Dụ ngôn “Người con hoang đàng” là dụ ngôn quen thuộc và súc tích nhất trong sách Tin Mừng. Bao nhiêu suy niệm cũng không đủ để múc cạn được nguồn tâm tình và ý nghĩa. Ba nhân vật chính trong câu truyện, người cha, người con thứ và người con cả, trở thành những đề tài suy niệm phong phú với những cử chỉ, lời nói và cách hành xử của họ. Trong chiều hướng tiếp nối đề tài chung về “sám hối” của các Chúa Nhật mùa Chay năm C, chúng ta chọn hình ảnh người con thứ, tức người con hoang đàng, để suy nghĩ về việc ăn năn trở về với Chúa.
Đứng dậy từ quyết định bỏ cuộc sống phóng đãng để trở về đời sống đàng hoàng, sống lại tình con thảo đối với cha hiền, là cả một hành trình dài và khó khăn, chứ không dễ dàng và nhanh chóng như chúng ta tưởng. Chúng ta không biết anh con thứ đã lâm cảnh túng quẫn và phải đi chăn heo bao lâu rồi. Nhưng căn cứ vào tự ái của tuổi trẻ, sợ hãi người cha vì thấy tội mình quá lớn hoặc hy vọng có thằng bạn nhậu hay cô tình nhân cũ nào ra tay cứu giúp…, nên có lẽ anh ta đã nấn ná kéo dài thời gian quyết định trở về. Lý do tâm lý có thể làm nán lại quyết định trở về, nhưng lý do sinh tồn không cho phép anh ta chờ đợi lâu hơn nữa, vì anh ta sắp “chết đói” rồi! Cho nên anh ta phải quyết định, đó là bước đầu tiên.
Nhưng làm thế nào để trở về? Quyết định là bước khó nhất. Một khi đã quyết định, anh phải tìm một phương thức nào để cha anh chấp nhận quyết định của anh. Phương thức anh ta chọn quả thực hợp tình hợp lý: Nhận mình đắc tội và chấp nhận hình phạt xứng với tội là sống như một người làm công.
“Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha”. Đây là động tác chủ yếu. Chỉ quyết định suông hoặc trong đầu thôi thì chưa đến đâu cả. Nhưng quyết định ấy phải được thi hành. Như chúng ta thấy, những động từ “đứng lên, đi về cùng cha” đã diễn tả hành động dứt khoát với dĩ vãng và nhất là một hướng đi có mục tiêu rõ ràng.
Khi anh đã tới mục tiêu là người cha, thì anh chỉ cần nhìn nhận thân phận hiện tại, một thân phận đã bị hủy hoại do tội lỗi làm cho anh đắc tội và bất xứng, còn lại những gì phải làm đều hoàn toàn tùy thuộc vào người cha. Do đó, điều tuyệt diệu và cũng cảm động nhất ở đây là mở ra một thực tại mới: người con thứ im lặng, choáng ngợp trước tất cả những cử chỉ, lời nói, hành động của tình phụ tử người cha dành cho anh. Tóm lại, hành trình trở về bắt đầu từ lý do sinh tồn tiến tới quyết định trở về, rồi thi hành quyết định và sau hết là khiêm nhường nhìn nhận thân phận tội lỗi. Còn lại bao nhiêu là công việc của tình yêu và lòng thương xót của Chúa.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Hành trình trở về với Chúa không phải là điều chúng ta chỉ thực hành một vài lần trong đời khi chúng ta có những lỗi lầm quá nặng nề, nhưng là cách để chúng ta nên thánh mỗi ngày một hơn. Chúng ta có thể làm cuộc trở về mỗi ngày lúc chúng ta xét mình trước khi đi ngủ. Thói quen xét mình trước khi đi ngủ giúp chúng ta về hai phương diện. Trước hết chúng ta ý thức lại chỗ đứng của chúng ta trước mặt Chúa, là tạo vật Chúa yêu thương, là thân phận yếu đuối tội lỗi, cũng như quan hệ giữa chúng ta với những người chung quanh. Đồng thời chúng ta cũng cảm nghiệm được tình yêu dạt dào Chúa dành cho chúng ta và niềm hạnh phúc được bao bọc trong tình yêu và lòng thương xót của Chúa. Tuy nhiên hành trình sám hối cũng là hành trình cả đời ghép lại bằng những cuộc trở về hằng ngày. Bước đi trong hành trình ấy, mỗi ngày chúng ta càng kết hiệp mất thiết với Chúa hơn.
Lc 15:1-3. 11-32: 1 Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng.2 Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng."3 Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này.
11 Rồi Đức Giê-su nói tiếp: "Một người kia có hai con trai. 12 Người con thứ nói với cha rằng: "Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. 13 Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. 14 "Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, 15 nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. 16 Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho.17 Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: "Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! 18 Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, 19 chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy. 20 Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. 21 Bấy giờ người con nói rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. .. 22 Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, 23 rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! 24 Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng. 25 "Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, 26 liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. 27 Người ấy trả lời: "Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ. 28 Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. 29 Cậu trả lời cha: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. 30 Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng! 31 "Nhưng người cha nói với anh ta: "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. 32 Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy."
Đoạn tin mừng 15:11-32 là dụ ngôn thứ ba trong loạt các dụ ngôn nói về cách đối xử của Thiên Chúa đối với người tội lỗi (15:1-32). Hai dụ ngôn kia là “Chiên lạc” (15:4-7) và “Đồng bạc đánh mất” (15:8-10). Trong phần nhập đề chung cho cả ba dụ ngôn (15:1-3), có ba nhóm nhân vật: một là “các người thu thuế và tội lỗi”, tiến đến gần Chúa Giêsu để nghe Người (15:1), hai là “Pharisêô và kinh sư” xầm xì về hành động của Người và ba là Chúa Giêsu. Bố cục của đoạn có thể phân chia như sau: - Nhập đề (15:11), - Câu chuyện của người con thứ (15:12-19); - Chân dung người cha (15:20-24); - Câu chuyện người con trưởng và kết luận (15:25-32). Điều đáng lưu ý là câu chuyện của mỗi người con được trình bày trong 8 câu cân đối với nhau, và ở giữa là 5 câu nói về chân dung của người cha. Tuy nhiên, “người cha”, patēr có mặt trong cả ba đoạn và được nhắc đến nhiều nhất (15:12.17.18.20.21.22.27.28.29). Như thế, chân dung của người cha, cách đối xử và lời của ông được nhấn mạnh trong trình thuật nầy. Chữ ”bios” (tiền của) đóng khung trình thuật nầy (15:12.30).
Liên hệ với hai dụ ngôn trên, dụ ngôn nầy có chung chủ đề về: tội lỗi (15:1.2.7.10.18.21), chết đi (15:17.24.32) tương tự với việc chiên lạc (15:4.6) và đồng bạc đánh mất (15:8.9), tìm lại được (15:4.5.6.8.9.24.32), vui mừng (15:7.10 chara, 15:5.32, chairō), ăn mừng (15:23.24.29.32). Đặc điểm riêng của dụ ngôn nầy là trình bày rõ thái độ và cách suy nghĩ của những người mà trong hai dụ ngôn trước gọi là người công chính, nghĩa là người luôn luôn tuân giữ lề luật (x. 15:7.29); thái độ của Thiên Chúa đối với họ; và sự vui mừng không chỉ “trên trời” (15:7), trước mặt các thiên thần của Thiên Chúa (15:7), mà cả trên trần gian nầy nữa (x. 15:23.32).
Với nhập đề rất ngắn gọn và đơn giản “một người có hai người con” (15:11) dụ ngôn nầy sẽ nói về câu chuyện của ba người, chứ không riêng ai.
Câu chuyện của người con thứ (15:12-19). Đoạn nầy có thể chia thành hai: - Nhận gia tài, ra đi và hoang phí (15:12-16) và - Quyết định trở về (15:13-19). Trong phân đoạn đầu (15:12-16), động từ “cho” (15:12.16) đóng khung đoạn và nêu rõ hai sự kiện tương phản: người cha cho tất cả khi người con thứ đang có tất cả và người ta chẳng cho gì cả khi anh đang thiếu tất cả. Anh rơi từ thái cực nầy sang thái cực khác. Lỗi lầm của anh là hoang phí tài sản hơn là đòi chia gia tài và đi xa (x. 15:13; 30). Trạng từ “một cách trác táng” hoặc “hoang phí” (asotōs) (15:13), chỉ xảy ra ở đây trong các Tin Mừng. Theo nguyên ngữ, chữ nầy phát xuất từ động từ soō, cũng là sōzō “cứu sống”, “cứu thoát”. Động từ nầy được dùng rất nhiều lần trong Luca khi nói đến việc Chúa Giêsu chữa lành bệnh (7:50; 8:36), cứu vớt sự sống (6:9; 9:24), cứu độ (13:23; 18:26; 19:10). Dưới dạng một danh từ, chữ nầy xuất hiện trong Êph 5:18, Titô 1:6 và 1 Phêrô 4:4, và mang cũng ý nghĩa ấy, chỉ sự trác táng và say sưa trong các buổi tiệc tùng. Vậy, “asotōs” có thể hiểu là “không cứu vớt được”. Người con thứ đã hoang phí tài sản đến độ không thể cứu vãn được tình thế của anh. “Trác táng” là tội làm xấu hổ người cha (Cn 28:7). Việc anh đói rách và đi chăn heo thuê chỉ là hậu quả của việc anh đã làm. Trong phân đoạn hai (15:17-19), cụm từ “người làm công của cha” (15:17a và 19b) đóng khung cụm từ quan trọng mà người con thứ sẽ nói với cha trong phần kế tiếp “con đã phạm tội với trời và với cha; con không đáng gọi là con cha” (15:18b.19a và 21). Điều anh nghĩ, nhưng đã không nói vì trong thực tế, người cha đã phục hồi lại quyền làm con cho anh, và chỉ điều chính yếu anh đã nói là “con đã phạm tội”. Chính điều nầy cần xưng thú để được tha thứ. Động từ “chết” (15:17) ở đây ở thì hiện tại, chỉ chính xác tình trạng hiện thời của anh; khác với “đã chết” trong lời của người cha (15:27.32). Vậy, do lời xưng thú là “đã phạm tội” (15:18.21), người con thứ xếp mình vào nhóm người “tội lỗi và thu thuế” (x. 15:1).
Chân dung của người cha (15:20-24). Đoạn nầy mở đầu với ghi nhận người con chỗi dậy đi về nhà cha (15:20a). Tiếp theo là một loạt năm hành động liên tiếp của người cha được mô tả trong chỉ phần sau của câu 15:20: “thấy”, “động lòng thương”, “chạy”, “ôm choàng” và “hôn”. Rồi những mệnh lệnh ông ra cho gia nhân làm: “hãy đem áo ra”, “hãy mặc”, “hãy mang”, “hãy mang bò béo ra”, “hãy giết nó” (15:22-23). Tất cả những hành động dồn dập nầy biểu lộ của nỗi vui mừng vô biên của ông. Đó là người con đã chết, nay sống lại và đã mất nay được tìm thấy (x. 15:24). Động từ “chạnh lòng thương” là khởi điểm của các hành động trên. Động từ nầy tìm thấy trong trình thuật bà góa thành Naim (7:13) và câu chuyện người Samaritanô nhân lành (10:33). Trong cả ba trường hợp, “chạnh lòng thương” đã cứu sống người sắp chết hoặc tái sinh người đã chết. Ý nghĩa của việc mang “nhẫn”, “áo” (x. St 41:42), “giết bò béo” chỉ việc tôn trọng khách đến thăm (St 18:7; 1 Sam 28:24). Vậy, người cha đã đón nhận lại người con trong vui mừng; đồng thời phục hồi lại cho nó quyền làm con, vì có người cha nào mà không xót thương con cái mình (x. Tv 103:13).
Câu chuyện người con trưởng (15:25-32). Chữ “con trưởng”, presbyteros, cũng được dùng để chỉ các “kỳ lão”, những người cùng với thượng tế và luật sĩ chịu trách nhiệm việc bắt và giết Chúa Giêsu (9:22; 20:1; 22:52). Đặc điểm của đoạn nầy là những gì đã nói đến về người con thứ và người cha trong hai đoạn trên, được lập lại trên miệng của người con trưởng có tính cách phê bình và bất bình: “phung phí tài sản” của người con thứ (15:13.30), quyết định của người cha “giết bò béo” (15:23.27.30) và “mừng vui” (15:24.29.32). Thái độ nặng nề nhất của người con trưởng là “nổi giận” và kéo theo hành động là “không vào nhà” (15:28), nghĩa là từ chối tham dự và chia sẻ niềm vui người em trở về. Anh đưa ra so sánh giữa chính mình và người em, tương tự câu chuyện của người Pharisêô và người thu thuế (18:10-12), để chỉ ra cách đối xử bất công và không thể chấp nhận được của người cha (15:29).
Với người cha, anh tự xem là tôi tớ chứ không phải là con, và giữ lệnh truyền (lề luật) là điều kiện để có thể đòi hỏi quyền lợi (x. 15:29). Nhưng Thiên Chúa không mắc nợ những người tôi tớ của Người (x. 17:7-10). Đối với em, người anh nầy không chấp nhận nó được đối xử rộng lượng và đã phủ nhận tương quan anh em với nó vì quá khứ tội lỗi của nó, “con của cha”. Thái độ ghen tức nầy cũng là thái độ của những người làm vườn nho vào giờ đầu tiên (x. Mt 20:11). Câu kết luận (15:32) lập lại điều người cha đã nói với gia nhân ở trên. Điều được thêm vào ở đây là mời gọi người anh chia sẻ và cử hành niềm vui ấy, với nhấn mạnh là “phải vui mừng” và đó là “em con”. Đây là nơi duy nhất Chúa Giêsu kêu gọi cách gián tiếp những người Pharisêô và kinh sư chấp nhận và vui mừng vì người tội lỗi trở lại. Sự vui mừng nầy là điểm kết thúc và liên kết các dụ ngôn lại với nhau (15:7.10 chara, 15:5.32, chairō).
Tất cả được mời gọi chia vui vì người tội lỗi trở lại. Thiên Chúa đã quên quá khứ để tha thứ. Người con thứ cũng để lại đàng sau quá khứ của mình để trở về. Chỉ người con trưởng vẫn sống với quá khứ tội lỗi của người khác. Người nầy phải đổi mới cái nhìn có thể dự phần niềm vui cứu chuộc của Thiên Chúa. Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Ba câu mở đầu bài Tin Mừng là lời dẫn nhập cho “ba dụ ngôn về lòng thương xót”: con chiên lạc tìm được, đồng tiền đánh mất tìm được, đứa con đi hoang tìm được. Như thế, ba câu chuyện này đã được Đức Giêsu kể để tự biện hộ về những quan hệ chướng tai gai mắt (đối với phái Pharisêu) mà Người có với những “kẻ tội lỗi”.
“Một người kia có hai con trai…” Ta thường có thói quen xấu là chỉ nghe nửa đầu của dụ ngôn, phần nói về đứa con thứ. Thế nhưng, ông cha mới là người hùng của câu chuyện. Chúng ta sắp nghe không phải dụ ngôn “Người con phung phá” song là “Người cha phung phí”, một vở kịch hai màn: cuộc “tranh chấp” giữa một người cha với 2 đứa con, cả hai đều được yêu mến như nhau, yêu mến điên cuồng, mặc dầu chẳng có đứa nào xứng đáng với tình yêu đó cả! Một câu chuyện tình cảm động nhất (Charles Dickens), một hình ảnh đẹp nhất của Cha trên trời!
1- Thái độ của người cha đối với đứa con thứ
Đứa con này chỉ là một tên trục lợi: nó đòi tiền bạc, rất nhiều tiền bạc. Nó chỉ nghĩ tới mình. Nó nhận tất cả từ cha, nhưng chẳng hề biết ơn cha, mà chỉ nghĩ một chuyện: đòi hỏi, yêu sách… Phần người cha thì hoàn toàn trái ngược. Ông chỉ là cho không, chia sẻ vô vị lợi, tôn trọng tự do người khác, tóm lại chỉ là tình yêu! Hình ảnh Thiên Chúa!
Đứa con thứ chính là hình ảnh Biệt phái vẫn thường vẽ lên về tội nhân: a/ Là đứa con nổi loạn, đòi độc lập tự chủ, y quả tượng trưng chủ nghĩa vô thần của mọi thời: hưởng dùng các “ân huệ” của Thiên Chúa nhưng chẳng thừa nhận Thiên Chúa, còn sống xa Người, muốn làm mọi chuyện mà chẳng bị ai kiểm soát cả: “không Chúa không chủ”. Điều đó đặc biệt đúng với hôm nay! b/ Hơn nữa, đối với Biệt phái, đứa con Israel này đã xuống tới đáy ti tiện đê hèn. Nó đã bán thân làm nô lệ cho một người ngoại, thành thử chẳng còn giữ ngày sabát cũng như các tập tục về thanh sạch: nó chăn heo, con vật nhơ bẩn, ghê tởm, bị cấm đoán. c/ Hơn nữa, dẫu chỉ xét về mặt con người, sống như thế cũng không hợp luân lý: đây là một tên phóng đãng, một loại người hạ đẳng, biến chất, trở lùi lại thú tính. Nó sống như một loài heo: kiếm tiền, ăn nhậu, làm tình… chỉ biết đến cái tôi, thuần mơ chuyện hưởng thụ…
Ta quả là tô vẽ nó khi ca ngợi sự hoán cải của nó. Không, đứa con thứ vẫn chẳng có thần nào khác ngoài tư lợi ích kỷ: đổ cho đầy bụng! Việc nó trở lại nhà chỉ là một tính toán đê tiện nhằm tìm lại chỗ trú và bàn ăn. Câu nói hoa mỹ, nghe rất lâm ly bi đát, chỉ là một màn kịch soạn sẵn nhằm làm mủi lòng người cha mà nó nghĩ là sẽ la rầy, trừng phạt nó đích đáng và… chính đáng. Có đứa con nào đi xa nay trở về thăm cha mẹ mà lại chuẩn bị trước những câu nói vốn sẽ tự nhiên trào ra tận đáy lòng một khi trông thấy quê nhà dấu yêu? Đứa con thứ xót bụng hơn đau lòng! Nó đúng là một tên khốn khiếp, nạn nhân của các bản năng, của lũ bạn bè quý hóa: nó đã đánh mất tập quán yêu thương, chỉ còn biết nghĩ tới chính mình. Lạy Chúa, đó là hình ảnh của con. Con thường sống như vậy!
Thằng con trở về với ý đồ đê tiện. Nhưng khi “nó còn ở đằng xa”, còn chưa mở miệng thì người cha đã làm tất cả. Bốn cử chỉ: “ông đã trông thấy nó”, “ông chạnh lòng thương…”, “ông bổ nhào ra…”, “ông ôm cổ nó và hôn lấy hôn để”. Cử chỉ chạy bổ nhào ra có lẽ là cử chỉ mạnh nhất của toàn thể dụ ngôn. Trong tập quán của mọi thời, không có chuyện một người trên chạy tới với một người dưới, nhất là khi kẻ dưới này có một thái độ đáng trách. Đây lại là một ông già đông phương đường bệ, lúc nào cũng ăn nói và đi đứng khoan thai từ tốn.
Vâng, ta bóp méo hoàn toàn dụ ngôn của Đức Giêsu khi trình bày cuộc trở về của đứa con này như mẫu gương “hoán cải”. Nếu Đức Giêsu chỉ mô tả sự “thống hối” của một tội nhân, giáo huấn này đã chẳng gây khó chịu cho người Biệt phái. Tại Israel, người ta đã biết từ lâu, toàn thể Kinh Thánh làm chứng, là Thiên Chúa tha thứ cho tội nhân hoán cải. Nhưng thái độ của người cha ở đây còn đi xa hơn nhiều: ông không mảy may lưu ý xem thằng con biểu lộ một lòng thống hối đích thực hay giả tạo. Ngay khi nó còn ở đằng xa, ông đã chạy ra gặp nó. Đức Giêsu không nhấn mạnh đến thái độ của đứa con hoang đàng, trên những cử chỉ thống hối đền tội của nó, nhưng trên tình yêu vô vị lợi của người cha… một người cha đã tha thứ vô điều kiện, trước khi đứa con thú lỗi! Đức Giêsu nói cho ta biết “làm con” là gì: trước hết đó không phải là có thái độ thế này thế kia với cha hay mẹ… nhưng là được cha và mẹ thương yêu, cho dù mình xứng hay bất xứng! Đó đã là mạc khải của ngôn sứ Hôsê: Thiên Chúa tiếp tục yêu thương cô vợ bất trung bất tín của Người (Hs 3,1; 11,1-9; 14,5-9). Hỡi những ai tự nhận là vô thần, những ai sống như kẻ vô thần, những ai đã xa lìa Thiên Chúa vì tội lỗi, Đức Giêsu nói với quý vị: “Cho dẫu bạn không tin Thiên Chúa lẫn yêu mến Người, Người cũng chẳng bao giờ ngừng tin và yêu bạn!”. Ta hiểu vì sao những kẻ tội lỗi đã chạy đến cùng Đức Giêsu.
Trong vòng tay cha, thằng con bắt đầu tụng lên câu nói đã dọn sẵn, nhưng ông không để nó kết thúc. Ông chẳng cần biết nó dối trá hay chân thành. Ông chỉ biết nó là con ông và ông là cha nó. Trái tim tràn tình yêu của ông khiến ông đổ đầy nó bằng tặng phẩm! Đây quả thực là một lễ cưới: áo, nhẫn, giày, tiệc, ca nhạc, quả thực là nghi lễ phục hồi chức vị làm con. Ông lăng xăng chạy từ nhà trên xuống nhà dưới, từ đầu sân đến cuối sân, hối thúc gia nhân dọn tiệc. Niềm vui ông thật vỡ bờ. Nếu có hình dung sự hoán cải của thằng con đểu giả thì chính là lúc này đây, khi nó đứng giữa sân như trời trồng rồi khóc lên sung sướng vì nhận thấy tất cả tình thương bao la vĩ đại của cha. Nhưng đó không phải là điều tác giả dụ ngôn muốn đề cập.
Tình thương của người cha được cô đọng trong câu: “Con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã thất lạc mà nay lại tìm thấy”. Đây là điệp khúc chấm dứt màn nhất của vở kịch. Lát nữa ta sẽ gặp lại nó cuối màn hai với vài từ thay đổi. Chết-sống… Thất lạc-tìm lại… Cái chết nào đối với Đức Giêsu đây? Mạc khải nào Người muốn đưa ra cho nhân loại đây? Thưa rằng: xa Thiên Chúa, đó là chết, đó là đánh mất chính mình! Con người chỉ hiện hữu thật sự trong mối tương quan với Thiên Chúa thôi. Người ta có thể tưởng mình sống, thế mà đã chết trong thực tế.
Nhưng khi phàm nhân trở về, thì “cuộc liên hoan” của Thiên Chúa bắt đầu, “niềm vui” của Thiên Chúa nở rộ! Hoán cải, đó đơn giản là đi vào niềm vui của Thiên Chúa. Đấy chính là chuyện mà anh con cả sắp khước từ.
2- Thái độ của người cha đối với đứa con cả
Đối với đứa con cả, người cha cũng biểu lộ một lòng tốt như thế: “ông ra gặp chàng trước…”, “ông năn nỉ chàng…”. Kinh Thánh thường trở đi trở lại trên chủ đề này, chủ đề về tính nhưng không tuyệt đối của các hồng ân Thiên Chúa, qua hình ảnh con thứ thay thế con cả (St 27,36; 2MC b 4,26; Cn 30,23; Hs 12,4), hình ảnh “những người thợ giờ cuối cùng” cũng được trả công bằng “những người thợ giờ thứ nhất” (Mt 20,8), hình ảnh “những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu” (Lc 13,30), hình ảnh “lương dân” sẽ thay thế “tuyển dân” (Rm 9,30). Tất cả đều nói lên tự do cao vời và tính cách nhưng không của tình yêu Thiên Chúa.
Đối với đứa con thứ, người cha đã không muốn nghe gì hết. Nay đối với anh con cả, ông để cho chàng mặc sức trút lên đầu ông bầu tâm sự đầy cay đắng, phẫn nộ. Có lẽ anh cũng có lý của mình. Anh ta chính là chân dung của người Biệt phái mà Đức Giêsu muốn khắc vẽ. Câu quả quyết của anh: “Ông coi, đã bao năm trời tôi làm tôi ông, cũng chưa hề lướt lịnh ông” quả là đúng với sự thật, làm nổi bật hình ảnh phái Pharisêu tự hào vì đã giữ trọn luật (x. Lc 18,9). Thái độ của anh không kể gì đến tương quan anh em nữa (“thằng con của ông”) và nói về em một cách khinh bỉ đúng là thái độ của phái Pharisêu đối với hạng mà họ gọi là tội nhân. Bản dịch Anh ngữ câu nói của người con cả này còn cho ta một chi tiết lý thú: “thì ông lại giết con bê chúng ta đã cùng vỗ béo” (you kill the calf we had been fattening). Đúng là chua chát và ghen tức đến cực điểm! Riêng đối với cha, anh đã biến mình thành tôi tớ, biến tình thương thành nô dịch.
Như thế, người con cả cho ta thấy chính trọng tâm của dụ ngôn: anh ta đã không nhận rõ tất cả tình yêu đang bao phủ anh: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, mọi sự của cha đều là của con hết thảy. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, vì em con đây…” Người cha sửa lại lối nói của người anh một cách tế nhị (“em con đây” đối lại “con ông đó”). Qua dụ ngôn hai màn này, thành thử chúng ta được mời đi vào trong tình yêu của Thiên Chúa, trong niềm vui của Người được gặp lại các tội nhân. Đây là lời loan báo sự hoán cải của lương dân sẽ đi vào trong “dân mới của Thiên Chúa” hàng loạt. Một ngày kia, Luca sẽ đặt trên miệng Phêrô câu nói này khi nhận ra ân sủng ban cho viên bách quản ngoại đạo: “Vậy nếu Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa” (Cv 11,17). Không, không có ưu đãi: hết thảy đều được Cha trên trời mến yêu.
Và dụ ngôn “đứa con thất lạc tìm thấy” (hay đúng hơn “người cha phung phí”, phung phí tình yêu) kết thúc với cùng một điệp khúc vui tươi như hai dụ ngôn trước (xin xem Chúa nhật 24 thường niên năm C). Màn hai của dụ ngôn lấy lại câu kết luận của màn đầu, với việc đổi từ “con ông” bằng “em con” như đã ghi nhận. Thiên Chúa là Cha, điều đó chắc chắn: Người yêu hết thảy con cái của mình. Nhưng nhân loại có là anh em với nhau không? Phải chăng anh con cả sẽ để mình bị thuyết phục và “đi vào chung hưởng niềm vui với cha”? Chúng ta không biết. Dụ ngôn vẫn bỏ ngỏ. Vì chính người Biệt phái, chính chúng ta phải cho nó một kết luận: đi vào cuộc liên hoan với Thiên Chúa, cuộc liên hoan mừng kẻ tội lỗi trở về.
Chúa Nhật IV Mùa Chay, Năm C (có thể dùng các bài Đọc Năm A), thường được gọi là Chúa Nhật “Hãy vui lên…”, “Rejoice”, “Laetare Sunday” do câu đầu trong “Ca Nhập Lễ” trích trong Isaia (66:10-11): “Laetare, Jerusalem…” và diễn tả niềm vui của các tín hữu đã sống tinh thần Mùa Chay Thánh được nửa đoạn đường, sắp tiến gần đến ngày vui mừng Đại Lễ Phục Sinh (Hôm nay Chủ Tế có thể mặc lễ phục màu hồng thay màu tím).
Bài Đọc I (Giôsua 5: 9, 10-12) ghi lại những ngày cuối cùng của cuộc hành trình về quê hương, và Dân Chúa tiến vào Đất Hứa để mừng Lễ Vượt Qua, không còn ăn manna nữa, nhưng bắt đầu ăn thổ sản địa phương, lúa mạch và bánh không men.
Bài Đọc II (2Corintô 5: 17-21) Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta là chúng ta đã trở nên “những con người được đổi mới” vì chúng ta đã được giải thoát khỏi tội lỗi nhờ công nghiệp khổ nạn của Chúa Giêsu; vậy, chúng ta hãy thật lòng từ bỏ tội lỗi và trở về “làm hòa với Chúa và với nhau.”
Bài Phúc Âm (Luca 15: 1-3, 11-32) ghi lại dụ ngôn Người Cha Nhân Hậu (thường được gọi là dụ ngôn Người Con Phung Phá). Đây là một dụ ngôn thật cảm động nói đến Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn chờ đợi người con tội lỗi “ăn năn trở về” và sẵn sàng tha thứ tất cả, không một lời quở trách, lại còn động lòng thương, ôm chặt lấy mà hôn con, rồi cho mặc y phục mới, đeo nhẫn mới, đi giầy mới và mở tiệc ăn mừng “vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy!”
Theo lý luận thì thái độ giận dữ của Người Anh Cả cũng rất đúng. Anh hiếu thảo với Cha, suốt ngày lo làm ăn vất vả, thế mà Cha chẳng bao giờ cho anh một con bê nhỏ để làm tiệc chung vui với bạn bè. Trái lại, đứa em thì thật hư đốn, chẳng biết thương Cha, thương anh em, thương gia đình. Đúng là đứa con bất hiếu! vô luân! làm mang tiếng cả gia đình, cả dòng họ! Đòi chia của cải rồi ra đi ăn chơi thỏa thích, sa đoạ đến tận cùng, tiêu pha hết tiền bạc, phải đi làm thuê, làm mướn, phải đi chăn heo là loài vật “nhơ bẩn” (theo quan niệm người Do Thái thời đó, hay người Hồi Giáo bây giờ); đói khát cùng cực đến nỗi thèm ăn cả cám heo cũng không được! Chỉ lúc đó, và chỉ vì thèm những ngày ăn uống đầy đủ trong gia đình, mới hồi tâm muốn trở về, chứ chẳng vì thương Cha, thương gia đình mình! Thế nhưng người Cha nhân hậu, không cần đếm xỉa đến những điều ấy, miễn là người con đã trở về là mừng lắm rồi “vì người con đã chết, nay sống lại; đã mất, nay lại tìm thấy!”
Bài dụ ngôn thật là tuyệt hảo để diễn tả tình Chúa thương yêu chúng ta vô cùng, như người Cha thương con tuyệt đối; thương đến nỗi đã ban “Con Một” của mình xuống trần gian, chịu nạn, chịu chết nhục nhã trên Thập Giá để đền vì tội lỗi nhân loại!( 1Gioan 4: 9-10).
Chúa là Cha nhân từ, người dựng nên chúng ta theo hình ảnh Chúa (hơn mọi tạo vật khác),và ban cho chúng ta có ý thức Tự Do và Trách Nhiệm về cuộc đời mình. Ngài luôn tôn trọng tự do của chúng ta. Nếu chúng ta muốn ra đi, từ bỏ Ngài, muốn trở nên “vô thần”, “vô luân” phản bội ngài, Ngài vẫn “chia gia tài cho chúng ta”, và để chúng ta tự do ra đi theo ý mình, chứ không cấm đoán. Ngài cũng không dùng quyền lực đi tìm kiếm, bắt trói đem về; nhưng hàng ngày chỉ “trông ngóng” con mình “trở về nhà!” Khi nhìn thấy người con trở về trong tàn tạ, rách rưới, đã không cần đếm xỉa gì đến quá khứ phung phá của nó, mà thấy con trở về từ đằng xa là đã vui mừng lắm rồi, chạy vội ra đón mừng! Ôi, tình thương của Chúa thật là bao la biết bao!
Đọc mấy câu đầu trong Bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu kể dụ ngôn này để trả lời những người Biệt Phái và Luật Sĩ cứ luôn cho mình là đạo đức , sống đúng luật lệ, và chê bỏ “phường tội lỗi”, rồi kết án Chúa Giêsu là “cứ gần gũi và đến nhà ăn uống với những kẻ tội lỗi, phường thu thuế!”
Noi gương lòng nhân hậu của Chúa, chúng ta cũng đừng bao giờ lên án những người trót sa chân lỡ bước. Đừng bao giờ vội kết án, nói hành, nói xấu người khác. Cũng đừng bắt chước thái độ giận dữ của người anh cả trong dụ ngôn, nhưng hãy khoan dung và yêu thương giúp đỡ những người tội lỗi trở về với Chúa; dù đó là chính ngay đứa con của chúng ta, hay người chồng, hoặc người vợ của chúng ta. “Hãy rộng lòng tha thứ, thì sẽ được thứ tha!”
Hơn nữa, chúng ta hãy tuyệt đối tin tưởng vào lòng nhân hậu của Chúa là Cha Nhân Từ của mỗi người chúng ta. Hãy ăn năn sám hối trở về, dù chúng ta đã trót sa đoạ đến đâu mặc lòng, đừng bao giờ thất vọng. Thiên Chúa luôn chờ đợi chúng ta với tất cả tấm lòng đại lượng, mong chờ và tha thứ.
Xin cùng cầu nguyện chung cho nhau để trong những ngày trọng đại này, chúng ta biết hy sinh dành nhiều thời giờ hơn để cầu nguyện, dự các cuộc Tĩnh Tâm Mùa Chay, hy sinh hãm mình thắng vượt những đam mê tội lỗi, thanh tẩy tâm hồn qua Bí Tích Hòa Giải (Xưng Tội) và dành dụm tiền bạc giúp đỡ người nghèo khó trên thế giới. Xin Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh chuyển cầu cùng Chúa cho chúng ta được chết đi với tội lỗi, cải thiện đời sống để được cùng sống lại thật với Chúa trong đời sống trong sạch, hòa hợp, yêu thương và nhiệt thành phụng sự Chúa và mọi người trong cuộc sống hằng ngày.
Chúng ta cũng hãy cầu nguyện và cộng tác với chương trình của Giáo Hội Hoa Kỳ hiện nay đang mời gọi “người Công Giáo trở về với Chúa và Giáo Hội” (Catholics Come Home ). Xin Chúa chúc lành và cho công trình này được kết qủa tốt đẹp.
Thiên Chúa là Cha đầy lòng nhân hậu, hiền từ, luôn chạnh lòng thương xót đối với mọi người, đặc biệt là đối với những tội nhân. Lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa đạt tới tuyệt đỉnh nhờ Chúa Giêsu. Tin Mừng của thánh Luca 15, 1-3.11-32 đã được Chúa Giêsu bầy tỏ rõ ràng lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa qua dụ ngôn:” Người con hoang đàng”.
LÒNG NHÂN HẬU CỦA THIÊN CHÚA: Dụ ngôn:” Người con hoang đàng “ hay “ Người Cha nhân từ “ nói lên tính nhân hậu của một người cha, người cha rất đỗi hiền từ, nhân hậu, luôn tôn trọng tự do của con cái, sẵn sàng trao ban tài sản cho người con thứ. Người con thứ hai đã có trong tay một gia tài tương đối lớn. Anh đi xa phung phí tất cả tiền tài, vàng, của quí giá cha mình đã chia cho mình ( Lc 15, 13 ).Giờ anh không còn gì, nên quay trở về với cha. Theo sự thường, khi trở về, anh sẽ gặp khó khăn, bị trách móc, bị khinh chê. Nhưng không, anh về nhà, người cha ấy cũng không trách mắng, la rầy, trừ khử. Trái lại “ Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để “( Lc 15, 20 ). Lòng nhân hậu, hiền từ, thứ tha đã khiến ông quên hết mọi ưu phiền, quên hết mọi lỗi lầm, tội lỗi của đứa con mất dậy, mà chỉ còn thấy sự hiện diện của đứa con đáng thương mà bao ngày ông đã mòn mong chờ đợi. Người con mà ông tưởng:” Đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”( Lc 15, 32 ). Do đó, ông truyền cho đầy tớ:” Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo mà làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng”( Lc 15, 23 ). Đúng là một cuộc tiếp đón tưng bừng, nồng hậu, ngoài dự đoán, ngoài sức tưởng tượng của anh.
Người con cả ở đồng trở về, chẳng những không vui mừng, phấn khởi mà còn nổi giận, phiền trách cha già, khiến người cha phải chịu đựng, nhẫn nhục ra tận cổng nài nỉ, van xin cậu và mời cậu vào nhà vì:” Tất cả những gì của cha đều là của con “ ( Lc 15, 31 ).
CẢ NGƯỜI CON CẢ VÀ NGƯỜI CON THỨ ĐỀU PHẢI TRỞ VỀ:
Cái trớ trêu của đoạn Tin Mừng này là người con cả đáng lẽ phải có tâm tình như cha, phải vui mừng, phải hân hoan, phải ăn tiệc mừng vì em của anh chết nay đã sống lại, đã mất nay lại tìm được. Đáng lẽ anh phải có thái độ nhân từ và lòng yêu thương vô biên của người cha vì anh và em đều cùng máu thịt với mẹ, với cha. Anh không vào nhà, không vui mừng rạng rỡ vì anh không thể tha thứ lỗi lầm của em, anh sợ đặc quyền đặc lợi của mình bị xâm phạm, anh không thể hiểu được lòng tốt của cha mình. Hoá ra từ xưa đến giờ anh sống trong nhà với cha nhưng lại như người ở ngoài, anh không hề thông cảm với em, không coi em là em, cùng dòng máu với mình mà gọi em là “ đứa con của cha”. Anh chỉ ích kỷ, keo kiết lo cho quyền lợi của mình, lo cho đời sống riêng tư của mình. Anh là đại diện cho những kinh sư, biệt phái, Pharisiêu, tư tế thời Chúa Giêsu, luôn tự mãn về cách sống đạo, về nhân đức của mình. Anh muốn cho kẻ lỗi lầm phải chết và không được cứu thoát. Do đó, cả người con cả, cả người con thứ đều phải thống hối, đều phải ăn năn, quay trở về với cha, trở về với Chúa nhân từ, bao dung, tha thứ.
Dụ ngôn:” Người con hoang đàng” nói lên tình yêu tuyệt vời của Thiên Chúa đối với mọi người, đối với nhân loại, đối với mỗi người chúng ta là kẻ tội lỗi.
Trở về với cha là cảm thông với người em lỗi lầm và cảm thông với tất cả anh em cùng một cha trên trời.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết cảm thông với những yếu đuối, lỗi lầm của anh chị em chúng con như Chúa đã tha thứ và yêu thương chúng con. Amen.
Nụ hôn là một biểu hiện tình yêu. Nhưng thực tế có những nụ hôn chiếu lệ, đầy mầu mè hình thức xã giao. Nhưng cũng có nụ hôn diễn tả tình yêu nồng nàn, chân thực. Chẳng hạn trong dụ ngôn người cha nhân hậu, người con hoang đàng đã nhận được nụ hôn cháy môi, vì người cha “ôm cổ anh ta, và hôn lấy hôn để” (Lc 15:20) bù lại bao tháng ngày xa cách.
TÌNH YÊU KỲ DIỆU.
Dụ ngôn đã phác họa biến cố xảy ra trong một gia đình phú nông có nhiều người làm công (Lc 15:17). Bắt đầu bằng một sự việc khác thương. Người con thứ nổi hứng, muốn sống biệt lập. Sau bao ngày đắn đo suy nghĩ, anh mạnh dạn đến thưa với cha: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng.” (Lc 15:12) Có lẽ anh sẽ được hưởng một phần ba tài sản (Đnl 21:17) Bình thường con cái chỉ hưởng được gia tài khi người cha khuất núi hay muốn chia gia tài sớm và không muốn điều hành sản nghiệp nữa. Đằng này, người con thứ dám nghênh ngang đòi chia gia tài, bất chấp mọi quyền bính của người cha và anh cả. Thật là táo bạo ! Ngay đầu câu truyện đã thấy tất cả nét nhân hậu của người cha khả ái, chứ không phải bất lực hay nhu nhược. Đúng hơn, hiểu rõ tâm lý và khuynh hướng thích tự do của tuổi trẻ, người cha đã chiều theo ý muốn của con và muốn tránh những hậu họa cho gia đình.
Người con thứ thả hồn mơ mộng về một tương lai huy hoàng. Anh tin tưởng tuyệt đối đồng tiền có khả năng tạo hạnh phúc. “Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng phung phí tài sản của mình.”(Lc 15:13) Những ngày tháng đầu diễn ra đúng như anh mơ tưởng. Anh đã rời xa mái ấm. Xa cả về không gian lẫn tình cảm.Chỉ gần những cuộc vui suốt sáng, trận cười thâu đêm.
Nhưng đời sẽ dậy cho anh một bài học. Hoàn cảnh bên ngoài và điều kiện bên trong không còn dễ dàng. “Khi anh ta đã tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng.” (Lc 15:14-15) Anh đã xuống tới nấc thang cuối cùng trong xã hội. Trong cảnh cùng cực, tất cả những thực tại bình thường trước kia lại trở thành giấc mơ đối với anh. Anh bắt đầu vẽ nên cảnh gia đình đầm ấm và mong gặp lại cha già để hưởng tất cả quyền lợi ngày xưa. Nhưng đó chỉ là giấc mơ thôi. Thực tế anh mong được chấp nhận trở lại gia đình như một người làm công (Lc 15:19). Thế là anh quyết định trở về, một quyết định không vì hối hận, nhưng vì nhu cầu sống còn.
Màn chót trong bi kịch hứa hẹn nhiều pha gây cấn, bất ngờ. Tất cả như một giấc mơ khi người con thứ trở về. Đó không phải là một cuộc trở về thành thật. Dù sao người cha cũng chấp nhận. Một lần nữa lại thấy tất cả nét chu đáo và đầy cảm thông của người cha nhân hậu. Oâng chỉ mong được lại người con với bất cứ giá nào. Anh không thể ngờ tình cha yêu thương vẫn nguyên vẹn. Có lẽ khi còn ở nhà chưa bao giờ anh được cha vồn vã “ôm cổ và hôn lấy hôn để” (Lc 15: 20) như thế. Đang còn hoa mắt vì tấm lòng trời bể đó, anh đã phải bàng hoàng trước thái độ cao thượng của người cha. Anh được trao “nhẫn là biểu tượng của quyền bính (St 41:42; Et 3:10;8:2); dép chỉ dành cho người tự do.” (KTTƯ 1995:334) Anh vẫn là con, chứ không phải là người làm công hay tên nô lệ. Sau đó, một bữa tiệc thịnh soạn thiết đãi mọi người đến chia sẻ niềm vui, vì như ông nói “con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” (Lc 15:24, 32) Phải có một tấm lòng đại lượng vô cùng mới có thể nhìn thấy giá trị nơi những gì đã mất. Không có con mắt bao dung đó, người anh cả không thể chấp nhận người em vào lại gia đình. Trước mắt anh, cha đã làm một việc thật phi lý, bất công (Lc 15:29-30). Không ai có thể hiểu nổi thái độ kỳ cục của cha già !
Có lẽ ông hết sáng suốt, không nhận định nổi thực tế nữa nên mới có thái độ như vậy. Người đáng thưởng lại không thưởng. Kẻ đáng phạt lại được nuông chiều. Nhưng “ý thức về bổn phận quá đã che mờ mắt anh. Anh không thể hiểu nổi sự tha thứ và tấm lòng quảng đại của cha.”(Fahey 1994:268) Đã có một khoảng cách lớn giữa cha và anh. Khoảng cách này kéo theo khoảng cách không bao giờ lấp nổi giữa anh và em. Người cha không những phục hồi quyền làm con, nhưng còn muốn lấy lại cả địa vị làm em cho người con thứ. Những lý lẽ biện hộ cho con thứ hoàn toàn không thể chấp nhận được trước một đầu óc duy lý như người con cả. Con tim có những lý lẽ riêng của nó !
Giả sử khi trở vê người em thứ ngay anh cả đứng đầu ngõ, cái gì sẽ xảy ra ? chắc chắn người em sẽ đón nhận một thái độ khinh bỉ, kinh tởm, hờ hững. Anh cả sẽ đối chất bằng những lời lẽ nặng nề, lôi tất cả lề luật, bổn phận để hạch sách. Kết quả có thể là một trận phun nước miếng hay ẩu đả với em. Thái độ như thế liệu có thể kéo đươc người em trở về không ? May mắn cho người em đã gặp được bố lúc về nhà ! Tình yêu luôn đón mời. Chỉ tình yêu mới làm con người hồi tỉnh và phục hồi được những giá trị đã mất. Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều lúc chúng ta quá cứng rắn. Người vợ hay chồng thường nêu ra những lý lẽ để bắt chẹt người bạn của mình. Nhưng chỉ tình yêu mới có sức thuyết phục. Tình yêu mới nối liền con người, chứ không phải những khô cứng của lề luật.
So sánh hai cuộc đời của hai con người, đứng về mặt luật pháp và lý trí, anh cả đáng ca tụng vì đã trung thành với bố suốt bao năm tháng. Người em đã lâm vào tình trạng tuyệt vọng vì thái độ ngang tàng bừa bãi của mình. Nhưng thử hỏi, ai đã rời xa cha già, xa mái ấm gia đình hơn ai ? Anh cả hay em thứ ? Thực tế dù sống ngay bên cạnh cha, tâm trí con cả lúc nào cũng xoay quanh cái tôi của mình: “Đã bao năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè.” (Lc 15:29) Cái tôi của anh quá lớn đến nỗi đè bẹp luôn người em đang tủi hờn, cay đắng. Anh lên giọng để cha già thấy tất cả cái phi lý của cách cha đối xử phân biệt: “Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thi cha lại giết bê béo ăn mừng !” (Lc 15:30) Thực tế cả hai người con đều cần phải trở về với cha. Nhưng cũng như người Pharisê, người con cả khó trở về hơn, vì anh tự mãn quá mức vì những công việc và lề luật trong gia đình.
Người con thứ đã trở về vì lý do rất thấp kém. Nhưng không sao ! Khi đụng tới sự thật về lòng vô cùng nhân hậu của cha, người con mới thấy được lý do đích thực phải trở lại. Nói khác người cha dùng chính sức mạnh tình yêu để trục xuất lý do thấp hèn khỏi người con thứ. Chính tình yêu đã phục sinh những giá trị đã mất mát nơi người con thứ. Phải chăng dụ ngôn hôm nay khuyến khích chúng ta noi gương người con thứ đi hoang hơn là bắt chước người anh cả ở lại nhà cha ? Thực ra, người cha đã làm người con cả giật mình khi nói hết sự thật: “Tất cả những gì của cha đều là của con.” (Lc 15:31) Phải trung thành tới mức nào mới có thể hưởng lời nói ngọt ngào đó ?! Nếu người con cả cảm nhận được tất cả sự thật về lòng thương trời bể đó, chắc chắn anh có thể trở về và đi vào con đường công chính đích thực, chứ không chỉ bên ngoài mà thôi.
CHIỀU KÍCH CON TIM.
Chắc hẳn khi nghe dụ ngôn này, các người Pharisêu và các kinh sư đều tím gan tím ruột vì Đức Giêsu đã phơi bày tất cả lòng dạ hẹp hòi, kệch cỡm, lì lợm của họ nơi người con cả. Còn những người thu thuế và các người tội lỗi xúc động vì cảm nghiệm được lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa nơi người cha và sung sướng thấy hình ảnh mình nơi người con thứ tràn đầy hạnh phúc. Người cha trong dụ ngôn chỉ phản ánh phần nào hình ảnh Thiên Chúa. Từ lòng yêu thương vô bờ bến, Thiên Chúa đã có sáng kiến thật táo bạo khi “nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hòa giải với Người.” (2 Cr 5:18) “Oâi ! Aân tình Cha thật kỳ diệu. Oâi ! Aân phúc Cha thật khôn lường.” (Công Bố Tin Mừng Phục Sinh) Trái tim Thiên Chúa không ai dò thấu được (Tv 145:3).
