Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 4-C Bài 1-50 Người Cha Nhân Hậu

Thứ năm - 28/03/2019 10:34
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 4-C Bài 1-50 Người Cha Nhân Hậu
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 4-C Bài 1-50 Người Cha Nhân Hậu
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 4-C Bài 1-50 Người Cha Nhân Hậu
------------------------------------------

MC 4-C1. SỐNG LỜI CHÚA- ĐỨA CON HOANG ĐÀNG.. 2
MC 4-C2. MỌI SỰ.. 4
MC 4-C3. CSTM/87- NHÂN LÀNH.. 5
MC 4-C4. SCĐ/188- LÒNG THƯƠNG XÓT.. 7
MC 4-C5. SCĐ/190- ĐÔI MẮT CHA.. 8
MC 4-C6. PV/178- ĐƯỢC YÊU.. 9
MC 4-C7. PV/184- BỘC LỘ.. 11
MC 4-C8. NTGT/99- NGƯỜI ANH CẢ.. 13
MC 4-C9. Trở Về. 16
MC 4-C10. THIÊN CHÚA ĐẤNG VÔ CÙNG NHÂN TỪ.. 18
MC 4-C11. Hoan Nghênh! 20
MC 4-C12. Suy Niệm của Nhóm Đồng Hành. 21
MC 4-C13. EM CON ĐÃ CHẾT NAY SỐNG LẠI - Phêrô Nguyễn Văn Tài 23
MC 4-C14. "Không sinh quả, thì..." – Gier. Nguyễn Văn Nội 25
MC 4-C15. Lòng thương xót của Thiên Chúa - Lm Trần Thanh Sơn. 27
MC 4-C16. CHÚNG TA PHẢI ĂN MỪNG VÀ HOAN HỶ.. 30
MC 4-C17. LÒNG NHÂN TỪ HAY THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA.. 33
MC 4-C18. Người Cha nhân từ - Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi 35
MC 4-C19: CƯỚP NGÂN HÀNG - Lm Augustine SJ. 37
MC 4-C20: TIN VUI THỜI ĐIỂM 2000 - Lm Trần Cao Tường. 39
MC 4-C21: NGƯỜI CHA NHÂN TỪ - Lm. Damien OFM... 42
MC 4-C22:  TÌNH YÊU VÀ THA THỨ CÓ SỨC MẠNH HƠN TỘI LỖI 44
MC 4-C23: HỌC ĐÒI YÊU THƯƠNG NHƯ CHA TRÊN TRỜI 45
MC 4-C24: HÌNH ẢNH NGƯỜI CHA - Lm. Trọng Hương. 48
MC 4-C25: THIÊN CHÚA HAY QUÊN - Lm. Trọng Thưởng, CMC.. 49
MC 4-C26: CON RẮN ĐỒNG - Như Hạ. 51
MC 4-C27: HÃY THƯƠNG XÓT TÔI - Dòng Đồng Công. 54
MC 4-C28: XIN VÂNG": SỨ MẠNG TÔNG ĐỒ -  Sr. Tâm Năng. 55
MC 4-C29: MÀU HỒNG GIỮA MÙA CHAY.. 57
MC 4-C30: SÁNG KIẾN CỦA THIÊN CHÚA TRONG VIỆC GIAO HOÀ.. 61
MC 4-C31: NGƯỜI CHA NHÂN HẬU.. 63
MC 4-C32: THÊM CHÚA GIÊSU LÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN.. 67
MC 4-C33: DỤ NGÔN NGƯỜI CHA NHÂN HẬU, 69
MC 4-C34: NGƯỜI CON TRAI ĐI HOANG.. 74
MC 4-C35: NGƯỜI CON PHUNG  PHÁ. 78
MC 4-C36: BA DỤ NGÔN VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT.. 82
MC 4-C37:  TIN VUI THỜI ĐIỂM 2000. 93
MC 4-C38: TÌNH YÊU VÀ THA THỨ CÓ SỨC MẠNH HƠN TỘI LỖI 97
MC 4-C39: Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót 98
MC 4-C40: ĐHY Giuse Maria Phạm Đình Tụng- Thơ. 107
MC 4-C41: HÃY ĐÀO HAI CÁI MỘ HUYỆT- Mark Link S.J. 109
MC 4-C42: LÒNG NHÂN TỪ VÔ BIÊN.. 112
MC 4-C43: Thiên Chúa là Cha nhân hậu. 114
MC 4-C44: Tình yêu của Chúa cho ta nghị lực. 118
MC 4-C45: Hãy trở về - Phaolô Ngô Suốt 120
MC 4-C46: Lòng Chúa nhân hậu khoan dung. 122
MC 4-C47: Lòng thương xót Chúa. 132
MC 4-C48: Nhờ Sám Hối: Em Con Đã Chết Nay Lại Sống. 135
MC 4-C49: NGƯỜI CHA NHÂN HẬU W... 137
MC 4-C50: BÀI HỌC TỪ “ĐỨA CON HOANG ĐÀNG”. 140

---------------------------

 

MC 4-C1. SỐNG LỜI CHÚA- ĐỨA CON HOANG ĐÀNG

 

Dụ ngôn về đứa con hoang đàng hay nói đúng hơn câu chuyện về tấm lòng của một người cha: MC 4-C1


Dụ ngôn về đứa con hoang đàng hay nói đúng hơn câu chuyện về tấm lòng của một người cha, là một hình ảnh thật cảm động cho chúng ta thấy được tình thương bao la của Thiên Chúa đối với những kẻ tội lỗi.

Đúng thế, chàng thanh niên, không chịu được sự trói buộc và gò bó của gia đình, đã đòi người cha chia gia tài cho mình, rồi lên đường đi bụi đời. Ở một thành phố nào đó, chàng đã phung phí hết số tiền, được dành dụm chắt chiu từ biết bao nhiêu giọt mồ hôi và nước mắt.

Lâm vào cảnh túng đói, chàng mới hối hận vì đã hành động sai quấy. Thế là chàng dứt khoát, chỗi dậy, lên đường trở về nhà cha để van xin sự tha thứ.

Có lẽ chúng ta nên dừng lại ở hình ảnh người cha. Đúng thế, ngày ngày ông đều ngồi ở cửa, đưa cặp mắt nhìn về chốn xa xôi. Ông mòn mỏi trông chờ, ông hy vọng rằng một ngày kia cậu sẽ trở về. Bởi vì ông biết rất rõ, tự bản chất, cậu không phải là một con người xấu, nhưng vì tuổi trẻ bồng bột, lại nghe theo những lời xúi bẩy của bè bạn, cho nên mới ra nông nỗi ấy.

Ông tin rằng: trường đời sẽ mở mắt cho cậu, để cậu nhận ra rằng: không ai yêu thương cậu một cách chân thành cho bằng người cha. Cậu sẽ không tìm thấy ở đâu một sự nâng đỡ cảm thông cho bằng chính gia đình của mình. Rồi từ đó, sẽ có được một động lực thúc đẩy cậu quay gót trở về.

Phải, cậu đã trở về, kéo lê những bước chân nặng nhọc, áo quần thì rách rưới, thân xác thì mệt mỏi, tâm hồn thì khao khát được tha thứ.

Từ đằng xa, cha cậu đã nhận ra cậu. Ông bồi hồi xúc động, vội chạy đến với cậu và hôn cậu hồi lâu. Còn cậu thì cúi mặt xuống, xấu hổ và ăn năn vì lỗi phạm. Cặp mắt long lanh những giọt lệ sám hối và cậu đã thú nhận:

- Thưa cha, con đã phạm tội nghịch với trời và lỗi với cha, con không xứng đáng được gọi là con cha nữa.

Cha cậu ôm chặt cậu vào lòng. Sự thú nhận lúc này cũng bằng thừa, nhưng điều quan trọng đó là cậu đã chết mà nay được sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.

Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào cuộc sống riêng tư của mỗi người chúng ta. Đúng thế, mỗi khi phạm tội chúng ta cũng trở nên là những đứa con hoang đàng. Tội lỗi đem lại cho chúng ta sự nghèo nàn và bất hạnh. Tâm hồn mất đi vẻ đẹp của ơn thánh, nhất là sẽ bị đọa đày và chết chóc. Thế nhưng chúng ta đừng bao giờ quên rằng: Thiên Chúa là người Cha nhân từ và giàulòng thương xót, Ngài luôn mong mỏi chờ đợi chúng ta trở về để được tha thứ  như lời Ngài đã phán:

- Một kẻ tội lỗi ăn năn sám hối sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là chín mươichín người công chính không cần sám hối ăn năn.

Có một chàng trai cũng bỏ nhà ra đi và lâm vào cảnh túng thiếu. Chàng hối hận và muốn tìm về mái ấm gia đình. Chàng phân vân không biết bố mẹ có sẵn sàng tha thứ cho chàng hay không ? Chàng viết thư  cho bố mẹ và nói:

- Nếu như bố mẹ sẵn sàng tha thứ cho con, thì đến ngày ấy tháng ấy cứ treo một chiếc áo trên cửa sổ, làm dấu để con trở về, bằng không thì con chẳng dám làm phiền bố mẹ nữa.

Đến ngày ấy tháng ấy, bà mẹ không chỉ treo có một chiếc áo, mà trong nhà có bao nhiêu quần áo, bà đều đem treo khắp các khung cửa, để chàng được yên tâm trở về.

Tuy nhiên, điều quan trọng đối với chúng ta đó là, hãy ăn năn sám hối, hãy can đảm chỗi dậy và lên đường, rồi tình thương của Chúa sẽ đem lại cho chúng ta ơn tha thứ, bởi vì Chúa sẽ không thể cứu chữa chúng ta, nếu như chính bản thân chúng ta lại không muốn.

----------------------------

 

MC 4-C2. MỌI SỰ

 

Câu chuyện được kể lại trong bài Tin mừng hôm nay theo thánh Luca có thể coi là tấm thảm: MC 4-C2


Câu chuyện được kể lại trong bài Tin mừng hôm nay theo thánh Luca có thể coi là tấm thảm kịch vẫn xảy ra trong mối tương quan giữa Thiên Chúa với con người và giữa con người với nhau. Có một lúc nào đó trong tiến trình trưởng thành và tự lập, đứa con chợt thấy mình cần đòi lấy quyền tự do để quyết tách ra khỏi sự giám hộ của cha mẹ. Con người cũng đã từng muốn được bộc lộ tư thế độc lập tự chủ như vậy trong tương quan với Thiên Chúa. Con người đã xây dựng tháp Babel, biểu tượng của tiến bộ khoa học kỹ thuật để khẳng định với Đấng tạo dựng của mình. Con người gần như nắm trọn quyền kiểm soát sử dụng mọi tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho nhu cầu đời sống của mình: “Thưa cha, xin chia cho con phần gia tài con được hưởng”.

Đối với người cha, lời cầu xin của con là chính đáng, vì những gì ông đã gầy dựng nên như nhà cửa, ruộng vườn và tất cả tài sản vật chất, tinh thần cốt là chỉ dành cho con. Không thể có cách đáp ứng nào khác hơn đối với người cha tốt lành yêu thương con cái đã vui lòng trao cho con tất cả gia sản của mình. Và đây cũng chính là cách hành xử của Thiên Chúa khi Người đáp ứng vô cùng rộng lượng hào phóng quá sức muôn đời của con người. Mọi diễn tiến có lẽ đã êm xuôi tốt đẹp, đã như không có một chi tiết tai hại xảy ra. Ít ngày sau khi con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa, ở đó anh ta sống phóng đãng phung phí tài sản của mình.

Vậy, một khi đã rời khỏi nhà cha, rời khỏi tình thương của cha, khỏi sự che chở hướng dẫn của cha thì đứa con dẫu đã lớn khôn, song một mặt nào đó vẫn còn là con, vẫn có mối thương tình phụ tử ràng buộc “sinh tử bất khả phân ly” tất sẽ phải đương đầu với bao hậu quả không lường được. Tấm thảm kịch bắt đầu ở đây, ở chỗ con người tách ra khỏi quyền năng yêu thương quan phòng của Thiên Chúa, ở chỗ con người làm ngơ hoặc phủ nhận sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời như nguồn mạch và sự cảm hứng của con người, ở chỗ con người gạt bỏ mọi dấu ấn của luật pháp Thiên Chúa trong bản chất, trong lương tri con người. Chính lúc đó con người phung phí hết mọi gia sản, phung phí tài năng, sức lực, phung phí luôn cả phẩm giá của mình là con người được tác tạo giống dấu ấn của Thiên Chúa.

Tách rời Thiên Chúa, phủ nhận Thiên Chúa, loại trừ Thiên Chúa rút cuộc sẽ đẩy con người xuống tận đáy của mọi thảm họa, xuống ngang tầm với cầm thú. Anh ta ao ước lấy được những đồ cho heo ăn mà nhét cho đầy bụng. Sự giác ngộ sám hối của con người có vẻ muộn màng, nhưng lại là điều Thiên Chúa chờ đợi và luôn đưa ra sáng kiến để đón nhận tội nhân cải tà qui chánh. Anh ta còn ở đàng xa thì người cha đã trông thấy, ông chạnh lòng thương chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Có thể có hoán cải làm lại cuộc đời, nếu như không có chờ đợi những ngày mở đường sinh phúc, mở rộng vòng tay tha thứ đón nhận. Đây chính là cốt lõi của ơn trở về. Nền tảng cảm hứng và sức mạnh của ơn này chính là tình thương và quyền năng Thiên Chúa, Đấng muốn cứu vớt tất cả phàm nhân, một khi Người đã tặng ban cho nhân loại chính Thánh Tử Chí ái của Người.

Tuy nhiên, hệ lụy của hành vi con người tách rời và phủ nhận quyền năng quan phòng của Thiên Chúa không phải là không gây tác hại nghiêm trọng trong mối tương quan giữa con người với nhau, nhưng đã có một sự rạn nứt đổ vỡ trong tình thương huynh đệ, trong nỗ lực chung sức phục vụ công trình của Thiên Chúa là Cha với tấm lòng hiếu kính vô vị lợi.

Trái lại, người con thứ sau khi đã nuốt hết của cải của người cha nay trở về thì cha lại giết bê béo ăn mừng. Thậm chí đáng buồn hơn nữa còn thương mại hóa mối tương quan giữa Thiên Chúa, lấy lợi vụ vật chất, lấy công trạng phục dịch dễ dàng trong nhà cha làm chuẩn mực cho tình nghĩa phụ tử: “Bao nhiêu năm trời con phục vụ cha thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con bê để con ăn mừng với bè bạn”. Ơn hoán cải thực sự và toàn diện không thể thực hiện, nếu chỉ có nỗ lực đơn phương của một nhân loại đã bị thương tật tội lỗi và không ngừng bị ảnh hưởng của ác thần khống chế. Nhưng ơn hối cải ấy chỉ có thể xuất phát từ Thiên Chúa, từ cội nguồn trắc ẩn, từ lòng yêu thương nhân từ luôn rộng mở chờ đón sự trở về của con người tội lỗi.

----------------------------

 

MC 4-C3. CSTM/87- NHÂN LÀNH

 

Những người Pharisêu và kinh sư vốn khinh miệt những người mà họ coi là “phường tội lỗi”: MC 4-C3


Những người Pharisêu và kinh sư vốn khinh miệt những người mà họ coi là “phường tội lỗi”, và coi sự tiếp xúc với lớp người ấy là một việc làm cho mình ra dơ bẩn. Họ phê bình, bắt bẻ, hạch sách Chúa Giêsu vì thấy Ngài tiếp nhận những người tội lỗi và ngồi ăn uống với lớp người này. Để trả lời cho họ, Chúa Giêsu kể những dụ ngôn trình bày thái độ của Thiên Chúa đối với người tội lỗi.

Thánh Luca đã thâu góp trong chương 15 ba dụ ngôn con chiên lạc mất lại tìm thấy, đồng bạc rơi mất lại tìm thấy, và đứa con hoang đàng trở về. Thái độ của người tìm thấy con chiên lạc, thái độ của người tìm thấy đồng bạc mất và thái độ của người cha gặp lại đứa con đi hoang… đều nhằm diễn tả niềm vui của Thiên Chúa khi người tội lỗi ăn năn sám hối. Chúa Giêsu đến để mạc khải cho loài người lòng nhân từ của Thiên Chúa, không phải chỉ bằng lời nói nhưng bằng chính cách cư xử của Ngài đối với người tội lỗi. Thái độ của Ngài đối với người tội lỗi chính là thái độ của Chúa Cha.

Dụ ngôn trong bài Tin Mừng quen được gọi là dụ ngôn “Đứa con hoang đàng”. Nhưng cái tựa đề đó không phản ánh đúng nội dung và chủ đích của Chúa Giêsu, vì nó thường làm chúng ta chú ý tới đứa con hoang đàng mà quên đi hay ít quan tâm tới vai trò của người cha và người con cả. Nói rõ hơn, cả ba nhân vật trong dụ ngôn đều đáng chú ý. Chính vì thế mà dụ ngôn trở thành phong phú cho chúng ta, vì nó cho chúng ta nhìn ngắm hình ảnh lòng nhân lành của Thiên Chúa, thân phận bi đát của con người tội lỗi, con đường giải thoát là về với Cha. Đòi hỏi của Thiên Chúa là muốn làm con của Ngài thì cũng phải nhận những đứa con khác của Ngài là anh em của mình, phải học với Ngài mà sống thái độ nhân lành.

Chủ đích của Chúa Giêsu khi giảng dạy dụ ngôn này là mời gọi mọi người Do thái nói chung, nhất là giới lãnh đạo thay đổi quan niệm và thái độ của họ về Thiên Chúa, về người tội lỗi và về chính họ.

Trong khi mời gọi chúng ta thực hiện việc ăn năn sám hối, Giáo hội cho chúng ta nghe đoạn Tin Mừng này để mời gọi mỗi người chúng ta nhìn mình trong câu chuyện ấy. Mỗi người đều có thể đặt mình trước lòng nhân lành của Thiên Chúa để nhìn mình và nhìn anh em. Người ta chỉ dám nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi khi đứng trước mặt Thiên Chúa nhân lành sẵn sàng tha thứ. Bởi vì nhìn nhận mình tội lỗi tức là nhìn nhận mình thua kém, mình không xứng đáng là mình, nên nếu chỉ nhận ra mình là kẻ tội lỗi mà không có sự tha thứ nào để nâng mình chỗi dậy thì người ta sẽ tuyệt vọng. Bao nhiêu người hóa điên vì đã phạm tội ác rồi nhận ra mình là kẻ có tội mà không thấy ai có thể tha thứ cho mình.

Hình ảnh đứa con hoang đàng cho chúng ta thấy bản chất của tội lỗi, hậu quả bi đát của tội lỗi và thái độ phải có để có thể thoát ra khỏi tội lỗi. Lòng sám hối chính là nhận ra mình là kẻ tội lỗi, quyết tâm ra khỏi tội lỗi để quay về với cha và sống làm con người mới. Mỗi người đều có thể nhận ra mình trong hình ảnh đứa con hoang đàng. Vậy thì Chúa cũng mời gọi chúng ta cùng với đứa con hoang đàng chỗi dậy đi về nhà cha, cha đang chờ, tức là đến với Chúa, Chúa đang chờ để tha thứ cho chúng ta.

Hình ảnh người con cả cũng giúp chúng ta kiểm điểm thái độ của mình đối với anh em. Ai trong chúng ta cũng có một chút máu Pharisêu trong mình: muốn tự coi là công chính, khinh chê người khác, muốn loại người khác ra khỏi gia đình của Thiên Chúa. Nhưng Chúa Giêsu khẳng định rằng: muốn làm con của Cha trên trời thì phải nhìn nhận những người khác là anh em và quan tâm tới phần rỗi của anh em. Phải từ bỏ thái độ Pharisêu.

Tóm lại, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhìn ngắm hình ảnh lòng nhân lành của Thiên Chúa, thân phận tội lỗi của mình, và con đường giải thoát là về với Cha. Đòi hỏi của Thiên Chúa là: muốn làm con của Ngài thì cũng phải nhận những đứa con khác của Ngài là anh em của mình, phải học với Ngài mà sống thái độ nhân lành.

----------------------------

 

MC 4-C4. SCĐ/188- LÒNG THƯƠNG XÓT

 

Gandhi kể rằng khi ông 15 tuổi, ông đã ăn cắp của anh mình một đồng tiền vàng. Tuy nhiên: MC 4-C4


Gandhi kể rằng khi ông 15 tuổi, ông đã ăn cắp của anh mình một đồng tiền vàng. Tuy nhiên sau đó ông rất áy náy nên quyết định thú tội với cha mình. Ông viết lên một tờ giấy những gì  mình đã làm, sau đó xin cha tha thứ, và cuối cùng hứa sẽ không tái phạm nữa. Khi ấy cha ông đang bệnh phải nằm trên giường. Gandhi đến đưa tờ giấy cho cha và hồi hộp chờ Cha xét xử. Người Cha ngồi dậy, cầm tờ giấy, trong khi ông đọc thì hai dòng lệ từ đôi mắt ông chảy xuống. Gandhi cũng không cầm được nước mắt mình. Cuối cùng khi đã đọc xong, người Cha không hề nổi giận và cũng chẳng trách móc Gandhi lời nào. Ông ôm chầm lấy con và sung sướng vì  con mình đã biết hối hận.

Cảm nghiệm được yêu thương ngay khi mình còn tội lỗi là một cảm nghiệm vô cùng sâu sắc đối với Gandhi. Sau này ông nói: “Chỉ có người nào đã trải qua cảm nghiệm về loại tình yêu như thế mới có thể hiểu được nó thôi”.

***

Đó cũng là cảm nghiệm của đứa con hoang đàng trong bài Tin Mừng hôm nay. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn giúp chúng ta hiểu được lòng thương xót bao  la của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ngài muốn nói với chúng ta rằng: Nếu chúng ta phạm tội thì Thiên Chúa vẫn yêu thương Chúng ta. Ngài không những không bớt thương mà còn thương nhiều hơn nữa. Không phải đợi chúng ta trở nên hoàn hảo thì Thiên Chúa mới thương, mà yêu thương ngay  khi chúng ta còn trong tội lỗi.

Tất cả chúng ta, dù nhiều hay ít, đều là những người tội lỗi. Nhưng chính trong tội lội và qua tội lỗi mà chúng ta cảm nhận được lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu chúng ta không bao giờ phạm tội thì chúng ta cũng không bao giờ cảm nhận được niềm vui được tha thứ. Nói thế không có nghĩa là chúng ta cứ tha hồ phạm tội. Nói như thế là để chúng ta càng hiểu được tấm lòng của Thiên Chúa.

----------------------------

 

MC 4-C5. SCĐ/190- ĐÔI MẮT CHA

 

Một cô bé đang ngồi trên gối mẹ, chợt lên tiếng hỏi mẹ: - Mẹ ơi, con có thể nhìn thấy lòng: MC 4-C5


Một cô bé đang ngồi trên gối mẹ, chợt lên tiếng hỏi mẹ:

- Mẹ ơi, con có thể nhìn thấy lòng mẹ không ?

Bà mẹ đáp:

- Mẹ không biết, nhưng con có thể nhìn vào mắt mẹ xem có thấy gì trong đó ?

Cô bé nhướng mắt nhìn chăm chú vào đôi mắt người mẹ, rồi sung sướng kêu lên:

- Mẹ ơi ! Con nhìn thấy lòng mẹ rồi, ở đó có một cô bé tí xíu là chính con đó mẹ ạ ?

Trong đôi mắt của cha mẹ, con cái là tất cả. Trong đôi mắt Thiên Chúa chỉ có con người, nhất là những con người tội lỗi đáng thương. Vua Đavít đã cầu nguyện cùng Chúa: “Xin giữ gìn con như thể con ngươi, dưới bóng Ngài, xin thương che chở”.

Vâng, tấm lòng yêu thương khôn tả của Thiên Chúa đã được Chúa Giêsu bày tỏ trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu”. Một người cha rất đỗi hiền từ, luôn tôn trọng tự do của con cái, sẵng sàng trao phần gia tài cho người con thứ. Sau khi anh ta đã “Sống phóng đãng, phung phí hết tài sản” trở về, người cha ấy cũng không trách mắng nghiêm phạt, từ con. Trái lại, khi thấy bóng dáng cậu từ xa, ông đã vội vã chạy đến ôm chầm lấy cậu hôn hít vui mừng đến chảy nước mắt.

Lòng nhân hậu, yêu thương, tha thứ đã khiến ông quên hết lỗi lầm của đứa con hoang đàng, mà chỉ còn thấy trước mặt ông, trong vòng tay âu yếm, là đứa con ông hằng mòn mỏi đợi trông. Đứa con mà ông tưởng đã mất vĩnh viễn nay lại tìm thấy được. Ông vui sướng mở tiệc liễn hoan, đàn ca múa hát, ăn mừng người con trở về. Một cuộc đón tiếp quá sức nồng hậu, ngoài sức tưởng tượng của đứa con.

Người anh đi làm về, chẳng những đã không vui mừng mà con nổi giận, trách móc cha già, khiến ông lại phải nhẫn nhục ra tận cổng phân trần, năn nỉ, mời cậu vào nhà chung vui với ông và gặp lại đứa em “đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Ông khẳng định với cậu rằng: “Tât cả những gì của cha đều là của con”.

Đó là câu chuyện có thật về một Thiên Chúa yêu thương, quảng đại, và hay tha thứ. Một Thiên Chúa thích dùng hình phạt nhưng luôn tỏ lòng khoan dung. Một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. “Muôn ngàn đời Chúa vẫn còn tình thương”.

Chỉ tiếc một điều là người anh cả đã không chịu vào nhà. Anh không chịu vào vì anh không thể tha thứ cho người em lầm lỡ. Anh không chịu vào vì anh sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm. Anh không chịu vào vì anh không hiểu được tấm lòng quá nhân hậu bao dung của người cha.

Hóa ra, bấy lâu nay anh sống trong nhà cha mà như ở bên ngoài: Anh không trái lệnh cha chỉ để tròn bổn phận chứ không phải vì yêu mấm cha. Anh không hề gọi người em mình là “em tôi” mà là “đứa con của cha kia”. Anh không cảm thông với người em lầm lỡ, cũng không chia sẻ nỗi khổ của người cha mất con.

Anh chỉ nghĩ về mình, quyền lợi của mình, hạnh phúc của mình. Anh là người đại tiện cho nhóm Pharisêu và các kinh sư, luôn tự hào về đời sống đạo đức của mình, và muốn cho những kẻ tội lỗi phải chết hơn là được cứu chữa.

Vậy cả hai người con đều phải quay trở về với cha, cả hai đều phải bước vào nhà cha, cả hai đều phải rũ bỏ nếp sống cũ, nếp nghĩ xưa để về ẩn mình trong trái tim cha: Nhân hậu, bao dung, tha thứ và tràn đầy yêu thương.

Trở về với cha là giang tay ôm lấy người em lầm lỡ.
Trở về với cha cũng là về với anh em, con cùng môt cha.
Trở về với cha để thấy mình là tất cả, trong đôi mắt cha.

----------------------------

 

MC 4-C6. PV/178- ĐƯỢC YÊU

 

Chắc hẳn dụ ngôn đứa con hoang đàng là nổi tiếng nhất và được yêu thích nhất trong các dụ: MC 4-C6


Chắc hẳn dụ ngôn đứa con hoang đàng là nổi tiếng nhất và được yêu thích nhất trong các dụ ngôn của Đức Giêsu. Tuy nhiên, một số người vẫn cứ cho rằng đó là một câu chuyện bất công. Họ cảm thấy tiếc cho người con cả, họ nhận thấy là anh ta đã bị cư xử bất công, họ tin rằng người con thứ ra đi vì đã phạm tội giết người, vì thế, anh ta cần phải bị trừng phạt, nên dạy cho anh ta một bài học. Chúng ta hãy nhận xét xem thái độ đó có đúng đắn hay không.

Người con thứ đã được xác định là một tay ăn chơi trác táng. Anh ta đã đi đến một thành phố, mà anh ta có thể thỏa mãn tất cả mọi lạc thú tại đó. Nhưng khi đã hết nhẵn tiền, những ánh đèn sáng trưng đều lu mờ, và tất cả những cánh cửa đều đóng lại không cho anh vào, thì anh mới cảm thấy hối tiếc cho bản thân mình. Nỗi đau của bản thân khiến anh nhận ra được nỗi đau mà anh đã gây ra cho người cha của anh. Do đó, anh tự nhủ “Tôi sẽ trở về với cha tôi, và xin lỗi người”. Đây là một quyết định can đảm, và cần phải có nhiều can đảm để thực hiện quyết định này. Thật không dễ dàng nói lời “xin lỗi”, ngay cả đối với một vấn đề tầm thường.

Cuộc hành trình trở về thật buồn bã, cô độc và đáng sợ. Thật dễ dàng trở về nhà, khi bạn là một anh hùng, với đầy chiến công và vinh quang. Nhưng đứa con hoang đàng không hề có một chiến công nào để đem về cho cha anh, không hề có thành quả nào, để nhờ đó, anh xứng đáng được khen ngợi, đón tiếp và yêu thương. Anh đang trở về nhà, với đôi bàn tay trống rỗng. Tệ hơn nữa, anh đang trở về nhà, lòng trĩu nặng xấu hổ và nhục nhã.

Tất cả mọi sự đều ở ngoài tầm tay của anh. Giả thử cha anh không chấp nhận cho anh trở về. Vậy thì anh sẽ làm gì đây ? Anh xứng đáng bị trừng phạt:

- Anh vẫn biết điều đó, và thậm chí anh còn yêu cầu điều đó nữa. Tuy nhiên, sự trừng phạt là điều cuối cùng mà anh cần đến. Trong bất cứ trường hợp nào, anh đã từng bị trừng phạt rồi. Anh không hề có lúc nào vui vẻ. Có lẽ anh đã có lạc thú, nhưng chắc chắn anh không hề có niềm vui. Anh đã đau khổ rất nhiều.

- Đói khát, cô độc, xuống tinh thần, nỗi đau đớn vì hối hận, cảm giác bị phản bội. Mỗi tội lỗi của anh đều mang theo nó thứ hình phạt mau lẹ, chắc chắn. Phạm tội là đau khổ. Anh không cần phải chịu đựng thêm hình phạt nào nữa.

Anh cũng không cần phải được dạy cho một bài học. Anh đã được học hỏi một bài học:

- Một điều gì đó còn quan trọng hơn nhiều. Anh đã học hỏi một số sự thật đau lòng về bản thân mình, về những người khác, và về cuộc đời. Anh đã ăn một thứ trái cấm, và thay vì được thỏa mãn, trái cấm đó đã để lại cho anh một hương vị cay đắng trong miệng. Nếu anh bị khước từ, thì thái độ này sẽ hủy hoại anh.

Điều gì đã xảy ra ? Khi người cha nhìn thấy người con đã bị mất đi của ông đang đang tiến về phía ông, ông liền chạnh lòng thương, và một phút sau đó, cha con đã ôm chầm lấy nhau. Người cha đã không chỉ chấp nhận cho anh trở về, mà ông còn đón tiếp anh nữa. Tất cả tội lỗi của anh đều được tha thứ.

Phát hiện vĩ đại nhất mà người con thứ đã nhận ra, đó là anh vẫn được yêu thương, trong tình trạng tội lỗi của anh. Người cha không bao giờ ngừng yêu thương anh. Trong tấm lòng nhân hậu của người cha, anh luôn được yêu thương, đó không những là một điều tốt đẹp, nhưng khi vẫn được yêu thương ngay trong tình trạ tội lội, thì quả thật đó là một cảm nghiệm tuyệt vời. Loại tình yêu như vậy giống như một làn gió mát thổi vào ngọn lửa gây chết chóc, hoặc cơn mưa đổ xuống vùng đất nứt nẻ. Đây chính là ân sủng. những ai đã từng cảm nghiệm được loại tình yêu này, sẽ nhận biết được nét gì đó về tấm lòng của Thiên Chúa.

Sự tha thứ của Thiên Chúa không phải là sự tha thứ lạnh lùng, nửa vời, nhưng là sự tha thứ nồng ấm và quảng đại. Thiên Chúa không chỉ tha thứ cho chúng ta ; mà Người còn yêu thương chúng ta, và để cho chúng ta nhận biết được tình yêu đó. Câu chuyện này không phải là cho phép chúng ta cứ phạm tội, nhưng chứng tỏ rằng do bản tính yếu đuối và gian ác của con người, chúng ta đã phạm tội, nhưng sau đó, chúng ta có thể vượt qua quá khứ của mình, vẫn có thể làm lại từ đầu. Đây là bài học vĩ đại của dụ ngôn này.

“Giấy phút người còn hoang đàng quỳ gối và khóc lóc, anh ta đã biến cảnh lãng phí tài sản của mình bên những cô gái điếm, cảnh chăn heo và thèm khát những thức ăn của heo, trở thành những giây phút đẹp đẽ và thánh thiện trong cuộc đời của mình. Hầu hết mọi người khó mà thấu hiểu được ý tưởng đó. Tôi đáng nói rằng người ta phải chịu cảnh tù tội, thì mới thấu hiểu được điều đó. Nếu như vậy ,thì có thể thời gian sống trong tù thật đáng giá”.

----------------------------

 

MC 4-C7. PV/184- BỘC LỘ

 

Chúng ta hãy nhìn vào dụ ngôn của Đức Giêsu từ quan điểm của tâm hồn.Một người cha có: MC 4-C7


Chúng ta hãy nhìn vào dụ ngôn của Đức Giêsu từ quan điểm của tâm hồn.

Một người cha có hai người con trai. Mặc dù người con cả vâng phục và chu toàn bổn phận, nhưng anh lại khá nguyên tắc và xa cách. Anh ta là một con người lạnh lùng. Trái ngược, người con thứ nồng nàn và nhiều tình cảm. Tuy nhiên, trong con người của anh ta, lại có tính cách hoang đàng và vô trách nhiệm. Anh ta cứ nhất quyết làm theo ý riêng của mình, bất chấp người nào khác có thể suy nghĩ ra sao. Một ngày kia, anh ta đã ích kỷ đòi được chia phần gia tài thừa kế, và sau khi đã nhận được, anh ta liền bỏ đi phương xa.

Tại đó, anh ta đã sống buông thả một cách ngu xuẩn và bất chấp mọi sự, cho những thú tính thấp hèn nhất nơi con người của anh. Nhưng khi tiền bạc đã cạn kiệt, anh mới tự nhận thấy mình không còn bạn bè hoặc người nào giúp đỡ.

Đột nhiên, anh cảm thấy trống rỗng trong tâm hồn. Thế rồi sau khi đã nhận ra những việc mình làm, lòng anh tràn ngập nỗi cay đắng và căm ghét bản thân mình. Tuy nhiên. Nỗi đau của bản thân đã giúp cho anh nhận ra được nỗi đau mà anh đã gây ra cho những người khác. Anh đã làm tan nát cõi lòng của cha mẹ anh.

Thế là anh quyết định quay trở về nhà. Anh ra đi với đôi bàn tay trống rỗng. Thứ duy nhất mà anh có được, đó là một trái tim khiêm tốn và hối lỗi. Và cha của anh vẫn đang chờ đợi anh. Vì quá lo âu, người cha không bao giờ rời khỏi nhà, bởi vì ông cứ mãi bận tâm đến người con trai hoang đàng của mình. Vì thế, ngay khi nhìn thấy anh trở về, ông mới hoàn hồn. Và cuối cùng, hai cha con đã ôm chầm lấy nhau.

Nhưng sau đó, một điều đáng ngạc nhiên đã xảy ra. Khi đến gặp anh cả, người em chỉ phát hiện ra rằng người anh cả của anh không muốn nhận biết anh. Không hề có chỗ nào cho anh trong tâm hồn của người anh cả. Thay vì vui mừng khi thấy người em trai của mình trở về an toàn, thì tâm hồn của người anh cả lại tràn đầy nỗi cay đắng và hằn học. Anh ta đã tìm cách chiếm được tình cảm của người cha thông qua bổn phận hơn là thông qua tình yêu. Thật đáng buồn, dường như thể anh ta chưa bao giờ đi vào tâm hồn của người cha, bởi vì nếu đã đi vào đó được rồi, thì tâm hồn của anh ta sẽ được mở rộng ra. Nhưng thay vì được như vậy, thì tâm hồn của anh ta lại vẫn cứ nhỏ bé, hẹp hòi, lạnh lẽo và không muốn đón tiếp ai.

Câu chuyện về đứa con hoang đàng là một câu chuyện về tâm hồn: tâm hồn ích kỷ và tâm hồn quảng đại, tâm hồn khép kín và tâm hồn cởi mở, tâm hồn lạnh lùng và tâm hồn nồng nàn, tâm hồn tan nát và tâm hồn vui mừng, tâm hồn không biết hối cải và tâm hồn biết ăn năn, tâm hồn không biết tha thứ và tâm hồn hay tha thứ, tâm hồn miễn cưỡng và tâm hồn biết ơn.

Câu chuyện này mặc khải cho chúng ta quá nhiều về tính cách thất thường của tâm hồn con người. Khi đã nói và làm xong tất cả mọi sự rồi, thì chính tâm hồn mới là đáng kể. Nhưng người ta có thể tóm tắt điều gì về tâm hồn ? Tâm hồn là cái gì sâu thẳm nơi bản thân mình. Đó chính là con người thật của tôi. Cảnh tối tăm của tâm hồn là đêm đen tối nhất so với tất cả. Một tâm hồn nặng trĩu là gánh nặng chán chường nhất. Một tâm hồn tan nát chính là vết thương sâu xa nhất.

Nhưng dụ ngôn trên bộc lộ tính cách kiên định nơi tâm hồn của Thiên Chúa nhiều đến thế nào. Tâm hồn của Thiên Chúa không tỏa ra sức nóng và hơi lạnh. Thiên Chúa không bao giờ khép lòng lại với bất cứ người con nào của Người. Bất chấp họ có thể rời bỏ mái nhà để đi xa đến đâu, bất chấp họ làm gì, nếu họ quay trở về, điều duy nhất mà họ có thể tin chắc, đó là sự đón nhận nồng ấm và rộng lượng.

----------------------------

 

MC 4-C8. NTGT/99- NGƯỜI ANH CẢ

 

Dụ ngôn người con hoang đàng hay còn được gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu là một trong: MC 4-C8


Dụ ngôn người con hoang đàng hay còn được gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu là một trong những trang Phúc âm lôi cuốn nhất được thánh sử Luca ghi lại cách sinh động. Mặc dù dụ ngôn nêu bật lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân biết sám hối trở về. Nhưng có một nhân vật làm cho chúng ta lưu ý, đó là người anh cả. Người anh cả trong dụ ngôn Chúa Giêsu ám chỉ đến ai đây ? Đồng thời, cũng qua người anh cả, phải chăng Chúa Giêsu muốn cảnh tỉnh thái độ sống của người Kitô hữu chúng ta hôm nay ?

Khi được biết người em trở về và cha anh đã giết bê béo ăn mừng anh liền nổi giận và không vào nhà. Người cha đã mời anh vào chung vui với ông thì anh ta kêu trách và lên án người em: “Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm nay trở về thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó”.

Trước hết, người anh cả nói về bản thân mình, anh chứng tỏ lòng trung thành đối với cha: siêng năng, cần mẫn, chăm chỉ làm việc. Anh tự cho mình là người hiếu thảo, vâng phục cha không hề trái lệnh, không ăn chơi, không bỏ nhà đi hoang. Nhưng những lời anh dùng kể công với cha là những lời đầy ghen tức biện hộ cho chính mình. Anh tức giận vì thấy quyền lợi của mình bị xâm phạm. Người cha bao dung đến độ bất công đối với anh khi đón nhận và vui mừng khi người em trở về. Những lời than phiền đó làm lộ rõ khoảng cách giữa anh đối với cha và người em. Anh đã sống gần cha mà tâm hồn lại khác hẳn người cha. Anh thiếu tâm tình của một người con và một người anh: từ chối em mình và không muốn chia sẻ niềm vui của cha. Vì đâu mà anh sống thiếu tình thương coi vật chất trọng hơn tình nghĩa ? Thưa, chỉ vì anh không hiểu được tình cha, không biết sống như một người con. Anh chỉ biết những bổn phận lạnh lùng nên anh so đo tính toán. Anh tự biến mình thành một kẻ làm thuê, nghĩ mình phải được trả công, biến mình thành nô lệ đối với ông chủ – không còn tình nghĩa cha con, không còn tương quan huynh đệ. Từ đó, anh nhìn cả hai người như xa lạ với mình. Một cái nhìn khinh bỉ người em tội lỗi và nhìn người cha như một ông chủ bất công. Anh trở thành người xa lạ chính căn nhà của mình. Sự hiệp thông trong gia đình đã biến mất.

Đã đành người con thứ khước từ tổ ấm gia đình ra đi tìm hạnh phúc nơi vùng đất lạ bị hư hỏng. Nhưng ngược lại, người anh cả ở nhà cũng ra hư hỏng luôn. Vì bên ngoài thì anh làm mọi chuyện mà một người con tốt phải làm, nhưng bên trong anh thật sự xa cách người cha. Tuy nhiên việc hư hỏng của người anh cả khó nhận ra hơn. Dù sao anh luôn trung thành vâng phục, làm việc khổ nhọc, mọi người xem anh như là người con gương mẫu không lỗi lầm. Nhưng khi đối diện với niềm vui của cha, thấy người em trở về và được cha vui mừng đón tiếp thì con người thật của anh đã để lộ chân tướng của một người kiêu ngạo, ích kỷ, ganh ghét… Những điều mà lâu nay được che đậy.

Chúa Giêsu kể dụ ngôn người con hoang đàng trở về nhưng điểm nhắm của Ngài là người con cả, hiện thân của những người Biệt phái và Luật sĩ. Những người kêu trách Chúa Giêsu về thái độ của Ngài đối với những người thu thuế và tội lỗi. Ngài chẳng những đón tiếp mà còn cùng ngồi ăn uống với họ. Điều này đã làm cho những người Biệt phái tỏ vẻ bất mãn khó chịu. Một vị tiên tri như Ngài mà lại tiếp đón những hạng người thu thuế tội lỗi như vậy là điều không thể chấp nhận được. Đối với họ, hành động của Chúa Giêsu đi ngược lại luật lệ Do thái.

Những người Biệt phái và Luật sĩ luôn tự hào về đời sống đạo đức của mình, tuân giữ tỉ mĩ, nghiêm ngặt lề luật của Thiên Chúa, như vậy họ thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa xem ra mắc nợ họ và họ nghĩ rằng mình có quyền đòi hỏi. Dưới con mắt của họ, những người thu thuế là những nhân viên làm việc cho đế quốc Rôma, làm tay sai cho ngoại bang đó là hạng người đáng ghét. Còn những người tội lỗi là phường đáng khinh bỉ, họ không muốn liên hệ vì sợ dơ bẩn ô uế.

Vì mang hình thức vụ luật nghĩa là giữ luật vì luật, với tinh thần cứng nhắc và giả hình, họ không cảm nhận được tình yêu, lòng thương xót của Thiên Chúa nên họ cũng không nhận ra được tha nhân là anh em mình. Ngược lại với thái độ kỳ thị phân biệt đối xử của Biệt phái, Chúa Giêsu tỏ ra cảm thông và xót thương những người thu thuế và tội lỗi, rộng tay đón tiếp và đồng bàn với họ. Ngài mời gọi họ sám hối và tha thứ tội lỗi cho họ. Quả thực, Đức Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa, Ngài đến trần gian để đem ơn cứu độ cho tất cả mọi người không trừ một ai, nhất là những người bị kỳ thị bỏ rơi, những người bị xã hội Do thái đương thời loại ra khước từ.

Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn trả lời cho những người Biệt phái và Luật sĩ thấy rằng: Thiên Chúa yêu thương hết mọi người và đồng thời mời gọi họ chung niềm vui với Thiên Chúa và hãy có một tâm hồn quảng đại bao dung như Thiên Chúa trong việc tiếp đón các tội nhân ăn năn trở lại.

Quả thực, dụ ngôn nhằm trả lời cho người Biệt phái và Luật sĩ nhưng cũng không phải là không liên hệ đến người Kitô hữu chúng ta. Dụ ngôn nhắc người Kitô hữu nhớ rằng: người ta không thể phục vụ Thiên Chúa đúng ý Ngài nếu không yêu mến Ngài và không thông hiệp vào tình yêu của Ngài đối với anh chị em, cho dù những người này là tội nhân. Vì thế, làm sao chúng ta có thể xưng mình là môn đệ Đức Kitô nếu chúng ta khinh bỉ, xa lánh những người đang gặp cơn hoạn nạn do tội lỗi?

Cũng như những người Biệt phái và Luật sĩ thời Chúa Giêsu, nhiều lúc chúng ta thường tự cho mình là những người ngay chính nên ta dễ dàng phê bình, chỉ trích, khinh bỉ và lên án những ai sa ngã, tội lỗi, nhất là những người mang những lỗi lầm công khai như: những người mắc bệnh Sida, nghiện ngập ma túy, rượu chè, trộm cắp, ngoại tình, những người sa cơ lỡ bước… Vì thế để hóa giải và sửa chữa những thành kiến, những thái độ trên chắc hẳn chúng ta cần có cái nhìn cảm thông, những lời nói an ủi khích lệ, những bàn tay đỡ nâng để giúp họ vượt lên khỏi vũng bùn tội lỗi, để họ can đảm trỗi dậy trở về đón nhận hồng ân tha thứ của Thiên Chúa.

Dụ ngôn người con hoang đàng làm nổi bật trái tim của người cha: một trái tim nhân hậu, bao dung tha thứ và tràn đầy yêu thương. Nhưng đồng thời cũng đưa ra lời cảnh tỉnh về thái độ sống của những người Kitô hữu chúng ta.

Phụng vụ lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta dù là con thứ hay con cả cũng cần trở về với cha để nhận được ơn tha thứ, để thực sự là con của cha. Trở về với cha là dang rộng tay đón lấy người em lầm lỡ. Không còn là thằng con của cha nữa mà là em của con. Trở về với cha là chia sẻ niềm vui với cha, nối kết tình huynh đệ, yêu thương anh em một nhà.

Ước gì khi tham dự bàn tiệc Thánh Thể, khi ăn cùng một tấm bánh và uống cùng một chén, chúng ta được hiệp nhất nên một trong yêu thương của những người anh em một cha trên trời.

----------------------------

 

MC 4-C9. Trở Về


Suy Niệm

 

Người cha không đi tìm đứa con út như tìm chiên lạc. Nó đã dùng tự do để quyết định ra đi, và: MC 4-C9


Người cha không đi tìm đứa con út như tìm chiên lạc.

Nó đã dùng tự do để quyết định ra đi, và người cha tôn trọng quyết định đó. Nhưng ông vẫn ngong ngóng chờ con.

Niềm hy vọng vẫn không ngừng nhen nhúm.

Người cha thấy con trước khi nó kịp thấy cha. Con ốm yếu, hôi hám, bội bạc, chẳng làm cha xa tránh.

Tình thương trào dâng khiến bước chân cha vội vã. Vòng tay cha lớn quá, nụ hôn cha nồng nàn.

Áo đẹp, dép mới, nhẫn đeo tay, ca nhạc, tiệc tùng, múa nhảy: tất cả chỉ để thông báo cho mọi người biết rằng đây là con tôi, vẫn là con vì chưa bao giờ không là con.

Nhưng người cha không chỉ thương con út. Con cả mới là đích nhắm của câu chuyện này.

Anh quá hiếu thảo, quá vâng phục cha từng li từng tí. Anh không đi hoang, không ăn chơi, chỉ chăm lo đồng áng. Ai cũng thấy anh là người con mẫu mực.

Nhưng biến cố đứa em trở về đã làm lộ con người thật của anh.

Tuy luôn ở trong nhà cha, nhưng anh lại ở ngoài tim cha. Anh không hiểu được tại sao cha lại nhu nhược đến thế, bao dung đến độ bất công với anh. Đãi tiệc với thịt bê béo để mừng đứa con hoang đàng, còn anh, một con dê để lai rai với bạn bè cũng không có. Anh không thể vui với cha, càng không thể vui với em. Anh tức giận vì thấy quyền lợi mình bị xâm phạm. Rốt cuộc anh không chịu vào nhà!

Hóa ra cả hai người con vừa khác, lại vừa rất giống nhau. Cả hai đều ở ngoài nhà cha, chấp nhận chịu đói.

Con út không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi. Con cả không chia sẻ được hạnh phúc của cha nên không vào.

Sám hối là trở về với tình cha. Cả hai người con đều cần trở về, trở vào.

Sám hối là trở lại với tình yêu, niềm vui, sự sống.

Nhưng trở về chẳng phải là chuyện dễ dàng.

Chẳng ai muốn nhận là mình đã đi lầm đường. Người anh cả cần dẹp bỏ tự ái để vui vẻ vào nhà. Người em út cần khiêm tốn mới gặp cha và gia nhân trong tình trạng thân tàn ma dại.

Để trở về cần đứng lên hay bỏ chỗ mình đang đứng.

Từ bỏ thì đớn đau nhưng hạnh phúc thật tuyệt vời.

Hạnh phúc lớn nhất không phải là tài sản vật chất, mà là khám phá ra mình có chỗ trong trái tim cha. Cha yêu mình dù mình hư hỏng, bất trung. Cha yêu mình không phải vì mình ngoan ngoãn, được việc. Cha yêu mình chỉ vì mình là con. Cha không muốn mất một đứa con nào.

Trở về với Cha đòi ta giang tay đón lấy người em. Đó không phải là "thằng con của cha", nhưng là "em của con".

Trở về với Cha, với tha nhân cũng là trở về với mình. Tôi chợt nhận ra mình quá ư giàu có.

Gợi Ý Chia Sẻ

Theo ý bạn, đâu là những lý do khiến người con út trở về? Bạn thường sám hối trở về vì lý do nào?

Bạn có sợ đi xưng tội không? Bạn nghĩ gì về bí tích Giải Tội? Bí tích này có giống với việc đứa con út trở về và được cha tha thứ không?

Cầu Nguyện

Lạy Cha, người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình. Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ, khi coi Cha như người cản trở hạnh phúc của chúng con. Chúng con thèm được tự do bay nhảy ngoài vòng tay của Cha; nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ. Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo. Như người con thứ, chúng con bỗng thấy mình tay trắng, rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe dọa.

Lạy Cha đầy lòng bao dung, xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày, giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc. Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội. Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên, thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng. Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ, chúng con lại thấy mình hiền hoà hơn với tha nhân.

----------------------------

 

MC 4-C10. THIÊN CHÚA ĐẤNG VÔ CÙNG NHÂN TỪ

 

Thiên Chúa luôn làm những điều kỳ diệu cho người Do Thái và cho tất cả mọi người. Với Đức: MC 4-C10


Thiên Chúa luôn làm những điều kỳ diệu cho người Do Thái và cho tất cả mọi người. Với Đức Yêsu, người ta biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương và vô cùng nhân từ.

Thiên Chúa đã đưa dân vào đất hứa

Thiên Chúa đã đưa dân Do Thái khỏi Ai-cập, nuôi họ bằng manna, dẫn họ vào đất Ngài đã hứa với cha ông họ. So sánh dân Do Thái và các dân tộc khác, người ta có cảm tưởng Thiên Chúa rất ưu đãi dân riêng của Ngài.

Tại sao Ngài lại ưu đãi dân Do Thái mà đánh phạt dân Ai-cập? Tại sao Thiên Chúa lại giết các con đầu lòng của người Ai-cập? Tại sao Thiên Chúa lại để những con trai của người Do Thái bị thả trôi sông chết khi Ngài nói Ngài yêu thương họ? Tại sao Thiên Chúa mới nhập thể đã gây cớ để những hài nhi ở Bêlem bị Hêrôđê giết? Hành vi đánh phạt dân Ai-cập, cũng nhằm để dân Ai-cập biết về Thiên Chúa hơn. Những người bị tru diệt nơi biển đỏ, bởi tội ngoan cố của Pharaô không chịu để dân Do Thái ra đi khi Thiên Chúa đã dùng Môsê và Aaron bày tỏ quyền năng và ý muốn của Thiên Chúa. Các hài nhi ở Bêlem được vinh dự làm chứng cho Ngôi Lời nhập thể. Tất cả đều là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang can thiệp trong dòng lịch sử.

Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người, kể cả người trong cuộc “bị nạn”. Nếu biết nhìn, người ta có thể nhận ra tình yêu Thiên Chúa hiện diện trong mọi hoàn cảnh.

Con người mới trong Đức Kitô

Thiên Chúa đã làm mới tất cả nhờ Đức Yêsu, Con của Ngài. Thiên Chúa làm mới con người liên tục, đặc biệt qua hành vi tha thứ và ban ơn thánh hóa cho con người, khi tội nhân trở lại với Ngài.

Ơn thánh hóa, làm con người giao hòa với Thiên Chúa, trở nên nghĩa thiết với Thiên Chúa, cũng ảnh hưởng trên cả thân xác người, khiến con người có cái nhìn và hành xử độ lượng như Thiên Chúa.

