bao trùm trên chúng ta.
Có thể chúng ta không bỏ nhà ra đi, nhưng chúng ta sống một cuộc sống hờ hững, dửng dưng với Chúa như người con cả. Chúng ta biến mình trở thành kẻ xa lạ trong gia đình của Thiên Chúa, sống nhỏ nhen, hẹp hòi với anh em. Thiên Chúa cũng chạy ra với chúng ta, đang cúi xuống để năn nỉ, để mời chúng ta vào dự tiệc vui hạnh phúc trong nhà của Ngài cùng với các anh em khác.
Xin cho chúng ta cảm nhận được lòng thương xót, tin vào sự bao dung của Chúa để quyết tâm thay đổi cuộc sống, trở về với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Amen.
Trong Chúa Nhật thứ nhất mùa chay, chúng ta được dẫn vào sa mạc để cùng với Đức Giêsu đối diện với những cám dỗ và thử thách. Bước sang Chúa Nhật tuần hai, Giáo hội mời gọi chúng ta trèo lên núi Thabor chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa, để đi vào cuộc biến đổi nội tâm. Tiếp đến Chúa nhật thứ ba, chúng ta cũng được khơi dậy cảm thức sám hối để thực hiện cuộc biến đổi này. Ngày hôm nay Chúa nhật thứ tư mùa chay, Giáo hội muốn chúng ta đào sâu hơn tâm tình thống hối để mở lòng đón nhận vòng tay yêu thương của Thiên Chúa. Dụ ngôn Người Cha Nhân hậu chúng ta nghe trọng phụng vụ hôm nay là hình ảnh thật rõ nét về tấm lòng của Thiên Chúa đối với thân phận tội lỗi nơi con người. Đây là đặc nét nổi bật nơi Thiên Chúa mời gọi chúng ta suy nghiệm, đặc biệt trong năm nay, năm thánh Lòng Thương Xót Chúa.
Bài học nơi người cha
Chúng ta vẫn thường gọi đây là dụ ngôn đứa con hoang đàng, nhưng chính xác hơn dụ ngôn đầu tiên trong 3 dụ ngôn mà Thánh Luca viết lại nơi chương 15 diễn bày chân dung về một người cha khoan hậu. Người cha trong dụ ngôn là hình ảnh nói về Thiên Chúa, Đấng luôn bao dung và sẵn lòng tha thứ tội lỗi. Cho dù đứa con phản bội và tỏ ra bất hiếu, người cha cũng chẳng bao giờ ghét bỏ, ngày đêm vẫn ngong ngóng đợi chờ ngày nó trở về. Từ đàng xa, khi vừa thoáng thấy bóng đứa con trong bộ dạng tả tơi nơi đầu ngõ, ông đã vội chạy ra với vòng tay dang rộng. Đứa con khi trở về và định nói với bố:“Thưa cha, con đã phạm tội đến trời và đến cha, con không xứng đáng làm con cha nữa”, nhưng mới nói được nửa câu, nó đã bị ông bịt miệng lại. Bởi vì cho dù đứa con bất hiếu, nó vẫn luôn là người con yêu quý và có một chỗ đứng trang trọng nơi tận đáy lòng của ông. Việc xỏ nhẫn vào tay hoặc khoác giầy mới cho đứa con… là những động thái biểu tỏ niềm vui tột cùng và ông không bao giờ coi đứa con như một kẻ xa lạ bị hất bỏ. Hình ảnh người cha ám thị rằng Thiên Chúa không bao giờ kết án và loại trừ con người, cho dầu chúng ta tội lỗi đến mấy. Chỉ khi nào con người chối từ vòng tay yêu thương của Chúa, chúng ta mới tự kết án và đang đào hố chôn mình.
Bài học từ đứa con thứ
Có lẽ đây là hình ảnh mà chúng ta ấn tượng nhất khi đọc lại câu chuyện. Nó phản chiếu thân phận hiện sinh nơi tất cả mọi người không loại trừ ai, bởi vì con người chúng ta ai ai cũng đầy ắp tội lỗi. Tội luôn là một tình trạng phản bội và bất hiếu giống như người con đã bỏ nhà đi hoang. Người con đòi chia gia tài khi ông bố còn sống sờ sờ trước mắt, quả là một hành vi tráo trở và ngang ngược. Bởi lẽ, con cái chỉ phân chia tài sản sau khi bố mẹ đã chết. Động thái của đứa con thứ giống như hành vi khai tử người bố đã đẻ ra mình. Thứ đến, sự nghiệt ngã của phận làm thuê khi bị đối xử thậm tệ, bị đói rã họng đến mức độ thèm ăn cả cám heo mà không ai cho, nói lên sự khốn cùng tột độ khi con người sa lầy trong vũng bùn tội lỗi. Heo là con vật nhơ uế theo quan niệm Do thái, đến độ luật Do thái cấm ăn thịt heo. Đằng này, người con thứ không những phải sống chung với heo, nó còn thèm thuồng cả thứ cám bẩn mà heo vẫn ăn, nói lên sự khủng khiếp tột độ của một kiếp sống sa đọa trong tội.