Phải có một con tim như Thiên Chúa mới có thể tha thứ như Thiên Chúa. “Chính tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với tội nhân đã khiến Đức Giêsu không ngần ngại tiếp xúc thân mật với họ.” (Fahey 1994:268) Tình yêu Thiên Chúa nơi chúng ta có mạnh đủ để đẩy chúng ta đến với những người tội lỗi hôm nay không ? Vẫn còn có một khoảng cách giữa những người tưởng mình là thánh thiện với những người bị coi là tội lỗi và kém may mắn như những người nghiện hút, đồng tính luyến ái, ly dị, tù tội, nghèo khổ hay bị bỏ rơi. Sự xa cách bên ngoài đó tố cáo một sự xa cách bên trong giữa chúng ta và Thiên Chúa. Đã đến lúc phải lắng nghe lời Thánh Phaolô: “Nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa.” (2 Cr 5:20) Có bình an nội tâm, mới hòa giải với người. Có gắn bó với Thiên Chúa, mới có thể đến gần tha nhân. “Đời sống mới trong Đức Kitô, không những mang chiều kích cá nhân, nhưng còn đạt tới tầm vóc toàn thể vũ trụ (Cl 1:10). Đó là do sáng kiến Thiên Chúa, Đấng đã trả lại cho nhân loại tình bằng hữu trước kia với Người trong và qua Con Người.”(Fahey 1994: 266-267) Sáng kiến đó đã được thực hiện trong một điều kiện không thể tưởng tượng được. Quả thực, “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.” (2 Cr 5:21) Chính nhờ chia sẻ và gần gũi đến độ đồng hóa với tội nhân, Đức Giêsu đã có thể thực hiện được công trình vĩ đại đó.
Chỉ khi nào cảm nghiệm được tình Cha sâu đậm và bao la như những người tội lỗi và thu thuế, chúng ta mới có thể thay đổi bộ mặt trái đất. Những dụ ngôn và các bài học trước đây chỉ đụng tới phần nào giây tơ lòng mỗi người. Nhưng càng đọc dụ ngôn người cha nhân hậu, càng không thể cầm được nước mắt vì Chúa Cha quá vĩ đại và bất ngờ khi phục hồi giá trị con người trong Con Một yêu dấu. Người ta không còn viện cớ gì để từ chối trở về với Chúa được nữa ! Giá trị con người vẫn còn nguyên đó dù cho thời gian có phủ lên bao lớp bụi mờ.
Thế nhưng, nhiều giá trị ngày nay đang bị chính con cái Giáo hội chối bỏ. Giá trị luân lý bị đảo lộn từ phòng thí nghiệm đến ngoài cuộc sống. Điển hình, cuộc thăm dò mới đây cho biết “giới trẻ Kitô hữu tại Anh không đồng ý với nhũng giáo huấn luân lý của các giáo hội và tin rằng tình dục ngoài hôn nhân có thể chấp nhận được. Có một khoảng cách nghiêm trọng giữa giáo huấn truyền thống của Giáo hội về những vấn đề luân lý và những niềm tin tưởng của thế hệ trẻ.” (CWNews 14/3/2001) Làm sao có thể thuyết phục con người trở lại với những giá trị nguyên thủy, nếu trước tiên chúng ta không trở về với nguyên ủy của mọi giá trị là chính Thiên Chúa ?
Một trong những khẳng định cốt lõi của bài giảng trên núi trong Tin Mừng Lu-ca là: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6:36). Lòng nhân từ ấy đã được thể hiện qua những việc làm của Chúa Giê-su, nhất là trong giao thiệp với những người bị xã hội kết án và xa lánh. Tuy nhiên kẻ thù của Chúa không muốn chấp nhận một lối cư xử nhân từ như vậy, nên họ luôn chống đối Người. Do đó, để nói về lòng nhân từ của Thiên Chúa và khuyên ta thực hành lòng nhân từ ấy, Chúa Giê-su đã kể một dụ ngôn được coi là hay nhất trong sách Tin Mừng: dụ ngôn người cha nhân hậu. Vậy dụ ngôn người cha nhân hậu trong Phụng vụ Lời Chúa mùa Chay muốn dạy ta điều gì?
1) Mỗi người dù là người tội lỗi cũng đều có một giá trị đặc biệt trước mặt Chúa
Lòng thương xót là tình yêu đặc biệt dành cho một người trong hoàn cảnh đáng thương. Đối với người tỏ lòng thương xót, đối tượng để họ thương xót có một giá trị nào đó đặc biệt khiến họ không thể bỏ mặc làm ngơ. Để nói lên giá trị của người con thứ, tức “người con hoang đàng” như ta thường lấy làm tựa đề cho dụ ngôn trước đây, thánh sử Lu-ca có biệt tài sắp xếp ba câu truyện dụ ngôn theo diễn tiến con số. Trước hết với dụ ngôn thứ nhất, con chiên bị mất là một trong một trăm. Tiếp đến, trong dụ ngôn thứ hai, đồng bạc bị đánh mất là một trong mười. Cuối cùng, trong dụ ngôn người cha nhân hậu, người con đã mất là một trong hai.
Sắp đặt như thế, Lu-ca muốn đi từ tình cảm đối với một vật có ít giá trị nhất tới tình cảm dành cho một người có nhiều giá trị nhất. Đối tượng của lòng thương xót càng có giá trị thì lòng nhân hậu của người tỏ lòng thương xót càng lớn lao.
Mỗi người chúng ta đều có một giá trị độc đáo trước mặt Chúa. Với cách ví von đơn sơ, Chúa Giê-su đã nói với ta về giá trị của ta trước mặt Thiên Chúa. “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?” (Mt 6:26).
Nhưng ta có thể thắc mắc dựa vào đâu để khẳng định người con thứ, tức người con hoang đàng, có một giá trị độc đáo trước mặt cha của anh. Ta hãy xem cách người cha cư xử đối với anh ta đã phản ảnh những giá trị của anh. Trước khi anh ta đi hoang đàng, người cha đã chấp nhận lời yêu cầu của anh xin ông chia cho anh phần gia tài anh được hưởng. Dĩ nhiên người cha có quyền từ chối hoặc chỉ cho anh một phần nào. Nhưng ông đã tôn trọng con mình nên ông “đã chia của cải cho hai con”. Kế tiếp là khi anh ta trở về, ông đã phục hồi cho anh những giá trị bị mất đi. Nếu không có và không bị mất đi thì làm sao gọi là phục hồi được. Anh ta đã đánh mất giá trị của một người con để tụt thang xuống làm thằng chăn heo thuê. Giờ đây, dù anh “chẳng còn đáng gọi là con cha nữa” thì người cha lại “phớt lờ” đi lời thú tội ấy và nhắn khéo với đám gia nhân rằng một điều “con ta đây”, hai điều “cậu ấm” của ta… Ông đã dẹp mọi lời bàn tán dị nghị, xếp lại nhân phẩm của một người cha, để phục hồi nhân phẩm của cậu con: nào là áo đẹp để mặc, nhẫn đeo, dép mang. Cuối cùng, ông còn “lý sự cùn” với cậu con cả để kêu gọi cậu tỏ lòng nhân hậu với thằng em trót dại đi hoang. Tất cả chỉ vì giá trị độc đáo của đứa con ông đã sinh ra và dưỡng dục. Liệu ta có dám tin rằng mình có một giá trị độc đáo trước mặt Chúa hay không?
2) Lòng nhân hậu của Thiên Chúa
Dùng hình ảnh một người cha tỏ lòng yêu thương con cái, nhất là khi nó làm điều sai lỗi, Chúa Giê-su dạy một bài học vô cùng thực tế và thâm thuý về Thiên Chúa. Điều khiến ta chú ý trước tiên là người cha nhân hậu rất ít nói. Điểm này cũng dễ hiểu thôi. Ta thử tưởng tượng một người cha mà cứ hay “lải nhải”, lắm điều, thì một là khó tính và nghiêm khắc, hai là nhỏ nhặt và để ý từng ly từng tí một. Lòng nhân hậu khó mà đi đôi với những “đức tính” ấy! Trái lại, Thiên Chúa rất im lặng. Trong lịch sử dân Chúa, gần như Thiên Chúa yên lặng chịu đựng loài người. Cùng lắm, Người sai các vị ngôn sứ tới để “nói thay” cho Người. Ngôn sứ là “người nói thay”.
Đặc điểm thứ hai của người cha nhân hậu là hễ nói thì nói điều tốt cho con mình hoặc bênh vực con mình. Khi ông nói với các gia nhân, toàn là những lời tốt đẹp cho con ông, những lời phục hồi nhân phẩm cho anh ta. Khi ông nói với cậu con cả, lời lẽ của ông gần như xin xỏ, chứ không phải những lời đanh thép lý sự. Lòng nhân hậu đích thực không khi nào hạ nhân phẩm người khác, nhưng trái lại, tích cực bênh vực người khác.
Đặc điểm thứ ba của người cha nhân hậu là hành động thay cho lời nói. Ông nói ít và chỉ nói những điều cần. Còn bao nhiêu toàn là hành động. Những hành vi của ông tới tấp, dồn dập. Mà động lực của hành động là lòng nhân hậu. Hành động nhắm mục đích duy nhất là biểu tỏ được lòng nhân hậu, càng nhiều càng tốt. Có những hành động do chính ông làm như: chạy ra, ôm cổ cậu con, hôn lấy hôn để cậu con thứ, năn nỉ cậu con cả. Có những hành động ông ra lệnh cho gia nhân làm như mặc áo, xỏ dép, xỏ nhẫn cho cậu con thứ, bắt bê béo làm thịt ăn mừng. Đâu là những hành động Thiên Chúa làm để tỏ lòng nhân hậu đối với ta? Nhiều lắm, làm sao kể cho xiết!
Đặc điểm thứ tư của người cha nhân hậu là sự tế nhị. Ông tế nhị lúc đón đứa con trở về. Chỉ cần một lời nói, một cử chỉ thiếu tế nhị cũng đủ làm cho đứa con mặc cảm không dám bước vào nhà. Trước lời thú tội của đứa con, ông làm như không nghe thấy, hoặc coi như “chuyện nhỏ” thôi mà. Sự tế nhị của ông không muốn nhắc đến dĩ vãng đen tối của đứa con, mà chỉ để ý tới hiện tại. Ông cũng tế nhị với cậu cả, chịu lép vế và xuống nước để dùng lời lẽ nhân hậu thuyết phục anh đừng nóng giận và hãy chấp nhận việc trở về của cậu em. Ta thử nghĩ xem, nếu Chúa không tế nhị với ta, hễ ta lỗi đâu Người đánh đó, thì làm sao Người là Cha nhân hậu của ta được!
3) Lòng nhân hậu của Ki-tô hữu
Quả thực ta phải nhìn nhận vẫn còn nhiều Ki-tô hữu không có lòng nhân hậu như “Cha anh em là Đấng nhân hậu”. Họ không có “những tâm tình của Chúa Giê-su”. Họ không “học với Chúa Giê-su, vì Người hiền hậu và khiêm nhượng trong lòng”. Cho nên họ thường hành động theo thói thế gian, ác độc ngay cả với anh chị em Ki-tô hữu khác.
Khi Chúa Giê-su đưa ra nguyên tắc trở nên trọn lành là “Anh em hãy có lòng nhân hậu như Cha anh em trên trời là Đấng nhân hậu, Người nhấn mạnh đến gương mẫu của Thiên Chúa Cha. Nhưng Cha trên trời làm sao ta thấy được mà bắt chước. Do đó, Người cho Con Một xuống thế làm người phàm để nêu gương nhân hậu cho nhân loại. Vậy ta muốn sống nhân hậu, trước hết hãy nhìn vào Chúa Giê-su qua những trang Tin Mừng. Không phải Người chỉ nói, nhưng mọi hành động của Người đều toả ra ánh nhân hậu của Thiên Chúa Cha, để ta nhìn thấy “một người như chúng ta” sống nhân hậu như thế nào.
Mùa Chay này, nếu ta chỉ học được một điều nhân hậu thôi, thì con đường nên thánh của ta quả đã tiến được một bước thật xa rồi. Mong được như vậy. A-men.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Có khi nào tôi nghĩ mình là “đồ bỏ” trước mặt Chúa không? Dụ ngôn người cha nhân hậu đã cho tôi ý tưởng nào mới mẻ về chính mình? Tôi cảm động về điểm nào nhất khi suy niệm lòng nhân hậu của người cha? Nó nói lên hình ảnh nào của Thiên Chúa?
Tôi xét mình về cách sống nhân hậu đối với những người chung quanh.
Cầu nguyện
“Lạy Cha, người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình. Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ, khi coi Cha như người cản trở hạnh phúc của chúng con. Chúng con thèm được tự do bay nhảy ngoài vòng tay Cha, nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ. Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo. Như người con thứ, chúng con bỗng thấy mình tay trắng, rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe doạ. Lạy Cha đầy lòng bao dung, xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày, giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc. Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội. Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên, thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng. Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ, chúng con lại thấy mình hiền hoà hơn với tha nhân.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 95)
Một thay đổi lớn nhất trong não trạng của ta, đó là phải có lòng thương xót như Thiên Chúa là Cha xót thương. Vì là điểm lớn cho nên thánh Lu-ca đã cẩn thận giải thích lý do tại sao Chúa Giê-su kể những dụ ngôn nói về lòng thương xót của Thiên Chúa (Lc 15:1-3). Chỉ một đề tài mà Chúa Giê-su đã sử dụng một lúc tới ba dụ ngôn, điều ấy chứng tỏ tầm quan trọng của vấn đề. Phụng vụ Lời Chúa chọn dụ ngôn người cha nhân hậu với những tình tiết sống động hơn. Dụ ngôn này được sử dụng nhiều trong sinh hoạt phụng vụ. Ta có thể gặp thấy nhiều lần khi cử hành Bí tích Hòa giải. Câu truyện ở mỗi hoàn cảnh đều có những gợi ý khác nhau, thật phong phú như không bao giờ cạn nguồn. Vậy sử dụng câu truyện này trong Phụng vụ mùa Chay, Giáo Hội có dụng ý nào? Mùa Chay là thời gian đặc biệt để ta đồng hành với Chúa Giê-su lên Giê-ru-sa-lem và học làm môn đệ Người. Trường học của Chúa không chỉ dạy lý thuyết, nhưng là những điều chính Thầy dạy đã sống và thực hành làm gương. Như thế, ta có thể nói, dụ ngôn Người cha nhân hậu không chỉ trình bày lòng thương xót của Thiên Chúa, nhưng còn mời gọi ta chiêm ngưỡng Chúa Giê-su là sự biểu lộ sống động lòng thương xót ấy.
a) Hoàn cảnh trước khi Chúa Giê-su giảng dạy dụ ngôn Người cha nhân hậu
Đó là cảnh “tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi thường đến gần Đức Giê-su mà nghe Người” (Lc 15:1). Lu-ca không ngại dùng từ “tất cả” để diễn tả mức đông người, đồng thời ngài cũng ngầm hiểu Chúa Giê-su có một sức lôi cuốn những người ấy đến với Người. Tiếp theo là cảnh những kẻ thù của Chúa Giê-su, phái Pha-ri-sêu và các kinh sư, ghen tức và hẹp hòi lên án Chúa vì Người đã “phung phí” lòng thương xót đối với những kẻ xã hội không muốn thương xót. Chúa Giê-su muốn đứng về phía Thiên Chúa Cha và Người cũng muốn đứng về phía những người tội lỗi đang trên đường hối cải. Cho nên Người thấy cần phải nói lên lời nói mạnh mẽ để tôn vinh lòng thương xót của Thiên Chúa mà Người là nhân chứng. Con số ba của Do-thái thường được dùng diễn tả điều gì ở cực độ, thí dụ Thiên Chúa là cực thánh (Thánh, Thánh, Thánh). Như thế, với ba câu truyện, ta có thể hiểu Chúa Giê-su muốn hết lòng đề cao lượng thương xót vô bờ của Thiên Chúa đối với người tội lỗi và niềm vui vô cùng lớn lao của Thiên Chúa khi họ trở về.
b) “Ông chạnh lòng thương...”
Nếu để ý, ta nhận thấy rất nhiều bản dịch Kinh Thánh ngày nay đã thay đổi tiêu đề của câu truyện Tin Mừng hôm nay. Thay vì là “Người con hoang đàng” thì người ta đặt tiêu đề là “Người cha nhân hậu” hoặc tân thời hơn thì là “Người cha phung phí.” Phung phí tình cảm và lòng thương xót đối với thằng con bất xứng. Câu truyện đặt trọng tâm vào người cha mới đúng, vì hai dụ ngôn trước đó đề cập tới niềm hân hoan của Thiên Chúa khi thấy một người tội lỗi ăn năn trở về là để giới thiệu cho câu truyện thứ ba và cũng là câu truyện chính, tột đỉnh của chủ đề được trình bày.
Điểm nổi bật trong câu truyện là cách ứng xử của người cha. Phát xuất từ tình yêu hải hà, lòng nhân từ của người cha đã lèo lái, biện hộ trong từng việc làm, từng lời nói, từng lý luận của ông. Ta có cảm tưởng sau khi mở đầu bằng câu: “Ông chạnh lòng thương...”, Lu-ca cho ta thấy đó chính là lý do và căn bản để người cha có những cử chỉ không sao kìm hãm nổi, thao thao bất tuyệt hết ra lệnh này tới lệnh khác. Nào là khi thằng con còn ở đằng xa, thế mà ông đã nhìn thấy. Nguyên cái nhìn “phi thường”, cái nhìn của giác quan thứ sáu này cũng đủ cho ta suy niệm và cầu nguyện về cái nhìn của Thiên Chúa nhân từ rồi. Nào là “chạy ra”, “ôm cổ anh ta”, “hôn lấy hôn để”, không lưu ý tới lời xin lỗi của anh ta. Nào là ra lệnh mang ra áo, dép, nhẫn cho cậu ấm! Chắc đám đầy tớ cũng phải quýnh quáng vì lệnh tới dồn dập. Đấy, lòng nhân từ có sức mạnh vô song như thế đó. Nó coi thường tuổi già sức yếu (già cả mà vẫn còn nhìn thấy từ xa và còn “chạy” được!), coi nhẹ sức nặng của lỗi lầm (làm như không nghe thấy những gì thằng con bất hiếu đang nói). Rồi đâu phải đùng một cái là có áo đẹp, nhẫn quý, dép êm mà đem ra cho cậu. Khi bỏ nhà ra đi, tên ấy đã ẵm đi hết rồi! Vậy thì chắc là người cha đã chuẩn bị trước. Lòng nhân từ mang lại cho ông niềm tin, thế nào nó cũng trở về.
Cũng lòng nhân từ ấy đã được biểu lộ qua thái độ của người cha đối với đứa con cả. Nó giúp ông kiên nhẫn, cảm thông và khiêm tốn. Có mấy khi cha mà phải “năn nỉ” con? Vậy mà ông đã làm như thế. Đứa con cả thấy mình được cha “năn nỉ” lại càng lên mặt, buông lời hỗn láo, lý luận ra điều đay nghiến. Nó còn ngầm ý khinh thường cha mình khi mỉa mai với những lời ám chỉ chính đứa em của nó: “Còn thằng con của cha đó...” Nó dám cả gan hạ nhục cả tình yêu của cha nó nữa! Nhưng lòng nhân từ đã cho ông sức mạnh để hứng chịu tất cả những giận dữ đứa con cả trút lên đầu ông mà ông vẫn bình tĩnh không nổi giận. Cuối cùng, ông không thể lý luận bằng đầu óc với hắn nổi nên ông đã sử dụng lý luận bằng con tim, một lối lý luận phi lý luận: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã chết, nay lại sống, đã mất, nay lại tìm thấy” (Lc 15:31-32).
c) “Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ” (Lc 6:36)
Chúa Giê-su dùng dụ ngôn sống động nói với ta về lòng thương xót của Thiên Chúa. Còn Giáo Hội, khi đưa câu truyện Tin Mừng này vào Phụng vụ Lời Chúa mùa Chay thì có ý mời gọi ta trước hết hãy chiêm ngưỡng Chúa Giê-su là chính lòng thương xót của Thiên Chúa được nhập thể và là gương mẫu sống động để ta cứ theo đó mà sống như những con cái của Thiên Chúa. Trong bài giảng khai mạc sứ vụ tại Ga-li-lê, Chúa Giê-su đã nhấn mạnh đến lòng thương xót như đường lối chính để ta được trở nên hoàn thiện (Lc 6:36). Đó cũng là điểm cốt yếu ta cần phải thay đổi trong não trạng của mình nếu muốn thực tâm sám hối. Trở nên nhân từ mỗi ngày một hơn là điều không dễ làm. Theo kinh nghiệm chung, phản ứng trước những điều xấu và dữ trong xã hội càng lúc càng làm cho trái tim ta cứng và nhỏ lại hơn, phán đoán khắt khe hơn. Nhưng Chúa Giê-su quả quyết với ta một phương thức hữu hiệu để tập sống nhân từ: đừng lên án, đừng xét đoán, hãy tha thứ, hãy cho, vì “anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6:38).
Lòng thương xót của Thiên Chúa nơi Chúa Giê-su đã được biểu lộ hoàn toàn trên thập giá khi Người xin Cha tha thứ cho những kẻ giết mình. Đó cũng là ý nghĩa công cuộc cứu chuộc của Chúa Giê-su mà Giáo Hội muốn chúng ta suy niệm và đáp trả ơn Chúa trong mùa Chay thánh và Phục Sinh này.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Với đề tài về lòng thương xót của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Chúa Giê-su, Phụng vụ Lời Chúa mùa Chay đã đưa tôi đến đâu trên con đường lên Giê-ru-sa-lem và học làm môn đệ Người? Tôi đã khám được gì nơi khuôn mặt của Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa?
Xét lại thái độ nhân từ và lòng thương xót của tôi trong những ứng xử với người trong gia đình, trong cộng đoàn, trong sở làm... tôi cần phải làm gì để sống theo lời dạy của Chúa Giê-su?
Trong gia đình, có khi nào tôi “ăn mừng” khi có một người thân hối lỗi, hay vẫn còn ấm ức, giận dỗi?
Lời nguyện:
“Lạy Chúa Giê-su, sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi. Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gio-an ban phép rửa. Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con. Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình. Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau. Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Gia-kêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 89)
Dụ ngôn này trước kia có tên là “người con hoang đàng”. Thực ra, nó nhấn mạnh chủ yếu đến tình thương tha thứ của người cha. Và như vậy, thâm ý của Tin mừng là muốn trình bày khuôn mặt của Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, để khi cảm nghiệm được điều này, họ biết trở về với Người.
Bài này trình bày hai điểm:
1/ Người Cha và đứa con hoang đàng; 2/ Người cha và đứa con cả.
I. Người cha và đứa con hoang đàng
Đoạn Tin mừng này cố ý trình bày khuôn mặt của người con hoang đàng để làm nổi bật khuôn mặt của người cha.
1/ người con hoang đàng
được trình bày qua những nét sau đây:
Xin chia gia tài. Theo luật Cựu ước, việc chia gia tài thông thường được đợi đến sau khi người cha chết đi. Đàng này, người con út nằng nằng đòi chia ngay khi cha nó còn sống. Điều này cho thấy nó chẳng coi luật lệ vào đâu.
Trẩy đi phương xa. Nghĩa là nó sẵn sàng cắt đứt mọi liên hệ với Cha và anh cả, với gia đình.
Chăn heo. Sau khi phung phí hết tài sản “với bọn điếm” (c. 30), nó phải đi ở đợ, buộc phải đi chăn heo. Đối với người Do thái, chăn heo đồng nghĩa với bỏ đạo, không còn là một phần tử của gia đình và của dân Thiên Chúa nữa. Đàng khác số phận của nó giờ đây còn thua kém cả một con heo, vì nó thậm chí thèm những thứ heo ăn.
Trở về. Nó quyết định trở về, chẳng phải do lòng thống hối cho bằng là đói. Nó soạn sẵn một bài “diễn văn” để cầu xin lòng thương xót và tha thứ của người cha: “Con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng là con cha nữa”.
2/ Người cha
Nó còn ở đàng xa, người cha đã trông thấy. Có lẽ người cha đã đêm ngày mong con trở về. Lòng mẹ cha như trời như biển, chẳng thể lấy thước tấc nào mà đo được !
Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Cử chỉ diễn tả một tình thương vô bờ bến.
Mặc áo mới, xỏ nhẫn và xỏ dép vào chân nó. Đứa con hoang đàng trở về thân tàn ma dại từ đầu đến chân. Nó không còn xứng là một con người, nói chi đến người làm công trong nhà. Vậy mà tình thương của cha nó đã “phủ lấp” mọi tội của nó. Khi ông sai mặc áo mới là ông muốn nó trở lại tình trạng cũ; khi ông sai đeo nhẫn cho nó là ông muốn khôi phục quyền bính của một đứa con (x. St 41, 42), muốn coi nó như một đứa con; khi ông sai xỏ dép vào chân nó là ông muốn xem nó như một người tự do, bởi vì người nô lệ không được mang dép.
Mở tiệc ăn mừng. Ăn tiệc là hình ảnh nói lên sự giao hoà và tha thứ, không còn muốn nhắc đến quá khứ nữa, mà chỉ muốn nhìn vào hiện tại mà thôi. Tình thương tha thứ của người cha vượt trên mọi lỗi lầm của đứa con, bởi vì đối với ông, điều quan trọng hơn cả là “con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Một đồng bạc, một con chiên lạc tìm thấy mà còn mừng rỡ, huống nữa là một con người, hình ảnh của Thiên Chúa ! II. Người cha và đứa con cả
Tin mừng đáng lẽ có thể kết thúc ở đây là được rồi, nhưng lại muốn trình bày thêm hình ảnh người con cả như muốn cho thấy một đối ảnh về người cha, về Thiên Chúa.
1/ Người con cả
Nổi giận và không chịu vào nhà. Nghĩa là không muốn chia sẻ tâm tình của người cha: sự tha thứ và niềm vui. Tin mừng Luca hữu ý khi dùng chữ “không chịu vào”.
Đã bao năm con hầu hạ và không trái lệnh. Anh ta tự mãn vì đã luôn sống theo lệnh cha. Điều ấy tốt nhưng chưa đủ. Người thanh niên giàu có tuân giữ lề luật ngay từ thuở còn thơ, nhưng Chúa nói anh còn “thiếu” một điều.
Thằng con “của cha”. Khi thiếu sự tha thứ, lập tức ranh giới sẽ được phân chia rạch ròi.
2/ Người cha
Chạy ra năn nỉ. Oâng muốn niềm vui này phải là niềm vui chung của cả gia đình, chứ không phải chỉ là của riêng ông.
Em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất nay lại tìm thấy. Người con của cha cũng chính là người em của anh, dẫu nó thế nào đi nữa. Lý do chính yếu là nó đã trở về, “còn sống”. Ở đây nhắc nhớ tới câu chuyện Giacóp và Giuse ; “Giuse con ta còn sống. Thế là đủ rồi” (St 45, 28). Kết luận
Tin mừng Luca khi trình bày câu chuyện với ba nhân vật chẳng những là để minh hoạ khuôn mặt Thiên Chúa giàu lòng thương xót và tha thứ, nhưng còn có mục đích khác là để chúng ta tự vấn xem ta là ai trong ba khuôn mặt ấy.
Sau 40 năm lầm lũi đi trong sa mạc để hoàn tất cuộc Vượt Qua mà Chúa đã dùng cánh tay uy dũng Người thực hiện khi đưa dân qua Biển Đỏ, hôm nay ở đất Yêricô cửa ngỏ vào Hứa Địa, Israel mới cảm nghiệm cuộc Vượt Qua đã hoàn tất. Chính ở địa đầu Đất Hứa này, Israel mới thấy tất cả cái lịch sử nô lệ thực sự đã được cuốn lại, để mở ra một trang sử mới, vì thế họ đặt tên cho nơi này là Gilgal (cuộn lại). Những ô nhục trên đất Ai Cập, những của ăn đi đàng (manna) đã chấm dứt, họ bắt đầu được ăn thổ sản. Cái Cũ đã qua, và cái mới đã khởi đầu nói lên ý nghĩa đích thực của Vượt Qua. Và nói đến Vượt Qua là nói đến Lòng Thương Xót, bao dung, tha thứ của Thiên Chúa đối với Dân Người, để dân Người được đưa về sống trong miền đất Cha mình. Vì chính là Thiên Chúa Vượt Qua để Giải Thoát. Không có lòng thương xót và tha thứ của Chúa đã không có cuộc Vượt Qua uy hùng này, và Dân vẫn còn sống trong kiếp nô lệ. Nếu như chiếu theo suy nghĩ và tình cảm của Dân thì không thể thực hiện được cuộc Vượt Qua. Đừng kể Môsê đã phải vất vả thế nào để thuyết phục Dân hãy ra đi, mà thậm chí 40 năm trong sa mạc, dân vẫn mang theo mình thần tượng ngoại lai, vẫn phản kháng và coi như là bị bức bách rời bỏ xứ Ai Cập. Toàn thể con cái sinh ra trong hoang địa 40 năm không cắt bì, và sống như kẻ không cắt bì. Do đó, chính ngày hôm nay, Josuê đã làm lễ cắt bì cho Dân, để cuộn lại quá khứ tội lỗi và nô lệ.
Đứa con thứ trong bài Tin Mừng đã diễn tả thật đúng cái lối sống của Dân, trên đường về Nhà Cha, nhưng lòng chỉ nghĩ đến cái cuộc sống ô nhục, không biết tới lòng thương xót của Cha nó. Cho nên Tin Mừng không phải là Tin Mừng về Đứa Con hoang đàng, nhưng là Tin Mừng về Cha giàu lòng thương xót. Chính là trong lòng Cha Thương Xót mà cuộc Vượt Qua đã được thực hiện, và đứa con đã được Cha mừng rỡ trong Nhà Người, dù nó bất xứng (đúng như là người con cả nhận xét). Nhưng chính thái độ của người con cả cũng phủ nhận và từ chối hiệp thông với lòng Thương Xót của Cha.
Vì thế Giáo Hội, theo thánh Phaolô, lãnh nhận sứ vụ rao giảng Tin Mừng, thì chính là sứ vụ rao giảng Ơn Giao Hòa mà Thiên Chúa đã thực hiện cho con người nhờ Đức Kitô. Thừa kế sứ vụ ấy, Giáo Hội phải hiểu lòng Thương Xót và Ơn Giao Hòa mình rao giảng lớn lao đến mức độ "Đấng không hề biết tội, thì Thiên Chúa đã làm nên thân tội vì chúng ta, để trong Ngài, chúng ta trở nên sự công chính của Thiên Chúa". Từng chữ trong phân biện trên của Phaolô là từng lời mời gọi chúng ta giũ bỏ tính ích kỷ của đứa con hoang đàng và sự kiêu căng của người con cả để có thể tham dự vào lòng Thương Xót lạ lùng của Thiên Chúa, lòng Thương Xót bất chấp tội lỗi của con Người đã hiến trao chính Máu Con Yêu Dấu để cho con người được giao hòa và nhận lại chức vị là Con.
Anh chị em rất thân yêu,
Là sứ giả thay mặt Đức Kitô loan báo lời giao hòa trong cuộc sống, đó là ơn gọi căn bản của chúng ta, những chi thể của Đức Kitô, lời loan báo chỉ kết thúc trong hiến tế thánh giá. Xin cho chúng ta biết reo vui với Hội Thánh, với thánh Phaolô để qua mọi khổ đau, chúng ta làm chứng rằng một thế giới mới, một bàn tiệc mừng mới, một tạo thành mới đang được hiến tặng cho nhân loại.
Thiên Chúa dưỡng nuôi con cháu Jacob trong suốt hành trình 40 năm vượt sa mạc bằng Manna. Họ đã nhận ra tình thương của Ngài khi cơn đói khát được thoả mãn. Đặt chân vào Đất Hứa, một miền đất phì nhiêu, Manna cũng ngừng rơi. Ở đó họ đã sử dụng hoa màu thu gặt được từ miền đất phì nhiêu, miền đất "chảy sữa và mật" (Joshua 5, 6). Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa với Abraham là ban cho con cháu ông miền đất Canaan. Ngài đã chúc phúc cho miền đất này, miền đất có sự hiện diện của dân thánh Ngài. Họ đã nhận được nhiều hơn họ hi vọng và mơ tưởng.
Các Thánh Vịnh gia đã khuyến khích chúng ta "hãy nhìn nếm cho biết Chúa thiện hảo dường bao" (Tv 34, 9). Chúng ta vẫn hay quên rằng mọi sự là do Chúa ban. Người Do Thái đã thường vấp phạm điều này và chúng ta cũng chẳng hơn họ! Bài Tin Mừng hôm nay kể lại chuyện đứa con thứ đã không nhận ra sự thiện hảo của cha mình. Chính vì thế hắn đã dọn đi phương xa để thụ hưởng một mình những tài sản mà cha hắn đã chia phần cho hắn để rồi khi tất cả của cải hắn có tiêu tan hắn phải chịu cảnh cô độc và đói khát. Cũng may hắn biết hồi tâm để nhận ra rằng "những người làm công cho cha ta dư thừa của ăn" (Lc 15, 17). Chính vì biết tự nhủ như thế nên hắn đã quyết định trở về với ước vọng xin cha "coi con như một người làm công trong nhà". Hắn suy nghĩ và cũng chẳng ước mong gì hơn như thế! Nhưng hắn đã định giá quá thấp về tình thương và lòng nhân hậu của cha mình. Người cha khi nhận ra hắn từ xa ông đã chạy ra ôm choàng lấy hắn , đã sai gia nhân lấy áo mới (= là con) mặc cho hắn, lấy nhẫn (= uy quyền) mang cho hắn và dọn tiệc ăn mừng vì hắn vẫn còn sống và bình an trở về.
Dụ ngôn về người cha nhân hậu hay đứa con hoang đàng này là dụ ngôn nói về lòng nhân hậu của Thiên Chúa trong tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Chúa Giêsu trong dụ ngôn muốn mạc khải cho chúng ta về tình yêu bao la của Thiên Chúa đối với con người biết ăn năn hối cải và quay về với Tin Mừng. Thiên Chúa tha thứ cho người có tội và biến họ nên một tạo vật mới (2Cor 5, 17). Ngài hoan hỉ và các thiên thần vui mừng. Bữa tiệc mang ý nghĩa tha thứ trọn vẹn và người tội lỗi được hòa giải với Cha trên trời. Thiên Chúa dọn tiệc tình yêu trong mỗi thánh lễ cử hành trong Giáo Hội. Bí tích Thánh Thể hiệu quả hóa sự tha thứ mọi tội cho chúng ta. Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi đã đặt chúng ta vào cùng bàn với Ngài. Thật may mắn cho chúng ta biết bao khi Chúa Giêsu " tiếp đón phường tội lỗi và đồng bàn với họ" (Lc 15, 2).
Trong giáo lý nhà Phật cũng có câu chuyện gọi là "Dụ ngôn người con hoang đàng". Câu chuyện kể về một người con bỏ cha, lên đường đi đến một nơi xa xôi sinh sống theo sự tự do phóng khoáng của mình. Vì ăn chơi thái quá anh trở nên nghèo khổ. Người cha ở nhà, sau bao năm tháng chờ đợi không thấy con trở về, đành lên đường đi tìm con. Sau nhiều năm tìm kiếm, hỏi han, người cha đã tìm ra được tung tích của người con mình. Nhưng người con lại không thể nào nhận ra được cha nó, một ông già đầy quyền lực và cao sang. Người con vẫn tiếp tục từ chối và lẩn trốn. Người cha rất đau lòng để con mình lẩn trốn như vậy, nhưng ông ra lệnh cho gia nhân theo dõi cậu, mướn cậu vào nhà làm việc cho ông. Sau đó, người cha vứt bỏ quần áo sang trọng, ngọc ngà của mình đi, đóng vai một người đầy tớ để có cơ hội gần gũi và chinh phục người con. Qua nhiều năm thân thiết người cha đã chinh phục được trọn vẹn tình cảm của cậu. Sau cùng vào cuối đời, người cha mới tiết lộ cho biết anh là con của ông và được quyền thừa kế tất cả gia tài của cha để lại.
Câu chuyện này không khác gì lịch sử cứu độ của Thiên Chúa đối với loài người. Thiên Chúa luôn yêu thương tìm kiếm con người. Còn con người cứ lẩn trốn, để rồi sau cùng, Thiên Chúa phải sai Con Một xuống thế, làm người đầy tớ đau khổ (Is 53,10-12), dùng cái chết của mình để thuyết phục và nói cho con người biết chức vị làm con cái Thiên Chúa của mình với quyền thừa kế hạnh phúc đời đời trên Nước Trời (Ga 3,16-17).
Ta thường gọi dụ ngôn này là dụ ngôn "đứa con hoang đàng", nhưng có lẽ phải gọi là dụ ngôn "Người cha nhân hậu" mới đúng, vì nó cho ta biết về tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.
Bài dụ ngôn chúng ta vừa nghe đó là một trong những bài dụ ngôn đẹp nhất trong Tin mừng, nó diễn tả tình thương của Thiên Chúa dành cho con người qua hình ảnh của người cha trong gia đình. Có lẽ người cha trong dụ ngôn có phần kém mai mắn, mặc dù ông rất giàu có nhưng có hai đứa con không có hiếu với mình. Người con thứ thì đã quá rõ, Khi lớn khôn thay vì anh phải phụng dưỡng cha già thì anh lại đòi chia gia tài, một hành động thất khó chấp nhận theo quan niệm của người Do thái. Vì người con chỉ được phép đòi chia gia tài khi cha chết hoặc người cha tự ý chia cho các con khi thấy mình già yếu. Hành động của người con thứ khác nào nguyền rủa cho cha mình mau chết. Người con cả xem ra có hiếu hơn, biết nghe lời cha hơn. Nhưng đáng buồn thay, bấy lau nay anh sống với cha chỉ là la\àm vì bổn phận hơn là vì yêu mến cha. Anh luôn nhìn cha mình bằng thái độ sợ sệt giống như người làm công hơn là con. Điều làm cho người cha đau lòng chính là thái độ của anh đối với em. Anh không muốn coi mình có người em này, anh không gọi nó là "em con" nhưng là "cái thằng con của cha kia". Anh không hề thông cảm và tỏ ra tha thứ cho những lầm lỗi của em, cũng không hề thấu hiểu cho nỗi đau của cha khi phải mất con. Chúa Giêsu muốn dùng hình ảnh của người con cả để cảnh tỉnh thái độ của những người Biệt phái và luật sĩ. Họ luôn coi mình là thành phần ưu tuyển của Chúa vì mình luôn chu toàn lề luật. Họ trách Chúa Giêsu vì đã đi lại với những người thu thế tội lỗi và lại còn ngôì ăn chung với họ nữa. Phải chăng đay cũng là hình ảnh gợi ý cho mỗi người chúng ta. Thay vì thấy mình tốt, mình được sống trong ơn nghĩa Chúa lẽ ra mình phải có bổn phận nâng đỡ những người lầm lỗi, biết vui mừng khi thấy họ ăn năn trở lại, biết yêu thương và nâng đỡ họ vượt qua mặc cảm để bắt đầu lại thì chúng ta lại thường tỏ vẻ khinh thường chỉ trích. Làm như thế khác nào chúng ta lại đẩy họ đi xa hơn.
Cách hành xử của Thiên Chúa khác xa con người. Bằng chứng sau khi người con thứ phun phí hết tài sản của mình, bước vào con đường nghèo đói, nghèo đến độ muốn ăn đồ ăn của heo mà cũng không được. Khi anh lâm vào con đường cùng thì anh mới nhớ đến cha, nhớ những ngày mình được sống sung túc trong nhà cha mà không phải lo nghĩ gì. Hành động quay về của anh có thể chỉ xuất phát từ sự cùng cực của mình, muốn trở về để tìm cái ăn mà sống, chứ chưa thật sự vì yêu mến cha. Anh chỉ muốn cha anh coi anh như là một người làm công thôi, chứ không dám nghĩ tới địa vị làm con của mình. Anh đau biết rằng ngày anh ra đi cũng là lúc mà hằng ngày người cha vẫn luôn trông ngóng mong anh trở về. Anh còn ở đằng xa thì cha đã thấy anh, chạy ra ôm lấy con mình. Ơng không đợi cho người con nói hết lời xin lỗi mà ngay lập tức đã sai đầy tớ mang áo, mang nhẫn ra đeo cho anh để phục hồi địa vị làm con cho anh.
Dụ ngôn không kể cho chúng ta biết tâm trạng của người con thứ lúc đó như thế nào, chắc chắn đó sẽ là những giọt nước vì hạnh phúc vì được yêu thương và tha thứ của cha. Mahadma Gandhi nói "chỉ có người nào trải qua cảm nghiệm được yêu thương khi mình còn là tội lỗi mới cảm nhận được thế nào là tình yêu tha thứ". Đó cũng là cảm nghiệm của người con hoang đàng trong Tin Mừng hôm nay. Thiên Chúa muốn nói với chúng ta rằng: nếu chúng ta phạm tội Ngài vẫn yêu thương chúng ta, vẫn tìm kiếm và trông chờ chúng ta trở về. Điều mà ngài mong muốn nơi chúng ta là phải biết đứng lên và can đảm và trở về. Biết bỏ đời đi hoang để trở về sống hiếu thảo với Cha. Tình thương va lòng tha thứ của Thiên Chúa không bao giờ thiếu, quan trọng là chúng ta có biết đưa tay đón nhận hay không. Bên ngoài trời đang mưa nhưng chúng ta vẫn có thể chết khá nếu không biết dùng thau để hứng nước. Chúa không thể cứu con người nếu con người không chạy đến với Ngài. Bởi vì Ngài luôn trọng tự do của con người, đó là một tặng phẩm vô giá mà Thiên Chúa ban tặng cho con người, tự do để yêu mến Thiên Chúa nhưng con người cũng có thể dùng nó để khước từ Thiên Chúa thậm chí chống lại Ngài.
Thiên Chúa dựng nên con người và đặ để mỗi người trong hoàn cảnh khác nhau. có những người giữ đạo sốt sắng, luôn chu toàn bổn phận với Chúa, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì ân huệ đó. Đồng thời Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy biết tha thứ và đón nhận những người lầm lỗi, yếu đuối. Bời vì họ là những con người đáng thương. Họ cũng là anh em với chúng ta là con cùng một Cha trên trời. Họ cũng đã được Chúa Giêsu đổ máu ra để cứu chuộc.
Chúng ta đã đi được chặng đường hơn nữa mùa chay, và đang chuẩn bị bước vào Cuộc khổ nạn và Phục sinh của Đức Kitô. Lời Chúa trong mùa chay luôn là lời mời gọi hoán cải và đổi mới để trở về làm hoà với Chúa. Chúng ta hãy can đảm nhận ra những khuyết điểm và tội lỗi của mình không phải để mặc cảm tự ti nhưng là để mạnh dạn trở về cùng Chúa, Đấng luôn yêu thương và chờ đợi chúng ta. Đừng nghĩ rằng tôi tội quá nặng lỗi quá nhiều nên Chúa không thể tha. Chúng ta hãy nhìn lên thánh giá, Chúa Giêsu đã chết trên thập giá cũng là vì tội lỗi của chúng ta.
Chúng ta đang sống trong những ngày của mùa chay thánh, Lời Chúa trong các chúa nhật mùa chay luôn mời gọi chúng ta hãy trở về với Chúa bằng con đường sám hối. Bài Phúc âm chúng ta vừa nghe cũng là một lời mời gọi sám hối trở về với Chúa để đón nhận ơn tha thứ của Chúa.
Dụ ngôn chúng ta vừa nghe đó là một trong những bài dụ ngôn đẹp nhất trong Tin mừng, nó diễn tả tình thương của Thiên Chúa dành cho con người qua hình ảnh của người cha trong gia đình. Các bạn có thể đặt tên cho bài dụ ngôn này là gì? Ta thường gọi dụ ngôn này là dụ ngôn "đứa con hoang đàng", nhưng có lẽ phải gọi là dụ ngôn "Người cha nhân hậu" mới đúng, vì nó cho ta biết về tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.
Có mấy nhân vật chính trong dụ ngôn?
Người cha trong dụ ngôn có 2 người con. Có lẽ người ơng có phần kém mai mắn, mặc dù ông rất giàu có nhưng có hai đứa con không có hiếu với mình. Người con thứ thì đã quá rõ. Lẽ ra khi lớn khôn thay vì anh phải phụng dưỡng cha già( thì anh lại lm gì n ).anh lại đòi chia gia tài, một hành động thất khó chấp nhận theo quan niệm của người Do thái. Vì người con chỉ được phép đòi chia gia tài khi cha chết hoặc người cha tự ý chia cho các con khi thấy mình già yếu. Hành động của người con thứ khác nào nguyền rủa cho cha mình mau chết. Người con cả xem ra có hiếu hơn, biết nghe lời cha hơn. Anh đang từ ngồi đồng trở về, anh cĩ thi độ thế no khi biết em mình đ trở về? anh cĩ vui ? Những lời của anh nĩi cho thấy tấm lịng của anh, bấy lu nay anh sống với cha chỉ là làm vì bổn phận hơn là vì yêu mến cha. Anh luôn nhìn cha mình bằng thái độ sợ sệt giống như người làm công hơn là con. Điều làm cho người cha đau lòng chính là thái độ của anh đối với em. Anh không muốn coi mình có người em này, anh không gọi nó là "em con" nhưng là "cái thằng con của cha kia". Anh không hề thông cảm và tỏ ra tha thứ cho những lầm lỗi của em, cũng không hề thấu hiểu cho nỗi đau của cha khi phải mất con.
Thái độ của anh cả như thế cịn thi độ của người cha như thế no? Ơng trch mắn quở phạt anh ta, ơng khơng muốn nhận lại con?. Chng ta nghe tiếp cu chuyện. Sau khi người con thứ phun phí hết tài sản của mình, bước vào con đường nghèo đói, nghèo đến độ muốn ăn đồ ăn của heo mà cũng không được. Khi anh lâm vào con đường cùng thì anh mới nhớ đến cha, nhớ những ngày mình được sống sung túc trong nhà cha mà không phải lo nghĩ gì. Hành động quay về của anh có thể chỉ xuất phát từ sự cùng cực của mình, muốn trở về để tìm cái ăn mà sống, chứ chưa thật sự vì yêu mến cha. Anh chỉ muốn cha anh coi anh như là một người làm công thôi, chứ không dám nghĩ tới địa vị làm con của mình. Anh đau biết rằng ngày anh ra đi cũng là lúc mà hằng ngày người cha vẫn luôn trông ngóng mong anh trở về. Anh còn ở đằng xa thì cha đã thấy anh, chạy ra ôm lấy con mình. Ơng không đợi cho người con nói hết lời xin lỗi mà ngay lập tức đã sai đầy tớ mang áo, mang nhẫn ra đeo cho anh để phục hồi địa vị làm con cho anh. Dụ ngôn không kể cho chúng ta biết tâm trạng của người con thứ lúc đó như thế nào, chắc chắn đó sẽ là những giọt nước vì hạnh phúc vì được yêu thương và tha thứ của cha.
Chúa Giêsu muốn ám chỉ đến ai qua 3 nhân vật trong dụ ngôn?