Thiên Chúa như người cha nhân từ

Người con thứ có tội với Cha và với anh mình, vì đã phung phí tài sản do công lao khó nhọc của người Cha. Người con thứ cũng đã xúc phạm Cha mình khi coi việc ở bên Cha là bất hạnh. Việc ra đi gây buồn phiền đau khổ cho người Cha. Tội của người con trưởng nặng không kém, vì đã từ khước không muốn nhận em mình khi người em thống hối trở về. Có lẽ người con trưởng đã coi tiền của trọng hơn em mình. Người con trưởng ở lại bên Cha, chưa chắc đã vì yêu Cha cho bằng sợ một cái gì đó mà không dám ra đi. Người con trưởng sống bên người Cha, mà không có thái độ của một người con nhưng của một người làm công.

Thiên Chúa như người Cha nhân từ, luôn tựa cửa chờ con người trở lại với Ngài. Ngài cũng đối xử với con người, như người Cha năn nỉ người con trưởng hãy chấp nhận em mình, và xin người con trưởng hãy sống trong tâm tình của người con “những gì của Cha đều là của con”.

Thái độ của người con thứ và con trưởng cũng như hình ảnh của người cha trong dụ ngôn, giúp con người hiểu biết về chính mình và về Thiên Chúa hơn.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:

1. Lời Chúa hôm nay cho bạn thấy Thiên Chúa là ai?
2. Nếu Ngôi Lời Thiên Chúa không nhập thể, theo bạn, con người hiểu Thiên Chúa là ai? (Các tôn giáo khác hiểu gì về Thiên Chúa?)
3. Theo bạn, tại sao Thiên Chúa lại tôn trọng tự do con người đến độ như vậy? (Con người có thể không vâng phục, chống lại Thiên Chúa).
4. Những người bị tai nạn nguyền rủa Thiên Chúa, theo bạn, họ có đáng trách không? Tại sao?

----------------------------

 

MC 4-C11. Hoan Nghênh!

 

Bài Phúc Âm hôm nay nói về dụ ngôn người con hoang đàng và người cha nhân hậu đã hoan: MC 4-C11


Bài Phúc Âm hôm nay nói về dụ ngôn người con hoang đàng và người cha nhân hậu đã hoan nghênh sự trở về của cậu. Một người cha có hai người con. Người con trẻ hơn, đã không thể kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi cha mình qua đi để chia gia tài. Anh nói, "Bố ơi, con muốn nhận phần gia tài của con, và đi khỏi cái vùng quê này." Người cha đã chia phần sản nghiệp cho con theo lời cậu yêu cầu. Theo lời Phúc Âm kể lại thì người con trẻ đã thu hết tất cả những gì thuộc về mình và trẩy đi nơi xa và ở đó ăn chơi.

Sau cùng, cái ngày tàn khốc đã đến với anh. Anh đã xài hết tiền và trở nên tồi tàn. Anh đã cố gắng để tìm một công việc là chăn heo, và bởi vì đói quá nên đã có lúc anh muốn ăn những đồ của heo. Không một ai giúp đỡ cho anh một cái gì hết. Sau đó, Phúc Âm kể lại cho chúng ta rằng anh đã được đánh động từ trong nội tâm việc anh phải làm. Anh suy nghĩ: "Tôi phải rời bỏ chỗ này, và trở về với cha tôi, và thưa với người rằng con đã phạm tội với trời và với cha. Con không đáng được gọi là con cha nữa." Và sau đó, anh đã bỏ chốn tồi tàn đó và trở về với cha mình.

Khi anh về gần đến nhà, người cha đã chạy ra và hoan nghênh đón tiếp anh, "Ông chạy đến, ôm chầm lấy và hôn anh" (Lc 15:20).

Chú ý là không có chỗ nào ghi lại là người cha đắn đo, và không một sự hối hận nào ở trong trái tim của người cha, cho dù là người con đã phá tài sản của mình. Người cha đã quyết định không để cho một chút sự nghi ngờ gì về người con ở trong tâm trí của mình, tất cả đều được tha thứ.

Chúa Giêsu đã cô đơn trong bốn mươi ngày chay tịnh ở trong sa mạc trước khi Ngài bắt đầu sứ mệnh của Ngài. Chúa Giêsu đã cô đơn trong vườn Giếtsimani buổi tối trước khi đi chịu chết. Ngài đã không ngừng van xin, "Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn" (MC  14:36). Chúa Giêsu đã cô đơn khi Ngài đang bị treo trên cây thánh giá, "Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?" (MC  15:34). Cho dù là đi vào trong một cái chết cô đơn, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục ước muốn mạnh mẽ sự hiện diện của Chúa Cha cùng sánh vai cứu chuộc nhân loại.

Ước muốn sánh bước với Chúa có lẽ là điều mà chúng ta ít khi để ở trong thời khóa biểu ngày sống của mình. Ước muốn có sự hiện diện của Thiên Chúa là con đường dẫn đến sự sống, bởi vì sự khao khát đó sẽ giải hòa ta với con người và rồi dẫn chúng ta đến gần Thiên Chúa!

Một vị linh mục có tài năng về âm nhạc chia sẻ về một lần ngài đi viếng viện dưỡng lão như sau. Sau khi chơi đàn guitar và hát cho những người già nghe, ngài đã đến và bắt tay từng người. Một người đàn bà già đã bắt tay ngài và nói với ngài hãy trở lại trong vòng hai tuần lễ vào cũng giờ này. "Tại sao vậy?" vị linh mục hỏi. "Đó là bởi vì hôm đó là birthday thứ 100 của tôi," bà trả lời. Vị linh mục đó bị cảm kích hỏi lại, "Điều gì đã được ban tặng trong suốt cuộc đời lâu dài của bà?" "À, thì tôi đã cưới được một người chồng tốt, ông ấy đã ra đi, và tôi còn có những người con ngoan thảo, họ cũng đã ra đi. Đó là cuộc sống hạnh phúc mà tôi đã có. Bây giờ tôi có một cuộc sống như thế này." Sau đó, bà ấy đã mở rộng cánh tay ra như muốn ôm lấy tất cả mọi người. Bây giờ, mỗi khi tôi gặp trắc trở khó khăn, hoặc cô đơn lặng lẽ, tôi đều mở rộng cánh tay và đón nhận những điều mình đang có."

Cho dù chúng ta có ở trong một chỗ tạm trú cho những người vô gia cư hoặc ở trong viện dưỡng lão, hoặc ở một nơi thờ phượng, hoặc là một dịp gia đình tụ họp, bất kỳ ở chỗ nào, chúng ta cũng hãy mở rộng cánh tay hân hoan nghênh đón những gì mình có và ôm lấy nó. Điều chúng ta phải làm hôm nay không phải là tách xa, nhưng là giải hòa.

Bạn hãy luôn luôn là người tha thứ trước. Đừng chờ đợi để người khác đến xin lỗi bạn. Bởi vì, do sự tha thứ, bạn sẽ trở thành sư phụ của định mệnh, một người trang điểm cho cuộc sống, một người làm phép lạ.

----------------------------

 

MC 4-C12. Suy Niệm của Nhóm Đồng Hành


Chi Tiết Hay

 

Đoạn Tin Mừng này thường được nhắc đến là dụ ngôn 'Người con hoang đàng' hay 'Người con bị: MC 4-C12


Đoạn Tin Mừng này thường được nhắc đến là dụ ngôn 'Người con hoang đàng' hay 'Người con bị lầm lạc'. Thật ra là nói về cả hai người con cùng lầm lạc trong cuộc sống. Cả hai đều được ưu đãi bởi người cha; người em đã lấy hết và phung phí không còn gì, trong khi người anh lại không biết là mình có rất nhiều nên đã không hài lòng với cách cư xử của cha.

(c.1) Câu này cho thấy con người có khuynh hướng tự vệ bằng ranh giới giữa 'người đúng' và 'người saí. Chúng ta thường tự cho mình là đúng, bằng cách bắt bẻ, kết tôị người khác qua việc làm của họ để rồi ghét bỏ, xa lánh họ.

(c.11) Hai người con: Mục đích để so sánh hai mẫu người khác nhau.

(c.12) Người cha làm theo sự yêu cầu của con và không thắc mắc; ông không xét đoán con cách vội vàng.

(cc.13-16) Một chuỗi hành động sai quấy, hành động này đưa tới hành động khác. Trong khi đạo Do Thái cấm ăn thịt heo, việc đi chăn heo và ăn đồ ăn của chúng, có lẽ không là sự lựa chọn của người con mà chỉ là hệ quả của việc anh tự quyết định cho cuộc đời của mình trước đây.

(cc.17-18) Người con đã thẳng thắn nhìn nhận thực tại của mình. Nhờ đó anh có thể sáng suốt thấy được sự hiện hữu của tình cha con, cũng như tấm lòng quảng đại của cha mình đối với cả những người tôi tớ. Anh chợt thấy một lối thoát.

(cc.20-24) Người cha không nghĩ gì ngoài việc biết là con mình từ đàng xa. Ông cũng không phán đoán gì về những gì đã xảy ra và muốn đón nhận lại người con với đầy đủ thế giá qua biểu hiệu của áo choàng, nhẫn, và giầy.

(cc.29-31) Người con trưởng trách cha đã đối xử bất công với mình; anh ta không biết rằng mình làm chủ cả cơ nghiệp và có thể tự xử theo ý mình.

Một Điểm Chính

Như người cha trong dụ ngôn này, Thiên Chúa đã ban cho mỗi người chúng ta rất nhiều thứ kể cả tự do dể lưa chọn cuộc đời mình, và Người luôn nhớ chúng ta là con cái. Khi chúng ta lầm đường và biết quay về, Nguòi không phán đoán tội lỗi chúng ta đã phạm mà luôn vui mừng đón nhận chúng ta trong yêu thương.

Suy Niệm

Để ý cách người con hoang đàng tự tìm ra lối thoát cho đời mình, tôi có thể thành thật nhìn nhận thực trạng của minh, để thấy thật rõ chính mình trong mối liên hệ với Thiên Chúa, và với mọi người? Tôi phải làm gì để cuộc đời của mình được đặt đúng chỗ, để tôi không còn thấy khổ sở nữa?

Người cha trong dụ ngôn này đã đón nhận nguòi con trở về như không có gì sai quấy nơi con mình. Tôi có thể nhớ lại nhiều trường hợp trong đó tôi đã phán đoán về người khác là sai quấy vì những việc làm của họ, để rồi từ chối không yêu thương họ nữa?

Giống như người anh trong dụ ngôn này, có thể tôi đã phán đoán và đổ lôĩ cho người khác và ngay cả Chúa, như thể họ có trách nhiệm đối với những điều tôi không hài lòng. Tôi ý thức ra sao về việc làm chủ và phải tự trách nhiệm cho cuộc dời của mình?

----------------------------

 

MC 4-C13. EM CON ĐÃ CHẾT NAY SỐNG LẠI - Phêrô Nguyễn Văn Tài

 

Đức Hồng Y Suhart, Giám Mục Paris là một vị chủ chăn lỗi lạc. Điều này chẳng một ai dám: MC 4-C13


Đức Hồng Y Suhart, Giám Mục Paris là một vị chủ chăn lỗi lạc. Điều này chẳng một ai dám phủ nhận. Đặc biệt về đường hướng đạo đức thâm sâu mà Ngài đã vạch ra trong các thư luân lưu danh tiếng như: "Giáo hội tiến hay lùi" (Mùa Chay năm 1948); hoặc "Linh Mục giữa xã hội" (Mùa Chay năm 1948).

Đức Thánh Cha Piô XII rất lấy làm cảm phục khi đọc qua các thư luân lưu ấy. Trong dịp Đức Hồng Y đến Vaticano, Đức Thánh Cha đã tươi cười hỏi đùa: "Năm nay Đức Hồng Y có ra thông điệp nào mới không?"

Giữa những bận rộn của giáo phận với mấy triệu giáo dân, 10 Giám mục phụ tá, 1,500 linh mục và hàng trăm ngàn tu sĩ nam nữ, một hôm, một linh mục bí thư trình lên Đức Hồng Y một tập sách mới viết định xuất bản, do một linh mục trẻ trong giáo phận soạn ra. Linh mục ấy thiết tha xin Đức Hồng Y xem qua cuốn sách và chuẩn y trước khi ấn hành. Đức Hồng Y vui vẻ nhận lời: "Tốt lắm! Cha cứ để đấy, lúc nào rỗi tôi sẽ xem".

Một tháng trôi qua, cuốn sách chẳng được đụng đến, vị linh mục nôn nóng chờ đợi, thời gian dài như cả thế kỷ. Thế nhưng, chẳng biết làm sao hơn, vì Đức Hồng Y quá bận việc. Phải đợi đến một buổi chiều mùa đông giá lạnh, khi Tòa Giám Mục hoàn toàn vắng khách, trong bầu khí thân mật, cha bí thư rụt rè trình bày: "Thưa Đức Hồng Y, xin Đức Hồng Y xem qua tập sách cho ông cha trẻ kia được phấn khởi. Ông ta cứ hỏi con hoài à! Có thể hôm nay vắng khách, xin Đức Hồng Y xem qua tí thôi, cũng như đọc sách báo giải trí vậy". Đúng! Tôi bận quá vậy nên chậm trễ mất, đưa quyển sách cho tôi, tôi bắt đầu đọc ngay bây giờ. Cha bí thư vui mừng phấn khởi, trao ngay cuốn sách và nhẹ nhàng rút lui. Thế rồi Đức Hồng Y mải mê đọc sách, giờ cơm tối Ngài vắng mặt, 12 giờ khuya đèn phòng Ngài vẫn còn bật sáng và 3 giờ sáng vẫn còn đèn. Ngài đã đọc suốt đêm, quên cả ăn lẫn ngủ.

Sáng hôm sau, vừa dùng điểm tâm xong, Đức Hồng Y vội gọi ngay cha bí thư vào và bảo mời các các Giám Mục phụ tá, các Tổng Đại Diện và ban cố vấn đến dự phiên họp đặc biệt. Khi tất cả tề tựu đông đảo, Đức Hồng Y lên tiếng: Lý do của buổi họp mặt đặc biệt hôm nay là vì tập sách của cha Henry Kobel mang tựa đề: "Nước Pháp, một xứ truyền giáo". Tập sách được cha bí thư trao cho tôi chiều hôm qua và tôi đã đọc hết cuốn sách, quên cả ăn, cả ngủ. Bấy lâu nay tôi cứ ngờ rằng, tôi đã biết rõ thành phố Paris, giáo phận của tôi. Nhưng bây giờ đọc trong đó, tôi thấy có nhiều sự kiện rất mới lạ khiến cho tôi phải bồn chồn thao thức. Tôi tự kiểm điểm lại: Thật tôi chưa biết rõ giáo phận của tôi. Tôi rất cảm phục cuốn sách này. Vì những tư tưởng trong cuốn sách cứ ám ảnh tôi, khiến tôi trằn trọc suốt đêm, mong sao đến sáng để gặp các vị cố vấn và tức khắc đi vào vấn đề.

Cám ơn cha Henry Kobel đã trao sách ấy cho tôi đọc. Và kết quả của công việc kiểm điểm này là Ngài đã lập ra "Hội Truyền Giáo Thừa Sai Paris" vào năm 1944, đồng thời Ngài ra hai bức thư luân lưu nổi tiếng nói trên.

Anh chị em thân mến!

Khởi đầu của cuộc canh tân hay sự trở về bao giờ cũng được đánh dấu bằng những giây phút "Tự Kiểm Điểm" hay "Cảnh Tỉnh".

Bài Tin Mừng của thánh Luca hôm nay cũng gợi cho chúng ta sự đổi mới trở về của người con đi hoang sau những giây phút chạnh lòng và tự kiểm điểm. Thật thế, có lẽ trong chúng ta chẳng ai xa lạ gì với hai chữ "Kiểm Điểm", không những không xa lạ mà lắm khi còn kinh hãi khi nhắc đến hai chữ này. Nhưng dù sao đi nữa "Kiểm Điểm" vẫn luôn là yếu tố căn bản để đổi mới con người. Tu đức học Kitô giáo đã dùng nó như là phương pháp hoàn thiện con người.

Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, tác giả tập sách "Đường Hy Vọng" cũng đã khuyên: "Trên đường hy vọng, thỉnh thoảng con phải dừng chân nơi bóng mát để kiểm điểm lại những bước lệch lạc, rút kinh nghiệm để bước tiến, chuẩn bị thêm hành trang. Hãy kiểm điểm mỗi tối, kiểm điểm mỗi tuần, kiểm điểm mỗi lần xưng tội, kiểm điểm mỗi lần tĩnh tâm.

Xe tốt cũng làm máy lại. Sức khỏe tốt cũng khám tổng quát, nếu muốn tránh sự sụp đổ bất ngờ không thể cứu vớt được. Bay lồng lộng giữa không gian thế nào, sửa tay lái liên lỉ và triệt để nghe lời chỉ bảo từ quả đất, vì lệch lạc là không đến đích.

Con người đã sợ hãi, xa lánh từ "Kiểm Điểm". Vì mỗi lần tự kiểm điểm là mỗi lần nhận chịu hình phạt. Một dịp tự kiểm điểm là thêm một cơ hội chịu hạ nhục, bêu xấu đánh mất đi phẩm giá con người của mình.

Trong Đức Giêsu Kitô, kiểm điểm không còn mang dáng dấp đe dọa ấy. Người con đi hoang đã thưa cùng cha: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa. Xin cha đối xử với con như một người làm công của cha mà thôi". Đáp lại lời tự hối này không phải là lời trách phạt đọa đầy, nhưng là một việc xác nhận địa vị làm con và một bữa tiệc linh đình với những gì ngon béo nhất để mừng con trở về.

Chúng con cũng có thể gọi "lịch sử cứu độ" là một chuỗi những bản tự kiểm điểm, những lời tự hối được nhận lời và được ban thêm giá trị: Ngôi báu của Đavít tồn tại đến muôn đời; người phụ nữ tội lỗi trở thành rường cột Giáo hội. Tuy nhiên, lời Kinh Thánh, lòng sám hối chỉ có giá trị khi xuất phát từ cặp môi miệng chân thành với tin yêu hy vọng kèm theo một sự chỗi dậy, quyết tâm trở về với hết lòng thành của tâm hồn.

Lạy Chúa, xin cho con biết nhìn lại mình, để quyết tâm đứng dậy trở về cùng Cha. Mỗi một thất bại, mỗi một đau khổ vẫn luôn là một tiếng chuông gọi mời, cảnh tỉnh, nếu con biết tự kiểm điểm rút tỉa kinh nghiệm. Chúng sẽ là cơ hội quí báu cho con cảm nghiệm được tình yêu bao la của người Cha trên trời. Amen.

----------------------------

 

MC 4-C14. "Không sinh quả, thì..." – Gier. Nguyễn Văn Nội


Dụ ngôn người cha nhân hậu có một thông điệp chung gửi đến hết mọi người?

 

Dụ ngôn người cha nhân hậu mang một thông điệp mà Đức Giêsu muốn gửi đến hết mọi người: MC 4-C14


Dụ ngôn người cha nhân hậu mang một thông điệp mà Đức Giêsu muốn gửi đến hết mọi người. Thông điệp đó là: Thiên Chúa vì yêu thương con người, sẵn sàng thứ tha mọi tội lỗi, xúc phạm của những người con bội bạc, bất hiếu, nhưng sám hối ăn năn quay về với Chúa. Mỗi lần một tội nhân quay trở về, thì Triều đình Thiên quốc hoan hỉ vui mừng không sao kể xiết. Ngôi Hai Thiên Chúa sinh ra làm người cũng chỉ nhằm cứu vớt những người hư hỏng, tội lỗi mà Thiên Chúa Cha hết mực yêu thương, quí trọng, giống như người mục tử bỏ 99 con chiên mà đi tìm con chiên lạc. Vậy thì, dù tội lỗi, yếu đuối đến đâu, con người cũng không có lý do gì phải thất vọng, vì Lòng thương xót và quyền năng của Thiên Chúa thì lớn lao và hữu hiện hơn tội lỗi của chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải biết quay về và cậy trông vào lòng thương xót ấy, chứ không được ỷ vào tình thương của Người mà tiếp tục sống trong tội lỗi và phản bội.

Dụ ngôn người cha nhân hậu có một thông điệp riêng gửi đến những người Pharisêu thời xưa và thời nay?

(a) Với những người Pharisêu trong Phúc âm tức những người sống cùng thời với Đức Giêsu thì ngoài thông điệp chung vừa được trình bày ở trên, dụ ngôn người cha nhân hậu còn muốn nói với họ điều này: Họ không có quyền giới hạn cách cư xử và yêu thương của Thiên Chúa. Họ cũng không có quyền coi mình là những người đạo đức thánh thiện hơn những người thu thuế và tội lỗi. Họ lại càng không có quyền coi khinh coi thường những người kia. Trái lại họ phải biết khám phá ra tấm lòng của Thiên Chúa đối với những người yếu đuối, tội lỗi mà bắt chước Người trong cách sống của mình. Họ được vinh dự là người con cả, vì họ là thành phần của dân riêng, dân được tuyển chọn, và được diễm phúc lớn lao là luôn được sống trong nhà của cha, nhưng họ hãy coi chừng: vì rất có thể họ làm việc và cư xử với cha như những người làm công, tính toán thiệt hơn và thiếu tình thiếu nghĩa hoặc hẹp hòi, so bì với hạng em út.

(b) Còn những người Pharisêu thời nay, họ là ai? Phải chăng đó là những người đạo gốc mà chỉ giữ đạo hình thức, nặng luật lệ? Phải chăng đó là những người tham gia ba bốn hội đoàn trong giáo xứ, giữ những chức vụ quan trọng trong hội đoàn? Phải chăng đó là những người có nhiều quen biết với các giám mục, linh mục và tu sĩ? hay trong gia đình có người đi tu làm giám mục, linh mục hay tu sĩ? Phải chăng đó là những người giầu có, trí thức, có địa vị xã hội? Với những người Pharisêu thời nay dụ ngôn người cha nhân hậu nhắn nhủ họ rằng: các anh các chị hãy coi chừng: đừng vì giầu sang, địa vị hay đạo gốc của mình mà kiêu ngạo và coi thường coi khinh người khác. Biết đâu những người không công giáo, biết đâu những người nghèo khổ, ít học lại gần gũi Thiên Chúa hơn chúng ta vì họ yêu mến và thực hành Lời Chúa hơn chúng ta!

CẦU NGUYỆN

Lạy Thiên Chúa là Chúa Tể Trời Đất, chúng con cảm tạ Chúa đã bộc lộ cho chúng con biết tấm lòng yêu thương cao cả của Chúa là một Người Cha. Thiếu sót và tội lỗi của chúng con chẳng có thể làm gì được Cha mà chỉ làm giảm và mất giá trị của chính chúng con mà thôi. Và để phục hồi giá trị nguyên thủy mà Cha muốn ban cho chúng con, Cha đã không ngại hy sinh Con Một Cha để chúng con được ơn làm hòa cùng Cha. Lạy Thiên Chúa là Cha nhân hậu, chúng con cảm tạ Cha về hồng ân thứ tha mà Cha đã ban cho chúng con và tiếp tục ban cho chúng con.

Lạy Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chịu đóng đinh thập giá để đem ơn thứ tha cho chúng con. Chúng con xin tạ ơn Chúa. Chúng con quyết tâm sống phó thác vào Tình Thương của Chúa và học với Chúa để biết yêu thương, cứu vớt anh em là những người cũng cần được thứ tha tội lỗi như chúng con.

----------------------------

 

MC 4-C15. Lòng thương xót của Thiên Chúa - Lm Trần Thanh Sơn

 

Ở nước Scotland, tại tỉnh Glasgow, có một cô gái trẻ, chán lối sống khuôn phép của gia đình: MC 4-C15


Ở nước Scotland, tại tỉnh Glasgow, có một cô gái trẻ, chán lối sống khuôn phép của gia đình. Thế là một hôm cô nói với người cha mẹ:

- Con không muốn tin ông Trời của ba mẹ. Con mặc kệ. Con đi đây.

Thế là cô bỏ nhà ra đi, quyết định lấy thế giới bao la làm nhà. Và cô nghĩ rằng cô sẽ tìm được hạnh phúc bên ngoài ngôi nhà của cha mẹ cô. Tuy nhiên, chẳng bao lâu thì cô bị ruồng bỏ, bạn bè xa lánh và vì không kiếm được việc làm, cuối cùng cô phải đem thân xác mình ra để đổi lấy miếng ăn hàng ngày. Năm tháng qua đi, cha cô qua đời, mẹ cô già đi, còn cô con gái ấy, nhan sắc tàn tạ và ngày càng lún sâu vào nếp sống sa đoạ của mình.

Không còn chút liên lạc nào giữa cô và gia đình. Thế nhưng, bà mẹ già vẫn cố gắng tìm kiếm. Bà đi tìm con trong khắp thành phố và những nơi mà bà nghĩ là có thể tìm thấy con. Bà đến từng nhóm cứu trợ với lời thỉnh cầu đơn giản:

- Làm ơn cho tôi chưng ở đây tấm hình này.

Đó là tấm hình của một bà mẹ tóc đã muối tiêu, mỉm cười với hàng chữ: “Mẹ vẫn yêu con… Hãy về nhà đi con”.

Thời gian trôi đi vẫn chưa có gì xảy ra. Rồi một ngày nọ, cô gái đến một toán cứu trợ để nhận bữa ăn cứu đói. Trong lúc chờ đợi, cô bỗng thấy tấm hình và tự hỏi: “Có phải mẹ mình không nhỉ?”. Cô tiến lại và xem kỹ bức ảnh. Và cô nhận ra đúng là mẹ mình cùng với dòng chữ: “Mẹ vẫn yêu con… Hãy về nhà đi con”. Không cầm được nước mắt, cô đã bật khóc.

Thế rồi không đợi đến sáng, cô đã đi bộ suốt đêm hôm đó trở về nhà. Đến trước cửa nhà, cô bỗng sợ hãi và không biết phải nói thế nào. Khẽ gõ cửa, cô thấy cửa không khoá. Cô nghĩ chắc có trộm vào nhà. Lo lắng cho sự an toàn của mẹ mình, cô chạy vội đến buồng ngủ của bà và thấy bà vẫn đang ngủ. Cô đánh thức mẹ mình dậy và thưa:

- Mẹ ơi! Con đây! Con đã về nhà rồi.

Bà mẹ không tin vào mắt mình. Bà lau nước mắt và ôm chầm lấy đứa con gái của mình. Lúc đó, cô con gái mới nói với mẹ:

- Con lo quá! Cửa nhà mình mở không khoá, nên con tưởng nhà có trộm.

Bà mẹ dịu dàng trả lời:

- Không phải vậy đâu con à. Từ ngày con bỏ nhà ra đi, cửa nhà mình chưa hề khoá.

Hình ảnh bà mẹ già, tóc điểm sương, ngày ngày đi hết chỗ này đến chỗ khác để tìm con, cùng với cánh cửa nhà chưa hề khoá từ lúc con bỏ nhà ra đi thật là cảm động. Và mặc dù trong cả câu chuyện bà mẹ không hề có một lời nói: “Mẹ yêu con”, nhưng tất cả việc làm của bà đã thay lời muốn nói. Nó đã diễn tả được một tình yêu sâu đậm mà bà dành cho con. Cảm nghiệm được tình yêu của cha mẹ đối với con cái, nhạc sĩ Y Vân đã từng viết trong bài “Lòng mẹ” như sau: “Lòng mẹ bao la như biển Thái bình dạt dào…”.

Vâng, tình yêu bao la của bà mẹ trong câu chuyện này phản ánh được phần nào tình yêu của Thiên Chúa đối với từng người chúng ta. Tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta được thánh sử Luca diễn tả thật sống động qua hình ảnh người cha già chiều chiều vẫn ra đứng trước ngõ chờ đợi đứa con đi hoang trở về. Và khi người con trở về, ông vui mừng đến quên hết mọi sự bội bạc của đứa con. Ông còn bảo đầy tớ dọn tiệc để ăn mừng. Người Cha trong bài Tin mừng này chính là hình ảnh của Thiên Chúa chúng ta. Ngài là một người Cha đầy lòng xót thương, hằng sẵn sàng chờ đợi chúng ta trở về để trả lại cho chúng ta vinh dự làm con của Ngài. Đây quả là một tin vui cho tất cả chúng ta, những đứa con đang bỏ nhà Cha để ra đi sống theo dục vọng của mình. Và để diễn tả niềm hân hoan vui mừng đó, ngay giữa Mùa Chay, mùa của màu tím thống hối, phụng vụ đã cho phép sử dụng lễ phục hồng và các nhạc cụ khác trong Thánh lễ.

Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta còn hơn cả tình yêu của cha mẹ dành cho con cái. Trở lại với câu chuyện ở trên, chúng ta thấy khi người con gái khi trở về nhà, dù cửa nhà không khoá, nhưng mẹ cô vẫn đang ngủ. Trái lại, người cha trong bài Tin mừng thì tích cực hơn nhiều, thánh Luca kể lại: “khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu”. “Thấy con từ đàng xa”, nghĩa là ông luôn ngong ngóng, đợi chờ. Và ngay khi vừa thoáng thấy, niềm vui mừng đã làm ông đã quên đi tuổi già, sức yếu của mình, quên đi cái tội bất hiếu bội bạc của đứa con, trước mắt ông chỉ có đứa con bé bỏng ngày nào, mà ông vẫn hằng thương nhớ, mong đợi.

Mặt khác, cần đặt bài Tin mừng này trong bối cảnh của một nền văn hoá của Á Đông, một nền văn hoá đề cao vai trò và địa vị của người cha, chúng ta mới thấy rõ lòng nhân hậu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thật vậy, bình thường trong những trường hợp như vậy, các người cha của chúng ta cho dù trong lòng hết mực yêu thương, nhưng bề ngoài vẫn thường giữ vẻ nghiêm nghị. Đúng ra ông phải ngồi ở gian nhà giữa, chờ đứa con tội lỗi trở về quỳ trước mặt ông để xin lỗi. Thế nhưng người cha trong bài Tin mừng này lại không làm như vậy, ông đã chủ động “chạy ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu”. Một tình yêu vượt quá mọi hàng rào của lễ nghi, một tình yêu xoá đi mọi hàng rào ngăn cách, một tình yêu nối kết đất với trời, yêu cho đến nỗi Thiên Chúa đã nhập thể làm người (x. Ga 1, 14). Sau này khi suy niệm về tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, thánh Phaolô trong thư gởi cho giáo đoàn Corinhtô, đã viết như sau: “Thiên Chúa là Đấng giao hoà thế gian với chính mình Người trong Đức Kitô, nên không kể chi đến tội lỗi loài người”.

Vâng, đúng như vậy, vì yêu chúng ta, Thiên Chúa đã không còn kể gì đến tội lỗi của chúng ta. Ngài sẵn sàng làm tất cả vì chúng ta đến nỗi, ngay Con Một yêu dấu của Ngài, “Đấng không hề biết tội, thì Thiên Chúa làm nên thân tội vì chúng ta, để trong Ngài, chúng ta trở nên sự công chính của Thiên Chúa”. Nhờ sự chết và phục sinh của Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã làm cho chúng ta trở nên công chính, đã cho chúng ta được nhận làm nghĩa tử của Ngài, để thưa lên với Ngài hai tiếng “Abba! Cha ơi!” (x. Rm 8, 14-17).

Và cũng chính trong niềm vui mừng khôn tả khi thấy đứa con trở về, người cha đã không còn giờ để nghe, hay đúng hơn, ông không cần nghe những lời thú lỗi của con. Đối với ông, con ông đã trở về vẫn còn sống và mạnh khoẻ là tốt lắm rồi, ông bảo với gia nhân: “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Như thế, không phải sự thống hối của người con làm cho anh ta trở nên công chính, nhưng chính tình yêu của người cha đã phục hồi lại phẩm giá cho anh, trả lại cho anh địa vị của một người con. Đó cũng chính là tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Người năm xưa. Chính vì yêu thương, Thiên Chúa đã giải thoát dân Do Thái ra khỏi ách nô lệ của Ai Cập và dẫn đưa họ vào đất Hứa, như lời Ngài phán cùng Giosuê: “Hôm nay, ta đã cất sự dơ nhớp của Ai Cập khỏi các ngươi”.

Thiên Chúa của chúng ta là thế đó, một Thiên Chúa đầy lòng nhân hậu và yêu thương. Nhưng để thực sự cảm nghiệm được tình yêu đó của Thiên Chúa từng người chúng ta phải thật tâm trở về với Ngài, như đứa con đi hoang trở về. Chính vì thế tác giả Thánh vịnh đã mời gọi chúng ta: “Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi cho biết Chúa thiện hảo nhường bao”. Chúng ta cần nếm thử và nhìn coi lại suốt cuộc sống của mình để nhận ra những hồng ân mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Chúng ta cần dành những giờ phút thinh lặng trở về lại với cõi riêng tư của tâm hồn mình để cảm nghiệm được hương vị ngọt ngào của tình yêu mà Thiên Chúa cho chúng ta.

Cảm nhận được tình yêu và lòng nhân hậu của Thiên Chúa, đến lượt mình, mỗi người chúng ta cũng phải biết lên đường chia sẻ niềm vui đó với anh chị em mình. Chúng ta cũng hãy theo gương người mẹ trong câu chuyện trên đây, và nhất là người cha trong bài Tin mừng, chúng ta đừng bao giờ khoá cửa lòng mình lại, nhưng hãy luôn mở ra. Chúng ta cần mở lòng mình ra để đón nhận mọi thiện ý và cả những yếu đuối của anh chị em mình. Theo gương người Cha khi thấy con từ đàng xa đã chạy tới ôm chầm lấy con, mỗi người chúng ta cũng cần đi bước trước đến giao hoà với anh chị em mình. Nhờ đó, từng gia đình và cả cộng đoàn giáo xứ của chúng ta cũng sẽ được đoàn tụ với nhau trong bữa tiệc vui của Cha chúng ta ở trên Trời. Amen.

----------------------------

 

MC 4-C16. CHÚNG TA PHẢI ĂN MỪNG VÀ HOAN HỶ


 - Lm Jos. Phạm Ngọc Ngôn

 

Trên đường lên Giêrusalem để hoàn thành sứ mạng Chúa Cha trao phó, không ít lần Chúa Giêsu: MC 4-C16


Trên đường lên Giêrusalem để hoàn thành sứ mạng Chúa Cha trao phó, không ít lần Chúa Giêsu gặp phải những chướng ngại trên đường do bè phái Pharisêu và Kinh sư gây nên. Nhận thấy những người thu thuế và những người tội lỗi tuôn đến lắng nghe giáo huấn của Chúa, lòng căm tức của những ông “kẹ” này đối với Chúa Giêsu như càng thêm lửa, không dám nói thẳng, chỉ lẩm bẩm chê bai cái ông Giêsu này tại sao lại đi kết thân với những hạng người ấy- điều mà không một vị tư tế Dothái nào dám làm, vì sợ ra ô uế! Để trả lời cho những ta thán lẩm bẩm này, Chúa Giêsu đã kể cho họ liên tiếp ba dụ ngôn xoay quanh chủ đề nói về lòng thương xót của Thiên Chúa. Chúa nhật hôm nay, Giáo hội mời gọi chúng ta suy niệm một trong ba dụ ngôn đó- dụ ngôn người cha nhân hậu.

Chúng ta hãy bắt đầu với người con thứ. Trong truyền thống Đông phương, một người con hay một ai đó chỉ có thể thừa hưởng tài sản của bố mẹ hay của một người nào đó khi và chỉ khi bố mẹ hoặc người đó qua đời, lúc đó, có thể nói, quyền thừa kế mới hiệu lực. Người con thứ hẳn phải biết điều này. Thế nhưng anh đã bất chấp tất cả, đòi người cha phải chia tài sản cho bằng được, điều đó cho thấy trong thâm tâm, anh ta đã xem người cha như đã chết, không còn hiện diện trên cõi trần này nữa, có chăng đó chỉ là cái bóng, “cản mũi kỳ đà” mà thôi.

Đạt được mục đích. Có được số tài sản cha chia, người con thứ nhanh nhảu ra đi. Thế là từ nay, như chim xổ lồng, thoát sự kiềm kẹp, tự do trác táng với túi tiền lúc nào cũng rủng rỉnh cùng chúng bạn vui suốt đêm thâu. Cái cách tiêu xài kiểu ấy thì đến núi cũng phải mòn huống nữa là… Tuy nhiên vấn đề không chỉ dừng lại ở đấy. Chúng ta thấy người con thứ cách nào đó, đã rơi vào tình trạng suy đồi về mặt luân lý vì lẽ niềm vui thú của anh ta là ở chỗ có tiền và ra sức hưởng thụ.

Một khi coi thường nền luân thường đạo lý, con người dễ dàng sa lầy hơn trên con đường mà hắn đang theo đuổi. Hơn ai hết, người con thứ giờ đây mới cảm nghiệm được thế nào là tình cảnh “còn tiền còn bạc còn đệ tử, hết cơm hết rượu hết ông tôi”, không còn tiền thì bầu bạn cũng cao chạy xa bay, để lại anh ta bơ vơ cùng với nạn đói xảy đến. Không tiền, không bạn, túng quẫn người con thứ dường như tự buộc mình hay nói đúng hơn là rơi tiếp vào tình trạng của người suy thoái về phương diện địa vị xã hội. Thật vậy, đang ở trong tình trạng của cậu ấm cô chiêu có người hầu kẻ hạ thì nay phải rơi vào cảnh làm đầy tớ cho người khác.

Chưa dừng lại ở đó, người con thứ lại tiếp tục làm cho chúng ta kinh tởm khi anh ta chấp nhận đi chăn heo cho một người trong làng chỉ vì đói. Đối với chúng ta, việc chăn heo là chuyện hết sức bình thường, nhưng với người Dothái không đơn giản như vậy. Trong Dothái giáo, heo là một con vật ô uế và đi chăn heo tức là đi vào con đường cùng của sự sa đoạ. Chấp nhận công việc này, tức là người con thứ để mình rơi vào tình trạng của người suy thoái về niềm tin Dothái giáo. Như thế là, cùng với tình trạng suy đồi về luân thường đạo lý, suy thoái về địa vị và nay niềm tin tôn giáo cũng mai một, người con thứ đã tự chuốc lấy tình trạng của một con người ở ngoài xã hội, cắt đứt mối quan hệ với dân tộc, với tôn giáo và gia đình.

Trong cảnh khốn cùng như thế, người con thứ hồi tâm. Mừng cho người con thứ vì biết hồi tâm nhưng cũng trách anh ta vì động thái của việc hồi tâm không có gì khá hơn. Thật vậy, lý do của việc quyết tâm trở về nơi người con thứ chỉ là vấn đề giải quyết cái đói, vấn đề bao tử chứ không phải vì anh ta yêu thương gì người cha đang ngày đêm mong chờ anh trở về. Tuy nhiên, cuối cùng anh cũng đã trở về…

Người cha trong dụ ngôn hẳn phải một phú hộ giàu sang, đầy quyền lực và oai nghi đúng với đặc điểm của một phú ông miền Đông phương. Đứng trước sự ngông cuồng của người con thứ, người cha đã chia gia tài cho các con không phải vì ông nhu nhược mà vì ông tôn trọng quyền tự do của con. Ngày người con thứ ra đi cũng chính là ngày ông bắt đầu ngóng chờ với niềm tin sẽ có ngày con ông trở về. Quả đúng như vậy. Mặc dù tuổi già sức yếu, người cha vẫn nhìn ra người con từ rất xa. Có thể nói chính ông đã phá tan dáng vẻ oai nghi đường bệ của một phú hộ Đông phương để hồ hởi chạy ra với người con tựa như trẻ thơ mong mẹ về.

Nổi mừng vui cũng như hàng loạt mệnh lệnh dồn dập của người cha làm cho chúng ta có cảm nghĩ hẳn ông đang chuẩn bị tiếp đón một nhân vật quan trọng. Mà không quan trọng sao được khi ý nghĩa của những mệnh lệnh trên hàm chứa một tình yêu vô bờ bến ông dành cho người con “phá gia” trở về mà không một ngôn từ nào có thể diễn tả hết được. Chiếc áo mới nhất mà ông mặc cho người con hẳn phải là chiếc áo dành cho ngày Đại lễ. Bởi chỉ có ngày Đại lễ, dịp lễ hội, người ta mới mặc áo mới, mới có dịp để chưng diện mà thôi. Chưa dừng lại ở đó. Chúng ta biết rằng đối với người Dothái, chiếc nhẫn không chỉ là kỷ vật, là món đồ trang sức, không chỉ là biểu trưng cho tình yêu mà nó còn là cái ấn đóng dấu nhằm xác nhận tư cách của một người con và đồng thời cũng xác nhận tư cách của một người được thừa hưởng quyền kế thừa tài sản. Như thế, bằng việc xỏ nhẫn và xỏ dép vào tay chân của người con, người cha trong Tin mừng đã xác lập lại mối tương quan cha-con, đồng thời cũng xác lập lại quyền thừa kế và trả lại quyền tự do cho nó - điều mà người con thứ không hề nghĩ tới. Chưa hết, người cha còn ra lệnh giết bê đã vỗ béo để ăn mừng cho sự trở về này. Như thế đã rõ, bê chỉ vỗ béo để chờ dịp Đại lễ. Ngày người con trở về và người cha đã hạ bê béo để ăn mừng chẳng phải là dịp Đại lễ mà từ lâu ông hằng ôm ấp mong chờ để có được ngày hôm nay sao?

Nếu chúng ta vui mừng với sự kiện người con trở về và trân quý trước lòng bao dung và yêu thương vô bờ của người cha bao nhiêu, chúng ta lại càng thương cho người anh cả bấy nhiêu. Thật vậy, người anh cả, cách nào đó đã đại diện cho những người Pharisêu và Kinh sư mà Chúa Giêsu muốn nhắm tới. Người anh cả không biết rằng được ở với cha, được sống dưới tình yêu thương của cha là một hạnh phúc, trái lại anh đã xem đó là một gánh nặng, một sự cản trở và đè nén; cái đích của anh nhắm tới là phần thưởng, là tiền công, là “con dê con” để vui với chúng bạn chứ không phải là tình yêu và hạnh phúc được sống trong nhà cha. Tệ hơn nữa, anh đã lên án, chửi rủa và không thừa nhận đứa em ruột của mình mà lẽ ra anh phải có trách nhiệm với nó. Anh còn thua những người đầy tớ trong nhà - những người đã nhận và thông báo cho anh biết viêc người cha mở tiệc ăn mừng là do “em cậu đã trở về”.

Giống như những thủ lãnh tôn giáo, người anh cả tự cho mình là người công chính và dĩ nhiên không cần hối cải ăn năn. Không những thế, anh còn khước từ sự trở về của người em, không chấp nhận lòng sám hối ăn năn của người lầm lỗi. Và, tệ hơn, chính anh là người không chấp nhận lòng bao dung và tha thứ của người cha, không chấp nhận tình yêu thương của Thiên Chúa.

Tin mừng không cho biết cuối cùng thì người anh cả có vào dự tiệc với cha hay không, nhưng như thế cũng đủ để chúng ta nhận ra rằng dù thế nào đi nữa thì người cần trở về, cần phải hoán cải không chỉ có người con thứ, không chỉ có kẻ lỗi lầm mà đó còn là người con cả, là thủ lãnh tôn giáo, là tất cả những ai tự cho mình là công chính, là kiểu mẫu sống đạo. Có thể người con cả hay những người Pharisêu và Kinh sư không bỏ nhà đi hoang, không ăn chơi trác táng như người con thứ hay người tội lỗi, nhưng hãy coi chừng, rất có thể những thái độ và cách hành xử của họ đối với người đồng loại cách nào đó biến họ trở thành những người “xác ở nhà mà hồn đang phiêu du nơi nào”, trở thành những đồng bạc bị lạc mất ngay trong chính ngôi nhà mình.

Mùa Chay là thời gian thuận tiện để chúng ta nhận ra những lầm lỗi thiếu sót của mình và mau mắn trở về; đồng thời cũng là thời gian để chúng ta nhận ra lòng bao dung, sự tha thứ và tình yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa.

----------------------------

 

MC 4-C17. LÒNG NHÂN TỪ HAY THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA


 - Lm Trần Bình Trọng

 

Lòng nhân từ hay thương xót của Chúa là một thực tại hiện hữu có ghi lại trong Thánh kinh: MC 4-C17


Lòng nhân từ hay thương xót của Chúa là một thực tại hiện hữu có ghi lại trong Thánh kinh. Trải qua suốt dòng lịch sử cứu độ, biết bao lần dân Chúa đã lỗi lời giao ước. Họ chối bỏ Chúa để đi thờ các thần ngoại lai. Họ đúc bò vàng để thờ. Và mỗi khi họ đi lạc đường lỡ bước thì Chúa lại sai các tiên tri đến để cảnh giác họ. Và mỗi lần họ ăn năn thống hối, thì Chúa lại giang tay đón nhận họ trở về với lòng tha thứ. Cuối cùng Chúa sai chính Con một Người đến để thi hành luật bác ái. Luật công bình đòi răng đền răng, mắt đền mắt. Còn Chúa Giêsu đến dạy: Nếu ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa (Mt 5:39).

Trong Phúc âm hôm nay Chúa kể một dụ ngôn về người con hoang đường và phung phá. Chúa kể dụ ngôn này để chỉ cho ta thấy Thiên Chúa muốn người tội lỗi được cứu rỗi. Sự thực thì dụ ngôn này nhắm vào người cha hơn là người con và có lẽ đúng hơn thì nên gọi là dụ ngôn người cha nhân từ hay tha thứ, thay vì người con phung phá. Theo dụ ngôn này thì cả hai người con đều có lỗi. Người con thứ đã phạm tội ích kỉ, tham lam và đàng điếm. Còn người con trưởng lỗi phạm tội ghen tuông và không tha thứ. Đến đây ta tự hỏi ta thuộc loại người con nào? Ta hành động như người con thứ khi ta lạm dụng những ân huệ, phung phá những của cải và tài năng Chúa ban, khi ta ích kỉ và lười biếng. Ta hành động như người con trưởng khi ta ghen tuông với người khác, với người được may mắn và được nhiều ân huệ, với người giàu có và tài năng hơn ta. Ta còn hận Chúa vì gặp phải số phận không may. Người con trưởng được sống giữa tài sản và của cải của cha mình. Đáng lẽ anh ta phải cảm thấy tất cả những của cải mà người cha có cũng là của anh ta vì anh ta sẽ được thừa tự. Tuy nhiên anh ta không nhận định được cái ân huệ người cha đã dành cho mình. Anh ta đóng cửa lòng lại, nhất định không chịu tha thứ cho người em biết sám hối trở về. Ta có thể có kinh nghiệm khi ta đóng cửa lòng lại, không chịu tha thứ, ta cảm thấy tâm can héo hắt. Cái tâm trạng đó có thể hiện trên nét mặt làm ta khó chịu. Chắc là cái nét mặt của người anh trưởng khi thấy người em thứ trở về và được cha đón tiếp cũng rất là khó chịu mà dùng tiếng bình dân gọi là nét mặt hãm tài.

Cái bối cảnh của dụ ngôn hôm nay là các người luật sĩ và biệt phái bất bình với Chúa Giêsu vì Người đón tiếp những người tội lỗi. Họ cho tằng Chúa Giêsu coi nhẹ tội và họ muốn đặt cái giới hạn cho lòng nhân từ của Chúa. Câu chuyện trong dụ ngôn hôm nay không gợi cho ta một kinh nghiệm nào trong cuộc sống hàng ngày. Bởi vì theo kinh nghiệm loài người, ta không thấy cái thực tại của một người cha nào tốt lành đến nỗi, hối hả chạy ra đón đứa con hoang đàng trở về trước khi đứa con có dịp xin lỗi và kể lể. Và đó là cái điểm khác biệt giữa việc tha thứ của loài người và việc Chúa thứ tha. Việc tha thứ của loài người chỉ có giới hạn. Còn việc Chúa thứ tha không có giới hạn. Chúa bảo ta phải tha thứ bảy mươi lần bảy.

Nhận thức được cái tình trạng khốn khổ của mình, người con thứ đã quyết định trở về. Đó là cái bước đầu của ơn tha thứ và ơn cứu độ. Cái khó khăn là khi ta quên lãng lòng nhân từ của Chúa. Vậy điều ta cần là lòng tin tưởng cậy trông vào lòng nhân từ của Chúa. Chúa vẫn chờ đợị ta tỏ dấu ta muốn trở về làm hoà với Chúa và thay đổi cách sống để được sống trong bình an và ơn nghĩa với Chúa.

----------------------------

 

MC 4-C18. Người Cha nhân từ - Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

 

Phụng vụ chúa nhật hôm nay nói lên lòng thương xót và nhân từ của Thiên Chúa đối với con: MC 4-C18


Phụng vụ chúa nhật hôm nay nói lên lòng thương xót và nhân từ của Thiên Chúa đối với con người, đối với loài người. Ngài quảng đại, rộng mở đối với từng người. Ngài sung sướng, hân hoan khi thể hiện lòng yêu thương và bác ái với con người. Ngài mời gọi con người chia sẻ niềm vui đó. Vì thế, chúa nhật IV mùa chay còn gọi là chúa nhật vui mừng vì con người cảm nghiệm được tình yêu thương sâu xa, dạt dào của người cha khiến con người tin yêu, phó thác, can đảm dấn thân theo Chúa trong cuộc hành trình đức tin tiến về núi Canvê.

CÁI TRỚ TRÊU CỦA ĐOẠN TIN MỪNG HÔM NAY:

Tưởng rằng đứa con hoang đàng đòi cha mình phân chia gia tài, rồi y đi phương xa phung phí tất cả tài sản y được chia phần, thất thế trở về, y sẽ không được người cha đón nhận. Tuy nhiên, đoạn Tin Mừng của thánh Luca cho ta thấy rõ lòng thương xót của người cha đối với đứa con phung phá, đối với đứa con hoang đàng. Dù đứa con thứ có bê bối, buông thả, hư đốn, tội lỗi, chẳng ra gì, người cha vẫn một mực yêu thương. Nên, khi người con hối cải, ăn năn, thống hối quay về, y cứ tưởng mình sẽ không được đón nhận, không được thứ tha, y chỉ muốn trở nên người làm thuê mà thôi…Nhưng, cái trớ trêu vẫn là người cha không những không tức bực, nổi giận, không đánh đập, mắng nhiếc cho thỏa dạ, trái lại người cha đã đón nhận người con thứ hư đốn trở về với tất cả lòng bao dung, nhân từ của mình: ôm hôn, cho thay quần áo mới, giầy mới, nhẫn trang sức và cho giết bê béo ăn mừng. Thái độ của người cha đã đánh thức tâm hồn, lay tỉnh lương tâm người con phung phí đến tận căn. Người con bây giờ đã thấu hiểu tấm lòng cao vời, độ lượng của người cha như thế nào. Anh cảm nghiệm sâu xa tình thương diệu vời của cha mình và bỗng chốc, mọi suy nghĩ trong anh đã thay đổi hoàn toàn, trước mắt anh chỉ còn một ý hướng, một con đường mới: con đường quảng đại và tình thương cứu rỗi. Anh hiểu thấu cha mình không nhìn mình với ánh mắt hời hợt, thông cảm cho có nhưng cha anh đã yêu thương với cả tấm lòng, cả con tim của mình.Cái hóm hỉnh của đoạn Tin Mừng này đổ dồn trên thái độ của người anh cả, đáng lẽ người anh phải vui mừng vì em anh trở về còn mạnh khỏe, đàng này anh lại ghen với em, so bì với em và tức bực vì lòng quảng đại của cha. Anh cho rằng anh chưa bao giờ làm gì xúc phạm tới cha, chưa bao giờ làm gì thiệt hại gia đình, anh phải được cưng chiều và ưu tiên hơn. Nhưng, Tin Mừng của thánh Luca cho thấy người cha đã nói với người con cả những điều anh chưa bao giờ nghe:” Này con, con hằng ở với cha, thì tất ca những gì của cha là của con. Nhưng phải ăn khao vì em con đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy”. Cái ngộ nghĩnh vẫn là người cha cần tình thương hơn cần sự giúp đỡ, làm giầu và vâng lời máy móc của người anh cả.