Nhưng điểm nhấn của câu chuyện là đứa con đã hồi tỉnh và trở về. Sám hối theo nguyên ngữ Hy Lạp, ‘Metanoia’ tức là trở về. Cuộc hành trình quay về với cha của người con thứ gồm ba giai đoạn. Trước hết, nó cảm thấu thân phận bi thương trong kiếp đọa đầy. Nó cảm thấy mình bất xứng với cha, và xót xa khi phải sống giữa đàn heo hôi hám. Giai đoạn kế tiếp, nó can đảm đứng dậy giã từ quá khứ. Cũng vậy, sự sám hối đòi hỏi chúng ta phải quyết liệt và mạnh mẽ đứng lên, không thất vọng trước lầm lỗi đã qua. Đây cũng là điều mà thánh Charles de Faucauld đã từng thốt lên khi cầu nguyện với Chúa:“Lạy Chúa, Chúa để con tự do làm mọi sự, nhưng Chúa vẫn không bao giờ cho phép con tuyệt vọng trước sự khốn nạn của con”. Giai đoạn cuối cùng và cũng quan trọng nhất, người con đã đi về và lao vào vòng tay yêu thương của cha. Hình ảnh một đứa con đi bụi với áo quần tơi tả, được bố mặc cho một chiếc áo mới, ngón tay được xỏ nhẫn quý, chân mang giầy sang trọng, là hình ảnh nổi bật nói về chiến thắng của ân sủng trước sức mạnh của tội lỗi. Tội làm cho con người mất đi phẩm giá, nhưng ân sủng và tình yêu của Thiên Chúa sẽ khôi phục lại nguyên trạng nơi chúng ta và còn hơn thế nữa. Đây là nghịch lý vĩ đại của Lòng Thương xót. Một nhà tu đức đã quảng diễn nghịch lý này khi mô tả: “ Thật kỳ diệu và khó hiểu biết bao. Một cô gái điếm vẫn có thể bình thản ngồi bên chân Chúa, trò chuyện thân tình và hôn lên đôi bàn chân thánh thiện của Ngài. Một đứa con đi hoang vẫn có chỗ ngồi trang trọng trong bàn tiệc gia đình và được ôm đón trong vòng tay yêu thương của cha. Thậm chí một tên cướp khét tiếng vẫn có thể là một vị đại thánh được Chúa Giêsu trực tiếp mở của Thiên Đàng đón đưa vào”. Đó là nghịch lý cao cả của lòng Thương xót nơi Thiên Chúa mà đầu óc suy lý con người chúng ta không thể nào hiểu thấu.
Bài học từ ông anh cả
Có lẽ chúng ta dễ bỏ quên hình ảnh người con lớn trong bài Tin mừng hôm nay. Ông anh này thực ra không đến nỗi tệ. Anh ta vẫn ở với cha, chẳng bỏ nhà đi hoang như đứa em. Anh ta vẫn săn sóc và phụng dưỡng cha già, vẫn chu toàn những bổn phận thường ngày của một người con. Nhưng người con cả này lại có tâm địa hẹp hòi và cái nhìn quá thiển cận. Hẹp hòi vì nó tỏ ra ghen tỵ khi thấy cha mở tiệc đón tiếp đứa em. Thiển cận vì nó đã không nhận ra ‘tất cả những gì của cha đều là của con’. Có lẽ chúng ta thường dễ rơi vào thái độ giống như thế. Đa phần chúng ta vẫn giữ đạo nghiêm túc, vẫn đi lễ hằng ngày, chẳng bao giờ ăn trộm ăn cắp của ai, và cũng không làm điều gì tai tiếng. Nhưng chúng ta rất dễ có thái độ hẹp hòi và thiển cận giống như người con cả trong dụ ngôn hôm nay. Chúng ta không nhận ra rằng cuộc sống chúng ta, tất cả đều là ân huệ Chúa ban, chứ không phải do tài sức hay công cán của mình. Chúng ta đừng vội trưng ra những thành tích đạo đức như một bức bình phong để tự cản che đôi mắt hướng nhìn về Thiên Chúa, là cha yêu thương tất cả mọi người không loại trừ ai. Người con cả dường như hơi tự mãn, vì anh ta vẫn ở trong nhà của cha, vẫn săn sóc và phụng dưỡng cha già như một một người con hiếu thảo. Nhưng, anh ta lại ích kỷ và hẹp hòi khi thấy người cha quá tốt lành, tốt lành cả với đứa con hư hỏng.
Ở dưới một góc độ nào đó, có lẽ chúng ta chưa đến nỗi như đứa con phung phá bỏ nhà đi hoang, song chúng ta rất dễ rơi vào thái độ khép kín và nhỏ nhen giống như người anh cả trong dụ ngôn hôm nay.
Kết luận
Bạn và tôi, chúng ta đang có thái độ sống như thế nào, giống người con thứ hoặc giống ông anh cả, hay có khi giống cả hai ? Chúng ta phải bình thản lục soát lại lương tâm và duyệt xét lại cách sống. Điều quan trọng nhất là chúng ta biết sám hối để trở về. Chỉ khi nào thật sự trở về trong nhà cha, chúng ta mới có thể khám phá ra Thiên Chúa, Người Cha rất tốt lành của mọi người. Lòng Thương xót nơi Ngài mãi mãi là một bài học mà chúng ta phải suy tư, phải nghiền gẫm và phải học hỏi cho đến suốt đời.
Căng dây đàn là điều không xa lạ đối với các loại đàn dây (piano, mangdolin, guitar, đàn tranh, đàn kìm,…). Công việc đó cần làm khi dây đàn chùng, không đúng cao độ chuẩn xác theo nguyên lý âm nhạc.
Tương tự, tình cảm con người cũng sai lạc theo thời gian, và cũng cần thiết phải chấn chỉnh để không còn sai nhịp lỡ cung. Đó là khoảnh khắc quan trọng: Ăn năn, đứng dậy, bước đi, và trở về đường ngay nẻo chính.
