Chỉ có Luca ghi lại việc người ta báo tin cho Chúa Giêsu biết vụ Philatô giết một số người Galilea: MC 3-C51
1. Chỉ có Luca ghi lại việc người ta báo tin cho Chúa Giêsu biết vụ Philatô giết một số người Galilea. Thật là phù hợp với những điều chúng ta biết về lịch sử Do thái thời ấy. Những niềm hy vọng thiên sai kích thích tâm trí, gây ra những cuộc nổi loạn chống lại đế quốc La mã và trong dân Do thái, người Galilê được xem như là nhóm người thích đấu tranh nhất. Philâtô, khi đó là tổng trấn đại diện chính quyền La mã đã thẳng tay đàn áp mọi âm mưu phản loạn. Ông không sợ gây đổ máu đám dân mà ông hằng khinh bỉ (x. F. Josèph, Antiquités juives, XVLLL 3,2,4,1).
Những người Galilê nói ở đây là những người đến Giêrusalem dâng lễ tế, chắc họ đã gây ra một vài hỗn loạn trong khuôn viên đền thờ, do đó đội binh La mã ở trong đồn Antonia đã ra tay can thiệp và tàn sát tại chỗ những người dính líu đến vụ phản loạn đó.
Khi hay tin, Chúa Giêsu hỏi: “Các ngươi tưởng những người Galile ấy là hạng tội lỗi hơn mọi người Galile khác vì đã phải khốn như thế này sao? Thật ra, đây là một định kiến chung cho rằng những ai gặp phải một tai ương nặng nề là đáng tội hơn những người thoát khỏi (như ý các bạn của Giop, Giop 4,7; x. Ga 9,2-3). Theo Chúa Giêsu quan niệm về sự quan phòng như thế là sai lầm. Tai ương, ôn dịch, chiến tranh, đói kém, động đất không nhất thiết giáng trên những người Galile bị Philatô tàn sát, Chúa Giêsu quả quyết họ không phải là những người có tội hơn những người Galile khác. Thay vì an tâm nghĩ rằng những người đáng tội nhất đã làm thoả mãn phép công bình của Thiên Chúa, toàn dân hãy lo mà sám hối: “Vì nếu các ngươi không hối cải, các ngươi hết thảy cũng sẽ bị tiêu diệt như thế”. Quốc gia Do thái bị đe doạ tiêu diệt, nếu không lo hối cải.
Vậy Chúa Giêsu là sáng tỏ biến cố mà người ta vừa mới thuật lại cho Ngài bằng lời loan báo về ý nghĩa của thời gian mà Ngài đã khai mạc lúc bắt đầu khai giảng. Ngài không chối từ mối tương quan giữa tội lỗi và hình phạt, nhưng chỉ phủ nhận điều này là: biến cố mới xảy ra chứng tỏ người Galile bị tàn sát xấu xa hơn đồng hương của họ. Mọi người đều là tội nhân, mọi người đều chịu phán xét của Thiên Chúa và chịu án phạt của Ngài. Vì vậy mọi người phải lo ăn năn sám hối, nếu muốn thoát khỏi cơn thịnh nộ và án phạt của ngày chung thẩm.
2. Và Chúa Giêsu xác nhận lời cảnh cáo nghiêm trọng của Ngài bằng một ví dụ khác. Trong khi các nạn nhân thảm cảnh trước là người Galile, bây giờ nạn nhân là những người ở Giêrusalem. Tháp Silôê nằm trên bờ kinh đào và bể nước Silôê ở phía tây nam Giêrusalem. Khi sập xuống, tháp đó đè chết 18 người. Có phải họ là những người có tội hơn những người khác cư ngụ ở Giêrusalem không? Thật là một câu hỏi vô ích làm quên mất vấn đề chính yếu: là mọi người dẫn Israel có bổn phận sám hối để quốc gia tránh khỏi những hình phạt đang đe doạ.
Chúa Giêsu đưa ra một lối giải thích có tính cách tôn giáo chứ không có tính cách triết học, chính trị hay thể lý về các biến cố. Thiên Chúa nói với chúng ta qua những biến cố lịch sử. Chúa Giêsu thâm tín rằng thời sau hết đã bắt đầu và Ngài phán đoán thời gian hiện tại trong viễn tượng ấy. Điều xảy ra trong thời gian này chỉ là một nhắc nhở đến thời sau hết. Các tai ương xảy ra trong lãnh vực chính trị hay thiên nhiên đều là những dấu chỉ cho những tai ương của ngày sau hết. Ngày cánh chung buộc mọi người phải có thái độ, phải ăn năn sám hối. Tất cả mọi tai biến xảy ra trong thời gian có mục đích làm cho chúng ta suy nghĩ, có mục đích loan báo cho chúng ta biết cần phải quay về với Thiên Chúa. Nếu con người không nghe là vì họ cứng lòng: “còn những người khác, những kẻ không bị giết trong tai hoạ ấy, vẫn không hối cải bỏ các việc tay họ đã làm: vẫn thôi không thờ lạy ma quỉ và thần tượng, vàng, bạc, đá, gỗ, những đồ vô phương nhìn thấy, ngóng nghe, đi đứng. Họ không hối cải bỏ tội sát nhân, phù phép, dâm bôn, trộm cắp của họ (Kh 9,20-21).
Ở vài nơi trong Cựu Ước, cây vả tượng trưng cho Israel (x. Ge 1,7) và trong Gierêmia 8,3 cây vả tượng trưng một Israel không sinh hoa trái. Từ hình ảnh Cựu Ước này, có thể kết luận cách chắc chắn rằng cây vả trong dụ ngôn của câu 6-9 cũng tượng trưng dân được chọn. Cũng như trong các đoạn Cựu Ước mới trích dẫn trên, chủ nhân của cây vả là Giavê. Vậy Giâvê cũng được trình bày trong dụ ngôn qua hình ảnh chủ nhân cây vả. Từ hai nét ẩn dụ được chứng thực cách chắc chắn này, người ta có thể rút ra từ văn mạch một nét ẩn dụ thứ ba: Chúa Giêsu được tượng trưng qua những người làm vườn nho can thiệp xin cho cây vả yêu quí được gia hạn ân xá sau cùng. Ẩn dụ chỉ có từng ấy. Còn những chi tiết khác của dụ ngôn phải được giải thích như những kiểu so sánh đơn sơ, không phải từng nét một, nhưng cách nói chung: vườn nho trong đó người ta trồng cây vả, thời gian ba năm chờ đợi, việc phân bón, những săn sóc này nọ cho cây vả đau yếu.
Việc phân tích vắn tắt những yếu tố ẩn dụ này của dụ ngôn giúp ta nắm được bài học Chúa Giêsu muốn dạy trong văn mạch của đoạn này. Thiên Chúa chờ đợi nơi dân Ngài những hoa quả của lòng thống hối. Họ phải khẩn trương lợi dụng những lời mời gọi ăn năn sám hối sau cùng mà Chúa Giêsu, Đấng trung gian giàu lòng thương xót gởi đến cho họ. Lát nữa thì sẽ quá muộn, và dân Israel sẽ chịu số phận như cây vả không sinh hoa trái.
Dụ ngôn trực tiếp nhắm đến dân do thái. Nhưng cũng có thể áp dụng cho các tội nhân bỏ qua những dịp ăn năn sám hối và khất lần việc hoán cải. Xét theo khía cạnh này, dụ ngôn thật là một bài học luôn luôn thích thời.
KẾT LUẬN
Tất cả những gì xảy ra vào thời Chúa Giêsu đã được minh giải nhờ biến cố cứu rỗi hiện thân trong Chúa Giêsu, dù đó là những sự kiện chính trị, những tai biến lịch sử hay những hành động của chính Chúa Giêsu. Đó là thời sau cùng. Đó là lời Thiên Chúa mời gọi ta có một quyết định dứt khoát: ăn năn sám hối trở về. Cũng như Gioan tẩy giả, Chúa Giêsu tuyên bố rằng cần phải ăn năn sám hối không được trì hoãn với bất cứ giá nào, phải sinh hoa kết quả trong việc thay đổi lối sống và trong hành động. Nhưng Chúa Giêsu còn vượt quá Gioan tẩy giả. Ngài biết ngày phán xét sắp đến và việc tiêu huỷ đền thờ Giêrusalem không thể tránh khỏi, tuy nhiên Ngài đã bào chữa cho dân Ngài. Ngài hiến dâng tình yêu, hy lễ, chính cả mạng sống cho Israel để dân này được cứu rỗi.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Trong thời Chúa Giêsu cũng như thời chúng ta, chúng ta dễ bị cám dỗ giải thích các biến cố cách thiếu bác ái đối với người khác. Biết bao lần người ta đã nghe những lối giải thích bộc phát như sau: Trời phạt nó. Đó là án phạt của Chúa, hoặc chúng ta dẽ lạm dụng kiểu nói “trời có mắt” để biện minh cho chướng tính của chúng ta, để tạo cho mình mối quan tâm được Chúa ưu đãi hơn những người khác. Nhưng chúng ta cũng dễ có cám dỗ ngược lại và gán ép cho Chúa những biến cố bất lợi xảy đến cho chúng ta: Trời bỏ tôi. Chúa làm ngơ giả điếc. Ngài trả thù mà... Đôi khi những biến cố đó chỉ là do những nguyên nhân thiên nhiên mù quáng (thời tiết, bệnh truyền nhiễm, tai biến tự nhiên...) Cần phải hết sức thận trọng khi giải thích những gì xảy đến cho ta. Một biến cố có thể được giải thích bằng ngàn cách khác nhau, tuỳ theo tính khí tự nhiên (lạc quan hay bi quan), tuỳ trạng thái tâm hồn lúc ấy (nặng nề hay phấn khởi), tuỳ những phán đoán giá trị của môi trường sống, tuỳ nền giáo dục... Người khôn ngoan nhất là người - như Chúa Giêsu dạy - biết lợi dụng tất cả những gì xảy đến để hoán cải không ngừng, để tạ ơn Chúa khi gặp những biến cố may mắn, để xin cho tâm hồn vững mạnh và biết tùng phục ý Chúa khi gặp các biến cố xui xẻo. Như thế lời Kinh thánh sau đây sẽ nên trọn cho chúng ta: “Mọi sự đều góp phần sinh ích lợi cho những ai yêu mến Thiên Chúa” (Rm 8,28)
2. Mọi tín hữu đều giống như cây ăn trái Thiên Chúa đã trồng. Từ thời thơ ấu, từ khi lãnh bí tích rửa tội, chúng ta đã không ngừng được chủ vườn trên trời săn sóc: được giáo dục theo Kitô giáo, được vô số ân sủng ban sức mạnh và ánh sáng trong các nhiệm tích, được sống thân mật với Thiên Chúa, được ân huệ tự nhiên đủ loại, được Chúa Thánh Thần luôn thúc đẩy, hướng dẫn... Và vì đó, phải coi chừng kẻo chúng ta trở thành những cây vả không sinh hoa trái như cây vả của dụ ngôn: những ân huệ của Thiên Chúa ở trong chúng ta cần phải sinh hoa quả là lòng yêu mến biết ơn Thiên Chúa, bác ái luôn luôn với tha nhân, trung thành với bổn phận đặc biệt mà Thiên Chúa đã giao phó, giản dị chúng ta cách dùng của cải Thiên Chúa ban, phát triển những năng khiếu tự nhiên, có lòng thẳng thắn và vui vẻ, phục vụ, trong sạch, khiêm tốn, phục thiện... Nếu cho đến lúc này chúng ta vẫn là những cây vả không sinh hoa trái thì cũng còn thì giờ để hoán cải và làm phát sinh kết quả với thời hạn mà Chúa còn dành cho chúng ta trước khi đưa chúng ta ra trình diện trước mặt Ngài. Nhưng những lời khuyến cáo của Chúa Giêsu thật cấp bách: chúng ta phải hoán cải ngay bây giờ chúng ta khi thời giờ còn kịp. Mùa chay là mùa thuận tiện nhất để thay đổi đời sống chúng ta, để trở về với Chúa và xin Ngài tha thứ cho. Nếu chúng ta biết lợi dụng thời gian này cách khôn ngoan thì Thiên Chúa sẽ yêu thương đón nhận chúng ta và sẽ khiến chúng ta hát lên được bài ca Alleluia bình an và vui mừng của mùa phục sinh.
Phải chăng chúng ta đang đứng trên một mảnh đất không chân? Những người sống trong các: MC 3-C52
Phải chăng chúng ta đang đứng trên một mảnh đất không chân? Những người sống trong các thành phô’ ở miền tây nước Mỹ thường đặt câu hỏi như thế. Bởi họ luôn sợ xảy ra động đất. Họ đã phải chịu đựng nhiều trận đất rung khốc liệt, thiệt mạng hàng chục ngàn người, thiệt hại hàng nhiều tỉ đôla. Cho nên chính quyền tiểu bang và các thành phố đã ban hành nhiều quy định nghiêm ngặt về xây cất, ngõ hầu bảo vệ công dân của mình và hạn chế tối đa các thiệt hại. Bản vẽ nhà cửa, cầu đường, dinh thự, văn phòng phải được trình lên hội đồng thành phố xét duyệt trước khi thi công. Các lâu đài cổ, kiến trúc lịch sư’, phải được gia cố vững vàng để có thể chịu đựng những cơn động đất lớn. Chẳng ai muốn mình là con cờ thí của các công trình kém chất lượng.
Bài đọc 2 chúa nhật hôm nay cũng cảnh cáo tín hữu về hoàn cảnh tương tự, về đời sống siêu nhiên. Thánh Phaolô viết: “Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những kẻ đang sống trong thời sau hết này. Bởi vậy ai tưởng mình đang đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã”. Chắc chắn Ngài không phải là người kiểm tra nhà cửa ở California để đưa ra lời cảnh cáo, vấn đề Ngài quan tâm sâu xa hơn nhiều. Ngài khuyên nhủ các tín hữu coi lại nền tảng đời sống mình, nói cách khác, sức khoẻ tinh thần của một cuộc sống mỗi người. Thiên Chúa đã giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ tội lỗi, như thuở xưa dân Israel khỏi kiếp lầm than ở Ai Cập. Tuy nhiên, tước vị làm con cái Thiên Chúa không có nghĩa chúng ta đã vững chắc về phần thiêng liêng tức sống trong ân nghĩa với Ngài. Chúng ta còn nhiều nguy hiểm, mà thánh Phaolô gọi là sống bên bờ vực thẳm trần gian. Chúng ta coi chừng kẻo ngã. Chẳng ai có thể tự phụ về con người mỏng giòn của mình. Như công dân tiểu bang California bên Hoa Kỳ, xét về phần thiêng liêng, đều đứng trên mảnh đất không có nền tảng.
Cho nên, thánh Phaolô nêu gương dân tộc Do Thái được Thiên Chúa bảo vệ trên con đường sa mạc trở về đất hứa. Họ đã được nâng niu như gà mẹ săn sóc đàn con, vậy mà nhiều lần họ đã vấp ngã, nổi loạn chống Môsê, chống Thiên Chúa. Chúng ta ngày nay cũng được những ân huệ tương tự, liệu chúng ta có tránh khỏi vết xe của họ,mà luôn trung thành với Thiên Chúa? Để làm cho vấn đề sáng tỏ hơn, thánh Phaolô đưa ra một so sánh rõ ràng: Trong hoang địa dân Do Thái được nuôi dưỡng bằng thịt chim cút, bánh manna. Ngày nay chúng ta có Thánh Thể, lương thực còn bền vững, cao quý hơn manna gấp nhiều lần. Tuyển dân được kết hiệp với Môsê làm thành dân riêng Chúa chọn dưới sự hướng dẫn của Môsê (nguyên văn: Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây, và trong lòng biển, để đi theo ông Môsê). Qua bí tích rửa tội, chúng ta cũng được tháp nhập vào thân mình mầu nhiệm Chúa Kitô. Tuyển dân được uống nước thoả thuê từ tảng đá. Chúng ta cũng được no thoả từ Máu Thánh Chúa, nguồn phát sinh nước hằng sống trên hành trình trần gian. Thánh nhân còn cho biết thêm những lời cằn nhằn của tuyển dân và các hình phạt nặng nề của Thiên Chúa là lời cảnh báo chúng ta phải lắng nghe. Bởi lẽ chúng ta cũng thường có khuynh hướng như vậy: Tự mãn, tự phụ, tưởng mình vững chắc trước tôn nhan Thiên Chúa, đứng trên đá tảng muôn đời thánh thiện là Đức Giêsu Kitô. Thực tế,không phải vậy, tính mỏng giòn của thân phận làm người chẳng bảo đảm cho ai như thế cả.
Chính thánh Phaolô đã nhiều lần muốn trở nên kẻ canh chừng cho chúng ta, Ngài muốn thức tỉnh chúng ta khỏi thói xấu tự mãn trong đức tin, xa tránh những thái độ khoa trương, đạo đức vô lối và giả tạo. Đức Giáo Hoàng Phaolo VI ngày 4/7/1965 đã nói với các thiếu nữ trong phong trào công giáo tiến hành địa phận Fiesole như sau: “Thế giới bây giờ đầy rẫy lòng tự phụ… họ muốn thoát khỏi mọi hạn chế, trách nhiệm, vâng phục để sống đời tự do vô trách nhiệm, ích kỷ, tham lam, buông thả và nông nổi. Chúng con phải hành động ngược lại, dấn thân trung thành, an vui, hy sinh, hoàn thành mọi nhiệm vụ bằng tình yêu và sức mạnh trong ơn Chúa Thánh Thần”. Mùa Chay là thời gian thuận tiện để chúng ta suy gẫm và thực hiện sứ điệp của các vị, chúng ta cần trở lại với ơn Thiên Chúa, chấp nhận tính mỏng giòn của mình và khiêm nhường xin Chúa tha thứ, cảnh giác các sai phạm tương lai. Khi biết hồi tỉnh chúng ta sẽ nhận ra thực sự là trên dương gian, chẳng có chỗ đứng nào vững chắc ngoài lòng ký thác vào tình Chúa thương yêu. Đức Kitô là gương mẫu để chúng ta rập khuôn sống kết hiệp với Ngài.
Những biến cố gần đây: Thiên tai, dịch hoạ, chiến tranh, khủng bố, nhất là những thảm hoạ giết chết hàng trăm, hàng ngàn sinh mạng, làm cho nhiều tín hữu ngỡ ngàng, bối rối và thất vọng. Tại sao người vô tội lại phải quằn quại trong những chế độ độc tài tàn bạo? Tại sao hàng ngàn trẻ em phải thiệt mạng trong những trận xô sát tôn giáo, chủng tộc? Tại sao các dân làng vô tội đang sống yên lành hai bên biên giới Irắc, Iran lại phải hy sinh tính mạng vì những quả bom trên các toa xe lửa chạy qua? Hàng trăm vấn nạn khác tương tự làm chúng ta phải kêu lên: “Họ đã làm gì nên tội?”
Thời Chúa Giêsu, dân chúng đã có những quan niệm khác với Chúa về những thảm hoạ xảy ra cho họ. Những quan niệm phổ thông này là nền tảng cho câu chuyện Phúc Âm hôm nay. Hai biến cố tàn khốc vừa xảy ra tại Giêrusalem và người ta đã báo cho Chúa Giêsu biết.
Biến cố thứ nhất, toàn quyền Philatô giết mấy người Galilêa làm cho máu họ hoà lẫn với của lễ họ đang hiến dâng.
Biến cố thứ hai, tháp Siloê cao ngất ngưởng bỗng dưng đổ xuống giết hại 18 người. Trong biến cố thứ nhất, rõ ràng cấp lãnh đạo Do Thái uất ức, tức tối vì hành động bạo tàn của quân cướp nước đối với đồng bào mình. Họ cảm thông nỗi đau buồn mất mát với nạn nhân và gia đình nạn nhân. Nhưng họ cũng tin rằng những nạn nhân đó đã phạm tội gì ghê gớm, khiến Thiên Chúa nổi giận mà trừng phạt. Nói chung não trạng lúc ấy khi thấy việc bất hạnh xảy ra cho ai, thiên hạ thường nghĩ xấu về đương sự. Giống như chúng ta ngày nay, khi không gặp hoạn nạn, chúng ta cho mình là người ngay chính, được Thiên Chúa chúc phúc, và khi được may mắn chúng ta cho là Thiên Chúa mỉm cười với mình và cảm thấy an toàn. Đức Kitô thấy rõ lối suy nghĩ bết bát này của những thính giả mau miệng báo cho Ngài hay sự kiện. Ngài lập tức lay họ dậy khỏi cơn mê ngủ tự mãn: “Các ông tưởng mấy người Galilêa này chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilêa khác sao? Tôi nói cho các ông biết không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết như vậy”. Thì ra, tai hoạ chưa chắc đã là hình phạt riêng cho nạn nhân, nó mang ý nghĩa sâu hơn, hình phạt cho loài người phản loạn. Ngài còn thêm: “Cũng như 18 người kia bị tháp Silôê đổ xuống mà đè chết, các ông tưởng họ là những kẻ mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”. Cho nên hình phạt nặng nề, kể cả cái chết, là số phận chung của nhân loại, không trừ một ai.
Những điển tích Chúa nêu ra là lời cảnh báo cho mọi người, nhất là những não trạng Pharisêu. Tai hoạ có thể xảy ra bất cứ ở đâu, bất cứ cho ai, bất cứ lúc nào, vì hết thảy đều là tội nhân, xứng đáng lãnh nhận những khung hình phạt đó. Chúa muốn chúng ta sử dụng những bất hạnh để cảnh tỉnh, xét lại nếp sống của mình. Thật là lời giáo huấn tuyệt vời cho mọi linh hồn vào Mùa Chay hồng phúc này. Một đời sống giàu có đầy đủ mọi sự, chưa hẳn đã là đời sống tốt, được Thiên Chúa chúc lành. Nó có thể chỉ là no đầy giả tạo, bên dưới là căn bản rỗng tuếch, một vị trí vững chắc, quyền cao chức trọng có thể là đang đứng trên cái bàn mục chân. Cho nên công thức ngày thứ tư Lễ Tro nhắc chúng ta: “Con hãy nhớ con chỉ là tro bụi, con sẽ trở về với bụi tro”. Cuộc đời, dù thừơng hằng thế nào, cũng có nhiều bất trắc. Cho nên Lời Chúa nói với những thính giả hôm nay đúng là cảnh báo cực kỳ nghiêm khắc cho các tín hữu mọi nơi, mọi thời. Họ phải luôn chuẩn bị cho các tình huống xấu xảy đến cho mình, xa tránh tội lỗi, ăn năn hối cải và đừng để bị bất chợt khi Thiên Chúa viếng thăm.
Dụ ngôn thứ hai trong Phúc Âm hôm nay có cùng nội dung như bài trích thư thánh Phaolô gởi tín hữu Côrintô. Chủ vườn đã thêm cho cây vả một năm. Cứ theo lệ thường thì cây vả trồng ba năm phải sinh hoa kết trái cho ông chủ. Ba năm không sinh hoa lợi thì phải bị chặt đi và nhường chỗ cho cây khác. Để vậy chỉ tốn không gian, tốn đất và làm mất mục tiêu của chủ vườn. Trồng trọt là mong thu hoa lợi. Trong dụ ngôn rõ ràng là cây vả vô tích sư, nhưng người làm công xin chủ cho nó một năm ngoại lệ. Đây là một ân huệ, một lòng thương xót bất thường, làm ngạc nhiên các môn đệ Chúa Giêsu. Tuy nhiên cây vả vẫn phải đơm hoa kết trái theo kỳ hạn. Xin lưu ý, tự mình cây vả không thể tiến triển, phải cần đến sự chăm sóc của người làm công. Ông sẽ bón thêm phân, tưới thêm nước, mới mong cây vả mang hoa trái.
Mùa Chay đối với linh hồn tín hữu cũng giống như một năm ngoại lệ cho cây vả. Đổi thay, hối cải vẫn là điều cần thiết cho mỗi chúng ta, thời gian vẫn có kỳ hạn, không thể kéo dài mãi mãi. Chẳng có ông chủ vườn nào ngây ngô đến nỗi nuôi dưỡng mãi mãi cây vả vô tích sự. Ông chỉ nhân nhượng cho nó một vài cơ hội mà thôi. Thiên Chúa cũng thương ban cho chúng ta những kỳ những hạn, cùng với sự săn sóc của các sứ giả Ngài. Ngài ban ơn để chúng ta ăn năn hối cải, thay đổi nếp sống, thực hiện những công việc bác ái đích thực, đẹp lòng Ngài. Theo tinh thần của bài Phúc Âm, mùa này không phải là mùa nuôi dưỡng mà là mùa gặt hái, gặt hái những hoa trái của lòng ăn năn thống hối. Thiên Chúa đã thêm cho chúng ta một dịp ngoại lệ, một cơ hội thay đổi cuộc sống. Chúng ta có trách nhiệm đáp trả và Ngài sẽ thương giải phóng.
Bài đọc 1 cho chúng ta hay Chúa khởi sự công việc cứu chữa tuyển dân khỏi kiếp nô lệ Ai Cập bằng ơn gọi Mosê. Ngài cũng sẽ cứu chữa chúng ta bằng tiến trình khổ nạn của Chúa Giêsu trong mùa Chay này. Thật cảm động khi nhìn lại cuộc giải thoát nhân loại khỏi vòng tội khiên của Chúa Giêsu. Nó đau xót hơn cuộc vượt qua của Môsê nhiều lần.
Cho nên trong mùa Chay này, hãy nhìn vào bí tích Thánh Thể, để chiêm ngắm sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc giải phóng mỗi linh hồn khỏi vòng tội luỵ, và nhận ra rằng chính Ngài mới có quyền năng giúp đỡ chúng ta đứng vững trong ơn thánh của Ngài, tại nơi đây, giáo xứ thân yêu. Xin Chúa cho mỗi giáo dân tràn đầy ơn thống hối ăn năn, xây dựng giáo xư, ngày một tốt đẹp hơn trong tình thương yêu bác ái, hoa quả của nếp sống thánh thiện. Amen.
"May ra sang năm nó sẽ có trái. Nếu không thì ông sẽ chặt đi"
(Lc 13,9)
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay rất khẩn thiết: "Nếu các ngươi không sám hối, các ngươi sẽ phải chết". Phụng: MC 3-C53
Lời Chúa hôm nay rất khẩn thiết: "Nếu các ngươi không sám hối, các ngươi sẽ phải chết". Phụng vụ dành cho chúng ta một thời gian dài 40 ngày của Mùa Chay để chúng ta nhận thức tình trạng tội lỗi của mình mà ăn năn sám hối. Đây đúng là lúc thuận tiện, đây đúng là thời cứu độ. Chúng ta đừng phí phạm cơ hội Chúa ban, đừng làm ngơ trước lời kêu gọi của Chúa.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
* Chúng con thiếu sót rất nhiều trong bổn phận kính mến và thờ phượng Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con.
* Chúng con lỗi phạm rất nhiều trong tương quan với tha nhân. Xin Chúa thương xót chúng con.
* Chúng con còn làm nô lệ cho tiền bạc, của cải, tiện nghi. Xin Chúa thương xót chúng con.
III. LỜI CHÚA
1. BÀI ĐỌC I (Xh 3,1-15)
Tuần vừa qua, chúng ta được kể về chặng thứ nhất trong Lịch sử cứu độ: Thiên Chúa chọn Abraham để thành lập một dân mới. Tuần này chúng ta được nghe kể tiếp chặng thứ hai: Thiên Chúa chọn Ông Môsê để giải phóng dân ấy khỏi ách nô lệ Ai cập.
Lúc bấy giờ Môsê đang trốn trong sa mạc vì sợ Pharao lùng bắt. Ông làm nghề chăn chiên. Một hôm đang khi Môsê chăn chiên thì Thiên Chúa hiện ra với ông.
* Thiên Chúa hiện ra trong một bụi gai rực lửa nhưng bụi gai ấy không bị cháy rụi: Thiên Chúa là Đấng rất hùng mạnh, nhưng sức mạnh của Ngài không phải dể tiêu diệt mà để giải thoát.
* Thiên Chúa gọi đích danh Môsê: Ngài biết rõ từng người.
* Thiên Chúa nói với Môsê "Ta đã thấy rõ cảnh khổ của dân Ta... Ta xuống giải thoát chúng...": Thiên Chúa là Đấng giải thoát.
* Khi Môsê hỏi Tên Thiên Chúa thì Ngài đáp bằng một câu nói bí ẩn "Ta là điều Ta là". Có nhiều lối giải thích kiểu nói này: (1) Thiên Chúa từ chối không nói tên mình, bởi vì không ai có thể hiểu được Thiên Chúa; (2) Ta là thế nào thì các ngươi sẽ hiểu khi thấy các việc Ta sẽ làm (sau này khi thấy Thiên Chúa giải thoát dân Do Thái: người ta sẽ hiểu Ngài là Đấng giải thoát); (3) Câu nói đó có thể dịch là "Ta là Đấng hằng hữu"; (4) Cũng có thể dịch là "Ta là Đấng là": ngược với các thần Ai cập chỉ là hư vô giả trả, chỉ có một mình Thiên Chúa là có thật.
Điều quan trọng nhất của tường thuật này là Thiên Chúa thương dân Ngài và muốn giải thoát họ khỏi cảnh khổ.
2. ĐÁP CA (Tv 102)
Thánh vịnh 102 triển khai ý chính của bài đọc I: ca tụng những công trình giải thoát của Thiên Chúa.
3. TIN MỪNG (Lc 13,1-9)
Ý chính của đoạn Tin Mừng này là kêu gọi sám hối:
* cc 1-5: người Do Thái thời Chúa Giêsu quen nghĩ "ác giả ác báo". Trước hai tai nạn đột ngột làm chết nhiều người, họ kết luận ngay rằng những nạn nhân ấy là "ác giả" cho nên bị "ác báo". Chúa Giêsu khuyên đừng hồ đồ suy đoán về người khác những mỗi người hãy coi các tai nạn đó là tiếng nhắc nhở hãy xét lại lương tâm mình để lo sám hối.
* cc 6-9: Qua dụ ngôn cây vả không sinh trái, Chúa Giêsu bảo mỗi người hãy tận dùng thời gian gia hạn mà Thiên Chúa đã ban cho mình để sớm lo sám hối.
4. BÀI ĐỌC II (1 Cr 10,1-6.10-12)
Thánh Phaolô giải thích ý nghĩa các biến cố trong cuộc Xuất hành:
* Việc vượt qua Biển Đỏ là tượng trưng cho Phép Rửa.
* Tảng đá đã phun ra nước cho dân Do Thái uống tượng trưng cho Chúa Giêsu.
* Kitô hữu chúng ta cũng xuất hành như dân Do Thái xưa. Nhưng đừng bắt chước họ chìu theo dục vọng xấu xa, đừng kêu ca trách móc, trái lại ngoan ngoãn hành trình theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. HÃY ĂN NĂN SÁM HỐI
Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta hãy ăn năn sám hối. Lời kêu gọi này không chỉ nhắm đến những kẻ tội lỗi mà nhắm đến mọi người không trừ ai. Thế nhưng có người sẽ thắc mắc: người tốt cũng cần phải sám hối sao?
Trong trường hợp những người được gọi là tốt, họ vẫn phải sám hối vì những việc tốt lẽ ra họ có thể làm mà lại không làm. Họ giống như cây vả trong bài Tin Mừng này. Ông chủ muốn đốn nó không phải vì nó đã sinh ra những trái xấu, mà vì nó không sinh ra những trái vả như nó phải sinh ra. Một cây vả mà không sinh trai vả thì đâu còn là cây vả nữa.
Các kitô hữu ít khi tự đặt cho mình câu hỏi này: Điều gì lẽ ra tôi phải làm mà lại không làm? Tiếng gọi sám hối không chỉ kêu gọi ta thôi đừng làm điều xấu nữa, mà còn kêu gọi ta hãy "sinh trái" bằng những việc tốt. Chính vì thế mà lời kêu gọi này nhắm đến mọi người. (FM)
* 2. CƠ HỘI THỨ HAI
Có một câu chuyện về một cây vĩ cầm như sau:
Cây vĩ cầm bị rạn nứt, người ta dán lại và đem ra bán đấu giá. Người bán đấu giá nghĩ rằng chẳng nên phí thời giờ chăm chút nó làm gì. Nhưng ông vẫn tươi cười cầm nó lên và rao bán:
- Thưa quí vị ai sẽ bắt đầu trả giá đầu tiên đây?
Một đồng, rồi hai đồng. Chỉ có hai đồng thôi sao? Ai sẽ trả nó ba đồng đây. Vâng, một người trả ba đồng. Không ai trả hơn sao?
Bỗng từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm bước lên cầm lấy cây đàn, ông lau sạch bụi chiếc đàn cũ kỹ, rồi lên dây lại. Sau đó, ông tấu lên một bản nhạc êm dịu, ngọt ngào, du dương như bài ca của các thiên thần. Tiếng nhạc dừng lại, người bán đấu giá chậm rãi, hỏi:
- Tôi sẽ ra giá bao nhiêu cho chiếc vĩ cầm này đây?
Đoạn ông vừa cầm đàn lên vừa nói:
- Một ngàn đồng, và ai sẽ tăng lên hai ngàn? Hai ngàn rồi, có ai chịu tăng lên ba ngàn không? Một người chịu giá ba ngàn, còn nữa không?
Đám đông hồ hởi reo vui, nhưng có vài người trong họ la lên:
- Chúng tôi hoàn toàn chẳng hiểu cái gì đã làm thay đổi giá trị cây vĩ cầm đó?
Lập tức có tiếng đáp lại:
- Chính nhờ đôi tay người nghệ sĩ chạm vào đấy!
***
Đứng trước những biến cố đem lại tai hoạ và chết chóc cho con người, Chúa Giêsu không bình luận theo quan điểm của người Do Thái thời đó: Tin Mừng hôm nay kể lại việc quan tổng trấn Philalô tàn sát mấy người Galilê và việc tháp Siloê đổ xuống đè chết 18 nạn nhân. Người Do Thái cho rằng những người bị tai hoạ đó là do tội lỗi của chính họ, nên bị Thiên Chúa giáng phạt. Còn những người khác thấy vẫn bình yên vô sự, thì cho rằng mình vô tội, nên dễ tự hào về sự thánh thiện của mình. Chúa Giêsu không nghĩ thế, Người không cho rằng những người bị nạn đó tội lỗi hơn đồng hương của họ. Người muốn nhấn mạnh rằng mọi người đều là tội nhân, đều bị Thiên Chúa phán xét, đều đáng chịu án phạt của Người, nên cần phải ăn năn sám hối, để tránh hình phạt của Thiên Chúa.
Tính cấp bách phải sám hối ăn năn được Chúa Giêsu nói rõ trong dụ ngôn cây vả: Thiên Chúa là người trồng cây, Chúa Giêsu là người làm vườn, và dân Ítraen là cây vả không sinh trái. Thiên Chúa đã tuyển chọn dân Ítraen làm dân riêng của Người, và ban cho nhiều đặc ân, nhưng họ lại không sinh hoa kết trái, là trung thành với lề luật, sống công chính, và phụng thờ một mình Người.
Thiên Chúa đã chấp thuận đề nghị của Chúa Giêsu, là cho họ một cơ hội thứ hai, một thời gian để chăm bón thêm, với các lời giảng dạy của Chúa Giêsu và các phép lạ kèm theo. Nhưng họ vẫn cố chấp, không hoán cải để sinh hoa trái. Vì thế, họ đã bị Thiên Chúa loại bỏ: Điều đó đã được chứng thực vào năm 7O sau Công Nguyên khi đền thánh Giêrusalem bị tàn phá.
Thiên Chúa cũng đã tuyển chọn chúng ta trong kế hoạch nhiệm mầu của Người và yêu thương chăm sóc chúng ta cách đặc biệt. Người chờ mong chúng ta sinh ra hoa trái tốt tươi. Nhưng nếu chúng ta chưa thực hiện được những mơ ước của Người, thì cũng như cây đàn vĩ cầm rạn nứt trong câu chuyện trên đây, Người cũng cho chúng ta một cơ hội, là đôi tay kỳ diệu của người nghệ sĩ đã chạm vào cây đàn, chính là Đức Glêsu, để chúng ta tấu lên những khúc nhạc du dương, là bài ca của những tâm hồn biết ăn năn, là hoa trái của những tấm lòng sám hối.
Chúng ta hãy cảm tạ tri ân Chúa Giêsu đã cho chúng ta cơ hội thứ hai này, và tận dụng tối đa cơ may ấy để sinh nhiều hoa trái trong mùa Chay thánh.
***
Lạy Chúa, mỗi một biến cố đau buồn là một lời nhắc nhở chúng con hãy sẵn sàng tỉnh thức. Mỗi một ngày mới là một cơ hội Chúa khoan giãn để chúng con có thời gian sám hối ăn năn.
Xin đừng để chúng con khất lần kẻo cũng bị số phận như cây vả không trái, nhưng xin cho chúng con biết dùng ơn Chúa để nên thánh thiện, sống đẹp lòng Chúa mỗi ngày một hơn. Nhất là biết chuẩn bị giờ chết ngay từ bây giờ bằng việc ăn năn sám hối. Amen. (TP)
* 3. KIÊN NHẪN
Cây vả được trồng 3 năm thì tới lúc có trái. Nếu đến khi đó mà nó vẫn chưa có trái thì hầu như sẽ chẳng bao giờ có trái nữa. Đây là trường hợp của cây vả trong bài Tin Mừng hôm nay. Bởi vậy ông chủ ra lệnh đốn bỏ nó, để khỏi chật đất, để khỏi tốn công chăm sóc, để danh chỗ trồng cây khác hữu ích hơn. Nhưng người làm vườn vẫn chưa nản lòng. Người này vẫn còn hy vọng nơi cây vả, nên xin ông chủ cho thêm thời hạn một năm nữa. Trong thời gian này ông sẽ tích cực bồi dưỡng và chăm sóc cho nó. Sau đó nếu nó vẫn không trái thì mới bị chặt đi.
Dụ ngôn không cho ta biết kết quả cuối cùng thế nào. Nhưng bấy nhiêu cũng đủ nói lên điều Chúa Giêsu muốn nói: cũng như người làm vườn kiên nhẫn chờ đợi cây vả ra trái, Thiên Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi kẻ tội lỗi ăn năn sám hối.
Lịch sử đầy dẫy những thí dụ về những người nhờ được người khác kiên nhẫn cho thêm cơ hội nên về sau trở thành những vĩ nhân. (1) Ngay trong bài đọc I hôm nay đã có một tấm gương: Môsê khi còn trẻ đã phạm tội giết người. Chúa không phạt ông, mà còn sử dụng tính khí nhiệt tình của ông để giải phóng dân Do Thái khỏi ách nô lệ Ai cập. (2) Einstein mãi đến hai tuổi mới bắt đầu biết nói bập bẹ. Khi Einstein đến trường, các giáo viên cũng ngã lòng vì sự chậm chạp của ông. Vậy mà Einstein đã trở thành nhà bác học được đánh giá là nổi bật nhất của thế kỷ.
Có nhiều người phát triển rất chậm và muộn màng, nhưng lại là những nhân tài. Những người như thế cần có ai đó tin tưởng họ, kiên nhẫn chờ đợi họ và tạo cơ hội cho họ. Nếu không thì kho tàng tài năng của họ sẽ bị vùi dập và mai một đi.
Chúng ta biết cho chính bản thân mình thêm cơ hội. Tại sao chúng ta không làm như thế đối với người khác? (FM)
4. ĐẤT THÁNH
Chúa phán với Môsê: "Nơi ngươi đang đứng là đất thánh".
Mọi nơi trên mặt đất này mà Chúa ban cho ta đều là đất thánh và đáng được chúng ta kính trọng. Nhưng mảnh đất thánh thiện nhất nằm ngay trong chúng ta.
Trước hết, thân xác chúng ta là thánh. Thân xác là thánh vì nó là công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Thánh Phaolô còn đưa ra lý do thứ hai: "Thân xác anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần". Vậy chúng ta phải tôn trọng và chăm sóc thân xác chúng ta.
Tâm trí chúng ta cũng là thánh. Nhiều người hằng ngày cứ nhồi vào tâm trí mình đủ thứ điều xấu xa từ tivi, radio, sách báo v.v. Chúng ta hãy nghe lời Thánh Phaolô: "Anh em hãy đong đầy tâm trí những gì chân thật, cao quý, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt những gì là đức hạnh đáng khen" (Pl 4,8)
Nhưng thánh nhất là tâm hồn chúng ta. Ngày nay người ta rất quan tâm đến sự sạch sẽ bên ngoài nhưng lại quên đi sự sạch sẽ bên trong, tức là sự sạch sẽ của tâm hồn. Từ tâm hồn sinh ra tư tưởng, lời nói, việc làm như dòng nước phát sinh từ mạch nước. Nếu mạch nước mà sạch thì nước chảy ra cũng sạch. Vậy chúng ta hãy giữ cho tâm hồn trong sạch và tinh tuyền. Chúa Giêsu nói "Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Chúa". (FM)
5. TẢN MẠN SUY TƯ
a/ Trong bài đọc I kể chuyện Chúa hiện ra với Môsê, điều đáng ngạc nhiên là Chúa không hiện ra cho ông trong Đền thờ mà là trong sa mạc; và Chúa hiện ra không phải khi Môsê đang cầu nguyện mà trong lúc ông chăn cừu. Chúa hiện ra cho Môsê ở một nơi phàm trần và trong một sinh hoạt phàm trần.
Ngày nay thế giới đã trở thành một nơi phàm trần. Thật khó mà giữ được một ý thức thiêng thánh trong một thế giới như thế. Tuy nhiên, nếu không có thiêng thánh và ý thức hướng thượng, thì cuộc đời sẽ nghèo nàn và thấp hèn biết bao.
Trong cuộc gặp gỡ giữa Môsê với Thiên Chúa, cảm xúc lấn át nhất xem ra là sợ hãi. Nhưng thực ra không phải thế. Khi Thánh Kinh nói về sự sợ đối với Thiên Chúa thì không phải là sợ hãi mà là kính sợ. Sợ hãi là một cảm xúc tiêu cực, nó khiến ta co rúm lại và muốn chạy trốn; còn kính sợ là một cảm xúc tích cực, nó khuyến khích ta tiến đến gần đối tượng đang tác động lên mình, ta không cảm thấy bị hạ xuống, mà được nâng lên.
Tín ngưỡng bắt đầu bằng cảm xúc kính sợ, kính sợ vì nhận biết sự cao cả của Thiên Chúa và giới hạn thấp hèn của con người. Kính sợ đi trước, và đức tin đến sau.
Mà kính sợ thì bắt đầu bằng sự ngỡ ngàng. Môsê đã ngỡ ngàng khi thấy bụi gai cháy rực mà không rụi tàn.
b/ Tuy nhiên rất dễ ngỡ ngàng trước một sự kiện bất thường như thế. Ngay cả người khùng cũng biết ngỡ ngàng trước sự bất thường. Còn người khôn thì biết ngỡ ngàng trước những sự bình thường. Đây mới là vấn đề. Chúng ta ước ao được ngỡ ngàng trước một phép lạ, nhưng chúng ta không ngỡ ngàng khi ngắm cảnh hoàng hôn. Hầu hết chúng ta cảm thấy khó mà nhận ra nét cao cả và đáng ngỡ ngàng nơi những sự việc bình thường trong cuộc sống; chúng ta không nhận ra những "phép lạ" vẫn diễn ra hằng ngày chung quanh chúng ta.
Tâm tình tôn thờ bắt nguồn từ ý thức về những phép lạ như thế. Kính sợ và ngỡ ngàng có thể được khơi lên bởi những sự việc rất nhỏ bé, chẳng hạn một hạt cát, một chiếc lá hay một giọt mưa.
Một đức tin cần được củng cố bằng phép lạ là một đức tin nghèo nàn. Những ai đã gắn bó với Chúa thì không cần phép lạ nữa, vì họ đã ý thức mình đang sống trong một thế giới được quyền năng Chúa bao bọc, họ nhìn đâu cũng thấy Chúa.
Người nào có khả năng nuôi dưỡng đức tin của mình bằng những phép lạ đời thường thì giống như người đang ngồi nơi bàn tiệc.
c/ Dù Môsê đang đứng tại một nơi phàm trần giữa hoang địa, nhưng Chúa bảo ông rằng đó là nơi thánh. Điều gì đã khiến nơi đó thành nơi thánh? Thưa chính là sự hiện diện của Chúa. Nếu thế thì nhà thờ cũng là nơi thánh, vì có Chúa hiện diện trong nhà thờ. (FM)
6. TẠI SAO CHÚA CHỌN MÔSÊ ?
Trích đoạn của bài đọc I không cho ta biết tại sao Chúa chọn Môsê. Nhưng trước trích đoạn này có ba đoạn khác có thể giúp chúng ta trả lời được câu hỏi này.
* Một lần kia Môsê thấy một người Ai cập hà hiếp một người Do Thái, ông chịu không được nên đã ra tay can thiệp.
* Một lần khác ông thấy hai người Do Thái đánh nhau, ông chịu không nổi nên cũng ra tay can thiệp.
* Và một lần nữa, ông thấy những người chăn chiên xứ Mađian ngăn cản không cho các con gái của Ông Yêthro múc nước, ông không chịu nổi nên lại ra tay can thiệp.
Cả ba chuyện trên đều cho thấy Môsê là người không thể khoanh tay đứng nhìn trước cảnh bất công. Bởi thế khi Thiên Chúa "thấy cảnh khổ cực của dân Ta... Ta xuống giải thoát chúng..." thì Ngài chọn Môsê.
7. CHUYỆN MINH HỌA
a/ ĂN NĂN
Satan phàn nàn với Chúa: "Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời. "Chúa nói: "Đã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa?".
b/ CƠ HỘI CUỐI CÙNG
Sau khi đánh tan một cuộc nổi loạn, nhà vua bắt những kẻ phản loạn về. Ông ra lệnh thắp lên một cây nến, rồi nói với họ: "Ai chịu đầu hàng và thề trung thành với ta thì sẽ được tha, bằng không sẽ bị giết Các ngươi hãy suy nghĩ. Khi cây nến tắt thì cuộc hành quyết sẽ bắt đầu". Thiên Chúa cũng đối xử với tội nhân như vậy: Ngài cho họ một thời gian gia hạn. Tuy nhiên có một khác biệt quan trọng: không ai biết cây nến của đời mình còn dài hay ngắn. (Tonne).
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, để có thể hiệp thông với Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện, con người cần phải thanh tẩy tâm hồn khỏi mọi vết nhơ tội lỗi. Với tâm tình sám hối và quyết tâm đổi mới đời sống, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh luôn mời gọi người Kitô hữu thành tâm sám hối vì những lỗi lầm đã phạm / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa / biết tích cực sống tinh thần cầu nguyện và sám hối của Mùa Chay.