CHÚA MUỐN CỨU VỚT TẤT CẢ:

Chúa đến trần gian là để mang hạnh phúc cho mọi người. Dân Do Thái cứ tưởng rằng Chúa là riêng của họ, ơn cứu rỗi chỉ tới với họ. Họ đã lầm lớn và chỉ sống trong ảo tưởng. Chúa đến để giải thoát, để cứu độ mọi người. Suốt trong thời gian đi loan báo Tin Mừng, giới thiệu Nước Trời, Chúa Giêsu đã tiếp xúc với đủ hạng người, Ngài đã đồng bàn với những người thu thuế, những kẻ tội lỗi. Ngài yêu thương kẻ nghèo. Ngài đi với người tội lỗi để đưa họ về với tình thương. Ngài trọng nhân nghĩa chứ không trọng của lễ. Do đó, cuộc đời của Ngài là cuộc tìm kiếm con chiên lạc, tìm kiếm đồng bạc đánh mất, Ngài mời gọi những kẻ đầu đường xó chợ vào dự tiệc cưới, Ngài cứu chữa những người bệnh hoạn tật nguyền, Ngài xua trừ ma quỉ, Ngài làm việc không ngơi nghỉ. Ngài luôn có mặt bên con người dù con người dửng dưng với Ngài. Tình thương của Chúa cao vời, dạt dào. Ngài luôn sống xả thân vì đàn chiên và quảng đại, yêu thương, băng bó từng con chiên bị thương tích. Chúa đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. Chúa không muốn bất cứ một con chiên nào bị loại trừ, bị hư đi.

THÁI ĐỘ CỦA TA:

Trước tấm lòng quảng đại, tình thương vô biên của Chúa, con người hãy mau mắn trở về với tình thương của Chúa. Cảm nghiệm tình thương của Chúa, con người hãy mở rộng cửa lòng để đón tiếp, giúp đỡ anh em như thái độ của người cha đã đứng đón con mình trở về từ đàng xa. Trở về với tình thương không chỉ là đón nhận anh em một cách máy móc cho qua, cho có lệ, nhưng là giúp đỡ, động viên, khích lệ anh em, những người xung quanh với tất cả con tim, tình thương vô vị lợi của mình. Trở về với Chúa trong những ngày chay này là thay đổi cách nhìn, cách nghĩ của ta để ta luôn có cái nhìn, lối đánh giá và suy nghĩ như Chúa Giêsu. Trở về là xây dựng tình thương nơi Gia đình, Xã hội và Giáo hội để mọi người đều nghiệm ra tình thương xả kỷ, vô vị lợi và hy sinh của Thiên Chúa Cha nhân từ.

GỢI Ý CHIA SẺ:

1.Thái dộ của người con thứ khi bị thất thế ở phương xa ra sao ?
2.Thái độ của người cha, của người anh cả ?
3.Thái độ của anh, của chị đối với người con hoang đàng ?


----------------------------

 

MC 4-C19: CƯỚP NGÂN HÀNG - Lm Augustine SJ

 

Ngày 25 tháng 2 năm 1954 xảy ra một vụ cướp ngân hàng tại thủ đô Paris của nước Pháp. Một: MC 4-C19


Ngày 25 tháng 2 năm 1954 xảy ra một vụ cướp ngân hàng tại thủ đô Paris của nước Pháp. Một chàng trai tên Phan Đăng Lê (Jacques Flesh) dùng súng trước hết bắn trọng thương một nhân viên ngân hàng, sau đó bắn chết một nhân viên cảnh sát, đồng thời làm một số người qua đường bị thương. May mà nhân viên công lực đã sớm tóm cổ được hắn.

Tại phiên toà, phạm nhân không hề hối hận về tội đã phạm mà còn ngạo nghễ muốn khiêu khích mọi người có mặt. Ban đầu đã có người nghi hắn mắc bệnh tâm thần. Nhưng trắc nghiệm tâm lý cho thấy tên Phan Đăng Lê này chỉ là một đứa con được cưng chiều quá hoá ra mất dạy, chỉ biết ăn chơi đàng điếm. Hắn trơ trẽn và bình thản chấp nhận án tử một cách vô liêm sỉ. Khi bị lên án tử hình, hắn lớn tiếng nói với mình rằng: "Cho mày đáng đời! Mày phải bước lên máy chém thì hãy tỏ ra là một con người can đảm!"

Quả thật Phan Đăng Lê là con một ông chủ ngân hàng giầu sụ nước Bỉ. Cho tới tuổi 24, cậu muốn gì được nấy, không hề thiếu thốn sự gì. Cậu đã phung phí tuổi xuân xanh trong ăn chơi, lười biếng và ương ngạnh. Học trường nào cũng chỉ được vài ngày hoặc một tuần là bị đuổi. Cậu con nhà giàu này quả thật đã trở nên kẻ vô dụng và cuối cùng trở nên kẻ sát nhân.

Đầu năm 1954 chàng nổi hứng đòi bố mẹ cho tiền để mua một chiếc thuyền buồm hiệu Phi-li-mốt-ka dài 10m, trị giá tới 2 triệu quan Pháp. Chính vì bị bố mẹ từ chối mà chàng đã vác súng đi cướp ngân hàng và bị sa lưới pháp luật.

Gặp Được Lòng Thương Xót Của Thiên Chúa

Nhưng chuyện chàng thanh niên con nhà giàu Phan Đăng Lê được đề cập trong tờ chia sẻ tuần này không phải vì trở nên kẻ sát nhân cho bằng nhờ ơn Chúa đã trở nên hối nhân. Số là trong ba năm ngồi tù đợi ngày lên máy chém, anh đã say mê đọc Kinh Thánh và đã gặp được lòng thương xót của Thiên Chúa.
7
Trong mỗi lá thư Phan Đăng Lê viết về cho người vợ trẻ, người ta đều đọc được bề sâu của một tâm hồn đã được đổi mới nhờ gặp gỡ Thiên Chúa. Chàng ý thức rất rõ về tình trạng tội lỗi của mình trước mặt Thiên Chúa và xã hội nên rất sung sướng đón nhận cuộc đổi mới đang diễn ra nơi con người chàng. Do đó ba năm chờ chết nơi nhà tù chính là ba năm tràn đầy niềm vui và ơn bình an đối với chàng.

Trong một lá thư viết cho người vợ trẻ, chàng tâm sự: "Em à, trước kia anh chỉ là một cái xác động đậy mà thôi, nay anh thâm tín rằng đây là lần đầu tiên trong đời, anh thực sự sống."

Ánh Sáng Trên Đoạn Đầu Đài

Các thư mà Phan Đăng Lê viết cho vợ được in thành sách dưới nhan đề: "Ánh Sáng Trên Đoạn Đầu Đài". Một ngày trước khi bước lên máy chém, Phan Đăng Lê viết trong thư vĩnh biệt vợ như sau: "Cuộc hành quyết sẽ xảy ra vào ngày mai, lúc 4 giờ sáng. Xin cho ý Chúa được trọn vẹn! Em yêu, trong 5 tiếng đồng hồ nữa anh sẽ được gặp gỡ Chúa Giêsu."

Ngày 2 tháng 10 năm 1957, sau khi chịu Mình Thánh Chúa từ tay linh mục tuyên úy nhà tù, Phan Đăng Lê đã hiên ngang bước đi trong hành lang đưa anh tới máy chém. Năm đó anh vừa tròn 27 tuổi. Bước đường nào đã đưa anh từ con người sát nhân ngang tàng nên hối nhân thánh thiện? Cuộc đời của anh nơi nhà tù đã làm chấn động giới luật sư, trí thức và tôn giáo. Theo nhật báo Rạng Đông của Paris, ngay đội lính canh trước đoạn đầu đài sáng thứ năm hôm đó cũng cho biết: họ chưa từng thấy một tội nhân nào bước lên máy chém với lòng dũng cảm can trường như Phan Đăng Lê.

Điều hết sức đặc biệt là chính Đức Hồng Y Lustiger, tổng giám mục Paris đã cho lập hồ sơ và ký đơn xin phong chân phước cho anh Phan Đăng Lê. Quả thật, nếu mọi sự xuôi chảy anh có thể trở nên "người trộm lành hiện đại" làm cho ý nghĩa của bài Tin Mừng hôm nay trở nên sống động đối với người thời nay.

Nhưng bài Tin Mừng hôm nay vẫn còn đó như là một thách đố lớn cho mọi người thuộc mọi thời đại, bởi lẽ ai là người cũng cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa, không riêng gì những con người ngang tàng như anh Phan Đăng Lê.

Tình Thương Của Người Cha Đối Với Cả Hai Con

Các nhà bình giải Kinh Thánh đều cho thấy ý chính mà bài Tin Mừng hôm nay nhắm tới là tình thương của người cha đối với cả hai người con, tuy tình thương ấy nổi bật đối với người con thứ. Theo luật Do Thái (Đnl 21,17), gia tài của người bố chia làm ba thì con cả được hưởng hai phần, con thứ được hưởng một phần.

Bình thường gia tài chỉ được phân phát cho con cái sau khi người bố đã qua đời. Luật pháp còn dự trù hình phạt dành cho kẻ rút phần gia tài của mình ra trước thời gian qui định. Dù sao đứa con thứ trong dụ ngôn đã rút hết phần gia tài thuộc về nó. Điều đó cho thấy nó thực sự đã cắt đứt mọi ràng buộc với gia đình. Việc nó rút đi một phần ba gia sản tất nhiên ảnh hưởng tới toàn bộ lợi tức của gia đình và trực tiếp đụng chạm tới quyền lợi của người anh cả; ta có thể hiểu phần nào về lý do tại sao người anh cả không chịu làm hòa với em: đứa em này trở về nhà rồi, nhưng việc phá hoại của nó cứ còn tiếp tục khiến người anh cả bị thiệt thòi!

Dụ ngôn người cha nhân hậu đã trở nên câu chuyện quá quen thuộc với các Kitô hữu chúng ta nên ai cũng có thể sử dụng trí tưởng tượng để khai thác những điều mình lấy làm tâm đắc, nhất là về bước đường suy sụp của người con thứ. Cái cảnh phung phá tiền của, bất kể tới mồ hôi nước mắt của người bố và tiếng tốt của gia đình, điều đó chẳng ai mà chấp nhận. Nhưng với người Do Thái điều ghê tởm hơn cả là cái cảnh đứa con thứ phải đi chăn heo. Chỉ có "quân ngoại đạo" mới làm công việc đáng khinh bỉ đó. Hơn nữa, nó ước ao được ăn thứ đồ heo ăn mà cũng chẳng có mà ăn. Như vậy người con thứ không những bị suy sụp mà còn xuống cấp vì trở nên hèn hạ hơn loài heo là con vật mà ai là người Do Thái cũng ghê tởm!

Chính trong cảnh túng quẫn đó, người con thứ nhớ lại bầu khí êm ấm của gia đình mình. Nó ước ao trở về nhà như người làm công mà thôi. Nhưng cha nó đã đối xử một cách vượt ngoài điều nó có thể tưởng tượng. Chính cha nó đã chạy tới ôm hôn nó khi nó trở về. Người cha nào có để ý gì đến lời xưng thú của nó. Ông chỉ quan tâm tới việc hồi phục lại toàn bộ những đồ ông dành cho người con kể như đã mất mà nay tìm được, đã chết mà nay sống lại!

Muốn Cả Hai Con Được Hạnh Phúc

Câu chuyện như đã tới hồi kết thúc thì lại xảy ra vấn đề mới là người con cả giận dỗi không chịu tham gia bữa tiệc mừng em hoang đàng trở về. Người cha lại phải chạy ra năn nỉ để có sự hoà giải vì ông muốn cho cả hai người con đều được hạnh phúc. Điều làm người con cả bị vướng mắc là thái độ tự mãn mà anh khăng khăng duy trì. Người cha không tranh luận về mọi điều tốt mà người con cả lấy làm tự hào nhưng chỉ năn nỉ xin anh vào để "ăn mừng và hoan hỉ, vì em con đây đã chết, nay lại sống, đã mất nay lại tìm thấy" (c.32)

----------------------------

 

MC 4-C20: TIN VUI THỜI ĐIỂM 2000 - Lm Trần Cao Tường.

 

Nhìn dấu chỉ thời đại và chụp ghi dưới ánh sáng Tin Vui (Vui Mừng và Hy Vọng #4) trong chương: MC 4-C20


Nhìn dấu chỉ thời đại và chụp ghi dưới ánh sáng Tin Vui (Vui Mừng và Hy Vọng #4) trong chương trình phát thanh Tin Vui Gửi Thời Đại Mới.

TIN VUI GỬI NGƯỜI HAM GIẢI PHÓNG

Ngày 23 tháng 2 năm 1997, nhà "chọc" trời Empire State ở phố New York đã lênh láng máu, không còn nghễu nghện đứng thách thức chọc trời như mọi khi nữa. Trời thật trong sáng, rất đông du khách mua vé lên lầu ngoạn cảnh ở tầng 86 của ngôi nhà chọc trời 102 tầng đã từng bá chủ cao nhất thế giới từ khi mở cửa năm 1931, đến năm 1972 mới nhường cho Tháp Đôi Trung Tâm Thương Mại Thế Giới. Vậy mà chàng Ali Abu Kamal của dân Ả Rập Palestine đã dám nã súng vào đám đông. Thế là náo loạn. Phần sợ hãi nhất là lúc mọi người bắt đầu kinh hoảng. "Một người bị bắn vào đầu, máu vọt tung tóe, tôi chưa bao giờ thấy cảnh kinh khủng như vậy xảy ra trong đời!" Kết quả, một người bị bắn chết, 6 người bị thương nặng, và chàng Ali tự bắn vào đầu chết luôn.

Chàng Ali có thể thuộc phong trào giải phóng Palestine bên Do Thái. Đây là cách giải phóng của nhóm chính kiến của chàng, không đồng ý với lối hòa giải hiện tại giữa Arafat và Do Thái.

Cùng thời gian trên, đêm ngày 21 tháng 2 năm 1997, tại phòng trà của nhóm Đồng Tính Luyến Ái (gay) ở Atlanta, xảy ra một vụ "giải phóng" khác: người nào hay nhóm nào đó không chịu nổi cảnh rửng mỡ của bọn "gay", đã muốn giải trừ sự dữ bằng việc đặt bom cho nổ tung phòng trà làm bị thương 5 người. Cũng như giữa tháng giêng, một vụ nổ bom khác tại một viện phá thai vùng Sandy Springs, bang Georgia.

Thì ra một số người đã muốn dùng biện pháp "đập vào mặt" để giải thoát khỏi sự dữ. Nhưng lấy một sự sữ để giải trừ sự dữ, lấy bạo động để giải quyết bạo động, lại đưa đến tàn tệ tan hoang chồng chất thêm lên! Hận thù vay trả, trả vay, cái vòng hệ lụy nghiệt ngã trùng điệp.

NĂM ANH MÙ XEM VOI

Ngày xưa còn bé mình vẫn thích thú về câu truyện năm anh mù xem voi. Chẳng anh nào thấy được con voi ra làm sao, nhưng chỉ rờ được một phần mà hung hăng tuyên bố lập trường vung vít rằng con voi nó giống cái chổi, cái buồm, cái cột nhà... Thực ra đó mới chỉ là cái đuôi, cái tai, hay cái chân... của con voi thôi. Vậy mà sinh cãi lộn, rồi đòi "giải phóng" nhau bằng "thượng cẳng tay hạ cẳng chân" và búa tạ rất ư nhiệt tình.

Không ngờ câu truyện trên lại được lặp đi lặp lại dưới nhiều hình thức thời mới "văn minh" và đôi khi mang mặt nạ "đạo đức" hơn trong nhiều lãnh vực, từ những tranh lộn chủ nghĩa đến giành giật niêu cơm hay ăn thua đủ chỗ cao chỗ thấp, cho công việc của mình vĩ đại để bắt mọi người phải "đoàn kết" đứng sau lưng mình, nếu không là chia rẽ đáng xỉ vả cho ăn búa tạ. Nhạc sĩ Phạm Duy trong Rong Khúc Hát Cho Năm 2000 đã gióng lên cái cảnh những anh mù thật tội nghiệp của thế kỷ này qua truyện Ngụ Ngôn Mùa Xuân:

Có hai thằng mù đánh nhau ngoài ngõ,
Cả hai thằng sứt trán, sứt tai.
Có hai thằng câm cãi nhau giữa chợ,
Cả hai thằng đều rát lưỡi phỏng môi.
Có hai thằng mù đã câm lại điếc,
Có hai thằng điếc ngồi nghe nhạc Tầu,
Nhạc Tây, nhạc Mỹ, nhạc Nga...
Hả hê về nhà ú ớ mừng rên!
Có khi thằng mù gã câm thằng điếc
Gác chân tự đắc ngồi trong chòi nghèo
Buồn thiu mà nghĩ lầu cao....


CHIỀU SÂU GIẢI THOÁT TRONG TRANH THÁI TUẤN

Thực ra việc giải phóng hay giải thoát con người thực sự phải từ một cái gì sâu xa hơn. Nhìn những bức tranh của họa sĩ Thái Tuấn, ai cũng cảm thấy một cảm giác mênh mang, và tự hổ thẹn về hiện trạng nhỏ nhen bị vít kín và mù tối của mình. Ông Huỳnh Hữu Ủy đã nhận xét: "Thái Tuấn là một bóng dáng lớn của nền nghệ thuật Việt Nam hiện đại... Anh luôn ao ước vẽ một bức họa tinh giản, ít màu, ít nét và để nhiều khoảng trống rộng rãi... đã tổng hợp tinh túy của nghệ thuật Á Đông và kỹ thuật hội họa Âu Châu để vẽ lên những tấm tranh của mình, là sự khoáng đạt của những chấm phá giản dị nơi nghệ thuật thủy mặc cộng với nghệ thuật sơn dầu của phương Tây. Anh thường xuyên suy nghĩ, chiêm niệm về những khoảng trống để tạo nên không gian mênh mông, hài hòa trong sắc màu trầm mặc... Dường như lúc nào anh cũng đăm chiêu đi tìm những hình ảnh nào đấy về một quê nhà đã mất: Miền Nam nhớ miền Bắc, Orléans nhớ Hà Nội, Paris nhớ Sài Gòn. Đi tìm lại quê hương đã mất là một trạng thái tâm lý quen thuộc nhưng vẫn kỳ lạ, ở Thái Tuấn không hẳn chỉ là một thứ quê hương sống động qua hoài tưởng, mà còn có thể chính là mối ám ảnh về một bản thể bất biến, và hình ảnh của quá khứ đã trở thành biểu tượng để nối kết" (Huỳnh Hữu Ủy, Bóng Dáng Thái Tuấn giữa nền nghệ thuật hiện đại, Thế Kỷ 21 số 82 )

Lê Uyuên Phương trong bài hát "Về Những Ấn Tượng" tặng Thái Tuấn đã diễn được cõi tâm của nhà hội họa đầy chất đạo này với nhiều cảm xúc gợi hình:

"Anh chưa bao giờ, chưa bao giờ nói với tôi về sự vĩ đại và sự nhỏ nhen trong đời sống. Nhưng dòng sông trên bức tranh màu tím đã bày tỏ cùng tôi sự phân biệt đó. Ôi? giọt nước trong giòng sông hay giòng sông trong giọt nước".

----------------------------

 

MC 4-C21: NGƯỜI CHA NHÂN TỪ - Lm. Damien OFM

 

Trong bài tin Mừng của Chúa nhật III Mùa chay vừa qua, Chúa Giêsu thúc dục chúng ta lo ăn: MC 4-C21


Trong bài tin Mừng của Chúa nhật III Mùa chay vừa qua, Chúa Giêsu thúc dục chúng ta lo ăn năn thống hối. Tin Mừng Chúa nhật IV Mùa chay hôm nay nói đến lý do của lời thúc dục trên là vì Chúa là người cha nhân từ.

Lòng nhân từ của Chúa.

Khi đọc xong bài Tin Mừng nầy, có một người cha phản ứng ngay: "Sao kỳ vậy! Biết nó lấy của ra đi ăn chơi phung phí đến hư thân mà lại để cho nó ra đi, không ngăn cản, la rầy một lời nào cả?"

Lòng nhân từ của người cha được biểu lộ không những trong thái độ tha thứ, chờ đợi để tha thứ mà cả trong thái độ tôn trọng sự tự do của con cái.

Thật vậy, khi đứa con xin chia gia tài và ra đi, người cha dư biết nó sẽ hư; nhưng lạ lùng thay, người cha nầy lại không một lời la rầy trách mắng như các người cha khác thường làm, cũng không một lời can ngăn hay khuyên bảo. Lòng khoan dung của người cha được biểu lộ trước tiên qua sự tôn trọng tự do của con cái, không áp đặt, dù biết can ngăn hay la rầy lúc nầy là điều tốt cho con cái. Thiên Chúa đối với con người, như với những đứa con trưởng thành, và chỉ biết kiên nhẫn chờ đợi. Thái độ của Thiên Chúa có thể làm cho các bậc cha mẹ ngạc nhiên và khó chịu, và họ có thể cho đó là nuông chiều con cái. Con cưng là con hư mà !

Trong lúc đó, những người tội lỗi và thu thuế đang nghe Chuá nói chắc cảm động lắm. Họ dư biết Chúa Giêsu đang nói đến lòng khoan dung của Thiên Chúa đối với họ. Còn những người khác không nhận ra mình là người tội lỗi như Biệt phái và luật sĩ hôm qua và hôm nay, thì dụ ngôn kia chỉ là một câu chuyện nằm trong loạt các câu chuyện người tốt việc tốt, một người cha đáng khen, chỉ thế thôi. Có chăng thì nó có thể là đầu đề của một bài thơ hay một bài nhạc, nhưng ít khi là đầu đề của cuộc sống.

"Anh em hãy sống nhân từ như Cha anh em ở trên trời là Đấng nhân từ". Thường lòng nhân từ mới có sức hấp dẫn, và đổi mới được con người, chứ không phải là những lời chỉ trích phê bình hay lên án.

Có đạo mà không có đức.

Thái độ của người anh cả là thái độ tiêu biểu của biệt phái và luật sĩ hôm qua và hôm nay.

"Con không hề trái lệnh cha một điều nào": Anh tự cho mình giữ đúng luật lệ của đạo hiếu và cũng vì thế mà tự cho mình có quyền giận dữ trước thái độ nhân từ của người cha và quyền lên án người em: "Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đĩ điếm" Ngày nay cũng thế, có nhiều người đọc kính xem lễ đều đặn, giữ một số việc đạo đức hết chỗ chê, nhưng lại sống thiếu lòng khoan dung. Họ tự hào về đời sống của mình và tự cho mình quyền phê bình, lên án, hay khinh khi những ai không giữ luật bề ngoài được như họ. Một thái độ chẳng Phúc Âm chút nào. Người ta thường nói về họ cũng như về những biệt phái và luật sĩ xưa: đó là những người có đạo mà không có đức, vì thiếu lòng khoan dung. Và chính sự thiếu lòng khoan dung nầy nhiều khi là nguyên nhân chính của những cảnh cơm không lành canh không mặn trong các gia đình, các cộng đoàn, với hàng xóm cũng như trong Giáo Hội và xã hội
.
Dụ ngôn người cha nhân từ vừa làm cho ta cảm động trước lòng khoan dung của Thiên Chúa, vừa thúc dục chúng sống khoan dung với kẻ khác, vừa là một bài học về cách huấn luyện cho các bậc làm cha làm mẹ và những người có trách nhiệm đào tạo giới trẻ hôm nay. Nhiều khi sự thinh lặng khoan dung có sức thuyết phục hơn muôn vàn lời nói . Lòng khoan dung đi đôi với lòng kính trọng con người, là đường lối huấn luyện của Chúa Giêsu đối với các Tông Đồ cũng như đối với những người yếu đuối và tội lỗi hôm qua và hôm nay, như bạn với tôi hôm nay vậy.

Bổn phận tôi là cho mượn.

Chuyện xảy ra ở một thôn bản người dân tộc thiểu số.

Có gia đình kia nghèo nhưng đạo đức. Hai vợ chồng chăm chỉ làm ăn, nên trong nhà không thiếu ăn. Mấy người hàng xóm thiếu, cứ đến vay mượn hoài, và hứa sang mùa tới sẽ trả. Nhưng sự thật thì có một vài người hết mùa nầy sang mùa nọ, chẳng bao giờ trả được. Bà mẹ già trong gia đình không bằng lòng và trách con gái:

-Sao mầy ngu vậy? Bạ ai hỏi cũng cho mượn hết, người ta không trả cho mầy thì mầy lấy gì mà ăn ?

Chị mỉm cười và ôn tồn đáp lại:

-Mẹ nầy, không sao đâu! Mình nghe lời Chúa dạy: cho mượn là việc của mình phải làm, còn trả hay không là việc của người ta mà !

----------------------------

 

MC 4-C22:  TÌNH YÊU VÀ THA THỨ CÓ SỨC MẠNH HƠN TỘI LỖI


 - Hà Ngọc Đoài (DCUC)

 

Tôi muốn ra đi, và trở về với Cha tôi."(Lk 15:18) Hầu hết mọi Kitô hữu đều nhớ thuộc lòng dụ: MC 4-C22


"Tôi muốn ra đi, và trở về với Cha tôi."(Lk 15:18) Hầu hết mọi Kitô hữu đều nhớ thuộc lòng dụ ngôn tả sự rạn nứt trong một gia đình giữa người cha và người con. Dụ ngôn này được đặt nhiều tên khác nhau như ỏ người con hoang đàngõ hoặc ỏ người cha nhân hậu ỏ, nhưng chỉ diễn tả sự cứu rỗi mà Thiên Chúa thiết tha muốn ban cho từng người lúc nào đó khi họ biết hối cải. Dù là người lành hay là tội nhân, đều cần nhìn nhận ra sự tai hại của tội và chiều kích sâu thẳm của tình thương Thiên Chúa qua cách xử thế của người cha đối với hai người con. Hình ảnh hai người con tượng trưng hai hạng người trong cộng đoàn dân Chúa.

Thứ nhất là hạng bị coi là tội lỗi. Tội do chính mình gây ra và dẫn đời mình đến sự tan nát và vô nghĩa! Để phạm tội này, tội nhân có suy nghĩ và tính toán: biết lý luận và tranh chấp, biết đòi quyền và thủ lợi ! Theo phong tục Do Thái, việc chia gia tài chỉ xảy ra khi cha mẹ đã chết. Gia tài được để lại cho con cái hưởng dung và lo hương lễ cho cha mẹ. Nếu đòi chia gia tài lúc cha mẹ còn sống là một sỉ nhục! Coi thường cha mẹ hoặc mong cha mẹ chết sớm! Đây là một tội trọng đối với cha mẹ! Tội trọng đã đưa người con đến chỗ thấp kém: muốn ăn cám heo cũng không có! Đối với ngươi Do Thái, heo là loài dơ bẩn, nếu bị qủi ám thì thuộc lọai phế thải, vô dụng! Hình ảnh này diễn tả một người phạm tội trọng đối với Thiên Chúa. Khi cố tình phạm một tội trọng, tội nhân quyết chối từ sự liên hệ của Thiên Chúa với mình và chọn con đường xa Chúa. Khi xa Chúa, thì đời người đó trở nên vô nghĩa! Nhưng Chúa vẫn kiên nhẫn và chờ đón tội nhân trở về. Khi biết trở về, Ngài luôn tha thứ và ban cho cơ hội sống tốt hơn.

Hạng người thứ hai cũng sa vào tình trạng ỏvô phúcõ và nguy hiểm! Bề ngoài xem ra chung thủy với cha, nhưng phản lại cha và ghen tương với người em! Hạng người này chúng ta vẫn thấy trong các giáo đoàn! Họ rất nhiệt tình và hăng hái làm việc chung, nhưng có tính độc tài và thống trị! Bề ngoài nhân danh đạo đức, bên trong đầy mưu chước và thủ đoạn! Họ hay lợi dụng mọi cơ hội để chen chân vào bất cứ chuyện gì và thích xuất hiện trước công chúng! Khi bình thường họ đọc kinh rất to! Lúc bất mãn thì tách biệt ra khỏi nhà cha là cộng đoàn! Hung hăng kéo bè, lập nhóm, mưu toan vu khống để hại người khác rất ghê gớm! Đây là loại người con cả ỏđạo đức gỉaõ! Tuy vậy, sự kiên nhẫn và tình thương của Chúa thật vươn cao hơn tội loài người. Thiên Chúa muốn cả ỏhai người conõ biết trở về với lòng mình và tìm ơn tha thứ.

Thực Hành: "Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi cho biết Chúa thiện hảo nhường bao." (TV 33:9) Chỉ những ai đã một lần chết đi rồi sống lại mới cảm nhận được gía trị của sự sống. Khi tội nhân được phúc trở lại, họ cảm nhận được sự êm dịu của tình thương mà ngôn ngữ loài người không thể nào diễn tả . Người đó biết âm thầm hiến cả cuộc đời để làm chứng cho tình yêu.

----------------------------

 

MC 4-C23: HỌC ĐÒI YÊU THƯƠNG NHƯ CHA TRÊN TRỜI


 - Lm. Phạm Văn Lợi

 

Tin Mừng chẳng phải là một cánh đồng bằng phẳng, nó có nhiều đỉnh nhô cao. Chúng ta đang: MC 4-C23


Tin Mừng chẳng phải là một cánh đồng bằng phẳng, nó có nhiều đỉnh nhô cao. Chúng ta đang đứng trước một trong những đỉnh cao nhất: Lc 15,11-32. Đại văn hào Charles Dickens người Anh gọi đây là câu chuyện hay nhất, hạt ngọc đẹp nhất của Tin Mừng. Người ta thường bảo đó là dụ ngôn đứa con hoang đàng (hay đứa con phung phá), nhưng Đức Giêsu muốn làm nổi lên cả 3 nhân vật: một ông cha già với hai đứa con trai. Mà đặc biệt là nhân vật người cha! Đối với cậu trẻ hơn, các cuộc phiêu lưu của nó không quan trọng, có biết bao cách để lãng phí món quà lớn là cuộc sống khi trẩy đi xa cha mình. Điều cần phải khám phá chính là ông cha, theo cách trình bày của Đức Giêsu. Mọi nhà chú giải đều nói tới điểm đó, các nhà tu đức cũng vậy. Đức Giêsu đã mạc khải Thiên Chúa Cha chính trong trang này, qua hình ảnh ông già này.

1. Tình yêu đón nhận

"Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy" Người cha đã luôn rình chờ. Ông đã không tự hỏi mình sẽ làm hay sẽ nói gì, một chỉ nghĩ: "Ước gì nó xuất hiện!". Ngay khi nhìn thấy nó, ông đã chạnh lòng thương. Ông chạy ra (không một cụ già đông phương bệ vệ nào lại làm điều này!) và hôn lấy hôn để (ta có thể diễn tả rõ hơn lòng tha thứ nữa chăng?). Ông không nghe những lời xin lỗi (dù thật hay giả. Mà có lẽ là giả, vì câu nói lâm ly đó không lập tức trào ra tận đáy lòng khi tên vô lại gặp lại cha mình, song đã được nó chuẩn bị sẵn từ trước lúc còn ở giữa bầy heo!). Ông không cho nó nói hết câu nó định nói (xin đối chiếu Lc 15,18-19 với 15,21) Ông quá vội vã làm bùng vỡ niềm vui và lễ hội. Áo đẹp nhanh lên! Nhẫn quý nhanh lên! Bê béo nhanh lên! Con ta đã mất nay lại tìm thấy.

Nó đã đi hoang nhưng nay đã trở về! Động tác của người cha trước hết là yêu thương, chứ không phải là chất vấn về những thái độ trái hay phải. Sau đó, người ta sẽ thấy phải làm sao sống trong trật tự, nhưng việc cấp thiết nhất vẫn là yêu thương. "Yêu thương để giúp bạn biến đổi là cho bạn phương tiện. Bắt bạn biến đổi mới yêu thương là cất hết phương tiện. Phương tiện độc nhất để biến đổi tâm hồn bạn mình là chấp nhận bạn như thuở ban đầu, vì được yêu là điều kiện cần thiết để biến đổi". Lời ĐHY Nguyễn Văn Thuận nhắn nhủ các đôi bạn trong Đường Hy Vọng (số 469-470) cũng đúng trong trường hợp này. Và đó chính là mạc khải lạ lùng mà Đức Giêsu muốn ban cho ta: chúng ta được yêu thương biết là chừng nào! Những ngu dại và thậm chí các tội ác của chúng ta có là gì trước nhiệt tình ấy: "Nó đã được tìm thấy lại". Loài người có thể đánh mất tư cách làm con, nhưng Thiên Chúa chẳng thôi làm cha bao giờ cả. Nếu chúng ta dám tin điều đó, quan hệ tình yêu giữa chúng ta với Chúa Cha sẽ thế nào! Nhưng tại sao ta khó thấy mình được Thiên Chúa yêu như vậy? Phải chăng chính vì khó khăn ấy mà Đức Giêsu đã dài dòng trình bày cho ta hình ảnh đứa con cả? Người hẳn đã tưởng tượng ra dụ ngôn này sau khi đã nghe các lời đả kích của những kẻ công chính trước thái độ Người: "Ông này tiếp đón phường tội lỗi và ăn uống với chúng!" . Đó chính là lời càu nhàu của đứa con cả! Thay vì vui mừng, anh ta lại phản đối, công phẫn. Kẻ khó chịu làm sao!

2. Tình yêu hoán cải

Than ôi, chúng ta biết bao lần cũng ngoan bướng, cũng khép kín, cũng công phẫn trước tình yêu như thế, nhất là tình yêu của Thiên Chúa đối với kẻ tội lỗi, với kẻ ăn năn trở lại trong giờ phút cuối cùng. Chúng ta phê phán thay vì mở rộng vòng tay. Chúng ta lý luận: nếu dung túng tất cả, thì luân lý đạo đức dùng để làm gì? Ra công trung tín với Thiên Chúa thì được lợi gì? Và Thiên Chúa là ai nếu Người chấp nhận tất cả?

Lý luận thế là vì chúng ta đã được huấn luyện cho biết ghê tởm tội lỗi, kết án vô trật tự, chúng ta không muốn trở nên những kẻ chiều ý cách đáng nghi ngờ! Chúng ta nghĩ rằng mình bảo vệ chính Thiên Chúa khi bảo vệ các lề luật Người và khi tỏ ra kiên quyết trong chuyện ấy! Nhưng như thế thì làm sao mở rộng vòng tay? Làm sao bắt chước người cha của dụ ngôn trong cách ông hoàn toàn điên rồ đón thằng con vô lại trở về chỉ vì đói? Là những người công chính, những người muốn nên công chính, chúng ta trước hết nghĩ tới việc phê phán, đưa ra những nhận xét cần thiết, khoanh vùng sự dữ, xem cái gì có thể chấp nhận nổi. Khi tất cả đã được sáng tỏ, sửa sai đầy đủ, ta mới có thể mến yêu.

Nhưng làm thế, chín trên mười lần đều hỏng cả. Đức Giêsu đã nhận xét như vậy khi quan sát các nỗ lực của những kẻ công chính thời Người, Biệt phái và kinh sư: khởi từ sự công chính, họ chẳng đi đến tình yêu. Họ từng cố gắng yêu mến, nhưng vẫn ở trong nhiều giới hạn chật hẹp và tất nhiên cũng nhốt Thiên Chúa trong những giới hạn như vậy: "Dầu sao ông ta cũng không thể yêu mến các kẻ tội lỗi!" họ nghĩ thế. Phần chúng ta, vì Đức Giêsu đã nói, chúng ta chấp nhận chung chung là Thiên Chúa yêu thương các tội nhân, điều đó thậm chí tiện lợi cho chúng ta hay cho một ai đó khi cần. Nhưng không phải với "tên" này! Tên này, những tên này, Thiên Chúa không thể thương chúng được!

Thương chứ! Đức Giêsu bảo ta: chẳng ai bị loại trừ, và rằng Thiên Chúa đúng là ông cha trong dụ ngôn. Và chúng ta là con của Người khi chúng ta trước hết đặt mình trong lòng thương mến.

Chúng ta không được dung túng tất cả, chúng ta phải chiến đấu chống tội lỗi và cho công lý. Nhưng là trong tình yêu. Tất cả nằm ở đó. Chính bằng cách yêu thương ta mà Thiên Chúa kéo ta khỏi tội, chống lại tội lỗi trong ta, chứ không phải bằng cách nghiến nát hay loại trừ ta.

Xin Chúa giúp chúng ta thực hiện cuộc hoán cải này để thủ đắc được phản ứng tin mừng thuần túy duy nhất và số một: luôn đặt mình trong tình thương mến. Khi tự phán xét chính mình, hãy nghĩ rằng Chúa Cha yêu thương tôi. Khi phải phán xét những kẻ khác, trước hết nghĩ đến việc yêu thương họ như Thiên Chúa yêu thương họ. Vị Thiên Chúa đích thực được Đức Giêsu mạc khải là thế!

Trong ánh sáng tình yêu ấy, tất cả có thể trở về với sự sống. "Con ta đây đã chết mà nay lại sống! Em con đây đã chết mà nay sống lại!" Người cha sống lại, thằng con thứ đi hoang sống lại. Chỉ duy người con cả rất gương mẫu vẫn ở trong nếp cũ: chết! vì đã khép lòng trước tình yêu!

----------------------------

 

MC 4-C24: HÌNH ẢNH NGƯỜI CHA - Lm. Trọng Hương

 

Hình ảnh người Cha trong bài Tin Mừng minh họa rất sống động tấm lòng nhân từ bao la đến: MC 4-C24


Hình ảnh người Cha trong bài Tin Mừng minh họa rất sống động tấm lòng nhân từ bao la đến độ không thể ngờ của Thiên Chúa.

B.... NẨY MẦM.

1. Dụ ngôn này giống như một bộ tranh gồm 3 bức. Bức nào cũng đáng ta chiêm ngưỡng:

- Hãy nhìn bức tranh người cha, và chiêm ngưỡng tấm lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa.

- Hãy nhìn bức tranh đứa em, để suy nghĩ về con đường hư đốn của kẻ tội lỗi và con đường trở về của kẻ sám hối.

- Hãy nhìn bức tranh người anh, để thấy cõi lòng "người công chính" có thể trở nên hẹp hòi như thế nào.

2. Nhà truyền giáo T.R. Stevenson ở Thượng hải kể: một thương gia giầu có ở Quảng đông có hai con trai. Người con lớn thường kết bè tụ đảng với bọn bất lương phá phách làng xóm. Một lần, quá túng, hắn dẫn cả một băng về cướp ngay tại nhà mình. Khi tội hắn bị lộ, người cha cho người đến nói với hắn: nếu biết đường cải tà qui chánh thì sẽ được tha. Người nhắn còn bảo đây là lần gia ân cuối cùng của ông chủ. Hắn chầm chậm đứng lên và quay về nhà cha. Một bữa tiệc đón tiếp xem ra cũng vui vẻ, nhưng trong đĩa thức ăn của hắn có bỏ thuốc độc. Hắn chết ngay đêm đó, nhưng người cha không bị ra toà vì theo luật Trung hoa, cha có quyền giết con. Từ câu chuyện này, các nhà truyền giáo thường đem đối chiếu với đoạn 15 Tin Mừng thánh Luca.

3. Một bà già thường đến gõ cửa phòng Cha xứ, kể cho ngài nghe rằng đêm qua Chúa mới hiện ra với bà. Để làm bà nản lòng đừng đến nữa, Cha xứ bảo: "Lần sau, nếu Chúa có hiện ra, bà hãy hỏi Ngài 'Cha xứ con có tội gì nặng nhất?', sau đó tới kể cho tôi nghe". Mấy ngày sau, bà già không đến nữa. Cha xứ mừng thầm vì bà đã trúng kế của ngài. Nhưng một tuần sau đó, bà già trở lại.

- Thưa Cha, tối hôm qua Chúa lại hiện ra với con.
- Thế bà có hỏi Ngài không?
- Thưa có chứ.

Cha xứ bắt đầu hồi hộp:

- Bà hỏi thế nào?
- Thì con hỏi y như Cha đã bảo: "Cha xứ con có tội gì nặng nhất?"

Cha xứ càng hồi hộp thêm:

- Vậy Chúa có trả lời không?
- Có chứ.
Bây giờ thì cha xứ lo lắng thật sự:
- Chúa nói sao?
- Chúa nói: "Ta đã quên hết rồi"

Cha xứ thở phào nhẹ nhỏm (Kể theo Đức Cha Px NVT)

4. "Anh ta còn ở đàng xa thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm lấy cổ anh ta và hôn lấy hôn để" (Lc 15,20)

Mùa hè 95, tôi trở về nhà sau một chuyến đi xa. Vừa bước xuống xe, tôi cảm thấy lo ngại vì trời đã nhá nhem tối mà đường về nhà tôi còn hơn 4 cây số nữa. Đang lo lắng vì phải lội bộ một đoạn đường khá dài trong đêm tối, chợt tôi nghe có tiếng gọi từ đàng xa. Tôi nhìn lên và thấy ba đang chạy xe tới. Ba bảo tôi lên xe và chở tôi về. Nói chuyện với ba hết một đoạn đường dài, tôi mới biết là ba đã đón tôi mãi từ chiều, lúc trời còn sớm. Về đến nơi, tôi thấy cả nhà đã quây quần đông đủ bên bàn ăn, chỉ còn đợi chúng tôi về

Mỗi lần phạm tội là mỗi lần tôi bỏ nhà ra đi, để Chúa phải mòn mỏi đợi chờ, chờ tôi trở về trong dòng kinh sám hối.

Lạy Chúa, xin cho con luôn xác tín rằng: Chúa đã yêu con từ ngàn đời, và yêu con ngay cả những khi con là ội nhân, và hằng đợi con mỗi ngày. Amen. (Epphata)

----------------------------

 

MC 4-C25: THIÊN CHÚA HAY QUÊN - Lm. Trọng Thưởng, CMC

 

Một khoa học gia nổi tiếng khắp thế giới, nhưng đồng thời cũng được công nhận có tính hay: MC 4-C25


Một khoa học gia nổi tiếng khắp thế giới, nhưng đồng thời cũng được công nhận có tính hay quên không ai theo kịp. Một ngày kia nhà khoa học lên xe lửa đi công chuyện. Khi nhân viên đi kiểm vé, khoa học gia tỏ ra lúng túng, luống cuống lục túi trong túi ngoài mà vẫn không tìm ra vé, nên sợ bị đá bay ra khỏi xe. Viên kiểm vé nói cách thông cảm:- Ông cứ bình tĩnh mà tìm. Tôi sẽ trở lại. Khi nhân viên trở lại vị hành khách thông thái vẫn chưa moi ra được vé xe. Nhân viên soát vé chợt nhận ra nhà khoa học lẫy lừng nên nói:- Tôi biết chắc là ông đã mua vé. Ông khỏi cần lo lắng làm chi! Nhà khoa học trả lời:- Ông thật là quá tốt! Nhưng mà tôi phải tìm ra cái vé để xem tôi xuống xe chỗ nào. Nhiều chuyện quan trọng người ta không nên quên, nhưng cũng có những điều con người cần phải quên.

Dụ ngôn tuyệt vời Chúa kể trong bài Phúc Âm về người con hoang đàng và người cha nhân từ dạy cho chúng ta biết tội lỗi của tha nhân là điều con người rất nên quên. Thiên Chúa được trình bày qua hình ảnh người cha nhân từ đã không hề nhớ, đề cập đến thái độ, hành động tệ bạc, bậy bạ của người con thứ, mặc dù những tội đó súc phạm đến Ngài.

Chuyện kể rằng khi cuộc Nội chiến Hoa Kỳ gần chấm dứt, có người đến hỏi tổng thống Lincoln sẽ đối xử ra sao với các tiểu bang miền Nam tách khỏi Liên bang Hoa Kỳ. Người ấy mong một câu trả lời mang tính chất báo thù rướm máu. Nhưng tổng thống Lincoln trả lời:"Tôi sẽ xử với họ như chưa hề có cuộc Nội chiến." Cao quí thay tấm lòng biết bỏ qua, quên đi lỗi lầm của người khác.

Dụ ngôn cũng trình bày một thái độ trái ngược qua hình ảnh người con trưởng. Chúa có ý dùng người này để ám chỉ nhóm Biệt phái, những người kiêu hãnh tự cho mình là công chính nhờ ôm khư khư mấy khoản luật bôi bác bên ngoài. Lời kể lể công lao của người con trưởng cho thấy anh chỉ sống những năm tháng với cha trong sự ràng buộc của trách nhiệm, không phải vì tình nghĩa. Những quan niệm của anh về người em hoàn toàn nặng phần lý lẽ, không chút tình thương.

Những người Biệt phái đã đánh mất linh hồn của lề luật, đó là tình yêu. Không có tình yêu lề luật chỉ là gánh nặng, gông cùm trói buộc con người, và do đó chôn vùi những ai lầm lỡ, ngã quị.Vua Đavít khi xưa đã vì kiêu hãnh bắt dân chúng toàn quốc phải làm sổ kiểm tra dân số. Vì tội lỗi này Chúa sai tiên tri cho vua được chọn một trong ba hình phạt:

1/ ba năm bị nạn đói trên toàn quốc
2/ ba tháng trốn chạy vì quân thù đuổi bắt
3/ ba ngày dịch bệnh trên cả lãnh thổ.

Vua Đavít đã trả lời: "Tôi thật mắc phải nỗi cực kỳ khốn khó. Hãy để cho tôi rơi vào tay Chúa, vì Ngài nhân hậu' nhưng đừng rơi vào tay con người." Thiên Chúa đã sai thiên thần gieo bệnh dịch trên khắp nước, nhưng trước khi đến thành Giêrusalem Chúa đã truyền cho các thiên thần dừng tay. Đavít đã lựa chọn khôn ngoan vì biết lòng người hiểm ác, vô tình, còn Thiên Chúa có lòng xót thương.

Đứng trước tội lỗi của tha nhân chúng ta hãy có lòng nhân từ, rộng lượng, tìm cách đoán ý lành, hay ít ra lắng nghe lời giải thích của tội nhân, và sẵn sàng bỏ qua. Đó là cách duy nhất chữa lành vết thương nơi tội nhân và nơi chính tâm hồn chúng ta. Đó là điều duy nhất thích hợp với bản chất của con người được Thiên Chúa dựng nên, đó là tình yêu thương. Xin Chúa cho chúng ta cảm nghiệm được sự tha thứ của Ngài và rộng ban ơn tha thứ cho người khác.

----------------------------

 

MC 4-C26: CON RẮN ĐỒNG - Như Hạ

 

Con rắn đã bò vào lịch sử nhân loại, để lại những dấu vết không đẹp. Nhưng có một con rắn: MC 4-C26


Con rắn đã bò vào lịch sử nhân loại, để lại những dấu vết không đẹp. Nhưng có một con rắn tượng trưng cho uy quyền cứu độ, chứ không đẩy xô con người xuống hố diệt vong. Đó là con rắn đồng trong sa mạc. "Ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc," (Ga 3:14) để "tất cả những ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống" (Ds 21:9). Con rắn đã mang một bộ mặt mới kể từ ngày Thiên Chúa tìm cách cứu con người khỏi hố diệt vong.

TÌNH YÊU BA CHIỀU

Trên cây thập giá, Đức Giêsu đã thiết lập được một tương quan ba chiều với Chúa Cha, loài người và thụ tạo. Người đã phải trả một giá rất đắt. Nếu Thiên Chúa đã không thương yêu thế gian tột độ, không bao giờ có cuộc hi sinh lớn lao đó. Đức Giêsu xứng đáng là một vị thẩm phán tối cao, có quyền xét xử muôn dân. Nhưng Người đã không đến với tư cách đó. "Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ" (Ga 3:17). Sự công chính đã mang bộ mặt tình yêu. Chính vì tình yêu đó, Đức Giêsu đã phải hi sinh tới giọt máu cuối cùng trên thập giá. Đó là giá rất đắt. Con Thiên Chúa đã phải trả cho chúng ta.

"Như ông Môsê giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời" (Ga 3:15). Như vậy cuộc hi sinh lớn lao đó nhằm lập tương quan thân ái với nhân loại và vạch ra con đường đi tới hạnh phúc vĩnh cửu. Con đường đó là tin vào tình yêu Thiên Chúa nơi Con Người chịu treo trên thập giá. Đó là con đường thoát vòng tử thần, tới nguồn sống thật. Chính Đức Giêsu quả quyết: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3:16).

Thập giá đã trở thành trung tâm chương trình giải thoát của Thiên Chúa (Faley 1994: 262). Ngước mắt nhìn lên thập giá, chính là hướng về nguồn ơn cứu độ. Bởi vì chính trên cây thập giá Đức Giêsu đã mạc khải tất cả sự thật về bản tính mình. "Khi các ông giương Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu" (Ga 8:28). Đức Giêsu chính là Đức Chúa và nguồn sống cho vạn vật và con người. Không tin vào chân lý đó tức là tự lên án chính mình. "Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ" (Ga 3:17). Chính cây thập giá sẽ phân nhân loại làm hai hạng người tin và không tin. Thập giá không phải là dấu chỉ của án phạt. Nhưng không tin cái chết của Đức Giêsu có sức mạnh cứu độ mới dẫn tới hư vong. "Đức Giêsu là cơ hội chứ không phải là nguyên nhân" (Fahey 1994:263) của việc phán xét. Cây thập giá là một biểu tượng cho mọi người thấy tình yêu Thiên Chúa mãnh liệt tới mức nào.

Như vậy cây thập giá đã chứng tỏ tình yêu riêng của Đức Giêsu (Ga 13:1) và cả tình yêu Thiên Chúa Cha đối với nhân loại. Tình yêu là động lực chi phối toàn bộ sứ mạng Đức Giêsu dưới thế. Tình yêu trở thành hồng ân vĩ đại, vượt quá tầm hiểu biết.

Quả thực, "Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ" (Ep 2:4-5). Trong nguồn ân sủng đó, chúng ta trở thành "con cái ánh sáng" (Ep 5:8). Bởi vì chính Đức Giêsu là "ánh sáng đã đến thế gian"(Ga 3:19). Không phải ai cũng đón nhận được hồng ân cao cả đó. Thực tế, "người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa" (Ga 3:19). Chính việc làm đã tạo thành một bản án đeo vào cổ họ. Số phận thật tang thương ! Định mệnh thật khốc liệt !

Nhưng trong quá khứ, ngay lúc bi tuyệt vọng nhất, dân Chúa đã thực hiện tất cả giấc mơ. Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể tạo nổi lịch sử ! Thực vậy, "để lời Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia được hoàn toàn ứng nghiệm, Đức Chúa tác động trên tâm trí Kyrô, vua Ba tư" (Sb 36:22), để vua "ra lệnh phục hồi Giuđa, hồi hương dân cư và tái thiết đền thờ" (Fahey 1994:261). Bởi đó tin vào Thiên Chúa không bao giờ tuyệt vọng. Thiên Chúa luôn có sẵn những giải pháp tốt đẹp nhất.

TRỜI BỪNG SÁNG

Thiên Chúa chính là nguồn hi vọng cho những ai tin tưởng tuyệt đối nơi Người. Nói khác, niềm tin và hi vọng luôn đi song đôi. Tin là con đường dẫn tới sự sống. Đức Giêsu đã củng cố tinh thần những ai run sợ trước thần chết: "Ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời"(Ga 3:16). Đức tin trở thành một thành phần cần thiết của cuộc sống. Theo Martin Luther, "đức tin là một thực tại sống và bởi thế gồm những nhân đức thương yêu và hi vọng, kinh nghiệm sống hiệp nhất với Thiên Chúa, và khát vọng sống kết hiệp với Chúa tới muôn đời" (Cook 1995:512). Chính vì thế, không tin, cuộc sống trở thành trống rỗng và vô vị.

Khi tin, con người sẽ thấy mình vươn tới đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa. Vì chính Thiên Chúa đã giải thoát chúng ta không những khỏi ách nô lệ tội lỗi, nhưng còn khiến chúng ta tự do yêu thương nhau và bởi đó đem ánh sáng Thiên Chúa chiếu soi trần gian (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:19). Từ tình yêu tới tình yêu. Từ ánh sáng tới ánh sáng. Sống trong tình yêu là đi trong ánh sáng. Đức Giêsu muốn chúng ta là "ánh sáng cho trần gian"(Mt 5:14). Nguồn cung cấp ánh sáng chính là tình yêu, một tình yêu phải được sự thật giải thoát. Đó là lý do tại sao Chúa nói "kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng"(Ga 3:21). Đi trong tăm tối trần gian hay sống dựa trên sự lừa đảo, gian dối, không thể tìm được nguồn sống và nguồn sáng đích thực. Do đó cuộc đời mãi mãi là nô lệ.

Muốn thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than đó, phải "tin tưởng và xác tín rằng chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể cứu chúng ta. Tin là phó thác những chương trình hiện tại và vận mệnh đời đời nơi Đức Kitô. Tin là vừa xác tín lời Chúa có thể thực hiện và cậy dựa vào quyền năng biến đổi của Người" (Life Application Study Bible 1991:1878). Một khi xác tín như thế, chúng ta sẽ thay đổi toàn bộ, từ não trạng đến cái nhìn và nếp sống. Từ nay không còn gì xảy ra ngoài chương trình đầy tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Ta sẽ "bắt đầu lượng định tất cả sự việc xảy ra theo nhãn quan vĩnh cửu" (Life Application Study Bible 1991:1878).

