Suy Niệm Tin Mừng Lễ Giáng Sinh 25/12 ABC Bài 201-250 Đấng Cứu thế đã sinh ra cho chúng ta -------------------------- Lễ Vọng 24/12 Phúc Âm: Mt 1,1-25 (bài dài) "Dòng dõi Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham. Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa; Phares sinh (bởi bà Thamar) và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít. Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Robo-am; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manas-se; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon. Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Salathiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô. Vậy, từ Abraham đến Ðavít có tất cả mười bốn đời, từ Ðavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, bà đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta". Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền. Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau, cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu. - Ðó là Lời Chúa.
Lễ Nửa Ðêm
Phúc Âm: Lc 2,1-14 "Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Ðây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Ðavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Ðavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai. Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán. Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: "Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Ðavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ". Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm". - Ðó là Lời Chúa.
Lễ Rạng Ðông Phúc Âm: Lc 2,15-20 "Các mục tử đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Khi các thiên thần biến đi, thì các mục tử nói với nhau rằng: "Chúng ta sang Bêlem và coi xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết". Rồi họ hối hả tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về Hài Nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ. Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó, và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ. - Ðó là Lời Chúa.
Lễ Ban Ngày (Bài dài) Phúc Âm: Ga 1,1-18 {hoặc 1-5.9-14} "Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta".
Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy. Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng. Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng. Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra. Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý. Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: "Ðây là Ðấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi". Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Ðức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Ðấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta. - Ðó là Lời Chúa.
Đêm Giáng Sinh, cả gia đình vui vẻ đi dự lễ, nhưng người chủ gia đình không đi. Ông nghĩ: GS-201
Đêm Giáng Sinh, cả gia đình vui vẻ đi dự lễ, nhưng người chủ gia đình không đi. Ông nghĩ Giáng Sinh là một câu chuyện huyền thoại, Thượng Đế mà thành một người là điều vô lý.
Đêm đông lạnh giá, vợ con đều đi lễ, một mình ông ở nhà, ngồi nghe gió lạnh rít qua khe cửa. Bỗng có tiếng đập mạnh vào cửa sổ. Hé rèm nhìn ra, ông thấy những con chim sẻ đang lao đầu vào cửa kính. Ông không muốn mở cửa dù thấy tội nghiệp lũ chim, vì ông sợ mưa hắt vào nhà. Những con chim bay vô sẽ làm náo động. Ông nghĩ nếu chúng muốn tìm chỗ ấm áp, an toàn thì có thể vào kho lúa ở phòng kế. Ông mặc áo ấm và đi hé mở cửa kho lúa. Nhưng không có cách nào kêu bầy chim vô kho lúa được, dù ông ráng gọi và ra hiệu. Những con chim không hiểu ý ông. Chúng vẫn lao đầu vô vọng vào các khung cửa kính có ánh đèn. Ông tự nhủ: giá mình là một chim sẻ thì mình sẽ dẫn cả bầy chim tìm được nơi trú an toàn ấm áp.
Nghĩ tới đó, ông chợt hiểu ý nghĩa của lễ Giáng Sinh. Con người rất khó mà hiểu Thiên Chúa, cũng như những chim sẻ không hiểu ý ông. Vì thế Thiên Chúa mới cần trở thành một con người, cần nói tiếng con người, sống cuộc sống con người, dù Ngài vẫn là Thiên Chúa. Có như thế, những ý định, những bài học của Ngài mới được con người thông hiểu và lãnh hội. Dĩ nhiên, Thiên Chúa trở thành một người có lẽ còn khiêm hạ hơn việc con người trở thành một chim sẻ. Nhưng ý nghĩa thì cũng tương tự. Cần trở nên một con chim để lãnh đạo bầy chim! Cần phải có một người, cũng là Thiên Chúa, để dạy dỗ và đưa con người đến ơn cứu độ.
Bài học đầu tiên lễ Giáng Sinh dạy ta là bài học khiêm tốn. Thiên Chúa cao cả quyền uy. Trong Cựu Ước, mỗi lần Giavê xuất hiện là có sấm chớp, mây gió làm dân chúng kinh hãi giấu mặt. Còn bây giờ Thiên Chúa Giáng Sinh nơi trần gian, Ngài đã chọn một xóm làng bé nhỏ. Nhưng ngay ở xóm làng bé nhỏ đó, Ngài cũng không có chỗ ở, phải ra cánh đồng tạm trú trong một hang đá. Mẹ Maria sinh Chúa, lấy tã bọc con và đặt nằm vào máng cỏ.
Người ta mong chờ Đấng Cứu Thế từ bao năm. Nhưng ai cũng nghĩ tới một Chúa Cứu Thế quyền uy, giàu có và mạnh mẽ! Còn đây Chúa tới như một em bé, hèn, yếu, chẳng ai biết tới và đón chào. Đường lối Thiên Chúa bao giờ cũng bí nhiệm, xem như nghịch lý, khó hiểu, ngay cả những người đạo hạnh cũng khó nhận ra.
Thiên thần Chúa đã đến với các mục đồng, những người nghèo, và ánh vinh quang Thiên Chúa bao phủ họ, ánh quang tỏa sáng, đó là dấu hiệu Thiên Chúa hiện diện. Hào quang Thiên Chúa thường xuất hiện nơi đền thánh. Từ đây, ánh quang đó che phủ những người nghèo. Chúa tự nhận mình vào số những người nghèo khó: “Việc gì các con làm cho một người nhỏ bé nhất, là các con làm cho Ta”.
Thiên thần loan báo một “Tin Vui”, một tin vui cho toàn dân. Đó là Chúa Cứu Thế đã Giáng Sinh, Ngài là Đức Kitô, là Thiên Chúa. Chúng ta có thấy tâm hồn hân hoan vui vẻ khi được đón Chúa vào lòng không? Muốn được niềm vui này, muốn nhận ra Chúa Cứu Thế và đón tiếp Ngài, phải theo đúng dấu hiệu thiên thần đã chỉ: “Một em bé sơ sinh, bọc tã nằm trong máng cỏ”. Phải đơn sơ khiêm tốn, không được khinh thường những người bé nhỏ khó nghèo. Chúa nằm trong máng như một thức ăn, để nuôi sống chúng ta.
Lạy Chúa, Ngài hạ mình xuống làm người, để dẫn đưa con người về với Chúa. Chúng con xin tạ ơn Ngài. Xin giúp chúng con theo gương Chúa, biết hạ mình phục vụ Chúa trong mọi người, trở nên anh chị em của mọi người trong xã hội hôm nay.
Vào năm 1994, hai nhà giáo Mỹ được bộ giáo dục Nga mời sang dạy. Nhân mùa Giáng Sinh: GS-202
Vào năm 1994, hai nhà giáo Mỹ được bộ giáo dục Nga mời sang dạy. Nhân mùa Giáng Sinh họ đến thăm một viện mồ côi, và kể chuyện Chúa Sinh Ra cho trẻ. Các em mồ côi cũng như ban quản đốc sung sướng há hốc mồm ngồi nghe họ kể chuyện Giáng Sinh. Sau đó, họ phát cho các em vật dụng thủ công để làm Máng Cỏ. Trong khi đi tới đi lui trông các em làm Máng Cỏ, họ ngạc nhiên khi thấy Máng Cỏ của bé Misha, trông chừng 6 tuổi, có đến hai bé sơ sinh nằm trong máng. Đức Mẹ sinh đôi? Không thể được! Bỡ ngỡ, nhưng bình thản, họ mời Misha kể lại đầu đuôi câu chuyện Chúa Sinh Ra. Nhỏ Misha kể rất thông suốt, rành mạch, đúng với Tin Mừng, từ lúc Truyền Tin cho đến khi hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ. Nhưng khi đến phần Đức Mẹ sinh Chúa Giêsu và đặt trong máng, thì em bắt đầu tự do cho thêm mắm muối: Khi Đức Mẹ đặt Bé Giêsu vào trong máng, thì Bé nhìn em và hỏi: em có chỗ ở chưa? Em thưa: Con đâu có cha, có mẹ, con đâu có nhà! Vậy thì em ở với tôi nhé! Nhưng em ngại ngùng: con đâu có quà gì để tặng Chúa như người khác được! Vì em rất mong muốn được ở với Bé Giêsu, nên em nghĩ em có thể tặng Chúa tất cả những gì em có: Hay là con ôm Chúa cho Chúa ấm được không?
Tuyệt, món quà quý đó chưa ai cho tôi cả. Thế là em nhảy ngay vào trong máng cỏ này và nằm ôm cho Chúa ấm. Chúa Giêsu cũng giang tay ôm lấy em và bảo: Em có thể ở với tôi luôn luôn. Vừa nói Misha vừa lấy tay chùi mắt chùi mũi. Lệ đã tuôn thành giòng trên gò má hốc hác của em bé mồ côi.
Hãy vào đây, hỡi những Misha, vì khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm. Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh chị em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy (Mt 25, 35-36, 40). Giữa lòng đời hôm nay cũng lắm trẻ thơ lạnh giá. Ngay trong xã hội Hoa Kỳ, và các nước tân tiến, giàu sang cũng đầy kẻ, đầy trẻ homeless. Không những homeless vì không có căn nhà để ở, không tìm được chỗ trong quán trọ, mà còn homeless ngay giữa bốn bức tường được cách hàn, cách nhiệt (insulation) vì phải sống giữa những trái tim được insulated - cách biệt quá kỹ bởi cá nhân chủ nghĩa, tư lợi chủ nghĩa, hưởng thụ chủ nghĩa,... bởi gia đình tan vỡ, ly dị, ly thân. Các em ấy đang mong đợi vòng tay ấm áp của bạn đó! Các em ấy đang giang tay mong chờ con tim bằng thịt, biết yêu, và yêu nồng nàn ấm áp của bạn đó! Và nếu lỡ các em ấy chính là người trong nhà bạn thì đau lắm! Lạnh ngắt con tim! Mời bạn mở rộng con tim, nhảy vào máng cỏ cuộc đời, sưởi ấm những bé thơ đang cần nhờ bạn, để không phải Đức Mẹ sinh đôi mà còn là Mẹ muôn người.
Xin Chúa Giêsu ngự trị con tim bạn! Chúa Giêsu ngự trị lòng ta, luôn luôn!
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
Nhìn vào bất cứ một hang đá nào chúng ta đều nhìn thấy hàng chữ trên, đây là sứ điệp của lễ: GS-203
Nhìn vào bất cứ một hang đá nào chúng ta đều nhìn thấy hàng chữ trên, đây là sứ điệp của lễ giáng Sinh Thiên Chúa gửi cho tất cả loài người, sứ điệp đó chính là lời ca hát tung hô của các thiên thần trên hang đá Bêlem xưa kia.
Trước hết, về việc tôn vinh Thiên Chúa, chúng ta thấy các thiên thần, đất đá, cỏ cây, trời đất… còn biết ca tụng vinh quang Thiên Chúa, còn con người chúng ta thì sao? Biết đâu chúng ta sống mà không sống tôn vinh Thiên Chúa, tệ hơn nữa, có thể chúng ta còn ăn cắp vinh danh Chúa hoặc xóa bỏ vinh danh Ngài. Đáng lẽ của Thiên Chúa phải trả cho Ngài, đáng lẽ chúng ta phải làm cho người khác biết mà ca ngợi Cha chúng ta trên trời thì chúng ta đã làm ngược lại chăng? Vì thế, chúng ta hãy tôn vinh danh Chúa trong cuộc đời chúng ta và bằng chính con người chúng ta, nghĩa là chúng ta hãy thể hiện bằng việc phục vụ mọi người và phục vụ bằng những việc làm tốt. Chúng ta hãy nhớ: bao lâu chúng ta còn sống với người khác và trong xã hội, bấy lâu chúng ta còn có vô số hoàn cảnh làm sáng danh Chúa, bởi vì chúng ta luôn luôn có thể phục vụ, mà phục vụ con người, phục vụ xã hội, bất cứ cách nào, miễn là bằng việc làm tốt thì chính là một cách tôn vinh danh Chúa, là góp phần làm sáng lên trong Giáo Hội và xã hội hình ảnh sống động của Thiên Chúa giàu lòng thương xót, là góp phần làm sáng lên tình thương yêu của Chúa trong lịch sử cứu độ.
Còn vấn đề “Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” thì sao? Câu đó bảo cho chúng ta biết: muốn có bình an, muốn được bình an, chúng ta phải có thiện tâm, nghĩa là lời các thiên thần là lời công bố bình an, nhưng lại gồm một điều kiện cần thiết: phải có thiện tâm. Thiện tâm không phải là hoàn hảo, cũng không đòi phải toàn thiện, nhưng là có một tấm lòng ngay thẳng, trong sạch, bởi vì chúng ta chỉ được bình an khi lương tâm trong sạch, như thánh Gioan Kim Khẩu nói: “Một lương tâm trong sạch là nguồn bình an lớn nhất trong cơn hoạn nạn”. Hơn nữa, một tấm lòng trong sạch là một máng cỏ sẵn sàng để Chúa Hài đồng đến ngự. Nếu bình an của Chúa là như thế thì chúng ta có được lời chúc phúc của các thiên thần không? Muốn biết có hay không, chúng ta hãy nhìn vào kết quả của việc làm. Không ai cho cái mình không có, một người không có bình an thật sự của tâm hồn, họ sẽ chạy đi đây đi đó để tìm bình an giả tạo bên ngoài, nơi người khác hay sự vật và hoàn cảnh chung quanh, đó là những nơi thiếu vắng tình yêu của Chúa. Điều này rất dễ kiểm chứng, như sách Đại Học viết: “Một con tim không ngay chính, bất an xáo trộn, thì con người ấy dù có giương mắt ếch ra mà nhìn cũng không thấy, lắng tai nghe cũng không được gì, mà có ăn nhậu gì cũng chẳng biết mùi vị nữa”. Đó, một khi con tim đã bất an, đã xốn xang mà còn ảnh hưởng tới cái nhìn, việc nghe và ăn uống như vậy, thì huống chi là khi tâm hồn chúng ta hiểm độc, gian ác, tham lam còn ảnh hưởng tới gia đình và xã hội biết chừng nào, còn đâu nữa “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Hôm nay ngày Chúa Giáng Sinh, ngày Chúa ban bình an, Chúa muốn chúng ta kiểm điểm lại từng tâm hồn, từng gia đình, từng cộng đoàn có được thực sự thứ bình an mà Chúa từ trời mang xuống không? Xin mời mọi người hãy hồi tưởng lại xem cuộc đời mình đã gây bất an, xáo trộn, sóng gió cho những ai và lý do tại sao vậy, và bây giờ mình và người đó có còn bất an với nhau không? Tại sao còn nhìn nhau bằng nửa con mắt, hoặc bất ngờ gặp nhau thì lại tránh né? Xin hãy nhìn lại gia đình mình: tại sao gia đình lại ngột ngạt, xô xát, chiến tranh lạnh, chia đủ phe cánh, lườm nguýt, hành tỏi, lừa đối nhau, nghi ngờ nhau… có gia đình đang gặp chiến tranh nóng loại bỏ là làm hại nhau, chà đạp danh dự của nhau. Người ta bảo “trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết oan”. “Hai con voi đánh nhau, dẫm nát đám cỏ non”, chúng ta là những bậc bề trên, là người lớn, là cha mẹ mà cãi nhau, đánh nhau, thù oán nhau thì ảnh hưởng tai hại không nhỏ cho anh em, hàng xóm, cho chính con cái trong nhà và ngoài xã hội, và hiện giờ gia đình chúng ta đang ở trong tình trạng nào?
Xin mọi người hãy suy nghĩ cho kỹ hai chữ “bình an” để sống cho mình và giúp người khác cùng sống bình an. Chúng ta hãy cầu xin Chúa Giêsu Hài Đồng: Lạy Chúa, Chúa đã nói “Phúc cho người xây dựng bình an, vì họ được gọi là con Thiên Chúa”, xin cho chúng con vào số chúc phúc đó. Từ địa vị một Thiên Chúa, Chúa đã hiện diện giữa nhân loại, bằng lòng chấp nhận thân phận đau khổ như mọi người để đem họ về nguồn bình an chân thật, thì xin cho chúng con biết từ bỏ mọi địa vị, khả năng, hoàn cảnh để gieo vãi tin mừng bình an. Chúa đã chết để đem lại bình an thật, thì xin đừng ai sống mà cắt xén hay làm chết đi niềm vui, hy vọng của anh em mình. Xin Chúa đoái thương riêng đến những gia đình đang bất an vì cơm áo, danh dự để họ gặp lại cảnh gia đình đầm ấm yêu thương. Xin cho chúng con luôn được sống trong bình an của Chúa.
Trong đế quốc Rôma có những cuộc kiểm tra dân số định kỳ nhằm hai mục đích: vừa để: GS-204
Trong đế quốc Rôma có những cuộc kiểm tra dân số định kỳ nhằm hai mục đích: vừa để đánh thuế, vừa để tìm ra những ai đang ở tuổi làm nghĩa vụ quân sự. Dân Do Thái được miễn nghĩa vụ quân sự, vì thế việc kiểm tra dân số ở xứ Palestine chỉ có mục đích chính là đánh thuế. Về những cuộc kiểm tra dân số, chúng ta có được những thông tin xác đáng về những gì đã được thực hiện tại Ai Cập, và gần như chắc chắn rằng những gì đã được thực hiện tại Ai Cập cũng thực hiện tại Syri và tại Giuđê, một phần của tỉnh Syri. Những thông tin về các cuộc kiểm tra dân số được tìm thấy trong các tài liệu viết trên giấy chỉ thảo phát hiện được trong các lớp cát bụi tại các thành thị, làng mạc Ai Cập hoặc dưới lớp cát sa mạc. Các cuộc kiểm tra dân số như vậy cứ 14 năm diễn ra một lần. Chúng ta có được các tài liệu kiểm tra dân số từ năm 20 SCN đến 270 SCN. Nếu chu kỳ 14 năm được giữ đúng ở Syri thì việc kiểm tra dân số đề cập ở đây hẳn đã diễn ra vào năm thứ 8 TCN, đó chính là năm Chúa Giêsu được sinh ra. Có thể Luca đã có một chút lầm lẫn, Quiriniô chỉ thực sự làm tổng đốc xứ Syri vào năm 6 TCN, nhưng ông đã từng cầm quyền tại các miền đó từ năm 10 TCN đến 7TCN, và việc kể trên đã diễn tiến trong chính thời kỳ thứ nhất này. Các nhà phê bình thường đặt câu hỏi: có phải mọi người đều phải về sinh quán của mình để đăng ký không? Ở đây chúng ta nắm được chính sắc lệnh của nhà nước từ Ai Cập như sau: “Gaius Vibius Maximus, tổng trấn xứ Ai Cập truyền lệnh: Xét rằng đã đến kỳ làm sổ từng nhà, nên cần bắt buộc hết thảy những ai, đã vì bất cứ lý do gì mà hiện đang cư trú ngoài địa phận mình, phải trở về quê nhà, để có thể thi hành lệnh kiểm tra dân số theo quy định, và cũng để có thể chăm lo việc cày cấy đất ruộng mình”. Nếu đó là trường hợp tại Ai Cập thì cũng chính là trường hợp tại Giuđê là nơi còn giữ kỹ những gia phả dòng tộc và đàn ông phải về bản doanh của bộ tộc mình. Đây thêm một bằng cớ giúp ta hiểu biết hơn về sự chính xác của Tân Ước.
Con đường từ Nagiarét tới Bêlem dài 128 dặm, những tiện nghi cho khách trọ rất sơ sài. Quán trọ bên phương đông thời bấy giờ giống như từng dãy chuồng ngựa có cửa mở ra một cái sân chung. Mỗi khách trọ tự liệu thức ăn cho mình, chủ quán chỉ cung cấp đồ ăn cho súc vật và một bếp lửa để nấu nướng. Có đông người quá nên không còn chỗ cho Giuse và Maria, thế nên con trai của Maria đã sinh ra nơi khoảng sân chung đó. Khăn bọc hài nhi là một cái tã. Trước tiên người ta bọc hài nhi trong tấm vải vuông rồi quấn băng dài chung quanh mình nhiều vòng. Chữ được dịch là máng cỏ, nơi để súc vật ăn, có thể đó là một chuồng bò hoặc một máng cỏ. Việc quán trọ không còn chỗ tượng trưng cho những gì xảy ra cho Chúa Giêsu. Chỉ một nơi có chỗ cho Chúa Giêsu là thập giá. Ngài tìm một lối vào trong những tấm lòng chật chội của loài người mà không tìm được, và Ngài vẫn cứ tiếp tục tìm kiếm, mặc dù vẫn cứ bị chối bỏ.
MỤC ĐỒNG VÀ THIÊN SỨ (Lc 2, 8-20)
Một điều lạ lùng là câu chuyện cho chúng ta biết bao lời báo tin đầu tiên của Chúa được gửi đến cho các người chăn chiên. Vào thời bấy giờ, giới mục đồng bị những người chính thống coi khinh. Họ không có đủ khả năng để giữ trọn các chi tiết của bộ luật nghi lễ, họ không thể giữ đúng các nghi thức rửa tay tỉ mỉ và các luật lệ khác. Họ quá bận bịu săn sóc bầy chiên, vì thế, giới chính thống coi họ rất thấp kém. Sứ điệp của Chúa trước tiên đã đến với họ là những người đơn sơ nơi đồng ruộng. Nhưng nhóm mục đồng này có lẽ là những mục đồng đặc biệt. Trong Đền Thờ, sáng và chiều đều có một con chiên không tì vết làm của lễ dâng lên Chúa. Để lúc nào cũng sẵn có của lễ toàn vẹn và không tì vết ấy, các quan chức cai quản Đền Thờ nuôi riêng những bầy chiên của họ, và các bầy chiên này được chăn ở gần Bêlem. Cho nên chúng ta có thể tin là nhóm mục đồng đó đang coi giữ những bầy chiên dành làm của lễ trong Đền Thờ. Thật ý nghĩa biết bao khi nhóm người coi sóc bầy chiên của Đền Thờ lại là những người đầu tiên được ngắm xem chiên của Thiên Chúa là Đấng xóa tội lỗi thế gian.
Chúng ta đã biết khi một bé trai được sinh ra thì các nhạc sĩ địa phương tụ tập lại nhà để chúc mừng bằng một khúc nhạc đơn sơ. Chúa Giêsu đã sinh trong một chuồng bò ở Bêlem, vì thế chi tiết đã không được thực hiện. Thật vô cùng ý nghĩa khi đoàn ca sĩ trên trời thay thế các ca sĩ dưới đất và các thiên sứ đã hát những bản ca ngợi Chúa Giêsu là những bản nhạc mà các ca sĩ trần gian không hát nổi.
Qua những lời Kinh Thánh này, chúng ta phải suy tưởng đến vẻ đơn sơ thanh bạch trong sự giáng sinh của Con Thiên Chúa. Chúng ta dễ nghĩ rằng nếu Con Thiên Chúa ra đời, thì chắc Ngài sẽ sinh ra trong một đền đài hay một dinh thự. Ngày xưa, ở Châu Âu, có một ông vua thường khiến triều thần lo ngại vì ông hay cải trang để trà trộn vào dân chúng. Khi quần thần yêu cầu ông đừng làm thế vì lý do an ninh, thì ông trả lời “Trẫm không thể trị dân nếu trẫm không biết nhân dân ta có một Thiên Chúa hiểu thấu đời sống chúng ta, vì Ngài đã sống cuộc đời như chúng ta, không đòi hỏi gì khác hơn một đời sống bình thường”.
SINH HẠ, CẮT BÌ VÀ ĐẶT TÊN CHO TRẺ GIÊSU (Lc 2, 1-20)
Từ đây bản văn sẽ phá vỡ tiến trình song song. Thực vậy, có hai khác biệt lớn lao giữa cảnh: GS-205
Từ đây bản văn sẽ phá vỡ tiến trình song song. Thực vậy, có hai khác biệt lớn lao giữa cảnh này và cảnh trước. Đối với Người Con của Đức Maria, Luca nêu bật trước hết cảnh sinh ra, trong khi việc cắt bì và đặt tên ông chỉ nhắc đến rất vắn tắt (c.21), điều này ngược với trường hợp của Gioan. Phần khác, một mặc khải đi liền theo sau việc cắt bì của vị tiền hô; nhưng việc tuyên sấm của ông Giacaria không có tầm vóc rộng lớn như cảnh sinh ra của Chúa Giêsu được gọi là Phúc Âm, Tin Mừng (c.10). Và nhất là, đối với Chúa Giêsu, cảnh mặc khải theo nghĩa chặt sẽ được chuyển đến cảnh tiếp theo trong Đền Thờ.
Các câu 1-7 trình bày việc kiểm tra dân số, hành trình của cha mẹ rồi việc sinh con trai đầu lòng. Sắc chỉ của Xêda Augustô gây khó khăn về phương diện lịch sử. Đúng là Quirinô đã cho tiến hành kiểm tra dân số xứ Giuđêa khi tỉnh này thuộc quyền cai trị trực tiếp của Rôma; điều đó đã gây ra cuộc nổi loạn của Giuđa người Galilê (Cv 5,37: có Giuđa người Galilê nổi lên vào thời kiểm tra dân số, và lôi cuốn dân đi với mình; cả ông này cũng bị diệt, và tất cả những người theo ông ta đều bị tan tác). Nhưng vào khoảng năm 6 hoặc 7 SCN, lúc đó Chúa Giêsu đã chừng mười tuổi rồi –Người sinh ra dưới triều Hêrôđê (Lc 1,5; Mt 2,1), ông này băng hà vào năm 4 TCN. Như vậy Luca đã lầm khi, trong bài khởi đầu long trọng này, muốn đăng ký Chúa Giêsu vào lịch sử thế giới– ông sẽ làm lại một cách đầy đủ hơn ở 3, 1-2 và cũng tỏ bày cho thấy Thiên Chúa sử dụng sắc chỉ của Xêda. Trong sách Công Vụ, Thiên Chúa còn sử dụng các luật lệ La Mã để dẫn dắt Phaolô đến rao giảng Tin Mừng ở Rôma… nhất là điều đó đã là một cái cớ cho cuộc hành trình, là một cái cớ bởi vì những cuộc kiểm tra như thế luôn luôn làm ở nơi thường trú chứ không làm ở nguyên quán.
Thực ra nhờ truyền thống (x. Mt 2,1) Luca biết rằng con trẻ sinh ra ở Bêlem, thành của Đavít, địa điểm này cho phép nhấn mạnh một lần nữa rằng Chúa Giêsu là con cháu (c.4) Đavít. Tuy nhiên, Luca không trích dẫn sấm ngôn của Mk 5,1 (x. Mt 2,6); thực vậy rất hiếm thấy những trích dẫn rõ ràng ở Luca 1-2. Thực vậy, đích điểm của cuộc hành trình không phải chỉ là Bêlem mà chính là một máng cỏ trong thành này. Phòng trọ chật chội đến nỗi phải đặt em bé sơ sinh nằm trong máng cỏ, diễn ngữ này được dùng tới ba lần (c. 7.12.16) và điều ấy muốn nói rằng đó là kết quả của sáng kiến của Thiên Chúa. Mà có nơi nào ý nghĩa hơn đối với các mục tử cho bằng máng cỏ? Như vậy là chúng ta được quy hướng tới mấy chú mục tử này.
Luca lại dùng một lần nữa công thức thần học: “(những) ngày bà phải sinh con đã tới (hoàn tất)”, ông nói đến con trai đầu lòng để chuẩn bị cho việc dâng con trong Đền Thờ (2,23).
Bây giờ đến cảnh mặc khải cho các mục tử (cc. 8-14). Tại sao những người làm một nghề như thế lại được đón nhận mặc khải này? Hẳn là có một liên hệ văn chương giữa thành Bêlem và đề tài mục tử: Khi ấy Đavít chăn đàn súc vật của cha ông ở Bêlem (1Sm 16,11; 17,15), nhưng Luca không nói rõ về chuyện ấy, điều ông quan tâm nhiều hơn đó là các mục tử ở Palestin vẫn bị mang tiếng xấu, người ta thường coi họ là những kẻ bất lương và trộm cắp. Sách Tamud Babylon đã xếp họ vào một nhóm những người bị coi là kẻ tội lỗi: “Những mục tử và những người thu thuế thì khó mà sám hối được”. Những người bị khinh dể ở cấp bậc thấp nhất trong xã hội lại là những người đầu tiên được nói đến nhờ việc đản sinh của một em bé có mẹ là một người khiêm hạ (1,48) và sẽ mang Tin Mừng đến cho những người nghèo (4,18). “Tác động hướng về máng cỏ là dấu chỉ cho những người chăn chiên tội lỗi nhận ra được Đấng Cứu Tinh đã đến (B. Trémel); con trẻ sơ sinh đã là người sẽ đón tiếp những kẻ tội lỗi và sẽ ăn uống đồng bàn với họ (15,2)
Mặc khải đích thực (cc. 9-12) có nhiều yếu tố nhắc nhở những trình thuật về việc báo tin cho ông Giacaria và cho Đức Maria, chỉ có các vấn nạn là được bỏ đi. Sứ thần của Thiên Chúa thay thế cho thiên sứ Gabriel, việc đản sinh Chúa Giêsu được gọi là Tin Mừng, việc ấy sẽ tạo ra một niềm vui lớn: Ba tước hiệu được dành cho trẻ sơ sinh là: Hôm nay, Đấng Cứu Tinh là Đấng Kitô Đức Chúa đã sinh ra cho các ngươi, là những người nghèo và dân tộc bé nhỏ. Ba tước hiệu đều đến từ lời tuyên xưng niềm phục sinh của Giáo Hội, hai tước hiệu cuối ở môi trường Do Thái, tước hiệu thứ nhất ở môi trường lương dân để đi đôi với việc tôn thờ hoàng đế Xêdarê như vị cứu tinh. Như vậy, lời loan giảng của Giáo Hội mà Phêrô và Phaolô sẽ thực hiện sau này đã được mặc khải cho các mục tử.
Dấu chỉ –có ở đây như ở trong hai trình thuật báo tin, nhưng các người chăn chiên không đòi hỏi– thì rất trái ngược với tước hiệu Kitô học: điều đó cho phép những ai tìm dấu chỉ ấy sẽ gặp Hài Nhi mới sinh được bọc khăn, Hài Nhi ấy được đặt trong một máng cỏ chứ không phải là trong một chiếc nôi ở một đền đài đế vương nào đó. Độc giả có thể ngạc nhiên trước sự kiện dấu chỉ không có gì kỳ diệu. Trong khi Israel có thể chờ đợi Đấng Mêsia sinh ra với những dấu chỉ gây ngạc nhiên (x. ngôi sao dẫn đường các đạo sĩ ở Mt 2,2-9), dấu chỉ ở đây thích hợp với Đấng sẽ là vị Mêsia khiêm tốn và đau khổ của những kẻ nghèo, dấu chỉ ấy đặc biệt am hợp với những người chăn chiên.
Bấy giờ có tiếng khen ngợi của một nhóm đông vô kể của các thiên sứ (cc. 13-14) hợp với vị thiên sứ vừa tuyên bố Tin Mừng; bài thánh thi ngắn gọn mời các mục tử và các độc giả nhận ra quyền năng của Thiên Chúa, Đấng, qua việc đản sinh của Người Con Đức Maria, sẽ đem lại bình an, yên ổn, hòa hợp và thịnh vượng cho dân là đối tượng của lòng nhân hậu Ngài. Không đặt vấn đề thiện tâm mà con người có hay không để đón nhận hồng ân của Thiên Chúa.
Cảnh diễn ra trong các câu 8-14 tập trung vào những vị sứ giả từ trời: loan báo Tin Mừng và lời ngợi khen có tính cách phụng vụ. Tin Mừng từ Thiên Chúa được thông báo cho các mục tử trước khi họ loan truyền cho dân. Như ở phần trước, những chi tiết hữu hình mắt thấy được bị hạn chế tối đa.
Cho tới lúc đó, các mục tử ở trong tư thế thụ động; họ không còn thụ động nữa trong cảnh tiếp theo, nơi đó thuật lại ba phản ứng (cc. 15-20): phản ứng của các mục tử, phản ứng của những người nghe họ kể lại và cuối cùng là phản ứng của Đức Maria. Các mục tử thấy những sự việc như thiên thần đã loan báo và loan truyền lại sứ điệp của thiên thần; khi nghe họ dân chúng ngạc nhiên – như bà con của ông Giacaria (1,63), như cha mẹ của Chúa Giêsu (2,23). Câu 20 còn nói rõ hơn về các mục tử: sau khi từ máng cỏ trở về, họ làm nhiệm vụ của các thiên sứ là ngợi khen và tôn vinh Thiên Chúa (xcc. 13-14). Về phần Đức Maria, Người nổi bật vì thái độ đón nhận (câu 19 trong đó dội lại câu 51 chương 2). Từ sứ thần Gabriel, Người đã biết rằng con mình sẽ là Đấng Mêsia thuộc dòng tộc Đavít, là Con Thiên Chúa và là Đức Chúa; từ các mục tử đã được sứ thần loan báo, Người biết rằng con mình là Đấng Cứu Tinh. Nhưng một cách cụ thể các tước hiệu này có ý nghĩa gì? Nếu Đức Maria suy nghĩ về tất cả những điều đó trong lòng, chính là vì Người chưa hiểu hết ý nghĩa như chương 2 câu 50 xác minh.
Câu 20 là chuyển tiếp qua cảnh sau: như đối với người con của ông Giacaria và bà Êlisabét, đặt tên dường như quan trọng hơn nghi thức cắt bì; cả hai trường hợp đều có sự vâng theo lời sứ thần Gabriel. Cảnh đặt tên là đối tượng của một khai triển dài đối với vị tiền hô, nhưng ở đây lại không phải như vậy.
ĐỨC GIÊSU SINH RA Ở BÊLEM VÀ THIÊN THẦN BÁO TIN CHO CÁC MỤC ĐỒNG
(Lc 2,1-14)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Bóng tối của một sự ra đời...
Trong phần mở đầu của tác phẩm mình, thánh sử Luca không muốn làm công việc của một: GS-206
Trong phần mở đầu của tác phẩm mình, thánh sử Luca không muốn làm công việc của một sử gia - lẽ tất nhiên không theo nghĩa hiện đại của từ ấy - nhưng như một nhà thần học đặc biệt nhạy cảm với lịch sử cứu độ.
Thánh sử muốn đưa việc Đức Giêsu sinh ra vào lịch sử chung, bằng cách nối kết sự giáng sinh của Người với "sắc lệnh của hoàng đế Augustô ra lệnh kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ." J. Potin suy diễn thêm: "ở Syria việc kiểm tra dân số thường diễn ra 12 năm một lần. Flavius Joseph cho hay, vào năm thứ 6 của kỷ nguyên chúng ta, dưới thời Quirinius có cuộc kiểm tra dân số điều này trong hợp với cuộc kiểm tra dân số Luca đã đề cập đến. Như vậy, năm thứ sáu trước kỷ nguyên chúng ta, rất có thể là năm Đức Giêsu sinh ra" ("Đức Giêsu, lịch sử có thật", Centurion tr. 93).
- Vì muốn nhấn mạnh sự nối tiếp của lịch sử cứu độ và lịch sử ấy hoàn tất với Đức Kitô, nên Luca đề cập đến dòng dõi Đavid của Đức Giêsu:
Bỏ Nadarét ở Galilê, Giuse đi về Bêlem "thành của Đavid" để khai hộ khẩu, bởi lẽ ông thuộc nhà và dòng dôi Đaviđ”.
Chính tại Bêlem “ Maria vợ ông đang có thai” sẽ hạ sinh con trẻ. Biến cố được diễn tả cách giản dị lạ thường. Trong chuyến đi về Bêlem, tuy đóng vai trò quyết định, nhưng Giuse tự xoá mờ trước Maria. Mẹ mới là người quan trọng: Ngài sinh con đầu lòng, bọc trong tã và đặt nằm trong máng cỏ " ( cảnh này gợi lên cảnh đặt vào mồ: Lc 23,53 họ lấy khăn liệm bọc Ngài và đặt vào mồ), vì không có chỗ cho họ trong "phòng tập thể”: (sau này chúng ta sẽ gặp lại "phòng tập thể" trong Luca, đó là phòng tiệc ly: Lc 22,11).
2. Sẽ soi sáng mọi đêm tối".
Trái với sự thanh vắng, bóng tối và sự nghèo nàn của cảnh ra đời, này đây "trong vùng lân cận”, đêm tối rạng ngời và tiếng hát vang dội, nói lên ý nghĩa của biến cố vừa mới hoàn thành: trời và đất gặp nhau, những người đầu tiên được lãnh nhận ơn mạc khải là những người hèn mọn nhất của thời đại: các mục đồng, một lớp người trong xã hội bị khinh chê nhất, được xếp với hạng người tội lỗi và bọn thu thuế. H.Cousin giải thích: "ở Palestin, chăn chiên là lớp người mang tiếng xấu, thường được người ta coi là bọn bất lương và trộm cắp. Sách Talmud ở Babylone xếp họ vào hạng người đáng chú ý: dân mục tử, bọn thu thuế, thật khó mà ăn năn trở lại". những người bị khinh chê và được xếp vào bậc thang cuối cùng của xã hội lại là những người đầu tiên được đoái đến bởi Đấng vừa sinh ra, con của một người mẹ "hèn hạ " (Lc 1,48: phận nữ tỳ hèn mọn); chính Ngài sẽ đem Tin Mừng cho người nghèo khó (4, 18). Đấng vừa sinh ra là Đấng để cho người tội lỗi đến với mình và đồng bàn với họ " (15, 2) ("Tin Mừng thánh Luca", Centurion tr. 38-39).
- Sứ điệp mà "các thiên thần của Chúa" mang đến cho họ là một "Tin Mừng" (Evangile), một niềm vui lớn. Tin vui ấy là tin vui cho "Toàn dân”. Sứ điệp ấy liên can tới sự giáng sinh của một hài nhi, nơi Người các tước hiệu: "Đấng cứu độ", "Đấng Mêsia ", "Chúa " đạt được sự viên mãn bởi lẽ chính Ngài là sự mạc khải sống động về lòng nhân từ của Thiên Chúa. "Đấng cứu độ ", "Đấng Mêsia” (Kitô), "Chúa”, ba tước vị phát xuất từ việc Giáo Hội tuyên xưng đức tin phục sinh, mà chúng ta sẽ thấy trên môi miệng của Phêrô (Cv 2,36...) và của Phaolô (Cv 13,33...).
- "dấu chỉ" cho các mục tử vùng Bêlem: một trẻ sơ sinh, “bọc tã nằm trong máng có", để nói vòi những ai biết đón nhận rằng Thiên Chúa ban ơn cứu độ như người đã hứa theo cách thế không ai ngờ tới. R.Meynet dẫn giải: “ Kẻ trước hết sẽ nên sau hết. Con người được coi là Đấng Cứu độ, là Vua, là Đấng Mêsia và được thừa kế ngai vàng Đavid tổ phụ Người, lại nằm trong máng cỏ của súc vật, bọc tã, nằm trong cái nôi tạm bợ, cũng như sau này, Người sẽ được bọc trong khăn liệm và nằm trong ngôi mộ không phải dành cho mình. Dù mâu thuẫn, đó vẫn là dấu chỉ cho các mục tử và cho Kitô hữu của mọi thời. Dấu chứng cho sự cao sang của Thiên Chúa lại là sự nhỏ bé, và cho quyền năng của Người lại là sự hèn yếu ("Tin Mừng theo thánh Gioan: phân tích tu từ học", Cerf, tr. 36).
- Lời tạ ơn “đột nhiên" vang lên. Trên trời, biến cố được diễn tả với chiều kích rộng lớn và trong bầu khí trang trọng. Cùng lúc, dưới đất, là cuộc tổng kiểm tra dân số của Augustô: với thiên sứ, một cơ binh trên trời đông vô số ngợi khen Thiên Chúa rằng: Sáng danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương. Cả trời đất đều mừng vui: kỷ nguyên cứu rỗi đã mở đầu Thiên Chúa, Đấng lấy việc ban hồng ân làm vinh quang, sẽ đổ xuống trên dân Ngài sự "bình an" mà Ngài đã hứa trong ngày cứu độ: không phải sự đảm bảo vật chất của nền "hoà bình Rô-ma" Mà Con người chờ đợi ở Augustô, nhưng là sự tràn đầy sự sống là chỉ mình Ngài có thể ban cho. Trong đêm tối, trở về với cảnh thanh vắng, từ cánh đồng quê Bêlem, mục tử lên đường để xem sự việc đã xảy ra? Họ tìm thấy Maria, Giuse và Hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Sau đó, họ trở về và ca ngợi tạ ơn về những gì họ đã thấy và đã nghe, họ là gương mẫu cho các nhà truyền giáo mà thánh Luca sẽ trình bày trong cuốn sách thứ hai: Sách Công Vụ Tông Đồ.
(A.George, trong "Assemblées du Seigneur", số 10, tr. 6f' 67).
Thánh Luca muốn diễn tả một sự kiện diễn ra tại Bêlem thời César Augustô mà ông đã nghe: GS-207
"Thánh Luca muốn diễn tả một sự kiện diễn ra tại Bêlem thời César Augustô mà ông đã nghe kể và hiểu theo truyền thống của Giáo Hội. Ông chú ý đến sự kiện này như một biến cố rõ ràng, xảy ra ở một nơi nhất định, nhưng ông tỏ ra không mấy chú ý đến các chi tiết. Điều đáng ông lưu ý trong sự kiện này là ý nghĩa của lịch sở cứu độ. Đó chính là tính hiện tại của ơn cứu độ. Nó diễn ra trong suốt cuộc đời của Đức Giêsu, từ Bêlem đến Phục sinh. Khi ông định nghĩa Đức Giêsu như Đấng cứu chuộc, như Kitô Đức Chúa, ông không muốn nói những gì người ta đã hiểu về Đức Giêsu ngày Ngài sinh ra, nhưng Ngài vẫn là như thế cho đến muôn đời. Khi ông kể lại câu chuyện các mục tử, ông nghĩ đến tất cả những ai đã rao truyền sứ điệp thời các tông đồ, nghĩ đến tất cả những ai đã đón nhận sứ điệp ấy. Vì thế ngày nay, câu chuyện đó liên quan đến chúng ta. Đối với ông, mầu nhiệm kết hợp cách bất khả phân ly với lịch sử. Ông tin rằng ơn cứu rỗi đã được ban trong biến cố Đức Giêsu. Và vì thế ông đã viết cuốn sách này.
Đức tin của ông, cũng như của chúng ta, không chỉ dựa trên câu chuyện ấy. Đức tin ấy phát xuất từ việc biết Đức Giêsu trong tất cả mầu nhiệm của Ngài, trong nhân cách huyền nhiệm được mặc khải dần dà, trong sứ điệp cứu rỗi muôn đời, trong việc Ngài luôn toả sáng. Bởi lẽ sự mặc khải về Đức Giêsu là một sự kiện duy nhất đã xảy ra trong thời Đức Giêsu và kéo dài cho đến chúng ta, thời của Giáo Hội. Mỗi người chúng ta đều được mời gọi đưa ra một chọn lựa trước sự kiện này. Quyết định như thế thật khó khăn vì nó đòi chúng ta phải hoàn toàn dấn thân. Sự quyết định đó cũng không bao giờ hoàn tất, bởi vì Đức Kitô vượt xa hơn bất kỳ ai khác, nên sự hiểu biết về Người là một khám phá của tất cả cuộc đời.
Câu chuyện giáng sinh ở Bêlem chỉ có ý nghĩa đối với những ai đã nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu độ, là Kitô Đức Chúa. Sự Giáng Sinh làm lộ rõ điều nghịch lý nơi con người giàu: sự nghèo hèn song hành với vinh quang. Điều nghịch lý này làm cho người Do Thái thời Ngài cũng như mọi người chưng hửng: một bên là sự trần trụi của một Hài nhi yếu ớt, từ lúc mới sinh đã phải tùng phục sắc lệnh của một hoàng đế ngoại giáo, và trong cảnh xa nhà, chỉ được một người mẹ tứ cố vô thân, một bác thợ mộc và mấy người chăn chiên tiếp đón... bên kia là sự xuất hiện của cả một đạo binh ngời sáng trên trời, vinh quang Thiên Chúa tỏ hiện và lời tung hô Đấng Cứu thế, Kitô Đức Chúa. Sự gặp nhau giữa nỗi khốn cùng của loài người và vinh quang của Thiên Chúa chính là sự kiện Thiên Chúa đến trong lịch sử chúng ta: một sự hiệp thông với cả nhân loại, để dấy lên niềm hy vọng, một sự hiện diện trong tình yêu cho đến muôn đời.
Cuộc gặp gỡ này không chỉ diễn ra trong mầu nhiệm của đêm Giáng Sinh mà còn kéo dài trong tất cả cuộc đời Đức Giêsu, từ những phép lạ và thử thách của cuộc sống trần gian cho đến vinh quang phục sinh, toàn thắng mà thế gian không biết đến. Suốt dòng thời gian, sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại chính là Giáo Hội. Giáo Hội này tuy còn đầy dấy sự yếu hèn của chúng ta nhưng lại là nguồn mạch ơn cứu độ muôn đời của Thiên Chúa. Trong Giáo Hội, trong chúng ta, cũng như trong đêm Giáng Sinh và Phục sinh, "chính trong sự yếu hèn mà quyền năng được toả lan " ( 2 C r 12, 9 ) .
Noel là một cuốn sách đẹp chứa đầy hình ảnh dân gian. Chúng ta hãy ghi giữ hình ảnh đó: GS-208
Noel là một cuốn sách đẹp chứa đầy hình ảnh dân gian. Chúng ta hãy ghi giữ hình ảnh đó, lúc nào cũng tươi xinh trước mắt chúng ta. Nhưng rõ ràng là Luca mời gọi ta hưởng tới một “chiêm niệm" nội tâm hơn: Trình thuật của ông là một “nhập đề" thần học dẫn vào Tin Mừng của ông, một Tin Mùng chỉ có thể nắm bắt trọn vẹn nhờ Đức tin.
Thời ấy, hoàng đế Xêda Augustô ra chiếu chỉ truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.
Xêda Augustô là hoàng đế nổi tiếng nhất của Rôma (từ năm 30 trước Chúa Giêsu Kitô đến năm 14 sau CGK) . Vào năm 27, ông đã để cho Nghị viện phong cho mình tước hiệu: Thần Auguttô, tiếng Hỳ Lạp là "Sebastos", có nghĩa “xứng đáng được tôn thờ". Khi sử dụng tước hiệu diệu kỳ của một ông "vua trần gian" như trên, Luca muốn minh chứng cách tương phản rằng, Thiên Chúa xử sự khác biết bao: Người sẽ hạ sinh như một trẻ thơ giòn mỏng, thuộc lớp người di cư đáng thương.
Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên được thực hiện hồi ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyria.
Nếu bức tranh của lễ Noel đầu tiên này khá mờ tối.
Xứ sở thì bị xâm chiếm. Dân cư thì lệ thuộc dưới ách thống trị của một quyền lực ngoại bang. Nhờ lịch sử ngoại giáo, ta biết rằng, cuộc kiểm tra của Quiriniô này, đã khiến dân nổi dậy, vào năm 6, trong thời kỳ cai trị thứ hai, do việc kiểm tra tài sản ruộng đất và công trình xây cất của dân chúng... để đánh thuế? ít năm sau, Đức Giêsu cũng phải đương đầu với viên tổng trấn khác, Phongxiô Philatô.
Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế, ông Giuse từ thành Nagiarét, miền Galilê, lên miền Giuđê".
Giuse để cho các biến cố hướng dẫn mình. Thế giới mà Đức Giêsu bước vào là một thế giới khó khăn, đầy những gò bó (Noel không đẹp chút nào). Nhưng "Thiên Chúa thường viết thẳng trên những đường cong của chúng ta" . Và những biến cố là "những ông thầy mà Thiên Chúa tự tay trao cho chúng ta" (Pascal). Tôi có xác tín rằng, Thiên Chúa vẫn có đó, đang hạch hỏi tôi, trong tất cả những gì đang diễn tiến, trong tất cả những gì đang xảy đến với tôi không? ông lên đường cùng với một người nữ đang mang thai.
Lên thành của Đavít, gọi là Bêlem, vì ông cũng thuộc gia tộc của Đavít.
Luca "giải thích" biến cố dưới ánh sáng của lời sấm Mikha (5,1-4) Đấng sẽ sinh ra là "cứu Chúa” mà "một thiếu nữ Sion phải hạ sinh”, "trong một làng bé nhỏ nhất miền Giuđê", giữa những người nghèo khổ, thuộc "số nhỏ còn lại"... trong "thành của Đavít". Nhưng thực tế, vị cứu Chúa này lại hoàn toàn khác với những điều người ta mong đợi Người ta mong chờ Người phải là Đấng quyền năng, giàu sang, mạnh mẽ! Thế mà Người lại đến trong tư thế bất lực, nghèo khó, yếu di... Thiên Chúa nhận thấy, những người đạo đức lầm lẫn về Người khiến Người đã phải bước vào trong thế giới "kín mật", một cách bất hợp pháp. Người đã vượt lậu qua ranh giới chúng ta. Không khi nào "những nhà hữu trách" chịu chấp nhận Người, nếu Người nói rõ danh tánh mình? Người ta không thể có ý tưởng về một Thiên Chúa lại chịu xuất hiện qua vẻ bề ngoài tầm thường như thế, không màng đến những đặc quyền của mình, chịu hoàn toàn thiếu thốn những gì xứng hợp với Thiên Chúa, xem ra coi thường những nghi lễ uy nghi mà tôn giáo thiết lập để tôn vinh mình!
Nếu tất cả những điều đó không đáng kể với Thiên Chúa, vậy thì cái gì đáng kể đối với Người.
Ông lên đó khai tên cùng với vợ mình là bà Maria, lúc ấy đang có thai.
Bản văn Hy Lạp viết: "Với hôn thê của mình là Maria, lúc ấy đang có thai". Ở đây Luca muốn sử dụng cùng một từ như lúc diễn tả cảnh Truyền tin (Lc 1,27). Dù đã hứa hẹn với nhau cách chính thức nhưng Giuse và Maria không sống chung đụng với nhau Maria vẫn là "trinh nữ” Vậy mà, cô lại "có thai"! Tại sao ta lại cứ giấu Thiên Chúa đến giới nức của mình thôi? Ta đã lầm lẫn về Thiên Chúa, vì tưởng rằng Thiên Chúa cũng chỉ có khả năng như chúng ta. Lạy Chúa, với đức tin, con muốn tôn thờ quyền năng sáng tạo của Chúa, qua tư cách làm mẹ phi thường trên, làm mẹ mà vẫn còn trinh khiết chỉ mình Thiên Chúa là "Cha" của em bé thơ mà Maria, vị hôn thê đang mang thai.
Khi hai người ở đó, thì bà Maria đã đến ngày mãn nguyện khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng.
Trình thuật trên trình bày thật là quá giản dị! Khác hẳn với những gì đã mô tả trong các truyện thần thoại và cổ tích. Đó là một bé thơ như bất cư một bé thơ nào khác, không chút hào quang lượn quanh đầu, hoàn toàn đơn sơ và trần trụi!
Thiên Chúa phán: Ta đã tạo thành các ngươi theo “hình ảnh Ta" các người là những người cha, người mẹ, các người biết yêu con cái mình cách diệu kỳ, chăm sóc nâng niu chúng, 'đỡ nâng chiếc đầu bé bỏng mong manh của chúng, cẩn thận kiểm tra nhiệt độ của bầu sữa, rình xem từng nụ cười... Vậy các ngươi không nhận ra Ta cũng giống các ngươi sao? Nhờ những cử chỉ mẫu tử của riêng mình, các bà mẹ một phần nào cũng nhận ra Ta là ai...
Bà lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ.
Bị tràn ngập bơi những lượng thông tin ly kỳ xa lạ cảm kích mà phương tiện thông tin đại chúng đổ trên chúng ta, liệu chúng ta còn đủ khả năng để "nhận ra" cái tầm thường Thiên Chúa đã chọn lựa để hiện diện không? Biến cố vĩ đại nhất của lịch sử nhân loại vừa mới xảy ra " Từ giờ trở đi", Thiên Chúa cũng là một con người, Đức Giêsu? Từ giây phút đó, Thiên Chúa đã liên kết số phận đời Người với số phận chúng ta . Duyên cớ đời ta đã trở nên duyên cớ của Người. Thiên Chúa ở "củng chúng ta". Chúng ta được phép hy vọng tất cả. Những biến cố này không gây cảm giác bề ngoài. Thiên Chúa nằm "trong máng cỏ", hiện diện trong một "hang" bò lừa, dụng cụ giúp cho đoàn vật ăn uống. Thiên Chúa đó thật là dễ gây ngỡ ngàng! Thiên Chúa đó thật là dễ gây cảm kích! Khi đứng trước thái độ tự phụ của Auguttô? Ta còn phải thêm rằng, Thiên Chúa không làm bộ tỏ ra yếu đuối. Trên lớp rạ rơm nới hang đá, cũng như trên khúc gỗ của thập giá, Người đã mạc khải cho ta những gì là thâm sâu nhất, đích thực nhất trong Người, trong Thiên Chúa. Ai thấy tôi là thấy Cha". (Ga 149). Thiên Chúa là tình yêu. Và tình yêu trở nên yếu ớt trước kẻ mà Người yêu mến. Ai thống trị, thì không yêu thương!
Trong vùng ấy, có những người chăn chiên thức đêm ngoài trời canh giữ đàn vật.
Không phải là biểu tượng cho nét đẹp thôn dã và thiên nhiên, như thường con vật, vẽ nặn trong dịp Noel muốn làm cho ta tưởng như thế, thực sự những "người chăn chiên", trong quan niệm thời đó, là biểu tượng cho những người bị khinh bỉ. Nghề nghiệp của họ khiến thiên hạ dễ coi thường. Họ được kể như loại người sống "ngoài luật pháp”. Người ta coi họ như những tên cướp giật, sống bằng những của cướp bóc. Họ không được quyền dân sự để làm chứng theo lẽ công bằng. Được kể như những người ngu dốt, họ không có giờ để tham dự những buổi giáo lý mà các nhân trí thức thường truyền đạt trong các hội đường. Được xếp vào loại người ô nhơ, nên nghề nghiệp của họ cản trở họ tôn trọng việc nghỉ ngơi ngày Sa-bát thánh thiện! Và rồi là người không sạch, họ cảm thấy mình không hay ho gì, chỉ là hạng "quê mùa"!
Thế mà, họ lại là những người được Thiên Chúa tuyển chọn đầu tiên! Thiên Chúa yêu thương những kẻ "bé mọn", những người "nghèo khổ" những loại người mà kẻ khác thường khinh bỉ. Đó sẽ là một trong những đề tài của Tin Mừng Luca, Xin tạ ơn Chúa!
Bỗng sứ thần Chúa hiện ra đứng bên họ, và vinh quang của Chúa bao trùm chung quanh.
Vẻ “huyền diệu” chỉ khởi sự từ đây trong trình thuật này. Nhà thần học có thể cảnh giác. Hãy ý tứ! Coi chừng! Kiểu nói này là một diễn tả thôi, bởi vì các cộng đồng đã xác định thiên thần không có thân xác. Còn nhà thi sĩ và những người bình dân lại nói: các sứ thần đó giúp ta biết ngỡ ngàng trước cảnh thần thiêng, những gì vượt quá con người mình .
Nhưng ý nghĩa của sự kiện gợi lên khá rõ: cho đến lúc này, trong toàn bộ Kinh thánh. "Vinh quang" là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, chỉ dành riêng nơi Đền thờ Giêrusalem. Nhưng từ nay trở đi, Vinh quang này bao trùm những người nghèo. "Những gì anh em làm cho kẻ bé mọn nhất, tức là anh em đang làm cho Thầy” (Mt 25).
Một Thiên Chúa hành xử như thế, thật là ngạc nhiên! thật là cảm kích! Xin tạ ơn Chúa.
Họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: "Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân”.
Chúng ta vẫn thương nói, ta chưa bao giờ nghe được tiếng nói của Thiên Thần. Họ không hề gây tiếng động. “Tiếng nói" của họ là im lặng. Hãy lắng nghe! Hãy để ý lắng nghe! Nhất là đừng có ồn ào. Mọi "Truyền đạt" của Thiên Chúa đều là "Tin Mừng tin vui". Đây còn là một đề tài của Luca nữa. Và tin vui này mang một tầm cỡ "phổ quát” cho tất cả mọi người. Đó là một đề tài khác của Luca.
Hôm nay, Đấng cứu độ anh em đã ra đời trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa.
Các sứ thần không nhiều lời. Lời "truyền đạt" của họ rất ngắn gọn. Lời thông báo đó đi ngay vào điểm cốt yếu. Họ công bố "giấy chứng minh" đích thực của hài nhi chưa ai biết tiếng, với ba tước hiệu của Thiên Chúa: 1. Đấng Cứu độ: sotér 2. Đấng Kitô: Christos 3. Cứu Chúa? Kurios.
Luca sẽ không khi nào sử dụng những tước hiệu đó nữa trong Tin Mừng của ông, trước khi kết thúc cuốn sách. Thiên Chúa phán, hãy để ý, Giêsu bé nhỏ này, hôm nay không quan trọng gì, nhưng chính Người sẽ là Đức Chúa vinh quang phục sinh. Những đoạn Tin Mừng thời thơ ấu đều được Luca diễn tả như một mở đầu dẫn vào cuốn sách này, mà ta chỉ thực sự hiểu dược vào lúc kết thúc. Hài nhi vừa sinh hạ có một bản tính Thiên Chúa (Người là Đức Chúa) và mang một sứ vụ thần thiêng (Người là Đấng cứu độ) Tính cách "Cứu Chúa" này chưa tỏ hiện. Hãy chờ xem!
Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: "Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ".
Điều mà sứ thần báo hiệu như dấu chỉ để nhận ra Đấng Cứu độ: đó là sự "nghèo khó" và "yếu đuối"! Hãy ngừng chạy, hãy đến trước máng cỏ. Biết đâu bạn lại không khám phá ra ở đó một biểu tượng bí ẩn nào? Dù sao Thiên Chúa đang hiến mình tại đó cách thực sự để làm của "ăn”! Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha, vì điều Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết, mà Cha lại mạc khải cho những người bé mọn" (Lc 10,21) . Bánh của Thiên Chúa làm no đủ những tâm hồn người nghèo.
Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương".
Đây là lời tung hô thực hiện trước những lời ca tụng dịp rước lá (Lc 19,38).
Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham. Abraham sinh Isaac; Isaac: GS-209
Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham. Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa; Phares sinh (bởi bà Thamar) và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít.
Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Robo-am; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manas-se; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.
Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Salathiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô.
Vậy, từ Abraham đến Ðavít có tất cả mười bốn đời, từ Ðavít đến cuộc lưu đày ở Babylon có mười bốn đời, và từ cuộc lưu đày ở Babylon cho đến Chúa Kitô có mười bốn đời.
Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, bà đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo:
"Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ hạ sinh một con trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội". Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: "Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta".
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời thiên thần Chúa truyền. Ông tiếp nhận bạn mình, nhưng không ăn ở với nhau, cho đến khi Maria sinh con trai đầu lòng, thì Giuse đặt tên con trẻ là Giêsu.
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Mỗi dịp Noel, tôi thừơng đứng trước máng cỏ, nhìn ngắm Đức Giê su bé thơ và hỏi xem Người muốn nhắn gửi điều gì nhân ngày lễ Giáng sinh trong tình hình xã hội hiện tại. Năm nay, khi nhìn ngắm Người rét run giữa mùa đông lạnh giá, tôi chợt thấy tái hiện cảnh những đồng bào nạn nhân bão lụt trong năm qua. Và tôi nghe tiếng Người mời gọi “ CHIA SẺ”
Chia sẻ không phải là bố thí, cũng không phải là ban ơn. Bố thí và ban ơn là đứng từ trên cao ban xuống và chỉ cho những gì dư thừa. Chia sẻ là đứng ngang hàng và cho đi những gì chính bản thân cần thiết. Hiểu như thế, Đức Giê su chính là mẫu gương chia sẻ. Đức Giê su là Thiên Chúa, Người có thể ngự trên trời, dùng quyền năng mà cứu độ nhân loại. Nhưng vì muốn chia sẻ với nhân loại, nên Người đã xuống thế làm người để ở với nhân loại. Sự chia sẻ của Người đạt đến tột đỉnh vì Người không chỉ chia sẻ một phần nhưng đã tặng ban tất cả bản thân cho nhân loại. Vì muốn chia sẻ, Người đã tự huỷ mình khỏi thân phận Thiên Chúa. Vì muốn chia sẻ, Người đã không ngần ngại chọn xuống chỗ bé nhỏ rốt cùng của thân phận con người. Vì muốn chia sẻ, nên Người đã tự nguyện nếm cảm hết những đau khổ mà con người có thể gặp. Ta đau khổ vì cảnh nghèo ư ? Chính Người cùng chia sẻ với ta cảnh khó nghèo, đói khát, lạnh lẽo. Ta đã chịu nhiều đau khổ ư ? Chính Người chia sẻ với ta trong những thất bại, bị phản bội, bị hành hạ và chết cô đơn nhục nhã. Người chia sẻ với mọi người dù ở những hoàn cảnh khốn cùng, khắc nghiệt nhất của cuộc sống.
Nằm trong hang đá nghèo hèn, với bầy chiên bò, giữa đêm đông giá rét, Đức Giê su trở nên một lời mời gọi chia sẻ. Giờ đây, Người chỉ là một em bé sơ sinh yếu ớt cần đến sự giúp đỡ của ta. Đêm đông lạnh lẽo, Người cần cả đến hơi thở của con bò để sưởi ấm tấm thân. Khi trốn sang Ai cập, Người cần nhờ con lừa chở đi. Khi còn thơ bé, Người cần bàn tay săn sóc nâng niu của Đức Mẹ và thánh Giu se. Khi đi rao giảng, Người cần có bạn bè giúp đỡ. Khi cầu nguyện trong vườn Cây Dầu, Người bộc bạch nỗi buồn mong được các môn đệ an ủi. Khi vác thánh giá, Người yếu nhược phải nhờ đến ông Simon giúp sức. Người hoá thân làm một con người yếu ớt nhất, túng thiếu nhất, khốn cùng nhất, đau khổ nhất, để mời gọi ta biết mở rộng tâm hồn chia sẻ. Người sẵn sàng đón nhận sự giúp đỡ, dù rất bé nhỏ, kể cả của súc vật, để mời gọi ta quảng đại.
Hôm nay, lời mời gọi chia sẻ ấy vẫn vang lên rất thiết tha, rất khẩn cấp. Đức Giê su vẫn đang lên tiếng kêu cứu qua những trẻ em mồ côi, không nơi nương tựa, không những không được chăm sóc, không có cơ hội đến trường, mà còn bị hất hủi, bị lạm dụng, bị xâm hại. Đức Giê su vẫn đang âm thầm nhẫn nhục trong số phận hẩm hiu của những người bị quên lãng. Đức Giê su vẫn đang oằn vai gánh nặng trong kiếp lầm than của những người nghèo nàn, vất vả vật lộn với cuộc sống. Đức Giê su vẫn đang quằn quại trong những tấm thân gầy mòn bị cơn bệnh nan y gặm nhấm. Đức Giê su vẫn đang tức tưởi trong những người thất bại, không tìm thấy tia sáng hy vọng cho tương lai.
Trong năm nay, nhiều thiên tai trên thế giới đang làm xuất hiện những khuôn mặt mới của Đức Giê su với những lời kêu cứu khẩn cấp. Đây Đức Giê su bé thơ với khuôn mặt tái xanh vì đói vì lạnh. Kia Đức Giê su bị đóng đinh vào mái nhà chết chìm dưới dòng nước lũ. Đó Đức Giê su hốt hoảng nhìn những người thân yêu bị dòng nước oan nghiệt cuốn đi. Tất cả là một hang đá Bê lem, trong đó Đức Giê su đang cất lời mời gọi chia sẻ.
Hãy mở rộng tâm hồn để chia sẻ, Vì khi mở rộng tâm hồn chia sẻ, ta đón nhận ơn Chúa. Chính khi mở rộng tâm hồn để chia sẻ, ta đáp lại lời mời gọi của Đức Giê su bé thơ trong hang đá Bê lem.
Lạy Chúa Giêsu bé thơ, xin dạy con biết sống trọn vẹn mầu nhiệm giáng sinh bằng mở lòng ra chia sẻ với mọi người.
Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra: GS-210
Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Ðây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Ðavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Ðavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.
Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán.
Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: "Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Ðavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng.
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Nhìn vào hang đá ai cũng phải chạnh lòng. Một trẻ thơ mới sinh ra đời đã phải vất vả lầm than. Không có nhà cửa giường chiếu đã đành. Lại còn phải ở chung với súc vật. Đối với một con người bình thường như thế đã là khốn khổ quá mức. Đối với Thiên chúa làm người thì lại càng không thể chấp nhận được.
Chịu cảnh lầm than khốn khổ trước sự vô tình của đồng loại chưa đủ, Chúa Giêsu bé thơ còn phải chịu cảnh khốn khổ vì sự độc ác của bạo vương Hêrôđê. Hêrôđê nghe tin có Đấng Cứu Thế ra đời, sợ mất chức quyền nên đã cho quân đội truy tìm để tiêu diệt. Thánh Giuse và Đức Mẹ Maria đã phải bồng bế Hài nhi Giê su còn non nớt chạy trốn sang Ai cập.
Tuy khung cảnh hang đá có thô sơ đạm bạc, nhưng nhìn vào vẫn thấy ấm cúng. Một bầu không khí thương yêu toả ra bao trùm cảnh tối tăm nghèo khổ hôi hám. Ánh mắt thánh Giuse, ánh mắt Đức Mẹ, ánh mắt Chúa Giêsu bừng lên tình thương yêu, sự quên mình, sự quan tâm. Đó là bầu khí gia đình yên vui đầm ấm. Hạnh phúc vẫn dâng đầy dù trong cảnh khó khăn túng thiếu.
Ta không thể mường tượng được cuộc đời trần thế của Đức Giê su sẽ ra sao nếu không có gia đình. Chính gia đình tốt đẹp đã đưa hài nhi Giêsu vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Chính gia đình vui tươi đầm ấm đã giúp hài nhi Giêsu triển nở nên người, hoàn thành sứ mạng cứu nhân độ thế.
Gia đình là chiếc nôi êm ái nhất nâng niu giấc ngủ trẻ thơ. Gia đình là lương thực bổ dưỡng nhất giúp phát triển trẻ thơ. Gia đình là thành trì vững chắc nhất để bảo vệ trẻ thơ.
Nhìn ngắm Chúa Giêsu sơ sinh trong máng cỏ nghèo hèn, ta không thể không nghĩ tới biết bao trẻ thơ sinh ra hôm nay đang phải chịu cảnh đói nghèo thiếu thốn. Không chỉ là thiếu thốn vật chất mà còn thiếu thốn tình thương. Không chỉ thiếu thốn nhà cửa mà còn thiếu một mái gia đình. Không chỉ bị giá lạnh của thời tiết mà còn bị giá lạnh vì thiếu vòng tay ôm ấp vỗ về.
Không có cảnh nghèo nào khốn cùng hơn cảnh trẻ thơ thiếu tình thương. Không có mái nhà nào rách nát hơn mái gia đình tan vỡ. Không có mùa đông nào giá lạnh hơn mùa đông của trái tim.
Muốn cứu lấy trẻ thơ phải cứu lấy gia đình. Gia đình là tương lai của trẻ thơ. Gia đình là tương lai của thế giới.
Nhìn cảnh bạo vương Hêrôđê săn đuổi Chúa Giêsu bé thơ, ta không khỏi nghĩ đến biết bao trẻ thơ hôm nay cũng đang bị săn đuổi. Những bạo vương thời đại mới chỉ vì tiền bạc lợi nhuận mà giết chết biết bao đời trẻ thơ. Vì tư lợi các bạo vương thời mới không ngần ngại phát tán nọc độc chết chóc trong các sách báo, phim ảnh xấu. Vì lợi nhuận những Hêrôđê thời mới đã giết biết bao đời trẻ thơ trong nạn nghiện ngập xì ke ma tuý. Để phục vụ quyền lợi của cá nhân, các bạo vương thời mới không ngần ngại khai thác trẻ thơ trong lãnh vực kinh doanh.
Hãy cứu lấy trẻ thơ khỏi tay các bạo vương thời mới. Trẻ thơ là tương lai của chúng ta. Hãy cứu lấy tương lai chúng ta.
Chúa Giêsu vẫn tươi cười trong hang đá lạnh lẽo tối tăm hôi hám vì bên cạnh Người còn có một gia đình yên vui đầm ấm, có tình yêu thương của Đức Mẹ Maria, của thánh Giuse.
Yêu thương trẻ thơ, trân trọng tương lai của Giáo hội, của thế giới, ta hãy cầu nguyện cho các gia đình, đặc biệt trong năm nay, năm mà Giáo phận đã dành để cầu nguyện, học hỏi và canh tân gia đình công giáo.
Xin Chúa Giêsu bé thơ thương đến các trẻ em hôm nay, ban cho các em được sự quan tâm chăm sóc của mọi người. Xin Người gìn giữ các gia đình được yên vui đầm ấm để tương lai trẻ thơ được tươi sáng. Amen.
Sau mấy tuần chuẩn bị, đêm nay chúng ta cử hành lễ mừng Chúa giáng sinh. Một đứa trẻ yếu ớt: GS-211
Sau mấy tuần chuẩn bị, đêm nay chúng ta cử hành lễ mừng Chúa giáng sinh. Một đứa trẻ yếu ớt sinh ra trong máng cỏ, trong hang súc vật. Nhưng đứa trẻ ấy chính là Chúa Cứu Thế. Là một vị Thiên Chúa, Ngài đã nhập thể làm người để cứu độ chúng ta. Đó là một hồng ân to lớn. Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa.
Nhưng chúng ta cũng hãy ý thức rằng, việc Chúa Cứu Thế sinh ra tại hang đá Bêlem sẽ chẳng ích lợi gì cho chúng ta nếu như Ngài không sinh ra trong chính tâm hồn chúng ta. Vậy chúng ta cũng hãy mở rộng cửa lòng để cho Ngài đến và cư ngụ với chúng ta.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Trong Mùa Vọng, chúng ta chỉ lo chuẩn bị bề ngoài mà chưa chuẩn bị tâm hồn cho đủ để xứng đáng đón rước Chúa.
Chúa Cứu Thế đã mang lấy thân phận của một người nghèo. Vậy mà từ trước tới nay chúng ta thường coi khinh những người nghèo.
Chúa Cứu Thế là ánh sáng của sự lành và sự thiện. Vậy mà từ trước tới nay nhiều lần chúng ta trốn lánh ánh sáng để ngụp lặn trong bóng tối của tội lỗi.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Is 9,2-7) :
Bối cảnh lịch sử : Dân Israel đang sống một thời kỳ hãi hùng : quân đội Assyria đã càn quét đất nước, đâu đâu cũng toàn cảnh điêu tàn đổ nát ; dân chúng rên siết dưới ách thống trị bạo tàn của ngoại bang : "Dân tộc bước đi trong u tối". Nhưng giữa bóng tối hãi hùng đó, Isaia tiên báo một thời tươi sáng. Vì tin chắc tương lai tươi sáng ấy sẽ tới, nên tuy nói về tương lai nhưng Isaia đặt những động từ ở thì quá khứ, kể như sự việc đã xảy đến rồi : "Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết… Cái ách nặng nề trên người nó, cái gông nằm trên vai nó, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức, Chúa đã nghiền nát ra… Bởi lẽ một hài nhi đã sinh ra cho chúng tôi và một người con đã được ban tặng cho chúng tôi".
Lời tiên tri của Isaia đã được ứng nghiệm khi Israel thoát khỏi ách thống trị của Assyria. Nhưng lời tiên tri này còn mang một chiều kích phổ quát hơn nhiều : sự cứu thoát ấy chỉ sẽ được thực hiện trọn vẹn nơi Đấng Messia.
2. Đáp ca (Tv 95) :
Tv 95 này là một bài ca diễn tả niềm hân hoan trào tràn đến tột độ : Con người bày tỏ niềm hân hoan bằng hát ca, nhảy múa. Con người còn kêu mời cả trái đất, biển khơi và các tầng trời chia sẻ niềm hân hoan của mình. Lý do của sự vui mừng to lớn ấy là vì Thiên Chúa đã đến.
3. Bài đọc II (Tt 2,11-15) :
Trong một đoạn thư rất ngắn chỉ có 5 câu, Thánh Phaolô vạch cho Titô thấy cả một "lịch sử cứu độ" rất dài gồm 3 giai đoạn :
- Giai đoạn khởi đầu là tình thương bao la của Thiên Chúa : Ngài đã ban Đức Giêsu cho loài người. Đức Giêsu chính là "ân sủng" của Thiên Chúa.
- Giai đoạn sẽ đến là lúc Đức Giêsu lại xuất hiện trong vinh quang trong ngày Ngài trở lại. Khi ấy Đức Giêsu là "vinh quang" của Thiên Chúa.
- Giữa hai giai đoạn ấy là cuộc sống của người tín hữu : để đáp lại "ân sủng" của Thiên Chúa lúc khởi đầu, và để xứng đáng chia phần "vinh quang" trong ngày sau hết, tín hữu phải : "từ bỏ gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức".
4. Tin Mừng (Lc 2,1-14) :
Giây phút quan trọng mà loài người mong chờ mấy ngàn năm đã điểm : Đấng Cứu Thế đã sinh ra. Điều đặc biệt là Ngài sinh ra một cách rất âm thầm, khiêm tốn và nghèo nàn : Bêlem nhỏ bé, máng cỏ, hang súc vật…
Dù vậy cả đạo binh thiên quốc hát mừng. Các ngài nói rằng đó là một tin mừng đặc biệt.
Và Tin Mừng đặc biệt này được gởi đến trước tiên cho những người chăn chiên nghèo khổ.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Ánh sáng bừng lên trong đêm tối
Tại sao Thánh Lễ chính của Lễ Giáng sinh được cử hành ban đêm ? Phải chăng vì đó là thời gian thuận tiện cho giáo dân dự lễ ? Phải chăng vì bầu khí ban đêm làm cho cuộc lễ thêm phần huyền diệu và thánh thiện (như lời ca "đêm thánh vô cùng") ? Phải chăng để cho đúng với sự kiện lịch sử ngày xưa Chúa Giêsu sinh ra ban đêm ?
Các lý do trên đều có phần đúng. Nhưng lý do căn bản nhất là : Chúa Giêsu là ánh sáng, Ngài sinh xuống trần gian như Ánh sáng bừng lên trong đêm tối.
Đêm tối tượng trưng cho tội lỗi, bất hạnh, buồn sầu ; Ánh sáng tượng trưng cho ân sủng, hạnh phúc, mừng vui. Khi sinh xuống trần gian, Chúa Giêsu mang lấy trên mình tất cả tăm tối của loài người với bao tội lỗi, bất hạnh và buồn sầu, nhưng để ban lại cho loài người ánh sáng của Thiên Chúa bao gồm mọi ân sủng, hạnh phúc và mừng vui.
Thực ra, những sử gia còn chưa xác định được Chúa Giêsu sinh ra vào ngày nào tháng nào. Nhưng Giáo Hội đã chọn ngày 25 tháng 12 để cử hành Lễ sinh nhật của Ngài vì hai lý do : a/ Đây là ngày mà mặt trời chiếu sáng nhất và là ngày dài nhất trong năm ; b/ xưa kia ngày này là lễ mừng Thần Mặt trời của người rôma ngoại giáo. Giáo Hội muốn chúng ta hiểu rằng Chúa Giêsu chính là Mặt Trời đích thực đánh tan tối tăm của tội lỗi và sự gian tà.
2. Lễ của người giàu hay của người nghèo ?
Trong dịp Lễ Giáng sinh, người ta chi tiêu rất nhiều : trang hoàng, tiệc mừng, thiệp chúc, quà tặng… Xem ra đây là lễ của người giàu.
Nhưng Đấng mà người ta mừng sinh nhật thì rất nghèo : cỏ rơm, hang súc vật, tả lót sơ sài… Những khách mời ưu tiên cũng là những người chăn chiên nghèo… Dấu chỉ mà thiên thần cho những người chăn chiên ấy dựa vào để nhận ra Chúa cũng là dấu hiệu nghèo : "Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Ngài : các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ". Vậy đây phải là lễ của người nghèo mới đúng.
Để cho Lễ Giáng sinh có ý nghĩa nghèo, người ta tổ chức thăm viếng, tặng quà, khám bệnh, phát thuốc cho người nghèo…Thực ra tất cả những việc ấy chỉ mặc cho lễ Giáng sinh một chút dáng vẻ nghèo mà thôi. Tinh thần nghèo của Lễ Giáng sinh và của Đấng giáng sinh phải thấm sâu vào và thể hiện ra :
- bằng một lập trường sống không thượng tôn tiền bạc như chúa tể.
- bằng một thái độ đối xử tôn trọng và yêu thương người nghèo.
- bằng một cách nhìn mới hẳn, thấy chính Chúa trong người nghèo : "Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Ngài : các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ".
3. Khởi đầu của một cuộc cách mạng
Những cuộc cách mạng thường khởi đầu một cách rất rầm rộ. Biến cố Chúa Giêsu giáng sinh khởi đầu cho một cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong tất cả các cuộc cách mạng. Tuy nhiên sự khởi đầu này rất im lìm, nhỏ bé, bình thường : một đứa trẻ con nhà nghèo, sinh ra trong thiếu thốn, vào thời điểm âm thầm giữa đêm khuya, tại một nơi hẻo lánh hiu quạnh.
Nhưng suy cho kỹ thì sẽ thấy khởi đầu như vậy mới đúng hướng và vững chắc, vì điều mà Thiên Chúa muốn làm cách mạng thay đổi chính là cách sống ồn ào, vật chất, cao ngạo, tham lam. Rồi đây, nhà cách mạng Giêsu sẽ tiếp tục lớn lên trong khiêm hạ, sẽ chiêu mộ những đệ tử khiêm hạ, rao giảng một Tin Mừng khiêm hạ… Cuộc cách mạng của Ngài sẽ biến đổi cả thế giới. Cuộc cách mạng của mỗi người chúng ta cũng phải bắt đầu như thế.
4. Vài mẫu chuyện Giáng sinh
a/ Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta
Một người kia không thể nào tin được việc Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang mà xuống thế mang lấy thân phận con người hèn hạ. Vì thế, đêm lễ Giáng sinh ông không cùng vợ con đi nhà thờ dự lễ, mà ở lại nhà.
Sau khi vợ con đã ra đi được một lúc thì trời bắt đầu đổ tuyết. Ông thầm nghĩ : đêm nay lễ Giáng sinh, ước gì tuyết rơi trắng hết mọi nơi. Một lúc sau, ông nghe một tiếng sột soạt, rồi tiếp theo là một tiếng nữa, và nhiều tiếng nữa, giống như có ai đó ném tuyết vào cửa sổ. Ông mở cửa nhà bước ra xem. Thì ra là một đàn chim đang lao đao trong mưa tuyết muốn bay vào cửa sổ nhà ông để tìm chỗ trú.
- "Tội nghiệp những chú chim nhỏ bé. Mình phải tìm cách giúp chúng mới được". Ông chợt nghĩ đến nhà kho của mình. Ông mặc áo ấm vào, đi ra cái kho sau nhà, mở cửa và gọi chúng vào. Nhưng bầy chim vẫn đứng im.
- "Hay là chúng không thấy lối". Ông bật đèn nhà kho lên. Rồi trở ra gọi chúng. Chúng vẫn đứng im.
- "Lạ thế ! Hay mình đi lùa chúng vào". Thế là ông đi đến chỗ cửa sổ, đưa tay lùa. Lũ chim chẳng những không bay theo hướng ông lùa, mà còn bay trốn tán loạn.
Cuối cùng ông mới hiểu ra : "Chúng sợ mình, vì chúng lạ với mình. Phải chi mình giống như chúng thì khi mình đến gần chúng sẽ không sợ nữa."
Đúng lúc đó, một lời Tin Mừng từ nhà thờ vọng đến tai ông : "Ngôi Lời đã trở thành xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta". Ông quỳ gối xuống và thưa : "Lạy Chúa, bây giờ con đã hiểu tại sao Chúa giáng sinh làm người như chúng con".
b/ Món quà giáng sinh
Một đôi vợ chồng trẻ, Gim và Đêla, tuy nghèo tiền của nhưng rất giàu tình thương đối với nhau. Giáng sinh sắp tới, Đêla tự hỏi phải tặng Gim món quà gì đây. Nàng muốn tặng chàng sợi dây cho chiếc đồng hồ của chàng. Nhưng nàng không có đủ tiền để mua. Vì thế nàng nẩy sinh một sáng kiến : Nàng có bộ tóc dài rất đẹp, nàng rất quý nó và rất hãnh diện vì nó. Nàng quyết định cắt ngắn bộ tóc và đem bán để mua cho Gim sợi dây đồng hồ.
Hôm áp lễ giáng sinh, từ phố về, nàng cầm trong tay một chiếc hộp rất đẹp đựng sợi dây đồng hồ mạ vàng mà nàng vừa sắm được bằng mái tóc của mình. Bỗng nhiên Đêla cảm thấy lo lắng. Nàng biết Gim rất quý mái tóc dài của nàng. Nàng tự hỏi không biết Gim có buồn vì nàng cắt và bán nó đi hay không. Về tới nhà, Đêla mở cửa và thấy Gim đang đợi nàng. Tay chàng cầm một cái hộp thật đẹp đựng món quà chàng mới mua cho nàng. Khi nhìn thấy mái tóc ngắn của vợ, Gim như muốn khóc, nhưng chàng không nói gì cả. Cố trấn tỉnh, chàng trao cho nàng chiếc hộp xinh xắn. Mở hộp ra, Đêla rất đỗi bàng hoàng. Trong hộp là một bộ lược chải tóc bằng xà cừ rất đẹp. Còn chàng, khi mở món quà vừa nhận được từ tay vợ, Gim cũng ngỡ ngàng không kém. Chính lúc đó Đêla mới nhận ra rằng Gim đã bán chiếc đồng hồ vàng, món đồ quý nhất của anh, để mua lược chải tóc tặng nàng. Phút chốc cả hai đều hiểu rằng họ đã tặng nhau những gì quý giá nhất. Họ đã hy sinh tất cả cho nhau. (Trích "Món quà Giáng sinh" )
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT : Anh chị em thân mến
Vì yêu thương nhân loại, Ngôi Hai Thiên Chúa đã từ trời xuống thế làm người, ở cùng chúng ta và chia sẻ mọi vui buồn của chúng ta. Với tâm tình cảm tạ tri ân Thiên Chúa là Tình yêu, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1- Khi giáng sinh làm người / Đức Kitô đã khai mạc một kỷ nguyên mới / kỷ nguyên thái bình thịnh vượng mà các ngôn sứ loan báo thuở xưa. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Hội Thánh Chúa luôn tươi trẻ / hầu có thể thích nghi với mọi thời đại.
2- Đức Kitô đã mang thân xác yếu hèn của nhân loại khi xuống thế làm người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người mù được thấy / kẻ đau yếu mau lành bệnh / và những tâm hồn đau khổ được an vui.
3- Đức Kitô đã sinh ra trong cảnh nghèo hèn tại hang Bêlem. / Chúng ta hiệp lời cầu xin Người an ủi / nâng đỡ những ai đói rách bần cùng.
4- Đức Kitô giáng sinh mang sứ điệp yêu thương và vui tươi đến cho nhân loại. / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết chia sẻ tình thương và niềm vui / với những người nghèo khổ, bất hạnh đang sống chung quanh mình.
CT : Lạy Chúa Giêsu là Chúa hòa bình, là Vua tình thương. Chúa đang ngự giữa chúng con để an ủi, nâng đỡ và khích lệ chúng con bước theo chân Chúa. Xin cho tình thương hải hà của Chúa luôn hướng dẫn chúng con trong cuộc hành trình về quê trời. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
Có lẽ trong năm phụng vụ, không có lễ nào có vẻ nhộn nhịp, phấn khởi và vui tươi cho bằng: GS-212
Có lẽ trong năm phụng vụ, không có lễ nào có vẻ nhộn nhịp, phấn khởi và vui tươi cho bằng lễ Chúa Giáng Sinh. Những máng cỏ, những đèn sao, những cờ xí, những bài thánh ca, những nghi lễ... đều như góp phần tạo nên dáng vẻ thơ mộng, hấp dẫn, vui tươi, trang trọng của cuộc lễ. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở những dáng vẻ và những niềm vui bên ngoài ấy, thì rồi lễ Chúa Giáng Sinh năm nay cũng sẽ qua đi, những niềm vui cũng sẽ tắt như mọi cuộc lễ khác mà không để lại một âm hưởng tốt đẹp nào trong tâm hồn và trong cuộc đời ta. Như thế, cuộc lễ dù vui đến đâu, dù trang trọng đến đâu cũng vẫn là một thất bại. Ðiều quan trọng là mỗi người tìm ra sứ điệp mà Chúa muốn nhắn gởi qua cuộc lễ long trọng này và sống sứ điệp ấy trong đời mình.
Kính thưa quí ông bà và anh chị em,
Trung thành với lời hứa cứu độ, khi thời giờ đã mãn, Thiên Chúa đã sai Con Một Người đến trong trần gian. Những tưởng Con Thiên Chúa sẽ được sinh ra trong cung điện huy hoàng với đàn ca hát xướng, với những lời tung hô và chúc tụng. Nhưng không, Người đã sinh ra trong cảnh nghèo hèn tột cùng. Ðối với mỗi người chúng ta dù nghèo, dù khổ, nhưng chúng ta cũng đã được sinh ra trong một mái ấm gia đình, trong vòng tay của những người thân yêu, của họ hàng và bạn bè. Còn Con Thiên Chúa thì không. Thánh Luca đã mô tả việc sinh ra của Con Thiên Chúa như sau: "Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà KHÔNG TÌM ÐƯỢC CHỖ TRONG NHÀ TRỌ" (Lc 2,7). Thế đấy! Con Thiên Chúa không những sinh ra trong cảnh nghèo khổ về vật chất, nhưng Người còn phải chịu cảnh nghèo khổ về tinh thần nữa. Ngay từ lúc sinh ra, Người đã bị con người từ chối và xua đuổi. Ði đến quán trọ nào, Người cũng đều nhận được câu trả lời: Quán hết chỗ rồi. Thánh Gioan đã viết: "Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận" (Ga 1,11). Nếu đặt mình vào hoàn cảnh bi đát ấy của gia đình Nazareth, chúng ta sẽ cảm nhận được tất cả những nỗi xót xa và cay đắng mà các Ngài phải chịu. Nhưng Con Thiên Chúa chấp nhận những điều ấy vì ai và để làm gì?
Thưa rằng: Vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta như lời kinh Tin Kính mà chúng ta vẫn thường tuyên xưng: Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ Trời xuống thế.- Vâng, vì chúng ta Người đã hy sinh tất cả, chấp nhận tất cả và trao ban tất cả.
* Hy sinh như thế, chấp nhận như thế và trao ban như thế là để cho chúng ta biết rằng Người yêu thương chúng ta dường nào.
* Hy sinh như thế, chấp nhận như thế và trao ban như thế cũng còn để cho chúng ta thấy những tội lỗi, những phản phúc của chúng ta lớn lao và nặng nề biết bao. Trong mối quan hệ giữa người và người, sự phản bội lẫn nhau đã là điều đáng trách. Ở đây, chính con người phản bội lại Thiên Chúa, chính thụ tạo thấp hèn đã chống lại Ðấng tạo dựng nên mình thì sự phản bội ấy còn đáng trách đến độ nào. Vậy mà dường như Người đã quên đi tất cả.
Do đó, lễ Chúa Giáng Sinh chính là một cơ hội để chúng ta suy nghĩ, hầu có thể nhận ra rằng mình được Thiên Chúa yêu thương. Biết mình được yêu thương, chúng ta sẽ biết mình phải làm gì để đáp trả.
Trong đêm cực thánh này, chúng ta cùng cảm tạ Chúa vì Người đã đến sống giữa chúng ta, đã chia sẻ những đớn đau, những khổ ải, những cơ cùng của chúng ta. Ngày hôm nay, Người vẫn muốn giáng sinh trong tâm hồn chúng ta, vẫn muốn ở bên ta, vẫn muốn đồng hành với ta trong cuộc sống, để nâng đỡ sự yếu đuối, sự vất vả mệt nhọc của ta về tinh thần cũng như thể xác. Ước gì chúng ta biết mở rộng lòng để đón Người. Và ước gì đừng ai trong chúng ta nói với Người những lời bẽ bàng như các chủ quán xưa: Quán hết chỗ rồi.
Đêm nay cách đây hơn hai ngàn năm, Con Thiên Chúa đã đản sinh nơi hang đá Bêlem. Đọc : GS-213
Đêm nay cách đây hơn hai ngàn năm, Con Thiên Chúa đã đản sinh nơi hang đá Bêlem. Đọc Tin Mừng của thánh Luca 2, 1-14, chúng ta cảm nhận được Hài Đồng Giêsu năm xưa cũng đang hiện diện với thế giới, với loài người, với con người lúc này và mãi mãi.Muôn thiên thần đang rợp một khúc ca: ” Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương “. Sứ điệp của các thiên thần vẫn là lời mời gọi nhân loại “ Hãy sống yêu thương, ngay thẳng, hòa bình “. Mùa Đông ngày Chúa sinh ra gợi cho chúng ta về cái giá lạnh và hơi ấm của bò lừa thở hơi cho Chúa…
CÁI XÔN XAO CỦA ĐÊM ĐÔNG NĂM XƯA:
Đêm đông gợi cho chúng ta cảm giác lạnh căm. Cái buốt giá của đêm đông như làm xôn xao cả màn đêm, làm xôn xao đàn súc vật và làm nôn nao cả lòng người. Tin Mừng của thánh Luca thuật lại cuộc Giáng Sinh của Chúa Giêsu rất chi tiết và rõ ràng: ” …ông Giuse từ thành Nadarét, miền Galilê lên thành vua Đavít tức là Bêlem, miền Giuđê, vì ông thuộc gia đình dòng tộc vua Đavít. Ông lên đó khai tên cùng với người đã thành hôn với ông là Maria, lúc ấy đang có thai. Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ “( Lc 1, 4-7 ). Rõ ràng, Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô đã được Chúa Cha định liệu có mẹ có cha để Ngài được lớn lên trong một mái ấm gia đình. Chúa Giêsu đã chia sẻ kiếp sống làm người với những con người bị bỏ rơi nhất. Ngài sinh ra trong một hang súc vật. Do đó, cái giá lạnh đêm đông lại càng có ý nghĩa nhiều hơn nữa.Cái xôn xao của một đêm đông không trăng, không sao làm rõ nét số phận của một Con Thiên Chúa đến trần gian để sống với, sống vì, sống cho nhân loại. Chúa Giêsu sẻ chia số phận với những con người nghèo khổ, bơ vơ tất bạt, không nhà không cửa, bị bỏ rơi bên lề xã hội. Hài Đồng Giêsu đêm năm ấy đã cho nhân loại thấy một Vị Vua Hòa Bình, Vị Vua Nhân Ái và Tình Thương đã đến để cứu chuộc loài người.
NHỮNG MỤC ĐỒNG ĐƯỢC LOAN BÁO TIN MỪNG LỚN LAO:
Con Thiên Chúa, Đấng EM-MA-NU-EN nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta đã không được ai đón tiếp trong đêm đông lạnh giá,chỉ có các mục đồng mà Tin Mừng thánh Luca ghi: ” Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. Nhưng sứ thần bảo họ: ” Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa “ ( Lc 1, 8-11 ). Và sứ thần còn căn dặn các mục đồng: ” Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ “ ( Lc 1, 12 ). “ Các mục đồng liền hối hả ra đi.
Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên “ ( Lc 1, 16-18 ). Các mục đồng là những người đầu tiên đã đón nhận Tin Mừng. Họ đã nhận ra Hài Đồng Giêsu, Con Thiên Chúa đã muốn trở nên nghèo vì loài người, vì mỗi người để cho con người và nhân loại được sự giàu có của Chúa Giêsu. Thế giới và nhân loại, con người, ngay những con người ở trong vùng ấy đang chìm đắm trong giấc ngủ, đang hưởng sự ấm cúng của chăn bông, lò sưởi thì chỉ có vài người chăn chiên đã nhìn thấy Thiên Chúa. Họ đã được sứ thần báo tin và mời tới hang đá máng cỏ bởi vì Thiên Chúa muốn tỏ mình ra cho họ là những người nghèo. Mẹ Maria và thánh Giuse, chắc chắn đã có niềm vui vì được chia sẻ với các mục đồng một phần nào bí mật của các ngài.
CHÚA SINH RA LÀ MỘT LỜI CHO NHÂN LOẠI, CHO CON NGƯỜI:
Biến cố Giáng Sinh là một Lời của Thiên Chúa ngỏ cho nhân loại, ngỏ cho con người. Tin Mừng thánh Luca viết: ” Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng “ ( Lc 2, 19 ). Mẹ Maria đã kinh ngạc, thán phục, nhưng không ngỡ ngàng bởi việc Chúa Giêsu sinh ra, Mẹ đã được mạc khải, do đó, lòng tin của Mẹ Maria không hề nao núng chút nào cả. Sự kiện Giáng Sinh được trình bày cho thế giới, cho nhân loại với dâu chỉ là một Lời để nhìn, để chiêm ngắm, để loan báo cho người khác, một Lời để suy niệm và giữ mãi trong lòng để suy đi nghĩ lại trong cuộc đời. Giáng Sinh là một Lời, một biến cố rõ ràng, một sự kiện tràn đầy ý nghĩa. Giáng Sinh đang tiếp tục nói với nhân loại, nói với mỗi người chúng ta.
CHÚA GIÁNG SINH LÀ MỘT LỜI CỨU RỖI CỦA THIÊN CHÚA:
Hài Đồng Giêsu nằm trong máng cỏ là Đấng Cứu Thế. Ngài đến trần gian không như một nhân vật lịch sử, một vĩ nhân hay là một người lạ lùng theo nghĩa con người, nhưng Ngài là Vị Cứu Tinh, là Đấng Cứu Độ. Ngài đến để cho người què đi được, người điếc nghe được, người mù thấy được và người nghèo được nghe loan báo Tin Mừng. Chúa Giêsu ở với Thiên Chúa cha từ trước muôn đời. Trong Chúa Giêsu, nhân loại và mỗi người chúng ta được Thiên Chúa yêu thương, tha thứ và qui tụ. Chúa đến cho chiên được sống và sống dồi dào ( Ga 10, 10 ).Chính vì thế, Hài Đồng Giêsu, Con Thiên Chúa đã đến để xua tan nỗi thất vọng, chiến thắng thần chết, sự dữ bị khuất phục. Tất cả những ai đón nhận Hài Đồng Giêsu như các mục đồng đã làm cũng sẽ hưởng được niềm vui tràn đầy và nhận được ơn giải thoát của chính Thiên Chúa.
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương “ ( Lc 2, 14 ) vẫn luôn là lời ngợi khen, chúc tụng và lời hứa ban Hòa Bình, Tình Thương và An Bình cho mọi người đón nhận Con Thiên Chúa.
Lạy Thiên Chúa, xin ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con mau mắn đón nhận Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ. Amen.
Hôm nay khắp nơi trên thế giới hoan hỉ mừng lễ Chúa Giáng sinh, đó là ngày lễ quốc tế chứ: GS-214
Hôm nay khắp nơi trên thế giới hoan hỉ mừng lễ Chúa Giáng sinh, đó là ngày lễ quốc tế chứ không phải của một dân tộc nào ; đối với Kitô hữu , hôm nay được gọi là lễ Chúa Giáng sinh. Nhiều người không muốn dùng từ lễ Giáng sinh mà chỉ dùng chữ Noel trên các tấm thiệp cũng như trong các đèn ông sao và nơi hang đá.
Tại sao gọi là Noel ? Chính ra phải gọi là lễ Nuel mới đúng, vì từ Nuel được rút ra từ chữ Emmanuel, có nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Sau này người ta đổi chữ Nuel thành Noel. Như vậy mừng lễ Noel là mừng ngày Thiên Chúa giáng trần và ở cùng chúng ta.
Ngược dòng lịch sử : khi Ađam và Evà phạm tội bất trung, Thiên Chúa đã ra án phạt cho ông bà, nhưng đồng thời cũng hứa ban Đấng Cứu thế đến cứu chuộc nhân loại bằng cách cho Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người và ở cùng chúng ta , và sẽ dùng cái chết của mình trên thập giá để xóa bỏ tội lỗi cho con người. Khi thời gian tới hồi viên mãn, Ngôi Hai Thiên Chúa đầu thai trong lòng Trinh Nữ Maria và đã được sinh ra tại hang đá Belem trong một đêm đông lạnh lẽo.
Hôm nay khắp thế giới kỷ niệm ngày Thiên Chúa giáng trần để ở cùng loài người. Loài người chúng ta hân hạnh quá vì được đồng hành với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hoá thân làm người như chúng ta, nhận lấy kiếp sống phàm trần như ta để chia sẻ buồn vui với loài người và nâng cao thân phận con người lên để xứng đáng làm con Thiên Chúa.
2. Mừng ngày Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Hôm nay Con trẻ Giêsu được sinh ra tại hang đá Belem, mọi người đều hướng về Ngài. Vậy Ngài là ai mà quan trọng thế ? Ngài vừa là Con Thiên Chúa vừa là con của loài người. Ngài đến nối kết trời và đất, Ngài là Đấng Trung hòa. Trong Ngài trời và đất không còn xa nhau, không còn khoảng cách. Tất cả đều nên một cho nên phải nói :Ngài thực sự là Đấng “Chí Trung Hoà”, là Đấng “Thái Hoà” thực hiện đúng lý tưởng của văn hóa Đông phương hằng mong ước.
Ngài là Con Thiên Chúa , cho nên Ngài nên một với Thiên Chúa. Ngài là con người nên hoà đồng với con người, nhận lấy thân phận khốn khổ của loài người. Chính thánh Phaolô đã giải thích mầu nhiệm này :”Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất thiết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ trở nên giống phàm nhân, sống như người trần gian. Người lại còn hạ mình vâng lời bằng lòng chịu chết trên cây thập tự” (Pl 2,1-8). Người đồng hóa như vậy đó :”Cho loài người tham dự với Người vào các mầu nhiệm Thiên Chúa. Biến đổi loài người nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Cầu bầu cho nhân loại, và cứu rỗi họ bằng sự chết của mình” (Thân văn Tường, Kitô học, tr 136).
Theo Đông phương, Đức Giêsu Kitô là Đấng “Chí Trung Hoà”. Chững Trung O gồm nét sổ thẳng chính giữa tâm hình tròn. Hình tròn biểu tượng thái cực là Trời, là Thiên Chúa. Hình tròn viết thành chữ thì biến thành hình vuông . Vuông chỉ đất là người. Nét sổ thẳng chính trung tâm vuông tròn không xê dịch, sai lệch một chút nào, đó là Chí Trung, dấu chỉ Đức Giêsu là trung tâm trời đất. Còn Chí Hoà, chữ Hoà gồm chữ hoà là lúa và chữ khẩu là miệng :
*P* cơm bánh là thực phẩm hợp khẩu vị nhất, là đồ ăn hoà đến cùng cực để trở nên sự sống của loài người. Đức Kitô đã biến bánh miến và rượu nho trở nên Thịt Máu mình để trở nên của ăn của uống ban cho chúng ta sự sống muôn đời. Một sự hoà đồng cùng cực :Chí Hoà”. Thật Người là Đấng ChíTrung Chí Hoà để cho tất cả nên một. Thiên Chúa và con người không còn xa cách, không còn không gian, thời gian nào phân ly được nữa...
(Vũ khắc Nghiêm, Xây nhà trên đá, năm B, tr 22)
Truyện : hoàng tử và cậu bé nghèo.
Văn hào Mark Twain cách đây ba thế kỷ, có viết một cuốn sách tiểu thuyết nổi tiếng tựa đề “Hoàng tử và cậu bé nghèo”. Chuyện kể lại tình bạn của hai cậu bé giống hệt nhau khiến người ta tưởng là sinh đôi. Một trong hai cậu bé tên là Edward, hoàng tử xứ Galles. Còn Tom Canty, người bạn của vị hoàng tử, lại là một cậu bé con nhà nghèo.
Một ngày kia, hai cậu bé có một ý nghĩ ngộ nghĩnh là thay đổi địa vị xã hội. Tom vào thế chỗ của vị hoàng tử Edward trong triều đình, còn Edward thì khoác lên mình một mảnh áo rách rưới và bắt đầu cuộc phiêu lưu. Cậu lang thang đầu đường xó chợ bên cạnh những người cùng cực nhất trong xã hội.
Thế nhưng một lúc nào đó, hai cậu cũng cảm thấy mệt mỏi với trò chơi đầy phiêu lưu này. Edward mới sực tỉnh về ngôi vị hoàng tử của mình. Trong bộ áo rách rưới nhơ bẩn, cậu tìm đủ mọi cách để chứng minh rằng mình là hoàng tử nối ngôi của xứ Galles. Nhưng cảnh sát đã không tin... Thế là hoàng tử Edward đành phải lặng lẽ bước vào tù vì tội giả mạo.
Giữa lúc Tom cậu bé nghèo sắp sửa được tấn phong làm vua, thì hoàng tử Edward xuất hiện... Không mấy chốc cậu đã được phục hồi trong ngôi vị hoàng tử của cậu. Chính nhờ kinh nghiệm của những tháng ngày làm người ăn xin, lang thang đầu đường xó chợ với những người cùng khổ, mà Edward đã trở thành một vị vua đạo đức và giầu lòng thương người (Lẽ sống,447)
Cũng giống như câu chuyện trên đây, Thiên Chúa đã đến giữa loài người để hoán đổi vị thế với chúng ta. Người mặc lấy thân xác nghèo hèn của chúng ta để chúng ta được mang lấy tước hiệu làm con Thiên Chúa. Nhờ ân sủng của Ngài, Ngài chia sẻ với chúng ta sự sống thần linh và đón nhận trong thân xác Ngài tất cả những hệ lụy của kiếp sống khổ đau của con người.
3. Những Đấng Kitô ngày nay !
Chúa Giêsu đã xuống thế lần thứ nhất vào ngày Ngài giáng sinh. Ngài hứa sẽ trở lại lần thứ hai trong vinh quang của Ngài để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Trong khi chờ đợi Ngài đến lần thứ hai, ngày nay ta thấy xuất hiện nhiều người tự xưng là Đấng Kitô, Chúa Cứu thế. Cho đến nay, đã xuất hiện 18 tân Kitô tại Ấn độï, Nga, Mỹ và Pháp và tự xưng mình là Chúa, trong đó có một nữ Chúa Cứu thế với 15 triệu tín đồ. Điên khùng hay bịp bợm, các nhà tiên tri ấy hứa hẹn với các tín đồ một thiên đàng dưới đất chăng ?
Cách đây 1000 năm, loan báo ngày tận thế sẽ vào năm 1000, phải chăng nay lại tái diễn? Trong số các Đấng Cứu thế này có Sathya Sai Baba là nổi tiếng nhất trong số các Messie hiện tại. Ông ở tuổi 68, ông Kitô Ấn độ này với kiểu tóc bờm ngựa, đã chiêu tập được 10 triệu tín đồ. Xuất hiện trước công chúng, ông ta luôn mặc cái áo dài màu cam, ngồi trên ngai và để chân lên đệm. Ông cũng làm được một vài điều lạ như đẻ ra trứng trước mặt nhiều người, chữa bệnh bằng thần giao cách cảm. Có một cặp vợ chồng người Tây phương hỏi ông có phải là Đấng Kitô đăng quang lần thứ hai không, ông ta chỉ mỉm cười.
Còn Đấng Kitô đáng chú ý nữa là Mary Davy Christ, Kitô đàn bà, người Do thái. Theo truyền thống Do thái, lại không nhận có Kitô đàn bà. Nhưng các đệ tử của Mary Davy Christ lại lý giải thật đơn giản : đăng quang lần đầu tiên Kitô là đàn ông, thì lần thứ hai để loan báo ngày tận thế, Kitô sẽ là đàn bà : chuyện đó rất đơn giản. Đấng Cứu thế đã đến rồi và Ngài sẽ trở lại mà chưa biết ngày nào, chúng ta hãy chờ đợi. Còn những Kitô giả hiệu không được có chỗ đứng trong suy nghĩ của chúng ta : Chúng ta chỉ có một Chúa Kitô là Đức Giêsu.
II. CẢM NGHĨ VỀ LỄ GIÁNG SINH.
Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Người Con yêu qúi của Ngài là Đức Giêsu. Trong ngày kỷ niệm ngày Ngài giáng sinh, chúng ta phải có những tâm tình nào đây ? Không lẽ chúng ta chỉ coi lễ Giáng sinh như là một ngày vui chơi sao ? Như thế lễ Giáng sinh không còn có ý nghĩa thiêng liêng nữa.
Ngày lễ của Tình yêu.
Hôm nay chúng kỷ niệm ngày Đức Giêsu ra đời. Ngày đáng ghi nhớ. Ngày trời đất gặp nhau hôn nhau âu yếm. Ngày trời đất se chữ đồng. Ngày Thiên Chúa hạ xuống làm người để con người được làm Thiên Chúa. Lễ hôm nay phải được gọi là lễ của Tình yêu, tình yêu cao vời của Thiên Chúa đối với loài người. Thiên Chúa đã bỏ mọi vinh quang trên trời, hạ mình xuống làm con người hèn hạ. Nhìn vào hang đá, ta thấy một hài nhi bé bỏng nằm trong nôi, ngoài Đức Maria và thánh Giuse chỉ có mấy con bò lừa thở hơi ấm cho Chúa Hài nhi, và trên không trung chỉ có tiếng ca hát của các thiên thần. Sau đó, các thiên thần báo tin cho mục đồng đến chiêm bái Chúa Hài đồng.
Người ta ai cũng có quan niệm rằng : Đấng Cứu thế phải là con vua con chúa, phải sinh ra nơi lầu son gác tía, được mọi người tung hô chúc tụng ; nhưng thực tế lại khác hẳn, Ngôi Hai Thiên Chúa sinh ra trong một hoàn cảnh bi đát : không nhà không cửa, không giường không chiếu, không lấy một mảnh chăn êm, không ai đến thăm hỏi. Thật là cám cảnh. Có ai trong chúng ta đi lễ đây đã bao giờ sinh con trong hoàn cảnh như vậy chưa ? Chắc chắn là không. Thế mà Ngôi Hai Thiên Chúa đã sinh ra trong hoàn cảnh như vậy đó. Vậy lý do nào đã khiến Thiên Chúa hành động như vậy ? Không còn lý do nào khác ngoài tình yêu đối với chúng ta, vì đã yêu thì không có tính toán hơn thiệt.
Truyện : Hoàng đế Sabat.
Hồi đó, Hoàng đế Sabat cai trị vương quốc Ba tư và rất được toàn dân mến phục. Nhà vua thường cải trang như một thường dân để dễ tiếp xúc với dân chúng. Một hôm, nhà vua cải trang như một công nhân nghèo khổ lần mò các bậc thang để xuống tận hầm tối của lâu đài là nơi cư ngụ của một cụ già chuyên lo việc củi lửa sưởi ấm cho cả lâu đài. Giường ngủ của cụ là đống tro tàn và lương thực hằng ngày là mẩu bánh mì đen với ly nước lã. Nhà vua đến ngồi bên cạnh cụ già và bắt đầu gợi chuyện. Đến bữa ăn, cụ già mời nhà vua chia sẻ mẩu bánh mì khô cứng thấm mềm trong ly nước lã. Cả hai cùng ăn và tiếp tục chuyện trò thân mật.
Nhà vua động lòng thương cụ già và từ ngày đó, nhà vua nhiều lần cải trang để đến thăm cụ. Riêng cụ già, tuy không biết lý lịch của người đến thăm mình là ai, nhưng vẫn tiếp tục đáp trả cử chỉ nhân đạo của nhà vua. Sau cùng, nhà vua tự nhủ : ta sẽ tỏ lộ cho cụ già này biết ta là ai, để xem ông ta sẽ xin ta sự gì. Ít hôm sau, nhà vua xuống hầm tối thăm cụ già trong y phục sang trọng và nói :
Bấy lâu nay có lẽ ông tưởng ta chỉ là một công nhân nghèo khổ như ông, nhưng nay ta nói thật ta là vua, ta rất mến tình bạn của ông, vậy ông muốn gì, cứ nói, ta sẽ ban cho.
Nhà vua tưởng cụ già sẽ xin tiền bạc hoặc ân huệ, nhưng ông chỉ ngồi yên lặng. Tưởng cụ già không hiểu mình nói gì, nhà vua cắt nghĩa thêm :
Có lẽ ông chưa hiểu rằng ta là vua, ta có thể làm cho ông nên giầu sang, danh vọng.
Cụ già cúi đầu đáp :
Tâu Hoàng thượng, con đã hiểu tấm lòng của Hoàng thượng trong những lần đến hầm tối này để thăm con và không ngần ngại chia sẻ với con mẩu bánh mì đen và ly nước lạnh. Đó là món quà cao qúi nhất rồi, con không muốn gì hơn nữa, con chỉ xin một điều là Hoàng thượng đừng bao giờ lấy lại món quà quí giá ấy bao lâu con còn sống trong cảnh cô đơn nghèo khổ này.
2. Tâm tình trong ngày lễ.
Hôm nay mọi người đều nô nức đi dự lễ, kể cả những người ngoài công giáo. Mỗi người có một cái nhìn về lễ Giáng sinh : họ cũng mừng lễ, chúng ta cũng mừng lễ, nhưng tâm tình về ngày lễ thì khác nhau. Vậy chúng ta có tâm tình nào ? Với ý tưởng gì ? Ta có những ý tưởng tốt đẹp và cao qúi trong ngày lễ Giáng sinh không ? Hay chỉ nghĩ rằng hôm nay là ngày lễ để vui chơi, để có dịp gặp gỡ nhau hoặc có dịp khoe thời trang ?
Truyện : Ý tưởng về Lễ Giáng sinh.
Một giáo sư tâm lý của trường đại học tại Hoa kỳ ra một bài thi để dò xem ý tưởng của 40 sinh viên trong lớp của mình. Trước hết ông bảo họ lấy giấy bút ra viết chữ “Lễ Giánh sinh”, rồi ông nói :”Bây giờ các anh chị hãy viết vào sau chữ ấy ý nghĩ đầu tiên mà các anh chị liên tưởng đến về ngày lễ ấy”.
Khi họ nộp quyển, ông coi lại thì thấy có những chữ sau đây : cây giáng sinh, dây kim tuyến, tặng phẩm, gà tây, bài ca giáng sinh và ông già Noel, không có một ai viết “Ngày Chúa Giêsu ra đời”.
Ngày này lễ Giáng sinh không còn ý nghĩa cao qúi ấy nữa, người ta đã tục hóa lễ Giáng sinh, người ta chỉ coi lễ Giáng sinh là một ngày vui chơi cho mọi người, thậm chí có những người lợi dụng lễ Giáng sinh để kinh doanh.
Tôi xin nhắc lại câu hỏi : hôm nay anh chị em nghĩ gì về lễ Giáng sinh ? Nếu anh chị em quên hay không biết, tôi xin được phép nhắc lại : Hôm nay chúng ta mừng lễ Giáng sinh là có ý kỷ niệm ngày Thiên Chúa giáng trần, ngày Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta. Anh chị em hãy nhìn vào chữ Emmanuel hay chữ Noel để nhớ đến ý nghĩa của ngày lễ. Emmanuel hay Noel có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Chúng ta hãy dâng lời cảm tạ Chúa.
Trong dịp lễ Giáng sinh hôm nay, tôi xin gửi đến mỗi người một tấm thiệp Noel với hàng chữ ghi trong tấm thiệp mà tôi mới nhận được từ bên Mỹ :
Lễ Giáng Sinh được ghi nhận vào thế kỷ thứ tư. Thật ra, các giáo hội Đông Phương đã cử hành: GS-215
Lễ Giáng Sinh được ghi nhận vào thế kỷ thứ tư. Thật ra, các giáo hội Đông Phương đã cử hành Sinh Nhật của Đức Giê-su rồi. Họ tưởng niệm vào ngày mồng 6 tháng giêng, dưới danh xưng lễ “Hiển Linh” vừa biến cố các nhà đạo sĩ đến thờ lạy Hài Nhi vừa biến cố Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy giả, đồng thời tiệc cưới Ca-na, nghĩa là ba biến cố đầu tiên Chúa Giê-su tỏ mình ra công khai. Ấy vậy, cuộc tưởng niệm ba biến cố cùng một lúc nầy được đi trước bởi đêm canh thức cầu nguyện, suốt đêm đó cuộc Giáng Sinh của Đức Giê-su được gợi lên. Có thể đó là nguồn gốc của lễ Đêm Giáng Sinh của chúng ta.
Is 9: 2-4, 6-7. Bài đọc I là bài thơ tràn đầy hy vọng của ngôn sứ I-sai-a. Tám trăm năm trước đó, vị ngôn sứ hân hoan loan báo cuộc đản sinh của Đấng Cứu Độ tám trăm năm trước đó.
Tt 2: 11-14. Trong đoạn trích thư gởi cho Ti-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở cho người môn đệ của mình đồng thời cũng là người bạn đồng hành của mình rằng lòng nhân từ của Thiên Chúa bắt đầu tỏ rạng ở nơi cuộc Giáng Sinh của Đức Giê-su, Ngài là Thiên Chúa vĩ đại và là Cứu Chúa của chúng ta, bởi vì lễ Giáng Sinh đã gieo mầm cho sự huy hoàng vinh quang ngày lễ Phục Sinh.
Lc 2: 1-14. Với hoạt cảnh Giáng Sinh của Đức Giê-su, thánh Lu-ca dẫn chúng ta vào trong ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Thiên Chúa làm người trong cảnh cơ hàn: “một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”.
BÀI ĐỌC I (Is 9: 2-4, 6-7)
Ngôn sứ I-sai-a sáng tác bài thơ nầy không bao lâu sau lời sấm về Đấng Em-ma-nu-en: ông gợi lên những biến cố đã xảy ra vào những năm 734-732 trước Công Nguyên. Ông ca ngợi một trẻ thơ thuộc hoàng tộc Đa-vít sắp chào đời, chắc hẳn trẻ thơ nầy là “Em-ma-nu-en” (“Thiên Chúa ở cùng chúng ta”) trong lời sấm trước đây của ông (Is 7: 14).
