Lời Chúa mà thánh Luca trình bày cho chúng ta đó là câu chuyện người con trai hoang đàng: MC 4-C51
Lời Chúa mà thánh Luca trình bày cho chúng ta đó là câu chuyện người con trai hoang đàng trở về, được người cha nhân hậu tha thứ và đón nhận cách ân cần trong tình yêu thương.Tình yêu thương của người cha được diễn tả qua việc chấp nhận đề nghị của người con về việc chia gia tài. Và khi anh ta trở thành trắng tay, đánh mất danh dự và nhân phẩm của con người, đánh mất địa vị của một người con … Khi anh ta quay về với “thân tàn ma dại”, chính người cha đã ân cần đón tiếp anh.“Ông chạy ra”, hành động này cho thấy người cha luôn chờ đợi, mong ngóng ngày con trở về. Nhất là khi người cha biết rằng con mình sống trong cảnh đói kém, không có nơi cư ngụ, người cha nghẹn ngào xót xa. Ông không muốn chờ đợi giây phút người con vào tới nhà gặp cha để nói lời xin lỗi. Ông vừa thấy con từ đàng xa, ông chạy tới mà ôm hôn con mình.
Người cha ôm lấy con mình như muốn ôm hết tất cả vết thương nỗi niềm đau xót và cả sự hối hận của người con vào lòng mình, điều hay là ông không hề nói một lời trách móc nào, nhưng trong cánh tay ôm choàng này, chắc chắn người con sẽ cảm nhận tất cả niềm hạnh phúc và tình yêu thương của cha đã dành cho anh. Chính lúc này đây tình yêu thương to lớn của người cha thoả lấp bao lỗi lầm của người con. Tôi tin chắc rằng cử chỉ của người cha này đánh động vào tâm hồn mỗi người chúng ta.
Tình thương đó được cụ thể hơn nữa qua hành động trao ban. Người cha đó đã cởi bỏ chiếc áo cũ của kiếp chăn heo, để mặc cho anh ta chiếc áo mới, chiếc áo con của ông chủ. Người cha đã phục hồi tư cách làm con khi trao cho anh ta chiếc nhẫn, dấu chỉ của người quý phái. Khi ông ta xỏ giày vào chân người con, như muốn khẳng định rằng, đây đích thực là con ông chủ và cũng là người trên, vì chỉ có chủ mới được mang giày mà thôi. Và sau cùng ông cho giết bê béo ăn mừng …
Hình ảnh người cha trên đây chính là phát hoạ hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là Cha luôn yêu thương con cái, tình thương đó luôn diễn tả qua hành động tha thứ cho chúng ta. Nhiều lần trong đời sống chúng ta cũng đi hoang bằng cách chúng ta phạm tội chống lại Thiên Chúa, xúc phạm đến tha nhân, và nhất là chúng ta tự làm những điều xấu huỷ hoại chính nhân phẩm của mình … Nhưng Thiên Chúa luôn yêu thương và chờ đợi chúng ta từng giây phút trở về với Ngài. Chúa không hề yêu thích tội lỗi của chúng ta, nhưng Ngài luôn yêu thương những người tội lỗi. Để như người cha trong Tin Mừng, Chúa muốn ôm choàng lấy chúng ta, và muốn chúng ta cảm nếm được tình yêu và lòng thương xót của Chúa trao ban.Tình thương đó ngày nay Thiên Chúa thể hiện cách đặc biệt qua Bí Tích Hoà Giải. Bí Tích Thiên Chúa dùng để thể hiện tình yêu và sự tha thứ cho con người. Nơi Bí Tích Hoà Giải, chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa là người Cha giàu lòng thương xót.
Chính lúc chúng ta đón nhận tình yêu của Thiên Chúa, đó là lúc chúng ta được mời gọi sống tốt hơn. Mùa chay là dịp thuận tiện để mỗi người chúng ta nhìn lại chính đời sống của mình để trở về với Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Nếu chúng ta ý thức và mau mắn trở về với Thiên Chúa qua Bí Tích Hoà Giải thì mùa chay năm nay sẽ không qua đi một cách vô vị, nhưng sẽ mang lại cho chúng ta rất nhiều ơn lành từ Thiên Chúa giàu lòng thương xót . Amen
Có một vị vua nọ sinh được một người con gái, nhà vua yêu quý cô bé lắm vì mẹ cô chẳng: MC 4-C52
Có một vị vua nọ sinh được một người con gái, nhà vua yêu quý cô bé lắm vì mẹ cô chẳng may mất sớm. Tuy nhiên nhà vua vì việc nước nên thường phải xa nhà luôn. Sau mỗi chuyến công du, nhà vua thường mang về cho cô công chúa nhiều đồ chơi và áo quần đẹp đẽ. Tuy nhiên cô gái không màng đến những thứ đó mà chỉ muốn được gần gũi cha mà thôi.
Một ngày kia, nhà vua lại phải ngự giá thân chinh. Cô công chúa buồn lắm, muốn đi theo, nhưng vua bảo rằng không được, vì nguy hiểm. Thay vì cho con gái đi theo, nhà vua trao vào tay con một chiếc chìa khóa lớn bằng vàng và bảo rằng: “Khi nào con buồn nhớ cha, hãy đi mở cửa căn phòng nào vừa với chiếc chìa khóa này, trong căn phòng ấy, con sẽ tìm được một món quà quý mà cha đã dành sẵn cho con.”
Nhà vua lên đường ra đi, cô công chúa ở nhà buồn lắm nên bắt đầu đi mở các cánh cửa trong lâu đài. Suốt mấy hôm liền, cô thử hết cửa này đến cửa nọ nhưng không cửa nào vừa với chìa khóa ấy cả. Cuối cùng, cô tìm ra được một cửa một căn phòng nhỏ trên tầng lầu cao nhất, vừa với chiếc chìa khóa bằng vàng đó.
Mở cửa bước vào, cô nghĩ rằng sẽ tìm được cả một kho tàng châu báu mà vua cha dành cho cô, nhưng trái lại, cô thấy đó chỉ là một căn phòng nhỏ, trống trơn không có gì cả, cô buồn quá, khóc nức nở, đợi lúc vua cha về để hỏi.
Khi vua cha về, cô than phiền, thì được vua cha trả lời: “Con không thấy lấm lòng của cha trong căn phòng đó sao ? Lòng cha không có ai cả, chỉ có một mình con mà thôi !” Khi ấy cô gái mới hiểu được ý cha, cô ôm chầm lấy cha mà khóc nức nở vì sung sướng.
Còn bạn thì sao ? Trong căn phòng của tấm lòng bạn, có bao nhiêu người hay bao nhiêu điều gì đó đang ngự trị ? Chỉ có một mình Chúa cai trị hay còn bao nhiêu đối tượng khác ? Chúa không mong muốn gì hơn là một tấm lòng luôn luôn trống để Ngài có thể ngự trị và chỉ có một mình Ngài làm vua trong tâm hồn chúng ta.
Đối tượng chúng ta tôn thờ càng nhiều thì rối loạn bất an càng lớn. Chỉ khi nào chúng ta để cho Thiên Chúa làm chủ hoàn toàn cuộc đời mà thôi, chúng ta mới có được niềm vui bình an đích thật... Trích NỐI LỬA CHO ĐỜI SỐ 8
Một trong những giai thoại nổi tiếng nhất trong lịch sử hội họa, đó là câu chuyện danh họa: MC 4-C53
Một trong những giai thoại nổi tiếng nhất trong lịch sử hội họa, đó là câu chuyện danh họa Leonard da Vinci đi tìm người mẫu để họa lại khuôn mặt của Giuđa, kẻ phản bội Chúa. Khi vẽ bức tranh "Bữa Tiệc Ly" trong nhà cơm của tu viện "Ðức Mẹ Ban Ơn" tại thành phố Malina, phía Bắc nước Italia, ông vẽ rất chậm vì không tìm ra các người mẫu thích hợp. Một hôm, ông gặp trong công viên Casellor một thanh niên tên là Fx. Baldisteny có gương mặt bầu dục tuyệt đẹp, với vầng trán an hòa và quí phái, đôi mắt sâu và trong suốt, tóc vàng hoe có gợn sóng. Leonardo da Vinci liền mời chàng trai tuấn tú ấy đến ngồi làm mẫu để vẽ Chúa Giêsu.
Vài năm sau, bức họa vẫn chưa xong, Leonard da Vinci ngày đêm gãi đầu bứt tai, vì không sao tìm ra được một người có gương mặt dữ dằn làm mẫu để vẽ hình Giuđa, kẻ phản bội đã nộp Chúa. Tình cờ vào một buổi chiều nọ, khi bước vào một quán ăn, Leonard da Vinci trông thấy một người đàn ông có gương mặt xấu xí dữ dằn đang nhìn các người khách đánh cá ngựa, hắn chửi thề luôn miệng. Leonard da Vinci vui mừng vì đã tìm thấy một người đàn ông đang cần. Ông gọi hắn ra một góc và đề nghị nếu hắn nhận làm mẫu cho ông vẽ thì sẽ được thưởng nhiều tiền. Gã đàn ông nhận lời và đã cùng với họa sĩ Leonard da Vinci vào trong tu viện "Ðức Bà Ban Ơn".
Trong lúc Leonard da Vinci chăm chú nhìn gương mặt gã với vầng trán buồn, đôi mắt dữ tợn, tóc tai dựng đứng và chợt nhớ đến một kỷ niệm, thì ông nghe một tiếng nấc nghẹn ngào.
Ông hỏi hắn:
- Có chuyện gì vậy? Bác cảm thấy người không khỏe hay sao?
Gã đàn ông trả lời:
- Không! Tôi khóc vì căm hận cuộc đời tàn tạ hư đốn của tôi.
Leonard da Vinci lại hỏi:
- Thế nghĩa là sao?
Gã đàn ông trả lời:
- Thưa thầy, chắc thầy còn nhớ cách đây ba năm tôi cũng ngồi ghế này làm mẫu cho thầy vẽ hình Chúa Giêsu... Gã đàn ông nhìn bức tranh gần hoàn thành trên tường, thở dài và nói tiếp: "Tôi thật là một tên khốn nạn. Ðam mê và tội lỗi đã biến tôi ra thân tàn ma dại như thế này".
Anh chị em thân mến!
Mẩu chuyện trên giúp chúng ta cảm nhận thấm thía ý nghĩa dụ ngôn "Người Con Hoang Ðàng" của Chúa Nhật IV Mùa Chay. Dụ ngôn "Người Con Hoang Ðàng" trong Tin Mừng thánh Luca là một trong những dụ ngôn hay cảm động nhất, chứng minh được tài giảng dạy của Chúa Giêsu.
Có ba nhân tố giúp chúng ta hiểu dụ ngôn một cách sâu đậm hơn:
Thứ nhất là động từ "lẩm bẩm". Trong ngôn ngữ của Kinh Thánh, "lẩm bẩm" là động từ diễn tả thái độ của dân Do thái chống đối, khước từ ơn cứu rỗi của Ngài. Ðó là động từ chúng ta thường gặp trong sách Xuất Hành, Dân Số, Ðệ Nhị Luật, đề cập đến 40 năm dân Israel lang thang trong sa mạc mà thường xuyên nổi loạn chống lại Thiên Chúa và phản đối các ơn của Ngài.
"Lẩm bẩm" cũng là động từ diễn tả thái độ của con người tội lỗi, bé nhỏ, tối tăm u muội trong bụi tro, nhưng lại yêu sách, muốn chỉ vẽ cho Thiên Chúa biết phải hành xử như thế nào và phải làm gì để cứu rỗi nhân loại. Ðây cũng là thái độ mà người biệt phái và luật sĩ hành xử đối với Chúa Giêsu. Cũng giống như cha ông họ ngày xưa. Họ lẩm bẩm chỉ trích Chúa Giêsu giao du, nói chuyện và ăn uống với những người thu thuế và bọn tội lỗi, đĩ điếm.
Khi kể cho họ nghe dụ ngôn "Người Con Hoang Ðàng", Chúa Giêsu muốn dạy cho người ta biết rằng: "Thiên Chúa không suy tư và hành động như vậy". Trước lời phản kháng của người con cả muốn cha mình đập cho thằng em hư đốn một trận nhừ tử nên thân, rồi tống cổ nó ra khỏi nhà. Người cha hiền từ trả lời: "Em con đã hư mất mà nay lại tìm thấy".
Ðộng từ "hư mất" là nhân tố thứ hai giúp chúng ta hiểu rõ sứ điệp của dụ ngôn. Trong Phúc Âm, từ "hư mất" không có nghĩa luân lý như chúng ta thường hiểu trong ngôn ngữ ngày nay. Từ "hư mất" ở đây có nghĩa là hoàn toàn thất bại trong ơn gọi làm người và lam con cái Thiên Chúa của mình. Nó ám chỉ thái độ khước từ sự trở về trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa Tạo Hóa. trở về với lòng bàn tay của Ðấng đã nhào nặn nên con người. Nhưng Thiên Chúa, Ðấng đã sáng tạo nên con người, cốt để cho con người được sống tràn đầy hạnh phúc, Ngài không thể ngồi yên để nhìn thấy sự thất bại hoàn toàn đó của con người.
Ðây là một lý do khác khiến Chúa Giêsu kể cho mọi người nghe trong dụ ngôn "Người Con Hoang Ðàng". Nói cách khác, Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng ơn cứu độ mà Thiên Chúa muốn ban cho con người là một sự kiện, một thực tại cụ thể. Con người được tiếp nhận ơn cứu độ trong vòng tay yêu thương ấp ủ của Thiên Chúa.
Nhân tố thứ ba giúp chúng ta hiểu rõ dụ ngôn một cách sâu xa. Ðó là sự hiện diện của người anh cả trong câu chuyện. Kiểu cách suy tư và hành xử của người anh cả diễn tả kiểu sống của tất cả những ai không hiểu và không chấp nhận thái độ hành xử của Thiên Chúa. Người anh cả tưởng rằng: Thiên Chúa chỉ có nhiệm vụ thưởng người có công, phạt kẻ có tội. Người anh cả đã không hiểu rằng: Thiên Chúa không thể đứng yên nhìn cảnh con người bị hư mất, phải thất bại trong ơn gọi làm người do chính Ngài tạo dựng nên, gìn giữ, yêu thương quí mến, nâng niu trong lòng bàn tay nhân hiền của Ngài. Ðể cứu rỗi loài người khỏi hư mất, khỏi thất bại trong ơn gọi cao cả ấy, Thiên Chúa đã nhập thể làm người, làm anh, làm cha, làm mẹ để đem người con trở về trong vòng tay yêu thương của Ngài.
Khi rộng mở vòng tay ôm lấy đứa con hoang đàng vào lòng là Thiên Chúa canh tân niềm vui tạo dựng, y như khi Ngài nâng niu con người trong vòng bàn tay thánh thiện quyền năng của Ngài trong thời sáng tạo. Con người xinh đẹp vẹn toàn ấy đã hư mất mà nay lại trở về cùng Cha. Chính vì thế, nên phải mở tiệc mừng con nay đã đoàn tụ cùng Cha.
Chúng ta không biết câu chuyện kết thúc ra sao? Không hiểu khi tha thứ, phục hồi phẩm giá cho người con thứ đã hư mất, người cha già có thành công trong việc thuyết phục người con cả vui vẻ vào nhà dự tiệc mừng em sống lại hay không? Nhưng chúng ta biết điều chắc chắn là đa số trong chúng ta đều có cùng một tâm thức và cung cách hành xử như người con cả. Chúng ta không bỏ Chúa đi hoang, nhưng lối hành xử của chúng ta không phản ảnh tinh thần Tin Mừng của Chúa, nghĩa là chúng ta cũng rất xa Chúa và như thế có khác nào chúng ta cũng hư mất.
Cũng giống như người con cả trong dụ ngôn, cho đến nay chúng ta chưa quyết định bỏ Chúa, nhưng chúng ta cũng chưa bao giờ nhất quyết bước vô nhà, sống với Chúa thực sự: "Con ơi, mọi sự của cha là của con". Chính lời nói đó của người cha già khiến anh con cả sợ hãi. Anh sợ hãi phải có một con tim, như con tim nhân hiền quảng đại vô bờ bến của người cha. Anh sợ hãi phải có một cái nhìn yêu thương đại đồng và tâm tình bao dung của cha. Anh sợ hãi phải sống mà không hề nuôi các tâm tình thù ghét, báo oán, gian ác trong lòng.
Cũng giống như người con cả của dụ ngôn, chúng ta sợ hãi phải trở nên giống Chúa hoàn toàn, phải chia sẻ mọi sự với Chúa và nên thánh như Cha. Do đó, chúng ta giữ đạo nhưng không sống đạo. Có thể chúng ta thường xuyên đi dự lễ ngày Chúa nhật hay cả ngày thường nữa, đọc kinh và lãnh nhận các bí tích, nhưng đạo không thấm vào lòng chúng ta. Ra khỏi nhà thờ, chúng ta ăn nói chua ngoa và hành xử gian dối, không hề biết Tin Mừng của Chúa, và đạo đó quả thật là đạo nhà thờ. Nhưng sống như thế là chúng ta khước từ chấp nhận mầu nhiệm nhập thể và nhập thế của Chúa, như thế là đi hoang rồi.
Trong chương II Cor 5,17-21 thánh Phaolô kêu gọi mọi người sống tình trạng ơn thánh mà Chúa Giêsu Kitô đã trao ban cho mọi người qua cái chết và sự Phục Sinh của Ngài, nghĩa là sống như một thụ tạo mới với một con tim mới và một tinh thần mới, như ngôn sứ Giêrêmia đã khẳng định trong chương 31 và ngôn sứ Ézékiel loan báo trong chương 36. Ơn hòa giải mà Thiên Chúa trao ban cho con người qua cái chết của Chúa Giêsu cũng có nghĩa là ơn tha thứ và ơn cứu độ. Cuộc sống mới ấy trao ban trở lại cho con người mối liên hệ quân bình với Thiên Chúa, với tha nhân và với chính mình, như trong thời tạo dựng trước khi loài người phạm tội bỏ Chúa đi hoang.
Tiên tri Giosuê đã nhắc lại cho dân Do thái biết lời hứa cứu độ thực hiện qua biến cố Thiên Chúa giải phóng họ khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai Cập và dẫn đưa họ trở về đất hứa. Cuộc sống khổ nhục, buồn thương không tự do, không phẩm giá bên Ai Cập và những khổ nhọc của cuộc Xuất Hành xưa kia không còn nữa. Giờ đây, dân Do thái bước vào đất hứa và bắt đầu một cuộc sống mới, với các buổi lễ vui vẻ, với công việc phụng tự và các cơ cấu đánh dấu một khúc rẽ mới trong lịch sử của một dân tộc luôn được Thiên Chúa yêu thương che chở, và mời gọi họ tiến bước theo Ngài. Amen.
Hai bạn nam nữ trao cho nhau chiếc nhẫn ngày cưới cùng nói lên lời thề hứa trung thành yêu nhau: MC 4-C54
Hai bạn nam nữ trao cho nhau chiếc nhẫn ngày cưới cùng nói lên lời thề hứa trung thành yêu nhau trước bàn thờ Thiên Chúa và trước cộng đoàn Hội Thánh.
Chiếc nhẫn cưới nối kết đời sống và tình yêu họ lại với nhau.
Các Nữ tu ngày khấn trọn đời cũng nhận chiếc nhẫn tình yêu lòng trung thành: từ nay trao gửi cuộc đời cho Thiên Chúa trong hội Dòng, Thiên Chúa là lý tưởng cùng đích đời tôi.
Chiếc nhẫn ngày khấn trọn đời liên kết đời tận hiến của chị nữ tu với lý tưởng trong hội Dòng.
Các Giám mục, Hồng y và Ðức giáo hoàng ngày được tấn phong cũng nhận chiếc nhẫn lòng trung thành với Hội Thánh Chúa Giêsu.
Chiếc nhẫn chức vị Hội Thánh của các Vị này là dấu chứng và lời nhắc nhở: Họ được tuyển chọn dấn thân và hoàn toàn thuộc về Hội Thánh Chúa Kitô hôm nay cùng ngày mai.
Ðôi bạn nam nữ, các chị nữ tu, các Giám mục, Hồng y và Ðức giáo hoàng đeo chiếc nhẫn gắn bó lòng yêu mến trung thành đó nơi ngón tay suốt cuộc đời.
Người cha nhân lành trong phúc âm (Lc 15, 1- 35) trao tặng chiếc nhẫn cho cậu con trai đi hoang trở về, là muốn trả lại cho cậu mọi quyền lợi làm con trong gia đình, mà cậu đã đánh mất từ lâu nay.
Cử chỉ lòng khoan dung nhân lành của người cha đó diễn tả nói lên tình yêu không cùng tận của Thiên Chúa.
Lòng khoan dung nhân lành của Thiên Chúa là chiếc phao cấp cứu cho con người, khi gặp cơn thống khổ bị đe dọa hồn xác. Chiếc phao cấp cứu cũng hình tròn được treo hoặc chất trên các con tầu, để cứu người khi tầu gặp nguy cấp hay bị đắm chìm…
Nhiều cha mẹ trao tặng con cái mình chiếc nhẫn bằng vàng tinh ròng hoặc trước khi từ trần, hoặc khi người con phải đi xa hay vào dịp kỷ niệm nào đó trong đời sống. Cử chỉ tình thân ái muốn nói lên: tình yêu cha mẹ luôn hằng bên con! Chiếc nhẫn cha mẹ trao tặng con là lời chúc lành và là báu vật kỷ niệm. Nó cũng có thể là vật phòng thân giúp con trong bước đường gặp cảnh túng cực thiếu thốn, không có cha mẹ ở bên giúp đỡ! Con hãy ân cần gìn giữ cho mình!
Nhiều đôi vợ chồng, khi một bên qua đời, người còn lại tháo chiếc nhẫn của người bạn đường đã qua đời, đeo vào tay của mình như cử chỉ lòng yêu mến trung thành với nhau: người bạn đường của tôi đã qua đời. Nhưng vẫn còn hiện diện trong trái tim tâm hồn tôi. Giờ đây tôi đeo hai chiếc nhẫn cưới, ngày xưa chúng tôi trước bàn thờ Thiên Chúa đã thề hứa trao tặng nhau, là dấu chỉ chúng tôi luôn ở bên nhau tay trong tay!
Ðôi vợ chồng trao cho nhau chiếc nhẫn cưới lòng yêu thương trung thành với nhau và họ xây dựng tình yêu lòng trung thành của họ trên nền tảng lòng khoan dung Thiên Chúa. Lòng khoan dung nhân hậu của Ngài là chiếc phao cho đời sống hôn nhân trong những hoàn cảnh khó khăn.
Ngày nay nhiều người, nhiều Bạn Trẻ đeo nhiều chiếc nhẫn với nhiều hình thù, kiểu cách khác nhau nơi ngón tay, lẽ tất nhiên là cách thế trang sức cho bàn tay thêm đẹp, thêm duyên dáng. Nhưng thiết tưởng qua đó vô tình cũng nói lên hình ảnh đời sống và tình yêu của Ðấng Tạo Hóa không có cùng tận, không có khởi đầu, như chiếc nhẫn hình tròn này nơi ngón tay, và Ngài là người duy nhất làm mọi sự trong trời đất tròn đầy như hình tròn chiếc nhẫn!
Suy cho cùng, người con cả trong dụ ngôn “người con hoang đàng” lại là nhân vật phản diện có tính tự: MC 4-C55
Suy cho cùng, người con cả trong dụ ngôn “người con hoang đàng” lại là nhân vật phản diện có tính tự mãn làm sáng lên chân dung trở về tự do trọn vẹn của người con thứ. Tự mãn của người con cả đã cản bước lối về vì dù rằng chân đã đưa đẩy những bước thân quen trên đường chiều về nhưng lòng còn bề bộn ngổn ngang trĩu nặng chân bước tự do vào nhà, đã về đến nhà mà chẳng dám vào thì đường về đâu đã trọn vẹn. Đường về không trọn vẹn ấy như gợi tả những bước chân sám hối mùa Chay vẫn còn dang dở. Bước chân trên đường về ngại ngùng nấn ná đó không phải chỉ là hình ảnh của riêng người con cả trong câu truyện nhưng lại là lời nhắc nhớ cho hết thảy những ai đang lắng nghe lời của Đức Giêsu, Lời gọi mời trở về sống tự do như đứa con hoang đàng quay về trong vòng tay yêu thương của người cha bao dung.
Trở về với yêu thương là trở về để nhận lãnh. Người con thứ trở về với cha để được lãnh nhận, trước hết, tình yêu mà chính anh đã đánh mất. Ngày anh xin cha chia phần gia tài sản nghiệp để khởi sự cuộc hành trình mới đã không phải là bước đột phá khởi sắc đầu đời nhưng tự đó đã là dấu hiệu đột quị trầm trọng. Anh quên rằng tình yêu thì nâng bổng ước mơ còn của cải thì trĩu nặng hiện thực. Hiện thực biến đổi ngày này qua tháng nọ cho đến hôm anh cạn kiệt đến độ một miếng “cơm dư gạo thừa” như những người làm công ở nhà cha anh mà nay anh cũng không có để ăn. Và chỉ đến lúc anh không còn gì để lệ thuộc, người con thứ mới chợt nhớ đến tháng ngày đã qua anh sống trong tình yêu của cha đầy đủ sung túc ăn no mặc ấm thỏa dạ hả hê. Anh quyết định trở về và quyết định ấy là quyết định tự do không hề giằng co nao núng.
Người con thứ muốn trở về không phải chỉ để dừng chân ghé qua xin thêm ít vốn cho chuyến ra đi khác, nhưng tự tâm anh muốn trở về trọn vẹn để nương nhờ tá túc ít ra cũng được “như người làm công cho cha vậy” thôi. Anh muốn về lại với nơi anh đã giã từ ra đi, nhưng anh còn ước muốn hơn thế nữa là được vào trong nhà của cha anh và sống quãng đời còn lại. Bước chân tự do trên đường về của người con thứ là đi về nhà với lòng thống hối ăn năn để được vào sống trong tình yêu thương tha thứ. Trở về như thế cần phải khiêm tốn để tự do trở vào tận căn lương tri tâm tính của mình. Đường trở về huênh hoang tự mãn thì khác, nó so đo ích kỷ đòi hỏi nhỏ nhen tị hiềm bon chen toan tính.
Dụ ngôn Đức Giêsu kể cho biết người con cả đã “nổi giận và không chịu vào nhà” chiều hôm ấy. Anh tự mãn vì “đã bao năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lời” ấy vậy mà chưa hề bao giờ anh được cha long trọng ban thưởng cho một sự gì. Lòng tự phụ của người con cả bộc lộ trong cách anh dùng từ đối đáp với cha của anh: “còn thằng con của cha đó”, nó đánh mất sản nghiệp với bọn điếm mà nay sao cha lại ăn mừng. Người con cả tự hào về quá khứ mà đánh mất đi căn tính của mình, anh quên rằng “thằng con của cha đó” cũng là em của anh đó!, anh ngỡ rằng nhiệm vụ làm anh của mình là quan hệ loại trừ vô can với sự mất mát của một đứa em, anh chỉ nghĩ đến của cải là quan hệ lệ thuộc với bản thân anh và liên quan nhân quả với công trình anh đã phục vụ cha bấy lâu. Trong cách trả lời của người cha đã xa gần nhẹ nhàng nhắc nhở người con cả rằng “em của con đây đã chết, nay lại sống; đã mất, nay lại tìm thấy!”.
Trong đời, đã bao lần người ta buồn vì sự mất mát ra đi của một người thân cận gần gũi và cũng đã nhiều lần hoan hỉ reo vui khi gặp lại cố nhân lâu năm xa vắng. Chỉ có những cuộc tái ngộ mang sầu oán vào đời khi người trở về mang dấu hiệu ảnh hưởng đến quyền lợi của người khác. Có những chuyến trở về sum họp là khởi đầu cho một sự ngăn cách chia ly khi người về với thâm mưu chỉ biết nghĩ cho quyền lợi của mình mà so đo toan tính với người khác. Có những lần trở về lại bất mãn ra đi vì về với lòng tự mãn tự phụ nhưng chẳng thể được thoả mãn toại lòng, về như thế là lối về bất thành đường về bất hảo bước về bất trung. Lòng trung tín không có chỗ cho tự mãn tự cao, mà trái lại nó đòi hỏi khiêm nhường tự hạ. Đường về trọn vẹn không phải là lối về có điều kiện đặt để hơn thua nhưng tự do về lại với chính mình, không bằng những gì mình có nhưng với những gì mình là. Người về mang tin vui là người về với trọn tâm lòng tự do. Tự do của tâm hồn là bước chân giải phóng mọi lệ thuộc. Lệ thuộc của lòng người là tự mãn với chính mình và bất mãn với anh em. Bất mãn với anh em là nhìn dòng đời trôi dạt trên số phận người khác với những khắt khe lên án nghiệt ngã ganh đua. Tự mãn với chính mình là ao ước thỏa mãn những điều mình muốn mà bỏ mặc quên đi thông phận sẻ chia với mọi người.
Dụ ngôn của hai anh em mà Đức Giêsu ví dụ là mời gọi mỗi người trở về và vào trong mái nhà yêu thương của Thiên Chúa. Tin Mừng Chúa nhật thứ tư Mùa Chay không chỉ cho thấy hình ảnh trở về của người con thứ mà còn giới thiệu dung mạo của người con cả. Thánh Luca tường thuật (15, 1-3. 11-13) cả hai người con cùng trở về nhà vào buổi chiều hôm ấy, nhưng người con cả đã về đến rồi mà vẫn chần chừ nấn ná chẳng dám vào nhà. Sống mùa Chay mời gọi mọi người và mỗi người không chỉ trở về đến cửa nhưng phải can đảm vào trong. Từ dụ ngôn của hai người con, Đức Giêsu muốn con người phải tự do trở về như người con thứ nhưng cũng phải từ bỏ tự mãn như người con cả. Tự do trở về như người con thứ trong mùa Chay này là đường về với lòng sám hối ăn năn nương nhờ trông cậy vào tình thương của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương sẽ chạnh lòng chạy ra tận ngõ nghênh đón “ôm cổ” và “hôn lấy hôn để” người con sám hối trở về. Trở về trọn vẹn không là trở về tự mãn giống như người anh cả chỉ đứng ngoài ngõ phân bua so bì; trở về này dở dang bất thành vì vắng bóng tự do.
Sám hối là trở về thật tâm tự do bước ra khỏi lòng tự mãn của mình mà xin ơn tha thứ và xót thương.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết trở về với Thiên Chúa là cha giàu lòng thương xót. Xin cho con hiểu rằng tự do thỏa mãn thế gian thì chóng qua và giam kín hạnh phúc đích thực từ Thiên Chúa mà con hằng ao ước. Xin cho con thấy những vấp ngã đã qua giúp con lớn lên và nhận thấy phận mình mong manh trước Thiên Chúa bao dung. Xin cho con biết từ bỏ tự mãn để sống với những người xung quanh con bằng tự do nhân ái hiền dịu bao dung khiêm nhường tha thứ.
“Nhưng chúng ta phải ăn mừng và haon hỉ vì em con đây đã chết, mà nay lại tìm thấy, đã mất, mà nay đã sống lại…” (Luc 15:32)
Dụ ngôn thánh sử Luca thuật lại hôm nay làm nổi bật tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa Cha. Thiên: MC 4-C56
Dụ ngôn thánh sử Luca thuật lại hôm nay làm nổi bật tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa Cha. Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta, tạo điều kiện cho chúng ta trở về sống trong ân nghĩa của Ngài. Trở về nhà Cha, học nơi Cha sự rộng lượng và tha thứ của Cha. Nếu chúng ta chưa thể rộng lượng như Cha mà tha thứ cho anh chị em thì ít ra chúng ta phải tự biết rằng mình là kẻ có tội cần được tha thứ. Tự biết như thế để tha thứ cho nhau.
Trong lịch sử của Nước Hoa Kỳ có thuật lại câu chuyện nhỏ sau đây: Sau khi nội chiến Hoa Kỳ chấm dứt quân nghịch đầu hàng, những tướng tá của tổng thống Abraham Lincoln đã hỏi ngài có nên "tru diệt" những kẻ chiến bại để trừ hậu hoạn không.
Tổng thống Lincoln đã trả lời: "Ta sẽ đối xử với họ y như là những người đồng hương như là họ không bao giờ là thù địch của ta".
Trước tình yêu bao la của Thiên Chúa, chúng ta ngụp lặn trong tình yêu tin, cậy, mến và luôn ca khen ngợi Ngài vì Ngài luôn chăm nom săn sóc và tha thứ cho chúng ta. Xin Chúa ban ơn mạnh mẽ để mỗi người trong chúng ta biết quay trở về trong Mùa Chay Thánh năm nay và đồng thời, cũng biết chia sẻ và trao cho anh chị em đồng loại tình yêu thương tha thứ và sự thông cảm với những nỗi yếu hèn thống khổ của tha nhân.
Lời Nguyện:
Lạy Chúa, qua bài Tin Mừng hôm nay, mỗi người trong chúng con sẽ tự hỏi cá nhân mình…. Con sẽ thủ diễn vai trò của nhân vật nào trong Mùa Chay năm nay. Xin cho chúng con biết dùng ‘Một Phút Suy Niệm’ nầy để tự trả lời cho Chúa theo lương tâm của con là con sẽ thủ diễn vai… trong Mùa Chay Thánh nầy.
Hãy trở về cùng Cha, sẽ được tha thứ, vì Ngài hiền từ và nhân hậu
Lc 15:1-3,11-32
Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ: MC 4-C57
Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng! Thái độ ganh tỵ của người anh cả trong dụ ngôn này cũng làm cho người cha rất đau lòng, vì tuy ở gần bên cha già, xong anh không thực sự gần gũi và chia sẻ những tâm tư tình cảm của cha mình! Lòng anh đầy ứ bao ghen tuông đố kỵ đối với đứa em, có thể phát xuất từ sự lo sợ rằng đứa em lại đòi chia gia tài một lần nữa, và anh sẽ bị nghèo bớt vì sự tái xuất hiện của thằng em hư hỏng. Trong lòng anh, sự kiện đứa em đã chết nay sống lại, đã hư mất nay lại tìm thấy không có gì là quan trọng ráo trọi! Nó chết thì cứ mặc cho nó chết, chứ có ăn nhập gì đến anh ta?! Sao nó không chết luôn đi cho rảnh mắt, còn trở về làm gì cho bẩn cả nhà ông?! Cái thằng quỉ tha ma bắt ấy đâu có xứng đáng tí nào để nhận tình thương của cha!
Tính ganh tỵ của người anh cả nghe sao mà rất thân quen với tâm tư của mỗi người chúng ta, khi thấy nhiều người khác nhận được nhiều may mắn hơn hay bằng mình. Ta chỉ muốn những người khác thua kém ta thôi, chứ họ không có quyền được ngang bằng với ta, nhất là những kẻ có đời sống thật đáng quở phạt! Có thể đếm được chăng về số lần tôi vẫn cho rằng nhiều kẻ khác không xứng đáng để nhận lãnh tình thương của Chúa bằng tôi? Bao nhiêu là lần tôi đã không muốn những kẻ tội lỗi có được cơ hội ăn năn sám hối, nhưng phải chết trong cảnh thê thảm của họ tôi mới hả dạ, và có như thế Chúa mới là công bằng, theo ý tôi!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận diện được tính hẹp hòi ích kỷ vẫn đầy dẫy trong lòng mình, để chúng con mới dốc lòng sửa mình khỏi điều xấu xa này. Và cầu xin Chúa thương ban ơn phù giúp, cho chúng con biết đón nhận tâm tình tràn đầy yêu thương của Chúa, lúc nào cũng tha thiết kêu mong chờ con người tội lỗi ăn năn hối cải, để được kịp thời trở về trong tình thương của Chúa và được sống hạnh phúc.
Nếu từ “Hoang Đàng” có nghĩa là phung phí thái quá, thì chúng ta có thể gọi cả hai cha con trong dụ: MC 4-C58
Nếu từ “Hoang Đàng” có nghĩa là phung phí thái quá, thì chúng ta có thể gọi cả hai cha con trong dụ ngôn hôm nay là hoang đàng, tuy mỗi người một kiểu. Người cha về tình thương và người con về tiền bạc vật chất. Theo thói quen chúng ta gọi dụ ngôn là người con hoang đàng. Nhưng nhiều nhà mô phạm cũng gọi người cha là hoang đàng nữa. Ông đã phung phí tình cảm trên hai đứa con vô độ, không có giới hạn nào. Người cha thế gian dù dễ dãi đến đâu cũng phải có chút hạn chế cho những đứa con của mình. Đàng này trước các lỗi lầm của hai con ông chỉ biết trông chờ, vui mừng và nài nỉ. Nhiều tác giả đạo đức đặt lại tiêu đề cho dụ ngôn là: “Người cha và hai đứa con”. Phụng vụ cho chúng ta nghe lại nhiều lần trong năm dụ ngôn này, đến nỗi chúng ta có thể kể lại gần như thuộc lòng. Ngày thứ bảy tuần ba vừa rồi (13/3/2004) cũng là bài Phúc Âm này trong thánh lễ sáng.
Chúa Giêsu kể dụ ngôn cho các kinh sư và nhóm biệt phái nghe. Lý do vì họ kêu trách Chúa năng lui tới với những người tội lỗi, lại còn chè chén với chúng. Ngay câu mở đầu dụ ngôn đã mô tả hành động của người con thứ: “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng”. Mà cứ theo luật lệ lúc ấy là 1/3. Nếu gia đình giàu có thì quả là một gia tài khá lớn, thu tích trong nhiều năm. Anh đổi thành tiền mặt để đi ăn chơi trác táng. Tệ hơn nữa, anh kể người cha như đã qua đời, bởi khi sắp chết người ta mới chia gia tài, bao lâu còn sống chẳng ai làm như thế, kẻo phí phạm tài sản; cho nên đa phần cha mẹ trần gian không thể noi gương ông bố này mà nuôi dạy con cái. Chúng quá hỗn xược và tệ bạc, nhưng chủ đích của dụ ngôn không phải về vấn đề nuôi dạy con thơ, mà là tương giao giữa Thiên Chúa nhân lành và loài người phản nghịch, hư hỏng. Chúng ta đã rõ phần còn lại của câu chuyện. Điều làm tôi thích thú là diễn biến của nó với các động từ: Thu quén, ra đi, sống phóng đãng, phung phí tiền bạc, làm thuê, chăn heo, khao khát đồ heo ăn, tỉnh ngộ, hồi tưởng, đứng dậy, trở về,… chúng mô tả hành động mau chóng và đi thẳng đến mục tiêu câu chuyện. Cho dù là khởi sự hay kết thúc diễn biến gọn gàng và chính xác. Khi người con thứ nhận ra lỗi lầm và hoàn cảnh vô vọng, hắn nắm ngay cơ hội để trở về. Mùa Chay là mùa Giáo Hội thúc giục tín hữu noi gương người thanh niên hoang đàng, trở về với Thiên Chúa, là Cha mình và với anh em. Một khi đã giác ngộ về tội lỗi, biết rằng cuộc đời mình là trống rỗng, không sinh hoa kết trái, không ích lợi gì cho ai, ngay cả linh hồn mình, bê tha trong các tính mê, nết xấu, chúng ta khao khát trở về với Thiên Chúa và nắm lấy cơ hội ăn năn thống hối. Chúng ta được Giáo Hội mời gọi làm quyết định mau chóng, không chần chừ, không để lỡ cơ hội và không lo sợ sẽ bị Thiên Chúa từ chối. Dụ ngôn khơi dậy trong lòng mỗi người niềm tin tưởng vào lòng Chúa nhân lành, sẽ tiếp đón mình nhân từ và hiền hậu: Tôi biết tôi sẽ được cha tôi tha thứ. Chúng ta có thể nói được như thế nhờ dụ ngôn Chúa Giêsu kể. Người ta có thể đặt tên cho dụ ngôn là: “Cuộc trở về an toàn”, theo nội dung câu chuyện. Thánh vịnh đáp ca còn gợi lên trong linh hồn mỗi người điều ngọt ngào hơn: “Hãy nếm thử và hãy nhìn xem Chúa tốt lành biết mấy”. Trở về với Thiên Chúa, chúng ta sẽ kinh nghiệm thánh vịnh này: “Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi. Kẻ nghèo này kêu lên và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn”. Đúng thật, Thiên Chúa là Đấng phung phí lòng xót thương trên các tội nhân, người ta gọi Ngài là người cha hoang đàng cũng có lý do. Có lẽ người con thứ đã biết được tính nết của cha mình, cho nên không sợ sệt mà trở về và cũng không đòi hỏi được đối xử ngoại lệ.
Những thính giả chân thật khi nghe dụ ngôn này đều cảm thấy lòng tràn đầy tin tưởng. Đôi khi trong quá khứ chúng ta đã nhiều lần chần chừ vì có nhiều tội lỗi, chúng ta có thể nghi ngờ về tính ngay thẳng của động lực trở về; nhưng mỗi lần nghe dụ ngôn, lại cảm thấy can đảm hơn. Động lực của người con thứ đâu có cao thượng gì! Cái bụng lép xẹp, đói khát, ước ao đồ heo ăn và mường tượng những người làm công ở nhà cha ăn uống ê hề: “Biết bao người làm công cho cha tôi được cơm dư gạo thừa mà tôi đây lại chết đói”. Cho nên chẳng cần cân nhắc động lực trở về với Thiên Chúa. Đơn giản dụ ngôn chỉ thúc bách chúng ta đứng dậy trở về nhà cha. Thiên Chúa đứng đón đợi từ đàng xa, sẵn sàng tha thứ và ôm hôn thắm thiết. Thực ra trên bình diện siêu nhiên, ngoài bản năng tự nhiên, thì lòng muốn trở về đã là một ân huệ như không. Dụ ngôn cũng đồng ý như thế. Sự rộng rãi của người cha đối với những kẻ làm công đã thúc đẩy đứa con xem lại tình trạng khốn đốn của mình, mà đứng dậy trở về với cha. Tôi hết sức nghi ngờ trong sinh hoạt hàng ngày ở Palestine có thấy một ông chủ đối đãi hậu hĩnh với các người làm công như thế không? Thời nay cũng vậy thôi. Cơm dư gạo thừa chẳng xảy ra bao giờ trong các xí nghiệp, nông trường, bởi lợi nhuận là trên hết. Dụ ngôn khuyến khích chúng ta mau mắn trở về nhà Thiên Chúa. Khi người cha gặp con, bầu khí tha thứ và yêu thương làm cho việc xưng thú lỗi lầm được dễ dàng hơn.
Cảnh ngộ này không thiếu trong sinh hoạt thường nhật. Tôi nghĩ đến câu chuyện gia đình. Khi các bạn lỡ tay làm vỡ chén, tách quý hiếm của ông bà nội, các bạn muốn xin lỗi thì được ngay lời an ủi của bà: “Không sao! con quên nó đi, ông bà có quà cho con ở đàng kia, con chạy đi lấy mà ăn”. Câu chuyện có thể kết thúc ở đây, nếu không có mặt của người con trưởng. Bản văn vừa đến câu: “Và người ta bắt đầu ăn mừng.” Thì anh ta bắt đầu hiện diện làm cho bầu khí thay đổi, đang vui trở nên buồn. Chúa Giêsu nói về thái độ của các kinh sư và Pharisêu đối với các tội nhân, tổng quát, đạo Do Thái với dân ngoại. Họ nghiệt ngã quá đáng. Trước mặt họ Chúa Giêsu dễ dãi với các người buông thả, không tuân giữ lề luật và các tập tục của cha ông. Ngài còn tỏ lòng ưu ái, thậm chí đồng bàn với họ. Một điều chướng tai gai mắt, không tín đồ Do Thái nhiệt thành nào muốn làm. Lời rao giảng của Chúa mở toang cánh cửa hối cải cho mọi người. Cho nên Pharisêu và các Ký lục không thể chịu đựng được Chúa Giêsu, coi Ngài như rối đạo, kẻ thù của thế lực đền thờ. Họ cực lực phản đối cách sống đạo của Ngài. Thiên Chúa của Môsê không thể chấp nhận một tên vi phạm lề luật như thế.
Người con cả đứng ngoài cổng. Anh vừa ở cánh đồng trở về, anh là một người lao động tốt, cần cù và có trách nhiệm. Bất cứ gia đình nào cũng hãnh diện về một thành viên như thế. Khác với người em út, anh học thành thạo nếp sống gia đình, cha mẹ chỉ dạy: Làm việc siêng năng, ăn tiêu chắt bóp, không rượu chè trác táng, sống đúng với ước mong của mọi người. Nhưng điều anh không học được là lòng rộng rãi, bao dung, sẵn sàng tha thứ cho đứa em lầm lỗi của người cha. Anh gọi một gia nhân hỏi xem trong nhà có chuyện gì. Khi đã biết được câu chuyện, anh nhất định không vào nhà. Tuy nhiên, người cha chẳng nổi giận hay thất vọng về anh, ông lại ra khỏi nhà lần nữa và năn nỉ người con cả. Lại lần nữa ông tìm kiếm người con đi hoang. Anh tuy ngoan ngoãn nhưng chẳng hiểu hết lòng ông. Anh cũng là kẻ hoang đàng theo ý nghĩa gia phong đoàn kết. Điều mà cha mẹ nào cũng mong muốn cho gia đình mình dù đã tan nát. Như thế Chúa Giêsu không hẳn đả kích người Do Thái, nhưng chỉ nói lên lòng nhân hậu vô biên của Thiên Chúa, mà hiện thân là Ngài. Hạnh phúc vững bền của chúng ta là lòng Chúa xót thương. Cũng như tình yêu của người cha đảm bảo an toàn cho hai đứa con dù ở hoàn cảnh nào! Người con cả muốn rời xa gia đình khi nghe người em trở về và được người cha tiếp đón ân cần. Thực ra, trước mắt bạn bè và hàng xóm láng giềng, anh rất xấu hổ, thậm chí tủi nhục vì hành động “điên rồ” của người cha. Phúc Âm cũng nói rõ tâm tình đó: “Cha coi, đã bao nhiều năm trời con hầu hạ cha và chẳng khi nào trái lệnh cha, thế mà chưa bao giờ cha cho con lấy một con dê nhỏ để ăn mừng với bạn bè…”. Ở khúc này của câu chuyện, chúng ta có thể đặt tiêu đề cho dụ ngôn là: “Ông bố điên khùng, chẳng chịu ở nhà”. Nghe ngộ nghĩnh nhưng đúng với tâm lý người cha.
Trên con đường thiêng liêng mùa Chay, cả hai đứa con trong dụ ngôn đều có mặt trong mỗi người chúng ta. Rất nhiều lần chúng ta nghe theo cơn cám dỗ của thế gian và xác thịt, thu quén tiền bạc ra đi phương xa ăn chơi vui vẻ, phóng đãng. Khi gặp gian khổ chúng ta hối hận quay về xin Chúa thứ lỗi và đã gặp được lòng nhân ái của Ngài. Nhưng cũng rất nhiều lần chúng ta đóng vai người con cả, tưởng mình đạo đức hơn người, để rồi tẩy chay các tội nhân khác, coi họ không là anh em với mình và cắt đứt quan hệ, dù là kinh doanh, làm ăn, lợi lộc. Chúng ta đóng góp xây dựng nhà xứ, nhà thờ, trường học, bệnh viện, giữ các lề luật tôn giáo cặn kẽ, không hề bỏ lễ chúa nhật, có mặt trong các hội từ thiện bác ái… nhưng không chấp nhận ông A say rượu, bà B tham lam, ngồi chung ghế với mình trong thánh đường, hay chị C ly dị chồng vào đoàn thể, vào hội hè….