Hơn nữa, tin tưởng còn có nghĩa là "làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa toàn thắng trên quyền lực sự dữtrong chúng ta và trên thế giới" (Disciples in Mission, Homily Guide, Lent Cycle B 1999:19). Niềm tin không bao giờ bất động hay tiêu cực, nhưng luôn thúc đẩy con người đi tới tha nhân và hi sinh bản thân để lôi kéo mọi người vào cuộc sống hạnh phúc và đầy yêu thương của Thiên Chúa. Không có niềm tin ấy, người ta chỉ tìm cách hi sinh tha nhân cho những mục tiêu trần tục. Đó là điều những người vô thần đã làm. Đứng trước đài kỉ niệm Holocaust ở Giêrusalem, tưởng nhớ hằng triệu nạn nhân vô tội của chũ nghĩa Nazis, ĐGH Gioan Phaolô II nói: "Chỉ có chủ thuyết không có Thiên Chúa (vô thần) mới có thể tính kế và thực thi sự tiêu diệt toàn bộ khối người như vậy" (VietCatholic 23/3/2000). Những hành động cuồng điên đó không những phát xuất từ niềm tin vô thần, nhưng còn là kết quả của những thất vọng lớn lao. Thất vọng đã xô đẩy mọi người vào thất vọng.

Nhưng "ngay trong những giờ tuyệt vọng, không phải mọi ánh sáng đều đã tắt hết đâu" (Gioan Phaolô II, VietCatholic 23/3/2000). Lý do vì ngay lúc khốn cùng và nguy hiểm nhất, người tín hữu vẫn có thể thưa với Chúa: "Con đây vẫn tin tưởng nơi Ngài, lạy Chúa, dám thưa rằng: Ngài là Thượng Đế của con" (Tv 30:15). Nói lên được điều đó thật là can đảm. Ngày nay vẫn còn rất nhiều tâm hồn can đảm như thế nơi những Kitô hữu trên quê hương Việt Nam.

----------------------------

 

MC 4-C27: HÃY THƯƠNG XÓT TÔI - Dòng Đồng Công

 

Mấy năm trước đây linh mục John Powell viết cuốn sách tựa đề "Happiness is an Inside Job": MC 4-C27


Mấy năm trước đây linh mục John Powell viết cuốn sách tựa đề "Happiness is an Inside Job". Cuốn truyện này thuật lại đời sống của một bà sống trong nghèo túng. Một hôm bà gặp được một người đàn ông mà bà hằng mơ ước. Ông là một người tốt và rất giàu có. Bà rất bỡ ngỡ khi ông bày tỏ muốn thành hôn với bà. Sau khi cưới hai người đã sống trong một khu rất đẹp, giàu sang. Bà đã sống trong một nơi mà bà chưa hề mơ ước tới.

Rồi chuyện buồn đã xảy ra. Một hôm bà cảm thấy bị bệnh rất trầm trọng. Bà đã phải vào nhà thương và các bác sĩ đã cho bà biết là bà có một bệnh không thể chữa được. Khi biết mình bị bệnh nan y, bà cảm thấy tức giận. Trong cơn tức giận bà đã muốn trách Chúa. Cho nên bà đã lết tới nhà nguyện để đối chất với Chúa. Bà đã yếu sức nên đã phải vịn vào tường từ từ tiến về nhà nguyện. Từ phòng bà cho tới nhà nguyện đối với bà dường như trăm dặm và trong thời gian đó bà đã nghĩ trong đầu những gì bà sẽ nói: Chúa thật là giả hình, một Đấng lừa bịp người ta. Hơn hai ngàn năm nay, Chúa đã tỏ cho mọi người Chúa là tình yêu. Nhưng mỗi khi ai tìm được một tia hạnh phúc, Chúa đã phá đổ hết đi. Chúa biết không, bây giờ con biết Chúa như thế nào rồi.

Rồi ngay giữa lối đi gần bàn thờ, bà đã té xuống. Bà đã yếu quá và bà đã không nhìn được rõ. Mắt bà lờ mờ nhìn chữ đã được đan vào thảm trước bàn thờ. Bà đọc rồi lập lại câu đó: "Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội". Ngay lúc đó tất cả những lời tức tối, cái ý định trách Chúa đã tan biến đi. Chỉ còn lại câu: Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội. Rồi bà gục đầu xuống trên hai tay và lắng nghe. Trong thâm tâm bà, bà nghe tiếng nói rằng: Tất cả những cái này là lời Cha mời gọi con phó dâng đời sống của con cho Cha. Con biết con chưa bao giờ làm như thế. Các bác sĩ ở đây chỉ có thể cố gắng nhưng chỉ mình Cha đây mới có thể chữa con khỏi.

Trong sự im lặng và tối tăm đêm đó, bà đã tận hiến đời mình cho Chúa. Bà đã phó dâng đời của bà cho Chúa để mặc Chúa định đời bà. Đó là giờ của Chúa. Đó là lúc bà đã hàng phục. Câu truyện đó kết thúc cách vui mừng. Bệnh của bà đã thuyên giảm cách lạ lùng và từ từ bà đã hồi phục sức khỏe.

Câu truyện đẹp này tương tự như dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay. Trong đó, như đứa con hoang đàng, bà đã phản nghịch lại cùng người cha yêu dấu khi bà gặp những cái trái ý. Như người con hoang đàng bà đã trở lại cùng người cha yêu dấu khi bà thức tỉnh. Đây là câu truyện mà mọi người chúng ta có thể cảm thông được. Vì trong đời sống, chúng ta đều tái diễn những hành động tương tự người con hoang đàng.

Đến đây chúng ta cần nói một điều quan trọng. Có thể chuyện của mỗi người chúng ta chưa có một đoạn kết đẹp đẽ như câu chuyện người con hoang đàng hay của bà kia. Có thể chúng ta vẫn còn bực tức Chúa vì một rủi ro nào đó. Có thể chúng ta còn sống trong giai đoạn như bà kia khi bà đang lê lết từ phòng tới nhà nguyện, vừa bước vừa trách Chúa. Hay là chúng ta chưa đủ can đảm trở lại cùng người Cha để thú lỗi. Hãy chỗi dậy, trở về với Chúa.

----------------------------

 

MC 4-C28: XIN VÂNG": SỨ MẠNG TÔNG ĐỒ -  Sr. Tâm Năng


Lk 1:26-38

 

Nếu tìm hiểu lịch sử Israel chúng ta sẽ thấy vua Achaz trong bài đọc 1 hôm nay không phải: MC 4-C28


Nếu tìm hiểu lịch sử Israel chúng ta sẽ thấy vua Achaz trong bài đọc 1 hôm nay không phải vì khiêm nhượng mà không dám xin Chúa một dấu lạ, nhưng vì ông đã hồ nghi Yahweh Thiên Chúa không đủ quyền năng để bảo toàn đất nước khi nghe quân ngoại bang vây đánh. Vì thế, thay vì cầu khấn cùng Yahweh, ông đã đi năn nỉ vua Assaria giúp đỡ. Bài đọc 2 cho chúng ta thấy các của lễ toàn thiêu không phải là điều Thiên Chúa hằng mong đợi nơi con người. Điều làm Thiên Chúa vui lòng nhất là thi hành ý Ngài. Và bài Phúc Âm hôm nay nêu lên một mẫu gương sống động của việc thi hành ý Chúa qua tiếng "Xin Vâng" của Mẹ Maria trong biến cố truyền tin mà chúng ta kính nhớ hôm nay.

Tiếng xin vâng của Đức Mẹ, thoạt nghe, chẳng có gì đặc biệt đáng chúng ta phải chú ý. Nhưng nếu để tâm suy nghĩ và cầu nguyện, chúng ta sẽ thấy được tinh thần hy sinh, lòng bác ái, và đức tin sống động của Mẹ được gói gọn trong hai tiếng xin vâng đó.

Qua tiếng xin vâng, Mẹ Maria sẵn sàng gạt bỏ đi tất cả những gì Mẹ hằng ôm ấp cho riêng mình là sống đời đồng trinh, để chấp nhận cộng tác với Chúa trong việc sinh ra cho nhân loại Đấng Cứu Thế mà ai cũng trông chờ.

Chính vì điểm này mà Chúa đã ban cho Mẹ được cả hai, tức là vừa đồng trinh vừa làm Mẹ Thiên Chúa. Khi thưa lên tiếng xin vâng, Mẹ Maria hiểu được nhiệm vụ chính yếu của Mẹ là hiến mình làm dụng cụ đem Chúa đến cho nhân loại. Vì vậy, khi Ngôi Hai Thiên Chúa vừa đầu thai trong cung lòng Mẹ, Mẹ đã "vội vã" lên đường thăm viếng bà Isave. Không cần phải dài dòng, ai cũng hiểu được mục đích của cuộc viếng thăm này không phải là để Mẹ ca bài Magnificat cho bà Isave và cũng chẳng phải để nghe bà Isave tán tụng Mẹ là người có đức tin mạnh mẽ. Lý do chính yếu của cuộc viếng thăm này là để Mẹ đem Chúa đến cho gia đình ông Giacaria, đặc biệt là thánh Gioan Tiền Hô, khiến ngài phải nhảy mừng trong lòng bà Isave.

Tiếng xin vâng của Mẹ Maria còn nhắc nhớ chúng ta về đức tin sống động của Mẹ: luôn phó thác mình cho tác động của Chúa Thánh Thần. Nếu chỉ xin vâng một lần rồi thôi hoặc có thể rút lại được khi hết hứng thì rất dễ, nhưng tiếng xin vâng của Mẹ Maria là tiếng xin vâng liên tục và vĩnh viễn kể từ giây phút truyền tin. Do đó, nếu không có một đức tin mạnh mẽ và sống động thì Mẹ Maria không thể nào thưa lên được tiếng xin vâng cộng tác vào chương trình cứu chuộc. Và nếu đức tin đó không được tiếp tục nuôi dưỡng thì Mẹ Maria cũng chẳng tiếp tục sứ mạng cộng tác của Ngài cho đến ngày Mẹ được Chúa cất về trời. Vì cuộc đời tại thế của Mẹ cũng là một cuộc hành trình đức tin như mỗi người chúng ta ngày nay vậy. Và mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời là một bước Mẹ tiến cao hơn trong cuộc lữ hành đức tin. Mỗi một lần như vậy nó đòi buộc một sự tín thác cao độ hơn lần trước, vì như mọi người chúng ta, Mẹ cũng chẳng biết được tương lai ngày mai sẽ ra sao.

Như Mẹ đã cưu mang Chúa trong thân xác qua biến cố truyền tin, mỗi người chúng ta cũng cưu mang Chúa trong tâm hồn kể từ ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Vì thế, biến cố truyền tin mời gọi mỗi người chúng ta hãy xét lại xem cuộc sống Kitô hữu của chúng ta có rập theo khuôn mẫu của Mẹ Maria chưa: luôn tín thác mình cho tác động của Chúa Thánh Thần. Điều này đòi buộc mỗi người chúng ta phải luôn sẵn sàng để thưa lời xin vâng như Mẹ Maria trong mọi cảnh huống của cuộc sống hằng ngày. Bao lâu chúng ta chưa thi hành được như vậy thì bấy lâu chúng ta đừng trông mong đem Chúa đến cho người khác. Vì việc tông đồ đúng nghĩa phải là việc của Thiên Chúa. Mà bao lâu chúng ta chưa đồng tâm nhất trí với Chúa, chưa sẵn sàng đón nhận tác động của Chúa trong chúng ta thì bấy lâu Chúa và chúng ta không thể nào hoạt động giống nhau được.

Như Mẹ Maria xưa đã đồng ý để Chúa dùng Mẹ như một phương tiện đến với nhân loại thế nào thì nhiệm vụ chính yếu của mỗi người Kitô hữu ngày nay cũng chính là việc sẵn sàng hiến cho Chúa một cơ hội để Ngài tỏ mình ra cho những người chúng ta tiếp xúc trong cuộc sống hằng ngày: một nụ cười thân thiện, một ánh mắt thông cảm, một nghĩa cử bác ái, một sự nhịn nhục kẻ thù... tất cả sẽ là việc tông đồ nếu qua đó mà người ta nhận biết Chúa rõ ràng hơn, yêu mến Chúa sâu đậm hơn, và thương yêu tha nhân chân thật hơn.

Xin Mẹ Maria nâng đỡ phù trì để chúng ta ngày một tiến cao hơn trong cuộc lữ hành đức tin qua việc mở rộng tâm hồn sẵn sàng cộng tác với ơn soi động của Chúa Thánh Thần ngõ hầu Chúa Giêsu có cơ hội tiếp tục sinh xuống tâm hồn những ai chưa nhận biết Chúa.

Sr. Tâm Năng

----------------------------

 

MC 4-C29: MÀU HỒNG GIỮA MÙA CHAY


 - Lm. Giuse Hoàng Kim Toan.

GIÊSU, GIÊSU, GIÊSU

 

Giêsu, Giêsu, Giêsu. Như một lời gọi thiết tha từ sâu thẳm của trái tim vang lên giữa lòng cuộc: MC 4-C29


Giêsu, Giêsu, Giêsu. Như một lời gọi thiết tha từ sâu thẳm của trái tim vang lên giữa lòng cuộc sống. Giêsu, Giêsu, Giêsu. Như một lời gọi làm thao thức khôn nguôi làm lay động cõi lòng. Giêsu, Giêsu, Giêsu. Như một gặp gỡ làm thay đổi, đảo lộn cuộc sống. Giêsu, Giêsu, Giêsu. Danh xưng làm ấm cõi lòng vào ngày Chúa Nhật hồng.

Một thiền sư nọ trong đêm tĩnh lặng của đất trời, không trăng sao, không tiếng động tĩnh, đang ngồi thiền, bỗng chợt nghe âm vọng đâu đó một tiếng gọi âm thầm từ nơi nào đó rất mời gọi, rất thiết tha.

Vị thiền sư nghe trong lòng dường như có tiếng sóng, cơn sóng ngầm tuôn chảy nơi niềm thao thức khôn nguôi. Không thể cưỡng lại lời mời gọi, không thể dập tắt tiếng âm vang. Vị thiền sư vội vàng ra khỏi chỗ mình ngồi để ra đi. Ra đi tìm nơi tiếng vọng gọi phát xuất ra.

Vị thiền sư lên đường vào chốn rừng sâu, băng qua đèo, lội qua những con suối. Tiếng mời gọi mỗi lúc mỗi thiết tha. Chặng đường mỏi mệt vẫn chưa tìm thấy nơi tiếng vọng phát ra. Những đêm thâm u trong rừng vắng một mình, vị thiền sư lại nghe tiếng thì thầm ấy dường như réo gọi hơn.

Vị thiền sư quyết định ra khơi, đi tìm những hoang đảo xa vắng với niềm hy vọng, ở một hòn đảo xa xôi nào đó sẽ bắt gặp được tiếng thì thầm kia. Vị thiền sư ra đi và ra đi hết hòn đảo này sang hòn đảo khác, tiếng thì thầm vẫn xa vẫn xa. Một chiều tối nọ, biển dậy lên những cơn sóng lớn, trong tiếng sóng của bão biển nổi lên, vị thiền sư chợt nghe thật gần thật gần tiếng thì thầm hôm nào.

Bất kể mưa gió bão bùng, vị thiền sư lại tiếp tục ra khơi với niềm hy vọng thật gần kề. Niềm thao thức càng mỗi lúc càng dâng cao. Sự thao thức khiến vị thiền sư không thể mãi ngồi chờ mà không làm gì. Giông tố của đêm ấy đã xô vỡ chiếc thuyền mỏng manh của vị thiền sư. Trong những lúc sợ hãi nhất, vị thiền sư mê man không còn biết gì đến chuyện gì xảy ra cho mình.

Sáng hôm sau, một buổi sớm thật sớm, vị thiền sư nghe tiếng sóng nhỏ nhẹ đang ru vào những phiến đá. Chợt tỉnh mở mắt ra, vị thiền sư thấy lại khung cảnh của bãi biển hôm nào từ đó mình dong thuyền ra đi. Vẫn những khung cảnh cũ, vẫn ngôi nhà hôm nọ vị thiền sư ngồi thiền, như lạc vào trong một giấc mơ kinh hoàng nào đó mới trãi qua.

Chợt trong khung cảnh ấy, tiếng thì thầm đâu đó lại vang lên thật gần thật gần. Gần đến nỗi vị thiền sư đang bắt đầu run lên niềm hạnh phúc. Cái hạnh phúc chưa từng lần nào trong bao năm tu trì của ông gặp được. Niềm hạnh phúc ấy nghe như thật lạ, thật mới, rất gần rất gần trong trái tim vị thiền sư. Tê bại đi bởi niềm hạnh phúc vị thiền sư phát giác ra tiếng thì thầm kia phát xuất chẳng đâu xa, ngay trái tim mình.

Chợt hiểu ra rằng chẳng đâu xa, tiếng mời gọi không ở trong khu rừng vắng, cũng không ở những nơi vùng đảo hoang xa xôi nào đó ở giữa biển khơi, cũng chẳng hệ tại ở những nơi âm u, tĩnh lặng. Ngay trong lòng mình, với sự cô tịch sau khi đã dứt bỏ hết những sự vật chung quanh bám rễ, với sự trơ trọi của mọi phương thế có thể bám víu, vị thiền sư đã nhận nơi phát xuất tiếng mời gọi từ tận đáy tim. Tiếng vọng mời thiết tha vang lên trong đời sống.

Từ khi Thiên Chúa hà hơi thở Tình yêu của Người vào trong thân xác bụi đất, cũng là khi trái tim con người rung lên nhịp đập trái tim của Thiên Chúa.

Và cũng nhất là từ khi trái tim thật sự của Thiên Chúa bắt đầu rung lên nhịp đập trong trái tim của một con người trần thế có danh là Giêsu, là cũng từ khi ấy, hơn bao giờ hết, nhân loại đã và đang rung lên nhịp đập trái tim của Thiên Chúa trong trái tim nhân loại.

Tiếng thì thầm của Thiên Chúa như tiếng thầm thì hà hơi của Thánh Thần Thiên Chúa, làm cho nhân loại rung theo nhịp sống trong trái tim của Thiên Chúa. Cũng từ khi ấy, con người bước vào trong một lịch sử mới, muôn đời mới nhờ trái tim của Thiên Chúa đã nhịp đập trong trái tim của Người mang danh là Giêsu.

Giêsu, danh xưng mang lời gọi thầm thì thao thức khôn nguôi không ngừng làm xao động, run lên bao tâm hồn, bao trái tim của rất nhiều người từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Thiên Chúa mãi mãi là sự bất ngờ đối với những con người gặp gỡ. Cái bất ngờ của vị thiền sư bắt gặp sau những năm tháng dài chiêm niệm, sau những hành trình ngược xuôi đây đó, dựa vào hết phương pháp này đến phương pháp khác. Sau cùng gặp được lời gọi ấy vang lên từ tận sâu trái tim của mình.

Sự bất ngờ của Thiên Chúa mãi mãi là niềm say mê của những hành trình tìm kiếm, như lời mời gọi dứt bỏ mãi khôn nguôi, từ vực sâu thẳm tâm hồn mời gọi ra đi, lên đường tìm kiếm, như thể ở tận cùng của mọi khả năng, của mọi hy vọng, Lời của Thiên Chúa xuất hiện bất ngờ làm ngỡ ngàng, làm đảo lộn cuộc sống. Ai đã từng gặp Người, là đã từng bất ngờ khám phá ra Thiên Chúa, Người là Đấng khác.

Người là Đấng khác từ sau sự Phục Sinh của Người trong con người Giêsu. Danh xưng ấy rền vang, vang mãi không dứt Lời mời gọi của Thiên Chúa. Trong bao nhiêu giây phút ngỡ ngàng, trong bao Lời gọi từ thẳm sâu, danh xưng Giêsu, xuất hiện như ngày mới bừng sáng. Cái bừng sáng không thể không làm lay động cuộc đời, lay động bao nhiêu nghĩ suy, lay động từ chốn sâu thẳm của lòng nhân thế.

Giêsu, Giêsu, Giêsu, Người là vẻ đẹp hoàn mỹ của đất và của Trời, Danh Người là vẻ đẹp cho cuộc đời, sau tất cả những gì kinh nghiệm trải qua. Danh Người là hơi thở của Thần Linh đã phà hơi vào cuộc sống cái mới không ngừng phát triển. Giêsu, được gọi Danh Người bằng tất cả cuộc sống, bằng tất cả trái tim, bằng tất cả những khả năng của nhân loại, đã làm cho trái tim rung lên nhịp đập của giai điệu hạnh phúc viên miễn.

Giêsu, danh xưng của Người đã làm cho đôi chân này của nhân loại, không ngừng bước đi tiến về phía trước, dứt mọi hành trang cồng kềnh, vượt qua bao ngàn sóng gió, đi sâu vào trong trái tim và bất ngờ gặp gỡ ở tận sâu sự sâu thẳm của tâm hồn.

Ra đi và trở về để thấy rằng đã một lần Thiên Chúa đã phà hơi Thở Thần Linh vào trong trần thế là đã một lần Thiên Chúa trao ban cho nhân loại tất cả trái tim của Người. Người là Thiên Chúa hằng sống, hằng hiển trị trong trái tim nhân loại bằng một nhịp đập âm thầm, sâu thẳm và kín đáo.

Giêsu, Giêsu, Giêsu. Danh xưng vượt trên mọi Danh xưng mà con người có thể gọi trong niềm hân hoan và thao thức. Giêsu, Giêsu, Giêsu. Danh xưng ấy được vang lên một cách thân thiện, trìu mến, đẫm ướt trên từng đôi môi ngỏ lời của nhân loại dâng lên Thiên Chúa.

Giêsu, Giêsu, Giêsu. Đã một lần được gọi Danh Người trong cuộc sống, là đã một lần say mê lên đường, để mong gặp gỡ cho bằng được ở trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Không có gì có thể cản bước, không thể có gì có thể làm nguôi lòng, nếu chưa một lần được gọi: Giêsu, Giêsu, Giêsu.

Gặp gỡ và gọi Danh Xưng Giêsu, Giêsu, Giêsu. Không thể không trào dâng từ tận đáy lòng một thao thức mới, vững mạnh lên đường và tiếp tục khám phá ra Danh của Người trong những gì chưa thể ngờ tới. Giêsu, Giêsu, Giêsu, niềm thao thức khôn nguôi.

Trong Đức Giêsu và trong hơi thở của Thánh Thần, nhân loại vẫn và đang không ngừng đổi mới, trở thành một nhân loại được hiến thánh dâng lên Chúa Cha, những gì tinh tuyền nhất, những gì ưu việt nhất của trần gian.

Giêsu, xin cho con một lần và nhiều lần được gọi danh của Người từ thẳm sâu của trái tim, để con có thể được gọi Người là anh, là bạn, là Chúa của con.

Giêsu, Giêsu, xin cho con được gọi Danh của Người trong mọi ngày của cuộc sống để cuộc đời này của con mãi mãi là những Chúa Nhật hồng của Tình Yêu.

----------------------------

 

MC 4-C30: SÁNG KIẾN CỦA THIÊN CHÚA TRONG VIỆC GIAO HOÀ


 - Công Tạo

 

Ý nghĩa của từ Hy Lạp mà chúng ta dịch là "hoà giải" có nghĩa là khởi sự thay đổi với người khác: MC 4-C30


Ý nghĩa của từ Hy Lạp mà chúng ta dịch là "hoà giải" có nghĩa là khởi sự thay đổi với người khác. Trong nghĩa này Giao hoà đối với chúng ta có nghĩa là thay đổi cung cách sống với Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa giao hoà Dân Ítraen với Ngài; Ngài cho họ vượt qua sông Giođan như xưa đã cho họ vượt qua Biển Đỏ, canh tân Lễ Vượt Qua và Giao Ước Sinai, không còn ban cho họ Manna nhưng là hoa màu của đất mà họ sẽ chiếm và định cư. Trong Tin Mừng thánh Luca, chính người cha giao hoà với đứa con thứ, ôm hôn nó và như thế giúp người con làm hoà lại với cha mình. Cũng chính người cha nhân hậu ấy đã đi bước đầu giao hoà người con cả với em nó, gạt quá khứ sang một bên và chỉ còn tấm lòng sám hối là đáng kể. Thánh Phaolô đã viết gì cho các tín hữu Côrintô ? "Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải." Được hoà giải ta phải cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài đã đi bước đầu "Tôi đón nhận sự tha thứ và tình yêu của Ngài."

Giao Hoà rộng mở đến tương lai.

Được hoà giải với Thiên Chúa trước hết là nhìn nhận đã có điều sai lỗi trong tương quan giữa chúng ta với Ngài trong quá khứ. Hoà giải cũng có nghĩa là lưu tâm đến việc thiết lập quan hệ tốt với Thiên Chúa trong hiện tại và tương lai. Đối với dân Ítraen trong hoang địa, vượt qua sông Giođan đồng nghĩa với việc bỏ lại sau lưng một quá khứ chống đối, than trách và bất an, và canh tân Giao Ước trung tín với Thiên Chúa, hầu đưa đến việc chinh phục Đất Hứa. Hai người con trong dụ ngôn phải đoạn tuyệt với những năm tháng đã qua của cuộc sống, với mối quan hệ giữa họ và người cha, cũng như giữa hai anh em, để có thể bước vào tương lai như những người con được phục hồi phẩm giá. Sự giao hoà của người kitô hữu với Thiên Chúa hướng họ về cuộc sống phía trước để thực thi việc lành, và nhất là chiếu dọi cho cuộc sống đời sau. Phải chăng sứ điệp giao hoà mà Thiên Chúa đã trao vào đôi tay mỏng manh của chúng ta, một sứ điệp mà chúng ta phải làm phát sinh hiệu quả ngay phút hiện tại này và trong tương lai, lại không đánh động chúng ta sao ? Chính tôi giao hoà với giây phút hiện tại, nhưng hiệu quả của việc giao hoà này phải vươn tới tương lai nữa; thiếu tính hiệu quả trong tương lai, giao hoà chỉ còn là một từ hoa mỹ nhưng rỗng tuếch, không mang lại âm hưởng và như thế thật là thất bại

Đức Kitô, sự bình an và giao hoà của ta.

Đức Kitô là trung gian cuối cùng giải hoà chúng ta với Thiên Chúa. Trong phép rửa của Đức Giêsu, dòng nước sông Gioađan đã được thanh tẩy, và dân mới được tạo điều kiện thuận lợi để giao hoà với Chúa Cha. Cuộc sống tại thế của Đức Giêsu Kitô nhất là cái chết và sự phục sinh của Ngài là phương thế Chúa Cha đã chọn để giao hoà chúng ta với chính Ngài và với những ai được cứu độ. Chỉ trong Đức Kitô và qua Đức Kitô chúng ta mới cảm nhận được ơn cứu rỗi của Thiên Chúa, Đấng mong muốn giao hoà chúng ta với Ngài. Đức Kitô là lời cuối cùng của việc giao hoà mà Chúa Cha ngỏ với mọi người trên thế giới. Đó là lý do tại sao những ai sống trong tình trạng với Thiên Chúa trong Đức Kitô là những tạo vật mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi, như thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta. Quá khứ không quan trọng; điều đáng quan tâm hiện nay là tương lai, khi đó chúng ta phải sống giao hoà với Thiên Chúa và với tha nhân, và trong môi trường đó chúng ta có thể trở thành những nhà truyền giáo đích thực cho việc giao hoà.

GỢI Ý MỤC VỤ.

Hoà giải là một việc làm tốt nhưng đó có thể là một tiến trình khó khăn và gai góc. Cũng giống như những thay đổi trong cuộc sống, hoà giải đòi hỏi sự đổi thay nghĩa là phá vỡ những khuôn mẫu của quá khứ, rời bỏ con đường mòn cũ, mở ra những đại lộ mới và đặt nền móng mới. Hoà giải chính yếu là ra khỏi những tiện nghi và thói quen thoải mái và đi vào con đường mới mà Thiên Chúa xây dựng cho chúng ta, con đường của từ bỏ và yêu thương. Hoà giải với Thiên Chúa và với tha nhân bao hàm việc sẳn sàng nhìn lại quá khứ để hoán cải và để dễ dàng từ bỏ khi quá khứ có thể tiếp tục lôi cuốn chúng ta. Để thật sự giao hoà với Thiên Chúa và với anh chị em thì việc lãnh nhận bí tích hoà giải, đón nhận ơn tha thứ của Chúa chưa đủ. Đây chỉ là bước khởi đầu! Sau đó, chúng ta còn phải hằng ngày và thường xuyên nhổ tâm hồn ra khỏi những nguyên nhân sâu xa và nhiều khi rất ẩn kín làm chúng ta xa cách Thiên Chúa cũng như bất kỳ biểu hiện nào của nguyên nhân này nơi cung cách ứng xử của chúng ta. Tiếp đến là kiên quyết làm cho tâm hồn và cuộc sống có được tình yêu, hoà đồng và hoà hợp trong tình cha con với Thiên Chúa và trong tình anh em với mọi người. Thực tâm mỗi người đều cần hoà giải, trước hết với chính mình, rồi sau đó giúp cho người khác cũng đạt được sự hoà giải đích thực.

Một Giáo Hội được giải hoà và Giáo Hội thực hiện hoà giải.

Đức Thánh Cha nêu gương cho chúng ta là đừng bỏ sót những lời xin tha thứ. Giáo Hội thánh thiện nhưng chúng ta là những con cái tội lỗi. Và tội lỗi của chúng ta để lại dấu vết trên khuôn mặt của Giáo Hội. Chính vì thế, nhân danh Giáo Hội và là người đại diện Giáo Hội, vị linh mục hằng ngày trong thánh lễ phải hoà giải Giáo Hội với Thiên Chúa. Đằng khác, như là một cộng đoàn của những người tin vào Chúa Kitô, Giáo Hội rất ý thức về những phân chia và những xung đột, những khác biệt về giáo thuyết và thực hành xảy ra trong Giáo Hội. Con đường hoà giải đã đi được một vài bước nhưng vẫn còn nhiều điều phải làm. Chúng ta còn phải tiếp tục để có tiến bộ trong công cuộc hoà giải giữa các cộng đoàn Giáo hội khác nhau, giữa các thành viên của cùng một cộng đoàn Giáo hội, giữa các dòng tu, hội dòng, giữa các giáo phận khác nhau… Chỉ có một Giáo Hội thực hiện sự hoà giải với Thiên Chúa theo chiều dọc và theo chiều ngang với anh chị em trong niềm tin thì Giáo Hội đó mới có thể là tấm men hoà giải trong xã hội. Trong cuộc sống bạn đã hoà giải với Thiên Chúa chưa? Nội bộ giáo xứ của bạn có thực hiện hoà giải không? Bạn có phải là tác nhân giải hoà trong gia đình và nơi môi trường làm việc không?

----------------------------

 

MC 4-C31: NGƯỜI CHA NHÂN HẬU


·        2 Cr 5, 17-21: Cho nên, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thụ tạo mới… Mọi sự đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hòa giải với Người, và trao cho chúng ta chức vụ hoà giải. Thật vậy trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hòa giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hòa giải… Vậy nhân danh Đức Ki-tô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.

·        TIN MỪNG: Lc 15, 1-3. 11-32

Dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu

“Khi ấy, các người thu thuế và người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-siêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: «Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng». Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này:

«Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: ‘Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng’ Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ơ đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.

«Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xẩy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: ‘Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: ‘Thưa cha con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy’. Thế là anh ta đứng lên đi về cùng cha.

«Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa…’ Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: ‘Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con dê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy’. Và họ bắt đầu ăn mừng.

«Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhẩy múa, liền gọi một người đầy tơ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: ‘Em cậu đã về và cha cậu đã làm thịt con dê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khỏe’. Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha: ‘Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng’.

«Nhưng người cha nói với anh ta: ‘Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy’».

Ngẫm:

Câu hỏi gợi ý:

 

Dụ ngôn trong Tin Mừng Luca 15, 11-32 khi thì được gọi là dụ ngôn người con hoang đàng khi thì: MC 4-C31


1.      Dụ ngôn trong Tin Mừng Luca 15, 11-32 khi thì được gọi là dụ ngôn người con hoang đàng khi thì được gọi là dụ ngôn người cha nhân hậu. Tại sao vậy? Cách gọi nào chính xác hơn?

2.      Mỗi nhân vật trong dụ ngôn trên nói với chúng ta điều gì?

Suy tư gợi ý:

1.      Thật ra trả lời câu hỏi (1) nêu trên chẳng có gì khó. Trước kia Giáo hội nhấn mạnh nhiều hơn đến yếu tố thống hối, ăn năn, hoán cải của tội nhân thì gọi dụ ngôn trên là dụ ngôn người con hoang đàng. Còn sau này và hiện nay vì Giáo Hội quan tâm hơn đến chính Thiên Chúa nên gọi dụ ngôn trên là dụ ngôn người cha nhân hậu. Cả hai cách gọi đều đúng và bổ túc cho nhau, như hai mặt của một vật. Một đàng sự ăn năn sám hối của tội nhân chỉ cứu được người ấy nhờ vào lòng từ bi thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa là Cha nhân hậu. Đàng khác lòng thương xót của Thiên Chúa chỉ đem lại kết quả nếu như các con cái hoang đàng của Chúa biết sám hối tội lỗi của mình và ăn năn chừa cải.

Nhưng nếu chúng ta muốn nói chính xác hơn thì chúng ta phải gọi dụ ngôn trên là dụ ngôn người cha nhân hậu. Lý chứng là văn mạch của Sách Tin Mừng đòi chúng ta phải gọi như thế. Thật vậy Lu-ca đã viết lời dẫn nhập cho chương 15 (gồm ba dụ ngôn: con chiên bị mất, đồng bạc bị đánh mất và người cha nhân hậu) như sau:

«Các người thu thuế và người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: ‘Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng’. Đức Giê-su mới kể cho họ những dụ ngôn này». Khi viết như thế, Lu-ca muốn cho những người Pha-ri-sêu và kinh sư và mọi người hiểu rằng: Thiên Chúa nhập thể làm người nơi Đức Giê-su là Thiên Chúa đến trần gian để tìm kiếm những con chiên lạc, những đồng tiền đã rơi vãi mất, những người con hoang đàng, tội lỗi, yếu đuối, sa ngã.

2.      Đã là dụ ngôn thì bao giờ cũng bao hàm ý nghĩa giáo dục, răn dạy. Dụ ngôn người cha nhân hậu cũng mang theo ý nghĩa giáo huấn, giáo dục như các dụ ngôn khác của Sách Phúc Am. Vậy thì chúng ta học được gì ở dụ ngôn người cha nhân hậu này? Nói một cách chi tiết hơn, chúng ta học được gì từ mỗi nhân vật của dụ ngôn: từ người con thứ hoang đàng phung phá? từ người anh cả ghen tỵ và vụ lợi? từ người cha khoan dung nhân hậu?

·        Người con thứ hoang đàng phung phá rõ ràng là người không biết cách ăn ở, không biết chu toàn đạo làm con, không biết giá trị của lao động và của cải. Anh chỉ biết có ý riêng ngông cuồng và nông cạn của mình. Anh chỉ quan tâm đến sự thoả mãn các bản năng tầm thường: ăn ngon, mặc đẹp, hưởng thụ thú vui bên những người phụ nữ… Anh chỉ là một người con tầm thường. Chỉ khi anh không còn khả năng tự thoả mãn các lạc thú, anh mới nghĩ tới cha anh. Việc anh quay về nhà cha cũng do một động lực chẳng cao cả gì cho lắm, chẳng qua cũng chỉ vì miếng ăn mà thôi. Giá như anh còn tiền còn của thì chắc chắn anh chưa nghĩ tới ngày quay về. May mà anh còn nghĩ ra được (và sau này có dũng cảm nói ra bằng lời) răng anh làm như thế là lỗi với Trời và lỗi với cha anh.

Chúng ta có giống như anh con thứ hoang đàng này không? Chúng ta có dám bắt chước anh mà quay trở về với cha trong tin tưởng và khiêm tốn không?

·        Người con cả tỏ ra bực bội khi biết cha mình đối xử hết sức «ngược đời» đối với người em của anh: Thay vì trừng phạt, quở trách ông lại mở tiệc ăn mừng như tưởng thưởng cho lỗi lầm tầy trời của người em hư thân mất nết của anh. Anh thấy cách đối xử ấy không hợp lý tý nào. Và anh tuôn ra tất cả những gì vẫn âm ỷ trong lòng anh từ bấy lâu nay: «Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng» .

Thốt ra lời ấy, người con cả càng bộc lộ tấm lòng hèn mọn, nhỏ hẹp, vụ lợi của mình. Anh cũng chỉ là người anh tầm thường chứ chẳng hơn gì người em hoang đàng của anh.

Thờ phụng cha: anh chỉ mong được cha đền đáp, tưởng thưởng một con dê béo, một con cừu non. Anh không cảm nghiệm được tình thương bao la của cha là một phần thưởng mà không gì có thể so sánh được. Anh không thấy hạnh phúc lớn lao được luôn ở bên cha: được yêu thương, chăm sóc, quan phòng mọi sự.

Chúng ta có giống như anh con cả này không? Chúng ta có quan tâm đến tình phụ tử thiêng liêng hay chúng ta chỉ để ý đến quyền lợi vật chất khi chúng ta phụng sự cha?

·        Hình ảnh trung tâm của dụ ngôn – cũng như của Tin Mừng Lu-ca – là hình ảnh của người cha yêu thương, từ bi, nhân hậu. Người cha ấy yêu con đến nỗi đã làm cả điều mà không người cha nào muốn làm là chia gia tài cho người con thứ để nó đi ăn chơi phung phí. Tình yêu thương dường như đã làm mềm lòng người cha. Có thể nói người ta đã trở nên «mềm yếu» vì thương con. Rồi sau khi người con thứ đã bỏ nhà ra đi, thì chắc chắn một điều là lòng người cha luôn hướng về người con vắng nhà, luôn thấp thỏm mong con trở về, luôn trông ngóng hình bóng con từ xa. Hiểu người cha như thế chúng ta mới hiểu được câu này của Lu-ca: «Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy».

Nhưng người cha đâu chỉ yêu thương tha thứ cho một mình người con thứ hoang đàng. Ông cũng hết sức nhẫn nại, dịu ngọt, nhân hậu với người con cả, khi anh này tuy ở gần ông nhưng lại ở thật xa ông, khi anh trọng một con cừu non hơn diễm phúc được luôn ở bên cha, khi anh không chia sẻ được với cha niềm vui tìm lại được người con đã mất, khi anh ghen tỵ, so bì với người em đang tan nát tâm hồn và đầy mặc cảm.

Chúng ta có khám phá và học thêm được chút gì về Thiên Chúa là cha nhân hậu qua dụ ngôn và nhất là qua nhân vật người cha trong dụ ngôn này không? Xót thương, nhân hậu không chỉ là một tình cảm mà nhất là một thái độ, một cách sống, một cách hành động cụ thể.

Nguyện:

Lạy Thiên Chúa là Cha nhân hậu, chúng con cảm tạ lòng thương bao la của Cha, chúng con xin cha thứ tha cho những tội lỗi, hèn kém và thiếu sót của chúng con, nhất là tội… hay lỗi…). Xin cha ban cho chúng con một tấm lòng rộng mở, quảng đại, biết thứ tha và chóng quên các xúc phạm, thiếu sót của anh em chúng con, của vợ/chồng chúng con, của các con/cháu của chúng con. Chúng con nài xin cha vì danh Đức Giê-su Ki-tô Con Cha, Chúa chúng con. A-men.

(Giêrônimô Nguyễn Văn Nội)

----------------------------

 

MC 4-C32: THÊM CHÚA GIÊSU LÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN


Ga 9,1-41

A. Hạt giống...

 

Sau bài Tin Mừng Chúa nhựt trước mặc khải Chúa Giêsu là nước hằng sống, bài Tin Mừng: MC 4-C32


Sau bài Tin Mừng Chúa nhựt trước mặc khải Chúa Giêsu là nước hằng sống, bài Tin Mừng hôm nay mặc khải thêm Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian.

Người mù trong bài tường thuật này đã dần dần thấy rõ hơn: thấy sự vật bằng con mắt thể xác, và thấy Đức Giêsu là Đấng Messia bằng con mắt đức tin.

Trái lại, do cố chấp không tin, những người pharisêu càng ngày càng mù tối hơn. Đến nỗi ở cuối câu chuyện họ phải nói “Thế ra chúng tôi cũng đui mù hay sao ?” Và Chúa Giêsu đã nói với họ: “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng các ông nói rằng ‘chúng tôi thấy’ nên tội các ông vẫn còn.

Như thế, Chúa Giêsu có thể chữa lành mọi cứng đui mù cả về thể xác lẫn tinh thần, nhưng với điều kiện là người “mù” phải ý thức mình mù và khiêm tốn xin Ngài cứu chữa.

B.... nẩy mầm.

          1. Chúa Giêsu là Ánh sáng muôn dân (Lumen gentium).  Đây là một chủ đề lớn, được chọn làm đề tựa cho một hiến chế của Công Đồng Vaticanô II. Ánh sáng của Chúa soi thẳm lòng người. Giúp con người nhìn ra ánh sáng của con tim. Giúp con người tìm về nhà  Cha. Có những người mù loà, nhưng với lòng tin tưởng phó thác, đã nhìn được ánh sáng này. Ngược lại, có những con người tự phụ rằng mình sáng suốt lại chẳng nhìn ra được ánh sáng của Chúa. 

2. Một học giả kia rất thông thái nhưng cũng rất đãng trí. Một hôm ông cỡi lừa đi thăm một người bạn. Dù đang cỡi lừa, ông vẫn cứ dán mắt vào quyển sách, tay buông lỏng dây cương. Do đó con lừa sau khi đi một đoạn đường đã quay trở lại chính ngôi nhà của ông. Ông tưởng đó là ngôi nhà của người bạn. Ông nhìn ngôi nhà từ trên xuống dưới, từ trước tới sau, và kết luận: “Ông bạn của ta cẩu thả quá, nhà hư gần sập tới nơi mà không sửa sang gì cả.” Vợ ông bước ra tiếp lời: “Ông nhận xét đúng đấy. Nhưng đây là ngôi nhà của chính ông”. Nhiều người rất sáng về chuyện người khác, nhưng rất mù về những khuyết điểm của chính mình. (Ernst Wilhelm Nusselein).

3. Một thiền sư hỏi các đồ đệ rằng “Lúc nào là lúc đêm tàn và ngày đến ?” Nhiều câu trả lời được đưa ra: kẻ thì cho rằng đó là lúc ta có thể phân biệt từ xa một cây dừa với một cây cau ; người thì cho rằng đó là lúc ta có thể phân biệt từ xa một con bò với một con trâu… Cuối cùng chỉ có một câu trả lời làm vừa lòng thiền sư, đó là: khi ta nhìn mọi người và nhận ra đó là anh em của ta.

Quả thật, có những thứ ta không thể thấy được bằng mắt, nhưng chỉ thấy d0 bằng con tim, bằng tình yêu…

Lạy Chúa, Chúa đã đốt lên ngọn lửa nơi tâm hồn anh mù để anh nhận ra Chúa. Xin Chúa cũng nhóm lên ngọn lửa tình yêu nơi trái tim con, để con thấy Chúa và nhận ra Ngài nơi những người quanh con. (Hosanna)

4. Ed Aldrin là phi hành gia đã đặt chân lên mặt trăng. Anh hy vọng rằng thành tựu khoa học này sẽ không làm cho loài người chúng ta bị mù quáng không thấy được những ý nghĩa siêu nhiên của nó. Anh kể: từ mặt trăng nhìn xuống, tôi thấy trái đất chỉ như một chiếc phi thuyền nhỏ tí xíu. Và anh giải thích: nhân loại là một gia đình ở dưới sự che chở của Chúa, và chúng ta phải sống theo cách đó.

5. Chỉ có cái nhìn với con tim mới giúp cho người ta thấy đúng sự việc (Saint-Exupery).

6. Mầm khác:

----------------------------

 

MC 4-C33: DỤ NGÔN NGƯỜI CHA NHÂN HẬU,


CÂU TRẢ LỜI CHO NHỮNG NGƯỜI PHARISIÊU VÀ CÁC KINH SƯ.
Lc 15,1-32

1. VÀI ĐIỂM CHỦ GIẢI:

 

Một dụ ngôn nhắm vào đám đông bị vấp phạm. Tình hình ngày càng trở nên căng thắng từ khi Đức: MC 4-C33


1. Một dụ ngôn nhắm vào đám đông bị vấp phạm. Tình hình ngày càng trở nên căng thắng từ khi Đức Giêsu "Lên Giêrusalem ". Qua dụ ngôn cánh cửa đã đóng lại, Đức Giêsu tuyên bố: thuộc về dân Do Thái, không có nghĩa là tự động được dự tiệc cứu rỗi. Người kết luận: "Anh em sẽ khóc lóc nghiến răng khi thấy Áp-bra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Chúa, còn mình lại bị đuối ra ngoài. Bấy giờ, thiên hạ sẽ từ đông tây, nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. " (13,28-30). Những người Pharisêu và các kinh sư suýt nghẹt thở mà chết khi ngay trong ngôi nhà của một vị thủ lãnh Pharisêu đã mời Người, Đức Giêsu không những chỉ chữa một người bệnh thuỷ thủng ngày sa-bát, mà còn kể cho họ nghe dụ ngôn tiệc cưới: những khách được mời đã từ chối, thế là chủ tiệc cho mời "những người nghèo khó, què quặt, đui mù " gom nhặt "ngoài công trường, trên phố xá, đường đi, lối ngõ" (14,15-24). Và rồi, họ cảm thấy như bị xúc phạm, khi Chúa Giêsu hành động theo những gì đã nói, Người: "tiếp đón những người tội lỗi ". Điều này còn tệ hại hơn nữa, vì theo phong lục Đông phương, ý nghĩa biểu tượng của việc nhận biết và đón tiếp qua bữa ăn có tầm quan trọng đặc biệt - Người ăn uống với họ "! Bởi vậy, những người Pharisêu và các kinh sư "kêu trách Người " như ngày xưa, khi vượt qua sa mạc, tổ tiên họ đã kêu trách Chúa.

Chương 15 có giá trị thực sự là nhờ ba dụ ngôn Đức Giêsu kể cố ý nhắm vào các kinh sư và những người Pharisêu vì họ tự cho mình là công chính, mà khinh khi những người tội lỗi, và những người bị loại trừ.

Ba dụ ngôn này, được ngắt nhịp bằng một điệp khúc, ca ngợi tình thương Thiên Chúa được tỏ bày nơi Đức Giêsu; tình thương ấy dành cho những người không được thương yêu và không đáng yêu; những người, một cách gián tiếp, lên án sự nghiệt ngã và nghiêm khắc mà những kẻ tự phụ là công chính dành cho họ: dụ ngôn con chiên lạc "mất rồi lại tìm thấy", dụ ngôn đồng bạc "mất rồi lại tìm thấy", dụ ngôn cậu con thứ "mấtt rồi lại tìm thấy ".

Chỉ dụ ngôn thứ ba này được đọc trong Chúa nhật thứ 4 Mùa Chay năm C này. Dụ ngôn gồm hai cảnh liên kết với nhau. Cảnh thứ nhất: vai diễn là người con thứ. Cảnh thứ hai: vai diễn là người con cả; trong cả hai cảnh ấy, người cha đóng vai quan trọng có lính quyết định.

2. Trong dụ ngộn ấy, người con thứ "đã mất rồi lại tìm thấy"

Khuôn mặt của người con thứ được diễn tả hơi cường điệu trong cảnh thứ nhất của dụ ngôn tuyệt diệu này. Không đợi tới khi người cha qua đời, anh đòi chia gia tài ngay. Rồi ra đi để sống tự do. Mau chóng khánh kiệt vì cuộc sống phóng đãng. Anh phải làm công cho một người ngoại giáo ở đất khách quê người, và miễn cưỡng phải "chăn heo " cho chủ - đối với một người Do Thái, đây là công việc hèn hạ - vì heo là một con vật dơ nhớp đối với Do thái giáo. Bị dằn vặt bởi ý nghĩ ở nhà cha thì đồ ăn dư thừa, người làm công ăn không hết, thế mà ở đây anh đói khát, chỉ mong được "tống đầy bụng những thứ heo ăn " mà không được.

Vừa đói khát, thiếu thốn vừa ân hận, một ngày kia, anh quyết định trở về. Anh phác họa trong đầu những lời thống thiết nhất để xoa dịu cơn giận của người cha: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con thật không xứng đấng được gọi là con cha nữa. Hãy coi con như một người làm công trong nhà thôi "

Nhưng, chưa kịp thốt lên một lời, 'người' cha đã giang rộng vòng tay xiết chặt lấy anh. Cho tới bây giờ, anh chưa một lần nghi ngờ tình yêu vô bờ bến của cha anh. Con tim anh rộn ràng những nhịp đập thổn thức. Không phải đứa làm thuê !

Con ta chứ! Hãy mặc áo đẹp ngày đại lễ. Đeo nhẫn vào tay, biểu hiệu quyền uy. Xỏ giầy vào chân, biểu hiệu người tự do. Hãy ngồi vào bàn tiệc. Mọi thành phần gia đình đang quây quần bên bàn ăn cùng chia sẻ niềm vui của người cha.

3. Còn người anh trong tâm trạng 'giận dữ".

Người anh "từ ngoài đồng " về đến nhà thì cuộc vui đang diễn tiến. Nghe trong nhà có nhạc vui anh hỏi xem có chuyện gì? Hiểu ra, tâm trạng anh chuyển từ ngạc nhiên sang "giận dữ". Lại có thể cư xử như vậy với thằng con hư đốn ư? Như phản ánh thái độ của các kinh sư và những người Pharisêu luôn chỉ nghĩ đến phụng sự Chúa không sai một lời, nên, anh cần nhằn với cha mình: "Đã bao năm con phụng dưỡng cha, không bao giờ' bất tuân hay trái lệnh, mà chẳng bao giờ cha cho con một con dê để vui với bạn bè ". Để ở lại nhà cha, anh đã cư xử thật không khác một người làm công, cần mẫn, nhưng vô tình, xa lạ. Anh không thể hiểu được ngôn ngữ của Giao ước (mà cha anh nói với anh: "Con ơi! Con luôn ở bên cha, mọi sự của cha là của con mà ". Anh chỉ nói bằng ngôn ngữ của quyền lợi và nghĩa vụ, của mệnh lệnh và phần thưởng. Như các kinh sư và những người Pharisêu đối với tội nhân, anh cũng giữ khoảng cách với đứa em mới trở về mà mọi người đang ăn mừng. "Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo để ăn mừng ".

4.... lòng quảng đại phi thường của người cha.

Nếu phải coi chừng để đừng quên người con cả, thì chúng ta càng không được quên chân dung người cha mà từ đầu đến cuối dụ ngôn luôn là một nhân vật trung tâm, một người cha mà tình yêu luôn thôi thúc ông hướng về các con. Ông không chỉ ngồi chờ. Phải "chạy ra " coi, và ông phải chạy ra đến hai lần.

Ông chạy ra. (Hấp tấp, một thái độ đặc biết đối với người đông phương), ôm lấy cổ đứa con hoang đàng. Hôn nó tới tấp. Nâng nó lên, ngắt quãng những lời nó định nói, đưa nó vào nhà. Nhà của nó mà. "Mau lên! " Ông nói với các đầy tớ không chần chừ một giây. Phải mặc cho cậu chiếc áo đẹp nhất xứng với cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay cậu, mang giầy vào chân cậu Giết bê béo. Dọn tiệc ăn mừng. "Mau lên! " vì một niềm vui đang trào ngập lòng ông: " Con ta đây đã chết nay sống lại đã mất nay lại tìm thấy"'. Ông lại chạy ra để nài nỉ người anh vào nhà, để người anh nhìn nhận đứa em mà anh ta đã miệt thị, để dự tiệc chung vui với mọi người.

Đây đúng là một dụ ngôn có tầm vóc thần học. Dụ ngôn của ân huệ Chúa ban tặng con người. Dụ ngôn về tình yêu nhưng không Cha ban cho mọi người, dầu tội lỗi mấy đi nữa. Cha muốn họ tham dự niềm vui, muốn mời họ khám phá ra tình huynh đệ chân chính. Làm sao không nhìn ra qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn trao cho chúng ta bí mật trong cách cư xử và đời sống của Người? Người là người Con được Cha sai đến loan báo sự hòa giải cho các tội nhân. Đó là những người mà Đức Giêsu khắc họa hình ảnh nơi người em và đó cũng là những người được mời gọi nhận ra chính mình nơi hình, ảnh của người anh!

 Một dụ ngôn đặt chúng ta trong tình trạng người anh. Thật ra, dụ ngôn còn để ngỏ đó. Người anh cả có thuận theo lời khuyến dụ của cha anh không? Anh có bằng lòng vào chung vui không? Anh có ưng thuận chung bàn với người em đã trở nên "dơ" không? Hay anh vẫn giận dữ... Tường thuật của Tin Mừng không trả lời... Có lẽ mục đích của Tin Mừng là để chúng ta tự phác họa cách chúng ta sẽ đối xử với anh em mình.