Hoàn cảnh lịch sử vào lúc đó không kém phần nghiêm trọng, nhưng không liên quan đến kinh thành Giê-ru-sa-lem. Phần đầu của bài thơ (không được trích dẫn ở đây) cho thấy đó là miền Ga-li-lê.
Vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe xâm chiếm vương quốc phương Bắc và đã bắt đi lưu đày thành phần dân Ga-li-lê ưu tú đến Át-sua. Quân đội Át-sua có tập quán tàn bạo là móc mắt tù binh. Có lẽ ngôn sứ I-sai-a ám chỉ đến ở đây: “Đoàn người đang lần bước giữa tối tăm…” Dù thế nào, bóng tối biểu tượng nỗi khốn cùng.
1. Miền Ga-li-lê sẽ thấy một ánh sáng huy hoàng (Is 9: 2-4).
Nhưng nầy một niềm vui vỡ bờ. Đức Chúa giải thoát dân Ngài. Vị ngôn sứ phác họa bức tranh đầy màu sắc tươi vui: niềm tủi nhục thành vinh quang, tối tăm thành ánh sáng, cảnh đời nô lệ thành cuộc sống tự do. Bài thơ sánh ví những giờ phút hân hoan nầy với niềm hoan hĩ của nông dân trong mùa gặt và của chiến binh khi chia nhau chiến lợi phẩm. Cuối cùng và nhất là không còn dấu vết chiến tranh nữa: những đôi giày chiến và những quân phục nhuốm máu trở thành mồi cho lửa. Thiên hạ sẽ không cần những trang cụ chiến tranh nữa, vì Thiên Chúa can thiệp sẽ đảm bảo một nền hoà bình viên mãn.
Để viện dẫn lý do cho lời sấm của mình, ngôn sứ I-sai-a nêu lên một tiền lệ lịch sử: Đức Chúa đã giải thoát dân Ga-li-lê rồi trong một giai đoạn đau thương khác của lịch sử của họ: khi họ gặp phải những quấy nhiễu của dân Ma-đi-an, Ngài giúp ông Ghít-ôn lập chiến công lẫy lừng đánh bại những kẻ áp bức.
2. Một trẻ thơ chào đời cho chúng ta (Is 9: 6-7).
Nguyên do của niềm hân hoan và những viễn tượng tràn đầy hy vọng nầy, chính vì một trẻ thơ chào đời thuộc hoàng tộc Đa-vít.
Phần tiếp theo của bài thơ cho thấy rằng xem ra đây không là một hoàng nhi chào đời nhưng một tân vương lên ngôi. Quả thật, qua những từ ngữ mà vị ngôn sử sử dụng, chúng ta không thể nào không đọc thấy những ám chỉ đến nghi lễ phong vương. Rõ ràng việc phong vương được xem như một cuộc sinh ra lần thứ hai: ngày vua trở thành Thiên Tử: “Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc sắc phong của Chúa, Người phán bảo tôi rằng: Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con” (Tv 2: 7).
“Người con đó gánh vác quyền bính trên vai”. Người ta nghĩ đến nghi thức choàng áo long bào trên vai của vị tân vương – hay trao cho tân vương một vương trượng (cả hai biểu tượng nầy đều được chứng thực trong lễ phong vương). Xa hơn, vị ngôn sứ viết: “Nó sẽ là cha đối với cư dân Giê-ru-sa-lem và với nhà Giu-đa. Chìa khoá nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó” (Is 22: 21-22).
“Danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, là Thần Linh dũng mãnh, là Người Cha muôn thuở, là Hoàng Tử Hòa Bình”. Chắc chắn đây là những vương hiệu được ban cho vị tân vương vào ngày tấn phong. Người ta gặp thấy nguyên mẫu tương tự ở Ai-cập.
Quả thật, những danh hiệu tôn kính nầy là những phẩm tính thần linh, nhằm nhắc nhở rằng “tân vương là thiên tử”. “Cố Vấn kỳ diệu”, “Thần Linh dũng mãnh”, đó là những ân huệ được hứa ban cho một mầm non từ gốc tổ Gie-sê: “thần khí khôn ngoan và minh mẫn”, “thần khí mưu lược và dũng mãnh” (Is 11: 1-10). “Người cha muôn thuở” danh hiệu thường được ban cho vua – vị cha của dân tộc – để cầu chúc vương triều của vua muôn đời bền vững. “Hoàng Tử Hoà Bình”, hoà bình là thiện hảo của thời mê-si-a. Các ngôn sứ tranh nhau tiên báo nền hoà bình nầy.
Phụng vụ lễ Giáng Sinh áp dụng tất cả những danh hiệu tôn kính nầy cho Hài Nhi Bê-lem, vì nhận ra ở nơi trẻ thơ nầy là “Đấng Em-ma-nu-en” đích thật.
3. Lời sấm bí ẩn
Vị ngôn sứ loan báo sự giải thoát của dân Ga-li-lê, niềm hân hoan và ánh sáng bừng lên trên xứ sở của họ (vương quốc phương Bắc). Thật lạ lùng, ông nối kết biến cố nầy với cuộc chào đời - hay cuộc phong vương – của một hậu duệ nhà Đa-vít ở vương quốc phương Nam, ở Giê-ru-sa-lem. Phải chăng ông hy vọng hai vương quốc được thống nhất dưới vương quyền của vua mê-si-a?
Điều bí ẩn nầy sẽ gặp thấy lời giải đáp bảy thế kỷ sau. Miền Ga-li-lê rực sáng lên ánh sáng Tin Mừng; Đức Giê-su tự thân là người Ga-li-lê. Nhưng với tư cách là hậu duệ của vua Đa-vít, Ngài sinh ra ở Bê-lem, trong vương quốc phương Nam xưa. Lời loan tin vui của đoàn thiên sứ cho toàn dân (Lc 2: 10) đối đáp với khúc hoan ca của vị ngôn sứ ca ngợi một hoàng nhi ra đời.
BÀI ĐỌC II (Tt 2: 11-14)
Ông Ti-tô là một trong số môn đệ và bạn đồng hành kỳ cựu nhất của thánh Phao-lô. Ông đã cải đạo; song thân ông đều là người Hy lạp.
Thánh Phao-lô đã trao gởi cho ông các cộng đoàn Ki tô hữu miền Tiểu Á. Vì thế, ông gặp phải những khó khăn nghiêm trọng. Những chống đối đặc biệt đến từ môi trường Do thái, từ Do thái giáo chịu ảnh hưởng Hy lạp nầy mà chính thánh Phao-lô đã hạm trán ở nơi khác. Vì thế, đối với ông Ti-tô, những lời khuyên của thánh nhân thật là quý báo.
Thật khó xác định niên biểu của bức thư nầy. Chắc chắn đây là một trong số những bức thư cuối đời của thánh nhân. Nhưng chúng ta không biết chắc là thánh nhân đã chịu hành hình vào năm 63 hay năm 67. Nếu thánh nhân được diễm phúc tử đạo vào năm 67, thì thư gởi cho ông Ti-tô được viết vào năm 65. Lúc đó, thánh nhân có thể đang ở Ma-xê-đoan.
1. Thần tính của Đức Giê-su.
Trong vài hàng, thánh Phao-lô nhắc nhở ông Ti-tô giáo huấn cốt lõi mà ông phải kiên vững truyền đạt: ơn cứu độ Thiên Chúa đã gởi đến cho con người là nhưng không và phổ quát. Thiên Chúa đòi buộc các tín hữu từ bỏ tội lỗi và sống thánh thiện trong khi chờ đợi ngày quang lâm của Đức Ki tô, là “Thiên Chúa vĩ đại, và là Đấng Cứu Độ của chúng ta”.
Việc dùng chữ Thiên Chúa cho Đức Giê-su Ki tô không là cách dùng quen thuộc của thánh Phao-lô. Thánh nhân thường hay dùng chữ “Thiên Chúa” chỉ để chỉ Chúa Cha. Chúng ta gặp thấy một ví dụ duy nhất trước đây trong thư gởi tín hữu Rô-ma: “Người (Đức Ki tô) là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. Amen” (Rm 9: 5b). Dường như những người Do thái giáo bác bỏ Thần Tính của Đức Giê-su Ki tô, một vấn đề mà ông Ti-tô đang phải đương đầu.
2. Lợi ích của bức thư.
Bức thư nầy không chỉ có lợi ích về phương diện tín lý, nhưng còn về phương diện mục vụ. Quả thật, cùng với hai bức thư gởi cho Ti-mô-thê, bức thư gởi cho Ti-tô được gọi “thư mục vụ”, vì vị sứ đồ cho những huấn lệnh liên quan đến việc tổ chức các cộng đoàn Ki tô hữu. Quả thật, tất cả các Tông Đồ của Đức Giê-su đã qua đời, đến thời của những người được các Tông đồ uỷ quyền (ông Ti-tô là một trong số họ).
Bức thư mục vụ này giúp chúng ta hiểu được giai đoạn chuyển tiếp giữa việc tổ chức đầu tiên, dưới chỉ thị của các “Kỳ Mục”, và việc hình thành cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội.
TIN MỪNG (Lc 2: 1-14)
Trong số bốn thánh ký Tin Mừng, thánh Lu-ca là thánh ký quan tâm nhiều nhất đến những quy chiếu lịch sử. Ông là vị thánh ký duy nhất giải thích cho chúng ta biết tại sao Đức Giê-su sinh ra ở Bê-lem chứ không ở Na-da-rét. Việc kiểm tra dân số theo chiếu chỉ của hoàng đế Xê-da Âu-gu-tô (năm 30 trước Công Nguyên – năm 14 sau Công Nguyên) được thực hiện trên xứ Palestine theo tập tục Do thái, nghĩa là phải đăng ký ở nơi nguyên quán, chứ không theo cách thức Rô-ma, ở nơi cư ngụ.
Thánh Giu-se trở về Bê-lem vì ông thuộc gia tộc vua Đa-vít. Quả thật, hơn mười thế kỷ trước đó, chính Bê-lem là quê quán của ông Gie-sê, cha của vua Đa-vít. Đối với dân Do thái, kỷ niệm về dòng dõi của mình không bao giờ phai nhạt, nơi chôn nhau cắt rốn vẫn tồn tại trong ký ức của mình. Đó là lý do tại sao việc kiểm tra dân số dưới thời hoàng đế Âu-gu-tô được thực hiện theo tiêu chuẩn truyền thống. Vì thế, thánh Giu-se phải lên đường trở về Bê-lem, nguyên quán của mình.
Tại sao Đức Ma-ri-a theo thánh Giu-se? Phải chăng cô cũng thuộc dòng tộc Đa-vít? Có thể, vì người Do thái thường muốn dựng vợ gả chồng ở trong vòng gia tộc của mình, nhưng không chắc lắm. Thật ra, Đức Ma-ri-a là em họ của bà Ê-li-sa-bét thuộc gia tộc Lê-vi. Người ta gặp thấy cuộc kiểm tra dân số tương tự đã xảy ra ở Ai-cập vào năm 104 sau Công Nguyên và những chứng liệu chứng thực rằng vợ phải trình diện bên cạnh chồng mình.
1. Hoàn cảnh giáng sinh của Đức Giê-su.
“Khi hai ông bà đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ.
Đừng hiểu rằng Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se bị xua đuổi, điều nầy hoàn toàn trái với phong tục tập quán hiếu khách của người Do thái. Nhưng thật bất tiện đối với một người phụ nữ bụng mang dạ chữa sắp đến ngày mãn nguyệt khai hoa ở nơi đông đúc như vậy. Chỉ nghĩ đến những lữ quán Đông Phương, ở đó người, vật và hàng hoá chen nhau trong sân. Có thể có các phòng trọ nhưng tiền thuê rất đắc, chỉ dành cho những người giàu.
2. Hai dấu chỉ cùng một lúc.
Đức Giê-su chào đời ở Bê-lem, có nghĩa là “nhà của bánh”. Đó không phải là tên tiền định sao? Thiên Chúa bằng lòng đón nhận thân phận làm người của chúng ta. Ngài còn đi xa hơn trong sự tự hạ: trút bỏ quyền lực và vinh quang của mình, vì tình yêu Ngài làm cho mình trở thành một mẫu bánh.
Ngoài ra, chiếc nôi đầu đời của Ấu Chúa là một “máng cỏ”. Thánh Lu-ca nhấn mạnh sự kiện nầy đến ba lần (hai lần trong đoạn văn trích nầy, và một lần khác nữa xa hơn). Đây cũng là dấu hiệu mà các sứ thần cho các mục đồng để nhận ra Ngài. Điểm nhấn nầy chắc hẳn có chủ ý. Với điểm nhấn nầy, thánh ký có thể đã hiểu lời tiên báo về số phận của hài nhi nầy, Đấng sẽ dâng hiến thân mình khi nói: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, vì nầy là Mình Thầy”.
3. Con trai đầu lòng.
“Đức Ma-ri-a sinh con trai đầu lòng”. Diễn ngữ là thuật ngữ pháp lý; nó không bao hàm rằng Đức Ma-ri-a còn có những người con khác. “Anh em của Đức Giê-su” mà các thánh ký nói đến là anh em họ của Đức Giê-su. Trong Cựu Ước, chữ “anh em” có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng. Ngôn ngữ Do thái không có đặc ngữ để chỉ “anh em họ”. Vả lại, “anh em của Đức Giê-su” có những bà mẹ khác nhau (cf. Mt 27: 56; Mc 15: 40-41; Ga 19: 45). Giáo Hội luôn luôn công bố Đức Ma-ri-a trọn đời đồng trinh.
“Con trai đầu lòng” phải chịu nhiều quy định của Lề Luật: phải được thánh hiến và dâng hiến cho Thiên Chúa nhờ hy lễ “chuộc lại” như trường hợp của Đức Giê-su với “một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non” (của lễ của con nhà nghèo).
Diễn ngữ “con đầu lòng” được lấy lại trong những viễn cảnh Ki tô giáo: Đức Giê-su là Trưởng Tử của một cuộc sáng tạo mới; Trưởng Tử của các vong nhân; mầu nhiệm Nhập Thể của Ngài thật sự mang ơn cứu độ đến cho nhân loại: “người anh cả của một đàn em đông đúc”, như lời của thánh Phao-lô.
4. “Đức Ma-ri-a lấy tả bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ”.
Đấng Tạo Hóa hóa thân thành thân phận yếu hèn và phụ thuộc của một hài nhi bé bỏng. Ngôi Lời Thiên Chúa, Lời Quyền Năng tự mình trở nên “một trẻ sơ sinh không nói được”. Thiên Chúa Hằng Sống giáng trần và chấp nhận tiến trình lớn lên như bao con người khác.
Ba mươi năm sau đó, Đấng ấy sẽ cất cao giáo huấn của mình: “Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời” (Mt 18: 4); “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì nước trời là của những ai giống như chúng” (Mt 19: 13-15). Trong Tin Mừng, có một con đường thánh thiện bằng cách trở nên trẻ thơ, và con đường nầy bắt nguồn từ Hài Nhi Bê-lem.
5. Thiên Chúa nghèo khó.
Cũng chính Hài Nhi Máng Cỏ nầy một ngày kia sẽ nói về cảnh đời của mình: “Chim có tổ, chồn có hang, nhưng Con Người không có nơi gối đầu qua đêm”.
Thế nên, không ai gợi lên nhiều mâu thuẩn ở nơi chính mình cho bằng Đức Giê-su nầy, Ngài sinh ra như một kẻ đầu đường xó chợ khốn cùng nhất trong số những kẻ vô gia cư và chết như một tên tội phạm nguy hiểm nhất trong số các tên tội phạm.
René Habachi sử dụng khái niệm triết học để diễn tả mầu nhiệm mâu thuẩn nầy: Thiên Chúa là “Cái Là” (l’Ētre: Hữu Thể), “Cái Là tuyệt đối”, vì thế Ngài không cần “Cái Có” (Avoir), vì ở nơi Ngài “Cái Có” bị tiêu tan bởi “Cái Là”. Cũng một cách nào đó như vậy “cái nghèo vô tận của Thiên Chúa, cái không có tận cùng của Thiên Chúa, là dấu chỉ Thần Tính của Ngài”.2
Jacques Loew trong tác phẩm “Như thấy Đấng Vô Hình” đã cho chúng ta một bài suy niệm sâu sắc về mầu nhiệm Giáng Sinh theo cùng một cách nầy: “Chúa Giê-su đã sinh ra bé nhỏ và nghèo hèn chắc là để biểu lộ tình thương của Ngài đối với những bé nhỏ và nghèo hèn trong thế giới cho tới tận thế; nhưng thật ra cuộc đản sinh khiêm tốn của Ngài còn có ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Chẳng có gì xứng đáng cho Chúa cả; chẳng có gì cao trọng đủ để mà tiếp rước Ngài, cù có trang hoàng mỹ lệ, dù có cung điện lộng lẫy, dù loài người có khôn ngoan. Vì thế Thiên Chúa chọn một nơi không gì hết là vì ở đó không có sự cạnh tranh lố bịch, không có vẻ giàu sang giả tạo. Chúa chỉ ngự đến nơi nào mà ở đó Ngài là tất cả: ở Máng cỏ, trong cảnh nghèo nàn thực sự, nơi mà Đức Ma-ri-a, một tâm hồn khó nghèo” (bản dịch của Lưu Tấn, trang 16-17).
6. Mục đồng.
“Trong vùng ấy, có những người chăn chiên thức đêm ngoài trời, canh giữ đàn vật”. Đó là lý do tại sao chuồng chiên thì trống: đàn vật ở bên ngoài và những người chăn chiên ngủ ngoài trời. Ở xứ Palestine, giữa lễ Vượt Qua và mùa thu, thời tiết rất đẹp. Đức Giê-su không sinh ra vào ngày 25 tháng 12. Việc chọn niên biểu nầy để tưởng niệm ngày chào đời của Ngài đã đề cao ý nghĩa biểu tượng: đông chí đã qua; ánh sáng chiến thắng bóng tối.
Những người đầu tiên được loan tin mừng Giáng Sinh là những người chăn chiên, nghĩa là những người tầm thường, thường vô học, được liệt vào hạng đàn bà, trẻ con và nô lệ. Đức Giê-su tự đặt mình vào số những người nghèo, khiêm hạ và bé nhỏ.
Những người chăn chiên đến vây quanh Hài Nhi, thờ lạy Ngài: Đức Giê-su đến “để chăn dắt dân Ngài”. Ngài là Mục Tử đích thật, Mục Tử nhân lành (Ga 10: 11-15).
Sau cùng việc Đức Giê-su sinh hạ ở giữa những người chăn chiên Bê-lem là “dấu chỉ Đa-vít” tuyệt vời. Ngài sinh ra ở những nơi mà cậu bé Đa-vít đã canh giữ đàn chiên. Ngài là Đa-vít mới.
7. Thiên sứ.
Bản hợp xướng của các thiên sứ là một dấu chỉ khác: dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Triều đình thiên giới đã dời chỗ vì Hài Nhi Máng Cỏ không ai khác hơn là Thiên Chúa đích thân.
Các thiên sứ loan báo “một tin vui trọng đại cho toàn dân”. Thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng nhạy bén nhất trước bầu khí vui tươi mà biến cố Nhập Thể đem đến. Niềm vui nầy là niềm vui mê-si-a mà các ngôn sứ biết bao lần đã loan báo (ví dụ như bài đọc I), khúc dạo đầu cho niềm vui viên mãn của cõi đời đời.
Sứ điệp các thiên sứ gởi đến thật vĩ đại, những từ ngữ thật cảm động: “Đấng Cứu Độ”, “thành vua Đa-vít”, “Đấng Ki tô (Mê-si-a)”, “Đức Chúa”. Thật tương phản biết bao với lời kết thúc thật khiêm tốn nầy: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”. Tương phản nầy tiền trưng một tương phản khác: bên máng cỏ nầy được bao quanh bởi ánh sáng và lời hoan ca, ẩn hiện một bóng tối, bóng tối của núi Sọ; vì Ngôi Lời hóa thành nhục thể, không phải để nhục thể nầy một ngày kia bị tra tấn, bị nhục mạ, bị đóng đinh vào thập giá sao?
Bài ca của các thiên sứ: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa yêu”, có thể được mượn ở một bài thánh thi phụng vụ Do thái. Lời hoan hô chúc tụng của đám đông vào lúc Đức Giê-su khải hoàn vào thành thánh Giê-ru-sa-lem trích dẫn cùng những lời như vậy: “Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời” (Lc 19: 38).
8. Một sự trao đổi kỳ diệu.
Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người vừa mặc khải về Thiên Chúa vừa mặc khải về con người. Trong một cuộc yết kiến của thứ tư ngày 28 tháng 12 năm 1977, Đức Thánh Cha Phao-lô VI nói: “Trong nội dung thần linh của nó, mặc khải của lễ Giáng Sinh thì vô giới hạn”. Trong nội dung con người của nó, mặc khải làm chứng về sự cao cả của con người. Con người đã được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa; nầy đây chính Thiên Chúa mặc lấy dung mạo con người. Kinh Tiền Tụng Giáng Sinh III nói về cuộc trao đổi kỳ diệu: “Vì khi Ngôi Lời của Chúa mặc lấy thân phận mỏng giòn của chúng con, thì loài người phải chết, không những được hưởng vinh dự vĩnh cửu mà nhờ việc tham dự kỳ diệu ấy, Chúa còn cho chúng con được sống muôn đời.”
Mỗi khi gió mùa đông bắc thổi, tôi cảm thấy năm tháng qua nhanh. Năm cũ trôi qua, năm mới: GS-216
Mỗi khi gió mùa đông bắc thổi, tôi cảm thấy năm tháng qua nhanh. Năm cũ trôi qua, năm mới sắp tới. Trong niềm háo hức đón chào năm mới tôi thường băn khoăn tự hỏi: tôi phải làm gì để năm mới này trở thành những ngày tháng tươi vui ?
Làm sao để năm mới này là thời gian của hạnh phúc? Làm sao để năm mới này chan chứa hồng ân của Thiên chúa ?
Trong niềm băn khoăn thao thức, tôi đến trước hang đá Bêlem để tìm câu trả lời. Việc Chúa Giêsu giáng trần đã mở ra một kỷ nguyên mới. Để bắt đầu một thời gian mới, không gì bằng đến học theo gương Người, nghe những lời giáo huấn của Người.
Chúa Giesu bé thơ lặng im không nói, nhưng thái độ của Người trao gửi chúng ta biết bao sứ điệp, giúp định hướng cho những ngày tháng sắp tới.
Sinh ra trong cảnh nghèo hèn, Người muốn gửi đến cho ta sứ điệp tình yêu. Vì yêu thương con người, Đức Giê-su đã tự nguyện sinh xuống thế làm người. Người đã đồng hành với con người, chia sẻ mọi nỗi vui, nỗi buồn của kiếp người. Tình yêu của Người đặc biệt hướng về những người bé nhỏ, nghèo hèn, yếu đuối, tội lỗi. Những người đầu tiên được mời gọi đến hang đá Bê-lem là những mục đồng nghèo nàn, đơn sơ, chất phác. Trong tình hình kinh tế thế giới hiện nay, hố ngăn cách giầu – nghèo ngày càng lớn. Trong cuộc chạy đua kinh tế hiện nay, người nghèo ngày càng bị thua thiệt. Vì thế, sứ điệp tình yêu của Đức Giê-su vẫn là một tín hiệu khẩn cấp cho nhân loại.
Hoá thân làm một trẻ sơ sinh yếu đuối trần trụi, Người mong gửi đến ta sứ điệp hoà bình. Là Thiên Chúa, Người mang thân phận con người để nối kết đất với trời, để con người được làm hoà với Thiên chúa. Trở thành anh em của mọi người, Người kêu gọi con người hãy thương yêu nhau vì mọi người là anh em với nhau. Người không mang theo vũ khí, không mang theo quyền lực. Vũ khí của Người là đôi mắt thơ ngây. Quyền lực của Người là tấm thân trẻ thơ non nớt. Hai ngàn năm qua rồi, nhưng sứ điệp ấy vẫn còn mang tính thời sự, vì chiến tranh chưa một ngày vắng bóng trên hành tinh. Ngay tại Bê-lem, nơi Chúa sinh ra, năm nay không có thánh lễ, vì cuộc chiến giữa Israel và Palestine vẫn còn tiếp diễn.
Nằm trong tấm vải thô đặt trên máng bò lừa, Người muốn gửi đến ta sứ điệp tự do. Là Thiên chúa, Người không muốn sinh ra trong gia đình vua chúa giầu sang. Nhưng chọn sinh ra trong gia đình dân dã nghèo hèn. Người không chọn sinh ra tại một nơi đầy đủ tiện nghi. Nhưng chọn sinh ra trong chuồng bò lừa. Tâm hồn Người hoàn toàn tự do, không bị ràng buộc bởi bất cứ nhu cầu vật chất nào. Ngày nay chế độ nô lệ đã bị xoá sổ trên toàn thế giới. Nhưng con người đang vướng vào những vòng vây nô lệ mới. Có thứ nô lệ dục vọng. Có thứ nô lệ đam mê. Có thứ nô lệ chức quyền. Có thứ nô lệ danh vọng. Có thứ nô lệ vật chất tiền tài. Có thứ nô lệ sì ke ma tuý. Tất cả những thứ nô lệ mới trói buộc tâm hồn khiến con người mất hết tự do, nhân phẩm. Nhìn vào hang đá Bê-lem, sứ điệp tự do của Đức Giê-su như một lời nhắn nhủ ân cần, như một lời mời gọi tha thiết, như một ánh sáng soi đường cho ta bước vào vùng trời tự do của tâm hồn, của nhân phẩm, của con người, của con cái Thiên chúa.
Năm mới đang mở ra một viễn tượng đầy hứa hẹn nhưng cũng đầy đe doạ. Cơn lốc kinh tế, khoa học kỹ thuật sẽ cuốn đi nhiều giá trị đạo đức, sẽ nhận chìm nhiều kiếp người lầm than. Cơn cám dỗ vật chất sẽ khiến nhiều tâm hồn mất phẩm chất, nhiều con người sẽ đánh mất chính mình. Những xung đột sẽ xô đẩy thế giới vào những cuộc chiến tàn sát.
Hãy đến với Hài nhi Giê- su nằm trên máng cỏ trong hang đá Bê-lem. Người là hiện thân của tình yêu, của hoà bình, của tự do. Nhìn ngắm Người, ta sẽ học được những bài học giải đáp cho những vấn đề của thế giới, của con người, và nhât là của chính bản thân ta. Sống theo gương Người, ta sẽ góp phần xây dựng một thế giới tươi đẹp, không chỉ ấm áp tình người mà còn cao đẹp với những giá trị tinh thần, những phẩm chất đạo đức.
Chúa đã xuống làm người để loài người lên làm chúa". Thực vậy, mục đích của việc Đức Giêsu: GS-217
"Chúa đã xuống làm người để loài người lên làm chúa". Thực vậy, mục đích của việc Đức Giêsu giáng sinh là để sống chung với loài người tội lỗi chúng ta và cứu chuộc chúng ta. Ngài đã cho thấy rõ mục đích này khi vừa mới sinh ra: những người khách mời đầu tiên đến hang đá Bêlem chính là những người chăn chiên, nghèo nàn, tội lỗi, bị xã hội khinh chê.
Chúng ta hãy có những tâm tình như các kẻ chăn chiên ấy để đến với Chúa Hài Đồng.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Trong Mùa Vọng, chúng ta chỉ lo chuẩn bị bề ngoài mà chưa chuẩn bị tâm hồn cho đủ để xứng đáng đón rước Chúa.
Chúa Cứu Thế đã mang lấy thân phận của một người nghèo. Vậy mà từ trước tới nay chúng ta thường coi khinh những người nghèo.
Chúa Cứu Thế là ánh sáng của sự lành và sự thiện. Vậy mà từ trước tới nay nhiều lần chúng ta trốn lánh ánh sáng để ngụp lặn trong bóng tối của tội lỗi.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I Is 62, 11-12
Bối cảnh của những lời tiên tri này là hoàn cảnh khốn khổ của dân do thái ("thiếu nữ Sion") đang bị lưu đày bên Babylon.
Ngôn sứ Isaia báo cho họ biết rằng "Đấng cứu độ" sẽ đến giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày, làm cho họ trở thành một dân thánh, và thành Giêrusalem của họ sẽ trở nên thành được quý chuộng.
Trong bối cảnh lịch sử ngắn hẹp thời đó, "đấng cứu độ" là Cyrus vua nước Ba Tư. Còn trong lịch sử cứu độ phổ quát, Đấng cứu độ chính là Ngôi Hai Thiên Chúa sinh xuống làm người mang tên là Giêsu.
2. Đáp ca Tv 96
Đây là bài chúc tụng vương quyền của Đấng cứu độ. Tầm mức bao la của vương quyền này ("trái đất nhảy mừng, các đảo hân hoan, các tầng trời loan truyền sự công chính của Chúa, mọi dân tộc nhìn thấy vinh quang Người") chỉ có thể thực hiện nơi Đức Giêsu mà thôi.
3. Bài đọc II Tt 3, 4-7
Thánh Phaolô tìm hiểu ý nghĩa ơn cứu độ:
Đó không phải do công lao hay sự công chính của loài người. mà là một ơn cho không. xuất phát từ lòng từ tâm và nhân ái của Thiên Chúa. Ơn này khởi sự từ việc con người lãnh nhận phép rửa và dẫn đến sự sống đời đời.
4. Tin Mừng Lc 2, 15-20
Bài tường thuật giáng sinh của Thánh Luca có nhiều chi tiết đáng suy gẫm:
Những kẻ đầu tiên được thiên thần loan báo tin mừng giáng sinh là những mục tử: mặc dù họ nghèo, mặc dù họ không có cơ hội để thường xuyên đến đền thờ tham dự các lễ nghi, mặc dù họ bị xã hội coi khinh, nhưng họ chính là "những người thiện tâm" (câu 14 phía trước) cho nên đáng được Thiên Chúa thương ban bình an (câu hát thiên thần: "Bình an dưới thế cho người thiện tâm").
"Thiện tâm" của họ thể hiện trong cách họ đáp lại với Tin Mừng: sau khi nghe thiên thần loan báo, họ hối hả đi tìm, và sau khi gặp được Đức Giêsu, họ trở về loan truyền những việc kỳ diệu mà họ đã thấy.
Phần Đức Maria thì ghi nhớ tất cả mọi sự và suy niệm trong lòng để ngày càng hiểu thêm về Đức Giêsu và về cách hành động kỳ diệu của Thiên Chúa.
IV. GỢI Ý GIẢNG
* 1. Một Thiên Chúa nghèo
Ngày nay, trong mức độ hoặc nhiều hoặc ít, việc mừng lễ Giáng sinh có phần sang trọng và tốn kém: trang hoàng, tiệc tùng, quà cáp v. v.
Nhưng ngày xưa ở Bêlem thì sao? Thánh gia rất nghèo, nơi Đức Giêsu sinh ra rất nghèo… Những người nhận được "một Tin Mừng đặc biệt" cũng là những mục tử nghèo chứ không phải là những người Rôma quyền thế hay những cư dân Giêrusalem sang trọng.
Thiên Chúa yêu thương mọi người, Ngài ban Con mình cho mọi người, giàu cũng như nghèo. Nhưng Ngài ưu ái những người nghèo hơn; và mặt khác những người nghèo dễ nhận ra Ngài hơn.
Muốn sống đúng ý nghĩa lễ Giáng sinh, chúng ta phải có tâm hồn nghèo, phải mở cửa lòng với những người nghèo và nhận ra hình ảnh Thiên Chúa nơi những người nghèo.
* 2. Một Thiên Chúa nhỏ bé
Chúng ta đã quen với hình ảnh một Thiên Chúa to lớn, uy quyền…
Nhưng khi Thiên Chúa tỏ mình ra cho chúng ta thấy cụ thể bằng hình hài xương thịt, thì lại là một đứa trẻ nhỏ bé, yếu đuối: không biết nói, không biết làm, không biết tự lo cho mình… Đứa trẻ cần mọi sự nơi người khác: nuôi nấng, chăm sóc, bảo vệ…
Vậy mà trong gia đình, đứa trẻ lại là người được chú ý nhất, có thể nói là uy thế nhất: mọi người từ cha mẹ đến anh chị đều phục vụ cho nó, chịu cực chịu khổ vì nó, tốn kém cho nó, sẵn sàng thay đổi giờ giấc và công việc vì nó… Thật là mầu nhiệm của sự nhỏ bé!
* 3. Ngôi Lời đã trở thành nhục thể
Ngày xưa có một cậu bé được tặng cho một chú lính chì trong dịp lễ Giáng sinh. Cậu rất sung sướng. Nhưng chẳng bao lâu sau cậu nghĩ: giá như có cách gì làm cho chú lính bằng chì này có được sự sống như mình thì hay biết mấy! Và cũng chẳng bao lâu sau cậu bé lại lưỡng lự: làm cho chú lính này có sự sống tức là biến chú từ chì thành ra xác thịt; mà như thế không biết chú có chịu hay không, bởi vì khi mang xác thịt thì có thể bị đau, bị thương và nhất là bị chết. Thế là cậu bé không nghĩ tới việc làm cho chú lính chì thành người nữa.
Câu chuyện nhỏ trên giúp ta hiểu mầu nhiệm Chúa nhập thể. Nhập thể là trở nên xác thịt như loài người. Đức Giêsu là Thiên Chúa nhưng đã trở thành một đứa trẻ sơ sinh, và trước khi là một đứa trẻ sơ sinh Ngài còn là một bào thai trong lòng một phụ nữ. Khi nhập thể, Ngài muốn được giống như người phàm, gần gũi với người phàm, chịu đói, chịu khát, chịu đau, chịu chết như người phàm.
Truyền thuyết Ấn giáo xem những vị thần Krishna và Rama là Thượng đế nhập thể. Tuy nhiên những vị thần này không bao giờ chịu khổ và chịu chết. Họ không phải là Thượng đế thực sự thành người, mà chỉ là những hình thái mà Thượng đế tạm mượn để hiện ra cho loài người thấy mà thôi. Còn Đức Giêsu thì khác: Ngài thực sự thành người và cùng chia xẻ mọi yếu đuối khổ đau của loài người.
* 4. Chúa ở cùng chúng ta
Một nhóm người đang trao đổi với nhau những suy nghĩ về ý nghĩa lễ Giáng sinh. Trong nhóm có một phụ nữ ít ai để ý tới, nhưng khi bà chia xẻ thì ai nấy đều chăm chú lắng nghe, vì bà kể về chính cuộc đời của bà.
Bà kể rằng gần đến lễ Giáng sinh thì bà rất sợ hãi, bởi vì bà rất cô đơn. Cha mẹ bà đã mất hết. Bà là đứa con độc nhất, không anh chị em. Bà cũng chẳng còn một người bà con nào cả vì bà là người cuối cùng trong dòng họ. Bạn bè thì bà cũng có, họ có gởi quà hoặc thiệp giáng sinh, nhưng chẳng ai mời bà đến nhà đề cùng gia đình họ mừng lễ Giáng sinh.
Thế thì ngày lễ Giáng sinh bà làm gì? Sáng sớm Bà đến nhà thờ dự Thánh lễ. Sau lễ, bà đến một hội thiện nguyện giúp họ làm một số việc. Rồi trở về nhà, nấu cơm. Ăn xong, mở TV. Nhưng TV đâu có thay thế được những người thân ở bên cạnh mình, bởi đó bà vừa xem TV vừa khóc. Đến chiều, bà thả bộ dạo phố. Nhưng phố phường ngày lễ Giáng sinh rất vắng lặng, ai nấy đều rút vào mái ấm gia đình. Các cửa tiệm đóng kín cửa. Bà lần bước đến nhà thờ. Nhưng cửa nhà thờ cũng đóng kín. Bà đành trở về nhà, một mình gặm nhắm nỗi cô đơn, ý thức rất rõ mình chẳng có một chỗ nào giữa thành phố đông đảo và mênh mông này.
Nhưng chính lúc đó, bà chợt nghĩ đến câu Tin Mừng: "Hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ". Bà thông cảm với hoàn cảnh hài nhi Giêsu và thấy mình với Ngài rất giống nhau. Ý tưởng ấy làm cho lòng bà ấm lại. Theo bà, ý nghĩa lễ Giáng sinh chính là Thiên Chúa đến chia xẻ thân phận con người.
* 5. Ghi nhớ và suy nghĩ
"Còn Bà Maria thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng"
Trong những dịp Lễ Giáng sinh, chúng ta đã thấy và đã nghe rất nhiều điều. Nhưng các năm trước, tất cả những điều ấy chỉ rộn lên trong một ngày rồi mau chóng chìm vào quên lãng. Lễ Giáng sinh năm nay, chúng ta hãy noi gương Đức Mẹ "ghi nhớ tất cả những điều ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng"
Hãy ghi nhớ và suy nghĩ về sự nghèo nàn. Tại sao Chúa có quyền chọn, thế mà Ngài lại chọn sinh ra trong cảnh nghèo nàn?
Hãy ghi nhớ và suy nghĩ về những mục tử. Họ là hạng người bị xã hội thời đó coi là hèn hạ, thậm chí bất hảo. Tại sao Chúa lại ưu ái họ đến nỗi mời họ đến gặp Ngài trước tiên?
Hãy ghi nhớ và suy nghĩ về nhiệt tình của tín hữu trong dịp Lễ Giáng sinh. Tại sao hôm nay họ đi lễ đông đủ như thế, còn những Chúa nhựt khác thì thưa thớt?
Hãy ghi nhớ và suy nghĩ về sự tham gia của những người không phải kitô hữu. Cả họ cũng mừng Lễ Giáng sinh, nhiều người còn đi lễ. Vì động cơ nào? Họ nghĩ gì về Đức Giêsu và về Kitô giáo?
* 7. Chuyện minh họa
Vào buổi sáng nọ, người thợ giầy thức giấc rất sớm. Anh quyết định chuẩn bị căn xưởng nhỏ của anh cho tươm tất rồi vào phòng khách chờ đợi cho bằng được người khách quý. Người khách đó không ai khác hơn là chính Chúa, bởi vì tối qua trong giấc mơ Ngài đã hiện ra và báo cho anh biết Ngài sẽ đến thăm anh trong ngày hôm sau.
Người thợ giầy ngồi chờ đợi, tâm hồn tràn ngập hân hoan. Khi những tia nắng sớm vừa rọi qua khung cửa, anh đã nghe được tiếng gõ cửa. Lòng anh hồi hộp sung sướng. Hẳn là Chúa đến. Anh ra mở cửa. Thế nhưng kẻ đang đứng trước mặt anh không phải là Chúa, mà là người phát thư. Sáng hôm đó là một ngày cuối đông. Cái lạnh đã khiến mặt mũi tay chân người phát thư đỏ như gấc. Người thợ giầy không nỡ để nhân viên bưu điện run lẩy bẩy ngoài cửa. Anh mời ông ta vào nhà và pha trà mời khách. Sau khi đã được sưởi ấm, người phát thư đứng dậy cám ơn và tiếp tục công việc.
Người thợ giầy lại vào phòng khách chờ Chúa. Nhìn qua cửa sổ, anh thấy một em bé đang khóc sướt mướt trước cửa nhà. Anh gọi nó lại hỏi cớ sự. Nó mếu máo cho biết đã lạc mất mẹ và không biết đường về nhà. Người thợ giầy lấy bút viết vài chữ để lại trên bàn, báo cho người khách quý biết mình đã đi ra ngoài. Nhưng tìm đường dẫn đứa bé về nhà đâu phải là chuyện đơn giản và nhanh chóng. Mãi chiều tối anh mới tìm ra nhà đứa bé và khi anh về lại nhà thì phố xá đã lên đèn.
Vừa bước vào nhà, anh đã thấy có người đang đợi anh. Nhưng đó không phải Chúa mà là một người đàn bà với dáng vẻ tiều tụy. Bà cho biết đứa con của bà đang ốm nặng và bà đã không thể chợp mắt suốt đêm qua. Nghe thế, người thợ giầy lại hối hả đến săn sóc đứa bé. Nửa đêm anh mới về nhà, anh để nguyên quần áo và lên giường ngủ.
Thế là một ngày đã qua mà Chúa chưa đến thăm anh. Nhưng đột nhiên trong giấc ngủ, người thợ giầy nghe tiếng Chúa nói với anh: "Cám ơn con đã dọn trà nóng cho Ta uống. Cám ơn con đã dẫn đường cho Ta về nhà. Cám ơn con đã săn sóc an ủi Ta. Cám ơn con đã tiếp đón Ta ngày hôm nay" (Trích "Món quà giáng sinh")
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, trong niềm vui lớn lao của Lễ Giáng sinh, kỷ niệm tình thương giáng thế. Chúng ta hãy vui mừng dâng lên Chúa những lời nguyện tha thiết sau đây:
1. Xin cho Hội thánh và mọi Kitô hữu biết dùng lễ Noel này / để loan báo tin vui hòa bình và cứu độ cho mọi người trên thế giới.
2. Xin cho những người có trách nhiệm quốc gia hay quốc tế / biết dùng dịp lễ Noel này để tìm kiếm và duy trì những giải đáp đem lại công lý và hòa bình cho mọi dân tộc.
3. Xin cho những đôi vợ chồng đang chia rẽ, những gia đình bị phân ly, những người đang đau khổ vì chiến tranh huynh đệ tương tàn / được ánh sáng đêm Noel soi / để tìm về hòa giải và sống hiệp thông với nhau.
4. Xin cho anh chị em trong cộng đồng xứ đạo chúng ta đang mừng lễ Noel hôm nay / biết sống một lễ Noel trọn tình nghĩa với Chúa / và chia sẻ niềm vui cho mọi người chung quanh.
CT: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ ơn Chúa vì đang được hưởng đem thánh huyền diệu này, xin cho ánh sáng đêm Noel chiếu soi vào mọi người chưa biết Chúa, và dẫn lối đưa đường cho họ tìm về hiệp thông với Hội thánh Chúa. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô. . .
Theo Thánh Kinh, sau khi nghe lời các Sứ Thần loan báo, các mục đồng đã hối hả sang Bêlem: GS-218
Theo Thánh Kinh, sau khi nghe lời các Sứ Thần loan báo, các mục đồng đã hối hả sang Bêlem để xem sự việc xảy ra. Và như lời đã được loan báo, họ đã gặp thấy Bà Maria, ông Giuse và một Hài Nhi nằm trong máng cỏ. Một Hài nhi mới sinh được đặt nằm trong máng cỏ là một sự kiện có thật đã xảy ra, và khi ghi chép cũng như truyền bá điều này thì những người đương thời vẫn còn sống như những chứng nhân đích thực.
Ðức Giêsu là Thiên Chúa đã làm người để thực hiện tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Tình thương ấy đã hội nhập vào cảnh sống của những con người đáng thương nhất: những người nghèo và khổ. Người chia sẻ thân phận nghèo khổ ấy đến độ không có một nơi xứng đáng và đầy đủ để sinh ra. Chẳng có nôi hồng mà chỉ có máng cỏ hôi tanh. Chẳng có gì để ăn đầy tháng. Cũng chẳng có nồi chè trôi nước để mừng ngày thôi nôi. Người chia sẻ thân phận nghèo khổ của kiếp người đến độ chẳng có chỗ tựa đầu. Cả cuộc sống chỉ toàn là vay mượn. Mượn máng cỏ của bò lừa để nương náu trong những giây phút đầu đời. Mượn ghe thuyền của các đệ tử để giảng đạo. Mượn lừa con của người khác để đi vào thành Giêrusalem. Mượn nhà để tổ chức bữa tiệc cuối cùng. Và khi chết rồi cũng phải mượn ngôi mộ của ông Giuse Arimathea... Tất cả cho thấy Người đã chia sẻ thân phận của con người tới tột cùng, và chính cuộc sống của Người đã trở thành một lời tỏ tình với con người cách cụ thể, cách chân thành nhất.
Kính thưa quí ông bà và anh chị em,
Chúa Giêsu đã sinh ra, đã sống cách đây hơn 2.000 năm rồi, nhưng không phải vì thế mà ngày hôm nay Người không còn chia sẻ cuộc sống với ta. Người vẫn hiện diện bên đời ta dù ta không thấy được Người. Người hiện diện để nâng đỡ ta trong cảnh sống thiếu thốn cơ hàn. Người hiện diện để xoa dịu những nỗi đau thương trong đời ta. Người hiện diện để ban phát những ân huệ cần thiết cho cuộc sống của ta.
Chính như thế đó mà dù cho cuộc sống của ta ngày mai có thể vẫn như hôm qua, vẫn nghèo túng cơ cùng, vẫn hai vai nặng nề hai gánh, nhưng ta sẽ cảm thấy bình an, bởi biết rằng có Thiên Chúa cùng đi bên ta và Người đang ghé vai vác đỡ gánh nặng của đời ta.
Lm. Phạm Minh Tâm Lễ Chúa Giáng sinh (Lễ Ban ngày)
Khi nói về ngày Con Thiên Chúa Giáng Trần, ngôn sứ Giêrêmia đã nói: "Này, sẽ tới ngày, Ta GS-219:
Khi nói về ngày Con Thiên Chúa Giáng Trần, ngôn sứ Giêrêmia đã nói: "Này, sẽ tới ngày, Ta sẽ làm nẩy sinh cho nhà Đa-vít, một chồi non chính trực, một Vị Vua. Vị Vua lên ngôi trị vì sẽ là người khôn ngoan tài giỏi trong xứ sở, Vua sẽ thi hành điều chính trực công minh. Thời bấy giờ, Giuđa sẽ được cứu thoát, Ítraen được sống yên hàn... Danh hiệu người ta tặng Vị Vua ấy là: Đức Chúa Công Minh..." (Gr.23, 5-7).
Trong ngày Truyền Tin, Sứ Thần Gabriel đã minh định với Đức Trinh Nữ Maria rằng:" Này, bà sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao..." ( Lc.1,26-38).
Thật lạ, thật huyền nhiệm và thật khó hiểu, khi Đấng mà các Ngôn Sứ thời Cựu Ước gọi là: Chồi Non Chính Trực, Vua Công Minh, Con Đấng Tối cao...; Đấng mà chính Sứ Thần Gabriel minh định lại được sinh ra bởi người phàm và nơi Ngài được sinh ra là hang lừa tanh hôi nằm ngoài thành Belem cách đây hơn 2000 năm.
Hang lừa, nơi nuôi và lưu giữ động vật, là nơi mà những người chăn nuôi thời nay rất am hiểu. Nơi ấy luôn phảng phất mùi hôi: Mùi hôi từ chất thải, mồ hôi của động vật, dẫu rằng nơi ấy luôn được người phụ trách vệ sinh hằng ngày.
Một điều không thể phủ nhận. Đó là: Không có loại tinh dầu, nước hoa, hay chất tẩy nào có thể xóa khỏi nơi chuồng trại mùi của động vật. Thế mà, Con Thiên Chúa lại chọn nơi hang lừa tanh hôi ấy làm nơi Giáng Hạ, nơi Ngài vào đời để thăm viếng và ở lại với dân của Ngài.
Phải chăng Con Thiên Chúa tự đầy đọa tấm thân? Phải chăng Thiên Chúa chê ghét "Gác tía, lầu son"?, phải chăng Thiên Chúa không đủ khả năng để lo cho Con Một của Ngài một nơi thật xứng đáng khi chào đời và vào đời? Không, chắc chắn không là như thế.
Qua lăng kính của Lời Chúa, nhờ ơn soi dẫn của Chúa Thánh Thần, chúng ta nhận ra tình yêu mà Thiên Chúa dành cho con người nhân loại thật vô biên. Đặc biệt qua Mầu Nhiệm Giáng Sinh.
Có thể nói, tâm hồn, gia đình của chúng ta cũng tanh hôi như hang lừa ngày xưa. Sự hôi tanh nơi chúng ta khởi đi từ tính tự kiêu, lòng ích kỷ hẹp hòi, luôn chất chứa thù oán, sự vô cảm, ganh ghét... Đặc biệt, sự vô ơn, bội nghĩa với tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta ngày càng cao ngất và trải dài theo năm tháng tuổi đời.
Nếu như, Thiên Chúa tự hạ để mặc lấy kiếp người, sống như người, ngoại trừ tội. Ngài đã chọn hang lừa tanh hôi làm nơi Giáng Hạ. Tin chắc Ngài cũng sẽ đến và ở lại với chúng ta, dẫu ta có nhơ nhớp, tanh hôi hơn hang lừa. Đây là, ý nghĩa của việc Thiên Chúa chọn hang lừa làm nơi Giáng Thế. Và cũng là điều giúp chúng ta xác tín hơn nữa lời minh định của các Ngôn Sứ:" Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta".
Cảm nghiệm như thế. Để rồi, trong dịp đại lễ Giáng Sinh, mùa Giáng Sinh. Trước tiên, chúng ta hòa cùng với Giáo Hội cất cao lời cảm tạ, tri ân và ngợi khen tình yêu của Thiên Chúa đã và đang dành cho từng cá nhân nói riêng và toàn thể nhân loại nói chung. Kế đến, chúng ta cùng và với nhau học nơi Đức Trinh Nữ Maria trở nên chiếc cầu, qua chiếc cầu là chính mỗi người chúng ta giúp Chúa đến với người và với đời.
Theo truyền thống, trong dịp mừng đại lễ Giáng Sinh, chúng ta thường gửi tới người thân, bậc bề trên và bạn bè... những món quà, lời chúc mừng và lời cầu nguyện... Thiết tưởng, chúng ta nên và hãy giúp nhau kiến tạo những món quà: Lòng Bác Ái, Vị Tha, Đồng Cảm để dâng kính Hài Nhi Giêsu. Hòa với triệu triệu Sứ Thần, chúng ta cùng cất vang:" Vinh Danh Thiên Chúa Trên Trời, Bình An Dưới Thế cho người Thiện Tâm", để ngợi khen và chúc tụng Chúa.
Đẹp quá, hiện đại quá, "hoành tráng" quá... Đây là lời trầm trồ, khen ngợi của chúng ta trước hang đá Giáng Sinh. Nơi đây, chúng ta thường gặp gỡ nhau hàn huyên, tâm sự, cùng nhau lưu những tấm hình để làm kỷ niệm và chia sẻ với nhau qua Face Book, Viber, Zalo...
Thật buồn và cũng thật đáng tiếc, nếu như chúng ta đến trước Hang Đá Giáng Sinh, chúng ta không dám gối quỳ để thờ lạy vì sợ nhăn, dơ trang phục; sợ người đời dèm pha: Bày đặt đạo đức, hình thức, muốn làm nổi... Hang Đá Giáng Sinh là những tác phẩm mà những nghệ nhân đã phỏng tác và thực tại hóa Hang Lừa năm xưa, nơi Con Thiên Chúa Giáng Thế để ở với, ở cùng và Cứu Độ chúng ta. Nơi Hang Đá Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse, các Mục Đồng, Ba Vua và cả bò lừa đều gối quỳ cung kính. Chúng ta là ai? Sao trước Hang Đá, chúng ta "xõng lưng", huyên náo và đôi khi bất kính vì tranh dành chỗ lưu ảnh...?
Trong đêm Chúa Giáng Sinh, các Sứ Thần đã loan tin và mời gọi những Mục Đồng đến chiêm bái Hài Nhi Giêsu, từ Phương Đông, ngôi sao đã mách bảo và dẫn đường cho Ba Vua đến bái thờ và dâng lễ vật cho Con Chúa làm người.
Ngày nay, chúng ta là người Kitô hữu, người đã lãnh nhận biết bao hồng ân của Chúa. Đặc biệt là ơn Đức Tin. Tin chắc một điều, Chúa mời gọi và chờ đợi chúng ta giới thiệu Ngài cho những ai chưa nhận ra Chúa là Đấng Cứu Thế, chưa đón nhận Tin Mừng. Đây là trách nhiệm, bổn phận của chúng ta. Và đây cũng là cánh chúng ta mừng Đại Lễ Giáng Sinh có ý nghĩa và đây là món quà mà Chúa hằng mong đợi, trong đêm Mừng Sinh Nhật lần thứ 2017 của Con Thiên Chúa là Đức Giêsu.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ dạy và giúp chúng con thờ lạy Chúa Hài Đồng như Mẹ, xin Mẹ giúp chúng con biết giới thiệu Chúa cho mọi người và xin Mẹ giúp chúng con trở nên cầu nối giữa Chúa và anh em như Mẹ đã từng.
Xin Mẹ khẩn cầu cùng Chúa Hài Đồng, để nhờ Mẹ, Chúa sẽ ban tặng niềm vui, hạnh phúc và bình an của Ngài cho chúng con. Amen.
Ngôi Lời có tương quan mật thiết với Chúa Cha, nhưng cũng rất gắn bó với loài người, được sai: GS-220
Ngôi Lời có tương quan mật thiết với Chúa Cha, nhưng cũng rất gắn bó với loài người, được sai phái đến trần gian là để làm cho chúng ta có thể thông dự vào sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa, nhờ chúng ta tin. Đây là chân trời từ đó bung mở tất cả câu truyện Giêsu.
Lm PX. Vũ Phan Long, ofm
1.- NGỮ CẢNH
Mười tám câu đầu tiên của TM IV được nhiều học giả coi như là một Lời Tựa long trọng của tác phẩm: giọng văn của phân đoạn này cũng như các đề tài chính của TM được hàm chứa trong đó biện minh cho nhận định này. Đoi với những vị khác, Lời Tựa là như phần Mở của TM, theo nghĩa là một vở nhạc kịch có một phần mở: các đề tài chính sẽ được nhắc lại trong phần thân của TM (sự sống, ánh sáng, sự thật, vinh quang, Con, tin, làm con Thiên Chúa, thế gian, bóng tối, v.v.). Cuối cùng, có một số tác giả cho rằng cc. 1-18 còn hơn là một lời tựa hay một phần mở nữa; các câu ấy chính là Tin Mừng trong một cái nhìn tổng hợp và sâu sắc, tất cả phần còn lại chỉ lấy lại sứ điệp mà diễn tả chi tiết bằng những câu truyện, qua đó ta thấy Ngôi Lời đã đến trong thế gian này và chia loài người thành hai ra trước mặt Người theo cách nhiệm mầu.
Tuy nhiên, cũng có những khác biệt quan trọng giữa Lời Tựa và TM. Thể thơ trong cc. 1-5.9-12.14-18 chỉ có ở trong Lời Tựa. Dung mạo trung tâm của Lời Tựa là “Lời” (Logos) sẽ không bao giờ được nhắc đến nữa trong phần còn lại của TM. Một số từ ngữ quan trọng tập trung trong cc. 14-18, chẳng hạn “ân sủng” (charis), “sung mãn” (plêrôma) và “ở trong lều (= cư ngụ)” (skênoun) không thấy xuất hiện ở chỗ nào khác ngoài Lời Tựa…
Những điểm tương đồng và dị biệt giữa Lời Tựa và TM đã khiến các nhà chú giải đi đến ba kiểu nhận định về cách soạn thảo Lời Tựa:
- Bởi vì có nhiều điểm tương đồng, một số vị cho rằng cùng một tác giả đã soạn Lời Tựa và TM.
- Do có những khác biệt, những vị khác nghĩ rằng Lời Tựa không phải là công trình nguyên thủy của tác giả, nhưng là một bài thơ hay là một bài thánh ca có sẵn đã được cải biên để mở đầu TM. Tuy nhiên, lập trường này không thể giải thích được vì sao trong bài thơ gốc ấy lại có nhiều từ ngữ chuyên biệt của TM IV đến thế (ví dụ: sứ sống, ánh sáng, bóng tối, làm chứng, thế gian, vinh quang).
- Một số vị cho rằng Lời Tựa là một thánh ca Ki-tô học truyền thống, có lẽ đã được sáng tác ra trong cộng đoàn Gioan, và đã được tác giả TM đặc biệt cải biên thành một phần mở của TM. Ý kiến này được hỗ trợ bởi các điểm tương đồng về từ vựng và đề tài giữa Lời Tụa và phần còn lại của TM cũng như bởi các thánh ca Ki-tô học trong một số thư Phaolô (x. Pl 2,6-11; Cl 1,15-20; 1 Tm 3,16).
Dù thế nào đi nữa, hiện nay Lời Tựa có đó như một dẫn nhập tuyệt vời vào TM IV. Hầu như chắc chắn là Lời Tựa, cũng như phần Kết của TM, đã được thêm vào sau khi quyển TM đã được viết xong. Như thế, Lời Tựa có thể được coi như một suy tư vừa để nghiền ngẫm vừa để đánh giá TM, do tác giả và cộng đoàn ngài đã ghi lại trong quyển TM vừa mới hoàn tất, đặc biệt về lời công bố của quyển TM rằng bản thân Đức Giêsu là Đấng Mêsia và Con Thiên Chúa. Lời Tựa có thể được coi như “lời chú giải có uy tín và chính lục” cổ nhất về quyển TM IV. Nó cũng cung cấp chìa khóa để chú giải TM IV (Collins). Và như vậy, Lời Tựa chỉ “hoàn toàn hiểu được” đối với người nào “biết trọn quyển Tin Mừng” (Bultmann).
2.- BỐ cỤc
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Ngôi Lời Thiên Chúa là Sự Sống và Ánh sáng (1,1-13):
a) Lời ban sự sống (1,1-5); b) Gioan là chứng nhân (1,6-8 [15]); c) Ngôi Lời là ánh sáng thật (1,9-13); 2) Ngôi Lời Thiên Chúa là ân sủng và sự thật (1,14.16-18).