Nhân vô thập toàn. Câu này quá quen, ai cũng thuộc lòng và bật nói như phản xạ. Tuy nhiên, người lầm lỗi có can đảm trở về, nhưng người nhà có can đảm chấp nhận hay không lại là vấn đề không đơn giản. Người ta xin lỗi, mình có tha hay không? Chí Phèo muốn làm người lương thiện mà người ta không cho hắn cơ hội (Truyện “Chí Phèo” của nhà văn Nam Cao). Đó là “làn ranh mong manh” mà chúng ta phải xem lại chính mình. Một câu tục ngữ rất “nhức nhối” mà chúng ta cần suy tư: “Có thương thì xương chẳng còn”.
Vì vậy, ai cũng phải học bài học thương xót mà Chúa Giêsu đã dạy: “Hãy thương xót như Chúa Cha” (Lc 6:36). Lòng Chúa Thương Xót có từ đời đời, nhưng nay Giờ Thương Xót đã điểm, ai đón nhận thì được cứu độ.
Ngày xưa, Đức Chúa đã nói với ông Giô-suê: “Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai-cập” (Gs 5:9). Kinh Thánh cho biết: “Con cái Ít-ra-en đóng trại ở Ghin-gan và cử hành lễ Vượt Qua ngày mười bốn trong tháng, vào buổi chiều, trong vùng thảo nguyên Giê-ri-khô. Hôm sau lễ Vượt Qua, họ đã dùng thổ sản trong xứ, tức là bánh không men và hạt lúa rang, vào đúng ngày đó. Hôm sau, không còn man-na nữa, khi họ dùng thổ sản trong xứ; thế là con cái Ít-ra-en không còn có man-na nữa. Năm ấy, họ đã dùng hoa màu của đất Ca-na-an” (Gs 5:10-12). Dân chúng không còn phải dùng thứ man-na nhạt nhẽo nữa, mà họ được dùng những sản phẩm của miền đất trù mật sản sinh. Có được hạnh phúc đó là hưởng nhờ lòng thương xót bao la của Thiên Chúa.
Mỗi tích tắc là hồng ân của Thiên Chúa. Mỗi hơi thở (sự sống) là hồng ân của Ngài. Không khí chỉ đặc thêm một chút hoặc loãng thêm một chút, nhân loại chết ngắc, đừng nói chi là thiếu không khí. Hồng ân quá lớn, nhưng chúng ta ít lưu ý vì cho đó là “tự nhiên”. Không gì là tự nhiên hoặc ngẫu nhiên, mà phải có Chủ Nhân vận hành, đó là Thiên Chúa.
Lòng Chúa Thương Xót không ngừng dàn trải theo thời gian, từ thuở hồng hoang tới kỳ tận thế. Nếu Lòng Chúa Thương Xót ngưng một chút thì chúng ta hóa thành hư vô ngay. Vì thế, chúng ta không thể không noi gương tác giả Thánh Vịnh mà tuyên xưng: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên” (Tv 34:2-3). Và rồi phải rao truyền và mời gọi người khác cùng tôn vinh Thiên Chúa: “Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người. Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng” (Tv 34:4-5).
Đó là bổn phận và trách nhiệm của chúng ta, thụ tạo của Thiên Chúa. Đây là điều mỗi chúng ta phải xác tín và sống chứng nhân: “Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi. Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn” (Tv 34:6-7). Chắc chắn không ai trong chúng ta lại không từng cảm nghiệm được hồng ân thương xót của Thiên Chúa.
Theo thời gian, cái gì cũng cũ. Con người cũng không thoát khỏi quy luật đó. Tuy nhiên, tình trạng “cũ” của Kitô hữu không phải là thể lý, mà là tinh thần. Chúng ta “cũ” vì sa ngã, vì sai lầm, vì phạm tội. Không gì có thể “đánh bóng” được linh hồn của chúng ta. Chỉ có Bửu Huyết của Đấng Cứu Thế mới có thể “đánh bóng” được linh hồn của chúng ta.
Thánh Phaolô nói: “Phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải” (2 Cr 5:17-18). Thật là diễm phúc cho chúng ta, những tội nhân xấu xa vô cùng. Niềm hạnh phúc đó còn tăng thêm gấp bội. Thánh Phaolô xác nhận: “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải” (2 Cr 5:19).
Nhân danh Đức Kitô Giêsu, Thánh Phaolô vừa giải thích vừa kết luận, đồng thời cũng vừa truyền lệnh vừa nài xin: “Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5:20-21).
Trình thuật Tin Mừng hôm nay (Lc 15:11-32) là dụ ngôn nổi bật nhất trong ba dụ ngôn điển hình về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (Lc 15:2). Đúng là những kẻ ảo tưởng, lòng đầy dao găm, đầy tính đố kỵ và ghen tỵ. Biết bọn họ đang tức tối, Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu”.
Đây là dụ ngôn quen thuộc, hầu như ai cũng có thể kể chi tiết. Một người cha có hai con trai, người con thứ xin chia phần tài sản, rồi đi ăn chơi xả láng, vung tay quá trán mà không cần biết đến ngày mai.
Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, chẳng may trong vùng ấy lại xảy ra nạn đói khủng khiếp, thế là anh ta bắt đầu túng thiếu, dở khóc dở cười, anh ta đành phải đi ở đợ và chăn heo cho một người dân trong vùng. Người khôn, của khó, anh ta đói meo, ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng mà cũng chẳng ai cho.