Người cha? Ám chỉ Thiên Chúa
Người con thứ? Ám chỉ những người có tội biết ăn năn
Người con cả? Ám chỉ những người Biêt phái và những ai tự coi mình tốt và không biết tha thứ
Qua bài dụ ngôn hôm nay, Chúa muốn nói với chúng ta rằng: nếu chúng ta phạm tội Ngài vẫn yêu thương chúng ta, vẫn tìm kiếm và trông chờ chúng ta trở về. Điều mà Ngài mong muốn nơi chúng ta là phải biết đứng lên và can đảm và trở về. Biết bỏ đời đi hoang để trở về sống hiếu thảo với Cha. Tình thương va lòng tha thứ của Thiên Chúa không bao giờ thiếu, quan trọng là chúng ta có biết đưa tay đón nhận hay không. Mỗi khi chúng ta phạm tội, là chúng ta đang trở thành người con hoang đàng, là chúng ta đang bỏ Chúa đó. Vậy mỗi khi chúng ta phạm tội với Chúa thì chúng ta trở về với Chúa bằng cách nào? (qua bí tich giải tội- Chúa rất vui khi chúng ta đi xưng tội). Mỗi khi chúng ta phạm lỗi với anh chị em chúng ta phải làm gì? (xin lỗi- quyết tâm không làm điều đó nữa). Mỗi khi chúng ta phạm lỗi, chúng ta không được tuyệt vọng, và không được nghĩ rằng lỗi của tôi nặng quá không biết Chúa có tha hay không, Chúa luôn luôn tha cho chúng ta chỉ cần chúng ta biết chạy đến với Chúa. Chúa luôn mở rộng đôi tay đón chúng ta trở về
Một bài học khác chúng ta có thể thấy được qua bài dụ ngôn này đó là mình phải biết tha thứ cho người khác. Chúa tha thứ cho chúng ta khi chúng ta có lỗi, và Chúa còn thương chúng ta nhiều hơn vậy thì chúng ta cũng phải biết tha thứ cho những lỗi lầm của người khác. Mỗi khi chúng ta tha thứ cho người khác đó là chúng ta đang trở nên giống Chúa. Các bạn thấy khi mình làm ai giận, hay làm điều gì lỗi với người khác khi được ban mình bỏ qua không giận nữa, tiếp tục chơi với mình, mình có vui không nè?
Mùa chay luôn mời gọi chúng ta biết trở về với Chúa bằng cách từ bỏ con người tội lỗi của mình. Sám hối và trở về với Chúa bằng những việc làm cụ thể, chẳng hạn tôi quyết tâm bỏ bớt đi tật hay nói dối, hay chửi thề nói tục, hay cãi lại cha mẹ. Và sống con người mới là người con của Chúa biết yêu thương người khác, biết tha thứ cho anh chị em, và mau mắn chạy đến với Chúa qua bí tích giải tội khi chúng ta lầm lỗi. Khi làm như thế đó là chúng ta đang sống trong tâm tình là người con của Chúa.
Mùa chay, GH mời gọi chúng ta sám hối trở về. Hôm nay, qua bài TM mà thánh sử Luca tường thuật, CG cho OBACE hiểu trở về để được ích lợi gì?
Trong bài TM chúng ta vừa nghe, người con thứ sau khi xài hết tiền, phải đi làm mướn để sống nhưng vẫn đói. Anh nhận ra tình trạng khốn khổ của mình và quyết tâm trở về với cha. Ích lợi mà anh hướng đến là xin làm đầy tớ để được ăn no, một mong muốn hoàn toàn vật chất. Nhưng thực tế, khi trở về, anh nhận được điều gì? PÂ cho ta thấy, anh nhận ra cha chờ anh từ xa, chạy lại ôm cổ anh, hôn anh hồi lâu. Nhưng trong lúc đang hôn hồi lâu ấy, anh hiểu ra chuyện đói no đối với mình không còn quan trọng nữa, không cần phải xin nữa vì anh đã nhận được thứ quý giá gấp trăm ngàn lần, đó là niềm hạnh phúc lớn lao khi đón nhận tình thương quá sức tưởng trong vòng tay của cha mình.
Kính thưa OBACE! Trở về với Chúa không phải để được Chúa ban làm ăn khắm khá, thăng quan tiến chức, được khỏi bệnh, thoát cảnh nghèo, hết cảnh khổ nhưng để được sống một cuộc đời Kitô hữu có Chúa thật sự sống trong vòng tay yêu thương, sống trong Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Đó là đủ, tất cả những thứ khác không cần thiết, không quan trọng nữa. Con nói như vậy, chắc có một số trong OBACE thắc mắc, mình nghèo, mình khổ thấy mồ, muốn trở về với Chúa để thay đổi hoàn cảnh mà lại bảo Chúa thương là đủ, làm sao người ta chấp nhận được? Bây giờ, chúng ta cùng quay về với LC hôm nay để tìm câu trả lời.
Đứa con thứ trở về được cha ôm vào lòng, lập tức cha sai đầy tớ mặc cái áo đẹp cho cậu, đeo nhẫn vào tay cậu, mang giày vào chân câu. Theo quan niệm người Do Thái lúc bấy giờ, cái áo tượng trưng sự tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng sự thay thế quyền bính, mang giày nói lên dấu hiệu một đứa con. Như vậy, những thứ đồ đạc cần thiết của một đứa con, người cha đã trao lại cho người con thứ, cũng đồng nghĩa với tha thứ và sẵn sàng đón con vào nhà. Trong đời sống đạo của OBACE cũng vậy, một khi chúng ta hối cải trở về với Chúa và nhận ra mình đang sống trong vòng tay, trong lòng thương xót Chúa thì TC cũng sẽ trả lại cương vị đứa con thừa tự Nước Trời cho chúng ta vốn bị đánh mất do tội, hạnh phúc thiên đàng Chúa sẽ trao ban. Khi đó, mục đích sống đạo của mình đã đạt được, đã thành công. Như vậy, ở trong vòng tay yêu thương của Chúa không phải là đầy đủ lắm sao thưa OBACE?
Vậy thì đến với Chúa, phần thưởng thiên đàng được ban mà cuộc sống hiện tại vẫn khổ hoài thì tính làm sao? OBACE đừng quá lo lắng vì khi người con thứ được trao lại cương vị làm con thì cái nó muốn là ăn no dĩ nhiên cũng được đáp ứng, làm con thì muốn ăn thứ gì không được. Do vậy, chúng ta hãy can đảm trở về bên Chúa và trình bày với Chúa hoàn cảnh của mình, con tin rằng Chúa cũng sẽ sớm nâng đỡ OBACE, vì Chúa cũng từng hứa: "hãy lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước, các thứ khác Chúa sẽ ban cho".
Nhưng bây giờ, OBACE phải trở về bằng cách nào đây? Cách thì có nhiều lắm: mau mắn đi xưng tội trong mùa chay này, đi lễ Chúa Nhật cho đầy đủ, đọc kinh sáng tối trong gia đình, nhớ tới Chúa trong ngày sống của mình. Vấn đề quan trọng không phải là cách trở về nhưng là với hoàn cảnh sống hiện tại nhiều trở ngại, OBACE có muốn trở về và có dám can đảm trở về hay không?
Trong khi OBACE đang trên đường trở về với Chúa trong mùa chay này, xin được nhắc lại với OBACE một ích lợi lớn lao chúng ta sẽ đạt được, đó là phần thưởng thiên đàng đó thưa OBACE.
Hôm nay là Chúa Nhật IV MC , còn gọi là Chúa Nhật của niềm vui, vui vì có một người cha già đang gấp rút tổ chức một bữa tiệc bê béo để ăn mừng đứa con hư đốn của ông nay đã trở về.
Tại sao người con hư này lại trở về? Theo như thánh sử Luca tuần thuật, người con thứ sau khi đòi cha chia gia tài , anh gom góp tất cả đem đi ăn chơi phun phí nơi xa. Đến khi tiền bạc đã hết, anh lâm vào tình cảnh đói khổ, đi làm mướn để kiếm sống nhưng vẫn đói. Anh hối hận vô cùng và quyết tâm trở về với cha Kính thưa OBACE! Cùng với người con thứ, xin mỗi người trong OBACE dành chút thời giờ để kiểm tra lại tình trạng tâm hồn của mình, tình trạng sống đạo hiện giờ của con cái mình, của những người Kitô hữu xung quanh mình. Nếu ai đang trong tình trạng đi hoang, hãy mau chóng trở về. Nếu người thân mình đi hoang, anh em bên cạnh mình đi hoang, bằng mọi cách, hãy nhanh chóng giúp họ quay về. Có người cho rằng từ từ rồi trở về với Chúa chứ gấp gáp gì. Xin thưa với OBACE, cần phải gấp chứ vì con nghe cha con kể lại một thái độ từ từ và cuối cùng cả gia đình phải hối hận.
Anh út bỏ MPS lâu lắm rồi. Nhiều lần hàng xóm khuyên, anh nói để từ từ, gấp gáp gì. Nhiều lần cha sở đến nhà thăm, anh trốn trong buồn không chịu gặp. Một hôm, cha sở mặc áo dòng đi thăm giáo dân, tình cờ gặp anh giữa đường. Thấy cha từ xa, anh nhảy qua mấy cái mương chạy mất tiêu. Cha sở chạy theo kêu, út ơi, cha gặp thăm con chút chứ có làm gì con đâu mà con chạy dữ vậy? Đùng một cái, anh ngã bệnh nặng, hấp hối, người nhà rước cha xức dầu. Cha đến, anh quay vào vách không chịu lãnh Bí tích xức dầu và tắt thở trong sự đau xót của gia đình. Cha sở ngồi trên giường anh khóc tại chỗ , vì không biết nên đưa tiễn một linh hồn đã vội vã ra đi hay níu kéo lại để tìm cách cứu vớt.
Kính thưa OBACE! Tình trạng sống đạo trễ nải, nguội lạnh của giáo dân là nỗi khổ tâm lớn nhất của cha sở, vì con cái mình đi hoang mà không báo trước ngày giờ trở lại. Người con thứ trong bài Phúc âm trở về làm cha nó mừng lắm. Con ước mong, vào những ngày cuối của mùa chay thánh này, OBACE đem niềm vui mừng đến cho cha sở mình, và trên hết là cho chính Thiên Chúa là cha. Để trở thành đứa con hiếu thảo đem niềm vui cho cha mình, xin được mời gọi OBACE làm những việc thực hành sau: Thứ nhất, những OBACE nào thấy tâm hồn mình đang trong tình trạng tội lỗi, hãy mau mắn đi xưng tội mùa chay để trở về với Chúa. Thứ hai, kiểm tra tình hình sống đạo của con cháu mình, đứa nào đang sống đạo trễ nãi, nguội lạnh, hãy hối thúc nó sớm đi xưng tội để trở về với Chúa, nó không chịu đi, cầu nguyện nhiều cho nó, tìm mọi cách giúp nó vì đó là trách nhiệm của các bậc làm cha, làm mẹ. Thứ ba: OBACE để ý xem trong họ đạo mình, những người chúng quanh mình, ai nguội lạnh, hãy cầu nguyện nhiều cho họ. Đây là việc làm bác ái mùa chay đẹp lòng Thiên Chúa nhất đó thưa OBACE.
Thay cho lời kết, nguyện xin Chúa ban ơn sám hối cho mỗi người trong họ đạo, để mùa chay năm nay, có nhiều người nguội lãnh, trễ nảy quay về với Chúa qua Bí tích hoà giải. Và rồi ngày đại lễ mừng Chúa Phục sinh năm nay là ngày chính Thiên Chúa dọn tiệc bê béo và mở rộng vòng tay yêu thương đón lấy từng người con trong họ đạo chúng ta. Amen.
Bài Phúc âm mà chúng ta vừa nghe, là một câu chuyện tuyệt vời trong Tin Mừng Luca. Qua đoạn phúc âm ngắn này, Luca cho thấy lòng bao dung nhân từ của Thiên Chúa đối với người tội lỗi qua hình ảnh người cha nhân hậu. Đức Giêsu dùng dụ ngôn này để trả lời cho những tiếng xì xầm, bàn tán của người Pharisêu và các kinh sư về việc Người hay tiếp đón những người thu thuế và những kẻ tội lỗi.
Người Pharisêu và các kinh sư tự hào về sự công chính của mình, họ cho rằng mình là người đạo đức vì họ tuân giữ các lề luật một cách nghiêm khắt, giữ các tập tục của họ đưa ra và buộc Thiên Chúa trả ơn cho họ. Vì thế, đôi khi họ tuân giữ hơn những gì mà luật đòi buộc. Họ thường khinh chê, xa lánh và kết án những người bị coi là "tội lỗi". Qua câu chuyện dụ ngôn, Đức Giêsu không những muốn người thu thuế và người tội lỗi ăn năn sám hối mà chính các người biệt phái và các kinh sư cũng cần phải sám hối để đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người. Thật thế, sau khi tội nguyên tổ xâm nhập, tội lỗi lan tràn vào thế gian. Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Người xót thương và tìm cách cứu thoát con người. Ngài hứa ban Đấng Cứu Chuộc để giải thoát con người, giao hoà con người với Thiên Chúa, với vũ trụ vạn vật và với chính họ - chính bản thân chính con người mình. Vì thế, chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa là Thiên Chúa của tình thương và lòng nhân ái. Ngài xót thương và thi ân. Ngài chờ đợi chúng ta từng giây từng phút. Tình yêu của Ngài vượt lên trên mọi tính toán, đo lường của chúng ta. Ngài thi ân cho chúng ta hơn cả sự mong đợi và cầu xin của chúng ta. Người con hoang đàng trong Phúc âm chỉ xin được đối xử như một người làm công trong nhà, nhưng người cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Tấm lòng của người cha thật nhân hậu, tốt lành. Người con chỉ mong có được một chỗ ngủ, có cơm ăn, có áo mặc. Nhưng cha anh đã quảng đại vô biên, đã đón nhận người con với niềm vui rộn rã: xỏ nhẫn cho anh, mặc áo mới cho con, mang giầy dép cho con, rồi mở tiệc ăn mừng (Lc 15, 22).
Phải, Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta. Chính lòng thương xót của Ngài đã cứu người con. Người con ôm gia tài của cha ra đi mang theo bao nhiêu ước mơ của tuổi trẻ: tự do, tình yêu, hạnh phúc...Nhưng rồi tất cả chỉ là ảo tưởng. Ước mơ hạnh phúc không thành. Cuối cùng chỉ còn là bụng đói, xác xơ, đau khổ và tủi nhục.
Điều gì đã đưa chàng thanh niên đến quyết định trở về? Phải chăng đau khổ, thất bại, vỡ mộng, bế tắc? Thưa, không phải vậy đâu. Nếu chỉ có vậy thôi, có lẽ không đủ lý do để anh dám trở về. Bởi có biết bao người rơi vào tình cảnh túng quẫn như anh đã không dám trở về. Họ đã buông xuôi, tuyệt vọng và đã giải quyết bằng cách tự tử. Phải có một cái gì khác trở thành động lực thúc đẩy anh trở về. Đó chính là tình yêu của người cha, chắc chắn anh sẽ không dám quay đầu trở về. Nhưng anh vẫn tin tưởng vào lòng yêu thương và tha thứ của cha anh. Chính niềm tin vào lòng yêu thương của người cha đã đem lại tia sáng hy vọng, đã nâng anh đứng dậy, đã mở đường tạo lối thoát cho anh để trở về cùng cha.
Tội lỗi đưa đến chỗ bế tắc, đường cùng. Con người tự tách mình khỏi tình yêu của Thiên Chúa là đi vào chỗ chết, là "mất đi". Tình yêu Thiên Chúa đã mở ra lối thoát, đã cảm hóa con người tội lỗi. Nếu không có tình yêu, không có ý thức tội lỗi, thì chỉ có mặc cảm tội lỗi mà thôi. Không phải nước mắt đổi mới tâm hồn con người mà chính là tình yêu của Thiên Chúa đổi mới tâm hồn con người sám hối. Nếu không có tình yêu của Thiên Chúa, nếu không tin mình được Thiên Chúa yêu thương, con người sẽ không tìm được con đường trở về. Phải tin mình luôn được Thiên Chúa yêu thương, phải tin rằng mình luôn có một chỗ đặc biệt trong trái tim Chúa, dù có bỏ ra đi, chỗ ấy vẫn không mất, chỗ ấy vẫn còn để trống, để chỉ dành riêng cho ta.
Tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Tình yêu của Ngài vượt quá mọi mơ ước của chúng ta: "Nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, thì Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự" (Rm 5,25).
Trở về là gặp lại niềm vui xum họp. Trở về là "tìm lại được", là "sống lại". Tìm lại được sự sống, đó là ý nghĩa đích thực của việc hoán cải và cũng là lý do của niềm vui sâu xa nơi người cha. Người cha vui mừng mở tiệc không phải vì từ nay đứa con trở về sẽ giúp cho công việc này sẽ làm cho ông việc nọ, mà chỉ vì từ nay anh sẽ được sống và được sống hạnh phúc dồi dào. Thật là một niềm vui hoàn toàn vị tha và rộng mở của người cha bao dung, nhân hậu,
Trong khi người cha tràn đầy niềm vui đón nhận sự trở về của người con với tất cả sự bao dung rộng mở: "Em con đã chết, nay lại sống" thì lòng người anh lại đầy tị hiềm và từ chối chia sẻ niềm vui của người cha: "cái thằng con của cha kìa...".
Rất có thể, chúng ta là những người con bướng bỉnh, những người con bụi đời, những người con ích kỷ của người cha nhân hậu. Người cha ấy đã đón nhận chúng ta trở về, không phải một lần, nhưng nhiều lần. Thiên Chúa là người cha luôn tha thứ cho chúng ta và đem chúng ta về với Ngài. Thế nhưng, tại sao chúng ta lại cứ muốn trốn khỏi người Cha đầy lòng khoan dung nhân hậu? Sao chúng ta cứ muốn tách rời khỏi tình yêu của Thiên Chúa khi chúng ta biết rằng Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta trở về để tha thứ, để vui mừng, tiếp đón? Lòng nhân hậu Chúa vô biên, chúng ta đừng bao giờ quên điều ấy. Nếu chúng ta nhớ Thiên Chúa nhân lành vô cùng, chúng ta sẽ không chống đối Ngài, chúng ta sẽ cố gắng làm vui lòng Ngài. Vì thế, chúng ta hãy lắng nghe lời từ tốn nhân từ dịu dàng của người cha: con à! Lúc nào con cũng ở với cha. Tất cả những gì của cha điều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, vì em con đây đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. (Lc 15, 31 - 32). Mỗi lần sống ích kỷ cho riêng mình là chúng ta đã bỏ rơi người cha. Mỗi lần chúng ta xét đoàn, lên án hay không tha thứ cho anh em mình là mỗi lần chúng ta xa rời tình yêu Thiên Chúa. Mỗi khi chúng ta lỗi phạm đến Chúa chúng ta luôn xin Chúa tha thứ lỗi lầm cho chúng ta; Thiên Chúa luôn tiếp nhận chúng ta, ngay cả những lúc chúng ta có nhiều lỗi lầm nhất. Vậy tại sao chúng ta không đối xử nhân từ với những thiếu xót và lỗi lầm của anh em mình. Chúng ta không đồng tình với tỗi nhưng chúng ta cảm thông với những người tội lỗi. Chúng ta phải mừng khi một người anh chị em nào đó trong cộng đoàn chúng ta đã phạm tội nhưng nay trở về. Hay một người nào còn sống trong tình trạng tội lỗi, chúng ta cần phải cầu nguyện nhiều hơn nữa. Nhất là chúng ta cần cảm thông nâng đỡ để người ấy có cơ hội quay về, đặc biệt trong mùa chay này. Mỗi lần làm như thế, chúng ta đón nhận được lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa, đồng thời chúng ta cũng muốn thể hiện lòng nhân từ ấy cho tha nhân.
Hôm nay, chúng ta cần nhìn lại bản thân mình. Chúng ta là những người đang sống tốt, sống đạo đức nhưng bấy lâu nay chúng ta có thật sự yêu mến Thiên Chúa hết lòng và bác ái đối với tha nhân chưa? Hãy tỏ lòng biết ơn Chúa vì đã được tha thứ bằng cách ở lại trong tình yêu của Cha trên trời. Nếu chúng ta lỡ xa cách Chúa, hãy mau trở về với Ngài. Hãy cầu nguyện cho mình và cho anh chị em khám phá ra tình yêu Thiên Chúa như Phê rô bắt gặp tia mắt của Chúa Giêsu khi chúng ta sa ngã. Chính tình yêu của Chúa mới cứu được chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con nhận ra tình thương của Thiên Chúa và biết trở về với tình Cha. Đồng thời xin cho chúng con sống yêu thương tha nhân và đối xử với họ như anh em mình. Amen.
Ngay cả người không biết nhiều về Kinh thánh cũng biết dụ ngôn Đứa Con Hoang Đàng. Thuật ngữ "đứa con hoang đàng" là lối nói thông thường. Một lần kia khi tôi dự bữa tiệc của trường và về nhà trễ, thì thấy mẹ tôi đang đứng đợi. Khi tôi khoá cửa thì bà đứng phía sau tôi nói: "Đứa con hoang đàng đã về". Quý vị có hiểu ý tôi muốn nói là gì không? Dĩ nhiên, lối hiểu những câu chuyện kinh thánh như thế không phải luôn có lợi vì sự hiểu biết này có thể chỉ gợi lại cùng một câu trả lời mà chúng ta đã thực hiện khi lần trước chúng ta tiếp cận bản văn. "Có gì mới mẻ đâu?" đó là câu hỏi mà nhà giảng thuyết phải vật lộn với ngày Chúa nhật này khi chúng ta suy tư về dụ ngôn Đứa Con Hoang Đàng. Nếu Lời Chúa luôn là ổ bánh mì mới ra lò, thì mọi thứ sẽ mới.
Trước khi chúng ta nói tiếp về bánh mì, xin hãy cùng tìm hiểu bài đọc thứ nhất. Chúng ta tạm dừng lại ở hình thức của bánh mì và bắt đầu bằng hình thức khác. Trong sách Giôsuê chúng ta thấy dân Israel đang hoàn thành một hành trình gian khổ và lâu dài dưới sự dẫn dắt của Đức Chúa; họ ra khỏi Aicập và mất 40 năm trên hành trình sa mạc. Cuối cùng họ đã vượt qua sông Giođan và vào đất miền Đất Hứa. Họ đã rời khỏi vùng đất Aicập và có thể định cư ở vùng đất Canaan. Trong vùng đất mới này, họ đã ăn "Sản phẩm của đất". Thức ăn sẽ không còn hiếm như khi họ ở trong sa mạc phải nhờ vào Manna Thiên Chúa ban hàng ngày. Lúc này, đất sẽ sản sinh ra nhiều hơn số lương thực thừa sức họ cần.
Như thế cũng nguy hiểm phải không? Trong những lúc khó khăn họ đã phải học để tín thác rằng Thiên Chúa luôn gìn giữ và bao bọc họ. Đây là hành động của niềm tin hàng ngày vì mỗi ngày manna lại rơi xuống. Giờ đây, nơi miền đất Hứa, họ có thể tự lo được - hay gần như thế - trồng trọt, thu hoạch và chăn nuôi. Đây cũng là một mối đe doạ cho cả chúng ta nữa. Chẳng ai muốn rơi vào những thời điểm khó khăn, nhưng đối với người tin mà biết dựa vào Thiên Chúa mỗi ngày, thì những thời điểm khó khăn có thể dạy chúng ta tin. Trong những thời điểm yên bình, chúng ta có nguy cơ quên Thiên Chúa.
Cho dù dân có phạm bao lỗi lầm trong sa mạc, nhất là sự bất trung đối với Thiên Chúa và cám dỗ chạy đến với các thần linh khác, thì họ cũng sẽ được tha thứ. Như thánh vịnh nói: "Hãy nếm thử và hãy nhìn xem cho biết Chúa thiện hảo dường bao". Manna có thể ngừng rơi, nhưng Thiên Chúa vẫn đang cung cấp bánh tha thứ hàng ngày.
Dân Israel, như người con thứ trong dụ ngôn, lang thang trong sa mạc và lạc đường. Thiên Chúa đưa họ trở lại sau khi họ đã bất trung và Người phán: "Hôm nay, Ta đã cất khỏi các ngươi nỗi ô nhục của người Aicập". Cũng thế, trong dụ ngôn, chính người cha đã cứu con trai mình ra khỏi những lầm lạc của quá khứ. "Con ta đã mất và nay lại tìm thấy". Dân Israel dùng tiệc sau khi được Thiên Chúa thanh tẩy; Đứa Con Hoang Đàng vào dùng tiệc sau khi được cha ôm lấy vòng tay ấm áp cùng với những lời khích lệ yêu thương. Tiệc Thánh Thể hôm nay chúng ta được chào đón trở lại từ những lầm lạc và vào tham dự yến tiệc.
Bối cảnh dụ ngôn có thể giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa của nó. Dụ ngôn Đứa Con Hoang Đàng là một trong những lời đáp mà Đức Giêsu đưa ra cho những người phê bình. Những nhà thông luật và Pharisêu đã phàn nàn về việc Người giao du với phường tội lỗi. Vì vậy, Người trả lời bằng ba dụ ngôn về những thứ bị mất và tìm thấy. Tuy nhiên, chúng không lặp lại: hai dụ ngôn đầu diễn tả những thứ bị mất, khi tìm thấy, thì mang lại niềm vui to lớn - chiên lạc (15,1-7) và đồng bạc bị mất (8-10). Cả hai dụ ngôn này nối kết việc tìm thấy với sự hối cải: "Cũng thế, tôi bảo các ông, giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy cũng vui mừng vì một người tội lỗi hối cải" (15,10).
Dụ ngôn Đứa Con Hoang Đàng đưa chúng ta vào một gia đình dưới một áp lực. Đây là một gia đình khá giả và có "vấn đề". Hiếm có gia đình nào trong cộng đoàn tuần này không liên hệ một cái tên cụ thể cho một thành viên trong nhà, hay một người trong gia đình của bạn, với cái tên của một đứa con ương ngạnh trong dụ ngôn.
Ai cũng đã không từng nghe về một người cha giúp đỡ tài chính cho đứa con bướng bỉnh hoặc đang thiếu thốn, gây ra sự bất hoà giữa anh em với nhau, chúng đã thốt lên: "cha đang phung phí tài sản vào đứa con không tốt đó!" Cha mẹ sẽ quả quyết yêu thương con cái, nhưng nếu quí vị phải hỏi: "Cha thương đứa nào nhất" - câu trả lời nghe như là một phiên bản của dụ ngôn hôm nay, "Đứa con cần cha nhất".
Bầu khí trong dụ ngôn phức tạp ngay từ đầu, khi đứa con thứ xin phần tài sản. Một sự táo tợn! cứ như thể cậu ta không thể đợi cha mình chết hầu có thể được chia tài sản. Những ai nghe dụ ngôn này đều muốn ngắt lời để nói với người cha: "đừng ngốc thế! Chớ phí tài sản tay mình làm ra vào đứa con vô tích sự!"
Nhưng người cha này không chịu dừng lại, ông vẫn tiếp tục và chấp nhận rủi ro để cho tài sản và danh tiếng mình nơi đứa con vô trách nhiệm này. Thử hình dung xem những mối tương quan của người cha, gia đình và dân làng sẽ nói gì về lòng quảng đại liều lĩnh của ông. Điều gì sẽ xảy ra cho chỗ đứng của ông trong cộng đồng? Người cha đã chấp nhận sự rủi ro hơn cả số tiền cho đứa con.
Thiên Chúa có thể bị kết tội về sự liều lĩnh ngờ nghệch tương tự. Thiên Chúa quảng đại ban cho chúng ta một cơ hội lớn lao: niềm tin, tài năng, tha nhân và thế giới của chúng ta. Chúng ta có khuynh hướng bo bo cho mình, đến một "vùng xa xôi", bỏ quên việc tương quan với Thiên Chúa; tập trung nhiều hơn vào những gì chúng ta được trao ban và ít tỏ lòng biết ơn với Đấng trao ban; sử dụng và phung phí như thể tất cả những gì chúng ta nhận được là chỉ dành duy mình ta sử dụng.
"Trong suy tính của mình", đứa con quỷ quyệt tìm cách đổ đầy bụng nó và vì thế, một lần nữa, nó đến xin cha nó giúp đỡ. Quên đi mọi khái niệm chúng ta có thể biết về cách thức người cha nên dạy cho đứa con một hay hai bài học về hành vi liều lĩnh của nó trước khi cho nó trở về. Người cha gạt qua một bên tư cách là chủ gia đình của mình, để chạy ra đón đứa con về. Ông ngắt lời con mình trước khi nó nói xong những lời ăn năn được chuẩn bị trước.
Trong khi chúng ta có thể muốn nói với người cha một vài lời khuyên khôn ngoan về việc nuôi dạy con sao cho nên người, nhưng đây không phải là một bài học về việc nuôi dạy con cái. Đây là một dụ ngôn về kiểu tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa. Hai dụ ngôn đầu tiên trong ba dụ ngôn này là về sự sám hối, nhưng điểm nhấn trong dụ ngôn này thì không nhắm nhiều đến sự sám hối của người con. Không thể nói rằng đứa con hối tiếc vì đón nhận ích lợi của người cha, đúng hơn cậu ta "suy tính" - một sự mô tả hàm hồ.
Đây là một câu chuyện về ân sủng. Sự tha thứ không dựa trên hành động thống hối và sửa đổi của người con. Cậu ta cũng không phải xưng ra sự thống hối và những dự tính của mình cho sửa đổi bằng lời lẽ đúng đắn. Việc chào đón người con trở về với gia đình (được biểu tượng hoá bằng chiếc áo choàng tốt nhất... bằng chiếc nhẫn đeo trên tay và bằng đôi giày dưới chân") là vòng tay ấm áp và những lời của người cha. Ai được chào đón hay chào đón trở lại trong vương quốc Thiên Chúa? Việc quyết định theo những động lực của dụ ngôn này là ai cũng có quyền chạy đến và hy vọng được đón nhận.
Người anh cả không xuất hiện như một "con chiên lạc hay đồng bạc bị mất" - người em cũng không theo cách đó. Tuy nhiên, người anh cả cũng như người em thứ là một đứa con bị lạc. Anh ta lập luận như chúng ta: anh ta đã làm việc, không phá phách và ở nhà trong khi thằng em thì đi hoang. Anh ta giống như nhiều người trong chúng ta là người tốt. Thế nhưng, trong khi anh ta làm mọi việc được giao, thì anh ta lại không bao giờ hiểu rõ được sự độc đáo của cha mình. Anh ta hiểu sai thế giới anh đang sống: Anh ta đã làm việc, nhưng lại bỏ lỡ ân huệ dành cho mình là được sống trong nhà cha anh. "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con".
Những gì chúng ta có thể nói về người con cả là cách anh ta: gọi cách cha anh đón thằng em của mình về là xuẩn ngốc và sỉ nhục. Anh ta biết thằng em đã chẳng làm được gì cả, ngay cả lời xin lỗi cũng không có, vậy mà nó lại nhận được sự chào đón long trọng. Những gì người cha đối đãi với người con thứ, lúc này ông cũng trao cho cho người con cả uất ức trong cách thức khác biệt nhẹ nhàng. Ông cũng không loại bỏ anh ta vì sự bất kính, nhưng tái khẳng định mối tương quan bằng việc gọi anh ta "con à", nhắc nhớ rằng anh ta là thành viên của gia đình - "tất cả những gì của cha đều là của con".
Chúng ta cứ cho là người con thứ có cơ hội để trở về giữa gia đình mình. Chúng ta không biết cách người con này đáp lại chuyện ấy ra sao. Liệu nó sẽ lại "suy tính" và trở về nhà một lần nữa để dự tiệc và ăn mừng những ân huệ của đời nó? Chúng ta có như thế không?
Dụ ngôn này thích hợp nhất cho mùa Chay. Một số người chúng ta đã thực hiện "cuộc hành trình lớn" rời khỏi sự yêu thương bao bọc của Thiên Chúa. Một số khác thì cần mẫn và chú tâm những công việc của mình, nhưng có lẽ không xem trọng những gì chúng ta đang có. Nhưng dù sao đi nữa, cánh cửa luôn được mở ra cho chúng ta vào dự tiệc với Thiên Chúa. Chúng ta bước vào Thánh lễ để cử hành tình yêu ngờ ngệch và kỳ lạ của Thiên Chúa dành cho chúng ta - tất cả chúng ta - dù là lúc này chúng ta đang trở lại, hay chúng ta đang hiện diện ở đây, nhưng miễn là chúng ta ở trong "ngôi nhà của sự biết ơn" (Câu thơ của Mary Oliver ám chỉ điều này: "chốn ta muốn về").
Đại Lễ Vượt Qua đã đến gần và niềm vui của ngày Đại Lễ ấy sắp đến. Tâm trạng của chúng ta như thế nào trong trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe. Trang Tin mừng này hết sức quen thuộc, hết sức gần gụi với mỗi người chúng ta. Trang Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện hết sức đời thường trong gia đình. Gia đình ấy được kể ra với hình ảnh của người cha và hai người con, không hề nhắc đến người mẹ và mỗi người chúng ta được mời gọi vào vai của cả ba người. Ta có thể là người cha giàu lòng thương xót bao dung, ta có thể là người con út ngỗ nghịch và ta cũng có thể là người anh cả trong gia đình ấy.
Như dân Do Thái ngày xưa trong cái hành trình vượt qua sa mạc để về Đất Hứa, cũng đã đôi lần ta ngỗ nghịch như người con út, ta ganh tỵ như người con cả và ta cũng bao dung như một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Qua hồi tâm, qua hối hận, qua ăn năn, qua thanh luyện, qua tái tạo, qua tha thứ, qua cử chỉ làm hoà với Chúa, với anh chị em đồng loại ta sẽ được trở thành con người mới tốt hơn như lòng Chúa mong muốn.
Làm hoà với anh em chính là bước đầu tiên để có thể đến hòa giải với Thiên Chúa. Trong mỗi Thánh Lễ chúng ta cử hành, trước khi để tiến dân Thánh Lễ cho xứng đáng, chúng ta xin ơn tha thứ của Chúa, của anh chị em đồng loại.
Trong các từ ngữ chỉ đức tin Kitô giáo, thì ngôn từ tha thứ, làm hoà đóng một vị trí hết sức quan trọng. Không phải tình cờ mà nó nằm trong kinh Lạy Cha nhưng nó có ý giúp con người chạy đến với Thiên Chúa là Cha nhân lành tha thứ cho mình những yếu đuối của phận người. Điều quan trọng để đón nhận ơn tha thứ, ơn làm hoà với Thiên Chúa là con người phải biết tha thứ, làm hoà với anh chị em đồng loại đã xúc phạm đến mình.
Con chiên lạc, người con đi hoang, người phụ nữ ngoại tình, Dakêu trên cây sung, người bại liệt được ròng xuống từ trên mái nhà. .. Chúa Giêsu đã gặp tất cả nhưng người này. Họ là những người tội lỗi, lầm lạc, hư mất. Nhưng, Thiên Chúa tha thứ cho họ trong Chúa Giêsu mà không cần một điều kiện tiên quyết nào. Người không đòi hỏi gì. Chúa Giêsu không bảo: "Làm cái này rồi tôi tha thứ cho". Không ? Người tha thứ rồi mới nói: "Hãy về và đừng phạm tội nữa ".
Người ta có thể chất vấn: tại sao tha thứ lại là một điều thần thiêng như vậy? Tại sao tha thứ lại đưa người ta đến gần Thiên Chúa thế?
Câu trả lời có lẽ nằm trong chính từ ngữ: tha thứ vì tha thứ là một ân huệ ở trên cao, siêu việt.
Ơn huệ thứ nhất ta được là hiện hữu của ta như một tạo vật. May mắn là chúng ta vẫn là vậy. Nhưng cách cư xử, phong tục, lỗi lầm của chúng la có thể phá hủy ơn huệ đầu tiên này nơi ta, làm chúng ta bị "tha hóa "
Chính lúc đó ơn tha thứ đến, một loại ơn tái tạo. Chúng ta đã chết mà nay sống lại. Chúng ta không còn phải chịu đựng lẫn nhau nữ, chúng ta lại chấp nhận lẫn nhau và lại thương yêu nhau. Đó là một cuộc tái sinh, một sự Phục Sinh, một bước dẫn vào đời sống mới.
Thật tối đẹp nếu như chúng ta được tha thứ. Tuy nhiên, thẳng thắn mà nói, liệu chính chúng ta có thể tha thứ được không? Tha thứ đây không phải là quên, cũng không phải là chối bỏ những xác tín của chúng ta, mà là tìm đến với kẻ xúc phạm ta. Và không cần để mất một chút gì về chân lý, hoặc về lương tri phân biệt tốt xấu, để nói với kẻ phạm lỗi: bạn là anh, là chị tôi. Và có thể thêm một lời phi thường này: chính bạn hãy tha cho tôi, vì bạn đã không xúc phạm đến tôi nếu trước đó tôi đã không xúc phạm đến bạn.
Trang tin mừng hôm nay hết sức hấp dẫn, dụ ngôn hôm nay chúng ta nghe không phải là lần đầu mà nghe đi nghe lại quá nhiều lần. Dụ ngôn về người cha và hai người con vẫn để ngỏ! không ai xác định được câu chuyện sẽ kết thúc thế nào.
Chúng ta bắt đầu vào vai. Cả hai người con cùng hiện diện trong ta. Chúng ta có thể nhận ra mình trong những ảo tưởng của họ. Cả hai cùng hiểu lầm về bản chất của mối tương quan giữa họ với cha và không biết tình yêu của cha mình. Hãy theo dõi tâm tính của người con khi trở về. Anh đã sống lại nhờ người cha hân hoan loan báo sự tha thứ. Nhưng cũng có thể chúng ta cũng là người anh, xơ cứng trong kiêu căng vì đã trung thành với cha. Anh sẽ cải mở là chọn một chỗ ngồi trong bàn tiệc tập thể vì những kẻ mời đến, những kẻ từ xa trở về. Còn đối với chúng ta, ai sẽ là "những người khác" mà cộng đoàn chúng ta phải mở rộng cửa đón tiếp ?
Khuôn mặt của người con thứ khá cường điệu được vẽ nên trong cảnh một của dụ ngôn này. Anh ta đòi cha chia gia tài ngay khi cha anh còn sống để anh ta được sống tự do hoàn toàn. Với cuộc sống buông thả và phóng đãng thì chẳng chóng thì chầy, tiền núi cũng phải hết. Tiền hết thì anh ta rơi vào tình cảnh hết sức bi đát. Chẳng đặng đừng nên anh ta phải làm công cho một người ngoại giáo ở đất khách quê người, và miễn cưỡng phải "chăn heo " cho chủ - đối với một người Do Thái, đây là công việc hèn hạ - vì heo là một con vật dơ nhớp đối với Do thái giáo. Bị dằn vặt bởi ý nghĩ: ở nhà cha thì đồ ăn dư thừa, người làm công ăn không hết, thế mà ở đây anh đói khát, chỉ mong được "tống đầy bụng những thứ heo ăn" mà không được.
Anh đã ân hận, sau khi suy nghĩ hết sức cẩn thận anh quyết định trở về nhà sau khi cảm thấu được sự đói khát, thiếu thốn. Để chuẩn bị cho cuộc trở về, anh ta đã vẽ lên trong đầu anh ta những lời thống thiết nhất để xoa dịu cơn giận của người cha: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đón trời và đến cha, con thật không xứng đáng được gọi là con cha nữa. Hãy coi con như một người làm công trong nhà thôi". Khác với những gì anh nghĩ trong đầu, khi trở về, chưa kịp thốt lên một lời, người cha đã giang rộng vòng tay xiết chặt lấy anh. Cho tới bây giờ, anh chưa một lần nghi ngờ tình yêu vô bờ bến của cha anh. Con tim anh rộn ràng những nhịp đập thổn thức. Không phải đứa làm thuê ? Con ta chứ! Hãy mặc áo đẹp ngày đại lễ. Đeo nhẫn vào tay, biểu hiệu quyền uy. Xỏ giầy vào chân, biểu hiệu người tự do. Hãy ngồi vào bàn tiệc. Mọi thành phần gia đình đang quây quần bên bàn ăn cùng chia sẻ niềm vui của người cha.
Chúng ta chuyển sang vai diển của người anh. Đại tiệc đang diễn tiếng thì người anh "từ ngoài đồng" về đến nhà. Nghe trong nhà có nhạc vui, anh hỏi xem có chuyện gì? Hiểu ra, tâm trạng anh chuyển từ ngạc nhiên sang "giận dữ". Lại có thể cư xử như vậy với thằng con hư đốn ư? Như phản ánh thái độ của các kinh sư và những người Pharisêu luôn chỉ nghĩ đến phụng sự Chúa không sai một lời, nên, anh cằn nhằn với cha mình: "Đã bao năm con phụng dưỡng cha, không bao giờ bất tuân hay trái lệnh, mà chẳng bao giờ cha cho con một con dê để vui với bạn bè". Để ở lại nhà cha, anh đã cư xử thật không khác một người làm công, cần mẫn, nhưng vô tình, xa lạ. Anh không thể hiểu được ngôn ngữ của Giao ước mà cha anh nói với anh: "Con ơi! Con luôn ở bên cha, mọi sự của cha là của con mà". Anh chỉ nói bằng ngôn ngữ của quyền lợi và nghĩa vụ, của mệnh lệnh và phần thưởng. Như các kinh sư và những người Pharisêu đối với tội nhân, anh cũng giữ khoảng cách với đứa em mới trở về mà mọi người đang ăn mừng. "Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo để ăn mừng".
Nếu chỉ để tâm coi hình ảnh của hai đứa con mà không nhìn đến hình ảnh người bố trong nhà này quả là điều thiếu sót thật lớn. Chúng ta bước sang một bên để nhìn đến chân dung người cha. Người Cha trong dụ ngôn này chính là nhân vật trung tâm, nhân vật chính. Ông là một người cha sống nặng tình cảm hơn lý trí, ông là một người cha mà tình yêu luôn thôi thúc ông hướng về các con. Ông không chỉ ngồi chờ. Phải "chạy ra" coi, và ông phải chạy ra đến hai lần. Ông chạy ra. hấp tấp, một thái độ đặc biệt đối với người Đông phương. Ôm lấy cổ đứa con hoang đàng. Hôn nó tới tấp Nâng nó lên, ngắt quãng những lởi nó định nói, đưa nó vào nhà. Nhà của nó mà. "Mau lên!" ông nói với các đầy tớ không chần chừ một giây. Phải mặc cho cậu chiếc áo đẹp nhất đúng với cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay cậu, mang giầy vào chân cậu. Giết bê béo. Dọn tiệc ăn mừng. "Mau lên!" vì một niềm vui đang trào ngập lòng ông: "Con ta đây đã chết nay sống lại đã mất nay lại tìm thấy". Ông lại chạy ra để nài người anh vào nhà, để người anh nhìn nhận đứa em mà anh ta đã miệt thị, để dự tiệc chung vui với mọi người.
Dụ ngôn người con hoang đàng mà chúng ta vừa nghe mang đậm chất thần học. Dụ ngôn của ân huệ Chúa ban tặng con người. Dụ ngôn này diễn tả tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, tình yêu nhưng không không Cha ban cho mọi người, dầu tội lỗi mấy đi nữa. Cha muốn họ tham dự niềm vui, muốn mời họ khám phá ra: anh huynh đệ chân chính. Làm sao không nhìn ra qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn trao cho chúng ta bí mật trong cách cư xử và đời sống của Ngài ? Ngài là Người Con được Cha sai đến loan báo sự hòa giải cho các tội nhân. Đó là những người mà Chúa Giêsu khắc họa hình ảnh nơi người em và đó cũng là những người được mời gọi nhận ra chính mình nơi hình, ảnh của người anh !
Thật ra, dụ ngôn còn để ngỏ đó. người anh cả có thuận theo lời khuyên dụ của cha anh không? Anh có bằng lòng vào chung vui không? Anh có ưng thuận chung bàn với người em đã trở nên "dơ" không? Hay anh vẫn giận dữ... Tường thuật của Tin Mừng không trả lời... Có lẽ mục đích của Tin Mừng là để chúng ta tự phác họa cách chúng ta sẽ đối xử với anh em mình.
Chúng ta hãy đặt mình vào vị trí của người anh: chính tôi sẽ ưng thuận lời thỉnh cầu của người cha hay không. Thuận thì không dễ đâu, có khi khổ nữa. Dụ ngôn cho thật sự đáp ứng ý cha không tự đến cách dễ dãi. kết thúc của dụ ngôn đặt chúng ta vào vị thế người anh. Phụng vụ Mùa Chay như chẳng hoan hỉ đặt chúng ta vào vị thế này mà trái lại, như muốn chúng ta thấy mình trong tâm trạng người em. Thánh Luca thì chắc chắn nhấn mạnh hơn đến thái độ người anh. Dẫu sao, qua suốt câu chuyện, chúng ta vẫn thấy nổi bật lên tình yêu là lòng cảm thương của người cha đối với từng người. Chính nhờ tình thương này mà tội nhân hối cải, là chúng ta vui vì họ trở về dù đôi khi rất khó mà vui được."
Thánh Phaolô vừa nhắc nhở chúng ta: "Cho nên, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Ki-tô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải. Thật vậy, trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải. Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Ki-tô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Ki-tô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người."
Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, chậm bất bình và đầy tình thương, chúng ta hãy chạy đến với Ngài như đứa con thứ ngày hôm nay trong Tin mừng để xin Cha tha thứ, xin Cha bỏ qua những lầm lỗi của ta trót phạm đến Cha và chúng ta cũng xin cũng hãy bớt đi một chút sự xét đoán, hơn thua của người anh để tha thứ cho những đứa em ngỗ nghịch trong đời ta. Chúng ta hãy chạy đến Chúa, chạy đến và xin Chúa tha thứ tất cả để ta được làm hoà cùng Chúa và anh chị em đồng loại.
Ôi Thần Linh Thánh Ái, xin mở rộng lòng con, xin thương ban xuống những ai lòng đầy thiện chí: Ơn An Bình. Xin Chúa thương tha thứ những lầm lỗi ta đã xúc phạm đến Chúa cũng như anh chị em để chúng ta có được sự bình an thật trong tâm hồn để chờ đón ngày Chúa lại đến trong Vinh Quang của Ngài.
Tin mừng Luca chương 15 là 3 dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa: dụ ngôn về con chiên lạc trong số một trăm con chiên (1/100); dụ ngôn về đồng bạc bị đánh mất (1/10) và dụ ngôn "người con hoang đàng" (1/2). Tin mừng chúa nhật thứ tư mùa Chay năm C là dụ ngôn thứ ba này. Đây thực là "một tin mừng (nhỏ) trong một Tin mừng (lớn)". Thực ra, gọi là dụ ngôn "người con hoang đàng" thì không đúng lắm, có lẽ gọi là "Người Cha Hoang Phí" thì đúng hơn, bởi lẽ người cha đã hoang phí tình yêu của mình cho các con của ông. Dung mạo người cha mới là điểm chính yếu. Người cha đã đồng ý chia gia tài cho người con thứ (đây là điều không hợp luật), vì theo quan niệm Trung Đông, người con không có quyền đòi chia gia tài khi người cha vẫn còn khỏe mạnh. Người cha chính là hình ảnh của Thiên Chúa, một vị Thiên Chúa "hoang phí" tình yêu cho nhân loại, dù Người biết nhân loại vẫn tội lỗi, ích kỷ, muốn sống độc lập với Người, thậm chí muốn loại trừ Người. Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của nhân loại.