À thì ra, dụ ngôn không ám chỉ ai hết, mà chính bản thân mỗi tín hữu, trong đó có tôi là chính. Hiểu cho người khác là oan uổng và vu khống, chúng ta phải đấm ngực ăn năn: Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng. Chúng ta phải cảnh giác chính mình, kẻo lây nhiễm thái độ của một trong hai người con, thậm chí cả hai. Tôi chẳng ưa thích chút nào về người con cả với ý thức trách nhiệm cao, chăm chỉ làm việc, trung thành với gia đình nhưng lại chẳng học được lòng nhân hậu của cha. Thực ra thì đó không phải là quan hệ yêu mến của đứa con với cha mẹ. Hãy nghe anh hậm hực: “Cha coi đã ngần ấy năm con hầu hạ cha…” đó chỉ là tự ái, kể công mà không phải là lòng yêu mến. Cho nên cả hai người con đều cần tỉnh ngộ. Hết mọi tín hữu cần xét mình trong mùa Chay thánh thiện này. Đó là chủ đích của bài Tin Mừng hôm nay. Đừng ai nghĩ mình không cần thống hối. Tất cả chúng ta đều là tội nhân.
Hãy lợi dụng ý nghĩa của dụ ngôn, ơn Chúa luôn sẵn sàng cho những ai thành tâm thiện chí. Dụ ngôn thúc giục chúng ta coi Thiên Chúa như người cha nhân ái, thậm chí phung phí tình yêu trên các tội nhân. Ngài luôn mong đợi chúng ta trở lại. Người anh lớn từ chối em là hình bóng chúng ta không chấp nhận anh chị em đồng đạo ăn năn sám hối. Chúng ta hãy vui mừng vì những cuộc trở lại như thế trong mùa Chay này. Hơn nữa, phải tích cực dẫn dắt họ quay về với Thiên Chúa qua các bí tích. Chúng ta sẽ nâng đỡ những thanh thiếu niên sa cơ lỡ bước rơi vào các tệ nạn xã hội như xì ke, ma tuý, đĩ điếm, trộm cắp, lang thang, vô gia cư… họ đang vật lộn với hoàn cảnh và bản thân để có được nếp sống an lành. Chẳng ai muốn mình hư hỏng, nhưng xã hội đầy dẫy những con người như thế. Cho nên chúng ta có nhiệm vụ phổ biến ý nghĩa của Tin Mừng hôm nay cho hết mọi cảnh ngộ mình gặp. Lôi kéo họ trở về với Thiên Chúa yêu thương.
Chúng ta nên nhớ Thiên Chúa đã hoà giải với thế giới qua cuộc khổ nạn, cái chết và sự sống lại vinh quang của Chúa Giêsu, chứ không qua sấm sét, đe doạ và án phạt. Chúa Giêsu đã đền bù thoả đáng phép công thẳng của Ngài bằng cây thập tự. Ngài công chính hoá toàn thể nhân loại một cách nhưng không. Cho nên chúng ta không thể kết án ai, nhất là những linh hồn yếu đuối đã lìa bỏ Giáo Hội mà ra đi, ăn ở trác táng, có thể họ còn chống lại Hội Thánh vì lý do hay thù hận nào khác. Trong ý nghĩ nào đó, chúng ta có thể thông cảm với người con cả. Người cha đã hành động quá tốt lành, ngoại lệ thế gian, cử chỉ của ông không ai đoán trước đựơc, làm lung lay mọi nền tảng giao tiếp xã hội. Ơ đời thường chúng ta chẳng bao giờ gặp một người cha nào như thế, làm sao hiểu được người cha trong dụ ngôn hôm nay? Ông sẽ làm gì kế tiếp? Không ai biết được, nhưng có một điều chắc chắn là tấm lòng ông bao la. Cho nên cả hai người con phải đặt hết tin tưởng vào ông. Lòng tha thứ của ông luôn sẵn sàng, dù lỗi lầm của họ nặng nề đến đâu đi nữa! Ông chẳng rầy la họ, nhưng vui mừng đón tiếp, ôm cổ và hôn lấy hôn để. Trước mắt người đời ông có thể là kẻ “điên khùng”. Nhưng đấy lại là hình ảnh của Thiên Chúa chúng ta trong mùa Chay này. Amen.
Một người kia có hai con trai...Chúng ta đã biết rõ dụ ngôn này đến nỗi chúng ta chẳng cần: MC4-C59
Một người kia có hai con trai...Chúng ta đã biết rõ dụ ngôn này đến nỗi chúng ta chẳng cần phải mất thời giờ nghe lại nữa. Người ta nói với chúng ta rằng bản văn này nói về lòng thương xót của Thiên Chúa. Một ngày nào đó, câu chuyện đứa con hoang đàng này đã làm chúng ta xúc động, nhưng hôm nay thì không còn như thế nữa. Không! hết rồi, bản văn này đã cũ mèm. Chúng ta không bị thu hút như trước nữa. Chúng ta chán ngấy khi nghe người ta nói chúng ta giống như đứa con hoang đàng. Từ lâu, chúng ta đã học biết rằng Thiên Chúa bao giờ cũng sẵn sàng đón nhận chúng ta khi chúng ta đến xin Ngài tha thứ.
Phải đọc dưới một ánh sáng mới.
Chúng ta có khuynh hướng muốn buông xuôi tất cả nhưng tôi vẫn muốn để cho Chúa một cơ may. Dù sao, có lẽ Ngài có điều gì mới mẻ muốn nói với chúng ta đó. Vậy chúng ta hãy đọc lại câu chuyện được trình bày với chúng ta cách khác : Hai anh em cùng chung một cha. Người em bỏ nhà ra đi vì nó quyết định sống cuộc sống riêng của nó.
Sau thời gian say sưa độc lập, đến thời gian thực tại gay gắt. Cuộc sống, cuộc sống thật với bao nhiêu trách nhiệm và nghĩa vụ, với những đau khổ, thử thách.
Đau khổ là mảnh dất tốt nhất để cho sự khôn ngoan được chín mùi. Vậy nên chàng thanh niên ý thức được lỗi lầm của mình. Anh ta ý thức được rằng những gì anh đã làm đổ vỡ đều không thể đền bù lại được Vậy nên, khi trở về nhà, anh ta thật khiêm tốn và sợ sệt. Anh xưng thú tội trước mặt người đang giơ tay đón nhận anh. Người ấy tha thứ và ban lại danh nghĩa là con cho kẻ ở trong vòng tay mình.
Những gì người con thứ đã sống, chúng ta cũng đã sống khi chúng ta nhận bí tích hòa giải trong Giáo hội. Lúc đó, Thiên Chúa xử sự như một người Cha tốt lành, đầy tình thương và lòng trìu mến. Và trong lòng thương xót vô biên của Ngài, Ngài ban lại cho chúng ta chỗ đứng làm con bên cạnh Ngài.
Để đi xa hơn một chút nữa.
Câu chuyện được tiếp tục như sau: Người anh cả đi làm về và khi nghe biết những gì vừa xảy ra, anh la nổi giận. Anh trả lời với người cha đến yêu cầu anh tham gia vào cuộc vui : "Con làm việc như một kẻ làm thuê, con vâng lệnh cha thế mà cha chẳng cho con cái gì đặc biệt cả. Nhưng đứa con của cha kia đã bỏ cha mà ra đi nay trở về, thì cha mở tiệc ăn mừng để đón tiếp nó ".
Anh con cả này là một kẻ không tự xem mình như con cái mà chỉ là một kẻ làm thuê. Người cha kia không phải là cha của anh ta nhưng là một ông chủ, ông chủ khắt khe, đòi hỏi, ông chủ chỉ biết ra lệnh.
Đôi khi chúng ta lại chẳng có thái độ giống như vậy sao, khi chúng ta tưởng mình đã đủ bổn phận với Chúa rồi, vì chúng ta tuân giữ các giới răn ? Chúng ta không xem Thiên Chúa như Cha nhưng như một quan tòa, như một ông chủ mà ta phải vâng lời. Và khi biết rằng có những người không cố gắng bằng chúng ta lại được tha thứ, ta sẽ bực bội tức tối.
Trong tình yêu của cha.
Và người cha trả lời : "Con ơi, con luôn luôn ở với cha và bao giờ cha cũng cho con dư đầy mọi sự. Đối với con, lúc nào cũng là tiệc ăn mừng cả. Nhưng em con đã mất đi và nay tìm lại được. Chẳng phải là chuyện bình thường khi chúng ta vui mừng và mở tiệc vì chúng ta lại được đoàn tụ ư ?".
Thiên Chúa nhắc nhở chúng ta nhớ lại địa vị làm con cái của mình. Phải, chúng ta là con cái của Thiên Chúa nhờ ân sủng Ngài ban cho ta chứ không phải nhờ tuân giữ luật lệ. Những gì chúng ta có được là nhờ ơn làm con cái Chúa và nhờ tình thương của Chúa là Cha chúng ta. Thiên Chúa ban cho chúng ta tất cả những gì chúng ta cần. Nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng biết nhìn ra những gì chúng ta có, những gì chúng ta nhận được. Chúng ta quen thuộc với những thứ ấy và khi ơn Chúa được biểu lộ nơi kẻ khác, chúng ta quên những gì chúng ta có để ganh tị với những gì đứa con hoang đàng vừa nhận được và chúng ta ruồng bỏ nó. Đôi khi chúng ta quên rằng đứa con hoang đàng lại là em ta. Nếu nó cần sự tha thứ của cha để trở thành con thực sự, nó cũng cần sự tha thứ của chúng ta để trở thành em nữa. Và hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta thực hiện việc tha thứ. Một sự tha thứ theo hình ảnh sự tha thứ mà Chúa ban cho mỗi người. Để sự tha thứ được thực hiện cách sung mãn trong Giáo hội, Thiên Chúa muốn cần đến chúng ta. Ngài giao cho chúng ta bổn phận thi hành việc tha thứ ngõ hầu thế giới trở thành nơi hòa giải, nơi thể hiện lòng thương xót.
Kỷ niệm lớn nhất trong cuộc đời là những kỷ niẹm về cha. Có bao giờ cha kể những lao nhọc của cha: MC4-C60
Kỷ niệm lớn nhất trong cuộc đời là những kỷ niẹm về cha. Có bao giờ cha kể những lao nhọc của cha. Cha là chỗ dựa cho con, cha đã đưa con vào cuộc đời, dẫn con qua những nẻo đường gian nan, chưa một lần cha kể những sợi tóc bạc trên mái đầu cha và ai nhớ ai quên những ngày mình đã đi qua, đôi khi cha mờ nhạt trong ký ức con, bởi cuộc sống của con vội vã.
Hình ảnh cha trong trái tim con hôm nay, mở ra cho con thấy tình yêu của người cha. Con giống như đứa con thứ của cha, đòi chia gia tài ngay khi cha còn sống. Con biết rằng, đối với quan niệm chung của người A Đông, con muốn khai tử cha ngay khi cha còn sống. Cha là bầu trời, cha là mạch suối, cha không trách cứ con. Dòng sông có bao giờ hiểu nguồn suối tuôn chảy. Am thầm lặng lẽ trong đau xót, cha cho con số tiền lớn hơn như con được hưởng. Con muốn lớn lên ngoài vòng tay của cha, cha chấp nhận tất cả, để con kinh nghiệm hơn về tình thương của cha. Cha không hề trách mắng con dầu chỉ một lời, mà con có biết đâu, lòng cha nhói đau, những khi con muốn nói không cần đến tình cha.
Thế rồi con lặng lẽ ra đi, không một lời tiễn biệt cùng cha, không một lần ngoái lại để thấy bóng cha đang lặng lẽ, ngẩn ngơ. Cha, bóng gầy lại gầy hơn vì niềm thương xót. Cha hẳn đã biết, rời khỏi vòng tay cha là cả một bể trời lo âu. Con đâu thể ngờ xa cha là cả một đại dương cám dỗ. Cha chấp nhận cho con tất cả để con lớn lên trong kinh nghiệm của con, để con đủ trưởng thành và tự lập.
Những ngày ở bên cha, con đâu thể biết nỗi buồn nơi cha, như lời sám hối của một người cha: "Cuộc sống bắt cha hướng mắt ra ngoài đời, nhìn đời, lăn lộn với đời. Mẹ thì nhìn vào trong nhà, nhìn vuông sân chái bếp, con gà con chó, cây ổi cây xoài và những đứa con của mẹ. Con gần mẹ hơn cha là vậy. Cha lặng lẽ bươn trải kiếm tiền, con đâu biết gian nan cực nhọc lo toan, mệt nhọc và đôi khi mang cả những tức tối từ xưởng về nhà.
Các con lánh cha những khi ấy và sự cách xa giữa cha con bắt đầu từ những điều nhỏ nhặt ấy. Nhiều khi cha nghĩ tủi buồn, bên cạnh bà tiên hiền, cha trở thành... ông La-sát ! Cha không muốn như vậy nhưng trời sinh ra vậy, mẹ con chín bỏ làm mười, cha phải cầm cân nảy mực. Mẹ là tình cảm cha là lí trí. Dẫu sao cha cũng ân hận không biết tỏ tình thương của cha thế nào và cách nào với các con." Những lần cha buồn tủi với sự lạnh nhạt của con, với sự khó chịu của dâu của rể.
Chính tình yêu của cha, khi con ra đi rồi, con mới nghiệm thấy: Cuộc đời cũng cần có những bóng mát được che bằng cánh tay của mẹ của cha. Có những lần thất bại thua cuộc trong đời, con nhận ra nỗi vất vả của cha, sự lam lũ của mẹ. Người ta thường nói : Đằng sau dấu chân chim là cả một đời mẹ gánh gạo nuôi con. Những dấu chân chim vẫn để lại trên cát cuộc đời con, khi con vất vả lo âu trong cuộc sống, khi con bận tâm sống khỏi những lường gạt, con mới hiểu giá trị của những dấu chân ấy.
Nếu con thành công ngay ở bước đầu, có lẽ con sẽ không hiểu được tình cha, nhưng con cám ơn tình trời đã cho con nếm mùi thất bại. Bao nhiêu tiền cha chia cho, con đã làm mất sạch. Có cuộc thua nào đau như thế nữa trong cuộc đời của con. Đằng sau sự khủng hoảng kinh tế là sự nghèo đói. Con không đủ can đảm đi làm người ăn xin, con cũng không đủ liều mạng để đi trộm cắp, cũng không dám đánh đổi cả cuộc đời để gây tiếng xấu. Chính tình yêu của cha, nhờ thấy được nghị lực của cha, con cần sống lương thiện bằng nghiệp chăn heo của con. Cái xấu không có ở trong cái nghề lương thiện, con muốn gầy dựng lại, dù chỉ trong việc làm lương thiện thấp kém nhất mà người ta dành cho con. Nhưng dễ thường người ta chấp nhận cho một sự bằng lòng ấy.
Con muốn sống bằng bàn tay lao động của mình. Vẫn là khó, người ta không dễ dàng cho con một môi trường sống. Cho dù chỉ muốn được ăn những gì heo được ăn mà cũng không được. Đau xót không cho một thân phận làm người, khi người ta dám bỏ ra cả ngàn đồng để mua lấy con chó và trả lương cho người chăm sóc con chó vài trăm đồng, nhưng có dễ gì họ giúp nhau vài chục đồng để chia cho những kẻ bên vực nghèo đói đối diện với cái chết. Con người có thể mất hàng trăm ngàn cho việc tiêu diệt sự sống chứ không dám can đảm và cao thượng đón nhận sự sống là hồng ân.
Kinh nghiệm ở đáy của vực thẳm này, con mới hiểu được thế nào là mặt trái của cuộc đời. Nó không là chôn nương thân cho kẻ nghèo, nó không là chỗ hạnh phúc cho kẻ khố rách, áo ôm và càng không phải là chỗ cho kẻ cô đơn thất thế, tội lỗi, vấp ngã làm lại cuộc đời.
Với tất cả những gì con kinh nghiệm, chỉ còn một con đường trở về xin tha thứ và làm công cho cha, bởi vì dẫu sao đi nữa làm công cho cha vẫn còn có cái mà ăn. Tại sao con lại luôn nghĩ cái ăn như thế, bây giờ con mới hiểu thân phận của những người nghèo khó, đến nhu cầu tối thiểu nhất của con người, trước đây con khinh khi họ là những con người không nghĩ xa hơn cái bụng của mình, thực tế đã cho con một kinh nghiệm khác. Cái kinh nghiệm mà con đã mua được bằng cái giá thất bại của mình, để từ đây con thông cảm hơn với những người nghèo khó. Hãy cho họ những cơ hội tốt hơn để gầy dựng cuộc sống, chắc chắn họ sẽ là những công dân cần cù và hết tình yêu, trách nhiệm với công việc.
Trên con đường trở về có biết bao nhiêu chuyện quẩn quanh trong đầu con như thế.
Trở về bên cha, để mong sống lại tình yêu đã hơn một lần con làm đổ vỡ. Cha có thể coi con như người làm công của cha, nhưng điều con tha thiết hơn cả, là xin cha tha thứ cho con tất cả. Con hy vọng vào tình thương của cha, bởi con biết rằng cha vẫn rộng tình tha thứ.
Từ đàng xa con đã thấy bóng cha đầu ngõ, con có biết đâu, từ ngày con khăn gói ra đi, từng chiều cha vẫn mong con về trước ngõ. Lòng con sao khỏi rộn ràng sau một lần vấp ngã, con lại gặp được chính tình yêu của cha lớn hơn cuộc đời của con. Những người cha trong các gia đình A Đông luôn nặng tình nghĩa như thế. Con còn nhớ như in hôm nọ : Mẹ đi chợ mua trái cam về cho cha vì nhớ tới cha vất vả sớm hôm ngoài đồng, cha nghĩ tới con tuổi đang còn lớn, nên cần ăn hơn, con nghĩ tới mẹ, đã bạc mái đầu mà vẫn chưa một ngày được nghỉ ngơi. Mẹ thương con, dành lại cho con nụ cười thơ ấu. Trái cam đi hết một vòng rộng hơn trái đất.
Vừa về tới đầu ngõ, cha chạy lại ôm con, và hôn lấy hôn để, giọt nước mắt vừa mừng vừa khóc cho tội của con cứ tuôn chảy giàn giụa. Làm sao con có thể nói hết những câu con đã chuẩn bị sẵn, để xin cha tha thứ và coi con như người làm công. Vì con đã hiểu hơn hết tình yêu của cha. Con chỉ còn thưa: Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng đáng gọi là con cha nữa. Dường như trong vòng tay của cha, con lại được sống lại thời thơ ấu của con. Những lúc con làm cho cha buồn giận, con thường chạy vội lại nói với cha những câu đại loại như thế, nhưng lần này con nói thật lòng con hơn bao giờ hết, lời xin thứ tha.
Nếu con có thể kể về cha được nhiều hơn nữa, con sẽ kể niềm vui mừng lớn nhất nơi cha : Đứa con đã mất và nay tìm thấy. Có bao giờ cha đánh mất con đâu, tất cả chỉ là lỗi tại con muốn chống lại tình yêu của cha. Cha cho con đôi cánh, cha cho con bầu trời. Và trong vùng trời tự do của cha, cha cho con tuỳ quyết định. Con đã sai lầm, bầu trời của cha là tình yêu vô hạn, con có muốn bay xa hơn nữa vẫn là những giới hạn của đôi cánh bay mỏi mệt. Cha đón con về trong thất bại của con, mặc lại cho con những gì con đã đánh mất. Con đã lớn lên rất nhiều trong tình yêu của cha và trong kinh nghiệm cuộc đời.
Nếu có ra đi lần này, trong tim con chắc chắn mang theo hình bóng cha, con sẽ thành công bởi có tình yêu của cha trợ lực. Con sẽ hạnh phúc bởi lòng cha hằng yêu thương sẽ đi với con cùng trời cuối đất. Con sẽ thành công nhờ kinh nghiệm của cha và con sẽ minh chứng trong trần thế có một tình yêu mang tên gọi: Tình cha. Và trần thế có nhiều cơ hội hơn cho những kẻ cô đơn, nghèo đói, cùng khốn, đau khổ bởi có tình yêu hiện diện.
Câu truyện Thánh Kinh được Thánh Luca kể mà Giáo Hội đã trích dẫn cho Chúa Nhật thứ tư Mùa: MC 4-C61
Câu truyện Thánh Kinh được Thánh Luca kể mà Giáo Hội đã trích dẫn cho Chúa Nhật thứ tư Mùa Chay hôm nay có thể được tóm lược như sau: Gia đình ba cha con kia, người cha là một người giầu có, chịu khó, tốt bụng, rộng lượng, hào phóng, và thương chiều con. Những đức tính này, ông đã chia đồng đều cho hai con trai ông. Và mỗi người con đều thừa hưởng di sản tinh thần ấy của ông.
Cũng như ông, hai con trai ông cũng là những người chịu khó, tốt bụng, rộng lượng và xã giao rộng rãi. Chỉ khác nhau là trong khi phát triển những đặc tính cá nhân ấy, mỗi người con có một tầm nhìn, một suy tư, và lối sống khác nhau.
Người con cả là một người chị khó, anh ngày đêm bên cha, và chăm chỉ làm việc. Anh cũng là người tốt bụng, rộng rãi và quảng giao với bạn bè. Do đó, anh tưởng đã có lý để than phiền với cha mình: "Bao năm qua con phục vụ cha, không hề trái lệnh cha, vậy mà cha chưa hề cho con một con dê nhỏ để thiết đãi bạn bè" (Luc 15:29).
Và người con thứ, anh cũng như anh chàng, chịu khó, tốt bụng, và rộng rãi với bạn bè. Số tiền cha anh chia cho, anh đã tiêu xài một cách hết sức thoải mái, tự do, và không tính toán. Tuy là một công tử nhà giàu, nhưng khi gặp nạn, anh vẫn không ngần ngại làm những việc thấp hè trong xã hội, như đi chăn lợn: "Sau khi đã tiêu xài hết số tiền, gặp cơn đói kém xẩy tới cho xứ này, và anh ta không có gì ăn. Vì thế anh đã đến một người phú hộ trong vùng, và người này đã sai anh tới trại để chăn lợn" (Luc 15:14-15).
Tuy cũng cùng một khả năng, một di truyền tính, nhưng khi ứng dụng vào hoàn cảnh sống, hai anh em này lại có những phản ứng trái ngược, và xung khắc nhau. Trong tâm lý sống này, người anh đã hoán chuyển tất cả những khả năng và tính nết của mình vào việc phục vụ cho quyền lợi riêng tư, cho phúc lợi của cá nhân mình. Anh tận tụy với cha, tốt bụng với bạn bè, nhưng cốt lõi là qui về chính mình anh. Do đó, anh vẫn chưa diễn tả được sự tốt bụng, rộng lượng và hào phóng của cha anh. Bằng chứng cụ thể là anh vẫn còn tức bực với cha anh, và ghen tỵ với em của anh.
Ngược lại, người em tuy bề ngoài có vẻ hư hỏng, thật ra, anh chỉ hành động theo tính tình tuổi trẻ, bồng bột, và ngu xuẩn nhất thời. Tận trong thâm tâm, anh luôn nghĩ đến cha mình, đến mái ấm gia đình, và nhất là không quan tâm đến những chi tiết nhỏ mọn như chuyện xẩy đến có thể làm anh bị mất mặt khi phải đi chăn lợn; hoặc có thể bị cha từ chối khi trở về. Đối với anh, cha anh là tất cả. Điều anh ân hận là đã làm cho cha mình buồn. Chính vì thế anh đã tự nhủ: "Tôi sẽ đứng dậy và trở về cùng cha tôi, và nói với người: Thưa cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha. Con không xứng đáng được làm con cha nữa" (Luc 15: 18).
Câu truyện ba cha con trên, hiển nhiên mô phỏng gia đình nhân loại mà Thiên Chúa đã tạo dựng và thương yêu. Ngài là Cha nhân lành, và mỗi người chúng ta là con của Ngài, được thừa hưởng tất cả những đức tính tốt lành của Ngài. Ngài đã phân chia đồng đều gia sản tinh thần của Ngài cho từng người con, tùy theo khả năng và ý định tốt lành của Ngài. Nhưng kìa. Mỗi người đã hành xử khác nhau, và theo một nghĩa của tâm linh, đó là hành động của con người bị thu hút bởi xu hướng cá nhân, đam mê, và cám dỗ của ma qủy. Vì thế, người thì ích kỷ, keo kiệt, tham lam, vô độ, chỉ muốn tất cả cho riêng mình. Ngược lại, người thì không biết dùng những tài năng, những vốn liếng tinh thần đúng chỗ và đúng lúc. Tóm lại, tất cả chúng ta nhiều hay ít đã không làm cho Cha trên trời hài lòng.
Tuy nhiên, như người cha trong Tin Mừng, Thiên Chúa vẫn đứng đó, vẫn nhẫn nại, và mòn mỏi chờ đợi các con mình. Ngài sẵn sàng mở rộng vòng tay đón tiếp, bỏ qua tất cả, và tha thứ tất cả. Ngài không chấp nhất, và đòi hỏi. Đối với Ngài, không một con nào dù tội lỗi đến đâu mà khi trở về lại không được Ngài mở rộng vòng tay âu yếm ôm vào lòng. Trước những lỗi lầm và yếu đuối, Ngài muốn các con Ngài đừng thất vọng, và đừng bao giờ rời xa tình thương của Ngài. Chính sự thất vọng và không quay trở về kia mới làm cho Ngài đau lòng chứ không phải những yếu đuối nhất thời của con người.
Ngoài ra, Ngài cũng muốn con cái Ngài thương yêu nhau. Đừng ghen tương, giận hờn. Đừng nghĩ rằng Ngài đối đãi bất công, thương con này mà ghét bỏ con kia.Vì ý nghĩ này xúc phạm đến tình thương và tấm lòng rộng rãi vô biên của Ngài.
Sau cùng, Ngài muốn mỗi người phải biết xử dụng những tài năng, những ân sủng Ngài ban để hướng tầm nhìn và nâng cao những giá trị tâm linh. Mở rộng cõi lòng tiếp nhận nhau, tha thứ cho nhau, cũng như tha thứ cho chính mình. Chúng ta chỉ bị loại bỏ ra ngoài căn nhà của Ngài nếu chúng ta tự ý ra đi như người con thứ. Nhưng chúng ta vẫn không bị từ chối khi ý thức sự nhầm lẫn và sẵn sàng quay trở về căn nhà yêu dấu ấy.
Nhưng liệu sự chờ đợi mỏi mòn của người cha già thân yêu có được đền bù không. Hay vẫn có những người con lầm đường, lạc lối mà không bao giờ tìm về. Mùa Chay là mùa ăn năn thống hối, và quay trở về với Thiên Chúa. Có bao giờ ta tự hỏi và nói với lòng mình như người con thứ: "Tôi sẽ đứng dậy và trở về cùng cha tôi, và nói với người: Thưa cha, con đã lỗi phạm đến Trời và đến cha".
Thật là niềm đau khó tả cho một người cha Do thái, khi mình còn sống đó, mà con mình đang tâm: MC 4-C62
Thật là niềm đau khó tả cho một người cha Do thái, khi mình còn sống đó, mà con mình đang tâm đến xin chia gia tài, điều mà người cha chỉ làm trước khi ông qua đời. Đau khổ hơn nữa, khi thấy con mình dám bán đi phần đất linh thiêng Thiên Chúa ban cho dân riêng của Ngài; phần đất đó được tổ tiên bao đời truyền lại, mà bây giờ đến tay hắn thì hắn lại bán đi. Sau khi hắn bỏ nhà ra đi, đối với ông là một chuỗi ngày dài mong mỏi chờ đợi hắn trở về. Nên khi anh ta trở về, ông đã vội vàng chạy đến với con ông.
Nhưng lý do gì khiến ông phải "chạy"? Ông "chạy" là vì lòng nhớ thương của ông, và để giúp con ông khỏi phải đơn thân bước lê trên con đường ô nhục mà dân làng chuẩn bị cho những kẻ lầm đường lạc bước. Chắc hẳn tin hắn trở về sẽ lan ra thật mau, và trên bước đường từ cổng làng về nhà, hắn sẽ phải đối diện với bao con mắt soi mói, bao lời chế diễu kết tội. Vì thế, ông không cần biết động lực nào thôi thúc con ông trở về, ông đã đi bước trước cho mọi người biết rằng, ông đã tha thứ tất cả cho con ông. Do đó, không chờ đến khi về tới nhà, nhưng ngay lúc đó ông đã phục hồi quyền làm con của anh ta bằng cách truyền đem áo tốt nhất cho anh ta mặc, đeo giầy, và đeo nhẫn cho anh ta. Nhờ lòng thương cảm và tế nhị của ông, con đường trở về của "người con phung phá" đã diễn ra thật tốt đẹp.
Nhưng, bi kịch này chưa kết thúc ở đó. Anh của hắn không thể chấp nhận sự tha thứ quá dễ dàng như vậy. Có lẽ đã từ lâu, anh không còn coi mình có một người em. Và rồi, anh kết tội cha anh là thiên vị. Một lần nữa, người cha lại hạ mình để đến với con của ông.
Tâm hồn người cha trên đây thật tuyệt vời. Với tâm hồn bao dung, kiên nhẫn, nhân từ, và cảm thông, ông đã tha thứ cho người con lạc đường, để con ông có cơ hội làm lại cuộc đời. Ông cũng không chấp nhất thái độ hẹp hòi, kết án của người anh tự coi mình là công chính. Đó là cách Thiên Chúa đối xử với mỗi người chúng ta, và cũng là thái độ Chúa ước ao chúng ta dành cho nhau.
Tại một cộng đoàn Tin Lành nọ, sau một buổi tĩnh tâm, một thiếu nữ đã nhận ra lối sống tội lỗi trong nghiện ngập hút sách của mình, và cô đã quyết tâm sửa đổi cuộc sống. Không lâu sau, cô đã tham gia vào việc dạy giáo lý cho các em trong cộng đoàn. Rồi cô đã lọt mắt xanh cậu con trai của vị mục sư, và hai người dự định đi đến hôn nhân. Nhưng, một số đông người trong cộng đoàn nghĩ rằng cô không xứng đáng với con trai của vị mục sự, và do đó, một cuộc họp đã diễn ra để bàn về vấn đề này. Trong phiên họp đó, người ta bàn cãi thật sôi nổi, nhất là về quá khứ không mấy tốt đẹp của cô. Sau một lúc, người con của vị mục sư đã lên tiếng: "Thưa quí vị, xin quí vị hiểu cho rằng, không phải người vợ tương lai của tôi đang bị xét xử, nhưng là chính giá máu của Chúa Giêsu đang bị quí vị xét xử." Đôi giòng lệ bắt đầu tuôn trào nơi một số đông người, vì họ chợt nhận ra họ đang nghi ngờ giá máu của Chúa.
Trong những ngày Mùa Chay này, chúng ta đang tưởng niệm cuộc khổ nạn và chịu chết của Chúa Giêsu. Vì yêu, Chúa đã chấp nhận tất cả để chúng ta được ơn cứu độ, được hạnh phúc. Biết bao lần chúng ta đã lỗi phạm. Biết bao lần chúng ta đã đến với bí tích Xá Giải. Và rồi biết bao lần, chúng ta lại tái phạm. Vì là Đấng tạo dựng nên chúng ta, và vì đã một lần mang thân phận con người như chúng ta, Chúa cảm thông với sự yếu đuối của con người. Giờ đây, Ngài cũng mong muốn chúng ta cũng hãy có tấm lòng bao dung, cảm thương, để tha thứ cho những lỗi lầm của nhau và chấp nhận những khuyết điểm của nhau.
John Christsopholo có kể câu chuyện như sau: Cô Mary Golden là một người nghèo túng. Cô sống trong: MC 4-C63
John Christsopholo có kể câu chuyện như sau: Cô Mary Golden là một người nghèo túng. Cô sống trong một căn nhà xiêu vẹo. Cô đã lớn tuổi mà chưa có chồng. Cô ước ao được một người thương cô. Mà thực may cô được một người đàn ông (John Carrollo) rất giầu có thương mến và tỏ lòng muốn cưới cô làm vợ, khiến cô rất bỡ ngỡ lạ lùng và lo cho cuộc đời của mình. Đến sau khi đám cưới và hưởng tuần trăng mật, cô mới thấy an phận. Hai người sống trong một lâu đài rất lộng lẫy, nguy nga mà chưa bao giờ cô nghĩ tới.
Nhưng mới được hơn một năm, thì một chuyện buồn đã xẩy ra, là một hôm chồng cô bị chết vì một cơn bệnh bất trị (thương hàn). Qua cái tang đau đớn đó, cô lại bị đau, cô cảm thấy tức giận, cô đâm ra muốn trách Chúa. Cô đã lết vào nhà nguyện thánh Antôn để đối chất với Chúa: "Chúa thật là giả hình, lừa bịp người ta. Chúa đã tỏ cho người ta là Chúa rất yêu thương. Nhưng mỗi khi ai tìm được một tia hạnh phúc thì Chúa lại tìm cách phá đổ đi. Chúa biết không, bây giờ con biết Chúa như thế nào rồi". Bỗng cô té xuống, mắt mờ đi, nhìn không rõ câu phát động trên câu lơn: "Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi". Cô lịm đi trong giây lát. Khi tỉnh dậy, cô chỉ còn nghe thấy đôi lời trách móc: "Con thân yêu, Cha mời gọi con hãy phó mặc đời con cho Cha, còn mọi sự khác có xẩy ra cho con, cũng chỉ là ích lợi cho con thôi. Các bác sỹ dù có tài giỏi đến đâu, cũng không thể làm được gì ngoài ý định của Cha. Chỉ một mình Cha mới có thể muốn cho chồng con khỏi chết hay con được khỏi bệnh mà thôi".
Trong yếu sức và yên lặng tăm tối đó, cô đã phó mặc đời mình cho Chúa và than thở: "Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con là kẻ tội lỗi". Cô cảm thấy cơn yếu bệnh của mình thuyên giảm cách lạ lùng. Cô từ từ hồi phục lại sức khỏe.
Câu chuyện này tương tự với câu chuyện "Người con hoang đàng" thức tỉnh trong Phúc Âm hôm nay: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa", cô Mary Golden đã trở lại cùng Cha. Đây là câu chuyện mà mọi người chúng ta có thể thông cảm được. Vì trong đời sống, chúng ta đều tái diễn những hành động tương tự người con hoang đàng.
Chỉ một phút thống hối, cô Mary Golden, người trộm lành thống hối, cũng như người con hoang đàng được ơn trở lại cùng Chúa, Người cũng kêu gọi chúng ta trở về với Ngài như vậy. Hãy tỉnh thức, chỗi dậy và trở về cùng Chúa! (3.2004).
Anh Lê Văn Thiệu, một binh sĩ hải quân trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, anh đã xa đất liền hơn một: MC 4-C64
Anh Lê Văn Thiệu, một binh sĩ hải quân trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, anh đã xa đất liền hơn một năm, đồn trú ở đảo Hoàng Sa buồn thê thảm, chung quanh chỉ có trời với nước. Vì chưa quen với đời sống hưu quạnh chán chường này, anh ta đâm ra nghiện ngập, tối ngày say sưa lè nhè. Anh đã bị cấp trên cảnh cáo và trừng phạt nhiều lần, nhưng vẫn chứng nào tật ấy, không sao sửa được. Lần này, anh ta say quá, còn gây sự và đánh lộn với đồng bạn nữa, nên lại bị đưa ra tòa. Ông Đại Tá chánh án xử anh nhiều lần đã phát ngán, không biết tính sao, nên ông quay lại hỏi anh ta: "Tôi phải làm gì cho anh bây giờ? Anh đã bị xử phạt nhiều lần mà lại cứ tái phạm mãi thế này. Chúng tôi đã cố gắng đủ cách, bây giờ anh tính sao?"
Viên Đại Úy luật sư biện hộ vội đứng lên thưa: "Thưa Đại Tá, xin cho tôi được xem hồ sơ của anh ta". Sau khi đã xem qua hồ sơ, viên Đại Úy tiếp lời: "Thưa Đại Tá, tôi thấy còn một điều mà chúng ta chưa làm cho anh ta". Đại Tá hỏi lại: "Điều gì vậy?" Viên Đại Úy luật sư đáp lại: "Thưa, đó là chúng ta chưa hề bao giờ tha thứ cho anh ta cả".
Sau khi tham khảo ý kiến với bồi thẩm đoàn, ông Đại Tá Chánh Án trở ra và dõng dạc tuyên bố: "Anh đã bị phạt nhiều lần và lần này thì tòa án tha bổng cho anh. Tòa án còn xóa bỏ tất cả hồ sơ cho anh". Cúi đầu cảm tạ, bước chân ra khỏi tòa án, anh Lê Văn Thiệu tự cảm thấy hối hận, quyết chí sửa đổi, trở thành một người mới. Từ đấy, anh đã là người gương mẫu, luôn biết tôn trọng kỷ luật, sống vui tươi và hào hiệp với mọi người.
I. THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU THƯƠNG
Qua bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, Thánh Sử Luca đã thuật lại việc những người thu thuế và những người bị đời liệt vào hàng ngũ những người tội lỗi, đang chăm chú nghe Chúa Giêsu giảng, khiến những biệt phái và luật sĩ lấy làm chướng tai gai mắt, phải thắc mắc khó chịu lẩm bẩm với nhau: "Tại sao ông này lại tiếp đón những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng?"
Trước thái độ kiêu căng, tự mãn, khinh khi, với những lời lẩm bẩm và suy tư thầm kín ấy, Chúa đã muốn cảnh tỉnh lương tâm chai đá lỳ lợm của bọn họ, bằng cách nói với họ một dụ ngôn: "Người con phung phá với người cha nhân từ". Qua dụ ngôn này, Chúa đã mạc khải cho thấy: Thiên Chúa như một Người Cha đầy nhân từ, rất tôn trọng sự tự do của người con thứ, chia gia tài cho con theo lời nó xin... Sau một thời gian đi hoang, tiêu xài phung phí, phá tán hết tài sản, sống kiếp sống trác táng trụy lạc với bọn mãi dâm, chàng đã biết hồi tâm tỉnh ngộ, quyết chí trở về xin cha tha thứ, khiêm tốn tự nhận mình không đáng được hưởng quyền làm con, mà chỉ ước ao được chung số phận với những tôi tớ giúp việc trong nhà cha mình.
Từ khi con ra đi, người cha hằng thương tiếc con, luôn ngóng trông, mong đợi con hối hận trở về, nên vừa khi thấy con còn ở đàng xa, ông đã chạy ra ôm chầm lấy con, hôn con hồi lâu và truyền cho các tôi tớ lấy áo mới cho cậu mặc, giầy đẹp cho cậu đi, nhẫn qúi cho cậu đeo tay và giết bê béo mở tiệc ăn mừng.
Người con cả ở ngoài đồng về, thấy tiệc tùng vui nhộn, đàn hát múa nhảy và sau khi đã biết sự thể, anh ta phát ghen tương phân bì với cậu em, tức tối với người cha nhân từ đã biệt đãi thằng em đi hoang trở về; anh quyết định không thèm vào nhà, cha anh ta đã phải ra năn nỉ và nói với anh: "Hỡi con, con luôn ở với cha, mọi sự của cha đều là của con, nhưng phải mở tiệc ăn mừng, vì em con như đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy".
II. CHÚNG TA ĐỀU LÀ NHỮNG TỘI NHÂN
Tất cả chúng ta đều phải tự nhận mình là những tội nhân, biết bao lần chúng ta đã xúc phạm đến Chúa; phụ bạc tình yêu thương của Chúa dành cho chúng ta; phá tán biết bao ơn phúc Chúa ban cho chúng ta, sống bất xứng với ơn chúng ta được làm con cái Chúa. Mỗi khi chúng ta biết hối lỗi trở về làm hòa xin ơn tha thứ, Chúa nhân từ tha thứ tất cả mọi tội lỗi, dường như Người đã quên hết và không hề chấp tội chúng ta nữa; vì: "Nếu Chúa chấp tội, nào ai có thể sống nổi".
Quả thật, Thiên Chúa là Cha nhân từ vô cùng, là Tình Thương vô biên như lời Thánh Kinh: "Thiên Chúa là Đấng giao hòa thế gian với chính mình Người trong Đức Kitô, nên không kể chi đến tội lỗi của loài người" (2 Cor.5:19).
Cũng như người cha trong dụ ngôn, không những Chúa tha thứ và quên đi tất cả mọi lỗi lầm, mọi phản bội, mọi ngỗ nghịch chúng ta đã phạm đến Chúa; mà Chúa còn biệt đãi chúng ta hơn cả những kẻ chưa hề lỗi phạm đến Người, đến khiến họ phát ghen phân bì. Hơn nữa, tình Chúa yêu thương tha thứ, còn phục hồi cho chúng ta quyền làm con cái Chúa, quyền thừa hưởng gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Quốc, bằng cách cho chúng ta được phục sức bằng những ơn thánh siêu nhiên, là các nhân đức và sự thánh thiện, nhờ công nghiệp của Chúa Kitô, để chúng ta được xứng đáng trở nên những Hoàng Tử và Công Chúa của Thượng Đế, Vua trên muôn vua, Đấng toàn năng vĩnh cửu và thánh thiện vô cùng.
III. ĐỂ HƯỞNG TÌNH CHÚA YÊU THƯƠNG
Để sống xứng đáng tình Chúa yêu thương tha thứ chúng ta phải làm gì? Chúng ta hãy lo sinh hoa kết trái xứng với lòng sám hối, mỗi khi chúng ta lỗi lầm sa ngã trở về làm hòa với Chúa. Chúng ta cũng hãy học nơi Chúa lòng nhân từ tha thứ, để chúng ta biết khoan dung và quên đi tất cả mọi lầm lỗi tha nhân đã xúc phạm đến chúng ta, vì chính Chúa đã hằng đối xử nhân từ với chúng ta. Như Chúa Kitô đã dạy chúng ta dâng lời cầu xin lên Cha Hằng Hữu: "Xin Cha tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con". Đó chính là điều kiện Chúa đòi buộc, để xứng đáng được Chúa ban ơn tha thứ, chúng ta cũng phải tha thứ lỗi lầm cho những người xúc phạm đến chúng ta.
Kết Luận
Để tiêu diệt tội ác, thanh tẩy tệ đoạn, cải thiện và canh tân xã hội, cần phải lên án và trừng phạt phạm nhân cân xứng với tội trạng; nhưng trong lãnh vực tinh thần và đạo đức, lên án và trừng phạt cân xứng chưa phải là phương thế hữu hiệu và tuyệt hảo.
Phương thế hữu hiệu và tuyệt hảo chính là lòng nhân từ, khoan dung tha thứ, như Chúa đã truyền dạy và nêu gương cho chúng ta noi theo bắt chước. Nhờ phương thế này, chúng ta sẽ chinh phục được tội nhân, cảm hóa được kẻ thù địch, khuất phục được người gian ác, cải thiện và canh tân được xã hội bất công.
Kết quả của lòng độ lượng khoan dung tha thứ, mà anh Lê Văn Thiệu, một binh sĩ phạm pháp đã biết hối hận, quyết chí sửa đổi, trở thành người mới, luôn biết tôn trọng kỷ luật, sống lương thiện vui tươi và hào hiệp với mọi người trong câu truyện trên đây là một bằng chứng hiển nhiên.
Nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy” (Lc 13,3-4), nghĩa là chết như những: MC 4-C65
“Nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy” (Lc 13,3-4), nghĩa là chết như những người Do Thái bị Phi-la-tô giết hay như những người Do Thái khác bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết. Còn nếu như những người Do Thái và chúng ta sám hối thì chuyện gì sẽ xẩy ra? Ba bài Thánh Kinh Chúa Nhật IV Mùa Chay cho chúng ta câu trả lời đầy đủ: (*) Nếu sám hối thì những người Do Thái và chúng ta sẽ được vào Đất Hứa, sẽ được cử hành Lễ Vượt Qua để cảm tạ Thiên Chúa về ơn được cứu thoát khỏi cảnh nô lệ. (*) Nếu sám hối thì những người Do Thái và chúng ta sẽ được làm hòa cùng Thiên Chúa là Đấng không muốn một ai phải chết và đã sai Con Một Người đến trần gian để cứu chuộc nhân loại tội lỗi. (*) Nếu sám hối thì những người Do Thái và chúng ta sẽ được Thiên Chúa là CHA tha thứ và đón nhận lại trong nhà của Người, như người cha nhân hậu đón nhận đứa con hư trở về sau chuỗi ngày đi hoang, phung phá của cải thừa kế là ơn huệ của Chúa và làm mất cả phẩm giá cao quý của mình khi phạm tội. Không những Thiên Chúa đón nhận lại mà còn bù đắp một cách rộng rãi ngoài sức tưởng tượng cho kẻ quay về.
Chúng ta hãy dành thời gian tìm hiểu, suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện để biết cách phải sống thế nào với Thiên Chúa là Cha từ bi nhân hậu luôn rộng lòng thứ tha cho kẻ ăn năn sám hối.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: Gs 5, 9a.10-12: Sau khi vào Đất Hứa, dân Chúa mừng Lễ Vượt Qua.
9 Sau khi dân Ít-ra-en vào Đất Hứa, Đức Chúa phán với ông Giô-suê: "Hôm nay Ta đã cất khỏi các ngươi cái ô nhục của người Ai Cập." 10 Con cái Ít-ra-en đóng trại ở Ghin-gan và cử hành lễ Vượt Qua ngày mười bốn trong tháng, vào buổi chiều, trong vùng thảo nguyên Giê-ri-khô. 11 Hôm sau lễ Vượt Qua, họ đã dùng thổ sản trong xứ, tức là bánh không men và hạt lúa rang, vào đúng ngày đó. 12 Hôm sau, không còn man-na nữa, khi họ dùng thổ sản trong xứ; thế là con cái Ít-ra-en không còn có man-na nữa. Năm ấy, họ đã dùng hoa màu của đất Ca-na-an.
(2) Bài đọc 2: 2 Cr 5,17-21: Thiên Chúa đã cho chúng ta được hòa giải với Người trong Đức Ki-tô.
17 Thưa anh em, phàm ai ở trong Đức Ki-tô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi. 18 Mọi sự ấy đều do bởi Thiên Chúa là Đấng đã nhờ Đức Ki-tô mà cho chúng ta được hòa giải với Người, và trao cho chúng tôi chức vụ hòa giải. 19 Thật vậy, trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hòa giải với Người. Người không còn chấp tội nhân loại nữa, và giao cho chúng tôi công bố lời hòa giải. 20 Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Ki-tô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Ki-tô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa. 21 Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.
(3) Bài Tin Mừng: Lc 15,1-3.11-32: Em con đây đã chết mà nay sống lại.
1 Khi ấy tất cả các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giê-su để nghe Người giảng. 2 Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." 3 Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này: 11 "Một người kia có hai con trai. 12 Người con thứ nói với cha rằng: "Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. 13 Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. 14 "Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, 15 nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. 16 Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho.17 Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: "Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! 18 Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, 19 chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy. 20 Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. 21 Bấy giờ người con nói rằng: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. ..22 Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, 23 rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! 24 Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng. 25 "Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, 26 liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. 27 Người ấy trả lời: "Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ. 28 Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. 29 Cậu trả lời cha: "Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. 30 Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng! 31 "Nhưng người cha nói với anh ta: "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. 32 Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy."
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Gs 5, 9a.10-12) là một đoạn văn tuy ngắn nhưng rất quan trọng đối với lịch sử Ít-ra-en và lịch sử Cứu Độ. Cuộc giải thoát và xuất hành của Ít-ra-en chỉ trọn vẹn ý nghĩa khi họ đặt chân vào Đất Hứa. Quảng thời gian 40 năm đi loanh quanh trong sa mạc (không lớn lắm) là thời gian thanh tẩy và thử thách lòng tin. Lịch sử đã cho thấy không phải tất cả mọi người Ít-ra-en đã vượt qua Biển Đỏ đều đặt chân vào Đất Ca-na-an. Rất nhiều người đã chết trong cuộc lữ hành xuyên qua hoang địa, kể cả ông Mô-sê. Chỉ những người vững lòng tin vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa mới được cùng ông Giô-suê bước vào vùng Đất Hứa mà thôi. Ngay cả chính ông Mô-sê cũng không được vinh hạnh này.
Trong đoạn sách Giô-suê trên, chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng có kế hoạch đàng hoàng, có chương trình hẳn hoi, có dự phòng tất cả. Hành động nào, lời nói nào của Thiên Chúa hay Chúa muốn dân riêng thực hiện cũng mang một ý nghĩa. Mỗi hành động, mỗi lời nói ấy có thời điểm của nó. Ví dụ trong sa mạc dân sống nhờ man-na, trong Đất Hứa dân sống bằng bánh là sản phẩm làm từ lúa là sản phẩm của đất và dân sẽ cử hành lễ Vượt Qua mà tưởng nhớ công ơn giải thoát của Thiên Chúa.