Lực bất tòng tâm, anh ta chợt giật mình hồi tâm, nghĩ tới những người làm công cho cha được cơm dư gạo thừa, mà anh ta lại chịu đói khát. Anh ta vượt qua mặc cảm, quyết định quay về xin lỗi cha. Anh ta can đảm thú tội và nói không còn đáng gọi là con, chỉ xin cha coi anh ta như một người làm công mà thôi.
Tuy nhiên, người cha lại bảo các đầy tớ đem áo đẹp cho anh ta mặc, xỏ nhẫn vào tay, xỏ dép vào chân. Người cha còn cho người đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để mở tiệc ăn mừng. Ông vui mừng nói với mọi người: “Con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Và rồi tiệc mừng bắt đầu khai mạc, đàn hát tưng bừng như lễ hội.
Lúc ấy, người con cả trở về từ ngoài đồng. Về gần đến nhà, anh ta nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, anh ta hỏi xem có chuyện gì, người ta nói người em đã về và được người cha mở tiệc ăn mừng. Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Người cha ra năn nỉ thì anh ta so đo điều hơn, lẽ thiệt, nói rằng bao nhiêu năm qua mà chưa bao giờ có được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè, còn thằng em đi hoang với bọn điếm, nay trở về lại được ăn mừng.
Người cha hiểu ý con trai nên ôn tồn giải thích: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã CHẾT mà nay lại SỐNG, đã MẤT mà nay lại TÌM THẤY”. Chắc hẳn khi nghe cha nói vậy, anh ta vô cùng xấu hổ, và không thể không xin lỗi cha.
Về người con thứ, anh ta đã sai lầm và tội lỗi rõ ràng mười mươi, không cần phải bình luận gì thêm. Và rồi mỗi khi đề cập dụ ngôn này, ai cũng chỉ nhắm “mũi dùi” vào người con thứ, và anh ta bị “chết tên” với cái nickname là “đứa con hoang đàng”. Còn về người con trưởng – con cả hoặc anh hai, người ta lại không cho là anh ta cũng sai lầm, cũng có tội. Vâng, làm anh là làm lớn, mà làm lớn thì có SAI cũng thành ĐÚNG. Chúng ta cũng thường mạo nhận mình là “anh hai”, nhưng là để “xỉa xói” người khác, chỉ trích người khác, không dám nhận mình là “nhân vô thập toàn” mà chỉ muốn mọi người biết mình là “nhân hữu thập toàn”.
Tội của người con trưởng to hơn tội của người con thứ: Xúc phạm tới cả người cha và người em. Anh ta tự nhận là mình ngoan ngoãn hầu hạ cha, nhưng lại phản đối việc làm của người cha khi người cha đón nhận thằng em của anh ta. Rõ ràng anh ta vừa xúc phạm tới Tình Phụ Tử vùa xúc phạm tới Tình Huynh Đệ. Tình máu mủ ruột rà mà người con trưởng không cần biết đến. Tội tày trời chứ chẳng vừa đâu!
Không chỉ vậy, người con trưởng còn ích kỷ vì sợ thằng em hoang đàng chi địa kia “đụng chạm” đến quyền lợi cùa mình – tức là phần tài sản của anh ta. Như người Việt nói: “Đồng tiền liền khúc ruột”. Anh ta cũng cảm thấy… sợ! Và chúng ta cũng… sợ, không hề khác với người con trưởng kia đâu!
Người con trưởng không thương xót cha và em, người con thứ không thương xót cha. Thằng nào cũng là “đứa con trời đánh”. Mặc dù vậy, người cha vẫn hết lòng thương xót cả hai người con, trước sau như một. Chính người cha đã nối nhịp cầu yêu thương giữa đôi bờ ích kỷ của hai người con. Chúng ta cũng phải nối nhịp cung thương với nhau, bằng cách sống đúng theo lời Chúa Giêsu đã truyền dạy: “Hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6:36).
Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con, xin tha thứ cho con, vì con có cả tội của người con trưởng và người con thứ. Xin giúp con biết hoán cải để trở nên khí cụ bình an và yêu thương của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Lòng Thương Xót của Thiên Chúa không phải bây giờ mới có, mà là tự bản tính Thiên Chúa chính là Lòng Xót Thương. Nghĩa là từ khi khởi sự có một THIỆN THẦN, thì đó là Thiên Chúa. Loài người là một sinh vật cao cấp nhất, vì loài người có tri thức, là một thụ tạo nhưng không hoàn toàn. Sở dĩ loài người biết chuyện nầy, chuyện nọ là do sự hiểu biết (tri thức) giới hạn của họ. Bởi vì, phàm nhân vốn hữu hạn, vì phàm nhân là hữu thể. Từ sự hiểu biết giới hạn, con người tưởng mình là vô hạn, là siêu việt, là cái rốn của vũ trụ, tưởng rằng trí khôn thấp hèn, ta có thể hiểu biết được Thiên Chúa sao ? ! Chúng ta nên nhớ, Thiên Chúa đã phán: “ Trời cao hơn đất bao nhiêu, thì trí khôn của Ta cũng vượt trên các ngươi bấy nhiêu…”( Is 55, 9)
Vâng, theo đó chúng ta thấy, Thiên Chúa thấu suốt con người và không có sự hủy diệt nào cao hơn Thiên Chúa, cũng vậy không có tình thương nào lớn hơn tình thương của Thiên Chúa. Đồng thời, Thiên Chúa là Đấng công chính,vì vậy, không có sự công chính nào lớn hơn Thiên Chúa, vì Ngài là Chân Lý và Tinh Yêu.