Tình yêu của người cha đã đón nhận người con thứ trở về sau những ngày ăn chơi phung phí. Tình yêu của người cha đã mời người con trưởng chung vui vì người em trở về. Thiên Chúa cũng vậy: qua Đức Giêsu, Người vui mừng đón nhận những tội nhân thống hối và mời gọi tất cả mọi người cùng vui mừng và chia sẻ với Người.
Người con thứ xin Cha chia gia tài để trẩy đi phương xa. Người Cha sẵn sàng chia gia tài. Cha hắn để cho hắn tự do, không cấm cản gì. Hắn không vi phạm một điều luật nào hết. Thực ra, hắn tưởng mình có thể định đoạt tất cả. Hắn ra đi không phải vì ý muốn sa đọa thúc đẩy đâu, nhưng vì khao khát sống mạnh, sống ngoài vòng kiểm soát của Cha, vì háo hức khao khát kinh nghiệm, vì muốn biết cái mới lạ, nhưng lại không có bản lãnh, hung hăng quá trớn, thiếu ý chí. Khi ra đi là hắn xúc phạm đến cha. Mối giây ràng buộc với cha lớn gấp nhiều lần mối giây ràng buộc với lề luật.
Sau những ngày ăn chơi phung phá, hắn trắng tay. Hắn cảm thấy trống vắng, thiếu thốn tất cả. Hắn quyết định trở vê nhà Cha. Khi quyết định như thế,hắn đã nhận ra chính mình, giới hạn của mình. Chân lý bắt đầu khi con người nhận ra chính mình. Hắn hạnh phúc vì đã dám thú nhận: thưa cha, con đã xúc phạm đến trời và đến Cha. Hắn hạnh phúc vì đã dám tin vào tấm lòng của cha, sự tha thứ của cha. Hắn hạnh phúc vì đã trở về. Không phải vô lý đâu, khi Đức Giêsu đã có lần nói: Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước trời trước hết. Thế nhưng, không thiếu những người tưởng rằng mình thánh thiện, ngoan đạo, tự cấp cho mình quyền đòi hỏi bất cứ gì. Và cũng không thiếu những người tự hài lòng với việc chu toàn đầy đủ lề luật. Đó là hình ảnh của người anh cả. Người anh cả tưởng mình là người công chính, vì chu toàn hết mọi lề luật. Điều cần có anh đã không có, đó là tấm lòng thông cảm, chia sẻ, nhất là chia sẻ những tội lỗi, những giới hạn của người khác. Anh là hình ảnh của những kẻ tự cho mình quyền xét đoán người khác".
Đức Giêsu chính là người cha đó. Người không màng chi đến quá khứ của người tội lỗi. Tình cha còn lớn hơn quá khứ đó, còn lớn hơn sự hối hận, dày vò của người con. Thiên Chúa tha thứ tất cả.Chúng ta là người con cả hay người con thứ trong bài Tin Mừng hôm nay ?
Lạy Chúa,
Con xin dâng Ngài, lời thú tội của đứa con hoang:
Trước mặt Chúa, con đã phạm tội,
con đã hoang phí kho tàng ân sủng Chúa trao cho con,
xin nhận lòng sám hối của con.
Lạy đấng Cứu thế, xin cứu chuộc con.
Như người con bỏ nhà đi hoang, lạy Chúa,
con nay trở về sau khi đã phí phạm đời con,
lòng xa cách Chúa.
Lạy Cha, con đã hoang phí của cải Chúa ban cho con. Xin nhận lòng sám hối của con và xót thương con. Con đã thẳng tay phung phí tài sản của Cha, con sống cô đơn, cùng cực trên mảnh đất của những người trụy lạc. Lòng con hối hận, con xin trở về với Cha, lạy Cha nhân ái, xin nghe lời con van nài: "Thưa Cha, con thật đắc tội với Trời và với Cha, con chẳng đáng là gọi là con Cha nữa, xin coi con như một người làm công cho Cha vậy, và xin thương xót con".
Tôi vẫn thường thấy tội lỗi của người khác một cách dễ dàng hơn là nhìn thấy tội lỗi của tôi. Tôi vẫn thường đóng vai quan tòa để kết án người khác theo như tội trạng của họ. Tôi vẫn nghĩ rằng người khác tội lỗi hơn tôi- hoặc nghĩ là tôi thánh thiện-và tôi loại trừ họ, không giao du, không tiếp xúc với họ. Tôi vẫn đấm ngực người khác, trước khi đấm ngực tôi: "lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại người ta một phần". Như có một lần, tôi đến thăm một Linh Mục, bạn cùng lớp tôi, hỏi thăm về Giáo xứ, Ngài nói: "Ở đây mình ngán nhất là việc giải tội, vì họ xưng tội của người khác nhiều hơn xưng tội của chính mình"...Não trạng của những Biệt phái, những người Phariseu, thời Chúa Giêsu, vẫn còn hiện thực trong tim óc và cách sống của tôi, tín hữu thời nay. Và còn hơn thế nữa, những cảm thức về tội của thời nay còn biến thay muôn hình vạn trạng:
- Không thấy mình có tội hoặc tự tha tội cho mình tự chước giảm mức nặng của tội.
- Tội phong trào: người ta phạm được mình phạm được
- Sự cần thiết của Bí tích Hòa Giải để trở về với Thiên Chúa cũng giảm nhẹ, nếu không nói là không còn, đối với một số người.
Thì ra, ở đâu và thời nào, sức bành trướng của thế lực thù nghịch Thiên Chúa luôn lôi kéo con người ra chỗ càng xa Thiên Chúa càng tốt- như các người biệt phái xưa, thấy những người thu thuế, tội lỗi tìm đến Chúa Giêsu, và Chúa Giêsu tiếp đón họ ân cần, thì lòng họ khinh bỉ luôn cả Chúa Giêsu là không có tư cách cứu thế.
LÒNG NHÂN TỪ CỦA CHÚA
Chúa Giêsu đưa ra một loạt ba ví dụ về lòng nhân từ của Thiên Chúa(Lc 15): Con chiên lạc, đồng bạc đánh mất, và nhất là ví dụ về tình phụ tử trong Tin Mừng hôm nay-nhằm nói với họ rằng: Chúa Giêsu đến với người tội lỗi, cứu người biết mình tội lỗi có ý hướng quay về.
Suy gẩm ví dụ "Tình Phụ Tử" cho tôi thấy trong ấy hàm chứa nhiều thông điệp quan trọng với đời sống tín hữu của tôi:
- Thiên Chúa để cho con người tự do dùng các ơn của Chúa: người con thứ đòi chia gia tài, người Cha tôn trọng và đáp ứng yêu cầu của con
- Lòng Cha yêu con, buồn phiền, không yên lòng, khi con rời xa Cha, luôn mong con trở về với mái ấm tình thương gia đình
- Sự sám hối chân thành của người con thứ: nhận ra mình đã lỗi phạm đến tình thương của Cha, quyết tâm đứng lên, mạnh dạn trở về thú tội và xây dựng một tương quan mới: tương quan của một lòng yêu thật.
- Cử chỉ, thái độ và kế hoạch đón tiếp của Cha, đầy tình thương yêu, cảm thông và tha thứ.
- Không nên có thái độ của người con cả với những ý niệm sai lầm về tương quan Cha Con, như tương quan của chủ tớ, sống trong tình thương của Cha, mà không nhận ra tình thương ấy.
BÍ TÍCH HÒA GIẢI
Một phần suy niệm các thông điệp, tôi muốn dùng Lời Chúa hôm nay, "Tình Phụ tử", liên hệ đến đời sống Bí Tích Hòa Giải
Điều đáng vui mừng là ở khắp các Giáo xứ tại Việt Nam, việc ban và lãnh nhận Bí tích Hòa giải vẫn còn đang sinh động lắm. Nhưng điều đáng nói là: cần bổ sung vào việc đạo đức ấy một tâm tình thánh thiện chân thành của người con hoang đàng như trong ví dụ "Tình Phụ Tử".
- Cảm thấy xấu hổ vì tội: làm cho mất nhân phẩm tự nhiên và nhất là mất nhân phẩm Ki tô hữu, "con cái Thiên Chúa". Cảm nghiệm được sự bất hạnh khi sống trong tình trạng xa cách Thiên Chúa và nhất là "giác ngộ" được chân lý "sẽ phải chết đời đời"
- Cảm thấy đói: không chỉ giữ luật xưng tội một năm ít là một lần, nhưng phải có tâm tình "cảm thấy đói". Ấy là "Đói" Chúa Giêsu Thánh Thể, khao khát được kết hợp lại với Chúa Giêsu và Thiên Chúa qua việc rước lễ, để được "sống lại và sống đời đời" trong tình thương yêu của Chúa.
- Quyết tâm trở về: "Tôi sẽ đứng lên sẽ trở về cùng Cha..." đồng nghĩa với việc quyết tâm chừa tội và mạnh dạn tìm đến Bí tích Hòa giải cách sớm nhất.
-Thú tội: "Thưa Cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến Cha..": xưng thú tất cả các tội đã phạm với lòng tin tưởng vào lòng Chúa nhân hậu luôn sẵn sàng tha thứ; chân thành nhận hoàn toàn sự sai trái thuộc về mình, do sự lạm dụng tự do của mình, không đổ thừa đổ lỗi cho ai, cho hoàn cảnh...
- Dự tiệc: dự tiệc Thánh Thể với tâm tình Tạ Ơn lòng Chúa nhân hậu.
Tưởng cũng nên nhắc lại đây, một vài vấn nạn thường gặp của tôi, của các tín hữu khi đề cập đến Bí tích Hòa Giải.
- Không xét mình hằng ngày, dần dần mất cảm thức về tội, mất lòng thống hối
- Không thường xuyên tham dự Thánh Lễ, mất lòng khao khát kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể, do đó, việc xưng tội trở nên không cần thiết.
- Không tin tưởng đủ vào lòng Chúa thương xót, mất niềm trông cậy
- Các Linh Mục, thừa tác viên Bí tích giải tội, trung gian của ơn thứ tha hòa giải, đóng một vai trò quan trọng vô cùng trong việc trở về của các hối nhân. Các tín hữu vẫn mong thấy được lòng nhân từ của "Chúa thương xót" thể hiện nơi cách tiếp đón và thi hành mục vụ Bí tích cách nhân bản, tế nhị và đạo đức nhất.
Vì những vấn nạn trên, nên đã hình thành những tâm trạng như: có tội xét mình dễ, có tội khó; có tội dễ xưng, có tội khó nói; có tội xưng dễ, chừa khó; có Cha ngồi tòa đông hối nhân tìm đến, có Cha chẳng có ai; có việc đền tội làm được, có việc không...
TÌNH YÊU
Không phải mười điều răn Đức Chúa Trời và sáu luật điều Hội Thánh dạy cho tôi có cảm thức về tội, nhưng chính "lòng yêu" của tôi, lòng biết ơn của tôi dành cho Thiên Chúa, như dành cho "người Cha nhân hậu" mới cho tôi nhận ra tôi đã xúc phạm tới Thiên Chúa và tha nhân đến mức nào. Chính vì 'hiểu được Cha tôi ở nhà thương tôi, lo cho tôi từng bữa cơm, từng tấm áo, từng giấc ngủ'; nên tôi mới nhận ra sự bất hạnh của tôi khi phải sống xa Cha, sống bụi bờ, đói khát và mất nhân phẩm; và tôi quyết tâm trở về vì tôi yêu Cha tôi.
Phàm ai trên đời cũng có tội, tôi cũng không ngoại lệ. Tội, không chỉ dựa theo mười điều răn Đức Chúa Trời và sáu luật điều Hội Thánh-mà còn là Tội: mỗi khi tôi đặt "lòng yêu" của tôi trọn vẹn vào một thực tại hư hèn, hoặc một thực tại không phải là Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con lòng yêu mến Chúa nồng nàn, để con kịp nhận ra những gì là không phù hợp với Thánh Ý và Tình Yêu Chúa; để con kịp nói với Chúa lời xin lỗi vì những xúc phạm, để con kịp tìm đến Bí tích Hòa Giải mà trở về với Chúa, trong vòng tay ôm yêu thương của Chúa, Người Cha nhân hậu. A men
Cứ mỗi lần chia sẻ hay giảng giải về đoạn tin mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay C (Lc 15,1-3;11-32) tôi thường bị cám dỗ phân tích tỉ mỉ từng chi tiết hình ảnh người con thứ, tạm gọi là đứa con hoang đàng. Phân tích tỉ mỉ theo kiểu chú giải Thánh Kinh cũng có, theo cái nhìn tu đức cũng có, rồi sau đó áp dụng cho hoàn cảnh hiện nay. Và không thể bỏ qua, nói đúng hơn là luôn nhấn mạnh đến hình ảnh người cha nhân hậu. Còn hình ảnh người con cả, tuy có phân tích, nhưng chỉ như vai phụ.
Khi người con thứ xin cha chia gia tài là lúc nó muốn cha nó chết quách cho rồi, vì theo luật bấy giờ người con chỉ được nhận gia tài khi cha đã qua đời. Nhiều người, đặc biệt kể từ thế kỷ Ánh sáng đến nay đã bị cám dỗ muốn "Thiên Chúa biến đi" để mình được tự do và thực sự là mình, mà nói theo ngôn ngữ triết học là để mình khỏi bị vong thân. "Con không cha như nhà không nóc". Một người con khi đã muốn giết cha thì bất cứ sự xấu xa nào cũng có thể làm. Ăn chơi đàn đúm là chuyện tất yếu kéo theo, nhiều khi chỉ là chuyện nhỏ. Hậu quả nhãn tiền của chuyện ác giả ác báo vẫn thường xảy ra đây đó. Sau thoáng lên mây thì xuống kiếp đọa đày là điều vẫn thường thấy. Mang kiếp đốn mạt, thua cả heo vốn là sự không thể tưởng theo quan niệm của người Do Thái lúc bấy giờ, thế mà đó là thực trạng của đứa con bất hiếu, hoang đàng. Quay đầu là bờ ư? Anh này chỉ biết nghỉ đến cái bụng mình thôi. Kẻ gian vốn thường làm ra vẻ ngoan. Môi dẻo, lưỡi cũng lắt léo với câu thú tội đã nhẩm đi nhẩm lại để khỏi vấp.
Bóng càng đen thì ảnh càng rực sáng. Không ngại ngần ẩn mình hay chết đi, không chỉ với đứa kêu xin, mà với cả đứa còn lại. Người cha đã chia gia tài cho cả hai. Có nhiều kiểu nói không thành lời nhưng luôn đầy ý. Người con cả tuy ở trong nhà, nhưng anh ta không thực sống phận con thì người cha vẫn không tồn tại trong tâm khảm của anh. Dù con không nhìn hay chẳng nhận thì cha vẫn mãi là cha: "mọi sự của cha cũng là của con." Từng ngày, từng giờ, ông còn mỏi mòn ngóng trông đứa con xa nhà. Ô kìa nó đây! Ông vội chạy đến ôm con hôn lấy hôn để, bất kể mùi uế tạp lẫn bụi đường khắp cả mình con. Không cần nghe trọn lời xưng thú, cũng chẳng cần tra khảo thứ loại tội hay số lần nó đã phạm: Phạm tội gì? Phạm ra sao? Phạm mấy lần?..."Mau đem áo đẹp ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào tay cậu, xỏ giày vào chân cậu!" Tình yêu cha đủ làm con sạch hơn mọi thứ nước của trần gian. ông lại còn sai bắt con bê đã vỗ béo để mở tiệc ăn mừng. Quả là một sự chuẩn bị trong niềm hy vọng sắt son. Tình yêu là thế: Không bao giờ chịu bó tay vì chẳng hề thất vọng bao giờ.
Không cần biết lý do, cũng chẳng cần xem xét quá khứ của nó, chỉ biết là nó đang ở đây, nghĩa là con ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Từ câu chuyện kể đến cảnh hiện thực trên đồi sọ năm xưa: "Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ ở với tôi trên Thiên Đàng" (Lc 26-3,43).
Hỏng! Hỏng hết Chúa ơi! Thương yêu kiểu này thật là vô lý. Chỉ tổ vẽ đường cho hươu chạy hay bắc cầu cho chuột leo mà thôi. Xin đừng làm cớ cho người ta ỉ lại! Thế là hỏng, hỏng hết! Chúa yêu thương kiểu này thì người ta tha hồ ăn chơi sa đọa mà chỉ cần một chút sám hối là dư lời cả Nước Trời. Lại có người chẳng cần đến các bí tích, lễ lạc, chẳng cần vào tòa xưng thú tội lỗi, chắc họ sẽ theo anh em Tin lành mất thôi. Dứt khoát không thể được. Xin Chúa hãy mau sửa lại câu chuyện này, kẻo nhân loại hư hết, hỏng hết mà thôi.
Dù trời đất có qua đi, nhưng lời của Chúa sẽ không hề thay đổi (x.Mt 5,18). Có thể chúng ta đã lầm. Chuyện kể của Chúa Giêsu sở dĩ có ra là vì nhiều người biệt phái và luật sĩ năm xưa đã thấy khó chịu, khi nhiều người thu thuế và tội lỗi năng lui tới với Người. Họ đã lẩm bẩm, xầm xì trong ganh tị và cả tức tối. Vì họ không chấp nhận những người ấy là huynh đệ của mình. Chính Chúa Giêsu đã từng minh định rằng Người đến không phải để kêu gọi người công chính nhưng là người tội lỗi. Thầy thuốc không cần cho người mạnh khỏe mà là tội nhân. Như thế chuyện Chúa Giêsu kể không cố ý nhấn mạnh đến người con thứ bỏ nhà ra đi, nhưng là người con cả đang ở trong nhà. Chính khi anh ta loại bỏ người em là lúc anh ta tự loại mình ra khỏi tình cha.
Tình Chúa mãi luôn bao la. Người muốn tất cả mọi người đều được hưởng ân tình của Người. Tình yêu thì không cần hội đủ điều kiện. Dù chỉ một cơ hội nhỏ nhoi thôi cũng đủ để cho tình yêu lên ngôi. Tình Chúa vượt quá mọi tình cha thế trần. Người chính là nguồn của mọi tình phụ tử. Là người cha thì lắm khi không cần con cái trực tiếp báo hiếu hay đáp đền công đức. Chỉ cần chúng nó yêu thương, đùm bọc lẫn nhau trong nghĩa tình huynh đệ. Thế là đã đủ.
Đọc Tin mừng chúng ta sẽ càng xác tín chân lý này. Chúa sẽ xử với chúng ta không theo những gì chúng ta đã làm cho Người mà theo những gì chúng ta đã làm cho nhau. Không xét đoán tha nhân thì Chúa sẽ không xét đoán chúng ta. Nếu ta tha thứ cho tha nhân thì Chúa sẽ thứ tha cho chúng ta. Khi ta làm một điều thiện bé nhỏ cho một trong những người bé mọn thì Thiên Chúa không chỉ lấy đấu đã dằn, đã lắc mà đong đổ sự thiện hảo cho chúng ta mà Người còn tặng ban hạnh phúc Nước Trời cho chúng ta (x.Lc 6,36-38; Mt 25,31-46)
Lạy Cha chúng con ở trên trời...Xin Cha tha nợ cho chúng con...(Mt 6,9-13) Chưa xin thì Chúa cũng đã ban ơn tha thứ, vì Chúa Kitô đã chết cho chúng ta khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch. Chưa xin thì Chúa cũng đã nhận chúng ta làm con, vì Người đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một...(Ga 3,16)
Chúa yêu thương, ban ơn tha thứ cho loài người chúng ta thật quá dễ dàng và nhiều khi ta lầm tưởng như là quá hoang phí. Quả đúng vậy. Dường như là một quy luật: Đã thương thì không hề tiếc, đã yêu thì chẳng bao giờ tính toán, so đo. Tuy nhiên để nhận được tình yêu, thì cần phải có điều kiện nào đó. Và cái điều kiện không thể thiếu để có thể đón nhận tình yêu của Cha trên trời, đó là chúng ta phải đón nhận nhau là anh chị em. Điều kiện nay xem ra không dễ. Nếu một ai đó, một người bé mọn hay một kẻ gian ác không có tí chỗ nào trong trái tim chúng ta, thì khi ấy mới thực sự là hỏng hết, hỏng hết.
Để có thể đặt những người không dễ thương mà lại còn đáng ghét vào một chỗ nhỏ trong trái tim chúng ta thì Thánh Lễ, các bí tích, việc cầu nguyện... luôn cần thiết, vì không có ơn Chúa chúng ta không thể làm được sự gì (x. Ga 15,5).
Dưới góc nhìn tình yêu thì người ta có thể nói rằng đoạn tin mừng của thánh sử Luca tường thuật câu chuyện kể của Chúa Giêsu về "người con hoang đàng" là đỉnh cao của chữ tình. Người ta còn nói rằng nếu chọn một chương tiêu biểu trong tin mừng thánh sử Luca thì chương 15 phải được ưu tiên. Và trong chương ấy nếu chọn một vài câu thì bài trích Tin Mừng trong Chúa Nhật IV mùa Chay C đáng phải được chọn làm tiêu biểu.
Nói về chữ tình thì cái tựa đề cũ "người con hoang đàng" hay "đứa con phung phá" không thể lột tả hết. Hẳn nhiên điều này được minh chứng qua động cơ trở về của anh ta là chỉ muốn được no cái bụng. Ngày nay người ta đổi tựa đề câu chuyện kể của Chúa Cứu Thế thành "người cha nhân hậu". Theo thiển ý cái tựa đề này diễn tả nội dung câu chuyện khá hoàn hảo. Tuy nhiên xin được mạo muội góp một cái nhìn khi thêm một tựa đề đó là "tình cha hậu hỉ".
Hai từ hậu hỉ gợi mở cho chúng ta cảm nhận sự dư tràn vượt quá mong ước. Quả thật câu chuyện kể của Chúa Giêsu đã khiến người đương thời và cả chúng ta hôm nay chưng hững vì nhiều điều. "Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: "Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng". Và người cha đã chia của cải cho hai con". Theo luật bấy giờ, người con chỉ được nhận gia tài khi cha đã khuất. Đang sống sờ sờ thế mà một đứa con muốn mình như đã chết. Không sao. Đã khuất trước một đứa con thì sẵn sàng khuất bóng trước cả đứa còn lại. Nước từ trên chảy xuống. Miễn sao con cái được sống thì sự sống của mình vẫn tồn tại. Đã có đó nhiều người cha, người mẹ thanh thản nhắm mắt lìa đời khi thấy con cái đã thành gia thất.
Dù khuất bóng nhưng lòng người cha vẫn mãi dõi theo bước chân con cái mình. Đứa con như vô đạo, bất hiếu có ngờ đâu cha anh vẫn ngóng trông anh từng giờ, từng ngày, trong khi anh đang mãi mê ăn chơi sa đọa. Cái gì đến rồi sẽ đến. Chuyện gieo gió, gặt bão là lẽ như tất nhiên. Lá rụng về cội là điều thường có. Trong thân phận của kẻ hèn kém hơn cả loài heo, người con đi hoang mới chợt bừng tỉnh. "Biết bao người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha..." Chẳng biết anh ta có chút tình nào với người cha già, nhưng sự vị kỷ là có đó: về với cha chỉ vì miếng ăn, chỉ vì cái bụng. Kẻ gian thường tỏ vẻ ngoan. Để che giấu sự vị kỷ của mình, người con hoang đàng đã nhẩm đi nhẩm lại cho thuộc lòng câu thưa thoặt nghe dễ mủi lòng: "Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy".
Không sao cả, miễn là con ta đi xa nay trở về, đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Dù là tấm thân gầy gò đầy bụi bẩn, lẫn mùi phân hôi của loài nhơ uế, nhưng chính là con của ta. Người cha đã vội chạy đến ôm cổ đứa con, hôn lấy hôn để. Vòng tay âu yếm, những nụ hôn yêu thương đã xóa đi mọi cách ngăn sạch nhơ, sang hèn. Có nhiều điều dường như là không thể với khả năng con người, nhưng đều là có thể khi tình yêu hiện diện. Tình yêu mạnh hơn cả sự chết!
Chẳng đợi con dứt câu xưng thú, chẳng cần biết quá khứ của con như thế nào, hôm nay, giờ này, con hiện diện ở đây là đủ. "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng". Tình người cha, một mối tình bao la đủ làm cho người con nên thanh sạch hơn mọi thứ nước tự nhiên. Cái tình ấy đã được chuẩn bị từ lâu qua con chiên được vỗ béo mà hẳn các gia nhân vốn thừa hiểu.
"Con ta đây đã chết mà nay sống lại." Có con rồi mới có cha. Có cháu rồi mới có ông, có bà. Sự sống chết của người cha như lệ thuộc vào sự sống chết của đứa con. Đến đây chúng ta mới hiểu sự sâu xa lời của một giáo phụ: "Vinh quang của Thiên Chúa là sự sống của con người". Thế gian này là chi? loài người là gì? Thảy đều là loài thọ tạo. Thế nhưng Thiên Chúa đã chọn làm hình ảnh của chính Người (x.St 1,27). Và Người đã yêu thương nó đến độ đã ban chính Con Một để cho nó được sống và sống dồi dào. (x.Ga 3,16). Vậy ta có thể nói rằng Thiên Chúa không thể bỏ con người, không thể bỏ bất cứ một ai, nếu Người thực sự là Thiên Chúa.
Thánh sử Luca cho chúng ta hay chính vì những lời xầm xì của nhiều người Pharisiêu và luật sĩ khi thấy những người thu thuế và người tội lỗi lui tới với Chúa Giêsu mà Người đã kể câu chuyện này. Họ cảm thấy khó chịu vì tình Chúa quá hậu hỉ. Họ ganh tị vì thấy tình Chúa như không công bằng. Bọn thu thuế và mấy người tội lỗi kia không đáng được yêu. Và cách mặc nhiên họ cho rằng chỉ mình họ mới xứng đáng. Đằng sau lòng ganh tương đố kỵ luôn có bóng dáng của thần dữ.
Chúa Giêsu đã cảnh giác những tâm hồn đố kỵ ganh tương bằng hình ảnh người con cả trong câu chuyện. Dù đang ở trong nhà nhưng anh ta hành xử như là kẻ làm tôi. Anh còn tự loại mình ra khỏi tình cha, khi không nhìn nhận người em của mình. "Còn thằng con của cha kia...". Loại bỏ tha nhân, không nhận nhau là anh em một nhà, thì vô tình chúng ta tự loại mình ra khỏi tình Cha trên trời, Đấng từ bi nhân hậu, cho mưa rơi đều trên người công chính lẫn bẻ bất lương, cho mặt trời mọc lên soi sáng người thánh thiện và người tội lỗi, Đấng không bao giờ muốn cho kẻ gian ác phải chết nhưng tìm mọi cách để họ ăn năn sám hối và được sống.
Tình Chúa thật bao la hay tình cha luôn hậu hỉ. Trong tình Chúa, không có sự gì là không thể. Bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có thể hưởng nhận tình Cha trên trời, nếu chúng ta biết ngửa tay đón nhận. Chỉ một lời khẩn xin: "Thưa Ngài, khi nào về nước Ngài, xin hãy nhớ đến tôi", thì hạnh phúc Nước Trời đã được ban cho người gian phi bị treo bên phải Chúa Giêsu năm xưa ngay ngày hôm ấy (x.Lc 23,29-43). Nhưng cũng xin đừng quên chân lý này: không ai hưởng hạnh phúc Nước Trời một mình. Rất có thể chính ta tự đóng đinh số phận của mình, nếu ta loại bỏ tha nhân ra khỏi nghĩa tình huynh đệ.
Khi nói về tình yêu và sự hy sinh của một người cha, người ta thường ví von như biển cả bao la, như cây cao bóng cả, như núi cao vời vợi. Một tình yêu không vồn vã nhưng trầm lắng và rộng lớn bao la. Một tình yêu không cần diễn tả bằng lời, không cần biểu lộ bằng những cử chỉ trìu mến thân thương, đôi khi tỏ ra cương quyết nhưng lại là chỗ dựa vững chắc nhất cho con cái vào đời.
Tình thương và tấm lòng người cha như thế, đã được ca sĩ Ngọc Sơn diễn tả qua bài hát "Ơn Cha" như sau:
Ơn Cha như Thái Sơn cao bao tầng
Ngoài tuy cương quyết mà lòng thương mến
Ơn Cha như đuốc soi cao trên đường
Đuốc soi tâm hồn dắt con tìm hướng
Ơn cha như bóng cây xanh trên ngàn
Tình Cha tha thiết, lòng cha âu yếm
Ơn Cha như mái hiên che năm trường
Gió mưa xa gần, nắng mưa không sờn.
Vâng, chính tình thương mênh mông biển cả của người cha luôn phủ lấp cuộc đời của những người con, là hành trang theo con vào đời, là kỷ niệm luôn ghi khắc trong tim của những người con, đến nỗi có nhiều người vẫn thầm hát với cha rằng:
"Mai con lớn lên rồi
Ra đi tung cánh trong đời
Dù xa vô bờ vẫn nhờ đến tình mẹ cha".
Hôm nay Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cùng chiêm ngưỡng tình yêu của Thiên Chúa tựa như tình của một người cha trong gia đình. Một người cha có hai con. Hai đứa con hai cách sống. Hai đứa con hai mối bận tâm của cha. Mỗi đứa mỗi tính. Vì cha mẹ sinh con trời sinh tính. Cha yêu thương cả hai. Nhưng cả hai xem ra đều phụ lòng cha. Người con cả chăm chỉ, cần cù nhưng lại tham quyền, tham lợi. Con người anh còn thiếu lòng độ lượng biểu lộ qua việc hay ganh tỵ và đòi hỏi quyền lợi. Anh đã từng thốt lên rằng: "Cha coi, đã bao năm nay con hầu hạ Cha, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy một con bê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con cha kia, sau khi nuốt hết của cải của cha với bọn đĩ điếm, nay trở về, cha lại cho con bê béo ăn mừng".
Người con thứ thuộc loại "bán trời không văn tự". Anh đã hoang phí cả gia sản lẫn cuộc đời đến bạc nhược tinh thần và thể xác. Cuộc đời anh chỉ tìm kiếm những thoả mãn xác thịt tầm thường. Thích ăn ngon, mặc đẹp và vui thú bên những cô gái chốn lầu xanh. Cuộc sống thác loạn đã làm cho anh tan gia bại sản, thân xác tiều tụy, anh chỉ còn biết chăn heo để sống qua ngày.
Cha vẫn im lặng. Sự im lặng này không đồng nghĩa với việc đồng ý cách sống của hai con. Cha im lặng vì tôn trọng tự do của hai con. Tự do để chọn lựa. Tự do chọn lựa là nét đẹp cao qúy của con người mà không một loài nào có được ân huệ đó. Có chọn lựa nên vẫn có sai lầm. Có chọn lựa nên vẫn có nuối tiếc. Nuối tiếc vì chọn sai, vì lầm lạc. Cha không kết án ai. Cha không muốn mất đi bất kỳ người con nào. Khi người con thứ ra đi. Cha hằng ngày mong ngóng chờ con trở vể. Chỉ cần nó trở về là cha đã quên hết quá khứ tội lỗi của nó rồi. Khi người con cả bộc lộ bản tính thật của mình. Coi con bê béo hơn cả tình cảm cha con và tình nghĩa anh em. Cha vẫn từ tốn, dịu ngọt với anh. Cha muốn anh hãy vui với phận mình, và nhất là hãy vui vì luôn được sống trong tình thương của cha.
Hai người con trong phúc âm dường như vẫn lúc ẩn lúc hiện trong con ngừơi chúng ta. Chúa cho chúng ta được tự do thừa hưởng một gia sản rất qúy báu và phong phú đó chính là sự sống làm người. Thế nhưng, có những lúc chúng ta đã hoang phí cuộc đời trong những đam mê lầm lạc, trong những vui thú mau qua. Có những lúc chúng ta thường hay xét nét, ganh tỵ và đòi hỏi Chúa trả công cho chúng ta. Có những lúc chúng ta thất vọng chán chường vì yếu đuối lầm lỗi. Có những lúc chúng ta vì những con bê béo là danh lợi thú mà quên cả tình nghĩa cha con. Chúa vẫn không chấp nhất tội chúng ta. Chúa không kết án chúng ta. Chúa vẫn im lặng. Chúa mong chúng ta sớm nhận ra tình thương của Chúa để hồi tâm trở về cùng Chúa. Sự chờ đợi của Chúa là vô tận. Tình thương của Chúa là vô biên. Chúa vẫn kiên nhẫn chờ đợi và rộng lòng tha thứ hết mọi lỗi lầm của chúng ta.
Mùa chay mời gọi chúng ta hãy chọn lựa lại cách sống sao phù hợp với đạo lý làm con cái của Chúa. Hãy tập sống trong sự quan phòng, xếp đặt của Chúa. Hãy tin tưởng phó thác cậy trông vào Chúa để chúng ta luôn vui với phận mình. Nhất là hãy biết noi gương Chúa để xót thương kẻ cơ hàn và lấy lòng nhân hậu mà đối xử tốt với nhau. Nguyện xin Chúa là Đấng giầu lòng thương xót và từ bi luôn gìn giữ chúng ta trong hồng ân của Chúa và giúp chúng ta luôn sống theo tinh thần của phúc âm: mến Chúa trên hết mọi sự và yêu tha nhân như chính mình. Amen
Đa số người đều nhận biết có một Đấng Tuyệt Đối, nhờ Ngài mà vạn sự vạn vật hiện hữu. Ngài vượt trên mọi sự mọi loài, không ai với tới Ngài được, Ngài ở trên trời. "Ông Trời" trong ngôn ngữ Việt Nam cũng chỉ một thực tại siêu vượt, rất gần và rất xa con người. Một số người tức giận khi thấy cảnh bất công mà không thấy Ông Trời can thiệp, nên họ châm biếm "Ông Trời không có mắt"; họ đòi Ông Trời phải can thiệp bênh đỡ người cô thế cô thân bị áp bức bóc lột. Nhiều người hiểu và diễn tả Tuyệt Đối như một người, và đòi Ngài phải hành xử như họ suy nghĩ. Thực ra, con người hữu hạn nên không thể hiểu và diễn tả trọn vẹn về Tuyệt Đối được; hơn nữa, đường lối của Tuyệt Đối không giống như con người: "như trời cao hơn đất bao nhiêu, tư tưởng của Ta cũng vượt quá tư tưởng của các ngươi".
Với dân Do Thái, Thiên Chúa là Đấng đã đưa dân ra khỏi Aicập, đã giải phóng dân khỏi kiếp nô lệ bên Aicập. Thiên Chúa là Đấng đã tuyển chọn tổ phụ của họ là Abraham, Isaac, và Giacóp, là Đấng đã can thiệp vào lịch sử của họ qua Môsê, Giôsua, và các tiên tri, là Đấng đã để các nước lân bang thống trị và thậm chí còn bị lưu đầy sang Babylon nhưng cuối cùng Ngài vẫn cứu thoát họ. Thiên Chúa là Đấng rất gần gũi dân, Thiên Chúa là Thiên Chúa của dân Israel, và Israel là dân riêng của Thiên Chúa. Niềm hy vọng của dân Do Thái là Thiên Chúa. Chính vì vậy, khi bị sống trong cảnh đô hộ bị áp bức, dân Do Thái luôn trông chờ Đấng được xức dầu (Kitô), Đấng Thiên Chúa sai đến để giải phóng họ khỏi cảnh áp bức.
Thiên Chúa trong Cựu Ước được trình bày như một vị Thiên Chúa công bằng, có chỗ nhấn mạnh như thể Thiên Chúa trừng phạt con người tội lỗi đến ba bốn đời: "cha ăn nho xanh, đời con ghê răng". Hôm nay trong tin mừng theo thánh Luca, Đức Giêsu dùng dụ ngôn người cha nhân hậu luôn sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm cho người con, để diễn tả tình yêu tha thứ của Thiên Chúa đối với con người.
Thiên Chúa yêu thương và tôn trọng con người, như người cha yêu thương và tôn trọng con mình trong dụ ngôn Lc.15, 11-32. Người con thứ đòi người cha chia gia tài; người cha chia gia tài cho anh ta cho dù người con không có quyền đòi hỏi như vậy, dù biết rằng người con đó chẳng chóng thì chầy sẽ bỏ nhà ra đi. Người cha biết con mình một khi bỏ nhà đi sẽ khổ, sẽ mất hết tài sản, nhưng người cha vẫn tôn trọng người con. Người cha rất đau lòng nhưng ông vẫn làm như người con muốn. Thiên Chúa ban tự do cho con người, Ngài luôn tôn trọng tự do của con người cho dù con người có lạm dụng tự do đó để phản bội Ngài.
Khi người con thứ bỏ nhà ra đi, người cha sống trong niềm hy vọng và chờ đợi. Người cha chờ đợi người con trở về. Chẳng vậy, khi người con thứ còn ở đằng xa, với quần áo xốc xếch và dáng đi rụt rè e ngại, người cha đã chẳng nhận ra con mình. Ông chạy ra ôm người con hoang trở về và hôn lấy hôn để. Người cha vẫn luôn mong đợi người con trở lại, cho dù người con đã xúc phạm đến mình, cho dù người con đã hoang phí biết bao của cải mà người cha đã tốn bao sức lực, với bao vất vả gian lao mới có thể có được. Tất cả những điều đó không quan trọng đối với người cha; điều quan trọng đối với ông, là người con và sự an nguy của anh ta. Thiên Chúa là Đấng hy vọng và chờ đợi tôi hơn bất cứ ai. Với Thiên Chúa, mỗi người là tuyệt đối quan trọng.
Người cha hy vọng mong chờ người con trở về, và rồi sẵn sàng tha thứ cho dù người con chưa nói lên lời xin lỗi. Thiên Chúa mong chờ người tội lỗi trở về, mong chờ họ ăn năn sám hối, để họ được an bình và hạnh phúc. Như người cha năn nỉ người con trưởng vào nhà, Thiên Chúa cũng năn nỉ con người tội lỗi trở lại với Ngài. Hình ảnh Thiên Chúa trong dụ ngôn người cha nhân hậu, thật là dịu dàng, nhẫn nại, bao dung, tha thứ. Người ta thấy Thiên Chúa như thể rất mềm yếu. Thực vậy, chính vì yêu mà Thiên Chúa kiên nhẫn và nhân từ vô cùng đối với con người.
Nhờ Đức Giêsu Kitô, người ta nhận ra dung mạo của Thiên Chúa thật đặc biệt: Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Một khi nhận ra Đức Giêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể, con người nhận ra tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa đối với con người. Khi phạm tội xúc phạm đến Thiên Chúa và anh em mình, tương quan giữa con người với Thiên Chúa bị phá hủy, con người không thể tin tưởng nhau được nữa. Qua Đức Giêsu, con người nhận ra Thiên Chúa vẫn yêu thương con người vô cùng. Tương tự như người con hoang đàng trở về vẫn được người cha yêu thương và nhận làm con, con người biết Thiên Chúa vẫn luôn nhân từ tha thứ mọi lỗi lầm của con người. Trước khi được tha thứ, người con hoang đàng không biết số phận của mình như thế nào, vì ao ước của anh ta có thể bị từ chối. Tuy nhiên, khi thấy thái độ của người cha, anh ta nhận ra cha anh là người rất tuyệt vời.
Hôm nay vẫn cần những trung gian để trình bày cho con người thấy dung mạo tuyệt vời của Thiên Chúa: Đấng yêu thương con người vô cùng. Thánh Phaolô đã nói với những người Ngài rao giảng: Thiên Chúa là Đấng nhân từ và mong ước con người trở lại. "Nhân danh Đức Giêsu Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa cùng Thiên Chúa đi" (2Co.5, 20). Thiên Chúa yêu thương con người, và điều này có thể được thấy qua việc Thiên Chúa mong con người, cần con người trở lại với Ngài. Yêu ai thì cần người đó. Thiên Chúa yêu tôi nên Ngài cần tôi, Ngài cần tôi vì Ngài yêu tôi. Tự bản chất, Thiên Chúa không cần ai cả, Ngài hạnh phúc với chính Ngài; không cần ai làm gì để Ngài hạnh phúc; Ngài là hữu thể tròn đầy, không ai làm Ngài mất hạnh phúc được. Tuy nhiên, Thiên Chúa được tôn vinh hơn khi tôi triển nở và hạnh phúc; Ngài hạnh phúc khi tôi hạnh phúc. Chính vì yêu mà Ngài cần con người. Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người đến độ không thể hiểu được: Ngài dám ban Con Một của Ngài cho con người, Ngài sẵn sàng làm tất cả để được con người, để giúp con người nhận ra tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa.
Nhiều người chọn con đường dẫn đến thất bại ê chề nhưng lại luôn nghĩ là mình khôn ngoan chọn con đường dẫn đến thành công rực rỡ. Thực ra lằn ranh giữa thành công và thất bại khó phán đoán chính xác nên rất khó tranh biện ai đúng ai sai. Thực tế cho thấy có người chọn con đường tưởng dẫn đến thất bại ê chề nhưng lại thành công rực rỡ. Đây là một cám dỗ lớn cho các bạn trẻ muốn li khai, thoát khỏi gia đình. Nhất là những bạn mà sống trong gia đình nhưng luôn cảm thấy ra đi thì tốt hơn. Gia đình không còn là tổ ấm mà là chỗ đầy ải với bao bất mãn, khó chịu vì luật lệ gia đình chồng chéo nhau. Trong hoàn cảnh đó họ chỉ mong có cơ hội thuận tiện là sẽ thoát li, tìm một cuộc sống thảnh thơi hơn, tự do hơn.
Họ tin tưởng là cuộc sống mới đầy hứa hẹn sẽ cho họ những ngày tươi sáng. Họ tin tưởng làm được điều đó vì họ ít nhiều cũng có một số kiến thức, kinh nghiệm sống cộng với tài lanh lẹ, linh hoạt đủ để họ vào đời. Họ đâu biết cuộc đời muôn mặt, với kiến thức học vấn và kinh nghiệm gia đình là cần thiết nhưng chưa đủ để tiến thân, dấn thân trên đường đời. Những ngày đầu mới li khai gia đình họ thực sự hưởng cảm giác thoải mái, thảnh thơi. Cảm giác thoải mái thảnh thơi này chỉ tồn tại một thời gian ngắn vì thực tế cuộc sống sẽ ập đến khiến họ quay cuồng đến tối mặt mày. Đây chính là kinh nghiệm trong dụ ngôn Người Con Hoang Đàng vấp phải. Anh ta không cảm thấy vui trong khi sống trong gia đình với cha anh. Anh muốn li khai gia đình, tự chọn cuộc sống riêng cho mình. Người cha dù đau lòng cũng cắn răng, bóp bụng chia gia tài cho anh. Cha đau lòng không phải tiếc của, nhưng vì biết con sẽ gặp điều không may, gặp hoạn nạn nhưng không sao cản được.
Có tiền trong tay, tương lai mở rộng, anh ra đi bước những bước dài thênh thang, theo đuổi đìều mong ước. Những ngày đầu anh được mãn nguyện, thoả lòng ước mong. Chẳng bao lâu sau, hầu bao của anh cạn sạch lúc đó anh mới nghĩ tới vấn đề kiếm tiền để sống. Đây chính là lúc anh chạm phải thực tế cuộc sống. Bấy lâu nay sống trong nhà cha anh luôn sống trong thế giới của mơ mộng, Anh tin là ngoài kia có biết bao nhiêu điều vui thú đang đón chờ, khi được tự do, thoải mái tự lập anh sẽ hưởng tất cả những thú ăn chơi đang chờ đợi, mời gọi.
Chỉ một thời gian ngắn sau khi li khai gia đình thế giới mộng mơ của anh sập tan tanh. Một thế giới mới đang đón chờ anh. Mới đây là mới với anh vì từ trước tới nay sống trong gia đình mọi sự đều được chu cấp thoả đáng, trách nhiệm cha anh gánh thay, bổn phận đã có người làm giúp. Cuộc sống li khai, tự lập giờ chính anh phải tự gánh vác. Anh nghĩ mình đã chuẩn bị đủ cho tương lai đầy hứa hẹn nhưng bây giờ anh mới biết còn nhiều vấn đề thực tế anh chưa bao giờ nghĩ tới nói chi đến chuẩn bị cho thoả đáng.
Thế giới thực làm anh thức tỉnh. Xin làm công bị từ chối. Xin ăn bị xua đuổi. May mắn có người nhận nuôi heo. Lương không đủ sống anh vẫn đói nên tự hạ ăn chung với heo. Đang từ người thành tệ hơn vượn, đời cầm thú. Vì sao? Vì anh từ chối tình thương của cha. Vì anh muốn tự lập, theo í riêng. Vì anh muốn tự mình làm chủ đời mình.
Chọn li khai, ra đi anh mất tất cả, mất sự bảo bọc của cha, từ chối thương của cha, từ chối cả quyền thừa kế gia tài và quan trọng hơn cả là cắt đứt tình cha con.
Đại hạn, mất mùa, đói khổ và xua đuổi mở mắt anh nhìn thấy tình thương của cha. Tin tưởng vào tình thương và lòng bác ái cha anh dành cho người làm công, anh mạnh dạn tiến về nhà cha. Anh không dám xin ơn làm con như xưa nhưng xin làm người làm công để được hưởng tình người, để được sống cho ra con người. Một lần nữa anh phạm sai lầm. Nhận xét và phán đoán sai về lòng nhân từ của cha anh. Nhìn thấy con, người cha chạy ra ôm con vào lòng, tha lỗi lầm và trao lại cho anh tình cha con, tình nghĩa tử rồi sau đó mở tiệc mừng. Mừng vì mối giây tình nghĩa cha con đã bị cắt nay được nối lại. Mối tình cha con đã chết nay phục sinh.
Thế giới mộng mơ của người Kitô hữu chính là thế giới chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa. Là thế giới chối bỏ tình Chúa dành cho ta. Là chọn sống theo í riêng, tin vào khả năng, kiến thức của con người. Là thự nhận mình là chúa. Dụ ngôn Người Con Hoang, từ bỏ cha mình vì đói khổ tự nguyện sống chung với heo. Từ chối sự hiện hữu và tình thương của Chúa để tự nguyện nhận mình có nguồn gốc từ muông thú.
Người cha nhân hậu kiên nhẫn chờ, đón con trở về ban làm con, làm người thừa kế nước trời.
Trình thuật Tin mừng (Lc 15, 1-3. 11-32), được mang nhiều tên gọi: Người con hoang đàng - Người Cha nhân hậu - Chuyện người Cha và hai người con...
Hẳn trình thuật này tên gọi thì nhiều nhưng ý nghĩa quan trọng của trình trình thuật vẫn là: Lòng Chúa nhân hậu.
I. KIÊN NHẪN
Chuyện kể rằng, người cha có hai người con trai. Để chuẩn bị cho tương lai tốt đẹp cho con cái, ông đã gầy dựng cơ nghiệp cho hai con với tâm nguyện "của cha là của con" (Lc 15, 31).
Vậy mà, một ngày kia, sóng gió gia đình nổi lên khi người con thứ đòi chia gia tài và muốn tự giải quyết cuộc đời mình bằng cách bỏ nhà trẩy đi phương xa để sống riêng. Theo quan niệm người Do Thái lúc bấy giờ, trong một gia đình, chỉ khi nào người cha mất đi thì các con mới chia nhau gia tài. Cách ứng xử của người con thứ chẳng khác nào anh mong cho cha mình mau chết.