(2) Bài đọc 2 (2 Cr 5,17-21) là những lời giãi bày chí lý của Thánh Phao-lô Tông đồ nhằm khuyên nhủ các tín hữu Cô-rin-tô hãy biết làm hòa với Thiên Chúa là Đấng luôn mở rộng tấm lòng và bàn tay để thứ tha tội lỗi. Bằng chứng hùng hồn là Con Một Thiên Chúa -là Chúa Giê-su Ki-tô- đã mang lấy tội lỗi nhân loại trên hai vai của Người, để loài người được hòa giải, được thứ tha.
Trong đoạn 2 Cr 5,17-21 trên, chúng ta thấy Thiên Chúa đã yêu thương, rộng lượng và sáng tạo như thế nào để loài người chúng ta không phải chết vì tội lỗi do chúng ta đã phạm; mà trái lại, chúng ta còn được thứ tha và hòa giải với chính Đấng mà chúng ta xúc phạm. Thiên Chúa thực hiện công trình kỳ diệu này nhờ Con Một Người là Chúa Giê-su Ki-tô Đấng đã hy sinh mạng sống mình trên Thập Giá, để chuộc lại cho Thiên Chúa những tội nhân là tất cả chúng ta.
(3) Bài Tin Mừng (Lc 15,1-3.11-32) là một trong ba dụ ngôn và là dụ ngôn nhiều ý nghĩa nhất về lòng thương xót, thứ tha của Thiên Chúa trong Tin Mừng Lu-ca. Câu truyện người con hoang đàng chỉ làm nổi bật tấm lòng của người cha nhân hậu.
Qua dụ ngôn người cha nhân hậu trong Phúc Âm Lc 15,1-3.11-32, Chúa Giê-su muốn cho chúng ta thấy tấm lòng của Thiên Chúa là như thế nào khi một người con dại dột sống theo ý mình là: (a) bỏ nhà cha đi hoang, (b) phung phí tài sản là ơn huệ của Thiên Chúa, (c) tìm thú vui trần tục, chóng qua trong đời sống tội lỗi. Những hành động ấy là tội tày trời phạm đến Thiên Chúa và làm mất tư cách và quyền làm con. Nhưng đối với Thiên Chúa, mà biểu tượng là người cha trong dụ ngôn, thì chỉ có một điều đáng kể là việc người con sám hối trở về. Nên Thiên Chúa đã thể hiện tấm lòng của mình một cách tuyệt vời: (a) quên hết quá khứ mà chỉ nghĩ tới hiện tại và tương lai nên vui sướng đón nhận con, (b) bù đắp một cách ngoài sức tưởng tượng cho đứa con dại dột mà đi hoang, đứa con “đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm thấy”, (c) bênh vực đứa con hư trở về khi người anh có thái độ phản đối và so sánh.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là dù yếu đuối, tội lỗi đến mức nào đi nữa, chúng ta cũng có thể vững tâm trông cậy vào lòng Chúa là Cha yêu thương và tha thứ mà ăn năn sám hối và quay trở về với Thiên Chúa để được Người thứ tha, đón nhận và hồi phục chức danh làm nghĩa tử mà chúng ta đã dại dột đánh mất khi phạm tội xúc phạm đến Người.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi xét mình xem:
* Tôi ý thức như thế nào về tình trạng yếu đuối và tội lỗi của mình?
* Tôi có thật sự muốn từ bỏ tội lỗi và cải thiện tình trạng yếu đuối về mặt tâm linh của mình không?
* Tôi có đặt hết lòng cậy trông, tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa là Cha mà ăn năn sám hối và quay trở về với Thiên Chúa không?
* Tôi có thực sự trân trọng và khát khao tư cách làm con của Cha trên trời không? Tôi đã làm những gì để thể hiện lòng trân trọng và khát khao ấy?
IV. CẦU NGUYỆN
(Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)
4.1 Lạy Thiên Chúa là Cha cực thánh, người con đi hoang đã sám hối trở về mà thưa cùng Cha: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa.” Chúng con cũng xin thưa với Cha như thế vì chúng con đã thấm thía cách về thân phận yếu hèn và tội lỗi của mình. Chúng con chỉ còn biết trông cậy vào lòng thương bao la của Cha mà nài xin Cha tha thứ tội lỗi cho chúng con mà thôi.
Lạy Cha, chúng con cầu xin Cha. Xin Cha nhận lời chúng con.
4.2 Lạy Thiên Chúa là Cha từ bi nhân hậu và giầu lòng xót thương, Cha đã ôm chầm lấy đứa con đi hoang trở về mà nói với gia nhân: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” Chúng con cảm tạ Cha về ơn thứ tha và muôn vàn ơn khác mà Cha đã ban cho chúng con mỗi lần chúng con ăn ăn thống hối về tội lỗi của mình và quay trở về với Cha. Chúng con vô cùng sung sướng được Cha đón nhận lại trong nhà Cha.
Lạy Cha, chúng con cầu xin Cha. Xin Cha nhận lời chúng con.
4.3 Lạy Chúa Giê-su là Đấng Cứu Chuộc muôn dân, muôn người, Chúa đã đến trần gian để giải thoát tội nhân ra khỏi vòng tội lỗi và đưa họ về Nhà Cha, như lời Phúc Âm đã chép: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng." Chúng con chạy đến với Chúa như những người thu thuế và người tội lỗi trong Phúc Âm, để được có Chúa là bạn. Xin Chúa đón nhận và rửa sạch tâm hồn và thay đổi cuộc sống chúng con để chúng con được “đồng bàn” với Chúa.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
Câu chuyện người con hoang đàng trong Phúc Âm Luca cho ta thấy cần suy nghĩ nhiều về những: MC 4-C66
Câu chuyện người con hoang đàng trong Phúc Âm Luca cho ta thấy cần suy nghĩ nhiều về những người con "không" hoang đàng.
Chuyện kể về người cha có hai đứa con, đứa con thứ ra đi sống trác táng phá tan cả sản nghiệp. Ta kết tội nó là đứa con hoang đàng. Còn người con trưởng ở lại thì sao? Nó không bỏ nhà đi hoang, như thế là một mẫu mực rồi chăng?
Người cha lạc lõng
Người cha chỉ có hai đứa con. Khi con thứ bỏ nhà ra đi, ông còn lại người con trưởng. Trong câu chuyện ta không thấy nhân vật con trưởng này xuất hiện trong cuộc đời liên hệ với cha nó, không thấy liên hệ với em nó. Mãi đến cuối câu chuyện mới thấy xuất hiện, sự xuất hiện này là một bùng nổ đã âm ỉ từ lâu, nó chống lại cha nó và em nó.
Thật ra, người cha mất cả hai đứa con chứ không phải một. Ðứa con thứ bỏ nhà đi. Ðứa con trưởng ở lại nhưng không sống với thái độ là con. Nó đã rõ ràng xác nhận như thế: "Tôi làm tôi cho ông" (Lc. 15: 29).
Lạc lõng không phải là một mình mà là không gặp cái mình tìm. Cái mình không cần mà vẫn có thì là dư, bởi thế, lạc lõng là đi giữa đoàn người mà vẫn thấy vắng, đi giữa cuộc đời mà cứ lẻ loi. Người cha có hai nỗi khổ tâm. Khổ tâm thứ nhất là vắng mặt của người con thứ. Khổ tâm thứ hai là có mặt mà như là thừa của người con trưởng.
Vắng mặt một người là mất mát, nhưng có nhớ. Nhớ và thương làm giây liên hệ tình cảm gần lại. Vắng mặt nên ta có nhiều chân trời tưởng tượng để sống với những cảm tình ấp ủ, với hy vọng. Do đó, có thể niềm an ủi của đau khổ vì mất mát là không đau khổ bằng có mặt mà thừa. Nếu có mặt mà thừa thì không còn chân trời nào để thoát nữa. Thực tế là phũ phàng phải đối diện mặt gặp mặt. Bởi đó, có mặt mà thừa thì dằn vặt hơn là vắng mặt mà nhớ.
Vào vị thế của người cha trong câu chuyện, Ðức Kitô mang cả hai tâm trạng đau khổ. Ðau khổ vì một đứa ra đi và khổ đau vì đứa ở lại trong nhà nhưng cõi lòng vẫn là cách xa.
Một cõi lòng xa cách
Xét về bản văn thì phần nói về người con trưởng cũng dài gần một nửa. Chiếm khá nhiều lời, bởi đó, ta có thể lưu tâm, tìm hiểu thái độ người con trưởng dựa vào trình thuật này.
Thái độ đối với cha: Ở trong nhà cha, nhưng anh ta sợ cha và vâng phục trong thái độ của kẻ làm tôi tớ. "Ðã bao năm trời tôi làm tôi ông." Như thế gần cha mà vẫn xa. Mỗi lần bỏ lễ Chúa Nhật, tôi bối rối vì tội. Nếu bối rối này đến vì sợ Chúa phạt chứ không phải tiếc nuối đến từ lòng mến thì Chúa chưa phải là cha. Ðôi khi nhìn vào lề luật, đã chẳng có những lúc thầm nghĩ: "Giả sử mình không có đạo thì đỡ hơn, bây giờ lỡ biết Chúa rồi không dám bỏ." Nếu đời sống đạo của tôi là thế thì tôi phải xin Chúa cho tôi gặp gỡ Ngài vì tôi ở trong nhà Ngài nhưng rất xa Ngài.
Thái độ với tha nhân. Anh ta gọi đứa em của mình là "thằng con của ông" (Lc. 15: 30). Anh ta gạt nó ra khỏi tình nghĩa liên hệ với mình. Làm sao trong Giáo Hội mà tôi có thể tách rời khỏi tha nhân. Khi hai xứ đạo bên cạnh nhau mà một xứ xây nhà thờ nguy nga, một xứ nghèo nàn. Lý luận thông thường là tuỳ ngoại giao của cha xứ, nếu ngài quen biết nhiều thì có nhiều tiền. Dĩ nhiên không thể có sự phân chia đồng đều tuyệt đối, nhưng cứ nhìn vào thực trạng, ta có nhiều dấu chỉ phải suy nghĩ về những mối liên hệ trong cộng đồng nhân loại và Giáo Hội.
**********
Chúa Kitô đợi chờ những tấm lòng thao thức của con cái trong nhà đối với công việc của Người. Người làm công thì không thao thức, và họ chẳng có bổn phận phải thao thức. Tôi nghĩ, một phần vì nền giáo lý lúc còn trẻ, ta không được dạy cho ý thức sâu sa sự thao thức về Giáo Hội. Bởi đó, công việc truyền giáo, người giáo dân Việt Nam không đặt vấn đề suy niệm là bao. Ít khi ta băn khoăn nhìn một ngày mới và hỏi lòng, tôi sẽ làm gì cho Giáo Hội. Ít khi chiều về ta đặt thao thức Giáo Hội của tôi hôm nay thế nào. Có khi nào tôi cảm thấy niềm đau chung với Giáo Hội và hân hoan niềm vui với Giáo Hội không. Sự ít ý thức đó cũng là nguyên nhân phần nào đưa đến cạnh tranh nhau trong công việc tông đồ. Việc tông đồ của mình phải thành công hơn người khác, thậm chí có khi còn hạ người khác xuống. Ngày nào tôi không nghĩ tới Giáo Hội, ngày đó tôi chỉ là khách trọ trong Giáo Hội, hoặc là người làm công mà thôi. Giáo Hội đã bị giáo dục như là một cơ chế quyền bính hơn là nhà của tôi.
*********
Tôi nghĩ thái độ làm công trong nhà của người con trưởng là đề tài rất quan trọng. Tại sao? Ta hãy nhìn lại đoạn văn tả về thái độ "làm tôi tớ trong nhà" của người con trưởng với đoạn văn mà người con thứ nói với cha nó khi nó trở về. Trong các lớp Kinh Thánh, khi tôi đặt câu hỏi: Sau những ngày hoang đàng trở về, người con thứ thưa với cha mình như thế nào? Hầu hết các bạn đã trả lời thế này:
- "Thưa cha, con đã trót phạm tội nghịch với trời và trước mặt cha con không còn đáng gọi là con cha nữa. Xin xử với con như một người làm công của cha thôi" (Lc. 15: 18-19).
Câu trả lời này sai. Ðiều đáng buồn là có người đọc, nghe đoạn Tin Mừng này nhiều lần rồi mà không không biết sai ở chỗ nào. Câu trên đây là dự tính sẽ nói của nó khi nó còn đang phải chăn heo. Nó suy tính phải nói gì đây khi về gặp cha. Và nó đã sáng tác ra câu này. Ðộng lực thúc đẩy nó về là vì đói. Thánh Luca kể rằng "nó hồi tâm lại thấy biết bao người làm công có dư thừa bánh ăn mà nó phải chết đói ở đây. Thôi dậy, tôi về cùng cha tôi" (Lc. 15: 17-18). Vì thế, nó xin cha xử với nó như một người làm công. Ðối với nó câu này mang nhiều ý nghĩa.
Nhưng thật tuyệt vời là câu này lại bị người cha gạt bỏ. Ðối với nó, câu này là sống còn, phải xin cho bằng được làm công. Nếu không, lấy gì mà ăn. Khi gặp cha, nó lặp lại y chang những gì nó đã suy tính lúc còn chăn heo. Nhưng nó vừa nói tới câu "con không còn đáng gọi là con cha nữa", thì cha nó cắt ngang. Ông vội nói với gia nhân: "Mau mau đem áo thượng hạng mà mặc cho nó" (Lc. 15: 21-22). Như vậy là lúc nó thực sự nói với cha thì không có câu "xin xử với con như một người làm công."
Cái ý nhị và sâu thẳm trong đoạn văn, cái tinh tế trong lối viết của Luca là đó. Chúa không muốn nghe ta xin làm tôi tớ trong nhà. Dù có lỗi phạm, ta vẫn là con. Dù có phiêu bạt chân trời nào thì Chúa vẫn là cha. Chúa không đổi bản tính làm con xuống hạng tôi tớ. Im lặng mà lung linh tuyệt vời khi dừng chân nhìn vào ý nghĩa của đoạn văn ấy.
**********
Nhìn thế, ta thấy đoạn văn đó liên hệ chặt chẽ với lời tự thú của người con trưởng: "Ðã bao năm tôi làm tôi ông." Lời này đã bị cha dìm đi, ông không muốn nghe, ông gạt đi khỏi miệng người con thứ, thì nó lại được người con trưởng công bố. Người cha không muốn nghe người con thứ trở về nhà mà xin làm tôi tớ, hẳn ông khổ tâm thế nào khi người con trưởng xử sự với ông như chủ ông và gia nhân. Ðặt hình ảnh người con trưởng liên hệ trong toàn mạch câu chuyện ta thấy rõ hơn chiều sâu trong lối hành văn và nền thần học của Luca, và cái ý nhị của nền tu đức nữa là ta phải đặt một chiều sâu suy niệm với hình ảnh người con trưởng "không đi hoang" cần trở về như thế nào.
*************
Lạy Chúa,
so sánh mình với người khác có khi con thấy người khác cần trở về hơn con. Dấu chỉ con không cần trở về là con còn trong Giáo Hội, còn đi lễ, còn giữ các giới răn, có khi còn giữ chức vụ này nọ trong Giáo Hội. Không biết những lề thói con giữ đó có bảo đảm cho con rằng con gần Chúa không hay chỉ là tâm tình nô lệ. Biết đâu sự trở về của kẻ ở nhà lại cấp bách hơn kẻ đi xa. Nỗi đau khổ của cha vì đứa con thứ bỏ nhà đi chưa chắc đã nặng hơn nỗi khổ tâm do sự có mặt của người con trưởng. Biết đâu kẻ ra đi có nhớ, có thương.
Ðau khổ của nhớ thương là đau khổ buông theo chiều gió. Ðau khổ của có mặt mà thừa là đau khổ không có gió mà buông.
Lm Nguyễn Tầm Thường, SJ
Trích trong "CON BIẾT CON CẦN CHÚA" của tác giả Nguyễn Tầm Thường
Ngày xưa người ta thích gọi dụ ngôn này là dụ ngôn Người con hoang đàng. Nhưng bây giờ: MC 4-C67
Ngày xưa người ta thích gọi dụ ngôn này là dụ ngôn Người con hoang đàng. Nhưng bây giờ, nhiều người không đồng ý như thế. Họ thích gọi dụ ngôn là dụ ngôn Người Cha nhân hậu. Có lẽ cách gọi sau hay hơn cách gọi trước vì, rõ ràng, dụng ý của thánh Luca khi viết dụ ngôn này, đã cho thấy vai trò của Người Cha chủ động trong tình yêu của ông, một tình yêu lớn không thể tưởng, không thể hiểu nổi bởi nó vượt quá sức những gì ta có thể tưởng nghĩ, có thể hiểu được: một tình yêu vĩ đại không gì sánh bằng.
Người cha đó không ai khác hơn là chính Thiên Chúa. Người là Thiên Chúa của tình yêu. Hơn thế, Người là chính tình yêu. Bởi vậy, dù loài người có thể đánh mất, hoặc đã tự mình đánh mất tư cách làm con Thiên Chúa, tự mình vong thân và vuột khỏi tình yêu Thiên Chúa, thì Thiên Chúa vẫn một mực đón nhận loài người. Thiên Chúa vẫn trung thành trong tình yêu của mình. Thiên Chúa chẳng thôi làm cha bao giờ cả. Ngược lại, vẫn mãi mãi là một người Cha cần mẫn, bao dung, tha thứ, từ bi hãi hà…
Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Dù tội lỗi chúng ta có nặng nề tới đâu, thì tình thương của Chúa vẫn cứ sâu nặng, vẫn cứ cao ngất, vẫn cứ mạnh mẽ, không có bất cứ một chướng ngại nào có thể cản trở.
Dù chúng ta có tự tách mình đi xa tình yêu Thiên Chúa tới mức độ nào, Thiên Chúa vẫn không ngừng kiên nhẫn chờ đợi để tha thứ và thông chia cho ta chính sự sống của Người, miễn là ta biết nhìn nhận tội lỗi và thành tâm sám hối quay trở về với Người.
Trở về với Chúa là nhìn nhận mình tội lỗi và quyết tâm chừa tội, quyết tâm thay đổi đời sống. Đứa con hoang đàng, sau khi đã nếm đủ mọi mùi vị đắng cay, đói khổ, cả đến nhục nhã: thấp hơn loài heo, bởi chỉ “muốn ăn đồ heo ăn mà cũng chẳng ai cho”, đã tự nhủ: "Tôi muốn trở về với cha tôi". Sau cùng, anh ta đã đứng lên, trở về thật, dù sự trở về của anh không hề vì tình yêu của cha, mà chỉ vì mình, chỉ vì bụng đói. Vậy mà người cha bất kể anh trở về với ông vì lý do gì, miễn là anh trở về, và đứng trước mặt ông là đủ để ông tha thứ tất cả, quên tất cả lỗi lầm của con ông. Lòng nhân từ của ông không thể có bất cứ điều gì sqa1nh ví được.
Chúng ta cũng vậy. Hãy trở về với Chúa để đón nhận lòng nhân từ vô biên của Người. Thiên Chúa chờ đợi chúng ta, đón tiếp chúng ta, quên tất cả, và quên một cách hết sức nhanh chóng tất cả những gì trong quá khứ chúng ta lỗi phạm. Người tha thứ cho chúng ta vô điều kiện. Tình yêu thương, lòng tha thứ đại lượng của Thiên Chúa, đó là những điểm then chốt của bí tích hòa giải, bí tích mà Hội Thánh tha thiết kêu nài chúng ta hãy lãnh nhận trong Mùa Chay này.
Trong mùa Chay, Hội Thánh mời gọi ta trở về với Chúa và trở nên giống Thiên Chúa. Hội Thánh dạy ta hãy để cho tình yêu của Chúa ngự trị trên cuộc đời mình, và hãy tin tưởng ngã vào tình yêu của Người. Bởi đó, dụ ngôn trên được gọi là dụ ngôn Người Cha nhân hậu lại càng ý nghĩa hơn, có sức mời gọi ta mạnh hơn, tích cực hơn, giúp ta hiểu rằng, khi ta trở về với Chúa, trước hết, là do tình yêu của Chúa, nại vào tình Chúa yêu ta, chứ không phải tự bản thân ta. Bởi nếu ta có cố gắng vươn lên, thì đó cũng chỉ là nỗ lực cộng tác của ta vào tình yêu của Chúa mà thôi. Chính Chúa là Đấng đoái nhìn đến ta, chủ động yêu thương và tha thứ cho ta. Ước gì mỗi người chúng ta biết hồi tâm sám hối, biết lãnh nhận niềm vui được tha thứ, được Chúa ôm ấp trong cánh tay nhân từ của Người, bởi Người là tình yêu, là suối nguồn bình an muôn đời của loài người chúng ta. Tất cả chúng ta hãy sống và luôn luôn tâm niệm lời của người con hoang đàng: “Tôi muốn trở về với cha tôi”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tin tưởng phó thác tuyệt đối vào tình yêu của Chúa. Chúng con biết, nhiều lần, chúng con cũng giống như người con hoang đàng bỏ Chúa mà ra đi theo thế gian, theo tiếng gọi của cám dỗ. Xin tha thứ cho chúng con. Xin uốn nắn lòng chúng con, để từ đây, nhất là trong mùa Chay thánh này, chúng con làm lại những gì đã đánh mất và xứng đáng hơn với tình yêu vô bờ của Chúa. Chúa là Cha nhân từ. Chúng con muốn trở về với Cha chúng con. Amen.
Đại văn hào người Anh, Charles Dickens, xem dụ ngôn “người cha nhân hậu” là câu chuyện: MC 4-C68
Đại văn hào người Anh, Charles Dickens, xem dụ ngôn “người cha nhân hậu” là câu chuyện hay nhất, là hạt ngọc đẹp nhất của Tin Mừng.
Tình thương của cha đối với hai con, nổi bật nơi người con thứ.
Người con thứ
Người con thứ đòi Cha chia gia tài rồi bỏ đi vô tình, rời khỏi ngôi nhà, nơi mình sinh ra, nơi mình được nuôi dưỡng và lớn lên. Trẩy đi miền xa, người trai trẻ mang nỗi khát khao mãnh liệt là ra khỏi luỹ tre làng, muốn nhìn xem thế giới mới lạ bên ngoài, thích miền xa hơn là gần gũi quê nhà.
Người con thứ bỏ nhà ra đi với tiền bạc và lòng kiêu ngạo, quyết sống riêng khỏi gia đình và cộng đoàn. Anh ta ra đi không phải để học hành, tìm việc làm mà là ăn chơi đàng điếm, phung phí hết tài sản, sức khoẻ, bất kể đó là mồ hôi nước mắt của cha mẹ, bất chấp tiếng tốt của gia đình. Chơi bời nên mau chóng suy sụp. Anh ta trở nên hèn hạ khi đi chăn heo và muốn ăn thức ăn của heo. Heo là con vật người Do thái ghê tởm.
Khi trở về chẳng còn gì: tiền bạc, sức khoẻ, danh giá, lòng tự trọng... mọi thứ đã bị tiêu xài hoang phí. Anh ta chỉ còn lại một điều duy nhất là “đứa con nhỏ của cha nó”.
Động lực nào đã khiến nó trở về ? Thánh Lu-ca viết rõ: “Hồi tâm lại, nó nói: biết bao người làm công cho Cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây ! Thôi, đứng lên, tôi sẽ về cùng Cha tôi”. Như vậy động lực nó trở về là đói, vì miếng ăn. Trước khi bị đói chắc chắn nó không bao giờ nhớ đến Cha, không bao giờ sám hối vì bỏ Cha ra đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về mái ấm gia đình, nơi còn có Cha già chẳng biết đau yếu ra sao, không thấy tiếc nuối vì phá tan cả sự nghiệp của Cha. Khi bị cơn đói hành hạ, phải đi chăn heo, nó mới băn khoăn tìm đường về. Cái hồi tâm, cái băn khoăn của nó là làm sao để được ăn. Nó dự tính nói với Cha là nó trót phạm lỗi nghịch với trời, nó không còn đáng gọi là con, nó chỉ xin được đối xử như người làm công.
Đó phải chăng là một cuộc trở về trọn vẹn ? Đó là cuộc lên đường được thúc đẩy bởi lòng sám hối hay sao ? Sự thống hối của nó chỉ là vị kỷ nhằm khả năng có thể sống sót thôi.
Nếu người con thứ thành công xây dựng cơ nghiệp, có lẽ sẽ không hiểu được tình Cha. Vì nếm mùi thất bại chua chát của cuộc đời nên nó lên đường trở về. Nó không đủ can đảm đi làm người ăn xin, nó không đủ liều mạng để đi trộm cướp, nó không dám đánh đổi cả cuộc đời để gây tiếng xấu. Nó sống bằng nghề lương thiện là đi chăn heo, sống bằng sức lao động của mình. Từ kinh nghiệm của vực thẳm này, nó mới hiểu được mặt trái cuộc đời. Đó không là chốn nương thân cho kẻ nghèo khổ, không là chỗ hạnh phúc cho kẻ khố rách áo ôm, không là chỗ cho kẻ cô thân cô thế. Vì vậy chỉ còn một con đường duy nhất là trở về xin tha thứ và làm công cho Cha để có cơm ăn áo mặc.
Tất cả ý nghĩa của cuộc trở về được diễn tả cách cô đọng trong những lời “Cha ơi... con không đáng gọi là con Cha nữa”.
Giu-đa đã phản bội Chúa, Phê-rô đã chối Chúa. Cả hai đều đánh mất tình con cái. Giu-đa không còn tiếp tục tin tưởng mình vẫn là con Chúa, không tin vào lòng tha thứ của Chúa nên đã đi thắt cổ tự vẫn. Còn Phê-rô khi ở giữa sự tuyệt vọng đã muốn nối lại tình Cha con với những giòng nước mắt thống hối. Giu-đa chọn cái chết. Phê-rô chọn sự sống.
Đọc câu chuyện, thấy sự trở về của người con thứ chẳng phải là mẫu mực. Sự trở về lý tưởng phải là sự trở về của lòng sám hối với tình yêu tha thiết. Nhưng trong thực tế cuộc sống, khi ngồi giải tội có nhiều hối nhân sau 5 năm, 10 năm thậm chí đến 20 năm, 30 năm mới trở về cùng Chúa. Mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau. Những bầm dập của của cuộc đời, những gian truân vất vả, những thất bại chua chát... đã cho họ rút kinh nghiệm là cần trở về với Chúa, nguồn mạch của bình an nội tâm, của niềm vui và hạnh phúc. Chính Chúa đã yêu thương, đã tác động và một khi nào đó như Chúa muốn họ trở về cùng Ngài. Như thế họ đã chọn lấy sự sống. Gặp gỡ nhiều người như thế, tôi cảm thông với người con thứ.
Người con cả
Hiếu thảo, vâng phục cha, không đi hoang, không ăn chơi. Con người lao động cần cù có tinh thần trách nhiệm, không rượu chè trác táng, chỉ lo ruộng rẫy nương vườn. Anh là con người mẫu mực. Thế nhưng, biến cố đứa em trở về đã bộc lộ con người thật của anh. Tuy ở trong nhà cha nhưng lại xa trái tim cha. Tại sao cha đãi tiệc bê béo cho thằng em bất hiếu, còn anh một con bê nhỏ để vui với bạn bè cũng không có. Anh tức giận vì thấy quyền lợi bị xúc phạm. Anh chẳng chịu vào nhà. Hoá ra cả hai người con vừa khác lại vừa giống nhau. Cả hai đều ở ngoài nhà cha. Con thứ không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi. Con cả không chia sẽ được hạnh phúc của cha nên không vào nhà. Anh thiếu bao dung và thiếu sự tha thứ cho em. Thái độ của người con cả là thái độ tiêu biểu của người biệt phái, luật sĩ hôm qua và hôm nay. Ích kỷ cho quyền lợi riêng mình. Tự mãn về cách giữ luật “con không hề trái lệnh cha một điều nào”, tự hào về cách sống đạo “không như thằng con của cha” Chỉ muốn kẻ lỗi lầm không được cứu thoát mà phải chết.
Lúc sự giận dữ bùng nổ đến cực điểm, anh cả gặp lại tình cha. Cha đi ra năn nỉ, anh chẳng chịu nghe. Cha bộc bạch tâm tình với anh: con ơi, mọi sự của cha đều là của con, chúng ta phải ăn mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Lời cha làm anh bàng hoàng xúc động vì anh hiều rằng mình quá ích kỷ, quá nhỏ mọn. Cái ích kỷ làm anh tẩy chay sự trở về củađöa em. Cái nhỏ mọn làm anh làm anh xua tan lòng bao dung của cha. Tình cha lớn hơn cuộc đời anh, lớn hơn tính ích kỷ trong anh.
Hình ảnh người con cả thật gần với chúng ta. Phụng dưỡng cha mẹ với trách nhiệm, chứ chưa phải là tình thương. Không chia sẻ nổi buồn, nỗi khổ tâm, nỗi âu lo của cha mẹ. Chỉ biết than trách và đòi quyền lợi cho mình thật nhiều. Ghen tị, chỉ trích phê bình, đặt mình là tiêu chuẩn cho mọi việc đạo đức. Thiếu lòng bao dung, không chịu tha thứ. Hình ảnh đó thật giống tinh thần biệt phái, có đạo mà không có đức.
Cả hai người con cần phải trở về. Sám hối chính là trở về với tình cha, trở lại với tình yêu, tìm lại niềm vui và sự sống.
Người cha
Khi chia gia tài cho con lòng cha đau đớn. Vì tôn trọng tự do của con chứ không phải cha nhu nhược. Ngày nhìn con ra đi, bóng nó nhạt dần cuối chân trời như cánh chim bay, lòng cha thấy trống trải, muộn phiền vì thiếu vắng hình bóng con. Ngày ngày cha ngóng trông đợi con trở về. Thế rồi một ngày kia, đứa con trở về thật. Nó về trong dáng vẻ thất bại thảm hại, thất thểu rách nát. Thua cuộc đời nó về làm dấy lên những lời bình phẩm của làng xóm. Giả như nó không về, người ta sẽ lãng quên. Nay nó trở về nhắc cho bà con làng xóm thấy sự thất bại của gia đình ông. Con ông về trong thất bại chua cay là câu chuyện đám tiếu đầu làng cuối xóm. Vậy mà ông mở tiệc ăn mừng. Thật lạ lùng !
Ở đời, khi con thi đậu đại học, khi con công thành danh toại vinh quy bái tổ, khi con là Việt kiều về thăm, cha mẹ mở tiệc ăn mừng, mời bà con làng xóm đến chia vui. Người ta thường dấu kín chuyện thất bại của con cái, người ta mắc cỡ không dám kể về đứa con bất hiếu, ngổ nghịch, ăn chơi đàng điếm. Người ta chỉ khoe đứa con ngoan, tự hào đứa con học hành thành đạt, vui mừng khi con có việc làm có sự nghiệp. Thế mà, người cha lại mở tiệc lớn. Mừng đứa con trở về thất bại tả tơi. Khách mời ngỡ ngàng khi chủ nhà giới thiệu con ông về nhà sau những ngày chăn heo đói khổ. Thế nhưng, người hiểu tình yêu là gì, tình phụ tử là gì thì thông cảm và chia vui với người cha. Cha đã tha thứ cho con trước khi con tự thú. Cha vui “vì đứa con đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm thấy”.
Dung mạo người cha đó, chính là Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương. Thái độ người cha đối với hai đứa con là thái độ của Thiên Chúa đối với con người. Trong trái tim Thiên Chúa chỉ có tình thương. Người không có trí nhớ về tội lỗi con người.
Cha yêu con dù con hư hỏng, bất trung. Cha yêu con không vì con ngoan được việc, cha yêu con chỉ vì con là con. Cha không muốn mất một đứa con nào. Thiên Chúa của Đức Giê-su mạc khải là người cha nhân hậu, hiền từ, bao dung, hay tha thứ.
Hành trình thiêng liêng Mùa Chay, cả hai người con trong dụ ngôn đều có mặt trong mỗi con người chúng ta. Nhiều lần ta nghe theo cơn cám dỗ của thế gian xác thịt mà nên hoang đàng, hoang phí, gặp thất bại đau khổ mới hối hận trở về với Chúa. Nhiều lần ta là con cả tưởng mình đạo đức mà lên án tẩy chay người khác. Cần trở về với Cha, về với Thiên Chúa luôn mở rộng vòng tay đón chờ.
Anh tìm thấy chính mình rồi đánh mất
Giống như tóc thề em nuôi rồi lại cắt
Lầm lỗi thay tên bằng lãng quên
Nhưng sám hối đâu chỉ cần cúi mặt ( thơ Freddie Nguyễn )
Vâng. Lầm lỗi vẫn thay tên bằng lãng quên; và, sám hối có đâu chỉ cần cúi mặt. Bởi, lầm: MC 4-C69
Vâng. Lầm lỗi vẫn thay tên bằng lãng quên; và, sám hối có đâu chỉ cần cúi mặt. Bởi, lầm lỗi dù có thay tên bằng gì đi nữa, thì đời người vẫn cứ tít mù trong vòng quay biền biệt, một chân trời. Thứ chân trời luôn mời gọi con người hãy sám hối vàđoi thay, như Tin Mừng Chúa dặn.
Tin Mừng hôm nay, dặn dò khá kỹ về trường hợp “người con đi hoang”, rất lầm lỗi. Và, Cha Nhân Hiền vẫn chờ đợi “người con đi hoang” trở về, để sẵn sàng tha thứ trong vui mừng. Mừng vui vì người con yêu vốn đã chết đi, nay sống lại. Sống lại giữa Mùa Chay, gợi ý sám hối.
Trình thuật hôm nay, không chỉ diễn tả một sám hối với những tiếc nuối và hận sầu. Nhưng, còn nói lên tình huống sám hối có đổi thay, ngay căn tính. Ngay trong phong cách ta hành xử và nhìn về Đức Chúa, về con người. Về sự vật. Và, trình thuật kêu mời mọi người tái sắp xếp tương quan trong hành xử với Đức Chúa. Với mọi người. Với chính mình. Đổi thay – sắp xếp, mang tính triệt để, rất căn tính. Đem đến những hoán cải cả đời người.
Nhiều người những tưởng rằng: cứ ăn năn hối lỗi theo chiều hướng trang nghiêm, trầm lặng của Mùa Chay, là đã đủ. Nhưng suy cho kỹ, ta thấy rằng: ăn năn hối lỗi vào Mùa Chay không chỉ gồm mỗi cởi bỏ những sai sót trong quá khứ và có những quyết tâm trong lai thời, mà thôi. Nhưng, còn phải chú tâm vào hiện tại đượm thắm tình người nữa.
Chẳng cần tranh cãi, đọc Tin Mừng về “người con đi hoang”, ta sẽ thấy lối hành xử đầy nhức nhối của người con thứ, rất sa đà. Và, bức xúc. Với người Do thái thời Đức Ki-tô, đó là tình huống ghê tởm và hoang dại. Tình huống, nói lên một đối chọi giữa tính Nhân Hiền của Cha và sự bê tha của người con thứ sa đà, xuống cấp.
Tin Mừng về “người con đi hoang”, còn đề cập đến tính cách sa đà đáng sợ của các người con “đã tìm thấy chính mình rồi đánh mất”. Là con của Cha Nhân Hiền, ta cứ hết “lầm lỗi rồi lại lãng quên”. Quên xong, rồi lại sám hối. Lầm lỗi – lãng quên – sám hối, biến thành vòng quay tít mù, cả đời người.
Trình thuật “người con lầm lỗi và lãng quên” cũng nói lên tính Nhân hiền của Cha. Cha Nhân Hiền chẳng bận tâm gì đến lãng quên, của đàn con khi đã biết sám hối. Biết đổi thay. Cha chỉ quan tâm đến thái độ sám hối cùng đổi mới của đàn con trên trời. Nói cách khác, Cha quan tâm đến thái độ hồi hướng trở về của đàn con biết sám hối. Tức, đã biết “thay tên lầm lỗi, lãng quên” bằng đổi mới.
Cha Nhân Hiền không trách móc đàn con của Cha đã lầm lỡ và sai sót. Nhưng, Cha vẫnđöng nơi cửa, mong mỏi từng giờ, chờ đón ngày con hồi hướng, trở về. Rồi, khi con trở về, Cha vẫn không hạch sách, gạn hỏi. Nhưng, rất kiên nhẫn. Rất mừng rỡ, khi thấy bóng dáng con nơi đầu ngõ, Cha chạy đến giang tay đón nhận con nay trở về.
Con trở về, không do uy lực bên ngoài thôi thúc. Không còn sự hiện diện của ác thần sự dữ, làm chứng nhân. Con trở về, Cha chẳng cần bảo hối thúc gia nhân lùng tìm, hoặc cưỡng bức. Nhưng, Cha vẫn trông chờ nơi con, một quyết định. Quyết khởi đầu hành trình hồi hướng, với những đổi mới trong tin-yêu, hoan lạc.
Phần Cha, khi nhìn con hồi hướng trở về, Cha chạy vội về phía trước đón con vào vòng tay ôm, đang chờ sẵn. Cha không lên lớp. Chẳng rầy la. Chỉ truyền cho gia nhân bưng mang đồ quý, đến mừng với Cha. Mừng cho tình yêu đã chết, nay quay về. Rồi từ đó, tình Cha được tiếp nối bằng nhiều tha thứ. Tha thứ rất chân tình.
Chân tình, nhưng không cao ngạo như những người tưởng rằng mình đã sống tử tế. Sống đúng tư cách bậc kẻ cả, rất đàn anh. Của những kẻ tự hào là người tử tế. Chính vì thế, kẻ đàn anh vẫn không đon đả chào mừng người em thân yêu nay quay đầu hồi thướng. Không đon đả, vì anh còn giận dữ. Còn ghen tương, còn hờn giận. Người anh-tử-tế nhưng vẫn không tỏ dấu đon đả chào đón. Không đón chào, vì anh vẫn không thừa nhận phong cách tử tế dành cho những kẻ xấu, dù là em. Với anh, không thể tỏ bày sự tử tế với những người đã một lần sa đà, phóng đãng.
Chính điều này đã phản chống tính nhân hiền đầy lòng tha thứ của Cha. Bản tính của Cha Nhân Hiền vẫn là thế. Vẫn yêu thương hết mực. Vẫn thứ tha hết lòng. Yêu thương – tha thứ, đã trở thành đặc thù của Cha, ngay từ đầu. Làm Cha, tức đã nhân hiền đầy nghĩa yêu thương, với tha thứ.
Thành thử, như đã nói: Cha chẳng quan tâm đến quá khứ lẫn vị lai, của mọi người con. Chí ít, người đó lại là con. Cha chú trọng nhiều đến tương quan giữa các con với Thiên Chúa. Ở đây. Và bây giờ. Tương quan yêu thương – tha thứ là tương quan rất mực giữa đàn con với Đức Chúa là Cha Nhân Hiền. Tương quan ấy không là biểu đồ dẫn chứng rằng mình đã từng hãm mình, phạt xác vào Mùa Chay. Tương quan ấy cũng không dựa trên biểu đồ chứng thực rằng mình là người công chính tốt bụng từng đọc kinh, xưng tội nhiều lần, đếm không hết. Tương quan rất mực với Cha Nhân Hiền, chỉ có thể minh xác qua các kinh nghiệm thứ tha, tỏ bày với những người em, người con từng lầm lỗi. Cả với người xa lạ, ngoài nhà Đạo. Tương quan yêu thương – hòa giải, là tương quan biết thứ tha hài hòa với những người từng khổ đau, gặp nhiều xung đột nơi cuộc đời. Ở trần thế.
Trình thuật hôm nay, không chỉ đề cao tương quan nhân hiền biết yêu thương – tha thứđon nhận người em, người con đã đi hoang nay trở về với vòng tay ôm của Đức Chúa. Nhưng, còn là thách thức gửi đến người nghe: hãy biết bảo vệ quyền lợi của kẻ bơ vơ, bị người đời ruồng bỏ. Biết bảo vệ, kẻ lầm lỗi công khai, ở ngoài đời. Biết bảo vệ, người “lầm lỗi thay tên bằng quên lãng”, đã thua cuộc. Những người loanh quanh đâu đó, kiếm tìm bàn tay đỡ nâng từ người anh, người chị, ở khắp nơi. Có tương quan yêu thương – tha thứ là bảo vệ cả những người “đã tìm thấy chính mình, rồi đánh mất”. Những người từng “lầm lỗi thay tên bằng lãng quên”. Người chiến bại trong phấn đấu, chống sự dữ ác thần, mùa Sám hối.
Sám hối Mùa Chay, không chỉ xảy ra nơi tiệc thánh, mỗi tuần. “Sám hối Mùa Chay”, là biết mở rộng vòng tay ôm vồn vã, với tất cả mọi người, từ người nghèo hèn tật bệnh, cho chí những người khổ đau, cô đơn. Sám hối Mùa Chay, là biết mở rộng vòng tay, để sống đời đổi mới, mà ý hướng dụ ngôn “người con đi hoang” hôm nay đã đề nghị.
Tham dự tiệc thánh hôm nay, ta cầu mong sao Tin Mừng giúp ta quyết định, phải sám hối. Quyết sám hối đổi thay, mà “chẳng cần cúi mặt”. Nhất định giùm giúp, đỡ nâng từng người “thay tên lầm lỗi bằng lãng quên”. Cầu và mong sao ta tìm lại được chính mình, dù đã nhiều lần để mất. Mất tự tin. Mất hy vọng vào Cha Nhân Hiền, Đấng hằng tựa cửa ngóng chờ ngày ta hồi hướng, trở về.
Trong ngóng đợi ngày “N” ấy, ta tiếp tục hân hoan mong ngóng hết mọi người, từ xa lạ đến thân quen. Hân hoan, để rồi ta sẽ cùng hát lên lời ca đầy phấn chấn, rằng:
Hy vọng đã vươn lên trên bàn tay trên mặt mày Hy vọng đã vươn lên trong tim người không bối rối Hy vọng đã vươn lên chân nhịp nhàng còn đi tới Hy vọng đã vươn dậy trong lòng anh Trong lòng tôi Trong lòng đi. ( Nguyễn Đức Quang – Hy vọng đã vươn lên )
Vâng, Mùa Chay là mùa sám hối, nhưng vẫn hy vọng. Hy vọng vào một đổi mới. Đổi mớiđe tìm lại chính mình. Tìm được tình Cha Nhân HIền đang trông ngóng đàn con hồi hướng trở về, trong yêu thương. Trong tha thứ. Tha thứ, cho những “lầm lỗi thay tên bằng lãng quên”.
Trong ngày 8/3, vừa qua, tôi đọc được một câu chuyện nói về tình mẹ rất hay, xin được chia: MC 4-C70
Trong ngày 8/3, vừa qua, tôi đọc được một câu chuyện nói về tình mẹ rất hay, xin được chia sẻ với quý ông bà và anh chị em. Đây là một câu chuyện của một người bạn trẻ ở Malaysia.
Suốt đời thơ ấu và cả khi lớn lên, lúc nào tôi cũng ghét mẹ tôi. Lý do chính có lẽ là bà chỉ có một con mắt. Bà là đầu đề để bạn bè trong lớp chế giễu, châm chọc tôi.
Mẹ tôi làm nghề nấu ăn để nuôi tôi ăn học. Một lần bà đến trường để kiếm tôi làm tôi phát ngượng. Sao bà lại có thể làm như thế đối với tôi ? Tôi lơ bà đi và ném cho bà một cái nhìn đầy căm ghét rồi chạy biến. Ngày hôm sau, một trong những đứa bạn học trong lớp la lên:
- Ê, tao thấy rồi. Mẹ mày chỉ có một mắt !
Tôi xấu hổ chỉ muốn chôn mình xuống đất. Tôi chỉ muốn bà biến mất khỏi cuộc đời tôi. Ngày hôm đó, đi học về tôi nói thẳng với bà:
- Mẹ chỉ muốn biến con thành trò cười !
Mẹ tôi không nói gì. Còn tôi, tôi chẳng để ý gì đến những lời nói xúc phạm đó, vì lúc ấy trong lòng tôi tràn đầy giận dữ. Tôi chẳng để ý gì đến cảm xúc của mẹ. Tôi chỉ muốn thoát khỏi nhà. Không còn liên hệ gì đến mẹ tôi. Vì thế tôi cố gắng học thật chăm chỉ, và sau cùng, tôi có được một học bổng để đi học ở Singapore. Sau đó, tôi lập gia đình, mua nhà và có mấy đứa con. Vợ tôi là con nhà gia thế, tôi giấu nàng về bà mẹ của mình, chỉ nói mình mồ côi từ thuở nhỏ. Tôi hài lòng với cuộc sống, với vợ con và những tiện nghi vật chất tôi có được ở Singapore. Tôi mua cho mẹ tôi một căn nhà nhỏ, thỉnh thoảng lén vợ gởi một ít tiền về biếu bà, tự nhủ thế là đầy đủ bổn phận. Tôi buộc mẹ không được liên hệ gì với tôi.
Một ngày kia, mẹ bất chợt đến thăm. Nhiều năm rồi bà không gặp tôi, thậm chí bà cũng chưa bao giờ nhìn thấy các cháu. Khi thấy một bà già trông có vẻ lam lũ, đứng trước cửa, mấy đứa con tôi có đứa cười nhạo, có đứa hoảng sợ. Tôi vừa giận, vừa lo vợ tôi biết chuyện nên hét lên:
- Sao bà dám đến đây làm cho con tôi sợ thế ? Đi khỏi đây ngay ! Mẹ tôi chỉ nhỏ nhẹ trả lời:
- Ồ tôi xin lỗi, tôi nhầm địa chỉ ! Và lặng lẽ quay đi.
Tôi không thèm liên lạc với bà trong suốt một thời gian dài. Hồi nhỏ, mẹ làm cho chúng bạn trên chọc tôi nhục nhã. Bây giờ mẹ còn định phá hỏng cuộc sống đang có của con sao ? Một hôm, tôi nhận được một lá thư mời họp mặt của trường cũ gởi đến tận nhà. Tôi nói dối vợ là phải đi công tác. Sau buổi họp mặt, tôi ghé qua nhà của mẹ, vì tò mò hơn là muốn thăm mẹ. Mấy người hàng xóm nói rằng mẹ tôi đã mất vài ngày trước đó và do không có thân nhân, sở an ninh xã hội đã lo mai táng chu đáo. Tôi không nhỏ lấy được một giọt nước mắt. Họ trao lại cho tôi một lá thư mẹ để lại cho tôi, thư viết:
“Con yêu quý,
Lúc nào mẹ cũng nghĩ đến con. Mẹ xin lỗi về việc đã dám qua Singapore bất ngờ là cho các cháu phải sợ hãi. Mẹ rất vui khi nghe nói con sắp về trường tham dự buổi họp mặt, nhưng mẹ sợ mẹ không bước nổi ra giường để đến đó nhìn con. Mẹ ân hận vì đã làm con xấu hổ với bạn bè trong suốt thời gian con đi học ở đây.
Con biết không, hồi con còn nhỏ xíu, con bị tai nạn làm hỏng mất một bên mắt. Mẹ không thể ngồi nhìn con lớn lên mà chỉ có một mắt, nên mẹ đã cho con con mắt của mẹ. Mẹ đã bán tất cả những gì mẹ có để bác sĩ có thể thay mắt cho con, nhưng chưa bao giờ mẹ hối hận về việc đó. Mẹ rất hãnh diện vì con đã nên người, và mẹ kiêu hãnh vì những gì mẹ đã làm được cho con.
Con đã nhìn thấy cả thế giới mới, bằng con mắt của mẹ, thay cho mẹ. Mẹ yêu con lắm.
Mẹ…”.
Tôi không biết sau đó người con này đã làm gì, nhưng khi đọc qua câu chuyện này tôi cảm nhận được 2 điều: tình yêu của người mẹ này thật bao la. Và ngược lại là sự vô tâm, đến bội bạc của người con.