Nhưng, theo đó, sự trừng phạt của Thiên Chúa căn cứ vào sự công thẳng của Ngài, sự công thẳng của Thiên Chúa dựa vào chân lý và tình yêu, vì vậy, nơi Thiên Chúa tuyệt đối không có sự bất công. Vì vậy, sự trừng phạt của Thiên Chúa, nếu có, thì cũng xứng đáng với nguồn gốc của tội lỗi là mầm mống satan. Vì dù, Thiên Chúa có “giết” bao nhiêu mạng người đi nữa, thì đối với Thiên Chúa vẫn như không, bởi vì nơi Ngài hội tụ đủ mọi đức tính Chân Lý và tình yêu. Vì loài người chỉ bởi bụi đất, còn sinh khí thuộc về Thiên Chúa. Theo đó, những đoạn văn khó hiểu trong Thánh Kinh, nhất là Cựu Ứớc, thì không thể hiểu theo ý muốn của loài người, mà là phải được hiểu theo nghĩa của mạch văn và bối cảnh của Thánh Kinh cùng đặc tính của Thiên Chúa. Vì , Thiên Chúa chính là nguồn của sự sống, chứ không phải sự chết. Nên chi, Thiên Chúa không muốn sự chết, sự hủy diệt, sự hãm hại loài thụ tạo, trong đó có loài người. Vì vậy, không còn lời lẽ nào chứng minh sự nhân từ của Thiên Chúa hơn Thập Gía nơi treo Đấng cứu độ trần gian.
Vâng, trở lại ý nghĩa Tin Mừng hôm nay,( Lc 15, 1-3; 11- 32), chúng ta thấy, Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Vì đoạn 15 của Tin Mừng thánh Luca là một đoạn nói về ba dụ ngôn “Lòng Thương Xót” của Thiên Chúa. Nhưng, nổi trội hơn là Dụ ngôn Người Cha nhân hậu ( Lc 15, 11 -32), trong câu chuyện “ Người con hoang đàng”.
Vâng, chúng ta thấy bố cục đoạn ( Lc 15, 11-32) rất chặt chẽ, mạch lạc, đầy đủ như loại văn kể chuyện, dù đây là một dụ ngôn do chính Chúa Giêsu là tác giả, thánh Luca chỉ nghe kể lại và ghi chép qua thầy của mình là thánh Phêrô.
Qua dụ ngôn “Người Cha nhân hậu”, chúng ta thấy ba nhân vật chính hiện lên rất rõ ràng, đồng thời tỏ rõ ba thái độ của ba nhân vật chính đó là : Người Cha, người anh cả và người con thứ.
Thái độ người cha: Ôn hòa, chịu đựng, nhân ái bao dung, quên đi tội lỗi của người con thứ. Chào đón một cách chân tình. Vâng, thái độ của cha phản ánh rõ nét tình của Thiên Chúa, Đấng bao dung , nhân hậu, sẵn sàng tha thứ cho người con. Một sự yêu thương tràn đầy tình phụ tử. Chúng ta thấy, người cha quả là đại lượng, từ sự đại lượng bao dung của người cha cho chúng thấy tình của Thiên Chúa khoan dung cho người tội lỗi, phản ánh sự yêu thương bởi một người cha nhân hậu. Vâng, thế nào là nhân hậu?
– Thứ nhất: Không so đo tính toán, hơn thua với người con, dù nó bất xứng. Nhưng, người cha không tìm sự bất xứng của người con thứ, ông tràn đầy yêu thương. Sự yêu thương ấy không phải là mù quáng, thiếu sáng suốt, mà là một sự quảng đại, vì ông chỉ nghĩ đến tình cha con, nhưng , quên đi sự bất hiếu của người con.
– Thứ hai: Sự cần có của người cha là tình “phụ tử” chứ không phải là của cải, vì ông vẫn giàu có, ông không mảy may tính toán, ông đặt giá trị tinh thần cao hơn giá trị vật chất. Ông được đền đáp vì sự mong mỏi con ông trở về, dù trắng tay. Sự mong mỏi của ông không phải là con ông thành đạt , mà là sự tha thứ. Vì ông vẫn không thiếu hụt của cải khi con ông vắng nhà, đầy tớ gia nhân vẫn còn đầy. Cái ông thiếu là mất một đi dứa con “khờ dại”, đứa con “ nghịch tử”, nhưng, cái buồn lấn át cơn giận và niềm vui quên đi sự bất hiếu. Vâng, chúng ta thấy đó là giá trị vô giá của tình “phụ tử ”. Dù con ông có lỗi phạm bao nhiêu đi nữa.
Vâng , đó là thái độ của Thiên Chúa, thái độ mà Thiên Chúa đã dành cho con người, mà chính Chúa Giêsu đã minh họa rõ nét qua thánh Luca, vị thánh đầy nhân ái, vì thánh nhân là một y sĩ, người thầy thuốc Luca đã gột tả được chi tiết “tâm tình” yêu thương của người cha, không phải bằng sáo ngữ mà bằng hành động cụ thể, một sự lột tả chi tiết yêu thương của một người cha sẵn sàng tha thứ cho con mình khi nó lỗi phạm, vâng, không còn từ ngữ nào chính xác hơn cụm từ ”Người cha nhân hậu”. Và, người cha đã phục hồi ngay vị thế của người con tội lỗi. Đồng thời, người cha nhân hậu cũng không hề có thái độ bất bình với người con cả, mà thay vào đó là thái độ ôn tồn.