Lòng người cha đau đớn nhưng vì tôn trọng tự do của người con thứ nên ông đã chấp nhận chia gia tài để anh sống riêng. Thế là, ngay từ lúc người con thứ bước chân ra khỏi nhà cũng là lúc người cha sống những ngày mòn mỏi đợi chờ anh ta sám hối quay về với mái ấm gia đình.
Hình ảnh người cha gợi lên hình ảnh của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tạo dựng muôn điều tốt đẹp cho con người và ban cho họ làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo với vinh quanh danh dự chẳng thua kém thần mình là mấy. Vậy mà, con người đã lạm dụng quyền tự do của mình để tự định đoạt cuộc đời. Thế nên, họ đã lâm vào cảnh hư ảo và phải mang án chết. Dẫu vậy, Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn đợi chờ con người quay về với Chúa.
II. TỰ HẠ
Chuyện tiếp theo, người con thứ sau khi đã phung phí tài sản của cha vào những cuộc ăn chơi đàng điếm, anh đã phải đi làm công cho một ông chủ với công việc chăn heo.
Đối với người Do Thái thời ấy, heo là con vật ô uế, nên họ không bao giờ nuôi heo mà chỉ có người dân ngoại mới nuôi heo. Vậy là, người con thứ đã tử bỏ người cha, từ bỏ gia đình để đi làm công cho người ngoại và hàng ngày tiếp xúc với con vật ô uế. Tất nhiên, anh ta luôn ở trong tình trạng ô uế. Tệ hơn thế, khi cơn đói dày vò, anh ta muốn ăn thức ăn dành cho heo những vẫn không được ăn. Anh đã thua cả heo, con vật ô uế. Anh lao xuống tận đáy sâu của vực thẳm tội lỗi.Thật là bi đát!
May thay, trong cơn cùng khốn, một chút lương tâm trong anh đã trỗi dậy và khai sáng cho anh nhớ về gia đình: trong gia đình anh, biết bao người đầy tớ được cha anh đối xử nhân ái và được sống sống tốt đẹp; vậy mà giờ đây phận là con của người cha giàu có và nhân hậu mà anh lại phải sống trong tình trạng nhầy nhụa bi thảm. Để giải cứu cơn đói, anh đã quyết định "đứng lên" quay về nhà mình và chỉ giám mong được cha đối xử với anh như người làm công. Anh đã chuẩn bị cho ngày về bằng một bài diễn văn: "Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chăng đáng còn gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công vậy" (Lc 15, 18-19).
Người cha đã hằng mong mỏi ngóng chờ người con quay về. Vừa trông thấy con còn ở đàng xa, ông đã vội chạy ra đón anh, "ôm cổ anh ta và hôn lấy, hôn để" (Lc 15, 20) và không để anh đọc hết bài diễn văn. Ông đã không thể hiện tư thế của một người cha uy nghi quyền thế khiến mọi kẻ phải lạy lục xin ông ban phát ân huệ. Trái lại, ông đã tự hạ mình, nhanh chân chạy đến đỡ lấy người con tội lỗi quay về. Tình thương của người cha đã làm cho người con tội lỗi nghẹn ngào không nói được hết lời xin lỗi.
Hình ảnh người cha gợi lên hình ảnh của Thiên Chúa. Dù bao phen con người lầm lỗi phản nghịch Chúa, bỏ Người chạy theo thần của dân ngoại, nhưng Thiên Chúa không bỏ mặc con người sống ngụp lặn trong tội lỗi. Biết bao lần, Người dùng các ngôn sứ, các thủ lãnh để hướng dẫn dân Chúa trở về với nẻo chính đường ngay và sau cùng Thiên Chúa còn tự hạ mình mang thân phận con người để cứu độ con người cách toàn diện.
III. CỨU ĐỘ
Người cha vui sướng xiết bao khi người con hoang đàng trở về với mái ấm gia đình. Ông tuyên bố: "Con ta đây chết mà nay đã sống lại, đã mất mà nay đã tìm thấy" (Lc 15, 24) và chỉ thị cho gia nhân: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dẹp vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!" (Lc 15, 22, 23).
Người cha ban áo đẹp nhất cho người con để từ nay anh phải rũ đi chiếc áo quá khứ cũ rách của nếp sống tội lỗi để mặc lấy chiếc áo lễ hội tràn đầy niềm vui và hạnh phúc; ban nhẫn cho người con là biểu hiện ban quyền bính, uy thế danh dự của gia đình vương giả; ban dép cho người con là biểu hiện phục hồi lại quyền tự do (người nô lệ không đi dép); ban dê đã "vỗ béo" chứ không ban dê gầy hay dê nào cũng được là biểu hiện người cha đã cho "vỗ béo" dê để sẵn sàng mở tiệc khi người con hoang trở về.
Hình ảnh người cha gợi lên hình ảnh Thiên Chúa cứu độ con người cách toàn diện. Thiên Chúa đã dọn sẵn hạnh phúc thiên đàng và chờ đợi người tội lỗi ăn năn thống hối quay về, Người "không muốn cho kẻ dữ phải diệt vong nhưng muốn họ bỏ đường tà để được sống" (Ed 18, 23). Ai trở về cùng Thiên Chúa sẽ được cải tử hoàn sinh "chết mà nay đã sống lại, đã mất mà nay đã tìm thấy" (Lc 15, 24).
Tiệc vui đoàn tụ đã khai mở, mọi người "bắt đầu ăn mừng" (Lc 15, 24) nhưng sóng gió gia đình lại tiếp tục nổi lên. Người con trưởng xuất hiện. Sau một ngày vất vả nơi đồng áng, về đến nhà trông thấy cảnh tượng cha mừng người em trở về, anh đã không thể chấp nhận nổi; anh không những không vào nhà mà còn buông lời xúc phạm người cha: "Còn thằng con của cha đó..." (Lc 15, 30). Thế mới lộ ra, bấy lâu nay, tuy sống gần bên cha gia nhưng người con trưởng chỉ sống tương quan với cha mình người chủ với tớ...
Lúc này, người cha lại phải xuống nước với anh: "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất của những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ vì em con đây đã hết mà nay đã sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy" (Lc 15, 31-32).Vậy là, người cha lại phải kiên nhẫn và hạ mình trước người con trưởng để mong anh quảng đại như cha sẵn sàng đón nhận em.
Một lần nữa, Thiên Chúa lại tiếp tục kiên nhẫn, hạ mình và chờ đợi để cứu độ muôn người.
KẾT
Lòng nhân hậu của Thiên Chúa Chúa được Đức Giê-su diễn tả qua một dụ ngôn về một gia đình người cha và hai người con.
Câu chuyện gia đình ba cha con đã khép lại nhưng chưa có hồi kết (không biết người con trưởng sẽ ra sao). Hẳn hồi kết ấy sẽ do mỗi người tín hữu phải góp phần mình để hoàn thành bằng sự quyết tâm đứng lên sau những lần vấp ngã để trở về cùng Thiên Chúa là cha nhân hậu, đồng thời quảng đại với mọi người.
Dụ ngôn « Người cha nhân hậu » trong bài Tin Mừng hôm nay đã nêu rõ những con đường khác nhau: Con đường của người con thứ, con đường đã dẫn đưa cậu đi đến một miền đất xa lạ, cách xa khỏi cha cậu. Con đường của người cha ra đón cậu con thứ
Con đường của người con cả.
Và con đường người cha đi gặp người con cả.
Ðó là những con đường khác nhau, và chúng sẽ: hoặc dẫn tới đích, hoặc chúng chỉ là những ngõ cụt hay là những con đường mất hút trong rừng sâu và không tìm được lối ra.
Thứ nhất: Con đường đi tìm lại sự tự do.
Với số gia tài trong tay, người con thứ đã bỏ nhà cha mình và trẩy đi đến một miền xa lạ. Cậu muốn tận hưởng hạnh phúc và sự tự do riêng của mình theo ý muốn. Người cha đành phải để cho cậu ra đi. Giờ đây mọi sự chỉ còn tùy thuộc vào thái độ của cậu trước các thách đố của đời và liệu cậu có đứng vững được hay không ! Vâng, vấn đề có tính cách quyết định là ở chỗ: Tâm tình cậu con vẫn còn luôn tưởng nhớ đến cha cậu và luôn gắn bó với ông, cũng như cậu biết xử dụng phần gia tài được chia cho cậu, đúng với ý cha cậu; hay: Cậu đã cắt đứt mọi liên hệ với cha mình và tổ chức một cuộc sống riêng không dính dáng gì với cha nữa, nếu không nói là một cuộc sống phản lại cha ! Sự tự do với cha hay một sự tự do không có cha ! Chúng ta đọc thấy trong câu chuyện dụ ngôn. Người con thứ đã tìm cách sống sự tự do của mình không có cha !
Nhưng chúng ta cũng thấy được rằng con đường của người con thứ - với sự tự do không có cha - đã đưa dẫn cậu tới sự bất hạnh, tới một tình trạng bất tự do.
Thật vậy, những ai không còn muốn liên hệ gắn bó với cha mình, thì sẽ ràng buộc mình với nhiều thứ khác: tiền bạc, các đòi hỏi tự nhiên, các thú vui lệch lạc rẻ tiền, v.v... Người ta sẽ trở thành nô lệ cho những thứ đó và tự đánh mất các phẩm chất, tư cách và chính bản ngã của mình. Người ta sẽ trở thành một con người thiếu nội tâm. Ðó chính là sự đánh mất bản sắc riêng !
Câu chuyện dụ ngôn đã nói lên tình trạng buồn thảm đó khi tường thuật: con đường của cậu con thứ đã kết thúc nơi những con heo. Nói cách khác: Người con thứ đã không đứng vững được trước các cám dỗ và thử thách của đời. Cậu đã thất bại trong mọi lãnh vực: tài chánh, luân lý, đạo đức, nhân bản. Cậu thực sự hoàn toàn kiệt quệ và phá sản ! Cậu đã đánh mất tất cả. Trong thực tế, cậu quả là một người con hoang đàng dại dột !
Tuy nhiên, trong trái tim cậu, sự khao khát mong muốn sự tự do quá mãnh liệt, khiến cậu ngay giữa cảnh mất mát thất bại đã can đảm đứng lên và bước theo con đường dẫn về cùng cha cậu. Ðó chính là con đường dẫn tới sự tự do chân thật, một sự tự do cậu chỉ có được qua sự gắn bó mật thiệt với cha !
Thứ hai: con đường của người con cả - một con đường rừng !
Người con cả trong dụ ngôn tuy luôn có mặt bên cạnh với cha cậu, nhưng lòng cậu lại cách xa cha. Con đường của cậu xem vẻ bên ngoài không đi xa khỏi cha như con đường của đứa con thứ. Nhưng người con cả cũng không đi chung với cha cậu trên cùng một con đường, khi ông đi ra đón người con thứ của mình đang quay gót trở về cùng ông.
Ai không liên kết gắn bó với cha, thì cũng không tìm ra con đường dẫn tới người anh em của mình. Người con cả nói với cha cậu: « Thằng con của cha đó đã ăn chơi trác táng và phung phá tiền bạc của cha với bọn đĩ điếm... ! » Người cha liền nhân từ và đầy thông cảm cắt nghĩa cho cậu hiểu: « Em con đã quay trở lại nhà, nó đã chết nay sống lại, nó đã mất nay lại tìm thấy... ! » Ai không đi trên con đường dẫn tới người anh em của mình, người đó cũng lỡ bước trên con đường dẫn về cùng cha.
Thứ ba: Con đường của người cha !
Con đường của người cha trong dụ ngôn là hình ảnh tượng trưng cho con đường của Thiên Chúa. Con đường đó dẫn tới nhân loại. Người cha chạy ra đón tiếp đứa con hư hỏng trở về. Ông vui mừng ôm con vào lòng, chứ không hề trách móc la mắng con, như thể: Lỗi lầm của mi thật quá nặng nề. Cái dại của mi thật không sao nói hết... Nhưng tao tha cho lần này là lần chót... ! Không. Ông không hề nói gì cả, ông chỉ vui mừng ôm lấy con ! Ðó không phải là « chiến thuật » sư phạm, nhưng là dấu chỉ của tình thương và lòng nhân hậu chân thành của một người cha: Con tôi đã mất và nay lại trở về với tôi ! Ðứa con hoang đàng hư hỏng nay lại trở về trong nhà cha cậu và được nhận lại quyền làm con của mình.
Ðúng vậy, tình yêu đích thực không bới mói tội lỗi, nhưng là trao ban sự tha thứ và niềm vui mừng. Tuy nhiên người cha cũng đi ra gặp cậu con cả và cắt nghĩa cho cậu hiểu để cậu cùng mừng với ông. Vì ông rất biết là một bữa tiệc chỉ trọn vẹn khi mọi người cùng vui vẻ với nhau !
Nói tóm lại, qua dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu muốn nói cho chúng ta những điều này:
1. Thiên Chúa là một Thiên Chúa đi tìm kiếm con người, một Thiên Chúa mời gọi con người đến dự tiệc với mình, một Thiên Chúa vẫn giữ vững lời mời, cả khi chúng ta tỏ ra thất trung và đi theo con đường của mình tự chọn lấy, chứ không bước đi trên con đường của Người đã chỉ cho.
2. Thiên Chúa thương yêu chúng ta vô cùng, đến nỗi một kẻ dù đã sa ngã và lâm vào vòng tội lỗi, vẫn có thể trở thành một người tốt lành được. Người không bao giờ loại trừ ai, vì trong tình yêu của Người, Thiên Chúa không hề thất tín. Tình yêu của Người vô cùng bao la, đến nỗi Người vẫn luôn kiên tâm chờ đợi mong mỏi cả những kẻ đã bỏ Người đi xa muôn dặm. Người đi gặp gỡ họ và đón tiếp họ, như thể không hề có gì đã xảy ra, tương tự như người cha đón tiếp người con hư hỏng trong dụ ngôn.
3. Thiên Chúa là một Thiên Chúa của tình yêu thương, của niềm hoan lạc vui mừng, Ðấng hằng muốn cùng chung vui với con cái loài người chúng ta.
Chớ gì tất cả những mặc khải đó mang lại cho tất cả chúng ta sự can đảm và sức mạnh, để tìm ra được con đường sám hối, con đường dẫn chúng ta tới cùng Thiên Chúa và tới cùng những người anh em đồng loại của chúng ta. Amen.
Dụ ngôn người cha nhân hậu trong trang Tin mừng chúa nhật hôm nay cho thấy sự cần thiết của việc trở về cùng Thiên Chúa.
Người con thứ sau khi đã phung phí hết tài sản, đã đi vào đường cùng của sa đoạ, đã đánh mất đi phẩm giá của một con người qua việc thèm khát những thức ăn của bầy heo. Nay anh đã hồi tâm, ước mong thay đổi thái độ sống, muốn quay trở về với người cha nhân hậu của mình.
Và thực sự, anh ấy đã thực hiện thật nghiêm túc với điều mà mình mong muốn. Khi trở về với người cha, người con thứ đã bộc lộ sự khiêm tốn xuất phát từ chuỗi ngày quá khứ đen tối mà anh đã kịp nhìn nhận, khi anh thưa cùng người cha:" Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, con chẳng đáng được gọi là con cha nữa..."(Lc 15,21)
Trước thái độ hối cải của người con, chúng ta hình dung như thế nào về tâm trạng của người cha trong lúc này? Đó là sự đón tiếp mừng rỡ hơn xua đuổi, đồng thời niềm vui sướng của người cha trong lúc này đã làm cho ông quên đi gánh nặng đau khổ mà hôm nay chính đứa con này đã gây ra cho ông. Nói chung tâm trạng của người cha trong lúc này chỉ có một điều là vui mừng. Vui mừng khi thấy con trở về, vui mừng khi phục hồi phẩm giá lại cho con qua việc truyền cho đầy tớ phải mặc áo đẹp nhất cho con, xỏ nhẫn vào tay và xỏ dép vào chân cho con trai của mình. Và niềm vui mừng của người cha còn được thể hiện qua bữa tiệc rất ngon lành với con bê béo và rượu ngon. Thế nhưng bao nhiêu cử chỉ ấy cũng chưa đủ nói lên niềm vui nơi người cha nhân hậu mà chúng ta bắt gặp trong bài dụ ngôn thật độc đáo của chúa nhật hôm nay. Vì nguyên nhân sâu thẳm để người cha có được niềm vui thật sự là khi thấy người con tội lỗi không thất vọng về tình thương và ơn tha thứ của mình. Chắc hẳn thái độ hy vọng vào lòng thương xót của người con đối với cha, còn quý hơn sự hiện diện của anh ấy trước ánh mắt nhân từ người cha.
Thực ra thái độ không thất vọng vào tình thương của Thiên Chúa, không phải chỉ có trong dụ ngôn mà Chúa Giêsu đã kể đâu. Nhưng trong thực tế đã có rất nhiều những mẫu gương nhờ lòng cậy trông và ơn tha thứ của Thiên Chúa mà họ đã trở nên thánh. Ta thấy Phêrô đã chối Chúa ba lần, nhưng nhờ hy vọng vào ơn tha thứ của Chúa, ông đã sám hối và được ơn biến đổi. Sau này vẫn được Chúa chọn làm trưởng Tông đồ đoàn. Phaolô trước khi trở thành tông đồ của dân ngoại thì ông đã bắt bớ và giết các tín hữu không nương tay. Nhưng nhờ hy vọng vào ơn tha thứ Phaolô vẫn được Chúa chọn làm tông đồ để thi hành sứ mạng loan báo Tin mừng cho dân ngoại. Augustinô sau thời gian dài ăn chơi buông thả, nhưng nhờ tin vào ơn tha thứ của Chúa, nhờ những dòng lệ thành tâm hối hận, Augustinô đã được Chúa chọn làm Giám Mục Tiến Sĩ Hội Thánh. Và còn biết bao nhiêu chứng nhân hy vọng khác nữa ...
Đã là người thì ai cũng có tội. Đó là thân phận chung của con người. Nhưng chúng ta còn có lối thoát để được bình an với lương tâm và hạnh phúc trong nước Thiên Chúa. Lối thóat đó Chúa đã vẽ ra cho chúng ta, và Chúa đang chờ chúng ta ở cuối lối mòn này. Lối thoát ấy chính là đường hy vọng vào tình thương và ơn tha thứ của Thiên Chúa. Khi ta đánh mất đi niềm hy vọng vào ơn tha thứ và tình thương hải hà của Thiên Chúa, thì kể như đời ta đã bế tắc, đi vào đường cùng của sự diệt vong, sự sống tương lai sẽ không còn hy vọng.
Vì thế, Cha Charles De Foucauld có để lại mấy dòng sau: "dù con xấu xa, dù con tội lỗi, con cũng trông cậy vững chắc rằng con sẽ được lên trời. Chúa cấm con thất vọng điều đó... Chúa cấm con ngã lòng trước sự khốn nan của con. Chúa không cho con nói: Tôi không thể đi tới được đường lên trời, khó khăn quá tôi phải thụt lùi và trở xuống chỗ thấp ... Vậy Chúa muốn con phải cậy trông luôn, vì Chúa ra lệnh và vì con phải tin ở tình thương và quyền năng của Chúa".
Như vậy thật may mắn cho chúng ta, vì bao nhiêu lần gục ngã do tội lỗi, chúng ta vẫn có quyền hướng về hạnh phúc tương lai đang chờ ta. Hạnh phúc đó lệ thuộc vào ta, khi trên hết mỗi người đừng đánh mất trước lòng thương xót của Thiên Chúa, đừng đánh mất trước sự quảng đại ban ơn tha thứ của Ngài. Thiên Chúa không bao giờ từ chối chúng ta khi chúng ta đặt hết niềm tin vào Ngài. Vì Thiên Chúa không nỡ lòng bẻ gẫy cây sậy đã dập và cũng không nhẫn tâm dập tắt tim đèn còn khói.
Hạnh phúc là điều ai cũng mong muốn. Thế nhưng hạnh phúc Thiên đàng thì con người lại càng khao khát và mong muốn hơn, và Thiên Chúa rất mong chúng ta có được hạnh phúc đích thực này.
Chúng ta sẽ có hạnh phúc khi chúng ta biết trở về cùng Thiên Chúa biết đặt tất cả lòng cậy trông vào ơn tha thứ vô tư của Thiên Chúa. Nói chung ta không được phép thất vọng về lòng thương xót và ơn tha thứ của Thiên Chúa.
Hãy nhớ rằng Chúa chỉ dựng lên chúng ta một lần, nhưng ơn tha thứ cho những người trông cậy nơi Chúa thì Ngài vẫn tha thứ mãi, tha thứ vô điều kiện. Như vậy đón nhận ơn tha thứ của Chúa thường xuyên nơi Bí tích giải tội, hay trong những ngày còn lại của mùa chay thánh này, sẽ là lời minh chứng để nói lên tâm hồn chúng ta còn co hy vọng và tin tưởng nơi ơn tha thứ của Chúa hay không?.
Có ý kiến cho rằng bài dụ ngôn người con hoang đàng của Phúc Âm hôm nay, hỏng bét về mặt pháp lý. Chúng ta phải sửa lưng tác giả mới được. Nếu cứ theo ông khuyên bảo mà mở cửa đón tiếp kẻ giết người, trộm cướp, hoang đàng thì thế giới này sẽ ra sao? Xã hội này còn thể thức nào nữa không? Ngày nào người ta cũng chứng kiến tội phạm ghê gớm vậy mà cứ để cho họ xổng chuồng thì ai còn có thể sống nổi? Xã hội toàn những kẻ đòi quyền lợi mà không hề lãnh trách nhiệm, thì chắc chắn nhân loại rơi vào hỗn loạn. Vậy dụ ngôn này mang giọng điệu quá nhu nhược, làm thế nào chấp nhận?
Chúng ta hãy nghe người con cả lý giải: Cha tôi đối xử với thằng con ông ấy như vậy, chẳng khác nào tát mạnh vào mặt tôi. Nó hoang đàng bỏ đi, tiêu phí hết tài sản với bọn đĩ điếm, rồi trở về ngon lành, không có hình phạt nào cân xứng, thử hỏi gia phong còn giá trị gì nữa không? Nếu ông nhận nó lại như con ăn, đầy tớ, sau khi nó xin lỗi thì còn có lý và chịu đựng được. Tôi sẽ sai nó đi làm những công việc hạ tiện, bẩn thỉu, nặng nhọc, rồi dần dà cho nó chút của cải, địa vị và như vậy tôi mới hài lòng cho phép nó ở lại nhà. Không nên không phải tôi sẽ tống cổ nó ra khỏi cửa, nó đâu có quyền lợi gì nữa? Đàng này cha tôi lại hồ hởi đón tiếp nó, không một lời trách móc, hạch tội. Lại còn mở tiệc vui mừng, bê béo, rượu ngon, quần áo đẹp, nhẫn xỏ tay, giày mới xỏ chân. Ong hành xử cuồng loạn trước mặt nó! Liệu ông có mất trí khôn rồi không? Liệu ông có điên khùng không đấy?
Hơn nữa qúy vị tưởng tượng hạnh kiểm của người con lớn. Anh ta không rơì khỏi nhà, không hề trái lệnh cha, trung thành và chăm chỉ, lao động sớm tối ngoài cánh đồng, không những công việc của mình, mà còn của thằng em vắng mặt. Làm việc cực nhọc năm này qua năm khác mà cha anh không công nhận, không biểu dương, hay chí ít được một lời an ủi: "Tốt quá con à". Hoặc một chiếc vỗ nhẹ vào lưng, tỏ lòng ưu ái cho thoả tình. Nhưng ông vắng mặt, vắng mặt để làm gì? Để ngày ngày chạy lên đồi cao trứơc ngõ, ngóng trông thằng út hư hỏng? Trời đất, còn bất công nào hơn? Qúy vị tưởng tượng ở trong hoàn cảnh của người con lớn, quý vị sẽ nghĩ sao? Quý vị có cảm thấy bất công và thương hại cho anh ta? Hắn trung thành mà bị coi rẻ. Chắc chắn phản ứng của quý vị sẽ nổi giận bất bình: Như thế là không được, hoàn toàn vô lý, chẳng ai chịu đựng nổi.
Nhiều người có quan điểm như vậy, nhất là trong giới trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm về trường đời. Họ muốn trắng là trắng, đen là đen trong vận hành công lý. Cũng không thiếu những nhân vật trưởng thành suy nghĩ như thế. Nhất là trong giới bảo thủ, cứng nhắc về lập trừơng luân lý, tôn giáo. Thí dụ các Pharisêu, thượng tế, luật sĩ và cả chúng ta nữa. Mặc dù đã được Chúa dạy bảo, đọc và nghe Lời Chúa hằng ngày. Thực ra nếu theo sát hoàn cảnh của dụ ngôn thì người con cả ám chỉ các lãnh đạo tôn giáo lúc bấy giờ. Chúng ta cũng có vài nét Pharisêu trong nếp sống hằng ngày. Cũng như Pharisêu, luật sĩ, kinh sư, thượng tế, chúng ta chi ly tuân giữ lề luật Thiên Chúa, nhưng chỉ bề ngoài, không có tình yêu thúc đẩy bên trong.
Nhưng xin nhớ, đây là dụ ngôn Chúa trả lời các người Do Thái chỉ trích Ngài là ăn nhậu và đón tiếp phường tội lỗi: "Các người thu thuế và các người tội lỗi, đều lui tới Đức Giêsu để nghe Người giảng. Thấy vậy những người pharisêu và các kinh sư đều thì thầm với nhau: Ong này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng". Đức Giêsu mới kể cho họ nghe dụ ngôn: Người cha có hai người con trai. Như vậy mục tiêu của Chúa không phải là công lý mà là tình thương và ơn tha thứ. Thể hiện nơi hoàn cảnh của ngừơi con thứ. Liệu hắn có còn được hạnh phúc khi tình thế trở nên tồi tệ? Tiền hết, bơ vơ nơi đất lạ. Bất cứ chuyện chi xảy ra hắn đều gánh chịu hết: rét mướt, đói khát, lầm than, khinh bỉ. Công nhận là hắn đã phạm tội, ích kỷ, vô ơn và vô trách nhiệm. Nhưng hiện tại hắn phải trả giá đắt cho những lầm lỡ đó. Chăn heo là công việc bẩn thỉu nhất đối với người Do thái, bị người ta bóc lột đến tận xương tuỷ, mà không được kêu than. Nhưng hắn phải làm nếu còn muốn sống.
Không phải là hắn không biết đến một kiểu sống khác. Chính miệng hắn đã thốt ra điều ấy: "Biết bao người làm công cho cha tôi được cơm dư gạo thừa, mà tôi đây thì lại bị chết đói". Hắn ngộ ra mình đã làm điều lầm lỗi ghê gớm đối với gia đình, nhất là đối với người cha thân yêu, mà hắn biết rõ tấm lòng của ông. An hận, xấu hổ, tội lỗi nổi đậy trong lương tâm hắn. Hắn quyết định thoát ra khỏi cảnh hiện tại và trở về xin lỗi cha. Tuy nhiên việc trở về đâu phải dễ dàng gì, nó đòi hỏi lòng can đảm và khiêm tốn hết cỡ. Người ta đã nghi ngờ, nói gì, đồn thổi thế nào về hắn, hắn biết rõ. Chẳng phải chỉ đơn giản trở về nhà, hắn còn phải hứng chịu biết bao nhục nhã, cười chê. Nhưng có một phẩm chất lạ lùng trong lòng ăn năn hối hận của hắn. Hắn nhận ra mình đã phạm tội, không chỉ chống lại cha mà còn chống lại Đấng thiêng liêng: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, con chẳng đáng gọi là con cha nữa, xin coi con như một đầy tớ của cha vậy". Hắn hài lòng về vị trí đó.
Nhưng ăn năn thống hối suông chưa đủ. Ơn thánh chẳng thể mua bán với tình trạng như vậy. Đúng ra chẳng bao giờ ơn thánh có thể được đưa ra trả giá, bán buôn nơi loài người. Vì thế người cha phải bước tới và từ nét mặt của ông, người con thứ nhận ra tình yêu của cha mình. Hắn biết rằng hắn đã hành động đúng khi quyết định trở về nhà. Và mọi sự đều được thoả đáng. Đối với người cha không cần trách móc, hạch tội. Để mà làm chi, một khi đã là ơn huệ? Điều đáng coi trọng là người con đã chết mà nay sống lại, đã mất nay tìm thấy?
Ai có thể mô tả được nỗi vui của người con thứ trong bữa tiệc mừng hôm ấy? Chúng ta thường phí uổng nhiều thời gian vào việc hối hận. Chúng ta thường ưa làm nô lệ cho tình cảm tội lỗi. Chỉ có một điều thực sự ý nghĩa khi chúng ta trót dại phạm tội, đó là chạy về với Thiên Chúa từ bi nhân hậu, đang chờ đón con mình để ban ơn. Thật dễ dàng cho chúng ta nhất là những kẻ tự phong thánh thiện, đồng hoá mình với người con cả. Xin cứ cho là như vậy đi, kẻo nhiều người tự ái? Nhưng cũng xin nhớ rằng có thể xảy ra là chúng ta tuân giữ mọi giới răn, lề luật nhưng vẫn xa cách Thiên Chúa, Đấng giàu lòng yêu thương. Mặt khác, ai có thể khoe mình không phạm tội? Chẳng hề bẻ gãy giới răn Thiên Chúa? Có bao giờ chúng ta bất trung? Có bao giờ hoang phí ơn lành của Chúa? Có bao giờ đáp trả trọn vẹn ơn gọi của Ngài? Cho nên dụ ngôn chỉ dẫn chúng ta con đường trở về nhà Cha. Nó dạy bảo chúng ta phải làm chi "Tôi sẽ chỗi dậy và trở về cùng cha tôi, nói với Ngài rằng thưa cha con thật đắc tội với Trời và với cha".
Và một khi đã nghiệm ra ơn tha thứ và xót thương của Thiên Chúa, chúng ta thay đổi trái tim và nếp sống như bài đọc 1 tuyên bố: "Hôm nay Ta cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Aicập". Chúng ta dùng của ăn thức uống mới trong đất hứa Canaan. Chúng ta lắng nghe thánh Phaolô khuyên nhủ trong bài đọc 2: "Thưa anh em, phàm ai ở trong đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua và cái mới đã có đây rồi, mọi sự đều do bởi Ngài, và Ngài trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải". Có đúng là trong dụ ngôn cả hai anh em đều nhận được đề nghị hoà giải của người cha? Người cha đã thân hành ra xin người con cả bước vào nhà ăn tiệc mừng: Mọi sự của cha đều là của con. Như vậy cả hai anh em đều được biến đổi. Người em không trở lại đường cũ nữa, và người anh cả vui vẻ bước vào dự tiệc. Hai anh em làm hoà với nhau qua trung gian và sự thúc đẩy của người cha.
Dưới ánh sáng của dụ ngôn này, thánh Phaolô nhắc nhở các tín hữu, Thiên Chúa khởi sự hoà giải với nhân loại qua Đức Kitô. Chúng ta được đón nhận vào nhà Cha. Phúc Am không nói hai người con phản ứng ra sao trước tấm lòng của cha họ. Nhưng chúng ta biết phải làm chi trước tình yêu của Thiên Chúa. Trong bí tích rửa tội, chúng ta được giao hoà với Thiên Chúa và có đời sống mới, đời sống hoà giải. Không ai chối cải được chân lý ấy. Và thánh Phaolô truyền chúng ta phải là đại sứ của Thiên Chúa về hoà giải cho thế gian này: "Thật vậy, trong đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với mình. Ngài không chấp tội nhân loại nữa và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải". Cho nên lời ấy phải là sứ điệp hoà giải của Thiên Chúa trong mỗi người tín hữu, nhất là linh mục, tu sĩ, hàng giáo phẩm. Chúng ta phải phản ánh thông điệp ấy cho thế gian trong tình hình cực kỳ khó khăn cay đắng như hiện nay. Những gì chúng ta làm, gương sáng chúng ta sống phải tỏ ra cho người khác điều Thiên Chúa đã làm cho chúng ta? Trong đức Kitô, cuộc sống của chúng ta phải phản ánh căn tính của mình là sứ giả của Đức Kitô. Đây là nhiệm vụ rất nặng nề. Ít khi chúng ta hoàn thành nếu không trung thành với Thiên Chúa. Giám mục Helder Camara thường nói: "Tôi luôn cầu nguyện cho người con cả trở lại". Tai hại thay phẩm chất cứng đầu cứng cổ nơi chúng ta tồn tại mãi. Nó giết hại nhiều linh hồn kiêu căng, tự phong mình là hoàn hảo, thánh thiện, không cần hối cải, khinh khi kẻ khác, nhất là các tội nhân.
Đại sứ hay sứ giả nói và làm thay cho quốc gia mình. Họ được trao phó nhiệm vụ đại diện cho tổ quốc, các cấp lãnh đạo xứ mình nơi nước khác và chính phủ của họ. Như vậy chúng ta rất cần nhiều sứ giả đại diện cho Chúa Kitô trong tình hình thế giới hiện nay. Chúng ta cần được Thiên Chúa sai đi để hoà giải thế gian với Thiên Chúa và với nhau, chẳng phải về đàng thiêng liêng là đủ, cả về tình người và các nhu cầu khác của thế giới. Thánh Phaolô khuyên nhủ mọi tín hữu phải là nhân chứng hoà giải của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Mùa chay này, các giáo xứ đều tổ chức nhiều buổi sám hối gồm cả bí tích hoà giải. Trong ánh sáng Phúc Am hôm nay, chúng ta phải nghiêm chỉnh thực hành. Ơ ý nghĩa nào đó, chúng ta đều là người con hoang đàng. Tính chất hoang đàng luôn cố hữu trong mỗi cá nhân, cách này hay cách khác. Xin đừng kiêu căng phủ nhận. Cho nên mọi người đều cần đến ăn năn. Naaman cố chấp nói: Các con sông của Syria không tốt hơn sao? Nhưng chỉ có dòng nước của sông Jordan mới tẩy cho ông sạch bệnh phong cùi và trả lại da thịt ông tươi đẹp như đứa trẻ con. Ơn thánh của toà cáo giải còn mạnh mẽ hơn. Chúng ta hãy năng tắm gội trong dòng nước ấy để đựơc tha thứ và bình an. Chúa Giêsu nói với Phêrô: Nếu thầy không rửa chân cho anh, anh chẳng được dự phần với thầy. Bí tích rửa tội cho phép chúng ta dự phần vào sự sống của Đức Kitô. Chúng ta phải năng xưng tội để tẩy sạch linh hồn, ngõ hầu nhận lãnh sự sống của Chúa đầy đủ hơn qua Mình và Máu Thánh Ngài.
Đức Giáo Hoàng Piô XII thường ca tụng bí tích hòa giải. Ngài nói: Nó mang lại khiêm tốn, tự biết mình, lướt thắng thói xấu, tẩy sạch lương tâm, ban ơn thánh và lớn lên trong đàng thiêng liêng. Đức thánh cha quên mất một điều: Phát triển tình yêu, lòng tha thứ và ơn hoà giải với mọi người. Lời tha thứ của bí tích hoà giải không phải là cầu xin mà là "Vậy tôi tha tội cho anh, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần". Một lời tuyên bố thẳng thắn, cho thấy lòng thương xót của Thiên Chúa. Cộng đồng chấp nhận và thực hành. Do đó cộng đồng trở thành sứ giả của Thiên Chúa về vấn đề này. Cộng đồng nhân danh Thiên Chúa nói tha thứ, hoà giải với hết mọi người, mọi dân tộc, quốc gia. Dụ ngôn hôm nay còn bỏ ngỏ, chưa có kết thúc, chưa rõ sự đáp trả của hai người con. Cho nên chúng ta phải hoàn thành nó bằng câu chuyện đời mình: Làm hoà với Thiên Chúa, với anh em và trở nên sứ giả về lòng Chúa xót thương. Lúc ấy mùa chay của chúng ta mới có ý nghĩa. Amen.
Sợi chỉ đỏ xuyên suốt phụng vụ Lời Chúa hôm nay là lòng thương xót của Thiên Chúa. Người luôn vui mừng khi thấy con cái hạnh phúc. Dân Israel khi được vào Đất hứa, họ đã cử hành lễ Vượt Qua để nhớ đến lòng thương xót của Chúa, dù họ đã bất trung trong sa mạc nhưng Chúa vẫn thương đưa họ vào đất hứa (Gs 5, 9 - 12). Cũng vậy, khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã không vì thế mà xử phạt, nhưng đã sai Con mình là Đức Kitô đến để giao hòa với Thiên Chúa, Đấng đầy lòng thương xót (2Cr 5, 17 - 21). Điều này được minh họa qua dụ ngôn mà Chúa Giêsu nói với người Dothái (Lc 15, 1 - 3. 11 - 32). Người Do Thái vẫn nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ yêu người công chính và ghét người tội lỗi, trong khi Chúa Giêsu lại đồng bàn với những người tội lỗi nên Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn để biện minh cho cách hành xử của mình. Đồng thời Ngài cũng mặc khải cho họ nhận ra rằng Thiên Chúa yêu thương con người như thế nào, mặc dù họ tội lỗi nhưng khi họ ăn năn trở lại, Thiên Chúa vui mừng mở tiệc.
Bài Tin Mừng đặt chúng ta vào sự lựa chọn, sự phận định. Chúng ta là đứa con nào trong hai người con ? Người con thứ, tự do ra đi, người cha tôn trọng quyết định của anh, nhưng vẫn ngóng trông anh trở về và rồi anh đã tự do trở về. Trái tim người cha dường như vỡ ra, vòng tay người cha như rộng ra, không cần lời xin lỗi, chỉ cần "Con tôi đã chết nay sống lại". Thiên Chúa cũng như người cha ấy. Chúng ta phạm tội, Thiên Chúa vẫn yêu thươong và có lẽ còn yêu thương nhiều hơn, không đợi chúng ta trở nên hoàn thiện mới yêu thương, mà yêu thương khi chúng ta còn là tội nhân. Thiên Chúa chỉ cần chúng ta cảm nhận được lòng nhân từ thương xót của Người. Nếu chúng ta không bao giờ phạm tội, chúng ta sẽ không bao giờ cảm nhận được niềm vui khi được tha thứ.
Người con cả, một người con vâng phục cha, một người con mẫu mực nhưng lại là người con ở ngòai nhà cha. Anh thi hành mệnh lệnh như một người làm công với ông chủ, chứ không phải là một người con. Chính vì thế mà anh không chấp nhận người em của anh "đứa con của cha". Không chấp nhận cách hành xử của cha, nên cũng không chịu vào nhà. Người cha phải nài nỉ anh. Chúng ta thuộc lọai người con nào: Con cả hay con thứ ? Có lẽ những người Kitô hữu chúng ta đều hành xử như những người con cả. Chúng ta tự nhận mình là những người đạo hạnh, giữ luật nghiêm túc, để rồi không chấp nhận những anh chị em sa ngã. Như thế hóa ra chúng ta cũng chỉ là đứa con không chịu vào nhà với Cha. Và có lẽ bài Tin Mừng hôm nay chú ý đến người con này hơn ? Như thế chúng ta thuộc loại người con nào thì cũng cần phải sám hối. Sám hối để trở về và để trở vào, sám hối để hợp nhất với tình yêu, niềm vui và sự sống của cha.
Tuy nhiên để có thể trở về, trở vào, tham dự tiệc mừng tưởng không dễ. Người con cả cần bỏ đi những tự ái, những cái nhìn không đúng; và người con thứ cần khiêm tốn, cần can đảm. Tất cả hãy đứng lên bỏ đi những gì đang cản trở mình. Dĩ nhiên sự từ bỏ ấy gây nhiều đớn đau, nhưng sẽ hạnh phúc biết bao vì nhận ra mình đang có chỗ đứng trong trái tim cha và có anh em con cùng cha bên cạnh. Thật chẳng có gì khó khi trở về với những chiến công hiển hách, với những phúc lộc đầy dư, nhưng trở về với hai bàn tay trắng, với thân xác rã rời là một việc anh hùng đáng khen thưởng.
Người cha của hai người con sẽ vô cùng hạnh phúc khi thấy cả hai người con bên cạnh mình trong bữa tiệc mừng. Người con tội lỗi lúc này làm chứng về tình thương và lòng xót thương của cha. Còn người con công chính thì làm chứng về ân sủng và lòng trung thành của Thiên Chúa. Mỗi người con lúc này s ẽ nhận ra mình quá ư giàu có, có cha, có anh em, có cả gia tài khếch xù là Nước Trời.
Lạy Chúa, lòng nhân hậu của Chúa đã làm cho Chúa quên đi những xúc phạm của chúng con. Xin cho mỗi người chúng con là những kẻ nhận lãnh sự khoan hậu của Chúa, chúng con sẽ có một trái tim quảng đại biết chấp nhận yêu thương nhau. Sẵn sàng tha thứ cho những sai sót lỡ lầm của nhau, để đời sống huynh đệ của chúng con thực sự là sứ điệp bình trong thế giới hôm nay.
Tv theo mẫu tự, mỗi câu mở đầu bằng một mẫu tự Do Thái. Tv nói về ai? Ai là người được mời chúc tụng Chúa? Những người nghèo, "xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên".Vâng, kẻ bần cùng, người khiêm cung, những tấm lòng tan vỡ được gọi là những người hạnh phúc, trong khi kẻ giàu sang phải bần cùng đói khổ.
Cùng Đọc với Đức Giêsu
Phúc cho kẻ nghèo vì Nước Trời là của họ. Qua những lời Tv như Tv này, chúng ta mới thấy rõ Đức Giêsu đã thấm nhuần lời kinh nguyện của dân tộc Ngài như thế nào... cũng như Mẹ Maria với lời kinh Magnificat. Chúc tụng là tâm hồn của Đức Giêsu. Mỗi một lời kinh nguyện của Ngài đều mang sắc thái của Tv này: Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. (Lc 10,21).
Thánh sử Gioan đã trích dẫn Tv này khi muốn giải thích sự kiện Đức Giêsu bị đâm thủng cạnh sườn thay vì bị đánh bể ống chân: Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh dập (Ga 29,36) để lời kinh thánh được ứng nghiệm. Đức Giêsu người nghèo nhất, mời ta lắng nghe lời tạ ơn của Ngài vì Chúa Cha gìn giữ xương cốt Ngài dầu một khúc cũng không dập gãy. Một lần nữa ta thấy Thánh Kinh mời ta đọc một cách sâu xa. Lời hứa hạnh phúc tràn đầy trong Tv không thể được hiểu như thực hiện ngay tức khắc, mang tính vật chất. Nên nghĩ đến Đức Giêsu khi ta nghe tác giả Tv nói: Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi. Xương cốt họ đều được Chúa giữ gìn dầu một khúc cũng không dập gãy. Chỉ sự phục sinh mới hoàn thành lời hứa này.
Cùng Đọc với người thời nay.
Người khốn khổ kêu cầu: Chúa đã nghe. Xã hội hiện nay quan tâm đến người nghèo. Con người muốn có sự bình đẳng trong các tầng lớp xã hội, người ta đề ra nhiều phương án để giúp đỡ những lớp người cùng khổ, các trẻ em không được đến lớp...Cho dù chưa có hiệu quả cao, nhưng cũng là một dấu chỉ của thời đại. Những ai không muốn lắng nghe tiếng kêu của người nghèo, tự đặt mình bên ngoài chương trình của Thiên Chúa. Kẻ nghèo kêu lên và Chúa đã nhận lời. Nói lên câu này, lắm lúc ta lại bị tố cáo là "làm chính trị". Nghĩ thế là hoàn toàn không biết gì về mạc khải trong Thánh kinh. Kẻ không đứng về phía những người nghèo, chống lại những bất công, bất bình đẳng, không thể được gọi là người đạo đức. Một thế đứng trên thế giới làm cho người ta buộc theo một lựa chọn nhất định nào đó và tìm mọi phương cách thực hiện cho bằng được mục đích ấy. Đừng quên rằng những vấn đề xã hội nóng bỏng thuộc thế kỷ 20 không nằm bên trong những những hệ thống của các nước phương Tây, nhưng là nơi mọi xã hội kỹ nghệ hoá (đã chiến thắng nạn đói) và nơi những nước thuộc thế giới thứ ba (đang kêu cứu vì đói). Hãy đọc lai Tv 33 trong viễn cảnh ấy. Và bạn sẽ có được một sức mạnh lạ lùng để cầu nguyện giữa lòng thế giới.
Lời mời gọi hành động để giải phóng, để cứu thoát, để hủy diệt cái khổ. Làm thế nào khỏi phải giả hình khi ta đọc câu "xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên" nếu không phải là dấn thân với tất cả khả năng của mình để cho người nghèo được bớt nghèo hơn ?
Lời hứa hạnh phúc. Ai muốn hạnh phúc phải lánh xa sự dữ, làm lành, kính sợ Thiên Chúa, tìm kiếm Ngài. Quá ngây thơ, một số người nghĩ thế ! Nhưng sự thật lại đúng như thế ! Những người hạnh phúc thật chính là những người mà Tv nhắc đến. Ban hãy thử sống để cảm nghiệm.
Bản tường thuật mà Thánh Luca đã kể về hai người con, chắc nhiều người trong chúng ta đã đọc hoặc nghe rất nhiều lần. Nhưng có một điều mà cho đến giờ này, cá nhân tôi vẫn chưa hiểu để tìm ra được nhân dáng của mình qua hình ảnh của bất cứ người nào trong hai người con ấy.
Không chỉ là trong phạm vi tâm linh đạo đức, mà ngay cả đối với cha mẹ phần xác, giới răn thứ 4, tôi sống và cư xử lắm lúc trưởng không ra trưởng mà thứ không ra thứ. Và điều này hẳn đã có lần làm cho song thân tôi khó chịu và buồn lòng.
Riêng trong đời sống tâm linh, nhiều lúc tôi không thấy mình là người con trưởng. Người mà thường ngày hiếu thảo và chăm lo phụng dưỡng cha già, mặc dù đôi lúc vẫn hy vọng được cha mình biết đến và tưởng thưởng. Tôi cũng chẳng thấy mình giống người con thứ. Bởi vì tôi chưa đủ can đảm để xin cha mình chia gia tài cho một chuyến ra đi dong chơi dưới trời quên lãng. Có lẽ vì sống lấp lửng và yêu mến một cách lấp lửng như thế, tôi thấy lời cảnh báo của sách Khải Huyền khi nói về giáo đoàn Laodicea phần nào đúng với tôi: “Ta biết các việc làm của ngươi. Ta biết ngươi nóng không nóng mà lạnh cũng không lạnh. Điều mà ta muốn ở nơi ngươi là hoặc là nóng hoặc là lạnh” (Khải Huyền 3:15).
Phải chi tôi như người con thứ dám đối diện với thực tế. Dám chấp nhận cuộc chơi. Nhưng mất linh hồn thì không dám, nhất là khi phải đối diện với hai chữ đời đời. Cái hèn của tôi là ở chỗ đó. Chơi ngông, chơi ngang, muốn làm cha thiên hạ thì cũng muốn. Nhưng nghĩ đến chuyện phải đi chăn lợn và ăn cám lợn thì lại run. Như vậy có nghĩa là tôi chỉ sống trong ảo tưởng và ảo giác. Thực tế, tôi lại rất sợ chết, sợ bị tai tiếng, sợ người khác chê cười. Tóm lại, tôi không muốn ai nhìn thấy tôi, biết tôi là một đứa con hoang đàng.