Và câu chuyện này phần nào cho thấy được mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.
1. Tình yêu của Thiên Chúa:
Bà mẹ này đã yêu con mình đến nỗi cho con cả con mắt và bán tất cả những gì mình có để chạy chữa cho con. Còn Thiên Chúa thì đã ban cho chúng ta Người Con Một duy nhất của Ngài, và chính Người Con Một đó cũng đã sẵn lòng chết trên thập giá để chuộc tội thay cho chúng ta như lời thánh Phao-lô trong bài đọc hai: “Đức Ki-tô,... Đấng không hề biết tội, thì Thiên Chúa làm nên thân tội vì chúng ta, để trong Ngài, chúng ta trở nên sự công chính của Thiên Chúa”.
Mặc cho sự vô tâm và những lời nói xúc phạm của người con, thì người mẹ trong câu chuyện nói trên vẫn tiếp tục yêu con. Lời cuối cùng của bà trong bức thư để lại cho con là: “Mẹ yêu con lắm”. Còn tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta thì còn lớn hơn nữa. Tình yêu ấy được Chúa Giê-su minh họa qua hình ảnh của người cha nhân hậu trong bài Tin Mừng. Người cha ấy sẵn sàng chia cho người con thứ nửa gia tài của ông. Và người con ấy sau khi đã phung phí hết tài sản của ông, trở về nhà với “thân tàn ma dại” và mở lời xin ông chấp nhận anh ta như một người làm công, thì thái độ của người cha là gì ?
Thưa: Ông chẳng nghe gì cả. Ông cũng chẳng nhớ gì cả. Ông chẳng nhớ đến số tài sản mà anh ta đã phung phí. Ông cũng chẳng nhớ gì đến sự ngạo mạn của anh ta khi ra đi khỏi nhà. Hình như tình yêu con đã làm cho ông trở nên “mù quáng”. Trước mắt của người cha, chỉ là một người con đáng thương đã trở về. Và đối với ông thế là đủ. Ông không cần nghe lời phân trần của người con. Ông sai bảo đầy tớ lấy áo mới, giày mới và xỏ cả nhẫn vào tay của anh tay như một bảo chứng cho mọi người biết rằng: anh ta không phải là đầy tớ, nhưng là một người con trong gia đình. Ông còn bảo mọi người giết bê béo để ăn mừng ngày trở về của đứa con mà theo cách nhìn của chúng ta là “phá gia chi tử”.
Đó là tình yêu của Thiên Chúa, còn thái độ của chúng ta là gì ?
2. Thái độ vô tâm của con người:
Trở lại với câu chuyện ở đầu bài chia sẻ, có lẽ nhiều người trong chúng ta thầm trách người con khi anh ta xấu hổ vì người mẹ một mắt của mình. Chúng ta trách anh ta đã vô tâm trước những cảm xúc và tình yêu mà người mẹ đã dành cho anh. Một sự vô tâm đến mức bất nghĩa, bất hiếu đối với mẹ mình. Trách người con này, nhưng nếu nhìn lại mình, tôi và quý ông bà anh chị em đã đối xử thế nào với tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho chúng ta ?
Chúa Giê-su đã chết vì chúng ta và qua các bí tích trong Hội Thánh, Ngài vẫn tiếp tục chờ đợi để ban cho chúng ta hết ơn này đến ơn khác. Vậy mà thái độ của tôi và của quý ông bà và anh chị em là gì ? Phải chăng, chỉ đơn giản là một sự vô tâm ? Có lẽ còn hơn thế, đúng hơn là một sự bội bạc. Lắm khi chúng ta tự nghĩ theo đạo làm gì cho mất công, mệt mỏi: Ngày Chúa Nhật phải đi lễ, rồi còn phải sống công chính, không được ăn gian, nói dối, mất đi nhiều cơ hội để thăng tiến ngoài xã hội. Thậm chí, chúng ta còn xấu hổ không dám tuyên xưng rằng mình là một ki-tô hữu trước mặt người khác khi không dám làm dấu trước bữa ăn nơi công cộng, bỏ qua không khai phần tôn giáo trong các bản lý lịch.
Nếu chúng ta kết án người con đã bất hiếu khi buộc mẹ không được liên hệ với anh ta, thì chúng ta nghĩ gì khi bản thân chúng ta từ chối các giáo huấn của Tin Mừng, của Mẹ Giáo Hội ? Đó chẳng phải là chúng ta cũng đang cắt đứt mọi liên hệ với Thiên Chúa, với Mẹ Giáo Hội của chúng ta sao ?
Vâng, thái độ vô tâm của chúng ta nếu kể ra chắc có lẽ không bao giờ cùng và cũng chẳng bao giờ hết. Do đó, điều mà tôi và quý ông bà và anh chị em cần làm là nghe theo lời của thánh Phao-lô: “Chúng tôi van nài anh em hãy giao hòa với Thiên Chúa”. Lời van nài này của thánh Phao-lô được gởi đến cho từng người chúng ta, cho tôi, cho quý ông bà và anh chị em. Thánh nhân van nài chúng ta đến giao hòa với Thiên Chúa, cụ thể, chúng ta hãy đến với tòa cáo giải. Nơi đó, có một người Cha nhân hậu đang giang tay chờ đón từng người chúng ta đến để ôm ấp, để yêu thương. Vậy còn chờ gì nữa, xin mời quý ông bà và anh chị em hãy đến để tận hưởng tình yêu đó. Và đó chính là niềm vui mà mẹ Giáo Hội muốn nhắn gởi đến từng người chúng ta trong Chúa Nhật Hồng giữa mùa Tím này. Amen.
Lạy Chúa, hôm nay con quay về ăn năn thống hối cho những giây phút con không chấp nhận lỗi lầm của con...
Theo như Luca, tại một thành phố kia có một người cha có hai người con trai. Người con:MC 4-C71
Theo như Luca, tại một thành phố kia có một người cha có hai người con trai. Người con trai thứ một hôm đến đòi chia gia tài. Trước yêu cầu của người con, ông bố yên lặng chia hết phần tài sản thuộc về cậu cho người con. Hoang đàng lấy phần sản nghiệp của mình, rồi bỏ đi lang thang. Cuối cùng phần gia sản được chia cũng tan biến theo mây theo khói. Không may cho hoang đàng, vào đúng ngay lúc đó, thiên tai kéo tới thành phố. Thế là hoang đàng đói! Đói! Hoang đàng phải đi chăn heo. Đói! Hoang đàng muốn lấy thức ăn của heo ăn. Nhưng rất tiếc cũng chẳng ai cho. Cuối cùng hoang đàng quyết định quay về nhà (Luca 15:11-32).
I. Khái niệm Chấp Nhận
Câu chuyện Người Con Hoang Đàng là một câu chuyện nổi tiếng. Gần như ai cũng biết, nhưng có lẽ có một số người không để ý đến một số chi tiết liên quan đến khái niệm Chấp Nhận được trình bày trong câu chuyện. Theo như thánh sử Luca, trong tình trạng gần chết đói, người con thứ cất tiếng trách mắng chính mình,
— Biết bao nhiêu là người làm công cho cha tôi có dư thừa bánh ăn, mà ở đây tôi lại đang chết đói (Luca 15:17).
Vào giây phút đó, người thanh niên không đổ lỗi cho bất cứ ai cho tình trạng cùng đường của mình, bởi cậu biết không ai ép buộc cậu phải cất bước ra đi. Khi trách mắng mình, người con hoang đàng chấp nhận mình là người gây ra lỗi lầm, đây cũng chính là giai đoạn thứ nhất của Mô Hình Chấp Nhận. (1)
Sau đó, người con thứ tiếp tục nói,
— Tôi sẽ quay về nhà cha tôi. Tôi sẽ nói với người, “Thưa cha, con đã phạm tội đến trời và đến cha. Con không còn đáng được gọi là con cha nữa” (Luca 15:18-19).
Câu nói này người con thứ không nói với ai hết nhưng với chính cậu ta. Sau đó người con thứ mới đứng dậy lên đường quay về lại với cha mình. Khi gặp người cha, cậu nói với thân phụ của mình nguyên văn câu nói mà cậu đã từng nói với chính mình trước khi trở về lại căn nhà xưa (Luca 15:21).
Câu nói của người con thứ nói với chính mình trước khi lên đường quay về lại với người cha là một câu nói hòa giải, nhưng điểm đặc biệt nhất là người con hoang đàng không hòa giải với bất cứ một người nào khác vào giây phút đó, nhưng với chính cậu ta, giai đoạn thứ hai của Mô Hình Chấp Nhận. Và bởi người con thứ hòa giải được với mình, cậu bước sang giai đoạn thứ ba của Mô Hình Hòa Giải. Lần này cậu hòa giải với người cha mà cậu đã một thời xúc phạm.
Và khi người con mở miệng xin lỗi người cha, cậu ta chấp nhận đóng lại một trang sách cũ. Bởi trang sách cũ đã được đóng lại, một trang sách mới được mở ra, giai đoạn cuối cùng của Mô Hình Chấp Nhận.
II. Thiên Chúa Hòa Giài
Theo phong tục của người Do Thái, gia tài sẽ chỉ được chia ra cho những người con sau khi người cha đã qua đời. Cho nên khi mở miệng nói,
— Xin cha chia cho con phần gia sản của con.
Vào giây phút đó người con thứ đang rủa người cha,
— Tại sao ông không chết đi để tôi được chia gia tài?
Người con thứ hỗn tới cỡ như vậy mà ông bố trong Tân Ước vẫn không một lời than thở, hoặc nặng lời la mắng. Chưa hết sau khi người con thứ đã bỏ đi, tương tự như bên Việt Nam, ông bố biết rằng ông sẽ trở thành đề tài đàm tiếu của cả hàng xóm về thằng con bất hiếu. Ông bố cũng biết rằng sau khi đứa con đã biến dạng nơi chân trời, những lời ong tiếng ve sẽ ngập tràn nơi phố xá, hàng quán, chợ búa,
— Nhà này vô phúc! Có thằng con không ra gì!
Hoặc là,
— Quân du thủ du thực! Bố nó còn sống sờ sờ ra đó mà đòi chia gia tài! Cái này chắc là nghiệp báo chi đây.
Thế đó, ông già biết trước danh dự của ông sẽ bị hàng xóm láng giềng chà đạp thậm tệ nếu ông không ngăn cản người con. Không! Chúa không làm như vậy, nhưng Ngài im lặng chia gia tài cho cậu con quý tử. Sau đó chiều chiều Ngài ngồi nơi cửa sổ chờ đợi. Cặp mắt của người cha dõi nhìn về cõi xa xa, mong đợi bóng dáng của người con thứ quay về lại mái nhà xưa. Mỗi lần bụi bốc lên nơi chân trời, lòng người cha lại thấp thỏm, hồi hộp, chờ đợi.
Và rồi người con thứ cũng đã trở về, sau khi gia tài sự nghiệp tan theo mây khói. Khi thấy bóng dáng của người con từ xa, người cha chạy tới-chạy chớ không thủng thỉnh bước từng bước. Ông bố phóng tới, nhưng không phải để hất hủi xua đuổi,
— Mày có ngon thì đi luôn đi! Sao còn vác cái mặt về đây làm gì?
Không! Ông bố không làm như vậy. Ông ôm lấy người con, xỏ nhẫn vào tay cậu. Cuối cùng, ông sai gia nhân tổ chức đại dạ tiệc chào mừng ngày người con trở về.
Thiên Chúa là Chúa của Hòa Giải. Ngài yêu thương con cái của Ngài vô điều kiện. Bản chất của con người là bỏ đi hoang; nhưng tạ ơn Trời Cao, bởi bản chất của Thiên Chúa là từ bi, thứ tha, chờ đợi và hòa giải. Ngay cả trước khi con người có ý nghĩ làm một đường vòng chữ U, quay về lại với Thiên Chúa, Ngài đã đứng ở cửa nhà, chờ đợi giây phút chúng ta trở về xin được hòa giải với Ngài. Nhưng trước khi có can đảm quay về với Thiên Chúa, chúng ta cần phải có tâm tình của Con Người Mới. Con Người Mới chấp nhận những lỗi lầm của mình cho nên con người mới không đổ lỗi cho ai, nhưng tha thứ cho một khoảng thời gian mình đã sống với đêm đen với bóng tối. Tin rằng Thiên Chúa là Thiên Chúa của Hòa Giải, Con Người Mới quyết định đứng dậy bước ra bóng tối đêm đen của lỗi lầm, tiến vào cõi ánh sáng của hòa giải với Thiên Chúa.
III. Lời Kinh Hòa Giải
Và Con Người Mới nói,
— Cha ơi, nay con đã trở về. Con không còn đáng được gọi là con của Cha nữa, nhưng xin được làm tôi tớ trong nhà để đền bù lại cho những đêm đêm khi hoàng hôn buông rơi, con không có một lời kinh nguyện tạ ơn cho một ngày vừa trôi qua trong thanh bình, trong hạnh phúc; cho những sáng sớm khi bình minh rực rỡ chiếu xiên xiên qua khung cửa, Chúa không phải là hình ảnh đầu tiên xuất hiện trong tâm trí của con.
Lạy Chúa, hôm nay con quay về ăn năn thống hối cho những giây phút con không chấp nhận lỗi lầm của con; những lần con đổ lỗi cho người khác bởi những vấp té trên đường đời của riêng mình; những lần con nói dối quanh quẩn về một lần con sa ngã; những lần con nhắm mắt làm ngơ trước những người anh, người chị, người em cơ hàn đang cần tới bàn tay con xoa dịu, giúp đỡ. Lạy Chúa, xin tha cho những lần con ơ hờ không để ý tới những lời kêu gọi đóng góp cho nạn nhân của thiên tai bão lụt, động đất; cho những người con của Chúa đang chết đói lả người trên những nẻo đường nắng cháy của lục địa Phi Châu; cho những trẻ em mồ côi Á Châu, Nam Mỹ, Đông Âu; những trẻ em không thân nhân, không họ hàng, không nhà cửa, một đời lang thang tìm kiếm trên những đống rác hôi tanh một miếng bánh mì thiu thối, một trái cam đã bốc mùi, một miếng xương gà chỉ còn trơ trụi những sợi gân xơ xác đang bị ruồi đen bám đặc.
Lạy Chúa, hôm nay con quay về lại với con. Hôm nay con đang lần bước đi theo ánh sáng trời cao. Con đi trong tay Chúa. Chúa soi đường dẫn lối đưa con quay về lại căn nhà của ngày xưa, căn nhà của một thời con đã quay lưng bỏ đi hoang.
Lạy Chúa, con hòa giải với con bằng cách chấp nhận con người của con, con người đã được Chúa tạo dựng qua hình ảnh tuyệt đẹp của Ngài. Lạy Chúa, xin tha cho những lần gọi những người anh chị em có mầu da khác với con bằng những danh từ không đẹp, bởi vì con đã quên rằng vào ngày thứ Sáu trong tuần, trong hình ảnh toàn thiện mỹ của Chúa, Chúa đã dựng nên người nam và người nữ.
Lạy Chúa, xin đốt sáng lại trong con niềm tin vào tình yêu của Chúa, một tình yêu bao la, một tình yêu tuyệt đối. Chúa ơi! Xin thắp sáng lại trong con một ngọn nến hồng nhắc nhở con về Tình Yêu bao la và bất diệt của Ngài.
Lạy Chúa, xin cho con can đảm, một lần dứt khoát đứng lên để con đóng lại một trang sách cũ, trang sách của mất niềm tin vào Chúa, mất niềm hy vọng vào chính con, mất niềm hy vọng vào một ngày mai.
Lạy Chúa xin cầm tay con lên, lật qua một chương sách mới. Nơi trang đầu tiên của chương sách này, con đang nắn nót viết lên hàng chữ đầu tiên:
Ngày hôm nay tôi đã hòa giải với chính tôi. Ngày hôm nay tôi đã hòa giải với Chúa.
Lạy Chúa, xin đừng để con dừng lại với hàng chữ đầu tiên này, nhưng tiếp tục viết tiếp những dòng chữ mới trong chương sách mới. Lạy Chúa, chương sách mới của ngày hôm nay, con gọi là chương sách của Hy Vọng vào một ngày mai trong Đức Kitô Phục Sinh.
Chú thích
(1). Mô hình của khái niệm CHẤP NHẬN này gồm bốn giai đoạn khác nhau.
1. CHẤP NHẬN mình đã lầm lỗi,
2. CHẤP NHẬN tha thứ/hòa giải với chính mình,
3. CHẤP NHẬN Thiên Chúa đã tha thứ cho những lỗi lầm, và Ngài cũng đã hòa giải với mình,
4. CHẤP NHẬN đóng lại một trang sách cũ, mở ra một trang sách mới.
65 năm (1945 – 2010) từ khi ra đời đến nay, cơ quan quốc tế lớn nhất hành tinh, - Liên Hiệp: MC 4-C72
65 năm (1945 – 2010) từ khi ra đời đến nay, cơ quan quốc tế lớn nhất hành tinh, - Liên Hiệp Quốc – luôn gặp bế tắc trong những khi muốn đưa ra những quyết định quan trọng, vì năm lá phiếu phủ quyết (veto) do một nhúm nhỏ năm quốc gia nắm giữ. Giai đoạn đầu là những phủ quyết theo ý thức hệ, đặc thù chiến tranh lạnh giữa hai khối tự do và cộng sản. Đã thành lệ và gần như là “bổn phận” của một bên (Anh,Pháp, nhất là Hoa Kỳ) phải nói “trắng” khi bên kia (Trung Quốc, đặc biệt là Liên Xô) nói “đen” và ngược lại. Ý thức hệ không quan tâm đến con người,mà chỉ lợi ích chính trị và kèm theo đó là bá quyền sô-vanh. Khi khối cộng sản sụp đổ tan tành, thì vẫn năm lá phiếu phủ quyết ấy,nhưng được chuyển thành lợi ích kinh tế và tranh giành ảnh hưởng. Lần nữa, con người chẳng là gì trước lợi ích kinh tế.
Ranh giới thiện ác không còn ý nghĩa gì. Dâm ô, trụy lạc,tội ác thênh thang đi vào thế giới, thâm nhập tận những ngõ ngách xa xôi,kín đáo và đạo đức nhất. Ý thức tội lỗi mất dần và nhục dục cùng lợi ích kinh tế đã khiến con người trơ tráo biện hộ cho tội ác. Toà giải tội thưa thớt dần đến mức báo động đỏ. Ngụp lặn và nhầy nhụa trong vũng bùn xác thịt, với những thứ “tình yêu” chớp nhoáng và chóng tàn, con người không còn thấy và không còn tin vào tình yêu đích thực, không thấy lỗi đạo với Người Cha nhân từ hằng mong những đứa con lầm lạc và lầm than trở về. Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay đã được khai thác, suy tư,nguyện ngắm rất nhiều, nhiều đến nỗi nó trở thành một câu chuyện tuy thật hay, nhưng nhàm chán vì được nghe kể quá nhiều, chẳng khác nào con cháu của một cựu chiến binh phải tỏ ra lịch sự,để nghe người cha người ông của mình kể đi kể lại hàng trăm lần những trận đánh, những chiến công xa xưa. Điều chúng ta muốn làm hôm nay, là viết phần kết mà Chúa Giêsu cố tình bỏ lững, để chúng ta hoàn chỉnh câu chuyện về ba cha con trong dụ ngôn. Có thể nói: chúng ta đóng vai người con cả và sẽ cho câu chuyện nầy có được kết thúc có hậu (happy end) hoặc một kết thúc bi đát. Lá phiếu phủ quyết và vận mệnh của nhiều anh em đang nằm trong tay chúng ta.
Sự chân thành và trung thực,thẳng thắn lúc nầy lại đang bị thử thách nghiêm trọng, có thể lật ngược thế cờ của hai anh em, tức là thế cờ có khả năng biến người anh nên thiện hoặc ác .Vô tình vì ghen ghét,định kiến, mà người anh phạm một lỗi lầm khó cảm thông: vu oan cho người em! Người em có thể hoang phí, sống vô trật tự, nhưng không hoang dâm sa đoạ “với bọn đĩ điếm”, như lời người anh thêm thắt . Cặp “người cha nhân từ và đứa con hoang đàng” khiến la liên tưởng đến cặp “ người mẹ nhân từ và đứa con hoang đàng” là Nữ Thánh Mônica và Thánh Augustinô. Cũng như “đứa con hoang đàng” trong Tin Mừng Luca, Thánh Augustinô phung phí thời giờ,tiền bạc, nhưng không sa đà vào dâm ô, trác táng. Giáo dục,lời cầu nguyện và tình thương của người cha (trong Tin Mừng) và người mẹ (theo hạnh các thánh) đã ăn sâu trong tâm trí những người con và họ có thể lầm lạc, nhưng không thể hư mất. Đó là đặc thù của cáii “gien” giáo dục đức tin Công giáo! Người em từ “đồ bỏ đi”,đang trở về,đang ăn năn,đang từ người lầm đường lạc lối quyết tâm nên người lương thiện,hữu ích, hiếu thảo; trong khi nguời anh đang sống tử tế,lương thiện, bỗng vì giận dữ,ghen ghét mà biến thành người xấu, lòng dạ hẹp hòi, muốn bày ra cảnh “nồi da xáo thịt”, “chó nhai xương chó”. Với anh em mà còn như thế, sẽ khắt khe và bất bao dung thế nào đối với những người có tội và phạm lỗi lầm khác?
Ở một số địa phương miền Bắc và miền Trung, khi cây ăn trái - đặc biệt là cây thân gỗ - không cho hoa trái, người ta có thói quen dùng roi đánh mạnh vào thân cây và thật lạ lùng, những cây ‘vô sinh’ như thế sẽ sum suê hoa trái. Thương con cho roi cho vọt. Người đánh đau hơn người ăn đòn. Phải gia hình vì muốn điều hay, điều tốt, chứ không vì hận thù,ghét bỏ. Ngay một loài cây cối, đánh roi để nó ‘đau’ và sinh hoa trái, huống hồ một con người. Nhà Phật nói: cứu được một người,còn hơn xây bảy cái tháp.Nhưng đó lại là điều mà chúng ta thường phạm phải. Đọc Kinh Thánh, cả Cựu Ước lẫn Tân Ước, lắm khi có cảm tưởng như Thiên Chúa hụt cả hơi vì thanh minh. Cách suy nghĩ và hành xử của những dân Chúa, - trước là Dân Do Thái,nay là Kitô hữu,- khác hoàn toàn với lời giáo huấn của Chúa và Giáo Hội, có thể dùng một câu hát để lột tả:”tôi là ai mà còn trần gian thế!” (Tôi ơi đừng tuyệt vọng. Trịnh Công Sơn). Thiên Chúa phải không ngừng lập đi lập lại,là Người không hề ác (như rất nhiều Kitô hữu),“chậm bất bình, giàu nhân từ yêu thương, sẵn sàng tha thứ tội nhân”: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết,nhưng muốn nó ăn năn và được sống”(Ez 33,11).
Những người có tội,những kẻ phạm lỗi lầm, những người đang muốn tìm về với Chúa, cả những người lân cận và con cái chúng ta, nhìn vào hành xử “kiểu xã hội đen”, ăn miếng trả miếng (luật Talion của Do Thái giáo: mắt đền mắt,răng thế răng), vô tâm vô tình và không mảy may đượm tinh thần Kinh Thánh của chúng ta, không thể không nhìn Thiên Chúa như một “Ông Ác”, một thứ “thiên lôi”, khiến họ ngán ngẫm, thất vọng và quay lại với giáo lý Phật từ bi,với giáo huấn nhân ái của Khổng , thậm chí chọn Mahomet, vì chí ít bạo lực cũng rõ ràng. Nếu chúng ta hiểu biết, sống theo,làm gương và chỉ bảo về lòng yêu thương vô bờ và lòng nhân từ dịu dàng vô biên của Thiên Chúa, thì làm gì có cảnh Bí tích Hoà Giải ngày càng thưa vắng, thanh thiếu niên xa lánh các Bí Tích? Những toà án vô thần,độc tài, còn cho tội nhân được biện hộ,được nói lời cuối cùng; còn chúng ta vội vàng kết án anh em,khắt khe và nặng nề. Bàn tay chúng ta chìa ra cho anh em là bàn tay vẫy gọi, cảm thông, chia sẻ,hiệp nhất, hay là một bàn tay xua đuổi, lạnh lùng, kẻ cả?
Hãy nhìn Đức giáo Tông Biển-Đức XVI,một người trước nay ai cũng ngán sợ vì nỗi tiềng là nghiêm khắc,cứng rắn và bảo thủ. Nhưng những gì người làm đều khiến mọi người chưng hững. Còn hơn là những cuộc “cách mạng” nữa! Người giang rộng tay đón chính những anh em Huynh Đoàn Piô X “nỗi loạn”,từng gây bao đau khổ, thiệt hại cho Giáo Hội. Người mở rộng tấm lòng đón những cộng đoàn Anh giáo trở về hiệp nhất với Giáo Hội, mặc dù không mấy ai cảm thông con đường Người mở ra cho họ qua tông hiến Anglicanorum Coetibus có một không hai. Người mở rộng con tim và cánh cửa đại kết,hiệp nhất với Chính Thống giáo, Tin Lành, Do Thái giáo và cả Hồi giáo, mà vào Mùa Chay, theo lời văn trong ngắm các sự thương khó, chúng ta dễ bị cám dỗ gọi là “quân Giu-dêu” hoặc những “ thằng Giu-dà”.
Tất cả những người nầy, những giáo phái nầy,những tôn giáo nầy “mềm ra như sáp ong ở gần lửa”,ngọn lửa yêu mến,chân thành,bao la của Đấng đại diện Chúa Giêsu Kitô trên trần gian. Họ không phát hiện được nơi Người bất cứ một vết trí trá, mưu mô, vụ lợi nào, mà chỉ nhìn thấy, ngửi thấy,nếm cảm tình thương và lòng chân thành phát xuất từ con tim của Vị Mục Tử Hoàn Vũ Công giáo, Đấng đến với họ chỉ vì muốn là cha,là bạn,của họ, troing tư cách con người và trong tư cách con cùng một Cha. Nếu tất cả mọi hồng y,giám mục,linh mục,tu sĩ,giáo dân Công giáo có được một phần tình thương chân thành và lòng chân thành yêu thương như Đức giáo tông, thì đối thoại hay đại kết đã không vất vả,khó khăn, đầy ngờ vực thủ thế như vậy. Lời của Sandro Magister có thể hơi bị thổi phồng,nhưng cũng cho thấy đau khổ của Đức giáo tông,chẳng khác nào tro Mùa Chay mà Người nhận: “Mối ưu tư của Người: đức tin biến mất! Chương trình của Người: dẫn con người về với Thiên Chúa. Công cụ Người ưa thích: giảng dạy. Nhưng ở Vatican, giáo triều giúp cho Người rất ít. Và thỉnh thoảng lại còn làm hại Người” (Chiesa, 17.02.2010: Carême 2010. Les cendres du pape Benoit XVI). Tôn Thọ Tường có câu: “muối xát lòng ai,nấy mặn mòi”. Nhưng dường như không ít chức sắc trong Giáo Hội thích thú dùng muốn xát mạnh vào trái tim của Cha mình!
Có hai câu nầy nên suy gẫm:
“Lót đáy hoả ngục là những ý ngay lành” (L’enfer est pavé de bonnes intentions – Thánh Bernard) [đã được ‘cải biên’ và thông dụng: “l’enfer est pavé de prêtres”!]
Những người thu thuế và phường đĩ điếm sẽ vào nước Đức Chúa Trời trước các ông” (Mt 21,32)
VẪY TAY HOẶC XUA TAY: cử chỉ tưởng chừng đơn giản, không quyết định tương lai một con người được vẫy mời hay bị xua đuổi lánh xa, cho bằng cách sống đạo và truyền giáo của chúng ta.
1. LỜI CHÚA: "Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để" (Lc 15,20b).
2. CÂU CHUYỆN: LÒNG CHA BAO DUNG
RI-SỚT PIN-ĐEO (Richard Pindell) có viết một câu chuyện ngắn về một cậu bé tên là ĐE-VÍT (David): MC 4-C73
RI-SỚT PIN-ĐEO (Richard Pindell) có viết một câu chuyện ngắn về một cậu bé tên là ĐE-VÍT (David). Cậu ta đã nghe theo chúng bạn lén về nhà ăn cắp một số tiền lớn rồi bỏ đi bụi đời. Mấy tháng sau, vì không chịu nổi hoàn cảnh đói khát khổ cực, cậu đã viết một lá thư gửi về cho mẹ. Trong thư, cậu tỏ ra hối lỗi và nhờ mẹ thuyết phục ông bố vốn rất khiêm khắc, để xin ông tha tội và cho cậu được về nhà sum họp như trước. Nội dung lá thư ấy như sau: "Mẹ kính yêu, trong một vài ngày nữa con sẽ đáp chuyến xe lửa ngang qua nhà mình. Vậy nhờ mẹ xin lỗi bố cho con. Nếu bố bằng lòng tha thứ và chấp thuận cho con được về nhà, thì xin mẹ yêu cầu bố hãy cột một miếng vải trắng trên cây táo hồng ở cạnh nhà mình mẹ nhé!".
Vài ngày sau, Đe-vít lên xe lửa đi về nhà. Khi xe lửa đang di chuyển thì hai hình ảnh cứ liên tục hiện ra trong tâm trí cậu bé: Lúc thì trên cây táo có cột một miếng vải trắng, lúc lại chẳng thấy có miếng vải nào cả. Khi sắp đi ngang qua nhà, trái tim Đe-vít đập nhanh hơn. Cậu quay sang người ngồi cạnh và ấp úng nói: "Thưa ông, ông có thể giúp cháu việc này không ạ?" Được ông đồng ý, cậu nói: "Vào khúc quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cây táo. Vậy phiền ông nhìn vào cây ấy và nói cho cháu biết trên cành cây có cột một miếng vải trắng nào không nhé?". Khi xe lửa ầm ầm lướt nhanh qua nhà, Đe-vít nhắm mắt lại rồi run giọng hỏi: "Thưa ông, có miếng vải trắng nào treo trên cành cây táo cạnh nhà cháu hay không?" Ông ta sửng sốt trả lời rằng: "Ô, này cậu bé, không phải chỉ một mà cành cây nào ta cũng thấy có cột vải trắng cả!" Thì ra sợ con không nhìn thấy giải vải trắng, ông bố của cậu bé đã treo thật nhiều vải trắng để chắc chắn cậu sẽ nhìn thấy dấu hiệu tình thương tha thứ và để cậu yên tâm trở về nhà.
3. SUY NIỆM:
Đoạn tin mừng CN 3 Mùa Chay hôm nay cho thấy tình thương bao dung của Thiên Chúa đối với các tội nhân (15,1-32): Thiên Chúa như một người Cha từ bi nhân hậu luôn "chạnh lòng thương" và sẵn sàng tha thứ tội lỗi con cái lòai người như Thánh vịnh 135 đã ca tụng: "Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương". Dụ ngôn hôm nay cho thấy thái độ của ba nhân vật chính để từ đó rút ra bài học chúng ta phải làm gì:
1) Thái độ sám hối quyết tâm trở về của đứa con thứ tội lỗi (15,12-19): Anh đã phạm tội bất hiếu khi đòi cha phải chia gia tài cho anh ngay khi cha đang còn sống và sau đó đã bỏ nhà đi hoang ăn chơi phóng đãng phung phí hết tài sản của cha. Đến khi lâm cảnh đói rách phải đi làm thuê làm mướn và bị chủ khinh dể và đối xử còn tệ hơn một con heo. Chính sự cùng khổ ấy đã buộc anh phải suy nghĩ và quyết tâm đứng dậy quay về xin lỗi cha và chỉ mong được đối xử như một người làm công. "Đứng lên, đi về cùng cha" cho thấy thái độ dứt khoát với quá khứ tội lỗi để về với cha.
2) Thái độ bao dung nhân hậu của người cha (15,20-24). Về phần người cha, sau khi đứa con ra đi, ông đã ngày ngày chờ đợi nó quay trở về. Khi thấy bóng con từ xa, ông đã nhận ra và "chạnh lòng thương": không trách mắng hay trừng phạt, mà vội chạy tới ôm chầm lấy cổ nó và hôn lấy hôn để, lập tức trả lại địa vị làm con qua việc cho thay áo mới, đeo nhẫn, xỏ giầy và cho mời các người thân cận đến nhà ăn mừng đứa con "tưởng đã chết mà nay sống lại, tưởng đã mất mà nay lại tìm thấy". Đây là sự đón tiếp nồng hậu ngoài sự tưởng tượng của đứa con trở về.
3) Thái độ hẹp hòi của người con trưởng (15,25-32): Người anh trưởng từ ngoài đồng trở về nhà, nghe tiếng đàn ca, hỏi ra mới biết thằng em đi hoang mới trở về được cha tha thứ và còn mở tiệc ăn mừng. Anh giận dỗi cha không vào nhà. Anh chỉ trích cách đối xử của cha là bất công và không thể chấp nhận được (15,29). Thái độ của anh khiến cha già phải xuống nước năn nỉ giải thích: "Tất cả những gì của cha đều là của con " (Lc 13,31). Dụ ngôn kết thúc bằng lời cha khuyên con trưởng hãy cư xử bao dung với em "vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy".
4) Đáp lại lòng bao dung của Thiên Chúa thế nào ?:
+ Dụ ngôn người cha bao dung và đứa con hoang đàng nói lên lòng nhân từ của Thiên Chúa đối với các tội nhân. Người yêu thương chúng ta như một người cha nhân hậu. sẵn sàng bao dung tha thứ: Tha thứ không mệt mỏi, vô điều kiện và tha thứ luôn mãi !
+ Chúa phán: "Tội các ngươi dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết. có thắm tựa vải điều, cũng hóa trắng như bông" (Is 1,18): Dù tội của chúng ta có nặng tới đâu, thì tình thương của Chúa còn nặng hơn gấp bội. Dù tội lỗi chúng ta có nhiều tới mức nào, thì Chúa cũng vẫn hằng chờ đợi để tha thứ, miễn là chúng ta thực lòng hồi tâm sám hối và quyết tâm quay về với Người.
+ Thiên Chúa tôn trọng sự tự do ra đi và chờ đợi sự tự do quay về của chúng ta: Trong những ngày Mùa Chay này mỗi người chúng ta sẽ làm gì để đáp lại tình thương bao dung của Thiên Chúa, để cấp thời sám hối quay về lãnh ơn giao hòa với Người, và giúp các người thân trong gia đình và bạn bè đang lạc xa Chúa cũng được ơn hóan cải quay về với Người?
4. THẢO LUẬN:
1) Trong bốn việc phải làm khi đi xưng tội như: xét mình, ăn năn dốc lòng chừa, xưng tội và đền tội, thì điều nào là quan trọng nhất? Tại sao?
2) Trong Mùa Chay này, mỗi người chúng ta quyết tâm sám hối một tội nào cụ thể nhất và sám hối bằng cách nào?
5. NGUYỆN CẦU
- LẠY THIÊN CHÚA LÀ CHA CỦA CON. Con xin cảm tạ Cha đầy lòng từ bi nhân ái. Con cảm tạ Cha vì Cha đã sai Con Một Cha là Chúa Giê-su đến thế gian để dạy loài người chúng con nhận biết Cha là Thiên Chúa giàu lòng bao dung nhân hậu. Qua bài Tin mừng hôm nay, chúng con hiểu được Cha đang mời gọi các tội nhân quay về giao hòa với Cha.
- LẠY CHA, thật đáng tiếc khi có những người cha trong gia đình và trong cộng đoàn... chưa thể hiện được tình thương bao dung của Cha, nên trình bày Cha như một "ông chủ" chỉ muốn trừng phạt để họ sợ mà hồi tâm sám hối. Có những người cha trong gia đình, hay trong cộng đoàn đã dùng bạo lực sửa rẹi con cái khi chúng phạm tội... Xin Cha cho các người cha biết yêu thương con cái như Cha. Nhờ đó các tội nhân sẽ sớm sám hối quay về với Cha trong Mùa Chay thánh này. X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Pascal đã nói một câu rất nổi tiếng: “Con tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không hề biết đến: MC 4-C74
Pascal đã nói một câu rất nổi tiếng: “Con tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không hề biết đến”. Kinh nghiệm cuộc sống cũng nhiều lần chứng minh cho chúng ta thấy rõ điều đó.. Và nhất là trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta vô cùng ngạc nhiên khi thấy cách ứng xử xem ra “không hợp lý” của người cha.
Thật tình chúng ta không thể hiểu nổi những gì mà người cha đã làm cho hai người con của mình, nhất là đối với người con thứ. Từ khi người con thứ đòi chia gia tài, rồi thu gom tất cả những gì được chia, anh ta đã ra đi thật xa để tiêu sài cho thoả tình dục vọng của mình, thì người cha của anh ở nhà đã tính đến chuyện anh sẽ trở về. Vì thế, ông đã may áo mới mua giày mới, sắm nhẫn để dành cho cậu. Ông còn sai người vỗ béo con bê để chuẩn bị cho cái ngày con ông trở về! Theo thói thường thì người làm cha mẹ cũng chuẩn bị chu đáo và hoành tráng như thế để mừng đứa con sắp thành tài, sắp thăng quan tiến chức; chứ ai lại mừng cho một thằng nghịch tử; một đứa con bất hiếu, bất tài bao giờ! Vinh dự gì mà ăn mừng chứ!? Lý trí không hiểu được rồi! Người con lớn không thể hiểu, người con hoang đàng kia cũng không nghĩ đến cái vinh dự mà anh có được trong giây phút hội ngộ ấy. Có thể chính chúng ta cũng không bao giờ chọn cách làm như người cha trong bài Tin mừng hôm nay. Không có ai theo lý trí tự nhiên mà có thể ngờ hay có thể hiểu được suy nghĩ và hành động của người ch này. Chỉ có con tim với lý lẽ riêng của nó mới có thể hiểu được thôi!
Với suy nghĩ hẹp hòi của mình, người anh cả khăng khăng trong đầu là đứa em tệ bạc kia sẽ không bao giờ còn chỗ trong tâm trí của người cha của anh nữa. Anh nghĩ rằng cha của anh đã khai trừ người con trai đó từ lâu rồi. Chính anh cũng không còn coi đứa em kia là em của mình nữa. Điều đó được biểu hiện rõ rệt qua cách nói của anh với cha mình: “Còn thằng con của cha kia”! Theo lẽ công bằng, theo thói thường thì người anh cả không thể hiểu tại sao cha của mình lại hành xử lạ lùng như thế. Đối với anh, đó là chuyện quá bất công! Người cha của anh hành xử như thế là coi thường anh, sỉ nhục anh và làm cho anh quá đau khổ. Quả thật, anh ở gần cha mà hoá ra tấm lòng của anh còn quá xa cha. Anh nghĩ rằng chỉ có anh mới xứng đáng được gọi là con, chỉ có anh mới có đủ tư cách để được cha anh khen tặng và thưởng công vì anh chưa bao giờ làm sai lệnh cha anh, chưa bao giờ anh phí phạm tài sản của cha anh. . . Cái sai lầm trong suy nghĩ của anh là làm việc để được thưởng công, để được trả công theo sự công bằng. Anh ở trong nhà cha mà lại coi mình như là tên đầy tớ không hơn không kém: “đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều chi, thế mà cha chưa bao giờ cho con . . .” Và theo anh, người cha hành động như thế là bất công rồi! Kẻ “có công” mà không được thưởng, không được khen! Còn kẻ đáng bị phạt thì lại được tiếp nhận huy hoàng, được ân “thưởng”. Và như thế là anh đã kết án luôn cha của anh nữa!
Chúng ta hãy xét mình lại xem, hình ảnh của người anh cả có trong lòng chúng ta hay không? Có bao giờ mình nghĩ rằng: “Tôi giữ đạo sốt sắng; tôi đi xem lễ, đọc kinh lần hạt mỗi ngày nhiều chuỗi; tôi làm việc tông đồ hơn ai hết, tôi xông xáo trong mọi sinh hoạt của xứ đạo. . . và như thế là Chúa phải thưởng công cho tôi. Đó là chuyện công bằng. Chỉ mình tôi mới xứng đáng được thưởng công Nước Trời! Và vì suy nghĩ như thế mà ta thấy rất khó chịu, thậm chỉ “nổi giận” với Chúa khi thấy người này người kia mới vào đạo hay mới trở lại đạo mà được ơn này, ơn nọ, được mọi người chăm lo cho cái nọ cái khia. . . Đừng bắt Chúa làm theo ý ta. Chúa đã nói: “Cũng như trời cao hơn đất bấy nhiêu thì tư tưởng của Ta cũng trỗi vượt hơn tư tưởng các ngươi như thế” (Is 55,9). Chúng ta cũng đừng coi mình là đấy tớ trong Giáo hội, làm việc để mong hưởng Chúa trả công xứng đáng! Nếu chúng ta đòi hỏi như thế thì chúng ta là kẻ đáng thương hơn ai hết! Khôn ngoan là hãy coi mình là con cái trong nhà. “Mọi sự của cha đều là của con”, còn gì bằng! Người con thì khi thấy cái gì phải làm và cần thiết thì hãy làm, vì mình là con. Nhất là phải biết ý Cha mình, hiểu Cha của mình cho thật nhiều và quyết tâm trở nên giống Cha ngày một hơn!
Đến mình, người con “hoang đàng” cũng hoàn toàn bỡ ngỡ trước cách hành xử “lạ lùng” của Cha. Anh đã chuẩn bị sẵn tâm lý rồi: sẵn sàng chịu mắng một trận tơi tả, thậm chí có thể bị đuổi đi và không cho vào nhà nữa. Anh ta đã chuẩn bị sẵn một “bài diễn văn” dài lắm, hay lắm, xúc động lắm . . . để khi gặp cha là tâu liền. Nhưng anh không ngờ và cũng không hiểu nổi tại sao người cha lại đối xử quá tốt với mình như thế! Cha anh không cần nghe hết những gì anh đã chuẩn bị để nói. Hình như trong ông chỉ còn là khao khát được gặp lại con, ông “thèm” được ôm con vào lòng và vui sướng phục hồi lại cho con mình những gì nó đã tự đánh mất (mất tình nghĩa với cha, mất tư cách làm con, mất phẩm giá làm người...). Chúng ta cũng cần ở vào vai của người con thứ trong Tin mừng hôm nay để cảm nghiệm được tình thương mà Chúa Cha dành cho chúng ta thế nào!
Người cha trong Tin mừng chính là Thiên Chúa. Ngài cũng là người cha đầy lòng nhân hậu với và rất yêu thương của chúng ta. Ngài yêu chúng ta bằng một thứ tình yêu lạ lùng, mà theo lý trí chúng ta không tài nào hiểu được. Chúng ta chỉ có thể hiểu được Thiên Chúa phần nào khi chúng ta biết đến với Ngài bằng tình yêu. Ta hãy chọn cho mình một tư thế trước mặt Thiên Chúa: làm con hay làm đầy tớ? Dĩ nhiên, ai trong chúng ta cũng muốn làm con của Chúa rồi. Vậy chúng ta đừng nhìn và đừng suy nghĩ về Chúa như ông chủ nữa, nhưng là người cha rất nhân hậu và yêu thương chúng ta. Chúng ta cũng rất cần có một tấm lòng, một cái nhìn giống như Thiên Chúa: yêu thương, tha thứ và sẵn sàng đón nhận mọi anh chị em của mình như Thiên Chúa đã từng yêu thương, tha thứ và đón nhận chúng ta trong những ngày tháng chúng ta lầm đường, lạc lối và đi hoang! Chúa Giêsu vẫn đang mời gọi chúng ta: “Hãy nên hoàn thiện như Cha các ngươi trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48)
Thiên Chúa luôn đối xử nhân hậu với loài người. Từ thuở ban đầu, Ngài đã tạo dựng và thông: MC 4-C75
Thiên Chúa luôn đối xử nhân hậu với loài người. Từ thuở ban đầu, Ngài đã tạo dựng và thông ban cho con người sự sống thần linh. Sau khi con người sa ngã, Ngài hứa ban Đấng Cứu Thế để phục hồi tình trạng nguyên thủy. Trong chương trình cứu chuộc đó, Ngài đã lập dân riêng là Israel, ban truyền lề luật yêu thương và cứu dân Israel khỏi cảnh nô lệ Ai Cập mà đưa về Đất Hứa… Nhất là Ngài đã cho Con Một mình xuống thế chuộc lại lỗi lầm cho loài người. Mặc dù loài người hay ương ngạnh nhưng Chúa lại sẵn sàng nhận làm con và đối xử hết sức quãng đại với chúng ta. Dụ ngôn người cha nhân hậu là một minh họa cho tình thương vô bờ đó.
Người cha có hai đứa con. Đứa con thứ thì bỏ nhà, bỏ cha đi xa, ăn chơi phung phí hết tiền của, trở thành kẻ làm mướn, kẻ nô lệ, thiếu ăn thiếu mặc, hèn mạc đến độ muốn được ăn đồ của heo cho đầy bụng mà người ta cũng không cho. Lúc đó, anh mới nhận ra là mình sai lầm và tự nhủ: những người làm công nhà cha mình còn được đối xử rất tử tế, còn bản thân anh bị người ta coi như đồ bỏ đi, không quý bằng heo cúi của họ. Và anh đã trở về với 1 câu nói chuẩn bị sẵn: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”. Xem ra anh trở về vì lý do cái ăn cái mặc, hơn là vì nhận ra tình thương của cha. Và anh sợ rằng cha sẽ không chấp nhận việc anh trở lại làm con, nên anh chỉ mong làm đầy tớ. Thế nhưng, khi anh trở về thì thật quá sức tưởng tượng của anh. Người cha lúc nào cũng nhớ thương anh, mong chờ anh, sẵn sàng đón nhận anh. Có lẽ người cha hằng nhắc anh trước mặt mọi người và chuẩn bị quần áo, giày, nhẫn, bê béo… để khi anh về thì có sẵn những thứ đó.
Với tình thương vô điều kiện của người cha, đứa con đi hoang đã thật sự cảm động và cảm thấy thương mến cha mình thật sự. Nhờ tình thương vô biên của cha, anh đã được cảm hoá và nhận biết tình cha đối với mình. Mặc dù anh là người tội lỗi nhưng từ lúc đó anh đã hoàn toàn biến đổi, anh cảm thấy hạnh phúc vô vàn trước tấm lòng của người cha và tình yêu xoá tan mọi lỗi lầm.
Tuy nhiên, hậu quả của việc bỏ nhà đi hoang phung phí tiền của đã là nguyên cớ gây sứt mẻ tình anh em. Khi anh trở về thì người anh cả không chấp nhận được, nhất là khi thấy cha hậu đãi em mình. Anh cảm thấy ganh tỵ và có phần bực tức: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”. Điều này cho thấy, hoá ra, bao năm qua anh ở nhà, gần gũi cha, nhưng lại không cảm nghiệm được tình cha yêu thương mình. Vì vậy, anh không thấy hạnh phúc.
Người con cả đại diện cho luật sĩ và biệt phái, kẻ xưng mình là đạo đức. Đối với anh thì điều anh cậy dựa vào là việc giữ luật nghiêm ngặt, và công cán chứ không phải cậy vào tình thương của cha, nên lúc nào anh cũng cảm thấy bực tức với em, bất bình với lòng quãng đại nhân từ của cha. Chính lúc đó, anh lấy mình làm chuẩn mực phán xét, kết án kẻ khác và xét đoán cả Thiên Chúa là cha. Anh cũng lỗi phạm đến tình thương của cha. Nhưng cha luôn kêu mời và như năn nỉ anh hãy nghĩ lại và nhận ra tình thương của cha
“Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con nữa. Xin cha coi con như một người làm công cho cha vậy” (Lc 15,19).
Lewis Copeland có kể một câu chuyện như sau: Một người cha muốn răn bảo đứa con có tật: MC 4-C76
Lewis Copeland có kể một câu chuyện như sau:
Một người cha muốn răn bảo đứa con có tật xấu đi chơi khuya, ngủ dậy trễ. Ông nói:
- Con sẽ chẳng làm được trò trống gì, nếu không biết sửa đổi. Hãy nhớ rằng con chim dậy sớm mới bắt được sâu.