Vâng, thái độ của người cha nhân hậu trong Tin Mừng theo thánh Luca chỉ diễn tả một phần, dù chi tiết, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Thái độ của người cha nhân hậu trong trang Tin Mừng ( Lc 15, 11 -32) hôm nay, qua hơn hai ngàn năm thiết nghĩ về nghĩa đen cũng có rất nhiều người cha nhân hậu như thế. Nhưng, trên hết “Người Cha nhân hậu” đúng nghĩa vẫn chính là Thiên Chúa , Đấng giàu lòng xót thương. Vì, Thiên Chúa đã sáng tạo loài người cách lạ lùng, nhưng cứu chuộc loài người còn lạ lùng hơn nữa.
Thái độ của người con tội lỗi:
Vâng, thái độ của người con tội lỗi là sự ”sám hối”, dẫu muộn màng, nhưng chân thành, đau khổ tinh thần và thể xác. Sự ăn năn cũng đáng giá như tội lỗi của mình. Từ sự chân thành, anh ta mới có đủ can đảm chỗi dậy trở về cùng cha mình.
Một sự sám hối đáng giá và chân thành: “Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng làm con cha nữa…” ( c 18- 19). Dù , xét về phương diện vật chất anh ta đã làm tổn hại tiền của cha mình, nhưng, xét về phương diện tinh thần, thì sự hối hận, ăn năn của anh đáng giá hơn những gì anh phung phá.
Thái độ của người con cả:
Thật bất nhân, không muốn người cha thể hiện lòng nhân hậu với người em của mình. Vô cảm không biết đón nhận tình anh em. Thái độ ích kỷ của người anh chính là ”tội lỗi” lớn nhất. Vì, thái độ không muốn cho người khác làm lại cuộc đời, thì không phải là thái độ của Thiên Chúa.
Vâng, kính thưa quý vị, thái độ người cha nhân hậu không phải dễ học, cũng như tâm tình thống hối của người con tội lỗi không phải dễ bắt chước để thực hành. Mà là thái độ ích kỷ của người anh cả chính là cách dễ bắt chước nhất.
Thái độ của người con thứ tượng trưng cho người tội lỗi biết sám hối, Thiên Chúa là Người Cha nhân hậu rất mong muốn những người tội lỗi có thái độ như người con thứ.
Thái độ của người con cả tượng trưng cho người Dothai và những người không có thái độ khoan dung, ích kỷ.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương nhân loại và sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi biết sám hối ăn năn. Qua Dụ ngôn Người Cha nhân hậu, Chúa đã mạc khải lòng thương xót của Thiên Chúa là Cha trên Trời cho chúng con, đồng thời thái độ biết ăn năn sám hối của người con thứ tội lỗi, để chúng con biết sám hối cách chân thành, và không theo thái độ ích kỷ của người con cả. Xin thương ban cho chúng con mỗi ngày biết chân thành sám hối, để được lãnh nhận ơn tha thứ của Chúa ./. Amen
Dụ ngôn trong bài Tin mừng hôm nay rất quen thuộc và chúng ta cũng đã nghe nhiều lần. Chúng ta thường gọi dụ ngôn này là dụ ngôn Người Con Hoang Đàng, thế những cách giải nghĩa, cách gọi này không được chính xác, và đời sống của đứa con không đáng làm khuôn mẫu cho chúng ta. Có người gọi dụ ngôn này là dụ ngôn Hai Anh Em, để diễn tả hai lối sống của 2 người con trong gia đình. Ngày nay, theo như những nhà Kinh thánh, dụ ngôn này được gọi là Người Cha Nhân Hậu, và còn có người gọi là Người Cha Phung Phí. Phung phí ở đây không phải là phung phí tiền bạc, nhưng phung phí ở đây là phung phí ơn lành, phung phí tình yêu, phung phí sự thương xót, để làm nổi bật lòng khoan dung nhân hậu của người cha. Chúng ta nhận thấy dụ ngôn này rất phong phú về ý nghĩa sự liện hệ giữa con người, và bao gồm nhiều khía cạnh cuộc sống. Giáo hội kêu gọi chúng ta lắng nghe và suy nghĩ bài Tin mừng hôm nay, để tìm ra được những bài học ích lợi cho đời sống đức tin, cho đời sống Ki-tô hữu.
Như ông bà anh chị em đã biết, trong mùa chay này, chúng ta được kêu gọi ăn năn sám hối quay trở về với Chúa, cũng như trở thành sứ giả lòng thường xót của Chúa trong Năm Thánh này, vì vậy, câu hỏi quan trọng cho chúng ta là “Đối với tôi, Thiên Chúa là ai?”, và “Tại sao tôi lại phải trở về với Chúa?” Để có thể trả lời, chúng ta trở lại dụ ngôn, tự đặt mình vào 2 người con, để xem 2 người con nghĩ cha mình là ai, và đã sống như thế nào trong gia đình.