Mà phải chi tôi được như người anh cả, chăm lo hầu hạ và phụng dưỡng cha già ngày đêm. Cứ ví như lối sống đạo, giữ đạo của mấy bà nhà quê, mấy người dốt nát vậy. Ngay cả ở tư thế này, tôi cũng chẳng có. Đi lễ thì nhức đầu. Quỳ lâu thì đau đầu gối. Lần hạt thì ngủ gật. Tóm lại, cái gì đụng đến đạo nghĩa là tôi có trăm nghìn lý do để lẩn tránh, nhưng hễ có dịp thì tôi không ngần ngại tỏ ra mình là người rất sùng đạo, rất yêu mến và kính sợ Thiên Chúa. Nhất là mỗi khi thấy ai đó có hành vi, ngôn ngữ xem như xúc phạm đến Chúa thì tôi không thể nào chịu được. Y như tâm sự của người con trưởng nhìn thấy người em mình sau những tháng năm hoang đàng nay trở về. Chì chiết, khó chịu, bực tức, và ghen tị. Như vậy thì tôi ở vào trường hợp nào. Con trưởng hay con thứ. Lối sống nửa nạc, nửa mỡ ấy của tôi phải chăng là một sự đau lòng cho người cha rất mực thương yêu mình.
Thật ra, cả hai người con đều làm cho cha mình buồn và khổ, ít nhất trong 3 lý do sau:
1. Thiếu thông cảm:
Đọc kỹ những lời trao đổi giữa người con trưởng, người con thứ và cha già của họ, chúng ta thấy cả hai đã không hiểu và không muốn hiểu ý của cha mình. Một hình thức thiếu cảm thông và lắng nghe cần thiết cho những trao đổi tâm tình, nhất là mối thân tình giữa cha mẹ và con cái.
Người con trưởng thì phàn nàn, so sánh, nuối tiếc. Người con thứ thì ngang tàng, bướng bỉnh đòi phải chia cho được phần gia tài thuộc về mình. Cả hai hình thức nói năng như thế đều rất thiếu kính trọng và hiểu biết.
Vì thiếu thông cảm, nên người con trưởng cho rằng cha mình không công bằng. Vì thiếu thông cảm, nên người con thứ mới lên tiếng hạch hỏi và kết quả đã tạo nên một chuỗi ngày đau khổ, mòn mỏi chờ mong của cha anh. Ngày ngày đau buồn nhìn về phương trời xa xăm nào đó mong có ngày con quay về. Cũng may mà anh đã quay về sau những bài học đắng đót.
2. Thiếu tình yêu mến:
Làm sao ta có thể cho rằng người con cả cũng như người con thứ đã hiếu thảo và tận tình với cha già của mình.
Trong những năm tháng mà anh gọi là “hầu hạ” và không dám “cãi lệnh” của cha anh, người con trưởng đã hành động như một tên đầy tớ. Không có một chút tình cảm cha con, và càng thiếu hẳn lòng yêu mến, hiếu thảo cần thiết dành cho cha già mình. Đây không phải là chúng ta suy đoán hoặc gán ghép cho anh, mà là chính miệng anh nói ra những lời này.
Phần người con thứ thì càng không thể nói là đã yêu mến và thảo kính cha mình. Làm sao có thể nói là anh yêu mến và kính trọng cha anh khi anh đã làm cho cha anh đau khổ mỏi mòn. Sự đau khổ của cha anh cũng không phải do chúng ta suy luận, mà là chính miệng ông đã nói ra: “Con ta đã chết, nay sống lại. Đã mất nay tìm thấy” (Luca 15:24). Không biết nếu anh không trở về, liệu ông có nhắm mắt nổi khi chết không hay vì quá đau khổ, thương con mà mở to con mắt để mong bắt gặp hình ảnh con mình.
3. Thiếu tình nghĩa anh em:
Không biết trong cuộc sống thường ngày hai anh em này có nói truyện, trao đổi, và yêu thương nâng đỡ nhau hay không, nhưng nhìn vào lối sống và hành động thì rõ ràng hai người tương phản nhau và hoàn toàn khác biệt. Một người ngang tàng, ăn chơi, trác táng và biếng nhác. Một người hà tiện, hẹp hòi, và ghen tị.
Thái độ sống của người anh đã phản ảnh rõ ràng, và sự hẹp hòi, bủn xỉn anh ta đã khiến người cha phải xuống nước năn nỉ. Có lẽ vì muốn đề cao tình thương của người cha đối với con mình nên Thánh Ký đã không ghi nhận gì về cảm tình của hai anh em này sau những ngày tháng xa cách. Nhưng cũng có lẽ vì thiếu tình nghĩa anh em, nên Thánh Ký chỉ ghi nhận phản ứng của người con cả để nói lên những bất đồng về quan niệm, về lối sống, và nhất là sự xích mích giữa hai anh em này.
Con nào đây?
Phần tôi, tôi là ai? Người anh, người con trưởng; hoặc người em, người con thứ. Hay lẫn lộn cả hai?
Rất nhiều lần và nhiều trường hợp, tôi đã sống lẫn lộn và phản ảnh của cả hai con người, hai nếp sống ấy trong mối tương quan giữa tôi và Thiên Chúa. Một mặt tôi ngang tàng, bướng bỉnh, và lấn lướt như người em, người con thứ. Mặt khác tôi ích kỷ, hẹp hòi, và tính toán như người anh, người con trưởng. Chính vì lối sống ấy, lối suy nghĩ ấy tôi đã không làm vui lòng Thiên Chúa. Một lối sống, lối suy nghĩ không phản ảnh tình thương của Thiên Chúa Cha, và mối tình hiệp nhất, bác ái giữa anh chị em với nhau.
Mùa Chay, mùa thống hối ăn năn. Mùa cầu nguyện và sửa sai. Xin cho con biết nhận ra chân tướng của mình. Và để con sống thật với con, với Chúa, và với anh em.
Tôi là ai? Người con trưởng, anh cả hay người con thứ, em út? Không! Tôi muốn tôi là chính tôi. Và tôi phải là người con biết cảm thông với nỗi cảm thông của cha mình, biết yêu thương, hiếu thảo với cha, và biết yêu thương, hiệp nhất với anh chị em mình. Đây chính là thái độ, suy nghĩ, và lối sống của tôi, của những người con cái Chúa.
Tuần báo Newsweek đã cho in bìa hình bác sĩ Dean Ornish, một người đang làm đảo ngược lối sống người Mỹ và lung lay ngành thuốc bằng một loạt những khảo cứu đã được chứng nghiệm bằng khoa học từ trên mười năm nay.
KHÁM PHÁ PHƯƠNG THỨC MỚI KHỎI PHẢI MỔ TIM
Hai chứng bệnh tốn tiền nhiều nhất và làm chết nhiều nhất ở Âu Mỹ bây giờ là bệnh tắc tim và ung thư. Một cuộc giải phẫu mạch tim thường tốn cả mấy chục ngàn tiền Mỹ. Vậy mà bác sĩ Dean Ornish đã tìm ra cách thông mạch mà không cần phải giải phẫu hay dùng thuốc gì cả. Kinh nghiệm này ông đã học được từ chính đời ông. Những thất bại trong cuộc sống làm ông xuống tinh thần tột độ, mất hết nhuệ khí, đã có lần toan tự tử. Thế mà ông đã tìm lại được sinh lực nhờ mở tâm ra mà đi đến được với người khác. Từ giữa thập niên '70, ông đã bắt đầu thực nghiệm với một nhóm nhỏ trong một thời gian bốn tuần: cùng bác cầu tình thân, chia sẻ được những ưu phiền, sinh hoạt và cầu nguyện chung, và chỉ ăn rau, trái cây, đậu phụ... chứ không ăn thịt gì cả. Kết quả là 90% bớt được chứng tức ngực, và máu chạy khỏe khoắn hơn. Nhưng nhiều người hồ nghi kết quả này vì thời gian chưa đủ đảm bảo, và phương pháp lại quá nghiêm ngặt khắc khổ khiến cho khó mà có nhiều người áp dụng được.
Vậy là bác sĩ Ornish phải bước xa hơn. Khi dạy ngành thuốc tại Đại Học California ở San Francisco, ông thiết lập ở Sausalito một Viện Khảo Cứu Y Học Phòng Ngừa (PMRI) với 48 bệnh nhân kéo dài cả năm trời. Hai mươi tám người này theo phương cách của ông; số còn lại thì cứ theo phương pháp thông thường ngừa bệnh. Và ông đã dùng máy trắc nghiệm hình để đo trong suốt năm. Kết quả được phổ biến năm 1990 đã làm mọi người kinh ngạc. Những người theo phương pháp thông thường thì trở nên tệ hơn trước, còn những người theo sát chương trình của bác sĩ Ornish thì có kết quả rất khả quan: mạch máu được khai thông, tim khỏe lại. Thế là các viện y tế quốc gia bỏ tiền ra hỗ trợ khảo cứu tiếp kéo dài bốn năm. Các hãng bảo hiểm cũng nhào tới tài trợ chương trình, vì cứu được một người bệnh tim nặng không phải giải phẫu tốn phí quá sức thì quả là một điều đáng đầu tư. Vì ở Mỹ nguyên chi cho việc mổ tim là 26 tỉ tiền Mỹ mỗi năm.
CĂN BỆNH TÁCH LÌA
Đồ ăn quá nhiều thịt và chất mỡ là căn nguyên đầu tiên gây ra bệnh tắc mạch tim vì chất cholesterol. Theo thống kê thì dân Âu Mỹ hiện nay bị chết vì bệnh tim nhiều hơn gấp 20 lần những dân ở những nước Á Đông ăn nhiều rau hơn. Như vậy thì truyền thống ăn chay và kiêng thịt trong Đạo Chúa chẳng phải chỉ là việc hy sinh hãm mình mà thôi, mà còn là một phương cách lấy lại sức khỏe cho thể xác liên hệ tới tinh thần. Chất mỡ làm tắc mạch nên phải tìm cách khai thông. Vì thế mà đồ ăn trong chương trình của bác sĩ Ornish chỉ có rau, trái cây, bánh, đậu nành, đậu phụ; và hoàn toàn vắng bóng thịt và ngay cả tôm cá, không dùng cà-phê, bơ, hạt cây và các loại dầu có chất mỡ.
Căn nguyên thứ hai cũng mạnh y như trên là chứng tách lìa tình thân. Kể cũng lạ đời, những người ghi tên tham dự chương trình phải trả tới 7500 Mĩ kim cho những sinh hoạt nhóm. Họ được hướng dẫn để có những hoạt động thể thao chung, những buổi "tĩnh tâm" chung, có cầu nguyện, có tịnh niệm, có chia sẻ những buồn vui lo lắng, những ấm ức trong lòng... Bác sĩ Ornish thấy rõ cô đơn tách lìa thiếu tình thân là căn nguyên mọi chứng bệnh, mà gần nhất là bệnh tim và ung thư.
DÂN ROSETO VỚI CHỨNG RỜI XA
Một quan sát điển hình nhất là làng Roseto ở phía đông bang Pennsylvania. Dân ở đây trước kia ít bị bệnh tim, dù họ ăn cũng giống như dân làng bên cạnh là Bangor, cũng đi những bác sĩ và nhà thương giống nhau thôi. Nhưng tại sao dân làng Roseto lại có tỉ lệ chết vì bệnh tim rất thấp so với dân làng Bangor? Câu trả lời thật đơn giản: dân làng Roseto là một nhóm người rất gần gũi thân nhau. Họ di cư từ nam Ý sang đây vào năm 1882; đã ba thế hệ họ sống với nhau, gắn bó lấy nhau, cùng sinh hoạt đi nhà thờ với nhau, cùng giữ mối liên hệ gia đình chặt chẽ, ít người rời chuyển đi xa. Nhưng từ khoảng giữa thập niên '70, dân Roseto bắt đầu bỏ làng chuyển đi như dòng sống nước Mỹ. Thế là bệnh tim bắt đầu hoành hành.
Với cuốn sách mới xuất bản: Tình Thương và Sống Còn, Căn Bản Khoa Học cho Sức Mạnh Chữa Bệnh của Tình Thân (Love & Survival: The Scientific Basis for the Healing Power of Intimacy, HarperCollins), bác sĩ Ornish nói rõ: tách lìa tình thân gia đình và bạn bè là đầu mối cho mọi thứ bệnh từ ung thư, bệnh tim đến ung nhọt và nhiễm độc. "Tình Thương và Tình Thân là gốc rễ làm cho chúng ta bệnh hay khỏe". Căn nguyên làm đổi dạng Roseto thì cũng đang làm cho thế giới bị bệnh. Ba mươi năm trước mà có ai nói cô đơn sinh ra các chứng bệnh thì người ta cười vào mặt liền. Vậy mà bây giờ nhiều bác sĩ đã phải công nhận là đúng.
Một trong những sinh hoạt chính của những người tham dự chương trình của bác sĩ Ornish là gặp gỡ nhau để chia sẻ trong tình thân. "Nếu bạn không nói ra được những gì dồn nén bên trong thì bạn sẽ tự hành hạ; khi người ta có thể nói ra hay ít nhất có thể viết ra được những gì đang làm mình khổ tâm, thì hệ thống đề kháng được tăng cường, và ít phải uống thuốc." Như vậy bác cầu tình thân với người khác sẽ làm cho tính tình được thanh thản, bớt bị căng thẳng. Bởi vì khi bị căng thẳng thì trong cơ thể tiết ra một loại hóa chất gọi là adrelanine, noradrelanine và cortisol. Những chất này như còi hụ tình trạng báo động nguy cấp, mọi nỗ lực chỉ còn dồn vào một động tác duy nhất là đánh hay chạy; mọi sinh hoạt khác bị ứ đọng hoàn toàn: ăn không cảm thấy ngon, đầu hết suy nghĩ được, mạch máu trì trệ, mất kháng tố chống nhiễm trùng nên các tế bào sinh chứng, dễ bị cảm cúm, mất hết hứng khởi...
Như vậy, cô đơn tách lìa cũng là chất độc như chất cholesterol trong miếng cheeseburger mà chỉ tình thương mới chữa cứu nổi. "Nếu bạn không mở tâm ra cho người khác thì bác sĩ bắt buộc phải mở tim bạn thôi!"
Không có con đường nào khác nữa đâu. Bác sĩ Ornish tâm sự: "Tôi càng tìm vun quén cho mình thì càng cô đơn, nhưng khi tôi biết tìm phục vụ người khác thì tôi thấy hạnh phúc hơn nhiều."
Thì ra đây không phải chỉ là một cuộc làm lung lay ngành thuốc, mà là một cuộc cách mạng lối sống của nền văn minh Âu Mỹ: từ cách ăn uống đến kiểu suy nghĩ và cư xử.
TIN VUI GỬI NGƯỜI BỊ "CÚP" ĐIỆN
Câu truyện Kinh Thánh tuần này diễn tả một thanh niên đến tuổi lớn nên nghĩ mình phải tỏ ra "ngầu" hơn, trưởng thành hơn, văn minh hơn, bằng cách xin tách lìa khỏi gia đình, khỏi tình thân: "Xin cha cho con phần gia tài thuộc về con!" "Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ phung phí hết tiền của."
Và sau đó là giá phải trả: đói khát, phải đi làm đầy tớ nuôi heo, phải ăn thừa cám bã của heo mà cũng không xong. Thê thảm, cô đơn, bệ rạc. Tình trạng như bị "cúp" điện. Sự tách lìa khỏi tình thân gia đình và tình thương của người cha đã phải trả một giá quá cao, chẳng khác chi cơn bệnh thời đại bây giờ. Thì cũng lặp lại cùng một câu truyện của nguyên tổ A-đam và E-và muốn cắt đứt tách lìa khỏi cây hằng sống để tập làm "người nhớn" cho văn minh hơn. Dây điện đã bị đứt, tách lìa khỏi nguồn điện, thì bóng điện có đẹp đẽ mấy cũng trở thành vô ích, căn phòng đời sống sẽ trở thành tăm tối ngột ngạt.
Cũng may là người con còn biết hồi tâm quyết định trở về nối lại dòng điện. Và tình thương người cha thì lạ lùng quá: chấp nhận trở về vô điều kiện.
PHÚT MỞ TÂM
Lâu nay mình cũng thấy đời sống có cái gì không ổn, ngột ngạt tù túng làm sao ấy. Bị quăng vào vòng quay của xã hội mới, mình cũng theo đà tìm sống chủ nghĩa cá nhân, tách lìa, chả muốn liên hệ với ai, chả muốn động chạm tới cộng đoàn, vì nghĩ rằng đó là cách sống độc lập thoải mái. Rồi công ăn việc làm và những vật lộn cuộc sống hằng ngày làm mình bận quá, chả còn giờ mà nghĩ tới đời sống tâm linh, không còn có thể để ra lấy năm phút mỗi ngày mà hồi tâm, mà dừng chân nhìn tới nhìn lui về cuộc đời của mình, mà nhìn lên để thấy được nguồn sống tinh thần của mình.
Không ngờ chương trình khảo cứu thực nghiệm khoa học của bác sĩ Dean Ornish lại là thời điểm chỉ cho thấy cơn bệnh thời đại và giá phải trả cũng như cách hồi phục. Dù sao thì những người tham dự chương trình của bác sĩ Ornish cũng phải trả bộn tiền để được chỉ cách "ăn chay và kiêng thịt" một cách tích cực hứng khởi, và được họp nhóm để tập hít thở lấy lại sinh khí, tập mở tâm để chia sẻ và khơi dậy tình thân chứ không muốn để các bác sĩ mổ ngực nữa! Bác sĩ Ornish biết rõ giá trị của hồi tâm: "Khi tâm trí bạn tĩnh lặng, bạn thấy không còn tách lìa và cô đơn nữa, vì bạn đang nối được vào Đại Ngã Tâm Linh."
Đúng như Thánh Vịnh 46: "Dừng tĩnh lại, thì biết Ta đây là Thiên Chúa." Nhưng điều không ngờ hơn nữa, chương trình như trên đâu phải do bác sĩ Ornich mới tìm ra, thực ra thì ông ta chỉ có công chứng minh bằng thực nghiệm khoa học thôi. Chúa đã khai mở Tin Vui từ lâu trong Kinh Thánh. Và Hội Thánh đã áp dụng và đưa ra những chương trình rất cụ thể như đang có trong các cộng đoàn xứ đạo. Những sinh hoạt chung, những tham dự hội đoàn, những dựng xây nhóm tình thân trong tinh thần mới như của các phong trào Linh Thao, Cursillo, Canh Tân, Thăng Tiến Hôn Nhân Gia Đình, Thánh Linh... và nhất là qua các bí tích, đặc biệt bí tích Hòa Giải khai thông mọi tắc nghẽn tách lìa, và bí tích Thánh Thể nối vào nguồn nhựa sống với Chúa và với nhau thành một nhiệm thể. Cơ hội đã sẵn. Thời giờ đã thuận tiện. Tôi đã muốn hồi tỉnh mở tâm ra chưa hay đợi xe cấp cứu hú còi chở đi cho các bác sĩ mở tim?!
Đây là thời điểm mà khoa học đã khám phá ra sự quan trọng của lửa tình yêu. Tám mươi ngàn năm trước đây nhân loại mới tìm ra được lửa, cứu được trái đất khỏi chết lạnh. Thì vào ngàn năm thứ ba, con người phải tìm ra sức nóng của lửa tình thương để cứu con người khỏi bị hủy diệt. Nhà thần học và cũng là nhà khoa học nổi tiếng Teilhard de Chardin đã phát biểu một cái thấy then chốt cho thời điểm 2000: "Một ngày kia khi đã chế ngự được gió, sóng biển, thủy triều, trọng lực, chúng ta sẽ khơi được mạch năng lượng tình yêu. Đó là lúc trong lịch sử nhân loại lần thứ hai khám phá ra lửa."
Mùa Chay là Mùa Ăn Năn Sám Hối để được làm hòa với Thiên Chúa. Làm hòa với Thiên Chúa thì chúng ta vừa tránh được đại họa là đánh mất sự sống vĩnh cửu của mình, vừa được Thiên Chúa thứ tha mọi tội lỗi và phục hồi phẩm giá và tước vị làm con.
Ba bài Thánh Kinh Chúa Nhật IV Mùa Chay cho chúng ta biết rõ điều ấy. Nhờ ăn năn sám hối mà những người Do-thái được vào Đất Hứa, cử hành Lễ Vượt Qua để cảm tạ Thiên Chúa về ơn được cứu khỏi cảnh nô lệ Ai-cập. Nhờ ăn năn sám hối mà những người Do-thái và chúng ta sẽ được làm hòa với Thiên Chúa là Đấng không muốn một ai phải chết khi Người đã sai Con Một Người đến trần gian để cứu chuộc nhân loại. Nhờ ăn năn sám hối mà những người Do-thái và chúng ta sẽ được Thiên Chúa là CHA tha thứ và đón nhận lại trong nhà của Người, như người cha nhân hậu đón nhận đứa con hư trở về sau chuỗi ngày đi hoang, phung phá của cải thừa kế là ơn huệ của Chúa và làm mất cả phẩm giá cao quý của mình khi phạm tội. Không những Thiên Chúa đón nhận lại mà còn bù đắp một cách rộng rãi ngoài sức tưởng tượng cho kẻ quay về.
Chúng ta hãy dành thời gian tìm hiểu, suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện để biết cách phải sống thế nào với Thiên Chúa là Cha từ bi nhân hậu luôn rộng lòng thứ tha cho kẻ ăn năn sám hối.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Gs 5, 9a.10-12): Sau khi vào Đất Hứa, dân Chúa mừng Lễ Vượt Qua. 9Sau khi dân Ít-ra-en vào Đất Hứa, Đức Chúa phán với ông Giô-suê: "Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Aicập." 10 Con cái Ít-ra-en đóng trại ở Ghin-gan và cử hành lễ Vượt Qua ngày mười bốn trong tháng, vào buổi chiều, trong vùng thảo nguyên Giê-ri-khô. 11 Hôm sau lễ Vượt Qua, họ đã dùng thổ sản trong xứ, tức là bánh không men và hạt lúa rang, vào đúng ngày đó. 12 Hôm sau, không còn man-na nữa, khi họ dùng thổ sản trong xứ; thế là con cái Ít-ra-en không còn có man-na nữa. Năm ấy, họ đã dùng hoa màu của đất Ca-na-an.
2.2 Trong bài đọc 2 (2 Cr 5,17-21): Thiên Chúa đã cho chúng ta được hòa giải với Người trong Đức Ki-tô. 17 Thưa anh em, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. 18 Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Ki-tô mà cho chúng ta được hòa giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hòa giải. 19 Thật vậy, trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hòa giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hòa giải. 20 Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Ki-tô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Ki-tô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa. 21Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Lc 15,1-3.11-32): Em con đây đã chết mà nay sống lại. 1 Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. 2 Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." 3 Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này: 11 "Một người kia có hai con trai. 12 Người con thứ nói với cha rằng: "Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. 13 Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. 14 "Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, 15 nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. 16 Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho.17Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: "Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! 18 Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, 19 chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy. 20 Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. 21 Bấy giờ người con nói rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. ..22 Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu,23 rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! 24 Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng. 25 "Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, 26 liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. 27 Người ấy trả lời: "Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ. 28 Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. 29 Cậu trả lời cha: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. 30 Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng! 31"Nhưng người cha nói với anh ta: "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. 32 Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy."
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI KINH THÁNH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa
3.1.1 Bài đọc 1 (Gs 5, 9a.10-12) là một đoạn văn tuy ngắn nhưng rất quan trọng đối với lịch sử Ít-ra-en và lịch sử Cứu Độ. Cuộc giải thoát và xuất hành của Ít-ra-en chỉ trọn vẹn ý nghĩa khi họ đặt chân vào Đất Hứa. Quảng thời gian 40 năm đi loanh quanh trong sa mạc là thời gian thanh luyện và thử thách lòng tin. Lịch sử đã cho thấy không phải tất cả mọi người Ít-ra-en đã vượt qua Biển Đỏ đều đặt chân vào Đất Ca-na-an. Rất nhiều người đã chết trong cuộc lữ hành xuyên qua hoang địa, kể cả ông Mô-sê. Chỉ những người vững lòng tin vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa mới được cùng ông Giô-suê bước vào vùng Đất Hứa mà thôi. Ngay cả chính ông Mô-sê cũng không được vinh hạnh này.
à Trong đoạn sách Giô-suê trên, chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng có kế hoạch đàng hoàng, có chương trình hẳn hoi, có dự phòng tất cả. Hành động nào, lời nói nào của Thiên Chúa cũng mang một ý nghĩa. Mỗi hành động, mỗi lời nói ấy có thời điểm của nó. Ví dụ trong sa mạc dân sống nhờ man-na, trong Đất Hứa dân sống bằng bánh là sản phẩm làm từ lúa là sản phẩm của đất và dân sẽ cử hành lễ Vượt Qua mà tưởng nhớ công ơn giải thoát của Thiên Chúa.
3.1.2 Bài đọc 2 (2 Cr 5,17-21) là những lời giãi bày chí lý của Thánh Phao-lô Tông đồ nhằm khuyên nhủ các tín hữu Cô-rin-tô hãy biết làm hòa với Thiên Chúa là Đấng luôn mở rộng tấm lòng và bàn tay để thứ tha tội lỗi. Bằng chứng hùng hồn là Chúa Giê-su Ki-tô là Con Một Thiên Chúa, đã mang lấy tội lỗi nhân loại trên hai vai của Người, để loài người được hòa giải, được thứ tha
àTrong đoạn 2 Cr 5,17-21 trên, chúng ta thấy Thiên Chúa đã yêu thương, rộng lượng và sáng tạo như thế nào để loài người chúng ta không phải chết vì tội lỗi do chúng ta đã phạm; mà trái lại, chúng ta còn được thứ tha và hòa giải với chính Đấng mà chúng ta xúc phạm. Thiên Chúa thực hiện công trình kỳ diệu này nhờ Con Một Người là Chúa Giê-su Ki-tô Đấng đã hy sinh mạng sống mình trên Thập Giá, để chuộc lại cho Thiên Chúa những tội nhân là tất cả chúng ta.
3.1.3 Bài Tin Mừng (Lc 15,1-3.11-32) là một trong ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa trong Tin Mừng Lu-ca và là dụ ngôn nhiều ý nghĩa nhất. Câu truyện người con hoang đàng làm nổi bật tấm lòng của người cha nhân hậu.
à Qua dụ ngôn người cha nhân hậu trong Phúc Âm Lc 15,1-3.11-32, Chúa Giê-su muốn cho chúng ta thấy tấm lòng của Thiên Chúa là như thế nào khi một người con dại dột sống theo ý mình là: (a) bỏ nhà cha đi hoang, (b) phung phí tài sản là ơn huệ của Thiên Chúa, (c) tìm thú vui trần tục, chóng qua trong đời sống tội lỗi. Những hành động ấy là tội tày trời phạm đến Thiên Chúa và làm mất tư cách và quyền làm con. Nhưng đối với Thiên Chúa thì chỉ có một điều đáng kể là việc người con sám hối trở về. Nên Thiên Chúa đã thể hiện tấm lòng của mình một cách tuyệt vời là: (a) quên hết quá khứ mà chỉ nghĩ tới hiện tại và tương lai nên vui sướng đón nhận con, (b) bù đắp một cách ngoài sức tưởng tượng cho đứa con dại dột mà đi hoang, đứa con “đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm thấy”, (c) bênh vực đứa con hư trở về khi người anh có thái độ phản đối và so sánh.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là dù yếu đuối, tội lỗi đến mức nào đi nữa, chúng ta cũng có thể trông cậy vào lòng Chúa là Cha yêu thương và tha thứ nếu chúng ta biết ăn năn sám hối và quay trở về với Thiên Chúa để được Người thứ tha, đón nhận và hồi phục chức danh làm nghĩa tử mà chúng ta đã dại dột đánh mất khi xúc phạm đến Người.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa
Là Đấng không muốn cho bất cứ tội nhân nào phải hư mất mà trái lại muốn mọi tội nhân ăn năn sám hối và trở về với Người. Thiên Chúa, vì lòng từ bi nhân hậu không bờ bến, sẽ bù đắp cho những kẻ lỡ lầm và phục hồi phẩm giá và tước vị làm con cho những kẻ ấy. Tâm tình thích hợp là cảm tạ, ngợi khen và ngưỡng mộ đối vời Thiên Chúa của chúng ta.
4.2 Thực thi Sứ điệp của Người
Tôi xét mình xem:
* Tôi ý thức như thế nào về tình trạng yếu đuối và tội lỗi của mình?
* Tôi có thật sự muốn từ bỏ tội lỗi và cải thiện tình trạng yếu đuối về mặt tâm linh của mình không?
* Tôi có đặt hết lòng cậy trông, tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa là Cha mà ăn năn sám hối và quay trở về với Thiên Chúa không?
* Tôi có thực sự trân trọng và khát khao tư cách làm con của Cha trên
trời không? Tôi đã làm những gì để thể hiện lòng trân trọng và khát khao ấy?
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
5.1 «Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai-cập!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho loài người ở khắp năm châu bốn bể, nhất là cho những người đang phải sống trong cảnh ngục tù nô lệ, để mọi người được Thiên Chúa giải thoát khỏi cảnh ô nhục của kiếp người.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.2 «Trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hòa giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hòa giải!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho Hội Thánh Công giáo Rô-ma một vị Giáo Hoàng tài đức vẹn toàn đễ lãnh đạo cộng đoàn tín hữu một cách thích hợp và hữu hiệu nhất.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.3 «Nhân danh Đức Ki-tô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho những người đang sống trong tội lỗi để họ được ơn hoán cải mà quay về làm hòa cùng Thiên Chúa chí thánh.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.4 «Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, để ai nấy ý thức và trân trọng tước vị và gia sản của mình là kẻ được làm con Thiên Chúa, mà sống tốt lành thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
Khi ấy, các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." Đức Giêsu bèn kể cho họ một loạt ba dụ ngôn, trong đó, dụ ngôn dài nhất chính là câu chuyện về người cha và hai người con mà Hội Thánh đọc hôm nay ( Lc 15, 11 – 32 ). Trong bài suy niệm này, chúng ta sẽ tập trung chú ý vào cách hành xử đầy lòng yêu thương nhân hậu của người cha đối với người con hoang đàng ( cc. 11 – 24 ).
“Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa” ( cc. 11 – 13a ). Phần thứ nhất của câu chuyện mô tả việc cậu con trai thứ rời xa cha mình. Tuy nhiên, cần phải nói ngay rằng sẽ là sai lầm nếu coi việc cậu xin chia gia tài và lên đường đi xa là dấu hiệu của một sự xuống cấp về đạo đức. Người con trai thứ này lên đường không phải trong tư thế một đứa con phản loạn, mà là trong ước muốn sống độc lập ở phương xa. Thực tế tại xứ Palestina đương thời cho thấy có rất nhiều người buộc phải di cư đến các xứ sở khác để sinh sống. Trong khi dân số Do Thái ở Palestina khi ấy không quá nửa triệu người, số người Do Thái ở hải ngoại là hơn 4 triệu. Vì thế, việc người con thứ trẩy đi phương xa là một việc dễ hiểu đối với các thính giả của Đức Giêsu và các độc giả của Thánh Luca. Đàng khác, cũng là bình thường việc người con trai thứ, vì không phải là con trưởng, đi tìm một vận may xa xứ. Đối với người nghe là người Do Thái hay người Hy hoá, vấn đề chia của thừa kế như trong câu chuyện này cũng là điều dễ hiểu. Trong dụ ngôn, người cha cũng chẳng ngăn cản gì người con thứ, trái lại, ông còn thực hiện đúng như anh ta xin. Ông tuyệt đối tôn trọng tự do của con trai mình.
Anh con trai đã gom góp tất cả của cải phần mình và trẩy đi phương xa. “Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình” ( c. 13b ). Tình cảnh bi đát và đáng phàn nàn bắt đầu từ đây: anh sống phóng đãng và phung phí tài sản. Câu 30 sẽ nói rõ: anh ta phung phí tài sản với bọn điếm. Anh sống vô luân. Anh sử dụng tài sản thừa kế ( không phải do anh làm ra ) một cách phung phí và phóng đãng. Anh tiêu sạch mọi thứ mà cha đã cho anh. Anh lâm vào một tình trạng bi thảm về đạo đức và bi đát về xã hội. Và tình hình càng trở nên bi thảm do bởi một yếu tố khách quan: “Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu” ( c. 14 ).
Và chính từ điểm này, anh bắt đầu rời xa Lề Luật và tôn giáo của dân tộc mình. “Anh ta đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo” ( c. 15 ). Anh ta ở đợ cho một người ngoại ( người này là ông chủ đàn heo, nên chắc chắn không phải là người Do Thái ), và như thế là luôn luôn ở trong tình trạng ô uế xét theo quan điểm người Do Thái. Ông chủ sai anh đi chăn heo. Đối với người Do Thái, heo là loài thú vật hết sức ô uế ( x. Lv 11, 7: “Con heo, vì nó có chân chẻ làm hai móng, nhưng không nhai lại: các ngươi phải coi nó là loài ô uế” ) và người Do Thái coi kẻ chăn heo là kẻ bị chúc dữ. Vậy, tình cảnh tôn giáo của người con thứ đã trở nên hết sức tồi tệ. Nhưng chưa hết: “Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho” ( c. 16 ). Thậm chí heo còn được coi trọng hơn anh ta !
Rõ ràng là không thể có hình ảnh nào “đắt” hơn để diễn tả tình trạng xuống cấp bi đát của người con thứ xét về phương diện tôn giáo cũng như xã hội. Tình trạng bi đát đó xảy đến khi anh lưu lạc nơi một xứ sở xa xăm. Các chi tiết miêu tả đều rất đáng chú ý, nhắc chúng ta nghĩ đến những đường nét chính yếu trong thân phận của những kẻ tội lỗi: cuộc trẩy đi phương xa như gợi ý về cuộc đi xa khỏi Thiên Chúa; tình cảnh túng thiếu và khốn cùng gợi ý về sự đánh mất vinh quang của con người – hình ảnh của Thiên Chúa; sự thường xuyên tiếp xúc với đàn heo, những con vật ô uế ( theo nghi tiết ), là biểu tượng cho sự chết mà kẻ tội lỗi phải chịu.
Người con hoang đàng đã rơi xuống đáy vực thẳm, và “bấy giờ anh ta hồi tâm” ( c. 17a ). Đó là điểm khởi đầu của cuộc hoán cải. “Anh tự nhủ: Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói!” ( c. 17b ). Trong tình trạng đau khổ và cô đơn tột cùng, anh độc thoại, một mình nói với chính mình. Anh không dám nghĩ đến tư cách là con của mình, mà chỉ dám so sánh mình với người làm công của cha mình. Đứa con đi hoang bắt đầu thấm thía sự mất mát lớn lao của mình.
Anh tiếp tục tự nói với mình: “Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy” ( cc. 18 – 19 ).
“Thưa cha, con thật đắc tội”: Ta gặp thấy ở đây như âm vang lời thú tội mà ngôn sứ Giêrêmia đã đặt trên miệng Ephraim: “Sau khi phạm tội, con hối tiếc ăn năn. Sau khi đã hồi tâm, con đấm ngực tự giác. Con xấu hổ thẹn thùng, vì mang nỗi nhục nhằn của tuổi thanh xuân” ( Gr 31, 19 ). Cậu con trai hoang đàng đã ý thức về tội lỗi của mình. Anh quyết định trở lại với cha, cho dù anh biết rõ mình không còn chút quyền làm con của cha. Anh chỉ còn mong một điều: được đối xử như một người làm công. “Con chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”. Tâm trạng của người con hoang đàng lúc này rõ ràng là tình cảnh của một tội nhân không xứng đáng tiến dâng hy lễ ( x. Lc 18, 13: “Người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi” ), một chỉ còn biết chờ đợi lòng trắc ẩn của người khác. Anh không dám chắc cha mình sẽ đối xử thế nào khi nhìn thấy tình cảnh hoàn toàn trống rỗng của anh.
“Thế rồi anh đứng lên đi về cùng cha” ( c. 20a ). Anh bước vào giai đoạn thứ hai của cuộc hoán cải: thực hiện trong thực tế những suy nghĩ và quyết định của mình.
Câu chuyện đột ngột chuyển sự tập trung chú ý vào cách hành xử của người cha. Kể từ lúc này, những hành động của ông sẽ chiếm vị trí chính yếu. “Anh còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ và hôn anh thắm thiết” ( c. 20b ). Tất cả đều là sáng kiến của người cha. Và tất cả đều cho thấy tình yêu nhưng không và mãnh liệt mà ông dành cho người con hoang đàng. Ông thấy người con từ khi anh còn ở đằng xa; ông không đặt vấn đề tại sao cậu quay về, vì chưa bao giờ ông hết yêu thương cậu con trai thứ của mình, trái lại luôn luôn mong mỏi được gặp cậu. Ông chạnh lòng thương cậu. Động từ “chạnh lòng thương” vốn là động từ đặc biệt để diễn tả tâm tình của chính YHWH đối với người nghèo và của chính Đức Giêsu đối với những con người khốn cùng ( MC 1, 41; 6, 34; 8, 2; Lc 7, 13; xem thêm Lc 10, 33 ). Ông chạy ra, cho dù đây là một hành động không phù hợp với tuổi tác, vị thế và uy quyền của ông. Ông ôm cổ cậu con trai và vì vậy ông đã ngăn cản không cho cậu kịp quỳ mọp xuống dưới chân ông. Ông hôn cậu thắm thiết, dấu chỉ của sự tha thứ và thông hiệp sâu xa, bất chấp tình trạng ô uế của một anh chàng chăn heo thường xuyên tiếp xúc với giống vật ô uế và với những người ngoại bị coi là không thanh sạch theo quan điểm của Lề Luật.
“Bấy giờ người con nói rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa…” ( c. 21 ). Người con cất tiếng thưa với cha những điều anh đã chuẩn bị và suy nghĩ từ rất lâu. Nhưng anh đã không nói: “Xin cha coi con như một người làm công cho cha vậy” như anh đã từng dự định sẽ nói. Tại sao ? Chắc chắn không phải vì anh không có thời gian để nói, bởi lẽ cha anh hẳn sẽ rất kiên nhẫn nếu không nói là vui sướng được nghe anh nói, dù anh nói bất cứ điều gì. Thực ra, anh không thể nói phần cuối cùng của những lời đã chuẩn bị, vì những gì người cha vừa làm cho anh đã khiến cho những lời ấy không còn phù hợp.
Như để đáp lại lời xưng thú của người con hoang đàng, người cha quay sang bảo với các đầy tớ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng !” ( cc. 22 – 23a ).
Trước hết, người cha truyền lệnh thực hiện ba hành vi mang tính biểu tượng, chứng tỏ người cha phục hồi cho người con hoang đàng quyền tự do và quyền làm con mà anh ta đã đánh mất. Chiếc áo đẹp nhất là chiếc áo choàng lễ hội ( stolê ) chứng tỏ phẩm giá cao quý của người mặc nó; chiếc nhẫn mang ấn cho thấy người con đã được phục hồi tư cách làm con và có quyền bính trên gia nhân trong nhà; đôi dép là dấu hiệu của một người tự do ( vì nô lệ không được mang dép ).
Tiếp đó, ông ra lệnh bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để mở tiệc ăn mừng. Con bê đã được vỗ béo ( chứ không phải chỉ là con bê béo trong đàn gia súc ) là con bê được chuẩn bị cho ngày đại lễ. Bữa tiệc ăn mừng này đánh dấu sự hợp nhất vừa tìm lại được của gia đình. Bữa tiệc là dấu hiệu của niềm hân hoan và của sự thông hiệp. Niềm vui được chia sẻ và nhân rộng.
Người cha tuyên bố lý do của ba hành động biểu tượng và của việc tổ chức bữa đại tiệc như sau: “Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” ( c. 24 ). Việc người con hoang đàng trở về được người cha nhân hậu coi là một sự kiện rất quan trọng và có ý nghĩa đối với ông: ông coi đó là một cuộc hoàn sinh đứa con đã mất.
Tác giả sách Tin Mừng muốn gửi đến chúng ta một số thông điệp quan trọng:
1. Qua hàng loạt chi tiết rất cảm động nơi hình ảnh và hành động của người cha nhân hậu, câu chuyện muốn khắc hoạ cho chúng ta dung mạo đặc biệt của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu mến những con người tội lỗi bằng một tình yêu tuyệt vời. Người như thể quên mất phẩm giá và tư thế uy nghi của Người. Sự nhân lành của Người đã được thi thố qua những dáng vẻ, thái độ và hành xử rất “yếu đuối”. Người tuyệt đối tự do trong việc diễn tả sự siêu việt và tình yêu thẳm sâu của Người nơi những cách hành xử có vẻ yếu đuối ấy. Nhưng chính tình yêu ấy đã là yếu tố quyết định làm cho người con hoang đàng “đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
2. Theo cách hiểu thông thường đương thời, hối cải bao hàm nỗ lực của con người ( ăn chay, bố thí, hãm mình khổ hạnh ) để chứng tỏ sự nghiêm túc của tâm tình ăn năn sám hối. Đối với Đức Giêsu, hối cải chính yếu là một niềm hoan lạc trào vọt lên từ cuộc hạnh ngộ với chính Thiên Chúa là Đấng luôn ban ơn tha thứ.
3. Trong dụ ngôn về người cha nhân hậu và người con hoang đàng trở về này, tác giả Tin Mừng quả thật đã có đề cập đến tình trạng bi thảm của người tội lỗi và những bước cần thiết của cuộc hoán cải: hồi tâm và hướng lòng về với Thiên Chúa. Nhưng con người không thể tự cứu độ chính mình, như người con hoang đàng không thể tự phục hồi phẩm giá của mình và quyền làm con mà mình đã đánh mất. Chính Thiên Chúa là Đấng tha thứ và phục hồi phẩm giá cho con người. Phần mình, khi mở ra hướng về với Thiên Chúa từ vực thẳm khốn cùng của mình, con người đang sẵn sàng để cho Thiên Chúa cứu độ bằng ơn tha thứ, ơn cho làm con của Người và ơn được hiệp thông sâu xa với Người.
Có trường hợp sau khi bỏ nhà đi hoang trở về, các cậu ấm cô chiêu cảm thấy tởn tới già, như trường hợp của K. ở huyện Phụng Hiệp ( Hậu Giang ). Sau khi liên tục chứng kiến cảnh cha mẹ mình cứ xung đột, lại thường xuyên bỏ bê con cái, để lo chuyện làm ăn, nên K. đã bỏ nhà lên Sàigòn đi hoang với một bạn “chat” có cùng cảnh ngộ.
Được chừng 10 ngày, K. cảm thấy nhớ nhà, nhưng không biết làm cách nào trở về, vì trong túi không còn một xu. May thay, nhờ một phụ nữ người Hoa tốt bụng cho 50.000 đồng, K. đã đón xe tốc hành về nhà. Kể từ ngày đó, cha mẹ của K. cũng giảm bớt sự căng thẳng với nhau và chăm sóc anh em K. rất chu đáo.
Tuy vậy, khi tiếp xúc với mọi người, K. cảm thấy xấu hổ vô cùng. Vì theo K.: “Ở nhà có cha mẹ, có chăn êm nệm ấm tội gì không ở, đi hoang chi cho... muỗi cắn và bị mọi người dòm ngó bằng cặp mắt lúc nào cũng đề phòng.” ( Báo Người Lao Động ).
Câu chuyện trên cũng như dụ ngôn người con hoang đàng trở về hôm nay, ( Lc 15, 11 – 32 ) vẫn còn là một đề tài nhức nhối và nóng bỏng trong xã hội hiện đại.
Đi hoang trở về
Người con thứ đi hoang đã sám hối trở về. "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy” ( Lc 15, 18 – 19 ).
Người cha già cả, dẫu tuổi cao sức yếu, vô cùng hân hoan mừng rỡ, thấy con từ đàng xa, đã lật đật, bước thấp bước cao, chạy đến ôm hôn. Cuộc trở về trở nên sự kiện long trọng, nổi đình đám của một gia đình đang u uất, buồn bã, phân ly bấy lâu nay.
Khi vào bước đường cùng, người con thứ mới chạnh lòng nhớ đến cha già xa xăm. Chàng mới nhận ra tấm lòng nhân hậu của cha, khiến cho đôi chân lãng tử phải quay trở về.
Người Cha lâu nay bị lãng quên, nay kịp thời lóe sáng như ngọn hải đăng, dẫn dắt và cứu thoát chàng khỏi chốn tối tăm, vô vọng. Trong cảnh khốn cùng, tất cả đều qua đi, chỉ còn lại tình yêu, ta có thể sở hữu tình yêu mãi mãi, trong khi những thứ khác thì qua đi. ( x. 1Cr 13, 8b – 10 ).
Mỗi khi tôi sa cơ thất thế, hoạn nạn hay khốn khổ, sao tôi không nhớ ra, vẫn có Người Cha Nhân Lành, đang mòn mỏi chờ đợi tôi tha phương trở về nương tựa ? Việc gì tôi cứ mãi lo âu buồn bã, thất vọng với cõi đời u ám, lọc lừa, bất nhân ?
Đi hoang ở nhà
Người anh trái lại, tuy ở nhà mang tiếng là phụng dưỡng cha, nhưng lòng dạ đen tối, chất chứa đố kỵ, ghen tuông, hằn học, khi thấy “thằng con của cha đó” trở về. Anh không thèm nhìn mặt đứa em, đã cải tà quy chánh. Nghe biết chuyện, anh còn nổi giận, không thèm bước vào căn nhà đang rộn rã niềm vui tái ngộ.
Lòng dạ cố chấp, tánh tình hẹp hòi, nhỏ mọn, đã cản bước chân anh hội nhập vào cuộc chung vui và tha thứ. Tuy anh ở với cha già, nhưng chỉ có thân xác hiện diện, còn tấm lòng, tinh thần anh đã đi hoang từ hồi nào ! Hóa ra, anh cũng chỉ thèm thuồng của cải, vật chất, tầm thường, phù vân, như chú em ngày xưa. Anh chỉ mong được một “con dê con” để tưng bừng liên hoan đánh chén, bù khú với chúng bạn.
Thực ra, anh kiêu căng, tự phụ cho mình là đứa con hiếu thảo, ngoan ngoãn, biết vâng nghe người cha. Cho nên, anh mới không hề ngượng mồm, vanh vách kể công: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà…” Anh nào cảm nhận, thán phục, kính trọng, và ca ngợi tấm lòng Người Cha Nhân Lành vô bờ, chứa chan yêu thương, tựa như trời cao biển rộng !
Giọng lưỡi anh chẳng khác chi lời cầu nguyện của người Pharisiêu, huênh hoang, lớn giọng, kể lể công trạng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam bất chính ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” ( Lc 18, 11 – 12 ).
Tôi cũng hay coi thường, khinh miệt người khác sống theo thế gian, chộp giật, mánh mung, cơ hội, háo của, háo danh, tham quyền cố vị… Nào khác chi người anh trong dụ ngôn này, cũng kể lể, so sánh, gièm pha, chê bôi, để tôn mình, khoe khoang lòng đạo đức, tốt lành. Thiệt là quá đáng ! Làm sao vui lòng Người Cha Nhân Lành được ?
Người Cha Nhân Lành
Các nhà chú giải Kinh Thánh đều tỏ ra bất đồng tình về cái tựa Người Con Hoang Đàng, đặt cho dụ ngôn này, vì làm sai lệch ý nghĩa. Có lẽ lấy tựa là Người Cha Nhân Lành thì phù hợp hơn.