3.- Vài điỂm chú giẢi
- Lúc khởi đầu (1): Đây là những từ đầu tiên của sách Sáng thế, nhắm tới không phải là khởi đầu thời gian của thế giới, nhưng là khởi đầu tuyệt đối (x. St 1,1). - có (1): Động từ ên (was, était) ở thì vị-hoàn (imperfect) diễn tả sự kéo dài: Lời luôn hiện hữu cách siêu vời và vĩnh cửu.
- Lời (1): Đối với người Sê-mít, “lời” không phải chỉ là một âm thanh của tiếng nói, sẽ tan biến đi theo nhịp độ ta phát ra. Theo họ, một khi lời con người đã được nói ra, thì tồn tại như một sức mạnh huyền nhiệm, luôn luôn làm việc để tạo ra cái mà lời ấy diễn tả, về mặt tốt hay xấu. Trong Tân Ước, Đức Giêsu không bao giờ tự xưng là “Lời” và cũng chưa bao giờ được gọi như thế ngoài những bản văn Gioan. Nhưng trong các bản văn Cựu Ước và Tân Ước, có những chuẩn bị cho giáo lý của TM IV về Ngôi Lời. Chẳng hạn, có ba trào lưu tư tưởng nhắm nhân cách hóa Đức Khôn Ngoan, Lề Luật và Lời Thiên Chúa (Cn 8,22t; Hc 24,22t; Is 55,10t; Kn 18,14t), cũng như có khuynh hướng đồng hóa sự Khôn Ngoan với Lời Thiên Chúa, thậm chí đồng hóa Lề Luật với Lời (Hc 24,1.3.22t). Đàng khác, trong các bản văn đầu tiên của Tân Ước, Lời có nghĩa là sứ điệp cứu độ nơi Đức Giêsu Kitô, và thánh Phaolô đã trình bày Đức Kitô như là Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa và gán cho Lời những phẩm tính tương tự các phẩm tính của Đức Giêsu Kitô (Cv 8,4; 19,20; 1 Cr 1,24; Pl 2,16).
- Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa (2): Giới từ pros cho thấy một sự hướng chiều về một người nào. Tách khỏi Cha được gọi là Thiên Chúa, Ngôi Lời cũng ở trong một sự hiệp thông hoàn hảo với Chúa Cha.
- Nhờ Người, vạn vật được tạo thành (3): Dịch sát là “nhờ Người, mọi sự đã trở thành (egeneto)”: Đọng từ egeneto cũng được bản LXX sử dụng trong St 1,3, diễn tả rất rõ viễc tạo thành mọi sự “từ không có gì” (a nihilo) (x. 17,24). Thiên Chúa nhờ trung gian của Ngôi Lời mà tạo thành vạn vật. Cựu Ước đã gán công cuộc tạo dựng thế giới cho Lời Thiên Chúa (Tv 33,6.9; 147,15-18; Is 40,26; 48,3; Kn 9,1; x. St 1,3) hoặc cho Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa (Cn 8,27-30; Kn 7,12; 8,4; 9,9).
- không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành lại đã được tạo thành (3): Chỗ cắt giữa c. 3 và c. 4 là một vấn đề được tranh luận rất nhiều. Bởi vì cả truyền thống thủ bản lẫn ngữ pháp không cho phép vĩnh viễn giải quyết cuộc tranh luận, thì phải giải quyết bằng chú giải. Nếu ghép c. 3c với c. 4a, có thể hiểu theo nhiều cách:
- những gì đã được tạo thành thì là sự sống nơi Người; - những gì đã được tạo thành, trong những cái đó (tức trong thế gian) có sự sống; - những gì đã được tạo thành, trong những cái đó, Logos là sự sống; - những gì đã được tạo thành nơi Người, đó là sự sống. Tất cả các cách dịch và giải thích đó, vì gán cho từ ngữ “sự sống” ý nghĩa là sự sống tự nhiên, chung cho mọi sinh vật, đều vấp phải một vấn nạn căn bản như nhau, đó là chưa nói đến những khó khăn riêng của mỗi kiểu dịch. Quả thế, cho dù không có kèm theo tính từ “đời đời/vĩnh cửu”, “sự sống” thường được nói đến trong TM IV luôn luôn là sự sống đời đời, mà Đức Kitô mang đến cho loài người: loài người nhận được sự sống đó chính là được cứu độ. Đàng khác ngữ cảnh gần lại cho thấy: mệnh đề kết hợp (coordinate) tiếp đó lấy lại từ “sự sống” với quán từ (article): Tin Mừng bảo chúng ta rằng sự sống vừa nói đó là “ánh sáng cho nhân loại”. Do đó, chắc chắn sự sống dó phải là sự sống thần linh, lúc đầu có từ muôn đời trong Ngôi Lời, rồi được Người thông ban cho loài người.
- Câu 3 là câu thơ ở thể biền ngẫu đối nghĩa, nhằm nêu bật rằng Ngôi Lời đóng vai trò trung gian tuyệt đối trong công trình tạo dựng.
- những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người (12): Tin vào ai có nghĩa là hoàn toàn gắn bó với người ấy, đặt mọi sự dựa vào người ấy, tin tưởng hoàn toàn vào người ấy. Đây là thái độ căn bản của con người đối với Đức Giêsu. Có 33 lần, tác giả nói đến “tin vào Đức Giêsu”, chỉ 1 lần “tin vào Thiên Chúa” (14,1). “Tin vào danh” là một công thức hiếm hơn (1,12; 2,23; 3,18; 1 Ga 5,13) và luôn luôn quy về Đức Giêsu; công thức này có nghĩa là đặt tất cả sự tin tưởng vào tư cách của con người được nêu tên.
- Ngôi Lời đã trở nên người phàm (14): Dịch sát là “đã trở thành xác thịt/xác phàm”. Từ ngữ “xác thịt” (sarx) trong Kinh Thánh không nhắm đến một phần của con người, hoặc thậm chí thân xác của người ấy, mà là con người toàn vẹn, nhưng yếu đuối và mỏng dòn mong manh, một hữu thể phải chịu đau đớn và phải chết.
- Chúa Cha (14.18): TM IV dùng từ “Cha” để gọi Thiên Chúa 122 lần trong quan hệ với Đức Giêsu; chỉ có 3 lần là “Cha của loài người” (8,41-42 [2x]; 20,17 [1x]). Cũng trong TM này, chỉ Đức Giêsu được gọi là “Con Thiên Chúa” theo nghĩa riêng, trên một bình diện bình đẳng và đồng phân với Thiên Chúa; loài người không được gọi là “con”, mà là “tạo thành” của Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa cỦa bẢn văn
Mỗi Tin Mừng bắt đầu theo cách của mình. Mt liên kết với lịch sử cứu độ: ngài tức khắc giới thiệu Đức Giêsu Kitô như là con cháu Đavít và con cháu Abraham (Mt 1,1-17). Mc quy chiếu về công việc rao giảng Tin Mừng hiện tại: Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa (Mc 1,1-15). Lc bắt đầu tác phẩm theo cách các sử gia cổ thời, với một lời tựa, cho biết ngài tiến hành có lớp lang (Lc 1,3): ở 1,31, ngài giới thiệu tên Đức Giêsu lần dầu và ở 2,11, ngài cho biết địa vị của Đức Giêsu. Còn tác giả Gioan, trước khi gọi tên Đức Giêsu Kitô ở 1,17, thì ở 1,1-13, đã nêu lên những đặc điểm của Đức Giêsu và ở 1,14-18, mô tả hình thức, các nội dung và những điểm liên can đến biến cố Đức Giêsu đến trần gian.
* Ngôi Lời Thiên Chúa là Sự Sống và Ánh sáng (1,1-13)
Đối với tác giả TM IV, Đức Giêsu Kitô là Ngôi Lời. Bằng danh xưng này, ngài muốn diễn tả ra thực tại thâm sâu nhất của Đức Giêsu, sự kiện Người nhiệm xuất từ Thiên Chúa và tầm quan trọng của Người đối với loài người chúng ta. Dân Ít-ra-en nhận biết vị Thiên Chúa của riêng mình như là Đấng nói với họ: không phải như vị Thiên Chúa khép kín mình lại và giam mình trong cõi thinh lặng, vị Thiên Chúa vô danh, xa cách và gây ra sợ hãi, nhưng như vị Thiên Chúa ngỏ lời với họ và cho họ biết các ý định và ý muốn của Người. Người đã nói với Abraham, đã gọi ông và đã ban cho ông lời hứa là muôn dân được chúc phúc (x. St 12,1-3). Qua trung gian Môsê, Người đã giải phóng dân Người khỏi kiếp nô lệ và đi cho biết ý muốn của Người đặc biệt trong “Mười điều răn”. Nhờ các ngôn sứ, Người đã can thiệp vào trong các tình cảnh khác nhau của lịch sử dân Người. Người đã ngỏ lời với họ, để cho họ truyền đạt như là lời khuyên nhủ, lời khuyến cáo, lời hứa và lời động viên. Lời Thiên Chúa ở tại khởi đầu của toàn thể lịch sử. Bằng Lời tạo dựng quyền năng, Thiên Chúa đã gọi mọi sự ra hiện hữu. Nhờ Lời này, Thiên Chúa giao tiếp với các tạo thành của Người, tự mạc khải ra cho họ, cho họ được thông dự vào tất cả dự phóng và ý muốn của Người về họ. Lời Thiên Chúa đã ban sự hiện hữu và sự sống. Lời này ngỏ với chúng ta, và kêu gọi chúng ta dấn thân. Lời này vừa là yêu cầu vừa là lời hứa. Lời này đến từ Thiên Chúa, làm nền tảng và xác định tương quan giữa Thiên Chúa và loài người.
Đức Giêsu Kitô không chỉ truyền đạt Lời Chúa như một ngôn sứ, nhưng Người chính la lời này, lời đầu tiên và cuối cùng của Thiên Chúa. Nơi Người, Thiên Chúa tự mạc khải ra vĩnh viễn và chan hòa, Thiên Chúa nói với chúng ta và cho ta được biết Người. Khi Người ngỏ lời với chúng ta, thì cũng luôn luôn có một yêu cầu, một đòi hỏi phải trả lẽ. Các đặc điểm của Lời Thiên Chúa này là thế nào, Người đến từ những chiều sâu nào, Người có tương quan thế nào với toàn thể tạo thành, tương quan với Người thì đưa lại điều gì cho loài người chúng ta, tất cả những điểm này đều được Gioan mô tả trong 1,1-13.
Lời đang ở nơi Đức Giêsu Kitô đã được chuyển đến cho loài người chúng ta không phải để vang lên rồi tắt mất, nhưng Lời ấy vĩnh cửu và trường tồn như Thiên Chúa: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa” (1,1-2). Tương quan của Ngôi Lời Thiên Chúa với chính Thiên Chúa được xác định ở đây với ba ý: Ngôi Lời thì vĩnh cửu và vô tạo như Thiên Chúa; Người sống trong sự hiệp nhất trường tồn với Thiên Chúa; Ngài là Thiên Chúa theo cùng một cách như Thiên Chúa là Thiên Chúa. Ba điểm này được tóm trong c. 2, được nhắc lại và khẳng định như là bất biến. Chúng nêu lên bản chất sâu xa nhất, đặc tính chính yếu và tư cách của con người là Ngôi Lời Thiên Chúa: TM IV nói với chúng ta về hành trình, các lời nói và các hành động của Người trên mặt đất. Trong tất cả những gì Đức Giêsu làm, ta thấy được điều này: Người không phải là người mang các lời của Thiên Chúa, mà là chính lời Thiên Chúa, lời vững chắc và đáng tin như chính Thiên Chúa trong thần tính sâu xa và cao cả của Ngài.
Kinh Thánh mở ra với khẳng định: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất” (St 1,1). Ngược lại, TM IV không mở đầu bằng lời khẳng định: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo Lời”, nhưng bằng lời khẳng định: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời”. Giống như Thiên Chúa, Ngôi Lời không được tạo thành, nhưng hiện hữu từ muôn đời, sống trước cuộc tạo dựng, không có khởi đầu và không có kết thúc, vĩnh cửu và không ai trổi vượt hơn. Ngôi Lời vĩnh cửu này ở bên Thiên Chúa từ muôn đời. Người là một partner hằng sống của Thiên Chúa và liên kết với Thiên Chúa bằng một sự hiệp nhất vĩnh cửu và không có trung gian. Sự hiệp nhất này xảy ra ngay trên bình diện Thiên Chúa; các partner bình đẳng với nhau. Ở đây không phải là tương quan giữa Đấng Tạo hóa và tạo thành. Ngôi Lời có bản tính Thiên Chúa, phẩm cách Thiên Chúa, Người có cùng bình diện hiện sinh của Thiên Chúa, Người là Thiên Chúa, Thiên Chúa thế nào thì Người cũng là như thế. Chỉ khởi đi từ tương quan của Người với Thiên Chúa, ta mới có thể hiểu được tầm quan trọng và giá trị, quyền năng và sự viên mãn của Ngôi Lời.
Từ muôn thuở muôn đời và vô biên trước tương quan Tạo Hóa–tạo thành, có tương quan Thiên Chúa–Ngôi Lời Thiên Chúa. Bây giờ tương quan của Ngôi Lời với tạo thành mới được nói đến: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành”. Khẳng định này lại được nhắc lại và nhấn mạnh: “Và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành” (1,3). Toàn thể tạo thành nhờ Ngôi Lời Thiên Chúa mà có (x. 1 Cr 8,6; Cl 1,16; Dt 1,2), lệ thuộc vào Người mà hiện hữu. Ngôi Lời sống trong sự hiệp nhất vĩnh cửu với Thiên Chúa; Người gắn bó với tạo thành ngay từ thuở ban đầu; trong bản tính, Người là Ngôi Lời Thiên Chúa. Và khi đến trần gian, Người không thiết lập một tương quan mới với tạo thành, Người không đi vào một xứ sở xa lạ, nhưng Người đến nhà của Người, đến với sản nghiệp của Người (1,9-11). Khởi đi từ những tương quan căn bản của Người, Người nhắm tới việc thông truyền và liên kết, Người là Ngôi Lời Thiên Chúa quay hướng về tạo thành của Người.
Tương quan đặc biệt của Ngôi Lời với loài người được diễn tả bằng sự sống và ánh sáng. Trong Cựu Ước, có lời khẳng định: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119,105) và: “Lạy Chúa, thân con bị muôn phần khổ nhục, theo lời Ngài, xin cho con được sống” (Tv 119,107). Đặc tính căn bản của Ngôi Lời chắc chắn là sự sống vô cùng viên mãn, tức không có chút gì là bóng tối sự chết và giới hạn nơi Người. Như thế, Ngôi Lời có đặc điểm như Thiên Chúa, vì Người là Thiên Chúa hằng sống (x. Ga 5,26). Nhờ sự sống viên mãn không hề cạn kiệt của Người, Ngôi Lời trở thành ánh sáng cho loài người đang sống trong bóng tối và tiến về sự chết. Ngôi Lời là ánh sáng chiếu soi, ánh sáng làm cho mọi sự nên rõ ràng và làm cho ta có thể sống và định hướng đời mình.
Nhưng đến đây lần đầu tiên, tác giả cho thấy công trình của Ngôi Lời có gặp một sức mạnh đối nghịch. Bóng tối ngăn cản loài người nhận được ảnh hưởng của ánh sáng. Toàn thể TM IV nói đến cuộc xung đột giữa ánh sáng và bóng tối. Nhưng ánh sáng vẫn tỏa rạng và thắng vượt. Cuối cùng, có lời loan báo chiến thắng, tiên báo kết quả của trận đấu: “Bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (1,5). Ánh sáng mạnh mẽ và mang sự sống tiếp tục chiếu soi loài người.
Sau khi nhìn lần đầu tiên đến chứng nhân Gioan, tác giả giải thích lần cuối cùng biến cố Ngôi Lời đến trong thế gian (1,9-13). Người đến như là ánh sáng thật soi chiếu mọi người. Tuy nhiên, cách thức đón tiếp khác nhau. Hai lần tác giả nói rằng Ngôi Lời bị xua trừ. Người đã ở trong thế gian, nhưng thế gian, tuy vẫn nhờ Người mà hiện hữu, lại không nhận biết Người; tạo thành bị mù lòa và cứ muốn ở trong tình trạng mù lòa khi ở trước Đấng Tạo nên mình. Từ ngữ “người nhà” một lần nữa cho thấy thế giới con người là sở hữ cửa, chứ không muốn có Người ở với họ. Thế mà không những Người đã tạo thành họ, Người còn xuống để đi tìm họ trong thế giới của họ.
Nhưng Ngôi Lời Thiên Chúa cũng có được tiếp đón. Người ta tiếp đón Người bằng đức tin, nhờ đó họ trở thành con Thiên Chúa. Tin là một quyết định cá nhân, một thái độ của ý chí con người. Đối với TM IV, “tin vào/tin vào danh” là thái độ căn bản mà con người phải có đối với Đức Giêsu. Theo 3,18 (x. 1 Ga 5,13), danh của Ngôi Lời là “Con Một Thiên Chúa” (x. 1,14.18). Như thế, chúng ta đón tiếp Ngôi Lời khi nhận biết Người là Con Một của Thiên Chúa và hoàn toàn tín thác vào Người.
Tất cả những ai tin vào Ngôi Lời Thiên Chúa thì được ban cho quyền trở nên con Thiên Chúa. Tương quan của một người cha với các con có đặc điểm là người cha truyền thông sự sống cho các con và họ sống một dây liên kết riêng tư thân tình. Các con của Thiên Chúa là những người có sự sống phát xuất từ Thiên Chúa và có thể sống hiệp nhất với Ngài. Sự sống này hoàn toàn khác với sự sống trần gian: trong sự sống này, loại trừ một loạt những nhân tố cho thấy nguồn gốc của sự sống trần gian tự nhiên (1,13). Được sinh ra lần nữa bởi Thiên Chúa (x. 3,3), chúng ta trở thành con của Ngài, chúng ta có sự sống đời đời, được thông sự vào chính sự sống của Ngài. Sự tái sinh này tùy thuộc niềm tin đặt nơi Con Một Thiên Chúa.
* Ngôi Lời Thiên Chúa là ân sủng và sự thật (1,14.16-18)
Ngoại trừ tên của chứng nhân Gioan (1,6), trong phần thứ nhất của Lời Tựa, chúng ta không gặp bất cứ tên người nào. Sau khi tác giả đã nói nhiều điều về Ngôi Lời Thiên Chúa, phát sinh các câu hỏi: Người ở trong thế gian như thế nào? Ta tìm ra Người ở đâu? Ai đã gặp Người? Người có gì mà thông ban cho chúng ta?
Trong phần thứ hai (1,14-18), các tên người được gom lại với nhau: một nhóm đi vào sân khấu, với tên gọi “chúng ta/chúng tôi” (1,14.16). Các khẳng định đan quyện vào nhau. Trước khi khẳng định rằng Ngôi Lời đã làm người (= đã thành xác phàm) có đầy ân sủng và chân lý (1,14), tác giả nói rằng “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người” (1,14). Và trước khi nói rằng “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác”, ngài nêu bật chứng tá của Gioan [Tẩy Giả] (1,15). Chứng tá có tầm quan trọng đặc biệt cho khả năng thấy của nhóm “chúng ta/chúng tôi” (x. 1,29.30.36). Tác giả TM hẳn là đang nhắm đến một kinh nghiệm phi thường khiến ngài như nghẹt thở, và dường như ngài diễn tả điều này khi nêu lên chuỗi các khẳng định đan quyện nhau. Kinh nghiệm lớn lao duy nhất, cuộc gặp gỡ với Ngôi Lời làm người, hẳn là tác giả muốn diễn tả tất cả ngay trong một lần, trong khi kinh nghiệm ấy chỉ có thể thông tri dần dà, từng phần một.
Ngôi Lời như là ánh sáng thế gian đã đến (1,9), điều này được thể hiện trong việc Người “thành xác phàm”, trong khi cứ theo lẽ thường, chúng ta nói là trong việc Người “làm người”. “Trở thành xác phàm” có nghĩa là Ngôi Lời Thiên Chúa đã trở thành một con người thật sự, mỏng dòn và phải chết, và bằng cách đó Người đã đến hiện diện trong thế gian như là ánh sáng cho loài người. Ngôi Lời vô tạo, luôn ở trong một tương quan vĩnh cửu và sống động với Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa, nay vẫn không thôi là Ngôi Lời Thiên Chúa ấy, nhưng đồng thời trở thành một con người tất tử.
Trước khi nêu tên của con người ấy, cũng là Ngôi Lời Thiên Chúa, là người thật và là Thiên Chúa thật, tác giả TM IV phác ra các đặc điểm của sự hiện diện thường trực của Người với loài người. Ngôi Lời không chỉ đến phớt qua rồi biến mất ngay, nhưng đã sống lâu dài trong và với cộng đồng loài người: Người đã cư ngụ giữa họ. Tác giả cũng mô tả cuộc gặp gỡ lạ lùng ngài đã có với Đấng ấy: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người” (1,14). Không phải là một con người đơn lẻ, nhưng là một nhóm đã được gặp Ngôi Lời đã trở thành xác phàm. Bởi vì ngài nói đến “chúng ta/chúng tôi”, tác giả TM coi mình thuộc về nhóm này. Đây là nhóm các môn đệ; họ đã được sống hiệp thông trực tiếp với Đức Giêsu và hiểu thực tại đích thật của Ngài (x. 2,11; 20,30). Họ đã được thấy “vinh quang của Con Một Chúa Cha” (1,14). Cựu Ước đã nói đến “vinh quang của Thiên Chúa” vào dịp các cuộc tỏ mình của Thiên Chúa (x. Xh 24,16-17; Ed 1,28). “Vinh quang” này không phải là bất cứ thứ huy hoàng lộng lẫy nào, nhưng là nguồn sáng chói lọi trong đó ta trải nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa. Ngôi Lời Thiên Chúa, nay hiện diện như là con người phải chết và ẩn giấu, trở thành thấy được cho các môn đệ trong thực tại đích thực của Ngài. Các môn đệ đã được sống cuộc tỏ mình cho thấy bản thân thâm sâu của Ngôi Lời, khiến họ nhạn được ánh sáng (1,4.9) và hết sức vui mừng (x. 1 Ga 1,4).
Đến đây đã rõ là Ngôi Lời chính là Con duy nhất và vô song của Thiên Chúa, mà Chúa Cha đã cử đến trần gian. Tác giả diễn tả tương quan có một không hai này nhiều cách: Thiên Chúa hầu như chỉ là “Cha” của Đức Giêsu, và chỉ Đức Giêsu mới là “Con” của Thiên Chúa.
Ngôi Lời làm người, Con được Chúa Cha sai phái đến thế gian, là Đấng “đầy tràn ân sủng và sự thật” (1,14). Công thức này cho biết điều gì đã được ban cho loài người nhờ sự hiện diện của Ngôi Lời, điều gì các môn đệ đã nhận được khi hiểu rõ ràng bản thân ngôi Lời (1,16). Nhờ Đức Giêsu, là chính ân sủng và sự thật, ân sủng và sự thật đã có đó (1,17). “Ân sủng” là quà tặng được ban nhưng-không; còn “sự thật” là mạc khải về một thực tại cho đến nay vẫn còn ẩn giấu. Chính Đức Giêsu là “sự thật” (x. 14,6). Vì Người là “sự thật”, Người cho chúng ta được biết một phương diện hoàn toàn mới của Thiên Chúa: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (14,9). Trong thân phận là Con, Người mạc khải về Thiên Chúa như là Cha: ta không thể biết Đức Giêsu như Con Thiên Chúa mà không đồng thời biết Thiên Chúa như là Cha của Đức Giêsu. Được biết rõ như thế về Thiên Chúa là một ân sủng, là một sự chiếu cố nhân ái của Thiên Chúa đối với loài người.
Để cho thấy đây là một điều mới mẻ, tác giả so sánh với Cựu Ước. Nhờ trung gian Môsê, Lề Luật đã được ban cho dân Chúa. Lề Luật này là lời Thiên Chúa, dấu chỉ lòng ân cần của Thiên Chúa, cũng mạc khải ý muốn của Thiên Chúa, xuyên quan các điều răn và các lời hứa của Thiên Chúa; Lề Luật loan báo điều mà chính Thiên Chúa muốn làm, điều Ngài sẽ ban cho dân Ngài (x. 1,45; 5,46), đồng thời cho biết điều mà dân Chúa phải làm, để sống phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Ngay các điều răn của Thiên Chúa cũng được nhận biết như là những dấu chỉ về ân sủng của Ngài: xuyên qua các điều răn này, Ít-ra-en có thể biết điều gì Thiên Chúa muốn (x. Tv 19; 119).
Nhưng điều Thiên Chúa chuyển đến cho loài người nhờ trung gian Đức Giêsu còn vượt quá ân ban trên. Đức Giêsu Kitô không phải là một trung gian theo kiểu Môsê, là người chỉ truyền đạt điều đã nhận. Nhờ Đức Giêsu, Con Thiên Chúa đã đến trong thế gian, ân ban là sự thật, là mạc khải về điều cho đến nay còn bị giấu kín, đã được ban cho ta: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả” (1,18). Không một ai, kể cả Môsê, đã được cho gặp trực tiếp và biết đầy đủ về Thiên Chúa. Nay “Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (1,18). Nhiệm vụ chính của Đức Giêsu là loan báo cho chúng ta sự hiểu biết này. Chính ba tư cách được nêu vừa rồi cho phép Đức Giêsu làm công việc mạc khải về Chúa Cha.
Trong ba tư cách này, tác giả nhắc lại những gì Lời Tựa đã nói về ngôi Lời: Đức Giêsu là Con Một (x. 1,14), Người có một tương quan hoàn toàn đặc biệt với Thiên Chúa, Người là Thiên Chúa (x. 1,1c). Đây là tương quan giữa những nhân vật ngang hàng nhau, có cùng một bản tính và đặc điểm như nhau. Tương quan này được sống trong sự hiệp nhất thân tình, tin tưởng (x. Ga 13,23). Cựu Ước đã biết đến vị Thiên Chúa Tạo hóa, hoàn toàn cách biệt với các thọ tạo; khi đó, người ta nhận biết Thiên Chúa chỉ có một, “nhất khối”. Nhờ Đức Giêsu, ngay tại bình diện Thiên Chúa, có sự hiệp thông, có tương quan tình yêu âu yếm và tin tưởng giữa Chúa Cha và Chúa Con. Đức Giêsu mang đến một sứ điệp về Thiên Chúa, mà thật ra Người chính là sứ điệp đó. Người mang đến sứ điệp này, để những ai tin vào Người như là Con thì được thông dự vào tương quan của Người với Thiên Chúa, và trở thành con Thiên Chúa (1,12). Đây là điều mới mẻ tuyệt đối mà Đức Giêsu cho chúng ta biết. Cho đến nay thì đúng là “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả” (1,18); nhưng bây giờ, “ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (14,9).
Lời Tựa có ghi ba tên: Gioan, Môsê và Giêsu. Như thế, các lời khẳng định của Lời Tựa được liên kết với ba nhân vật lịch sử. Gioan đã đến như chứng nhân của ánh sáng (1,7). Nhờ trung gian Môsê, Lề Luật đã được ban cho dân (1,17). Với Đức Giêsu, ân sủng và sự thật đã đến trong thế gian. Đây là con người lịch sử mang tên là Giêsu Nadarét. Khi tác giả nói tên Người ra (1,17), thì ngài đã nói tất cả những gì làm cho rõ về bản thân Đức Giêsu và ý nghĩa của tên này. Nhưng tất cả những gì ngài trình bày không phải là hoa trái của suy diễn, nhưng rút ra từ việc chiêm ngắm và gặp gỡ con người lịch sử này ngày càng sâu sắc hơn. Lời Tựa tóm tắt những gì đã được ban cho các môn đệ khi họ được nhìn xem vinh quang của con người ấy.
Chỉ Đức Giêsu mới có một danh hiệu: Người được gọi là “Kitô”. Như thế, Người được tuyên xưng như là vị vua cuối cùng đã được Thiên Chúa ban cho dân Ít-ra-en, Ngài là “ân sủng và sự thạt”. Đến cuối TM, chính Đức Giêsu sẽ tóm tắt địa vị và nhiệm vụ của Người trước mặt Philatô: “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (18,37). Nhiệm vụ thiên sai và vương giả của Đức Giêsu là mang sự thật, là mạc khải vị Thiên Chúa ẩn mình ra trong thực tại của Ngài là Cha.
+ Kết luận
Ngôi Lời có tương quan mật thiết với Chúa Cha, nhưng cũng rất gắn bó với loài người, được sai phái đến trần gian là để làm cho chúng ta có thể thông dự vào sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa, nhờ chúng ta tin. Đây là chân trời từ đó bung mở tất cả câu truyện Giêsu.
Tác giả TM IV đã chiêm ngắm công trình và tầm quan trọng của Đức Giêsu theo cách quy thần. Ngôi Lời mang đến sứ điệp về Thiên Chúa, một sứ điệp cũng chính là bản thân Người. Tất cả những gì tác giả khẳng định về Ngôi Lời Thiên Chúa đã thành xác phàm, với các từ “ánh sáng, sự sống, vinh quang, ân sủng, sự thật”, đều trở nên rõ nghĩa trong sứ điệp về Thiên Chúa. Chúa Con, Đấng mạc khải Thiên Chúa như là Cha và sự hiệp thông trong Thiên Chúa, vẫn đang soi sáng thế gian, Người xán lạn vinh quang, Người chính là mạc khải về Thiên Chúa và sự quan tâm đầy tràn ân sủng của Thiên Chúa và Người ban sự sống đời đời cho những ai tin vào Người.
5.- GỢi ý suy niỆm
1. Khi chiêm ngắm Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng diễn tả trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa và mạc khải chính Thiên Chúa ra cho loài người, để họ tin và được cứu độ, chúng ta cũng được mời gọi nhìn lại và lượng định kinh nghiệm của chúng ta về khả năng “nói” của loài người (như là thông giao, diễn tả sự tin tưởng, khuyến khích, trân trọng v.v.) và về “sự thinh lặng” (do cần thiết, do bị câm, do thiếu quan tâm, do hiềm khích v.v.).
2. Các ki-tô hữu cũng được thúc bách nhìn lại: chúng ta có chăng khả năng nhận ra được là nhiều lần chúng ta bị bóng tối vây hãm. Chúng ta phải tự hỏi: Điều gì ngăn cách giữa tôi và Đấng tạo thành tôi, điều gì đang che phủ Ngài, khiến tôi không nhận ra Ngài và ngăn cản tôi đi vào thông hiệp sống động với Ngài? Dường như chúng ta còn đang bị cám dỗ thấy có nhiều điều đáng quan tâm hơn, quan trọng hơn, thuyết phục hơn và hứa hẹn hơn là việc đón tiếp Thiên Chúa, Đấng tự hiến ban chính mình!
3. Ở 1 Ga 2,23, chúng ta đọc: “Ai chối Chúa Con thì cũng không có Chúa Cha; kẻ tuyên xưng Chúa Con thì cũng có Chúa Cha”. Chúng ta phải hiểu tương quan của Đức Giêsu với Chúa Cha có ý nghĩa gì cho chúng ta? Dường như cho đến hôm nay, sự hiểu biết của chúng ta về Thiên Chúa vẫn ở tầm mức Cựu Ước hơn là Tân Ước?
4. Làm thế nào liên kết những gì tác giả TM IV đã nói về Ngôi lời Thiên Chúa với Đức Giêsu Nadarét lịch sử? Hoặc là chúng ta nghĩ đến Ngôi Lời Thiên Chúa như một nhân vật siêu vời hoàn toàn không dính dáng gì đến thế giới chúng ta, hoặc chúng ta nghĩ đến Đức Giêsu như một con người chìm trong những thực tại trần thế đến mức không còn gì là siêu phàm nữa. Dường như hiện nay đang có một xu hướng kéo Đức Giêsu “là người thật” xuống trần gian đên mức không còn là “Thiên Chúa thật” nữa!
Lễ Giáng Sinh quả là một ngày lễ mang nhiều niềm vui. Vui vì số người tham dự đông đảo như : GS-221
Lễ Giáng Sinh quả là một ngày lễ mang nhiều niềm vui. Vui vì số người tham dự đông đảo như trẩy hội. Vui vì những trang trí lộng lẫy huy hoàng. Vui vì những bài thánh ca như cuốn hút lòng người. Vui vì những bữa tiệc liên hoan thật thân tình... Nhưng cho tới giờ này, những niềm vui bên ngoài ấy đã tạm lắng xuống nhường chỗ cho một niềm vui sâu xa hơn, ngọt ngào hơn và đích thực hơn. Ðó là niềm vui vì biết mình được yêu thương. Nhưng căn cứ vào đâu để ta biết mình được yêu thương?
Có lẽ chúng ta còn nhớ lời của Thiên Sứ đã báo cho các mục đồng trong đêm Chúa Giáng Sinh rằng: "Ðây tôi đem đến cho anh em một tin vui mừng đặc biệt. Ðó cũng là tin vui mừng cho toàn dân: HÔM NAY ÐẤNG CỨU THẾ ÐÃ GIÁNG SINH CHO ANH EM" (Lc.2,10-11). Nhưng Ðấng Cứu Thế giáng sinh đem đến cho nhân loại điều gì để đáng được gọi là vui mừng? Thưa: Người mang đến cho chúng rất nhiều quà tặng quý giá vô song.
- Trước hết là chính sự HIỆN DIỆN đầy tình yêu thương của Người. Thánh Gioan đã viết: "Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể và đã cư ngụ giữa chúng ta" (Ga.1,14). Hoá thành nhục thể nghĩa là: Từ một Ngôi Vị Thiên Chúa cao sang, thánh thiện tuyệt đối, Ngôi Lời đã mặc lấy một thân xác mong manh, mỏng dòn và yếu đuối như chúng ta. Và khi hoá thành nhục thể như vậy, Người đã chấp nhận sự tự hạ sâu thẳm, chấp nhận tự huỷ và từ bỏ hoàn toàn. Thư gửi giáo đoàn Philipphê đã diễn tả: "Ðức Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Song Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế" (Phil.2,6-7). Làm như vậy là để Người có thể hiện diện một cách hữu hình với con người. Người hiện diện để chia sẻ thân phận yếu hèn và hay chết của con người. Người hiện diện để cảm thông và nâng đỡ con người trong mọi cảnh ngộ đau thương. Một sự hiện diện như vậy không đáng để chúng ta vui mừng sao?
- Tiếp đến Người mang cho chúng ta SỰ SỐNG và ÁNH SÁNG. Thánh Gioan cũng đã viết: "Ở nơi Người là sự sống. Và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối và bóng tối đã không diệt được ánh sáng" (Ga.1,4-5). Là ánh sáng, Người soi dẫn chúng ta đi trên con đường tìm về gặp gỡ Thiên Chúa để chúng ta nhận được sự sống đời đời. Không có ánh sáng của Người, chúng ta sẽ phải mò mẫm trong đêm tối mịt mù. Mò mẫm trong đêm tối, chúng ta sẽ vấp ngã, sẽ lạc đường. Vì thế mà chúng ta sẽ không đến được với Thiên Chúa là nguồn sự sống. Sự sống thể lý và sự sống tâm linh, sự sống đời này và sự sống đời sau chính là những quà tặng quý giá nhất mà Thiên Chúa đã ban cho con người. Thật vậy, chúng ta lam lũ, vất vả để làm gì, nếu không phải để lo cho cuộc sống của thân xác? Chúng ta miệt mài học hành để làm gì, nếu không phải để thăng hoa cuộc sống đời này? Tại sao những người cao tuổi, những người đau yếu bệnh tật vẫn không muốn nghĩ tới cái chết? Chẳng phải là vì họ còn rất yêu mến cuộc sống đời này hay sao? Sự sống thể lý, sự sống đời này dẫu mong manh như hoa sớm nở chiều tàn mà còn đáng quý như vậy, huống chi sự sống tâm linh, sự sống bất diệt đời sau còn đáng quý đến độ nào? Ðức Kitô đến đem cho chúng ta sự sống ấy chẳng lẽ không phải là điều đáng mừng lắm sao?
- Ngoài ra, Ngôi Lời đến còn mang cho chúng ta vô vàn ân phúc quý giá khác. Thánh Gioan viết tiếp: "Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta được lãnh nhận hết ơn này tới ơn khác" (Ga.1,16). Ðược đón nhận những ân huệ quý báu của Thiên Chúa chẳng lẽ không phải là điều rất đáng vui mừng?
Vâng, Ngôi Lời làm người rất đáng để chúng ta vui mừng. Và nếu Người làm người để hiện diện với chúng ta, hiện diện trong đời chúng ta thì chúng ta có quyền tin tưởng và phó thác nơi Người mọi sự. Nếu Ngôi Lời là ánh sáng ban sự sống thì chúng ta có quyền an tâm bước đi, dẫu cho đường đời chất đầy muôn nỗi thương đau. Chỉ cần chúng ta đón nhận Người và để Người dẫn dắt trong mọi sự. Chỉ cần chúng ta nhìn mọi biến cố vui buồn trong cuộc đời như Người đã nhìn và làm mọi việc theo Thánh Ý Người, chúng ta sẽ thấy đời mình tốt đẹp, hạnh phúc biết bao. Lm. Phạm Minh Tâm
Có lẽ chưa bao giờ tôi khát khao sự cứu độ một cách mãnh liệt cho bằng hiện nay. Tôi xác: GS-222
Có lẽ chưa bao giờ tôi khát khao sự cứu độ một cách mãnh liệt cho bằng hiện nay. Tôi xác tín sự cứu độ luôn rất cần cho tôi. Tôi cảm thấy sự cứu độ cũng luôn rất cần cho anh chị em, cho chính Hội Thánh và cho nhân loại.
Sự cứu độ, mà tôi nói đây, không chủ yếu là cứu thoát khỏi những nghịch cảnh, những nguy cơ, những yếu đuối, những bấp bênh đủ loại vốn đi liền với thân phận con người, nhưng là cứu thoát khỏi tội lỗi và những đường lối lầm lạc dẫn chúng ta tới sự băng hoại nhân phẩm, tàn phá gia đình, hỗn loạn xã hội và huỷ hoại khả năng xây dựng nếp sống công bình bác ái ở đời này, cũng như khả năng đi vào cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
Một sự cứu độ như thế quả là quá sức chúng ta. Rất may cho chúng ta, vì chúng ta có thể tìm được sự cứu độ nơi Chúa Giêsu. Người là Ngôi Hai Thiên Chúa. Người giáng trần để Cứu Độ chúng ta. Người là Đấng Cứu Thế của chúng ta.
Nhìn vào hang đá, nơi Chúa Cứu Thế Giáng Sinh, chúng ta thấy một tình yêu bao la cao cả và một hy sinh lớn lao vô bờ. Từ đó việc cứu độ được hiểu như một việc của tình yêu và của hy sinh.
Với tình yêu và hy sinh, từ bỏ mình, tuyệt đối thực hiện thánh ý Chúa Cha, Đấng cứu thế đã trở nên một đền thờ sống động, để chúng ta có thể vào nơi đó, mà thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và trong chân lý.
Với yêu thương và hy sinh, hiến cuộc sống mình đền tội cho nhân loại, Đấng Cứu Thế đã trở nên của lễ xứng đáng, để chúng ta hiệp thông vào đó, mà xin Thiên Chúa ban ơn tha thứ cho mình và cho kẻ khác.
Với yêu thương và hy sinh, khiêm nhường trọn vẹn vâng phục Chúa Cha cho đến chết, Đấng Cứu Thế đã trở nên nguồn sức mạnh, để chúng ta nương tựa vào đó, mà thắng vượt quyền lực ma quỉ, biết chọn Chúa và trung thành với Chúa trong mọi tình huống.
Chúa Giêsu Kitô đã và đang cứu độ chúng ta bằng yêu thương và hy sinh như thế. Chúng ta sẽ được hưởng ơn cứu độ đó, nếu chúng ta biết đón nhận và cộng tác vào. Đón nhận cách nào, cộng tác cách nào?
Thưa cách đơn giản nhất là mở tâm hồn chúng ta ra bằng yêu thương và hy sinh.
Khi đọc kinh, tham dự thánh lễ, nghe Lời Chúa, chúng ta thực hiện các việc ấy với tất cả tình yêu vô vị lợi, và chấp nhận mọi hy sinh Chúa muốn, nhất là từ bỏ cái tôi kiêu căng hẹp hòi của mình. Như thế là chúng ta mở tâm hồn ra.
Khi chúng ta phục vụ người khác, chúng ta hãy thực hiện đúng lúc, đúng việc, đúng cách, với lòng yêu thương kính trọng chân thành kẻ khác và với những hy sinh cần thiết. Như thế là chúng ta mở tâm hồn ra.
Khi chúng ta xây dựng bản lãnh chính mình và thăng tiến đời mình, chúng ta hãy thực hiện theo mô hình Đức Kitô và nhờ Đức Kitô, Đấng đã chọn con đường yêu thương và hy sinh. Như thế là chúng ta mở tâm hồn ra.
Ngày nay, ma quỉ càng tìm cách đánh phá công việc cứu độ của Chúa Giêsu. Đánh phá khắp nơi, cả trong chính Hội Thánh. Đánh phá đủ cách, cả bằng những việc mang danh đạo đức, nhưng không có thực chất đạo đức. Đánh phá đủ các mặt: tôn giáo, tự do, văn hoá, xã hội, kinh tế, cả về nhân bản.
Khi ý thức rằng chúng ta đang đi tìm ơn cứu độ, và nguồn ơn cứu độ không đến từ ma quỉ, nhưng chỉ đến từ Đức Giêsu Kitô, chúng ta sẽ tỉnh thức và cầu nguyện rất nhiều. Khi tỉnh thức và cầu nguyện, chúng ta sẽ được Chúa ban ơn, để có thể nhận ra đâu là cạm bẫy của ma quỉ, và đâu là Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Tôi nghĩ rằng: chúng ta đang bước vào một tương lai có nhiều thử thách và có nhiều bất ngờ đáng e ngại. Vì thế, tôi xin anh chị em điều này: Hơn bao giờ hết, hãy nhìn lên Đức Giêsu Kitô. Hãy tin Người là Đấng cứu độ. Hãy gắn bó với Người, bởi vì Người là đường, là sự thực và là sự sống. Hãy cộng tác với Người bằng tình yêu và hy sinh. Hãy cầu nguyện với Người, bởi vì Người thương yêu chúng ta và gần gũi chúng ta.
Với những suy nghĩ trên đây, tôi xin thân ái cầu chúc anh chị em một lễ Giáng sinh đầy Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ chúng ta.
Chủ đề: "Đức Giêsu đã đem lại cho thế giới một tin mừng là Thiên Chúa chính là Cha của chúng ta, còn chúng ta là anh em với nhau. "
Lm Mark link S.J.
Cách đây một vài năm, trong cuộc hành trình tới đất Thánh, James Martin mua một bộ tượng: GS-223
Cách đây một vài năm, trong cuộc hành trình tới đất Thánh, James Martin mua một bộ tượng Giáng Sinh, trong đó có Chúa Giêsu Hài Đồng, Đức Maria, Thánh Giuse và các mục đồng, Khi Martin tới phi trường Tel Aviv để lên đường trở về Hoa kỳ, thì người ta kiểm soát an toàn hết sức chặt chẽ. Các nhân viên hải quan kiểm soát từng bức tượng một, cả tượng Chúa Giêu Hài Đồng nữa. Viên hải quan xin lỗi Martin: "Chúng tôi không được phép bỏ qua bất cứ một trường hợp nào. Chúng tôi có nhiệm vụ bảo đảm rằng trong bộ tượng này chắc chắn không có chất nổ". Sau đó, Martin tự nghĩ: "phải chi nhân viên hải quan đó biết được! bộ tượng này hàm chứa môt năng lượng nổ kinh khủng nhất thế giới đấy".
Năng lượng nổ mà Martin vừa nói tới thì khinh khủng hơn năng lượng nguyên tử của hai nước Hoa kỳ và Sô Viết hợp lại rất nhiều. Năng lượng nổ ấy là gì?
Đó không phải là năng lượng vô biên của Thiên Chúa đã tạo dựng nên thế giới này trong chớp mắt, và có thể tiêu hủy thế giới này chỉ bằng một cái búng tay. Năng lượng mà Martin nói tới là năng lượng mà Đức Giêsu đem theo khi đến với thế giới này vào đêm Giáng Sinh đầu tiên tại Belem. Đó là một năng lượng không giống bất cứ một năng lượng nào khác mà thế giới đã từng biết được cho tới thời điểm này. Cái năng lượng duy nhất đã được diễn tả qua cách Đức Giêsu đã đến với thế giới này. Ngài đến không phải như một ông hoàng đầy quyền năng sống tại một toà nhà to lớn và sang trọng trong một quốc gia hùng cường nhất thế giới. Ngài đã đến với thế giới như con trai của một bác thợ mộc nghèo nàn, sống tại một căn nhà tồi tàn trong một quốc gia yếu kém nhất thế giới.
Đức Giêsu đã gia nhập thế giới này y như bạn và tôi gia nhập thế giới này vậy: trần truồng, yếu đuối, bơ vơ lạc lõng, dễ bệnh, dễ chết. Giống như mỗi người chúng ta, Ngài phải nhờ đến người khác giúp đỡ săn sóc. Ngài biết đói, biết khát, biết đau. Ngài đã bị nhạo cười, bị hất hủi, và thậm chí phải chịu một cái chết thậm tệ nhất mà con người có thể chịu đựng được, đó là chết tử hình thập gía.
Khi Đức Giêsu đến trong thế giới này, Ngài không được các nhà lãnh đạo thế giới chào mừng, cũng không được các tướng lãnh hay những nhân vật danh tiếng đón chào. Mà Ngài được tiếp đón bởi những mục đồng hôi hám, thuộc giai cấp thấp hèn đến độ lời chứng của họ không được coi là có gía trị trước toà án. Khi Đức Giêsu đến với thế giới này, Ngài đã tự đồng hóa mình với người nghèo, người đau khổ, với dân ngu cu đen, thậm chí với người tội lỗi. Điều đó khiến chúng ta nghĩ tới quyền năng mà Đức Giêsu đã đem theo Ngài theo Ngài vào trong thế giới này.
Cái quyền năng to tát mà Đức Giêsu đem vào trong thế giới này là quyền năng được chứa đựng trong sứ điệp mà Ngài đem theo, một sứ điệp thật là khó tin. Đó là một sứ điệp hai mặt.
Trước hết đó là Tin Mừng báo cho chúng ta biết vị Chúa tể vị đại của trời đất này yêu thương chúng ta, yêu thương từng người trong chúng ta. Thiên Chúa yêu thương chúng ta không trừ ai, và cũng không đòi điều kiện gì. Vị Chúa Tể vĩ đại của trời đất yêu thương chúng ta đến độ để nói với chúng ta Ngài không chỉ gửi một lá thư, cũng không chỉ gửi tới một Thiên sứ của Ngài. Ngài đã quan tâm săn sóc yêu thương chúng ta đến nỗi đã gửi đến cho chúng ta cái tốt đẹp nhất. Ngài đã gửi đến chúng ta chính con trai yêu qúi của Ngài. Và điều này dẫn chúng ta đến mặt sau của sứ điệp mà Đức Giêsu đem vào thế giới này.
Đó là phần thứ hai của Tin Mừng báo cho chúng ta biết rằng Chúa tể trời đất này không chỉ yêu thương chúng ta mà thôi, Ngài còn là Cha của chúng ta nữa, và tất cả chúng ta đều là anh chị em với nhau.
Chính cái sứ điệp lạ lùng này là làm cho một sử gia ngoài Kitô giáo tên là H. G. Wells đã xếp Đức Giêsu là nhân vật thứ nhất đứng đầu toàn bộ những người đã từng sống trên trái đất này. Khi giải thích về việc ông chọn lựa Đức Giêsu, Wells nói:
"Tôi đang nói về Ngài với tư cách một con người… Người viết sử thì phải coi Ngài như một người cũng y như người hoạ sĩ phải vẽ Ngài như một người vậy".
Wells nói tiếp rằng người viết sử phải coi nhẹ sự kiện này, là có rất nhiều người coi Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Họ sẽ phải bối rối vì những sự kiện không thể chối cãi được ấy đã xẩy ra một cách tự nhiên và được mọi người trên trái đất này chấp nhận, dù tin hay không tin.
Tiếp tục bình luận về sứ điệp của Đức Giêsu, Wells nói: "đó là một trong những thay đổi về quan điểm có tính cách mạng nhất đã từng lay động và biến đổi tư tưởng cả thế giới. Chưa từng có một thời đại nào hiểu thấu được sự thách thức kinh khủng mà sự thay đổi đem lại…Nhưng thế giới đã bắt đầu trở thành một thế giới khác từ ngày mà giáo lý đó được rao giảng".
Wells nói: điều mà các sử gia dùng để trắc nghiệm về sự vĩ đại của một người là: người ấy đã để lại cho nhân loại những gì mà càng về sau càng phát triển lên? Người ấy có làm cho dân chúng suy nghĩ theo những chiều hướng hấp dẫn, và những chiều hướng đó vẫn tiếp tục phát triển sau khi người ấy chết không? Qua trắc nghiệm này, Đức Giêsu đã vượt hẳn tất cả mọi người đã từng sống trên mặt đất này.
Quyền năng tích chứa trong mầu nhiệm Giáng Sinh là quyền năng của một sứ điệp hai mặt mà Đức Giêsu đã đem đến cho thế giới. Sứ điệp dó là Chúa tể trời đất này là người Cha rất yêu thương của chúng ta, và chúng ta là những anh chị em rất thân thương của nhau. Sứ điệp này là món qùa Giáng Sinh của Thiên Chúa tặng mỗi người chúng ta. Và những gì chúng ta làm được với món qùa ấy chính là món qùa mà chúng ta sẽ tặng lên Thiên Chúa.
Điều này khiến chúng ta nghĩ đến sự thách đố của mầu nhiệm Giáng Sinh. Sự thách đố đó được diễn tả gọn gàng và rất nghệ thuật trong bài thơ sau đây do một thi sĩ vô danh sáng tác:
"Khi bài ca của các Thiên Thần ngừng bặt, Khi ngôi sao trên bầu trời đã đi khỏi, Khi các vua chúa và hoàng tử đã ở nhà, Khi các mục tử cùng đàn súc vật đã trở về, Thì công việc Giáng Sinh mới bắt đầu; Để tìm lại những gì đã mất, để hàn gắn những gì đã gẫy, để người đói được ăn no, để tù nhân được giải phóng, để các nước xây dựng lại, để đem lại hoà bình đến với mọi người, để hoà nhạc bằng trái tim".
Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt suy niệm lễ đêm Giáng sinh với chủ đề “Chia sẽ”. Mỗi dịp: GS-224 Lm An
Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt suy niệm lễ đêm Giáng sinh với chủ đề “Chia sẽ”. Mỗi dịp Noel, tôi thừơng đứng trước máng cỏ, nhìn ngắm Đức Giêsu bé thơ và hỏi xem Người muốn nhắn gửi điều gì nhân ngày lễ Giáng sinh trong tình hình xã hội hiện tại. Năm nay, khi nhìn ngắm Người rét run giữa mùa đông lạnh giá, tôi chợt thấy tái hiện cảnh những đồng bào nạn nhân bão lụt trong năm qua. Và tôi nghe tiếng Người mời gọi “ Chia sẻ”.Chia sẻ không phải là bố thí, cũng không phải là ban ơn. Bố thí và ban ơn là đứng từ trên cao ban xuống và chỉ cho những gì dư thừa. Chia sẻ là đứng ngang hàng và cho đi những gì chính bản thân cần thiết. Hiểu như thế, Đức Giê su chính là mẫu gương chia sẻ…Nằm trong hang đá nghèo hèn, với bầy chiên bò, giữa đêm đông giá rét, Đức Giêsu trở nên một lời mời gọi chia sẻ. (Vietcatholic 22.12.2008)
Anh JB Nguyễn Hữu Vinh, trong bài “Cảm nhận trước Noel 2008 ở Hà Nội”(Vietcatholic 22.12 2008), viết về những trăn trở …năm nay Hà Nội có một Noel buồn, nhưng đong đầy ý nghĩa chia sẻ. Toà TGM Hà Nội vẫn như mọi ngày, TGM Giuse Ngô Quang Kiệt tiếp từng đoàn sinh viên, giáo dân, linh mục… từ nhiều nơi đến chúc mừng Giáng sinh. Trong các buổi nói chuyện, Ngài luôn nhắc nhở mọi người cần quan tâm đến những người nghèo. Trong xã hội còn quá nhiều những người nghèo, họ nghèo không chỉ về vật chất, mà còn là nghèo về tinh thần, về công lý và sự thật. Tất cả đều đáng được thương yêu và giúp đỡ…Thời gian qua, kể từ sau nạn lụt lội ở Hà Nội và các tỉnh, Đức TGM hầu như không tuần nào không có vài chuyến đi đến với những người nghèo khổ, đau ốm và cần sự cứu trợ, nâng đỡ, giúp đỡ của Ngài từ miền Vinh đến các tỉnh phía Bắc… Trong câu chuyện với các vị chủ chăn, tôi được biết các Ngài đang hướng cộng đồng đi tới tìm niềm vui trong việc thực hiện ơn cứu độ qua việc chăm sóc những người nghèo khó, thay cho những niềm vui rộn rã trần thế đời thường. Đặc biệt là trong Noel năm nay. Thiên Chúa làm người và làm một Hài Nhi, một biến cố tầm thường nhưng rất vĩ đại, mời gọi nhân loại chia sẻ tình yêu thương. Trong các trình thuật ngôn sứ của Cựu Ước, Is 9,1-6 là lời sấm thích hợp rõ ràng đã khơi lên mầu nhiệm Giáng Sinh. Lời sấm trên đây là một ám chỉ về việc sinh ra của một vị thừa kế ngai báu và sự thực hiện “dấu Emmanuel” đã được nói đến trong (Is 7,14).
Một Hài Nhi đã sinh ra là điểm nhấn vĩ đại đánh dấu lịch sử Tình Yêu Thiên Chúa.
Tin mừng Lc 2,1-20 kể lại một câu chuyện tầm thường nhất nhưng cũng là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại.
Một biến cố tầm thường nhất:
Một gia đình nghèo khổ không tìm ra chỗ trọ trong lữ quán. Số người Do thái trở về Giêrusalem để làm sổ khai sinh quá đông. Hai ông bà Giuse - Maria không có tiền để vào khách sạn, vào các nhà nghỉ đắt tiền, các quán trọ đã hết chỗ, mùa tăng giá và bắt chẹt khách hàng. Tăng giá để loại trừ người nghèo, ở đó không có chỗ trống cho tình người. Họ đành phải qua đêm ngoài đồng hoang tại Bêlem trong một hang đá nơi dành riêng cho chiên bò nghỉ ngơi. Đêm đông hôm ấy trong cảnh sương tuyết gió lạnh, Maria đã hạ sinh một con trai, bà đặt con trong máng cỏ, bạn hữu thân nhân chẳng có ai, chỉ có vài mục đồng đến thăm viếng, sự kiện chỉ có thế, thật là đơn giản.
Một biến cố vĩ đại nhất.
Thế nhưng, em bé ra đời trong cảnh nghèo hèn đó lại là một vị Thiên sai, đã cắt đôi dòng lịch sử loài người thành hai phần: trước công nguyên và sau công nguyên, trước và sau ngày giáng sinh của Người. Em bé ấy không phải là một nhà bác học, không phải là một nhạc sĩ mà chính là Thiên Chúa, là Ngôi Lời vĩnh cửu của Chúa Cha, Đấng cao sang, quyền năng, Đấng sáng tạo vũ trụ, hôm nay đã làm người. Ngài giáng sinh làm người trong thân phận một em bé yếu ớt nằm trong máng cỏ hang lừa chứ không phải trong một cung điện sang trọng lầu son gác tía. Thiên Chúa đã chọn làm một người nghèo sinh ra trong một gia đình nghèo chứ không phải quyền quý giàu sang. Bởi vậy, biến cố giáng sinh hôm nay bên ngoài xem ra thật tầm thường nhưng lại là một biến cố vĩ đại. Quá vĩ đại đến nỗi nhiều người đã không tin. Ngay trong số những người tin có Thiên Chúa cũng đã có người không dám nghĩ rằng Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Tin vào một Thiên Chúa là Đấng thần linh thì hầu hết các tôn giáo đều tin nhận; nhưng tin vào một Thiên Chúa nhập thể làm người, chấp nhận thân phận con người thì còn rất nhiều tranh luận. Làm sao một Thiên Chúa lại có thể làm những chuyện quá tầm thường như được cưu mang, được sinh ra ? Môt sự kiện táo bạo. Táo bạo đến độ sững sờ sợ hãi,chẳng phải vì khó tin giật gân cho bằng vì không dám tin vào điều vượt tầm quan niệm.Thiên Chúa Đấng khôn tả của triết học bỗng dưng trở thành diễn tả được.Thiên Chúa Đấng vô hình của tôn giáo đã chọn cho mình một thể thức xuất hiện hữu hình,và Thiên Chúa Đấng cứu độ trước đây chỉ muốn bày tỏ với con người khốn khổ qua trung gian của các thụ tạo được tuyển chọn,giờ đây lại ngỏ lời trực tiếp với con người qua Hài Nhi bé bỏng nắm trong máng cỏ.Quả là sự kiện táo bạo
Đứng trước hang đá máng cỏ, nơi có Hài Nhi, Đức Mẹ, Thánh Giuse, các mục đồng, các bò lừa, chắc hẳn mỗi người luôn tự hỏi:
Tại sao Thiên Chúa lại chọn sinh ra bởi Maria, một thôn nữ vô danh tiểu tốt mà không chọn sinh ra bởi một công chúa thuộc hoàng tộc giàu sang phú quý?