Trước hết, nếu chúng ta nhìn vào sự liên hệ giữa người cha và đứa con út, thì chúng ta thấy sự tương phản sâu xa giữa lối suy nghĩ và hành động của đứa con với suy nghĩ và hành động của người cha. Chúng ta thấy người con út coi người cha trong gia đình là một người độc tài tước đoạt sự tự do, là người cấm cản muốn làm gì thì làm, muốn sống như thế nào. Bởi vì nếu là một người con sống trong gia đình thì phải theo sự chỉ bảo, dạy dỗ và hướng dẫn của người cha. Anh coi người cha là một người bắt anh phải sống theo nề nếp, khuôn phép của gia đình, và theo sự hướng dẫn của cha, làm cho anh không được thoải mái, không được tự do, không hoàn toàn sống theo ý mình. Anh cảm thấy không vui, không thoải mái và không hạnh phúc. Và anh ích kỷ nghĩ đến ngày sống một mình, được hoàn toàn tự do sống theo ý mình muốn, như thế mới được vui, thoải mái và hạnh phúc. Sự ích kỷ của anh đưa đến việc xin chia gia tài. Đó là điều tồi tệ đáng kinh tởm theo truyền thống người Do thái cũng như Việt Nam. Chúng ta biết gia tài chỉ được chia sau khi cha mẹ đã qua đời. Xin chia gia tài lúc cha mẹ còn sống có khác nào cầu mong cho cha mẹ mau chết đi là một điều xỉ nhục và đáng kinh tởm. Chúng ta thấy trong xã hội ngày nay, như người con út này, cũng có nhiều con cái mong muốn cha mẹ già mau chết đi, để khỏi bận tâm, để khỏi bị quấy rầy mất thời giờ. Đối với người con út này, anh coi người cha là một người tước đoạt quyền tự do của anh, làm cho anh mất vui, mất hạnh phúc, và là người cấm cản anh có cuộc sống thoải mái.
Ông bà anh chị em thân mến. Trong lãnh vực đức tin và trong mối tương quan liên hệ với Thiên Chúa, nhiều người chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa và giáo huấn của Chúa lấy đi sự tự do, làm cho cuộc sống của chúng ta mất vui, không được thoải mái và mất hạnh phúc. Chúng ta hãy tự hỏi “Có bao giờ chúng ta nghĩ Chúa là người độc tài, người khó khăn, người đòi hỏi và giáo huấn của Chúa làm cho chúng ta mất tự do, mất vui, không được thoải mái và mất hạnh phúc không?” “Có bao giờ chúng ta nghĩ trong thời đại này, tại sao tôi phải sống theo giáo huấn của Chúa dạy?” “Tại sao tôi phải hy sinh, phải phục vụ, phải hãm mình, phải công bằng, phải bác ái, phải quảng đại, vì những điều Chúa dạy này làm phiền đến cuộc sống của tôi, và làm cho cuộc sống của tôi không được thoải mái, không được vui, không được hạnh phúc!” “Có bao giờ ông bà anh chị em nghĩ như vậy không?”
Với người con cả, chúng ta thấy anh nghĩ rằng người cha trong gia đình không phải là người cha, mà đúng hơn là một ông chủ khó khăn và đòi hỏi. Và anh, tuy không bỏ nhà ra đi sống trong gia đình, chăm chỉ làm việc, làm hết sức mình, nhưng không phải là người con, nhưng chỉ là một người làm công. Chúng ta nghe anh nói với người cha “Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào.” Thật sự, anh cho rằng anh chỉ là người làm công chứ không phải làm con. Anh sống trong gia đình nhưng với thái độ của một người làm công, cho nên anh không hiểu, và có lẽ anh cũng chẳng cần phải hiểu, phải để ý đến tâm tư của người cha yêu thương, nhân từ, chờ đợ, tha thứ cho người con út tội lỗi, biết ăn năn quay trở về. Anh nghĩ rằng người em và anh chỉ là những người làm công, cho nên, vì ganh ghét và tranh chấp, anh không thể nào đón nhận thằng em hoang đàng biết ăn năn sám hối quay trở về với cha, và với gia đình.
Ông bà anh chị em thân mến. Hình ảnh người con cả này, cho chúng ta thấy trong đời sống đức tin, nhiều khi chúng ta nhìn Thiên Chúa không phải là một người cha, chúng ta cũng không phải là người con, và chúng ta cũng không phải là anh chị em với nhau trong thân thể Chúa Ki-tô, trong một gia đình của Chúa. Vì vậy nhiều khi chúng ta sống ích kỷ, tự cao, tranh chấp, chia rẽ và ghen ghét nhau. Chúng ta không biết sống hy sinh, phục vụ, quảng đại, hiệp nhất và yêu thương nhau như Chúa đã dạy chúng ta. Do đó, qua hình ảnh hai người con trong dụ ngôn, chúng ta hãy tự hỏi “Thiên Chúa là ai với tôi? Và tôi là ai trong 2 người con và cuộc sống như thế nào trong gia đình của Chúa?”
Thiên Chúa là Cha Nhân Hậu, đã, đang và sẽ tiếp tục phung phí tình yêu, lòng thương xót và những ơn lành hồn xác cho chúng ta. Chúng ta sẽ không bao giờ giải nghĩa được tình yêu thương và lòng thương xót của Chúa cho chúng ta. Đó là tấm lòng của người Cha Nhân Hậu. Xin Chúa thương giúp và biến đổi chúng ta trở thành những người con, biết yêu thương, quảng đại và hiệp nhất trong gia đình của Chúa, và trở thành sứ giả tình yêu và lòng thương xót của Ngài.
Công lý báo thù, gợi lên không ít những suy tư về một xã hội loài người cứng ngắc, quá túng thiếu tình yêu thương, không hơn gì quan niệm công bằng theo lý lẽ: mắt đền mắt, răng đền răng. Công lý mạnh được yếu thua, hẳn cũng làm nhiều người chao đảo, vì bi quan trước ý nghĩ vu vơ: miệng người giầu sang, có gang có thép. Không dừng lại ở những ý tưởng tiêu cực, nhiều người đã lạc quan cho rằng: trăm cái lý, không bằng tí cái tình. Cũng có câu tục ngữ, nhắc nhớ cụ thể hơn về “chữ tình” trong cuộc sống: bán họ hàng xa, mua láng giềng gần.