- Nhưng con sâu ấy thì sao hả bố? Chẳng phải là ngu ngốc khi dậy quá sớm sao?
Bố nghiêm giọng bảo:
- Bởi con sâu ấy cả đêm không ngủ, mà nó đang trên đường trên đường về nhà.
Thằng nhỏ xem ra thông minh. Nhưng người cha thì khôn ngoan hơn. Ông thật nhạy bén ứng phó khiến thằng con phải tâm phục khẩu phục. Ông dạy con rất khéo, nhẹ nhàng mà hiệu quả.
Nói đến câu chuyện “Người cha nhân hậu” của Chúa Nhật IV mùa chay này chắc là không ai trong chúng ta không biết. Người cha ấy không ai khác hơn là chính Thiên Chúa. “Con sâu cả đêm không ngủ” đang lần mò quay về trong cái tấm thân tàn ma dạy, trong cái nỗi lòng hối hận như kim đâm muối sát ấy, là người con thứ và cũng là chính chúng ta.
Tôi nhận thấy người cha trong câu chuyện này đánh một ván bài quá đậm. Ông dạy con bằng cách chia cho nó cả một tài sản lớn, cho nó tự do tung cánh thế nào tuỳ ý, chơi bời thế nào mặc tình. Con làm như thế cha đau lòng lắm. Nhưng vì tôn trọng tự do của con mà người cha phải chấp nhận để điều không tốt xảy ra. Để rồi sau cái kinh nghiệm vấp ngã đau thương, người con sẽ hiểu được thế nào là tình yêu, thế nào là tội lỗi. Nhưng có điều tôi hơi tiếc là tại sao người con thứ lại không nhận ra được tình yêu của cha dành cho anh cả trước, trong, và sau khi anh phạm lỗi? “Điều gì của cha là của con”. Anh không cần đòi chia gia sản làm gì. Nó vẫn thuộc về anh. Cha anh vốn vĩ chỉ có hai người con thôi, và ông cũng không phải là người nghèo khó. Anh đương nhiên được thừa kế khối gia tài thuộc phần mình. Rồi sau khi anh ra đi, nếu anh biết được rằng cha anh thương anh, mỏi mòn chờ anh thì anh đã sớm quay về. Tại sao phải bơ vất dưỡng nơi đầu đường xoá chợ, làm thuê cuốc mướn, sống còn không bằng một con heo thì mới nhớ đến cha? mới nghĩ đến chuyện quay về? Và khi đã về đến nhà. Đành là anh khiêm tốn thấy tội mình quá lớn, chỉ đáng là đứa đầy tớ trong nhà. Nhưng tại sao phải là đứa đầy tớ? Anh là con kia mà. Tình yêu của cha không đủ để phục hồi quyền lợi của con sao? Hùm dữ không ăn thịt con, sao cha có thể xoá bỏ thâm tình cha con một cách dễ dàng như vậy. Quá khứ, hiện tại, tương lai, con vẫn là con, mãi mãi con vẫn là con cho dù con có hư đốn thế nào. Tất cả việc làm của cha đã nói lên điều đó. Cha biết con sẽ quay về nên cha đã chuẩn bị mọi thứ cho ngày ấy. Nào là may áo mới, giày mới, làm nhẫn mới, vỗ béo bê bò. Có lẽ ngày nào ông cũng ra ngoài đường đón con nên ông là người đầu tiên phát hiện con quay về. Và cũng không cần anh phải nói lời nào, ông đã chạy ra ôm chầm lấy con. Lập tức sai gia nhân làm tiệc mừng. Thật xúc động không sao kể hết.
Thiên Chúa là thế, tình yêu của Ngài để sẵn cho con người. Con người không cần phải lên tiếng van xin tình yêu ấy cho mình. Tình yêu ấy luôn luôn tồn tại ngay cả lúc con người tắc trách, phản bội, bất trung, hờ hững. Nếu tôi không nói là Thiên Chúa van xin con người “hồi tâm” để dành một tình thương cho Ngài. Vì chúng ta yêu nhiều thứ nhưng trong đó không hề có Thiên Chúa. Còn một điều khác cũng rất quan trọng là chúng ta không nghĩ mình là con, trong khi Chúa đã cho mình gọi Ngài là cha. Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm nghĩa tử từ xưa lắm rồi. “Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định co ta làm nghĩa tử, nhờ Đức Kitô” (Ep 1,5).
Và hôm nay vẫn còn chưa muộn để “hồi tâm” quay về. Hãy trở về, trở về với Cha nhân lành. Trở về để sớm hồi sinh. Trở về để mãi mãi sống trong ân tình.
đối với người tội lỗi cũng như đối với anh. Người cha muốn anh hãy mặc lấy tâm tình nhân hậu của cha, để xứng đáng là con thảo, đẹp lòng cha mình thật sự.
Trong mùa chay này, chúng ta hãy cùng nhau xét mình, xem chúng ta đã nhận ra tình thương của Chúa đối với mình hay chưa. Chúng ta có khi nào cố tình phạm tội trọng và muốn thoát ly khỏi Chúa như người con hoang để người ta khinh khi, ma quỷ đắc thắng vì có người lầm lạc theo đàng trái. Hay chúng ta như người con cả, ở trong nhà thờ với Chúa cho có hình thức mà chưa có cảm nghiệm yêu mến Chúa đã chết vì yêu thương chúng ta. Chúng ta cũng hãy học lấy lòng nhân hậu của Chúa khi đối xử với anh em đồng loại để xứng đáng là con Chúa và luôn cảm thấy vui mừng với Chúa khi đối xử với anh em đồng loại hầu xứng đáng là con cái Chúa và đáng được phần thưởng nước trời mai sau.
Trong trận chiến thế giới lần thứ hai 1939 - 1945 đã làm cho biết bao người rơi vào cảnh lầm: MC 4-C77
Trong trận chiến thế giới lần thứ hai 1939 - 1945 đã làm cho biết bao người rơi vào cảnh lầm than. Cũng vì con người không chấp nhận được nhau, không chấp nhận người khác cùng ngang hàng với mình, cùng chung sống với mình, và cùng tồn tại với mình. Trải qua hơn nữa thế kỷ, bài học đau thương của lịch sử ngày nay vẫn còn đang tiếp diễn: cuộc chiến ở Nam Tư, Châu Phi, hiện tại cuộc chiến làm cho cả thế giới phải đau đầu, đó là cuộc chiến của những quốc gia vùng trung đông châu A, họ cũng không thể chấp nhận nhau, không thể sống chung với nhau và cũng có thể không muốn cùng tồn tại. Họ quá tự tôn, chủ nghĩa cá nhân quá mạnh, họ chỉ đặt cá nhân và dân tộc mình trên hết , còn những người khác, dân tộc khác họ không coi ra gì, nên họ khinh dể và không chấp nhận.
Người cha nhân từ, ông thương yêu từng người con. Nhưng những người con luôn gây phiền cho cha mình.
Người con thứ chỉ nghỉ đến mình, chỉ biết lo hưởng thụ, tìm thú vui cho mình, sống theo những gì mình muốn, để rồi phải rơi vào cảnh khốn cùng. Anh đã làm ô danh cha mình qua con người của anh.
Người con cả luôn sống kề cận bên cha, chịu cực chịu khổ, nghe lời cha, không dám trái lệnh cha. Mặc dù không dám nói, nhưng anh cũng đang muốn sống theo ý riêng mình, anh cũng đang mong cha trả công cho mình, anh cũng đang muốn có chút lợi lộc riêng tư, nhưng không dám nói. Anh cũng chỉ là một cái máy sống bên người cha, một cái máy để làm việc chứ không phải là một người con đối với cha. Anh đành thốt lên một câu dường như xác nhận anh không phải là người con:" Còn thằng con của cha kia. . ." Anh không muốn chấp nhận người em của mình, anh cũng không muốn vào nhà cha của mình. Anh bực tức, nỗi nóng vì ý muốn riêng tư không thực hiện được: nào là không có con dê để ăn mừng với những bạn bè riêng tư, nào là không nhìn thấy cha trả ơn vì những công lao anh đã làm cho cha. Giờ đây anh kể công với cha mình để không chấp nhận người em.
Người cha ôn tồn xác nhận: "Chúng ta phải vui mừng vì em con ..."
Người cha cũng ôn tồn bảo những người con của ngày hôm nay như thế. " Con luôn sống bên cha, mọi sự của cha đều là của con. Chúng ta phải vui mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy".
Mỗi người trong chúng ta, nhìn lại chính mình, cách ứng xử hằng ngày, những tâm tư nguyện vọng trong cuộc sống, chúng ta sẽ thấy mình là người con đã ngã vào lòng cha, để được cha tha thứ. Cũng có thể chúng ta là người con ngoan cố, tưởng rằng những việc làm của mình có giá trị to lớn, khiến cho cha phải trả công, để rồi chúng ta đòi hỏi và làm khó dể cha mình, nên không thể nhận ra được tình thương yêu của cha.
Chúng ta là những người luôn sống kề cận bên cha, luôn tuân phục và làm việc theo ý cha. Nhưng chúng ta là một cái máy làm việc hay là một người con. Chúng ta tuân giữ kỷ luật, đọc kinh, dự lễ, có thể còn có những việc đạo đức khác. Vậy mà trong đời sống hằng ngày, chúng ta lại khó chịu với những người bên cạnh mình, khi thấy họ được ưu đãi cách này hay cách khác. Chúng ta tìm cách loại trừ họ bằng những lời nói xa gần, bằng những cử chỉ, những hành động có thể được. Chúng ta chỉ nhìn thấy được những sai phạm của người khác, còn chính chúng ta, thì tự cho mình là tốt đẹp, là ngay chính. Nhưng nếu chúng ta chịu để tâm chút thì coi chừng, chúng ta chỉ là một cái máy làm việc, vì con tim chúng ta nó đã chết từ lâu. Người cha nhân hậu của chúng ta, đã nhiều lần đến cạnh bên, nài nỉ chúng ta vào nhà, nài nỉ chúng ta vui mừng với Ngài vì những người anh em bên cạnh. Nhưng chúng ta vẫn bực tức khó chịu, vẫn có những lời chua cay, vẫn có ý muốn loại trừ để chiếm phần lợi về mình.. Như vậy tâm trạng của người con cả không ở đâu xa, mà ở ngay trong con người yếu hèn của chúng ta. Như vậy chiến tranh không phải ở đâu trên thế giới, cũng không phải ở trung đông, ở Nam tư hay ở Châu Phi mà ở ngay trong chính bản thân của mình. Vì chúng ta chưa biết chấp nhận người anh em trong cuộc sống, người anh em ở ngay bên cạnh và trước mắt chúng ta.
Xin Chúa ban cho chúng ta có được con tim quảng đại, để biết yêu như Chúa yêu thương chúng ta.
“Chúng ta phải ăn mừng em con, vì nó đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy…” (Lc 15, 32)
Người ta gọi Phúc âm thánh Luca, là Phúc âm của Lòng Thương xót; điều này đúng lắm vì: MC 4-C78
Người ta gọi Phúc âm thánh Luca, là Phúc âm của Lòng Thương xót; điều này đúng lắm vì chủ đề của quyển sách chính là trình bày Tình thương và Lòng Thương xót vô biên của Thiên Chúa. Dụ ngôn người con trai hoang đàng được đọc trong chúa nhật hôm nay, chỉ một mình thánh Luca ghi lại, là một dụ ngôn ghi lại hình ảnh đẹp nhất về lòng Thương xót này…
*Xin mời anh chị em cùng suy niệm.
a. người con hoang đàng: anh này là đứa con bất hiếu, bất kính, tội lỗi, ích kỷ; bất hiếu vì cha còn sống mà dám đòi chia gia tài; bất kính vì dám lìa bỏ gia đình, quê cha đất tổ linh thiêng, dám chà đạp lên giá trị đạo đức của gia tộc; tội lỗi vì lúc đói quá, dám ăn cả thịt heo, con vật ô uế, người Do thái không dám nói tới, chỉ có dân ngoại ăn mà thôi; ích kỷ vì chỉ nghĩ đến tiền của, khoái lạc, bản thân mình; chỉ khi đói mới nghĩ đến chuyện trở về…
Người con cả: được coi là mẫu mực, đạo đức, thực chất chỉ là con người giả hình. Anh tự cho là mình ngay chính, không nhận ra lòng yêu thương nhân từ của cha đối với người em. Em của anh ta là hình ảnh người tội lỗi, nhưng anh lại là hình ảnh người ngay chính cứng lòng, tự mãn. Nếu đã nói anh là người cứng lòng, thì việc trở về của anh xem ra rất khó khăn….
Người cha nhân hậu: hình ảnh hai người con tội lỗi, xấu xa bao nhiêu, hình ảnh của người cha ở đây lại đầy bao dung, yêu thương bấy nhiêu. Tình yêu của người cha bao dung nhân hậu, dành cho hai con hư hỏng trong hai cách thức khác nhau. Tình yêu này đã không làm họ cảm thấy nhục nhã khi phạm tội; trái lại còn giúp họ hoán cải và tìm lại được giá trị nhân phẩm của mình. Đây là một mạc khải rất đặc biệt của Chúa Giêsu về Chúa Cha…
b. Hai điểm suy niệm về “Tự do”:
1. Tự do là tặng phẩm vô giá Thiên Chúa ban cho con người, nhưng nó lại là con dao hai lưỡi, có thể đem lại hạnh phúc cho, đồng thời nó cũng đủ khả năng giết chết con người, nếu dùng nó sai mục đích. Nguyên tổ loài người trong vườn địa đàng đã dùng sai tự do, nên họ và con cháu phải chết và bị phạt đời đời. Thánh Phêrô, thánh Phaolô, Maria Magdala, Augustinô, Charles de Foucault, dù họ có tội, nhưng họ đã biết ăn năn, nên họ đã thoát khỏi tối tăm, trở về vùng tự do, ánh sáng: chính họ cuối cùng đã sử dụng đúng tự do của mình. Người con trai hoang đàng trong dụ ngôn hôm nay, dù anh có tội, cuối cùng anh cũng biết dùng đúng tự do của anh, để trở về trong vòng tay nhân ái của người cha...
2. lòng nhân hậu vô bờ của người cha: dụ ngôn này còm được gọi dụ ngôn Người Cha nhân hậu. Chúng ta thử nghĩ: nếu người con hoang khi trở về, gặp người cha có tính hẹp hòi như con cả, chắc kể như anh ta “đi đứt”, vì thế dụ ngôn này vừa nói lòng khoan dung vô bờ của Thiên Chúa trước sai lầm và tội lỗi của con người, đồng thời cũng nói lên sự hẹp hòi, ích kỷ của một số người Kitô hữu tự cho mình là đạo đức và đầy đủ bổn phận; trong khi thực chất họ chẳng hiểu và cũng chẳng sống cho Thiên Chúa.
c. Gợi ý sống và chia sẻ:
* nhận ra tội lỗi mình, người con thứ thấy chỉ còn con đường quay trở về nhà, về với cha, cầu mong ơn tha thứ. Anh đã đúng sự tự do của mình. Là kitô hữu, có khi nào ta thấy mình cần quay trở về với Chúa như người con thứ này ?
* Lòng tự mãn của người con cả làm cho anh ta ra hẹp hòi, ích kỹ, quá khác xa với lòng quảng đại vô bờ của người cha. Tội của anh không phải là nhẹ: đó là tội của người công chính tự mãn, cứng lòng. Còn ta, ta là hạng nào đây?
Tình cảm cha mẹ đối với con cái là một tình cảm vô cùng đặt biệt, vì thế dân gian ta có câu: MC 4-C79
1. Tình cảm cha mẹ đối với con cái là một tình cảm vô cùng đặt biệt, vì thế dân gian ta có câu: “Không gì ngon bằng cơm với cá, không gì cho bằng má với con”. Nhạc sĩ Y Vân cũng đã cảm nghiệm được tình yêu nầy, nên đã từng thốt lên: “Lòng mẹ bao la như biển Thái bình dạt dào ”. Thế nhưng chúng ta còn có Thiên Chúa là Cha, Đấng yêu thương hết mọi người, dù ta xấu tốt như thế nào, vì thế tiên tri Isaia từ xưa có ghi: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình mang nặng đẻ đau ? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49,15). Tấm lòng yêu thương khôn tả của Thiên Chúa dành cho con người đã được Đức Giêsu trình bày rõ nét trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu” mà chúng ta vừa nghe, dù cho con người có bội bạc như người con thứ, hay kiêu căng tự phụ như người con cả. Trong tâm tình của mùa chay, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu sơ lược qua 3 nhân vật chính yếu trong dụ ngôn này để rút ra những bài học, suy nghĩ cho đời sống thiêng liêng.
2. Trước hết, hình ảnh người cha trong dụ ngôn là người quá thương con cái mình. Ông tôn trọng tự do của con, sẵn sàng trao phần gia tài cho con. Thường thì cha mẹ chỉ chia gia tài khi mình sắp qua đời bởi “ai cầm tiền người đó có quyền” (x. Huấn Ca 33,20-24). Hoặc chỉ chia khi biết chắc con mình đã đủ chính chắn để gìn giữ được gia tài. Còn người cha này vì quá thương con, nên khi người con thứ đề nghị chia gia tài, không cần suy tính, ông bằng lòng chia ngay cho nó. Sau khi nhận được phần gia tài, anh ta sống phóng đãng, phung phí hết tiền của, rồi trở về.
Có điều lạ là người cha nầy không trách mắng, nghiêm phạt, từ con. Trái lại, qua bản văn cho thấy ông trông ngóng, mong chờ nó, vì vậy ngay từ đàng xa ông đã thấy nó rồi và ông chạy ra choàng lấy cổ ôm hôn lấy hôn để. Khi nó định xin lỗi thì ông chẳng thèm để ý tới mà bảo gia nhân đem áo quần đẹp nhất để mặc cho nó. Rồi ông sai đầy tớ mở tiệc liên hoan. Chúng ta lưu ý rằng ông bảo gia nhân đi bắt “con bê đã vỗ béo” làm thịt, nghĩa là không phải đi bắt bất cứ con bê béo nào, mà để sẵn riêng một con, chuẩn bị cho sự trở về của người con đi hoang.
Còn đối với người con cả thì người cha làm sao? Anh đi làm về, khi biết cha mở tiệc ăn mừng vì người em trở về, anh chẳng những đã không vui mà còn nổi giận, trách móc cha già. Khiến ông lại phải nhẫn nhục ra tận cổng phân trần, năn nỉ, mời cậu vào nhà để chung vui với ông và gặp lại đứa em. Ông khẳng định với cậu rằng: “tất cả những gì của cha đều là của con ” (Lc 13,31).
Qua hình ảnh người cha này, Đức Giêsu cho chúng ta thấy rõ Thiên Chúa là Đấng đầy lòng yêu thương, quảng đại và hay tha thứ, “Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5,45). Cho dù lòng con người có đổi thay, nhưng Thiên Chúa một mực thương yêu con người: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương ” (Tv 135).
3. Kế đến, hình ảnh người con thứ không phải xa lạ gì đối với chúng ta. Thật vậy, biết bao lần chúng ta đã lợi dụng lòng tốt của Thiên Chúa, chúng ta đã dùng cách sai lạc tự do của mình, giống như người con thứ này. Muốn thoát khỏi tình yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa là Cha, muốn tìm cho mình một nơi nương tựa khác, muốn chọn cho mình một ngẫu tượng khác. Đó có thể là danh vọng, tiền bạc, lợi lộc, thú vui trần tục… ngay cả trong sự thoả hiệp với sự xấu, sự dữ để đạt được điều đó, mà quên mất tình yêu thương của Thiên Chúa, mà quên mất tình nghĩa anh em.
Và phải chăng, ngay khi chúng ta quay trở về với Thiên Chúa, không hẳn vì lòng yêu mến Ngài. Mà có lẽ giống như tâm trạng của người con thứ này, trở về vì lợi ích của mình chứ không vì lòng yêu mến cha, nghĩa là chúng ta trở về với Thiên Chúa vì sợ người ta chê cuời, sợ hình phạt luyện ngục, hỏa ngục. Nhưng, vì lòng nhân từ, Thiên Chúa chấp nhận mọi lý do để ta trở về, miễn làm sao Ngài muốn cho ta được sống trong vòng tay của Ngài, thế là đủ.
4. Cuối cùng, hình ảnh người con cả không xa lạ gì đối với nhiều người trong chúng ta. Anh ở trong nhà cha, nhưng lại rất xa cách cha. Bởi tính ích kỷ, kiêu căng và tự phụ đã làm mờ tâm trí của anh, nó đã bóp nghẹt con tim của anh. Anh ở bên cha, làm việc trong nhà cha, nhưng chẳng hiểu cha, chẳng nhận ra tình thương của cha dành cho mình. Cũng chẳng nhận ra tình thương của cha dành cho đứa em ruột mình. Cũng chẳng biết yêu thương em mình, nên không tỏ chút vui mừng khi người em của mình trở về! Không chừng, lại còn muốn nó đừng trở về vì có thể cha lại chia gia tài cho nó lần nữa ! Quên hết tình ruột thịt, đến nổi người cha phải nhắc:”…phải vui vẻ, vì em con đây…”, vâng em con, chứ không phải người dưng, nước lã !
Đó là thái độ của không ít Kitô hữu chỉ giữ đạo cho mình, chỉ lo phần phúc cho mình, mà không biết quan tâm đến ý muốn cứu độ mà Thiên Chúa muốn dành cho mọi người. Không biết quan tâm đến những nỗi ưu tư của Giáo hội, của cộng đoàn Họ đạo, cũng chẳng thiết tha gì đến hạnh phúc của tha nhân “sống chết mặc bay”. Đôi khi còn có thái độ ghen ghét với những ai tích cực xây dựng cộng đoàn vì sợ họ nổi nang hơn mình, không thích những người thành đạt hơn mình, không muốn đón tiếp những người lỡ bước trở về vì mang tâm trạng mình là người công chính, còn họ là người tội lỗi…!
5. Trước tấm lòng của Thiên Chúa hay thương xót, được thể hiện qua người cha trong dụ ngôn nầy, cả người em lẫn người anh đều phải quay trở về với cha. Cả hai đều phải rũ bỏ nếp sống cũ, cách nghĩ xưa để trở về mái ấm của cha. Vậy, như người em, tức những ai đang sống trong lầm lạc, tội lỗi hãy bỏ con đường cũ mà trở về sống trong tình yêu thương của Thiên Chúa; như người anh, tức những ai sống thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu sự liên hệ mật thiết với Thiên Chúa, thiếu yêu thương, quan tâm giúp đỡ tha nhân cũng hãy bỏ nếp sống cũ mà trở về sống trong tình nghĩa của Thiên Chúa là Cha và anh chị em với nhau.
Chúng ta đã cùng với Giáo hội đi được hơn nửa chặng đường của Mùa chay năm nay. Mùa chay: MC 4-C80
Chúng ta đã cùng với Giáo hội đi được hơn nửa chặng đường của Mùa chay năm nay. Mùa chay còn được gọi là mùa trở về. Thiên Chúa qua Giáo hội kêu gọi mọi người tín hữu nếu lỡ đi lạc đường hãy quay trở về với tình thương của Người. Vấn đề là họ có thật lòng muốn trở về hay không? Và khi đã được đón nhận họ có biết noi gương Chúa mà đón nhận nhau không?
Đoạn Tin mừng mà Giáo hội cho chúng ta đọc trong Chúa nhật hôm nay, phải nói được là kiệt tác trong Tin mừng Luca. Có lẽ là kitô hữu, ai trong chúng ta cũng thuộc nằm lòng dụ ngôn này. Dụ ngôn mà chúng ta quen gọi là “Dụ ngôn người con trai hoang đàng ”. Nhưng đúng ra chúng ta phải gọi là “Dụ ngôn Người Cha nhân hậu” .
Khi người con thứ ý thức được tội lỗi tày trời của mình, anh đã quyết định quay trở về. Anh chỉ mong được cha đón nhận như người làm công thôi. Bởi lẽ anh tự biết, mình đã đánh mất tư cách làm con của mình. Mặc dù người cha còn sống sờ sờ đó, nhưng anh đã dám cả gan xem ông như người đã chết. Đó là anh đã yêu cầu cha chia gia tài cho mình. Thật là một tội bất hiếu không thể tha thứ được. Phải chi với gia tài ấy, anh ra đi làm ăn sinh lợi thì cũng còn có thể chấp nhận được. Ở đây, anh đã đem tất cả gia tài ấy đi phung phí một cách không thương tiếc đến nỗi không còn một đồng xu dính túi. Như vậy, theo cái nhìn của con người, người con này coi như “hết thuốc chữa ”. Chắc chắn anh cũng đã nhận ra điều đó.
"Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha,chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy ” . Một câu nói phát xuất tự đáy lòng cùng với sự trở về của anh đã làm cho cuộc đời anh mở sang trang mới.
Điều đáng nói ở đây, sở dĩ cuộc đời anh được sang trang mới là do chính sự đón nhận quá sức tưởng tượng của người cha. Sự đón nhận đến nỗi làm cho người anh phải ghen tức. Trông thấy anh từ đàng xa, người cha đã chạy ra “ôm anh và hôn lấy hôn để ”. Ông đã vội vàng khôi phục lại địa vị làm con cho anh. Bằng chứng là ông đã kêu gia nhân " mau đem áo đẹp nhất ra mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu và mau bắt một con bê đã vỗ béo chờ sẵn để làm thịt ăn mừng... ” . Quả thật, đây là một người cha có tấm lòng nhân hậu và bao dung. Tội lỗi của người con quá lớn nhưng tình thương của ông lại còn lớn hơn nữa.
Thái độ của người cha ấy chính là thái độ của chính Thiên Chúa khi ta biết thực sự trở về sau mỗi lần lầm lỡ. Thiên Chúa không bao giờ chấp nhất tội ta. Như lời thánh vịnh "Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?" (Tv 129, 3). Khi ta biết trở về, Thiên Chúa sẽ đón nhận ta như một báu vật. Đồng thời, Người sẽ sẵn sàng cho ta cơ hội để làm lại cuộc đời. Chúng ta hãy tin và luôn xin Người cho ta xác tín điều ấy mãi trong cuộc đời.
Bên cạnh đó, Thiên Chúa còn muốn chúng ta cũng hãy biết noi gương Người mà đón nhận nhau mỗi khi có sự hiểu lầm hay xúc phạm nhau. Thật ra, trước mặt Chúa tất cả chúng ta đều là những tội nhân đáng thương. Hãy luôn ghi khắc điều đó để ta dễ dàng thông cảm và tha thứ cho nhau. Một ai đó đã nói: “Các cánh cửa nhà tù sẽ mãi mãi đóng lại, khi có thật nhiều người có tấm lòng bao dung, nhân hậu đón nhận những tội nhân trở về sau những lần lầm lỡ”
Do đó: Người chồng và người vợ hãy biết đón nhận và tha thứ nhau khi bạn mình lầm lỡ. Cha mẹ hãy biết đón nhận và tha thứ cho con cái khi chúng lầm lỡ. Và bạn bè cũng hãy biết đón nhận và tha thứ nhau khi bạn mình lầm lỡ.
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa không có ngôn từ nào có thể diễn tả. Thiên Chúa: MC 4-C81
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa không có ngôn từ nào có thể diễn tả. Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người. Ngài yêu thương từng con người như thể trên đời chỉ có duy nhất một người vậy. Tình yêu ấy thể hiện cách rõ nhất khi người lỗi phạm thì Ngài luôn sẵn sàng thứ tha . Đứa con lánh xa thì Ngài luôn trông ngóng nó quay về. Dụ ngôn người cha nhân hậu hôm nay đã khắc hoạ hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
Nhìn vào sự hư hỏng, phóng đãng của những đứa con thứ trong dụ ngôn, hình ảnh người cha nhân hậu càng đáng làm ta nể phục. Với tuổi trẻ ham chơi, người con thứ sớm muốn được sở hữu một tài sản cho riêng mình. Nó đã tự ý đề nghị người cha chia gia tài cho nó. Theo tập tục dân Israel , người cha không được chia gia tài theo ý thích của mình nhưng luật có những quy định rõ ràng. Người trưởng nam được hưởng 2 phần sản nghiệp, nghĩa là gấp đôi phần được chia cho những người con khác. Ơ đây chỉ có 2 người con nên người anh cả được hưởng 2/3 còn người con thứ là 1/3.
Việc người cha chia gia tài khi ông còn sống không có gì lạ, bởi người cha có thể chia gia tài cho các con khi ông không muốn hoạt động kinh doanh nữa. Tuy nhiên taì sản các con chỉ được hưởng khi người cha qua đời. Điều đáng nói ở đây là chính đứa con thứ đã lên tiếng đề nghị trước. Lời anh đề nghị với cha có ý nói rằng: Cha hãy cho tôi gia tài ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì tôi cũng được hưởng. Tin Mừng không nói người cha trả lời ra sao thì đứa con thứ đã tự lấy phần của mình rồi ra đi. Người cha không nói tiếng nào, chỉ biết bằng lòng trong đau khổ vì biết răng con mình rồi sẽ hư thân.
Thế nhưng trong dụ ngôn, Thiên Chúa vẫn luôn đặt hy vọng nơi con người tội lỗi. Một lời khen tặng duy nhất và lớn nhất của Chúa Giêsu dành cho đứa con thứ khi Ngài nói: “ Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhũ: Thôi ta đứng lên đi về cùng cha tôi ” . Đây là sự tỉnh ngộ của một người khi biết trở về với chính mình. Điều này rất quan trọng, vì chính sự trở về này mà số phận người tội lỗi được thay đổi. Con người còn chống nghịch Thiên Chúa thì con người không thực sự là chính mình. Con người thật sự là chính mình khi con người đang trên đường trở về nhà Cha.
Một điều hết sức lạ kỳ nơi Chúa Giêsu và cũng là sự an ủi cho chúng ta là Thiên Chúa không bao giờ nghĩ rằng con người là hư hỏng hoàn toàn. Ngài luôn đặt tin tưởng nơi con người một sự trở về. Đó cũng là tâm trạng của người Cha trong dụ ngôn. Ngày ngày người cha cứ đứng chờ đứa con nơi đầu ngõ. Chờ để đón nhận, chờ để tha thứ cho con. Sự tha thứ của người cha này không một điều kiện, không một lời trách móc, ngăm đe.
Người con thứ trở về là niềm vui lớn cho người cha. Dù Kinh thánh không đề cập đến nỗi đau của người cha, song chúng ta hiểu ông ây rất đau khổ lắm. Kinh thánh cũng không nói thời gian đứa con xa nhà là bao lâu, nhưng ta hiểu người cha phải nhiều phút giây trăn trở lo lắng cho người con. Khi con trở về niềm vui đã khoả lấp mọi đau buồn, chỉ biết chạy ra ôm chầm lấy con.
Người con cả, bao năm sống trong nhà cha mà anh sống như người ở ngoài vậy. Anh là đứa con cứng nhắc và hẹp hòi. Anh đã nổi giận với cha, không chịu ăn mừng khi người em trở về sau những ngày phóng đảng. Thế mới hiểu ra, trước giờ anh hầu hạ cha không mang tâm tình của người con nhưng mang tâm tình của người giúp việc mong được trả lương. Cách “ hầu hạ ” cha như thế anh đã đánh mất diễm phúc đích thực là hằng ngày được sống bên cạnh cha và được thừa hưởng tất cả những gì là của cha. Anh chỉ biết vâng nghe người cha làm việc trong bổn phận mà quên đi điều mình phải làm tất cả trong yêu thương. Anh đã sống gần cha mà không nhận ra tình thương của cha. Thiết nghĩ anh là đứa con tuy không đi xa nhưng cần phải trở về.
Đời sống của mỗi người có lẽ nhiều lần đã bỏ Chuá quá xa đến nỗi không còn biết đâu là lối để quay về. Những lún chìm quá nặng nề trong tội lỗi, những nghi ngờ trước tình Chúa yêu thương khiến ta không dám quay bước trở về. Ta nên vững tin rằng, Thiên Chúa ngày ngày luôn đợi chờ ta và sẵn sàng đón nhận, ăn mừng khi ta biết quay trở về.
Không một Tín Hữu Kitô nào mà không biết đến dụ ngôn "Người cha nhân hậu và đứa con hoang MC 4-C82
Không một Tín Hữu Kitô nào mà không biết đến dụ ngôn "Người cha nhân hậu và đứa con hoang đàng" trong Tin Mừng theo Thánh Luca. Không cần bày tỏ nhiều, có lẽ không ai là không hiểu tình yêu quảng đại bao la mà người cha đã dành cho người con tội lỗi biết ăn năn trở lại của mình. Thế nhưng có lẽ còn cần phải kể thêm đến tình thương người cha dành cho người con trai cả của mình.
Thực ra đây không chỉ là một dụ ngôn đơn thuần, nhưng chứa đựng cả một huyền thoại về tình yêu mà người cha nhân hậu dành cho hai con trai mình. Có làm cha mẹ mới hiểu được lòng cha, mới hiểu được tình mẹ. Ai chưa một lần trải nghiệm điều đó, thì ắt hẳn sự am hiểu chỉ dựa trên lý trí và lý thuyết mà thôi, nhưng nếu đã từng làm cha làm mẹ mới hiểu tình yêu cha mẹ dành cho những đứa con là vô vị lợi và hoàn toàn không thiên vị.
Là con cả trong gia đình, người anh chu toàn trách nhiệm của mình, không một sai sót nào để cha phải khiến trách. Những tưởng anh đã hoàn hảo trong mắt mọi người, vậy mà anh lại trở thành kẻ bất hạnh vì ghen tương với chính đứa em tội lỗi đáng thương của mình. Có lẽ anh chỉ chu toàn bổn phận trong trách nhiệm và lòng tự trọng, anh đã chưa sống thật với chính mình, anh đã không sống và làm việc bằng chính tình yêu.
Đây không chỉ là lỗi của riêng anh nhưng có lẽ là tội chung của cả nhân loại. Con người thì thường dùng lý trí, công bằng theo nhãn quan nhân loại để phán đoán mọi sự việc, nhưng đối với Thiên Chúa thì khác hẳn. Ngài gửi đến chúng ta dụ ngôn trên với một thông điệp hết sức thiêng liêng: hãy biết sống và làm việc với chính trái tim là Lòng Mến của mình. Nếu có thể sống được như thế thì thế giới này thật hạnh phúc, không còn ghét ghen, tranh chấp, không còn chiến tranh, giành giật quyền lực, chức vị…
Nhưng làm thế nào đây, vì chính anh em con một nhà còn ganh tỵ, tranh chấp hơn thua với nhau, lấy chi người ngoài, không máu mủ, ruột rà. Chỉ vì quá coi trọng các giá trị vật chất mà con người đánh mất giá trị cao quý của mình chính là tình thương mến thương. Khổ nỗi, cái vật chất ấy quá gắn với nhu cầu cơm ăn áo mặc hàng ngày của họ khiến con người đâm ra nô lệ cho chúng lúc nào không biết.
Tình yêu Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta bao la mênh mông như người cha nhân hậu. Ngài giàu có vô cùng, trong Ngài có toàn thể vũ trụ tạo thành. Và cả hoàn vũ ấy của Ngài cũng là dành cho chúng ta. Con người đâu có nghèo đói nhưng lại giàu có vô cùng, vì con người có cả Thiên Chúa làm gia nghiệp. Thế nhưng chính vì không nhận định rõ điều ấy và không can đảm sống điều mình nhận biết, cho nên bất hạnh xảy đến.
Nếu như người anh cả hiểu được điều cha dành cho mình: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con” ( Lc 15, 31 ) thì có lẽ anh đã là người hạnh phúc nhất trên thế giới này và không còn cảm thấy phải hơn thiệt với em nữa: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng” ( Lc 15, 30 ).
Sai lầm của anh cả chính là ở đây, anh đã để cho giá trị vật chất làm lu mờ hết trái tim biết yêu thương, hủy hoại cả một lý trí khi đặt giá trị vật chất lên trên tình cảm gia đình, huyết thống. Thay vì phải vui mừng vì “Em con đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy” ( Lc 15, 32 ) thì anh lại đi đố kỵ ganh ghét. Con người chúng ta cũng vậy, cứ hỏi sao mà thấy bất an, cuộc đời sao mà nhiều sóng gió, đơn giản chỉ vì chúng ta không coi trọng giá trị tinh thần mà thôi.
Nếu ý thức được rằng Thiên Chúa yêu chúng ta nhiều như vậy, trước, đang và cả khi chúng ta đang phạm tội Ngài vẫn yêu thương tha thứ và chờ đợi chúng ta trở về. Đối với Ngài, sự trở lại là quan trọng hơn cả. Mọi quá khứ, mọi lỗi lầm, mọi sai sót đều vô nghĩa với một Thiên Chúa chỉ và chỉ có tình yêu thương.
Lạy Chúa, ai trong đời mà không một lần đi hoang phạm tội, vì đó cũng chỉ là lúc họ thể hiện cái tôi bản thân lớn hơn tất cả. Nhưng khi biết tỉnh ngộ, dừng lại và trở về, họ mới thôi thao thức. Người con thứ đã đi hoang và trở về, thì người anh lại bắt đầu một cuộc đi hoang ! Còn tình thương người cha dành cho cả hai con thì vẫn cứ xoay vòng, luôn tuần hoàn và không thay đổi.
Đời con cũng vậy, không biết đã trải qua bao cuộc đi hoang và bao cuộc trở về… nhưng con vẫn chưa thể là người hạnh phúc vì trên vai còn nặng gánh lo toan bộn bề của cuộc sống. Giả như con biết được rằng “mọi sự của cha là của con” ( Lc 15, 31 ) thì con đã hạnh phúc lắm rồi.
Xin giúp con, hãy trở về, đừng lăn tăn điều gì nữa. Hãy về lại ngôi nhà xưa, nơi đóng dấu tình yêu Thiên Chúa luôn dành cho con và chờ đợi con.
Dụ ngôn đứa con phung phá hay nói đúng hơn là câu chuyện về tấm lòng của một người cha, là: MC 4-C83
Dụ ngôn đứa con phung phá hay nói đúng hơn là câu chuyện về tấm lòng của một người cha, là câu trả lời trực tiếp cho những bàn tán của bọn biệt phái trước việc Chúa Giêsu thường đi lại và ăn uống với phường thu thuế và tội lỗi.
Dụ ngôn này, câu chuyện này được chia làm hai phần. Phần thứ nhất nói đến lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa qua hình ảnh người cha mòn mỏi trông chờ đứa con trở về. Và khi cậu trở về thì đã mở tiệc ăn mừng, và trao lại cho cậy đầy đủ quyền làm con như khi trước.
Phần thứ hai có tính cách biện hộ khi diễn tả sự phản đối với cách cư xử của người cha lúc đứa em tội lỗi trở về. Đó cũng chính là tình trạng cụ thể mà Chúa Giêsu gặp phải trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng cứu độ của Ngài.
Câu chuyện được kể lại bằng những chi tiết rất sống động. Thực vậy, tội của đứa con hoang đàng quả là rất lớn. Nó đã sử dụng tiền của làm ra với bao công lao khó nhọc vào cuộc truy hoan trác táng, để rồi kết thúc trong nghèo đói và túng quẫn. Đối với người Do Thái heo hay lợn là một con vật nhơ bẩn. Chăn heo hay chăn lợn là một việc làm nhờm tởm. Tình cảnh khốn quẫn đã đưa đứa con đến tột cùng của sự thảm hại, bị loại ra khỏi cộng đồng dân Chúa đã đành, mà còn bị loại ra khỏi cộng đồng con người, bởi vì trong cơn đói khát, nó đã thầm ước được ăn chút cám bã dành cho súc vật mà cũng chẳng được.
Tuy nhiên, điều làm cho chúng ta xúc động vẫn là thái độ của người cha. Câu chuyện kể lại rằng: Ông đã thấy đứa con từ đàng xa. Chi tiết này chứng tỏ ông hằng trông mong và đợi chờ. Và khi đã nhận ra con, ông vội chạy đến ôm chầm lấy con, hôn con một cách nồng nhiệt, đặt đứa con hối cải vào đúng vị trí của nó trong gia đình, rồi mở tiệc ăn mừng.
Thái độ của người con cả cũng được trình bày một cách sống động. Anh là người con chí thú làm ăn, nhưng xem ra quan hệ với người cha không được đằm thắm cho lắm. Tuy ở nhà với cha, nhưng lòng anh vẫn xa cách. Kết quả là anh đã không hiểu nổi cách xử sự của người cha đối với đứa em vừa trở về. Do đó, thay vì nhập tiệc chia vui với người cha và với đứa em, thì anh đã dừng lại ở cửa, tự mình đứng ở cái thế tách biệt với gia đình sum họp. Đoạn Phúc Âm hôm nay quả là một tin mừng cho người trở lại, nhưng đồng thời cũng là một lời cảnh cáo đối với những người ở trong nhà. Thực vậy, câu chuyện cho thấy người cần phải trở lại hơn hết lại chính là người con cả, người con vẫn ở nhà với cha, nhưng cõi lòng thì không ở cùng cha.
Câu chuyện về đứa con phung phá, còn có thể được gọi là câu chuyện về tấm lòng của một người: MC 4-C84
Câu chuyện về đứa con phung phá, còn có thể được gọi là câu chuyện về tấm lòng của một người cha, hay nói đúng hơn là câu chuyện về ba cha con.
Thực vậy người con thứ chỉ là một tay giang hồ hèn nhát. Phải chi nếu vì thương cha nhớ mẹ mà anh ta trở về thì còn khá, đằng này chỉ vì đói khát, thèm ăn cả cám heo mà cũng chẳng được, thôi thì đành trở về. Mà đã trở về thì cũng phải ca mấy câu cho xong chuyện với ông già.
Nhưng người cha là một nhân vật tuyệt vời. Ông đã món mỏi chờ đợi kẻ đi hoang. Ông nuôi một con bê và ngày ngày ra tận ngoài đường trông ngóng. Bằng chứng là khi đứa con rách nát trở về thì ông đã nhận ra nó tự đàng xa và chạy lại ôm choàng lấy nó mà hôn. Ông đã tha thứ cho nó từ lâu rồi, nên đâu có để ý đến sáu câu nó vội ca lên khi gặp ông. Ông truyền mặc áo đẹp cho nó, xỏ nhẫn và xỏ giày cho nó. Đây là những biểu tượng của người con trong gia đình. Nó chỉ muốn làm đầy tớ để được ăn no, nhưng ông đã trả lại cho nó địa vị người con để được hưởng mọi quyền lợi. Rồi ông lại truyền giết con bê nuôi sẵn để thiết tiệc mừng đứa con như đã chết mà nay sống lại.
Nhân vật thứ ba của câu chuyện là người con cả. Anh ta là một người siêng năng, cần cù, hết mình tận tuỵ với cha, nhưng lại tự ti và ích kỷ: Là con trưởng nhưng lại chỉ biết sống như một người đầy tớ, như một kẻ nô lệ, không ý thức rằng hễ đã là con thì cũng có quyền thừa kế, nghĩa là được làm chủ gia tài của cha. Trái lại, anh ta chỉ biết làm công để được nuôi trong nhà mình như một kẻ xa lạ. Vì không ý thức địa vị là con, là chủ của mình, nên anh ta chẳng tình nghĩa gì với cậu em trai, đã không biết chia sẻ niềm vui của cha thì chớ, anh ta lại còn trách móc hằn học ghen tương.
Bọn biệt phái khi nghe câu chuyện này thì đã hiểu ngay cái ý nghĩa Chúa Giêsu muốn nhắm tới. Người cha là Thiên Chúa hay cũng có thể nói là chính Ngài. Đứa em giang hồ là những quân thu thuế và kẻ tội lỗi, mà Ngài thường ưu ái. Còn cậu cả chính là họ. Bởi vì họ thường lấy làm chướng tai gai mắt khi thấy Ngài đi lại và ăn uống với phường tội lỗi. Điều Chúa Giêsu khiển trách, đó là họ tuy đạo đức, chẳng hạn như đọc kinh nhiều, ăn chay lắm, nhưng lại thiếu lòng nhân ái, thiếu tình thương người, và như vậy là thiếu chính cái mà Thiên Chúa đòi hỏi vì Thiên Chúa đã phán: Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải của lễ.
Ngày nay, khi nghe đọc dụ ngôn này, không hiểu chúng ta, những người vốn tự hào là những con chiên ngoan, có dám can đảm nhận ra nơi mình hình ảnh cậu cả hay không. Bằng chứng là vẫn thấy nhiều người sẵn sàng lên án, ném đá những người ngoại tình, những kẻ tội lỗi. Không thiếu những người được coi là đạo đức thánh thiện, lại rất khắt khe với kẻ tội lỗi. Tệ hơn nữa, người ta còn nhân danh sự thánh thiện của Thiên Chúa mà đòi xử phạt kẻ có tội.
Những thái độ trên hoàn toàn đi ngược lại tinh thần của Chúa Giêsu, Đấng đã đến để tỏ lộ lòng nhân từ khoan dung của Cha chí ái. Qua đó, Chúa Giêsu nhắm thẳng vào những kẻ thiếu tình huynh đệ, cõi lòng của họ chai đá, không biết cảm thông nỗi đau khổ của người khác và cũng chẳng biết chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa, là được đón nhận những đứa con hư hỏng biết tìm đường trở về.
Để kết luận, là những kẻ tội lỗi chúng ta hãy can đảm trỗi dậy trở về cùng Chúa, đồng thời cũng hãy có thái độ khoan dung độ lượng với những kẻ tội lỗi, như thái độ của Chúa Giêsu trong câu chuyện chúng ta vừa nghe.
Leonard da Vinci là một họa sĩ tài ba, nhưng khi vẽ bức tranh Bửa Tiệc Ly trong nhà cơm của tu: MC 4-C85
Leonard da Vinci là một họa sĩ tài ba, nhưng khi vẽ bức tranh Bửa Tiệc Ly trong nhà cơm của tu viện Đức Mẹ Ban Ơn tại thành phố Bắc Italia, ông phải mất nhiều năm mới hoàn thành bức tranh vì không tìm ra những người mẫu thích hợp. Một hôm nọ, ông gặp trong công viên Castellô một thanh niên tên là Francisco, gương mặt bầu dục tuyệt đẹp với phần trán an hòa và quý phái, đôi mắt suông và trong suốt, tóc vàng hoe có dợn sóng. Leonard liền mời chàng trai tuấn tú ấy đến ngồi làm mẫu để ông vẽ Chúa Giêsu.
Vài năm sau bức họa vẫn chưa xong. Ông ngày đêm gãi đầu bứt tai vì không sao tìm ra được một người có gương mặt dữ dằn làm mẫu, để ông vẽ hình Giuđa, kẻ đã phản bội bán nộp Chúa Giêsu. Tình cờ một buổi chiều, ông thấy một người đàn ông có gương mặt xấu xa dữ dằn đang nhìn các người khác đánh cá ngựa, hắn chửi thề luôn miệng. Leonard vui mừng vì đã tìm thấy mẫu người ông đang cần. Ông gọi hắn ra một góc và đề nghị với hắn nhận làm người mẫu cho ông vẽ thì sẽ được thưởng nhiều tiền. Gã đàn ông nhận lời và cùng họa sĩ vào tu viện Đức Bà Ban Ơn. Trong lúc họa sĩ đang chăm chú nhìn gương mặt gã với vầng trán buồn, đôi mắt dữ tợn, tai dựng đứng và dường như đang nhớ đến một kỷ niệm nào đó, thì ông nghe một tiếng nghẹn ngào. Ông hỏi hắn: Có chuyện gì vậy? Bác cảm thấy người không khỏe hay sao? Gã đàn ông trả lời: Thưa thầy, chắc thầy còn nhớ cách đây ba năm, tôi cũng ngồi trên chiếc ghế này làm mẫu cho thầy vẽ hình Chúa Giêsu. Gã đàn ông nhìn bức tranh gần hoàn thành trên tường và thở dài nói: Tôi thật là một tên khốn nạn, đam mê và tội lỗi đã biến tôi ra thân tàn ma dại như thế này.
