Cây vàng hôm trước có nở hoa, đâu vì mây biếc đã trôi qua ! Cây vả hôm nay đà khô đẹt, cũng chẳng do Chúa quở trách mới vừa qua, như trình thuật hôm nay còn kể lại. Thánh Luca kể về cây vả, một loại cây vẫn thấy đầy đường ở Israel. Cây vả bị Chúa chúc dữ còn ám chỉ rất nhiều điều. Điều trước tiên về cây vả, là cây gặp thấy ở vùng Địa Trung Hải từ nhiều năm. Có tài liệu bảo rằng: từ 11.500 năm nay, người Trung Đông thay đổi nếp sống kể từ ngày lo thu gom hột giống của các cây dại rồi thuần phục chúng biến thành cây sinh lợi.
Khai quật Qumran ở Gilgal, gần Giêricô khi xưa, đã đưa ra bằng chứng cho thấy: cây “vả” có mặt ở vùng này suốt 11.400 năm. Người xưa có nói: chỉ cần chặt cành vả cắm xuống đất, sau một thời gian nó sẽ đâm chồi sinh hoa trái cho mọi người. Có người còn bảo “vả” là loài thực vật đầu tiên được con người trồng trọt, thế nên mới có câu hát: “Thuở đầu đời người thấy cây vả…”.
Cây vả cao từ 3 đến 9 thước. Tàn nó xoè rộng hơn cả chiều cao. Có loại vả mọc vút cao hơn 10 thước. Mỗi cây mang dáng vẻ riêng, có lá cành xum xuê, mỗi năm cho đến 2 vụ mùa, rất nhiều trái. Vụ mùa chính là vào cuối hạ hoặc chớm thu. Cây vả đực vẫn có trái; nhưng trái hơi khô và chẳng mùi vị. Trong khi đó, trái vả từ cây cái lại rất ngọt, nhiều nước cốt. Trái vả nào sống sượng không thích hợp bữa ăn ngày Sabát chỉ đáng quăng bỏ cho người nghèo nhặt nhạnh.
Giống cây vả đôi lúc cũng cho hoa trái rất sớm; được như thế, là nhờ vụ mùa nở rộ vào xuân mùa năm trước. Có văn bản lịch sử còn cho biết: nhiều năm cây vả đực lại cho trái đến 4 vụ mùa; đôi khi nó không trổ cành lá nào hết. Thành thử, vả là loại cây cho trái sớm hay muộn còn tùy vào nhiều thứ, nhất là thời tiết. Có khi cả lá lẫn trái vả đều đâm chồi trổ sinh cùng một lúc. Có lúc, người ta còn nhờ lá vả để biết trước vụ mùa sắp tới có đạt kết quả hay không, hoặc năm đó sẽ không có vụ mùa nào hết.
Sách Đệ Nhị Luật, nói về Đất Lành Chúa hứa cho dân con Israel là “miền đất có lúa mì, lúa mạch, cây nho, cây vả, cây lựu, miền đất có cây ôliu để ép dầu và có mật ong, miền đất ở đó anh ( em ) sẽ ăn bánh mà không bị hạn chế.” ( Đnl 8, 8 ).
Ở sách Ngôn Sứ Giêrêmia, Đức Chúa lại cũng nói: “Ta quyết sẽ thu về, không để trái nào trên cây nho, không để trái nào trên cây vả, cả lá cây cũng phải héo tàn, vì Ta sẽ trao chúng cho những kẻ qua đường.” ( Gr 8, 13 ).
Cũng trong cùng chiều hướng như thế, Ngôn Sứ Habakhúc lại thêm vào: “Thật thế, cây vả không còn đâm bông nữa, cả vườn nho không được trái nào. Quả ôliu, đợi hoài không thấy, ruộng đồng chẳng đem lại gì ăn.” ( Hb 3, 17 )
Ở đoạn 23 – 29, sách Ngôn Sứ Giêrêmia lại thấy sử dụng hình ảnh cây “vả” để nói về lưu đày và cuộc “xuất hành” về Đất Hứa. Ngay tại Giêrusalem, lại cũng thấy nhiều người được ví như cây vả thối vữa không đâm chồi nẩy lộc, chỉ đáng bứt gốc nhổ bỏ đi mà thôi. Tuy thế, người lành thánh như cây vả tốt tươi, từng trở về sau lưu đày, lại “hiểu biết kính sợ Chúa”, nên được tháp tùng Chúa đi vào Giao ước, đáp ứng lại ân huệ Ngài ban bằng cả tấm lòng thành thật.
Thánh Mátthêu cũng sử dụng cây vả để diễn tả hiện trạng của một số người Do Thái như đoạn Tin Mừng 21 câu 19 có nói: “Trông thấy cây vả bên đường, Ngài đến gần nhưng không tìm được gì cả, chỉ thấy lá thôi. Nên Ngài nói: "Từ nay, không bao giờ ngươi sinh trái nữa !" Cây vả chết khô ngay lập tức. Thấy vậy, các môn đệ ngạc nhiên hỏi: "Sao cây vả lại chết khô ngay tức thì như thế ?" Thêm nữa, Thánh Mátthêu còn ghi rõ ở đoạn khác: “Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà học hỏi. Khi cành nó xanh tươi và đâm chồi nảy lộc, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần.” ( Mt 24, 32 )
Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay cũng dùng văn bản do Thánh Mátthêu viết rồi theo phong cách, thể loại của mình mà kể rõ thêm từng chi tiết: “Người kia có cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: "Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất ? Nhưng người làm vườn đáp: "Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”. ( Lc 13, 6 – 9 ).
Đoạn 19 câu 29, Thánh Luca để Đức Giêsu dùng dụ ngôn cây vả vào lúc Ngài đến với Giêrusalem, qua Bếtphaghê và Bêtania, nên nói rõ: “Khi đến gần làng Bếtphaghê và làng Bêtania, bên triền núi gọi là núi Ôliu, Người sai hai môn đệ và bảo: "Các anh đi vào làng trước mặt kia. Khi vào sẽ thấy một con lừa con chưa ai cỡi bao giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và dắt nó đi.” Như thế nghĩa là: Ngài sửa soạn cho Lễ Lá mà vào thành Giêrusalem, gần Lễ Vượt Qua. Địa danh Bếtphaghê có nghĩa là “nhà có cây vả chưa kịp chín.” Gọi thế là vì mùa đó chưa là mùa hái trái vả, và cũng chưa là mùa cây vả trổ nụ đơm hoa.
Địa điểm kể truyện lại nói là quanh núi Ôliu. Như thế, phải chăng bối cảnh sự việc diễn ra ở trên núi Ôliu ? Thật ra, chỉ một vùng đáng kể ở quanh đó là có ôliu bọc quanh cây vả không trái, đó là vùng Ghétsêmani thôi. Ở Ghétsêmani, Chúa cảm nghiệm giờ phút khổ đau, mệt mỏi cả về tinh thần lẫn thể xác theo cung cách rất cực kỳ. Cực mệt, đến độ Ngài phải thốt lên lời, âu cũng là chuyện ít thấy. Ở Tin Mừng theo Thánh Máccô, Đức Giêsu còn lớn tiếng kêu vời Chúa Cha đến tiếp cứu. Tuy nhiên, dù Ngài có kêu có vời thì Chúa Cha vẫn im hơi lặng tiếng, chẳng đáp từ. Thành thử, lối nói theo kiểu chúc dữ cây vả ở giữa đường là cung cách diễn tả cơn đau cực kỳ vào lúc Ngài hấp hối.
Với Thánh Mátthêu, Đức Giêsu lại nói trực tiếp với cây vả là: “Từ nay, không bao giờ ngươi có trái nữa !" Và cây vả đã chết khô ngay lập tức.” ( Mt 21, 19 ) cũng hệt như lời nguyền, chúc dữ, không chỉ cho cây vả mà thôi, nhưng cho cả những gì là kết quả tích cực dù ở hoàn cảnh nào cũng thế. Điều đó cho thấy: Chúa cảm nghiệm đích thực về sự tột cùng của con người.
Ở Tin Mừng theo Thánh Luca, Đức Giêsu muốn cho cây vả bị đốn, chặt bỏ đi, tức Ngài muốn nó không bị bật gốc khỏi mặt đất. Điều đó dẫn đến thắc mắc: tại sao mọi sự phải đâm hoa sinh trái trước sự việc đau thương thống khổ của thập giá ?
Một lần nữa, ở Tin Mừng theo Thánh Mátthêu, Đức Giêsu kể cho Tông Đồ kém lòng tin biết mình phải có niềm tin vững mạnh và nguyện cầu mới được như thế, cả vào khi các ông phải đối đầu với hoàn cảnh khổ đau tột cùng tựa như Chúa.
Với Thánh Luca, đây lại mang ý nghĩa một đề nghị: mọi người cần có lòng kiên nhẫn kéo dài nhiều tháng ngày. Khi ta nói với Đức Giêsu tương tự như hoàn cảnh xảy đến nơi vườn Ghétsêmani, là ta nói với Ghétsêmani bé nhỏ của chính ta. Và như thể cũng bảo rằng: “Ngay tôi đây, cũng sẽ làm được như thế, cũng thế thôi.”
Có bao giờ những người như ta cảm thấy như mình chẳng có gì là cần thiết, cả khi mình thật sự rất cần những điều như thế không ? Sống ở hoàn cảnh tương tự, ta gọi là sống có kiên nhẫn. Đó còn là cung cách để ta sống theo đường lối sẻ san có kiên nhẫn như Chúa từng sống, chí ít là vào Mùa Chay.
Trong cảm nghiệm những điều như thế, ta lại ngâm lên lời thi ca đầy chất thơ và nhạc, mà rằng:
“Một thời mây biếc đã trôi qua,” “Nay tưởng cây vàng lại nở hoa.” Em chẳng mơ gì, tôi chẳng nói, Đôi hồn không biết có nhìn xa ?” ( Đinh Hùng – Bướm Xuân )
Cứ tưởng cây vàng, cây vả đã nở hoa, cả khi “đau khổ tình chết lặng” đến như thế, phải chăng đó cũng là cảnh tình của nhiều người, ở mọi nơi ?
Đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm nay nằm trong phân đoạn độc đáo nhất của TM Lc (9,51–19,27): cuộc hành trình lên Giêrusalem. Cuộc hành trình này trước tiên là một chuyến đi đến cái chết: các lời loan báo Thương Khó song song với các TM Nhất Lãm khác đều nằm trong phân đoạn này (Lc 18,31-34), nỗi khắc khoải của Đức Giêsu trước “phép rửa” Người sắp phải chịu (12,50), loan báo số phận của Người tương tự số phận các ngôn sứ (13,32-33), lời khẳng định Con Người phải chịu đau khổ (17,25).
Tuy nhiên, chuyến đi này còn hàm chứa những yếu tố sư phạm như: a) các lời dạy về đời môn đệ: cầu nguyện (11,2-13; 18,1-8), từ bỏ (12,51-53; 14,26-27), tiền bạc (12,13-30; 14,28-33…), làm chứng cho Đức Giêsu (12,1-12), tỉnh thức trông chờ Đức Giêsu trở lại (12,35-48); b) và như trong bài đọc hôm nay: lời kêu gọi lấy quyết định khi đối diện với Đức Giêsu và cuộc phán xét đang đến (12,54–13,9; 13,22-30…).
Những câu truyện được kể trong đoạn TM hôm nay chỉ có trong TM Lc mà thôi.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Mời gọi hoán cải nhân các biến cố chính trị xã hội (13,1-5); 2) Mời gọi hoán cải qua dụ ngôn Cây vả không trái (13,6-9).
3.- Vài điểm chú giải
- máu đổ ra hòa lẫn với máu tế vật (1): Bởi vì “tế vật” (thysiai) chỉ được dâng tại Giêrusalem, hẳn đây là những người đang có mặt tại sân tư tế của Đền Thờ. Cũng có thể đây là dịp dâng chiên Vượt Qua. Những người Galilê đây hẳn là các khách hành hương đã về Giêrusalem để dự lễ. Sự cố này không được ghi lại trong bất cứ tài liệu nào ngoài TM Lc. Sử gia Ph. Gioxép có nói đến những sự cố sau: (1) Một cuộc tàn sát người Samari gần núi Garidim (chứ không phải là “người Galilê”) bởi tay quan Philatô vào năm 35 sau CG, và cũng không nói đến “tế vật” (x. Ant. 18.4,1 §86-87); (2) Quan Philatô đưa các hình tượng của hoàng đế vào khiến các người Giêrusalem ái quốc đã nổi loạn (JW. 2.9,2 §169-174); (3) Quan Philatô lấy quỹ Đền Thờ để xây một đường cống dẫn nước vào Giêrusalem (JW. 2.9,4 § 175-177), khiến người “Do Thái” (chứ không phải là “người Galilê”) bất mãn; (4) Vua Áckhêlao đã giết ba ngàn người tại Giêrusalem dịp lễ Vượt Qua (JW. 2.1,3 §8-13); (5) Vua Alexanđê Giannê (103-76) đã giết sáu ngàn người “Do Thái” vì họ đã ném chanh vào ông trong dịp mừng lễ Lều (JW. 13.13,5 §372).
Ta không biết đích xác là tác giả Luca đang ám chỉ đến biến cố nào. Tuy nhiên, lịch sử cho biết Phongxiô Philatô làm tổng trấn Giuđê từ năm 26 đến năm 36. Các tác giả Do Thái nhận định ông là con người “không nhượng bộ và tàn nhẫn” (đây là câu vua Hêrôđê Ácríppa I viết trong thư gửi cho hoàng đế Caligula, được triết gia Philon ghi lại, x. Legatio ad Caium, 38).
- chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn (2): Người Do Thái thường tin rằng các tai họa xảy đến trong đời là kết quả của tội lỗi đã phạm trong quá khứ (x. G 4,7; 8,4.20; 22,5; Xh 20,5c; Ga 9,2-3). Đức Giêsu không đặt vấn đề về niềm tin này, nhưng lợi dụng cơ hội để kêu gọi hoán cải.
- tháp Silôác (4): Theo sử gia Ph. Gioxép, có một cái tháp ở bức tường thứ nhất của thành Giêrusalem cổ; tháp này ở phía đông quay về hướng nam và nằm bên trên suối Silôác (JW. 5.4,2 §145). Nhưng nay thì chẳng còn dấu tích gì về cái tháp này. Ph. Gioxép cũng không nói gì về tai nạn này.
- một cây vả trồng trong vườn nho (6): Việc trồng cây vả trong vườn nho có trong Mk 4,4. Có thể Đức Giêsu đang lấy lại một cách ví von của Cựu Ước, coi cây vả là biểu tượng của Giuđa hay Israel (x. Hs 9,10; Mk 7,1; Ge 1,7; Gr 8,13; 24,1-10).
- năm nay nữa (8): Thời gian ân huệ trước khi mọi chuyện chấm dứt được diễn tả bằng hình ảnh “năm nay”, nhằm nói lên sự giới hạn.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mời gọi hoán cải nhân các biến cố chính trị xã hội (1-5)
Phân đoạn này là một truyện kèm lời công bố, do có lặp lại các câu hỏi và bài học của Đức Giêsu.
Người Pharisêu dạy: “Không có hình phạt nếu không có tội lỗi”. Nếu Thiên Chúa để cho một số người Galilê bị giết là vì họ là những kẻ tội lỗi. Đức Giêsu đã được nghe kể về số phận của những người Galilê đã bị quan Philatô giết. Người loại trừ mọi liên kết giữa cái chết của những người Galilê ấy và tội lỗi của họ. Thay vào đó, Người vận dụng biến cố để kêu gọi hoán cải. Người cũng nhắc lại cái chết của mười tám người bị tháp Silôác đè, và kết luận rằng biến cố ấy là một thúc bách những người còn sống hoán cải, canh tân đời sống, tức là lấy đức tin mà chấp nhận lời cứu độ của Thiên Chúa được Đức Giêsu đến loan báo. Cái chết có thể đến gặp bất cứ người nào cũng nhanh như đã gặp những người xấu số trên đây, bất cứ lúc nào: thậm chí ngay đêm nay, “mạng sống” có thể bị “đòi” để chịu xét xử (x. Lc 12,20). Cần biết nhận ra một lời mời gọi hoán cải.
* Mời gọi hoán cải qua dụ ngôn Cây vả không trái ( 6-9)
Phân đoạn này là một dụ ngôn, nhưng không có một áp dụng minh nhiên (áp dụng hàm chứa trong các câu 3 và 5). Dù sao, ta vẫn có thể coi đây là một dụ ngôn về lòng thương xót hoặc thậm chí, một dụ ngôn về “khủng hoảng”, chứa một lời mời gọi hoán cải trước khi quá muộn, lúc đầu được ngỏ trực tiếp cho những người đồng hương của Người. Nhưng rồi bài cũng được gửi cho các Kitô hữu phải đối diện với viễn tượng là một kết cục cuộc sống bất ngờ.
Bài dụ ngôn này nhắc nhớ bản chất “nguy kịch” của cuộc sống con người: lúc này là giờ cuối cùng, thời gian ân huệ cuối cùng trước khi chịu phán xét. Cây vả không trái trở thành biểu tượng của một cuộc sống con người không sản sinh hoa trái thiêng liêng. Như một nối tiếp vào những lời nói của Đức Giêsu mời gọi canh tân đời sống, bài dụ ngôn đưa ra một “mũi nhọn” mang tính răn đe. Những người Galilê hẳn là đã chết vì sự độc ác của vài người, mười tám người Giêrusalem hẳn là đã hết vì không may (có mặt tại chỗ không nên vào giờ không đúng), nhưng con người không biết đón nhận lời Đức Giêsu kêu gọi sẽ chết chắc chắn vì không hoạt động và không sinh hoa trái. Cái lỗi do sự trì trệ ươn ái của chính mình thì trầm trọng hơn cái điều tệ hại là chết vì tay của ai khác hoặc vì tai họa bất ngờ.
+ Kết luận
Trước các biến cố, Đức Giêsu cung cấp một giải thích mang tính tôn giáo để mời gọi các thính giả suy nghĩ: thời cuối cùng đã bắt đầu, những gì đang xảy ra trong thời gian này chỉ là một gợi ý về thời điểm chấm dứt mọi sự. Do đó, mỗi người phải lấy lập trường đúng đắn. Cũng như Gioan Tẩy Giả, Đức Giêsu công bố rằng cần phải hoán cải, đừng có trì hoãn, bởi vì thời gian mỗi người đang có đã là thời gian triển hạn rồi. Lời Đức Giêsu còn mang tính cấp bách hơn, bởi vì Người là chính là Đấng mà Thiên Chúa đã giới thiệu trên núi cao là “Con Ta”, và mời chúng ta “hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Giải thích các biến cố là một việc rất tế nhị, nhất là khi biến cố ấy gây tai họa cho người khác chứ không phải cho chính ta. Đọc cho ra ý nghĩa các “thời điềm” (= dấu chỉ thời đại) là việc phải làm trong tinh thần siêu nhiên, dưới sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, và với tinh thần Giáo Hội. Chỉ khi đó, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa của các “thời điềm” đó và chọn cho mình một lập trường tương ứng, cũng như giúp người khác chọn lựa đúng đắn.
2. Có những người chủ trương rằng bạo lực là phương thế duy nhất để tái lập công lý. Thật ra, sức mạnh chẳng bao giờ đưa lại điều tốt, chẳng bao giờ giải quyết được các vấn đề; nó chỉ làm phát sinh những vấn đề mới nghiêm trọng hơn. Đức Giêsu không muốn dính líu với những người cứ nguyền rủa chửi thề. Người không vô cảm trước đau khổ hoặc các tai nạn hay nỗi bất hạnh, nhưng Người biết rằng hận thù, giận dữ và trả thù chỉ làm cho các vấn đề thêm trầm trọng.
3. Có những Kitô hữu suy nghĩ như người Pharisêu, cho rằng may mắn và sức khỏe là những phúc lành Thiên Chúa ban cho người tốt, còn đau khổ là một sự nguyền rủa Ngài giáng xuống kẻ ác. Không phải thế! Quả thật, có điều xấu do con người xấu gây ra, có những điều xấu xảy ra do sự thiếu quan tâm. Nhưng mưa không thuận gió không hòa, hỏa hoạn, tai nạn, bệnh tật, là những điều ta không được đổ cho Thiên Chúa. Chúng xảy ra vì thế giới chúng ta là như thế. Dù vậy, không có điều gì xảy ra mà ở ngoài chương trình của Ngài. Không biến cố nào, tốt hay xấu, tình cờ hay có kế hoạch, mà vuột khỏi tình yêu của Ngài. Ngài để cho vũ trụ đi theo dòng sinh hoạt của nó, cho thiên nhiên vâng theo luật lệ của chính nó. Ngài cho phép người ta tự do hành động và điều hành các vấn đề sao cho ngay cả những chuyện xấu vẫn đưa đến một điều tốt.
4. Theo dụ ngôn Cây vả không trái, chúng ta hiểu rằng mình dường như vẫn đang làm cho Chúa Cha (= chủ vườn nho) phải thất vọng, vì đã phí phạm bao nhiêu ơn huệ cao quý Ngài ban cho. Và thời gian chúng ta còn đang có trước mắt chính là một “thời gian gia hạn”. Người biết suy nghĩ thì biết cách tận dụng “thời gian gia hạn” cho ích lợi, khi mà mình đã phung phí thời gian dài đã có trước đây. Một sự phung phí như thế cũng rất có thể đã gây ảnh hưởng tiêu cực trên những người khác.
5. Hôm nay chúng ta vẫn có một Đấng chuyển cầu có thế giá trước nhan Chúa Cha, đó là Đức Giêsu. Người vẫn đang xin Chúa Cha ban thêm ơn cho chúng ta, vẫn xin Chúa Cha “triển hạn” để chúng ta có thể sinh hoa quả xứng với tình thương của Chúa Cha. Lẽ nào chúng ta có thể tiếp tục lạm dụng tình thương cao vời đó mãi?
Trước hết chúng ta nêu lên một câu hỏi có lẽ không quan trọng, nhưng là nút cởi cho câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Đó là tại sao mấy người lại đến kể cho Chúa Giê-su nghe biến cố về những người Ga-li-lê bị Phi-la-tô giết và mười tám người bị tháp Si-lô-ắc đổ đè chết? Phải chăng những người kể chuyện muốn bênh vực quan niệm thông thường cho rằng cái chết mấy người kia phải chịu là do Thiên Chúa trừng phạt vì họ là những kẻ tội lỗi? Rõ ràng Chúa Giê-su chống lại quan điểm trên. Những cái chết hay đau khổ không phải là tiêu chuẩn để xét đoán một người là tội lỗi hay không. Nhưng cái chết thể lý không quan trọng bằng cái chết của linh hồn. Điều này đưa tới một chân lý: Nếu người ta không sám hối thì không những họ phải chịu cái chết thể xác là điều tự nhiên, mà còn phải hứng chịu cái chết đời đời trong hỏa ngục nữa!
Đối phó với một quan niệm đã ăn sâu vào cả tôn giáo lẫn luân lý xã hội là một khó khăn. Khi cho rằng Thiên Chúa trừng phạt nhãn tiền những người có tội, vô tình người ta đã chối bỏ những đặc tính của Thiên Chúa. Người ta bóp méo hình ảnh của Thiên Chúa nhân lành. Thi hành sứ vụ, Chúa Giê-su cố gắng rao giảng Tin Mừng cho chúng ta biết những chân lý đích thực về Thiên Chúa yêu thương và nhân từ. Cha trên trời đã được Chúa Giê-su mô tả qua hình ảnh Thiên Chúa quan phòng, lo lắng chăm sóc cho chúng ta hơn cả người cha trần gian (Lu-ca 12:22-31). Một Thiên Chúa giống như người cha chờ đợi đứa con hoang đàng trở về để tha thứ thì làm sao lại có thể vô cảm lấy đi mạng sống của “những người Ga-li-lê” và những người đứng dưới chân tháp Si-lô-ắc? Hoặc nói theo suy tư của thánh sử Gio-an, nếu “Thiên Chúa là Tình Yêu” thì Người không thể hành xử phản tình yêu như thế được! Chính Chúa Giê-su đã biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa, khi Người đón tiếp và ăn uống với “phường tội lỗi và quân thu thuế” (Lu-ca 15). Người là lòng nhân từ được nhập thể của Thiên Chúa.
Cùng một câu chuyện và cùng một tai nạn, nhưng những người kể lại với Chúa và chính Chúa Giê-su lại có những quan điểm và kết luận hoàn toàn khác nhau. Trong khi họ dễ dàng lên án kẻ khác thì Chúa Giê-su lại dạy phải khiêm tốn nhìn nhận tội lỗi mình và thực tâm sám hối. Chưa chắc những người Ga-li-lê bị Phi-la-tô giết và những người Giê-ru-sa-lem bị tháp Si-lô-ắc đè chết đã là những người tội lỗi hơn chúng ta. Do đó, bài học từ những câu chuyện này là bài học sám hối. Tội lỗi là tình trạng chung của mọi người. Vấn đề là đứng trước thực tại tội lỗi của mình, chúng ta có quyết tâm hoán cải để tránh xa cõi chết đời đời mà trở về với Cha hằng sống đang ưu ái mời gọi chúng ta hay không.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúa kể dụ ngôn cây vả không giống như mấy người kể lại chuyện những người Ga-li-lê bị giết và chuyện những người bị tháp đè chết! Dụ ngôn cây vả là một sứ điệp sám hối chứ không phải là một bản án tử hình. Nếu xét theo thực trạng thì cây vả rõ ràng phải bị chặt đi vì lý do đầy đủ: không sinh trái. Chỉ là một câu chuyện rất đơn sơ, nhưng ý nghĩa thật phong phú. Nó có thể áp dụng cho chúng ta theo những khía cạnh khác nhau. Cây vả không sinh trái có thể là tình trạng tội lỗi chúng ta. Cây vả cần được vun xới và bón phân là nhu cầu sám hối của chúng ta. Cũng có thể một “người làm vườn” nào đó đang âm thầm giúp đỡ chúng ta để khỏi bị chặt đi. Câu chuyện không cho biết cây vả có thực sự bị chặt đi hay không, nhưng gần như trăm phần trăm là nó vẫn tồn tại. Điều này dạy chúng ta về lòng nhân từ và tha thứ của Thiên Chúa.
Không hiểu khi đọc dụ ngôn này bạn thấy thế nào. Còn tôi thì vừa sợ vừa mừng! Sợ vì biết rõ mình xứng đáng bị chặt đi! Mừng vì xác tín rằng Chúa giàu lòng thương xót, luôn kiên nhẫn dang tay đón tôi trở về. Người lúc nào cũng đặt hy vọng vào tôi: “May ra sang năm nó có trái”. Tôi cũng mừng vì chắc chắn có “người làm vườn” giúp tôi. Đó là Chúa Thánh Thần, Mẹ Ma-ri-a, một người thân trong gia đình, một người bạn, thậm chí cả kẻ thù của tôi nữa. Tất cả đều trực tiếp hoặc gián tiếp giúp đỡ tôi, bằng lời cầu nguyện, gương sáng, nhắc bảo. Tôi chỉ còn một việc phải làm: xác tín cần phải sám hối và quyết tâm trở về!
Bài Tin mừng hôm nay gồm hai tư tưởng chính như sau:
- Nếu không sám hối thì sẽ phải chết: Khi ấy liên tiếp xảy ra hai sự kiện: một số người Ga-li-lê đã bị quân Rô-ma giết chết khi đang dâng lễ trong Đền thờ, và mười tám người khác ở Giê-ru-sa-lem đã bị tháp Si-lô-a đổ sập đè chết. Nhiều người cho rằng những kẻ đó là người xấu nên đã bị Chúa trừng phạt. Nhưng theo Đức Giê-su đây là lời cảnh cáo chung cho mọi người: Bất cứ ai không mau mắn sám hối tội lỗi thì cũng đều phải chết như thế!
- Sám hối đồng nghĩa với việc phát sinh hoa trái: Tội của cây vả trong bài dụ ngôn không phải là sinh ra trái chua độc hại, nhưng là tình trạng bị già cỗi không sinh hoa trái. Sở dĩ cây chưa bị chặt là nhờ người làm vườn đứng ra xin chủ vườn khoan dung gia hạn thêm một năm. Nếu sau đó cây vẫn không phát sinh hoa trái thì sẽ bị chặt đi. Cũng vậy, mỗi người chúng ta cũng sẽ bị tiêu diệt nếu không biết hồi tâm sám hối bằng các việc lành bác ái phục vụ tha nhân.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-3: + Người Ga-li-lê: Là những người Do thái sống tại miền Ga-li-lê có lòng ái quốc, đã đứng lên chống lại đế quốc Rô-ma đang cai trị. + Khiến máu đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng: Câu chuyện xảy ra ngay trong Đền thờ Giê-ru-sa-lem, nơi chiên bò bị giết làm lễ vật dâng tiến Đức Chúa. Có lẽ những người Ga-li-lê này hành hương về Giê-ru-sa-lem và lợi dụng nơi tôn nghiêm để khích động dân chúng chống lại nhà cầm quyền Rô-ma. Nhưng họ đã bị tổng trấn Phi-la-tô phát hiện, sai quân đến vây bắt và giết chết cả bọn ngay trong Đền thờ, làm cho máu họ đổ ra hòa lẫn với máu các con vật mà họ vừa sát tế. + Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê đó tội lỗi hơn hết mọi người Ga-li-lê khác, bởi lẽ họ chịu đau khổ như vậy sao?: Có lẽ người thuật lại câu chuyện muốn biết Đức Giê-su có phải là Đấng Thiên Sai ái quốc mà họ đang mong đợi hay không. Nhưng sứ mệnh của Người không phải làm Vua Mê-si-a trần tục theo ý họ. Nên Người đã tránh cho biết quan điểm chính trị, mà lái vấn đề sang phạm vi tôn giáo. + “Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”: Người ta thường cho rằng: đau khổ, bệnh tật và sự chết là hậu quả của tội lỗi. Nhưng Đức Giê-su lại phủ nhận điều ấy. Theo Người những người bị giết kia không phạm tội nhiều hơn những người khác ở Ga-li-lê, nhưng đây là dịp để mỗi người suy nghĩ và hồi tâm sám hối, hầu tránh khỏi bị tiêu diệt giống như vậy (x. Ga 9,2-3).
- C 4-5: + Tháp Si-lô-a: Là ngọn tháp cao được xây trên đỉnh đồi phía Tây Nam thành Giê-ru-sa-lem. + “Mười tám người kia bị tháp Si-lô-a đổ xuống đè chết...”: Đau khổ và chết chóc không phải luôn do Thiên Chúa trừng phạt tội của con người, nhưng là cơ hội để mọi người hồi tâm duyệt xét bản thân và sám hối sửa đổi để tránh khỏi bị tiêu diệt sau này như lời Đức Giê-su tuyên bố: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”.
- C 6-9: + Một cây vả trồng trong vườn nho: Theo Cựu ước, cây vả tượng trưng cho dân Ít-ra-en (x. Gr 24,2-10), và vườn nho cũng ám chỉ dân này (x. Is 5,1-7).- Đã ba năm nay tôi ra cây vả tìm trái mà không thấy: Ba năm tương ứng với thời gian giảng đạo của Đức Giê-su. Dân Ít-ra-en được Người ưu tiên rao giảng Tin mừng Nước Trời, nhưng họ lại từ chối vì không tin Người là Đấng Mê-si-a do Thiên Chúa sai đến. + Người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái. Nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”: Khác với Tin mừng Mát-thêu (x. Mt 21,19) và Mác-cô (x. MC 11,21), Tin mừng Lu-ca cho thấy số phận của cây vả không trái được xử khoan dung hơn. Do lòng kiên nhẫn của chủ vườn là Thiên Chúa, và nhờ lời cầu bầu của người làm vườn là Đức Giê-su, mà cây vả không sinh trái là các tội nhân có thêm thời gian sám hối. Nếu họ vẫn cứng lòng không hoán cải thì mới bị tiêu diệt.
4. CÂU HỎI: 1) Người Ga-li-lê trong Tin Mừng gồm những người nào? 2) Tại sao mấy người Ga-li-lê lại bị quân Rô-ma giết chết trong Đền thờ? Tại sao Thiên Chúa quyền năng lại không can thiệp để cứu họ thóat khỏi bàn tay độc ác của quân thù? 3) Theo Đức Giê-su thì các tai ương họan nạn người ta gặp phải trong cuộc đời, phải chăng đều là hình phạt nhãn tiền của Thiên Chúa đối với tội của họ? 4) So sánh Tin mừng Lu-ca hôm nay với hai Tin mừng Mát-thêu và Mác-cô thì số phận của cây vả trong Tin mừng nào được chủ vườn đối xử khoan dung hơn? Tại sao? 5) Phải chăng tội nhân có thể lợi dụng sự khoan dung ấy của Thiên Chúa để trì hõan sám hối?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết như vậy” (Lc 13,3).
2. CÂU CHUYỆN: ĐIỀU GÌ LÀM TĂNG GIÁ TRỊ CỦA CÂY VĨ CẦM ?
Trong một buổi bán đấu giá, người điều khiển chương trình cầm một cây vĩ cầm xấu xí nứt nẻ. Ông ta nghĩ chẳng cần phí thời giờ sửa sọan cho cây đàn này làm chi. Ông giơ cây vĩ cầm lên và rao bán như sau: “Thưa quý vị, ai sẽ bắt đầu trả giá cho cây đàn này đây? Một đồng, hai đồng... Ai sẽ trả giá 3 đồng? À, một người đã trả ba đồng, rồi hai người trả ba đồng. Không còn ai nữa ư?”. Bỗng từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm từ từ bước tới gần bục và cầm lấy cây đàn đang rao bán. Ông ta lau sơ bụi bặm bám trên chiếc đàn cũ kỹ rồi siết lại các sợi dây đã bị lỏng. Sau đó, ông tấu lên một khúc nhạc du dương êm dịu. Tiếng đàn nghe thánh thót giống như bài ca của các thiên thần trên trời. Sau khi ngưng đàn, mọi người hiện diện đều nồng nhiệt vỗ tay tán thưởng. Sau đó, người bán đấu giá tiếp tục hỏi: “Bây giờ tôi phải định giá lại cây vĩ cầm có âm thanh rất tuyệt này bao nhiêu tiền cho xứng đây? Một ngàn... hai ngàn... Có ai chịu tăng lên ba ngàn không? À, một người chịu giá ba ngàn rồi. Hai người chịu giá ba ngàn. Và còn ai nữa không? Thôi dứt giá cây đàn là ba ngàn đô-la! Lúc đó một bé gái ghé sát bên tai mẹ và hỏi: “Sao lạ vậy hả mẹ? Tại sao cây đàn kia đột nhiên lại tăng giá lên gấp cả ngàn lần như thế hả mẹ?” Bấy giờ bà mẹ đã giải thích cho con gái cưng như sau: “Chính nhờ đôi tay tài hoa của vị nhạc sĩ kia mà cây đàn đã tăng giá trị lên gấp ngàn lần đấy con ạ!”.
3. SUY NIỆM:
1. Phạm tội sẽ bị phạt và sám hối sẽ được tha: Ngôn sứ Gio-na được Đức Chúa sai đến với dân Ni-ni-vê, một thành phố giàu có và cực kỳ rộng lớn để công bố lệnh trừng phạt vì tội lỗi của họ: “Còn bốn mươi ngày nữa Ni-ni-vê sẽ bị phá hủy”. Nghe tin ấy, vua thành Ni-ni-vê đã lập tức ra sắc chỉ nhuj7 sau: “Truyền cho người và súc vật, bò bê và chiên dê không được ăn uống, phải mặc quần áo vải thô, phải từ bỏ lối sống gian ác và những hành vi hung bạo… để nài xin Đức Chúa nguôi cơn thịnh nộ và bỏ ý định giáng phạt hầu chúng ta khỏi phải chết”. Thiên Chúa thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác mà quay trở lại. Người đã không giáng phạt họ nữa. Ngôn sứ Giô-na đã tức giận trước tình thương tha thứ của Đức Chúa. Ông xin Chúa cất mạng sống của ông, vì ông thà chết còn hơn sống khi thấy lời tuyên sấm của mình không ứng nghiệm. Chúa muốn cho Gio-na thấy lý do tình thương của Người nên khi Gio-na ra ngòai thành dựng một cái lều để chờ xem sự thể diễn tiến ra sao. Đức Chúa cho một cây thầu dầu mọc nhanh làm bóng che mát khiến ông rất vui. Nhưng sáng hôm sau Chúa lại khiến một con sâu cắn cây thầu dầu bị khô héo khiến Gio-na bị nắng chíếu nổi giận xin được chết đi cho xong. Đức Chúa đã hỏi Gio-na: “Ngươi thương hại cây thầu dầu mà ngươi đã không vất vả vì nó, và không làm cho nó lớn lên. Trong một đêm nó đã sinh ra, rồi trong một đêm lại chết đi. Còn Ta, chẳng lẽ Ta lại không thương dân Ni-ni-vê, một thành phố lớn trong đó có hơn một trăm hai mươi ngàn người không phân biệt được bên phải với bên trái, và lại có rất nhiều thú vật vô tội hay sao?” (Gn 3,1-4,11).
2. Không sám hối sẽ bị chết: Trong Tin Mừng hôm nay, nhân dịp mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết khiến máu đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng, Người liền nói với họ rằng: “Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê đó tội lỗi hơn hết mọi người Ga-li-lê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? Tôi nói cho các ông biết: “Không phải thế đâu ; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”. Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-a đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? Tôi nói cho các ông biết: Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”
3) Chỉ có thể sám hối nhờ ơn Chúa: Con người chúng ta thường dễ hướng chiều về đàng tội: Chỉ cần một ly rượu mạnh, một tép Hê-rô-in, một số tiền bất chính... cũng đủ làm cho nhiều người sa ngã và ngày càng lún sâu vào vũng bùn tội lỗi, tự đánh mất phẩm giá cao quý của mình. Tuy nhiên nếu chúng ta biết tin cậy vào lòng từ bi thương xót của Đức Giê-su, biết chạy đến với Người và xin Người ban ơn tha thứ thì chắc chúng ta sẽ được Người ban ơn biến đổi nên con người mới của Thiên Chúa, xứng đáng được hưởng gia nghiệp là hạnh phúc Nước Trời đời đời.
4) Về dụ ngôn “cây vả không sinh trái”: Đức Giê-su kể dụ ngôn về một cây vả không sinh hoa trái. Tuy không cho trái quả độc, cũng không gây thiệt hại cho chủ vườn... Nhưng tội của cây vả không trái là đã không sinh lợi cho chủ vườn lẽ ra phải có. Cũng vậy, nhiều người tuy không phạm tội cướp của giết người, không tà dâm ngoại tình, không dối trá lừa gạt tha nhân... Nhưng đã làm ngơ không giúp đỡ tha nhân gặp nạn… Họ đã được trao cho một nén bạc, thay vì phải làm lợi gấp đôi cho chủ, lại đem chôn giấu đi (x. Mt 25,18), thể hiện qua thái độ không quan tâm thăm viếng và chia sẻ cơm áo cho những người đói khát bệnh tật (x. Mt 25,42), để mặc cho sự gian ác hoành hành trong xã hội… Người tín hữu sống đạo hôm nay là phải tránh thái độ thờ ơ giống như cây vả không sinh trái, qua thái độ không dấn thân phục vụ những người nghèo khổ tàn tật bệnh họan…
5) “Gieo gió gặt bão.- Phạm tội sẽ bị phạt: Đây là quy luật muôn đời của nhân lọai. Nhưng có người thắc mắc: Tại sao nhiều kẻ gian ác phạm nhiều tội ác mà vẫn ngày càng giàu có sung túc mà không hề bị trừng phạt? Lời Chúa hôm nay trả lời cho vấn nạn ấy: Chính là nhờ có Chúa Giê-su, giống như người làm vườn trong bài dụ ngôn, đã đứng ra cầu thay nguyện giúp cho các tội nhân có thêm thời gian hồi tâm sám hối. Mùa Chay chính là thời gian để chúng ta tĩnh tâm cầu nguyện và quyết tâm đổi mới bằng việc thực thi công bình bác ái. Nếu chúng ta tiếp tục trì hõan thì chắc chắn sẽ bị án phạt vào giờ chết của mỗi người hay trong ngày tận thế chung tòan nhân lọai sẽ đến bất ngờ.
4. THẢO LUẬN:
1) Hãy cho biết: Tội “những điều thiếu sót” trong kinh “Tôi thú nhận” cụ thể là những tội gì?
2) Hiện nay bạn có trong tình trạng khô khan biểu lộ qua thái độ lười biếng đọc kinh dự lễ và bỏ qua các việc thăm viếng chia sẻ cơm áo giúp đỡ những người đau khổ bệnh tật thể xác tinh thần như cây vả không ra trái trong Tin Mừng hôm nay hay không?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Con thuờng hay đổ lỗi cho Thiên Chúa khi gặp phải thất bại đau khổ: Khi bị mất mùa, con đổ lỗi tại Trời không ban mưa thuận gió hòa. Khi thấy một người gặp tai ương hoạn nạn, con nghĩ họ đã bị Chúa phạt xứng với tội lỗi đã phạm!... Nhưng hôm nay nhờ Lời Chúa soi dẫn, con sẽ không còn hiểu sai lạc một chiều như vậy. Vì trong thực tế, có nhiều người tốt và đạo đức mà vẫn gặp phải rủi ro. Ngay chính Chúa vốn là Con Thiên Chúa thánh thiện và vô tội, mà cũng từng chịu bao đau thương và cuối cùng còn chịu chết nhục nhã bất công trên cây thập giá.
- LẠY CHÚA. Xin cho con luôn nhận ra tình thương của Chúa trong mọi biến cố vui buồn của cuộc đời con. Con biết rằng: Sở dĩ Chúa để con phải đau khổ là để con có dịp sám hối và lập công đền tội, hầu mỗi ngày biến đổi nên tốt hơn. Xin cho con dù gặp những điều trái ý, vẫn luôn nhẫn nại chịu đựng để được cộng tác với Chúa đền tội cho con và nhiều người. Xin cho con luôn phó thác cuộc đời trong tay Chúa quan phòng, vì biết rằng: Tất cả những điều may lành hay rủi ro xảy đến cho con, đều không ngoài thánh ý Chúa quan phòng và giúp con ngày một nên hòan thiện hơn.
"Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy".
Khi ấy, có những kẻ thuật lại cho Chúa Giêsu về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh. Ngài lên tiếng bảo: "Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy. Cũng như mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giêrusalem ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy".
Ngài nói với họ dụ ngôn này: "Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, ông liền bảo người làm vườn rằng: "Kìa, ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!" Nhưng anh ta đáp rằng: "Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi".
Với Chúa nhật hôm nay, chúng ta đã đi vào giữa Mùa Chay. Phụng vụ hối thúc chúng ta phải làm công việc quan trọng nhất trong mùa này, là thống hối ăn năn tội lỗi và trở về với Chúa. Những tư tưởng này được trình bày rõ rệt trong bài Tin Mừng và bài Thánh Thư. Nhưng chúng ta cần xem bài Cựu Ước trước, để thấy Chúa thương xót những người khổ sở như thế nào và Người sẵn sàng giải thoát họ. Ðược niềm tin như vậy, chúng ta sẽ sung sướng đón nhận Lời Chúa kêu gọi ăn năn thống hối để được cuộc hành trình mùa Chay nói riêng và đời sống nói chung của chúng ta sẽ tốt đẹp hơn cuộc hành trình của con cái Israen nơi sa mạc mà bài Thánh thư hôm nay còn gợi lại. Chúng ta hãy bắt đầu với bài Cựu Ước. 1. Chúa Muốn Cứu Dân
Bài sách Xuất Hành hôm nay thuật chuyện Chúa gọi Môsê đi cứu dân. Chính ông đã được cứu ra khỏi nước khi mới sinh được ít tháng. Hoàng đế Ai Cập bấy giờ ra lệnh giết hết con trai mới sinh của người Do Thái. Mẹ của Môsê thương con, dấu diếm trong nhà cho đến ngày không dấu được nữa. Bà bỏ con vào thúng đã trét hắc ín và đem đặt bên bờ sông, nhằm lúc Công chúa của Pharaôn đến tắm. Nàng thấy đứa bé xinh, cho tìm vú nuôi và sau đem vào hoàng cung giáo dục. Khi đã thành nhân, một hôm ra khỏi đền vua, Môsê thấy cảnh nô lệ man rợ của đồng bào mình. Ông đã giết một tên Ai Cập để bênh vực một người đồng hương; và sau đó sợ lộ chuyện, ông phải trốn đi và trở thành mục tử chăn dê cừu cho nhạc phụ là Jếthro ở đất Mađian.
Hôm nay Môsê lùa đàn vật đi ăn, ngang qua sa mạc và đến núi của Thiên Chúa. Người Do Thái miền Bắc gọi núi này là Horeb; còn người miền Nam gọi nó là Sinai. Và dân của cả hai miền đều coi nó là núi thánh và là núi của Thiên Chúa. Vì nó vẫn là nơi có điện thờ và có sự hiện diện của Chúa một cách đặc biệt, hay nó chỉ mới trở nên thánh địa kể từ ngày có câu chuyện Chúa hiện ra hôm nay với Môsê? Béthel (Kn 28,11) cũng là một nơi giống như vậy. Israen đến đó và mơ thấy có một bậc thang bắc từ đất đến trời. Ông bừng dậy và nhận ra nơi này là thánh địa. Nơi ấy xưa nay vẫn thánh, hay mới chỉ thánh từ khi Israen được Chúa hiện ra trong chiêm bao ở trên đất này? Dù sao việc Chúa hiện ra cũng đã làm cho những nơi kia trở nên thánh địa một cách khác thường. Và mỗi khi Người hiện ra, các tác giả Thánh Kinh đều nói rằng "thần sứ" của Người hiện ra chứ không dám nói rằng chính Người xuất hiện. Và từ ngữ "thần sứ Giavê" đã trở thành công thức nói về "Thiên Chúa hiện ra".
Vậy hôm nay thần sứ Giavê đã hiện đến với Môsê trong ngọn lửa giữa bụi gai. Thoạt đầu Môsê đâu có biết. Ông chỉ thấy một ngọn lửa cháy giữa bụi gai mà gai không bị thiêu hủy. Thấy lạ, Môsê muốn mon men lại gần để quan sát. Nhưng từ trong lửa giữa bụi gai có tiếng gọi: "Môsê, Môsê"; rồi bảo ông chớ lại gần vì đây là nơi thánh địa.
Ðối với chúng ta, một hình thức Chúa hiện ra như vậy tỏ ra thế nào ấy! Nhưng đối với người xưa đó là hình thức quá tự nhiên để họ khỏi khiếp đảm. Họ vẫn quan niệm thần linh ở trong lửa, trong khói. Có ngọn lửa lạ lùng giữa một bụi gai như vậy là dấu chắc chắn có thần linh muốn hiện ra với người ta. Trong tiếng Do Thái, chữ bụi gai cũng na ná như chữ Sinai. Và vì thế lửa cháy giữa bụi gai hôm nay, như báo trước một ngày nào đó lửa cũng sẽ nghi ngút trên đỉnh Sinai khi Chúa muốn ký kết giao ước với đoàn dân mà Môsê vừa dẫn ra khỏi Ai Cập. Chúa giữa bụi gai cũng là Chúa ở núi Sinai, Người đã hiện diện đến với Môsê ban cho ông những mạc khải vô cùng quan trọng.
Người tự xưng là Chúa của Abraham, Isaac và Giacob, những tổ phụ xa xôi của con cái Israen. Người đã thấy những nỗi thống khổ của họ bên Ai Cập. Người đã nghe tiếng roi của các đốc công người Ai Cập quất trên họ. Người nghe hết những tiếng kêu đau khổ của con cái Israen. Người sẽ ra tay cứu họ ra khỏi Ai Cập, và đưa họ vào Ðất Hứa chảy sữa và mật. Thế nên Người bảo Môsê: "Vậy bây giờ ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pharaô; ngươi hãy đem dân của Ta, con cái Israen ra khỏi Ai Cập".
Lệnh truyền đầy cương quyết và thật an ủi. Nó nói lên lòng thương đầy thông cảm và hiểu biết của Chúa. Nó cho thấy Chúa quan tâm săn sóc những người khổ sở. Họ là "phần riêng" của Người. Họ sẽ trở thành "sở hữu" của Người. Chúng ta muốn nhận được tình thương của Chúa, hãy đứng vào hàng ngũ những thành phần khó nghèo và khổ sở. Nhất định chúng ta sẽ nhận được nhiều tình thương cứu độ, nếu chưa dám nói là nhận được tất cả lòng thương xót của Chúa...
Mà chúng ta đâu có cần đứng vào hàng ngũ những thành phần đáng thương ấy. Bản chất chúng ta là tội nhân đầy những yếu đuối và rồi đây sẽ phải chết. Không ai khổ sở và đáng thương hơn chúng ta; chỉ có điều chúng ta dễ quên và muốn quên thân phận của mình. Chúng ta tự ái muốn che dấu tội lỗi của chúng ta. Chúng ta muốn bám vào những lớp sơn có thể che dấu được con người thật của mình. Chúng ta che thân bằng quần áo thì cũng muốn che tâm hồn và đời sống hèn hạ dưới những cái "mã" tưởng là dễ coi. Chính sự bỏ quên cũng là một bình phong và là một tấm màn phủ lên con người xấu xa của chúng ta...
Nhưng vô ích, lương tâm như một con sâu luôn rúc rỉa tâm hồn. Bài Kinh Thánh hôm nay, những Lời Chúa vừa tuyên bố, mùa Chay đang cử hành, tất cả kêu gọi chúng ta hãy giác ngộ, thú nhận tội lỗi và cầu xin ơn tha thứ. Thiên Chúa đang đến. Người đầy lòng xót thương. Người muốn cứu kẻ lầm than khổ sở. Người sai một Môsê Mới đi cứu những ai thú nhận mình yếu đuối. Ðó là Ðức Giêsu Kitô. Nhưng để hiểu biết Người, chúng ta hãy tiếp tục xem Môsê cũ.
Nghe Chúa muốn sai mình đi cứu dân. Ông xin được muốn đích danh của Người để khi con cái Israen hỏi ông biết đàng mà thưa. Nhưng không lẽ ông chưa biết danh Giavê! Và chắc chắn ông cũng đã biết con cái Israen vẫn dùng danh Giavê mà xưng tụng Chúa. Có lẽ ở đây tác giả viết như vậy là vì muốn giải thích danh Giavê và muốn cho lời giải thích này khởi sự từ Môsê và từ miệng Chúa. Người trả lời cho Môsê: Ta là Ðấng "Ta có".
Vẫn biết lời của Chúa nói ở đây khó dịch ra tiếng Việt Nam. Nhưng trong mọi thứ tiếng và ngay trong tiếng Do Thái, ý nghĩa của câu Chúa trả lời để mạc khải Danh của Người cũng thật khó hiểu. Nó khó hiểu đến nỗi có thể nói được rằng nghe rồi người ta cũng chẳng hiểu gì hơn. Và điều này chứng tỏ không từ ngữ và quan niệm nào có thể diễn tả được Thiên Chúa. Người là Ðấng Vô Danh theo nghĩa của Lão Tử, tức là theo nghĩa không thể nào gọi tên được. Mọi danh xưng đều bất lực nói về bản tính Thiên Chúa.
Nhưng khi nói Giavê Ðấng đang có, người ta cũng có thể nghĩ đến sự trường tồn của Người, đang khi hết thảy là phù vân không có nền tảng hiện hữu. Nhất là tựa vào ý nghĩa ấy, người ta có thể nghĩ rằng Giavê là Ðấng luôn hiện diện với Môsê và với dân Người để ở với họ, hướng dẫn họ, giúp đỡ họ thi hành kế hoạch của Người. Và điều này sẽ được triển khai khi cũng tác giả Xuất Hành viết: Giavê là Chúa chạnh thương, huệ ái, bao dung, đầy nhân nghĩa và tín thành (34,6). Mà quả thật mọi trang Kinh Thánh mạc khải đều nói lên lòng từ nhân của Thiên Chúa Giavê. Người không ở xa con cái loài người, nhưng hằng quan tâm độ trì họ.
Ðặc biệt trong bài sách Xuất Hành hôm nay Người tỏ ra thông cảm, lo lắng cho số phận con cái Israen. Người hiện ra với Môsê với tâm trạng ấy, thì khi Người giải thích danh xưng Giavê của Người, chúng ta có thể và có lẽ phải hiểu theo ý nghĩa từ nhân này. Và phụng vụ hôm nay cũng muốn chúng ta biết Thiên Chúa là Ðấng đầy lòng thương xót đang muốn cứu độ chúng ta. Chúng ta hãy nghe thêm lời Con của Người nói trong bài Tin Mừng để hiểu Người hơn và mến Người hơn nữa. 2. Chúa Kêu Gọi Thống Hối
Thánh Luca kể, hôm ấy người ta đưa tin cho Ðức Giêsu biết: Pilatô mới giết một số người Galilê, khi họ dâng lễ. Vụ này ai cũng biết nên tác giả không cần nói rõ thêm. Ðàng khác Pilatô đã làm nhiều vụ như vậy mà sử sách còn kể lại. Phản ứng của Ðức Giêsu không chính trị tí nào, mà chỉ hoàn toàn đạo đức. Người đáp: các ngươi tưởng đó là những người tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Không đâu, nếu không hối cải, các ngươi hết thảy cũng sẽ bị tiêu diệt như thế.
Người còn nói thêm về vụ 18 người bị tháp Silôam đổ xuống đè chết. Vụ này chắc cũng phải thời danh lắm. Ai nghe nói cũng hiểu tức thời. Nhưng 18 người kia có phải là hạng tội lỗi hơn mọi kẻ cư ngụ ở Giêrusalem không? Không đâu, Người nói: "Nếu các ngươi không hối cải, các ngươi cũng sẽ bị tiêu diệt in như thế".
Trong phản ứng của Người, chúng ta có thể nhận ra một số quan niệm Người không coi những kẻ bị tai họa bên ngoài tất nhiên phải là hạng tội lỗi hơn mọi người khác. Cũng như trong sách của Gioan, Người không coi một kẻ mù từ khi mới sinh là vì tội của nó, hay của cha mẹ nó. Ðối với Người ai cũng có tội hết, cả những người ở Galilê và cả những người ở Giêrusalem. Tất cả những người đang ở trước mặt Người và nghe Người nói đều có tội. Họ hãy thống hối và cải thiện; nếu không họ cũng sẽ bị tiêu diệt, dĩ nhiên không phải hết thảy sẽ bị giết hay tháp đè. Nhưng tất cả đều sẽ chết và chết đời đời.
Và để thúc đẩy người ta nhận thấy tình cảnh đã khẩn trương, Ðức Giêsu kể tiếp dụ ngôn về cây vả. Chủ vườn muốn chặt nó tức khắc, vì đã ba năm rồi, ông đến tìm quả mà không thấy một trái nào. Nếu bài dụ ngôn đã dừng lại ở đây, thì chúng ta chỉ thấy tính cách khẩn trương của vấn đề hối cải. Và chúng ta có thể nghĩ rằng Ðức Giêsu đã nói dụ ngôn này vào khoảng cuối đời truyền giáo, sau ba năm hoạt động nơi người Do Thái, như Mátthêu và Máccô đã kể chuyện về một cây vả tương tự vào hai, ba ngày trước khi Chúa Giêsu bị bắt nộp.
Nhưng Luca tác giả của lòng thương xót, đã không dừng lại ở lời ngăm đe tức thời như vậy. Ông cho người làm vườn đến trước mặt chủ và xin để cây vả lại một năm nữa, chờ cuốc xới và bón phân thêm xem thế nào, không chừng nó sẽ sinh quả; bằng không sẽ chặt nó đi.
Người làm vườn nào mà lạ lùng như vậy? Xét theo chuyên canh, lời ông chủ thật có lý. Ðể cây vả lại trong tình trạng ấy chỉ làm hại đất. Nhưng chính vì lạ lùng, người làm vườn kia khiến chúng ta nghĩ đến một câu trong sách của Gioan: "Cha Ta là người trồng nho". Quả thật câu nói của người làm vườn ở đây đầy lòng nhân từ. Lời người ấy buộc chúng ta phải nghĩ đến lòng thương xót kiên nhẫn của Thiên Chúa. Người muốn cuốc xới và bón phân, tức là săn sóc chăm nom để tội nhân trở lại sinh quả tốt. Kinh Thánh không thường ví dân Chúa như một thân nho sao?
Và như vậy, khi cho người làm vườn xuất hiện nài xin ông chủ vườn để cây vả lại, tác giả Luca muốn cho chúng ta thấy lòng thương xót lạ lùng của Thiên Chúa đã tỏ hiện đối với tội nhân. Và cụ thể người muốn nói đến Ðức Kitô Giêsu, Ðấng mà Chúa Cha đã sai đến để kêu gọi người tội lỗi. Ngài đang lao nhọc vất vả giảng dạy và khuyên bảo người ta. Người đang cuốc xới và bón phân. Ngài ban cho người ta một hạn chót để trở lại: một năm nữa thôi. Phải chăng Ngài đang ở trong năm thứ hai của cuộc đời truyền giáo? Ðúng hơn đó chỉ là kiểu nói ám chỉ hạn chót. Do đó tính cách khẩn trương của lời kêu gọi hối cải vẫn còn y nguyên. Nó được trình bày kèm với quan niệm về lòng thương xót kiên nhẫn của Thiên Chúa. Và như vậy luôn luôn nó sẽ có tính cách tức thời; khiến hôm nay đọc bài Tin Mừng này, chúng ta vẫn thấy đang được thôi thúc phải ăn năn hối cải và sinh quả công chính. Hơn nữa, có thể nói được rằng lời hối thúc lại càng khẩn trương khi nó lại là tiếng nói của một tấm lòng đầy nhân nghĩa, nó làm chúng ta lại nhớ tới Lời Chúa thổ lộ với Môsê trước khi sai ông đi cứu dân. bao giờ Chúa cũng từ nhân và muốn cứu độ; chúng ta có thể làm ngơ trước kêu gọi tha thiết như vậy không? Thánh Phaolô bảo chúng ta phải coi chừng. Chúng ta hãy đọc thư Người. 3. Chúa Ðã Chẳng Hài Lòng
Thánh Tông đồ không viết cho dân thời Môsê, cũng chẳng gởi cho người Do Thái thời Chúa Giêsu, mà là cho các Kitô hữu, những người đã được lãnh nhận Thánh tẩy và thường cử hành thánh lễ tạ ơn. Họ được ưu đãi như thế, nhưng cũng phải coi chừng, vì dân Cựu Ước cũng đã được những ơn tương tự, nhưng đã chết nơi sa mạc và không được vào Hứa Ðịa. Họ cũng đã thanh tẩy khi tin vào Môsê mà đi qua nước Biển. Họ đã được ăn Manna, cũng là một thứ lương thực thiêng liêng. Họ đã uống được ở Tảng Ðá giữa sa mạc chảy ra và như vậy nước ấy cũng linh thiêng vì vọt ra từ một tảng đá lạ lùng (Ds 20,8) mà truyền thống Do Thái nói rằng nó đi theo con cái Israen suốt trong thời gian nơi sa mạc. Nếu có một sự kiện như thế, thì theo Phaolô, tảng đá ấy phải là hình ảnh về Ðức Giêsu Kitô cứu thế, vì nó có sức độ trì dân khát nước như vậy. Do đó dân Cựu Ước đã có tất cả những sự thánh thiện tương tự của Tân Ước là "Thánh tẩy và Thánh thể"... nhưng họ đã chết vì đam mê (Ds 11,4-6); vì thờ quấy (Xh 32,6); vì dâm dật (Ds 25,1-5); vì thử thách Chúa (Ds 21,4-6); và vì kêu ca Người (Ds 13,25...). Tất cả những việc ấy đã xảy ra để làm gương cho chúng ta. Ðừng ai tưởng mình đã đứng vững trong sự thánh thiện. Hãy coi chừng kẻo ngã. Hãy khiêm nhường thú nhận tội lỗi để được hưởng nhờ lòng Chúa xót thương.
Trong cả ba bài Kinh Thánh hôm nay, chúng ta đã thấy lòng từ bi của Chúa khẩn thiết kêu gọi chúng ta thống hối ăn năn. Chúa Giêsu trong mầu nhiệm bàn thờ mà chúng ta cử hành bây giờ càng mong muốn chúng ta trở lại hơn nữa. Người đến không những để tha thứ mà còn để hoán cải. Chúng ta hãy dự lễ để thêm ơn Phục sinh; để cải tạo đời sống, để làm cho mùa Chay thành mùa đổi mới con người và xã hội, đáp lại lòng Chúa luôn xót thương muốn cứu độ mọi người.
(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm) ----------------------
Lc 13:1-9: 1 Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng.2 Đức Giêsu đáp lại rằng: “Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? 3 Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. 4 Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôê đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? 5 Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.”
6 Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy,7 nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất? 8 Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. 9 May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.”
Văn mạch của đoạn 13:1-9 nói về những việc phải làm để chuẩn bị cho việc phán xét sắp xảy đến (12:1-13:9). Đoạn nầy gồm hai phần và nối kết với nhau bởi chủ đề hoán cải: - Phải hoán cải để khỏi phải chết (13:1-5) và - Dụ ngôn cây vả không sinh trái (13:6-9). Đoạn 13:1-5 gồm hai phần cân đối nhau về cấu trúc và giáo huấn (13:1-3 và 13:4-5): - Một tin tức người ta nói với Chúa Giêsu; qua đó câu hỏi về tội ngầm được đặt ra cho Người (13:1.4a); - Chúa Giêsu trả lời họ bằng cách trước tiên nói lên lập trường của những người đang đối thoại (13:2.4b); - Sau cùng, Người bác bỏ lập trường ấy, và kêu gọi họ sám hối bằng một câu điều kiện có tính cách đe dọa (13:3.5). Đoạn 13:6-9 gồm: - Dẫn nhập (13:7); - Cây vả không sinh trái và quyết định của chủ vườn (13:7); - Người làm vườn xin hoãn lại việc thi hành quyết định ấy (13:8-9). Câu kết của dụ ngôn nầy cũng là một câu điều kiện có tính cách đe dọa như hai câu kết luận ở phần trên (13:3.5). Chủ đề chính của hai đoạn nầy là sự hoán cải. Do đó, từ ngữ tập trung nói đến những hậu quả tiêu cực sẽ xảy ra nếu như vẫn còn ở trong tội lỗi: “chết (13:3.5), “chặt” (13:7.9); “tội lỗi” (13:2.4), “không sinh trái” (13:6.7.9).
Một số người nào đó không xác định, vào thời điểm cũng không xác định (13:1a) thông tin cho Chúa Giêsu về những người Galilê đã chết do Philatô (13:1b), và những người chết tại Silôê do tháp đổ đè xuống (13:4a). Người Galilêa bị giết và Philatô hoà máu của họ chung với máu của tế vật làm liên tưởng đến việc người hành hương giết tế vật lấy máu để tư tế rảy máu ấy trên bàn thờ (x. Lv 1:5). Việc giết những người Galilêa nầy có thể đã xảy ra trong khuôn viên đền thờ Giêrusalem (x. 11:51), và có thể là cuộc nổi dậy của Giuđa người Galilêa (x. Cv 5:37). Tháp Silôê đổ đè chết mười tám người có thể chỉ đơn thuần là một sự cố. Đối với những người đưa tin, những sự kiện ấy rất có thể là hình phạt cho những người ấy có tội (x. 13:2a.4b). Phần Chúa Giêsu, Người không bàn cãi xa hơn về những người đã chết, mà quay sang giáo huấn những người đang sống. Trong câu trả lời, đặt ra vấn đề “tội” với những người đưa tin và kêu gọi họ sám hối, Người cho thấy họ nghĩ là những người ấy chết vì tội đã phạm; trái lại, họ không có tội nên không bị phạt chết như thế. Ở đây, Chúa Giêsu không định nghĩa bản chất của tội, mà chỉ đặt ra một so sánh về tội lỗi giữa những người đã chết và mọi người. Hai tên “Galilêa” (13:2) và “Giêrusalem” (13:4), là hai vùng chính của Israel, được nhắc đến để chỉ tất cả mọi người. Động từ “nghĩ, nghĩ tưởng”, dokeō, “Các ông tưởng rằng…” (13:2.4) thường được dùng để chỉ sự suy nghĩ của con người không đúng với điều xảy ra (x. 8:18; 12:40.51; 13:2.4; 24:37). Lập trường của Người được diễn đặt trong câu mở đầu bằng tiếng “không” (13:3.5). Tiếng khẳng định “không” (13:3.5) ngắn gọn mà rất mạnh mẽ, cho thấy họ cũng là người có tội có thể hơn những người ấy để họ thôi nhìn vào người khác. Tai ương chết người sẽ xảy đến trên họ nếu họ không hoán cải. Suy nghĩ của những người nầy cũng là suy nghĩ của các Pharisêô và kinh sư, cả dân chúng nữa (19:7). Họ thường tự phân biệt mình với những người tội lỗi để khinh rẽ và tránh xa (7:39; 18:11). Chúa Giêsu bị họ phê bình cách nặng nề khi Người đến gần những người tội lỗi ấy (5:30; 7:34). Người muốn họ xoay cái nhìn hướng về bản thân.
Sau khẳng định về thực trạng tội lỗi của họ, Người kêu gọi họ sám hối dưới hình thức đe dọa để khỏi phải chết (13:3.5). Sám hối là quay trở về với Thiên Chúa và tin vào Chúa Giêsu (x. 5:32; Cv 2:38; 3:19; 8:22). Tại sao Người phải đe dọa? Vì họ ỷ lại là con cháu của Abraham (x. 3:8), vì kiêu ngạo (10:13.15) và không tin vào Chúa Giêsu (11:32; x. 16:30). Nói tóm lại, vì họ cứng lòng. Sự đe dọa được diễn tả trong dụ ngôn cây vả (13:6-9). Ngôn sứ Isaia đã nói đến một câu chuyện tương tự về vườn nho (Is 5:1-7). Chữ “trái” xuất hiện đến ba lần (13:6.7.9) cho thấy sự cần thiết là cây vả phải sinh trái. “Trái” đây phải là “trái xứng với lòng sám hối”, “trái tốt” (3:8.9; 6:43-44). Trái lại, nếu không sinh trái, chỉ phải chặt nó đi (3:9; 13:7.9), cũng có nghĩa là phải chết (13:3.5). Thời hạn “thêm một năm” chỉ sự phán xét sẽ đến trong tương lai rất gần. Vậy, trái nơi cây vả mà người chủ tìm kiếm chính là sự sám hối Chúa Giêsu đòi hỏi ở trên.
Trước mặt Thiên Chúa, mọi người đều là tội nhân. Thay vì nhìn vào người khác, hãy nhìn vào chính mình và trở về với Thiên Chúa.
Sám hối là việc chính chúng ta phải thực hiện trong mùa Chay. Đề tài sám hối được Chúa Giê-su trình bày trong bài Tin Mừng hôm nay nhân dịp có mấy người đến kể cho Chúa nghe vài câu chuyện thời sự nóng hổi vừa xảy ra. Đó là sự kiện mấy người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết cách tàn nhẫn và sự cố tháp Si-lô-ác ở Giê-ru-sa-lem đổ xuống đè chết mười tám người. Tuy hai câu chuyện không cho biết đích xác lý do cái chết của họ, nhưng theo mạch văn chúng ta có thể hiểu những người kể chuyện cho rằng vì những người đó là những kẻ tội lỗi nên họ phải chết tức tưởi như vậy.
Chúa Giê-su, Đấng biểu lộ lòng nhân từ của Thiên Chúa không suy nghĩ theo lối của loài người. Đối với Người, cái chết của mấy người Ga-li-lê chỉ là hậu quả hành vi chính trị và cái chết của mười tám người ở Giê-ru-sa-lem là do tai nạn mà thôi. Nhưng từ những cái chết tự nhiên ấy, Chúa Giê-su muốn những người đến gặp Người và cả chúng ta ngày nay hãy nghĩ tới một cái chết đáng sợ hơn, đó là cái chết đời đời do tội lỗi và do ngoan cố không chịu thực thi việc sám hối. Rồi Người kết luận: “Nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”.
Đưa chúng ta vào đề tài sám hối, Chúa Giê-su dùng một dụ ngôn cụ thể để dạy về việc sám hối: cây vả trồng trong vườn nho. Vườn nho là sở hữu quý giá, còn cây vả chỉ là thứ cây bờ bụi, thân phận không có gì đáng kể. Cho nên cây vả được trồng “ké” trong vườn nho thì đó là một “ân huệ” và vinh dự ngoài sức tưởng tượng rồi! Hơn nữa, vả là thứ cây rất dễ ra trái dù không được tưới bón. Thế mà cây vả này vẫn lì lợm khiến người chủ vườn nho phải phàn nàn và quyết định: “Đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái mà không thấy! Hãy chặt nó đi, để làm gì cho hại đất!” Người làm vườn cho ông đã can thiệp, xin ông để cho cây vả sống thêm một năm nữa, để anh ta cố gắng chăm bón cho nó, hy vọng nó sẽ sinh trái vào năm tới.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Dụ ngôn Chúa Giê-su nói quả thực rất đơn sơ, nhưng lại vô cùng ý nghĩa. Vườn nho Chúa là Giáo Hội. Chủ vườn nho là Thiên Chúa. Chúng ta khác nào thân phận cây vả được Chúa đem vào trồng trong vườn nho của Người. Làm chi thể của Nhiệm Thể Chúa Ki-tô, chúng ta có đầy đủ điều kiện để sinh hoa trái, tiến triển để “đạt tới tầm vóc của Chúa Ki-tô”. Trong dụ ngôn này, chúng ta cũng có thể hiểu vai trò của Chúa Giê-su qua hình ảnh người làm vườn nho. Trước tình trạng chúng ta sắp bị hư mất vì hậu quả tội lỗi, sắp bị “chặt đi” vì không sám hối, Chúa Giê-su đã làm Đấng Trung gian, bầu cử cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa và làm mọi sự kể cả chịu chết trên thập giá để cứu độ chúng ta. Người vun xới cho tâm hồn chúng ta bằng những giá trị Tin Mừng. Người dưỡng nuôi chúng ta bằng Lời Chúa và Thánh Thể. Người đặt hết niềm hy vọng vào chúng ta, mong cho chúng ta “may ra sang năm có trái”. Nhưng Người cũng không thể làm gì hơn nếu tự chúng ta không muốn sám hối để sinh hoa trái thiêng liêng, rồi Người cũng đành để cho sự công minh của Thiên Chúa hành động, “chặt chúng ta đi”!
Đây là một câu truyện dụ ngôn có ý nghĩa mạnh mẽ, đòi hỏi chúng ta phải nhìn lại toàn bộ đời sống thiêng liêng đạo đức của mình. Trong mùa sám hối này, chúng ta hãy cộng tác chặt chẽ với ơn Chúa, mở lòng tiếp nhận sự vun xới và tưới bón Chúa muốn thực hiện nơi tâm hồn chúng ta. Có như vậy, chúng ta mới chắc chắn đem lại cho Chúa là chủ vườn nho những trái ngon ngọt. Mong thay!
Thế kỷ 20 đã để lại bao nhiêu những thành tích vẻ vang, những khám phá muôn mặt. Nhưng có một khám phá vẫn chưa đạt tới. Một khám phá có ảnh hưởng tới toàn thể cuộc sống cá nhân, văn hóa, xã hội v.v. Đó là khám phá về chính mình, một khám phá bắt đầu từ sám hối.
PHẢN TỈNH.
Truyền thống Do thái cũng như Việt Nam vẫn quan niệm “ác giả ác báo”, “ở hiền gặp lành”. Thấy ai bị tai họa tự nhiên người ta nghĩ “Trời phạt !”. Thấy mình vẫn an toàn, ai cũng tưởng mình vô tội hay ít tội hơn nên không bị phạt. Người giàu có chắc phải tu bao kiếp mới được như vậy. Còn những người khác nghèo khổ chỉ vì vụng tu trong kiếp trước. Đức Giêsu cũng đã đặt vấn đề thiện ác với dân chúng khi “nghe chuyện những người Galilê bị tổng trấn Philatô giết” (Lc 13:1) hoặc “mười tám người kia bị tháp Silôác đổ xuống đè chết.” (Lc 13:4) Số phận hẩm hiu của những người chết đó phải chăng là một dấu chỉ rõ ràng về tình trạng tội lỗi của họ nặng nề hơn mọi người ? Đức Giêsu trả lời dứt khoát: “Không phải thế đâu !” (Lc 13:3, 5) Nếu không phải thế, thì như thế nào ? Đó là một mầu nhiệm thuộc về chương trình quan phòng của Thiên Chúa.
Chỉ có một điều có thể biết được, đó là “nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.” (Lc 13:3, 7) Như vậy sám hối sẽ quyết định số phận và định mệnh con người. Sám hối chỉ có thể thực hiện ngay trên cõi đời này. Sám hối là gì mà quan trọng như vậy ? Sám hối là “một việc thay đổi tiêu chuẩn quyết định dựa trên việc thỏa mãn cái tôi sang việc khám phá và theo đuổi giá trị.” (Fragomeni 1993:234) Tất cả mọi rắc rối đều bắt đầu từ cái tôi. Nếu tiêu chuẩn tối hậu là cái tôi, hỏi còn có gì vô nghĩa hơn ? Càng đề cao cái tôi, con người càng tội lỗi và tha hóa. Chính vì thế, không sám hối, cuộc đời trở thành vô nghĩa. Bởi vậy, muốn sám hối, con người phải “tránh xa việc tha hóa và tội lỗi” và “trở về với Thiên Chúa hằng sống.” (Fragomeni 1993:231) Như thế sám hối là cuộc khám phá bản thân trong tương quan với Thiên Chúa. Ra khỏi tương quan này, con người sẽ đánh mất chính mình và đi vào cõi tiêu diệt. Bởi vậy, sám hối là một cuộc vùng dậy từ đống tro tàn sau khi cái tôi đã bị đốt cháy trong lửa đam mê. Đó là một hành trình gian khổ nhất và hầu như không thể vượt qua, nếu không có ân sủng Thiên Chúa. Con người chỉ có thể tìm lại chính mình và những giá trị đích thực trong sám hối. Bởi vậy, cần phải có thời gian và nghị lực đi sâu vào nội tâm.
Thế nhưng tại sao phải sám hối ? Phải chăng vì “thân tro bụi sẽ trở về bụi tro” ? Ý thức về thân tro bụi có thể đưa đến hai kết luận. Nhiều người sẽ ăn chơi trác táng, vì nghĩ rằng chết là hết. Một số sẽ sám hối, nhưng vẫn không khỏi bi quan về thân phận hư không của con người. Nếu trở về tro bụi, sám hối để làm gì ? Sẽ dẫn tới đâu ? Con ngươi hụt hẫng khi thấy cuối cùng chỉ đưa tới hư không. Bởi vậy lý do chính con người phải sám hối “vì Nước Trời đã đến gần.” (Mt 4:17) Đúng hơn, sám hối phải dẫn tới một giá trị lớn lao. Giá trị này được tìm thấy trong tương quan với Thiên Chúa đầy lòng từ bi. Chính do lòng từ bi đó, con người tìm được một vị thế và một sự hiện hữu mới, hiện hữu tới muôn đời trong Thiên Chúa.
Chỉ dừng lại những tương quan bên ngoài, người ta mới dễ so sánh mình với người khác. Càng so sánh càng chứng tỏ mình không trầm lặng đủ để đi vào cuộc sống thân mật với Thiên Chúa. Bình thường muốn biết rõ vị trí, chúng ta phải xác định tương quan giữa mình với ngoại cảnh, hay với người khác. Nhưng trong trường hợp sám hối, càng so sánh với người khác, càng không biết chính mình. Vấn đề không phải là ai tội lỗi hơn ai. Muốn biết mình không thể căn cứ vào sự may mắn trong cuộc sống. Sự sống và những bảo đảm cuộc sống đều là hồng ân Thiên Chúa. Hồng ân đó không căn cứ trên công phúc con người, nhưng hoàn toàn do thượng trí quan phòng đầy tình yêu thương của Thiên Chúa.
Tình yêu Thiên Chúa thể hiện rõ nét nhất qua lòng từ bi. “Lòng từ bi” (Lc 6:36) chính là sự “hoàn thiện” của Cha trên trời (Mt 5:48). Dụ ngôn chủ vườn nho khoan hồng cho cây-vả-không-sinh-hoa-trái diễn tả nét đặc trưng lòng từ bi đó: tính kiên nhẫn. Người làm vườn xin thêm thời gian để “vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái.” (Lc 13:8-9) Lòng khoan hậu đó dân Do thái đã chứng kiến nhiều lần trong sa mạc. Bằng chứng “tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Môsê,” (1 Cr 10: 1-2) đi về Đất Hứa. Nhưng trong tình yêu ấp ủ như thế “phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc.” (1 Cr 10:5) Chính vì tấm gương tầy liếp đó, Đức Giêsu mới kêu gọi sám hối để ngăn ngừa tai họa có thể xảy ra cho chúng ta.
LÒNG THƯƠNG XÓT VÔ BỜ.
Sám hối có sức cứu chúng ta thoát chết, vì có nền tảng tận nơi lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa. Những người Do thái đã chết vì đã “chiều theo những dục vọng xấu xa.” (1 Cr 10:6) Ngày nay cũng có những người đang say mê đầu tư vào việc phát triển văn hóa sự chết. Bằng chứng “việc nghiên cứu khoa học ngày nay với dư thừa phương tiện, tiến vào được nhiều lãnh vực, cũng đôi khi chống lại con người.” (VietCatholic 7/3/ 2001) Phá thai, đồng tính luyến ái, chạy đua vũ khí v.v đang đẩy con người vào hố diệt vong. Đó là những dục vọng xấu xa thời đại.
“Đối diện với tình huống này chúng ta có thể làm được gì ? Các phương tiện truyền thông, đời sống chứng tá cá nhân, khả năng đối thoại, khả năng lắng nghe và đưa ra đề nghị – là tất cả những phương tiện để truyền bá nền văn hóa sự sống.” (VietCatholic 7/3/ 2001) Muốn làm chứng, đối thoại và lắng nghe, trước tiên phải sám hối. Có sám hối mới thấy rõ Thiên Chúa. “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống.” (Lc 20:38) Chống lại sự sống chính là chống lại Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa đã xác quyết “Ta là Đấng Hiện Hữu.” (Xh 3:14) Đó là nền tảng vững chắc nhất cho niềm tin: trở lại với Thiên Chúa là tìm về nguồn sống đích thực và sung mãn. Thực tế, "sự sống sẽ chiến thắng: Đây là niềm hy vọng chắc chắn của chúng ta. Vâng, Sự sống sẽ chiến thắng bởi vì sự thật, điều tốt lành, niềm vui và sự tiến bộ thực sự đứng về phía sự sống. Thiên Chúa, Đấng yêu sự sống và ban phát sự sống cách quảng đại, đứng về phía sự sống." (Gioan Phaolô II, VietCatholic 7/3/2001)
Tóm lại, trong một thế giới bị văn hóa sự chết đầu độc, con đường duy nhất để cứu vãn nhân loại đó là sám hối. Nói khác, sám hối là đường dẫn đến sự sống, sự sống đích thực trong Đức Giêsu Kitô !
Sám hối là một đề tài được lập đi lập lại trong Tin Mừng. Hẳn sám hối phải là một điều quan trọng và là mối quan tâm của Chúa Giê-su khi rao giảng. Chẳng vậy mà ngay từ ngày đầu tiên rao giảng, Người đã đặt vấn đề sám hối như điều kiện không thể thiếu để tiếp nhận Tin Mừng. Không sám hối thì không thể đón nhận Tin Mừng. “Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (MC 1:15). Hôm nay bài Tin Mừng cho ta một cơ hội khác để xác nhận lại sự cần thiết của sám hối, nhất là trong mùa Chay này.
1) Những cơ hội nhắc nhở ta thực hành sám hối
Thường là những biến cố đau thương và nghịch cảnh trong cuộc đời làm cho ta đặt câu hỏi liên hệ tới sám hối. Một tai nạn xe người khác đụng vào xe mình, thế là xe phải sửa, người phải nằm bệnh viện vài ba tuần. Ồ, chắc là Chúa phạt tôi vì tội gì đó! Hoặc đứa con từ ngày sinh đến giờ cứ quặt quẹo ốm đau. Có lẽ ít năm nay chồng tôi không nhà thờ nhà thánh, gần như bỏ đạo, nên đứa nhỏ mới bị nông nỗi này... Cho nên tôi sẽ siêng năng đọc kinh lần hạt; tôi sẽ thúc giục chồng tôi đi lễ Chúa Nhật và tham gia vào công việc cộng đoàn. Rất nhiều chuyện giống như thế và đều trở thành nguyên nhân giục giã người ta sám hối, sống đạo tốt hơn.
Đó là người trong cuộc và người có con mắt đức tin biết nhìn những biến cố cuộc đời như sứ điệp Chúa muốn nói với ta. Nhưng lại có những người ngoài cuộc, thấy như vậy thì vội vã đi ngay tới kết luận: Tại người ấy đạo nghĩa bê bối nên chúa phạt. Và họ dừng lại ở đó, chứ không muốn đi xa hơn.
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta một câu chuyện tương tự. Một nhóm người đến kể cho Chúa nghe chuyện thời sự. Tổng trấn Phi-la-tô giết một số người Ga-li-lê. Thánh sử Lu-ca không ghi lại tại sao họ bị giết, nhưng có thể vì lý do chính trị. Tuy nhiên qua câu trả lời của Chúa Giê-su, ta biết chắc những người kể chuyện đã đưa ra lý do: vì những người bị giết là những người tội lỗi nên bị Chúa phạt như vậy. Họ muốn tranh luận với Chúa về một quan điểm đã có từ xưa, nên đưa câu chuyện thời sự để đặt vấn đề và thử xem quan điểm của Người như thế nào. Nhìn biến cố qua sự xét đoán nông cạn, họ không thể nào nhận ra được ý nghĩa đích thực của nó. Nếu chỉ vì tội lỗi mà đám người Ga-li-lê bị phạt như thế, thì thử hỏi chính những người xét đoán như họ có hơn gì, vì ai dám vỗ ngực xưng mình là công chính trước mặt Chúa.
Ý thức thân phận tội lỗi mình là điều kiện căn bản để bắt đầu hành trình sám hối. Nhóm người đến kể chuyện cho Chúa nghĩ rằng họ thánh thiện hơn những người bị giết. Nhưng Chúa Giê-su đã nắm lấy ngay cơ hội ấy để dạy cho họ bài học sám hối. Trước hết Người nói thẳng tới tình trạng tội lỗi của chính họ. “Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê đó tội lỗi hơn hết mọi người Ga-li-lê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu”. Nói như thế, Người đã khéo léo vạch mặt chỉ tên nhóm người đến với Người là những người còn tội lỗi hơn nhiều! Chỉ còn kết luận thôi: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”.
2) Sám hối và tin vào Tin Mừng
Tin Mừng của Chúa Giê-su được gieo vào tâm hồn ta như “cây vả trồng trong vườn nho”. Nhưng liệu Tin Mừng có được phát triển và sinh trái trong ta không? Ta có thể hình dung cảnh chủ cây vả thất vọng khi thấy đã ba năm mà nó không ra trái nào. Đó có thể cũng là hình ảnh của chính Chúa Giê-su. Ba năm trời Chúa cất bước rao giảng Tin Mừng. Vậy mà Người vẫn thường gặp cảnh “đã ba năm nay, tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy”, nghĩa là Tin Mừng vẫn không sinh hoa kết trái nơi nhiều người. Tại sao vậy? Là vì họ không sám hối, không thay đổi, vẫn khư khư giữ đầy lòng họ những “vệ đường, sỏi đá, bụi gai”, để không còn chỗ cho Lời Chúa hoạt động.
Sám hối là lời kêu gọi rõ ràng và khẩn thiết vì nó dọn đường để ta tin vào Tin Mừng. Khi sám hối, ta quay lưng lại với tội lỗi. Mà quay lưng lại tức là ta tiến về một hướng đối nghịch là hướng của Tin Mừng và tinh thần của Thiên Chúa. Do đó, sám hối và tin vào Tin Mừng là một hành động với hai động tác: bỏ đi những giá trị thế gian để thay thế bằng những giá trị Tin Mừng, bỏ đi lối sống của thế gian để thay thế bằng lối sống của Chúa Ki-tô.
Tin Mừng được rao giảng cho ta. Nhưng Tin Mừng không thể cứ đứng đấy mà chờ đợi ta. Có chờ đợi cũng là một thời gian nào đó thôi. Mỗi người có một kỳ hạn để tiếp nhận Tin Mừng và để cho Tin Mừng phát triển trong cuộc sống. Người làm vườn xin ông chủ cho cây vả thêm một năm nữa để anh ta vun xới bón phân. Kỳ hạn cuối cùng thật là minh bạch và cho thấy lòng kiên nhẫn của chủ vườn lớn lao như thế nào. Cây vả được trồng trong vườn nho là một diễm phúc, vì thực ra nó chỉ được người ta trồng nơi những vỉa đất thừa thãi! Ông chủ có chặt cây vả đi để khỏi hại đất vườn nho thì cũng đáng. Vậy mà ông sẵn sàng cho để thêm một năm nữa. Thiên Chúa kiên nhẫn với ta như thế đó.
Điều đáng buồn là ta lại không nhận ra diễm phúc của ta và không thèm lưu tâm tới “kỳ hạn cuối cùng”. Được làm phần tử của Giáo Hội, có cơ hội thấm nhuần và sống Lời Chúa, nhưng ta lại coi thường những ân sủng đó. Sau Công Đồng Vatican II, Phụng vụ Lời Chúa đã được đổi mới để ta có dịp nghe hầu hết toàn bộ Kinh Thánh. Nhưng ta để ý lắng nghe được bao nhiêu, chứ chưa nói đến việc sống Lời Chúa?
3) Sám hối là một tiến trình của đời Ki-tô hữu
Nhiều người nghĩ sám hối chỉ là đi xưng tội, tham dự những buổi hòa giải cộng đồng. Đó mới chỉ là một việc nhỏ của sám hối. Sám hối khởi đi từ một thái độ, một quyết tâm thay đổi, không phải một lần cho tất cả, nhưng là từng ngày từng giờ trong cuộc sống. Tiến trình thay đổi cả đời cho ta thời gian để loại bỏ những cái xấu và thay thế bằng những cái tốt. Mà muốn làm như vậy, ta phải vận dụng mọi sự: trí khôn để hiểu biết điều hay lẽ phải Chúa dạy, ý chí để quyết tâm thực hành, lòng mến để gắn bó với Chúa và lề luật của Người... Tuy gọi là tiến trình, nhưng cũng có lúc thụt lùi, té ngã, để rồi sau đó chỗi dậy và tiến xa thêm. Tuy sám hối là việc của ta, nhưng thực ra Chúa là Đấng khởi đầu khi Người kêu gọi ta, là Đấng trợ giúp khi Người ban ơn thánh cho ta. Ta cố gắng hết sức ta, còn Chúa mới giúp ta được tấn tới. Có thể hôm sau nhìn về hôm trước, ta không nhận ra được sự tấn tới. Nhưng nếu nhìn từ năm nay trở lại năm trước, có lẽ ta thấy được những tiến triển đáng kể.
Ta đừng sợ thời gian dài như thế thì lấy gì mà thay đổi, vì có bao nhiêu đã đổi hết rồi! Đâu có dễ dàng như vậy. “Ngày nào có đủ sự khốn khó cho ngày đó”. Cuộc sống là trường học để ta thực hành những điều học được qua Lời Chúa, những thực hành muôn hình vạn trạng giúp ta mỗi ngày một trở nên giống Chúa Ki-tô hơn.
4) Suy nghĩ và cầu nguyện
Tôi còn giữ quan niệm thông thường, cho rằng những tai nạn, những nghịch cảnh là cách Chúa phạt hay không?
Vấn đề không phải là người này tội lỗi hơn người kia, nhưng là mỗi người có biết sống sám hối hay không. Vậy lời cảnh cáo của Chúa Giê-su “nếu các ông không sám hối...” có ý nghĩa gì đối với tôi? Tôi phải làm gì trước lời cảnh cáo đó?
Tôi xét lại cách thực hành sám hối trong mùa Chay này. Tôi cần làm gì thêm để thực sự thay đổi?
Cầu nguyện
“Lạy Chúa Giê-su, sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi. Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng chung với các tội nhân, chờ Gio-an ban phép rửa. Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối chúng con. Xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình. Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau. Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Da-kêu, hạnh phúc vì được tự do và được yêu mến.” (Trích RABBOUNI, lời nguyện 89)
Những mặc khải về sứ mệnh của Đấng Ki-tô, những bài học làm môn đệ và điều kiện theo Chúa, những cảnh cáo về hậu quả do thái độ lừng khừng hoặc bướng bỉnh không muốn theo Chúa, tất cả đều diễn ra trên con đường từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem. Mọi sự sẽ được sáng tỏ ở cuối đường hầm. Ga-li-lê mới chỉ là khởi điểm của hành trình làm môn đệ, bắt đầu học biết về Chúa bằng cách nghe lời giảng của Người và chiêm ngưỡng những việc lạ Người làm. Nếu chỉ theo Chúa đến mức này, ta sẽ giống như ông Phê-rô và các bạn thôi, nghĩa là vẫn còn giữ cái nhìn quá phiến diện về con người và sứ mệnh của Chúa. Ta cũng sẽ nghe Chúa nghiêm cấm ta như Người nghiêm cấm các tông đồ không được nói ra “Thầy là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa” (Lc 9:21), vì ta chưa nhìn nhận Đấng Ki-tô theo đúng chân tính của Người. Hoặc ta cũng sẽ phải “nín thinh” không dám kể lại cho ai biết về Chúa (Lc 9:36), vì những gì ta biết vẫn chưa đủ cho ta trình bày khuôn mặt đích thực của Người. Vậy làm sao ta có thể biết, yêu và theo Chúa đây? Chúa Giê-su cho ta câu trả lời: trước hết cần phải sám hối, nghĩa là phải thay đổi não trạng, hướng đi và lối sống; tiếp đến, việc sám hối và thay đổi đó phải mang lại kết quả giống như cây vả cần được vun xới tưới bón để sinh trái.
a) Phải thay đổi não trạng thì mới có thể tiếp nhận ơn cứu rỗi
Con đường lên Giê-ru-sa-lem đưa Chúa Giê-su tới tột đỉnh của sứ mệnh, nhưng cũng là con đường đào tạo huấn luyện người môn đệ phải đi tới thái độ dứt khoát theo Người. Chúa Giê-su lên núi Ta-bô-rê cầu nguyện để được xác tín vững vàng và chấp nhận sứ mệnh “phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống lại” (Lc 9:22). Xác tín này cần cho Chúa, nhưng cũng cần cho môn đệ, vì con đường nào Chúa đi thì môn đệ cũng theo đường ấy, phép rửa nào Người chịu và nỗi khắc khoải nào Người mang cho đến khi sứ mệnh hoàn tất (Lc 12:50) thì môn đệ cũng phải trải qua giai đoạn ấy.
Khởi đầu con đường huấn luyện với xác tín về sứ mệnh, Chúa Giê-su bắt tay vào việc huấn luyện môn đệ. Huấn luyện bằng lời giảng. Huấn luyện bằng kinh nghiệm. Rồi thực tập. Rồi kiểm điểm. Tất cả đều nhắm mục đích thay đổi não trạng của người muốn làm môn đệ Chúa và giúp họ mặc lấy những tâm tình của Chúa Giê-su.
Vậy đâu là não trạng của người môn đệ? Sống tinh thần tự do là căn bản: không để bị ràng buộc bởi những quyến luyến vật chất và tình cảm, nhưng hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa là Cha nhân từ sẽ giúp ta sống tinh thần tự do. Đừng để tinh thần nô lệ cho lề luật chủ động giống như những người Pha-ri-sêu và các nhà thông luật đã sống, nhưng chính tình yêu phải động viên mọi việc ta làm. Lấy lòng nhân hậu của Thiên Chúa Cha mà đối xử với anh chị em mình. Đó là một vài điểm chính yếu từ những bài học Chúa Giê-su dạy ta trên đường lên Giê-ru-sa-lem. Xen vào giữa những bài học ấy là những thực hành cụ thể: tại Sa-ma-ri, Chúa ngăn cấm môn đệ sử dụng quyền lực để trả đũa những kẻ không đón tiếp các ngài, Chúa chữa người đau ốm vào ngày sa-bát, chạm đến những người bị phong cùi để chữa họ, tôn trọng phẩm giá các em nhỏ, chữa người mù tại Giê-ri-khô, tiếp nhận ông Da-kêu trở về... Tóm lại, nếu ta đọc từ chương 9 đến 19 sách Tin Mừng Lu-ca, ta sẽ thấy mình đang ở trong trường của Thầy Giê-su, Đấng sẽ dùng lời giảng dạy và gương sáng uốn nắn tâm hồn ta nên giống như tâm hồn của Người.
b) Cây vả sinh trái là hình ảnh của người môn đệ Chúa
Để cụ thể hóa kết quả do việc đào tạo môn đệ, Chúa Giê-su dùng một hình ảnh dụ ngôn hết sức thực tế: cây vả không ra trái. Tuy là một dụ ngôn đơn sơ, nhưng lại rất giầu ý nghĩa. Trồng cây ai mà chẳng mong nó sinh trái. Khi cây lớn tới mức đủ để sinh trái, người trồng đặt đầy hy vọng vào nó. Mùa xuân đến, lúc nó đâm chồi nảy lộc, người trồng mỗi ngày nôn nao xem xét coi đã có nụ hoa nào nhú lên chưa. Họ sẽ thất vọng biết bao khi thấy mùa xuân đã qua rồi mà cây chỉ có lá tốt um chứ không có nụ hoa nào. Vậy ta thử tìm hiểu một vài ý nghĩa của câu truyện cây vả Chúa nói.
Cây vả được chủ vườn nho trồng trong vườn nho thật là tốt số! Đối với đời sống Do-thái, cây vả thường được trồng nơi những dẻo đất thừa, không sử dụng được, là vì giá trị của cây vả quá tầm thường. Vậy mà nó lọt được vào vườn nho, thì ta có thể hiểu được lòng quảng đại của chủ vườn nho như thế nào rồi. Ba năm là thời gian quá đủ để cây vả sinh trái. Nhưng ba năm cũng gợi cho ta ý tưởng về ba năm Chúa Giê-su giảng dạy, huấn luyện ta. Vậy mà sau thời gian ấy vẫn không có gì thay đổi nơi ta. Ta vẫn ngoan cố không chịu sám hối, thay đổi não trạng thế gian trong ta để mặc lấy não trạng của Chúa Giê-su, chẳng khác gì cây vả lì lợm không chịu sinh trái. Chủ vườn ra lệnh chặt phứt nó đi cho rồi. Nhưng người làm vườn khẩn khoản xin ông thư thả, cho thêm một mùa nữa để anh ta chăm sóc. Anh vẫn còn đặt hy vọng vào cây vả. Ta cũng có thể đoán được ông chủ vườn cũng bằng lòng gia hạn thêm một năm nữa. Nếu ta cứ tạm hiểu chủ vuờn nho là Thiên Chúa Cha, vườn nho là Giáo Hội, người làm vườn là Chúa Giê-su hoặc những người có bổn phận dạy dỗ ta, việc vun xới tưới bón là những sinh hoạt giúp ta phát triển đời sống đức tin, và quan trọng nhất, cây vả chính là ta, thì ta sẽ thấy dụ ngôn có ý nghĩa đối với ta như thế nào.
Dụ ngôn cây vả không sinh trái chuyên chở một sứ điệp có tính cách đe dọa, nhưng là đe dọa của một người cha nhân hậu lúc nào cũng ngóng đợi đứa con hoang đàng trở về. Nhưng nếu ta vẫn một mực ngoan cố đến cùng thì số phận của ta còn bi đát hơn cả những người Ga-li-lê bị Phi-la-tô giết và tám người bị tháp Si-lô-ê đổ đè chết nữa! Cho nên ta cần dứt khoát sám hối và lên đường theo Chúa, vì Chúa Giê-su cũng dứt khoát khi Người khẳng định: “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán” (Lc 11:23).
c) Suy nghĩ và cầu nguyện
Sám hối (metanoia) nghĩa là thay đổi não trạng của mình cho hợp với não trạng của Chúa Giê-su. Tuy là Ki-tô hữu, nhưng tôi đang có não trạng nào? Não trạng ấy biểu lộ qua lối suy nghĩ nào và qua cách hành động nào của tôi? Thay đổi não trạng là việc khó. Vậy tôi phải bắt đầu từ đâu?
Tôi sẽ làm gì để được biến đổi trong trường học của Chúa Giê-su? Lòng yêu mến có phải là động cơ chính thúc đẩy tôi thay đổi không? Tại sao?
Chúa Giê-su có thể tìm được hoa trái nào nơi đời sống đức tin của tôi, sau khi Người trồng tôi trong Giáo Hội Người và nuôi dưỡng tôi bằng những của ăn thiêng liêng?
Lời nguyện:
“Lạy Chúa Giê-su, xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ, nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói, dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con. Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa, xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ. Xin dạy con sự hiền hậu để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân. Xin dạy con sự khiêm nhu để con dám buông đời con cho Chúa. Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm, vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài, hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. A-men. (Trích RABBOUNI, lời nguyện 14)
Mùa chay kêu gọi chúng ta hoán cải. Nhưng hoán cải một cách tích cực không những là sám hối, nhưng còn là và nhất là sinh hoa trái bằng những việc bác ái, phúc đức như lời cầu nguyện của Chúa Nhật hôm nay: “Khi chuyên cần làm các việc đạo đức, thực hành bác ái…họ đổi mới tâm hồn”.
Bài này trình bày hai điểm:
1. Hãy nhìn vào chính mình; 2. Hãy sinh hoa trái.
1. Hãy nhìn vào chính mình
a/ Từ những câu chuyện thời sự. Có mấy người đến kể với Đức Giêsu chuyện tổng trấn Philatô giết nhiều người khi họ đang dâng của lễ, cũng như chuyện một số người bị tháp Silôa đổ xuống đè chết. Không nói ra, nhưng thâm tâm họ nghĩ rằng đó là kẻ có tội (c. 2.4).
Trong cuộc sống rao giảng, Đức Giêsu có cái tài là từ những câu chuyện đời thường, Người rút ra những bài học để răn dạy người ta. Ở đây cũng thế, từ cái nhìn về người khác như những kẻ tội lỗi, Chúa dạy họ tốt hơn hãy nhìn vào chính mình thì hơn.
b/ Con người ta thường có khuynh hướng nhìn người khác và thấy họ là kẻ có tội. Văn hào Lafontaine có kể một ngụ ngôn như sau: “Mỗi người đều mang trên mình hai cái bị: một cái trước ngực và một cái sau lưng. Cái bị trước ngực chứa đựng những khuyết điểm của kẻ khác và dễ thấy, còn cái bị sau lưng đựng những khuyết điểm của mình nên không sao thấy được”. Chính vì chỉ thấy khuyết điểm của kẻ khác, cho nên người ta cũng dễ đưa ra những lời phê phán, như những người được nói đến trong Tin mừng hôm nay.
c/ Cục diện sẽ thay đổi, nếu chúng ta biết nhìn vào mình. Thói thường, con người dễ nhìn thấy “cái rác” trong mắt người (=những khuyết điểm nhỏ), còn “cái xà” trong mắt mình (=những tội to) thì không thấy người hoặc không muốn thấy. Chúa dạy trước tiên hãy lấy cái xà ra khỏi mắt mình. Nếu con người biết mình là ai thì họ không mạnh miệng kết án kẻ khác nữa.
Chuyện đi xem thú dữ. Bị thu hút bởi một trang quảng cáo ở cổng sở thú New York: “Hãy tranh thủ đến mà xem một con thú dữ nhất trên thế giới”, thiên hạ nườm nượp kéo nhau đi xem. Muốn xem được mặt mũi con sư tử ấy, mỗi người buộc phải bước vào một căn phòng. Khi bước vào đó, họ chẳng thấy con sư tử nào cả mà chỉ thấy mặt mình trong gương cùng với một dòng chữ được ghi trên đó rằng: “Vâng, có khi bạn hay tôi chính là con thú dữ ấy !”. Ở đời người ta thường nói: “Sáng việc người, tối việc mình” là thế !. Mùa Chay, chúng ta hãy cầu nguyện như Thánh Aâutinh: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa và xin cho con biết con”. Và nếu chúng ta biết mình, chắc hẳn đó là bước đầu tiên của sám hối.
2. Hãy sinh hoa trái
a/ Một trong những chủ đề chính của Mùa Chay là sám hối. Ngày xưa, khi tỏ lòng sám hối, người ta rắc tro trên đầu, mặc bao bị. Đó cũng là một hình thức tỏ lòng thống hối. Tuy nhiên, Chúa vẫn thích người ta “xé lòng hơn xé áo”, bởi lòng dạ con người thường là nơi trú ẩn của tội lỗi: gian tham, độc ác, lăng loàn, ghen tị, giết người…”Xé lòng” nghĩa là phá bung nơi ẩn núp của tội.
b/ Ngoài ra, sám hối tích cực như Chúa nói hôm nay là hãy “sinh hoa trái”, tức là làm những việc lành phúc đức.
Ông chủ trong Tin mừng có điểm hơi vô lýï là tìm trái vả vào lúc trái mùa, rồi khi không thấy trái thì đòi chặt phăng nó đi.
Tuy nhiên, nếu cây vả ấy được hiểu là con người thì ta chẳng có lý gì mà thưa với Chúa rằng mùa này không phải là mùa ra trái, mùa này là mùa nghỉ làm việc lành phúc đức.
Mùa Chay chúng ta tham gia “ngắm rằng”. Trong một ngắm có câu như thế này: “Con chim kia còn biết mùa làm tổ…”, huống hồ nữa con người lại không biết mùa làm việc lành phúc đức.
Kết luận
Trong Mùa Chay, Giáo Hội mượn lời Chúa để kêu gọi chúng hãy sám hối, bằng cách tăng cường những việc bác ái, những việc làm phúc đức. Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II trong sứ điệp Mùa Chay năm nay cũng dạy như thế: “Mỗi lần các ngươi làm một việc gì cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40). Chúa muốn nói đến những việc bác ái, những hành động yêu thương.
Hình ảnh chính trong bài đọc thứ nhất hôm nay là Môsê, sau khi ông đã bỏ trốn khỏi Ai Cập đến lánh nạn tại vùng đất Madian. Oâng chấp nhận cuộc sống du mục đơn độc và ở đấy ông chăn chiên cho nhạc phụ là Giêtrô. Đời sống êm ả và bình lặng cho tới khi ông cảm nghiệm được sự biểu lộ của Thiên Chúa trong bụi gai bốc cháy. Môsê nhận ra sự mạc khải của Thiên Chúa yêu thương và lo lắng cho con người. Một Thiên Chúa quan tâm tới việc giải phóng và cứu độ trọn vẹn. Trong suốt quãng đời còn lại của Môsê ông càng ngày càng nhận ra chỉ có Thiên Chúa mới là vị mục tử duy nhất tốt lành và cao cả tuyệt đối. Biến cố Vượt qua sẽ là hình bóng của thập tự giá nơi Đức Kitô tự hiến cho đoàn chiên của Ngài (Yn 10, 11).
Bụi gai bốc cháy giữa sa mạc hoang vu là khởi điêûm của cuộc chuyển mình và thay đổi cuộc đời của Môsê. Trước tiên Thiên Chúa đào luyện tôi tớ của Ngài trong trường học khiêm tốn, thấp hèn. Khi Môsê tiến tới bụi gai để tìm hiểu tự sự thì ông đã phải đối diện với sự thiêng thánh của Thiên Chúa. "Ngươi đừng đến gần đây, hãy cởi dép ở chân ngươi ra, vì chỗ ngươi đang đứng là nơi thánh" (Ex 3, 5). Từ đó, Môsê không còn nghĩ rằng Pharaoh mới là một mẫu mực của uy nghi và vĩ đại nhưng chỉ có Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, và Thiên Chúa của Jacob Đấng đã xuất hiện với ông. Tiêu chuẩn uy nghi và vĩ đại xưa cũ của Pharaoh đã lỗi thời và trước mắt ông tiêu chuẩn mới còn vô cùng vượt xa ngoài trí tưởng của con ngươi ông.
Thiên Chúa đoan chắc với ông rằng Ngài đã thấy hết mọi nỗi cơ cực và đau khổ của dân Ngài. Thiên Chúa đã không hề bỏ rơi con cái của Abraham và Ngài đến để "cứu chúng thoát khỏi tay người Ai Cập và đưa ra khỏi đất ấy đến miền đất tốt tươi rộng lớn, đất tràn trề sữa và mật" (Ex 3, 8). Sứ mạng của Môsê là đến loan báo cho dân của Ngài rằng Thiên Chúa "chuộc mạng ngươi từ chỗ vong thân. Chúa thi hành những sự việc công minh, và trả lại quyền lợi cho người bị áp bức" (Tv 103, 4,6).
Thiên Chúa đã tỏ đường lối Ngài cho Môsê và sai ông trở lại đất Ai Cập. "Ngươi hãy đi, Ta sai ngươi đến với Pharaoh để đưa dân Ta là con cái Israel ra khỏi Ai Cập" (Ex 3, 10). Thiên Chúa hứa với ông. Sự mạc khải Danh Thiên Chúa đã trở nên dụng cụ quyền năng cho Môsê. "Đấng Tự Hữu sai tôi đến với anh em" (Ex 3, 14). Chân lý này đã khiến ông nên kiên cường và vững lòng trước mọi nghịch cảnh, khắc phục mọi yếu hèn nơi con người ông. Oâng đã có thể cất cao đầu và hiên ngang thi hành ý định của Thiên Chúa. Ân sủng của Thiên Chúa đã ở với ông trong suốt hành trình ấy.
Các ông tưởng mấy người Galilê bị giết, khiến máu đổ hòa lẫn với tế vật đang dâng vì tội lỗi họ ư ? Không phải thế. Nếu các ông không sám hối thì cũng xẩy ra như thế. Cũng như 18 người bị tháp Siloác đổ xuống đè chết là đáng tội ư ? Không phải thế, nếu các ông không sám hối thì cũng chết như vậy (Lc.13:01-09).
Một nhà thiên văn mới sáng chế ra một chiếc kính viễn vọng. ông để trên sàn gác để đêm đêm nhìn ngắm tinh tú trên bầu trời. Một đêm kia ông khám phá ra một con rồng xanh trên mặt trăng. Ông báo cho bạn bè biết, thế là người ta ùn ùn kéo đến thưởng lãm và tán thưởng. Thế nhưng có một ông bác học già tuổi đến xem qua rồi ông lắc đầu. Ông xem rất kỹ, cuối cùng ông khám phá ra sợi chỉ xanh mắc vào ống kính. Ông nói với bạn:
- Hãy quan sát lại bộ kính của anh xem có gì trục trặc không.
Ống viễn vọng kính là hình ảnh cái nhìn của chúng ta. Chỉ vướng mắc một vật nhỏ vào là làm cho mắt chúng ta nhìn cảnh vật ra khác. Con mắt thiển cận nhìn cảnh vật ra đen tối, mờ ảo, con mắt sáng quác nhìn cảnh vật ra vĩ đại, quan trọng. Vì thế Chúa nhắc khéo:”Muốn nhìn cái đà trong con mắt anh em thì hãy lấy cái rác ra khỏi mắt mình trước đã”. Đừng “suy bụng ta ra bụng người”, nhìn mặt trăng và sợi chỉ hóa ra con rồng xanh, lấy lòng mình mà nhìn lòng người khác dễ bị lệch lạc lắm.
Quan niệm của Chúa thì khác, Ngài xác định họ không phải là kẻ tội lỗi, Ngài dùng những biến cố khác nhau như tiếng chuông mà cảnh tỉnh cho chính bản thân mỗi người. Thay vì kết án người khác, chúng ta phải kết án chính bản thân mình, để rồi từ đó ăn năn sám hối mà quay trở về cùng Chúa. “Nếu các ngươi không ăn năn thìcũng sẽ bị chết thê thảm như thế”. Hãy biết đấm ngực mình mà ăn năn: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng”.
Có như thế, những biến cố xẩy đến trong đời mới đem lại lợi ích cho chúng ta, mới cảnh tỉnh mình khỏi tình trạng tội lỗi. Chính những biến cố ấy là lời Chúa mời gọi chúng ta trở nên trọn lành thánh thiện.
Lạy Chúa, cây vả không sinh hoa trái sẽ bị chặt đi, xin cho mỗi người chúng con biết nhìn kỹ, nghĩ kỹ, đến việc nở sinh hoa trái dồi dào, để không bị Chúa loại trừ.
“Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, ông liền bảo người làm vườn rằng: “Kìa, đã ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì! Nhưng anh ta đáp rằng: “Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa. Tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân, may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi” (Luc 13:6-9).
Qua trích đoạn Tin Mừng trên, chúng ta nhận thấy rất rõ ràng về mối tương quan giữa Thiên Chúa, con người, và Đức Kitô. Vai trò trung gian của Đức Kitô được nhận rõ qua hình ảnh người làm vườn vừa siêng năng, vừa có trách nhiệm. Dĩ nhiên, cũng là người làm vườn tốt. Nếu Thiên Chúa là chủ vườn, thì cây vả chính là hình ảnh của nhân loại, và Đức Kitô là người làm vườn.
Như người chủ vườn mặc dù không mấy vui khi thấy cây vả không sinh hoa trái, tuy nhiên, ông vẫn nhẫn nại chờ đợi đến 3 năm. Thiên Chúa hẳn cũng không vui gì khi thấy con người vẫn mải xa ngài, quay lưng lại với ngài, nhất là không sinh hoa trái tốt về đời sống tâm linh.
Cũng như người chủ vườn khi trồng cây vả, ông muốn nó sinh hoa, kết trái. Thiên Chúa khi đưa chúng ta vào đời, ngài cũng muốn chúng ta mang lại những hoa trái thiêng liêng tốt lành. Và cũng như người chủ vường đã cắt đặt một người làm vườn chăm chỉ và siêng năng lo chăm bón cây quý ấy, Thiên Chúa cũng đã sai Con Ngài là Đức Kitô làm công việc giải thoát và cứu con người khỏi những khó khăn và trói buộc của tội lỗi, của đam mê và tính xấu, những cái làm cho thui chột và không đem lại hoa trái tinh thần của đời sống Kitô hữu.
Tình thương.
Thời giờ.
Ơn Cứu Chuộc.
Tuy không còn nghi ngờ gì về tình thương Thiên Chúa dành cho mỗi người chúng ta và cho toàn thể nhân loại. Một tình thương bao trùm vũ trụ. Một tình thương không dừng lại ở tội lỗi của con người, như lời Ngài đã thề hứa sau khi con người đầu tiên là Adong và Evà đã sai phạm giới luật. Và mặc dù buồn lòng vì thấy con người phủ nhận tình thương, chối bỏ mối thân tình và quay lưng lại với ngài, Thiên Chúa vẫn không nỡ loại bỏ con người như ngài đã loại bỏ Lucifer. Chúng ta hãy nghe ngài nói với Đức Kitô qua môi miệng người chủ vườn nói với người làm vườn: “Kìa, đã ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có.” Nhưng khác với người chủ vườn, Thiên Chúa không muốn nói câu: “Hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!”
Và mặc dù không nói “hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!” nhưng Chúa Giêsu cũng đã hiểu ý và đã đứng ra hòa giải con người tội lỗi chúng ta với Cha ngài. Bởi ngài biết rằng thời gian có mặt trên dương thế của mỗi người, tuy là thời giờ để lập công, để sinh hoa trái tốt, nhưng nó lại rất giới hạn. Nó không phải là một chuỗi ngày dài vô tận để con người lãng phí, và quên sót bổn phận sinh hoa kết trái của chính mình.
Thiên Chúa liệu có mất bình tĩnh như ông chủ vườn đã làm đối với cây vả không? Chắc là không. Không như ông chủ tỏ vẻ bất mãn với cây vả và muốn loại bỏ nó, nhưng con người lại là những kẻ bất nhẫn với chính mình. Nó sẽ tự mình tách mình ra khỏi tình yêu Thiên Chúa một khi nhận ra mình đã không trung thành, không sống xứng đáng với ơn gọi cao cả của mình. Và đó là điều tại sao người làm vườn, tức là Đức Kitô phải xin với Cha mình khoan dãn.
Người làm vườn đào đất, tưới bón. Chúa Giêsu thì trở nên chính phân bón cho phần rỗi và ơn cứu chuộc của con người.
Thật vậy, ơn cứu chuộc đã đến với con người và nhân loại qua cái chết của Chúa Giêsu trên thập tự giá. Không phải là phân bón. Không phải là nước. Chúa Giêsu đã hy sinh chính mạng sống mình và trở thành phân bón cho cây phần rỗi chúng ta. Và máu ngài đổ ra trên thập tự giá là dòng nước mát tưới vào những gốc cây khô cằn của mỗi tâm hồn.
Thánh ký không nói đến mùa vả tới, và đây chính lại là một mầu nhiệm mà chúng ta cần phải tự mình suy nghĩ. Và đó cũng là câu hỏi mà chính mỗi người chúng ta phải tự hỏi lấy mình. Tình thương Thiên Chúa còn đó, luôn chờ đợi. Giá cứu chuộc của Chúa Giêsu đã đủ để tới gội những gốc cây cằn cỗ là tâm hồn chúng ta. Nhưng liệu chúng ta có muốn đón nhận, và có sinh được hoa trái tốt hay không?!!!
Câu nói bất hủ của Thánh Giê-rô-ni-mô, linh mục tiến sĩ Hội Thánh “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Ki-tô” cũng có thể được hiểu rộng ra là “Không biết Thánh Kinh là không biết Thiên Chúa và không biết cả chính bản thân chúng ta nữa.” Thật vậy những câu Lời Chúa trong Sách Xuất Hành mà Phụng Vụ Lời Chúa cho chúng ta đọc hôm nay cho chúng ta biết rất nhiều về Thiên Chúa. Đồng thời cũng cho chúng ta biết về bản thân chúng ta là dân riêng của Người.
Nếu chúng ta đối chiếu hoàn cảnh chính trị xã hội của dân Ít-ra-en dưới chế độ nô lệ của Ai-cập với hoàn cảnh chính trị xã hội của nhiều dân tộc trên thế giới ngày nay, trong đó có Việt Nam, thì chúng ta sẽ thấy rõ tính thời sự và tầm quan trọng của mạc khải trong Sách Xuất Hành: Thiên Chúa là Đấng bênh vực và giải thoát con người khỏi cảnh nô lệ và áp bức! Cũng có nghĩa là Thiên Chúa luôn đứng về phía người nghèo, chống lại những kẻ bóc lột, đàn áp và loại trừ họ khỏi cuộc sống và xã hội.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Xh 3, 1-8a.13-15): Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em.
1 Bấy giờ ông Mô-sê đang chăn chiên cho bố vợ là Gít-rô, tư tế Ma-đi-an. Ông dẫn đàn chiên qua bên kia sa mạc, đến núi của Thiên Chúa, là núi Khô-rếp. 2 Thiên sứ của Đức Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Mô-sê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi. 3 Ông tự bảo: "Mình phải lại xem cảnh tượng kỳ lạ này mới được: vì sao bụi cây lại không cháy rụi? "4 Đức Chúa thấy ông lại xem, thì từ giữa bụi cây Thiên Chúa gọi ông: "Mô-sê! Mô-sê!" Ông thưa: "Dạ, tôi đây!" 5 Người phán: "Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh." 6 Người lại phán: "Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp." Ông Mô-sê che mặt đi, vì sợ nhìn phải Thiên Chúa.
7 Đức Chúa phán: "Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. 8 Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật… 10 Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập." 11 Ông Mô-sê thưa với Thiên Chúa: "Con là ai mà dám đến với Pha-ra-ô và đưa con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập?" 12 Người phán: "Ta sẽ ở với ngươi. Và đây là dấu cho ngươi biết là Ta đã sai ngươi: khi ngươi đưa dân ra khỏi Ai-cập, các ngươi sẽ thờ phượng Thiên Chúa trên núi này."
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Cr 10,1-6.10-12): Đời sống của dân Ít-ra-en với ông Mô-sê trong sa mạc đã được chép lại để răn dạy chúng ta. 1 Thưa anh em, tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì về việc này: là tất cả cha ông chúng ta đều được ở dưới cột mây, tất cả đều vượt qua Biển Đỏ. 2 Tất cả cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Mô-sê. 3 Tất cả cùng ăn một thức ăn linh thiêng, 4 tất cả cùng uống một thức uống linh thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Ki-tô. 5 Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc. 6 Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta.
10 Anh em đừng lẩm bẩm kêu trách, như một số trong nhóm họ đã lẩm bẩm kêu trách: họ đã chết bởi tay Thần Tru Diệt. 11 Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này. 12 Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã.
2.3 Trong bài Tin Mừng (Lc 13,1-9): Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy. 1 Lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng. 2 Đức Giê-su đáp lại rằng: "Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao? 3 Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. 4 Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? 5 Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy."
6 Rồi Đức Giê-su kể dụ ngôn này: "Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, 7 nên bảo người làm vườn: "Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất? 8 Nhưng người làm vườn đáp: "Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. 9 May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi."
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI KINH THÁNH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa
3.1.1 Bài đọc 1 (Xh 3, 1-8a.13-15) là một trong những đoạn văn hay nhất của Sách Xuất Hành, vì đoạn văn này tường thuật việc Thiên Chúa tự mạc khải mình cho nhân loại qua ông Mô-sê, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng việc làm:
Trước hết Thiên Chúa tỏ lộ Ngài là Đấng Thánh, Đấng Siêu Việt, Đấng Vô Hình, Đấng Tự Hũu mà con người không nhìn thấy, không thể tiếp cận trực tiếp (mà không phải chết!).
Thứ đến, Thiên Chúa cho thấy Ngài là Đấng quan tâm đến cuộc sống của những người Ít-ra-en nên Người nghe thấy tiếng kêu than của họ.
Sau cùng Thiên Chúa mạc khải là Đấng không thể ngồi yên trước nỗi thống khổ của con dân Ít-ra-en nên nẩy ra sáng kiến cứu thoát, giải phóng họ khỏi cảnh nô lệ Ai -cập, qua một chương trình và kế hoạch mà chính Người thực hiện qua trung gian và công cụ là ông Mô-sê, tôi tớ của Ngài.
3.1.2 Bài đọc 2 (1 Cr 10,1-6.10-12) là những lời giãi bày chí lý của Thánh Phao-lô Tông đồ nhằm khuyên nhủ các tín hữu Cô-rin-tô hãy biết rút ra bài học bổ ích từ lịch sử của dân Chúa, từ cách sống của những người Ít-ra-en trong thời Xuất Hành được xem là cha ông của họ trong dòng dõi những kẻ tin vào Thiên Chúa.
à Trong đoạn 1 Cr 10,1-6.10-12 trên, chúng ta thấy Thiên Chúa đã ân cần và rộng tay ban phát nhiều ơn huệ như thế nào cho những người Ít-ra-en: Người đã giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ Ai-cập, đã nuôi sống họ trong suốt 40 năm hành trình xuyên qua sa mạc về Đất Hứa, đã tỏ ra quyền năng và luôn hiện diện bên họ. Thế nhưng nhiều người trong số họ vẫn không tin vào tình thương và quyền năng của Người, vẫn lẩm bẩm than trách mỗi khi gặp khó khăn trở ngại, vẫn quay lưng lại với Người để đi tìm các tà thần…
3.1.3 Bài Tin Mừng (Lc 13,1-9) là tường thuật của Lu-ca về hai quan điểm khác nhau trước một sự kiện cụ thể vừa xẩy ra. Sự kiện đó là những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết chết khi họ đang tiến hành việc dâng của lễ cho Thiên Chúa. Theo quan điểm của những người Do-thái (tiêu biểu là các kinh sư và Pha-ri-sêu) thì những người Ga-li-lê kia bị giết là vì họ là những người tội lỗi, nên bị Thiên Chúa trừng phạt (bằng bàn tay của Phi-la-tô). Còn theo Chúa Giê-su thì sự việc không thể giải thích như thế. Chúa Giê-su không đưa ra một giải thích nào mà chỉ nhân đó lên tiếng cảnh cáo những người Do-thái là hãy coi chừng: đừng kiêu căng, tự phụ mà xem thường và kết án người khác; đừng suy diễn lung tung theo sự hiểu biết hẹp hòi của mình mà vi phạm đến quyền bá chủ lịch sử của Thiên Chúa. Điều quan trọng mà Thiên Chúa mong đợi ở họ là họ phải có đời sống tốt lành, thánh thiện như Giới Răn và Lề Luật đã dạy. Chúa Giê-su kể dụ ngôn cây vả để khéo léo và tế nhị nhắc nhở họ điều quan trọng ấy.
à Qua đoạn Phúc Âm Lc 13,1-9 này, Chúa Giê-su cho thấy ý nghĩa và mục đích của cuộc sống con người, nhất là của những kẻ tin, là sinh hoa kết trái tức sám hối, khiêm nhường và tin vào Tin Mừng. Cây vả không sinh trái thì sớm muộn gì cũng sẽ bị chặt đi và ném vào lửa, vì nó sống chỉ làm hại đất. Kẻ tin không sinh trái thì sớm muộn gì cũng bị loại trừ vì những người ấy chỉ làm uổng công tình thương và quyền năng và ơn huệ của Thiên Chúa mà thôi!
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa
(1) Nếu chúng ta chú ý vào bài đọc 1 thì sứ điệp của Lời Chúa sẽ là: "Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật… Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập."
(2) Còn nếu chúng ta chú ý vào bài Phúc Âm thì sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là chúng ta hãy sinh hoa kết trái trong đời sống đức tin vì chính Chúa Giê-su đã cảnh cáo: "Nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy."
Hai sứ điệp trên không hề mâu thuẫn nhau, trái lại bổ sung cho nhau vì thật ra không hoa quả sám hối nào tốt đẹp cho bằng những hành động giải thoát cứu vớt những người bé nhỏ và chịu thiệt thòi trong xã hội loài người.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa
Là Đấng gần gũi với con dân của Người là Ít-ra-en và tất cả chúng ta; Người quan tâm chăm sóc, cứu vớt con dân của Người là Ít-ra-en và tất cả chúng ta. Nhưng Thiên Chúa cũng là Đấng đòi hỏi mỗi một người phải sinh hoa trái tốt lành thánh thiện trong đời sống đức tin là tham gia vào việc giải thoát anh em đồng loại khỏi cảnh nô lệ.
4.2 Thực thi sứ điệp của Lời Chúa
Tôi xét mình xem
* Tôi có tuân phục thánh ý Chúa và thực thi sứ mệnh Chúa giao là bênh vực và giải thoát những người bị bất công và áp bức, như ông Mô-sê không?
* Tôi có biết rút ra bài học của lịch sử, của quá khứ mà sống biết ơn và gắn bó với Chúa Giê-su Ki-tô, như lời nhắn nhủ của Thánh Phao-lô không?
* Tôi có sống ăn năn sám hối, khiêm nhu và thánh thiện, như lời Chúa Giê-su nhắc nhở các kinh sư và Pha-ri-sêu trong Phúc Âm không?
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
5.1 «Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng! Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi dân, mọi nước trong thế giới hôm nay để ai nấy đều nhận biết rằng Thiên Chúa là Đấng luôn bênh vực những người nghèo khổ, bệnh tật, bị bất công và áp bức trong xã hội loài người!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.2 «Dạ, tôi đây!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cách riêng cho Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế, để các ngài noi gương bắt chước ông Mô-sê mà mau mắn đáp lại tiếng Chúa gọi và chu toàn sứ mạng giải cứu con người khỏi mọi cảnh áp bức, bóc lột, bất công!
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.3 «Bây giờ, ngươi hãy đi!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các Ki-tô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, để ai nấy biết sử dụng tài năng, của cải và thời giờ Chúa ban cho mình, để giải thoát những người đang phải sống trong cảnh nô lệ hay ngục tù vì bất công xã hội.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
5.4 «Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập!» Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho tất cả những người bênh vực công lý, xây dựng hòa bình và yêu thương giữa người với người, giữa quốc gia với quốc gia, để họ được ơn hăng say tích cực trong sứ mạng cao cả mà Thiên Chúa đã giao cho.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhậm lời chúng con!
Mẹ Angelica, người thành lập hệ thống truyền hình Lời Vĩnh Hằng ở Birmingham Alabama, đã cho biết rằng chứng đau chân và lưng đã khiến bà phải liệt chân và phải dùng cạp từ 40 năm nay vừa được chữa khỏi sau một buổi cầu nguyện có lần chuỗi mân côi vào cuối tháng giêng vừa qua.
Mẹ Angelica đã tiết lộ như thế vào giờ sinh hoạt giới trẻ trên đài truyền hình Lời Vĩnh Hằng. Cho đến một ngày trước buổi phát hình hôm đó, mẹ Angelica luôn phải ngồi mỗi lần xuất hiện trên đài. Nhưng trong giờ sinh hoạt giới trẻ này thì bà đã có thể đứng và đi lại được mà không cần ai đỡ cả.
DIỄN TIẾN MỘT PHÉP LẠ
Mẹ Angelica kể lại, sau buổi xuất hiện trên đài vào ngày 28 tháng giêng, mẹ trở lại văn phòng thì thấy một người đàn bà đang cầu nguyện. Người đàn bà này đã đến thăm tu viện mẹ Angelica thành lập tại Birmingham Alabama và nói với mẹ Angelica rằng Đức Mẹ đã bảo bà ta đi như vậy.
Người đàn bà lạ mặt xin cùng lần chuỗi mân côi với mẹ Angelica. Vì bà ta không nói được tiếng Anh nên mẹ Angelica đề nghị lần chuỗi bằng tiếng La-tinh. Đến chục thứ tư thì người đàn bà đổi sang tiếng Ý.
Đang giữa chục thứ tư thì người đàn bà nói trông thấy Đức Mẹ và Chúa Giêsu, và xin cầu nguyện cho mẹ Angelica. Sau đó mẹ Angelica thử đi tới cửa một cách thật khó khăn, nhưng khi đi trở lại thì mẹ cảm thấy nóng bừng ở mắt cá chân. Mẹ chợt nhận ra rằng mình vừa có thể đi được một chút. Vậy là mẹ đi tới đi lui thêm nữa.
Mẹ thuật lại: "Khi tôi đi tới đi lui thì tôi nhận ra chân và mắt cá của tôi bắt đầu ăn khớp lại, từ từ, nhè nhẹ, và tôi đứng thẳng lên được".
Người đàn bà tiếp tục cầu nguyện thêm nữa. Thế là mẹ Angelica đã được khỏi một cách lạ lùng. Mọi khi mẹ vẫn phải dùng cạp sắt ở lưng và chân mới đứng được. Bây giờ thì đã bỏ hết cạp ra rồi.
Mẹ Angelica cũng nói rằng từ ngày đó mẹ không bị chứng xuyễn hành nữa, vì cả hai tháng trước, không một bữa cơm nào mà không bị cơn xuyễn hành.
Mẹ Angelica tên cũ là Rita Rizzo, sinh tại Canton Ohio năm 1923, đã bị một tai nạn làm bị thương xương sống khiến lưng và chân bị liệt hẳn đi. Mặc dù giải phẫu thành công, nhưng mẹ vẫn phải mang cạp ở chân trái từ 40 năm nay. Mẹ đã phải đi nạng và cạp thêm ở chân phải và lưng khoảng 5 năm nay. Mẹ nói: "Tôi đã không xin được chữa khỏi, nhưng Chúa vẫn chữa. Ngài làm như vậy vì thương tôi. Tôi thật biết ơn Ngài. Tôi không biết đã được chữa khỏi như thế nào. Tôi đang là một người què, phải đi nạng. Mà bây giờ tôi có thể đi được. Thật lạ lùng."
Mẹ Angelica đã nói rằng mình được chữa khỏi do lần chuỗi mân côi: "Tràng chuỗi mân côi là một khí giới mãnh liệt mà người ta thường quên bẵng đi. Tràng chuỗi mân côi có sức mạnh chữa bệnh. Tràng chuỗi mân côi mang lại sức mạnh nội tâm, mạnh mẽ lắm."
ĐIỀM GÌ LẠ VẬY?
John Sanford, một nhà phân tích tâm lý theo hướng Karl Jung đã kể một câu chuyện thật trong cuốn ”Nước Bên Trong” (The Kingdom Within).
Một hôm ông về thăm quê cũ tại một nông trại vùng New Hampshire nước Mỹ. Nông trại đó cách đây mấy chục năm về trước lúc chưa có nước máy như bây giờ, thì chỉ dùng nước giếng mà thôi. Ở gần nhà ông bà nội có một cái giếng rất nhiều nước đủ cung cấp cho mọi nhu cầu của một nông trại lớn. Kể cả những ngày mùa hè nắng cháy mà vẫn đủ nước. Nhiều kỉ niệm đẹp đã ghi lại bên giếng nước này, nên lần này về thăm quê cũ, John Sanford đã tìm ra thăm giếng. Nhưng lạ thay, khi mở nắp giếng lên thì ông thấy giếng cạn hoàn toàn không còn lấy một giọt nước. Đâu còn ai kín nước mà sao hết nước được? Đang thắc mắc về hiện tượng này, ông liền được bà nội nói cho biết lí do. Ngày xưa càng kín nước thì nước từ mạch càng chảy ra. Nhưng lâu ngày không còn ai kín nước nữa, thì nước còn lại trở thành nước tù; riết rồi bụi bặm lắng đọng xuống vít dần các mạch. Vậy là nước cứ bốc hơi hoài mà mạch thì bị vít rồi, nước không trào ra được nữa. Thế là giếng cạn!
Giếng cạn hết nước là hình ảnh nhiều tâm hồn: hết sinh lực, hết nhuệ khí, càng tìm cách giải quyết càng thêm quẩn và tối, giống hoàn cảnh của Môi-sen đi vào mù mịt hoang vu trong sa mạc sau khi đã trốn chạy khỏi cung vua Ai Cập. Đúng là đi vào đường cùng hết lối thoát. Đó cũng là tình trạng bị què chân từ 40 năm nay của mẹ Angelica.
Vậy mà bỗng một ngày được chữa khỏi khi cầu nguyện bằng tràng chuỗi mân côi, một phương cách cầu nguyện rất giản đơn nhưng đầy sức mạnh mà nhiều người đã quên bẵng. Câu truyện giếng nước bị cạn cũng giống như thế. Nguồn nước như ơn thánh, càng kín càng múc thì càng tuôn trào. Phương cách để kín múc này trong truyền thống Đạo Chúa gọi là các bí tích, và cầu nguyện. Như bí tích Hòa Giải khai thông mạch bị tắc nghẽn, bí tích Thánh Thể chuyển thông nguồn sinh lực sung mãn. Cầu nguyện bằng tràng chuỗi mân côi cũng là cách kín múc hữu hiệu cho thời đại này mà Đức Mẹ đã khẳng định khi hiện ra tại Fatima. Đó là phương cách trồng lại cây niềm tin, lấy lại sinh lực.
TIN VUI GỬI CÂY ĐÀN PHẾ THẢI
Truyện kể về một cây đàn vĩ cầm cũ kỹ và trầy trụa bị vất vào đống đồ đưa đi bán đấu giá rẻ tiền. Người xướng giá hô lớn: một đồng, hai đồng. Có ai trả lên ba đồng không? Xướng tới ba lần mà chả ai thèm nhúc nhích! Bỗng một người đứng tuổi từ cuối phòng tiến đến cầm cây đàn vĩ cầm lên, lau bụi, vặn giây lại, và thử kéo một bản. Trời ơi, tiếng đàn êm ái ngọt lịm làm mọi người kinh ngạc.
Bài nhạc vừa dứt thì người xướng giá hô lớn: bây giờ thì một ngàn đồng. Ai đấu giá hai ngàn đồng? Có ai lên ba ngàn đồng không? Một lần, hai lần. Thế là có người tiến lên chiếm ngay lấy. Mọi người vỗ tay hoan hô. Có người kinh ngạc: Làm sao hiểu được, cái gì khác lạ vậy? Thì người bên cạnh trả lời ngay: vì ngón tay của nhà nghệ sĩ đích danh chạm tới làm nên phép lạ chứ còn gì.
Tin Vui tuần này kể câu truyện: "Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, liền bảo người làm vườn rằng: kìa, đã ba năm nay ta đến tìm trái cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gi!
"Nhưng anh ta đáp lại rằng: Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân, may ra nó có trái chăng, bằng không năm tới, ông sẽ chặt nó đi." (Luca 13:6-9)
PHÚT TỊNH TÂM
Giống như giếng cạn hết nước hay như cây đàn vĩ cầm bị vất vào đống đồ cũ vô tích sự, cây vả không trái có thể là tình trạng của tâm hồn tôi lúc này. Được trồng trong vườn nho là nơi đất tốt, nhưng cây vả hồn tôi chỉ choán chỗ, ăn tổn hại mầu mỡ đáng lẽ dành cho những cây nho xanh tốt. Thấy vô tích sự, ông chủ đã ra lệnh chặt đi, nhưng tôi còn được người làm vườn là Chúa Giêsu xin thêm cho một năm nữa, mong tôi sẽ sinh hoa kết trái.
Tôi muốn tìm về đời sống nội tâm, tìm về đời sống cầu nguyện và bí tích, để khơi mạch lại nguồn vui ơn thánh.
Xin Chúa chạm đến con và chữa lành con. Xin bàn tay Chúa nâng con dậy như nâng cây đàn vĩ cầm, để từ tình trạng bệ rạc, lòng con có thể rung lên nguồn cảm hứng mới đầy thần khí.
Trong vài tháng gần đây, ở vùng Cái sắn, đã xảy ra những cái chết gây giật mình cho nhiều người: Chỉ trong một tuần, mà năm sáu người bỗng dưng lăn đùng ra chết. Người thì ăn cơm tối xong, đang nằm coi tivi, thấy khó chịu; gục xuống, đưa đi bệnh viện, tắt thở. Người thì mới thử áo cưới về, cười toe toét, sao thấy chóng mặt. Mẹ ơi con ói! Đem vào đa khoa. Tạ Từ. Nhưng có một điều chung là tất cả đều rất trẻ, đang giữa mùa xuân cuộc đời; hơn nữa, đều là những người nhà giàu. Những cái chết ấy, thương tâm thật, nhưng chưa bi thương bằng cái chết của 18 người: bất chợt bị tháp Silôê đổ xuống đè chết. Tất tưởi của những người Galilê, bị Philatô đâm chết. Những cái chết ấy, làm ta giật mình, Chúa nhật thứ III mùa chay hôm nay, Chúa Giêsu đưa những sự kiện ấy ra để ta suy nghĩ:
1- Tại sao ta còn sống
Chẳng ai muốn chết. Nhất nữa, chẳng ai muốn chết sớm, ai cũng muốn sống. Nhưng tại sao ta còn sống, mà người khác lại phải chết. Đó là điều bí mật. Nhìn những người đột ngột ra đi kia ta hiểu được rằng: Sự sống là ở trong tay Chúa. Sự sống của ta là một hạnh phúc bấp bênh. Ta chẳng hiểu được, giờ nào, ngày nào mình sẽ “đi”. Thực ra, ai cũng phải một lần ra đi, cho nên cái “đi” ấy không quá quan trọng. Cái quan trọng là ra đi trong tình trạng nào, để có thể run sợ hay vui mừng khi đối diện với Chúa, ngay khi bước qua khung cửa hẹp là cái chết. Khổ quá! đống tiền dầy cộm kia, chiếc xe đắt tiền kia,ngôi nhà lộng lẫy vừa xây xong kia lại không thể đem đi được. Nếu ta ra đi, mà bàn tay ta chỉ trắng trơn, như cây nho vô duyên không sinh trái, thì run quá phải không nào?
2- Mà sống sao cho nặng ký
Bác nhà nông bảo với ông chủ: “Xin ông để cho tôi một năm nữa, nếu nó không có trái, tôi sẽ chặt nó đi”. Sống mà cứ chơ vơ giữa đời, với quần áo đẹp, đỏm dáng trêu ngươi, với xe tháo bô, gào điếc tai làng xóm, mà chẳng giúp ích gì được cho gia đình, chẳng làm ích gì cho người khác, cho xã hội, cũng như cho Mẹ Giáo Hội, thì đáng được chặt bỏ lắm thôi. Để đời mình nặng ký, thì phải lo làm các việc lành phúc đức, tích trữ cho mình công phúc đời sau. Kết thân với Chúa, để nhận lãnh nguồn ơn thánh thiêng. Để rồi từ đó đời ta có sức mạnh, mà lo xây dựng tâm hồn, làm giàu tâm hồn, đem lại ích lợi cho cuộc đời, và nhất là, làm vinh danh cho Thiên Chúa. Như thế là ta đang trổ trái xum xuê. Có quyền sống an tâm mà không lo bị chặt.
Gợi ý suy niệm: 1- Có thể nào, đây là mùa chay cuối cùng của bạn không? 2- Kho tàng công phúc của bạn, bây giờ có gì hay trống rỗng ?
Trong bài Tin Mừng Ngày Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Chay Năm C hôm nay, thánh Luca kể rằng: khi nghe những người Do Thái thật chuyện có một số người Galilê bị quan tổng trấn Philatô giết trong đền thờ và có một số người bị tháp Silôác ở Giêrusalem đổ xuống đè chết, Chúa Giêsu nói rằng những người chết như thế không phải những kẻ tội lỗi đâu, nhưng Ngài cảnh cáo: “Nếu các ông không sám hối, các ông cũng sẽ chết hết như vậy” (13,3).
Cộng đoàn phụng vụ chúng ta hãy cùng nhau suy niệm về đề tài: Ăn năn sám hối.
+++
Ai trong chúng ta cũng phải nhớ rằng mình đã phạm tội làm mất lòng Chúa.
Thánh Phaolô dạy: Mọi người "đều bị tội lỗi thống trị ” (Rm 3,9),
Giáo Hội dạy: "Đời sống của người Kitô hữu phải là một cuộc ăn năn đền tội suốt đời”, và thúc giục mỗi người hãy cầu xin ngày đêm với Đức Mẹ Maria: "Cầu cho chúng con là kẻ có tội khi nầy và trong giờ lâm tử ”
Có những kẻ cho tội lỗi mình đã phạm là điều không đáng lưu ý, vì thế, họ cứ phạm tội nầy đến tội khác, cứ chất tội nầy lên tội kia, không chịu ă năn sám hối thật tình.
Để có lòng ăn năn sám hối, mỗi người chúng ta phải có sự đau đớn bên ngoài và bên trong, nhất là đau đớn vì Chúa.
Chúng ta là những con người có thân xác. Thân xác chúng ta biểu lộ ra bên ngoài những gì đang xảy ra bên trong con người của mình. Nếu lòng chúng ta ăn năn đau đớn thật, thế nào bên ngoài, chúng ta cũng tỏ ra dằn vặt, buồn phiền, than khóc. Nhưng nếu chỉ có sự đau đớn bên ngoài, mà trong lòng không có sự đau đớn thật tình, thì chỉ là một sự ăn năn giả hình, chứ không phải là có lòng ăn năn sám hối thật tình.
Muốn có lòng ăn năn tội cho thật, chúng ta phải đau đớn vì Chúa, nghĩa là đau đớn vì thấy Chúa quá tốt lành, quá yêu thương chúng ta, thế mà chúng ta đã làm cực lòng Chúa quá nhiều.
Sau khi bán Chúa, Giudà cũng đau đớn, nhưng chỉ đau đớn tự nhiên, đau đớn vì mình, và vì đau đớn như vậy, nên Giudà đã không có lòng ăn năn sám hối thật tình để được Chúa thứ tha.
Để có lòng ăn năn sám hối thật tình, mỗi người chúng ta là phải hết lòng trông cậy vào Chúa.
Tuy biết mình đã phạm tội quá nhiều, tuy biết mình đã phạm tội quá lớn, nhưng người nào có lòng ăn năn tội thật tình, thì không dừng lại ở đó, nhưng phó tất cả tội lỗi mình cho Chúa, rồi nhắm mắt lại và trông cậy vào lượng từ bi hải hà của Chúa, trông cậy vào tình yêu vô bờ vô bến của Chúa. Nếu không có lòng trông cậy vào Chúa như vậy, người tội nhhân sẽ dễ tuyệt vọng vì thấy tội lỗi mình quá nặng nề to lớn. Đó là trường hợp của Giudà tuyệt vọng sau khi bán Chúa, vì ông cho rằng tội mình quá nặng nề to lớn, nên không trông mong gì được Chúa thứ tha.
Để có lòng ăn năn tội thật tình, mỗi người chúng ta là phải thật sự có lòng chê ghét tội lỗi và cương quyết chừa bỏ.
Kẻ nào ăn năn tội mình đã phạm, và sau đó phạm tội lại một cách dễ dàng, không chịu cố gắng sửa mình cho tốt hơn, không cương quyết xa lánh tội lỗi, kẻ đó chưa có lòng ăn năn tội thật tình. Thánh Ixiđôrô dạy: "Ta giả hình, ta không ăn năn tội cho thật, nếu ta cứ tiếp tục làm điều xấu mà ta đã hối tiếc”.
Người con phung phá kia đã được người cha đón nhận khi trở về, là vì chàng đã can đảm chỗi dậy, trở về nhà cha với lòng ăn năn sám hối thật tình.
Phêrô đã được Chúa tha thứ và được đặt làm đầu Giáo Hội, là vì ông đã biết đấm ngực thật tình ăn năn sám hối sau những lầm lỗi tầy trời của mình.
Cô ăn chơi Mađalêna đã được Chúa tha thứ và biến thành người trong sạch, là vì, với lòng ăn năn sám hối thật tình, cô đã quyết từ bỏ quãng đời nhơ nhớp của mình trong quá khứ.
Anh trộm bên hữu thập giá Chúa Giêsu, được Chúa thứ tha, là vì anh đã thật tình sám hối, quyết tâm trở về cùng Chúa, mặc dù chỉ trong vài giây phút cuối đời của mình.
+++
Trên đời nầy, không gì ma quỷ ghét cho bằng sự chúng ta ăn năn thật tình để trở về với Chúa, vì thế ma quỷ luôn tìm cách đủ cách để cám dỗ chúng ta ăn năn không thật tình, nghĩa là ăn năn hời hợt, ăn năn qua loa, ăn năn vô hiệu quả. Vậy khi đang còn sống trên trần gian này, chúng ta hãy luôn ăn năn thật tình để được Chúa thứ tha mọi tội lỗi, để được Chúa ban sức mạnh xa lánh tội lỗi và sống đẹp lòng Chúa. Bên kia nấm mồ, sau khi không còn sống trên trần gian này nữa, khi đó không còn là lúc để ăn năn thật tình để được Chúa thứ tha. Amen.
Các ý tưởng trong các bài đọc hôm nay được triển khai dần dần để dẫn đến ý tưởng chính là "Hãy sám hối":
- Vì yêu thương, Thiên Chúa đã chọn Môsê để bắt đầu công trình giải thoát họ qua cuộc xuất hành (Bài đọc I);
- Các kitô hữu cũng được dẫn dắt qua một cuộc Xuất hành như dân do thái xưa. Tuy nhiên chúng ta đừng có thái độ như họ: chìu theo dục vọng và luôn kêu ca trách móc Thiên Chúa (Bài đọc II);
- Thái độ phải có là sám hối (Bài Tin Mừng)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay rất khẩn thiết: "Nếu các ngươi không sám hối, các ngươi sẽ phải chết". Phụng vụ dành cho chúng ta một thời gian dài 40 ngày của Mùa Chay để chúng ta nhận thức tình trạng tội lỗi của mình mà ăn năn sám hối. Đây đúng là lúc thuận tiện, đây đúng là thời cứu độ. Chúng ta đừng phí phạm cơ hội Chúa ban, đừng làm ngơ trước lời kêu gọi của Chúa.
II. Gợi ý sám hối
- Chúng con thiếu sót rất nhiều trong bổn phận kính mến và thờ phượng Chúa. Xin Chúa thương xót chúng con.
- Chúng con lỗi phạm rất nhiều trong tương quan với tha nhân. Xin Chúa thương xót chúng con.
- Chúng con còn làm nô lệ cho tiền bạc, của cải, tiện nghi. Xin Chúa thương xót chúng con.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Xh 3,1-15)
Tuần vừa qua, chúng ta được kể về chặng thứ nhất trong Lịch sử cứu độ: Thiên Chúa chọn Abraham để thành lập một dân mới. Tuần này chúng ta được nghe kể tiếp chặng thứ hai: Thiên Chúa chọn Ông Môsê để giải phóng dân ấy khỏi ách nô lệ Ai cập.
Lúc bấy giờ Môsê đang trốn trong sa mạc vì sợ Pharao lùng bắt. Ông làm nghề chăn chiên. Một hôm đang khi Môsê chăn chiên thì Thiên Chúa hiện ra với ông.
- Thiên Chúa hiện ra trong một bụi gai rực lửa nhưng bụi gai ấy không bị cháy rụi: Thiên Chúa là Đấng rất hùng mạnh, nhưng sức mạnh của Ngài không phải dể tiêu diệt mà để giải thoát.
- Thiên Chúa gọi đích danh Môsê: Ngài biết rõ từng người.
- Thiên Chúa nói với Môsê "Ta đã thấy rõ cảnh khổ của dân Ta… Ta xuống giải thoát chúng…": Thiên Chúa là Đấng giải thoát.
- Khi Môsê hỏi Tên Thiên Chúa thì Ngài đáp bằng một câu nói bí ẩn "Ta là điều Ta là". Có nhiều lối giải thích kiểu nói này: (1) Thiên Chúa từ chối không nói tên mình, bởi vì không ai có thể hiểu được Thiên Chúa; (2) Ta là thế nào thì các ngươi sẽ hiểu khi thấy các việc Ta sẽ làm (sau này khi thấy Thiên Chúa giải thoát dân do thái: người ta se hiểu Ngài là Đấng giải thoát); (3) Câu nói đó có thể dịch là "Ta là Đấng hằng hữu"; (4) Cũng có thể dịch là "Ta là Đấng là": ngược với các thần Ai cập chỉ là hư vô giả trả, chỉ có một mình Thiên Chúa là có thật.
Điều quan trọng nhất của tường thuật này là Thiên Chúa thương dân Ngài và muốn giải thoát họ khỏi cảnh khổ.
2. Đáp ca (Tv 102)
Thánh vịnh 102 triển khai ý chính của bài đọc I: ca tụng những công trình giải thoát của Thiên Chúa.
3. Tin Mừng (Lc 13,1-9)
Ý chính của đoạn Tin Mừng này là kêu gọi sám hối:
- cc 1-5: người do thái thời Chúa Giêsu quen nghĩ "ác giả ác báo". Trước hai tai nạn đột ngột làm chết nhiều người, họ kết luận ngay rằng những nạn nhân ấy là "ác giả" cho nên bị "ác báo". Chúa Giêsu khuyên đừng hồ đồ suy đoán về người khác những mỗi người hãy coi các tai nạn đó là tiếng nhắc nhở hãy xét lại lương tâm mình để lo sám hối.
- cc 6-9: Qua dụ ngôn cây vả không sinh trái, Chúa Giêsu bảo mỗi người hãy tận dùng thời gian gia hạn mà Thiên Chúa đã ban cho mình để sớm lo sám hối.
4. Bài đọc II (1 Cr 10,1-6.10-12)
Thánh Phaolô giải thích ý nghĩa các biến cố trong cuộc Xuất hành:
- Việc vượt qua Biển Đỏ là tượng trưng cho Phép Rửa.
- Tảng đá đã phun ra nước cho dân do thái uống tượng trưng cho Chúa Giêsu.
- Kitô hữu chúng ta cũng xuất hành như dân do thái xưa. Nhưng đừng bắt chước họ chìu theo dục vọng xấu xa, đừng kêu ca trách móc, trái lại ngoan ngoãn hành trình theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Hãy ăn năn sám hối
Lời Chúa hôm nay kêu gọi chúng ta hãy ăn năn sám hối. Lời kêu gọi này không chỉ nhắm đến những kẻ tội lỗi mà nhắm đến mọi người không trừ ai. Thế nhưng có người sẽ thắc mắc: người tốt cũng cần phải sám hối sao ?
Trong trường hợp những người được gọi là tốt, họ vẫn phải sám hối vì những việc tốt lẽ ra họ có thể làm mà lại không làm. Họ giống như cây vả trong bài Tin Mừng này. Ông chủ muốn đốn nó không phải vì nó đã sinh ra những trái xấu, mà vì nó không sinh ra những trái vả như nó phải sinh ra. Một cây vả mà không sinh trai vả thì đâu còn là cây vả nữa.
Các kitô hữu ít khi tự đặt cho mình câu hỏi này: Điều gì lẽ ra tôi phải làm mà lại không làm? Tiếng gọi sám hối không chỉ kêu gọi ta thôi đừng làm điều xấu nữa, mà còn kêu gọi ta hãy "sinh trái" bằng những việc tốt. Chính vì thế mà lời kêu gọi này nhắm đến mọi người. (FM)
* 2. Cơ hội thứ hai
Có một câu chuyện về một cây vĩ cầm như sau:
Cây vĩ cầm bị rạn nứt, người ta dán lại và đem ra bán đấu giá. Người bán đấu giá nghĩ rằng chẳng nên phí thời giờ chăm chút nó làm gì. Nhưng ông vẫn tươi cười cầm nó lên và rao bán:
- Thưa quí vị ai sẽ bắt đầu trả giá đầu tiên đây?
Một đồng, rồi hai đồng. Chỉ có hai đồng thôi sao? Ai sẽ trả nó ba đồng đây. Vâng, một người trả ba đồng. Không ai trả hơn sao?
Bỗng từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm bước lên cầm lấy cây đàn, ông lau sạch bụi chiếc đàn cũ kỹ, rồi lên dây lại. Sau đó, ông tấu lên một bản nhạc êm dịu, ngọt ngào, du dương như bài ca của các thiên thần. Tiếng nhạc dừng lại, người bán đấu giá chậm rãi, hỏi:
- Tôi sẽ ra giá bao nhiêu cho chiếc vĩ cầm này đây?
Đoạn ông vừa cầm đàn lên vừa nói:
- Một ngàn đồng, và ai sẽ tăng lên hai ngàn? Hai ngàn rồi, có ai chịu tăng lên ba ngàn không? Một người chịu giá ba ngàn, còn nữa không?
Đám đông hồ hởi reo vui, nhưng có vài người trong họ la lên:
- Chúng tôi hoàn toàn chẳng hiểu cái gì đã làm thay đổi giá trị cây vĩ cầm đó?
Lập tức có tiếng đáp lại:
- Chính nhờ đôi tay người nghệ sĩ chạm vào đấy!
*
Đứng trước những biến cố đem lại tai hoạ và chết chóc cho con người, Chúa Giêsu không bình luận theo quan điểm của người Do Thái thời đó: Tin Mừng hôm nay kể lại việc quan tổng trấn Philalô tàn sát mấy người Galilê và việc tháp Siloê đổ xuống đè chết 18 nạn nhân. Người Do Thái cho rằng những người bị tai hoạ đó là do tội lỗi của chính họ, nên bị Thiên Chúa giáng phạt. Còn những người khác thấy vẫn bình yên vô sự, thì cho rằng mình vô tội, nên dễ tự hào về sự thánh thiện của mình. Chúa Giêsu không nghĩ thế, Người không cho rằng những người bị nạn đó tội lỗi hơn đồng hương của họ. Người muốn nhấn mạnh rằng mọi người đều là tội nhân, đều bị Thiên Chúa phán xét, đều đáng chịu án phạt của Người, nên cần phải ăn năn sám hối, để tránh hình phạt của Thiên Chúa.
Tính cấp bách phải sám hối ăn năn được Chúa Giêsu nói rõ trong dụ ngôn cây vả: Thiên Chúa là người trồng cây, Chúa Giêsu là người làm vườn, và dân Ítraen là cây vả không sinh trái. Thiên Chúa đã tuyển chọn dân Ítraen làm dân riêng của Người, và ban cho nhiều đặc ân, nhưng họ lại không sinh hoa kết trái, là trung thành với lề luật, sống công chính, và phụng thờ một mình Người.
Thiên Chúa đã chấp thuận đề nghị của Chúa Giêsu, là cho họ một cơ hội thứ hai, một thời gian để chăm bón thêm, với các lời giảng dạy của Chúa Giêsu và các phép lạ kèm theo. Nhưng họ vẫn cố chấp, không hoán cải để sinh hoa trái. Vì thế, họ đã bị Thiên Chúa loại bỏ: Điều đó đã được chứng thực vào năm 7O sau Công Nguyên khi đền thánh Giêrusalem bị tàn phá.
Thiên Chúa cũng đã tuyển chọn chúng ta trong kế hoạch nhiệm mầu của Người và yêu thương chăm sóc chúng ta cách đặc biệt. Người chờ mong chúng ta sinh ra hoa trái tốt tươi. Nhưng nếu chúng ta chưa thực hiện được những mơ ước của Người, thì cũng như cây đàn vĩ cầm rạn nứt trong câu chuyện trên đây, Người cũng cho chúng ta một cơ hội, là đôi tay kỳ diệu của người nghệ sĩ đã chạm vào cây đàn, chính là Đức Glêsu, để chúng ta tấu lên những khúc nhạc du dương, là bài ca của những tâm hồn biết ăn năn, là hoa trái của những tấm lòng sám hối.
Chúng ta hãy cảm tạ tri ân Chúa Giêsu đã cho chúng ta cơ hội thứ hai này, và tận dụng tối đa cơ may ấy để sinh nhiều hoa trái trong mùa Chay thánh.
*
Lạy Chúa, mỗi một biến cố đau buồn là một lời nhắc nhở chúng con hãy sẵn sàng tỉnh thức. Mỗi một ngày mới là một cơ hội Chúa khoan giãn để chúng con có thời gian sám hối ăn năn.
Xin đừng để chúng con khất lần kẻo cũng bị số phận như cây vả không trái, nhưng xin cho chúng con biết dùng ơn Chúa để nên thánh thiện sống đẹp lòng Chúa mỗi ngày một hơn. Nhất là biết chuẩn bị giờ chết ngay từ bây giờ bằng việc ăn năn sám hối. Amen. (TP)
* 3. Kiên nhẫn
Cây vả được trồng 3 năm thì tới lúc có trái. Nếu đến khi đó mà nó vẫn chưa có trái thì hầu như sẽ chẳng bao giờ có trái nữa. Đây là trường hợp của cây vả trong bài Tin Mừng hôm nay. Bởi vậy ông chủ ra lệnh đốn bỏ nó, để khỏi chật đất, để khỏi tốn công chăm sóc, để danh chỗ trồng cây khác hữu ích hơn. Nhưng người làm vườn vẫn chưa nản lòng. Người này vẫn còn hy vọng nơi cây vả, nên xin ông chủ cho thêm thời hạn một năm nữa. Trong thời gian này ông sẽ tích cực bồi dưỡng và chăm sóc cho nó. Sau đó nếu nó vẫn không trái thì mới bị chặt đi.
Dụ ngôn không cho ta biết kết quả cuối cùng thế nào. Nhưng bấy nhiêu cũng đủ nói lên điều Chúa Giêsu muốn nói: cũng như người làm vườn kiên nhẫn chờ đợi cây vả ra trái, Thiên Chúa luôn kiên nhẫn chờ đợi kẻ tội lỗi ăn năn sám hối.
Lịch sử đầy dẫy những thí dụ về những người nhờ được người khác kiên nhẫn cho thêm cơ hội nên về sau trở thành những vĩ nhân. (1) Ngay trong bài đọc I hôm nay đã có một tấm gương: Môsê khi còn trẻ đã phạm tội giết người. Chúa không phạt ông, mà còn sử dụng tính khí nhiệt tình của ông để giải phóng dân do thái khỏi ách nô lệ Ai cập. (2) Einstein mãi đến hai tuổi mới bắt đầu biết nói bập bẹ. Khi Einstein đến trường, các giáo viên cũng ngã lòng vì sự chậm chạp của ông. Vậy mà Einstein đã trở thành nhà bác học được đánh giá là nổi bật nhất của thế kỷ.
Có nhiều người phát triển rất chậm và muộn màng, nhưng lại là những nhân tài. Những người như thế cần có ai đó tin tưởng họ, kiên nhẫn chờ đợi họ và tạo cơ hội cho họ. Nếu không thì kho tàng tài năng của họ sẽ bị vùi dập và mai một đi.
Chúng ta biết cho chính bản thân mình thêm cơ hội. Tại sao chúng ta không làm như thế đối với người khác ? (FM)
4. Đất thánh
Chúa phán với Môsê: "Nơi ngươi đang đứng là đất thánh".
Mọi nơi trên mặt đất này mà Chúa ban cho ta đều là đất thánh và đáng được chúng ta kính trọng. Nhưng mảnh đất thánh thiện nhất nằm ngay trong chúng ta.
Trước hết, thân xác chúng ta là thánh. Thân xác là thánh vì nó là công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Thánh Phaolô còn đưa ra lý do thứ hai: "Thân xác anh em là đền thờ của Chúa Thánh Thần". Vậy chúng ta phải tôn trọng và chăm sóc thân xác chúng ta.
Tâm trí chúng ta cũng là thánh. Nhiều người hằng ngày cứ nhồi vào tâm trí mình đủ thứ điều xấu xa từ tivi, radio, sách báov.v. Chúng ta hãy nghe lời Thánh Phaolô: "Anh em hãy đong đầy tâm trí những gì chân thật, cao quý, những gì là chính trực, tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt những gì là đức hạnh đáng khen" (Pl 4,8)
Nhưng thánh nhất là tâm hồn chúng ta. Ngày nay người ta rất quan tâm đến sự sạch sẽ bên ngoài nhưng lại quên đi sự sạch sẽ bên trong, tức là sự sạch sẽ của tâm hồn. Từ tâm hồn sinh ra tư tưởng, lời nói, việc làm như dòng nước phát sinh từ mạch nước. Nếu mạch nước mà sạch thì nước chảy ra cũng sạch. Vậy chúng ta hãy giữ cho tâm hồn trong sạch và tinh tuyền. Chúa Giêsu nói "Phúc cho những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Chúa". (FM)
5. Tản mạn suy tư
a/ Trong bài đọc I kể chuyện Chúa hiện ra với Môsê, điều đáng ngạc nhiên là Chúa không hiện ra cho ông trong Đền thờ mà là trong sa mạc; và Chúa hiện ra không phải khi Môsê đang cầu nguyện mà trong lúc ông chăn cừu. Chúa hiện ra cho Môsê ở một nơi phàm trần và trong một sinh hoạt phàm trần.
Ngày nay thế giới đã trở thành một nơi phàm trần. Thật khó mà giữ được một ý thức thiêng thánh trong một thế giới như thế. Tuy nhiên, nếu không có thiêng thánh và ý thức hướng thượng, thì cuộc đời sẽ nghèo nàn và thấp hèn biết bao.
Trong cuộc gặp gỡ giữa Môsê với Thiên Chúa, cảm xúc lấn át nhất xem ra là sợ hãi. Nhưng thực ra không phải thế. Khi Thánh Kinh nói về sự sợ đối với Thiên Chúa thì không phải là sợ hãi mà là kính sợ. Sợ hãi là một cảm xúc tiêu cực, nó khiến ta co rúm lại và muốn chạy trốn; còn kính sợ là một cảm xúc tích cực, nó khuyến khích ta tiến đến gần đối tượng đang tác động lên mình, ta không cảm thấy bị hạ xuống, mà được nâng lên.
Tín ngưỡng bắt đầu bằng cảm xúc kính sợ, kính sợ vì nhận biết sự cao cả của Thiên Chúa và giới hạn thấp hèn của con người. Kính sợ đi trước, và đức tin đến sau.
Mà kính sợ thì bắt đầu bằng sự ngỡ ngàng. Môsê đã ngỡ ngàng khi thấy bụi gai cháy rực mà không rụi tàn.
b/ Tuy nhiên rất dễ ngỡ ngàng trước một sự kiện bất thường như thế. Ngay cả người khùng cũng biết ngỡ ngàng trước sự bất thường. Còn người khôn thì biết ngỡ ngàng trước những sự bình thường. Đây mới là vấn đề. Chúng ta ước ao được ngỡ ngàng trước một phép lạ, nhưng chúng ta không ngỡ ngàng khi ngắm cảnh hoàng hôn. Hầu hết chúng ta cảm thấy khó mà nhận ra nét cao cả và đáng ngỡ ngàng nơi những sự việc bình thường trong cuộc sống; chúng ta không nhận ra những "phép lạ" vẫn diễn ra hằng ngày chung quanh chúng ta.
Tâm tình tôn thờ bắt nguồn từ ý thức về những phép lạ như thế. Kính sợ và ngỡ ngàng có thể được khơi lên bởi những sự việc rất nhỏ bé, chẳng hạn một hạt cát, một chiếc lá hay một giọt mưa.
Một đức tin cần được củng cố bằng phép lạ là một đức tin nghèo nàn. Những ai đã gắn bó với Chúa thì không cần phép lạ nữa, vì họ đã ý thức mình đang sống trong một thế giới được quyền năng Chúa bao bọc, họ nhìn đâu cũng thấy Chúa.
Người nào có khả năng nuôi dưỡng đức tin của mình bằng những phép lạ đời thường thì giống như người đang ngồi nơi bàn tiệc.
c/ Dù Môsê đang đứng tại một nơi phàm trần giữa hoang địa, nhưng Chúa bảo ông rằng đó là nơi thánh. Điều gì đã khiến nơi đó thành nơi thánh ? Thưa chính là sự hiện diện của Chúa. Nếu thế thì nhà thờ cũng là nơi thánh, vì có Chúa hiện diện trong nhà thờ. (FM)
6. Tại sao Chúa chọn Môsê ?
Trích đoạn của bài đọc I không cho ta biết tại sao Chúa chọn Môsê. Nhưng trước trích đoạn này có ba đoạn khác có thể giúp chúng ta trả lời được câu hỏi này.
- Một lần kia Môsê thấy một người Ai cập hà hiếp một người do thái, ông chịu không được nên đã ra tay can thiệp.
- Một lần khác ông thấy hai người do thái đánh nhau, ông chịu không nổi nên cũng ra tay can thiệp.
- Và một lần nữa, ông thấy những người chăn chiên xứ Mađian ngăn cản không cho các con gái của Ông Yêthro múc nước, ông không chịu nổi nên lại ra tay can thiệp.
Cả ba chuyện trên đều cho thấy Môsê là người không thể khoanh tay đứng nhìn trước cảnh bất công. Bởi thế khi Thiên Chúa "thấy cảnh khổ cực của dân Ta… Ta xuống giải thoát chúng…" thì Ngài chọn Môsê.
7. Chuyện minh họa
a/ Ăn năn
Satan phàn nàn với Chúa: "Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời. "Chúa nói: "Đã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa ?".
b/ Cơ hội cuối cùng
Sau khi đánh tan một cuộc nổi loạn, nhà vua bắt những kẻ phản loạn về. Ông ra lệnh thắp lên một cây nến, rồi nói với họ: "Ai chịu đầu hàng và thề trung thành với ta thì sẽ được tha, bằng không sẽ bị giết Các ngươi hãy suy nghĩ. Khi cây nến tắt thì cuộc hành quyết sẽ bắt đầu". Thiên Chúa cũng đối xử với tội nhân như vậy: Ngài cho họ một thời gian gia hạn. Tuy nhiên có một khác biệt quan trọng: không ai biết cây nến của đời mình còn dài hay ngắn. (Tonne).
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, để có thể hiệp thông với Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện, con người cần phải thanh tẩy tâm hồn khỏi mọi vết nhơ tội lỗi. Với tâm tình sám hối và quyết tâm đổi mới đời sống, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh luôn mời gọi người Kitô hữu thành tâm sám hối vì những lỗi lầm đã phạm/ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa/ biết tích cực sống tinh thần cầu nguyện và sám hối của Mùa Chay.
2. Trong đời sống thường ngày/ vẫn còn biết bao người đói khổ vì quá nghèo túng/ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người giàu có/ biết rộng rãi chia sẻ cơm áo cho những ai khó nghèo.
3. Hãy thay đổi đời sống/ vì Nước Trời đã tới gần bên/ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu/ biết nỗ lực hoán cải con tim/ thay đổi tính hạnh/ để ngày càng nên giống Chúa Giêsu hơn.
4. Sám hối trước tiên là lãnh nhận bí tích Hòa Giải/ rồi thực hành bác ái yêu thương/ Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta/ biết chân thành xưng thú tội lỗi/ và yêu thương hết thảy mọi người.
Chủ tế: Lạy Chúa, biết bao lần chúng con đã sám hối tội lỗi và quyết tâm đổi mới đời sống cho đẹp lòng Chúa, nhưng chúng con chưa thực hiện được những gì muốn quyết tâm sửa đổi vì yếu đuối. Vậy xin Chúa ban thêm sức mạnh cho chúng con. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Trong tâm tình sám hối, khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy đặc biệt đọc cách rất thức lời nguyện "và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con"
VII. Giải tán
Như người làm vườn kiên nhẫn chờ đợi cho cây vả sinh ra, Thiên Chúa cũng đang kiên nhẫn chờ đợi chúng ta sám hối và sinh ra hoa trái những việc lành. Chúng ta đừng làm cho Chúa phải thất vọng.
Dân Do Thái đã có lịch sử huy hoàng với những vị vua sáng chói như Đavít, như Salomôn. Tuy nhiên vào thời Chúa Giêsu, tình thế đã đảo ngược. Họ phải cúi đầu chấp nhận ách thống trị của đế quốc Lamã. Pháo đài Antonia được dựng lên ở Giêrusalem; bịnh đội Lamã coi thường người Do Thái và những quyền lợi của họ. Viên toàn quyền của hoàng đế César xen vào nội bộ tôn giáo bằng cách chọn lựa và công nhận những thầy cả thượng phẩm. Miền bắc là xứ Galilêa, mặc dù do vua Hêrôđê cai trị. Nhưng Hêrôđê cũng chỉ là một tên hề múa rối, quyền hành nằm cả trong tay Philatô. Chính vì thế một sự oán ghét thù hận âm ỉ trong lòng người Do Thái. Bề ngoài thì hoà hoãn nhưng bề trong thì sôi sục như một cục than hồng dưới lớp tro tàn. Họ mong đợi Đấng cứu thế đến để giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ lầm than.
Bấy giờ Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc sống công khai, Ngài lên tiếng rao giảng về Tin Mừng Phúc Âm. Người ta kể lại cho Ngài nghe việc một số người Galilêa có lẽ đã xách động dân chúng chống lại binh đội Lamã. Thế là theo lệnh của Philatô binh đội Lamã xông vào đền thờ, tàn sát họ khiến máu họ hoà lẫn với máu của lễ vật. Những người kể lại sự việc này hy vọng Chúa Giêsu sẽ đứng lên giải phóng dân tộc và họ sẽ theo Người cho dù có phải chết. Nhưng cái nhìn của Chúa Giêsu thì khác. Người đến không phải để gieo rắc hận thù, nhưng đến để rao giảng Nước Thiên Chúa, kêu gọi mọi người ăn năn để được cứu độ. Người nói: Nếu các ngươi không hối cải các ngươi cũng sẽ phải chết như vậy.
Rồi một sự kiện khác nữa đó là ngọn tháp Siloe bất thần sụp đổ và đè chết 18 người. Thiên hạ cho rằng họ là những kẻ tội lỗi nên bị Thiên Chúa trừng phạt. Nhưng quan điểm của Chúa Giêsu thì khác, Người muốn coi đó như một tiếng chuông cảnh tỉnh: Nếu các ngươi không hối cải các ngươi cũng sẽ phải chết như thế. Với chúng ta cũng vậy, những tiếng chuông cảnh tỉnh không ngừng vang lên, những tín hiệu báo động không ngừng xuất hiện. Nếu chúng ta biết thực thi Lời Chúa, nghĩa là biến sám hối ăn năn, thì những tai ương hoạn nạn sẽ là một cái gì tốt lành, vì nó sẽ đem lại cho chúng ta ơn cứu độ.
Một người bà con lối xóm, Bị trúng gió và chết liền tức thời. Phải chăng người ấy là một kẻ tội lỗi. Không phải là như thế, nhưng nếu chúng ta không hối cải, chúng ta cũng sẽ chết như vậy. Hai chuyến xe lửa đầy ắp người đụng phải nhau khiến cho hàng trăm người bị chết. Một thành phố bị động đất khiến cho hàng ngàn người bị chôn vùi dưới đống gạch vụn. Phải chăng họ là những kẻ tội lỗi, không phải như thế, nhưng nếu chúng ta không hối cải, chúng ta cũng sẽ chết như vậy. Rồi hằng ngày báo chí, truyền thanh truyền hình đã tường thuật cho chúng ta biết bao nhiêu tai ương hoạn nạn: nào là đói khát, nào là chiến tranh, nào là bạo động... Phải chăng những nạn nhân đều là những kẻ tội lỗi. Không phải là như vậy, nhưng nếu chúng ta không biết hối cải, chúng ta cũng sẽ chết như vậy. Hằng ngày Chúa vẫn gởi đến với mỗi người chúng ta những tiếng chuông cảnh tỉnh và những tín hiệu báo động, có khi chợt loé lên như một tia chớp, có khi âm vang như một hồi còi dài. Thế nhưng điều quan trọng đó là chúng ta phải biết lắng nghe, phải biết nhìn xem, để nhận ra được tiếng Chúa hầu giục lòng ăn năn sám hối và cải thiện đời sống, vì tất cả đều là hồng ân của Chúa.
Hành trình đức tin của tổ phụ Abraham là mẫu gương sáng ngời soi chung cho mọi người ở mọi nơi và trong mọi thời. Dòng dõi con cái cháu chắt nhiều đời của ông tổ đã trở nên một dân tộc đông đúc sinh sống ở Ai-cập. Trong chương trình cứu độ, từng bước Thiên Chúa đã hướng dẫn lịch sử của dân đã được chọn này. Thiên Chúa mạc khải cho ông Môisen về ý định cứu dân ra khỏi vùng đất bị làm tôi đòi nô lệ để đi vào miền Đất Hứa. Ông Môisen đã chứng kiến: Thiên sứ của Thiên Chúa hiện ra với ông trong đám lửa từ giữa bụi cây. Ông Mô-sê nhìn thì thấy bụi cây cháy bừng, nhưng bụi cây không bị thiêu rụi (Xh 3,2). Ông Môisen nhìn thấy sự lạ là bụi gai cháy, nhưng không bị thiêu rụi. Đây là dấu hiệu của trời cao loan báo một sứ điệp. Ông đã tiến lại gần để ngắm nhìn và lắng nghe: Thiên Chúa phán: "Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi đau khổ của chúng (Xh 3, 7). Lời hứa năm xưa với ông Abraham, hơn bốn trăm năm sau, nay mới bắt đầu khai mở.
Thiên Chúa mạc khải chính mình: Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: "Ta là Đấng Hiện Hữu." Người phán: "Ngươi nói với con cái Ít-ra-en thế này: "Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em."(Xh 3, 14). Dân chúng sống tạm nhờ trong miền đất Ai-cập đã qúa lâu, nhiều cháu chắt không còn nhớ đến các tổ phụ cha ông. Trong suốt thời gian lưu lạc ở đất Ai-cập, sách sử không ghi lại những chứng tích biến cố vĩ đại nào. Sau khi tể tướng Giuse, con của ông tổ phụ Giacob qua đời, dân chúng sống trong âm thầm và sinh xôi nẩy nở rất đông. Thiên Chúa luôn ghé mắt đoái nhìn đến đoàn con dân của Người. Khi thời gian đã mãn, Thiên Chúa chọn và gọi ông Môisen thi hành sứ mệnh giải thoát dân. Chúng ta nghe biết câu truyện của Môisen được cứu vớt lên khỏi nước và trở thành thủ lãnh đưa dân ra khỏi nước Ai-cập. Thiên Chúa đã ban cho ông uy quyền biến đổi và thực hiện các sư lạ trước mặt vua quan Ai-cập để minh chứng bàn tay uy quyền Thiên Chúa.
Hành trình đi về đất hứa đầy gian nan và thử thách. Khi gặp những sự khó khăn mà không thỏa mãn nhu cầu vật chất về cái ăn cái uống, dân chúng đã nổi loạn và kêu trách ông Môisen. Chúa phạt rồi Chúa lại tha. Ông Môisen như người trung gian cũng đối diện với khó khăn tư bề. Thiên Chúa hướng dẫn dân đi theo đường chính nẻo ngay, trong khi dân chúng bị ảnh hưởng cuộc sống thế tục và đa thần giáo, nên nhiều lúc họ đã bỏ Chúa chạy theo các thần dân ngoại. Môisen phải cùng phấn đấu với các thử thách để vượt qua những sự yếu đuối của kiếp người. Chúng ta biết ông Môisen cũng chỉ là một con người mỏng dòn và giới hạn mọi điều. Khi dân hối lỗi, Chúa lại tha thứ. Suốt 40 năm lang thang trong hoang địa, Môisen đã dẫn đoàn dân tới bờ miền Đất Hứa. Ông đã chu toàn sứ mệnh thanh luyện niềm tin của Dân vào Thiên Chúa duy nhất.
Mùa sám hối, xin kể câu truyện: Ngày kia một giáo sư già đi chơi qua khu rừng, bên cạnh có cậu học trò cùng đi. Thình lình ông dừng chân chỉ vào bốn cây gần đó. Cây thứ nhất mới ló lên khỏi mặt đất, cây thứ hai khá hơn, cây thứ ba lớn hơn và cây thứ bốn đã khá to rồi. Thầy nói: Trò hãy nhổ cây thứ nhất. Chỉ với hai ngón tay, cậu đã nhổ dễ dàng. Thầy tiếp: Bây giờ con hãy nhổ cây thứ hai. Cậu phải dùng cả hai tay. Nhổ tiếp cây thứ ba, cậu phải dùng hết sức lực hai cánh tay mãi mới nhổ được. Thầy nói: Bây giờ hãy cố gắng nhổ cây thứ tư. Hai cánh tay ôm lấy thân cây, cậu cố sức lay nhưng lá nó cũng chẳng rung rinh. Thầy nhẹ nhàng bảo: Đó con thấy không. Về các tính hư và tật xấu của ta cũng vậy. Khi mới nhiễm thì dễ khử trừ, nhưng nếu để chúng đâm rễ sâu trong tâm khảm và trong thân xác, con sẽ khó mà trừ khử.
Chúng ta biết các thói hư tật xấu giống cỏ dại, nơi đâu cũng có thể mọc lên mà không cần vun tưới. Cỏ dại nơi lòng người cũng cứ tự nhiên phát triển. Điều tốt mình muốn nhưng lại không làm. Bản năng con người có cảm tình với các tật xấu, tội lỗi và hướng chiều về sự dữ. Tội lỗi có một ma lực kéo lôi và quyến rũ. Nếu chúng ta không cẩn thận ngăn ngừa và cắt bứng ngay. Khi hạt giống sự dữ được gieo vào lòng thì lớn lên nhanh. Thói quen xấu lâu ngày trở thành tật bệnh. Sự sám hối là nhận biết chính mình để phục hồi sự tốt lành thánh thiện. Bài phúc âm nhắc nhớ câu truyện của mấy người Galilêa bị ngược đãi, bị ghép tội và bị giết. Chúa Giêsu nhắn nhủ mọi người: Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy (Lc 13, 3). Chưa chắc những người này là những người tội lỗi. Mùa chay, mỗi người chúng ta hãy tự xét chính mình trước mặt Chúa.
Có đôi khi biết thân và biết ý xấu nhưng chúng ta lại tiếc thân ý xấu, không muốn dứt bỏ. Rất tiếc khi bỏ đi những ý tưởng xấu, lời nói hành, bịa truyện gian dối, cờ bạc, rượu chè và gian dâm. Ai nghiện hút thuốc cũng biết, bên ngoài bao thuốc có chữ ‘hút thuốc có hại cho sức khỏe’ hay ‘hút thuốc có thể gây bệnh ung thư phổi’. Biết có hại đó, cám ơn lời nhắc nhở, nhưng lại tiếc thân nghiện và không dám dứt bỏ. Tất cả các thói hư tật xấu mà chúng ta mắc phải cũng đã được nuôi dưỡng từng ngày. Chúng ta biết rằng sự xấu, sự dữ là tội, là sai trái và là sự hư đốn, nhưng lại tiếc như tiếc của, chẳng muốn rời xa. Đôi khi chúng ta bị lún sâu và ngụp lặn trong những cơn mê lầm này. Vì tội kéo theo tội. Nói dối điều này, kéo theo điều khác để biện minh. Chúng ta không thể tưởng tượng rằng đã có nhiều vụ án ghê gớm xảy ra cũng chỉ vì tội nhân dấu diếm một lỗi phạm nhỏ ban đầu. Người ta tìm cách phi tang dấu vết và dùng thủ đoàn để che dấu lỗi lầm, nên đã dẫn đến những hậu qủa khó lường như trả thù đánh đập, gia đình tan vỡ, phá thai hay giết người. Khởi đầu là những nguyên nhân và sự cố rất nhỏ, vì sợ bị phát hiện nên dấu bớt sự thật, dần dần sự dối trá sinh ra nhiều oan trái và báo thù khủng khiếp.
Tại sao nhiều người thích nói dối? Nói dối vì muốn dấu diếm sự thật không tốt và không muốn bị rầy la quở trách. Nói dối loanh quanh sẽ không có điểm dừng, nói dối này kéo theo dối trá khác. Vì nói thật thì mất lòng. Nói thật thì mất lợi lộc. Nói thật có thể bị mất danh hờ. Nói thật thì mất nhiều thứ khoái và nói thật thì bẽ bàng. Chúng ta biết chỉ có sự thật mới giải thoát. Sự thật thì đơn giản và vắn gọn. Sống đạo là sống trong sự thật. Hạt giống đức tin của tình yêu và sự thật cần được vun trồng tưới gội để phát triển. Đừng để niềm tin bị bóp nghẹt giữa đám cỏ dại của sự gian dối. Biết rằng chúng ta không thể tránh được mọi thói hư tật xấu ở đời, nhưng vẫn có thể khắc phục nó bằng cách tu tâm luyện tính mỗi ngày. Xa tránh và dám dứt bỏ các dịp tội và đừng níu kéo nó. Vun xới cho các đức tính tốt có cơ hội phát triển hơn mỗi ngày. Vì nếu sống đời Kitô hữu mà không sinh hoa trái tốt, cuộc sống sẽ trở nên vô dụng. Chúa Giêsu dùng hình ảnh cây vả để cảnh báo: "Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?(Lc 13, 7). Nhân đức không phát triển giống như cây không sinh trái, sẽ bị chặt đi.
Thánh Phaolô trong thơ gởi cho tín hữu thành Corintô nhắc nhớ câu truyện của những người Do-thái ương ngạnh và sống bê tha đã bị phạt trong cuộc lữ hành về Đất Hứa: Nhưng phần đông họ không đẹp lòng Thiên Chúa, bằng chứng là họ đã quỵ ngã trong sa mạc (1Cor 10, 5). Phaolô kêu gọi mọi người hãy xem gương đó mà ăn năn sám hối. Không ai trong chúng ta có thể hãnh diện khoe mình là người đạo đức và thánh thiện. Cuộc lữ hành còn dài, chúng ta còn gặp nhiều chông gai và thử thách. Hãy luôn ý thức thân phận yếu hèn và tội lỗi để cảnh tỉnh và hối cải: Bởi vậy, ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã (1Cor 10, 12).
Lạy Chúa, chúng con đã lãnh nhận muôn hồng ân phúc lộc của Chúa, xin cho chúng con biết dùng thời giờ, của cải và khả năng để sinh lợi cho đời sống thiêng liêng của chúng con và anh chị em. Chúng con dâng lời tạ ơn Chúa tới muôn ngàn đời.
Tất cả chúng ta, ai cũng thích nghe tin tức. Ngày nào không đọc báo, không xem tin tức, truyền hình, chúng ta cảm thấy như thiếu một cái gì. Có những tin tức làm xúc động dư luận quần chúng và người ta bàn tán, có khi còn đặt câu hỏi: Vì sao Chúa để xảy ra như vậy?
Hôm nay, trong bài Phúc Âm, có hai bản tin sốt dẻo, hai tai nạn làm xao động dư luận và người ta đem kể lại với Chúa với thâm ý xin Ngài vạch công tội.
Một là tin vị Tổng trấn Lamã, ông Philatô, vốn nổi tiếng có bàn tay sắt, vừa ra lệnh hạ sát một nhóm người Galilê nổi loạn, tại chính trong Đền thờ và lấy máu của họ hòa lẫn với vật tế sinh. Hai là mẩu tin ngọn tháp Siloê đổ, chôn sống 18 người. Họ đem kể lại với dụng ý xin Chúa vạch rõ ai là người có tội.
Dân chúng, xưa cũng như nay, vẫn có quan niệm rằng họa đâu thì tội đó. Và khi nói đến tội, người ta nghĩ đến tội kẻ khác hơn là tội của mình. Và khi không đổ cho kẻ khác được thì lại đổ vào…Thiên Chúa. “Vì sao Chúa để như vậy?” Hôm nay, quần chúng qui tội cho nạn nhân và những người liên hệ. “Tội của chúng nó hay của cha ông chúng nó?”
Chúa Giêsu dùng diệp này để nói với họ và qua họ, với chúng ta rằng: “Nếu chúng ta không ăn năn trở lại thì chúng ta cũng sẽ chết tất cả”.
Đây là lời kêu gọi sám hối. Đây là tất cả Tin Mừng rao giảng: Hãy ăn năn trở lại, hãy từ bỏ tội lỗi, quay về với Thiên Chúa.
Việc “trở lại” là vấn đề quan trọng sinh tử của mỗi người, nên Chúa còn nhấn mạnh sau đó trong dụ Ngôn Cây Vả. Có thể trước mặt thính giả gió chiều đang đong đưa cành lá một cây vả xanh tươi. Nhưng đã ba năm rồi, nó không sinh quả. Chủ nhân đang muốn chặt nó đi, để nó khỏi chiếm đất và quăng vào lửa. Nhưng có người ngăn can xin để thêm một năm nữa…may ra.
Dụ ngôn trực tiếp ám chỉ dân Do-Thái, dân được tuyển chọn nhưng lại giả điếc làm ngơ, tìm cách giết hại Chúa. Nhưng dụ ngôn cũng hướng về chúng ta… Chúa cũng cho chúng ta sống thêm chuỗi ngày năm tháng… may ra… Nếu chúng ta không ăn năn trở lại thì chúng ta cũng bị đốn ngã và đem ném vào lửa đời đời. Trong bài đọc II, Thánh Phaolô cũng tha thiết kêu gọi sự ăn năn trở lại và sống gương mẫu. “Ai tưởng mình đứng vững, hãy ý tứ kẻo ngã”.
Lạy Chúa, lời kêu gọi ấy, chúng con xin đón nhận.
Mùa Chay là mùa sám hối, xin Chúa giúp chúng con sống tinh thần chay tịnh: MISERERE MEI – Xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi. Amen.
Thiên Chúa đã biết nỗi khổ cực của dân Do Thái bên Aicập, Ngài đã nghe tiếng họ kêu than (Xh.3, 7), và Ngài muốn giải phóng họ khỏi cảnh khổ cực để đưa họ về nơi hạnh phúc. Thiên Chúa không ở xa con người, Ngài ở gần con người, Ngài nghe tiếng con người cầu khẩn Ngài, Ngài rung động trước nỗi khổ cực của con người. “Lạy Cha chúng con ở trên trời” là câu muốn diễn tả Thiên Chúa là Đấng siêu việt, chứ không muốn nói Thiên Chúa ở trên khoảng không trên trời xa thẳm và không nghe được tiếng con người cầu xin. Thiên Chúa luôn ở với con người (Ga.14, 23.16), Ngài làm con người thành đền thờ của Ngài (1Cor.3, 16-17). Thiên Chúa ở gần tôi, Thiên Chúa biết tôi hơn cả chính tôi, Ngài quan tâm đến tôi hơn cả chính tôi (Tv.139, 1-6). Thiên Chúa luôn yêu thương tôi.
Thiên Chúa gọi Môsê và sai ông đi giải phóng dân Do Thái khỏi Aicập. Môsê là người rất đặc biệt. Ông đã gắn bó với dân tộc mình, cho dù ông đang sống trong hoàng cung với những điều kiện thuận lợi để có một đời sống vật chất êm ấm nhưng ông đã bênh người Do Thái mà giết một người Aicập. Việc bại lộ nên ông phải bỏ hoàng cung để trốn chạy ra ẩn cư nơi hoang địa. Giờ đây Thiên Chúa gọi ông, Ngài chọn ông và sai ông trở lại Aicập để đưa dân Do Thái ra khỏi đó. Môsê được gọi vì dân tộc Do Thái. Không thể chối cãi rằng Thiên Chúa yêu thương Môsê, Ngài đã can thiệp vào đời Môsê để cứu ông khỏi chết trên giòng sông Nil, Ngài đã giải thoát ông khỏi tay Pharaô trong biến cố ông giết người Aicập, và bây giờ Ngài ưu ái chọn ông làm người thực hiện ý định của Ngài; tuy nhiên người ta cũng thấy rõ, chính vì dân tộc Do Thái, để giải phóng dân Do Thái mà Môsê đã được gọi. Sứ mạng được trao cho cá nhân, để phục vụ cộng đoàn, để phục vụ con người.
Thiên Chúa yêu thương dân như vậy, nhưng dân Do Thái đã nổi loạn không tuân phục Thiên Chúa. Bao nhiêu điềm thiêng dấu lạ Thiên Chúa đã làm cho dân như mười tai ương bên Aicập, đi qua biển đỏ ráo chân, đập đá lấy nước cho dân uống, chim cút cho dân ăn, manna hằng ngày cho dân, nhưng họ vẫn không tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa. Họ đã không được vào đất hứa vì thái độ phản loạn của họ. Thánh Phaolô cho rằng con người ngày nay có lịch sử dân Do Thái để làm gương, để biết sống thế nào cho đẹp lòng Thiên Chúa (1Cor.10, 6.10-12). Không phải con người ngày nay khá hơn con người ngày xưa, nhưng điều đã xảy ra cho dân tộc Do Thái ngày xưa hôm nay vẫn được lập lại cho mỗi con người. Con người hôm nay cũng phải sống thuận thảo với Thiên Chúa, phải tin tưởng và phó thác nơi Ngài. Hạnh phúc đích thực mà con người mọi thời đại phải cố thực hiện, là hạnh phúc mỗi ngày và từng ngày, từng giây phút. Hạnh phúc thực tùy thuộc thái độ và chọn lựa của mỗi con người.
Đức Giêsu cũng nói với con người thời đại của Ngài khi thấy những tai họa xảy tới cho người thời đó. Những thiên tai hay tai họa cũng có thể là những sứ điệp Thiên Chúa gởi tới cho con người. Đừng tưởng rằng những người bị tai họa vì họ tội lỗi hơn người đang sống không bị tai họa, “nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết y như vậy”. Đức Giêsu khi khởi đầu sứ mạng, Ngài đã loan báo: “hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (MC .1, 14). Sám hối là điều rất cần thiết, nên Đức Giêsu đã lập đi lập lại nhiều lần.
Sám hối, là thái độ trở lại với Thiên Chúa và với con người khi đã nhận biết sự thật về chính mình, khi thấy mình đã không đi đúng đường, khi nhận ra mình đã lỗi lầm phạm tội. Tôi là ai, tôi đã làm gì, tôi có sống theo lời mời gọi của Thiên Chúa đối với tôi không, tôi có cố gắng vươn lên thành người thành toàn như Thiên Chúa muốn không, hay tôi đã xúc phạm đến tha nhân và Thiên Chúa? Không có sự nhận thức đúng đắn về chính mình, không thể có sám hối thật sự.
Tôi có biết Thiên Chúa yêu thương tôi vô cùng không? Tôi có đáp trả tình yêu của Ngài không? Tình yêu đáp trả tình yêu. Nếu tôi không đáp trả tình yêu của Ngài, tôi đáng tội chết! Tuy nhiên Thiên Chúa không xử tôi chết, nhưng nếu tôi không ở trong tình yêu của Ngài, tôi sẽ chết khô như cây mà rễ nó không hút nước và chất bổ dưỡng để nuôi cây. Tôi không tựa vào Thiên Chúa và không ở trong Ngài thì tôi tự hủy hoại tôi, tôi không thể sống hạnh phúc được.
Tôi có cố gắng phát triển tài năng và trưởng thành đến độ như Thiên Chúa ao ước về tôi không? Thiên Chúa kỳ vọng nơi tôi, tôi có làm Ngài thất vọng không? Tôi có sống hạnh phúc như Thiên Chúa muốn không? Tôi có tin rằng Ngài thương tôi, và sẵn sàng làm tất cả cho tôi không? Nén vàng nén bạc tài năng Thiên Chúa ban, tôi có sinh lợi không? Thiên Chúa đã gọi Môsê và đã chờ đợi ông đáp trả, chắc chắn Thiên Chúa cũng có chương trình về tôi, Ngài cũng kỳ vọng nơi tôi, và Ngài mong ước tôi sẽ đáp trả chương trình của Ngài có nơi tôi. Tôi có phát triển con người của tôi, để có thể thực hiện sứ mạng Thiên Chúa trao cho tôi không?
Thái độ của tôi như thế nào đối với bạc tiền danh vọng tình duyên? Người đời cho rằng tiền bạc giải quyết tất cả, “có tiền mua tiên cũng được”, và người ta tìm mọi cách để kiếm cho được thật nhiều tiền, ngay cả đến độ xúc phạm con người, bỏ cả người thân là cha mẹ, vợ chồng, con cái. Tiền bạc chi phối tất cả đời sống của những người này, đóng lòng họ, ngăn cản họ đến với người khác. Tôi có cách cư xử giống như những người đó không? Thiên Chúa và tha nhân có chỗ đứng nào nơi tôi? Thiên Chúa có chỗ đứng tuyệt đối nơi đời sống và chọn lựa của tôi không?
Thiên Chúa vẫn đang chờ mong tôi trở lại với Ngài, như người cha tựa cửa mong người con hoang trở về, Thiên Chúa cũng đang chờ đợi tôi sám hối quay về với Ngài. Ngài vẫn đang ban Thánh Thần cho tôi, vẫn đang thúc giục tôi trở về với Ngài. Hãy trở về với Thiên Chúa, để được hạnh phúc với Thiên Chúa và với anh chị em mình. Xin Thiên Chúa giúp con trở về với Thiên Chúa là Cha nhân từ.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, ơn gọi là gì? Ơn gọi của Môsê là gì? Ơn gọi của bạn là gì? 2. Như thế nào là người trưởng thành? Đâu là những khía cạnh mà con người cần lưu ý để trở thành người phát triển toàn diện?
Đoạn Tin Mừng đề cập tới hai ‘tai nạn’ rất thời sự nhưng chỉ mang tính tượng trưng: một hoàn toàn ngẫu nhiên là ngọn tháp đổ, và một vì chủ đích chính trị là cuộc tàn sát trong đền thờ; những biến cố tương tự như thế sẽ xảy ra hàng ngày như cơm bữa trong đời sống bất cứ ai. Thế nhưng nhiều người lại thích đặt điều: tại sao người này bị, kẻ khác lại không? Phải chăng vì người này tội lỗi còn kẻ kia tốt lành, người này xui xẻo còn kẻ kia may mắn...? âu đó cũng là thái độ rất thường tình của nhân tình thế thái qua mọi thời đại.
Thế còn thái độ của Kitô hữu sống theo tinh thần Tin Mừng thì sao; họ có lối suy nghĩ nào khác không nhỉ? Đức Giêsu cho thấy là các môn đệ Người phải nghĩ khác: “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu”.
Người tốt / kẻ xấu, đó là phân biệt thường tình, nhưng liệt kê xếp loại người ta vào thứ hạng nào thì lại là điều cấm kị đối với Kitô hữu, nhất là khi chỉ dựa trên những sự kiện xảy ra được người đời coi là ‘quả báo’! Đức Giêsu đã chẳng thẳng thừng ngăn chận lối suy nghĩ này: “Anh em đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa đoán xét” (Mt 7:1-5); tại sao thế?
Thường thì trong cuộc sống, ‘quả báo’ được coi là một định luật hiển nhiên: ác giả thì ác báo, ở hiền thì gặp lành. Và luật quả báo chứa đựng một sức mạnh vạn năng trong lãnh vực luân lý: nó buộc người ta phải làm lành lánh dữ. Khó có thể tưởng tượng nổi: nếu không có quả báo thì làm sao có thể duy trì được nền luân lý cao đẹp trên thế giới này, và bảo đảm được trật tự xã hội…? Và thế là người ta có khuynh hướng giải thích nguyên nhân mọi biến cố xảy ra chung quanh theo định luật quả báo. Cứ xem những gì xảy ra cho một người là biết được người đó tốt hay xấu: ‘nếu người không phạt thì đã có trời phạt…’! Câu chuyện ông Gióp trong Cựu Ước cho thấy: dứt ra khỏi lối suy nghĩ cố hữu này không phải là chuyện đơn giản.
Đức Giêsu cho biết một điều căn bản: nếu so sánh con người với nhau trước các lề luật, thì tất nhiên có người tốt kẻ xấu; nhưng đứng trước mặt Thiên Chúa tình yêu, thì mọi người không trừ một ai, đều cần tới ơn cứu độ và lòng xót thương. Các tai họa, rất thường xảy ra quanh ta hay trực tiếp liên quan đến ta, chính là dịp đưa ta đến gần với lòng trắc ẩn xót thương các nạn nhận, sẽ luôn là dịp để một tín hữu giáp mặt với Thiên Chúa, và rộng mở cõi lòng đón nhận lòng thương xót của Người. Việc sám hối mà Đức Giêsu kêu gọi, không chỉ mang tính luân lý là phải cải tà qui chính, mà trước hết là trở về với Thiên Chúa, với nguồn mạch của lòng thương xót và nhân ái. Chính vì thế mà mỗi tai họa lớn nhỏ xảy ra trong đời, đối với mọi tín hữu của Đức Kitô, đều phải trở thành một lời mời gọi để sám hối và trở về với lòng xót thương thần linh.
Về phía con người, sẽ không bao giờ có ai xứng đáng với lòng thương xót đó. Nó luôn luôn được trao ban cách nhưng không, qua một trung gian duy nhất là Đức Kitô Giêsu. Không có lòng thương xót đó, con người, dầu có lương thiện tốt lành tới mấy đi chăng nữa, thì cũng tựa như cây cối tốt tươi, cành lá xum xuê trồng trong vườn mà chủ vườn là Thiên Chúa không tìm thấy trái ăn. Người làm vườn (là Đức Kitô Giêsu) can thiệp để được tiếp tục tưới bón bằng sự tự hiến cứu chuộc của Người. Kitô hữu là những cây vả đã được Kitô Giêsu tưới bón bằng ơn cứu chuộc của Người, không phải chỉ để tiếp tục tốt tươi xum xuê với sự tốt lành thánh thiện của mình, nhưng là để có được trái ngon ngọt của nhận biết và sống tình Chúa yêu thương. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, và là Đấng giầu lòng từ bi và hay thương xót, thì Ông Chủ này cũng chỉ mong tìm thấy nơi các Kitô hữu một nhìn nhận Người là như thế, chấp nhận Người, và tiếp thu lòng xót thương vô biên; đồng thời tìm cách biểu lộ lòng thương xót đó trong cuộc sống hàng ngày. Mùa chay chính là thời gian tưới bón, “vun xới và bón phân cho nó”, là thời gian hướng cặp mắt các tín hữu tới Thập Giá Đức Kitô Giêsu, biểu hiện vĩ đại nhất của một Thiên Chúa xót thương và cứu độ, để mong “sang năm nó có trái”. Như thế Mùa Chay mới quả thực là thời gian đâm bông kết trái cho đời sống đức tin của người tín hữu, là thời gian của hồng ân sự sống đích thực.
Lạy Chúa, cảm tạ Chúa đã lại cho con được hưởng một Mùa Chay thánh nữa, đã lại cho con được ‘vun xới và tưới bón’ bằng hồng ân cứu độ. Xin cho con mở rộng tâm hồn đón nhận tình Chúa xót thương qua việc chiêm ngắm cuộc khổ hình và cái chết Thập giá của Đức Kitô Giêsu, Cứu Chúa của con. Con ước mong rằng, qua Mùa Chay thánh năm nay (cũng rất có thể là mùa cuối cùng của đời con?), Chúa sẽ tìm thấy được nơi niềm tin của con, trái thơm ngon mà Chúa hằng mong đợi. Xin cho con nhận biết và được biến đổi trong tình thương xót hải hà của Chúa. Amen.
Con người chúng ta ai cũng có tội. Nhưng nhắc đến những tội đã phạm, ai ai cũng khó chịu, thà đừng nói tới thì hơn. Khi bị người khác bới lại những vết đen trong quá khứ, chúng ta cảm thấy nhức nhối, đôi khi còn muốn lồng lộn lên để phản kháng, mặc dầu có những chứng cớ sờ sờ trước mắt.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa không muốn để chúng ta an phận cách giả tạo. Chúng ta đừng nghĩ rằng tôi có tội, nhưng các tội tôi phạm chẳng đến nỗi nào, vì thiếu gì những người tội lỗi còn nhiều hơn tôi gấp bội. Đây là một tâm lý bình an giả hiệu, tự ru ngủ mình trong một pháo đài ngụy tạo để cố thủ và chẳng thích người khác bới móc cuộc sống tư riêng nơi mình. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã nhân cái chết của những người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, và Chúa còn mượn cả tiếng thét gào ai oán của những thường dân vô tội bị Philatô sát hại để cảnh tỉnh chúng ta. Sứ điệp mà Đức Giêsu công bố rất nghiêm khắc và mạnh mẽ: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi sẽ chết hết y như vậy” (Lc 13,5).
Sự an phận giả tạo
Triết gia Lavator đã nói: “Trong các sinh vật trên mặt đất, khuôn mặt đẹp đẽ nhất chính là nét mặt con người. Nhưng khuôn mặt xấu xa bỉ ổi nhất cũng chính là bộ mặt nơi mỗi người chúng ta”. Con người vốn rất xinh đẹp vì được dựng nên giống họa ảnh của Thiên Chúa là Đấng Chân, Thiện, Mỹ, nhưng chân dung thánh thiện tuyệt vời ấy lại bị méo mó và hoen ố do tội lỗi gây ra. Ý niệm về tội đang bị con người ngày hôm nay dần dần đào thải. Là những Kitô hữu, chúng ta rất dễ rơi vào thái độ an phận một cách giả tạo và tưởng rằng dù tôi có tội nhưng chẳng đến mức bị Thiên Chúa đầy xuống hỏa ngục đâu. Vả lại, chúng ta được nghe nói rất nhiều về lòng thương xót của Thiên Chúa, vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại quá độc ác và tàn nhẫn trừng phạt chúng ta. Quả thật, lòng thương xót của Chúa thì vô bờ, nhưng khi con người cố chấp và không mở lòng đón nhận sự tha thứ, thì Thiên Chúa cũng đành chịu thua. Thánh Augustinô đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con không cần có con, nhưng Chúa muốn cứu rỗi con, lại cần có con cộng tác”. Nỗi sỉ nhục lớn nhất đối với Thiên Chúa là chúng ta đóng khép lòng mình lại, và chối từ lòng thương xót của Ngài. Chúa Giêsu đã từng nói: “Mọi tội lỗi đều được tha thứ, nhưng tội phạm đến Thánh Thần sẽ chẳng bao giờ được tha” (MC 3,29). Tội phạm đến Thánh Thần chính là sự cố chấp và chai lỳ trong tội lỗi và đó là tình trạng sống an phận cách giả tạo. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa muốn dùng tiếng thét ai oán của những người lâm nạn để thức tỉnh lương tâm chúng ta. Ngài còn dùng cả tiếng búa rìu chát chúa chặt vào gốc cây để lay động lương tâm mỗi người. Đừng bao giờ ngủ quên trên sự an phận giả dối nơi lòng mình.
Thinh lặng để lục soát lương tâm
Một đạo sỹ nọ quy tụ những học trò của ông trong một cái sân rộng trước nhà để chỉ giáo. Giữa sân ông để một thau nước. Ông khuấy cho thau nước sóng sánh và nói các đệ tử hãy nhìn vào. Từng đứa học trò ngoan ngoãn làm theo. Sau đó, ông hỏi xem họ đã nhìn thấy gì. Các học trò đáp: “Thưa thầy, chúng con chỉ thấy lờ mờ gương mặt của chúng con”. Mười lăm phút sau, khi thau nước trở nên phẳng lặng, ông nói họ hãy nhìn lại một lần nữa và cũng hỏi lại câu hỏi trên. Các học trò trả lời: “Bây giờ chúng con đã thấy thật rõ khuôn mặt của chính chúng con”. Bấy giờ vị đạo sỹ mới giải thích rằng, chỉ khi nào biết trở về trong tĩnh lặng nội tâm, chúng con mới có thể nhìn rõ con người mình. Đúng vậy, Giáo hội vẫn thường tổ chức những cuộc tĩnh tâm để giúp chúng ta đi vào sự thinh lặng, đặt mình trước mặt Chúa hầu có thể nhìn lại bản thân. Chúng ta không thể nào lục soát lương tâm cách thấu đáo, nếu tâm hồn chúng ta bị nhiễu sóng bởi những tiếng đông ồn ào bên ngoài. Đó là những tiếng xào xạc của tiền bạc. Đó cũng là những cuốn hút ầm ĩ của một lối sống hưởng thụ, khiến đôi tai nơi cõi lòng của chúng ta bị bịt kín, không thể nghe được tiếng nói của Chúa đang ngỏ trao. Khi tâm hồn chúng ta đầy những chộn rộn và vướng bận của cơm áo gạo tiền, hoặc đầy ắp nhưng so đo tính toán để lo làm giầu, chúng ta không thể nào nhìn rõ được chính mình.
Sám hối và canh tân
Có một câu chuyện dí dỏm đăng trên một tuần báo. Một anh chàng thanh niên kia rất bặm trợn, lảng vảng đến khu vực nhà xứ để phá phách. Cha xứ gặp anh ta và cũng chào hỏi thân tình. Chàng thanh niên chỉ chuyên đi nghịch ngợm, còn việc đạo đức thì khá lơ là, mỗi tuần chỉ vác xác đến nhà thờ một lần cho có lệ. Anh chàng chào Cha xứ và nói: “Thưa Cha, đêm hôm qua con có một giấc mơ tuyệt vời, vì con thấy cả con và Cha cùng được đưa về Thiên đàng”. Cha xứ kiên nhẫn và lắng tai nghe tiếp xem anh ta muốn nói gì. Anh nói tiếp:“Thưa Cha, đúng như vậy, cả Cha và con mỗi người trèo lên một cái thang bắc tới trời. Trên cái thang đó, các thiên thần ghi lại những tội đã phạm, thang của Cha ghi tội của Cha, thang của con ghi tội của con. Thiên thần phát cho mỗi người một hộp phấn, dùng để xóa đi những vết tích tội lỗi ghi trên 2 chiếc thang. Con đã trèo lên khá cao, sau khi đã lấy phấn bôi xóa gần hết những tội của con. Một lát sau, Cha vẫn còn lẹt đẹt tít phía dưới và gọi với lên: “Con còn phấn không, cho Cha xin đỡ mấy cục, hộp phấn của Cha hết sạch rồi”. Kể xong câu chuyện, chàng thanh niên chuồn thẳng, còn Cha xứ đứng đó tủm tỉm cười.
Tất cả mọi người chúng ta đều là tội nhân, từ các anh em linh mục, tu sĩ hay giáo dân. Có nhiều linh mục đã sống rất thánh thiện và gương mẫu, nhưng hỏa ngục không phải là nơi vắng bóng các Cha đâu.
Sống hoàn thiện ơn gọi nên thánh của tất cả mọi người chúng ta luôn khởi đầu với việc ý thức sâu xa thân phận tội lỗi nơi mình.
Kết luận
Trong năm thánh Lòng Thương Xót Chúa, chúng ta bày tỏ sự tín thác tuyệt đối nơi Ngài. Chúng ta hãy học lấy thái độ của người đầu tiên được Chúa Giêsu trực tiếp tuyên thánh khi Ngài bị treo trên Thập giá. Đó là một tên trộm, suốt cả một đời ngập đầy tội ác. Người trộm này đã nhận ra lầm lỗi của mình khi anh ta thốt lên: “Phần chúng ta bị như thế này thật thích đáng”, và anh ta đã đăm đăm nhìn vào ánh mắt đầy yêu thương của Chúa. Vâng, khởi đầu của việc nên thánh là khi chúng ta biết nhận ra những vết đen trong quá khứ và đặt niềm tin tuyệt đối vào lòng Thương xót của Đấng đã chết vì chúng ta.
Sáng hôm ấy, Thầy giáo cho các em học sinh một trò chơi. Thầy chia học sinh trong lớp thành hai nhóm. Mỗi nhóm phải lần lượt đưa ra đáp án cho câu hỏi của thầy. Nhóm nào thắng sẽ được một gói quà, nhóm nào thua phải quét lớp.
Câu hỏi được ghi lên bảng như sau: Em hãy cho biết công dụng của viên gạch.
Hai nhóm lần lượt đưa ra các câu đáp như sau: Gạch được dùng để xây nhà – lót đường đi, lót sân – kê chân bàn, chân tủ – chặn cửa – chận bánh xe – chặn giấy - kê thành bếp nấu ăn (khi đi trại) – làm gối kê đầu khi dã ngoại - giã lương thực (giã gạo) thay cho chày – dùng thay búa để đập – tự vệ trước đối thủ - tấn công đối thủ, ném chó – làm thớt – vân vân…
Không ngờ viên gạch xem ra quá đỗi tầm thường mà có thể mang lại nhiều công dụng như thế.
Tiếp đến, Thầy giáo đề nghị nêu lên công dụng của cây xương rồng bà, loại cây nầy có nhiều gai tua tủa trên hai mặt lá, thân cao từ một đến hai mét, mọc dày trên những đồi núi khô cằn.
Hai nhóm lại lần lượt nêu lên những công dụng sau: trồng làm hàng rào bảo vệ nương rẫy - thức ăn cho dê cừu (sau khi dùng rơm rạ đốt cho cháy xém) - che chắn gió - phủ xanh đồi trọc - chống xói mòn - cung cấp trái cho chim chóc - ủ làm phân xanh, vân vân…
Cũng không ai ngờ cái thứ xương rồng đầy gai góc, tưởng là vô tích sự đáng chặt bỏ kia lại cống hiến cho đời nhiều công dụng tốt lành như thế.
Sau cùng, Thầy giáo nêu lên câu hỏi thứ ba: Em hãy cho biết lợi ích mà những kẻ lười biếng chẳng làm việc gì, có thể mang lại cho xã hội.
Đến đây, nhiều khuôn mặt hồn nhiên trở nên đăm chiêu tư lự, một số em vò đầu, nhiều em cắn bút suy nghĩ hồi lâu mà không ai tìm được bất kỳ một cống hiến nào của nhóm người nầy cho nhân quần xã hội.
Qua Tin Mừng Luca (13, 6-9), Chúa Giêsu đề cập đến một cây vả vô tích sự, chẳng mang lại lợi ích gì, còn thua cả viên gạch hay cây bàn chải trong câu chuyện trên đây. Người nói: "Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?” Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.” (Lc 13, 6-9)
Qua đoạn Tin Mừng nầy, Chúa Giêsu kêu gọi mọi người hãy sám hối và một trong những lý do khiến người ta phải sám hối là vì đã không dùng thời giờ và năng lực Chúa ban để sinh nhiều “hoa trái” vật chất hay tinh thần.
Trổ sinh những loại hoa trái nào đây?
Mỗi người chúng ta là một thứ cây rất quý được Thiên Chúa đem trồng trong vườn nho của Chúa.
Mỗi con người là một tạo vật rất tuyệt vời do Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Người và được Thiên Chúa bồi bổ cho bằng Lời hằng sống và bằng vô vàn ân huệ cao quý. Thế nên, nếu chúng ta không trổ sinh được hoa trái thì, theo lời Chúa nói, đáng bị hủy diệt.
Nâng cao phẩm chất của mình, làm gương sáng, làm tròn bổn phận đối với Chúa, đối với cha mẹ, vợ chồng, anh chị em trong gia đình, tham gia xây dựng phúc lợi cộng đồng, chăm lo phục vụ những người gặp khó khăn, bệnh tật, túng thiếu… đang sống chung quanh ta là những hoa trái tốt lành mà mọi người có thể cống hiến cho Chúa và cho đời. Trái lại, nếu ta không cống hiến được gì cho Thiên Chúa và xã hội, thì thực đáng buồn và có thể phải chung số phận với cây vả không trái trên đây.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa như người làm vườn nhân hậu đã nài xin Chúa Cha ban cho chúng con thêm một cơ hội chót để hoặc là trổ sinh hoa trái tốt lành hay là chết.
Xin cho chúng con biết tận dụng thời giờ còn lại để lập thêm công đức, để sinh nhiều hoa trái tốt, hoa trái vật chất cũng như hoa trái thiêng liêng, nhờ đó cuộc đời chúng con tăng thêm giá trị và chúng con sẽ làm vinh danh Chúa bằng đời sống cao đẹp của mình.
Cuộc sống con người luôn có những hối tiếc do lầm lần của quá khứ. Hối tiếc vì mình đã sống như thế! Hối tiếc vì việc tốt mà mình đã bỏ qua. Hối tiếc vì việc mình làm đã gây nên đau khổ cho tha nhân. Và dường như, ai trong chúng ta cũng từng hối tiếc về một việc làm nào đó.
Nhà Bác học Einstein, "cha đẻ của nguyên tử lực”, là một người Đức gốc Dothái. Ông đã chạy trốn khỏi nước Đức và định cư tại Mỹ năm 1933 vì sự truy sát của Hittle. Năm 1939, Einsten đã trình lên Tổng thống Mỹ Roosevet dự án chế tạo bom nguyên tử để đề phòng sự bành trướng của nước Đức. Dự án đã được Tổng thống phê duyệt. Năm 1941, bom nguyên tử đã ra đời và đã thử nghiệm thành công. Thế nhưng, tới năm 1945, sau khi hai quả bom nguyên tử nổ tại Hyrosima và Nagasaky, khiến hàng trăm ngàn người chết oan uổng, Einstein đã hối tiếc và nói: “Nếu tôi có thể làm lại cuộc đời, thì tôi sẽ làm một anh thợ hàn còn hơn làm một nhà khoa học.”
Đôi khi nhìn lại mình, chúng ta vẫn thấy mình là tội nhân. Có biết bao lời nói như những mũi tên chúng ta đâm thấu trái tim bao người. Có biết bao lời nói, việc làm chúng ta đã gieo vãi những đau khổ vào cho nhân thế. Có rất nhiều lần chúng ta cũng từng nuối tiếc như Einstein: Nếu có thể làm lại, chúng ta sẽ không làm như thế!
Người Việt Nam có câu "ai nên khôn mà không dại một lần". Lầm lỗi, yếu đuối, thiếu sót là lẽ thường tình của thân phận con người. Điều quan yếu không phải chỉ nhìn nhận tội mình rồi than khóc tội mà là canh tân, khắc phục hậu quả việc mình đã gây ra. Nhất là biết đứng dậy sau những lần vấp ngã. Cuộc đời có vấp ngã, có lầm lỗi mới có kinh nghiệm để chiến thắng, để vượt qua những cám dỗ trong cuộc đời.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sám hối khi thời gian còn thuận tiện. Đừng thử thách Thiên Chúa nhưng hãy thật lòng ăn năn trở về cùng Chúa. Sự trở về không chỉ là hành vi đấm ngực ăn năn về tội đã phạm mà còn phải sống theo lời mời gọi của Chúa: “Hãy sinh hoa kết trái xứng với lòng ăn năn thống hối”. Hoa trái của sự thánh thiện. Hoa trái của việc lành phúc đức. Hoa trái của đời sống công bằng bác ái. Hoa trái của đời sống yêu thương và phục vụ mọi người. Xem ra đường trở về là không khó. Cái khó là ở việc sinh hoa kết trái. Làm sao chúng ta có thể sống thanh sạch đang khi còn sống giữa thế gian mà sự dâm ô, tục tĩu, lăng loàn đang có mặt mọi nơi và mọi chốn? Làm sao làm việc lành phúc đức đang khi phải cố gắng bươn chải với kế sinh nhau, với miếng cơm manh áo từng ngày? Làm sao giữ được công bằng bác ái đang khi sống giữa thế gian đầy bất công và hận thù? Làm sao sống yêu thương và phục vụ đang khi nhu cầu của bản thân vẫn thiếu thốn tư bề?
Sinh hoa kết trái là khó nhưng đó là quy luật của sự tồn tại. Cây không sinh hoa kết trái là tự huỷ diệt mình. Cây có sinh trái, trái mới cho hạt, và hạt mới nẩy mần, phát triển thành cây để đơm hoa kết trái. Quy luật tuần hoàn là thế. Cuộc sống con người cũng vậy. Con người chỉ nhận được niềm vui của sự an bình và hạnh phúc, khi biết gieo yêu thương vào đời. Con người chỉ tồn tại khi biết xoá bó những trái đắng của bất công và hận thù. Thế nhưng, biết bao người vì lòng tham đã tự giết đời mình trong những đam mê của danh lợi thú. Biết bao người vì những tham sân si đã trở thành trái cay, trái đắng cho đời những phiền luỵ đắng cay. Làm người phải biết sống yêu thương. Tình yêu thương không cho phép chúng ta sống lỗi công bình bác ái với tha nhân, và càng không cho phép chúng ta dửng dưng trước sự bất hạnh của anh em. Lòng yêu thương đòi buộc chúng ta phải yêu tha nhân như chính mình. Mỗi người hãy biết sống vì người khác. Ai cũng cầu cho mình được bình an hãy biết kiến tạo bình an cho tha nhân. Ai cũng mong muốn được sống hạnh phúc, vậy hãy gieo niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân. Ai cũng muốn được quan tâm chăm sóc, vậy hãy biết cho đi để được nhận lại. Đó cũng là điều mà Chúa từng mời gọi chúng ta: “Điều gì anh em muốn người khác làm cho mình thì hãy làm cho anh em như vậy.”
Hơn nữa, gieo yêu thương sẽ không bao giờ thua lỗ. Gieo yêu thương sẽ gặt hái được biết bao hoa trái của tình yêu. Càng gieo yêu thương càng được đón nhận nhiều nghĩa cử yêu thương. Khi gieo yêu thương thì hận thù sẽ tan biến; bác ái sẽ nở hoa, công lý và hoà bình sẽ đơm bông kết trái. Người gieo yêu thương sẽ gặt hái được cây sự sống mang lại hạnh phúc trường sinh.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết sống yêu thương như Chúa đã yêu thương chúng ta. Biết sống cho đi để được nhận lại. Biết chết đi những đam mê, ích kỷ của mình để trở nên khí cụ mang tin yêu và hạnh phúc gieo vào nhân thế hôm nay. Amen.
Cây vả trong câu chuyện của Đức Giêsu là một thân cây rất đặc biệt, bởi vì nó được trồng trong một vùng đất đặc biệt -vườn nho. Mặc dù được như vậy, nhưng thân cây này lại cằn cỗi. Tuy nhiên, nó vẫn được tạo cho một cơ hội khác. Cây vả tượng trưng cho dân Israel được trồng trong vườn nho của Chúa. Tình trạng cằn cỗi của nó tượng trưng cho tình trạng cằn cỗi của dân Israel trước mặt Thiên Chúa.
Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ của Người bằng lời kêu gọi thống hối: “Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần đến”. Ngày nay, thông qua tiếng nói của Giáo Hội, chúng ta cũng được kêu gọi cùng một lời kêu gọi đó. Lời kêu gọi sám hối ở ngay trung tâm của Tin Mừng. Đức Giêsu nói ra lời kêu gọi này, không chỉ cho những người tội lỗi, nhưng là cho những người tốt lành. Thật vậy, Người nói với tất cả mọi người, không có ngoại lệ. Nhưng bạn có thể hỏi rằng: Điều này có thể diễn ra như thế nào –người tốt lành cần phải thống hối sao?
Trong trường hợp những người tốt lành, đối với họ, sự sa ngã hệ tại ở việc tốt lành mà họ đã không thực hiện. Đây là sự công kích chính yếu của dụ ngôn nói về cây vả cằn cỗi. Cây vả này bị coi như không đạt yêu cầu, không phải vì nó tạo ra những quả vả có chất độc, nhưng bởi vì nó không hề trổ sinh bất cứ hoa quả nào. Nếu nó không sinh quả, thì cây vả đó còn để làm gì?
Hiếm khi người Kitô hữu tự hỏi mình câu hỏi: Tôi đã thiếu sót không làm gì? Lời kêu gọi thống hối không chỉ là lời kêu gọi tránh xa sự dữ, mà còn là lời kêu gọi “trổ sinh hoa quả” của lối sống tốt đẹp. Đó là nguyên nhân tại sao lời kêu gọi này phù hợp cho tất cả mọi người.
Lời kêu gọi thống hối của Đức Giêsu làm cho chúng ta bối rối, mà chúng ta thì không thích bị gây rắc rối. Chúng ta muốn cho cuộc sống của mình được yên ổn, một cuộc sống có thể chứa đựng nhiều sự ích kỷ. Có thể chúng ta không phạm phải một tội trọng nào, tuy nhiên, chúng ta có thể rất ích kỷ, rất hay đòi hỏi, rất thiếu sự quan tâm. Nhưng chúng ta lại không muốn hay biết, ít nhiều chúng ta đã làm bất cứ điều gì, theo bản chất này của chúng ta. Chúng ta được kêu gọi ra khỏi thói ích kỷ, để trở nên người biết quan tâm đến kẻ khác, và tập trung vào Thiên Chúa.
Chắc hẳn là hầu hết chúng ta đều không có bất cứ giây phút chuyển biến vĩ đại nào, giống như Môsê đã có. Hôm trước, ông mời đi chăn giữ đàn cừu của ông, ngày hôm sau, ông lại dẫn dắt một dân tộc bị áp bức đi tới tự do. Nhưng sự biến đổi là một điều thú vị. Đây là một tin vui, là một lời kêu gọi thoát khỏi tình trạng nô lệ của thói ích kỷ và tội lỗi, để đến với cuộc sống của tự do và ân sủng. Đây còn là một lời kêu gọi thoát khỏi cuộc sống cằn cỗi để đến với một cuộc sống mang lại kết quả. Đây chính là lời kêu gọi đi vào trong niềm vui của Nước Trời. Tuy nhiên, đây không phải là điều gì đó mà chúng ta có thể đạt được một lần cho tất cả, nhưng lôi kéo theo cả một quá trình lớn lên và phát triển. Cuộc sống Kitô hữu là một quá trình liên tục hoán cải.
Dụ ngôn của Đức Giêsu chứa đựng một lời cảnh báo và đe doạ. Mục đích của dụ ngôn này là để chỉ ra cho chúng ta rằng có thể chúng ta đang bỏ lỡ, hoặc thiếu sót, hầu cho chúng ta có được một cuộc sống sâu xa, phong phú và chính đáng hơn. Chúng ta hãy để cho những kẻ suy nghĩ rằng họ đang an toàn, biết sống có ý thức, để khỏi bị sa ngã. Không ai bị sa ngã nhiều cho bằng người cho rằng mình không thể được cứu độ.
Có lần, một sinh viên nói với nhà khoa học và triết học Blaise Pascal: “Nếu em được tài giỏi như thày, em sẽ trở thành một người tốt hơn”. Pascal trả lời: “Điều đầu tiên là em hãy trở thành một người tốt hơn, rồi em sẽ được tài giỏi như thày”.
Theo ông Pascal, điều đầu tiên cần phải làm là hãy là một người tốt, rồi sau đó mới có hy vọng và khả năng trở thành người tài giỏi. Cậu học trò trong câu chuyện trên lại có quan điểm ngược lại, chờ khi nào mình tài giỏi thì mới trở thành người tốt. Như thế, điều kiện đặt ra phải là người giỏi, xem ra rất xa vời và ảo tưởng. Con đường đạt tới thành công xem ra chỉ là những mơ ước hão huyền.
Chúng ta thường có khuynh hướng giống như cậu học trò kia, muốn đưa ra những điều kiện ngược đời, trong khi đó, việc mà mỗi người đều có thể làm được, đó là trở nên người tốt, thì lại bị lãng quên hoặc coi nhẹ. Trở nên người tốt, đó là điều kiện đầu tiên để thành đạt trong cuộc sống.
Một nhóm người đến thuật lại cho Chúa Giêsu nghe những sự kiện vừa xảy ra. Khi thuật lại những sự kiện này, không phải vì họ thương xót các nạn nhân mà ngược lại, họ muốn kết án họ như những người tội lỗi. Khi nhận định và phê phán người khác, họ tự coi mình là những chuẩn mực về luân lý. Chúa Giêsu đã điều chỉnh quan niệm của họ. Theo giáo huấn của Chúa, bất cứ ai cũng cần phải sám hối. Bởi lẽ những hình phạt dành cho người cứng lòng, kiêu ngạo có thể xảy đến bất kỳ lúc nào, giống như cây tháp Si-lô-ê đổ xuống hoặc như cuộc chém giết đẫm máu của Phi-la-tô. Sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn gửi đến cho các thính giả đương thời cũng như cho các độc giả hôm nay đã rất rõ ràng: hãy sửa soạn tâm hồn, hãy sẵn sàng và khiêm tốn nhận mình là tội nhân. Chính nhờ sự khiêm tốn đó mà họ có thể đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa là Cha bao dung nhân hậu.
Lòng nhân hậu của Thiên Chúa đã được diễn tả qua câu chuyện bụi gai trong sa mạc. Ông Môi-sen đã được gặp gỡ Chúa tỏ mình qua bụi gai đang cháy bừng. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại Chúa tỏ cho con người biết danh xưng của Ngài. Danh xưng ấy gắn liền với các tổ phụ của dân tộc Israen. “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp” (Bài đọc I). Nói đến Thiên Chúa của tổ phụ là nói đến biết bao điều lạ lùng Chúa đã thực hiện vì yêu thương dân riêng của Ngài. Những gì được kể nối tiếp trong sách Xuất hành đã cho ta thấy rõ Thiên Chúa là Đấng nhân hậu. Ngài đã cứu dân Do Thái ra khỏi Ai-cập để dẫn đưa họ về tới bến bờ tự do là Đất Hứa.
Mùa Chay là thời điểm để chúng ta suy tư về lịch sử cứu độ cũng như lịch sử cuộc đời cá nhân mỗi người. Thiên Chúa luôn ghi dấu ấn tình yêu của Ngài nơi cuộc sống chúng ta. Có điều chúng ta ít nhận ra những dấu ấn ấy. Hình ảnh cây vả đã ba năm liền không sinh trái là tượng trưng của một cuộc sống khô cằn, thiếu tình Chúa, vắng tình người, khép kín trước tha nhân. Dù con người mang nhiều tội lỗi, Chúa vẫn luôn bao dung và kiên nhẫn. Ngài giống như người làm vườn gia hạn chờ đợi thêm một năm nữa rồi mới quyết định số phận của cây vả. Thiên Chúa luôn kiên nhẫn mời gọi và chờ đợi chúng ta trở về. Hãy sinh hoa trái để không bị đốn ngã và tiêu diệt. Đó là điều Chúa muốn nhắn gửi chúng ta.
Trở lại câu chuyện mở đầu trên đây, Lời Chúa cũng mang nội dung tương tự, tức là mời gọi chúng ta hãy trở nên con người tốt, để rồi nhờ đó chúng ta mới có hy vọng thành đạt trong xã hội. Hạnh phúc siêu nhiên đời này cũng như đời sau là kết quả của những cố gắng nỗ lực sống tốt với anh chị em xung quanh mình.
“Ôn cố nhi tri tân”, học chuyện đã qua để biết thêm điều mới mẻ. Thánh Phao-lô mời gọi giáo dân Cô-rinh-tô hãy nhìn lại lịch sử Cựu ước để “làm bài học, răn dạy chúng ta đừng chiều theo những dục vọng xấu xa như cha ông chúng ta” (Bài đọc II).
Ước chi mỗi chúng ta được biến đổi nhờ những thực hành của Mùa Chay, để chúng ta trở nên những người loan báo lòng nhân hậu của Chúa trong một xã hội đang nhạt phai tình người. Amen.
Sự kiện vụ án Philatô giết người vô tội, Chúa Giêsu không ủng hộ những người quá khích trong cuộc đấu tranh của họ chống lại Roma. Sứ điệp của Người luôn rõ ràng và rất tập trung: “Thời giờ đã hoàn tất, nước Thiên Chúa đã đến gần. Hãy ăn năm sám hối và tin vào Phúc Âm” (MC 1,15). Chúa Giêsu cảnh tỉnh: nếu các ngươi không sám hối thì cũng bị chết như vậy (Lc 13,3.5).
Sự kiện tháp Silôa đổ xuống đè chết mười tám người ở Giêrusalem. Cũng như trong trình thuật người mù bẩm sinh (x. 9, 2–3), Chúa Giêsu giải thích: “không phải vì anh ta,không phải vì cha mẹ anh ta đã phạm tội, mà anh ta sinh ra đã bị mù loà”. Người khẳng định nơi đây rằng, không ai trong bọn họ là nạn nhân của trừng phạt. Thiên Chúa không tìm trừng phạt mà là nâng dậy. Tuy nhiên, mỗi người chịu trách nhiệm về các quyết định của mình.
Người đời thường nghĩ rằng: những kẻ bị tật nguyền, những ai bị tai hoạ là bởi tội của họ hoặc do tiền nhân để lại. Họ đã đau khổ lại càng đau khổ hơn bởi quan niệm sai lầm này. Trong thực tế mọi người phải chấp nhận giới hạn của mình và hậu quả do mình gây nên hay vì sự liên đới nào đó do người khác mang lại. Chẳng hạn, hai tai nạn Chúa Giêsu đưa ra trong trong đoạn Tin mừng đều có nguyên nhân của nó. Philatô cần có tiền để xây dựng hệ thống dẫn nước đem lại lợi ích cho toàn dân. Vì thiếu tiền nên đã vào đền thờ quyên góp. Nhóm cực hữu cho hành động này là xúc phạm sự thánh nên trang bị khí giới để chống đối và bảo vệ đền thờ. Thấy thế, Philatô ra lệnh giết chết họ trong đền thờ. Hành động của họ dù với mục đích tốt nhưng lại thiếu khôn ngoan nên họ đã bị thiệt mạng. Vụ án mạng tháp Silôa sập đè chết 18 người vì lý do thiếu kỷ thuật trong việc xây cất. Cũng như vụ việc đau lòng, Nhà thờ giáo họ Ngọc Lâm thuộc giáo xứ Thái Nguyên, Giáo phận Bắc Ninh, đang xây bị sập mái nên có 3 người tử nạn, 48 người bị thương vào sáng ngày 17/01/2013; đang thi công, mái nhà thờ bất ngờ bị đổ sập vào lúc 9g50. Theo cha xứ Fx Nguyễn Đức Đại và một số bà con giáo dân đang cùng làm việc, nguyên nhân công trình bị sập là do trời mưa, ở phần gác đàn, nước đọng và chảy xuống chân một số cột dàn giáo khu vực đó làm xói đất nên sập dàn kéo theo toàn bộ phần mái bị sập.
Những tai hoạ đều có nguyên nhân của nó, hoặc là do mình, hoặc là do người khác. Những người Do thái nghĩ là do có tội nên Thiên Chúa phạt họ, còn mình vô tội thì được bình yên. Điều này đưa đến sự an toàn giả tạo. Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh rằng mọi người đều là tội nhân nên cần phải sám hối ăn năn. Rồi Chúa kể dụ ngôn “cây vả” nhấn mạnh đến tính cấp bách của sám hối. Người Do thái được ví như cây vả lâu ngày không sinh trái, nên chủ vườn là Thiên Chúa định chặt đi, nhưng người làm vườn là Chúa Giêsu xin khất một hạn kỳ, nếu sau đó nó vẫn không sinh hoa trái thì sẽ bị chặt bỏ. Cây vả được gia hạn là hình ảnh người Do thái, nếu các ông không chịu sám hối, thì chính các ông cũng sẽ chết y như những người Galilê bị Philatô giết, hoặc như những người bị tháp Silôac đè chết. Hiện thời các ông còn đứng đó chưa chết, là các ông đang ở trong tư thế cây vả được gia hạn. Nếu cây vả vẫn không sinh trái, nó sẽ bị chặt đi. Nếu các ông không chịu sám hối, các ông cũng sẽ bị huỷ diệt. Chúa Giêsu mời gọi họ trở lại với lương tâm để tự vấn.
Thái độ quyết liệt của Chúa Giêsu biểu lộ một tình yêu Thiên Chúa giàu lòng xót thương. Cây vả không cho trái độc, không làm hại cây khác, không phá cảnh quang. Nó chỉ có tội làm hại đất, sử dụng đất màu mỡ mà không cho trái.
Nhiều người cũng cảm thấy an toàn như cây vả. Tự hào vì mình không làm điều xấu, chẳng làm hại ai. Thế nhưng họ lại quên rằng, mình đã phạm tội không làm điều tốt, những điều tốt có thể làm được và phải làm. Nhiều người thường tự hỏi: tại sao người tốt cần phải hối cải? Tôi là người thường đọc kinh dự lễ rước lễ, không làm điều xấu hại ai, tại sao tôi phải ăn năn sám hối?
Sống đạo không phải chỉ lo tránh tội, mà còn là gieo trồng cái tốt, cái thiện.
Có câu chuyện kể của ông chủ tiệm đồ cổ. Vào một đêm đông, trời đã khuya, bão tuyết rơi lạnh lẽo, gió thổi mạnh rít từng cơn. Bỗng dưng có tiếng gõ cửa. Ông chủ cảm thấy khó chịu vì bị quấy rầy giữa đên khuya. Khi cánh cửa vừa mở, một người thanh niên dáng bụi đời đang run rẫy với một bàn tay xoè ra van xin, một bàn tay đỡ cây gậy trên vai treo ít đồ đạc cá nhân. Thấy hoàn cảnh đáng thương, ông chủ đưa tay với lấy ít bánh mì, vài đồng bạc lẽ trao cho hành khách. Nhận được của bố thí, người thanh niên quay gót trở đi không nói lời cám ơn giã từ. Khi đó chợt một ý tưởng đến trong đầu ông chủ nhà là nên mời người đó vào nghĩ đỡ một đêm, nhà vẫn còn phòng khách trống, còn chăn nệm ấm êm. Tuy nhiên ông lại nghĩ nếu để cho người này ở lại thì căn nhà sạch sẽ của mình sẽ bị ẩm ướt, bị dơ bẩn. Thế rồi ông vội vàng đóng kín cửa. Hai ngày sau, có người thợ đem đến một cây gậy làm bằng gỗ quý. Khi đã thương lượng giá cả, người bán gậy cho biết, anh ta là người thợ chuyên đào mộ ở nghĩa trang. Anh vừa chôn một người thanh niên mới chết, người thanh niên này vô gia cư, không tiền bạc, không người thân. Tài sản anh ta chỉ là cây gậy, người thanh niên chết vì bị lạnh cóng, máu đông lại khi ngũ trên tuyết. Nghe đến đây, ông chủ tiệm cảm thấy hối hận và xấu hổ. Ông hối hận không phải vì đã làm điều xấu mà vì điều tốt ông có thể làm cho người thanh niên nhưng ông đã không làm khiến cho anh phải chết rét.Ông chủ tiệm kết thúc câu chuyện với nổi thao thức: điều tôi ao ước là những sự dữ chúng ta làm, có lẽ Thiên Chúa sẽ tha thứ. Nhưng những gì tốt chúng ta đã không làm, sẽ mãi mãi không được tha thứ.
Mục đích cây vả là sinh trái. Người chủ vườn thất vọng không phải là cây vả sinh trái xấu, trái độc, trái chua mà là cây vả không sinh trái tốt. Cứ để thêm một năm chăm bón vun xới may ra cây vả sinh hoa trái.
Cần phải sám hối hoán cải. Sám hối không chỉ là lời nhắc nhở xa tránh sự dữ nhưng còn là lời mời gọi làm việc lành, sinh hoa trái tốt. Sám hối liên hệ ràng buộc mọi người. Ai cũng phải làm lành lánh dữ. Lánh dữ, không làm điều xấu chưa đủ, từ bỏ tội lỗi chưa đủ nhưng còn phải tích cực thực hành những điều tốt lành nữa.
Khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn được yên thân, an phận, không muốn làm phiền ai và cũng không muốn ai gây phiền hà cho mình. Vì thế một người ngoan đạo có thể bị rơi vào tình trạng tự mãn, sống ích kỷ mà không hay biết.
Dụ ngôn cây vả còn cho thấy sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. "Đã ba năm nay...". Ngài đã nuôi bao hy vọng: "Tôi ra tìm trái mà không thấy". Quyết định chặt cây chỉ đến sau những lần hụt hẫng. Ngài chỉ phạt khi đã làm đủ cách để lay động tim ta. Chúa Giêsu là người làm vườn kiên nhẫn không kém: "Xin ông cứ để nó lại năm nay nữa". Ngài không ngừng ấp ủ chút hy vọng mong manh:"Tôi sẽ vun xới, bón phân, may ra sang năm nó có trái". Nhưng đừng quên lời đe dọa cuối cùng: "Nếu không ông chủ cứ chặt nó đi". Kiên nhẫn, hy vọng, chăm bón, nhưng cương quyết đòi hỏi, đó là thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân. Chúa Giêsu vừa thôi thúc chúng ta mau mau hoán cải, vừa chấp nhận cho chúng ta có thời gian trì hoãn để sám hối canh tân.
Mùa chay là mùa ân sủng. Người chủ vườn nhẫn nại và quảng đại cho cây vả thêm một năm nữa để hy vọng nó có thể sinh hoa trái. Mỗi Mùa Chay,Thiên Chúa cho chúng ta thêm cơ hội để đổi mới con người, làm nhiều việc lành bác ái phúc đức. Mùa Chay là thời gian thuận tiện để mỗi người kiểm điểm về cây vả đời mình.Thêm một cơ hội, thêm một kỳ hạn nữa. Điều quan trọng là mỗi người đã làm gì với cơ hội và với kỳ hạn đó ?
Lạy Chúa, xin cho con biết dùng ơn Chúa để nên thánh thiện, sống đẹp lòng Chúa mỗi ngày một hơn. Ước gì cây đời của con có nhiều trái ngon ngọt hơn. Amen.
Phụng vụ hai Chúa nhật đầu Mùa Chay cả ba năm A, B, C đều trùng hợp nhau ở đề tài sự lựa chọn của Chúa Giêsu trước tên cám dỗ, và Chúa biến hình. Bước vào Chúa nhật thứ III Mùa Chay năm C, bài Tin mừng chú trọng đến đề tài "hoán cải" với lời kêu gọi cảnh tỉnh. Ca nhập lễ nhắc nhớ chúng ta lời cầu nguyện nổi tiếng của các Giáo phụ trong sa mạc: "Lạy Chúa Giêsu, xin thương con, vì con là kẻ có tội!". Sau hai tuần sám hối tội lỗi, chúng ta nên lấy những lời trên làm của mình, và can đảm nhiệt thành cùng với Chúa Giêsu bước vào trong sa mạc của Mùa Chay, ý thức mình là những kẻ tội lỗi nghèo hèn, nhưng chúng ta, "hướng cặp mắt" lên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót, Ngài sẽ cứu chúng ta khỏi Vực thẳm âm ty, và thưa: "Mắt tôi hướng nhìn Chúa không biết mỏi, vì chính Người sẽ gỡ chân tôi khỏi dò lưới. Lạy Chúa, xin đoái nhìn và xót thương con, vì thân này bơ vơ cùng khổ" (Ca nhập lễ).
Tin tưởng vào lòng thương xót của Thiên Chúa không phải là dễ, vì khi có biết bao chuyện buồn đẫm lệ trước mắt chúng ta như bão tố, lũ lụt, động đất sóng thần cướp đi bao sinh mạng con người, và gần đây nhất, vụ sập nhà thờ Ngọc Lâm làm 3 người chết, hơn 59 người bị thương. Chúng ta vẫn hát với niềm tin rằng: "Chúa nhân từ và thương xót." Có người hỏi, lòng nhân từ và tình thương xót của Chúa ở đâu, khi trái tim con người bị tan nát bởi những cái chết đau thương của người thân, của anh em đồng loại... thật là khó để chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương nhân loại và muốn tốt cho nhân loại.
Vấn nạn giả thiết rằng sự bất hạnh xảy đến với con người là đáng. Vì vậy, khi chúng ta thấy những người bị bệnh hoặc bị cuốn đi, bởi một cái chết đột ngột, người đời nói về họ: "Như thế nào, họ đã làm gì sai?". Như là có sự trừng phạt tức khắc giữa trách nhiệm đạo đức và đau khổ mà chúng ta hứng chịu. Đó không phải là điều Chúa Kitô nói trong Tin Mừng khi người ta mang đến và hỏi Chúa: "Ai phạm tội? Anh mù này hay cha mẹ của anh ta? (Ga 9, 2) Chúa Giêsu trả lời: "Không phải anh cũng không phải cha mẹ" (Ga 9, 3) thực tế, anh đã mù bẩm sinh không phải là sự trừng phạt do lỗi của bất cứ ai.
Vì vậy, làm thế nào chúng ta có thể chấp nhận và sống sự khác biệt giữa lòng thương xót của Thiên Chúa và sự bất hạnh của con người? Chúng ta còn nhớ việc Thiên Chúa giải thoát dân Ngài ra khỏi Ai Cập và làm cho dân chúng đi qua Biển Đỏ ráo chân không? Liệu có nhớ Thiên Chúa dẫn dắt dân Ngài qua sa mạc, nuôi dân bằng bánh bởi trời, và uống nước từ tảng đá vọt lên để dân đi đến tận Đất Hứa? Chỉ cần nhớ lại những hành động Thiên Chúa trợ giúp con người, Như thư I Côrintô, Thánh Phaolô tiên báo trước đời sống Kitô hữu mà chúng ta đang sống, giống như Môi-se dân qua Biển Đỏ, những người đã được rửa tội trong Chúa Kitô là Đá tảng tuôn trào mạch nước sự sống và nuôi dưỡng bằng bánh của trời. Nhưng làm thế nào để chúng ta tin vào lòng trung thành của Thiên Chúa và giúp chúng ta tin vào tình yêu của Thiên Chúa khi bất hạnh tấn công con người?
Thánh Luca kể lại cho chúng ta bình luận của Chúa Giêsu về hai biến cố thời sự lúc đó. Biến cố thời sự thứ nhất là cuộc nổi loạn của vài người Galilê bị quan Philatô đàn áp giết chết; biến cố thứ hai là việc một ngọn tháp tại Giêrusalem bị sập ngã làm cho 18 người thiệt mạng; hai biến cố bi thảm này khác nhau, một do con người tạo ra, và một do tai nạn. Người đương thời Chúa Giêsu thường có tâm thức nghĩ rằng tai nạn đã đổ xuống trên các nạn nhân, bởi vì họ đã phạm lỗi trầm trọng. Nhưng Chúa Giêsu ngược lại đã nói như sau: "Các người cho rằng những nạn nhân người Galilêa kia là những kẻ tội lỗi hơn tất cả mọi người Galilêa ư?... Hoặc 18 nạn nhân kia là những kẻ lỗi phạm hơn tất cả mọi người dân Giêrusalem chăng? (Luca 13,2.4). Thay vì kết luận đơn giản coi sự dữ như là hình phạt của Thiên Chúa, đức Giêsu hồi phục lại hình ảnh chân thực của Thiên Chúa là Đấng tốt lành và không thể nào muốn sự dữ; Người còn yêu cầu đừng coi những tai hoạ đó như là kết quả trực tiếp của tội lỗi cá nhân. Người nói: "Các ông tưởng rằng những người Galilê ấy là những kẻ tội lỗi nhất ở xứ Galilê cho nên mới đáng hình phạt như vậy ư? Và Chúa Giêsu đã kết luận cho cả hai trường hợp như sau: "Không phải thế. Tôi nói cho các người biết, nếu các người không ăn năn hối cải, các người cũng sẽ phải chết như vậy." (Luca 13,3.5). Vậy, Chúa Giêsu muốn dẫn những kẻ lắng nghe Ngài đến kết luận về sự cần thiết phải ăn năn trở lại.
Khi cái chết tấn công chúng ta, đức tin không cho chúng ta những lời giải thích hoặc an ủi chúng ta yên tâm, nhưng đức tin hỏi chúng ta: chúng ta đã làm gì trong cuộc đời khi chúng ta đang phải đối diện với cái chết vây quanh ta, bất hạnh và đau khổ tấn công và chạm đến ta.
Để làm rõ lời kêu gọi hoán cải, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cây vả. Đã ba năm nay, cây không sinh quả. Như chúng ta, những người đã được hưởng lợi quá lâu từ ân sủng của Thiên Chúa mà không đáp trả cách hào phóng? Chủ vườn đòi hỏi chúng ta rằng điều này đã quá đủ. Và bây giờ người làm vườn chưa ưng nhận sự phán xét của Thầy nên trả lời: "Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi " (Lc 13: 9), đúng là năm án treo, một năm hồng ân. Trong hội đường Nazareth, chính Chúa Giêsu hiện diện với sứ mạng được ủy thác ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia. Ngài được sai đến để công bố một năm hồng ân, một năm ân xá. Mỗi năm chúng ta sống là một năm mà chúng ta được tự do.
Sự chết không tấn công một cách mù quáng, nhưng là lời mời gọi chúng ta hoán cải đời sống. Đây là lý do tại sao phụng vụ cung cấp cho chúng ta bài suy niệm này ở trung tâm của Mùa Chay, khi chúng ta tiếp tục cuộc hành trình 40 để hướng tới việc cử hành lễ Vượt Qua, và chúng ta được mời đi tiếp Chủ Nhật tới để canh tân phép rửa của chúng tôi, nguồn nước hằng sống trào dâng từ trái tim của Chúa Kitô.
Vâng, lạy Chúa, khi con nhìn thấy những gì xảy ra trên thế giới, các tệ nạn gây đau đớn cho nhân loại và đau khổ đến anh em của con, con nghe thấy giọng nói của Chúa nói với con: "Hãy sám hối ngay ngày hôm nay. Tận dụng năm ân sủng, năm ân xá này, năm nay Ta vẫn chăm sóc con để con có thể sinh trái. "Amen.
Đức Giêsu không sống trong một thời đại yên tĩnh về mặt chính trị. Những sự đụng độ thời bấy giờ còn đẫm máu hơn ngày nay: Biến cố mà người ta vừa loan báo cho Đức Giêsu, là sự kiện thường xảy ra. Có lẽ đó là một cuộc biểu tình của nhóm quá khích đang cố ngoi lên một phong trào nổi dậy để cứu dân, chống lại chính quyền Rôma đang chiếm đóng. Giữa lúc đang cử hành phụng vụ, đang dâng lễ vật cầu xin Thiên Chúa trợ giúp, họ đã bị cảnh sát của tổng trấn Philatô tàn sát. Ta có thể thấy thái độ phán quyết lập tức của mọi người Do Thái chân thành, đối với việc đàn áp đẫm máu này.
Người ta kể lại sự kiện này cho Đức Giêsu để xem Người có một lập trường, một thái độ như thế nào? Người sẽ lên án Philatô hay cảnh sát của ông này chăng? Người sẽ lên án những kẻ khuấy động vô trách nhiệm, đưa đám đông dân chúng vào những cuộc phiêu lưu không lối thoát chăng? Một lần nữa, chúng ta nhận thấy Đức Giêsu khước từ bày tỏ lập trường về mặt chính trị, về lãnh vực trần gian. Ngài sẽ thản nhiên bình luận biến cố này trong tôn giáo tránh né bày tỏ thái độ đối với trách vụ Philatô, hay đối với các nạn nhân, Ngài chỉ nói về tội lỗi và thái độ hối cải. Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sống những biến cố xảy đến cho chúng con, với mức độ suy tư và tinh thần đức tin cao nhất.
Đức Giêsu đáp lại rằng: "Các ông tưởng mấy người Galilê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Galilê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu.
Đức Giêsu đang cố phá đổ một thành kiến. Ngài đưa cuộc bàn cãi lên cao. Tâm lý thông thường cho rằng, những thử thách xảy đến cho một người, là như một sự trừng phạt cho kẻ đó. Ngày nay cách xét đoán như thế vẫn còn ở trong tâm trí chúng ta, thí dụ khi ta nói: "Thật là bất công, anh ấy đâu đáng phải chết trẻ như thế" hay là "chúng ta đã làm gì phật lòng Chúa, để Người gởi đến cho chúng ta một thử thách như thế này?".
Đối với Đức Giêsu, không có sự liên lạc nào giữa tai hoạ và tội lỗi. "Không phải anh ta, cũng không phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc Thiên Chúa được bảy tỏ hiện nơi anh". Chính Đức Giêsu sẽ dễ dàng để ta tự gán cho mình một lương tâm tốt hay tự đặt mình vào số những người công chính. Chúng ta thường nghĩ rằng hoàn toàn chịu trách nhiệm: hoặc chính quyền, hoặc thể chế, hay xã hội!
Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy.
Họ đã đến để đưa vụ Philatô và các nạn nhân ra xét xử. Nhưng bây giờ chính họ lại bị tố giác. "Các ông tưởng rằng, những người Galilê tội lỗi hơn các ông sao? Vấn đề là không phải bàn về "những người khác". Đức Giêsu đưa họ trở lại với lương tâm của họ. "Các ông phải sám hối. Các ông dễ dàng lên án sự hung bạo của Philatô. Nhưng hãy nhìn xem, chính các ông lại không góp phần vào sự hung bạo đó sao? Cùng với Đức Giêsu, chúng ta phải dám nói lên điều đó, vì lịch sử không ngớt chứng minh: Thay đổi cơ cấu xã hội không đủ. (Vì hỡi ôi! bất công và bạo lực vẫn tồn tại trong mọi chế độ) nhưng chính là tấm lòng con người cần phải thay đổi, phải hoán cải, để cho cơ cấu xã hội được cải thiện.
Vâng, lạy Chúa, con biết điều đó trong đáy lòng con. Con không có quyền lực trên mọi hành động hung bạo đang đè nặng trên một xứ sở xa xôi nào, cũng không có quyền gì trên những trào lưu đang ảnh hưởng môi trường xã hội, trường học, nghề nghiệp và Giáo hội của chúng con. Nơi duy nhất mà con có thực quyền, đó là sự hướng dẫn công cuộc "hoán cải”, của chính con.
Lạy Chúa, xin giúp con đừng trốn tránh trách nhiệm của mình, bằng cách tố giác kẻ khác.
Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu.
Chính Đức Giêsu nhân cơ hội này, đã nhắc lại một sứ mệnh khác. Trong một vùng ngoại ô thủ đô, một toà nhà đã đổ xuống đè chết nhiều gia đình. Ngày nay, trước một tai nạn như thế người ta củng cố tìm ra thủ phạm: những kiến trúc sư bất tài, chỉ lo tới lợi nhuận, mà không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn... Hay những người bất cẩn đã trở thành nạn nhân đã bị "trừng phạt" bởi một định mệnh vô danh nào đó, nếu không phải chính Chúa là Đấng chịu trách nhiệm: “Nếu có một Thiên Chúa, thì đâu có xảy ra tai hoạ như thế".
Đức Giêsu trở lại vấn đề này như một điệp khúc: Không, đau khổ không phải do Thiên Chúa gởi đến! Sự thử thách không phải là một sự trừng phạt. Sự dữ xảy đến cho ta thường chỉ là hậu quả tự nhiên của quy luật tạo vật: Hấp lực trái đất, sự dòn mỏng, những sai lầm không tránh được. Thay vì buộc tội Chúa, là "Nguyên nhân đệ nhất” như' các triết gia thường nói, chúng ta phải để ý đến những “nguyên nhân đệ nhị", mà chúng ta có toàn quyền trên chúng. Đức Giêsu đã chiến đấu chống sự dữ. Ngài yêu cầu chúng ta đến lượt mình cũng phải chiến đấu, nhưng trước tiên trong chính bản thân chúng ta.
Nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.
Cũng như mọi ngôn sứ trong Kinh Thánh, Đức Giêsu trước tiên là một nhà giảng đạo, không phải là người dạy luân lý dưới hình thức những bài học xã hội. Kiểu nói của Đức Giêsu, mang tính ngăn đe đáng sợ: "Các ông sẽ chết hết, nếu các ông không thay đổi". Đức Giêsu chấp nhận tâm lý chung sao? (đau khổ là sự trừng phạt) mà Người vừa mới phủ nhận? Chắc không phải như vậy? Rõ ràng Đức Giêsu không nói về cái chết thể lý mà những người biểu tình bị tàn sát hay những nạn nhân do tháp đổ đã chết. Đức Gíêsu không không điên hay ngây ngô. Người quá biết người công chính cương: phải chết, Chính Người cũng phải lên thành Giêrusalem, để bị Philatô giết hại. Nhưng Đức Giêsu, khi có ý đặt mình trên một bình diện khác với bình diện con người: Bình diện chính trị, luân lý hay xã hội, Người muốn mạc khải một chân- lý tôn giáo. Người khẳng định có một cái chết khác, một sự hư mất đời đời, mà không ai nghĩ đến và Người không ngừng nhắc đến. "Nếu các ông không ăn năn hối cải, các ông sẽ chết hết": Không phải cái chết sinh lý mà các bạn nhận thấy hằng ngày chung quanh mình, mà là cái chết khác có tính nhiệm mầu do tội lỗi gây ra. Đức Giêsu không mời gọi chúng ta “khám phá": Thực sự chúng ta không có cách nào để kiểm chứng theo lý trí, với mức độ phân tách của con người, những điều Chúa nói. Đó thật là một "mạc khải", một vấn đề đức tin.
Đức Giêsu mạc khải cho ta biết mọi người đều có tội, và được ban cho cơ hội hoán cải.
Vâng, Đức Giêsu mời gọi mỗi người trở về với lương tâm của mình, Philatô chắc hẳn rồi? Nhưng cả những người Galilê nữa! Những thợ xây kém cỏi, hay các kiến trúc sư, và tất cả những người khác tưởng rằng mình đứng ngoài cuộc phán quyết. Còn tôi thì sao? Chắc hẳn tôi đang đặt tránh ra ngoài sự đe doạ mà Chúa đã nói, để tránh khỏi phải hoán cải...
Bao giờ thì chúng ta mới thức tỉnh ra khỏi tình trạng vô ý thức bi thảm của mình? Các nhà chú giải về Kinh Thánh nhấn mạnh về cách nói "triệt' để" của Luca "Các ông sẽ chết hết". Nhưng ta cũng cần lưu ý, kiểu nói mãnh liệt của Đức Giêsu luôn điều kiện. Nó mời gọi ta trở về với chính mình, với việc hoán cải bản thân. Thiên Chúa không lên án. Chính con người tự kết án mình phải chết đời đời: “Nếu các ông không ăn năn hối cải". Thái độ mãnh liệt của Đức Giêsu, đó là sự mãnh liệt của một tình yêu Thiên Chúa đầy xót thương, không thể chịu đựng để thấy con người đi đến chỗ hư mất. Chúa đau khổ khi thấy loài người phải chết! Chúng ta hãy nhớ rằng Đức Giêsu đang trao ban một sứ điệp tôn giáo, nghĩa là nói về Thiên Chúa. Điều này không có nghĩa là Người có thái độ trung lập trước những vấn đề nan giải của con người. Nhưng Người tự đặt mình trên một bình diện "mạc khải": Người tố giác sự dữ đích thực của con người là gì? Trong mọi trường hợp, Người đều nhắc chúng ta rằng, không thể có sự thoả hiệp giữa Thiên Chúa và tội lỗi: Nếu ta ở trong tội ác, đó là tự lên án mình phải nhận cái chết nặng hơn là cái chết do gươm đao của binh lính Philatô, hay do những tảng đá của Giêrusalem đổ xuống.
Lạy Chúa, chúng. con biết lắng nghe lời Chúa hay không? Chúng con có tin Chúa hay không? Lạy Chúa Giêsu, do Chúa Cha gởi đến để chúc lành và cứu rối mọi người, xin thương xót chúng con. Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết hoán cải trong Mùa Chay này.
Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: "Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: `Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?
Chúng ta đang bàn về cùng một đề tài "Cuộc phán xét! Hành vi của con người không thể lãnh đạm, trung lập, không xấu không tốt. Chúng là "một quả". Quan điểm hiện đại cố làm cho chúng ta tin vào một sự xoá bỏ mọi mặc cảm tội lỗi: không có gì tội lỗi nữa, con người đâu có trách nhiệm gì trước Chúa, không còn kiêng kỵ, ngăn cấm, lỗi lầm gì cả... Bạn cứ làm bất cứ điều gì mình thích ". Trái lại, Đức Giêsu nói: "Hãy chặt cây vô sinh không cho trái đó đi!" Người không những lên án "trái thối" mà còn lên án cả tình trạng "không sinh trái".
Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”.
Người "làm vườn" đầy tình thương với "cây nho" của mình, đó chính là Đức Giêsu mà chúng ta yêu mến. Người đã đến không phải vì những nguội công chính, mà vì các tội nhân. Người đã kể tất cả những dụ ngôn về lòng thương xót, đặc biệt được ghi lại đầy dấy trong Tin Mừng Luca (Lc 15). Do đó, những lời đe doạ khi này chỉ có một mục đích thức tỉnh chúng ta. Thiên Chúa thương yêu những người tội lỗi. Ngài yêu tôi! Không thể đối nghịch lòng thương xót với thái độ đòi hỏi: Vì chính tình yêu luôn mang tính đòi hỏi. Ta không lên bỏ câu cuối này: "Nếu không ông sẽ chặt nó”. Mùa Chay thật là thời gian thuận tiện cho một đòi hỏi triệt để nào đó của Tin Mừng.
Động đất và sóng thần Tōhoku 2011 là một trận động đất mạnh 9,0 Mw ngoài khơi Nhật Bản, xảy ra lúc 05:46UTC ( 14g46 giờ địa phương ) vào ngày 11.3.2011. Trận động đất có vị trí tâm chấn nằm cách ngoài khơi bờ biển phía Đông bán đảo Oshika, Tohoku 72km ( 45 mi ) tại độ sâu 32km ( 20 dặm ). Cơ quan Khí tượng Nhật Bản ghi nhận cường độ mạnh nhất của thảm họa ở mức 7 tại miền Bắc tỉnh Miyagi, mức 6 tại các tỉnh khác và mức 5 tại Tokyo.
Trận động đất đã gây ra sóng thần lan dọc bờ biển Thái Bình Dương của Nhật Bản và ít nhất 20 quốc gia, bao gồm cả bờ biển phía Tây của Bắc và Nam Mỹ. Sóng thần cao đến 38,9m đã đánh vào Nhật Bản chỉ vài phút sau động đất, tại một vài nơi sóng thần tiến vào đất liền 10km ( 6 mi ).
Cơ quan Cảnh Sát Quốc Gia Nhật Bản đã chính thức xác nhận có 15.893 người thiệt mạng, 6.152 người bị thương và 2.572 người mất tích tại 18 tỉnh của Nhật Bản và hơn 125.000 công trình nhà ở bị hư hại hoặc phá hủy hoàn toàn. Trận động đất và sóng thần đã gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng tại quốc gia này, bao gồm những hư hỏng nặng nề về đường bộ và đường sắt, cũng như gây cháy nổ tại nhiều khu vực, kèm theo một con đập bị vỡ. Khoảng 4,4 triệu hộ gia đình rơi vào tình trạng mất điện và 1,5 triệu hộ bị mất nước. Nhiều nhà máy phát điện đã ngưng hoạt động và ít nhất 3 vụ nổ lò phản ứng do rò rỉ khí hydro đã xảy ra tại nhà chứa các lò phản ứng, khi hệ thống làm mát bị hỏng hoàn toàn. Ngày 18 tháng 3, ông Yukiya Amano, người đứng đầu Cơ quan Nguyên Tử Quốc Tế đã cho biết cuộc khủng hoảng này "cực kỳ nghiêm trọng". Mọi cư dân trong phạm vi bán kính 20km ( 12 mi ) từ nhà máy điện hạt nhân Fukushima I và 10km ( 6 mi ) từ nhà máy điện hạt nhân Fukushima II đã phải sơ tán. Ngoài ra, chính quyền Hoa Kỳ khuyến cáo công dân của họ phải di tản cách các nhà máy điện 80km ( 50 mi ).
Theo các ghi chép về cường độ động đất, đây là trận động đất mạnh nhất từng xảy ra ở Nhật Bản và là một trong năm trận động đất mạnh nhất thế giới, từ khi các thiết bị ghi nhận được sử dụng từ năm 1900. Đây được cho là sự va đập kiến tạo lớn nhất giữa Bắc Mỹ và Thái Bình Dương trong 1.200 năm. Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan tuyên bố: "Trong vòng 65 năm từ sau Thế Chiến thứ II, đây là cuộc khủng hoảng khó khăn và gay go nhất mà Nhật Bản phải đối mặt." Trận động đất đã di chuyển đảo Honshu 2,4m về phía Đông và làm lệch trục Trái Đất khoảng 10cm.
Ước tính thiệt hại lúc đầu tại những nơi bị ảnh hưởng của Nhật Bản vào khoảng từ 14,5 đến 34,6 tỉ USD. Ngày 14 tháng 3, Ngân hàng Nhật Bản đã rót 15.000 tỉ ¥ (183 tỉ USD ) vào hệ thống ngân hàng, để giảm thiểu ảnh hưởng thị trường tài chính. Ngày 21 tháng 3, Ngân Hàng Thế Giới ước tính thiệt hại lên vào khoảng 122 đến 235 tỉ USD. Chính phủ Nhật Bản cho biết tổn thất do động đất và sóng thần tàn phá miền Đông Bắc có thể lên đến 309 tỉ USD. Đây là kỷ lục thế giới về thiệt hại do thiên tai gây ra. ( Động đất và sóng thần Tōhoku 2011, Wikipedia ).
Thảm hoạ sóng thần Tōhoku bất ngờ đổ ập xuống phía Đông Nhật Bản gây kinh hoàng cho nhân loại, nhắc nhở mọi người đang sống trong thế giới đầy bất trắc, luôn tiềm ẩn thiên tai, hay nhân tai do chính con người tham lam, hám lợi, khai thác, phá huỷ môi trường, hoặc do thù địch gây nên chiến tranh. Vì vậy, cuộc sống vốn mỏng dòn, lại càng thêm yếu đuối, mỏng manh, càng bất lực hơn trước sức mạnh sự dữ tung hoành. Nếu ai không sẵn sàng chuẩn bị đón nhận cái chết, thì thật thiếu khôn ngoan.
Bước vào Tuần 3 Mùa Chay Thánh, Tin Mừng theo Thánh Luca hôm nay phát đi thông điệp cấp bách, cảnh báo con người phải canh tân nếp sống, qua những dấu chỉ rất cụ thể, công khai diễn ra ngay trước mắt mọi người. Nếu ai cứ tiếp tục bảo thủ, cố chấp, ngang bướng, không chịu đổi mới, sẽ phải chịu án phạt nặng nề.
Dấu chỉ
Hai sự kiện nóng hổi xảy ra công khai. Mấy người Galilê bị quan Tổng Trấn Philatô giết và mười tám người bị tháp Silôê đè chết, đều là những dấu chỉ quan trọng cho tất cả những ai đang sống. Đừng kiêu căng mạo nhận là quan toà, để kết án những người tử vong, mà hãy tỉnh táo xét mình, sám hối, ăn năn, cải hoá, kẻo chẳng còn thì giờ hay cơ hội như những người xấu số kia. Hai lần liên tiếp, Đức Giêsu đều tha thiết cảnh tỉnh: “Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy.”
Cũng đừng tự phụ, kiêu hãnh con nhà đạo gốc, thành phần ưu tuyển, kinh kệ, lễ lạc sáng chiều, ăn chay làm phước, hãm mình hy sinh, mà cố tình phớt lờ, coi thường, bỏ qua Lời Chúa mời gọi sám hối. Ông Gioan Tẩy Giả đã nghiêm khắc cảnh báo những kẻ giả hình, khôn ranh, ma mãnh, mưu mô, xảo quyệt như rắn độc: “Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: "Chúng ta đã có tổ phụ Ápraham." Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Ápraham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. ( Mt 3, 9-10 ).
Hả hê thấy người khác gặp sự khó, xôn xao, hào hứng tám chuyện không may xảy đến bạn bè, hàng xóm, láng giềng, người Kitô hữu vô tình hay hữu ý, bỗng dưng trở nên những vị quan toà nghiêm minh, sắc sảo, sáng suốt, cầm cân nảy mực, tha hồ ném đá thiên hạ. Đó chính là giết người nhẹ nhàng và tinh tế không bằng gươm đao, giáo mác, mà bằng chính cái lưỡi lắt léo, không xương, tự cao tự đại, hợm hĩnh, kiêu căng, đạo đức giả. Hãy giữ chay mắt, chay tai, chay miệng lưỡi và giữ chay tâm hồn.
Hoa Trái
“Kìa, ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có.” Nếu cây tươi tốt, xum xuê xanh lá, mà không thể sinh nụ, đơm bông, kết trái, thì cây thành vô dụng, chỉ đáng chặt bỏ làm củi. Người Kitô hữu cũng vậy, nếu chỉ biết chăm lo, o bế thân xác, vinh thân phì gia, thì cũng khác chi cây cối khô cằn. Vì thế, ngôn sứ Gioan Tiến Hô đã hết lời mời gọi: “Các anh hãy sinh những hoa quả xứng với lòng sám hối” ( Lc 3, 8 ). Dốc lòng ăn năn cách trọn là chân thành trở về với Chúa, trung thực thi hành Lời Chúa dạy.“Như vậy, anh em sẽ sống được như Chúa đòi hỏi, và làm đẹp lòng Người về mọi phương diện, sẽ sinh hoa trái là mọi thứ việc lành, và mỗi ngày một hiểu biết Thiên Chúa hơn” ( Cl 1, 10 ).
Thánh Phaolô kêu gọi tín hữu Êphêsô: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” ( Ep 4, 22-24 ).
Cụ thể như, "đừng gian dối, hãy nói sự thật, đừng nổi nóng, oán giận, đừng trộm cắp, hãy làm ăn lương thiện, đừng chửi thề, nói lời độc địa, hãy nói những lời tốt đẹp xây dựng và làm ích cho tha nhân, nhất là đừng làm phiền lòng Thánh Thần của Thiên Chúa, vì chính Người là dấu ấn ghi trên anh em, để chờ ngày cứu chuộc… Phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô" ( Ep 4, 25-32 ).
Lòng Thương Xót
Lời can gián, van xin của Người Làm Vườn Giêsu biểu lộ Lòng Thương Xót vô cùng: “Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi." Người ra sức che chở, bênh vực, gìn giữ cây xanh của Người. Hơn nữa, Người còn van xin Chủ Vườn tạo điều kiện cho Người chăm sóc kỹ lưỡng hơn, bón phân tốt hơn, cũng như xin gia hạn thêm thời gian để cây kịp sinh hoa trái. Bởi vì “Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm. Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất, tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao. Như người cha chạnh lòng thương con cái, Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn” ( Tv 103, 8-11.13 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin mở mắt, mở lòng chúng con nhìn thấy, hiểu thấu những điều Chúa muốn ngỏ lời qua những dấu chỉ thời đại, qua những biến cố, sự kiện trong đời, qua những thảm hoạ, tai ương hoạn nạn của tha nhân, hay của chính chúng con. Xin giúp chúng con sớm giác ngộ, mà quyết tâm sám hối, ăn năn, canh tân, trở về với Chúa cực nhân, cực ái, tràn đầy lòng thương xót.
Kính xin Mẹ Maria, giàu tình mẫu tử, luôn thương yêu nhắc nhủ chúng con trong từng phút giây, dốc tâm trở về với Lòng Thương Xót vô biên của Chúa, để chúng con có thể sinh hoa thơm trái ngọt, quên mình, yêu thương phục vụ tha nhân. Amen.
2. Ý CHÍNH: Bài Tin mừng hôm nay gồm hai ý chính như sau:
- NẾU KHÔNG CẤP THỜI SÁM HỐI THÌ SẼ PHẢI CHẾT:
Khi ấy có một số người Ga-li-lê đã bị quân Rô-ma giết chết khi đang dâng lễ trong Đền thờ, và mười tám người khác ở Giê-ru-sa-lem đã bị tháp Si-lô-a đổ sập đè chết. Nhiều người cho rằng những kẻ đó là người xấu nên đã bị Chúa phạt. Còn Đức Giê-su lại quả quyết: Không phải như vậy! Nhưng nếu người ta không cấp thời sám hối thì mọi người cũng đều phải chết như thế !
- SÁM HỐI LÀ SỰ PHÁT SINH HOA TRÁI:
Tội của cây vả ám chỉ dân Ít-ra-en không phải đã sinh trái chua độc hại, nhưng là tình trạng già cỗi không sinh ra hoa trái. Sở dĩ cây chưa bị chặt là nhờ người làm vườn đã xin chủ vườn gia hạn thêm thời gian một năm. Nếu vẫn không ra trái thì bấy giờ cây đó sẽ bị chặt đi. Cũng vậy, mỗi chúng ta nếu không muốn bị tiêu diệt thì ngay từ bây giờ phải thực thi bác ái là quan tâm phục vụ tha nhân.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-3:
+ Người Ga-li-lê: Là những người Do thái sống tại miền Bắc có lòng yêu nước, đã nổi lên chống lại với quân Rô-ma đang cai trị.
+ Khiến máu đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng: Câu chuyện xảy ra ngay trong Đền thờ Giê-ru-sa-lem, nơi người ta giết chiên bò làm lễ vật dâng tiến Đức Chúa. Có lẽ những người Ga-li-lê này đi hành hương về Giê-ru-sa-lem đã lợi dụng nơi tôn nghiêm để khích động dân chúng chống lại nhà cầm quyền Rô-ma. Nhưng họ đã bị Tổng trấn Phi-la-tô phát hiện, sai quân đến vây bắt và giết chết ngay trong Đền thờ, làm cho máu họ đổ ra hòa lẫn với máu các con vật mà họ vừa sát tế.
+ Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê đó tội lỗi hơn hết mọi người Ga-li-lê khác, bởi lẽ họ chịu đau khổ như vậy sao?: Có lẽ người thuật lại câu chuyện muốn biết quan điểm của Đức Giê-su để coi Người có phải là Đấng Thiên Sai mà họ đang mong đợi hay không. Nhưng sứ vụ của Đức Giê-su không phải để làm Vua Mê-si-a theo nghĩa trần tục. Nên Người đã không lộ ra quan điểm chính trị, mà cố tình lái vấn đề sang phạm vi tôn giáo.
+ “Không phải thế đâu. Nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”: Người ta thường cho rằng: đau khổ, bệnh tật và sự chết là hậu quả của tội lỗi đã phạm. Nhưng Đức Giê-su lại phủ nhận điều ấy. Theo Người những người bị giết kia không phạm tội nhiều hơn những người khác ở Ga-li-lê, nhưng đây là dịp để mỗi người suy nghĩ và hồi tâm sám hối, hầu tránh cho mình khỏi bị tiêu diệt như vậy (x. Ga 9,2-3).
- C 4-5: + Tháp Si-lô-a: Là ngọn tháp cao được xây trên đỉnh đồi ở phía Tây Nam thành Giê-ru-sa-lem. + “Mười tám người kia bị tháp Si-lô-a đổ xuống đè chết...”: Đau khổ và chết chóc không phải luôn là sự trừng phạt riêng tội nhân, nhưng là cơ hội để mọi người duyệt xét lại bản thân và hồi tâm sám hối hầu tránh khỏi bị tiêu diệt. Chính vì thế mà Đức Giê-su đã tuyên bố: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”.
- C 6-9:
+ Một cây vả trồng trong vườn nho: Theo Cựu ước, cây vả tượng trưng cho dân Ít-ra-en (x. Gr 24,2-10), và vườn nho cũng ám chỉ dân này (x. Is 5,1-7).
+ Đã ba năm nay tôi ra cây vả tìm trái mà không thấy: Ba năm tương ứng với thời gian giảng đạo của Đức Giê-su. Dân Ít-ra-en được Người ưu tiên rao giảng Tin mừng Nước Trời, nhưng họ lại từ chối tiếp nhận vì không tin Người là Đấng Thiên Sai Mê-si-a.
+ Người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái. Nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”: Khác với Tin mừng Mát-thêu (x. Mt 21,19) và Mác-cô (x. MC 11,21), trong Tin mừng Lu-ca số phận của cây vả được xử khoan dung hơn. Do lòng kiên nhẫn của chủ vườn là Thiên Chúa, và nhờ lời cầu bầu của người làm vườn là Đức Giê-su, mà cây nho không sinh trái là các tội nhân, có thêm thời gian sám hối. Sau đó nếu họ vẫn cứng lòng không chịu hoán cải thì họ sẽ bị tiêu diệt.
4. CÂU HỎI:
1) Người Ga-li-lê trong Tin Mừng là những ai ? 2) Tại sao mấy người Ga-li-lê lại bị quân Rô-ma giết chết trong Đền thờ ? Tại sao Thiên Chúa quyền năng lại không can thiệp để cứu họ thóat khỏi bàn tay của quân thù ? 3) Theo Đức Giê-su thì các tai ương họan nạn người ta gặp phải trong cuộc đời, phải chăng đều là hình phạt nhãn tiền của Thiên Chúa về các tội lỗi của họ ? 4) So sánh Tin mừng Luca hôm nay với hai Tin mừng Mát-thêu và Mác-cô thì số phận của cây vả trong Tin mừng nào được đối xử khoan dung hơn ? Tại sao ? 5) Phải chăng tội nhân có thể lợi dụng sự khoan dung của Thiên Chúa để không sám hối mà cứ tiếp tục phạm tội ?
II.SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết như vậy” (Lc 13,3).
2. CÂU CHUYỆN:
1) GIÁ TRỊ THỰC SỰ CỦA CÂY VĨ CẦM:
Trong một buổi bán đấu giá, người điều khiển chương trình cầm một cây vĩ cầm xấu xí đã bị nhiều vết nứt nẻ. Ông ta nghĩ cây vĩ cầm không mấy giá trị nên chẳng cần phí thời giờ sửa sọan cho cây đàn này làm chi. Ông giơ cây vĩ cầm cổ lên cho mọi người xem và rao bán: “Thưa quý vị, ai sẽ bắt đầu trả giá cho cây đàn này đây ? Một đồng, hai đồng... Ai sẽ trả giá 3 đồng ? À, một người đã trả ba đồng, rồi hai người trả ba đồng. Không còn ai nữa ư ?”. Bỗng từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm từ từ bước tới gần bục và cầm lấy cây đàn đang rao bán. Ông ta lau sơ bụi bặm bám trên chiếc đàn cũ kỹ và siết chặt lại các sợi dây đàn đã bị lỏng. Sau đó, ông tấu lên một khúc nhạc thật êm dịu và ngọt ngào. Tiếng đàn nghe du dương thánh thót giống như bài ca của các thiên thần trên trời. Sau khi ngưng đàn, mọi người hiện diện đều nồng nhiệt vỗ tay tán thưởng. Sau đó, người bán đấu giá tiếp tục hỏi: “Bây giờ tôi phải định giá lại cây vĩ cầm có âm thanh rất tuyệt vời này trị giá bao nhiêu cho xứng đây? Một ngàn... hai ngàn... Có ai chịu tăng lên ba ngàn không? À, một người chịu giá ba ngàn rồi. Hai người chịu giá ba ngàn. Và còn ai nữa không? Thôi, như vậy cây đàn dứt giá là ba ngàn đô-la! Lúc đó một bé gái ghé sát bên tai mẹ và hỏi: “Sao lạ vậy hả mẹ ? Tại sao cây đàn kia lại đột nhiên tăng giá lên gấp cả ngàn lần như thế hả mẹ ?” Bấy giờ bà mẹ mới ôn tồn giải thích cho con gái cưng như sau: “Chính nhờ đôi tay tài hoa của ông nhạc sĩ kia mà cây đàn đã tăng giá trị lên gấp cả ngàn lần đấy con ạ!”.
2) PHƯƠNG CÁCH CÁM DỖ KHÔN NGOAN NHẤT?:
Ngày nọ trong hỏa ngục ba con quỷ nhỏ cùng đến chào tướng quỷ là Xa-tan trước khi lên trần gian tập sự việc cám dỗ loài người phạm tội. Chúng lần lượt trình bày cho tướng quỷ về mưu chước cám dỗ của mình.
Quỷ nhỏ thứ nhất nói: “Em sẽ bảo với con cái loài người rằng: Ngoài loài người ra không còn Chúa nào khác, nên loài người cứ yên tâm sống thoải mái và không mất thời giờ vào việc đọc kinh thờ phượng Chúa”. Xa-tan liền trả lời rằng: “Nói như thế sẽ chẳng lừa được mấy người tin theo đâu, vì họ dư biết phải có ông Trời tạo dựng vạn vật muôn loài, sẽ ban thưởng cho kẻ lành và trừng phạt kẻ gian ác”.
Quỷ nhỏ thứ hai liền tiến lên trình bày về sách lược cám dỗ của mình: “Em sẽ rỉ tai người ta là không có hoả ngục đâu. Thiên Chúa là Đấng nhân hậu đầy tình yêu thương con cái loài người, nên Ngài không tạo dựng nên hoả ngục để trừng phạt loài người !”. Nghe thế Xa-tan nói: “Khá khen cho nhà ngươi đã nghĩ ra một kế hoach tốt. Tuy nhiên, cách này cũng chỉ lừa được một ít người nhẹ dạ mà thôi, vì ai ai cũng đều biết rõ Thiên Chúa còn là Đấng Công minh vô cùng, sẽ ban thưởng người ăn ngay ở lành, và trừng phạt kẻ gian ác tùy theo công phúc họ đã làm nơi trần gian.
Quỷ nhỏ thứ ba tiến lại tâu với thủ lãnh Xa-tan: “Em sẽ nói với loài người rằng: Có Thiên Chúa, cũng có thiên đàng để thưởng kẻ lành và có hỏa ngục để phạt kẻ dữ. Tuy nhiên các ngươi không cần phải lo, vì còn lâu các người mới chết. Lúc còn sống hãy cứ ăn chơi thỏa thích đi, đợi đến khi sắp chết sẽ ăn năn sám hối cũng không muộn”. Nghe xong kế sách này, tướng quỷ Xa-tan liền đứng lên vỗ tay khen ngợi: “Hay lắm, với phương kế này thì chắc chắn nước hỏa ngục của chúng ta sẽ ngày càng lớn mạnh và sẽ có thêm rất nhiều thần dân mới !!!”
3) GIÁ TRỊ CỦA VIỆC TĨNH TÂM:
Một hôm vị đạo sĩ già tập trung các học trò của ông trong một cái sân rộng trước nhà mình để dạy đạo. Ông ra lệnh cho gia nhân đặt một cái chậu đầy nước ở giữa sân. Khi mọi người đã tập trung, Ông đạo sĩ liền quậy nước trong chậu rồi yêu cầu học trò lần lượt đến nhìn mặt mình trong chậu nước. Sau đó, ông hỏi họ đã thấy gì trong chậu nước ? Học trò liền đáp: “Thưa thầy, chúng con chỉ thấy một khuôn mặt không rõ ràng trong đó”. Chờ một lát đến khi thau nước phẳng lặng, ông lại yêu cầu họ đến nhìn mặt mình trong chậu nước lần thứ hai và hỏi lại cũng một câu hỏi như trước. Học trò thi nhau trả lời: “Tất cả chúng con đều đã nhìn thấy rõ mặt mình ở trong chậu nước”. Vị đạo sĩ liền giải thích cho học trò như sau: “Chỉ khi nào nội tâm chúng con thật sự tĩnh lặng, thì chúng con mới nhìn thấy rõ con người thật của mình”. Tĩnh tâm là đi vào sự thinh lặng nội tâm, là đặt mình trước mặt Chúa hầu có thể thấy rõ mình. Chúng ta không thể nhận ra con người thật của chúng ta khi tâm hồn đang bị giao động do những tiếng ồn ào bên ngoài, do sự lôi cuốn của lối sống hưởng thụ khoái lạc, những lo toan về cơm áo gạo tiền, những tính toán tham lam quyết tâm làm giàu bằng bất cứ giá nào… nên chúng ta không thể biết rõ về con người thật của mình.
4) PHẢI SÁM HỐI TỪ BẢN THÂN TRƯỚC HẾT:
Một triết gia Ấn Độ khi về già đã chia sẻ kinh nghiệm sống với học trò như sau:
- Lúc còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà bấy giờ tôi dâng lên Thượng Đế là: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để con đổi mới thế giới”.
- Đến tuổi trung niên, tôi đã nhận ra rằng, phân nửa cuộc đời của tôi đã trôi qua mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi đã cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con sức mạnh để biến đổi mọi người con gặp hằng ngày, nhất là những người thân trong gia đình con. Và như vậy là con đã thỏa mãn rồi”.
- Nhưng giờ đây, đến khi tóc bạc răng long, số ngày tháng còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận ra rằng, tôi là kẻ khờ dại nhất vì đã chẳng biến đổi được một người nào cả. Tôi chỉ còn biết cầu nguyện với Thượng Đế như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con biến đổi chính bản thân con”. Giả như tôi đã cầu nguyện như trên ngay từ khi còn trẻ, thì tôi đã không bỏ phí mất quãng thời gian tươi đẹp nhất cuộc đời của mình.
3. THẢO LUẬN:
1)Tội “Những điều thiếu sót” trong kinh “Tôi thú nhận” là tội gì ?
2) Có khi nào bạn khô khan cằn cỗi, không chịu làm các việc lành như cây vả không sinh trái trong Tin Mừng hôm nay không ?
4. SUY NIỆM:
1) PHẢI CẤP THỜI SÁM HỐI:
- Nội dung Tin Mừng hôm nay: Khi nghe một kẻ tội phạm gặp nạn, chúng ta thường nói: “Ác giả ác báo”- “gieo gió gặt bão”. Trong Tin Mừng hôm nay, những người đồng thời với Đức Giê-su cũng có quan điểm như thế khi kể cho Người nghe câu chuyện mới xảy ra về mấy người xứ Ga-li-lê đang dâng lễ trong Đền Thờ đã bị quan Phi-la-tô sai quân đến giết chết ngay tại bàn thờ, làm cho máu họ đổ ra hòa lẫn với máu các con vật họ vừa sát tế. Theo những người này thì chắc là mấy người Ga-li-lê kia đã ăn ở bất nhân thất đức nên mới bị chết thảm như vậy. Đức Giê-su đã sửa lại quan niệm sai lầm đó khi nói: Không phải chỉ mấy người đó mới bị tiêu diệt, mà đây cũng là lời cảnh báo chung tất cả mọi người. Nếu người ta không chịu hồi tâm sám hối thì họ cũng sẽ bị tiêu diệt như thế. Sau đó, Đức Giê-su đã kể dụ ngôn về một cây vả trồng trong vườn nho, đã bị chủ vườn than phiền vì không sinh trái dù đã được chăm sóc vun trồng cẩn thận. Con số ba năm tương ứng với thời gian ba năm Đức Giê-su đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho dân Ít-ra-en. Lẽ ra, cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đã giáng xuống những con người vô tín ương bướng kia rồi, giống như lời cảnh báo của Gioan Tẩy Giả: “Cái rìu đã đặt sẵn gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,10). - Hãy sám hối để khỏi bị tiêu diệt: Có lẽ chúng ta hôm nay cũng giống như cây vả trong bài Tin Mừng: Chúng ta thường mải mê lo lắng việc kiếm cơm áo gạo tiền rồi lại tìm cách hưởng thụ… mà lơ là với việc bổn phận đối với Chúa và tha nhân. Nhiều tín hữu theo đạo nhiều năm mà lối sống vẫn đầy ích kỷ tự mãn gian tham… không những không tốt hơn mà có khi còn tệ hơn người lương. Họ đã không phát sinh hoa trái là các việc lành phù hợp với đức công bình bác ái và khiêm nhường phục vụ. Trong Mùa Chay này mỗi người chúng ta cần hồi tâm sám hối tội lỗi và làm việc thiện nếu không muốn bị tiêu diệt trong hỏa ngục đời sau.
2) PHẢI SÁM HỐI THẾ NÀO CHO ĐẸP LÒNG CHÚA ?:
- Tín thác vào tình thương tha thứ của Chúa: Sám hối không những là nhân biết mình tội lỗi yếu đuối để thành tâm tu sửa nên tốt, mà còn phải cậy tin vào tình thương tha thứ của Thiên Chúa, giống vua Đavít xưa: Sau khi đã lỡ sa ngã phạm tội ngoại tình và mượn tay quân địch ngoài mặt trận giết chết tướng U-ri-gia để chiếm đoạt vợ ông này là nàng Bét-sê-va xinh đẹp, vua Đa-vít vẫn bình chân như vại. Nhưng rồi, ngôn sứ Na-than đã được Đức Chúa sai đến tuyên sấm cáo trách tội nhà vua. Na-than đã kể cho vua Đa-vít câu chuyện về một nhà phú hộ đã đối xử bất công với người nghèo, vua Đa-vít đã xé áo mình ra biểu lộ sự tức giận và đòi trừng trị tên nhà giàu gian ác bất công kia. Bấy giờ ngôn sứ Na-than đã chỉ thẳng vào mặt nhà vua mà nói: "Con người bất nhân thất đức đó chính là ngài". Vua Đa-vít nghe xong đã bừng tỉnh, ông nhận ra thân phận tội lỗi yếu hèn của mình và quyết tâm ăn năn sám hối quay về làm hòa với Đức Chúa. Về sau Đa-vít đã sáng tác nhiều bài thánh thi cụ thể Thánh Vịnh 50 để biểu lộ lòng sám hối của ông (x. II Sm 11,1 tt).
- Sám hối là sẵn sàng tha thứ anh em để xứng đáng được Chúa thứ tha: Chúng ta hôm nay cũng thường có lối hành xử không ý thức về các tội đã phạm, nhưng lại nhạy cảm sẵn sàng lên án tha nhân giống như Đa-vít xưa. Qua Lời Chúa hôm nay, Đức Giê-su mời gọi mỗi người hãy hồi tâm sám hối, nhận ra mình là tội nhân, rồi tin cậy phó thác vào lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa. Rồi chúng ta cũng phải sẵn sàng tha thứ những xúc phạm của kẻ khác như dụ ngôn về tên đầy tớ không có lòng thương xót. Vua đã trách mắng tên đầy tớ như sau: “Hỡi tên đầy tớ bất lương! Ta đã tha bổng cho ngươi tất cả nợ nần chỉ vì ngươi đã nài xin ta. Sao ngươi không biết thương xót bạn ngươi như ta đã thương ngươi ?” (Mt 18,32-33).
3) HÃY ĂN NĂN SÁM HỐI:
- Sám hối là thay đổi cách đánh giá về bản thân: Cần nghiêm khắc với bản thân và khoan dung với tha nhân. Hãy đấm ngực mình chứ đừng đấm ngực người khác để xứng đáng được tha thứ như kinh cáo mình: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng…”. Muốn được sống và được hưởng hạnh phúc Nước Trời, mỗi người chúng ta phải biết dùng thời giờ và ân huệ Chúa ban để hồi tâm xét mình và ăn năn sám hối. Các tội lỗi chúng ta phạm chỉ là phần nổi của tảng băng chìm là các thói hư, giống như khối u ác tính cần sớm loại trừ. Sám hối là cắt khối u ra để cứu toàn thân, vì nếu không, thì toàn thân sẽ phải chết. Con người phạm tội cũng giống như một ngôi nhà bị bén lửa, nếu không kịp thời khống chế, ngọn lửa lan nhanh và sẽ thiêu rụi cả ngôi nhà; Sám hối chính là dập tắt ngọn lửa để cứu toàn bộ ngôi nhà khỏi bị cháy thiêu.
- Sống công bình bác ái mới là sám hối đích thực: Sự sám hối trở về không chỉ là hành vi đấm ngực về các tội đã phạm mà còn phải sống lời Chúa: "Hãy sinh hoa kết trái xứng với lòng ăn năn thống hối". Hoa trái của sự thánh thiện là các việc lành, giữ sự công bằng bác ái, sống yêu thương và phục vụ mọi người. Điều khó của hối nhân là phải phát sinh hoa trái tốt như: Gieo nụ cười thân ái, luôn quan tâm giúp đỡ phục vụ tha nhân, xoá bỏ những bất công và lòng thù hận, tránh “suy bụng ta ra bụng người” và làm theo Lời Chúa dạy: "Anh em muốn người ta làm gì cho mình thì cũng hãy làm cho người ta như vậy" (Lc 6,31).
4) SÁM HỐI LÀ QUYẾT TÂM TRỞ NÊN NGƯỜI TỐT:
Hành trình Mùa Chay theo Hội Thánh mong muốn không là quay về quá khứ ăn năn sám hối để xưng thú tội lỗi mình… nhưng còn nhằm dẫn đưa chúng ta đến cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Mùa Chay phải trở thành mùa đổi mới đời sống và cải thiện môi trường, là mùa nở hoa kết trái tình thương và thực thi các việc lành… nếu không, chúng ta sẽ bị chết trong tội của mình.
- Sám hối tội lỗi gồm cả những điều thiếu sót: Mỗi lần xét mình xưng tội, chúng ta thường chỉ xét những tội đã làm hại kẻ khác, mà quên không xét những tội đã bỏ qua không giúp đỡ tha nhân. Như cây vả trong Tin mừng hôm nay tuy không sinh hoa trái độc hại, cũng không trực tiếp làm hại chủ vườn... nhưng tội của cây này là không sinh hoa trái trong một thời gian lâu dài. Nhiều người chúng ta cũng vậy: Ta thường cảm thấy yên tâm khi thấy mình không cướp của giết người, không tà dâm ngoại tình, không dối trá lừa gạt ai... Nhưng ta lại quên không xét những tội đã sống khô khan nguội lạnh bỏ dự lễ đọc kinh; Tội không quan tâm làm việc tốt phụng sự Thiên Chúa và phục vụ anh em; Tội cố tình làm ngơ khi tha nhân đang cần được trợ giúp; Tội không chịu làm lợi thêm các nén bạc được Chúa trao phó (x. Mt 25,18); Tội không có lòng thương xót, không an ủi động viên và chia sẻ cơm áo để giúp những người đói khát bệnh tật và đau khổ (x. Mt 25,42)... Chính khi không làm điều tốt cho tha nhân là chúng ta đã để cho sự gian ác hoành hành. Sống đạo không phải chỉ là siêng năng đến nhà thờ dự lễ đọc kinh và không xúc phạm đến tha nhân... nhưng còn là tích cực phát huy các điều thiện để giúp tha nhân sống tốt đẹp hơn cả về thể xác cũng như tâm hồn.
- Hãy hành động tích cực và cụ thể để tỏ lòng sám hối: Câu chuyện sau đây cho thấy thế nào là ăn năn sám hối trong Mùa Chay này:
Một hôm, khi đi học về đến nhà, bé Tâm chạy ngay vào bếp rồi nũng nịu nói với mẹ rằng: “Mẹ ơi, con đói bụng quá !”. Mẹ ôn tồn nói với con: “Con hãy ráng chờ mẹ một chút sẽ có cơm ăn liền. Hôm nay mẹ đi làm về trễ nên có trễ giờ nấu cơm”. Nhưng bé Tâm lại tỏ thái độ vùng vằng khó chịu với mẹ, rồi em bỏ lên lầu chơi, chờ đến khi mẹ gọi mới chịu xuống nhà ăn cơm. Sau khi ăn xong, mẹ mới ôn tồn nói với bé Tâm như sau: “Con năm nay đã lớn và học lên lớp năm rồi. Con phải có trách nhiệm giúp mẹ lo việc nhà mới phải. Khi đi học về, thấy mẹ làm cơm chưa xong, lẽ ra con phải xuống bếp phụ mẹ lặt rau, lau chén đũa và dọn bàn ăn chứ. Con không được tỏ thái độ giận dỗi mẹ nghe không ?” Bé Tâm đã nhận ra thái độ giận mẹ khi nãy là không đúng khiến mẹ bị buồn. Em tỏ ra hối hận nên thưa với mẹ rằng: “Thưa mẹ, con đã biết lỗi rồi. Từ nay con hứa sẽ quan tâm giúp đỡ mẹ và sẽ không làm gì khiến mẹ phải phiền lòng nữa”. Thế là mẹ liền ôm Tâm vào lòng và âu yếm nói: “Con ngoan của mẹ. Mẹ cảm thấy rất vui vì con đã biết lỗi và hy vọng từ nay con sẽ trở thành đứa con ngoan hiếu thảo của mẹ”.
Cũng vậy, trong Mùa Chay này, để xứng đáng được Chúa ban ơn tha thứ tội lỗi, chúng ta hãy hồi tâm sám hối các tội đã phạm, hãy quan tâm tìm ra thói hư của mình và quyết tâm chừa bỏ bằng cách làm các việc tốt đối lập với thói hư. Mỗi tối sẽ dành ít phút xét mình về điều đã dốc quyết, ăn năn sám hối tội lỗi mỗi ngày và xưng tội mỗi tháng để được giao hòa với Chúa.
5. LỜI CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Con thuờng hay đổ lỗi cho Thiên Chúa khi gặp phải thất bại: Khi bị mất mùa, con đổ lỗi tại Trời không ban cho mưa thuận gió hòa. Khi một người con đang ác cảm gặp phải tai ương hoạn nạn, con cho rằng họ bị Chúa phạt đáng đời! Nhưng hôm nay nhờ Lời Chúa soi dẫn, con sẽ không dám tiếp tục hiểu sai Lời Chúa nữa. Trong thực tế, con thấy có nhiều người tốt lành thánh thiện nhưng vẫn gặp phải nhiều tai nạn rủi ro. Ngay chính Chúa vốn là Con Thiên Chúa, là Đấng thánh thiện vô cùng, thế mà cũng từng chịu bao đau thương và còn bị chết đau thương nhục nhã bất công trên cây thập giá.
- LẠY CHÚA. Xin cho con luôn nhận ra tình thương của Chúa trong mọi biến cố vui buồn của cuộc đời con. Con biết rằng: Sở dĩ Chúa để con phải chịu đau khổ là để con có dịp sám hối và lập công đền tội, hầu ngày một nên tốt hơn. Xin cho con dù gặp phải những điều trái ý, vẫn nhẫn nại chịu đựng để đền tội con và góp phần với Chúa đền tội tha nhân. Xin cho con luôn phó thác tương lai cuộc đời con trong tay Chúa quan phòng, vì biết rằng: Tất cả những điều may lành hay rủi ro xảy đến cho con, đều không ngoài thánh ý Chúa, được Chúa cho xảy ra để mưu ích cho phần rỗi đời đời của con.
Bước vào Chúa nhật thứ III Mùa Chay năm, lời kêu gọi "hoán cải" vang lên trong Tin Mừng hôm nay như là sự cảnh báo. Mượn lời nguyện cầu của các Giáo phụ chúng ta thưa cùng Chúa: "Lạy Chúa, xin thương con, vì con là kẻ có tội !"
Sau hai tuần sám hối, ý thức mình là kẻ tội lỗi, chúng ta can đảm theo Chúa Giêsu bước tiếp vào trong sa mạc của Mùa Chay Thánh, "hướng nhìn" lên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót, và thưa: "Mắt tôi hướng nhìn Chúa không biết mỏi, vì chính Người sẽ gỡ chân tôi khỏi dò lưới. Lạy Chúa, xin đoái nhìn và xót thương con, vì thân này bơ vơ cùng khổ" (Ca nhập lễ), Chúa sẽ cứu giúp chúng ta.
Tin vào lòng Chúa thương xót không phải là dễ, vì trước mắt chúng ta có biết bao chuyện buồn đẫm lệ: các thảm kịch về tai nạn hàng không, những vụ khủng bố người giết người giã man hơn, những tội lỗi do chính con cái Giáo hội gây ra … Chúng ta vẫn hát với niềm tin rằng: "Chúa nhân từ và thương xót".
Có người hỏi, lòng nhân từ và thương xót Chúa ở đâu, khi trái tim con người bị tan nát bởi những cái chết đau thương của người thân, của anh em đồng loại... thật khó để chúng ta xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương và muốn điều tốt cho nhân loại?
Vấn nạn giả thiết rằng, sự bất hạnh xảy đến với con người là đích đáng. Vì vậy, khi chúng ta chứng kiến những người bị bệnh nan y hoặc chết đột ngột, người đời hỏi :"Họ đã làm gì sai chăng? " Hay có sự trừng phạt tức khắc mà họ phải hứng chịu? Đây không phải là điều Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng.
Vậy, làm thế nào để có thể chấp nhận và sống sự khác biệt giữa lòng thương xót của Thiên Chúa và sự bất hạnh của con người? Chúng ta còn nhớ việc Thiên Chúa giải thoát dân Ngài ra khỏi Ai Cập và cho họ đi qua Biển Đỏ ráo chân không? Liệu còn nhớ Thiên Chúa dẫn dắt dân Ngài qua sa mạc, nuôi dân bằng bánh bởi trời, và uống nước từ tảng đá vọt lên để dân đi đến tận Đất Hứa không? Chỉ cần nhớ lại những hành động Thiên Chúa trợ giúp con người, như thư I Côrintô, Thánh Phaolô tiên báo trước đời sống Kitô hữu, những người đã được rửa tội trong Chúa Kitô là Đá tảng tuôn trào mạch nước sự sống và nuôi dưỡng bằng bánh bởi trời. Nhưng làm thế nào để chúng ta tin vào lòng trung thành của Thiên Chúa và giúp chúng ta tin vào tình yêu Chúa khi bất hạnh tấn công con người?
Thánh Luca kể lại cho chúng ta bình luận của Chúa Giêsu về hai biến cố thời sự lúc đó. Biến cố thứ nhất là cuộc nổi loạn của vài người Galilê bị quan Philatô đàn áp giết chết; biến cố thứ hai là ngọn tháp tại Giêrusalem bị sụp đổ làm cho 18 người thiệt mạng; hai biến cố bi thảm này khác nhau, một do con người tạo ra, và một do tai nạn. Người đương thời Chúa Giêsu thường có tâm thức nghĩ rằng, tai nạn đã đổ xuống trên các nạn nhân, bởi vì họ đã phạm lỗi trầm trọng. Trái lại, Chúa Giêsu nói: "Các người cho rằng những nạn nhân người Galilêa kia là những kẻ tội lỗi hơn tất cả mọi người Galilêa ư?... Hoặc 18 nạn nhân kia là những kẻ lỗi phạm hơn tất cả mọi người dân Giêrusalem chăng?" (Lc13,2.4). Thay vì kết luận đơn giản coi sự dữ như là hình phạt của Thiên Chúa, Chúa Giêsu phục hồi lại hình ảnh chân thực của Một Vì Thiên Chúa là Ðấng tốt lành, không muốn sự dữ; Người còn yêu cầu đừng coi những tai hoạ đó như là kết quả trực tiếp của tội lỗi cá nhân. Người nói: "Các ông tưởng rằng những người Galilê ấy là những kẻ tội lỗi nhất ở xứ Galilê cho nên mới đáng hình phạt như vậy ư?" Và Chúa Giêsu kết luận cho cả hai trường hợp như sau: "Không phải thế. Tôi nói cho các người biết, nếu các người không ăn năn hối cải, các người cũng sẽ phải chết như vậy" (Lc 13,3.5). Chúa Giêsu muốn dẫn những kẻ lắng nghe Người đến kết luận về sự cần thiết phải ăn năn trở lại.
Khi cái chết tấn công chúng ta, đức tin không cho chúng ta những lời giải thích hoặc an ủi chúng ta yên tâm, nhưng đức tin hỏi chúng ta: chúng ta đã làm gì trong cuộc đời khi đang phải đối diện với cái chết vây quanh ta, bất hạnh và đau khổ tấn công và chạm đến ta?
Để làm rõ lời kêu gọi hoán cải, Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cây vả. Đã ba năm nay, cây không sinh quả. Chúng ta, những người đã nhận lãnh bao nhiều hồng ân của Thiên Chúa mà không đáp trả cách hào phóng cũng thế. Chủ vườn nói với chúng ta rằng, điều này đã quá đủ. Và bây giờ người làm vườn chưa ưng nhận sự phán xét của Thầy nên trả lời: "Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi" (Lc 13, 9), đúng là năm án treo, một năm hồng ân.
Sự chết không tấn công chúng ta một cách mù quáng, nhưng mời gọi chúng ta cải đổi đời sống. Đó là lý do tại sao phụng vụ cung cấp cho chúng ta bài suy niệm này ở trung tâm của Mùa Chay, khi chúng ta tiếp tục cuộc hành trình 40 để hướng tới việc cử hành lễ Vượt Qua, và mời chúng ta đi tiếp để Chúa nhật tới canh tân phép rửa của chúng ta, nguồn nước hằng sống trào dâng từ trái tim của Chúa Giêsu.
Vâng, lạy Chúa, khi con nhìn thấy những gì xảy ra trên thế giới và trong Giáo hội, các tai nạn gây đau đớn cho nhân loại và đau khổ đến anh em của con, con nghe thấy giọng nói của Chúa nói với con: "Hãy sám hối ngay ngày hôm nay. Tận dụng Năm Thánh này, Năm Hồng Ân, năm Ta xót thương và chăm sóc con để con có thể sinh trái".Amen. Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra nhiều sự việc xẩy ra từ thời Chúa Giêsu sống nhưng vẫn như đang xẩy ra trước mắt chúng ta, chung quanh chúng ta. Chúa Giêsu trong Chúa nhật III Mùa chay, năm C, đưa ra hai biến cố có tính rất thời sự, nóng hổi: một là sự tàn ác của Philatô, hai là tai nạn lao động. Tất cả hai vụ việc này đều dẫn đến cái chết. Lúc đó, có rất nhiều luồng dư luận, người thì nói những người này là những người tội lỗi, nên bị Chúa phạt, kẻ khác nghĩ thế này thế nọ. Những người không hề hấn gì cứ tưởng rằng mình vô tội vì họ đang an toàn vv…Chúng ta nghĩ gì về những sự kiện ấy ?
Chúa Giêsu luôn kêu gọi mọi người sám hối. Tuy nhiên, có người tưởng rằng mình vô tội, nên chẳng cần gì phải ăn năn, phải quay trở về, phải sám hối…Sự an toàn và tưởng tượng giả tạo luôn là bóng mờ làm lỏe mắt chúng ta. Chúa Giêsu đưa chúng ta ra khỏi sự ảo tưởng, sự mù lòa về mình. Ngài nhắc nhở chúng ta sám hối vì biết làm sao được ai nặng tội hơn ai. Con người được Chúa cho an toàn, thảnh thơi, thư thái, chính lúc đó là lúc con người cần trở về, thay đổi, làm mới con người vì rằng chính lúc con người tưởng mình mạnh lại là lúc họ yếu như lời thánh Phaolô đã nói…Ơn trở về, ơn sám hối và ơn làm mới lại là ơn cần thiết Chúa ban cho con người, để con người mau mắn quay về với Chúa.
Cây vả trong Tin Mừng thực tế đang sống trong tình trạng an toàn. Tội của nó là tội làm choán đất, cây mọc nơi đất tốt mà không sinh hoa trái. Như thế, cây to làm hại, làm mất đất để các cây khác mọc lên. Con người sống ở trần gian nhiều khi cũng sống trong vỏ an toàn, họ không làm hại ai, không phá ai, nhưng họ đã không làm những điều tốt, họ đã không sinh lời theo ý Chúa. Họ đúng là người được ông chủ trao một nén, đáng lẽ họ phải làm lời ra, nhưng họ đã chôn giấu không làm lợi tiền cho ông chủ. Họ không làm hại ai nhưng sống ích kỷ, bo bo, không làm điều tốt, không làm những điều ông chủ muốn, như thế họ đã tiếp tay cho sự xấu, sự dữ hoành hành. Tin Mừng của Chúa cốt lõi của Tình Yêu. Do đó, theo đạo không có nghĩa là bo bo giữ luật lệ cho riêng mình để được lợi cho mình, nhưng còn phải sống đạo. Làm những việc lành tỏa sáng, làm những việc bác ái để danh Chúa được cả sáng là làm vinh danh Chúa. Dụ ngôn cây vả nói lên sự kiên nhẫn của Chúa đối với con người. Trước một vụ việc, trước một biến cố, mỗi người có cái nhìn và phản ứng khác nhau. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã gợi lại cho chúng ta thấy phản ứng rất thông thường của người Do Thái, đồng thời cũng là phản ứng của nhiều người tín hữu. Philatô ra lệnh xử tử một số người Galilê nổi loạn, thì người Do Thái cho rằng những người này đáng bị trừng phạt vì họ là những người tội lỗi. Khi tháp Silôe đè chết 18 người thì người Do Thái cũng bảo họ là những người tội lỗi bị Chúa phạt. Chúng ta gán cho Chúa phạt người khác vì cho là họ có tội, nhưng chúng ta lại quên thân phận yếu hèn, mỏng giòn của chúng ta. Chúa luôn mời gọi chúng ta nhìn vào các biến cố với lòng tin tưởng tuyệt đối vào tình thương của Thiên Chúa, nhìn vào tấm lòng nhân hậu, tình yêu vô biên của Chúa. Chúa là người Cha nhân từ “ chậm bất bình và hết mực khoan nhân “. Ngài luôn luôn yêu thương, thứ tha nếu chúng ta thật tâm sám hối, ăn năn, quay trở về với Thiên Chúa tình thương. Con người dù có tội lỗi đến đâu, nếu biết thật lòng hối cải, từ bỏ tội lỗi, Chúa vẫn luôn yêu thương tha thứ.
Năm thánh Lòng Thương Xót của Chúa giúp chúng ta nhận ra lòng thương, tình yêu vô biên của Chúa, khiến chúng ta nhận ra con người yếu đuối của mình cần được Chúa thứ tha. Con người càng nhận ra tình thương của Chúa, cần ý thức thân phận bọt bèo, mềm yếu của mình, cần được Chúa thứ tha nhờ đó chúng ta càng cần cảm thông với những yếu hèn của người khác. Tất cả chúng ta đều cần ơn tha thứ của Chúa. Do đó, sám hối là khởi đầu của việc nên thánh. Sám hối là sám hối trong cái nhìn về Thiên Chúa nhân từ, nên đồng thời cũng có cái nhìn thay đổi, đứng đắn, đầy cảm thông đối với người khác.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn nhận ra lòng nhân từ, yêu thương của Chúa, để chúng con luôn có cái nhìn cảm thông, tha thứ đối với anh chị em của chúng con.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1.Người Do Thái đã có cái nhìn thế nào về hai biến cố Philatô giết một số người Galilê nổi loạn và tháp Silôe đè chết 18 người ? 2.Thường chúng ta có cái nhìn về người khác thế nào khi họ gặp hoạn nạn ? 3.Chúa là ai và chúng ta là ai ? 4.Chúa dạy chúng ta điều gì qua những biến cố trên đây, đặc biệt cây vả không cho quả ? 5.Mùa Chay trong năm thánh Lòng Thương Xót của Chúa nói cho chúng ta những gì ?
Sám hối là việc không thể thiếu trong mùa Chay, cho nên suy nghĩ và thực hành sám hối luôn là đề tài được khai triển một cách phong phú qua Phụng vụ Lời Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay mở đầu bằng một tin tức thời sự, tiếp theo là bình luận của Chúa Giê-su về bản tin và những người đem tin, để dẫn tới đề tài sám hối; sau cùng Người kết thúc câu chuyện bằng dụ ngôn cây vả không sinh trái để nói lên tầm quan trọng của việc sám hối.
Người Do-thái xưa thường cho cái chết tàn bạo như là hậu quả do tội lỗi người chết ấy đã phạm khi còn sống. Do đó, khi mấy người đến kể cho Chúa Giê-su nghe câu chuyện thời sự về những người Ga-li-lê bị Phi-la-tô giết đang khi dâng các tế vật, thì họ đã mang sẵn định kiến cho rằng những người bị giết ấy là những kẻ tội lỗi! Nhưng Chúa Giê-su lập tức phản bác quan niệm này và dùng ngay quan niệm của họ để nói về việc sám hối: “Không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy!” Chưa hiểu rõ lý do tại sao những người bị Phi-la-tô giết thì đừng vội lên án họ. Biết đâu họ là những người đang dâng tế vật tỏ lòng phụng thờ Chúa. Hoặc họ là những người đang chuẩn bị một cuộc cách mạng lật đổ ách cai trị của Rô-ma để giải phóng dân tộc. Nếu đúng thế, họ là những kẻ chết vì đạo hoặc là những anh hùng, chứ không phải kẻ tội lỗi.
Để nhấn mạnh, Chúa Giê-su đan cử thêm một sự kiện khác xảy ra ngay tại Giê-ru-sa-lem để dạy về sự cần thiết của sám hối. Đó là có mười tám người bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết tại Giê-ru-sa-lem. Đâu có gì chắc chắn để kết luận rằng những người này chết vì họ là kẻ tội lỗi. Đây là một tai nạn thôi. Có thể họ là những người đang làm công việc trùng tu ngọn tháp và chết vì tai nạn nghề nghiệp. Biết đâu họ chẳng là những người chết vì lòng hy sinh cho cộng đồng. Để bênh vực cho cái chết của họ, Chúa Giê-su cũng hỏi một câu tương tự: “Các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở Giê-ru-sa-lem sao?” Chúa liền trả lời và lại dẫn về đề tài sám hối: “Không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”. Người muốn áp dụng sự cần thiết của sám hối vào ngay những người đang có quan niệm sai lầm về cái chết của người khác. Người còn ám chỉ đến một cái chết còn tai hại hơn cái chết của thể xác, đó là chết đời đời và bị luận phạt trong hỏa ngục.
Sau cùng, để bảo đảm với chúng ta rằng nếu ta sám hối thì ta sẽ không phải chết đời đời nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa, Chúa Giê-su kể dụ ngôn cây vả không ra trái. Cây vả không phải loại cây trồng trong vườn nho, vì nó không đáng, nên người ta thường trồng nó ở những chỗ đất thừa hoặc cạnh đường đi. Vậy mà người chủ vườn nho đã trồng nó “trong vườn nho mình”. Cây vả này thật có phước! Nhưng dù “đã ba năm” quá thời hạn nó bắt đầu sinh trái mà cây vả vẫn chỉ tốt lá mà không trái, cho nên nó có bị chặt đi thì cũng là lẽ đương nhiên. Chính ông chủ cũng muốn chặt nó đi cho khỏi hại đất. Nhưng nhờ người làm vườn đứng ra bảo đảm sẽ giúp cho cây vả thay đổi, nhất định sẽ có trái vào năm tới, nên ông chủ đã bằng lòng giữ nó lại. Rõ ràng Chúa Giê-su muốn ám chỉ đến lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho chúng ta là những kẻ tội lỗi. Nhưng với điều kiện chúng ta phải sám hối để sinh hoa trái. Ai sẽ giúp chúng ta sám hối, như người làm vườn giúp cho cây vả, nếu không phải là chính Chúa Giê-su, Đấng kêu gọi chúng ta hãy sám hối và tin vào Tin Mừng cứu độ?
Sống sứ điệp Tin Mừng
Chúa Giê-su kể dụ ngôn cây vả để kêu gọi chúng ta hãy sám hối. Thánh Phao-lô cũng kêu gọi chúng ta hãy học bài học của cha ông người Do-thái mà trung thành với Chúa. Sám hối là quay lưng lại với tội lỗi, là thay đổi não trạng trần tục bằng não trạng của Chúa Ki-tô. Sám hối không chỉ là hành vi đơn độc khi chúng ta đi xưng tội, nhưng là một cuộc thay đổi liên tục để chúng ta trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô”. Tuy nhiên, còn một động lực quan trọng thúc giục chúng ta sám hối, đó là vững tin vào lòng thương xót của Chúa, điều chúng ta đang sống trong Năm thánh ngoại thường này, vì Chúa không muốn chúng ta phải chết đời đời. Nhất định nhờ Chúa Ki-tô, chúng ta sẽ sinh hoa trái!
Nếu Chúa Nhật I Mùa Chay nói về chủ đề cám dỗ, Chúa Nhật II nói về vinh quang, thì Chúa Nhật thứ III Mùa Chay hôm nay nói về chủ đề sám hối.
Tại sao chủ đề sám hối lại được đặt vào trọng tâm của Mùa Chay? Thưa vì khi sám hối, con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, đồng thời cũng nhận ra sự bất toàn của chính mình. Từ đó, chúng ta đón nhận được ơn tha thứ, khởi đầu lại hành trình đức tin và tiếp tục đi trong đường lối yêu thương của Người.
Hôm nay, vào giữa Mùa Chay, Giáo Hội lại một lần nữa kêu gọi con cái mình sám hối, vì: “Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ”(2 Cr 6,2b).
Lý do cần phải sám hối
Khởi đi từ bài đọc I, tác giả sách Xuất Hành cho thấy: Thiên Chúa là Đấng yêu thương con cái của Người cách đặc biệt, nên ngay từ xa xưa, Thiên Chúa đã tuyển chọn ông Abraham, qua đó, Người thiết lập một dân riêng, để từ đây, Thiên Chúa mạc khải tình thương của Người cho nhân loại qua việc yêu thương, chăm sóc và giữ gìn.
Tình thương ấy được tỏ hiện cụ thể qua việc Thiên Chúa tiếp tục chọn và gọi Môsê để trao phó cho ông sứ mạng giải thoát dân Người ra khỏi ách nô lệ bên Aicập.
Đến bài đọc II, thánh Phaolô gợi lại sự chăm lo của Thiên Chúa cách đặc biệt trên cộng đoàn. Tuy nhiên, Ngài thấu hiểu được tâm lý con người, nên đã cảnh báo họ về những cám dỗ. Để chứng minh, Ngài đã nhắc lại cuộc xuất hành của dân từ Aicập vượt qua Biển Đỏ, rồi trong suốt hành trình nơi Samạc, họ đã được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt, ấy thế mà, dân Israel đã bội nghĩa vong ân, đã thay trắng đổi đen, và đã vướng vào những cạm bẫy của ma quỷ, để rồi kiêu ngạo, thách thức Thiên Chúa. Vì thế, nhiều người đã phải chết trong sự ngu dốt do tính kiêu ngạo của mình.
Từ đó, thánh nhân mời gọi tín hữu Côrintô hãy sám hối, tin tưởng, phó thác vào tình thương của Thiên Chúa và trung thành với sự hướng dẫn đầy tình nhân ái của Người.
Nếu không sám hối, sẽ phải chết
Sang bài Tin Mừng, thánh sử Luca trình thuật việc dân chúng báo tin cho Đức Giêsu về hai sự kiện, một là: quan tổng trấn Philatô giết một số người Galilê đang khi họ dâng lễ vật trong đền thờ, và biến cố 18 người bị tháp Siloe đổ xuống đè chết, sau đó, họ kết luận: những người đó phạm tội nên mới bị chết cách đau đớn như vậy!!!
Khi nghe thấy tin ấy, Đức Giêsu đã không nhìn sự kiện dưới khía cạnh luân lý, kinh tế hay chính trị, mà Ngài nhìn dưới gọc độ tôn giáo. Vì thế, Ngài đã đánh đổi quan niệm cũ sai lầm mà người Dothái thường gán cho những người ốm đau, bệnh tật, tai nạn là do phạm tội nên bị Thiên Chúa phạt bằng câu nói đầy tính tiên tri: “Nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết y như vậy”. Điều này đã được chính Đức Giêsu chứng minh qua phép lạ chữa cho người mù từ lúc mới sinh, Ngài nói: “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9,3).
Mặt khác, Ngài cũng muốn nhắc cho dân chúng ở đó rằng: chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền xét đoán và kết án mà thôi, nên: “Đừng xét đoán để khỏi bị kết án” (Mt 7,1).
Như vậy, qua bài Tin Mừng này, chúng ta thấy ý chính, trọng tâm của sứ điệp chính là: “Hãy sám hối để được ơn tha thứ và cứu chuộc”.
Sứ điệp Lời Chúa
Lời mời gọi ấy ngày nay vẫn con nguyên giá trị. Nhưng đáng tiếc thay, nhiều người vẫn dửng dưng và cho rằng: “Đời còn dài, lo gì, đến lúc già, ăn năn đền tội còn kịp chán. Tên ăn trộm kia còn kịp ăn năn, huống chi là mình !”; hay nghĩ rằng: “Đâm lao theo lao”, lỡ yếu đuối sa ngã phạm tội rồi, cho lỡ luôn! Thực ra, chỉ những ai dại dột hay kiêu ngạo thì mới cả gan nghĩ như vậy, bởi lẽ trong thực tế đã chứng minh cách nhãn tiền rằng: “Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”, vì: cái chết nó đến với chúng ta cách bất ngờ đến độ như kẻ trộm lúc đêm khua hay như chiếc lưới bất thần chụp xuống trên đầu chúng ta...
Vì thế, ngay giây phút này, mỗi người hãy tâm niệm câu nói của thánh Phaolô: “Ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10,12); và câu nói của thánh Phêrô: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo và ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5,5). Vì ngài: luôn đánh giá rất cao người tội lỗi trở về hơn là người đạo đức mà kiêu ngạo.
Như vậy, Lời Chúa hôm nay cho ta thấy rất rõ: đối tượng của lời kêu gọi sám hối không phải chỉ là những người tội lỗi, gái điếm, trộm cắp..., nhưng cả những người được coi là đạo đức, ngay chính, nhiều người kính trọng, hết thảy, ai ai cũng đều phải sám hối.
Bởi vì nếu lời mời gọi sám hối dành cho những người tội lỗi là: từ bỏ con đường bất chính, gian dâm, trộm cướp, hối lộ, bóc lột..., thì lời mời gọi sám hối dành cho những người đạo đức, công chính..., đó là: làm mọi việc vì lòng yêu mến Chúa, biết cảm thông cho những thân phận xấu số, cảm thương với người nghèo và rộng tay làm phúc bố thí cho họ, nhất là nâng đỡ những người tội lỗi, giúp họ làm lại cuộc đời...
Tại sao vậy, Thưa! Kitô giáo không phải là một tôn giáo chỉ cấm những điều xấu không được làm, mà Giáo lý của Đức Giêsu còn đòi buộc cả những điều tích cực như: khi thấy điều tốt mà không làm thì cũng mắc tội. Điều này cũng được chính thánh Giacôbê nhắc đến trong thư của ngài: “Kẻ nào biết làm điều tốt mà không chịu làm thì mắc tội” (Gc 4,17).
Vì thế, nếu tỏ lòng sám hối là điều cần làm ngay lúc này, thì lời mời gọi sinh hoa quả tốt là các nhân đức cũng là điều cấp thiết. Bởi vì: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả đều bị chặt đi và quăng vào lửa”(x. Mt 3,10 ; Lc 3,9).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu rõ rằng: biết sám hối là một lựa chọn khôn ngoan. Biết đổi mới đời sống theo thánh ý Chúa là người có phúc. Amen.
Tin Mừng hôm nay đề cập đến hai đề tài định hướng cho sự chọn lựa của Bài Đọc I và Bài Đọc II. Đề tài thứ nhất về việc “Thiên Chúa ân cần chăm sóc dân Ngài” (bản văn của sách Xuất Hành và dụ ngôn của Tin Mừng Lu-ca); đề tài thứ hai về “những ai tự phụ là mình công chính” (lời khuyên của thánh Phao-lô và lời cảnh giác của Chúa Giê-su).
Xh 3: 1-8a, 13-15
Thiên Chúa siêu việt mặc khải Danh Ngài, Ngài là Hữu Thể tuyệt đối, đồng thời cũng là Đấng động lòng trắc ẩn trước cảnh cùng khốn của dân Ngài và sai ông Mô-sê ra đi giải phóng dân Ngài khỏi cảnh đời nô lệ.
1Cr 10: 1-6, 10-12
Thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu Cô-rin-tô về đức khiêm tốn. Thậm chí những ai được ban cho những ơn trợ lực dồi dào hơn những người khác, như dân Do thái trong hoang địa và những Ki-tô hữu nhờ các bí tích, hãy coi chừng đừng để mình sa vào tội lỗi.
Lc 13: 1-9
Tin Mừng Lu-ca thuật lại hai sự cố nghiêm trọng: cuộc thảm sát của những người Ga-li-lê và một tai nạn thảm khóc gây nên cái chết của mười tám người Giu-đê. Từ đó, Chúa Giê-su rút ra một bài học: Ngài tách biệt tai họa và tội lỗi, nhưng đối với những ai tin mình công chính, Ngài nhắc nhở cho họ biết rằng họ là những tội nhân, vì thế cái chết cũng đe dọa họ; tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn ra công vun xới trước khi quyết định chặt cây nào không đơm bông kết trái.
BÀI ĐỌC I (Xh 3: 1-8a, 13-15)
Sách Xuất Hành được gọi là “Tin Mừng Cựu Ước”. “Tin Mừng” mà sách thuật là Tin Mừng về việc Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử của dân Ngài để giải phóng dân khỏi miền đất nô lệ và dẫn đưa dân vào một xứ sở tốt đẹp hơn, tiên trưng một cuộc giải phóng khác và cuộc xuất hành khác về Nước Trời. Như vậy, sách Xuất Hành không chỉ là câu chuyện về “cuộc xuất hành” ra khỏi đất Ai-cập, nhưng còn câu chuyện về lộ trình tâm linh. Những móc điểm đầu tiên của lộ trình này là kêu gọi ông Mô-sê và mặc khải mầu nhiệm Thiên Chúa.
1. Hoàn cảnh của ông Mô-sê
Khi ông Mô-sê nhận được tiếng gọi của Thiên Chúa, thì ông đã rời bỏ đất Ai-cập từ nhiều năm rồi. Sau khi đã lớn lên trong cung đình Pha-ra-on và đã nhận được một nền giáo dục ưu việt, ông đã ý thức về những điều kiện sống cơ cực mà đồng bào ông phải chịu. Một ngày kia thấy một người Ai-cập đánh đập một người Do thái, ông Mô-sê đã xông vào người Ai-cập, giết chết và vùi thây người ấy trong cát. Sự việc đã bị bại lộ, ông Mô-sê sợ bị trả thù nên chạy trốn và lánh nạn tại dân Ma-đi-an, dân du mục và sống nghề chăn nuôi. Ở đó ông đã cưới một trong bảy cô con gái của thầy tư tế Ma-đi-an, tên là Git-rô.
Như vậy, ông Mô-sê đã sống lại cuộc sống du mục của các tổ phụ. Đối với ông Mô-sê, thời gian tha phương này là thời chuẩn bị tâm lý cho cuộc gặp gỡ của ông với vị Thiên Chúa của cha ông mình. Bấy giờ, ông đang chăn đàn gia súc cho bố vợ mình. Khi mùa hè tới, ông đi tìm những đồng cỏ miền núi xanh tươi hơn. Vì thế, ông dẫn đàn vật qua bên kia sa mạc, đến “núi của Thiên Chúa”. Chính ở nơi đó mà Thiên Chúa sẽ yêu cầu ông trở thành vị mục tử của dân Ngài.
2. Ơn gọi của ông Mô-sê
Thiên Chúa tỏ mình ra trong cảnh trí “cây cao bóng cả” là một nét đặc trưng rất kinh điển ở miền Cận Đông, ở Ấn Độ, cũng như ở Hy-lạp cổ xưa. Vì cây cối đâm chồi nẩy lộc, thay cành đổi lá theo mùa là biểu tượng sự sống, nhưng nhất là, cây cao bóng cả tạo nên bầu khí uy nghiêm, linh thánh. Thánh ký đã loại bỏ hình tượng này nhờ đến ngọn lửa. Thiên Chúa Ít-ra-en là Đấng siêu việt không nhận bất kỳ hình tượng vật chất nào, nhưng chỉ chấp nhận tỏ mình ra qua ánh sáng (đám mây chiếu sáng) hay ngọn lửa, như trong câu chuyện này ngọn lửa cháy bừng nhưng không thiêu hủy bụi cây diễn tả tính siêu việt của Thiên Chúa.
Hoạt cảnh tiếp theo nêu bật hai nét đặc trưng bất khả phân của Thiên Chúa Ít-ra-en: Đấng rất gần gũi với con người: Ngài chuyện trò rất thân tình với ông Mô-sê, nhưng đồng thời cũng là Đấng siêu việt: có một khoảng cách bất khả vượt qua giữa Thiên Chúa và con người: “Chớ lại gần! Cởi dép ở chân ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh”. Thiên Chúa lại còn thổ lộ tấm lòng từ bi nhân ái của Ngài: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta… Ta đã nghe tiếng rên siết của chúng… Ta cũng đã thấy cảnh áp bức chúng phải chịu…”. Vì thế, Thiên Chúa trao gởi cho ông Mô-sê sứ mạng giải phóng dân Ngài.
3. Mặc khải Danh Thiên Chúa
Thiên Chúa nói trực tiếp với ông Mô-sê: Ngài tự giới thiệu mình. Ngài không là một vị thần xa lạ: “Ta là Thiên Chúa của tổ tiên ngươi, Thiên của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp. Giờ đây, tiếng rên siết của con cái Ít-ra-en đã thấu tới Ta… Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập”.
Ông Mô-sê chấp nhận sứ mạng được giao phó cho ông, nhưng nài xin Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài cho ông để ông có thể tiện bề ăn nói với dân chúng. Lúc đó, Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài cho ông Mô-sê. Theo văn hóa Do thái, tên chính là người ấy. Danh Thiên Chúa này được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Theo cấu trúc của ngôn ngữ Híp-ri, Danh Thiên Chúa được dịch theo sát từ, hoặc ở thì hiện tại: “Ta là Đấng Ta là”, hay ở thì tương lai: “Ta là Đấng Ta sẽ là”. Dù được hiểu ở hiện tại hay tương lai, điều cốt yếu ở nơi Danh Thiên Chúa chính là động từ “là”, như câu tiếp theo chứng thực điều đó: “Ngươi nói với con cái Ít-ra-en thế này: ‘Đấng là sai tôi đến với anh em”: “Đấng là” đóng chức năng chủ từ của câu.
Chính vì thế, thánh Tô-ma A-qui-nô đã giải thích Danh Thiên Chúa này theo nghĩa Hữu Thể của triết gia Hy lạp, Aristos, “Ta là Hữu Thể”, nghĩa là, Thiên Chúa là Đấng thường hằng, bất biến. Trong các bản dịch Kinh Thánh Việt Nam, mỗi dịch giả đề nghị hiểu và dịch theo cách riêng của mình, như cha Nguyễn Thế Thuấn: “Ta có sao Ta có vậy!”, hay bản dịch của nhóm Phụng Vụ Các Giờ Kinh: “Ta là Đấng Hiện Hữu”, hay Bản Dịch dùng trong Phụng Vụ: “Ta là Đấng Hằng Hữu”. Dù những cách dịch khác nhau này, chúng ta vẫn gặp thấy âm hưởng của cách hiểu tên Thiên Chúa theo Hữu Thể của thánh Tô-ma A-qui-nô. Việc hiểu Danh Thiên Chúa theo triết học Hy lạp này đem đến một sự hiểu biết phong phú về Danh Thiên Chúa. Tuy nhiên, các nhà chú giải hiện đại bác bỏ cách giải thích này vì hai lý do: Trước hết, động từ “là” ở thể “chưa hoàn thành” nên không diễn tả một hành động hoàn thành, nhưng một hành động đang tiếp diễn, chưa chấm dứt. Thứ nữa, tính chất niềm tin của dân Ít-ra-en thì thực tiễn, tích cực và năng động. Vì thế, quan niệm siêu hình về một Hữu Thể tuyệt đối, bất biến, tự hữu thì hoàn toàn xa lạ với niềm tin của dân Ít-ra-en. Từ những nhận xét trên, các nhà chú giải hiện đại đề nghị hiểu Danh Thiên Chúa theo hai cách như sau:
A- Danh Thiên Chúa bất khả tiết lộ
Lời mặc khải “Ta là Đấng Ta là” hay “Ta là Đấng Ta sẽ là” thì bí ẩn đủ để người ta có thể kết luận rằng Thiên Chúa không thật sự muốn trao ban Danh của Ngài, vì theo tư tưởng sê-mít, biết tên của một vị thần linh nào đó, chính là có quyền làm chủ vị thần ấy, có quyền điều khiển sai khiến vị thần ấy, như việc gọi tên của vị thần linh trong các câu thần chú, như vậy, câu thần chú mới hiệu nghiệm.
Vì thế, trong câu chuyện của chúng ta, Thiên Chúa không thể trao ban Danh Ngài vào tay của con người để con người có quyền điều khiển sai khiến Ngài; hơn nữa, Ngài là một Mầu Nhiệm vô phương dò thấu, không ai có thể hiểu được bản chất của Thiên Chúa. Cách giải thích này được ủng hộ bởi các chuyện tích Kinh Thánh, như chuyện tổ phụ Gia-cóp nài xin Thiên Chúa: “Xin cho tôi biết tên Ngài” (St 32: 30), nhưng bị từ chối; hay như chuyện ông Ma-nô-ác nài xin cho biết tên vị sứ giả của Thiên Chúa, thì được trả lời: “Sao ông lại hỏi tên tôi? Đó là một điều bí nhiệm” (Tl 13: 17-18). Vì thế, theo văn mạch của câu chuyện chúng ta, khi Thiên Chúa nói: “Ta là Đấng Ta là”, có nghĩa, “Thiên Chúa là Thiên Chúa”, qua đó Thiên Chúa muốn nói rằng: “chuyện ấy có liên quan gì đến ngươi” hay “đó không phải nỗi bận lòng của ngươi”.
B- Danh Thiên Chúa là một Mặc Khải tiệm tiến
Tuy nhiên, cách giải thích trên gặp phải một sự khó khăn. Theo văn mạch, rõ ràng Thiên Chúa chấp nhận mặc khải Danh Ngài. Việc Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài trong một nền văn hóa theo đó tên đồng nghĩa với người mang tên ấy, thì không thể cho rằng Thiên Chúa chủ ý thoái thác không cho biết tên mình, như nhận định của A. B. Davidson: “Mặc khải mà Thiên Chúa ban cho về chính mình là mặc khải về chính Ngài như Ngài thật sự là như vậy, dù Ngài không thể mặc khải chính mình cho con người một cách tròn đầy được” (God in the OT; in: Dictionary of the Bible, vol. 2, 197). Hơn nữa, ở cuối câu chuyện, Thiên Chúa còn căn dặn: “Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia”.
Vì thế, Davidson mời gọi chúng ta chú ý đến hai đặc tính của động từ “là” liên quan đến tên Thiên Chúa được ban cho trong câu chuyện bụi gai cháy đỏ này. Trước hết, động từ này không có nghĩa “là” về phương diện hữu thể, nhưng về phương diện “hiện diện”. Thứ nữa, hình thức chưa hoàn thành của động từ này không có nghĩa ở thì hiện tại nhưng ở thì tương lai. Từ nhận xét này, ông giải thích ý nghĩa của tên Thiên Chúa như sau: “Xem ra rõ ràng trong quan điểm của người viết, ‘Ta sẽ là’ và ‘Đấng sẽ là’ thì như nhau: ‘Ta sẽ là’ khi Thiên Chúa nói về chính mình, và ‘Đấng sẽ là’ khi Thiên Chúa được những người khác nói về Ngài. Điều Ngài sẽ là để lại không được diễn tả - Ngài sẽ ở (“là”) với dân Ngài như Đấng Trợ Giúp, Đấng Quyền Năng và Đấng Giải Thoát” (God in the OT, 199).
Như vậy, khi Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài cho ông Mô-sê, Ngài nói về chính mình: “Ta là Đấng Ta sẽ là”; nhưng khi Ngài bảo ông Mô-sê nói cho dân Ít-ra-en về Ngài, Ngài nói ở ngôi thứ ba: “Đấng sẽ là”. Đối với ông Mô-sê, người mà Thiên Chúa trực tiếp mặc khải Danh Ngài, tên này có nghĩa: “Ta sẽ ở với ngươi” (3: 12). Còn đối với dân Ít-ra-en, mà ông Mô-sê có sứ mạng truyền đạt mặc khải này, tên Ngài có nghĩa “Đấng sẽ ở với họ”. Trong cả hai trường hợp, động từ “là” hay “ở” nhấn mạnh không trên “sự hiện hữu” nhưng trên “sự hiện diện” của Thiên Chúa với ông Mô-sê và với dân Ít-ra-en. Lúc đó, “Ta là Đấng Ta sẽ là” là một lời khẳng định về sự hiện diện của Thiên Chúa: “Ta thật sự là Đấng hiện diện”, nghĩa là “Ta thật sự là Đấng ở cùng”.
Đồng thời, Danh Thiên Chúa “Ta là Đấng Ta sẽ là” được hiểu như “điều chưa xác định”. Điều chưa xác định này chứa đựng những khả thể vô hạn tùy theo hoàn cảnh. Danh Thiên Chúa được mặc khải trong câu chuyện này đã không thể được bất kỳ thế hệ nào của Ít-ra-en hiểu trọn vẹn, vì thế Thiên Chúa vẫn cứ tiếp tục bày tỏ tất cả những gì Ngài sẽ là đối với dân Ngài: “Thiên Chúa sẽ là điều mà Ngài sẽ chứng tỏ Ngài là cho thế hệ này đến thế hệ khác; mỗi một thời đại sẽ khám phá những phẩm tính mới về Sự Hiện Diện của Ngài” (C. Westminster, The book of Exodus, London: 1908, 22). Chúng ta gặp thấy Danh Thiên Chúa như một sự hiện diện ở nơi lời giải thích mang tính hiện sinh của Is 52: 6: “Vì vậy, trong ngày ấy, dân Ta sẽ nhận biết danh Ta, nhận biết rằng: chính Ta là Đấng đã phán: ‘Này Ta đây!”.
Nói tóm lại, Danh Thiên Chúa thật sự được mặc khải nhưng đồng thời được phủ che. Hai chiều kích của việc mặc khải Danh Thiên Chúa chỉ cho thấy một chuyển động tích cực và năng động không chỉ về phía Thiên Chúa, nhưng cả về phía dân của Ngài. Về phần mình, Thiên Chúa sẽ vẫn tiếp tục chứng tỏ cho thấy Ngài hiện diện cùng với dân Ngài bằng những hành động: Đấng Giải Thoát ở bên Ai-cập, Đấng Bảo Vệ trong hoang địa… Còn về phía dân Ngài, “kinh nghiệm từng trải của dân Ít-ra-en với Thiên Chúa trong lịch sử của mình sẽ khẳng định ý nghĩa của Danh Thiên Chúa này. Dân Ít-ra-en hiểu lịch sử của mình từ Danh Thiên Chúa này, cũng như hiểu Danh Thiên Chúa từ lịch sử của mình” (W. Johnstone, Exodus, Old Testament Guide, 104).
Trong Tin Mừng Gioan, khi công bố: “Tôi là”, Đức Giê-su ngầm quy chiếu đến câu chuyện mặc khải Danh Thiên Chúa và áp dụng Danh Thiên Chúa vào chính mình: “Thật, tôi bảo thật các ông: trước khi có ông Áp-ra-ham, thì tôi, Tôi Là” (Ga 8: 58), hay “Nếu các ông không tin là Tôi Là, các ông sẽ mang tội mình mà chết” (Ga 8: 24). Trong Tin Mừng Mát-thêu, ngay từ đầu Tin Mừng, Hài Nhi Giê-su sẽ được gọi là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, và cuối Tin Mừng: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
BÀI ĐỌC II (1Cr 10: 1-6, 10-12)
Thánh Phao-lô viết thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô từ Ê-phê-xô có lẽ vào mùa xuân năm 55, vào dịp những xáo trộn và chia rẽ làm rối loạn Giáo Đoàn non trẻ này (được thiết lập vào năm 50-52). Mặt khác, các tín hữu Cô-rin-tô đã nêu lên cho thánh nhân một loạt câu hỏi tinh tế, thuộc lãnh vực luân lý hay có liên quan đến cuộc sống thường ngày giữa môi trường ngoại giáo.
1. Bối cảnh
Thánh nhân vừa mới trả lời một trong những câu hỏi mà họ nêu lên cho ngài. Những tín hữu này đã ăn thịt cúng tại nhà bà con thân thuộc ngoại giáo hay tại nhà mình khi mua thịt cúng bán ngoài chợ về. Thánh Phao-lô đã gợi lên sự tự do của người Ki-tô hữu: người Ki-tô hữu có quyền ăn bất kỳ đồ cúng nào, vì mọi vật đều được Thiên Chúa tạo dựng và ban cho con người hưởng dùng; hơn nữa, các thần linh chỉ là ngẫu tượng. Tuy nhiên, sự tự do này bị hạn chế do bởi việc tôn trọng tha nhân và đức ái huynh đệ. Như vậy, “những người mạnh” phải tránh cách hành xử có thể làm thương tổn hay gây gương xấu cho “những kẻ yếu”.
Đối với “những người mạnh”, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng cuộc sống Ki-tô hữu là một cuộc chiến đấu không ngừng; ngay cả những người mạnh nhất khó tránh khỏi những yếu nhược. Lịch sử cứu độ minh chứng điều này.
2. Ôn cố
Xưa kia dân Do thái trong hoang địa đã được hưởng những trợ giúp linh thiêng tuyệt vời khôn sánh, tiên trưng các bí tích của Ki-tô giáo; ấy vậy họ đã không đương đầu nổi trước những thử thách thờ ngẫu tượng và ham muốn của cải trần thế. Họ đã phải vùi thây trong hoang địa mà không được vào Đất Hứa (x. Ds 14: 22). Những sự việc ấy xảy ra để làm bài học răn dạy chúng ta.
Thánh Phao-lô sánh ví cuộc vượt qua Biển Đỏ, dưới cột mây che chở, với phép rửa Ki-tô giáo. Ông Mô-sê tiên trưng Đức Ki-tô. Toàn dân Do thái “cùng được chịu phép rửa dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Mô-sê”, như dân Ki-tô giáo cùng được chịu phép rửa trong nước và Thánh Thần, để theo Đức Ki-tô.
Tiếp đó, thánh nhân đồng hóa bánh man-na, dù thánh nhân không nêu đích danh, với thần lương, tiên trưng bàn tiệc Thánh Thể, dù được gợi lên nhưng cũng không được nêu tên. Vả lại, bánh man-na đã được truyền thống Do thái lý tưởng hóa rồi. Sách Xuất Hành nói rằng Đức Chúa cho bánh từ trời mưa xuống (Xh 16: 4). Thánh Vịnh 78 gợi lên bánh man-na là “bánh kẻ mạnh” (Tv 78: 25) mà Bản Vulgata đã có chủ ý dịch “bánh thiên thần”, v.v…
Một đặc quyền khác mà dân Do thái đã được hưởng: “Tất cả cùng uống một thức uống thần thiêng, vì họ cùng uống nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ. Tảng đá ấy chính là Đức Ki-tô”. Thánh Phao-lô ám chỉ đến một giai thoại nổi tiếng theo đó tảng đá, từ tảng đá đó ông Mô-sê đã làm cho nước hằng sống (“nước hằng sống” là diễn ngữ Kinh Thánh để chỉ nước mát trong chảy ra tận nguồn) phun trào, đã đồng hành với dân Do thái trong suốt cuộc hành trình băng qua hoang địa.
Nước hằng sống phun trào từ tảng đá này không gì khác hơn là dấu chỉ về Đức Ki-tô tiền hữu, hiện diện ở giữa dân Ngài. Việc đối chiếu bạo dạn này chắc chắn được gợi hứng từ hình tượng truyền thống, đặc biệt được các Thánh Vịnh chuyển tải, theo đó Đức Chúa thường được công bố là “tảng đá của Ít-ra-en”.
3. Tri tân
Thánh Phao-lô rút ra từ những hình ảnh tiên trưng này một lời cảnh báo nghiêm khắc lên án tính tự hào tự phụ. Các Ki-tô hữu có những nguồn trợ lực còn cao cả hơn những nguồn trợ lực mà dân Do thái đã được hưởng. “Những sự việc này xảy ra cho họ để làm bài học, và đã được chép lại để răn dạy chúng ta, là những người đang sống trong thời sau hết này”, những người đang tiến gần đến Đất Hứa đích thật. Nếu muốn được vào trong Đất Hứa, thì hãy cảnh giác, những ai cứ tưởng mình đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã.
TIN MỪNG (Lc 13: 1-9)
Đoạn Tin Mừng hôm nay được trích từ một phân đoạn dài được gọi là “cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem của Chúa Giê-su” (9: 51-18: 14). Phân đoạn này được đặt trong bối cảnh Chúa Giê-su đang trên đường tiến đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài; lời dạy của Ngài càng trở nên nghiêm trọng và khẩn thiết hơn. Giờ đã đến để biết đọc “các dấu chỉ thời đại” (12: 54-56), hãy mau ăn năn sám hối kẻo không còn kịp nữa (12: 57-58). Những sự kiện mang tính thời sự tự chúng có thể dâng hiến một cơ hội thuận lợi để mà trầm tư nghĩ ngợi.
1. Chúa Giê-su bác bỏ mối liên hệ trực tiếp giữa tai họa và tội lỗi
Vài người đến thuật lại cho Chúa Giê-su một sự cố bi thảm: những người Ga-li-lê đến dâng hy lễ ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem đã bị thảm sát theo lệnh tổng trấn Phi-la-tô.
Sự kiện này không được thuật lại ở nơi khác, nhưng phù hợp với những gì mà sử gia Do thái, F. Josephus, nói về nhiều vụ trả thù đẩm máu theo lệnh quan tổng trấn Rô-ma này (Antiquités juives, 18, 3, 2 và 4: 1). Như chúng ta biết, người Ga-li-lê rất dễ hưởng ứng những cuộc bạo động chính trị, bởi vì họ là dân dễ bị kích động. Nhưng chúng ta cũng có thể nghĩ ngay đến nhóm Nhiệt Thành, một đảng phái tôn giáo có xu hướng chính trị, họ giải thích trào lưu Mê-si-a theo ý nghĩa chính trị và sẵn sàng giành lại nền độc lập cho dân tộc mình, ngay cả bằng bạo động. Nhóm này tự ý chiêu mộ thành viên của mình ở Ga-li-lê nên thường được gọi là “những người Ga-li-lê”. Sự hiện diện của họ ở Giê-ru-sa-lem khích động thái độ bài chính quyền chiếm đóng. Những người thuật lại cho Chúa Giê-su sự cố này, chắc chắn muốn được nghe từ miệng Ngài sự công phẩn chống lại chính quyền chiếm đóng. Nhưng Chúa Giê-su tức khắc đặt mình trên lãnh vực khác.
Theo quan niệm phổ biến vào thời đó, tai họa hay bệnh tật là những án phạt của tội lỗi (x. Ga 9: 2). Vì thế, những ai thoát khỏi cuộc thảm sát này xác tín rằng mình vô tội, là “công chính”. Chúa Giê-su cực lực tố cáo thái độ này. Chắc chắn những người bị thảm sát không phải là không có tội, nhưng đừng nghĩ rằng họ tội lỗi hơn những người Ga-li-lê khác. Đối với những người đối thoại này, Ngài tuyên bố rằng họ có tội như những người Ga-li-lê xấu số kia; đoạn trong một kết luận xem ra có vẻ mâu thuẫn, Ngài nói: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông sẽ chết hết như vậy”.
Để khuyến khích ăn năn sám hối, Chúa Giê-su đưa ra thêm một ví dụ khác nữa, lần này liên quan đến những người Giu-đê. Mười tám người Giu-đê bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết. Biến cố này chắc hẳn vừa mới xảy ra đây. Chúa Giê-su quả quyết không phải những người Giu-đê xấu số này tội lỗi hơn những người Giu-đê tội lỗi khác, vì thế Ngài lập lại lời kêu gọi: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông sẽ chết y hệt như vậy”.
2. Chúa Giê-su mời gọi ăn năn sám hối
Làm thế nào giải thích rằng Chúa Giê-su vừa mới từ chối ý tưởng theo đó có những mối liên hệ trực tiếp giữa tai họa và tội lỗi, lại ngay tức khắc đe dọa thính giả của Ngài về tội lỗi? Viễn cảnh chung của các chương 12 và 13 này là viễn cảnh của ngày chung thẩm: phải sám hối nếu muốn thoát khỏi án phạt. Thế nên, người ta nghĩ rằng cái chết thảm hại mà Chúa Giê-su cảnh giác những người đối thoại của Ngài, thì thuộc trật tự tinh thần: mất sự sống trong Nước Trời.
Tuy nhiên, trong suốt cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-su nhiều lần nghĩ đến dân của Ngài, đa số trong họ đã không thể nhận ra Ngài; Ngài than trách thành thánh Giê-ru-sa-lem vì “đã giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến với họ” (Lc 13: 34). Trong lời kêu gọi khẩn thiết hãy sám hối trước khi đã quá muộn, không phải chúng ta cũng được mời gọi gẫm suy lời cảnh báo của Chúa Giê-su về sự sụp đổ thành thánh Giê-ru-sa-lem vào năm 70 sao? “Nếu các ngươi không chịu hối cải, tất cả các ngươi sẽ bị chết y như vậy”.
3. Lòng nhẫn nại của Thiên Chúa
Thánh Lu-ca là thánh ký về lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Ngay sau những lời nghiêm khắc của Chúa Giê-su, thánh ký đặt dụ ngôn cây vả không sinh trái, dụ ngôn này khác với dụ ngôn cây vả bị nguyền rủa khô héo mà thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu tường thuật, theo đó, dân Ít-ra-en đã không sinh hoa kết trái như lòng Chúa mong ước; vì thế dân này chẳng còn gì hơn là cây vả chết khô (MC 11: 12-14, 20-25; Mt 21: 18-22). Trái lại, dụ ngôn cây vả không sinh trái của thánh Lu-ca gợi lên lòng nhẫn nại của Thiên Chúa. Chắc chắn dân Ít-ra-en vẫn còn ẩn hiện ở nơi dụ ngôn này. Cựu Ước đã thường sánh ví dân Chúa với một cây ăn trái mà Chúa chọn và ân cần chăm sóc.
Nông dân miền Pa-lét-tin thường trồng dặm những cây ăn trái trong vườn nho của mình, nhất là những cây vả, vì đất trồng nho rất thích hợp với loại cây này. Trong dụ ngôn của thánh Lu-ca, ông chủ vườn nói với người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?”. Người làm vườn xin một thời hạn cuối cùng để mình có thể ra công vun xới và bón phân cho nó. May ra sang năm nó sẽ sinh hoa kết trái, nếu không thì chặt nó đi cũng không muộn.
Ai cũng thấy ở nơi việc kể ra “ba năm không sinh trái” này một ám chỉ đến ba năm thi hành sứ vụ của Đức Giê-su mà lòng dân Ít-ra-en vẫn trơ như đá. Nhưng tất cả những người tội lỗi không liên quan đến dụ ngôn này sao? Bên kia dân Ít-ra-en cứng tin, chắc chắn thánh ký nghĩ đến dân mới của Chúa Ki-tô, dân mà Chúa Con là Đấng Trung Gian, Ngài không ngớt cầu bầu cho dân mình bên cạnh Chúa Cha, Ngài phân phát muôn vàn ân sủng, Ngài làm hết sức mình để dẫn đưa tội nhân đến ơn cứu độ.
Cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và ông Môisen qua bụi gai cháy bừng là một sự kiện quan trọng đánh dấu một bước ngoặt trong tiến trình mạc khải. Quả vậy, đây là lần đầu tiên trong lịch sử, Thiên Chúa tự giới thiệu danh của Ngài cho con người. Tuy vậy, nếu được Thiên Chúa cho biết Ngài là “Đấng Tự hữu”, thì ông Môisen cũng chẳng hiểu danh xưng đó có ý nghĩa gì. Ông chỉ dễ dàng nhận ra Chúa khi Ngài liên hệ đến các tổ phụ, tức là Abraham, Isaac, và Giacóp. Mối tương quan này cho thấy Thiên Chúa là Đấng luôn đồng hành với lịch sử Do Thái, là dân riêng Ngài đã chọn. Danh Thiên Chúa được kêu cầu cho các thế hệ tương lai, chính là danh xưng gắn liền với các Tổ phụ của dân tộc thánh. Nói cách khác, những gì Thiên Chúa đã làm cho Abraham, Isaac và Giacóp, đã tạo nên tên gọi của Ngài. Khi nhắc đến các tổ phụ, Thiên Chúa nhấn mạnh đến mối tương quan của Ngài đối với dân riêng, đồng thời khuyên họ đừng quên những kỳ công Ngài đã làm vì yêu thương các bậc tiền nhân của họ.
Khi tự mạc khải mình cho ông Môisen, Thiên Chúa tỏ cho ông thấy Ngài là Đấng thương xót và quan tâm đến con người. Ngài đã nghe thấy tiếng kêu than khổ cực của người Do Thái bị áp bức tại Ai Cập, và Ngài sẽ dùng ông Môisen để giải phóng họ, đưa họ tới bến bờ của tự do. Đây cũng là một nét mới mẻ của Mạc khải: Thiên Chúa là Chúa của tình thương, như mẹ hiền lắng nghe nỗi lòng của con cái, để che chở độ trì.
Thiên Chúa là Đấng giải phóng con người. Điều này được chứng minh trong suốt bề dày của lịch sử cứu độ, nhất là nơi Đức Giêsu Kitô. Người là vị thủ lãnh, giải phóng loài người khỏi tội lỗi, ban cho họ được tự do và được hưởng ơn cứu độ.
Trong giáo huấn của mình, Chúa Giêsu giải thoát con người khỏi những thành kiến, nhằm quy tội và lên án người khác. Tin Mừng hôm nay cho thấy quan niệm hẹp hòi của những người đương thời đối với những sự kiện xảy đến trong cuộc sống. Đối với Chúa Giêsu, những gì xảy ra xung quanh chúng ta đều là những điểm báo, gửi gắm thông điệp mời gọi chúng ta ăn năn sám hối và sửa mình để sống tốt hơn. “Ta bảo các ngươi: Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị hủy diệt như vậy”. Lời mời gọi hối cải mang tính cấp bách, và là một điều kiện cần thiết để tránh mọi tai họa. Hình ảnh cây vả đã ba năm không sinh trái, vừa diễn tả sự kiên nhẫn của Thiên Chúa vừa nói lên sự lười biếng của con người. Thiên Chúa kỳ vọng nơi chúng ta hãy sinh nhiều hoa trái là những nhân đức và những việc làm tốt đẹp, nhưng trong thực tế, chúng ta không làm những gì Thiên Chúa chờ đợi nơi ta. Mỗi chúng ta cần nhìn lại thực trạng cuộc sống bản thân, để xem mình có sinh hoa trái trong đời hay không.
Mùa Chay vừa giúp chúng ta khiêm tốn nhận ra lỗi lầm của mình, vừa nhắc bảo chúng ta hãy có cái nhìn bao dung đối với tha nhân, vì mỗi chúng ta đều là những tội nhân đang cần ơn tha thứ của Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương và bao dung tha thứ những tội lỗi của chúng ta. Ngài cũng mong muốn chúng ta hãy có lòng thương xót đối với đồng loại. Lòng bao dung đối với anh chị em là một trong những điều kiện cần có để chúng ta được đón nhận sự tha thứ của Chúa. Những ai sống khép kín và dửng dưng trước nỗi đau của đồng loại, không thể đón nhận ơn tha thứ của Chúa và như thế, họ sống trái ngược với giáo huấn của Ngài. Để sống tinh thần Mùa Chay cách thiết thực, chúng ta cần quan tâm đến những người bị bỏ rơi trong làng xóm và trong cộng đoàn, nhất là những người còn sống trong “ngăn trở” hoặc vì lý do nào đó mà chưa hiệp thông hoàn toàn với Giáo Hội. Những người này, nhiều khi là nạn nhân của những kỳ thị, bị xa lánh và khinh bỉ ngay giữa những cộng đoàn Đức tin, trở nên lạc lõng lẻ loi đối với những sinh hoạt đạo đức.
Thiên Chúa bao dung và yêu thương mọi người, nhưng con người lại khắt khe và hẹp hòi trong cách đối xử với nhau. Vì thế mà cuộc sống này vẫn còn tồn tại những thập giá và đau khổ. Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy luôn thận trọng, lấy bài học của dân Do Thái trong hành trình sa mạc làm gương, để khỏi gục ngã trước cám dỗ của kiêu ngạo và dục vọng. Kể cả những ai nghĩ là mình đang đứng vững cũng phải coi chừng, vì rất có thể họ bị vấp ngã một cách bất chợt (Bài đọc II).
Xin Chúa giúp chúng ta cảm nhận được lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa, nhờ đó chúng ta có tâm hồn sám hối, và có cái nhìn bao dung nhân hậu đối với những người xung quanh.
“Chỉ có một điều đáng sợ trên trần gian này, đó là không yêu mến Chúa Giêsu cho đủ” (Chân phước Charles de Foucauld).
Phải có cái nhìn thấu suốt của Đức Giêsu mới thấy sức nặng của câu nói: “Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng phải chết hết như vậy”
1/ Tai họa: Khi mấy người kể lại cho Đức Giêsu về 2 tai họa chết người ở Giêrusalem, thì Đức Giêsu đã nhấn mạnh câu nói trên hai lần:
Tai họa thứ nhất: Quan Philatô ra lệnh treo hình Hoàng đế La mã từ dinh Hêrôđê đến đền thánh Giêrusalem. Quan muốn thay thế thờ Thiên Chúa bằng thờ Hoàng đế. Người Do Thái thấy đó là một xúc phạm ghê gớm, nó làm ô uế đền thờ thánh thiêng bằng hình tượng ngoại giáo. Họ đã nổi xung biểu tình cuồng nhiệt, bạo động chống lại đế quốc. Philatô cho lính mặc giả dạng Do Thái, giấu võ khí trong áo choàng, len lỏi trà trộn vào đám biểu tình để đánh đập tàn sát dã man. Một số người Galilê đã bị chết khiến máu họ đổ ra hòa lẫn với máu tế vật họ đang dâng.
Thảm họa thứ hai: Tháp Silôê, một lô cốt xây cao như cây tháp để canh ngoại biên dân cư Silôê, nơi đó có một hồ nước từ suối Silôê chảy tới. Đột nhiên cây tháp bị đổ đè chết 18 người.
2/ Nguyên nhân: Trước những tai họa như thế, người ta thường đổ lỗi cho những nguyên nhân vu vơ, người Việt Nam thường nói là tại số, tại trời định, người Công giáo cũng gán cho Chúa định, người Do Thái lại kết tội những kẻ bị tai họa đó là do tội họ, họ có tội nên bị phạt.
Kết án như thế là đổ dầu vào lửa, kẻ bị tai nạn đã bị đau khổ, lại bị đau khổ thêm. Kẻ đổ lỗi tại số, tại trời, tại Chúa, đó là những kẻ kém lòng tin vào lòng thương yêu của Thiên Chúa.
a) Nguyên nhân sâu xa làm cho những người chết trong tai họa là sự xung đột giữa ý thức hệ tôn giáo và ý thức hệ chính trị. Quân Rôma tôn thờ Hoàng đế của họ như một vị thần trên hết và bắt các dân trong Đế quốc phải tôn thờ Hoàng đế để thống trị chư dân. Do Thái quá cuồng tín, họ độc quyền chiếm hữu Thiên Chúa, dân ngoại không được phép đến gần Thiên Chúa, ai vào đền thờ là làm ô uế đền thờ, sẽ bị dân Do Thái đánh chết, như trường hợp Thánh Phaolô dẫn mấy người Ephesô vào đền thờ để tẩy uế. Thế mà “tất cả thành sôi động, dân chúng đổ xô chạy đến, họ túm lấy Phaolô, lôi ông ra khỏi đền thờ, đóng của lại và tìm cách giết ông thì quân lính nghe tin loạn lớn khắp cả Giêrusalem, lập tức họ kéo đến xông vào đám dân. Dân chúng thấy viên đại úy đến thì thôi đánh đập Phaolô, bấy giờ lính bắt Phaolô…” (Cv. 21, 30-36)
Như vậy, chính sự cuồng tín tôn giáo và chính trị của xã hội loài người đã xúi giục những người Galilê nổi loạn và bị thảm sát, đó là tội chung của người thời đại đó.
b) Nguyên nhân gây ra tai nạn tháp Silôê đổ xuống đè chết 18 người cũng do các tệ đoan con người, từ những người sản xuất vật liệu kém chất lượng đến những con buôn giả dối, từ người xây cất đến những kẻ đốc công vô lương tâm. Đạo lý suy đồi đó là lý do khiến cho bao nhiêu công trình sụp đổ, chết người, chứ không phải là tại tội các nạn nhân.
3/ Sám hối và được cứu thoát: Đức Giêsu không vạch lá tìm sâu, không tìm những nguyên nhân tôn giáo, chính trị, kỹ thuật, càng không được kết tội ai. Nhưng trước những tai họa đó, Đức Giêsu nhấn mạnh cho chúng ta phải lo nhất là đến cái chết đời đời.
Điều quan trọng phải lo là xét tội mình, phải đấm ngực mình để sám hối, để cải thiện chính mình. Ai cũng lo sám hối và cải thiện nên người tốt thì việc mới tốt, xã hội tốt, tôn giáo tốt, chính trị tốt và mọi thứ văn hóa, kỹ thuật khoa học đều tốt, sẽ không còn nổi loạn bắt bớ, tranh đấu, chiến tranh chém giết nữa. Không lạ gì Phật giáo lấy diệt dục con người là nền tảng tự giác, Nho giáo lấy tu thân vi bổn để tề gia, trị quốc bình thiên hạ.
Bài đọc I cho thấy Thiên Chúa kiên nhẫn làm cho Maisen sám hối, bỏ tính nhát sợ chạy trốn vâng lời Thiên Chúa nhận lấy trách nhiệm đi thương lượng với vua Pharaon, còn Pharaon trước bao nhiêu tai họa vẫn cứng lòng. Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi Pharaon sám hối, rút cuộc ông đã sám hối, mềm lòng ưng thuận cho dân Israel ra khỏi Ai Cập.
Thiên Chúa còn kiên nhẫn hơn nữa đối với dân Israel, mỗi khi họ gặp sức ép của Pharaon, họ đã kêu rên, than trách Maisen và cả Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa đã cho Pharaon càng tăng sức ép thì dân càng mong sớm được giải phóng trở về quê hương. Khi dân biết nghe lời Maisen ra khỏi Ai Cập thì Thiên Chúa càng thương yêu cứu chữa họ và ban cho bao nhiêu đặc biệt như: đi dưới ánh sáng soi đường ban đêm, đám mây che mát ban ngày, vượt qua biển đỏ bình an, ăn thức ăn linh thiêng, uống nước linh thiêng chảy từ tảng đá. Thế mà phần đông họ đã không biết ơn Thiên Chúa, lại còn chống đối, phản loạn, không cần Thiên Chúa. Thiên Chúa đã bỏ mặc họ và họ đã chết, xác họ ngổn ngang trong sa mạc. Thánh Phaolô đã lấy bài học đó để răn dạy giáo đoàn Corintô và chúng ta. Chúng ta phải lo sám hối đừng tưởng mình vô tội, đừng tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo sa ngã (Bài đọc II). Sa ngã và chết đời đời là vấn đề nguy khốn nhất. Lời Đức Giêsu kêu gọi chúng ta hôm nay: “Nếu các ông không chịu sám hối thì các ông cũng phải chết hết y như vậy”, không phải chỉ chết đời này mà còn chết đời đời.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã bị Philatô kết án tử hình, không phải vì tội Chúa mà chính vì thương yêu con, đền tội con và cứu con. Xin cho con biết thành tâm nghe tiếng Chúa kêu gọi con: Hãy ăn năn sám hối để trở về với Chúa và được sống vinh phúc đời đời.
Cha ông chúng ta vẫn khuyên dạy con cháu: “gieo gió gặt bão”, “đời cha ăn mặn, đời con khát nước”… Và trong Thánh Kinh, các câu chuyện như lụt Hồng Thuỷ, thành Sôđôma bị tàn phá,v.v… cũng thường được giải thích theo quan niệm báo ứng ấy.
Không lạ gì người Do Thái thời Chúa Giêsu, cũng như chúng ta ngày nay, thích áp dụng nguyên tắc nhân quả “ác giả ác báo” nhưng là áp dụng cho người khác! Trước hai tai hoạ xảy ra gây chết nhiều người, họ kết luận ngay rằng những nạn nhân “tội lỗi hơn mọi người khác” nên mới bị thảm hoạ như vậy.
Đành rằng, nếu gieo gió thì có thể sẽ gặt bão, song Chúa Giêsu khuyên mỗi người không nên hồ đồ xét đoán người khác, nhưng hãy xem các biến cố đó là cơ hội giúp ta xét lại chính mình mà trở về với nẻo chính đường ngay. Vì chỉ Thiên Chúa mới có quyền phán xét chung cuộc trên mọi người.
Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định một cách quyết liệt về sự cần thiết phải sám hối, phải cải thiện đời sống, bằng không, “tất cả chúng ta sẽ bị huỷ diệt”. Chúa Giêsu lặp đi lặp lại câu đáng sợ: “tất cả sẽ bị huỷ diệt” (Lc 13, 3.5).
Lý do mà Chúa Giêsu nhấn mạnh về sự sám hối, ăn năn chừa tội, canh tân đời sống, vì đó là bước đầu tiên, bước không thể thiếu, để chúng ta có thể đến gần Thiên Chúa, Đấng Thánh Khiết Tuyệt Đối. Chúa muốn đưa toàn nhân loại vào vương quốc Thánh Thiện, yêu thương của Ngài, để chúng ta trở thành “Dân Thánh, dân đặctuyển” của Ngài, nên Chúa muốn chúng ta cải thiện đời sống, xa bỏ đường lối gian tà, tội lỗi.
Chính vì thế, mở đầu bài Tin Mừng hôm nay, khi “có người thuật lại cho Chúa Giêsu về một tin giật gân: Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu của các vật sát tế” thì Chúa Giêsu đã nhân cơ hội này, dạy cho toàn dân việc tối quan trọng là tất cả phải sám hối nếu không thì tất cả sẽ bị huỷ diệt. Theo lịch sử nước Do Thái, thì 20 năm trước khi biến cố trên xảy ra, thì có người thuộc phe vua Hêrôđê đứng lên xúi giục dân Galilê làm loạn, không nộp thuế cho đế quốc Rôma nữa, và có nhiều người hùa theo. (Cv 3, 7).
Chính vì vậy, Hêrôđê và Philatô hiềm khích với nhau. Tuy nhiên, dù theo phe Vua Hêrôđê, thì những người đó vẫn phải đến Giêrusalem để thờ phượng Giavê Thiên Chúa như luật dạy, hơn nữa, họ nghĩ rằng, nơi Thành Thánh uy nghiêm như thế, nơi pháo đài an toàn thì Philatô chẳng dám xông vào hành hung. Thế nhưng, lần này, Philatô ra lệnh tàn sát mấy người thuộc phe Hêrôđê ngay tại nơi hiến tế chiên bò, làm cho máu những người đó hoà lẫn máu của các vật sát tế.
Những người này nghĩ rằng: Chúa Giêsu là Vị Thầy, Một Ngôn Sứ cao cả, Ngài sẽ về phe dân tộc và đạo giáo để bênh vực, và Ngài sẽ có cách trả thù cho những người dân vì yêu nước mà phải chịu tàn sát như thế.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu không thuộc phe phái nào, Ngài đứng trên mọi phe phái chính trị, mục đích của Ngài gíang thế là cốt để cứu vớt sinh linh thoát vòng tội lỗi mà thôi! Chính vì thế, khi nghe tin ấy, Chúa bảo họ rằng: “Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilêa bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở Galilêa ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế! Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy” (Lc 13,3).
Cũng vậy, 18 người ở Giêrusalem bị tháp Silôê đổ xuống đè chết, Chúa bảo dân chúng rằng: “Các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người ở Giêrusalem ư? Không phải thế! Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy” (Lc 13,5). 18 người này là những người đang chờ ở bờ hồ Silôê, mong được chữa lành bệnh, thình lình bị tháp sụp đổ đè chết!
Cả 2 biến cố đau thương tuy lấy đi mạng sống của con người, nhưng đó chỉ là sự mất mát, khổ đau cho thân xác, không thể so sánh với sự trầm luân đời đời của linh hồn nếu không sám hối, không cải thiện đời sống!
Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta: Đừng bao giờ xét đoán tội lỗi của một người qua các thảm cảnh hay tai nạn họ phải chịu. “Đừng xét đoán kẻo sẽ bị xét đoán” (Mt 7, 1) Chúa muốn nhắn nhủ mỗi người chúng ta rằng: Mỗi khi thấy các tai họa xẩy ra cho những người chung quanh, chúng ta hãy tự xét mình, để tránh những thảmhọa ghê gớm hơn, nếu không sámhối, canh tân đời sống để trở về với Thiên Chúa! Đó mới là tai hoạ thảm khốc nhất, là sự huỷ diệt kinh khủng cho linh hồn mãi mãi! Thành tâm sám hối, cải thiện đời sống là phương cách duy nhất có thể tránh thoát cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, tránh thoát phép công thẳng của Ngài.
Do đó, không bao giờ có ngoại lệ, chỉ trừ Đức Maria, hoàn toàn tinh vẹn, thì tất cả nhân loại, tất cả chúng ta, ai cũng cần phải cải thiện đời sống, nếu không, sẽ chắc chắn bị huỷ diệt, huỷ diệt đời đời! Đây là lời cảnh cáo nghiêm trọng của Thiên Chúa: Không sám hối sẽ bị huỷ diệt! Những người bị tai hoạ kia chỉ bị tàn sát, bị chết về thân xác, nhưng ai không sám hối, sẽ bị đày đọa mãi mãi về linh hồn và cả thân xác bên kia thế giới!
“Sám hối” là từ thường gặp trong Thánh Kinh, nó được kêu gọi bởi Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu, các tông đồ và hôm nay luôn được lặp lại nơi sứ điệp của Giáo Hội. Bởi sám hối là động thái tiên quyết để đón nhận ơn cứu độ. Còn sống là còn cơ hội để sám hối! Nếu không tận dụng tốt cơ hội Chúa ban thì Ngài sẽ cất đi như cây vả không chịu sinh trái (x. Lc 13,6-9).
Sự sám hối trở về không chỉ là hành vi đấm ngực ăn năn mà còn phải chuyển hoá như ý nghĩa cua Métanoia, trong lời mời gọi của Chúa: “Hãy sinh hoa kết trái xứng với lòng ăn năn thống hối”. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn cây vả truyền cho chúng ta biến đổi sinh hoa kết trái.
Thiên Chúa luôn nuôi hy vọng và chờ đợi ở nơi chúng ta trong kiếp người dù ở thân phận nào, kể cả tội nhân khi sám hối và đơm bông kết trái: Hoa trái của sự thánh thiện. Hoa trái của việc lành phúc đức. Hoa trái của đời sống công bằng bác ái. Hoa trái của đời sống yêu thương và phục vụ mọi người.
Trong xã hội có người tốt lẫn kẻ xấu, người lương thiện cũng như kẻ bất lương. Người tốt kẻ xấu đều có chung một khuôn mặt người và chỉ khác nhau ở bản chất, ở tấm lòng và cái tâm. Qua cuộc đối thoại và dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay, Chúa cho chúng ta nhận ra lòng kiên nhẫn đầy xót thương của Thiên Chúa đối với con người và lòng hạn hẹp ích kỷ chỉ lo kết án của con người đối với nhau.
Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta theo hình ảnh của Ngài và giống Ngài. Chúa ở bên chúng ta và giúp chúng ta sống tốt lành. Nhưng nhiều khi chúng ta đã bị lôi kéo theo chiều hướng xấu. Thế nên, trong cuộc sống khi nhìn vào những biến cố hay tai nạn…, ta tiêu cực chỉ nhìn và phán đoán những nạn nhân ấy “ở ác nên gặp điều dữ…” Bởi trong ta thiếu tình yêu và lòng xót thương. Sự kiêu ngạo ngự trị trong ta nên mắt ta nhìn người chỉ thấy tội lỗi. Thế nhưng, Thiên Chúa, Đấng thánh thiện lại nhìn mọi sự việc và con người với cái nhìn vượt qua dáng vẻ bề ngoài.
Bản tính “Nhẫn nại và xót thương” đã xâm chiếm toàn bộ ánh nhìn và hành động của Thiên Chúa. Người chỉ khoan dung, tha thứ và cảm thông với ngàn yếu đuối lỗi lầm của con người. Trong suốt dòng lịch sử cứu độ, Thiên Chúa nhân từ luôn nhẫn nại với dân của Ngài. Vì “Thiên Chúa là Đấng nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu ân nghĩa và thành tín.”(Xh 34,6) Thiên Chúa không muốn kẻ gian ác chết, nhưng một lòng muốn nó ăn năn sám hối để được cứu sống nên Ngài kiên nhẫn và nhân từ với tất cả tội nhân. Chính vì thế khi đến trần gian, Chúa Giêsu đã nói: “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi.” (Mt 9,13b)
Ghét tội chứ không ghét người có tội. Đó là điều Thiên Chúa muốn chúng ta sống. Chúa không muốn ta khinh ghét người tội lỗi nhưng là cảm thông và yêu thương. Bởi tất cả mọi người đều cần đến ơn tha thứ của Chúa, vì không ai là kẻ vô tội. Chúa đã luôn đi bước trước, kiên nhẫn chờ đợi và xót thương tha thứ cho ta mãi mãi. Vậy những gì Thiên Chúa đã ban cho chúng ta theo lòng nhân hậu của Người, ta cũng hãy trao lại cho những ai mắc lỗi với chúng ta. Ước gì mỗi người luôn biết rõ rằng chính mình là kẻ tội lỗi để biết sám hối và trở về với Chúa. Như vậy, khi ta đọc Kinh Lạy Cha “… Xin tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con” chúng ta sẽ không ngại ngùng và nghi ngờ, vì chúng ta đã đón nhận được lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa.
Mỗi người chúng ta hãy ý thức để tránh xét đoán và lên án tha nhân. Nhưng biết mình và biết khiêm nhường như lời Thánh Phaolô muốn nói với ta: “…Bởi vậy ai tưởng mình đang đứng vững, thì hãy coi chừng kẻo ngã.”(1Cr 10,10-12) Vậy, hãy nhận biết những yếu đuối của chúng ta và cầu xin Chúa giúp ta cố gắng sửa đổi lối sống. Như vậy, những sự bất lực của chúng ta cũng có thể dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa và gắn bó với Người hơn. Thật khó để ta có thể đứng vững trong tình trạng cố định, nhưng phúc cho ta là có Thiên Chúa luôn trợ giúp nên ta không sợ hãi bước đi trên hành trình mà Ngài muốn dẫn chúng ta tới cuộc sống tràn đầy hạnh phúc. Vậy hãy tin tưởng vào Ngài. Và nếu chúng ta có làm được điều gì tốt như hoa trái của đức ái, thì đó là chính Thiên Chúa ở trong ta, Người ban ơn, hướng dẫn giúp ta làm mọi sự với lòng thương xót của Người, như lời thánh Phaolô khẳng định “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?” (1Cr 4,7) Chúng ta chỉ là những dụng cụ nhỏ bé yếu hèn trong bàn tay Chúa và qua Chúa, nhờ Chúa mà ta sinh hoa kết trái.
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa về tấm lòng bao dung, nhẫn nại đầy xót thương mà Chúa dành cho chúng con. Không có Chúa, chúng con không thể sống và làm gì được. Xin cho chúng con luôn biết sám hối trở về với Chúa, đón nhận được lòng xót thương tha thứ và những ơn phúc từ Chúa để cuộc sống chúng con trổ sinh nhiều hoa trái. Amen.
Hôm nay bước vào vùng đất thánh, Gia-vê đã ra lệnh cho Mô-sê “cởi dép ra”. Cả một vùng núi chỉ có chỗ Mô-sê đứng là đất thánh hay sao? Mô-sê trốn thoát khỏi triều đình Pha-ra-ô bên đất Ai-cập, nơi ông đã ra tay giết chết một người Ai-cập và vùi xác xuống cát. Ông đang sống lưu vong, đang cậy dựa và nhờ vả vào sự che chở của nhạc phụ (x.Xh 2,11-3,6). Cuộc sống của ông đang tạm yên ổn. Ông có vợ, có gia đình, có tài sản và những gì cần thiết cho cuộc sống của một con người bình thường. Tất cả những thứ đó là Đôi Dép ông đang mang. Nó che chở, bảo bọc và giúp ông đi đến tương lai trong sự an toàn. Cởi dép ra! Đó là một mệnh lệnh. Đó là một điều kiện mà Gia-vê muốn nơi người mà Ngài sẽ chọn. Cởi dép là cởi bỏ tất cả những cái “an toàn tạm bợ” để tiếp xúc với một hoàn cảnh thực tế, trần trụi và đau thương, tê tái: “Ta thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập. Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta biết các nỗi khổ của chúng.”(Xh 3,7) Mô-sê sống hạnh phúc bên gia đình tại Mađian. Ông không nghe thấy tiếng kêu ai oán, thống thiết; không nhìn thấy những cảnh tượng tang thương của những thân phận đồng bào. Ông sinh ra trong sự bảo bọc và lớn lên trong hoàng cung. Ông đâu hiểu hết những đoạn trường mà dân tộc của ông đã và đang trải qua. Tại sao vậy? Vì Chân Ông Đi Dép.
Cởi dép là chấp nhận bước vào những khó khăn mới, những nẻo đường khác đầy cam go và thử thách, Cởi dép là chấp nhận đồng hóa với nỗi đau của dân tộc mình. Khi bỏ đôi dép, người ta sẽ có những cảm giác rất khác nhau trên cùng một con đường. Ta sẽ có cảm giác mát rười rượi khi bước trên những đoạn đường lót gạch bông. Ta sẽ cảm nhận được sự thô nhám của nền xi măng. Cảm giác mịn như nhung khi giẫm chân lên bờ cát mịn. Từng bước chân ta tạo ra âm thanh lạo xạo vui tai. Khi giẫm chân lên cỏ, ta có cảm giác êm êm. Nhưng ta sẽ có cảm giác nhói đau khi bước chân lên những con đường đầy đá sỏi lởm chởm. Khi bước chân không vào bãi rác, ta sẽ cẩn thận lần đi từng bước một và cảm nhận dờn dợn chạy khắp thân mình. Mỗi địa hình sẽ cho chúng ta những cảm nhận khác nhau với bước chân trần của mình. Cởi dép ra để mình sống thực với những cảm nhận của cuộc sống mà khi đi dép, chúng ta không có cơ hội nếm trải.
“Cởi dép ở chân ngươi ra, vì nơi ngươi đang đứng là đất thánh.” Đôi dép ấy là của nhạc phụ cho tôi. Bộ áo quần này do hiền thê tôi may sắm. Những thứ đó là đồ dùng cho việc chăn chiên dê. Những thứ đó không thể dùng vào sứ vụ mới. Tất cả những gì là của con người hãy trả lại cho con người. Ta gọi ngươi để ngươi bước vào một sứ mệnh và một ơn gọi mới “Ta sai ngươi đến với Pha-ra-ô để đưa dân Ta là con cái Israel ra khỏi Ai-cập.”(Xh 3, 10) Ta sẽ trao cho ngươi những phương tiện mới. Phương tiện ấy không chỉ là đôi dép, chiếc áo choàng hay cây gậy. Điều mà Gia-vê trao cho ông là tất cả những gì cần thiết trong sứ vụ “Phần Ta, Ta sẽ ở với ngươi.” (Xh 3,12)
Mô-sê đã cởi dép, bỏ lại tất cả để mặc lấy niềm tin, tâm tình phó thác và lòng trông cậy vào Gia-vê Thiên Chúa là “Đấng Hiện Hữu”, là “Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông” của ông. Ngài sẽ trở thành khiên che thuẫn đỡ cho ông trong suốt hành trình sứ mệnh. Còn tôi, hãy nhìn vào Đôi Dép tôi đang mang và hãy nhìn lại đời sống của mình để biết tôi đang sống nhờ vào sự che chở và bảo bọc của cái gì? và của ai?
Bài Tin Mừng này nằm trong bối cảnh ĐỨC GIÊSU LÊN GIÊ-RU-SA-LEM (Lc 9,51 – 19,27). Đây là cuộc hành trình Chúa Giêsu hướng về con đường khổ nạn và sự chết, để rồi Ngài sẽ phục sinh.
Cụ thể hơn, trước đó trong chương 12 Chúa Giêsu đã giảng lời những bài giúp ích cho mọi người, như lời động viên các môn đệ hãy nói công khai và đừng sợ (Lc 12,1-12); lời huấn giáo cho đám đông đừng thu tích của cải cho mình (Lc 12,13-21); tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng (Lc 12,22-32), bán của cải đi mà bố thí (Lc 12,33-34). Sau đó Chúa Giêsu cũng nói lên thái độ của Chúa trước cuộc thương khó (Lc 12,49-50).
Sau bài Tin Mừng nhắc nhớ về sự sám hối mà chúng ta tìm hiểu và suy niệm, Luca kể cho chúng ta nghe về việc Chúa chữa một phụ nữ còng lưng ngày Sa-bát và sau đó là một số dụ ngôn.
Ngoài ra, hai phần này bắt đầu chương 13 của Luca và các tác giả phúc âm khác không có ghi lại. Trước tiên Luca về hai biến cố bi thảm xảy ra trong thực tế mà nhiều người đương thời với Chúa Giêsu biết. Sau đó, Chúa Giêsu kêu gọi trực tiếp về việc hoán cải. Chúa Giêsu thêm vào dụ ngôn cây vả mà người chủ muốn chặt bỏ bởi vì nó không sinh trái; ở đây cũng là lời kêu gọi khẩn thiết thay đổi cuộc sống.
Cấu trúc đoạn Tin Mừng
Đoạn Tin Mừng có thể chia làm hai phần rõ rệt:
Lời mời gọi sám hối: Nếu không sám hối, thì sẽ chết hết (câu 1-5) Dụ ngôn cây vả không ra trái (câu 6-9).
Tìm hiểu và suy niệm
Cùng lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giêsu nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. 2. Đức Giêsu đáp lại rằng: “Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao?3 Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy
Trước tiên Luca về hai biến cố bi thảm xảy ra trong thực tế mà nhiều người đương thời với Chúa Giêsu biết. Biến cố đầu tiên là chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. Như thế, những người Ga-li-lê ở đây là khách hành hương về Giê-ru-sa-lem để dự lễ. Nhưng lễ đó là lễ nào? Các nhà chú giải giả thiết là có thể dịp dâng chiên Vượt Qua. Tuy nhiên, biến cố đó chính xác là biến cố nào, các nhà chú giải không biết, dù cho với người Do-thái thì Phi-la-tô trong thời gian làm tổng trấn xứ Giu-đê, ông là người tàn ác và không nhượng bộ, và ông được biết tới với những vụ đàn áp đẫm máu.
Theo cha Piere Cardon, mặc dù chúng ta không có những nguồn khác nói về sự kiện này, nhưng một biến cố thuộc loại này không phải là khó tin trong tình hình cai trị tàn ác của Phi-la-tô thời đó. Đàng khác, người Ga-li-lê có xu hướng nổi dậy và tấn công, nhất là trong trường hợp những người Zelote mà đảng của phát triển tại Ga-li-lê và mục đích là dùng bạo lực để thay đổi chính trị. Những cuộc hành hương mừng lễ vượt qua mang lại cho họ một dịp để gây lộn xộn trong thành Giê-ru-sa-lem. Phi-la-tô là một người tàn ác và khắt khe. Hành vi đàn áp này càng ghê tởm hơn, khi ông trộn máu của những người đang dâng lễ với máu của những con chiên mà họ đang dâng hiến…Sự kiện được kể lại chắc đã có một tiếng vang lớn. Mọi người tỏ ra tức tối khi thấy máu người đổ ra trong đền thờ, thấy sự xúc phạm đến các lễ vật, và nhận thấy rằng người La-mã thậm chí không ngại xúc phạm những gì được hiến dâng cho Thiên Chúa.
Ngoài ra, Piere Cardon còn đưa ra một giả thiết, là nếu người ta dựa vào “cái nhìn chính trị” và kể cho Chúa Giêsu nghe biến cố đó để cố ý gài bẫy Chúa, thì Chúa trả lời sao đây. Nếu Chúa nói: “Những vụ tàn sát này rõ ràng là bất công, đàn áp, thì họ có thể tố cáo Ngài với chính quyền La-mã”. Nhưng Chúa Giêsu không rơi vào bẫy, Ngài từ chối tham gia lãnh vực chính trị trần tục, Ngài không bao giờ chọn lựa bạo lực làm phương tiện để mang lại hoà bình. Và nếu quan sát kỹ, chúng ta thấy Chúa Giêsu không bao giờ tỏ quan điểm trong những cuộc xung đột đối kháng và chia rẽ này. Cho nên Ngài đến để quy tụ và hợp nhất các con cái của Thiên Chúa bị phân tán (x.Ga 11,52). Điều này cũng giải thích việc từ chối dấn thân chính trị rõ ràng về phía những người mà Chúa Giêsu phái đi loan báo Phúc Âm cho khắp thế giới. Như thế, thay vì đi vào vết chân “chính trị”, Chúa Giêsu kêu gọi họ ăn năn hối cải theo tinh thần tôn giáo.
Luca diễn tả Chúa đã mở lời nói với họ: “Đức Giêsu đáp lại rằng: “Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao? Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”. Trước hết chúng ta dừng ở câu đầu tiên của Chúa Giêsu Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao? Câu này lột tẩy một thói quen là người ta dễ dàng nhìn đến tội lỗi và lẫm lỡ của người khác, còn bản thân mình thì không ý thức để sám hối ăn năn. Điều thứ hai mà qua câu này chúng ta thấy được, đó là thói quen suy nghĩ của người Do-thái, là sẽ không có hình phạt nếu không có tội. Như thế, họ tin rằng các tai hoạ xảy đến là hậu quả tội lỗi mà họ đã phạm trước đó. Sách Gióp có viết rằng:
“Điều tôi thấy rành rành là những người vun trồng tội ác và gieo tai rắc hoạ cuối cùng chỉ gặt lấy hoạ tai” (4,8) ....
“Con cái anh mà đắc tội với Người, Người bắt chúng phải gánh những hậu quả do tội ác chính mình đã phạm” (8,4).
Chúa Giêsu không theo cái nhìn này của người Do-thái. Với Ngài điều quan trọng là tinh thần sám hối và ăn năn. Vì thế, Chúa đã dựa vào điều người Do-thái thường nghĩ, để dạy dỗ họ tinh thần sống của Tin Mừng. Đó là Chúa mời gọi họ quan tâm đến sự hoán cải riêng thay vì quan tâm tới những lầm lỗi của người khác. Chúng ta nghe Chúa nói với các phụ nữ trên đàng Thánh Giá: “Hỡi chị em thành Giê-ru-sa-lem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình và cho con cháu” (Lc 23,28).
Về tinh thần mời gọi sám hối, cụ thể hơn, Chúa Giêsu đã nhắc đến biến cố thứ hai mà người Do-thái biết tới.
Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao?5 Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.”
Tháp Si-lô-ác được nhắc đến ở đây là tháp nào? Theo cha Pierre Cardon, Ở phía nam Giê-ru-sa-lem, bức tường thành chạy tới tận giếng Si-lô-ác. Có thể ở đây có một cái tháp trên tường thành; người ta giả thiết rằng tháp này ngã khi Phi-la-tô cho làm công trình dẫn nước. Các thính giả của Chúa Giêsu nhớ lại tai hoạ làm 18 cư dân thành Giê-ru-sa-lem bị chết. Tai nạn này là một thảm kịch mà con người không trực tiếp gây ra – ít ra là do sự cẩu thả của những thợ xây tháp.
Sau khi Chúa Giêsu đã nhắc đến biến cố đó, lần thứ hai Ngài kêu gọi sám hối: nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.
Chữ hết trong câu 5 này cũng đã được nhắc đến trong câu 3 trước đó và ở trong cùng một ý nghĩa: “Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy”. Điều này không chỉ nói lên sự liên hệ chặt chẽ giữa hai câu và hai biến cố, mà còn qua đó còn nhấn mạnh đến sứ điệp chính yếu là “sám hối hoặc là chết”, “có sám hối có sự sống”. Hơn nữa, còn ám chỉ đến cái chết không chỉ đến với một cá nhân, mà tất cả những ai không sám hối thì sẽ lãnh nhận hậu quả đau thương đó.
Ngoài ra, Pierre Cardon một lần nữa nhấn mạnh rằng, đối với Chúa Giêsu không có mối liên hệ giữa tai hoạ và tội lỗi. Việc tìm kiếm thủ phạm thì quá dễ để không hối hận gì. Lầm lỗi thuộc về ai? Chính những người khác phải chịu trách nhiệm…! Đối với Chúa Giêsu đây không phải chuyện nói về “những người khác”. Ngài đưa người ta về với lương tâm của chính mình: “các ông tham dự vào bạo lực”. Chính tâm lòng con người, hơn là các cơ cấu, phải thay đổi. Nơi chốn duy nhất mà tôi có quyền lực thực sự, chính là hạnh kiểm của cuộc đời tôi, của sự hoán cải của tôi. Trốn tránh trách nhiệm của mình bằng cách tố cáo những người khác là điều vô ích. Các thảm hoạ đặc biệt không chỉ ra trách nhiệm của cá nhân, nhưng chúng có thể được xem như là những cảnh báo về sự phán xét của Chúa. Tất cả đều là người tội lỗi, tất cả đều phải đương đầu với cái chết, tất cả đều được đặt dưới sự phán xét của Chúa. Dó đó tất cả mọi người đều cần hoán cải nếu muốn khỏi bị phán xét và lên án.
Mỗi dịp mùa Chay, Ki-tô hữu lại có cơ hội để suy tư và sống tinh thần sám hối thực sự. Tro xức trên đầu ngày thứ Tư lễ tro với câu nói: “Hãy trở về và tin vào Tin Mừng” hoặc “Hãy nhớ mình là bụi tro” đều mang một sứ điệp rõ ràng và mạnh mẽ: “sám hối”, và khi sám hối thì dẹp qua mọi thói kiêu căng, thói đạo đức giả… Và chúng ta sám hối, một đàng chúng ta ý thức thân phận mỏng dòn và yếu đuối của bản thân, một đàng khác chúng ta tin vào Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót.
Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhớ chúng ta trong sứ điệp mùa Chay năm 2016, năm Thánh Lòng Thương Xót: “Lòng thương xót ‘diễn tả cách thức Thiên Chúa đến với tội nhân, trao cho họ một cơ hội mới để nhìn lại chính mình, để hoán cải và tin vào Thiên Chúa’ (Misericordiae Vultus, 21), và nhờ đó, có thể phục hồi lại mối tương quan với Người. Trong Chúa Giêsu chịu đóng đinh, Thiên Chúa đã bày tỏ khát khao của Ngài được đến gần với các tội nhân, dù họ có lạc xa Ngài đến thế nào đi nữa. Bằng cách này, Người hy vọng làm cho trái tim chai cứng của Tân Nương được mềm mại hơn” (số 2) và “chúng ta đừng lãng phí mùa Chay này, vì đây là thời gian thuận tiện cho việc hoán cải! Chúng ta cầu xin điều này nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria, Đấng đã gặp được lòng thương xót lớn lao đã tuôn đổ dồi dào trên Mẹ, là người đầu tiên thừa nhận sự thấp hèn của mình (Lc 1, 48) và gọi mình là nữ tỳ hèn mọn của Thiên Chúa (x. Lc 1, 38)” (phần kết).
Ngoài ra, một suy tư khá hay của cha Pierre Cardon, là khi quan sát Chúa Giêsu và cách hành xử của Ngài, chúng ta thấy đứng trước sự ác, Chúa Giêsu đưa ra những lời kêu gọi. Cụ thể, kế bên tinh thần sám hối là căn bản và nền tảng, có hai thái độ cần tránh đi. Trước tiên là thái độ chìm đắm trong những giải thích về nguyên nhân của sự ác và tìm những câu trả lời gán trách nhiệm cho “những người khác”, nói họ còn tội lỗi hơn nữa, tại hoạ họ phải chịu còn lớn lao hơn nữa. Thái độ thứ hai cũng cần phải tránh, đó là những người tiêu cực quá ý thức về những giới hạn của con người, nên họ thất vọng hoàn toàn và không phấn đấu cố gắng và tiếp tục tin tưởng và cậy trông vào Thiên Chúa toàn năng và từ nhân.
Kế bên đó, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy mắt nhìn vào hoàn cảnh của người tội lỗi, và đừng quên rằng mỗi người chúng ta cũng là người tội lỗi, và vào thời gian luôn luôn thuận lợi, để tiếp nhận tin vui tình yêu của Thiên Chúa.
Rồi Đức Giêsu kể dụ ngôn này: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy,7 nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?8 Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó.9 May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.”
Sau phần đối thoại trực tiếp với đám đông, Chúa Giêsu kể một dụ ngôn cho họ nghe. Ở đây, chúng ta hỏi dụ ngôn là gì? Frère Théophile Penndu giải thích như sau: “Dụ ngôn: Nguyên ngữ Hy Lạp là: Para Ballein: ném qua một bên, phóng chiếu, gợi chú ý để đi xa hơn… từ đó mà có từ Antenne Paraboles để trên mái nhà, bắt sóng và hình ảnh để chiếu to lên trên màn hình. Dụ ngôn là gì? Là một kiểu nói rất phổ biến trong thế giới Do-thái. Nó thường là một sự so sánh, một ẩn dụ, một hình ảnh được kể lại dưới hình thức một câu chuyện cụ thể và lôi cuốn mượn từ cuộc sống hằng ngày, với mục đích khiến cho người nghe suy nghĩ không phải về những ý tưởng trừu tượng mà về những thái độ sống”.
Ngoài ra, dụ ngôn có lợi gì? Frère Théophile Penndu giải thích tiếp: “Dụ ngôn là phương pháp sư phạm rất hiệu quả. Nó bắt người nghe phải có thái độ, có lập trường chứ không trung dung được…dụ ngôn khiến người nghe phải có lập trường, phải dấn thân vào một tình huống cụ thể. Nhưng câu chuyện kể khéo đến độ người nghe không biết là nói về mình. Một cách nào đó, các nhân vật trong dụ ngôn dấu mặt tới cuối mới lộ ra”.
Còn với Chúa Giêsu, Ngài dùng dụ ngôn nhứ thế nào? Theo Frère Théophile Penndu “Là nhà sư phạm lão luyện và tâm lý gia đại tài, Chúa Giêsu biết rằng thính giả của mình có những quan niệm rất sai về Thiên Chúa và về cách thế đi theo Người. Song Ngài không muốn chặn đầu họ ngay: ‘Ông lầm rồi, ông không hiểu gì cả…’ Ngài thích giúp họ dần dà khám phá ra sự thực về chính mình một cách bất ngờ khởi đi từ việc quan sát những sự kiện trong đời thường. Như vậy, Chúa Giêsu giúp họ nắm bắt được những thực tại thiêng liêng và đề cao những giá trị phổ quát về con người”.
Giờ đây, chúng ta đi vào dụ ngôn cây vả không trái mà Chúa Giêsu chỉ nói trong phúc âm của Luca (13,6-9).
Trong dụ ngôn này, chúng ta thấy có hai nhân vật. Người chủ vườn và người làm vườn. Hình ảnh được nói tới là một cây vả được trong vườn nhỏ của chủ vườn. Pierre Cardon giải thích rằng, trong những vườn nho ở Palestine, người ta tự ý trồng cam quýt hoặc cây ăn trái khác, nhất là cây vả. Các vườn nho được xem là những mảnh đất rất thuận tiện để trồng cây vả. thậm chí cây vả cũng phát triển tốt tại những thửa đất khá bạc màu; vườn nho là mảnh đất rất tốt. Việc chăm sóc cây vả cũng như các cây nho được ông chủ giao phó cho người làm vườn.
Giờ đây, đi vào diễn tiến của dụ ngôn, chúng ta đọc thấy: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, nên bảo người làm vườn: “Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?” Như thế người chủ ra cây vả tìm trái, nhưng ông ta không tìm thấy trái nào cả. Đó là tình trạng của cây vả. Tình trạng này đã đưa lại tâm trạng thất vọng của ông chủ vườn. Lý do ông thất vọng là gì? Ông đã nhẫn nại đợi cây vả này trong vòng 03 năm và mong ngóng nó ra trái, nhưng cuối cùng ông đã thất vọng.
Về con số 03 năm, Pierre Cardon giải thích rất có lý, người ta đồng ý để ra ba năm cho cây phát triển. Trong ba năm này, không được thu hoạch trái. Ở đây, chúng ta đọc trong sách Lêvi 19,23-25: “23 Khi các ngươi đã vào đất và trồng bất cứ cây ăn trái nào, thì các ngươi sẽ kể trái nó là chưa cắt bì; trong ba năm các ngươi phải coi trái nó là chưa cắt bì, không được ăn.24 Năm thứ tư, mọi trái nó sẽ được thánh hiến trong một buổi lễ mừng ĐỨC CHÚA.25 Năm thứ năm, các ngươi được ăn trái nó; như thế hoa trái nó sẽ tăng thêm cho các ngươi. Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của các ngươi”.
Như thế, ba năm cây vả lớn lên dù có trái thì người trồng vườn cũng không chú ý tới. Rồi tới năm thứ 4, tất cả các trái của cây vả được dâng lên cho Thiên Chúa. Nghĩa là từ năm thứ năm trở đi người chồng vườn mới chú ý đến hoa trái của cây vả. Theo sự giải thích này, thì cây vả đã trồng được 07 rồi, nghĩa là 04 năm đầu ông chủ không chú ý đến việc cây vả ra trái cộng với 03 năm liên tiếp ông chủ chú ý xem cây vả ra trái thế nào, thì đều không tìm thấy trái. 07 năm rồi mà không ra trái, thì tình hình có vẻ không hy vọng gì nữa. Nếu việc xác định biểu tượng trong dụ ngôn là đúng, thì có thể nói đã đủ thời gian để cây vả sinh hoa kết trái. Ông chủ đã đợi một cách kiên nhẫn; hơn cả thời gian bình thường để cây ra trái. Kết luận về điều này được nói lên trong phần kế tiếp, khi ông chủ vườn ra quyết định dứt khoát và nói với người làm vườn anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất? Quyết định này của ông chủ, một cách nào đó có lý, vì cái cây xấu này không chỉ không sinh trái, mà còn choán chỗ những cây khác và làm đất bạc màu là thứ thể được dùng cho các cây khác. Cây vả hấp thụ nhiều yếu tố dinh dưỡng trong đất, cũng bằng các cây nho chung quanh nó hấp thụ. Có những cây vả không sinh trái, chẳng hạn phát sinh từ những hạt bị thoái hoá. Cho chặt cây vả là một hành động khôn ngoan. Cho nên tốt hơn là trồng một cây khác có khả năng sinh trái. Trước quyết định của ông chủ, người làm vườn phản ứng ra sao?
“Nhưng người làm vườn đáp: Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. Kiểu nói, “người làm vườn đáp” mà Luca sử dụng ở đây làm cho đối thoại trong dụ ngôn sống động hơn, nghĩa là Luca sử dụng chất liệu được một người chứng kiến Chúa Giêsu giảng nói lại với Người.
Trong Tân Ước từ ngữ “phân” chỉ được tìm thấy ở đây. Theo Pierre Cardon, đây không phải từ ngữ thường dùng trong minh hoạ tôn giáo. Người làm vườn có thể đề nghị xới đất chung quanh cây hoặc tưới nước cho cây, hoặc chăm sóc, tỉa cành lại cho cây. Ngoài ra, cây vả là cây cần chăm sóc rất ít. Do đó đây là một cách thức khác thường người thợ làm vườn muốn thực hiện như một cố gắng cuối cùng.
Nhưng chúng ta có bao giờ nghe rằng bằng cách bón phân cho một cái cây không sinh trái chúng ta có thể làm cho nó sinh trái hay không? Nếu cái cây đã “vô sinh”, thì nó không bao giờ ra hoa kết trái. Dù sao người làm vườn cũng mất công thử làm điều không thể xảy ra! Đây thực sự là một việc đối xử ân huệ dành cho cái cây không sinh trái. Trái với mọi hy vọng, người làm vườn vẫn còn hy vọng.
Như thế, trong dụ ngôn cây vả đây, lòng thương xót và sự phán xét được diễn tả thật sống động. Các lời này được nhân cách hoá bởi ông chủ và người làm vườn là những người tranh luận về cái cây không sinh trái. Sự căng thẳng này nằm trong thẳm sâu con tim của Thiên Chúa. Ở đây, chúng ta có thể đọc lời của tiên tri Hô-sê:
“8 Hỡi Ép-ra-im, Ta từ chối ngươi sao nổi! Hỡi Ít-ra-en, Ta trao nộp ngươi sao đành! Làm sao Ta xử với ngươi như với Át-ma, để ngươi nên giống như Xơ-vô-gim được? Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi. 9 Ta sẽ không hành động theo cơn nóng giận, sẽ không tiêu diệt Ép-ra-im nữa, vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải người phàm. Ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh, và Ta sẽ không đến trong cơn thịnh nộ” (11,8-9).
Trở về với dụ ngôn, chúng ta thấy thái độ đặc biệt người thợ làm vườn cho thấy Chúa Giêsu đưa ra một thái độ vượt lên trên trật tự loài người, thái độ của Thiên Chúa là Đấng không gì mà Ngài không làm được (x.Lc 18,27). Và Chúa Giêsu là trung gian. Sứ vụ của Chúa Giêsu là dấu chỉ đầy hiểu quả của sự lo lắng không mỏi mệt và lòng thương xót của Chúa Cha. Thiên Chúa không đành trừng phạt mà không thử hết mọi cách nhằm làm trái tim dân Ngài cảm động. Ngài muốn cứu thoát tất cả. Ngài chậm bất bình và đầy tình thương. Đây là niềm hy vọng của chúng ta.
Như thế, chúng ta được Chúa ban cho sứ điệp cao quý về lòng thương xót của Thiên Chúa, và sứ điệp là chúng ta cần chú trọng đến sự cấp bách của hoán cải và ăn năn.
Câu cuối cùng của người làm vườn “may ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi”. Cách nói trong tiếng Hy-lạp “eis to mellon” được dịch là sang năm (cha Nguyễn Thế Thuấn dịch là sau này). Nhưng chính xác có nghĩa là “trong tương lai”. Cho nên tiếng nói của bản văn càng nêu bật lời kêu cầu lòng thương xót và ân huệ của Thiên Chúa. Người làm vườn cầu xin lòng thương xót cho cây vả. Các yếu tố này được củng cố nếu người ta không xác định thời gian rõ rệt cho việc chặt cây. Thời gian phán xét trong tương lai vẫn không được xác định. Ngoài ra, chúng ta cũng thấy từ ngữ “nếu không” cũng không được xác định. Theo Pierre Cardon, ý nghĩa rất rõ ràng; sau các “hành vi cứu độ” và sau thời gian đủ để đổi mới, cây vả phải đáp ứng. Nếu nó không có gì cả, sự chọn lựa duy nhất là phán xét.
Cuối cùng, dụ ngôn kết thúc với một sự bỏ ngỏ, cũng giống như một số dụ ngôn khác. Ông chủ có chấp nhận một kỳ hạn mới hay không? Cây vả sẽ sinh trái hay không? Chúng ta không biết.
Cuối cùng, yếu tố thời gian của giây phút hiện tại đóng vai trò quan trọng trong dụ ngôn này. Chúng ta ở vào giới hạn cuối cùng của khúc quanh quyết định xác định số phận của mỗi người; nếu chúng ta chậm trễ thay đổi cách sống và hoán cải, thì chúng ta sẽ chết mà không gì có thể cứu chữa được. Hạnh phúc thay những người mà ông chủ thấy sẵn sàng (x.Lc 12,37.38.40.43). Nhưng khốn thay những người khác vào thời hạn cuối cùng mà không sám hối. Thật vậy, có sám hối có sự sống không chỉ ở đời này và cả đời sau.
Câu hỏi gợi ý
Cây vả không trái có thể là mỗi người. Chúng ta hãy nhớ lại lời Đức Giêsu. Tất cả những gì anh em muốn người khác làm cho mình, thì anh em hãy làm cho họ (x.Mt 7,12). Đó là khuôn vàng thước ngọc của tình yêu. Bạn hãy nhìn lại cây vả đời bạn, xem cây vả đang ra trái nhiều không, hay là đang cằn cỗi và không có trái? Để cây vả đời bạn có trái, bạn nên có thái độ tích cực nào?
Chúng ta không nên lạm dụng sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. Và dù vậy, cho tới nay chúng ta đã bỏ lỡ dịp tốt. Thiên Chúa đã kiên nhẫn với con người, không mất hy vọng và mặc dù các dấu hiệu không sinh hoa kết trái của họ. Vì thế, chúng ta nên ý thức đừng phí phạm thời gian nữa: bây giờ chính là thời cứu độ. Có bao giờ bạn cảm thấy mình lạm dụng sự kiên nhẫn của Chúa không? Tại sao? Đừng phí phạm thời gian nữa. Ngày hôm qua không bao giờ trở lại.
“Có sám hối, có sự sống không chỉ ở đời này và cả đời sau”. Bạn có đồng ý với tư tưởng này không? Với bạn sám hối nghĩa là gì? Bạn đã và đang có hành động và cách sống sám hối như thế nào? Thánh Augustinô nói rằng, để dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Chúa cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Ngài. Sự cộng tác của chúng ta là yếu tố quan trọng để Chúa thương tha tội chúng ta và ban ơn cứu độ cho chúng ta. Sự cộng tác đó, là sự ăn năn sám hối thật tình của chúng ta.
Trong Thánh Kinh có nhiều câu chuyện sám hối, như người phụ nữ tội lỗi sám hối và khóc bên chân Chúa (Lc 7), dụ ngôn người cha nhân hậu và người con hoang đàng (Lc 15), Da-kêu sám hối (Lc 19), như hình ảnh của Phê-rô khóc lóc sám hối (Lc 22) và như người trộm lành sám hối (Lc 23)…Bạn thích câu chuyện sám hối nào nhất trong Thánh Kinh? Bạn hãy lấy câu chuyện đó, cầu nguyện, suy niệm và tâm tình với Chúa.
Tham khảo
– Pierre Cardon de Lichtbuer SJ, Các dụ ngôn về nước Trời, (cuốn 2),Tôn Giáo, t.819-863.
– ĐTC. Phanxico, sứ điệp mùa Chay 2016.
– Frere Théophile Penndu, Chúa Giêsu nói bằng dụ ngôn, Lm. Nguyễn Văn Diễm chuyển ngữ, phần giới thiệu tổng quát và dụ ngôn cây vả không trái (Lc 13,6-9).
Chuyện minh họa
Ăn năn
Satan phàn nàn với Chúa: “Ngài không công bằng. Nhiều tội nhân làm điều sai trái và Ngài lại đón nhận họ. Thật ra, có người trở lại sáu bảy lần và Ngài vẫn nhận. Tôi chỉ phạm một lỗi lớn mà Ngài kết án tôi đời đời. “Chúa nói: “Đã bao giờ ngươi xin tha thứ hoặc ăn năn chưa?”.
Cơ hội cuối cùng
Sau khi đánh tan một cuộc nổi loạn, nhà vua bắt những kẻ phản loạn về. Ông ra lệnh thắp lên một cây nến, rồi nói với họ: “Ai chịu đầu hàng và thề trung thành với ta thì sẽ được tha, bằng không sẽ bị giết Các ngươi hãy suy nghĩ. Khi cây nến tắt thì cuộc hành quyết sẽ bắt đầu”. Thiên Chúa cũng đối xử với tội nhân như vậy: Ngài cho họ một thời gian gia hạn. Tuy nhiên có một khác biệt quan trọng: không ai biết cây nến của đời mình còn dài hay ngắn. (GM Arthur Tonne).
Hối cải hay không.
Chuyện cổ dân gian kể về hai người anh em nọ sống trong một ngôi làng miền Trung Âu đã bị bắt quả tang ăn trộm cừu của dân làng. Hình phạt cho họ là bị khắc hai chữ “ST” trên trán. “ST” có nghĩa là Sheep Thief! Ăn trộm cừu! Dấu khắc này là dấu sẹo trên trán phải mang suốt đời.
Đối với người em hình phạt này là tiêu hủy cuộc đời còn lại của chú. Chú càng phạm thêm nhiều tội ác hơn. Và cuối cùng chú đã bị chết trong tù! Trái lại, người anh đã ăn năn hối cải và hoàn toàn thay đổi cuộc sống, từ tên tội phạm đã trở nên người hoàn lương, và sau cùng trở nên thánh thiện. Anh giúp đỡ mọi người, trong làng ai cũng thương mến. Năm tháng trôi qua, những người lớn tuổi thuộc thế hệ của anh chết gần hết. Một ngày nọ những người du khách vào làng nhìn thấy chữ “ST” trên trán ông lão bèn thắc mắc. Họ hỏi những người trẻ trong làng, nhưng chẳng ai biết thực sự nó có nghĩa là gì. Ai cũng trả lời rằng:”Điều đó đã xẩy ra bao nhiêu năm về trước rồi! Nhưng theo họ nghĩ, chữ “ST” trên trán ông lão là một chữ viết tắt của chữ “Saint” = “Thánh”.
Cây vĩ cầm đáng giá.
Cây vĩ cầm bị nứt bể rồi lại được dán lại. Người bán đấu giá nghĩ rằng chẳng nên phí thời giờ chăm chút cho nó làm gì. Nhưng ông ta vẫn tươi cười cầm nó lên và rao bán:
– Nào, thưa quí vị, ai sẽ bắt đầu trả giá đầu tiên đây? Một đồng, một đồng, rồi tới hai đồng, chỉ có hai đồng thôi sao? Ai sẽ trả nó ba đồng đây? À, một người trả ba đồng, rồi hai người trả ba đồng, không còn ai nữa sao?
Bỗng nhiên từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm bước lên cầm lấy cây đàn, ông lau bụi chiếc đàn cũ kỹ rồi siết lại những sợi dây lỏng. Sau đó ông tấu lên một bản nhạc êm dịu, ngọt ngào, y như những bài ca của các thiên thần. Tiếng nhạc dừng lại, người bán đấu giá chậm rải nói:
– Tôi sẽ ra giá bao nhiêu cho chiếc vĩ cầm cũ kỹ này đây?
Đoạn ông vừa cầm cây đàn lên vừa nói:
– Một ngàn đồng, và ai sẽ tăng lên 2000? Hai ngàn rồi! Có ai chịu tăng lên ba ngàn không? Một người chịu giá 3000, hai người chịu giá 3000, và còn nữa!!!
Đám đông hồ hởi reo vui nhưng có vài người trong họ la lên:
– Chúng tôi hoàn toàn chẳng hiểu cái gì đã làm thay đổi giá trị cây vĩ cầm ấy!
Lập tức có tiếng đáp lại:
– Chính nhờ đôi tay ông nhạc sĩ chạm vào đấy.
Quả thế nhiều người trong chúng ta đừng đi sai đường lạc lối, bị bầm dập vì tội lỗi và bị đám đông vô tâm rẻ rúng, khác nào cây vĩ cầm cũ mèm kia. Chỉ một tô cháo, một ly rượu, một cuộc chơi là đã đưa chúng ta sa chân hết lần này đến lần khác, và cuối cùng chúng ta hầu như bị hư hoại luôn. Nhưng vị Minh Sư đã đến, và lũ dân chúng khờ khạo hoàn toàn không thể hiểu nổi giá trị của linh hồn và sự đổi thay của nó, sau khi linh hồn đã được đôi tay của vị Minh Sư chạm đến (Tác giả vô danh) (Mark Link, Giảng lễ Chúa nhật , năm C, tr 75-76).
Làm một anh thợ hàn còn hơn làm một nhà Khoa học
Nhà bác học Einstein: « Cha đẻ của nguyên tử lực” là một người Đức gốc Do thái. Ông đã chạy trốn khỏi nước Đức và định cư tại Mỹ năm 1933 vì sự truy sát của Hitte. Năm 1939, Einsten đã trình lên Tổng thống Mỹ Roosevet, dự án chế tạo bom nguyên tử để đề phòng sự bành trướng của nước Đức. Dự án đã được Tổng thống phê duyệt. Năm 1941 bom nguyên tử đã ra đời và đã thử nghiệm thành công. Thế nhưng, tới năm 1945, sau khi hai quả bom nguyên tử nổ tại Hyrosima và Nagasaky, khiến hàng trăm ngàn người chết oan uổng, Einstein đã hối tiếc và nói rằng: “Nếu tôi có thể làm lại cuộc đời, thì tôi sẽ làm một anh thợ hàn còn hơn làm một nhà Khoa học.”
Trong cuộc động đất (01/12/2010) tại Haiti, số người chết đã lên đến con số kỷ lục 230 ngàn người, nhiều nhà cửa đã bị phá hủy hoàn toàn, những người còn sống sót không còn ngôi nhà thân yêu để trở về.
Hàng ngày vẫn có những thiên tai xảy ra trên thế giới như động đất, bão tố, đất chuồi, sóng thần… giết hại nhiều người, phá hủy nhiều nhà cửa!
Tuy nhiên, so sánh với các tai ương chính con người gây ra cho con người, thì còn khủng khiếp hơn nhiều. Hai cuộc Thế Chiến trong thề kỷ 20 vừa qua đã phá hủy bao nhiêu công trình kiến trúc của nhân loại, và số tử vong trong quân đội cũng như dân sự đã lên tới hàng triệu người. Bao nhiêu con người sống sót không còn một mái nhà để trở về.
Những nhà độc tài trong chế độ cộng sản như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Polpot… đã giết không phải hàng nghìn, hàng trăm nghìn, nhưng hàng triệu những người dân vô tội; chưa kể đến nhà độc tài Hitler đã giết hơn 6 triệu người Do Thái, và bao nhiêu người khác bị giết thảm thương trong cuộc chiến tranh do ông ta gây ra trong Thế Chiến II.
Những thiên tai thật khủng khiếp; nhưng “Người Giết Người” còn thảm thương biết bao!
Nguyên nhân “Người Giết Người” là vì có những con người đã lìa xa tình yêu của Thiên Chúa, đã phủ nhận tình yêu của Thiên Chúa là Cha, là Đấng tạo thành mình. Họ đã trở nên những kẻ “Vô Thần” và “Vô Luân”. Bám chặt vào những ý thức hệ vô thần, họ đã biến “con người trở nên như thù địch của con người!” Do đó, nhân loại không còn là một gia đình của tình yêu Thiên Chúa, nhưng là nơi đấu tranh và thù hận, chỉ rình mò để hãm hại lẫn nhau.
Bài Phúc Âm hôm nay (Luca 13: 1-9) nói đến tai nạn khủng khiếp do tháp Siloe đổ xuống làm chết 18 người và việc Philatô đã tàn ác giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hòa với máu các vật họ tế sinh. Theo nhà Sử Học Flavius Joseph (Josephus, 37-100), thì Philatô còn gây ra nhiều cuộc đổ máu khác, chưa kể đến vụ ông đã kết án bất công Chúa Giêsu và trao phó Người cho dân Do Thái hành hạ rồi đem đi giết.
Chúa Giêsu đã rút ra hai bài học do hai biến cố bi thảm trên đây để dạy chúng ta biết “những nạn nhân trong hai biến cố thê thảm đó, không phải là do “Họ tội lỗi hơn người khác!” Đồng thời, Chúa Giêsu kêu gọi mọi người chúng ta hãy luôn biết nhìn nhận tội lỗi của mình để ăn năn sám hối, cải thiện đời sống, trở về với Chúa là Cha, trở về với chính mình, và với anh em mình trong mái nhà thân thương của gia đình nhân loại. Chúa là Cha nhân từ vẫn luôn gia hạn để chờ đợi người tội lỗi ăn năn trở về để khỏi bị “tiêu diệt!” giống như người làm vườn đã xin Ông chủ gia hạn đừng chặt cây vả, để chờ một năm nữa xem sao! (xem Bài Phúc Âm).
Thánh Phaolô trong Bài Đọc II (1Corintô 10: 1-6, 10-12) nhắc đến biến cố Xuất hành đã được ghi lại trong Bài Đọc I (Xuất Hành 3: 1-8, 13-15). Dân Do Thái xưa đã đứng lên, quyết từ bỏ đời sống nô lệ lâu dài ở Ai-Cập, lên đường, chấp nhận mọi gian nan thử thách trong sa mạc trong 40 năm dài, để trở về quê hương thật của mình, trở về vùng “Đất Hứa” yêu thương.
Trở về quê hương mình, trở về mái nhà mình vẫn là niềm vui và hứng thú của mọi người chúng ta, vì không đâu bằng ngôi nhà của mình (No Place Like Home! Home Sweet Home!)
Mỗi người chúng ta cũng cần đứng lên, quyết tâm từ bỏ đời sống nô lệ tội lỗi, vượt qua các cám dỗ níu kéo của con người tầm thường, để trở về ngôi nhà Giáo Hội thân thương, và được hưởng tình yêu thương của Chúa và của anh em mình trong gia đình nhân loại.
Chủ điểm của Mùa Chay là ăn năn, sám hối lỗi lầm và trở về với Chúa là Cha, trở về với chính mình, với mọi người như anh chị em trong gia đình nhân loại. Thay vì chống lại Thiên Chúa và chém giết lẫn nhau như thù địch, chúng ta sẽ nhìn nhận nhau như anh em trong một gia đình có Chúa là Cha yêu thương của mọi người. Lúc đó, chúng ta mới có thể sống thuận hòa với nhau và tình yêu thương sẽ tràn ngập để bảo đảm một nền hòa bình đích thực.
Xin Chúa chúc lành cho mọi người chúng ta, đặc biệt trong Mùa Chay này. Qua việc “Ăn Chay, Hãm Mình, và làm việc Từ Thiện” giúp người nghèo khó, chúng ta sẽ sống thực Phúc Âm tình thương của Chúa và được sống lại thật với Chúa trong tình yêu Chúa, và trong tình yêu thương anh em với nhau. Chúng ta cũng cầu nguyện cách riêng cho Phong trào “Trở Về” (Catholics Come Home) đang được phát động mạnh mẽ trong Giáo Hội Hoa Kỳ, và đã giúp cho nhiều ngàn người tìm lại được Đức Tin và vui mừng trở về ngôi Nhà Giáo Hội của Chúa.
Cùng một biến cố, nhưng người ta có thể nhìn dưới nhiều góc cạnh khác nhau. Bệnh AIDS (SIDA) chẳng hạn, các nhà Y học coi đó như một thách đố cho việc tìm tòi, một số kỹ nghệ gia coi đó là dịp để tung ra các sản phẩm phòng ngừa, các nhà đạo đức thì coi đó như là chiếc roi của Thiên Chúa trừng phạt nhân loại, còn người có đức tin thực sự lại nhận ra ở đó khởi điểm của tình yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Chúa Giêsu đã nhắc đến phản ứng rất thông thường của người Do thái và có lẽ cũng là của nhiều Kitô hữu, đó là qui trách cho Thiên Chúa mọi sự trừng phạt. Khi Philatô ra lệnh xử tử một số người Galilê nổi loạn, thì người Do thái cho rằng những người này đáng bị trừng phạt vì là những kẻ tội lỗi. Khi tháp Silôê đổ xuống làm một số người chết, người ta cũng bảo là họ bị Chúa phạt.
“Chúa phạt”, đó có thể là phản ứng của chúng ta khi đứng trước một tai họa cho người khác. Chúng ta vừa gán cho Chúa một hình ảnh không mấy đúng đắn về công bình, vừa vô tình kết án người khác mà quên đi thân phận yếu hèn của mình.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nhìn vào các biến cố với niềm tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa. Dù con người tội lỗi đến đâu, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương, tha thứ cho họ. Ý thức về tình yêu ấy, con người cũng được mời gọi hoán cải. Càng nhận ra tình yêu Thiên Chúa, càng ý thức về thân phận yếu hèn của mình và càng phải cảm thông và yêu thương người khác nhiều hơn. Sám hối trước tiên phải là sám hối trong cái nhìn về Thiên Chúa nhân từ, đồng thời thay đổi cái nhìn đối với người khác.
Ước gì hoa trái của yêu thương, phó thác, tha thứ trổ bông trong tâm hồn và tràn ngập trong ánh mắt chúng ta.
Trong bài Phúc Âm Lc 12,54-59 chúng ta đã nghe Chúa Giêsu dạy về việc phải biết nhìn xem những dấu chỉ của thời đại, biết phân định những biến cố xảy ra theo ánh sáng của Lời Chúa. Bài Phúc Âm hôm nay cho chúng ta thấy một thí dụ cụ thể là Chúa Giêsu đã đọc dấu chỉ của thời đại, tức là hai biến cố đau thương vừa xảy ra: quan tổng trấn Philatô đã giết chết một số người Galilê nơi đền thờ; và tháp Silôê sập đè chết mười tám người. Chúa Giêsu đã thuật lại hai biến cố này trước: “Các ông tưởng mấy người Galilê đó tội lỗi hơn hết những người Galilê khác bởi lẽ họ đã chịu đau khổ như vậy sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. Cũng như mười tám người kia bị tháp Silôê đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giêrusalem sao? Tôi nói cho các ông biết, không phải thế đâu, nhưng nếu các ông không chịu sám hối thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy”.
Tai họa là điều tiêu cực xảy ra, không phải là hình phạt của một vị Thiên Chúa muốn trả thù vì tội lỗi của con người và những anh chị em nạn nhân, không phải là những kẻ xấu tệ, đáng khinh. Những biến cố xảy ra là những dịp kêu gọi con người trở lại cùng Thiên Chúa. Dụ ngôn về cây vả không có trái cũng vậy.
Dụ ngôn mời gọi người nghe hãy ăn năn hối cải và thực hiện đền bù trổ sinh hoa trái tốt và thôi không lạm dụng lòng nhân từ của Thiên Chúa nữa. Mỗi tín hữu đều được mời gọi sống đức tin bằng những việc tốt lành của đức bác ái, một đức tin sống động mới xác tín cá nhân để thực hiện những công việc làm của kẻ yêu mến Thiên Chúa và anh chị em.
Trước nhan Thiên Chúa không có những phân biệt đối xử, những kỳ thị cho người này cao trọng hơn người kia. Chúng ta tự nhiên thường hay có thái độ khinh thị anh chị em và kiêu ngạo cho mình tốt lành hơn cả. Chúng ta cần thay đổi tâm thức để mặc lấy những tâm tình của Chúa, hành xử như Chúa đã nêu gương. Chúng ta hãy biến đổi con tim mình để nó đừng ích kỷ, đừng khinh dễ anh chị em, đừng xét đoán hạ thấp anh chị em, nhưng ngược lại biết mở rộng trong sự vị tha, tình huynh đệ, sự hòa hợp, tình thương, lòng nhân từ, niềm vui, sự bình an, lòng quảng đại và hy vọng. Thay đổi chính tâm hồn mình là một điều khó, một tiến trình liên lỉ, dài hạn, đòi hỏi hy sinh và can đảm cộng tác với ơn Chúa. Đừng an ủi mình, đừng trấn an lương tâm mình bằng việc phân tích phê bình những sơ sót của anh chị em, dường như thể chúng ta tốt lành hơn: “Nếu các con không sám hối, thì các con cũng sẽ chết giống như vậy”.
Lạy Chúa. Chúng con cảm tạ Chúa vì đã luôn thức tỉnh chúng con, mời gọi chúng con sám hối, canh tân. Chúng con muốn vượt ra khỏi những vòng nô lệ của tật xấu và tội lỗi. Xin thương ban ơn thánh Chúa, thanh luyện giúp chúng con trở thành những con người mới, sống theo mẫu gương của Chúa, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong mọi hoàn cảnh.
Người Hồi giáo thường kể rằng: Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời.
Sứ thần đáp ngay xuống một chiến trường máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy.
Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều qúi giá, nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian”.
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giầu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc lóc vừa xông hương để biểu lộ lòng biết ơn của họ đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm và mang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng. Ngài nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều tốt đẹp và hiếm có dưới trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn”.
Lại một lần nữa, sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp bốn phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường Ngài bỗng thấy một người đàn ông đang khóc sướt mướt. Trước câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người đàn ông giải thích: “Tôi đã chiều theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”.
Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật, dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối. Bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu”.(D. Wahrheit, Món quà Giáng sinh, tr 304)
Câu chuyện trên đây cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc thống hối. Không có gì tốt đẹp bằng lòng thống hối. Thống hối có sức canh tân cuộc đời. Thống hối là điều kiện để được tha tội khi lãnh nhận Bí tích Giao Hoà. Vì vậy, chúng ta thấy thống hối là chủ đề xuyên suốt toàn bộ Kinh Thánh. Thời cựu ước, các ngôn sứ luôn kêu gọi dân chúng thống hối. Đáp lại lời mời gọi đó, rất nhiều cá nhân cũng như tập thể đã thống hối từ bỏ tội lỗi của mình. Trổi vượt hơn cả là gương thống hối của vua Đavít; sự thống hối của dân thành Ninivê. Thánh Gioan Tẩy Giả không những rao giảng về sự thống hối, mà còn làm phép rửa thống hối và dân chúng đã tuôn đến với Ngài rất đông. Khởi đầu sứ mạng rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu đã kêu mời sự thống hối: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”(MC 1,15).
Con người cần phải thống hối vì bản tính con người là bất toàn, tội lỗi. Đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận có lần đã nói: « Vị thánh nào cũng có một quá khứ, và người tội lỗi nào cũng có một tương lai. Quá khứ là dĩ vãng yếu đuối. Tương lai là ngày mai tốt hơn, thánh thiện. Nhưng sự khác biệt giữa thánh nhân và người tội lỗi chính là sự sám hối, lòng ăn năn”.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy, sau khi kể cho dân chúng và các môn đệ nghe hai câu chuyện tai nạn xảy ra: Câu chuyện thứ nhất về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh; câu chuyện thứ hai về việc mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết. Chúa Giêsu nói rõ ràng rằng: “Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế”(Lc 13,2). Rồi Ngài kết luận: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy”(Lc 13,5).
Như vậy, điều quan trọng mà Chúa Giêsu mong muốn chúng ta thực hiện chính là phải có lòng thống hối. Nếu chúng ta không có lòng thống hối thì cũng sẽ bị tiêu diệt như những người trong hai câu chuyện trên đây. Thống hối về những tội nào? Chúng ta phải thống hối về các tội trong tư tưởng, lời nói, việc làm và cả những tội thiếu sót. Trong Kinh thú nhận chúng ta thường đọc: “Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều thiếu sót”. Thông thường, chúng ta chỉ xét mình và xưng những tội trong tư tưởng, lời nói và việc làm, ít khi chúng ta xét mình và xưng các tội thiếu sót. Thiếu sót về bổn phận: Bổn phận đối với Chúa, đối với Giáo hội, đối với tha nhân. Thiếu sót vì không làm điều tốt khi có thể làm được. Thánh Giacôbê đã nói: “Kẻ nào biết làm điều tốt mà không chịu làm thì mắc tội”(Gc 4,17).
Chúng ta không vi phạm luật, không làm điều xấu vẫn chưa đủ mà còn cần phải làm điều tốt. Bổn phận của cây vả là sinh trái tốt. Bổn phận của kitô hữu là sinh hoa trái việc lành. Cây vả không sinh trái sẽ bị chặt đi. Người kitô hữu không sinh hoa trái việc lành cũng sẽ chung số phận như vậy.
Trong dụ ngôn người Phú hộ và ông Lazarô cho chúng ta thấy: Nhà Phú hộ bị phạt trong Hoả ngục không phải vì giàu có, nhưng vì có cơ hội làm việc lành mà không làm. Đó cũng là lý do mà Chúa Giêsu nói với những người bên tả của Ngài trong ngày phán xét:“Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng”(Mt 25, 42-43).
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta có tinh thần thống hối. Thống hối về tội lỗi trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Thống hối về những tội thiếu sót. Đồng thời, xin Chúa cho chúng ta luôn tránh xa tội lỗi và cố gắng “sinh hoa trái” là những việc lành phúc đức. Amen.
Sự kiện vụ án Philatô giết người vô tội, Chúa Giêsu không ủng hộ những người quá khích trong cuộc đấu tranh của họ chống lại Roma. Sứ điệp của Người luôn rõ ràng và rất tập trung: “Thời giờ đã hoàn tất, nước Thiên Chúa đã đến gần. Hãy ăn năm sám hối và tin vào Phúc Âm” (MC 1,15). Chúa Giêsu cảnh tỉnh: nếu các ngươi không sám hối thì cũng bị chết như vậy (Lc 13,3.5).
Sự kiện tháp Silôa đổ xuống đè chết mười tám người ở Giêrusalem. Cũng như trong trình thuật người mù bẩm sinh (x. 9, 2–3), Chúa Giêsu giải thích: “không phải vì anh ta,không phải vì cha mẹ anh ta đã phạm tội, mà anh ta sinh ra đã bị mù loà”. Người khẳng định nơi đây rằng, không ai trong bọn họ là nạn nhân của trừng phạt. Thiên Chúa không tìm trừng phạt mà là nâng dậy. Tuy nhiên, mỗi người chịu trách nhiệm về các quyết định của mình.
Người đời thường nghĩ rằng: những kẻ bị tật nguyền, những ai bị tai hoạ là bởi tội của họ hoặc do tiền nhân để lại. Họ đã đau khổ lại càng đau khổ hơn bởi quan niệm sai lầm này. Trong thực tế mọi người phải chấp nhận giới hạn của mình và hậu quả do mình gây nên hay vì sự liên đới nào đó do người khác mang lại. Chẳng hạn, hai tai nạn Chúa Giêsu đưa ra trong trong đoạn Tin mừng đều có nguyên nhân của nó. Philatô cần có tiền để xây dựng hệ thống dẫn nước đem lại lợi ích cho toàn dân. Vì thiếu tiền nên đã vào đền thờ quyên góp. Nhóm cực hữu cho hành động này là xúc phạm sự thánh nên trang bị khí giới để chống đối và bảo vệ đền thờ. Thấy thế, Philatô ra lệnh giết chết họ trong đền thờ. Hành động của họ dù với mục đích tốt nhưng lại thiếu khôn ngoan nên họ đã bị thiệt mạng. Vụ án mạng tháp Silôa sập đè chết 18 người vì lý do thiếu kỷ thuật trong việc xây cất. Cũng như vụ việc đau lòng, Nhà thờ giáo họ Ngọc Lâm thuộc giáo xứ Thái Nguyên, Giáo phận Bắc Ninh, đang xây bị sập mái nên có 3 người tử nạn, 48 người bị thương vào sáng ngày 17/01/2013; đang thi công, mái nhà thờ bất ngờ bị đổ sập vào lúc 9g50. Theo cha xứ Fx Nguyễn Đức Đại và một số bà con giáo dân đang cùng làm việc, nguyên nhân công trình bị sập là do trời mưa, ở phần gác đàn, nước đọng và chảy xuống chân một số cột dàn giáo khu vực đó làm xói đất nên sập dàn kéo theo toàn bộ phần mái bị sập.
Những tai hoạ đều có nguyên nhân của nó, hoặc là do mình, hoặc là do người khác. Những người Do thái nghĩ là do có tội nên Thiên Chúa phạt họ, còn mình vô tội thì được bình yên. Điều này đưa đến sự an toàn giả tạo. Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh rằng mọi người đều là tội nhân nên cần phải sám hối ăn năn. Rồi Chúa kể dụ ngôn “cây vả” nhấn mạnh đến tính cấp bách của sám hối. Người Do thái được ví như cây vả lâu ngày không sinh trái, nên chủ vườn là Thiên Chúa định chặt đi, nhưng người làm vườn là Chúa Giêsu xin khất một hạn kỳ, nếu sau đó nó vẫn không sinh hoa trái thì sẽ bị chặt bỏ. Cây vả được gia hạn là hình ảnh người Do thái, nếu các ông không chịu sám hối, thì chính các ông cũng sẽ chết y như những người Galilê bị Philatô giết, hoặc như những người bị tháp Silôac đè chết. Hiện thời các ông còn đứng đó chưa chết, là các ông đang ở trong tư thế cây vả được gia hạn. Nếu cây vả vẫn không sinh trái, nó sẽ bị chặt đi. Nếu các ông không chịu sám hối, các ông cũng sẽ bị huỷ diệt. Chúa Giêsu mời gọi họ trở lại với lương tâm để tự vấn.
Thái độ quyết liệt của Chúa Giêsu biểu lộ một tình yêu Thiên Chúa giàu lòng xót thương. Cây vả không cho trái độc, không làm hại cây khác, không phá cảnh quang. Nó chỉ có tội làm hại đất, sử dụng đất màu mỡ mà không cho trái.
Nhiều người cũng cảm thấy an toàn như cây vả. Tự hào vì mình không làm điều xấu, chẳng làm hại ai. Thế nhưng họ lại quên rằng, mình đã phạm tội không làm điều tốt, những điều tốt có thể làm được và phải làm. Nhiều người thường tự hỏi: tại sao người tốt cần phải hối cải? Tôi là người thường đọc kinh dự lễ rước lễ, không làm điều xấu hại ai, tại sao tôi phải ăn năn sám hối?
Sống đạo không phải chỉ lo tránh tội, mà còn là gieo trồng cái tốt, cái thiện.
Có câu chuyện kể của ông chủ tiệm đồ cổ. Vào một đêm đông, trời đã khuya, bão tuyết rơi lạnh lẽo, gió thổi mạnh rít từng cơn. Bỗng dưng có tiếng gõ cửa. Ông chủ cảm thấy khó chịu vì bị quấy rầy giữa đên khuya. Khi cánh cửa vừa mở, một người thanh niên dáng bụi đời đang run rẫy với một bàn tay xoè ra van xin, một bàn tay đỡ cây gậy trên vai treo ít đồ đạc cá nhân. Thấy hoàn cảnh đáng thương, ông chủ đưa tay với lấy ít bánh mì, vài đồng bạc lẽ trao cho hành khách. Nhận được của bố thí, người thanh niên quay gót trở đi không nói lời cám ơn giã từ. Khi đó chợt một ý tưởng đến trong đầu ông chủ nhà là nên mời người đó vào nghĩ đỡ một đêm, nhà vẫn còn phòng khách trống, còn chăn nệm ấm êm. Tuy nhiên ông lại nghĩ nếu để cho người này ở lại thì căn nhà sạch sẽ của mình sẽ bị ẩm ướt, bị dơ bẩn. Thế rồi ông vội vàng đóng kín cửa. Hai ngày sau, có người thợ đem đến một cây gậy làm bằng gỗ quý. Khi đã thương lượng giá cả, người bán gậy cho biết, anh ta là người thợ chuyên đào mộ ở nghĩa trang. Anh vừa chôn một người thanh niên mới chết, người thanh niên này vô gia cư, không tiền bạc, không người thân. Tài sản anh ta chỉ là cây gậy, người thanh niên chết vì bị lạnh cóng, máu đông lại khi ngũ trên tuyết. Nghe đến đây, ông chủ tiệm cảm thấy hối hận và xấu hổ. Ông hối hận không phải vì đã làm điều xấu mà vì điều tốt ông có thể làm cho người thanh niên nhưng ông đã không làm khiến cho anh phải chết rét.Ông chủ tiệm kết thúc câu chuyện với nổi thao thức: điều tôi ao ước là những sự dữ chúng ta làm, có lẽ Thiên Chúa sẽ tha thứ. Nhưng những gì tốt chúng ta đã không làm, sẽ mãi mãi không được tha thứ.
Mục đích cây vả là sinh trái. Người chủ vườn thất vọng không phải là cây vả sinh trái xấu, trái độc, trái chua mà là cây vả không sinh trái tốt. Cứ để thêm một năm chăm bón vun xới may ra cây vả sinh hoa trái.
Cần phải sám hối hoán cải. Sám hối không chỉ là lời nhắc nhở xa tránh sự dữ nhưng còn là lời mời gọi làm việc lành, sinh hoa trái tốt. Sám hối liên hệ ràng buộc mọi người. Ai cũng phải làm lành lánh dữ. Lánh dữ, không làm điều xấu chưa đủ, từ bỏ tội lỗi chưa đủ nhưng còn phải tích cực thực hành những điều tốt lành nữa.
Khuynh hướng tự nhiên của con người là muốn được yên thân, an phận, không muốn làm phiền ai và cũng không muốn ai gây phiền hà cho mình. Vì thế một người ngoan đạo có thể bị rơi vào tình trạng tự mãn, sống ích kỷ mà không hay biết.
Dụ ngôn cây vả còn cho thấy sự kiên nhẫn của Thiên Chúa. “Đã ba năm nay…”. Ngài đã nuôi bao hy vọng: “Tôi ra tìm trái mà không thấy”. Quyết định chặt cây chỉ đến sau những lần hụt hẫng. Ngài chỉ phạt khi đã làm đủ cách để lay động tim ta. Chúa Giêsu là người làm vườn kiên nhẫn không kém: “Xin ông cứ để nó lại năm nay nữa”. Ngài không ngừng ấp ủ chút hy vọng mong manh:”Tôi sẽ vun xới, bón phân, may ra sang năm nó có trái”. Nhưng đừng quên lời đe dọa cuối cùng: “Nếu không ông chủ cứ chặt nó đi”. Kiên nhẫn, hy vọng, chăm bón, nhưng cương quyết đòi hỏi, đó là thái độ của Thiên Chúa đối với tội nhân. Chúa Giêsu vừa thôi thúc chúng ta mau mau hoán cải, vừa chấp nhận cho chúng ta có thời gian trì hoãn để sám hối canh tân.
Mùa chay là mùa ân sủng. Người chủ vườn nhẫn nại và quảng đại cho cây vả thêm một năm nữa để hy vọng nó có thể sinh hoa trái. Mỗi Mùa Chay,Thiên Chúa cho chúng ta thêm cơ hội để đổi mới con người, làm nhiều việc lành bác ái phúc đức. Mùa Chay là thời gian thuận tiện để mỗi người kiểm điểm về cây vả đời mình.Thêm một cơ hội, thêm một kỳ hạn nữa. Điều quan trọng là mỗi người đã làm gì với cơ hội và với kỳ hạn đó?
Lạy Chúa, xin cho con biết dùng ơn Chúa để nên thánh thiện, sống đẹp lòng Chúa mỗi ngày một hơn. Ước gì cây đời của con có nhiều trái ngon ngọt hơn. Amen.