Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật MC 5-C Bài 101-147 Hãy đứng dậy và đừng phạm tội nữa ------------------------------------------ Phúc Âm: Ga 8, 1-11: "Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi".
Sau khi Giáo hội tạm dừng để (Laetare), nghỉ ngơi và chúc mừng con cái mình đã hăng hái tiến bước được nửa Mùa Chay Thánh, nghỉ để cảm tạ và xin ơn Chúa để có thêm can đảm bước tiếp vào tuần thứ I của giai đoạn II, thời gian mà toàn bộ nhà thờ sẽ chuẩn bị cho việc tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Kitô. Vì Trước cuộc cải tổ phụng vụ của Công đồng Vaticanô II, Chúa nhật thứ Năm Mùa Chay được gọi là Chúa nhật thứ I mùa Thương khó, kéo dài 2 tuần lễ cho đến lễ Phục sinh. Sau Công đồng Vaticanô II, lịch phụng vụ chỉ còn một tuần Thương khó, trùng với Tuần thánh, và Chúa nhật thứ V Mùa Chay là gia đoạn tiếp tục các đề tài huấn giáo tuỳ theo chu kỳ. Nếu các Chúa nhật Mùa Chay năm A trình bày Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống, là Anh Sáng, là Sự Sống dựa theo Tin mừng thánh Gioan. Thì các Chúa nhật Mùa Chay năm C đề cao lòng thương xót của Thiên Chúa và kêu gọi con người hoán cải heo Tin mừng thánh Luca. Tuy nhiên, bài đọc của Chúa nhật thứ V trích từ Tin mừng Gioan. Trong các bản văn của các Giáo phụ, trình thuật về cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ ngoại tình lúc được đặt trong Tin mừng thánh Luca lúc được đặt trong Tin mừng thánh Gioan, và mãi đến thế kỷ thứ II, tức khoảng năm 150 mới có được vị trí cố định như hiện nay. * Lời Chúa Phụng vụ năm A
- Ez 37, 12-14: Dân đã chết sẽ được sống lại - Tv 130, 1: Bởi vì Chúa rộng lượng từ bi, và rất giầu ơn cứu độ - Rm 8, 8-11: Đấng làm cho Đức Giêsu sống lại cũng sẽ cho anh em được sống - Ga 11, 1-45: Lagiarô chết và sống lại
* Lời Chúa Phụng vụ năm B
- Gr 31, 31-34: Thiên Chúa ký Giao Ước mới với Dân Ngài - Tv 51, 3: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch! - Dt 5, 7-9: Người đã học vâng phục, và trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời - Ga 12, 20-33: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất thôi đi, thì nó sẽ sinh nhiều bông hạt
* Lời Chúa Phụng vụ năm C
- Is 43, 16-21: Đây Ta sẽ làm lại những cái mới và sẽ cho dân Ta nước uống - Tv 126, 1: Đức Chúa đã làm những điều kỳ diệu: ta thấy mình chứa chan niềm vui - Phil 3, 8-14: Vì Đức Kitô, tôi đành chịu thua thiệt để trở nên giống Người - Ga 8, 1-11: Đức Giêsu và người phụ nữ ngoại tình
Bước vào Tuần Thương Khó, nhiều nhà thờ hiện nay vẫn giữ lại hình thức lấy khăn tím che đậy Thánh giá và các ảnh tượng [ trừ Đàng Thánh giá]. Nếu Thánh giá và ảnh tượng thánh được che kín, là vì Giáo hội muốn tập trung vào mầu nhiệm được cử hành: Hy Lễ Thánh đẫm máu của Chúa Giêsu Kitô. “Lạy Chúa Trời, xin xử cho con, biện hộ cho con chống lại phường bất nghĩa; Xin cứu con thoát khỏi người xảo trá gian tà, chính Ngài là Thiên Chúa bảo vệ con” (Ca nhập lễ).
Đức Giêsu luôn thể hiện Ngài là Đấng nhân từ thương xót khi mạc khải cho nhân loại biết Thiên Chúa là Cha, Đấng giầu lòng xót thương. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa, không ai đã thấy bao giờ”, Gioan đưa ra dẫn chứng đầy sức thuyết phục “Con Một, Đấng ở nơi cung lòng Cha, chính Ngài đã thông tri.” (Ga 1,18)... Chân lý về Thiên Chúa được cụ thể hóa nơi Đức Giêsu Kitô “Cha đầy tình thương xót” (2Co 1,3). Đức Giêsu ghét tội và yêu thương kẻ có tội. Ngài không dung túng tội lỗi, nhưng khoan nhân với tội nhân. Vì Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn hối cải và được sống (Ez 33,11).
Bài Tin Mừng Chúa nhật V Mùa Chay là một bằng chứng hùng hồn về lòng xót thương của Thiên Chúa đối với tội nhân. Thánh Gioan kể lại việc người ta đem đến cho Chúa Giêsu một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Chúa Giêsu không kết án người phụ nữ này, nhưng cứu chị khỏi bị ném đá. Chúa không nói với người phụ nữ: chị không có tội, nhưng nói: “Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa” ( Ga 8,11). Thật vậy, chỉ có một mình Chúa Giêsu Kitô mới có thể cứu rỗi con người, vì chính Ngài mang lấy tội lỗi của con người và cho con người cơ hội để thay đổi đời sống. Đoạn Tin Mừng này cho thấy rõ ràng rằng sự tha thứ của Thiên Chúa không đồng nghĩa với một sự dung túng thường tình, tha thứ có kèm theo điều kiện. Không có nghĩa là bỏ qua sự dữ, hay tệ hơn nữa, là chối bỏ sự dữ. Thiên Chúa không tha thứ sự dữ, nhưng tha thứ cho con người, và Ngài dạy người ta biết phân biệt giữa một bên là hành động xấu đáng bị kết án, và bên kia là con người cụ thể phạm lấy lỗi lầm đó, và là người mà Chúa muốn ban cho cơ may để thay đổi đời sống làm lại cuộc đời. Trong khi con người chúng ta có khuynh hướng đồng nhất hóa người phạm tội với tội lỗi, và như thế là đẩy người có tội vào ngõ cụt, không có lối thoát. Lòng Chúa cao cả hơn lòng chúng ta, Thiên Chúa Cha lại hành động cách khác, Ngài đã sai Con Một mình xuống trần gian, để mở ra cho cả và nhân loại con đường cứu thoát. Chúa Kitô chính là con đường này: khi chết trên thập giá, Chúa Kitô đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Chúa Giêsu lặp lại với con người ở mọi nơi, mọi thời đại rằng: “Ta cũng thế, Ta không kết tội. Vậy hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Khi nghe những lời trên trong đoạn Tin Mừng hôm nay, làm sao mà chúng ta không cảm nghiệm một niềm tín thác trào dâng trong tâm hồn chúng ta? Làm sao mà không nhìn thấy nơi đó một "Tin Vui Mừng" cho cả và nhân loại ở thời đại chúng ta, những con người đang mong ước khám phá lại ý nghĩa đích thật của lòng nhân từ và sự tha thứ? Thời đại chúng ta đang cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa, một sự tha thứ làm phát sinh niềm hy vọng và phó thác, mà không làm yếu đi cuộc chiến chống lại sự dữ. Cần trao ban và lãnh nhận sự tha thứ. Nhưng con người chúng ta không trở nên có khả năng tha thứ, nếu trước đó chúng ta không để cho mình được Thiên Chúa thứ tha, vừa nhìn nhận mình là đối tượng của lòng nhân từ của Thiên Chúa. Chúng ta cũng sẽ trở nên kẻ sẵn sàng tha nợ cho người khác, chỉ khi nào chúng ta ý thức về mòn nợ to lớn mà chúng ta đã được tha cho. Chúng ta hãy cố khám phá ra tình thương của Thiên Chúa qua bí tích Hòa Giải, và hãy tỏ ra nghiêm khắc đối với tội lỗi nhưng khoan nhượng đối với con người tội lỗi.
Chúng ta hãy nhìn lên Đức Trinh Nữ Maria mà cầu khẩn Mẹ như là Mẹ của lòng từ thương xót. Nơi Mẹ, Tình thương nhân từ của Thiên Chúa được nhập thể, và tâm hồn vô nhiễm của Mẹ là nơi trú ẩn an toàn cho người tội lỗi. Được Đức Mẹ dẫn lối chỉ đường, chúng ta hăng hái tiến vào Tuần Thương Khó, và nhớ lại lời Đức Giêsu nói với người phụ nữ ngoại tình, nay Ngài nói với mỗi người chúng ta rằng: Hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa. (Ga 8,11). Xin Mẹ Maria giúp chúng ta tiếp nhận với niềm vui đã được canh tân, (tiếp nhận) hồng ân cứu rỗi, ngõ hầu chúng ta gặp lại được sự tin tưởng và niềm hy vọng để bước đi trên con đường mới. Amen.
Tôi biết là bài Tin Mừng không nói gì về đức khiết tịnh, ngược lại là đàng khác, nó đang thuật lại câu chuyện về người đàn bà ngoại tình, tức là người lỗi phạm một điều nghịch với sự khiết tịnh ngay trong bậc vợ chồng. Các kinh sư và Pha-ri-sêu rõ ràng đang nhân danh luật Mô-sê để bắt mọi người Do Thái phải sống trung thủy. Nhân danh luật lệ khắt khẽ thì, bất cứ ai không trung thủy nhất là phụ nữ, sẽ lập tức bị lên án; và trong trường hợp bị bắt quả tang có thể lãnh án phạt nặng nề là ném đá cho tới chết. Tạo nên một xã hội lành mạnh có nền luân lý vững chắc là mục tiêu của luật Do Thái, cũng như của luật pháp mọi tôn giáo hay quốc gia. Riêng về diện này thì luật Mô-sê rõ ràng rất cao đẹp, vượt trội so với luật pháp của các dân tộc cùng thời; và đã từng là niềm kiêu hãnh của Do Thái trước các dân tộc khác (xem Đệ Nhị Luật 26:16-19). Khiết tịnh trong đời sống vợ chồng quả là một giá trị lớn cần được bảo vệ trong bất cứ xã hội lành mạnh nào!
Nhưng đối với Tin Mừng mà Đức Giêsu đến để rao giảng, và còn minh chứng bằng chính mạng sống mình, thì giá trị của sự trung thủy vợ chồng, cũng như bất kỳ một giá trị luân lý nào, đều không thể nào sánh được với lòng nhân ái và xót thương. Sự khác biệt chính (thậm chí đối đầu) giữa Đức Giêsu và các kinh sư Pha-ri-sêu, giữa Cựu Ước và Tân Ước chính là hệ tại ở việc đặt giá trị nào lên trên, lòng nhân ái hay luân lý (khiết tịnh hôn nhân trong trường hợp cụ thể này)? Các kinh sư và Pha-ri-sêu thì đã dứt khoát: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó.” Đức Giêsu cũng dứt khoát không kém: “Tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ này đừng phạm tội nữa!”
Cựu Ước chọn giá trị luân lý và đặt nó lên hàng đầu, ngược lại Tân Ước thì đặt lòng nhân ái thương xót lên hàng đầu; sự khác biệt đối chọi như vải mới / áo cũ, rượu mới / bầu da cũ!
Đức Giêsu không hề có ý muốn phế bỏ các giá trị luân lý! Không đời nào! Người đã chẳng long trọng tuyên bố: “Thầy đến không phải là để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ… nhưng là để kiện toàn” (Mt 5:17-18) là gì? Điều duy nhất mà Người muốn loan truyền và khắc ghi vào tâm khảm các môn đệ chính là: ‘sự vĩ đại tuyệt đối của lòng nhân ái’, “Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế” (Mt 9:13). Đúng thế, sự chết và phục sinh của Người đâu có mục đích bảo vệ một giá trị luân lý nào, nhưng là tiếng nói tuyệt đối của tình yêu nhân ái của Thiên Chúa!
Như vậy chúng ta mới nghiệm ra rằng: bao lâu mình còn đặt các giá trị luân lý lên thế thượng phong thì mình vẫn cứ luẩn quẩn trong Cựu Ước. Cựu Ước tất nhiên là không xấu, rất tốt nữa là đàng khác, có điều Kitô hữu phải là Tân ước của Tin Mừng Đức Kitô Giêsu; mà đã là Tân Ước thì giá trị của lòng nhân ái phải được đặt lên hàng đầu. Trước hết là đối với Thiên Chúa: nắm giữ các giới răn Chúa truyền là điều quan trọng, nhưng còn quan trọng hơn gấp bội khám phá và đi sâu vào lòng từ bi - thương xót của Người trong Đức Giêsu Kitô. Còn trong việc mục vụ (trong tư cách linh mục), tôi dành nhiều thời giờ và sức lực cho việc giáo huấn luân lý là điều cần thiết, nhưng còn quan trọng hơn nhiều, nỗ lực ghi khắc vào tâm khảm các tín hữu (nhất là người trẻ) nhận biết lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, và cũng đối sử như thế đối với tha nhân; nếu không làm điều này, ta sẽ không phải là một Kitô hữu đích thực, một môn đệ đích thực của Đức Kitô Giêsu. Riêng Linh Mục, trong tư cách là một ‘Kitô thứ hai’ – alter Christus, chứ không phải là ‘alter Mosis’, nếu tôi không trở thành ‘dấu chỉ và người mang tình yêu Chúa đến cho mọi người’ (như Don Bosco vẫn nhắc nhở các tu sĩ Sa-lê-diêng của người như thế) thì quả là một phản bội đấy: dạy dỗ và sửa bảo luân lý là điều cần làm… nhưng tỏ lòng nhân ái là điều còn cần thiết hơn. Giai thoại về người đàn bà ngoại tình cho thấy: theo gương Đức Giêsu, điều cần làm hơn hết khi phải giáp mặt với một lỗi phạm luân lý (đặc biệt trong lãnh vực khiết tịnh) là hãy tỏ lòng thương xót, từ nhân. Chắc chắn đó không phải là thái độ xuề xòa dễ dãi cho qua, vì phải là “từ nay đừng phạm tội nữa”, nhưng còn đi xa hơn thế, là thái độ thương cảm của chính Thiên Chúa được Đức Giêsu diễn tả: “Tôi không lên án chị đâu!” Bởi vì xét cho cùng, ai trong chúng ta cũng cần được Thiên Chúa xót thương và tha thứ cả, có lẽ mình cần hơn bất cứ ai khác: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ lấy đá mà ném trước đi.”
Tất cả chúng ta đều cần tới ơn cứu độ của Thập Giá và lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa!
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, xin cho con biết, mỗi khi giáp mặt với lỗi phạm nơi bản thân mình cũng như nơi tha nhân, quyết tâm không ngừng vun trồng nơi mình và nơi những người con phục vụ không những các giá trị luân lý cao đẹp, nhưng còn biết quyết liệt hơn sống lòng nhân ái và xót thương của Chúa. Xin giúp con không bao giờ kết án bất cứ ai chỉ vì các lỗi phạm của họ, nhưng luôn biết xót thương như Chúa hằng thương xót. Amen.
Con người được sinh ra hiện hữu trong thời gian và không gian. Cuộc sống con người được gắn kết với môi trường xã hội, văn hóa, chính trị và tôn giáo riêng biệt. Mỗi người mang một dòng máu, một quốc tịch và định mệnh khác nhau. Tiểu sử của mỗi người liên kết với lịch sử của một bộ lạc, một dân tộc và một quốc gia. Có một mối tương quan liên đới số phận chung của con người cùng thời đại. Vận nước kéo theo vận người. Vì thế mỗi người có trách nhiệm và bổn phận chung trong xã hội, cũng như riêng tư trong đời sống cá nhân gia đình. Trong chương trình cứu độ, dân Do-thái trở thành dân tộc trung gian và máng chuyển ân lộc của Thiên Chúa. Một dân tộc được tôi luyện đã trải qua nhiều gian nan thử thách. Thiên Chúa luôn hiện diện đồng hành để khuyến khích và thức tỉnh: Người phán như sau: "Các ngươi đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước (Is 43, 18). Đây làmột lời khuyến khích yêu thương đổi đời. Cho dù dân từ bỏ Chúa chạy theo các thần dân ngoại và quay lưng lại với tình yêu của Thiên Chúa, Chúa vẫn giữ mối tình trung kiên.
Dân ngưỡng vọng về một tương lai tươi sáng, Thiên Chúa sẽ thực hiện những sự đổi mới và khơi nguồn những phúc lộc chan hòa. Tiên tri Isaia đã loan báo cho dân những dự phóng tương lai đầy hy vọng: Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao? Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn (Is 43, 19). Hy vọng chính là nguồn sống. Hy vọng ngày mai tươi sáng hơn, thành công hơn và sinh hoa kết qủa nhiều hơn. Mỗi ngày sống là mỗi cơ hội tốt để hoàn thành những ước mơ. Mong chờ Đấng Cứu Độ đến giải thoát khỏi vòng u mê tội lỗi và sự chết là mơ ước tuyệt đỉnh của dân người. Trong cuộc sống, chúng ta thường có những hy vọng nho nhỏ nối kết từng ngày giúp chúng ta sống vui. Sống là một cuộc lữ hành hoàn thành các ước mơ. Kết thúc dự tính này lại hy vọng ước tính khác. Đời chỉ đẹp khi còn dang dở.
Chính sự dở dang tạo nên uẩn khúc cuộc đời. Bài Phúc âm hôm nay kể truyện người phụ nữ không may bị người ta bắt gặp đang khi có những liên hệ tình dục bất chính. Một hành động trái đạo lý luân lý, không đúng lúc và không đúng nơi. Chị ta bị phát hiện khi sự kiện còn dang dở. Chị ta không thể chối cãi và chỉ biết cúi mặt xấu hổ. Một phút giây lầm lỡ đã hủy phá danh dự cả một đời. Chị biết lỗi mình. Đứng đó, không có nơi nương tựa để giấu mặt hay trốn lánh. Sự thể đã rồi, biết làm sao bây giờ. Chúng ta cũng biết chị ta đâu phạm tội gì đến danh dự của các luật sĩ, biệt phái hay ai khác. Họ tố cáo chị với Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?(Ga 8, 4-5). Họ hiểu biết Luật của Môisen, nhưng vẫn muốn thử sự xét đoán của Chúa Giêsu. Đá đã cầm sẵn trong tay và chỉ chờ lời phán quyết kết tội của Chúa là họ ném đá người phụ nữ cho chết. Họ giữ luật vị luật và thiếu lòng nhân ái. Chúa đã cứu chị ta với một câu hỏi tuyệt vời: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi."(Ga 8, 7). Ai là người vô tội. Bằng một lời, Chúa Giêsu dẫn mọi người trở về với lòng mình.
Những người tố cáo chị vẫn còn chút lương tâm nhậy cảm. Họ nhận ra ý nghĩa lời chỉ dậy của Chúa Giêsu ngay. Tâm phục khẩu phục. Qua vài câu đối thoại với Chúa Giêsu, mọi người đã thức tỉnh và những cục đá thù ghét rơi xuống khỏi lòng bàn tay. Họ đã bỏ đi từ kẻ già đến người trẻ. Có lẽ tâm hồn của họ cũng cảm thấy vơi bớt nỗi hờn ghen. Cuối cùng, Chúa Giêsu đầy lòng thương xót đã lên tiếng: "Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa! "(Ga 8, 11). Một lời nhắn nhủ rất nhẹ nhàng và thuyết phục. Về đi. Như vậy Chúa đã tha thứ rồi. Chúa có uy quyền trên cả Luật Môisen. Chúa đã cất nỗi tủi hổ và nhục nhã cho người phụ nữ phạm tội. Chúa đã cứu sống người phụ nữ cả thân xác lẫn linh hồn.
Khi cầm đất hay đá ném người khác thì tay chúng ta đã dơ và lòng đã bẩn. Tâm chúng ta đã thuận theo để kết án người khác. Có biết bao lần chúng ta đã xét đoán và kết tội người khác, trong khi chúng ta chỉ nghe có một chiều và biết một phần rất nhỏ của câu truyện. Vấn đề này xảy ra thường ngày như cơm bữa. Chúng ta nghe truyện xấu và rồi thêm mắm thêm muối cho câu truyện thêm đậm đà ý vị. Truyện xấu giật gân lây lan nhanh chóng như một thứ vi khuẩn xâm nhập. Cục đá kết án đã nằm sẵn trong tay chỉ chờ cơ hội là ném. Ném mạnh, ném nhanh và ném cho chết, thế là hả dạ. Chúng ta chẳng muốn tìm hiểu nguyên nhân, lý do hay hoàn cảnh xung quanh ảnh hưởng thế nào. Chúng ta biết rằng ai cũng có nhiều tâm tư nỗi khổ cần được thông cảm và giãi bầy chia sẻ. Hãy học lời khuyên của Chúa Giêsu trong mọi hoàn cảnh, ai trong anh chị em sạch tội, thì ném đá trước đi. Chúng ta không nên nghi ngờ và đổ lỗi vội vàng. Có khi sẽ bị bé cái lầm. Truyện kể: Có người mất cái búa, ngờ cho đứa con nhà láng giềng lấy trộm. Anh ta trông dáng nó đi, rõ ra đứa ăn trộm búa. Nhìn vẻ mặt nó, rõ ra đứa ăn cắp búa. Mọi cử động của nó, tỏ rõ là tên đạo tặc. Ông bị yên trí. Sau khi ông tìm thấy búa, thì từ đó lại thấy thằng bé hiền lành, không có vẻ chi là ăn cắp, ăn trộm nữa. Ở đời không nên vội nghi ngờ, kẻo gây chia rẽ hay làm mất thanh danh người khác. Càng nghi kỵ thì càng nhen nhúm sự dữ trong lòng. Sự đời dối trá dễ lôi kéo chúng ta vào cuộc. Giống như câu truyện của chị phụ nữ, có thể chúng ta không dám ném đá người khác trước đâu. Một mình tôi thì chẳng dám ném, nhưng có vài người vào hùa, tôi sẽ hùa theo. Và cuối cùng chúng ta lại đổ lỗi cho người khác, tôi thấy người ta nói và làm như vậy. Kiểu ném đá giấu tay. Người ta là ai chứ! Dùng chữ ‘người ta’ làm hỏa mù để dấu tội mình và trốn tránh trách nhiệm. Như thế, truyện của người khác mà lại làm cho chúng ta trở nên dơ tay, bẩn lưỡi và xấu lòng. Thật là không đáng!
Thánh Phaolô đã có Chúa Kitô làm gia nghiệp. Ngài có thể hy sinh và từ bỏ tất cả vì danh Chúa. Mối lợi của ngài là chính Chúa Kitô. Đôi khi chỉ vì cái tôi kiêu ngạo và vì tự ái, nhiều người lấy danh nghĩa Chúa Kitô để kết án và loại trừ lẫn nhau. Lịch sử Giáo Hội đã minh chứng qua sự ly khai của các giáo phái và các nhóm trong lòng giáo hội. Niềm tin của chúng ta là chỉ có một Chúa, một phép rửa và niềm hy vọng. Thánh Phaolô đã xác tín: Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô(Phil 3, 8). Dù sống đạo hay hành đạo cách nào, nếu chúng ta chưa kết hợp được với Chúa Kitô, chúng ta vẫn còn lang thang chưa có đích điểm.
Sau khi gặp gỡ Chúa Kitô phục sinh, Phaolô đã trở thành một con người hoàn toàn mới. Một sự đổi mới đức tin kỳ diệu: Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước (Phil 8, 13). Saulôthay đổi từ một người hăng say bắt bớ và giam tù các Kitô hữu, đã trở thành tông đồ Phaolô rao giảng tin mừng nhiệt tình cho Nước Chúa. Ngài đã cam chịu cực khổ trăm bề để làm cho danh Chúa Kitô cả sáng. Mùa Chay là cơ hội cho mỗi người chúng ta thay đổi cách sống. Học hỏi, lắng nghe lời Chúa và đem ra thực hành. Gắn bó kết hợp với Chúa qua các Bí tích và việc cử hành phụng vụ. Chúa Kitô là trung tâm của tất cả các sinh hoạt sống đạo.
Lạy Chúa, chúng con đang còn lữ hành dưới trần thế để hướng về quê thật. Xin cho chúng con biết chuẩn bị những hành trang cao quí xứng hợp với cõi thiêng. Niềm hy vọng chính là ánh sao soi đường dẫn chúng con đạt tới sự sống bên Chúa đời đời. Amen.
Phụng vụ đặt bài Phúc Âm của Gioan ở đây để khơi động tinh thần sám hối Mùa Chay, trước tình thương bao la của Chúa.
Chúa Giêsu đang giảng dạy ở tiền đường Đền thờ, có dân chúng bao quanh thì nhóm Pharisêu và luật sĩ kéo sành sạch một phụ nữ đến trước mặt Chúa. Họ đứng thẳng đó và nói: “Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, theo Luật Moisê hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?”
Thật ra luật Moisê có khoản trừng phạt những người dâm phụ hoặc các kẻ đã hứa hôn như vậy, nhưng từ lâu rồi, khoản ấy không được áp dụng khắc khe nữa, nhất là người Lamã cai trị có lệnh cấm ném đá giết người. Tuy nhiên, đây là cái cớ để bắt bẻ Chúa. Câu trả lời khôn ngoan đến đâu cũng có kẽ hở, không lỗi luật Moisê thì cũng phạm đến lịnh của chính quyền.
Chúa Giêsu có vẻ không mấy chú ý đến cáo trạng và thái độ đắc thắng của nhóm Biệt phái. Ngài cúi xuống lấy tay viết trên nền đất. Thời gian trôi qua trong im lặng nặng nề, như mời gọi mọi người nhìn vào chính nội tâm của mình.
Rồi Chúa đứng thẳng lên, nhìn vào đối thủ và từ từ nói: “Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”. Và Người lại ngồi xuống và viết trên đất. Bầu khí im lặng lại càng nặng nề hơn.
Đã nhiều lần, vị Rabbi trẻ chứng minh rằng Ngài có quyền đọc tận thâm tâm, biết cả những việc thầm kín nhất. Họ biết như vậy, nên khôn ngoan hơn cả là lẫn đi-dĩ đào vi thượng sách! Giữa người thiếu phụ lỡ lầm và những người được tiếng đạo đức đó, chưa hẳn ai tội lỗi hơn ai.
Vì thế, Phúc Âm nói: “Họ rút lui từng người một, bắt đầu từ những người nhiều tuổi nhất”. Nhiều tuổi thì khôn ngoan hơn, chuồn lẹ hơn là phải.
Chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu và thiếu phụ. Thánh Augustinô nói: “Chỉ còn lại Tình thương và tội lỗi”.
Người thiếu phụ đứng đó, bẻn lẻn, nhưng trong lòng tràn ngập trông cậy. Chúa Giêsu nhìn bà và phán: “Ta không kết tội con”. Thật là một lời đầy an ủi. Chúng ta hay kết tội kẻ khác và nhiều khi thật nặng nề và vô lý. Nhưng chúng ta là ai mà dám kết tội kẻ khác? Chỉ có Chúa Giêsu là Đấng vô tội. Ngài không kết tội. Ngài tha thứ và nâng đỡ người sa ngã bằng một câu đầy nhân hậu: “Con hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Trên đoạn Phúc Âm này, trải qua bao thế hệ, có bao nhiêu dòng nước mắt đã chảy xuống chan hòa ướt đẫm. Vì qua người thiếu phụ đó, chúng ta nhìn thấy hình ảnh chúng ta. Chúng ta là kẻ tội lỗi, nhưng rồi, trong tòa cáo giải, lời Chúa còn vang vọng lên: “Cha tha tội cho con. Con hãy đi và đừng phạm tội nữa”.
“Lạy Chúa, nguyện thương tôi theo lòng nhân hậu Chúa, xóa tội tôi theo lượng cả đức từ bi. Xin rửa tôi tuyệt gốc lỗi lầm và tẩy tôi sạch lâng tội ác” (T.v 50).
Ông Nietzche, một triết gia vô thần đã từng ngạo mạn tuyên bố: “Thiên Chúa đã chết rồi”. Trong xã hội hiện nay, nhiều người ngay cả những kẻ mang danh Kitô hữu cũng đang dần khai tử Thiên Chúa bằng chính cuộc sống vô thần trong thực hành của họ. Chính lối sống mang sắc thái duy vật như thế sẽ làm mất đi cảm thức về tội lỗi. Nhiều bạn trẻ buông mình vào một lối sống hưởng thụ, sơ cứng lương tâm và đang dần đào thải Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống mình. Ông Nietzche còn khuyên lớp thanh niên:“ Các bạn đừng tin có tội lỗi, các bạn hãy mạnh dạn tống khứ ý niệm tội lỗi ra khỏi đầu óc của các bạn”.
Nhưng chúng ta hãy lắng nghe sứ điệp trọng tâm mà các bài đọc trong phụng vụ hôm nay gợi nhắc để nhớ rằng tất cả chúng ta đều là tội nhân. Hãy can đảm nhìn thẳng vào nội tâm của lòng mình để khám phá ra biết bao những bẩn thỉu và xấu xa mà chúng ta không thể nào che giấu khi đến trình diện trước mặt Thiên Chúa. Chúng ta đừng vội vã kết án người này người nọ, giống như đám đông vây quanh người phụ nữ. Chúa nói với họ, đồng thời Chúa cũng đang nói với chúng ta hôm nay: “Ai trong các ông vô tội, cứ việc ném đá chị ấy đi”.
Phiên tòa thứ nhất: Xét xử người đàn bà tội lỗi.
Người phụ nữ này bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Không biết chị ta phạm tội cách cố ý hay chỉ vì hoàn cảnh bắt buộc phải bán trôn nuôi miệng. Thánh Luca không quan tâm đến điều đó. Thánh ký chỉ mô tả lại phiên tòa như một truyền thống theo tập tục Do thái. Một đám đông bao quanh người phụ nữ, trên tay mỗi người lăm lăm vài cục đá để chờ ném vào tên tội phạm cho hả dạ. Tình cờ, Chúa Giêsu cũng được mời đến tham dự. Có lẽ các đầu mục Do Thái đã mời Chúa đến để thử xem Ngài xử trí ra sao. Họ đặt ra một tình huống rất khó xử. Nếu Chúa Giêsu hành xử theo luật, thì có khác gì họ. Còn nếu không, thì Chúa lại không tôn trọng luật lệ của tiền nhân, thứ luật mà người Pharisiêu rất trọng thị và tuân giữ tỉ mẩn. Nhưng, Chúa Giêsu hoàn toàn thinh lặng. Ngài không nói một lời và lặng lẽ cúi xuống viết trên đất. Dường như động thái của Chúa nhằm nhắc nhở mọi người, hãy nhớ thân phận bụi đất và đầy tội lỗi nơi mình, đừng kết án kẻ khác. Cuối cùng, khi mọi người từ già đến trẻ tuần tự ‘biến’ một cách có trật tự, Chúa mới nhẹ nhàng nói với chị ta: “ Tôi không kết án chị đâu, hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Phiên tòa thứ 2: Tòa án của Philatô
Phiên tòa mà Thánh Luca thuật lại hôm nay khởi dẫn chúng ta đến với phiên tòa thứ 2: tòa án của Philatô. Trong phiên tòa thứ nhất, Chúa được mời thủ vai chánh án, còn nơi phiên tòa thứ 2, Chúa đứng trước vành móng ngựa như một tên tội đồ. Ở phiên tòa đầu tiên, phạm nhân bị bắt quả tang đang phạm tội với nhân chứng vật chứng rõ ràng. Còn nơi phiên tòa sau, Chúa bị điệu đến như một can phạm, cho dù Ngài hoàn toàn vô tội. Trong cả 2 phiên tòa Chúa đều im lặng tuyệt đối. Sự thinh lặng mà Chúa biểu tỏ là một loại hình ngôn ngữ phong phú nhất diễn bày lòng thương xót vô hạn đối với các tội nhân. Đồng thời, đó cũng là sự im lặng trong vâng phục sâu thẳm để Thánh ý Chúa Cha được nên trọn. “Ngài hiền lành như một con chiên bị đem đi xén lông mà không kêu ca mở miệng” (Is 53,7). Con chiên vô tội ấy gánh lấy tội lỗi của cả trần gian và đã bị phân thây, hầu khai mở kỷ nguyên ơn cứu độ. Cả 2 phiên tòa này hoàn toàn tương phản nhau, nhưng có một mẫu số chung. Đó là những phiên tòa bày tỏ lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa đối với con người tội lỗi, là chính chúng ta.
Phiên tòa thứ 3: Tòa cáo giải.
Đây là phiên tòa do chính Đức Giêsu thiết định. Ngài đã tham dự phiên tòa thứ nhất để nói với đám đông: “Ai trong các ông vô tội cứ việc ném đá đi”. Ngài đã bị xét xử cách oan ức trong phiên tòa thứ 2 để đồng phận với con người tội lỗi và mở toang một chân trời mới, đem lại ơn công chính hóa và sự giải án tuyên công cho những tội nhân. Ơn cứu độ ấy được diễn bày cách cụ thể nơi phiên tòa thứ 3 là chính tòa giải tội. Đây là phương thức tuyệt hảo để tái diễn lòng thương xót của Thiên Chúa. Trong phiên tòa này, chúng ta được mời đến như những phạm nhân, còn chính Chúa Giêsu sẽ đóng vai thẩm phán để xét xử. Phán quyết cuối cùng trong phiên tòa này luôn là sự tha bổng, tha một cách tuyệt đối và vô điều kiện. Việc đền tội được đưa ra không phải là một hình thức đái tội lập công do công sức của con người, nhưng chính là tâm tình hoan vui và cảm tạ vì chúng ta đã được tha thứ. Không phải chúng ta đọc một vài kinh chiếu lệ để ‘đền tội’ theo ý niệm thông thường, nhưng đúng hơn chúng ta dâng lên Thiên Chúa những tâm tình tạ ơn vì tội lỗi chúng ta được xóa sạch do lòng yêu thương và tha thứ vô điều kiện của Ngài.
Nhiều người trong chúng ta từng tham dự các phiên tòa ngoài xã hội. Có những tội rất nặng, nhưng con người dễ luồn lách dựa vào kẽ hở của luật pháp. Hoặc có không ít các vị quan tòa bẩn thỉu đã nhận ăn hối lộ trắng trợn để giảm án hoặc tha bổng cho phạm nhân. Nhưng, cả 3 phiên tòa chúng ta vừa nêu trên không hề có những trò mánh khóe hay bịp bợm giống như vậy. Nơi các phiên tòa ấy đều có sự hiện diện của Đức Giêsu. Dung mạo của Ngài lúc nào cũng phản chiếu lòng thương xót của Chúa Cha. Điều quan trọng nhất, là chúng ta phải nhìn ra thân phận tội lỗi xấu xa nơi mình và tín thác tuyệt đối vào tình yêu tha thứ của Thiên Chúa. Chúng ta đừng vội kết án người khác giống như đám người Do Thái đang toan tính ném đá chị phụ nữ cho đến chết. Chúng ta cũng đừng hèn hạ và nhu nhược như Philatô, đã kết án một con người hoàn toàn vô tội chỉ vì sợ đám đông. Chúng ta vẫn thường đeo nơi mình 2 cái bị, một cái phía trước đựng những lỗi lầm của người khác và cái bị phía sau chất đầy tội lỗi to đùng của chính mình. Chúng ta cứ thích bới tìm nơi cái bị trước mặt để bới móc tha nhân và ít khi chịu ngoái cổ lại phía sau để lục soát những tội lỗi tầy đình của chính chúng ta. Chúng ta nhớ lại lời nhắc nhở của Thánh Giacôbê tông đồ: “Chỉ có một Đấng ra lề luật vàxét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt. Còn bạn là ai mà dám xét đoán tha nhân (Gia 4,12).
Kết luận.
Mỗi lần tham dự thánh lễ, việc đầu tiên mà Giáo hội mời gọi mọi người là hãy biểu tỏ tâm thức sám hối. Chúng ta vẫn đấm ngực thình thịch và đọc thật to: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”. Nhưng, nhiều khi vừa bước chân ra khỏi nhà thờ chúng ta lại vội ‘đấm nhầm’ qua ngực người khác, bằng việc chỉ trích, nói hành nói xấu và kết án anh em. Trong mùa chay, chúng ta hãymạnh dạn lục soát lương tâm, bới tìm những rác rưởi và bẩn thỉu nơi nội tâm của cõi lòng. Có khiêm tốn tín thác tuyệt đối vào Chúa, chúng ta mới hưởng được Lòng Thương xót và ơn tha thứ nơi Ngài.
Bài Tin Mừng Chúa Nhật V Mùa Chay hôm nay, trình thuật vụ án hy hữu và bất thường. Đó chính là phiên tòa sử người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
Các Kinh Sư và Pharisiêu mang đến cho Đức Giêsu để xin Ngài phân xử. Nếu đọc thoáng qua, chúng ta sẽ thấy họ tôn trọng Đức Giêsu và nhờ Ngài phán quyết một vụ án mang tính di động này. Thật bất ngờ, Đức Giêsu bỗng dưng trở thành thẩm phán. Bị cáo là người phụ nữ ngoại tình. Các người tố cáo chính là Kinh Sư và Pharisiêu.
Phiên tòa bắt đầu với lời tố cáo: "Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?" Họ hỏi câu hỏi đó không phải để chờ Đức Giêsu phán làm sao, mà đúng hơn, họ đã có sẵn bản án trong tay, bởi vì họ biết rõ luật. Nhưng điều đáng nói ở đây chính là cái tâm đen tối của họ, họ muốn gài bẫy Đức Giêsu. Nếu Đức Giêsu lên tiếng phán: "phải ném đá" thì ngay lập tức, Đức Giêsu không phải là một vị Thiên Chúa từ bi nhân hậu, bao dung với người nghèo và yêu thương người tội lỗi. Tất cả những gì Đức Giêsu rao giảng đều tự mâu thuẫn nội tại với Ngài. Bởi vì Ngài đã từng nói hãy tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy (x.Mt 18,21-22). Hơn thế nữa, Đức Giêsu phạm vào cái tội gọi là "tội khi quân" phản loạn và chống lại triều đình.
Còn nếu Đức Giêsu nói "không được ném đá", thì ngay lập tức Đức Giêsu lãnh nhận án tử trong tay. Bởi vì luật Môsê truyền phải ném đá hạng người phụ nữ ngoại tình này. Những ai đi ngược lại với những điều khoản trong luật của Môsê thì kể như là vi phạm và phản bội với truyền thống của tiền nhân. Mặt khác, Đấng đã từng tuyên bố rằng "đến không phải để hủy bỏ lề luật và lời các ngôn sứ, nhưng để kiện toàn"(x.Mt 5,17) không lẽ giờ này lại phá luật?.
Quả thật họ đã quá nham hiểm, họ đã dùng phương pháp: nhất tiễn diệt song điêu. Một mũi tên giết hai con chim. Bầu không khí thật ngột ngạt ngay trong khoảng không chống trải giữa trời. Họ nín lặng chờ vị thẩm phán bất đắc dĩ tuyên án. Trong thinh lặng, thay vì nói lời tuyên án, Đức Giêsu đã âm thầm, tế nhị viết trên đất, hành động này theo một số nhà chú giải thì cho rằng Đức Giêsu viết tội của những người tố cáo chị phụ nữ trên đó. Sau đó Đức Giêsu lên tiếng: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi". Một câu nói tưởng chừng như êm đềm, trôi vào khoảng không vô tư của những người đang hung hăng tố cáo và thực hiện dã tâm...Không! Đức Giêsu đã lật ngược ván cờ. Bị cáo lại chính là những Kinh Sư và Pharisiêu, thẩm phám không phải là một ai hay một nhóm người hiện hữu nào, mà là một vị thẩm phán vượt lên trên thời gian và không gian, một vị thẩm phán có thể thấu suốt những những điều mà chỉ có họ biết họ. Vị thẩm phán đó là "Lương Tâm". Chính vị thẩm phán "Lương Tâm" này đã lên tiếng kết tội của họ trong thinh lặng cõi lòng, đã xoáy sâu vào tận nội căn tâm hồn để vạch trần tội ác của họ. Quá bất ngờ, họ bị chưng hửng, không dám đứng đó, nên đã lần lượt ra về, bắt đầu từ những người lớn tuổi.
Khi mọi người đã ra về, chỉ còn lại mình Đức Giêsu và chị phụ nữ. Bấy giờ, Đức Giêsu mới hỏi: "Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?" và giờ đã điểm, Đức Giêsu tuyên án: "còn tôi, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!". Lời tuyên án của Đức Giêsu đã phá tan màn đen của một vụ án Khuất tất và những bất thường của nó.
Đây là một trong những câu nói tuyệt đẹp và rất nhân văn. Nhưng xét về chiều sâu đức tin, thì đây còn là một lời nói được phát xuất ra từ cung lòng Thiên Chúa, thể hiện một vị Thiên Chúa đầy lòng nhân hậu từ bi và hay thương xót. Sẵn sàng tha thứ cho những người tội lỗi. Một vị Thiên Chúa luôn đứng về phía người nghèo, bị bỏ rơi và thấp cổ bé họng để yêu thương, nâng đỡ và phục hồi nhân phẩm cho họ. Quả thật, Lời Chúa trong sách Khôn Ngoan thật sâu xa để cho mỗi người chúng ta suy niệm: "Lạy Chúa, Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải." (Kn 11,23).
Qua bài Tin Mừng hôm nay, sứ điệp Lời Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hãy nắm lấy tay nhau để dìu nhau đứng dậy và ra khỏi vũng lầy êm ái của tội lỗi. Chứ không phải tìm cách nhấn chìm anh chị em chúng ta xuống tận bùn đen để làm bàn đạp cho ta tiến lên.
Nhưng sâu xa hơn cả, Lời Chúa hôm nay muốn đi sâu vào tận nội tâm mỗi người, để mời gọi đương sự hãy tự cật vấn lương tâm của chính mình, nhằm thấy được những lỗ hổng tốt lành, thánh thiện để lấp cho đầy những bác ái, yêu thương và bình an, lo sám hối và quay trở về với Chúa và với nhau. Đồng thời phải nhận ra những ứ đầy tội lỗi của tham lam, ích kỷ, ghen tỵ nơi chính mình, để có được sự cảm thông thay vì kết án, để yêu thương thay hận thù.
Lạy Chúa, xin cho chúng con mặc lấy tâm tư, hành động của Chúa. Xin cho chúng con biết gớm ghét tội, nhưng không ghét những người có tội. Ước gì, trong những ngày này, mỗi người chúng con biết sám hối chân thành, biết nhìn vào trong sâu thẳm đời sống nội tâm của mình hầu thấy được khuôn mặt thật của mình, để trở về với Chúa và với nhau. Xin tha thứ những lỗi lầm mà thời niên thiếu chúng con vươn lên trong dại khờ. Amen.
Nhạc sĩ Song Ngọc viết ca khúc “Chuyện Người Đàn Bà 2000 Năm Trước” từ trang Tin Mừng hôm nay. Nhạc sĩ khéo léo dùng những ý tương phản như "Thế giới hiền lương, ánh mắt cuồng căm" và đặt câu hỏi, có phải vì người đời giả dối, sợ phải đối mặt với tòa án lương tri với tội của chính mình nên đã lẳng lặng bỏ đi: "Vì người vô tội hay đời giả dối ? Thế giới giả nhân ? Chào thua ! Người ơi, Tình ơi ! Ai tội đồ ? Ai tỉnh ngộ ?..." Nhưng dù sao thì "cũng vậy thôi", ca khúc có kết thúc tốt đẹp và câu hỏi dành riêng cho lương tâm mỗi người.
Với giai điệu chậm buồn, nhạc phẩm kể về một câu chuyện thật lạ lùng, xảy ra hơn hai ngàn năm về trước tại xứ Do Thái. Một phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Các kinh sư và Pharisêu dẫn người đàn bà ấy đến trước mặt Chúa Giêsu, rồi bắt đầu phiên xử. “Trong sách Luật, ông Môsê truyền chúng tôi phải ném đá hạng người này, còn Thầy, Thầy nghĩ sao ?” Một câu hỏi bất ngờ, nham hiểm và lịch sự. Có lẽ sau khi hỏi Chúa như thế, họ hí hửng với những nụ cười ranh mãnh xảo quyệt. Họ thì thầm với nhau cách thích thú: lần này thì đừng hòng mà thoát. Họ nắm chắc phần thắng trong tay. Bắn một mũi tên trúng hai con chim.
Người đàn bà đã nắm chắc bàn thua trông thấy. Chỉ còn Chúa Giêsu. Ngài đang nghĩ gì và Ngài sẽ làm gì trong cái thế gọng kìm này ? Người phụ nữ tuyệt vọng chờ chết với tội danh rành rành. Thật may mắn cho chị khi gặp được Đấng được mệnh danh là “Chiên Thiên Chúa”, là “Đấng xóa tội trần gian”. Ngài xót thương cho số phận bi đát của chị. Ngài muốn cứu chị khỏi án chết trước mắt, nhất là Ngài muốn cứu chị khỏi án chết đời đời. Ngài sẽ cứu chị, đồng thời Ngài cũng sẽ cho những kẻ muốn ám hại Ngài một cơ hội để họ nhìn lại bản thân họ: Chị ta xấu thật đó. Nhưng không chừng các ông lại còn xấu xa hơn chị ta bội phần ! Tội của chị thì nhiều người biết lắm, vì chị ta không khéo che đậy. Còn tội của các ông thì thiên hạ ít người nhận ra, bởi các ông khéo che giấu, tô son trét phấn. Đã đến lúc các ông phải nhìn lại chính con người mình rồi đấy !
Thái độ Chúa Giêsu thật trầm tĩnh “cúi xuống lặng lẽ vẽ trên đất”. Họ cứ hỏi mãi. Chúa ngẩng lên nói với họ một đề nghị nhỏ nhẹ ôn hòa nhưng ngầm chứa một thách thức sinh tử quyết liệt: “Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Phiên tòa xét xử lưu động bỗng chốc thay đổi cục diện. Từ chỗ nắm dao đằng cán, bây giờ họ lại phải nắm lấy chuôi, không khéo sẽ bị đứt tay. Họ lặng lẽ rút lui, "bắt đầu từ những người lớn tuổi". Công bằng mà nói, những người đàn ông có mặt hôm ấy, ngoài Chúa Giêsu ra, đều là những kẻ còn có liêm sỉ và tự trọng. Chúa Giêsu bị đẩy vào thế làm quan tòa bất đắc dĩ, buộc phải ra một bản án xét xử thật nặng, bỗng nhiên trở thành trạng sư với một bài biện hộ vỏn vẹn có mỗi một câu rất ngắn. Chỉ một câu nói mà Chúa đã hoá giải bẫy giăng sẵn. Hoá giải, bởi lẽ Chúa mời gọi họ hãy nhìn vào sâu bên trong tâm hồn.
Hiện trường xử án lúc này chỉ còn lại hai người. Chúa Giêsu và người phụ nữ. Đấng có quyền tha tội và người đã lỡ lầm phạm tội. Ánh nắng buổi sáng đang lung linh nhảy múa trên bậc thềm. Với giọng nói ấm áp, Chúa hỏi: “Họ đâu hết rồi ? Không ai lên án chị nữa hay sao ?” Lần đầu tiên từ lúc bị lôi tới đây, người phụ nữ ngẩng mặt lên. Chị nhận ra khuôn mặt của Chúa Giêsu, Ngài có đôi mắt chứa chan tình người, long lanh ánh sáng thiên đàng, đôi mắt hiền dịu sáng lên niềm cảm thông. Chị bưng mặt, giọng nghẹn ngào: “Thưa Thầy, không còn ai nữa. Họ bỏ đi hết rồi”. Bình minh chiếu sáng rạng ngời khuôn mặt, Chúa nói thật nhẹ nhàng: “Tôi không lên án chị đâu ! Chị về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Tội nhân bị luận tội trước tòa, rõ ràng nằm trong khung án tử hình, nay ngơ ngác thấy mình được tha bổng, kèm một lời dặn dò: từ nay thôi đừng phạm tội nữa ! Chúa Giêsu không kết án nhưng là mở cho chị một con đường đi về phía tương lai, về phía trước.
Hai câu nói của Chúa Giêsu với hai hạng người đều nhẹ nhàng mà sâu xa thấm thía. Với các người kết án, Chúa mời họ nhìn vào phía bên trong. Với người bị kết án, Chúa mở ngỏ về phía tương lai.