Hôm nay đây, Chúa nhật “mầu hồng”, mầu của yêu thương, đọc và suy tư một chút, người ta sẽ thấy “công lý yêu thương” sẽ bao phủ lên cuộc sống, cho dù ta ủng hộ lập trường “tình hay lý”. Dụ ngôn “người cha nhân hậu”, phản ánh một chân lý sống động: tình cha cao như núi thái, nhưng không vì thế mà lu mờ đi ý nghĩa: mẹ dạy con khéo, cha dạy con khôn. Người con thứ đi hoang, bụi đời, phá hỏng công sức đầu tư của gia đình, dòng tộc; nhưng để có “công lý yêu thương”, người con thứ ấy phải thật lòng sám hối, nhận ra mình sai lạc tội lỗi, quyết tâm đứng dậy trở về. Đúng như câu thành ngữ: mất tiền mất của, không mất, mất tình, mất nghĩa, mất tất cả.
Sợ phải “đấu trí” với người thông minh, ngao ngán khi tiếp xúc với kẻ tự mãn kiêu căng, và quá thất vọng trước những học trò cứng đầu, cứng cổ, chắc ai cũng có kinh nghiệm. Từ một thầy thuốc, chữa trị “bá bệnh” thể xác, tâm hồn, cùng nhiều thứ ung nhọt tâm linh khác, không ít người còn cho rằng Chúa Giêsu chính là chuyên gia tâm lý. Nhờ dụ ngôn “người cha nhân hậu”, dù ở tầng lớp nào: người biệt phái, kẻ thu thuế, người con cả, con thứ, họ cũng nhận ra hình ảnh của họ trong câu truyện thú vị đó. Đặc biệt hơn, “công lý” mà ai cũng cần hiểu: hãy trở về với cõi lòng mình để nhận biết “lòng nhân hậu của Thiên Chúa là Cha”.
Từ xa xưa đến nay, chúng ta vẫn hiểu, người tội lỗi là người đi hoang, đi bụi đời, chuyên ăn cắp ăn trộm, không đi lễ đi nhà thờ, không giữ luật Chúa nữa, quan niệm như vậy không phải là sai. Ngày hôm nay, đi bụi, đi hoang, đầu bò hay đầu gấu, cũng làm khổ đấng bậc sinh thành và gia đình xã hội. Đạo lý làm cha mẹ thời nào cũng là một: cha mẹ thương con biển hồ lai láng, tuy cách thể hiện có khác nhau. Nếu thực thi công lý đạo làm người, con cháu không thể làm ngơ trước câu ca dao: ơn cha nghĩa mẹ, nhớ mà ghi tâm. Hình ảnh người con thứ cho ta thấy, đói ăn đói mặc, khổ sở như vậy, chỉ xảy ra như câu tục ngữ: con không cha, nhà không nóc. Hình ảnh người con cả phản ánh, thiếu tình yêu, con cái sẽ mù quáng, hiểu nhầm thân phận mình chỉ là người làm thuê, làm mướn, dù sống bên cha, song anh vẫn nghĩ đó là ông chủ, có hạnh phúc gì đâu !
Dụ ngôn “người cha nhân hậu” trong Tin-mừng hôm nay, thật là gần sát với thực tế gia đình xã hội, dụ ngôn đụng chạm đến “công lý yêu thương” dù là phận làm cha mẹ hay phận làm con. Nếu ta sống hoang đàng, hãy mau suy xét để quay trở về, việc mang áo đẹp, xỏ nhẫn, đi giầy, làm tiệc ăn mừng, nhất định là sự thật đối với tình cha. Nếu là con trưởng, ta đừng tự mãn, ganh tỵ, che kín tầm nhìn về lòng cha bao dung: “mọi sự của cha là của con”. Nếu mang phận làm cha, liệu ta có đủ bình tĩnh, quảng đại, khi chúng hối lỗi ăn năn, hay vẫn cay cú giận hờn kết án: con hư tại mẹ, cháu hư tại bà ?
Con bất hiếu không phải chỉ là đứa bỏ nhà đi hoang, cần ăn năn sám hối không phải là người thu thuế, kẻ đàng điếm. Bàn tiệc vui không phải để tiếp một vài đối tượng ở trong danh sách khen thưởng, nhưng là cho tất cả những ai biết thật lòng trở về với Thiên Chúa là Cha. Trình thuật Tin-mừng hôm nay không có ý diễn tả một gợi ý về sự hối hận bề ngoài nơi người con đi hoang, nhưng cho thấy một căn tính sâu thẳm cần đổi thay, sám hối để nhận ra Thiên Chúa bao dung. Con người chỉ hạnh phúc, khi từng ngày, từng giờ, biết tái khám phá ra tình yêu thương của Chúa ở quanh ta.
Cái nhìn mới về mình, về anh chị em mình, phải là cái nhìn tích cực, mọi người đều là anh chị em, có chung Người Thầy là Đức Kitô, cùng đang hiệp nhất với Thiên Chúa là Cha yêu thương. Chúng ta đừng tưởng nhầm: cứ ăn năn hối cải theo đường lối trang nghiêm, trầm lắng như mầu tím Mùa chay là đủ. Nhưng mỗi người còn phải nhận ra “mầu hồng” của Mùa chay, cởi bỏ, sửa sai con người cũ, nghĩa là còn phải chú tâm vào hiện tại, chia sẻ, thực thi tình người trong Thiên Chúa là Cha. Hạnh phúc của người cha, sẽ không trọn vẹn nơi một vài thành viên gia đình công giáo. “Công lý yêu thương” của tình cha phải đến với người luật sĩ, người thu thuế, cả nhân loại chúng ta hôm nay nữa. Amen.