Huguses Cousin kết luận: "Thính giả là độc giả hãy đặt mình vào vị trí của người anh: chính tôi sẽ ưng thuận lời thỉnh cầu của người cha hay không. Thuận thì không dễ đâu, có khi khổ nữa. Dụ ngôn cho thấy sự đáp ứng ý cha không tự đến cách dễ dãi. Kết thúc của dụ ngôn đặt chúng ta vào vị thế' người anh. Phụng vụ Mùa Chay như chẳng hoan hỉ đặt chúng ta vào vị thế này, mà trái lại, như muốn chúng ta thấy mình trong tâm trạng người em. Thánh Luca thì chắc chắn nhấn mạnh hơn đến thái độ người anh. Dẫu sao, qua suốt câu chuyện, chúng ta vẫn thấy nổi bật lên tình yêu là lòng cảm thương của người cha đối với từng người. Chính nhờ tình thương này mà tội nhân hối cải, và chúng ta vui vì họ trở về dù đôi khi rất khó mà vui được. "

("L Evangile de Luc", Ccnturion. trg 214-215).

II. BÀI ĐỌC THÊM:

1. Cả hai người con của dụ ngôn cùng hiện hữu trong ta

("Célébrer" Tạp chí của Trung tâm Quốc gia về Mục vụ Phụng vụ số 2 1 7, trg 2 )

Niềm vui Phục sinh đã gần. Chúng ta có ưng thuận chia sẻ niềm vui của người cha và đón nhận lời mời gọi dự lễ? Như dân lsrael vào đất Hứa, chúng ta cũng phải sống kinh nghiệm vượt qua, đó là cuộc vượt qua của sự hòa giải, cuộc vượt qua này sẽ tái tạo chúng ta trong một hiện hữu mới. Dụ ngôn về người cha và hai người con vẫn để ngỏ! Không ai xác định được câu chuyện sẽ kết thúc thế nào. Chúng ta hãy nhập vai. Cả hai người con cùng hiện diện trong ta. Chúng ta có thể nhận ra mình trong những ảo tường của họ.

Cả hai cùng hiểu lầm về bản chất của mối tương quan giữa họ với cha và không biết tình yêu của cha mình. Hãy theo sát những toan tính của người con khi trở về. Anh đã sống lại nhờ người cha hân hoan loan báo sự tha thứ. Nhưng chúng ta cũng là người anh, xơ cứng trong kiêu căng vì đã trung thành với cha. Anh sẽ cởi mở và chọn một chỗ ngồi trong bàn tiệc tập thể với những kẻ mới đến, những kẻ từ xa trở về. Còn đối với chúng ta, ai sẽ là "những người khác' " mà cộng đoàn chúng ta phải mở rộng cửa đón tiếp? 

Nhận biết anh em là điều kiện để Cha nhận biết ta. Hòa giải với anh em là cửa ngõ để hòa giải với Thiên Chúa. Đó là chân lý trong Thánh lễ tạ ơn (eucharistie) mà chúng ta cử hành.

2. Tha thứ: từ ngữ đúng nhất của đức tin Kitô giáo

(H. Denis, trong  100 từ ngữ diễn tả đức tin", DDB , trg 17-18).

Trong các từ ngữ chỉ đức tin Kitô giáo, thì chắc chắn tha thứ là ưu việt hơn cả. Không phải tình cờ mà nó nằm trong kinh Lạy Cha.

Con chiên lạc, người con đi hoang, người phụ nữ ngoại tình, Dakêu trên cây sung, người bại liệt được ròng xuống từ trên mái nhà. Đức Giêsu đã gặp tất cả những người này. Họ là những người tội lỗi, lầm lạc, hư mất. Nhưng, Thiên Chúa tha thứ cho họ trong Đức Giêsu mà không cần một điều kiện tiên quyết nào. Người không đòi hỏi gì. Đức Giêsu không bảo: "Làm cái này rồi tôi tha thứ cho ". Không? Người tha thứ rồi mới nói: "Hãy về và đừng phạm tội nữa ".

Người ta có thể chất vấn: tại sao tha thứ lại là một điều thần thiêng như vậy? Tại sao tha thứ lại đưa người ta đến gần Thiên Chúa thế?

Câu trả lời có lẽ nằm trong chính từ ngữ: tha thứ vì tha thứ là một ân huệ ở trên cao, siêu việt. Ơn huệ thứ nhất ta được là hiện hữu của ta như một tạo vật. May mắn là chúng ta vẫn là vậy. Nhưng cách cư xử, phong tục, lỗi lầm của chúng ta có thể phá hủy ơn huệ đầu tiên này nơi ta, làm chúng ta bị "tha hóa "

Chính lúc đó ơn tha thứ đến, một loại ơn tái tạo. Chúng ta đã chết mà nay sống lại. Chúng ta không còn phải chịu đựng lẫn nhau nữa, chúng ta lại chấp nhận lẫn nhau và lại thương yêu nhau. Đó là một cuộc tái sinh, một sự Phục Sinh, một bước đi vào đời sống mới.

Như vậy, thật là tốt đẹp khi chúng ta được tha thứ. Tuy nhiên, thẳng thắn mà nói, liệu chính chúng ta có thể tha thứ được không? Tha thứ đây không phải là quên, cũng không phải là chối bỏ những xác tín của chúng ta, mà là tìm đến với kẻ xúc phạm ta. Và không cần để mất một chút gì về chân lý, hoặc về lương tri phân biết tốt xấu, để nói với kẻ phạm lỗi: bạn là anh, là chị lôi.

Và có thể thêm một lời phi thường này: chính bạn hãy tha cho tôi, vì bạn đã không xúc phạm đến tôi nếu trước đó tôi đã không xúc phạm đến bạn.

----------------------------

 

MC 4-C34: NGƯỜI CON TRAI ĐI HOANG


Lu-ca 15, 1-3. 11-32

“Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này:

"Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: 'Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng.' Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.

"Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu,  nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: 'Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói ! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: 'Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha,  chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.' Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.

"Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: 'Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa ...'  Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: 'Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu,  rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng !  Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.' Và họ bắt đầu ăn mừng.

"Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: 'Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ.' Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha: 'Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng !'

"Nhưng người cha nói với anh ta: 'Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.'"

***

 

Dụ ngôn "Người con trai đi hoang" này thật quý báu, chỉ được một mình Lu-ca ghi lại, vì nó: MC 4-C34


Dụ ngôn "Người con trai đi hoang" này thật quý báu, chỉ được một mình Lu-ca ghi lại, vì nó đặc biệt phù hợp với mục đích và tinh thần của sách Tin Mừng này. Không phải là không có lý do khi người ta gọi truyện này là truyện ngắn vĩ đại nhất thế giới, vì trong đó thể hiện tất cả những gì như văn chương hoa mỹ,  nhân tính sâu đậm, cảm tình rộng lớn, bức tranh toàn bích về ân điển và tình yêu của Thiên Chúa.

Theo luật của người Do-thái, người cha không được tự do phân chia gia tài mình tùy ý thích, đứa con cả đương nhiên được hai phần ba, đứa con thứ một phần ba (Đnl 21,1). Không phải là việc lạ khi một ông cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông muốn được nghỉ ngơi khỏi hoạt động kinh doanh. Nhưng có một sự vô tâm trở tráo nơi đứa con thứ khi nó đề xuất việc chia gia tài này. Thực ra nó đã nói "cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng được lãnh khi cha chết, và hãy để tôi ra khỏi nơi này." Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì nó phải có một bài học đắt giá, và ông đã cho như ý nó xin. Tức khắc đứa con lấy phần riêng của nó và bỏ nhà ra đi …
Hắn nhanh chóng tiêu xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc cấm kỵ đối với người Do-thái vì luật pháp nói: "Đáng nguyền rủa kẻ nào chăn heo." Và Chúa Giê-su cho nhân loại tội lỗi một lời khen lớn nhất chưa từng có: "Khi nó trở về với chính mình (tỉnh ngộ). Chúa Giê-su tin là bao lâu con người còn xa cách và chống nghịch Thiên Chúa, thì con người không thực sự là con người. Con người chỉ thực sự là chính mình khi con người đang đi con đường về nhà. Có một điều kỳ diệu nơi Chúa Giê-su là Ngài không tin rằng con người hư hỏng hoàn toàn. Ngài không bao giờ tin rằng ai đó có thể tôn vinh Thiên Chúa bằng cách phỉ báng con người. Ngài tin rằng con người không bao giờ được thực sự là mình cho đến khi nào con người trở về nhà với Thiên Chúa. Cho nên đứa con đã nhất định trở về nhà và xin cha nhận lại mình không phải để làm con, nhưng làm một tên nô lệ mạt hạng trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà cha. Theo một nghĩa thì người nô lệ là một phần tử của gia đình, nhưng đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào. Vậy khi đứa con đã về nhà, cha chàng không để chàng kịp mở miệng xin làm đầy tớ. Ông đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tượng trưng cho việc được tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, vì nếu ai cho kẻ khác chiếc nhẫn ấn tín của mình thì cũng như ủy quyền cho người đó thay thế mình; đôi giày là dấu hiệu làm con khác với nô lệ vì con cái trong gia đình mới mang giày, còn nô lệ thì không. Và một yến tiệc được bày ra để mọi người ăn mừng đứa con đi hoang trở về nhà.

Chúng ta dừng lại đây để thử nhìn xem chân lý trong dụ ngôn này:

Một hình ảnh đầy đủ về tính chất và hậu quả của tội lỗi.

Tội lỗi thường do sự lựa chọn tự ý và do lòng muốn hưởng lạc của con người. Kết quả là tội nhân thấy ảo ảnh của nó: nỗi khổ, ách nô lệ, niềm thất vọng ; về phương diện hậu quả ta không thể thêm gì vào cái cảnh người con trai ở xứ xa, sau khi tiêu xài nhẵn túi, nạn đói kém đến, chàng ta bán thân đi giữ heo, phải ăn cả những món khó nuốt dùng cho heo ăn mà cũng chẳng được no.

Nhưng dụ ngôn này phải gọi là dụ ngôn Người Cha Nhân Lành mới đúng, vì nó cho ta biết về tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.

Người cha hẳn đã mỏi mắt trông chờ đứa con trở về nhà, vì ông trông thấy con từ đàng xa. Khi con gặp cha thì cha liền tha thứ cho con và không một lời trách móc. Có nhiều cách tha thứ, có sự tha thứ được ban cho như một ân huệ, và tệ hơn nữa là khi một kẻ nào đó được tha thứ nhưng bao giờ cũng kèm theo một dấu hiệu, một lời nói, một ngăm đe rằng tội kẻ ấy vẫn còn giữ đó. Một lần kia, Lincoln được hỏi ông sẽ đối xử thế nào với quân phiến loạn miền Nam, khi họ thua trận và trở lại liên hiệp với Hoa Kỳ. Người hỏi câu ấy nghĩ rằng ông sẽ báo thù họ ghê gớm, nhưng Lincoln trả lời: "Tôi sẽ đối xử với họ dường như chưa bao giờ họ ly khai với chúng ta."

"Khi được yêu bằng thứ tình yêu này, thì kẻ là đối tượng của lòng nhân từ sẽ không cảm thấy bị hạ nhục, nhưng như thể được tìm thấy lại và "thêm giá trị". Trước hết người cha tỏ bày cho đứa con niềm vui của ông vì nó đã được "tìm thấy lại" và "sống lại". Niềm vui này cho thấy rằng một sự thiện vẫn được giữ gìn nguyên vẹn: một đứa con, dù đi hoang, vẫn thực sự là con của cha nó. Hơn nữa niềm vui này là dấu chỉ của một sự thiện đã tìm thấy lại, trong trường hợp của đứa con hoang đàng, đây là việc trở lại với sự thật của chính nó." (ĐTC Gio-an Phao-lô II, DM6)

Nhưng câu truyện đến đây chưa chấm dứt. Người anh cả bước về và anh thực sự buồn rầu vì em của anh đã trở về. Người anh cả đại diện cho các đạo sĩ Do-thái tự kiêu, tự mãn, họ thà xem thấy tội nhân bị tiêu diệt hơn là được cứu. Có mấy điều nổi bật nơi người anh cả.

Tất cả thái độ của anh chứng tỏ rằng bao nhiêu năm anh vâng lời cha chẳng qua chỉ là bổn phận buồn rầu, chứ không phải là công việc của tình yêu.

Thái độ của anh là thái độ thiếu hẳn sự cảm thông. Anh nói về người em nhưng không dùng tiếng "em tôi" mà dùng chữ "thằng con của cha." Chàng là thứ người tự tôn, sẵn sàng đạp kẻ nào đã ngã xuống rãnh bùn hôi thối càng ngã sâu hơn nữa.

Tâm địa chàng rất dơ bẩn. Câu truyện không nói tới gái điếm cho đến khi chính miệng chàng nói ra. Hẳn chàng đã nghi ngờ, tố cáo em chàng về thứ tội chính chàng rất muốn làm. "Dụ ngôn này trình bày khuôn mặt người anh cả từ chối dự tiệc. Anh ta trách em và những lầm lạc của nó, và trách cha mình về việc đón tiếp mà ông dành cho nó. Đây là một dấu chỉ cho thấy anh ta không hiểu lòng tốt của cha. Bao lâu người anh này còn quá tự tín vào bản thân và những công trạng của mình, ganh ghét và khinh bỉ, đầy chua xót và giận dữ, không hoán cải và giao hòa với cha và với em mình, thì bữa tiệc chưa thể hoàn toàn là bữa tiệc liên hoan mừng cuộc gặp gỡ và tái ngộ.

Sự mô tả chính xác tâm trạng của đứa con hoang đàng giúp ta hiểu một cách đúng đắn thế nào là lòng nhân từ của Thiên Chúa. Không thể nghi ngờ được rằng, trong hình ảnh đơn sơ và sâu sắc này, gương mặt của người cha gia đình mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như là Cha. Lối ứng xử của người cha trong dụ ngôn, cách hành động của ông biểu lộ thái độ của nội tâm ông. Người cha của đứa con đi hoang luôn trung thành với phụ tính của ông, trung thành với tình yêu lai láng mà ông vẫn có đối với con ông. Sự trung thành của người cha đối với chính bản thân mình được diễn tả đặc biệt, khi nhìn thấy đứa con trở về ông chạy ra ôm cổ hôn lấy hôn để. Tuy nhiên lý do của niềm xúc động này phải được tiến triển sâu xa hơn nữa: người cha ý thức rằng sự thiện cảm lo âu đã được cứu, đó là tính người của con ông. Mặc dù nó đã phung phí tài sản, nhưng tính người của nó vẫn còn nguyên vẹn. Hơn nữa, nó như được tìm thấy lại: "Chúng ta phải ăn mừng và hoan hỉ vì em con đây đã chết nay sống lại đã mất mà nay lại tìm thấy." (DM6).

Ở đây một lần nữa, chúng ta lại gặp một chân lý kỳ diệu là ăn năn, xưng tội với Thiên Chúa dễ hơn xưng tội với loài người. Thiên Chúa đoán xét nhân từ hơn những người ngoan đạo, tình yêu của Thiên Chúa rộng lớn hơn tình yêu của loài người, Chúa có thể tha thứ khi loài người không muốn tha thứ. Đứng trước một tình yêu như vậy, chúng ta không thể không chân trọng kinh ngạc, ngợi khen và yêu mến Ngài hơn.

----------------------------

 

MC 4-C35: NGƯỜI CON PHUNG  PHÁ.


Mở

 

Một lần kia, Chúa phán với thánh Gierominô: Hỡi con, con hãy cho cha một vật, mà con còn: MC 4-C35


Một lần kia, Chúa phán với thánh Gierominô: Hỡi con, con hãy cho cha một vật, mà con còn giữ lại. Thánh Gierominô thưa: “lạy Chúa, con đã dâng hết cho Chúa, linh hồn và xác, trí khôn, trái tim, tâm tư thất tình, con đã dâng cho Chúa hết rồi. Nhưng Chúa vẫn bảo: con chưa cho cha hết; con còn giữ lại một vật. Thánh Gierominô hỏi lại Chúa: Vậy lạy Chúa, con còn giữ lại gì ? Chúa phán: con còn giữ lại tội lỗi. Cái đó mới là của con làm ra, và là của con; còn vật khác là của cha, cha gửi con. Vậy con hãy dâng tội lỗi cho cha, để cha thiêu hủy nó bằng ngọn lửa thương yêu của Thánh Tâm cha. Con hãy dâng chúng cho cha, để cha dùng Máu thánh cha mà tẩy rửa chúng.

Vậy để giúp đỡ chúng ta được can đảm, dâng tội lỗi cho Chúa, hôm nay Chúa đã nói đến lòng thương xót của Chúa, bằng kể dụ ngôn người cha nhân từ, đón tiếp đứa con phung phá trở về, mặc dầu nó chỉ xin được làm đầy tớ, vậy mà người cha vẫn nhận nó làm người con như cũ. Sau đây là những câu truyện ghi lại lòng thương xót của Chúa đối với các tội nhân.

1. Tiên tri Gionas con trai ông Amathi đã bị ném xuống biển, và bị cá nuốt vào bụng ba đêm ngày, vì đã không vâng lệnh Chúa, trốn nhiệm vụ rao giảng. Sau khi được con cá nhả ra ở bờ biển, Chúa truyền cho tiên tri Gionas phải vào rao giảng cho dân thành Ninivê biết, Còn bốn mươi ngày nữa, Chúa sẽ huỷ hoại cả thành từ con người đến loài vật, nếu họ không ăn năn hối cải. Nghe tin này, nhà vua đã bỏ tro lên đầu, rồi còn ra lệnh cho quốc dân, phải ăn chay hãm mình, để xin Chúa tha thứ. Còn tiên tri Gionas, sau khi rao giảng, đã ra làm cái chòi dưới bóng cây tường vi, để chờ án phạt của Thiên Chúa. Nhưng khi thấy quá bốn mươi ngày rồi, mà không thấy Chúa phạt dân thành Ninivê, tiên tri mới cằn nhằn rằng: lạy Chúa, con nghĩ có sai đâu. Chúa đã phán rằng: bốn mươi ngày nữa Chúa sẽ phạt; mà nay đã quá bốn mươi ngày mà chẳng thấy Chúa phạt. Như thế còn ai tin tuỏng con nữa; mặt mũi nào còn muốn sống để thấy người ta. Xin Chúa cất con về với Chúa để khỏi nhục nhã. Đêm hôm ấy, Chúa khiến sâu bọ cắn rễ, làm cây tường vi chết và rụng hết lá. Ngày hôm sau bị nóng nực quá, vì mất bóng mát của cây tường vi, tiên tri Gionas lại cằn nhằn rằng: Lạy Chúa, đã nhục nhã mất hết tín nhiệm với dân thành Ninivê, bây giờ chỉ nhờ cây tường vi để có bóng mát cho đỡ nóng, thì Chúa lại để cho nó chết. Lúc ấy Chúa phán với tiên tri Gionas rằng: chỉ vì tiếc bóng mát, mà con không muốn cho cây tường vi chết, thì sao con lại muốn cho cha hủy hoại cả dân thành Ninivê đã ăn năn cải thiện, trong đó có thêm 120.000 trẻ em vô tội.

Câu truyện trên đây đã nói lên lòng thương xót của Chúa đối với chúng ta là những tội nhân  yếu đuối, đó là lý do Chúa thúc đẩy ta, can đảm cậy.

2. Hôm ấy những người biệt phái dẫn một người đàn bà dến và thưa với Chúa Giêsu rằng: thưa thày chúng tôi mới bắt được thiếu phụ này đã phạm tội ngoại tình. Mà luật Môisen bắt ném đá người này chết. Vậy thày cho biết ý kiến của thày. Làm việc này, họ có ý dẫn Chúa Giêsu vào chỗ bí. Nếu Chúa tha cho người đàn bà này, Chúa sẽ lỗi luật ông Môisen, và dân chúng sẽ phản đối. Nếu Chúa chấp nhận việc ném đá, thì Chúa sẽ mất cảm tình với những người tội lỗi, mà Chúa hằng đi lại rao giảng. Nghe họ tố cáo, Chúa không trả lời. Nhưng thấy họ thúc gịuc quá, Chúa mới bảo: Ai trong các ngươi sạch tội, hãy cầm đá ném người đàn bà này trước đi. Nói xong, Chúa cúi xuống, lấy ngón tay viết xuống đất. Anh chị em có biết Chúa viết gì không ? Chúa viết những tội ngoại tình của chính mấy ông biệt phái đã phạm, và các ông đã khéo che đậy. Các ông biệt phái thấy tội ngoại tình của mình bị lộ, các ông đã mắc cỡ rút  lui. Ong già rút lui trước, ông trẻ rút lui sau, vì ông già nhiều tội hơn. Thấy mấy người biệt phái rút lui hết, Chúa mới đứng lên hỏi người thiếu phụ rằng: những người tố cáo chị đâu cả rồi ? Người đàn bà sợ sệt run rẩy thưa: lạy thày họ đi hết rồi. Bấy giờ Chúa nhẹ nhàng nói với thiếu phụ này rằng: Này chị, tôi cũng không lên án chị đâu; chị hãy về, và từ rày đừng có phạm tội nữa. Thực là một bản án rất nhân từ đầy lòng thương xót. Trên thế gian này, đâu tìm ra được những bản án nhân từ như vậy. Con người chúng ta yếu đuối tội lỗi, mà đã dám lên án nhau một cách rất gắt gao, nay giơ tay đả đảo người này, mai giơ tay đả đảo người khác. Còn Chúa Giêsu là đấng vô tội, trong sạch vô cùng, lại ở rất nhân từ với chúng ta là con người yếu đuối.

3. Nếu khách du lịch tới viếng nhà thờ chánh toà Madrid, thủ đô nước Tây ban Nha, họ phải ngạc nhiên khi thấy người ta trưng bày và tôn kính tượng chịu nạn, mà đóng đinh có một tay trái, còn tay phải để rũ xuống. Người ta truyền lại rằng: có một chàng thanh niên yếu đuối, hay sa ngã mất đức trong sạch. Cha giải tội đã an ủi khuyên răn, nhưng anh ta vẫn luôn sai lỗi. Bởi vậy, lần kia, khi anh ta vào xưng tội, cha giải tội tưởng lầm, cho anh là không quyết chí dốc lòng chừa, nên cha giam, không ban phép giải tội cho anh ta. anh ta buồn lắm, nên khi vừa ra khỏi tòa giải tội, anh đã đến quì trước tuợng chịu nạn, vừa khóc vừa thưa với Chúa rằng: Lạy Chúa, Chúa thấu suốt tâm can con người; Chúa biết rõ con đã thành tâm ăn năn hối  cải, nhưng chỉ vì xác thịt con quá yếu đuối nặng nề, nên đã sa đi ngã lại. Vậy nếu cha giải tội không ban phép giải tội cho con, thì ít nhất là xin Chúa cũng tha thứ cho con. Anh ta vừa nói tới đó, thì bỗng tượng Chúa rung động, rồi tay phải Chúa giật ra khỏi cánh thánh giá, tượng Chúa cúi đầu xuống, tay phải Chúa ôm lấy đầu người thanh niên mà phán: Hỡi con, linh hồn cha đã phải mua bằng giá rất đắt, là bằng máu thánh cha, máu thánh con Đức Chúa trời. Vậy nếu cha giải tội đã hiểu lầm mà không ban phép giải tội cho con, thì bây giờ cha giải tội cho con. Nói xong Chúa giơ tay làm dấu thánh giá và đọc: Cha tha tội cho con, nhân danh cha và con và Thánh Thần. Thế rồi tay Chúa cứ để rũ thấp xuống, chứ không đặt vào cánh thánh giá như trước nữa. Đây là cử chỉ thương xót của Chúa đối với chúng ta là tội nhân yếu đuối.

Kết

Lần kia, thánh nữ Têrêxa hài đồng Giêsu nói với một chị bạn rằng: này chị, chúng ta có một người cha đầy lòng nhân từ thương xót. Vì quá thương xót và nhân từ đối với chúng ta, nên Chúa mắc phải hai cái tật lớn. Nếu người cha thế gian mà mắc phải hai tật đó, thì cả là cái khổ cho gia đình và cho con cái. Còn đối với Chúa, Chúa mắc phải hai cái tật đó, thì cả là cái gì vô cùng quí giá, là một hạnh phúc không thể tả, biểu lộ được tất cả lòng thương xót của Chúa đối với chúng ta là con cái của Ngài. Hai cái tật lớn đó, là Chúa bị đui và bị kém toán. Chúng ta phạm đã nhiều tội, và phạm nhiều lần, vậy mà Chúa vẫn mần ngơ không phạt, dường như Chúa bị đui không thấy. Nhưng khi nào chúng ta ăn năn hối cải, khiêm tốn nhìn nhận tội lỗi thì Chúa tha hết, dường như Chúa kém toán, không muốn tính chúng ta phạm bao nhiêu tội và đã phải phạm mấy lần. Nếu không phải là lời của một Đấng thánh như Têrêxa hài đồng Giêsu, thì anh chị em bảo là tội nói lộng ngôn. Nhưng thực ra Chúa bị đui và bị kém toán vì thương ta yếu đuối, thì ta phải dọn mình xưng tội mùa Phục sinh để đáp đền lòng thương xót của Chúa. Amen.

Lời nguyện giáo dân.

Anh chị em thân mến, trong bài phúc âm hôm nay, Chúa đã nói về dụ ngôn người cha nhân từ đón tiếp đứa con phung phá trở về, có ý nhắc nhở chúng ta về lòng thương xót của Chúa đối với tội nhân.

1. Vậy xin Chúa cho chúng ta nhớ đến cử chỉ của Thiên Chúa đã tha thứ cho dân Ninivê, để chúng ta được siêng năng trông vậy vào lòng thương xót của Chúa.

2. Xin Chúa cho chúng ta nhớ đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với dân thành Ninivê, để chúng ta được can đảm đến xin lỗi Chúa nơi tòa giải tội.

3. Xin Chúa cho chúng ta biết nhìn vào lòng quảng đại của Chúa Giêsu đối với người đàn bà ngoại tình, để chúng ta được vững vàng trông cậy vào lòng thương xót Chúa
.
4. Xin Chúa cho chúng ta biết nhìn vào lòng quảng đại của Chúa Giêsu đối với người đàn bà ngoại tình, để xin Chúa cho mọi người trong xứ chúng ta, biết hãm mình ép xác dọn mình xưng tội rước Chúa trong mùa phục sinh, mà đáp đền lòng thương xót của Chúa đối với chúng ta.

Chúng ta hãy cầu nguyện

Lạy Chúa, Chúa đã thương xót tha tội và cất hình phạt cho thành Ninivê; Chúa cũng đã nhân từ tha tội mà không phạt đàn bà ngoại tình. Xin Chúa cho tất cả chúng con được lòng trông cậy vào lòng thương xót của Chúa, được can đảm đến xin lỗi Chúa nơi tòa giải tội, và được ơn Chúa tha thứ trong tuần thánh này.

Mở

Trong những ngày mới lập quốc, một đoàn quân Hoa Kỳ đóng quân tại vùng đất người da đỏ. Ơ đó đời sống trở nên khó khăn và nguy hiểm, vậy mà anh binh sĩ        luôn bị kỷ luật trừng phạt về tội say rượu. Lần này anh lại bị đưa ra tòa án quân sự. Ông đại tá chánh án hỏi: lần này tôi phải xử anh thế nào đây vì anh đã bị kỷ luật nhiều lần, mà anh cứ tái phạm hoài; chúng tôi đã làm mọi cách, bây giờ còn phải làm sao nữa ? Ông đại úy trẻ thưa: Xin phép đại tá cho tôi coi lại hồ sơ. Vậy sau khi coi kỹ lại hồ sơ của tội nhân, viên đại úy công bố: “có một điều chúng ta chưa bao giờ làm cho anh binh nhì này. Ong đại tá hỏi: điều chi ? Viên đại úy đáp: Thưa đại tá, anh binh sĩ này chưa bao giờ được khoan hồng”. Sau ít phút vào tham lháo với đoàn chánh án,ông đại tá đã trở ra tuyên bố với bị cáo      “Anh đã bị phạt nhiều lần. Còn lần này, tôi xóa bỏ mọi tiền án trong hồ sơ cho anh, anh được khoan hồng, anh được tự do. Quá ngạc nhiên, tội nhân lấy tay che mặt, rồi cúi đầu rời tòa án. Nhưng sau đó, anh đã trở nên con người mới, không uống rượu nữa, mà còn trở thành con người đáng tin cậy trong quân đội, vì anh thấy tòa án đã ở nhân từ với anh ta.

Thưa anh chị em, bài tin mừng cũng nói tới lòng nhân từ Thiên Chúa đối với ta, như người cha đối với đứa con phung phá. Chúng ta là những đứa con bụi đời, những đứa con lầm lỗi, cần phải nhớ tới lòng nhân từ của Thiên Chúa, để được ơn tha thứ và trở nên con người tốt. Nhưng để được nhờ lòng thương xót của Chúa trên đây, Chúa cũng đòi ta một vài điều kiện là phải khiêm tốn nhìn nhận sự lầm lỗi, và thành thực xưng thú.

1. Dịp đầu năm mới 1925 Đức thánh cha Léo XII (1823-1829) đến thăm một trại giam ở Roma. Đến với tù nhân nào, đức thánh cha cũng hỏi lý do: tại sao con vào đây ? Hầu hết ai cũng thưa là mình vô tội, bị giam giữ một cách oan uổng, và xin đức thánh cha can thiệp dùm. Duy chỉ có chàng thanh niên Repentê cúi mặt thưa: Tâu đức thánh cha, con quá khô đạo, lại ham mê cờ bạc; do đó đâm ra trộm cắp, làm khổ tha nhân, làm nhục gia đình, làm rối trật tự của xã hội, nên con xứng đáng bị giam giữ ở đây, để có giờ suy nghĩ mà sửa mình lại. Thấy một con người có lương tâm, biết khiêm tốn nhìn nhận sự yếu đuối lầm lỗi của mình, cũng sửa sai, nên đức  thánh cha nói với ông giám đốc trại rằng: Anh này có tội, tại sao lại được sống chung với những người vô tội. Vậy tôi đền nghị, hôm nay phải đưa thanh niên này ra khỏi trại, và trao trả về gia đình, và nhờ gia đình quản thúc và cải tạo thêm những tội lỗi anh ta đã thú nhân trên đây (9,62). Câu truyện trên đây cũng nhắc cho ta nhớ một khỏan luật đời xưa: “Tiên năng tự thú, giảm nhất đẳng”. Nghĩa là: “lúc đầu ta đã biết nhận tội trước, thì phải giảm phạt một bâc”. Thiên Chúa cũng dạy ta phải giữ điều kiện này, bằng nhắc lại lời của đứa con phung phá: “Tôi sẽ trở về với cha tôi, và thưa với người rằng: Lạy cha, con đã phạm tội với trời và với cha; con không xứng đáng được gọi là con cha, xin cha hãy xử với con như một người làm thuê. Nhưng người cha đã ôm lấy cậu, đưa áo đẹp cho cậu mặc, lấy giầy cho cậu đi, lấy nhẫn vàng xỏ vào tay cậu.

2. Trái lại nếu ta không có lòng khiêm tốn nhìn nhận tội lỗi, không thành thực xưng thú, lại không được nhờ lòng thương xót của Chúa. Hôm ấy cha Sagismonđo và một thày giúp việc dòng thánh Daminh vào nhà thờ viếng Chúa, có một người đến xin Cha Sagismonđo ngồi tòa, còn thày giúp việc quỳ ở  dưới cầu nguyện. Khi cha Sagismonđo giải tội xong, cả hai trở về nhà, thày giúp việc mới kể cho cha bề trên nghe rằng: Khi cha Sagismonđô giải tội, con thấy có những con cóc trong miệng người ấy nhảy ra. Nhưng khi cha Sagismonđo ban phép giải tội xong, thì những con cóc nhảy ra lại quay trở lại miệng người ấy, và có con cóc sau cùng, lớn hơn, cũng nhảy vào miệng người ấy, cha bề trên hiểu là điều chẳng lành, mà vì trời đã tối, sáng hôm sau, cha bề trên sai cha Sagismonđo và thày giúp việc trở lại hỏi thăm người xưng tội hôm trước. Khi tới nơi, nghe tin người này đã qua đời vì bị trúng gió khi ở nhà thờ về, cha bề trên xin cha Sagismonđo và thày giúp việc thức đêm, để cầu nguyện cho linh hồn bà ấy. Nửa đêm, bà hiện về giữa đống lửa mà nói: bà bị luận phạt vì đã thiếu khiêm tốn, không thành thực xưng hết mọi tội.

----------------------------

 

MC 4-C36: BA DỤ NGÔN VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT


CHÚA NHẬT MÙA CHAY C =  24 TN

Lc 15,1-32

 

Nhập đề của ba dụ ngôn đã phóng đại rằng: tất cả những kẻ thu thuế và những người tội lỗi thường: MC 4-C36


1. Nhập đề của ba dụ ngôn đã phóng đại rằng: tất cả những kẻ thu thuế và những người tội lỗi thường lui tới bên Chúa Giêsu để nghe Ngài. Việc thêm thắt chữ “tất cả” vào trong nhập đề này có ý chỉ phương thức căn bản của sứ mệnh và thái độ của Chúa Giêsu: Ngài đến để kiếm tìm và cứu vớt những gì đã hư đi (x.L 19,10), nghĩa là tất cả. Điều này, do đó, cũng có giá trị cho hai hạng người thu thuế và tội lỗi nữa. Họ cần phải đến với Ngài và nghe lời Ngài, bởi vì họ không thể tìm được nơi nào khác lời hy vọng và sự tiếp đón nhưng không đó. Điều đó đã làm cho các biệt phái và ký lục phàn nàn kêu trách: “Ông này tiếp đón những người tội lỗi và cùng ngồi ăn với họ” (c.2). Lời kêu trách này cũng giống như giai thoại ông Lêvi và đối đáp với các ký lục Biệt phái nơi phúc âm MC  (2,12-17). Nơi Lc, lời kêu trách nhắm hai điểm: Ngài tiếp đón những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn với họ. Điểm trách cứ thứ nhất cho thấy rằng những người thu thuế và tội lỗi không phải là thành phần của cộng đoàn tôn giáo và xã hội Israel; ít ra theo giáo thuyết các giáo sĩ Do thái; giáo thuyết này đã có câu châm ngôn như sau: TC yêu thương những người công chính và gớm ghét người tội lỗi. Bởi vì TC gớm ghét người tội lỗi nên Israel cũng phải làm như thế. Nhưng Chúa Giêsu làm ngược lại. Ngài tiếp đón các tội nhân.

Điểm kêu trách thứ hai còn nặng nề hơn: “Ông ta cùng ngồi ăn với chúng”. Tiếp đón những người tội lỗi chưa đủ, Chúa Giêsu còn đi xa hơn: cùng ngồi ăn với họ. Trong cổ thời, bữa ăn có nghĩa là liên minh, thân hữu, liên đới giữa con người với nhau và giữa con người với TC. không cần nói, mà chỉ bằng thái độ, Chúa Giêsu cho thấy rằng TC rõ ràng muốn hiệp thông với kính những người tội lỗi.

Nhập đề này gán cho những dụ ngôn tiếp theo một tính cách biện hộ, bênh vực thái độ của Chúa Giêsu đối với những người tội lỗi. Nhưng trong câu cho thấy, thái độ của Chúa Giêsu đối với những người tội lỗi chắc chắn không có nghĩa là họ được công chính hóa vì là tội nhân. Tội nhân cũng cần tự mình hoán cải. Nhưng điểm mới mẻ là ở chỗ: sự cải hóa của họ không phải là điều kiện tiên quyết để được TC ân cần tiếp đó (như thần học các giáo sĩ Do thái chủ trương): ngược lại, sự hoán cải này trước tiên được TC thực hiện. Chính người mục tử lên đường tìm kiếm con chiên lạc, ông không ngồi đợi con chiên trở về. Điều phải làm trước tiên là chứng tỏ tình yêu đối với người khác; chính nơi TC mà ta tìm thấy khởi điểm của việc con người trở về.

2. Đâu là điểm chính yếu của chương này. Ta hãy thử tóm tắt: ở đây, không có sự từ chối hoàn toàn giáo thuyết biệt phái, nhưng là một thái độ rất hòa hoãn trước lời tố cáo của địch thủ Chúa Giêsu, một lời mời gọi thực sự nói qua dụ ngôn, mời gọi bắt chước cách thế hành động của chính TC. TC đã kinh nghiệm được một niềm vui khôn tả khi một tội nhân đi vào nước trời; hơn nữa Ngài đã kêu mời mọi người chung vui với Ngài vì tội nhân trở lại; tội nhân ngày xưa đã lạc mất và hiện tìm thấy, trước đây đã chết và nay sống lại. Suốt cả chương mời gọi ấy cứ vang mãi cho đến lúc bừng lên ở đoạn cuối. Chính Người mục tử mời gọi bạn bè và láng giềng đến chia vui với ông; chính người đàn bà đã làm như vậy, và chính người cha cũng mời gọi tôi trai tớ gái của ông đến chung ly rượu vui mừng. Đặc biệt nhất là lời mời gọi khẩn thiết, van nài vối với người con cả. Niềm vui tột đỉnh của TC là không loại trừ một người nào. Ngài mong ước cho chúng ta được niềm hân hoan phát sinh từ sự thay đổi sâu xa tận đáy tâm hồn.

Ngay cả từ ngữ cũng hướng ta về ý nghĩa ấy: các diễn tả niềm vui dầy đặc cả trong văn bản. Trước hết có thể kể chữ “tiếp đón” (prosdechetai), như nhiều tác giả đã nghĩ; rồi chắc chắn là chữ “mừng rỡ” (c.5), “chia vui” (c.6), “vui mừng” (c.7), “chia vui” (c.9), “vui mừng” (c.10), “ta hãy ăn khao” (c.23), “đàn ca múa hát” (c.25), “phải ăn khao mà mừng chớ” (c.32). Đó là niềm vui phải cùng chung với những người khác: người mục tử và người đàn bà với bạn bè (xin xem các động từ kép sugkalsin, sugchairein), TC với các thiên thần, người cha với tôi tớ và nhất là với con cả. Ta còn có thể kể thêm ý tưởng “tìm lại được”, một tiếng diễn tả niềm vui vỡ bờ của kẻ đã từng kinh nghiệm điều đó.

Nhưng trong văn mạch, lời mời gọi chung vui này mang một khía cạnh Kitô học rất đặc biệt: đó là một lời mời gọi khó lòng đón nhận nếu không có một thay đổi não trạng tận gốc, chính Chúa Giêsu đã phát biểu như vậy; chính thái độ của Ngài đã phản ảnh tinh thần và niềm vui của TC khi Ngài tiếp đón tội nhân; chính Ngài đã muốn rằng mọi người phải chung vui với Ngài. Kẻ nhìn thấy Chúa Giêsu cũng nhìn thấy TC và không chê bai lối hành động của Ngài. Con người của Chúa Giêsu không phải là một cái gì được thêm vào cho sứ điệp tin mừng và cho lời rao giảng Nước Trời. Ngược lại Ngài chính là sự mới mẻ chủ yếu của sứ điệp đó. Các dụ ngôn đây hoàn toàn không phải là một sự lặp đi lặp lại cách vô ích ơn tha thứ mà TC dành cho người tội lỗi như trong lời rao giảng của các ngôn sứ đâu. Nếu các dụ ngôn nói cho chúng ta về niềm vui của TC, thì Chúa Giêsu đã miêu tả cho chúng ta thấy phương thế hành động riêng của Ngài. Điều đó có thể được vì giữa hành động của TC và hành động của Chúa Giêsu có một sự đồng hóa âm thầm nhưng thực sự. Trong phúc âm của thánh Lc, Chúa Giêsu mời gọi ta bắt chước TC: “Hãy biết xót thương như Cha các ngươi là Đấng thương xót” (6,36). Nhưng ở đây còn hơn nữa: trong sứ mạng của Người, Chúa Giêsu là Đấng qua đó TC bày tỏ cho chúng ta niềm vui và sự thương xót của Ngài. Bởi thế, phàn nàn chống đối Chúa Giêsu, cuối cùng là phàn nàn chống đối TC, vì Chúa Giêsu lôi kéo tội nhân về với TC. Hầu như có thể giải thích cách thần học câu: “họ lui tới bên Ngài” thế này: Chúa Giêsu là người đầu tiên mời gọi chúng ta đến với nguồn vui ấy, nguồn vui ơn cứu rỗi ta.

3. Có một điều khiến các nhà chú giải phải lưu tâm ngay là: trong cặp dụ ngôn người mục tử, là có phúc âm thánh Mt (18,12-24); hai bản văn thuật lại dụ ngôn này dầu song song, vẫn khác biệt nhau: nơi Mt, hoàn cảnh không phải là sự tiếp đón các tội nhân, nhưng là sự săn sóc mà cộng đoàn phải chu toàn đối với những “kẻ bé nhất”; vì thế, kết luận cũng hoàn toàn khác biệt trong hình thức (phủ định nơi Mt) cũng như trong nội dung. Có thể tóm lược những dị biệt này như sau: Mt nhấn mạnh việc tìm kiếm, Lc nhấn mạnh niềm vui tìm gặp; trong Mt, Chúa Giêsu mời gọi những kẻ mạnh hay các mục tử hãy dẫn dắt kẻ yếu đuối về, trong khi Lc làm nổi bật niềm vui tha thứ của TC; Mt nhấn mạnh đến bổn phận phải chu toàn, Lc lại đi sâu vào con tim TC; Mt cho các tông đồ một qui luật, Lc lại mô tả sự nhân lành của Đấng cứu thế đối với tội nhân.

4. Tong hai dụ ngôn đầu của chương 15 này, người ta thấy có sự đồng nhất cơ cấu đặc biệt đến nỗi có thể gọi chúng là hai dụ ngôn “sinh đôi”

 
(người đàn ông) (người đàn bà)
Ai trong các ông Bà nào
giả sử có một trăm con chiên có mười đồng bạc
và lạc mất một con nếu rủi mất một đồng
há người ấy lại không bỏ há bà ấy lại không chong đèn…
cho đến khi tìm ra con chiên cho đến khi tìm được đồng bạc
lạc đó ư ? đó ư ?
Tìm được rồi… Tìm được rồi…
lại không gọi bạn bè hàng xóm lại không gọi bạn bè hàng xóm
và phân phố với họ thế này sao: và phân phố thế này sao:
“bà con hãy chia vui với tôi “bà con hãy chia vui với tôi
tôi đã may mắn tìm thấy con chiên tôi đã tìm thấy đồng bạc tôi
lạc của tôi đánh mất
Cũng vậy, tôi bảo các ông, Cũng vậy, tôi bảo các ông,
… sẽ có cui mừng vui mừng ắt run lên…
vì một người tội lỗi hối cải vì một người tội lỗi hối cải
hơn là vì 99 người công chính  
những kẻ không cần ăn năn.  

Sự song đối thật quá hiển nhiên: câu hỏi ban đầu, hình thức lời nói, từ ngữ, ý tưởng... Với phương cách đặc biệt, vịêc lặp đi lặp lại các ý niệm và các từ ngữ đều gợi lên niềm vui và mời gọi chúng ta đến chia sẻ.

Bố cục theo một lược đồ đồng nhất, hai dụ ngôn này vì thế đề ra cùng một giáo huấn. Rất là thanh nhã, Chúa Giêsu lần lượt đưa vào một người đàn ông và một người đàn bà, một mục tử mất chiên và một nội trợ mất tiền. Các con số ở đây không quan trọng lắm. Có chặng là chính đơn vị bị mất mát, được tìm kiếm, và gây nên nỗi vui mừng cúc tìm thấy: một con chiên (trong cả đàn chiên), một đồng bạc (tiền công của một ngày làm việc) trong cả chút gia sản nhỏ bé, và (trong áp dụng) một tội nhân ăn năn, một linh hồn được cứu; điều đó đáng làm người ta chú ý.

a. Hình ảnh người mục tử tìm được con chiên mình (cc.3-6):

Nhận thấy thiếu mất một con chiên trong đàn, người mục tử để 99 con chiên ngoan ngoãn gặm cỏ nơi hoang vắng (phải hiểu là để lại trong an toàn, nơi đồng cỏ vùng cao), để đi tìm con chiên lạc. Kể từ đây, trình thuật tập trung vào việc làm sáng tỏ thái độ của mục tử đối với con chiên duy nhất này. Ông đi tìm, ông gặp được nó, ông vui mừng, nỗi vui mừng phát biểu qua hai cách: ông vác con chiên lên vai như một giải khăn quàng sống động để cảm thấy nó thật gần gũi với mình; ông kêu mời bạn bè hàng xóm đến chia sẻ hạnh phúc của ông: niềm vui của ông tỏa rộng và lây sang người khác.

Hình ảnh này có lẽ hơi phóng đại (nhất là trong cách biểu lộ sự vui mừng) vì muốn ghi khắc bài học vào tâm trí. Nhưng nếu xét thực tế một chút, người ta thấy cử tọa dễ dàng và tự nhiên đồng ý với người thuật truyện và đi vào trong: “Ai trong các ông lại không làm như thế” (c.4). Được vuốt nhẹ một chút, thính giả chấp nhận ngay liền.

b. Hình ảnh bà nội trợ tìm lại được đồng bạc (cc.8-9)

Đây là cảnh xảy ra bên trong nhà người dân Palestine: một căn phòng bằng đất nện, với vài chiếc chiếu, hay một ít đồ đạc lỉnh kỉnh. Ánh sáng không có bao nhiêu và chỉ đi lọt qua cửa chính vì nếu mở cửa sổ, nóng sẽ hắt vào. Ngay giữa ban ngày, cũng cần một ngọn đèn nhỏ để soi các xó góc. Câu chuyện được diễn tả chỉ trong vài tiếng: đồng tiền bị mất, người đàn bà gia công tìm kiếm (soi đèn và quét tước khắp nơi) tìm được rồi lòng ngập mừng vui. Đồng tiền thế nào cũng được cất lại một nơi chắc chắn, và niềm vui nói mãi không cùng với bạn bè hàng xóm, những người được réo gọi và chạy sang với một sự hiếu kỳ đầy thiện cảm.

c. Giáo huấn của hai dụ ngôn cc. 7 và 10)

Chúa Giêsu không bắt chúng ta khám phá giáo huấn đó. Ngài đã cắt nghĩa rõ ràng: đó là niềm vui của TC: “Trên trời sẽ vui mừng” (c.7), “vui mừng ắt vang lên giữa các thiên thần của TC” (c.10); hình thức chuyển từ kiểu Do thái này là để tránh đề cập trực tiếp đến TC. Nhưng toàn văn mạch chỉ rằng niềm vui đó là niềm vui của Ngài và của triều thần thiên quốc), niềm vui được mô tả một cách như nhân để những thực tại của TC dễ thấu đạt chúng ta.

Đối tượng của niềm vui vỡ bờ này là sự thu hồi tội nhân: một sự thu hồi do TC, một kết quả của lòng người lo lắng cho kẻ đã lạc mất (xem các chi tiết của hai dụ ngôn); sự thu hồi đó giả thiết tội nhân đã để TC bắt lấy (như con chiên và đồng bạc) cho nên sự hối lỗi, sự trở lại của anh ta không gì khác hơn là sự đáp ứng lại những bước đầu tìm kiếm của Ngài.

Nhưng cần nhắc lại rằng hai dụ ngôn không phải là lời mời gọi hoán cải. Chúng trực tiếp diễn tả niềm vui của TC. Đấng đã sung sướng trong sự chiến thắng của tình thương xót Ngài, sau khi đã động viên toàn lực để dẫn đưa kẻ lầm lạc trở về.

5. Dụ ngôn người cha của đứa con hoang đàng hẳn là một trong những trang phúc âm lôi cuốn nhất. Không cần mất thì giờ dừng lại trên những phân tích tâm lý tinh vi, trên nghệ thuật trình bày tài tình. Nhưng phải giới hạn lại, và ở đây tốt hơn, nên chú ý nhiều đến giáo huấn tôn giáo mà dụ ngôn muốn ghi khắc vào tâm trí.

Có một tương quan chặt chẽ nối kết dụ ngôn này với hai dụ ngôn trước trong chương 15 của phúc âm Lc. Trước hết ai cũng nhận thấy các kết luận đều giống nhau trong suốt cả chương âm vang như một điệp khúc: “hãy vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên lạc” (c.6), “Hãy vui mừng với tôi vì tôi đã tìm được đồng tiền đánh rơi: (c.9), “Ta hãy ăn mừng vì con Ta đây đã chết mà nay được sống, đã lạc mất mà nay lại tìm thấy” (c.32). Toàn chương như một bài ca tán tụng hạnh phúc của người tìm lại được cái mình đã mất đi.

Tính cách duy nhất đó được biện minh cho cách thức Lc dẫn nhập vào dụ ngôn bằng hai câu ông đã đặt ở đầu chương. Kẻ tỉ mỉ sẽ nhận xét rằng nhập đề này chỉ liên hệ trực tiếp đến dụ ngôn đầu mà thôi. Thật ra nó liên hệ đến cả hai dụ ngôn kia nữa vì cả ba ăn khớp với nhau. Và lại ta sẽ thấy rằng, nhập đề ấy hoàn toàn phù hợp với nội dung của dụ ngôn sau cùng: Chúa Giêsu sở dĩ đưa ra dụ ngôn này là vì các người biệt phái và ký lục đã công phẫn trước thái độ ân cần chiếu cố của Ngài đối với những người tội lỗi.

Dụ ngôn rõ ràng chia làm hai phần, phân ra nhờ điệp khúc ngắn rõ ràng của câu 24. Phần đầu diễn tả thái độ của người cha đối với đứa con hoang đàng, phần sau nói lên khó khăn của ông đối với người con cả. Hai đứa con hiện diện ở đó là để ông cha có cơ hội biểu lộ tình cảm của mình (cho nên vị anh hùng đích thực của dụ ngôn không phải là thằng con hoang đàng, song là cha của y). Nhưng những chi tiết về hai người con cũng soi cho ta thấy đâu là hoàn cảnh của dụ ngôn, đâu là vấn đề chính yếu khiến Chúa Giêsu muốn ban ra một giáo huấn. Giáo huấn này chắc chắn nằm trong những lời nói của người cha. Do đó, thay vì lần lượt xem xét hai phần của trình thuật, có lẽ nên xác định đâu là hoàn ảnh của dụ ngôn bằng cách trước hết chú ý chân dung của hai người con. Chân dung của người con cả đơn giản hơn hết, nên ta sẽ bắt đầu nói về anh trước sau đó đến người con thứ, rồi người cha và cuối cùng đề cập đến giáo huấn mà Chúa Giêsu muốn đưa ra qua trung gian ông già này.

1. Người con cả

Khi đứa con thứ trở về, anh ta đang làm việc ngoài đồng. Chiều đến, sau một ngày lam lũ trở về nhà, không hay biết gì hết. Trong nhà cuộc vui đã tới hồi náo nhiệt với ca nhạc và nhảy múa. Anh con cả kêu người giúp việc, hỏi về chuyện đang xảy ra. Câu trả lời thật khó nghe: “Ấy, em cậu vừa về, nên cha cậu đã cho hạ bò tơ béo, bởi vì cụ đã được lại con an lành mạnh khỏe” c.27). Nghe vậy, anh ta giận dữ vô cùng. Cách thức nhận tin cho thấy phản ứng của anh. nhưng phải biết rằng: bản văn không muốn tô vẻ người con đầu lố bịch. Bản văn chỉ cho thấy anh ta đang giận dữ, Và giận dữ không phải không có lý do.

Vì anh từ chối vào nhà, nên ông cha phải đích thân ra van nài anh vào. Sẵn cơn tức giận, người con cả trút hết nỗi uất ức chất chứa trong lòng bấy lâu: “Này biết bao năm trời, tôi làm tôi ông cùng chưa hề cãi lệnh ông, thế mà có bao giờ ông cho tôi được một con dê để ăn mừng với chúng bạn. Còn khi thằng con của ông kia đã ngốn xong cả sản nghiệp của ông với đàn đĩ mà về, thì ông lại hạ bò tơ béo mừng nó” (cc.29-30)

Anh ta đã thốt lên một cách cứng cỏi, nếu không nói là thô lỗ; nhưng xét cho cùng, thực đúng như vậy. Anh ta nghĩ rằng cha mình đã xử sự không đúng, và phải công nhận anh có lý. Lời kêu trách của anh nhắc ta nhớ lại lời kêu trách của những người thợ giờ thứ nhất khi họ phản đối thái độ của ông chủ vườn nho: “hạng cuối hết này (những người thợ tới làm việc lúc 11 giờ) đã chỉ làm một giờ thôi, thế mà ông lại kể ngang hàng với chúng tôi, là những kẻ đã vác nặng cả một ngày trường với nắng nôi thiêu cháy” (Mt 20,12). Qua những lời kêu trách của người con cả và những người thợ thứ nhất, có thể nhận ra được cảm nghĩ của những người mà Chúa Giêsu đã hướng dụ ngôn tới. Dẫu bằng cách khác, họ cũng nghĩ rằng, quyền lợi của họ đã bị thiệt thòi. Một cái gì đó đã xảy ra khiến họ phải bảo: “Như thế là không công bình”. Trước khi trả lời họ, Chúa Giêsu cho thấy những thông cảm với những khó khăn của họ. Bản trình thuật đã khéo sắp xếp để cho đối tượng của dụ ngôn nhận ra mình trong người con cả và thấy anh ta là phát ngôn cho mình.