2. Trong đời sống thường ngày / vẫn còn biết bao người đói khổ vì quá nghèo túng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người giàu có / biết rộng rãi chia sẻ cơm áo cho những ai khó nghèo.
3. Hãy thay đổi đời sống / vì Nước Trời đã tới gần bên / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết nỗ lực hoán cải con tim / thay đổi tính hạnh / để ngày càng nên giống Chúa Giêsu hơn.
4. Sám hối trước tiên là lãnh nhận bí tích Hòa Giải / rồi thực hành bác ái yêu thương / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết chân thành xưng thú tội lỗi / và yêu thương hết thảy mọi người.
Chủ tế: Lạy Chúa, biết bao lần chúng con đã sám hối tội lỗi và quyết tâm đổi mới đời sống cho đẹp lòng Chúa, nhưng chúng con chưa thực hiện được những gì muốn quyết tâm sửa đổi vì yếu đuối. Vậy xin Chúa ban thêm sức mạnh cho chúng con. Chúng con cầu xin
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Trong tâm tình sám hối, khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt đọc cách rất thức lời nguyện "và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con"
VII. GIẢI TÁN
Như người làm vườn kiên nhẫn chờ đợi cho cây vả sinh ra, Thiên Chúa cũng đang kiên nhẫn chờ đợi chúng ta sám hối và sinh ra hoa trái những việc lành. Chúng ta đừng làm cho Chúa phải thất vọng.
Dường như Tin mừng hôm nay ngỏ lời với những người có khuynh hướng không quá lo lắng: MC 3-C54
Dường như Tin mừng hôm nay ngỏ lời với những người có khuynh hướng không quá lo lắng, không thấy áy náy lương tâm, cảm thấy chắc chắn về mình và có vẻ hài lòng về cuộc sống của họ nữa. Ta đễ dàng cho rằng những người này có tiếng tốt và tự hào là mình không làm hại ai cả: Họ không trộm cắp, dĩ nhiên rồi. Họ không bóc lột đồng loại. Trung thành với bạn đời, họ giáo dục con cái đàng hoàng. Mỗi ngày sabat, họ lên hội đường cầu nguyện. Đó là những người đạo đức! Những người Israel tốt lành, chăm lo tuân giữ lề luật.
Những lời Chúa Giêsu nói với họ thật là gay gắt: "Nếu anh em không hoán cải thì anh em sẽ chết hết". Khi nghe lời cảnh báo này, ta nhận ra một Chúa Giêsu muốn thức tỉnh thính giả của mình, muốn mở mắt cho họ nhìn ra tình trạng của họ, làm cho họ ý thức về điều quan trọng là thay đổi đời sống và cho họ thấy rằng đó là điều cấp bách: "Hãy hoán cải ... và nhanh lên ! Không được mất thì giờ ". Bao giờ cũng hơi khó coi trọng một lời mời gọi như thế. Và càng khó hơn nữa để ý thức rằng lời ấy được nói với chúng ta. Tuy nhiên! Đời sống của chúng ta có thực sự Ki tô không ? Chúng ta có thực sự và nghiêm túc thi hành tất cả những điều Chúa Ki tô dạy không ? Trong môi trường bé nhỏ của chúng ta, chúng ta có phải là muối và ánh sáng, là mẫu mực cho kẻ khác không ? Khi nhìn chúng ta sống, người ta có thể nói "đây là một ki tô hữu chân chính" không?
Những lời mời gọi.
"Anh em hãy hoán cải ! " Câu này đã cũ rích, đã nhàm tai và có lẽ đã mất hết ý nghĩa rồi. Nó gây bực tức. Tuy nhiên, nó gợi lên một thực tại luôn luôn có tính thời sự: sự cần thiết phải thay đổi cái gì đó trong cách suy tư và cách sống của chúng ta cho am hợp hơn với những đòi hỏi của Tin mừng.
Tin mừng tuyên bố rằng thỏa thích trong những tiện nghi của mình khi kẻ khác phải thiếu thốn là không hợp tinh thần Ki tô. Khắp nơi, người ta kêu gọi giúp đỡ vì họ thiếu cả những cái tối cần nữa. Trong mùa chay này chúng ta muốn chia sẻ bao nhiêu những gì ta sở hữu ?
Tin mừng tuyên bố là không hợp với tinh thần Ki tô khi ta không quan tâm đến những kẻ xung quanh, khi ta xét đoán họ, gán cho họ những ý xấu, gây tổn thương cho họ bằng lời nói hoặc cử chỉ của ta, khi ta phá hoại thanh danh của họ ... Nhưng những người rất gần chúng ta ..., ngay trong nhà chúng ta, đang cần được thông cảm hơn và yêu thương hơn. Họ chờ đợi nơi chúng ta một chút ưu ái. Họ hy vọng chúng ta sẽ biết trở nên thực sự là cha, là mẹ, là anh em, là chị em của họ. Trong mùa chay này, chúng ta có chịu lắng nghe tiếng kêu của họ không? Chúng ta sẽ làm gì để yêu thương họ hơn?
Tất cả giáo huấn của Chúa Giêsu đều tuyên bố rằng ta không thể sống đạo thực sự nếu không quên mình, không quan tâm đến hạnh phúc của kẻ khác, không thiếu dịp sống cho kẻ khác. Trong xã hội chúng ta và có lẽ trong giáo xứ chúng ta nữa, có nhiều tổ chức, những cơ quan mời gọi chúng ta tham gia để góp phần lâm cho cuộc sống của nhiều người được khá hơn. Những cơ quan tổ chức giải trí, hoạt động mục vụ, những nhóm xã hội đủ loại ... Trong mùa chay này, chúng ta đang sống thế nào, chúng ta có thờ ơ trước những tiếng kêu giúp đỡ và nâng đỡ lan nhau được ngỏ với chúng ta không?
"Anh em hãy hoán cải ! " Một lời kêu gọi dành cho kẻ khác mà thôi ... hay cũng liên quan đến cả chúng ta nữa?
Một thảm kịch kéo' dài
Khi Chúa Giêsu xuống thế, thảm kịch xảy ra là đa số những kẻ gặp Ngài và nghe Ngài đã không tin Ngài. Những lời Ngài mời gọi sống tốt hơn đã không lay chuyển được họ .
Hôm nay, thảm kịch là chính những lời mời gọi dó tiếp tục vang lên và chúng ta vẫn tiếp tục làm ngơ, và chúng ta vẫn tiếp tục con đường của mình với một lương tâm bình yên."Nếu anh em không hoán cải thì anh em sẽ chết hết ! "
Chúng ta sẽ làm gì trước lời cảnh báo này trong mùa chay mà chúng ta đang sống đây ?
Chúa Nhật thứ 02 Mùa Chay vừa qua. Đức Giêsu hé mở cho 03 môn đệ thấy trước giá trị ơn cứu: MC 3-C55
Chúa Nhật thứ 02 Mùa Chay vừa qua. Đức Giêsu hé mở cho 03 môn đệ thấy trước giá trị ơn cứu độ (qua hiển dung), và sau đó, Chúa giục các môn đệ cùng đi xuống núi với Ngài để đưa cả nhân loại vào vinh quang ấy. Nhưng vinh quang của ơn cứu độ phải là vinh quang trải qua đau khổ. Do đó, các bài học trong Thánh lễ hôm nay:
-Nêu lên những nguyên nhân đau khổ.
-Gây ý thức về giá trị đau khổ.
-Và cách giải quyết vấn đề đau khổ để đạt được vinh quang.
I. Những nguyên nhân gây nên đau khổ:
Đã là người, ai ai cũng phải hứng chịu đau khổ ít nhất một trong ba nguyên nhân, và thường là hứng chịu cả ba nguyên nhân gây đau khổ sau:
1. Đau khổ do tội người khác gây nên:
Bài đọc 1 diễn tả: vì óc ghen tương, óc thống trị, óc hưởng thụ của dân Aicập, đã bắt dân Do Thái phải làm nô lệ cho họ một cách hết sức tàn nhẫn và vô nhân đạo: Nào là Aicập ra lệnh giết con trai của dân Do Thái ngay từ khi mới được sinh ra, nào là bắt dân Do thái đúc gạch nộp đúng chỉ tiêu mà không cấp phương tiện sản xuất. (xem Xuất Hành 3).
2. Đau khổ do tội mình gây nên:
Bài đọc 2 thánh Phao lô nhắc lại thái độ vô ơn của dân Do Thái trong sa mạc kêu trách Chúa về manna, thức ăn nhàm chán Chúa ban cho hằng ngày để nuôi dân! Bởi tội ấy, rắn trong rừng đã bò ra cắn chết nội trong một ngày 23.000 người (1 Cr 10).
3. Đau khổ do thiên nhiên gây nên:
Đơn cử: 18 người đang tham quan tháp Silôam, thình lình tháp đổ, chôn sống cả 18 người trong lòng đất! (xem Lc 13,4).
II. Ý thức về giá trị đau khổ:
1. Nếu đau khổ vì tội người khác gây nên thì:
Cho ta thấy được ác tính của tội luôn mang chiều kích xã hội: Tội không chỉ gây tai họa cho người phàm mà thôi, mà nhiều khi người vô tội lại phải chuốc lấy hậu quả thê thảm do kẻ phạm tội gây nên. Điển hình: Vì lòng ghen tỵ của bọn Aicập, mà nhiều trẻ em Do thái đã bị bóp chết ngay từ khi mới sinh ra!
Người phạm tội nhận định được như thế, thì chính cái khổ kia đã trở thành tòa án xét xử lương tâm kẻ gây tội ác, và làm cho kẻ phạm tội biết sám hối, ngưng làm ác!
Nhất là khổ do tội người khác gây nên lại trở thành dấu chỉ tình yêu tuyệt vời, trở thành giá cứu độ người khác, như cái khổ Đức Giêsu phải chịu!
2. Nếu khổ vì tội mình:
Cái khổ ấy trở thành hàng rào cản bước kẻ phạm tội ngưng làm ác.
Cái khổ ấy đã có giá trị đền tội mình phần nào ở đời này, hầu đời sau bớt khổ hình!
3. Nếu khổ do thiên nhiên gây nên:
Từ đó người ta nhận ra rằng:
Không thể bám lấy tạo vật mà tôn thờ nó như một Chúa tể để nương nhờ, vì nhiều khi chính nó phản đối con người làm cho người ta phải khổ vì tạo vật! Do đó người ta phải về với Thiên Chúa mà tôn thờ duy nhất một mình Ngài.
Nói cách khác: cái khổ do thế giới vật chất gây nên dạy chúng ta phải mơ ước đến một thế giới vô hình khác nhờ Chúa chỉ cho, đó là quê trời.
Tâm lý bình dân khi thấy người khác gặp khổ, người ta thường buông câu: "Chúa phạt!"; nhưng Chúa phản đối ngay: không phải Chúa phạt nhưng nếu nó không ăn năn sám hối, nó cũng sẽ bị tiêu diệt in như thế! (Lc 13,3-5).
Vậy có những tai họa Chúa cho phép nó xảy ra, để trở nên dấu chỉ đe phạt kẻ có tội, là cơ hội giúp con người phàm tỉnh về cách sống củamình.
III, Cách giải quyết đau khổ để đạt vinh quang:
1. Cần có người thủ lãnh can thiệp:
Xưa người Do Thái muốn thoát ách nô lệ Aicập, cũng như muốn không bị chết vì rắn cắn, cần phải có Môsê đứng ra lãnh đạo hoặc can thiệp.
Nay tội nhân muốn được yên lành, cần phải nhờ Đức Kitô cũng như Hội thánh đứng ra cầu xin Thiên Chúa khoan dung, và ban ơn cho tội nhân biết sám hối, và làm lành như người canh tác vườn xin ông chủ gia hạn một năm, để bón tưới thêm cho cây vả đã 03 năm không sinh trái, nay bị ông chủ treo án tử!
2, Đừng cậy dựa vào vật chất, nhưng dựa vào Thiên Chúa:
Kinh nghiệm sự giàu có của dân Do Thái làm cớ cho bọn Aicập ghanh ghét, và như thế vì có của cải mà người Do thái bị người Ai cập bắt làm nô lệ, thế mà khi ra khỏi Aicập, dân Do thái không biết ơn Chúa, chưa tin Chúa, nên lại bị khổ!
Kìa Môsê, một tội nhân đang bị Ai cập truy nã, thế mà bỗng nhiên ông trở nên bậc vĩ nhân, đứng ra lãnh đạo dân Chúa, chống lại cả bạo lực Ai cập! Môsê nhờ đâu vậy? Nếu không phải là Chúa đòi ông sống nghèo, tin tưởng phó thác tuyệt đối nơi Chúa, đến nỗi còn một đôi đép để bảo vệ đôi chân của ông nơi rừng sâu nhiều gai góc mà Chúa cũng bắt ông cởi ra ngay. Bởi vì, ai đến với Chúa, họ chẳng thiếu thốn chi, như danh Ngài mạc khải cho Môsê: "Ta là Đấng Có" (xem Xuất hành 3,14).
Môsê còn trở nên vị thủ lãnh vĩ đại hơn nữa, là ông được phúc đón nhận Lời Chúa ở trên rừng, Chúa nói chuyện với ông trong ngọn lửa cháy giữa bụi gai, chính là báo trước Chúa sẽ ban lời Chúa ở núi Sinai cho dân sau này, vì trong tiếng Do thái chữ bụi gai cũng na ná như từ Sinai!
Vậy Chúa kêu gọi chúng ta sám hối và làm lành như cây vả lớn phải sinh trái, cụ thể và quan trọng nhất là:
a, Ta hãy nghe lời Hội thánh dẫn dắt như dân Do Thái nghe lời Môsê.
b, Ta trông cậy vào lời cầu của Hội thánh, nhất là công nghiệp của Chúa Giêsu, như người Do thái trông chờ lời cầu của Môsê, nhất là nhờ Chúa Giêsu và Hội thánh bầu cử, chăm sóc ta như cây vả cần người làm vườn xin tha chặt và được vun bón!
c, Cần được Chúa ở cùng như Môsê là đủ, do đó Chúa đòi Môsê vất cả dép đi và đừng ham của cải như dân Do thái bên Ai cập, chỉ lấy cái bụng làm Chúa! Để rồi kêu trách Chúa về miếng ăn như người Do thái trên samạc!
d, Đừng thấy mình còn được sống phây phây, gặp vận hên, còn người khác gặp khốn khó thì tưởng là mình đạo đức tốt lành hơn họ. Nhưng hãy lấy dấu dữ người khác phải chịu mà tra vấn cách sống của mình!
Đừng sợ cách chết dữ, hãy sợ cách sống dữ. Vì nếu sống dữ, ắt chết dữ -dù chết cách lành- và nếu sống lành, ắt chết lành -dù cách chết dữ ! (Augustinô).
Mới thoạt nghe hoặc đọc qua trích đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật tuần này, ta có cảm tưởng: MC 3-C56
Mới thoạt nghe hoặc đọc qua trích đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật tuần này, ta có cảm tưởng như không ăn nhập gì với trích đoạn Tin Mừng của Chúa Nhật tuần trước. Một đàng tả cảnh Chúa Giêsu uy nghi, sáng láng và hiển lộ trên núi cao. Và một đàng diễn lại cảnh mấy người Galilê bị Philatô giết, hoặc 18 người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết. Và nhất là hình ảnh một cây vả không sinh trái bị ông chủ định cho chặt bỏ.
Nhưng nếu đem những hình ảnh và biến cố ấy đặt vào ý nghĩa của Mùa Chay, mùa suy niệm về cuộc Khổ Nạn và chuẩn bị đón mừng sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, ta lại thấy những so sánh này có nhiều ý nghĩa. Chúa Giêsu đó, uy nghi và cao cả, nhưng vì tình thương vô biên, Ngài đã chấp nhận cực hình, và chịu chết một cách tức tưởi cho con người tội nhân, hư hỏng, và không sinh được hoa trái nào trước mặt Thiên Chúa.
Nếu dụ ngôn cây vả được diễn tả bằng ngôn ngữ tự nhiên của con người, thì ta có thể nói rằng, ông chủ vườn này là người thích ăn trái vả, nên ông đã cẩn thận lựa giống vả tốt để trồng. Rất tiếc năm này qua năm khác, chờ mãi mà không thấy cây vả của mình sinh hoa kết trái. Và vì là một người thực tế, nên ông đã muốn chặt nó đi để trồng cây khác. Nhưng người làm vườn không nỡ nhìn thấy cây vả bị chặt bỏ, nên đã nói với ông chủ: “Thưa ông, xin để cho nó một năm này nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi” (Luc 13:8-9).
Trong nhãn quan siêu nhiên, thì cây vả đây không gì khác hơn là hình ảnh mỗi Kitô hữu chúng ta. Chúng ta được Thiên Chúa yêu thương và rất mực săn sóc như người chủ vườn thích ăn trái vả và đã cố ý trồng một cây vả để đem lại trái ngon cho mình. Do sự yếu đuối, do những cám dỗ, chúng ta đã sai lỗi, đã không đem lại những hoa trái thiêng liêng về cho Thiên Chúa, cũng như cây vả trồng mãi mà không sinh trái. Chúng ta đáng bị Thiên Chúa loại bỏ.
Nhưng rồi nhờ có người làm vườn, là Chúa Giêsu, đã đứng ra bảo lãnh cho mà chúng ta không bị loại bỏ. Cũng như người làm vườn, muốn cứu nguy cây vả đã phải đào đất, tưới bón, Chúa Giêsu vì muốn cứu lấy tất cả mọi người chúng ta khỏi bị hư đi đã nghĩ ra một cách hết sức táo bạo, đó là lấy chính máu mình để tưới và lấy thân xác mình làm phân bón cho cây vả mỗi người chúng ta. Hình ảnh được tìm thấy qua cái chết ghê gớm của những người bị Philatô luận xử, cũng như những người bị tháp Silôe đè xuống chính là hình ảnh Chúa Giêsu sau này cũng bị Philatô luận xử. Ngài đã bị đè bẹp bởi đức công bằng của Thiên Chúa, do tội lỗi nhân loại qua cây thập tự giá.
Nhưng thông thường, khi một cây được trồng theo đúng cách thức, được chăm nom và tưới bón thì sẽ sinh hoa trái. Đó cũng là lý do tại sao người làm vườn đã năn nỉ ông chủ khoan chặt cây vả vì hy vọng rằng với sự chăm sóc của mình, cây vả qua năm sẽ có trái. Còn chúng ta, chúng ta phải nghĩ gì sau bao năm được tưới gội bằng ân sủng qua những Bí Tích Thánh của Chúa, được nuôi dưỡng bằng Mình và Máu Thánh Người, chúng ta đã thấy mình sinh được những hoa trái thiêng liêng nào chưa. Hay rồi cũng vẫn bắt Thiên Chúa phải chờ mãi hết năm này, qua năm khác.
Nếu Mùa Chay là mùa ăn năn, trở về cùng Thiên Chúa, thì cũng là cơ hội để chúng ta nhìn lại phần tâm linh của mình, và tự hỏi, mình đã làm gì để sinh lợi cho Chúa chưa. Nếu chưa, thì đây chính là thời gian thuận tiện nhất để làm việc đó. Vì không ai muốn rằng sẽ có một ngày mình sẽ phải ân hận mà than thỡ rằng: “Thôi đã hết rồi, cơ hội tốt đã đi qua và không bao giờ trở lại”. Và lúc đó cũng là lúc chủ vườn sẽ chặt bỏ cây vả vô tích sự, ăn cớm đất, và chật vườn.
Có thể nói đời sống chúng ta là người Ki-tô hữu phải đậm nét ăn năn sám hối, vì chúng ta tội: MC 3-C57
Có thể nói đời sống chúng ta là người Ki-tô hữu phải đậm nét ăn năn sám hối, vì chúng ta tội lỗi, yếu đuối, thường xuyên thiếu sót và vấp phạm trong đời sống Đức Tin! Cũng có thể nói cuộc đời Ki-tô hữu phải là một Mùa Gặt Bội Thu, riêng Mùa Chay phải là Mùa Hoa Thơm Trái Ngọt đùm đề, xum xuê! Hoa Thơm Trái Ngọt “tuân phục thánh ý Chúa và thực thi sứ mệnh Chúa giao” như trường hợp của Mô-sê (bài đọc 1). Hoa Thơm Trái Ngọt “biết ơn và sống gắn bó với Chúa Giê-su Ki-tô” như lời nhắn nhủ tín hữu Cô-rin-tô của Thánh Phao-lô (bài đọc 2). Hoa Thơm Trái Ngọt “sám hối, khiêm nhu và thánh thiện” như lời Chúa Giê-su nhắc nhở các kinh sư và Pha-ri-sêu trong Phúc Âm.
Chúng ta hãy dành thời gian tìm hiểu, suy niệm Lời Chúa và chọn lựa quyết tâm để Mùa Chay năm 2007 này là một Mùa đầy Hoa Thơm Trái Ngọt thiêng liêng, đáng nhớ mãi trong cuộc đời trần thế của chúng ta.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh.
(1) Bài đọc 1: Xh 3, 1-8a.13-15: Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em.
1 Bấy giờ ông Mô-sê đang chăn chiên cho bố vợ là Gít-rô, tư tế Ma-đi-an. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khô-rếp. 2 Thiên sứ của Đức Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Mô-sê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi. 3 Ông tự bảo: "Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không cháy rụi? "4 Đức Chúa thấy ông lại xem, thì từ giữa bụi cây Thiên Chúa gọi ông: "Mô-sê! Mô-sê! " Ông thưa: "Dạ, tôi đây! " 5 Người phán: "Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh." 6 Người lại phán: "Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp." Ông Mô-sê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa.
7 Đức Chúa phán: "Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. 8 Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai Cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật… 10 Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai Cập." 11 Ông Mô-sê thưa với Thiên Chúa: "Con là ai mà dám đến với Pha-ra-ô và đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai Cập?" 12 Người phán: "Ta sẽ ở với ngươi. Và đây là dấu cho ngươi biết là Ta đã sai ngươi: khi ngươi đưa dân ra khỏi Ai Cập, các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên núi này."
(2) Bài đọc 2: 1 Cr 10,1-6.10-12: Đời sống của dân Ít-ra-en với ông Mô-sê trong sa mạc đã được chép lại để răn dạy chúng ta.
1 Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. 2 Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Mô-sê. 3 Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, 4 tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Ki-tô. 5 Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc. 6 Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta.
10 Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong nhóm họ đã lẩm bẩm kêu trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt. 11 Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này. 12 Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã.
(3) Bài Tin Mừng: Lc 13,1-9: Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.
1 Lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng. 2 Đức Giê-su đáp lại rằng: "Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao? 3 Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. 4 Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? 5 Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy."
6 Rồi Đức Giê-su kể dụ ngôn này: "Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, 7 nên bảo người làm vườn: "Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất? 8 Nhưng người làm vườn đáp: "Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. 9 May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi."
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
(1) Bài đọc 1 (Xh 3, 1-8a.13-15) là một trong những đoạn văn hay nhất của Sách Xuất Hành, vì đoạn văn này tường thuật việc Thiên Chúa tự mạc khải mình cho nhân loại qua ông Mô-sê, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng việc làm:
Trước hết Thiên Chúa tỏ lộ Ngài là Đấng Thánh, Đấng Siêu Việt, Đấng Vô Hình, Đấng Tự Hũu mà con người không nhìn thấy, không thể tiếp cận trực tiếp (mà không phải chết!).
Thứ đến, Thiên Chúa cho thấy Ngài là Đấng quan tâm đến cuộc sống của những người Ít-ra-en nên Người nghe thấy tiếng kêu than của họ.
Sau cùng Thiên Chúa mạc khải là Đấng không thể ngồi yên trước nỗi thống khổ của con dân Ít-ra-en nên nẩy ra sáng kiến cứu thoát, giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, qua một chương trình và kế hoạch mà chính Người thực hiện qua trung gian và công cụ là ông Mô-sê, tôi tớ của Ngài.
(2) Bài đọc 2 (1 Cr 10,1-6.10-12) là những lời giãi bày chí lý của Thánh Phao-lô Tông đồ nhằm khuyên nhủ các tín hữu Cô-rin-tô hãy biết rút ra bài học bổ ích từ lịch sử của dân Chúa, từ cách sống của những người Ít-ra-en trong thời Xuất Hành được xem là cha ông của họ trong dòng dõi những kẻ tin vào Thiên Chúa.
Trong đoạn 1 Cr 10,1-6.10-12 trên, chúng ta thấy Thiên Chúa đã ân cần và rộng tay ban phát nhiều ơn huệ như thế nào cho những người Ít-ra-en: Người đã giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, đã nuôi sống họ trong suốt 40 năm hành trình xuyên qua sa mạc về Đất Hứa, đã tỏ ra quyền năng và luôn hiện diện bên họ. Thế nhưng nhiều người trong số họ vẫn không tin vào tình thương và quyền năng của Người, vẫn lẩm bẩm than trách mỗi khi gặp khó khăn trở ngại, vẫn quay lưng lại với Người để đi tìm các tà thần…
(3) Bài Tin Mừng (Lc 13,1-9) là tường thuật của Lu-ca về hai quan điểm khác nhau trước một sự kiện cụ thể vừa xẩy ra. Sự kiện đó là những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết chết khi họ đang tiến hành việc dâng của lễ cho Thiên Chúa. Theo quan điểm của những người Do Thái (tiêu biểu là các kinh sư và Pha-ri-sêu) thì những người Ga-li-lê kia bị giết là vì họ là những người tội lỗi, nên bị Thiên Chúa trừng phạt (bằng bàn tay của Phi-la-tô). Còn theo Chúa Giê-su thì sự việc không thể giải thích như thế. Chúa Giê-su không đưa ra một giải thích nào khác mà chỉ nhân đó lên tiếng cảnh cáo những người Do Thái là hãy coi chừng: đừng kiêu căng, tự phụ mà xem thường và kết án người khác; đừng suy diễn lung tung theo sự hiểu biết hẹp hòi của mình mà vi phạm đến quyền bá chủ lịch sử của Thiên Chúa. Điều quan trọng mà Thiên Chúa mong đợi ở họ là họ phải có đời sống tốt lành, thánh thiện như Giới Răn và Lề Luật đã dạy. Chúa Giê-su kể dụ ngôn cây vả để khéo léo và tế nhị nhắc nhở họ điều quan trọng ấy.
Qua đoạn Phúc Âm Lc 13,1-9 này, Chúa Giê-su cho thấy ý nghĩa và mục đích của cuộc sống con người, nhất là của những kẻ tin, là sinh hoa kết trái tức sám hối, khiêm nhường và tin vào Tin Mừng. Cây vả không sinh trái thì sớm muộn gì cũng sẽ bị chặt đi và ném vào lửa, vì nó sống chỉ làm hại đất. Kẻ tin không sinh trái thì sớm muộn gì cũng bị loại trừ vì những người ấy chỉ làm uổng công tình thương và quyền năng và ơn huệ của Thiên Chúa mà thôi!
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là chúng ta hãy sinh hoa kết trái trong đời sống đức tin vì lời Chúa Giê-su đã cảnh cáo: "Nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy." Có lẽ phải nói là sẽ chết hơn thế nữa, vì không phải là chết về phần xác mà chết về phần hồn tức chết vĩnh viễn, muôn đời.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Để thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay, tôi xét mình xem cuộc sống hiện tại của tôi có sinh Hoa Thơm Trái Ngọt như Chúa muốn không? Cụ thể:
* Tôi có tuân phục thánh ý Chúa và thực thi sứ mệnh Chúa giao, như ông Mô-sê không?
* Tôi có biết rút ra bài học của lịch sử, của quá khứ mà sống biết ơn và gắn bó với Chúa Giê-su Ki-tô, như lời nhắn nhủ của Thánh Phao-lô không?
* Tôi có sống ăn năn sám hối, khiêm nhu và thánh thiện, như lời Chúa Giê-su nhắc nhở các kinh sư và Pha-ri-sêu trong Phúc Âm không?
IV. CẦU NGUYỆN
(Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân)
4.1 Lạy Thiên Chúa là Đấng Tự Hữu, Siêu Việt và Vô Hình, Chúa đã phán với ông Mô-sê, tôi tớ Chúa:
“Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai Cập."
Nay Chúa cũng muốn những người sống chung quanh chúng con được giải thoát khỏi cảnh nô lệ thói hư tật xấu, tiền bạc, chức quyền, danh vọng, lạc thú, u mê, tội lỗi và tà thần.
Xin Chúa hãy dùng chúng con mà thực hiện ý muốn và kế hoạch cứu chuộc của Chúa.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.2 Lạy Thiên Chúa là Đấng đã giải thoát Ít-ra-en khỏi cảnh nô lệ Ai Cập, đã đồng hành và phù giúp họ trong suốt cuộc hành trình xuyên qua hoang địa vào Đất Hứa như Thánh Phao-lô đã viết cho tín hữu Cô-rin-tô và toàn thể Hội Thánh:
“Tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Mô-sê. Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ.”
Nay Chúa cũng vẫn đối xử tốt lành như thế với chúng con.
Xin Chúa ban cho lòng trí chúng con được rộng mở và sáng suốt mà nhận ra tình thương và quyền năng của Chúa trong cuộc sống của chúng con.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.3 Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa đã cảnh cáo người Do Thái và mỗi người chúng con:
"Nếu các ngươi không chịu sám hối, thì các ngươi cũng sẽ chết hết y như vậy."
Chúng con biết Chúa không muốn chúng con phải chết, nhưng Chúa muốn chúng con được sống, sống dồi dào và sống muôn đời.
Xin Chúa giúp chúng con sinh Hoa Thơm Trái Ngọt là ăn năn sám hối, khiêm nhu và thánh thiện, để chúng con không phải chết mà được sống muôn đời với Chúa và bên Chúa.
Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa. Xin Chúa nhận lời chúng con.
Chưa dám chắc nơi đâu là hạnh phúc
Chút hạnh phúc nhỏ nhoi ta có được
Hãy nâng niu như trái chin đầu mùa.
( thơ Đỗ Thị Thanh Bình )
Thiên đình của nhà thơ, có là Thiên đường của nhà Đạo ? Thiên đường nhà Đạo – Nước Trời: MC 3-C58
Thiên đình của nhà thơ, có là Thiên đường của nhà Đạo ? Thiên đường nhà Đạo – Nước Trời ở trần gian – có còn là chốn “nâng niu hạnh phúc” như trái chín đầu mùa, nữa không ? Hỏi là hỏi thế chứ đã rõ, vì Nước Trời có sẵn niềm vui miên trường, ta kiến tạo. Và niềm vui ấy không nhỏ nhoi như hạnh phúc từ cây trái đầu mùa. Nhưng vẫn lớn như niềm tin ta có. Tin là tin vào Lời Ngài quả quyết nơi trình thuật “cây vả”, hôm nay.
Trình thuật “cây vả” hôm nay, hiển nhiên không nói gì về hạnh phúc nơi Thiên đình hay ở nhân gian trần thế. Trình thuật cũng không bàn nhiều về những trừng phạt của Đức Chúa gửi đến với cây trái còi đẹt, chốn thế trần. Nhưng, Tin Mừng đặc biệt hàm ẩn một hạnh phúc. Thứ hạnh phúc đong đầy những quà tặng cứu độ, của Đức Chúa. Và Tin Mừng hạnh phúc hôm nay sẽ không trọn vẹn nếu không có sự hòa đồng hợp tác của những người con yêu dấu, nơi gian trần. Nơi có những hạnh phúc nhỏ nhoi cần nâng niu như trái chín đầu mùa. Trái chín đã kết tụ, vào mùa tới. Mùa của sám hối. Mùa xót thương thân phận còi đẹt, rất bất hạnh.
Về những còi đẹt / bất hạnh chốn nhân trần, dân thường ở huyện lại cho rằng: chính đó, là hình phạt Chúa gửi đến. Một loại hình trừng phạt: nhẹ, thì như cây vả không đâm hoa kết trái; nặng, thì tựa như Tsunami cơn sóng rất thần, xứ Inđô. Nối tiếp các bất hạnh / còi đẹt là những ngờ vực. Ngờ vực ở Thiên đình lẫn “chốn nhân gian”, chưa dám chắc nơi đâu là hạnh phúc nhỏ, ta có được. Và, người đời vẫn cứ nghi ngờ. Nghi và ngờ rằng: Thiên Chúa quản cai vũ trụ như người điều khiển con rối, rất tơi bời.
Trình thuật “cây vả” hôm nay còn cảnh tỉnh, rằng: nếu các ngươi không sám hối tất cả sẽ nên còi đẹt / bất hạnh, tựa cây khô. Tuy nhiên, cây khô bất hạnh không giảm bớt đi tình thương yêu cứu độ Chúa ban phát. Và, Tin Mừng cũng không đề cập gì đến duyên do của bất hạnh / còi đẹt. Bởi, bất hạnh nơi con người và còi đẹt ở cỏ cây, đều là những cảm nghiệm tự hỏi: phải chăng Chúa đã bớt yêu tôi ? hoặc: tôi có xứng đáng với tình yêu thương của Đức Chúa, nữa không ?
Trình thuật “cây vả” vẫn xác minh một điều: tình huống “nhân gian” nơi ta sống, các kinh nghiệm ta trải qua, đều là những “dấu chỉ” về tình Chúa thương ta. Dù ở Thiên đình hay chốn nhân gian người phàm, loài người và cỏ cây vẫn tràn đầy ơn mưa móc, những ân huệ. Ân huệ Ngài tặng, luôn nhắc ta một bổn phận: phải biết sẻ san đùm bọc với hết mọi người, chứ không chỉ cho riêng mình. Đùm bọc, để muôn người như một trở nên “trái chín đầu mùa”, có Chúa “nâng niu chăm sóc”. Và từ đó, trở thành quỹ đạo tình thương chuyển tải ân huệ Ngài ban, cho mọi người.
Dù là quà tặng, nhưng “dấu chỉ” của ân huệ không trở thành định chế; mà, là dịp thuận để ta cảnh tỉnh. Cảnh giác về những nghịch lý / nghịch thường, đang có trong đời. Và, tỉnh thức, để gặp Đấng cứu độ luôn tặng ta nhiều ân huệ. Ở “nhân gian” cỏ cây – đời người, vẫn có lúc ta tưởng chừng như đã ngã gục, đắm chìm trong khổ đau. Đau, vì tật bệnh. Khổ, vì tai ương, nghèo khó. Có lúc, ta đau đớn sầu khổ vì những thất bại, nơi trường đời. Đau đấy, nhưng vẫn không nên chủ bại. Khổ đấy, nhưng chớ có tuyệt vọng. Bởi thất bại, thật ra, vẫn là mẹ thành công, ta không thấy đó thôi.
Nói chung, còi đẹt / bất hạnh không là hình phạt đến từ Đức Chúa. Thất bại, cũng là điều tốt. Vì, có thất bại mới khiến bạn bè / người thân rời bỏ tháp ngà hạnh phúc của riêng mình, để vực dậy những người đã ngã gục và đưa họ về với vòng tay ôm, chăm sóc. Ngược lại, cuộc sống ấm no, dư đầy vật chất, vẫn chưa hẳn là “hạnh phúc nhỏ nhoi cần nâng niu”. Bởi, niềm vui sướng giả tạo, cấp thời chỉ đưa con người về với ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa. Chẳng quan tâm đoái hoài gì đến tha nhân. Đến đồng loại.
Thành thử, lâu nay đã trở thành nguyên tắc cho thực tại cuộc sống: ở đâu có đoái hoài đùm bọc người khác, những người đau khổ đói nghèo, ở đó Đức Chúa sẽ lân la đến gần. Ở đâu vật chất dư dật thừa mứa, nhưng thiếu quan tâm đùm bọc những người không có, chắc chắn nơi đó không có Chúa hiện diện. Và, hạnh phúc có từ vật chất dư dật mà thiếu sẻ san, chỉ là hạnh phúc tạm bợ vị kỷ. Tuyệt nhiên, đó không là hạnh phúc đích thật.
Hạnh phúc đích thật, chính là đùm bọc, sẻ san với người đồng cảnh mà thánh Phao-lô đề cập trong bài đọc thứ hai, hôm nay. Thánh nhân quả quyết: không phải vì mình cũng kinh qua các giai đọan bất hạnh / còi đẹt nên chắc chắn có được đảm bảo là người khác sẽ yêu thương đùm bọc mình. Ngược lại, những ai kinh qua bất hạnh – khổ đau, vẫn được bảo đảm là: Đức Chúa sẽ dành cho họ một cơ hội khác nữa để trỗi dậy nhờ có sự cầu bàu của người anh người chị cùng cảnh ngộ. Cũng tựa như cây vả còi đẹt nói trong Tin Mừng. Nói khác đi, đấy là tình huống “mặn này cho bõ nhạt ngày xưa”. Thứ mặn mà tình nồng của những sẻ san đùm bọc từ người anh, người chị đồng cảnh.
Trong hiểu biết tương tự, chẳng phải vì mình vẫn từng đi lễ, vẫn xưng tội đều đặn hoặc đã rửa tội theo nghi thức Công Giáo, mà nghiễm nhiên mình được bảo đảm chiếc vé “lên Thiên đình”, nơi có những hạnh phúc đáng nâng niu. Hoặc, nắm chắc là Đức Chúa yêu thương tặng ban ơn cứu độ. Bởi nếu thế, chiếc máy vi âm, cái loa phóng thanh hoặc cột đèn đường, chúng đã có bảo đảm được “nâng niu như trái chínđau mùa”, trước chúng ta.
Cuối cùng, vấn đề là: sau những tháng ngày tham dự thánh lễ, hãm mình phạt xác mà không biết sám hối đổi mới, cũng chẳng có gì đảm bảo là ta đang tăng trưởng trong tình yêu thương đùm bọc của Đức Chúa.
Quả thật, trình thuật “cây vả” hôm nay đã hai lần nhắc nhở: “nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ như vậy”. Sẽ như vậy, tức là sẽ cùng chung số phận còi đẹt / bất hạnh, như cây vả. Không khác gì “mấy người Ga-li-lê kia thôi”. Xem như thế, trình thuật “cây vả” đã hơn một lần cảnh tỉnh con dân nhà Đạo: hãy biết sám hối và đổi mới.
Sám hối và đổi mới, để có quyết tâm sẻ san tình thương yêu cứu độ Đức Chúa tặng ban. Sám hối và đổi mới để người người, dù chưa nghe biết Tin Vui An Bình, cũng được sẻ san đùm bọc với thương yêu.
Sám hối và đổi mới, là biết trở về nguồn, theo chân Thầy rao truyền tình thương yêu cứu độ cho hết mọi người. Rao truyền cho cả bạn bè – người thân lẫn người xa lạ, chưa từng biết đến. Cả người trong Đạo lẫn người ở ngoài. Cả trong gia đình, trường ốc lẫn công sở, phố chợ. Tất cả đều là cánh đồng lúa chính cần người rao truyền, thợ gặt.
Sám hối và đổi mới nhân Mùa Chay, là tạo dịp thuận cho chính mình để vun xới cây vả còi đẹt / bất hạnh cho tươi tốt. Cho đâm hoa kết trái. Sám hối và đổi mới, để nhớ lại rằng: chính ta đã được mời gọi không chỉ làm người tín hữu ngoan hiền giữ đúng luật Đạo, mà thôi. Nhưng còn biết, đem thông điệp Mùa Chay đến với thế giới “nhân gian”. Thông điệp giản đơn, là: hãy biết “nâng niu hạnh phúc nho nhỏ ta có được”.
Chuyển tải thông điệp “Sám hối”, để rồi toàn bộ thế giới sẽ đổi mới. Sẽ nên trong sáng tươi vui. Vui, với hết mọi người. Yêu hết mọi người. Giúp hết mọi loài, sinh vật cũng như động vật. Để rồi, cả Thiên đình lẫn chốn nhân gian sẽ đồng lọat cho đi tình thương yêu đùm bọc, mà hát rằng:
Tình là tình nhiều khi không mà có, Tình là tình nhiều lúc có như không Tình cho đi, cho từ lúc ban sơ Cho thật nhiều, bỡ ngỡ chưa hế cho. Tình cho đi, nhưng chẳng nói năng chi Nên ngập ngừng, mãi mãi mối tình câm. ... Tình là tình tìm nơi đâu cũng có ( Trần Thiên Thanh )
Vâng. Có cho đi. Cho đi thật nhiều mối tình từ lúc ban sơ. Dù có ngập ngừng tình câm, nhưng vẫn cứ cho. Cho đi thật nhiều, rồi sẽ thấy “hạnh phúc như trái chín đầu mùa” đáng nâng niu, trân trọng.
Khởi sự từ mấy ngày trước Tết Đinh Hợi 2007 và nay vẫn còn tiếp tục, đài truyền hình Việt: MC 3-C59
Khởi sự từ mấy ngày trước Tết Đinh Hợi 2007 và nay vẫn còn tiếp tục, đài truyền hình Việt Nam kêu gọi mọi người dân đừng ăn thịt thú rừng: tiếng nói muộn màng, vì nếu khởi xướng và tuyên truyền rộng rãi cách đây vài ba chục năm, kèm theo nhiều biện pháp trấn áp, thì may ra tình hình săn giết thú rừng có thể đã khác hiện nay. Nói lúc này có vẻ lạc lỏng và chỉ gợi... thèm cho những tay sành ăn nhậu, vì thịt thú rừng là thứ mà chỉ những hạng túi đầy ắp mới thưởng thức được. Theo cách nói của các phụ nữ miền Bắc: ”Chỉ phí nhời !”.
Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc càng nói, càng đe dọa, thì tổng thống Iran càng cười nhạo và tuyên bố công khai sự coi thường của ông: Liên Hiệp Quốc và các nước phương Tây chỉ là những con cọp giấy. Hết đe dọa đến thuyết phục, hết lên án đến gợi ý đàm phán, gia hạn lần này sang lần khác, không làm cho nhà cầm quyền Iran sợ hãi chút nào, trái lại càng cho thấy sự chia rẽ và không thể nhất quán là “bệnh kinh niên” của năm nước thường trực Hội Đồng Bảo An, – chỉ chăm lo lợi ích riêng, nhất là khi “kẻ đáng răn đe” lại có trữ lượng dầu hoả và khí đốt khổng lồ – vì vậy mà giới cầm quyền Iran ngày càng lì lợm, thách thức !
Cũng có nhiều người trong lòng những ước ao đứng dậy, dứt bỏ quá khứ để làm lại cuộc đời, nhưng ý chí của họ đã hoá nên bạc nhược, cho nên nhiều người đã thất bại và chìm sâu hơn trong vũng bùn huỷ hoại cuộc đời của bản thân và gia đình họ. Đó là những người lâm vào nghiện ngập, ma túy, rượu chè, cờ bạc. Mới chỉ là điếu thuốc lá, hơi thuốc lào, mà nhiều người đã “tâm sự”: cái gì cũng bỏ được, kể cả vợ, nhưng thuốc hút thì không thể ! Tỷ lệ những người tái nghiện ( ma túy ) sau nhiều năm tháng công phu thử thách trong một trung tâm, là rất cao: không dưới 80% ! Ý chí và quyết tâm bị bẻ gãy ngay khi nhìn một người khác sử dụng hoặc mời mọc ma túy. Nhiều tội ác kinh tởm, mất nhân tính đối với ngay cả người thân – cha mẹ, ông bà, và cả vợ con – cũng chỉ vì một món tiến nhỏ, khi cơn nghiền nỗi lên, cần một làm khói để thoả mãn đói thuốc ! Báo chí đầu tuần đưa tin một việt kiều Úc bị bắt vì tội vận chuyển 1,1 kg hêrôin. Chắc chắn sẽ phải “dựa cột” ! Siêu lợi nhuận đã khiến người ta mù quáng chạy theo đồng tiền, bất chấp tính mạng. Đâu phải là lần đầu một việt kiều Úc bị bắt !
Sự chai lì của nhiều người bắt nguồn từ sự thiếu bản lĩnh, khi họ mắt thấy tai nghe những tội ác, gương mù gương xấu trong xã hội không hề bị trừng phạt, ngược lại, những tay tội phạm gian ác xấu xa vẫn nhởn nhơ hưởng thụ, vinh thân phì gia, như là trêu ngươi thiên hạ và nguy hiểm hơn nữa, như để “chỉ đường cho hươu chạy”, làm cho nhiều người bắt chước nhắm mắt lao vào tội ác để làm giàu mau chóng. “Nguyên tắc luân lý” của họ là làm sao đừng để pháp luật sờ gáy. Một điều đáng sợ hơn nữa khiến không chỉ những người tay nhúng chàm nầy coi thường... thần thánh, mà ngay cả nhiều Ki-tô hữu thiếu hiểu biết, thiếu đạo đức, đâm ra hồ nghi sự hiện hữu của Thiên Chúa và hết còn ngại phạm tội, bởi vì trước mắt họ, là những cảnh báng bổ Chúa Giê-su, và Giáo Hội Công Giáo một cách thoải mái, công khai. Luật pháp ở hầu hết các nước trên thế giới luôn lấy nê tự do ngôn luận, tự do báo chí để bảo vệ chúng, trong khi ngoài một vài tiếng phản đối yếu ớt, Giáo Hội Công Giáo không làm gì khác hơn. Ngay cả Thiên Chúa dường như cũng bất lực ! Chúa có hiện hữu hay không ?
Con người chai đá trong u mê lầm lỗi – mà Chúa Giê-su lấy hình ảnh cây vả không sinh hoa trái làm dụ ngôn trong Tin Mừng Chúa Nhật III Mùa Chay – có thể nói được là “tổng hợp” của các hình ảnh, cách nghĩ, cách làm, cách ứng xử mà chúng ta nhắc tới trên đây.
Hôm nay khi nghe lời Chúa Giê-su can thiệp với Chúa Cha để vớt vát một dịp cuối cho cây vả sinh hoa trái, chúng ta không khỏi liên tưởng đến một cây vả thật đã bị chính Chúa chúc dữ, chỉ vì không có được trái phục vụ Chúa và các môn đệ, khi Ngài đi ngang qua và thấy đói bụng, một câu chuyện mà người đọc – dù yêu mến Chúa Giê-su bao nhiêu – cũng cảm thấy ấm ức thay cho cây vả. Cây vả “ảo” mà Chúa dùng để làm ví dụ, may mắn hơn nhiều so với cây vả thật ! Chúa muốn nhắn nhủ với con về tình yêu thương vô biên của Chúa đối với tội nhân, đối với chiên lạc. Sự kiên nhẫn của Chúa dành cho người tội lỗi là hết sức lớn lao, nhưng sự kiên nhẫn nào cũng có giới hạn và nếu Chúa phải đứng nhìn cây không sinh hoa trái mặc cho bao công sức chăm nom, bị đốn bỏ, thì đó là hoàn toàn do lỗi của nó và tội danh dẫn đến sự trừng phạt bất đắc dĩ ấy, chính là: SỰ VÔ ƠN !