Tại sao lại chọn Giuse làm cha nuôi, một bác thợ mộc quá đỗi tầm thường ?
Tại sao Chúa lại không chọn sinh ra nơi cung điện nhà vua lầu son gác tía mà lại chọn sinh ra nơi hang bò lừa ?
Tại sao Chúa lại không chọn sinh ra ở thủ đô Giêrusalem huy hoàng tráng lệ mà lại chọn sinh ra ở làng Bêlem bé nhỏ ?
Tại sao Thiên Chúa làm người và làm một trẻ thơ ?
Và còn nhiều câu hỏi tại sao trước Một Hài Nhi đã sinh ra. Tìm cách giải đáp là tìm cách tiếp cận mầu nhiệm Nhập Thể, mầu nhiệm Giáng Sinh. Thiên Chúa toàn năng, toàn trí, Thiên Chúa siêu việt muốn tự bộc lộ mình là một Thiên Chúa yếu ớt, bé nhỏ, mong manh, không quyền lực, không sức mạnh trong tay, cần được che chở, bảo vệ cũng như cần được chăm sóc dưỡng nuôi. Thiên Chúa làm người và làm một trẻ thơ chính là để yêu thương và hoà đồng, trở nên dễ gần gũi, ai cũng có thể gặp Ngài, ai cũng có thể tìm thấy niềm vui và bình an nơi Ngài. Thiên Chúa làm người và làm một em bé sơ sinh yếu ớt cần đến sự giúp đỡ của chúng ta.
Theo Thánh Kinh, biến cố lớn nhất đánh dấu lịch sử nhân loại là Thiên Chúa làm người vì tình yêu. Một Hài Nhi đã sinh ra vào một đêm đông giá rét trong hang bò lừa ngoài đồng hoang nghèo hèn, dưới mắt người đương thời không những bình thường mà còn tầm thường hơn những hài nhi khác. Nhưng sự chào đời của Hài Nhi này lại là một niềm vui cao cả, một sự kiện đặc biệt của lịch sử nhân loại, là sự “hoàn tất” Lời Hứa của Thiên Chúa, là trung tâm của nhiệm cuộc cứu độ của Thiên Chúa, là đỉnh cao và là chủ đích của Thánh Kinh.
Một Hài Nhi đã sinh ra mang một ý nghĩa hiện sinh sâu sắc: Thiên Chúa trở nên một trẻ thơ. Ngắm nhìn trẻ thơ Giêsu trong máng cỏ nghèo hèn, chúng ta nghĩ tới bao trẻ thơ sinh ra hôm nay đang chịu cảnh đói nghèo thiếu thốn. Thiếu thốn vật chất, thiếu thốn tình thương. Thiếu thốn nhà cửa, thiếu thốn một mái gia đình. Giá lạnh của rét mướt và giá lạnh bởi thiếu vòng tay ôm ấp vỗ về. Hài Nhi Giêsu ấm áp trong tình thương của cha mẹ, bàn tay nâng niu của Đức Mẹ, ánh mắt âu yếm của Thánh Giuse. Đó là bầu khí gia đình đầm ấm. Gia đình là chiếc nôi êm ái vỗ về giấc ngũ trẻ thơ. Gia đình là lương thực bồi bổ, là thành trì bảo vệ tuổi thơ. Không có cảnh nghèo nào khốn cùng hơn cảnh trẻ thơ thiếu tình thương. Không có mái nhà nào rách nát hơn cảnh gia đình tan vỡ. Không có mùa đông nào lạnh giá hơn mùa đông của trái tim.
Đêm nay, Đêm Thánh Vô Cùng, chiêm ngắm Hài nhi trong máng cỏ, chúng ta được mời gọi chia sẻ:
- Hãy mở rộng vòng tay: Đôi tay Chúa giang rộng như muốn ôm tất cả nhân loại, cử chỉ đó nhắn gửi chúng ta hãy mở rộng vòng tay tiếp đón mọi người.
- Hãy mở rộng tầm nhìn: Anh mắt Hài nhi đơn sơ trong sáng như muốn nhắn bảo: Đừng chỉ nhìn hạn hẹp vào bản thân mình, hãy biết mở rộng tầm nhìn ra xã hội, ra giáo hội, ra thế giới. Đừng hạn chế tầm nhìn vào lãnh vực vật chất kinh tế, hãy mở rộng tầm nhìn sang lãnh vực tinh thần tâm linh.
- Hãy mở rộng trái tim: Mở rộng trái tim mình ra để đón Chúa sinh vào, để nghe và hiểu Lời Chúa, Lời Chúa nói thì thầm vào trái tim, Lời ấy nhẹ nhàng sâu thẳm. Trong đêm hồng phúc này, chúng ta chiêm niệm Hài Nhi nơi máng cỏ, hãy cầu xin cho mọi người trên thế giới được đón nhận giáo lý cao đẹp của Chúa Giêsu. Đó là Tin Mừng cho nhân loại, Tin Mừng dẫn đường soi lối cho nhân loại xây dựng hoà bình trên công lý và tình yêu.
Su Thánh Lễ, mỗi người về nhà mình, lòng đầy ắp niềm vui Giáng Sinh chia sẻ.
Niềm vui Giáng Sinh không đến từ bữa tiệc có đầy thức ăn mỹ vị, nhưng đến từ sự kiện mọi người cùng nắm tay nhau hát vang lời ca Giáng Sinh chung quanh máng cỏ có Chúa Giêsu Hài Đồng: ”Một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta. Một Người Con đã được ban tặng cho chúng ta”. Niềm vui Giáng Sinh đến từ tâm hồn rộng mở để chia sẻ, mọi người đón nhận ơn Chúa, cùng nhau đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu bé thơ trong hang đá Bê lem.
Chúng ta cùng suy niệm về mầu nhiệm Giáng Sinh dựa theo các tư tưởng của Thánh Romanos: GS-225
Chúng ta cùng suy niệm về mầu nhiệm Giáng Sinh dựa theo các tư tưởng của Thánh Romanos le Mélode (?-560 ?) là một nhà sáng tác các thánh thi. Đây là trích đoạn từ thánh thi 13 về lễ Giáng Sinh.
UBKT-HĐGM VN
Hỡi các mục đồng, hãy lắng nghe tiếng kèn ... Ngôi Lời đã sinh ra, Thiên Chúa được tỏ bày cho thế giới ! Còn các cô, hỡi các công chúa, hãy đi vào trong niềm vui của Mẹ Thiên Chúa (x. Tv 44,10). Hỡi các dân nước, chúng ta hãy nói lên : « Chúc tụng Chúa, Thiên Chúa sơ sinh của chúng ta, vinh danh Ngài ! »
Người Trinh Nữ không hề biết người nam (Lc 1,34), đã sinh hạ ra niềm vui, nỗi buồn của các tổ phụ đã chấm dứt. Hôm nay, Đấng Vô tạo đã được sinh ra, Đấng mà thế giới không thể chứa nổi đã đi vào trong thế giới. Hôm nay, niềm vui đã tỏ mình ra cho loài người; hôm nay sự sai lầm đã bị quăng xuống vực thẳm. Hỡi các dân nước, chúng ta hãy nói : « Chúc tụng Chúa, Thiên Chúa sơ sinh của chúng ta, vinh danh Ngài ! ».
Hỡi các mục đồng..., hãy ca hát chúc tụng vị Chủ nhân đã sinh ra ở Bêlem..., Đấng cứu chuộc thế giới. Này đây lời nguyền rủa Evà đã bị phá vỡ, nhờ Đấng do Đức Trinh Nữ sinh ra... « Vỗ tay đi nào, hãy cất tiếng hò reo » (Tv 46,2) ; chúng ta hãy làm thành một ca đoàn với các thiên thần. Đức Chúa đã sinh ra từ Đức Trinh Nữ Maria để « nâng dậy ai quỵ ngã, cho đứng thẳng lên kẻ bị đè nén » (Tv 144,14), những người đang reo lên với đức tin : «Chúc tụng Chúa, Thiên Chúa sơ sinh của chúng ta, vinh danh Ngài ! »...
Tác giả của Lề Luật đã nhập thể dưới Lề Luật (Gl 4,4), Chúa Con vô thời gian đã sinh ra bởi Đức Trinh Nữ, Đấng Tạo Hóa lại nằm trong máng cỏ. Đấng mà Chúa Cha sinh ra trong vĩnh cửu, không thân mẫu trên trời, lại đã sinh ra bởi Đức Trinh Nữ, không có cha trên trái đất. Hỡi các dân tộc, chúng ta hãy cùng nói lên: «Chúc tụng Chúa, Thiên Chúa sơ sinh của chúng ta, vinh danh Ngài ! ».
Quả thật, niềm vui vừa sinh ra trong chuồng bò. Hôm nay các ca đoàn thiên thần hoan hỷ mừng vui ; mọi dân nước chuc mừng Đức Trinh Nữ vô nhiễm ; tổ phụ chúng ta là Ađam nhảy lên vì vui mừng, bởi vì hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra. Hỡi các dân tộc, chúng ta hãy nói lên : «Chúc tụng Chúa, Thiên Chúa sơ sinh của chúng ta, vinh danh Ngài ! »
Đức Maria cùng với thánh Giuse trở về Bêlem, chắc chắn vì luật lệ nhà nước bắt buộc mọi người phải GS-226
Đức Maria cùng với thánh Giuse trở về Bêlem, chắc chắn vì luật lệ nhà nước bắt buộc mọi người phải đích thân trình diện tại phòng kiểm kê dân số nơi nguyên quán. Người về Bêlem với tư cách là dòng dõi David, hoặc với tư cách hôn thê của thánh Giuse, mà chính thánh Giuse cũng thuộc dòng dõi ấy. Làm công việc đăng ký này, hai ông bà hoàn thành một kế hoạch của Thiên Chúa sắp đặt biến cố Chúa Giêsu sinh ra ở Bêlem, như các ngôn sứ đã loan báo. Chúng ta để ý đến lối văn sử gia Luca dùng để tường thuật sự kiện Giáng Sinh, bút pháp của thánh chép sử ngắn gọn và trong sáng đáng cho chúng ta khâm phục. Tính chất giản dị lạ lùng ấy thật trái hẳn với óc tưởng tượng ưa vẽ vời bày đặt. Những kẻ nào muốn phá huỷ cái chất huyền hoặc –như họ nói- nằm trong những truyện tích thời Chúa thơ ấu, có lẽ chính óc họ lại chứa đựng ngổn ngang những huyền thoại mà họ dựng lên, cho nên họ không thể nào có được bút pháp trong sáng tươi mát của Phúc Âm. Các nhà thông thái tranh luận để tìm hiểu “thiện chí” được các thiên thần ca ngợi cóphải là thiện chí của con người đối với Thiên Chúa, hay đó là ý định nhân từ của Thiên Chúa đối với con người. Thật ra cả hai định nghĩa bổ túc cho nhau, và sự suy niệm của chúng ta thêm phong phú nhờ hai cách giải thích của bản văn của thánh chép sử.
Chúng ta nêu hai nhận xét:
1) Trước hết, Thiên Chúa hiện diện đối với những bạn hữu nghĩa thiết của Người trong cách an bài cuộc đời.
Thiên Chúa điều khiển lịch sử, sắp đặt các biến cố ngõ hầu cuộc đời mỗi cá nhân dt tự do quyết định nên hay không nên tiến vào con đường Người tiền định và đi tới cùng số phận Người đề nghị. Có lẽ đây là một trong những niềm xác tín vững chắc mà não trạng con người thời nay khó chấp nhận nhất. Kẻ nào tuân theo thánh ý Thiên Chúa xuyên qua cái lẽ huyền vi của những biến cố, dẫu là những biến cố khốc liệt nhất, kẻ ấy tìm được nguồn mạch đích thật của lòng dũng cảm, tin tưởng, an bình, và dấn thân phục vụ hữu ích cho đồng loại. Một nỗ lực khôn ngoan để tìm hiểu thánh ý Thiên Chúa qua sự thăng trầm của của lịch sử và để tuân phục Người sau khi đã suy xét và quyết tâm, nó mở ra cho chúng ta một vận hội may mắn lớn để thực hiện một kế hoạch mà tình yêu của Thiên Chúa đã vạch ra.
2) Nhận xét thứ hai: Các thiên thần loan tin hoà bình.
Tại sao? Thưa: bởi vì Thiên Chúa là Thiên Chúa của hoà bình. Hoà bình trong tương quan lòng nhân từ của Thiên Chúa đối với con người, chính là ân huệ Thiên Chúa đem Con Một Người tặng cho nhân loại. Trong tình trạng xung đột gây ra bởi tội lỗi, Thiên Chúa đi bước trước, Người đưa ra sáng kiến tái lập hoà bình. Làm như vậy vì Thiên Chúa cao cả mà con người lại quá hèn mọn. Hoà bình trong tương quan thành tâm thiện chí của con người đối với Thiên Chúa, là ăn năn sám hối, là nhìn nhận giá trị thật sự của mình, nghĩa là nhìn nhận chính mình nghèo hèn tội lỗi. Đó là tâm tình khiêm hạ, khao khát được đón nhận Đức Giêsu Kitô mà Thiên Chúa ban cho nhân loại, và cũng là vì yêu thương mà cố gắng sống trong trạng thái hoà bình xây dựng giữa thế gian.
Chủ đề: Giáng sinh chính là việc Thiên Chúa ngỏ lời với con người: "Ta yêu các con tới độ đã ban cho các con chính Con độc nhất của Ta. Các con cũng hãy yêu thương nhau như chính Ta đã yêu thương các con".
Lm. Mark Link, S.J.
Ngày xưa có một chú bé Phi Châu tên là Emmanuel. Chú ta luôn luôn tò mò thắc mắc. Ngày: GS-227
Ngày xưa, có một chú bé Phi Châu tên là Emmanuel. Chú ta luôn luôn tò mò thắc mắc. Ngày nọ chú hỏi thầy giáo: "Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?" Thầy giáo chỉ biết gãi đầu và nói: "Thú thực là thầy không biết". Sau đó Emmanuel đi hỏi các nhà trí thức trong làng nhưng họ cũng chẳng biết. Thế là chú ta càng lúc càng tò mò thắc mắc hơn, chú dạo quanh khắp vùng dọ hỏi các bậc thức giả ở những làng khác: "Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào?". Nhưng họ cũng chỉ biết lắc đầu mà thôi. Tuy nhiên, Emmanuel vẫn tin chắc có người biết điều ấy. Vì thế chú lên đường đến những quốc gia và cả những đại lục khác để tìm hỏi, nhưng ở đâu chú cũng chẳng nhận được câu trả lời. Một đêm nọ sau khi bị kiệt sức vì đi quá nhiều nơi, Emmanuel đến được một ngôi làng nọ, tên là Belem. Chú cố tìm chỗ nghỉ đêm trong các quán trọ, nhưng tất cả các quán đều đã đầy người. Vì thế chú quyết định tìm một cái hang ngoài thành để trú đêm.
Cuối cùng quá nửa đêm chú mới tìm được một cái hang. Nhưng khi bước vào hang, chú nhận ra chiếc hang đá có một đôi vợ chồng và một hài nhi đang trú ngụ. Nhìn thấy chú, bà mẹ trẻ liền nói: "Hân hạnh đón chào Emmanuel, chúng ta đang mong chờ con". Chú bé quá sửng sốt làm sao bà này biết tên chú? Và chú càng ngạc nhiên hơn khi nghe bà ấy nói: "Đã từ lâu, con đã tìm kiếm khắp thế giới để hỏi xem Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Giờ đây hành trình của con kể như đã đến đích, đêm nay chính mắt con sẽ thấy được Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng nào. Ngài nói bằng ngôn ngữ của tình yêu. Thiên Chúa quá yêu thương thế gian đến nỗi ban cho thế gian Con Một của Ngài" (Ga 3: 16). Trái tim Emmanuel trào dâng niềm xúc động, chú vội quì gối xuống trước hài nhi và mừng rỡ bật khóc. Giờ đây chú đã biết rằng Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu, thứ tiếng mà mọi người thuộc bất kỳ dân tộc hay thời đại nào cũng đều có thể hiểu được.
Và thế là Emmanuel ở đó vài ngày để giúp đỡ Đức Maria và thánh Giuse. Sau đó đến lúc chú phải chia tay để đi loan báo cho mọi người "Tin Mừng" về thứ ngôn ngữ Chúa dùng, Thiên Chúa nói bằng thứ tiếng của tình yêu. Lủi thủi một mình, Emmanuel vừa rảo bước vừa suy nghĩ: "Nếu tôi muốn kể cho mọi người biết Chúa dùng thứ tiếng nào để nói, thì chính tôi cũng phải nói bằng thứ tiếng Chúa nói, tức ngôn ngữ của tình yêu. Bởi vì đó chính là thứ tiếng duy nhất mà mọi người trên thế gian đều hiểu được" và kể từ ngày đó trở đi, Emmanuel bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của Thiên Chúa tức là ngôn ngữ của tình yêu.
Điều Emmanuel khám phá ra quả thật thú vị khi anh chị em nói với mọi người bằng thứ tiếng của tình yêu, thì họ cũng sẽ nói lại với anh chị em bằng thứ tiếng của tình yêu. Thế rồi, họ bỗng nhiên khám phá ra rằng nói bằng thứ tiếng ấy hơn biết bao nhiêu: và một khi họ đã khám phá ra điều ấy, họ sẽ không bao giờ trở lại nói thứ tiếng xưa kia của họ nữa. Vậy thì khi Emmanuel lên đường trở về nhà, chúng ta có thể noi theo bước chú, bởi vì chú đã để lại đàng sau chú một chuỗi phố phường làng mạc, nơi đó người ta bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của tình yêu. Về sau, khi có người kể lại cho Emmanuel những điều đã xảy đến trong các phố xá làng mạc nơi chú đã đi qua, thì chú lại khám phá ra một điều kỳ diệu thứ hai đó là khi trao ban cho thế gian Con Một của Ngài, Thiên Chúa đã muốn dạy cho mọi người nói chung một thứ ngôn ngữ tức là ngôn ngữ của tình yêu. Ngài biết rằng một khi người ta bắt đầu nói ngôn ngữ ấy, họ sẽ không còn trở lại nói thứ ngôn ngữ xưa kia của họ nữa. Ngài còn biết rằng một khi người ta bắt đầu nói bằng ngôn ngữ của Tình yêu thì những điều kỳ diệu sẽ lập tức xuất hiện khắp nơi. Mọi quốc gia sẽ chia sẻ mọi nguồn lợi, và tài năng cho nhau, mọi chủng tộc sẽ đối xử với nhau bằng lòng tôn kính, mọi gia đình sẽ hoà thuận thương yêu nhau, khắp nơi mọi người sẽ bắt chặt tay nhau trong tình thân hữu. Lúc đó, lời hứa của Ngài qua miệng ngôn sứ Isaia sẽ thực sự được thể hiện: "Gốc Jesse nẩy sinh một chồi và từ rễ ấy một nụ bông hé nở. Thần Trí Chúa sẽ ngự xuống trên Ngài: Thần Trí khôn ngoan và thông hiểu. Bấy giờ sói sẽ là khách của chiên, báo sẽ nằm chung với trẻ nít, bò cái và gấu sẽ là láng giềng với nhau, lũ con của chúng sẽ nghỉ ngơi bên nhau; sư tử sẽ ăn cỏ giống như bò đực và trẻ nít sẽ vui đùa bên hang rắn độc…. sẽ không còn tai hoạ hay hoang tàn trên núi thánh của Ta, bởi vì mặt đất sẽ ngập tràn sự hiểu biết về Chúa khác nào nước phủ khắp đại dương" (Is 11: 1-2, 6-9)
Lạy Chúa, xin giúp tất cả chúng con đang hiện diện nơi đây khám phá ra điều mà chú bé Emmanuel đã tìm thấy. Xin giúp chúng con khám phá ra ngôn ngữ của tình yêu và biết dạy cho tha nhân thứ ngôn ngữ này. Xin cho chúng con góp phần hối thúc cho ngày ấy chóng đến, cái ngày mà mọi dân tộc đều biết chia xẻ cho nhau, mọi chủng tộc đều biết tương trợ lẫn nhau, mọi gia đình biết yêu mến nhau và mọi người đều biết thắt chặt tay nhau trong tình thân hữu.
Xin giúp chúng con góp phần hối thúc cho ngày ấy chóng đến, cái ngày mà "hoà bình thực sự ngự trị trên trái đất" và "thiện chí" toả lần đến mọi người.
Hai em học sinh nói chuyện với nhau, một em hỏi người bạn của mình: Đố bạn, bạn có biết lễ: GS-228
Hai em học sinh nói chuyện với nhau, một em hỏi người bạn của mình:
Đố bạn, bạn có biết lễ gì trên thế giới mà hầu hết mọi người đều biết và vui mừng không? Người bạn kia ấp úng trả lời: “Đó là lễ Giáng Sinh của đạo Thiên Chúa mình đấy”.
Niềm tự hào của em bé đó cũng có thể là niềm tự hào thầm kín của mọi người chúng ta. Lễ Giáng Sinh là một lễ được nhiều người biết đến, được nhiều người vui mừng chờ đón như một lễ hội chung của con người trên trái đất nầy. Nhưng bên cạnh những vẻ hào nhoáng vui mừng của ngày lễ, điều mà chúng ta phải tự hỏi, nhất là đối với những người Kitô hữu chúng ta, đó là mấy người trong chúng ta đã hiểu và sống ý nghĩa của mầu nhiệm mà lễ Giáng Sinh muốn bày tỏ.
Lời nguyện, bài đọc 1 và 2 của Lễ Rạng Đông hôm nay đều ca ngợi Đức Kitô là ánh sáng, là vinh quang của Thiên Chúa. Ánh sáng và vinh quang đó đến với con người không có một mục đích nào khác hơn là để dẫn con người ra khỏi bóng tối của sự chết, dẫn tới nguồn ánh sáng chân thật và nguồn hạnh phúc vĩnh cửu.
Nhưng tại sao ánh sáng và vinh quang ấy không được tỏ cho tất cả mọi người, mọi thành phần trong xã hội, mà –như trong Tin Mừng hôm nay- Chúa chỉ tỏ cho những người đơn sơ, bé mọn, nghèo hèn là các mục đồng. Chỉ có những mục đồng nghèo hèn này mới nhận ra Chúa trong thân phận nghèo hèn giống như họ. Còn những người khác, họ đã chờ đón Chúa, nhưng khi Ngài đến thì họ lại không nhận ra và đón tiếp. Thế nhưng, nếu có ai nhân danh chính họ mà đến trong vinh quang trần thế, thì họ sẽ đón tiếp nồng nhiệt (x.Dcr 5,43-44). Con người luôn có một khuyết điểm, họ thường áp đặt lên Thiên Chúa những điều mà họ tưởng là của Thiên Chúa, nhưng thật ra lại chính là của họ. Trong khi luôn mải mê chạy theo những vinh hoa, phú quý thì người ta không thể nào chấp nhận một Đấng Cứu Thế xuất hiện một cách quá tầm thường giữa những người tầm thường. Người ta quan niệm Thiên Chúa là Đấng thánh thiện, cao cả, vinh quang và uy quyền –giống theo kiểu loài người- Cho nên, người ta không thể nào tin nơi con trẻ sinh ra trong chuồng bò kia, con của bác thợ mộc và bà Maria trong xóm nghèo Nagiaret lại có thể là chính Thiên Chúa làm người được. Người ta quên rằng vinh quang trần thế thường làm cho người ta chia rẽ, tranh giành, chém giết nhau. Còn vinh quang và uy quyền của Thiên Chúa không phải để huỷ diệt, để phân rẽ, mà là ánh sáng ban sự sống, là sức mạnh của tình yêu để cải hoá chúng ta.
Thiên Chúa đã làm người. Sự sống và tình thương, ánh sáng và vinh quang của vị Thiên Chúa làm người đó vẫn được tiếp tục ban cho chúng ta. Nhưng chỉ những ai sống khiêm tốn, nghèo khó, sống yêu thương mới có thể nhận biết và đón nhận Ngài.
Đức Giáo Hoàng Gioan XIII kể lại rằng: Một trong những Lễ Giáng Sinh ý nghĩa nhất trong đời Giáo Hoàng của ngài, đó là Lễ Giáng Sinh đầu tiên khi ngài mới được bầu làm Giáo Hoàng. Theo một thông lệ đã có từ lâu đời trong Giáo Hội, vị Giáo Hoàng nào cũng phải tự giam giữa những bức tường của điện Vatican, không được đi lại tự do, đó là một điều vô lý. Ngài cứ suy nghĩ mãi và cuối cùng ra một quyết định khiến các chức sắc thân cận ngài phải sửng sốt: “Vào ngày Lễ Giáng Sinh, tôi muốn đi thăm các trẻ đau yếu tại bệnh viện Chúa Giêsu Hài Đồng –Lễ Giáng Sinh là lễ của nhi đồng thì tại sao môt vị Giáo Hoàng lại không được phép đi thăm các em nhi đồng?”. Thế là vị Giáo Hoàng được mệnh danh là người cha hiền từ, đã phá vỡ thông lệ cố hữu để đến gặp gỡ một cách thân mật với các em nhi đồng. Vừa thấy bóng dáng ngài, các em đã réo gọi ngài bằng tên Gioan như một người bạn thân. Ngài chuyện trò thân mật với các em, ngài ngồi bên cạnh một em bé vừa mới bị thương. Đó là Lễ Giáng Sinh đẹp nhất trong đời của Đức Giáo Hoàng Gioan XIII và cũng là ngày vui nhất đối với các em nhi đồng.
Chúng ta có thể sẽ lên án những người đi trước chúng ta là đã không nhận ra và không tiếp nhận Chúa. Nhưng, mãi mãi chúng ta sẽ chẳng bao giờ được hưởng ánh sáng của mầu nhiệm nhập thể và thông truyền cho người khác như các mục đồng xưa kia và ngày lễ hôm nay sẽ trải qua vô ích, sẽ chỉ là những hình thức trống rỗng bên ngoài, nếu chúng ta chưa mặc lấy cho mình một tâm tình khiêm tốn và yêu thương. Bao lâu chúng ta còn lo mải mê chạy theo những vinh hoa phú quý, những lợi lộc vật chất, những thú vui trần tục, mà quên đi những giá trị tinh thần, bao lâu chúng ta vẫn còn sống một cách ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình hoặc khinh miệt những người thấp kém, nhỏ bé hơn mình, mà không kính trọng, sẵn sàng yêu thương, giúp đỡ san sẻ những gì mình có, thì những điều đó chứng tỏ rằng chúng ta chưa nhận ra và chưa đón nhận “Đấng Thiên Chúa làm người”. Vậy hôm nay chúng ta hãy chứng tỏ chúng ta đã gặp và sẵn sàng tiếp nhận Đấng Cứu Thế bằng những hành động cụ thể; tỏ lòng tôn trọng đối với những người bé nhỏ, nghèo hèn thường bị khinh thường, coi rẻ; tỏ tình yêu thương với những người chung quanh chúng ta bằng những lời nói và việc làm. Nhưng không phải chỉ hôm nay, mà mãi mãi như vậy.
“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đã đến thế gian và chiếu soi mọi người”
Chữ “rực sáng” xuất hiện trong Phúc Âm Gioan không dưới 21 lần. Theo Gioan Chúa Giêsu: GS-229
Chữ “rực sáng” xuất hiện trong Phúc Âm Gioan không dưới 21 lần. Theo Gioan Chúa Giêsu là ánh sáng của loài người. Hai lần Chúa Giêsu tự xưng là ánh sáng thế gian, lần thứ nhất sau vụ nhóm Biệt phái và Kinh sư dẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình để gài bẫy Chúa (Ga 8,12). Lần thứ hai sau khi Chúa chữa lành người mù bẩm sinh (Ga 9,5). Ánh sáng ấy đến giữa loài người để họ trở thành con cái của ánh sáng: “Ánh sáng còn ở giữa các ông ít lâu nữa thôi, bao lâu các ông còn có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng để trở nên con cái ánh sáng” (Ga 12,35-36).
Về Chúa Giêsu là ánh sáng, tác giả Gioan đã dùng một chữ đầy ý nghĩa để mô tả. Ông bảo rằng Chúa Giêsu là ánh sáng thật. Trong tiếng Hy lạp có hai từ rất giống nhau. Chữ thứ nhất Alethes có nghĩa là thật, đối lập với chữ giả. Chữ kia là Alethinos nghĩa là có thật, hay đích thật, đối lập với không thật.
Theo tông đồ Gioan, Chúa Giêsu là ánh sáng đích thực, soi sáng cho loài người, trước khi Chúa Giêsu đến, đã có những ánh sáng khác cho loài người noi theo, một số là những tia sáng chớp loé của chân lý, một số là những cái nhìn thoáng mờ về thực tại, một số khác nữa giống như những đốm lửa rơm dẫn loài người vào trong đêm tối rồi bỏ mặc.
Ngày nay điều này vẫn còn xảy ra, vẫn có những tia sáng mù mờ, vẫn còn những tia sáng giả tạo, và loài người vẫn bước theo chúng. Chúa Giêsu chính là ánh sáng đích thực duy nhất, là ánh sáng có thật để dẫn đường cho nhân loại.
Chúa Giêsu đã đem ánh sáng thật đến cho loài người. Sự giáng thế của Chúa Giêsu giống như một vùng ánh sáng chói chang, bắt đầu buổi bình minh. Một nhà du lịch kể lại, có lần ông đến nước Ý, đứng trên ngọn đồi nhìn xuống vịnh Naples, lúc ấy trời tối đen khiến ông chẳng thấy gì cả, nhưng thình lình, một tia chớp loé lên, và mọi sự bỗng được soi dọi rõ ràng đến từng chi tiết. Khi Chúa Giêsu đến thế gian, Ngài như vầng sáng chiếu dọi trong đêm tối.
1. Sự giáng thế của Chúa Giêsu xua tan bóng tối nghi ngờ.
Khi Ngài chưa đến, thế gian chỉ suy đoán về Thiên Chúa. Theo người Hy lạp: “Thật khó biết về Thiên Chúa, mà nếu bạn có tìm biết Ngài, thì cũng không thể nói cho ai biết về Ngài”. Với người ngoại đạo, thì Thiên Chúa đang ở trong bóng tối dày đặc không ai thâm nhập được, hoặc Ngài đang ở trong một thứ ánh sáng chói loà không ai tới gần được. Nhưng khi Chúa Giêsu giáng thế, loài người được thấy Thiên Chúa phơi bày cách rõ ràng. Bóng tối, sương mù tan biến, những ngày đoán mò đã qua, người ta không cần phải mơ ước trong sự tối tăm ngu dốt nữa, ánh sáng đã đến.
2. Sự giáng thế của Chúa Giêsu xua tan bóng tối tuyệt vọng.
Chúa Giêsu đã đến với một thế gian đang tuyệt vọng. Triết gia Seneca nói: “Loài người ý thức mình bất lực trước những điều cần thiết”. Họ đang trông chờ một bàn tay đưa xuống để nâng đỡ họ lên. “Họ ghét tội nhưng không lìa bỏ nó được”. Loài người bất lực, không thể làm cho mình và thế giới tốt hơn. Nhưng khi Chúa đến không chỉ đem kiến thức mà đem cả quyền năng nữa. Ngài đến không phải chỉ vạch ra con đường đúng cho nhân loại, mà còn giúp họ đi trên con đường đó. Chẳng những Ngài dạy bảo họ, mà còn có mặt trong mọi việc họ không làm nổi để giúp họ thực hiện. Bóng tối của bi quan và tuyệt vọng đã tan biến vĩnh viễn.
3. Sự giáng thế của Chúa Giêsu xua tan bóng tối sự chết.
Thế giới thời cổ rất sợ sự chết. Loài người luôn bị trói buộc trong xiềng xích của sự sợ chết. Cách suy nghĩ tốt nhất cho rằng chết là hết, nhưng linh hồn người ta rùng mình trước ý nghĩ đó. Tệ hại nhất khi suy nghĩ chết sẽ bị quỷ thần hành tội, tra tấn nên người ta càng sợ hãi hơn. Nhưng bởi sự nhập thế, đời sống, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu, sự chết chỉ là con đường dẫn loài người đến sự sống bao la hơn. Bóng tối của sự chết chỉ là con đường dẫn đến sự sống rộng lớn hơn. Bóng tối của sự chết đã tan biến. Trong truyện của Stevenson, ông mô tả một thanh niên thoát chết một cách lạ lùng trong cuộc đấu kiếm mà chàng nghĩ mình chắc chắn sẽ bị giết, lúc ra về lòng chàng vang lên bài ca “nỗi cay đắng của sự chết đã qua rồi”. Nhờ Chúa Giêsu, nỗi cay đắng của cái chết đã qua đi với mọi người.
Hơn nữa, Chúa Giêsu là ánh sáng đã soi sáng cho mọi người được sinh ra trên đời này. Thế giới thời cổ là một thế giới khép kín, hẹp hòi. Dân Do Thái ghét người ngoài bang và chủ truơng người ngoại bang được dựng nên chỉ để làm nhiên liệu cho lửa hoả ngục. Đúng, một tiên tri cô đơn đã thấy định mệnh của dân Israel sẽ là ánh sáng cho dân ngoại (Is 42,6.49,6) nhưng đó là định mệnh mà dân Israel đã dứt khoát khước từ. Thế giới Hy lạp chẳng bao giờ mơ ước tri thức được dành cho tất cả mọi người. Thế giới La mã khinh dể các dân sắc tộc, xem họ như những loài hạ đẳng, không có pháp luật. Nhưng Chúa Cứu Thế Giêsu đã đến để làm ánh sáng cho mọi người. Chỉ một mình Thiên Chúa là Cha của Chúa Cứu Thế Giêsu mới có tấm lòng lớn đã để chứa toàn thể thế gian.
Mỗi năm chúng ta lại long trọng mừng Lễ Giáng Sinh. Cho dù hoàn cảnh kinh tế khó khăn: GS-230
Mỗi năm chúng ta lại long trọng mừng Lễ Giáng Sinh. Cho dù hoàn cảnh kinh tế khó khăn, chúng ta cũng cố gắng làm cho lễ này có một cái gì đặc biệt: trong trang trí, trong Phụng vụ. Thánh nhạc tại nhà thờ cũng như trong mỗi gia đình. Những cái đó cũng tốt, vì là dịp để chúng ta bộc lộ niềm vui bên trong, niềm vui mà Chúa Giáng Sinh đem đến cho chúng ta.
Nhưng chúng ta đừng để cho những hình thức bên ngoài, những ồn ào nhộn nhịp đó chiếm quá nhiều chỗ trong thời giờ, tâm trí, sức lực của chúng ta, lấn át và làm chúng ta quên đi sâu vào mầu nhiệm của lễ hôm nay: Trước khi trở thành lễ của vui chơi ồn ào, nhộn nhịp, Giáng Sinh là lễ của thinh lặng, thinh lặng của đêm khuya khi Con Thiên Chúa sinh xuống cõi trần. Chúng ta phải thinh lặng suy niệm và cầu nguyện thì mới đi vào sâu được mầu nhiệm và được ơn ích lâu bền, ơn ích sẽ còn lại cả sau khi tiếng hát đã ngưng, đèn nến đã tắt và hang đá máng cỏ đã dẹp đi. Vậy chúng ta hãy thinh lặng nhìn vào hang đá nghèo nàn, nhìn vào trẻ thơ yếu đuối nằm trong máng cỏ mà nhìn nhận đó chính là vị Cứu Tinh Thiên Chúa đã hứa, là chính Ngôi Lời nhập thể, là Con Thiên Chúa sinh xuống giữa loài người để cứu loài người khỏi tội lỗi và đưa về với Thiên Chúa.
Phải, Thiên Chúa đó, Đấng toàn năng sáng tạo muôn loài đó, Đấng làm chủ vận mạng chúng ta đó, Thiên Chúa không còn xa cách chúng ta, không còn chỉ ngó xuống từ trời cao để nhìn xem cuộc đời con người chúng ta đi tới đâu. Trái lại, Thiên Chúa đã làm người, đã nhập cuộc với chúng ta, đã mang lấy thân phận nhân loại, tất cả thân phận đó, kể cả đau khổ, đói khát, mệt nhọc, bị ngược đãi, ghét bỏ và chết một cách ô nhục. Đó chính là mầu nhiệm nhập thể. Chúng ta quá quen thuộc nên nhiều khi chỉ phớt qua, không còn thấy cái nghịch lý, ngược đời, lạ lùng trong đó: Thiên Chúa, Đấng vĩnh cửu, vô thuỷ vô chung, nay lại trở thành một con người hữu hạn mà kết thúc là cái chết. Thiên Chúa, Đấng sống trong hạnh phúc bất diệt, nay lại mang thân phận loài người khổ đau. Thiên Chúa, Đấng uy quyền khôn sánh, nay trở nên bé nhỏ, yếu đuối và lệ thuộc vào các biến động của lịch sử cũng như mọi người khác.
Trước mầu nhiệm lớn lao này, chúng ta phải bỡ ngỡ thán phục và tự hỏi: Tại sao lại có chuyện lạ lùng như vậy?
Câu trả lời chỉ có một: Đó là vì Thiên Chúa yêu thương loài người chúng ta đang đau khổ vì tội lỗi..ng chúng ta như những người lầm lũi đi trong tăm tối, nay được một ánh sáng lớn chiếu soi… (Bđ 1). Vâng, đó chính là tình cảnh của loài người: Vì không vâng phục Thiên Chúa, chúng ta đã sa vào tội lỗi, làm nô lệ cho Satan, đánh mất hạnh phúc. Vì vậy, nhân loại khác nào đi trong tối tăm, khác nào ngồi lầm than trong bóng tối. Thế nhưng, Thiên Chúa vẫn yêu thương muốn cứu vớt, và nhiều lần Ngài đã dùng miệng Ngôn sứ mà nói, nhưng sau cùng Ngài dùng chính Ngôi Lời Nhập Thể để nói lên điều đó: “Ta thương nhân loại”. Như vậy, Thiên Chúa đã nói hết rồi, đã nói lời sau cùng tha thiết nhất, mạnh mẽ nhất, khi Con Một đến trần gian làm người. Do đó, Ngài trình diện cuộc trao đổi kỳ diệu là: Con Thiên Chúa làm người, cho chúng ta, là người, được trở nên con cái Thiên Chúa. Thiên Chúa đã làm người để cho chúng ta thấy đâu là ý nghĩa đầy đủ của kiếp sống loài người: đó là khi con người sống theo đúng vận mạng của mình và tìm được hạnh phúc thật.
Đó là Tin Mừng Lễ Giáng Sinh, Tin Mừng Tình Thương mà đêm nay, trong những ngày này, chúng ta phải tiếp tục suy niệm trong thinh lặng. Đứng trước tình thương đó, chúng ta phải có thái độ nào?
Trước hết, niềm hân hoan và một lòng biết ơn mãnh liệt vì đã được biết và hưởng nhờ mầu nhiệm Nhập Thể là nguyên do chính yếu của niềm vui hôm nay; những cái khác như vẻ rực rỡ nhộn nhịp của ngày lễ… chỉ là phụ thuộc. Chúng ta phải biết ơn và để cho tình thương của Thiên Chúa tràn ngập chúng ta, chiếm hữu chúng ta, đừng từ chối tình thương ấy; trái lại, đáp ứng cách đơn sơ thật. Khi đó bình an của Thiên Chúa sẽ đến với chúng ta: Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.
Tiếp đến, chúng ta phải học đòi bắt chước tình thương đó. Như Thiên Chúa, chúng ta phải yêu thương mọi người, chia sẻ tình yêu với mọi người, tha thiết đến hạnh phúc của mọi người. Chúng ta mừng lễ Giáng Sinh mà còn giữ lòng hận thù, giữ lòng ích kỷ, thì thật chưa hiểu gì về Mầu Nhiệm Giáng Sinh. Trái lại, nếu chúng ta sống yêu thương, liên đới, quên mình vì người khác thì đó là chúng ta thấm nhiễm tình thương của Thiên Chúa, và như vậy chúng ta cũng làm chứng cho người khác, nhất là những người chưa biết Thiên Chúa, chưa tin rằng Tình Thương của Chúa đã đến trần gian và có sức đổi mới bộ mặt thế giới.
Trong Thánh Lễ hôm nay, Con Thiên Chúa Nhập Thể hiện diện với chúng ta cách đặc biệt trong Lời của Ngài. Ngài còn hiện diện trong Bánh Thánh để tự hiến cho chúng ta, để biến đổi chúng ta ngày càng trở nên những người con đích thực của Thiên Chúa và được tràn ngập niềm vui của Ngài.
Trong ch. 1-2 của TM Lc, tức phần mở của TM này, Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả được đặt: GS-231
Trong ch. 1–2 của TM Lc, tức phần mở của TM này, Đức Giêsu và Gioan Tẩy Giả được đặt song song thành hai cánh: Cánh các cuộc loan báo (1,5-56): Loan báo về Gioan (1,5-25); Loan báo về Đức Giêsu (1,26-38); Cánh các cuộc chào đời (1,58– 2,5: Gioan sinh ra (1,58-80); Đức Giêsu sinh ra (2,1-52).
Bản văn 2,1-20 là phần đầu trong khối bản văn nói đền việc Đức Giêsu chào đời.
II. BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành ba phần: Hoàn cảnh chào đời của Đức Giêsu (2,1-5); Cuộc chào đời (2,6-7); Mạc khải về hài nhi và phản ứng lại với mạc khải (2,8-20): Mạc khải về hài nhi sơ sinh cho các mục đồng (cc. 8-14), Phản ứng lại mạc khải (cc. 14-20). Đức Giêsu chịu phép cắt bì (2,21).
III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Xêda Âugúttô (1): Gaiô Ốttaviô sinh ngày 2/9/63 trước CG; khi Giuliô Xêda bị ám sát vào tháng 3/44 thì ông đang ở bên Tây-ban-nha. Nhờ sự hỗ trợ của ông chú, ông được coi là người thừa kế chính, rồi vào năm 43, ông được nhận là con nuôi của Giuliô Xêda, với tên là Gaiô Giuliô Xêda Ốttavianô. Từ ngày 27/11/43 tr CG, Rôma được cai trị bởi một tam đầu chế là Ốttavianô, Máccô Antôniô và M. Lêpiđô. Vào ngày 1/1/43, Xêda được nhìn nhận là thần, nên Ốttavianô trở thành divi filius (con thần). Chế độ tam đầu chấm dứt vào năm 36, và Ốttavianô đã đánh bại Clêôpatra và Máccô Antôniô tại Actium năm 31. Năm 30, ông được nhìn nhận là chúa tể Ai-cập và cũng được coi là hoàng đế. Nhưng danh hiệu imperator (hoàng đế) chỉ được phê chuẩn vào năm 29. Chỉ vào ngày 16/1/27, thì Nghị viện Rôma mới trao tặng ông danh hiệu Augúttô, tức nhìn nhận vị trí tối cao của ông trên đất nước cộng hòa vừa được khôi phục. Ông qua đời năm 14 sau CG. Con rể là Tibêriô lên ngôi, cai trị từ năm 14-37 (x. 3,1).
- khắp cả thiên hạ (1): Đây là lối nói thậm xưng để chỉ đế quốc. Trong thực tế, không có sử gia nào ghi lại là có một cuộc kiểm tra dân số ở mức độ này vào thời Hêrôđê Cả (37-4 tr CG).
- lên thành Bêlem (4): Vì Bêlem cao hơn mặt biển khoảng 800m, nói “đi lên Bêlem” từ phía bắc Galilê là có thể hiểu được, Nadarét cao hơn mặt biển khoảng 560m. Đường đi từ Nadarét đến Bêlem dài khoảng 120 cs.
- thành vua Đavít (4): Cựu Ước nói Đavít “là con một người Épratha ở Bêlem thuộc Giuđa” (1 Sm 17,12) và là con của “Giesê, người Bêlem” (1 Sm 17,58). Bêlem (x. Tl 17,7-9; 19,1-2; R 1,1-2; 1 Sm 17,12) là một phố nhỏ khoảng 5 cs về phía tây nam của Giêrusalem; Ga 7,42 gọi là một làng, kômê.
- người đã đính hôn/thành hôn với ông là bà Maria (5): Bằng vài từ ngữ rất chính xác, Lc mô tả tình cảnh của Đức Maria: bà là vợ trinh khiết của Giuse. Bà đang mang thai, và các độc giả biết tại sao rồi.
- con trai đầu lòng (7): Prôtotokos, “con trai đầu lòng”, không nhất thiết hàm ý “con đầu lòng” của nhiều con. Điều tác giả muốn nói ở đây là không có người con nào của Đức Maria đến trước Đức Giêsu. Lc đã nêu bật sự trinh khiết của Đức Maria (1,27.34), ngài sẽ tỏ ra rất dè dặt khi đề cập đến truyền thống các anh em của Đức Giêsu (ngài chỉ nhắc đến ở 8,19-20; Cv 1,14 và tránh nói đến ở 4,22; Cv 12,17; 15,13; 21,18). Ta biết có những bản văn Do-thái nói đến một phụ nữ đã chết khi sinh đứa con “đầu lòng” (xem tấm bia mộ của bà Arsinoê, năm 5 tr CG, tại Leontopolis bên Ai-cập). Ghi nhận như thế, Lc không nhắm đến quyền trưởng nam để hưởng gia tài thiên sai cho bằng phẩm chất người hiến thánh (x. 2,23; Xh 13,2; 34,19).
- lấy tã bọc con (7): Câu này cho thấy Đức Maria chăm sóc con như bất cứ người phụ nữ nào ở Paléttina (x. Kn 7,4; Ed 16,4), chứ không muốn nói đến sự nghèo túng hay cuộc chào đời thấp hèn của Đấng Mêsia.
- máng cỏ (7): Có thể Maria đã sinh con tại một cái chái sau quán trọ vì ở đấy có chỗ cho lừa qua đêm và có máng đựng cỏ cho lừa ăn đêm. Cũng có thể đây là một cái ràn. Bản văn Lc không nói tới một con vật nào. Sau này truyền thống đã dựa theo Is 1,3 mà đưa vào. Còn sinh trong một cái “hang”? Truyền thống lấy từ Prot. Jas. 18,1; có trong Giustinô, Dial. 78 và Origiênê, Contra Celsum 1,51). Thánh Phanxicô Assisi (1182-1226) đã tận dụng và phổ biến truyền thống này khi lập ra máng cỏ tại Greccio năm 1223.
- không tìm được chỗ trong nhà trọ (7): dịch sát “không có chỗ cho ông bà trong nhà trọ”. Hẳn là Maria và Giuse đã đi tìm chỗ trú qua đêm nơi một cái lán, chung quanh có vách và chỉ có một lối ra vào. Dường như giọng văn có chút chua xót.
- những người chăn chiên (8): Phải chăng nhắc đến họ vì họ có liên hệ với Đavít, xưa kia chăn chiên tại Bêlem (1 Sm 16,11; 17,15; 2 Sm 7,8)? Không chắc. Điều rõ hơn, đó là những người chăn chiên là những người nghèo. Các kinh sư rất nghiêm khắc với người chăn chiên bởi vì do nghề này, họ xa cách với hội đường và không giữ luật lệ. Họ bị cấm vào Đền Thờ, không được làm chứng tại tòa án; họ bị coi như là bọn gian dối và trộm cắp. Đây lại chính là những kẻ “bé mọn” mà Thiên Chúa vui lòng mạc khải mầu nhiệm Người cho (x. Lc 10,21).
- sứ thần Chúa (9): Đây là một nhân vật huyền bí trong Cựu Ước (St 16; Tl 13; Xh 3,2–4,17; Tl 6,11-24). Nhưng lần này sứ thần Chúa tỏ mình ra với một vẻ siêu việt chưa từng có: chung quanh các mục đồng, vinh quang Chúa chói lòa, đây là vinh quang đã cho Ít-ra-en thấy sự hiện diện của Đức Chúa (Yhwh) trong Xuất hành (Xh 16,10…) và vào dịp cung hiến Đền thờ (1 V 8,11). Cũng giống như trong Cựu Ước, điều được loan báo bởi “sứ thần Chúa” sau đó lại được gán cho “Chúa” (x. c. 15). Và cuộc thần hiển thường có kèm theo lời mời tin tưởng (c. 10; x. St 15,1; 21,17; Tl 6,23…).
- Hôm nay (11): Lần đầu tiên trạng từ sêmeron, “hôm nay”, xuất hiện (x. 4,21; 5,26; 12.28; 13,32.33; 19,5.9; 22,34.61; 23,43. Từ này được dùng 12 lần trong Lc, 8 lần trong Mt). Từ này báo trước thời cánh chung đã được khai mạc.
- bình an dưới thế cho loài người Chúa thương (14): Eudokia là “ý muốn”, và cụm từ anthrôpoi eudokias có nghĩa là “những người được Thiên Chúa chiếu cố đến/sủng ái”.
IV. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
Biến cố được kể ra ở đây có những nét tương phản nổi bật. Về cuộc chào đời của Đức Giêsu, bản văn nói đến bằng những câu ngắn ngủi và đơn giản, khiến độc giả hiểu là tự nó, cuộc chào đời này không có gì đặc biệt; nó được đặt vào trong dòng lưu chuyển quen thuộc của thế giới. Chỉ nhờ thiên sứ của Thiên Chúa, hiện ra trong ánh hào quang chói lọi của thiên quốc, chuyện vừa xảy ra mới được loan báo cho các mục đồng. Đấng Cứu độ trần gian đã đến thế giới trong những hoàn cảnh tầm thường. Nét tương phản này thúc đẩy độc giả suy nghĩ sâu xa hơn. Biến cố này đưa người ta đến chỗ ca ngợi Thiên Chúa.
* Hoàn cảnh chào đời của Đức Giêsu (1-5)
Thế giới vẫn đang đi theo dòng lưu chuyển bình thường của nó. Ngay ở đầu, hoàng đế Âugúttô được nêu tên; ông là vị chúa tể thống trị thế giới Địa Trung Hải lúc đó, trong đó có Paléttina. Ông đã bắt người ta chúc mừng ông như là ông hoàng thái bình, vị cứu tinh của các cuộc khởi nghĩa và các cuộc nội chiến, cũng như đảm bảo cho có trật tự và sự thoải mái. Ở đây ông được giới thiệu danh tánh và một công việc tiêu biểu của một vị quân vương: ông cho kiểm tra dân số, hẳn là để có thể thu thuế cho thật cao. Việc nhắc đến hoàng đế Xêda Âugúttô hẳn là một có một vai trò lịch sử, nhưng cũng còn có một vai trò biểu tượng nữa: hoàng đế Rôma thần thánh (Âugúttô) tương phản với Đấng Kitô Đức Chúa (c. 11); Xêda Âugúttô điều hành và Đấng Mêsia phải quy phục. Nhưng quyền chúa tể của Xêda ngoại giáo trên Hài Nhi Mêsia chỉ là tạm thời. Quyền chúa tể này sẽ bị vượt qua khi Đức Giêsu được tôn vinh sau Phục Sinh (Lc 24,36; x. Cv 2,36). Điều này, ngay lúc này các thiên thần đã công bố: Người là Đấng Cứu thế duy nhất, Đức Chúa duy nhất (c. 11), Đấng duy nhất có thể ban hòa bình cho loài người (c. 14).
Maria và Giuse quy phục cuộc kiểm tra dân số này. Chính việc kê khai tên tuổi đã khiến hai ông bà đi về thành Bêlem. Tác giả Lc nhấn mạnh rằng thành Bêlem là thành nguyên quán của vua Đavít và Giuse thuộc về nhà và gia tộc vua Đavít. Như thế chúng ta có một quy chiếu về lời hứa và niềm chờ mong Đấng Mêsia, có liên hệ với Bêlem và gia tộc vua Đavít (x. Mk 5,1). Maria đang mang thai do sự can thiệp của Thánh Thần. Ân ban vô song của Thiên Chúa cũng không tránh cho Đức Maria khỏi những bất trắc của chuyến đi đường, xa gia đình dòng họ.
* Cuộc chào đời (6-7)
Ngay trong các thực tại tự nhiên và trong các tương quan giữa con người với nhau, thế giới vẫn đi theo dòng lưu chuyển của nó. Khi đến lúc sinh con, Maria đã sinh con trai. Bà phải quy phục tính tất yếu tự nhiên này. Bà không thể chọn thời gian cho mình, cũng không thể chờ đợi một hoàn cảnh tốt đẹp hơn. Cũng vì thế, chính bà phải bọc con trong các cái tã và đặt con nằm trong máng cỏ. Đức Giêsu đã khởi sự cuộc hành trình trần thế trong một cái máng cỏ. Mẹ Người và chính Người đã không tìm được những còn đường đã được nện cho bằng phẳng và những nơi trú ngụ đăng ký trước. Các ngài là những người nghèo, các ngài không có cao vọng gì; các ngài phải đi tìm và tìm ra chỗ của các ngài: các ngài bằng lòng với các sự vật của trần gian.
* Mạc khải và phản ứng (8-20)
Ngược lại với tình cảnh này, ta thấy có ánh sáng huy hoàng của trời cao và vị sứ thần của Thiên Chúa xuất hiện. Vị này loan báo cho các mục đồng biết chuyện gì đã xảy ra trong đêm, trong những hoàn cảnh tưởng là thông thường. Họ đang run rẩy khiếp sợ, nhưng một niềm vui lớn lao được loan báo cho họ. Sứ thần của Thiên Chúa luôn luôn là sứ thần của niềm vui (x. 1,14.28). Các mục đồng và toàn dân có lý để vui mừng: Đấng Cứu thế, Đức Kitô, Đức Chúa, đã sinh ra cho họ. Người là Đấng Mêsia được trông đợi từ bao đời, Đức Vua muôn đời của Israel, do Thiên Chúa ban. Người là Đức Chúa, nghĩa là Người có trong tay mọi quyền bính và sức mạnh. Chỉ có niềm vui mới tương ứng với sứ điệp đến từ Thiên Chúa như thế. Nhưng dấu chỉ lại thuộc về hoàn cảnh hiện tại: Đức Chúa nằm đó, một em bé được quấn tã, nằm trong một máng cỏ, trong nơi trú ngụ của bò lừa. Dấu chỉ là các mục đồng sẽ tìm được một em bé bình thường, với đặc điểm duy nhất là em sinh ra vì người nghèo.
Câu đáp đầu tiên cho sứ điệp ấy đến từ cơ binh các thiên thần, các ngài ca hát ngợi khen Thiên Chúa. Các diễn tả ý nghĩa của cuộc chào đời đối với Thiên Chúa và đối với loài người. Thiên Chúa được tôn vinh bởi cuộc chào đời này: Người đã tôn vinh chính mình, Người đã làm cho người ta biết Người trong thần tính, trong tình yêu và trong lòng từ bi thương xót của Người. Biến cố Đấng Cứu thế đến phải được đón nhận như là một sáng kiến của tình yêu và lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa. Cùng với Đấng Cứu thế, loài người cũng được ban cho có hòa bình và ơn cứu độ trọn vẹn. Đây là hoà bình được đặt nền tảng trên sự vui lòng của Thiên Chúa, trên sự hạ cố nhân ái của Người.
Các mục đồng đi theo sự hướng dẫn của dấu chỉ; họ thấy hài nhi và truyền đạt lại sứ điệp. Tất cả những ai nghe biết đều ngạc nhiên. Sự kinh ngạc là một khởi đầu tốt. Nhưng nếu chỉ dừng lại với sự kinh ngạc, người ta không đi xa được. Đến đây phản ứng của Đức Maria được nêu bật. Bà ghi nhớ và suy niệm mọi sự trong lòng: đây là một sự suy niệm kéo dài, bởi vì những gì bà thấy thì chưa rõ ràng; bà cần phải cố gắng tìm hiểu. Còn các mục đồng thì vừa đi về vừa ca ngợi Thiên Chúa về tất cả những gì đã xảy ra.
* Đức Giêsu chịu phép cắt bì (21)
Ở c. 21, tác giả tường thuật việc cắt bì và đặt tên cho Đức Giêsu. Như Gioan, Đức Giêsu được ghi dấu giao ước (x. St 17,11) và tháp nhập vào dân tộc Ít-ra-en (x. Gs 5,2-9). Người được đặt cho cái tên mà sứ thần đã đặt là Giêsu: tác giả nhấn mạnh trên việc đặt tên hơn là trên việc cắt bì.
+ Kết luận
Những gì vừa được kể không phải là chuyện trao đổi qua lại trong cách xử thế của loài người với nhau, cũng không phải là sự cảm động trước một trẻ sơ sinh, không có một cái nôi cho xứng hợp. Ở đây, chúng ta được loan báo về hành động từ bi thương xót của Thiên Chúa: Đấng Cứu thế đã giáng sinh, Đức Chúa đã đang hiện diện. Thiên Chúa đã vĩnh viễn nắm lấy hoàn cảnh của chúng ta trong tay. Đấng Cứu thế đã đi vào cuộc sống nghèo hèn của chúng ta, nhận lấy thân phận chúng ta, trong tư cách là một hài nhi được quấn tã. Người đã ở bên cạnh chúng ta và cùng đi với chúng ta. Hẳn là chúng ta sẽ phải liện tục tự hỏi: Ơn cứu độ này là loại cứu độ nào đây? Nhưng lòng chúng ta đã chan hòa niềm vui vì biết rằng Đức Chúa đã có mặt.