Người con cả trước hết nói về chính bản thân anh: “Này đã biết bao năm trời tôi làm tôi ông, cùng chưa hề trái lệnh ông. Các từ ngữ anh ta xử dụng để diễn tả lòng trung thành của mình đối với Cha chính là từ ngữ đã xác định lý tưởng tôn giáo của các ký lục và biệt phái: bền tâm làm tôi TC, ra sức lo lắng để đừng bao giờ “trái lệnh” của Ngài.

Sau đó, người con cả còn nói với người con thứ bằng một giọng vô cùng khinh bỉ. Anh ta tránh gọi là “em con” nhưng nói “thằng con của ông kia”. Thật đúng như người biệt phái của dụ ngôn Lc 18,10-14 đã gọi “tên thu thuế kia” vậy. Cũng thái độ khinh miệt ấy tỏ lộ qua những từ ngữ khiếm nhã lên án hạnh kiểm của đứa con hoang đàng.

Như thế đã đủ để cho ta thấy rõ hạng người mà dụ ngôn muốn nhắm đến. Chúa Giêsu ngỏ lời với những kẻ tự cho mình là tôi trung của TC, những kẻ đã cố giữ để đừng bao giờ vi phạm giới răn Ngài. Họ nghĩ rằng một lòng đạo đức như thế cho họ được quyền, và họ phẫn uất trước những gì xem ra bất công đối với họ. Không pgải là họ phẫn uất trước kẻ tội lỗi, những người này chỉ làm cho họ khinh bỉ. Sự phẫn uất, khó chịu của họ, chúng ta đã thấy rồi là do thái độ của TC đối với các tội nhân: nếu TC cũng nhân lành với kẻ tội lỗi như thế, thì người công chính nào có hơn gì không ? Lòng thương xót của TC đối với người tôi lỗi há không làm lung lay nền tảng của một tôn giáo chủ trương trung thành vâng lời TC sao ? Nếu các kẻ tội lỗi là những người được TC ưu đãi, thì cần gì phải mất công giữ giới răn của Ngài ?

2. Người con thứ

Ta đã thấy dụ ngôn cố sức làm nổi bật sự bắt bẻ của người con cả, nhưng không nhận chìm nhân vật mà qua đó, các đối tượng phải nhận ra chính mình. Bây giờ là chân dung của người con thứ; anh ta không được tô điểm chút nào và phù hợp với hình ảnh mà người biệt phái có thể có về một người tội lỗi chính danh.

Sau khi đã thu được phần gia tài, đứa con thứ trẩy đi xa (dĩ nhiên là vùng lương dân) ở đó anh ta phung phí của cải bằng một đời sống phóng đãng (mà chỉ bọn ngoại giáo mới sống). Cuối chặng đường phiêu lưu đó, anh chàng làm nghề chăn heo. Đối với người Do thái, đấy là tồi tệ hết chỗ nói. Ta có thể đoán được khi nghe đến đây, người biệt phái ắt bỉu môi, kinh tởm.

Sau cùng, đã đến lúc suy nghĩ lại. Nhưng hãy xem anh chàng ăn chơi suy nghĩ gì nào ? Hối tiếc thái độ của mình ? Hối hận vì đã gây buồn khổ cho cha ? Không có đâu, anh ta đã tự trách đã dại dột để mình chết đói đang khi gia nhân của cha có bánh ăn no đầy. Tại sao không lợi dụng điều đó và đi về xin làm gia nhân của cha ? Để hoàn thành kế hoạch, anh ta dọn trước một câu thật hay: “Thưa cha, con đã trót phạm tội nghịch với trời, và trước mặt cha, con không đáng gọi là con cha nữa, xin xử với con như một người làm công của cha thôi” (cc-19). Câu này thật hay, nhưng anh quá biết đấy là một mánh khóe hết sức tầm thường. Cái làm cho thằng con lo lắng là không có gì mà “tống cho đầy bụng” (c.16). Hắn trở về nhà là để được ăn thả cửa. Những lời lẽ hối hận của hắn không phù hợp với cảm nghĩ đích thật của hắn. Những lời đó chỉ có mục đích làm động lòng người cha đang tức giận một cách chính đáng, hắn chỉ cần khêu gợi lòng thương cảm của cha với hy vọng ông sẽ không tìm cách soi thấu lòng dạ của của hắn mà thôi.

Không ! Trình thuật này không có lý tưởng hóa tội nhân. Chân dung vẽ ra là đúng như lòng mong đợi của biệt phái mà Chúa Giêsu đang ngỏ lời. Khi muốn sửa chữa chân dung đó để biến đứa con hoang đàng thành mẫu gương thống hối, ta sẽ bỏ qua giáo huấn mà Chúa Giêsu muốn đề ra cho thính giả Ngài. Từ lâu trong Israel, người ta biết rõ là TC thích tha thứ cho những kẻ tội lỗi ăn năn trở về. Nếu Chúa Giêsu chỉ muốn nói thế, thì người biệt phái không có lý do gì để phẫn nộ cả.

3. Người cha

a. Người cha và đứa con thứ: phải đọc lại đoạn mô tả xúc động về thái độ của người cha khi đứa con hoang trở về ở câu 20-24. Làm thế nào để chú giải một đoạn văn như vậy mà không làm mất đi tính cách sống động của nó ? Ta thấy người cha xúc động khi nhận ra con mình từ đàng xa. Động từ có nghĩa là: người cha bồi hồi cảm xúc và chạnh lòng thương xót. Mối xúc động bên trong này tức khắc biểu lộ ra bằng những cử chỉ cuồng nhiệt: người ta ngạc nhiên thấy ông già đương phương đường bệ này chạy bổ vào đứa con, thằng con bắt đầu tụng lên câu dọn sẵn, nhưng nó không đọc hết được, vì cha nó đã hối hả kêu gia nhân: “Mau mau. Đem áo thượng hạng mà mặc cho nó, hãy xỏ nhẫn vào tay nó, và giày vào chân nó, rồi đem con bò tơ béo mà hạ đi, ta phải ăn khao mới được. Mau lên.

Tất cả sự náo nhiệt này được hiểu như là một sự bùng vỡ niềm vui. Nỗi sung sướng của người cha thật tràn trề đến nỗi ông chạy lăng xăng khắp nhà. Câu 24 kết thúc đoản văn bằng cách đưa ra lý do sâu xa của niềm vui này: “Vì con ta đây: nó đã chết mà lại hoàn sinh, đã mất đi mà lại tìm thấy được”. Dù tội lỗi đến đâu, tên hoang đàng vẫn là đứa con của cha nó. Đối với ông cha, chỉ điều ấy là đáng kể. Ông đã không bao giờ ngừng yêu mến con ông. Đã một thời đi xa, đứa con như mất đi, bây giờ tìm lại được nó. Kể chi đến quá khứ, chỉ biết bây giờ nó đã trở về. Người cha dào dạt niềm vui, bởi vì ông đã yêu con như bất cứ người cha nào.

b. Người cha và đứa con cả: người cha đã không muốn nghe hết lời thú tội của thằng con thứ, nay tránh cắt ngang lời trách móc của đứa con cả. Ông lắng nghe hết câu than vãn đó. Và lúc ấy, ông mới trả lời, bằng một giọng âu yếm trái hẳn với giọng điệu hằn học của đứa con.

Trước hết, người con cả nói về mình, về hạnh kiểm gương mẫu của mình mà anh ta nghĩ rằng đã bị cha đối xử bất công. Người cha bắt đầu trả lời những trách cứ của anh: “này con, con hằng ở luôn với cha thì tất cả của cải của cha đều là của con” (c.31). Chúng ta không cần nghe nói đến con dê bị khước từ nữa: “Tất cả những gì là của cha đều là của con”. Thật thế, người con cả không thể phàn nàn rằng anh ta đã bị xử bất công.

Câu trả lời này nhắc ta nhớ lại rằng mình đang đứng trước một dụ ngôn. Cho nên không có vấn đề đi tìm một ý nghĩa mầu nhiệm nào đó trong các từ ngữ được xử dụng. Ta sẽ lạc đề hoàn toàn chẳng hạn như muốn áp dụng những từ ngữ của câu trả lời về liên hệ giữa người cha và người con này vào mối liên hệ giữa TC và những người biệt phái. Điều đúng trên phương diệm là TC không bất công đối với người biệt phái cũng như người cha đã không bất công với đứa con cả vậy.

Phần thứ nhất của câu trả lời bác lại một bắt bẻ, phần thứ hai đi xa hơn và đưa ra một giáo huấn tích cực. Dĩ nhiên nơi đó mới là điểm quan trọng. Câu trả lời lấy lại điệp khúc đã kết thúc phần thứ nhất của trình thuật (c.24), nhưng biến đổi rất có ý nghĩa. Thay vì nói “con ta đây, nó đã chết...” để đổi lại từ ngữ đứa con cả dùng: “thằng con của ông kia đã về sau khi đã ngốn xong sản nghiệp của ông” người cha đã sửa lại một cách tế nhị: “Em con đó”, “phải ăn khao mà mừng chớ, vì em con đó nó đã chết mà lại sống, đã mất mà lại tìm thấy được” (c.32). Nếu người cha đã vô cùng hạnh phúc khi tìm lại được đứa con, thì người anh sao lại không hoan hỉ lúc tái ngộ em mình ?

Trình thuật chấm dứt với lời kêu gọi của người cha. Cuối phần nhất, điệp khúc được tiếp liền bằng một câu kết vắn tắt: “Và người ta mở tiệc ăn mừng” (c.24). Ta có thể tưởng tượng một câu kết luận như thế cho cả trình thuật để bảo rằng đứa con cả đã hoàn toàn được thuyết phục. Nhưng trình thuật vẫn cố ý bỏ ngõ, vì chính thính giả phải tự nói là họ có đáp trả lời kêu gọi này của dụ ngôn hay không. Kết luận của trình thuật tùy thuộc vào thái độ của họ. Họ chịu để thuyết phục không ? Họ có chấp nhận chia sẻ không ? Họ có chấp nhận chia sẻ niềm vui của TC khi một tội nhân trở về không ? Họ có đủ sức thông hiệp vào tình yêu mà TC không ngừng mang lại cho những người anh em tội lỗi không ? Chỉ có họ mới trả lời được.

c. Mạc khải về lòng thương xót của TC: trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu vạch trần cạm bẫy mà trong đó thường rơi vào những kẻ đạo đức xét theo lề luật và những kẻ thỏa mãn với sự công chính riêng của mình, họ đòi hỏi TC phải công nhận vì họ “công chính” sờ sờ ra đó. Nhưng sự công chính này, mà họ tưởng có thể dựa vào, lại lôi họ đến chỗ tiêu diệt . Họ bị hiểm nguy vì họ quên rằng họ là những người con và vẫn là con ngay cả trong sự trầm luân. Quả thực, TC Cha đã đến gặp họ trước khi họ lên đường tìm về với Ngài.

Ngay trước khi đứa con hoang đàng xưng thú tội lỗi mình, người cha đã ôm nó vào lòng mà hôn. Cái hôn trên má dành thường dành cho người ngang hàng. Chúa Giêsu diễn tả sự phục hồi tư cách, địa vị làm con của đứa em bằng cách nói: người ta đem lại cho gã cái áo đẹp nhất, xỏ nhẫn vào tay và mang giày vào chân gã. Việc mặc áo ngày lễ chúng tỏ: người cha không những tha thứ hết mọi tội lỗi thằng con mà còn ngầm báo nó đừng sợ, cha không phạt đâu. Tuy nhiên việc chú giải dụ ngôn còn cho một kết luận khác nữa: việc TC tha thứ không phải chỉ là cất hình phạt, song còn là một hành động sáng tạo. Nếu tội lỗi của con người là dấu hiệu khuất phục sự chết, thì sự tha thứ nhân danh Chúa Giêsu và nhân danh TC không phải chỉ là chết đi tội lỗi, nhưng còn băn khoăn một thực thể mới, thay đổi con người toàn diện.

KẾT LUẬN

Hai dụ ngôn của chương này kết thúc một cách vui vẻ, nhưng dụ ngôn thứ ba thì được “bỏ ngỏ": người con trưởng có chấp nhận lời mời không ? Đó không phải là câu hỏi để kết thúc. Sau khi đã hiểu được niềm vui khôn tả của TC, câu hỏi đích thực liên hệ đến chúng ta: chúng ta có thực lòng chung vui với TC và Chúa Kitô, khi thấy người anh em tội lỗi vào nước trời ? Nếu thực lòng chung vui, chúng ta đang đi vào tâm tình của Chúa Kitô, và nhờ người, được liên kết với Chúa Cha, là đấng yêu thương hết thảy mọi người.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. TC muốn cứu độ mọi người (1Tim 2,4), không phải chỉ cách tổng quát và tập thể, nhưng còn là một cách cá biệt. Ngài không muốn một số kẻ được chọn nào đó, Ngài muốn cứu vớt tất cả. Cho dù chỉ có một linh hồn cần được đưa về với Ngài (một con chiên trong số 100 con) Ngài cũng lo liệu tìm mọi cách để đưa kẻ ấy trở về.

2. Chúa Kitô là mục tử tốt lành, biết tên từng con chiên một (Ga 10,3). Sứ mệnh của Ngài là đưa những con chiên lạc nhà Israel trở về đàn (Mt 15,24). Cũng như Chúa Kitô, Kitô hữu không được bỏ rơi kẻ nào trong những tương giao nhân loại hay tôn giáo của mình, nhưng phải sẵn sàng tiếp nhận mọi thiện chí, sẵn sàng tiếp xúc một cách chân thành hữu ích. Không phải môi trường rộng lớn mới là quan trọng. Thánh Francois de Sales có nói: “Một linh hồn đã là một địa phận khá lớn cho một giám mục rồi”

3. Cho dù tội lỗi đến đâu, chúng ta đừng bao giờ thất vọng. Tình yêu của TC và của Chúa Kitô luôn đeo đuổi chúng ta (Rm 8,37-39). TC rình chờ chúng ta, để vác chúng ta lên đôi vai khi cần (Is 40,11) và đưa chúng ta về lại ràng. Chúng ta hãy tin tưởng vào sự âu yếm của TC chúng ta. Hãy thưa với Ngài rằng chúng ta là con chiên lạc lối và hãy xin Ngài đến tìm kiếm ta cho mau (Tv 119,176) để từ đây săn sóc ta như con chiên thân thuộc (Tv 95,7) trong tình yêu thắm thiết của Ngài.

4. Hôm nay, ngày Chúa Nhật, TC vui mừng biết bao được tụ họp đoàn dân Ngài trong giáo hội để nhờ Chúa Kitô dâng lên hy lễ thờ phượng. Trong đoàn dân này, Ngài nhận ra những con chiên trung thành của Ngài và có lẽ cũng nhận ra một vài tâm hồn Ngài đã dùng ân sủng đánh động riêng, đã trở về cuộc sống thờ phượng: đó là những con chiên tìm thấy những đồng bạc thu hồi, những tâm hồn đã được đưa về để tôn thờ TC đích thật hầu được cứu rỗi.

5. Chúng ta tìm thấy được dụ ngôn người cha của đứa con hoang đàng một mạc khải về sự âu yếm khôn lường của TC đối với những người tội lỗi. Tình âu yếm đó đã được Chúa Giêsu tỏ ra cho loài người trong việc Ngài chăm lo cho các tội nhân suốt sứ vụ tại thế, và nhất là trong viêc hy sinh mạng sống Ngài để chuộc tội cho họ. Việc khám phá ra một tình yêu như vậy không thể làm cho ta tràn đầy tin tưởng vào Đấng đã yêu thương chúng ta. Chúng ta quá biết mình là những tội nhân; nhưng chúng ta từ nay không được quên rằng thân phận khốn nạn đó không làm TC ghét bỏ chúng ta, trái lại càng khiến Ngài yêu chúng ta hơn. Vì vậy chúng ta vững tin cho chính mình, và cũng vững tin cho những kẻ khác. Chúng ta cũng đang sống giữa những người tội lỗi. Khi thấy các anh em ấy gặp khốn khó hay lầm lạc, chúng ta hãy nhớ lại rằng họ vẫn được TC yêu, và tình yêu đó đủ mạnh để cứu rỗi họ.

6. Không thể thật sự khám phá ra tình yêu của TC mà không thấy sự đòi buộc của tình yêu đó đối với chúng ta. Người con cả của dụ ngôn, vì không hiểu tình yêu của Cha, cũng không hiểu được lời mời gọi phát xuất từ tình yêu đó: anh ta chỉ thực sự là người con hiếu thảo của cha khi biết chia sẻ tình yêu của cha, biết thương mến đứa em. Việc đề phòng mà dụ ngôn muốn nhắc nhở cho người người biệt phái không phải là không liên hệ đến Kitô hữu. Dụ ngôn nhắc cho họ nhớ rằng người ta không thể phục vụ TC đúng ý Ngài nếu không yêu Ngài và không thông hiệp vào tình yêu của Ngài đối với anh em, cho dù những người này là tội nhân. Thái độ của Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược với con tim lạnh lùng kiêu căng của người biệt phái, kẻ tưởng mình đang sống an toàn vì đã thi hành tỉ mỉ những giới luật. Làm sao có thể xưng mình là môn đệ của Chúa Giêsu nếu ta khinh bỉ xa tránh những kẻ đang gặp hoạn nạn khó khăn do tội lỗi. Tình yêu TC kêu mời chúng ta yêu mến anh em. “Anh em thân mến, nếu TC đã yêu mến ta như thế, thì ta cũng phải yêu mến nhau” (1Ga 4,11)

----------------------------

 

MC 4-C37:  TIN VUI THỜI ĐIỂM 2000


- LM Trần Cao Tường phụ trách

TIN VUI THỜI ĐIỂM 2000

Nhìn dấu chỉ thời đại và chụp ghi dưới ánh sáng Tin Vui

(Vui Mừng và Hy Vọng #4) trong chương trình phát thanh Tin Vui Gửi Thời Đại Mới.

TIN VUI GỬI NGƯỜI HAM GIẢI PHÓNG


 

Ngày 23 tháng 2 năm 1997, nhà "chọc" trời Empire State ở phố New York đã lênh láng máu: MC 4-C37


Ngày 23 tháng 2 năm 1997, nhà "chọc" trời Empire State ở phố New York đã lênh láng máu, không còn nghễu nghện đứng thách thức chọc trời như mọi khi nữa. Trời thật trong sáng, rất đông du khách mua vé lên lầu ngoạn cảnh ở tầng 86 của ngôi nhà chọc trời 102 tầng đã từng bá chủ cao nhất thế giới từ khi mở cửa năm 1931, đến năm 1972 mới nhường cho Tháp Đôi Trung Tâm Thương Mại Thế Giới. Vậy mà chàng Ali Abu Kamal của dân Ả Rập Palestine đã dám nã súng vào đám đông. Thế là náo loạn. Phần sợ hãi nhất là lúc mọi người bắt đầu kinh hoảng. "Một người bị bắn vào đầu, máu vọt tung tóe, tôi chưa bao giờ thấy cảnh kinh khủng như vậy xảy ra trong đời!" Kết quả, một người bị bắn chết, 6 người bị thương nặng, và chàng Ali tự bắn vào đầu chết luôn.

Chàng Ali có thể thuộc phong trào giải phóng Palestine bên Do Thái. Đây là cách giải phóng của nhóm chính kiến của chàng, không đồng ý với lối hòa giải hiện tại giữa Arafat và Do Thái.

Cùng thời gian trên, đêm ngày 21 tháng 2 năm 1997, tại phòng trà của nhóm Đồng Tính Luyến Ái (gay) ở Atlanta, xảy ra một vụ "giải phóng" khác: người nào hay nhóm nào đó không chịu nổi cảnh rửng mỡ của bọn "gay", đã muốn giải trừ sự dữ bằng việc đặt bom cho nổ tung phòng trà làm bị thương 5 người. Cũng như giữa tháng giêng, một vụ nổ bom khác tại một viện phá thai vùng Sandy Springs, bang Georgia.

Thì ra một số người đã muốn dùng biện pháp "đập vào mặt" để giải thoát khỏi sự dữ. Nhưng lấy một sự sữ để giải trừ sự dữ, lấy bạo động để giải quyết bạo động, lại đưa đến tàn tệ tan hoang chồng chất thêm lên! Hận thù vay trả, trả vay, cái vòng hệ lụy nghiệt ngã trùng điệp.

NĂM ANH MÙ XEM VOI

Ngày xưa còn bé mình vẫn thích thú về câu truyện năm anh mù xem voi. Chẳng anh nào thấy được con voi ra làm sao, nhưng chỉ rờ được một phần mà hung hăng tuyên bố lập trường vung vít rằng con voi nó giống cái chổi, cái buồm, cái cột nhà... Thực ra đó mới chỉ là cái đuôi, cái tai, hay cái chân... của con voi thôi. Vậy mà sinh cãi lộn, rồi đòi "giải phóng" nhau bằng "thượng cẳng tay hạ cẳng chân" và búa tạ rất ư nhiệt tình.

Không ngờ câu truyện trên lại được lặp đi lặp lại dưới nhiều hình thức thời mới "văn minh" và đôi khi mang mặt nạ "đạo đức" hơn trong nhiều lãnh vực, từ những tranh lộn chủ nghĩa đến giành giật niêu cơm hay ăn thua đủ chỗ cao chỗ thấp, cho công việc của mình vĩ đại để bắt mọi người phải "đoàn kết" đứng sau lưng mình, nếu không là chia rẽ đáng xỉ vả cho ăn búa tạ. Nhạc sĩ Phạm Duy trong Rong Khúc Hát Cho Năm 2000 đã gióng lên cái cảnh những anh mù thật tội nghiệp của thế kỷ này qua truyện Ngụ Ngôn Mùa Xuân:


Có hai thằng mù đánh nhau ngoài ngõ,
Cả hai thằng sứt trán, sứt tai.
Có hai thằng câm cãi nhau giữa chợ,
Cả hai thằng đều rát lưỡi phỏng môi.
Có hai thằng mù đã câm lại điếc,
Có hai thằng điếc ngồi nghe nhạc Tầu,
Nhạc Tây, nhạc Mỹ, nhạc Nga...
Có khi mù này đánh lui mù đó,
Hả hê về nhà ú ớ mừng rên!
Có khi thằng mù gã câm thằng điếc
Gác chân tự đắc ngồi trong chòi nghèo
Buồn thiu mà nghĩ lầu cao....

CHIỀU SÂU GIẢI THOÁT TRONG TRANH THÁI TUẤN

Thực ra việc giải phóng hay giải thoát con người thực sự phải từ một cái gì sâu xa hơn. Nhìn những bức tranh của họa sĩ Thái Tuấn, ai cũng cảm thấy một cảm giác mênh mang, và tự hổ thẹn về hiện trạng nhỏ nhen bị vít kín và mù tối của mình. Ông Huỳnh Hữu Ủy đã nhận xét: "Thái Tuấn là một bóng dáng lớn của nền nghệ thuật Việt Nam hiện đại... Anh luôn ao ước vẽ một bức họa tinh giản, ít màu, ít nét và để nhiều khoảng trống rộng rãi... đã tổng hợp tinh túy của nghệ thuật Á Đông và kỹ thuật hội họa Âu Châu để vẽ lên những tấm tranh của mình, là sự khoáng đạt của những chấm phá giản dị nơi nghệ thuật thủy mặc cộng với nghệ thuật sơn dầu của phương Tây. Anh thường xuyên suy nghĩ, chiêm niệm về những khoảng trống để tạo nên không gian mênh mông, hài hòa trong sắc màu trầm mặc... Dường như lúc nào anh cũng đăm chiêu đi tìm những hình ảnh nào đấy về một quê nhà đã mất: Miền Nam nhớ miền Bắc, Orléans nhớ Hà Nội, Paris nhớ Sài Gòn. Đi tìm lại quê hương đã mất là một trạng thái tâm lý quen thuộc nhưng vẫn kỳ lạ, ở Thái Tuấn không hẳn chỉ là một thứ quê hương sống động qua hoài tưởng, mà còn có thể chính là mối ám ảnh về một bản thể bất biến, và hình ảnh của quá khứ đã trở thành biểu tượng để nối kết" (Huỳnh Hữu Ủy, Bóng Dáng Thái Tuấn giữa nền nghệ thuật hiện đại, Thế Kỷ 21 số 82 )


Lê Uyuên Phương trong bài hát "Về Những Ấn Tượng" tặng Thái Tuấn đã diễn được cõi tâm của nhà hội họa đầy chất đạo này với nhiều cảm xúc gợi hình:
"Anh chưa bao giờ, chưa bao giờ nói với tôi về sự vĩ đại và sự nhỏ nhen trong đời sống. Nhưng dòng sông trên bức tranh màu tím đã bày tỏ cùng tôi sự phân biệt đó. Ôi? giọt nước trong giòng sông hay giòng sông trong giọt nước".

TIN VUI THỜI ĐIỂM: giọt nước hay giòng sông? (Tuần 4 mùa chay B)

Con người được Chúa Trời Đất mời gọi để hòa nhập bơi lội trong giòng sông ân sủng tình yêu bao la, nhưng nhiều khi con người lại muốn tự làm khổ giam nhốt mình vào một giọt nước nhỏ nhen, đóng kín lại trong cái vỏ ốc ích kỷ tội lỗi của mình. Những bức tranh của Thái Tuấn thật "tinh giản, ít màu, ít nét và để nhiều khoảng trống rộng rãi..." đã khiến người xem chiêm nghiệm được cõi nhỏ và cõi lớn của đời người, phân biệt được sự giải phóng thực sự nằm ở làn ranh nào. Đây chẳng phải là một sứ điệp khẩn thiết đáp ứng thời điểm khi con người chuyển mình bước vào năm 2000 với bao giành giật tranh chấp trùng điệp hay sao? Bằng ấy năm vui giập đầy đọa nhau đã đủ để mình dừng chân tìm ra giây phút phản tỉnh chưa?

Chúa Giêsu đã diễn tả nỗi tự đầy đọa này trong cuộc sống nhiều người bằng hình ảnh bóng tối và ánh sáng: "Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta làm những việc gian ác cho nên rõ ràng là họ ưa bóng tối hơn ánh sáng. Đúng vậy, ai làm bậy là ghét và tránh ánh sáng, vì họ sợ hành vi của mình bị lộ tẩy; nhưng con người có tác phong chân chính thì dám đi vào chỗ sáng, để thiên hạ thấy rõ họ hành động theo mệnh trời' (Gioan 3:19-21)
Họa sĩ Thái Tuấn là một người Công Giáo. Dù ông không trực tiếp nói lên điều đó, nhưng xem tranh của ông, người thưởng ngoạn như đang hòa nhập vào cuộc chuyển biến từ cái tôi nhỏ nhen tù túng tăm tối mà hòa vào được cái Ta đại thể vô biên tràn trề ánh sáng là chính Chúa Trời Đất. Đó là cuộc hành trình "tìm về quê nhà đã mất". Đây mới là cuộc giải phóng đích thật, giải phóng con mắt mù tối che vít bởi tham sân si tự đầy ải mình. Người vẽ tranh và người xem tranh cùng đang linh thao hay thiền, nối lại được vào cuống nhau từ bụng "mẹ" đã một lần từ giã. Quê mẹ đây có thể là chính người mẹ sinh ra mình, mà cũng có thể là quê hương hằng thể, vượt không gian và thời gian. Niềm khao khát tìm về này như phảng phất tâm tình đầy chất đạo trong ca dao Việt:


Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.

Vậy những gì đang làm mình "ruột đau chín chiều"?, những gì đang trói buộc giam nhốt khiến mình tự đầy đọa rời xa quê hương hằng thể, mà trở thành giọt nước nhỏ nhen tách rời khỏi giòng sông sung mãn?" Và cuộc giải phóng này thực sự chỉ bắt đầu khi mình mở rộng cái tôi hạn hẹp hiện tại mà lãnh nhận giòng sức sống bao la là chính Chúa Giêsu là đường, là sự thật và là sức sống: "Thiên Chúa yêu thế gian tới mức đem người con độc nhất của mình làm quà tặng, để phàm ai tin vào Người sẽ không tiêu vong, nhưng sẽ được trường sinh bất tử" (Gioan 3:16)


----------------------------

 

MC 4-C38: TÌNH YÊU VÀ THA THỨ CÓ SỨC MẠNH HƠN TỘI LỖI


 - Lm. Hà Ngọc Đoài (DCUC)

Lời Chúa:Jos 5:9-12; 2Cor 5:17-21; Lk 15:1-3,11-32

Chủ Đề: Tình yêu và tha thứ có sức mạnh hơn tội lỗi .

Suy Niệm: "Tôi muốn ra đi, và trở về với Cha tôi."(Lk 15:18)


 

Hầu hết mọi Kitô hữu đều nhớ thuộc lòng dụ ngôn tả sự rạn nứt trong một gia đình giữa người cha: MC 4-C38


Hầu hết mọi Kitô hữu đều nhớ thuộc lòng dụ ngôn tả sự rạn nứt trong một gia đình giữa người cha và người con. Dụ ngôn này được đặt nhiều tên khác nhau như ỏ người con hoang đàngõ hoặc ỏ người cha nhân hậu ỏ, nhưng chỉ diễn tả sự cứu rỗi mà Thiên Chúa thiết tha muốn ban cho từng người lúc nào đó khi họ biết hối cải. Dù là người lành hay là tội nhân, đều cần nhìn nhận ra sự tai hại của tội và chiều kích sâu thẳm của tình thương Thiên Chúa qua cách xử thế của người cha đối với hai người con. Hình ảnh hai người con tượng trưng hai hạng người trong cộng đoàn dân Chúa.

Thứ nhất là hạng bị coi là tội lỗi. Tội do chính mình gây ra và dẫn đời mình đến sự tan nát và vô nghĩa! Để phạm tội này, tội nhân có suy nghĩ và tính toán: biết lý luận và tranh chấp, biết đòi quyền và thủ lợi ! Theo phong tục Do Thái, việc chia gia tài chỉ xảy ra khi cha mẹ đã chết. Gia tài được để lại cho con cái hưởng dung và lo hương lễ cho cha mẹ. Nếu đòi chia gia tài lúc cha mẹ còn sống là một sỉ nhục! Coi thường cha mẹ hoặc mong cha mẹ chết sớm! Đây là một tội trọng đối với cha mẹ! Tội trọng đã đưa người con đến chỗ thấp kém: muốn ăn cám heo cũng không có! Đối với ngươi Do Thái, heo là loài dơ bẩn, nếu bị qủi ám thì thuộc lọai phế thải, vô dụng! Hình ảnh này diễn tả một người phạm tội trọng đối với Thiên Chúa. Khi cố tình phạm một tội trọng, tội nhân quyết chối từ sự liên hệ của Thiên Chúa với mình và chọn con đường xa Chúa. Khi xa Chúa, thì đời người đó trở nên vô nghĩa! Nhưng Chúa vẫn kiên nhẫn và chờ đón tội nhân trở về. Khi biết trở về, Ngài luôn tha thứ và ban cho cơ hội sống tốt hơn.

Hạng người thứ hai cũng sa vào tình trạng ỏvô phúcõ và nguy hiểm! Bề ngoài xem ra chung thủy với cha, nhưng phản lại cha và ghen tương với người em! Hạng người này chúng ta vẫn thấy trong các giáo đoàn! Họ rất nhiệt tình và hăng hái làm việc chung, nhưng có tính độc tài và thống trị! Bề ngoài nhân danh đạo đức, bên trong đầy mưu chước và thủ đoạn! Họ hay lợi dụng mọi cơ hội để chen chân vào bất cứ chuyện gì và thích xuất hiện trước công chúng! Khi bình thường họ đọc kinh rất to! Lúc bất mãn thì tách biệt ra khỏi nhà cha là cộng đoàn! Hung hăng kéo bè, lập nhóm, mưu toan vu khống để hại người khác rất ghê gớm! Đây là loại người con cả ỏđạo đức gỉaõ! Tuy vậy, sự kiên nhẫn và tình thương của Chúa thật vươn cao hơn tội loài người. Thiên Chúa muốn cả ỏhai người conõ biết trở về với lòng mình và tìm ơn tha thứ.

Thực Hành: "Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi cho biết Chúa thiện hảo nhường bao." (TV 33:9) Chỉ những ai đã một lần chết đi rồi sống lại mới cảm nhận được gía trị của sự sống. Khi tội nhân được phúc trở lại, họ cảm nhận được sự êm dịu của tình thương mà ngôn ngữ loài người không thể nào diễn tả . Người đó biết âm thầm hiến cả cuộc đời để làm chứng cho tình yêu.


----------------------------

 

MC 4-C39: Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót


 - Lm. Carolô Hồ Bạc Xái

VietCatholic (Chúa Nhật 4 Mùa Chay C)

CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY C

Lc 15,20

I. DẪN VÀO THÀNH LỄ

Anh chị em thân mến


 

Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện đứa con hoang đàng hối hận trở về và được Cha mở rộng vòng: MC 4-C39


Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện đứa con hoang đàng hối hận trở về và được Cha mở rộng vòng tay tha thứ. Chúng ta là những đứa con hoang đàng và Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót luôn chờ đón chúng ta trở về để tha thứ và phục hồi tư cách làm con. Thánh lễ hôm nay là một dịp tốt để chúng ta trở về.

II. GỢI Ý SÁM HỐI

Chúng ta hãy mượn lời đứa con hoang đàng để bày tỏ với Chúa tâm tình sám hối chân thành:

* Thưa Cha, con thật đắc tội vì đã rời bỏ nhà Cha để chạy theo những cám dỗ của thế gian.

* Thưa Cha, con thật đắc tội vì đã không yêu thương anh chị em của con.

* Thưa Cha, con thật đắc tội vì đã nuông chìu xác thịt mà làm mất lòng Cha.

III. LỜI CHÚA

1. BÀI ĐỌC I (Gs 5,9-12)

Giai đoạn thứ ba của lịch sử cứu độ: Thiên Chúa cho dân Do Thái được vào chiếm hữu đất hứa.

* Việc đầu tiên khi vừa vào Đất Hứa là cử hành Lễ Vượt Qua. Lễ này được ấn định sẽ cử hành hàng năm từ đó về sau vào ngày 14 tháng Nisan, nhằm giúp dân Do Thái luôn nhớ đến lòng thương xót của Thiên Chúa đối với họ.

* Sau khi dân đã vào Đất hứa rồi thì manna không còn rơi xuống nữa, vì từ nay họ sẽ sống bằng hoa màu của đất đai mà Thiên Chúa ban cho họ.

2. ĐÁP CA (Tv 33)

Ca tụng lòng thương xót của Thiên Chúa.

3. TIN MỪNG (Lc 15,1-3.11-32)

Dụ ngôn người cha nhân từ: Hình ảnh người Cha trong bài Tin Mừng minh họa rất sống động tấm lòng nhân từ bao la đến độ không thể ngờ của Thiên Chúa.

11-12 - "Xin cha ban cho con phần gia tài thuộc về con": Thông thường cha chỉ chia gia tài cho các con khi gần chết. Tuy thực tế có những trường hợp cha chia gia tài cho con ngay lúc ông còn mạnh khoẻ (x Tb 8,21), nhưng đó là tự ý người cha chứ không do đòi hỏi của con. Hơn nữa sách Huấn ca, 1 quyển sưu tập những lời dạy khôn ngoan, đã khuyên đừng bao giờ làm như thế bởi vì "nắm tiền là nắm quyền", khi đã chia gia tài cho con rồi thì không còn điều khiển chúng nỗi nữa, trái lại có thể còn bị chúng ngược đãi (Hc 33,20-24). Người cha trong dụ ngôn này đã không khôn ngoan tính kỹ như vậy, vì ông quá thương con.

* Người cha này là hình ảnh của Thiên Chúa. Nhiều người trách Thiên Chúa sao quá hiền lành không trừng phạt "nhãn tiền" những người tội lỗi. Nhưng Thiên Chúa đã yêu thương loài người nên khi dựng nên loài người thì đã ban cho họ Tự Do. Mà tự do nghĩa là có thể vâng lời hoặc không vâng lời Thiên Chúa. Vậy không nên trách Thiên Chúa mà chỉ nên cám ơn Thiên Chúa đã quá yêu thương loài người. Có trách là trách loài người đã xử dụng sai quyền tự do của mình.

13-20a Sau khi lãnh gia tài, đứa con thứ liền ra đi sống bê tha phung phí hết của cải và rơi vào tình trạng khốn khổ.

* "Chăn heo": người Do Thái coi heo là đồ ghê tởm. Thịt heo họ còn không ăn. Thế mà đứa con này phải đi chăn heo. Tệ hơn nữa là muốn ăn thức ăn của heo mà còn không được. Nghĩa là tình trạng xuống dốc đến tột cùng.

* Trong lúc xuống dốc tột cùng như thế, nó muốn quay trở về với cha. Đây cũng là tâm lý của kẻ tội lỗi: khi sung sướng thì quên Chúa, quên đạo lý. Lúc khổ sở mới biết hối hận.

* Trước lúc quay về, nó soạn sẵn 1 bài tự thú. Ta hãy chú ý là bài tự thú này khá dài (2 câu 18-19)

20b Câu này chứa nhiều chi tiết chứng tỏ tình thương vô bờ bến của người cha nhân lành:

* "Khi cậu còn ở đàng xa, Cha cậu trông thấy": Một người cha bình thường khi con bỏ nhà ra đi thì tức giận và có thể còn từ con luôn. Nhưng người cha này không như vậy. Chi tiết ông trông thấy con từ xa có nghĩa là sau khi nó ra đi ông rất thương tiếc nó, thường xuyên đứng trước ngõ trông chờ nó, nhờ đó mới thấy bóng dáng nó từ đàng xa. Ý nghĩa: khi con người đi đàng tội lỗi, TC không từ bỏ con người nhưng luôn trông chờ con người hối hận quay về.

* "Liền động lòng thương": Đối với những người cha bình thường, cho dù độ lương bao nhiêu đi nữa với đứa con ngỗ nghịch bỏ nhà ra đi, khi thấy nó về thì phản ứng đầu tiên là chửi mắng, hoặc ít ra là lạnh nhạt. Người cha này không thế, phản ứng đầu tiên của ông là "liền động lòng thương".

* "Chạy lại": Ta nên hiểu chi tiết này theo tâm lý người phương đông. Những người phương đông (trong đó có Do Thái) giỏi kềm chế cảm xúc của mình, nhất là những người đàn ông. Đàn ông càng lớn tuổi càng phải đi đứng chửng chạc. Nhưng người cha phương đông trong dụ ngôn này chẳng những không kềm chế tình cảm mà còn "chạy"! Vì tình cảm thương con quá lớn, ông không kềm chế nỗi nữa rồi.

* "Ôm vào lòng hôn con tha thiết": cử chỉ này không chỉ là biểu lộ một tình thương mãnh liệt mà còn có ý nghĩa tha thứ. Ôm hôn là biểu lôï sự tha thứ (xem chuyện Đavít ôm hôn tha thứ cho Absalom ở 2Sm 14,33). Đáng chú ý là khi đó đứa con chưa mở lời xin lỗi.

21-24 - Khi đó đứa con bắt đầu đọc bài tự thú mà nó đã học thuộc lòng. Nên lưu ý là nó đọc chưa xong thì người cha đã không nghe nữa. Ông không cần lời lẽ của nó, nguyên việc nó quay về với ông đã đủ. Ông còn bận tổ chức tiệc mừng.

* "Mau mau đi": tha thứ nhanh chóng, nôn nóng mở tiệc mừng.

* "Đem áo dài tốt nhất mặc cho cậu": Áo chỉ thân phận của người mặc áo. Đứa con này đã đánh mất chiếc áo làm con để thay vào chiếc áo chăn heo. Nay nó được cho mặc "áo dài tốt nhất" tức là nó được trả lại quyền làm con. Chú ý là nó đã tự thú "Con không đáng cha nhận làm con cha nữa. Xin cha cứ coi con như đứa làm thuê".

* "Đeo nhẫn vào tay": nhẫn là món chỉ có những người quý phái mới mang.

* "Xỏ giầy vào chân cậu": theo tục lệ Do Thái, đầy tớ không mang giầy (mà chỉ xách giầy cho chủ).

* "Bắt con bò tơ chúng ta đã nuôi cho béo": không phải bất cứ con bò béo nào, mà con bò "chúng ta đã nuôi cho béo". Nghĩa là người cha đã dự trù sẵn bữa tiệc mừng này nên đã chỉ định một con bò phải nuôi cho béo. Một chi tiết nữa cho ta thấy người cha lúc nào cũng trông con quay về.

c.29 Phần thứ hai của dụ ngôn nói về người anh

* "Bao nhiêu năm trời tôi phục vụ ông": biệt phái và thông giáo cũng nghĩ rằng họ "phục vụ" Thiên Chúa hết lòng bằng cách tuân giữ mọi lề luật không sai phạm chút nào.

c.30 "Thằng con của ông đó": người con trưởng không coi người con thứ là em mình.

c.32 "Em con đây": người cha sửa lại lời lẽ sai lầm của người con trưởng.

Thật là 1 dụ ngôn cảm động. Những nét mô tả tình cảm của người cha trong dụ ngôn này khó mà có được nơi một người cha bình thường trong thế gian này mà chỉ có thể áp dụng vào Thiên Chúa nhân lành vô cùng.

4. BÀI ĐỌC II (2 Cr 5,17-21)

Chúa Giêsu Kitô đã hòa giải loài người tội lỗi lại với Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Giáo Hội có sứ mạng làm cho những ơn ích của sự hòa giải ấy được đến với mọi người.

IV. GỢI Ý GIẢNG

* 1. THIÊN CHÚA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT

Gandhi kể rằng khi ông 15 tuổi, ông đã ăn cắp của anh mình một đồng tiền vàng. Tuy nhiên sau đó ông rất áy náy nên quyết định thú tội với cha mình. Ông viết lên một tờ giấy những gì mình đã làm, sau đó xin cha tha thứ, và cuối cùng hứa sẽ không tái phạm nữa. Khi ấy cha ông đang bệnh phải nằm trên giường. Gandhi đến đưa tờ giấy cho cha và hồi hộp chờ cha xét xử. Người cha ngồi dậy, cầm tờ giấy, trong khi ông đọc thì hai dòng lệ từ đôi mắt ông chảy xuống. Gandhi cũng không cần được nước mắt mình. Cuối cùng khi đã đọc xong, người cha không hề nổi giận và cũng chẳng trách móc Gandhi lời nào. Ông ôm chầm lấy con và sung sướng vì con mình đã biết hối hận.

Cảm nghiệm được yêu thương ngay khi mình còn tội lỗi là một cảm nghiệm vô cùng sâu sắc đối với Gandhi. Sau này ông nói: "Chỉ có người nào đã trải qua cảm nghiệm về loại tình yêu như thế mới có thể hiểu được nó thôi".

Đó cũng là cảm nghiệm của đứa con hoang đàng trong bài Tin Mừng hôm nay. Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn giúp chúng ta hiểu được lòng thương xót bao là của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ngài muốn nói với chúng ta rằng: Nếu chúng ta phạm tội thì Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta. Ngài không những không bớt thương mà còn thương nhiều hơn nữa. Không phải đợi chúng ta trở nên hoàn hảo thì Thiên Chúa mới thương, mà Ngài yêu thương chúng ta chính vì chúng ta tội lỗi, yêu thương ngay khi chúng ta còn trong tội lỗi.

Tất cả chúng ta, dù nhiều hay ít, đều là những người tội lỗi. Nhưng chính trong tội lỗi và qua tội lỗi mà chúng ta cảm nhận được lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu chúng ta không bao giờ phạm tội thì chúng ta cũng không bao giờ cảm nhận được niềm vui được tha thứ. Nói thế không có nghĩa là chúng ta cứ tha hồ phạm tội. Nói như thế là để chúng ta càng hiểu được tấm lòng của Thiên Chúa. (FM)

* 2. NHỮNG CON TIM

Dụ ngôn này là một câu chuyện về những con tim:

- Con tim ích kỷ và con tim quảng đại.
- Con tim hẹp hòi và con tim rộng mở.
- Con tim lạnh lùng và con tim nồng ấm.
- Con tim tan vỡ và con tim vui mừng.
- Con tim sám hối và con tim không sám hối.
- Con tim biết tha thứ và con tim không thứ tha.
- Con tim oán giận và con tim biết ơn. (Theo FM)

* 3. NGƯỜI CON GÁI HOANG ĐÀNG

Dụ ngôn người con trai hoang đàng đã khiến Anon liên tưởng tới hoàn cảnh của những người con gái hoang đàng. Anon có những dòng mà đại ý như sau:

Biết bao thi sĩ đã viết nên những bài thơ đẹp nói về tình thương tha thứ của người cha và hạnh phúc của người con trai hoang đàng khi nó trở về. Nhưng đối với những người con gái hoàng đàng thì sao?

Người con gái hoang đàng cũng có thể quay về ngôi nhà mình đã bỏ đi. Nhưng không có gì còn giống như trước: Áng mây mờ vẫn còn nấn ná trên nét mặt những người thân; lại còn những lời chế diễu dèm pha của bà con lối xóm.

Có lẽ vì thế mà khi người con gái hoang đàng còn đang bơ vơ trên những nẻo đường lưu lạc, chỉ cần nghĩ đến những môi miệng cong cớn đó là không còn chút can đảm nào để trở về.

Vậy, hãy mở rộng cửa để đón người con trai hoang đàng trở về; hãy giết bò, hãy mở tiệc ăn mừng.

Nhưng xin đừng đóng sập cánh cửa trước mặt người con con gái hoang đàng trở về, bởi vì, hãy nhớ đừng quên, nàng cũng có một linh hồn.

* 4. TRỪNG PHẠT VÀ THA THÚ

Người con hoang đàng biết mình xứng đáng bị trừng phạt và sẵn sàng chờ đợi bị trừng phạt.

Thế nhưng người cha không trừng phạt, mà tha thứ.

Trừng phạt giống như dội một thùng nước lên que củi sắp tàn. Kết quả là ngọn lửa tắt ngúm.

Tha thứ giống như thổi hơi vào tàn lửa sắp tắt, giúp cho ngọn lửa lại bùng lên. (FM)

* 5. TRONG ĐÔI MẮT CHA

Một cô bé đang ngồi trên gối mẹ, chợt lên tiếng hỏi mẹ:

- Mẹ ơi, con có thể nhìn thấy lòng mẹ không?

Bà mẹ đáp:

- Mẹ không biết, nhưng con có thể nhìn vào mắt mẹ xem có thấy gì trong đó?

Cô bé nhướng mắt nhìn chăm chú vào đôi mắt người mẹ, rồi sung sướng kêu lên:

- Mẹ ơi! Con nhìn thấy lòng mẹ rồi, ở đó có một cô bé tí xíu là chính con đó mẹ ạ?

*

Trong đôi mắt của cha mẹ, con cái là tất cả. Trong đôi mắt Thiên Chúa chỉ có con người, nhất là những con người tội lỗi đáng thương. Vua Đavít đã cầu nguyện cùng Chúa: "Xin giữ gìn con như thể con ngươi, dưới bóng Ngài, xin thương che chở" (Tv 17,8).

Vâng, tấm lòng yêu thương khôn tả của Thiên Chúa đã được Chúa Giêsu bày tỏ trong dụ ngôn "Người cha nhân hậu". Một người cha rất đỗi hiền từ, luôn tôn trọng tự do của con cái, sẵn sàng trao phần gia tài cho người con thứ. Sau khi anh ta đã "sống phóng đãng, phung phí hết tài sản" trở về, người cha ấy cũng không trách mắng, nghiêm phạt, từ con. Trái lại, khi thấy bóng dáng cậu từ xa, ông đã vội vã chạy đến ôm chầm lấy cậu hôn hít vui mừng đến chảy nước mắt.

Lòng nhân hậu, yêu thương, tha thứ đã khiến ông quên hết lỗi lầm của đứa con hoang đàng, mà chỉ còn thấy trước mặt ông, trong vòng tay âu yếm, là đứa con ông hằng mòn mỏi đợi trông. Đứa con mà ông tưởng đã mất vĩnh viễn nay lại tìm thấy được. Ông vui sướng mở tiệc liên hoan, đàn ca múa hát, ăn mừng người con trở về. Một cuộc đón tiếp quá sức nồng hậu, ngoài sức tưởng tượng của đứa con.

Người anh đi làm về, chẳng những đã không vui mừng mà con nổi giận, trách móc cha già, khiến ông lại phải nhẫn nhục ra tận cổng phân trần, năn nỉ, mời cậu vào nhà chung vui với ông và gặp lại đứa em "đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Ông khẳng định với cậu rằng: "Tất cả những gì của cha đều là của con" (Lc 13,31).

Đó là câu chuyện có thật về một Thiên Chúa yêu thương, quảng đại, và hay tha thứ. Một Thiên Chúa không thích dùng hình phạt nhưng luôn tỏ lòng khoan dung. Một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. "Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương" (Tv 135).

Chỉ tiếc một điều là người anh cả đã không chịu vào nhà. Anh không chịu vào vì anh không thể tha thứ cho người em lầm lỡ. Anh không chịu vào vì anh sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm. Anh không chịu vào vì anh không hiểu được tấm lòng quá nhân hậu bao dung của người cha.

Hoá ra, bấy lâu nay anh sống trong nhà cha mà như ở bên ngoài: Anh không trái lệnh cha chỉ để tròn bổn phận chứ không phải vì yêu mến cha. Anh không hề gọi người em mình là "em tôi" mà là "đứa con của cha kia". Anh không cảm thông với người em lầm lỡ, cũng không chia sẻ nỗi khổ của người cha mất con.

Anh chỉ nghĩ về mình, quyền lợi của mình, hạnh phúc của mình. Anh là người đại tiện cho nhóm Pharisêu và các kinh sư, luôn tự hào về đời sống đạo đức của mình, và muốn cho những kẻ tội lỗi phải chết hơn là được cứu chữa.

Vậy cả hai người con đều phải quay trở về vôi cha, cả hai đều phải bước vào nhà cha, cả hai đều phải rũ bỏ nếp sống cũ, nếp nghĩ xưa để về ẩn mình trong trái tim cha: Nhân hậu, bao dung, tha thứ và tròn đầy yêu thương.

Trở về với cha là giang tay ôm lấy người em lầm lỡ.

Trở về với cha cũng là về với anh em, con cùng một cha.

Trở về với cha để thấy mình là tất cả, trong đôi mắt cha.

*

Lạy Chúa. tình Chúa lớn hơn tội lỗi chúng con bội phần. Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha cũng biết rộng lượng tha thứ cho nhau, để mỗi ngày chúng con càng nên xứng đáng với Chúa. Amen. (TP)

* 6. MẢNH SUY TƯ

- "Lúc đứa con hoang đàng quỳ gối xuống và khóc là lúc nó biến những khoảng thời gian phung phí cuộc đời với bọn đĩ điếm, với việc chăn heo, với việc ăn cháo heo cho đỡ đói thành những khoảng thời gian đẹp nhất và thánh thiện nhất trong đời nó. Dễ có mấy ai ý thức được như vậy. Tôi dám nói rằng cần phải vào tù mới hiểu được điều đó. Và nếu thế thì có vào tù cũng đáng lắm chứ" (Oscar Wilde)

- Chẳng có gì khó khi trở về nhà như một vị anh hùng với những chiến công hiển hách. Nhưng trở về nhà với vóc dáng tả tơi, hai bàn tay trắng và một con tim tan nát vì mặc cảm tội lỗi là một điều khó vô cùng.

- Đứa con hoang đàng biết mình đáng bị trừng phạt. Do đó nếu người cha trừng phạt thì nó cũng sẵn sàng chịu đựng. Lòng nó nhẹ đi. Nhưng nó không vui. Chính sự tha thứ của người cha mới đem lại cho nó niềm vui thực sự.

- Các vị thánh làm chứng về ân sủng và lòng trung thành của Thiên Chúa. Còn những người tội lỗi thì làm chứng về tình thương và lòng thương xót của Ngài.

V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là một người Cha giàu lòng thương xót. Người không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó sám hối ăn năn để được sống. Tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

1. Hội thánh là một người mẹ hiền luôn thương yêu con cái của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các vị mục tử / luôn thể hiện tình thương trong cung cách xử sự thường ngày.