Mẩu chuyện liên quan tới cuộc đời Francisco kể trên, giúp chúng ta cảm nhận thấm thía ý nghĩa dụ ngôn người con hoang đàng của Chúa nhật hôm nay. Dụ ngôn người con hoang đàng trong Phúc Âm thánh Luca là một trong các dụ ngôn hay và cảm động nhất, chứng minh cho thấy tài giảng dạy của Chúa Giêsu. Có ba nhân tố giúp chúng ta hiểu dụ ngôn một cách sâu đậm hơn:
Thứ nhất là động từ "lẩm bẩm". Trong ngôn ngữ của Kinh Thánh, nó là động từ diễn tả thái độ của dân Do Thái phản đối ơn Chúa và khước từ kiểu cách cứu độ của Ngài. Nó là động từ mà chúng ta thường gặp trong các sách Xuất Hành, Dân Số, và Đệ Nhị luật đề cập đến 40 năm dân Israel lang thang trong sa mạc, và thường xuyên nổi loạn chống lại Thiên Chúa và phản đối các ơn của Ngài. "Lẩm bẩm" cũng là động từ diễn tả thái độ người tội lỗi bé nhỏ, tối tăm ngu muội, nhưng lại yêu sách muốn chỉ vẽ cho Thiên Chúa biết phải hành xử như thế nào để cứu rỗi nhân loại. Đây cũng là thái độ mà người Biệt phái và luật sĩ có đối với Chúa Giêsu. Cũng giống như cha ông họ ngày xưa, họ lẩm bẩm chỉ trích Chúa Giêsu giao du nói chuyện và ăn uống với người tội lỗi, bọn thu thuế, đĩ điếm. Khi kể cho họ nghe dụ ngôn người con hoang đàng, Chúa Giêsu muốn dạy cho họ biết rằng Thiên Chúa không suy tư và hành động như vậy. Trước lời phản kháng của người con cả, muốn cho cha mình đập thằng em hư đốn một trận nhừ tử nên thân, rồi tống cổ nó ra khỏi nhà, nhưng người cha hiền từ trả lời: "Em con hư mất và nay lại tìm thấy".
Động từ "hư mất" là nhân tố thứ hai giúp chúng ta hiểu rõ sứ điệp của dụ ngôn trong Phúc Âm. Từ "hư mất" không có nghĩa luân lý như chúng ta thường hiểu trong ngôn ngữ ngày nay. "Hư mất" ở đây có nghĩa là hoàn toàn thất bại trong ơn nghĩa làm người và làm con cái Chúa của mình. Nó ám chỉ thái độ khước từ trở về trong vòng tay yêu thương của Thiên Chúa tạo hóa, trở về trong lòng bàn tay đã nhào nặn nên con người như Thiên Chúa. Đấng đã sáng tạo nên con người, cho con người được sống tràn đầy hạnh phúc, đã có thể ngồi yên để nhìn sự thất bại hoàn toàn đó của con người, và đây là một lý do khác khiến cho Chúa Giêsu kể cho mọi người nghe dụ ngôn người con hoang đàng. Nói cách khác Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng, ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho con người là một sự kiện, là một thực tại cụ thể, con người tiếp nhận ơn cứu độ khi trở về trong vòng tay yêu thương ấp ủ, nhân từ của Thiên Chúa.
Và nhân tố thứ ba giúp chúng ta hiểu dụ ngôn một cách sâu xa, đó là sự hiện diện của người anh cả trong câu chuyện. Kiểu cách suy tư và hành xử của người anh cả diễn tả kiểu sống của tất cả mọi người không hiểu và không chấp nhận thái độ hành xử của Thiên Chúa đối với con người. Người anh cả nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ có nhiệm vụ thưởng người có công và phạt kẻ có tội thế thôi, mà không hiểu rằng Thiên Chúa không thể đứng yên nhìn cảnh con người do chính Ngài tạo dựng nên, và giữ gìn yêu thương quý mến, nâng niu trong lòng bàn tay vô hình của Ngài phải hư mất, phải thất bại trong ơn gọi làm người và làm con cái Chúa của mình. Và chính để cứu rỗi loài người khỏi hư mất, khỏi thất bại trong ơn gọi cao cả ấy mà Thiên Chúa đã nhập thể làm người, làm anh, làm cha, làm mẹ để đem con người trở về với vòng tay yêu thương của Ngài. Khi rộng mở vòng tay ôm đứa con hoang đàng vào lòng, là Thiên Chúa canh tân niềm vui tạo dựng, khi nâng niu con người trong lòng bàn tay thánh thiện, quyền năng của Ngài trong thời sáng tạo. Con người xinh đẹp vẹn toàn ấy đã hư mất mà nay lại trở về với Chúa. Chính vì thế nên phải mở tiệc mừng.
Chúng ta không biết câu chuyện kết thúc ra sao. Không hiểu sau khi tha thứ và phục hồi phẩm giá cho người con đã hư mất ấy, người cha già có thành công trong việc thuyết phục người con cả để vui vẻ vào nhà dự tiệc mừng em sống lại hay không? Nhưng chúng ta biết một điều chắc chắn, đó là đa số trong chúng ta đều có cùng một tâm thức và cung cách hành xử như người con cả. Chúng ta không bỏ Chúa đi hoang, nhưng chúng ta không ở trong nhà Chúa, không sống với Chúa, không có tâm tình và kiểu cách hành xử phản ánh Tin Mừng của Chúa. Nghĩa là chúng ta cũng rất xa Chúa và như thế có khác nào chúng ta cũng hư mất, cũng giống như người con cả trong dụ ngôn. Cho đến nay, chúng ta chưa quyết định bỏ Chúa nhưng chúng ta cũng chưa bao giờ nhất quyết bước vào nhà sống với Chúa thật sự. "Con ơi, mọi sự của Cha là của con". Chính lời nói đó của người cha già khiến anh cả sợ hãi. Anh sợ hãi vì có một con tim, như con tim dịu hiền quảng đại vô bờ của cha. Anh sợ hãi phải có cái nhìn yêu thương đại đồng, tâm tình bao dung của cha. Anh sợ hãi phải sống mà không hề nuôi các tâm tình thù ghét, báo oán, gian ác trong lòng.
Cũng như anh con cả của dụ ngôn, chúng ta sợ hãi phải trở nên giống Chúa, hoàn toàn phải chia sẻ mọi sự với Chúa và nên thánh như Chúa. Do đó chúng ta giữ đạo nhưng không sống đạo. Có thể chúng ta thường xuyên đi xem lễ mỗi ngày Chúa nhật hay cả ngày thường nữa, thường xuyên lãnh nhận các bí tích nhưng đạo không thấm vào lòng chúng ta. Ra khỏi nhà thờ, chúng ta ăn nói chua ngoa và hành xử gian dối như những người không hề biết Tin Mừng của Chúa. Và đạo đó, quả thật là đạo nhà thờ, như người ta thường gọi. Nếu sống như thế là chúng ta khước từ chấp nhận mầu nhiệm nhập thể của Chúa và như thế cũng là đi hoang rồi.
Trong thư thứ hai gởi tín hữu Côrintô 5,17-21, thánh Phaolô kêu gọi mọi người sống tình trạng ơn thánh mà Chúa Kitô đã trao ban cho mọi người qua cái chết và sự phục sinh của Ngài. Nghĩa là sống như một thụ tạo mới, với một con tim mới và một tinh thần mới, như tiên tri Giêrêmia đã khẳng định trong chương 31 và tiên tri Êdêkiel loan báo trong chương 36. Ơn hòa giải mà Thiên Chúa trao ban cho con người qua cái chết của Chúa Giêsu, cũng có nghĩa là ơn tha thứ và ơn cứu độ. Cuộc sống mới ấy trao ban trả lại cho con người các liên hệ quân bình với Thiên Chúa, với tha nhân và với chính mình. Chương 5 sách Giosuê nhắc cho dân Do Thái biết lời hứa cứu độ hiện thực qua biến cố Thiên Chúa giải phóng họ khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai Cập, đã dẫn đưa họ trở về Đất Hứa. Cuộc sống khổ nhục buồn thương không tự do, không phẩm giá xưa kia không còn nữa, giờ đây dân Do Thái bước vào đất Hứa và bắt đầu cuộc sống mới với các buổi lễ vui, với công việc phụng tự, và các cơ cấu đánh dấu một khúc rẽ mới trong lịch sử của họ. Lịch sử của một dân tộc luôn được Thiên Chúa yêu thương che chở và mời gọi bước theo Ngài.
Ngày nay báo chí và các hãng du lịch ở Tây phương thường đăng quảng cáo, không những các: MC 4-C86
Ngày nay báo chí và các hãng du lịch ở Tây phương thường đăng quảng cáo, không những các danh lam thắng cảnh nhưng cả những chương trình hồi phục sức khỏe, giảm trọng lượng cơ thể, thể dục, tắm hơi nóng, tập Yoga, hoặc theo các phương pháp đông phương. Các bài quảng cáo đó nói rằng: Sau một vài tuần, các tham dự viên sẽ trở thành con người mới ăn ngon, ngủ kỹ hơn, hạnh phúc và trẻ đẹp hơn, họ tìm lại được an bình nội tâm. Những địa điểm hoặc chương trình phục hồi sức khỏe có lẽ là một điều tốt đối với một số người, cũng có thể là đắt đỏ. Nhưng cũng có thể là làm cho người tham dự được trở thành một con người mới, ít nhất là trong một thời gian.
Điều mà những địa điểm và chương trình phục hồi sức khỏe đó có thể làm cho tâm lý và thể lý của con người như vừa nói, cũng có thể tương ứng phần nào với điều mà Chúa có thể làm cho chúng ta, để trong việc thiêng liêng, như thánh Phaolô đã nói với các tín hữu thành Côrintô trong đoạn sau đây: "Anh em thân mến, nếu ai ở trong Đức Kitô thì người đó sẽ là một thụ tạo mới. Những gì là cũ đã qua đi, nay đây tất cả mọi sự đã trở thành mới". Câu nói này của thánh Phaolô có hai ý nghĩa.
Một đàng thánh Phaolô nói về trật tự cũ của nhân loại bắt đầu từ tổ phụ Adong, đó là tội lỗi và xa lìa Thiên Chúa. Trật tự này đã qua đi và được thay thế bằng trật tự mới, bắt đầu với Adong thứ hai là Chúa Giêsu Kitô. Đây là trật tự của ơn thánh và hòa giải với Thiên Chúa, nhưng nay nhờ công nghiệp của Chúa Kitô, nhân loại được hòa giải với Thiên Chúa và sống trong ơn nghĩa của Chúa.
Ý nghĩa thứ hai trong câu nói của thánh Phaolô là ngài nói về trật tự cũ và Do Thái giáo theo Cựu Ước, trật tự này cũng qua đi và được thay thế bằng trật tự của niềm tin đối với Chúa Giêsu Kitô. Trong lịch sử Giáo Hội không thiếu những cuộc trở lại ngoạn mục của nhiều người, từ tình trạng tội lỗi ngập tràn trở thành thánh nhân như Augustinô. Tuy nhiên tất cả mọi tín hữu đều được mời gọi trở thành thụ tạo mới hằng ngày trong Chúa Kitô dưới nhiều hình thức. Trở thành thụ tạo mới có thể là biết tự chủ mình, không để cho sự đam mê hướng dẫn hành động. Thụ tạo mới cũng có nghĩa là có một cái nhìn mới về cuộc sống lạc quan hơn, ít than thân trách phận và bớt phê bình chỉ trích hơn, can đảm sống liêm chính mặc dù những người xung quanh rơi vào cám dỗ muốn làm giàu một cách dễ dàng bằng mọi phương thế, kể cả những phương thế không hợp với luật Chúa, như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cảnh giác các giáo hữu thuộc tổng giáo phận Turinô (Nước Ý), trong cuộc viếng thăm mục vụ ngày lễ thánh Giuse 19/03/1992. Trở thành thụ tạo mới trong Chúa Kitô có thể là kiến tạo những mối quan hệ mới mẻ với tha nhân, thay thế xu hướng ích kỷ bằng sự quan tâm đến những người khác và những nhu cầu của họ. Mùa Chay là mùa đổi mới con người, là mùa xuân, trong đó Giáo Hội mời gọi các tín hữu ra khỏi mùa đông của tâm hồn, để can đảm bắt đầu cuộc sống mới với chương trình sống cầu nguyện, tiết độ và chia sẻ với tha nhân. Chương trình này sẽ đưa tới lễ Phục sinh để họ có thể hát lên Alleluia.
Hôm nay chúng ta đang ở vào thời điểm gần kề lễ Phục sinh. Giáo Hội muốn cho con cái mình tìm: MC 4-C87
Hôm nay chúng ta đang ở vào thời điểm gần kề lễ Phục sinh. Giáo Hội muốn cho con cái mình tìm thấy được niềm vui sống, được kinh nghiệm hạnh phúc của một người được ơn tha thứ. Trên thực tế trong đời sống hằng ngày, có bao giờ chúng ta sống được niềm vui, niềm hạnh phúc của một người vừa thoát một hoạn nạn, một đau buồn, một cơn ác mộng và hiện đang sống trong một thực tế an toàn và thanh thản chưa? Tôi biết có một người tưởng mình mắc bệnh nan y ung thư đến thời trầm trọng chỉ còn chờ chết mà thôi. Đương sự buồn và người thân cũng rất buồn, nhưng sau khi giải phẫu cầu may, bác sĩ lại bảo là không phải ung thư, sẽ khỏi hẳn. Ai tả được sự vui mừng và hạnh phúc của người đó cũng như của thân nhân họ? Riêng cá nhân tôi, tôi cũng có kinh nghiệm của những giờ phút đó. Tôi xin được chia sẻ.
Đó là trong những năm vừa qua, thường trong giấc ngủ tôi hay có những cơn ác mộng, là thấy mình sống trong một hoàn cảnh bị đủ mọi thứ kìm kẹp hãi hùng, đến chừng giật mình hoàn hồn lại, nhận ra mình đang ở một thời đại tiên tiến. Như thế thì phải hiểu sự thoải mái, khoan khoái nhẹ nhàng đó còn lớn lao biết chừng nào. Khi con người thoát khỏi sự nguy hiểm đời đời là tội lỗi để trở thành con cái Thiên Chúa, khi con người được từ bờ diệt vong đời đời trở về sống trong ân sủng và tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa. Hôm nay gần đến lễ Phục sinh, phụng vụ mời gọi mọi người chúng ta trên con đường trở về cùng Chúa, hãy có một kinh nghiệm của niềm vui đó, sự thanh thản đó, cùng chung bối cảnh đó.
Bài đọc thứ nhất hôm nay cho chúng ta thấy sự vui mừng hạnh phúc của dân Chúa, sau khi thoát khỏi nô lệ Ai Cập và nhất là được đặt chân trên miền Đất Hứa. Không còn nữa những ngày nô lệ cực nhọc, nhục nhã, hãi hùng. Không còn nữa những ngày lang thang trong sa mạc gian lao, nguy hiểm. Thánh Phaolô, nơi bài đọc thứ hai cũng nhắc nhở chúng ta, những người có đức tin hãy ý thức và hãy sống được cái kinh nghiệm thoát khỏi hãi hùng đến bến bờ cứu độ bình an đó. Ngài nhắc nhở rằng: "Anh chị em thân mến, nếu ai ở trong Đức Kitô thì người đó là một thụ tạo mới, những gì cũ đã qua đi rồi". Nói chung, tất cả Lời Chúa hôm nay đều mời gọi chúng ta đổi mới, trở về nhà Chúa để sống niềm vui gia đình và hạnh phúc trong tình cha con, anh chị em với nhau. Rõ ràng nhất, cảm động nhất phải là lời mời gọi của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm. Và chúng ta phải thấy rằng, muốn thực hiện cuộc trở về thật sự để sống trong niềm vui trọn vẹn, hạnh phúc hoàn toàn, mỗi người phải thi hành hai khía cạnh của một cuộc trở về. Đó là trở về cùng Chúa và trở về cùng anh chị em của mình, cùng những người chung sống với mình.
Hai người con trong bài Phúc Âm là hình ảnh của hai cuộc trở về đó. Chúng ta hãy cùng nhau nhìn rõ hơn vào dụ ngôn nổi tiếng và tuyệt vời này của Chúa Giêsu, để thấy chính tình yêu, sự tha thứ, sự tìm về lại với nhau tạo niềm vui hạnh phúc cho con người. Trước tiên là tình yêu, tình yêu của người cha đối với cả hai người con bao la vô tận. Với người con phung phá trở về ông bảo: "Con ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Với người con phân bì ghen ghét kia ông bảo: "Hỡi con, con luôn ở với cha, mọi sự của cha đều là của con". Như thế trước sự phung phá hư thân của đứa em, cũng như trước sự ganh tỵ bướng bỉnh của người anh, người cha không rầy la trách móc chi cả, ông chỉ biết yêu thương, tha thứ để tạo lại niềm vui gia đình.
Kế đó, sự trở về của đứa con phung phá hoang đàng là động lực chính tạo ra niềm vui. Biết rằng dẫu anh trở về không vì thương cha, nhưng vì không còn chịu đựng được nữa cảnh nghèo đói túng thiếu, anh lại nhớ đến sự no đủ thoải mái ở nhà cha và nhất định đứng dậy trở về. Nhưng đối với lòng cha bao nhiêu đó đủ rồi. Người cha không cần chi nữa, miễn con mình đầy đủ, hạnh phúc vui tươi là được. Và niềm vui sum họp đó chỉ được trọn vẹn khi người con cả biết sẵn sàng tha thứ. Thật ra, người con cả ở nhà với cha nhưng cũng chẳng yêu thương gì cha anh. Nếu thương cha, anh phải cảm thấy lòng anh cùng một nhịp đập với cha vui mừng đón em về, đừng để cha phải chạy ra năn nỉ. Có lẽ chúng ta thắc mắc tại sao trong dụ ngôn, Chúa Giêsu không nói người con cả có chịu vào nhà sum họp không, để người nghe thấy được niềm vui trong gia đình có trọn vẹn hay không? Thật ra, giải đáp cuối cùng đó Chúa để cho những người biệt phái và luật sĩ trả lời. Họ phàn nàn vì Chúa Giêsu tiếp đón những kẻ tội lỗi và không bao giờ chịu vào ngồi chung bàn. Vậy tùy họ kết luận. Nếu họ tha thứ và vào, đó là người con cả vào nhà; nếu họ cứ tiếp tục phàn nàn: "Ông này tiếp đón kẻ tội lỗi" tức là anh ta vẫn ganh tỵ và bướng bỉnh, nhất định đứng ngoài cuộc.
Trong Mùa Chay, để chuẩn bị sống lại với Chúa và hưởng hạnh phúc niềm vui mà phụng vụ hôm nay mong muốn chúng ta phải có được, mỗi người chúng ta phải trở về nhà cha. Muốn được một đời sống sung túc, chúng ta phải cày sâu cuốc bẩm, vất vả suốt ngày mới có; thì đời sống thiêng liêng vô cùng quí giá, không thể ngồi không mong hưởng được. Dầu đồng hóa mình với người con thứ nhất hay người con thứ hai, tất cả chúng ta hãy cùng bước chân vào nhà để chúc tụng lòng thương xót muôn đời của Chúa, và tận hưởng niềm vui, sự an bình, quên đi những ngày buồn sầu đói khổ, nguy hiểm, hận thù, ganh ghét đã qua.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Chúa nhật IV Mùa Chay mời gọi chúng ta cảm nhận được và nhất là sống được trong niềm vui,: MC 4-C88
Chúa nhật IV Mùa Chay mời gọi chúng ta cảm nhận được và nhất là sống được trong niềm vui, niềm hạnh phúc của một người vừa thoát một hoạn nạn, một đau buồn, một cơn ác mộng và đang sống trong một thực tế an toàn và thanh thản. Có bao giờ chúng ta cảm được kinh nghiệm đó chưa? Đó là kinh nghiệm của một người tưởng mình mắc bệnh nan y đang chờ chết, nhưng sau khi đi khám bác sĩ bảo không có gì đáng ngại, sẽ khỏi. Đó là kinh nghiệm của hai vợ chồng cắn đắng nhau, gây gỗ nhau tưởng đã đi đến chỗ đỗ vỡ, nhưng sau đó tìm lại được sự tha thứ, sự giải hòa và ôm nhau trong nước mắt. Đó là kinh nghiệm của người vừa an toàn thoát khỏi một tai nạn kinh hoàng, trong những trường hợp đó, chúng ta sẽ thấy thấm thía khi hát lên thánh vịnh 124: "Hồn tôi như cánh chim đã vượt thoát bẫy của người đánh chim, bẫy đã tan tành muôn mảnh, còn chúng tôi, chúng tôi đã thoát".
Bài đọc thứ nhất trích từ sách Giosuê kể lại sự vui mừng hạnh phúc của dân Do Thái sau khi thoát khỏi nô lệ Ai Cập và nhất là sau khi đặt chân đến miền Đất Hứa. Không còn nữa những ngày lang thang sa mạc gian lao, nguy hiểm. Dân Chúa đã về đến quê hương Chúa đã hứa ban cho Abraham làm gia nghiệp, nơi đó tổ tiên của họ là Abraham, Isaác, Giacóp đã sống. Họ đã xây dựng lại, đã khai khẩn đất đai làm mùa và nhất là đã bắt đầu tiêu dùng những thổ sản quê hương, từ ruộng đất và lao công của họ. Vui hưởng ân lành của Chúa cảm thấy hạnh phúc tràn trề. Trong tình yêu thương săn sóc của Chúa, họ đã hát lên thánh vịnh 33 dùng làm đáp ca "Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi và các bạn khỏi hổ ngươi bẻ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe và Người đã cứu họ khỏi mọi điều tai nạn".
Nơi bài đọc thứ hai thánh Phaolô đã nhắc cho tín hữu thành Côrintô một hạnh phúc to lớn, không hạnh phúc, không niềm vui nào có thể so sánh được. Đó là hạnh phúc của con người trở thành tạo vật mới, trở thành con Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Công cuộc trở thành tạo vật mới đó được thực hiện nhờ sự giao hòa lại cùng Thiên Chúa. Tội lỗi làm cho con người sống xa Chúa, cắt đứt mọi liên lạc cùng Chúa, cuộc đời bị mất hướng, đời sống trở thành vô nghĩa, nhất là nguy hiểm diệt vong đang chờ đón. Nhưng may mắn cho nhân loại, cho chúng ta, thánh Phaolô bảo: "Vì Chúa Kitô, chúng tôi van nài anh chị em hãy giao hòa lại với Thiên Chúa, Đấng không hề biết tội thì Thiên Chúa làm cho nên thân tội vì chúng ta, để trong Ngài, chúng ta trở nên công chính trước Thiên Chúa".
Không còn niềm vui nào bằng, từ tội lỗi trở thành công chính, từ nô lệ sự dữ trở thành con Thiên Chúa, từ đứng bên bờ diệt vong trở thành sống đời đời, trong ân sủng và tình thương. Niềm vui được cứu thoát nô lệ Ai Cập về Đất Hứa của dân Do Thái trong sách Giosuê, nơi bài đọc thứ nhất không thể nào so sánh được với niềm vui to lớn của con người từ nô lệ tội lỗi trở về làm con cái Thiên Chúa.
Đến bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra một thí dụ tuyệt vời, rõ ràng dễ hiểu và nổi tiếng, ai cũng biết cả. Để an ủi để khích lệ người tội lỗi hãy biết suy nghĩ, hãy biết dứt khoát đứng dậy và mạnh dạn tuyên bố: "Tôi muốn ra đi trở về với Cha tôi", Chúa Giêsu đưa ra hai người con tiêu biểu cho hai cuộc trở về. Người con phung phá trở về trong tình yêu của cha mình, của mái ấm gia đình. Người con cả cần phải trở về trong tình anh em, phải biết tha thứ cho em mình, phải biết hòa nhập vào niềm vui của gia đình. Sự trở về trong tình anh em này cũng có một tầm quan trọng giống như sự trở về cùng tình cha con. Người con cả dầu tự hào là luôn sống trung thành với Cha, nhưng nếu khước từ tình anh em, thì anh vẫn là người ngoài cuộc không vào nhà và không cùng chung hưởng hạnh phúc niềm vui của gia đình. Nếu anh không vào chính là tự ý anh không vào. Người cha vẫn luôn mở rộng cửa nhà, mở rộng vòng tay, mở rộng cõi lòng năn nỉ anh.
Vậy niềm vui thật của cuộc trở về trong tình yêu thương của Chúa phải có hai chiều kích, trở về cùng Thiên Chúa là Cha và trở về cùng anh chị em của mình, chính là tha thứ, làm hòa lại với nhau, giải tỏa những hận thù và sống trong tình yêu thương. Đó là niềm vui thật, niềm vui mà ca nhập lễ kêu mời "Mừng vui lên hỡi Giêrusalem, tề tựu cả về đây hỡi những ai hằng mến yêu thành. Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng hân hoan tận hưởng niềm an ủi chứa chan".
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi noi gương người em trong gia đình nơi bài dụ ngôn của Chúa Giêsu. Tôi phải làm một hành động chứng tỏ tôi nhất định đứng dậy lên đường trở về nhà cha tôi, để sống lại trong hạnh phúc của tình yêu thương nồng thắm của Người. Hành động đó có thể là một sự dốc lòng từ bỏ một tật xấu đã từng làm tôi đau buồn, đã kéo ghì tôi trong tội lỗi hay đã làm cho những người thân yêu trong gia đình tôi phải khổ. Và kế đó học lấy bài học của người anh: Tôi không đứng để cho Cha tôi phải năn nỉ. Tôi hãy biết tha thứ cho người khác, hãy hòa mình vào niềm vui của gia đình, nhất là chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa là Cha tôi khi một người anh chị em tôi trở về nhà Cha.
Trả lời những câu nói xa nói gần ác ý của những người Biệt phái, Đức Giêsu nêu ra những dụ: MC 4-C88
Trả lời những câu nói xa nói gần ác ý của những người Biệt phái, Đức Giêsu nêu ra những dụ ngôn đẹp lạ lùng về lòng từ ái, nhất là dụ ngôn đứa con phá gia. Biệt phái và Ký lục là những kẻ có “môn bài” giải thích Lề Luật, tự cho quyền xét đoán kẻ khác về phạm vi Lề Luật. Họ rất bất bình thấy Chúa nói chuyện, hơn nữa, tỏ ra thân mật với những kẻ tội lỗi. Chúa công khai ghét sự tội vô cùng, lên án sự tội dù nó mai phục trong những chốn hiểm hóc nhất là tâm và trí con người. Vậy mà Chúa lại dễ tính để người ta gọi Người là bạn của những kẻ thu thuế và những kẻ tội lỗi. Thật ra Chúa có làm bạn với hạng người ấy, vì bản thân Chúa hoàn toàn trong sạch cho nên Chúa có thể thương yêu trong sự thật hạng người tội lỗi. Bài dụ ngôn được thánh chép sử thuật lại theo một mạch lạc trong sáng, chẳng cần giải thích thêm. Chúng ta nhặt ra mấy đoạn có giá trị gợi cảm.
1) Hồi tâm lại, nó tự nhủ…
Anh thanh niên khinh bạc và ích kỷ nhận ra hơi muộn, nhưng không quá muộn, là những hành vi của anh đưa đến những hệ luỵ. Trước đây anh không muốn nghĩ đến điều đó, nhưng bây giờ những hệ luỵ tai hại xiết chặt lấy anh. Anh nhận thấy, hưởng thụ bằng cách chỉ vung tiền mà không lao động tiết kiệm tất đưa đến khốn khổ. Tuy nhiên còn có điểm đáng khen là anh không tuyệt vọng về cha anh. Nguyên tắc hồi tâm trở lại là không được tuyệt vọng về Thiên Chúa. Hơn nữa trong thâm tâm phải nhìn nhận mình bất xứng và chỉ trông cậy vào tình yêu của Cha.
2) Người con cả liền nổi giận và không thèm vào nhà…
Trên bình diện con người, phản ứng như người anh cả rất dễ hiểu. Nhưng Đức Giêsu dạy rằng trong Nước Trời, phản ứng như vậy không được. Những kẻ lành ăn ở ngay thẳng là đúng bổn phận, phải quyết chí trung kiên trong kinh nguyện và cố gắng đạo đức. Tuy nhiên họ không có quyền đặt một giới hạn cho lòng từ bi của Thiên Chúa. Hơn nữa, phải độ lượng theo lượng cả khoan dung của Người. Giả sử Thiên Chúa vui mừng thấy một đứa con hư trở về nhà Cha, thì những kẻ xưa nay vẫn hiếu thảo được mời gọi chung vui đón mừng kẻ sám hối.
3) Truyền thống Kitô giáo từ xưa đã cảm thấy điểm trung tâm của dụ ngôn này là lòng độ lượng của Cha.
Tất nhiên, điều cần thiết tuyệt đối phải có, là kẻ tội lỗi phải ăn năn hối hận. Dẫu sao, thực tại trước hết là Thiên Chúa dành cho kẻ có tội một sự quan tâm âu yếm thương xót. Đứa con hư khỏi mất công gõ cửa vì cửa mở sẵn chờ ý. Người cha chạy vội ra xa đón chờ con. Tới đây chúng ta thấy Thiên Chúa nhân lành không biết đến những hạn chế con người đặt cho sự tử tế của mình, những hạn chế có tên là tự ái, tự trọng, công bằng, v.v… Điều chắc là Thiên Chúa cầm cân nảy mực, duy trì trật tự trong mọi sự mọi việc, và chẳng thấy chỗ nào trong Phúc Âm nói rằng đứa con lãng tử khỏi phải tạ tội, khỏi phải làm điều gì để hàn gắn thiệt hại y đã gây ra cho gia đình –nhưng một vòng tay rộng mở chờ y.
Có một chàng thanh niên chán sống nơi thôn dã, đã bỏ nhà trốn lên thành thị. Ở đó, chàng đã: MC 4-C90
Có một chàng thanh niên chán sống nơi thôn dã, đã bỏ nhà trốn lên thành thị. Ở đó, chàng đã ăn chơi, trác táng… Kiếp sống sa đoạ đã đưa chàng đến chỗ thân tàn ma dại. Trong nỗi cùng cực, chàng bắt đầu hồi tâm và nhớ lại nếp sống ấm êm trong gia đình.
Chàng quyết định trở về. Nhưng trên đường về, nghĩ mình quá bất xứng, không biết cha mẹ có tha thứ không, nên chàng đã rẽ lối đi nơi khác. Ở đó, chàng viết thư về cho cha mẹ và thú nhận tội lỗi. Chàng cũng ngỏ ý: nếu cha mẹ bằng lòng thì hãy lấy chiếc áo bông treo trước cửa nhà.
Mẹ chàng đã làm gì? Bà không những treo một cái áo bông mà lấy tất cả các áo trong nhà ra treo kín cả bờ dậu trước ngõ như một rừng cờ đón rước con trở về.
Thưa anh chị em, Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Phiêu lưu trong tội lỗi, chúng ta chỉ cảm thấy chán chường thất vọng. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta từng giây phút. Tình yêu của Ngài vượt lên trên mọi tính toán, đo lường của chúng ta. Ngài thi ân cho chúng ta hơn cả sự mong đợi và cầu xin của chúng ta. Người con hoang đàng trong Tin Mừng chỉ xin được đối xử như một người làm công trong nhà, nhưng người cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Ông đã xỏ nhẫn cho anh, mặc áo mới cho anh, và sai đầy tớ mở tiệc ăn mừng.
Phải, Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta. Chính lòng thương xót của Ngài đã cứu người con. Người con ôm gia tài của cha ra đi mang theo bao nhiêu ước mơ của tuổi trẻ: tự do, tình yêu, hạnh phúc… Nhưng rồi tất cả chỉ là ảo tưởng. Ước mơ hạnh phúc không thành. Cuối cùng chỉ còn là bụng đói, xác xơ, đau khổ và tủi nhục.
Điều gì đã đưa chàng thanh niên đến quyết định trở về? Phải chăng đau khổ, thất bại, vỡ mộng, bế tắc? – Không, nếu chỉ có vậy thôi, có lẽ không đủ lý do để anh dám mang mặt trở về. Bởi đã có biết bao người rơi vào tình cảnh túng quẫn như anh, đã không dám trở về. Họ đã buông xuôi, tuyệt vọng và đã giải quyết bằng cách tự tử.
Phải có một cái gì khác trở thành động lực thúc đẩy anh trở về. Cái gì khác đó chính là tình yêu của người cha. Phải, nếu không tin vào tình yêu của người cha, chắc chắn anh sẽ không dám quay đầu trở về. Nhưng anh vẫn tin tưởng vào lòng yêu thương tha thứ của cha anh. Chính niềm tin vào lòng yêu thương của người cha đã đem lại tia sáng hy vọng, đã nâng anh đứng dậy, đã mở đường tạo lối thoát cho anh để trở về cùng cha.
Tội lỗi đưa đến chỗ bế tắc, đường cùng. Con người tự tách mình khỏi tình yêu của Thiên Chúa là đi vào chỗ chết, là “mất đi”. Tình yêu Thiên Chúa đã mở lối thoát, đã cảm hoá con người tội lỗi. Nếu không có tình yêu, không có ý thức tội lỗi, thì chỉ có mặc cảm tội lỗi mà thôi. Không phải nước mắt đổi mới tâm hồn con người mà chính là tình yêu của Thiên Chúa đổi mới tâm hồn con người sám hối. Nếu không có tình yêu của Thiên Chúa, nếu không tin mình được Thiên Chúa yêu thương, con người sẽ không tìm được con đường trở về. Phải tin mình luôn được Thiên Chúa yêu thương, phải tin rằng mình luôn có một chỗ rất đặc biệt trong trái tim Chúa, dù có bỏ ra đi, chỗ ấy vẫn không mất, chỗ ấy vẫn còn để trống, để chỉ dành riêng cho ta.
Tấm lòng của người cha thật nhân hậu, tốt lành. Người con chỉ mong có được một chỗ ngủ, một bát cơm ăn, một tấm áo mặc. Nhưng cha anh đã quảng đại vô biên, đã đón nhận người con với niềm vui rộn rã: mặc áo mới cho con, mang giầy dép cho con, rồi mở tiệc ăn mừng.
Tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Tình yêu của Ngài vượt quá mơ ước của chúng ta: “Nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, thì Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi sự” (Rm 5,20).
Trở về là gặp lại niềm vui xum họp. Trở về là “tìm lại được”, là “sống lại”. Tìm lại được sự sống, đó là ý nghĩa đích thực của việc hoán cải và cũng là lý do của niềm vui sâu xa nơi người cha. Người cha vui mừng mở tiệc không phải vì từ nay đứa con trở về sẽ giúp cho ông việc nầy sẽ làm cho ông việc nọ, mà chỉ vì từ nay anh sẽ được sống và được sống hạnh phúc dồi dào. Thật là một niềm vui hoàn toàn vị tha và rộng mở của người cha bao dung, nhân hậu.
Trong khi người cha tràn đầy niềm vui đón nhận sự trở về của người con với tất cả sự bao dung rộng mở: “Em con đã chết, nay lại sống” thì lòng người anh lại đầy tị hiềm và từ chối chia sẻ niềm vui của người cha: “cái thằng con của cha kia…”
Con của cha chứ không phải em của con. Anh tự loại mình ra khỏi gia đình. Anh kể công với cha anh như một người làm thuê, như một người tôi tớ, chớ không phải như một người con hiếu thảo: “Bao nhiêu năm qua con đã hầu hạ cha, chẳng hề trái lệnh cha, thế mà…”. Dù không bỏ cha, cũng chẳng bỏ nhà ra đi như người em, nhưng rõ ràng anh không phải là đứa con sống hạnh phúc bên cạnh cha mình. Anh vẫn gần mặt mà chẳng gần lòng.
Thưa anh chị em, chúng ta là những người con bướng bỉnh, những người con bụi đời, những người con ích kỷ của người cha nhân hậu. Người cha ấy đã đón nhận chúng ta trở về, không phải một lần, dăm ba lần, mà rất nhiều lần. Thiên Chúa là người cha luôn tha thứ cho chúng ta và đem chúng ta về với Ngài. Thế nhưng tại sao chúng ta lại cứ muốn trốn khỏi người Cha đầy lòng khoan dung, nhân hậu? Sao chúng ta cứ muốn tách rời khỏi tình yêu của Thiên Chúa khi chúng ta biết rằng Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta trở về để tha thứ, để vui mừng, tiếp đón? Lòng nhân hậu Chúa vô biên, chúng ta đừng bao giờ quên điều ấy. Nếu chúng ta nhớ Thiên Chúa nhân lành vô cùng,chúng ta sẽ không chống đối Ngài, chúng ta sẽ cố gắng làm vui lòng Ngài.
Hôm nay tôi xin đề nghị: Hãy tỏ lòng biết ơn Chúa vì đã được tha thứ bằng cách ở lại trong tình yêu của Cha trên trời. Nếu chúng ta lỡ xa cách Chúa, hãy mau trở về với Ngài. Hãy cầu nguyện cho mình và anh chị em khám phá ra tình yêu của Chúa ngay giữa cuộc sống. Bắt gặp được tình yêu Thiên Chúa như Phêrô bắt gặp tia mắt của Chúa Giêsu khi chúng ta sa ngã. Chính tình yêu của Chúa mới cứu được chúng ta.
Thánh lễ thực hiện điều đó: ngay tại đây, trong lúc này, chúng ta, những người con đang gặp lại người Cha đầy lòng yêu thương tha thứ. Hãy tạo cho Ngài niềm vui xum họp và cùng chung vui với Ngài và với anh em một nhà.
Gandhi kể lại lúc lên 15 tuổi, ông đã lấy cắp vài đồng tiền vàng từ người anh của ông. Tuy nhiên: MC 4-C91
Gandhi kể lại lúc lên 15 tuổi, ông đã lấy cắp vài đồng tiền vàng từ người anh của ông. Tuy nhiên, ông cảm thấy hành động đó thật xấu xa, đến nỗi ông quyết định tự thú với cha của ông. Ông viết tội của mình lên một tờ giấy, cầu xin được tha thứ và chịu bị phạt, và hứa sẽ không bao giờ tái phạm nữa.
Lúc cha ông còn nằm liệt giường, Gandhi đưa tận tay cho ông cụ tờ giấy đó, rồi ngồi ở bên cạnh giường chờ đợi bị xét xử. Cha ông nằm ở trên giường, và bắt đầu đọc tờ thú tội. Trong khi đọc, những giọt nước mắt cứ chảy xuống chan hoà từ đôi mắt ông. Gandhi cũng khóc. Thay vì tức giận và trừng phạt ông, người cha đã ôm lấy đứa con trai đã biết hối cải.
Cảm nghiệm rằng mình vẫn được yêu thương trong khi đang có tội đã có tác dụng sâu xa đối với Gandhi. Sau này, ông nói: “Chỉ người nào đã trải qua kinh nghiệm về tình yêu này, mới có thể nhận biết được tình yêu là gì”.
Đây là loại tình yêu mà người con thứ đã cảm nhận được, khi anh trở về nhà. Không có gì thắc mắc về việc anh ta đã cư xử tồi tệ. Tuy nhiên, khi anh quay trở về, thì điều gì đã xảy ra? Cha anh không chỉ chấp nhận cho anh trở về, mà còn đón tiếp anh nữa. Và đó không phải là sự đón tiếp hằn học hoặc nửa vời, mà là sự đón tiếp nồng ấm, với tất cả tâm tình, và đầy sự rộng lượng.
Trong sự tiếp đón mà người con thứ đã nhận được, Đức Giêsu cho chúng ta thấy thái độ của Thiên Chúa đối với các tội nhân. Nếu chúng ta là tội nhân –và ai trong chúng ta không phải là tội nhân?- thì Thiên Chúa vẫn yêu thương chúng ta, không phải là ít đi, mà càng yêu thương nhiều hơn nữa. Điều này không làm cho chúng ta sống tốt đẹp hơn, để được yêu thương vì mình là người hoàn hảo. Chúng ta cần được đón nhận và yêu thương thực sự, ngay khi chúng ta còn là tội nhân.
Thái độ của người anh cả đối với người em trai phản ánh lại thái độ của người Pharisêu đối với các tội nhân. Mặc dù là những người rất đạo đức, nhưng họ vẫn cho rằng người tội lỗi xứng đáng bị kết án hơn là cứu độ. Nhưng lòng đạo đức có công dụng gì, nếu nó không làm cho người ta trở nên thương cảm hơn đối với những kẻ bị sa ngã? Nếu chúng ta tự nhận thấy mình thông cảm với người anh cả, thì điều này càng chứng tỏ rằng tính cách người Pharisêu đang ở trong chúng ta.
Theo phạm vi rộng lớn hơn hoặc hạn hẹp hơn tất cả chúng ta chưa đáng xách giầy cho người con thứ. Bởi ai trong chúng ta có thể nói rằng mình luôn luôn trung thành? Phải chăng tất cả chúng ta đều đã từng lãng phí và sử dụng ân sủng của Thiên Chúa? Ai trong chúng ta thích được Thiên Chúa đối xử theo lẽ công bằng nghiêm khắc? Phải chăng tất cả chúng ta đều cần đến lòng thương xót hơn là lẽ công bằng?
Chính ở trong và thông qua tội lỗi của mình, mà chúng ta cảm nhận được lòng từ ái và tình thương xót của Đức Kitô. Nếu không bao giờ phạm tội, thì chúng ta sẽ không bao giờ nhận biết được ơn tha thứ của Người. Đây không phải là lời biện hộ cho tội lỗi. Nhưng thật là điều tốt đẹp, khi chúng ta nhận biết được cách Thiên Chúa đón nhận các tội nhân. Các thánh là chứng nhân cho ân sủng và sự trung tín của Thiên Chúa. Các tội nhân là chứng nhân cho tình yêu thương và lòng thương xót của Người.
“Khi một người cha cứ than thở rằng con trai của ông đã đi theo con đường xấu xa, thì ông nên làm gì? Hãy yêu thương anh ta nhiều hơn nữa” (Baal Shem Tov)
Xét theo tâm lý, phải là bậc thầy mới hoạ nổi dụ ngôn đứa con hoang đàng. Thế nhưng đây lại: MC 4-C92
Xét theo tâm lý, phải là bậc thầy mới hoạ nổi dụ ngôn đứa con hoang đàng. Thế nhưng đây lại chẳng nhấn mạnh về đứa con hoang đàng, về những nỗi khốn nạn và sự trở về của chàng ta. Mà lại nhấn mạnh nhiều đến người cha.
Tất cả những đoạn văn Thánh Luca nói về vấn đề hư mất đã kết thúc một cách ý nghĩa khi đưa chúng ta về Thiên Chúa, Đấng cứu thoát những gì đã hư hại và bù đắp dư dật.
1. Người cha để cho đứa con hư hỏng.
Trong dụ ngôn, người cha có thể, hoặc tạm thời từ chối không chia cho người con phần gia tài của anh ta, hoặc là nói cho thấy hơn thiệt. Bản văn lại chẳng đả động đến chi tiết. Người cha đã chia gia tài cho anh, và để anh ra đi. Đối với đứa con, chẳng phải vì xung khắc hay vì sự sa đoạ nào đó thúc đẩy anh ra đi, nhưng là vì anh khát khao được sống ngoài vòng kềm toả, vì háo hức khao khát kinh nghiệm, vì muốn biết cái mới lạ, vì chưa có bản lãnh, vì tính hung hăng và bản năng thích phiêu lưu mạo hiểm.
Thiên Chúa cũng để cho con người hành động. Người có thể gìn giữ con người khỏi tội lỗi bằng những đường lối quan phòng của Người hoặc bằng áp lực của ân sủng mà con người không thể nào cưỡng lại được. Thế nhưng, Người vẫn tôn trọng tự do của con người: điều này làm chúng ta ngạc nhiên và khó hiểu.
Nhưng thể theo Thánh ý của Người, sau khi con người đã được tạo dựng một cách tự do và được ban cho quyền tự do, Thiên Chúa đã thực sự để cho con người làm chủ những quyết định của mình, lại còn ban cho con người sự trợ giúp tự nhiên để thực hiện những quyết định đó nữa. Bởi chưng mọi chuyện con người thực hiện –cả khi con người làm điều ác nữa- con người cần phải có sự trợ lực của Thiên Chúa, nếu không con người hoàn toàn bất lực.
Trong dụ ngôn, đứa con lầm lạc dần dần sa sút, trước tiên là một sự phung phí dại dột, rồi hắn phung phí gia tài cho bọn đĩ điếm cho đến lúc hắn hoàn toàn chìm đắm trong tình cảnh khốn nạn và phải đi chăn heo (ta chớ quên thái độ xa lánh của người Do thái đối với loại thú vật này) rồi suýt chết đói.
Thiên Chúa cũng thế, Ngài để mặc con người tự do theo con đường đã chọn lựa, để họ xuống dốc theo ý muốn và ao ước của họ. Ai tưởng mình có thể định đoạt giá trị sự vật thì Chúa sẽ để họ theo ý riêng mình, cho đến khi họ hiểu rằng ý muốn tự quyết của họ chỉ là sự sụp đổ bất lực.
Thiên Chúa thường thông cảm với việc con người yếu đuối sa ngã giữa lúc làm bạn với bầy heo và cơn đói ám ảnh. Tuy nhiên –sẽ có một hiện tượng kỳ dị- bao lâu mọi sự tốt đẹp thì con người ít nghĩ đến Thiên Chúa. Họ muốn quán xuyến tất cả và tự mình quyết định. Nhưng khi có trục trặc vì lỗi của họ, họ vội vàng quy trách cho Thiên Chúa.
2. Người cha đón nhận đứa con hư hỏng
Trong dụ ngôn, người con đã trở về với chính mình. Bị lâm vào cảnh phiền muộn, nó mới biết đến kinh vực sâu, thú nhận lỗi lầm của mình và dọn sẵn lời thú tội: ‘Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha’. Nó ý thức mình không còn quyền lợi nữa và chỉ còn trông cậy vào lòng nhân hậu để được coi như một kẻ hèn hạ nhất trong đám thợ làm công.
Khi con người có kinh nghiệm sâu sắc và chua cay về thất bại bản thân, họ dễ ý thức giá trị của ân sủng. Lúc ấy, họ biết không thể tự sức mình mà được việc, nên phải phó thác vào ân sủng của Thiên Chúa. Tội lỗi đã làm cho con người mất địa vị làm con Thiên Chúa, cho nên, làm tôi tớ đối với nó là một đặc ân. Con người không còn đến trước Thiên Chúa Cha với tư cách một người con quấy rầy, nhưng như một kẻ van xin đầy lòng hối hận đứng trước chủ nhân. Và Thiên Chúa chấp nhận họ.
Trong dụ ngôn, người cha đã chờ đợi rồi ông đã chạy ra đón đứa con hư, tỏ lòng tha thứ mà không cần đứa con giãi bày lời thú tội. Ông đã dọn một bàn tiệc, tổ chức một buổi lễ… Đối với tội nhân hối cải, Thiên Chúa cũng có một thái độ tương tự. Ngài đến gặp họ. Phán quyết trong nội tâm và lòng hối cải đã là dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa. Kẻ lầm lạc khi tự phán quyết rồi lại quyết định trở về với Thiên Chúa, đó cũng là ân sủng.
Thiên Chúa cầu mong lại đón nhận họ. Đó là do lòng nhân hậu của Ngài. Và, nói một cách sát chữ, Ngài đem lòng yêu thương dạt dào người tội lỗi đã hối cải, quên đi quá khứ, xoá bỏ ác quả và tội vạ, và hơn nữa, cho họ được những đặc ân không ngờ, đây là mầu nhiệm khôn dò của ân sủng Người.
Bữa tiệc sẽ minh chứng là Thiên Chúa yêu thương. Người anh khó tính với cảm nghĩ tầm thường lấy vẻ liêm chính che đậy đầu óc thiển cận, tâm hồn hẹp hòi của mình. Trái lại, qua hành vi quảng đại của người cha, dụ ngôn cho chúng ta thấy bản tính thâm sâu của Thiên Chúa, tầm mức vô biên của tình yêu, nhịp điệu và hài hoà, âm vang trong Thiên Chúa.
Lầm lạc không còn là điều đáng quan tâm. Tăm tối đã biến đi. Ánh sáng chói chan khắp nơi, mọi sự thấy đẹp hơn bao giờ hết. Tội hồng phúc!... Tội lỗi là dịp vô cùng hữu ích để chúng ta nhận ra sự cao cả của Thiên Chúa đến nỗi chính các lỗi lầm của con người lại dẫn đến ơn cứu độ và vinh quang của Thiên Chúa.
Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những: MC 4-C93
Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này
Những câu này dẫn nhập cho "ba dụ ngôn về lòng thương xót". Con chiên lạc được tìm thấy, đồng tiền mất lại tìm được, đứa con mất được gặp lại. Như thế, ba câu chuyện này đã được Đức Giêsu kể ra để biện hộ. Vậy tôi bắt đầu nhìn ngắm Đức Giêsu giữa các người tội lỗi, đang đồng bàn với họ - ôi! Chiếc "bàn" kỳ diệu biết bao.
Những người tội lỗi đang ngồi ở đó với Đức Giêsu. Lạy Chúa, Chúa đã nói gì với họ, để lôi cuốn họ, khiến những kẻ khác phải lẩm bẩm?
Một người kia có hai con trai
Chúng ta có tập quán không hay chỉ nghe phần đầu của dụ ngôn, phần nói về người con trai thứ nhất, đứa con hoang đàng. Nhưng người cha mới là nhân vật chính: "Một người kia có hai đứa con trai". Đó là dụ ngôn "người cha hoang phí” mà ta sắp nghe. Dụ ngôn là một bi kịch, gồm hai hồi: Cuộc xung đột giữa một người cha và hai đứa con của ông thương yêu đồng đều và nồng nàn nhất. Đó là một câu chuyện thường được sống lại trong nhiều gia đình. Hỡi các người cha và các bà mẹ trên thế gian, đó chính là bi kịch của Thiên Chúa mà các ông bà đang sống. Vậy các ông bà hãy lắng nghe câu chuyện tình yêu đẹp nhất hình ảnh đẹp nhất của Thiên Chúa!
1. Hồi thứ nhất: Thái độ của người cha với người “con út”.
Người con thứ nói với cha rằng: ‘Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng.' Và người cha đã chia của cải cho hai con
Người con này chỉ là một kẻ hưởng thụ: Anh ta đòi hỏi tiền, yêu sách thật nhiều tiền. Anh ta chỉ nghĩ đến mình. Anh ta nhận được tất cả từ cha mình, nhưng không biết điều đó. Anh ta chỉ biết làm có một việc: đòi hỏi, yêu sách, áp lực - khiếu nại.
Người cha có thái độ hoàn toàn ngược lại với anh ta. Ông chỉ cho không, luôn chia sẻ, cho cách vô vị lợi, tôn trọng tự đo kẻ khác. Ông là chính tình yêu! Qua hình ảnh người cha này, Đức Giêsu nói với ta về Thiên Chúa. Chúng ta có hình dung Thiên Chúa như thế không?
Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. "Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: ‘Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.' Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.
Người con út này là hình ảnh của người tội lỗi, mà người Pharisêu thường hình dung ra.
a) Đó là người con nổi loạn, đòi độc lập, tượng trưng cho khuynh hướng vô thần thuộc mọi thời đại: thụ hưởng “của cải" của Thiên Chúa mà không nhìn nhận Người, lìa xa Thiên Chúa, muốn gì làm đó mà không cần kiểm soát: “'Đâu biết đến Thiên Chúa, đâu biết đến chủ tể nào". Thái độ này không phải ngày nay mới có.
b) Hơn nữa với người Pharisêu, người con Israel này đã sa xuống vực thẳm của đê tiện. Anh ta tự bán mình làm nô lệ cho một người dân ngoại, như vậy anh không còn tôn trọng ngày Sabát nữa, đâu còn giữ nghi thức ăn uống theo luật nữa: Anh ta chăn heo loại thú dơ bẩn, bị cấm và đầy ghê tởm.
c) Ngoài ra chỉ nhìn theo quan điểm thuần tuý con người, thì sống như vậy cũng không có luân lý: Đó là một con người hư hỏng, không còn bản chất người, bị xuống cấp tụt xuống hạng thú. Chính anh ta cũng sống như một thứ heo: tiền bạc, ăn uống, dục tính, chỉ biết cái tôi và cái tôi.
Người ta tăng cường sự trang điểm cho anh, vì cảm phục anh trở về. Nhưng anh ta vẫn lấy lợi ích riêng của mình làm chúa tể: "Nhét cho đầy bụng". Sự trở về nhà của anh ta, dù có nói hay thế nào đi nữa cũng chỉ là một sự tinh toán bủn xỉn để tìm được chỗ ăn chỗ ở. Anh ta đau bụng hơn đau lòng. Đó là đứa con thật tội nghiệp, nạn nhân của bản năng mình, của bạn bè mình: Nó đã mất thói quen thương yêu. Nó chỉ còn biết nghĩ đến mình.
Lạy Chúa đó cũng là hình ảnh của con! Than ôi, con vẫn thường sống như thế đó:
Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để
Chúng ta cần ghi nhận, không cần người con mở miệng thưa gởi, thì người cha đã làm tất cả rồi. Ông thể hiện bốn cử chỉ: “ông thấy anh ta đằng xa", “ông chạnh lòngthương", "ông chay đến, ông ôm hôn". Có lẽ việc "chạy đến" là cử chỉ mạnh nhất trong dụ ngôn này. Thông thường không khi nào một bề trên lại chay tới một bề dưới, nhất là khi kẻ dưới lại có một thái độ bất bình với họ.
Vâng, người ta làm sai hoàn toàn ý nghĩa dụ ngôn của Đức Giêsu khi trình bày cuộc trở về của người con này, như một gương "hoán cải". Nếu Đức Giêsu chỉ mô tả thái độ "ăn năn" của một người tội lỗi, thì giáo huấn đó có thể đã không làm cho người Pharisêu bất bình. Vì từ lâu tại Israel, như toàn bộ Kinh Thánh minh chứng, người ta đều biết rằng, Chúa luôn tha thứ cho người tội lỗi biết ăn năn. Nhưng ở đây, cách đối xử của người cha này đi quá xa. Ông không cần biết đến con ông có biểu lộ chút ăn năn thực sự nào không. Vừa thấy con từ đằng xa, ông đã chay đến gặp nó. Đức Giêsu không muốn nhấn mạnh đến thái độ của đứa con hoang đàng, những việc làm sám hối đền tội của nó; nhưng Người chỉ muốn nhấn mạnh về tình yêu nhưng không của người cha, một người cha đã tha thứ trước khi con ông thú tội, không đặt một điều kiện nào hết! Đức Giêsu nói với chúng ta làm con là như thế nào: Trước tiên đó không phải là cần có một thái độ nào đối với cha mẹ mình, nhưng là được cha mẹ mình thương yêu, dù xứng đáng hay bất xứng. Đó là điều đã được mạc khải trong ngôn sứ Hôsê: "Chúa vẫn trung thành tiếp tục thương yêu người bất trung". Lạy Chúa, Chúa thương yêu chúng con với một tình yêu vô bờ.
Các bạn tự cho mình là vô thần, hay thực tế sống như những người vô thần, các bạn là những người tội lỗi, đang xa cách Thiên Chúa, đang né tránh người, Đức Giêsu muốn nói với các bạn: "Dù các bạn không tin nơi Chúa, không yêu Chúa, thì Chúa không bao giờ ngừng tin các bạn và thương yêu các bạn!" Như vậy, chúng ta mới hiểu những người tội lỗi đã chay theo Đức Giêsu!
Bấy giờ người con nói rằng: ‘Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa...’ Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: ‘Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!
Người cha không để cho người con nói hết câu mà anh ta đã chuẩn bị trước. Ông ban cho con mình quá sự mong muốn. Đó là một lễ cưới thực sự: áo đẹp, nhẫn đeo, giày dép, bữa tiệc, âm nhạc.
Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.' Và họ bắt đầu ăn mừng
Đây là điệp khúc kết thúc hồi thứ nhất của bi kịch. Trong chốc lát, chúng ta sẽ thấy điệp khúc này có hai từ thay đổi: “con ta" thành "em con". Chết - sống lại -bắt tìm thấy. Đối với Đức Giêsu, đây là cái chết như thế nào?
Ôi đây là mạc khải bi thảm mà Đức Giêsu muốn rọi chiếu vào vùng vô thức của ta: Xa cách Chúa, là phải chết. Con thực sự hiện hữu trong tương quan với Thiên Chúa. Chỉ có đức tin mới cho ta thấy thực tại đích thực. Ta có thể tưởng mình đang sống mà thực ra đã chết.
“Tiệc mừng" của Thiên Chúa! "Niềm vui, của Người! Hoán cải, đó chỉ là bước vào niềm vui của Thiên Chúa. Thế mà rõ ràng, đó là điều mà người anh cả sắp từ chối.
2. Hồi thứ hai: Thái độ của người cha đối với người “con cả”.
Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: ‘Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ.' Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ
Đối với người con cả, người cha này cũng biểu lộ cùng một tấm lòng nhân hậu: "Ông bước ra năn nỉ". Kinh Thánh thường trở lại đề tài: Những hồng ân Thiên Chúa được ban tặng cách tuyệt đối nhưng không, qua đề tài người con út giành chỗ người con cả (St 2,36,2; MC b 4,26; Cn 30,23; Hs 12,4). Như vậy, người Pharisêu có thể nhớ tới trường hợp Giacóp đã chiếm chỗ của Esau, nhận gia tài mà đúng ra ông không được hưởng. Cũng vậy, "những người thợ giờ chót" sẽ thay chỗ những người đầu tiên "làm vườn nho" (Mt 20,18). Cũng như thế, "người hàng chót sẽ lên hàng đầu (Lc 13,30,1; Cr 15,18). Y như vậy "dân ngoại sẽ thay thế cho dân được tuyển chọn: Đó là quyền tuyệt đối và tình yêu nhưng không của Thiên Chúa (Rn 9,30). Trước thái độ của Thiên Chúa như thế, không thể nói bất công được! Chúa thương yêu tất cả mọi người. "Chẳng lẽ vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức sao?" (Mt 20,15). Lạy Chúa Cha, con sẽ tạ ơn Chúa không biết mỏi mệt vì phổ quát của Chúa. Con thường tự hỏi xem, con yêu Chúa thực sự không, nhưng con vẫn biết thương yêu con.
Cậu trả lời cha: ‘Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!
Như vậy, người con cả cho chúng ta thấy chính mũi nhọn của dụ ngôn này: Anh ta không nhận thấy trọn vẹn Tình yêu mà anh ta đang thừa hưởng.
Nhưng người cha nói với anh ta: ‘Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.
Qua dụ ngôn hai hồi này, chúng ta được mời gọi bước vào trong Tình yêu của Thiên Chúa, vào trong niềm vui của Người, khi thấy kẻ tội lỗi trở lại. Đó là lời loan báo cuộc trở lại của các dân ngoại, dân mới của Thiên Chúa. Một ngày kia, Luca sẽ đặt vào môi miệng Phêrô những lời sau đây, khi Phêrô nhận thấy ân sủng được ban cho viên đại đội trưởng ngoại giáo Conêliô: "Vậy Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu - Kitô, thì tôi là ai mà dám ngăn cản Thiên Chúa" (Cv 11,17). "Không dành đặc ân, cho ai cả". Mọi người đều được thương yêu.
CÂU TRẢ LỜI CHO NHỮNG NGƯỜI PHARISÊU VÀ CÁC KINH SƯ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Một dụ ngôn nhắm vào đám đông bị xúc phạm.
Tình hình ngày càng trở nên căng thẳng từ khi Đức Giêsu “lên Giêrusalem". Qua dụ ngôn cánh cửa: MC 4-C94
Tình hình ngày càng trở nên căng thẳng từ khi Đức Giêsu “lên Giêrusalem". Qua dụ ngôn cánh cửa đã đóng lại, Đức Giêsu tuyên bố: thuộc về dân Do Thái, không có nghĩa là tự động được dự tiệc cứu rỗi. Người kết luận: "Anh em sẽ khóc lóc nghiến răng khi thấy Ápraham, Ixaác và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được trong Nước Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Bấy giờ, thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa" (13,28-30). Những người Pharisêu và các kinh sư suýt nghẹt thở mà chết khi ngay trong ngôi nhà của một vị thủ lãnh Pharisêu đã mời người, Đức Giêsu không những chỉ chữa một người bệnh thuỷ thủng ngày Sabát, mà còn kể cho họ nghe dụ ngôn tiệc cưới: những khách được mời đã từ chối, thế là chủ tiệc cho mời "những người nghèo khó, què quặt, đui mù" gom nhặt "ngoài công trường, trên phố xá, đường đi, lối ngõ" (14,l5-24). Và rồi, họ cảm thấy như bị xúc phạm, khi Chúa Giêsu hành động theo những gì đã nói, Người: "Tiếp đón những người tội lỗi". Điều này còn tệ hại hơn nữa, vì theo phong tục Đông phương, ý nghĩa biểu tượng của việc nhận biết và đón tiếp qua bữa ăn có tầm quan trọng đặc biệt -Người "ăn uống với họ!" Bởi vậy, những người Pharisêu và các kinh sư "kêu trách Người" như ngày xưa, khi vượt qua sa mạc, tổ tiên họ đã kêu trách Chúa.
Chương 15 có giá trị thực sự là nhờ ba dụ ngôn Đức Giêsu kể cố ý nhắm vào các kinh sư và những người Pharisêu vì họ tự cho mình là công chính, mà khinh khi những người tội lỗi, và những người bị loại trừ.
Ba dụ ngôn này, được ngắt nhịp bằng một điệp khúc, ca ngợi tình thương Thiên Chúa được tỏ bày nơi Đức Giêsu; tình thương ấy dành cho những người không được thương yêu và không đáng yêu; những người, một cách gián tiếp, lên án sự nghiệt ngã và nghiêm khắc mà nhưng kẻ tự phụ là công chính dành cho họ: dụ ngôn con chiên lạc "mất rồi lại tìm thấy", dụ ngôn đồng bạc "mất rồi lại tìm thấy", dụ ngôn cậu con thứ "mất rồi lai tìm thấy".
Chỉ dụ ngôn thứ ba này được đọc trong Chúa nhật thứ 4 Mùa Chay năm C này. Dụ ngôn gồm hai cảnh liên kết với nhau. Cảnh thứ nhất: vai diễn là người con thứ. Cảnh thứ hai: vai diễn là người con cả; trong cả hai cảnh ấy, người cha đóng vai quan trọng có tính quyết định.
2. Trong dụ ngôn ấy, người con thứ đã “mất rồi lại tìm thấy”.
Khuôn mặt của người con thứ được diễn tả hơi cường điệu trong cảnh thứ nhất của dụ ngôn tuyệt diệu này. Không đợi tới khi người cha qua đời, anh đòi chia gia tài ngay. Rồi ra đi để sống tự do. Mau chóng khánh kiệt vì cuộc sống phóng đãng. Anh phải làm công cho một người ngoại giáo ở đất khách quê người, và miễn cưỡng phải "chăn heo" cho chủ - đối với một người Do Thái, đây là công việc hèn hạ - vì heo là một con vật dơ nhớp đối với Do thái giáo. Bị dằn vặt bởi ý nghĩ: ở nhà cha thì đồ ăn dư thừa, người làm công ăn không hết, thế mà ở đây anh đói khát, chỉ mong được "tống đầy bụng những thứ heo ăn" mà không được.
Vừa đói khát, thiếu thốn vừa ân hận, một ngày kia, anh quyết định trở về. Anh phác hoạ trong đầu những lời thống thiết nhất để xoa dịu cơn giận của người cha: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đón trời và đến cha, con thật không xứng đáng được gọi là con cha nữa. Hãy coi con như một người làm công trong nhà thôi".
Nhưng, chưa kịp thốt lên một lời, người cha đã giang rộng vòng tay xiết chặt lấy anh. Cho tới bây giờ, anh chưa một lần nghi ngờ tình yêu vô bờ bến của cha anh. Con tim anh rộn ràng những nhịp đập thổn thức. Không phải đứa làm thuê? Con ta chứ! Hãy mặc áo đẹp ngày đại lễ. Đeo nhẫn vào tay, biểu hiệu quyền uy. Xỏ giầy vào chân, biểu hiệu người tự do. Hãy ngồi vào bàn tiệc. Mọii thành phần gia đình đang quây quần bên bàn ăn cùng chia sẻ niềm vui của người cha.
3. Còn người anh trong tâm trạng giận dữ
Người anh "từ ngoài đồng" về đến nhà thì cuộc vui đang diễn tiến. Nghe trong nhà có nhạc vui, anh hỏi xem có chuyện gì? Hiểu ra, tâm trạng anh chuyển từ ngạc nhiên sang "giận dữ". Lại có thể cư xử như vậy với thằng con hư đốn ư? Như phản ánh thái độ của các kinh sư và những người Pharisêu luôn chỉ nghĩ đến phụng sự Chúa không sai một lời, nên, anh cằn nhằn với cha mình: "Đã bao năm con phụng dưỡng cha, không bao giờ bất tuân hay trái lệnh, mà chẳng bao giờ cha cho con một con dê để vui với bạn bè". Để ở lại nhà cha, anh đã cư xử thật không khác một người làm công, cần mẫn, nhưng vô tình, xa lạ. Anh không thể hiểu được ngôn ngữ của Giao ước mà cha anh nói với anh: "Con ơi! Con luôn ở bên cha, mọi sự của cha là của con mà". Anh chỉ nói bằng ngôn ngữ của quyền lợi và nghĩa vụ, của mệnh lệnh và phần thưởng. Như các kinh sư và những người Pharisêu đối với tội nhân, anh cũng giữ khoảng cách với đứa em mới trở về mà mọi người đang ăn mừng. "Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo để ăn mừng".
4. Lòng quảng đại phi thường của người cha
Nếu phải coi chừng để đừng quên người con cả, thì chúng ta càng không được quên chân dung người cha mà từ đầu đến cuối dụ ngôn luôn là một nhân vật trung tâm, một người cha mà tình yêu luôn thôi thúc ông hướng về các con. Ông không chỉ ngồi chờ. Phải "chạy ra" coi, và ông phải chạy ra đến hai lần.
Ông chạy ra. hấp tấp, một thái độ đặc biệt đối với người Đông phương. Ôm lấy cổ đứa con hoang đàng. Hôn nó tới tấp Nâng nó lên, ngắt quãng những lời nó định nói, đưa nó vào nhà. Nhà của nó mà. "Mau lên!" ông nói với các đầy tớ không chần chừ một giây. Phải mặc cho cậu chiếc áo đẹp nhất đúng với cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay cậu, mang giầy vào chân cậu. Giết bê béo. Dọn tiệc ăn mừng. "Mau lên!" vì một niềm vui đang trào ngập lòng ông: "Con ta đây đã chết nay sống lại đã mất nay lại tìm thấy”.
Ông lại chạy ra để nài người anh vào nhà, để người anh nhìn nhận đứa em mà anh ta đã miệt thị, để dự tiệc chung vui với mọi người.
Đây đúng là một dụ ngôn có tầm vóc thần học. Dụ ngôn của ân huệ Chúa ban tặng con người. Dụ ngôn về tình yêu nhưng không Cha ban cho mọi người, dầu tội lỗi mấy đi nữa. Cha muốn họ tham dự niềm vui, muốn mời họ khám phá ra: anh huynh đệ chân chính. Làm sao không nhìn ra qua dụ ngôn này, Đức Giêsu muốn trao cho chúng ta bí mật trong cách cư xử và đời sống của Người? Người là Người Con được Cha sai đến loan báo sự hoà giải cho các tội nhân. Đó là những người mà Đức Giêsu khắc hoạ hình ảnh nơi người em và đó cũng là những người được mời gọi nhận ra chính mình nơi hình, ảnh của người anh!
5. Một dụ ngôn đặt chúng ta trong tình trạng người anh.
Thật ra, dụ ngôn còn để ngỏ đó. Người anh cả có thuận theo lời khuyên dụ của cha anh không? Anh có bằng lòng vào chung vui không? Anh có ưng thuận chung bàn với người em đã trở nên "dơ" không? Hay anh vẫn giận dữ. Tường thuật của Tin Mừng không trả lời. Có lẽ mục đích của Tin Mừng là để chúng ta tự phác hoạ cách chúng ta sẽ đối xử với anh em mình.
Huguses Cousin kết luận: "Thính giả là độc giả hãy đặt mình vào vị trí của người anh: chính tôi sẽ ưng thuận lời thỉnh cầu của người cha hay không. Thuận thì không dễ đâu, có khi khổ nữa. Dụ ngôn cho thật sự đáp ứng ý cha không tự đến cách dễ dãi. kết thúc của dụ ngôn đặt chúng ta vào vị thế người anh. Phụng vụ Mùa Chay như chẳng hoan hỉ đặt chúng ta vào vị thế này mà trái lại, như muốn chúng ta thấy mình trong tâm trạng người em. Thánh Luca thì chắc chắn nhấn mạnh hơn đến thái độ người anh. Dẫu sao, qua suốt câu chuyện, chúng ta vẫn thấy nổi bật lên tình yêu là lòng cảm thương của người cha đối với từng người. Chính nhờ tình thương này mà tội nhân hối cải, là chúng ta vui vì họ trở về dù đôi khi rất khó mà vui được".
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Cả hai người con của dụ ngôn cùng hiện hữu trong ta
Niềm vui Phục sinh đã gần. Chúng ta có ưng thuận chia sẻ niềm vui của người cha và đón nhận lời mời gọi dự lễ?
Như dân Israel vào đất Hứa, chúng ta cũng phải sống kinh nghiệm vượt qua, đó là cuộc vượt qua của sự hoà giải, cuộc vượt qua này sẽ tái tạo chúng ta trong một hiện hữu mới.
Dụ ngôn về người cha và hai người con vẫn để ngỏ! không ai xác định được câu chuyện sẽ kết thúc thế nào.
Chúng ta hãy nhập vai. Cả hai người con cùng hiện diện trong ta. Chúng ta có thể nhận ra mình trong những ảo tưởng của họ. Cả hai cùng hiểu lầm về bản chất của mối tương quan giữa họ với cha và không biết tình yêu của cha mình. Hãy theo sát những toan tính của người con khi trở về. Anh đã sống lại nhờ người cha hân hoan loan báo sự tha thứ. Nhưng chúng ta cũng là người anh, xơ cứng trong kiêu căng vì đã trung thành với cha. Anh sẽ cải mở là chọn một chỗ ngồi trong bàn tiệc tập thể vì những kẻ mời đến, những kẻ từ xa trở về. Còn đối với chúng ta, ai sẽ là "những người khác" mà cộng đoàn chúng ta phải mở rộng cửa đón tiếp?
Nhận biết anh em là điều kiện để Cha nhận biết ta. Hoà giải với anh em là cửa ngõ để hoà giải với Thiên Chúa. Đó là chân lý trong Thánh lễ tạ ơn (eucharistie) mà chúng ta cử hành.
2. Tha thứ: từ ngữ đúng nhất của đức tin Kitô giáo.
(H. Denis, trong “100 từ ngữ diễn tả đức tin”, DDB, trg 17- 18).
Trong các từ ngữ chỉ đức tin Kitô giáo, thì chắc chắn tha thứ là ưu việt hơn cả. Không phải tình cờ mà nó nằm trong kinh Lạy Cha.
Con chiên lạc, người con đi hoang, người phụ nữ ngoại tình. Dakêu trên cây sung, người bại liệt được ròng xuống từ trên mái nhà. Đức Giêsu đã gặp tất cả nhưng người này. Họ là những người tội lỗi, lầm lạc, hư mất. Nhưng, Thiên Chúa tha thứ cho họ trong Đức Giêsu mà không cần một điều kiện tiên quyết nào. Người không đòi hỏi gì. Đức Giêsu không bảo: "Làm cái này rồi tôi tha thứ cho". Không? Người tha thứ rồi mới nói: "Hãy về và đừng phạm tội nữa".
Người ta có thể chất vấn: tại sao tha thứ lại là một điều thần thiêng như vậy? Tại sao tha thứ lại đưa người ta đến gần Thiên Chúa thế?
Câu trả lời có lẽ nằm trong chính từ ngữ: tha thứ vì tha thứ là một ân huệ ở trên cao, siêu việt.
Ơn huệ thứ nhất ta được là hiện hữu của ta như một tạo vật. May mắn là chúng ta vẫn là vậy. Nhưng cách cư xử, phong tục, lỗi lầm của chúng la có thể phá huỷ ơn huệ đầu tiên này nơi ta, làm chúng ta bị "tha hoá"
Chính lúc đó ơn tha thứ đến, một loại ơn tái tạo. Chúng ta đã chết mà nay sống lại. Chúng ta không còn phải chịu đựng lẫn nhau nửa, chúng ta lại chấp nhận lẫn nhau và lại thương yêu nhau. Đó là một cuộc tái sinh, một sự Phục Sinh, một bước đi vào đời sống mới.
Như vậy thật là tốt đẹp khi chúng ta được tha thứ. Tuy nhiên, thẳng thắn mà nói, liệu chính chúng ta có thể tha thứ được không? Tha thứ đây không phải là quên, cũng không phải là chối bỏ những xác tín của chúng ta, mà là tìm đến với kẻ xúc phạm ta. Và không cần để mất một chút gì về chân lý, hoặc về lương tri phân biệt tốt xấu, để nói với kẻ phạm lỗi: bạn là anh, là chị tôi.
Và có thể thêm một lời phi thường này: chính bạn hãy tha cho tôi, vì bạn đã không xúc phạm đến tôi nếu trước đó tôi đã không xúc phạm đến bạn.
Đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay nằm trong phân đoạn độc đáo nhất của TM Lc (9,51–19,27): MC 4-C95
Đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay nằm trong phân đoạn độc đáo nhất của TM Lc (9,51–19,27): cuộc hành trình lên Giêrusalem. Trong cuộc hành trình này, có đám đông dân chúng đi theo Đức Giêsu.
Sau khi đã giáo huấn đám đông về những điều kiện để làm môn đệ Người (14,25-35), bây giờ Đức Giêsu dùng một số dụ ngôn mà ngỏ lời với các người Pharisêu và các kinh sư, vì họ đã lẩm bẩm trách móc Người khi Người tiếp đón những người thu thuế và tội lỗi, và cùng ăn uống với những người ấy.
Ba dụ ngôn của chương 15 (con chiên bị lạc mất [cc. 4-7], đồng bạc bị đánh mất [cc. 8-10], người con hư mất [cc. 11-32]) đã được gọi là “trái tim của Tin Mừng III” (Romaroson), vì được kết cấu rất nghệ thuật để nêu bật được đề tài duy nhất là tình yêu của Thiên Chúa và lòng thương xót đối với những kẻ tội lỗi qua lời Đức Giêsu kêu gọi hoán cải.
Hai dụ ngôn đầu nói về việc tìm được cái đã mất, dụ ngôn thứ ba cũng triển khai cùng một đề tài, nhưng như một tổng hợp với những hình ảnh được vận dụng rất tài tình. Trước đây dụ ngôn này vẫn được gọi là “Dụ ngôn đứa con hoang đàng”, nhưng gọi là “Dụ ngôn người cha nhân hậu” thì hợp lý hơn, bởi vì dung mạo trung tâm của truyện chính là người cha. Hoặc để tương ứng với hai đầu đề của hai dụ ngôn trước, thì có thể gọi là “Dụ ngôn người con hư mất”, nhưng nhớ rằng nhân vật chính là người cha, cũng như trong hai dụ ngôn trước, nhân vật chính là người mục tử và người phụ nữ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Một dẫn nhập (15,1-3); 2) Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” (15,11-32):
a) Người con thứ (cc. 11-24; truyện kết thúc với điệp khúc c. 24),
b) Người con cả (cc. 25-32; truyện kết thúc với điệp khúc c. 32).
3.- Vài điểm chú giải
- Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi (1): Đây là những người ở bên lề xã hội Do-thái, những kẻ vô đạo, sống vô luân. Họ đến nghe Đức Giêsu như đã từng đến nghe Gioan Tẩy Giả (3,12-13). Tác giả Luca đã nói quá khi dùng từ ngữ “tất cả”, nhưng mục đích là cho thấy chiều hướng căn bản của sứ điệp và cách xử sự của Đức Giêsu: Người đến để tìm và cứu những gì đã mất, nghĩa là tất cả.
- lẩm bẩm (2): Cũng như ở 5,30 và sau này ở 19,7, thì imperfect cho hiểu đây là thái độ thường xuyên của người Pharisêu và các kinh sư.
- ông này (2): Đại từ chỉ định houtos có nghĩa xấu: “tên này”.
- Một người kia có hai con trai (11): Có thể giả thiết đây là một ông chủ trang trại giàu có xứ Paléttina.
- phần tài sản con được hưởng (12): Theo tập tục xứ Paléttina, một người cha có thể định đoạt về của cải của ông hoặc bằng một di chúc (HL. diathêkê) được thi hành sau khi ông qua đời (Ds 36,7-9; 27,8-11) hoặc bằng một tặng-dữ ban cho các con trong khi ông còn sống (HL. dôrêma; x. Hc 33,19-23). Trưởng nam được hưởng “hai phần sản nghiệp”, nghĩa là gấp đôi phần được ban cho mỗi người con khác (Đnl 21,17). Ở đây, vì chỉ có hai đứa con, người con cả được nhận hai phần ba và người con thứ nhận một phần ba. Khi đó, người con có quyền sở hữu, nhưng quyền thu hoa lợi vẫn thuộc về người cha cho đến khi ông qua đời. Nếu người con bán phần gia sản của mình, người mua chỉ được nhận lấy sau khi người cha chết. Khi làm như thế, người con sẽ không còn có quyền đòi hỏi gì về của cải, cả về vốn lẫn lãi.
- sống phóng đãng (13): Trạng từ asôtôs có nghĩa là “một cách không lành mạnh”. Chúng ta không biết là “không lành mạnh” cụ thể là thế nào; ở c. 30, người anh cả mô tả là “nuốt hết của cải với bọn điếm”, nhưng phải chăng anh đã phóng đại?
- chăn heo (15): Theo Lv 11,7 (x. Đnl 14,8), con heo, tuy có chân chẻ làm hai móng, nhưng không là loài nhai lại, nên bị coi là “ô uế” đối với người Do-thái. Chi tiết này cho thấy sự sa sút của chàng trai.
- nhưng chẳng ai cho (16): Thế thì anh ta lấy thức ăn ở đâu, tác giả không nói, bởi vì điều này không quan trọng.
- chạy ra (20): Chi tiết này diễn tả sáng kiến của người cha, tình yêu bền bỉ của ông đối với đứa con đã bỏ đi.
- và hôn lấy hôn để (20): Không phải chỉ là để chào đón, nhưng là bày tỏ sự tha thứ (x. 2 Sm 14,33).
- Thưa cha … con (21): Người con lặp lại lời thú lỗi đã soạn trước (cc. 18-19), nhưng trước khi anh ta kịp nói ra lời thỉnh cầu, người cha đã can thiệp rồi.
- áo đẹp nhất (22): dịch sát là “chiếc áo thứ nhất”, tức là áo hạng nhất. Như thế, người cha không xử với người con như anh ta yêu cầu (“như người làm công”), nhưng như một người khách được tôn kính.
- xỏ nhẫn… xỏ dép (22): Nhẫn là dấu chỉ quyền bính (St 41,42; Et 3,10; 8,2); dép là dấu chỉ một con người tự do.
- đã mất mà nay lại tìm thấy (24): Đây là cụm từ móc nối liên kết dụ ngôn này với hai dụ ngôn trước.
- con hầu hạ cha (29): Người con cả dùng động từ douleuein, “phục vụ”, “hầu hạ”, hàm ý là anh ta không chỉ tự liệt mình vào hạng người làm công (misthios), nhưng là hạng nô lệ (doulos): “hầu hạ cha trung thành như một tên nô lệ”.
- chẳng khi nào trái lệnh (29): Anh ta ý thức về sự trung thành của anh, anh nhấn mạnh đến lòng trung thành này, tức nêu bật điều nghịch lý ở đây là nhân đức lại được ban thưởng tồi tệ hơn là tât xấu!
- một con dê con (29): Chi tiết này cho thấy người con cả không tin tưởng vào cha, anh tính toán, kể công.
- thằng con của cha đó (30): Người con cả diễn tả mức khinh bỉ cao độ; anh ta không thể chấp nhận nói về người con thứ như là “em con”. Ở đây thêm một lần nữa, tính từ houtos được dùng với nghĩa xấu.
- lúc nào con cũng ở với cha (31): Người cha không trách móc, than thở, không nói rằng người con cả sai; ông cũng chẳng phê phán thái độ cao ngạo hoặc bình phẩm gì cả. Ông coi mọi chuyện đó là đúng như thế. Nhưng ông chỉ nhấn mạnh trên sự liên kết thâm sâu giữa cha con: “Lúc nào con cũng ở với cha” (= con chưa bao giờ chết; con chưa bao giờ mất).
- tất cả những gì của cha đều là của con (31): nghĩa là tất cả của cải (x. c. 12), những gì còn lại sau khi người con thứ đã lấy đi phần của anh ta; tất cả những thứ này sẽ thuộc về người con cả, sau khi cha chết.
- em con (32): Câu trả lời của người cha làm vọng lại công thức của người anh, và là một cách sửa chữa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Một dẫn nhập (1-3)
Các câu mở đầu (cc. 1-3) đưa chúng ta trở lại với lời các kinh sư nhắc nhở: “Đừng có một ai đi với những kẻ gian ác, cho dù để tìm cách thuyết phục họ đi theo lề luật của Thiên Chúa”. Những người thu thuế và tội lỗi không được thuộc về cộng đoàn, vì Thiên Chúa đã ngoảnh mặt đi tránh họ; do đó, Israel cũng phải làm như thế. Như thế, cấm không được nhận lời mời đến ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi. Vậy mà Đức Giêsu lại đón tiếp họ! Đã thế, Người lại còn ăn uống với họ, tức là làm một việc đáng trách hơn nữa, vì ăn uống với ai là kết giao, chia sẻ tình bạn, tình liên đới với người ấy. Cách xử sự này khiến người Pharisêu và các kinh sư rất khó chịu. Họ không chống Đức Giêsu bởi vì Người thương xót kẻ tội lỗi, nhưng bởi vì Người ăn uống với kẻ tội lỗi.
Tuy nhiên, Đức Giêsu đã đến để cứu tất cả mọi người; những người thu thuế và tội lỗi phải đến với Người bởi vì họ không gặp được ở nơi nào khác lời đưa lại niềm hy vọng và sự tiếp đón ân cần nhưng-không.
Dẫn nhập này đưa lại cho [các] dụ ngôn một đặc tính là biện hộ, là bào chữa cho cách xử sự của Đức Giêsu đối với người tội lỗi. Người giải thích không phải là cho những kẻ tội lỗi, nhưng cho những người “công chính” đã vấp phạm vì Người. Qua cách xử sự này, Đức Giêsu cho thấy là sự hoán cải không là điều kiện tiên quyết người ta phải có để được Thiên Chúa đón tiếp; trái lại Thiên Chúa đã thực hiện “sự hoán cải” trước, để người ta có thể lại đi vào quan hệ an bình với Ngài.
* Dụ ngôn “Người cha nhân hậu” (11-32)
Cả hai người con được nói tới chỉ là để cho người cha có cơ hội diễn tả các tâm tình của ông ra.
a) Người con thứ:
Sau khi đã nhận đủ phần gia tài, người con thứ đi đến một xứ xa xôi, hẳn là một miền đất dân ngoại. Tại đó, anh đã xài hết tiền của. Rơi vào tình trạng khốn đốn, anh phải chăn heo: đây là sự sa cơ thất thế cùng cực! Anh ta suy nghĩ. Nhưng không phải là hối hận về lối sống, không phải là tiếc nuối vì đã làm cho cha đau buồn. Anh ta chỉ tự trách là ngu ngốc chịu đói chịu khát ở đây trong khi các tôi tớ ở nhà có ăn dư thừa. Thế là để có thể trở về và được nhạn vào nhà như người làm công, anh chuẩn bị một bài “diễn từ cảm đông” để mong cha nguôi giạn: các lời lẽ hối tiếc không đi đôi với các tâm tình của anh.
Quả thật hình ảnh này không tôn vinh kẻ tội lỗi chút nào. Đây đúng là chân dung mà người Pharisêu chờ đợi.
b) Người con cả:
Lúc người con thứ trở về, người con cả đang làm việc ngoài đồng. Khi trở về, anh nhận ra trong nhà có chuyện lạ. Sau khi hỏi một người đầy tớ, anh ta hiểu chuyện; anh không thể chấp nhận được, anh nổi giận. Ta thông cảm với anh. Vì anh không chịu vào nhà, người cha đã ra gặp. Thế là anh cho tuôn ra hết những gì vẫn chất chứa tận đáy lòng: anh nói với giọng chua cay, nhưng kể ra đúng các sự việc. Theo anh, đúng là người cha đã xử sự bất công! Những người Pharisêu và các kinh sư cũng nghĩ rằng họ có lý khi tỏ ra khó chịu với Đức Giêsu.
Trước tiên người con cả nói về chính mình: “Bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh”. Chắc chắn đấy cũng là lý tưởng của người Pharisêu và các kinh sư: “phục vụ” Thiên Chúa bền bỉ, và rất chú ý để không bao giờ vi phạm một điều răn nào.
Sau đó, người con cả nói về em với giọng hết sức khinh bỉ. Anh không gọi là “em con”, nhưng nói là “thằng con của cha đó”. Điều này cũng giống như người Pharisêu trong dụ ngôn Lc 18,10-14 nói đến “tên thu thuế kia” với giọng miệt thị.
Như thế, Đức Giêsu đã ngỏ lời với những người vẫn nghĩ rằng mình là những tôi tớ tốt lành, luôn quan tâm để không bao giờ thiếu sót một điều răn nhỏ. Khi đó, họ nghĩ họ có nhiều quyền; họ tỏ ra khó chịu, không phải đối với người tội lỗi, nhưng đối với chính Thiên Chúa vì Ngài đã đối xử với kẻ tội lỗi như vậy: Nếu như thế, sống đạo đức còn ích lợi gì? Nếu như thế, sống trung thành và vâng phục Thiên Chúa còn có ý nghĩa gì nữa?
c) Người cha:
Người cha tôn trọng tự do của các con, ông đã chia gia tài cho các con và để chúng tự do định liệu. Ông không ép người con thứ ở lại nhà. Ông cũng không tìm cách kéo nó trở về. Ông chỉ trông mong người con từng ngày, nên ngay khi anh còn ở đàng xa, ông đã trông thấy. Ông vội vã chạy ra đón con, ông cuống quýt thúc đầy tớ chuẩn bị lễ mừng. Ông chẳng màng đến bài diễn từ bần tiện của anh ta. Ở nhà có con bê béo, ông quyết định cho giết ngay để ăn mừng. Rõ ràng trong lòng ông, niềm vui đang bùng nổ. Ông chưa bao giờ thôi thương yêu con. Nó đi xa, nó đã mất; nay nó lại được tìm thấy. Quá khứ không còn gì đáng kể, Điều quan trọng là nó đã trở về!
Đã không muốn nghe lời hối lỗi của con thứ, nay người cha lại để cho người con cả tha hồ nói lên những tâm tình chua chát. Sau đó, ông đã trả lời với giọng dịu dàng âu yếm. Qua lời ông nói, người con cả chẳng còn lý do gì mà nói rằng cha xử bất công với mình nữa. Nhưng ông tế nhị điều chỉnh: “vì em con đây…”. Nếu cha đã sung sướng đến thế khi gặp lại con, lẽ nào người anh lại không vui sướng khi gặp lại em?
Chúng ta không bao giờ biết được phản ứng sau đó của người con cả (nghe theo đề nghị của cha? Đi vào nhà và chào em? Đi vào ăn tiệc chung vui?). Chúng ta cũng không biết người con thứ được sống theo chế độ nào, anh ta sẽ đáp lại thế nào. Dù sao, toàn chương 15 giống như một bài ca chan hòa niềm vui được tấu lên để mừng niềm hạnh phúc của người đã tìm lại được điều mà họ đã mất.
+ Kết luận
Bản văn giới thiệu người cha như một biểu tượng về chính Thiên Chúa. Tình thương vô điều kiện và lòng thương xót của Ngài được tỏ ra không những đối với người tội lỗi hoán cải mà cả đối với kẻ chỉ trích vì không hiểu biết và thiếu thông cảm. Thiên Chúa mời gọi mọi người hoan hỷ khi người tội lỗi trở lại. Bởi vì lời mời gọi này được Đức Giêsu truyền đạt, và chính Người đã đón tiếp những người tội lỗi, ta hiểu là Người mời gọi mọi người hoan hỷ với Người. Nếu dụ ngôn nói với chúng ta về niềm vui của Thiên Chúa, thì lại chính là Đức Giêsu phác ra trong dụ ngôn đó cách thức hành động của chính Người. Có một sự đồng hóa ngầm giữa hành vi của Thiên Chúa và của Đức Giêsu. Trong khi thi hành sứ vụ, Đức Giêsu chính là Đấng đã diễn tả niềm vui và lòng thương xót của Thiên Chúa ra cho loài người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Thiên Chúa thương tất cả mọi người và muốn cho mọi người đều được cứu độ. Nhưng “tất cả” không có nghĩa là một khối người tương đối đông, mà là “từng người”. “Tất cả” là “từng người” trong thế giới, không bỏ sót một ai. Thiên Chúa chiếu cố đến từng con người y như chỉ có một mình người ấy trên đời.
2. Chúng ta có thể thấy mình như người con thứ: không phải là tên ăn cắp, chỉ lấy đúng phần mình; chúng ta cũng còn biết nói “thưa cha!”, nhưng không hề vui thích được ở với cha, mà chỉ muốn ra đi “ăn chơi” cho thỏa thích. Và mỗi khi gặp khó khăn, thì chỉ dâng lên Thiên Chúa một lời cầu nguyện đầy vụ lợi, tính toán. Người con thứ không biết nghĩ rằng xin làm một “người làm công”, thì sỉ nhục cha quá nặng nề, bởi vì cha vẫn chỉ mong đón mình về để làm “con”. Nay được cha đón vào nhà rồi, anh có biết đáp lại tình cha không? Phần này, chính chúng ta sẽ phải viết tiếp bằng đời sống thực tế của mình.
3. Chúng ta cũng có thể thấy mình như người con cả, không bao giờ trái lệnh cha, nhưng cũng chẳng thích ở với cha; trái lại chỉ tính toán, mong có ngay “thoát ly” để đi vui chơi với bạn bè. Đã thế, chúng ta lại tỏ ra khinh bỉ, miệt thị những kẻ bị coi là “tội lỗi”. Nay đã được cha ra gặp để tâm sự rồi, anh có vào nhà để chung vui không? Phần này, chính chúng ta cũng sẽ phải viết tiếp bằng đời sống thực tế của mình.
4. Vì không hiểu tình yêu của cha, cả hai người con, đặc biệt anh cả, không hiểu tiếng gọi kèm theo sự hiểu biết đó: anh chỉ thực sự là con của cha, khi yêu thương anh em mình. Ta không thể phục vụ Thiên Chúa như Ngài muốn nếu không yêu mến Ngài và thông chia tình yêu của Ngài cho anh chị em mình, cho dù họ thế nào. Làm sao có thể tự nhận là môn đệ của Đức Giêsu, khi khinh bỉ quay mặt tránh người anh em đang ở trong tình trạng bần khốn nhất, do tội lỗi gây nên?
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Lu-ca 15:1-3,11-32)
Qua dụ ngôn cây vả trong bài Tin Mừng tuần trước, Chúa Giê-su đã nhấn mạnh đến sự cần thiết: MC 4-C96
Qua dụ ngôn cây vả trong bài Tin Mừng tuần trước, Chúa Giê-su đã nhấn mạnh đến sự cần thiết của việc hối cải. Qua dụ ngôn người con hoang đàng Chúa kể hôm nay, chúng ta có cái nhìn thật đầy đủ về việc sám hối. Sám hối không còn là một từ ngữ trừu tượng, nhưng đã trở nên sống động qua sự kiện người con thứ trở về và người cha ăn mừng. Cả người con thứ lẫn người cha đều “cử hành sám hối” hoặc “cử hành việc hòa giải”.
Sau Công Đồng Vaticanô II, chúng ta có nhiều từ mới. Thay vì nói đi xưng tội, chúng ta nói “cử hành bí tích Hòa giải”. Thực vậy, việc sám hối không chỉ là một hành vi âm thầm riêng tư, nhưng nó mang chiều kích cộng đồng, bởi vì nó diễn lại những gì xảy ra theo như dụ ngôn Chúa Giê-su nói hôm nay. Chắc chúng ta đã có dịp thấy bức tranh do họa sĩ Rembrandt diễn tả câu chuyện dụ ngôn người con hoang đàng. Trong bức tranh ấy, người ta thấy đủ mọi thành phần trong gia đình: người cha với hai bàn tay khác nhau, một bàn tay gân guốc của ông bố, và một bàn tay mịn màng của bà mẹ, người con thứ, người anh cả, đầy tớ, ca nhạc… và cả con chó vẫy đuôi mừng. Đấy, mọi người và vật đều “cử hành” việc sám hối của người con thứ! Chúng ta hãy xem ba nhân vật chính, người cha, con cả và con thứ “cử hành” việc sám hối như thế nào?
Không ai mong đợi và nôn nóng về việc cử hành sám hối cho bằng người cha. Trước khi người con trở về, ông đã chuẩn bị việc cử hành bằng sự kiên nhẫn chờ đợi. Rồi khi đối tượng chờ đợi là người con thứ xuất hiện là ông bắt đầu. Nào là ông “động lòng thương, chạy ra ôm choàng lấy cổ nó, hôn nó hồi lâu”. Rồi không để cho cậu con cắt ngang việc cử hành của ông, ông liên tục ra những mệnh lệnh khác để ăn mừng sám hối: phục hồi tất cả những gì đứa con đã đánh mất, như đeo nhẫn vào tay cậu, xỏ giầy vào chân cậu. Cuối cùng, cao điểm của việc ông ăn mừng là cho mở tiệc lớn, vì “con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy”.
Người con thứ chuẩn bị cử hành sám hối, cho dù những động lực chuẩn bị bắt đầu là những nhu cầu vật chất: túng thiếu, đói ăn và nhục nhã hơn con heo. Những điều này giúp anh ta hồi tâm, rồi từ hồi tâm đi tới quyết định trở về. Anh ta cũng chuẩn bị lời ăn tiếng nói để bày tỏ lòng sám hối với cha. Ý thức tội lỗi là điều kiện để cử hành sám hối: con đã lỗi phạm đến trời và đến cha. Nhưng cuối cùng khi anh ta xuất hiện trước người cha thì việc cử hành sám hối của anh đã chìm vào trong tình yêu tha thứ của cha và bị cuốn hút vào việc ăn mừng của ông rồi!
Người con cả không muốn tham dự vào việc cử hành sám hối. Khi người cha ra ngoài “xin anh vào” và nhắc nhở anh hãy xét lại mối tương quan giữa anh với gia đình, thì chính anh ta lại trở thành người con cần phải sám hối. Anh ta cần trở về với gia đình để nhận lấy “tất cả những gì của cha đều là của con”, và nhất là để tiếp tục làm “thằng con của cha”! Tóm lại, cùng với mọi người, anh ta “phải ăn mừng, phải vui vẻ”, phải cử hành sám hối ! Sống sứ điệp Tin Mừng
Trong bài đọc thứ hai trích thư 2 Cô-rin-tô, thánh Phao-lô khẳng định: “Trong Đức Ki-tô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hòa giải với Người” (5:19). Tội lỗi đã làm cho thế gian thù nghịch với Thiên Chúa. Nhờ Máu giao ước Chúa Ki-tô đổ ra trên thập giá, chúng ta được làm con Chúa. Nhưng mỗi khi phạm tội, chúng ta trở thành thù địch của Chúa. Vì thế, thánh Phao-lô nói: “Nhân danh Đức Ki-tô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hòa với Thiên Chúa” (5:20).
Trong Tông thư “Cánh cửa đức tin”, Đức Giáo Hoàng Biển-đức XVI viết: “Năm đức tin là lời mời gọi hãy hoán cải một cách đích thực và được đổi mới, trở về với Chúa là Đấng duy nhất cứu độ thế giới” (số 6). Cử hành Năm đức tin là cử hành sám hối. Chúng ta không chỉ cử hành sám hối khi đi xưng tội, nhưng còn là cố gắng thay đổi dần dần con người cũ tội lỗi của chúng ta, mặc lấy những tâm tình của Chúa Ki-tô. Diễn trình đổi mới này đòi hỏi chúng ta phải cam kết theo Chúa Ki-tô và hoán cải hằng ngày. Ngoài việc suy niệm và thực hành Lời Chúa, có lẽ một cách thức cụ thể để sám hối, là mỗi cuối ngày, chúng ta hãy tập thói quen xét mình, cầu xin Chúa giúp chúng ta sống tinh thần hoán cải.
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta được cuốn hút bởi những dụ ngôn, những câu chuyện: MC 4-C97
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta được cuốn hút bởi những dụ ngôn, những câu chuyện thực tế, ấn tượng…Do đó, Tin Mừng của Chúa Giêsu luôn là những bài học, những ý lực sống tuyệt vời cho mỗi người chúng ta.Chúa nhật thứ tư Mùa Chay giới thiệu cho chúng ta về một người cha nhân từ, luôn yêu thương và tha thứ lỗi lầm của con cái mình.
Câu chuyện về người con hoang trở về hôm nay được xem là một kiệt tác của thánh sử Luca. Trong câu chuyện này thường chúng ta hay chú ý tới nhân vật đứa con thứ bụi đời trở về. Dụ ngôn có nhiều tình tiết thật thú vị, thật hấp dẫn. Người ta vẫn say sưa kể lại câu chuyện này mà không cảm thấy nhàm chán. Câu chuyện đưa ra hai người con, người anh và em thứ. Tuy kể ra hai anh em, nhưng người em thứ được kể ra nhiều chi tiết và thêu dệt những tình tiết hấp dẫn, thú vị. Ít ai để ý tới nhân vật nguồi anh cả, ngay thánh Luca cũng chỉ dành cho người anh cả một ít chi tiết vào cuối câu chuyện mà thôi.
Nhân vật người anh cả là một người tá điền, chăm chỉ làm việc, suốt cuộc đời của anh là làm việc, trông coi ruộng vườn, và chăm sóc, vâng lời Cha già, dù aanh ta đã lớn tuổi. Mỗi ngày, và mọi ngày anh đi đồng về đều đều, không thấy điều chi khác lạ, nhưng hôm nay hình như có cái gì thật lạ lùng, có cái gì thật khó hiểu. Từ xa anh đã nghe tiếng đàn ca, múa hát, tiếng người í ới gọi nhau vui nhộn, có lẽ nhà mình có chuyện gì vui mà mình không hay không biết. Do đó, anh mới kéo một gia nhận ra và hỏi cặn kẽ gia nhân này về việc gì đang xẩy ra trong gia đình của mình vậy ? Khi được biết thằng em trác táng, sau khi đã lấy gia tài của cha đi xa, ăn chơi cho bằng hết, nay trở về lại được đối xử quá tốt như thế. Người anh cả tức tối, bực bội, cơn giận lên đến cực độ, anh chịu vào nhà.
Tin Mừng cho hay người con cả tức giận vì anh luôn là gương mẫu trong đời sống gia đình, chăm lo chăm làm. Bây giờ, theo anh, anh lại bị coi thường trong khi đức em mất nết trở về thì lại được cha coi trọng hết mực và còn hơn thế nữa cha của anh còn đòi anh chấp nhận đứa em phung phá trở về. Do đó, người cha già đã phải nhủ khuyên, năn nỉ mãi anh mới chịu vào nhà, chịu chấp nhận người em bụi đời.
Bởi vì, chính cha già đã nói một câu thật cảm động:” em của con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy “. Cha già đã khẳng định minh bạch với anh cả:” Tất cả những gì của cha đều là của con “ ( Lc 13, 31 ).
Đây là câu chuyện có thật và rất cảm động, rất ấn tượng về một người cha nhân hậu, người cha yêu thương, tha thứ. Đó là hình ảnh về một Thiên Chúa. Ngài luôn khoan dung, chạnh thương, tha thứ. Một Thiên Chúa không chỉ trừng phạt, nghiêm khắc nhưng là một Thiên Chúa giầu lòng xót thương.
Vâng, sở dĩ người anh cả không chịu vào nhà vì anh ta không thể tha thứ cho em. Anh ta không chịu vào nhà sợ quyền lợi của mình bị xâm phạm, bị lu mờ vv…Anh không chịu vào vì anh không thể hiểu được lòng nhân hậu, tình thương bao la của người cha.
Hóa ra, từ xưa đến giờ anh sống trong gia đình mà lòng trí lại ở xa. Anh không trái lệnh của cha, nhưng anh không thương cha. Anh không tha thứ cho em vì anh gọi “ đứa con của cha kia “.
Ở đây, Chúa muốn chúng ta phải sống tình nghĩa với nhau. Tuy không cùng máu huyết nhưng lại là con một cha. Tất cả đều là anh em là thế. Nên, Chúa đòi hỏi chúng ta phải hoán cải, thay đổi hoàn toàn, thay đổi thực sự. Muốn là con của cha phải tập làm anh em của mọi người:”…Ai thương yêu anh em mình thì ở lại trong ánh sáng “.
Rõ ràng, người anh cả chỉ nghĩ tới lợi lộc mà quên đi tình nhân nghĩa.Anh đại diện cho Pharisêu và Kinh sư. Họ nói cái miệng thật hay nhưng họ lại không thực hiện điều họ nói. Họ tự hào về đời sống mà họ tự cho là đạo đức của họ và không muốn bất cứ ai được cứu rỗi, đặc biệt họ mong cho những người tội lỗi chết đi chứ không mong cho những người này được cứu chữa, ăn năn, sám hối vv…
Chính vì thế, cả hai người con đều phải trở lại, đều phải sám hối ăn năn và xin cha thương cứu chữa. Trở về với cha là chấp nhận tha thứ cho người em lầm lỡ, phung phí, hoang đàng. Trở về với cha là chấp nhận mọi người vì mọi người đều có chung một cha. Trở về với cha để thấy mình được yêu thương tha thứ và nằm gọn trong đôi tay cha.
Lạy Chúa, xin tăng thêm lòng tin cho chúng con để chúng con luôn biết quay trở về, luôn biết bám chặt lấy Chúa vì Chúa đầy tình thương nhân hậu và hay chạnh lòng xót thương. Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Người cha trong câu chuyện tượng trưng cho ai ? 2.Thái độ của người em sau khi phung phí hết tài sản và gặp lúc đói kém ? 3.Người anh cả tượng trưng cho ai ? 4.Tại sao người anh cả không muốn tha thứ cho em ? 5.Người anh cả và người em cần phải làm gì ?
(1) Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi thường đến gần Đức Giê-su mà nghe Người. (2) Còn những người thuộc phái Pha-ri-sêu và các Kinh sư thì lẩm bẩm: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng. (3) Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này. (11) “Một người kia có hai con trai. (12) Người con thứ nói với cha rằng: Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. (13) Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. (14) Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, (15) nên phải đi ở cho một người dân trong vùng. Người này sai anh ta ra đồng chăn heo. (16) Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. (17) Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: “Biết bao nhiêu người làm công cho Cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói! (18) Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với Người: ”Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, (19) chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy”. (20)
Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. (21) Bấy giờ người con nói rằng: “Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa...” (22) Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu. (23) Rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! (24) Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại. Đã mất mà nay lại tìm thấy”. Và họ bắt đầu ăn mừng. (25) Lúc ấy người con cả của ông đang ờ ngoài đồng. Khi anh ta về gần nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, (26) liền gọi một người đầy tớ ra hỏi xem có chuyện gì.. (27) Người ấy trả lời: “Em cậu đã về, và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì được lại cậu ấy mạnh khỏe”. (28) Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ. (29) Cậu trả lời cha: “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh. Thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con ăn mừng với bạn bè. (30) Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về thì cha lại giết bê béo ăn mừng!”. (31) Nhưng người cha nói với anh ta: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha. Tất cả những gì của cha đều là của con. (32) Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin mừng hôm nay gồm đoạn mở đầu (c 1-3) cho biết hòan cảnh của dụ ngôn. Tiếp theo là: MC 4-C98
Bài Tin mừng hôm nay gồm đoạn mở đầu (c 1-3) cho biết hòan cảnh của dụ ngôn. Tiếp theo là chính dụ ngôn trình bày về lòng từ bi nhân hậu của một người cha (c 11-32) có thể chia ra hai phần chính như sau:
- THÁI ĐỘ BAO DUNG CỦA NGƯỜI CHA ĐỐI VỚI CON THỨ: thể hiện qua các hành động sẵn sàng chia gia tài theo yêu cầu của con ngay khi ông còn sống, nôn nóng chờ mong đứa con đi hoang trở về, chạnh lòng xót thương khi vừa thấy con từ xa và sẵn sàng tha thứ trước khi nó kịp thú tội, lập tức trả lại địa vị làm con, tổ chức bữa tiệc mừng con hoang trở về.
- THÁI ĐỘ HẸP HÒI CỦA CON TRƯỞNG: Sau khi biết em đã về nhà và được cha không những không trừng phạt mà còn mở tiệc ăn mừng, thì con trưởng đã tỏ thái độ hẹp hòi và ganh tị: Không thèm vào nhà, trách cha thiên vị đứa em bất hiếu, và đối xử bất công với anh là con hiếu thảo.
Cuối cùng người cha đã phải ra gặp và giải tỏa những lời trách móc của anh con cả. Ông khuyên anh hãy noi gương ông để bao dung với đứa em tội lỗi vì: “Em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
- C 11-13: + Một người kia có hai con trai: Đây là dụ ngôn chỉ có trong Tin mừng Lu-ca, nói lên lòng bao dung tha thứ của một người cha ám chỉ Thiên Chúa, đối với đứa con hoang đàng bất hiếu, ám chỉ các người thu thuế tội lỗi.
- C 14-16:
+ Đi ở cho một người dân trong vùng: Đứa con thứ này đã rơi vào hòan cảnh túng cực: tự bán mình làm nô lệ cho người dân ngoại và bị người này sai đi chăn heo. Heo là con vật bị Luật Mô-sê coi là nhơ uế, vì được dân ngọai dùng làm lễ vật cúng tế cho thần minh của họ (x. Đnl 14,8).
+ Ước ao lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho: Thân phận của anh ta giờ đây không bằng loài heo nhơ bẩn!
- C 17-20a:
+ Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ...: Hòan cảnh đói khổ làm cho đứa con thứ phải xét lại hành động sai trái của mình.
+ Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha: Anh trở về không phải do thương nhớ cha, mà chỉ là một hành động tính tóan và vụ lợi! Dụ ngôn đã không nhấn mạnh đến sự ăn năn sám hối của con thứ mà chỉ nhằm đề cao tình thương bao dung của người cha.
- C 20b-24:
+ Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để: Động từ “chạnh lòng thương” là lý do giải thích các hành động sau đó. Động từ nầy tìm thấy trong trình thuật bà góa thành Na-im (7:13) và câu chuyện người Sa-ma-ri-ta-nô nhân lành (10:33). Trong cả ba trường hợp này, “chạnh lòng thương” đã cứu sống người sắp chết hoặc tái sinh người đã chết. Cái hôn biểu lộ tính thương tha thứ. Tình thương này được diễn tả qua sự kiện: Ngay khi đứa con còn ở đàng xa, ông đã trông thấy và chủ động chạy ra ôm hôn con để biểu lộ sự tha thứ vô điều kiện, tha trước khi nó kịp nói lời thú tội.
+ Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây...: Người cha không muốn nghe đứa con nói hết câu xin lỗi, đã sẵn sàng ban cho nó quá điều nó dám mong ước. Ý nghĩa của việc xỏ “nhẫn”, mặc “áo”mới (x. St 41:42) cho thấy người cha đã lập tức trả lại địa vị làm con dù anh chỉ xin được làm công. “Giết bò béo” (St 18:7; 1 Sam 28:24) nói lên niềm vui tột đỉnh của ông muốn được chia sẻ với người khác.
+ Chân đi dép: ám chỉ một người tự do, khác với các nô lệ phải đi chân đất. Vậy, người cha đã đón nhận lại đứa con tội lỗi trong niềm vui lớn lao; đồng thời phục hồi lại cho nó quyền làm con, vì có người cha nào mà không xót thương con cái mình (x. Tv 103:13).
- C 25-28:
+ Người con cả: Tượng trưng cho các đầu mục dân Do thái.
+ nổi giận và không chịu vào nhà: Anh nổi giận vì nghĩ rằng cha đã cư xử bất công với anh. Anh từ chối vào nhà để tỏ thái độ phản đối cách cư cử của cha, khi ông không những đón nhận thằng con bất hiếu mà còn mở tiệc ăn mừng khi nó trở về.
- C 29-30:
+ Còn thằng con của cha đó: Người con cả không coi người kia là em mình nên dùng cách nói khinh dể, giống như người Pha-ri-sêu đã khinh dể người thu thuế trong dụ ngôn “hai người lên Đền thờ cầu nguyện” (x. Lc 18,11).
- C 31-32:
+ Con à, lúc nào con cũng ở với cha. Tất cả những gì của cha đều là của con: Người cha nhắc cho anh con cả ý thức về tình yêu bao la của ông mà anh ta vẫn luôn được hưởng.
+ Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ: Người cha mời gọi anh con cả hãy bước vào ngôi nhà tình thương của cha, cùng chia sẻ niềm vui với cha khi đứa em tội lỗi của anh ta hồi tâm trở về.
+ “Em con đây”: Ong chỉnh lại lối xưng hô khinh miệt của người anh: “Thằng con của cha đó” bằng từ yêu thương “Em con đây”.
ĐÁP: Vì không nhận Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai (x. MC 11,27-33), nên họ thường dò xét, gài bẫy để thử thách và bắt lỗi Người. Họ đòi Người phải làm phép lạ để chứng minh sứ vụ Thiên Sai (x. MC 8,11). Họ xuyên tạc các phép lạ Người làm để khuiyên dân chúng đừng tin theo và không gia nhập vào Nước Trời mà Người thiết lập (x. MC 3,23-30). Cuối cùng họ liên kết với đảng Hê-rô-đê, và Thượng Hội Đồng ở Giê-ru-sa-lem để bắt Đức Giê-su và kết án tử hình cho Người cách bất công (x. Lc 22,47-53; 23,1-7.18-25). Họ tiếp tục chế giễu Người khi treo Người trên thập giá (x. Lc 23,35). Tuy nhiên, trong số các Pha-ri-sêu cũng có một số tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai và sau này trở thành môn đệ của Người như: Ni-cô-dê-mô (x. Ga 3,1), Ga-ma-li-en (x. Cv 5,34-39) và nhất là tông đồ Phao-lô (x. Cv 22,3 ; 26,5).
SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Anh ta còn ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (Lc 15,20b).
2. CÂU CHUYỆN: LÒNG CHA BAO DUNG
RI-SỚT PIN-ĐEO (Richard Pindell) có viết một câu chuyện ngắn về một cậu bé tên là ĐE-VÍT (David). Cậu ta đã nghe theo chúng bạn lén về nhà ăn cắp một số tiền lớn rồi bỏ đi bụi đời. Mấy tháng sau, vì không chịu nổi hoàn cảnh đói khát khổ cực, cậu đã viết một lá thư gửi về cho mẹ. Trong thư, cậu tỏ ra hối lỗi và nhờ mẹ thuyết phục ông bố vốn rất khiêm khắc, để xin ông tha tội và cho cậu được về nhà sum họp như trước. Nội dung lá thư ấy như sau: “Mẹ kính yêu, trong một vài ngày nữa con sẽ đáp chuyến xe lửa ngang qua nhà mình. Vậy nhờ mẹ xin lỗi bố cho con. Nếu bố bằng lòng tha thứ và chấp thuận cho con được về nhà, thì xin mẹ yêu cầu bố hãy cột một miếng vải trắng trên cây táo hồng ở cạnh nhà mình mẹ nhé!”.
Vài ngày sau, Đe-vít lên xe lửa đi về nhà. Khi xe lửa đang di chuyển thì hai hình ảnh cứ liên tục hiện ra trong tâm trí cậu bé: Lúc thì trên cây táo có cột một miếng vải trắng, lúc lại chẳng thấy có miếng vải nào cả. Khi sắp đi ngang qua nhà, trái tim Đe-vít đập nhanh hơn. Cậu quay sang người ngồi cạnh và ấp úng nói: “Thưa ông, ông có thể giúp cháu việc này không ạ?” Được ông đồng ý, cậu nói: “Vào khúc quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cây táo. Vậy phiền ông nhìn vào cây ấy và nói cho cháu biết trên cành cây có cột một miếng vải trắng nào không nhé?”. Khi xe lửa ầm ầm lướt nhanh qua nhà, Đe-vít nhắm mắt lại rồi run giọng hỏi: “Thưa ông, có miếng vải trắng nào treo trên cành cây táo cạnh nhà cháu hay không?” Ông ta sửng sốt trả lời rằng: “Ô, này cậu bé, không phải chỉ một mà cành cây nào ta cũng thấy có cột vải trắng cả!” Thì ra sợ con không nhìn thấy giải vải trắng, ông bố của cậu bé đã treo thật nhiều vải trắng để chắc chắn cậu sẽ nhìn thấy dấu hiệu tình thương tha thứ và để cậu yên tâm trở về nhà.
3. SUY NIỆM:
Đoạn tin mừng CN 3 Mùa Chay hôm nay cho thấy tình thương bao dung của Thiên Chúa đối với các tội nhân (15,1-32): Thiên Chúa như một người Cha từ bi nhân hậu luôn “chạnh lòng thương” và sẵn sàng tha thứ tội lỗi con cái lòai người như Thánh vịnh 135 đã ca tụng: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương“. Dụ ngôn hôm nay cho thấy thái độ của ba nhân vật chính để từ đó rút ra bài học chúng ta phải làm gì:
1) Thái độ sám hối quyết tâm trở về của đứa con thứ tội lỗi (15,12-19): Anh đã phạm tội bất hiếu khi đòi cha phải chia gia tài cho anh ngay khi cha đang còn sống và sau đó đã bỏ nhà đi hoang ăn chơi phóng đãng phung phí hết tài sản của cha. Đến khi lâm cảnh đói rách phải đi làm thuê làm mướn và bị chủ khinh dể và đối xử còn tệ hơn một con heo. Chính sự cùng khổ ấy đã buộc anh phải suy nghĩ và quyết tâm đứng dậy quay về xin lỗi cha và chỉ mong được đối xử như một người làm công. “Đứng lên, đi về cùng cha” cho thấy thái độ dứt khoát với quá khứ tội lỗi để về với cha.
2) Thái độ bao dung nhân hậu của người cha (15,20-24). Về phần người cha, sau khi đứa con ra đi, ông đã ngày ngày chờ đợi nó quay trở về. Khi thấy bóng con từ xa, ông đã nhận ra và “chạnh lòng thương”: không trách mắng hay trừng phạt, mà vội chạy tới ôm chầm lấy cổ nó và hôn lấy hôn để, lập tức trả lại địa vị làm con qua việc cho thay áo mới, đeo nhẫn, xỏ giầy và cho mời các người thân cận đến nhà ăn mừng đứa con “tưởng đã chết mà nay sống lại, tưởng đã mất mà nay lại tìm thấy”. Đây là sự đón tiếp nồng hậu ngoài sự tưởng tượng của đứa con trở về.
3) Thái độ hẹp hòi của người con trưởng (15,25-32): Người anh trưởng từ ngoài đồng trở về nhà, nghe tiếng đàn ca, hỏi ra mới biết thằng em đi hoang mới trở về được cha tha thứ và còn mở tiệc ăn mừng. Anh giận dỗi cha không vào nhà. Anh chỉ trích cách đối xử của cha là bất công và không thể chấp nhận được (15,29). Thái độ của anh khiến cha già phải xuống nước năn nỉ giải thích: ”Tất cả những gì của cha đều là của con “ (Lc 13,31). Dụ ngôn kết thúc bằng lời cha khuyên con trưởng hãy cư xử bao dung với em “vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”.
4) Đáp lại lòng bao dung của Thiên Chúa thế nào ?:
+ Dụ ngôn người cha bao dung và đứa con hoang đàng nói lên lòng nhân từ của Thiên Chúa đối với các tội nhân. Người yêu thương chúng ta như một người cha nhân hậu. sẵn sàng bao dung tha thứ: Tha thứ không mệt mỏi, vô điều kiện và tha thứ luôn mãi !
+ Chúa phán: “Tội các ngươi dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết. có thắm tựa vải điều, cũng hóa trắng như bông” (Is 1,18): Dù tội của chúng ta có nặng tới đâu, thì tình thương của Chúa còn nặng hơn gấp bội. Dù tội lỗi chúng ta có nhiều tới mức nào, thì Chúa cũng vẫn hằng chờ đợi để tha thứ, miễn là chúng ta thực lòng hồi tâm sám hối và quyết tâm quay về với Người.
+ Thiên Chúa tôn trọng sự tự do ra đi và chờ đợi sự tự do quay về của chúng ta: Trong những ngày Mùa Chay này mỗi người chúng ta sẽ làm gì để đáp lại tình thương bao dung của Thiên Chúa, để cấp thời sám hối quay về lãnh ơn giao hòa với Người, và giúp các người thân trong gia đình và bạn bè đang lạc xa Chúa cũng được ơn hóan cải quay về với Người?
4. THẢO LUẬN:
1) Trong bốn việc phải làm khi đi xưng tội như: xét mình, ăn năn dốc lòng chừa, xưng tội và đền tội, thì điều nào là quan trọng nhất? Tại sao?
2) Trong Mùa Chay này, mỗi người chúng ta quyết tâm sám hối một tội nào cụ thể nhất và sám hối bằng cách nào?
5. NGUYỆN CẦU
- LẠY THIÊN CHÚA LÀ CHA CỦA CON. Con xin cảm tạ Cha đầy lòng từ bi nhân ái. Con cảm tạ Cha vì Cha đã sai Con Một Cha là Chúa Giê-su đến thế gian để dạy loài người chúng con nhận biết Cha là Thiên Chúa giàu lòng bao dung nhân hậu. Qua bài Tin mừng hôm nay, chúng con hiểu được Cha đang mời gọi các tội nhân quay về giao hòa với Cha.
- LẠY CHA, thật đáng tiếc khi có những người cha trong gia đình và trong cộng đoàn... chưa thể hiện được tình thương bao dung của Cha, nên trình bày Cha như một “ông chủ” chỉ muốn trừng phạt để họ sợ mà hồi tâm sám hối. Có những người cha trong gia đình, hay trong cộng đoàn đã dùng bạo lực sửa rẹi con cái khi chúng phạm tội... Xin Cha cho các người cha biết yêu thương con cái như Cha. Nhờ đó các tội nhân sẽ sớm sám hối quay về với Cha trong Mùa Chay thánh này.
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta không khỏi xúc động và ngạc nhiên khi hiểu ra tấm: MC 4-C99
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta không khỏi xúc động và ngạc nhiên khi hiểu ra tấm lòng bao dung, nhân hậu của Chúa Giêsu. Có nhiều bài Tin Mừng làm nổi bật lòng nhân từ của Chúa. Chúa nhật thứ IV mùa chay, năm C, thánh Luca trình bầy bài Phúc Âm nói về “ Người Cha nhân hậu “. Đây là bài Tin Mừng ghi đậm nét đẹp, nét dễ thương và nét tinh tế, nhạy cảm của người cha. Chúa nhật hôm nay được mệnh danh là Chúa nhật hân hoan. Chúa nhân từ luôn giang đôi tay đón nhận chúng ta trở về như người cha đã đón nhận đứa con hoang phung phí trở về.
Lòng nhân hậu của người cha trong Chúa nhật này diễn tả tâm trạng của Chúa Giêsu khi thấy những người con của mình thực tâm thống hối quay về với Ngài. Tin Mừng Luca trong đoạn 15, 1-3.11-32 cho thấy người cha hiền hậu luôn yêu thương con của mình dù rằng con thứ đã được chia gia tài, rồi tự đi xa, phung phá tất cả tài sản, gia tài và sau khi đã kiệt quệ không còn lối thoát, y đã trở về, người cha ấy cũng không trách mắng, không nổi giận, không lên án, không trừng phạt, hay trừ khử con.Trái lại, khi thấy bóng cậu từ xa, ông đã mau mắn, vội vã ôm chầm lấy con, hôn lấy hôn để, vui mừng đến khôn tả. Ông đã cho mặc áo mới, lấy nhẫn xỏ vào tay cậu, đã cho xỏ giầy vào chân cậu.
Tấm lòng yêu thương, nhân hậu của ông đã khiến ông quên đi tất cả mọi lỗi lầm của đứa con hoang đàng, ông đã không còn áy náy lo âu vì con ông đã chết nay sống lại, đã mất nay tìm lại được. Ông đã ôm chầm lấy đứa con hoang và giờ đây trước mắt ông đứa con ông đang ôm là đứa con ông hằng mỏi mòn chờ trông. Người cha sung sướng mở tiệc linh đình để thết đãi ăn mừng cậu con trai trở về cùng với bà con lối xóm. Đây là cuộc đón tiếp, ăn mừng hết sức nồng hậu, ngoài sức tưởng tượng của người con hoang trở về. Người anh cả ngoài đồng về, nghe thấy tiếng đàn ca, hỏi ra anh mới biết em anh đã trở về sau một thời gian dài xa vắng ở nơi phương trời xa, nên cha anh đã mở tiệc linh đình đón tiếp em anh trở về. Anh đã không vui, không mừng mà còn giận dữ, trách móc người cha, khiến cha già lại phải kiên nhẫn, nhún nhường, nhẫn nhục ra tận cổng đón anh, phân trần ,năn nỉ, mời anh vào nhà chung vui và gặp đứa em của anh “ đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy “. Để trấn an anh và để nói lên cả tấm lòng của ông, người cha già đã quả quyết với anh rằng:” Tất cả những gì của cha đều là của con “ ( Lc 13, 31 ).
Câu chuyện này là câu chuyện có thật về một Thiên Chúa yêu thương, nhân từ và hay tha thứ. Một Thiên Chúa không phải từ trên cao nhìn xuống, một Thiên Chúa không phải hết sức nghiêm khắc, chỉ phạt chứ không tha thứ bao dung. Không Thiên Chúa “muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương “ ( TV 135 ). Một Thiên Chúa luôn yêu thương, chạnh thương và hay tha thứ.
và sự công bằng yêu thương của người cha. Anh đã không vào nhà vì tự mãn, tự ái. Anh đã không vào nhà vì sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm. Anh đã không vào nhà vì anh không thể tha thứ cho người em. Anh đã không vào nhà vì anh không hiểu nổi lòng bao dung, quảng đại lớn lao của người cha.
Vâng, người anh cả đã sống với cha từ lâu nay nhưng lòng anh thì xa cha. Anh đã không trái lệnh của cha nhưng chỉ là bổn phận chứ không vì mến yêu cha. Anh không hề gọi người em là em của tôi mà là đứa con của cha kia. Anh không cảm thông với đứa em trót dại và cũng không biết chia sẻ nỗi đau, nỗi khổ của người cha mất con.
Người anh cả lộ rõ bộ mặt ích kỷ, đạo đức giả của mình. Anh là hiện thân của Pharisêu và kinh sư là những người tự cho mình là đạo đức, thánh thiện và muốn cho những người tội lỗi phải chết đi chứ không được cứu chữa.
Mùa chay là mùa hối cải, quay về với Chúa. Tất cả mọi người kể cả người anh và người em đều phải quay trở về với cha, ăn năn sám hối, bước vào nhà với cha, phải từ bỏ thái độ ích kỷ, tự mãn, phải vứt bỏ nếp suy nghĩ cũ, xa xưa để trở về sống như lòng nhân hậu, bao dung, tha thứ của cha.
Mùa chay mọi Kitô hữu phải trở về, phải thay đổi. Trở về là ôm lấy người em với lòng yêu thương và tha thứ. Trở về để sống trong ân huệ và tình thương vì cha là tất cả.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống như Chúa yêu, xin cho chúng con biết tha thứ cho người khác như Chúa đã tha thứ cho chúng con. Amen. Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Khi ấy, những người thu thuế và những kẻ tội lỗi đến gần Chúa Giêsu để nghe Người giảng; thấy vậy, những người biệt phái và luật sĩ lẩm bẩm rằng: "Ông này đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ngồi ăn uống với chúng". Bấy giờ Người phán bảo họ dụ ngôn này: "Người kia có hai con trai. Ðứa em thưa với cha rằng: "Thưa cha, xin cha cho con phần gia tài thuộc về con". Người cha liền chia gia tài cho các con. Ít ngày sau, người em thu nhặt tất cả của mình, trẩy đi miền xa và ở đó ăn chơi xa xỉ phung phí hết tiền của. Khi nó tiêu hết tiền của thì vừa gặp nạn đói lớn trong miền đó, và nó bắt đầu cảm thấy túng thiếu. Nó vào giúp việc cho một người trong miền, người này sai nó ra đồng chăn heo. Nó muốn ăn những đồ cặn bã heo ăn cho đầy bụng, nhưng cũng không ai cho. Bấy giờ nó hồi tâm lại và tự nhủ: "Biết bao người làm công ở nhà cha tôi được ăn uống dư dật, còn tôi, tôi ở đây phải chết đói. Tôi muốn ra đi trở về với cha tôi và thưa người rằng: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa, xin cha đối xử với con như một người làm công của cha".
Vậy nó ra đi và trở về với cha nó. Khi nó còn ở đàng xa, cha nó chợt trông thấy, liền động lòng thương; ông chạy ra ôm choàng lấy cổ nó và hôn nó hồi lâu... Người con trai lúc đó thưa rằng: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa". Nhưng người cha bảo đầy tớ: "Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giầy vào chân cậu. Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng: vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất, nay lại tìm thấy". Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình.
"Người con cả đang ở ngoài đồng. Khi về gần đến nhà, nghe tiếng đàn hát và nhảy múa, anh gọi một tên đầy tớ để hỏi xem có chuyện gì. Tên đầy tớ nói: "Ðó là em cậu đã trở về, và cha cậu đã giết bê béo, vì thấy cậu ấy về mạnh khoẻ". Anh liền nổi giận và quyết định không vào nhà. Cha anh ra xin anh vào. Nhưng anh trả lời: "Cha coi, đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào, mà không bao giờ cha cho riêng con một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm, nay trở về thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó". Nhưng người cha bảo: "Hỡi con, con luôn ở với cha, và mọi sự của cha đều là của con. Nhưng phải ăn tiệc và vui mừng, vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy".
Suy Niệm:
Chúa nhật trước đã cho chúng ta thấy Chúa là Ðấng đầy lòng thương xót để kêu gọi chúng ta hối cải: MC 4-C100
Chúa nhật trước đã cho chúng ta thấy Chúa là Ðấng đầy lòng thương xót để kêu gọi chúng ta hối cải trở về với Người. Các bài Kinh Thánh hôm nay còn nói về lòng thương xót của Chúa một cách rõ ràng hơn nữa. Chúng cho chúng ta thấy nỗi sung sướng của Người khi có thể thi hành lòng thương xót; và Người kêu gọi chúng ta chia sẻ niềm hân hoan thương xót ấy. Thế nên Chúa nhật hôm nay đáng được gọi là Chúa nhật Vui Mừng trong mùa Chay, để khi phấn đấu theo gương Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thánh giá, chúng ta luôn phấn khởi vì đạo Tin Mừng.
1. Vui Vì Ðược Cứu Ðộ
Bài sách Giôsua hôm nay chỉ có mấy câu, nhưng ghi lại một niên hiệu đáng muôn đời nhớ mãi trong lịch sử dân Chúa. Hôm nay "Chúa lăn nỗi nhục Ai Cập ra khỏi con cái Israen". Người cuộn thời gian ô nhục của họ ở bên Ai Cập lại một cách vĩnh viễn. Vẫn biết họ từ giã đất nô lệ Ai Cập ngay từ khi vượt qua Biển Sậy. Nhưng ròng rã 40 năm nơi sa mạc, con cái Israen vẫn còn mang nhiều tồn tại của thời ô nhục nơi đất khách quê người. Dĩ chí có những kẻ còn chưa cắt bì; và phần lớn còn ăn ở như những kẻ không cắt bì. Tất cả những sự ấy, hôm nay Chúa cuốn lại và không còn mở ra nữa. Nói theo kiểu văn chương ngày nay Chúa đã rỡ một trang sử qua rồi cho dân Người; và từ nay bắt đầu một trang sử mới. Chính vì vậy người ta đã đặt một tên mới cho nơi xảy ra sự việc ngày hôm nay. Nó được gọi là Gilgal và có nghĩa là "cuộn lại", vì Chúa đã cuộn nỗi ô nhục Ai Cập lại xa khỏi dân Người ở nơi chốn này vào ngày hôm nay.
Nhưng người ta chỉ nới cũ khi có mới. Chúa chỉ cuộn thời đại cũ lại vì đã có thời đại mới. Việc "có mới nới cũ" này cũng là một cuộc vượt qua. Thế nên hôm nay con cái Israen cử hành lễ Vượt Qua. Họ không tổ chức nơi đền thờ nhưng nơi hoang dại miền Giêrichô để duy trì tính chất gia đình của lễ này. Dĩ nhiên họ nhớ lại cuộc Vượt Qua Ai Cập ngày xưa; nhưng họ cảm thấy rõ ràng cuộc Vượt Qua bấy giờ, hôm nay mới kết thúc. Hôm nay họ mới được mừng Vượt Qua nơi Ðất Hứa. Và rõ ràng họ đã thôi một nếp sống cũ và chuyển qua một nếp sống mới. Trước đây họ là dạng lang thang, du mục; từ nay họ cư ngụ nơi Ðất chảy sữa và mật. Cuộc vượt qua này không lớn lao sao? Mọi sử gia đều làm chứng có cuộc chuyển biến quan trọng trong nếp sống của con người từ chế độ du mục qua chế độ định canh.
Cũng vì vậy, tác giả bài sách hôm nay không muốn diễn tả tí nào lễ Vượt Qua. Ông bỏ rơi mọi nghi lễ để chỉ chú trọng đến những nét mới mẻ của đời sống mới. Ông nói: con cái Israen đã ăn các thổ sản trong xứ. Ðặc biệt họ không còn ăn Manna nữa nhưng đã ăn cốm rang. Ðúng hơn họ không còn ăn Manna nữa vì đã có thóc lúa của địa phương. Manna không phải là lương thực của người đã về tới quê, mà chỉ là lương thực của kẻ đi đàng. Nó cần thiết cho con người khi trở về Ðất Hứa; nhưng đến nơi rồi nó trở thành vô dụng. Chính vì vậy Manna trở thành hình ảnh của Thánh Thể, cũng chỉ cần cho con cái Chúa khi sống ở trần gian. Sau này trên Nước Trời, chính Chúa sẽ làm cho họ no thỏa mà không cần bí tích nào nữa...
Như vậy, việc con cái Israen đến định canh ở Ðất Hứa hôm nay báo trước việc chúng ta vào Nước Trời sau này, khi đã chấm dứt cuộc hành trình lữ thứ trần gian. Nó khiến chúng ta thèm số phận của con cái Israen ngày xưa ư? Vì sánh với những kẻ đã vào Ðất Hứa, chúng ta còn là lữ hành? Có phần đúng và điều này nhắc nhở chúng ta phải có tu đức và tác phong của lữ khách: không bám víu vào trần gian, nhưng luôn phải lên đường; và nhất là luôn phải nhờ Thánh Thể nuôi sống vì đó là lương thực của dân Chúa trên đường lữ thứ trần gian.
Tuy nhiên chúng ta phải phấn khởi vì việc con cái Israen vào Ðất Hứa bả đảm việc chúng ta sẽ vào tới Nước Trời. Hơn nữa nó còn nhắc chúng ta nhớ đến hạnh phúc của người Kitô hữu. Họ cũng đã được đưa ra khỏi thế gian để đi vào nước sáng láng của Con Thiên Chúa. Những thực tại thiêng liêng Chúa ban cho họ hằng ngày trong đời sống Kitô hữu vượt xa những nắm "cốm rang" ngày xưa của con cái Israen. Chúng ta hãy vui mừng vì những việc ấy và vì mạc khải lớn lao mà Chúa dành cho chúng ta ở trong Nước Trời mà bài Tin Mừng hôm nay muốn thông tri cho chúng ta.
2. Vui Với Toàn Thể Hội Thánh
Thánh Luca là tác giả duy nhất đã thuật lại dụ ngôn hôm nay. Người kể lại sau hai chuyện cũng cùng một ý tưởng. Chuyện đầu tiên là dụ ngôn một người tìm thấy con chiên lạc của một đàn gần 100 con chiên. Và chuyện thứ hai nói về một người đàn bà tìm thấy đồng tiền đã mất. Cả hai câu chuyện đều kết thúc bằng lời van xin mọi người hãy vui vẻ chia sẻ nỗi vui mừng đã tìm thấy những của đã mất. Và đó cũng là câu kết thúc bài dụ ngôn hôm nay về người con trở về. Như vậy câu chuyện chỉ là cớ, điều mà tác giả Luca muốn diễn tả là niềm vui và kêu gọi mọi người cùng chung vui với kẻ tìm lại được những gì đã mất hoặc đã lạc.
Trong câu chuyện hôm nay, chủ động là một người Cha với hai đứa con. Ðứa trẻ hơn đến xin Cha chia gia tài cho mình, rồi nó đi xa, sống trác táng, phá tan cả sản nghiệp.
Dĩ nhiên người ta có thể đoán nó đã cạn túi vì bọn đĩ điếm như thói thường ở đời. Sạch của rồi, nó phải đi làm thuê ở mướn, và chăn heo cho người ta. Nó thèm đến cả cám heo. Thật đầy tớ ở trong nhà Cha nó cũng còn dư ăn! nghĩ vậy, nó quyết tâm trở về, và sẽ lựa lời để được số phận của những người này.
Với những nét tả như vậy, đứa con hoang này có đáng khen không? Hình như Luca không cho rằng nó đáng thương nữa. Không kể đời sống bê bối của nó; việc nó trở về cũng đầy tính toán và bần tiện. Nó đâu đã muốn hối cải; nó chỉ mong ra khỏi thân phận chết đói, nó chẳng đáng thương, thế mà vẫn được thương. Ðó mới là điều mà tác giả Luca muốn diễn tả. Ông viết về đứa con hư như thế là để làm nổi bật lòng thương lạ lùng của người Cha.
Mà thật vậy, lòng người Cha tốt lành chi lạ! Ðứa con về đang còn ở đàng xa mà ông đã thấy nó. Ông đã chạnh lòng thương nó. Ông quên cả tư cách đạo mạo, dè dặt của một người Cha trong một gia đình nề nếp ở Ðông phương. Ông không nhớ mình đã chân yếu tay mềm. Ông chạy ra đón nó, ôm cổ nó mà hôn. Nó vừa mới bập bẹ vài câu ông đã quay bảo đầy tớ mau mau đem áo quần và trang sức mới ra mặc cho nó; và lập tức hãy đem bò tơ nẫy ra hạ đi để khao ăn vì, ông nói: "Này, con ta đây, nó đã chết mà đã hoàn sinh, đã mất mà tìm lại được".
Chúng ta có thể để ý, ông không nói gì với đứa con. Nó chưa đáng nói, nó chưa hoàn toàn. Nó còn phải thấy lòng Cha thương nó, rồi nó mới thay đổi được. Ít ra ông hy vọng như vậy. Ông đã chỉ nói với tôi tớ và ông muốn nói với mọi người. Ông xin mọi người chia sẻ niềm vui của ông. Ông thật quá tốt.
Nhưng ngay đến đứa con cả trong nhà cũng không hiểu được ông. Cậu ở ngoài đồng về. Cậu thấy trong nhà có đàn ca múa hát. Cậu gọi một tên đầy tớ ra hỏi dò. Biết chuyện đứa em về mà Cha cho bày tiệc mừng như vậy, cậu nổi giận, không thèm vào nhà. Người Cha đi ra dỗ dành cậu. Cậu phân phô lẽ hơn thiệt. Cậu có lý nên người Cha đứng nghe, khác với lúc khi đứa con hoang trở về muốn thưa bẩm. Ông công nhận hết mọi lời cậu nói. Nhưng đây là điều con ông chưa bao giờ nghĩ đến: "Này con, con hằng ở với Cha thì tất cả của Cha đều là của con. Nhưng phải ăn khao mà mừng chứ. Vì em con đó, nó đã chết mà lại sống, đã mất đi mà lại tìm thấy được".
Tác giả Luca đã không viết gì thêm. Ông dừng lại ở đây để độc giả viết nốt câu chuyện. Ðúng hơn Ðức Giêsu đã dừng lại bài dụ ngôn ở chỗ này để thính giả của Người suy nghĩ. Họ là ai, chúng ta có thể đoán được. Họ là người con cả trong câu chuyện mà người Cha vừa nói mấy câu để cho suy nghĩ.
Muốn rõ hơn, chúng ta chỉ cần đọc lại những câu đầu tiên mà Luca đã viết trước khi kể bài dụ ngôn về con chiên lạc, về đồng tiền mất và về lòng thương xót của người Cha. Người viết: "Các người thu thuế, cùng những kẻ tội lỗi hết thảy thường lui tới bên Ngài để nghe Ngài. Và biệt phái kêu trách. Họ nói: Ông tiếp đón quân tội lỗi và ăn uống với chúng". Ngài mới nói cùng họ những dụ ngôn sau này...
Như vậy, người Cha ở đây không cần phải là Cha chúng ta ở trên trời. Lòng thương xót bao la của Người đã nhập thể nơi con người Ðức Giêsu Kitô, Ðấng đang tiếp đón những người thu thuế và tội lỗi khiến bọn biệt phái phải kêu trách. Họ kêu trách vì họ tưởng mình nhân đức và đòi được đối xử xứng đáng. Thiên Chúa phải dành tất cả sản nghiệp Nước Trời cho họ và cho một mình họ mà thôi; Phường thu thuế, quân tội lỗi không được phép tham dự những của thánh ấy. Thế mà Ðức Giêsu, người tự xưng đã được Chúa Cha sai đến, lại đi tiếp đón bọn thu thuế và tội lỗi... Với bài dụ ngôn hôm nay, phải chăng Ðức Giêsu đã không muốn nói với những kẻ suy nghĩ như vậy, lời mà Người có lần bảo họ: hãy đi mà hiểu lời này: Ta muốn lòng thương xót chứ không phải hy lễ!
Nhưng như vậy dụ ngôn này có còn nói gì với chúng ta không, vì đâu chúng ta còn muốn nghĩ như biệt phái? Thiết tưởng chúng ta vẫn còn có thái độ dửng dưng đứng ngoài niềm vui lớn lao của lòng Chúa thương yêu. Người vẫn tiếp tục kêu gọi và đón nhận những phường thu thuế và tội lỗi, tức là những phần tử xã hội ít được thiện cảm của chúng ta. Người vẫn rộng rãi với họ. Hội Thánh gồm một phần lớn những người như họ. Chúng ta chưa biết chung vui với họ như Chúa đang tỏ lòng quảng đại với họ, khiến trái tim chúng ta chưa giống như trái tim Chúa. Và vì vậy sự thánh thiện của chúng ta cũng chưa có gì đáng kể. Do đó chúng ta hãy nghe Lời Chúa, nhìn anh em đang đến với Chúa trong mùa Chay. Chúng ta hãy nhập hội tham gia, nếu chưa muốn khá hơn nữa là còn đi rao giảng Tin Mừng cứu độ cho anh em như lời Phaolô hôm nay viết. 3. Sứ Vụ Hòa Giải
Thánh tông đồ biết rằng: ai ở trong Chúa Kitô thì là tạo thành mới; cũ đã qua đi và mới đã thành sự. Những lời này trở nên ý nghĩa biết bao trong thánh lễ hôm nay, sau khi đã đọc bài Cựu Ước viết về việc con cái Israen đã được chuyển sang một đời sống mới hoàn toàn sánh với những năm tháng lang thang du mục qua sa mạc. Dân cũ đã phải lao nhọc biết bao để vượt qua được nếp sống cũ và đi vào cuộc sống mới. Ðang khi ấy, nhờ Chúa Kitô, ai kết hợp với Người thì đều trở thành tạo vật mới. Trước đây tội lỗi và ở dưới chế độ thù địch với Thiên Chúa nay họ được trở nên thánh thiện và sống đời làm con yêu dấu của Người. Mọi sự đó đều do Thiên Chúa, vì Người đã thương giảng hòa ta lại với chính Người nhờ Chúa Kitô. Và một lần nữa chúng ta lại thấy lòng thương xót bao la của Thiên Chúa và của Ðức Giêsu Kitô. Lòng thương của người Cha trong bài Tin Mừng đã lớn, nhưng sánh với lời Phaolô viết dưới đây về lòng thương thật sự của Thiên Chúa, chúng ta khó có thể hiểu nổi.
Quả vậy: "Ðấng không hề biết tội thì với ta, Thiên Chúa đã cho làm thành sự tội để trong Ngài ta được trở thành sự công chính của Thiên Chúa". Phaolô có ý nói đến việc Ðức Giêsu Kitô tuy vô tội, nhưng đã chấp nhận mang lấy mọi tội của chúng ta lên cây thập giá theo lệnh của Chúa Cha, để nhờ đó chúng ta được khỏi tội. Lẽ nào chúng ta không biết cảm mến một tình thương như vậy? Chúng ta hãy lo làm hòa lại với Thiên Chúa trong mùa Chay này. Chúng ta hãy chạy đến tòa cáo giải để trút bỏ tội lỗi trên cây thập giá Ðức Kitô và đóng đinh xác thịt vào thánh giá của Người, để ơn công chính hóa lại được ban cho chúng ta. Chúng ta lại trở thành tạo vật mới, có thể cử hành lễ Vượt Qua như con cái Israen ngày trước. Và cho được như vậy, chúng ta hãy nghe lời Hội Thánh rao giảng trong mùa Chay này. Ðây là sứ vụ hòa giải, Thiên Chúa đã trao cho Hội Thánh. Chính Người khuyên bảo, khi Hội Thánh rao giảng vì Hội Thánh chỉ thay mặt Ðức Kitô và tiếp nối sứ mạng của Ngài mà bài Tin Mừng hôm nay đã cho thấy Ngài tha thiết với việc tội nhân trở về như thế nào.
Vậy nếu chúng ta muốn chia sẻ thật sự lòng thương xót của Chúa như các bài Kinh Thánh hôm nay cho biết, chúng ta phải tiếp tay và cộng tác với Hội Thánh trong sứ vụ hòa giải. Chúng ta làm thế nào để nhiều người và hết mọi người trở về với Chúa trong mùa Chay này: có bao nhiêu thói quen xấu trong xã hội mà chúng ta có thể xa tránh hoặc dẹp đi để giáo xứ và gia đình chúng ta trong mùa Chay này tỏ ra thánh thiện đạo đức hơn? Và tạo được bầu không khí đông đủ sốt sắng cho những buổi Phụng Vụ trong mùa Chay cũng là một cách mở hội ăn mừng ngày nhiều con cái Chúa trở về với Người.
Ngay giờ phút này đây, chúng ta có thể bắt đầu làm những công việc như thế. Chúng ta tạo cho thánh lễ này một bầu khí như mở hội bằng thái độ tham gia của chúng ta. Chúng ta sốt sắng ca hát, cầu nguyện và thờ phượng với mọi người. Nhất là chúng ta đang quyết tâm trở về với Chúa, đến rước Chúa và yêu mến Chúa nhiều hơn. Ðang khi ấy chúng ta thêm cảm tình và lòng mến đối với anh em. Chúng ta nhận biết nhau nhiều hơn mọi khi và nhất là nếu có thể được thầm hứa sẽ động viên nhau tạo cho mùa Chay này một tinh thần và một bầu khí mới mẻ như của một cuộc vượt qua, một cuộc đổi mới, một thời đại hội trong ý nghĩ giảng hòa với Chúa và với mọi người. Ðược những tâm tình như vậy, chúng ta xứng đáng cử hành thánh lễ Chúa nhật Vui Mừng của mùa Chay.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)