V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Thiên Chúa dùng những nguyên nhân phụ thuộc, có vẻ tình cờ, để thực hiện các chương trình của Người. Một cuộc kiểm tra dân số lại làm cho các sấm ngôn được thực hiện: Đấng Mêsia chào đời tại Bêlem. Chúa quan phòng luôn có trong tay toàn thời gian, các nơi chốn và các con người cũng như các biến cố. Chúa quan phòng tiên liệu mọi sự, nhưng không phải lúc nào cũng theo như nguyện ước của chúng ta.
2. Trái tim của chúng ta đôi khi cũng bề bộn, ngổn ngang, như một cái hàng quán Bêlem dịp ấy. Vì thế, chúng ta không đón được Đức Kitô khi Người đến viếng thăm mà ban ơn cứu độ. Trái tim chúng ta đã chật cứng với những khoái lạc, với các toan tính cho công việc làm ăn, với mối lo toan quá đáng cho miếng cơm mang áo, hay có khi chỉ là sự vô tâm lãnh đạm. Đức Kitô đến như một kẻ quấy rối, và chúng ta không thích.
3. Những người đầu tiên được mời đi tôn kính Hài Nhi trong máng cỏ là các mục đồng, những kẻ bị người đương thời khinh bỉ, do họ sống dễ dãi. Ngày hôm nay, tất cả chúng ta cũng đang được mời tiến đến bên máng cỏ cùng với những người nghèo hèn ấy, bất kể chúng ta thế nào, nhiều công trạng hay nhiều tội lỗi. Đức Giêsu đã đến cho tất cả mọi người, và đặc biệt cho những người nghèo nhất và những người nhỏ bế nhất. Loài người xác tín rằng sự dữ chỉ có thể bị tiêu diệt bởi tiền bạc, bởi sự lừa dối hay bởi tham nhũng. Tin Mừng của lễ Giáng Sinh đêm nay cho chúng ta thấy một vì Thiên Chúa chọn sự nghèo khó và yếu đuối, và dạy chúng ta loại trừ mộtkiểu suy nghĩ đựa trên quyền lực hoặc tiền bạc.
4. Đức Maria không thụ động chấp nhận tất cả những gì xảy ra; bà tìm hiểu. Bà không tức khắc cung cấp lời giải thích biến cố, nhưng đào sâu biến cố cách kiên nhẫn và không áp đảo, ép buộc. Có một thứ bất bạo động thiêng liêng và tôn giáo, biết tránh việc lược đồ hóa ép uổng, và để cho các sự việc cứ như thế và chờ đợi được hiểu biết hơn. Bà phải cố gắng tiếp mà tìm hiểu.
5. Thánh Amêđê (1108-1159), là đan sĩ Xitô và cũng là giám mục, đã nói trong một bài giảng về Đức Maria: «Mẹ thấy là Con Thiên Chúa đã được trao cho Mẹ; Mẹ vui mừng khi thấy ơn cứu độ thế giới được ký thác cho mình. Mẹ nghe Thiên Chúa nói tận đáy lòng Mẹ: ‘Ta đã chọn con giữa tất cả những gì Ta đã tạo thành; Ta đã chúc phúc cho con giữa mọi người phụ nữ; Ta đã trao Con Ta vào tay con; Ta đã ký thác Con Một của Ta cho con. Đừng ngại cho bú mớm Đấng mà con đã sinh ra, hoặc nuôi dưỡng Đấng mà con đã cho chào đời. Con hãy biết rằng Người không chỉ là Thiên Chúa, mà còn là con của con. Người là Con của Ta và là con của con, Con của Ta do thần tính, con của con do nhân tính Người đã nhận lấy nơi con’. Đức Maria đã đáp lại lời mời gọi này với biết bao tâm tình tha thiết và nhiệt thành, với biết bao khiêm nhường và tôn kính, với biết bao tình yêu và tận tụy. Loài người không biết được điều này, nhưng Thiên Chúa biết, vì Người dò thấu tận tâm can (Tv 7,10)… Phúc thay Đấng đã được giao cho nhiệm vụ nuôi dưỡng Đấng che chở và nuôi nấng mọi sự, bồng bế Đấng nâng đỡ vũ trụ» (Bài giảng thứ 4 về Đức Maria; Pain Cýteaux alt.; x. SC 72, tr. 129t).
Trong ngày lễ Giáng sinh, chúng ta vui mừng vì Thiên Chúa đã thực hiện lời Ngài đã hứa với: GS-232
Trong ngày lễ Giáng sinh, chúng ta vui mừng vì Thiên Chúa đã thực hiện lời Ngài đã hứa với nhân loại. Từ ngàn xưa Thiên Chúa đã muốn cho mọi người trở thành con của Ngài. Vì thế, khi đến thời thuận tiện, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Người Con của Ngài, Đấng "từ nguyên thuỷ vẫn ở với Thiên Chúa", là "ánh sáng bởi ánh sáng". Hôm nay ánh sáng đã đến với nhân loại để soi sáng cho nhân loại. Chúng ta hãy hân hoan đón nhận ánh sáng của Ngài.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
Thánh Gioan đã nói "Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng thân nhân của Ngài đã không tiếp đón Ngài". Phải chăng lời này cũng nói về chúng ta?
Chúa Giêsu là ánh sáng ân sủng. Nhưng lắm khi chúng ta chuộng bóng tối tội lỗi hơn ánh sáng Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu là Lời của Thiên Chúa. Chúng ta có quen lắng nghe Lời Ngài không?
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Is 52,7-10
Đang khi dân Do Thái bị lưu đày, ngôn sứ Isaia (đệ nhị) đã được soi sáng để thấy trước một vị sứ giả của Thiên Chúa loan báo cho dân một tương lai bình an, hạnh phúc và được cứu độ: "Đẹp thay chân người rao tin trên núi, người rao tin thái bình, người rao tin cứu độ".
Hôm nay lời tiên tri đó được thực hiện hoàn toàn nơi Chúa Giêsu.
2. Đáp ca: Tv 97
Tv này diễn tả cùng những ý tưởng hân hoan như bài đọc I: "Hãy ca tụng Chúa một bài ca mới... Chúa đã công bố ơn cứu độ, đã tỏ sự công chính của Ngài trước mặt chư dân".
3. Bài đọc II: Dt 1,1-6
Tác giả thư Do Thái nhìn lại lịch sử cứu độ: "Thuở xưa, nhiều lần và dưới nhiều hình thức, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri. Trong những ngày sau hết đây, Ngài đã phán dạy chúng ta qua Người Con".
Và tác giả cũng trình bày một tổng luận kitô học về Chúa Giêsu: Ngài là Con Thiên Chúa, bởi Ngài mà vũ trụ được tác thành, Ngài quét sạch tội lỗi loài người, rồi Ngài lên ngự bên hữu Thiên Chúa...
4. Tin Mừng: Ga 1,1-18
Đây là bài tiền ngôn nổi tiếng của quyển Tin Mừng thứ tư. Bài tiền ngôn này cô đọng tất cả những chủ đề kitô học:
Chúa Giêsu Kitô là Con của Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa.
Ngài mặc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa: Ngài là Lời của Thiên Chúa, chỉ một mình Ngài biết rõ Thiên Chúa, qua Ngài chúng ta thấy được vinh quang của Chúa Cha.
Ngài có vai trò quan trọng trong công trình sáng tạo. Ngài đã nhập thể, trở thành xác thịt và ơ giữa loài người. Nhưng thân nhân của Ngài đã không tiếp nhận Ngài.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Niềm vui lễ Giáng sinh
"Đời là bể khổ". Bởi đó rất nhiều người bi quan, buồn thảm. Ai cũng khao khát niềm vui. Hôm nay, một tin vui rất lớn được loan báo cho chúng ta: Con Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta. Thế nhưng, như bài Tin Mừng hôm nay nói, "Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng thân nhân của Ngài đã không tiếp nhận Ngài". Nghĩa là không phải ai, kể cả những người thân của Chúa Giêsu, cũng đều vui.
Muốn có được niềm vui này, ta phải biết đón nhận Ngài bằng đức tin: đừng dừng lại ở những trang hoàng đẹp mắt, những bài thánh ca du dương, những hang đá máng cỏ thơ mộng. Hãy dừng lại trước Hài nhi Giêsu, và dùng cặp mắt đức tin để chiêm ngưỡng và suy niệm trong lòng. Rồi từ đó ta sẽ nhận ra:
Tình yêu vô cùng của Thiên Chúa đối với chúng ta, đến nỗi Ngài đã ban Con Một yêu dấu của Ngài cho chúng ta;
Lời Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở thành con Thiên Chúa như Chúa Giêsu và cùng với Chúa Giêsu chia xẻ chính sự sống thần linh của Thiên Chúa.
Và niềm vui ấy cũng phải được mang đi để chia xẻ cho những người khác. Chúng ta hãy làm những sứ giả của Tin Mừng: "Đẹp thay chân người rao tin trên núi, người rao tin thái bình, người rao tin cứu độ".
2. Người thân không đón nhận
Thánh Gioan đã nói lên một sự thật phũ phàng: "Ngài đã đến nhà Ngài, nhưng người thân của Ngài đã không đón nhận Ngài". Tại sao họ không đón nhận Ngài? Vì họ không nhìn ra Ngài. Tại sao họ không nhìn ra Ngài? Vì họ tưởng Ngài sẽ đến trong dáng vẻ quyền quý cao sang, thế mà Ngài lại đến trong hình dáng quá tầm thường của một đứa bé con nhà nghèo. Tình huống bi đát này, Chúa Giêsu không chỉ gặp một lần khi mới sinh ra ở Bêlem, mà tái diễn nhiều lần nữa trong suốt đời Ngài... Và có thể chính hôm nay nữa, bởi chính chúng ta nữa... Lúc chúng ta ở trong nhà thờ, Chúa đến với chúng ta qua tấm bánh trắng đã biến thành Mình Thánh Ngài thì dĩ nhiên chúng ta nhận ra Ngài. Nhưng khi rời nhà thờ trở về nhà, nếu Chúa đến với chúng ta trong những người hàng xóm, liệu chúng ta có nhìn ra Ngài và niềm nở tiếp đón không?
Khi chúng ta cầu nguyện, Chúa đến với chúng ta bằng những ơn soi sáng, an ủi, nâng đỡ thì chúng ta nhìn ra và vui vẻ đón nhận Ngài. Nhưng trở lại cuộc sống, nếu Chúa đến với chúng ta bằng những trách nhiệm, những gánh nặng, những thử thách, những khổ đau Chúng ta có còn nhìn ra Ngài và đón nhận Ngài nữa không?
3. Quà tặng đêm Noen
Một đôi vợ chồng trẻ. Gim và Đêla, tuy nghèo tiền của nhưng rất giàu tình yêu. Giáng Sinh sắp tới, Đêla tự hỏi phải tặng Gim món quà gì đây. Nàng muốn tặng chàng sợi dây cho chiếc đồng hồ của chàng. Nhưng nàng không có đủ tiến để mua. Vì thế, nàng nảy sinh một sáng kiến: Nàng có bộ tóc dài mượt mà, óng ả, nàng yêu quí và rất hãnh diện vì nó. Nhưng nàng quyết định cắt bộ tóc đi, và đem bán để mua cho Gim sợi dây đồng hồ.
Hôm áp lễ Giáng sinh, từ phố vế, nàng cầm trong tay một chiếc hộp rất đẹp dựng sợi dây đồng hồ mạ vàng mà nàng vừa sắm được bằng mái tóc của mình. Bỗng nhiên Đêla cảm thấy lo lắng. Nàng biết Gim rất quí mái tóc dài của nàng. Nàng tự hỏi không biết Gim có buồn vì nàng cắt và bán nó đi hay không.
Về đến nhà, Đêla mở cửa và thấy Gim đang đợi nàng. Tay chàng cầm một cái hộp thật đẹp, đựng món quà chàng mới mua để tặng nàng. Khi nhìn thấy mái tóc ngắn của vợ, Gim như muốn khóc, nhưng chàng không nói gì cả. Cố trấn tĩnh, chàng trao cho nàng chiếc hộp xinh xắn. Mở hộp ra, Đêla rất đỗi bàng hoàng. Trong hộp là một bộ lược chải tóc bằng xà cừ rất đẹp. Còn chàng, khi mở món quà vừa nhận được từ tay vợ, Gim cũng ngỡ ngàng không kém: Chính lúc đó Đêla mới nhận ra rằng Gim đã bán chiếc đồng hồ vàng, món đồ quí nhất của anh, để mua lược chải tóc cho nàng. Phút chốc cả hai đều hiểu rằng họ đã tặng nhau tất cả những gì quí giá nhất.
Nếu có một bài học mà chúng ta có thể rút ra từ việc "Tặng quà" của đôi vợ chồng trẻ này, thì đó chính là: Khi trao ban cho kẻ khác, người ta lại tìm được chính bản thân và những gì cao quí nhất. Nghĩa là con người chỉ đạt được nhân cách sung mãn bằng sự trao ban vô vị lợi mà thôi.
Đó chính là sứ điệp chạy xuyên suốt Tin Mừng, nhất là trong mầu nhiệm Giáng Sinh: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3,16). Qua Con Một yêu dấu, Thiên Chúa muốn ban tặng chính Người cho chúng ta. Người không chỉ hài lòng với món quà vật chất mà Người đã ban tặng như vũ trụ bao la với muôn vàn phúc lộc trong đó, nhưng Người đã đích thân ở giữa nhân loại để chia sẻ cuộc sống con người: "Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và đã cư ngụ giữa chúng ta" (Ga 1,14).
Hài nhi Giêsu chính là quà tặng quí giá nhất Thiên Chúa trao ban cho con người.
Hài nhi Giêsu chính là hiện thân sống động của một Thiên Chúa tình yêu.
Hài nhi Giêsu chính là sự tỏ bày tấm lòng vô cùng ưu ái của Thiên Chúa dành cho con người.
Giáng sinh là lễ của Tặng quà nhưng cũng còn là lễ của Tình yêu. Không phải những quà tặng đắt tiền mới có giá trị, mà chính là những món quà thắm đượm tình yêu. Một món quà dù nhỏ bé nhưng gói ghém tất cả tình cảm mến thương, sự trân trọng, lòng biết ơn, có khi cả sự ngưỡng mộ của mình dành cho người đón nhận, thì đó lại là món quà vô giá.
Có thể nói, một cách nào đó, khi tặng quà, chúng ta muốn trao ban chính bản thân, trao ban không cần tính toán, không so đo hơn thiệt, trao ban trọn vẹn. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói: "Ki tô hữu là người trao ban chính bản thân mình". Hài nhi Giêsu sau này khi sắp trao ban mạng sống để cứu chuộc nhân loại đã thốt lên: "Không có tình yêu nào cao quí cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống mình vì bạn hữu" (Ga 15,13)
Quà tặng cao đẹp nhất chúng ta dâng lên Hài nhi Giêsu trong đêm Giáng sinh chính là những nghĩa cử yêu thương chúng ta trao tặng cho anh em.
Chúng ta chỉ có thể lớn lên trong tình yêu Chúa khi chúng ta thực thi những nghĩa cử yêu thương.
Chúng ta chỉ sống đích thực khi chúng ta sống trọn vẹn cho tha nhân.
Lạy Chúa Hài Nhi, giá trị đích thực của con người chúng con hệ tại ở lòng quảng đại trao ban.
Xin cho chúng con cũng biết trao tặng những gì quí giá nhất cho anh em như Chúa đã trao tặng chính Chúa cho chúng con đêm nay. Amen (TP)
4. "Bình an dưới thế cho người thiện tâm"
Vào dịp Lễ Giáng sinh năm 1914, quân Anh và quân Đức đang đối đầu nhau. Binh sĩ ở dưới những giao thông hào đầy bùn và chuột. Nửa đêm, một người lính Anh cất lên một bản thánh ca. Chẳng bao lâu sau, tất cả các lính Anh cũng cất tiếng hòa ca. Mọi người đang hát say sưa thì một người hô lớn: "Im. Nghe xem có tiếng gì từ bên kia vọng lại". Mọi người im lặng lắng nghe. Thì ra những người lính Đức bên kia chiến tuyến cũng đang hát thánh ca mừng Chúa ra đời. Một cái gì đó linh thiêng nối kết những kẻ thù ở hai bên chiến tuyến. Tất cả binh sĩ bỏ chiến hào chạy ùa tới nhau. Họ nắm tay nhau nhảy múa theo điệu hát. Họ chia cho nhau những điếu thuốc, những mẫu bánh. Chiến tranh biến đâu mất. Chỉ còn lại Hòa bình. Mọi người rất vui. Nhưng niềm vui không kéo dài lâu. Tiếng hát, tiếng cười ồn ào đến tai các vị chỉ huy. Các vị này lập tức ra lệnh chấm dứt tất cả, mọi người phải trở lại vị trí của mình. Thế là chiến tranh lại tiếp diễn!
***
Mỗi lần đến lễ Giáng sinh là người ta nghĩ đến Hòa Bình, bởi vì trong đêm Chúa Giáng sinh, các thiên thần đã hát "Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm". Nhưng hòa bình không phải chỉ là không có chiến tranh, không chỉ là ngưng tiếng súng. Hòa bình là hoa trái sinh ra từ những tâm hồn thiện tâm. Nếu tâm không thiện thì không có hòa bình thật. Hòa bình bền vững không phải do thỏa hiệp của những bên đã từng chống đối nhau, mà là ơn ban của Chúa. Trong lễ Giáng sinh, Chúa ban ơn hòa bình cho ta, đề rồi ta cũng mang ơn hòa bình ấy ban cho kẻ khác. (FM)
5. Sứ điệp của lễ Giáng sinh
Nhiều khi trong đời, ta nôn nóng đón chờ một ngày trọng đại. Nhưng khi ngày đó đến thì ta lại thất vọng chán chường.
Ngày lễ Giáng sinh có thể là một ngày như thế đối với một số người. Nhiều ngày trước, họ nôn nao chờ đợi, mong sẽ có được những điều đặc biệt trong ngày lễ. Rồi lễ Giáng sinh đến. Nhìn lên trời chẳng thấy thiên thần nào hiện ra. Nghe ngóng chung quanh cũng chẳng có tiếng hát thiên thần. Thì ra cũng là một ngày như mọi ngày thôi. Họ chua chát kết luận: Giáng sinh chỉ là lễ cho trẻ con thôi! Thực ra Giáng sinh là một ngày rất khác biệt. Mặc dù không có dấu lạ nào trên trời, nhưng thực sự có rất nhiều dấu lạ, ít ra là đối với những ai biết nhìn. Này nhé, ngày này có nhiều ánh sáng hơn, nhiều ấm áp hơn, nhiều hy vọng hơn. Trong lễ Giáng sinh, người ta cảm thấy thân thiện nhau hơn; lòng người ta vui vẻ và cởi mở hơn nên gặp nhau thì người ta chúc, người ta cười; người ta nghĩ đến những điều tốt đẹp, quên đi những ý nghĩ đen tối, u sầu... Có thể nói trong dịp Lễ Giáng sinh, chúng ta cảm thấy Nước Thiên Chúa là một cái gì cụ thể và gần gũi. Và nếu ai biết mở lòng mình ra thì còn có thể cảm thấy như chạm được chính Thiên Chúa, như tâm sự sau đây của nhà soạn kịch Hugh Leonard: "Tôi không biết Thiên Chúa là ai, nhưng tôi biết Ngài ở đâu. Ngài bao quanh tôi suốt năm, nhưng trong dịp lễ Giáng Sinh Ngài đến và chạm vào sườn tôi".
Trong lễ Giáng sinh, chúng ta cảm nghiệm được sự gần gũi, sự ấm áp và sự tốt lành của Thiên Chúa. Chúng ta thấy mình không cô độc, thấy rằng đời mình có ý nghĩa, nhận ra rằng có một Đấng coi sóc mình và hướng dẫn mình, biết mình được yêu thương, và tâm hồn rất bình an. Đó chính là sứ điệp của lễ Giáng sinh. Hãy mở rộng lòng ra đón nhận sứ điệp hạnh phúc ấy, và hãy tiếp tục sống sứ điệp ấy mãi... (FM)
6. Ánh Sáng Chúa Giáng sinh
Ở Bắc bán cầu, Lễ Giáng sinh diễn ra vào lúc trời tối nhất. Đây là thời điểm thuận lợi để chúng ta ngưỡng mộ giá trị của ánh sáng. Bởi vậy Phụng vụ lễ này nói nhiều tới ánh sáng. Chẳng hạn như bài đọc I Lễ Đêm: "Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng" (Is 9,1)
Mẹ Têrêsa kể rằng lúc ở Melbourne, Australia, một hôm Mẹ đến thăm một ông già sống trong một tầng hầm dơ bẩn lộn xộn. Trong phòng ông không có một chút ánh sáng. Trước đây chẳng ai đến thăm ông. Bắt đầu, Mẹ Têrêsa quét dọn căn phòng cho sạch sẽ ngăn nắp lại. Nhưng ông cự nự: "Không được đụng đến. Cứ để yên cho tôi". Mẹ Têrêsa mặc kệ, cứ tiếp tục. Vừa quét dọn, Mẹ vừa gợi chuyện nói với ông. Rồi Mẹ tìm thấy một chiếc đèn dầu nằm ẩn dưới một đống đồ đạc ngổn ngang. Lau chùi xong, Mẹ thấy cây đèn rất đẹp.
Ông có một cây đèn rất đẹp. Sao bấy lâu nay ông không thắp lên?
Thắp lên làm gì? Có ai đến thăm tôi đâu.
Vậy nếu nữ tu của tôi đến thăm ông thì ông có hứa sẽ thắp đèn lên không?
Xin hứa. Nếu tôi nghe có tiếng ai đến thăm thì tôi sẽ thắp đèn lên.
Sau đó, hai nữ tu của Mẹ Têrêsa đều đặn tới thăm ông già. Mỗi lần họ đến thì ông già thắp đèn lên. Tình hình ngày càng tốt đẹp hơn. Một hôm, ông nói: "Các Sơ ạ. Từ hôm nay tôi có thể tự dọn dẹp phòng được rồi. Nhưng xin làm ơn nói lại với bà nữ tu đầu tiên là ngọn đèn bà đã thắp lên trong đời tôi đến nay vẫn còn cháy sáng".
Có thể nói rằng ngọn đèn đã cứu ông già ấy. Nhưng thực ra thì không phải ngọn đèn, mà là điều mà ngọn đèn ấy tượng trưng, tức là lòng tốt của Mẹ Têrêsa và các nữ tu của Mẹ.
Chúng ta đang sống trong một thế giới tối tăm vì chiến tranh, bạo lực, đau khổ v.v... Tất cả chúng ta đều cảm nghiệm được sự tối tăm trong đời mình và trong gia đình mình: buồn phiền, thất vọng, bệnh tật, tội lỗi, cô đơn, chán chường v.v...
May thay ánh sáng Chúa Giáng sinh đã thắp lên trong thế giới vẫn còn cháy sáng. Ánh sáng ấy không chỉ loé lên ở Bêlem một lần rồi tắt ngúm. Nó vẫn còn chiếu sáng giữa những tàn phá, thảm họa, biến động... Đó là một thứ ánh sáng bền vững không bóng tối nào lấn át được. Nó vẫn chiếu sáng cho tất cả những ai tin Ngài và theo Ngài. Suốt 2000 năm qua, những lời Ngài dạy đã ảnh hưởng đến nhân loại hơn tất cả mọi bậc tôn sư nào khác. Những việc Ngài làm còn ảnh hưởng mạnh hơn nữa. Biết bao người từ chốn tối tăm đã tìm đến với Ngài và ra đi trong ngập tràn ánh sáng. Lòng nhân ái của Ngài vẫn tiếp tục chiếu sáng thế giới.
Mỗi người chúng ta phải là nguồn sáng cho thế giới tối tăm này. Nhưng nếu đời ta không là đèn sáng thì làm sao ta chiếu sáng cho người khác được. Sống trong ánh sáng thật là hạnh phúc. Nhưng còn hạnh phúc hơn khi ta là nguồn sáng cho người khác. Chúa đã gọi ta ra khỏi tối tăm bước vào ánh sáng, thì ta phải sống như là con cái của ánh sáng. Hiệu quả của ánh sáng được thấy rõ nhất trong một tấm lòng nhân ái, một cuộc sống chính trực, chân thành. (FM)
7. Mảnh suy tư
Thánh Giuse và Mẹ Maria lên đường đi Bêlem.
Khi các ngài tới đó thì đã đến giờ Đức Maria mãn nguyệt khai hoa. Và Mẹ đã hạ sinh con trai đầu lòng.
Tất cả chúng ta cũng lên đường đi Bêlem nơi mà chúng ta hy vọng sẽ được sinh ra.
Tôi biết rằng chúng ta đã một lần được sinh ra.
Tuy nhiên chúng ta vẫn chưa được sinh ra theo nghĩa là bản ngã thực sự và tròn đầy của chúng ta vẫn chưa nhìn thấy ánh sáng thật.
Khi chúng ta được sinh ra lần thứ hai thì tất cả mọi ơn mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta như những hạt giống sẽ nẩy mầm và sinh hoa trái. Mục tiêu tối hậu của chúng ta là Bêlem trên trời, nơi mà chúng ta sẽ được thấy Chúa mặt đối mặt. (FM)
8. Bài giảng của Thánh Aerel de Rievaux (+ 1167)
"Hôm nay Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đavít" (x. Lc 2,11-12). Thành của vua Đavít tức là thành Bêlem. Vậy chúng ta hãy chạy đến đấy, cũng như các mục tử xưa khi nghe tin này. Và chúng ta hãy đem ra thực hành điều mà chúng ta vẫn thường hát trong ngày lễ này: "Họ chạy đến Bêlem, vừa đi vừa hát mừng vinh quang Thiên Chúa" (x. Lc 2,15.20) Và thiên thần nói: "Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ" (x. Lc 2,12-13). Tôi muốn nói với các bạn điều này: các bạn phải yêu thương. Các bạn kính sợ các thiên thần, nhưng các bạn hãy yêu thương trẻ nhỏ; các bạn kính sợ Chúa, nhưng các bạn hãy yêu thương đứa trẻ bọc trong khăn này; các bạn kính sợ Đấng ngự trên trời, nhưng các bạn hãy yêu thương Đấng nằm trong máng cỏ.
Các mục tử đã nhận ra Chúa nhờ dấu nào? "Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ". Trẻ đó chính là Đấng Cứu Độ, trẻ đó chính là Đức Kitô, trẻ đó chính là Đức Chúa. Thế nhưng "bọc tã nằm trong máng cỏ" có gì đặc biệt đâu? Những trẻ sơ sinh khác cũng bọc tã vậy! Thưa có điều đặc biệt chứ, miễn là chúng ta hiểu được. Chúng ta sẽ hiểu không phải chỉ nhờ được báo tin, mà còn nếu trong lòng chúng ta có ánh sáng đã xuất hiện cùng các thiên thần. Thiên thần báo tin Chúa giáng sinh đã xuất hiện với ánh sáng bao phủ chung quanh, đó là nhằm dạy chúng ta rằng chỉ những ai có ánh sáng siêu nhiên trong lòng thì mới nghe được lời báo tin ấy.
Người ta có thể nói rất nhiều về dấu chỉ này, nhưng vì thời giờ qua nhanh nên tôi chỉ muốn nói ngắn gọn. Tên Bêlem có nghĩa là "nhà bánh". Đó chính là Giáo Hội, nơi phân phát bánh thật là Mình Thánh Đức Kitô. Còn máng cỏ trong hang đá Bêlem chính là Bàn thờ trong Giáo Hội. Nơi đây nuôi dưỡng những người thân thuộc gia đình Đức Kitô. Về chiếc bàn này, có lời viết: "Ngài dọn bàn cho tôi" (Tv 22,5). Trong máng cỏ này có Chúa Giêsu bọc tã. Tã này là dáng vẻ bề ngoài của các bí tích. Trong máng cỏ này, dưới hình dáng của bánh và rượu là chính mình thật và máu thật của Đức Kitô. Ở đó, chúng ta nhận ra chính bản thân Đức Kitô, nhưng được bọc trong tã, nghĩa là hiện diện một cách vô hình dưới các bí tích. Chúng ta không có dấu chỉ nào lớn lao và hiển nhiên về sự sinh ra của Đức Kitô ngoài việc mỗi ngày rước lấy mình máu Ngài trên bàn thờ. Ngài đã được sinh ra một lần bởi Đức Mẹ Đồng trinh, nhưng Ngài tự hiến mỗi ngày cho chúng ta. Vậy anh chị em thân mến, chúng ta hãy mau đến máng cỏ Chúa. Nhưng đừng quên làm hết sức có thể để chuẩn bị tâm hồn trước khi đến với Ngài. Chuẩn bị bằng cách kết hợp với các thiên thần mà làm cho mình có "một con tim thanh sạch, một lương tâm tốt lành và một đức tin chân thành" (x. 2 Cr 6,6). Chúng ta sẽ hát khen Chúa bằng tất cả cuộc đời và cách sống của chúng ta "Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm" (x. Lc 2,14).
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Noen: biến cố kỳ diệu làm đảo lộn lịch sử nhân loại. Trong niềm vui mừng Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người, chúng ta cùng hoan hỷ nguyện xin: 1. Trong cảnh im lặng của ban đêm / một trẻ thơ chào đời để cứu ta / một người con được ban cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tu sĩ / đang sống đời chiêm niệm trong các đan viện / luôn tìm được niềm vui trong đời sống tận hiến của mình. 2. Trong bóng tối của chiến tranh / hận thù / khủng bố / một trẻ thơ chào đời để cứu ta / một người con được ban cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho thế giới hiện nay / được sống trong cảnh thái bình và thịnh vượng. 3. Trước sự dửng dưng lãnh đạm của thế gian / một trẻ thơ chào đời sống cứu ta / một người con được ban cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các trẻ em / luôn được chăm sóc chu đáo và bảo vệ an toàn.
4. Giữa biết bao mối bận tâm của chúng ta / trong cuộc sống thường ngày ồn ào náo nhiệt / một trẻ thơ chào đời để cứu ta / một người con được ban cho nhân loại / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa thương ban ơn nâng đỡ / cho những ai trong giáo xứ chúng ta đang gặp thử thách gian truân.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là Cha từ bi nhân hậu, Chúa đã đến sai Chúa Giêsu Kitô là ánh sáng thật đến chiếu soi hết thảy mọi người đang sống trên trần thế. Xin ban cho chúng con niềm vui và bình an khi mừng ngày giáng sinh của Con Một Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Phụng Vụ Lễ Rạng Đông Giáng Sinh tiếp tục xoay quanh mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên: GS-233
Phụng Vụ Lễ Rạng Đông Giáng Sinh tiếp tục xoay quanh mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa: sự cao cả được ẩn dấu trong sự đơn giản đến mức tối đa. Dân Thiên Chúa chiêm ngắm bà Ma-ri-a, thánh Giu-se, cùng Hài Nhi đặt nằm trong Máng Cỏ. I s 62: 11-12 Ngôn sứ I-sai-a đệ tam loan báo rằng những người bị tản mác khắp nơi được Thiên Chúa quy tụ lại để thành “dân thánh của Ngài”, “dân được Chúa cứu chuộc”.
Tt 3: 4-7 Thánh Phao-lô khuyên ông Ti-tô, vị lãnh đạo cộng đoàn Crète, đừng tìm cách sửa đổi đạo lý tinh tuyền của Ki tô giáo cho phù hợp với ý muốn và sở thích của con người, dù dưới bất kỳ áp lực nào.
Lc 2: 15-20 Đoạn Tin Mừng này là phần cuối của chuyện tích lễ đêm Giáng Sinh. Ở nơi dáng dấp của các mục đồng, thành ký phác họa chân dung của những người Ki tô hữu: “Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ”.
BÀI ĐỌC I Is 62: 11-12
Sứ điệp này đã được công bố cho Giê-ru-sa-lem vào những năm khó khăn sau khi những người lưu đày trở về từ Ba-by-lon.
1. Hiện trạng tang thương của Giê-ru-sa-lem:
Những người hồi hương đã gặp lại Giê-ru-sa-lem nghèo khổ, dân cư thơ thớt, chịu cống nạp cho những người ngoại quốc; Đền Thờ hoang tàn đổ nát. Họ bắt tay tái thiết Đền Thờ, nhưng công việc phải dừng lại vì thiếu tài chánh. Vì thế họ hoàn toàn vỡ mộng. Ngôn sứ khơi lại ngọn lửa hy vọng của họ. Đức Chúa không quên dân Ngài.
Vị ngôn sứ này là tác giả vô danh mà người ta đặt biệt danh là ngôn sứ I-sai-a đệ tam (Is 40-55), vị ngôn sứ của thời hậu lưu đày. Ông là môn đệ của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 56-66), vị ngôn sứ của thời lưu đày, mà ông lấy lại những cách diễn tả của thầy mình.
2. Sứ điệp chứa chan hy vọng:
Vị ngôn sứ này xác tín rằng thời kỳ cứu độ Giê-ru-sa-lem sắp đến gần, và Giê-ru-sa-lem rồi sẽ lại trở nên đông đúc, vì những con cái của nó bị tản mác khắp nơi sẽ trở về. Chính viễn cảnh về một cuộc quy tụ vĩ đại này hình thành nên chủ đề của đoạn trích hôm nay.
Theo gương thầy và vị tiền nhiệm của mình, ngôn sứ tưởng tượng Đức Chúa dẫn đầu dân Ngài và mang ơn cứu độ đến cho họ (x. Is 40: 10), nhưng đoàn người mà Đức Chúa dẫn dắt không còn là đoàn tù nhân được giải phóng, đây là đám rước bao la của những người Giu-đa bị tản mắc khắp thiên hạ, họ lên đường tiến về Thành Thánh. Đó là thành quả rực rỡ của việc Chúa can thiệp mà muôn dân muôn nước đều nhận biết.
Như vậy, Ít-ra-en lại có thể được gọi là “dân thánh”, “dân được Đức Chúa cứu chuộc”. Cuối cùng, Giê-ru-sa-lem có thể được chào đón bằng những tên biểu tượng: Nó sẽ được gọi là “Cô gái đắt chồng”; sau khi đã được Chúa của mình sủng ái, nó sẽ không còn là một người vợ bị bỏ rơi.
BÀI ĐỌC II Tt 3: 4-7
Phụng vụ đề nghị cho chúng ta một đoạn trích mới từ thư của thánh Phao-lô gởi ông Ti-tô.
1. Hoàn cảnh:
Trong đoạn trích này, chúng ta gặp lại những chủ đề lớn, cô động về lời rao giảng của thánh Phao-lô. Ông Ti-tô, người môn đệ mà thánh Phao-lô đã giao phó Giáo Đoàn Crète, đã gặp phải những khó khăn. Thật ra, những cuộc tranh luận về đức tin cốt yếu đến từ những Ki tô hữu gốc Do thái – chắc chắn rất đông ở trong các cộng đoàn Ki tô giáo Crète – một trong những sai lầm của họ là vẫn gắn bó với những công nghiệp của Lề Luật như nguồn mạch ơn cứu độ. Vì thế thánh nhân khuyên ông đừng tìm cách sửa đổi đạo lý tinh tuyền của Ki tô giáo cho phù hợp với ý muốn và sở thích của con người, dù dưới bất kỳ áp lực nào.
2. Ơn cứu độ của Thiên Chúa:
Thật là ý nghĩa khi thánh nhân nhắc lại đến hai lần cùng một chủ đề với thư gởi tín hữu Rô-ma: sự cứu độ không có bất kỳ mối liên hệ nào với những công nghiệp do tự sức chúng ta, nhưng hoàn toàn là ơn huệ nhưng không do lòng nhân hậu và yêu thương của Ngài: “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giê-su Ki tô, Đấng cứu độ chúng ta”.
3. Những chủ đề quan trọng khác:
Đạo lý phép Rửa cũng được mạnh mẽ tái khẳng định như ơn tái sinh, cũng như quyền năng của Chúa Thánh Thần hiện ở trong chúng ta, đảm bảo cho chúng ta quyền thừa hưởng sự sống đời đời.
Ông Ti tô xem ra một con người nhút nhát, không quyết đoán trước những áp lực từ phía những người chống đối. Thánh Phao-lô mời gọi ông hãy kiên vững và đồng thời khích lệ ông hãy gìn giữ sự tinh tuyền của đạo lý Ki tô giáo.
TIN MỪNG Lc 2: 15-20
Đoạn Tin Mừng hôm nay là phần cuối của chuyện tích Giáng Sinh đã được công bố vào Lễ Đêm Giáng Sinh. Thánh Lu-ca mô tả dáng dấp của các mục đồng: sau khi được các thiên sứ báo tin, “họ liền hối hả ra đi”, như Đức Ma-ri-a, sau khi được sứ thần loan báo, vội vả ra đi đến nhà người chị họ của mình là bà Ê-li-sa-bét. Thiên Chúa đã cho một dấu chỉ; phải đi kiểm chứng tức khắc và cố tìm hiểu ý nghĩa dấu chỉ của Ngài. Dáng dấp của các mục đồng nói lên biết bao bài học. Vì thế, thánh ký đã tô điểm câu chuyện này với nhiều chi tiết long trọng.
1. Mục đồng:
Đấng Mê-si-a, được các ngôn sứ loan báo biết bao lần, được dân Ít-ra-en chờ đợi từ lâu lắm rồi, đã đi vào trong lịch sử con người một cách bất ngờ nhất và kín đáo nhất. Để nhận ra Ngài trong mầu nhiệm tự hạ này, phải có một tâm hồn nghèo khó, lột bỏ khỏi mọi thiên kiến. Thánh Lu-ca là thánh ký về đức nghèo khó.
Những mục đồng là những kẻ bị liệt ra ngoài lề xã hội, những kẻ mà các tiến sĩ Luật nghi ngờ về đời sống đạo hạnh của họ, vì nghề nghiệp của họ không cho phép họ tuân giữ ngày sa-bát và tham dự thường xuyên kinh nguyện trong các hội đường. Chính ở nơi những tín đồ không ngoan đạo này mà lời loan báo đầu tiên về Triều Đại Mê-si-a được gởi đến. Chúng ta nhận ra cách thức của Thiên Chúa. Đức Giê-su sẽ hớn hở vui mừng và ngợi khen Cha Ngài “vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Lc 10: 21). Chính ở nơi các mục đồng này, thánh ký phác họa dáng dấp của các Ki tô hữu: họ “ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ”.
2. Hài Nhi Giê-su:
Khi đến nơi, “họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ”. Thánh Lu-ca nhấn mạnh một lần nữa từ: “máng cỏ” (2: 12, 16). Về phương diện vật chất, máng cỏ là chiếc nôi đầu đời của Con Thiên Chúa làm người; về phương diện tinh thần, Thiên Chúa đã làm cho mình trở nên nhỏ bé và nghèo hèn để được đón nhận. Ngài đến không chỉ để “cho”, nhưng cũng để “nhận”: nhận từ con người sự thờ phượng, lời cầu nguyện, lời ngợi khen và nhất là những cử chỉ yêu thương để rồi từ đó, “mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 24: 40).
3. Đức Ma-ri-a:
“Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Đây là một ghi nhận quý giá. Thánh Lu-ca vén mở cho chúng ta một trong những nguồn của sách Tin Mừng mang tên thánh nhân; ông đã tô điểm chuyện tích Giáng Sinh với nhiều chi tiết thiêng liêng, nhưng khởi đi từ những sự kiện mà ông đã gìn giữ từ chính Đức Nữ Trinh, Mẹ hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng để cố hiểu hơn nữa mầu nhiệm của Con Mẹ.
Hôm ấy, một người đàn ông trạc độ bốn mươi, lòng trĩu nặng ưu phiền, kéo lê những bước chân: GS-234
Hôm ấy, một người đàn ông trạc độ bốn mươi, lòng trĩu nặng ưu phiền, kéo lê những bước chân nặng nhọc lên ngọn đồi đan viện để tìm gặp Cha Tu Viện Trưởng.
Anh nhớ lại thời gian mới thành hôn mười lăm năm về trước. Hồi ấy, gia đình anh lúc nào cũng vang rộn tiếng cười, ngập tràn hạnh phúc. Thế nhưng bầu trời hạnh phúc đó đã tan đi như sương sớm dưới sức nóng mặt trời.
Về chung sống với nhau chưa đầy bốn năm, hai vợ chồng đâm ra xích mích kình cãi nhau liên tục. Vợ anh không còn đối xử với anh ngọt ngào như trước, còn anh thì hay bẳn gắt với vợ con, hai cháu trong nhà trước đây ngoan ngoản bao nhiêu thì giờ đây đâm ra lười biếng, hỗn hào vô lễ bấy nhiêu. Từ bấy lâu nay, trong gia đình chẳng mấy khi có tiếng cười, chẳng ai muốn nói với ai những lời thân ái, chẳng mấy khi cơm lành canh ngọt. Cuộc sống gia đình đầm ấm và hạnh phúc như thiên đàng trong những năm đầu kết hôn bỗng nhiên biến thành như địa ngục.
Để cứu vãn tình thế, anh đã tìm đến những bậc thầy chuyên về phong thủy. Người ta khuyên anh dời cổng nhà sang vị trí khác vì cổng nhà người hàng xóm nhòm thẳng vào cổng nhà anh. Có người đề nghị anh thay đổi hướng nhà, thay đổi vị trí bếp nấu ăn, thay đổi vị trí giường nằm sao cho hợp với phong thủy… Anh đã làm đúng theo những lời khuyên của họ mà tình hình cũng chẳng cải thiện được gì nếu không nói là còn tệ hơn.
Anh cũng tìm đến những nhà chuyên môn về cảm xạ học. Họ khuyên anh đào sâu xuống nền nhà để di dời những bộ hài cốt mà họ cho rằng còn đang bị vùi lấp bên dưới. Anh tin và làm theo ý họ nhưng chẳng thấy gì và cũng chẳng có gì đổi thay.
Anh chạy đến với các Pháp Sư và họ khuyên anh phải cải táng mồ mả ông bà vì vị trí hiện thời không tốt cho con cháu. Anh nhẹ dạ làm theo mà chẳng được tích sự gì.
Cuối cùng, anh tìm đến với Cha tu viện trưởng nổi tiếng thánh thiện đạo đức và được những người dân quanh vùng xem như một vị thánh sống, được ơn thông biết nhiều sự việc nhiệm mầu.
Sau khi nghe anh kể lể sự tình và nêu lên câu hỏi: kẻ nào trong gia đình anh đã mắc phải tội ác tầy trời đến nỗi gia đình phải chịu cảnh bất hòa triền miên như thế, Cha Tu Viện Trưởng thong thả trả lời:
“Mỗi người trong gia đình anh đều mang một tội lớn. Đó là tội vô tình, vô minh. Từ bao lâu nay, Chúa Cứu Thế đã cải trang làm một người trong gia đình anh mà chẳng ai trong gia đình nhận ra Người nên mới sinh ra những sự cố đau buồn như thế.”
Nghe vậy, anh bàng hoàng sửng sốt: “Thật thế ư? Quả là điều quá bất ngờ! Ta phải thông báo nguồn tin trọng đại nầy cho cho vợ con biết ngay mới được.” Anh cấp tốc trở về nhà, vồn vã tươi vui chưa từng thấy. Anh gọi vợ con lại và thông báo cho họ biết một bí mật tuyệt vời đã xảy đến với gia đình, đó là Chúa Cứu Thế đang cải trang thành một người trong gia đình anh.”
Bấy giờ mọi người trố mắt nhìn nhau kinh ngạc. Đấng Cứu Thế cải trang khéo thật! Khéo đến nỗi dù được chung sống với Người bấy lâu nay nhưng không ai nhận ra Người và vì thế đã xúc phạm đến Người nhiều lần không kể xiết. Thế là từ hôm nó, người chồng tránh bất cứ lời nói hay cử chỉ nào làm phiền lòng vợ con vì sợ phạm đến Đấng Cứu Thế; trái lại còn tỏ ra hết sức tử tế và hi sinh tất cả vì vợ vì con, với hy vọng là mình đang phục vụ và làm vui lòng Người. Cũng từ hôm đó, người vợ không còn chanh chua đanh đá với chồng, không còn mắng chửi thậm tệ mấy đứa con; trái lại, luôn tận tụy phục vụ và hết lòng yêu thương chồng con vì rất có thể là Chúa Cứu Thế đang cải trang thành người chồng, người con của chị. Còn con cái thì không còn dám hỗn hào với cha mẹ như trước, nhưng luôn tỏ ra ngoan ngoản vâng lời và tôn trọng cha mẹ vì có thể người cha hay mẹ của mình chính là Đấng Cứu Thế cải trang. Thế là từ đây, bầu khí yêu thương đầm ấm trở lại với gia đình và còn đậm đà hơn bao giờ hết.
Hôm nay, trong ngày đại lễ giáng sinh, chúng ta đang chiêm ngắm một Đấng Cứu Thế đang “cải trang” làm một trẻ sơ sinh nằm trong máng cỏ, trong chuồng bò. Rồi sau đó, Đấng Cứu Thế tiếp tục “cải trang” thành “bác thợ” (Mc 6,3) làng Na-da-rét phiêu bạt đây đó loan báo Tin Mừng. Người cải trang khéo quá đến nỗi phần đông người Do-thái đã không nhận ra Người nên cuối cùng đã đóng đinh Người vào thập giá.
Hôm nay, Đấng Cứu Thế tiếp tục “cải trang” thành người nhà của chúng ta, thành người hàng xóm của chúng ta. Người thật sự hoá thân thành mỗi người chúng ta. Trong “Tâm Thư gửi các gia đình” Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II viết: “Thiên Chúa tự đồng hóa với người cha, người mẹ, người con trong gia đình.” Nói khác đi, mỗi thành viên trong gia đình cũng là thiên chúa vì được “thông phần vào bản tính Thiên Chúa”. (II Pr 1, 4)
Công Đồng Vatican II dạy: “Bằng đường lối nhập thể, Con Thiên Chúa đã đến làm cho loài người thông phần vào bản tính Thiên Chúa (xem Công Đồng Vat II: Sắc lệnh về truyền giáo, chương I số 3). Chúa Giê-su luôn nhắc nhở chúng ta nhớ rằng Người đang hiện diện trong các anh chị em chung quanh và những gì chúng ta làm cho những người chung quanh là làm cho chính Người (Mt 25, 31-46)
Hôm xưa, đang khi Phao-lô đi tìm bắt, không phải là bắt Chúa Giê-su, nhưng là bắt bớ những ai tin vào Người. Ông bị Chúa Giê-su quật ngã trên đường Đa-mát và Người cảnh cáo ông: “Tại sao ngươi bắt bớ Ta? Ta là Giê-su mà ngươi đang bắt bớ!” (Công Vụ Tông Đồ 9, 4-5)
Thế là từ đây, chúng ta phải nhìn nhận và yêu mến Thiên Chúa bằng xương bằng thịt đang chung sống với ta mỗi ngày. Với niềm tin nầy, người chồng trong gia đình sẽ nhận ra Chúa Giê-su nơi vợ và con cái mình. Ông sẽ tận tình yêu thương và phục vụ vợ con vì xác tín rằng đó là làm cho chính Chúa. Với niềm tin nầy, người vợ trong gia đình sẽ nhận ra Chúa Giê-su nơi chồng và con mình; bà sẽ hết lòng phục vụ và chăm sóc chồng con vì xác tín rằng đó là làm cho chính Chúa Giê-su. Và cũng với niềm tin đó, con cái trong gia đình sẽ nhận ra Chúa Giê-su nơi ông bà cha mẹ và họ sẽ hết lòng phụng dưỡng các ngài như phụng dưỡng Chúa Giê-su. Và rồi mọi người chúng ta sẽ nhận ra Chúa Giê-su cải trang thành những người hàng xóm láng giềng để rồi tận tình hy sinh giúp đỡ họ, dành những gì tốt đẹp cho họ như là làm cho chính Chúa Giê-su. Bấy giờ, gia đình chúng ta sẽ là một tổ ấm hạnh phúc, làng xóm của chúng ta sẽ là một đại gia đình huynh đệ và đất nước chúng ta sẽ là nơi thắm đậm tình người. Bấy giờ, trái đất nầy sẽ không còn khói lửa chiến tranh nhưng trở thành một trời mới đất mới, nơi hòa bình, công lý và yêu thương ngự trị.
Mỗi đêm No-en, chúng ta như cảm nghiệm một điều gì đó thật linh thiêng lạ lùng, mà không: GS-235
Mỗi đêm Noen, chúng ta như cảm nghiệm một điều gì đó thật linh thiêng, thật lạ lùng, mà không huyền diệu sao được khi lời ca của các thiên thần vẫn như văng vẳng nơi tai của mỗi người chúng ta :
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời Bình an dưới thế cho người Chúa thương “ ( Lc 2, 14 ).
Sự bình an Thiên Chúa ban tặng cho loài người hoàn toàn khác với cái an bình nhân loại vẫn trao tặng cho nhau. Bởi vì sự bình an của Thiên Chúa là chính sứ điệp như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt Tin Mừng, đặc biệt nơi mầu nhiệm Giáng Sinh :” Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời “ ( Ga 3, 16 ). Sứ điệp của Tin Mừng Giáng Sinh loan báo cho nhân loại qua người Con Một yêu dấu là Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa muốn trao tặng chúng ta chính bản thân của Ngài. Con Một dấu yêu của Thiên Chúa:” Ngôi Lời đã hóa thành nhục thể, và đã cư ngụ giữa chúng ta “ ( Ga 1, 14 ). Vị Chúa tể làm người, vị Chúa của trời đất, vũ trụ, con người luôn yêu thương mọi người, không trừ một ai. Người đã làm người và ở giữa loài người. Con Thiên Chúa làm người là Chúa Giêsu không những yêu thương chúng ta, nhưng còn hơn thế đã liên con người để con người trở nên anh em của nhau. Đó là cái lạ lùng của mầu nhiệm Giáng Sinh.
Hài Đồng Giêsu là món quà tặng quí giá nhất, Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta.
Hài Đồng Giêsu là hiện thân của tình yêu, Ngài nối kết mỗi người chúng ta trong tình thương, trong sự hiệp nhất để chúng ta trở nên anh em với nhau.Đúng như lời Thánh Vịnh viết:” Kìa xem anh em sống chung một nhà…”.
Giáng Sinh quả thực là lễ của Tình Yêu. Đây không chỉ là lễ có tính cách bề ngoài, nhưng trong chiều sâu thẳm của mầu nhiệm Giáng Sinh, chúng ta mừng sinh nhật của Chúa Giêsu, Chúa chúng ta. Đây là món quà cao quí nhất, tuyệt vời nhất Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại, trao ban cho con người, trao tặng cho mỗi người.
Hài Đồng Giêsu là món quà vô giá, món quà không gì có thể so sánh nổi. Ngài đã lớn lên, đã chia sẻ kiếp sống con người như mọi người ngoại trừ tội lỗi. Hài Đồng Giêsu là Chúa, là Cha và là anh em của mọi người, đặc biệt những người khó nghèo, Ngài đã đồng hóa mình với những người nghèo, với những người đau khổ, bệnh hoạn tật nguyền. Giêsu sau này đã thốt lên:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ).
Thiên Chúa đã tặng ban cho chúng ta chính Con Một của Người. Phần chúng ta, trong đêm Giáng Sinh kỳ diệu này, chúng ta hãy dâng lên Hài Đồng Giêsu những nghĩa cử yêu thương của chúng ta lên Ngài.
Mừng lễ Giáng Sinh, Thiên Chúa mời gọi con người chúng ta hãy mở rộng cõi lòng để đón nhận Con của Người : Hài Đồng Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
Mỗi người chúng ta phải làm cho tâm hồn chúng ta trở nên hang đáng đẹp nhất cho Con Thiên Chúa ngự trị .
Chúng ta hãy đọc bài thơ của một thi sĩ vô danh đã viết về Mầu Nhiệm Giáng Sinh :
“ Khi bài ca của các thiên thần ngừng bặt, khi ngôi sao trên bầu trời đã đi khỏi, khi các vua chúa và hoàng tử đã ở nhà, khi các mục đồng đã cùng đàn súc vật trở về, thì công việc Giáng Sinh mới bắt đầu “ “để tìm lại những gì đã mất, để hàn gắn những gì đã gẫy, để người đói được ăn no, để tù nhân được giải phóng, để các nước xây dựng lại, để đem lại hòa bình đến với mọi người, để hòa nhạc bằng trái tim “.
Lạy Chúa Hài Đồng Giêsu, xin cho chúng con một quả tim mới, một quả tim biết nhạy cảm, một tấm lòng quảng đại biết trao ban cho anh em đồng loại những nghĩa cử cao quí trong cuộc đời của chúng con. Amen.
Thánh Giaon đã nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đã tặng ban Con Một của Ngài cho thế gian: GS-237
Thánh Gioan đã nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đã tặng ban Con Một của Ngài cho thế gian”. Người Con của Lời hứa. Người Con mà cả dọc dài lịch sử dân thánh luôn khắc khoải mong chờ. Ngài chính là Thái Tử Bình An. Ngài đến để ban bình an xuống cho nhân trần như lời các thiên thần ca hát: “vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người lòng ngay”. Vâng thưa anh chị em, món quà mà nhân loại luôn khao khát mong chờ không phải là cơm áo gạo tiền mà là niềm vui của bình an hoan lạc. Có tiền mà sống trong loạn lạc, có lẽ cũng chẳng có bụng dạ nào để no say hưởng thụ. Có tiền mà không có lương tâm an bình có lẽ cũng chẳng có niềm vui và hạnh phúc từ trong sâu thẳm tâm hồn.
Cách đây 20 năm vào mùa Giáng sinh năm 1989, trong cuộc họp thượng đỉnh tại đảo Malta, Tổng thống Bush cha đã tặng chủ tịch Gorbachov của liên bang Xô Viết một viên gạch. Viên gạch này mà một thời nó đã góp phần làm nên một bức tường “ô nhục Bá Linh”. Một bức tường ngăn cách tình người. Tình người trong một đất nước, một dân tộc. Một sự ngăn cách tưởng chừng như vô bờ, thế mà hôm nay bức tường này đã được đập bỏ. Tổng thống Bush tặng viên gạch này như dấu chỉ một khao khát hoà bình. Một khao khát sống liên đới thuận hoà để con người cùng nhau xây dựng một thế giới an bình và thịnh vượng.
Thiên Chúa cũng đã tặng ban cho chúng ta không phải là một viên gạch vô tri, vô giác mà là chính Ngôi Hai Thiên Chúa giáng sinh làm người. Ngài đã mang lấy thân phận con người để đưa con người trở về với Thiên Chúa. Con người là hình ảnh Thiên Chúa, thế nên con người phải sống đúng với phẩm giá làm người của mình. Ngài đến để ban bình an, nhưng Ngài cũng đòi con người hợp tác để bình an của Chúa được trải rộng khắp muôn nơi. Dấu chỉ của sự hợp tác tích cực mà Chúa muốn con người là: hãy tặng lại cho Ngài chính hình ảnh trong sáng, ngay thẳng, đầy yêu thương mà Ngài đã tạo dựng con người ngay từ ban đầu.
Trong kỳ họp Apec tổ chức tại Việt Nam, các thành viên đều nhận được một món quà là chính hình ảnh của mình được các nghệ nhân Việt Nam điêu khắc trên đá. Có lẽ đó là món quà qúy giá mà các nguyên thủ các quốc gia đã nhận được từ các nghệ nhân Việt Nam. Họ đã đến Việt Nam và họ đã nhận lại được hình ảnh của họ từ những con người rất hiếu khách của dân tộc Việt Nam. Một dân tộc luôn ưa chuộng hoà bình, luôn lấy “dĩ hoà vi qúy” làm nền tảng cho mọi giao tiếp hằng ngày. Một dân tộc luôn đề cao tình làng nghĩa xóm đến mức độ “tối lửa tắt đèn có nhau”, để rổi sống liên đới chia sẻ với nhau trong tình thần “chị ngã em nâng” và “lá lành đúm lá rách”. Nhất là luôn sống tha thứ cho nhau để có được một cuộc sống vui tươi an bình, vì “một điều nhịn chín điều lành”. Đó cũng là những hình ảnh rất đẹp mà các nguyên thủ các quốc gia đến họp hội nghị Apec đã thấy nơi nền văn hoá Việt Nam. Thế nhưng, thử hỏi lại lòng mình, chúng ta đã thực sự sống điều đó để giữ mãi bản sắc tươi đẹp của văn hoá dân tộc Việt Nam? Với bốn ngàn năm văn hiến, chúng ta đã thực sự sống những nét cao đẹp của văn hoá Việt Nam mà cha ông đã để lại cho chúng ta hay chưa? Hay chúng ta đang quên dần, và cố đuổi theo những trào lưu hưởng thụ, thoái hoá đạo đức, băng hoại luân lý và xa rời tình người?