2. Hiện nay / tình trạng thanh thiếu niên bỏ nhà ra đi bụi đời rất đáng báo động / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các bậc cha mẹ / luôn sống hòa thuận yêu thương nhau / và nhất là quan tâm giáo dục con cái của mình.

3. Phải từ bỏ nếp sống tội lỗi mà quay về với Chúa / là điều mà người Kitô hữu cần thực hiện trong mùa Chay thánh này / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu biết đoạn tuyệt với tội lỗi / để xứng đáng đón mừng đại lễ Phục sinh.

4. Ganh tỵ và ghen ghét gây ra biết bao đau khổ cho con người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết cố gắng sống bác ái yêu thương như Chúa dạy / nhờ đó dẹp bỏ được những tật xấu đáng ghét này.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói: Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy, là anh em yêu thương nhau. Xin Chúa ban ơn giúp sức để chúng con có thể sống trọn vẹn lời Chúa đã dạy. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. TRONG THÁNH LỄ

- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta thật hạnh phúc vì được làm con của Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Vậy chúng ta hãy dâng lên Ngài những tâm tình kính mến chân thành của chúng ta.

VII. GIẢI TÁN

Hôm nay chúng ta đã cảm nhận được lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Bây giờ chúng ta hãy là những sứ giả loan báo cho mọi người về lòng nhân từ thương xót bao la ấy. Chúc anh chị em luôn bình an.


Lm. Carolô Hồ Bạc Xái

----------------------------

 

MC 4-C40: ĐHY Giuse Maria Phạm Đình Tụng- Thơ

 

Một người kia có hai con  Cậu hai tính khí dâm bôn biếng lười, Xin cha chia: MC 4-C40


Một người kia có hai con
Cậu hai tính khí dâm bôn biếng lười,
Xin cha chia nửa gia tài,
Cậu đem đi biệt chơi bơì phương xa,
Ít lâu nạn đói sẩy ra,
Cậu hai lâm cảnh thật là bơ vơ.
Cậu liền suy nghĩ đắn đo:
Ăn năn, chỗi dậy hồi cư, về nhà.
Cậu còn đang ở đàng xa,
Người Cha trông thấy, vội ra đón liền.
Ôm con âu yếm dịu hiền,
Khong chờ con nói, ông truyền gia nhân:
Mang giầy cho cậu xỏ chân,
Áo sang cậu mặc, nhẩn vàng đeo tay.
Bắt con bê béo ra đây,
Chúng ta làm thịt dọn ngay tiệc mừng.
Dụ ngôn chủ ý dạy rằng:
Dù ta tội lỗi , Chúa hằng thương ta.
Khi ta hối hận quyết chừa,
Trở về với Chúa là cha nhân lành.


NGƯỜI CON HOANG ĐÀNG

Một người kia co hai con
Cậu hai tính khí dâm bôn biếng lười,
Xin cha chia nửa gia tài,
Cậu đem đi biệt chơi bơì phương xa,
Khi tiêu khiển, lúc nguyệt nga
Sau cùng hết nhẵn còn là tay không.
Sẩy ra nạn đòi trong vùng,
Cậu hai lâm cảnh khốn cùng bơ vơ,
Làm thuê chăn lợn ở nhờ,
Thân hình gầy guộc bơ phờ làm sao.
Có lần bụng đói như cào,
Muốn ăn cám lợn, nhưng nào ai cho.
Cấu liền suy nghĩ đắn đo,
Nhà cha đầy tớ ăn no dư thừa
mà tôi đây khổ thế này,
Tôi cần chỗi dậy đi ngay trở về,
Khiêm nhường tôi sẽ thưa cha
Tội con quá nặng hơn là núi non,
Xin Cha thương xót cả con
như người đầy tớ đội ơn cha hiền.
Thế rồi cậu chỗi dạy liền
Thẳng đường một mạch đi luôn về nhà
Cậu còn đang ở đàng xa,
Người Cha trông thấy, vội ra đón liền.
Ôm con âu yếm dịu hiền,
Không chờ con nói, ông truyền gia nhân:
Mang giầy cho cậu xỏ chân,
Áo sang cậu mặc, nhẩn vàng đeo tay.
Bắt con bê béo ra đây,
Chúng ta làm thịt dọn ngay tiệc mừng.
Người anh khi ở ngoài đồng,
Trở về thấy vậy ghen không vào nhà.
Người cha khi ấy chạy ra
Ôn tồn giải thích thiết tha xin vào.
Cùng Cha,con ở mọi ngày,
Tất cả gia tài là của con thôi,
Nhưng nay cần mở hội vui,l
Em con đã chết , nay đời phục sinh.
Em con đi mât biệt tin
Bao ngày thương nhớ nay tìm thấy em

Dụ ngôn chủ ý nói lên:
Mặc dù tội lỗi , đừng nên ngã lòng
Vững tin cậy Chúa an bài
sẵn sàng tha thứ vô cùng xót thương
(Luôn luôn chờ đón, săn lòng thứ tha).


----------------------------

 

MC 4-C41: HÃY ĐÀO HAI CÁI MỘ HUYỆT- Mark Link S.J.


Bài đọc: Js 5: 9, 10-12; 2 Cr 5: 17-21: Lc 15: 1-3; 11-32

chủ đề:

Lưỡi gươm hận thù mà chúng ta dùng để giết kẻ thù sẽ quay lại để trừng phạt chính chúng ta trước tiên.

 

Marvin Gaye, người đoạt giải Grammy dành cho các giọng ca chuyên nghiệp đã chết bi thảm: MC 4-C41


Marvin Gaye, người đoạt giải Grammy dành cho các giọng ca chuyên nghiệp đã chết bi thảm ngày 01.4.1983 sau khi bị chính người cha ruột của anh bắn. Một năm sau người bạn thân của anh là Davit Ritz đã viết lại tiểu sử của Gaye. Trong tập ấy, David đã gọi Gaye là “Một tâm hồn bị chia mảnh” (A divided Soul). Thật thế, Gaye là một tâm hồn bị chia hai mảnh vì một đằng anh là một nghệ sĩ, đằng khác lại là một tay chơi. Anh vừa là một người đầy tội lỗi, đồng thời lại là thánh nhân, một tay ma cô đồng thời là một quân tử. Tuổi thơ của Gaye luôn bị người cha độc ác của anh dày vò. Ritz đã phẩm bình về hậu quả sự việc trên như sau: “Anh ấy thực sự rất tin vào Chúa Giêsu, nhưng vẫn không thể áp dụng lời giáo huấn của Ngài vào việc thứ tha cho ông bố, để rồi cuối cùng cả hai đều bị huỷ diệt”

Câu chuyện trên về người cha không biết tha thứ và đứa con ông tương phản rõ rệt với câu chuyện người cha giàu lòng tha thứ và đứa con trai mà Chúa Giêsu kể lại trong Phúc Âm hôm nay. Sự tương phản giữa hai câu chuyện này làm nổi bật vấn đề ngày càng gia tăng trong xã hội hiện nay. Đó là con người không thể và không muốn tha thứ cho nhau. Một trong những lãnh vực rộng lớn nhất nói lên con người không thể và không chấp nhận tha thứ cho nhau đó là tình trạng ly dị hiện nay trên thế giới, nó làm cho một số rất lớn những cặp vợ chồng phải đau khổ, phải chia lìa nhau.

Trong cuốn sách nhan đề “How to Forgive your Ex-husband” (làm thế nào để tha thứ cho người chồng cũ của bạn), Marcia Hootman và Patt Perkins đã mô tả sự thăm dò qui mô về mối giận dữ nơi những phụ nữ đòi ly dị. Từ đó họ rút ra được hai kết luận:

Các phụ nữ này đã phung phí khủng khiếp năng lực và tiền bạc để tìm cách trả thù người chồng cũ của họ.

Vì cứ nuôi mãi căm hận nên nhiều người đang tự gây tổn thương cho chính mình còn nhiều hơn sự thương tổn mà người chồng trước của họ đã gây ra cho họ.

Cô Hootman đã cắt nghĩa lý do tại sao cô lại viết cuốn sách này như sau:

"Chúng tôi hy vọng cuốn sách sẽ giúp cho các phụ nữ này dẹp bỏ lòng căm giận vì nếu họ không huỷ diệt lòng căm giận, thì sự căm giận sẽ huỷ dịêt họ. Nhờ dẹp được lòng căm giận, họ lại có thể tiếp tục sống an vui thanh thản như xưa.

Để thấy rõ lòng căm giận có thể hủy diệt họ thế nào, chúng ta hãy xét đến những nguồn tin bất ngờ do Hội Y Khoa cung cấp. Hội này đã mở ra một cuộc thăm dò với hàng ngàn bác sĩ đa khoa. Các bác sĩ được hỏi như sau: "Trong một tuần lễ, bạn thấy có bao nhiêu bệnh nhân mà bạn xét thấy cần phải điều trị bằng y thuật của bạn?" Câu trả lời thật đáng ngạc nhiên. Các bác sĩ đều cho rằng họ chỉ điều trị được độ mười phần trăm bệnh nhân của họ. Khi người ta hỏi về số 90% còn lại, các bác sĩ nói rằng những bệnh nhân này thực sự có đau đớn nhưng nỗi đau đớn này lại không mang tính chất hoá học hay thể lý mà lại thuộc lãnh vực tâm lý. Nói cách khác, đó là một vấn đề của cuộc sống: "Mà phương pháp điều trị thuốc men bình thường không giải quyết được. Những nguyên nhân thực sự gây cho họ chính là nỗi căm giận, những sự thù ghét dồn nén, những cảm xúc bất mãn và những thái độ tiêu cực”.

Đấy là những vấn đề mà một bác sĩ bình thường không được huấn luyện và trang bị để xử lý. Bàn về những hậu quả do các cảm xúc trên gây ra cho sức khoẻ, Bruce Larson viết: "Những cảm xúc của chúng ta về chính mình, về tha nhân, và tính chất của những mối quan hệ giữa mình và tha nhân thường làm cho chúng ta bị bệnh hoạn hơn là các chủng tử di truyền trong các tế bào của chúng ta, hơn là những thành phần hoá học, sự ăn uống, hay môi trường chung quanh chúng ta. Các bác sĩ đều nhìn nhận rằng vốn liếng họ thu nhận trong thời gian đào tạo quá ít nên khó có thể giúp đỡ các bệnh nhân của họ trong những vấn đề liên quan đến cuộc sống như thế". Điều rõ rệt là khi chúng ta cứ giữ mãi trong tâm mình mối ác cảm, khi chúng ta không chịu tha thứ, hoặc cứ tìm cách báo thù, thì chúng ta đã gây thương tổn cho mình không kém gì những thương tích mình gây ra cho kẻ thù của chúng ta. Nói một cách sống động hơn, mũi gươm chúng ta dùng để gây thương tích cho kẻ thù chúng ta sẽ đâm vào chính thân xác chúng ta trước. Một hình ảnh khác minh hoạ được năng lực tàn phá của lòng căm giận và báo thù được diễn ra trong bộ phim The Karate Kid (Chú bé học Karatê): Trong một màn của bộ phim, ông Miyagi hỏi Daniel lý do tốt đẹp nào khiến cậu muốn học võ karatê, Daniel trả lời: "Để báo thù, như thế đủ chưa?" Ống Miyagi liền đáp; "Ai cứ quyết tâm nuôi mộng báo thù thì nên đào sẵn hai cái huyệt: một cái cho kẻ thù và cái kia cho chính mình".

Tất cả những điều trên góp phần làm sáng tỏ lời dạy của Chúa Giêsu về lòng tha thứ. Đây là sứ điệp mà mọi người ngày hôm nay cần ghi khắc trong lòng: Chúng ta phải tự vấn xem chúng ta đang làm gì đối với nỗi căm giận. Sự chua chát hay mối ác cảm đang làm cho cuộc sống của chúng ta mất bình an?

Cách đây ít lâu, một phụ nữ viết thư cho Ann Landers kể lại mối bất hoà khủng khiếp từng xảy ra giữa bà và người em trai. Mãi đến khi cha của bà chết, bà mới chịu tha thứ và đối xử với cậu ấy như một người em. Sau đó một thời gian, cậu em lại mắc bệnh tim qua đời trong đôi tay của bà. Bà kết thúc lá thư với đoạn văn đầy cảm động sau:

"Tôi hài lòng về những năm tháng tôi và em tôi sống bên nhau. Và mỗi khi nghĩ đến những tháng năm mà chúng tôi đã đánh mất vì quá ương ngạnh, và thiển cận đến nỗi không hoà hợp được với nhau, thì tôi lại muốn khóc to lên. Bây giờ thì cậu ấy đã ra người thiên cổ, còn tôi thì bị bệnh đau tim".

Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta xét lại các mối tương giao trong cuộc sống của chúng ta và đem lời dạy sau đây của Chúa Giêsu áp dụng vào các mối tương giao ấy:

"Hãy yêu kẻ thù của ngươi, hãy làm điều tốt cho kẻ ghét ngươi.. Hãy cầu nguyện cho kẻ xử tệ với ngươi" (Lc 6:27-28)

Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện của thánh Phanxicô:

"Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa, để con:

đem yêu thương vào nơi oán thù,
đem thứ tha vào nơi lăng nhục,
đem an hoà vào nơi tranh chấp,
đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
đem tin kính vào nơi nghi nan,
đem trông cậy vào nơi thất vọng,
dọi ánh sáng vào nơi tối tăm,
đem niềm vui đến chốn u sầu.

Lạy Chúa xin hãy dạy con:
tìm an ủi người hơn được người ủi an,
tìm hiểu biết người hơn được người hiểu biết,
tìm yêu mến người hơn được người mến yêu,
vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh,
chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân,
vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ,
chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời".

----------------------------

 

MC 4-C42: LÒNG NHÂN TỪ VÔ BIÊN


- Gm. Arthur Tonne

 

Trong những ngày mới lập quốc, một đoàn quân Hoa Kỳ đóng quân tại vùng đất người da đỏ: MC 4-C42


Trong những ngày mới lập quốc, một đoàn quân Hoa Kỳ đóng quân tại vùng đất người da đỏ.  Đời sống khó khăn và nguy hiểm, một người lính thường hay bị kỷ luật vì say rượu. Một lần nữa, anh bị đưa ra trước toà án quân sự.
Ông đại tá chánh án hỏi: “Tôi phải xử anh thế nào? Anh đã bị kỷ luật nhiều lần, và anh cứ tái phạm, chúng tôi đã làm mọi cách, bây giờ phải làm sao?” ông Đại uý trẻ hỏi: “Xin phép Đại tá cho tôi coi lại hồ sơ?”. Sau khi đã coi kỹ lại hồ sơ của tội nhân, viên đại uý  công bố; “Có một điều chúng ta chưa bao giờ làm cho anh này”

Viên Đại tá hỏi: “Điều chi?”

Viên Đại uý đáp: “Thưa Đại tá, anh này chưa bao giờ được khoan hồng”

Sau vài phút tham khảo với đoàn chánh án viên Đại tá trở ra với bị cáo tuyên bố: “Anh đã bị phạt nhiều lần, lần này tôi xoá bỏ mọi tiền án trong hồ sơ của anh, anh được khoan hồng, anh tự do”.

Quá ngạc nhiên, tội nhân lấy tay che mặt và cúi mình rời toà án. Từ giây phút đó anh trở nên một người mới. Anh không bao giờ uống rượu nữa. Trái lại anh thành một người đáng tin cậy trong đội quân và nhiều lần được thăng cấp.

Câu truyện này giống bài Tin Mừng chúng ta vừa đọc: câu truyện người con hoang đàng, và cũng là câu truyện người cha đầy lòng nhân hậu. Bạn và tôi có trong câu truyện ấy. Chúng ta là những đứa con bướng bỉnh, những đứa con bụi đời, người lính vô kỷ luật: những đứa con ích kỷ của người cha nhân từ.

Người cha ấy đã đem chúng ta về, không phải một lần, dăm ba lần, mà rất nhiều lần. Người đã tha thứ cho chúng ta và đem chúng ta về với Người.

Làm sao người con của Chúa trốn khỏi Người Cha đầy nhân từ? Làm sao chúng ta cách biệt Chúa khi chúng ta biết rằng cha chúng ta đang chờ đợi để tha thứ? Vâng, lòng hậu Chúa vô biên. Đừng bao giờ  bạn quên điều ấy.

Tôi biết thường có sự phản đối khi nhấn mạnh lòng nhân từ của Chúa, sự phản đối mà người con cả trong bài Tin Mừng đã nghĩ tới: “Nếu chỉ dựa vào lòng nhân từ của Chúa, sẽ có nguy cơ làm chúng ta buông thả và phạm đủ mọi thứ tội”

Không, tôi không sợ như thế. Tại sao Cha trên trời của chúng ta nhân từ vô bờ bến? Vì Người tốt lành vô cùng, tốt lành với chính Người và tốt lành với chúng ta. Nếu tôi nhớ Chúa là Đấng tốt lành, tôi sẽ không chống đối Người. Tôi sẽ cố gắng làm vui lòng Người, vâng ý Người và phụng sự Người.

Hôm nay tôi xin đề nghị: Hãy tỏ lòng biết ơn vì đã được tha thứ bằng cách ở lại với Cha chúng ta. Nếu chúng ta lỡ xa Chúa. Hãy mau trở về với Người.

Trong bài đọc I, Chúa nói với Yosua: “Hôm nay ta rửa nhục Ai Cập cho ngươi”. Chúa không phạt dân Người nữa. Bài đáp ca cho ta lời khích lệ: “Khi người đau khổ cầu cứu, Chúa đã lắng nghe và Người cứu họ khỏi mọi điều đau khổ.”

Trong bài đọc II Thánh Phaolô còn khích lệ chúng ta hơn nữa: “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã giao hoà cùng thế giới: không kể chi đến tội lỗi chống lại Người…”. Vậy giao hoà nghĩa là gì? Giao hoà có nghĩa là trở nên thân thiện, giải toả những bất đồng, đem lại sự hoà hợp.

Thánh lễ thực hịên điều đó: ngay tại đây, đúng lúc này, chúng ta những đứa con hoang đàng gặp Người Cha tha thứ. Xin Chúa chúc lành bạn. Amen.

----------------------------

 

MC 4-C43: Thiên Chúa là Cha nhân hậu


 - Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

VietCatholic (Chúa Nhật 4 Mùa Chay C)

Chúa Nhật 4 Mùa Chay C

I. DẪN VÀO PHỤNG VỤ LỜI CHÚA


 

Các phương tiện thông tin đại chúng: báo chí, truyền thanh, truyền hình đang ồn ào về cuốn: MC 4-C43


Các phương tiện thông tin đại chúng: báo chí, truyền thanh, truyền hình đang ồn ào về cuốn phim “Cuộc Khổ Nạn của Đức Kitô = The Passion of Christ” của đạo diễn Mel Gibson. Dù quan điểm của mỗi người có khác nhau về chuyện phim có tính bài Do Thái hay không thì nội dung phim vẫn là một nhắc nhở đối với mọi người nói chúng và với các Kitô hữu nói riêng về Tình Thương vô bờ bến của một Đấng Thiên Chúa đã bị đóng đinh thập giá (Dieu Crucifié). Phụng vụ Mùa Chay cũng không có mục đích nào khác là giúp chúng ta nhận ra khuôn mặt bao dung và thứ tha của một Đấng Thiên Chúa giầu lòng xót thương chỉ muốn cứu hết mọi thụ tạo nên đã chấp nhận mọi cực hình.

II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA

2.1 Bài đọc 1: Gs 5, 9a.10-12: (a) “Dựa vào các truyền thống phía bắc, Sách Giôsuê trình bày cuộc chiếm lãnh Đất Hứa như một thiên anh hùng ca tiếp nối thiên anh hùng ca của cuộc Xuất Hành: tất cả các bộ lạc đồng tâm góp sức dưới sự chỉ huy của Giôsuê vượt qua sống Giócđan như đã vượt qua Biển Đỏ bốn mươi năm trước, rồi tiến như vũ bão từ chiến thắng này qua chiến thắng khác để chiếm lãnh toàn miền đất Thiên Chúa đã chỉ cho Môsê thấy (ch.1-12). Sau đó là cuộc phân chia đất đai giữa các bộ lạc (ch.13-21). Và cuối cùng là đại hội toàn dân tại Sikhem.” (Kinh Thánh trọn bộ, Dẫn Nhập Cựu Ước, trang 23).

(b) Gs 5,9a.10-12 là tường thuật việc Dân riêng Chúa đã vào Đất Hứa và cử hành lễ Vượt Qua để tưởng niệm sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa. Nhờ sự can thiệp yêu thương và quyền năng ấy mà dân Ítraen thoát khỏi cảnh nô lệ ở đất Ai Cập và được đưa vào miền Đất Hứa. Vì thế mà Đức Chúa mới phán: “Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai Cập.” Vào Đất Hứa thì dân không còn cần đến manna nữa vì thổ sản của họ bây giờ chính là hoa mầu của vùng đất Canaan.

2.2 Bài đọc 2: 2 Cr 5,17-21: Đối với Thánh Phaolô thì cuộc Xuất Hành và vào Đất Hứa của người Do Thái chỉ là hình bóng mờ nhạt của ơn huệ mà Thiên Chúa ban cho người tín hữu qua/nơi Đức Kitô: đó là ơn được trở thành tạo vật mới hay ơn được hòa giải với Thiên Chúa. Ơn được trở thành tạo vật mới hay ơn được hòa giải với Thiên Chúa là ơn biến đổi con người từ thân phận tội nhân trở thành tư cách của con cái Thiên Chúa. Ơn ấy được minh hoạ trong dụ ngôn của Phúc âm hôm nay: người con thứ hoang đàng được cha thứ tha, đón nhận và yêu thương bù đắp ngoài sự mong đợi của chính anh ta và cũng ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Để làm được chuyện phi thường ấy, Thiên Chúa yêu thương và quyền năng đã phải hy sinh Con Một Người đến mức tột cùng. Vì thế mà Thánh Phaolô mới tha thiết kêu gọi: “Nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người”

2.3 Bài Tin Mừng: Lc 15,1-3.11-32: (a) Lc 15,1-3 là tường thuật về cách cư xử của Đức Giêsu khiến nhiều người Pharisêu bất bình. Đó là việc “tất cả những người thu thuế và tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng”. Đáng lẽ ra những người Pharisêu phải vui mừng khi thấy những người thu thuế và tội lỗi lui tới với Đức Giêsu để nghe lời Người giảng, vì nếu những người thu thuế và tội lỗi nghe Đức Giêsu giảng dạy thì chắc chắn nhiều người trong số họ sẽ ăn năn sám hối, trở về với Thiên Chúa. Trái lại những người Pharisêu lại xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” thì quả là điều khó hiểu. Họ sợ gì mà phản ứng như vậy? Họ sợ những người thu thuế và tội lỗi đi theo Đức Giêsu, bị Đức Giêsu lôi cuốn? Hay chỉ vì họ khinh rẻ những người thu thuế và tội lỗi, cho rằng những người ấy không xứng đáng được đến gần Đức Giêsu?

(b) Lc 15,11-32 là dụ ngôn người cha nhân hậu mà Đức Giêsu kể cho những người Pharisêu kia nghe. Thật ra, theo Tin Mừng Luca, Đức Giêsu đã kể tất cả ba dụ ngôn “con chiên bị mất, đồng bạc bị đánh mất và người cha nhân hậu”. Nhưng Hội Thánh chỉ chọn đọc dụ ngôn người cha nhân hậu trong phụng vụ hôm nay. Cả ba dụ ngôn đều nói lên chung một điều: Đối với Thiên Chúa thì một thụ tạo mất đi mà tìm lại được là vô cùng quí giá. Dụ ngôn người cha nhân hậu nói lên tấm lòng yêu thương, nhân hậu của Thiên Chúa là Cha. Dụ ngôn này được tóm tắt như sau: Một người cha có hai con. Một ngày kia, chàng con thứ đòi cha chia tài sản rồi đi bụi đời, tiêu xài hoang phí tất cả tiền bạc. Lại xẩy ra nạn đói trong vùng. Để sống qua ngày, chàng ta phải đi chăn heo (lợn) mướn cho nhà giầu. Chàng ước ao có thứ heo ăn mà chẳng có. Lúc đó, chàng mới nhớ lại cuộc sống ở nhà cha mình hồi trước và quyết tâm quay về, tính là xin tạ lỗi với cha để được cha tha thứ cho sự khờ dại của tuổi trẻ. Chưa về tới nhà thì chàng đã thấy bóng cha ngóng chàng ở sau cánh cửa. Chàng vừa bước lên bậc thềm thì cha chàng đã vội chạy ra ôm chầm lấy chàng và dắt vào nhà, lấy quần áo mới để chàng mặc, lấy nhẫn quí xỏ vào tay chàng, bảo gia nhân đầy tớ làm tiệc mừng chàng trở về.

Người anh cả đi làm ở ngoài đồng về, thấy thế, tỏ ra bất bình và lên tiếng trách móc cha sao đối xử thiên tư nhau vầy: “Cha coi đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về thì cha lại giết bê béo ăn mừng”. Nhưng người cha đã giải bày với anh ta: “Con à, lúc nào con cũng ở bên cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay tìm thấy!”

III. ĐÓN NHẬN & SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA

3.1 Dụ ngôn người cha nhân hậu có một thông điệp chung gửi đến hết mọi người? Dụ ngôn người cha nhân hậu mang một thông điệp mà Đức Giêsu muốn gửi đến hết mọi người. Thông điệp đó là: Thiên Chúa vì yêu thương con người, sẵn sàng thứ tha mọi tội lỗi, xúc phạm của những người con bội bạc, bất hiếu, nhưng sám hối ăn năn quay về với Chúa. Mỗi lần một tội nhân quay trở về, thì Triều đình Thiên quốc hoan hỉ vui mừng không sao kể xiết. Ngôi Hai Thiên Chúa sinh ra làm người cũng chỉ nhằm cứu vớt những người hư hỏng, tội lỗi mà Thiên Chúa Cha hết mực yêu thương, quí trọng, giống như người mục tử bỏ 99 con chiên mà đi tìm con chiên lạc. Vậy thì, dù tội lỗi, yếu đuối đến đâu, con người cũng không có lý do gì phải thất vọng, vì Lòng thương xót và quyền năng của Thiên Chúa thì lớn lao và hữu hiện hơn tội lỗi của chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải biết quay về và cậy trông vào lòng thương xót ấy, chứ không được ỷ vào tình thương của Người mà tiếp tục sống trong tội lỗi và phản bội.

3.2 Dụ ngôn người cha nhân hậu có một thông điệp riêng gửi đến những người Pharisêu thời xưa và thời nay? (a) Với những người Pharisêu trong Phúc âm tức những người sống cùng thời với Đức Giêsu thì ngoài thông điệp chung vừa được trình bày ở trên, dụ ngôn người cha nhân hậu còn muốn nói với họ điều này: Họ không có quyền giới hạn cách cư xử và yêu thương của Thiên Chúa. Họ cũng không có quyền coi mình là những người đạo đức thánh thiện hơn những người thu thuế và tội lỗi. Họ lại càng không có quyền coi khinh coi thường những người kia. Trái lại họ phải biết khám phá ra tấm lòng của Thiên Chúa đối với những người yếu đuối, tội lỗi mà bắt chước Người trong cách sống của mình. Họ được vinh dự là người con cả, vì họ là thành phần của dân riêng, dân được tuyển chọn, và được diễm phúc lớn lao là luôn được sống trong nhà của cha, nhưng họ hãy coi chừng: vì rất có thể họ làm việc và cư xử với cha như những người làm công, tính toán thiệt hơn và thiếu tình thiếu nghĩa hoặc hẹp hòi, so bì với hạng em út.

(b) Còn những người Pharisêu thời nay, họ là ai? Phải chăng đó là những người đạo gốc mà chỉ giữ đạo hình thức, nặng luật lệ? Phải chăng đó là những người tham gia ba bốn hội đoàn trong giáo xứ, giữ những chức vụ quan trọng trong hội đoàn? Phải chăng đó là những người có nhiều quen biết với các giám mục, linh mục và tu sĩ? hay trong gia đình có người đi tu làm giám mục, linh mục hay tu sĩ? Phải chăng đó là những người giầu có, trí thức, có địa vị xã hội? Với những người Pharisêu thời nay dụ ngôn người cha nhân hậu nhắn nhủ họ rằng: các anh các chị hãy coi chừng: đừng vì giầu sang, địa vị hay đạo gốc của mình mà kiêu ngạo và coi thường coi khinh người khác. Biết đâu những người không công giáo, biết đâu những người nghèo khổ, ít học lại gần gũi Thiên Chúa hơn chúng ta vì họ yêu mến và thực hành Lời Chúa hơn chúng ta!

IV. CẦU NGUYỆN

Lạy Thiên Chúa là Chúa Tể Trời Đất, chúng con cảm tạ Chúa đã bộc lộ cho chúng con biết tấm lòng yêu thương cao cả của Chúa là một Người Cha. Thiếu sót và tội lỗi của chúng con chẳng có thể làm gì được Cha mà chỉ làm giảm và mất giá trị của chính chúng con mà thôi. Và để phục hồi giá trị nguyên thủy mà Cha muốn ban cho chúng con, Cha đã không ngại hy sinh Con Một Cha để chúng con được ơn làm hòa cùng Cha. Lạy Thiên Chúa là Cha nhân hậu, chúng con cảm tạ Cha về hồng ân thứ tha mà Cha đã ban cho chúng con và tiếp tục ban cho chúng con.

Lạy Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chịu đóng đinh thập giá để đem ơn thứ tha cho chúng con. Chúng con xin tạ ơn Chúa. Chúng con quyết tâm sống phó thác vào Tình Thương của Chúa và học với Chúa để biết yêu thương, cứu vớt anh em là những người cũng cần được thứ tha tội lỗi như chúng con.


Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

----------------------------

 

 MC 4-C44: Tình yêu của Chúa cho ta nghị lực


- Lm. Vũ Xuân Hạnh

VietCatholic (Chúa Nhật 4 Mùa Chay C)

CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY C

 

Như các tuần vừa qua, Chúa nhật tuần này, chúng ta lại nói đến ý chí và nghị lực của bản thân: MC 4-C44


Như các tuần vừa qua, Chúa nhật tuần này, chúng ta lại nói đến ý chí và nghị lực của bản thân mỗi người cần thiết để trở về với Thiên Chúa.

Đặc biệt, tuần rồi, dựa trên Lời Chúa Giêsu: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị hủy diệt”, tôi đề nghị mỗi người tự tin nơi bản thân, để hun đúc nghị lực, hun đúc ý chí, trở về với Thiên Chúa.

Hôm nay chúng ta hường tới một đề nghị cao quý hơn, làm cơ sở cho sự ăn năn thống hối, đó là: Hãy cậy dựa vào lòng thương xót của Thiên Chúa, mà trở về với Người. Một mặt tin vào khả năng sám hối của chính mình, nhưng mặt khác, hãy nhớ lại lòng thương xót của Chúa để làm cho nghị nơi ta dồi dào hơn, ý chí mạnh mẽ hơn.

Tình thương của Thiên Chúa là một tình yêu chờ đợi, tình yêu tha thứ. Chỉ cần con người mở lòng ra đón nhận là gặp được tình yêu đó thôi. Dụ ngôn người cha nhân hậu được suy niệm trong Chúa nhật 4 Mùa Chay này là bằng chứng cho tình yêu ấy.

Một người cha có hai đứa con. Một hôm đứa con thứ đòi chia gia tài cho nó. Thế là gói trọn gia tài cha chia cho, người con thứ đã quyên tất cả tình yêu, sự chiều chuộng của cha, bỏ đi biệt tăm. Thái độ bỏ đi ấy cho thấy lòng phản bội của người con thứ.

Từ bỏ cha đã vậy, anh còn lao mình vào những trò chơi xa xỉ, đầy tội lỗi. Cuối cùng, không còn một đồng nào dính túi. Vậy điều gì sẽ xảy ra tiếp theo? Anh ta trở thành một kẻ tự đánh mất hết giá trị con người của mình: đói quá, đi xin người ta để được chăn heo! Nhưng giá trị của một con người bị đánh mất ấy vẫn chưa dừng, nó càng tuột dốc và lao nhanh. Nó lao tới một nỗi nhục lớn hơn: thọc tay vào máng heo ăn, lấy cám heo bỏ vào miệng, muốn cùng ăn chung với heo, vậy mà một miếng, người ta cũng không cho. Đọc Tin Mừng, tôi thấy thánh Luca dùng danh từ còn nặng nề hơn hai từ “cám heo”, để diễn tả nỗi nhục nhã quá sức, không thể tưởng tượng. Một nỗi nhục nhã khôn cùng: “cặn bã”. Thánh Luca viết: “Nó muốn ăn những đồ cặn bã heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho”!

Đó là bài học đáng giá để ta lưu tâm suy nghĩ. Vì khi lìa bỏ Chúa, trầm mình trong tội lỗi, khoái lạc, dục vọng, người ta chỉ chuốc lấy nỗi nhục nhã ê chề, chuốc lấy sự mất bình an không thể có gì bù đắp được. Nỗi nhục nhã này quá lớn. Nó cướp mất tất cả những gì là nhân vị của một con người. Biến kẻ lao mình vào làm bạn với nó trở nên ngang hàng với thú vật. Có khi còn không bằng, bởi muốn ngang hàng với thú khi cùng ăn “cặn bã” với nó mà “cũng không ai cho”.

Nhưng rất may cho người con thứ. Anh có một người cha quá nhân từ, để trong lúc ngặt nghèo này, anh còn có chỗ mà dựa dẫm. Tình yêu của người cha nung nấu nghị lực và làm sống lại ý chí nơi người con thứ. Đó là sức mạnh vững chắc để anh tìm về gặp cha của anh.

Người con thứ có dư kinh nghiệm về lòng yêu thương của cha. Người con thứ biết rằng, dù anh có bỏ cha, bỏ nhà ra đi, sống một đời sống bê tha tội lỗi, thì tình yêu nơi cha của anh còn lớn hơn, mạnh hơn mọi sự phản bội, mọi vong ân, mọi tội lỗi mà anh đã gây ra.

Trong khi người con thứ ngụp lặn trong thế giới tự do xấu xa của riêng mình, người cha vẫn một lòng chờ đợi không mệt mỏi, một lòng hy vọng nơi con không hề hối tiếc. Rồi khi người con nghịch phản ấy trở về, từ đàng xa, người cha đã nhìn thấy con trai ông trước khi nó nhìn thấy cha nó. Người cha không hề nhớ tội của con mà chỉ nhớ con. Người cha không mảy may nghĩ tới việc con làm, điều con sống, mà chỉ nhất mực tha thứ. Con trai mình còn chưa kịp nói một lời xin lỗi, người cha đã đon đả đón chào.

Kinh nghiệm lớn lao về tình yêu của cha, đúng hơn, người con thứ quá kinh nghiệm về một biển trời yêu thương, anh đã cậy dựa vào biển trời yêu thương ấy mà có đủ sức mạnh để hồi tâm, đủ can đảm và nghị lực trở về cùng cha. Tình yêu của người cha chính là ý chí, là nghị lực của đứa con. Trong cơn tủi nhục ê chề, người con thứ đã hối hận. Và trong cơn hối hận, người con thứ nhìn thấy tình yêu của cha sáng như ngọn hải đăng rọi chiếu tâm hồn anh, để với ngọn đèn tình yêu ấy, lòng anh bừng lên ý chí trở về với cha. Phúc thật cho người con thứ vì lòng cha yêu anh.

Hình ảnh người cha vô cùng nhân hậu ấy, chính là Thiên Chúa. Hai người con chính là hình ảnh của chúng ta. Nơi bản thân mỗi người mang vóc dáng của cả hai người con. Có lúc mình trung thành lắm, nhưng cũng có lúc chẳng trung thành chút nào. Nhưng với hình ảnh người con thứ là một bài học lớn về ý chí, nghị lực và sự hồi tâm, ta hãy học lấy mà nhận ra tình yêu cao vời vợi của Thiên Chúa, một tình yêu không hề so đo, tính toán, nhưng luôn là tình yêu chung thủy, rộng lượng và khoang dung đến mức chúng ta không thể hiểu nỗi, chỉ có thể cảm nghiệm và cố gắng sống sao cho xứng đáng…

Tình yêu của người cha trong dụ ngôn đã nắn đúc nên nghị lực, rèn lại ý chí nơi người con thứ. Cũng vậy, tình yêu của Thiên Chúa hãy là chỗ dựa của chúng ta, làm dậy lên ý chí và nghị lực cho cả một kiếp sống làm người của mình. Vì phúc thật của người con trong dụ ngôn, cũng chính là phúc thật của bạn và tôi trong thân phận mong manh của một kiếp người: phúc thật cho chúng ta vì Thiên Chúa yêu chúng ta.

Vậy nhận lãnh mối phúc ấy, dù biết rằng, đã nhiều lần mình yếu lòng, nhiều lúc không đủ nghị lực thắng cám dỗ, bạn và tôi hãy nhớ lại dụ ngôn người cha nhân hậu này, để khám phá lại lòng thương xót của Chúa mà cậy dựa vào lòng thương xót ấy, trở về với Người.

Chính khi ta hồi tâm nhớ lại lòng Chúa yêu thương, rồi tin tưởng, cậy dựa vào tình yêu ấy, chắc chắn, tâm hồn mình sẽ tăng thêm nghị lực, giàu thêm ý chí, giúp ta can đảm làm lại tương quan với Chúa và với anh em, bằng sự nỗ lực xa tránh cám dỗ, xa tránh dịp tội. Chỉ cần trở về với Chúa, qua việc lãnh nhận bí tích giao hòa, Chúa sẽ tha hứ hết. Không chỉ tha thứ, Người còn quyên hết quá khứ của ta, giống như người cha tha thứ và đón nhận đứa con hư hỏng của mình.

Phúc thật cho bạn và cho tôi, vì Chúa yêu chúng ta!


Lm. Vũ Xuân Hạnh

----------------------------

 

MC 4-C45: Hãy trở về - Phaolô Ngô Suốt


VietCatholic (Chúa Nhật 4 Mùa Chay C)

CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY C

Lc 15, 1-3; 11-32


 

Trong dụ ngôn hôm nay chúng ta nghe chữ “Cha” gần 20 lần. Đúng là chủ ý nói về người cha yêu: MC 4-C45


Trong dụ ngôn hôm nay chúng ta nghe chữ “Cha” gần 20 lần. Đúng là chủ ý nói về người cha yêu thương và nhân hậu, luôn tha thứ cho con cái, đồng thời mong chờ ngày nó trở về với mình. Điểm độc đáo của Thánh sử Luca khi ghi lại đoạn Tin Mừng này, đã nhắm đến nhiều đối tượng mà hai anh em trong chuyện dụ ngôn tiêu biểu. Chúng ta cùng tìm hiểu xem mình thuộc loại người nào trong dụ ngôn mà Thánh sử để trống đoạn cuối hôm nay.

Người con thứ đòi hỏi tiền bạc, rồi dùng tài sản không phải của mình đem đi tiêu pha hoang phí, phóng đãng, không một chút suy tư. Phải chăng anh ta tượng trưng cho những người thu thuế và tội lỗi ? Người con lớn, tuy ở nhà với cha mình, làm mọi điều cha muốn, nhưng thâm tâm thì mang ý tưởng sai lạc, nên hôm nay phát biểu ý nghĩ thầm kín của mình: “Đã bao nhiêu năm trời, con hầu hạ, làm nô lệ cho cha…”. Anh ta tiêu biểu cho những kinh sư, biệt phái. Họ là những người giữ luật nghiêm chỉnh, nhưng nguyên động lực chính đã bị hiểu sai lạc, do đó họ giữ luật bên ngoài, chỉ chú trọng đến hình thức. Cho rằng sống như thế là đúng, sẽ được ơn cứu độ. Họ đã hết sức sai lầm.

Thiết nghĩ rất nhiều người trong chúng ta -tôi là một-, giống người con cả trong câu chuyện hôm nay. Tôi vẫn giữ đạo, đi dự Thánh lễ đúng luật buộc, tôi không phạm tội trọng…, nhiều khi tự so sánh chưa chắc giữ đạo thua các vị biệt phái, kinh sư ngày xưa. Người ngoài nhìn vào tôi là họ lầm to ! Họ làm sao hiểu được tôi có cùng quan điểm với những người Pharisiêu xưa. Tôi đi dự Thánh lễ vì đó là luật buộc, nếu không đi tôi sợ bà con, thân nhân chê cười, không đi sợ bị phạm tội, đi để được người khác khen là mình “đạo đức”. Người con cả nghĩ rằng phục vụ hầu hạ cha mình, ngày nào đó sẽ được thưởng công xứng đáng. Tôi cũng vậy, tôi chỉ chú trọng đến hình thức, tôi muốn ve vản nhãn quan của thiên hạ, tôi nghĩ rằng chỉ cần như thế là được cứu thoát, được cứu độ.

Bao nhiêu lần tôi tham dự Thánh lễ, tuy ngồi trong nhà thờ mà đầu óc để tận đâu đâu, miên man nghĩ đến những công việc, thú vui giải trí đang chờ mình; đi lễ thì đi trễ, về sớm; nhiều lúc đứng cuối nhà thờ, tôi tiết kiệm đến nỗi không bỏ lấy một đồng bạc vào trong giỏ “collection”. Cha giảng thì cha nghe, tôi đâu cần hiểu để làm gì, nhiều khi vô tình nghe nhắc nhở điều nào đó, tôi lại thầm nhủ “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi !”. Tệ nhất là nhiều khi đang “chia trí” với điều gì đó, nên trong thánh lễ mà tôi cứ thấp thỏm nhìn đồng hồ, đôi khi còn cho rằng “mất thì giờ quá”. Tôi có hơn gì người con trưởng trong câu chuyện dụ ngôn hôm nay !

Mùa chay thánh là mùa được kêu mời trở lại, chúng ta hãy can đảm nhìn nhận khuyết điểm, sai phạm của mình, để mạnh dạn trở về cùng Chúa, cùng Giáo Hội của Ngài. Thiên Chúa nhân từ trong vai người cha nhân hậu và yêu thương hôm nay, bảo đảm cho sự lầm lỗi của con người yếu đuối, sẽ được tha thứ. Ngài là cha của tất cả mọi người, mọi dân nước, cha của hai người con, của những vị kinh sư, biệt phái, cha của tôi và bạn, Ngài đang chờ đợi từng người một trở về. Đừng nghĩ rằng tội lỗi mình quá nặng, nên không thể giao hòa với Chúa. Cũng đừng cho rằng ân sủng của Chúa không đủ để phục hồi tội lỗi của mình. Hãy thống hối, hãy trở về, sẽ được thứ tha hết mọi lỗi lầm lớn nhỏ. Hãy tạ ơn Chúa, vì tạ ơn là có khả năng ý thức mình là kẻ có tội, và từ đó tập chú vào lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa. Chúa sẽ ban cho bạn những ơn bạn sẽ thích thú không ngờ, sẽ làm cho bạn cảm nhận rằng: tham dự Thánh lễ là một nhu cầu không thể thiếu, giống như lương thực và không khí vậy.

Tóm lại, bất cứ ai trong chúng ta cũng lầm lỗi cả, cách này hay cách khác, không nhiều thì ít, không giống người em cũng giống người anh. Hãy trở về, làm hòa cùng Thiên Chúa, cùng Giáo Hội. Hãy làm lại từ đầu, không bao giờ quá trễ. Người môn đệ của Chúa có nhiều nghĩa vụ ràng buộc, bên cạnh những điều phải giữ, còn có nhiều điều phải làm lắm. Tuy thế nhiều khi chúng ta không nghiệm ra. Thí dụ chữ Apostle nghĩa là tông đồ. Gốc tiếng Hy lạp “Apostle” có nghĩa là “Let be sent”, nghĩa là “được sai đi”. Muốn “được sai đi” phải trở về, phải đến cùng Giáo Hội, vì Giáo hội, là thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, là nơi Ngài thường trú. Xin mượn ý tưởng sau đây để kết thúc bài chia sẻ này:” Giáo hội không phải chỉ toàn những người Tín hữu tốt lành, lỗi lạc, nhưng đó là trường để giáo dục những con người không hoàn hảo, nơi chăm sóc những kẻ yếu đuối, là bệnh viện để chữa lành tâm hồn những người cần được chăm sóc thường xuyên”.


Phaolô Ngô Suốt

----------------------------

 

MC 4-C46: Lòng Chúa nhân hậu khoan dung


- Lm. Đan Vinh

VietCatholic (Chúa Nhật 4 Mùa Chay C)

CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY C

Lc 15,1-3.11-32

I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

1) Ý CHÍNH: Lòng Chúa nhân hậu khoan dung


 

Bài Tin Mừng hôm nay gồm đoạn mở đầu (Lc 15,1-3) cho biết lý do tại sao Đức Giêsu kể ra dụ: MC 4-C46


Bài Tin Mừng hôm nay gồm đoạn mở đầu (Lc 15,1-3) cho biết lý do tại sao Đức Giêsu kể ra dụ ngôn này. Đó là vì: những người Pharisêu và kinh sư Do thái xầm xì phản đối thái độ của Người khi niềm nở đón tiếp các người thu thuế và người tội lỗi, khi họ đến nghe Người giảng, và Người lại còn ngồi ăn uống đồng bàn với họ nữa.

Đoạn hai là dụ ngôn về người cha nhân hậu (Lc 15,11-32). Ta có thể chia dụ ngôn thành hai phần như sau:

- Phần 1: Thái độ của người cha: Ong bằng lòng chia gia tài cho đứa con thứ và sau đó nó đã bỏ nhà đi hoang, phung phí hết gia tài được chia ấy. Khi bị đói khát, nó phải làm nghề chăn heo và bị đối xử tàn tệ. Bấy giờ nó mới hồi tâm, suy nghĩ hơn thiệt và quyết định trở về nhà để xin cha tha thứ. Trong thời gian đó, người cha luôn mong ngóng đứa con hư hỏng sớm trở về. Ong đã nhìn thấy đứa con hư trước khi nó về tới nhà, đã chạnh lòng xót thương và đã tha thứ trước khi nó nói xong lời thú tội. Ong lập tức phục hồi địa vị làm con cho nó qua việc sai gia nhân mặc cho nó áo quần mới, đeo nhẫn vàng vào ngón tay nó, thay giày dép mới và còn tổ chức một bữa tiệc mừng vì nó đã trở về mạnh khỏe.

- Phần 2: Thái độ của người con trưởng: Sau khi biết thằng em đi hoang trở về nhà và đã được cha tha thứ và còn mở tiệc ăn mừng, người con trưởng đã tức giận không thèm vào nhà. Lý do anh ta nêu ra là vì cha đã đối xử thiên vị với đứa em tội lỗi và anh ta cho là cha đã tỏ ra bất công đối với anh là người con hiếu thảo của cha. Người cha đã giải đáp các điều phiền trách của đứa con trưởng và đề nghị anh ta cũng có lòng bao dung như mình, qua việc nhận lại đứa em tuy tội lỗi nhưng đã biết hồi tâm trở về.

2) CHÚ THÍCH:

- Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi thường đến gần Đức Giêsu mà nghe Người. Còn những người thuộc phái Pharisêu và các kinh sư thì lẩm bẩm: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng. Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này (Lc 15, 1-3):

+ Những người thu thuế: Thời Đức Giêsu, đây là nhân viên thuế vụ. Chỉ trong Tin Mừng Nhất lãm (Mátthêu, Máccô, Luca) mới nói đến lớp người này (x. Mt 9,9; MC  2,14; Lc 5,27). Họ vừa bị coi là tay sai chính quyền Rôma, lại vừa bị tố cáo đã thu quá mức số thuế người ta phải nộp để hưởng lợi cách bất chính như ông Da-kêu thú nhận đã cưỡng đoạt của cải người khác (x. Lc 19,8b). Do đó họ bị người Do thái xem là loại người xấu ngang với bọn đĩ điếm (x. Mt 21,31-32).

+ Những người tội lỗi đến nghe Đức Giêsu giảng: Người tội lỗi đây là các tội nhân như: Các gái điếm (x. Lc 7,37), những người có quan hệ hôn nhân bừa bãi (x. Ga 4,18), người đàn bà ngoại tình (x. Ga 8,3), bà Maria Mácđala bị 7 quỷ ám (x. Lc 8,2) hay những kẻ chơi bời trác táng (x. Lc 15,13.30), những kẻ gian phi (x. Lc 23,39)…Những người này bị người Do thái gọi là phường tội lỗi.

+ Những người thuộc phái Pharisêu và các Kinh sư thì lẩm cẩm: Pharisêu hay biệt phái là những người Do thái đạo đức, tách biệt khỏi quần chúng. Còn các kinh sư hay luật sĩ là các người trí thức, xuất thân từ trường Kinh Thánh và được gọi là tiến sĩ Luật, được quyền giải thích Kinh Thánh trong các hội đường Do thái vào ngày Sa-bát. Họ được dân chúng kính trọng xưng hô là “Thầy” (Ráp-bi) (x. Mt 23,7). Những người Pharisêu và các Kinh sư thường hợp tác với nhau trong việc đương đầu với Đức Giêsu và các môn đệ của Người. Họ có nhiều ưu điểm và khuyết điểm như sau:

* Về ưu điểm: Họ được đánh giá là người giữ đạo tốt thể hiện qua việc ăn chay (x. Lc 5,33), cầu nguyện và làm phúc bố thí (x. Mt 6,2.5.16). Họ am tường và tuân giữ Luật pháp Môsê trong từng chi tiết, nhất là luật hưu lễ (nghĩ việc xác trong ngày Sa-bát), thanh tẩy theo Luật như rửa tay, rửa bình, rửa các đồ đồng, tắm rửa…Về mặt giáo lý họ tin có thiên thần (x. Cv 23,6,8), tin con người có linh hồn bất tử và thân xác sẽ sống lại.

* Về khuyết điểm: Đức Giêsu đã nhiều lần lên tiếng sửa dạy và thậm chí còn chúc dữ cho họ về thói đạo đức giả hình (x. Mt 23). Chẳng hạn: Họ giữ lề luật cách máy móc và có tính hình thức bề ngoài mà thiếu tâm tình mến Chúa bên trong; Tranh dành chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu trong hội đường, An mặc phô trương để tìm tiếng khen nơi người đời (x. Mt 23,5-6); Tự hào về sự giữ luật của mình; Tự mãn về sự hiểu biết Luật pháp và kinh thường những kẻ yếu kém hơn mình; Dân đường mù quáng và cố chấp trong sự sai lầm của mình như đề cao truyền thống và luật truyền khẩu ngang với chính Lề Luật (x. Mt 23,23); Đặt bó nặng bắt người ta tuân giữ chi tiết mà chính mình lại không làm gương (x. MC  12,38-40); Lc 11,39-43; 20,45-47).

* Thái độ của họ đối với Đức Giêsu: Họ không chấp nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai theo ý họ muốn (x. MC  11,27-33), nên họ thường dò xét Người, gài bẫy để thử và bắt lỗi Người; Họ đòi Người làm phép lạ theo yêu cầu của họ (x. MC  8,11); Họ xuyên tạc những phép lạ Người làm để ngăn cản người ta tin Người và gia nhập vào Nước Trời; (x. MC  3,23-30). Cuối cùng họ liên kết với đảng phái Hêrôđê, với Hội Đồng Công Tọa gồm các Tư Tế, Luật Sĩ và kỳ lão ở Giêrusalem để bắt bớ Đức Giêsu, xét xử Người (x. Lc 22,47-53.66-71), và làm áp lực đòi quan tổng trấn Philatô kết án tử hình thập giá cho Người (x. Lc 23,1-7.18-25), tiếp tục lên tiếng chế diễu Người trên thập giá (x. Lc 23,35). Tuy nhiên cũng có một số người Pharisêu tin Chúa và về sau trở thành người tích cực rao giảng Tin Mừng như: Ông Nicôđêmô (x. Ga 3,1), Ong Gamalien (x. Cv 5,39), nhất là thánh Phaolô tông đồ (x. Cv 22,3; 26,5).

+ Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng: Có lần Đức Giêsu đã gọi một người thu thuế tên là Lêvi theo làm môn đệ Người. Sau đó người dự bữa tiệc lớn tại nhà Lêvi và có đông người thu thuế cùng tham dự, nên bị những người Pharisêu và kinh sư trách móc (x. Lc 5,27-32).

- Rồi Đức Giêsu nói tiếp: “Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người Cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình (Lc 15,11-13):

+ Một người kia có hai con trai: Đây là dụ ngôn nổi tiếng chỉ có trong Tin mừng Luca. Nó nói lên thái độ bao dung tha thứ của người cha tượng trưng cho Thiên Chúa, đối với đứa con hoang đàng bất hiếu tượng trưng cho các người thu thuế và tội lỗi. Thái độ ấy trái với thái độ của người anh cả tượng trưng cho nhóm người Pharisêu đã ghét bỏ đứa em đi hoang khi nó trở về nhà Cha.