Rồi con chợt giật mình ”cây tốt tươi, cành là xum xuê không phải là điều Chúa mong đợi nơi con, mà phải sinh hoa trái theo đúng mùa, đúng giống. Là cây cho trái, mà không sinh hoa trái, thì con chẳng còn là chính mình nữa và phí phạm tình thương và hoài bão của Chúa đặt nơi con. Hoa trái không phải để cho cây, nhưng là vì Chúa và cho tha nhân: vì Chúa, hoa trái cuộc đời con như một lời tri ân, cảm tạ, bởi ơn lành Chúa ban không ra vô ích nơi con và những hoa trái thơm ngon đó còn để cho người ta nhìn vào, nhận ra tình thương Chúa và thêm tin cậy vào Ngài. Hoa trái con, trong ý Chúa, là để phục vụ tha nhân, vì đó chính là sứ mệnh Chúa trao phó cho mỗi người đi theo Chúa. Chính Chúa đã thành “hoa trái” nuôi sống và bồi bổ linh hồn chúng con, Chúa cũng muốn chính chúng con phải vắt cạn con người chúng con để kết tinh thành hoa trái – và phải lànhững trái ngon ngọt nhất – phục vụ anh em, nên hữu ích cho mọi người. Ở nông thôn Việt Nam, khi có những cây không cho trái, người ta thường dùng roi “đánh” mạnh và nhiều lần vào thân cây, như để “phạt” tội ngỗ nghịch, như phạt một đứa con, đứa cháu trong nhà và lạ thay, thường cho kết quả như ý: cây mít sẽ ra đầy trái ngon; cây bưởi sẽ cho nhiều trái ngọt. Thương con mới cho roi cho vọt. Tỉa xén, đẽo gọt, thậm chí cho “ăn đòn”, thì cây mới cho trái tốt: Roi vọt, khổ đau, hy sinh mới giúp con người sinh hoa kết trái và nên hữu ích cho Nươc Trời.
CVK NGUYỄN THẾ BÀI, Tình Ca Cho Người Được Yêu Số 40
Ngày xưa, cha ông chúng ta không cần tới những phương tiện hiện đại để biết được thời tiết: MC 3-C60
Ngày xưa, cha ông chúng ta không cần tới những phương tiện hiện đại để biết được thời tiết, trái lại, họ chỉ dựa vào những hiện tượng trong thiên nhiên, mà cũng biết được nắng mưa, như tục ngữ đã diễn tả:
- Gió đàng nam vừa làm vừa chơi.
Đôi khi chỉ việc quan sát những phản ứng của thú vật, họ cũng biết được thời tiết. Chẳng hạn:
- Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, Bay cao thì nắng bay vừa thì râm.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng khuyến khích chúng ta hãy nhìn vào những sự kiện, những biến cố xảy ra chung quanh, để nhờ đó mà biết được thánh ý Thiên Chúa. Ngài đã đưa ra hai trường hợp điển hình.
Trường hợp thứ nhất đó là những người Galilêa bị Philatô giết và trường hợp thứ hai đó là mười tám người khác bị tháp Silôê đổ xuống đè chết. Dân Do Thái thì cho rằng sở dĩ những người bị chết là những kẻ tội lỗi cho nên bị Chúa trừng phạt.
Thế nhưng, quan niệm của Chúa Giêsu thì khác, Ngài coi những biến cố đau thương và đẫm máu ấy là như một tiếng chuông cảnh tỉnh được gởi đến với họ, để họ ăn năn sám hối, làm lại cuộc đời và quay trở về cùng Chúa, nếu không thì họ cũng sẽ phải chết một cách thảm khốc như vậy.
Còn với chúng ta ngày hôm nay thì sao? Hằng ngày qua báo chí, truyền thanh và truyền hình, chúng ta đón nhận biết bao nhiêu sự kiện, biết bao nhiêu biến cố đau buồn xảy ra khắp nơi trên trái đất. Chỗ này có những người chết vì bom đạn chiến tranh, chỗ kia có những người chết vì thiên tai bão lụt, động đất và sóng thần. Nơi khác lại có những người chết vì bệnh tật và nghèo đói.
Trước những biến cố đau thương ấy, nhiều lúc chúng ta cũng đã có một thái độ lạnh lùng và nghiêm khắc như người Do Thái: Sở dĩ họ bị như vậy vì họ là những kẻ tội lỗi. Thế rồi chúng ta yên tâm với cung cách mũ ni che tai, cháy nhà hàng xóm bình chân như vại. Trong khi đó, Chúa đòi hỏi nơi chúng ta một thái độ tích cực, đó là phải biết tìm hiểu thánh ý Ngài được gói ghém qua những biến cố, qua những sự kiện ấy.
Cũng như nơi dân Do Thái, những biến cố, những sự kiện ấy là như những tiếng chuông cảnh tỉnh Chúa gởi đến để kéo chúng ta ra khỏi cuộc sống tầm thường và tội lỗi. Vấn đề được đặt ra đó là Chúa muốn nói gì với tôi qua những sự việc, qua những biến cố ấy? Rồi từ đó, tôi sẽ phải uốn nắn, sửa đổi lại những sai lỗi và khuyết điểm, để cuộc đời tôi sẽ đem lại những hoa trái, và những hoa trái ấy luôn làm cho Chúa được hài lòng.
Người ta nghĩ rằng những người Galilê nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay là những nạn nhân bị: MC 3-C61
Người ta nghĩ rằng những người Galilê nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay là những nạn nhân bị đàn áp trong một cuộc nổi dậy chống quân La mã, có lẽ xảy ra trong khuôn viên Đền Thờ Giêrusalem. Người ta cho rằng tháp Silôam ở gần giếng Silôam phía đông nam thành. Nhân hai vụ bi thảm này, Chúa Giêsu đánh đổ một thành kiến và Người đưa cuộc tranh luận lên một tầm cao hơn. Não trạng Do Thái thời đó coi bất đắc kỳ tử là hình phạt Thượng đế áp dụng cho kẻ tội lỗi. Nhân hai vị chết người tập thể này. Chúa phán rằng những hình phạt thật sự về sự dữ nằm ở chỗ khác. Trước hết, dường như cách kín đáo Chúa nói, nếu dân thành Giêrusalem không trở lại với Thiên Chúa bằng niềm tin hôm nay vào Đấng Messia, toàn thành sẽ bị tiêu diệt. Phải chăng Chúa ám chỉ cuộc tàn phá thủ đô sẽ xảy ra năm 70? Tiếp đó, Chúa đặt cuộc tranh luận vào bối cảnh toàn bộ giảng thuyết của Người: Nếu không ăn năn trở lại, dân chúng sẽ bị Thiên Chúa xét phạt nghiêm khắc. Dụ ngôn cây vả cho chúng ta hiểu Thiên Chúa vừa kiên nhẫn, vừa quyết thi hành công lý của Người.
Chúng ta tự đặt hai câu hỏi:
1) Sự trở lại là gì?
Trở lại là thay đổi nội tâm, thay vì hướng về bản thân, con người hướng về Thiên Chúa. Khởi đầu, người ta nhận mình là kẻ tội lỗi, cách khiêm nhượng người ta ý thức về sự xa cách một trời một vực giữa sự thánh thiện của Thiên Chúa và nỗi khổ cực trong tâm hồn mình. Mình có một trách nhiệm nào đó về khổ cực bên trong ấy. Vì thế người ta hối hận về tội mình, người ta trở lại với Thiên Chúa, vì Người luôn luôn tiếp đón những kẻ khiêm nhường sám hối. Sự trở lại không chỉ một lần là xong, trái lại mỗi ngày phải thực hiện một sự trở lại mới.
2) Lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa là gì?
Đó là sự kiên nhẫn của tình yêu, trước hết là của tình yêu giáo hoá. Thiên Chúa không đòi hỏi con người nhất đán trở nên hoàn toàn thánh thiện. Thiên Chúa cho con người có đủ thời gian làm công việc cải thiện tâm hồn. Nhưng con người phải sử dụng tốt thời gian ân huệ ấy, đúng ra nó ngắn ngủi lắm. Mỗi ngày trong đời sống của một Kitô hữu đều mang đến một ân sủng để giúp tiến bộ trong niềm trung tín với Thiên Chúa. Mỗi ngày người tín hữu phải tự chất vấn: Kinh nguyện của tôi, sự thờ phụng của tôi, cung cách tôi phục vụ tha nhân có đủ tốt để đẹp lòng Thiên Chúa không? Như một nhà giáo dục kiên nhẫn, Thiên Chúa giúp đỡ người tín hữu tìm được câu trả lời bằng cách Người can thiệp ban cho những ân sủng bên trong, bằng những giáo huấn của Giáo Hội, bằng những biến cố, v.v… Lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa cũng là niềm thương yêu kiên nhẫn nhưng đòi hỏi gắt gao. Thiên Chúa thông cảm vô cùng đối với những ai thành tâm thiện chí, nhưng chung cục Người sẽ tỏ ra nghiêm khắc đối với những kẻ ngoan cố thờ ơ.
Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời đi qua của mình như sau: - Lúc còn trẻ, tôi là một: MC 3-C62
Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời đi qua của mình như sau:
- Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thượng Đế là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để thay đổi thế giới.
Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng, một nửa đời tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được biến cải tất cả những người con gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình còn, bạn bè con. Và như vậy là đủ cho con rồi.
Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận ra rằng, tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ nầy, tôi chỉ biết cầu nguyện như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con được ơn thay đổi chính bản thân con.
Nếu tôi biết cầu nguyện như thế ngay từ lúc đầu, thì tôi đã không phí phạm quãng đời đã qua.
Người xưa đã có lý khi dạy chúng ta: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ… Theo trật tự của cuộc cách mạng, thì cách mạng bản thân – tu thân – là điều tiên quyết.
Một nhà cách mạng nào đó đã nói: Chỉ cần mười người như thánh Phanxicô thành Assisi thì cuộc diện thế giới sẽ thay đổi. Cuộc cách mạng đầu tiên mà bất cứ vị thánh nào cũng khởi sự, đó là cách mạng bản thân.
Chúa Giêsu đã chuẩn bị ba năm sống công khai bằng 30 năm âm thầm, 40 đêm ngày ăn chay cầu nguyện… Và lời kêu gọi đầu tiên của Ngài là: Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.
Hôm nay, Ngài lại kêu gọi chúng ta: “Hãy ám hối, nếu không chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt như những nạn nhân của biến cố tháp Silôê đổ, hay như những người bị thảm sát dưới thời Tổng trấn Philatô”.
Đến bây giờ vẫn còn không ít người quan niệm “ác giả ác báo” theo lối suy luận từ hậu quả đến nguyên nhân. Lời Chúa hôm nay dạy ta không được suy nghĩ như thế, phần vì ta không có quyền xét đoán tha nhân, phần vì thường chúng ta xét đoán theo chủ quan và phiến diện nên dễ sai lầm.
Mùa Chay là mùa sám hối, mùa đổi mới. Thiên Chúa nhân từ, kiên nhẫn chờ đợi. Ngài còn hoãn lại cho chúng ta một kỳ hạn nữa. Hãy khẩn trương sám hối kịp thời. “Đừng để đến ngày mai việc gì bạn có thể làm được hôm nay”.
Tục ngữ Pháp có câu: “Nếu trẻ mà hiểu ra, nếu già mà làm được” (Lúc trẻ thì không hiểu để làm, đến lúc già muốn làm thì không còn sức để làm nữa). Việt Nam chúng ta cũng có câu: “Lão lai tài tận” (Đến tuổi già thì tài năng cũng hết). Thế là bị rơi vào luật đào thải, như cây cằn cỗi, không sinh trái đã lâu, phải chặt đi thôi. Bao lâu còn sống, là như cây còn xanh tươi. Hoán cải, đổi mới, không bao giờ là quá trễ. Hãy tin tưởng, bắt đầu ngay hôm nay, kẻo không kịp nữa. Hằng ngày, báo chí, truyền hình, radio, đưa tin trong cũng như ngoài nước, bao nhiêu tai nạn chết người: xe đụng, tàu chìm, phi cơ rớt, động đất, hoả hoạn, đó là chưa kể đến nạn khủng bố đe doạ biết bao người trên thế giới…
Tại sao những người kia gặp nạn, chứ chưa phải là tôi? Đừng dựa vào những may mắn trong cuộc sống, để yên trí rằng mình sống trong sạch, tốt lành; để tạo cho mình mối an tâm được Chúa ưu đãi hơn những người khác; để không lo hoán cải, đổi mới.
Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, con người càng thấy rõ hơn nỗi cô đơn trước những giới hạn của mình… nhất là nỗi sợ hãi trước cái chết, thân phận bi đát nhất của kiếp người. Khát vọng được sống và sống đời đời không ngừng đòi hỏi con người đổi mới để khỏi phải thấy sức sống tắt lịm trong tay của mình. Vì vậy, hoán cải là vấn đề tức thời và cấp bách.
Mỗi người chúng ta đều là kẻ tội lỗi, đều có thể phải đối diện với Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào, giờ nào, phút nào cũng mang tính khẩn trương: đây có thể là ngày cuối, giờ cuối, phút cuối… trước khi ra mắt Đấng phán xét. Lời Chúa hôm nay phải thức tỉnh chúng ta. Đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình mà sám hối cho thật, cho mau kẻo hối hận cũng không còn kịp nữa.
Có thể chúng ta nghĩ rằng: mình là người tín hữu đạo đức, sốt sắng, mình đi dự lễ, rước lễ đều đặn, mình cũng làm việc bác ái, cũng đi xưng tội, vì thế lời kêu gọi sám hối không có liên hệ gì đến mình. Chính những người nghĩ như thế mới là người cần phải sám hối. Thánh Phaolô hôm nay đã nói: “Ai tưởng mình đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã”. Việc sám hối trở lại không bao giờ chỉ làm một lần là xong.
Quả thực, lời kêu gọi hoán cải sám hối trong Tin Mừng hôm nay liên hệ đến tất cả mọi người: bởi vì mỗi người chúng ta đều phải sống cuộc sống mới và vượt lên trên tất cả những gì cản trở chúng ta sống cuộc sống mới nầy, một cuộc sống hữu ích cho gia đình, cho xã hội và cho nhân loại.
Hành trình Mùa Chay không chỉ nhằm dẫn chúng ta quay trở lại quá khứ để ăn năn khóc lóc tội lỗi mình hay đến toà giải tội xưng thú tội lỗi mình… nhưng còn muốn dẫn chúng ta đến cuộc sống mới dồi dào hơn. Mùa Chay phải trở thành mùa đổi mới con người và xã hội, mùa nở hoa kết trái tình thương, mùa thực thi việc lành phúc đức… nếu không, chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt y như vậy hoặc có thể “năm tới sẽ bị chặt đi”.
“Đổi mới hay là chết”. Có một thời người ta đã hô lớn khẩu hiệu này. Và đây cũng là đòi hỏi của Lời Chúa hôm nay. Xin cho thánh lễ nầy kết hiệp chúng ta mật thiết với Chúa Giêsu, để giúp chúng ta tiêu diệt dần dần đời sống cũ kỹ nhem nhuốc của mình, đồng thời chúng ta cũng dần dần trở nên thánh thiện phong phú hơn trong Chúa Giêsu. Ước gì mệnh lệnh hoán cải cấp bách sẽ được chúng ta thực hiện không chỉ ngay bây giờ mà còn kéo dài trong từng phút sống của cuộc đời ta.
Chúng ta được nghe nói đến tai hoạ. Trước hết là những người Galilê đã bị Philatô giết đang: MC 3-C63
Chúng ta được nghe nói đến tai hoạ. Trước hết là những người Galilê đã bị Philatô giết đang lúc họ dâng lễ vật. Như chúng ta biết, người Galilê rất dễ hưởng ứng những cuộc bạo động chính trị, bởi vì họ là dân dễ kích động. Lúc đó Philatô đang ở trong một cơn khủng hoảng nghiêm trọng. Ông đã có một quyết định rất tốt rằng Giêrusalem cần có một hệ thống nước mới và tân tiến hơn. Ông chủ trương xây cất hệ thống đó, và để đài thọ cho việc này, ông đề nghị dùng một số tiền của Đền Thờ. Đó là mục tiêu đáng khen và chi phí đó có lý do chính đáng. Nhưng chỉ tư tưởng sử dụng tiền của Đền Thờ như vậy cũng đủ khiến dân Do Thái cầm vũ khí chống lại. Khi dân chúng tụ tập lại thì Philatô cho lính của ông cải trang trà trộn giữa họ. Chúng được lệnh mang gậy thay vì gươm. Đến lúc được báo hiệu, chúng xông vào giữa dân chúng và phân tán họ. Việc đó đã diễn ra đúng nhưng vì bọn lính đã hành động rất hung dữ, đi quá lệnh trên, gây thiệt mạng cho một số thường dân. Điều gần như chắc chắn là người Galilê có tham gia trong cuộc nổi loạn này. Chúng ta biết rằng Philatô và Hêrôđê có tham gia trong cuộc nổi loạn này. Chúng ta biết rằng Philatô và Hêrôđê thù địch nhau, rất có thể chính vì vụ lộn xộn kể trên mà mối thù địch đó đã bắt ngòi. Họ chỉ hoà thuận với nhau khi Philatô gởi Chúa Giêsu đến cho Hêrôđê xét xử (Lc 23,6-12).
Còn về phần 18 người bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, cho đến nay, vẫn còn là một sự kiện bí mật. Bản King James cũng gọi họ là tội nhân, nhưng dịch là những kẻ mắc nợ thì đúng hơn. Chúng ta có chút tia sáng ở đây. Có người cho rằng họ đã lãnh việc xây ống dẫn nước cho Philatô, một công việc mà dân chúng ghét. Vì vậy, số tiền công họ lãnh đều là của Chúa và đáng lẽ họ phải tình nguyện trả lại vì tiền đó đã lấy trộm của Ngài. Khi tháp Silôác đổ xuống trên họ thì dân chúng cho rằng vì họ đã bằng lòng làm công việc đó.
Nhưng đoạn Kinh Thánh này còn đi xa hơn vấn đề lịch sử nữa. Người Do Thái đã nghiêm khắc kết buộc đau khổ và tội lỗi với nhau. Trước đó rất lâu, Êlipha đã nói với Gióp rằng: “Có ai vô tội mà bị tiêu diệt đâu?” (G 4,7). Đây là một giáo lý độc ác, cay nghiệt như Gióp đã biết rõ. Chúa Giêsu đã bác bỏ thuyết đó đối với một số trường hợp cá nhân. Như chúng ta biết rõ, thường những thánh nhân là những người chịu đau khổ nhiều nhất. Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa và nói rằng nếu dân của Ngài không chịu hoán cải thì họ cũng sẽ bị tiêu diệt. Chúa Giêsu ngụ ý gì ở đây? Một điều thật rõ ràng –Chúa Giêsu thấy trước và nói trước về sự tàn phá thành Giêrusalem là việc xảy ra sau đó vào năm 70 SCN (Lc 19,21-13). Chúa Giêsu biết rõ nếu người Do Thái cứ tiếp tục âm mưu bạo động và có những tham vọng chính trị thì họ chỉ đưa quốc gia đến chỗ tai hại mà thôi. Ngài biết rõ cuối cùng quân Rôma sẽ đến và tiêu diệt quốc gia này, việc đã xảy ra đúng như vậy. Cho nên, Chúa Giêsu muốn cảnh cáo rằng, nếu họ cứ tiếp tục tìm kiếm một vương quốc trần gian và chối bỏ Nước Thiên Chúa thì họ chỉ đi vào chỗ chết mà thôi.
Đặt vấn đề như vậy thoạt nghe có vẻ đầy mâu thuẫn. Điều đó có nghĩa là chúng ta không thể nói rằng đau khổ cá nhân và tội lỗi tất yếu phải theo nhau, nhưng có thể nói rằng tội lỗi của quốc gia và đau khổ của quốc gia thì liên quan chặt chẽ với nhau. Quốc gia nào lựa chọn con đường xấu để đi thì cuối cùng sẽ phải đau khổ vì đó. Nhưng trong trường hợp cá nhân thì khác. Cá nhân không phải là một đơn vị lẻ loi, song được liên kết vào trong một khối của cuộc đời. Điều thường thấy là cá nhân có thể phản đối, và phản đối mãnh liệt đường lối mà quốc gia đang theo đuổi, nhưng khi hậu quả do đường lối đó đem lại xảy ra thì người ấy cũng không thể nào tránh thoát được. Cá nhân thường bị chìm lẫn trong hoàn cảnh mà mình đã không tạo nên, sự đau khổ của y không hẳn là tội lỗi của y, nhưng quốc gia là một đơn vị và tuỳ theo đường lối nó lựa chọn mà gặt lấy hậu quả. Quy đau khổ của một người cho tội lỗi của người đó thì bao giờ cũng là một ý kiến nguy hiểm, nhưng bảo rằng quốc gia nào chống lại Thiên Chúa sẽ bị diệt vong thì đó là phát biểu đúng đắn.
CƠ HỘI CUỐI CÙNG (13,6-9)
Đây là một dụ ngôn vừa chứa đầy ân sủng vừa mang nhiều cảnh báo đáng sợ.
Cây vả chiếm được một chỗ đất tốt hơn các cây khác. Ở xứ Palestine, người ta thường thấy cây vả, cây gai và cây táo trong những vườn nho. Đất mỏng và cằn cỗi đến nỗi bất kỳ ở đâu có đất, người ta cũng trồng cây. Thực tế là cây vả này được đặc ân hơn, nhưng nó lại không tỏ ra xứng đáng được đặc ân đó. Chúa Giêsu đã nhiều lần, trực tiếp hoặc gián tiếp nhắc nhở dân chúng rằng họ sẽ bị đoán xét tuỳ theo những cơ hội may mắn mà họ đã có. C.E.M. Joad đã nói về thế hệ của chúng ta “Chúng ta được ban cho nhiều sức lực, nhưng chúng ta đã sử dụng chúng như những học trò vô trách nhiệm”. Không hề có một thế hệ nào được uỷ thác quá nhiều như chúng ta, và vì thế chưa thể có một thế hệ nào mang nặng trách nhiệm trước mặt Chúa như vậy.
Rõ ràng là dụ ngôn dạy chúng ta một đời sống vô ích sẽ đưa tới thảm bại. Người ta chủ trương rằng tất cả cuộc tiến hoá trên thế giới này là nhằm sản sinh những gì có ích lợi, điều gì có ích sẽ cứ mạnh mẽ phát triển trên đường tiến hoá, trong khi những gì vô ích chắc chắn sẽ bị tiêu diệt. Câu hỏi khúc mắc nhất dành cho chúng ta là “Chúng ta sống trên thế gian này để làm gì?.
Hơn nữa, dụ ngôn này cũng dạy rằng những gì chỉ biết tiêu thụ thôi thì không thể tồn tại được. Cây vả kia cứ rút lấy dinh dưỡng của đất, không biết sản sinh gì cả. Đó chính là tội của nó. Xét cho cùng, có hai hàng người trên thế giới: những người “cầu” nhiều hơn “cung” và những người “cung” nhiều hơn “cầu”. Theo một phương diện, hết thảy chúng ta đều mắc nợ cuộc sống. Chúng ta hẳn đã không còn sống đến nay nếu không có sự chăm sóc của những người yêu thương chúng ta. Ta đã thừa hưởng một nền văn minh Kitô giáo và tự do mà không bởi công sức chúng ta tạo ra. Chúng ta có trách nhiệm phải làm cho mọi sự trở nên tốt hơn lúc chúng mới tiếp cận với ta. Ápraham Lincoln đã nói: “Tôi chết lúc nào cũng được, nhưng tôi muốn người ta nói về tôi rằng, tôi đã nhổ một cây cỏ và trồng một cây hoa ở nơi nào tôi nghĩ rằng cây hoa có thể mọc”. Có một cậu học trò được quan sát vi trùng dưới kính hiển vi. Cậu được thấy rõ một thế hệ những con vật li ti đó sinh ra, chết đi, thế hệ khác sinh ra… Trước đó, cậu chưa hề được thấy thế hệ này tiếp nối thế hệ khác như thế nào. Cậu nói: “Theo một điều tôi đã xem thấy, tôi tự hứa mình sẽ không bao giờ làm một vòng nối yếu đuối”. Nếu chúng ta cũng tự biết tự hứa như vậy thì ta sẽ làm trọn trách nhiệm, là đem vào đời sống ít ra cũng bằng phần chúng ta lấy đi.
Dụ ngôn này dạy chúng ta về Phúc Âm của cơ may thứ hai. Một cây vả thường ba năm mới ra trái, nếu lúc đó nó không ra trái, chắc không bao giờ ra trái nữa. Những cây vả này được ban cho một cơ may nữa. Chúa Giêsu bao giờ cũng ban cho người ta hết cơ may này đến cơ may khác. Phêrô, Máccô, Phaolô cũng rất hoan hỉ làm chứng về điều đó. Thiên Chúa vô cùng nhân từ với kẻ nào sa ngã và trỗi dậy. Nhưng dụ ngôn này cũng quả quyết về việc có một cơ may cuối cùng. Nếu chúng ta từ chối hết cơ may này đến cơ may khác, nếu tiếng mời gọi khuyên nhủ của Chúa cứ trở đi trở lại với chúng ta một cách vô ích, thì đến một ngày, không phải Chúa đóng cửa lại, nhưng chính chúng ta tự ý đóng cửa lòng mình. Nguyện Chúa cứu chúng ta khỏi điều đó.
Có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện ........ Đức Giêsu không sống trong một thời đại: MC 3-C64
Có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng.
Đức Giêsu không sống trong một thời đại yên tĩnh về mặt chính trị. Những sự đụng độ thời bấy giờ còn đẫm máu hơn ngày nay: Biến cố mà người ta vừa loan báo cho Đức Giêsu, là sự kiện thường xảy ra. Có lẽ đó là một cuộc biểu tình của nhóm quá khích đang cố ngoi lên một phong trào nổi dậy để cứu dân, chống lại chính quyền Rôma đang chiếm đóng. Giữa lúc đang cử hành phụng vụ, đang dâng lễ vật cầu xin Thiên Chúa trợ giúp, họ đã bị cảnh sát của tổng trấn Philatô tàn sát. Ta có thể thấy thái độ phán quyết lập tức của mọi người Do Thái chân thành, đối với việc đàn áp đẫm máu này.
Người ta kể lại sự kiện này cho Đức Giêsu để xem Người có một lập trường, một thái độ như thế nào? Người sẽ lên án Philatô hay cảnh sát của ông này chăng? Người sẽ lên án những kẻ khuấy động vô trách nhiệm, đưa đám đông dân chúng vào những cuộc phiêu lưu không lối thoát chăng? Một lần nữa, chúng ta nhận thấy Đức Giêsu khước từ bày tỏ lập trường về mặt chính trị, về lãnh vực trần gian. Ngài sẽ thản nhiên bình luận biến cố này trong tôn giáo tránh né bày tỏ thái độ đối với trách vụ Philatô, hay đối với các nạn nhân, Ngài chỉ nói về tội lỗi và thái độ hối cải. Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sống những biến cố xảy đến cho chúng con, với mức độ suy tư và tinh thần đức tin cao nhất.
Đức Giêsu đáp lại rằng: "Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu.
Đức Giêsu đang cố phá đổ một thành kiến. Ngài đưa cuộc bàn cãi lên cao. Tâm lý thông thường cho rằng, những thử thách xảy đến cho một người, là như một sự trừng phạt cho kẻ đó. Ngày nay cách xét đoán như thế vẫn còn ở trong tâm trí chúng ta, thí dụ khi ta nói: "Thật là bất công, anh ấy đâu đáng phải chết trẻ như thế" hay là "chúng ta đã làm gì phật lòng Chúa, để Người gởi đến cho chúng ta một thử thách như thế này?".
Đối với Đức Giêsu, không có sự liên lạc nào giữa tai hoạ và tội lỗi. "Không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc Thiên Chúa được bảy tỏ hiện nơi anh". Chính Đức Giêsu sẽ dễ dàng để ta tự gán cho mình một lương tâm tốt hay tự đặt mình vào số những người công chính. Chúng ta thường nghĩ rằng hoàn toàn chịu trách nhiệm: hoặc chính quyền, hoặc thể chế, hay xã hội!
Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.
Họ đã đến để đưa vụ Philatô và các nạn nhân ra xét xử. Nhưng bây giờ chính họ lại bị tố giác. "Các ông tưởng rằng, những người Galilê tội lỗi hơn các ông sao? Vấn đề là không phải bàn về "những người khác". Đức Giêsu đưa họ trở lại với lương tâm của họ. "Các ông phải sám hối. Các ông dễ dàng lên án sự hung bạo của Philatô. Nhưng hãy nhìn xem, chính các ông lại không góp phần vào sự hung bạo đó sao? Cùng với Đức Giêsu, chúng ta phải dám nói lên điều đó, vì lịch sử không ngớt chứng minh: Thay đổi cơ cấu xã hội không đủ. (Vì hỡi ôi! bất công và bạo lực vẫn tồn tại trong mọi chế độ) nhưng chính là tấm lòng con người cần phải thay đổi, phải hoán cải, để cho cơ cấu xã hội được cải thiện.
Vâng, lạy Chúa, con biết điều đó trong đáy lòng con. Con không có quyền lực trên mọi hành động hung bạo đang đè nặng trên một xứ sở xa xôi nào, cũng không có quyền gì trên những trào lưu đang ảnh hưởng môi trường xã hội, trường học, nghề nghiệp và Giáo hội của chúng con. Nơi duy nhất mà con có thực quyền, đó là sự hướng dẫn công cuộc "hoán cải”, của chính con.
Lạy Chúa, xin giúp con đừng trốn tránh trách nhiệm của mình, bằng cách tố giác kẻ khác.
Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu.
Chính Đức Giêsu nhân cơ hội này, đã nhắc lại một sứ mệnh khác. Trong một vùng ngoại ô thủ đô, một toà nhà đã đổ xuống đè chết nhiều gia đình. Ngày nay, trước một tai nạn như thế người ta củng cố tìm ra thủ phạm: những kiến trúc sư bất tài, chỉ lo tới lợi nhuận, mà không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn... Hay những người bất cẩn đã trở thành nạn nhân đã bị "trừng phạt" bởi một định mệnh vô danh nào đó, nếu không phải chính Chúa là Đấng chịu trách nhiệm: “Nếu có một Thiên Chúa, thì đâu có xảy ra tai hoạ như thế ".
Đức Giêsu trở lại vấn đề này như một điệp khúc: Không, đau khổ không phải do Thiên Chúa gởi đến! Sự thử thách không phải là một sự trừng phạt. Sự dữ xảy đến cho ta thường chỉ là hậu quả tự nhiên của quy luật tạo vật: Hấp lực trái đất, sự dòn mỏng, những sai lầm không tránh được. Thay vì buộc tội Chúa, là "Nguyên nhân đệ nhất” như' các triết gia thường nói, chúng ta phải để ý đến những “nguyên nhân đệ nhị", mà chúng ta có toàn quyền trên chúng. Đức Giêsu đã chiến đấu chống sự dữ. Ngài yêu cầu chúng ta đến lượt mình cũng phải chiến đấu, nhưng trước tiên trong chính bản thân chúng ta.
Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.
Cũng như mọi ngôn sứ trong Kinh Thánh, Đức Giêsu trước tiên là một nhà giảng đạo, không phải là người dạy luân lý dưới hình thức những bài học xã hội. Kiểu nói của Đức Giêsu, mang tính ngăn đe đáng sợ: "Các ông sẽ chết hết, nếu các ông không thay đổi". Đức Giêsu chấp nhận tâm lý chung sao? (đau khổ là sự trừng phạt) mà Người vừa mới phủ nhận? Chắc không phải như vậy? Rõ ràng Đức Giêsu không nói về cái chết thể lý mà những người biểu tình bị tàn sát hay những nạn nhân do tháp đổ đã chết. Đức Gíêsu không không điên hay ngây ngô. Người quá biết người công chính cương: phải chết, Chính Người cũng phải lên thành Giêrusalem, để bị Philatô giết hại. Nhưng Đức Giêsu, khi có ý đặt mình trên một bình diện khác với bình diện con người: Bình diện chính trị, luân lý hay xã hội, Người muốn mạc khải một chân- lý tôn giáo. Người khẳng định có một cái chết khác, một sự hư mất đời đời, mà không ai nghĩ đến và Người không ngừng nhắc đến. "Nếu các ông không ăn năn hối cải, các ông sẽ chết hết": Không phải cái chết sinh lý mà các bạn nhận thấy hằng ngày chung quanh mình, mà là cái chết khác có tính nhiệm mầu do tội lỗi gây ra. Đức Giêsu không mời gọi chúng ta “khám phá": Thực sự chúng ta không có cách nào để kiểm chứng theo lý trí, với mức độ phân tách của con người, những điều Chúa nói. Đó thật là một "mạc khải", một vấn đề đức tin.
Đức Giêsu mạc khải cho ta biết mọi người đều có tội, và được ban cho cơ hội hoán cải.
Vâng, Đức Giêsu mời gọi mỗi người trở về với lương tâm của mình, Philatô chắc hẳn rồi? Nhưng cả những người Galilê nữa! Những thợ xây kém cỏi, hay các kiến trúc sư, và tất cả những người khác tưởng rằng mình đứng ngoài cuộc phán quyết. Còn tôi thì sao? Chắc hẳn tôi đang đặt tránh ra ngoài sự đe doạ mà Chúa đã nói, để tránh khỏi phải hoán cải...
Bao giờ thì chúng ta mới thức tỉnh ra khỏi tình trạng vô ý thức bi thảm của mình? Các nhà chú giải về Kinh Thánh nhấn mạnh về cách nói "triệt' để" của Luca "Các ông sẽ chết hết". Nhưng ta cũng cần lưu ý, kiểu nói mãnh liệt của Đức Giêsu luôn điều kiện. Nó mời gọi ta trở về với chính mình, với việc hoán cải bản thân. Thiên Chúa không lên án. Chính con người tự kết án mình phải chết đời đời: “Nếu các ông không ăn năn hối cải". Thái độ mãnh liệt của Đức Giêsu, đó là sự mãnh liệt của một tình yêu Thiên Chúa đầy xót thương, không thể chịu đựng để thấy con người đi đến chỗ hư mất. Chúa đau khổ khi thấy loài người phải chết! Chúng ta hãy nhớ rằng Đức Giêsu đang trao ban một sứ điệp tôn giáo, nghĩa là nói về Thiên Chúa. Điều này không có nghĩa là Người có thái độ trung lập trước những vấn đề nan giải của con người. Nhưng Người tự đặt mình trên một bình diện "mạc khải": Người tố giác sự dữ đích thực của con người là gì? Trong mọi trường hợp, Người đều nhắc chúng ta rằng, không thể có sự thoả hiệp giữa Thiên Chúa và tội lỗi: Nếu ta ở trong tội ác, đó là tự lên án mình phải nhận cái chết nặng hơn là cái chết do gươm đao của binh lính Philatô, hay do những tảng đá của Giêrusalem đổ xuống.
Lạy Chúa, chúng. con biết lắng nghe lời Chúa hay không? Chúng con có tin Chúa hay không? Lạy Chúa Giêsu, do Chúa Cha gởi đến để chúc lành và cứu rối mọi người, xin thương xót chúng con. Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết hoán cải trong Mùa Chay này.
Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: "Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: `Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?
Chúng ta đang bàn về cùng một đề tài "Cuộc phán xét! Hành vi của con người không thể lãnh đạm, trung lập, không xấu không tốt. Chúng là "một quả". Quan điểm hiện đại cố làm cho chúng ta tin vào một sự xoá bỏ mọi mặc cảm tội lỗi: không có gì tội lỗi nữa, con người đâu có trách nhiệm gì trước Chúa, không còn kiêng kỵ, ngăn cấm, lỗi lầm gì cả... Bạn cứ làm bất cứ điều gì mình thích ". Trái lại, Đức Giêsu nói: "Hãy chặt cây vô sinh không cho trái đó đi!" Người không những lên án "trái thối" mà còn lên án cả tình trạng "không sinh trái".
Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”.
Người "làm vườn" đầy tình thương với "cây nho" của mình, đó chính là Đức Giêsu mà chúng ta yêu mến. Người đã đến không phải vì những nguội công chính, mà vì các tội nhân. Người đã kể tất cả những dụ ngôn về lòng thương xót, đặc biệt được ghi lại đầy dấy trong Tin Mừng Luca (Lc 15). Do đó, những lời đe doạ khi này chỉ có một mục đích thức tỉnh chúng ta. Thiên Chúa thương yêu những người tội lỗi. Ngài yêu tôi! Không thể đối nghịch lòng thương xót với thái độ đòi hỏi: Vì chính tình yêu luôn mang tính đòi hỏi. Ta không lên bỏ câu cuối này: "Nếu không ông sẽ chặt nó”. Mùa Chay thật là thời gian thuận tiện cho một đòi hỏi triệt để nào đó của Tin Mừng.
Những lời này của Đức Giêsu trong đoạn Tin mừng này có tầm quan trọng và sự khẩn khoản: MC 3-C65
Những lời này của Đức Giêsu trong đoạn Tin mừng này có tầm quan trọng và sự khẩn khoản thiết tha. Tâm tình đó, yêu sách đó còn tăng thêm và đưa đến cụ thể là lời kêu gọi hoán cải sâu xa và thống hối thực tình.
Đức Kitô dựa vào một vài biến cố để đưa ra lời kêu gọi đó và soi sáng bằng một dụ ngôn.
1. Bài học của các biến cố
Trong một cuộc tế lễ tại đền thờ, Philatô sai quân tàn sát một nhóm người Galilê, người ta đã tố cáo với quan người họ mưu tâm phản loạn. Tại Galilê, các cuộc bạo động lại liên tiếp xẩy ra.
Hơn thế, gần hồ Siloê, một cái tháp sụp đổ chôn sống mười tám mạng. Dân chúng tin rằng những biến cố đó là hình phạt Thiên Chúa ra để trừng trị tội lỗi của các nạn nhân.
Nhưng Đức Giêsu bài bác lập luận đó. Những người vong mạng đó không xấu xa hơn những kẻ còn đang sống. Tai nạn không đồng nghĩa với hình phạt mà là những lời cảnh cáo: ‘Nếu các các anh các chị không ăn năn hối cải, thì các anh các chị cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy’. Lời quả quyết nghiêm khắc ấy được nhắc đi nhắc lại hai lần. Lời đó nhắc đến ngày suy tàn của Giêrusalem đang gần đến.
Đối với người đương thời vừa nhằm vào ngày thế mạt, một sự kiện mà mọi thời đều mong đợi, và trước hết nhắm tới vận mạng sau cùng của mỗi thụ tạo. Tất cả các tai hoạ (theo Đức Giêsu và sách Khải huyền) đều là những dấu cảnh cáo của Thiên Chúa.
Con người không thể sống quá an tâm trên đường đời và sống thản nhiên hết ngày này qua ngày khác. Họ phải biết nguy cơ nào đang đe doạ mình và nhận mình sẽ không hề biết giây phút cuối đời của mình là lúc nào. Cho nên lợi dụng thời giờ còn lại để hồi tâm và thống hối.
Con người sẽ được cứu thoát miễn là biết phó thác vào ân sủng vào tình thương của Thiên Chúa và vì là tội nhân họ phải nại đến ân sủng của Ngài. Khẩn nài Thiên Chúa đó là tín hiệu cấp cứu của con người trong cơn nguy biến. Lúc đó, thống hối giống như chiếc tầu an toàn của Noe trong cơn hồng thuỷ của cuộc sống. Con người luôn luôn thấy có những tai hoạ; cho nên họ ít quan tâm đến tầm quan trọng của các dấu hiệu cảnh cáo đó. Tuy nhiên, mỗi người không thể biết nếu chưa gặp phải. Những lời bình luận của Chúa được trình bày một cách mập mờ và phải biết lắng nghe mới có thể lãnh hội được.
2. Dụ ngôn
Đức Giêsu minh giải vai trò khẩn thiết của thống hối qua dụ ngôn cây vả cằn cỗi. Người ta để nó sống một thời gian nữa. Nếu nó không có ích, người ta sẽ chặt đi
Dụ ngôn này hợp với tình trạng của Israel. Thiên Chúa đã ưu ái họ, đã chăm sóc họ như chưa từng thấy. Ngài ban cho họ luật pháp, tiên tri, giao ước, đền thờ và ngày nay còn cho họ có cơ may cuối cùng để định đoạt. Con Thiên Chúa làm người đã đến với họ. Nếu họ không hối cải ngay, số phận của họ sẽ bị định đoạt.
Dụ ngôn đó cũng am hợp với chúng ta. Chúng ta có Giáo Hội, các bí tích, giao ước mới, sách Tin mừng, nhất là có Chúa hiện diện ngày đêm. Vì thế không ai có thể phàn nàn điều gì. Mỗi người đã được chăm lo cách quá ư trọng hậu…
Nhưng con người cũng phải đóng góp về phía mình. Con người không thể ỷ lại vào Giáo Hội và các bí tích, hay tệ hơn dựa vào đám quần chúng để sống tầm thường như họ. Phải có suy nghĩ, hồi tâm và lấy lòng thống hối chân thành để hoán cải tình trạng của mình. Chỉ trong trường hợp đó, họ mới được ơn trợ giúp.
Kitô giáo không phải là bảo hiểm sinh mạng, cũng không phải là bảo vệ an ninh. Trái lại, nó đe doạ sự an toàn giả tạo và tha thiết kêu gọi thống hối. Càng tránh né vấn đề người ta càng đi vào con đường suy vong.
Người ta còn gọi nó là “vật thế thân”, “vật tế thần” hoặc là “con dê tế thần”. Ngày xưa đó là một: MC 3-C66
Người ta còn gọi nó là “vật thế thân”, “vật tế thần” hoặc là “con dê tế thần”. Ngày xưa đó là một vật để đỡ tên đạn khi ra trận; ngày nay thường dùng để châm biếm víngườichịu đỡ đònthay cho người khác. Trong làm việc tập thể - hợp tác xã, công ty,- người ta đề ra nguyên tắc: “Tội quy về trưởng”, nhưng thực tế,khi xảy ra sự cố gì, người ta luôn tìm một người thuộc loại “thấp cổ bé họng” để trút trách nhiệm và tránh mọi thiệt hại đến uy tín, địa vị và danh lợi cấp trên. Không biết ngôi mộ thật đẹp và trang trọng ngày nay có làm khuây khoả vong linh ông cố bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phú Kim Ngọc chăng,khi vì những chính sách đi trước vượt rào về khoán hộ từ thập niên 1960, mà ông chịu những trù dập từ phía những cấp trên cầm quyền trong đảng và trong chính phủ, vốn có những cái nhìn hết sức thiển cận, quan liêu và tránh né trách nhiệm. Họ cần ông làm cái bung xung.
Ngày nay, cứ sau mỗi vụ cài mìn,đặt bom hoặc đánh bom liều chết, người ta chờ đợi một nhóm khủng bố tuyên bố chịu trách nhiệm. Và bọn mất nhân tính nầy không ngần ngại mau chóng xưng tên thú tội. “Con dê tế thần” cho những thù hận tôn giáo và điên cuồng khát máu của chúng, đa số lại chính là những người dân và đồng đạo vô tội của chúng. Đó là kết cục tất yếu của một giáo lý nuôi dưỡng bằng hận thù,tham vọng,độc đoán và đầy dẫy kỳ thị, phân biệt đối xử. Họ đố kỵ và đổ lỗi cho người khác: khác tôn giáo,khác chính kiến với họ.
Năm 705, Võ-Tắc-Thiên, vị nữ hoàng đế duy nhất lịch sử Trung Hoa, qua đời.Là một người đàn bà thông minh, làm phi của vua cha,rồi trở thành hoàng hậu của vua con, dùng bàn tay sắt cai trị và có một đời sống dâm dật, tin dùng nhiều gian thần và làm hại nhiều công thần nay thẳng, nhưng lại biết sửa sai, Bà đã ra lệnh lập bia mộ khi an táng,nhưng không được viết gì trên bia,mà để trống trơn. Theo Bà,hãy để hậu thế luận công tội cho Bà. Và quả thật, nếu chỉ xét về khía cạnh nước giàu dân mạnh, thì công của Bà nhiều hơn tội. Những người đúc tượng, dựng bia thường là để che dấu những khuất tất trong cuộc đời hoặc khi sinh thời. Nhìn những tượng đài như của Lê-nin, Staline, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành, khó lòng mà không có những liên tưởng đen đỉu,mâu thuẫn. Lịch sử đã và đang rọi ánh sáng sự thật trên họ! Các chân phước và những Đấng hiển thánh trong Giáo Hội Công giáo hoàn toàn ngược lại: càng điều tra, càng moi hết sự thật - thậm chí gọi được là ‘bươi móc’, bới lông tìm vết, thì cuộc đời và gương nhân đức của các Ngài càng ngời ngời rực sáng. Giáo Hội và bản thân cáxc Ngài luôn chỉ có một điểm quy chiếu và tạ ơn: Thiên Chúa!
Lên ngôi giáo hoàng,thì thế chiến thứ hai nổ ra với vô số cảnh giết chóc dã man chưa từng có trong lịch sử, trong đó nỗi bật và dai dẵng nhất là vụ Đức quốc xã tàn sát dân Do Thái. Đức Thánh Cha Piô XII đã dồn hết tâm trí và sức lực, liều cả mạng sống, để cứu thoát vô vàn người Do Thái. Nhưng khi gió yên sóng lặng, một số người Do Thái vong ân bội nghĩa đã phàn nàn Đức Thánh Cha đã không làm đủ,không lên tiếng, để cứu thêm nhiều đồng bào và đồng đạo của họ. Không còn cảnh “ăn cháo đá bát” nào tệ hại hơn! Bao thế kỷ qua,họ không tìm truy cứu trách nhiệm của Philatô, kẻ đã giết người Do Thái đang hành lễ. Họ câm lặng trước vụ tháp Siloé sập xuống đè chết muời tám người, nhưng trong thâm tâm, họ vẫn đinh ninh những đồng bào đồng đạo ấy của họ hẳn “đáng” chết, vì chỉ có những người có tội mới phải chịu những hình phạy,tai ương nặng nề. Sáu triệu người bị tàn sát, con số rất lớn, là đa số của một dân tộc suýt bị diệt vong, có nghĩa là dân tộc ấy đang “có tội” và phải chịu trừng phạt. Nếu hiểu đúng,thì Đức quốc xã là ngọn roi Thiên Chúa dùng để đánh phạt Dân Người. Dân Israel không chấp nhận điều nầy và họ tìm một “vật tế thần”,không ai khác ngoài Vị đại ân nhân của họ, Đấng duy nhất đưa cả con tim,cả bàn tay cứu thoát họ,cứu cả một dân tộc khỏi hố diệt vong, trong khi những nhân vật thế lực như Staline,Churchill,Roosevelt,..không màng đền họ,không đưa ra một lời, dù chỉ có tính chất ngoại giao, can thiệp che chở họ. Phóng lao,phải theo lao: những đòi hỏi của họ ngày càng quá quắt!
Hai toà tháp của trung tâm thương mại New York sụp đổ tan tành như một món đồ chơi, kéo theo khoảng ba ngàn người chết. Ngày nào báo chí, truyền thanh truyền hình cũng loan tin những vụ đáng bom khủng bố làm hàng chục người thiệt mạng và bao nhà cửa bị phá hủy. Con số thương vong trong những năm vừa qua vì đã tâm và vũ khí sát thương của con người, không thua kém số thương vong của những thiên tai cùng thời, mà một phần nguyên nhân và trách nhiệm không nhỏ cũng do chính lòng tham vô độ của con người đã hủy hoại môi trường thiên nhiên. Ít ra trong và qua những sự kiện,những biến cố đau thương ấy, con người không còn hướng ngón tay lên trời mà quy lỗi:”Trời không có mắt”; “Con Tạo đố kỵ” hay như câu nói trong các phim ảnh Trung Quốc ngày nay:”Ông trời thật biết đùa!”. Họ đã nhận ra “tác giả”, tính từ sau cùng của đa số những tai ương khốn khó nầy: nhân tạo! Đó cũng là dấu chỉ trưởng thành của loài người. Thiên Chúa khi đã ban cho con người vật trang trí qúy giá nhất, làm nên phẩm giá của con người, là sự tự do, thì đã như trở thành bất lực trước những hành vi của con người. Nhân chi sơ tính bản thiện hay nhân chi sơ tính bản ác,là những quan niệm khởi từ sự đa dạng trong ứng xử tự do của con người, khiến con người thành “Ông Thiện” hay “Ông Ác”, và sẽ ngã theo một trong hai “Ông”. “Tà” hay “Chính” hoàn toàn do suy nghĩ,lựa chọn và hành động của con người. Và con người phải chịu trách nhiệm về mọi quyết định và lựa chọn tự do của mình, không còn vin vào được bất cứ ai,bất cứ sự việc gì để gánh trách nhiệm, để làm “vật thế thân” cho mình.
“Ba năm Ta đến tìm trái vả,mà không thấy” (Lc 13,7): không còn lý do gì để kêu ca,biện hộ nữa. Bao công chăm bón suốt nhiều năm và lẽ ra đã sinh hoa kết trái đã ba năm, nhưng vẫn vô dụng, ăn hại và chiếm dụng đất đai màu mỡ. Nghe qua,chúng ta thấy ngay tâm lý ỷ lại, như tâm lý phổ biền ngày ngay ở các cậu ấm cô chiêu, chỉ biết phung phí từ thời giờ đến tiền bạc,sức khoẻ: những cuộc sống thừa! Cuộc sống vô ích và trống rỗng đã dẫn đến phong trào tự tử đang lan rộng khắp nơi, khi họ không nhìn thấy ánh sáng tương lai, khi cuộc đời trở nên vô nghĩa, khi họ chẳng biết đổ lỗi cho ai, kể cả đổ lỗi cho số phận. Không cần đến ai khác vứt bỏ họ, mà chính họ bứng nhổ mình và ném vào cái chết đời đời. Đó cũng là số phận đã định cho mỗi người chúng ta, cây vả vô duyên vô dụng đã làm tổn hao bao tâm sức, chăm nom ân cần của Thiên Chúa, nếu như chính Chúa Giêsu đã không can thiệp níu kéo để cứu chúng ta. Đây không phải là một lời đe doạ. Đây là một lời cảnh báo nguy cấp. “Nước đến chân” vẫn bình chân như vại, vẫn lì lợm ỷ lại vào lòng nhân từ của Chúa, không muốn tự cứu mình,thì chẳng còn gì để nói! ĐƯỜNG TÌNH CHÚA DẪN CON ĐI 39
Ngày 27. 02. 2010, trận động đất ở Chilê đã làm hơn 700 người thiệt mạng và gây ra rất nhiều: MC 3-C67
Ngày 27. 02. 2010, trận động đất ở Chilê đã làm hơn 700 người thiệt mạng và gây ra rất nhiều thiệt hại vật chất. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nạn nhân và các gia đình gặp khó khăn do thiên tai ở Chi lê. Chúng ta biết, từ khi con người chống lại Thiên Chúa và chối bỏ Ngài thì thiên nhiên không còn lệ thuộc con người nữa, nhưng nó đi theo qui luật bảo tồn của riêng nó. Và chúng ta phải lo đi tìm hiểu về qui luật của tự nhiên, vũ trụ để tránh thiên tai chứ thiên tai không tự tránh con người. Ngày nay, các nhà khoa học biết tự làm ra những máy móc tối tân để dự báo kịp thời các chấn động trên trái đất, vũ trụ. Thế nhưng, có đôi lúc con người không ghi nhận chính xác dấu chỉ của thiên nhiên và chưa ứng phó đúng mức trước các báo động thiên tai khiến nhiều người thiệt mạng.
Âu cũng là một lời cảnh báo cho chúng ta rằng: giờ Chúa đến như kẻ trộm.
Vì vậy, con người phải lo chuẩn bị sẵn sàng, để khi Chúa đến, Ngài sẽ ban thưởng cho chúng ta. Chúng ta hãy thờ phượng Chúa và lo cho tha nhân vì Chúa, rồi Chúa sẽ bù đắp cho chúng ta. Còn ai làm điều ác, ức hiếp đồng loại sẽ có phần phạt tương xứng là đời đời đau khổ!
Ðiều gì là tội hay phúc ai cũng biết. Ðời sau ai cũng có nghe nói tới rồi. Lương tâm mỗi người cũng nói cho chúng ta biết phải làm lành lánh dữ.
Nếu ai còn chưa sám hối thì hãy mau hoán cải quay về với Chúa trong chay tịnh, khiêm nhường, bác ái. Chúa sẽ không chê bỏ những ai có lòng sám hối. Thời gian có hạn. Chúng ta hãy nhớ dụ ngôn cây vả trong vườn nho. Mỗi người chúng ta cũng như cây vả trong vườn nho vậy. Cây vả Do thái cũng giống như cây sung ở Việt nam, không đem lợi nhuận gì cho chủ, nhưng chủ thương vẫn để cho nó chiếm 1 chỗ trong vườn nho. Ðiều đáng buồn là nó choán đất 3 năm rồi mà không sinh quả. Lẽ ra là đẵn nó đi phứt cho rồi nhưng Chúa lại tiếp tục kiên nhẫn, ưu đãi đặc biệt để giúp nó sinh trái.
Tuy nhiên, nếu chúng ta không thay đổi đời sống, không lo sinh lợi, không lo chu toàn bổn phận của mình đối với Chúa và anh em mình thì chúng ta phải trả lẽ trước mặt Chúa.
Mùa chay là mùa ăn năn thống hối. Ðộng đất, sóng thần cũng là những dấu chỉ nhắc nhở chúng ta lo thay đổi cuộc sống. Mỗi người chúng ta lo hãy xét mình xem, tôi còn những tính xấu nào chưa sửa, còn những tội nào chưa dốc quyết từ bỏ. Nếu tôi còn hay nóng giận, ghen ghét thì từ nay tập tính hiền từ, yêu thương; tôi còn đam mê rượu chè cờ bạc thì từ nay tôi quyết tâm bỏ, không bén mảng tới những nơi đó để khỏi bị cám dỗ. Nếu tôi còn chưa nhận ra tình thương của Chúa đối với mình và giữ đạo lơ là thì trong mùa chay này, tôi sẽ năng đi lễ, cầu nguyện với Chúa nhiều hơn để Chúa ban ơn cho tôi cảm nhận được tình thương của Ngài.
Có một câu ngạn ngữ nói rằng: việc hôm nay chớ để ngày mai. Vậy, ngay hôm nay, chúng ta hãy đề ra cho mình một chương trình sống mùa chay. Hãy cố gắng sao cho hôm nay chúng ta sống đẹp lòng Chúa hơn hôm qua, tuần này khá hơn tuần trước, để đến tuần Phục sinh, linh hồn chúng ta thực sự sáng đẹp giống Chúa Giêsu Phục sinh.
Chúa Phán: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được: MC 3-C68
Chúa Phán: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ed 18,23) là câu lời Chúa mà tôi vẫn thích nghe và thích đọc đi đọc lại nhiều lần trong suốt Mùa Chay. Thiên Chúa của chúng ta là Đấng ban sự sống, là Thiên Chúa của kẻ sống. Vì thế, Ngài luôn mở ra những con đường sống cho con người, nhất là những người tội lỗi, những tâm hồn dập nát đau thương, những tâm hồn cần đến lòng thương xót Chúa.
Muốn có được cuộc sống hạnh phúc, con người phải làm một sự chọn lựa cho mình ngay từ giây phút này. Đây là một công việc không dễ làm chút nào. Bởi lẽ, suy nghĩ của con người chúng ta rất hạn hẹp và hay phạm nhiều sai lầm. Cụ thể, trong bài Tin mừng chúng ta vừa nghe, chúng ta thấy những người Do thái có suy nghĩ rất lệch lạc. Họ nghĩ rằng: những người bị quan Philatô giết hay những người bị tháp Silôê đè chết là những con người tội lỗi, đáng phải chết. Còn họ - những người còn đang sống thì không có lỗi! Chúa Giêsu nói cho họ biết: suy nghĩ đó là lệch lạc và nguy hiểm vô cùng. Chúa tuyên bố rõ ràng rằng: “Ta nói cho các ngươi: không phải thế. Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy”.
Khi nói lên điều đó, Chúa Giêsu muốn chỉ ra cho mọi người một con đường sống. Đó là con đường “ăn năn, hối cải”. Đây là con đường khôn ngoan dành cho những ai muốn tìm đến sự sống vĩnh cửu. Nhưng ai là kẻ cần phải ăn năm sám hối? Có phải hết mọi người đều cần như thế không? Những người tốt lành thì sao?
Trước hết, sự ăn năn sám hối là thật sự cần thiết và rất cấp bách cho những người tội lỗi, những người sa ngã vì yếu đuối, những người nguội lạnh trong đời sống đức tin. Khi phạm phải sai lầm, con người thường cảm thấy mình bị Thiên Chúa loại trừ và bỏ rơi. Nhưng sự thật thì lại hoàn toàn khác như thế. Ngài vẫn luôn chờ đợi ta quay trở về để đón nhận ơn tha thứ. Tha thứ là niềm vui của Thiên Chúa, Đấng là Cha của chúng ta. Chúng ta đọc được những lời rất cảm động ấy trong sách tiên tri Isaia: Đức Chúa phán: "Hãy đến đây, ta cùng nhau giàn xếp ! Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết ; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông.” (Is 1,18). Điều lạ lùng nơi Thiên Chúa là Ngài không chấp tội con người khi họ biết hồi tâm sám hối. Bởi vì nơi Thiên Chúa chỉ có hiện tại. Trong bài đọc I hôm nay có nhắc đến một nhân vật quan trọng là Môsê. Môsê được Chúa tuyển chọn làm người chăn dắt dân Israel ra khỏi đất Ai Cập dù trong quá khứ ông đã phạm tội giết chết một người Ai cập. Trên thập giá, tên trộm cướp chịu đóng đinh bên hữu của Chúa chỉ nói có một lời sám hối ăn năn thôi mà Chúa đã tha thứ hết mọi tội lỗi cho anh và anh trở thành người đầu tiên được hưởng hạnh phúc Thiên đàng: “Ta bảo thật ngươi, ngay hôm nay ngươi sẽ được ở trên thiên đàng với ta” (Lc 23,43). Cho nên, trước mặt Thiên Chúa, tội nhân nào cũng còn tương lai. Thánh nhân của Chúa hầu hết đều là những tội nhân biết sám hối mà thôi.
Có một câu chuyện kể rằng: “Tại một vùng nông thôn nước Mỹ, có hai anh em nhà kia vì quá đói kém đã rủ nhau đi ăn cắp cừu của nông dân trong vùng. Không may hai anh em bị bắt. Dân trong làng đưa ra một hình phạt là khắc lên trán tội nhân hai mẫu tự “ST”, có nghĩa là quân trộm cắp (viết tắt từ chữ stealer). Không chịu nổi sự nhục nhã này, người anh đã trốn sang một vùng khác sinh sống hòng chôn chặt dĩ vãng. Thế nhưng anh chẳng bao giờ quên được nỗi nhục nhã mỗi khi ai đó hỏi anh về ý nghĩa hai chữ “ST” đáng nguyền rủa này. Còn người em, anh tự nói với bản thân mình: “Tôi không thể từ bỏ sự tin cẩn của những người xung quanh và của chính tôi”. Thế là anh tiếp tục ở lại xứ sở của mình. Chẳng mấy chốc anh đã xây dựng cho mình một sự nghiệp cũng như tiếng thơm là một người nhân hậu. Anh sẵn sàng giúp đỡ người khác với tất cả những gì mình có thể. Tuy nhiên, cho dẫu thời gian có qua đi, hai mẫu tự “ST” vẫn còn in dấu trên vầng trán anh. Ngày kia, có một người lạ mặt hỏi một cụ già trong làng về ý nghĩa hai mẫu tự này. Cụ già suy nghĩ một hồi rồi trả lời: “Tôi không biết rõ lai lịch của hai chữ viết tắt ấy, nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của anh ta, tôi đoán hai chữ đó có nghĩa là người thánh thiện (saint)”. Và Chúa cũng đang nghĩ về chúng ta như thế nếu chúng ta biết hoán cải cuộc sống của mình.
Sự sám hối cũng cần thiết cho cả những con người được coi là tốt lành trong cuộc sống. Tại sao vậy? Câu chuyện được Chúa Giêsu nói đến trong Tin mừng hôm nay là một minh chứng cho chúng ta rồi đó. Ông chủ muốn đốn Cây Vả không phải vì nó đã sinh ra những trái xấu, mà vì nó không sinh ra những trái vả như nó phải sinh ra. Một cây vả mà không sinh trai vả thì đâu còn là cây vả nữa. Cũng vậy, người Kitô hữu phải sinh ra những hoa quả tốt lành xứng với phẩm vị của mình như: bác ái, công bình, yêu thương, tha thứ, hy sinh. . . Có lẽ, chúng ta ít khi nào tự đặt cho mình câu hỏi này: Điều gì lẽ ra tôi phải làm mà tôi lại chưa làm hoặc không làm?
Tiếng gọi sám hối không chỉ kêu gọi ta thôi đừng làm điều xấu nữa, mà tiếng gọi ấy còn kêu gọi ta hãy "sinh trái" bằng những việc tốt. Chính vì thế mà lời kêu gọi này nhắm đến mọi hạng người. Hãy chọn lựa cho mình con đường sống theo tiếng gọi của Tin mừng hôm nay là: ĂN NĂN VÀ SÁM HỐI để sinh hoa trái thánh thiện như ý Chúa muốn.
Khi nói đến hai từ “sám hối” chắc chắn có nhiều người tự hỏi: Sám hối là gì? Tôi là người đạo: MC 3-C69
Khi nói đến hai từ “sám hối” chắc chắn có nhiều người tự hỏi: Sám hối là gì? Tôi là người đạo đức, siêng năng cầu nguyện, tham dự thánh lễ, không ăn trộm ăn cắp… vậy tại sao tôi phải sám hối? Thật ra, Sám hối là thay đổi hướng đi, là phản tỉnh lại mình, thay đổi cái nhìn, cách nghĩ, là ý thức thân phận mỏng giòn của mình, để đổi mới đời sống cho phù hợp với Tin Mừng. Để làm được điều này, tôi thiết tưởng mỗi người phải nhận thấy được “thông điệp” mà Thiên Chúa muốn gởi đến chúng ta qua:
1. Tha nhân
Theo quan niệm nhân quả, người ta thường gán ghép cho những người khi gặp các biến cố: vui buồn, bệnh tật, chết chóc hay là những nghịch cảnh xảy đến trong cuộc sống là do nghiệp chướng họ làm. Cũng tương tự thế, Có biết bao lần chúng ta đã nói hay đã nghe những cách giải thích như: Trời phạt, Chúa phạt hay là ông trời có mắt. Từ đó làm chúng ta có cái nhìn không đúng về người khác, đồng thời chúng ta tự tạo một mối an tâm cho chúng ta là được Chúa ưu đãi mình hơn kẻ khác. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã sửa lại quan niệm sai lầm ấy. Theo Ngài, tất cả mọi người đều là tội nhân trước mặt Thiên Chúa, đều cần phải nhìn ra tội lỗi của mình và sám hối. Vì "Không ai là người công chính, dẫu một người cũng không; chẳng ai có lương tri, chẳng ai tìm kiếm Thiên Chúa" (Tv 14,1-3). Do đó, trước mặt Chúa, đừng ai tự hào mình công chính hơn người khác “vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 18,14b). Đồng thời không nên phán đoán về giá trị đạo đức của người khác, nhất là không bao giờ kết án người khác, vì chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán mà thôi. "Đừng xét đoán để khỏi bị kết án" (Mt 7,1).
Thật ra, có biết bao người hiền lành, thánh thiện bị Chúa thử thách và thánh hóa bằng nghịch cảnh, bằng những tai ương dồn dập. Vì "Người hiền đức gặp nhiều bước gian truân". Thật vậy, Chúa thương ai nhiều thì thường thử thách người đó nhiều bằng đau khổ. Do đó, không thể cứ thấy ai gặp hoạn nạn là ta nghĩ họ vì tội lỗi nên bị Chúa phạt. Đó là một quan niệm sai lầm. Nhưng quan niệm này vẫn còn ăn sâu vào mỗi người chúng ta. Thật vậy, khi đứng trước những tai ương sự dữ, chết chóc, chúng ta dễ có khuynh hướng xét đoán họ, dễ có cái nhìn soi mói, thiếu cảm thông.
Đứng trước quan niệm sai lầm của dân Do thái, và đôi khi là của mỗi ngừơi chúng ta hôm nay, Chúa Giêsu đã bác bỏ quan niệm này. Ngài chỉ cho ta thấy rằng: hết thảy chúng ta đều là tội nhân, đều phải chịu sự phán xét của thiên Chúa, cho nên phải mau mau sám hối, để cải thiện đời sống: “Nếu các ngươi không ăn năn sám hối, thì các ngươi sẽ chết như vậy” (Lc 13,5).
2. Bản thân
Trong các thông điệp mùa chay hàng năm, Đức Thánh Cha luôn mời gọi chúng ta hãy thay đổi cách suy nghĩ, và nhìn nhận thân phận yếu hèn của mình, để canh tân đời sống. Bởi vì, nhân loại hôm nay như đang mất đi cảm thức về tội, họ làm tội, nhưng không còn ý thức về tội. Đó là một điều nguy hại và làm cho con người ngày càng cách xa Thiên Chúa, mà chỉ sống trong ảo tưởng. Vì thế, họ cho mình là thánh thiện, và tự đề cao chính mình.
Như A. Adler đã nói: “Sự cao cả của con người bắt đầu khi con người biết nhìn nhận mình đúng như thực trạng của mình”. Hơn nữa, để thực thi lời mời gọi hoán cải của Chúa và Hội thánh, chúng ta cần phải kiểm điểm lại chính mình, khiêm tốn nhìn nhận mình là tội nhân và cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa.
Ngài muốn chúng ta tự xét mình và nhận ra lỗi của bản thân mình hơn là xét lỗi và thấy lỗi của người khác. Thấy lỗi của người khác mà không thấy lỗi mình chỉ khiến ta phát sinh lòng kiêu ngạo, tự mãn, khinh người. Còn nhận ra tội lỗi hay yếu đuối của mình, sẽ giúp ta khiêm nhường, nhất là cảm thông được những yếu đuối và tội lỗi của người khác. Nếu vì những yếu đuối hay vì một số tội lỗi ta đã phạm mà ta trở nên khiêm nhường và thông cảm với người khác hơn, thì những yếu đuối hay tội lỗi ấy đúng là những tội lỗi hồng phúc. Như thánh nữ Catarina thành Sienna đã nói “Phạm tội là con người, nhưng ngoan cố trong tội là ma quỷ” Vậy, nhìn mình , biết mình để mà ăn năn sám hối thật là điều cần kiếp mà mỗi người phải làm trong mùa chay này.
3. Biến cố & thời gian
Sám hối là lời đầu tiên mà Gioan đã rao giảng cho dân Do Thái, sám hối cũng được Chúa Giêsu rao giảng đầu tiên khi Ngài bắt đầu sứ mệnh của mình: “Anh em hãy sám hối vì nước trời đã gần đến”. Ngày nay, Giáo hội cũng rao giảng sự sám hối cho dân của Thiên Chúa. Hôm nay, để quảng diễn cho sự cần kíp phải ăn năn sám hối, Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn cây vả để nói lên điều này. Hình ảnh cây vả trong bài Tin mừng hôm nay, giúp tôi liên tưởng đến bản thân mỗi người chúng ta.
Cây vả được người chủ vườn trồng, những ước mong nó sẽ sinh nhiều trái ngọt. Tuy nhiên, đã nhiều năm, ông chủ chờ đợi nó mà nó vẫn cứ trơ trơ, chẳng chịu sinh một trái nào. Vì thế, ông chủ buồn lắm, và quyết định chặt nó đi cho đỡ tốn đất, thế nhưng, người làm vườn đã nài xin cho cây vả một án treo! Thử xem nay mai, nếu không ra trái, thì hãy tính sổ nó.
Cuộc sống của mỗi người còn quý hơn cây vả. Thiên Chúa đã tuyển chọn chúng ta trong kế hoạch nhiệm mầu của Ngài. Ngài cho ta được làm con của Chúa, và được chăm sóc trong vườn ươm của Giáo hội. Và cũng vì tình yêu, Ngài đã lấy chính thịt máu Ngài làm của ăn nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Nhằm cho chúng ta trổ sinh hoa trái thơm lành như lòng mong đợi. Thế nhưng mỗi người chúng ta đã làm gì để đáp lại niềm mong đợi của Chúa?
Mùa chay là dịp thuận tiện giúp chúng ta ăn năn sám hối, mà sám hối luôn là vấn đề của thời gian, con người cần thời gian để mà hoán cải và Thiên Chúa cũng cần thời gian để chờ đợi, Ngài không bỏ cuộc, Ngài khoan hồng, bao dung với con người. Thiên Chúa chờ đợi chúng ta như ông chủ chờ đợi cây vả, ông ta chờ nó cho ra trái thế nào thì Thiên Chúa cũng chờ đợi chúng ta quay về với tình yêu của Ngài như vậy. Lạy Chúa, Xin cho con biết nhìn anh em xung quanh bằng một con tim biết cảm thông và chia sẻ, Ngoài ra con còn nhận ra được những thiếu sót nơi bản thân để biết sám hối và hoàn thiện mình mỗi ngày. Amen.
Có một lần đang đi trên một chiếc xe, bổng nhiên chiếc xe từ từ chậm lại rồi dừng hẵn. Mọi: MC 3-C70
Có một lần đang đi trên một chiếc xe, bổng nhiên chiếc xe từ từ chậm lại rồi dừng hẵn. Mọi người đều ngạc nhiên, không hiểu chuyện gì xảy ra. Tài xế xuống xe, anh tìm chiếc bánh xe dự trù, nhưng anh đành thất vọng, vì nó không còn chút hơi nào trong đó. Anh đành xin lỗi mọi người và xin chờ đợi để anh tìm cách đem chiếc bánh xe đi vá lại, đem về ráp vào thì chiếc xe mới hoạt động tiếp tục được. Anh còn nói thêm: đã nhiều năm nay, chiếc xe nầy chạy rất tốt, không bao giờ bị như thế nầy. Tôi cũng xuống xe chờ đợi và nhìn thấy: những bánh xe, nó đã tới thời kỳ phải được xem lại, nếu không thì nó cũng sẽ lập lại tình trạng như thế nầy nữa.
Tôi chợt suy nghĩ: chiếc xe phải rơi vào tình trạng như thế nầy, vì nó luôn an tâm, tự hào và ngũ quên trong sự an toàn của nó. Chính vì nó tự mãn nên không bao giờ được kiểm tra tận tình, nên nó mới bị nằm giữa đường. Nếu nó còn tiếp tục tự hào nữa mà không lo sữa chữa thì nó cũng sẽ lại rơi vào tình trạng như thế nữa.
Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì các ngươi sẽ như thế.
Chúa Giêsu dùng một sự kiện thực tế để nhắc nhở cho mọi người. Ngài không kết án, nhưng kêu gọi mọi người nhìn sự kiện thực tế, để xem lại chính mình. Nhìn người để biết chuẩn bị mình cho chu đáo. Nhìn người để biết sữa đỗi con người của mình cho tốt đẹp. "Đã ba năm nay tôi đến tìm quả, nhưng không thấy, vậy anh cón để nó làm gì cho hại đất".
Thiên Chúa đã đến tìm quả nơi những cây Ngài đã trồng nơi mãnh đất trần gian. Ngài đã tìm được những quả tốt đẹp nơi vườn cây. Nhưng có những cây, Ngài đang chờ đợi với tất cả sự kiên nhẫn. Nếu nó cứ vô dụng mãi mà còn làm hại cho mãnh đất màu mở của Ngài, thì số phận nó đã được an bài.
Con người thời nay thường an tâm với vỏ bọc bên ngoài, tìm cách che đậy những lầm lỗi của mình bằng cách kết án người khác khi có thể. Chúng ta thường nghe những câu nói: đáng đời, Chúa phạt, Trời hại. . . chính bản thân chúng ta nhiều khi cũng thốt lên những câu như thế. Chúng ta vẫn an tâm với cách sống của mình. Dường như chưa bao giờ chúng ta dám đặt mình vào hoàn cảnh như thế để tìm một chút suy tư cho cuộc sống.
Hôm nay Chúa Giêsu cũng nói với từng người trong chúng ta: "Nếu các ngươi không ăn năn sám hối. . ."
Chúng ta cùng nhau để ra ít phút suy tư về cuộc sống của mình. Chúng ta không thấy mình có lỗi gì hết, không làm hại ai, không cướp của giết người, chúng ta vẫn thường đọc kinh, dự lễ, thỉnh thoảng cũng bố thí giúp người nghèo khó. Với những việc làm như thế, chúng ta an tâm về đời sống của chính mình, chúng ta tự cho mình là đạo đức thánh thiện, không cần phải thay đỗi cách sống, không cần phải nhìn lại hay sữa đỗi điều gì. Cũng chính vì sự tự mãn đó, mà chúng ta sẵn sàng kết án người khác, cho họ là không đạo đức, không thánh thiện, là người tội lỗi, kẻ xấu không đáng nói chuyện hay tiếp xúc với chúng ta. Khi bất chợt họ gặp rủi ro bất trắc trong cuộc sống, chúng ta vui mừng cho như thế là quả báo, vì chúng ta luôn muốn cho họ như thế. Nếu họ gặp những điều may mắn tốt lành, chắc chúng ta không được vui. Với đời sống như thế, chúng ta có giống như cây vả mà hôm nay Thiên Chúa đến tìm quả, Ngài vui mừng vì tìm được những quả ngon, hay Ngài phải tức giận mà nói với người làm vườn: "Đã ba năm nay tôi tìm quả nhưng không không thấy, vậy anh hãy chặt nó đi, còn để nó làm gì cho hại đất". Cây con người của chúng ta, không phải chỉ có cành lá sum suê là đủ, nhưng còn phải có kết quả, cây phải cho trái. Cho dù cây không làm hại ai, nhưng nó đã choáng cả một vùng đất rộng, vươn cành lá che mất đi ánh sáng của những cây khác, mà không có ích lợi, nó không thể tồn tại mãi như thế được.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết trổ sinh những quả tốt đẹp trong đời sống, để dâng lên Chúa.
Cùng với Giáo hội ta đã đi gần nửa chặng đường của Mùa Chay năm nay. Xin được phép: MC 3-C71
Cùng với Giáo hội ta đã đi gần nửa chặng đường của Mùa Chay năm nay. Xin được phép dừng lại đôi chút để mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại tâm tình của mình. Ta đã sống và nhất là đang có tâm tình nào trong Mùa Chay năm nay? Điểm trọng yếu của Mùa Chay là Giáo hội muốn mọi thành phần dân Chúa ý thức thân phận của mình. Ý thức về sự yếu đuối của mình để rồi ta biết phó thác vào tình yêu của Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Thiên Chúa của ta là Thiên Chúa tình yêu. Thiên Chúa của ta là Thiên Chúa trung thành. Thiên Chúa của ta là Thiên Chúa kiên nhẫn. Và Thiên Chúa của ta là Thiên Chúa khoan dung. Chắc chắn là không ai trong chúng ta dám cho mình là kẻ vô tội hay là người công chính trước mặt Chúa. Không nhiều thì ít, không nặng thì nhẹ ai trong chúng ta đều là kẻ có tội trước mặt Chúa. Dù vậy, nhiều khi ta lại có thái độ “ Chuyện người thì sáng còn chuyện mình thì oán ” hay “ Chỉ thấy cái rác trong mắt anh em còn cái xà trong mắt mình thì lại không thấy ” (Mt 7, 3) như những người Do thái trong Tin mừng hôm nay.
Có lẽ, họ hãnh diện lắm khi kể lại cho Chúa Giêsu chuyện một số người bị tổng trấn Philatô giết. Họ nghĩ rằng vì mình công chính hơn nên đã không bị giết như những người kia. Thật là một sai lầm lớn. Mỗi người chúng ta được sinh ra làm người, được sống và được mọi ân huệ của Thiên Chúa không bao giờ là do công trạng của mình. Tất cả chỉ là hồng ân nhưng không mà Thiên Chúa ban cho.
Những gì Thiên Chúa ban cho, Người chỉ mong rằng ta biết dùng nó mà sinh ích lợi cho mình và cho mọi người. Thiên Chúa đang chờ đợi đời sống ta sinh hoa kết trái. Muốn được sinh hoa kết trái ta hãy để cho Người vun xới. Khi ta đến với Người qua việc lãnh nhận các Bí tích, khi ta đến với Người trong các giờ kinh nguyện…là ta đang để cho Người vun xới.
Đồng thời Người cũng kêu gọi ta cộng tác vun xới với Người. Ta cộng tác với Người bằng cách đem niềm vui và hạnh phúc đến cho những người anh chị em xung quanh. Ta cộng tác với Người bằng việc xây dựng tình đoàn kết và yêu thương nhau trong gia đình hay cộng đoàn ta đang sống .
Tóm lại, Thiên Chúa không nở “ chặt ” ta dù rằng có khi ta làm phiền lòng Người hay đời sống ta không sinh hoa kết quả. Thiên Chúa luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để ta sinh hoa kết trái đem lại lợi ích cho ta và cho mọi người. Hãy biết luôn tận dụng những cơ hội tốt đó.
“Có người kể cho Chúa Giêsu nghe mấy người Galilê bị Philatô giết tại nơi họ tế lễ; máu họ hòa với máu tế vật. Chúa nói: ….nếu anh em không lo sám hối, anh em cũng sẽ phải chết y như vậy.” (Lc 13, 2)
Có một chị nọ theo đạo chồng, đạo hạnh không tốt lắm, nên cũng lôi thôi việc đi nhà thờ. Sau đó: MC 3-C72
Có một chị nọ theo đạo chồng, đạo hạnh không tốt lắm, nên cũng lôi thôi việc đi nhà thờ. Sau đó hai vợ chồng ly dị nhau; người vợ từ đó làm ăn lên lắm và người vợ cũng xem ra muốn bỏ đạo luôn. Người chồng có vợ khác, và người vợ có bồ khác dù không ở chính thức. Người vợ mới hơn bốn mươi tuổi, một hôm, bất ngờ trong khi đi xe Honda, đã té ngã ra bất tỉnh, một lát sau thì chết luôn, chưa kịp đưa vào nhà thương chi cả. Một cái chết bất ngờ, không chờ đợi, khiến mọi người xung quanh hoảng sợ. Mấy câu chuyện được thuật lại trong bài Phúc âm chúa nhật hôm nay, cũng tương tự như thế; dù vậy cái nhìn của Chúa Giêsu, xem ra khác hẳn với cái nhìn của người đời, nhất là trong thời Chúa Giêsu.
*Kính mời anh chị em cùng suy niệm:
a. Chúng ta hãy xem lại câu chuyện của bài Tin Mừng: Có mấy người đến kể cho Chúa Giêsu nghe: có mấy người Galilê đang tế lễ, họ đã bị Philatô giết. Máu của họ đổ ra hòa với máu tế vật họ đang dâng. Đây là một vụ nổi loạn của một số người Do thái; Philatô đã cho lính đến đàn áp thẳng tay. Sử gia Do thái là Joseph Flavius đã ghi lại khá rõ ràng…
Câu chuyện thứ hai: tháp Silôê ngã xuống đè chết 18 người. Đây là cây tháp được xây dựng trên bờ kinh đào trong thánh Giêrusalem, phía Tây Nam , không rõ vì lý do gì bỗng nhiên đổ sập xuống đè chết 18 người. Câu chuyện thứ ba, một dụ ngôn: Thấy cây vả trong vườn không sinh trái, ông chủ đòi đốn bỏ; nhưng người đầy tớ xin để lại vài năm, hi vọng sau khi chăm sóc bón phân cho nó, nó sẽ cho trái, bằng không sau đó sẽ chặt bỏ đi không muộn màng …
b. Hai chúa nhật tuần trước, phụng vụ Lời Chúa cho ta hiểu ý nghĩa của mùa chay là chịu thử thách, cám dỗ và sau cám dỗ là vinh quang của Đức Kitô. Hôm nay Lời Chúa kêu mời chúng ta hãy sám hối chân thành bằng những việc làm cụ thể. Đưa ra hai biến cố chết người thê thảm, với hình ảnh cây vả không sinh trái, Chúa Giêsu kêu mời phải thành tâm sám hối, để có thể sinh hoa kết quả, nếu không sẽ bị chặt đi…
Chúa phán: Nếu anh em không lo ăn năn sám hối, anh em sẽ phải chết y như vậy…Từ thời Chúa Giêsu trở về Cựu Ước, người ta cho những người bị chết thê chết thảm, chết vì tai nạn bất ngờ… là do tội lỗi của họ. Điều này gần giống với quan điểm của Á Đông chúng ta: “Ác giả ác báo”. Qua bài Phúc âm hôm nay, ta thấy Chúa Giêsu có cái nhìn hoàn toàn khác. Người nói: họ chết như thế, không hẳn vì tội lỗi của họ. Phần anh em, nếu không lo hối cải, anh em sẽ chết y như vậy.
Khi dùng hai biến cố chết người thảm thương này làm bối cảnh cho lời giảng dạy, Chúa muốn đánh đổ quan niệm củ, sai lầm của người Do thái, coi cái chết bất ngờ vì tai nạn, bệnh tật … là do tội lỗi mà ra. Rồi Chúa khẳng định: nếu không sám hối ăn năn, sinh hoa kết quả, thì sẽ chịu hậu quả khốc liệt hơn những kẻ đó. Họ sẽ bị Ông Chủ loại bỏ vĩnh viễn. Ông Chủ đây là ai ngoài Thiên Chúa, và cây vả là ai ngoài người Kitô hữu, những người mà Chúa Kitô đã tái sinh và vun trồng bằng chính Thịt Máu Người?
c. Gợi ý sống và chia sẻ:* Là người kitô hữu, ta hiểu rõ Thiên Chúa đầy lòng bao dung, sẵn sàng chờ đợi ta thống hối ăn năn, luôn gia hạn cho ta thêm cơ hội để ăn năn, như ông chủ chờ đợi cây vả sinh hoa trái trong bài Phúc âm này. Là người kitô hữu, chúng ta nghĩ sao đây? Ta có mau mắn lo chớp cơ hội, ăn năn sám hối tội lỗi của mình không?
Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, có hai câu chuyện mang tính thời sự thời Đức Giêsu: MC 3-C73
1. Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, có hai câu chuyện mang tính thời sự thời Đức Giêsu. Câu chuyện thứ nhất do những người Do thái kể cho Đức Giêsu nghe về một số người Galilê bị quan Philatô giết chết, có lẽ vì nổi loạn chống lại Roma; câu chuyện thứ hai, do chính Đức Giêsu kể đó là mười tám người bị tháp Silôê sụp đổ đè chết. Trước cảnh đau thương đó, người Do thái thời Đức Giêsu, có thể ngay cả chúng ta nữa, thường nghĩ rằng “ác giả, ác báo”, ai làm điều ác thì ắt sẽ gặp điều ác. Đức Giêsu khuyên họ đừng vội vàng suy đoán trước những đau khổ của người khác, nhưng tốt hơn, đây là dịp tốt để mỗi người hãy xem xét lại lương tâm mình để lo sám hối, lo thay đổi đời sống của mình hơn là đoán xét người khác.
Sau đó Đức Giêsu kể thêm dụ ngôn cây vả để trình bày rõ hơn chủ đích sám hối của Người. Qua dụ ngôn này Người nhấn mạnh thêm hai chi tiết nữa: phải khẩn trương sám hối trong lúc thời giờ còn có thể được, giống như cây vả được người làm vườn gia hạn thêm một năm nữa; đồng thời, sám hối phải được biểu hiện bằng những việc làm tốt đẹp cụ thể, giống như cây vả phải sinh hoa trái.
2. Trước hết, lời mời gọi sám hối không nhằm riêng ai, mọi người chúng ta đều được mời gọi phải sám hối. Ai trong chúng ta dám nói mình là vô tội: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội,
nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130,3), hay như Thánh Phaolô nói: “Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,15). Khuynh hướng con người là như thế, không muốn đi đường ngay nẻo chính. Sám hối nguyên ngữ Hylạp là Metanoia, nghĩa là quay ngược lại, là nhận mình đã đi lạc hướng và cố gắng quay trở về đường ngay nẻo chính. Một cách dễ hiểu hơn, sám hối đó là thấy mình làm điều sai quấy với lương tâm, với luật Chúa, luật Hội Thánh thì mau mắn sửa đổi. Ngay cả dù không “đi lạc”, nhưng đó là thiếu sót trong việc bổn phận hằng ngày hay lẽ ra ta có thể thực hiện một điều lành tốt hơn mà lại không cố gắng!
Hãy nhìn lại xem, trong cuộc sống của chúng ta biết bao lần chúng ta đã xúc phạm đến Chúa và anh em khi vô tình lúc hữu ý, khi tỏ tường lúc thầm kín... Thế nhưng thực tế trong cuộc sống chúng ta cũng dễ giống như những người Do thái xưa cho mình là người công chính. Dễ bực bội, dễ thấy lỗi lầm thiếu sót của người khác, còn chính lỗi mình thì không. Thích tìm tòi, chỉ trích thiếu sót của người khác, ngược lại không muốn ai nhắc tới khuyết điểm của mình. Chính vì vậy ca dao ta có câu: “chân mình những lấm mê mê, lại đi lấy đuốc mà rê chân người”. Vậy Lời Chúa hôm nay nhắc mỗi chúng ta hãy nhìn lại đời sống của mình mà sám hối, hoán cải.
3. Kế đến, phải khẩn trương sám hối. Trong dụ ngôn chúng ta vừa nghe, người làm vườn xin ông chủ gia hạn thêm một năm nữa. Một năm nữa nếu không sinh hoa kết trái thì kết thúc cuộc đời cây vả. Điều nay cho chúng ta suy nghĩ: lúc ta còn sống là lúc ta còn có thể hoán cải, khi ta kết thúc cuộc đời thì không còn làm gì được nữa, cho nên hãy biết dùng thời giờ Chúa còn cho ta sống ở trần gian nầy mà lo sám hối.
Những người Galilê bị Philatô giết như trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe, họ không nghĩ đây là lần cuối cùng họ lên Giêrusalem mà không bao giờ còn sống trở về quê hương của họ. Mười tám người trong câu chuyện tháp Silôe, chắc chắn họ cũng không nghĩ họ bị đè chết oan uổng như vậy. Hằng ngày qua thực tế cuộc sống, hay qua các phương tiện truyền thông chính chúng ta chứng kiến, hay được nghe, thấy lại những cái chết thật bất ngờ do nhiều lý do. Hẳn chúng ta còn nhớ thảm hoạ tại Tòa Tháp Đôi Trung tâm thương mại thế giới ở New York , Mỹ ngày 11/09/2001 , đã giết hại gần 3.000 người, có ai trong họ ngờ rằng ngày đó là ngày cuối cùng trong cuộc đời của mình!
Hơn thế nữa, ta phải sám hối luôn vì nhớ lại tình thương của Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta, người con hiếu thảo là người con luôn làm vui lòng cha mẹ mình. Sám hối, trở về với Thiên Chúa là phương thức tốt nhất đẹp lòng Ngài. Vậy hãy mau mau trở về với Đấng là Cha giàu lòng thương xót.
4. Cuối cùng, sám hối cần được thể hiện bằng những việc làm cụ thể, giống như cây vả phải sinh trái. Việc sám hối không chỉ là nói suông mà cần phải thể hiện bằng việc làm cụ thể. Biết bỏ lễ Chúa Nhật khi không có lý do chính đáng là lỗi Luật Chúa, thì phải quyết tâm đi lễ. Biết mình hay chưởi thề nói tục, thì phải quyết tâm nói những lời hay. Biết trộm cắp là không tốt, thì phải quyết tâm giữ phép công bằng… đó là những việc làm nói lên sự sám hối của ta.
Thế nhưng cũng có người nghĩ rằng mình đã là người giữ đạo đàng hoàng, bởi tuân giữ luật Chúa, luật Hội Thánh, đâu cần gì phải sửa đổi đời sống. Hãy nhớ trong dụ ngôn cây vả tuy cành lá xum xuê không bị sâu bọ gì, nhưng lại không trái, làm ta có thể nghĩ đến đời sống thiếu tích cực của người Kitô hữu, đó là thiếu tinh thần trách nhiệm trong công việc, thiếu chu toàn việc bổn phận cách tốt nhất hay bỏ qua việc lành phải làm. Vậy trong cuộc sống hằng ngày mỗi chúng ta hãy ý thức hơn, nhất là trong mùa chay nầy, không những quyết tâm không làm điều xấu, mà còn phải cố gắng hết sức để chu toàn nhiệm vụ, cố gắng thực hiện việc lành việc tốt, đó là hoa trái của sám hối.
5. Hôm nay đã là chúa nhật thứ 3 mùa chay, đã gần nữa đoạn đường của mùa chay năm nay. Bầu khí mùa chay rất thuận lợi cho việc sám hối của mỗi chúng ta. Hãy thành tâm nhìn lại sự giới hạn của mình, hãy nhắc nhau, hãy cầu nguyện cho nhau để đáp lại lời mời gọi sám hối của Đức Kitô, hầu chúng ta được bình an, hạnh phúc ngay ở đời nầy và nhất là hạnh phúc mãi mãi với Người mai sau.
Thế giới vũ trụ đã được Thiên Chúa dựng nên cách lạ lùng và trật tự. Thiên Chúa đã đặt để: MC 3-C74
Thế giới vũ trụ đã được Thiên Chúa dựng nên cách lạ lùng và trật tự. Thiên Chúa đã đặt để nơi vũ trụ những quy luật tự nhiên có giá trị ngàn đời. Quy luật nơi vũ trụ rất cân bằng và sự cân bằng này không thể bị phá vỡ. Một trong những quy luật ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống của con người chính là quy luật nhân quả. Quy luật này chi phối cả trên những giá trị đạo đức của con người. Một tư tưởng tốt hay xấu, một lời nói, hành động đúng hay sai của chúng ta đều mang lại một kết quả xấu hay tốt tương ứng. Quan niệm của những người Do thái thời Chúa Giêsu cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều của tư tưởng này. Những người sống tốt thì được giàu sang, gặp toàn điều lành. Còn những người tội lỗi ắt sẽ nghèo khổ và gặp hoạn nạn, tai ương.
Trình thuật Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho ta cái nhìn đúng đắn hơn về số phận của những người tội lỗi hay công chính. Qua đó mọi người phải nhận ra và hoán cải trước những biến cố xảy ra trong cuộc đời. Luca trình bày cho ta thấy có 2 phần rõ rệt. Phần đầu là lời mời gọi hoán cải nhân các biến cố chính trị và xã hội đã xảy ra. Phần thứ hai là lời mời gọi hoàn cải qua dụ ngôn về cây vả không sinh trái.
Hai biến cố chết người thê thảm đã gây ấn tượng cho nhiều người Do thái thời ấy phải suy nghĩ. Thật ra việc người Galilê bị giết không ai biết đích xác Luca muốn ám chỉ đến biến cố nào, bởi thời đó Philatô đã thực hiện nhiều cuộc sát hại. Theo sử gia F. Gioseph, đã có một cuộc tàn sát người Samari gần Garidim, ở đây không nhắc đến máu hoà lẫn với tế vật gì cả. Một trận nổi loạn khác là khi ông Philatô đưa hình tượng của hoàng đế Lamã vào khiến người Giêrusalem ái quốc đã nổi loạn. Cũng có sự bất đồng xảy ra khi Philatô lấy tiền quỷ của Đến thờ để xây đường ống dẫn nước vào Giêrusalem đã khiến người do thái nổi loạn. Thực ra, khi Chúa Giêsu trưng dẫn 2 sự kiện này Ngài không có ý cho ta tìm hiểu lại lịch sử các biến cố thời đó. Điều quan trọng là Chúa Giêsu đã vận dụng các biến ấy để kêu gọi mọi người hoán cải. Cái chết của những người Galilê, cũng như của 18 người bị tháp Silôê đè rõ ràng là một thách thức cho những người còn sống phải canh tân đời sống. Cái chết có thể đến bất cứ ai cách chớp nhoáng như những người xấu số trên.
Qua đến dụ ngôn cây vả không sinh trái, dụ ngôn này là một sự gợi nhắc cho mỗi người về nỗi nguy kịch của cuộc sống: Lúc này đây là thời gian cuối cùng, thời gian “ gia hạn ” đã gần kết thúc rồi. Những người không đón nhận lời Đức Giêsu kêu gọi hoán cải sẽ chết vì không hoạt động và không sinh trái. Cái chết do sự ươn lười thì trầm trọng, đáng trách hơn cái chết vì sự ác độc của người khác hay do tai nạn bất ngờ gây ra. Một biến cố xảy đến, người ta có thể giải thích bằng nhiều cách khác nhau. Người khôn ngoan nhất là người biết lợi dụng những gì xảy đến thay đổi cuộc đời, để tạ ơn Chúa khi gặp may mắn, để xin cho tâm hồn được vững mạnh khi gặp biến cố đau buồn và để vâng theo ý Chúa khi những điều xảy đến hoàn toàn trái ý.
Một đời sống vô ích sẽ đưa đến thảm hại vô cùng. Cây vả cứ múc lấy dưỡng chất từ đất mà không sinh trái, đó là tội của nó. Về phía chúng ta, hết thảy chúng ta đều mắc nợ cuộc sống. Chúng ta đã múc lấy từ cuốc sống quá nhiều điều. Chúng ta vào đời trong sự nguy hiểm tính mạng của người khác. Chúng ta sẽ không còn sống đến nay nếu không có sự săn sóc của những người yêu thương chúng ta. Chúng ta được thừa hưởng một nền văn mình, một sự tự do, một niềm tin kitô giáo mà không bởi công sức chúng ta tạo ra. Vì thế, chúng ta có trách nhiệm làm cho mọi sự trở nên tốt đẹp hơn.
Sự hoán cải không chỉ nhắm đến những kẻ tội lỗi nhưng nhằm đến tất cả mọi người. Có người sẽ thắc mắc: Người tốt cũng phải hoán cải sao? Thưa, họ vẫn phải hoán cải. Cây vả bị đốn đi không phải vì nó sinh trái xấu, nhưng vì nó không sinh những trái vả như nó phải sinh ra. Tiếng gọi hoán cải không chỉ kêu gọi là thôi đừng làm những điều xấu nữa mà còn kêu gọi hãy sinh trái bằng những việc tốt lành.
Mọi kitô hữu như cây vả được Thiên Chúa đặc biệt ươm trồng trong vườn nho. Ta đã được hưởng vô vàn những ân ban, được Thiên Chúa Cha yêu thươn, được sống thân tình với Chúa Kitô, được CTT luôn luôn hướng dẫn . Vì thế, coi chừng số phận của chúng ta cũng giống như cây vả không sinh trái trong dụ ngôn. Những ân huệ của Thiên Chúa ban cho chúng ta cần phải được sinh hoa trái, đó là: lòng yêu mến Thiên Chúa, bác ái với tha nhân, trung thành với bổn phận, phát triển những năng khiếu tự nhiên để phục vụ cho người, làm đẹp cho đời. Ta không có tham vọng thay đổi người khác, thay đổi cộng đoàn hay thay đổi cả thế giới. Ta chỉ cần làm một điều quan trọng và rất cần thiết là thay đổi chính mình.
Một triết gia Ấn Độ khi nhìn lại của người đã đi qua, ông đã tự nói với lòng mình trong sự hối tiếc. Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi dâng lên Thiên Chúa là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để thay đổi thế giới.
Đến tuổi trung niên, tôi mới nhân thấy rằng, một nửa đời tôi đã qua đi mà thưa thay đổi được một người nào. Lúc đó tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy Chúa, xin ban cho con được biến đổi tất cả những người con gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình con, bạn bè con. và như vậy là đủ cho con rồi. Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận thức rằng, tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ này, tôi chỉ chỉ biết cầu nguyện: Lạy Chúa, xin ban cho con được ơn thay đổi chính bản thân con. Lời cuối cùng của vị triét gia là một sự nuối tiếc: Nếu tôi biết cầu nguyện như thế ngay từ lúc đầu, thì tôi đã không phí phạm quãng đời đã qua.
Thay đôỉ là một điều kiện bắt buộc để con người tồn tại và phát triển. Như triết gia Henri Bergson đã nói: “ Sống là để thay đổi, thay đổi để trưởng thành, trưởng thành để tiếp tục phát triển bản thân ” . Trong đời sống thiêng liêng cũng thế, mỗi kitô hữu đều có khát vọng được sống và sống đời đời. Do đó đòi hỏi mỗi kitô hữu phải hoán cải đời mình để khỏi nhìn thấy sự sống phải tắt lịm trong tầm tay của mình. Hoán cải vẫn là vấn đề thức thời và cấp bách.
Mùa chay là mùa hoán cải, mùa đổi mới. Thiên Chúa nhân từ, kiên nhẫn chờ đợi. Ngài còn hoãn lại cho ta một kỳ hạn nữa. Đừng để đến ngày mai việc gì bạn có thể làm được hôm nay. Bao lâu còn sống, ta như cây còn xanh tươi. Thiên Chúa luôn mong chờ cuộc sống mỗi tín hữu luôn trĩu nặng hoa trái Tin Mừng. Hãy tin tưởng bắt đầu ngay hôm nay. Đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình và hãy thay đổi chính mình.
Hôm nay, Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta: "Hãy sám hối, nếu không chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt như: MC 3-C75
Hôm nay, Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta: "Hãy sám hối, nếu không chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt như những nạn nhân của biến cố tháp Silôê đổ, hay như những người bị thảm sát dưới thời Tổng trấn Philatô" (Lc 13, 3).
Người ta đến và kể cho Đức Giêsu nghe câu chuyện thương tâm mới xảy ra tại Giêrusalem: quan tổng trấn Philatô ra lệnh tàn sát một nhóm người ngay tại Giêrusalem, khiến máu của họ hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Thuật lại biến cố này, họ muốn Đức Giêsu vì tình đồng hương mà đồng tình với họ để phản đối tổng trấn Philatô và đế quốc Rôma. Đồng thời, người Do Thái cũng cho thấy những người bị giết kia là những người tội lỗi nên bị Thiên Chúa trừng phạt. Còn họ được bình an vô sự là vì họ công chính tốt lành trước mặc Giavê. Chúa đã chỉnh đốn lại quan niệm sai lạc đó. Người mời gọi họ thay đổi cái nhìn. Đừng nghĩ những người bị giết kia là người tội lỗi nhất nhưng trước những biến cố xảy ra hãy nghĩ về bản thân mình trước. Vì trước mặt Chúa, mọi người đều là người tội lỗi. Do đó cần phải nhận ra tội lỗi, thiếu sót của mình và sám hối.
Phải chăng chúng ta dễ có cái nhìn kết án người khác giống như những người Do Thái hôm nay, khi chúng ta nghĩ rằng: ta giàu sang là do Chúa thưởng cho người công chính, đạo đức còn những người nghèo khổ là hình phạt Chúa dành cho kẻ tội lỗi. Lắm khi chúng ta nghe người khác nói: Chúa phạt nó hay ông Trời có mắt mà...Trước mọi biến cố của cuộc đời, Chúa muốn chúng ta phải có thái độ đúng đắn hơn. Cần có cái nhìn đức tin và lòng khiêm nhường trước những sự kiện để có thể nhận ra thánh ý Thiên Chúa dành cho mình. Đức tin luôn mời gọi chúng ta nhìn vào những thất bại đổ vỡ cho một khởi đầu mới. Đức tin mang lại cho chúng ta đôi mắt để nhìn xuyên qua tăm tối và thấy được ánh sáng của niềm hy vọng. Ngay những trang đầu của sách thánh, Thiên Chúa đã dẫn đưa chúng ta vào cái nhìn hy vọng ấy. Sự sa ngã của ông bà nguyên tổ đã không phá vỡ chương trình của Thiên Chúa, trái lại đã trở thành khởi đầu của một công cuộc đổi mới kỳ diệu hơn. Giáo hội đã không ngừng cảm tạ Chúa vì không những Ngài đã tác tạo con người một cách diệu kỳ mà còn tái tạo con người một cách diệu kỳ hơn. Toàn bộ lịch sử cứu rỗi là một chuỗi những vấp ngã và chỗi dậy của con người đan xen với nhau. Tuyệt đỉnh của cuộc tái tạo không ngừng ấy chính là cái chết của Đức Giêsu trên thập giá.
Ta dễ dàng xét đoán anh em và lên án người khác là vì ta không biết nhìn vào bản thân. Có nhìn lại chính mình, ta mới nhận ra lỗi lầm của mình, và thay đổi cái nhìn. Một trong những sứ điệp nền tảng của Kitô giáo được chứa đựng trong lời kêu gọi của Đức Giêsu: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Sám hối là chiều kích nền tảng của đời sống đức tin. Có nhìn nhận thân phận tội lỗi yếu hèn của mình con người mới nhận được ơn cứu độ và tình thương của Chúa. Có biết mình hay vấp ngã, con người mới dễ cảm thông với anh em. Như vậy, mến Chúa yêu người chỉ có thể được xây dựng trên nền tảng của sám hối mà thôi.
Lòng sám hối càng sâu sắc và tinh thần khiêm tốn càng cao độ, thì lòng mến đối với Thiên Chúa mới chân thành và tình yêu đối với tha nhân mới thiết thực. Viên đá kiến cố nhất cho một tòa nhà kiến trúc là viên đá đặt thấp nhất dưới chân nền. Đức Giêsu lên án gắt gao thái độ của những người biệt phái. Họ có tất cả mọi nhân đức, nhưng chính vì thiếu lòng khiêm nhường sám hối mà toà nhà đạo đức của họ đối với Chúa là giả tạo và họ cũng không hề biết thế nào là cảm thông, tha thứ và yêu thương. Người tín hữu Kitô được mời gọi nhìn lại bản thân hàng ngày, nhất là trong mỗi thánh lễ, để từ đó mở rộng tâm hồn đón nhận tình yêu của Chúa, và cảm thông tha thứ cho anh em.
Mùa Chay là mùa sám hối, mùa đổi mới. Thiên Chúa nhân từ, kiên nhẫn chờ đợi. Ngài còn hoãn lại cho chúng ta một kỳ hạn nũa. Hãy khẩn trương sám hối kịp thời. "Đừng để đến ngày mai việc gì bạn có thể làm được hôm nay". Tục ngữ Pháp có câu: "Nếu trẻ mà hiểu ra, nếu già mà làm được" (Lúc trẻ thì không hiểu để làm, đến lúc già muốn làm thì không còn sức để làm nữa). Bao lâu còn sống, là như cây còn xanh tươi. Hoán cải, đổi mới, không bao giờ là quá trễ.
Hãy tin tưởng, bắt đầu ngay hôm nay, kẻo không còn kịp nữa. Hằng ngày, báo chí, truyền hình, radio, đưa tin trong cũng như ngoài nước, bao nhiêu tai nạn chết người: xe đụng, động đất, hỏa hoạn,...Tại sao những người kia gặp nạn, chứ chưa phải là tôi? Đừng dựa vào những may mắn trong cuộc sống, để yên trí rằng mình không sống trong sạch, tốt lành; để tạo cho mình mối an tâm được Chúa ưu đãi hơn những người khác; để không lo hoán cải, đổi mới.
Mỗi người chúng ta đều là kẻ tội lỗi, đều có thể phải đối diện với Đấng phán xét bất cứ lúc nào. Bởi vậy, ngày nào, giờ nào, phút nào cũng mang tính khẩn trương: đây có thể là ngày cuối, giờ cuối, phút cuối...trước khi ra trước mặt Đấng phán xét. Lời Chúa hôm nay phải thức tỉnh chúng ta. Đàng khác, có phải bấy lâu nay, chúng ta sống mà ít nhìn lại bản thân mình. Chúng ta đã trải qua biết bao nhiêu mùa chay với lối suy nghĩ như người ta phạm tội nên cần ăn năn sám hối còn tôi, tôi tuân giữ hết mọi điều, sống tốt lành, thánh thiện, đạo đức thì cần chi đến sám hối, cần chi đến ăn năn. Đừng đấm ngực người khác, hãy đấm ngực mình mà sám hối cho thật, cho mau kẻo hối hận cũng không còn kịp nữa. Có thể chúng ta nghĩ rằng: mình là người tín hữu đạo đức, sốt sắng, mình đi dự lễ, rước lễ đều đặn, mình cũng làm việc bác ái, cũng đi xưng tội, vì thế lời kêu gọi sám hối không có liên hệ gì đến mình. Chính những người nghĩ như thế mới là người cần phải sám hối. Thánh Phaolô hôm nay đã nói: "Ai tưởng mình đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã". Nếu thực sự chúng ta đang sống trong lối suy nghĩ như thế hãy để tâm suy nghĩ dụ ngôn cây vả của Đức Giêsu. Hình ảnh cây vả cũng là hình ảnh của mỗi người Kitô hữu chúng ta. Cuộc đời chúng ta không ngừng được chủ vườn là Cha trên trời săn sóc với biết bao ân huệ của Người. Chúng ta lãnh nhận một cách nhưng không những ân huệ ấy thì đòi chúng ta cũng phải sinh hoa trái bằng cách cho đi cách nhưng không như vậy. Vì thế, phải coi chừng kẻo chúng ta đang là những cây vả không sinh hoa trái như cây vả của dụ ngôn. Những ân huệ của Thiên Chúa ở trong chúng ta cần phải sinh hoa quả là lòng biết ơn, yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, trung thành với việc bổn phận mà Thiên Chúa giao phó cho mình. Hãy sinh hoa lợi với nén bạc mà Chúa trao cho mình. Hãy nghe lời Chúa dạy hôm nay mà ăn năn sám hối. Người luôn luôn chờ chúng ta. Người cho chúng ta có thời giờ hoán cải và làm phát sinh hoa trái. Nhưng thời hạn ấy rất cấp bách. Chúng ta cần phải hoán cải ngay hôm nay khi Chúa còn gia hạn cho chúng ta.
Mùa chay là mùa thuận tiện nhất để thay đổi đời sống chúng ta. Lời kêu gọi sám hối không chỉ dành cho những người tội lỗi nhưng dành cho tất cả mọi người. Lời kêu gọi sám hối hôm nay, không phải chỉ là lời kêu gọi trở về từ tội lỗi, từ điều xấu nhưng là một lời kêu gọi phải làm điều lành, điều tốt như một bổn phận. Phải trở nên tốt hơn mỗi ngày vì kẻ nào biết làm điều tốt mà không làm thì mắc tội! Hãy biết sám hối về những thiếu sót vì chúng ta đã không làm những điều tốt lành đẹp lòng Thiên Chúa.
Mùa Chay mời gọi chúng ta sám hối. Tuy nhiên, sám hối không chỉ đòi ta nỗ lực diệt trừ tội lỗi, nhưng điều quan trọng là trở về cùng Thiên Chúa, để nhận ra tình yêu thương vô biên của Ngài trên cuộc đời mình, từ đó, ta định hướng lại toàn bộ cuộc sống, chỉnh đốn lại những hướng sai lạc đang làm lệch lạc cuộc sống tâm hồn và ơn gọi của mình. Sám hối còn là ơn Chúa ban cho những tâm hồn mong mỏi được giải phóng khỏi tội lỗi để đón nhận ơn cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con nhìn nhận mình đều là những tội nhân đáng thương, đang cần lòng Chúa thương xót, tha thứ và ban ân sủng để chúng con can đảm sám hối, can đảm nhìn nhận sự thật về mình để sống tinh thần mới trong tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Amen.
Trong một buổi bán đấu giá, người điều khiển chương trình cầm một cây vĩ cầm xấu xí nứt nẻ. Ông ta nghĩ chẳng cần phí thời giờ sửa sọan cho cây đàn này làm chi. Ông giơ cây vĩ cầm lên và rao bán như sau: "Thưa quý vị, ai sẽ bắt đầu trả giá cho cây đàn này đây? Một đồng, hai đồng... Ai sẽ trả giá 3 đồng? À, một người đã trả ba đồng, rồi hai người trả ba đồng. Không còn ai nữa ư?". Bỗng từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm từ từ bước tới gần bục và cầm lấy cây đàn đang rao bán. Ông ta lau sơ bụi bặm bám trên chiếc đàn cũ kỹ rồi siết lại các sợi dây đã bị lỏng. Sau đó, ông tấu lên một khúc nhạc du dương êm dịu. Tiếng đàn nghe thánh thót giống như bài ca của các thiên thần trên trời. Sau khi ngưng đàn, mọi người hiện diện đều nồng nhiệt vỗ tay tán thưởng. Sau đó, người bán đấu giá tiếp tục hỏi: "Bây giờ tôi phải định giá lại cây vĩ cầm có âm thanh rất tuyệt này bao nhiêu tiền cho xứng đây? Một ngàn... hai ngàn... Có ai chịu tăng lên ba ngàn không? À, một người chịu giá ba ngàn rồi. Hai người chịu giá ba ngàn. Và còn ai nữa không? Thôi dứt giá cây đàn là ba ngàn đô-la! Lúc đó một bé gái ghé sát bên tai mẹ và hỏi: "Sao lạ vậy hả mẹ? Tại sao cây đàn kia đột nhiên lại tăng giá lên gấp cả ngàn lần như thế hả mẹ?" Bấy giờ bà mẹ đã giải thích cho con gái cưng như sau: "Chính nhờ đôi tay tài hoa của vị nhạc sĩ kia mà cây đàn đã tăng giá trị lên gấp ngàn lần đấy con ạ!".
3. SUY NIỆM:
1. Phạm tội sẽ bị phạt và sám hối sẽ được tha: Ngôn sứ Gio-na được Đức Chúa sai đến với dân Ni-ni-vê, một thành phố giàu có và cực kỳ rộng lớn để công bố lệnh trừng phạt vì tội lỗi của họ: "Còn bốn mươi ngày nữa Ni-ni-vê sẽ bị phá hủy". Nghe tin ấy, vua thành Ni-ni-vê đã lập tức ra sắc chỉ nhuj7 sau: "Truyền cho người và súc vật, bò bê và chiên dê không được ăn uống, phải mặc quần áo vải thô, phải từ bỏ lối sống gian ác và những hành vi hung bạo... để nài xin Đức Chúa nguôi cơn thịnh nộ và bỏ ý định giáng phạt hầu chúng ta khỏi phải chết". Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà quay trở lại. Người đã không giáng phạt họ nữa. Ngôn sứ Giô-na đã tức giận trước tình thương tha thứ của Đức Chúa. Ông xin Chúa cất mạng sống của ông, vì ông thà chết còn hơn sống khi thấy lời tuyên sấm của mình không ứng nghiệm. Chúa muốn cho Gio-na thấy lý do tình thương của Người nên khi Gio-na ra ngòai thành dựng một cái lều để chờ xem sự thể diễn tiến ra sao. Đức Chúa cho một cây thầu dầu mọc nhanh làm bóng che mát khiến ông rất vui. Nhưng sáng hôm sau Chúa lại khiến một con sâu cắn cây thầu dầu bị khô héo khiến Gio-na bị nắng chíếu nổi giận xin được chết đi cho xong. Đức Chúa đã hỏi Gio-na: "Ngươi thương hại cây thầu dầu mà ngươi đã không vất vả vì nó, và không làm cho nó lớn lên. Trong một đêm nó đã sinh ra, rồi trong một đêm lại chết đi. Còn Ta, chẳng lẽ Ta lại không thương dân Ni-ni-vê, một thành phố lớn trong đó có hơn một trăm hai mươi ngàn người không phân biệt được bên phải với bên trái, và lại có rất nhiều thú vật vô tội hay sao?" (Gn 3,1-4,11).
2. Không sám hối sẽ bị chết: Trong Tin Mừng hôm nay, nhân dịp mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết khiến máu đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng, Người liền nói với họ rằng: "Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê đó tội lỗi hơn hết mọi người Ga-li-lê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? Tôi nói cho các ông biết: "Không phải thế đâu ; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy". Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-a đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy"
3) Chỉ có thể sám hối nhờ ơn Chúa: Con người chúng ta thường dễ hướng chiều về đàng tội: Chỉ cần một ly rượu mạnh, một tép Hê-rô-in, một số tiền bất chính... cũng đủ làm cho nhiều người sa ngã và ngày càng lún sâu vào vũng bùn tội lỗi, tự đánh mất phẩm giá cao quý của mình. Tuy nhiên nếu chúng ta biết tin cậy vào lòng từ bi thương xót của Đức Giê-su, biết chạy đến với Người và xin Người ban ơn tha thứ thì chắc chúng ta sẽ được Người ban ơn biến đổi nên con người mới của Thiên Chúa, xứng đáng được hưởng gia nghiệp là hạnh phúc Nước Trời đời đời.
4) Về dụ ngôn "cây vả không sinh trái": Đức Giê-su kể dụ ngôn về một cây vả không sinh hoa trái. Tuy không cho trái quả độc, cũng không gây thiệt hại cho chủ vườn... Nhưng tội của cây vả không trái là đã không sinh lợi cho chủ vườn lẽ ra phải có. Cũng vậy, nhiều người tuy không phạm tội cướp của giết người, không tà dâm ngoại tình, không dối trá lừa gạt tha nhân... Nhưng đã làm ngơ không giúp đỡ tha nhân gặp nạn... Họ đã được trao cho một nén bạc, thay vì phải làm lợi gấp đôi cho chủ, lại đem chôn giấu đi (x. Mt 25,18), thể hiện qua thái độ không quan tâm thăm viếng và chia sẻ cơm áo cho những người đói khát bệnh tật (x. Mt 25,42), để mặc cho sự gian ác hoành hành trong xã hội... Người tín hữu sống đạo hôm nay là phải tránh thái độ thờ ơ giống như cây vả không sinh trái, qua thái độ không dấn thân phục vụ những người nghèo khổ tàn tật bệnh họan...
5) "Gieo gió gặt bão.- Phạm tội sẽ bị phạt: Đây là quy luật muôn đời của nhân lọai. Nhưng có người thắc mắc: Tại sao nhiều kẻ gian ác phạm nhiều tội ác mà vẫn ngày càng giàu có sung túc mà không hề bị trừng phạt? Lời Chúa hôm nay trả lời cho vấn nạn ấy: Chính là nhờ có Chúa Giê-su, giống như người làm vườn trong bài dụ ngôn, đã đứng ra cầu thay nguyện giúp cho các tội nhân có thêm thời gian hồi tâm sám hối. Mùa Chay chính là thời gian để chúng ta tĩnh tâm cầu nguyện và quyết tâm đổi mới bằng việc thực thi công bình bác ái. Nếu chúng ta tiếp tục trì hõan thì chắc chắn sẽ bị án phạt vào giờ chết của mỗi người hay trong ngày tận thế chung tòan nhân lọai sẽ đến bất ngờ.
4. THẢO LUẬN:
1) Hãy cho biết: Tội "những điều thiếu sót" trong kinh "Tôi thú nhận" cụ thể là những tội gì?
2) Hiện nay bạn có trong tình trạng khô khan biểu lộ qua thái độ lười biếng đọc kinh dự lễ và bỏ qua các việc thăm viếng chia sẻ cơm áo giúp đỡ những người đau khổ bệnh tật thể xác tinh thần như cây vả không ra trái trong Tin Mừng hôm nay hay không?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Con thuờng hay đổ lỗi cho Thiên Chúa khi gặp phải thất bại đau khổ: Khi bị mất mùa, con đổ lỗi tại Trời không ban mưa thuận gió hòa. Khi thấy một người gặp tai ương hoạn nạn, con nghĩ họ đã bị Chúa phạt xứng với tội lỗi đã phạm!... Nhưng hôm nay nhờ Lời Chúa soi dẫn, con sẽ không còn hiểu sai lạc một chiều như vậy. Vì trong thực tế, có nhiều người tốt và đạo đức mà vẫn gặp phải rủi ro. Ngay chính Chúa vốn là Con Thiên Chúa thánh thiện và vô tội, mà cũng từng chịu bao đau thương và cuối cùng còn chịu chết nhục nhã bất công trên cây thập giá.
- LẠY CHÚA. Xin cho con luôn nhận ra tình thương của Chúa trong mọi biến cố vui buồn của cuộc đời con. Con biết rằng: Sở dĩ Chúa để con phải đau khổ là để con có dịp sám hối và lập công đền tội, hầu mỗi ngày biến đổi nên tốt hơn. Xin cho con dù gặp những điều trái ý, vẫn luôn nhẫn nại chịu đựng để được cộng tác với Chúa đền tội cho con và nhiều người. Xin cho con luôn phó thác cuộc đời trong tay Chúa quan phòng, vì biết rằng: Tất cả những điều may lành hay rủi ro xảy đến cho con, đều không ngoài thánh ý Chúa quan phòng và giúp con ngày một nên hòan thiện hơn.
Câu nói có tiền mua gì cũng có rất đúng cho chủ thuyết duy vật chất, như nhà cửa quần áo, đồ dùng.: MC 3-C77
Câu nói có tiền mua gì cũng có rất đúng cho chủ thuyết duy vật chất, như nhà cửa quần áo, đồ dùng. Chủ nghĩa trọng tinh thần cho thấy người dù có nhiều tiền cũng không mua được trí thông minh, tính khiêm nhường hay lòng bác ái như thế sức mạnh đồng tiền, dù có quĩ tiền tệ quốc tế bảo chứng, cũng có giới hạn riêng của nó. Về phương diện tâm linh, nhất là khi phải đối diện giữa sống và chết thì tiền hầu như trở thành bất lực. Đồng í có người may mắn nhờ nhiều tiền cơ hội chữa lành bệnh cao hơn. Điều này không có nghĩa người giầu, kẻ uy quyền sẽ không bao giờ chết. Ngày nào đó họ cũng phải ra đi. Khi sống tiền của, chức tuớc họ có là kẻ đồng hành như bóng với hình nhưng khi chết họ ra đi trong cô đơn, độc hành vì tiền bạc họ có lìa xa họ. Trái lại kẻ tin vào Đức Kitô suốt đời họ luôn cùng đồng hành với Ngài và cùng đồng hành trên đường về thiên quốc.
Ai cũng biết của cải vật chất cần cho sự sống và làm cho cuộc sống thoải mái hơn. Của cải vật chất ít nhiều cũng đóng vai trò giúp ta nhận biết tình yêu Thiên Chúa nhưng của cải vật chất tự nó không có khả năng dẫn ta đến với Đức Kitô. Thực ra của cải vật chất một mặt mang lại cơm no, áo ấm mặt khác lại tạo nên sức ép, đè nén, mà không ai có thể chối bỏ được thực tế dồn ép này của cuộc sống. Sức dồn ép được coi là gánh nặng cuộc đời của mỗi người. Khi sức ép trở thành gánh nặng quá mức chịu đựng, tinh thần người đó bị suy sụp, trở thành nạn nhân của gánh nặng cuộc đời. Để gánh nặng trở nên nhẹ nhàng hơn Đức Kitô vạch ra cho những ai tin vào Ngài một con đường, giúp người đó học cách trút bỏ gánh nặng cuộc đời.
Cách học trút bỏ gánh nặng cuộc đời chính là rộng mở tâm hồn đón nhận ơn Chúa và thực hành giáo luật yêu thương. Đặt niềm tin vào Đức kitô là chọn đúng con đường dẫn đến hạnh phúc thật và sự sống trường sinh vì chính Ngài xác nhận Ngài là đường là sự thật và là sự sống. Chọn theo Đức Kitô là chọn đúng đường dẫn đến hạnh phúc thật. Chọn dẫn đến sự thật mà sự thật có sức mạnh giải thoát con người khỏi gánh nặng cuộc đời. Chọn sự sống Đức Kitô ban chính là sự sống vĩnh cửu chỉ mình Đức Kitô có và ban cho những ai mong mỏi kiếm tìm sự sống đó.
Đôi khi chúng ta thất bại trong việc tin theo Đức Kitô. Trong trường hợp đó Ngài không bỏ rơi chúng ta nhưng ban cho chúng ta một giải pháp khác giúp ta trở về với Ngài. Giải pháp đó được coi như là cách mua thời gian. Làm sao để mua được thời gian đó. Thưa câu giải đáp tìm thấy trong cuộc đối thoại giữa chủ nhân và người làm vườn trong bài đọc hôm nay.
Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. vậy anh chặt nó đi để làm gì cho hại đất? Nhưng người làm vườn đáp. Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa, tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu khôn thì ông sẽ chặt nó đi Lc 13,7-9
Xin cho thêm một thời gian nữa, một cơ hội nữa là điều người làm vườn xin lòng từ bi, hỉ xả, bác ái từ ông chủ. Xin cho một cơ hội để thay đổi, hoán cải, từ bỏ lối cũ quay về lối mới. Lòng thương xót của ông chủ phát sinh từ tình yêu bao la và chính tình yêu bao la khiến ông chủ ban thêm một cơ hội. Chỉ một cơ hội thôi sao? Thưa không, hàng năm Giáo Hội luôn tạo thêm một cơ hội, tuỳ theo mùa phụng vụ và mỗi mùa phụng vụ lại tạo thêm một cơ hội giúp con người hồi tâm quay về với Thiên Chúa. Tình yêu Chúa thể hiện qua Giáo Hội trong việc kiên trì chờ đón con người thống hối trở về, không phải một năm mà hàng năm. hết năm này sang năm khác, Giáo Hội luôn mở rộng vòng tay đón nhận ta quay về cùng tình yêu Chúa để gánh nặng cuộc đời giảm nhẹ, hưởng hạnh phúc thật và sự sống thật.
Người ta thường hay bình luận và thầm thì kết án người khác khi họ gặp tai họa nào đó trong cuộc: MC 3-C78
Người ta thường hay bình luận và thầm thì kết án người khác khi họ gặp tai họa nào đó trong cuộc đời.Thời Chúa Giêsu cũng vậy những người Do Thái hay lên án, kết án người khác khị họ gặp tai nạn, thử thách, hiểm họa trong cuộc đời.Chẳng hạn, Chúa nhật III Mùa chay hôm nay, hai tai nạn: một Philatô tàn sát mấy người Galilê và việc tháp Siloe đổ, đè chết 18 người. Người Do Thái liền cho rằng những người này có tội, nên bị Chúa phạt. Người khác bình yên vô sự lại cho rằng họ vô tội, nên Chúa thương không giáng phạt vv...Còn đối với Chúa Giêsu thì sao ?
Đối với Chúa Giêsu, Ngài có suy nghĩ, có cái nhìn hoàn toàn khác so với những người Do Thái. Bởi vì, Chúa Giêsu có cái nhìn hoàn toàn xót thương. Chúa không coi những nạn nhân qua hai vụ việc có tội hơn những người đồng hương. Qua hai sự cố đáng thương này, Chúa nhấn mạnh mọi người đều là tội nhân, mọi người đều là kẻ đáng bị phán xét và nhận án phạt của Chúa, nên tất cả đều phải ăn năn sám hối, quay về với Thiên Chúa để tránh hình phạt của Thiên Chúa. Quả thực, Chúa Giêsu đã làm đảo lộn tất cả. Ngài không dựa trên những sự việc, những sự cố con người gặp phải ở trần gian này để kết án, lên án người khác. Ngài luôn động viên, khuyến khích và thúc bách mọi người phải thống hối, hoán cải để Chúa thương không giáng phạt và thi ân giáng phúc. Do đó, Chúa Giêsu đã nói lên tính cấp bách phải ăn năn trở lại như trong dụ ngôn cây vả: Thiên Chúa là người trồng cây, Đức Giêsu là người làm vườn, dân Israen là cây vả không sinh hoa trái. Đọc Kinh Thánh chúng ta nhận ra rằng Thiên Chúa đã chọn dân Israen làm dân riêng của Ngài. Chính vì thế, Ngài đã ban cho họ muôn vàn hồng ân cao quí, nhưng dân lại bất trung với Ngài, không trung thành với Lề Luật của Ngài và không thờ phượng một mình Thiên Chúa.Nói một cách khác họ không sinh hoa kết trái tươi tốt.
Đức Giêsu Kitô đã khẩn thiết xin Thiên Chúa Cha cho họ một thời gian, một cơ hội để họ có thế hoán cải tốt, nhưng cuối cùng họ vẫn chứng nào tật nấy, không ăn năn, không hối cải, không sửa đổi. Nên, Thiên Chúa đã loại bỏ họ và điều này đã được minh chứng khi thành thánh Giêrusalem bị tàn phá không còn hòn đá nào trên hòn đá nào.
Thực tế, Thiên Chúa đã yêu thương và luôn muốn dân Israen biết điều, biết sám hối, ăn năn tuân theo Lề Luật và trung thành với mình Thiên Chúa như giới luật thứ nhất:" Ngươi chỉ thờ lạy và tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất ". Thiên Chúa đã cho Israen rất nhiều cơ hội để làm lại cuộc đời, nhưng họ vẫn nhắm mắt làm ngơ...Thiên Chúa cũng chọn lựa chúng ta làm con của Ngài và luôn yêu thương săn sóc, gìn giữ chúng ta. Thiên Chúa luôn mong đợi và ước muốn chúng ta sinh hoa kết trái tươi tốt. Tuy nhiên, nếu chúng ta lỡ lầm sa ngã phạm tội, Thiên Chúa luôn cho chúng ta những cơ hội, những dịp thuận lợi để chúng ta biết quay về, biết ăn năn hối cải để tiếp tục sinh hoa kết trái đến nỗi có chùm được 30, có chùm được 60 và có chùm được 100.
Thiên Chúa luôn mời gọi chúng ta hãy sống theo Lời của Ngài và có lòng quảng đại, đặc biệt biết quan tâm đến dân nghèo, đến những người cơ nhỡ, neo đơn, những con người thấp cổ bé họng vv...Ngài mời chúng ta phải sinh hoa kết trái, nghĩa là làm cho cuộc sống đẹp hơn, tốt hơn, phong phú hơn, con người và xã hội thăng tiến, nhân đạo hơn.
Mùa chay không chỉ đưa chúng ta trở về quá khứ để than khóc tội lỗi, khiếm khuyết bất toàn của mình, nhưng Mùa chay nhằm dẫn đưa chúng ta đến cuộc sống mới, cuộc sống tràn đầy ân sủng của. Mùa chay phải là mùa đổi mới con người, đổi mới cuộc đời, mùa hoa tình thương, mùa thực hành việc lành phúc đức vv...
Chúng ta dựa vào lời của P.Benoit Gschwind để kết thúc bài suy niệm này: " ...Nếu phải có kiên trì và thời gian để cây ra trái, thì để đạt tới sự thánh thiện, có lẽ còn cần kiên trì và thời gian nhiều hơn.Như người trồng nho chăm sóc cây vả, thì chính Thiên Chúa chăm sóc chúng ta để chúng ta có thể lớn lên.Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Người tha thứ cho chúng ta, nâng chúng ta dậy và an ủi chúng ta. Không bao giờ Người hết hy vọng vào chúng ta. Nhưng chúng ta có muốn đáp trả tình yêu Chúa, bằng cuộc đời chúng ta không ? Thời gian chạy theo tiến trình của nó. Phục Sinh đang nẩy mầm trong sa mạc. Hôm nay, thời đã đến để khẩn cấp nghe tiếng gọi hoán cải và quan tâm kiên trì với chính mình, như Thiên Chúa kiên trì với mỗi người chúng ta ".
Có thể nói một trong những đặc tính của thời đại hôm nay đó là tính thời sự. Nhờ phương tiện: MC 3-C79
Có thể nói một trong những đặc tính của thời đại hôm nay đó là tính thời sự. Nhờ phương tiện thông tin ngày càng hiện đại nên tin tức đó đây tức thời được cập nhật qua các phương tiện nghe nhìn. Chỉ ngồi trước màn ảnh truyền hình một lát thì ta có thể biết khá tường tận nhiều sự việc vừa xảy ra trên thế giới. Chịu khó thống kê một chút, thì chúng ta có thể kết luận rằng nhóm "hung tin" hình như đang chiếm thế thượng phong về tần suất được tường thuật, chẳng hạn như: chiến tranh, dịch bệnh, động đất, sống thần, lũ lụt, khủng bố, hỏa hoạn, bão tuyết...
Trước những tai ương hoạn nạn thì có những phản ứng khác nhau. Có người thì điềm nhiên như sự xảy ra là ở đâu đâu, không liên hệ gì đến mình. Cũng có thể thoặt đầu vẫn có cảm xúc ít nhiều nhưng rồi dần dà nghe thấy quá nhiều tai ương hoạn nạn, nên hóa thành vô cảm. Vô cảm trước hoạn nạn mà tha nhân đang gánh chịu là một thái độ đáng lên án. Thái độ này dễ nhận biết cách nào đó và chẳng ai muốn bị kết án là hạng người vô cảm, vì chính bản thân người vô cảm cũng ít nhiều nhận thấy cái sai trái của mình. Tuy nhiên có một phản ứng thoạt xem ra không đáng trách nhưng thật tai hại. Có thể gọi phản ứng này với câu nói ngoài miệng hay lời thầm trong lòng những người thuộc hạng này: "Hú hồn, may quá, mình vẫn bình yên, mình may mắn hơn! Hay mình đang xứng đáng?".
"Mình may mắn hơn". Một câu nói, đúng hơn là một phản ứng rất có thể có nơi nhiều người không bị tai ương hoạn nạn. Trước các biến cố cuộc đời, người vốn quen kết luận theo quy luật nhân quả "ở hiền thì gặp lành; làm ác thì chuốc dữ". Chính vì thế khi một tai ương hay hoạn nạn xảy đến cho người này, người kia, thì người ta dễ quy kết nguyên nhân là do tội, do lỗi của các nạn nhân hay của mẹ cha, ông bà họ trước đây. Chính các tông đồ cũng đã từng hỏi Chúa Giêsu về nguyên nhân khiến cho một người bị mù từ lúc mới sinh mà tin mừng Gioan tường thuật: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến cho người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha mẹ anh ta?"(Ga 9,2).
Cũng vì thói quen nhìn các sự kiện theo mối liên hệ nhân quả nên khi những tai ương hoạn nạn không ảnh hưởng gì đến chúng ta thì chúng ta rất có thể không chỉ nghĩ rằng may quá, mình không vương nạn mà còn có thể tự hào rằng mình đang còn tốt lành, còn đang xứng đáng. Đây quả là một thái độ ít nhiều vừa tắc trách lại vừa đáng trách.
Một tai ương, hoạn nạn xảy ra, có thể là do sự vận động của giới tự nhiên theo quy luật của nó như chuyện hết mưa thì trời lại nắng.., cũng có thể là do tác động của con người như chuyện biến đổi khí hậu bất thường do hiệu ứng nhà kính..., cũng có thể là do lỗi hay tội của người này, tập thể kia gây ra cho chính bản thân họ hay cho tha nhân, chẳng hạn như chiến tranh hoặc nhiều tai nạn giao thông...Là Kitô hữu, chúng ta vốn tin nhận rằng mọi người đều là anh chị em với nhau, có cùng một Cha trên trời thì không thể nào có thái độ vừa tắc trách vừa đáng trách trước các hoạn nạn, tai ương mà tha nhân đáng gánh chịu đó đây. Trái lại, chúng ta cần phải tích cực liên đới với họ và đồng thời phải biết cảnh tỉnh bản thân để hoán cải, đổi thay ngay hôm nay.
Sống tình liên đới: Thiên Chúa chúng ta tôn thờ không phải là một ông chủ vô tình hay một vị thần bàng quan với con dân. Khi mạc khải cho Môsê biết mình là "Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaác, Thiên Chúa của Giacóp", thì Người muốn khẳng định rằng Người mãi đồng hành thiết thân với dân Người tuyển chọn và Người không bao giờ bỏ rơi dân Người. "Đức Chúa phán: "Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai Cập..."(Xh 3,). Sự liên đới của Thiên Chúa đã nên phổ quát và trọn hảo khi trao ban chính Người Con Một vì nhân loại chúng ta. "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời..." (Ga 3, 16-17).
Sống tình liên đới với tha nhân, đặc biệt trong những hoàn cảnh hoạn nạn, tai ương mà tha nhân đang gánh chịu, thì trước hết cần ý thức rằng có thể do sự thiếu sót hay do tội lỗi của chính chúng ta đã làm cho tha nhân phải gánh chịu các cảnh bỉ cực ấy. Thứ đến, nếu giả như chúng ta "vô can" trong các hoạn nạn, tai ương ấy thì chuyện "máu chảy, ruột mềm" hay chuyện "một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ" là chuyện tự nhiên, đương nhiên phải có trong nghĩa tình anh em một nhà, cùng một Cha trên trời. Hơn nữa, trong niềm tin, chính tội lỗi mới là tai ương, hoạn nạn đáng sợ nhất. Noi gương Chúa Kitô, vâng lênh Chúa Kitô, chúng ta "phải làm việc này mà nhớ đến Người": đó là dùng chính con người của mình, xác thân mình, máu huyết, sự sống của mình để gánh tội của nhau, để làm cho nhau nên thanh sạch, được sống và sống dồi dào (x.1Cr 11,23-25).
Biết cảnh giác và tỉnh thức để hoán cải: Thánh Tông đồ dân ngoại lưu ý: "Ai tưởng mình đứng vững, thì hãy coi chừng, kéo ngã" (1Cr 10,12). Trước chuyện một số người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu họ đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng hoặc chuyện mười tám người bị tháp Silôê đổ xuống đè chết, Chúa Giêsu đã cảnh báo người đương thời rằng chớ vội quy kết rằng họ có tội hoặc cho rằng mình vô tội hay đang xứng đáng, nhưng phải biết tỉnh thức mà sám hối ăn năn.
"Chưa tận thế đâu". Một câu nói rất có thể có ích khi nhắc nhớ chúng ta chớ hấp tấp, nóng vội mà quên đi quy luật của thời gian. Tuy nhiên câu nói trên cũng có thể tố cáo sự thiếu cảnh giác và tỉnh thức của chúng ta. Nhiều tổ chức, nhiều chương trình, kế hoạch hay công việc đòi hỏi có thời gian tính. "Dục tốc bất đạt" vốn là kinh nghiệm có từ ngàn xưa. Thế nhưng, trong chuyện sửa sai, nhiều khi không thể để đến ngày mai, vì sẽ không còn có cơ hội hoặc vì hậu quả xấu đã ra trầm trọng, thành tình trạng di căn, khó có thể khắc phục. Đặc biệt trong việc hoán cải tâm hồn thì luôn cần phải làm ngay trong hôm nay, giờ phút này. Xin đừng quên rằng không phải một ngày, không phải một giờ, nhưng có thể chỉ một phút, một giây sẽ quyết định số phận, quyết định hạnh phúc đời đời của bạn, của chính tôi.
Một trong những thái độ sống cần thay đổi đó là sự bàng quang, vô cảm, an phận trước cảnh bỉ cực của tha nhân hoặc tự nhủ: may quá, mình không vương nạn, mình đang xứng đáng.
Dù chúng ta tự coi mình là những người hiện đại, đôi khi chúng ta có thể vẫn có những ý tưởng lạc: MC 3-C80
Dù chúng ta tự coi mình là những người hiện đại, đôi khi chúng ta có thể vẫn có những ý tưởng lạc hậu. Có thể chúng ta không dám đi dưới cầu thang hay chỗ con mèo mun vừa chạy qua vì sợ xui xẻo. Có thể chúng ta bắt chéo ngón tay, cầu mong chuyện rủi ro của người khác không xảy đến với mình. Chúng ta có thể không có những hành động mê tín như thế, vậy những hành động dưới đây thì sao? Khi thấy ai đó làm điều sai trái, chúng ta liền cảnh cáo: "Coi chừng Chúa phạt!" Đôi khi nhiều bậc cha mẹ cũng dùng lời này để đe doạ, sửa sai cho con mình (việc dạy bảo con cái là một công việc khó khăn, đòi hỏi sự cố gắng hy sinh cả đời. Nhiều bậc cha mẹ cảm thấy có càng nhiều sự trợ giúp trong việc này càng tốt, họ thậm chí nại tới danh Thiên Chúa như một đồng minh để răn dạy con).
Có những người tôi ước gì Chúa sẽ phạt họ ngay lập tức. Tôi có sẵn một danh sách các nhà độc tài, những kẻ hà hiếp bóc lột người nghèo, những nhà tài phiệt ăn cắp tiền tiết kiệm của dân...Nhưng trong thực tế, Thiên Chúa đã không hành động theo cách đó. Nhiều người trong chúng ta vẫn còn bám vào niềm tin bình dân ngày xưa: điều rủi ro là hình phạt của Thiên Chúa vì một tội nào đó. Một bà quả phụ đã từng nói với tôi rằng: "Tôi không biết mình đã làm gì sai trái mà Thiên Chúa lại phạt tôi và cất đi người chồng của tôi?"
Chúng ta có thể cảm nhận hơi hướm của niềm tin kiểu này trong bài Tin Mừng hôm nay, các tai hoạ xảy ra chính là hình phạt của Thiên Chúa vì người ta làm điều sai trái. Rõ ràng tháp Si-lô-ac đã đổ và mười tám người đã bị đè chết (một sự kiện nhỏ làm nhiều người liên tưởng tới đại hoạ ở Haiti vừa qua) và Phi-la-tô đã ra lệnh xử tử vài người Ga-li-lê. Những người đương thời với Đức Giêsu kết luận ra sao? Họ nói rằng những nạn nhân tội nghiệp này đã bị phạt vì tội của họ. Hiển nhiên, Chúa Giêsu đã phải đặt lại vấn đề. Ngài hỏi, phải chăng những người Ga-li-lê bị giết chết đó, hay những người bị tháp Si-lô-ác đè chết, là những kẻ "tội lỗi hơn những người khác"...? Nói cách khác, phải chăng họ bị phạt vì tội của họ? Nếu ai đó muốn đặt tựa đề cho bài Tin Mừng hôm nay và treo trước cửa nhà thờ, thì đó phải là câu trả lời của Chúa Giêsu, "Không phải thế đâu!".
Điều Chúa Giêsu đòi hỏi thính giả của Ngài, những người tường thuật cho Ngài những thảm kịch mới xảy ra, là phải thay đổi lối nhìn. Thay vì vội vã kết luận những nạn nhân kia đã phạm tội, họ cần phải nhìn vào chính mình và hậu quả họ phải chịu vì tội của bản thân.
Có vẻ như nhiều người đã trải qua cuộc đời giàu có sung sướng này mà không phải chịu bất kỳ hậu quả xấu do việc gian ác họ làm. Nhưng, tội vẫn để lại những hậu quả thực sự, không chỉ ở đời sau, mà ngay trong chính cuộc đời hiện tại.
Mỗi người có thể tự liệt kê một loạt những hậu quả của tội trong cuộc đời mình, nhưng tôi cũng xin gợi nên một vài trong số đó: nếu chúng ta thờ ơ trước những đau khổ của người nghèo thì làm sao con tim trai đá của ta có thể dệt nên mối tương quan yêu thương, nồng ấm? Nếu chúng ta nói dối hay bơm phồng sự thật vì lợi bản thân, hỏi rằng còn ai dám tin tưởng mà chia sẻ cuộc đời của họ với chúng ta? Nếu chúng ta gian dối trong công việc để trục lợi hay để tiến thân, thì hỏi rằng liệu chúng ta còn cơ hội tìm thấy sự tín nhiệm của các bạn đồng nghiệp không? Nếu chúng ta giải quyết những tình huống khó khăn bằng những lời nói thô bạo, những hành động bạo lực, hỏi rằng liệu có ai dám dành thơi gian và sức lực để thăng tiến tình bạn hay kết hôn với ta - và đâu là những hậu quả mà hành động này sẽ để lại gì nơi con cái chúng ta khi chúng cũng gặp phải những khó khăn trong các mối tương quan? Nếu các nhà lãnh đạo trong Giáo Hội bao che những hành vi lạm dụng của hàng giáo sĩ và việc sử dụng các nguồn quỹ không đúng mục đích, thì hỏi làm sao chúng ta có thể xây dựng một cộng đoàn tín hữu vững mạnh được? Nếu chính phủ đổ dồn nhiều tiền của vào vũ khí hơn là vào việc giáo dục, các dịch vụ săn sóc sức khoẻ và nhu cầu của các công dân nghèo, thì hỏi rằng liệu những người bị lãng quên này có sẵn sàng trở thành những công dân đóng góp tích cực trong tương lai cho đất nước không?
Phải chăng những người bất hạnh đang phải chịu hình phạt vì tội của họ? "Không phải thế đâu!" Sự bất hạnh không phải là bằng chứng về tội của một người hay một quốc gia. Haiti xảy ra trận động đất kinh hoàng không phải do, như Pat. Robertson nói, "họ thoả thuận với sự dữ." Dầu vậy, như chúng ta vẫn cảm nghiệm trong cuộc sống của mình, tội lỗi có thể có những hậu quả thật tàn khốc hoặc thi thoảng ngay trong hiện tại, hoặc trong tương lai không quá xa.
Chúa Giêsu mời gọi mỗi người chúng ta xét lại đời sống mình và sám hối vì những tội mình đã phạm. Nếu dám bỏ ra ít phút để suy gẫm, chúng ta dễ thấy được những hệ quả xấu do tội của chúng ta gây ra. Điều gì đang đổ vỡ trong cuộc đời chúng ta? Điều gì gây đau lòng? Chúng ta đang bị mắc kẹt ở đâu trong hành trình tâm linh của mình?
Thiên Chúa của Mô-sê trong bài đọc một đã khẳng định cho mình một danh tính. Vị Thiên Chúa mà Mô-sê đã nghe tiếng Người trong bụi gai cháy cũng chính là vị Thiên Chúa đã gọi tổ tiên dân It-ra-en ra khỏi ách nô lệ để đến với một tương lai mới, tươi sáng hơn, một nơi trao ban sức sống mới. Thiên Chúa hứa với Mô-sê sẽ giải phóng dân khỏi ách nô lệ Ai Cập và dẫn đưa họ đến một vùng đất mênh mông, xanh tươi, "một vùng đất chảy sữa và mật" Đó chẳng phải là một hình ảnh ám chỉ khá hay về việc tha tội hay sao? "Một vùng đất rộng rãi chảy sữa và mật." Thiên Chúa giải thoát chúng ta ra khỏi vùng đất chật hẹp và tù túng của tội lỗi và những hậu quả của nó, rồi dẫn chúng ta vào vùng đất của sự thứ tha - một đời sống mới, mát mẻ và tự do.
Để làm mới cuộc xuất hành mới Thiên Chúa đang trao ban cho chúng ta, Chúa Giêsu đã dùng một dụ ngôn. Chúng ta đừng vội tìm xem dụ ngôn này muốn ngụ ý điều gì, theo kiểu Thiên Chúa là ông chủ vườn, là người muốn chặt bỏ những kẻ tội lỗi - những cây không có trái. Hãy lắng nghe toàn bộ dụ ngôn và hãy cảm nhận hiệu quả của nó. Cho đến nay, cây vả vẫn chẳng có giá trị gì. Một cây ăn trái mà lại chẳng có trái thì liệu có ích gì không? Nó đã được cho rất nhiều thời gian để sinh trái; ông chủ vườn nói rằng ông đã đến tìm trái cây vả đến ba năm rồi. Ông ta thật kiên nhẫn.
Nhưng chính lúc chúng ta hết kiên nhẫn, thì các tình tiết của câu truyện lại khiến chúng ta ngạc nhiên. Cuối cùng, trình thuật này là một dụ ngôn, chứ không phải là một trình thuật về một người nông dân bình thường với một cây ăn trái không giá trị. Cây vả đã được cho thêm thời gian và sự săn sóc. Liệu điều đó có khiến đầu óc thực tế và tằn tiện của chúng ta sao kinh ngạc hay không? Tại sao lại phải mạo hiểm tốn kém thời gian, sức lực và tiền của vào điều mà tới nay vẫn là một thất bại? Điều đó chẳng ý nghĩa gì! Nhưng đối với các bậc làm cha mẹ thì nó thật sự mang nhiều ý nghĩa nếu họ không mất hy vọng vào những đứa con bướng bỉnh, ưa chống đối; nếu họ tiếp tục bỏ công sức ra để cứu một đứa con mà những người khác nói họ đừng hy vọng gì ở nó nữa. Các bậc cha mẹ và những người yêu nhau "hiểu" dụ ngôn này.
Và chúng ta cũng vậy, nếu trong suốt mùa chay này chúng ta lại đối diện với tội của mình và cảm thấy lưỡng lự hoặc thấy mình không thể thay đổi. Dụ ngôn chính là một cái huých nhẹ của ân sủng. Đó là một giọng nói lôi kéo, như giọng nói Mô-sê đã nghe thấy, mời gọi chúng ta ra khỏi nơi bị tội lỗi kiềm chế để bước vào một "vùng đất rộng rãi, thoáng mát và tự do". Thế nào là sự tha thứ tội lỗi? Đó như một vùng đất hứa, một "vùng đất chảy sữa và mật ong."
Thiên Chúa của chúng ta đầy lòng thương xót, qua Đức Giêsu, đã tỏ lộ cho chúng ta sự kiên nhẫn của Người và cho chúng ta thêm thời gian. Có lẽ chúng ta đã hết kiên nhẫn với một số người và tự hỏi, "Tại sao Thiên Chúa lại không phạt kẻ xấu xa đó?" Áp dụng vào chính mình chúng ta thậm chí có thể nói rằng, "Tôi không thể tin được Thiên Chúa lại tha tội cho tôi vì tôi đã phạm đi phạm lại một tội cũ." Nhưng dụ ngôn mà chúng ta nghe hôm nay lại là một dụ ngôn về lòng thương xót vô biên và luôn có cơ hội thứ hai - tới một giới hạn. Có lẽ hạn định, "xin cứ để nó lại năm nay nữa," không hẳn là một lời răn đe cho bằng đó là một ân huệ.
Tôi không biết các bạn thế nào, chứ còn tôi thì chắc chắn tôi sẽ làm việc hết sức khi tôi biết hạn chót của mình. Các trường học cũng vậy: các bài thi cũng phải được hoàn thành vào một ngày ấn định. Nếu bạn không nộp bài vào ngày đó, điểm số của bạn sẽ bị trừ bớt một số phần trăm theo quy định. Dụ ngôn có một kết thúc đáng ngại. Người làm vườn xin thêm một năm nữa để anh có thể chăm sóc, vun trồng và bón phân cho cây. Khi đó, hạn định được đặt ra. Nếu cây ra trái, nó sẽ có một tương lai. Hãy nghe tiếng của người làm vườn, "nếu không thì ông sẽ chặt nó đi." Điều đó có lẽ đã mồi lên một đống lửa bên dưới chúng ta! Có thể đó là một ân huệ, một ngọn lửa khiến chúng ta phải chuyển động, phải thay đổi.
Chúng ta không hành động đơn độc một mình. Sau cùng, đó là một dụ ngôn tin mừng và là Tin Mừng về ân sủng. Chúng ta sẽ được giúp, nếu chúng ta muốn thay đổi. Chúng ta được "săn sóc" ân cần bởi một người làm vườn đầy tình thương, là người sẽ giúp chúng ta trổ sinh hoa trái của sự hoán cải và sống đúng với cương vị người môn đệ. Thời khắc thay đổi chính là lúc này đây. Chúng ta không biết mình còn được bao nhiều thời gian. Như những người trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, thời khắc kết thúc cuộc đời họ đến thật nhanh và không hề được báo trước - như một toà tháp bất ngờ ập xuống.
Đó cũng không nói về cái chết. Chúng ta cần quan tâm đến những dấu hiệu cảnh báo trong tương quan của chúng ta và những ưu tiên. Chúng ta đang dồn hết sức lực của mình vào đâu? Điều đó sẽ trổ sinh hoa trái hay chúng ta lại trở thành một cây cằn cỗi, không hoa không trái? Chúng ta sẽ gặp một kết cục nào: một cuộc hôn nhân thất bại, một đứa trẻ bướng bỉnh, một tình bạn bị đánh mất. Hay liệu có kịp giúp một người thiếu thốn mà trước đây chúng ta vẫn thờ ờ làm ngơ không?
Anh em Học Viện Đaminh Gò Vấp chuyển ngữ
Theo tin mới nhất, trong cuộc động đất vừa qua (1/12/2010) tại Haiti, số người chết đã lên đến: MC 3-C81
Theo tin mới nhất, trong cuộc động đất vừa qua (1/12/2010) tại Haiti, số người chết đã lên đến con số kỷ lục 230 ngàn người, nhiều nhà cửa đã bị phá hủy hoàn toàn, những người còn sống sót không còn ngôi nhà thân yêu để trở về.
Hàng ngày vẫn có những thiên tai xảy ra trên thế giới như động đất, bão tố, đất chuồi, sóng thần... giết hại nhiều người, phá hủy nhiều nhà cửa!
Tuy nhiên, so sánh với các tai ương chính con người gây ra cho con người, thì còn khủng khiếp hơn nhiều. Hai cuộc Thế Chiến trong thề kỷ 20 vừa qua đã phá hủy bao nhiêu công trình kiến trúc của nhân loại, và số tử vong trong quân đội cũng như dân sự đã lên tới hàng triệu người. Bao nhiêu con người sống sót không còn một mái nhà để trở về.
Những nhà độc tài trong chế độ cộng sản như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Polpot... đã giết không phải hàng nghìn, hàng trăm nghìn, nhưng hàng triệu những người dân vô tội; chưa kể đến nhà độc tài Hitler đã giết hơn 6 triệu người Do Thái, và bao nhiêu người khác bị giết thảm thương trong cuộc chiến tranh do ông ta gây ra trong Thế Chiến II.
Những thiên tai thật khủng khiếp; nhưng "Người Giết Người" còn thảm thương biết bao!
Nguyên nhân "Người Giết Người" là vì có những con người đã lìa xa tình yêu của Thiên Chúa, đã phủ nhận tình yêu của Thiên Chúa là Cha, là Đấng tạo thành mình. Họ đã trở nên những kẻ "Vô Thần" và "Vô Luân". Bám chặt vào những ý thức hệ vô thần, họ đã biến "con người trở nên như thù địch của con người!" Do đó, nhân loại không còn là một gia đình của tình yêu Thiên Chúa, nhưng là nơi đấu tranh và thù hận, chỉ rình mò để hãm hại lẫn nhau.
Bài Phúc Âm hôm nay (Luca 13: 1-9) nói đến tai nạn khủng khiếp do tháp Siloe đổ xuống làm chết 18 người và việc Philatô đã tàn ác giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hòa với máu các vật họ tế sinh. Theo nhà Sử Học Flavius Joseph (Josephus, 37-100), thì Philatô còn gây ra nhiều cuộc đổ máu khác, chưa kể đến vụ ông đã kết án bất công Chúa Giêsu và trao phó Người cho dân Do Thái hành hạ rồi đem đi giết.
Chúa Giêsu đã rút ra hai bài học do hai biến cố bi thảm trên đây để dạy chúng ta biết "những nạn nhân trong hai biến cố thê thảm đó, không phải là do "Họ tội lỗi hơn người khác!" Đồng thời, Chúa Giêsu kêu gọi mọi người chúng ta hãy luôn biết nhìn nhận tội lỗi của mình để ăn năn sám hối, cải thiện đời sống, trở về với Chúa là Cha, trở về với chính mình, và với anh em mình trong mái nhà thân thương của gia đình nhân loại. Chúa là Cha nhân từ vẫn luôn gia hạn để chờ đợi người tội lỗi ăn năn trở về để khỏi bị "tiêu diệt!" giống như người làm vườn đã xin Ông chủ gia hạn đừng chặt cây vả, để chờ một năm nữa xem sao! (xem Bài Phúc Âm).
Thánh Phaolô trong Bài Đọc II (1Corintô 10: 1-6, 10-12) nhắc đến biến cố Xuất hành đã được ghi lại trong Bài Đọc I (Xuất Hành 3: 1-8, 13-15). Dân Do Thái xưa đã đứng lên, quyết từ bỏ đời sống nô lệ lâu dài ở Ai-Cập, lên đường, chấp nhận mọi gian nan thử thách trong sa mạc trong 40 năm dài, để trở về quê hương thật của mình, trở về vùng "Đất Hứa" yêu thương.
Trở về quê hương mình, trở về mái nhà mình vẫn là niềm vui và hứng thú của mọi người chúng ta, vì không đâu bằng ngôi nhà của mình (No Place Like Home! Home Sweet Home!)
Mỗi người chúng ta cũng cần đứng lên, quyết tâm từ bỏ đời sống nô lệ tội lỗi, vượt qua các cám dỗ níu kéo của con người tầm thường, để trở về ngôi nhà Giáo Hội thân thương, và được hưởng tình yêu thương của Chúa và của anh em mình trong gia đình nhân loại.
Chủ điểm của Mùa Chay là ăn năn, sám hối lỗi lầm và trở về với Chúa là Cha, trở về với chính mình, với mọi người như anh chị em trong gia đình nhân loại. Thay vì chống lại Thiên Chúa và chém giết lẫn nhau như thù địch, chúng ta sẽ nhìn nhận nhau như anh em trong một gia đình có Chúa là Cha yêu thương của mọi người. Lúc đó, chúng ta mới có thể sống thuận hòa với nhau và tình yêu thương sẽ tràn ngập để bảo đảm một nền hòa bình đích thực.
Xin Chúa chúc lành cho mọi người chúng ta, đặc biệt trong Mùa Chay này. Qua việc "Ăn Chay, Hãm Mình, và làm việc Từ Thiện" giúp người nghèo khó, chúng ta sẽ sống thực Phúc Âm tình thương của Chúa và được sống lại thật với Chúa trong tình yêu Chúa, và trong tình yêu thương anh em với nhau. Chúng ta cũng cầu nguyện cách riêng cho Phong trào "Trở Về" (Catholics Come Home) đang được phát động mạnh mẽ trong Giáo Hội Hoa Kỳ, và đã giúp cho nhiều ngàn người tìm lại được Đức Tin và vui mừng trở về ngôi Nhà Giáo Hội của Chúa.
Người Do Thái, đặc biệt những người Pharisêu luôn có cái nhìn hầu như lệch lạc, cái nhìn đối với: MC 3-C82
Người Do Thái, đặc biệt những người Pharisêu luôn có cái nhìn hầu như lệch lạc, cái nhìn đối với thời vi tính và kỹ thuật cao ngày nay là những người lệch tần số, những người truy cập không đúng địa chỉ vv...Do đó, trước một vấn đề, một sự việc nào đó xẩy ra, người Do Thái thường hiểu sai lệnh, không đánh giá đúng sự cố đã xẩy ra hoặc vừa xẩy ra. Tin Mừng thánh Luca 13, 1-9 chúa nhật 3 mùa chay, năm C cho chúng ta thấy rõ điều đó.
Những người Do Thái trong bài Tin Mừng hôm nay đã hiểu rất lệch lạc khi họ biết một số người Galilê vừa bị quan tổng trấn Philatô tàn sát và 18 người bị tháp Siloe đè chết. Những người Do Thái này rất bàng quang về những cái chết này, họ cho đó chẳng có liên quan gì tới họ cả và họ quan niệm những người xấu số đó vì có tội hơn những người khác cho nên họ bị chết cách thảm thiết. Chúa Giêsu đã chỉnh đốn lại quan niệm lệch lạc của họ. Cái chết không chừa một ai. Cái chết đến cách bất ngờ đối với bất cứ người nào, bất cứ ai ở bất cứ nơi đâu, ở bất cứ chỗ nào. Chẳng hạn như những người Galilê đang làm một việc hết sức đạo đức nơi Hội Đường, nơi NhàThờ, Nhà nguyện vv...Hay những người bị tháp Siloe đè chết khi họ đang trú núp dưới chân tháp Siloe bên tường thành kiên vững của Đền thờ Giêrusalem.Rồi Chúa Giêsu lại đưa ra một ví dụ nữa về cây vả trồng nơi vườn nho để chấn chỉnh lại quan niệm sai lạc của những người Do Thái. Cái chết là chấm dứt thời gian ở đời, cái chết là mãn cuộc đời tạm ở trần thế. Chính vì thế, con người phải hoàn thành trách nhiệm sứ mạng Thiên Chúa đã trao ban cho mình. Mình đã làm lợi được bao nhiêu số vốn mà Chúa trao phó cho mình. Qua ba trường hợp hai trường hợp chết người và trường hợp cây vả không ra quả, Chúa Giêsu muốn dạy con người hãy sám hối, hãy ăn năn trở về với Chúa. Ngài nói: " Nếu chúng ta không ăn năn trở lại thì chúng ta cũng sẽ chết tất cả ". Qua lời này, Chúa kêu mời tất cả mọi người phải sám hối: " Hãy sám hối vì Nước Trời đã đến rồi " " Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng ". Xuyên suốt Tin mừng của Chúa Giêsu Kitô là lời mời gọi sám hối, quay trở về với Chúa và làm hòa với anh em. Chúa muốn dân Do Thái hối cải nhưng Ngài cũng kêu mời chúng ta thống hối. Thánh Phaolô nói: " Ai tưởng mình đứng vững, hãy ý tứ kẻo ngã ". Dân Do Thái nhất là những người Pharisêu cứ tưởng họ đạo đức, họ thánh thiện không cần sám hối, Chúa nói: " Tất cả hãy tỉnh thức, tất cả hãy sẵn sàng...".
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nhắc nhở cho mọi Kitô hữu việc quan trọng và khẩn thiết là sự thống hối, ăn năn tội lỗi và mau mắn trở về với Thiên Chúa. " Nếu các ngươi không ăn năn hối cải thì tất cả các ngươi sẽ bị hủy diệt ". Đây là lời thúc giục nhân loại, con người hãy chóng vánh từ bỏ con đường tội lỗi để mau quay về với Chúa sống đời công chính, đạo đức và thánh thiện để Chúa thi ân giáng phúc.
Mùa chay là thời gian thích hợp, là cơ hội thuận tiện để chúng ta thống hối, thay đổi đời sống, dứt khoát với những dính bén tội lỗi dù là tội nhỏ để tất cả mở lòng ra cho Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con ơn khôn ngoan để chúng con luôn biết tránh xa tội lỗi để tất cả con tim và sinh mạng của chúng con luôn thuộc trọn về Chúa.
Ăn năn sám hối là một trong những chủ đề được nói đến nhiều trong mùa chay. Người Kitô hữu: MC 3-C83
Ăn năn sám hối là một trong những chủ đề được nói đến nhiều trong mùa chay. Người Kitô hữu vốn rất nhạy bén với đề tài này. Một lẽ thường tình đó là vì tội lỗi luôn mang tình hiện sinh. Người ta dễ cảm nhận nơi chính bản thân mình sự bất toàn, yếu đuối. Hơn nữa, hầu như các tôn giáo, cách riêng Kitô giáo thường xuyên nói về sự tội. Khởi đầu những cuộc cử hành Phụng Vụ chẳng hạn như Phụng Vụ Thánh Thể thì luôn có phần sám hối ăn năn. Xin được thú nhận công khai vài lỗi lầm của mình. Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót.
Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng: Ở đây, bản thân không dám xưng thú những tội về điều răn thứ sáu hay thứ chín. Xưng thú công khai những tư tưởng đen tối, ô uế thì kỳ quá. Lắm khi lại gây cớ vấp phạm, làm mất lòng khiết tịnh cho lớp hậu sinh non dạ, trẻ đời. Mình là hàng có thánh chức thì cũng phải ý tứ một chút chứ. Tốt thì khoe mà xấu thì cần phải che đi vậy. Xưng thú tội ham muốn công danh, chẳng hạn muốn được làm quản hạt, làm Tổng đại diện hay thậm chí được đội mũ, cầm gậy thì cũng có thể châm chước đôi phần. Dẫu sao cái tham muốn ấy cũng phảng phất chút nào đó sự thánh thiêng. Còn chuyện tham lam của tiền thì không xưng người ta cũng nhận ra. Ông cha nào tham lam, keo kiệt thì khó lòng qua mắt được đoàn tín hữu.
Xin công khai thú nhận tội trong tư tưởng đó là lười suy nghĩ về cách "sống đạo hôm nay" theo lời dạy của Hôi Đồng Giám Mục Việt Nam năm nay. Việt Nam đã vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới ( WTO ). Nước ta đang chuẩn bị bầu cử Quốc Hội. Thế mà tôi lại thờ ơ với vận mệnh quốc gia dân tộc. Tôi đã lười suy nghĩ về một cơ quan quyền lực cao nhất. Tôi đã phạm tội vì không trăn trở làm sao để có một Quốc Hội thực sự là đại diện cho nhân dân. Tôi đã phạm tội vì không chịu suy nghĩ làm sao để cuộc bầu cử quốc Hội sắp tới thực sự là công bằng, dân chủ...
Tôi đã phạm tội trong lời nói: Nói sai, phát biểu xằng bậy, gây bất hòa, chia rẽ thì đáng phải xưng thú. Giảng dạy những điều lầm lạc, chủ quan, duy ý chí thì cũng rất cần xưng thú. Và cả những điều sai lầm khác từ môi miệng tôi phát ra gây hại cho tha nhân, cho xã hội, cho Hội Thánh.
Tuy nhiên điièu tôi muốn xưng thú ở đây về tội trong lời nói đó là tôi đã không nói những gì cần phải nói. Tiên tri Êgiêkien đã nói thay Giavê rằng: Nếu ngươi không chịu nói cho kẻ gian ác bỏ đường gian ác mà trở về nẻo chính đường ngay, để kẻ gian ác chết trong tội ác của nó thì ta sẽ đòi nợ máu nó nơi ngươi. ( x.Giê 33,8 ). Tôi thú nhận rằng tôi có thấy chuyện cơ cấu trong việc bầu cử Quốc Hội là đi trái với sự công bằng và dân chủ. Số đảng viên Cộng sản hiện nay khoảng ba triệu người. Dân số nước ta hiện nay khoảng 80 triệu người. Thế mà người ta lại cơ cấu cho người ngoài đảng được vào Quốc Hội chỉ 10 %. Tôi nhận ra sự thiếu công bằng. Không biết vì sợ hãi, vì chút lợi lộc hay vì một nguyên nhân nào đó mà tôi đã không nói. Tôi thành thật thú nhận mình đã tự biện minh rằng đợi Hội Đồng Giám Mục lên tiếng trước đã, đợi Giám Mục giáo phận lên tiếng trước đã. Mình chỉ là ông cha xứ vùng quê, vùng xa. Không nên cầm đèn chạy trước ô tô. Vì thế tôi đã không nói, không dám nói điều phải nói, điều cần nói.
Một cuộc bầu cử trong công bằng và dân chủ thì mội sự đều là có thể. Một vị dù là cấp cao hay quyền lớn đều có thể trúng cử hay không trúng cử. Khi đã cơ cấu số người ở cấp này, cấp kia; số người chuyên trách ở tỉnh này, vùng nọ thì chắc chắn sẽ có
rất nhiều người không thể nào không trúng cử, nghĩa là chưa bầu mà chắc chắn trúng cử vì phải trúng cử thì không còn chuyện công bình ở đây. Tôi biết chuyện này mà tôi đã phạm tội vì không dám nói. Có thể mình viết bài không ai chịu đăng, nhưng mình có thể nói trong phạm vi, quyền hạn của mình. Sao lại không ?
Còn lắm chuyện của hôm nay như chuyện các ngôi nhà đồ sộ, ngất ngưỡng ở Thủ Đô... Người ta đã đã lý luận rằng đó là xây nhà không phép, sai phép nhưng không trái phép. Đúng là quá xem thường người dân. Đang có quyền chức thì muốn nói sao cũng được kiểu miệng nhà quan có gang có thép chăng ? Vừa qua Mặt Trận Tổ Quốc đưa ra 6 tiêu chí để xét duyệt những người ứng cử vào Quốc Hội, trong đó có tiêu chí là: "không có tham vọng cá nhân". Quả thật nếu dựa vào tiêu chí này thì đốt đuốc cả ban ngày cũng không tìm ra một ai, chỉ trừ những trẻ em chưa có trí khôn hay những bệnh nhân trong các bệnh viện tâm thần. Cũng có thể tìm ra, nhưng đó là những thánh nhân mà đã qua đời ! Tôi thú nhận mình biết và hiểu những chuyện này nhưng đã không lên tiếng. Quả thật tôi đã phạm tội nhiều trong việc dùng lời nói. Tôi đã ngại ngần nói lên sự thật. Tôi đã hèn nhát không dám bảo vệ sự công bằng. Tôi đang thờ ơ với việc việc sống đạo hôm nay. Tôi chưa nỗ lực xây dựng nước nhà phát triển trong công bình, dân chủ và văn minh.
Tôi đã phạm tội trong việc làm và những điều thiếu sót: Làm nhiều, sai nhiều; làm ít, sai ít. Một thực tế hiển nhiên ít ai chối cãi. Thế nhưng không làm, không chịu làm việc phải làm trong khả năng và hoàn cảnh là một sai lầm trầm trọng.
Lại biện minh cho mình. Là linh mục, là mục tử, mình chỉ giảng dạy thôi chứ. Còn làm là chuyện của tín hữu giáo dân. Biện minh thế nào đi nữa thì tôi cũng thấy hổ thẹn với người Samaritanô nhân hậu mà Chúa Giêsu đã kể chuyện trong Tin Mừng ( x. Lc 10,29-37 ). " Ông hãy đi và làm như vậy" ( c. 37 ). Tôi biết điều này chứ thế mà tôi vẫn khoanh tay đứng nhìn. Thú thực rằng tôi đâu có vô tâm. Tôi đã cầu nguyện nhiều lắm. Nhưng phải thú nhận rằng tôi đã lợi dụng sự cầu nguyện để khỏa lấp các thứ tội trong việc làm. Đó là không chịu nỗ lực công tác với ơn Chúa. Đây cũng là một trong những cách thế phạm đến tội: " những điều thiếu sót ".
Tôi thú nhận ... Chúa có hài lòng về sự thống hối của tôi không ? Sám hối, ăn năn là để sửa đổi, để bắt đầu làm lại, bắt đầu lại sống đạo hôm nay. Tội của tôi sẽ mãi còn đó nếu tôi chỉ biết thú nhận mà không sửa đổi.
Nếu các ông không ăn năn sám hối, thì các ông cũng sẽ chết như vậy!» Ðó là những lời nói đầy khẩn: MC 3-C84
«Nếu các ông không ăn năn sám hối, thì các ông cũng sẽ chết như vậy!» Ðó là những lời nói đầy khẩn cấp của Chúa. Chúng ta phản ứng thế nào trước sự cảnh cáo của Chúa?
Sau đây tôi xin được giới thiệu ba phản ứng tượng trưng:
« Sám hối ? Tôi cảm thấy điều đó chẳng có liên quan gì đến hoàn cảnh của tôi cả ». Vâng, sẽ có người phát biểu như thế: « Nếu so sánh cuộc sống của tôi với cuộc sống nhiều người khác, thì tôi cũng không đến nỗi ! Nếu không hơn ai, thì cũng không thua kém ai. Con cái tôi đều học hành đàng hoàng, cũng có công ăn việc làm đâu vào đấy. Tôi đi nhà thờ đọc kinh xem lễ thường xuyên. Với bà con láng giềng mọi sự đều vui vẻ hài hòa. Vậy tôi đâu có làm gì sai quấy cả, tại sao tôi còn cần phải sám hối ? »
« Sám hối ? Ðó là một lời quá nghiêm khắc đối với tôi », đó là ý kiến của một người khác. « Sám hối ! Vâng, đó là cả một vấn đề ! Chắc chắn rằng nhiều khi tôi cảm thấy có điều gì đó trong cuộc sống mình không được thuận thảo và xuôi chảy. Ðôi lúc tôi cũng tự bảo mình là tôi có thể hoàn toàn sống khác với hiện tại ! Ðã có biết bao nhiêu dịp may bị bỏ lỡ, bao nhiêu trường hợp tốt đã không lợi dụng được ! Nhưng cuộc sống con người là thế ! Từ sáng tinh sương cho tới chiều tối: hết trách nhiệm này đến bổn phận nọ ! Nào lo lắng cho gia đình, cho con cái, cho nghề nghiệp, cho công ăn việc làm, cho tiền bạc ! Vâng, nhiều khi tôi đã muốn chạy thoát mọi sự và bắt tay lại từ đầu ! Nhưng tôi cần phải bắt đầu lại ở chỗ nào và tôi phải dừng lại ở chỗ nào ? Không thể được. Sám hối ? Ðó là một lời nói quá nghiêm khắc đối với tôi. Tôi chẳng biết phải làm thế nào nữa. Và tôi nghĩ rằng, có lẽ tôi cứ tiếp tục sống như từ xưa tới nay ! »
« Sám hối ? Vâng, đó là dịp may và thuận lợi cho tôi ! » một người thứ ba lại phát biểu như thế: « Sám hối ? Tôi sực nhớ lại tất cả: vâng, trước kia tôi thường chỉ sống một cách hời hợt bên ngoài, và cứ thế từ ngày này sang ngày nọ ! Nhưng rồi sau đó, có một chuyện không hay đã xảy ra và làm thay đổi toàn bộ cuộc sống của tôi. Tôi đã xích mích và đụng độ công khai với một vài người. Tôi đâm ra chán nãn. Tôi luôn trốn tránh, không tiếp xúc với cộng đồng giáo xứ nữa. Nhưng rồi tôi lại hối hận và đã tìm cách hàn gắn lại những đổ vỡ. Tuy nhiên, tôi nhận thấy sự việc thật phức tạp, vướng mắc đủ thứ « dây mơ rễ má » này nọ nữa, chứ không dễ dàng. Và biến cố đó đã ám ảnh tôi mãi, cả đến hôm nay nữa. Tôi bổng thấy mình hoàn toàn khác hẳn. Một cách chân thành, tôi thấy mình còn quá thiếu sót trong cuộc sống, tôi thấy đời mình không thể cứ tiếp tục mãi như thế được. Vì thế tôi đã bắt đầu suy tư, đọc Kinh Thánh và cầu nguyện. Bài giảng Tám Mối Phúc Thật của Ðức Giêsu là kim chỉ nam, là đèn soi, là động lực cho mọi định hướng của tôi. Tôi đã cảm nhận được rằng, mọi sự không thể một sớm một chiều lại được giải tỏa và trở lại bình thường, nhưng đối với tôi, sự sám hối và cải thiện cuộc sống là dịp tốt, là cơ may duy nhất để tiếp tục sống một cách có ý nghĩa và nhân bản hơn. »
Trên đây là ba phản ứng hay ba quan niệm trước việc « sám hối » ! Còn chúng ta, chúng ta phản ứng ra sao ? Phải chăng chúng ta cũng đồng ý với một trong ba phản ứng trên: Sám hối, chẳng có gì kiên quan đến hoàn cảnh của tôi; hoặc: sám hối, một tiếng quá nghiêm khắc đối với tôi; hoặc: sám hối, một dịp tốt duy nhất đối với tôi, để sống có nhân bản hơn ?
Trước khi mỗi người trong chúng ta phải tự trả lời câu hỏi đó, chúng ta còn cần có những suy nghĩ đúng đắn ! Ðể có thể tìm thấy nơi sự sám hối ý nghĩa đầy đủ của nó, người ta cần phải có những cảm nghiệm nào đó. Vâng, người ta cần phải có những cảm nghiệm cá nhân: Cuộc sống của mình sẽ đi về đâu ? Tại sao người ta phải thay đổi quan niệm sống của mình và thay đổi thế nào ? Nếu không ? v.v... Một người chỉ có thể sống và nói được như thế, nếu người đó có được một cảm nghiệm khác, cảm nghiệm về ý nghĩa bài Giảng Trên Núi của Ðức Giêsu và cảm nghiệm về Thiên Chúa, Ðấng hằng đứng sau tất cả những gì Ðức Giêsu nói và hành động. Thiên Chúa của Ðức Giêsu đòi hỏi và tạo điều kiện cho con người sống trong một cách thức nhất định nào đó - vừa cụ thể vừa khác biệt - theo như người ta lựa chọn. Trong sự cảm nghiệm đó, chính Thiên Chúa sẽ trở nên chương trình sống, và khi đối mặt với chương trình sống đó, chỉ còn lại một cách duy nhất để có thể đứng vững được là không ngừng nỗ lực dấn thân vào trong chương trình đó với tất cả lòng tin tưởng. Con người cần phải thiết kế cuộc sống mình với Thiên Chúa và luôn nỗ lực thực thi thánh ý của Người; Con người cần phải bắt đầu một cuộc sống mới, một cuộc sống làm chứng giữa lòng đời cho lòng nhân hậu, sự công bằng và tình thân thiện của Thiên Chúa đối với nhân loại, trong phạm vi tư riêng cũng như trong phạm vi rộng lớn. Con người cần phải bắt đầu một cuộc sống mới, một cuộc sống còn nhắm tới những mục đích cao cả khác, chứ không chỉ giới hạn trong những tư lợi và hạnh phúc riêng của mình, v.v...Nói đúng hơn, đó chính là sự sám hối, nghĩa là sống trong tương quan thân tình với Thiên Chúa, để cho Thánh Thần của Người soi sáng, hướng dẫn và biến đổi cuộc sống của mình. Như vậy, sự sám hối ở đây trở thành điều kiện cần thiết cho một cuộc sống theo đúng với kế hoạch của Thiên Chúa. Trong ý nghĩa đó người ta có thể hiểu cuộc sống như một vận may để mang lại hoa trái.
Ðó chính là điều bài Tin Mừng hôm nay muốn đề cập tới, khi coi sự sám hối là một điều cần thiết, và sống có nghĩa là chấp nhận cái vận may đó, mà Thiên Chúa đã ban cho tất cả chúng ta.
Vậy, chúng ta hãy chấp nhận lấy vận may đang trong tầm tay chúng ta. Chúng ta hãy loại bỏ thái độ thờ ơ và tính ươn lười dễ chịu, bởi vì chúng sẽ dẫn chúng ta vào trong ngõ cụt cuộc đời. Trong những điều kiện và hoàn cảnh sống của mình, mỗi người hãy tìm cho cuộc sống riêng của mình một lối thoát thích hợp và đúng đắn. Như thế, cuộc sống chúng ta sẽ trở nên có giá trị, là một niềm vui và là một ơn lành của Thiên Chúa. Amen.
Thời nào và ở đâu cũng có những oan sai. Oan sai có thể do luật sai tự bản chất, cũng có thể: MC 3-C85
Thời nào và ở đâu cũng có những oan sai. Oan sai có thể do luật sai tự bản chất, cũng có thể do người thi hành luật và cũng có thể do phía tố tụng có tính cách áp chế. Vì thế, oan sai luôn là một bất công đáng tiếc dẫn đến những tai họa khôn lường. Cái chết của những người Galilee do quyết định của Tổng Trấn Philato có thể là một oan sai, mà "tiếng dân kêu chẳng thấu trời". Những cái chết thật bi thương. Và khi mấy người đến kể cho Chúa Giêsu nghe câu chuyện ấy, những tưởng Đức Giêsu đồng quan niệm với họ rằng những người ấy bị án tử vì phạm pháp, không ngờ Chúa Giêsu lại nói " Các ông tưởng mấy người Galilee đó bị như vậy, là vì họ tội lỗi hơn mấy người Galilee khác sao?" (Luc 13,2). Tôi muốn hiểu từ "tội lỗi" ở đây đồng nghĩa với từ "phạm pháp", phần đời. Như vậy, theo ý của Chúa Giêsu, thì không chắc là những người nầy đã bị án tử vì phạm pháp. Trong suốt mùa chay, bất kỳ một đoạn Kinh Thánh nào mà phụng vụ đã chọn, có nhắc tới "sự chết", đều làm tôi liên tưởng đến cái chết của Đức Giêsu. Tôi thiết tưởng, Ngài cũng muốn nói đến cái chết của Ngài, một cái chết do oan sai, một cái chết của người vô tội, chết thay cho người có tội. Vì thế Ngài nói tiếp " Nếu các ông không sám hối, thì hết thảy các ông cũng chết như vậy" (Luc 13,3).
Ngài còn dẫn chứng và giải thích cái chết bất ngờ của 18 người do tháp Siloa ngã đè, "không phải vì họ có tội nặng hơn những người ở thành Giêrusalem, nhưng nếu các ông không sám hối, thì hết thảy các ông cũng chết như vậy" (Luc 13,5). Tôi lại liên tưởng đến cái chết của Chúa Giêsu, không phải là là sự trừng phạt của Thiên Chúa Cha, mà là Thánh Ý Nhiệm mầu mặc cho cái chết ấy một ý nghĩa cứu chuộc- Chết là một điều kiện tất yếu để có sự Phục Sinh. Như vậy, cái chết phần xác của 18 người bị tháp đè, cũng không phải là sự trừng phạt hay trả thù của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa giàu lòng xót thương. Ngay đến cái chết đời đời của linh hồn con người -sự chia lìa, không được phúc chung hưởng vinh quang Thiên Chúa - Chúa Giêsu cũng không muốn, mà ngược lại Ngài gọi mời sám hối trở về để được sống đời đời.
Chúa Giêsu lại đưa ra ví dụ cây vả, để giải thích thiết thực bài học, lời khuyên, lời cảnh tỉnh "sám hối" mà Ngài đã nói với mấy người Galilee, và với chúng ta. Sám hối không chỉ là nhận ra sự tiêu cực, ích kỷ, lười lĩnh của mình trong cuộc sống, mà còn là phải canh tân đổi mới để cuộc sống tích cực hơn, sinh động hơn, nhiệt tình hơn, sinh hoa kết trái nhiều hơn, xum xuê, đầy cành. Sinh hoa kết trái chính là sự cho đi, sự hiến dâng cho cuộc đời, làm cho cuộc đời có một sức sống mới bắt nguồn từ hoa trái ấy. Cây Vả Giêsu mà Thiên Chúa đem trồng nơi trần gian đã sinh hoa kết trái cho nhân loại. Đó là Tình Yêu của Thiên Chúa Cha đã biểu lộ nơi Người Con Chí Ái, khi Người Con, chính là Đức Giêsu Ki tô, đã cống hiến trọn vẹn sự sống mình cho nhân loại, cho nhân loại được sống và sống dồi dào.Tôi nhớ đến "Bài Ca Đức Mến" (1 Cor 13), một tuyệt phẩm của Thánh Phao-lô, một bức họa cuộc đời Chúa Giêsu Cứu Thế, và tôi vẫn nghĩ đây là tiêu chuẩn hoa trái của lòng sám hối chân thành đối với mỗi tín hữu chúng ta hôm nay, không chỉ trong mùa Chay nầy, mà suốt cả đời người.
" Lòng mến thì khoan dung, nhân hậu,
lòng mến không ghen tuông,
lòng mến không ba hoa, không tự mãn,
không khiếm nhã, không ích kỷ
không cáu kỉnh, không chấp nhất sự dữ
không mừng trước sự bất công,
nhưng biết chia vui cùng lòng chân thật
Trong muôn sự, lòng mến hết lòng bao dung,
lòng mến hết lòng kính tin, hết lòng trông cậy.
lòng mến không hề tàn tạ..." (1Cor 13, 4-8)
Với ví dụ cây vả, tôi lại nhớ đến cây vả của tôi và những cây vả thời nay- thời thịnh vượng của chủ nghĩa cá nhân và hưởng thụ-và bỗng trăn trở không ít khi tôi đặt mình trước yêu cầu sám hối là "sinh hoa kết trái" của Chúa Giêsu. Điều rất đáng tiếc: không chỉ là những cây vả sợ hy sinh cống hiến, mà còn là những cây vả chê bai chế nhạo những cây vả khác là dại dột, vì đã, đang nhiệt tình cống hiến những hoa trái cho đời: Người tham lam lo tích lũy vào kho tàng của mình thì chê người liêm chính là dại dột- nghỉ chơi. Người ươn lười không lo mở rộng nước Chúa thì chê bai chế nhạo người nhiệt tình là điên rồ, không hợp thời. Người không làm việc bác ái thì cho rằng người bác ái là lãng phí, cầu danh. Người không tha thiết với việc cầu nguyện thì lên án người cầu nguyện là đạo đức giả. Hoặc một thái độ khác của cây vả thời nay: Người dối trá nhất bao giờ cũng bắt người khác phải thành thật. Người phạm pháp nhiều nhất vẫn yêu cầu người khác thi hành luật nghiêm túc... Cây vả của tôi ơi, đã đến lúc phải sinh hoa kết trái, vì Đức Giêsu, "người làm vườn" của Ông Chủ Vườn, là Thiên Chúa Cha, đang khẩn thiết van xin " Ông Chủ Vườn" gia hạn, để cây vả sinh hoa kết trái.
Anh em Phan sinh, trong những buổi họp, thường hát: "Một người không biết yêu ai, là người chưa biết yêu mình. Một người không biết cho ai, là người nghèo trắng đôi tay. Một người không chung phận người là người chưa sống trong cuộc đời. Chỉ một người biết Sống, Yêu, Cho người, người ấy thực là người. Lạy Chúa! nếu không sống để yêu thì đời con như đã chết. Nếu không biết cho đi thì làm sao mong sẽ được gì. Nếu không có bác ái thì đời con như cây bộng, như thùng rỗng, như tiếng thanh la, tan trong hư không... Một người không biết yêu ai, mà nguyện cầu Thiên Chúa yêu mình. Một người không biết cho ai, mà nguyện cầu lạy Chúa ban ơn. Một người không chung phận người mà đòi ai nấy chia phận mình....". Những ngày trước, tôi thờ ơ lắm. Hôm nay, nhớ lại, bỗng giật mình, vì thông điệp bài hát nhắc nhớ tôi canh tân bao điều...
Nối kết những suy tư từ Lời Chúa hôm nay, tôi ơi hãy nhớ cho rằng: Đức Ki Tô Cứu Thế đang bị tôi tiếp tục xử oan, vì Ngài vô tội. Nhưng Ngài vẫn thương yêu chấp nhận cái chết- để Phục Sinh. Ngài vẫn chờ đợi tôi nhận ra cái con người ích kỷ của tôi, để kịp sám hối là hiến dâng đời tôi nên hoa trái phần rỗi cho tôi và cho mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, cây vả của con không chấp nhận sinh trái, vì sinh trái là phải cho đi. Xin tha thứ cho lòng ích kỷ vô học của con, và xin mở lòng con ra, để con biết rằng "khi hiến thân là khi được nhận lãnh...lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân... chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời..." ( Thánh Phan xi co Assisi). Amen
Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta mau mau hoán cải, không còn thời gian nữa đâu. Mặc dù: MC 3-C86
Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta mau mau hoán cải, không còn thời gian nữa đâu. Mặc dù Thêin Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi kẻ tội lỗi ăn năn sám hối. Lời mời gọi hoán cải được diễn ra cách tuần tự. Đó là những biến cố hiện tại, rất thời sự để kêu gọi sám hối. Tiếp đến, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cây vả không sinh trái mà kêu gọi khẩn trương sám hối cách cụ thể.
Người Do Thái hay gắn liền tai họa với tội lỗi. Khi thấy Gióp sa cơ thất thế, thì chính ông bạn là Eliphat cũng cho là do tội mà Gióp bị. Các môn đệ của Chúa Giêsu cũng vậy. Khi thấy người mù từ lúc mới sinh, các ông đã hỏi Chúa Giêsu: "Bởi tội anh ta hay tội cha mẹ anh ta ?". Chúa Giêsu không phủ nhận mối tương quan giữa tội lỗi và hình phạt, nhưng Ngài phủ nhận điều này là: Không phải những người Galilê hay những người ở Giêrusalem bị tàn sát hay bị thiên tai thì xấu sa hơn các đồng hương của mình. Người xác nhận cho họ nhớ: mọi người là tội nhân, nên mọi người phải chịu sự phán xét của Thiên Chúa và chịu án phạt của Người.
Lối nhìn tai họa theo kiểu Do Thái hay theo kiểu chúng ta thời nay sẽ bất lợi khi chúng ta không yêu người, chúng ta sẽ lên án người. Và chúng ta sẽ tưởng họ là người tội lỗi, còn chúng ta là người thánh thiện. Như thế, chúng ta sẽ khinh dể người khác và đề cao mình. Nhưng nếu có lòng yêu người thì tai họa xảy đến cho người, tức khắc trở thành lời kêu cứu, làm cho chúng ta phải ra tay cứu với người hết sức lực của chúng ta. Thay vì lên án, chúng ta sẽ kêu cầu Đấng có thể cứu họ. Đồng thời, với thái độ khiêm tốn, chúng ta sẽ nhận ra cách sống động, cụ thể, mạnh mẽ đối với bản thân mình và buộc mình phải thay đổi cuộc sống tức khắc và tận căn.
Cho nên điều làm chúng ta khó sám hối, đó là cảm thấy mình không có tội khi không bị tai nạn, nên ảo tưởng trong sự an tâm giả tạo. Vì thế, Chúa Giêsu nhắc nhở: "Đừng tưởng họ tội lỗi hơn...", nghĩa là lúc còn được bình an, ấy là lúc cần phải hoán cải, vì đây có thể là cơ hội cuối cùng, như cây vả - một năm nữa thôi: cây vả bị lên án không phải vì nó sinh ra những trái xấu, trái sâu. Nó bị án treo vì nó không sinh trái, làm hại đất.
Chúng ta cũng sẽ bị kết án, không phải vì tội lỗi mà vì chúng ta đã quên, đã chối từ làm điều tốt, có bao nhiêu điều tốt cần phải làm mà chúng ta đã chẳng làm. Đó là những tài năng, những ơn lành Chúa ban mà chúng ta đã không lợi dụng để phát triển, để sinh trái nhân đức. Biết bao người anh em sống bên cạnh đang gặp hoạn nạn tai ương, nghèo khó, đau khổ mà chúng ta không giúp bằng tiền của, bằng lời khích lệ, thì cũng sẽ bị lên án như ông phú hộ với Lazarô. Ông phú hộ không đuổi Lazarô rời khỏi nhà ông, không đánh đập, không xịt chó cắn. Quả thật ông không làm điều gì tội lỗi. Thế nhưng ông vẫn bị kết án vì lúc ông có thể giúp người nghèo Lazarô khi có thể giúp, người nghèo ấy đang ở trước nhà ông, trong lúc ông ăn uống xài phí quá sức...
Mùa chay thánh này thiên Chúa mời gọi chúng ta cũng hãy khẩn trương hoán cải. Thiên Chúa là Cha Người kiên nhẫn và ấp ủ niềm hy vọng nơi chúng ta. Người kiên nhẫn, hy vọng nhưng cương quyết đòi hỏi và thôi thúc chúng ta mau mau hóan cải và đừng để cho ơn Chúa thui chột nơi chúng ta. Mong rằng sau mùa chay thánh năm nay, cuộc đời chúng ta sẽ sinh nhiều hoa trái thiêng liêng qua việc thực hành: Sống Đạo Hôm Nay.
Lạy Chúa, trước những biến động trên thế giới, xin cho chúng con nhận ra đó là cách thức Chúa cảnh tỉnh chúng con. Để trong mùa hồng phúc này chúng con biết tìm về với Chúa trong tinh thần sám hối, cầu nguyện và thực thi các việc bác ái.
Chúa có cái nhìn của Chúa, con người có cái nhìn của con người. Vì thế, trước một sự cố đem: MC 3-C87
Chúa có cái nhìn của Chúa, con người có cái nhìn của con người. Vì thế, trước một sự cố đem lại tai họa và chết chóc cho con người, Chúa Giêsu không luận bàn hay bình luận theo góc độ, theo quan niệm của người Do Thái thời đó. Hai mẫu chuyện, hai mẩu thời sự nóng lúc đó là quan tổng trấn Philatô tàn sát mấy người Galilêa nổi loạn, ngay chính trong đền thờ và máu của họ hòa lẫn với vật tế sinh và việc tháp Siloê đổ xuống đè bẹp 18 nạn nhân. Người Do Thái kể lại cho Chúa Giêsu với dụng ý xin Chúa vạch rõ ai là người có tội. Chúa Giêsu không nghĩ ai là người có tội hay những người bị nạn là tội lỗi hơn những người đồng hương của người Do Thái. Người muốn nhấn mạnh rằng ai cũng là tội nhân, ai cũng có tội, ai cũng đáng chịu án phạt của Người, do đó, cần phải ăn năn sám hối, để tránh hình phạt của Thiên Chúa.
Quan niệm xưa cũng như nay, vẫn cho rằng họa đâu thì tội đó. Và khi nói đến tội, người ta thường nghĩ tới tội của người khác hơn là tội của chính mình. Và khi không đổ tội cho kẻ khác được, họ lại đổ cho Thiên Chúa:" Tại sao Chúa lại để cho bị thế này, thế nọ ?". Trong Tin Mừng Lc 13, 1-9, dân chúng qui lỗi cho những nạn nhân và những người có liên quan:" Tội của chúng nó hay của cha ông chúng nó".Chúa Giêsu nhân cơ hội này nói với họ và qua họ, nói với tất cả nhân loại:" Nếu chúng ta không ăn năn sám hối thì chúng ta cũng sẽ chết tất cả". Vâng, con người thường có quan niệm đổ lỗi cho người khác. Ai cũng tưởng mình là đạo đức, thánh thiện. Ai cũng tự kiêu cho mình là hơn người khác. Người ta làm lỗi chứ tôi không phạm tội. Thái độ này là thái độ tự mãn của" người Pharisiêu " trong đền thờ cầu nguyện. Trong ta phải chăng cũng có con người tự mãn hay người Pharisiêu tự mãn ? Thái độ kiêu ngạo là thái độ bị Chúa khinh chê và lên án. Quan niệm của con người vẫn thường cho những người bị nạn, bị thử thách, bị đau ốm là những người có tội. Họ cho rằng hoạ đâu, tội đó.
Thiên Chúa đã chọn lựa dân tộc Israen làm dân riêng và ban cho họ nhiều ân huệ đặc biệt. Chúng ta thấy rõ lập trường của Chúa trong dụ ngôn cây vả. Thiên Chúa là người trồng cây, Chúa Giêsu là người làm vườn, dân Israen là cây vả không sinh trái. Dân Israen luôn bất trung với Thiên Chúa, họ không sinh hoa kết trái, không trung thành với lề luật, không sống chính trực, và không thờ phượng một mình Thiên Chúa. Chúa đã cho họ một cơ hội mới để họ ăn năn sám hối, đổi mới cuộc đời với những lời giảng dậy của Chúa Giêsu và các phép lạ Người làm. Tuy nhiên, dân Do Thái vẫn ngoan cố, vẫn cố chấp. Chính vì thế, họ đã bị Thiên Chúa loại trừ bằng biến cố Giêrusalem bị tàn phá bình địa vào năm 70 sau Công Nguyên.
Do đó, sám hối là điều cấp bách mọi người phải làm. Đây là tất cả Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng:" Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng vì Nước Trời đã gần đến ".
Thiên Chúa cũng kêu mời chúng ta và tuyển lựa chúng ta làm con của Người qua Bí Tích Thanh Tẩy. Người yêu thương chúng ta, chăm sóc chúng ta qua bàn tay yêu thương của Người, và Người chờ mong chúng ta sinh hoa kết quả tươi tốt. Vì thế, nếu chúng ta chưa thực hiện được những ước mơ của Người, thì Người cũng cho chúng ta một cơ hội, một dịp thuận tiện để chúng ta cải hoá tự tân, đổi mới cuộc đời hầu chúng ta có thể sinh hoa kết trái tươi tốt. Thánh Phaolô hôm nay cũng nhắc nhở mọi người:"Ai tưởng mình đứng vững, hãy ý tứ kẻo ngã ".
Mùa chay là cơ hội tốt và vận may cho chúng ta trở về với Chúa, chúng ta hãy vận dụng tốt nhất cơ hội này để sinh nhiều hoa trái tốt đẹp.
Lạy Chúa, xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi. Amen.
Trước những hoạn nạn hoặc tai họa xảy ra, người bàng quang thường bàn tán. Với người họ cho là: MC 3-C88:
Trước những hoạn nạn hoặc tai họa xảy ra, người bàng quang thường bàn tán. Với người họ cho là tốt, họ nhận định: "Ông bà nầy xem ra ăn ở phúc hậu, sao lại bị trời phạt như thế nầy!". Với người họ không thích, họ phê: "Ăn ở thất đức, trời phạt là phải". Quan niệm cho là người tội lỗi, ăn ở bất chính thì gặp phải bệnh tật, hoạn nạn, tai họa, là quan niệm rất phổ biến trong dân gian, nhất là thời xưa. Ở Do Thái thời của Đức Giêsu cũng thế. Nghe tin tổng trấn Phi-la-tô giết những người Galilê một cách tàn nhẫn trong đền thờ, hoặc những người bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, dân chúng kết luận: họ là người xấu, mắc tội nặng, cho nên mới bị chết một cách khủng khiếp như vậy. Họ xem tai họa là hậu quả của tội lỗi. Ai không bị tai họa thì có thể an tâm cho mình là người tốt.
Chúa Giêsu đã sửa quan niệm coi tai họa là hậu quả của tội lỗi và bảo: "Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy." Hoán cải và tin vào Tin Mừng của Chúa Giêsu chính là con đường dẫn vào Nước Thiên Chúa. Vì vậy, suy nghĩ về cuộc sống và chỉnh hướng cuộc sống theo Tin Mừng phải là thái độ sống liên lỉ của tất cả mọi kitô hữu.
Khi nghe đến từ sám hối, chúng ta nghĩ ngay đến việc ăn chay, hãm mình, đánh tội và bao việc lành chúng ta phải làm, để không bị Chúa đoán phạt. Thực ra, sám hối không tiêu cực như thế. Lời đầu tiên Đức Giêsu rao giảng là: "Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng" (MC 1,15). Triều Đại Thiên Chúa chính là sự sung mãn Thiên Chúa ban cho loài người, là ý nghĩa cuộc đời, là tương lai và hạnh phúc bất diệt của con người. Và Ngài ban tặng món quà đó qua chính con Ngài là Đức Kitô. Qua cuộc sống, các hoạt động, cuộc thương khó, cái chết và sự sống lại, Đức Kitô đã bộc lộ cho chúng ta biết Thiên Chúa là ai: Người là Tình yêu vô tận. Và Thiên Chúa ao ước cho chúng ta thực tâm đón nhận Tình yêu ấy và từ bỏ những gì cản trở chúng ta trên con đường đến cùng Người. Thiên Chúa không muốn chúng ta làm những việc đạo đức cách miễn cưỡng, sám hối sửa minh bề ngoài, nhưng yêu thương phải được đáp trả bằng yêu thương. Sống yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta, đó mới là hoán cải thật lòng, là sám hối cụ thể trong đời thường, thể hiện trong tình thương tha nhân, quan tâm đến người khác, tinh thần trách nhiệm, tình liên đới và giúp đỡ cụ thể. Sám hối thực lòng bắt đầu ở con tim và thể hiện ra hành động cụ thể. Và để sống trọn vẹn tình thương ấy, đôi khi chúng ta phải sửa đổi cách sống, nhất là tính ích kỷ và lòng ham muốn hưởng thụ.
Trong ý nghĩa đó, không thể hoán cải một lần là đủ, nhưng con người cần phải làm mãi trong cuộc đời. Không thể nói: tôi đã tốt đủ rồi, không cần phải sửa đổi nữa. Cũng không thể phàn nàn với Chúa: con còn phải làm gì nữa, để Chúa được vui lòng. Nhưng hãy tự hỏi: tôi còn có cách thế nào để bộc lộ lòng tri ân của tôi đối với Chúa, để làm chứng tá hơn nữa cho tình thương lớn lao Chúa dành cho tôi.
Mùa Chay thiết tưởng là thời gian thuận tiện để chúng ta suy tư về cuộc sống của chúng ta trước mặt Chúa, để khám phá những dấu chỉ tình thương của Thiên Chúa trong cuộc đời và trong cuộc sống thường ngày, để nhận định được những gì chúng ta còn có thể sửa đổi, để con đường chúng ta đi được đúng hướng. Lời kêu gọi của Chúa Giêsu không nhằm hăm dọa con người, nhưng là sứ điệp về lòng nhân hậu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Cảm nghiệm được tình thương của Người, chúng ta sẽ hoán cải, để đạt được niềm tin sâu xa hơn và cuộc sống bác ái cụ thể hơn.
Đứng trước cái chết thê thảm, đầy máu và nước mắt của những người bị Philatô giết, cũng như: MC 3-C89
Đứng trước cái chết thê thảm, đầy máu và nước mắt của những người bị Philatô giết, cũng như những người bị tháp Siloe đè bẹp, có những kẻ đã nghĩ xấu khi cho rằng sở dĩ những người này phải chết vì họ là những kẻ tội lỗi. Ý nghĩa độc ác đó, giống như một con dao đâm vào các nạn nhân đã chết. Và như thế, những người đã chết lại bị chết thêm một lần nữa.
Trước sự bất công và bất nhân ấy, Chúa Giêsu đã xác định không phải là như thế, đồng thời khuyên nhủ mỗi người hãy ăn năn hối cải, kẻo rồi sẽ bị Chúa huỷ diệt như vậy. Với những suy nghĩ trên, Ngài vừa minh oan cho các nạn nhân, vừa công bố cách Ngài sẽ xét xử sau này, đó là ai xét đoán ác nghiệt cho kẻ khác, thì cũng sẽ bị xét đoán ác nghiệt như vậy. Kẻ cho rằng các nạn nhân bị chết thê thảm là vì họ có tội, thì chính họ, nếu không sửa mình, cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy, vì họ đâu có vô tội hơn ai.
Từ đó chúng ta đi tới một kết luận thực hành, đó là đừng mất giờ lo chuyện suy diễn xấu cho người khác, kẻo gây khổ thêm cho họ và cho những người thuộc về họ, đồng thời cũng gây thêm tội và thêm hậu quả xấu cho chính bản thân mình. Điều Chúa muốn chúng ta quan tâm, đó là hãy lo chuyện mình bằng cách ăn năn sám hối và cải thiện đời sống của mình.
Đổi mới bản thân, cải thiện đời sống đó là điều chúng ta thường xuyên mong muốn. Chúng ta đã cố gắng, thế nhưng càng cố gắng chúng ta lại càng khám phá ra rằng: Tự sức riêng, chúng ta không thể ăn năn sám hối và cải thiện đời sống mình, trái lại phải cậy nhờ vào ơn Chúa giúp.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta hay biết về kinh nghiệm ấy. Chúa là người trồng cây, còn chúng ta là những cây vả không có trái. Ngài muốn chúng ta cải thiện nên đã trồng chúng ta vào vườn nho Hội Thánh. Rồi cũng chính Ngài đã chăm sóc chúng ta như người trồng cây đối với cây vả của mình. Nhưng chúng ta lại là những cây vả có trí khôn, có tự do, chúng ta có thể đón nhận hay không đón nhận ơn lành của Chúa. Chúng ta có thể sinh những hoa trái tốt, nhưng cũng có thể chẳng có hoa trái nào cả. Nguyên do là bởi chúng ta có biết đón nhận ơn Chúa hay không? Nghĩ tới đây hẳn chúng ta sẽ cảm thấy lo lắng cho số phận của chúng ta, bởi vì có những lúc chúng ta đã dửng dưng với ơn Chúa, đã từ chối ơn Chúa. Ý thức về thân phận yếu đuối, để rồi phó thác cho tình thương của Chúa, là chúng ta đã khởi đầu sự ăn năn. Tuy nhiên, tâm tình sám hối không chỉ dừng lại ở đó, mà còn phải tiến tới ba việc làm khác nữa, đó là cầu nguyện, hãm mình và làm việc bác ái, đặc biệt là bố thí giúp đỡ người nghèo.
Và như thế, chúng ta thấy tâm tình sám hối của chúng ta còn rất hời hợt. Điều Chúa mong đợi nơi chúng ta không phải chỉ là không còn phạm tội nữa, mà còn phải tích cực làm việc lành. Vì việc lành mới là những hoa trái thiêng liêng mà Chúa muốn có. Thế nhưng, bản thân chúng ta đã có được những hoa trái thiêng liêng ấy chưa, hay là đến giờ này, chúng ta vẫn chỉ là những cây vả không có trái?
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Người ta kể lại rằng vào thế kỷ đầu của Kitô giáo, trong thành phố Alexandria, có một vị ẩn sĩ rất nổi: MC 3-C90
Người ta kể lại rằng vào thế kỷ đầu của Kitô giáo, trong thành phố Alexandria, có một vị ẩn sĩ rất nổi danh tên là Hôrôniô. Ông đã bỏ cuộc sống xa hoa của kinh hoàng tráng lệ để vào ẩn tu trong sa mạc. Các nhân đức thánh thiện của ông được dân chúng đất nước Ai Cập biết đến, cũng như người ta biết đến cuộc sống trác táng của cô công chúa nổi tiếng thành Alexandria. Tức giận vì thấy ai cũng nhắc đến Hôrôniô, nàng công chúa nhất quyết vào tận sa mạc để cám dỗ ông phạm tội. Thế là nàng sửa soạn và ăn mặc rất khiêu gợi, lộng lẫy, đến vùng vị ẩn tu đang sống.
Vừa thấy bóng nàng, ông Hôrôniô đã lớn tiếng giảng: Hãy ăn năn hoán cải tâm lòng để khỏi phải chết đời đời. Hãy cải thiện nếp sống để có hạnh phúc đích thật. Các thú vui đời này như hoa kia sớm nở tối tàn, phù du và mau qua như giấc mộng. Hãy từ bỏ tội lỗi và tiến bước theo Chúa để được niềm vui vĩnh cửu.
Nàng công chúa vừa uốn éo, cười giỡn và nhìn sâu vào đôi mắt của vị ẩn sĩ như con rắn thôi miên con mồi. Trong khi đó Hôrôniô không ngừng giảng thuyết về cuộc đời hoán cải và gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa. Những lời ông nói như gươm đâm thấu lòng nàng. Và sau cùng, công chúa quyết tâm hoán cải. Nàng từ bỏ kinh tnành Alexandria tráng lệ, các tình nhân, tình yêu, cả cuộc đời trác táng, và vào ẩn tu trong sa mạc để kiếm tìm Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc thật. Trái lại, ẩn sĩ Hôrôniô miệng lo giảng giải, mà tấm lòng ông bị mê hoặc bởi sắc đẹp, mùi hương thơm xuất ra từ thân mình kiều diễm khiêu gợi của công chúa. Ông tự nhủ trong lòng: Tôi sẽ từ bỏ hang tối lạnh lẽo buồn bã này để thử nếm các vui thú của trần gian. Thế là sau bao năm tu luyện, ẩn sĩ trở lại kinh thành tráng lệ để lao đầu vào cuộc sống ăn chơi hưởng thụ và chết trong cảnh thân tàn ma dại. Còn nàng công chúa, sau những năm trác táng mệt nhọc đã hoán cải tâm lòng, tiến vào sa mạc, sống cuộc đời chay tịnh cầu nguyện và chết vì hao mòn khổ hạnh bên Chúa Giêsu tình yêu là kho tàng duy nhất của nàng.
Hoán cải tâm lòng để gặp gỡ Thiên Chúa, được hạnh phúc đích thực và được ơn cứu độ. Đó cũng là lời Chúa Giêsu kêu mời chúng ta trong Chúa nhật hôm nay, là thời gian Giáo Hội khuyến khích chúng ta tìm thời gian gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa.
Trong Phúc Âm của thánh Luca hôm nay ghi lại một vài biến cố thời sự Chúa Giêsu dạy các môn đệ và dân chúng biết học hỏi ý nghĩa các dấu chỉ của một biến cố trong đời, các tai ương như quan Philatô sát hại người Do Thái và biến cố tháp Siloe sập đè chết nhiều người, vì có các lý do nội tại và ngoại tại của chúng nó. Có gì lạ khi tháp xây lâu ngày nứt nẻ, đến nổi không còn đứng vững được nữa sập đè chết người. Có gì lạ khi một chính quyền đô hộ nghi ngờ mọi cuộc hội họp là mưu toan chống đối phản loạn, và ra lệnh giết mà không cần biết thực hư ra sao. Tháp sập theo luật vật lý, người ta hội họp bị sát hại vì đường lối và chính trị của con người tàn ác. Các nạn nhân là những người chẳng may gặp những hoàn cảnh đó, chớ không phải vì họ bị tháp đè chết hay bị sát hại, mà có thể giải thích hay kết luận là họ tội lỗi hơn những người khác nên Chúa phạt. Hay nói cách khác, không phải vì người gian ác tội lỗi không gặp các tai ương mà có thể kết luận họ là những người thánh thiện.
Các tai ương, các biến cố khổ đau, tội lỗi và bất công đó sẽ trở thành dấu chỉ. Đó là sấm sét báo động kêu mời mỗi con người hoán cải tâm lòng, thay đổi cuộc sống và canh tân phù hợp với cuộc sống tốt lành thánh thiện hơn, để đừng gây ra chết chóc và khổ đau cho người khác, để khỏi phải chết đời này và nhất là khỏi phải chết đời sau.
Kêu gọi loài người trở lại sống với Chúa, bởi vì ác giả ác báo, gieo gió thì gặt bão. Mỗi người sẽ gặp những gì mình đã gieo vào trong cuộc đời trên trần gian. Chính con người tự phạt mình qua kiểu cách sống tội lỗi gian tham đó. Vì Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, điều duy nhất Thiên Chúa muốn là họ hoán cải tâm lòng để hình ảnh Ngài trở nên trong sáng tinh tuyền. Đó là cuộc giải phóng vĩ đại nhất mà Thiên Chúa không ngừng tiếp tục trong lịch sử loài người. Cuộc giải phóng con người khỏi kiếp sống nô lệ tội lỗi, sự dữ và cái chết. Cuộc giải phóng đó là một cuộc giải phóng cụ thể toàn diện, liên hệ đến mọi bình diện cuộc sống chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và tôn giáo.
Để thực hiện nó, Thiên Chúa luôn luôn định mức trước và từ đó hiện ra cho con người như được kể trong sách Xuất Hành. Tường thuật của gặp gỡ giữa Môisê với Thiên Chúa trong sa mạc là một bằng chứng. Đối với các dân tộc Trung Đông, tên gọi của một người diễn tả bản chất của người đó. Giavê, tên của Thiên Chúa xuất phát từ động từ Hawah trong tiếng Do Thái, trong nghĩa thụ động nó diễn tả "sự hiện hữu", nhưng trong nghĩa chủ động, nó có nghĩa "trở thành, xảy ra, hoạt động dấn thân, can thiệp vào hay sống với".
Tên gọi mà Thiên Chúa mạc khải cho Môisê đây, chứa đựng một Tin Mừng vĩ đại. Thiên Chúa là Đấng sống với con người, luôn luôn hiện diện bên con người, luôn luôn dấn thân hoạt động và ra tay can thiệp để trợ giúp, giải thoát và cứu vớt con người. Cho dầu có sự việc gì xảy ra đi nữa, Thiên Chúa là Đấng giải thoát Israel, muốn và sẽ cứu độ loại người.
Tên gọi Thiên Chúa: "Lửa, khói, bão táp, v.v..." một thứ ngôn ngữ, kiểu cách mà Cựu Tân Ước quen dùng để diễn tả quyền năng siêu việt của Thiên Chúa. Cũng thế "bàn tay, cánh tay phải, v.v..." diễn tả sự chở che bênh đỡ của Ngài, đối với những người bé mọn, yếu đuối.
Đứng trước Giavê Thiên Chúa, Đấng hằng giải phóng và cứu độ con người, thái độ đúng đắn duy nhất mà tín hữu phải có là thái độ ký thác trọn vẹn. Mọi nghi ngờ, mọi than trách lẩm bẩm, phản kháng và chống đối, không diễn tả bươc tiến của niềm tin trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Và thường khi, đó là thái độ của những người không có lòng tin.
Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô chương 10, thánh Phaolô nhắn nhủ mọi người đừng lặp lại tội lỗi của cha ông họ ngày xưa đã từng lẩm bẩm than trách Thiên Chúa, vì không có khả năng nhận ra sự hiện diện giấu ẩn, nhưng sống động quyền năng và hữu hiệu của Ngài trong cuộc đời họ và trong lòng lịch sử thế gian.
Đời sống con người là một cuộc chiến đấu liên lỉ không ngừng. Không tìm đâu ra nơi nào mà không: MC 3-C91
Đời sống con người là một cuộc chiến đấu liên lỉ không ngừng. Không tìm đâu ra nơi nào mà không khỏi chiến đấu.
Một phần lớn dân Chúa đã phải bị chết trong sa mạc và không được vào đất Chúa hứa vì không chiến đấu. Qua tấm gương đó, thánh Phaolô nhắc nhở tín hữu thành Côrintô: bao nhiêu hồng ân của Thiên Chúa đừng đổ vào vết xe cũ, đừng tụ phụ mà quên chiến đấu. Vì ai tưởng mình đứng vững hãy coi chừng kẻo ngã. Sứ điệp của thánh Phaolô trong đoạn thánh thư trên đây thật rõ ràng. Các tín hữu Kitô cần phải thận trọng và đừng coi việc lãnh nhận phép Rửa tội và những việc đạo đức như một bảo hiểm chắc chắn sẽ được cứu rỗi, để rồi trở nên bất cẩn và quên chiến đấu với những yếu đuối, những cám dỗ của ma quỉ và những đam mê dục vọng của mình. trong bối cảnh của Mùa Chay, đoạn thư thánh Phaolô gởi tín hữu Côrintô cũng là một lời mời gọi các tín hữu Kitô tiến lên mừng lễ Phục sinh trong tinh thần khiêm tốn, với ý thức mình là người tội lỗi và luôn tỉnh thức để chiến đấu, bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới của Chúa Kitô Phục sinh.
Với Chúa nhật hôm nay, chúng ta đã tiến vào tuần III của Mùa Chay, chúng ta đã làm gì để đáp lại lời Giáo Hội kêu mời: Hãy ăn năn thống hối và tin vào Tin Mừng.
Là những người tự xưng là tín hữu Kitô, là những người tin, những người sống niềm tin của mình vào Đức Giêsu Kitô, nhưng thành thật với lòng, chúng ta phải thú nhận đức tin của chúng ta vẫn còn yếu kém, cuộc sống đức tin của chúng ta chưa nở hoa kết quả bằng những việc cụ thể để nối dài đời sống của Đức Giêsu như Ngài chờ đợi, như hình ảnh cây vả trong vườn nho được đề cập đến trong bài Phúc Âm hôm nay. Vì thế một trong những phương pháp để củng cố đức tin, một đức tin có việc làm đi kèm là nhìn ngắm và dõi theo mẫu gương của những kẻ có đức tin vững mạnh.
Bài đọc thứ nhất chúng ta vừa nghe đọc nhắc lại mẫu gương đức tin của ông Môisê. Khởi đầu cuộc hành ttrình đức tin của ngài có thể gom lược vào những diễn tiến sau đây: Trong lúc chăn dê trên núi, Môisê thấy dấu lạ, ngài đi để nhìn xem việc gì xảy ra, và đang lúc đi xem, ngài nghe tiếng Thiên Chúa gọi dẫn dắt dân tộc Do Thái qua khỏi cảnh nô lệ lầm than bên Ai Cập. Thấy bụi gai bốc lửa cháy mà không bị thiêu hủy, đi đến gần để nhìn cho rõ và nghe tiếng Chúa gọi. Đó là ba bước tiến xem ra đơn sơ nhưng diễn tả những giai đoạn xác thực của lịch sử ơn gọi của nhiều người có đức tin vững mạnh.
Những người như ông Môisê trước đó có tổ phụ Abraham và gần đây có những nhân vật lừng danh như mục sư Martin, như Đức Gioan XXIII, hay Mẹ Têrêxa Calcutta. Mỗi người trong họ đều khám phá giữa môi trường họ đang sống, có một cái gì đó lẽ ra không nên xảy ra: một dấu lạ, một câu hỏi khó giải quyết, một vấn đề nóng bỏng.
Abraham gặp vấn đề không có đồng cỏ cho đàn gia súc ngày một sanh sôi, và ngược lại không có con để nối dòng.
Môisê chạm trán với vấn đề bất công, bóc lột và đàn áp mà dân Do Thái phải gánh chịu trong cảnh sống ăn nhờ ở trên đất Ai Cập.
Đối với mục sư Martin, bụi gai cháy với một giọt nước cuối cùng đã nhỏ giọt trên cái ly đầy nước, làm phát động phong trào đấu tranh cho sự bình đẳng của người da đen trong xã hội Mỹ, là cảnh một phụ nữ da đen bị bắt giam khi trên một chuyến xe bus vì tự trọng, bà đã không đứng dậy để nhường chỗ cho một hành khách da trắng.
Còn Đức Gioan XXIII thấy Giáo Hội này có bổn phận dẫn dắt, cần phải được canh tân, một đàng để trở về nguồn Phúc Âm và đàng khác để đáp ứng với những vấn đề và những hoàn cảnh của cuộc sống tiên tiến của những thập niên của thế kỷ XX.
Trong khi đó thì Mẹ Têrêxa Calcutta khi đã thấy, Mẹ cảm nghiệm được tiếng gọi Mẹ phải làm một cái gì đó cho những người nghèo đói, bệnh tật kiệt sức đến đổi chỉ còn biết nằm chờ chết ở các vỉa hè của thành phố Calcutta, những người mà Mẹ Têrêxa thông cảm sâu xa, vì trong suốt cuộc đời họ chưa bao giờ kinh nghiệm được một nụ cười yêu thương, hay một tia hy vọng.
Tất cả những nhân vật kể trên và nhiều người khác nữa không chạy trốn khỏi những kẻ thương tâm, những vấn đề nóng bỏng. Ngược lại họ đã nhìn thẳng vào những vấn đề ấy, cố gắng tìm những biện pháp để giải quyết.
Như ông Môisê họ đã tự nói với mình: "Ta hãy lại xem cảnh tượng kỳ lạ này" Để rồi sau đó, họ càng xác tín là những hoàn cảnh thương tâm ấy cần phải thay đổi tận gốc rễ. Trong những tiếng kêu gào đòi phải có những biện pháp để thay đổi, họ nghe được tiếng nói của Thiên Chúa. Họ cảm nghiệm được mệnh lệnh không thể cưỡng lại được, một mệnh lệnh không cho phép họ chạy trốn trách nhiệm. họ cảm thấy như một con đường đã được vạch ra giữa những hoàn cảnh khó khăn, kêu gọi họ phải theo đó mà hành động. Abraham đã bỏ quê cha đất tổ để lên đường đi tìm một quê hương Thiên Chúa sẽ chỉ cho ông. Môisê đã tìm Pharaôn để tranh đấu cho cuộc xuất hành khỏi ách nô lệ lầm than của dân Do Thái. Martin đã đi phát động phong trào giải phóng người da màu ở Hoa Kỳ. Đức Gioan XXIII triệu tập Công đồng chung Vatican II và nữ tu Têrêxa đã trở thành bà Mẹ của những người nghèo.
Lắng tai nghe tiếng gọi vang lên từ những hoàn cảnh, chạm trán với cuộc sống hằng ngày, những nhân vật trên đây và nhiều người khác đã cảm thấy họ có trách nhiệm để sửa đổi. Vâng lời, cậy trông và nhất là đầy lòng tin và can đảm, họ đã lên đường khởi đầu một cuộc hành trình, một cuộc hành trình không thiếu những khó khăn vất vả, và nguy hiểm. Nhưng càng tiến bước họ càng nghe rõ tiếng gọi của Chúa. Họ càng khám phá Thiên Chúa không phải là Đấng ngự trên chín từng trời cao thẳm, nhưng Thiên Chúa là Đấng luôn quan tâm và thiết tha đến vận mạng của nhân loại và của từng cá nhân. Thiên Chúa là Đấng tuyên bố với ông Môisê: "Ta đã thấy dân chịu cơ cực ở Ai Cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than bởi kẻ bất công áp bức. Ta biết nỗi đau khổ của chúng". Và Thiên Chúa là Đấng đã quyết định giáng tai họa xuống trên người Ai Cập để cứu dân Do Thái và đưa chúng ra khỏi đất ấy, đến miền đất tốt tươi, đất tràn trề sữa và mật ong.
Ngay trong những hoàn cảnh xã hội chúng ta đang sống, chúng ta có thể khám phá ra những điều khác lạ với điều bị lửa cháy mà không thiêu hủy. Những vấn đề nóng bỏng chưa được giải quyết, những trạng huống kêu gào sự sửa đổi, những hoàn cảnh thương tâm kêu gọi những bàn tay băng bó những vết thương, những vấn đề khó khăn xảy ra cả trong chính gia đình hay ngoài thôn xóm.
Để sống niềm tin Kitô của chúng ta, chúng ta không thể bưng tai giả điếc, ngoảnh mặt làm ngơ. Chúng ta càng không có quyền chạy trốn thực tại, nhưng chúng ta hãy noi gương ông Môisê và những người có đức tin vững mạnh khác để đến gần xem cho rõ và nghe tiếng Chúa kêu gọi, hầu chung tay sửa đổi, chung sức tìm cách giải quyết những vấn đề nóng bỏng hay tỏ tình liên đới và rộng tay chia sẻ những gì mình có cho những kẻ không có gì. Và ít ra là trao tặng cho những người đang gặp những hoàn cảnh thương tâm một câu nói khích lệ, một nụ cười thông cảm. Đây có thể là tiếng Thiên Chúa gọi chúng ta. Để đặc biệt làm trong Mùa Chay, chúng ta tham gia vào quá trình thay đổi mới bộ mặt xã hội chúng ta đang sống. Nhưng thiết nghĩ, trong bầu khí ăn năn thống hối và trong trung tâm cuộc sống của Mùa Chay, chúng ta không nên quên câu châm ngôn: "Hãy thay đổi bộ mặt thế giới, nhưng hãy bắt đầu bằng cuộc sống thay đổi chính mình".
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay chỉ cho chúng ta thấy rằng: Thiên Chúa là Đấng nhân từ đầy lòng thương: MC 3-C92
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay chỉ cho chúng ta thấy rằng: Thiên Chúa là Đấng nhân từ đầy lòng thương xót, Người luôn cảm thông trước những nỗi khổ của con người và trước những nếp sống tội lỗi bất trung, Người luôn mong chờ sự hối hận ăn năn, từ bỏ tội lỗi trở về sống trong ân sủng và tình thương của Người.
Nơi bài đọc thứ nhất, những lời Chúa nói cùng Môisê chắc chắn vẫn còn vang dội đến ngày hôm nay: "Ta đã thấy dân Ta phải khổ cực ở Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than. Ta đã biết nỗi đau khổ của chúng và Ta đến cứu chúng". Khoảng 3,000 năm trước, Thiên Chúa đã nói với Môisê những lời đó, thì ngày nay, chắc chắn cũng chính Thiên Chúa duy nhất không bao giờ thay đổi đó cũng thấy, cũng nghe, cũng biết những nỗi đau khổ của con người thời đại. Chúng ta đừng tìm đâu xa, hãy nhìn vào chính bản thân mình, gia đình mình, xung quanh mình thôi, chúng ta đã nhận thấy biết bao đau khổ. Khổ vật chất do túng thiếu, bệnh tật, bất công. Khổ tinh thần như buồn phiền, thương nhớ, sợ sệt, lo âu... Trước tất cả những nỗi thống khổ đó Chúa đã nói: "Ta đã thấy, đã nghe và đã biết và này Ta đến để cứu chúng".
Trong lịch sử Chúa đã cứu dân Do Thái thế nào? Người không cứu họ như phù thủy quăng chiếc đũa thần trong nháy mắt biến buồn ra vui, đổi đau khổ thành hạnh phúc và con người mất cả tính người trở nên như một cái máy chỉ còn biết bị bắt buộc hướng về một chiều mà thôi. Không, Chúa đã cứu dân Người bằng một thời gian tôi luyện 40 năm trong sa mạc, trong cuộc hành trình về đất Hứa, đất tràn trề sửa và mật ong. Và để được cứu thoát, con người phải trung thành với Chúa, tin tưởng nơi Chúa. Dầu qua gian nan, qua thử thách, con người phải luôn nhớ như thánh vịnh 102 nhắc là: "Chúa là Đấng thương xót và nhân ái". Hãy tin tưởng nơi Chúa và rồi chỉ khi nào nhìn lại, chúng ta mới cảm thấy thấm thía những lời của thánh vịnh trên. "Hồn tôi ơi hãy chúc tụng Chúa và toàn thể thân tôi hãy chúc tụng danh Người. Hồn tôi ơi hãy chúc tụng Chúa và đừng bao giờ quên các ân huệ của Người".
Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô áp dụng vào Tân Ước hình ảnh trong Cựu Ước. Môisê dắt dân Chúa qua biển Đỏ, nuôi dân chúng bằng Manna trong sa mạc, giải khát dân chúng bằng nước từ tảng đá chảy ra. Trong Tân Ước, chính Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa dắt chúng ta vào đời sống mới qua bí tích Thánh Tẩy, nuôi dưỡng chúng ta bằng của ăn cực thánh là Bí Tích Thánh Thể và uống nước từ tảng đá mà thánh Phaolô nói rõ, tảng đá ấy chính là Chúa Kitô. Và thánh nhân cũng nhắc nhở rằng cuộc thanh tẩy 40 năm ở Cựu Ước đã được ghi chép để răn bảo chúng ta, là những người đang sống trong thời đại cuối cùng đã được thanh tẩy tôi luyện, thì những ai bất xứng, những ai cố chấp chắc chắn là tự mình tạo lấy sự hủy diệt cho mình. Và chỉ những ai trung thành sống theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa mới được vào đất Hứa. Vì thế, kết luận bài đọc thứ hai, thánh Phaolô nhắc nhở phải bền đổ đến cùng. Ngài nói rõ: "Ai tưởng mình đang đứng vững hãy ý tứ kẻo ngã".
Trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu cũng cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng thương xót và nhân ái. Trước tiên, Người dạy chúng ta đừng kết án ai, cũng đừng trách móc Chúa theo sự kiện xảy ra. Biết bao nhiêu người khi thấy một điều bất hạnh xảy đến cho mình hay cho những người mình yêu mến thì hay phàn nàn: Thật là bất công, tôi đã làm chi mà Chúa để cho tôi phải chịu như thế này? Trái lại, khi điều bất hạnh xảy đến cho những người mà họ không ưa thì câu nói ở cửa miệng thường là: Thật trời có mắt hay Chúa công bình vô cùng. Con người hay gán cho Thiên Chúa những gì họ nghĩ trong lòng họ. Thiên Chúa công bình vô cùng, nhưng suốt đời sống con người ở trần gian, Thiên Chúa vẫn là Cha nhân từ vô cùng. Người không thất vọng nhưng luôn chờ đợi những hoa quả tốt tươi trong đời sống con người. Chúa luôn ban ơn săn sóc và mong cho cuộc đời chúng ta đơm hoa kết trái.
Nghe qua dụ ngôn trong Phúc Âm về sự kiên nhẫn chờ đợi, mong mỏi những gì tốt đẹp xứng với sự chăm nom của chủ vườn, chúng ta hãy thấy được tình yêu thương, lòng nhân từ, sự kiên nhẫn của Thiên Chúa đối với con người và cố gắng trở về cùng Chúa nhất là trong Mùa Chay này. Vì "đây là lúc thuận tiện, đây là thời cứu độ".
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi hãy đặt câu hỏi: Phải bắt đầu từ đâu để cải tạo thế giới? Và tôi sẽ nghe được tiếng trả lời: Hãy bắt đầu từ chính bản thân tôi. Cải tạo thế giới, công việc quá to lớn vĩ đại, nhưng mỗi người hãy bắt đầu từ bản thân mình và rồi thế giới sẽ tươi đẹp. Vậy tôi hãy cố gắng sửa chữa một nết xấu tôi biết là quan trọng của tôi trong Mùa Chay này và ngay ngày hôm nay. Xin Chúa nhận lấy lòng thành của tôi và giúp đỡ tôi.
ĐẤNG TỪ BI VÀ HAY THƯƠNG XÓT CHẬM BẤT BÌNH VÀ HẾT SỨC KHOAN NHÂN
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)
Trong cùng một thời gian, dân chúng tại Phi Luật Tân đã xúc động mãnh liệt vì hai vụ án: MC 3-C93:
Trong cùng một thời gian, dân chúng tại Phi Luật Tân đã xúc động mãnh liệt vì hai vụ án:
- Vụ án thứ nhất diễn ra tại Phi Luật Tân. Một tòa án địa phương gần Manila đã tuyên án phạt bảy lần chung thân một viên thị trưởng và sáu đồng bọn vì tội hãm hiếp và giết người. Đa số người dân Phi đều biểu lộ sự hài lòng vì công lý đã được thực thi. Một số người khác thì lại tỏ ra bất mãn vì cho rằng hình phạt tương xứng với tội nhân này lẽ ra là phải tử hình.
- Vụ án thứ hai diễn ra tại Singapore. Một phụ nữ Phi Luật Tân vốn làm nghề "giúp việc nhà" tại Singapore đã bị toà án tại nước này xử tử hình vì tội giết người. Tối thứ Năm, tại Manila cũng như nhiều nơi khác tại Phi Luật Tân, nhiều tín hữu công giáo Phi đã canh thức suốt đêm để cầu nguyện cho việc thực hiện bản án được hoãn lại. Và vụ án cần phải được xét lại bởi vì theo nhiều người Phi, người phụ nữ này vô tội. Tuy nhiên, mặc cho phản đối của người dân Phi, và mặc cho lời cầu cứu của Tổng Thống Phi Luật Tân, sáng thứ Sáu, chính phủ Singapore đã ra lệnh treo cổ người phụ nữ Phi theo đúng qui định của hình luật nước này.
Phản ứng của người dân Phi Luật Tân qua hai vụ án trên đây xem ra cũng là phản ứng thông thường của con người. Dù bất cứ nơi nào và thời đại nào, có tội thì phải bị trừng trị và kẻ vô tội thì phải được giải oan. Thời Chúa Giêsu xem ra người Do Thái cũng có một quan niệm tương tự. Cho dẫu được lồng vào trong cái nhìn tôn giáo, khi tổng trấn Philatô ra lệnh hành quyết một số người Galilê nổi loạn, thì nhiều người Do Thái cho rằng những người này lãnh một hình phạt tương xứng với tội lỗi của họ. Họ là những con người có tội cho nên cần phải bị trừng trị. Số phận của 18 người bị tháp Silôê đổ xuống đè chết cũng được nhiều phán quyết tương tự: họ bị Chúa trừng phạt vì họ là người tội lỗi.
Cùng với tự do hạnh phúc và những giá trị cơ bản khác, công lý là điều mà con người không ngừng khao khát và tìm kiếm. Tuy nhiên cái khái niệm công lý nơi con người thì hạn hẹp và sự thực thi công lý lại càng bất toàn hơn. Trong những chế độ độc tài, có biết bao nhiêu người bị giam giữ vì bất đồng chính kiến, có biết bao nhiêu người chết rũ tù mà không hề được xét xử. Còn nay trong những chế độ thật sự có tự do, vẫn có biết bao nhiêu người bị hàm oan, còn bao nhiêu kẻ gian ác thì vẫn không hề sa lưới pháp luật. Nơi đây, người ta đòi lập bản án tử hình. Nơi kia người ta tranh đấu để bãi bỏ. Quả thật trên trần gian này khát vọng về công lý của con người không bao giờ được thỏa mãn hoàn toàn. Chính vì thế mà khi nhận định về số phận của những người bị Philatô sát hại, cũng như những nạn nhân của vụ tháp Silôê đổ xuống đè chết, Chúa Giêsu đã mời những người Do Thái của thời đại này hãy vượt qua cái quan niệm thông thường về công lý của con người: "mắt đền mắt, răng đền răng", "có vay có trả", "tôi cho bạn là để bạn cho tôi lại". Đó là cái quan niệm thông thường của con người về công lý. Tuy nhiên, khi đưa ra thí dụ về cây vả, Chúa Giêsu lại đưa con người vào trong một cái nhìn mới. Đó là cái nhìn của kiên nhẫn, của khoan dung và tha thứ. Đó là cách thế Thiên Chúa đối xử với con người. Theo công lý của loài người, thì cây vả không sinh trái phải bị chặt quăng đi tức khắc. Thế nhưng, cái nhìn của Thiên Chúa là cái nhìn của "Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân" như chúng ta vừa đọc trong bài đáp ca.
"Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng", lời kêu gọi sám hối của Chúa Giêsu luôn gắn liền với Tin Mừng của tình yêu, của sự tha thứ, của lòng khoan dung vô bờ của Thiên Chúa. Sám hối không chỉ là nhìn nhận thân phận tội lỗi yếu hèn của mình, mà thiết yếu là tin vào tình yêu của Thiên Chúa. Nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình và tin vào tình yêu của Thiên Chúa, đây cũng chính là chìa khóa của sự hài hòa trong cuộc sống xã hội.
Sau khi Đavít phạm tội ngoại tình và giết người, ông vẫn ung dung tự tại như không hề có gì xảy ra. Thế rồi, tiên tri Nathan được Chúa sai đến gặp ông và kể về chuyện bất công của một người hàng xóm nọ. Đavít nổi giận, ông đòi trừng trị tức khắc kẻ bất nhân. Lúc bấy giờ Nathan mới nói: "Con người bất nhân đó chính là ông". Lúc bấy giờ Đavít mới chợt bừng tỉnh, ông nhận ra cái thân phận tội lỗi yếu hèn của mình. Chúng ta vốn mù quáng về mình nhưng lại nhạy cảm trước sự yếu đuối của người khác, đó là mầm móng của thái độ bất khoan dung. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sám hối nghĩa là nhận ra thân phận tội lỗi của mình, nhưng thiết yếu là phải tin tưởng vào lượng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa. Cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa, chúng ta được mời gọi để thể hiện chính sự tha thứ và khoan dung với tha nhân. Quan hệ giữa người với người lúc đó sẽ không còn là "mắt đền mắt, răng đền răng" nữa, mà sẽ là thông cảm tha thứ. Cuộc sống xã hội sẽ không chỉ được điều khiển bởi thứ công bình có vay có trả, mà cần phải được xây dựng trên sự tha thứ, lòng quảng đại vô vị lợi.
Thánh lễ chính là sự thể hiện của ơn tha thứ của Chúa. Chúng ta đến đây để đón nhận ơn tha thứ một cách nhưng không, chúng ta cũng được mời gọi để thể hiện sự tha thứ một cách nhưng không. Chỉ có điều kiện đó, chúng ta mới xứng đáng cầu nguyện: "Xin Cha tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con" trước khi chúng ta rước Mình và Máu Chúa Kitô.
Dụ ngôn cây vả được trồng trong vườn nho, được chăm sóc chu đáo mà không mang lại hoa trái,: MC 3-C94
Dụ ngôn cây vả được trồng trong vườn nho, được chăm sóc chu đáo mà không mang lại hoa trái, khiến người chủ vườn thất vọng và muốn chặt bỏ đi, vẫn được tái diễn hằng ngày, như trường hợp điển hình sau đây:
Một sinh viên được cha mẹ cho đi học ở thành phố. Cha mẹ ở miền quê một nắng hai sương, cực nhọc đêm ngày, cắm đầu cắm cổ làm việc hùng hục như trâu, cần cù như kiến, nhịn ăn nhịn tiêu để đầu tư tất cả cho con học hành với hy vọng con trai mình có ngày đổ đạt kỹ sư, có công ăn việc làm, có đồng lương cao để báo đáp công ơn cha mẹ.
Nào ngờ, đứa con không dùng tiền cha mẹ đầu tư cho mình để học hành cho thành đạt, lại đổ tiền vào việc ăn chơi đàng điếm, rồi dần hồi trở thành người nghiện ma tuý, nhiễm HIV, và trở nên một tên côn đồ.
Bao nhiêu đồng tiền xương máu cha mẹ dồn cho anh ta như muối bỏ biển. Đã mất tiền, lại mất con, cha mẹ vô cùng thất vọng và đau khổ vì con.
Đây cũng là một thứ cây vả không sinh trái khiến người chủ vườn thất vọng nên muốn chặt bỏ đi.
Như người cha người mẹ tốt lành, Thiên Chúa cũng đầu tư cho chúng ta rất nhiều, chăm sóc chúng ta rất chu đáo. Ngài đem trồng chúng ta vào vườn nho Hội Thánh của Ngài. Ngài đã dùng lời Ngài để uốn nắn chúng ta, dùng lời dạy của Hội Thánh để hướng dẫn chúng ta, dùng máu Ngài đổ ra trên thập giá để cứu chuộc chúng ta khỏi chết, dùng Mình Thánh Ngài để thông ban sự sống đời đời cho chúng ta. Nói tóm lại, chẳng có gì Ngài có thể làm mà lại không làm để nâng đỡ cứu vớt chúng ta, để giúp chúng ta nên người hoàn thiện. Thế nhưng thay vì sử dụng ân huệ của Ngài để cải thiện đời sống và nâng cao phẩm chất cho xứng với tầm vóc người con cái Chúa, chúng ta đã sử dụng ân huệ dồi dào Chúa ban để làm điều bất xứng, làm suy giảm nhân cách, làm ô danh Chúa, làm đau lòng cho Ngài.
Nếu chúng ta cứ tiếp tục hành động như thế mà không sửa mình, thì như lời Chúa Giê-su cảnh báo hôm nay, số phận của chúng ta sẽ y như số phận của cây vả đã được chăm bón đầy đủ nhưng không sinh trái, là bị chặt bỏ đi, bị huỷ diệt đời đời trong đau khổ như các nạn nhân được đề cập trong Tin Mừng hôm nay.
Vậy muốn sống còn và được hưởng phúc đời đời với Chúa, chúng ta phải dùng thời giờ và ân huệ Chúa ban để ăn năn sám hối.
Tội lỗi là khối u ác tính; sám hối là cắt bỏ khối u để cứu toàn thân, vì nếu không, thì toàn thân phải chết: "nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt"
Phạm tội là đi trệch đường Chúa như tàu đi trật đường rầy; sám hối là quay về chính lộ để khỏi sa vào chỗ chết: "nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt".
Con người vướng mắc tội lỗi cũng y như ngôi nhà bị bén lửa, lửa sẽ lan nhanh và thiêu rụi ngôi nhà; sám hối là dập tắt ngọn lửa kịp thời để cứu toàn bộ ngôi nhà khỏi cháy. "Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ bị huỷ diệt". Lạy Chúa Giê-su, Chúa như người làm vườn nhân hậu đã nài xin Chúa Cha hoãn lại cho chúng con thêm một thời gian nữa để chăm sóc cho chúng con, hầu mong chúng con sinh hoa trái tốt;
Xin đừng để chúng con làm cho Chúa thất vọng vì không sinh trái mà lại sinh toàn gai góc.
Xin cho chúng con biết tận dụng thời giờ còn lại để lập thêm công đức, để sinh nhiều hoa trái tốt, hoa trái vật chất cũng như hoa trái thiêng liêng, nhờ đó cuộc đời chúng con thêm tươi đẹp và chúng con sẽ làm vinh danh Chúa bằng đời sống cao đẹp của mình.
Có ai đó đã nói rằng: "lầm lỗi là của con người, tha thứ là của Thiên Chúa". Có lẽ đúng. Vì nhân: MC 3-C95
Có ai đó đã nói rằng: "lầm lỗi là của con người, tha thứ là của Thiên Chúa". Có lẽ đúng. Vì nhân vô thập toàn. Vì con người bị giới hạn bởi tri thức, bởi văn hoá, bởi sự giáo dục... Tất cả những điều đó làm cho con người không sao tránh khỏi những lầm lỗi và thiếu sót. Nhìn vào những gì đang diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, cho chúng ta thấy: có những người vì sự hiểu biết nông cạn, cộng thêm sự kiêu căng ngạo mạn nên hành động thiếu chín chắn và hồ đồ gây nên biết bao đau khổ cho anh em. Nhất là những người lãnh đạo nếu không khiêm tốn nhìn nhận sự khiếm khuyết của mình sẽ là mối hiểm họa cho tập thể mình đang sống. Có những người bởi thiếu văn hoá nên nói năng bừa bãi, thiếu lễ độ và bất lịch sự khiến người nghe cảm thấy bị xúc phạm. Có những người vì môi trường giáo dục thiếu lành mạnh nên sống buông thả và lười biếng gây nên biết bao tệ nạn xấu cho xã hội. Đáng tiếc thay nhiều người đã hành động đến mất ý thức về chân thiện mỹ. Họ đã tiếp tay với ma qủy để gieo sự dữ vào thế gian. Họ là người nhưng lại hành động thiếu lý trí, thiếu tự chủ của ý chí. Cuộc sống sai lệch của họ đã gây nên biết boa hệ lụy đắng cay cho bản thân và gia đình. Dầu vậy, tình yêu của Thiên Chúa còn lớn hơn tội lỗi con người. Chúa đã không đối xử với chúng ta theo như chúng ta đáng tội, nhưng Ngài luôn lấy lòng từ bi để yêu thương và tha thứ cho những lầm lỗi của chúng ta.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối khi thời gian còn thuận tiện. Đừng thử thách Thiên Chúa nhưng hãy thật lòng ăn năn trở về cùng Chúa. Sự trở về không chỉ là hành vi đấm ngực ăn năn về tội đã phạm mà còn phải sống theo lời mời gọi của Chúa: "Hãy sinh hoa kết trái xứng với lòng ăn năn thống hối". Hoa trái của sự thánh thiện. Hoa trái của việc lành phúc đức. Hoa trái của đời sống công bằng bác ái. Hoa trái của đời sống yêu thương và phục vụ mọi người. Xem ra đường trở về là không khó. Cái khó là ở việc sinh hoa kết trái. Làm sao chúng ta có thể sống thanh sạch, đang khi còn sống giữa thế gian mà sự dâm ô, tục tĩu, lăng loàn đang có mặt mọi nơi và mọi chốn? Làm sao làm việc lành phúc đức, đang khi phải cố gắng bươn chải với kế sinh nhau, với miếng cơm manh áo từng ngày? Làm sao giữ được công bằng bác ái, đang khi sống giữa thế gian đầy bất công và hận thù? Làm sao sống yêu thương và phục vụ đang khi nhu cầu của bản thân vẫn thiếu thốn tư bề?
Sinh hoa kết trái là khó nhưng đó là quy luật của sự tồn tại. Cây không sinh hoa kết trái là tự hủy diệt mình. Cây có sinh trái. Trái mới cho hạt. Hạt mới nẩy sinh cây để đơm hoa kết trái. Quy luật tuần hoàn là thế. Cuộc sống con người cũng vậy. Con người chỉ nhận được niềm vui của sự an bình và hạnh phúc, khi biết gieo yêu thương vào đời. Con người chỉ tồn tại khi biết xoá bó những trái đắng của bất công và hận thù. Thế nhưng, biết bao người vì lòng tham đã tự giết đời mình trong những đam mê của danh lợi thú. Biết bao người vì những tham sân si đã trở thành trái cay, trái đắng cho đời những phiền lụy đắng cay. Làm người phải biết sống yêu thương. Tình yêu thương không cho phép chúng ta sống lỗi công bình bác ái với tha nhân, và càng không cho phép chúng ta dửng dưng trước sự bất hạnh của anh em. Lòng yêu thương đòi buộc chúng ta phải yêu tha nhân như chính mình. Mỗi người hãy biết sống vì người khác. Ai cũng cầu cho mình được bình an hãy biết kiến tạo bình an cho tha nhân. Ai cũng mong muốn được sống hạnh phúc hãy gieo niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Ai cũng muốn được quan tâm chăm sóc, hãy biết cho đi để được nhận lại. Đó cũng là điều mà Chúa từng mời gọi chúng ta: "Điều gì anh em muốn người khác làm cho mình thì hãy làm cho anh em như vậy".
Hơn nữa, gieo yêu thương sẽ không bao giờ thua lỗ. Gieo yêu thương sẽ gặt hái được biết bao hoa trái của tình yêu. Càng gieo yêu thương càng được đón nhận nhiều những nghĩa cử yêu thương. Khi gieo yêu thương thì hận thù tan biến; bác ái sẽ nở hoa, công lý và hoà bình sẽ đơm bông kết trái. Người gieo yêu thương sẽ gặt hái được cây sự sống mang lại hạnh phúc trường sinh.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết sống yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta. Biết sống cho đi để được nhận lại. Biết chết đi những đam mê ích kỷ của mình để trở nên khí cụ mang tin yêu và hạnh phúc gieo vào nhân thế hôm nay. Amen.
Những câu chuyện Lời Chúa thuật lại trong Thánh Lễ hôm nay mở ra một lối nhìn mới mẻ vào cuộc: MC 3-C96
Những câu chuyện Lời Chúa thuật lại trong Thánh Lễ hôm nay mở ra một lối nhìn mới mẻ vào cuộc sống mỗi con người và mỗi xã hội:
Cuộc sống trong tất cả diễn trình tự nhiên của nó giống như cuộc đời Môsê, xem ra là do những ý muốn của những con người và xã hội tương tác làm nên, cũng như mạng sống của mấy người Galilê trong Tin Mừng được định đoạt bởi quan Philatô, hoặc như 18 người bị tháp Siloê đổ xuống đè chết chỉ là một biến cố tất yếu trên bình diện khoa học... Con người, bằng ý chí, bằng khả năng, bằng những điều kiện mình có đã viết và uốn nắn lịch sử ... và đấy là tham vọng của bao nhiêu thế hệ lãnh tụ, cũng là tham vọng tột cùng của mọi thứ ý thức hệ. Người ta đã nỗ lực giải trình mọi lịch sử để rút ra những bài học cho thời hiện đại trong những hệ thống và tổ chức chính trị, kinh tế và xã hội...
Nhưng Lời Chúa vén mở một chiều kích hoàn toàn mới mẻ: Lịch sử nhân loại và vũ trụ là những bụi gai mang nơi mình nó tất cả sự mỏng dòn tự nhiên của nó, nhưng vẫn có đó một ngọn lửa bừng cháy giữa bụi gai, bụi gai bốc lửa nhưng không hề bị thiêu rụi. Mọi con người đều phải đi tới một chung cuộc là cái chết, nhưng ở đây Abraham, Isaac, và Giacob trong lòng tin của con cháu vẫn tồn tại trong một cuộc sống khác nơi Yavê Thiên Chúa. Lịch sử nhân loại còn là lịch sử Thiên Chúa đến gặp gỡ con người và gọi họ cam kết và dấn thân vào giao ước tình yêu với Ngài. Thiên Chúa đã đến trong lịch sử nhân loại giống như ngọn lửa bừng cháy giữa bụi gai: không hề tiêu hủy nó. Con người vẫn còn trọn vẹn tự do . Và thực tiễn là họ đã từ khước Tình Yêu Thiên Chúa. Lịch sử giao ước vì vậy còn là lịch sử của sự tha thứ và làm mới lại Giao Ước. Thời gian lịch sử của mỗi con người, mỗi xã hội vì vậy còn là thời gian được trì hoãn cho một vụ mùa mới với những hoa trái thơm ngon: như cây vả trong Tin Mừng.
Bài học lịch sử như Thánh Phaolô phân tích còn được nuôi dưỡng bởi thức ăn và thức uống vọt lên từ tảng đá là Đức Kitô. Vì thế lịch sử ấy dạy ta đừng chiều theo những dục vọng dẫn tới sự hủy diệt.
Abraham, Isaac, Giacob mặc dù đã chết, nhưng vẫn còn sống không chỉ trong lòng tin của Israel, nhưng là sống trong Thiên Chúa, Đấng hằng sống. Và điều lớn lao tôi gặp được trong mạc khải của Lời Chúa hôm nay là Thiên Chúa đã coi sự tồn tại của Abraham, Isaac và Giacob là chính Danh Ngài. Thế nhưng, sự sống mà tôi được kêu gọi tới, miền đất được hứa ban là đất Thánh. Tôi được kêu gọi phải giũ bỏ bụi trần... Thiên Chúa kiên trì chờ đợi tôi hoán cải trở về.
Mời gọi hoán cải là một trong những lời mời gọi chính yếu của Mùa Chay Thánh. Bài Tin Mừng: MC 3-C97
Mời gọi hoán cải là một trong những lời mời gọi chính yếu của Mùa Chay Thánh. Bài Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh lời mời gọi đó. Bài Tin Mừng bắt đầu bằng một mẩu tin thời sự, như chúng ta vẫn thường gặp trong các trang báo hàng ngày: “Khi ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng” ( c. 1 ). Có lẽ câu chuyện xảy ra vào dịp lễ Vượt Qua, khi những người Do Thái bình thường có thể tham dự vào việc tế lễ tại đền thờ. Theo cách hiểu của người Do Thái, hành động của ông Philatô ở đây rất nghiêm trọng: vừa xúc phạm đền thờ vừa vi phạm korban ( những của lễ đã dâng cho Thiên Chúa ).
Mấy người đến kể cho Đức Giêsu nghe câu chuyện đó là ai, và họ kể với mục đích gì ?
Có người cho rằng sở dĩ người ta kể cho Đức Giêsu về tội ác đó của ông Philatô là vì tính chất đáng quan tâm của sự việc, do bởi Đức Giêsu cũng là người Galilê. Như thế, mục đích người ta nhắm đến có thể hoặc là nhằm kích động Đức Giêsu chống lại ông Philatô và chính quyền Rôma hầu có cớ tố cáo Người, hoặc là nhằm khơi gợi tinh thần yêu nước của Đức Giêsu và thúc đẩy Người tham gia các phong trào nổi loạn. Nói cách khác, thông tin về tội ác của ông Philatô được lợi dụng để tác động tâm tư và hành động của Đức Giêsu. Tuy nhiên, phản ứng và những phát ngôn của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng không tiền giả định một hoàn cảnh như thế.
Vì vậy, nhiều người hiểu câu chuyện theo hướng khác. Theo đó, vấn đề có thể là do mấy ông kinh sư nêu lên. Họ thông tin cho Đức Giêsu về một sự kiện xảy đến trong thực tế, và bao hàm trong thông tin đó là một vấn đề thần học về sự công chính của Thiên Chúa. Theo quan niệm phổ biến thời bấy giờ, tai hoạ là một án phạt của Thiên Chúa vì tội lỗi người ta đã phạm. Vậy phải hiểu như thế nào về cái chết thê lương của các người hành hương vào chính lúc họ đang thực hiện một hành động đạo đức là hiến dâng lễ tế cho Thiên Chúa ?
“Đức Giêsu đáp lại rằng: "Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao ? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không hối cải, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy” ( cc. 2 – 3 ). Đức Giêsu trả lời trực tiếp cho những người vừa kể cho Ngài câu chuyện. Người lưu ý họ đừng rút ra từ sự kiện những kết luận sai lầm, và Người nhấn mạnh đâu là điều họ cần phải thực hiện.
Như trên đã nói, theo một quan niệm khá phổ biến đương thời, mọi tai hoạ xảy đến đều là án phạt của Thiên Chúa vì tội lỗi người ta đã phạm. Theo quan niệm đó, từ cái chết thê lương của những người Galilê kia, có thể rút ra kết luận rằng đó là những kẻ tội lỗi bị trừng phạt vì tội của họ, và rằng những người còn lại, vốn không phải chịu tai hoạ thê lương như thế, không phải là những kẻ tội lỗi. Vì thế, những người này có thể an tâm và tiếp tục cuộc sống như họ đang sống.
Đức Giêsu mạnh mẽ từ chối cách lý giải đó và nhấn mạnh rằng mọi người đều cần phải hối cải. Mọi người đều có tội và đều cần ơn tha thứ của Thiên Chúa, và do đó, mọi người đều phải hối cải và thay đổi đời sống thì mới mong có thể đứng vững trong ngày phán xét của Thiên Chúa. Như thế, câu trả lời của Đức Giêsu rất rõ ràng: cái chết thê lương của những người Galilê kia không phải là sự trừng phạt của Thiên Chúa. Cái chết đó phải được nhìn như một dấu hiệu cảnh tỉnh mọi người, mời gọi mọi người hối cải.
Tiếp đó, về phần mình, Đức Giêsu đưa ra một trường hợp khác, nhưng với cùng một kết luận: “Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao ? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu hối cải, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy” ( cc. 4 – 5 ). Rõ ràng Đức Giêsu muốn nhấn mạnh cách đặc biệt lời mời gọi mọi người hối cải.
Đức Giêsu đã dùng một kiểu nói rất mạnh: “Nếu các ông không chịu hối cải, thì các ông cũng sẽ chết hết”. Phải chăng Đức Giêsu tự mâu thuẫn? Người vừa từ chối cách hiểu thảm hoạ là sự trừng phạt, nhưng lập tức lại có vẻ chấp nhận quan điểm đó. Chắc chắn không phải như vậy nếu chúng ta hiểu: cái chết mà Đức Giêsu nói đến ở đây, là cái chết thuộc bình diện khác hẳn với cái chết thể lý của những người Galilê bị ông Philatô giết, hay cái chết thể lý của những nạn nhân vụ tai nạn thảm khốc ở chỗ tháp Silôác. Đức Giêsu biết rằng ngay chính bản thân Người cũng sẽ phải chết, và thực tế là cũng chính ông Philatô kia sẽ kết án tử hình Người. Vậy cái chết dành cho những kẻ không hối cải mà Đức Giêsu nói ở đây là một cái chết khác: sự hư mất đời đời.
Một điều cần chú ý: rõ ràng Đức Giêsu đã không bận tâm đến tình trạng luân lý của các nạn nhân trong cả hai câu chuyện, và không đặt cái chết cá nhân của họ trong tương quan với sự hối cải của chính họ. Người không đưa ra bất cứ nhận định nào về tình trạng luân lý và về số phận chung cục của các nạn nhân trong cả hai câu chuyện. Người chỉ tận dụng chính những sự kiện đã xảy ra để đề cập đến một nội dung có liên quan mật thiết đến lời rao giảng về Nước Thiên Chúa của Người: Nước Thiên Chúa đã đến gần và tính cách bất ngờ của sự kiện Nước Thiên Chúa đến đòi hỏi mọi người phải luôn ở trong tư thế sẵn sàng.
Đàng khác, cũng cần chú ý rằng Thánh Luca đã không cho biết thời điểm xảy ra các sự kiện bi thảm kia và không nói gì về phản ứng tâm lý của Đức Giêsu khi Người biết thông tin về những sự kiện đó. Vì thế, sẽ là vô ích và thậm chí là sai lầm khi rút ra từ đoạn Tin Mừng này kết luận rằng Đức Giêsu là một người không quan tâm gì đến tình hình chính trị và đến cách hành xử quyền hành của ông Philatô và chính quyền Rôma, hoặc cho rằng Đức Giêsu lãnh đạm đối với khát vọng thoát ách đô hộ của dân mình, hoặc nghĩ rằng Đức Giêsu thờ ơ trước trách nhiệm của những thợ xây bất cẩn đã để xảy ra những tai nạn thương tâm. Điều tác giả Luca quan tâm ở đây là lời mời gọi hối cải dành cho mọi người.
“Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: "Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: "Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất ? Nhưng người làm vườn đáp: "Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi” ( cc. 6 – 9 ).
Cây vả là biểu tượng cho Giuđa hoặc cho Israel, theo Hs 9, 10; Gr 8, 13; 24, 1 – 10; Mk 7, 1. Đàng khác, trong lời rao giảng của ông Gioan Tẩy Giả, người ta đã gặp hình ảnh cái cây bị đốn khi nói về phán quyết của Thiên Chúa đe doạ Israel ( Lc 3, 9 ). Nhưng dụ ngôn mà Đức Giêsu kể ở đây không chỉ muốn nói đến số phận của Israel, mà còn là số phận của mọi người. Vậy khi kể dụ ngôn cây vả không sinh trái Đức Giêsu nhấn mạnh đòi hỏi mà Người đã nói ở trên: mọi người đều phải tận dụng thời gian còn lại để hối cải và sinh hoa trái.
Đã ba năm ông chủ vườn tìm trái nơi cây vả trong vườn mình, nhưng không thấy. Ông quyết định chặt cây vả đi: một năm không ra trái còn tạm chấp nhận được, đàng này đã ba năm; để cây vả này lại thì chỉ làm hại đất, vì nó không sinh trái. Nhưng rồi thực tế cây vả được giữ lại trong vườn thêm một năm nữa và được hưởng một sự chăm sóc đặc biệt. Vậy đây sẽ là vận may cuối cùng của nó. Nó sẽ chỉ còn một con đường sống: sinh hoa kết trái.
Dụ ngôn này không cần phần áp dụng. Người nghe có thể tự hiểu sứ điệp. Sẽ là sai lầm khi nghĩ rằng vì Thiên Chúa không can thiệp nhưng vẫn để cho bạn được tiếp tục sống mà bạn có quyền cho rằng cuộc sống mình toàn vẹn và mình có thể tiếp tục làm những gì mình thích. Sự kiện cây vả được tiếp tục ở lại trong vườn và thậm chí còn được chăm sóc kỹ lưỡng hơn, chính là vận may cuối cùng cho cây vả. Cũng vậy, sự kiện chúng ta vẫn tiếp tục được sống bình thường và hơn nữa còn được tạo những điều kiện đặc biệt hơn, chính là cơ hội cuối cùng cho chúng ta để chúng ta hoán cải và sinh hoa kết trái là việc lành phúc đức. Bất cứ ai muốn đứng vững trong phán quyết của Thiên Chúa đều phải hoán cải.
Điều ông chủ vườn chờ đợi nơi cây vả là trái trăng của nó, và cây vả phải sinh trái theo ý ông chủ vườn. Cũng vậy, sự hoán cải của chúng ta phải được thể hiện nơi những hoa trái tốt lành của đời sống theo ý của Thiên Chúa.
Tóm lại, toàn bộ bài Tin Mừng hôm nay nhấn mạnh cách đặc biệt trên sự kiện là mọi người, không trừ ai, đều phải hối cải và sinh hoá trái tốt lành trong cuộc sống. Bài Tin Mừng không nói thế nào là hối cải thực sự. Cần phải tìm câu trả lời cho câu hỏi đó trong toàn bộ sách Tin Mừng. Ngay trước đoạn Tin Mừng được đọc hôm nay, Đức Giêsu cũng đã trực tiếp nói cho các đồ đệ của Người biết một số chỉ dẫn về sự hoán cải: không thu tích của cải cho mình ( 12, 13 – 21 ), luôn tin tưởng vào Chúa quan phòng ( 12, 22 – 32 ), luôn hướng lòng về kho tàng trên trời ( 12, 33 – 34 ), luôn sẵn sàng đợi Chủ về ( 12, 35 – 48 )…
Kiên nhẫn ( nhẫn nại ) là trạng thái chịu đựng trong hoàn cảnh khó khăn – tinh thần và vật chất, nghĩa: MC 3-C98
Kiên nhẫn ( nhẫn nại ) là trạng thái chịu đựng trong hoàn cảnh khó khăn – tinh thần và vật chất, nghĩa là can đảm và kiên trì đối mặt với điều trái ý mà không tỏ vẻ khó chịu, bồn chồn hoặc thất vọng. Kiên nhẫn là một đức tính giúp đạt sự thành công ở đời, đồng thời cũng là nhân đức trong đời sống tâm linh.
Kiên nhẫn không phải là thụ động, mà là chủ động. Đó là sức mạnh tập trung của con người. Kiên nhẫn rất cần, nhưng phải khổ luyện mới khả dĩ đạt được, như Hellen Keller nhận định: “Chúng ta không bao giờ có thể học được sự can đảm và kiên nhẫn nếu chỉ có niềm vui trên thế gian này”. Nghĩa là chúng ta phải có mục đích nào đó vượt trên những gì trần tục của những người bình thường.
Ngày xưa, ông Môsê chăn chiên cho bố vợ là Gítrô, tư tế Mađian. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khôrếp. Bỗng nhiên Thiên sứ của Đức Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Môsê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng mà không bị thiêu rụi. Thấy lạ, ông tự nhủ: “Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không cháy rụi ?” ( Xh 3, 3 ). Đức Chúa thấy ông lại xem, tiếng Thiên Chúa phát ra từ giữa bụi cây: “Môsê ! Môsê !” Ông thưa: “Dạ, tôi đây !” ( Xh 3, 4 ). Người phán: “Chớ lại gần ! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là Đất Thánh” ( Xh 3, 5 ). Nơi nào có Thiên Chúa thì nơi đó là Đất Thánh, vì Thiên Chúa là Đấng Thánh.
Thiên Chúa lại phán: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Ixaác, Thiên Chúa của Giacóp” ( Xh 3, 6 ). Ông Môsê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa. Tại sao ? Không phải Thiên Chúa dữ tợn hoặc dị dạng khó coi, mà Thiên Chúa là Đấng Thánh. Mắt phàm nhân không thể nhìn thẳng vào mặt trời thì làm sao nhìn Thiên Chúa là Nguồn Sáng ? Biết vậy, Đức Chúa liền trấn an ông Môsê: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai Cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật, xứ sở của người Canaan, Khết, Emôri, Pơrítdi, Khivi và Giơvút” ( Xh 3, 7 – 8 ). Thiên Chúa biết rõ mọi điều từ trong suy nghĩ của con người, Người chỉ muốn chúng ta thật lòng và kiên trì kêu xin thì sẽ được toại nguyện.
Ông Môsê thưa với Thiên Chúa: “Bây giờ, con đến gặp con cái Ítraen và nói với họ: Thiên Chúa của cha ông anh em sai tôi đến với anh em. Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng ấy là gì ? Thì con sẽ nói với họ làm sao ?” ( Xh 3, 13 ). Thiên Chúa xác nhận với ông Môsê: “Ta là Đấng Hiện Hữu. Ngươi nói với con cái Ítraen thế này: Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em” ( Xh 3, 14 ). Không vòng vo. Chính xác. Rõ ràng. Thiên Chúa lại phán với ông Môsê: “Ngươi sẽ nói với con cái Ítraen thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Ápraham, Thiên Chúa của Isaác, Thiên Chúa của Giacóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia” ( Xh 3, 15 ).
Đọc đoạn Kinh thánh này và biết Thiên Chúa mà chúng ta đang tin kính và tôn thờ là ĐẤNG HIỆN HỮU, chắc chắn chúng ta thực sự hạnh phúc vì chúng ta đang có Đức Tin chính thống và sự tôn thờ đúng đắn. Quả thật, XƯA NAY CHƯA MỘT THẦN LINH NÀO DÁM TỰ XƯNG NHƯ VẬY. Nhưng Thiên Chúa của chúng ta xác định rõ ràng: TA LÀ ĐẤNG HIỆN HỮU. Và Ngài cũng là ĐẤNG TỰ HỮU. Hãy tạ ơn Chúa đã soi sáng cho chúng ta đi đúng Đường Chân Lý của Thiên Chúa Thật !
Chắc hẳn vì vậy mà tác giả Thánh vịnh luôn tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh ! Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá quên mọi ân huệ của Người” ( Tv 103, 1 – 2 ). Thế mà con người vẫn quá hèn yếu, luôn xin và muốn được toại nguyện, nhưng ít người còn biết nhớ ơn. Phúc Âm nói tới ví dụ điển hình: Mười người được ơn, nhưng chỉ có một người trở lại tạ ơn Chúa, mà người biết ơn đó lại là người ngoại đạo ( x. Lc 17, 11 – 18 ), chắc chắn chín người vô ơn bạc nghĩa là người có đạo – dù người đó ở cấp bậc nào, nói chung là những người mệnh danh là Kitô hữu, đừng tưởng người địa vị cao thì “ngon” hơn người ở địa vị thấp ! Chúa Giêsu đặt vấn đề: “Thế thì chín người kia đâu ?” Rất rõ ràng. Rất nghiêm túc. Rất thực tế. Rất nhẹ nhàng mà lại rất đau – nhức buốt tận tủy xương !
Rồi khi gặp trắc trở, con người mới “giật mình” và lại hối cải: “Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” ( Tv 103, 3 – 4 ). Thiên Chúa luôn thông cảm nên luôn nhân hậu và xót thương, Ngài “phân xử công minh, bênh quyền lợi những ai bị áp bức, mặc khải cho Môsê biết đường lối của Người, cho con cái nhà Ítraen thấy những kỳ công Người thực hiện” ( Tv 103, 6 – 7 ), bởi vì “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương” ( Tv 103, 8 ). Nhân loại không thể hiểu thấu kiểu yêu thương kỳ lạ như vậy: “Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao” ( Tv 103, 11 ). Nếu không có lòng thương xót kỳ lạ như vậy của Thiên Chúa thì chúng ta cùng đường, hết đường sống – thời nay gọi là “tận cùng bảng số”.
Từ một người Pharisêu và “chuyên gia” về việc bách hại đạo, Saolê bỗng biến thành Phaolô nhiệt thành rao giảng về Người mà chính ông đã tìm mọi cách để triệt hạ. Và rồi Thánh Phaolô không thể im lặng: “Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Môsê. Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Kitô” ( 1Cr 10, 1 – 4 ). Chữ “tất cả” và chữ “một” khác nhau hoàn toàn, thế nhưng lại không hề khác chút nào. Dù “thuận” hay “nghịch” cũng vẫn trong một tổng thể hài hòa.
Thánh Phaolô nói thêm: “Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc. Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta” ( 1Cr 10, 5 – 6 ). Cuộc đời chúng ta cũng vậy, thất bại và đau khổ là bài học quý giá. Đó là tiếng Chúa cảnh tỉnh chúng ta, vì Ngài luôn hiện hữu trong mọi biến cố của cuộc đời. Chắc hẳn cố nhạc sư Hùng Lân đã cảm nghiệm điều đó nên ông viết trong bài Thánh Ca “Chúa có mặt trong lịch sử loài người” với ca từ đậm chất Đức Tin trong phần điệp khúc: “Chúa có mặt trong lịch sử cuộc đời, Chúa có mặt trong lịch sử đời tôi. Từ thời hồng hoang tuổi đá, khi nhân loại như thú rừng, dần dà ngự trị thiên nhiên, không gian thời gian mấy trùng. Từ lúc bước vô trần gian cùng tiếng khóc oa oa, đời con Chúa đã an bài trong thiết tha”.
Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn, đến nỗi người ta cho rằng “không hề có Thiên Chúa”, dù chúng ta không ngừng tái phạm. Thánh Phaolô đã cảm nhận được lòng thương xót của Chúa nên đã khuyên nhủ: “Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong nhóm họ đã lẩm bẩm kêu trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt. Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này” ( 1Cr 10, 10 – 11 ). Bởi vậy, không ai dám mạo nhận điều gì, vì “ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” ( 1Cr 10, 12 ). Không ảo tưởng và luôn tỉnh thức, đó là biết sống kiên nhẫn.
Một ngày nọ, có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Đức Giêsu hỏi lại: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao ?” ( Lc 13, 2 ). Tình trạng “tưởng mình hơn người” rất thường xảy ra trong ý nghĩ của chúng ta. Điều này gợi nhớ tới dụ ngôn hai người cùng lên Đền Thờ để cầu nguyện ( x. Lc 18, 9 – 14 ). Chúng ta quên ( hoặc không muốn nhớ ) rằng chính Chúa Giêsu đã minh định: “Chẳng có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa” ( Lc 18, 19 ).
Chúa Giêsu cảnh báo: “Nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao ? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy” ( Lc 13, 3 – 5 ). Chúa Giêsu cảnh báo quá nhiều mà người ta vẫn không muốn lắng nghe, phải chăng người ta nghĩ rằng Ngài là người-thích-đùa chăng ? Không, hoàn toàn Ngài không đùa, Ngài đang kiên nhẫn chịu đựng !
Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất ?” ( Lc 13, 7 ). Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi” ( Lc 13, 8 – 9 ). Ai xin chủ nhân trì hoãn việc đốn cây ? Đó là Chúa Giêsu. Chính Ngài đã mặc khải Thiên Chúa, đã chịu đau khổ và chịu chết để minh chứng Tình Yêu, nhưng hầu như vô hiệu. Rồi Ngài lại mặc khải Thánh Tâm, và ngày nay là Lòng Thương Xót. Quả thật, Thiên Chúa quá đỗi kiên nhẫn vì những thụ tạo khốn nạn là chính mỗi chúng ta !
Lạy Thiên Chúa, chúng con xin lỗi Chúa, xin biến đổi trái tim xơ cứng của chúng con để chúng con không phụ lòng kiên nhẫn và nhân từ của Ngài, đồng thời có thể phần nao đáp lại Tình Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu Độ của chúng con, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
Dường như không một ngày nào không xảy ra những chuyện phúc – họa ở trên đời. Bất kể nơi đâu: MC 3-C99
Dường như không một ngày nào không xảy ra những chuyện phúc – họa ở trên đời. Bất kể nơi đâu trên thế giới, vào bất kỳ giờ nào cũng có những câu chuyện thương tâm xảy ra về mối họa. Nào là thiên tai, lũ lụt, động đất, núi lửa; nào là tai nạn đường sắt, đường không, đường thủy, đường bộ; nào là bạo lực học đường, gia đình, xã hội… Ôi ! Nếu làm một bản thông kê, có lẽ họa nhiều hơn phúc. Vậy vấn đề là phúc ở đâu ra ? Họa ở đâu tới ? Và là do ai ? Nguyên nhân nào dẫn đến ? Thật đau đầu !
Có rất nhiều nguyên nhân mang đến cái họa cho con người, nhưng chắc chắn đó không phải là do Thiên Chúa. Phần lớn nhân loại thường đổ lỗi cho nhau. Nhìn thấy điều bất toàn xảy đến cho một ai đó, họ vẫn thường hay phê phán, nhận xét, phán đoán là do chính nạn nhân gây nên. Vì họ sống ác nên nhận được kết cục xứng đáng với những gì họ đã làm ! Nếu nạn nhân là những phần tử bị loại trừ khỏi xã hội thì càng nhận được những lời phán xét cay nghiệt hơn, như là phần thưởng xứng đáng cho những hành vi, thái độ sống vô luân của họ vậy.
Đây là những câu chuyện muôn thuở của nhân loại. Không phải bây giờ mới có, nhưng đã xảy ra từ rất lâu rồi. Phúc – họa luôn là mối quan tâm và đề tài muôn thuở của con người. Tin mừng hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu khuyến cáo dân chúng về nhận định này. Đang khi dân chúng bàn tán, xót xa cho số phận của những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu họ đổ ra hòa lẫn với máu của các tế vật họ đang dâng, Đức Giêsu đã trả lời rất rõ ràng: “Các ông tưởng mấy người Galilê đó tội lỗi hơn hết mọi người Galilê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao ? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Siloa đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao ? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy” ( Lc 13, 2 – 5).
Cái chết mà những nạn nhân phải hứng chịu trong câu chuyện trên đó là những cái chết bởi tai nạn, không tùy thuộc vào bản thân họ, nhưng cái chết mà Đức Giêsu khuyến cáo dân chúng hôm nay, đó là cái chết do chính bản thân họ, do lối sống phóng túng, do thói nhìn định kiến ích kỉ, do tham vọng điên cuồng, do lương tâm chai lì, tội lỗi. Chính cách sống vô luân của họ đã giết chết họ. Đó là những cái chết về tâm hồn, về đời sống thiêng liêng, đời sống tâm linh. Đó cũng chính là sự sống đời sau, sự sống vĩnh cửu mà họ không bao giờ được nếm cảm. Còn những cái chết về bệnh tật, thiên tai, đói nghèo… những cái chết đến từ thế giới vật chất hữu hạn, ngắn ngủi… đó là những cái chết tất yếu của nhân loại. Cái chết ấy có thể đến từ chính nạn nhân hay ngoài nạn nhân, nhưng tựu trung cũng chỉ là những cái chết vật chất. Còn cái chết mà Đức Giêsu muốn nhắc đến chính là cái chết tâm hồn, cái chết vật chất quan trọng vì nó lấy đi sự sống của nhân loại, nhưng cái chết tâm hồn còn quan trọng hơn, vì nó lấy đi sự sống đời đời của họ.
Không chỉ khuyến cáo dân chúng, Đức Giêsu còn dẫn dụ cho họ dụ ngôn về lòng thương xót quảng đại của Thiên Chúa, sự kiên nhẫn chờ đợi bao dung của Ngài, và đòi hỏi sự thay đổi, sám hối của con người. Dụ ngôn nói về người làm vườn và cây vả được trồng trong vườn nho của ông. Đã ba năm qua đi, ông chủ ra vườn tìm trái trên cây vả nhưng vẫn không thấy được một quả nào, nên muốn người làm vườn đốn đi, để lại chỉ tổ hại đất. Thế mà người làm vườn đã khẩn khoản nài xin: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi” ( Lc 13, 8 – 9 ).
Sự kiện cây vả xuất hiện trong vườn nho là một vấn đề chúng ta cần quan tâm. Giữa những điều phúc luôn có cái họa, giữa những thành phần tốt luôn có những phần tử chưa tốt, giữa những điều may luôn có những cái rủi. Để dung hòa cho những cái tốt và chưa tốt, cái may và chưa may, cái rủi và không rủi đó cùng tồn tại là một điều khó khăn nhưng buộc con người phải chấp nhận. Thời gian 3 năm mà ông chủ nhắc đến ở đây là con số biểu tượng để nói đến thời gian Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi con người hoán cải. Thời gian đó là thời gian yêu thương thật, nhưng là có hạn. Con người thường hay lạm dụng lòng thương xót của Thiên Chúa để sống chai lì trong tội lỗi, ngủ quên trong tham vọng, để rồi ngày một lún sâu vào con đường diệt vong. Đức Giêsu muốn đánh thức nhân loại, phải tỉnh thức, phải đứng lên, phải bước ra khỏi những thói quen ích kỉ cũ kỹ, và thay đổi, quay về với Thiên Chúa hầu có thể được sống trong tình yêu thương tha thứ của Ngài.
Sự kiện người làm vườn xin ông chủ cho được để lại thêm một năm nữa, và hứa sẽ bón phân, chăm bón cho cây vả tươi tốt, may ra sẽ có trái, nếu không lúc ấy mới chặt đi, đó cũng chính là lòng khoan dung, tha thứ và chờ đợi của Thiên Chúa. Thời gian nhân loại hiện diện trên thế gian này cũng chính là thời gian cho con người sinh hoa kết trái ngọt là những việc lành phúc đức họ sẽ làm cho Thiên Chúa, bản thân và tha nhân. Thời gian tồn tại của mỗi người đều có hạn, nếu sự chờ đợi của Thiên Chúa đã đủ và luôn mênh mông, quảng đại, rộng mở mà lòng hoán cải của con người thì luôn thiếu và hạn hẹp, thì tất yếu số phận của họ sẽ bị hủy diệt.
Nếu vậy, biết ai họa, ai phúc ? Cái họa mà nhân loại diện kiến hằng ngày không phải là cái họa chung cuộc, nhưng vận số của mỗi người sau cuộc sống này đó mới là câu trả lời phúc hay họa. Nhìn vào cái chết của tha nhân mà nghĩ đến bản thân. Cái chết vật chất ấy chỉ là kết cục để mở ra sự sống vĩnh cửu và cái chết tận diệt mai hậu. Sự sống và cái chết ấy thế nào hoàn toàn tùy thuộc vào thái độ sống của mỗi người hôm nay.
Lạy Chúa, mỗi khi gặp trái ý đau khổ con thường hay oán trách Chúa. Mỗi khi gặp may lành con không quên cảm ơn Chúa, nhưng thật ra con rất khó đón nhận đau khổ, vận rủi như những vận may. Nhưng những cái may rủi mà con đón nhận trên đời vẫn không phải là vĩnh cửu, là tất cả cho con, mà còn có những vận may và cái rủi mai hậu. Con ý thức rất rõ ràng minh bạch về những hiểm họa con sẽ gánh chịu sau này nếu đời sống hiện tại con xa rời lề luật Chúa, con đi chệch ra khỏi con đường bác ái yêu thương, sám hối và hoán cải.
Xin giúp con quay trở về, trở về với tình yêu và ân sủng của Chúa. Nếu có ai hỏi điều gì khiến con hạnh phúc vui sướng nhất, thì còn gì hơn ngoài được sống trong vận may của Thiên Chúa, được Thiên Chúa tha thứ, yêu thương.
Theo dữ liệu mới được Cơ Quan Hàng Không Vũ Trụ Mỹ ( NASA ) thu thập, về vụ nổ thiên thạch: MC 3-C100
Theo dữ liệu mới được Cơ Quan Hàng Không Vũ Trụ Mỹ ( NASA ) thu thập, về vụ nổ thiên thạch xảy ra sáng 15.2.2013 tại Nga, kích thước ước tính của vật thể trước khi rơi vào bầu khí quyển Trái đất là 17 m ( thay vì 15 m như tính toán trước đó ), với khối lượng 10.000 tấn.
Năng lượng phát ra trong vụ này tăng từ 30 kiloton ( theo ước tính ban đầu ) lên gần 500 kiloton, tương đương với 30 quả bom nguyên tử đã rơi xuống Hiroshima năm 1945. Rất may là hầu hết năng lượng của vụ nổ đã bị hấp thụ bởi bầu khí quyển. Thiên thạch đã lao vào khí quyển với vận tốc 64.000 km/giờ và phát nổ ở độ cao 19 – 24 km so với mặt đất, gây ra đám mưa thiên thạch trên bầu trời các tỉnh Chelyabin, Tyumen, Kyrgan và Sverdlovsk cũng như nhiều địa phương ven dãy núi Urals của Nga.
Hơn 1.200 người dân ở các địa phương bị thương, trong đó có 50 người phải nhập viện. Tỉnh trưởng Chelyabin, ông Mikhail Yurevich cho biết tại tỉnh này có 100.000 nhà ở, bệnh viện và trường học bị vỡ kính cửa sổ hoặc hỏng mái với tổng thiệt hại ước tính lên hơn hơn 33 triệu USD. Các chuyên gia cho rằng các khối thiên thạch nhỏ rơi xuống Trái đất từ 5 – 10 lần mỗi năm. Nhưng khả năng xảy ra nổ thiên thạch lớn trên diện rộng khiến 1.200 người bị thương ở Nga mới đây chỉ xảy ra một lần trong ít nhất 100 năm ( Internet ).
Thiên tai vừa xảy ra khiến người tín hữu Kitô hôm nay liên tưởng ngay đến vụ tháp Silôác đổ xuống, khiến 18 người tử vong. Điều Chúa Giêsu muốn nói đến nhân sự kiện này, là sự phán xét, lòng sám hối và lòng thương xót ( Lc 13, 1 – 9 ).
Xét mình thay xét người
Khi nghe thuật lại vụ một số người Galilê bị quan tổng trấn Philatô sát hại, Chúa Giêsu không rơi vào cái bẫy bộc lộ quan điểm chính trị, không phán xét những nạn nhân đáng thương hay xấu số. Mà Người lại kêu gọi chính những người kể chuyện, hãy xét lại chính mình.
Nhân tiện, Chúa Giêsu thuật lại sự kiện 18 nạn nhân bị tháp Silôác đổ, Người cũng kêu gọi người nghe hãy coi lại bản thân.
Thay vì dễ dãi làm quan tòa, quen thói xét xử người khác, thì khiêm tốn làm tội nhân, để biết ăn năn, thống hối tội lỗi của chính mình. Khi phán xét người khác thì mặc nhiên tự coi mình làm kẻ cả, có thẩm quyền xét xử công tội người khác, một biến tướng của tánh kiêu ngạo, chính là tiếm quyền tối thượng của Thiên Chúa.
Ồ ! Tôi vô tội, tôi đâu trộm cắp, đâu gian tham, ức hiếp, hại ai ? Tôi đạo đức lễ lạy hằng ngày, kinh sách hằng đêm. Nhưng tôi hay ra cái điều hiểu biết, trí thức, khôn ngoan, sắc sảo nhận định, nhạy bén phê phán, xét đoán, thâm thúy phẩm bình thiên hạ, tôi còn phạm những điều thiếu sót nữa. Vậy tôi phỏng sẽ được phúc trường sinh, hay họa sa hỏa ngục ?
Sám hối
Sau hai biến cố và tai họa vừa nhắc đến, Chúa Giêsu rút ra một bài học, một kết luận chung duy nhất: “Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết như vậy !” ( Lc 13, 3 và 5 ).
Từ cái chết thể xác, Chúa nhắc đến cái chết linh hồn, cái án phạt muôn đời. Từ cái thuyết nhân quả đời này, Chúa áp dụng thuyết nhân quả vào đời sau.
Có thành tâm xét mình, tôi mới biết tội lỗi đã vấp phạm đến tha nhân và đến Chúa như thế nào. Tôi ân hận đã xúc phạm đến anh em, bè bạn, vợ con, hàng xóm, đồng nghiệp, và nhất là xúc phạm đến Chúa. Tôi đã phạm tội và đã thiếu sót, vô cảm, vô trách nhiệm, thiếu Đức Ái, thiếu Đức Trong Sạch, lỗi phép Công Bằng… Lúc này, tôi đang gặp họa, hay sắp có phúc ?
Lòng Thương Xót
Lòng nhân từ của Chúa Giêsu không dừng lại nơi đây, mà mở ra một niềm hy vọng tươi sáng. Với dụ ngôn cây vả không trái sau ba năm vun trồng, ám chỉ sau ba năm nghe rao giảng, mà con người vẫn cứng lòng, không chịu nghe theo Tin Mừng, Chúa Giêsu chân thành biểu lộ Lòng Thương Xót vô ngần.
“Thưa ông, ông cứ để nó lại năm nay nữa, tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi” ( Lc 13, 8 – 9 ).
Như thế, khi nghe người làm vườn nài nỉ, van xin chủ vườn khoan chặt cây vả không sinh hoa kết trái, tôi có nhận ra Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa chăng ? Vì Thiên Chúa “là Đấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung” ( Tv 103, 8 ). Ngài còn cho tôi cơ hội và thời gian, để hoán cải, để đơm bông kết trái, tất nhiên tôi phải chịu nhiều thách đố, chịu lột xác đau khổ, tỉa cành, chặt rễ, khấc thân, vô phân. Vậy tôi còn phúc nào hơn nữa ?
Ngay sau vụ mưa sao băng ở Nga vào ngày thứ sáu 15.2.2013, thiên thể 2012 DA14 lớn bằng bể bơi Olympic, có bề ngang tới 50 m với sức mạnh có thể xóa sổ một thành phố cỡ như London, đã bay sượt qua trái đất ở khoảng cách gần 28.000 km, khoảng cách bằng 1/10 khoảng cách giữa trái đất và mặt trăng, và không gây hại gì ( BBC ).
May mắn, chưa có mảnh thiên thạch nào đó rơi ngay xuống vùng tôi cư ngụ, chắc chắn vì lòng Thương Xót vô biên của Chúa. Đó chính là hồng phúc của Người Cha Nhân Từ.
“Con đau đớn vì thấy nhiều phản bội với Chúa: tốt, nhưng chưa đủ. Phải làm như Mađalêna “được tha nhiều vì đã yêu nhiều.” Phải làm như Gioan, trốn bỏ Chúa trong vườn Giệtsimani, nhưng trở lại đứng bên Thánh Giá, dốc quyết hằng yêu mến bằng hành động.” ( Đường Hy Vọng, số 890 ).
Lạy Chúa Giêsu, chưa bao giờ nhân loại gặp nhiều thiên tai, hoạn nạn như hiện nay, xin Chúa thức tỉnh lòng trí con, để chân thành ăn năn sám hối, hầu xứng đáng được hưởng lòng từ bi thương xót của Chúa.
Lạy Mẹ Maria, đã bao lần Mẹ hiện ra, nhắc nhủ, khuyên lơn mọi người, hãy ăn năn sám hối, xin Mẹ gúp con biết hoán cải trở về với Chúa, đừng tiếp tục thách thức lòng vị tha nhân hậu của Chúa nữa. Amen.