1. Nhìn về phía bên trong
Một phiên tòa lạ lùng, xử lưu động theo kiểu nói ngày nay. Phe công tố nhao nhao buộc tội và hằm hè chất vấn, không ngờ sau đó lại lần lượt cúi đầu lặng lẽ rút lui. Chỉ vài phút trước đó, họ hung hãn tố cáo đòi ném đá, và bây giờ họ âm thầm ra về. Một sự chuyển biến bất ngờ phát sinh từ lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Ai trong các ông sạch tội hãy ném đá người phụ nữ này đi”. Khi người ta đòi ném đá tha nhân, người ta tự cho mình là kẻ sạch tội và có quyền lên án kẻ có tội. Nhưng khi người ta khám phá ra mình cũng là tội nhân, người ta không dám lên án nữa vì như thế cũng là tự lên án chính mình. Sự khám phá có được là do cái nhìn về phía bên trong chính mình. Chi tiết mà Thánh Gioan ghi nhận “bắt đầu từ những người lớn tuổi” rất ý nghĩa. Vì càng lớn tuổi càng có bề dày cuộc sống, càng dễ nhận ra bề dày tội lỗi. Càng lớn tuổi càng có cái nhìn nội tâm nhiều hơn.
Có những cái gần mình nhất mà mình lại khó thấy nhất. Đó là bản thân mình. Có những sự thật người ta tìm cách trốn chạy nhiều nhất là sự thật về chính mình. Sự thật ấy chỉ khám phá được khi nhìn vào phía bên trong. Nhìn vào bên trong là đi vào nội tâm để gặp lại chính mình, soi gương tâm hồn. Nhìn lại cuộc sống, lời nói, việc mình đã làm, đã sống. Giáo Hội luôn khuyên con cái mình xét mình mỗi ngày. Các Linh Mục, Tu Sĩ, Giáo Dân đều có thời gian tĩnh tâm, linh thao để biết mình mà sửa mình. Biết mình là đầu mối của sự khôn ngoan.
Nhìn vào phía bên trong là một đòi hỏi cần thiết giữa cuộc sống xô bồ, ồn ào với quá nhiều tranh đấu vất vả mưu sinh. Có khi chúng ta ngại vì sợ phải đối diện với chính mình, đối diện với sự thật về mình. Cần có thời gian tĩnh lặng để dâng lễ, cầu nguyện, viếng Chúa. Khi có thời gian nhìn lại chính mình, chúng ta có gương soi và một khoảng cách ngắm nhìn. Tấm gương tốt nhất là Chúa Giêsu. Ngài là mẫu mực. Nơi Ngài và nhờ Ngài mà chúng ta nhận ra những lỗ hổng cuộc đời, nhận ra lý tưởng cần vươn tới.
2. Nhìn về phía trước
Người ta đòi ném đá người phụ nữ, đóng khung cuộc đời chị trong quá khứ. Quá khứ được đóng dấu bằng tội lỗi. Người ta đánh giá, phán đoán, hành động trên quá khứ đó. Chúa Giêsu không chấp nhận lối nhìn và cách đánh giá ấy. Ngài không đồng loã với tội lỗi. Ngài nhìn nhận người phụ nữ có tội. Nhưng Ngài mở ra một tương lai, gieo vào lòng chị niềm tin tưởng rằng chị có khả năng xây dựng một tương lai mới, một cuộc đời mới, một con người mới: “Chị hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Chúa Giêsu không kết án cũng như không giảm án, không ân xá cho tội nhân. Chúa mở cho chị một con đường hướng về tương lai, làm lại cuộc đời. Đó là con đường sám hối trở về với tình yêu, trở về với đời sống là con cái Thiên Chúa, trở về với tâm hồn bình an. Người phụ nữ ra về lòng tràn ngập niềm vui hoán cải, quyết tâm làm lại cuộc đời.
Thiên Chúa, Đấng mở ngỏ cho tương lai. Ngài không khoá chặt cuộc đời một con người cũng như lịch sử nhân loại vào quá khứ, cho dẫu quá khứ ấy có bi thảm và tàn tạ đến đâu chăng nữa. Thiên Chúa luôn luôn mở ngỏ và vạch lối cho tương lai.
Vẫn biết tội lỗi trái với đạo giáo, trái với luân thường đạo lý, nhưng đâu chỉ căn cứ vào đạo giáo luân lý để khinh khi, coi thường, kỳ thị sự sống con người được. Đạo giáo luân lý giúp con người sống thăng tiến về mặt tinh thần chứ không bao giờ là bước cản trở nhận chìm con người xuống bùn đen. Đã là người, ai cũng có những khuyết điểm, ai cũng có lúc làm điều lầm lỗi. Nhưng ai cũng có khả năng ý chí ước muốn làm điều lành thánh thiện tốt đẹp. Thiên Chúa dựng nên con người với khả năng như thế.
Chúa Giêsu đã sống và đã nêu gương. Ngài không kết án, không giảm án, nhưng là mở ra con đường hướng về tương lai cho con người tội lỗi làm lại cuộc đời. Lêvi ( Mátthêu ), Dakêu, Maria thành Magdala, Augustinô…và còn biết bao con người đã được Chúa mở ngỏ tương lai tươi sáng. Niềm tin đó tạo nên nơi người tín hữu một lối nhìn mới. Đó là nhìn về phía trước, băng mình về phía trước như Thánh Phaolô diễn tả: “Tôi chỉ chú ý tới một điều là quên đi chặng đường đã qua để lao mình về phía trước” ( Pl 3, 13 ). Đối với Phaolô quên đi chặng đường đã qua là qua khứ bắt bớ Giáo Hội Chúa để lao mình về phía trước, phía tương lai mà Chúa Giêsu đã mở ra, đặt ngài làm khí cụ, làm tông đồ dân ngoại. Và Phaolô đã sống hết mình cho tương lai mới.
Trong cách nhìn về tha nhân, có khi người ta khoá chặt người khác trong quá khứ lỗi lầm của họ. Đã một thời “chủ nghĩa lý lịch” khoá chặt con người trong quá khứ, cái quá khứ đâu có do họ ! Vì lẽ đó mà nhiều người trẻ tài năng không có cửa cho tương lai, họ bị loại trừ. Con người vốn vẫn hay nhìn phía đàng sau hơn là nhìn về phía đàng trước. Trong khi niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngỏ cho tương lai lại luôn thúc bách chúng ta nhìn về phía trước.
Nhìn vào phía bên trong để khám phá sự thật về chính mình. Người Hy Lạp đã từng gắn trên cổng Đền Thờ Delphes câu châm ngôn: “Bạn hãy biết chính mình” và coi sự biết mình như là khởi điểm của khôn ngoan.
Nhìn về phía đàng trước để luôn hy vọng và tin tưởng. Tin vào chính mình, vào con người, vào cuộc đời. Và trên hết là tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngỏ cho tương lai chúng ta.
Người Phụ Nữ Ngoại Tình. Câu chuyện ấy đã sảy ra trong thời Chúa Giêsu, khi Ngài đang trên đường rao giảng Tin Mừng Tình Yêu. Lúc bấy giờ danh tiếng Ngài được đồn thổi khắp nơi. Nhiều người mộ mến. Nhưng cũng lắm kẻ ghét ghen. Nhất là hạng thượng tế, luật sĩ, và biệt phái. Bao cuộc tranh cãi gay go về luật lệ đã nổ ra. Người ta muốn tố cáo, truất phế Ngài khỏi tâm hồn quần chúng, nhưng chưa đủ khả năng. Đã bao lần gài bẫy và nêu các vấn đề hóc búa, đều bị Ngài hoá giải dễ dàng. Bẽ bàng. Xấu hổ. Nhưng giới chống đối vẫn ngấm ngầm tìm cách.
Cơ hội thuận tiện chợt đến. Một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Họ lập tức tóm ngay con người khốn nạn đó. Lại đang lúc Chúa Giêsu có mặt trong đền thờ Giêrusalem. Dân chúng đông đảo bao quanh Ngài. Bằng miếng mồi mới bắt được, người ta chắc mẩm chuyến này Đức Giêsu phải sa lưới. Bởi lẽ theo luật Môisen ghi lại trong sách Lêvi: “Người nào ngoại tình với đàn bà có chồng, người nào ngoại tình với vợ của tha nhân, tất phải chết. Cả gian phu lẫn dâm phụ” (Lv 20:10). Cách xử tử những kẻ phạm tội ngoại tình sẽ là “kéo ra khỏi cổng thành mà ném đá chúng cho chết đi” (Đnl 22:24).
Lâu nay, giới chống đối cứ thấy Đức Giêsu giao du với phường thu thuế, đàng điếm, tội lỗi. Nhắc chuyện thì Ngài lại phán: “Ta không đến để kêu gọi những người công chính mà là hạng tội lỗi.” Nghe nhức tai quá. Chịu không được. Trong khi đó, Ngài cũng dạy người ta về sự công minh của Thiên Chúa: Cây nào không sinh trái tốt sẽ bị chặt xuống mà quăng vào lửa đời đời. Thành ra, hôm nay, khi giương chiếc bẫy với miếng mồi “con mụ ngoại tình”, và câu hỏi “Thầy dạy sao, có nên ném đá con dâm phụ này không?”, nhóm luật sĩ biệt phái cầm chắc ưu thế trong tay.
Họ nhủ thầm: Nếu Đức Giêsu trả lời “Ném đá hắn” thì còn gì là yêu thương nữa. Giáo lý Ngài truyền dạy bấy lâu cũng chẳng có mới lạ. Bọn thu thuế đàng điếm sẽ mở mắt ra mà thấy Giêsu cũng chẳng thương xót gì họ.
Như thế là tạo mối nghi ngờ, rạn nứt ngay từ bên trong. Hạng tội lỗi sẽ mất tin tưởng vào Đức Giêsu. Còn Ngài sẽ không đi đi lại lại với chúng được nữa. Đó là chưa nói đến việc chính quyền đô hộ Rôma sẽ trừng phạt gắt gao người Do thái nào dám lên án tử cho kẻ khác.
Song nếu câu trả lời là “Đừng ném đá” thì lập tức Đức Giêsu sẽ lãnh viên đá đầu tiên, vì Ngài đã công khai chống lại luật Môisen, và dám dung túng, bao che cho phường ngoại tình, tội lỗi. Lúc này, nếu có trốn thoát được cái chết của “mưa đá” thì Đức Giêsu cũng bị khai tử nơi tâm hồn người ta. Ngài sẽ không còn mặt mũi nào để gặp gỡ dân chúng nữa.
Thật thâm độc! Miếng mồi không thể trốn chạy mà con mồi cũng chẳng thể chạy trốn. Chuyến này, có lẽ bất cứ lời nói nào của Đức Giêsu cũng sẽ trở thành bản án cho chính Ngài. Chiếc lưới đã giương lên chỉ còn chờ giờ sụp xuống.
Nhưng kìa, tại sao Ngài không nói gì cả? Câu hỏi dồn dập đổ xuống, ấy thế mà Ngài vẫn lặng im? Trước đây khi nêu vấn đề nộp thuế cho hoàng đế, Chúa Giêsu đã trả lời tức khắc, và nhanh chóng khoá miệng đối phương. Nhưng sao hôm nay Ngài lại thinh lặng? Có phải vì đây là vấn đề của lương tâm nên cần thời gian suy xét? Hay sự thinh lặng của Ngài thúc giục người ta nhìn lại chính mình? Nhìn lại để thấy sự giả dối núp bóng chân lý, lòng nham hiểm ẩn mình dưới lọng dù công chính. Tố cáo người phụ nữ ngoại tình nhưng lại nhằm lên án Chúa Giêsu. Hỏi “Thầy dạy sao?” nhưng vẫn cứ muốn ý gian của mình được thực thi.
Nhìn lại chính mình phải là thái độ tôi cần có trong mọi hành xử với tha nhân. Nhìn lại chính mình để biết cảm thông và tha thứ. Bởi lẽ, khi thinh lặng nhìn sâu vào cõi lòng, người ta sẽ không thể không khám phá ra sự thật này: Không có ơn Chúa thì đời tôi cũng chẳng hơn gì đời người; e rằng có khi còn tệ hơn. Khám phá được như thế chắc chắn người ta sẽ không hà khắc và tàn bạo với tha nhân.
“Ai trong các ông vô tội?” Lời mời gọi nhìn lại chính mình đó đã đưa đến quả: không còn ai lên án hay kết tội nữa, nhưng “kẻ trước người sau họ rút lui hết” (Gn 8:9). Thế mới hay khi con người biết thinh lặng xét mình, sự sống sẽ tồn tại. Những gì là độc ác, máu me, chết chóc, hận thù, la lối phải rút lui, nhường chỗ cho tình thương bộc phát và tràn lan.
Ở đâu có tình thương, ở đó có sự sống. Ở đâu có thứ tha ở đó có an bình. “Ta cũng không kết tội ngươi đâu. Đi đi. Và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8:11). Tình thương không kết án, nhưng luôn mở ngỏ cho sự sống mới được lớn lên.
Từ lâu lắm, tại một làng bên nước Ý, người ta có thông lệ ném từ đỉnh núi cao xuống cho tan xác những người đàn bà phạm tội ngoại tình.
Một hôm, có người phụ nữ không may bị bắt quả tang phạm tội khi chồng vắng nhà. Dân làng chuẩn bị hành quyết người đàn bà trước sự chứng kiến của người chồng. Thế nhưng, ngay hôm trước ngày xử tử, người chồng bỗng biến mất. Giờ hành quyết đã đến mà ông chồng vẫn biệt tăm. Mọi người chờ đợi. Đợi chờ.
Cuối cùng, dân làng cũng đưa người đàn bà lên núi. Và sau vài tiếng trống đưa hồn, bà ta bị đẩy xuống vực sâu.
Mấy hôm sau, dân làng vô cùng bỡ ngỡ khi thấy người đàn bà đó lại đang ra vào ngôi nhà của bà ta. Ai nấy lo sợ vì tưởng rằng hồn ma quay về phá phách. Nhưng rõ ràng họ thấy người chứ đâu phải ma. Mãi sau người ta mới khám phá ra. Số là, vì biết không thể nào phá bỏ được tục lệ để cứu vợ, nên trước ngày xử án, người chồng âm thầm vào rừng tìm những sợi dây mây nhỏ, bền, và đan thành một tấm lưới. Sau đó anh đem giăng dưới chân núi nơi thân xác người vợ sẽ bị xô xuống. Nhờ vậy mà nàng còn sống để trở về mái nhà xưa. Anh đã làm thế vì muốn tha thứ và cứu vợ mình khỏi án chết.
Trước tình yêu và hành vi tha thứ cao cả, dân làng đã nhất trí huỷ bỏ thông lệ tử hình vốn đã kéo dài bao trăm năm.
“Ta không kết tội ngươi đâu. Đi đi. Và từ nay đừng phạm tội nữa.” Noi gương Đức Giêsu, bạn và tôi cũng hãy mở đường cho hy vọng, thứ tha, và sự sống vươn lên. Nhưng trước hết chúng ta hãy cùng khởi đi từ gia đình và cộng đoàn của mình.
Chúng ta đang sống trong Năm Thánh Lòng Thương Xót. Tuần trước chúng ta được cảm nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa qua dụ ngôn người cha nhân hậu (x. Lc 15,11-32).
Tuần này chúng ta lại được cảm nghiệm lòng thương xót của Thiên Chúa, qua lời nói và thái độ của Chúa Giêsu trong câu chuyện người phụ nữ phạm tội ngoại tình (x. Ga 8, 11-32).
1. Tha thứ sẽ cứu sống, kết án sẽ giết chết
Tội thì đáng phạt và hình phạt nặng nhất là phải chết. Nhưng Thiên Chúa không muốn kẻ tội lỗi phải chết, trái lại Ngài muốn nó ăn năn sám hối và được sống(x. Ed 18,23). Vì vậy, Chúa Giêsu thường lui tới với người tội lỗi không phải tìm cách kết án nhưng tìm cách để tha thứ. Tha thứ để cứu sống họ. Ngài đã từng tha thứ cho Mathêu, cho Mađalêna, cho Phêrô, cho kẻ trộm lành và cho những kẻ đóng đinh Ngài. Ngài cũng dạy Phêrô tha thứ cho anh em không phải bảy lần mà bảy mươi lần bảy (x. Mt 18,22). Biết được tinh thần tha thứ của Chúa Giêsu như vậy, nên những người luật sĩ và biệt phái mới giăng bẫy để làm hại Ngài. Họ dẫn đến với Ngài một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, để nhờ Ngài xét xử. Cái bẫy họ giăng ra, nhằm mục đích làm cho Chúa phải tiến thoái lưỡng nan. Nếu Chúa Giêsu kết tội người phụ nữ, thì dĩ nhiên Ngài đi ngược lại với tình thương tha thứ mà lâu nay Ngài rao giảng. Mặt khác, Ngài sẽ vi phạm quyền xét xử của Đế quốc Rôma đang cai trị nước Do Thái lúc bấy giờ.
Còn nếu Chúa Giêsu tha cho người phụ nữ, thì Ngài lại đi ngược lại với Luật của tiền nhân. Vì theo luật Do thái, người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình sẽ bị ném đá cho đến chết (x. Lv 20,10; Đnl 22,22). Nhưng, khi có lòng thương xót thì luôn tìm kiếm cách thế để cứu thoát. Cách thế của Chúa Giêsu lúc này là gì? Tin Mừng kể lại, sau khi nghe người Do Thái tố cáo, Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Có lẽ Ngài muốn làm thế là để giúp họ có thời gian xem xét lương tâm của mình. Đó cũng là thời gian để Ngài tìm cách giải cứu phạm nhân. Thánh Giêrônimô thì cho rằng Chúa Giêsu đang viết tội của họ. Nhưng vì họ cứ hỏi mãi, nên Chúa Giêsu đứng lên và bảo họ: “Ai trong các ngươi sạch tội thì hãy ném đá chị này trước đi”(Ga 8,7). Nhưng rồi, không thấy ai ném đá, tức là không ai trong bọn họ sạch tội. Lạ lùng hơn nữa, họ im lặng và “Rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất”(Ga 8,9). Như vậy, Lòng thương xót của Chúa Giêsu đã chiến thắng. Khi chỉ còn Ngài và người phụ nữ, Ngài nói: “Tôi cũng không kết án chị đâu”(x. Ga 8,11). Không kết án, đó là bản chất của Lòng Thương Xót. Như vậy, bài học mà Chúa muốn dạy chúng ta đã rõ ràng: Nếu có Lòng Thương Xót thì sẽ tìm ra cách thế để giải quyết, cho dù sự việc có bế tắc đến đâu. Bởi vì, tình thương tha thứ bao giờ cũng cứu sống, còn kết án thì sẽ giết chết.
2. Cần sửa mình trước khi sửa anh em
Đối nghịch với Chúa Giêsu, là hạng người biệt phái và luật sĩ. Họ luôn tìm cách để kết án. Kết án có nguy cơ giết chết. Họ bắt được một người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Theo luật Môsê, họ có quyền ném đá người phụ nữ này cho đến chết. Nhưng, họ muốn bắn một mũi tên mà trúng hai đích. Đối với họ, đây là một cơ may để họ gài bẩy Chúa Giêsu. Cho nên, với thái độ đầy sát khí, họ lôi kéo người phụ nữ đến với Chúa Giêsu để gài bẩy người. Chúa Giêsu nói với họ: “Ai trong các ngươi sách tội thì hãy ném đá chị này trước đi” (Ga 8,7). Lời mời gọi xem ra nhẹ nhàng nhưng đã xoáy vào lương tâm của họ. Bởi vì, đã là con người thì ai cũng phạm tội: Không nhiều thì ít, không nặng thì nhẹ. Tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót. Thông thường, càng nhiều tuổi thì lại càng nhiều tội. Chính câu chuyện Tin mừng này thôi cũng cho ta thấy những người Do Thái đã mắc hai thứ tội rất nặng: Tội thứ nhất là “Bêu xấu người phụ nữ”; tội thứ hai là “Gài bẩy” để âm mưu giết chết Chúa Giêsu. Vì vậy, Thánh Luca kể: “Họ im lặng và rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất” (Ga 8,9). Hành động rút lui của họ, chứng tỏ họ biết nhận ra tội lỗi của mình. Đó là bước đầu của sự sám hối. Hy vọng, sau đó họ sám hối thực sự để trở về với Thiên Chúa tình thương.
Bản chất của con người thường hay che dấu tội mình, nhưng lại thích khuếch trương tội người khác. Tội của mình thì bỏ vào túi đeo sau lưng, còn tội người khác thì đeo vào chiếc túi trước ngực. Người xưa nói không sai: “Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”. Bài học chúng ta rút ra cho bản thân là: Phải sửa mình trước khi sửa người khác với nguyên tắc người xưa rằng: “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”.
3. Từ nay đừng phạm tội nữa
Chúa Giêsu đã từng nói với người thanh niên, muốn được hưởng sự sống đời đời thì một trong những tội cần phải tránh là tội ngoại tình (x. Mt 19,18). Tội ngoại tình cũng là một trong những thứ tội phạm đến điều răn thứ 9 trong 10 điều răn của Chúa. Tội ngoại tình gây ra những hậu quả hết sức nặng nề trong đời sống gia đình, đặc biệt là trong mối quan hệ vợ chồng. Người ngoại tình sẽ đánh mất niềm tin và sự kính trọng của người phối ngẫu, dẫn đến việc đánh ghen, cãi vã, đuổi ra khỏi nhà và ly dị. Có lẽ vì lý do đó mà theo luật Do Thái, ngoại tình là một trong ba tội lớn nhất và bắt buộc phạm nhân phải chết. Hình thức xử tội ngoại tình là ném đá cho đến chết. Tại Việt Nam chúng ta, ngoại tình dẫn đến ly hôn bị phạt tù 1 năm là nội dung được quy định tại Điều 182 Bộ luật hình sự 2015 (Có hiệu lực từ ngày 01/7/2016).
Việc Chúa Giêsu tha cho người phụ nữ, không có nghĩa là Ngài coi thường tội ngoại tình, nhưng để chị ta khi đối diện với “Lòng Thương Xót” mà hoán cải đổi mới cuộc đời. Vì vậy, Ngài nói với người phụ nữ: “Ta không kết án chị đâu. Chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa”(Ga 8,11). Chúng ta không biết sau đó cuộc sống của người phụ nữ này như thế nào. Nhưng ai cũng hy vọng chị sẽ đổi mới cuộc đời của mình giống như Mathêu, Giakêu, Mađalêna sau khi gặp Chúa Giêsu. Tức là cái mới thay thế cho cái cũ, đời sống tốt lành sẽ thay thế cho đời sống tội lỗi, như lời mời gọi của Bài đọc thứ nhất: “Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng, và đừng để ý đến việc thời xưa nữa. Ðây Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện”(x. Is 43, 18-19). Chính Thánh Phaolô đã thực hiện triệt để lời mời gọi này. Sau cú ngã ngựa trên đường Đamát, Ngài đã quên đi quá khứ tội lỗi của mình và hướng tới tương lai để sống trọn ơn kêu gọi của Thiên Chúa. Ngài nói: “Tôi đinh ninh một điều là quên hẳn đàng sau, mà hướng về phía trước, tôi cứ nhắm đích đuổi theo để đoạt giải ơn kêu gọi Thiên Chúa đã ban từ trời cao trong Ðức Giêsu Kitô”(Pl 3,13-14). Ước gì mỗi người chúng ta cũng luôn biết quên đi quá khứ tội lỗi để hướng tới tương lai, với một lòng dốc quyết mạnh mẽ “Từ nay tôi sẽ không phạm tội nữa”.
Lạy Chúa Giêsu, vì lòng thương xót, Chúa đã tìm cách để cứu người phụ nữ ngoại tình trước cái bẩy mà người Do Thái giăng ra. Xin cho mỗi chúng con có được lòng thương xót của Chúa, luôn biết nghĩ cách để cứu anh em mình hơn là kết án họ. Xin cho chúng con biết nhận ra tội lỗi của mình để thống hối ăn năn xưng tội và quyết tâm từ nay không còn phạm tội nữa. Amen.
Nếu chúng ta có được sự thẳng thắn để nhìn nhận rằng chúng ta cũng là những kẻ bị mất, bị đau ốm, chúng ta sẽ biết mở lòng ra đón tiếp Đức Giêsu. 1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này nằm trong Phần I của TM IV ("Sách các Dấu lạ của Đức Giêsu", tức ch. 2–12), nhưng được coi như một bản văn không thuộc về bản gốc TM IV. Lý do: bản văn này không có trong những thủ bản Hy Lạp quan trọng phát xuất từ Đông phương (chẳng hạn bản Papyrus Bodmer II = P66, năm 200); các tác giả Hy Lạp viết về TM Ga thuộc thiên niên kỷ I không hề bình luận bản văn này; nó chỉ xuất hiện vào khoảng năm 900 trong bản văn Hy Lạp chuẩn. Ngoài ra, còn có những tiêu chuẩn văn chương: bản văn có từ vựng và văn phong của các TMNL, đặc biệt của TM Lc; nó có vẻ không ở đúng chỗ, dù là tại chỗ hiện nay (giữa Ga 7,52 và Ga 8,12), hay ở trong ngữ cảnh tổng quát là TM IV.
Giai thoại này được đặt ở đây có lẽ để minh họa lời khẳng định của Đức Giêsu ở Ga 8,15: "Phần tôi, tôi không xét đoán ai cả". Chúng ta thấy như thế trong một số thủ bản chữ hoa Hy Lạp, nhất là bản D (Codex Bèze), trong các thủ bản La-tinh cổ và tốt, và dĩ nhiên trong bản Phổ thông.
Bản văn này chứa một truyền thống Tin Mừng về cuộc sống công khai của Đức Giêsu: cách thức xử sự của các người tố cáo được các đoạn khác của TM làm chứng; thái độ quen thuộc của Đức Giêsu khi đối diện với Luật Môsê, và sự tha thứ Người ban cho những kẻ tội lỗi. Do đó, ta không thể hoài nghi về sử tính của bản văn. Đàng khác, từ vựng cũng như xu hướng thần học khiến ta nghĩ rằng đây là công trình của tác giả Luca. Chính vì thế, có một loạt thủ bản chép đoạn văn này vào sau Lc 21,38.
Người ta cũng đoán lý do khiến bản văn này không thuộc về các TM ngay từ đầu: rất có thể lý do mạnh nhất, đó là khó mà dung hòa sự tha thứ quá trọn vẹn Đức Giêsu ban cho người phụ nữ với việc đền tội nghiêm khắc mà Hội Thánh sơ khai quy định cho tội ngoại tình.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần: 1) Khung cảnh (8,1-2);
2) Vụ "Người phụ nữ ngoại tình" (8,3-11):
a) Các kinh sư/Pharisêu – Người phụ nữ "đứng ở giữa" – [Đức Giêsu] (c. 3), b) Các kinh sư/Pharisêu – Đức Giêsu – [Người phụ nữ] (cc. 4-6), c) Đức Giêsu và các kinh sư/Pharisêu: câu nói tạo khúc quanh (cc. 7-8),
b') Đức Giêsu – Các kinh sư/Pharisêu – [Người phụ nữ] (c. 9a), a') Đức Giêsu – Người phụ nữ "đứng ở giữa" – [Các kinh sư/Pharisêu] (cc. 9b-11).
3.- Vài điểm chú giải
- vừa tảng sáng (2): Ngoại trừ chỗ này trong TM IV, từ orthros, "bình minh" (orthrou, "lúc bình minh, lúc tảng sáng") chỉ xuất hiện trong TM Lc và Cv thôi (x. Lc 24,1; Cv 5,21). Riêng Lc 21,38 dùng động từ orthrizô, "dậy sớm".
- các kinh sư và người Pharisêu (2): Đây là một công thức quen thuộc của các TMNL, còn TM Ga thì chuộng kiểu nói "các thượng tế và người Pharisêu" (x. 7,32.45; 11,45.57); ngoài đoạn văn này, TM Ga không bao giờ nói đến các kinh sư.
- bị bắt gặp đang ngoại tình (3): Câu 4 sẽ xác định rõ hơn: "bị bắt quả tang đang ngoại tình". Theo Đnl 19,15, phải có ít ra hai người làm chứng rằng đã thấy sự việc, không kể người chồng. Không chỗ nào nói đến anh tình nhân, có lẽ anh này
đã trốn mất. Có thể so sánh truyện này với truyện bà Susanna (Đn 13,36-40 Vg).
- Thưa Thầy (4): Danh xưng didaskalos ở hô-cách[1] này rất quen thuộc với truyền thống Nhất Lãm; còn trong Ga, tác giả thường dùng từ Rabbi để thưa với Đức Giêsu (Ga 1,38).
- trong sách Luật, ông Môsê truyền (5): Các kinh sư và người Pharisêu đang quy chiếu về Lv 20,10 và Đnl 22,22-24 để lý luận.
- Họ nói thế nhằm thử Người (6): Câu này hầu như cũng là câu Ga 6,6 trong tiếng Hy Lạp.
- để có cớ tố cáo Người (6): Câu này hầu như cũng là câu Lc 6,7 trong tiếng Hy Lạp.
- viết trên đất (6): Có nhiều gợi ý về điểm này.
1) Thánh Giêrônimô cho rằng Đức Giêsu đã viết tội của những người tố cáo người phụ nữ. Ngài nghĩ như thế vì dựa trên Gr 17,13;
2) Theo J.D.M. Derrett, người chồng đã lập mưu với các người chứng để bắt quả tang vợ phạm tội; do đó dựa theo c. 6, Đức Giêsu đã viết lên đất câu Xh 23,1b: "(để làm chứng gian)", và dựa theo c. 8, Người đã viết Xh 23,7a. Với lại sách Đn đã quy chiếu về câu Xh này trong truyện bà Susanna (Đn 13,53);
3) T.W. Manson lưu ý rằng trong cách thực hành của Luật Rôma, trước tiên vị thẩm phán viết bản án ra, rồi mới đọc to lên. Như thế, hẳn là c. 6 cho thấy Đức Giêsu đã viết bản án ra, rồi công bố ở c. 7; rồi ở c. 8, Người lại viết những gì sẽ công bố ở c. 11.
Cách giải thích hợp lý nhất, đó là Đức Giêsu chỉ vạch các đường nét trên mặt đất trong khi Người suy nghĩ, hoặc muốn tỏ ra không nao núng hay Người đang kềm hãm các cảm giác chán ngán về sự hăng hái đầy gian ác của những người tố cáo. E. Power ghi lại nhiều trường hợp từ nền văn chương Ả-rập cho thấy thói quen Sê-mít vẽ trên đất khi không muốn can thiệp vào vụ việc nào đó. Dù sao, chúng ta có cảm tưởng là nếu là chuyện quan trọng hơn, thì nội dung của những nét vẽ đó đã được kể lại.
- Ai trong các ông sạch tội,... ném trước... (7): Đức Giêsu cũng trích dẫn Đnl 13,9-10 và ch. 17. Đnl 17,7 nhìn nhận rằng người làm chứng chống lại bị cáo có một trách nhiệm đặc biệt đối với cái chết của kẻ ấy.
- họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao? (10): Đức Giêsu hỏi vì ngạc nhiên hay là có ý châm biếm? Có lẽ phải nói lời này vừa có ý minh giải hoàn cảnh vừa tạo sự yên tâm cho người phụ nữ, và như thế tương đương với câu: "Như vậy, họ đã bỏ rơi vụ này rồi". Vì những người chứng và những người tố cáo đã bỏ đi, vụ việc đã hỏng rồi. Động từ "lên án" ở đây là động từ chuyên môn katakrinein; ở những chỗ khác, khi nói về sự phê phán, phán đoán, tác giả Ga luôn luôn sử dụng động từ trung lập hơn, đó là krinein (Ga 3,17.18; 5,22.30; 8,15.16...).
4.- Ý nghĩa của bản văn
Cách thức Đức Giêsu đối xử với những người tội lỗi lâu nay chắc chắn không được các đối thủ của Người chấp nhận. Người đã ăn uống đồng bàn với những người tội lỗi, đã loan báo cho họ biết Thiên Chúa từ bi thương xót, sẵn sàng tha thứ cho họ. Trong khi đó, các đối thủ của Người tỏ một thái độ khinh bỉ, giữ khoảng cách với những người tội lỗi, không muốn bị họ làm cho ra "nhơ uế". Họ phản đối cách thức xử sự của Đức Giêsu và muốn chứng tỏ cho Người thấy rằng chỉ lối sống của họ mới tương ứng với Lề Luật, nghĩa là với ý muốn của Thiên Chúa đã được mạc khải.
Hôm nay, lại có một sự cố xảy ra để cho thấy những điểm này.
* Khung cảnh (1-2)
Đức Giêsu đang giảng dạy tại Đền Thờ trong tuần lễ cuối cùng của đời Người. Nhiều chi tiết cho biết như thế: Núi Ôliu, Đền Thờ, giảng dạy có uy quyền chung quanh Đền Thờ. Dân chúng vây quanh, lắng nghe Người. Tác giả nói "toàn dân" để cho hiểu là lời rao giảng của Đức Giêsu gây một ảnh hưởng lớn trên người Do Thái.
* Vụ "người phụ nữ ngoại tình" (3-11)
Lần này, các kẻ thù của Người tưởng là cuối cùng họ đã có thể đưa Người vào bẫy để tiêu diệt Người. Họ không tranh luận với Người nữa, mà họ điệu đến cho Người một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Vụ việc đã quá rõ: bà này có tội. Để xác định tội trạng, thì đã có những người có uy tín nhất trong xã hội, những người biết giải thích Luật. Ở đây chúng ta thấy có các kinh sư và người Pharisêu: các kinh sư là những chuyên viên về Luật; còn các Pharisêu là những người ra sức bảo vệ việc áp dụng Luật theo mặt chữ. Họ trích Luật liên hệ đến trường hợp này. Lề Luật tuyên bố minh nhiên: "Khi người đàn ông nào ngoại tình với đàn bà có chồng, ngoại tình với vợ người đồng loại, thì cả đàn ông ngoại tình lẫn đàn bà ngoại tình phải bị xử tử" (Lv 20,10; x. thêm Đnl 13,7-10; 17,2tt). Trường hợp ở đây thì quá rõ, vì đây là ca bắt quả tang.
Các đối thủ của Đức Giêsu tận dụng tình thế này để gây khó khăn cho Người. Họ đưa người đàn bà ngoại tình đến và xin Người cho ý kiến: "Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?" Đức Giêsu còn có thể làm gì nếu không phải là đồng thuận đi theo cách thực hành của các đối thủ, tức là yêu cầu ném đá người đàn bà tức khắc? Hoặc là Người ưng theo cách thực hành của họ, hoặc là Người chứng tỏ Người khinh thường Lề Luật. Tất cả mọi chuyện này xảy ra nơi thanh thiên bạch nhật, trước sự chứng kiến của dân chúng đang nghe Đức Giêsu. Nếu Người đồng thuận với các xử sự của các đối thủ, Người cũng đồng thuận với lập trường của họ đối với những người tội lỗi, Người sẽ bị buộc phải phủ nhận cách xử sự của Người và thế là Người sẽ bị lật mặt nạ ra như là vị thầy giả hiệu. Ngược lại, nếu Người không chấp nhận lối xử sự của họ, Người sẽ phủ nhận một khoản luật rất rõ ràng và cũng sẽ bị toàn dân coi là kẻ vị phạm Lề Luật. Đức Giêsu sẽ ứng xử thế nào trong hoàn cảnh có vẻ không ngõ thoát này?
Hết sức bình thản, Đức Giêsu cúi xuống viết, hoặc vẽ những dấu trên mặt đất. Người chẳng hề liếc nhìn họ hay trả lời họ gì cả. Dường như Người hoàn toàn chỉ lo làm công việc là dùng ngón tay vẽ trên đất. Mọi người cứ chờ một lời nói của Người: các đối thủ thì rất tự tin, người phụ nữ thì cam chịu, dân chúng thì căng thẳng. Người vẽ như thế để làm gì? Người muốn làm cho các đối thủ phải mệt mỏi hoặc bực bội chăng? Đây là một cử chỉ biểu tượng chăng? Ở Gr 17,13, chúng ta đọc được: "Ai tráo trở với Người sẽ có tên viết mặt đất, vì chúng đã bỏ Yavê, mạch nước hằng sống" (Bd NTT). Phải chăng Đức Giêsu muốn nhắc cho họ nhớ rằng họ đã thất trung với Thiên Chúa, nên tên họ đáng bị viết trên mặt đất để rồi xóa đi? Dù sao, họ cũng nôn nóng, thúc bách Người cho câu trả lời.
Từ đầu đến giờ Đức Giêsu chưa nói lời nào. Đến đây câu chuyện chuyển sang hướng khác, do lời đầu tiên Người nói với các kinh sư và người Pharisêu. Bấy giờ Đức Giêsu mới ngẩng lên và bảo họ: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi" (8,7). Họ đã chỉ nhìn đến Lề Luật và tội lỗi của người đàn bà; họ tự tin, họ ngạo nghễ dương dương tự đắc. Ngược lại, Đức Giêsu lại nhắc họ nhớ đến tội lỗi của họ: họ không thể đề mình ra như những kẻ vô phương trách cứ và không có tội; chính họ cũng cần chạy đến xin Thiên Chúa kiên nhẫn với họ và thương xót họ. Làm sao mà họ có thể vội vã yêu cầu xử tử người đàn bà này như thế, mà không hề nghĩ lại? Họ đã chỉ muốn xử người phụ nữ chỉ như một "ca" đơn thuần, cách lạnh lùng, y như một bài toán thôi. Đức Giêsu không trả lời trực tiếp cho câu hỏi của họ; trái lại, Người kéo họ chú ý đến một sự kiện họ đã quên mất, đó là tình trạng thật của họ trước mắt Thiên Chúa: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi" (c. 7). Đức Giêsu bắt họ phải đưa bản thân ra mà xét đoán. Và Người cho họ có thì giờ: Người lại cúi xuống, và viết nữa. Thế là xảy ra một kết quả: các đối thủ của Đức Giêsu đủ lương thiện để chấp nhận lời Đức Giêsu trong lòng. Không một ai dám khẳng định là mình không có tội; không một ai dám cầm đá mà ném trước cả. Tất cả đã bỏ đi.
Khi Đức Giêsu ngẩng lên lần nữa, thì chỉ còn lại người phụ nữ đứng đó. Cho tới đây, Người chỉ quan tâm đến các kẻ tố cáo người phụ nữ; bây giờ Người ngỏ lời với bà. Hai câu hỏi của Người đã làm sáng tỏ hoàn cảnh mới này: "Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?" (c. 10). Tất cả mọi kẻ tố cáo đã bỏ đi, không ai kết án bà phải chịu ném đá. Đến đây Đức Giêsu mới lấy lập trường: chính Người cũng không kết án bà phải chịu ném đá, nhưng Người khuyến cáo: "Chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa" (c. 11). Đức Giêsu không hề chuẩn nhận cho lối sống của người phụ nữ này hoặc giảm thiểu mức độ của lối sống đó. Những gì bà đã làm là tội lỗi, là những điều đi ngược lại thánh ý Thiên Chúa. Đức Giêsu mạnh mẽ khuyến khích bà tránh đi lối sống đó. Người tha thứ cho bà và chỉ cho bà thấy trách nhiệm mới của bà.
+ Kết luận
Một giai thoại thật tuyệt vời để diễn tả sâu sắc chương trình và cách thức Thiên Chúa cứu độ loài người. Cả những kẻ tố cáo cũng như người phụ nữ bị tố cáo đều trải nghiệm nơi Đức Giêsu lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa. Những người tố cáo thì hiểu rằng chính họ cũng cần đến lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa, nên họ không được cư xử cách tự phụ và thiếu lòng từ bi với người thân cận. Người phụ nữ đã được Đức Giêsu cứu thoát khi bà rơi vào hoàn cảnh nguy hiểm và qua Đức Giêsu, đã trải nghiệm được ơn tha thứ từ bi của Thiên Chúa. Hẳn là những người chứng kiến sự cố hôm ấy có thêm một lý chứng để xác tín về giáo lý cứu độ của Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Qua vụ việc này, chúng ta thấy rằng các kinh sư và người Pharisêu thiếu lòng từ bi thương xót: họ nằng nặc tố cáo người phụ nữ; họ nôn nóng đưa Đức Giêsu vào bẫy. Khi mục đích là tiêu diệt kẻ khác, thì mọi sự việc, kể cả con người, đều có thể trở thành phương tiện cho người ta thực hiện ý đồ gian ác. Luật lệ có thể trở thành phương thế để gây áp lực; con người có thể trở thành cái bẫy để ám hại kẻ khác. Các kinh sư và người Pharisêu coi người phụ nữ ngoại tình như một "ca" đơn thuần, cách lạnh lùng, y như thể là một bài toán phải tìm ra đáp án. Đức Giêsu mời gọi chúng ta: khi hành động, cần phải xem ý hướng chúng ta thế nào. Ở đây, chúng ta gặp lại các giáo huấn của Đức Giêsu trong Bài Giảng trên núi (Mt 7,1-5).
2. Bài Tin Mừng này cũng cho thấy rằng Đức Giêsu đã đưa mạc khải về lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa trong Cựu Ước đến chỗ hoàn tất. Là Con Thiên Chúa, Đức Giêsu đã đến để làm chứng về tình thương này; là Đấng Cứu Thế, Người đã đến để cứu những gì đã mất; là thầy thuốc, Người đã đến để chữa các bệnh nhân. Nếu chúng ta có được sự thẳng thắn để nhìn nhận rằng chúng ta cũng là những kẻ bị mất, bị đau ốm, chúng ta sẽ biết mở lòng ra đón tiếp Người.
3. Là những con người cũng mắc vô số thiếu sót và lầm lỗi, chúng ta cũng cần chạy đến với lòng kiên nhẫn và từ bi thương xót của Thiên Chúa. Thế thì vì sao chúng ta lại có thể vội vàng và không hề áy náy xin kết án kẻ khác? Chúng ta có chia sẻ thao thức của Đức Giêsu là cứu chữa, hay chúng ta có một niềm vui thiếu lành mạnh trong lòng khi kết án kẻ khác, vì lúc đó chúng ta có cảm tưởng mình không có tội (x. 1 Cr 13,6)? Chúng ta khó chịu với các kinh sư vì họ định ném đá người phụ nữ, nhưng chúng ta lại không giống họ sao? Chúng ta lại không nói với người ta những điều y như ném đá vào họ đó sao? Chúng ta cần ý thức rằng ơn gọi của chúng ta vừa là ra đi đưa lại ơn cứu chữa như Đức Giêsu đã làm xưa kia, vừa là làm chứng về ơn cứu chữa mà chính chúng ta liên tục đón nhận.
4. Đã có những lần chúng ta được Đức Giêsu tha thứ. Điều đó không có nghĩa là Người chuẩn nhận cho cách sống chúng ta vẫn theo lâu nay. Ơn tha thứ cũng kèm theo một khuyến khích mãnh liệt, thậm chí một đòi hỏi, hãy thay đổi đời sống. Nếu hôm nay, chúng ta vẫn còn thấy nơi mình một xu hướng mãnh liệt kết án người khác, thì cách chữa trị xu hướng bệnh tất đó hay nhất là xem chúng ta đã đi xưng tội bao nhiêu lần, đã bao nhiêu lần nhận được ơn tha thứ, và rồi đã sống theo lời khuyến cáo của Đức Giêsu đến đâu: "Hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa". Tại sao lại có khá nhiều Kitô hữu có vẻ thích thú khi tìm ra và công khai hóa các lỗi lầm của người khác?
5. Tội là điều nghiêm trọng, vì nó làm cho chúng ta không hạnh phúc và phá hỏng cuộc đời chúng ta. Đức Giêsu không bảo người phụ nữ: "Chị cứ đi bình an, chị có lý khi phản bội chồng chị, cứ tiếp tục đi!", nhưng dường như muốn bảo: "Chị hãy ngưng gây hại cho chính chị, đừng phá hỏng đời sống chị nữa chỉ vì một ít khoảnh khắc lạc thú". Không ai ghét tội cho bằng Đức Giêsu, bởi vì không ai yêu thương chúng ta cho bằng Đức Giêsu. Thế nhưng Người không kết án những kẻ phạm lỗi, cũng không góp thêm phần tàn phá vào những gì kẻ tội lỗi đã làm nơi chính họ. Người bảo: "Từ nay đừng phạm tội nữa!" ------------------------- [1] Vocative: một sự thay đổi về ngữ pháp trong danh từ để diễn tả việc xưng hô.
Ngài có thói quen, nhất là trong tuần lễ cuối cùng, đến vườn Ghếtsêmani và trải qua đêm tại đó, để tìm sự yên tĩnh và cầu nguyện.
Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. Lúc đó, các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình.
Vừa tảng sáng, Đức Giêsu đã ngồi trong sân Đền thờ, có đám dân vây quanh Ngài. Tự nhiên, ở đằng kia ồn ào nổi lên. Một nhôm người Pharisêu cố kéo một phụ nữ đang vùng vẫy. Đám đông giãn ra và làm thành vòng tròn. "Người ta đã bắt gặp người phụ nữ này nơi nhà một người đàn ông… Chị ta phản bội chồng mình... Chị ta đáng chết... luật lệ đã rõ ràng" (Đnl 22,22-24; Lv 20, 10). Làm sao họ chỉ dẫn đến có một người đàn bà? Trong bất cứ một vụ ngoại tình nào, cũng có đàn ông nữa chứ và luật lệ cũng lên án đàn ông rõ ràng, như đàn bà vậy! Nhưng chúng ta biết rằng, các Thánh sử (nhất là Luca, vì theo thủ bản cổ nhất, có lẽ ông là tác giả trang Tin Mừng này hơn là Gioan). Không ngừng nhấn mạnh về thái độ mới lạ của Đức Giêsu trước quan niệm đương thời về phụ nữ. Trong khi phụ nữ bị xã hội khinh bỉ và gạt bỏ ra ngoài, thì Đức Giêsu lại làm tảng giá trị và luôn phục hồi danh dự cho họ.
Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Người: "Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó
Quả thực, ngoại tình là một lỗi nặng, mà mọi nền văn minh đều lên án cách nghiêm khắc. Một xã hội không thể coi thường lâu đài vấn đề này mà không tự huỷ diệt. Có cần bao dung cho sự dữ và bất công mà một người phối ngẫu phải chịu không? Trong một bối cảnh quá phóng túng và lệch lạc về dục tính như thế, nếu gia đình, con cái có thể phát triển mà không gặp thương tổn sao?
Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?
Mọi người đều biết rằng, Đức Giêsu tái biểu dương tính bất khả phân ly của hôn phối để cứu tình yêu khỏi những tình trạng bất trung (Mt 5,31-32). Đức Giêsu đã dứt khoát và mạnh mẽ lên án việc ngoại tình bằng cách khẳng định, dù chỉ ưng thuận trong lòng đối với ý muốn xấu xa đó thì đã có tội rồi: "Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5,28). Lòng nhân lành của Đức Giêsu không có nghĩa là Ngài chấp nhận tình trạng phóng đãng.
Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng cớ tố cáo Người
Những người pharisêu và kinh sư biết rằng, Đức Giêsu thương yêu các tội nhân và họ cũng yêu thương Người. Họ vì giao du với người tội lỗi. "Ông ấy ăn uống với người tội lỗi". Thực sự, vụ xét xử người đàn bà ngoại tình chỉ là cớ để họ lên án Đức Giêsu, để họ gài bẫy Người. Nếu người lên án tử hình người đàn bà này, Ngài sẽ xoá bỏ hình ảnh xót thương mà Người đã để lại trong tâm trí kẻ tội lỗi: Nhờ đó, Người được quần chúng mến phục, vì tình yêu, vì sự tốt lành của Người. Nếu người tha bổng người đàn bà tội lỗi này, Người sẽ vi phạm luật Chúa, và cổ thể bị tử hình vì đã xúc phạm đến Thiên Chúa, Đấng đã cấm phạm tội này. Như vậy, đây là "vụ xử án của Đức Giêsu” đang diễn ra sau vụ xử án người đàn bà này.
Vụ án biểu tượng: Bị cáo: Một người phụ nữ. Người tố cáo: Kinh sư và những người pharisêu Tội phạm: Ngoại tình, bị phạt theo luật Môsê. Bản án: Tử hình
Vụ án thực sự:
Bị cáo: Đức Giêsu Người tố cáo: Cũng nhóm kinh sư và Pharisêu Tội phạm: Phạm thượng Bản án: Tử hình
Nhưng Đức Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất
Sư im lặng này khởi đầu cho sự im lặng quan trọng của Đức Giêsu trong vụ xử án chính Người.
Nhưng ở đây, phản ứng trên rất gây ngạc nhiên. Người không làm gì cả. Người không trả lời gì hết. Người đang vẽ Như thể một người muốn lờ đi không gì chung quanh mình. Đó không phải là một thứ tế nhị sao? Người không ngước mắt lên nhìn người đàn bà, vì Người biết chị ta xấu hổ. Nhưng cũng nhận ra việc Đức Giêsu khước từ phán quyết các biến cố dựa trên những phân tích của con người. Chẳng hạn, Người đã có thể điều tra, đặt câu hỏi, tìm xem những trách nhiệm? Liệu có những trường hợp giảm khinh hay không? Quá khứ của người đàn bà này có giải thích được thái độ của chị ta không? Chồng chị đối xử với chị như thế nào? Có nên phân biệt trường hợp ngoại tình trơ trẽn, công khai và lâu dài thường xúc phạm, làm nhục người phối ngẫu, làm con cái đau khổ...Với trường hợp ngoại tình kín đáo, tuy cũng có tội nhưng do yếu đuối chóng qua, chỉ gây nhục nhã trong tâm hồn? Luật lên án tử hình một tội như vậy có quá đáng chăng? Người ta có nên mở một chiến dịch để xin bãi bỏ luật này không? Những câu hỏi như thế, con người và xã hội vẫn thường đặt ra. Nhưng Đức Giêsu tự ý đặt mình trên một bình diện khác. Hình như Người không quan tâm gì. Người đang viết trên cát. Đó có phải là một thái độ thoái thác không? Hẳn là không. Vì Đức Giêsu sắp đề cập đến "lãnh vực khác".
Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ
Chính họ cứ vẫn hỏi mãi. Lạy Chúa, Chúa đã giữ im lặng bao lâu? Lúc này, con đang hình dung ra Chúa đưa mắt nhìn từng người trong bọn họ. Con ngắm nhìn đôi mắt đang di động, khi Chúa ngửa mặt lên. Trước tiên, Chúa nhìn người đàn bà đáng thương, rồi những người tố cáo, rồi tới đám đông…
Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi
Chúa đòi hỏi họ phải trở về với lương tâm của mình. Cũng ngày nọ, người ta tìm thủ phạm trong cuộc “Philatô tàn sát những người Galilê" hay trong tai hoạ do “tháp Silôa” đổ xuống.
Đức Giêsu đặt cuộc tranh luận trên một bình diện khác: Dưới mắt Thiên Chúa, tất cả mọi người đều là tội nhân, và cần phải được tha thứ? anh em hãy có lòng nhân từ, như cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy" (Lc 6,36-38). Vâng, lạy Chúa, con đang cần lòng nhân hậu thương xót của Chúa và của kẻ khác. Vậy xin Chúa hãy ban cho con, một trái tim biết thương xót.
Ngôn sứ Hôsê (2,4-25) đã so sánh dân ít-ra-en với một người vợ được Chúa yêu thương mà lại “ngoại tình" bằng những hành động "điếm đàng". Mọi sự lìa bỏ Thiên Chúa đều là một thứ ngoại tình, vì xúc phạm đến một Thiên Chúa dễ bị tổn thương và si tình. Nhưng Thiên Chúa tiếp tục yêu thương một cách không mệt mỏi và tha thứ cho người vợ bất trung, là nhân loại tội lỗi. Đó là điều khác hẳn với những cuộc tranh cãi nới toà án, dù những cuộc tranh cãi đó hữu ích đến đâu cũng thế. Tội lỗi của tôi đã gây tổn thương cho Chúa, cho Đấng yêu mến tôi. Chính Đức Giêsu đã nói điều đó. Ngài đã đến để mạc khải như thế!
Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi
Lạy Chúa Giêsu, lần thứ hai này, Chúa đã giữ im lặng bao lâu? Lạy Chúa, thực sự Chúa chứng tỏ lòng thương xót với những người Pharisêu nữa. Chúa cũng không nỡ ném đá họ. Sau này, trên thập giá Chúa sẽ cầu xin: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm" (Lc 23,34). ôi! Sâu thẳm thay lòng Chúa. Thay vì lột mặt nạ họ ở chỗ công khai, Chúa đã cho phép họ "lần lượt" âm thầm rút lui, nhờ thái độ im lặng của Chúa.
Trong một lúc lâu im lặng, người đàn bà cũng có thời giờ suy nghĩ vì tội lỗi của mình. Nhiều điều đang diễn ra trong đầu óc của Chị. Có thể chị đã không bao giờ thực sự nhận ra tính nặng nề của tội chị phạm? Nhưng tình yêu xót thương của Thiên Chúa, "không lên án" chị, sẽ phút chốc mạc khải cho chị biết thế nào là tình yêu thực sự. Giờ chị đang nhìn Đức Giêsu. Ngài là một con người nhân hậu. Có lẽ chị ta đang khóc... Chị ta đã thoát chết... Chị không còn là người “ngoại tình" nữa. Chị ta đã được thanh tẩy.
Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, và người phụ nữ thì đứng ở giữa
Sự “khốn khổ” đối với "lòng xót thương", Thánh Âutinh đã bình luận như vậy. Đó là một hình tượng mà con muốn chiêm ngắm lâu giờ. Lạy Chúa Giêsu, xin tạ ơn Chúa.
Người ngẩng lên và nói: "Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?" Người đàn bà đáp: "Thưa ông, không có ai cả." Đức Giêsu nói: "Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!"
Tất cả những người tội lỗi khác, các kinh sư và người pharisêu đều không hiểu gì nổi Đức Giêsu, không hiểu gì nơi Thiên Chúa cả! Nếu họ ở lại với Đức Giêsu hẳn là họ cũng được tha thứ như người đàn bà này. Vì Đức Giêsu vẫn thường nói: "Phần tôi, tôi không xét đoán ai cả" (Ga 8,l5). "Tôi đến để tìm và cứu những gì đã mất" (Lc 19,10). Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ " (Ga 3,17).
Lạy Chúa, con cũng vậy, lúc này con đang cầu xin Chúa, con cần được cứu độ. Con ở lại với Chúa. Trong cuối Mùa Chay này, con sẽ lãnh nhận dấu chỉ nhạy cảm và hữu hiệu, đó là bí tích tình yêu thương xót của Chúa. Con muốn nghe từ nơi vị đại diện của Chúa, như thể chính Chúa, những lời sau đây: "Tôi không lên án anh chị, cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa".
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Thầy và là người Anh của chúng con, Chúa tốt lành và hài hoà tế nhị biết bao! Chúa vô cùng thông cảm và đối xử nhân hậu với chúng con, là những người tội lỗi. Xin tạ ơn Chúa! Chúa tuyệt đối không thoả hiệp với tội lỗi và sự ác.
“Đừng phạm tội nữa". Tạ ơn Chúa! Chúa là Đấng không bao giờ giam hãm chúng con trong quá khứ. Đứng tước người này người nọ mà chúng con thường nói tới. “Không thể làm gì cho hắn được nữa… Tôi đã thử hết cách rồi…Đành chịu thôi... " Thì chắc Chúa sẽ dừng lại trước con người đó với lòng tin cậy, Chúa sẽ thương yêu người đó với thái độ trìu mến, Chúa sẽ nhìn họ với một cái nhìn hoàn toàn mới mẻ, đến nỗi có thể làm phát sinh trong họ một trái tim mới. Vậy Chúa là ai mà yêu thương chúng con như thế? Là Đấng vô cùng cao cả, là Đấng rất dễ bị tổn thương, là Đấng hết sức nghèo nàn ư? Chúa là tình yêu vô biên. Chúa là tình Yêu!
Cuối năm 1894, đại úy quân đội Pháp Alfred Dreyfus, cựu sinh viên Trường Bách Khoa Paris, một người gốc Alsace theo Do Thái giáo, bị buộc tội đã để lộ cho người Đức một số tài liệu bí mật, bị kết án tù khổ sai chung thân về tội phản quốc và đày đi Đảo Quỷ thuộc Guyanne. Vào lúc đó, các quan điểm của giới chính trị Pháp là hoàn toàn ác cảm với Dreyfus. Một ít người không tán đồng bản án, trước hết là người anh trai Mathieu, rồi đến gia đình Dreyfus, đã cố gắng chứng minh sự vô tội của ông, sau được hưởng ứng bởi nhà báo Bernard Lazare. Đồng thời, trung tá Georges Picquart, người chỉ đạo vụ phản gián, khẳng định vào tháng 3 năm 1896 rằng kẻ phản bội thực sự phải là thiếu tá Ferdinand Walsin Esterházy. Tuy nhiên, bộ tham mưu từ chối xem xét lại quyết định của mình và thuyên chuyển Picquart tới Bắc Phi. ( Ảnh chân dung đại úy Dreyfus ).
Để thu hút sự chú ý về sự yếu ớt trong các bằng chứng chống lại Dreyfus, tháng 7 năm 1897 gia đình ông đã liên hệ với chủ tịch danh dự của Thượng Viện Auguste Scheurer-Kestner, người đã ra thông cáo, sau đó ba tháng, ông đã chịu thuyết phục rằng Dreyfus vô tội, và cũng đã đồng thời thuyết phục Georges Clémenceau, một cựu nghị viên và nhà báo. Cùng tháng đó, Mathieu Dreyfus khiếu nại chống Walsin-Esterházy lên Bộ Chiến Tranh.
Khi phạm vi những người ủng hộ Dreyfus bắt đầu mở rộng, hai sự kiện xảy ra vào tháng giêng năm 1898 làm cho vụ việc trở nên có quy mô quốc gia: Esterházy được tha bổng, dưới sự ủng hộ của những người bảo thủ và những người dân tộc chủ nghĩa; và Émile Zola đăng bài “Tôi buộc tội… !” ( J'Accuse... ! ) biện hộ cho phe ủng hộ Dreyfus ( dreyfusard ) đã lôi kéo được rất nhiều nhà trí thức. Một quá trình chia cắt nước Pháp bắt đầu, điều còn kéo dài cho đến hết thế kỷ. Các cuộc bạo động bài Do Thái bùng phát ở trên 20 thành phố nước Pháp, và người ta ghi nhận nhiều người đã thiệt mạng ở tỉnh Alger. Nền Cộng Hòa bị chấn động, một số người thậm chí tin rằng nó đang lâm nguy và nỗ lực tìm cách chấm dứt vụ Dreyfus để vãn hồi sự ổn định.
Bất chấp mưu mô của quân đội muốn làm sự việc chìm xuống, bản án kết tội Dreyfus đầu tiên bị hủy bỏ bởi Tòa Thượng Thẩm sau một cuộc điều tra kỹ lưỡng và một tòa án binh mới được thành lập ở Rennes năm 1899. Trái với mọi mong đợi, Dreyfus bị kết án một lần nữa, mười năm lao động khổ sai, dù sao, với những tình tiết giảm nhẹ. Kiệt sức với đợt đi đày 4 năm trời, Dreyfus đã chấp nhận lệnh đặc xá của Tổng Thống Émile Loubet.
Phải đến năm 1906 sự vô tội của ông mới được thừa nhận chính thức thông qua một án quyết không chiếu xét của Tối Cao Pháp Viện. Được phục hồi danh dự, đại úy Dreyfus trở lại quân ngũ với quân hàm thiếu tá và tham gia vào Thế Chiến I. Ông mất năm 1935. Những hậu quả của vụ bê bối này là không kể hết và động chạm tới mọi khía cạnh trong đời sống công chúng Pháp: chính trị ( nó cống hiến thắng lợi cho nền Cộng Hòa và trở thành một thứ huyền thoại lập quốc ( mythe fondateur ) khi làm sống dậy chủ nghĩa dân tộc, quân sự, tôn giáo ( nó đã kéo chậm lại cuộc cải cách Công Giáo ở Pháp, cũng như sự dung hợp vào nền Cộng Hòa của những người Công Giáo ), xã hội, tư pháp, truyền thông, ngoại giao và văn hóa. Chính trong thời kỳ này mà thuật ngữ giới trí thức ( intellectuel ) đã ra đời. Vụ việc cũng có tác động tới quốc tế với phong trào phục quốc Do Thái thông qua một trong những người sáng lập, Théodore Herzl, và bởi những cảm xúc do những cuộc biểu tình bài Do Thái gây nên trong cộng đồng người Do Thái ở Tây và Trung Âu ( Wikipedia ).
Cuộc xét xử đại uý Alfred Dreyfus bị khuynh đảo bởi chính trị, dân tộc và tôn giáo, nên cán cân công lý sai lệch, thay trắng đổi đen. Đến nay vẫn còn tiếp diễn biết bao vụ án oan sai khắp nơi, vì vị thẩm phản thiếu sáng suốt, hoặc bị động do áp lực của nhà cầm quyền, hay phe phái quyền lực nào đó.
Chúa Nhật V Mùa Chay hôm nay, Tin Mừng theo Thánh Gioan giới thiệu Đức Giêsu như một thẩm phán siêu phàm. Cương trực, tự chủ, sáng suốt, Người thoát khỏi áp lực quần chúng, sức ép của lãnh đạo tôn giáo, các Kinh Sư và Pharisêu, để xét xử công minh, chính trực và nhân ái. Mặc dù các kinh sư và Pharisêu cố tình gài bẫy Người vào cuộc xét xử tiến thoái lưỡng nan, nhưng Người đã khéo léo, dễ dàng hoá giải theo đạo Yêu Thương của Thiên Chúa. Hơn nữa, Người vốn từ bi, nhân hậu, tràn đầy Lòng Thương Xót.
Tình thương khoan dung
Trước câu hỏi khá sỗ sàng, không cần giấu diếm dã tâm: "Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao ?" Lòng Thương Xót của Đức Giêsu được dịp công khai biểu lộ. “Người cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất.” Không muốn tỏ ra bất bình, phẫn nộ khi nhìn thấy những gương mặt đểu cáng, giả hình, xảo trá, đang hoan hỉ, đắc thắng, cũng chẳng muốn biểu lộ nỗi xót xa với người thiếu phụ đang lẩy bẩy, run rẩy, khiếp hãi, hổ thẹn, tủi nhục. Người trầm ngâm cúi đầu, thinh lặng, với tấm lòng rộng rãi chan chứa bao dung, âm thầm thông cảm, nâng đỡ và che chở tội nhân. Người cũng khoan dung, nhẫn nhục buông xả thái độ hằn học, khiêu khích, sinh sự của nguyên cáo.
Không cần thẩm tra thiếu phụ, cũng chẳng vội trả lời các Kinh Sư và Pharisêu, đang đốc thúc dồn Người vào cái bẫy quá ư lộ liễu. Người bình thản làm nguội đi những cái đầu cao ngạo, nôn nóng, quá khích của “bên thắng cuộc.” Người im lặng để chia sẻ nỗi đau đớn, nhục nhã, lo sợ, hối cải muộn màng của tội nhân. Người nín thinh, vì xót xa thấu hiểu lòng dạ rắn độc của các Kinh Sư và Pharisêu, đang mượn tội nhân làm bình phong hòng đấu tố Người. Lòng bao dung vĩ đại đã hoá giải tất cả mưu mô ám muội của họ.
Tình thương thức tỉnh
Thay vì đối chất làm cho ra lẽ sự đối xử bất công, phiến diện, thành kiến với phụ nữ phạm tội, tại sao không bắt cả bị cáo nam đồng phạm, tại sao không tố giác với Hội Đồng Kỳ Mục, với Thượng Tế, hay với công quyền, Người vẫn cúi đầu im lặng cho mọi người cùng noi theo, cúi đầu nhìn xuống, nhìn vào tâm can, nhìn vào tận đáy lòng hoen ố, để chân thành tự kiểm và tự vấn.
"Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi." Biết bao lần chính họ cũng đã lén lút gian dâm, hủ hoá, ngoại tình, mà còn may chưa bị lộ, cùng bao nhiêu lần ham muốn dâm tà mà chưa thành. “Ðồ giả hình, hãy liệu lấy cái xà khỏi mắt ngươi trước đã, đoạn ngươi sẽ trông rõ mà kéo cái dằm khỏi mắt anh em ngươi" ( Mt 7, 5 ).
Đức Giêsu còn gay gắt cảnh báo, không được kết án tha nhân vì hậu quả khôn lường: “Đứng xét đoán, đề khỏi bị đoán xét. Các ngươi xét đoán cách nào thì sẽ bị đoán xét cách ấy, và các ngươi đong bằng đấu nào, thì người ta sẽ đong cho các ngươi bằng đấu ấy” ( Mt 7, 1-2 ).
Tình thương tha thứ
Đức Giêsu lại cúi đầu, hí hoáy vẽ dưới đất. Bỗng dưng sự lạ nhãn tiền xảy ra. “Nghe nói thế, họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó.” Các nguyên cáo mới hớn hở, hùng hổ, vênh váo, tự đắc, bất ngờ trở thành bị cáo, cúi đầu hổ thẹn, đành buông rơi hòn đá, lẳng lặng ra về. Bấy giờ Đức Giêsu mới hỏi đến tội nhân: "Hỡi thiếu phụ, những người cáo buộc chị đi đâu cả rồi ? Không ai kết án chị ư ?" Nàng đáp: "Thưa Thầy, không có ai." Đức Giêsu bảo: "Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa."
Các Kinh Sư và Pharisêu đều cực lực, đồng loạt nhao nhao lên kết án thiếu phụ phạm tội, thì Đức Giêsu khoan dung, ngồi xuống, thinh lặng, bỏ ngoài tai. Họ đòi ném đá chị, thì Đức Giêsu thản nhiên vẽ trên đất cát, coi như vết nhơ tội lỗi sẽ bị xoá nhoà vì tình thương thứ tha. Họ vẫn chưa buông tha chị, thì Đức Giêsu chẳng phản bác, cũng chẳng đồng tình, chỉ kêu gọi họ thức tỉnh, tự vấn lương tâm, yêu cầu ai trong sạch hãy ra tay. Vị Thẩm Phán siêu phàm xét xử công khai, nghiêm minh, đạt lý thấu tình, kết thúc phiên toà hoàn toàn bất ngờ và có hậu. Tội nhân không phải chết, nhưng được tái sinh nhờ vào Lòng Thương Xót vô biên của Chúa.
“Con đau đớn vì thấy nhiều phản bội với Chúa: tốt, nhưng chưa đủ. Phải làm như chị Maria thành Magđala "được tha nhiều vì đã yêu nhiều"; phải làm như Thánh Gioan: trốn bỏ Chúa trong vuờn Giêtsimani, nhưng trở lại đứng bên Thánh Giá, dốc quyết hằng yêu mến bằng hành động.” ( Đường Hy Vọng, số 890 ).
Lạy Chúa Giêsu, sau bao nhiêu năm bon chen, đua đòi với đời, chúng con cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, đánh mất niềm tin, lương tâm trong sáng, tâm hồn trong sạch, trở nên chai lỳ với tội lỗi. Kính xin Chúa khoan dung thương xót, thức tỉnh chúng con ăn năn, sám hối, để được Chúa thương yêu thứ tha, được bình an và hạnh phúc trở về xum vầy trong nhà Cha Nhân Từ.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con khoan dung với mọi người, để được Chúa thương yêu. Xin Mẹ dạy chúng con biết sống khiêm nhường, để nhận thức được bản thân phàm hèn, tội lỗi, yếu đuối mỏng dòn, hầu thông cảm với tha nhân sai phạm, mà nâng đỡ, giúp nhau đổi mới, cùng trông cậy vào Lòng Thương Xót Chúa thứ tha, an ủi và chúc lành. Amen. AM. TRẦN BÌNH AN
Trong mùa Chay không ai quên được câu: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn và được sống” (Ed. 33, 11). từ của Thiên Chúa, nhưng con người lại muốn kết án tử hình nhau. Bài Tin Mừng cho thấy con người xử tử hình, còn Thiên Chúa lại cứu sống. Người ta đã mở một cuộc thăm dò dư luận về án tử hình, có nên bãi bỏ không? Một số đồng ý bãi bỏ, lý do là án tử hình không răn đe hữu hiệu kẻ phạm tội ác. Đa số ủng hộ luật tử hình, lý do là án tử hình làm người ta sợ không dám phạm tội ác.
Thực tế, hầu hết các nước trên thế giới vẫn duy trì án tử hình, chỉ trừ nước Thụy Sĩ và mấy nước Bắc Âu. Tại sao người ta đã lập ra án tử hình? Có lẽ án tử hình không có sức răn đe làm người ta sợ không dám phạm tội ác, cho bằng lý do trả thù như câu châm ngôn: “ác trả ác báo”, “mắt đền mắt, răng đền răng”, để trừng trị kẻ thù, để tiêu diệt những kẻ tranh giành địa vị và quyền lợi với mình: “Được làm vua thua làm giặc”. Vua tru di tam tộc kẻ thua, phe đảng này giết phe đảng kia, bọn cướp này giết bọn cướp kia, chỉ để chiếm quyền độc tôn thống trị, lợi lộc. Sở dĩ có chiến tranh chém giết lẫn nhau cũng chỉ vì tranh giành quyền lợi. Vua Chúa cấm đạo cũng chỉ vì giữ uy quyền cho mình hay cho giáo phái, tín ngưỡng của mình. Thượng tế và kinh sư chỉ vì ghen tương trang giành quyền binh khi thấy “Toàn dân đến với Người” nên họ phải gài bẫy để đánh gục Đức Giêsu. Một trong những bẫy đó là họ dẫn đến trước mặt Người một phụ nữ ngoại tình và họ nói: “Người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách luật, ông Mosê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó, vậy Thầy nghĩ sao?”.
Nếu họ thành thực giữ luật Môsê, sao họ không xử đàn bà đó đi? Họ đang là hạng người có quyền thế trong xã hội Do Thái, còn Đức Giêsu lúc đó chỉ là thường dân. Họ quá ác ý nên Tin Mừng đã chú thích thêm: “Họ nói thế nhằm thử Người để có bằng chứng tố cáo Người”. Họ sẽ tố cáo Người thế nào?
Nếu Người tha cho kẻ ngoại tình, họ sẽ tố cáo Người phá luật Môsê, tức là phản đạo và thông đồng với kẻ tội lỗi, như vậy họ có quyền kết án tử hình Người.
Nếu Người kết án ném đá tội nhân, họ sẽ tố cáo Người đã phạm tội giết người với Chính quyền Đế quốc Rôma, vì luật Hoàng đế cấm người Do Thái không được xử tử ai. Như vậy, chính quyền đế quốc sẽ lên án tử hình cho Đức Giêsu. Họ còn có bằng cơ tố cáo Người đã hành động bất nhất, nghịch với đạo lý yêu thương cứu độ của Người.
Nếu Đức Giêsu mắc vào bẫy của họ, họ sẽ được lợi quá nhiều: Họ sẽ kết án Người cùng với đàn bà ngoại tình, đồng thời không còn ai tin Người là Đấng Cứu thế nữa. Thật là một nhục hình cùng cực, một âm mưu thâm độc, như sau này họ đã thành công kết án tử hình Người trên thập giá.
Trái hẳn với dã tâm gian ác của họ, Đức Giêsu đã hiền từ, lặng lẽ ngồi xuống âm thầm bãi bỏ án tử hình của loài người, với lý do Người viết trên cát câu thật chí lý: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Mắt Người đã nhìn thấu suốt tâm can của họ và vạch trần tim đen của họ như Thánh Augustinô nói: “Chúa đã viết tội từng người và họ đã từ từ rút lui”. Nếu họ dám ném đá người đàn bà ngoại tình thì họ phải ném đá mình nữa. Đúng như Người đã nói: “Họ thấy cái rác trong mắt người khác, mà không thấy cái xà trong mắt mình”. Rõ thật hạng giả hình: “Chân mình lấm láp lê thê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”. Đức Giêsu là người số một đã bãi bỏ án tử hình. Chỉ một mình Thiên Chúa mới hiên ngang bãi bỏ luật tai ác đó thôi. Ngài là Đấng ban sự sống, lại rất tôn trọng yêu quý sự sống của con người. Dù con người gian ác thế nào, Ngài vẫn lo cứu chuộc. Ngài tự nhận mình là thầy thuốc lo cứu chữa những bệnh nhân, Ngài đến để cho thế gian được sống và được sống dồi dào.
Sự sống dồi dào đó, Đức Giêsu đang ban cho chị phụ nữ bị kết án tử hình được tiếp tục sống: “Tôi không lên án chị đâu, thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa”. Từ nay chị được sống dồi dào cả hồn lẫn xác vì chị vừa được tha khỏi bị ném đá và nhất là được tha tội; tâm hồn chị như “tù nhân Sion được Chúa đưa về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ, vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng” (Đáp ca Tv. 125). Tâm trạng vui mừng của chị còn hơn các tù nhân lưu đày ở Babilon được tiên tri Isaia loan báo tin mừng sắp được giải thoát. Đức Giêsu đã mở con đường từ ái giải thoát chị, như Thiên Chúa đã mở con đường giữa đại dương giải thoát dân Israel an toàn trở về đất hứa. Đức Giêsu đã mở trong tâm hồn chị một dòng sông để tưới mát những khao khát của chị như Thiên Chúa đã khơi một giòng sông giữa sa mạc khô cằn cho dân Ngài được giải khát. Đức Giêsu đã xây dựng con người chị thành con Thiên Chúa luôn biết vui mừng ca ngợi Thiên Chúa, như Thiên Chúa đã gầy dựng dân Israel thành một dân luôn biết ngợi khen Thiên Chúa (Bài I).
Bây giờ chị có thể nói như Thánh Phaolô rằng: “Tôi coi tất cả mọi sự chẳng thiệt gì, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Giêsu, vì Người, tôi đành mất tất cả và tôi coi tất cả như đồ bỏ để được Đức Kitô và được kết hợp với Người” (Bài II).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết tự tố cáo và lên án mình để Chúa thương xót con và con được nghe những lời từ ái dịu ngọt rằng: Cha không kết án con vì Cha đến thế gian để hiến mạng sống Cha cứu độ con và cho con được biến đổi sống lại trong ánh sáng phục sinh của Cha.
Câu chuyện người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trong tin mừng thánh Gioan (8,1-11), theo các nhà nghiên cứu thì có lẽ là của Luca, một tác giả đặc biệt đề cao chủ đề lòng thương xót của Chúa. Trong văn học, một chủ đề chính cũng thường được điểm tô đậm nét bằng những yếu tố “phản đề”. Có một cái nhìn cặn kẻ về sự gian ác của con người hẳn nhiên sẽ giúp chúng ta thấy rõ hơn lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa.
Tội ngoại tình: Thoặt xem ra đây là một loại tội dễ lượng thứ, vì bản tính con người mỏng dòn, yếu đuối. Và người ta thường dùng cụm từ “tính xác thịt” như để bào chữa mỗi khi lỗi phạm. Nếu xét tội này theo chiều kích “sự yếu đuối” thì cũng có thể dễ thông cảm. Tuy nhiên, nếu nhìn đây là một sự bất tín, bất trung, là một hành vi phản bội, phá vỡ sự bền vững của đời sống hôn nhân-gia đình, vốn là tế bào của xã hội thì tội này thật đáng sợ.
Nhân loại chúng ta đã và đang phải lao đao vì căn bệnh được gọi là bệnh thế kỷ, bệnh HIV-AIDS. Cái nguy hiểm chết người của căn bệnh này là tế bào dần mất khả năng kháng khuẩn. Khi tế bào hỏng hư thì cả cơ thể có thể gặp hiểm nguy mọi lúc, vì bất cứ vi khuẩn gây bệnh nào, dù là bệnh thường gặp như cảm cúm…Chúng ta đều biết cái nền tảng của xã hội và cũng là của giáo hội chính là gia đình. Và nền tảng này được dệt xây trên tình yêu chung thủy và sự tín nhiệm lẫn nhau. Khi đã bất trung thì sự tín nhiệm bị ít nhiều bị đánh mất. Có thể cái tội bất trung vì yếu đuối không quá trầm trọng nhưng hậu quả của nó thì thật khó lường. Các ngôn sứ thường dùng thứ tội này: “ngoại tình”, để nói đến việc dân xưa bỏ Thiên Chúa mà đi thờ các thần ngoại bang.
Nhất tiển diệt song điêu. Một mủi tên giết hai con chim. Câu nói có thể dùng trong cả trường hợp tích cực lẫn tiêu cực, nhưng thường ám chỉ những hành vi gian ác gây hại cho nhiều đối tượng. Cái bẫy mà nhiều kinh sư và người biệt phái ngày xưa giăng ra để hãm hại Chúa Giêsu quả là hiểm độc. Đã nhiều lần, và nay thêm một lần nữa họ dồn Chúa Giêsu vào tình trạng “tiến thoái lưỡng nan”. Để thực hiện mưu đồ này họ đã không ngần ngại sử dụng sự yếu đuối, tội lỗi của một con người. Có thể nói rằng họ đã kiếm tìm và tận dụng tội lỗi của đồng loại để phục vụ gian kế của mình. Đã là gian ác thì sẽ không chừa một thủ đoạn nào, kể cả việc lợi dụng tội lỗi, sự yếu đuối hay nỗi khổ của tha nhân để thủ lợi hoặc để thực hiện ý đồ đen tối của mình.
“Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” Tin mừng minh nhiên cho ta biết rằng những người biệt phái và luật sĩ hôm ấy cố tình gài bẫy Chúa Giêsu hầu có bằng chứng tố cáo Người, Đấng đã từng tuyên bố rằng “đến không phải để hủy bỏ lề luật và lời các ngôn sứ, nhưng để kiện toàn”(x.Mt 5,17). Chắc hẳn những người cố tình gài bẫy hôm ấy nghĩ rằng phen này Chúa Giêsu không thể thoát. Nếu Người không giữ luật Môsê thì khó mà thuyết phục dân chúng. Còn nếu cứ nhất nhất hành xử theo luật truyền thì sẽ đi ngược với lời giảng dạy của Người về lòng nhân từ, tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần mà đến bảy mươi lần bảy (x.Mt 18,21-22).
Nhất ngôn độ bách tính: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”(Ga 8,7). Một lệnh ban để thi hành án ư? Xét về hình thức văn tự thì đúng vậy. Nhưng ẩn sâu bên trong lệnh ban ấy, chính là lời mời gọi xét mình, tự kiểm. Ai là người vô tội? Người Do Thái vốn không xa lạ gì với khái niệm tội lỗi, nếu không muốn nói là rất bén nhạy. Cùng với tổ phụ Đavít xưa họ luôn ý thức thân phận tội lỗi của mình để rồi không ngừng cầu xin ơn tha thứ. “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lương hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm. Tôi lỗi con, xin Ngài thanh tẩy. Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm…(Tv 50).
Một lời tuyên phán đã cứu sống người phụ nữ phạm tội ngoại tình. Lời tuyên phán ấy cũng đã giải thoát cả đám đông gian ác hôm ấy. Hành vi rút lui, bỏ đi, kẻ trước người sau, bắt đầu từ người lớn tuổi, là một lời xưng thú tội lỗi công khai, dù vô ngôn nhưng lại đủ ý. Rút lui là tự nhận mình cũng tội lỗi không kém gì người phụ nữ phạm tội ngoại tình mà có khi còn tồi tệ và xấu xa hơn. Tình yêu thật vạn năng và diệu kỳ. Tình yêu luôn chiến thắng sự hiểm độc, gian ác.
Ai thực sự vô tội? Chúng ta dễ dàng kết luận đó là Chúa Giêsu, vì chỉ còn lại một mình Người và người phụ nữ. Chỉ mình Chúa Giêsu mới có quyền kết án, thế mà Người lại phán: “Tôi không lên án chị. Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Người rộng lượng tha thứ cho tội nhân, khoan dung với người phạm tội, nhưng lại cương quyết loại trừ tội lỗi. Để làm điều này thì Đấng vô tội đã cam chịu kết án cách bất công.
Một hành vi vừa nhân ái vừa dịu hiền và tinh tế: “Cúi xuống”. Khi nghe những người biệt phái và kinh sư tố cáo người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, thì Chúa Giêsu đã cúi xuống và viết cái gì đó trên đất. Sau khi người ta hỏi mãi, Người đã ngẩng đầu lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội…” Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Không biết Chúa Giêsu viết những gì nhưng hành vi cúi xuống của Người thật nhân hậu và đầy tế nhị. Nếu giả như Người cứ chăm chăm nhìn vào đám đông thì chắc gì đã có chuyện người ta can đảm nhận mình là tội nhân để rồi rút lui tuần tự. “Lạy Chúa, Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm được hết mọi sự. Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tội lỗi loài người, để họ còn ăn năn hối cải.”(Kn 11,23).
Ai trong chúng ta sạch tội? Một câu hỏi khiến chúng ta cần khiêm nhu nhìn nhận con người thật của mình. Tiên vàn hãy lấy cái đà ra khỉ mắt mình hơn là cứ chăm chăm vào cái rác trong mắt tha nhân. Ai trong chúng ta cũng là tội nhân. Mọi người đều cần ăn năn sám hối. Để có thể trở về thì ngoài tình yêu và ân sủng Chúa, chắc hẳn cũng cần sự khoan dung và thái độ ứng xử tế nhị trong sự tôn trọng phẩm giá của nhau. Chúa Kitô không chỉ cúi xuống rửa chân cho chúng ta mà con cúi xuống, làm ngơ để tạo cơ hội cho chúng ta là những tội nhân hoán cải trong danh dự. Người đã nêu gương cho chúng ta thì chúng ta cũng phải bắt chước Người để sống với nhau cho có tình trong sự tôn trọng phẩm giá của nhau.
Vụ người đàn bà ngoại tình cho thấy thành kiến dễ đưa đến thái độ đê tiện phi nhân tới mức nào –mà tư tưởng và tâm hồn Đức Kitô thì quảng đại vô cùng. Người Do Thái đưa ra một thảm kịch con người để định lừa Chúa. Họ không chú trọng đến thảm trạng người phụ nữ tội lỗi bị bắt quả tang, mà chỉ cốt làm Chúa lúng túng. Họ tự phụ là hiểu luật, họ nghĩ thế nào cũng loại được một kẻ gây trở ngại. Chúa biết rõ dã tâm họ, Người đem một vụ thuộc tầm mức nhỏ nhen của họ đặt thành vấn đề lương tâm. Chúa bắt buộc mỗi người phải đối diện với Thiên Chúa, chỉ có thể bỏ chạy, hoặc ăn năn trở lại. Từ một vụ tai tiếng nhỏ đáng buồn trong đó các địch thù của Chúa, thưởng thức một sự khoái trá xấu xa, Chúa Giêsu đổi thành một “cánh hoa đơn” tuyệt vời (nói theo kiểu Phan sinh) của lòng từ bi của Chúa. Người đàn bà ngoại tình đã gặp đại lượng khoan dung và có được dịp may phục hồi nhân phẩm. Bọn người ưa bắt bẻ, thích lên án, thấy vậy rút lui. Cho hay, chỉ hạng người tội lỗi nào trốn tránh lượng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa, hạng đó mới không được tha thứ.
Chúng ta có thể suy đoán mấy nét về tôn nhan Đức Giêsu.
1) Trước hết, sự điềm tĩnh của Chúa. Người không do dự dù trong giây phút, khi trả lời kẻ vấn nạn. Lên án người phụ nữ ngoại tình là trái với chủ thuyết của Chúa, mà tha là trái với Lề Luật. Thế mà, như theo một phản ứng tự nhiên, Đức Giêsu trả lời không lưỡng lự, để làm chứng cho lòng từ bi vô biên của Thiên Chúa. Hơn nữa, Chúa cho thấy con mắt Thiên Chúa xuyên qua dáng vẻ bên ngoài, thấu tới thâm tâm người ta. Tính điềm tĩnh của Người bắt nguồn mạch từ Thiên Chúa. Người nhìn nhân loại và sự việc theo con mắt Thiên Chúa. Khi nào chúng ta nhìn theo con mắt Thiên Chúa, chúng ta chẳng cảm thấy sao, dưới một nguồn sáng mới, chúng ta điềm tĩnh lạ lùng nhờ tâm hồn được thanh thản sáng suốt?
2) Quyền tha tội của Chúa không những không buộc tội người đàn bà hư hỏng, Đức Giêsu nói thêm: Hãy đi và chớ phạm tội nữa. Hiểu theo bối cảnh tổng quát Phúc Âm, có nghĩa là Chúa ban cho người đó ơn tha thứ của Thiên Chúa. Chúa tỏ ra có quyền tha tội, an ủi, khuyến khích, phục hồi nhân phẩm cho kẻ có tội –và Chúa làm công việc ấy một cách nhân từ, vì Người hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Tha thứ, nhưng cương quyết bài trừ sự tội. Chúa nói: chớ phạm tội nữa. Đối xử từ bi với kẻ có tội không phải là nhân nhượng với sự dữ. Sự dữ trước sau vẫn là sự dữ, phải xua đuổi. Đức Giêsu xét xử theo đường lối Thiên Chúa, tự cho mình đặc quyền Messia cứu vớt kẻ có tội nhưng kết án sự tội. Đức Giêsu thân thiết với Chúa Cha nên biết rõ sắp tới giờ Người đổ máu ra chuộc tội cho nhân loại, để nhân loại được tha thứ. Đàng sau Lời Chúa nói với người đàn bà tội lỗi, chúng ta đoán thấy Tình yêu từ bi nhân lành nóng cháy biết chừng nào.
Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Gioan thuật lại cho ta thấy, Chúa Giêsu có một thói quen, mỗi khi giảng dạy dân chúng xong, mọi người ai nấy trở về nhà mình còn Chúa Giêsu thì lên núi để cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha. Thánh Gioan nói rõ: “Đức Giêsu thì lên núi Ô-liu” (Ga 8, 1), Ngài lên núi để cầu nguyện, gặp gỡ Thiên Chúa suốt đêm, nên “vừa tảng sáng Người trở lại đền thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy họ. Lúc ấy các Kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Chúa Giêsu một phụ nữ bị bắt đang phạm tội ngoại tình” (Ga 8, 2). Một phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt quả tang, chị bị điệu đi bêu xấu, xỉ nhục dọc đường và theo luật Môsê bị ném đá cho đến chết. Nhưng có một số người Pha-ri-sêu và các Kinh sư sẵn có ác ý với Chúa Giêsu, họ mưu toan tìm cách hại Người, nên họ đã nghĩ ra kế sách thâm độc. Họ đã dẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình đến gần Chúa Giêsu hỏi thử Người, để làm một cái bẫy, đưa Ngài vào chòng, rồi họ sẽ kết án luôn cả Chúa Giêsu, như vậy “một mũi tên sẽ trúng hai đích”.
Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư nghĩ rằng phen này họ sẽ thắng và chắc chắn Chúa Giêsu cũng sẽ bị kết án. Họ hỏi thử người: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách luật, ông Môsê đã truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” (Ga 8, 4-5). Nếu Chúa Giêsu trả lời tha cho người phụ nữ phạm tội, thì họ sẽ kết án Chúa vi phạm luật Môsê và ủng hộ tội lỗi, làm phá hoại nền tảng gia đình và xã hội. Còn Chúa trả lời lên án tử người phụ nữ đó, thì họ sẽ làm cho Ngài một phen bẽ mặt, vì giáo huấn Chúa dạy là phải yêu thương (x. MC 12, 28-31), nhân từ (x. Mt 11, 29) và tha thứ (Lc 6, 37). Hơn nữa họ còn tố cáo là Ngài đã chống lại Rôma và vượt quyền xét xử của nhà lãnh đạo Lamã. Vì thời Chúa Giêsu Dothái bị đế quốc Lamã đô hộ, nhà cầm quyền Dothái không được lên án tử hình, mà phải đên trình lên Rôma xét duyệt. Nhưng Chúa Giêsu biết rõ ác ý của họ, nên Người không trả lời mà “cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất” (Ga 8, 6). Kinh Thánh không nói Ngài viết chữ gì, nhiều ý kiến thì cho rằng: “có lẽ Ngài viết tội trạng của những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư”. Đây quả là một vụ án vô cùng khó xử.
Chúa Giêsu đã im lặng, cúi xuống viết trên đất, đó là khoảng thời gian vô cùng hồi hộp của người phụ nữ, chờ đợi phán quyết cuối cùng của Ngài. Là khoảng thời gian những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư nóng lòng chờ đợi Ngài đưa ra phán quyết để có cơ hội tố cáo Ngài. Chúa Giêsu cứ viết mãi, viết mãi, làm cho những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư phải khó chịu nên họ thúc dục Người: “Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng đầu lên và bảo họ: Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8,7). Rồi Chúa lại cúi xuống tiếp tục viết. Chúa Giêsu không nói là ném đá hay không ném đá, kết án hay không kết án, Ngài cũng không nói tới việc áp dụng luật, Ngài muốn thức tỉnh lương tâm của những kẻ tự cho mình là công chính, giữ luật cách máy móc, đến nỗi không còn phân biệt tốt xấu.
Chuyện kể rằng: Một người Dothái qua đời. Sau khi khám nghiện tử thi, các bác sĩ xác nhận người đó thực sự đã chết và cấp giấy chứng nhận để chôn cất. Trong lúc đang chuẩn bị hạ huyệt, mọi người bỗng nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, mọi người rất đỗi ngạc nhiên khi thấy người chết đã sống lại. Thế nhưng vị giáo trưởng chủ trì tang lễ ra hiệu cho mọi người thinh lặng, rồi nói với người trong quan tài rằng: “chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay đã chết, nhưng căn cứ theo giấy chứng thực của các bác sĩ, quả thực ông đã chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo đúng nhận định của bác sĩ”. Nói xong ông truyền cho ban tang lễ đóng nắp quan tài lại và tiếp tục cử hành nghi thức tang lễ và hoàn tất thủ tục chôn cất.
Có lẽ tác giả của câu chuyện trên muốn lên án, chế diễu tính cứng nhắc và máy móc của con người khi tuân các lề luật, cũng như khi cư xử với người đồng loại, với người đồng đạo, với những người thân cận.
Thời Chúa Giêsu, những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư họ cũng có thái độ như thế đối với lề luật. Họ tuân giữ luật lệ cách máy móc, làm cho luật trở nên nặng nề, họ trung thành với luật lệ đến nỗi không còn tình người, đến hy sinh tính mạng, giết chết người đồng loại, chôn sống cả người đồng hương.
Chúa Giêsu muốn nêu bật cái cốt lõi của lề luật, tinh thần đích thực của lề luật là tình thương. Chúa đánh đổ quan niệm ấy bằng cách chữa bệnh ngày Sabát, đón tiếp, ăn uống với những người tội lỗi và người thu thuế. Qua việc làm đó, Ngài muốn bày tỏ cho con người thấy được bộ mặt yêu thương, nhân từ hay tha thứ của Thiên Chúa, vượt qua mọi luật lệ của con người.
Lời nói của Chúa Giêsu: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”, đã làm cho những Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư bừng tỉnh, nhận ra chính họ cũng là tội nhân trước mặt Chúa, nên đã lần lượt rút lui. Khi Chúa ngẩng lên thì không còn ai ở đó nữa, lúc đó Chúa mới đưa ra lời phán quyết. Chúa không xét xử như con người, cũng không dùng lề luật mà xét xử. Ngài dùng tình thương mà xét xử: “Tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8, 11). Chúa đã để cho người tội lỗi có cơ hội ăn năn sám hối, chừa bỏ tội lỗi, trở về với Chúa và sống công chính để được hưởng ơn cứu độ của Ngài. Chúa phân biệt tội và người có tội, đối với tội thì Chúa triệt để lên án, không khoan nhượng, không dung thứ, cũng như ánh sáng không ở chung với bóng tối. Chúa lên án tội lỗi, dạy con người tránh xa tội lỗi. Suốt đời Chúa hằng đấu tranh với tội lỗi, đấu tranh đến giọt máu cuối cùng trên Thập giá để diệt trừ tội lỗi. Còn người có tội thì Chúa lại khoan dung tha thứ.
Trên đời, nhiều khi chúng ta cũng mang bộ mặt của Người Pha-ri-sêu và các Kinh sư sống vụ luật, hình thức, giữ luật một cách máy móc, giữ giờ giấc đầy đủ, bề ngoài có vẻ như rất đạo đức nhưng lại hay soi mói, xét nét, lên án người khác từ những chuyệt rất nhỏ mà quên rằng: trước mặt Chúa chính ta cũng là kẻ tội lỗi, chúng ta mang nơi mình bản tính của con người là yếu đuối hay sa ngã phạm tội. Vậy mỗi khi định xét đoán người nào, hay lên án ai. Chúng ta hãy đặt mình trước mặt Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện, không hề mang vết nhơ tội lỗi. Và ta hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu đã dạy: “Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán. Vì anh em xét đoán thế nào, thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa xét đoán như vậy. Và anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em” (Mt 7, 1-3). Chúng ta không xét đoán tha nhân, thì Thiên Chúa cũng sẽ không xét đoán chúng ta như chúng ta đáng tội. Chúng ta dùng đấu tình thương mà đong cho tha nhân, thì Thiên Chúa sẽ dùng đấu tình thương ấy mà đong lại cho chúng ta. Mỗi người chúng ta biết yêu thương và tha thứ cho anh em khi họ xúc phạm đến ta, khi họ làm điều sai trái, thì Thiên Chúa cũng sẽ lấy thương mà đối xử nhân từ, khoan dung và tha thứ cho chúng ta. Lạy Chúa, chúng con cũng là những con người tội lỗi, nhưng chúng con lại hay chỉ trích, lên án và loại trừ người khác. Xin Chúa thức tỉnh lương tâm chúng con, để chúng con nhận biết chính chúng con cũng là những con người tội lỗi, để chúng con đối xử khoan dung và tha thứ cho anh em con. Xin Chúa cũng dùng tình thương mà đối xử với chúng con, như Chúa đã đối xử nhân từ với người tội lỗi trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.
Câu chuyện là hạt ngọc quí của Tin Mừng. Chúa Giêsu rời núi ôliu, trở lại đền thờ để cứu vớt một phụ nữ ngoại tình, một kẻ tội lỗi. Đừng hạ thấp giá trị của trang Tin Mừng tuyệt vời này khi cho nó chỉ là bài học về sự khoan dung đối với những yếu đuối nhân loại, sự khoan dung mà các bậc hiền triết thời nào cũng mến chuộng.
Thật ra, trang Tin Mừng hôm nay là một mạc khải rất sâu xa về bản chất của tội lỗi, và bản chất của sự tha thứ... theo cái nhìn của Thiên Chúa.
Tội lỗi, trước tiên là một thực tại loài người, rồi là một thực tại của lòng tin. Khi nghiên cứu cách cư xử của con người, các nhà xã hội học khám phá ra sự phạm pháp: Xã hội bao gồm nam, nữ, gia đình, cộng đồng... không thể vận hành nếu như không có một số luật lệ, cấm đoán. Không trộm cắp. Không nói dối. Tôn trọng đời sống lứa đôi. Không ngoại tình. Đừng hiểu ý nghĩa của trang Tin Mừng này cách trái ngược: Đức Giêsu kết án tội ngoại tình là điều rất rõ. " Đừng phạm tội nữa".
- Ý niệm về lỗi phạm... Nếu trẻ em thường sai lỗi trong những điều cấm -đáng tin cũng có cả một số người lớn còn ấu trĩ như vậy-, thanh thiếu niên chưa trưởng thành trong nhận thức về điều cấm, điều được phép. Họ khám phá ra rằng: những điều người ta cấm họ tác hại đến cá nhân họ: khi tôi nói dối, trộm cướp, ngoại tình, tôi huỷ hoại một điều gì đó về nhân tính nơi tôi. Lỗi phạm như một con sâu gặm nhấm một trái cây, một thiếu sót nơi bản thân, nơi ý chí tôi. Ý niệm về tội lỗi: ở một mức cao hơn, theo nghĩa đúng nhất, tội lỗi làm gián đoạn "mối tương quan với Thiên Chúa". Chúa nhật trước, chúng ta đã thấy Chúa Giêsu gợi ý, tội lỗi chính là sự đứt đoạn tình yêu với Cha: người ta cắt đứt mối tương quan và bỏ đi xa. Hôm nay, Tin Mừng nêu lên một quan hệ khác: toàn bộ Kinh Thánh ví tội của Israel như hành vi ngoại tình, phản bội giao ước giữa Chúa và dân yêu dấu của Ngài. Các ngôn sứ thì ví loài người như một người vợ bất trung đối với chồng. Cắt đứt giao ước tình thương. Xúc phạm một ngươi luôn yêu mình. Đó là mạc khải xác thực và sâu xa về tội lỗi.
Như vậy, đối với Đức Giêsu, người ta chỉ hiểu ý nghĩa của tội lỗi, khi hiểu ý nghĩa về Thiên Chúa. Rốt cục, các thánh là những người sáng suốt nhất, vì các ngài nhận ra hành vi phạm pháp và lỗi lầm làm tổn thương tình yêu của Thiên Chúa, Đấng dựng nên ta và yêu thương ta vô cùng. Chính chúng ta làm tổn thương "khuôn mặt" của Người... nơi chúng ta, chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Ngài.
Những người Pharisêu tốt lành và trung thành có một cơ hội tuyệt vời để tố cáo Đức Giêsu. Người bị dồn vào chân tường. Hy sinh người phụ nữ để giữ Lề Luật hay hy sinh Lề Luật để cứu người phụ nữ. Người bị kẹt giữa cả hai phía. Kết án người phụ nữ tội lỗi này thì mâu thuẫn với những lời giảng về lòng thương xót và ơn tha thứ. Tha cho chị thì phạm pháp vì bất tuân luật Môsê. Bị cáo sẽ chính là Đức Giêsu.
Sẽ không có sự kết án, cũng không có viên đá nào được ném ra (hình phạt ném đá đến chết). Bẫy sẽ sập xuống trên chính những kẻ gài nó. Chỉ vài lời thôi, Đức Giêsu đã hoán đổi vị trí, nguyên cáo biến thành bị cáo. Chị ta đã phạm tội. Đúng vậy. Còn các ông? Chị không đến nỗi hư hỏng và tội lỗi như các ông nghĩ và các ông cũng không công chính và trung tín như các ông tự phụ.
Một bài học thật là nặng nề, khó chịu nhưng cũng tuyệt vời Đó là bài học về chân lý, về cách Chúa dạy dỗ, về sự công chính theo Tin Mừng và về lòng thương xót rất phù hợp với truyền thống mà các ngôn sứ bênh đỡ và duy trì trước những trận gió và cơn sóng khắc nghiệt xuất phát từ lòng hẹp hòi của con người. "Đừng nghĩ tới chuyện xa xưa nữa. Hãy quên đi quá khứ. Này ta đang tạo lập một thế giới mới: Nó đang hình thành. Các ngươi có thấy không? "
Phán quyết của Chúa là lời tha thứ. Sự tha thứ không giam cầm người khác trong lỗi lầm và trong quá khứ. Anh mắt và lời nói của Đức Giêsu giải thoát và cứu rỗi. Khác hẳn với những cái răng sắc nhọn, những lời nói như đá ném vào mặt, những cái nhìn kết án như viên đạn xuyên tim. Cơn giận giả dối của "những người công chính" cho rằng mình chẳng có điều chi đáng phiền trách nhưng lại luôn sẵn sàng trừng phạt tội người khác.
Ai cũng khát vọng một thế giới mới. Ai cũng nói về đổi đời Đồng thời, đều cảm thấy bị giam hãm trong những cơ chế gò bó (trong Xã hội cũng như Giáo Hội). Làm sao thoát ra? Theo các bài đọc hôm nay, gặp gỡ Đức Kitô và Tin Mừng của Người sẽ phá tung ngục tù của thất vọng (bài đọc I), làm tan vỡ khối rắn chắc của một lương tâm sơ cứng vì lợi lộc tư riêng (bài đọc 2), bẻ gầy gọng kìm bạo lực của những lời kết án (Tin Mừng).
Trong hoang mạc của chủ nghĩa pháp chế khô cằn, lời kêu gọi biết dùng tự do có trách nhiệm vọt lên như một dòng suối trong mát. Ngay đối với những người
Pharisêu khô cằn về luân lý, Chúa Giêsu vẫn có thể cấy trồng sự sống khi làm cho họ hết phương chống đỡ, khi làm cho họ nhận ra rằng họ liên đới với nhau cả trong sự dữ, qua đó, cho thấy có hy vọng vào một lối thoát ra khỏi mọi hệ thống độc đoán và hay kết tội người khác.
Người mở trước mắt ta cái nhìn nhận ái đích thực về mọi lời: cái nhìn không đóng kín chúng ta vào thất bại và tuyệt vọng của quá khứ, cái nhìn tái tạo cuộc sống khi mời gọi chúng ta tiến bước. Tóm lại, đó là một tình yêu loan báo tương lai.
Vết nứt trên các hệ thống khép kín của chúng ta cùng cái nhìn tái tạo này không phải là điều chúng ta cảm nhận và " sống trong bí tích hoà giải đó sao? Không phải là cơ hội cảm nghiệm quyền năng của sự phục sinh đó sao. Bàn tiệc Thánh Thể loan báo thế giới mới. Dân được cứu rỗi hát mừng những kỳ công của Đấng mở lối vào tương lai.
1. Cha đố chúng con, hôm nay là Chúa nhật thứ mấy trong Mùa Chay vậy chúng con?
- Dạ thưa cha, Chúa nhật thứ năm.
- Giỏi. Thiếu nhi của cha giỏi quá! Hôm nay đã là Chúa nhật thứ năm có nghĩa là chúng ta sắp bước vào một tuần lễ hết sức đặc biệt của năm Phụng vụ. Cha đố chúng con đó là tuần lễ gì?
- Thưa cha đó là Tuần Thánh, chuẩn bị mừng lễ Chúa Phục sinh. - Chúng con giỏi
Bây giờ chúng con nghe lại câu chuyện hôm nay.
Hôm ấy lúc trời vừa tảng sáng, Đức Giêsu đang ngồi giảng dạy cho đám đông dân chúng nơi đền thờ Giêrusalem, thì đột nhiên những người kinh sư và Pharisêu lôi một người phụ nữ mà họ nói là đã bắt gặp chị ta đang ngoại tình đến trước mặt Chúa. Tin Mừng không nói là họ bắt gặp chị đó phạm tội ở đâu và với ai. Họ đặt chị ta đứng ở giữa mọi người và rồi nói với Chúa:
- Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Theo sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?
Đứng trước câu hỏi của họ, Chúa Giêsu không trả lời ngay. Chúa ngồi xuống, lấy ngón tay viết trên đất. Tin Mừng không cho chúng ta biết Chúa viết gì. Chỉ biết việc làm của Chúa làm cho những người hỏi Chúa sốt ruột. Chịu không được, họ cứ hỏi mãi, lúc đó Chúa mới ngẩng đầu lên và bảo họ:
- Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.
Rồi Chúa lại ngồi xuống và lại viết trên đất. Thật là lạ lùng. Chúa không nói thêm gì nữa. Thế mà Tin Mừng ghi: "Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi."
Sau đó thì chỉ còn lại một mình Ðức Giêsu, và người phụ nữ đứng ở giữa. Lúc đó Chúa mới ngẩng lên và hỏi:
- Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?
Người đàn bà đáp:
- Thưa ông, không có ai cả
Và đây là những lời của Chúa:
- Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!
Và câu chuyện chấm dứt ở đây.
2. Câu chuyện là như thế, nhưng cha hỏi chúng con: Chúa muốn dạy chúng ta điều gì qua câu chuyện hôm nay?
a. Trước hết, đọc trong Tin Mừng cha thấy: Chúa Giêsu có những nguyên tắc sống mà Ngài luôn theo đuổi. Đây là một trong những nguyên tắc ấy: "Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.(Ga 12,17
Trong câu chuyện hôm nay, những người Do thái muốn Chúa phải lên án người đàn bà ngoại tình. Trong câu hỏi họ đặt ra cho Chúa, họ tưởng Chúa bắt buộc phải làm như vậy. Lên án thì không xong vì làm như thế là không thương. Bỏ qua cũng không được, vì làm như thế là dung túng cho sự xấu.
Vậy làm thế nào bây giờ ? Chúng con hãy nhìn Chúa Giêsu. Cha thấy Chúa Giêsu thật quá khôn ngoan. Chúa không bị mắc kẹt trong cái bẫy của những kinh sư và Pharisêu. Chúa đã chứng tỏ cho mọi người thấy. Đây chúng con hãy nghe Chúa nói với những thử thách Chúa: "Ai trong các ông không có tội thì hãy ném đá chị này trước đi"(Ga 8,7). Thật tuyệt vời! Sau đó thì Tin Mừng ghi: "Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Chỉ còn lại một mình Ðức Giêsu, và người phụ nữ thì đứng ở giữa.(Ga 8,9-10). Lúc đó Chúa mới giải quyết vấn đề. "Tôi cũng không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa". Nói thế có nghĩa là Chúa không lên án mà cũng không dung túng, nhưng Ngài cho kẻ có tội một cơ hội. Ngài bảo chị về và đừng phạm tội nữa tức là cho chị một cơ hội để làm lại cuộc đời.
3. Câu hỏi tiếp theo cha muốn hỏi chúng con: "Tại sao Chúa ban cơ hội cho người tội lỗi?" Chúng con hãy nhìn lại bài Tin Mừng. Chúng con thấy nếu Chúa Giêsu bảo đừng ném đá chị ta thì lỗi luật Môsê, nếu Chúa truyền phải ném đá thì Người đã làm sai lời dạy của chính mình là "Các con hãy yêu thương nhau". Một cái bẫy vừa tinh vi vừa nham hiểm.
Chúa Giêsu cúi xuống vẽ trên đất. Không biết Chúa viết gì, chỉ biết khi họ sốt ruột gặng hỏi Chúa mãi thì Chúa trả lời một câu như mũi dao xoáy vào tâm can họ: "Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi" (Ga 8,7).
Quả thật, không một ai dám can đảm ném hòn đá đầu tiên, và cũng chẳng có hòn đá cuối cùng. Bởi vì, không ai dám tự hào mình vô tội.
Chúa Giêsu là Đấng duy nhất vô tội mà còn không kết án thì hỏi có ai mà giám: "Tôi không lên án chị đâu? Chị hãy về đi, từ nay đừng phạm tội nữa !" (Ga 8,11). Thật là an ủi biết bao cho chúng ta, những con người tội lỗi. Chúa không răn đe, không sửa phạt, chỉ an ủi, khích lệ, tin tưởng và hy vọng nơi chúng ta. Người không giết chết, nhưng cứu sống. Người không dung túng cho tội lỗi, nhưng nâng đỡ kẻ có tội. Người ghét tội nhưng lại thương xót tội nhân: "Ta không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống".
Nói đến đây cha nhớ tới một câu chuyện. Câu chuyện đơn sơ nhưng nhiều ý nghĩa. Chuyện thế này: Một hôm người ta bắt được một tên ăn trộm.. Họ giải anh ta đến nhà vua, và nhà vua hạ lệnh cho giết hắn. Tên trộm cắp này rất khôn ngoan, nên nói với đao phủ:
- Tôi có một bí mật này rất quý. Nếu tôi chết thì bí mật ấy cũng bị mang theo. Thật là uổng. Cho nên tôi muốn giao nó lại cho nhà vua.
Người ta dẫn hắn tới nhà vua. Hắn nói:
- Bí mật của tôi là tôi có một hạt giống kỳ diệu, đào lỗ chôn xuống đất thì nội trong một đêm nó sẽ mọc lên thành cây và trổ ra toàn những trái bằng vàng.
Nhưng hắn nói thêm:
- Nhưng có điều kiện này là chỉ người nào chưa từng lấy gì của người khác thì mới trồng hạt giống đó được,
Sau đó hắn thú nhận: - Tôi thì là một thằng ăn cắp nên không thể trồng được rồi. Vậy trong số các quan đây, ai chưa từng lấy gì của người khác hãy trồng nó đi. Các quan lần lượt viện cớ để từ chối, giống y những người biệt phái trong bài Tin Mừng này vậy. Cuối cùng tên trộm cắp nói với nhà vua: - Chắc là Bệ Hạ có thể trồng được Nhưng nhà vua đáp: - Nói ra thì thật xấu hổ. Hồi còn nhỏ, ta cũng đã từng lấy của người khác vài lần. Khi đó tên trộm nói: - Bệ hạ và các quan là những người có đầy đủ mọi thứ thế mà còn lấy của người khác mà không bị hình phạt gì cả. Phần tôi thì nghèo túng thiếu thốn mọi điều, thế mà lại bị xử tử vì tội lấy của người khác. Nhà vua đành ra lệnh tha cho hắn.
Trên đường lên núi sọ để chịu chết, khi nhìn thấy các phụ nữ đi theo vừa đấm ngực vừa than khóc, Chúa Giê-su quay lại và nói với họ: “Hỡi chị em thành Giê-ru-sa-lem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu của chị em” (Lc 23, 28). Vậy trong mùa Chay Thánh và đặc biệt trong Tuần Thánh, chúng ta thay vì khóc lóc khi nhớ đến cái chết thảm thương của Chúa, thì hãy khóc cho tội lỗi của chính mình và của nhân loại. Hãy thực lòng quay về với Chúa, thực tình ăn năn sám hối. Đó là điều làm đẹp lòng Chúa. Chúng ta biết, trong suốt mùa Chay thánh, Hội thánh luôn nhắc nhở chúng ta, ngoài việc ăn chay, hãm mình, cầu nguyện, làm việc bác ái, thì cần thiết phải ăn năn sám hối nữa. Đây là việc làm hết sức quan trọng, vì sám hối là trọng tâm trong sứ điệp cứu rỗi của Chúa. Về ý nghĩa cơ bản, ăn năn hối cải là thay đổi toàn bộ con người cả bên ngoài lẫn bên trong, cả tâm trí tinh thần lẫn đời sống sinh hoạt, là quay đầu 180 độ, từ bỏ con đường cũ, bước đi con đường mới theo Chúa Ki-tô. Mùa Chay là cơ hội thuận tiện giúp chúng ta định hướng lại con đường chúng ta đang đi. Hoán cải là một tiến trình thay đổi đầy khó khăn, phức tạp. Đó là một cuộc “lột xác” mà mọi Ki-tô hữu phải thực hiện để được “mặc lấy Chúa Ki-tô” trong cuộc sống mới. Tín hữu chúng ta, có thể rất chu đáo tuân giữ các lề luật, rất siêng năng làm các việc lành phúc đức, nhưng lại rất e ngại và sợ khi phải hối cải theo ý muốn của Chúa và Hội thánh. Bởi vì xét cho cùng đó là một cuộc canh tân đổi mới toàn diện. Cả về phương diện luân lý, lẫn đức tin. Cả về nội tâm con người bên trong lẫn bên ngoài. Cả về ý chí lẫn hành động. Thay vì chúng ta để cho lòng đạo đức của mình quá nặng về tình cảm, quá thiên về cảm xúc qua những lễ nghi bên ngoài, mà đánh mất cảm thức tội lỗi sâu xa trong lòng mình, thì hãy mau mau hối cải và chạy đến với Chúa xin ơn tha thứ. Chúa giàu lòng thương xót đang chờ đợi chúng ta... * Suy nghĩ về sự chết của Chúa, chúng ta hãy vui mừng tạ ơn và hi vọng Khi nghĩ đến cái chết của Chúa, thay vì than van khóc lóc, chúng ta hãy mặc lấy tâm tình tạ ơn và vui mừng. Bởi vì cái chết của Chúa đem lại cho ta nhiều ơn ích vô cùng lớn lao. 1- Cái chết của Chúa Giê-su đã khai tử tất cả tạo thành cũ, tội lỗi bị hủy diệt, ma quỷ bị khuất phục, sự chết không còn thống trị. Sự chết của Chúa khai mở sự sống cho chúng ta. Thánh Phao-lô đã khẳng định: “Chúng ta biết rằng: con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Ki-tô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị hủy diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Quả thế, ai đã chết thì thoát khỏi quyền của tội lỗi” (Rm 6, 6-7). 2- Cái chết của Chúa Giê-su là sự chết-vâng-phục-của-Con-Một của Thiên Chúa, đem đến sự giao hòa giữa nhân loại với Đấng Tạo Thành. Nhờ đó Thiên Chúa chấp nhận tha thứ cho nhân loại. Công nghiệp của Chúa Con đã cứu chúng ta ra khỏi tình trạng bất tuân phục. Vì Đức Giê-su, với tư cách là trưởng tử trong nhân loại, đã vâng phục kế hoạch của Cha, cho dù phải hi sinh, phải chết bằng bất kỳ cách nào. Thánh Phao-lô đã nhấn mạnh: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2, 6-9). 3- Cái chết của Chúa Giêsu đã minh chứng tình yêu mãnh liệt và sự vâng phục tột cùng của một đại diện nhân loại đối với Thiên Chúa. Chính tình yêu và sự vâng phục này đã giúp thiết lập lại mối tương quan tốt đẹp, bền vững giữa Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa hài lòng về người Con của Người và đã phục sinh người Con thân yêu đó. Và từ nay những ai thuộc về Đức Giê-su Ki-tô cũng sẽ được “Giải án Tuyên công”. “Theo thánh Gioan, cái chết của Đức Kitô là cái chết tự nguyện, và vì lẽ đó mà Chúa Cha yêu mến Ngài (x.Ga 10, 17-18). Chính sự vâng phục tự nguyện đem lại giá trị cho sự đau khổ và cái chết của Đức Kitô. “Hơn nữa, tình yêu đến cùng của Ngài đối với Cha, mạc khải tình yêu đến cùng của Thiên Chúa đối với nhân loại, bất chấp mọi giới hạn, trở lực do hận thù của loài người. Khi tình yêu đối với Chúa Cha bắt phải đương đầu với sự chết, Ngài vẫn tiếp tục vâng phục; Ngài đã yêu đến cùng, nghĩa là đã bày tỏ đến cực điểm tình yêu của Ngài. Tình yêu của Ngài đã chiến thắng hận thù; Ngài đã chiến thắng tội lỗi và sự chết bằng cái chết; trong chính cái chết, tình yêu đã thắng vượt để rồi sống lại, ân sủng phát xuất từ tình thương được biểu lộ liên lỉ, ngay cả trong cái chết”. [3] 4- Ngang qua sự chết, Chúa Giêsu đã sống lại và Ngài đã trở nên nguyên lý tái sinh và tác sinh đối với những ai tin theo Ngài. Vì vậy khi lãnh nhận Đức Ki-tô Thần Khí nhờ lòng tin và qua bí tích Thánh Tẩy, chúng ta được chia sẻ hiệu quả của cái chết và ơn huệ Phục sinh của Đức Ki-tô (x. Rm 6, 1-8). Những ai thuộc về Đức Ki-tô thì dù có chết cũng được sống lại như Ngài. Đó là ơn huệ cao cả mà Thiên Chúa yêu thương đã ban tặng cho con người trong Đức Giê-su Ki-tô. 5- Sự chết của Chúa Giêsu không chỉ là một sự kiện đơn lẻ bình thường của một ai đó trong nhân loại, nhưng chính là một biến cố cực kỳ quan trọng, quyết định số phận của nhân-loại-mang-án-chết. Qua biến cố này, Thiên Chúa thực hiện Lời Hứa của người, là tha thứ cho nhân loại, là giải án chết và ban cho họ sự sống đời đời. Sự chết của Đức Ki-tô đã cứu sống nhân loại bị án chết do tội. Sự chết của Ngài đã chôn vùi tất cả mọi hư hỏng trong tạo thành, đồng thời từ cõi chết sống lại, Đức Giê-su-phục-sinh trở nên chính sự sống cho tất cả ai tin Ngài. “Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8,11).
Vậy khi tưởng niệm cuộc thương khó và khổ nạn của Chúa Giê-su, thay vì than khóc đau buồn, chúng ta hãy tự đặt cho mình mấy câu hỏi sau: - Thánh Gio-an tông đồ viết: “Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3, 16). Sự chết của Chúa nhắc chúng ta rằng chúng ta phải yêu mến anh em như Chúa yêu ta. Tình yêu ấy phải dõi theo tình yêu của Đấng đã hiến mạng sống mình vì bạn hữu (x. Ga 15, 13). - Để cứu thoát chúng ta khỏi tội và sự chết, Chúa Giê-su đã trả một cái giá quá sức tưởng tượng. Cái giá ấy là sự chấp nhận chết, chấp nhận hủy mình ra không để nhờ đó con người được tha thứ và được sống. Chúng ta nên dành thời gian suy nghĩ về điều đó. Giả như Chúa đã không chết trên thập giá thay cho ta, thì liệu số phận của mỗi người chúng ta và của cả nhân loại sẽ ra sao? Tại sao chúng ta không lưu tâm tạ ơn Chúa mỗi giây phút trong cuộc sống về những gì Chúa đã thực hiện để cứu chuộc chúng ta. Như thánh Gio-an thánh sử đã quả quyết, “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16)./. Aug. Trần Cao Khải
Cho biết bối cảnh xảy ra câu chuyện ở bài Phúc âm này (ở đâu, khi nào). So sánh Ga 8,1-2 với MC 5-C122
1. Cho biết bối cảnh xảy ra câu chuyện ở bài Phúc âm này (ở đâu, khi nào). So sánh Ga 8,1-2 với Lc 21,37-38; 22,39. Bạn có nhận xét gì không?
2. Đọc Ga 8,1-6a. Đâu là mục đích của các kinh sư và người Pharisêu khi họ đưa chị này đến với Đức Giêsu? Đâu là cái bẫy họ đang giăng ra cho Ngài?
3. Đọc Lê-vi 20,10; Đệ nhị luật 22,22-24. Bạn biết gì về luật này?
4. Đọc Ga 8,6. Đâu là cử chỉ và thái độ của Đức Giêsu trước câu hỏi của họ: "Thầy nghĩ sao?"
5. Đọc Ga 8,7-8. Đức Giêsu có trả lời trực tiếp câu hỏi trên của họ không? Ngài đã làm gì sau đó?
6. Đức Giêsu đã cúi xuống, viết trên đất, và ngẩng lên mấy lần? Ngài đã tạo ra không khí tĩnh lặng bằng cách nào?
7. Đọc Ga 8, 10-11. Bạn nghĩ gì về cuộc trò chuyện giữa Đức Giêsu và người phụ nữ?
8. Qua cách hành xử của Đức Giêsu, bạn thấy Ngài có coi nhẹ tội ngoại tình không? Bạn thích cách hành xử này ở những điểm nào?
9. Câu chuyện đã được giải quyết cách êm đẹp không ngờ. Bạn có thấy như vậy không?
GỢI Ý SUY NIỆM: Theo bạn, khuôn mặt của Đức Giêsu trong bài Phúc âm này có vừa nhân từ, vừa oai nghi không? Bạn rút được bài học nào từ đoạn Tin Mừng này?
PHẦN TRẢ LỜI
1. Cuộc gặp gỡ giữa người phụ nữ với Đức Giêsu diễn ra vào lúc tảng sáng, ở Đền Thờ Giêrusalem (Ga 8,2). Đọc Lc 21,37-38; 22,39 ta thấy Đức Giêsu có thói quen đến núi Ô-liu (Cây Dầu) để cầu nguyện và ngủ lại đó vào ban đêm, rồi khi trời sáng, Ngài lại vào Đền Thờ để giảng dạy cho dân chúng. Gioan 8,1-2 cũng cho thấy điều đó.
2. Mục đích của các kinh sư và người Pharisêu khi đưa người phụ nữ đến với Đức Giêsu là “để thử Người, nhằm có cớ tố cáo Người” (Ga 8,6). Họ giả bộ hỏi ý kiến của Đức Giêsu về chuyện có ném đá chị phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình hay không (Ga 8,5). Đây là một cái bẫy. Nếu Đức Giêsu trả lời không, thì Ngài đi ngược với Luật Môse. Nếu Ngài trả lời có, thì Ngài đi ngược với lòng thương xót nơi mình.
3. Luật Môse đã truyền dạy nằm trong trong sách Lê-vi 20,10 và sách Đệ nhị luật 22,22. Theo luật này thì phải xử tử cả hai người nam nữ phạm tội ngoại tình. Tuy nhiên, luật này lại không bảo phải xử tử bằng cách ném đá. Chỉ bị ném đá nếu người phụ nữ là một trinh nữ đã đính hôn mà lại quan hệ với một người đàn ông khác ở trong thành, khi đó cả hai sẽ bị ném đá (Đnl 22,23-24). Còn trong bài Tin mừng này, chúng ta không chắc người phụ nữ này là một trinh nữ đã đính hôn, và cũng không thấy mặt người đàn ông đã phạm tội với chị.
4. Trước câu hỏi mà Đức Giêsu thừa biết là một cái bẫy, Ngài đã không trả lời. Vì đang ngồi giảng dạy đám đông (Ga 8,2) nên bây giờ Ngài “cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất” (Ga 8,6b). Đức Giêsu cứ viết và họ cứ tiếp tục hỏi cùng một câu hỏi. Chắc họ thích thú và đắc thắng vì thấy Ngài bị kẹt trong cái bẫy do họ giăng ra. Họ có thể nghĩ là Ngài muốn tránh câu hỏi này hay không biết cách trả lời.
5. Cuối cùng, Đức Giêsu đã ngẩng lên trả lời. Ngài không trả lời đúng vào câu hỏi của họ, ném đá hay không ném đá, nhưng Ngài nói: người đầu tiên được phép ném đá chị này là người nào không có tội. Rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất (Ga 8,7-8). Nhiều tác giả phỏng đoán xem Ngài đã viết gì, nhưng thực ra Ngài viết gì, chúng ta không rõ. Chỉ biết Đức Giêsu viết bằng ngón tay, giống như ĐỨC CHÚA đã viết bằng ngón tay trên hai bia đá Mười Điều Răn (Xh 31,18). Hơn nữa, hai dạng động từ “viết” được dùng ở Ga 8,6b (katégraphen) và ở Ga 8,8 (égraphen) cũng là những động từ được bản LXX sử dụng khi dịch Xh 32,15. Câu này nói về việc ĐỨC CHÚA viết trên hai bia đá.
6. Đức Giêsu cúi xuống, viết trên đất và ngẩng lên hai lần (Ga 8,6b-7; 8.10). Qua hành động cúi xuống viết và không nói gì, Ngài tạo ra được khoảng lặng cần thiết để làm dịu xuống sự hung hăng của những người tố cáo, và làm họ hồi tâm để xét lại chính mình. Hậu quả là có những người cao tuổi đã bỏ đi, vì thấy mình có tội (Ga 8,9a).
7. Qua cuộc trò chuyện của Đức Giêsu với người phụ nữ ngoại tình (Ga 8,10-11), có vẻ như Ngài ngạc nhiên vì chỉ còn mình chị ấy đứng đó, và ngạc nhiên vì không ai kết án chị. Câu nói của Ngài ở Ga 8,7 đã cứu chị, dù câu ấy cho phép người ta ném đá chị với điều kiện.
8. Đức Giêsu không là quan tòa kết án chị phụ nữ ngoại tình, nhưng Ngài cũng không coi nhẹ tội này: “Từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11). Ngài là người duy nhất vô tội, nhưng lại không tố cáo hay kết án. Ngài đã cứu mạng sống một phụ nữ có nguy cơ bị ném đá, nhưng Ngài cũng đòi chị ấy không được phạm tội nữa.
9. Đúng là câu chuyện có một cái kết êm đẹp. Người ta dùng sức mạnh lôi người phụ nữ tới, còn Đức Giêsu cho chị về trong tự do và bình an. Người ta định giăng bẫy tố cáo Đức Giêsu (Ga 8,6a) bằng cách tố cáo chị ấy. Đức Giêsu không mắc bẫy và giải cứu chị, cả xác lẫn hồn. Hơn nữa, những đối thủ của Ngài còn học được một điều tích cực: họ nhận ra mình là tội nhân.
Các sách Tin Mừng đã tường thuật ba phép lạ Chúa Giêsu cho người chết sống lại: người thanh niên MC 5-C123
Các sách Tin Mừng đã tường thuật ba phép lạ Chúa Giêsu cho người chết sống lại: người thanh niên con bà góa thành Na-in, Em bé con ông Giairô, và Ladarô. Nhưng việc Ladarô sống lại quan trọng hơn hết và mang nhiều ý nghĩa. Trình thuật này đặc biệt của Gioan.
Phép lạ này xảy ra trong một gia đình khá giả, gia đình của chị Matta, là một gia đình đã đón tiếp Chúa Giêsu mỗi khi Ngài giảng ở Bêtania. Theo trình thuật của thánh Gioan thì Chúa Giêsu xem các chị em của Ladarô như gia đình của mình. Cách đối xử của Ngài rất thân tình.
Ladarô lâm bệnh nặng khi Ngài đang đi giảng ở xa. Gia đình sai người cho Ngài hay, nhưng Ngài hình như không muốn can thiệp ngay lại nói một câu như không quan tâm cho lắm: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa, qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa sẽ được tôn vinh”. Như thế chứng tỏ Ngài có một chương trình rõ rệt, Ngài biết phải làm gì.
Ngài tiếp tục rao giảng. Vài ngày sau, Ngài nhắc đến với những lời mà các môn đệ cũng không thể hiểu ngay: “Ladarô, bạn chúng ta đã yên giấc rồi. Thầy đi đánh thức anh ấy đây”. Các môn đệ không hiểu, Ngài phải nói rõ: “Ladarô chết rồi”.
Chúa Giêsu làm phép lạ luôn là để chứng tỏ một khía cạnh nào đó trong sứ mệnh của Ngài. Ngài dùng một hoàn cảnh thực tế và giúp mọi người đạt đến niềm tin. Ngài đã hóa nước lã thành rượu ngon tại Cana là “để các môn đệ tin Ngài”. Ở đây, cái chết của Ladarô cũng là một dịp để Ngài tỏ hiện vinh quang Thiên Chúa cho dân và để “nhiều người tin Ngài”.
Đến nơi, Ladarô đã được an táng bốn ngày rồi. Người Ngài gặp đầu tiên là chị Matta: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt đây thì em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”.
Chị Matta nói như thế có nghĩa là còn một niềm cậy trông nào đó, dù nó thật mong manh. Chúa Giêsu chỉ trả lời bằng một câu ngắn: “Em con sẽ sống lại”. Matta thuộc giáo lý nên trả lời: “Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. Chúa Giêsu khẳng định: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống”. Tất cả câu chuyện xoay quanh câu nói lạ lùng này. Trên trần gian, chỉ có một mình Ngài mới có thể nói câu đó mà không sợ mình nói dối. Mọi người đều chết và cho đến tận thế, không ai thoát khỏi cái chết. Chỉ có Ngài là sự sống lại và là sự sống mà thôi. Điều này giúp chúng ta vững tin.
Chúa Giêsu còn hỏi chị Matta: “Con có tin thế không?” Matta tuyên xưng đức tin: “Con vẫn tin Thầy là Đấng Kitô, Đấng phải đến trong thế gian”. Chúng ta nhớ ngay đến Phêrô, ngày nào đó cũng đã tuyên xưng như thế: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống”.
Chúng ta có tin như thế không?
Hôm nay Chúa muốn chúng ta nhìn lại đức tin củamình. Nếu chúng ta tin rằng Ngài là Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa Hằng Sống, thì cuộc sống chúng ta phải như thế nào?
Có lẽ bên ngoài không có gì thay đổi, nhưng tất cả đều khác, không giống những người không có đức tin. Chúng ta sẽ không bồn chồn lo lắng về tương lai, không sợ sệt dù phải gặp gian nan hay sự thù hằn của kẻ vô đạo. Chúng ta luôn an vui thanh thản, bình an, vì Chúa bảo đảm tất cả, cuộc sống chúng ta nằm trong tay Ngài. Tin là cảm thấy mình không sống một mình mà luôn với Đấng đã yêu thương chúng ta và đã liều mạng cho chúng ta.
Sau khi gặp Thầy, Matta về báo tin cho em là Maria: “Kìa Thầy đến và gọi em”.
Maria đang ngồi trong nhà và đang khóc em với mấy cô bạn. Nghe Thầy đến Maria đứng phắc dậy và chạy. Ai cũng tưởng cô chạy ra mộ để khóc em. Gặp Chúa Giêsu, cũng một lời như chị Matta: “Nếu Thầy có ở đây thì em con đâu có chết”. Một câu dường như trách móc. Cô òa lên khóc và những người chung quanh cũng khóc theo. Thánh Gioan ghi nhận: “Thấy Maria khóc và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến.”
Khi đứng trước cửa mộ, Chúa Giêsu lại rơi lệ và thổn thức trong lòng. Chúng ta có thể tự hỏi: tại sao Ngài biết sẽ cho Ladarô sống lại, tại sao Ngài lại khóc? Những người Do Thái ở đó không hiểu và ngạc nhiên: “Kìa xem ông ấy thương Ladarô biết bao!”
Chúng ta không thể hiểu chính xác, nhưng chúng ta có thể đoán rằng Ngài khóc vì thấy mấy chị em Ladarô phải đau khổ và trải qua một cơn thử thách nặng nề. Ngài khóc không phải vì Ladarô đã nặng mùi trong mồ mà vì thế gian đang tan rửa và nặng mùi trong tội ác của mình. Ngài đã từng khóc trên thành Giêrusalem, vì con người đã từ chối hồng ân của Chúa. Ngài vẫn còn khóc cho đến tận thế vì thế gian đã từ chối tình yêu của Ngài.
Chúa Giêsu không chỉ rao giảng bằng lời nói mà bằng cả cuộc sống, bằng những hình ảnh gợi lên niềm tin. Cái chết của Ladarô là một sự kiện điển hình nhất.
Trong biến cố này, Ngài chứng tỏ một cách hùng hồn, Ngài là chủ của sự sống, Là Sự Sống và là Sự Sống Lại. Những lần Ngài đã cho kẻ chết sống lại: Người thanh niên con bà góa thành Na-in, em bé con ông Giairô, người ta cũng kinh ngạc nhưng không gây một ấn tượng mãnh liệt như lần này.
Ngài ra mộ và truyền cất cửa mộ ra. (Theo tục lệ của người Do Thái, khi thân nhân nào về trễ, không thể dự đám tang, trong khi chưa nặng mùi thì người ta có thể yêu cầu giở cửa mộ cho người ta nhìn mặt người chết lần cuối). Tưởng Chúa Giêsu cũng yêu cầu như thế nên chị Matta ngăn lại: “Thưa Thầy, nặng mùi lắm rồi, Thầy”. Một lần nữa Chúa Giêsu lại nhấn mạnh: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng, nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang Thiên Chúa sao? Vinh quang Thiên Chúa được nhắc lại lần thứ hai.
Cửa mộ đã mở ra, nhưng Chúa Giêsu không vội vàng, Ngài ngước mắt lên trời và cầu nguyện: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha vì Cha đã nhậm lời con, nhưng vì dân chúng quanh đây, nên Con nói để họ tin rằng Cha đã sai con.” Qua lời cầu nguyện này, chúng ta thấy rõ ý định của Ngài là mạc khải sứ mệnh thiên sai của Ngài. Người Do Thái có thể hiểu ngay Ngài là ai.
Cầu nguyện xong Ngài kêu lớn tiếng: “Ladarô, ra khỏi mồ”. Người chết lập tức chui ra.
Nếu chúng ta có mặt ở đó, lúc bấy giờ, chúng ta nghĩ sao? Chúng ta dám tin không? Thánh Gioan ghi lại: “Trong số những người Do Thái (có mặt tại đó) đã chứng kiến việc Chúa Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người”. Đó là kết quả hiển nhiên. Chúng ta không chứng kiến những điều lạ lùng như thế, chúng ta vẫn có thể được chúc phúc: “Phúc cho những kẻ không thấy mà tin”.
Thánh Phaolô đã tin mãnh liệt vào Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã trở thành tất cả của ngài. Ngài đã diễn tả niềm tin của ngài nhiều lần trong các bức thư của ngài. Hôm nay, chúng ta cũng vừa nghe nhắc lại: “Tôi coi mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Giêsu Kitô. Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết và coi tất cả như rác, để được Đức Kitô”. Người là “Sự Sống lại và là Sự Sống”. Nhìn Ladarô sống lại, chúng ta có cảm thấy như thánh Phaolô đã nói: “anh em đã được chỗi dậy với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc về thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” không?
Nơi Ladarô, chúng ta nhìn thấy tương lai của chúng ta. Sự sống hôm nay mang hai chiều kích: chết cho thế gian và sống lại trong Đức Kitô. “Cái thân xác phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt và cái thân xác phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử”. Đó là hồng ân tuyệt diệu chúng ta đang nắm trong tay, đừng để nó suy tàn vì sự ham mê trần thế.
“Hãy nâng tâm hồn lên”. Giáo hội luôn nhắc chúng ta như thế. Chúa Giêsu muốn chúng ta “sống trong thế gian mà không thuộc về thế gian”, và hơn nữa, chúng ta có sứ mệnh thánh hóa trần gian. Hiến chế Giáo hội trong thế giới ngày nay của Công Đồng Vatican II nhấn mạnh một cách đặc biệt đến điểm này: Kitô hữu phải thánh hóa mọi thực tại trần gian, sử dụng trần gian để xây dựng Nước Chúa. Chúng ta đang sống cho sự sống lại. Cuộc sống chúng ta chỉ có ý nghĩa khi chúng ta quy mọi sự về với Chúa. Các tạo vật sẽ “không lệ thuộc vào cảnh hư nát mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng sự tự do và vinh quang”. Sự sống đời đời mà chúng ta đang hướng đến đang ở đây, nơi bàn thờ hiến tế này. Để giúp chúng ta sống lại với Ngài, chính Chúa Giêsu chấp nhận đến với chúng ta bằng một tấm bánh. Ngài là Bánh Hằng Sống. Ăn lấy Ngài ngay hôm nay, chúng ta đã sống trong Ngài, chờ đợi vinh quang tỏ hiện: “Chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”.
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Chay gợi lên sự tha thứ có sức mạnh giải thoát: đoạn tuyệt MC 5-C124
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Chay gợi lên sự tha thứ có sức mạnh giải thoát: đoạn tuyệt với quá khứ để mà hướng đến một cuộc sống mới.
Is 43: 16-21
Qua ngôn sứ I-sai-a, Đức Chúa loan báo rằng Ngài sẽ thực hiện những điềm thiêng dấu lạ để giải thoát dân Ngài khỏi cảnh giam cầm ở Ba-by-lon: quên đi quá khứ ô nhục, nước hằng sống sẽ tuôn trào trong miền đất khô cằn.
Pl 3: 8-14
Từ kinh nghiệm cá nhân của mình, thánh Phao-lô rút ra một bài học vĩ đại: đoạn tuyệt quá khứ gắn bó với luật Mô-sê để kết hợp với chỉ một mình Đức Ki-tô.
Ga 8: 1-11
Tin Mừng thuật câu chuyện người phụ nữ ngoại tình có nguy cơ bị ném đá. Khi ban cho chị ơn tha thứ của Thiên Chúa, Đức Giê-su giải phóng chị khỏi tội lỗi và sự nhục nhã, đồng thời mở ra cho chị một cuộc sống mới.
BÀI ĐỌC I (Is 43: 16-21)
Đoạn văn này được trích từ “Sách An Ủi” của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), vị ngôn sứ ở giữa những người lưu đày thời Ba-by-lon. Ông an ủi họ khi loan báo rằng họ sắp được giải phóng và hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem.
Những người lưu đày bất hạnh này nghi nan ngờ vực. Một biến cố như thế làm thế nào có thể xảy đến được? Họ đã mõi mòn ngóng trông gần suốt năm mươi năm rồi. Vị ngôn sứ cũng nhắc họ nhớ đến những việc kỳ diệu Đức Chúa đã thực hiện để giải phóng cha ông họ khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập: Đấng đã mở lối giữa sóng nước oai hùng để cho dân Do thái vượt qua Biển Đỏ và đã chôn vùi chiến mã với kỵ binh hùng mạnh của Pha-ra-ô trong lòng biển cả, lại không thể đánh bại đế quốc Ba-by-lon với binh hùng tướng mạnh sao?
Cuộc xuất hành ra khỏi Ai-cập được ghi khắc trong tâm trí của dân Ít-ra-en như biến cố tiêu biểu, bảo chứng cho những lần Thiên Chúa can thiệp trong tương lai để ra tay cứu giúp dân Ngài, đó là nền tảng đức tin và đức cậy của họ. Đó là những ý tưởng mà vị ngôn sứ gợi mở cho đồng bào của mình: Đức Chúa sẽ ra tay cứu độ họ. Không có lý do gì phải thất vọng cả.
1. Một thế giới mới:
Ngôn sứ I-sai-a kêu mời dân chúng đừng nhìn lại quá khứ như một niềm hối tiếc, nhưng hãy đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa để thấy một điều kỳ diệu Thiên Chúa sắp làm cho dân Ngài: “Đừng nhớ lại những chuyện ngày xưa, chớ quan tâm về những việc thuở trước. Nay Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy hay sao?”. Ngôn sứ I-sai-a đặt mọi niềm hy vọng của mình vào vua Ba tư, vị vua tiến quân như vũ bảo và chắc chắn sẽ sớm đánh bại đế quốc Ba-by-lon.
Bằng những biểu tượng, vị ngôn sứ gợi lên giờ hồi hương trở về trong vinh quang, những giây phút lạ lùng đến mức sa mạc sẽ không còn vùng đất hoang vu khô cằn nữa, những loài dã thú sẽ không còn hung tợn nữa. Đó sẽ là như một cuộc tạo dựng mới.
2. Biểu tượng của nước:
Thế giới mới này sẽ sinh ra dưới dấu hiệu của nước: “Vì Ta cho nước chảy ngay giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn, cho dân Ta được tuyển chọn được giải khát”. Vị ngôn sứ biết rất rõ rằng trên đường hồi hương trở về Giê-ru-sa-lem, một trong những khó khăn sẽ là băng qua sa mạc Xy-ri Pa-lét-tin. Chẳng sao cả, Thiên Chúa sẽ cho nước tuôn tràn. Trong Kinh Thánh, đề tài nước không chỉ gợi lên yếu tố tự nhiên đem lại sự sống cho thiên nhiên, nhưng còn là biểu tượng sức sống thần thiêng. Đề tài này chạy xuyên suốt Cựu Ước; chúng ta có thể trích dẫn biết bao ví dụ. Mối liên hệ giữa nước và thần khí được gặp thấy trong Cựu Ước (Ed 47: 9) và sẽ được lấy lại trong Tin Mừng (Ga 7: 37-39).
3. Trở về cùng Thiên Chúa:
Linh đạo mà vị ngôn sứ gợi lên ở đây là cuộc trở về cùng Thiên Chúa, Ngài sẽ tha thứ và đổ tràn muôn phúc lộc của Ngài: “Ta đã gầy dựng cho Ta dân này, chúng sẽ lên tiếng ngợi khen Ta”. Vào Chúa Nhật V Mùa Chay này, Phụng Vụ Lời Chúa mời gọi chúng ta lắng nghe lời kêu gọi của vị ngôn sứ thời lưu đày này, và qua những hình ảnh tiên trưng, hiểu cuộc sống phong phú của các bí tích, đặc biệt bí tích Thánh Tẩy.
BÀI ĐỌC II (Pl 3: 8-14)
Đoạn thư thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê này được trích từ chương 3, trong đó thánh nhân cảnh giác những người Ki-tô hữu gốc Do thái, đừng gắn bó với luật Mô-sê và tìm cách áp đặt vài đòi hỏi luật này trên những Ki-tô hữu gốc lương dân.
Từ kinh nghiệm cá nhân của mình, thánh Phao-lô trình bày cho họ biết thánh nhân đã được hướng dẫn như thế nào để đoạn tuyệt với Lề Luật. Cung giọng vừa tâm sự vừa xác tín là nét đặc trưng của thư gởi tín hữu Phi-líp-phê này, vì thánh nhân đã kinh qua những dằn vặt đau đớn mới có thể đoạn tuyệt với luật Mô-sê.
1. Đoạn tuyệt với quá khứ:
Thánh Phao-lô vừa mới kể ra tất cả những đức tính mà xưa kia thánh nhân đã tự hào tự phụ: “Tôi chịu cắt bì ngày thứ tám, thuộc dòng dõi Ít-ra-en, họ Ben-gia-min, là người Híp-ri, con của người Híp-ri; giữ luật thì đúng như một người Pha-ri-sêu; nhiệt thành đến mức ngược đãi Hội Thánh; còn sống công chính theo Lề Luật, thì chẳng ai trách được tôi” (3: 5-7). Cũng vào thời kỳ này, thánh nhân viết cho tín hữu Ga-lát-ta: “Trong việc giữ đạo Do thái, tôi đã vượt xa nhiều đồng bào cùng lứa tuổi với tôi: hơn ai hết, tôi đã tỏ ra nhiệt thành với các truyền thống của cha ông” (Pl 1: 14).
Thánh nhân nhắc lại cuộc sống xưa kia của mình đã khiến đồng bào của ngài phải nể phục. Tất cả những mối lợi này cho phép thánh nhân được liệt vào hàng công chính, thì nay thánh nhân công bố với tín hữu Phi-líp-phê ngài xem như đồ bỏ đi, như đồ rác rưởi kể từ khi được biết Đức Ki-tô.
Cuộc gặp gỡ với Đấng Phục Sinh trên đường Đa-mát (thánh nhân ám chỉ một cách kín đáo) đã khiến cho niềm kiêu hãnh trước đây của thánh nhân bổng chốc tan thành mây khói. Thánh Phao-lô quả quyết rằng được như vậy, không phải do công trạng của thánh nhân trong việc tuân giữ Luật Mô-sê, nhưng nhờ niềm tin vào Đức Ki-tô, đó là sự công chính nhưng không do Thiên Chúa ban. Một lời tự thú huy hoàng nhưng biết bao đớn đau.
2. Sự công chính là một thiên ân:
Ở đây, chúng ta gặp thấy đề tài cốt yếu về sự công chính do lòng tin chứ không do việc tuân giữ Lề Luật, đề tài mà thánh Phao-lô sẽ khai triển rộng lớn trong thư gởi tín hữu Rô-ma. Thư gởi tín hữu Phi-líp-phê mô tả cho chúng ta nguồn gốc tâm lý và hiện sinh về đề tài này, nhờ đó tránh mọi lời giải thích sai lầm.
Đức tin mà thánh nhân đề cao là một đức tin huy động toàn thể con người. Người Ki-tô hữu được sánh ví như một lực sĩ chạy đua trên thao trường, nhất quyết dồn hết mọi sức lực của mình, lao mình về phía trước, chạy thẳng tới đích để mong chiếm lấy phần thưởng. Thay vì tuân giữ nghiêm nhặt những huấn thị nghi thức của Lề Luật, người Ki-tô hữu nhắm một điều thiện tuyệt mức: được biết Đức Ki-tô.
3. Biết Đức Ki-tô:
Thuật ngữ “biết” phải được hiểu theo nghĩa Kinh Thánh mà thánh Gioan thường hằng sử dụng: một chuyển động của cả trí tuệ lẫn tâm tình, một sự kết hợp của cả khối óc lẫn con tim, một sự hiểu biết không suy luận nhưng dẫn đến mối tâm giao: “Vấn đề là được biết Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người”. Tiến trình hiểu biết này là tiến trình mà thánh Phao-lô theo đuổi. Lộ trình thông thường của người Ki-tô hữu thì ngược lại. Thánh Phao-lô cũng định nghĩa lộ trình ngay liền: “nhờ đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết”. Vả lại, đây là điều mà thánh nhân miệt mài sống trong sứ mạng của mình, khi theo đuổi cuộc đua vẫn chưa đến đích, nhưng “đang cố gắng chạy tới, mong chiếm đoạt”.
4. Bài học:
Bài học mà thánh Phao-lô muốn rút ra từ kinh nghiệm cá nhân của ngài, gởi đến các Ki-tô hữu Phi-líp-phê gốc Do thái này nhằm khai mở cho họ hiểu vấn đề đức tin của họ: đức tin là kết hợp với Đức Ki-tô chứ không gắn bó với những hình thức bên ngoài. Nguồn mạch và nguyên lý về sự tự do của người Ki-tô là ở đó. Về sự tự do tối thượng này, thánh nhân có thể nói ở nơi khác, khi nhắc nhở rằng điều cốt yếu của Lề Luật từ nay được chứa đựng ở nơi một nguyên lý duy nhất: mến Chúa và yêu người. Về vấn đề này, lời nhận xét trong sách “Mỗi Ngày Một Tin Vui” thật thích đáng: “Ki-tô giáo thiết yếu không chỉ là một hệ thống luân lý gồm những điều phải giữ hay phải tránh. Quan niệm Ki-tô giáo như thế dễ đưa người tín hữu đến thái độ tính toán so đo, tự phụ; sống đạo dễ trở thành một thứ biểu dương bên ngoài. Chúa Giê-su đưa chúng ta vào cốt lõi của đạo: đạo thiết yếu là tình yêu nhưng không của Thiên Chúa đối với con người; sống đạo là đón nhận tình yêu ấy và đáp trả với tất cả lòng tín thác và quảng đại” (“Mùa Vọng-Giáng Sinh, Mùa Chay-Phục Sinh”, tr. 158).
TIN MỪNG (Ga 8: 1-11)
Câu chuyện “Người phụ nữ ngoại tình” này là một trong những câu chuyện rất cảm động về tấm lòng xót thương của Đức Giê-su; tuy nhiên, đề tài này là đề tài rất tâm đắc của thánh Lu-ca chứ không của thánh Gioan. Xét về phương diện văn phong, ngôn từ, câu chuyện này gần với Tin Mừng Lu-ca hơn Tin Mừng Gioan. Ngoài ra, câu chuyện này không được gặp thấy trong các bản sao chép cổ nhất của Tin Mừng Gioan. Hơn nữa, các Giáo Phụ Hy-lạp dường như đã không biết đến bản văn này, ngoại trừ thánh Giê-rô-ni-mô (thế kỷ thứ tư) biết và chú giải câu chuyện này. Trong bản dịch La-tin của thánh nhân, câu chuyện cảm động này được đưa vào vị trí của Tin Mừng Gioan như hiện nay.
1. Bối cảnh:
“Sau đó, ai nấy trở về nhà mình. Còn Đức Giê-su thì đến núi Ô-liu. Vừa tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống và giảng dạy họ”. Bài trình thuật bắt đầu từ buổi chiều sau một ngày Chúa Giê-su thuyết giáo trong Đền Thờ: “ai nấy trở về nhà mình” (7: 53), còn Chúa Giê-su thì lên núi Ô-liu qua đêm một mình, và sáng sớm Ngài trở lại Đền Thờ tiếp tục giảng dạy cho dân chúng như thói quen của Người. Bối cảnh này rất phù hợp với Tin Mừng Lu-ca: “Ban ngày, Đức Giê-su giảng dạy trong Đền Thờ; nhưng đến tối, Người đi ra và qua đêm tại núi gọi là núi Ô-liu. Sáng sớm, toàn dân đến với Người trong Đền Thờ để nghe Người giảng dạy” (Lc 21: 37-38).
Nếu câu chuyện người phụ nữ ngoại tình này thuộc về Tin Mừng Lu-ca, nó được định vị vào những ngày cuối cùng Đức Giê-su giảng dạy ở Đền Thờ, trước cuộc Tử Nạn của Ngài, và báo cho biết những cạm bẫy mà những đối thủ của Ngài giăng ra cho Ngài: nguồn gốc về quyền bính của Ngài, nộp thuế cho Xê-da, kẻ chết sống lại (Lc 20: 1-47).
2. Tiến thoái lưỡng nan:
“Lúc đó, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang”. Luật Mô-sê rất nghiêm khắc đối với tội ngoại tình, được đặt vào số những hành vi gây thiệt hại đến người thân cận. Người thân cận bị thiệt hại ở đây là người chồng. Tội không chung thủy của người chồng chỉ bị trừng phạt trong trường hợp gian díu với một người phụ nữ đã lập gia đình, vì làm thiệt hại đến người chồng của người phụ nữ này. Theo Luật Mô-sê, người phụ nữ ngoại tình, cũng như người tòng phạm, bị kết án ném đá (Đnl 22: 22-23).
Cạm bẩy mà các kinh sư và người Pha-ri-sêu giăng ra cho Chúa Giê-su tương tự với vấn đề nộp thuế cho Xê-da (Lc 20: 21-25). Nếu Ngài khuyên nên khoan dung tha thứ, thì Ngài vị phạm luật Mô-sê. Nhưng nếu Ngài tán thành việc ném đá người phụ nữ ngoại tình này, thì Ngài vi phạm luật Rô-ma theo đó người Do thái không được phép thi hành án tử (Ga 18: 31). Ngoài ra, nếu Ngài chấp nhận ném đá người phụ nữ ngoại tình này, thì Ngài mâu thuẫn với chính mình: tiếp đón những người tội lỗi và rao giảng tấm lòng xót thương của Thiên Chúa. Như vậy, câu hỏi của họ“Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” đặt Chúa Giê-su vào thế “tiến thối lưỡng nan”.
3. Thái độ của Chúa Giê-su:
“Nhưng Đức Giê-su cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất”. Việc Chúa Giê-su giữ thái độ thinh lặng nêu lên biết bao điều. Trước hết, xem ra Ngài không quan tâm đến vấn đề này, vì có những quan tòa ở Giê-ru-sa-lem, Ngài không phải thay thế vai trò của họ; đó không là trách nhiệm của Ngài. Tuy nhiên, lập luận này không thể đứng vững, vì trái ngược với cách hành xử thông thường của Ngài: làm thế nào Ngài có thể khoanh tay đứng nhìn để cho người ta hành động ngược lại tấm lòng xót thương của Ngài được chứ?.
Chúng ta thử nghĩ đến tình cảnh thật ê chề nhục nhã mà người phụ nữ này phải đối mặt. Người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang và bị dẫn đến vào tảng sáng; đám người đến nghe Chúa Giê-su trong lòng Đền Thờ đã đông rồi. Mọi ánh mắt chất chứa những điều đê hèn, giả tâm, nhìn chòng chọc vào người phụ nữ. Đối với người phụ nữ này, những ánh mắt kia đã là những lời xét đoán rồi, hơn những lời xét đoán, còn là những lời kết án nữa; vì thế, việc Chúa Giê-su giữ thái độ im lặng cúi xuống viết trên đất là để tránh cho người phụ nữ đáng thương này thêm một ánh mắt xét đoán nữa. Tuy nhiên, Chúa Giê-su có sứ điệp phải truyền đạt cho chị; nhưng trước tiên, Ngài phải có việc cần tính sổ với những kẻ đòi lên án chị. Cái thinh lặng của Ngài là cái thinh lặng hùng hồn của các bậc hiền nhân. Các kinh sư và những người Pha-ri-sêu đắc chí, tưởng rằng đã dồn Ngài vào thế bí nên cố nài ép Ngài trả lời.
4. Đặt mỗi người đối diện với tiếng lương tâm của mình:
Vì người ta cố nài ép, Đức Giê-su đứng dậy và đưa ra ý kiến của mình: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Câu trả của Đức Giê-su là câu trả lời bất ngờ nhất, nằm ngoài mọi dự đoán của mọi người. Chúa Giê-su không phải không thừa nhận Lề Luật; thậm chí khi phát biểu ý kiến của mình như vậy, Ngài dựa trên các bản văn của sách Đệ Nhị Luật: “Các nhân chứng phải là người đầu tiên phải tra tay giết nó, rồi toàn dân tiếp theo sau” (x. Đnl 13: 10 và 17: 7). Nhưng đồng thời, Ngài đặt mỗi người đối diện với tiếng lương tâm của mình. Thái độ này hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Ngài: nội tâm hóa luật luân lý.
Đoạn, tiếp tục từ chối ánh mắt phán xét của quan tòa, Đức Giê-su lại cúi xuống viết trên đất, để cho tâm trí mình chìm sâu trong cõi xa xăm nào đó như thử chẳng quan tâm đến những gì đang diễn ra chung quanh Ngài. Ở đây nữa, Ngài không muốn đưa ánh mắt nghiêm khắc nhìn những người mà Ngài mời gọi họ hãy tự phán xét chính mình; Ngài không muốn gây áp lực trên sự tự do của bất kỳ ai.
5. Chỉ còn lại một người đáng xót thương và một Đấng đầy lòng xót thương:
Mọi người đều đã bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi nhất, những người sáng suốt nhất hay những người có tiếng lương tâm nhạy bén nhất do từng trải cuộc đời.
Thánh Âu-tinh nhận xét rất tinh tế: “Chỉ còn lại hai người: một người đáng xót thương và một Đấng đầy lòng xót thương”. Quả thật, cuộc đối thoại ngắn gọn sau cùng giữa Chúa Giê-su và tội nhân thật cảm động, không bút mực nào diễn tả được:
- “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”
- “Thưa Ngài, không có ai cả”.
- “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Chỉ mình Ngài là Đấng thanh sạch mới có thể ném đá chị; ấy vậy, Ngài đem đến cho chị lòng xót thương hay tha thứ của Thiên Chúa. Nhưng lòng xót thương hay tha thứ của Thiên Chúa không là thái độ nhu nhược mà là sự giải thoát: “Từ nay đừng phạm tội nữa”. Một cái nhìn đầy yêu thương tha thứ mở ra một khởi điểm mới. Đó là thế quân bình tế nhị giữa hai nhân đức gần như mâu thuẫn nhau: sự công bình không cho phép Chúa Giê-su dung thứ tội lỗi, nhưng lòng xót thương buộc Ngài phải tha thứ tội nhân. Tội nghịch lại Thiên Chúa và anh chị em của mình phải loại trừ, nhưng tội nhân là đối tượng lòng yêu thương của Thiên Chúa, Đấng không bao giờ đánh mất niềm hy vọng vào khả năng hoán cải của bất kỳ một ai. Như vậy, Luật không bị hủy bỏ như vài người lo sợ, nhưng trở nên “nhân đạo”, mở ra con đường sống và cứu độ. Thánh Giáo Phụ I-rê-nê đã quả quyết: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống”.
Đây thật sự là một câu chuyện tuyệt vời để diễn tả sâu sắc chương trình và cách thức Thiên Chúa cứu độ loài người. Cả những kẻ tố cáo lẫn người phụ nữ bị tố cáo đều trải nghiệm nơi Đức Giê-su lòng thương xót hay tha thứ của Thiên Chúa. Những người tố cáo thì hiểu rằng chính họ cũng cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa, nên họ không được cư xử cách tự phụ và thiếu lòng xót thương với người thân cận. Người phụ nữ đã được cứu thoát khỏi hoàn cảnh nguy hiểm và qua Đức Giê-su, đã trải nghiệm ơn tha thứ của Thiên Chúa. Hẳn là những người chứng kiến sự cố hôm ấy có thêm một lý chứng để xác tín về đạo lý cứu độ của Đức Giê-su.
"Tôi không kết án chị đâu. Thôi chị cứ về và từ nay đừng phạm tội nữa" (Ga 8,11)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay với ý thức mình là người tội lỗi. Lời Chúa trong các Chúa nhật trước MC 5-C125
Chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay với ý thức mình là người tội lỗi. Lời Chúa trong các Chúa nhật trước an ủi chúng ta rằng Chúa vẫn yêu thương chúng ta và sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi của chúng ta. Hôm nay, Chúa lại nói với chúng ta, như đã nói với người phụ nữ ngoại tình, rằng "Ta không kết án con đâu. Hãy về và đừng phạm tội nữa".
Thiên Chúa thật là Đấng giàu lòng thương xót. Chúng ta hãy đến với Ngài trong Thánh lễ này với trọn tâm tình tin yêu phó thác.
II. Gợi ý sám hối
Mặc dù chúng ta đầy dẫy khuyết điểm, nhưng chúng ta hay bắt bẻ khuyết điểm của người khác.
Mặc dù chúng ta tội lỗi rất nhiều, nhưng chúng ta hay lên án người khác.
Chúng ta không đối xử khoan dung với người khác như Chúa đã khoan dung với chúng ta.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Is 43,16-21)
Đoạn này được trích trong phần II sách Isaia. Hoàn cảnh lúc đó là dân Do Thái đang bị lưu đày bên Babylon.
Trước hết Isaia nhắc họ nhớ lại chuyện xuất hành ngày xưa: Thiên Chúa là Đấng giải thoát. Để giải thoát họ khỏi ách nô lệ Ai cập, Ngài đã rẻ đôi Biển đỏ, đã nhận chìm quân đội Pharaon trong Biển cả.
Tiếp đến, ngôn sứ hứa là Thiên Chúa sẽ thực hiện việc giải phóng đó một lần nữa, tức là giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày: "Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn"
2. Đáp ca (Tv 125)
Ca tụng việc Thiên Chúa giải thoát dân khỏi cảnh lưu đày: "Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ".
3. Tin Mừng (Ga 8,1-11)
Câu chuyện về người phụ nữ này giống một bức tranh trong đó các hình ảnh đối chọi nhau nhưng lại làm nổi bật nhau lên:
Một bên là một con người tội lỗi rõ ràng vì bị bắt quả tang đang phạm tội đáng chết, bên kia là Con Thiên Chúa thánh thiện vô cùng.
Một bên là thái độ hung hăng của những người biệt phái đòi giết kẻ có tội, bên kia là thái độ nhân từ hiền hậu của Đấng cứu thế.
Bởi đó thánh Augustinô đã tóm ý nghĩa bức tranh này bằng một câu ngắn gọn rất súc tích: "Miseria et misericordia" (Sự cùng khốn và lòng thương xót).
4. Bài đọc II (Pl 3,8-14)
Thánh Phaolô đề cao sự công chính mà Chúa Giêsu ban. Đây không phải là sự công chính do Luật Môsê đem lại (như các người biệt phái trong bài Tin Mừng) mà nhờ lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô (như người phụ nữ ngoại tình).
IV. Gợi ý giảng
* 1. Tình cảm thứ tám
Người ta thường nói rằng con người chúng ta có 7 thứ tình cảm là Hỉ Nộ Ai Cụ Ái Ố Dục. Hỉ là vui, nộ là giận, ai là buồn, cụ là sợ, ái là thương, ố là ghét và dục là muốn. Tất cả gồm 7 tình cảm, "thất tình". Nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết thêm một thứ tình cảm nữa, đó là Thương Xót.
Thương xót là gì? Thưa là một tâm trạng đặc biệt vừa êm đềm ngọt ngào (thương) vừa đau đớn đắng cay (xót).
Hai cảm giác mâu thuẫn vừa thương lại vừa xót ấy trổi dậy trong lòng chúng ta khi chúng ta đứng trước một người chúng ta thương nhưng người ấy vừa phạm một lỗi lầm.
Khi đó, chúng ta phải đối xử thế nào? Lên án chăng? Không được, vì làm như thế là không thương. Bỏ qua chăng? Cũng không được, vì làm như thế là dung túng cho sự xấu. Vậy làm thế nào bây giờ? Chúng ta hãy nhìn Chúa Giêsu: Ngài nói với người phụ nữ ngoại tình "Tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa". Nghĩa là Chúa không lên án mà cũng không dung túng, nhưng Ngài cho kẻ có tội một cơ hội. Nếu Ngài lên án thì chị này phải chết, không còn cơ hội nào nữa. Nếu Ngài bỏ qua thì chị này sẽ tiếp tục phạm tội, cũng không có cơ hội. Ngài bảo chị về và đừng phạm tội nữa tức là cho chị một cơ hội để làm lại cuộc đời.
Tại sao Chúa ban cơ hội cho người tội lỗi? Chúng ta cũng hãy tìm lý do trong bài Tin Mừng này. Và chúng ta tìm gặp trong câu Chúa nói với những người muốn giết người phụ nữ ngoại tình ấy: "Ai trong các ông không có tội thì hãy ném đá chị này trước đi". Vậy lý do là bởi vì ai cũng có tội. Thân phận làm người là như thế, đã là người thì có tội. Thiên Chúa là Đấng hoàn toàn tốt lành và thánh thiện, đúng lý ra Ngài có đầy đủ lý do để lên án loài người tội lỗi chúng ta, nhưng vì thương xót, Ngài đã ban cho chúng ta biết bao cơ hội: "Ta không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống". Trong dụ ngôn về hai con nợ, Chúa Giêsu cũng nói một câu đáng chúng ta suy nghĩ: "Sao ngươi không biết thương xót bạn ngươi như Ta đã thương xót ngươi" (Mt 18,33)
Một quyển sách tựa đề "Tình trên non cao" kể rằng có một cặp vợ chồng trẻ rất yêu thương nhau và sống với nhau trên một ngọn núi cao, rất hạnh phúc. Hạnh phúc đến nỗi nhiều lần họ hô to giữa trời lồng lộng "Chúa ơi, sao mà chúng con hạnh phúc quá!" Nhưng đâu phải chỉ sống với nhau mãi trên núi mà hạnh phúc. Người chồng thỉnh thoảng cũng phải xuống núi để làm ăn. Trong một chuyến xuống núi, người chồng đã lỡ sa ngã ngoại tình với một người đàn bà khác. Người vợ biết được, rất giận, từ đó không nói chuyện với chồng nữa. Phần người chồng thì cũng hối hận nhưng không thể nào xin lỗi được vì mỗi lần muốn nói lời xin lỗi với vợ thì vợ bỏ đi nơi khác. Một đêm kia người chồng trên đường lên núi về nhà thì gặp bão tuyết, chiếc xe ngựa bị gãy, con ngựa bị què, anh cũng bị thương nặng ở chân. Nhưng anh vẫn cố bò về tận cửa nhà. Người vợ ở trong nhà nhìn ra thấy chồng lết tới cửa, nhưng chị nhất định không mở cửa. Sáng hôm sau, người ta thấy xác người chồng đã cứng đờ ngay trước mái ấm gia đình của mình. Một mối tình rất hạnh phúc trên non cao đã kết thúc bi thảm như thế, chỉ vì người vợ không biết thương xót, không cho chồng mình một cơ hội để làm lại cuộc đời.
Cuộc đời quả thật không đơn giản trắng là trắng, đen là đen, tốt là tốt xấu, là xấu. Trong một dụ ngôn, Chúa Giêsu cho chúng ta biết cuộc đời phức tạp như một mảnh ruộng có cả lúa và cỏ lùng lẫn lộn (Mt 13,36-43). Lòng người cũng thế, có khi tốt như thiên thần, có khi xấu như ác quỷ, có phần sáng có phần tối, dù lỡ phạm tội nhưng vẫn còn lương tâm. Bởi thế con người sống với nhau phải có lòng thương xót. Mà thương xót là, xin lặp lại một lần nữa, biết ban cho kẻ lỡ lầm có cơ hội làm lại cuộc đời.
Chúa đã thương xót chúng ta cho chúng ta biết bao cơ hội. Chúng ta cũng thương xót chính mình nên tự cho mình rất nhiều cơ hội. Lời Chúa hôm nay khuyến khích chúng ta thương xót anh chị em chúng ta để ban cho anh chị em chúng ta những cơ hội làm lại cuộc đời.
* 2. Tội bắt quả tang
Vua Quang Vũ nhà Đông Hán có người chị là Hồ Dương, công chúa goá chồng. Nhà vua muốn tìm cho chị người bạn trăm năm, liền đem danh sách các quan của mình ra hỏi ý kiến chị. Công chúa nói: "Tất cả bá quan trong triều đình chỉ có Tổng Hoằng là người có tư cách khác thường, những người khác không sao bì kịp. Vua Quang Vũ biết ý chị đã vừa lòng Tổng Hoằng, liền bảo chị hãy ra ngồi phía sau tấm bình phong, rồi cho đòi Tổng Hoằng đến. Nhà vua bảo:
- Ta nghe tục ngữ có câu: "Giàu đổi bạn, sang đổi vợ" có phải thế không?
Tổng Hoằng liền quì xuống tâu:
- Bạn bè giao du với nhau còn nghèo hèn không nên quên nhau, người vợ trong cảnh hàn vi không nên cho xuống ở nhà dưới.
Vua Quang Vũ biết Tổng Hoằng là người thuỷ chung, nhân nghĩa, không thể nào lay chuyển được, nên càng đem lòng yêu mến hơn. Rồi nhà vua nói với chị: "Việc hôn nhân không thành được, con người này không thể đem danh lợi và phú quí để mê hoặc".
***
Câu chuyện trên đây là một tấm gương cao đẹp về lòng chung thuỷ, khác hẳn với câu chuyện về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình trong bài Tin Mừng hôm nay.
Gia đình là nền tảng của xã hội, một khi vợ chồng đã đánh mất lòng chung thuỷ thì không những gia đình ấy bị đổ vỡ, mà còn băng hoại đến toàn xã hội. Vì thế, các kinh sư và nhóm Pharisêu dẫn người phụ nữ ngoại tình đến xin Chúa Giêsu xét xử là hợp lý, vì chính luật Môsê cũng truyền phải ném đá hạng người đó. Nhưng đó chỉ là cái bẫy để có bằng chứng tố cáo Người mà thôi.
Nếu Chúa Giêsu bảo đừng ném đá chị ta thì lỗi luật Môsê, nếu Người truyền phải ném đá thì Người đã làm sai lời dạy của mình là "Các con hãy yêu thương nhau". Một cái bẫy vừa tinh vi vừa nham hiểm.
Chúa Giêsu cúi xuống vẽ trên đất. Người đang viết tội của họ ra hay Người đang suy nghĩ tìm câu trả lời, điều đó không ai biết nhưng có một điều chắc chắn là họ đang đắc thắng vì dồn được Người vào chân tường, họ sốt ruột nên gặng hỏi mãi. Người đã trả lời một câu như mũi dao xoáy vào tâm can họ, và mũi dao ấy vẫn tiếp tục xoáy vào lương tâm mỗi người chúng ta khi nghe lại lời đó: "Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi" (Ga 8,7).
Quả thật, không một ai dám can đảm ném hòn đá đầu tiên, và cũng chẳng có hòn đá cuối cùng. Có chăng chỉ là những bàn tay cách đây ít phút nắm chặt những viên đá đầy sát khí chuẩn bị tấn công, giờ đây đang nới lỏng các cơ bắp để các viên đá kia lặng lẽ kín đáo rơi nhẹ nhàng trên đất.
Vâng, không ai dám tự hào mình vô tội. Có biết bao tội bất trung bất nghĩa còn xấu xa chẳng kém tội ngoại tình. Có những tội ngoại tình trong ước muốn, trong tư tưởng. Có những tột ngoại tình lén lút chẳng ai hay.
Dường như ngày nay người ta chỉ nhận mình phạm tội khi bị bắt quả tang, còn những tội phạm trong thầm kín thì kể như không có. Vì thế người ta tìm mọi cách để che đậy, giấu diếm những hành vi tội lỗi để không bị bắt quả tang. Và họ cứ an tâm thanh thản trong cuộc sống. Họ hoàn toàn đánh mất cảm thức về tội lỗi.
Có một điều trớ trêu là khi người ta thấy một ai đó bị bắt quả tang phạm tội, họ không ngại ngùng vung hòn đá ra ném vào người đó. Có lẽ là để gián tiếp minh chứng mình vô tội chăng? Người ta dễ dàng bỏ qua cho mình, nhưng lại không buông tha cho kẻ khác. Tuy nhiên, Đấng duy nhất vô tội lại chẳng lên án tội nhân: "Tôi không lên án chị đâu? Chị hãy về đi, từ nay đừng phạm tội nữa!" (Ga 8,11). Thật là an ủi biết bao cho chúng ta, những con người tội lỗi. Chúa không răn đe, không sửa phạt, chỉ an ủi, khích lệ, tin tưởng và hy vọng nơi chúng ta. Người không giết chết, nhưng cứu sống. Người không dung túng cho tội lỗi, nhưng nâng đỡ kẻ có tội. Người ghét tội nhưng lại thương xót tội nhân.
****
Lạy Chúa, chúng cơn rất sợ bị bắt quả tang đang phạm tội. Nhưng có tội nào chúng con phạm mà Chúa chẳng am tường. Xin cho chúng con biết cởi bỏ những mặt nạ giả dối, để luôn sống chân thật và trong sáng trước mặt Chúa và anh em.
Nếu Chúa đã không lên án chúng con, thì xin Chúa giúp chúng con đừng bao giờ xét đoán anh em của mình. Amen. (Thiên Phúc - )
3. Cái nhìn
"Tôi đứng dưới chân đồi,
Nhìn xa xa lên ngọn đồi, tôi thấy một cái bóng giống như một con vật.
Tiến lên nhìn gần hơn một chút, tôi nhận ra cái bóng ấy là một con người.
Tiến sát hơn nữa để nhìn cho thật kỹ, tôi nhận ra đó là người anh em của tôi."
Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta một bài học quý giá về cách nhìn người và nhìn việc: đứng trước một người vừa mới làm một việc gì đó lầm lỗi, ta đừng nhìn bằng cái nhìn của biệt phái mà hãy bằng cái nhìn của Chúa Giêsu:
a/ Đừng nhìn họ như nhìn một con vật mà hãy nhìn như nhìn một con người, hơn nữa, như người anh em của mình.
b/ Đừng chỉ nhìn những hoàn cảnh bên ngoài, mà hãy nhìn thấu những tình tiết, tâm trạng bên trong của người anh em đó.
c/ Và cũng nhìn đến sứ mạng của mình: sứ mạng đối xử nhân bản với một người anh em, sứ mạng cứu vớt người anh em đó.
4. Chuyện minh họa
Có chuyện kể rằng người ta bắt được một tên trộm cắp đưa đến nhà vua, và nhà vua đã hạ lệnh giết hắn. Tên trộm cắp này rất khôn ngoan, nên nói với đao phủ: "Tôi có một bí mật này rất quý. Nếu tôi chết thì bí mật ấy cũng bị mang theo. Thật là uổng. Cho nên tôi muốn giao nó lại cho nhà vua". Người ta dẫn hắn tới nhà vua. Hắn nói: "Bí mật của tôi là tôi có một hạt giống kỳ diệu, đào lỗ chôn xuống đất thì nội trong một đêm nó sẽ mọc lên thành cây và trổ ra toàn những trái bằng vàng". Nhưng hắn nói thêm: "Nhưng có điều kiện này là chỉ người nào chưa từng lấy gì của người khác thì mới trồng hạt giống đó được". Sau đó hắn thú nhận: "Tôi thì là một thằng ăn cắp nên không thể trồng được rồi. Vậy trong số các quan đây, ai chưa từng lấy gì của người khác hãy trồng nó đi". Các quan lần lượt viện cớ để từ chối, giống y những người biệt phái trong bài Tin Mừng này vậy. Cuối cùng tên trộm cắp nói với nhà vua: "Chắc là Bệ Hạ có thể trồng được". Nhưng nhà vua đáp: "Nói ra thì thật xấu hổ. Hồi còn nhỏ, Ta cũng đã từng lấy của người khác vài lần". Khi đó tên trộm nói: "Bệ hạ và các quan là những người có đầy đủ mọi thứ thế mà còn lấy của người khác mà không bị hình phạt gì cả. Phần tôi thì nghèo túng thiếu thốn mọi điều, thế mà lại bị xử tử vì tội lấy của người khác". Nhà vua đành ra lệnh tha cho hắn.
5. Chuyện minh họa
a/ Lòng thương xót
Một người đàn bà đến với Vua Napoléon để cầu xin cho đứa con trai của bà khỏi bị xử tử. Nhà vua dựa vào Luật pháp và cho biết rằng theo luật thì con trai bà phải chết. Bà nói:
- Muôn tâu Bệ Hạ, tôi đến đây không phải để xin công lý mà xin lòng tho xót. - Nhưng con bà không đáng hưởng lòng thương xót. Vua trả lời.
Nhưng bà lập luận:
- Nếu nó đáng thì đâu phải là lòng thương xót nữa.
Cuối cùng nhà vua phải chấp thuận:
- Được rồi. Ta sẽ tỏ lòng tương xót đối với nó.
Người con trai ấy đã được tha chết.
Lòng thương xót không phải là tiền công trả cho một điều gì xứng đáng, mà là một ơn ban miễn phí.
b/ Mù quáng
Từ xưa tới nay người ta vẫn coi vua Salomon là một người có tài xét xử khôn ngoan. Thế nhưng lại có một chuyện sau đây:
Vì đã xử nhiều vụ án quá nên nhà vua càng ngày càng trở nên vô cảm, vô tình. Nói cách khác, nhà vua càng ngày càng khô khan và khe khắt khi xử án.
Một hôm khi Salomon ngồi lên ngai và sắp sửa xử một vụ án, thì chiếc vương miện trên đầu vua bỗng tuột xuống che cả hai con mắt. Nhà vua lấy tay đẩy nó lên, nhưng chỉ một chút sau là nó lại sụp xuống. Sự việc tái diễn đến 8 lần như thế. Cuối cùng nhà vua bực quá nói với nó: "Tại sao mày cứ sụp xuống che mắt tao mãi như thế?" Chiếc vương miệng trả lời: "Tôi phải làm thế để nhắc cho Ngài biết rằng: khi mà quyền hành đã mất đi sự cảm thông thì người cầm quyền sẽ bị che mắt như thế". Nói cách khác, khi đó người ta sẽ thành mù quáng.
6. Mảnh suy tư
- Người nào càng thánh thiện thì càng ít xét đoán người khác.
- Thiên Chúa không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối để được sống.
- "Chị về đi, và đừng phạm tội nữa": Chúa Giêsu không phủ nhận chị này có tội, nhưng Ngài muốn cho chị này một cơ hội để sám hối và làm lại cuộc đời. Chúa Giêsu không muốn chị này chối tội, bàu chữa tại sao chị phạm tội, hay đổ tội cho người khác, những cách làm này quá dễ nhưng không ích lợi gì. Ngài muốn chị can đảm nhìn nhận sự thật, không tuyệt vọng và khuyến khích chị sửa đổi. Đó mới là ơn giải thoát.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là vị Thẩm phán công minh đầy lòng từ bi nhân hậu. Tin tưởng vào tình thương hải hà của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh luôn nhắc nhở con cái mình hãy hòa giải với Thiên Chúa và với nhau / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong đại gia đình Hội thánh / mau mắn thực hiện lời mời gọi tha thiết này.
2. Trong đời sống thường ngày / có những người lúc nào cũng thích phê bình chỉ trích / thậm chí lên án người khác cho thỏa lòng ganh ghét / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người Kitô hữu hiểu rằng / chỉ một mình Thiên Chúa là vị Thẩm phán công bằng / không bao giờ kỳ thị thiên tư.
3. Thánh Gioan Tông đồ đã quả quyết: / Ai nói rằng mình không có tội / đó là người nói dối / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết ý thức thân phận tội lỗi yếu hèn của mình.
4. Chúa Giêsu nói với người phụ nữ: / Tôi cũng vậy / tôi không lên án chị đâu / Thôi chị cứ về đi / và từ nay đừng phạm tội nữa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết lắng nghe lời Chúa dạy / và thực hiện lệnh Chúa truyền.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con: Anh em đừng xét đoán người khác, vì anh em xét đoán thiên hạ làm sao, thì Thiên Chúa sẽ xét đoán anh em làm vậy. Xin cho chúng con biết cố gắng sống lời Chúa để khỏi bị khiển trách khi ra trình diện trước tòa Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Nếu chúng ta thấy thái độ khắt khe của những người biệt phái trong bài Tin Mừng hôm nay là sai trái, chúng ta hãy sốt sắng khi đọc câu "Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con"
VII. Giải tán
Những lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ ngoại tình trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài cũng muốn nói với mỗi người chúng ta: "Chúng con hãy về, và đừng phạm tội nữa".
Sau khi đã đi được nửa đường với lời mời gọi "Mừng Vui Lên" của Chúa nhật IV Mùa Chay. Nay MC 5-C126
Sau khi đã đi được nửa đường với lời mời gọi "Mừng Vui Lên" của Chúa nhật IV Mùa Chay. Nay bước vào tuần thứ I của giai đoạn II, thời gian mà toàn bộ tượng trong nhà thờ được phủ khăn tím, chuẩn bị cho việc tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, nên việc cải đổi đời sống, ăn chay, cầu nguyện và tập luyện các nhân đức càng khẩn thiết hơn. Vì Trước cuộc cải tổ phụng vụ của Công đồng Vaticanô II, Chúa nhật V Mùa Chay được gọi là Chúa nhật thứ I mùa Thương khó, kéo dài 2 tuần cho đến lễ Phục sinh. Sau Công đồng Vaticanô II, lịch phụng vụ chỉ còn một tuần Thương khó, trùng với Tuần thánh, và Chúa nhật thứ V Mùa Chay là giai đoạn tiếp tục các đề tài huấn giáo theo chu kỳ. Nếu các Chúa nhật Mùa Chay năm A, B trình bày Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống, là Ánh Sáng, là Sự Sống dựa theo Tin mừng thánh Gioan. Thì các Chúa nhật Mùa Chay năm C đề cao tình thương của Thiên Chúa và kêu gọi con người đáp trả.
Đoạn Tin Mừng (Ga, 8, 1-11) với câu kết thật là đẹp "Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa" (Ga 8,11). Qua lời tuyên bố ấy, Chúa Giêsu đã làm nổi bật tình thương yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa không muốn kẻ tội lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống. Tha thứ là bản chất của Thiên Chúa, Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa, là Đấng hay tha thứ. Khi mạc khải cho nhân loại biết Thiên Chúa là Cha, Đấng Giầu Lòng Xót Thương, chậm bất bình vả rất mực thứ tha. Chân lý về Thiên Chúa được cụ thể hóa nơi Chúa Giêsu Kitô "Đấng đầy tình thương xót" (2Cr 1,3), Đấng ghét tội và yêu thương kẻ có tội, không dung túng tội lỗi, nhưng khoan nhân với tội nhân, vì Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn hối cải và được sống (x. Ez 33,11). Đoạn Tin Mừng (Ga 8,1-11) là bằng chứng hùng hồn về tình tha thứ của Thiên Chúa đối với tội nhân. Thánh Gioan kể lại việc người ta đem đến cho Chúa Giêsu một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Các kinh sư và người Pha-ri-sêu để chị ta đứng ở giữa Chúa Giêsu và dân chúng (x. Ga 8, 3), nghĩa là đứng giữa lòng xót thương của Con Thiên Chúa và sự kết án của con người. Chúa Giêsu không kết án chị, nhưng cứu chị khỏi bị ném đá.
Con người thường lên án nhau, nhưng trước mặt Thiên Chúa thì tất cả chúng ta là những kẻ tội lỗi bị án phải chết. bằng chứng khi Chúa Giêsu hỏi: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8,7), chẳng ai dám cầm đá ném mà lần lượt bỏ đi chỉ còn lại người phụ nữ và Ðức Giêsu: sự khốn khổ và lòng thương xót đối diện với nhau. Chúa không nói với người phụ nữ: chị không có tội, nhưng nói: "Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa" (Ga 8,11). Thật vậy, chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể cứu rỗi con người, vì chính Người mang lấy tội lỗi thế nhân và cho con người cơ hội để thay đổi đời sống.
Ðoạn Tin Mừng cho thấy, sự tha thứ của Thiên Chúa không đồng nghĩa với sự dung túng thường tình, tha thứ có kèm theo điều kiện. Không có nghĩa là bỏ qua sự dữ, hay tệ hơn nữa là chối bỏ sự dữ. Thiên Chúa không tha thứ sự dữ, nhưng tha thứ cho người tội lỗi biết ăn năn, và dạy người ta biết phân biệt giữa một bên là hành động xấu đáng bị kết án, và bên kia là con người cụ thể phạm lấy lỗi lầm đó, và là người mà Chúa muốn ban cho cơ may để thay đổi đời sống, làm lại cuộc đời. Trong lúc con người có khuynh hướng đồng nhất hóa người phạm tội với tội lỗi, và như thế là đẩy người có tội vào ngõ cụt, không có lối thoát. Lòng Chúa cao cả hơn lòng chúng ta, Thiên Chúa Cha lại hành động cách khác, Ngài đã sai Con Một mình xuống trần gian, để mở ra cho cả và nhân loại con đường cứu thoát. Chúa Giêsu chính là con đường này: khi chết trên thập giá, Người đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Chúa Giêsu lặp lại với con người ở mọi nơi, mọi thời đại rằng: "Ta cũng thế, Ta không kết tội. Vậy hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa".
Khi nghe những lời trên trong đoạn Tin Mừng hôm nay, làm sao chúng ta không cảm nghiệm được một niềm tín thác trào dâng trong tâm hồn chúng ta? Sao không nhìn thấy nơi đó một "Tin Vui" cho cả và nhân loại ở thời đại chúng ta, những con người đang mong ước khám phá lại ý nghĩa đích thật của lòng nhân từ và sự tha thứ.
Thời đại chúng ta đang cần đến sự tha thứ của Thiên Chúa, một sự tha thứ làm phát sinh niềm hy vọng và phó thác, mà không làm yếu đi cuộc chiến chống lại sự dữ. Cần trao ban và lãnh nhận sự tha thứ. Nhưng chúng ta không trở nên có khả năng tha thứ, nếu trước đó chúng ta không để cho mình được Thiên Chúa thứ tha, vừa nhìn nhận mình là đối tượng của lòng nhân từ của Thiên Chúa. Chúng ta cũng sẽ trở nên kẻ sẵn sàng tha nợ cho người khác, chỉ khi nào chúng ta ý thức về mòn nợ to lớn mà chúng ta đã được tha cho. Chúng ta hãy cố khám phá ra tình thương của Thiên Chúa qua bí tích Hòa Giải, và hãy tỏ ra nghiêm khắc đối với tội lỗi nhưng khoan nhượng đối với con người tội lỗi.
Người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay đại diện cho tất cả chúng ta, những tội nhân. Cách nào đó, chúng ta cũng là những người ngoại tình trước mặt Thiên Chúa, là những kẻ phản bội lòng trung tín của Ngài. Kinh nghiệm của chị cũng tượng trưng cho ý định của Thiên Chúa dành cho tất cả chúng ta: Thiên Chúa không kết án chúng ta nhưng cứu độ chúng ta nhờ Ðức Giêsu. Ðức Giêsu chính là ân sủng, cứu vớt chúng ta khỏi tội lỗi và cái chết. Ngài đã lấy ngón tay viết trên đất, trên cái bụi mà từ đó con người được tạo dựng nên (x. St 2,7). Phán quyết của Thiên Chúa là: 'Ta không muốn con phải chết, nhưng muốn con được sống.' Chúa không cứ tội ta mà trách phạt, cũng chẳng đồng nhất ta với những lỗi lầm trót phạm. Chúa muốn giải thoát chúng ta. Chúa muốn ở với ta và muốn chúng ta cũng ở lại với Ngài. Chúa mong ước chúng ta đừng sử dụng tự do để làm điều xấu nhưng biết làm điều thiện. Và chúng ta có thể làm được điều ấy với ân sủng Chúa ban.
Chúng ta hãy nhìn lên Ðức Trinh Nữ Maria và khẩn cầu Mẹ là Mẹ từ bi để đến nép thân nơi lòng thương xót của Mẹ. Nơi Mẹ, tình thương nhân từ của Thiên Chúa được nhập thể, và tâm hồn vô nhiễm của Mẹ là nơi trú ẩn an toàn cho người tội lỗi. Ðược Mẹ dẫn lối chỉ đường, chúng ta hăng hái tiến bước, và nhớ lại lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ ngoại tình, nay Người nói với mỗi người chúng ta rằng: "Hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa" (Ga 8,11).
Lạy Mẹ Maria, Mẹ là đấng chỉ bảo đàng lành, xin giúp chúng ta biết cậy trong vào lòng tư bi của Chúa, nhờ đó chúng ta sẽ được thứ tha. Amen.
Tin mừng Ga 8: 1-11: Câu chuyện người đàn bà ngoại tình cho thấy Chúa Giêsu biểu lộ niềm cảm thông và lòng thương xót như thế nào đối với người tội lỗi, đồng thời cũng mạc khải sứ mạng của Người: không phải đến để lên án người tội lỗi, nhưng để giao hòa họ với Thiên Chúa và với anh em.
Các tuần trước Phụng vụ Lời Chúa mời gọi hoán cải và giao hòa với Thiên Chúa. Sự hoán cải MC 5-C127
Các tuần trước Phụng vụ Lời Chúa mời gọi hoán cải và giao hòa với Thiên Chúa. Sự hoán cải và giao hòa chỉ có thể được thực hiện tốt đẹp khi chúng ta vui nhận cải cách chính đời sống nội tâm của mình.
"Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một quả tim mới! Đặt vào lòng chúng con thần khí mới của Ngài!" Đó phải là tiếng khẩn cầu của mỗi người. Tiếng khẩn cầu được cụ thể hóa bằng nỗ lực canh tân đời sống nội tâm để con tim có khả năng mở ra thế giới của Thiên Chúa, thế giới của tình yêu.
I. Tìm Hiểu lời Chúa
1. Bài đọc I: Is 43, 16-21 Một Cuộc Xuất Hành Tuyệt Vời Dân Do Thái bị lưu đày ở Babylon. Thật là một bi kịch dài hàng năm trời! Isaia loan báo cuộc lưu đày đau khổ này sẽ chấm dứt, Thiên Chúa không bỏ rơi dân Người: một cuộc xuất hành mới dẫn đưa dân về Giêrusalem, một sự đồng hành kỳ diệu ngạc nhiên hơn nữa.
Tiên tri Isaia khởi đầu bằng việc gợi lại kỷ niệm về những sự can thiệp của Thiên Chúa dành cho dân Người trong thời kỳ vượt qua sa mạc thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập.
Luôn luôn trung thành, Thiên Chúa sẽ dẫn đưa dân của Người khỏi sự cầm giữ của Babylon. Người sẽ làm hơn những gì Người đã làm trong qua khứ.
Bản văn Kinh Thánh này là một bài học về niềm hy vọng. Bị giam hãm trong tội lỗi, chúng ta sống lưu đày xa Thiên Chúa. Lòng thương xót của Thiên Chúa sẽ không bao giờ chê bỏ chúng ta nhưng luôn dẫn đưa chúng ta về quê hương đích thực của mình, nơi đó chính là Nước Trời, Giêrusalem mới.
2. Bài đọc II: Pl 3, 8 –14
Hành Trình Chạy đến Đức Kitô
Trong đoạn thư gửi tín hữu Philipphê này, Thánh Phaolô nói với chúng ta cách ngắn gọn, Ngài đã thực hiện ra sao hành trình thiêng liêng của mình: Kể từ ngày nhận biết Đức Kitô, với Ngài tất cả đã hoàn toàn biến đổi. Biết Đức Kitô là mối lợi lớn lao hơn cả.
Dưới con mắt của Phaolô không có gì có gía trị hơn là việc nhận biết Đức Kitô. Thà chấp nhận thua thiệt tất cả để được Người chiếm hữu, để được Người hướng dẫn và để được trở nên giống Người.
Có một sự đòi hỏi phải thông phần vào cuộc thương khó và sự chết của Đức Kitô để rồi được phục sinh với Người. Thông phần cuộc thương khó là chấp nhận những thua thiệt, coi mọi sự như phân bón. Được Người chiếm hữu thì chắc chắn tương lai sẽ chiếm được phần thưởng từ trời cao trong Người.
Những lời của Thánh Phaolô hàm chứa một niềm hy vọng lớn lao, mở ra một tương lai tốt đẹp cho những ai tin vào Đức Kitô. Cuộc đời là một hành trình tin và chạy đến cùng Đức Kitô. Trên hành trình đó, hãy quên đi chặng đường quá khứ đã qua để chỉ biết nhắm tới đích điểm là Đức Kitô.
3. Tin mừng: Ga 8, 1-11
Người Đàn Bà Ngoại Tình
Câu chuyện người đàn bà ngoại tình cho thấy Chúa Giêsu biểu lộ niềm cảm thông và lòng thương xót như thế nào đối với người tội lỗi, đồng thời cũng mạc khải sứ mạng của Người: không phải đến để lên án người tội lỗi, nhưng để giao hòa họ với Thiên Chúa và với anh em. Người là Đấng Cứu Độ.
Theo luật Môsê, người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình phải bị nén đá đến chết. Chúa Giêsu bênh vực người phụ nữ này.
Trước sự gài bẫy, thái độ khiêu khích của những người Biệt phái và Luật sĩ, Chúa Giêsu bình tĩnh đưa ra phán quyết: ai vô tội thì hãy ném đá người đàn bà tội lỗi trước đi. Không một nguyên cáo nào dám cho mình là vô tội, tất cả lặng lẽ rút lui, bắt đầu là những người lớn tuổi. Không ai có quyền kết án người khác, vì tất cả mọi người đều là tội nhân. Chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền xét xử, mà án xử của Thiên Chúa là lòng khoan dung tha thứ.
"Ta không kết án chị, chị về đi và từ nay đừng phạm tội nữa." Tất nhiên khi tha thứ cho người đàn bà phạm tội bị bắt quả tang, không phải Chúa Giêsu dung thứ cho tội, để mạc cho người ta phạm tội. Chắc chắn Thiên Chúa không thỏa hiệp với tội lỗi, với ma quỉ. Người có sứ mạng đến để tiêu diệt chúng, nhưng lại cứu với người tội lỗi và mở ra cho họ một con đường mới. Con đường này đòi hỏi tội nhân phải từ bỏ con đường tội lỗi, làm lại cuộc đời để sống thánh thiện.
II. Gợi Ý Suy Niệm
1. Canh tân cuộc sống, một biểu hiện lòng thương xót của Thiên Chúa: Chúa Giêsu trước mặt người phụ nữ không hiện diện như một quan tòa, nhưng là một vị Thiên Chúa đầy tình yêu thương. Tình yêu đã đưa Người thoát khỏi các dục vọng bè phái, thúc đẩy Người tha thứ nhưng không cho người phụ nữ. Và với tình yêu ấy cũng chắc chắn sẽ thúc đẩy người phụ nữ hoán cải và canh tân cuọc sống mình. Thiên Chúa không kết án nhưng lại thứ tha và mở ra một vận hội mới để hối nhân có thời cơ, điều kiện làm lại cuộc đời. Như thế, canh tân cuộc sống trước hết đó chính là một cơ hội Thiên Chúa ban cho con người. Ân hụê này Thiên Chúa ban vì Ngài là tình yêu, Ngài không muốn cho bất cứ ai phải diệt vong. Canh tân cuộc sống được hiểu như một biểu hiện của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại để thấy rằng, nỗ lực canh tân không chỉ là chuyện cá nhân mà là mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Việc canh tân không chỉ là việc riêng của mỗi người mà là việc của cả Thiên Chúa lẫn con người. Do đó, sẽ thêm hy vọng, thêm niềm tin để thực thi canh tân. Cuộc sống của tôi dù có tội lỗi đến đâu đi nữa vẫn có Chúa đồng hành cùng tôi để dẫn tôi vượt qua khổ lụy tội đời tiến tới một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Thánh Thần Thiên Chúa chính là tác nhân canh tân của thế giới, của Giáo Hội và của mỗi người. Lời khẩn cầu xin Ngài đến canh tân bộ mặt địa cầu phải là lời tha thiết từ cõi lòng mỗi người tước hết xin Ngài canh tân chính mình. "Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một quả tim mới! Đặt vào lòng chúng con thần khí mới của Ngài!"
2. Canh tân cuộc sống, một khát vọng đổi đời: Trong xã hội chúng ta đang sống hôm nay, con người trải qua biết bao thảm cảnh khổ đau: nghèo đói, thất học, bần cùng đến chiến tranh, tệ nạn xã hội. Con người như bị chôn vùi dưới đáy vực thẳm. Ai ai cũng khao khát vươn lên, ai ai cũng mang một khát vọng đổi đời. Đấy là một ước mơ chính đáng, một khao khát đúng đắn. Thiên Chúa luôn sẵn lòng thoả mãn ước mơ đó của nhân loại. Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy nguyên nhân của thảm cảnh cuộc đời là vì con người tội lỗi và muốn giam hãm nhau trong tội lỗi, trong đau khổ. Những người Biệt Phái và Luật sĩ và cả đám đông dân chúng đều là những người tội lỗi, vậy mà họ lại không biết cảm thông tha thứ cho người phụ nữ. Đau buồn hơn họ còn lợi dụng tình trạng của chị ta để gài bẫy bắt tội Chúa Giêsu. Đối với họ không bao giờ có khát vọng đổi đời và ngay cả khát vọng của người khác họ cũng dập tắt. Họ luôn chìm ngập trong u mê, trong lầm lạc tọi lỗi của mình. Từ kinh nghiệm ấy, cho thấy rằng để có thể canh tân cuộc sống cần phải có khát vọng đổi đời. Khát vọng đổi đời chỉ đến khi biết nhận ra thảm cảnh cuộc đời của mình, của tha nhân.
3. Canh tân cuộc sống, một từ bỏ quá khứ tội lỗi để khởi sự tương lai tươi sáng: Với lời tha thứ: 'chị hãy về và đừng phạm tội nữa', Chúa Giêsu đã mở ra một tương lai mới cho người phụ nữ. Chị vẫn trở về với đời sống thường nhật của mình, nhưng không phải trong tình trạng tội lỗi cũ nữa mà đã sang trang mới, một cuộc sống mới không phạm tội. Như thế, có nghĩa là một đời sống dứt bỏ qua khứ tội lỗi và những hệ luỵ của nó, để rồi từ đây là một đời sống thánh thiện, hoàn lương chu toàn nghĩa vụ của mình đối với gia đình cách tốt đẹp. Canh tân cuộc sống đòi hỏi một điều tất yếu là phải dứt khoát từ bỏ tội lỗi, từ bỏ những đam mê bất chính và xây dựng một cách sống mới phù hợp Tin mừng. Đổi mới cuộc đời, làm lại cuộc đời tất cả chỉ là ngôn từ, là khẩu hiệu môi miệng nếu ngay từ trong tâm khảm không có một nỗ lực quyết tâm từ bỏ quá khứ sai lầm. Canh tân là một hành trình dài xuyên suất cuộc đời chứ không phải là một hành vi nhất thời, một cảm xúc tự phát hay một thái độ vào hùa theo phong trào. Từ bỏ luôn luôn là một mất mát, một chọn lựa mà Kitô hữu phải thực thi cả đời. Măc lấy con người mới trong Đức Kitô sống theo Thần Khí của Người luôn là một nỗ lực không ngừng. Vì con người vốn dĩ là yếu đuối, cuộc đời vốn dĩ luôn có cạn bẫy của ma quỉ.
Với Kitô hữu cuộc sống chúng ta hôm nay như thế nào? Có thực sự khao khát đổi đời? Ước muốn canh tân hay không? Hay chỉ là sự chậm chạp ngại thay đổi thích ở lỳ trong đam mê tội lỗi của mình?
III. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa qua Chúa Giêsu đã yêu thương tha thứ tội lỗi và kêu gọi đồng thời ban ơn để chúng ta sống đời sống mới. Với lòng biết ơn và tin tưởng vào tình yêu của Chúa, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin.
1. Sau Công đồng Vaticanô II, Hội Thánh không ngừng canh tân đời sống của mình. Chúng ta cùng cầu nguyện cho công cuộc canh tân của Hội Thánh ngày càng phát triển hơn trong thời đại chúng ta.
2. Xã hội và con người trong thế giới hôm nay không ngừng phát triển trên mọi lãnh vực. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo quốc gia có được một tinh thần đổi mới triệt để trong cách nhìn và trong hành động để đưa dân nước mỗi ngày một đi lên hơn.
3. Canh tân cuộc sống theo ánh sáng Tin mừng luôn là một đòi hỏi của Kitô hữu. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong chúng ta đây luôn đón nhận được ơn Chúa để hàng luôn đổi mới cuộc sống của mình làm cho bản thân và gia đình cũng như cộng đoàn ngày càng thấm đượm những gia trị Tin mừng và tình yêu Thiên Chúa.
* Kết Nguyện: Lạy Chúa Giêsu Kitô, vì yêu thương Chúa đã đến để cứu độ chúng con khỏi vòng tội lỗi và mở ra cho chúng con cơ hội làm lại cuộc đời. Xin Chúa thương ban ơn Thánh của Chúa xuống trên mọi người để chúng con đủ sức, đủ ý chí mà canh tân cuộc sống theo ý Chúa muốn. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Tin mừng Ga 8: 1-11: Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi những người Biệt Phái đưa người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến trước mặt Chúa Giêsu và hỏi ý kiến Ngài, Chúa Giêsu chỉ nói: “ai trong các ông không có tội, thì cứ lấy đá ném chị này trước đi”....
Các Kinh Sư Do Thái gài bẫy Chúa Giêsu. Các nhà lãnh đạo Do Thái giáo muốn dùng trường hợp MC 5-C128
Các Kinh Sư Do Thái gài bẫy Chúa Giêsu. Các nhà lãnh đạo Do Thái giáo muốn dùng trường hợp người phụ nữ ngoại tình để gài bẫy Chúa Giêsu hầu tìm ra cớ tố cáo Ngài. Nếu Ngài tuyên bố không ném đá người phụ nữ thì Ngài đã không tuân hành luật Môsê vì sách Môsê viết: «nếu một người đàn ông bị bắt gặp đang ăn nằm với một người đàn bà có chồng, thì cả hai phải bị xử tử» (Đnl 22,22; x. Lv 20,10). Nếu Ngài tuyên bố phải ném đá, thì họ sẽ tố cáo với chính quyền Rôma, và Ngài sẽ bị chính quyền Rôma xét xử, vì theo luật Rôma, người dân thuộc địa không có quyền lên án giết ai cả (Ga 18,31). Nhưng cách giải quyết của Chúa Giêsu chẳng những giúp Ngài thoát cái bẫy một cách tài tình, mà còn làm bẽ mặt các nhà lãnh đạo tôn giáo, đồng thời còn cho họ và cho chúng ta một bài học để đời.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, khi những người Biệt Phái đưa người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến trước mặt Chúa Giêsu và hỏi ý kiến Ngài, Chúa Giêsu chỉ nói: “ai trong các ông không có tội, thì cứ lấy đá ném chị này trước đi”.
Sau khi trả lời, Người im lặng, cúi xuống và viết trên đất.
Chúa Giêsu đã viết gì trên đất… Chúa Giêsu chẳng viết gì cả. Xem ra, đây có thể chỉ là cách nói lên rằng Chúa Giêsu chẳng thèm để ý tới sự thách thức của họ. Ngài chuẩn bị cho họ một huấn thị quan trọng. Quả thực bản văn không nói rõ nên người ta chẳng biết Chúa Giêsu đã “viết” gì lên mặt đất, mà có cố đoán cũng chẳng được. Tốt nhất nên tập trung tìm hiểu những dữ kiện mà Lời Chúa đã hé mở, hơn là ngồi đoán mò những điều mà Chúa không mặc khải rõ ràng. Đồng thời cũng có thể hiểu đây là cách Chúa muốn tạo ra một bầu khí thinh lặng. Bởi vì chỉ trong thinh lặng, con người mới có thể trở về với cõi lòng mình. Người ta ồn ào và hung hăng bao nhiêu khi lôi người phụ nữ ngoại tình tới trước mặt Chúa, thì giờ đây trong thinh lặng do Ngài gợi lên người ta lại càng nhận ra chính bản thân tội lỗi của mình bấy nhiêu. Người ta càng mạnh bạo kết án người khác bao nhiêu, thì giờ đây người ta lại càng rụt rè xấu hổ bấy nhiêu.
Có thinh lặng con người mới đi sâu vào cõi lòng mình. Có thinh lặng con người mới nhận ra thân phận tội lỗi bất toàn của mình.
“Ai trong các ông không có tội, thì cứ lấy đá ném chị này trước đi”.
Câu trả lời của Ngài bắt mỗi người phải đối diện với lòng mình. Ai dám tự hào mình vô tội?
Có bao tội ngoại tình thầm kín không bị bắt quả tang. Có bao tội ngoại tình trong tư tưởng và ước muốn. Có bao tội bất trung nặng nề chẳng kém tội ngoại tình.
Các Kinh Sư và Biệt Phái đã thực sự nhìn vào cõi lòng của mình. Họ lần lượt rút lui, gián tiếp nhận mình có tội. Kẻ trước người sau, người lớn tuổi đi trước. Họ ra đi, để lại một mình Chúa Giêsu với người phụ nữ. Chúa Giêsu hỏi người phụ nữ: “này chị, không ai kết án chị sao?” Người phụ nữ đáp: “thưa ngài, không có ai cả.”
Không ai kết án chị, bởi vì mọi người đều có tội như cha McCathy có kể một câu chuyện như sau: ngày xưa, có một người bị bắt vì tội ăn trộm, và nhà vua đã ra lệnh treo cổ. Nhưng trên đường bị giải đến pháp trường, người đó đã nói với viên cai ngục rằng anh ta có một điều bí mật, do người cha truyền lại. Anh tuyên bố rằng khi sử dụng bí quyết này, thì anh có thể trồng một hạt giống của cây lựu, và làm cho nó mọc lên trổ sinh hoa trái chỉ trong một đêm.
Viên cai ngục quá bị ấn tượng, đến nỗi ông ta lưỡng lự việc thi hành án, và giải tù nhân trả lại cho nhà vua. Tại đó, người ăn trộm đào một cái lỗ trong lòng đất, lấy hạt giống cây lựu ra và nói: “thưa bệ hạ, hạt giống này phải được trồng từ bàn tay của một người mà chưa bao giờ lấy cắp bất cứ thứ gì. Vì là một tên trộm, nên tôi không thể trồng nó được”.
Thế rồi anh ta quay sang một viên quan của nhà vua và nói “ngài có thể trồng hạt giống này được chứ”, nhưng vị quan này từ chối ngay, nói rằng “khi còn trẻ, tôi đã giữ một vài thứ không phải là của tôi”.
Sau đó, người ăn trộm quay sang người canh giữ kho tàng của nhà vua và nói “vậy ngài có thể trồng hạt giống này chứ?” Nhưng người canh giữ kho tàng cũng từ chối và nhiều viên quan khác cũng từ chối như thế.
Cuối cùng quay sang nhà vua, người ăn trộm nói “tâu bệ hạ, có lẽ chỉ có bệ hạ mới có thể trồng được hạt giống này”, nhưng nhà vua đáp lại ngay “ta xấu hổ mà phải nói rằng, có một lần trong đời ta đã lấy một chiếc đồng hồ của cha ta”.
Sau đó, người ăn trộm nói “tất cả các ngài đều là những người có địa vị và có quyền thế, tuy nhiên, không một ai trong các ngài có thể trồng được hạt giống này, trong khi tôi ăn cắp, chỉ vì tôi đang chết đói thế mà tôi lại bị kết án treo cổ.”
Đây cũng là điều Chúa Giêsu muốn nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay: không ai vô tội cả nên không có quyền kết án người khác. Chỉ có một người có thể kết án đó là Chúa Giêsu, nhưng Ngài lại nói: "Tôi cũng vậy, Tôi không kết án chị đâu! Chị về đi, từ nay đừng phạm tội nữa."
Chúa Giêsu chẳng những đã cứu một mạng người, Ngài còn làm sống lại một đời người.
Dù con người vốn yếu đuối, dễ sa ngã, nhưng Ngài vẫn tin tưởng, yêu mến và hy vọng vào họ. Ngài không dung túng cái xấu, nhưng Ngài khơi dậy cái tốt còn đang yên ngủ nơi người phụ nữ và cả nơi các Kinh Sư và Biệt Phái. Amen.
Nhà hiền triết Socrates (470–399 TCN) là một triết gia Hy Lạp, có một lời khuyên vàng ngọc, được MC 5-C129
Nhà hiền triết Socrates (470–399 TCN) là một triết gia Hy Lạp, có một lời khuyên vàng ngọc, được xem là châm ngôn tối thượng để giáo dục con người, đó là câu: “Hỡi người, hãy tự biết mình.” Đây là di ngôn quan trọng nhất mà Socrates để lại cho đời.
Không dễ biết mình
Tự biết mình là điều hết sức quan trọng, nhưng đây cũng là điều không dễ, bởi vì con người có đôi mắt nhìn ra mà không có mắt nhìn vào. Người ta thường nhìn ra ngoại giới nhưng rất ít khi hướng vào nội giới, vào nội tâm mình. Một nốt ruồi nhỏ trên khuôn mặt người khác, ta thấy rõ ràng; còn vết sẹo lớn trên trán mình, ta không nhìn thấy được. Lỗi lầm nho nhỏ của người khác, ta thấy tỏ tường; còn những lầm lỗi tệ hại của mình thì lại không hay biết. Thế rồi, chúng ta dành nhiều thì giờ để phê phán, để lên án người khác mà chẳng mấy khi phê phán bản thân.
Các kinh sư và người Pha-ri-sêu trong bài Tin mừng hôm nay cũng thế. Họ nhìn thấy rõ ràng tội lỗi của người phụ nữ ngoại tình, nhưng không nhìn thấy tội lỗi của họ. Họ bận tâm đến việc kết án người khác, nhưng không quan tâm đến việc sửa chữa lầm lỗi của bản thân.
Chúa Giê-su giúp ta tự biết mình
Chính vì thế, Chúa Giê-su muốn dạy cho họ một bài học tâm linh cần thiết là hãy trở về với nội tâm để nhận ra tội lỗi của mình trước, hãy trách mình trước rồi trách người khác sau như cổ nhân thường nói: "Tiên trách kỷ hậu trách nhân."
Bấy giờ, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình đến với Chúa Giê-su. Họ hối thúc Chúa Giê-su đưa ra ngay một phán quyết định đoạt số phận của người đàn bà tội lỗi. Về phần mình, Chúa Giê-su muốn dẫn dắt những người tưởng mình vô tội trở về với nội tâm để nhận ra tội lỗi mình mà hoán cải trước đã.
Thế nên, đứng trước những con người đang lăm le kết án người phụ nữ và mưu toan ám hại mình, Chúa Giê-su im lặng. Ngài thinh lặng và tạo nên bầu khí tĩnh lặng để tạo cơ hội cho mọi người tự vấn lương tâm. Ngài muốn kéo dài sự thinh lặng bằng cách ngồi xuống viết trên đất.
Khi người ta cứ hỏi mãi, phá tan sự im lặng cần thiết cho sự rà soát tâm hồn, Chúa Giê-su lên tiếng kêu mời họ hãy xét lại mình: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!"
Rồi Ngài lại ngồi xuống thinh lặng, tiếp tục viết, viết trên đất để tạo bầu khí yên tĩnh cho mọi người hồi tâm.
Sau một hồi nhìn lại nội tâm mình trong yên lặng, những con người hăm hở kết tội người phụ nữ giờ đây dần dần nhận ra tội lỗi của họ, có khi còn nhiều hơn, còn nghiêm trọng hơn cả tội lỗi của người phụ nữ. Thế là những viên đá trên tay họ lộp bộp rơi xuống. Ai nấy xấu hổ lặng lẽ rút lui, để lại một mình Chúa Giê-su và người thiếu phụ. Hoá ra rốt cuộc, ai cũng nhận ra mình là người có tội, mà đã là người có tội thì sao không kết án mình trước? Sao lại đang tâm lên án người khác, có khi còn ít tội hơn mình!
Tự biết mình là điều rất cần thiết
Trở về với nội tâm để thấy được tội lỗi của mình là điều kiện tiên quyết để cải thiện bản thân.
Nếu tôi biết được mình hôi hám, tôi sẽ đi tắm ngay. Còn nếu tôi không nhận ra mùi hôi của cơ thể mình, thì mãi mãi tôi vẫn là người hôi hám.
Nếu tôi biết khuôn mặt mình dơ bẩn, tôi sẽ lau rửa tức khắc; bao lâu chưa thấy những vết dơ trên mặt, thì không hy vọng có khuôn mặt sạch sẽ hơn.
Nếu tôi thấy được sự xấu xa của nội tâm, sự bê bối của đời sống mình, tôi sẽ cải thiện ngay không trì hoãn.
Sự chuyển hóa bản thân, cải thiện cuộc sống chỉ thực sự bắt đầu lúc ta tự nhận biết tội lỗi mình. Nếu không thấy được lầm lỗi và những sai sót của mình, chúng ta sẽ không bao giờ cải thiện đời sống được.
Lạy Chúa Giê-su,
Trở về với nội tâm để rà soát chính mình, để thấy được tội mình là điều rất khó thực hiện và cũng chẳng được mấy người quan tâm. Xin Chúa thương giúp đỡ chúng con thực hiện công việc hệ trọng nầy.
Xin cho Lời Chúa trở nên tấm gương soi tâm hồn, giúp chúng con nhận ra những nết xấu làm vấy bẩn lòng trí, làm suy thoái nhân cách và giúp chúng con cải thiện kịp thời để trở nên người có phẩm chất cao đẹp đáng được Chúa và mọi người yêu mến.
Trong bộ phim của Liên Xô trước đây được mang tựa đề khá thi vị “Sân ga chỉ có hai người,” kể MC 5-C130
Trong bộ phim của Liên Xô trước đây được mang tựa đề khá thi vị “Sân ga chỉ có hai người,” kể về chuyện trễ tàu của một ông kia và một bà nọ, xa lạ, nhưng rồi vì sân ga chỉ còn hai người, nên đi dần đến thân nhau.
Hôm nay bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe cũng có thể đặt cho cái tựa đề như thế. Sân ga chỉ có hai người – hay “Phiên toà chỉ còn lại hai”
Người có công nghĩ ra tựa đề này là thánh Augustino. Và chính thánh nhân đã chơi chữ thật kỳ diệu: Chỉ còn lại hai: Miseria và Misericordia. Dịch là “sự khốn cùng” và “lòng xót thương.” Miseria, thêm cor, cordis là trái tim, ở giữa, sẽ có misericordia. Dịch thoát ý là, chỉ còn lại hai: “người đáng thương” và “Chúa xót thương.”
Do đâu mà đưa đến phiên toà rốt cuộc chỉ còn 2 người. Và 2 người đó là ai? Ta sẽ tìm hiểu.
Do đâu mà chỉ còn hai. Ta rảo qua phiên toà.
Đức Giêsu đang giảng giữa đám đông, thì các thầy Thông giáo và Biệt phái dẫn một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, đem đến gài bẫy Chúa. Hẳn là người phụ nữ này phải run bắn lên vì vừa xấu hổ vừa sợ chết. Mà không phải sợ chết nữa mà là sẽ chết thật, vì chiếu luật Mosê Đnl 22,22 và Levi 20,10: Sẽ phải bị ném đá cho chết cả gian phu lẫn dâm phụ. Không cần xét xử gì.
Đây là cơ hội bằng vàng để gài bẫy Chúa. Và đây cũng là câu hỏi sinh tử mà Chúa gặp phải trong cuộc đời rao giảng.
Nếu không cho ném đá: Đức Giêsu sẽ bị cáo là lỗi lề luật, vi phạm luật pháp.
Nếu cứ cho ném đá: lòng nhân từ của Thiên Chúa mà Ngài rao giảng sẽ vô nghĩa. Lòng nhân ở trên mây! Ở đây ta thấy, họ vừa khiêu khích Chúa lỗi luật Môsê, vừa gián tiếp công nhận giáo lý về lòng nhân từ mà Chúa rao giảng, chứ nếu không công nhận, thì họ chẳng thử thách Chúa làm gì: Còn Thầy, Thầy dạy sao?
Chúa đã trả lời bằng một hành động và bằng một lời nói. Bằng hành động là lấy tay viết viết, vạch vạch trên đất hai lần.
Chúa viết gì? Ta không cần biết, mặc dầu đã có nhiều người đoán già đoán non Chúa viết điều này điều nọ (như thánh Jêrôme nghĩ: viết tội những người tố cáo…), nhưng cái chính là Chúa tránh trả lời, Chúa từ chối xét đoán – nghĩa Sêmít: xét đoán là lên án.
Cho đến khi họ cứ hỏi đi hỏi lại thầy nghĩ sao, thầy dạy thế nào về trường hợp này, Đức Giêsu đã trả lời một câu. Một câu mà ai cũng cảm phục là cực kỳ khôn ngoan. Vừa theo luật (công bình) vừa nhân từ (tha thứ). Luật Đnl 13,9-10; 17,7 dạy: Chính chứng nhân sẽ tra tay trước. Toàn dân sẽ ra tay sau. Vậy nếu không ai tra tay trước, không ai ném viên đá đầu tiên thì cũng sẽ chẳng có những hòn đá khác ném đi…
Vậy thì Chúa Giêsu đã dựa vào Luật Môse, chứ không lỗi luật, để trả lời họ. Ai xét mình là kẻ vô tội, thì hãy ném viên đá đầu tiên. Lời này vừa thốt ra –cũng khen là lương tâm của đám đông vẫn còn trong sáng, chưa chai lì– nên ai cũng tự xét mình và rút lui. Cảnh rút lui là một cảnh cười ra nước mắt: bởi bắt đầu là những kẻ cao niên –càng thêm tuổi càng thêm tội. Phải chăng vì kẻ cao niên thay vì càng dày tháng năm càng tăng công đức, thì ngược lại; hay là phải chăng vì kẻ cao niên thì khôn ngoan biết là không bắt bẻ được Chúa, nên lẩn đi cho sớm kẻo lại được dự một buổi lên lớp mất mặt nữa dành cho những ai tự coi mình là đạo đức, có trách nhiệm bắt người khác giữ luật: Khốn cho các ngươi, hỡi luật sĩ và biệt phái! (x. Lc 11,27-54)
Chỉ còn lại hai.
Dầu lý do nào đi nữa, thì rồi rốt cuộc sân sa chỉ còn hai người. Phiên toà chỉ còn lại hai: Kẻ đáng thương và Đấng xót thương. Miseria và Misericordia.
Thánh Augustino cũng mạnh dạn nói: Đó là tóm tắt toàn bộ Tin Mừng. Đấng xót thương đứng trước kẻ đáng thương. Lòng nhân hậu đối diện với điều khốn cùng. Ta đến để cứu người tội lỗi. Đó là tóm tắt sứ mạng của Chúa, là tóm tắt toàn bộ Phúc Âm.
Câu hỏi của Chúa giúp người phụ nữ có thể nói được ít là một câu, vì từ đầu đến giờ chị đã cúi gầm mặt, xấu hổ, lặng thinh.
Chúa không hỏi: Sao chị lại phạm tội? Sao chị dại dột thế? hay, Chị phạm tội trong hoàn cảnh nào? Nếu hỏi như vậy, chắc chị cũng lặng thinh. Và cũng không có đối đáp. Sân ga hai người mà vẫn độc thoại. Nên Chúa hỏi: Này chị, họ ở đâu cả rồi, không ai lên án chị sao?
Chị trả lời được ngay: không ai cả, thưa ông.
Không ai cả, vì không ai vô tội cả, cho nên chẳng ai dám ném viên đá đầu tiên.
Đây là một đoạn Tin Mừng nhiều người rất thích. Thích vì nó rất phù hợp trong việc ngăn cản kết án người khác. Nó làm cho tôi nguôi giận ngay mỗi khi có ai đó làm tôi bực mình muốn lên tiếng chửi bới. Gặp những trường hợp đáng bực bội đó mà kịp nghĩ đến lời Đức Giê-su: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi’, thì tôi lại cười xòa, và mọi cơn giận hay khuynh hướng muốn kết án bị giập tắt ngay. Tại sao? Vì chính tôi cảm thấy rằng mình cũng đã từng làm cho một ai đó bực mình, bị thiệt hại, buồn phiền, đã từng làm những điều hết sức ngu xuẩn...
Chẳng hạn, ngoài công lộ, một ai đó chạy xe ẩu làm tôi suýt bị té, khiến tôi bực bội đến nỗi buột miệng chửi toáng lên. Nhưng khi tôi chợt nghĩ rằng trước đây mình cũng đã từng làm cho một vài người suýt bị té y như vậy, thì tôi tan hết sự bực mình ngay. Nhiều khi con cái tôi làm tôi tức lộn ruột lên, khiến tôi muốn phạt chúng một trận nên thân, nhưng khi chợt nhận ra rằng tôi cũng đã từng làm cho cha mẹ tôi tức lộn ruột y như vậy, thì tự nhiên cơn giận tôi biến mất ngay.
Trong phiên toà thông thường, trước khi tuyên án, quan toà cho đòi nhân chứng, cho đòi nguyên cáo. Nếu nhân chứng không có mà nguyên cáo thì lại bỏ cuộc, hoặc bãi nại thì phiên toà dừng lại. Cũng có lúc bên nguyên bãi nại mà toà vẫn xử thì công tố viên đứng ra đóng vai nguyên cáo. Vai trò này trong sách Khải Huyền dành cho Satan: “Vì Satan kẻ tố cáo anh em của Ta, ngay đêm tố cáo họ trước toà Thiên Chúa, nhờ máu của Con Chiên nay đã bị tống ra ngoài” (Kh 12,10). Vậy là cũng chỉ còn lại có hai. Người có tội và Đấng tha tội. Kẻ đáng thương và Đấng xót thương. Kẻ khốn khó bần cùng và lòng nhân hậu vô cùng. Khi nhìn nhận mình là kẻ có tội, tức người khốn khó đáng thương, ta sẽ gặp ngay Đấng xót thương, Đấng tha tội.
Có hai tội nhân vào sa mạc ăn chay đền tội trước khi được xét xem có đáng nhận vào tu viện hay không? Sau một năm thử thách, có khác biệt ở hai người: một kẻ ốm o buồn phiền, một người vui tươi khoẻ mạnh. Họ được dẫn tới bề trên để chờ sự phán quyết xem có được nhận vào tu không. Trả lời câu hỏi “làm gì trong năm qua,” người ốm o nói: Suốt năm tôi suy nghĩ về tội của tôi, tôi nghĩ tới hình phạt, tôi sợ hãi đến quên ăn mất ngủ.
Còn người vui tươi đáp: Suốt năm qua, tôi nghĩ đến ơn lành Chúa ban, tôi nghĩ tới lòng nhân hậu tha thứ của Chúa. Tôi ca tụng Ngài –lòng sám hối biến thành lời tụng ca. Anh được nhận vào tu viện.
Nhưng … người ốm o cũng được nhận vào cộng đoàn.
Đấng xót thương luôn thương xót kẻ đáng thương. Sân ga chỉ còn 2 người. Ai nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi đáng thương (miseria) liền gặp ngay lập tức Đấng nhân hậu xót thương (Misericordia). Dại gì mà không nhận đi! Phiên toà chỉ còn lại hai thôi.
Tin mừng Ga 8: 1-11: Có thinh lặng chứ không phải sự ồn ào kết án của đám đông, người nữ mới có thể hồi tâm mà hoán cải tội lỗi. Có thinh lặng mới khiến từng người trong đám đông nhận ra thân phận tội lỗi bất toàn của mình.
Suy niệm:
Theo luật pháp Do Thái, người ta sẽ phải bị xử tử khi phạm vào ba tội này: thờ ngẫu tượng, sát MC 5-C131
Theo luật pháp Do Thái, người ta sẽ phải bị xử tử khi phạm vào ba tội này: thờ ngẫu tượng, sát nhân và ngoại tình. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, các Luật sĩ và Biệt phái dẫn đến trước mặt Chúa Giêsu một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Đã bắt quả tang thì phải có hai người nam nữ phạm tội. Thế nhưng, việc trọng nam khinh nữ trong xã hội lúc bấy giờ đã khiến người nữ này như một một phương tiện họ dùng để gày bẫy kết án Chúa Giêsu.
Giờ đây, Chúa Giêsu phải đối đầu với một vấn đề nan giải: nếu Người kết tội người phụ nữ này phải bị ném đá cho đến chết theo luật thì rõ ràng là những lời dạy trước nay của người sẽ bị sụp đổ: nào là đến cứu chữa kẻ tội lỗi, đồng bàn với người thu thuế và người tội lỗi để nâng đỡ họ dậy không phải là cử chỉ yêu thương và nhân từ mà chỉ là đánh bóng thương hiệu. Và việc tuyên bố tội đó đáng bị xử tử, Chúa Giêsu sẽ đối diện với việc vi phạm luật pháp La mã, vì người Do Thái không có quyền kết tội tử hình hay xử tử bất cứ một ai. Còn ngược lại, nếu Chúa Giêsu bảo tha cho người phụ nữ ấy thì Người sẽ bị tố cáo là dạy cho người ta phá bỏ luật pháp Môisen, dung túng trước tội ngoại tình. Biệt phái và Luật sĩ Do Thái dùng cái bẫy hết sức tinh vi và bằng mọi thủ đoạn để kết tội Chúa Giêsu, để có trả lời đàng nào đi nữa, Người cũng sẽ bị dân chúng chống đối và kết tội. Như vậy, sau việc xử án họ dành cho người phụ nữ là việc họ đang toan tính một cuộc xử án dành cho Chúa Giêsu, mà đã có bản án sẵn đó là tử hình Người bằng hình thức đóng đinh.
Nhưng Chúa Giêsu đáp lại bằng một phản ứng rất gây ngạc nhiên. Người cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Sau đó tuyên bố: “Ai trong các ông sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”. Sự thinh lặng của Chúa Giêsu là một sự tế nhị của một Đấng Phán Xét dành cho tội nhân. Từ bao thế kỷ qua, các nhà chú giải Kinh Thánh đã nhọc công nghiên cứu mà vẫn không tìm ra nội dung Chúa Giêsu viết gì trên đất. Đối với thánh Gioan, việc ghi lại biến cố này, điều quan trọng không phải là nội dung Chúa Giêsu đã viết ra mà chính là sự thinh lặng của Người. “Cử chỉ không lời” của Chúa Giêsu lại là một sứ điệp muốn nói với các biệt phái và đám đông đến nghe Ngài giảng dạy và cả với người phụ nữ. Chỉ trong thinh lặng, con người ta được mời gọi trở về với cõi lòng mới có thể nghe được tiếng Chúa trong lương tâm mình.
Có thinh lặng chứ không phải sự ồn ào kết án của đám đông, người nữ mới có thể hồi tâm mà hoán cải tội lỗi. Có thinh lặng mới khiến từng người trong đám đông nhận ra thân phận tội lỗi bất toàn của mình. Đoạn Tin mừng dùng những từ rất hay: “Họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất”. Họ rụt rè xấu hổ, và nhận ra mình cũng đáng tội như ai nên mới có thể bao dung cho người khác và âm thầm rút lui.
Chúa Giêsu không nỡ lột mặt nạ tội lỗi của từng người ở chỗ công khai, thì Chúa cũng muốn họ đừng làm như thế đối với người anh chị em mình. Chúa không đưa con người ta ra xét xử dưới ánh sáng của Luật nhưng đưa người ta về lại với lương tâm. Chỉ khi đối diện với lương tâm, đối diện với lòng mình, thì mình mới có thể thay đổi được. Vì “người ta có thể lừa dối cả thế giới nhưng không thể lừa dối được chính mình”. Có những người phạm tội hình sự, trốn chui trốn nhủi, thay tên đổi họ. Nhưng mười hay hai mươi năm sau, họ cũng bước ra đầu thú vì tiếng nói lương tâm cắn rứt. Vâng, dưới mắt Thiên Chúa, tất cả mọi người đều là tội nhân, và cần phải được tha thứ. Như có lần Chúa bảo: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha.” (Lc 6,36-38).
Khi Chúa Giêsu ngẩng đầu lên “lần thứ hai thì chỉ còn mình Người đối diện với người phụ nữ”. Thánh Augustinô chú giải: “Chỉ còn hai. Lòng thương xót và người được xót thương”. Chúa Giêsu phục hồi nhân phẩm cho người phụ nữ: “Này chị”, một lời nói nhẹ nhàng, thay vì giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi như các kinh sư và những người Pharisêu đã làm, Người thúc đẩy chị bước vào con đường hối cải, và mở cho chị một tương lai: “Không ai kết án chị sao? Tôi cũng vậy. Hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa”. Quan tòa xét xử hữu hiệu không phải là để lưu đày hay loại trừ kẻ phạm tội ra khỏi xã hội lành mạnh, nhưng để khiến tội nhân trở thành người tốt. Giống như lương y không chê sự bẩn thỉu hay nhiễm trùng của bệnh nhân, nhưng là cứu giúp người bệnh bằng mọi giá.
Sách tiên tri Isaia mời gọi: “Hãy rửa cho sạch, tẩy cho hết, và vứt bỏ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta. Đừng làm điều ác nữa. Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông”. (Is 1,16-18) Vậy trong Mùa Chay Thánh này, chúng ta hãy chạy với tòa Giải tội, thú nhận sai lỗi của mình trước mặt Chúa và quyết tâm sửa đổi. Lòng thương xót của Chúa sẽ phủ lấp muôn vàn tội lỗi của chúng ta và mời gọi ta đứng lên làm lại cuộc đời mới trong tình thương của Chúa để được hưởng hạnh phúc muôn đời. Amen.
Nhìn vào bản thân, để nhận ra mình tốt hay xấu. Tốt đến mức nào, và xấu ra làm sao? Can đảm MC 5-C132
Nhìn vào bản thân, để nhận ra mình tốt hay xấu. Tốt đến mức nào, và xấu ra làm sao? Can đảm tự nhận ra mình, nhận ra nội tâm của mình, đó chính là sự can đảm của nghị lực, của ý chí mà Thiên Chúa ban cho ta.
Hãy nhớ rằng, dù ta có trở về, có ý chí, có nghị lực hoán cải đời sống mình, thì tất cả những điều đó đều do ơn Chúa ban. Ta là người cộng tác với ơn Chúa bằng chính nghị lực của bản thân khi quyết tâm trở về cùng Chúa.
Hôm nay, chúng ta hãy dựa vào lời Chúa Giêsu nói với những người lên án chị phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình: “Trong các ngươi, ai sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”, để thấy trách nhiệm của từng người chúng ta là: Hãy can đảm nhìn vào chính bản thân mình, chứ đừng lên án người khác.
Tin Mừng kể, người ta mang đến trước Chúa một phụ nữ ngoại tình. Chiếu theo luật, họ cứ việc ném đá, không cần Chúa làm trọnh tài. Nhưng thật nham hiểm! Họ lại dẫn chị đến với Chúa không phải vì tôn trọng, kính nể, hay biết Chúa là Chúa nên nhường quyền xét xử cho Chúa, mà chỉ vì muốn thử Chúa, muốn gài bẫy Chúa, muốn xem Chúa xử lý ra sao để bắt bí Chúa. Độc ác hơn, họ muốn tìm chứng cớ, để nhân cơ hội này, hãm hại Chúa. Vì nếu Chúa tuyên bố tha thứ cho chị, Chúa sẽ bị kết tội là vi phạm lề luật, đi ngược lại, thậm chí chống lại lề luật tôn giáo. Nhưng nếu chiếu theo luật mà xét xử, Chúa sẽ phải ra lệnh ném đá chị. Như thế, Chúa chẳng hơn gì lề luật, xem ra Người cũng độc ác như những gì luật đã quy định. Cả hai trường hợp, Chúa đều rơi vào bẫy của họ.
Nhưng sự khôn ngoan của Thiên Chúa không chỉ đánh gục cái mà con người gọi là khôn ngoan của mình, mà còn đánh gục cả lòng kiêu ngạo, chất chứa toàn hận thù, ganh ghét và độc ác của con người.
“Ai sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi”. Có ai sạch tội đâu, nên có ai dám cầm cục đá nào mà ném vào chị đâu, dù là một cục đá nhỏ nhất. Không những không dám ném mà còn bẻ mặt. Nói theo kiểu bình dân mà các bạn trẻ bây giờ hay nói: “quê độ”. Bẻ mặt, “quê độ” đến mức phải rút lui từng người một, bắt đầu từ những người, không phải trẻ, nhưng là những cụ ông, cụ bà, những người già nhất, có bề dày của thời gian phạm tội, rồi mới đến trẻ dần. Sau cùng chẳng còn ai, dù trẻ hay già. Rõ ràng, chỉ một lời nói nhẹ nhàng, Chúa Giêsu đánh gục lòng kiêu ngạo của con người.
Chính lòng đầy kiêu ngạo, những người Dothái xúm nhau kết án chị phụ nữ kia. Bởi kiêu ngạo, họ cũng chẳng thấy mình, chẳng biết nhìn vào bản thân, vì thế chẳng bao giờ nhận ra con người thật của họ. Ai biết được trong đám người hùa nhau đòi kết án chị, có bao nhiêu kẻ phạm cái tội giống như chị, có khi còn nặng hơn, nhưng khéo che đậy, không ai phát hiện, vì thế, vẫn tỉnh bơ, lên án chị, làm như mình vô tội lắm.
Còn chúng ta, anh chị em và tôi thì sao? chắc cũng không khác gì những người Dothái khi xưa. Nhiều lần mình đã xét đoán, đã lên án anh chị em xung quanh, trong khi bản thân chẳng tốt lành gì. Lắm lúc còn lỗi nặng hơn anh chị em xung quanh.
Hãy nhìn vào chính bản thân mình trước, đừng kết án anh chị em của mình. Nhìn vào chính mình để mà ăn năn hối cải, để khám phá những lỗi lầm mà chừa bỏ và trở về với Chúa.
Nhìn nhận mình tội lỗi, thấp hèn để cải hóa chính cuộc đời mình, là can đảm, là nghị lực, là ý chí của những người thành tâm trở về với Chúa. Chúng ta hãy luôn luôn đinh ninh trong lòng điều này: Hãy xé lòng, đừng xé áo. Hãy xét mình, đừng nhìn anh em!
Chúa nhật tuần sau sẽ là lễ Lá, bắt đầu tuần Thánh. Tin rằng, suốt mùa Chay, chúng ta đã cùng nhau ăn năn tội lỗi, thì tuần Thánh sẽ là cơ hội để chúng ta chấp nhận đi vào mầu nhiệm thánh giá của Chúa cách sốt sắng hơn, thấm thía hơn. Nhận ra Chúa chết cho mình, ta càng phải khẳng định rằng, tội lỗi là kẻ thù số một của cuộc đời mà ta phải cố sức từng giây phút để tránh né, để chiến đấu chống trả, để chữa trị và để không bao giờ tái phạm.
Có một câu chuyện kể về Vua Salômôn. Từ trong Kinh Thánh, chúng ta được biết rằng ông là MC 5-C133
Có một câu chuyện kể về Vua Salômôn. Từ trong Kinh Thánh, chúng ta được biết rằng ông là một thẩm phán khôn ngoan. Hết năm này sang năm kia, ông ngồi ở vị trí phán xét dân chúng. Nhưng dường như năm tháng trôi qua, dần dần ông trở nên khắc nghiệt và vô cảm. Thật vậy, ông đã trở thành một con người cực kỳ nhẫn tâm và lạnh lùng đối với thần dân. Một ngày nọ, trong khi ông đang ngồi trên ngai, trước khi bắt đầu một phiên toà xử án, thì chiếc vương miện mà ông đang đội tụt xuống tới mắt của ông. Ngay tức khắc, ông kéo nó lên, thì đồng thời nó lại tụt xuống nữa. Điều này diễn ra đến 8 lần. Cuối cùng, ông nói với chiếc vương miện “Tại sao nhà ngươi cứ rơi xuống tới mắt của ta như vậy?”. Chiếc vương miện đáp lại “Tôi phải rơi xuống thôi. Chừng nào mà quyền lực mất đi sự thương xót, thì tôi vẫn còn phải cho ngài thấy được tình trạng đó ra sao?”. Nói cách khác, đó là sự mù quáng. Vua Salômôn thấu hiểu ngay được sự thật. Và bằng lòng tin, ông liền quỳ gối cầu xin Thiên Chúa tha thứ. Ngay tức khắc, chiếc vương miện tự ở yên trên đỉnh đầu của ông.
Khi có điều gì bất ổn, trước hết, bạn hãy nhìn vào thái độ cư xử của chính mình, để xem xét có thể nguyên nhân nằm ở nơi bản thân bạn. Ngay cả sự khôn ngoan của Vua Salômôn vẫn có thể biến thành sự mù quáng.
Tin mừng Ga 8: 1-11: Thái độ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng so với thái độ của các vị luật sĩ và biệt phái cho thấy tấm lòng của Thiên Chúa mênh mông, bao la hơn tâm hồn con người thế nào, như đại dương với các ao tù nước đọng...
Ta bắt gặp Chúa Giêsu là hiện thân của Lòng Thương Xót. Khi mạc khải cho nhân loại biết Thiên MC 5-C134
Ta bắt gặp Chúa Giêsu là hiện thân của Lòng Thương Xót. Khi mạc khải cho nhân loại biết Thiên Chúa là Cha, Đấng Giầu Lòng Xót Thương, dẫn chứng của Gioan đầy sức thuyết phục "Con Một, Ðấng ở nơi cung lòng Cha, chính Ngài đã thông tri" (Ga 1,18). Chân lý về Thiên Chúa được cụ thể hóa nơi Chúa Giêsu Kitô "Cha đầy tình thương xót" (2Cr 1,3), Đấng ghét tội và yêu thương kẻ có tội, không dung túng tội lỗi, nhưng khoan nhân với tội nhân, vì Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn hối cải và được sống (x. Ez 33,11).
Và rồi ta thấy trang Tin Mừng (Ga 8, 1-11) là bằng chứng hùng hồn về lòng xót thương của Thiên Chúa đối với tội nhân. Thánh Gioan kể lại việc người ta đem đến cho Chúa Giêsu một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Chúa Giêsu không kết án chị, nhưng cứu chị khỏi bị ném đá. Chúa không nói với người phụ nữ: chị không có tội.
Thật vậy, chỉ một mình Chúa Giêsu mới có thể cứu rỗi con người, vì chính Người mang lấy tội lỗi thế nhân và cho con người cơ hội để thay đổi đời sống. Người thiếu phụ đứng đó, bẻn lẻn, nhưng trong lòng tràn ngập trông cậy. Chúa Giêsu nhìn bà và phán: “Ta không kết tội con”. Thật là một lời đầy an ủi. Chúng ta hay kết tội kẻ khác và nhiều khi thật nặng nề và vô lý. Nhưng chúng ta là ai mà dám kết tội kẻ khác? Chỉ có Chúa Giêsu là Đấng vô tội. Ngài không kết tội. Ngài tha thứ và nâng đỡ người sa ngã bằng một câu đầy nhân hậu: “Con hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa”.
Đối với thái độ đầy sát khí của đám đông nhất là của các luật sĩ và biệt phái, Chúa Giêsu đáp lại bằng thái độ của thinh lặng, cảm thông và tha thứ. Đám đông các luật sĩ và biệt phái nhân danh luật pháp để xử lý người đàn bà bị bắt quả tang phạm tôi ngoại tình, còn Chúa Giêsu lại kêu gọi tình thương. Đám đông các luật sĩ và biệt phái đặt mình vào ghế thẩm phán để xét xử người đàn bà ngoại tình, Chúa Giêsu lại đặt chính họ vào hàng bị cáo. Đám đông các luật sĩ và biệt phái xây dựng quan hệ giữa người với người trên luật pháp, còn Chúa Giêsu thì nói với họ rằng, tương quan với tha nhân sẽ được xây dựng trên sự cảm thông, lòng tha thứ, tình yêu thương. Và để có thể xây dựng được mối quan hệ yêu thương ấy, thì trước tiên con người phải cảm nhận được chính tình yêu của Thiên Chúa.
Đấng duy nhất vô tội lại chẳng lên án tội nhân: “Tôi không lên án chị đâu? Chị hãy về đi, từ nay đừng phạm tội nữa!”. Thật là an ủi biết bao cho chúng ta, những con người tội lỗi. Chúa không răn đe, không sửa phạt, chỉ an ủi, khích lệ, tin tưởng và hy vọng nơi chúng ta. Người không giết chết, nhưng cứu sống. Người không dung túng cho tội lỗi, nhưng nâng đỡ kẻ có tội. Người ghét tội nhưng lại thương xót tội nhân.
Chúa Giêsu cúi xuống vẽ trên đất. Người đang viết tội của họ ra hay Người đang suy nghĩ tìm câu trả lời, điều đó không ai biết nhưng có một điều chắc chắn là họ đang đắc thắng vì dồn ngược Người vào chân tường, họ sốt ruột nên gặng hỏi mãi. Người đã trả lời một câu như mũi dao xoáy vào tâm can họ, và mũi dao ấy vẫn tiếp tục xoáy vào lương tâm mỗi người chúng ta khi nghe lại lời đó: “Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá trước đi”.
Quả thật, không một ai dám can đảm ném hòn đá đầu tiên, và cũng chẳng có hòn đá cuối cùng. Có chăng chỉ là những bàn tay cách đây ít phút nắm chặt những viên đá đầy sát khí chuẩn bị tấn công, giờ đây đang nới lỏng các cơ bắp để các viên đá kia lặng lẽ kín đáo rơi nhẹ nhàng trên đất.
Và ta thấy rằng không ai dám tự hào mình vô tội. Có biết bao tội bất trung bất nghĩa còn xấu xa chẳng kém tội ngoại tình. Có những tội ngoại tình trong ước muốn, trong tư tưởng. Có những tội ngoại tình lén lút chẳng ai hay.
Dường như ngày nay người ta chỉ nhận mình phạm tội khi bị bắt quả tang, còn những tội phạm trong thầm kín thì kể như không có. Vì thế người ta tìm mọi cách để che đậy, giấu giếm những hành vi tội lỗi để không ai bị bắt quả tang. Và họ cứ an tâm thanh thản trong cuộc sống. Họ hoàn toàn đánh mất cảm thức về tội lỗi.
Trang Tin Mừng cho thấy, sự tha thứ của Thiên Chúa không đồng nghĩa với sự dung túng thường tình, tha thứ có kèm theo điều kiện. Không có nghĩa là bỏ qua sự dữ, hay tệ hơn nữa là chối bỏ sự dữ. Thiên Chúa không tha thứ sự dữ, nhưng tha thứ cho con người, và dạy người ta biết phân biệt giữa một bên là hành động xấu đáng bị kết án, và bên kia là con người cụ thể phạm lấy lỗi lầm đó, và là người mà Chúa muốn ban cho cơ may để thay đổi đời sống, làm lại cuộc đời.
Trong lúc con người có khuynh hướng đồng nhất hóa người phạm tội với tội lỗi, và như thế là đẩy người có tội vào ngõ cụt, không có lối thoát. Lòng Chúa cao cả hơn lòng chúng ta, Thiên Chúa Cha lại hành động cách khác, Ngài đã sai Con Một mình xuống trần gian, để mở ra cho cả và nhân loại con đường cứu thoát. Chúa Giêsu chính là con đường này: khi chết trên thập giá, Người đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Chúa Giêsu lặp lại với con người ở mọi nơi, mọi thời đại rằng: "Ta cũng thế, Ta không kết tội. Vậy hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa".
Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi chúng ta dù cho tội đó nặng đến độ phải tử hình như tội ngoại tình nơi anh em Do Thái ngày xưa. Lòng Chúa hải hà vết nhơ của tội lỗi. Thái độ của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng so với thái độ của các vị luật sĩ và biệt phái cho thấy tấm lòng của Thiên Chúa mênh mông, bao la hơn tâm hồn con người thế nào, như đại dương với các ao tù nước đọng: một bên thì bình tĩnh thản nhiên, nhẹ nhàng đón nhận cục đá lớn ném xuống, còn một bên sôi nổi sùng sục và hỗn loạn trước cũng một biến cố ấy. Thiên Chúa vẫn đối xử với chúng ta như thế, không phải để ta coi thường tội lỗi, mà là để ta, một khi đối diện với lòng nhân lành của Chúa, sẽ hoán cải mà trở nên tốt hơn.
Không kết án, không vào hùa kết tội người khác, rút đơn tố cáo, bỏ hòn đá xuống đất. Mỗi người hãy nhìn sâu vào trong tâm lòng mình để nhận ra các tội lỗi, lầm lẫn thiếu sót của mình trong cuộc sống. Thống hối ăn năn và cải thiện, đó là sứ điệp mà Giáo Hội trao gởi chúng ta hôm nay.
Đức Giêsu là người cha nhân hậu, giàu lòng thương xót ấy. Chính Ngài đã mang đến trong thế MC 5-C135
TMĐP- Đức Giêsu là người cha nhân hậu, giàu lòng thương xót ấy. Chính Ngài đã mang đến trong thế gian ơn tha thứ ngọt ngào để giữa cuộc đời cùng khổ.
Tuy cũng là tha thứ, nhưng không phải tha thứ nào cũng giống nhau, cũng cùng cách thức, mức độ, bởi có những tha thứ một phần, tha thứ kèm theo thử thách, tha thứ có điều kiện, tha thứ nhưng không quên, tha thứ đòi đền trả, tha thứ nhưng phải chịu trừng phạt, tha thứ nhưng không cởi trói, tha thứ không trả tự do, tha thứ không mở ra con đường sống; chưa kể những tha thứ căng thẳng, tha thứ nặng nề, tha thứ bực dọc, tha thứ bất đắc dĩ, tha thứ mà lòng không vui, tim chưa sẵn sàng.
Trước những tha thứ đủ loại, đủ màu sắc, đủ kích cỡ đó, Đức Giêsu mặc khải ơn tha thứ ngọt ngào của Ngài qua sự việc “các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình” (Ga 8, 3).
Theo dõi câu chuyện được thánh Gioan kể lại, thì người đàn bà đã không tỏ ra một thái độ thống hối rõ ràng nào, hoàn toàn khác với người con thứ hoang đàng trong Tin Mừng Luca , khi anh này bày tỏ quyết tâm “đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy” (Lc 15,18-19). Mặc dù vậy, Đức Giêsu vẫn rộng lượng bao dung tha thứ và ngọt ngào nói với chị: “Tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11).
Thái độ tha thứ ngọt ngào của Đức Giêsu không biện hộ cho tội ngoai tình mà chính Ngài đã ngăn cấm (x.Lc 18,20), nhưng không vì thế mà Ngài từ chối cho người đàn bà ngoại tình cơ hội làm mới cuộc đời, cơ may bắt đầu lại tất cả như ngôn sứ Isaia đã tuyên sấm: “Này Ta sắp làm một việc mới. Việc đó bắt đầu rồi, các ngươi không thấy sao? Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn” (Is 43,19-20).
Thái độ tha thứ ngọt ngào của Đức Giêsu được nhận ra ở đề nghị quên đi qúa khứ tội lỗi, khi Ngài bảo người đàn bà: “Thôi chị cứ về đi!”. “Cứ về đi!” là đừng ở lại với những gì đã qua; “Cứ về đi!” là đừng ở lì trong đau buồn, ô nhục của tội lỗi; “Cứ về đi!” là bỏ lại qúa khứ và mau mắn lên đuờng tiến đến tương lai như thánh Phaolô đã chia sẻ kinh nghiệm thiêng liêng của ngài với tín hữu thuộc giáo đoàn Philipphê: “Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước” (Pl 3,13).
Thái độ tha thứ ngọt ngào của Đức Giêsu đã mở toang cánh cửa về tương lai cho người đàn bà ngoại tình bị bắt qủa tang, khi bảo chị: “Từ nay uđùng phạm tội nữa”, nghĩa là từ nay hãy đọan tuyệt với qúa khứ tội lỗi, để từ nay mầm hy vọng cứu rỗi được lớn lên, cây cứu độ được đơm chồi nẩy lộc, sinh hoa kết trái, vì trên thửa đất tâm hồn của mỗi người, Thiên Chúa đã ươm sẵn những hạt giống cứu độ, mầm sống tin yêu.
Và sau cùng, thái độ tha thứ ngọt ngào của Đức Giêsu đã ban lại tự do trọn vẹn và bình an sâu lắng cho người đàn bà yếu đuối đã ngoại tình, bởi Ngài đã không ràng buộc chị với bất cứ biện pháp ngăn cản, trừng phạt nào, cũng không kiểm soát sinh hoạt, giới hạn quyền sống, hay xếp chị vào thành phần bất hảo phải theo dõi, canh chừng, cải tạo, nhưng hoàn toàn và vĩnh viễn trắng án, tha bổng cho con người đã sai phạm vì yếu đuối hơn cố tình, nên đáng thương hơn đáng trách, đáng được cứu sống hơn chịu hành hình dưới làn mưa đá chiếu theo lề luật.
Thực vậy, tình yêu đích thực bao giờ cũng thư thái, tự do, và lòng thương xót bao giờ cũng êm dịu, ngọt ngào, như tình yêu của người cha nhân hậu đã trước sau như một tuyệt đối tôn trọng tự do của con và lòng thương xót của ông dành cho con vẫn muôn đời êm dịu, ngọt ngào.
Đức Giêsu là người cha nhân hậu, giàu lòng thương xót ấy. Chính Ngài đã mang đến trong thế gian ơn tha thứ ngọt ngào để giữa những khốn nạn của cuộc đời cùng khổ, tội nhân còn tìm được đường về, hối nhân còn nhận được ơn cứu sống, nhờ những lời tha thứ ngọt ngào của Thiên Chúa bao dung, nhân hậu: “Tội con đã được tha! Cha không lên án con đâu. Hãy đi bình an và từ nay đừng phạm tội nữa!”
Trong trình thuật về người phụ nữ ngoại tình, Chúa Giêsu vừa được giới thiệu là Đấng nhân từ, MC 5-C136
Trong trình thuật về người phụ nữ ngoại tình, Chúa Giêsu vừa được giới thiệu là Đấng nhân từ, đồng thời cũng là Đấng giải phóng nhân loại. Đây chính là dung mạo của Thiên Chúa theo mặc khải của Thánh Kinh. Quả vậy, trong truyền thống Cựu ước, Thiên Chúa vẫn được tuyên xưng và ca tụng là Đấng bao dung nhân từ, và là Đấng giải phóng Dân Ngài khỏi áp bức của các dân hùng mạnh. Ngài vừa là “Chúa các đạo binh”, và cũng là Đấng chỉ “giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời”.
Với nhân vật người phụ nữ ngoại tình, dưới ngòi bút của thánh sử Gioan, ta thấy đây là một vụ xét xử «bất đắc dĩ» đối với Chúa Giêsu. Bởi lẽ lúc đó Người đang giảng cho dân chúng và người ta tuốn đến rất đông. Thánh Gioan viết: toàn dân đến với Người. Những kinh sư và biệt phái muốn gài bẫy Chúa và làm cho người mất mặt trước công chúng. Nếu Chúa đồng ý cho ném đá, thì Chúa hành xử ngược lại với lời giảng dạy của Người. Nếu Chúa không đồng ý cho ném đá, thì sẽ là người chống lại luật Môisen. Đàng nào cũng mắc bẫy và bị phê phán – họ nghĩ thế. Chúa không đồng ý với việc ném đá. Chúa cũng không ngăn cản họ làm việc này. Chúa chỉ nói đơn giản: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Nghe câu này, dân chúng tản ra rồi dần dần giải tán. Trước lời tuyên bố của Chúa Giêsu, họ không thể bắt bẻ Người được nữa.
Trọng tâm câu chuyện không phải ở nhân vật người phụ nữ hay những đối phương, mà là ở giáo huấn của Chúa. Với lời tuyên bố: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”, Chúa Giêsu đã giải phóng người phụ nữ khỏi một đám đông đang muốn ăn tươi nuốt sống một cách tàn nhẫn. Với lời dặn: “Chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”, Chúa Giêsu – thời đó được coi như một bậc thầy về luân lý – đã giải phóng chị khỏi tâm trạng mặc cảm tội lỗi. Bởi lẽ theo tâm lý tự nhiên, người phạm tội đau khổ vừa do lời gièm pha chê trách của người xung quanh, vừa do tự ti mặc cảm vì mình đã làm điều xấu. Chúa Giêsu đã giải phóng các tội nhân khỏi tội, và ban cho họ được thanh thản tâm hồn. Người cũng tuyên bố không kết án chị. Không kết án, tức là tha thứ và cảm thông bỏ qua những lỗi lầm đã phạm.
Lời nói: “Chị cứ về đi” của Chúa Giêsu cũng giống như lời Chúa nói khi làm cho ông Lagiarô đã chết được sống lạ: “Hãy cởi khăn và vải cho anh ấy, để anh ấy đi” (Ga 11,44). Người phụ nữ đã được giải phóng khỏi nấm mồ tăm tối mà người ta đã muốn nhốt chị vào. Đối với chị, vào lúc cùng cực nhất, thì thật may mắn là chị được cứu thoát và cuộc sống mới đã khởi đầu. Như thế, chúng ta có thể nói Chúa Giêsu đã làm cho chị phục sinh, ra khỏi nấm mồ, như Chúa sẽ gọi ông Lagiarô ra khỏi mồ, ra khỏi cõi chết. Chúng ta thường gọi đây là «trình thuật về người phụ nữ ngoại tình». Cách gọi này xem ra không chính xác cho lắm. Bởi lẽ, khi nhấn mạnh đến tội ngoại tình, là chúng ta như đứng về phía những người đang tố cáo người phụ nữ này. Họ tỏ ra là những người nhiệt thành bảo vệ lề luật. Đúng hơn, nên gọi đây là trình thuật về tình thương của Chúa đối với người phụ nữ ngoại tình.
Một chi tiết nhỏ rất đáng chú ý, đó là ý thâm ý của những kinh sư và biệt phái, như thánh sử Gioan viết: «Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng chứng tố cáo người» (câu 6). Thì ra người bị tố cáo chính thức lại không phải người phụ nữ, nhưng chị chỉ được dùng như một phương tiện để những kinh sư và biệt phái gài bẫy tố cáo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không mắc bẫy họ. Người cũng không chấp nhận làm cho luật Môisen trở thành một phương tiện giết người. Người tỏ cho thấy, lề luật nhằm giáo dục con người, cứu giúp con người để họ hướng thiện. Giáo huấn của Cựu ước đã nêu rõ: Thiên Chúa không muốn ai phải chết. Thiên Chúa yêu thương mọi người và Ngài muốn cho họ được sống. Ngài không vui thích khi thấy con người gặp hoạn nạn khổ đau, nhưng Ngài ra tay cứu giúp họ. Chúa Giêsu đã tiếp nối giáo huấn của Cựu ước, nhưng điều chỉnh để diễn tả dung mạo một Thiên Chúa nhân từ.
Khi tuyên bố: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”, Chúa Giêsu cho thấy, tội lỗi không chỉ là hành vi ngoại tình, mà tội lỗi còn là việc xét đoán tha nhân. Người mời gọi các kinh sư và biệt phái nhận ra thân phận tội lỗi của mình để có cái nhìn bao dung hơn với người khác. Khi xét đoán và phê phán anh chị em mình, con người thuộc về quyền lực của bóng tối. Giữa đám đông hôm đó, có duy nhất Chúa là Đấng Thánh, Đấng vô tội và là Đấng có quyền lên án các tội nhân, nhưng Người lại không kết án người phụ nữ. Sau khi đám đông đã giải tán hết, chỉ còn Chúa Giêsu và người phụ nữ, Chúa đã nói với chị: “Tôi không lên án chị đâu”. Lời này đã làm cho chị ngạc nhiên và vui mừng. Đây là lời diễn tả tình thương bao la của Thiên Chúa đối với các tội nhân. Qua ngòi bút của thánh sử Gioan, chúng ta thấy có sự đảo lộn về khái niệm. Ban đầu, xem ra chỉ có chị phụ nữ là người có tội, nhưng về sau, thì Chúa tỏ cho thấy, những kinh sư và biệt phái cũng là những tội nhân, và họ muốn thay quyền Thiên Chúa để xét đoán đồng loại. Việc họ dần dần bỏ đi cho thấy họ là những người còn mang nhiều tội lỗi.
Thiên Chúa là Đấng giải phóng con người. Ngôn sứ Isaia thét vang lên điều đó, vào lúc dân Do Thái đang chán chường bi quan trong cảnh lưu đày (Bài đọc I). Đoạn sách được đọc trong Chúa nhật thứ bốn này được gọi là “Sách an ủi”, vì nó truyền cho dân lưu đày một nghị lực mới. Nghị lực này đến từ niềm tin vào Thiên Chúa. Dân Do Thái hy vọng vào sự can thiệp của Ngài. Họ chắc chắn sẽ được giải phóng để về lại quê hương. Vào lúc đó, đau khổ ê chề sẽ qua, sa mạc sẽ có suối nước, nước mắt sẽ không còn.
Nên lưu ý một chi tiết rất thú vị khi đọc tiếp Tin Mừng của thánh Gioan: nếu Chúa Giêsu cứu người phụ nữ khỏi bị dân ném đá, thì sau đó, cũng ở chương 8, người Do Thái lại định ném đá Người, nhưng Người lánh đi và ra khỏi Đền thờ (x Ga 8,59). Họ muốn ném đá Chúa khi Người phê phán thói giả hình và sự cứng lòng của họ. Vâng, Chúa Giêsu là Đấng vô tội, đã mang lấy trên thân mình tội lỗi của muôn dân. Thập giá mãi mãi là một mầu nhiệm mà con người không thể suy thấu. Con Thiên Chúa chịu mọi khổ hình cho đến chết, chỉ vì yêu thương và muốn cứu độ con người. Trên cây thập giá, Người đã mang lấy tội lỗi của chúng ta.
Mùa Chay giúp ta suy tư về thân phận con người. Mùa Chay cũng nhắc chúng ta suy tư về tình thương của Thiên Chúa. Đức tin vào Chúa Giêsu Kitô sẽ cứu chúng ta khỏi chết. Thánh Phaolô quả quyết với chúng ta như thế trong Bài đọc II. Một khi đã hiểu biết và đã gặp gỡ Chúa Giêsu trong đời mình, vị tông đồ của chúng ta sẵn sàng chấp nhận mất hết mọi sự, miễn là có được Đức Kitô và được kết hợp với Người. Khi sám hối trong Mùa Chay, chúng ta được nghe Chúa nói: tôi cũng không lên án anh (hay chị, hay ông bà) đâu, hãy về đi và từ nay đừng phạm tội nữa. Với lời Chúa, chúng ta được trở nên con người mới, bước sang một ngã rẽ mới để làm lại cuộc đời. Chúa đã quên tội lỗi của chúng ta. Dù ta tội lỗi đến đâu, Người vẫn ở bên ta, để nâng đỡ và phù trợ với tình yêu thương của Người. Xin cho chúng ta cảm nhận được sự hiện diện kỳ diệu ấy. Amen.
Tuy cũng là tha thứ, nhưng không phải tha thứ nào cũng giống nhau, cũng cùng cách thức, mức MC 5-C137
Tuy cũng là tha thứ, nhưng không phải tha thứ nào cũng giống nhau, cũng cùng cách thức, mức độ, bởi có những tha thứ một phần, tha thứ kèm theo thử thách, tha thứ có điều kiện, tha thứ nhưng không quên, tha thứ đòi đền trả, tha thứ nhưng phải chịu trừng phạt, tha thứ nhưng không cởi trói, tha thứ không trả tự do, tha thứ không mở ra con đường sống; chưa kể những tha thứ căng thẳng, tha thứ nặng nề, tha thứ bực dọc, tha thứ bất đắc dĩ, tha thứ mà lòng không vui, tim chưa sẵn sàng.
Trước những tha thứ đủ loại, đủ màu sắc, đủ kích cỡ đó, Đức Giêsu mặc khải ơn tha thứ ngọt ngào của Ngài qua sự việc “các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Đức Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình” (Ga 8, 3).
Theo dõi câu chuyện được thánh Gioan kể lại, thì người đàn bà đã không tỏ ra một thái độ thống hối rõ ràng nào, hoàn toàn khác với người con thứ hoang đàng trong Tin Mừng Luca , khi anh này bày tỏ quyết tâm “đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: “Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy” (Lc 15,18-19). Mặc dù vậy, Đức Giêsu vẫn rộng lượng bao dung tha thứ và ngọt ngào nói với chị: “Tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11).
Thái độ tha thứ ngọt ngào của Đức Giêsu không biện hộ cho tội ngoai tình mà chính Ngài đã ngăn cấm (x.Lc 18,20), nhưng không vì thế mà Ngài từ chối cho người đàn bà ngoại tình cơ hội làm mới cuộc đời, cơ may bắt đầu lại tất cả như ngôn sứ Isaia đã tuyên sấm: “Này Ta sắp làm một việc mới. Việc đó bắt đầu rồi, các ngươi không thấy sao? Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc, khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn” (Is 43,19-20).
Thái độ tha thứ ngọt ngào của Đức Giêsu được nhận ra ở đề nghị quên đi qúa khứ tội lỗi, khi Ngài bảo người đàn bà: “Thôi chị cứ về đi!”. “Cứ về đi!” là đừng ở lại với những gì đã qua; “Cứ về đi!” là đừng ở lì trong đau buồn, ô nhục của tội lỗi; “Cứ về đi!” là bỏ lại qúa khứ và mau mắn lên đuờng tiến đến tương lai như thánh Phaolô đã chia sẻ kinh nghiệm thiêng liêng của ngài với tín hữu thuộc giáo đoàn Philipphê: “Tôi chỉ chú ý đến một điều, là quên đi chặng đường đã qua, để lao mình về phía trước” (Pl 3,13).
Thái độ tha thứ ngọt ngào của Đức Giêsu đã mở toang cánh cửa về tương lai cho người đàn bà ngoại tình bị bắt qủa tang, khi bảo chị: “Từ nay uđùng phạm tội nữa”, nghĩa là từ nay hãy đọan tuyệt với qúa khứ tội lỗi, để từ nay mầm hy vọng cứu rỗi được lớn lên, cây cứu độ được đơm chồi nẩy lộc, sinh hoa kết trái, vì trên thửa đất tâm hồn của mỗi người, Thiên Chúa đã ươm sẵn những hạt giống cứu độ, mầm sống tin yêu.
Và sau cùng, thái độ tha thứ ngọt ngào của Đức Giêsu đã ban lại tự do trọn vẹn và bình an sâu lắng cho người đàn bà yếu đuối đã ngoại tình, bởi Ngài đã không ràng buộc chị với bất cứ biện pháp ngăn cản, trừng phạt nào, cũng không kiểm soát sinh hoạt, giới hạn quyền sống, hay xếp chị vào thành phần bất hảo phải theo dõi, canh chừng, cải tạo, nhưng hoàn toàn và vĩnh viễn trắng án, tha bổng cho con người đã sai phạm vì yếu đuối hơn cố tình, nên đáng thương hơn đáng trách, đáng được cứu sống hơn chịu hành hình dưới làn mưa đá chiếu theo lề luật.
Thực vậy, tình yêu đích thực bao giờ cũng thư thái, tự do, và lòng thương xót bao giờ cũng êm dịu, ngọt ngào, như tình yêu của người cha nhân hậu đã trước sau như một tuyệt đối tôn trọng tự do của con và lòng thương xót của ông dành cho con vẫn muôn đời êm dịu, ngọt ngào.
Đức Giêsu là người cha nhân hậu, giàu lòng thương xót ấy. Chính Ngài đã mang đến trong thế gian ơn tha thứ ngọt ngào để giữa những khốn nạn của cuộc đời cùng khổ, tội nhân còn tìm được đường về, hối nhân còn nhận được ơn cứu sống, nhờ những lời tha thứ ngọt ngào của Thiên Chúa bao dung, nhân hậu: “Tội con đã được tha! Cha không lên án con đâu. Hãy đi bình an và từ nay đừng phạm tội nữa!”
Yêu nhau con mắt liếc qua, ghét nhau ném đá vỡ đầu nhau ra”
Ném đá theo nghĩa đen là cầm đá ném vỡ đầu nhau ra. Ném đá theo nghĩa bóng còn là vận động đám đông để công kích người mình ghét. Đây là loại “ném đá giấu tay”. Đây là hành vi thường không quang minh chính đại, tiểu nhân, muốn hãm hại người khác nhưng lại giấu mặt, vẫn tỏ vẻ không liên quan, nhưng lại kích động đám đông cuồng loạn để ném đá người mình không ưa.
Ngày nay người ta sợ những hòn đá vật lý một thì người ta cũng sợ “những hòn đá truyền thông” mười. Chỉ cần một động tác nhẹ nhàng qua bàn phím đã có thể sát hại uy tín, tinh thần và cả thể xác người bị ném đá, với sự ‘chứng kiến”, thậm chí “tham gia cùng ném đá” của hàng ngàn hàng vạn người trên khắp thế giới”. Đám đông này thường là thiếu hiểu biết, thiếu lý luận nên gọi là dư luận viên. Họ dẫn dắt dư luận theo ý họ và sẵn sàng thóa mạ những ai khác quan điểm với họ.
Câu chuyện về người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình có thể đi đến một án mạng vì bị đám đông cuồng loạn. Đám đông ấy đầy nộ khí đã dẫn người phụ nữ đến trước mặt Chúa Giê-su. Họ muốn Chúa Giê-su đứng về phía đám đông để ném đá người phụ nữ mà họ đang lan truyền bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Nhưng Giê-su, với lời thách thức lương tâm của từng người chứ không phải của đám đông: ai không phạm tội thì hãy ném đá người này đi, rất may những người hôm đó đã nhìn ra sự thật để dám buông bỏ hòn đá. Lương tâm đã không cho phép họ ném đã người tội lỗi, nhưng phải từ bi, tha thứ để cho nhau cơ hội làm lại cuộc đời và sửa đổi , chuộc lại lỗi lầm.
Ở đây chúng ta thấy trái tim đầy nhân ái nơi Chúa Giê-su. Ngài không hùa theo đám đông để kết án. Dù rằng tội người đàn bà này theo đám đông là “rõ mười mươi”. Nhưng đám đông không là chân lý. Chân lý cần kiểm chứng. Chân lý cần sáng tỏ chứ không chỉ nghe mà hùa theo đám đông. Chúa Giê-su đã chất vấn lương tâm từng người một để rồi đám đông ấy lần lượt bỏ đi vì “ai nên khôn mà không dại một lần”. Cuối cùng chỉ còn lại một mình tội nhân với Chúa, Chúa không kết án mà còn mở ra cho chị một con đường mới: con hãy về, và từ nay đừng phạm tội nữa.
Câu chuyện hùa theo đám đông để kết án lẫn nhau dường như vẫn xảy ra trong thế giới chúng ta. Những cuộc ném đá nhau trên không gian mạng ngày một ác liệt hơn. Người ta có thể dùng những từ nặng nề nhất để thóa mạ nhau. Kẻ ném đá giấu tay thường nên cao chính nghĩa để lôi kéo đám đông triệt hạ người mà họ từng yêu nay lại ghét. Có khi vì gato, có khi vì lợi ích nhóm mà tìm cách ném đá lẫn nhau.
Ước gì những đám đông ấy hãy biết dừng lại để chất vấn lương tâm. Tôi ném đá anh em sẽ mang lại cho tôi điều gì? Hãy suy nghĩ để rồi từng người một đều nhận ra thân phận mỏng dòn của mình mà buông hòn đá xuống. Hãy sống hòa giải và tha thứ thay cho nuôi dưỡng hận thù. Hãy học nơi Chúa Giê-su : Ta muốn lòng nhân từ chứ không cần hy lễ. Vâng, chỉ có lòng nhân từ mới mang lại sự sống, bình an và hạnh phúc.
Xin Chúa cho chúng ta biết sám hối và từ nay đừng phạm tội nữa. Amen
Thái độ hành xử của Đức Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay được coi như một cuộc cách mạng MC 5-C139
Thái độ hành xử của Đức Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay được coi như một cuộc cách mạng đối với tâm thức xã hội và luật pháp thời đó. Ngài bênh vực người yếu và phân trần sự bất công mà người phụ nữ phải chịu, cũng như thái độ giả hình của những kẻ luôn dùng quyền để xét xử và kết án. Và Chúa Giêsu đã khơi dậy một ý thức về chính tội lỗi của những kẻ muốn kết án. Trong Tông thư “Mullieris dignitatem” (Về phẩm giá người phụ nữ, 1988), Đức Gioan Phaolô II đã nhắc đến thái độ kỳ thị nữ giới như một hậu quả của tội nguyên tổ (Chương V).
Phúc Âm Thánh Gioan cho thấy đã từng có những cuộc tranh luận gay gắt giữa Đức Giêsu với các Kinh sư và người Pharisêu, và họ đang tìm cách để triệt hạ ảnh hưởng và uy thế của Ngài. Bất ngờ có trường hợp người phụ nữ bị bắt quả tang ngoại tình, và họ đã lợi dụng việc này để đưa Đức Giêsu vào tròng. Họ mở ra một phiên tòa ngay lúc Chúa Giêsu đang giảng dạy cho dân chúng, và mời Ngài làm thẩm phán, với câu hỏi được đặt ra: “Luật Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng người này Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” Một câu hỏi bất ngờ, nghe ra chân thành nhưng lại rất nham hiểm. Nếu tha, Ngài chống lại luật Môsê, còn nếu Ngài tuyên bố ném đá, thì phạm đến quyền của đế quốc Rôma, và đi ngược với Tin Mừng Ngài rao giảng. Cả hai gọng kìm đều siết chặt. Ðức Giêsu cúi xuống viết gì đó trên đất, bầu khí lắng đọng, im lìm. Các đối thủ có vẻ đắc thắng trước sự chần chừ của Ngài.
Họ hỏi mãi nên Ngài lên tiếng: “Ai trong các ông vô tội, thì cứ ném đá trước đi”. Rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất. Câu trả lời của Ngài như âm vang trong tĩnh lặng, thấm vào tim óc của những người đứng chung quanh, dường như bắt người ta phải đối diện với lòng mình. Đứng trước tòa án lương tâm, ai dám tự hào mình vô tội? Có bao tội bất trung nặng chẳng kém tội ngoại tình. Có bao tội ngoại tình nhưng lại không bị bắt quả tang, không chỉ ngoại tình trong hành động mà còn trong tư tưởng, trong ước muốn. Khi lo tố giác người khác, người ta thường quên tội của mình. Dù sao nhóm người tố giác cũng còn chút lương tâm để nhận ra sự thật về bản thân. Họ đã bỏ đi, một cách nhận mình là kẻ có tội. Và rồi kẻ trước người sau cũng lần lượt rút lui.
Cuối cùng, chỉ còn lại người phụ nữ và Đức Giêsu: người đáng thương và chính Tình Thương (Miseria et misericordia). Ngồi bên cạnh nữ phạm nhân, Chúa Giêsu không một lời khiển trách, Ngài mở lời xoa dịu và trấn an chị:“Tôi không lên án chị đâu….”. Không lên án không có nghĩa là coi nhẹ tội lỗi, hoặc xí xóa cho qua. Nhưng Ngài mời gọi khẩn thiết: “Đừng phạm tội nữa”. Ngài không dung túng cái xấu, nhưng Ngài khơi dậy cái tốt đang còn tiềm ẩn nơi người phụ nữ cũng như nơi cả những người biệt phái. Dù con người vốn yếu đuối, dễ sa ngã, nhưng Ngài vẫn tin tưởng, yêu mến và hy vọng vào họ.
Những kẻ có quyền thường thích lên án, thích trừng phạt, thích dựa vào luật lệ để buộc tội người khác. Đang khi đó, bản chất của quyền hành là để cứu giúp và cứu gỡ nạn nhân. Tội lớn nhất của các Kinh sư và người Pharisêu trong sự kiện này là dùng người đàn bà như một thứ đồ vật, để thực hiện ý đồ của họ, là nhằm đưa Đức Giêsu vào bẫy. Nhưng người gài bẫy lại mắc bẫy, vì đó là hành vi phi đạo đức. Chỉ Chúa Giêsu mới có quyền xét xử và kết án, nhưng Ngài lại làm việc đó với tình yêu.
Sứ điệp trong Tin Mừng hôm nay là “cứu sống” chứ không phải “giết chết”, là mở ra một tương lai, một chân trời mới, một niềm hy vọng, chứ không phải khép lại. Ngài xét xử theo lương tâm chứ không theo lề luật; theo lòng nhân hậu chứ không theo tội phạm. Phán quyết của Ngài là lên án tội lỗi chứ không phải tội nhân, là kêu gọi hoán cải và tuyên bố ơn tha tội, để giải thoát chứ không kiềm buộc.
Là môn đệ Chúa, sự hiện diện của chúng ta là để cứu chữa những gì đã hư hỏng, phục hồi những gì đã hư hao, làm mới lại những gì đã hư hại… để đưa mọi người trở lại với đời sống hiệp thông. Chúng ta chỉ có quyền tha, không có quyền buộc. Quyền kết án thuộc về một mình Thiên Chúa, đừng thay Trời hành đạo, vì là thái độ của kẻ kiêu ngạo. Cũng là người yếu đuối và tội lỗi, nên ta càng phải cảm thương nhau.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu! Người ta đã mở ra một phiên tòa, mời Chúa xử người đàn bà phạm tội.
Cách Chúa xử án xem ra thật lạ, không theo luật mà xử với lòng nhân, một phiên tòa, kẻ phạm tội được tha, kẻ kiện cáo lại thấy mình có tội.
Một phiên tòa tĩnh lặng và yên ắng, không ồn ào nặng lý lẽ thắng thua, một phiên tòa không phải là xử kiện, nhưng khơi mở cho lương tâm lên tiếng, đòi người ta đối diện với lòng mình.
Qua đó Chúa dạy con trong mọi chuyện, không cứ lấy cái đầu ra giải quyết, mà trước tiên cần cảm nhận của con tim, với cái nhìn đầy yêu thương trước đã, rồi tự động mọi cái sẽ sáng ra.
Chúa không muốn lên án tội lỗi con, chỉ kêu mời từ nay đừng phạm nữa, để sống vui với Chúa với mọi người, góp phần cho thế giới được sáng tươi.
Xin cho con luôn trở về bên Chúa, để hòa nhịp với trái tim nhân hậu, biết xót thương và quảng đại với nhau, đừng ngặt nghèo gây thêm nỗi khổ đau, vì nếu như Chúa cứ công bình chấp tội, thì bản thân con không thể nào chịu thấu.
Xin cho con cứ sống một tình yêu vô lượng, như Chúa đã yêu đến mức độ khôn lường. Amen.
Có một thứ dịch đang lây lan rộng rãi trong xã hội hôm nay, đó là dịch “ném đá”. Nhiều người xem MC 5-C140
Có một thứ dịch đang lây lan rộng rãi trong xã hội hôm nay, đó là dịch “ném đá”.
Nhiều người xem chuyện công kích, phê bình, nói xấu… người khác như một trò tiêu khiển hằng ngày. Khi nhàn rỗi, bạn bè gặp nhau tại những quán cóc, được gọi đùa là “Thông tấn xã Vỉa hè”, vừa nhâm nhi cà phê, trà sữa… vừa phê bình chỉ trích người khác; và những khi rảnh rang, nhiều bà chụm năm chụm bảy đem chuyện người nọ người kia ra bàn tán, bất cứ ở đâu.
Có người còn lên mạng mắng chửi, mạ lị người khác cách bất công, tạo cớ cho bao người nhảy vào bình luận, mà chủ yếu là hùa nhau mắng chửi một vài nhân vật nào đó cách thậm tệ, dù chẳng rõ thực hư, phải trái thế nào!
Điều đáng buồn là cộng động mạng cũng có lắm người ghiền nghe chửi, khoái xen vào chuyện “ném đá” … nên khi có ai đó lên sóng chửi bới, mạ lỵ người khác, đặc biệt là những người danh tiếng, thì có rất nhiều lượt xem, kèm theo nhiều bình luận độc hại khiến nạn nhân vô cùng đau khổ!
Đây là thứ bệnh dịch tai hại, lây lan nhanh và rất khó chữa. Tìm đâu ra vaccine phòng trị thứ dịch bệnh tai hại nầy?
Phương thuốc của Chúa Giê-su
Hôm ấy, các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn đến trước mặt Đức Giê-su một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình. Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với Ngài: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?
Họ hối thúc Chúa Giê-su đưa ra một phán quyết định đoạt số phận của người đàn bà tội lỗi. Về phần mình, Chúa Giê-su muốn dẫn dắt những người tưởng mình vô tội trở về với nội tâm để nhận ra tội lỗi mình mà hoán cải trước đã. Thế nên, đứng trước những con người đang lăm le kết án người phụ nữ và mưu toan ám hại mình, Chúa Giê-su kêu mời họ hãy xét mình: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!”
Rồi Ngài ngồi xuống thinh lặng, tiếp tục viết, viết trên đất để tạo bầu khí yên tĩnh cho mọi người hồi tâm.
Sau một hồi nhìn lại nội tâm trong yên lặng, những con người hăm hở kết tội người phụ nữ dần dần nhận ra tội lỗi của họ, có khi còn nhiều hơn, còn nghiêm trọng hơn cả tội lỗi của người phụ nữ. Thế là ai nấy xấu hổ lặng lẽ rút lui. Ai cũng nhận ra mình là người có tội, mà đã là người có tội thì tại sao không “ném đá” mình trước, mà lại đang tâm “ném đá” người khác, có thể còn ít tội hơn mình?
Vì thế, khi ngứa miệng muốn phê bình, công kích người khác, mỗi người hãy nhớ lại lời Chúa Giê-su nói với các kinh sư và người Pha-ri-sêu: “Ai trong các ngươi sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (Ga 8,7).
Ngoài ra, Chúa Giê-su cũng cảnh báo chúng ta đừng xét đoán hay lên án người khác để khỏi bị luận phạt. Ngài nói: “Anh em đừng xét đoán thì sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6, 37).
Lạy Chúa Giê-su,
Phê bình, chỉ trích người khác, khi người đó vắng mặt, là điều đáng xấu hổ và bất công. Xin giúp chúng con đừng vướng mắc vào thói xấu tai hại nầy và nếu chúng con không nói tốt cho người khác được thì ít nữa cũng đừng bao giờ nói xấu ai. Amen.
Đức Chúa phán: “Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy MC 5-C141
Đức Chúa phán: “Này Ta sắp làm một việc mới, việc đó manh nha rồi, các ngươi không nhận thấy sao? Phải, Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc; khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn”(Is 43,19).
Việc mới đó là việc gì? Đó là “Ta sẽ mở một con đường giữa sa mạc và khơi những dòng sông tại vùng đất khô cằn”. Việc mở một con đường giữa sa mạc, đã được nói ở Mùa Vọng. Còn ở Mùa Chay, chúng ta sẽ nói về những dòng sông tại những nơi khô cằn.
Nơi vùng đất gọi là khô cằn là những vùng không có nước; không có những dòng sông. Vì không có những dòng sông; không có nước nên cây cối không mọc được và người ta gọi đó là những nơi khô cằn. Như những vùng sa mạc chẳng hạn. Nơi sa mạc chỉ có cát và cát mà thôi; không có cây cối; không có những dòng sông.
Hình ảnh sa mạc hay những nơi khô cằn đó là con người của chúng ta. Con người chúng ta khô cằn, vì thiếu ơn Chúa; khô cằn vì những việc làm xấu xa của mình. Nơi cuộc sống của chúng ta chỉ có tiền và tiền thôi; không có yêu thương; không có những việc làm tốt.
Chúa sẽ làm một việc mới, nơi con người của chúng ta. Chúa sẽ khơi lại những dòng sông nơi con người của chúng ta; việc đó đã manh nha rồi; đã bắt đầu rồi trong thời điểm của Mùa Chay. Lời Chúa trong sách Ê-dê-ki-en đã nói đến: “Trên hai bờ sông, sẽ mọc mọi giống cây ăn trái; lá không bao giờ tàn và trái không bao giờ hết. Mỗi tháng các cây đó sẽ sinh trái mới nhờ có nước chảy ra từ Thánh Điện. Trái dùng làm lương thực, còn lá để làm thuốc” (x.Ed 47,12).
Theo tôi, “hai bờ”, đó là con người của chúng ta, với hai bờ là bờ “sự sống đời đời của linh hồn” và bờ “sự sống đời này của thân xác”.
Nói cách khác, con người của chúng ta có hai phần; nói bóng bẩy là có hai bờ là “Sự sống đời đời của linh hồn và Sự sống đời này của thân xác”. Cũng có thể nói là “con người của đời đời” và “con người của đời này”. Con người của đời đời là con người tinh thần; con người tâm linh; con người của linh hồn. Còn con người của đời này là con người của xác thịt; con người theo xác thịt; theo đời này.
Tôi không dùng linh hồn và thân xác, vì thân xác của ta không tự làm được cái gì xấu hay tốt; nó chỉ là lính, chỉ đâu đánh đó thôi. Thân xác không đối nghịch với linh hồn. Chỉ có con người theo tính xác thịt mới đối nghịch với con người theo tính tinh thần. Ví dụ như đôi tay của ta, nó đâu có tự đánh người khác hay ăn cắp ăn trộm được. Đó là do con người theo tính xác thịt, do cái đầu; do cái tâm xấu xa của ta nghĩ ra và bắt đôi tay làm đấy chứ.
Bởi đó, dù là con người nào đi nữa thì của là con người của ta, ta có trách nhiệm với những quyết định và việc làm của mình; ta quyết dịnh cho sự sống đời này cũng như sự sống đời đời của mình. Trên hai sự sống này, mọi giống cây sẽ mọc; mọi suy nghĩ và việc làm sẽ được thực hiện, sao cho lá không bao giờ tàn và trái không bao giờ hết; chúng sẽ tồn tại mãi mãi.
Mỗi tháng, hay nói cách khác mỗi ngày chúng ta phải sinh trái mới nhờ NƯỚC chảy ra từ Thánh Điện. NƯỚC đây chính là ƠN CHÚA. VìƠN CHÚA, chảy ra từ Thánh Điện; đến từ Chúa. Ơn Chúa làm cho con người khô cằn của chúng ta nên màu mỡ; có đủ điện, đủ nước; có đủ điều kiện để cho con người tinh thần và con người xác thịt của chúng ta phát triển và sinh nhiều hoa thơm trái ngọt.
“Trái của Ơn Chúa” làm lương thực nuôi sống Sự sống linh hồn; Sự sống đời đời của ta; làm cho linh hồn; làm cho Sự sống đời đời của ta khoẻ mạnh, đi về bến thiên đàng. Nếu ta không cho linh hồn ta ăn “Trái của Ơn Chúa”, nó sẽ yếu nhược, chỉ có da bọc xương thì không thể về tới bến được; coi chừng rơi xuống vực thẳm; rơi xuống địa ngục đấy.
“Lá của Ơn Chúa” làm thuốc chữa mọi bệnh tật; mọi tội lỗi của con người theo tính xác thịt của ta. Lá của Ơn Chúa sẽ chữa trị những tính hư tật xấu của ta và nếu ta đã làm những việc xấu xa, gian ác, Lá của Ơn Chúa sẽ tha thứ và tẩy sạch mọi tội lỗi của ta.
Trong sách Tiên Tri Giê-rê-mi-a nói rất hay về việc này. “Phúc thay người đặt niềm tin vào Đức Chúa và có Đức Chúa làm chỗ nương thân. Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch nước trong. Mùa nóng đến cũng chẳng sợ gì, lá trên cành vẫn cứ xanh tươi. Gặp năm hạn hán cũng chẳng ngại và không ngừng trổ sinh hoa trái”(x. Gr 17,7-8).
Đúng vậy, người đặt niềm tin và nương thân vào Chúa sẽ lãnh nhận được nhiều ân sủng của Chúa. Họ như cây được trồng bên dòng nước; đâm rễ sâu vào mạch nước trong. Dù trong cuộc sống có những vất vả, gian truân; có những thất bại, đau thương, họ cũng chẳng sợ chi; họ vẫn vui tươi và bình tâm xử lý. Có gặp thiếu thốn, cùng cực, họ cũng chẳng ngại gì, họ vẫn cứ trổ sinh hoa trái; vẫn cứ sống vui, sống khoẻ; sống công bằng, sống yêu thương.
Vậy chúng ta hãy đặt niềm tin và nương tựa nơi Chúa qua việc siêng năng cầu nguyện và chuyên cần làm những việc lành phúc đức, để chúng ta lãnh nhận được nhiều ơn Chúa. Ơn Chúa đó có thể là ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết; ơn lo liệu, ơn sức mạnh; ơn đạo đức, ơn kính sợ Chúa; ơn sống khiêm nhường, ơn sống kiên trì; ơn đểyêu người, ơn để làm việc tốt; ơn để giúp đỡ người khác, ơn để cầu nguyện; ơn để can đảm, ơn biết hy sinh; ơn biết chịu thương, chịu khó; ơn tha thứ, ơn thứ tha; vv….
Với bấy nhiêu ơn Chúa như thế sẽ làm cho con người của ta hết khô cằn, trở nên một miền đất xanh tươi màu mỡ; cây cối đua nhau mọc; bông hoa đua nhau khoe sắc; con người của ta sẽ tốt lành và thánh thiện. Tốt lành từ trong ra ngoài; thánh thiện từ trên đỉnh đầu xuống dưới bàn chân. Nói theo Thánh Kinh, đó là một miền đất đầy sữa và mật; miền đất hứa. Nói theo kiểu người đời, đó là “Đủ điện, đủ nước”. Nơi nào có đủ điện, đủ nước, nơi đó là thiên đường; nơi con người có “đủ điện, đủ nước”, có nghĩa là đầy đủ ơn Chúa, con người đó sẽ tốt lành và thánh thiện. Con người tâm linh sẽ thánh thiện và con người xác thịt sẽ tốt lành. Con người đó sẽ sống nơi thiên đường ở đời này và sẽ sống nơi thiên đàng ở đời sau.
Nói về tương quan thân thiết và cá vị giữa con người và Thiên Chúa, còn hình ảnh nào gần gũi MC 5-C142
Nói về tương quan thân thiết và cá vị giữa con người và Thiên Chúa, còn hình ảnh nào gần gũi cho bằng ẩn dụ về hôn nhân. Kinh Thánh thường dùng ẩn dụ hôn nhân để nói về tương quan thân thiết giữa Thiên Chúa và con người. Tương quan này được diễn tả bằng giao ước tình yêu vô điều kiện. Tuy nhiên giao ước này chịu nhiều thử thách cùng với những thăng trầm của cuộc sống. Câu chuyện người phụ nữ bị bắt đang phạm tội ngoại tình phản ánh tình trạng cuộc hôn nhân thiêng liêng của bạn và tôi trên hành trình theo Chúa.
Cuộc hôn nhân thăng trầm
Nếu như lật lại những trang Kinh Thánh, bạn sẽ thấy có vô số những trích đoạn nói về mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người được so sánh bằng ẩn dụ về cuộc hôn nhân (St 2, 24), (Is 62, 4-5), (Hs 3, 1-13) (Mt 19, 6), (Eph 5, 30-31). Những trích đoạn Kinh Thánh này phần nào nói về cuộc hôn nhân thiêng liêng giữa Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa yêu thương Israel đã ra tay uy quyền giải thoát họ khỏi ách nô lệ của Ai Cập. Đồng thời ký kết với họ một giao ước vĩnh cửu. Nhưng thay vì giữ một lòng trung thành Giao Ước với Thiên Chúa, họ đã đơn phương bẻ gẫy giao ước, bất trung, từ bỏ Thiên Chúa, tôn thờ ngẫu tượng, chạy theo thần ngoại, thực hiện lối sống vô luân. Điều này đã làm cho Thiên Chúa giận dữ. Tuy nhiên, thay vì đánh phạt, Thiên Chúa lại xót thương và ra tay cứu giúp. Lịch sử cứu độ từ đó mở ra một chương mới. “Chẳng ai còn réo tên ngươi: “Ðồ bị ruồng bỏ!” Xứ sở ngươi hết bị tiếng là “Phận bạc duyên đơn.” Nhưng ngươi được gọi: “Ái khanh lòng Ta hỡi!” Xứ sở ngươi nức tiếng là “Duyên thắm chỉ hồng.” Vì ngươi sẽ được Ðức Chúa đem lòng sủng ái, và Chúa lập hôn ước cùng xứ sở ngươi. Như tài trai sánh duyên cùng thục nữ, Ðấng tác tạo ngươi sẽ cưới ngươi về. Như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ. (Is 62, 4-5)
Các tông đồ thời Chúa Giê-su cũng thế, trước đó thề sống chết một lòng đi theo Thầy. “Bỏ thầy con biết theo ai, Thầy mới có lời đem lại sự sống đời đời.” (Ga 6, 68) Nhưng sau đó, khi Thầy bị bắt, các ông mỗi người một nơi, bỏ chạy thoát thân, để Thầy lại một mình trong cô đơn và sầu muộn. Chính lúc Thầy cần có người để chia sẽ nhất, các ông bỏ lại Thầy một mình. Chính trong giờ phút này, Ngài cảm thấy cái giá của sự trung thành và tình yêu tận hiến.
Cũng thế, sau bao nhiêu năm sống đời Ki-tô hữu, bạn và tôi cũng đã bao lần chối bỏ mối dây hôn phối thiêng liêng giữa bạn và Thiên Chúa ngang qua việc chiều theo những cám dỗ, đam mê và sự vị kỷ để rồi bạn và tôi cũng dần xa đường lối Thiên Chúa. Dường như ngay trong tâm hồn con người, nơi không gian thiêng liêng nội tâm có điều gì đó của sự li tâm, điều gì đó xen giữa cuộc hôn nhân thiêng liêng, chia cắt tình yêu và sự trung thành giữa bạn và Thiên Chúa. Điều này dẫn đến sự bất trung và phản bội mà nó được phản ánh rõ nhất trong câu chuyện về người phụ nữ ngoại tình hôm nay. Vậy mỗi người chúng ta tự hỏi, tôi là ai trong câu chuyện đó.
Tôi là ai trong những người có mặt ở đó
Hẳn rằng trong câu chuyện ngày hôm đó có nhiều khuôn mặt nổi lên, những khuôn mặt đại diện cho sân khấu cuộc đời và tình trạng tâm hồn của bạn và tôi.
Tôi là người phụ nữ bị bắt đang phạm tội ngoại tình. Chắc hẳn tôi cảm thấy bị xấu hổ vì tội lỗi của mình bị phơi bày trước bàn dân thiên hạ và tòa án lương tâm. Dân chúng đàm tiếu, dè bỉu và giơ tay định ném đá. Phải chăng hình ảnh tội lỗi bị phơi bày, phần nào phản ánh tình trạng công chính nguyên thủy bị tội lỗi làm vấy bẩn. Chính Chúa Giê-su mang lấy sự xấu hổ của con người để trả lại cho con người tình trạng tươi mới.
Tôi là một ai đó trong đám đông có mặt hôm đó. Kẻ hô hào, kẻ giơ đá định ném, kẻ kết án chết cho chị. Nhưng phải chăng họ cũng đang định ném đá vào lòng tự trọng của chính mình và lòng từ bi Chúa, khi hiện trạng của người phụ nữ lại phản ánh chính tâm hồn và trái tim của họ. Hòn đá họ đang định ném người phụ nữ tội nghiệp lại quay lại ném vào trúng trái tim họ. Những cánh tay giận dữ đang nén giận xuống người phụ nữ đáng thương. Đôi khi tôi chuyển trọng tâm, chuyển dịch tỗi lỗi của chính mình vào người khác hòng thoát tội và trốn tránh trách nhiệm. Người đàn ông đã đồng lõa với chị nay ở đâu. Điều nguy hiểm hơn là tôi có khuynh hướng bao dung với chính mình nhưng lại tỏ ta khắc nghiệt với người khác.
Còn Chúa Giê-su, Ngài thinh lặng viết trên cát, để rồi xóa đi những tội lỗi của bạn và tôi. Không gian chuyển từ sự ồn ào náo nhiệt bên ngoài đến không gian tĩnh lặng bên trong.” Không gian chỉ còn hai con người: một người đáng thương và Đấng đầy lòng xót thương. (Augustine, Tractate XXXIII. (33), Chapter VII. 40–53; VIII. 1–11) Rất may Ngài viết tội của bạn và tôi trên cát, Ngài không viết trên đá. Nếu Ngài viết trên đá chắc có lẽ muôn đời cũng không xóa được. Ngài không kết án, nhưng thông cảm, bày tỏ lòng xót thương và mời gọi chị hoán cải và thay đổi lối sống làm lại cuộc đời. Ngài trả lại nhân phẩm và phẩm giá làm con Chúa cho chị. Ngài ban cho chị ánh sáng và mở ra cho chị một tương lai. Như thế, Đấng là “quan tòa và nhà lập pháp duy nhất là chính Thiên Chúa”. Tôi là ai mà kết án người khác!
Ai người vô tội
Sau khi đọc câu chuyện và nghe Chúa Giê-su hỏi đám đông, có một điều gợi lên cho bạn và tôi suy nghĩ. “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” (Ga 8, 7). Ai trong chúng ta là người công chính trước mặt Thiên Chúa. Dĩ nhiên sự công chính không phải đến từ lề luật, mặc dầu lề luật Do Thái cho phép ném đá người phạm tội ngoại tình (Lv 20, 10), nhưng đến từ sự công chính và lòng thương xót của Chúa. Sự công chính đến từ lòng tin vào Chúa Giê-su.
“Ai trong các ông vô tội” mỗi người ý thức mình là một tội nhân được Chúa thương cứu chuộc. Đồng thời khi ý thức những giới hạn của chính mình và những yếu đuối của anh chị em mình, thay vì kết án, bạn và tôi có sự thông cảm và khiêm tốn để vươn mình đến Chúa. Dầu biết rằng tội lỗi kéo bạn và tôi xuống nhưng chúng ta cũng ý thức để cho Chúa kéo chúng ta lên cao.
Tôi và bạn đặt tin tưởng và hy vọng vào lòng từ bi Chúa. Người sẽ mở “một con đường giữa sa mạc, một dòng sông tưới gội đất khô cằn. Sa mạc và vùng đất khô cằn của tâm hồn là vùng đất của sự chết. Chỉ khi vùng đất chết ấy để cho “cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Giê-su băng qua, bạn và tôi mới hy vọng được phục sinh với Ngài.
Cũng thế như tảng đá Ma xa và Mơ-ri-va tuôn chảy dòng nước giải tỏa cơn khát cho con cái Israel trong sa mạc, bạn và tôi cũng hãy để dòng nước tuôn chảy từ cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa Giê-su trên thánh giá trao ban sự sống và biến đổi trái tim của bạn, từ trái tim chai đá thành trái tim bằng thịt, và nhất là thành ngôi nhà của sự sống, tình yêu và sự thông hiệp.
Đức Kitô vào Đền Thờ cầu nguyện để dâng lời tạ ơn Thiên Chúa. Nhóm Pharisiêu và kinh Sư MC 5-C143
Đức Kitô vào Đền Thờ cầu nguyện để dâng lời tạ ơn Thiên Chúa. Nhóm Pharisiêu và kinh Sư đến đền thờ với mục đích riêng tư. Họ không đến để cầu nguyện nhưng đến mong hãm hại Đức Kitô. Họ mang theo một người phụ nữ, họ khai người này bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình. Họ kết án người phụ nữ chết một cách thê thảm, thật chậm, đầy đau thương, bằng hình thức ném đá. Họ đã quyết như thế nhưng vẫn hỏi thử Đức Kitô. Mục đích không phải xin Ngài ủng hộ điều họ định làm. Mục đích là gài bẫy Đức Kitô. Trước đó họ đã âm thầm, họp kín với nhau tìm kế làm sao triệt hạ, hoặc ít nhất làm suy giảm uy tín Đức Kitô nơi dân chúng. Đã nhiều lần họ chê trách Đức Kitô. Họ kết án Đức Kitô là bạn của bọn thu thuế và ăn uống với phường tội lỗi Lc 15:3. Họ đặt điều loan tin Đức Kitô là hoàng tử của Satăng. Lc 11;15. Lần này họ muốn chứng minh Đức Kitô là kẻ tội lỗi. Rất có thể họ có dã tâm một khi chứng minh Đức Kitô có tội họ sẽ ném đá Ngài cùng lúc ném đá người phụ nữ. Họ đưa Ngài vào đường cụt, theo họ tính toán, Ngài không có lối thoát. Chỉ còn con đường chết. Bởi trả lời đồng í hay bất đồng điều họ đưa ra Ngài đều không tránh khỏi chết. Nếu Đức Kitô hỗ trợ việc họ ném đá chết người phụ nữ thì Đức Kitô tự mâu thuẫn điều Ngài rao giảng về lòng Chúa xót thương, thống hối và thứ tha. Hơn nữa một cách nào đó, không nhiều thì ít Ngài cũng dự phần vào việc kết án tử hình người phụ nữ. Trường hợp Đức Kitô phản đối việc ném đá người phụ nữ, Ngài bị kết tội là chống lại luật của tổ phụ Môi Sen đưa ra. Như thế uy tín Ngài bị giảm, đám đông tin theo sẽ mất niềm tin nơi Ngài.
Phạm tội ngoại tình xảy ra giữa hai người. Trong trường hợp này chỉ người phụ nữ bị bắt, còn người nam không hề nhắc đến. Kế hoạch nhóm Pharisiêu và Kinh Sư đưa ra phạm nhiều sai lầm. Thứ nhất là thiên tư trong việc bắt người. Thứ hai, coi thường phụ nữ, không cho người phụ nữ lên tiếng giải thích, biện hộ. Thứ ba, việc tạm giam người phụ nữ là hợp pháp, hay họ bắt cóc người. Thứ tư, bắt gặp người phụ nữ đang phạm tội lúc ngoại tình là việc ngẫu nhiên hay chính họ lập mưu, gài đặt việc bắt người. Thứ năm, làm thế nào họ có tin tức nơi người phụ nữ phạm tội và có người sẵn sàng sai đi bắt.
Ngay từ lúc đầu Đức Kitô không tham gia vào việc họ kết tội người phụ nữ. Ngài cúi xuống lấy tay viết trên đất với mục đích tránh hoặc ít nhất làm giảm mức độ hung hăng, căng thẳng của những người chống đối Ngài. Bằng cách đó Ngài cũng lấy lại thế chủ động và làm chủ thời gian, quyết định khi nào Ngài sẽ đáp lại điều họ đưa ra. Không rõ Đức Kitô viết gì trên đất. Chờ cho họ bớt nóng nảy lúc đó Đức Kitô mới ôn tồn, nhẹ nhàng nhắc họ:
‘Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi’ Gn 8:8.
Nói xong Ngài lại viết tiếp, không để í đến phản ứng của họ. Câu thắc mắc Đức Kitô nêu lên không những phá tan mưu kế hại Ngài, đồng thời nhắc cho họ biết họ cũng là người có tội. Đức Kitô nhắc cho họ nhìn vào nội tâm của họ, xét xem mình trong sạch ra sao. Đang dương dương tự đắc là kẻ công chính, đi tố cáo người khác, giờ họ tự nhận biết chính mình cũng là tội nhân. Điều khác biệt tội của họ chưa bị phanh phui, còn tội người phụ nữ bị vạch trần. Nhận biết sự thật phũ phàng đó, họ âm thầm rút lui. Còn sót lại người phụ nữ đứng đó. Đến lúc này người phụ nữ mới có tiếng nói. Đức Kitô hỏi, bà thưa. ‘Không ai kết án chị sao? Thưa không. Chị về đi và từ nay đừng phạm tội nữa. Gn 8:11.
Cuộc đàm thoại vắn gọn trên rất đáng chú tâm bởi nó mặc khải về con người, về thiên tính Đức Kitô. ‘Ai sạch tội hãy ném đá trước đi.’ Không có ai, ngoại trừ Đức Kitô. Ngài là Đấng vô tội. Ngài là người duy nhất có quyền ném đá nhưng chọn không ném, không kết án. Ngài tha cho người phụ nữ. Là Đấng không có tội, lại có quyền tha tội, quyền ân xá. Quan trọng hơn nữa, Ngài có quyền ban sự sống đời này và sự sống trường sinh đời sau. Đức Kitô ban cho người phụ nữ cuộc đời mới, sự sống mới và con tim mới.
Chúng ta xin ơn sống trung thành với Đức Kitô. Đấng vô tội, Đấng có quyền ban sự sống.
Chúa Giêsu là hiện thân của Lòng Thương Xót, Người đến trần gian mạc khải cho nhân loại biết MC 5-C144
Chúa Giêsu là hiện thân của Lòng Thương Xót, Người đến trần gian mạc khải cho nhân loại biết Thiên Chúa là Cha, Đấng Giàu Lòng Xót Thương, Đấng ghét tội, không dung túng tội lỗi, nhưng yêu thương kẻ có tội và khoan nhân với tội nhân, vì “Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn hối cải và được sống” (x. Ez 33,11).
Đoạn Tin Mừng (Ga 8,1-11) là bằng chứng hùng hồn về lòng xót thương của Thiên Chúa đối với tội nhân. Thánh Gioan kể lại việc người ta đem đến cho Chúa Giêsu một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Trong khi con người tố cáo, lên án tử cho tội nhân, còn Chúa Giêsu không kết án chị, nhưng cứu chị khỏi bị ném đá. Chúa không nói với người phụ nữ: chị không có tội, nhưng nói: “Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa” ( Ga 8,11). Chúa Giêsu cho chị cơ hội để thay đổi đời sống. Chỉ có Thiên Chúa mới tha thứ và chờ đợi con người hoán cải đời sống.
Con người trước tội nhân
Người thiếu phụ phạm tội ngoại tình. Hành vi ngoại tình của chị là một hành vi rất kín đáo, nhưng tại sao lại bị bắt quả tang, mà những nhân chứng quả tang lại là các đấng bậc như kinh sư và pharisêu? Chắc chắn, họ phải kiên nhẫn theo dõi, rình chờ nhiều ngày nhiều đêm thì mới “bắt được quả tang” chị phạm tội ngoại tình. Dường như lối sống của họ là đi rình mò, nhòm ngó và dò xét người khác. Họ bới lông tìm vết, đi tìm sự xấu nơi người khác (qua việc vi phạm Lề Luật). Và khi bắt được quả tang người khác phạm Luật, thì họ lấy làm thích thú vạch trần, kết tội và lên án tử cho tội nhân. Có gì đó không ổn nơi ý hướng đen tối trong lòng họ. Họ giữ Luật đến từng chi tiết, họ có trong tay văn bản Lề Luật và họ “bắt quả tang” với những chứng cớ rõ ràng đối với những người vi phạm Lề Luật. Mọi người trong mắt họ đều là tội phạm thực sự hay “tiềm năng”; trong khi “Tội” nằm trong chính tâm hồn họ.
Con người luôn nhìn thấy tội mà không thấy phúc, không thấy tốt chỉ thấy xấu, không cho cơ hội hối cải mà chỉ kết án, xua đuổi, loại trừ, giết chết…!Chỉ nhìn thấy hành vi bên ngoài đã vội vã lên án rồi. Trong khi không biết tại sao chị lại có hành vi như thế. Hoàn cảnh, quá khứ hay vết thương đau nào đã đưa đẩy chị.
Người có tội trước mặt Thiên Chúa
Với bằng chứng quả tang và rất hùng hồn của họ về tội nhân trước mặt Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” (Ga 8, 4-5). Hình như Chúa Giêsu không nghe lời tố cáo rất bài bản dựa vào Luật của họ. Người không quan tâm, không thích nghe người ta kể tội nhau. Người ngồi viết trên đất. Chúng ta không biết Ngài đã viết những gì và có lẽ đó không phải là điều quan trọng nhất. Ðiều này gợi nhớ câu chuyện Sinai, khi Thiên Chúa đã viết các bảng Luật bằng ngón tay của mình (x. Xh 31,18). Thiên Chúa đã hứa sẽ không viết trên tấm bia bằng đá nữa, nhưng trực tiếp lên trái tim (x. Gr 31,33), trên tấm bia bằng thịt của trái tim chúng ta (x. 2Cr 3,3). Chúa Giêsu, lòng thương xót của Thiên Chúa nhập thể viết lên trái tim của con người, để mang lại niềm hy vọng cho nỗi khốn khổ của con người. Chúa đã làm như thế với người phụ nữ, chị đã gặp Chúa Giêsu và tiếp tục được sống. Đúng là chị đã phạm điều luật cấm, nhưng Chúa Giêsu nhìn thấy ở nơi chị, một con người thống khổ đang rất cần lòng thương xót, một bệnh nhân cần được chữa lành, một nạn nhân, cần được giải thoát. Hơn nữa, Người còn biết, và chỉ có mình Người biết đến đến quá khứ đau thương cũng như hoàn cảnh đưa đẩy chị đến hành vi này. Chỉ mình Chúa mới thấu suốt con tim và cuộc đời của chị; vì thế, Người cảm thương chị.
Thiên Chúa tha thứ và cho cơ hội
Lời của Chúa Giêsu với chị thiếu phụ mới đẹp làm sao: “Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị … Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa” ( Ga 8,11). Họ bỏ đi hết, “chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, và người phụ nữ thì đứng ở giữa” (Ga 8, 9b), nghĩa là chỉ còn lại con người khốn khổ và lòng thương xót của Thiên Chúa. Đối với Chúa Giêsu, tội không phải là không trầm trọng, nhưng Người muốn giúp tội nhân canh tân. Người quan tâm tới tình thương hơn là tội lỗi, vì tình thương lớn hơn tội lỗi.
Hành động không lên án của Chúa Giêsu hoàn toàn khác hẳn với quyết định bỏ đi của những người muốn lên án, vì chắc chắn họ vẫn còn muốn lên án và phải lên án cho bằng được để chứng minh mình đúng. Chỉ mình Chúa Giêsu mới có thể lên án, Người đã không lên án, vì nếu lên án, Người cũng chẳng khác gì những kinh sư và luật sĩ, và nhất là bởi vì lên án không thuộc về bản chất của Sự Thiện và Tình Yêu, vốn là chính Chúa. Chị không bị Chúa Giêsu kết án, nhưng tha thứ, một sự tha thứ đáng ngạc nhiên của Thiên Chúa từ bi và hay thương xót giúp chị canh tân cải hóa cuộc đời.
Trong thời gian Mùa Chay thánh này, chúng ta được mời gọi nhận tội lỗi của mình và xin Chúa tha thứ. Xin Mẹ Maria giúp chúng ta cảm nghiệm được tình yêu thương xót của Thiên Chúa. Amen.
Tin Mừng hôm nay như một vở kịch có 3 hồi: – Hồi I : Các luật sĩ và Biệt phái giải một người phụ MC 5-C145
Tin Mừng hôm nay như một vở kịch có 3 hồi:
– Hồi I : Các luật sĩ và Biệt phái giải một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến với Chúa Giêsu và yêu cầu Chúa xử tội
– Hồi II: Chúa Giêsu biết rõ họ muốn gài bẫy Chúa. Chúa ngồi xuống và lấy tay viết trên đất. Họ cứ gặng hỏi mãi nên Chúa đứng lên và bảo họ: “Ai trong các ngươi sạch tội hãy ném đá chị này trước đi”. Chúa ngồi xuống lại và tiếp tục viết trên đất. Nghe câu nói của Chúa Giêsu, họ lặng lẽ rút lui, bắt đầu là những người lớn tuổi nhất
– Hồi III: Chúa Giêsu khoan nhân: không kết án chị nhưng yêu cầu chị về và từ nay đừng phạm tội nữa
Luật Mosê có điều khoản như sau: “Nếu một người đàn ông bị bắt gặp đang nằm với người đàn bà có chồng, thì cả hai sẽ phải chết (Dnl 22, 24): họ sẽ bị lôi ra cửa thành và ném đá. Tuy nhiên trong thời kì bị đế quốc Roma đô hộ, Do thái không được quyền xử tử, quyền này thuộc về quan Tổng Trấn Roma. Các luật sĩ và Biệt phái đặt Chúa Giêsu trong thế kẹt: Nếu Chúa bảo phải xử tử: tức là Chúa lấn quyền của quan tổng trấn đồng thời điều này cũng không hợp với lòng khoan dung nhân hậu của Chúa; còn nếu Chúa nói tha, thì Chúa làm trái luật Mosê và truyền thống Do thái. Chúa ngồi xuống và lấy tay viết trên đất để tỏ ra Chúa không quan tâm việc đang xảy ra.
Chúa Giêsu nói: “Ai trong các ngươi sạch tội hãy ném đá chị này trước đi”. Lời nói của Chúa có tác dụng khơi dậy ý thức về tội nơi những người tố cáo khiến họ lặng lẽ rút lui hết, bắt đầu là những người lớn tuổi nhất. Có lẽ càng nhiều tuổi thì tội lỗi càng nhiều, hoặc chính họ đã phạm tội ngoại tình nhưng không bị bắt quả tang nên không bị kết án. Ngoài ra còn những tội khác nữa do thiếu xót thí dụ gặp người đói mà không cho họ ăn, khát mà không cho uống… và theo thánh Gioan: “Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân (1Ga 3, 15)”. Cho nên mọi người đều là tội nhân và cần được xét xử khoan hồng.
Ngày nay đa số con người chỉ nhận tội khi phạm tội mà bị bắt quả tang, ngoài ra thì họ đều chối tội hết và chúng ta thấy có rất nhiều người phạm tội thầm kín cũng lên mặt đạo đức tố cáo người phạm tội bị bắt quả tang!
Chúa Giêsu nói: “Ta cũng không kết án chị. Vậy chị hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa” Chúa tha thứ nhưng đòi người phụ nữ này từ nay đừng phạm tội nữa. Gần đây có một vị thượng tọa Phật giáo nói trên mạng là Chúa Giêsu tỏ ra rất trí tuệ trong cách xử trí này. Chúa mở cửa tương lai cho chị. Chắc chị sẽ sống cuộc sống mới.
Chúa cũng muốn chúng ta hướng về tương lai sống cuộc sống mới tốt đẹp hơn.Thánh Phaolô trong bài thánh thư hôm nay nói: “Tôi đinh ninh một điều là quên hẳn đằng sau, mà hướng về phía trước, tôi cứ nhắm đích đuổi theo để đoạt ơn kêu gọi Thiên Chúa ban từ trời cao trong Đức Giêsu Kitô”. Thánh Phaolô đã quên quá khứ bắt đạo Chúa của mình để hăng say rao giảng Tin Mừng theo ơn gọi Tông đồ Ngài mới nhận được. Cũng vậy, khi chúng ta có tội, hãy ăn năn và đi xưng tội rồi hãy xác tín rằng được Chúa tha thứ thì đừng có để cho mình bị dày vò mãi về tội đó nữa nhưng hãy hướng về tương lai vì Chúa muốn chúng ta được sống bình an, có niềm vui và tương lai tươi sáng!
Đức Giáo Hoàng Yoan Phaolô II năm 1980 qua tông thư “Mulieris dignitatem” dịch là “Phẩm giá người phụ nữ” có đoạn nói về những thiệt thòi mà các người phụ nữ phải chịu. Chẳng hạn trong Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy các luật sĩ và biệt phái lôi người phụ nữ phạm tội ngoại tình đến trước mặt Chúa Giêsu, thế thì còn người đàn ông đồng phạm đâu, mà theo luật Mosê đàn ông ngoại tình cũng bị ném đá như đàn bà ngoại tình? Trong nhiều trường hợp phụ nữ phải đền tội một mình dù cả hai người phạm tội! rồi có nhiều lần xảy ra người nam bỏ rơi bào thai trong bụng người nữ vì thế mà có rất nhiều bà mẹ đơn thân! có khi một cô gái bị chính bạn trai áp lực phá thai mà chính người đó là tác giả. Từ đó nhiều phụ nữ cảm thấy lương tâm áy náy lâu năm vì mình đã tước đoạt đi sự sống của chính đứa con mình!
Chúng ta đón nhận những điều Chúa muốn dạy chúng ta hôm nay: Chúa Giêsu đã gợi lên ý thức về tội : chúng ta hãy xét mình và nhận ra những tội lỗi và thiếu xót của mình: tội lỗi đã đành rồi nhưng còn rất nhiều thiếu xót mà chúng ta không quan tâm: như người phú hộ không quan tâm tới Lazarô nghèo khổ ăn xin trước cổng nhà mình. Có lẽ ông phú hộ không trộm cắp giết người, nhưng khi chết ông vẫn phải rớt xuống hỏa ngục vì sự thiếu xót trầm trọng này!
Mỗi lần được Chúa tha tội, chúng ta hãy nhớ lời Chúa: “Hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa” để chúng ta có sự dốc lòng chừa là một trong 4 việc phải làm trong bí tích giải tội và để chúng ta sống xứng đáng với tấm lòng khoan dung tha thứ của Chúa. Amen
Sau một đêm nghỉ ngơi ở khách sạn ngàn sao, sáng sớm Chúa Giêsu trở lại đền thờ. “Toàn dân đến. MC 5-C146
Sau một đêm nghỉ ngơi ở khách sạn ngàn sao, sáng sớm Chúa Giêsu trở lại đền thờ. “Toàn dân đến với Người. Người ngồi xuống giảng dạy cho họ”. Bỗng có tiếng xôn xao. Một nhóm Kinh sư và Pharisiêu đang lôi một người đàn bà tới, đám đông dạt ra, họ xô chị ra đứng trước mặt Chúa Giêsu. Họ bất ngờ lập tòa án ngoài trời và mời Chúa Giêsu làm quan tòa. Học đọc cáo trạng: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?”.
Nghe câu đầu của bản cáo trạng, chúng ta có thể cười thầm: Vậy là các anh đi nhòm qua lỗ khóa nhà người ta hả? Đối với họ thì bản án đã có sẵn trong Luật Môsê: ném đá! Chúa biết họ muốn gì! Chúa trả lời bằng cách: “Nhưng Đức Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ nói mãi, nên Người ngẩng lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất. Tin Mừng không nói Chúa viết cái gì, chỉ nhắc hai lần “Chúa cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất”. Trước hết, Chúa kéo con mắt và sự chú ý của họ khỏi người đàn bà đang đứng ở giữa, khỏi thái độ quan tòa, tập trung vào ngón tay của Chúa. Chúa thinh lặng, họ cũng thinh lặng. Một lúc sau họ lại hối thúc Chúa trả lời. Chúa ngẩng đầu lên và bảo họ: “Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi!”. Rồi người lại cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất”. Sau khi kéo sự chú ý của họ khỏi người đàn bà và bắt họ cúi xuống nhìn ngón tay của Chúa di chuyển trên mặt đất, Chúa bỗng lật sự chú ý và cái nhìn của họ quay vào chính mình họ. Hãy nhớ Luật do ông Môsê chuyển đạt cho các ông là do Thiên Chúa ban: “Sau khi phán với ông Môsê trên núi Sinai, Đức Chúa ban cho ông hai tấm bia chứng ước, hai tấm bia này do chính tay Thiên Chúa viết” (Xh 31,18). “Những bia ấy là do Thiên Chúa làm ra, chữ là chữ viết của Thiên Chúa, khắc trên đá (Xh 32, 16). “Đức Chúa đã ban cho tôi hai bia đá do ngón tay Thiên Chúa viết” (Đnl 9,10). Chúa như nói với họ: Luật Môsê là do Thiên Chúa ban, do ngón tay Thiên Chúa viết, thì Thiên Chúa mới là Đấng xét xử, và người xét xử các ông nữa đấy! Kết quả là họ nhìn vào chính mình… “rồi họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi”. Lối châm biếm thật là sâu sắc: càng già càng lắm tội! Chúa Giêsu chứng tỏ Người có quyền xét xử như Thiên Chúa, soi thấy tâm can mỗi người chứ không theo vẻ bên ngoài.
“Chỉ còn lại một mình Chúa Giêsu và người phụ nữa thì vẫn đứng ở giữa”. Ta ngạc nhiên: chỉ còn Chúa Giêsu ngồi đó, người phụ nữ thấy chung quanh mình chẳng còn ai nhưng cũng chưa dám bỏ đi. “Vẫn đứng ở giữa,” có thể hiểu là vẫn đứng yên chỗ đã đứng như trước vành móng ngựa ở tòa án, những kẻ tố cáo đứng vây quanh đã nhận biết họ chẳng tốt gì hơn mà đòi kết án chị; họ đã bỏ đi hết, chị đứng một mình trước Đấng có quyền xét xử. Thánh Augustinô bình luận: Chỉ còn lại hai: con người yếu hèn và Đấng đầy lòng thương xót.
Chúa hỏi như để mở cho chị thấy hoàn cảnh của mình: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?”. Chị đáp: “Thưa ông, không ai cả”. Đấng có quyền xét xử nói với chị: “Tôi cũng vậy, tôi không kết án chị đâu! Thôi, chị cứ về đi và đừng phạm tội nữa!”. Người không kết án chị, chỉ yêu cầu chị “đừng phạm tội nữa”. Họ không dám kết án chị vì họ tội lỗi hơn chị. Tôi không kết án chị vì tôi là Đấng có quyền xét xử. Lời Chúa Giêsu nghe như vọng lời Thiên Chúa phán trong sách Êdêkien: “Ta lấy mạng sống ta mà thề, Ta chẳng vui gì khi kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống” (Ed 33, 11; x. 18, 32).
Câu chuyện người đàn bà ngoại tình không phải chết nhưng được sống, cũng minh họa lời Chúa Giêsu mời gọi “hãy đến với tôi mà uống”. Người ta lôi chị đến trước mặt Chúa, nhưng Chúa đã cho chị uống lòng nhân lành thương xót để chị được sống, và đặt chị trở lại trên con đường đi tới sự sống: “Đừng phạm tội nữa!” (x.Tĩnh tâm với Tin Mừng Gioan, Lm Giuse Nguyễn Công Đoan).
Chúa nhật IV, qua dụ ngôn “người cha nhân hậu”, Chúa Giêsu mạc khải về Thiên Chúa là Cha giàu lòng xót thương. Chúa nhật V, Chúa Giêsu mạc khải về Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tâm hồn con người và Ngài luôn mở ngõ cho con người hướng về tương lai.
Chúa Giêsu, Đấng thấu suốt tâm hồn con người.
Đứng trước câu hỏi thách thức “Thầy dạy sao?” của cánh Biệt phái, Chúa Giêsu biết rằng cạm bẫy đã được trương ra cho Người. Nếu dạy người ta tha cho người phụ nữ, Người sẽ bị kết án chống lại lề luật; còn nếu dạy người ta ném đá bà, giáo lý về lòng nhân ái của Người sẽ sụp đổ hoàn toàn. Tiến thoái lưỡng nan. Chúa Giêsu im lặng. Kẻ thù đắc chí. Dân chúng đợi chờ. Rồi với câu trả lời “Ai vô tội, hãy ném đá chị này trước đi”, Chúa Giêsu đã phá vỡ sự im lặng của mình để đẩy cánh Biệt phái vào một sự im lặng khác đầy ngột ngạt: sự im lặng trước toà án lương tâm.
Sự kiện này hé mở cho thấy Người là Đấng thấu suốt tâm hồn. Chẳng có gì là thầm kín trước Thiên Chúa toàn tri, chẳng có ai là trong sạch trước Thiên Chúa thánh thiện. Người phụ nữ đã để cho dục vọng buông lơi nên dấn thân vào đường tội lỗi, nhưng cánh Biệt phái cũng đã để cho hận thù xâm chiếm nên bài binh bố trận hòng đẩy Chúa Giêsu vào cạm bẫy chết. Họ có hơn gì? Có gia đình mà còn chim chuột trăng hoa, người ta gọi đó là “ngoại tình”, thế thì có đạo mà còn ác tâm mưu hại người khác có thể gọi là “ngoại đạo” chăng?. Coi chừng: quen kết án người khác về điều gì là tự tố giác mình đang có khuynh hướng ngầm nghiêng về điều đó (F.Sheen). Tội lỗi phải bị lên án, nhưng tội nhân cần được đối xử công bình, mà công bình đích thực trước tiên hệ tại việc ổn định lương tâm riêng tư mỗi người. Lẽ công bình là điều kiện để xây dựng tình nhân ái. (x. ĐGM Giuse Vũ Duy Thống, Nút vòng xoay, tr 53-58).
Chúa Giêsu, Đấng giàu lòng nhân ái.
Đẩy cánh Biệt phái vào tận lương tâm trách nhiệm để họ lặng lẽ rút lui, Chúa Giêsu đã tạo điều kiện cho người phụ nữ nhìn lại cuộc sống của mình để ăn năn sám hối và nhìn vào lòng của Người mà tin tưởng làm lại cuộc đời. Là Đấng duy nhất không có tội, Người từ chối lên án. Người không được sai đến để kết án, nhưng là để cứu thoát… câu cuối cùng của bài Phúc âm chính là cao điểm kiết thúc cho cả câu chuyện. Người phụ nữ được tha bổng, không phải vì Chúa Giêsu không cho là quan trọng cái tội mà bà vướng mắc, nhưng chỉ vì lòng nhân ái của Người cao cả bao la. Cao hơn tội bà vấp phạm và bao la hơn nỗi lòng hồi hộp đợi chờ của bà phút ấy. Dẫu sao, đi kèm với ơn tha thứ, vẫn là lời mời gọi “từ nay đừng phạm tội nữa” (sđd).
Chúa Giêsu, Đấng mở lối về tương lai
Người ta đòi ném đá người phụ nữ, đóng khung cuộc đời chị trong quá khứ. Quá khứ được đóng dấu bằng tội lỗi. Người ta đánh giá, phán đoán, hành động trên quá khứ đó. Chúa Giêsu không chấp nhận lối nhìn và cách đánh giá ấy. Tội nhân luôn đáng thương nên cần được thương cho đáng. Đó là chuyện tử tế và cũng là chuyện thực tế. Yêu thương họ là cầu nguyện và giúp đỡ họ trở về đường lành. Chúa Giêsu nhìn nhận người phụ nữ có tội. Nhưng Ngài mở ra một tương lai, gieo vào lòng chị niềm tin tưởng rằng chị có khả năng xây dựng một tương lai mới, một cuộc đời mới, một con người mới: “Chị hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”. Chúa Giêsu không kết án cũng như không giảm án, không ân xá cho tội nhân. Chúa mở cho chị một con đường hướng về tương lai, làm lại cuộc đời. Đó là con đường sám hối trở về với tình yêu, trở về với đời sống là con cái Thiên Chúa, trở về với tâm hồn bình an. Người phụ nữ ra về lòng tràn ngập niềm vui hoán cải, quyết tâm làm lại cuộc đời.
Một truyền thống nói rằng người đàn bà này là Maria Madalena, người được trừ khỏi bảy quỷ (Lc 8,2), và đã bày tỏ tình yêu qua việc dùng nước mắt rửa chân Chúa, lấy tóc mình lau chân Chúa, xức dầu và hôn chân Chúa Giêsu (Lc 7,37). Một truyền thống khác cho rằng đây là Maria làng Bêtania, em của Matta và Lazarô (Lc 10,39), đã xức dầu thơm cho Chúa (Ga 12,3). Có lẽ người đàn bà ngoại tình, Maria Madalena và Maria làng Bêtania cùng là một người. Và cả 4 Phúc âm đều nói đến Maria Madalena ở mộ Chúa như chứng nhân đầu tiên của sự Sống Lại. Và như người loan báo Tin Mừng Phục Sinh đầu tiên. Chính lòng thương xót của Chúa đã biến đổi từ một người tội lỗi trở thành một môn đệ thân thiết nhất của Chúa Giêsu: “Maria ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người” và trở thành người loan báo Tin Mừng Phục Sinh của Chúa Giêsu: Bà Maria Madalena đi báo cho các môn đệ: “tôi đã thấy Chúa” và bà kể lại những điều Người đã nói với bà” (Ga 20,18). Tình yêu và lòng Sám hối có quyền lực biến đổi bóng tối thành ánh sáng, biến đổi những tội nhân thành các thánh nhân ‘Lumen Gentinm số 171’ (x.ĐGM Giuse Trần Văn Toản, Lời Chúa và cuộc sống năm 2015).
Thiên Chúa, Đấng mở ngõ cho tương lai. Ngài không khoá chặt cuộc đời một con người cũng như lịch sử nhân loại vào quá khứ, cho dẫu quá khứ ấy có bi thảm và tàn tạ đến đâu chăng nữa. Thiên Chúa luôn luôn mở ngõ và vạch lối cho tương lai.
Vẫn biết tội lỗi trái với đạo giáo, trái với luân thường đạo lý, nhưng đâu chỉ căn cứ vào đạo giáo luân lý để khinh khi, coi thường, kỳ thị sự sống con người được. Đạo giáo luân lý giúp con người sống thăng tiến về mặt tinh thần chứ không bao giờ là bước cản trở nhận chìm con người xuống bùn đen. Đã là người, ai cũng có những khuyết điểm, ai cũng có lúc làm điều lầm lỗi. Nhưng ai cũng có khả năng ý chí ước muốn làm điều lành thánh thiện tốt đẹp. Thiên Chúa dựng nên con người với khả năng như thế.
Chúa Giêsu đã sống và đã nêu gương. Ngài không kết án, không giảm án, nhưng là mở ra con đường hướng về tương lai cho con người tội lỗi làm lại cuộc đời. Lêvi, Giakêu, Mađalêna, Augustinô… và còn biết bao con người đã được Chúa mở ngõ tương lai tươi sáng. Niềm tin đó tạo nên nơi người tín hữu một lối nhìn mới. Đó là nhìn về phía trước, băng mình về phía trước như thánh Phaolô diễn tả: “Tôi chỉ chú ý tới một điều là quên đi chặng đường đã qua để lao mình về phía trước” (Pl 3,13). Đối với Phaolô quên đi chặng đường đã qua là qua khứ bắt bớ Giáo hội Chúa để lao mình về phía trước, phía tương lai mà Chúa Giêsu đã mở ra, đặt ngài làm khí cụ, làm tông đồ dân ngoại. Và thánh nhân đã sống hết mình cho tương lai mới.
Nhìn về phía đàng trước để luôn hy vọng và tin tưởng. Tin vào chính mình, vào con người, vào cuộc đời. Và trên hết là tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngõ cho tương lai chúng ta.
Không ai là quan tòa trong vụ án của chính mình. Một danh nhân đã nói như vậy. Tại sao? Bởi MC 5-C147
Không ai là quan tòa trong vụ án của chính mình. Một danh nhân đã nói như vậy. Tại sao? Bởi vì ai cũng có tội, chẳng ai nhân từ trừ một mình Thiên Chúa. (Mc 10,:18) Vì thế, Ngài dạy phải cố gắng sống nhân từ như Chúa Cha (Lc 6:36) và nỗ lực hoàn thiện. (Mt 5:48)
Có nhân từ mới biết yêu thương, có yêu thương mới biết tha thứ. Có tình yêu thương thì người ta có thể làm được mọi chuyện, ngay cả tử thần cũng không thể làm cho họ nao núng, sợ hãi, hoang mang,…
Biết yêu thương là nên giống Thiên Chúa, vì Ngài là tình yêu. (1 Ga 4:8 và 16) Nhà hóa học Orlando Aloysius Battista (1917-1995), người Mỹ gốc Canada và là một tín hữu Công giáo ngoan đạo, nói: “Điểm yếu nhất của hầu hết người ta là do dự nói lời yêu thương người khác khi họ còn sống.” Một nhận xét chính xác, nhưng đó là điều đáng buồn cho loài người chúng ta!
Vấn đề giàu – nghèo liên quan sang – hèn. Giàu sang và nghèo hèn về lĩnh vực gì mới là quan trọng. Có người giàu mà chẳng sang, có người nghèo mà không hèn. Không lấy bậy của ai, đó là người giàu; không bị nhục với ai, đó là người sang. Thi sĩ Rainer Maria Rilke (1875-1926), người Áo, nói: “Có điều kỳ diệu xảy đến với những người thực sự biết yêu thương: họ càng cho nhiều thì họ càng có nhiều.” Có nhiều thứ gì cũng là “giàu,” nhưng cái “có” tỷ lệ thuận với cái “cho” ở đây không nên chỉ hiểu về lĩnh vực vật chất. Những người thực dụng và ưa hình thức thì chắc chắn sẽ không thích “kiểu giàu” như vậy.
Tuy nhiên, đối với Thiên Chúa thì cái giàu là cái nghèo – và ngược lại. Đó là triết-lý-sống của Nước Trời, được đề cập trong Hiến Chương Nước Trời – Bát Phúc, Tám Mối Phúc. (Mt 5:3-12)
VỤ ÁN NHÂN NGHĨA
Abraham Lincoln (1809-1865) nổi tiếng với “Emancipation Proclamation” (Tuyên Ngôn Giải Phóng) năm 1863, giải thoát những người nô lệ. Ông được hậu thế tôn vinh là anh hùng dân tộc, hy sinh vì quyền tự do của con người, và là một trong 4 tổng thống vĩ đại nhất lịch sử nước Mỹ, được khắc chân dung lên núi đá Rushmore cùng Georges Washington, Thomas Jefferson và Theodore Roosevelt.
Xuất thân từ gia đình nghèo, cha mẹ mù chữ, Lincoln trải qua tuổi thơ rất gian khó. Với trí thông minh vượt trội và nghị lực, ông mong theo đuổi con đường học tập để thay đổi số phận nhưng cha mẹ ông muốn con trai tham gia lao động để nuôi sống bản thân và gia đình, ông phải bỏ nhà đi kiếm tiền và học luật. Ông được nhiều người giúp đỡ, trong đó có vợ chồng nông dân Hannah và Jack. Tuần vài lần, Lincoln đến nhà vợ chồng này cùng ăn uống, chuyện trò, trông trẻ và giúp bổ củi. Ra trường, Lincoln luôn quan tâm giúp đỡ người nghèo.
Năm tháng trôi qua, Lincoln được bầu vào Cơ quan Lập pháp của nước Mỹ và bắt đầu thực hành lật. Con trai của vợ chồng Hannah là William đã là một thanh niên mạnh mẽ, tốt bụng và hào phóng, nhưng khá liều lĩnh.
Một cuộc cắm trại năm 1857 xảy ra vụ ẩu đả giữa William với Metzker và Norris. Không ngờ 3 ngày sau Metzker tử vong. Kết quả giám định cho thấy nạn nhân bị đánh, có hai vết bầm lớn ở đầu và mắt phải. William và Norris bị bắt và bị kết tội sát nhân. Vợ chồng Hannah suy sụp. Ông Hannah vốn ốm yếu và chết, ông dặn vợ kiếm tiền để cứu con.
Lúc này Lincoln đã kết hôn, bận rộn với công việc mới, được bầu vào Quốc hội, là một luật sư giỏi và nhân vật quan trọng của bang Illinois. Ông vẫn dành thời gian quan tâm, theo dõi về vùng đất từng cưu mang ông thời tuổi trẻ. Khi biết tin về vụ án xảy ra với William, ông viết thư cho bà Hannah đề nghị được bào chữa miễn phí.
William không nhận tội và chờ làm việc với luật sư nên Norris được tách ra xét xử trước. Norris bị xét xử trong phiên tòa tháng 5-1958, khai mình và William cùng đánh Metzker, nhưng những cú đánh của William khiến nạn nhân chết. Norris bị kết án tù 8 năm. Luật sư Lincoln xem lời khai được trình bày trong phiên tòa xét xử Norris, biết bằng chứng chống lại thân chủ của mình là Allen, tuyên bố thấy William tấn công Metzker vào đầu bằng súng cao su. Luật sư Lincoln biết đó là chứng cứ mấu chốt của vụ án, ông cũng linh cảm William bị oan.
Phiên sơ thẩm xét xử William diễn ra ngày 7-5-1858. Nhân chứng Allen thề thốt đã thấy bị cáo tấn công Metzker bằng khẩu súng cao su to, cho rằng Norris tiếp tay cho cuộc tấn công, nhưng William mới là sát nhân thực sự. Lincoln điềm tĩnh bước lên, mời nhân chứng trở lại, kể lại mọi chuyện và dồn anh ta với nhiều chi tiết: William dùng loại vũ khí gì, cầm tay nào, đánh vào bên nào đầu nạn nhân, bị cáo mặc quần áo thế nào? Allen ấp úng.
Bất ngờ Lincoln lấy ra cuốn niên giám năm 1857, và chỉ tay vào ngày 29-8, đêm đó xảy ra án mạng. Ông đưa cho nhân chứng và yêu cầu nói to cho bồi thẩm đoàn biết mặt trăng hôm đó đang ở giai đoạn nào. Allen đọc: “Hôm đó trăng khuyết gần như hoàn toàn. Nhân chứng khó có thể nhìn xa 5m, chứ nói chi 50m. Cuộc đối chất đầy kịch tính đến nỗi phiên tòa phải hoãn ngay lập tức.
Lần xử sau, người ta chỉ trích Lincoln, nhưng ông vẫn điềm đạm cởi áo khoác, bước lên và nói: “Đầu tiên, tôi muốn nhấn mạnh, tôi không nhận tiền trong vụ bào chữa này.” Ông kể về 6 năm được gia đình William cưu mang, những nông dân bần cùng nhưng lương thiện và hào hiệp. Ông tiếp tục thảo luận về chứng cứ nguỵ tạo trong vụ án. Khi ông ngồi xuống, nhiều bồi thẩm viên đã rơi nước mắt. Bà Hannah bật khóc. Người ta kể lại với vẻ thán phục: “Những lập luận của ông Lincoln như có sức thôi miên, vừa quyết liệt vừa đầy xúc cảm.” Tất nhiên hôm đó William thoát tội sát nhân nhờ luật sư Abraham Lincoln.
Điều gì hợp ý Chúa thì thuận buồm xuôi gió. Thiên Chúa toàn năng có thể làm mọi sự, từ không thành có, từ có hóa không. Ngài là Đấng xót thương, “mau quên” lỗi lầm của tội nhân, nhưng Ngài nhớ mãi những gì tội nhân thực hiện với ý tốt – dù chỉ là điều nhỏ nhoi. Thật lạ lùng, chính sự khốn nạn của chúng ta đã khiến Thiên Chúa động lòng trắc ẩn. Thánh Vịnh gia đã thốt lên: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ. Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng.” (Tv 126:1-2a) Mơ mà thật. Quá bất ngờ, quá ngạc nhiên, ngay cả dân ngoại cũng bàn tán: “Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” (Tv 126:2b)
Thế cờ cuộc đời chúng ta ở thế bí, bị triệt buộc, nhưng Thiên Chúa đã đảo ngược thế cờ, chuyển bại thành thắng, đổi buồn thành vui, biến nước mắt thành tiếng cười: “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo; lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng.” (Tv 126:5-6) Niềm hạnh phúc quá lớn, vượt ngoài ước mong, trên cả tuyệt vời!
Mất Chúa là mất trắng. Có Chúa là có tất cả. Một khi tin nhận và theo bước Chúa, người ta bất chấp mọi đau khổ, kể cả cái chết. Thánh Phaolô thổ lộ: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô và được kết hợp với Người.” (Pl 3:8-9a) Đối với những người không có đức tin hoặc chưa hiểu được ý nghĩa của sự đau khổ, họ coi những người “cam chịu đau khổ” là những người “không bình thường,” có thể là “điên khùng” hoặc “có vấn đề” về tâm thần. Tuy nhiên, ai khoe mình khôn ngoan thì lại là điên rồ, ngu xuẩn. (x. Rm 1:22)
Con người vốn dễ ảo tưởng, dễ ngủ quên trong chiến thắng, thế nên phải luôn cảnh giác cao độ, vì tính kiêu ngạo lúc nào cũng chỉ rình “bật lên” bất cứ lúc nào. Thói kiêu ngạo có thể len lỏi vào những công việc đạo đức, nó có thể làm mờ mắt của chúng ta, khiến chúng ta lầm tưởng mình tốt lành, đôi khi chỉ là giả hình. Kiêu ngạo là đốm lửa nhỏ nhưng lại rất mạnh, trong thoáng chốc nó có thể thiêu rụi hết những gì chúng ta đã khó nhọc tạo dựng. Rất khó khăn và tốn thời gian xây dựng, nhưng phá bỏ thì rất mau, một que diêm đủ thiêu rụi tất cả.
Tất cả tín nhân chúng ta phải luôn sẵn sàng để Thiên Chúa chiếm hữu mình, để chúng ta thuộc trọn về Ngài, và học được bài học của Thánh Phaolô: “Nói thế, không phải là tôi đã đoạt giải, hay đã nên hoàn thiện đâu; nhưng tôi đang CỐ GẮNG CHẠY TỚI, mong chiếm đoạt, bởi lẽ chính tôi đã được Đức Kitô Giêsu chiếm đoạt. Thưa anh em, tôi không nghĩ mình đã chiếm được rồi. Tôi chỉ chú ý đến một điều là QUÊN ĐI CHẶNG ĐƯỜNG ĐÃ QUA, để LAO MÌNH VỀ PHÍA TRƯỚC. Tôi chạy thẳng tới đích, để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho kẻ được Người kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu.” (Pl 3:12-14) Mong lắm thay!
VỤ ÁN THƯƠNG XÓT
Đây là trọng án đặc biệt được Thánh Gioan tường thuật qua trình thuật Ga 8:1-11. Một phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình. Tội rành rành ra đó, nhưng chị được trắng án nhờ Thẩm Phán Giêsu Kitô. Kinh Thánh không cho biết tên phụ nữ này, có lẽ vì tế nhị, thế nên đừng suy diễn ra cô kia, bà nọ!
Đó là Tình Khúc Thương Xót với giai điệu êm đềm của những nốt tha thứ. Thánh sử Gioan cho biết rằng hôm đó Chúa Giêsu trở lại Đền Thờ lúc trời vừa tảng sáng. Toàn dân đến với Ngài để lắng nghe Ngài giảng dạy. Ngay lúc đó, các kinh sư và nhóm Biệt Phái dẫn một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình đến trước mặt Ngài. Họ để chị đứng ở giữa, rồi nói với Ngài: “Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?” Nghe có vẻ tốt lành, nhưng chỉ là đạo đức giả!
Thật ra họ nói thế để thử Ngài, tìm cách gài bẫy Ngài để có chứng cứ mà tố cáo Ngài. Không hề nói gì, Ngài cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Thế nhưng họ cứ hỏi mãi, Ngài ngước lên và nói: “Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” Rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất. Họ cứng lưỡi. Và rồi chẳng ai bảo ai, họ lần lượt kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi. Rõ ràng càng nhiều tuổi càng nhiều tội. Bao nhiêu cục đá còn đó cho thấy có bấy nhiêu người bỏ đi…
Cuối cùng không còn ai, chỉ còn lại Chúa Giêsu và nữ tội nhân. Ngài nhìn chị và hỏi: “Này chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?” Chị đáp: “Thưa ông, không có ai cả.” Chắc là chị vẫn run, dù chỉ còn chị đối diện với Chúa Giêsu. Chị run một phần vì chưa hết sợ bị ném đá, một phần vì quá xấu hổ. Chắc hẳn chị cũng đã nghe người ta bàn tán về Ông Giêsu, và hôm nay chính con người đó đang ở bên cạnh chị.
Ánh mắt nhân từ của Chúa Giêsu soi thấu tâm hồn chị và chị nhận ra mình là kẻ tội lỗi khốn nạn. Chị đang hồi sinh và bắt đầu hành trình cuộc đời mới. Chúa Giêsu ôn tồn: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!”
Lúc này chị lại run, nhưng chị không run vì sợ, mà chị run vì hạnh phúc và sung sướng: Chị được trắng án và thoát án tử, nghĩa là chị được tái sinh. Chắc chắn không còn niềm vui nào to lớn hơn và mãnh liệt hơn nữa. Lòng Thương Xót tỏa ánh sáng Tha Thứ, bao la và tròn đầy mãi mãi – từ hồng hoang tới đời đời.
Phụ nữ ngoại tình kia là “hình bóng” mỗi chúng ta. Thiên Chúa không chỉ tha thứ mà còn giải án tuyên công. Chúng ta được trắng án nhờ Chúa thương xót, thế thì chúng ta không thể không xóa án cho nhau – nghĩa là chúng ta cũng phải mau mắn tha thứ cho tha nhân, không chỉ tha 7 lần mà là 70 x 7, (Mt 18:22) tha hằng ngày và tha mãi mãi – bất kỳ lúc nào.
Chúa Giêsu có quyền xét xử nhưng Ngài không kết án, phàm nhân không có quyền xét xử nhưng lại tìm mọi cách để kết án, thích xử mà không thèm xét. Than ôi!
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, xin cảm tạ Ngài luôn thương tình tha thứ. Xin gia ân tăng lực để chúng con sống làm chứng Lòng Thương Xót của Ngài, mọi nơi và mọi lúc, hôm nay và mãi mãi. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.