+ Người con thứ nói với cha rằng: Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng: Tội của người con thứ là ích kỷ, và vô lý khi đòi cha phải chia tài sản cho mình đang khi cha còn sống.

+ Người cha đã chia của cải cho hai con: Ông chiều ý con bằng việc chia cho nó phần tài sản mà lẽ ra nó chỉ được hưởng sau khi ông chết. Ông tôn trọng tự do của đứa con cho dù nó làm trái ý ông.

+ Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng phung phí tài sản của mình: Người con thứ này tượng trưng cho các người thu thuế và tội lỗi: nổi loạn, đòi độc lập, tỏ ra bất hiếu với Thiên Chúa, chơi bời trác táng và phung phí hết tài sản với bọn đàng điếm (x. Lc 15,30).

- Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở cho một người dân trong vùng. Người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho (Lc 15,14-16):

+ Đi ở cho một người dân trong vùng. Người này sai anh ta ra đồng chăn heo: Số phận người con thứ này đã rơi xuống chỗ cùng cực và đê tiện: tự bán mình làm nô lệ cho một người dân ngoại, không còn tuân giữ nghỉ việc trong ngày Sa-bát. Anh ta phải đi chăn heo là một nghề bị cấm, vì hao là con vật ô uế (x. Đnl 14,8), mà dân ngoại thường dùng để cúng tế cho thần minh của họ.

+ Ước ao lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho: Thân phận của anh ta bây giờ thật không bằng một con heo nhơ bẩn !

- Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: “Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói ! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với Người: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy. Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha (Lc 15,17-20a):

+ Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ…: Anh ta quyết định trở về nhà cha không phải do tình thương cha, mà chỉ vì lợi ích riêng cho mình: để không bị đói khát ! Anh ta đau bụng hơn đau lòng !

+ Anh ta đứng lên đi về cùng cha: Đức Giêsu cho thấy người con thứ này trở về không phải vì những lý do cao thượng. Dụ ngôn không tập trung ở việc hối cải của đứa con, mà ở tình thương của người cha.

- Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ong chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với Cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa…”Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu. Rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng ! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại. Đã mất mà nay lại tìm thấy”. Và họ bắt đầu ăn mừng (Lc 15,20b-24):

+ Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để: Hôn ám chỉ sự tha thứ như xưa vua Đavít đã hôn Ap-sa-lôm để tha tội đã giết Am-nôm để trả thù cho cô em gái Ta-ma bị Am-nôm làm nhục (x. 2 Sm 14,33). Tình thương của người cha trong bài dụ ngôn được biểu lộ qua việc: Nhìn thấy đứa con thứ trở về ngay khi nó còn đang ở xa, ông chủ động vội chạy đến với nó, ôm lấy cổ nó mà hôn lấy hôn để.

+ Nhưng người cha liền bảo các đấy tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây …: Người cha không để cho đứa con nói hết câu xin lỗi mà nó chuẩn bị trước. Ong ta ban cho nó quá sự mong ước của nó. Đó là một khung cảnh sum họp vui tươi giống như một đám cưới: Có áo đẹp, nhẫn đeo, giày mới, bữa tiệc, âm nhạc giúp vui…Nhẫn là biểu tượng của quyền bính (x. St 41,42; Et 3,10; 8,2). Đi dép ám chỉ một con người tự do, còn các người nô lệ đều phải đi chân không.

+ Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại. Đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng: Câu này là sự lặp lại đề tài của hai dụ ngôn trước đó là “Con chiên bị lạc” (x. Lc 15,6) và “Đồng bạc bị đánh mất” (x. Lc 15,9).

- Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì được lại cậu ấy mạnh khỏe”. Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ (Lc 15,25-28):

+ Người con cả: tượng trưng cho các người Pharisêu. Thái độ của anh ta đối với đứa em đi hoang cũng chính là thái độ của các người Pharisêu đối với các người thu thuế và tội lỗi.

+ Nổi giận và không chịu vào nhà: Anh con cả nổi giận vì nghĩ rằng Cha cư xử bất công và từ chối vào nhà để biểu lộ thái độ không đồng tình với việc cha đón nhận và ăn mừng đứa con hư hỏng trở về. Nhưng qua lịch sử ban ơn cứu độ, Thiên Chúa luôn làm những việc bất ngờ, trái với suy nghĩ của người phàm: Hồng ân Thiên Chúa được ban nhưng không qua các việc Ngài làm như cho Giacóp chiếm chỗ của anh mình là E-sau, nhận lời chúc phúc của cha là I-xa-ác mà lẽ ra không được quyền hưởng (x. St 27,36). Cũng vậy, những người thợ làm vườn nho từ giờ thứ mười một đã thay chỗ của những người thợ làm từ giờ thứ nhất. Nghĩa là: dân ngoại sẽ thay thế cho dân được tuyển chọn (x. Lc 13,29-30). Lời chủ vườn trong dụ ngôn về các người làm vườn nho: “Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì là của tôi sao ? Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?” (x. Mt 20,14-16). Tóm lại, đó là quyền quyết định tuyệt đối của Thiên Chúa như khi Người phán với Môsê: “Ta muốn thương xót ai thì thương xót, muốn cảm thương ai thì cảm thương” (x. Rm 9,15; Xh 33,19).

+ Nhưng cha cậu ra năn nỉ: Đối với đứa con cả, người cha này cũng biểu lộ cùng một tấm lòng nhân hậu: “Ông bước ra năn nỉ”.

- Cậu trả lời cha: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh. Thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về thì cha lại giết bê béo ăn mừng” (Lc 15,29-30):

+ Đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh: Câu quả quyết này đúng với sự thật, làm nổi bật hình ảnh người Pharisêu tự hào vì đã giữ trọn Luật (x. Lc 18,9-12).

+ Còn thằng con của cha đó: Người con cả không kể gì đến tương quan anh em nữa, và nói về đứa em của mình một cách khinh bỉ. Anh ta giống như người Pharisêu trong dụ ngôn về hai người lên đền thờ cầu nguyện: tự tách mình ra khỏi đám đông, không xấu xa như những người khác, đặc biệt như người thu thuế ở cuối đền thờ: “Xin tạ ơn Chúa vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia” (x. Lc 18,11).

- Nhưng người cha nói với anh ta: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha. Tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15,31-32):

+ “Con à, lúc nào con cũng ở với cha. Tất cả những gì của cha đều là của con”: Người con cả không nhận thấy trọn vẹn tình yêu của cha mà anh đang thừa hưởng.

+ Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ: Qua câu này, người cha mời gọi người con cả bước vào ngôi nhà tình yêu của cha, cùng chia sẻ niềm vui với cha khi thấy đứa em tội lỗi được ơn ăn năn trở lại.

+ “Em con đây”: đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy: Người cha chỉnh lại lối xưng hô khinh miệt: “thằng con của cha đó” bằng “em con đây”, để cho thấy kẻ tội lỗi về vẫn được cha phục hồi địa vị làm con và làm anh em, như trước khi nó bỏ nhà ra đi. “Đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” được lặp lại để trả lời cho những tiếng xầm xì của người Pharisêu, mời họ đi vào tâm tình của Thiên Chúa đối với người tội lỗi.

II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA

CHỦ ĐỀ: Lòng Chúa bao dung

- LỜI CHÚA: “Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lây hôn để” (Lc 15,20b).

- CÂU CHUYỆN 1: Cha giết đứa con bất hiếu.

Nhà truyền giáo Ti-ven-sân (T.R. Stevenson) ở Thượng hải kể rằng: Một thương gia giàu có ở Quảng Đông có hai con trai. Người con lớn thường kết bè đảng với bọn bất lương chơi bời ăn nhậu và cướp phá khắp vùng. Một ngày nọ, trong lúc túng quẫn, nó đã dẫn cả băng về ăn cướp ngay trong nhà của mình và lấy đi tất cả tài sản quí giá. Khi phát hiện ra bọn cướp bịt mắt kia do con mình cầm đầu, ông thương gia sai người đến nói với hắn: “Tội của mày nặng tày đình khiến ‘trời không dung đất không tha’. Nhưng nếu biết đường cải tà qui chánh thì sẽ được tha”. Người nhắn tin còn nhấn mạnh đây là lần gia ân cuối cùng của ông chủ. Sau khi suy nghĩ và tin vào tình thương tha thứ của cha, hắn ta đã đứng lên và đi về nhà. Một bữa tiệc đón tiếp hắn thật vui vẻ. Nhưng sau khi đón ly rượu của ông bố trực tiếp trao cho, hắn ta đã ngã lăn ra và hộc máu chết lập tức. Thì ra ly rượu đó có bỏ thuốc độc cực mạnh ! Nhưng ông bố không bị kết tội giết người vì luật pháp lúc đó cho cha có quyền giết đứa con ngỗ nghịch bất hiếu. Câu chuyện trên có kết cục trái ngược với câu chuyện về người cha có lòng khoan dung tha thứ trong bài Tin Mừng hôm nay.

- CÂU CHUYỆN 2: Cha giết đứa con vô tội.

Cách đây khá lâu, hãng tin quốc Tế AFP có phổ biến một tin rút ra từ tờ nhật báo Trung Quốc. Bản tin ấy cho biết chính phủ Trung Quốc ra lệnh tử hình một người đàn ông vì can tội giết đứa con gái ba tuổi của mình để có con trai. Theo luật Trung Quốc năm 1978, thì để hạn chế sinh đẻ, mỗi đôi vợ chồng chỉ được có một đứa con. Nhưng tiếc thay đó lại là một bé gái. Sau đó vì muốn có con trai nối dõi tông đường, người chồng đã tìm cách giết đứa con gái của mình, hy vọng đứa con sắp tới sẽ là con trai. Muốn vậy thì chỉ có cách làm sao để giết đứa con gái kia chết đi. Anh thực hiện mưu đồ giết con bằng việc đem con gái đi du lịch đường sông, và lúc không ai để ý đã ném con xuống sông cho bị chết đuối ngụy tạo thành tai nạn té sông rồi tri hô lên. Mọi phương tiện cấp cứu được huy động tối đa và sau một giờ đồng hồ, người ta mới vớt được em thì đã muộn. Em đã bị chết ! Trong cuộc điều tra, người ta phát hiện ra những tình tiết chứng minh em bé bị té sông chết đuối không do bất cẩn trượt té như lời khai của bố, nhưng cha em chính là thủ phạm cố tình ném con gái xuống sống ! Hành vi giết người này đã bị dư luận xã hội kịch liệt lên án và tòa án đã kết án tử hình vào ngày 5 thánh 11 năm 1988. Bốn tháng sau, vào ngày 10 thánh 3 năm 1989 thì bản án đã được thi hành: Người cha giết con đã phải đền tội trong một cuộc xử bắn.

- CÂU CHUYỆN 3: Lòng cha bao dung.

Ri-Sớt Pin-Đeo (Richard Pindell) có viết một câu chuyện ngắn về cậu bé Đe-Vít (David) ăn cắp một số tiền rồi bỏ nhà đi bụi đời. Mấy tháng sau, vì không chịu nổi hoàn cảnh đói khát khổ cực, cậu ta đã viết một lá thư về nhà cho mẹ. Trong đó cậu tỏ lòng sám hối và hy vọng mẹ thuyết phục ông bố nghiêm khắc tha tội và cho cậu được phép trở về nhà đoàn tụ như trước. Lá thư viết như sau: “Mẹ kính yêu, trong một vài ngày nữa con sẽ đi xe lửa ngang qua nhà mình. Vậy nhờ mẹ xin bố cho con. Nếu bố bằng lòng nhận cho con trở về nhà thì xin mẹ yêu cầu bố cột một miếng vải trắng trên cây táo hồng ở miếng đất cạnh nhà của chúng ta mẹ nhé !”

Vài ngày sau, Đe-vít lên xe lửa về nhà. Trong lúc xe lửa lao nhanh càng lúc càng gần đến nhà thì hai hình ảnh cứ liên tục hiện ra trong tâm trí cậu bé: Lúc thì trên cây táo có cột một miếng vải trắng, lúc thì lại chẳng thấy miếng vải trắng nào cả. Xe lửa càng tiến gần nhà, trái tim Đe-vít càng đập nhanh hơn. Không bao lâu nữa cây táo sẽ hiện ra ở khúc quẹo, nhưng Đe-vít không dám tự mình nhìn tới nó, vì sợ nhỡ không có miếng vải trắng cột ở đó ! Bấy giờ cậu quay sang người đàn ông bên cạnh ấp úng nói: “Thưa ông, ông có thể làm ơn giúp cháu một việc không ?” Khi được người này đồng ý, Đe-vít nói tiếp: “Vào khúc quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cái cây. Vậy phiền ông nhìn cây táo ấy và cho cháu biết trên cành cây ấy có cột một miếng vải trắng không nhé ?”. Khi xe lửa ầm ầm lướt qua cây táo, Đe-vít chăm chăm nhìn về phía trước mặt. Rồi với giọng run run, cậu hỏi người kia: “Thưa ông, có miếng vải trắng treo ở một cành cây nào đó không ạ ?” Ong ta sửng sốt trả lời: “Ô, này cậu bé, cành cây nào ta cũng thấy có cột một miếng vải trắng cả !”

- SUY NIỆM:

+ Hai câu chuyện trên về người cha không thật lòng tha thứ cho đứa con ngỗ nghịch bất hiếu và một người cha khác đã cố tình giết hại con để đạt mục đích của mình, tương phản rõ rệt với câu chuyện người cha bao dung tha thứ trong câu chuyện thứ ba. Nhất là người cha trong bài Tin Mừng. Ong chính là hình ảnh của Thiên Chúa Cha nhân hậu, giàu lòng thương xót, không ngừng yêu thương và mau mắn tha tội cho chúng ta, nếu ta cũng biết hồi tâm sám hối trở về giống như đứa con hoang đàng hồi tâm trở về nhà cha.

+Nếu có những lúc chúng ta cảm thấy thất vọng ngã lòng, không còn muốn phấn đấu với các thói hư tật xấu của mình. Nếu có những lúc chúng ta không còn tin tưởng ở tình cảm của người phàm nữa, vì đã nhiều lần bị người yêu phản bội…Bấy giờ chúng ta hãy nhìn lên thập giá Chúa Giêsu. Chắc chắn chúng ta sẽ nhìn thấy ánh mắt đầy nhân từ, thông cảm và tha thứ của Người.

+Dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu và Đứa Con Hoang Đàng trong Tin Mừng hôm nay là một câu chuyện rất đẹp về lòng nhân từ bao dung của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng tình của người cha vô cùng rộng lớn và sâu đậm. Tình yêu ấy được thể hiện bằng muôn ngàn cách thế khác nhau, đặc biệt bằng sự tha thứ: Tha thứ vô điều kiện, không mệt mỏi, tha luôn và tha mãi ! Thiên Chúa không đối xử khắc nghiệt nhưng bao dung nhân hậu. Ngài không cư xử hẹp hòi nhưng là quảng đại vô biên. Dù tội lỗi chúng ta có nặng tới đâu đi nữa, thì tình thương của Chúa cũng vẫn hằng chờ đợi để đón nhận và tha thứ. Miễn là chúng ta thành tâm sám hối, dứt khoát quay về với Ngài.

+ Thiên Chúa yêu thương con người, vì Ngài không nỡ chối bỏ hình ảnh của Ngài nơi con người. Dù sự dữ có lất át, dù tội lỗi có ngập tràn, nhưng ánh lửa yêu thương của Chúa vẫn luôn âm ỉ cháy trong tâm hồn con người. Chính ánh lửa tin yêu ấy khiến cho Thiên Chúa vẫn luôn nhận ra được hình ảnh của mình nơi con người, để không bao giờ thất vọng về con người. Người tôn trọng tự do ra đi và chờ đợi sự tự do trở lại của mỗi người chúng ta.

- THẢO LUẬN: Theo ý bạn, đâu làlý do khiến người em hoang đàng trở về với cha ? Bạn thường ăn năn sám hối tội lỗi vì những lý do nào ? Bạn có cảm thấy sợ khi vào tòa xưng tội không ? So sánh giữa các việc phải làm khi đi xưng tội như xét mình, ăn năn dốc lòng chừa, xưng tội và đền tội, với những bước mà người con thứ làm khi trở về nhà cha giống và khác nhau thế nào ?

III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU

1) Lạy Cha, Con cảm tạ Cha đầy lòng từ bi nhân ái. Con cảm tạ Cha vì Cha đã sai Con Cha là Chúa Giêsu đến thế gian để dạy loài người chúng con nhận biết Cha. Hôm nay nhờ Chúa Giêsu mà chúng con biết Cha là Đấng giàu lòng từ bi nhân hậu. Cha là Tình yêu, đã biểu lộ tình yêu khi sáng tạo trời đất muôn vật và ban cho loài người chúng con hưởng dùng. Tình yêu của Cha lại được sáng tỏ hơn nữa khi Cha sai Con Một đến cứu chuộc loài người chúng con, giải thoát chúng con khỏi quyền lực ma quỷ, tội lỗi và sự chết. Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng con hiểu được tình thương bao dung của Cha, luôn mời gọi tội nhân quay về với Cha để được lãnh ơn tha tội vàsẽ được sống đời đời. Con ước mong mọi tội nhân luôn biết tin cậy và phó thác vào lòng nhân ái ấy để mau quay về với Cha.

Lạy Cha, thật là đáng tiếc, có những người cha trong gia đình và cộng đoàn…đã không sống theo tình thương của Cha, đã trình bày Cha như một ông kẹ…để người nghe sợ hãi mà ăn năn sám hối. Có những người Cha trong gia đình, hay trong cộng đoàn đã xử với con cái bằng bạo lực…Xin Cha cho họ biết yêu thương con cái của mình, giống như tình Cha bao dung. Nhờ đó nhiều tội nhân sẽ cảm thấy yên lòng và quyết tâm trở về với Cha trong Mùa Chay thánh này.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

2) Lạy Mẹ Maria. Con xin Mẹ thương đến những đứa con bụi đời đã bỏ nhà đi hoang. Họ đang ở đầu đường xó chợ, sa đà vào những thói hư tật xấu, dấn thân vào chốn tội lỗi nhơ nhớp. Họ chẳng cần đến tình thương của ai mà chỉ lo tìm thỏa mãn những đam mê lạc thú bất chính. Trong bài Tin Mừng hôm nay, cũng như sự đói khát và khổ nhục đã trở thành cơ hội giúp người con thứ hồi tâm suy nghĩ và quyết tâm bỏ cái nghề chăn heo ô uế, thì hôm nay nhiều người trẻ chúng con cũng rất đáng thương, đang làm những nghề bất xứng nhân phẩm, trong những quán bia ôm, quán cà-phê đèn mờ…những thanh thiếu niên nghiện hút tập trung tại đầu hẻm hay ngõ cụt để buôn bán và hút chích sì-ke ma túy…

Lạy Mẹ Maria, xin cầu bầu cùng Chúa Giêsu ban cho họ trong những ngày này được ơn sám hối tội lỗi, hoán cải đời sống nên tốt. Xin cho họ nhận ra lỗi lầm của mình và cảm nghiệm được tình thương của Chúa. Xin cho nhiều tấm lòng trong xã hội và Giáo hội mở ra cho họ con đường thích hợp. Con cũng đặc biệt cầu cho các bạn trẻ trong các giáo xứ đang thờ ơ trước lời mời gọi của Chúa. Xin Mẹ soi sáng cho các vị chủ chăn trở thành hiện thân của tình thương bao dung của Thiên Chúa Cha, để các ngài dấn thân đi tìm các con chiên lạc, sẵn sàng đón tiếp các đứa con đi hoang trở về Nhà Cha trong những ngày Mùa Chay hồng phúc này.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

Trích Hiệp sống Lời Chúa


Lm. Đan Vinh

----------------------------

 

MC 4-C47: Lòng thương xót Chúa


 - Ptế Nguyễn Định

VietCatholic (Chúa Nhật 4 Mùa Chay C)

Chúa nhật 4 Mùa Chay C: / 4th Sunday of Lent

Lời Chúa cho hôm nay: LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA

* The Mercifulness of God *


BÀI ĐỌC 1: Giô-suê 5, 9; 1-12= Trong đất hứa, người Do Thái cử hành lễ Vượt qua. Chiên lễ Vượt Qua của chúng ta là Đức Giêsu./ In the promised land, the Hebrews celebrated Passover. Our Passover Lamb is Jesus Christ.

* BÀI ĐỌC 2: 2Cor. 5, 17-21= Nói về Thiên Chúa trong Chúa Kitô, chính Ngài đã gỉang hòa với chúng ta, mặc dầu bạn là người con hoang đàng./ The message of this reading is that God, in Christ has reconciled us to Himself…

* TIN MỪNG (Gospel): Luca 15,1-3; 11-32= Người Con Hoang đàng, một tên bình dân trong dụ ngôn này, hay còn là dụ ngôn: Người Cha Nhân hậu./ The Prodigal Son, the popular name of this parable or the The Merciful Father.

A- Bạn và tôi cùng Cảm - Nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share)


 

Bài Tin Mừng hôm nay kể người con hoang đàng nhận thấy mình có tội lớn với cha đã quyết chí: MC 4-C47:


Lời hay ý đẹp: SỰ THẬT CÓ THỂ GÂY TỔN THƯƠNG, NHƯNG TÌNH YÊU GÍUP XOA DIỤ NỖI ĐAU

The truth may hurt, but love helps ease the pain

1/ Bài Tin Mừng hôm nay kể người con hoang đàng nhận thấy mình có tội lớn với cha đã quyết chí trở về, người cha mừng rỡ nói: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu…Vì con ta đây đã chết mà nay đã sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” Tình Chúa yêu tôi cũng như vậy, Ngài vẫn chờ đợi tôi trở về

dù tôi có nhiều lỗi lầm, nếu tôi dứt bỏ Ngài cũng quên hết. Khi tâm trí còn phiền não bởi tham-sân-si tôi bị khổ hoài, và sẽ không có bình an. Kể vài việc tôi đang làm để chứng tỏ trở về với Chúa? (Hành đạo)

“Quickly bring the finest robe and put it on him…because this son of mine was dead, and has come to… (Lc 15,22-24)

2/ Tình thương xót cuả người cha còn nói với người con cả như sau: “Nhưng chúng ta phải ăn mừng hoan hỉ, vì em con đây đã chết nay đã sống lại, đã mất nay lại tìm thấy.” Người cha đã hai lần nói lên sự mừng rỡ của mình khi thấy người con trở về. Ông làm tiệc ăn mừng không phải công cán gì cuả người con; nhưng vì lòng quá thương xót khi con mình đã hối lỗi trở về. Bạn cũng được Chúa yêu thương dù mình là tội nhân, không đáng nhìn nhận. Cách xử sự khi con bạn bỏ nhà ra đi, xin trở về?( Sống đạo)

“But we had to celebrateand rejoice!This brother was dead has come back to life, was lost and is found.” (Lc 15, 32)

3/ Bài đọc 1 đã nói lên tình thương cuả Chúa với tôi qua ông Giô-suê như sau: “Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai-cập...” Thật vậy, bây giờ Chúa muốn kéo tôi ra khỏi vũng lày của những tội lỗi. Cái tham vọng, giận hờn và ngu muội làm tôi mất Chúa, khổ cực như tổ tiên khi còn ở bên Ai cập. Tôi cần đứng dậy trở về. Chia sẻ Cảm nghiệm Chúa đang đến giúp tôi đổi mới?(Học đạo)

“The Lord said to Joshua: Today I have removed the reproach of Egypt from you.” (Gs. 5, 9 )

4/ Thánh Phaolô quả quyết với bạn trong thư 2 Corintô: “Cho nên ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi.” Ông muốn bạn cần làm hòa với Chúa và năn nỉ xin bạn trở về, vì Ngài đã nên giống bạn để bạn công chính. Chúa là người Cha nhận hậu muốn mang laị điều tốt lành cho bạn, nếu bạn mở rộng tâm hồn đón Ngài. Bạn nên bỏ con đường bất thiện để đi vào các việc lành, có như vậy bạn sẽ đổi mới. Những nỗ lực bạn dứt khóat với lòng ham muốn xấu? (Sùng đạo)

“Whoever is in Christ is a new creation: the old things have passed away, behold, new things have come.” (2Cor 5, 17)

B- Câu Kinh Thánh tôi chọn làm Châm ngôn Sống trở về tuần này: ( The Best God’s Word )

VÌ CON TA ĐÃ CHẾT NAY ĐÃ SỐNG LẠI, ĐÃ MẤT NAY LẠI TÌM THẤY. (Lc. 15, 24 )

Because this son of mine was dead, and has come to life again; he was lost, and has been found!”

Mẹ Maria: Đã Cảm nghiệm đuợc việc Chúa làm: “Đời nọ tới đời kia, Chúa luôn thương xót những ai kính sợ Người.(Lc1,50)

Vatican II: Giáo hôị, Mẹ Hiền không ngừng cầu nguyện, hy vọng và hành động cũng như khuyên giục con cái thanh tẩy và canh tân để ấn dấu cuả Chúa Kitô chiếu sáng rạng ngời hơn trên khuôn mặt của Giáo hội. ( GH # 15)

C - Ngay bây giờ tôi cần làm gì để trở về (For Action)Tôi chọn 1 trong 4 Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ờ phần A để thực hiện

D- Tôi Cầu nguyện và thực hành lời cầu xin: ( Pray in Action) Lạy Cha, Đức Kitô đã dạy: Chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đã chết nay lại Sống, đã mất nay lại tìm thấy. Xin cho con có lòng nhận hậu với người đã làm con buồn.

Ptế Nguyễn Định

---------------------------------

 

MC 4-C48: Nhờ Sám Hối: Em Con Đã Chết Nay Lại Sống


CHÚA NHẬT IV MÙA CHAY

Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng  (Lu-ca 15:1-3, 11-32)

 

Không sám hối thì phải chết và chết đời đời.  Đó là sứ điệp chúng ta đã nghe từ bài Tin Mừng Chúa MC 4-C48


Không sám hối thì phải chết và chết đời đời.  Đó là sứ điệp chúng ta đã nghe từ bài Tin Mừng Chúa Nhật tuần trước qua lời Chúa cảnh báo những người đưa tin về đám người Ga-li-lê bị Phi-la-tô giết chết cách dã man.  Ngược lại, bài Tin Mừng hôm nay quả thực là một tin vui khi Chúa kể dụ ngôn đứa con hoang đàng đã hối cải và trở về nhà cha mình để được sống một cuộc sống có phẩm giá.  Cũng như người cha trong dụ ngôn đã thương xót đứa con hư hỏng của ông, Thiên Chúa, Cha trên trời của chúng ta, cũng luôn tỏ lòng thương xót chúng ta là những kẻ tội lỗi, nên Người mở rộng vòng tay đón nhận chúng ta trở về.

          Lòng thương xót của người cha trong dụ ngôn quả là mạnh mẽ.  Nó có sức phục hồi những gì đã mất, hàn gắn những đổ vỡ và nhất là làm cho những gì “đã chết mà nay lại sống”.  Trước hết chúng ta thử nhìn vào cái chết mà người con hoang đàng đang cảm nghiệm trong những ngày sống xa cách cha hiền.  Khi còn ở nhà, anh ta chẳng khi nào phải đói khát, muốn ăn muốn uống là có người cơm bưng nước rót.  Nhưng bây giờ tiền bạc đã phung phí không còn một xu dính túi, bạn nhậu bạn chơi đều lánh xa, lại đang sống trong vùng xảy ra nạn đói khủng khiếp, nên anh ta “lâm cảnh túng thiếu”.  Những người bình thường khi lâm cơn túng thiếu còn biết xoay sở.  Còn anh này từ bé đã quen được chiều chuộng cung phụng và chỉ biết đòi hỏi, giờ đây sống trong sự thiếu thốn chắc chắn sẽ cảm thấy khổ sở hơn.  Với anh, sống cũng giống như đang chết dần chết mòn.  Nhưng rồi bản năng sinh tồn bắt anh phải sống và phải chấp nhận phương tiện hèn hạ nhất, đó là đi ở đợ và phải ra đồng chăn heo.  Muốn được sống như heo mà cũng không được, vì anh ta thèm thuồng được chút cám heo dằn bụng mà người ta cũng không cho.  Không có lấy một chút cám heo để sống lay lắt, không nhận được một chút thương hại từ người chủ bầy heo! Anh đã mất tất cả rồi, từ những thứ thừa thãi vật chất cho đến tình cảm tinh thần.  Quả thực anh đang chết toàn bộ con người mình.  Trong tình huống ấy, bản năng sinh tồn lại vùng lên, giúp anh ta hồi tâm nhớ lại cuộc sống ngày trước và can đảm quyết định trở về.  Và quyết định của anh chắc chắn sẽ được cha của anh đón nhận và hỗ trợ do lòng thương xót vô bờ bến của ông.  Vậy đoạn Tin Mừng cho chúng ta thấy nhờ sám hối, lòng thương xót của người cha sẽ biến đổi đứa con hoang đàng từ “đã chết” sang “nay lại sống” như thế nào.

          Anh ta lê bước về nhà với tấm thân tiều tụy, rách rưới, hôi hám.  Tuy anh ta còn ở đằng xa, nhưng cha anh đã thấy hết.  Lòng thương xót giúp cho cảm quan của ông bén nhậy thêm và mở con tim của ông ra lớn hơn.  “Chạnh lòng thương” là sức mạnh, là động lực để ông sẵn sàng làm cả những điều không nên hoặc không cần làm, thí dụ như “chạy ra, ôm cổ anh ta, và hôn lấy hôn để”.  Những hành vi này làm sống lại mối tương quan đã chết nơi anh ta kể từ ngày anh bỏ đi.  Tình cảm đã mất nay đang được phục hồi.  Anh đã biết mở miệng nói lời “Thưa Cha” để sống lại tình cảm của mình.  Ôi, tiếng “cha” đã lâu rồi người cha không còn được nghe nay nó  ngọt ngào làm sao!  Rồi anh phát biểu lòng sám hối:  “Con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa!”  Cứ coi như anh ta chưa thật lòng trăm phần trăm, nhưng thế cũng đã đủ để lòng thương xót bảo rằng không phải vậy, vì trong trái tim to lớn của người cha, lúc nào anh cũng là con.  Thế là sự sống lại đang bắt đầu, từ tiếng thưa “cha” tình cảm dẫn tới những gì nói lên chức phận làm con được hưởng, như áo mặc, nhẫn đeo, giầy dép… Cuối cùng là giết bê béo ăn mừng.  Người cha có lý do mạnh để ăn mừng:  “Vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.  Hoặc nói cách khác, ông phải ăn mừng vì con ông đã sám hối!

Sống sứ điệp Tin Mừng

          Trong bài đọc 2, thánh Phao-lô cho chúng ta một ý tưởng vô cùng sâu sắc để suy nghĩ và hành động.  Ngài nói:  “Phàm ai ở trong Đức Ki-tô, đều là thọ tạo mới.  Cái cũ đã qua và cái mới đã có đây rồi”.  Đúng vậy, chúng ta “ở trong Đức Ki-tô”, tức là chúng ta ở trong “lòng thương xót của Thiên Chúa”, thì chắc chắn sẽ được sống lại làm thọ tạo mới.  Nếu chúng ta tin vào lòng thương xót mà sám hối, Chúa sẽ xóa đi “cái cũ” đầy tội lỗi của chúng ta để đem lại cho chúng ta “cái mới” là chức phận làm con Chúa và bình an của Người.

             Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

---------------------------------

 

MC 4-C49: NGƯỜI CHA NHÂN HẬU W


 – Gm. Ngô Quang Kiệt

 

Ta thường gọi là dụ ngôn “Người con hoang đàng”. Cách gọi này không được chính xác. Trước hết: MC 4-C49


Ta thường gọi là dụ ngôn “Người con hoang đàng”. Cách gọi này không được chính xác. Trước hết vì sự trở về của đứa con không đáng làm khuôn mẫu cho ta. Hơn nữa, xét theo bối cảnh và nội dung, Đức Giê-su, khi kể dụ ngôn này, có ý đề cao tình yêu thương, lòng khoan dung nhân hậu của người cha.

Bối cảnh: Nhóm Pha-ri-siêu và các kinh sư chê trách Đức Giê-su vì Người ngồi ăn với những kẻ tội lỗi. Để trả lời họ, Đức Giê-su kể một chuỗi 3 dụ ngôn: Con chiên bị mất, Đồng bạc bị mất và Người cha nhân hậu.

Nội dung: Có thể coi đây là một vở kịch 2 màn.

MÀN 1: NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON ÚT. “ĐỨA CON ÍCH KỶ CHỈ NGHĨ ĐẾN BẢN THÂN”

Sự ích kỷ được biểu lộ trước hết trong việc xin chia gia tài. ở nhà chung mà chỉ nghĩ đến vun quén riêng. Không đóng góp mà chỉ muốn rút rỉa. Không làm việc mà chỉ muốn hưởng thụ. Sự ích kỷ đạt đến mức tồi tệ đáng kinh tởm khi nó dám mở miệng xin chia gia tài. Theo truyền thống phương đông, gia tài chỉ được chia sau khi cha mẹ đã qua đời. Xin chia gia tài lúc cha mẹ còn sống có khác nào cầu mong cha mẹ mau chết đi  !

Có tiền bạc trong tay, nó bắt đầu ăn tiêu phung phí. Cách ăn tiêu nói lên tính ích kỷ của đứa con. Nó tiêu tiền mà không nghĩ gì đến mồ hôi nước mắt của cha mẹ. Nó tiêu tiền chỉ để thoả mãn dục vọng. Nó dùng tiền bạc để cung phụng bản thân. Khi có tiền nó chẳng nghĩ đến ai, nên khi hết tiền, chẳng còn ai gắn bó, sẵn sàng giúp nó qua cơn túng thiếu. Túng cùng quá mới phải trở về.

Sự ích kỷ vẫn còn đó trong toan tính trở về. Nó không hề nghĩ đến cha mẹ. Nó không hề nghĩ đến tình thương. Nó chỉ nghĩ đến cái bụng. Về nhà để được ăn no. Chỉ có thế.

Người cha hoàn toàn quên mình vì con.

Khi đứa con xin chia gia tài, ông đã chia ngay, không so đo tính toán, không hạch sách khó khăn. Ông không nghĩ đến bản thân, không tự ái, chỉ mong sao con cái được vui lòng.

Khi con đã ra đi, ông ngày đêm thương nhớ, ngày nào cũng ra ngõ đứng chờ. Thật tội nghiệp, con ra đi chẳng nhớ nhung gì đến cha mà cha không phút giây nào ngừng thương nhớ con. Con chỉ biết tìm vui cho bản thân trong khi cha mỏi mòn trông đợi. Con chỉ biết đến tiền bạc, còn cha chẳng quan tâm gì đến tiền của, nhưng chỉ cần có con.

Cảm động nhất và cũng chan chứa tình thương nhất là phút giây gặp gỡ. Một phút giây vắn vỏi mà nói lên bao nhiêu điều về tình thương của cha. “Anh ta còn ở đàng xa thì người cha đã trông thấy”. Khi con chưa nhìn thấy cha thì cha đã nhìn thấy con. Mắt chàng trai trẻ hẳn phải tinh anh hơn mắt ông cụ đã nhoà dòng lệ vì thương nhớ chứ. Thế mà cha đã nhìn thấy con trước. Vì cha không nhìn bằng mắt nhưng nhìn bằng trái tim. Trái tim yêu thương có đôi mắt tinh tường giúp nhận ra ngay bóng người yêu dấu. Trái tim con không còn yêu thương nên nhìn mà chẳng thấy cha. Trái tim con khô cằn nên mắt vẫn sáng mà chẳng khác mù loà. Trái tim cha đầy ắp yêu thương nên đã loà rồi mà vẫn thấy rõ con ngay từ đàng xa. “Ông chạnh lòng thương”.

Trái tim dạt dào yêu thương quên hết tất cả lầm lỗi của đứa con. Tình cảm đầu tiên dâng lên trong tim ông không phải là tiếc xót nửa gia tài đã mất, cũng không phải là tức giận thằng con phá gia chi tử, nhưng lại là chạnh lòng thương. Yêu quá nên người cha chẳng còn nhìn thấy gì khác hơn là đứa con tiều tuỵ rách rưới. Yêu quá nên người cha chẳng nhìn thấy lầm lỗi mà chỉ nhìn thấy nỗi khổ của con. Trong trái tim ông, chỉ có tình thương dành cho con, nên vừa gặp con là tim đã rộn ràng xúc động. “Chạy lại ôm cổ con”. Lại một cử chỉ lạ lùng. Cha không chờ con tới theo đúng lễ phép mà đã vội vàng chạy lại ôm con. Tình yêu thương thúc đẩy, niềm vui dâng dạt dào khiến người cha không chần chờ được nữa. Bất chấp thân phận cao quý của mình, ông chạy đi như một đứa trẻ được quà. Bất chấp tuổi tác của mình, ông nhanh nhẹn như một thanh niên sung sức. Đứa con tuổi còn trẻ mà sao chẳng nhanh nhẹn bằng ông già  ? Vì trong tim nó thiếu tình yêu. Trái tim không tình yêu cũng giống như cơ thể không sức sống. Ông già mà nhanh nhẹn vì ông không chạy bằng sức lực của đôi chân. Ông chạy bằng trái tim. Ông bay bằng tình yêu. Tình yêu chắp cánh cho ông. “Hôn lấy hôn để”. Chẳng còn bút nào tả xiết niềm vui của người cha khi gặp lại đứa con. Những nụ hôn không ngớt đủ nói lên tình cảm dạt dào ông dành cho nó. Ông ôm chặt như để giữ không cho nó ra đi nữa.

Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì người cha đã có 4 động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn. Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn bất động thì ông lão già nua đã thực hiện 4 động tác rất nhanh nhẹn. Ông thật là người cha phung phí. Ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với đứa con trở về. Ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách dễ dãi. Ông đã phung phí khi đem áo mới, giầy mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc mừng có bê béo, có cả đàn hát múa nhảy để đón đứa con đi hoang trở về. Làm thế chẳng sợ hàng xóm cười cho  ! Nói tóm lại ông đã phung phí tình yêu thương. Yêu thương quá độ. Yêu thương đến vô lý. Mà có lý lẽ nào giải nghĩa được yêu thương  ? Chỉ có tình yêu thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.

MÀN 2: NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON CẢ. “ĐỨA CON CẢ ĐI HOANG TRONG TÂM HỒN”

Đứa con cả vẫn ở nhà, nhưng thực ra chỉ có thân xác ở nhà, còn tâm hồn nó đã đi hoang từ lâu.

Tuy ở trong gia đình, nhưng tâm hồn nó không thuộc về gia đình. Nó làm việc không phải với tâm tình của một người con hiếu thảo coi “mọi sự của cha là của con”. Nó muốn vun quén riêng tư. Nó làm việc với tinh thần nô lệ, mong được trả công, chỉ nghĩ đến con “bê nhỏ”, đến “bạn bè” riêng của nó.

Sống bên cha mà tâm hồn nó xa tâm hồn cha biết bao. Nó không sao chia sẻ được những tình thương, những ưu tư, hoài bão của cha. Cha là tình thương nhưng con chỉ là ích kỷ. Cha là bao dung nhưng con chỉ là hẹp hòi. Tâm hồn cha rộng mở bao nhiêu thì tâm hồn con khép kín bấy nhiêu. Cha chỉ biết tha thứ trong khi con chỉ biết kết án. Thật là khác biệt ngàn trùng.

Cha đi tìm con

Một lần nữa, người cha lại phải bỏ nhà ra đi, bỏ dở bữa ăn để tìm đứa con đi hoang trong tâm hồn. Vẫn với cử chỉ dịu dàng cố hữu; vẫn với những lời lẽ ôn tồn; vẫn với ánh mắt chan chứa cả một trời bao dung, cha cố gắng thuyết phục đứa con cả trở về.

Nếu đứa con út cần một cuộc trở về thì đứa con cả cần tới hai cuộc trở về: về với cha và về với em. Đi hoang trong tâm hồn xa xôi diệu vợi thế  !

Qua dụ ngôn này Chúa cho thấy dù tôi là con út hay con cả, tôi vẫn cần trở về. Vì nếu tôi chưa đi hoang trong đời sống, chắc chắn đã rất nhiều lần tôi đi hoang trong tâm hồn: suy nghĩ và hành động của tôi khác hẳn với đường lối của Thiên chúa là Cha; tôi vẫn không muốn chấp nhận anh em tôi.

Nhưng dụ ngôn cũng cho tôi an tâm trở về. Hình ảnh người cha hiền đứng đợi mời gọi tôi mau bước. Chúa là người Cha yêu thương tôi trước khi tôi yêu Người, đi tìm tôi trước khi tôi đi tìm Người, tha thứ cho tôi trước khi tôi xin lỗi Người.

Lạy Chúa là Cha nhân từ, con cảm tạ tình yêu thương vô vàn của Cha.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

Xét mình, bạn thấy mình giống ai trong hai người con trong bài Tin Mừng?
Bạn có thấy tình yêu thương của người cha không?
Bạn có cảm nghĩ gì sau khi đọc dụ ngôn “Người Cha nhân hậu” này?
Bạn có cần sám hối để trở về với Chúa là Cha không?

Gm. Ngô Quang Kiệt

---------------------------------

 

MC 4-C50: BÀI HỌC TỪ “ĐỨA CON HOANG ĐÀNG”

 

Đứa con “trời đánh” trong dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu” ( Lc 15, 11-32 ) là đứa con “hoang MC 4-C50


Đứa con “trời đánh” trong dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu” ( Lc 15, 11-32 ) là đứa con “hoang đàng” chứ không hề “hoang đường”, vì rất thực tế trong cuộc sống đời thường, dù đó chỉ là một dụ ngôn của hơn hai ngàn năm trước.

Chẳng ai xa lạ gì với dụ ngôn này, vì đây là dụ ngôn “nổi tiếng” về sự tương phản giữa người-cha-nhân-hậu-tới-mức-có-vẻ-nhu-nhược và đứa-con-bất-hiếu-ngỗ-nghịch. Và đó chính là Lòng Chúa Thương Xót. Đứa con ích kỷ nên đòi chia phần riêng, để rồi mặc sức ăn chơi trác táng với bọn “hoang đàng chi địa”, bỏ mặc cha già ốm yếu lủi thủi một mình ở nhà. Khi cùng đường, nó đành muối mặt trở về xin cha tha thứ, chỉ còn dám hy vọng mong manh là được cha già cho tá túc và nhận mình làm thuê mà thôi. Nhưng thật bất ngờ, người cha vẫn vui vẻ đón nhận nó làm con cái như xưa, và sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm của nó. Dụ ngôn này có ý nghĩa gì đối với chúng ta ngày nay ?

Thần học gia Matt Williams cho biết: “Trong thế kỷ thứ nhất, người đàn ông Trung Đông không bao giờ chạy. Nếu có chạy, anh ta phải buộc đai áo chẽn kéo lên để không chạy nữa. Khi làm vậy, anh ta sẽ để lộ đôi chân trần. Theo văn hóa, đó là điều nhục nhã và xấu hổ đối với người đàn ông để lộ đôi chân. Nếu người con trai Do Thái mất phần hồi môn giữa dân ngoại thì họ trở về nhà, cộng đồng sẽ làm một nghi thức, gọi là Kezazah. Họ đập bể một chiếc bình lớn trước mặt người con trai đó và la lên: ‘Anh đã tách khỏi mọi người. Cộng đồng hoàn toàn từ chối anh’.

Nếu như vậy, tại sao người cha lại chạy ra đón đứa con trai hoang đàng khi ông mới chợt thấy bóng nó từ xa ( Lc 15, 20 ) ?

1. Thiên Chúa không quản ngại gì. Dù chạy là động tác xấu hổ, nhưng người cha vẫn chạy để cố gắng đón con trai trước khi cộng đồng phát hiện nó, ông muốn con trai mình không phải xấu hổ vì bị mọi người ruồng bỏ.

Chắc hẳn dân làng đã theo hút người-cha-chạy để xem chuyện gì xảy ra giữa cha con ông ở lũy tre cuối làng kia. Sau cuộc hội ngộ của tình phụ tử, rõ ràng không có nghi thức Kezazah, con trai ông cũng chẳng bị đuổi. Dân làng cũng phải ngạc nhiên khi thấy đứa con trai hối hận trở về trong vòng tay yêu thương của người cha già.

2. Thiên Chúa không so đo, tính toán. Đứa con quyết định những điều sẽ nói với cha khi về gặp cha. Nó biết mình không xứng được gọi là con nữa, và xin làm thuê cho cha. Nó muốn được ở trong nhà cha, nhưng không dám mơ được bù đắp những gì nó đã phung phí. Nó cân nhắc trước dự định và quyết định dứt khoát.

Tuy nhiên, người cha không cần biết gì khác ngoài đứa con trở về, đã mất mà lại tìm thấy, đã chết mà nay sống lại. Người cha không phiền lòng mà còn rất vui mừng, ông bảo gia nhân lấy những đồ mới và tốt nhất ( quần áo, giầy dép, nhẫn, … ) để cho con trai sử dụng ngay. Đó là những hồng ân mà Thiên Chúa không ngừng trao ban cho chúng ta hằng ngày, chỉ mong chúng ta được “sống sung sướng” là được ơn cứu độ. Thiên Chúa không muốn biết dự định của chúng ta, Ngài chỉ muốn chúng ta chấp nhận mình không thể làm gì được, mà phải hoàn toàn cậy nhờ hồng ân và lòng thương xót của Ngài.

3. Thiên Chúa không câu nệ. Điều gì về Thiên Chúa khiến chúng ta khó chấp nhận ? Là sự hiện hữu của Ngài ư ? Hoặc vì Ngài trừng phạt những kẻ bất tuân ? Đối với đa số, có thể là vì Ngài yêu thương chúng ta và Ngài quan tâm hạnh phúc của chúng ta. Hệ quả của điều này là nhiều người thất vọng, đầy sợ hãi và phạm tội. Cuối cùng, điều này làm lệch lạc cách nhìn của chúng ta về Thiên Chúa, và đó là gốc rễ của chủ nghĩa hợp pháp.

Hãy nhìn vào những cách mà chúng ta nhìn Thiên Chúa. Chúng ta coi Ngài là người-giữ-hồ-sơ-trên-trời, mặc dù sự thật là Thánh Phaolô đã nói rằng đức mến không câu nệ hoặc nề hà chi cả: “Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức Mến không bao giờ mất được” ( 1Cr 13, 7-8 ). Chúa Giêsu đã chứng minh với tông đồ Phêrô về “lòng tha thứ vô hạn” – túc là lòng thương xót.

4. Hãy nghĩ lại về sự nghèo khó. Có những người từ giàu sang hóa nghèo khổ. Có bao nhiêu người liên quan câu chuyện này ? Ít nhất chúng ta cũng cảm thấy lực kéo của sự độc lập. Chúng ta biết mình cảm thấy thế nào khi nghĩ mình có thể làm cho nó thành của mình, rằng không còn nhớ chuyện gì hồi còn trẻ.

Đa số chúng ta đều cảm thấy hổ thẹn khi nhìn lại những chuyện quá khứ. Chúng ta nghĩ về thời gian lãng phí, dùng thời gian theo đuổi những thứ vô ích, những động thái sai trái, những ước muốn thái quá, những khao khát tội lỗi... Và còn biết bao những chuyện tương tự như vậy ! Chúng ta lo sợ cái nghèo về vật chất, nhưng có mấy ai lo sợ về sự nghèo nàn tâm linh ?

5. Đừng làm cho Ơn Chúa vô tác dụng. Lý do con người mất ơn cứu độ không phải vì không giữ luật, mà vì không nhận Thiên Chúa là Đấng xót thương và hay tha thứ, dù Ngài đã bày tỏ “tình yêu Ngài dành cho chúng ta” ( 2Tx 1, 5-9; Rm 5, 6-8 ). Chúng ta làm cho ơn Chúa trở nên vô tác dụng. Chúng ta hư mất vì không thấy sự-nghèo-nàn-tâm-linh của chính mình, thế nên không muốn trở về với Thiên Chúa chan chứa yêu thương và giàu lòng thương xót.

6. Thiên Chúa muốn chúng ta tỉnh ngộ. Đứa con hoang đàng đã trải nghiệm sự tỉnh ngộ tâm linh, đó là lúc bắt đầu được cứu độ. Nó nhận biết tình trạng khốn nạn của mình, từ đỉnh cao hạnh phúc rớt xuống đáy xã hội và chịu nhục nhã ê chề, nó chợt tỉnh ngộ và bắt đầu khiêm hạ trước tình cha cao cả, nó không dám đòi hỏi gì khác ở cha nó. Không có sự thương lượng về vị trí hoặc sự hợp lý. Người cha muốn nó nhận thức. Thiên Chúa muốn chúng ta tỉnh ngộ !

7. Con vẫn xứng đáng. Đứa con hư hỏng biết nó chẳng có gì trao cho cha để cầu xin ơn tha thứ. Nó chỉ còn biết thật lòng thú nhận mọi điều bất xứng của mình cho cha biết. Nó cảm thấy hoàn toàn không xứng đáng nhưng nó lại quên một điều rất quan trọng: Người cha vẫn thấy nó là đứa con yêu dấu, vẫn xứng đáng làm con. Thiên Chúa cũng nhận thấy các tội nhân chúng ta như vậy !

8. Sự ghen tỵ tâm linh. Những người theo chủ nghĩa hợp pháp có thói quan liêu và cầu toàn, họ luôn tức giận khi ân sủng được mở rộng cho người khác. Lý do là vì họ thích nghĩ rằng có giá trị nào đó trong những việc họ làm. Những người theo chủ nghĩa hợp pháp luôn làm ngơ sự nghèo nàn của họ. Trong con mắt thế gian, những người theo chủ nghĩa hợp pháp thường thể hiện tốt và nghiêm túc. Thật vậy, họ là những người đặt ra luật lệ ( những luật dễ giữ cho họ nhưng khó giữ cho người khác ). Họ thích xoi mói tội của người khác rồi tặc lưỡi chê bai.

9. Đừng tưởng tượng Chúa theo ý mình. Quá trình trưởng thành đức tin của chúng ta không thể đạt được trong một khoảng thời gian nào đó, mà phải mất cả đời. Người ta tưởng mình hiểu mọi điều trong Kinh Thánh, nhưng thục ra không phải vậy. Kinh Thánh là cách Thiên Chúa muốn mặc khải cho chúng ta, nhưng trí óc chúng ta không thể hiểu cách suy nghĩ của Thiên Chúa.

10. Hãy ngoan ngoãn. Đừng bao giờ kiêu căng, vì kiêu sa dẫn tới cố chấp. Khi bạn cố chấp thì bạn hóa mất dạy, chẳng ai có thể dạy nổi bạn, chính lời dạy của Chúa Giêsu cũng trở thành vô ích đối với bạn. Thời Chúa Giêsu, người Pharisêu đã mù quáng, nên họ không thể nhận biết Thiên Chúa đang đứng ngay trước mặt họ.

11. Có thể chúng ta là đứa con lớn. Đứa con này là hiện thân của Dân mà Thiên Chúa đã tuyển chọn. Ở thời đại chúng ta, đó có thể là “những người ghen tỵ với người khác về ơn tha thứ”. Bạn đã bao giờ ghen tức với người khác khi họ được tha thứ sau khi phạm tội tày trời ? Người ta có thể kiêu ngạo vì nghĩ mình luôn đi Lễ, tham gia các giờ kinh, sinh hoạt hội đoàn, làm việc từ thiện, không phạm tội trọng… thế thì mình chắc chắn “ngon” hơn những người khô khan, nguội lạnh, ít đi Nhà Thờ, ít đọc kinh… Nếu vậy thì chúng ta là người con lớn, đang phạm tội mà tưởng mình đạo đức hơn người !

12. Thiên Chúa xóa bỏ sự xấu hổ. Cuộc đời chúng ta thực sự vô cùng may mắn. Chúa Cha đã cất đi hết mọi nỗi xấu hổ qua Con Một Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã vác Thập Giá và chịu mọi đau khổ thay chúng ta. Ngài chịu chết để chúng ta được sống viên mãn.

Câu chuyện về đứa con hoang đàng cho chúng ta thấy rằng chúng ta có thể được tha thứ, được chấp nhận, được phục hồi. Chúng ta đừng ngại trở về Nhà Cha và đừng ngại thú nhận tội lỗi, dù chúng ta đã phạm tội nặng tới mức nào, hoặc nhiều vô kể. Hãy tin vào tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Và chúng ta cũng phải chân thành tha thứ lẫn nhau, vì Chúa Giêsu đã dạy phải tha thứ bảy mươi lần bảy.

Chỉ có người cha mới có thể phục hồi cương vị làm con trong gia đình. Chúng ta đều là tội nhân, chúng ta không thể làm gì để được tái nhận là con cái của Chúa. Ngài mời gọi chúng ta, và chúng ta chờ đợi Ngài. Hối nhân bước đi theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần thì sẽ sớm về tới Nhà Cha.

TRẦM THIÊN THU chuyển ngữ từ beliefnet.com

---------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây