Suy Niệm Tin Mừng Thứ 6 Tuần Thánh ABC Bài 101-120 Chúa Giêsu đã chết vì yêu chúng ta (Suy niệm Tin Mừng ở sau Bài Thương Khó) ---------------------------------- Bài Thương Khó ABC
Phúc Âm: Ga 18,1-19,42 "Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta".
C: Người đọc Chung, Thánh Sử;
S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn.
J: Chúa Giêsu
C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Gioan. Khi ấy, Chúa Giêsu đi với môn đệ sang qua suối Xêrông, ở đó có một khu vườn, Người vào đó cùng với các môn đệ. Giuđa, tên phản bội, đã biết rõ nơi đó, vì Chúa Giêsu thường đến đấy với các môn đệ. Nên Giuđa dẫn tới một toán quân cùng với vệ binh do các thượng tế và biệt phái cấp cho, nó đến đây với đèn đuốc và khí giới. Chúa Giêsu đã biết mọi sự sẽ xảy đến cho Mình, nên Người tiến ra và hỏi chúng: J. "Các ngươi tìm ai ?" C. Chúng thưa lại: S. "Giêsu Nadarét". C. Chúa Giêsu bảo: "Ta đây". C. Giuđa là kẻ định nộp Người cũng đứng đó với bọn chúng. Nhưng khi Người vừa nói "Ta đây", bọn chúng giật lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi chúng: J. "Các ngươi tìm ai ?" C. Chúng thưa: S. "Giêsu Nadarét". C. Chúa Giêsu đáp lại: "Ta đã bảo các ngươi rằng Ta đây ! Vậy nếu các ngươi tìm bắt Ta, thì hãy để cho những người này đi". C. Như thế là trọn lời đã nói: "Con chẳng để mất người nào trong những kẻ Cha đã trao phó cho Con". Bấy giờ Simon Phêrô có sẵn thanh gươm, liền rút ra đánh tên đầy tớ vị thượng tế, chém đứt tai bên phải. Ðầy tớ ấy tên là Mancô. Nhưng Chúa Giêsu bảo Phêrô rằng: J. "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén Cha Ta đã trao lẽ nào Ta không uống !" C. Bấy giờ, toán quân, trưởng toán và vệ binh của người Do-thái bắt Chúa Giêsu trói lại, và điệu Người đến nhà ông Anna trước, vì ông là nhạc phụ của Caipha đương làm thượng tế năm ấy. Chính Caipha là người đã giúp ý kiến này cho người Do-thái: để một người chết thay cho cả dân thì lợi hơn. Còn Phêrô và môn đệ kia vẫn theo Chúa Giêsu. Môn đệ sau này quen vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu vào trong sân vị thượng tế, còn Phêrô đứng lại ngoài cửa. Vì thế, môn đệ kia là người quen với vị thượng tế, nên đi ra nói với người giữ cửa và dẫn Phêrô vào. Cô nữ tì gác cửa liền bảo Phêrô: S. "Có phải ông cũng là môn đệ của người đó không ?" C. Ông đáp: S. "Tôi không phải đâu". C. Ðám thủ hạ và vệ binh có nhóm một đống lửa và đứng đó mà sưởi vì trời lạnh, Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về môn đệ và giáo lý của Người. Chúa Giêsu đáp: J. "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ, Tôi thường giảng dạy tại hội đường và trong đền thờ, nơi mà các người Do-thái thường tụ họp, Tôi không nói chi thầm lén cả. Tại sao ông lại hỏi Tôi ? Ông cứ hỏi những người đã nghe Tôi về những điều Tôi đã giảng dạy. Họ đã quá rõ điều Tôi nói". C. Nghe vậy, một tên vệ binh đứng đó vả mặt Chúa Giêsu mà nói: S. "Anh trả lời vị thượng tế như thế ư". C. Chúa Giêsu đáp: J. "Nếu Ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó; mà nếu Ta nói phải, thì tại sao anh lại đánh Ta ?" C. Rồi Anna cho giải Người vẫn bị trói đến cùng vị thượng tế Caipha. Lúc ấy Phêrô đang đứng sưởi. Họ bảo ông: S. "Có phải ông cũng là môn đệ người đó không ?" C. Ông chối và nói: S. "Tôi không phải đâu". C. Một tên thủ hạ của vị thượng tế, có họ với người bị Phêrô chém đứt tai, cãi lại rằng: S. "Tôi đã chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với người đó sao ?" C. Phêrô lại chối nữa, và ngay lúc đó gà liền gáy. Bấy giờ họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến pháp đình. Lúc đó tảng sáng và họ không vào pháp đình để khỏi bị nhơ bẩn và để có thể ăn Lễ Vượt Qua. Lúc ấy Philatô ra ngoài để gặp họ và nói: S. "Các ngươi tố cáo người này về điều gì". C. Họ đáp: S. "Nếu hắn không phải là tay gian ác, chúng tôi đã không nộp cho quan". C. Philatô bảo họ: S. "Các ông cứ bắt và xét xử theo luật của các ông". C. Nhưng người Do-thái đáp lại: S. "Chúng tôi chẳng có quyền giết ai cả". C. Thế mới ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói trước: Người sẽ phải chết cách nào. Bấy giờ Philatô trở vào pháp đình gọi Chúa Giêsu đến mà hỏi: S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không ?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi ?" C. Philatô đáp: S. "Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì ?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng nước tôi không thuộc chốn này". C. Philatô hỏi lại: S. "Vậy ông là Vua ư ?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quan nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi". C. Philatô bảo Người: S. "Chân lý là cái gì ?" C. Nói lời này xong, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ: S. "Ta không thấy nơi người này có lý do để khép án. Nhưng theo tục lệ các ngươi, ta sẽ phóng thích cho các ngươi một tù nhân vào dịp Lễ Vượt Qua. Vậy các ngươi có muốn ta phóng thích Vua Do-thái cho các ngươi chăng ?" C. Họ liền la lên: S. "Không phải tên đó, nhưng là Baraba". C. Baraba là một tên cướp. Bấy giờ Philatô truyền đem Chúa Giêsu đi mà đánh đòn Người. Binh sĩ kết một triều thiên bằng gai nhọn đội lên đầu Người và nói: S. "Tâu Vua Do-thái !" C. Và vả mặt Người. Philatô lại ra ngoài và nói: S. "Ðây ta cho dẫn người ấy ra ngoài cho các ngươi để các ngươi biết rằng ta không thấy nơi người ấy một lý do để kết án". C. Bấy giờ Chúa Giêsu đi ra, đội mão gai và khoác áo đỏ. Philatô bảo họ: S. "Này là Người". C. Vừa thấy Người, các thượng tế và vệ binh liền la to: S. "Ðóng đinh nó vào thập giá ! Ðóng đinh nó vào thập giá !" C. Philatô bảo họ: S. "Ðấy các ngươi cứ bắt và đóng đinh ông vào thập giá, phần ta, ta không thấy lý do nào kết tội ông". C. Người Do-thái đáp lại: S. "Chúng tôi đã có luật, và theo luật đó nó phải chết, vì nó tự xưng là Con Thiên Chúa". C. Nghe lời đó Philatô càng hoảng sợ hơn. Ông trở vào pháp đình và nói với Chúa Giêsu: S. "Ông ở đâu đến ?" C. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại câu nào. Bấy giờ Philatô bảo Người: S. "Ông không nói với ta ư ? Ông không biết rằng ta có quyền đóng đinh ông vào thập giá và cũng có quyền tha ông sao ?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho, vì thế nên kẻ nộp tôi cho quan, mắc tội nặng hơn". C. Từ lúc đó Philatô tìm cách tha Người. Nhưng người Do-thái la lên: S. "Nếu quan tha cho nó, quan không phải là trung thần của Xêsa, vì ai xưng mình là vua, kẻ đó chống lại Xêsa". C. Philatô vừa nghe lời đó, liền cho điệu Chúa Giêsu ra ngoài rồi ông lên ngồi toà xử, nơi gọi là Nền đá, tiếng Do-thái gọi là Gabbatha. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu ngày chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Philatô bảo dân: S. "Ðây là vua các ngươi". C. Nhưng họ càng la to: S. "Giết đi ! Giết đi ! Ðóng đinh nó đi !" C. Philatô nói: S. "Ta đóng đinh vua các ngươi ư ?" C. Các thượng tế đáp: S. "Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Xêsa". C. Bấy giờ quan giao Người cho họ đem đóng đinh. Vậy họ điệu Chúa Giêsu đi. Và chính Người vác thập giá đến nơi kia gọi là Núi Sọ, tiếng Do-thái gọi là Golgotha. Ở đó họ đóng đinh Người trên thập giá cùng với hai người khác nữa: mỗi người một bên, còn Chúa Giêsu thì ở giữa. Philatô cũng viết một tấm bảng và sai đóng trên thập giá. Bảng mang những hàng chữ này: "Giêsu, Nadarét, vua dân Do-thái". Nhiều người Do-thái đọc được bảng đó, vì nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh thì gần thành phố, mà bảng viết thì bằng tiếng Do-thái, Hy-lạp và La-tinh. Vì thế các thượng tế đến thưa với Philatô: S. Xin đừng viết "Vua dân Do Thái", nhưng nên viết: "Người này đã nói: 'Ta là vua dân Do-thái'". C. Philatô đáp: S. "Ðiều ta đã viết là đã viết". C. Khi quân lính đã đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá rồi thì họ lấy áo Người chia làm bốn phần cho mỗi người một phần, còn cái áo dài là áo không có đường khâu, đan liền từ trên xuống dưới. Họ bảo nhau: S. "Chúng ta đừng xé áo này, nhưng hãy rút thăm xem ai được thì lấy". C. Hầu ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Chúng đã chia nhau các áo Ta và đã rút thăm áo dài của Ta". Chính quân lính đã làm điều đó. Ðứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng: J. "Hỡi Bà, này là con Bà". C. Rồi Người lại nói với môn đệ: J. "Này là Mẹ con". C. Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói: J. "Ta khát !" C. Ở đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói: J. "Mọi sự đã hoàn tất". C. Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người Do-thái xin Philatô cho đánh dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào của Người". Lời Kinh Thánh khác rằng: "Họ sẽ nhìn xem Ðấng họ đã đâm thâu qua". Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do-thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo tục khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.
Chúng ta vừa đi trên con đường thương khó của Đức Giêsu Kitô theo trình thuật của thánh Gioan. Vì nó dài quá nên chúng ta không thể để ý đến tất cả những chi tiết trong cuộc thương khó của Chúa. Vả lại có những chi tiết mà quyển Tin Mừng này viết, còn quyển kia thì không. Ví dụ chi tiết hai tên trộm cướp cùng bị đóng đinh với CG thì chỉ có một mình Luca tường thuật rõ ràng, còn 3 tác giả kia thì không hoặc chỉ nhắc đến thôi. Tuy nhiên đây là hình ảnh đánh động tôi nhiều vì trong mùa chay năm nay tôi có dịp đọc lại quyển sách “Trên Đỉnh Cao Thập Giá” của ĐHY. Fullton Sheen, và vì nó nằm trong chủ đề sứ điệp mùa chay năm 2012 của ĐGH Ben. XVI, mời gọi chúng ta hãy quan tâm đến nhau, đặc biệt là sửa lỗi cho nhau. Mà muốn sửa lỗi cho nhau thì đòi hỏi mọi người phải nhận biết mình là người tội lỗi, mình cần được sửa lỗi chứ không phải chỉ người khác mới tội lỗi và cần được sửa lỗi.
Có hai con đường đưa người ta đến với Chúa, một là con đường thánh thiện, hai là con đường tội lỗi. Có những người đến với Chúa khi là người nhân đức, ví dụ Đức Maria “đầy ơn phúc”; thánh cả Giuse, “đấng công chính”; Nathanael, “người không gian dối”… Nhưng cũng có những người đến với Chúa khi là người xấu xa, ví dụ Mađalêna, cô gái điếm; Matthêu, người thu thuế; hay tên trộm, cùng chịu đóng đinh với Chúa trên thập giá hôm nay. 1. “Ngài bị liệt vào những kẻ hung ác” (Lc 22,37)
Với cái nhìn bình thường, người ta thường tự hào khi được quen biết với những bậc cao sang vị vọng. Vì vậy họ thường hay ghép mình vào những mối quan hệ đó. Được chụp hình chung với các ngôi sao. Được bắt tay với thủ tướng. Được đi uống nước, ăn cơm với những người nổi tiếng… Còn Thiên Chúa, khi đã trao nộp con mình, tại sao Ngài không để cho Con mình bị án tử hình chung với những người tù chính trị, hay ít ra là những người khét tiếng như Năm Cam chẳng hạn để được nở mày nở mặt một chút? mà Ngài lại để cho Con của mình bị đóng đinh giữa hai tên trộm cướp? 700 năm trước, tiên tri Isaia đã nói tiên tri về việc Chúa bị liệt vào những kẻ bất lương, còn thánh Luca thì cho biết: “Ngài bị liệt vào hàng những kẻ hung ác” (Lc 22, 37). Thực vậy, khi đến trần gian này, CG đã đồng bàn với những kẻ tội lỗi, bạn bè với quân thu thuế. Người ta nói: “Hãy cho tôi biết bạn bè của anh là ai, tôi sẽ nói cho anh hay anh là người như thế nào”. Điều này không thể áp dụng cho CG, vì Ngài là Thiên Chúa nhưng ở giữa bọn đạo tặc; Đấng Cứu Thế nhưng ở giữa những người tội lỗi. Điều đó cho chúng ta thấy: cái làm cho chúng ta nên cao cả không hệ tại chúng ta là gì, mà hệ tại ơn thánh Ngài ban cho ta. 2. Tại sao người tội lỗi được tha thứ?
Tại sao tên trộm được ơn cứu độ ngay trên thập giá, hay nói ví von theo lời của ĐHY. Fullton Sheen là “Tên trộm này đến chết vẫn còn hành nghề đạo chích, vì đến lúc chết, còn ăn trộm được thiên đàng”? Mặt khác, tại sao CG lại nói với những người biệt phái và Pharisêu: “Những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào thiên đàng trước các ông”? Tại sao CG lại gọi những người được xem là đạo đức thánh thiện bằng những danh từ: “Nòi rắn độc”, “Mồ mả tô vôi”? Tại sao Chúa lại dùng những lời lẽ cứng rắn với họ như vậy, trong khi lại từ tốn, nhẹ nhàng, êm dịu đối với người phụ nữ có 5 đời chồng, với tên thu thuế Matthêu và người trộm lành hôm nay?
Thưa vì những người tội lỗi có nhiều khả năng ăn năn trở lại hơn những người tự mãn về chính mình.Vì cái trống rỗng của tâm hồn tự nó là cơ hội để tiếp nhận lòng thương xót của Chúa; và sự chán chường về chính bản thân của mình là bước đầu của sự ăn năn hối cải, vì chán chường là dấu chỉ tính kiêu ngạo đã bị chết. Người ta sẽ trở về với Chúa không phải vì họ đạo đức, mà vì họ biết mình tội lỗi. 3. Mất ý thức về tội
Nếu người ta ý thức mình tội lỗi thì người ta sẽ dễ quay trở lại và được ơn tha thứ. Chúa chờ đợi điều đó! Nhưng điều đáng nói là có những người không ý thức về tội lỗi của mình, nên họ không thấy cần phải quay trở lại với Chúa, vì vậy mà họ không thể được ơn tha thứ. Có một tác giả nói rằng: “Ở trần gian này có một điều xấu xa hơn tội, đó là không công nhận tình trạng tội lỗi của mình”. Chúng ta không còn xa lạ gì với kiểu nói của những người khi chúng ta khuyên họ đi xưng tội, họ nói tội gì đâu mà xưng; hay bảo họ giao hòa với Chúa, họ nói tôi có làm gì phiền Chúa đâu, tôi để Chúa yên, tại sao Chúa không để tôi yên? Tại sao họ lại nói như vậy? Thưa bởi vì họ đã tự coi mình là chúa, thì kêu họ đi giao hòa với Chúa, điều đó thật là ngớ ngẩn. Cũng giống như những người bệnh đến mê sảng, thì họ sẽ dần dần mất ý thức về căn bệnh của mình. Khi nào người ta không còn tin mình luôn tốt lành thánh thiện, và bắt đầu công nhận sự tệ hại, xấu xa của mình, là lúc người ta bước vào con đường của người trộm lành để hối cải. Cũng như khi biết mình bị bệnh người ta mới đi chữa trị.
Nói tóm lại, Đức Giêsu Kitô đã tự liệt mình vào hàng tội nhân để nâng tội nhân lên làm thánh nhân, nhưng với điều kiện là họ phải ý thức thân phận tội lỗi của mình để được Chúa cứu. Điều đó đã được một trong hai tên trộm bị đóng đinh bên cạnh Chúa thực hiện, vì vậy mà Chúa Giêsu đã nói: “Ngay hôm nay, ngươi sẽ được ở trên thiên đàng với Ta”. 4. Thông điệp từ thập giá
Ý thức được điều đó, chúng ta hãy khiêm tốn nhìn nhận thân phận yếu đuối, tội lỗi của mình để quay trở về với Chúa. Đừng kiêu ngạo mà cho rằng mình không làm gì sai trái nên không cần phải ăn năn sám hối. Thứ Sáu Tuần Thánh hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhìn lên Thánh Giá để thấy được tội lỗi của nhân loại và của từng người chúng ta. Nhưng đừng dừng lại ở Thánh Giá mà từ Thánh Giá hãy bước đến tòa giải tội, vì đó là thông điệp từ thập giá: “Người đã bị liệt vào hàng tội lỗi” để đồng cảm và tha thứ cho họ. Đó cũng là điểm thực hành mà Giáo Phận Cần Thơ mời gọi chúng ta sống trong năm nay, sống Bí Tích Giải Tội.
Sống BTGT không chỉ đơn thuần là việc đi xưng tội, mà hơn thế nữa là có những giây phút để nhìn lại một ngày sống của mình, những điều mình đã hành xử với anh chị em, với những người xung quanh; hoặc sự giả dối của chính bản thân mình, có thể che mắt người khác chứ không thể che được cái nhìn của Chúa. Sống BTGT còn là biết đón nhận những lời góp ý chân thành của người khác, đôi khi đụng chạm đến tự ái của chúng ta… Đó là thông điệp từ thập giá mà CG muốn gởi đến chúng ta trong ngày hôm nay, khi Ngài chấp nhận chịu đóng đinh giữa hai người trộm cướp. Đó cũng là tất cả tâm tình của tôi muốn chia sẻ với anh chị em trong ngày thứ sáu hôm nay, nhất là những người tội lỗi, vì anh chị em và cả tôi nữa là những người được Chúa yêu thương.
Xin ơn Chúa giúp qua lời cầu bầu của Mẹ Maria, thánh cả Giuse cho chúng ta ý thức được thân phận yếu đuối tội lỗi của mình để luôn biết sống khiêm tốn hầu có thể “ăn trộm” được thiên đàng như người trộm lành hôm nay.
Hôm nay, một hình dáng xù xì, khẳng khiu, vươn cao lên, xòe rộng ra, ôm lấy chúng ta, bao phủ chúng ta, đó là bóng Cây Thánh Giá của Chúa Giêsu Kitô.
Thập giá và Thánh Giá khác nhau một trời một vực: thập giá là do lòng hận thù độc ác của loài người sản xuất ra, còn Thánh Giá là do lòng yêu thương vô bờ vô bến của Thiên Chúa sáng tạo nên.
Trước khi trở thành Thánh giá, thập giá là hai miếng gỗ sù sì, trần trụi, gồ ghề, nặng nề, bắt chéo vào nhau như một hình chữ thập, dùng để giết người một cách rất dã man.
Thập giá là hình khổ kinh khủng nhất, do người Rôma độc ác bày ra để hành hạ và giết chết những kẻ phản loạn, những người nô lệ, những ai bị họ đặt ra ngoài vòng pháp luật.
Thập giá ghê tởm nầy, cách đây hơn 2000 năm, đã được Chúa Giêsu vác lên Núi Sọ và bị đóng đinh chết vào đó. Và kể từ đó, kể từ khi Con Đức Chúa Trời chịu đóng đinh chết tất tưởi trên thập giá, thì thập giá đã trở thành Thánh Giá lạ lùng. Lạ lùng đến nỗi loài người không thể nào hiểu được và không thể nào cắt nghĩa được!
Trước, thì thập giá quá đên tối, quá kinh tởm, quá tủi nhục; nay, thì Thánh Giá quá sáng chói, quá hấp dẫn, quá cao sang.
Trước, thì thập giá chỉ có mặt nơi tử địa, nơi pháp trường, nơi những chổ đê hèn nhục nhã; nay, thì Thánh Giá có mặt khắp nơi, nơi trang trọng nhất, nơi cao sang nhất.
Trước, thì thập giá bị chối từ, bị nhờm gớm; nay, thì Thánh Giá được ôm ấp, được ao ước, được mang nơi ngực, được đeo nơi cổ, được hôn kính dấu yêu.
Trước, thì thập giá được làm bằng lọai gỗ sần sù, lởm chởm; nay, thì Thánh Giá được làm bằng vàng, bằng bạc, bằng mọi thứ kim loại đắc giá nhất trên đời nầy.
Vì sao người công giáo chúng ta lại dành cho Thánh Giá một địa vị vô cùng đặc biệt như thế? - Vì trên Thánh Giá, Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, vì yêu thương loài người quá bội, nên đã nộp mình chịu chết để cứu chuộc loài người, để cho loài người được sống.
Nhìn lên Thánh giá, người Công Giáo chúng ta thấy hai chữ ĐAU KHỔ.
- đau khổ vật chất (bị lột hết áo quần ra, không một mãnh vải che thân );
- đau khổ thể xác (từ trên đỉnh đầu cho đến dưới bàn chân, chẳng chổ nào là chẵng xể xài rách nát, cùng bày xương ra...);
- đau khổ tinh thần (bị sĩ nhục, bị bỏ vạ, bị cáo gian, bị chửi rủa thậm tệ);
- đau khổ tâm hồn (thấy trước đủ mọi tội lổi tầy trời của loài người chống lại Thiên Chúa, thấy trước mọi vong ân bội nghiã của loài người đối với Thiên Chúa );
- đau khổ tình cảm (thấy những người thân yêu, nhất là Mẹ yêu dấu của mình, đang ở dưới chân mà không an ủi gì được).
Nhìn lên Thánh Giá, người công giáo chúng ta thấy hai điều trái ngược: Đấng vô tội, lại bị vu cáo; Đấng công chính, lại bị kết án; Đấng vô cùng thánh thiện, lại bị đày ải; Đấng cao sang vô cùng trên trời dưới đất, lại bị hành hạ, bị đóng đinh chết; Đấng toàn năng, phép tắc vô cùng, lại bị sĩ nhục; Đấng giàu có vô cùng, lại bị trần truồng nhuốc hổ; Đấng sáng láng vô cùng, lại bị tối tăm vây phủ; Đấng là sự sống, thì nay lại tắt thở và chết.
Nhưng, sau khi nếm cái chết chẳng đủ ba ngày, Chúa Giêsu sống lại, đánh bại tủ thần, và ban cho những ai biết đi theo Ngài trên Con Đường Thánh Giá và bằng lòng chết với Ngài trên Cậy Thánh Giá, được sống lại và sống muôn đời.
Đối với người công giáo chúng ta, Thánh Giá của Chúa Giêsu là nguồn hy vọng rạng ngời, là nguồn hạnh phúc vô biên.
Người công giáo chúng ta tung hô Thánh Giá là Cây cứu chuộc muôn dân đặng rỗi, là Cây làm cho kẻ có phước được phần vui mừng, là Cây làm cho kẻ có tội được lòng trông cậy, là Cây làm cho kẻ yếu đuối được nhờ sức mạnh, là Cây làm cho kẻ khốn nạn được sự an lành, là Cây tốt lành rất mực, diềm dà im mát, bóng che thiên hạ khỏi chốn hỏa hình; là gươm giáo dẹp giặc linh hồn, khử trừ đánh diệt tam cừu oan gia, sát phạt tà ma, thịt mình, thế tục; là chìa khóa mở cửa thiên đàng, đưa chúng ta vào nơi Quê Thật.
Thánh Giá gồm những mầu nhiệm cao siêu nhất trong Đạo Công Giáo: Mầu Nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, Mầu Nhiệm Ngôi Hai Xuống Thế Làm Người, Mầu Nhiệm Thiên Chúa Cứu Chuộc Loài Người.
Thánh Giá dạy người công giáo những bài học mà Chúa Giêsu đã truyền dạy phải sống và thi hành:
Hình thẳng hướng lên: Người Công Giáo hãy sống mến Chúa!
Hình ngang: Người Công Giáo hãy sống yêu người!
Tay Chúa giăng ra: Người Công Giáo hãy rộng mở đôi tay đối với mọi người, không xua đuổi ai. Người Công Giáo hãy tha thứ mọi xúc phạm của người khác đối với mình, không loại trừ xúc phạm nào.
Tay Chúa bị đóng đinh: Người Công Giáo hãy dùng đôi tay để cầu nguyện, lao động, giúp đỡ, bố thí. Người Công Giáo hãy đền tội cho đôi tay của mình là đôi tay thường biếng nhác, cắp trộm, đánh đập kẻ khác, dâm ô hèn hạ.
Chân Chúa bị đóng đinh: Người Công Giáo hãy dùng đôi chân để đi Nhà Thờ, đi làm việc đạo đức bác ái, đi làm việc hữu ích. Người Công Giáo hãy biết đền tội cho đôi chân của mình là đôi chân thường đi vô ích, đi đến nơi tội lỗi, đi đến với kẻ phạm tội.
Tim Chúa bị đâm thủng: Người Công Giáo hãy thắp lửa mến Chúa và yêu người trong trái tim của mình. Người Công Giáo hãy tắt lửa dục tình trong lòng mình. Người Công Giáo hãy biết ăn năn thống hối về những tội mình đã vô tình và vô ơn đối với Chúa.
+++
Người Công Giáo chúng ta hãy đặt Thánh Giá nơi chỗ cao trọng nhất trong nhà mình!
Người Công Giáo chúng ta hãy đeo Thánh Giá trên ngực là nơi đầy ý nghĩa nhất trong con người của mình.
Người Công Giáo chúng ta hãy làm Dấu Thánh Giá trên con người của mình, làm một cách nghêm trang, sốt sắng, và làm cho ra Một Hình Thánh Giá cân đối.
Người Công Giáo chúng ta hãy năng nhìn lên Thánh Giá để tỏ lòng yêu mến Chúa Giêsu đang đau khổ vì tội lỗi của loài người. Thánh Casimirô, mỗi lần nhìn lên Thánh Giá, là mỗi lần ngài cảm động và rơi lệ.
Người Công Giáo chúng ta hãy luôn mang Thánh Giá trong tâm hồn mình để tỏ lòng yêu mến Chúa Giêsu, luôn mang Thánh Giá trong đầu óc mình để suy niệm về tình Chúa Giêsu yêu thương loài người..
Và nhất là, trong cuộc sống của mình, người Công Giáo chúng ta hãy luôn sống và thực hành những bài học của Thánh Giá Chúa Giêsu. Amen.
Năm nay tôi chọn viết suy niệm về vai trò người tôi tớ trong sách tiên tri Isaia. Người tôi tớ này kích thích nhiều suy tư của các nhà chú giải. Người thì cho chỉ có một nhân vật tôi tớ, tác giả khác lại đưa ra ý kiến có nhiều, thậm chí cả một dẫy dài, kẻ khác chủ trương có một, nhưng trong ý nghĩa tập thể, tức đại diện cho toàn dân Israel ! Theo nguyên văn thì khó xác định ai đúng, ai sai. Trong Isaia có bốn bài ca về người tôi tớ. Bài đọc hôm nay là bài ca số 4.
Tác giả John Mc Kenzie, dòng Tên, trong cuốn Từ điển Thánh kinh nói rằng từ “tôi tớ” có nghĩa rất rộng. Nó ám chỉ nô lệ hạng sang như khi nói: “Thần là nô lệ của nhà vua”. Rõ ràng một tước vị thuộc hàng khanh tướng. Ngược lại, người ta cũng có thể dùng để nói nhún nhường như Moisen, David được gọi là tôi tớ Đức Chúa. Các ngôn sứ cũng thường được dùng trong nghĩa này. Dân tộc Do thái được gán danh hiệu “tôi tớ” khi đối chiếu với toàn thể thế giới. Đây là ý nghĩa sứ mệnh của dân Israel. Như vậy từ “tôi tớ” được gán khi ai đó là “dụng cụ” Thiên Chúa dùng để ban ơn cứu độ. Trong dòng văn của ngôn sứ Isaia, từ tôi tớ không bao hàm chức Thiên sai. Nhưng từ đầu Hội thánh, chữ này được áp dụng cho Chúa Kitô chịu thương khó, bài đọc hôm nay chẳng hạn. Đoạn văn này và nhiều đoạn văn tương tự được các Hội thánh tiên khởi sử dụng để đối phó với việc Chúa Giêsu gặp thất bại, bị khước từ, khổ nạn và cái chết nhục nhã.
Các bài thơ người tôi tớ được Tân ước trích dẫn rõ ràng hoặc chỉ qui chiếu gián tiếp. Thí dụ, trong các trình thuật về phép rửa của Đức Giêsu hoặc lễ biến hình. Nếu chúng ta đổi từ Con sang từ tôi tớ của lời phán bởi trời thì chúng ta có được hầu như nguyên văn Isaia 42,1. Quan niệm về cái chết cứu độ của người tôi tớ trung tín trong Isaia ảnh hưởng trực tiếp đến giọng văn của Tân ước mô tả cuộc đời và sự nghiệp của Chúa Giêsu. Nội dung đoạn văn chúng ta đọc hôm nay cũng là căn bản giáo lý của Hội thánh về vai trò Chúa Giêsu cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi. Như vậy chúng ta thấy có hai vế song hành : Người tôi tớ Giavê đối với dân tộc Israel giống như Chúa Giêsu đối với Hội thánh. Chúa Giêsu chịu khổ nạn để thánh hoá giáo hội thì người tôi tớ Cựu ước cũng phải chịu bầm dập để làm cho dân Do thái trong sạch, nên thánh. Ngày nay hình ảnh tôi tớ Giavê vẫn được sử dụng để minh hoạ cho việc Chúa Giêsu tiếp tục chịu đau khổ trong các chi thể Hội thánh để làm cho Hội thánh được thanh sạch.
Mở đầu của bài đọc 1 hôm nay là : “Này đây, người tôi trung của Ta sẽ thành đạt, sẽ vươn cao, nổi bật và được suy tôn đến tột cùng.” Xin nhớ rõ điều này, bởi lẽ những dòng tiếp theo thật u ám. Một bản mô tả rất sống động về sự thất thế, đau khổ cũng của người tôi tớ đó. Ông sẽ không còn được nhận ra nữa : “Khi thấy tôi trung của Ta, mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa.” Mọi người ngoảnh mặt đi chẳng dám nhìn người tôi tớ đau khổ. Điều gây sửng sốt nhất là hình phạt này xem ra là do Thiên Chúa gây nên. Xưa nay vẫn giải thích như vậy. Thực thế bản văn có một câu làm tôi lưu ý mãi : “Đức Chúa hài lòng khi thấy người bị nghiền nát trong yếu đuối.” Đức Chúa này là Thiên Chúa nào mà lại hài lòng vì người vô tội bị nghiền nát ?
Chắc chắn khi nghe đọc đến đây, nhiều thính giả lương thiện sẽ nghĩ trong lòng “Ông Trời đáng ghét của Cựu ước.” Nhưng nhìn kỹ hơn vào toàn thể bài ca thì đoạn văn này được viết dưới dạng kịch nghệ. Tức có sự thay đổi về người nói. Khởi đầu thì Thiên Chúa nói, sau đó đến các khách bàng quan bàn tán khi quan sát người tôi tớ trong khổ đau. Đối với những người này thì rõ ràng Thiên Chúa đang nghiền nát người tôi tớ vô tội. Chuyện này giống như khi chúng ta kêu ca về những đau đớn của mình: “Chúa thử thách đức tin của tôi quá sức chịu đựng. Thật ngã lòng, chẳng thể còn kiên nhẫn hơn nữa.” Đúng vậy, thượng đế đã đẩy người ta đến bờ vực thẳm của thất vọng ?
Rồi thay đổi vai trò của khách bàng quan: Họ cố gắng tìm hiểu căn do sự đau khổ của người tôi tớ, và khám phá ra rằng chính vì tội lỗi của mình mà người tôi tớ phải chịu cực hình. Thật là điều gây ngỡ ngàng hết cỡ. Ông ta chịu đựng đau khổ để cứu chuộc thiên hạ. Họ đã sai lầm khi lên án ông, coi ông như kẻ có tội. Họ ăn năn hối lỗi, thú nhận sai lầm của mình. Sự thật là người tôi tớ đã gánh lấy tội thiên hạ và chính họ là những kẻ được hưởng sự tha thứ của Thượng đế: “Tôi trung của Ta sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ”.
Do đó, ý muốn của Đức Chúa Trời là tội lỗi nhân loại được tẩy sạch nhờ đau khổ và cái chết của người tôi tớ. Đúng là một màu nhiệm. Đường lối suy nghĩ của chúng ta hoàn toàn phá sản, bởi lẽ công việc vĩ đại như xoá tội trần gian lại không theo quy trình quyền lực bình thường kiểu mọi người mong đợi. Thay vào đó, trong người tôi tớ, Thiên Chúa tỏ lộ cho chúng ta gương khiêm nhường, nhịn nhục của một nhân vật yếu đuối, dễ bị tổn thương, một dấu chỉ của sự chống đối. Cho nên chẳng lạ gì các tác giả Tân ước sử dụng những bài ca này để nói về Chúa Giêsu và lòng nhân từ, thương xót của Đức Chúa Trời. Thí dụ, thánh Phaolô nhiều lần đã chỉ ra cho chúng ta thấy quyền năng của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô khi Ngài bị dân Do thái khước từ, chối bỏ. Chính trong công việc này mà nhân loại được lợi không kể xiết. Tác giả thơ Do thái cũng thường khích lệ độc giả của ông không nên hổ thẹn vì thập giá Đức Ki-tô, ngược lại “hãy mạnh dạn tiến lại gần Ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần”. Bởi lẽ Thiên Chúa đã cho phép Đức Giêsu, người tôi tớ, chia sẻ những yếu hèn và đau khổ với nhân loại. Cho nên quan niệm về “ông Trời đáng ghét của Cựu ước” là sai lầm. Chính qua người tôi tớ khiêm nhường mà Thiên Chúa mặc khải gương mặt yêu thương, nhân từ của Ngài.
Người tôi tớ Giavê đứng làm trung gian cho cả Thiên Chúa và loài người. Một sự tổng hợp kỳ lạ giữa thần linh và nhân loại. Ông là đại diện cho thần linh, đứng về phía Thiên Chúa, Ngài gọi ông : “Tôi tớ của Ta”. Trong ông, ý muốn của Đức Chúa hoàn toàn được thành tựu. Ông cũng đại diện cho nhân loại tội lỗi, mặt mày tan nát, chịu khổ đau đến cùng cực, chịu chung số phận với loài người, đồng hoá với anh em mình. Chúng ta nhìn nơi ông hành động của thượng đế trên nhân loại và vì nhân loại. Chính trong nơi người tôi tớ mà chúng ta cảm thấy được Thiên Chúa cứu độ. Nhưng người tôi trung cũng có tham gia phần của mình vào cuộc đau khổ mà Thiên Chúa đã chỉ định cho ông.
Ông đồng ý với chương trình của Đức Chúa, gánh chịu hậu quả của tội lỗi người khác, vâng lời Thiên Chúa cho đến mức bằng lòng chịu chết thay cho thiên hạ. Ông là một nhân tố tự do và tự nguyện, không ai ép buộc ông, nhưng hoàn toàn hiến dâng cho Thượng đế. Đây là một sự cộng tác lạ lùng giữa Thiên Chúa và nhân loại để mưu ích cho loài người. Kết quả là một công trình vĩ đại. Bởi người tôi tớ đã “xoá tội trần gian và tranh thủ được ơn tha thứ cho những kẻ xúc phạm”. Ai đã thi hành cuộc hy sinh ? Thiên Chúa hay người tôi tớ ? Câu trả lời là cả hai. Thiên Chúa đã hy sinh người tôi trung. Người tôi trung đã bằng lòng hiến tế. Trường hợp của Abraham và người con duy nhất Isaac. Trong văn bản, kẻ có lỗi dùng ở đại từ “chúng ta”: “Sự thật, chính Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta… Chính Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội… Chúng ta đã đi lạc như chiên cừu v.v…” Hoá ra người tôi tớ này không phải là kẻ phạm tội. Đau khổ của ông có mục đích duy nhất là thức tỉnh ý thức tội lỗi của nhân loại !
Tóm lại, Thiên Chúa toàn năng có thể đổi ngược những tình huống vô vọng. Điều chúng ta bất lực, thì Ngài làm được dễ dàng. Trước mắt thiên hạ, người tôi tớ vô tội và nín tiếng bị những kẻ gian ác tố cáo bất công, lôi đi hành hạ, trừ khử, mai táng. Ông ta hoàn toàn thất bại và rơi vào quên lãng, quá khứ. Nhưng Thiên Chúa đã nâng ông trỗi dậy, thành công hiển hách. Đấng khởi sự nói và ban lời đoan hứa trong bài đọc hôm nay chính là thượng đế, Tạo hoá dựng nên muôn loài muôn vật (51, 9-10). Đấng ấy đã giải cứu Israel khỏi kiếp nô lệ Ai cập, dẫn đưa họ qua Biển đỏ khô chân, gây dựng họ từ chỗ ô hợp thành một dân tộc. Trong tay Ngài bây giờ là người tôi trung đã chết, chỉ có Ngài mới làm được cho kẻ qua đời sống lại. Hiện thời, thì Satan thắng thế, sự dữ ngự trị trên thân phận con người và xem ra là vĩnh viễn. Nhưng Thượng đế có thể thực hiện những chi loài người, tự thân, không làm được. Ngài có thể phục hồi sự sống cho những xác chết và ban cho một tương lai tươi sáng, phát đạt ! Các bài đọc Thánh kinh hôm nay luôn nhắc nhở cộng đồng tín hữu về sự kiện đó. Thiên Chúa sẽ toàn thắng tội lỗi và sự chết, gây dựng chúng ta từ bất trung, phản bội thành dân thánh trung thành, từ những kẻ từ khước Chúa Giêsu, Người tôi tớ Giavê thành những tín hữu, khao khát ơn cứu độ. Amen.
Ngày Thứ Sáu Tử Nạn, Chúa Giêsu đã tuyên xưng danh tánh trước toà án Cai-pha: “Từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.”(Mt 26,64) Chính sự hiên ngang tuyên bố của Chúa Giêsu trước toà án đã định đoạt số phận của Ngài: “Nó đáng chết.”
Cuộc Tử Nạn của Chúa Giêsu thật bi ai thảm thiết, nhưng là để ứng nghiệm chương trình Tình Yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại. Thực vậy, trên núi Can-vê, không ai đã tham dự vào cái chết của Chúa Giêsu trên thập tự; có chăng, người ta thấy Chúa tắt hơi, có thấy thân hình Chúa tái nhợt. Thế nhưng, chính nội tại cái chết của Ngài đã vượt qua khỏi con mắt nhìn của thiên hạ, duy có Chúa Cha mới chứng kiến được cái chết ấy. Và khi tôn vinh Đức Giêsu, Chúa Cha đã mặc khải cho loài người tỏ tường cái chết đó là gì: nó là biến cố Chúa Giêsu dứt khoát bước vào sự sống Con Thảo của Thiên Chúa; đồng thời nhờ Ngài, con người cũng được thông hiệp vào sự sống ấy trong cương vị làm Con Thiên Chúa. Điều đó minh chứng cho một Thiên Chúa yêu thương con người đến tận cùng.
Người Kitô hữu ngày nay luôn hướng đến một tình yêu như thế! Tuy nhiên cuộc đời con người không bao giờ đạt được mức thập toàn, nó rất manh mún, rất phân tán qua từng giờ từng ngày; sự cống hiến bản thân, dù triệt để đến mấy, cũng vẫn là vụn vặt. Vẫn hay, tình yêu bộc lộ qua hành động, nhưng không phải hành động nào cũng xuất phát từ tình yêu. Một con người tốt bụng vẫn cảm thấy mình sống lạ lẫm với tình yêu. Và với những thất bại như thế, con người tìm cách chấn chỉnh đền bù bằng ước vọng yêu thương, chúng ta không ngừng yêu đi yêu lại hoài, đó cũng chỉ là cách thế để mỗi người được hoạ lại hình ảnh của Thiên Chúa, vị Thiên Chúa hiện thân là Tình Yêu.
Thiên Chúa là Tình Yêu ! Qủa thế, chúng ta được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa (St 1,27), tiến trình tạo dựng đang đi tới kết thúc trong sự thông hiệp với Chúa Giêsu, Đấng dám tuyên bố: “Mọi sự đã hoàn tất.”(Ga 19,30) Việc Đức Giêsu, Con Thiên Chúa “thí mạng mình” đã thể hiện tính cao độ nhất của tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. Vì Đức Kitô đã chết bằng cái chết hướng về Chúa Cha cho tất cả mọi người, nên mọi người tín hữu cũng được mời gọi bước vào cái chết của Chúa, đó là một cái chết vì yêu, bởi duy tình yêu mới làm cho con người vượt qua thời gian đi lên Chúa Cha, để bước vào mối tình vĩnh cửu bằng lòng yêu mến, nhờ bởi quyền năng tình yêu là Thần Khí.
Lạy Chúa !“Con đường nào Chúa đã đi qua, con đường nào Ngài ra pháp trường.” Mỗi chúng con đều được mời gọi đi lại con đường thương khó của Chúa, con đường của ngày Thứ Sáu Tử Nạn. Xin Chúa ban cho chúng con học cách nhẫn nhục của Ngài để được thông phần vào sự sống lại của Ngài. Amen.
Trong cuộc sống của con người, không ai có thể sống mà không yêu, và cũng chẳng có niềm vui nào, hạnh phúc nào sánh được với niềm vui, niềm hạnh phúc vì được yêu. Tuy nhiên, dù niềm vui nơi tình yêu là tuyệt đối duy nhất, nhưng nó lại không thể không có khổ đau. Vì yêu chính là chết đi với mình, là khước từ sống trong mình, cho mình và nhờ mình, nhưng là sống cho người mình yêu và sống nhờ người mình yêu. Đó là sự đón nhận và cho đi. Vì vậy, có thể nói rằng : sống, là yêu, mà tận cùng của tình yêu cũng chính là chết đi cho người mình yêu.
Đó chính là điều mà Đức Giêsu đã dạy chúng ta : “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13) ; và đó cũng là điều mà Đức Giêsu đã thực hiện khi Ngài gánh chịu mọi khổ đau để rồi chết trên cây thập giá hầu ban ơn cứu độ cho chúng ta. Đó là một hành trình của tình yêu, mà Đức Giêsu, qua cuộc thương khó của mình, Ngài dẫn đưa chúng ta tiến tới sự sống và hạnh phúc muôn đời.
Thật vậy, khi chấp nhận mang lấy những khổ đau và nhục nhã của cái chết nơi thập giá, Đức Giêsu đã trở nên như hạt lúa phải mục nát đi để, từ đó, sự sống mới phát sinh, như Thánh Phaolô nói : “Đức Giê-su Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8). Điều này có nghĩa là : Đức Giêsu Kitô, khi tự hạ làm nô lệ, khi tự để mình bị trói buộc trong cuộc khổ nạn và từ bỏ chính mạng sống của mình, chính lúc ấy, Ngài đã thể hiện một tình yêu vẹn toàn, một tình yêu đi đến tận cùng của tình yêu, là cái chết. Nhờ đó, sự sống đời đời xuất hiện cho chúng ta. Đó chính là con đường nối kết giữa sự chết và sự sống : chấp nhận khổ đau và chết vì yêu thương sẽ mở ra con đường dẫn đến sự sống muôn đời.
Tự bản chất, đau khổ không mang một giá trị nào, nhưng Đức Giêsu đã chỉ ra cho chúng ta thấy rằng : chính tình yêu sẽ mang đến cho đau khổ một ý nghĩa, một giá trị cứu độ. Bởi vì yêu thương chúng ta mà Đức Giêsu đã chấp nhận đau khổ để chúng ta được hạnh phúc, chấp nhận cả cái chết để chúng ta được sống. Ngài đã ban cho cuộc sống của chúng ta một ý nghĩa, một niềm hy vọng. Chính từ trái tim bị đâm thâu của Ngài mà ân sủng được ban tặng và ơn cứu độ đến với chúng ta.
Nhìn lên thập giá, chúng ta được mời gọi hãy chết đi cho tội lỗi, và sống lại trong ân sủng ; hãy vượt qua mọi dụcvọng đam mê và điều khiển lý trí của mình theo như ý Chúa, như Thánh Phaolô đã nêu gương cho chúng ta : “Tôi chịu đóng đinh vào thập giá với Chúa Kitô, nên tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy dạy chúng con trở thành những người môn đệ chân chính của Chúa, biết quên đi cái tôi của mình và ngày càng liên kết với mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa hơn, để chúng con cũng biết yêu thương như Chúa đã yêu, mà trước hết là biết yêu thương và hy sinh cho cha mẹ, anh chị em, bạn bè,… và sau đó là xa hơn nữa, cho cả những người ghét và làm hại chúng con nữa như khi xưa Chúa đã dạy chúng con : “Còn Thầy, Thầy bảo anh em : hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,44).
Lạy Chúa Giêsu, Nếu có lúc con mỏi mệt và xao xuyến, xin nhắc nhở con rằng trong vườn Cây Dầu Chúa buồn muốn chết được. Nếu có lúc thấy bóng tối bủa vây, Xin nhắc nhớ con rằng trên thập giá, Chúa đã thốt lên : sao Cha bỏ con ! I. Trong Vườn Cây Dầu
Cùng với các Tông đồ theo Chúa vào vườn Cây Dầu
Đây là ba tông đồ được Đức Giêsu ưu đãi và được Người chọn để chứng kiến một vài biến cố quan trọng. Ví dụ : vụ Đức Giêsu cho đứa bé con ông Gia-ia sống lại (Mc 5,21-43), hoặc vụ Người đổi hình dạng trên núi (Mt 17,1-9).
Thường thường, Đức Giêsu đi xa dân chúng và môn đệ mà cầu nguyện. Nhưng hôm nay, khi đi cầu nguyện, Người lại đem các môn đệ theo, vì hoàn cảnh hôm nay rất là đặc biệt. Người muốn các môn đệ ấy chứng kiến cuộc giao tranh ác liệt cuối cùng của mình, chia sẻ và chấp nhận Thập giá với mình. Nếu không tất cả, thì ít ra là ba môn đệ đã hai lần được đặc ân chứng kiến quyền năng của Người, vì đã được chia ngọt sớt bùi, thì cũng phải chia cay sẻ đắng.
Trong tâm trạng buồn sầu Đức Giêsu cảm thấy buồn rầu, xao xuyến, vì bỗng nhiên Người thấy mình phải đương đầu với cái chết đã đến nơi. Người mới để ba môn đệ ở lại, đi xa hơn một chút, sấp mình cầu nguyện.
Cử chỉ sấp mình, thoạt nghe, cũng hơi lạ, vì dân Do-thái đứng mà cầu nguyện, chứ không sấp mình. Thánh Luca lại nói : “Đức Giêsu qùy gối cầu nguyện”. Nhưng dân Do-thái cũng không quỳ. Ở đây, Đức Giêsu không đứng cầu nguyện, cũng không sấp mình, nhưng phải nói như thánh Mác-cô, là : Người ngã xuống đất và cầu nguyện.
Khỏi uống chén đắng này
Thánh Mác-cô viết : “Đức Giêsu ngã xuống đất và cầu xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy”. Người nói : “Xin cho con khỏi uống chén (đắng) này”. Nhưng từ “giờ” nghĩa là gì ? Từ “giờ” có một nội dung đặc biệt trong Thánh Kinh, nhất là trong sách Tin Mừng theo thánh Gioan. Trong sách Tin Mừng thứ tư này, từ “giờ” có nghĩa là lúc Đức Giêsu phải chết trên Thập giá để cứu độ chúng ta. Đứng trước cái chết kinh khiếp sắp đến nơi, Đức Giêsu cảm thấy hãi hùng, xao xuyến, nên xin Chúa Cha cho mình khỏi phải qua giờ ấy. Mt 26,39
Nói lên tư tưởng ấy bằng công thức trực tiếp : “Lạy Cha, xin cho con khỏi uống chén (đắng) này”. Chỉ có điểm phải nói, là : thay vì nói : “khỏi phải qua GIƠ này”, thì Đức Giêsu trong sách Mát-thêu nói : “khỏi uống chén này”. Trong Thánh Kinh, từ “chén” cũng là một từ có nội dung đặc biệt, và có nghĩa là : mật đắng phải uống, đau khổ phải chịu, số phận đau thương. Đức Giêsu xin cho khỏi uống chén “đắng”, tức là Người xin cho khỏi cái chết trên Thập Giá mà Chúa Cha đã định.
Ở đây, chúng ta thấy rõ ràng nhân tính của Đức Giêsu. Làm người, ai cũng sợ chết; hơn nữa, cái chết càng gần và càng thảm khốc, thì con người càng hãi hùng (Mc), buồn rầu (Mt), xao xuyến. Mà đó là trường hợp của Đức Giêsu. Người nói với môn đệ : “Tâm hồn Thầy buồn đến nỗi chết được”. Rồi Người xin Chúa Cha cho khỏi phải qua giờ đau khổ, khỏi uống chén đắng. Tuy nhiên, dầu sợ chết, Người cũng sẵn sàng chết, nếu đó là Thánh Ý Chúa Cha : “Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”.
Canh thức và cầu nguyện
Không thấy Chúa Cha đáp lời, Đức Giêsu mới trở lại với ba môn đệ. Nhưng ba ông lại ngủ mất, nên Người đã buồn rầu lại càng thấy mình cô đơn. Người mới kêu ông Phê-rô mà than trách. Theo thánh Mác-cô, thì Đức Giêsu kêu ông Phê-rô mà than trách chính ông : “Si-mon, anh không thức nổi một giờ sao ?”.
Sau khi than trách, Đức Giêsu bảo các môn đệ : “Phải canh thức và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn”. Mỗi người đều có kinh nghiệm bản thân về hiện tượng giằng co giữa tinh thần và thể xác, và cũng phải thú nhận rằng tinh thần không dễ gì chế ngự thể xác luôn đâu. Vì sự việc là thế đó, nên chỉ có một cách là đề phòng và cầu nguyện, nhất lại khi đó là cơn thử thách cánh chung mà Đức Giêsu muốn nói ở đây, một cơn thử thách, một cơn cám dỗ làm cho con người khiếp hãi, bỏ cuộc và sa ngã trong giờ chung kết mà không chu toàn sứ mệnh cứu độ.
Mồ hôi máu nhỏ từng giọt (Lc 22,44)
Theo thánh Luca thì Đức Giêsu cũng đi cầu nguyện và trở lại với các môn đệ, nhưng chỉ một lần mà thôi. Thế là tác giả không nhấn mạnh đủ. Tuy nhiên, thay vì nói đi nói lại ba lần việc Đức Giêsu cầu nguyện và trở lại với các môn đệ, thánh Luca nói rõ rằng Người khẩn thiết cầu xin, và hơn nữa, ngài còn nói thêm : Đức Giêsu khẩn thiết cầu xin như thế, là vì lòng Người hãi hùng xao xuyến như lâm cơn hấp hối, đến nỗi mồ hôi Người như máu nhỏ giọt xuống đất.
Thánh Luca còn ghi thêm một chi tiết khác, là sau khi Đức Giêsu cầu xin, liền có thiên thần xuất hiện an ủi. Là môn đệ của thánh Phao-lô, thánh Luca được thấm nhiễm tư tưởng của thầy, để ý hơn ai hết mối tương quan giữa sự yếu đuối của loài người và sự trợ giúp của Thiên Chúa.
Thánh Phao-lô nói : “Lúc tôi yếu, là lúc tôi mạnh” (2 Cr 12,10). Mà, ở đây, nhân tính của Đức Giêsu cũng phải đau khổ, chết chóc. Nên, chính vào lúc đó, Chúa Cha đã sai phái thiên thần đến, tiếp sức cho Đức Giêsu. Ngày xưa, sau khi thắng cơn cám dỗ trong hoang địa, Chúa Cha đã sai thiên thần đến “hầu bàn”, thì hôm nay, cũng thế.
Xin cho con can đảm , Đối diện với những thách đố, Vì biết rằng cuối cùng , chiến thắng thuộc về người có niềm hy vọng lớn lao. II. Trên Thập Giá
Đứng gần Thập giá (Ga 19,25) :
Tại đồi Gôn-gô-tha, trong các bà con thân hữu có mặt, phải kể một số phụ nữ, tuy thánh Mát-thêu chỉ nói đến khi tường thuật những việc sau khi Đức Giêsu đã qua đời. Các bà này đã theo Người từ miền Ga-li-lê, họ theo để giúp đỡ.
Nhưng, trong các bà ấy, người đáng nói hơn hết, chính là Đức Maria, vì Người là Mẹ Đức Giêsu, và nhất là vì Đức Giêsu, trên cây thập giá, trước khi tắt thở, đã trối cho Người này lời di chúc quan trọng.
Thưa Bà, đây là con của Bà (Ga 19,26) :
Thánh Gioan viết : “Thấy thân mẫu và môn đệ mình yêu quý (tức là thánh Gioan) đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng : “Thưa Bà, đây là con của Bà”. Rồi Người nói với môn đệ : “Đây là Mẹ của anh””. Lời văn đơn sơ, dễ hiểu, đồng thời lại cho chúng ta thấy một vấn đề rất quan trọng là Đức Maria không còn người con nào khác, ngoài Đức Giêsu. Anh em Thệ phản cho rằng : Đức Maria còn có nhiều người con khác, ngoài Đức Giêsu. Nhưng bản văn nói trên cho chúng ta thấy ngược lại.
Quả vậy, Đức Giêsu chết, thì những người con ruột khác của Đức Maria phải chăm lo, săn sóc, nếu có. Nhưng Đức Giêsu đã phải nhờ thánh Gioan chăm lo, săn sóc. Thì phải hiểu ngầm rằng : ngoài Đức Giêsu ra, Đức Maria không còn người con ruột nào khác nữa. Đó là nghĩa đen của bản văn. Người trao cho Đức Maria một sứ mệnh, là làm Mẹ thánh Gioan và làm Mẹ chúng ta, mà thánh Gioan là người đại diện dưới cây thập giá. Và, như thế, các nhà Thánh Kinh Công giáo thấy rằng Đức Giêsu đã đặt Đức Maria làm Mẹ chúng ta, và bản văn Ga 19,26 này là bản văn nền tảng cho tín điều ấy.
Muốn thấy rõ hơn, chúng ta phải đọc bản văn Ga 19,26 cùng với bản văn Ga 2,1-12 (tiệc cưới tại Ca-na), vì hai bản văn ấy như là hai bản văn xướng đáp, mở đóng.
Hôm ấy, tại tiệc cưới Ca-na, Đức Giêsu nói với Đức Maria và cũng gọi Người là “Bà”, theo nghĩa “đàn bà”, người làm mẹ. Khi Đức Maria xin Người cứu giúp gia đình tân hôn khỏi nhục nhã vì hết rượu giữa đám, Đức Giêsu đáp : “Thưa Bà, giờ tôi chưa đến” (Ga 2,4). Nói thế, Đức Giêsu có vẻ như hẹn với Đức Maria một giờ nào đó hãy xin. Hôm nay, Giờ Đức Giêsu đã đến, nghĩa là Giờ Đức Giêsu được tôn vinh vì Người đã vâng ý Chúa Cha mà chịu chết, Giờ ấy đã đến trên thập giá, Người trao cho Đức Maria chẳng những gia đình tân hôn hôm ấy phải chăm lo, mà còn tất cả các môn đệ của Người, tất cả những ai tin vào Người trong quá khứ cũng như ở tương lai. Đó là ý nghĩa của câu : “Thưa Bà, đây là con của Bà”.
Lạy Cha, sao Cha bỏ con
Vào độ 3 giờ, Đức Giêsu kêu lớn tiếng. Đây không phải là tiếng kêu la của con người khi bị đau đớn tột độ.
Đức Giêsu kêu lớn tiếng rằng : “Ê-li, Ê-li, lê-ma sa-bác-tha-ni”, nghĩa là : “Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao ?”.
Thánh vịnh 22 mở đầu bằng đau khổ, nhưng kết thúc trong hy vọng. Nên, khi đọc Tv 22,2, Đức Giêsu muốn nói lên nỗi khốn khổ của mình trên thập giá, nhưng đồng thời cũng khẳng định niềm hy vọng vững chắc rằng, Chúa Cha sẽ cứu mình.
Kêu một tiếng lớn :
Có kẻ cho rằng la như thế là dấu chỉ Người thất vọng, hoặc là dấu Người còn sức mạnh. Tuy nhiên, đây chỉ là một công thức thường gặp trong Thánh Kinh (Cv 14,10 ; 26,24 ; Lc 17,15 ; 19,37), và thường dùng để lưu ý đến lời nói tiếp sau. Lời nói ấy là lời nói nào ? Thánh Mát-thêu không nói, nhưng thánh Luca và thánh Gioan có nói (Lc 23,46 ; Ga 19,30).
Hoàn tất (Ga 19,30) - Phó thác (Lc 23,46) :
Theo thánh Gioan thì, trước khi tắt thở, Đức Giêsu nói : “Mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19,30). Lời ấy cho chúng ta thấy rằng Đức Giêsu suốt đời những muốn chu toàn Thánh Ý Chúa Cha được ghi chép trong Thánh Kinh (Ga 4,34 ; 6,38 ; 17,4 ; 13,1), và, hôm nay, Người đã chu toàn tất cả Thánh Ý Chúa Cha : từ việc nhập thể trong lòng Đức Maria cho đến chuyện uống giấm vừa xong, tất cả đều được thực thi đúng mức. Thật là tốt đẹp, một sứ mệnh cao cả được chu toàn.
Theo thánh Luca thì trước khi tắt thở, Đức Giêsu kêu lớn tiếng : “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Câu này, Người mượn ở Tv 31 (30),6. Mà Thánh vịnh này là lời của người sầu khổ kêu xin, phó thác. Nên, khi dùng Thánh vịnh này kết thúc cuộc đời, Đức Giêsu cho thấy Người phải khốn cùng, nhưng sống chết vẫn cầu xin, phó thác vào bàn tay Thiên Chúa.
Trút hơi thở :
Sau đó, các sách Tin Mừng nói : “Người tắt thở” (Mc, Lc), “Người trút hơi thở” (Mt), “Người trao hơi thở” (Ga). Chúa chết, sự việc thật là to tát, nhưng được diễn tả bằng vài chữ ngắn gọn. Mà cũng phải, vì sự việc như thế, không nên mô tả bằng lời văn lãng mạn, và cũng không thể mô tả bằng ngôn ngữ loài người. Tốt hơn hết là nói ít hoặc làm thinh.
Sứ mệnh chu toàn, Người phó thác linh hồn rồi ra đi. Và, theo thánh Gioan, thì cả việc ra đi này, Đức Giêsu cũng chủ động chứ không phải vì kiệt sức, hết hơi.
Đức Giêsu bị treo trên thập giá và, lúc ba giờ chiều, Người tắt thở. Trước mắt người phàm, thì Đức Giêsu thất bại hoàn toàn, lại còn phải ô nhục. Người đau khổ đến nỗi phải kêu lên.
Người kêu, nhưng Chúa Cha vẫn làm thinh. Loài người lại còn chế giễu. Người kêu lên như thế, có phải là vì thất vọng không ? Thưa không.
Đức Giêsu đã dùng lời Thánh vịnh 22 (21) mà kêu. Mà Thánh vịnh này kết thúc với tâm hồn trông cậy. Mà cũng phải. Thực thì Đức Giêsu đã chết ; và tất cả những gì là đặc biệt của cái chết của người phàm, đều thấy có trên thập giá chiều hôm ấy.
Tuy nhiên, cái chết của Đức Giêsu chỉ là một cuộc vượt qua, vì Người sẽ sống lại vinh hiển. Hơn nữa, nó đổi thay số phận loài người, mang lại cho loài người sự sống vĩnh cửu. Những biến cố xảy ra chiều hôm ấy cũng đủ để minh chứng điều ấy : Đền thờ, cảnh vật, những người lành của Cựu ước và nhất là người dân ngoại (Mt 27,54).
Lạy Chúa, Chúa đã chết để cứu sống con Chúa đã chấp nhận nhục nhã tủi hổ Để con sống trong sự tự do hào hùng của người con cái Chúa
Hôm nay chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu trên Thập giá trong khuôn mặt của Ngài để chúng ta biết Ngài là ai.
- Tại Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu đề nghị các môn đệ đi với Ngài và ở lại với Ngài. Rồi Ngài bị đám đông quân lính đến bắt. Bị dẫn đến tòa Philato. Philato giới thiệu Ngài trước mặt đám đông có mặt tại Giêrusalem để chuẩn bị mừng lễ Vượt Qua của người Dothái. Chúa bị đánh đòn, bị lột áo, bị dẫn lên đồi Gongotha và chịu treo trên thập giá. Thánh Luca kết thúc cảnh tượng này với câu nói: “Tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những việc xẩy ra, liền đấm ngực trở về. Đứng đằng xa có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilea, họ cũng chứng kiến”.Thánh Gioan kết luận: “Họ nhìn Đấng mà họ đã đâm thâu qua”.
- Một lát nữa, chúng ta cũng nhìn Chúa Giêsu bị đóng đinh. Tại sao chúng ta phải mở Thánh giá ra cho mọi người? Tại sao chúng ta lại tôn kính Thánh giá? Thưa: Vì tội của chúng ta cần phải được thấy, cần phải mở ra, không được che dấu nữa! Tội của chúng ta làm cho Chúa Giêsu phải gánh lấy, đến nỗi Ngài kêu lên: “Lạy Cha, sao Cha bỏ con”? Tội của chúng ta gây nhiều tai hại kinh khủng và những hậu quả khác… Tội của chúng ta làm chúng ta phải chết và xa lìa Thiên Chúa. Thôi! Chúng ta đừng khờ dại chạy trốn nữa! Hãy cứ ở lại đây! Vì chưng mở tội lỗi ra, đó là mở lòng yêu thương của Thiên Chúa: “Chúa Giêsu, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng”.
Đó là điều mà hôm nay chúng ta cử hành, chúng ta đến xem và chúng ta chiêm ngắm: chiêm ngắm tình yêu đã mở ra, tình yêu được giãi bày cho mọi người biết, tình yêu chiến thắng cho đến cùng, tình yêu chiến thắng sự chết và tội lỗi.
Vâng, hôm nay chúng ta cử hành cuộc thắng trận của tình yêu được giãi bày trên một Thập giá tùy theo mỗi người. Thật là kinh ngạc; một viên sỹ quan kêu lên: “Đúng thật người này là Con Thiên Chúa”. Chúng ta cũng vậy! Chúng ta đã ngây dại và đần độn. Đã đâm thâu Con duy nhất của Thiên Chúa, nhưng hãy khám phá ra rằng Chúa đã yêu chúng ta. Chúa đã chết, vâng Chúa Giêsu đã chết; Vua vũ trụ đã chết trong sức mạnh tình yêu ngọt ngào dịu dàng biết bao! Chúng ta chiêm ngắm Đấng đã chết, chết vì yêu.
- Chúng ta thấy trong bàn tay Chúa trên Thập giácó tất cả những bàn tay khép kín và sợ sệt của chúng ta. Biết bao lần chúng ta không yêu và không mở bàn tay ra cho người khác.
- Chúng ta thấy trong bàn chân Chúa chịu đóng đinh có tất cả những bước chân chối từ của chúng ta không để cho Ngài hướng dẫn, không vâng theo Ngài và phó thác vào Ngài, không muốn đến nơi mà chúng ta cần phải đến. Chúng ta đã phạm tội vì chúng ta không để Ngài hướng dẫn chúng ta trên con đường tình yêu khổ nạn. Chúng ta hãy xin Ngài ban ơn phó thác.
- Chúng ta thấy trong trái tim bị đâm thâu của Chúa Giêsu có tất cả những thiếu sót tình yêu của chúng ta. Hãy xin Ngài ban ơn cho chúng ta biết mở ra con tim chúng ta để chúng ta có một con tim dịu dàng và yêu mến, không hận thù oán ghét.
Vâng, hôm nay chúng ta mệt nhọc vì tội lỗi chúng ta. Giống như Phêrô, chúng ta đã chạy trốn, đã chối Thầy. Chúng ta đã chọc gai chúng ta vào đầu Chúa. Trước cái nhìn yêu thương của Chúa, như Phêrô chúng ta có thể khóc bằng nước mắt bình an, nước mắt từ đáy lòng, nước mắt của đứa trẻ thơ muốn tìm lại được tình yêu. Và cuối cùng chúng ta sẽ được yêu và yêu mãi. Mọi sự đã hoàn thành.
Một lát nữa chúng ta sẽ suy tôn Thập giá. Khi suy tôn, chúng ta nhận được hoa trái của Thập giá, đó là:
- Hãy đón nhận Đức Maria, Mẹ liên kết rất mật thiết với thập giá. Đón nhận Ngài là một người Mẹ. Ôi món quà tuyệt vời! Mẹ Maria dưới chân thập giá và dưới chân những đau khổ của chúng ta, dưới chân cả tội lỗi chúng ta. Mẹ cầu cho chúng ta!
- Khi chiêm ngắm thập giá, chúng ta có thể nói với Chúa Giêsu về tình yêu của chúng ta bằng hương thơm con tim của mình. Chính Chúa Giêsu khát chúng ta. Ngài khát một lời cầu nguyện sâu xa đầy tình yêu của chúng ta. Hoa quả của Thâp giá chính là một tình yêu được canh tân cho Chúa Kitô. Đức giáo hoàng Phanxicô nói: “Chiêm ngắm Chúa Giêsu trên Thập giá, không phải chỉ chiêm ngắm vết thương cạnh sườn Ngài, nhưng là đi vào sâu trong trái tim của Ngài”.
- Hơn nữa hoa quả quý trọng nhất của Thập giá, chính là có thể nhận xác Chúa Giêsu như Giuse Arimathia. Thân xác Chúa Giêsu chỉ muốn nên một với chúng ta. Thân xác nơi Bí tích Thánh Thể quý trọng này, chúng ta có thể đón nhân trong bất kỳ lúc nào.
Sau cùng, khi mang thập giá, chúng ta có thể như Nicodemo đến với Chúa ban đêm vì sợ người Dothai. Nhưng từ nay chúng ta hãy đến với Chúa vào ban ngày để bảo vệ đức tin chúng ta, như Chúa đã bảo vệ chúng ta khỏi sợ sệt. Tôn kính Thập giá, đón nhậnThập giá, là trở nên nhân chứng của Chúa Giêsu.
Cộng đoàn phụng vụ thân mến, giờ đây chúng ta cùng nhau tín thác vào Vua vũ Trụ 10 lời cầu xin. Với những lời cầu xin này, chúng ta hướng tâm hồn lên Ngài, xin Ngài tái tạo thế giới, đặt sự sống vào mọi nơi và mọi người. Xin Ngài làm sống lại tất cả những gì đã chết cũng sẽ được sống và sống lại như Ngài. Amen!
Hôm nay chúng ta cửa hành ngày đầu tiên của Tam Nhật Thánh, ngày Chúa chết. Có người hỏi : Thánh sao được khi mà chính tội lỗi chúng ta đã giết chết Thiên Chúa, ngày đại tang của Giáo hội kia mà? Thưa, vì qua cái chết của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót bao la đối với nhân loại, và đã cứu chuộc chúng ta. Ngày này là ngàychiến thắng của Thập Giá, chính từ trên Thánh Giá, Chúa Giêsu đã trối lại cho chúng ta người mẹ tuyệt hảo nhất của chính Chúa là : Đức Maria, tha thứ cho những kẻ giết Chúa và lòng tin cậy vào Thiên Chúa là Cha.
Chúng ta đã nghe thấy những điều nói trên trong Bài Thương Khó Đức Chúa Giêsu theo thánh Gioan, hiện diện trên đồi Calvariô có Mẹ Người là Đức Maria, cùng với một số phụ nữ thánh thiện khác. Đây là một trình thuật giầu tính biểu tượng, mọi cử chỉ, lời nói, hành động đều có ý nghĩa. Ngay cả sự thinh lặng và chay tịnh của Giáo hội hôm nay cũng giúp chúng ta sống bầu khí cầu nguyện, ý thức rõ về hồng ân mà chúng ta đang cử hành.
Trước mầu nhiệm cao cả này, chúng ta được mời gọi để nhìn lên phía trước. Niềm tin của chúng ta, những người tin vào Thiên Chúa, không phải là tôn thờ một Thiên Chúa trừu tượng xa vời chúng ta không biết, nhưng là liên đới với một Ngôi Vị sống động là Chúa Giêsu, con Thiên Chúa làm người, là Thiên Chúa thật và là người thật. Đấng Vô Hình đã nhập thể làm người trong thế giới hữu hình, đã sống trọn thân phận con người cho đến chết và chết trên thập tự. Cái chết của Chúa Giêsu là cái chết cứu chuộc, một cái chết mang lại sự sống cho loài người. Cái chết ấy chính là của lễ cao cả dâng lên Chúa Cha, được Chúa Cha ưng nhận đã trở nên giá chuộc cho nhiều người. Những người đứng bên Thánh Giá đã chứng kiến và sống, đồng thời truyền lại cho chúng ta, chúng ta khám phá ra ý nghĩa của cái chết này.
Chúng ta hay đem lòng ngưỡng mộ và biết ơn. Chúng ta biết cái giá của tình yêu: "Không có tình yêu lớn lao hơn tình yêu của người hiến mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13). Kinh nguyện Kitô giáo không chỉ là cầu xin, mà trên hết vẫn là để ngưỡng mộ với lòng biết ơn.
Chúa Giêsu, đối với chúng ta, là mẫu gương cho chúng ta học đòi bắt chước, nghĩa là được tái hiện trong ta. Chúng ta phải là những người yêu thương đến thí mạng sống mình và tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha trong mọi hoàn cảnh.
Điều này trái ngược với bầu không khí thờ ơ của xã hội hôm nay; chính vì thế chúng ta phải là những chứng nhân dũng cảm hơn bao giờ hết, vì tất cả là hồng ân. Như Mêlitô thành Sarđi nói: "Người làm cho chúng ta từ nô lệ sang tự do, từ bóng tối đến ánh sáng, từ sự chết cho đến sự sống. Người là Lễ Vượt Qua cứu độ chúng ta".
Lạy Chúa, chúng con tôn thờ Thánh Giá Chúa, vì Chúa đã dùng Thánh Giá mà cứu chuộc thế gian. Amen.
Với những lời hát rất sâu lắng ấy, tác giả đã dẫn đưa chúng ta đi vào tâm tình của ngày Thứ Sáu Tuần Thánh trong thinh lặng.
Thinh lặng để thấy, hiểu, để cảm nghiệm và để thay đổi lối sống cho phù hợp với những gì tốt lành mà mình đã thấy, hiểu và cảm nghiệm.
Thinh lặng còn làm cho chúng ta đi vào tâm tư của người khác để cùng họ sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn.
1. Thinh lặng để thấy
Cũng vậy, trong cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, chúng ta rất cần sự thinh lặng để sống những tâm tình vừa nêu ở trên!
Trước tiên, thinh lặng để thấy: thấy Đức Giêsu là Đấng rất thương những người nghèo khổ, những người thấp cổ bé họng, người ốm đau bệnh tật. Từ đó, Ngài không thể lặng im khi những điều đó xảy ra với con người dưới những chiêu bài “đánh lận con đen” khi nhân danh tôn giáo, đạo đức, người nghèo để làm khổ nhau.
Ngài không chỉ lên tiếng gián tiếp, nhưng Ngài đã “chỉ mặt đặt tên” nơi những con người có tâm đen tối. Ngài không chỉ nói mà còn hành động. Ngài không sợ chết mà ngược lại, sẵn sàng lấy mạng sống của mình bảo vệ những người bị ngược đãi để đổi lấy sự công bằng.
Chính vì thái độ và lựa chọn của Đức Giêsu như vậy, nên chúng ta thấy Ngài đã bị những người Pharisêu, Kinh Sư, Thượng Tế ghét bỏ và tìm mọi cách để hạ sát. Với họ, Đức Giêsu chính là cái gai trong mắt, cái đó ngáng đường. Họ luôn coi Ngài là thành phần nguy hiểm, cần phải loại trừ ra khỏi xã hội.
Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận thấy phản ứng chống lại Đức Giêsu của những nhà lãnh đạo Dothái thời bấy giờ rất gắt gao do những nguyên nhân như: ghen tương, thù hận, gian dối, kiêu ngạo.
Bên cạnh đó, chúng ta còn nhìn thấy thái độ hoang tưởng và vụ lợi của Giuđa; sợ hãi của Phêrô cũng như các môn đệ khác; sự thay trắng đổi đen của dân chúng; sự hèn nhát, nhập nhằng của Philatô….
Trên đây là những điều chúng ta thấy được qua cuộc thương khó của Đức Giêsu.
2. Thinh lặng để hiểu
Khi đã thấy được nguyên nhân dẫn đến cái chết của Đấng Cứu Thế, giờ đây, chúng ta cùng nhau thinh lặng để hiểu về cuộc thương khó này dưới cái nhìn cứu độ.
Trong cuộc thương khó của Đức Giêsu, chúng ta thấy có hai tên trộm: một người được gọi là thánh trộm lành; một người phải gọi là kẻ trộm dữ. Tại sao vậy? Thưa, đơn giản là người trộm lành đã biết lắng nghe và hiểu được Đức Giêsu là ai! Đặc biệt, trong thinh lặng, anh ta còn nhận ra tội lỗi của mình để xin Chúa tha thứ. Còn tên trộm dữ đã không biết lắng nghe, ngược lại, hắn không ngớt chửi rủa và trách móc Đức Giêsu cũng như những kẻ đóng đinh hắn. Hắn không hiểu được ý nghĩa của cái chết nơi Đức Giêsu, vì thế, hắn đã tự mình đánh mất “phao cứu sinh” cuối cùng của cuộc đời đầy tội lỗi. Và như một lẽ tất yếu, hắn đã phải chết như một kẻ xa lạ với ơn cứu chuộc mà Đức Giêsu mang lại qua cái chết của Ngài.
Cũng như người trộm lành, qua cuộc thương khó của Đức Giêsu, chúng ta hiểu được rằng: tình yêu của Thiên Chúa là vô hạn. Tình yêu ấy đã đi bước trước để đến với nhân loại qua việc trao ban chính Con Một, để những ai tin vào Con của Người thì được sống và sống dồi dào.
Đến lượt Đức Giêsu, tình yêu ấy được nở hoa cứu độ ngay trên thập giá, bởi vì: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu”.
Như vậy, chỉ trong thinh lặng, chúng ta mới có thể nhận ra và cảm nghiệm sâu xa về cái chết của Đức Giêsu là vì tình yêu, đồng thời, qua đó, chúng ta sẽ nhìn thấu tội lỗi của chính mình và của nhân loại, ngõ hầu ăn năn, sám hối, để được đón nhận ơn tha thứ từ mầu nhiệm khổ nạn của Đức Giêsu.
3. Thinh lặng để đổi thay
Từ những gì đã thấy, đã hiểu, đã cảm nghiệm, có lẽ mỗi người chúng ta đều có với nhau một mẫu số chung, đó là: bất bình, lên án những người đương thời với Đức Giêsu vì sự ác tâm, thất đức của họ, khiến Đức Giêsu phải chết một cách đau thương tức tưởi như vậy!
Tuy nhiên, trong thinh lặng sâu lắng, chúng ta cũng nên làm một cuộc cật vấn lương tâm tận đáy lòng mình, để xem thử mình có liên quan gì đến cuộc thương khó của Đức Giêsu không?
Xét về mặt khách quan bên ngoài như địa lý, thời gian và đối tượng, có lẽ chẳng thể nào tìm ra được một ai có những hành động trực tiếp với Đức Giêsu như những người Pharisêu, Kinh Sư và Thượng Tế khi xưa. Nhưng, xét về sự liên đới tâm linh, chắc chắn chúng ta không thể vô can nếu không muốn nói là tàn ác chẳng thua kém những kẻ gây nên cái chết của Đức Giêsu, thậm chí còn nặng hơn nữa!
Thật vậy, nhiều khi chúng ta sống thực dụng, ham tiền, hám lợi và chuộng danh vọng, những lúc như vậy, chúng ta đâu khác gì các môn đệ của Đức Giêsu khi các ông tranh giành chỗ nhất - nhì trong vương quốc mà họ tưởng chừng Đức Giêsu sẽ lập chốn trần gian!
Lại nữa, sự phản bội, vô ơn và sống hai mặt, nhiều khi lại là lựa chọn chủ đạo của chúng ta trong đời sống. Khi lựa chọn những thứ đó làm nền tảng cho đời sống của mình, chúng ta đâu khác gì Giuđa!
Rồi có lúc vì sợ mất chức, mất quyền, hay nhát đảm, nên đã không dám tuyên xưng đức tin của mình vào Chúa, nhiều khi chúng ta cũng từ chối thuộc về Chúa khi không dám đứng về phía sự thật để làm chứng cho chân lý. Những lúc như thế, hình ảnh, thái độ và lựa chọn của Philatô và Phêrô lại hiện lên thật rõ nét trong từng hành vi và lời nói của chúng ta!
Cuối cùng, đám đông dân chúng khi xưa do thiếu hiểu biết, nên đã bị giới lãnh đạo tôn giáo “giật dây”, vì thế, họ đã phản bội Đức Giêsu. Mới ngày nào họ muốn tôn Ngài làm Vua. Sự kiện đó chỉ cách hôm nay có mấy ngày, họ đã long trọng đón Vị Vua ấy vào thành với tư cách là Đấng Thiên Sai, là Vua Israel. Miệng họ cũng đã từng tung hô vang trời lở đất để đón Chúa vào thành. Tuy nhiên, ngày hôm nay, họ đã thay đổi hoàn toàn!
Nhiều khi chúng ta cũng vì cái bụng mà sẵn sàng gian lận, đổi trắng thay đen, hay đã có những lần ta tìm mọi cách kéo Chúa về với phe ta, mặc dù biết những việc ta làm là sai trái…. Hoặc nhiều khi chúng ta cũng sống theo kiểu a dua với đám đông: “Ai sao tôi vậy, ai làm bậy tôi cũng làm theo!”.
Đôi khi chúng ta cũng nhân danh Chúa để làm những điều khuất tất, hoặc lấy Chúa làm bình phong cho những trái khuấy của mình! Lúc không được như ý muốn, chúng ta cũng phản bội Chúa bằng việc quay lưng lại với Ngài khi sẵn sàng tôn thờ một ngẫu tượng nào đó thay cho Chúa. Không còn lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam cho cuộc đời mình, ngược lại, chúng ta đã lấy lời của những thày bói, thày mo và cô đồng….
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết noi gương trung thành, yêu mến và can đảm của Đức Mẹ; người “môn đệ được Đức Giêsu yêu mến”; những phụ nữ Giêrusalem; bà Verônica; ông Simong và những người đạo đức khác…. Đồng thời, khi suy tôn Thánh Giá Chúa Giêsu, chúng ta hãy học bài học vâng phục và yêu mến của Đức Giêsu với Thiên Chúa Cha cách tuyệt đối cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập tự. Từ đó, mỗi người sẽ tiếp bước trên con đường tình yêu ấy cách trung thành để đến với tha nhân như lời Đức Giêsu đã nói: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta”.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa khai trí mở lòng, để chúng con hiểu thấu được tình yêu mà Chúa dành cho chúng con qua mầu nhiệm thập giá. Xin cho chúng con dám cam đảm nói lên lời: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào ích gì?” Từ đó, chúng con biết trung thành, can đảm để thuộc trọn về Chúa và sẵn sàng làm chứng về Ngài trong mọi hoàn cảnh. Amen.
Tối Thứ Sáu Tuần Thánh hôm nay, chúng ta tụ họp lại đây để suy tôn Thánh Giá, tưởng niệm cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu. Nghi thức Thứ Sáu Tuần Thánh gồm có ba phần: Phụng vụ lời Chúa, tôn kính Thánh giá và rước lễ. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay tập trung vào những đau khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô và cho chúng ta biết lý do tại sao Người phải chịu những đau khổ này.
Bài Đọc 1 hôm nay trích trong sách I-sa-i-a và được gọi là Bài Ca Người Tôi Trung thứ tư, Thiên Chúa cho chúng ta biết 2 lý do tại sao Người Tôi Trung của Thiên Chúa phải chịu đau khổ. Lý do thứ nhất, Người Tôi Trung hay Người Tôi Tớ ở đây, ám chỉ Chúa Giê-su Ki-tô, mang lấy thương tích là tội lỗi của nhân loại chúng ta. Vì chịu quá nhiều đau khổ nơi thân xác, Người Tôi Trung không còn giữ được dáng vẻ con người nữa. Tiên tri Isaia đã được Thiên Chúa cho nhìn thấy trước thân hình của Chúa Giêsu treo trên thập giá.
Người bị bọn lính đập đánh, bị đội mão gai nhọn đâm thấu vào đầu với bộ mặt đầy máu và đau đớn. Thân hình đã rách nát. Với cảnh tượng như vậy, tiên tri Isaia tưởng rằng chỉ cần đưa Người ra trước quần chúng, thì họ sẽ động lòng trắc ẩn xin tha cho Người ngay. Nhưng theo bài thương khó thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe, Người đã bị đám đông dân chúng kết án, bắt vác thập giá lên đồi Canvê, bị đóng đanh và treo trên thập giá giống như một tội nhân. Đó là hình ảnh của Người Tôi Trung của Chúa đã chịu nhiều đau khổ.
Và lý do thứ hai Thiên Chúa cho chúng ta biết tại sao Người Tôi Trung phải chịu những đau khổ vì tội lỗi chúng ta. Người bị tan nát vì sự gian ác chúng ta. Người lãnh lấy hình phạt cho chúng ta được bình an, và bởi thương tích của Người mà chúng ta được chữa lành.
Trong bài đọc 2, thánh Phaolô xác nhận rằng, vì vâng phục thánh ý Chúa Cha mà Chúa Giêsu đã phải trải qua nhiều đau khổ để trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho những ai vâng phục Người. Thánh Phao-lô nói “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người.”
Ông bà anh chị em thân mến. Một lát nữa đây chúng ta sẽ tiến lên hôn kính Thánh Giá Chúa Ki-tô, khí cụ mà Người đã dùng để cứu rỗi nhân loại. Thập giá là một nghịch lý. Vào thời Chúa Giêsu, người ta khiếp sợ thập giá vì đó là một hình phạt đau đớn nhất mà tội nhân phải chịu. Nhưng thập giá đã trở thành Thánh Giá cứu độ, là dấu chỉ tình yêu cao cả và là một dấu hiệu báo cho chúng ta biết một cuộc toàn thắng tội lỗi và sự chết. Vì vậy, thánh Phaolô đã xác quyết rằng lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những người hư mất, nhưng đối với chúng ta, là những người tin, thì đó lại là sức mạnh và ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Như chúng ta biết có nhiều thập giá trong đời sống Kitô hữu. Có những thập giá về thể xác như bệnh tật, và có những thập giá về tinh thần như chịu đau khổ, chịu thiệt thòi hay hy sinh phục vụ vì đức tin, vì Tin mừng mà Chúa Giê-su Kitô muốn cho người môn đệ vác khi Người tuyên bố “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy.” Thế nhưng ông bà anh chị em thân mến, chúng ta không vác thập giá vì thập giá, nhưng vì chúng ta muốn thông phần với Chúa vào sự cứu rỗi của nhân loại.
Ông bà anh chị em thân mến. Vì yêu thương và để cứu chuộc nhân loại, Chúa Giêsu Kitô đã chấp nhận đau khổ, vác và chết trên thập giá, và Thánh Giá của Người là nguồn sức mạnh, đem lại ý nghĩa và niềm hy vọng cho những sự đau khổ của chúng ta. Thánh Augustinô cảm nhận và nói rằng “Ở đâu có yêu thương ở đấy không còn đau khổ. Và giả như vẫn còn đau khổ, người ta chấp nhận nỗi đau khổ vì yêu thương.” Thánh Augútinô muốn nói rằng khi ướp thấm tình yêu mến Chúa thì đau khổ và thập giá sẽ trở nên nhẹ nhàng, và mang lại ý nghĩa và ơn phúc cho cuộc sống Kitô hữu chúng ta.
Chúa Giêsu đã chịu đau khổ và chịu chết trên thập giá vì yêu thương và ban phát ơn sủng cứu độ cho chúng ta. Ngài nói cho chúng ta biết “Không có gì cao quí cho bằng chết cho người mình yêu.” Qua việc tôn kính Thánh giá Chúa Kitô tối hôm nay, chúng ta đi sâu vào mầu nhiệm thập giá Chúa Kitô, và cũng là nguồn sức mạnh, hy vọng và ơn cứu độ của Chúa cho chúng ta. Chúng ta thông phần đau khổ với Chúa để cùng được vinh quang với Người. Xin Chúa hướng dẫn chúng ta luôn sống trong tình yêu của Chúa, cụ thể qua cuộc sống hằng ngày trong gia đình, trong cộng đoàn. Xin cho chúng ta biết sống chan hòa tình yêu mến với mọi người. Mọi người trên thế giới biết từ bỏ những hận thù tranh chấp và khủng bố để xây dựng công lý và hòa bình. Xin Chúa đưa anh chị em chưa biết Chúa, những người đang sống trong lầm lạc được trở về cùng Giáo Hội, cùng Chúa. Xin Chúa cho tất cả mọi người trong giáo xứ chúng ta được sống trong tình yêu của Chúa, là dấu chỉ của sự hiệp nhất để làm sáng danh Chúa.
Thiên Chúa đã chất cây thập tự giá của Chúa Giêsu tất cả gánh nặng của tội lỗi chúng ta, tất cả mọi thứ bất chính gây ra bởi hết mọi Cain phạm đến anh chị em mình, tất cả mọi cay đắng và phản bội của Giuđa và Phêrô; tất cả mọi phù du của áp bức độc đoán, tất cả mọi kiêu căng ngạo mạn của những người bạn hữu sai lầm. Nó là một cây thập tự giá nặng nề, giống như đêm tối của những ai bị bỏ rơi, nặng như cái chết của những người thân yêu, nặng vì nó mang lấy tất cả những gì là xấu xa ghê tởm của sự dữ. Tuy nhiên, nó cũng là một thập tự giá hiển vinh như rạng đông sau một đêm dài vì nó biểu hiệu cho tình yêu của Thiên Chúa trong hết mọi sự, một tình yêu lớn lao hơn cả lỗi lầm của chúng ta và sự phản bội của chúng ta. Nơi thập tự giá chúng ta thấy cái quái gở của con người khi họ bị sai khiến bởi sự dữ; thế nhưng chúng ta cũng thấy được cả tình thương bao la của Thiên Chúa là một tình thương không xử với chúng ta theo tội lỗi của chúng ta mà là theo tình thương của Người.
Trước thập tự giá của Chúa Giêsu chúng ta có thể hầu như chạm tới được mức độ chúng ta vĩnh viễn được yêu thương tới đâu. Trước cây thập giá chúng ta cảm thấy chúng ta là "con cái" chứ không phải là "thứ gì" hay "vật gì", như Thánh Grêgôriô Cả đã nói, khi ngài ngỏ cùng Chúa Kitô bằng lời nguyện này: "Chúa Kitô của con ơi, nếu Chúa không hiện hữu thì con cảm thấy mình như là một tạo vật hữu hạn. Con được sinh ra và con cảm thấy mình bị tan rã. Con ăn uống, ngủ nghỉ và bước đi, con bị bệnh và được chữa lành. Vô vàn những ước muốn và dằn vặt dày vò cứ hạnh hạ con, con hoan hưởng mặt trời và hoa trái của trái đất này. Sau đó con chết đi và xác thịt con trở thành cát bụi như xác thịct của loài thú là những con vật không phạm tội. Thế nhưng phần con, con làm những gì mà chúng không làm chứ? Chẳng làm gì hết, nếu không phải Thiên Chúa làm. Chúa Kitô của con ơi, nếu Chúa không hiện hữu, tôi cảm thấy mình như là một tạo vật hữu hạn. Ôi Chúa Giêsu của chúng con ơi, hãy dẫn chúng con từ thập giá đến phục sinh, và dạy chúng con rằng sự dữ không phải là phán quyết cuối cùng. Tình yêu, lòng thương xót và sự thứ tha mới là phán quyết tối hậu. Ôi Chúa Kitô, xin giúp chúng con một lần nữa than lên rằng: 'Hôm qua con đã bị đóng đanh với Chúa Kitô; hôm nay con được hiển vinh với Người. Hôm qua, con đã chết với Người; hôm nay, con đang sống với Người. Hôm qua, con đã nằm trong mồ với Người: hôm nay con được sống lại với Người".
Sau hết, tất cả chúng ta hãy cùng nhau nhờ đến thành phần bệnh nhân, chúng ta hãy nhớ đến tất cả những ai lẻ loi cộ độc một mình dưới chân thập tự giá để họ tìm được nơi thánh giá thử thách quyền lực của niềm hy vọng, của niềm hy vọng vào cuộc phục sinh và tình yêu thương của Thiên Chúa
Đức Kitô đã không bị đóng đinh trong một Thánh Đường giữa hai hàng nến cháy lung linh, nhưng trên thập giá giữa hai người trộm cướp. Ngài bị treo lên đỉnh cao ở đồi Golgotha để cho mọi người nhìn thấy: Ngài đã chết cho mọi người.
"Dưới chân cây thập tự, ngước mắt nhìn lên cao. Ôi Giêsu thương đau, vì con Chúa gục đầu. Bóng Chúa mang thập hình, đứng giữa trời điêu linh. Thương con nên hy sinh, chịu mang kiếp tội tình".
(Đỗ vi Hạ: Xin vác lấy thập giá)
Khi suy tôn thánh giá, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy, lời nhắc nhỡ về một tình yêu bao la muốn ôm trọn cả nhân loại chúng ta: "Không có tình yêu nào cao quí hơn tình yêu của người dám thí mạng vì người mình yêu".
Từ một khí cụ độc ác ô nhục nhất, mà người ta đã nghĩ ra để hành hạ người khác, Đức Giêsu đã biến nó thành dấu chứng tình yêu:
- Tình yêu vâng phục đối với Chúa Cha. - Tình yêu dâng hiến cho nhân loại.
Vậy:
"Nay con xin vác lấy, thập giá đã lắm chua cay. Mong Cha thương đốt cháy, cuộc sống chất ngất mê say".
Trong suốt trình thuật Thương Khó, Tin Mừng Gioan chỉ kể lại duy nhất một lần về Đức Maria: “Đứng Thứ 6 Tuầnthánh-113
Trong suốt trình thuật Thương Khó, Tin Mừng Gioan chỉ kể lại duy nhất một lần về Đức Maria: “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria, vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Máđala. Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giêsu nói với thân mẫu rằng: ‘Thưa Bà, đây là con của Bà’. Rồi Người nói với môn đệ: ‘Đây là mẹ của anh’. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19,25-27).
Tuy không thường xuyên nhắc sự hiện diện của thân mẫu Đức Giêsu trên đường Thương Khó và Tử Nạn của con mình, nhưng mọi người đều hiểu Đức Maria không rời Con mình một bước, không xa con mình một giây, nhất là khi Con bị trói, bị đánh đập, đội mão gai, bị chế diễu, xỉ nhục, bị đám đông đả đảo, tố cáo, bị kết án tử hình, và tự mình vác thập giá đến nơi hành hình đóng đinh.
Không rời xa Con, nhưng “thinh lặng, đứng đó”, thinh lặng có mặt để chết với Con trong giây phút Con rướn mình kêu cầu Chúa Cha và tức tưởi chết trên Thánh Giá.
Thực không còn nỗi đau nào hơn nỗi đau của Mẹ phải đứng nhìn con chết treo, trần truồng như phạm nhân trọng tội; không còn nỗi khổ nào lớn hơn nỗi khổ của Mẹ phải nghẹn ngào nuốt vào tim tiếng nấc tàn hơi, cạn sức của Con giờ hấp hối; không còn tang thương nào đắng đót hơn cho lòng Mẹ trước thân xác con rũ liệt đầm đià máu và nước từ thương tích của đinh nhọn, lưỡi đòng; không còn nước mắt nào mặn hơn, xót hơn nước mắt của Mẹ khi ôm chặt xác con vừa được tháo xuống từ thập tự.
Đức Maria, Mẹ Đức Giêsu chịu đóng đinh đã có mặt trong mọi tình huống của Con mình với thinh lặng của trái tim cầu nguyện.
Mẹ đã thinh lặng ngay từ buổi Truyền Tin với tâm tình cầu nguyện của nữ tỳ Thiên Chúa: Xin vâng như lời sứ thần truyền (x. Lc 1,26-34); thinh lặng khi bào thai Giêsu do quyền phép Chúa Thánh Thần từng ngày lớn lên mà chồng mình là Giuse chưa được biết (x. Mt 1,18-25); thinh lặng khi “chết lặng” trước lời tiên tri của cụ già Simêon: “Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà” (Lc 2,35); thinh lặng khi con lạc mất ba ngày ở Giêrusalem, đến khi tìm lại được thì Con lại hỏi: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của cha con sao?” (Lc 2, 49); thinh lặng khi đồng hương Nadarét phẫn nộ tìm cách xô Con mình xuống vực, khi Con về thăm quê (x. Lc 4,28-30); thinh lặng khi đến gặp Con, “mà không làm sao lại gần được, vì dân chúng qúa đông” (Lc 8,19); thinh lặng khi thiên hạ thán phục, ngưỡng mộ Con, mà ca tụng Mẹ: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú” (Lc 11,27); thinh lặng khi Con nghe lời xin của Mẹ mà làm phép lạ cho sáu chum nước biến thành rượu ngon trong tiệc cưới ở Cana, vì nhà đám hết rượu giữa tiệc (x. Ga 2,1-11); thinh lặng dưới chân Thánh Giá, thinh lặng an táng Con, thinh lặng cả sau khi Con sống lại vinh hiển, và khi Mẹ hiện diện giữa Nhóm Mười Hai sau khi Con về trời (x. Cv 1,12-14).
Thực vậy, cuộc đời của Đức Maria, thân mẫu Đức Giêsu chịu đóng đinh là cuộc đời thinh lặng, nhưng không là thinh lặng của trí khôn rỗng tuếch, hời hợt, thinh lặng của tâm hồn vô cảm, lười biếng, thinh lặng của lối sống khép kín, ích kỷ. Trái lại, thinh lặng của Mẹ là thinh lặng của tâm hồn biết lắng nghe tiếng Chúa và “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2,51), thinh lặng của trái tim trung tín và kiên cường dám đón nhận thánh ý Thiên Chúa, dù “không hiểu lời Người vừa nói” (Lc 2,50), thinh lặng của cõi lòng khiêm nhu, hiền lành chỉ biết một dạ tri ân Đấng Toàn Năng đã đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn, và thương xót thực hiện bao điều cao cả (x. Lc 1,48-50); thinh lặng của người tôi trung tận tụy phục vụ đến hy sinh quên mình. Tóm lại, thinh lặng của Đức Maria là thinh lặng của cầu nguyện, vì tâm hồn cầu nguyện không ồn ào, huyên náo; trái tim cầu nguyện không huênh hoang, nhiều lời; tâm tình cầu nguyện không kiêu căng, tự đắc; thái độ cầu nguyện không biểu diễn, phô trương. Thinh lặng nơi Mẹ còn là gắn bó hiệp thông với Con là Của Lễ cứu chuộc nhân loại trên Thánh Giá; là tình yêu hiệp nhất nên một trong Hy Lễ duy nhất và tuyệt đối là Đức Giêsu dâng Chúa Cha; là lễ dâng của toàn thể nhân loại được hoà tan như giọt nước trong Máu sinh ơn cứu độ của Thiên Chúa làm người.
Tuần Thánh thương đau có Mẹ, Tuần Thánh lặng lẽ với Mẹ, Tuần Thánh thinh lặng cầu nguyện bên gối Mẹ cũng là đường dài Thánh Giá, cuộc Thương Khó liên lỷ của đời chúng con có Mẹ cùng đi, là lời cầu bé nhỏ, bất xứng của chúng con có thinh lặng bình an của Tình Mẹ.
Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người đã chọn con đường từ bỏ, nghĩa là không giữ bất cứ sự Thứ 6 Tuầnthánh-114
TMĐP- Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người đã chọn con đường từ bỏ, nghĩa là không giữ bất cứ sự gì cho mình (x. Pl 2,6-8) để chỉ còn lại một trái tim yêu thương vô cùng và đến cùng, một tấm lòng thương xót vô biên vô tận, một thân xác như tấm bánh được bẻ ra cho mọi người “được sống và sống dồi dào“ (Ga 10,10),
Phụng vụ Lời Chúa của thứ sáu tuần thánh một lần nữa cho chúng ta được chiêm ngắm và suy tôn Đức Giêsu “người Tôi Tớ trung tín của Thiên Chúa Giavê, Vua, Thượng Tế và Đấng Cứu Độ”, danh hiệu và dung mạo đã được Cựu Ước loan báo, và được thực hiện trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô trong Tân Ước.
Ngài là người Tôi Tớ trung tín của Thiên Chúa, khi xác tín: Thiên Chúa “là Đấng nhào nặn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ để tôi trở thành người tôi trung” (Is 49,5), vì “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ (Is 53,10), để “làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ” (Is 53,11), “đem nhà Giacóp về cho Người và quy tụ dân Ítraen chung quanh Người” (Is 49,5), nên đã tuyệt đối vâng phục thánh ý Chúa Cha, dù “bị người đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật”,”bị ngược đãi, chịu xỉ nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, mà chẳng hề mở miệng” (Is 53, 3.7). Vì thế, Thiên Chúa đã cho người tôi trung của Ngài “thành đạt, được vươn cao, nổi bật , và được suy tôn đến tột cùng” (Is 52,13).
Ngài vừa là Thượng Tế siêu phàm, vừa là Hy Lễ tuyệt đối để giao hoà con người tội lỗi với Thiên Chúa thánh thiện vì Ngài đã tuyệt đối vâng phục thánh ý Chúa Cha, như thánh Phaolô đã qủa quyết: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, vì Người đã được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Menkixêđê” (Dt 5,8-10). Vì thế, “nhờ Người, với Người và trong Người”, mà Thiên Chúa được tôn vinh, và loài người nhận được ơn tha tội để được sống đời đời trong hạnh phúc của những người được Thiên Chúa xót thương, xóa tội.
Ngài là Vua như Ngài đã tuyên bố trước quan Philatô (x. Ga 18,37), nhưng cắt nghiã cho quan hiểu rõ vương quốc của Ngài không là vương quốc thuộc thế giới này như mọi người thường thấy khi khẳng định: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Nhưng thật ra, Nước Tôi không thuộc chốn này” (Ga 18,36). Không thuộc về đất thấp này, nhưng thuộc trời cao, vương quốc của Thiên Chúa. Ngài còn cho quan tổng trấn và những người có mặt biết: con dân thuộc Nước Trời, công dân của vương quốc Ngài trị vì là những ai “đứng về phía sự thật”, những người yêu mến, tìm kiếm sự thật, vì “tôi sinh ra và đã đến thế gian để làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37).
Như thế, Nước Thiên Chúa không bị khoanh vùng bởi không gian, nên không có biên cương, lãnh thổ; cũng không bị giới hạn bởi thời gian, nhưng từ đời đời và mãi mãi thiên thu vạn đại, vì Nước ấy là Nước Trời, Vương Quốc Thiên Chúa dành cho hết mọi người không trừ ai ở mọi nơi, mọi thời, và điều kiện để được nhận làm con dân của Vương Quốc Thiên Chúa, chính là đứng về phía sự thật và nghe tiếng Đức Giêsu, Đấng là Sự Thật của Thiên Chúa, như chính Ngài đã măc khải: “Chính Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy” (Ga 14,6-7). Điều này nói lên chân lý: chỉ duy một mình Đức Giêsu là Sự Thật của Thiên Chúa, và ai muốn thuộc về Thiên Chúa đều phải đứng về phía Ngài và nghe tiếng Ngài.
Sau cùng, Ngài là Đấng Cứu Thế, Con Một Thiên Chúa được sai “đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Ngài, mà được cứu độ”, bởi “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16-17).
Không đến thế gian và cứu thế gian bằng quyền lực với “binh hùng tướng mạnh” như Ítraen trông đợi, nhưng Ngôi Lời Thiên Chúa đã cứu thế gian bằng “mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân” và “bằng lòng chịu chết trên cây thập tự” (Pl 2,7.8) để thực hiện đường lối cứu chuộc kỳ diệu của Chúa Cha là “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm gía chuộc muôn người” (Mt 20,28).
Tóm lại, Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người đã chọn con đường từ bỏ, nghĩa là không giữ bất cứ sự gì cho mình (x. Pl 2,6-8) để chỉ còn lại một trái tim yêu thương vô cùng và đến cùng, một tấm lòng thương xót vô biên vô tận, một thân xác như tấm bánh được bẻ ra cho mọi người “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10), nên làm Vua, Thượng Tế, hay Đấng Cứu Độ, Đức Giêsu luôn chọn thân tôi tớ trung tín đối với Thiên Chúa khi tuyệt đối vâng phục và thực thi thánh ý Chúa và phận đầy tớ khiêm hạ đối với con người khi quỳ xuống phục vụ và tự nguyện hiến mạng sống, chết thay cho con người trên Thánh Giá.
Hy Lễ Thánh Giá của Đức Giêsu, Đấng đã thinh lặng chịu sỉ nhục, chịu đánh đòn, chịu đội mão gai Thứ 6 Tuầnthánh-115
TMĐP- Hy Lễ Thánh Giá của Đức Giêsu, Đấng đã thinh lặng chịu sỉ nhục, chịu đánh đòn, chịu đội mão gai, chịu lên án, chịu đóng đinh, và chịu chết để đi đến cùng lòng thương xót của trái tim Đấng Cứu Độ.
Đau khổ mà còn khóc được, đau đớn mà còn rên la được, thì vẫn còn là đau đớn, đau khổ phần nào có thể hiểu được, nhưng khi không còn có thể khóc, không còn có thể kêu la, không còn có thể kể lể, nhưng toàn thân tê dại, chết trân, bất động, “đứng hình”, và chỉ còn lại yên lặng sâu thăm thẳm, thì đau đớn, đau khổ dưòng như đã vượt xa ngưỡng của sức người có hạn.
Các bài đọc phụng vụ của thứ sáu tuần thánh như đang đưa tâm hồn chúng ta vào bầu khí thinh lặng của lòng thương xót, ở đó chúng ta được mời gọi chiêm ngắm Đức Giêsu, người tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa Giavê, Thiên Chúa bị loài người nguyền rủa, xỉ nhục, tra tấn, vị Thượng tế vâng phục trải qua nhiều đau khổ vì tội lỗi của dân, Đấng Cứu Độ bị khai trừ, loại bỏ khỏi xã hội loài người và chịu đóng đinh như tội phạm nguy hiểm.
Không yên lặng sao được, vì còn lời nào để nói trước người tôi trung của Thiên Chúa: “mặt mày tan nát chẳng ra người, không còn dáng vẻ người ta nữa” (Is 52,14), “Người chẳng còn oai phong đáng chúng ta ngắm nhìn, dung mạo chẳng còn gì khiến chúng ta ưa thích” (Is 53, 2), nên chúng ta chỉ còn biết sửng sốt, yên lặng đứng nhìn.
Không yên lặng sao được trước vị Thượng Tế thánh thiện và tuyệt đối vâng phục, nhưng dường như bị Thiên Chúa bỏ rơi (x.Mt 27,46), và phải chịu vô vàn đau khổ để chuộc tội cho dân (x. Dt 5,7-9).
Không yên lặng sao được trước người tử tội hoàn toàn trong sạch và vô tội bị quy chụp đủ thứ tội, nào là xúi dân làm loạn, lộng ngôn, phạm thượng, chống lại Lề Luật, lại còn bị cáo buộc âm mưu phá bỏ Đền Thờ của Thiên Chúa.
Không yên lặng sao được khi bất công nghiền nát người công chính, bạo lực bức tử kẻ hiền lương, và Con Thiên Chúa tuyệt đối thánh thiện bị bàn tay con người tội lỗi đóng đinh vào thập giá.
Tuy thế, những lý do trên chưa đủ mạnh để chúng ta hoàn toàn yên lặng khi đứng trước Thánh Giá và thờ lạy Đức Giêsu chịu đóng đinh; những lý do ấy cũng chưa đủ thuyết phục để “làm cho muôn dân phải sững sờ, và vua chúa phải câm miệng” (Is 52,15), nhưng điều chưa ai thấy bao giờ, chưa người nào trên đời thấu hiểu mới là lý do của những sững sờ, yên lặng ở chúng ta và mọi người, điều ấy chính là sự thinh lặng của Đức Giêsu trên đường khổ nạn và trên Thánh Giá.
Như ngôn sứ Isaia đã báo trước: “Chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta, còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt, bị Thiên Chúa giáng họa, phải nhục nhã ê chề… Bị ngược đãi, người cam chịu, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (Is 53,4.7), Đức Giêsu, suốt thời gian bị tra khảo trước Thượng Tế Caipha và Philatô với những vu cáo, buộc tội và lên án hồ đồ, không chứng cớ đã không mở miệng đối chất, cãi vả, minh oan, nhưng yên lặng, trừ một vài lần vắn tắt lên tiếng khẳng định: Ngài không lén lút nhưng công khai giảng dạy (x. Ga 18,20-21), nếu Ngài nói đúng, sao lại đánh Ngài (Ga 18,23), Ngài nhận mình là vua, nhưng vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian, và Ngài “đến để làm chứng cho sự thật và ai đứng về phiá sự thật thì nghe tiếng Ngài” (x. Ga 18,33-37).
Trên đường vác Thánh Gía đế nơi hành quyết, Đức Giêsu cũng yên lặng, không oán trách, than van dù chung quanh, đám đông hiếu kỳ thị phi, đàm tiếu, thách thức Ngài, trừ một lần Ngài dừng lại an ủi chị em phụ nữ thành Giêrusalem khóc thương Ngài (x. Lc 23,28).
Sự yên lặng của Đức Giêsu trên đường Thánh Giá mỗi lúc một sâu lắng hơn cho đến khi chịu đóng đinh vào Thánh Gía, thì hầu như Ngài không nói lời nào nữa, ngoài những lời an ủi, tha tội và hứa ban hạnh phúc Nước Trời, trong khi các thủ lãnh buông lời cười nhạo, và lính tráng nhục mạ, chế giễu (x Lc 23,35-36).
Chính trong thinh lặng cam chịu mọi hình phạt dành cho tội nhân, Đức Giêsu đã nói lên lời an ủi thân mẫu và môn đệ Ngài thương mến (x. Ga 19,26-27); chính nhờ thinh lặng cầu nguyện, Đức Giêsu đã thốt lên lời nài xin Chúa Cha tha tội cho những kẻ làm khổ Ngài (x. Lc 23,34); chính ở thinh lặng chuộc tội, Đức Giêsu đã hứa với người gian phi cùng chịu đóng đinh bên phải Ngài: “Tôi bảo thật anh, ngay hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43).
Tóm lại, trong thinh lặng, Đức Giêsu đã bày tỏ lòng tình yêu vô cùng và đến cùng của Ngài đối với tội nhân; trong yên lặng, Con Thiên Chúa đã ôm hết nhân loại vào lòng thương xótcủa Ngài; trong thinh lặng, Đức Giêsu đã thể hiện trái tim từ mẫu của Thiên Chúa.
Sống thinh lặng với Đức Giêsu chịu đóng đinh trên Thánh Giá trong ngày thứ sáu tuần thánh, chúng ta dâng Chúa tâm hồn sầu đau, đôi mắt mòn mỏi, thân hình tiều tuỵ, hoàn cảnh ngặt nghèo, bước đường cùng khốn, cả những lời độc địa, điêu ngoa, những điều khủng khiếp, kinh sợ của những kẻ toa rập chống phá, và mưu toan lấy mạng sống chúng ta, để tất cả được trở nên của lễ hiệp dâng trong Hy Lễ Thánh Giá của Đức Giêsu, Đấng đã thinh lặng chịu sỉ nhục, thinh lặng chịu đánh đòn, thinh lặng chịu đội mão gai, thinh lặng chịu lên án, thinh lặng chịu đóng đinh, thinh lặng chịu chết để đi đến cùng lòng thương xót của trái tim Đấng Cứu Độ.
Thập giá Chúa Giêsu không phải là dấu hiệu của sự thất bại tủi nhục mà là biểu hiện của toàn Thứ 6 Tuầnthánh-116
Thập giá Chúa Giêsu không phải là dấu hiệu của sự thất bại tủi nhục mà là biểu hiện của toàn thắng vinh quang. Thập giá là ngai tòa Vua Giêsu tình yêu hiển thắng trong sứ mệnh cứu độ nhân loại.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, đối với người không có niềm tin thì Thập giá tiêu biểu cho một hình thức khổ đau thật nhục nhã, và rao giảng về Thập giá là sự điên rồ. Chính con mỗi lần đối diện với Thập giá cuộc đời, trí khôn như muốn nổ tung và lòng như muốn khăng khăng chối từ.
Nhưng hôm nay, nhờ mầu nhiệm Chúa chịu chết trên Thánh giá, Chúa đã đem lại cho khổ đau Thập giá một giá trị tuyệt vời: giá trị cứu độ trần gian. Vâng, Thánh giá là đỉnh cao của con đường cứu độ, là tiếng nói vĩ đại của lời yêu thương tha thứ tội lỗi nhân loại, là chặng đường Chúa đã đi để phục sinh một con người mới, một dân tộc mới. Con đường khổ đau Thánh giá mà Chúa đã đi trở thành lời mời gọi con bước theo: “Ai muốn theo sau Ta thì hãy từ bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình mỗi ngày mà theo Ta”.
Vâng, con đường mà Chúa đã đi làm rõ nét thêm Lời Chúa đã thưa khi nhập thể: “Này con xin đến để thi hành Thánh Ý Cha”, và lời thưa trên thánh giá: “Mọi sự đã hoàn tất”. Như vậy, đau khổ thập giá là cái Chúa đón nhận để xin vâng sứ mệnh Chúa Cha trao phó. Con đường đau khổ thập giá còn ghi đậm nét hình bóng Tình yêu Nhập thể, Tình yêu Cứu rỗi.
Xin cho con xác tín rằng theo Chúa là từ nay cả cuộc đời con, với từng phút giây, từng biến cố vui buồn sướng khổ, là những bước chân tiến vào con đường thập giá như Chúa. Xin cho con xác tín rằng cả cuộc đời con, với những trăn trở khắc khoải cho mình và tha nhân, là sợi chỉ đang kết dệt nên ơn gọi Kitô hữu mà đỉnh cao vẫn là Thập giá của Chúa. Amen.
Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy xuống …..” Người Do thái đã thách thức Chúa Giêsu như thế Thứ 6 Tuầnthánh-117
“Nếu ông là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi thập giá đi, và chúng tôi sẽ tin”. Người Do thái đã thách thức Chúa Giêsu như thế khi Người bị đóng đinh trên thập giá. Giả như chúng ta có mặt trên đồi Canvê chiều hôm ấy, liệu chúng ta có buông những lời thách thức đầy ngạo mạn ấy với Chúa Giêsu không? Tôi hồ nghi là có.
Trả lời như thế để đừng vội vã lên án những người đòi đóng đinh Chúa Giêsu. Đừng vội gọi người ta là quân dữ (với hàm nghĩa rằng mình tốt lành). Những lời thách thức kia có thể phát xuất từ niềm tin chân thành. Đã gọi là Thiên Chúa thì phải là Đấng toàn năng: “Tôi tin kính một Thiên Chúa toàn năng…”. Đã toàn năng thì làm gì chẳng được, huống chi xuống khỏi thập giá là chuyện quá dễ dàng! Mà nếu không xuống được thì rõ ràng không phải là Thiên Chúa rồi. Bản thân chúng ta lại không lý luận như vậy sao? Tại sao Chúa toàn năng mà lại để Hội Thánh phải chịu thiệt thòi đủ thứ thế này? Tại sao Chúa toàn năng mà lại không ngăn cơn sóng thần và động đất lại?
Đặt những câu hỏi như thế để thấy rằng khi Thiên Chúa chấp nhận để cho Con Ngài bị thế gian đóng đinh vào thập giá, Ngài đã bày tỏ cho ta thấy dung nhan một Thiên Chúa hoàn toàn khác. Đúng là Thiên Chúa toàn năng nhưng là sự toàn năng của tình yêu, tình yêu đi đến tận cùng, đến nỗi hiến dâng chính mạng sống mình cho thế gian được sống. Có thể nói Thập giá là cuộc cách mạng Copernique trong lịch sử tôn giáo, vì thập giá công bố một chân lý hoàn toàn mới về Thiên Chúa, mạc khải một dung mạo hoàn toàn mới về Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng toàn năng nhưng là toàn năng của Tình Yêu.
Có điều là người ta không dễ chấp nhận một Thiên Chúa như thế. Người ta dễ dàng tin rằng Thiên Chúa là Đấng quyền năng nhưng lại không dễ chấp nhận Chúa là Tình Yêu. Giuđa bán Thầy vì tham tiền. Cũng có cách giải thích rằng ông chủ trương bạo lực và muốn thúc đẩy Chúa Giêsu sử dụng bạo lực nhưng không được. Cuối cùng ông tìm cách dồn Chúa vào đường cùng với hi vọng Người sẽ phản ứng để tự vệ. Không ngờ Chúa Giêsu chọn con đường yêu thương đến cùng. Và Giuđa tuyệt vọng! Phêrô cũng thế. Phản ứng đầu tiên của ông là vung gươm vì muốn giải quyết vấn đề bằng bạo lực. Dân chúng buông lời thách thức cũng vì không chấp nhận được hình ảnh một Thiên Chúa yêu thương đến độ chịu đóng đinh thập giá. Điều đó vẫn tái diễn trong lịch sử Hội Thánh, chẳng hạn như những cuộc thánh chiến hoặc những tòa án xử người dị giáo.
Hiểu như thế, ngày nay, nếu suy tôn Thánh Giá để hô hào bạo lực thì chỉ là đi vào vết xe đổ của những cuộc thánh chiến, vốn chẳng đem lại vinh quang cho Hội Thánh mà chỉ để lại vết nhơ trong lịch sử mà ngày nay Hội Thánh phải lên tiếng xin lỗi nhân loại. Nếu suy tôn Thánh Giá chỉ để kích động oán thù, dù dưới bất cứ hình thức nào, thì e rằng đã phản bội sứ điệp của Thánh Giá.
Cho nên chiều nay khi cử hành nghi thức tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa và suy tôn Thánh Giá, xin Chúa cho chúng ta in sâu vào tâm trí mình chân lý này: suy tôn Thánh Giá là suy tôn tình yêu, tình yêu trọn vẹn, tình yêu đi đến tận cùng. Suy tôn như thế hàm chứa lời tuyên xưng tình yêu để tình yêu ấy thấm nhập và định hướng đời sống ta. Chỉ có tình yêu mới đem lại sự sống phục sinh. Chỉ có tình yêu mới ban tặng ơn cứu độ. Và chỉ có chứng tá tình yêu mới đáng tin trong thế giới này.
Hôm nay là thứ Sáu Tuần Thánh, theo lễ nghi Phụng vụ, không có Thánh lễ, nhưng có rước lễ Thứ 6 Tuầnthánh-118
Hôm nay là thứ Sáu Tuần Thánh, theo lễ nghi Phụng vụ, không có Thánh lễ, nhưng có rước lễ, để kỷ niệm cái chết đau thương của Chúa Giêsu, giáo xứ chúng ta tổ chức nghi thức suy tôn Thánh giá Chúa. Trong giờ phút này, chúng ta hãy suy nghĩ về tình yêu bao la của Thiên Chúa đối với chúng ta qua cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá. Chúa đã tự nguyện chịu chết thay cho chúng ta, thì chúng ta cũng phải đáp lại tình yêu ấy cho cân xứng, bởi vì chỉ có tình yêu mới đáp lại được tình yêu.
Người ta kể rằng:có một người khách du lịch, một lần kia vào xem một nghĩa địa nhà binh ở Nashville. Người ấy thấy một người đàn ông đang lấy hoa đặt trên một nấm mộ. Người du lịch thấy thế, mới hỏi:
- Đây là mộ của con ông, phải không?
- Thưa ngài, không.
- Của một người bà con ông, phải không?
- Thưa ngài, không.
- Thế sao ông đặt hoa lên mộ?
Người kia cảm động, bỏ hoa xuống kể cho người du lịch nghe. Đó là khi chiến tranh bùng nổ, chính phủ bắt tôi phải đi động viên. Mà nhà tôi nghèo không thể có tiền để thuê người khác đi giúp. Nên tôi đành phải tuân lệnh chính phủ chuẩn bị lên đường. Đang khi tôi thu dọn đồ đạc và từ giã vợ con, thì một người bạn đến bảo: “Anh còn vợ và nhiều cháu dại, nếu anh đi sẽ không có ai làm ăn để nuôi chúng, nên anh hãy ở lại nhà, để tôi đi thay cho”. Tôi vui mừng sung sướng để người bạn đi thay. Chẳng may sau ít lâu bạn tôi bị thương nặng ở một mặt trận rồi chết. Người ta chôn bạn tôi ở nghĩa địa này. Được tin, tôi đã vội vã đi tìm mộ bạn tôi và ngày hôm qua tôi đã tới đây tìm được mộ của bạn tôi.”.
Rồi người đó lấy một mảnh ván viết chữ: “Người đã chết vì tôi” để đặt trên mộ người bạn.
Kể lại câu chuyện anh hùng của một người đi lính để chết thay cho bạn, tôi muốn nhắc cho anh chị em biết tới cái chết thê thảm của Chúa Giêsu, Đấng đã liều mạng sống, Đấng đã hy sinh thịt máu mình, Đấng đã chịu đóng đinh trên cây Thánh giá để cứu chuộc không những một người, một gia đình, một dân tộc, mà còn để cứu chuộc tất cả nhân loại, không những Ngài chết thay tội cho một thế hệ, mà cho mọi thế hệ, mọi thời đại. Chúa Giêsu chính là Đấng chăn chiên nhân lành, hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên.
Chính Chúa Giêsu là Đấng đã chịu chết cho mỗi người chúng ta. Chính Ngài đã chết thay cho mỗi người anh chị em cũng như tôi. Chính Ngài là Đấng mỗi người chúng ta phải viết một tấm bảng để đặt dưới chân Thánh giá Chúa: “Đấng đã chết vì tôi” hay nói: “Vì tôi mà Chúa Giêsu phải chết”.
Bởi vì chính tội lỗi chúng ta mà Chúa Giêsu phải hy sinh tính mệnh, chính vì tội lỗi chúng ta mà Chúa phải xuống thế làm người, phải chịu khổ cực vất vả và chịu đóng đinh một cách nhục nhã trên cây Thánh giá.
Đã phạm tội chúng ta phải đền tội, phải đổ máu, phải chịu chết. Các dân ngoại cũng đã làm như vậy, để xin thần phật tha tội cho họ, có dân đã phải giết trâu, giết bò để thế mạng, có dân đã giết những tù binh, có dân giết cả trẻ con, có dân khi thấy trời mưa bão, tưởng các thần thánh giận họ, họ lấy kiếm rạch đùi, lấy máu tung lên trời mà kêu: “Chúng tôi có tội, xin các ngài tha thứ cho chúng tôi”. Có dân lại lăn mình vào bánh xe nước rước các tượng thần có voi kéo để cho chết.
Mà để chịu chết đền tội cho xứng đáng theo phép công bằng, chúng ta phải nhờ người khác đền thay, chết thay. Người đó chính là Chúa Giêsu, chính là Chúa Cứu Thế đã tự nguyện chết thay cho chúng ta.
Chúng ta là những người đáng phải chết, chết vì tội tổ tông, vì tội riêng mình đã phạm, nhưng chúng ta đã được sống, được cứu rỗi vì có Chúa Giêsu liều mạng sống để chết thay cho chúng ta.
Chúng ta phải tỏ lòng yêu mến biết ơn Chúa, yêu mến biết ơn bằng giữ giới răn Chúa, bằng lấy tình yêu để đáp lại tình yêu, bằng lấy mạng sống để thế lại mạng sống, bằng quyết hy sinh đời mình để yêu mến Chúa và thương yêu tha nhân. Nếu Chúa Giêsu đã liều mạng sống vì chúng ta thì đáp lại, chúng ta cũng phải liều mạng sống vì Ngài.
Nếu chúng ta biết can đảm liều mạng sống vì Chúa và vì tha nhân, chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa bầu chữa cho chúng ta trước mặt Chúa Cha, giống như trường hợp một người lính Rôma bị đưa ra trước tòa án, anh ta xin yết kiến hoàng đế César và xin hoàng đế đến tòa án bênh vực và bầu chữa cho mình.
Hoàng đế César hết sức bỡ ngỡ vì thấy anh lính kia dám táo bạo như thế. Nhưng tỏ ra mình là người đại độ, cao thượng, ngài bèn phán với anh: “Ta sẽ cho một vị quan đi thay”. Tức thì người lính đó cởi áo ra, chỉ vào vết thương mà tâu: “Tâu ngài César, khi đánh trận, lúc tôi thấy một mũi tên sắp bắn tới ngài, chính tôi đã đứng ra đỡ mũi tên cho ngài”.
Chúng ta cũng vậy, nếu Chúa Giêsu đã không tìm người khác chịu đòn, chịu xỉ vả, đội mạo gai, vác thánh giá và chịu đóng đinh thay cho Ngài, thì chúng ta cũng đừng ngại chịu đau khổ, hy sinh vì Chúa. Chúa đã chết cho ta thì chúng ta cũng phải chết cho Chúa. Mọi tình yêu chỉ có thể đáp trả bằng tình yêu, và cái chết chỉ có thể trả bằng cái chết.
Trong nghi thức suy tôn Thánh giá hôm nay, chúng ta có tổ chức hôn chân Chúa. Trong tâm tình tri ân cảm tạ, chúng ta hãy kính cẩn hôn chân Chúa. Cái hôn của chúng ta không được giả dối như cái hôn của Giuđa, mà phải là cái hôn thành thật, diễn tả lòng yêu mến biết ơn như bà Maria Madalena đã hôn chân Chúa ngày xưa.
Hôn chỉ là một biểu trưng về hình tính của tình yêu, thật ra chúng ta luôn phấn đấu để tình yêu ấy không chỉ dừng ở biểu hiện bề ngoài mà nó phải thường trú mãi mãi tận trong tâm, để mỗi suy nghĩ, mỗi lời nói, mỗi hành vi của chúng ta đều xuất phát từ hai chữ tình yêu. Đạt được như thế nghĩa là chúng ta tin rằng Chúa luôn luôn ngự trị trong tâm trí mình.
Nhưng phận người vốn mỏng dòn, yếu đuối và nhiều tội lỗi nên chúng ta cần liên lỉ khiêm tốn cầu xin sức mạnh của Ngài đổ xuống và nâng đỡ chúng ta luôn mãi trong cả đời sống, không khi nào ngừng. Và chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta biết hôn chân Chúa từng giây, từng phút trong cuộc đời chúng ta.
"Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực." (Ga 19,35)
Hôm nay, chúng ta tưởng nhớ đến cái chết của Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta. Chúa đã chết... Thứ 6 Tuầnthánh-119
Hôm nay, chúng ta tưởng nhớ đến cái chết của Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta.
Chúa đã chết... Chết như nhiều người đã chết.
Ngày 5/9/1997, cả thế giới bàng hoàng và xúc động khi nghe tin Mẹ Têrêsa chết, chết tại thành phố Calcutta, sau một cơn đau tim đột ngột, hưởng thọ 87 tuổi.
Ngay sau cái chết của mẹ, báo chí đã đưa lên trang nhất những hàng tít lớn: "Mẹ của những người nghèo khổ đã ra đi" - "Vị nữ thánh của những người cùng khổ không còn nữa" - "Vị nữ thánh giữa đời thường đã vĩnh viễn ra đi."
Không phải chỉ thế giới đau buồn và cảm động trước cái chết của mẹ, mà nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới cũng bày tỏ lòng thương tiếc sâu sắc. Tổng thống Pháp Jacques Chirac đã gửi đến Calcutta bức điện chia buồn như sau: "Buổi tối hôm nay đã có ít tình yêu hơn, ít lòng trắc ẩn hơn và cũng ít ánh sáng hơn trên thế giới."
Tổng Thống Mỹ Bill Clinton đã nói: "Mẹ là người luôn gây ngạc nhiên, một trong những vĩ nhân của thời đại này."
Thủ tướng Tony Blair của nước Anh đã gửi đến Calcutta lời phân ưu: "Trong một tuần đầy bi kịch, thế giới lại càng buồn hơn vì một trong những người phục vụ nhiều lòng trắc ẩn nhất đã ra đi."
Nước Albani, quê hương thứ nhất của mẹ tuyên bố "Cả nước sẽ để tang mẹ ba ngày."
Tại Ấn Độ, nơi người Công giáo chỉ là thiểu số, thủ tướng Inder Kamar đã tuyên bố tổ chức lễ an táng mẹ tại sân vận động quốc gia New Delhi theo nghi thức quốc táng.
Vâng, đó là một cái chết, cái chết thật đẹp, đẹp còn hơn một giấc mơ. Ngày an táng mẹ, Đức Thánh Cha đã cử đặc sứ của Ngài tới. Rất nhiều nhà lãnh đạo đạo đời trên thế giới đã có mặt. Từ trước cho đến nay, chưa có nhà lãnh đạo nào trên thế giới này, được yêu thương đến như thế.
Mẹ Têresa đã chết.
Và gần 2000 năm trước Chúa Giêsu cũng đã chết.
Ngài đã chết, một cái chết mà Ngài đã báo trước: "Con Người sẽ bị nộp cho các Thượng tế và Kinh sĩ. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, sẽ đánh đòn và giết chết Người." (Mc 10,33-34)
Một cái chết đau thương đến cực độ, cô đơn đến cực độ, nhục nhã đến cực độ. Chúa Giêsu đã chết không phải như một "vị thánh lìa đời" hay như "Mẹ của những người nghèo khổ đã ra đi" - "Vị nữ thánh của những người cùng khổ không còn nữa" - "Vị nữ thánh giữa đời thường đã vĩnh viễn lìa bỏ chúng ta."
Cái chết của Chúa chẳng được nhà lãnh đạo nào trên thế giới bày tỏ lòng thương tiếc. Chẳng được một người nào trên thế giới gửi điện đến phân ưu, chẳng được quốc gia nào tuyên bố sẽ tổ chức tang lễ theo nghi thức quốc táng.
Một cái chết không có vòng hoa, chẳng có vòng cườm, và cũng chẳng có ai để tang.
Một cái chết không kèn, không trống, không người đốt cho một nén nhang, cũng chẳng ai thắp cho một ngọn đèn.
Vậy mà ngày hôm nay, hay nói đúng hơn, suốt hơn hai mươi thế kỷ nay, biết bao nhiêu con người đã, đang và vẫn còn phải ngậm ngùi, rơi lệ, không cầm được sự xúc động mỗi khi tưởng nhớ đến cái chết này.
Tại sao? Tại sao thế?
Câu trả lời: Vì đó là một cái chết đẹp, đẹp tuyệt vời. Không đẹp ở hình thức bên ngoài nhưng đẹp ở nội dung, ở ý nghĩa. Bởi vì đây là một cái chết của Con Một Thiên Chúa - đã tự nguyện hy sinh để chuộc tội cho cả loài người.
Với mẹ Têrêsa, cái chết của mẹ đã đẹp vì được cả thế giới tiếc thương. Cái chết của một con người đã dám dấn thân và trung thành với lý tưởng phục vụ trong yêu thương cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời - như lời mẹ đã từng hóm hỉnh tuyên bố sau một lần chết hụt như sau: "Tôi đã đến cổng Thiên Đàng nhưng thánh Phêrô bảo tôi: Trở lại đi con. Ở đây đâu có người nghèo khổ nào để con chăm sóc đâu, - thế là tôi trở lại - Đối với tôi, điều hạnh phúc nhất là có thể giúp cho người ta chết một cái chết xứng đáng với phẩm giá một con người."
Còn cái chết của Chúa? Đây không phải chỉ là cái chết của một con người, nhưng là cái chết của Người Con Một, Người Con Duy Nhất của Thiên Chúa, một cái chết: Không chỉ đơn giản như một sự lìa đời nhưng là một cái chết để nói lên sự trung thành tuyệt đối với ý muốn của Thiên Chúa, là thái độ yêu thương của một người con sẵn sàng làm mọi sự Cha muốn - cũng như sẵn sàng trả giá cho sự vâng phục đó bằng một lòng trung thành không có gì lay chuyển nổi - cho dù có phải hy sinh, tủi nhục, đau khổ, bị bỏ rơi và nhất là phải chết trên Thập Giá.
Vâng! Chúa đã chết.
Chúng con cám ơn Chúa đã chết vì yêu thương chúng con.
Xin cho chúng con biết sống xứng đáng với tình thương của Chúa và mãi trung thành với hồng ân cao quí Chúa đã dành cho chúng con. Amen.
Kinh Thánh là các văn bản thiêng liêng của nhiều niềm tin khác nhau, được viết trong giai đoạn Thứ 6 Tuầnthánh-120
Kinh Thánh là các văn bản thiêng liêng của nhiều niềm tin khác nhau, được viết trong giai đoạn hình thành của các niềm tin Do Thái và Kitô giáo; đây là các sách được các tác giả chép lại dưới sự linh hứng của Thiên Chúa trình bày chân lý mạc khải và mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân của Ngài.
Kinh Thánh là bộ sách gây ảnh hưởng nhiều nhất trong lịch sử loài người, được dịch nhiều lần, sang nhiều ngôn ngữ hơn bất cứ sách nào khác. Kể từ năm 1815, có khoảng hơn 5 tỉ ấn bản Kinh Thánh trọn bộ hoặc các phần quan trọng của Kinh Thánh được phân phối, trở nên sách bán chạy nhất trong mọi thời đại.
Kinh Thánh bắt đầu bằng câu chuyện thi vị, mang đầy sức sống với trình thuật sáng tạo và sự sống tràn đầy sinh lực xuất phát từ Thiên Chúa, đã làm nên vũ trụ vạn vật trong đó có con người, mang hình ảnh của Tạo hóa, làm chủ thế giới (x. St 1 - 2). Thế rồi, hình ảnh đẹp, đầy sức sống đó bị mất đi và con người tản mát khi tự cắt đứt nguồn sống với Thiên Chúa do bất tuân bằng hình ảnh ăn trái cấm: Ađam và Eva nguyên tổ mất địa đàng, con người đi vào đau khổ và đi vào sự chết... (x. St 3). Con người bị tản mát chia ly với tháp Baben... Nhân loại tưởng chừng không thể cứu vãn vẫn sẽ mãi đi trong sự tăm tối của sự chết, sự đau khổ bởi hậu quả của tội... Kinh Thánh đốt lên ánh lửa hy vọng thật cho chúng sinh khi kết thúc và khép lại bằng một hình ảnh đẹp tràn đầy hồng ân, thu hợp nhân loại đi vào sức sống mới, sức sống vĩnh cửu như ban đầu của Tạo hóa, nhờ Chúa Giêsu Kitô - Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc nhân loại bằng cái chết và phục sinh, và tập hợp con người vào vương quốc sự sống trường sinh. Các môn đệ của Ngài loan truyền Tin Mừng ấy cho toàn nhân loại.
Thứ Sáu Tuần Thánh, toàn thể Giáo hội theo bước chân vác thánh giá và dừng lại ở dưới chân thánh giá, Giáo hội tưởng niệm Ðức Giêsu chịu hiến tế trên thập tự: Ngài là Chiên Vượt Qua - con chiên được đưa tới lò sát để làm hiến vật. Ngài đã chịu khổ nạn và chịu chết trên thập giá để đem ơn cứu độ đến cho chúng ta. Vì thế Giáo hội tôn kính thánh giá, vì thánh giá là biểu tượng của tình yêu Thiên Chúa tự hiến cho con người. Thánh giá là cây sự sống mới cho toàn nhân loại như kinh phụng vụ ca ngợi:
Ôi thập tự, phước lành thế giới
Nguồn cậy trông cứu rỗi tràn lan...
Chiêm ngắm hình ảnh Chúa Kitô vác thập giá, chúng ta được mời gọi cùng vác thập giá là tất cả những gì xảy ra trong cuộc sống như Chúa Giêsu đã mời gọi trước đó: “Hãy vác thập giá mình hằng ngày” (Lc 9,23). Và ngày hôm nay, từng giây phút trong cuộc đời, Đức Kitô vẫn còn đang cùng ta vác thánh giá tiến về đồi Canvê. Mọi sự đau khổ, mọi khốn khó, vấp ngã, con người đều nương trong thập giá.
Cuối hành trình tử nạn, trên thập giá Chúa Giêsu đã ôm trọn nỗi khổ đau của nhân loại, Ngài chia sẻ đến cùng những khắc khoải khốn cùng nhất của con người, và là niềm hy vọng của con người về lẽ sống... Người trộm lành cùng bị án treo thập giá với Chúa Giêsu đã nhận ra con đường sự sống và anh đã đặt niềm hy vọng vào Ngài, dù hiện thực anh đang cùng phải tủi nhục treo trên thập tự. Ước chi mỗi chúng ta cũng cảm nghiệm được sự sống này:
Sen tươi tỏa ngát hương trầm Héo khô ôm ấp hạt mầm hoa sau Bàn tay Tạo hóa diệu thay! (NĐC).
Sen khô héo nhưng ôm hạt mầm như là hình ảnh của Đức Kitô trong cuộc tử nạn đầy đau thương, Ngài chết để cho nhân loại được sống... Từ nơi thập giá trên đồi Canvê, chính lúc Đức Kitô trút hơi thở cuối cùng, là lúc sự sống bắt đầu nảy sinh cho con người bằng hình ảnh nước và máu trào dâng (x. Ga 19,34). Theo truyền thống Thánh Kinh, máu tượng trưng cho sự sống (x. Lv 17,11-12), nước chính là nước rửa tội đưa chúng ta tái sinh vào cuộc sống mới (x. Ga 3,5).
Đường thập tự Thầy, đường sự sống Mỗi bước đi gieo một nụ hồng Giang tay chết treo trên thập tự Cứu người dương thế khỏi tử thần.
Sẽ luôn mãi là hình ảnh đẹp và tràn đầy sức sống: Thập tự giương cao trên đồi Canvê luôn vang vọng qua mọi thời mọi nơi: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13), một vị Thiên Chúa chết để cho con người sống: “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 4,9).
Ý lực sống: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính” (1Pr 2,24a).