Người Cha nhẫn nhục, chia tài sản cho cả hai con. Hẳn ông biết rõ tính nết anh con thứ ắt sẽ phung phí ăn chơi sa đọa, vậy mà ông vẫn tôn trọng sự tự do của chàng. Rồi sau này lại nhẫn nhục, năn nỉ người con cả hãy nguôi cơn giận hờn vào nhà chung vui với ông và mọi người.
Người Cha còn quảng đại nhân từ, quên sạch mọi tội lỗi, mọi lỗi lầm, bất hiếu, không để anh con thứ kịp nói hết lời ăn năn, sám hối, mà hoan hỉ, vội sai ngay gia nhân hầu hạ, phục dịch chàng. "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết, mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy" ( Lc 15, 22 – 24 ).
Người Cha nói chẳng khác chi ông chủ tìm lại được con chiên lạc: “Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc” ( Lc 15, 6 ). Hoặc như bà góa hớn hở tìm được đồng tiền rơi mất: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất” ( Lc 15, 9 ).
Tôi khá nhiều khi thất vọng, không nhớ đến Người Cha Nhân Lành đang mòn mỏi trông mong tôi trở về mái nhà ấm cúng, bình an. Có lẽ vì tôi chủ quan, cho mình đã ngoan đạo, mà thực ra, chỉ giữ đạo hình thức theo luật buộc, theo chân Pharisiêu, mà tâm hồn cứ mãi đi hoang, đi bụi, mãi thèm “con dê con” để ăn nhậu, mải mê ham vui, mải mê đố kỵ, ganh ghét,…
May thay, Bí Tích Hòa Giải đã giúp tôi hoán cải trở về với Người Cha Nhân Lành. Người hằng mong tôi sám hối trở về với tình thương vô bến bờ. Lúc đó, Người mặc cho tôi tấm áo linh hồn mới tinh tuyền, đeo vào tay nhẫn vàng vương quyền, ban cho tôi đôi dép của người tự do, thoát ách nô lệ tội lỗi. Người tưởng thưởng tôi Bữa Tiệc Thánh Thể với chư Thánh Thiên Quốc, trong tiếng đàn ca, múa hát tưng bừng của các Thiên Thần hoan hỉ chào đón. Người Cha Nhân Lành chẳng hề tiếc gì, để mừng con trở về vòng tay yêu thương.
Người lạc đường, thất vọng; người không biết đích, vô vọng, người tiến về đích, hy vọng; ở đó con sẽ gặp Thiên Chúa, Cha Nhân Từ đợi chờ con, con sẽ toại vọng. ( Đường Hy Vọng, 664 ).
Lạy Chúa Giêsu nhân lành, xin cho con luôn biết hồi tâm, nhận ra sự dại dột và tệ bạc của mình trước tình yêu vô bờ bến của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, xin nhắc nhủ con luôn biết trông cậy vào lòng Người Cha Nhân Lành, để ăn năn, sám hối trở về với Ngài.
Câu chuyện hôm nay, đã được kể từ rất xa, mà sao nghe cũng rất gần. Cứ như đấy là câu chuyện của mình. Bởi câu chuyện ấy đúng y boong trang nhật ký đời tôi, trang nhật ký của đời mỗi người. Câu chuyện bắt đầu:
1- Sự ngông cuồng của tuổi trẻ
Gã thanh niên quyết định bỏ nhà ra đi. Giàu thế sao lại ra đi? Bởi nó được cha vì quá yêu thương nên chiều chuộng. Được cha chiều, nên nó nghĩ nó là to, nó là mặt trời rực rỡ. Nó muốn phình to, nó muốn biểu lộ nhân cách. Ngôi nhà nó ở, nó thấy nhỏ bé và tù túng, cho nên nó muốn ra đi. Cái bóng bẩy cuộc đời lừa nó. Nó quá đơn sơ và dại dột. Nó chỉ thấy bề mặt, mà không thấy chiều sâu, nó muốn đội đá vá trời. Nó muốn là người văn minh, con người của thời đại. Nó nghĩ rằng: Cha nó là một ông lão nhà quê, cổ hủ ; cứ tối ngày co ró trong bóng tối của ruộng đồng, của góc nhà. Nó nghĩ nó khôn hơn cha nó.
Với một số tiền lớn trong tay, với sức mạnh cơ bắp của tuồi trẻ, với trí khôn bén nhạy tinh tường, nó sẽ nhanh chóng dựng nên sự nghiệp, cơ đồ. Nó ngụp lặn với chốn chợ đời. Túi nó đầy tiền, cuộc đời giơ cả hai chân hai tay đón nó. Nó cười toe toét, mãn nguyện. Cuộc đời! Con người bỗng trở mặt với nó; bởi đồng tiền trong túi đã đội mũ ra đi hết rồi. Nó giật mình, nó chơi vơi. Nó chợt khám phá, hạnh phúc mà nó vừa có chỉ là bong bóng xà phòng. Cuộc đời đểu quá, chẳng có ai thật tình, tất cả chỉ là rình mò và bóc lột. Đói quá nó ngồi thở dài và khóc sướt mướt. Nó khóc cho sự dại khờ của nó. Nó non nớt quá, mà cứ tưởng mình khôn ngoan. Nó khóc bởi nó u mê, mù lòa, không nhận ra được tình thương mênh mông như đại dương của cha nó. Nó đứng dậy lê từng bước chân mệt nhọc, xiêu vẹo, bước cúi đầu đến năn nỉ để được một chân chăn heo. Cái nghề ghê tởm mà chẳng ai muốn làm.
2- Và nó nghĩ lại
Xin cám ơn cái đểu cuộc đời, xin cám ơn cái phụ bạc của tình hờ giả dối. Bởi nhờ thế, một con người đã biết mở mắt và nghĩ lại. Giờ thì nó nhận ra rồi: Chẳng có tình yêu nào to lớn và sâu đậm bằng tình yêu của cha nó đâu. Cha nó bao dung và quảng đại quá. Đứt ruột ra, nhưng vẫn nhẫn nhục, bằng lòng đưa tiền cho nó, để nó ra đi. Không một lời nguyền rủa, xỉ vả nặng lời. Nó chợt nhớ về cha, và thương nhớ cha khôn xiết. Nghĩ cho tận cùng, ngoài cha ra, tàn tạ như nó bây giờ, chắc chắn sẽ chẳng ai đón nhận nó cả. Nhưng tự nhiên nó sợ. Nó sợ bởi sự ngông cuồng của nó quá lớn. Thái độ của nó hôm nào, là thái độ cạn tàu ráo máng, chặt hết tình, múc hết nghĩa với cha rồi còn gì? Nhưng thôi! không thể để đời mình tiêu tan tàn tạ. Phải trở về thôi. Cha nó là đốm sáng hy vọng cuối của đời nó. Nó đứng dậy, với lấy cái mũ rách nát trên đầu, và bước về. Gần đến nhà, nó đi chậm lại vì sợ. Vừa tới cổng, bóng cha nó thấp thoáng, và nó nghe thấy một giọng nói vui của cha: Thằng út về kia rồi, mau ra đón. Mắt nó hoa lên ngã xuống trong vòng tay cha.
Gợi ý suy niệm:
1- Nhìn kỹ, bạn có thấy khuôn mặt của người thanh niên ấy, là khuôn mặt của bạn không?
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về thái độ của chàng trai đi hoang.
Trước hết anh là người có những kinh nghiệm sâu sắc về Tin Mừng cứu độ. Thực vậy, đối với anh, Tin Mừng cứu độ không phải là một mớ lý thuyết rút ra từ những bài học Kinh Thánh, mà là những sự kiện có thực, xảy đến cho chính bản thân anh. Anh đã nhận biết tiếng gọi âm thầm của cha mình trong các biến cố của quãng đời đi hoang. Các biến cố ấy là những tín hiệu mang ý nghĩa gởi về anh. Tất cả như muốn nói với anh: Hãy chỗi dậy và trở về với cha.
Tiếp đến, anh là người đã trở về với thái độ khiêm tốn. Anh nhìn nhận mình đã lầm lỗi, không còn xứng đáng được gọi là con của cha. Anh chỉ dám mơ ước một chỗ hèn hạ nhất trong nhà cha. Nếu được là người rốt hết trong các đầy tớ của cha, thì anh đã cảm thấy thoả mãn lắm rồi. Anh hy vọng và tin tưởng sẽ được như thế. Hy vọng ấy, tin tưởng ấy chính là một Tin Mừng lớn, cứu anh khỏi rơi xuống vực thẳm thất vọng.
Sau cùng anh là người đã thay đổi, đã chuyển biến trước tình thương của cha. Thực vậy, sự việc xảy đến với anh một cách hết sức lạ lùng, ngoài mọi tưởng tượng, ngoài mọi mơ ước. Đó là khi anh được cha chạy lại ôm lấy và anh cảm thấy bản thân mình biến đổi hẳn. Thực vậy, có một cái gì rất mới, rất lạ và rất đẹp, đã thay đổi toàn thể con người anh. Anh cảm thấy có một sự sống mới, những luồng gió mát, như những dòng nước trong tràn vào tâm hồn anh, tẩy rửa những nhơ nhớp của anh. Anh thấy cha nhân từ hơn anh tưởng. Anh thấy lòng cha bao la hơn anh tưởng. Anh thấy cha gần gũi xót thương kẻ tội lỗi hơn anh tưởng. Anh có một cái nhìn rất mới về cha. Cái nhìn ấy mở ra trong anh một nguồn tình mến dạt dào. Anh cảm thấy gắn bó vớ cha, cảm thương cha vô vàn. Đúng là kẻ được tha nhiều thì yêu mến nhiều. Trong niềm vui được tha thứ, anh như nhìn thấy một trời mới đất mới. Anh nhìn đời với tầm nhìn xa hơn. Anh nhìn người khác với tâm hồn mở rộng hơn. Anh nhìn lại những bất trung của anh với một khám phá mới. Anh cảm thấy ngay cả những lúc xa cha, thì cha vẫn lặng lẽ đi theo anh, để đưa anh trở về. Anh đã bỏ cha, nhưng không bao giờ cha bỏ anh. Tất cả những biến đổi nội tâm trên đây chính là một Tin Mừng đối với anh.
Và sau cùng, lòng thương xót của Chúa, mà dụ ngôn vừa mới diễn tả đã được thể hiện một cách trọn vẹn nơi Đức Kitô, Người là Tin Mừng giải thoát, là Đấng cứu độ loài người. Địa chỉ mà Người được sai đến là những kẻ tội lỗi, Người đã tỏ ra nhân từ, thương xót và tha thứ cho các tội nhân, Người không dập tắt ngọn đèn còn khói, và không bẻ gãy cây sậy đã giập. Và hơn thế nữa Người đã hy sinh chính mạng sống Ngài để cứu chúng ta khỏi vòng tội luỵ. Bởi vì như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Chúa đã yêu thương tôi và đã nạp mình chịu chết vì tôi.
Ta thường gọi dụ ngôn này là dụ ngôn Người Con Hoang Đàng. Cách gọi này không được chính xác. Trước hết, vì sự trở về của đứa con không đáng làm khuôn mẫu cho ta, hơn nữa, xét theo bối cảnh và nội dung, Chúa Giêsu khi kể dụ ngôn này có ý đề cao tình yêu thương, lòng khoan dung nhân hậu của người cha, đối lại với cảnh nhóm pharisiêu và các kinh sư chê trách Chúa Giêsu vì đã ngồi ăn với những kẻ tội lỗi. Để trả lời cho họ, Chúa Giêsu kể một chuỗi ba dụ ngôn: Con chiên bị mất; Đồng bạc bị mất; và Người cha nhân hậu. Nội dung của dụ ngôn này có thể được chia ra làm hai màn.
Màn thứ nhất: Người cha và đứa con út. Màn thứ nhất này cho thấy sự tương phản sâu xa giữa lối suy nghĩ và hành động của đứa con với suy nghĩ và hành động của người cha. Đứa con ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân. Sự ích kỷ được biểu lộ trước hết trong việc xin chia gia tài. Ở nhà chung mà chỉ nghĩ đến việc vun quén riêng, không đóng góp mà chỉ muốn rút tỉa, không làm việc mà chỉ muốn hưởng thụ. Sự ích kỷ đạt đến mức tồi tệ đáng kinh tởm, khi nó dám mở miệng xin chia gia tài. Theo truyền thống phương đông, gia tài chỉ được chia sau khi cha mẹ đã qua đời. Xin chia gia tài lúc cha mẹ còn sống có khác nào cầu mong cho cha mẹ mau chết đi. Có tiền bạc trong tay, nó bắt đầu ăn tiêu phung phí. Cách ăn tiêu nói lên tính ích kỷ của đứa con, nó tiêu tiền mà không nghĩ đến mồ hôi nước mắt của cha mẹ, nó tiêu tiền chỉ để thỏa mãn dục vọng, nó dùng tiền bạc để cung phụng bản thân, khi có tiền nó chẳng nghĩ gỉ đến ai nên khi hết tiền chẳng còn ai gắn bó, sẵn sàng giúp qua cơn túng thiếu. Túng cùng quá mới phải trở về. Sự ích kỷ vẫn còn đó trong toan tính trở về. Nó không hề nghĩ đến cha mẹ, không hề nghĩ đến tình thương, nó chỉ nghĩ đến cái bụng, về nhà để ăn cho no, chỉ có thế. Nó còn một chút lương tri để hiểu rằng nó không xứng đáng làm con nữa. Tuy nhiên, nó không tha thiết đến quyền làm con, chỉ mong sao có ăn no bụng là được, thật là ích kỷ đến tận xương tủy.
Nếu đứa con út ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân, thì trái lại người cha hoàn toàn quên mình vì con. Khi đứa con xin chia gia tài, ông đã chia ngay, không so đo tính toán, không hạch sách khó khăn. Ông không nghĩ đến bản thân, không tự ái, chỉ mong sao con cái được vui lòng. Khi con đã ra đi, ông ngày đêm thương nhớ, ngày nào cũng ra ngõ đứng chờ. Thật tội nghiệp. Nhưng con ra đi chẳng hề nhớ nhung gì đến cha mà cha thì chẳng phút giây nào ngừng thương nhớ con. Con chỉ biết tìm vui cho bản thân trong khi Cha mỏi mòn trông đợi. Con chỉ biết đến tiền bạc còn cha chẳng quan tâm gì đến tiền của mà chỉ cần có con. Cảm động nhất và cũng là chan chứa tình thương nhất là phút giây gặp gỡ, một phút giây vắn vỏi mà nói lên bao nhiêu điều về tình thương của cha, "anh ta còn ở đàng xa thì người cha đã trông thấy", khi con chưa nhìn thấy cha thì cha đã nhìn thấy con. Mắt chàng trai trẻ hẳn phải tinh anh hơn mắt ông cụ già nhòa dòng lệ vì thương nhớ, thế mà cha đã nhìn thấy con trước. Vì cha không nhìn bằng mắt mà nhìn bằng trái tim, trái tim yêu thương có đôi mắt tinh tường giúp nhận ra ngay bóng người yêu dấu. Trái tim con chẳng còn yêu thương nên nhìn mà chẳng thấy cha, trái tim con khô cằn nên mắt vẫn sáng mà chẳng khác mù lòa, trái tim cha đầy ắp yêu thương nên đã lòa rồi mà vẫn thấy rõ con ngay từ đàng xa. Ông chạnh lòng thương, trái tim dạt dào yêu thương quên hết tất cả lầm lỗi của đứa con. Tình cảm đầu tiên dâng lên trong tim ông không phải là tiếc xót nửa gia tài đã mất, cũng không phải là tức giận thằng con phá gia chi tử, nhưng lại là chạnh lòng thương.
Yêu quá nên người cha chẳng còn nhìn thấy gì khác hơn là đứa con tiều tụy rách rưới, yêu quá nên người cha chẳng nhìn thấy lầm lỗi mà chỉ nhìn thấy nỗi khổ của con. Trong trái tim ông, chỉ có tình thương dành cho con, nên vừa gặp con là tim đã rộn ràng xúc động. Chạy lại ôm cổ con, lại một cử chỉ lạ lùng, cha không chờ con tới cho đúng lễ phép mà đã vội vàng chạy lại ôm con. Tình yêu thương thúc đẩy, niềm vui dâng dạt dào khiến người cha không chần chờ được nữa. Bất chấp thân phận cao quí của mình, ông chạy đi như một đứa trẻ được quà. Bất chấp tuổi tác của mình, ông chạy đi như một thanh niên sung sức. Đứa con tuổi còn trẻ mà sao chẳng nhanh nhẹn bằng ông già, vì trong tim nó thiếu tình yêu. Trái tim không tình yêu cũng giống như cơ thể không sức sống.
Ông già mà nhanh nhẹn vì ông không chạy bằng sức lực của đôi chân nhưng lại bằng trái tim, ông bay bằng tình yêu, tình yêu chấp cánh cho ông. Hôn lấy hôn để, chẳng còn bút nào tả xiết niềm vui của người cha khi gặp lại đứa con. Những nụ hôn không ngớt đủ nói lên tình cảm dạt dào của ông dành cho nó, ông ôm chặt như để giữ cho nó không ra đi nữa. Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì cha đã có bốn động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn. Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn bất động thì ông lão già nua đã thực hiện bốn động tác rất nhanh nhẹn. Ông thật là người cha phung phí, ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với đứa con trở về, ông đã phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách dễ dàng, ông đã phung phí khi đem áo mới, giày mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc có cả đàn hát múa may nhảy nhót để đón đứa con trở về. Làm thế, chẳng sợ hàng xóm cười cho. Nói tóm lại, ông đã phung phí tình yêu thương, yêu thương quá độ, yêu thương đến vô lý. Có lẽ nào giải nghĩa được yêu thương, chỉ có tình yêu thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.
Cho dù lũ lụt có thể cuốn trôi tất cả nhà cửa ruộng vườn, biến người ta thành người tay trắng, nhưng không thể cuốn trôi phẩm giá người ta.
Cho dù hoả hoạn có thiêu rụi nhiều phố xá làng mạc, cướp đi tất cả tài sản của người dân, nhưng cũng không thể thiêu rụi phẩm giá con người.
Dù tai ương hoạn nạn có cướp đi một vài chi thể của con người, khiến người ta trở nên tàn phế, nhưng cũng không thể cướp đi phẩm chất cao đẹp của người ấy.
Không gì từ bên ngoài có thể làm mất phẩm chất, mất giá trị con người, nhưng chỉ có tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể huỷ diệt phẩm giá cao đẹp của họ. Chính Chúa Giêsu cũng khẳng định điều nầy: "Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế." (Mác cô 7, 21-23)
Câu chuyện người con thứ trong Tin Mừng hôm nay minh hoạ cho thấy tội lỗi làm băng hoại phẩm giá con người đến mức nào.
Sau khi đòi chia gia tài và phung phí tài sản của mình với bọn đàng điếm, người con thứ lâm vào cảnh đói khát cùng cực và phải xin làm nghề chăn heo là nghề ô nhục nhất đối với người Do-Thái.
Không có hình ảnh nào diễn tả tình trạng xuống cấp và suy đồi phẩm giá cho bằng hình ảnh một con người đói rách thảm hại, chen chúc với đàn heo bẩn thỉu hầu mong được ăn thực phẩm của heo nhưng chẳng ai cho.
Chính tội lỗi và chỉ có tội lỗi mà thôi mới có thể làm cho giá trị con người bị suy sụp cách thảm hại như thế.
Nhưng cũng qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mở ra cho chúng ta một chân trời hy vọng: những con người bị tội lỗi làm mất giá trị có thể được phục hồi nhân phẩm cách tuyệt vời.
* Phục hồi lại phẩm chất cao đẹp của mình nhờ quay về với Chúa.
Một người giàu có bị phá sản, còn rất lâu mới có cơ may xây dựng cơ đồ, phục hồi sự nghiệp.
Một người bị mất chức, mất việc... khó lòng kiếm lại được chức, được việc ngon lành như trước.
Nhưng thật vô cùng may mắn và hạnh phúc cho chúng ta là những người tội lỗi, một khi lỡ sa ngã phạm tội, đánh mất hết phẩm chất cao đẹp của mình... thì chỉ cần cố gắng, kiên quyết hoán cải là có thể phục hồi lại được phẩm chất cao đẹp như trước.
Sau khi người con thứ lâm vào tình trạng đói khát, anh ta hồi tâm lại và quyết chí trở về nhà cha, để xin làm một người tôi tớ.
Khi thấy con từ đằng xa, người cha mừng rỡ chạy lại ôm lấy đứa con hoang và hôn nó hồi lâu.
Không để cho đứa con hư nói hết lời hối lỗi, ông truyền sai tôi tớ mau mau đem áo đẹp nhất ra mặc cho cậu, xỏ nhẫn quý vào tay cậu, mang giày sang quý vào chân cậu và hãy hạ bò tơ để ăn mừng...
Thế là từ một con người thân tàn ma dại, một thằng chăn heo hèn hạ đói khát, người con hoang đàng đã trở thành chàng công tử thượng lưu với bao nhiêu tôi tớ hầu hạ. Thay vì tấm áo rách hôi hám, cậu được mặc vào người tấm áo đẹp nhất. Thay vì đi chân đất bần cùng, cậu được mang giày dép sang trọng rồi được đeo nhẫn quý vào tay như những người quyền quý. Thay vì trước đây khao khát được ăn chung máng với đàn heo, ăn giữa đàn heo, cậu được ngồi ăn với cha, với họ hàng, với những bậc tai mắt trong làng xóm, có kẻ hầu người hạ. Thay vì những đồ cặn bã của heo, nay cậu được ăn thịt bê đã vỗ béo ngon lành. Thật khác ngày hôm qua một trời một vực. Thật là một sự thay đổi tuyệt vời, nằm mơ không thấy.
* * *
Chỗi dậy trở về cùng Chúa là từ bỏ tội lỗi và tính hư tật xấu, là kết hợp với Đức Ki-tô để trở nên con người mới, thụ tạo mới như lời thánh Phao lô dạy trong thư gửi tín hữu Cô-rinh- tô hôm nay: "Phàm ai kết hợp với Đức Ki-tô, đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua đi, và cái mới đã có đây rồi." (2C 5,17)
Cơ hội trở về luôn luôn sẵn có. Lời Chúa và Hội Thánh vẫn liên tục kêu mời. Điều còn lại hoàn toàn tuỳ thuộc ở nơi ta. Điều quan trọng là chúng ta có quyết tâm làm lại cuộc đời, sửa đổi và nâng cấp đời sống hay không.
Vì xích mích với gia đình hàng xóm, anh Năm bị một tên côn đồ, thuộc diện xã hội đen do người hàng xóm thuê mướn, xông đến gây sự và chặt đứt cánh tay. Nhìn máu từ cánh tay bị chặt phun ra cuồn cuộn, nhìn cánh tay bị đứt lìa nằm bất động dưới đất, anh Năm hết sức kinh hoàng, vô cùng đau đớn và tiếc nuối. Sau vài phút, anh ngã xuống trên vũng máu và ngất đi. Thế là từ đây, anh bị mất đi một phần thân thể quan trọng, từ đây anh trở thành người cụt tay, một người tàn phế…
Thiên Chúa rất đau lòng khi ta phạm tội
Nỗi đau thương của anh Năm, người bị cắt đứt mất cánh tay trong vụ xung đột trên đây, nói lên phần nào nỗi đau thương khôn nguôi của Thiên Chúa khi Người đánh mất chúng ta là một chi thể rất yêu quý của Người.
Từ ngày lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được tháp nhập vào Thân Thể Chúa Giêsu và trở nên một chi thể của Người. (giáo lý công giáo số 1267)
Thánh Phao-lô cũng nhắc nhở chúng ta nhìn nhận sự thật quan trọng nầy: "Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao?" (I Cr 6, 15)
Thế nhưng tội trọng như một nhát dao ác nghiệt cắt lìa chúng ta khỏi thân mình Chúa, gây ra một hậu quả kép rất đau thương: Về phía mình, chúng ta trở nên như cành nho lìa cành, như bàn tay đứt lìa cơ thể; về phần Chúa, Người trở thành “khuyết tật” vì mất một phần cơ thể rất thân thương!
Như bàn tay lìa thân thì phải hư thối và phải chết thế nào thì Người tội lỗi tách lìa Thiên Chúa cũng gánh lấy hậu quả tương tự: họ trở nên hư hỏng, mất đi phẩm chất cao đẹp và đánh mất sự sống thiêng liêng được Thiên Chúa thông ban từ ngày lãnh bí tích Thánh Tẩy.
Hậu quả nầy được Chúa Giêsu minh họa bằng hình ảnh đứa con út hoang đàng trong tình trạng đói rách thảm hại, ngày ngày sống giữa đàn heo bẩn thỉu và cầu mong được ăn bớt phần của heo nhưng chẳng ai cho. (Lc 15, 14-16)
Như bàn tay bị cắt lìa thân không thể hoạt động và không mang lại lợi ích gì cho thân thể thì người tội lỗi cũng không thể lập được công đức gì, cho dù có làm được những việc to tát lớn lao. Theo thánh Phao-lô thì khi ở trong tình trạng tội lỗi, dù có nói được các thứ tiếng của loài người và thiên thần, có nói tiên tri và biết nhiều điều bí nhiệm, có chuyển núi dời non hay đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí hoặc nộp cả thân xác để chịu thiêu đốt… thì cũng chẳng đạt được ơn phúc gì. (Cr 13, 1-3)
Thiên Chúa rất mừng vui khi người tội lỗi trở lại với Người
Trở lại phần cuối câu chuyện anh Năm bị cắt đứt lìa cánh tay trên đây.
Khi phát hiện ra anh Năm nằm bất tỉnh bên cạnh cánh tay đứt lìa, những người hàng xóm tốt bụng vội chạy đến cứu anh. Người ta cầm máu vết thương đang rỉ máu, lau rửa thật sạch và khử trùng vết chém; người khác nhặt cánh tay anh lên, lau rửa sạch sẽ rồi cho vào thùng đá ướp lạnh. Người khác nữa vội gọi xe cấp cứu đến và giục xe phóng nhanh vào bệnh viện chuyên khoa tận Sài gòn hòng cứu chữa anh, với hy vọng là đến kịp bệnh viện trong vòng 7 tiếng đồng hồ thì các bác sĩ có thể ráp nối lại cánh tay cho anh được.
May thay, anh đã được cứu chữa kịp thời. Các bác sĩ giỏi đã ráp nối lại cánh tay cho anh, ghép lại xương, nối lại mạch máu và chăm sóc chu đáo.
Sau hai tháng điều trị, anh xuất viện và cánh tay anh có thể hoạt động bình thường. Bấy giờ anh Năm cảm thấy rằng chẳng có niềm vui nào trong đời lớn hơn niềm vui có lại cánh tay tưởng như đã mất.
Niềm vui có lại được cánh tay của anh Năm cũng diễn tả đúng niềm vui của Thiên Chúa khi có người tội lỗi ăn năn hối cải trở lại với Người.
Niềm vui đó được Chúa Giêsu diễn tả qua Tin Mừng hôm nay như sau: Người cha sai bảo các tôi tớ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng.”
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa vô cùng đau đớn khi chúng con phạm tội trọng xa lìa Chúa và Chúa quá đỗi mừng vui một khi chúng con sám hối, ăn năn trở lại với Ngài.
Khi phạm tội xa lìa Chúa, xin giúp chúng con mau mau quay lại với Ngài như cánh tay đứt lìa phải được cấp tốc tháp nối lại với thân mình để Chúa khỏi đau buồn tiếc nuối vì mất đi một chi thể thân thương và để chúng con không trở thành “cánh tay chết” vì phải xa lìa Chúa là nguồn ban sự sống thiêng liêng cho chúng con.
Một người phú hộ giàu có nọ, khi đến tuổi già yếu, biết mình đã gần đất xa trời, ông liền gọi những người mắc nợ đến để yêu cầu thanh toán nợ nần.
Ông phán bảo những con nợ rằng: nếu các ngươi không thể trả nợ cho ta ở đời này thì các ngươi phải cam kết thề hứa một cách trọng thể là sẽ hoàn trả các món nợ của các ngươi ở kiếp sau, ta sẽ đốt hết các tờ khế ước mà các ngươi đã ký kết với ta. Nghe vậy, người thứ nhất mắc nợ ông 10 lượng vàng đến qùy gối thưa:
- Thưa ông, trong kiếp sau con hứa trả nợ cho ông bằng cách làm con ngựa để ông cưỡi lên và con sẽ đưa ông đi bất cứ nơi nào ông muốn.
Người thứ hai mắc nợ ông 100 lượng vàng cũng đến qùy gối và thưa:
- Thưa ông, trong kiếp sau con xin chấp nhận làm trâu kéo cày, kéo xe chở đồ cho ông để hoàn trả món nợ đời này.
Người phú hộ ưng nhận lời hứa của hai người này và bằng lòng đốt tờ khế ước xóa nợ cho họ.
Sau cùng, người thứ ba với món nợ cũng rất khổng lồ là 1000 lượng vàng cũng đến qùy gối trước mặt ông và thưa:
- Thưa ông, để hoàn trả món nợ khổng lồ của con với ông từ trước đến nay, kiếp sau con sẽ làm cha của ông.
Nghe vậy, người phú hộ tức giận, ông truyền đem roi sắt đến đánh cho một trận nhừ tử vì tội vô lễ và bất kính, nhưng người này bình tĩnh giơ tay ngăn cản người phú hộ và xin được phân trần sự việc. Ông nói:
- Thưa ông, con vốn biết món nợ của con lớn lao lắm, cho dù kiếp sau con có làm thân trâu ngựa cũng không đủ trả nợ cho ông, nhưng con sẵn sàng làm cha của ông, vì chắc hẳn ông cũng quá rõ trách nhiệm nặng nề của cha mẹ đối với con cái mình. Con sẽ làm việc ngày đêm để lo cơm ăn áo mặc cho ông. Con sẽ che chở cho ông như cha mẹ che chở đứa con thơ và chăm sóc ông những khi ông đau ốm cho tới tuổi già, con sẽ không ngại bao gian khó hy sinh nào, cho dù có phải hy sinh tính mạng để ông được no ấm và không thiếu thốn gì, và khi chết, con sẽ để lại cho ông tất cả gia tài mà con đã thu tích được với sức lao động và mồ hôi nước mắt của con. Ông thử nghĩ xem đó có phải là cách đẹp nhất để con trả món nợ khổng lồ kia cho ông sao?
Người giàu có lim dim đôi mắt trầm tư lắng nghe. Một lúc sau ông gật gù mỉm cười rồi đứng dậy đốt bỏ khế ước, tha món nợ khổng lồ của hắn như đã tha cho hai người trước.
Câu chuyện trên đây phản ánh phần nào về tình yêu và trách nhiệm của người cha trong gia đình. Khi con còn thơ “cha là con ngựa con cỡi con chơi”, và khi con đã khôn lớn cha là chỗ dựa vững chắc cho con niềm tin, nghị lực dấn thân vào đời. Tình cha thật ấm áp, thật thân thương trìu mến. Tình cha là một tình yêu không thể thiếu cho con cái sự tự tin, tính ngay thẳng để bước đi trong cuộc đời như lời bài hát “Tình cha” đã diễn tả:
Tình Cha ấm áp như vầng Thái Dương Ngọt ngào như giòng nước tuôn đầu nguồn Suốt đời vì con gian nan, Ân tình đậm sâu bao nhiêu, Cha hỡi Cha già dấu yêu Và con nhớ mãi những ngày tháng qua Kỷ niệm năm nào khó phai trong lòng Nhớ hoài tuổi thơ bên Cha, gian khổ ngày đêm chăm lo Mong muốn con được lớn khôn Còn nhớ những ngày ấy, những đêm trường giá lạnh Và Cha nằm ôm con sưởi ấm những canh dài Nhè nhẹ hôn con và Cha khẽ nói: Này con yêu ơi... Con hãy nhớ.. hãy nhớ... lời Cha sống cho nên người và con hãy chớ bao giờ dối gian Nghèo thì cho sạch rách sao cho thơm! Những lời của Cha năm xưa Con nguyện ghi sâu trong tim Cha hỡi Cha già dấu yêu...
Vâng, chấp nhận trở nên người cha, người mẹ của ai là như tự gánh lấy cho mình một món nợ khổng lồ mà chỉ có thể hoàn trả đầy đủ bằng tình thương mà thôi. Thật vậy, tình thương của người cha là tình thương không tiền bạc nào có thể mua được. Nó là thứ tình thương chân thật và sâu xa, là phản ánh tình thương bao la của Thiên Chúa với nhân loại. Cho đi cách nhưng không và không mong được đền ơn báo đáp. Nó là thứ tình thương nhân hậu và kiên trung luôn yêu con và tha thứ cho con khi con quay đầu trở về.
Tình thương đó được Chúa Giê-su diễn tả qua dụ ngôn: “Người cha nhân từ”. Một người cha quá đau khổ vì có đứa con thứ phung phá, trụy lạc. Một người con phản loạn đã đòi Cha chia gia tài để ăn chơi trác táng. Nó rời khỏi ngôi nhà thân thương. Nó trẩy đi miền xa, mang theo nỗi khát khao mãnh liệt là ra khỏi luỹ tre làng, muốn nhìn xem thế giới mới lạ bên ngoài, thích miền xa hơn là gần gũi quê nhà.
Anh đã bỏ nhà ra đi với tiền bạc và lòng kiêu ngạo, quyết sống thoát ra khỏi sự ràng buộc của gia đình. Anh ra đi không phải để học hành, tìm việc làm mà là ăn chơi đàng điếm, phung phí hết tài sản, sức khoẻ, bất kể đó là mồ hôi nước mắt của cha mẹ, bất chấp tiếng tốt của gia đình. Chơi bời nên mau chóng suy sụp. Anh sa cơ thất thế. Anh ta trở nên hèn hạ khi đi chăn heo và thèm ăn thức ăn của heo.
Khi trở về chẳng còn gì: tiền bạc, sức khoẻ, danh giá, lòng tự trọng... mọi thứ đã bị tiêu xài hoang phí. Anh ta chỉ còn lại một điều duy nhất là “đứa con nhỏ của cha nó”.
Động lực nào đã khiến anh trở về? Thánh Lu-ca viết rõ: “Hồi tâm lại, nó nói: biết bao người làm công cho Cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi, đứng lên, tôi sẽ về cùng Cha tôi”. Như vậy động lực anh trở về là đói, vì miếng ăn. Trước khi bị đói chắc chắn anh không bao giờ nhớ đến Cha, không bao giờ sám hối vì bỏ Cha ra đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về mái ấm gia đình, nơi còn có Cha già chẳng biết đau yếu ra sao, không thấy tiếc nuối vì phá tan cả sự nghiệp của Cha. Khi bị cơn đói hành hạ, phải đi chăn heo, anh mới băn khoăn tìm đường về. Cái hồi tâm, cái băn khoăn của anh là làm sao để được ăn. Anh dự tính nói với Cha là trót phạm lỗi nghịch với trời, không còn đáng gọi là con, chỉ xin được đối xử như người làm công.
Tất cả ý nghĩa của cuộc trở về được diễn tả cách cô đọng trong những lời: “Cha ơi... con không đáng gọi là con Cha nữa”.
Nhưng, người cha dường như đã bỏ ngoài tai những lời người con. Ông chỉ thấy vui mừng vì con trở về. Ông quên hết lầm lỗi xưa. Ông thiết đãi tiệc vui vì con đã chết nay sống lại...
Thiên Chúa cũng luôn yêu thương chúng ta bằng một tình yêu vô bờ bến như thế. Tình yêu Chúa không chấp tội chúng ta. Vì nếu Chúa chấp tội thì nào ai đứng vững. Thiên Chúa luôn bao dung và tạo điều kiện cho chúng ta làm lại cuộc đời. Điều này được thể hiện qua bí tích hòa giải. Nơi đây biết bao tội nhân tìm lại được bình an tâm hồn. Có những người đã bỏ Chúa 10 năm, 20 năm. Có những người đã hoang phí tuổi trẻ trong đam mê tứ đổ tường, nhưng dường như cuộc đời đã xô đẩy khiến họ luôn cảm thấy chán chường, bất an khi xa Chúa. Chỉ có khi nào mạnh dạn đứng lên quay đầu trở về lúc đó mới tìm thấy niềm vui và bình an tâm hồn.
Xin cho chúng ta luôn nhận ra tình thương của Chúa để quay đầu trở về. Cuộc trở về không bao giờ là muộn và tình thương Chúa vẫn mãi mãi dành cho chúng ta một chỗ trong lòng thương xót của Chúa. Amen.
Bước vào Chúa nhật IV Mùa Chay (Laetare), Phụng Vụ của Giáo Hội sử dụng mùa như Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng (Gaudete) là màu hồng, màu của bình minh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối, nay Giáo hội tạm dừng để chuẩn bị tốt hơn niềm vui (Giáng Sinh và Phục Sinh), nghỉ để cảm tạ những gì ta đã làm, lấy thêm can đảm để bước tiếp những chặng cuối. Ca nhập lễ tuần này chỉ nói về niềm vui và niềm an ủi. Toàn thể Giáo hội chúc mừng con cái mình, vì đã hăng hái tiến bước được nửa Mùa Chay Thánh. "Niềm vui, niềm vui, niềm vui, nước mắt của niềm vui" (Lễ Vượt Qua) đứng trước đau khổ nghĩ tới sự toàn thắng trong vinh quang. Lời ca nhập lễ: ("Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem! Tề tựu cả về đây, hỡi những ai hằng mến yêu Thành! Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng và hân hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan. Tv. Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi: Chúng ta sẽ tiến vào nhà Chúa. Vui lên nào..."). Làm sao chúng ta không thể không vui được, khi có Thiên Chúa là Cha, Đấng giầu lòng thương xót, Ngài rất mực yêu thương chúng ta, đến hy sinh chính Con Một vì chúng ta khi chúng ta còn là tội nhân.
Thánh Luca đã làm nổi bật chủ đề của Chúa nhật IV Mùa Chay, Chúa nhật của niềm vui (Laetare), khi cả đoạn Tin Mừng (Lc 15, 1-32), niềm vui dâng trào thể hiện qua các dụ ngôn, cụ thể như dụ ngôn "Con chiên lạc": Và khi đã tìm thấy, người đó vui mừng... kêu bạn hữu... mà nói rằng: "Anh em hãy chia vui với tôi...: "Trên trời sẽ vui mừng...". Hay dụ ngôn "Đồng bạc đánh mất": "Và khi đã tìm thấy, bà mời các chị em...đến mà rằng: "Chị em hãy vui mừng với tôi... ". Cũng vậy...: Các Thiên Thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng...". Nhưng cụ thể hơn cả vẫn là dụ ngôn "Tình phụ tử ": Người cha bảo:... phải ăn tiệc mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Nếu như hai dụ ngôn trước nói về sự vui mừng hay chung vui, thì dụ ngôn "Tình phụ tử là phải ăn tiệc và vui mừng". Thiên Chúa là Cha mở khao tiệc ăn mừng con người tội lỗi chúng ta trở về với Chúa. Sao chúng ta không thể không vui, sao chúng ta không thể không mừng. Chúng ta đặt mình vào cương vị của người con thứ và tự sự, để khám phá ra tình yên của Thiên Chúa yêu mỗi người chúng ta biết chứng nào, để rồi vui mừng mà đáp trả.
"Từ bỏ cha tôi là người hết mực thương tôi, tôi thật đã làm điều sai trái; tôi đã phung phí hết tiền của vào cuộc đời trác táng, thân tôi tan nát và dơ bẩn, làm thế nào cha tôi có thể nhận ra tôi là con trai mình? Tôi sẽ sấp mình xuống dưới chân cha tôi, lấy nước mắt lau chân cha tôi và khẩn xin cha tôi coi tôi như người làm công của cha"... Người cha, từ ngày con bỏ nhà ra đi, ông đã khóc suốt, và ngày ngày ra ngóng bóng con trở về, nên khi ông thấy nó từ đàng xa, ông quên cả tuổi già và quên luôn cuộc sống phóng đãng của con trai ông, ông chạy tới ôm choàng lấy cổ nó và hôn lấy lấy hôn để. Thằng con trai ông hết sức kinh ngạc về tình yêu mà cha nó dành cho nó, nó kêu lên...: " Con không còn xứng đáng được gọi là con cha nữa, xin cha coi con như người làm cồng của cha. Không, không, con trai của cha, người cha nó kêu lên..., tiếng kêu đã xóa sạch tất cả lỗi lầm của con, và tình cha tuôn trào xuống người con bằng hành động: " phải ăn tiệc và vui mừng "(Lc 15, 32). Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy " (Lc 15, 22-24).
Khi quan sát hình ảnh người cha ôm người con, nghe người cha nói với người con và liên tưởng tới Vì Thiên Chúa là Cha xử với chúng ta là tội nhân như thế, thánh Gioan Maria Vianney cha sở họ Ars đã thốt lên rằng: Đây hình ảnh tuyệt đẹp về sự vĩ đại của lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân khốn khổ nhất!... Ôi Thiên Chúa của con, rằng tội lỗi là một cái gì đó thật khủng khiếp! Làm thế nào chúng con có thể phạm tội được? Nhưng tất cả chúng con là những kẻ khốn nạn, ngay khi chúng con còn là tội nhân, thì Thiên Chúa đã yêu thương chúng con trước.
Lòng thương xót của Thiên Chúa cộng với lòng trắc ẩn. Tình yêu của Đấng Cứu Thế thật bất ngờ bởi ân sủng của Ngài trước các tội nhân, Ngài ôm hôn tội nhân, trao ban cho họ sự an ủi tuyệt vời...Ôi khoảnh khắc tuyệt với! Chúng ta mà hiểu được thì chúng ta sẽ rất hạnh phúc! Nhưng than ôi, chúng ta không phù hợp với ơn thánh, nên những khoảnh khắc hạnh phúc tuyệt vời ấy biến mất. Chúa Giêsu Kitô nói với người tội nhân qua miệng của các thừa tác viên của Ngài: "Vì anh em, phàm ai đã được thanh tẩy trong Đức Kitô, thì đã được mặc lấy Đức Kitô "(x. Gal 3:27). Đó là điều Thiên Chúa đối xử với chúng ta, khi chúng ta bỏ đàng tội lỗi để đi theo Ngài, chúng ta sẽ hạnh phúc. Chao ôi, đâu là điều mà tội nhân tin tưởng, cho dù tội lỗi đến đâu đi chăng nữa, thì hãy biết và tin rằng lòng thương xót của Thiên Chúa là vô cùng vô hạn! (Trích bài giảng thứ Chúa nhật III Mùa Chay của thánh Gioan Maria Vianney).
Người cha mất con, nên ngày ngày ngóng chờ con trở về là hình ảnh của Thiên Chúa là Cha luôn cháy lửa tình yêu đối với nhân loại, cha ôm con vào lòng, không đơn giản chỉ là tội nhân, nhưng là kẻ có tội biết ăn năn, đó là một con người biết đọc lại các biến cố của đời mình, hiểu được những gì đã xảy đến với mình để sửa chữa, tái lập trật tự trong đời sống và quyết tâm: "Tôi sẽ trỗi dậy và trở về với cha tôi ", những thực tế, ai trỗi dậy và ai trở về với cha mình. Vì thế, cuộc gặp gỡ giữa người cha và người con, khơi dậy sự trở về trong ân sủng của người con, đơn giản không chỉ là ơn tha tội nhưng không do Thiên Chúa ban, và không có gì thay đổi nơi lòng của người con. Đây là cuộc gặp gỡ của niềm tin mà người con tội lỗi đã đặt để vào lòng thương xót của người cha đầy lòng thương xót ấy, cuộc gặp gỡ này mang dấu ấn của vòng tay cha và con tìm thấy được tình cảm trìu mến. Vâng, Đức Giêsu đồng bàn với quân tội lỗi, nhưng Ngài không đến để hợp thức hóa tội lỗi, làm cho những kẻ lầm lỗi cứng lòng, hay ngày càng tội tề hơn. Ngài đến để loan báo rằng họ có thể sống khác để chứng tỏ rằng tình yêu của Thiên Chúa không nản vì sự thờ ơ, hay khác biệt của những con người, và mở ra một cuộc sống mới như thánh Phaolô nói với chúng ta: "Một thế giới mới đã đến".
Cuộc hòa mà Giáo hội có sứ mạng là trung gian, là hòa giải con người với Thiên Chúa và với nhau, một vài tuần trước lễ Phục Sinh. Đây là cơ hội để hân hoan vui mừng, vì con người trở về với Thiên Chúa với lòng thống hối ăn năn, cậy nhờ vào lòng thương xót của Thiên Chúa là Cha, Đấng giầu lòng thương xót, dẫn dắt con người tới bàn tiệc như người cha đã chuẩn bị cho con mình. Đúng như thế, tội nhân được tha thứ là con người của niềm vui và tác động của ân sủng. Vâng, ai trở về thì được tham dự vào niềm vui muôn đời của Thiên Chúa, kẻ mất nay lại tìm thấy trở nên thành viên dự tiệc vui muôn đời của Thiên Chúa, chứng nhân của niềm vui là chính Chúa
Vì vậy, khi Giáo hội mời gọi chúng ta chuẩn bị lễ Phục Sinh, trở về với Chúa, thừa nhận những lỗi lầm và những khuyết điểm trong đời sống chúng ta, chúng ta đứng dậy, trở về với Chúa là Cha. Lễ Phục Sinh không mời gọi chúng ta bước vào con được sầu khổ, trái lại, cứu chuộc chúng ta khỏi đắng cay buồn phiền, nghèo đói và chết chóc, lễ Phục Sinh mang lại cho chúng ta niềm vui ngày Đại lễ. Hòa giải được với Thiên Chúa và hòa giải với nhau, chúng ta sẽ cảm nhận được niềm vui thiêng thánh. Amen.
Đề tài Chúa nhật hôm nay: Thiên Chúa là Đấng Cứu độ và hay tha thứ. Lòng Quảng đại và tha thứ, ngày xưa, đã được tỏ hiện cho dân ngài tuyển chọn. Chúa đưa họ ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, đi qua biển đỏ, vượt sa mạc, đi về đất hứa “miền đất chảy tràn trề sữa và mật ong”. Lễ Vượt Qua đầu tiên, do bài đọc I gợi ý, chính là sự hoàn tất của lời hứa do lòng thương xót của Chúa ban. Nhưng lòng thương xót và tha thứ của Chúa đạt đến tột tỉnh nhờ Chúa Giêsu. Đấng đến trong thế gian để giao hoà ta lại với Thiên Chúa. Thánh Phaolô, trong bài đọc II, nói: “Ngài là Đấng không biết đến tội lỗi, nhưng vì ta, Thiên Chúa đã làm cho Người nên phận tôi đòi, để chúng ta được trở nên Công Chính”.
Để diễn tả lòng từ bi và hay tha thứ trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mô tả một người con đi hoang, trở về với người Cha già. Người con trai bần cùng rách rưới là hình bóng một tâm hồn tội lỗi. Bằng 4 câu cụ thể, Chúa phác họa con đường xuống dốc sa đọa của nó: nó bỏ nhà ra đi, lánh xa ông bố già hay cho bài luân lý; nó ăn chơi đàng điếm, phung phí sức lực và tiền của, mất cả áo quần giày dép; chỉ còn một thân tàn ma dại, phải đi làm mướn chăn heo; nó nghĩ lại và quyết định trở về.
Nếu chúng ta quen gọi dụ ngôn này là dụ ngôn người con trai hoang đàng thì chúng ta cũng có thể gọi là dụ ngôn người Cha già đầy tình tha thứ. Ông mong con trở về, tiếp đón con nồng hậu. Người con xin được đối xử như tôi tớ thì ông lại biệt đãi như quí tử.