Với tư cách là người kytô hữu, là những con người luôn ý thức mình mang hình ảnh Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta còn giữ sự tinh tuyền của Ngài nơi tâm hồn chúng ta hay không? Hay hình ảnh của Ngài đã bị hoen ố bởi thói hư tật xấu của chúng ta? Có lẽ trong giờ phút này, Thiên Chúa cũng đang cần chúng ta tặng lại cho Ngài hình ảnh tinh tuyền ban đầu của tạo dựng. Một hình ảnh trong sáng không bỉ hoen ố bởi đam mê nhục dục, bởi tham vọng thống trị anh em và tham lam vô độ. Một hình ảnh chân thật không quanh co, giả dối đến nham hiểm hại người hại đời. Một hình ảnh đầy tình yêu không bị những toan tính trục lợi, những bất công lừa đảo, và lỗi công bình bác ái với anh em. Tất cả những cách sống sai lệch với hình ảnh ban đầu của tạo dựng, đã làm mờ nhạt đi hình ảnh của Thiên Chúa nơi cuộc sống thường nhật của chúng ta. Và là bức tường ngăn trở cho nước Chúa trị đến, cho an bình của Chúa trải rộng khắp muôn nơi.
Năm nay, năm thánh cho dân tộc Việt Nam, mỗi người chúng ta được mời gọi sống thánh giữa đời, được cụ thể qua việc tuân giữ hai giới răn quan trọng nhất đó là Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu thương anh em như chính mình. Mến Chúa trên hết mọi sự nghĩa là phải để cho Ngài chỗ nhất trong cuộc sống. Đừng vì những đam mê danh lợi thú mà quên đi giá trị đích thực của phẩm giá con người là hình ảnh của Chúa. Con người được gọi là “nhân linh ư vạn vật”, nghĩa là con người hơn muôn loài vật. Không loài nào sánh bằng con người. Không loài nào xứng đáng để con người tôn thờ. Do vậy, chỉ có Thiên Chúa mới đáng cho chúng ta tôn thờ. Tiền bạc, địa vị, sắc dục chỉ là thọ tạo thấp bé và rất tầm thường so với con người. Vì thế đừng vì nó mà bỏ quên Chúa. Đừng vì nó mà xúc phạm đến anh em. Đồng thời, mến Chúa phải yêu mến anh em. Yêu mến không chỉ trên đầu môi chóp lữơi, nhưng bằng những hành động cụ thể: đó là kính trọng anh em, là sống công bình bác ái với anh em, và đỉnh cao của tình yêu là sự dấn thân phục vụ anh em trong khiêm tốn và chân thành.
Lạy Chúa, Chúa đã sinh ra trong thân phận con người. Chúa đã tự đồng hoá mình với những người khổ đau. Xin cho chúng con luôn nhận ra Chúa trong anh em để chúng con luôn đối xử với nhau trong công bình, bác ái, trong kính trọng và yêu thương. Xin giúp chúng con luôn biết gìn giữ hình ảnh tinh tuyền của Chúa nơi chúng con. Xin gìn giữ linh hồn chúng con khỏi những đam mê bất chính làm hoen mờ hình ảnh Chúa nơi chúng con. Amen
Trong suốt Mùa Vọng chúng ta đã dâng nhiều hy sinh hãm mình, cầu nguyện, lãnh phép Giải: GS-238
Trong suốt Mùa Vọng, chúng ta đã dâng nhiều hy sinh hãm mình, cầu nguyện, lãnh phép Giải Tội để dọn tâm hồn hầu xứng đáng long trọng mừng Đại Lễ Chúa Giáng Sinh. Ở nhiều nơi, Lễ Chúa Giáng Sinh cũng được gọi là Lễ No-en (Noel: từ tiếng Latinh: “Natalis Dies”) và mừng vào ngày 25 tháng 12 hàng năm (Về ngày “Sinh Nhật của Chúa Giêsu”, xin đọc bài “Nhân Mùa Giáng Sinh: Tìm Hiểu Ngày Sinh Nhật của Chúa Giêsu Kitô”).
Hôm nay, nhân loại ở khắp nơi hân hoan mừng ngày Thiên Chúa đã giáng sinh làm người và ở giữa chúng ta (Emmanuel). Vâng, từ hơn hai ngàn năm trước, khi “thời gian đã viên mãn”, Ngôi Lời Thiên Chúa đã mặc lấy thân xác người phàm nơi lòng Trinh Nữ Maria qua quyền năng của Chúa Thánh Thần, Ngài đã sinh ra và lớn lên như một con người trần thế. Ngài đã không sinh ra trong ‘lầu cao, gác tía’, trong cảnh quyền qúy cao sang; nhưng Ngài đã sinh ra trong cảnh khó nghèo cùng cực, nơi hang bò lừa. Ngài đến để đem thình thương, hoà bình cho nhân loại.
Đại lễ Chúa Giáng Sinh được mừng qua nhiều Thánh Lễ khác nhau:
Lễ Vọng Giáng sinh được mừng vào chiều ngày 24/12. Lễ Nửa Đêm thường được cử hành vào chính nửa đêm. Lễ Rạng Đông mừng vào lúc sáng sớm ngày 25/12, và Lễ Ban Ngày.
Thánh Lễ Vọng, Bài Phúc Âm (Matthêu 1: 1-25) kể lại gia phả của Chúa Giêsu bắt đầu từ tổ phụ Abraham. Tiếp theo là câu chuyện Trinh Nữ Maria chịu thai bởi phép Chúa Thánh Thần, và Thánh Giuse, sau khi được Thiên Thần cho biết “Đức Maria mang thai là bởi quyền phép Chúa Thánh Thần”, liền vui mừng rước Maria về làm vợ theo luật pháp. Bài Đọc I (Isaia 62:1-5) nói đến Đấng Công chính xuất hiện như ánh sáng soi chiếu trần gian. Ngài đến để mang ơn cứu độ cho nhân loại”. Bài Đọc II (Công Vụ Tông Đồ 13: 16-17, 22-25) nói đến Chúa Giêsu thuộc dòng dõi Vua David, và Thánh Gioan Tiền Hô đã ban Phép Rửa Thống Hối để dọn tâm hồn dân chúng đón Ngài đến.
Lễ Nửa Đêm thường được cử hành rất long trọng vào đúng nửa đêm để kỷ niệm việc Chúa Giêsu sinh ra nghèo khó trong hang bò lừa giữa đêm khuya. Bài Phúc Âm (Luca 2: 1-14) kể rõ thời gian Chúa giáng sinh là vào đời Augusto (Hoàng Đế Rôma từ năm 29 trước Chúa giáng sinh đến năm 14 sau Chúa giáng sinh). Vì lệnh kiểm tra, thánh Guise phải đưa Đức Maria về khai sổ nơi nguyên quán là thành Vua David (Bêlem); hai ông bà đã đến nơi vào đúng lúc Đức Maria đến giờ sinh con, và vì không còn chỗ trong các nhà trọ, nên phải sinh con trong hang đá bò lừa giữa đồng trống lạnh giá. Các mục đồng là những người đã được Thiên Chúa báo tin mừng trước hết để đến kính viếng Chúa Hài Nhi được “bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”, và cả đạo binh Thiên Thần ca hát chúc mừng Chúa Hài Nhi giáng trần: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương!”
Bài Đọc I (Isaia 9: 1-6) ghi lại những lời tiên tri Isaia nói trước về ngày Đấng Cứu Thế đến “như ánh sáng chiếu soi bóng tối… Ngài là Người Cha muôn thuở, là Hoàng Tử Thái Bình…” Bài Đọc II (Thư Titô 2: 11-14): Thánh Phaolô nói đến ân sủng Chúa giáng trần đem đến cho nhân loại: “Dạy chúng ta phải từ bỏ tội lỗi, sống công chính và đạo đức… Vì Ngài đã hiến thân để cứu chuộc chúng ta, và quy tụ chúng ta thành một dân riêng của Ngài, một dân chỉ chăm lo làm việc thiện.”
Lễ Rạng Đông được dâng vào lúc trời bừng sáng để nói lên tư tưởng chính trong Lễ Rạng Đông: Hôm nay, sự sáng chiếu soi trên nhân loại, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta …” (Ca Nhập Lễ). Bài Phúc Âm (Luca 2: 15-20) kể lại việc các mục đồng được Thiên Thần báo tin để đến thờ lạy Chúa Hài Nhi, và họ đã thấy “Đức Maria, Thánh Giuse và Hài Nhi nằm trong máng cỏ…” Sau đó, các mục đồng đi loan truyền cho mọi người biết; họ “vừa đi vừa ca tụng Thiên Chúa về những điều đã được mắt thấy tai nghe…” Bài Đọc I (Isaia 62: 11-12) nói về niềm vui mừng ngày Đấng Cứu Thế đến. Những ai tin và được Ngài cứu chuộc sẽ được gọi là dân thánh của Chúa. Bài Đọc II (Thư Titô 3: 4-7), Thánh Phaolô nói đến ơn cứu độ Chúa ban cho chúng ta do lòng nhân từ của Chúa, chứ không do công nghiệp của chúng ta; nhờ ơn cứu chuộc của Chúa, chúng ta “được tái sinh trong Phép Rửa và được canh tân nhờ ơn Chúa Thánh Thần.”
Lễ Ban Ngày, nhấn mạnh đến niềm vui Chúa Giáng sinh: “Một Hài Nhi đã sinh ra cho chúng ta… Thiên Chúa đã đến với chúng ta …” (Ca Nhập Lễ). Khắp mọi nơi trên thế giới được nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa; nên hãy “hân hoan hát lên một Bài Ca mới…” (Đáp Ca, theo Thánh Vịnh 97). Bài Phúc Âm (Gioan 1: 1-18): Thánh Gioan Thánh Sử nói đến ý nghĩa sâu xa của Mầu Nhiệm Nhập Thể; “Ngôi Hai Thiên Chúa vẫn có từ trước đời đời, đã nhập thể mặc lấy thân xác loài người để ở giữa chúng ta và ban ơn cứu độ cho chúng ta. Thánh Gioan Baotixita đã được sai đi trước dọn lòng dân chúng để đón Đấng Cứu Độ. Bài Đọc I (Isaia 52: 7-10): Tiên Tri Isaia loan báo trước về ngày Đấng Cứu Thế đến và ban ơn cứu độ cho nhận loại, và khắp mọi nơi trên mặt đất đều được hưởng ơn cứu độ của Người”. Bài Đọc II (Thư Do Thái 1: 1-6): Thánh Phaolô nói đến lịch sử ơn cứu độ qua các thời gian: từ thuở xa xưa, Thiên Chúa nói qua các tiên tri nhiều lần và dưới nhiều hình thức, và nay đã được thể hiện nơi Chúa Giêsu Kitô giáng sinh. Ngài đã đến chịu đau khổ để cứu chuộc chúng ta, tẩy sách tội lỗi chúng ta. Ngài đã sống lại và lên trời vinh hiển để mở đường giải thoát chúng ta. Vì thế, muôn loài, muôn vật đều thờ lạy Ngài trong vinh quang.
Mùng ngày Chúa giáng sinh, chúng ta hãy cùng hiệp lời cầu nguyện, xin Chúa mở rộng lòng chúng ta để chúng ta luôn biết noi gương Chúa dấn thân phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo khó, những người bị xã hội bỏ rơi. Xin Chúa ban hòa bình của Chúa cho mọi gia đình, cho thế giới chúng ta, cho quê hương và Giáo Hội Việt Nam trong hoàn cảnh hiện nay. Xin Chúa nhân từ chúc lành cho chúng ta cũng như cho các vị Chủ Chăn, các Linh Mục, Tu sĩ nam, nữ và toàn thể dân Chúa trong Năm Linh Mục này.
Hôm nay Đấng Cứu Thế, Đấng Giải Phóng muôn dân đã đưýc sinh ra. Thiên Chúa đã trở : GS-239
Hôm nay Ðấng Cứu Thế, Ðấng Giải Phóng muôn dân đã được sinh ra. Thiên Chúa đã trở thành phàm nhân và đang ở giữa chúng ta!
Ðó không chỉ là một biến cố vô cùng vĩ đại cho cả vũ trụ, nhưng còn là một điều rất gần gũi và rất nhân bản: Thiên Chúa toàn năng vô biên đã trở nên một hài nhi yếu đuối đang cần đến một bà mẹ. Vâng, Thiên Chúa đã trở nên một hài nhi, một con trẻ, một con người, đã bước vào đời với tiếng khóc và nước mắt, đang cất tiếng cầu cứu, đang giơ đôi tay nhỏ bé về hướng mẹ để tìm được ấp ủ và chở che!
Quả vậy, Thiên Chúa đã trở nên một hài nhi đang cần đến tình yêu chở che của con người: Từ việc đi tì m k iếm một chỗ nghỉ chân cách vô vọng, cho tới việc phải lén lút chạy trốn trước lưỡi gươm tàn ác của Hê-rô-đê, v.v…! Nhưng phải chăng con trẻ Giêsu nếu được sinh ra trong thời đại văn minh tân tiến của chúng ta ngày nay sẽ gặp được nhiều may mắn hơn chăng? Ai sẽ bảo đảm được điều đó? Tôi thiết tưởng rằng số phận của Người vẫn không được may mắn và sáng sủa hơn, nếu không nói là rất có thể còn tồi tệ và nguy hiểm hơn!
Nhìn vào cuộc sống xã hội ngày nay, người ta phải nhận định rằng tuy phương diện vật chất đã được cải tiến rất nhiều, nhưng lòng ích kỷ của con người vẫn không thay đổi, nếu không nói là còn trở nên thâm hiểm hơn. Do đó, họ đã giết chết hàng triệu đứa trẻ ngay trong bụng mẹ chúng, vì họ coi chúng như những đối thủ cạnh tranh với đời sống hưởng thụ ích kỷ của họ. Nhiều nơi trên thế giới, các trẻ con đã bị coi như những thành phần thừa thải và tốn kém cho xã hội và gia đình. Người ta từ chối trao trả cho chúng những quyền lợi thuộc về chúng. Vâng, các trẻ em ngày nay thường bị chèn ép, bị đối xử tàn tệ và thiếu đi các điều kiện cũng như không gian để phát triển cuộc sống của chúng trong sự tự do và trong sự hồn nhiên vui vẻ.
Con trẻ đang gõ cửa! Ngày nay tiếng gõ cửa tìm một nơi nghỉ chân như thế, càng khẩn thiết hơn bao giờ hết. Vì bầu không khí của xã hội nhân loại ngày nay thường tỏ ra thù nghịch với trẻ con, đến nỗi nhiều khi người ta có cảm tưởng: Xã hội ngày nay là một xã hội của người lớn, của người trưởng thành, chứ không phải là của trẻ con. Trẻ con không có chỗ đứng trong đó. Chẳng những thế, nhiều nơi trong thế giới hôm nay, trẻ con còn bị coi như một hình thức nguy hiểm hay như một tai họa mà người ta cần phải tránh. Một ví dụ điển hình: Nhiều người khi đi thuê nhà hay thuê phòng ở đã không dám nói mình có con nhỏ, vì nếu chủ nhà biết họ có con nhỏ thì sẽ bị từ chối ngay lập tức. Thật là một hiện tượng phản nhân bản. Cũng vì thế, việc bóp chết, việc tiêu diệt sự sống bất khả tự vệ, sự sống vô sinh, việc phá thai, không những chỉ được coi như một rủi ro đáng tiếc mà thôi, nhưng còn được coi như một cái “mốt” của sự tiến bộ thức thời, một kiểu thoát ly tân tiến!
Trong tư duy của một số lớn những người hôm nay, đứa trẻ được coi như một cạnh tranh đối với sự tự do của họ, đối với tương lai thoải mái và sự yên tĩnh của họ, và như một đe dọa chiếm mất chỗ của họ! Vâng, chúng ta đã chất lên cuộc sống của mình đầy đủ thứ đồ vật, đủ thứ sản phẩm và chúng ta vẫn chưa hài lòng với những thứ mà chúng ta chiếm hữu và rồi sẽ vất bỏ. Tiếp đến, chúng ta vẫn luôn có chỗ cho con vật này hay con vật nọ trong nhà mình, và lấy chúng làm bạn, làm nguồn vui. Nhưng đối với một con người mới, một đứa trẻ, thuộc về chúng ta và đang đi vào cuộc sống chúng ta để chia sẻ với chúng ta, thì chúng ta lại không còn chỗ nữa, vì đứa trẻ bị coi như một gánh nặng bất khả kham cho chúng ta.
Con trẻ đang gõ cửa! Nếu chúng ta chấp nhận đứa trẻ, chúng ta phải kiểm tra lại một cách toàn diện thái độ của chúng ta đối với cuộc sống; chúng ta phải sẵn sàng coi cuộc sống như một món quà được dành cho những kẻ khác nữa, chứ không chỉ thu vén nó cho chính mình mà thôi. Chúng ta cần phải sửa sai tư duy và định kiến của mình về sự sống, hãy tập nhìn vào đứa trẻ không phải như một đe dọa đối với sự tự do của chúng ta, nhưng là một may mắn cho cuộc sống; không phải như một đối thủ cạnh tranh, sẽ giành giật lấy phần đất sống của chúng ta, nhưng là sức mạnh sáng tạo cho tương lai nhân loại.
Ði kiếm chỗ trọ! Ðó không phải chỉ là thảm cảnh của hàng ngàn hàng vạn trẻ con vô sinh, nhưng của cả hàng triệu người vô gia cư. Vâng, khắp nơi trên thế giới, hàng triệu người di cư đã phải bỏ lại quê hương, bỏ lại nhà cửa và mọi sự, để đi tìm sự sống còn, sự tự do và một cuộc sống có nhân phẩm. Giờ đây tất cả họ đang phải sống trong cảnh bất an, đầy đe dọa và nguy hiểm, đang phải sống nheo nhóc đói rét và không có tương lai. Tiếng kêu cứu của hàng triệu người đó đã vang thấu tới trời: Họ đang cần được cứu trợ! Nhiều người trong chúng ta đã từng trải qua hoàn cảnh tương tự và hy vọng cũng nhờ đó mà cảm thông được phần nào thảm cảnh đau thương của những người đồng loại hôm nay. Vâng, tất cả chúng ta đều thông cảm cho sự bất hạnh đó!
Nhưng nếu sự thể bất hạnh đó xảy ra trước cửa nhà chúng ta, liệu chúng ta có cảm thấy khó xử không? Chắc chắn rằng những người dân cư ở Bê-lem xưa cũng đã có những lý dó hợp lý để từ chối không tiếp nhận đôi vợ chồng nghèo, đến từ Na-da-rét, với những lời thoái thác: Thật đáng tiếc, nhà chúng tôi không còn giường trống nữa! Hay: mọi phòng trong nhà đều có người ở cả rồi, ông bà sang nhà bên cạnh hỏi xem sao! Tương tự như vậy, chắc chắn chúng ta cũng tìm ra được những ly do rất hợp lý, để từ chối thực thi đức bác ái với những người vô gia cư đang hy vọng chờ trước cửa nhà và cửa lòng chúng ta!
Cuối cùng, đi kiếm chỗ trọ: Cũng có nghĩa là những chương trình lạc quyên cho các nạn nhân của những thiên tai, lụt lội, v.v… đặc biệt trong mùa Giáng Sinh đang chờ đợi sự góp phần của chúng ta. Tất cả mọi nạn nhân của đủ thứ tai ương đang gõ vào cửa lòng chúng ta và cầu xin chúng ta cho phép họ được dự phần vào các của cải vật chất đã được Thiên Chúa dựng nên cho hết mọi người và hiện Người đang trao phó cho chúng ta quản lý. “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận Người. Còn những ai đón nhận Người, tức những ai tin vào danh Người, thì Người ban cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa!» (Ga 1,11-12).
Trong giờ phút linh thiêng này, chúng ta cầu xin Người giúp chúng ta biết mở rộng lòng mình để có thể nghe được tiếng gõ cửa của Người, tin tưởng mở rộng mọi cửa ngõ để đón tiếp Người trong những trẻ vô sinh, trong những người vô gia cư, trong những người nghèo đói, v.v…, hầu chúng ta được trở nên con cái của Thiên Chúa, những đứa con của Người Con, mà qua Người ánh sáng chân thật đã được chiếu vào thế gian trong đêm nay!
Là những lời loan báo của ngôn sứ I-sai-a về Ẫmột trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người: GS-240
Là những lời loan báo của ngôn sứ I-sai-a về “một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta”. Sư xuất hiện của Trẻ Thơ ấy đem lại niềm vui vô cùng lớn lao cho dân Chúa là những người đang sống trong cảnh khổ cực. Trong đoạn Sách I-sai-a trên, trước hết chúng ta khám phá ra tình thương và kế hoạch của Thiên Chúa. Kế đến, chúng ta cũng khám phá ra dung mạo của Vị Thiên Sai là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh, người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hòa bình. Và sau cùng, chúng ta còn khám phá sứ mạng của Thiên Sai là “bẻ gãy cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp dân” và “sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít. Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền trên nền tảng chính trực công minh, từ nay cho đến mãi muôn đời.”
2. Bài đọc 2 Tt 2,11-14
Là những lời Thánh Phao-lô Tông đồ viết cho ông Ti-tô là cộng sự viên thân cận của ngài về ơn/đấng cứu độ là Chúa Giê-su Ki-tô mà Chúa Cha đã ban cho nhân loại. Qua đoạn thư trên, chúng ta khám pha ra tình thương bao la chẳng những của Thiên Chúa mà của cả Đức Ki-tô là Đấng đã tự hiến cho chúng ta được cứu độ tức thoát khòi đời/lối sống bất chính và trở thành dân riêng của Người, dân say mê theo đuổi sự công chính và thánh thiện.
3. Bài Tin Mừng Lc 2,1-14:
Là tường thuật của Thánh Lu-ca về sự kiện trọng đại nhất của lịch sử Ki-tô giáo: Con Thiên Chúa sinh hạ làm một trẻ sơ sinh được đặt tên là Giê-su, con bà Ma-ri-a và thuộc dòng dõi Đa-vít. Trẻ thơ mang sứ điệp lớn lao mà nhân loại ở mọi thời mọi nơi mong đợi: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho người Chúa thương!” Vì thế mà các thiên thần ca hát vang trời và các mục đồng hân hoan đón nhận cách biểu lộ độc nhất vô nhị của Thiên Chúa: Đấng quyền năng cao cả trong con trẻ đơn sơ, nghèo nàn! Qua đoạn Phúc Âm Lu-ca 2,1-14 trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa Ngôi Hai làm người để tỏ bày vinh quang của Thiên Chúa và đem bình an cho mọi người, nhất là cho những người bé mọn trong xã hội.
Thiên Chúa muốn chúng ta làm gì?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: Hài Nhi Giê-su là Quà Tặng của Thiên Chúa được ban cho nhân loại. Người được (Mẹ là Đức Ma-ri-a) sinh ra ở Bê-lem trong khung cảnh đơn sơ nghèo nàn, nhưng được các thiên thần hát mừng và các mục đồng chào đón trong hân hoan.
1. Sống với Thiên Chúa là Đấng thực hiện kế hoạch cứu độ nhân loại nơi Ngôi Lời Nhập Thể là Đức Giê-su con Đức Ma-ri-a. Sống với Chúa Hài Nhi là Đấng đã sinh ra trong máng cỏ Bê-lem để đem bính an và tình thương đến cho nhân trần. Sống với Chúa Thánh Thần là Đấng đồng hành và cộng tác với Chúa Giê-su Hài Nhi trong Mầu Nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc!
2. Thực thi sứ điệp Lời Chúa
Thực thi sứ điệp Lời Chúa hôm nay là đón nhận Hài Nhi Giê-su là Con Thiên Chúa, là Đấng muôn dân trông đợi. Người đến trần gian là để đem ơn phúc của Thiên Chúa cho hết mọi người.
V. CẦU NGUYỆN
1. Ngôn sứ I-sai-a đã loan báo “một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã được ban tặng cho ta.” Lạy Thiên Chúa là Cha của chúng con, chúng con ngợi khen, cảm tạ và chúc tụng Cha vì Cha đã ban tặng Con Một Cha cho chúng con. Xin Cha cho càng ngày càng có nhiều người nhận ra Hài Nhi Giê-su là Cứu Chúa!
Xướng: Chúng con cầu xin Cha!
Đáp: Xin Cha nhận lời chúng con!
2. Lạy Thiên Chúa là Cha của Hài Nhi Giê-su và là Cha của hết mọi người, cách riêng của những người bé mọn, khi Con Một Cha chào đời ở Bê-lem, thiên thần đã báo tin vui cho các người chăn chiên trong vùng rằng: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa!” Chúng con tha thiết nài xin Cha ban ơn đức tin cho những người đang khao khát Ơn Cứu Độ!
Xướng: Chúng con cầu xin Cha! Đáp: Xin Cha nhận lời chúng con!
3. Lạy Thiên Chúa là Cha của Hài Nhi Giê-su và là Cha của chúng con, khi Con Một Cha chào đời ở Bê-lem, muôn vàn thiên bình hợp với sứ thần đã cấttiếng ngọi khen Cha: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”! Chúng con tha thiết nài xin Cha biểu lộ vinh quang của Cha cho nhân loại ngày hôm nay và ban bình an cho những ai đang phải đau khổ vì xung đột, chiến tranh và hận thù.
Xướng: Chúng con cầu xin Cha! Đáp: Xin Cha nhận lời chúng con!
Mỗi năm chúng ta mừng Lễ Chúa Giáng Sinh có một lần. Nhưng Mầu Nhiệm Thiên Chúa Giáng : GS-241
Mỗi năm chúng ta mừng Lễ Chúa Giáng Sinh có một lần. Nhưng Mầu Nhiệm Thiên Chúa Giáng Sinh làm người và “cắm lều” ở giữa chúng ta thì luôn ở bên chúng ta, bao trùm đời sống chúng ta, vì Người là Em-ma-nu-en, là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Ân huệ của Lễ Giáng Sinh thì chúng ta hưởng mỗi giây, mỗi phút, đúng như Lời Phúc Âm của Thánh Gio-an: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác” (Ga 1,16).
Vì thế mà chúng ta được mời gọi hãy hồi tâm trong thinh lặng mà điểm lại những ơn huệ lớn lao mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta qua và nhờ Con Trẻ Giê-su, Đấng đã sinh ra trong hang bò lừa và đã được đặt nằm trong máng súc vật ở Bê-lem, cách nay hơn hai ngàn năm. Để khi mừng Lễ Chúa Giáng Sinh thì chúng ta tôn vinh Tình Thương Cứu Độ của Thiên Chúa.
I. THIÊN CHÚA LÀ ĐẤNG BAN ƠN
1. Ơn Tạo Dựng
Trong các Ơn mà Thiên Chúa đã khứng ban cho chúng ta thi truớc hết là Ơn được làm người, được có mặt trong thế giới này, với các khả năng nghe, nói, nhìn, ngửi, nếm, cảm, nhớ, hiểu và yêu của một tạo vật cấp cao mà Thánh Kinh diễn tả là được dựng nên “theo hình ảnh Thiên Chúa, giống như Thiên Chúa”
"Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất."
“Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.” (St 1,26-27).
2. Ơn Quan Phòng
Thiên Chúa tạo dựng chúng ta làm người, nhưng Người còn quan tâm, săn sóc, chăm lo cho từng buớc đi, cho từng nhịp sống. Đó là Ơn Quan Phòng mà không phải ai trong chúng ta cũng có nhận thức đúng đắn mà tin tưởng phó thác và tạ ơn Thiên Chúa mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút:
“Vì vậy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc; vì mạng sống thì hơn của ăn, và thân thể thì hơn áo mặc. Hãy nhìn những con quạ mà suy: chúng không gieo, không gặt, cũng không có kho có lẫm, thế mà Thiên Chúa vẫn nuôi chúng. Anh em còn quý giá hơn loài chim biết bao! Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được một gang tay? Vậy, việc nhỏ nhất mà anh em còn làm không được, thì anh em lo lắng về những việc khác làm gì? Hãy nhìn hoa huệ mà suy: chúng không kéo sợi, không dệt vải, thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Phần anh em, đừng tìm xem mình sẽ ăn gì, uống gì, và đừng bận tâm. Vì tất cả những thứ đó, dân ngoại trên thế gian vẫn tìm kiếm; nhưng Cha của anh em thừa biết anh em cần những thứ đó. Vậy hãy lo tìm Nước của Người, còn các thứ kia, Người sẽ thêm cho.” (Lc 12,22-31).
Ơn Tha Tội
Dù được bao bọc và nâng đỡ bằng muôn vàn ơn, chúng ta vẫn có thể sa ngã và phản bội Thiên Chúa hoặc vì yếu đuối, dại dột hoặc vì ương bướng, cậy sức mình mà bỏ nhà đi hoang. Trong những lúc ấy, Thiên Chúa như một người cha luôn ngóng chờ bóng dáng đứa con hư trở về mà ôm chúng ta vào lòng mà thứ tha tội lỗi và bù đắp cho sự thiệt thòi mà tự chúng ta đã tạo ra cho mình khi rời xa nhà Cha:
"Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng! Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy." (Lc 15,22-24).
4. Ơn Nghĩa Tử
Nhưng còn hơn thế nữa, chúng ta không chỉ được Thiên Chúa cứu khỏi cõi chết mà còn được Người đưa chúng ta vào trong nhà Người, nhận chúng ta làm con cái của Người. Ơn Nghĩa Tử đi theo sau hai Ơn Cứu Độ và Tạo Dựng:
“Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa - mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa.” (1 Ga 3,1).
5. Ơn Cứu Độ
Sau Ơn Nghĩa Tử, chúng ta được Thiên Chúa ban Ơn Cứu Độ, tức Ơn giải thoát khỏi vòng kiểm tỏa của tội lỗi và sự chết muôn đời. Với tội nguyên tổ, con người như bị ném vào biển nước mênh mông, lênh đênh trôi dạt, không biết đâu là bến bờ, không có cách nào thoát khỏi bị cảnh sóng gió ba đào vùi giập. Con Thiên Chúa đuợc sai đến giữa biển trời mênh mông ấy như CHIẾC PHAO CỨU SINH giúp con người có chỗ bám víu và tìm lại sự sống:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Ghi chú: Ngoài những ơn trọng đại và cao cả kể trên, chúng ta có thể kể thêm những ơn mà Thiên Chúa ban cho mỗi người một cách khác nhau: tuồi tác, sức khỏe, tài năng, chức vụ, con cái, của cải, việc làm (phục vụ)…… mà chúng ta hiện có.
II. TÔN VINH TÌNH THƯƠNG CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA
Câu hỏi tự nhiên bật lên là:
Vậy chúng ta, - những kẻ chịu hết ơn này đến ơn khác từ bàn tay nhân lành của Thiên Chúa - phải làm gì, phải sống như thế nào cho phù hợp? Đức Thánh Cha Bê-nê-đí-tô XVI đã đưa ra cho chúng ta một định hướng khi Ngài xác định thế nào là Ki-tô hữu:
“Là Ki-tô hữu không phải là hệ quả của một lựa chọn luân lý hay một lý tưởng cao quý, nhưng là sự gặp gỡ với một biến cố, một người; một cuộc gặp gỡ trao ban cho cuộc sống một chân trời mới và qua đó là một hướng đi có tính chất quyết định.” (ĐGH Bê-nê-đi-tô XVI, Thông Điệp Thiên Chúa là Tình Yêu, số 1).
"Gặp gỡ một biến cố" là gặp gỡ Mầu nhiệm Thiên Chúa Nhập Thể, Giáng Sinh làm người nơi Con Trẻ Giêsu.
"Gặp gỡ một người" là gặp gỡ chính Thiên Chúa Nhập Thể Giáng Sinh làm người là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đi vào trần gian, đã đi vào lịch sử loài người và đã “cắm lều” ở giữa chúng ta, không chỉ ở trong sa mạc mà cả ở giữa các đô thị ồn ào náo nhiệt cũng như ở trong các bản làng nông thôn yên tĩnh.
"Chân trời mới" là Chân Trời của Vương Quốc mà Chúa Ki-tô đã thiết lập ở trần gian, xuyên qua mọi lục địa và thời gian, trong mọi tâm hồn và mọi cộng đồng xã hội, bằng 33 năm sống ở trần gian, bằng hoạt động rao giảng Tin Mừng và chữa lành trong 3 năm và nhất là bằng hiến tế Thập Giá trên Núi Sọ.
"Hướng đi có tính cách quyết định" là hướng đi theo chân Chúa Giê-su Ki-tô, hướng đi của hy sinh từ bỏ chính mình và hiến dâng cho tha nhân.
Vì thế mà chúng ta xác định được những nét cơ bản cũng là những đặc điểm của một lối sống, một cách thể hiện xứng hợp nhất để tôn vinh Tình Thương Cứu Độ của Thiên Chúa, như sau: Lòng biết ơn Để tôn vinh Tình Thương Cứu Độ của Thiên Chúa, thái độ xứng hợp đầu tiên của chúng ta là thể hiện lòng biết ơn đối với Thiên Chúa. Thể hiện qua lời nói và việc làm để cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Thiên Chúa:
“Đến muôn đời con cảm tạ Ơn Chúa. Đến muôn đời con ngợi khen Danh Chúa. Muôn muôn đời con ca vang Tình Thương Chúa. Và mãi mãi con nhớ ghi Ơn Người!” (Bài ca Tạ Ơn của Lm Đa Minh Thân Trọng Hoan).
Hoặc:
“Lạy Chúa, chúng tôi tụ họp nơi đây với tư cách là Gia Đình của Chúa. Với tư cách là Gia Đình của Lòng Tin và Tình Yêu, Chúng con tạ ơn Chúa. Với tư cách là khách được mời đến dự Bàn Tiệc Sự Sống, Chúng con biết ơn Chúa vì Chúa đã dành chỗ cho chúng con. Với tư cách là con cái của Chúa, Chúng con quyết tâm theo Chúa trong mọi việc chúng con làm. Với tư cách là tôi tớ phục vụ Thánh Ý Chúa, Chúng con được ơn nhận ra Chúa là Đấng cảm thông và xót thương.Với tư cách là người quản lý của Chúa, Chúng con kinh ngạc trước các kỳ công của Chúa, Và chấp nhận trách nhiệm của chúng con là phụng sự Chúa. Với tư cách là người thừa kế của Chúa, Chúng con cảm thấy mình bất xứng với muôn vàn hồng ân mà Chúa đã ban cho chúng con. Mỗi nhịp tim và mỗi hơi thở chỉ là của chúng con nhờ hồng ân của Chúa. Và với tư cách là Gia Đình của Chúa, chúng con tung hô Danh Chúa, Và chúng con dâng lên Chúa mọi vinh quang và danh dự, mọi lời chúc tụng và tạ ơn. Amen.”
Nguyên bản tiếng Anh:
We are gathered here as Your Family, Oh Lord. As a family of faith and love, We give You thanks. As Your guests at the table of life, We are grateful that You have set a place for us.
As Your children, We strike to follow You in all we do. As servant to Your will, We acknowledge the gift of Your understanding and mercy. As Your stewards, We are filled with wonder in the presence of Your mighty deeds And accept our responsabilities in Your service. As Your heirs, We are humbled by the bounty You have given us, For each beat of our heart and each breath that we draw, is ours only through Your grace. And, as Your family, we shout Your name And give You all glory and honor, praise and thanks. Amen. [A Prayer Of Thanksgiving = Kinh Tạ Ơn]
2. Sống trong/vì/cho Tình Yêu
Thái độ xứng hợp tiếp theo để tôn vinh Tình Thương Cứu Độ của Thiên Chúa, là chọn sống trong/vì/cho Tình Yêu:
"Thiên Chúa là Tình Yêu, và hễ ai ở trong Tình Yêu thì ở trong Chúa, và Chúa ở trong người ấy" (1 Ga 4,16).
3. Sống tư cách là con cái tự do của Thiên Chúa, là thừa kế của Chúa Ki-tô
Sống trong/vì/cho Tình Yêu là sống tư cách là con cái tự do của Thiên Chúa và thừa kế gia tài của Chúa Giê-su Ki-tô:
“Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: "Áp-ba, Cha ơi! " Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.” (Gl 3,6-7).
4. Yêu thương anh em
Sống trong/vì/cho Tình Yêu thì cũng có nghĩa là sống tình yêu thương huynh đệ với mọi người, nhất là với những người nghèo ở chung quanh chúng ta, vì mến Chúa với yêu người là một và yêu người là giới luật riêng của Chúa Ki-tô:
“Căn cứ vào điều này mà người ta phân biệt con cái Thiên Chúa với con cái ma quỷ: phàm ai không sống công chính thì không thuộc về Thiên Chúa; ai không yêu thương anh em mình, thì cũng vậy.” (1 Ga 3,10).
“Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta. Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau.” (1 Ga 4,7-11).
5. Thí mạng vì anh em
Yêu tha nhân không chỉ là yêu thương bằng tình cảm xuông trên đầu môi chót lưỡi, nhưng bằng một tình yêu dấn thân và dâng hiến thật sự cho anh em, cho người khác. Mẹ Têrêxa thành Calcutta là một tấm gương sáng chói cho chúng ta noi theo trong cách sống yêu thương này:
“Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em…. Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm.” (1 Ga 3,16.18).
KẾT
Cách mừng Lễ Chúa Giáng Sinh ý nghĩa và hoàn hảo nhất là tôn vinh Tình Thương Cứu Độ của Thiên Chúa bằng cách đem Tình Thương ấy vào thế giới và đến với con người ngày nay, vì điều mà con người cấn nhất, cái mà con người đói khát nhất chính là Tình Thương.
Chúng ta chỉ cần noi gương bắt chước chính Con Thiên Chúa Giáng Sinh làm người: Vì yêu nhân trần Người đã đi vào trần gian, đã chấp nhận làm một trẻ thơ yếu ớt, đã sống kiếp người mong manh, đã hy sinh đến giọt máu cuối cùng để bày tỏ Tình Yêu của Thiên Chúa và để cứu vớt chúng sinh.
Lễ Giáng sinh với cái tên phổ biến là Noel, ngày nay đã trở thành một ngày lễ của nhân loại: GS-242
Lễ Giáng sinh với cái tên phổ biến là Noel, ngày nay đã trở thành một ngày lễ của nhân loại, vì hầu như mọi người: tín hữu hay không, bằng cách này hay cách khác, đều có thể mừng lễ Noel, nhưng có một điều quan trọng rất cần được chú ý, đó là không phải bất cứ ai mừng lễ Noel đều đạt được mục đích chân chính của nó là gặp được Chúa Kitô, “Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho các ngươi”(Lc 2,11).
Chúng ta có thể gọi Giáng sinh là lễ của Tình thương. Sở dĩ chúng ta có thể nói được như vậy là vì chúng ta không thể hiểu được tại sao Thiên Chúa là Chúa Cả muôn loài lại hạ mình xuống mặc lấy thân xác yếu hèn của con người, bởi vì Nhập thể là một trong ba mầu nhiệm lớn nhất trong Đạo. Chúng ta có thể đưa ra nhiều lý do nhưng không có lý do nào thuyết phục hơn là Thiên Chúa yêu thương con người. Thánh Gioan Tông đồ đã nói lên lý do ấy: ”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”(Ga 3,16).
Như vậy, vì yêu thương Thiên Chúa đã ban Đức Giêsu cho nhân loại như một quà tặng. Tặng quà là một nghĩa cử cao đẹp của người tặng cho người được trao tặng, nó nói lên tình yêu của người trao tặng đối với người được trao tặng. Đức Giêsu là quà tặng vô cùng quí giá nói lên tình Chúa thương yêu nhân loại đến mức nào ! Chúng ta hãy tỏ lòng tri ân đối với Thiên Chúa trong dịp Giáng sinh này, vì Ngài đã không tiếc gì đối với thế gian đến nỗi đã hy sinh Con Một của Ngài để cứu chuộc nhận loại.
Đáp lại tình yêu bao la của Thiên Chúa, chúng ta cũng phải trở nên quà tặng cho tha nhân vì “đã lành nhận nhưng không thì cũng phải cho đi nhưng không”(Mt 10,8). Cuộc sống sẽ luôn thi vị nếu còn mãi những nghĩa cử tặng quà. Không ai nghèo nàn đến nỗi không có gì để trao ban, trái lại, ai cũng có gì để trao tặng trong đời sống vật chất cũng như tinh thần. Lễ Giáng sinh là dịp để chúng ta thể hiện tinh thần hy sinh và dâng hiến: ”Mình vì mọi người”.
Nhìn lại lịch sử đã hơn 2000 năm từ ngày Chúa giáng sinh có biết bao người đã từng mừng lễ Noel, nhưng họ đã không một lần gặp được Chúa Hài Đồng, dường như họ coi lễ Noel là dịp để được nghỉ ngơi, vui chơi, mua sắm… còn mầu nhiệm Giáng sinh không liên quan gì đến họ cả. Hôm nay chúng ta hãy dừng lại để chiêm ngắm Chúa Hài Đồng và tìm ra ý nghĩa của ngày lễ: Giáng sinh là lễ của Tình thương, Chúa giáng trần không có lý do nào khác ngoài việc Chúa thương yêu nhân loại.
I. NGÔI HAI GIÁNG TRẦN VÌ YÊU THƯƠNG
1. Tội nguyên tổ và lời hứa
Nhìn ngược dòng lịch sử của con người, Thiên Chúa đã dựng nên những con người đầu tiên là Adong và Evà. Thiên Chúa đã ban cho ông bà được làm con Thiên Chúa, sống trong vườn địa đàng, được hưởng một hạnh phúc tràn đầy cả hồn lẫn xác. Tuy con người được Chúa thương như thế, nhưng cũng phải chịu thử thách để biết lòng trung thành.
Thiên Chúa cho ông bà được thoải mái hưởng dùng tất cả những gì Ngài đã dựng nên, chỉ trừ quả cây biết lành biết dữ, nếu ăn vào sẽ phải chết. Nhưng ông bà đã nghe theo lười khuyên nhủ đường mật của con rắn là ma quỉ đã cố tình ăn quả cấm đó. Ông bà đã bị phạt: mất quyền làm con Chúa, mất mọi đặc ân và sau cùng phải chết.
Sau khi ông bà nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã tuyên án ông bà phải chết trong tội, nhưng đồng thời Thiên Chúa hứa sẽ ban Đấng Cứu Thế đến để cứu họ, khi lên án Satan: ”Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15).
Trước Thiên Chúa Giáng sinh 700 năm, tiên tri Isaia đã loan báo Tin mừng: ”Nghe đây hỡi nhà Đavít: các người làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa ? Vì vậy, chính Chúa thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu lạ, này đây, người trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ con trai và đặt tên là Emmanuel”(Is 7,13-14).
Lời hứa của Thiên Chúa được lặp đi lặp lại và sau mỗi lần lặp lại lời hứa, hình ảnh Đấng Cứu Thế lại rõ nét hơn.
Trong lời hứa với vua Đavít, khi vua muốn xây đền thờ cho Chúa, Chúa cho biết Đấng Cứu Thế thuộc dòng họ Đavít: ”Khi ngày đời ngươi đã mãn và ngươi đã nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi lên kế vị ngươi, một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền của nó được vững bền. Đối với nó, Ta sẽ là Cha, đối với Ta nó sẽ là con”(2Sm 7,12-14).
Và trong lời hứa với vua Akhaz, Chúa đã cho biết Đấng Cứu Thế, con vua Đavít được gọi là Emmanuel, nghĩa là: ”Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Thật vậy, vào năm 735 trước công nguyên, khi thấy đất nước Giuđa bị lân bang đe dọa, vua Akhaz đã cầu viện đế quốc Assyri chứ không tin vào sự hỗ trợ của Thiên Chúa. Trong hoàn cảnh này, Thiên Chúa vẫn tỏ ra là Đấng trung tín, luôn giữ lời hứa, khi cho vua Akhaz một dấu chỉ: ”Này đây người trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Emmanuel, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.
2. Thiên Chúa thực hiện lời hứa
Sau 4000 năm dân Do thái sống trong đau khổ, trong khóc lóc than van, kêu xin Đấng Cứu Thế đến giải thoát dân Ngài: ”Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa đấng cứu đời”. Dân chúng vẫn sống trong hy vọng và chờ đợi Thiên Chúa thực hiện lời hứa.
Dấu chỉ Thiên Chúa ban cho vua Akhaz vào thế kỷ thứ 8 trước công nguyên được thực hiện khi thời gian tới hồi viên mãn. Hy vọng mấy ngàn năm của người Do thái đã trở thành hiện thực qua sắc lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô: theo sắc lệnh ấy, toàn dân phải về quê mình khai hộ khẩu. Ông Giuse và bà Maria đang mang thai vội vàng về Be lem thi hành sắc lệnh. Vì về muộn lại không có tiền, nên hai ông bà phải qua đêm ngoài thành trong một hang chứa súc vật, và tại nơi đây “Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ”(Lc 2,7).
Như vậy, Hài nhi bé bỏng do Đức trinh nữ Maria sinh hạ, được cuốn tã, đặt nằm trong máng cỏ, được gọi là Emmanuel (Mt 1,23), là Con Thiên Chúa (Gl 1,4) mà hôm nay chúng ta tôn thờ, chính là Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng đã có từ đời đời, luôn ở với Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành và ở giữa chúng ta, để làm cho ta nên con Thiên Chúa.
Như thế, Đức Giêsu không phải là tiên tri nhân danh Thiên Chúa mà đến với chúng ta, nhưng chính là Thiên Chúa đích thân nói và cứu độ chúng ta. Nhìn vào cuộc đời Đức Giêsu, chúng nhận thấy Thiên Chúa ở rất gần con người để gặp gỡ, thiết lập quan hệ ngay tại nơi con người đang sinh sống. Thiên Chúa tạo quan hệ để con người có thể trao đổi với Người. Thiên Chúa tự liên đới với con người, tự ràng buộc vào số phận con người, nhờ đó Thiên Chúa cứu được con người.
3. Lý do việc Thiên Chúa giang trần: Tình thương
Chúng ta thắc mắc đặt câu hỏi: Tại sao Thiên Chúa lại giáng trần trong hoàn cảnh bi đát như vậy ? Chắc chúng ta cũng kiếm ra được một số lý do, nhưng lý do có sức thuết phục nhất là vì Chúa yêu thương nhân loại.
Công đồng Vatican II, trong Hiến chế “Vui mừng và Hy vọng” đã cho chúng ta biết: ”Thiên Chúa nhập thể và nhập thế là vì Ngài muốn sống cuộc sống nhân loại, để hành động với bàn tay nhân loại, để suy tư với một trí óc nhân loại, để yêu thương với một trái tim nhân loại”(Gaudium et Spes, số 22). Như vậy, Chúa nhập thể và nhập thế chỉ vì Chúa yêu thương con người
Nói đến tình yêu là nói đến gặp gỡ và chia sẻ. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã xuống thế để gặp gỡ con người hầu cho đất trời gặp nhau, để Thiên Chúa làm người và con người trở nên Thiên Chúa ! Ngài đến để cùng chia sẻ kiếp sống với con người để Ngài cùng vui cùng buồn, cùng sướng cùng khổ với chúng ta để đem lại cho cuộc sống chúng ta một ý nghĩa.
Chúng ta hãy nghe thánh Augustinô nói về mầu nhiệm tình yêu này: ”Vì các bạn mà Thiên Chúa đã làm người. Các bạn sẽ phải chết muôn đời, nếu Ngài đã không sinh ra trong thời gian. Các bạn sẽ chẳng bao giờ được giải thoát khỏi xác thịt tội lỗi, nếu Ngài không chấp nhận mang xác thịt tội lỗi của các bạn. Các bạn sẽ chẳng tìm được sự sống, nếu Ngài đã chẳng chết như các bạn. Các bạn sẽ phải tiêu vong, nếu như Ngài không đến”.
Nói tóm lại, Thiên Chúa yêu thương con người nên đã làm người. Đấng làm người ấy mang tên là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài đã đến để gặp gỡ, để chung sống, để đồng hành, để chia sẻ cuộc đời với chúng ta. Ngài là Thiên Chúa, nhưng đã trở thành anh em với nhân loại, không những để cùng suy tư, hành động với con người, nhưng còn để hướng dẫn những suy tư và hành động của con người tới sự hoàn thiện của Thiên Chúa.
II. ĐỨC GIÊSU, QUÀ TẶNG CHO NHÂN LOẠI
Lễ Giáng sinh là ngày mừng biến cố Con Thiên Chúa nhập thể làm người. Nhưng Giáng sinh cũng là ngày lễ của quà tặng. Đây là dịp cuối năm người ta thường tặng cho nhau những cánh thiệp, những món quà. Kèm theo những món quà người ta còn gửi đến cho nhau những thông điệp chúc mừng. Quà tặng chuyên chở tấm lòng yêu thương của người tặng. Có những món quà đơn sơ nhỏ bé. Có những món quà mà người ta phải tốn một số tiền lớn để mua nó. Một quà tặng được chuyển đi là dấu hiệu người ta còn nhớ đến nhau. Bạn bè tặng quà cho nhau, những người yêu tặng quà cho nhau, cha mẹ tặng quà cho con cái, món quà sẽ vô nghĩa nếu không có người tặng.
Trong lễ Giáng sinh hôm nay, chúng ta nói đến một món quà tặng khác giá trị hơn. Quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho con người. Thật vậy, Đức Giêsu là quà tặng của Thiên Chúa gửi đến cho nhân loại: ”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”(Ga 3,16). Ngài đem đến cho chúng ta một thông điệp vàng từ Thiên Chúa, là Thiên Chúa mãi trung thành yêu thương con người, cho dù con người có từ khước Ngài.
Đức Giêsu là quà tặng của Thiên Chúa đến cho mọi người để Ngài trở nên Emmanuel, để Ngài luôn hiện diện mà chia sẻ thân phận con người với chúng ta. Từ ngữ Present tiếng Anh có nghĩa là “quà tặng”, lại có nghĩa là “sự hiện diện”. Mỗi người bằng sự có mặt của mình ở nơi cần đến, đã là món quà giản dị dành tặng cho nhau.
Nhân vật trung tâm của lễ Giáng sinh hôm nay là một trẻ thơ vừa mới sinh. Một trẻ thơ như bao trẻ thơ khác trên trần thế. Một trẻ thơ bình thường sinh trong một gia đình êm ấm hạnh phúc, có cha mẹ, bà con gia tộc và quê hương đất nước. Phần lớn trong số họ chỉ là nghững người nghèo nhất trong xã hội. Thế mà họ được đón nhận một Tin mừng lớn lao của toàn thể nhân loại. Họ vinh dự đón nhận quà tặng của Thiên Chúa: ”Hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em, trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô là Đức Chúa”(Lc 2,11).
Nhân loại hãy nhìn vào Tình yêu trong mầu nhiệm Nhập thể để học lấy cho mình bài học quí giá: Thiên Chúa đã phó mình cho trần gian. Vì nơi Thiên Chúa, yêu là tự hiến, là hủy mình. Có hiểu hết sự tự hiến và hủy mình vì yêu thương trong mầu nhiệm Nhập thể, chúng ta mới có thể hiểu được làm sao một vì Thiên Chúa cao sang là thế, uy quyền là thế, mạnh mẽ và lớn lao khôn cùng, lại có thể hóa nên một con người bé nhỏ, yếu ớt, mong manh như vậy. Có hiểu được một tình yêu tự hiến đến mức hủy mình, ta mới hiểu được làm sao Thiên Chúa lại trở nên trần trụi và nghèo nàn đến thế. Và Hài nhi Giêsu này sẽ tiếp tục hy sinh trên thập giá để cứu rỗi nhân loại.
Truyện: Xin vì đứa trẻ vô tội nay.
Lịch sử truyền giáo viễn đông có kể rằng: Khi đề đốc Magellan dẫn một đạo thuyền đi về viễn đông thì gặp nạn. Một trận cuồng phong đánh chìm tất cả đạo thuyền, chỉ còn lại con thuyền của đề đốc đang bồng bềnh chống chọi với ba đào sóng gió. Trên thuyền mọi người thủy thủ và hành khách đã họp lại tất cả trên cầu tầu để chờ chết.
Đứng giữa đoàn người thất vọng, đề đốc Magellan như có một ơn soi sáng, ông nhìn thấy bên cạnh có một bà mẹ ẵm một đứa con thơ ấp ủ trên lòng. Đề đốc xin bà mẹ cho mình đứa con. Rồi ông cầm đứa bé trong tay giơ lên, mắt ngước về trời và nói: ”Lạy Chúa, con và đoàn người đây đều là kẻ tội lỗi đang chết chìm trong vực thẳm này. Nhưng xin Chúa vì đứa trẻ vô tội này mà tha thứ cho chúng con”. Lịch sử kể lại rằng, khi cầu nguyện xong câu đó thì gió yên và biển lặng.
III. CHÚNG TA LÀ QUÀ TẶNG CHO THA NHÂN
Mầu nhiệm nhập thể chỉ có thể hiểu được qua Tình yêu. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã làm người. Ngài thấu hiểu nỗi khao khát một Đấng Cúu thế của dân tộc Israel. Bao nhiêu năm trời mong đợi, hôm nay Đấng Cứu thế đã giáng sinh. Đức Giêsu là quà tặng vô giá của tình yêu Thiên Chúa gửi đến cho con người. Quà tặng mang tên Giêsu trải qua hơn 2000 năm đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đức Giêsu đang đến với con người hằng ngày từng giây từng phút của đời sống vượt qua không gian và thời gian.
Đón nhận quà tặng vô giá là chính Chúa Giêsu, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa đích thực của quà tặng. Theo gương Chúa Giêsu chúng ta cũng phải là quà tặng cho anh em mình.
Trong dịp lễ Giáng sinh chúng ta thường mua những món quà đắt tiền để tặng nhau, tuy nhiên giá trị của quà tặng lại tùy thuộc vào tấm lòng của người tặng quà. Người ta thường nói: ”Vật khinh nhưng hình trọng” hoặc “Của một đồng công một nén”(Tục ngữ). Chân phước Têrêsa Calcutta nói: ”Khi ta trao tặng một món quà, mà nếu là một mất mát hy sinh lớn đối với ta, thì đó mới thật là món quà”.
Trong kho tàng văn chương Việt nam, người ta đã nói lên ý tưởng trao ban trong Ca dao: Yêu nhau cởi áo cho nhau Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay.
Tình yêu không phải là một cuộc trao đổi có tính toán sòng phẳng, sao cho đôi bên cùng có lợi, mà là một sự chia sẻ vô vị lợi; hay nói đúng hơn, là một sự trao tặng, dâng hiến.
Ông Lézard nói: ”Yêu… Bạn có biết từ ấy có nghĩa gì không ? Có bao nhiêu cách yêu, nhưng duy chỉ có một là tốt. Đó là trao ban, và trao mãi, mà không lấy lại gì, không chờ đợi gì, không xin xỏ gì. Đó là cách phải yêu”.
Ông Roger Godel cũng nói: ”Tình yêu đích thực sở dĩ nhận được là nhờ nơi dấu hiệu không bao giờ sai lầm này: nó dâng tặng mà không hề mong nhận được cái gì cả”.
Cuộc sống sẽ luôn thi vị nếu còn mãi những nghĩa cử tặng quà. Cũng như cuộc sống không thể vắng bóng tinh thần trao ban. Đó có thể là chúng ta biết dành thời giờ để thăm hỏi, gặp gỡ bà con thân thuộc, người cùng khu xóm và bạn bè. Khi chúng ta biết rộng lòng giúp đỡ vật chất cho những người nghèo, những nạn nhân của thiên tai lũ lụt. Khi chúng ta biết tặng cho những người mình yêu như cha mẹ, anh em, bạn bè, người yêu những món quà bất ngờ thắm thiết tình người.
Truyện: Món quà giáng sinh
Một đôi vợ chồng trẻ, Gim và Đêla, tuy nghèo tiền của nhưng giầu tình thương đối với nhau.
Giáng sinh sắp tới, Đêla tự hỏi phải tặng Gim món quà gì đây. Nàng muốn tặng chàng sợi dây cho chiếc đồng hồ của chàng, nhưng nàng không có đủ tiền để mua. Vì thế nàng nảy sinh một sáng kiến. Nàng có một bộ tóc dài rất đẹp, nàng rất quí nó và rất hãnh diện về nó. Nàng quyết định cắt ngắn bộ tóc và đem bán để mua cho Gim sợi dây đồng hồ.
Hôm áp lễ Giáng sinh, từ phố về nàng cầm trong tay một chiếc hộp rất đẹp đựng sợi dây đồng hồ mạ vàng mà nàng vừa sắm được bằng mái tóc của mình. Bỗng nhiên Đêla cảm thấy lo lắng. Nàng biết Gim rất quí bộ tóc dài của nàng. Nàng tự hỏi không biết Gim có buồn vì nàng cắt và bán nó đi không ?
Về tới nhà, Đêla mở cửa và thấy Gim đang đợi nàng. Tay chàng cầm một cái hộp thật đẹp đựng món quà chàng mới mua cho nàng. Khi nhìn thấy mái tóc ngắn của vợ, Gim như muốn khóc, nhưng chàng không nói gì cả. Cố trấn tĩnh, chàng trao tặng nàng chiếc hộp xinh xắn. Mở hộp ra, Đêla rất đỗi bàng hoàng. Trong hộp là một bộ lược chải tóc bằng xà cừ rất đẹp. Còn chàng, khi mở món quà vừa nhận được từ tay vợ, Gim cũng ngỡ ngàng không kém.
Chính lúc đó, Đêla mới nhận ra rằng Gim đã bán chiếc đồng hồ vàng, món đồ quí nhất của anh, để mua lược chải tóc cho nàng. Phút chốc cả hai đều hiểu rằng họ đã tặng nhau những gì quí giá nhất, họ đã hy sinh tất cả cho nhau (Wahrreit, Món quà Giáng sinh, tr 9-10).