Dụ ngôn nói lên một cách sống động Tình Yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta là kẻ tội lỗi. Những người làm cha mẹ có thể hiểu được hơn ai cả, khi trong gia đình rủi có một người con bỏ nhà ra đi, làm cho cha mẹ đau khổ. Tuy vậy, cha mẹ vẫn chờ đợi, vẫn tha thứ, vẫn mở rộng vòng tay đón nó trở về.
Tình yêu của cha mẹ là một tia sáng phản ảnh Tình Yêu Thiên Chúa.
Cha ơi, nay con đã về, Tội đầy cùng Trời với Cha. Bao nhiêu tháng năm hoang đàng, Một lần xin dấu ăn năn. Con xin làm người tôi hầu, Trọn đời bên Cha dấu yêu. Rồi mai, những khi âu sầu, Con được tình Cha xót thương nhiều. (Nguyễn Quang Hiển)
Có một người đàn ông nọ khao khát đi tìm gặp gỡ Chúa. Ông đi khắp nơi để thọ giáo những bậc thánh hiền, ông cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm nhưng vẫn không tìm được Chúa. Ngày nọ, ông đến ngồi thơ thẩn bên một dòng sông nhìn dòng nước trôi lững lờ, ông nhìn thấy một con vịt mẹ và một đàn con đang bơi lội. Đàn vịt con tinh nghịch muốn rời mẹ để ra đi kiếm ăn riêng. Để tìm con này đến con nọ, vịt mẹ phải lặn lội đi tìm đàn con mà không hề tỏ dấu giận dữ hay thất vọng. Nhìn thấy cảnh vịt mẹ cứ mãi đi tìm con như thế, người đàn ông mỉm cười và đứng dậy trở về quê hương. Ông chợt khám phá ra một chân lý và ông thốt lên: Tôi đã đi tìm Chúa và cuối cùng tôi đã khám phá ra rằng chính Thiên Chúa đang đi tìm tôi.
Con vịt mẹ không ngừng đi tìm kiếm con của mình, đó là hình ảnh nói lên chính tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa không ngừng đi tìm kiếm con người. Qua bài dụ ngôn "người con hoang đàng" quen thuộc mà chúng ta có dịp lắng nghe trong Mùa Chay này, Chúa Giêsu cũng mạc khải cho chúng ta tình yêu cao vời ấy của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tạo dựng cho chúng ta có tự do. Thiên Chúa muốn đối xử với chúng ta như một con người trưởng thành. Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn nói lên qua hình ảnh một người cha không muốn khăng khăng giữ lấy đứa con, mà trái lại chia gia tài cho nó, để nó được tự do sử dụng tất cả những gì thuộc về nó. Mà dẫu cho người con có lên đường đi tạo lập một cuộc sống riêng tư, người cha vẫn không ngừng ngóng trông, theo dõi và chờ đợi đứa con. Ông khắc khoải từng giây từng phút. Ngày ngày ông ra trước ngõ để ngóng trông. Và khi người con vừa xuất hiện từ đằng xa, người cha đã chạy đến ôm chầm lấy con và hôn lấy hôn để, rồi ông lại sai gia nhân mặc áo đẹp cho cậu con, xỏ nhẫn, đeo giày cho cậu và mở tiệc ăn mừng. Có lẽ trong văn chương nhân loại từ cổ chí kim chưa có một áng văn nào đẹp cho bằng hình ảnh trên đây. Thiên Chúa yêu thương đến độ tìm kiếm, ngóng trông con người từng giây từng phút, Thiên Chúa yêu thương đến độ sẵn sàng tha thứ tất cả lỗi phạm của con người, để phục hồi nó hoàn toàn trong thân phận cao quý của một con người.
Đó là tất cả Tin Mừng của Kitô giáo. Thánh Gioan đã tóm tắt tất cả chân lý ấy bằng câu nói: "Thiên Chúa là tình yêu". Thiên Chúa không mong gì hơn nơi con người, là con người nhận biết được tình yêu ấy. Không gì xúc phạm đến Thiên Chúa cho bằng khi con người khước từ tình yêu của Ngài. Chúa Giêsu đã kể câu chuyện dụ ngôn về người con hoang đàng trở về, nhưng điểm nhắm của Người lại là người con cả, hiện thân của những người biệt phái. Đây là hạng người tự cho mình là những kẻ yêu mến Chúa, tuân giữ các giới răn của Ngài, nhưng kỳ thực họ lại tỏ ra lời phát biểu của người anh cả trong bài dụ ngôn. Anh ta nói: "Đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, vậy mà không bao giờ cha cho con riêng một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm nay trở về, thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó". Quả thật, những người biệt phái tuân giữ không sai chạy tất cả mọi luật lệ của Chúa, nhưng họ chỉ tuân giữ lề luật trong tinh thần sợ sệt cứng ngắt và giả hình, bởi vì họ không cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Và bởi vì không cảm nhận được tha nhân là người anh em ruột thịt của mình. Khước từ Thiên Chúa, con người cũng khước từ anh em của mình. Không cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa, con người cũng không muốn san sẻ tình yêu với người anh em. Tin Mừng hôm nay quả thực là một quảng diễn về hai giới răn cơ bản trong đạo của chúng ta đó là: Mến Chúa Yêu Người. Người ta không thể mến Chúa mà không yêu tha nhân.
Mùa Chay qua bí tích hòa giải, Giáo Hội mời gọi chúng ta cảm nhận một cách sâu sắc tình yêu vô bờ của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn dang rộng cánh tay để ôm ấp, để vỗ về và tha thứ cho chúng ta. Và tình yêu vô bờ của Người Cha ấy chờ đợi gì nơi chúng ta hơn là chúng ta biết nhìn ra nơi tha nhân, người anh em của chúng ta, để chúng ta cũng yêu mến và tha thứ không ngừng.
Nguyện xin Đấng đã chết để mạc khải cho chúng ta bộ mặt tình yêu của Chúa, giúp chúng ta biết đón nhận tình yêu ấy trong từng giây phút của cuộc sống và san sẻ tình yêu ấy với mọi người anh em chúng ta.
Nếu nói mùa Vọng là mùa con người trông chờ Chúa đến thì mùa Chay hẳn là thời gian Chúa đợi mong người ta trở về. Trông đợi nào cũng là tác động của nhớ thương. Bởi lẽ có thương mới nhớ. Có nhớ mới tha thiết trông mong, đợi chờ. Nhưng dường như trong sự trông đợi của con người vẫn phảng phất một nỗi nhớ nhung chưa trọn vẹn. Có thể vì con người còn thương mình hơn thương Chúa. Trong khi đó, nỗi đợi chờ của Chúa lại chất chứa cả một bầu trời yêu thương bao la, vời vợi.
Đọc câu chuyện “Tình Cha” tôi nhận ra điều đó. Người con thứ khát vọng một chuyến ngao du cho thoả chí tang bồng. Anh bỏ rơi cha già, ra đi theo tiếng gọi xa xăm. Người cha âm thầm chấp nhận. Ông không nuối tiếc vì phải chia bớt một số gia sản, nhưng đau khổ vì mất đi người con dấu yêu bồng bột. Nỗi khổ còn nhân thêm khi đời mình đang bị kết liễu ngay trong tâm trí của đứa con. Thường thì cha mẹ chỉ chia gia tài lúc biết mình sắp chết. Và con cái sẽ nhận phần khi bố mẹ đã qua đời. Nhưng đứa con đó lại đòi chia tài sản và thu gom tất cả, ra đi khi người cha còn khoẻ mạnh. Bản án tử hình được công bố. Người cha xót xa nhìn bóng con xa mờ.
Không phải chỉ có tội bất hiếu khi đày đoạ lòng cha, người con còn làm bại hoại gia phong khi giao du với quân đàng điếm. Có cha mẹ nào lại không muốn con khôn lớn, nên người đức hạnh, ăn học thành tài, mang lại thanh danh cho gia đình dòng họ. Thế nhưng, thay vì danh thơm tiếng tốt, đây chỉ là nỗi tủi nhục cay đắng vì đứa con mất nết hư thân.
Đã vậy, nó còn làm nhơ uế cả thuần phong mỹ tục. Với một truyền thống thanh sạch khởi đi từ bao đời, với những mẫu gương anh hùng của tiền nhân: thà chết còn hơn ăn thịt heo, như cụ già Êlêasar hay “Người Mẹ với Bảy Đứa Con” trong sách Macabê. Ấy thế mà giờ đây, phẩm giá của hắn còn thua cả giống heo. Muốn ăn đồ ăn của loài súc sinh bẩn thỉu mà cũng không ai cho. Thê thảm thay!
Thế rồi khi cơn đói giày xéo đến cực độ, người con bắt đầu sực tỉnh. Nó băn khoăn tự nhủ: những người làm công cho cha mình đâu có bị đối xử tàn tệ như thế này. Họ được ăn uống dư dật, còn mình lại bị chết đói nơi đây. Nó ước mong trở về. Nhưng động lực của mong ước đó không phải vì thương nhà, nhớ cha, song vì đói quá. Sự bồn chồn khát khao thúc đẩy bước chân người con trở về không phải vì lương tâm cắn rứt, nhưng vì bao tử cào cấu quá mạnh. Dẫu sao thì cũng đã có một động cơ thúc đẩy người con trở về, dù rằng không đẹp lắm.
Nhưng động cơ thúc đẩy nơi đứa con càng tiêu cực thì lại càng làm nổi bật tình thương vô cùng nơi người cha. Đọc lại đoạn văn tả cảnh “cha con đoàn tụ” thì mới thấm thía được tình Chúa bao la làm sao!
Luca, người chép chuyện, không nói rõ đứa con bỏ nhà đi từ bao lâu. Chỉ biết khi đi nó mang theo nhiều tiền. Chắc phải tiêu sài một thời gian mới hết. Sau đó còn phải đi chăn heo, túng thiếu, đói khát, tiều tụy lắm. Tức là vừa có thời gian dài của xa nhà vừa có sự thay đổi của hình hài thân xác. Ấy thế mà khi “nó còn ở đằng xa, thì cha nó đã thấy nó” (Lc 15:20). Nhận ra dáng con từ đằng xa bằng đôi mắt già lão của mình hẳn phải nhờ tác động của tình thương. Có biết bao cha mẹ có con trong tầm tay với mà không nhận ra hay cũng chẳng muốn nhìn nhận. Phải chăng vì họ thật tình không thấy, hay con mắt yêu thương đã bị nhạt nhoà mù tối: mù tối bởi những hưởng thụ bất chính và ích kỷ đam mê?
Khi thấy con, người cha đã “chạnh lòng thương.” Không hiểu tại sao ông ta lại chạnh lòng thương? Nguyên do nào lại quặn lòng đau xót trước thân hình tiều tụy của một kẻ hư thân bất hiếu, làm tán gia bại sản, gây ố nhơ cả thuần phong mỹ tục? Tại sao không đợi nó dẫn xác vô nhà mà giáng cho một trận nên thân, hay dạy cho một bài học nhớ đời, trái lại, ông đã chạy ra với nó? Phải chăng vì tình thương của ông quá lớn, ấp ủ bao tháng ngày đợi trông, nay bị vỡ tung qua hành động chạy đến với con.
Thế ra, tình yêu chân chính và tuyệt hảo không chờ đối tượng được yêu tìm đến với mình, nhưng luôn đẩy mình đến với người được yêu. Chính tình yêu chân chính và tuyệt hảo đã đẩy Thiên Chúa đến với con người.
Thế rồi, khi gặp con, “ông bá lấy cổ nó mà hôn lấy hôn để”. Đây không phải là nụ hôn phản trắc, lạnh lùng, bán đứng người được hôn như của Giuđa. Song là cái hôn cuống cuồng nhớ thương, sau bao khao khát mong chờ.
Trước thái độ và hành động chan chứa ân tình của cha, người con chỉ biết thốt lên: “Con đã trót phạm tội nghịch với Trời và trước mặt cha, con không đáng gọi là con cha nữa” (Lc 15:21). Người con muốn nói thêm. Nó tính nói lên cái ước vọng được trở thành người làm công cho cha, hầu có được miếng ăn. Như một người đi xin việc, nó muốn trình bày một chút quá khứ và khẩn cầu một chút ân huệ. Quá khứ đó khiến nó “không đáng được gọi là con cha nữa”. Cuộc đời từ nay chỉ cầu sao được “làm công cho cha thôi” cũng là mãn nguyện lắm rồi.
Nhưng người cha đã nói át điều hắn sắp sẵn. Quá khứ của hắn, ông không màng. Ước nguyện đơn sơ của hắn, ông đáp ứng còn nhiều hơn điều hắn có thể tưởng tượng ra. Ông gọi đầy tớ cấp tớ cấp tốc đem áo choàng thượng hạng thay cho bộ áo tả tơi rách nát của hắn, lấy nhẫn vàng đeo vào ngón tay khẳng khiu vì đói, lại còn mang giày vào đôi chân vương lắm bụi đời của hắn nữa. Ôi, toàn là những thứ biểu trưng cho hạnh phúc giàu sang: áo choàng cho danh dự, nhẫn vàng cho quyền lực, và đôi giày cho hạng người tự do! Phải chăng chỉ có tình thương mới phục hồi nhân phẩm con người cách trọn vẹn nhất? Phải chăng tình thương của Thiên Chúa mới xoá hẳn quá khứ tội lỗi xấu xa, và hoàn lại cho đời ta phẩm giá cao đẹp nhất của người con Nước Trời?
Cảm nhận được tình Chúa, cuộc trở về của tôi mới thật chân thành. Nếu đi xưng tội trong mùa Chay vì sợ sa hoả ngục, hay hãm mình trong mùa Chay vì sợ sa hoa ngục, hay hãm mình trong tuần thánh chỉ muốn lên thiên đàng, không chút cảm nhận tình yêu của Cha trên trời, thì tôi vẫn còn thiếu sót lắm.
Thế nhưng, lạy Chúa, dù sợ hoả ngục hay ước mơ thiên đàng thì con vẫn muốn đứng lên trở về. Dù động cơ thúc đẩy con về là miếng ăn hay cơn đói, con vẫn biết tình thương của Chúa sẽ làm đẹp tương lai đời con. Con tin rằng cứ lên đường trở về là thoát cảnh “chăn heo”. Sà vào lòng Cha là tìm được nguồn ơn tha thứ. Ở bên Cha sẽ không phải đói khát bao giờ. Cha ơi, nay con đã về!
Dụ ngôn người cha nhân hậu là một dụ ngôn nổi tiếng, qua đó Đức Giêsu cho thấy tại sao Ngài đón tiếp và ăn uống với tội nhân. Đơn giản chỉ vì ngài giống Thiên Chúa là người Cha nhân hậu.
Người cha nhân hậu là người tôn trọng tự do của đứa con thứ, người đã chia một phần ba gia sản cho nó ngay khi ông còn sống. Ông đã không tìm con, như người ta tìm chiên lạc hay tìm đồng bạc bị mất. Ông tin và hy vọng sớm muộn nó sẽ về, nên ông kiên nhẫn chờ. Vì chờ, nên ông là người đầu tiên trông thấy con trở về tiều tụy. Không cầm lòng được vì thương, ông chạy ra, ôm lấy cổ con mà hôn. Người con của ông đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Khi con thứ sám hối, ông đã trả lại cho cậu tất cả vinh dự của người con. Việc duy nhất phải làm ngay là mở tiệc ăn mừng (cc. 23, 24. 29, 32). Khi con cả giận dỗi, không chịu vào nhà chung vui với cha và em, một lần nữa người cha lại đi ra và năn nỉ (c. 28). Ông chấp nhận ở thế yếu vì ông không muốn mất một đứa con nào. Ông không thể yên tâm ở trong nhà khi còn một đứa con ngoài cổng.
Hoán cải bao giờ cũng khó. Con thứ phải can đảm lắm mới dám trở về nhà cha. Làm sao lường được phản ứng của cha, anh, của gia nhân, hàng xóm? Làm sao dám về nhà trong tình trạng thân tàn ma dại? Nhưng con cả cũng không dễ vào nhà chút nào, vì vào nhà là phải bắt tay thằng em đã phung phí hết của cải, vào nhà là phải chấp nhận sự thiên vị khó hiểu của người cha (cc. 29-30). Cả hai người con đều cần hoán cải.
Người con cả cũng hỗn hào với cha không kém gì đứa em (c. 30). Em bỏ nhà ra đi nên đói, còn anh không chịu vào nhà nên cũng có thể bị đói. Anh phục vụ cha rất tốt nhưng lại mong cha trả công như người thợ (c. 29). Anh ở gần cha, nhưng thực sự trái tim lại xa cha. Khi cha vui vì em trở về thì anh lại buồn giận.
Mùa Chay là thời gian trở về với Cha, trở lại với anh em. Người con thứ đã đứng lên trở về nhà cha và tìm được hạnh phúc. Không rõ người con cả có vào nhà cha và ôm lấy em mình không?
Cầu nguyện:
Lạy Cha, người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình. Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ, khi coi Chanhư người cản trở hạnh phúc của chúng con. Chúng con thèm được tự do bay nhảy ngoài vòng tay Cha, nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ. Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo. Như người con thứ,chúng con bỗng thấy mình tay trắng, rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe dọa.
Lạy Cha đầy lòng bao dung, xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày, giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc. Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.
Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên, thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng. Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ, chúng con lại thấy mình hiền hòa hơn với tha nhân.
Có người nói rằng, xếp quyển Thánh Kinh lại, chỉ để lại trang Luca chương 15 mà hôm nay chúng ta được nghe trong Chúa nhật tuần 4 Mùa Chay.
Chương 15 của Luca là một trong những chương sách đẹp nhất của toàn bộ Thánh Kinh Tân ước. Cả chương sách bừng lên niềm vui chan chứa, niềm vui của tình yêu mà những ai sống trong quỹ đạo của ích kỷ không cảm nếm được. Bối cảnh là những người thu thuế và tội lỗi đến với Chúa Giêsu để nghe Người giảng, làm cho người Pharisêu và các kinh sư khó chịu. Bối cảnh đó làm nổi bật lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân và là lời cảnh giác cho những kẻ tự hào mình là người công chính.
Trang Tin Mừng Tin Mừng Lc 15,1-3.11-32 đã từng được gọi là dụ ngôn đứa con hoang đàng. Với sự quyến định trở về của mình, người con này được đề cao hơn cả cuộc đời hoang đàng của anh ta. Ngày nay, người ta lại chuyển hướng và nhìn vào hình ảnh từ bi đại hải của người cha. Nhìn như thế để như là trách khứ tấm lòng không bao dung, không nhân hậu và miệt thị của người anh cả.
Dẫu sao đi nữa, dụ ngôn ngôn trên đây có ý nghĩa rất phong phú liên quan đến cách sống và cách xử sự của cả ba nhân vật: Người cha và hai người con. Dường như nhân vật nổi bật của dụ ngôn là người anh cả. Bởi vì trong câu chuyện, những nhân vật đang nghe Đức Giê-su kể dụ ngôn có cách sống và cách xử sự giống như người con cả.
Nét độc đáo nổi bật trong chân dung của Luca về Chúa Giêsu đó là lòng thương xót. Trong sách Tin Mừng thứ ba, Chúa Giêsu thường xuyên quan tâm đến người nghèo, các tội nhân, những người bị gạt ra bên lề xã hội. Không phải các đạo sĩ nhưng chính những người chăn chiên mới là người đến máng cỏ đầu tiên (2,8-18); Chúa đón tiếp người phụ nữ tội lỗi nhưng có lòng thống hối (7,36-50); Chúa nói những điều tốt lành về người Samaria (10,30-37); Chúa đến thăm người thu thuế (19,1-10); Chúa kể những dụ ngôn tuyệt vời về lòng thương xót (chương 15). Các phụ nữ cũng chiếm vị trí đặc biệt trong Tin Mừng Luca. Vào thời đó, phụ nữ chỉ là công dân hạng hai và bị coi thường, nhưng Chúa Giêsu lại trân trọng họ (10,38-42), đón nhận sự giúp đỡ của họ (8,1-3), và cho thấy đức tin kiên cường của các bà trong những giai đoạn thử thách nhất (23,49; 24,1; Cv 1,14).
Tin Mừng Lu-ca chương 15 được gọi là các dụ ngôn về lòng thương xót, chương này gồm một lời mở đầu và ba dụ ngôn. Lời mở đầu có tầm quan trọng đặc biệt, vì đó là chìa khoá để hiểu Đức Giê-su nói dụ ngôn trong bối cảnh nào, có ẩn ý gì và nói cho ai. Người thuật chuyện cho biết bối cảnh và lý do Đức Giê-su kể các dụ ngôn ở Lc 15,1-3: “1Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. 2Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: ‘Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.’ 3Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này:…”
Lc 15,1-3 cho biết nhiều chi tiết liên quan đến lý do Đức Giê-su kể các dụ ngôn. Trước hết là những người thu thuế và những người tội lỗi đến với Đức Giê-su để nghe Người giảng. Tiếp đến là lời xầm xì của những người Pha-ri-sêu và các kinh sư: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” Lời xầm xì này cho biết thêm hai yếu tố mới. Không chỉ là việc những người thu thuế và tội lỗi đến với Đức Giê-su và nghe Người giảng, mà chính Đức Giê-su tiếp đón họ và ăn uống với họ. Nghĩa là sự đón nhận đến từ hai phía. Về phía Đức Giê-su, Người tiếp đón và ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi. Về phía họ, họ đến với Đức Giê-su để nghe Người giảng.
Dụ ngôn “Tìm chiên lạc” (câu 4-7) mô tả Thiên Chúa như người mục tử bỏ 99 con chiên lại để đi tìm chiên lạc, và niềm vui tràn bờ khi Ngài tìm lại được con chiên lạc, đến nỗi vác nó lên vai đem về, và mời mọi người đến chung vui vì đã tìm lại được con chiên bị mất. Trong mắt của Chúa, mỗi một con người, bất kể yếu đuối và tội lỗi đến đâu, đều là một nhân vị độc đáo và không thể thay thế. Vì thế, Ngài chăm sóc từng con chiên và đau đáu đi tìm khi nó lạc bầy. Chính vì thế, không ai có quyền thất vọng về tình thương của Chúa vì tình thương ấy dứt khoát lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Điều duy nhất cần thiết là sám hối ăn năn, nghĩa là thay đổi cách nhìn, cách nghĩ và cách sống của mình.
Trong chùm dụ ngôn về lòng thương xót, dụ ngôn “Người con hoang đàng” vẫn là dụ ngôn nổi tiếng nhất, cả về văn chương lẫn nội dung (15,11-32). Không phải vô lý mà có tác giả đã đề nghị đặt tên cho dụ ngôn này là “Người cha phung phí” thay vì “Đứa con hoang đàng”. Bởi lẽ trọng tâm của dụ ngôn không phải là sự phung phí của cải vật chất của đứa con thứ, mà chính là lòng thương xót của người cha dành cho cả hai đứa con, lòng thương xót vô bờ đến độ không thể hiểu nổi… cho nên được gọi là ‘phung phí’ tình yêu.
Con đầu lòng được hưởng gấp đôi phần gia sản theo luật lệ của người Do thái (Đnl 21,17). Và bởi thế, người con út trong dụ ngôn được chia một phần ba sản nghiệp. Việc phân chia tài sản phải đợi đến khi người cha qua đời theo lẽ thường của sự đời . Nếu như việc chia gia tài tiến hành trước thời gian thì có những khoản về hình phạt đi theo đó. Tuy nhiên điều quan trọng của luật ở khía cạnh tinh thần chứ không nằm ở khía cạnh lề luật. Người con út đã đoạn tuyệt với gia đình, không thương tiếc cha mình, anh mình sau khi có tài sản trong tay. Bất chấp tất cả, anh ta đòi hỏi chia gia tài rồi bỏ nhà đi,. Với quyết định như thế, anh ta đem mọi sự theo mình và không có hi vọng gì sẽ trở lại. Dĩ nhiên đây là sự mất mát lớn đối với gia đình, cách riêng với người cha.
Phải chăn heo, đó là kết cục bi tham cho cuộc sống phóng đãng và phung phí dẫn người con út. Chăn heo, với người Do thái, gợi lên ý tưởng ô uế, “lạc đạo” và như thế, người con út đã đánh mất tư cách là thành viên trong gia đình cũng như trong Dân Chúa. Trong dụ ngôn, người con út thậm chí còn tệ hơn cả heo, vì “ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng nhưng chẳng ai cho”.
Người con út hồi tâm khi đối diện với nỗi cơ cực đến tột cùng. Được trở về nhà trong tư cách kẻ làm thuê, đó là ước muốn của anh ta. Để cuộc trở về được thành công theo ước muốn, anh chuẩn bị kỹ lưỡng những gì phải thưa thốt với cha mình, và lường trước sẽ bị mọi người tiếp nhận bằng cái nhìn soi mói và nghi ngờ. Chuyện đặc biệt là dù thế nào đi chăng nữa nhưng cha anh vẫn thương anh. Ông vẫn ngày đêm trông ngóng, và khi thấy con ở đàng xa, “ông chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (câu 20) đến độ người con không kịp nói hết bài diễn văn đã soạn sẵn! Cuộc đoàn tụ này rất giống với cuộc đoàn tụ của Esau và Giacóp (St 33,4). Giacóp nhớ đến tội ác mình đã phạm chống lại anh, nhưng giống như người cha trong dụ ngôn này, Esau chỉ nghĩ đến hoà giải. Người cha ra lệnh cho gia nhân chăm sóc mọi sự cho đứa con của mình, nào là áo, nào là nhẫn, nào là bê béo… tất cả diễn tả sự nhìn nhận đây là đứa con của chủ nhà chứ không phải tôi tớ. Không có chuyện hỏi tội, không có chuyện tra khảo, cũng không có chuyện bàn bạc xem thằng con hư hỏng này có xứng đáng được tha tội không… chỉ có điều quan trọng duy nhất là: “con ta đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (câu 24).
Câu chuyện đẹp tưởng chừng đã hạ màn với cảnh đẹp tuyệt vời như thế, không ngờ lại thêm cảnh khác xen vào. Người con cả đã nổi đóa lên. Anh đã cố gắng, đã tự nhủ rằng anh đã cố gắng sống công chính đến thế: “Đã bao năm con hầu hạ cha và chẳng khi nào trái lệnh” (câu 29), thế mà “chưa bao giờ cha cho lấy một con dê con để ăn mừng với chúng bạn”. Và nhân danh sự công chính đó, anh khước từ việc chia sẻ niềm vui với gia đình khi “thằng con của cha” (chứ không phải đứa em của tôi) trở về. Lại một lần nữa, tình yêu và lòng thương xót của người cha bừng sáng và xua tan mọi hận thù ghen ghét. Ông đã bước ra đón đứa con hoang đàng thì ông cũng bước ra đón người con cả, vì ông mong muốn cả hai đứa con đều được hạnh phúc. Anh con cả chỉ nhìn thấy gia tài và nỗ lực làm việc của bản thân anh. Người cha không từ chối điều đó, nhưng những điều đó đều không quan trọng bằng điều này là: một đứa con và một người anh em đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Vì thế, mọi chuyện khác đều phải dẹp sang một bên để “chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ” (câu 32). Lại một lần nữa, tâm trí ta nhớ đến câu chuyện Giacóp. Giống như Esau, đến giai đoạn cuối đời, Giacóp khám phá ý nghĩa và tầm quan trọng của đoàn tụ, nên khi nghe tin Giuse vẫn còn sống, ông quên hết những tội ác mà chính những anh em trong nhà đã gây ra cho Giuse, và chỉ nhớ một điều: “Thế là đủ. Giuse con ta vẫn còn sống” (St 45,28).
Thiên Chúa, là Cha giàu lòng thương xót, Ngài mãi mãi xót thương chúng ta. Chúng ta, có quay về với Chúa như người em và chúng ta có bao dung cho em chúng ta khi em chúng ta lầm lỗi hay không, vẫn là lời mời gọi lòng bao dung thương xót của mỗi người chúng ta.
Chúa Giêsu thường quan tâm, chăm sóc, gần gũi những người tội lỗi. Nhóm Pharisiêu và Kinh sư trách móc, xầm xì, phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi lẽ những kẻ tội lỗi là hạng vất đi. Nhưng đối với Chúa, người tội lỗi là người cần được yêu thương nâng đỡ hơn. Chúa đã dùng những dụ ngôn để trả lời những thắc mắc của họ.
Ba dụ ngôn: con chiên lạc, đồng bạc mất, người cha nhân hậu, trình bày đề tài: Thiên Chúa tình yêu luôn tìm kiếm người tội lỗi. Một con chiên quý giá vô ngần đối với mục tử. Một đồng xu rất quý giá đối với người phụ nữ. Một người con quá quý giá đối với người cha nhân từ. Cũng vậy, một người tội lỗi cũng đáng giá như thế ấy đối với Thiên Chúa.
Ba dụ ngôn đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó, Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Thiên Chúa rất đỗi vui mừng.
Tin Mừng hôm nay kể về dụ ngôn thứ ba: “Người cha nhân hậu”. Nội dung câu chuyện đều hướng đến tình cha “ấm áp như vầng thái dương”, cao vời vợi và thật xúc động ân tình của cha.
Đại văn hào người Anh, Charles Dickens, xem dụ ngôn “Người cha nhân hậu” là câu chuyện hay nhất, là hạt ngọc đẹp nhất của Tin mừng.
Tình thương của cha đối với hai con, nổi bật nơi người con thứ.
1. Người con thứ, biểu tượng người tội lỗi
Người con thứ đòi cha chia gia tài rồi bỏ đi vô tình. Rời quê nhà, nơi sinh trưởng, nơi nó được nuôi dưỡng và lớn lên. Trẩy đi miền xa, người trai trẻ mang nổi khát khao mãnh liệt là ra khỏi luỹ tre làng, muốn nhìn xem thế giới mới lạ bên ngoài, thích miền xa hơn là ở quê nhà.
Người con thứ bỏ nhà ra đi với tiền bạc và lòng kiêu ngạo. Nó ra đi không phải để học hành, tìm kiếm việc làm. Nó đi ăn chơi đàng điếm, phung phí hết tài sản và sức khoẻ, bất kể đó là mồ hôi nước mắt của cha mẹ, bất chấp tiếng tốt của gia đình. Chơi bời nên mau chóng suy sụp. Nó trở nên hèn hạ khi đi chăn heo và muốn ăn thức ăn của heo. Heo là con vật người Do thái ghê tởm.
Khi trở về nó chẳng còn gì cả, tiền bạc, sức khoẻ, danh giá, lòng tự trọng… mọi thứ đã bị nó tiêu xài hoang phí. Nó chỉ còn lại một điều duy nhất là “đứa con nhỏ của cha nó”.
Động lực nào đã khiến nó trở về? Thánh Luca viết rõ: “Hồi tâm lại, nó nói: biết bao người làm công cho cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi, đứng lên, tôi sẽ về cùng cha tôi”. Như vậy động lực nó trở về là đói, vì miếng ăn. Trước khi bị đói chắc chắn nó không bao giờ nhớ đến cha, không bao giờ sám hối vì bỏ cha ra đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về mái ấm gia đình, nơi còn có cha già chẳng biết đau yếu ra sao, không thấy tiếc nuối vì phá tan cả sự nghiệp của cha. Khi bị cơn đói hành hạ, phải đi chăn heo, nó mới băn khoăn tìm đường về. Cái hồi tâm, cái băn khoăn của nó là làm sao để được ăn. Nó dự tính nói với cha là nó “trót phạm lỗi nghịch với trời, nó không còn đáng gọi là con, nó chỉ xin được đối xử như người làm công”.
Đó phải chăng là một cuộc trở về trọn vẹn? Đó là cuộc lên đường được thúc đẩy bởi lòng sám hối hay sao? Sự thống hối của nó chỉ là vị kỷ nhằm khả năng có thể sống sót thôi.
Nếu người con thứ thành công xây dựng cơ nghiệp, có lẽ sẽ không hiểu được tình cha. Vì nếm mùi thất bại chua chát của cuộc đời nên nó lên đường trở về. Nó không đủ can đảm đi làm người ăn xin. Nó không đủ liều mạng để đi trộm cướp. Nó không dám đánh đổi cả cuộc đời để gây tiếng xấu. Nó sống bằng nghề lương thiện là đi chăn heo, sống bằng sức lao động của mình. Từ kinh nghiệm của vực thẳm này, nó mới hiểu được mặt trái cuộc đời. Đó không là chốn nương thân cho kẻ nghèo khổ, không là chỗ hạnh phúc cho kẻ khố rách áo ôm, không là chỗ cho kẻ cô thân cô thế. Vì vậy, chỉ còn một con đường duy nhất là trở về xin tha thứ và làm công cho cha để có cơm ăn áo mặc.
Tất cả ý nghĩa của cuộc trở về được diễn tả cách cô đọng trong những lời “Cha ơi... con không đáng gọi là con Cha nữa”.
Giuđa đã phản bội Chúa, Phêrô đã chối Chúa. Cả hai đều đánh mất tình con cái. Giuđa không còn tiếp tục tin tưởng mình vẫn là con Chúa, không tin vào lòng tha thứ của Chúa nên đã đi thắt cổ tự vẫn.Còn Phêrô khi ở giữ sự tuyệt vọng đã muốn nối lại tình Cha con với những giòng nước mắt thống hối. Giuđa chọn cái chết. Phêrô chọn sự sống.
Đọc câu chuyện, thấy sự trở về của người con thứ chẳng phải là mẫu mực. Sự trở về lý tưởng phải là sự trở về của lòng sám hối với tình yêu tha thiết. Nhưng trong thực tế cuộc sống, nhiều khi ban Bí tích Hòa giải, tôi đã gặp nhiều hối nhân, sau 5 năm, 10 năm thậm chí đến 20 năm, 30 năm mới trở về cùng Chúa. Mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau. Những bầm dập của của cuộc đời, những gian truân vất vả, những thất bại chua chát… đã cho họ rút kinh nghiệm là cần trở về với Chúa để tìm lại bình an nội tâm, đón nhận niềm vui và hạnh phúc. Chính Chúa đã yêu thương, đã tác động và một khi nào đó như Chúa muốn họ trở về cùng Ngài. Như thế họ đã chọn lấy sự sống. Gặp gỡ nhiều hối nhân như thế, tôi cảm thông với người con thứ.
2. Người con cả, biểu tượng người biệt phái
Hiếu thảo, vâng phục cha, không đi hoang, không ăn chơi. Con người lao động cần cù có tinh thần trách nhiệm, không rượu chè trác táng, chỉ lo ruộng rẫy nương vườn. Anh là con người mẫu mực. Thế nhưng, biến cố đứa em trở về đã bộc lộ con người thật của anh.Tuy ở trong nhà cha nhưng lại xa trái tim cha. Tại sao cha đãi tiệc bê béo cho thằng em bất hiếu, còn anh một con bê nhỏ để vui với bạn bè cũng không có? Anh tức giận vì thấy quyền lợi bị xúc phạm. Anh chẳng chịu vào nhà. Tôi chẳng thích chút nào về người con cả với ý thức trách nhiệm cao, chăm chỉ làm việc, trung thành với gia đình nhưng lại chẳng học được lòng nhân hậu của cha. Hoá ra, cả hai người con vừa khác, lại vừa giống nhau. Cả hai đều ở ngoài nhà cha. Con thứ không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi. Con cả không chia sẻ được hạnh phúc của cha nên không vào nhà. Anh thiếu bao dung và thiếu tha thứ cho em. Thái độ của người con cả là thái độ tiêu biểu của người biệt phái, luật sĩ hôm qua và hôm nay. Ích kỷ cho quyền lợi riêng mình. Tự mãn về cách giữ luật “con không hề trái lệnh cha một điều nào”, tự hào về cách sống đạo “không như thằng con của cha”. Tự hào tự phụ tuân giữ nghiêm nhặt Lề Luật, kiêu hãnh mình là người công chính mà khinh chê lên án những người khác. Chỉ muốn kẻ lỗi lầm không được cứu thoát mà phải chết.
Lúc sự giận dữ bùng nổ đến cực điểm, người anh cả gặp lại tình cha. Cha đi ra năn nỉ, anh chẳng chịu nghe. Cha bộc bạch tâm tình với anh: “con ơi, mọi sự của cha đều là của con, chúng ta phải ăn mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Lời cha làm anh bàng hoàng xúc động vì anh hiều rằng mình quá ích kỷ, quá nhỏ mọn. Cái ích kỷ làm anh tẩy chay sự trở về của đứa em. Cái nhỏ mọn làm anh xua tan lòng bao dung của cha. Tình cha lớn hơn cuộc đời anh, lớn hơn tính ích kỷ trong anh.
Hình ảnh người con cả thật gần với chúng ta. Phụng dưỡng cha mẹ với trách nhiệm, chứ chưa phải là tình thương. Không chia sẻ nổi buồn, nổi khổ tâm, nổi âu lo của cha mẹ. Chỉ biết than trách và đòi quyền lợi cho mình thật nhiều. Ghen tị, chỉ trích phê bình, đặt mình là tiêu chuẩn cho mọi việc đạo đức. Thiếu lòng bao dung, không chịu tha thứ. Hình ảnh đó thật giống tinh thần biệt phái, có đạo mà không có đức.
Cả hai người con cần phải trở về. Sám hối chính là trở về với tình cha, trở lại với anh em.
3. Người cha, hình ảnh Thiên Chúa
Khi chia gia tài cho con, lòng cha đau đớn vô cùng. Vì tôn trọng tự do của con chứ không vì cha nhu nhược. Ngày nhìn con ra đi, bóng nó nhạt dần cuối chân trời như cánh chim bay, lòng cha thấy trống trải quá, muộn phiền quá vì thiếu vắng hình bóng con. Ngày ngày cha ngóng trông đợi con trở về. Thế rồi một ngày kia, đứa con trở về thật. Nó về trong dáng vẻ thất bại thảm hại, thất thểu rách nát. Thua cuộc đời nó về làm dấy lên những lời bình phẩm của làng xóm. Giả như nó không về, người ta sẽ lãng quên. Nay nó trở về nhắc cho bà con lối xóm thấy sự thất bại của gia đình ông. Con ông về trong thất bại chua cay là câu chuyện đám tiếu đầu làng cuối xóm. Vậy mà ông mở tiệc ăn mừng. Thật lạ lùng!
Ở đời, khi con thi đậu đại học, khi con công thành danh toại vinh quy bái tổ, khi con là Việt kiều về thăm, cha mẹ mở tiệc ăn mừng, mời bà con làng xóm đến chia vui. Người ta thường dấu kín chuyện thất bại của con cái. Cha mẹ mắc cở không dám kể về đứa con bất hiếu, ngổ nghịch, ăn chơi đàng điếm. Người ta chỉ khoe đứa con ngoan, tự hào đứa con học hành thành đạt, vui mừng khi con có việc làm có sự nghiệp. Thế mà, người cha lại mở tiệc lớn. Mừng đứa con trở về thất bại tả tơi. Khách mời ngỡ ngàng khi chủ nhà giới thiệu con ông về nhà sau những ngày chăn heo đói khổ. Thế nhưng, người hiểu tình yêu là gì, tình phụ tử là gì thì thông cảm và chia vui với người cha.
Người cha đã tha thứ cho con thứ trước khi con tự thú. Cha vui “vì đứa con đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm thấy”.
Người cha cũng nói với người con cả bằng cung giọng thật trìu mến:“Con à, lúc nào con cũng ở với cha.Tất cả những gì của cha đều là của con…Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Người cha muốn giúp con trai khám phá chiều kích tha thứ của tình yêu. Tình cha là lời mời gọi vượt qua thái độ duy luật để mở rộng tấm lòng trước tình thương yêu.
Dung mạo người cha đó, chính là Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Thái độ người cha đối với hai đứa con là thái độ của Thiên Chúa đối với con người. Trong trái tim Thiên Chúa chỉ có tình thương. Người không có trí nhớ về tội lỗi con người.
Cha yêu con dù con hư hỏng, bất trung. Cha yêu con không vì con ngoan được việc. Cha yêu con chỉ vì con là con. Cha không muốn mất một đứa con nào. Thiên Chúa của Đức Giêsu mạc khải là người cha nhân hậu, hiền từ, bao dung, hay tha thứ.
Hành trình thiêng liêng của cuộc đời, cả hai người con trong dụ ngôn đều có mặt trong mỗi con người chúng ta. Nhiều lần ta nghe theo cơn cám dỗ của thế gian xác thịt rồi nên hoang đàng, hoang phí, gặp thất bại đau khổ mới hối hận trở về với Chúa. Nhiều lần ta là con cả tưởng mình đạo đức nên lên án tẩy chay người khác. Cần trở về với Cha, về với Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Sám hối là trở về với tình Chúa, với tình anh em. Sám hối là trở lại với tình yêu, niềm vui và sự sống.
Muốn bỏ một điều gì xấu thì người ta phải can đảm. Có can đảm mới có thể tin tưởng, có tin tưởng mới có thể dứt khoát "đứng dậy" và "trở về". Người con hoang đàng phải can đảm và dứt khoát để trở về với người cha, chính người cha cũng phải can đảm và dứt khoát mới có thể nhận đứa con hư là người con yêu như trước.
Đức Chúa phán với ông Giô-suê: "Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai-cập" (Gs 5:9). Vì thế, người ta đã gọi tên nơi ấy là Ghin-gan cho đến ngày nay. Con cái Ít-ra-en đóng trại ở Ghin-gan và cử hành lễ Vượt Qua ngày mười bốn trong tháng, vào buổi chiều, trong vùng thảo nguyên Giê-ri-khô. Đó là hồng ân Thiên Chúa đã trao ban cho dân Ít-ra-en, cả người tốt lẫn người chưa tốt, cũng như mưa xuống cho mọi người mà chẳng phân biệt ai.
Cuộc sống của dân Ít-ra-en giản dị, nhờ hồng ân nhưng vẫn phải hợp tác bằng sức lao động hằng ngày: "Hôm sau lễ Vượt Qua, họ đã dùng thổ sản trong xứ, tức là bánh không men và hạt lúa rang, vào đúng ngày đó. Hôm sau, không còn man-na nữa, khi họ dùng thổ sản trong xứ; thế là con cái Ít-ra-en không còn có man-na nữa. Năm ấy, họ đã dùng hoa màu của đất Ca-na-an" (Gs 5:11-12). Làm việc để biết giá trị của lao động và ý nghĩa của cực khổ. Hưởng dùng những gì do mình làm ra mới biết trân quý sự nỗ lực của bản thân, nếu cứ an nhàn thì người ta dễ ảo tưởng, ỷ lại và kiêu ngạo.
Hồng Ân Chúa luôn tuôn tràn. Cảm nhận được vậy nên tác giả Thánh vịnh xác định: "Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi" (Tv 34:2). Tại sao? Tác giả Thánh vịnh nói rõ lý do: "Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa", thế nên "xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên" (Tv 34:3).
Không chỉ vậy, người nào cảm nhận được tình yêu bao la của Thiên Chúa không thể thụ động, thế nên tích cực kêu gọi: "Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người. Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng. Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi" (Tv 34:4-6). Tác giả Thánh vịnh khiêm nhường và chân thành tâm sự: "Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn" (Tv 34:7).
Thánh Phaolô xác định: "Ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi" (2 Cr 5:17). Đó là canh tân, là càng ngày càng mới hơn. Nhưng không phải do công sức của chúng ta, mà "mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Kitô mà cho chúng ta được hoà giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hoà giải" (2 Cr 5:18). Thánh nhân giải thích: "Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hoà giải. Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa" (2 Cr 5:19-20).
Thánh Phaolô là một học giả, chữ nghĩa đầy mình, nhưng ông không văn hoa bóng bẩy mà lại viết rất rõ ràng và thực tế: "Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người" (2 Cr 5:21). Tình yêu Thiên Chúa quá kỳ lạ, quá cao siêu, chúng ta không thể nào lý giải được, mà chỉ có thể cúi đầu kính tin và cảm tạ!
Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Thấy thế, những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng" (Lc 15:2). Tình trạng này rất thường thấy trong chúng ta: Xét người hơn xét mình. Đó là một dạng kiêu ngạo được che đậy khá tinh vi dưới nhiều dạng thức, không khác gì người Pharisêu chê trách người thu thuế ngay khi cầu nguyện (x. Lc 18:9-14). Thế nhưng người ta sai mười mươi mà vẫn cho mình là đúng, là "ngon".
Biết họ đang nghĩ gì, Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn "Người Cha Nhân Hậu" – cũng gọi là dụ ngôn "Đứa Con Hoang Đàng": Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: "Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng" (Lc 15:12). Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.
Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, không may trong vùng ấy lại xảy ra một nạn đói khủng khiếp. Anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Trong cơn đói khổ, anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy" (Lc 15:18-19). Sau khi giằng co trong tư tưởng, anh ta đã dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ, rồi can đảm đứng lên đi về nhà cha.
Thái độ dứt khoát rất quan trọng. Đó là "chết" cho tội lỗi, "chết" cho chính mình. Đau khổ, thất bại, thua cuộc, lâm bước đường cùng,... là những lúc tiếng Chúa đang nói thẳng với chúng ta. Tài sản cá nhân của chúng ta không là tiền bạc, của cải, vàng bạc,... mà là tính tự phụ, tính ích kỷ, thói kiêu căng, thói lọc lừa,... Và rồi một lúc nào đó, chúng ta cũng "trắng tay" và không dám "đứng thẳng" mà ngước nhìn đời. Bị "triệt buộc", tiến thoái lưỡng nan, nhưng nếu can đảm dứt khoát với quá khứ thì thật phúc thay, vì Thiên Chúa nhân từ vẫn chan hòa Lòng Thương Xót.
Về đến nhà, biết thân biết phận mình khốn nạn, người con nói: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa" (Lc 15:21). Người cha chỉ chờ giây phút đứa con hối cải. Và người cha liền bảo các đầy tớ: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy" (Lc 15:22-24). Và họ bắt đầu ăn mừng. Ôi, Lòng Thương Xót của Chúa quá bao la!
Khi tiệc mừng rôm rả, người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: "Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ" (Lc 15:27). Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Người cha ra năn nỉ, nhưng anh ta so đo: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!" (Lc 15:29-30). Chúng ta chỉ là những đứa con bất hiếu, thế nhưng chúng ta vẫn thường so đo và tính toán nhưng người con cả trong dụ ngôn này. Tính kiêu ngạo luôn chờ cơ hội, từ manh nha biến thành manh động chỉ trong tích tắc!
Nhưng người cha vẫn ôn tồn và điềm đạm nói với anh ta: "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy" (Lc 15:31-32). Người cha lý luận tuyệt vời quá!
Quả thật, Thiên Chúa đã chấp nhận bỏ 99 người đạo đức để đi tìm chỉ một người lầm đường lạc lối, vì Ngài "không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất" (Mt 18:14). Thiên Chúa "ngược đời" quá mà cũng kỳ diệu quá! Nếu Ngài không "khác người" như vậy thì chúng ta hết đường "về nhà". Và vì thế, chúng ta phải dứt khoát bỏ ngay thói kiêu căng của người con cả!
Lạy Thiên Chúa, chúng con khốn nạn quá, thế mà chúng con vẫn tự cho mình là "chiên ngoan". Xin Chúa đổi mới chúng con theo đúng Tôn Ý Ngài, xin dập tắt tính kiêu căng nơi chúng con, xin giúp chúng con nhận biết mình lầm lạc để có thể đoạn tuyệt với quá khứ đen tối mà mau quay gót trở về nương náu nơi Lòng Chúa Thương Xót. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.