Chúng ta có thể nói: Giáng sinh là lễ của tình thương. Thánh Anphonsô cũng nói: ”Lễ Giáng sinh là lễ của Tình thương”. Và thánh nhân cả tuần ngồi ăn cơm dưới đất. Còn thánh Phanxicô Khó khăn thì trong một lễ Giáng sinh đã quì trước hang đá cầu nguyện. Ngài cảm thấy tâm hồn tràn ngập tình yêu mến. Không chịu được, ngài chạy ra các đường phố Assisi và kêu lên: ”Anh chị em hãy yêu mến Chúa Hài Đồng, hãy yêu mến Chúa Hài Đồng”.
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng ! Đêm nay Chúa sinh ra làm người là một tin mừng trọng đại cho toàn nhân loại. Đứng trước Mầu nhiệm Nhập thể chúng con chỉ biết cảm tạ ngợi khen và chúc tụng Chúa. Vì tình Chúa yêu thương nhân loại là vô bờ bến thì làm sao chúng con có thể diễn tả bằng lời. Xin Chúa dạy chúng con biết trao ban cuộc sống cho tha nhân theo gương Chúa, để suốt cuộc đời chúng con biết sống mình vì mọi người và vì ích chung, ngõ hầu xứng đáng là những người được Chúa cứu chuộc.. Amen.
"Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta".
Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Ðây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Ðavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Ðavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.
Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán.
Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: "Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Ðavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ".
Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: "Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm".
SUY NIỆM:
Hết thảy chúng ta hãy mở lòng đón nhận lời chúc mừng lễ Chúa Giáng Sinh, mà Thiên Chúa: GS-243
Hết thảy chúng ta hãy mở lòng đón nhận lời chúc mừng lễ Chúa Giáng Sinh, mà Thiên Chúa vừa gửi đến trong câu cuối cùng bài Tin Mừng. Phải có sự bình an của Chúa mới hiểu được ngày lễ hôm nay; và nhất là mới nhận được nhiều ơn của Chúa Giáng Sinh.
Thật vậy, chúng ta muốn mừng lễ này thật long trọng, nhưng vẫn phải đứng trước một máng cỏ nghèo nàn; Chúng ta muốn trang hoàng hang đá này thật lộng lẫy, nhưng vẫn thấy Chúa sinh ra thật đơn sơ. Dường như có một sự nghịch thường sâu sắc trong việc Chúa Giáng sinh và trong thánh lễ này. Và nếu không nhận được sự bình an của Chúa, lòng chúng ta không thể nào thấm thía được mầu nhiệm Giáng sinh.
Tuy nhiên cũng phải nói ngược lại, có hiểu được ý nghĩa của ngày lễ hôm nay, chúng ta mới đón nhận được lời chúc bình an quý hóa của Thiên Thần. Là vì đối với tất cả những việc có hệ đến Thiên Chúa phải có ơn Người giúp đỡ thì người ta mới hiểu được! Và khi hiểu được, người ta mới nhận được đầy đủ ơn của Người.
Thế nên chúng ta cầu xin ơn bình an của Chúa để nhờ các bài đọc Thánh Kinh tìm hiểu việc Chúa Giáng sinh; để rồi nhờ đó chúng ta được thêm ơn bình an là nguồn mọi ơn cao cả khác mà Chúa Giáng sinh muốn ban cho tất cả chúng ta trong dịp này.
1. Một Trẻ Ðã Sinh Ra
Chúng ta tự nhiên muốn nhìn thẳng vào hang đá máng cỏ để tìm hiểu việc Chúa Giáng sinh. Nhưng nếu làm như vậy, chúng ta sẽ liều chẳng nhìn thấy gì cả, hay chẳng nhìn được bao nhiêu. Cùng lắm, như một cái máy vô hình, mắt chúng ta sẽ thấy một hài nhi vừa sinh, được bọc trong khăn và nơi máng cỏ, có hai ông bà ở gần mà người ta nghĩ là cha mẹ hài nhi. Rồi có may mắn nhất thì người ta cũng chỉ còn xem thấy một đám mục đồng đến ngó xem cảnh tượng đản sinh khác thường này.
Phải, nếu không được hướng dẫn trước, người ta chỉ nhìn thấy có bấy nhiêu. Và cảnh tượng xem thấy sẽ gợi lên nhiều nhất vài cảm nghĩ tự nhiên hoặc thương hại một gia đình khó nghèo, hoặc có cảm tình với em bé vừa sinh. Chẳng có gì độc đáo và quan trọng lắm trong tất cả những điều đã mắt thấy, tai nghe và cảm nghĩ như vậy.
Nhưng nếu nhìn quang cảnh đản sinh kia trong tất cả lịch sử cứu độ, nếu đọc chuyện Ðức Giêsu giáng sinh trong toàn bộ Cựu và Tân Ước, chúng ta sẽ thấy mọi sự trở nên khác hẳn. Ðây vừa là kết quả của nhiều nghìn năm lịch sử chuẩn bị, vừa là khởi sự của nhiều thời đại về sau. Phụng vụ chọn lúc nửa đêm để cử hành thánh lễ này cũng có ý nói lên niềm tin ấy. Việc Ðức Giêsu Giáng sinh kết thúc đạo cũ và khai mạc đạo mới.
Thế nên chúng ta phải nhờ tiếng nói của đạo cũ dẫn tới hang đá máng cỏ và nhờ tiếng nói của đạo mới để nhận ra ý nghĩa của cuộc đản sinh này.
Hôm nay, tiếng nói của đạo cũ là một bài sách Isaia. Nhà tiên tri này sống trước sự kiện lịch sử chúng ta kính nhớ hôm nay những 600 năm. Thế mà lời của ông có vẻ rất thích hợp với việc đản sinh của hài nhi thành Bêlem. Sự thật, bấy giờ ông đang sống ở một thời đại rất bấp bênh của lịch sử dân Chúa. Nhiều tỉnh trong nước Do Thái đã bị đế quốc Assyri xâm chiếm và tàn phá. Dân chúng như phải đi trong tối tăm. Ở các tỉnh còn lại người ta lo sợ như đang sống trong sự hãi hùng của tử thần. Và triều đình Do Thái lúng túng cãi cọ chẳng biết nên cầu viện và liên minh với lực lượng ngoại bang nào.
Chính lúc đen tối sợ hãi ấy, nhà tiên tri đã lên tiếng. Ông chẳng nói gì khác niềm tin, niềm tin cổ truyền vào lòng trung tín của Thiên Chúa sẽ giữ lời giao ước. Người sẽ chẳng bỏ dân cho dù dân bất nghĩa. Tình trạng hiện nay cho thấy Người đang phạt họ, nhưng rồi Người sẽ thương, sẽ cứu. Bấy giờ, dân đi trong tăm tối đã nhìn thấy một ánh sáng lớn. Trên những kẻ ở xứ âm u, một ánh sáng đã rạng ngời.
Ðức tin của nhà tiên tri vững vàng đến nỗi, sự việc sẽ xảy đến trong tương lai mà ông như đã nhìn thấy rồi. Ông thấy ơn cứu độ đã đến cho dân Chúa đang tối tăm mặt mũi vì hoạn nạn đau khổ và đang hãi hùng trong tình hình âm u. Ơn cứu độ ấy như một ánh sáng lớn đến xua đuổi tối tăm và âm u. Hơn nữa đó là một Hoàng đế cứu tinh vĩ đại, vì người Ðông phương vẫn quen ví bậc vua chúa như mặt trời và ánh sáng.
Với sự xuất hiện của ánh sáng ấy và của vị Hoàng đế ấy, Chúa ban cho dân được niềm vui lớn, như khi được mùa và như khi đại thắng.
Biết rằng dân đang khao khát một cuộc chiến thắng, nhà tiên tri dừng lại ở đây để quảng diễn ơn Chúa cứu độ như một cuộc thắng trận chưa từng thấy. Không những mọi ách xâm lược, mọi thồ trên vai, một roi đốc công sẽ bị đập tan tành, mà giầy trận chiến bào sẽ bị đốt tàn rụi, để không bao giờ còn chinh chiến đổ máu nữa. Isaia đã dùng hình ảnh ngày chiến thắng quân Mađian kể trong sách Thẩm phán (c. 7-8) để so sánh vừa để nói lên tính cách đại thắng, vừa để khẳng định đó là việc do quyền năng Chúa làm cho kẻ yếu đuối khiêm cung. Hơn nữa, chiến thắng ở Mađian đã dẫn đến ý kiến muốn có một triều đại, một vị hoàng đế thay thế chế độ thẩm phán. Isaia hẳn đã muốn gợi lại câu chuyện này để giới thiệu vị Hoàng đế cứu tinh mà Thiên Chúa sẽ gởi đến cho dân, như trên kia ông đã dùng hình ảnh ánh sáng để nói đến nhà Vua sắp xuất hiện.
Là vì theo Isaia, Thiên Chúa sẽ giải cứu dân lần này nhờ một vị hoàng đế mới. Lời văn có vẻ mô tả việc đản sinh của Ngài vì tác giả viết: Một trẻ đã sinh ra cho ta... Vai Ngài, đỡ lấy quyền bính. Nhưng thật sự Isaia muốn nói đến ngày Ngài lên Ngôi, mà các dân Ðông phương vẫn coi là ngày sinh ra một triều đại, một vị vua mới. Và cũng chính trong ngày lên ngôi báu mà nhà Vua công bố tước hiệu Ngài đã chọn. Ở đây, Isaia gán cho vị hoàng đế cứu tinh mọi danh xưng quý hóa nhất đối với lòng người dân Chúa. Ngài là Mưu sư kỳ lạ, vì có khôn ngoan siêu việt như Salômon; Ngài là Thần anh hùng vì có sức mạnh siêu phàm như Ðavít; Ngài là Cha đời đời, như chính Thiên Chúa. Ngài là Vua bình an như Ðấng Thiên Sai muôn dân trông đợi.
Chúng ta có thể tự hỏi: sao Isaia không nói thêm một danh xưng nữa cho đủ năm danh xưng theo kiểu các Hoàng đế Ai Cập thời bấy giờ? Hay là ông muốn nhắc chúng ta nhớ lại điều ông đã viết trước đây trong chương 7. Trẻ đã sinh ra cho ta đó có tên là Emmanuen, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Dù sao những điều ông viết tiếp theo về vị hoàng đế cứu tinh có quyền bính bao la và bình an vô tận trên ngai Ðavít, cũng như làm cho đất nước được kiên cố nhờ công minh đức nghĩa đến muôn đời, làm chúng ta nghĩ rằng vị hoàng đế phải siêu phàm, gần như, nếu không phải là giống như Thiên Chúa.
Như vậy, bài tiên tri Isaia hôm nay ít nhất đã loan báo cho chúng ta biết: trẻ sinh ra cứu đời sẽ là một vị hoàng đế mới, đến chấm dứt chiến tranh đau khổ và thiết lập thời đại hòa bình đức nghĩa. Chắc chắn chẳng một vị vua Do Thái nào đã tỏ ra xứng đáng với lời tiên tri ấy. Và do đó, dân Cựu Ước đã đặt tất cả hy vọng vào Ðấng Thiên Sai cứu thế sau này. Hôm nay, Hội Thánh chúng ta nói rằng Ngài đã đến nơi hài nhi thành Bêlem. Có thể như vậy được không. Trẻ mới sinh được bọc trong khăn đặt nằm nơi máng ăn của súc vật là hoàng đế cứu tinh ư? Bề ngoài không thể như vậy, nhưng thật sự lại là thế. Ðó là điều mà bài Tin Mừng Luca hôm nay muốn khẳng định với chúng ta. Chúng ta hãy tìm hiểu.
2. Ðấng Cứu Thế Ðã Ra Ðời
Bản văn được cấu tạo với hai phần rõ rệt. Phần đầu như mô tả một cách chân thực việc sinh ra khó nghèo của hài nhi; còn phần sau nói đến vinh quang cao cả của Ngài. Những ai quen đọc Thánh Kinh có thể thấy ngay đó cũng là một lối trình bày mầu nhiệm Tử nạn và phục sinh. Và nhà thần học thâm thúy có thể nói rằng tác giả Luca đã muốn diễn tả bản tính nhân loại và bản tính Thiên Chúa nơi hài nhi vừa sinh.
Câu mở đầu rất ý nghĩa: "Trong những ngày ấy, Hoàng đế Augustô ra sắc chỉ ban hành lệnh kiểm tra toàn thể thiên hạ". Dĩ nhiên Luca muốn tỏ ra mình là một sử gia, viết chuyện có niên hiệu chắc chắn. Nhưng không phải vô cớ mà ông đã không viết đích danh Hoàng đế là Octavô, mà chỉ ghi tước hiệu của Ngài là Augustô, một danh xưng xực mùi tự phụ coi mình là thiên tử. Luca muốn nói rằng bấy giờ thiên hạ chỉ biết Hoàng đế là nhất, không còn ai trên Ngài nữa. Ngài đang ra lệnh cho toàn thể thiên hạ. Luca quá biết, đế quốc La Mã cho dù rất lớn vẫn không phải là cả thiên hạ. Và lệnh kiểm tra cũng chỉ hạn chế trong một số tỉnh nào thôi. Nhưng Luca muốn cho chúng ta một ấn tượng: thế giới bấy giờ đang ở dưới quyền một người. Quyền bính của ông thật lớn, đến nỗi ông tưởng mình là Augustô (thiên hoàng). Và như vậy hài nhi sắp sinh sẽ là gì ở trong thế giới và ở trước mặt vị hoàng đế ấy?
Trẻ mới sinh chẳng là gì cả, chúng ta có thể nói được như vậy. Ðến như cha mẹ hài nhi cũng thế. Giuse bấy giờ chỉ là người thuộc xứ Galilê ở Nazaret, là những địa danh chỉ gợi lên lòng khinh bỉ của người Do Thái vì đó là những nơi đầy dân ngoại khác hẳn với xứ Giuđê thành Giêrusalem là các trung tâm của tôn giáo mạc khải. Còn ai biết Giuse là dòng họ Ðavit và có gốc gác ở Bêlem nữa? Maira chỉ là một bà đang thai nghén trên đường về quê khai lý lịch. Hai người đã không tìm được chỗ trọ trong quán; mà buổi lâm bồn của Maria thì đã đến. Họ phải đưa nhau ra một hang súc vật ngoài đồng vắng. Và sinh con rồi, Maria bọc trẻ đem đặt nơi máng ăn của súc vật, báo trước sau này lớn lên Ðức Giêsu sẽ chẳng có nơi gối đầu.
Chúng ta chẳng cần đi thêm vào chi tiết. Rõ ràng hài nhi đã sinh ra rất khó nghèo. Chưa ai đã sinh ra trong một hoàn cảnh như thế. Gioan Tẩy Giả vị tiền hô của Chúa, đã ra đời trong cảnh "trướng rũ màn che" hạnh phúc hơn nhiều. Ấy là chưa kể cái lịnh kiểm tra của Hoàng đế, diễn tả uy quyền của ông, như đang đè xuống nơi máng cỏ nghèo hèn này.
Tuy nhiên trên nền ảnh mờ tối kia của cảnh hang đá máng cỏ, Luca cũng đã điểm những chấm sáng không thể bỏ qua. Ðó là dòng máu Ðavit trong con người Giuse; là tư cách "đính hôn" của Maria, tức là sự cưu mang đồng trinh của Người; và là điểm Con đầu lòng nói về hài nhi. Luca quá biết hài nhi là Con Một của Maria; nhưng từ ngữ "Con Một" đã có một công dụng khác trong ngữ vựng Kitô giáo. Nó dùng để nói Chúa Giêsu là Con Một của Thiên Chúa. Ở đây Luca dùng kiểu nói "Con đầu lòng" để làm âm vang truyền thống đạo đức của Thánh Kinh, bởi vì nơi dân Do Thái, mọi con đầu lòng đều thuộc về Chúa để nhớ ơn Người đã cứu con cái Israen khi các con đầu lòng của người Ai Cập bị sát hại. Ðàng khác từ ngữ "Con đầu lòng" còn dùng để nói về toàn thể dân Chúa là con đầu lòng giữa mọi dân nước mà Chúa đã dựng nên. Nó cũng gợi đến mầu nhiệm phục sinh sau này vì Chúa sống lại là "trưởng tử" giữa các vong nhân.
Và như vậy trong cuộc đản sinh khó nghèo nơi máng cỏ, đã có những điểm sáng lớn chờ ngày rực lên át hẳn vẻ huy hoàng của thế gian, biểu hiện nơi uy quyền của hoàng đế Augustô trong câu chuyện này.
Tác giả Luca hôm nay muốn báo trước thời đại rực rỡ của Hài nhi trong phần sau của bài tường thuật. Thiên Thần Chúa bỗng đã hiện đến bên đám mục đồng đang canh giữ chiên lúc đêm khuya. Lập tức họ được bọc trong ánh sáng của vinh quang Chúa. Sự cao cả của Người đã "chụp" lấy họ khiến họ hãi hùng, không phải sự hãi hùng làm họ có thể chết đi, nhưng là sự hãi hùng kéo họ ra khỏi nếp sống tầm thường và đưa họ lên thế giới siêu việt. Thế nên họ đã được trấn an tức khắc: "Ðừng sợ, này ta đem tin vui cho các ngươi về một niềm vui to lớn, tức là niềm vui cho toàn dân..." Trong ngôn ngữ của Thánh Kinh, những lời này chỉ được dùng để loan báo ơn cứu độ.
Quả vậy, niềm vui cho toàn dân chỉ có thể là sự giải cứu mà các tiên tri từng loan báo, là lời hứa mà bài sách Isaia trên kia chẳng hạn khẳng định rằng sẽ thực hiện trong ngày Chúa viếng thăm dân Người. Hôm nay, niềm vui ấy đã đến vì Cứu Chúa đã sinh ra. Ngài là Ðức Kitô Chúa. Ngài vừa sinh trong thành của Ðavít.
Ðám mục đồng có hiểu được những lời ấy không? Hài nhi được giới thiệu không những là Cứu thế và là Kitô, những danh xưng đã quen thuộc trong Cựu Ước; nhưng còn là Chúa nữa. Danh xưng này phải đợi sau mầu nhiệm Phục sinh - Lên trời - Hiện xuống mới gặp thấy nơi các tín hữu của Chúa Giêsu. Họ chúc tụng Ngài là Kitô và là Chúa. Họ tuyên xưng Ðức Kitô bây giờ là Chúa ở bên hữu Thiên Chúa Cha. Và với danh hiệu này, Ngài vượt trên hết mọi loài dưới đất và trên trời. Tước hiệu Augustô bấy giờ còn có nghĩa gì nữa đâu!
Sự cao cả của Hài nhi là ở chỗ đó. Ngài là Chúa, tức là Thiên Chúa. Thiên Thần đã công bố tước hiệu của Ngài ngay hôm nay khi Ngài sinh ra; chứ không như Octavô phải đợi đến khi chinh phục được cả thiên hạ rồi lên ngôi hoàng đế và bắt người ta phải xưng tụng mình là Augustô cũng có nghĩa là chúa. Ông lạm quyền, vì ông cũng chỉ là phàm nhân. Ðang khi hài nhi thành Bêlem, tuy quấn trong khăn, nằm nơi máng cỏ đã là Chúa từ bẩm sinh và từ bản tính. Tước hiệu hoàng đế chỉ theo sau xa xa vậy, khi người ta hiểu theo nghĩa thông thường Ngài thuộc dòng Ðavít.
Trái lại, vì là Chúa và chia sẻ quyền Thiên hoàng của Chúa Cha, Ngài được các thiên thần hợp đoàn đông đảo chúc tụng. "Vinh quang Thiên Chúa trên trời cao thẳm. Và dưới đất bình an cho kẻ Ngài thương". Ngài đến ban bình an cho mọi người dưới đất để ứng nghiệm sách Isaia chúng ta đã nghe đọc.
Như vậy, bài Tin Mừng Luca nói lên niềm tin sâu xa của cả Hội Thánh khi đứng trước hang đá máng cỏ. Bề ngoài mọi sự thật bình dị, khó nghèo và khổ sở nữa dưới sức mạnh của thế gian; nhưng rõ ràng đây là trẻ thánh mà Isaia đã tiên báo sẽ đem bình an đến cho mọi người. Các Tông đồ của Người không bao giờ phải sợ rao giảng Mầu nhiệm Thập giá; vì cũng như Luca hôm nay đã thấy vinh quang cao cả của Thiên Chúa đến ngay sau cảnh tượng đản sinh khó nghèo, thì sức mạnh của Chúa Phục sinh sẽ tỏ hiện trong sứ điệp thập giá. Luca đã dùng chữ "hôm nay" để nói rằng lúc này Chúa Cứu Thế còn đến với chúng ta và việc Giáng sinh của Ngài hiện tại vẫn có sức mạnh cho những ai đón nhận Ngài. Vậy, làm thế nào để hằng ngày vẫn nhận được ơn Ngài giáng sinh? Có lẽ bài thư gởi Titô có thể đem lại cho chúng ta một câu trả lời.
3. Chúng Ta Phải Ngóng Ðợi Cuộc Hiển Linh Của Chúa
Thánh Phaolô tác giả bài thơ đã quá biết: Ân sủng cứu độ của Thiên Chúa đã hiển linh cho mọi người rồi trong cuộc đản sinh và trong cuộc đời của Ðức Giêsu Kitô. Nhưng Người cũng biết rõ: Cuộc hiển linh ấy mới chỉ khởi sự. Nó còn phải đi tới chỗ vinh quang lớn lao trong ngày Chúa trở lại. Bây giờ chúng ta mới biết Ðức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa đã sinh ra làm người và đã thí mình vì ta để cứu chuộc ta khỏi mọi tội ác và tẩy rửa lấy cho mình một dân làm sở hữu là Hội Thánh; nhưng chúng ta chưa được thấy Ngài trong vinh quang Chúa Cha. Thế nên chúng ta phải ngóng đợi... Không phải một cách thụ động nhưng tích cực. Chúng ta phải nhìn vào cuộc đời của Ðức Giêsu Kitô để có thái độ đẹp lòng Ngài lúc Ngài lại đến. Thế mà Ngài đã dạy chúng ta từ bỏ lối sống vô đạo thất nghĩa với Thiên Chúa và lối sống chạy theo các đam mê trần tục, để sống điềm đạm, công chính và đạo đức nơi đời này. Do đó, chúng ta hãy biết chế ngự các đam mê để được điềm đạm; sống bác ái để nên công chính và thi hành đạo đức để đẹp lòng Chúa. Có như vậy chúng ta mới khỏi tội lỗi và được ở trong dân thánh sở hữu của Ngài để có ngày nhận được hy vọng hồng phúc Ngài hứa ban là nhìn thấy vinh quang lớn lao của Ngài mà ánh sáng đêm nay mới khởi sự...
Như vậy, chiêm ngưỡng Chúa Giáng sinh hôm nay, chỉ là để nhìn thấy nếp sống và đường lối của Người mà đi theo. Hơn nữa tham dự thánh lễ này là để rước Người vào giáng sinh ở nơi tâm hồn và đời sống chúng ta, nhờ đó chúng ta sẽ biết sống như Người. Và như thế để sau cuộc đời trần gian, bề ngoài có vẻ khó nghèo và khổ đau nhưng có ơn Người làm sức mạnh, chúng ta sẽ đi tới ngày hiển linh, vinh quang lớn lao của Người và của chúng ta. Bởi vì hôm nay Người đã giáng sinh là để kết hợp với những ai đón nhận Người và đưa họ tới vinh quang cao cả của Người đã có từ muôn thuở với Thiên Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Lễ Giáng sinh hôm nay vì thế chỉ là khởi đầu... Chúng ta hy vọng sẽ được cùng nhau đạt tới lễ rực rỡ huy hoàng vô tận sau này.
Mọi người có mặt trong Thánh lễ hôm nay, chắc chắn không ai xa lạ với Lễ Giáng Sinh. Ai: GS-244
Mọi người có mặt trong Thánh lễ hôm nay, chắc chắn không ai xa lạ với Lễ Giáng Sinh. Ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần tham dự Thánh Lễ này. Đặc biệt trong đêm nay, chúng ta hãy tìm hiểu ý nhgĩa sâu xa của ngày lễ trọng đại này. Và chúng ta hãy xem, biến cố lịch sử này có ảnh hưởng gì đến cuộc sống của chúng ta.
Tôi muốn khởi sự việc suy niệm này qua những bài kinh thành mà Giáo Hội chọn đọc trong Thánh Lễ đêm nay.
Trong bài đọc I, tiên tri Isaia loan báo về ngày mà Đấng cứu độ sẽ sinh ra để giải thoát nhân loại khỏi những áp bức, bất công và những đau khổ nhờ Đức Kitô.
Cũng nhờ Đức Giêsu Kitô, chúng ta được hưởng ơn cứu độ mà chúng ta hằng mong đợi. Đây là ý nghĩa chính mà Thánh Phaolô đã nói trong bài đọc II.
Còn Tin Mừng theo Thánh Luca, diễn tả lại hoàn cảnh sinh ra của Đức Giêsu và việc các Thiên thần loan tin vui này cho các mục tử.
Qua các bài kinh thánh, chúng ta có thể rút ra những bài học ý nghĩa cho đêm cực thánh này: Con người con người có một phẩm giá cao quý và cho dù trong bất cứ hoàn cảnh nào con người cũng không được làm tha hoá phẩm tính cao quý ấy.
Thánh Irênê thế kỷ thứ III đã nói: Thiên Chúa đã làm con người để cho con người làm Thiên Chúa. Chúa GIêsu làm người để cho chúng thấy được phẩm giá cao cả của con người. Chọn lựa sinh ra tronh hoàn cảnh nghèo hèn, thấp kém… Qua đó Ngài muốn nói với nhân loại rằng: Cái phẩm giá và giá trị đích thực của con người không nằm ở sự giàu sang, quyền thế. Sở dĩ con người có một phẩm giá cao trọng là bởi gì con người đượ dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Vì thế, dù sống trong cảnhöõng nghèo hèn, “mạc rệp” đến đâu trong bậc thang xã hội loài người thì mỗi người sinh ra trong cõi đời này đều có một phẩm giá độc đáo và bất khả xâm phạm,.
Thật vậy, Chúa Giêsu đã làm người để chúng ta thấy con người có một giá trị như thế nào. Nhiều khi trong cuộc sống có những lúc chán nản, thất vọng…vì gặp phải hoàn cảnh éo le, bất hạnh. Nhưng khi đó, chúng ta hãy suy gẫm về mầu nhiệm Giáng Sinh. Chính Thiên Chúa cũng làm người, chẳng những thế mà Ngài lại chọn một hoàn cảnh hết sức thấp kém, thấp kém đến nỗi mà người ta không nhận ra Ngài nên nhẫn tâm xua đuổi. Nhưng Chúa vượt qua tất cả, nhưng Ngài vượt qua không phải bằng sức mạnh của riêng mình mà nhờ kết hợp với Chúa Cha trong quyền năng của Chúa Thánh Thần. Vì thế, chúng ta cần phải sống đúng với phẩm giá của mìnhvà bên cạnh đó cũng phải biết tôn trọng phẩm giá của người khác.
Chúa Giêsu không những đến để bày tỏ phẩm giá cao cả ấy cho con người, mà Ngài còn vạch ra một hướng đi mới cho lịch sử nhân loại. Ngài cho thấy: chiến trang và hận thù chưa phải là tiếng nói cuối cùng của nhân loại. Và Ngài chỉ cho con người thấy một sức mạnh vạn năng đó là sức mạnh của tình yêu, chính tình yêu làm nên ý nghĩa cho cuộc sống, và cũng chính vì tình yêu mà Ngài Giáng Sinh. Vì thế, cuộc sống của chúng ta thật sự có ý nghĩa khi biết dấn thân chống lại tội ác và sự dữ để đấu tranh cho tình yêu và công lý.
Dù yếu đuối, bất toàn, nhưng mỗi người trong địa vị của mình đều có thể góp phần làm cho thế giới này trở thành một nơi đầy ý nghĩa, một nơi đáng để cho chúng ta sống vì nơi đó đầy ấp tiêng cười và tình thương.
Trong đêm thánh này, chúng ta hãy cố gắng manng lại cho người khác một tình thương và một niềm hy vọnng để họ có thể cảm nhận được hạnh phúc của cuộc sống này, của ơn gọi lạm người. Có như thế, chúng ta mới cảm nhận được niềm vui và sự bình an đích thực mà các Thiên Thần đã loan báo trong đêm Giáng Sinh.
Lễ Giáng Sinh không đến rồi lại qua đi theo thời gian nhưng vẫn ở mãi trong tâm hồn chúng ta nếu chúng ta nhìn nhận, tôn trong phẩm giá của mỗi tha nhân và cố gắng loại bỏ tính hẹp hòi ích kỷ nơi bản thân… Ước gì cuộc sống của chúng ta được thêu dệt bằng tình thương và sự tha thứ để lễ Giáng Sinh luôn là một đại lễ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho nhân loại.
“Một trẻ thơ đã chào đời cho chúng ta; một người con đã được ban tặng cho chúng ta…” (Is 9, 5)
Để tỏ sự thân thiện với nhau, người ta dùng cử chỉ tay bắt mặt mừng. Để tỏ lòng quí trọng: GS-245
Để tỏ sự thân thiện với nhau, người ta dùng cử chỉ tay bắt mặt mừng. Để tỏ lòng quí trọng nhau hơn nữa, người ta dùng quà cáp để tặng nhau. Có nhiều loại quà cáp, nhưng tựu trung có 4 loại chính: quà quí và quà thường – quà vô giá hay không vô giá… Trong tk 20, có một vị thánh là Cha Maximilien Kolbe đã chết thay cho bạn tù là anh Phanxicô Gajowniczed, trong trại tập trung của Đức quốc xã, năm 1941. Cái chết của cha đã trở nên Quà Tặng vô giá, không riêng cho anh tù này mà còn cho Hội Thánh Chúa Kitô nữa….
Việc Con Thiên Chúa sinh ra làm người, để rồi cuối cùng Ngài chết trên cây thánh giá vì nhân loại chúng ta, việc sinh ra này đã trở thành Quà Tặng vô giá cho nhân loại; vô giá không phải chỉ vì Tình Yêu, mà vô giá còn vì món quà này, có khả năng mang lại sự sống cho nhân loại nữa. Kính mời anh chị em cùng suy niệm.
a. Con Thiên Chúa được sinh ra cho nhân loại, trở thành Quà Tặng vô giá, vô giá vì nó đem lại sự sống cho nhân loại. Điều này đã được các tiên tri nói trước trong Cựu Ước, trước Chúa sinh ra hơn 500 năm. Hai đoạn Kinh thánh chính yếu nói về biến cố sinh ra này:
Mikêa 5, 1-2: “Hởi Bêlem Êphrata, ngươi nhỏ nhất trong các bộ tộc Giuđa, nhưng từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một Đấng thống trị Israel; nguồn gốc của Người có từ trước, từ muôn đời.” Tiên tri Mikêa đã viết câu này từ 720 năm trước công nguyên.
Isaia 7, 14 : “chính Thiên Chúa là Chúa Tối cao sẽ ban cho ngươi một dấu lạ: Này đây, một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Emmanuel.” Tiên tri Isaia rao giảng phần này vào tk 8 , trước CN, một thời gian khá lâu trước Chúa Cứu thế.
Ngoài ta, còn 4 quyễn Phúc Âm , ghi lại cuộc đời của Chúa Cứu thế, từ lúc sinh ra cho đến chết trên Thánh giá; dù tác giả những quyển sách này là tông đồ, là môn đệ của Chúa, nhưng các ngài muốn nói lên cách trung thực điều các ngài đang tin, không hề có giả dối. Chính các ngài còn liều cả cuộc đời và mạng sống mình để cho mọi người cùng tin. Hội thánh qua 20 tk cũng sẳn sàng làm chứng cho ta về Quà Tặng vô giá, có một không hai này.
b. Vậy mà sau 20 tk, có bao nhiêu người tin vào Đấng Cứu thế, bao nhiêu người sẵn sàng đón nhận Quà Tặng này? Chính ngày hôm nay, trên cả thế giới người ta đón nhận lễ này như là lễ hội, như lễ nghỉ, như dịp vui chơi giải trí mà thôi; người ta không bận tâm đón nhận Quà Tặng Tình Yêu, quà tặng ban sự sống cho chính mình. Thật đáng tiếc !!
Thực ra, Con Thiên Chúa đến trần gian không phải để đi du lịch, tham quan trái đất, xem con người sống như thế nào. Người đến trần gian chính là để trở nên Quà Tặng Tình Yêu, Quà Tặng sự sống. Tình Yêu và Sự Sống này là rất thật, chỉ có nơi Thiên Chúa và chỉ một mình Thiên Chúa mới có khả năng ban sự sống thật này mà thôi. Chính vì yêu thương con người mà Con Thiên Chúa sinh ra làm người; cũng chính vì yêu thương mà Ngài sẵn sàng chết, để mang lại sự sống cho con người. Quà Tặng như thế không phải là vô giá sao? Vậy mà con người nhiều lúc chất vấn Thiên Chúa: chúng tôi đâu cần quà tặng này? Lợi ích gì cho chúng tôi? Chúng ta thử nghỉ xem: Thiên Chúa đâu có mắc nợ con người? Khi trao tặng món quà quí giá này, điều đó có lợi gì cho Thiên Chúa? Nhà chính trị, nhà buôn, họ sẽ không làm bất cứ điều gì khi không có lợi cho họ. Còn về việc này, anh chị em hãy trả lời xem: ngày lễ hôm nay,Thiên Chúa ban cho ta Quà Tặng vô giá là chính Con của Ngài, điều đó lợi ích gì cho Thiên Chúa, nếu không muốn nói vì Tình Yêu? Dù vậy, vì quá yêu thương con người, Thiên Chúa vẫn để cho con người có tự do lựa chọn hay từ chối Quà tặng này. Đây chính là mầu nhiệm, cũng là điều mà cả nhân loại, không riêng người công giáo, phải suy niệm, khi ta còn sống trên mặt đất này… c. Gợi ý và suy niệm: Mừng kính ngày lễ hôm nay, chính là mừng kính Con Thiên Chúa sinh ra làm người, trở nên quà tặng cho nhân loại. Biết như vậy, ta có sẵn sàng đón nhận hay là từ chối?
Quà tặng vô giá , ta biết đó, nhưng ta có sẵn sàng gìn giữ bảo tồn, nhất là biết sống xứng với quà tặng ta lãnh nhận không?
Người ta kể rằng có một vì vua nọ muốn biết tình hình thần dân trong nước của mình hiện đang: GS-246
Người ta kể rằng có một vì vua nọ muốn biết tình hình thần dân trong nước của mình hiện đang sống ra sau để có thể chăm lo cho dân được sống sung túc ấm no hạnh phúc. Vua đã cải trang thành một người bình thường như dân chúng để tiện nắm tin tức, nhưng vì hoá trang quá giống, giống đến độ người ta đã không thể nhận biết Ngài là ai dù sau đó Ngài đã xưng mình là vua cũng không ai tin. Điều đáng trách hơn là cả những người đã từng được vua cắt đặt làm quan coi sóc dân cũng chẳng nhận ra Ngài. Và họ đã chối từ Ngài không nhận Ngài là vua của họ, vì họ cho rằng làm gì có chuyện có một ông vua nào yêu thương dân như thế. Họ chối từ Ngài mà không hề có chút gì ăn năn hối tiếc, họ khi phụ rẫy tấm lòng yêu thương của vua dành cho họ. Đây chính là cuộc đời của Hài Nhi Giêsu mà Giáo Hội lễ hôm nay.
Trong bài đọc một tiên tri Isaia loan báo Thiên Chúa sẽ ban cho dân Người một Đấng Cứu Độ, Đấng ấy sẽ an ủi dân và mang lại ơn cứu độ cho mọi người.
Bài đọc hai Thánh Phaolô Tông Đồ xác định địa vị cao trong của Đức Kitô , Đấng là Con Một Thiên Chúa , Người đã xuống thế làm người như chúng ta để xoá bỏ tội lỗi và cứu chuộc nhân loại. chính nhờ Người và trong Người mà vũ trụ vạn vật được tác thành và giờ đây lại được cứu chuộc.
Qua bài Phúc Âm, Gioan trình bày Đức Kitô chính là Ngôi Lời của Thiên Chúa và cũng chính là Thiên Chúa . Đấng là Sự Sáng và là Sự Sống nay đã mặc lấy xác phàm đến cư ngụ trong thế giới này, cùng sống với nhân loại. Người là Đấng đầy tràn ân sủng của Thiên Chúa và bất cứ những ai tin vào Người thì có được sự sống đời đời.
Hằng năm, vào ngày 25/12 là ngày Giáo Hội hoàn vũ long trọng mừng mầu nhiệm trọng đại Đức Kitô Con Thiên Chúa xuống thế làm người, mang lấy thân phận loài người như chúng ta, sống kiếp sống con người như chúng ta để cứu chuộc chúng ta.
Trong những ngày trước đó, ta thấy khắp mọi nơi đều rộn lên không khí chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, cây thông được trang trí thật đẹp, các thiệp chúc mừng Giáng Sinh được gởi đi, quà Giáng Sinh được chưng dọn bày bán khắp mọi nơi trông thật sôi động ; không chỉ có ở Việt Nam thôi mà mọi nước trên thế giới đều như thế. Ngày Giáng Sinh đã trở thành một ngày lễ chung cho tất cả mọi người trên thế giới, từ người có tôn giáo cũng như không tôn giáo. đặc biệt là nơi các họ đạo, Nhà Thờ được quét sơn lại, trang trí nào cờ nào đèn, đèn và hoa được trang trí sáng rực thật là náo nhiệt.
Rồi đến ngày chính lễ, người người tất bật chở nhau tên mọi phương tiện, ăn diện những bộ đồ thật là đẹp đi dự lễ. Trước những khung cảnh ấy không ai lại không thấy lòng mình rộn lên một niềm vui, như được cuốn hút vào không khí ấy. Trong những viễn cảnh đó, chúng ta thử nhìn lại đâu là giá trị thật sự và ý nghĩa đích thực của ngày lễ này.
Giáo Hội cử hành mầu nhiệm này nhằm mục đích gì? phải chăng Giáo Hội muốn tổ chức một buổi lễ mang tính lễ hội vui chơi? Chắc chắn một điều là không phải với những ý nghĩa đó. Giáo Hội long trọng mừng lễ Giáng Sinh với mục đích là nhắc nhớ cho người Kitô hữu nhớ là họ đã và đang đón nhận một Mầu Nhiệm trọng đại, một Hồng Ân vượt sức tưởng tượng của con người là Thiên Chúa vì yêu thương nhân loại đã ban Con Một Người mang Áng Sáng đến thế gian giải thoát con người khỏi bóng đêm của tội lỗi, mang Sự Sống thật đến cho nhân loại. Sở dĩ Giáo Hội mừng lễ cách long trọng như thế là để cảm ta cho một Hồng Ân bao la vượt quá trí hiểu của con người. Hồng Ân này đã làm cho trời đất giao hoà, Thiên Chúa và nhân loại giờ đây không còn khoảng cách nữa. Biến cố Con Thiên Chúa xuống thế làm người mở ra một trang sử mới cho nhân loại: Thiên Chúa xuống thế làm người để đưa con người lên làm Chúa. Giáo Hội ý thức rõ Mầu Nhiệm Giáng Sinh này là một Mầu Nhiệm tình yêu, một tình yêu mang tính cách một chiều phát xuất từ Thiên Chúa, một tình yêu cho không, biếu không.Với Mầu Nhiệm này loài người chỉ còn biết hết lòng tri ân cảm tạ vì hồng ân quá bao la quá cao vời này.
Tiếc rằng nhân loại chỉ mãi lo những chuyện đâu đâu, chỉ lo tìm kiếm những giá trị trần thế chống qua và tạm bợ mà lại lơ là với mầu nhiệm cực trọng này “Israen không hay không biết, dân Ta không hiểu không tường” (Is 1,2). Thánh Gioan cho thấy một thực trạng đáng buồn là: Người ở giữa thế gian và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận (Ga 1, 10-11) Thực trạng này Gioan không chỉ muốn ám chỉ đến những người Do Thái ngày xưa mà thôi, nhưng còn là thực tế cho mọi thời kể cả ngày hôm nay nữa.
Thực vậy, ngày nay ngay cả trong chính giới người được gọi là người Kitô hữu cũng đang từ chối Người, Không nhận biết Người. Cách thức con người ngày hôm nay khéo léo hơn người Do Thái xưa nhiều, họ có đủ mọi lý do để chối từ Đức Kitô : nào là công chuyện, nào là phải lo cho đời sống kinh tế, nào là nếu người khác biết tôi là người công giáo sẽ mất sở làm không được thăng quan tiến chức…..Đây chỉ là phần băng nổi, còn “Tảng băng chìm” thì mới là cái đáng nói đáng quan tâm. Tảng băng chìm này là: người ta vẫn đến nhà thờ vẫn giữ những ngày lễ Giáo Hội quy định nhưng chỉ giữ cho có , giữ cách vô hồn; xem việc đi tham dự Thánh Lễ như là một việc làm cho đủ nghĩa, cho đủ những bổn phận rồi thôi. Ngay chính trong ngày trọng đại của Mầu Nhiệm Giáng Sinh này, họ chỉ trang trí bên ngoài cốt sao cho đẹp cho rực rỡ, ăn vận cho đẹp thế nhưng thử hỏi lòng họ có được chuẩn bị, được trang trí thật đẹp thật sẳn sàng, thật xứng đáng để đón mừng Chúa Giáng Sinh như những gì họ bày trí bên ngoài? chắc chỉ có thể đếm được trên đầu ngón tay. Họ chuẩn bị mọi sự nhưng chỉ là những cái phụ tuỳ, trong khi cái chính yếu là dọn tâm hồn cho xứng đáng để đón Chúa thì lại không được chuẩn bị. Sự lệch lạc này đã biến mầu nhiệm Giáng Sinh cực trọng trở nên một lễ hội vui chơi như bao lễ hội khác không hơn không kém. Cả những người trong giới hướng dẫn đời sống đức tin nếu không ý thức đủ cũng có thể dễ dàng bị cuốn hút vào dòng thác này.
“ Ngôi Lời đã làm người và cư ngụ giữa chúng ta” Khi cử hành Mầu Nhiệm này, chắc chắn Giáo Hội không có ý muốn tưởng niệm hay hoài nhớ về một việc đã qua rồi, nhưng là một lời nhắc nhở vì một Hồng Ân đã và đang hiển hiện nơi mỗi con người, con người đã và đang lãnh nhận hàng ngày.con Thiên Chúa đã đến và ở lại với loài người luôn mãi. Ngài đã vì một tình yêu dành cho con người mà bất chấp tất cả mọi sự: Ngôi vị Thiên Chúa , vinh quang, danh dự, uy quyền của Người, Người rũ bỏ tất cả để hiện diện nơi trần thế. Mục đích không gì khác hơn là để nói với con người rằng Thiên Chúa yêu thương con người và muốn cứu chuộc họ. Hồng Ân đã sẳn, phần còn lại là nơi con người có sẳn sàng đón nhận hay không mà thôi.
Càng chiêm ngắm Mầu Nhiệm cao trọng này ta lại càng thấy Thiên Chúa yêu thương ta là dường nào. Thiên Chúa có thể dùng nhiều cách để yêu để cứu độ, nhưng Thiên Chúa đã không làm. Người lại chọn cách thức yêu cách thức cứu độ bằng cách mặc lấy chính thân xác một con người để đến như là một minh chứng cụ thể cho tình yêu. Như đôi trai gái yêu nhau, muốn sống gần nhau, kết hợp nên một với nhau, muốn hiện diện ngày đêm bên người mình yêu, sống chết cho người mình yêu; thì ở đây một cách nào đó có thể lấy ví dụ này để hiểu được chút nào đó cách thức Thiên Chúa đã yêu thương loài người. dù rằng với ngôn ngữ loài người không thể nào có thể hiểu được trọn vẹn cách thức Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại.
Hoà cùng niềm vui với toàn thể Giáo Hội hoàn vũ mừng Mầu Nhiệm Con Thiên Chúa xuống thế làm người, ước gì mỗi khi chúng ta chuẩn bị lễ, tham dự lễ cũng hãy biết chuẩn bị tâm hồn mình cho xứng đáng để đón Chúa, nhận ra Chúa qua dáng vấp hài nhi bé thơ nằm trong máng cỏ chiên bò, đặc biệt nhận ra Chúa hiện diện nơi anh em đồng loại mình. Để rồi không phải hối tiếc lầm lẫn như những người trong câu chuyện trên đã không nhận biết vì vua của mình.
Chúng ta biết rằng, ngày 25/12 không phải là ngày Chúa Giêsu sinh ra thật. Cũng không ai: GS-247
Chúng ta biết rằng, ngày 25/12 không phải là ngày Chúa Giêsu sinh ra thật. Cũng không ai biết chính xác Chúa sinh ra vào ngày nào. Nhưng Giáo hội chọn ngày 25/12 là ngày Sinh nhật của Chúa Giêsu vì ngày này nhiều nước ở thế giới Phương Tây, đặc biệt là Hy lạp đã tổ chức kính Thần Mặt Trời rất long trọng. Giáo hội muốn cho mọi người thấy rằng chính Đức Giêsu mới chính là Mặt trời Công Chính, là Ánh sáng thật – Ánh sáng ban Sự sống cho con người, chứ không phải anh Thần Mặt Trời Astra nào đó.
Có thể nói, trước khi Đức Giêsu Giáng sinh, nhân loại đang ngụp lặn trong bóng tối vì không có ánh sáng của Chân lý soi đường dẫn lối, nên con người không biết đường biết hướng về đâu. Nói như thế, có lẽ có nhiều người thắc mắc rằng: Như vậy thì Lời Chúa trong Cựu Ước thì sao? Chẳng lẽ lời của các Ngôn sứ lại ra vô hiệu hết hay sao? Không phải thế. Lời các Ngôn sứ vẫn có giá trị. Nhưng các Ngôn sứ, ngay cả Giao Thẩy Giả cũng chỉ đến để rao giảng và làm chứng cho ánh sáng thật và Chân lý là Đức Giêsu Kitô mà thôi. Còn chính Đức Giêsu là Đường, là Sự thật và là Sự sáng. Người có quyền tha tội và ban sự sống cho con người. “Ai đón nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa” (Ga 1,12), nghĩa là ban sự sống muôn đời cho họ vì Thiên Chúa là Sự sống vĩnh cửu, sự sống đích thực.
Nhưng đáng buồn thay, Ngôi Lời là Ánh Sáng thật đã đến thế gian nhưng thế gian đã chối từ và không tiếp nhận ánh sáng đó. Lý do nào mà con người không muốn đón nhận Ánh Sáng thật là Đức Giêsu? Có thể có những lý do sau đây:
Con người thích ở trong Bóng tối. Họ sợ đến cùng ánh sáng vì các việc làm của họ thì xấu xa. Họ sợ phải phô bày công việc của mình vì họ đang làm những công việc đen tối. Họ muốn huỷ diệt ánh sáng vì ánh sáng đã làm họ mất “mảnh đất sống”.
Họ sợ phải tha đổi, sợ phải bỏ lớp vỏ mà họ đã xây đắp bao năm rồi. Não trạng cố hủ, lão hoá đã thâm căn cố đế trong họ rồi. Những người này sẽ không ngần ngại nói rằng: “rượu cũ ngon hơn” dù họ chưa nếm rượu mới bao giờ và biết rượu mới có thể ngon quí giá hơn rất nhiều.
Bán tín bán nghi. Đây là thái độ của những con người vụ lợi. Họ muốn đem lên bàn cân tất cả những giá trị trong cuộc đời này, ngay cả đó là vấn đề tâm linh. Họ phải thấy quyền lợi ngay trước mắt thì họ mới đi theo. Vì thế, có rất nhiều người bước`Chúa theo Chúa Giêsu nhưng khi gặp hay nghe những gì không đúng với ý muốn của họ là họ tìm cách thoái lui ngay. Hạng người này có thể nói là nhiều nhất trong thời của Chúa Giêsu, ngay cả các môn đệ cũng có não trạng đó. Nhưng may mắn là họ được Chúa thanh lọc, nên họ đã thức tỉnh và nhận ra sai lầm của mình. Đơn cử một vài trường hợp mà Tin mừng nhắc đến. Có lần, khi các môn đệ nghe Chúa Giêsu công bố Người là Bánh hằng sống, thì có nhiều người trong số họ đã nói: “ Lời này chướng tai quá ai nghe cho nổi”( Ga 6,60). Từ đó, có nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa. Hay ta cũng thấy cảnh đám đông chen lấn đến với Chúa Giêsu để tung hô Người khi Người vào Thành Thánh Giêrusalem: “ Hoan hô, chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa, chúc tụng Vua Israel ” (Ga 12,13). Họ tung hô và reo hò như thế vì họ tưởng rằng Chúa Giêsu sắp lên làm vua cai trị họ. Nhưng khi thấy Chúa Giêsu bị quân lính vây bắt và bị hành hạ thì họ liền thay đổi thái độ đối với Người. Lời tung hô chúc tụng giờ đây trở thành lời nhạo báng chê cười và kết án. Họ là những người đồng thanh hô lớn: “Đem đi! Đem nó đi. Đóng đinh nó vào thập giá” (Ga 19,15).
Và chắc sẽ còn nhiều lý do khác nữa. Nhưng với 3 lý do nêu trên thiết nghĩ cũng đủ cho chúng ta suy nghĩ và xét mình lại. Chúa Giêsu là Ánh Sáng thật phát xuất từ Ánh sáng. Người đã đến chiếu ánh sáng vào những chỗ tăm tối trong tâm hồn ta, nhưng ta có chịu mở cửa tâm hồn mình ra để đón nhận ánh sáng và để cho ánh sáng của Chúa biến đổi lòng ta hay chưa. Hay ta vẫn thích ở trong Bóng tối, sợ phải thay đổi hay đón nhận kiểu nửa vời . . . Ai đón nhận kiểu nửa vời thì cũng đồng nghĩa với không đón nhận gì cả. Ánh sáng rồi sẽ chiến thắng bóng tối. Cuộc chiến giữa Bóng tối và Ánh sáng rồi sẽ đưa về chiến thắng cho Ánh sáng, dẫu rằng cuộc chiến ấy sẽ có nhiều gay go và gian khổ. Bóng tối của thế gian chính là ma quỷ, là sự dữ, tội lỗi và sự chết. Còn Ánh sáng chính là Đức Giêsu Kitô. Nơi diễn ra cuộc chiến ấy là cuộc sống dương thế này và ngay trong con người của ta, ở cõi lòng ta. Chúng ta nên biết rằng chúng ta không phải là đối thủ của ma quỷ. Chúng ta không thể chiến đấu và chiến thắng chúng bằng tự sức của ta được. Vì thế, chúng ta cần biết cậy dựa vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu Kitô là Ánh sáng thật thì chúng ta mới có thể đẩy lùi và tiêu diệt Bóng tối ấy được.
Xin Chúa giúp chúng ta biết mở lòng mình ra để đón hận chính Chúa là Ánh sáng ban sự sống cho chúng ta. Xin Chúa biến đổi chúng ta thành con cái của Ánh sáng để chúng ta có thể chiếu soi ánh sáng ở những nơi còn trong bóng đêm tội lỗi, để lòng của mọi người đều vang lên lời ca tán tụng rằng: “ Vinh danh Thiên Chúa trên trời.Bình an dưới thế cho người thiện tâm.”
Đã qua rồi bao nhiêu ngày rộn rã, tất bật, chuẩn bị, lo lắng. Người trẻ thì chuẩn bị chờ đợi : GS-248
Đã qua rồi bao nhiêu ngày rộn rã, tất bật, chuẩn bị, lo lắng. Người trẻ thì chuẩn bị chờ đợi để có được những ngày vui chơi nghỉ ngơi. Người thì lo lắng sợ sệt, không biết phải chuẩn bị những gì cho cuộc lễ. Nhưng cho dù chuẩn bị có chu đáo hay không, thì việc gì đến sẽ đến và phải đến. Những ai có chuẩn bị thì mừng lễ được vui vẽ trọn vẹn hơn. Còn những ai không chuẩn bị hay lo sợ, thì những ngày nầy sẽ qua đi mà không để lại cho họ một chút ý nghĩa nào hết.
Chúng ta đang ngồi trong nhà thờ để tham dự thánh lễ. Chúng ta cũng trải qua những ngày vất vã. Ai cũng muốn cho ngày lễ được tốt đẹp hết sức có thể, nên mọi người đều cố gắng. Khi thời gian đã đến, chúng ta chỉ còn biết ngồi nhìn, nhìn lại thành quả mà mình đã chuẩn bị, nhìn lại những gì mà mình đã làm trong mấy ngày qua. Có lẽ giờ nẫy có người bằng lòng với những gì mình đã làm, nhưng cũng có người còn lo âu hối tiếc, vì thấy mình làm chưa được tốt đẹp lắm. Nếu giờ nầy, còn có thể làm lại được, thì phải sửa và phải thêm vào cho chu đáo, như thế mới vừa ý. Nhưng mọi việc đã kết thúc, không ai có thể làm thêm điều gì nữa. Nếu sau đó, có ai làm thêm điều gì thì cũng là vô ích và phí công. Mọi việc đều có thời gian của nó.
Việc chuẩn bị bên ngoài là như thế. Ngôi đền thờ tâm hồn của mỗi người, ngôi nhà để đón rước Chúa thật sự, ngôi nhà nầy có được chuẩn bị gì không? Mỗi người chúng ta nhìn lại chính mình, trong giờ phút linh thiêng nầy, trong giờ phút quyết định, đã đến lúc mỗi người chào đón Chúa. Nhưng đón rước Chúa với một tâm hồn trống rỗng, lạnh nhạt, không lời nói, không tiếng cười, hay trái lại còn có nhũng câu xua đuổi, những lời nói không mấy tốt đẹp, vì không muốn tiếp đón. Hay là chúng ta đón rước Chúa với một tâm hồn hỗn độn, đang rối bù với những công việc, những lo lắng không cần thiết, mà giờ nầy vẫn còn chất đầy trong tâm tư. Như vậy, tâm hồn chúng ta có còn chỗ nào trống để Chúa có thể bước vào được hay không? Hay cho đến giờ này mà tâm hồn vẫn còn đóng kín cửa lại để mãi lo toan tính những công việc riêng tư, những công việc tư lợi cá nhân, những công việc mưu hại, hiềm khích người khác, những công việc của sự hưởng thụ, sa hoa trụy lạc, những công việc thỏa mản con người riêng tư ích kỷ. Ngôi nhà tâm hồn của chúng ta bề bộn như thế đó, thì còn chỗ nào trống, để Chúa có thể đến và ngự được trong tâm hồn của mỗi người chúng ta.
Chúng ta đang ngồi trong ngôi nhà thờ đã được chuẩn bị rất công phu. Chúng ta cũng đã chuẩn bị cho mình thật tươm tất để dự lễ. Tất cả những thứ đó đều trở nên vô ích, nếu tâm hồn chúng ta không một chút chuẩn bị để Chúa có thể ngự vào được. Nếu chúng ta biết dọn tâm hồn mình, nếu chúng ta biết sữa đỗi cuộc sống, nếu chúng ta nhìn thấy được những điều không hay không tốt, mà biết bỏ đi và làm những gì có ích lợi. Nếu chúng ta biết nhìn thấy được trách nhiệm của bản thân mà Thiên Chúa trao phó để chu toàn cho tốt đẹp. Đó là cách chúng ta biết chuẩn bị để đón rước Chúa vào trong tâm hồn của mình thật sự. Còn nếu cho đến giờ nầy, mà tâm hồn vẫn cò vô tư trống rỗng, không nhìn thấy, không quyết tâm, thì cũng có lẽ, giống như bao mùa Giáng Sinh đã trôi qua trong cuộc đời của chúng ta mà không để lại một chút ấn tượng nào, không để lại một chút thay đỗi tốt đẹp nào cho cuộc sống, không mang lại kết quả gì cho chúng ta. Nếu như thế thì vô phúc cho chúng ta quá.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa sữa đỗi con người, cuộc sống của chúng ta để xứng đáng đón rước Chúa Hài Đồng và hưởng một mùa Giáng Sinh tràn đầy Hồng Ân Chúa.
Có hai anh thanh niên, một là người địa phương, da đen và một là người bạn ngoại quốc, da: GS-249
1. Có hai anh thanh niên, một là người địa phương, da đen và một là người bạn ngoại quốc, da trắng từ phương xa đến thăm. Họ đang cùng nhau đi dạo trên đường, bổng anh bạn người địa phương dừng lại, đến bên vệ đường vạch vạch cỏ và bắt được một con dế to tướng. Anh da trắng lấy làm lạ hỏi : “tại sao anh biết nó ở đó mà anh đến bắt?”. Anh da đen trả lời : “tiếng dế gáy to như thế mà anh không nghe à ?!”. Đi tiếp một lúc, có một người vừa phóng xe honda vượt qua hai anh, từ người ngồi trên xe một đồng tiền bằng kẻm rơi xuống. Anh bạn da đen tỉnh bơ, còn anh da trắng nghe rõ tiếng rơi của đồng tiền và chạy theo nhặt, anh da đen khen anh da trắng: “sao anh tài thế?”. Anh da trắng đáp :”tiếng đồng tiền rơi trên mặt đường to như thế mà anh không nghe à ?!”.
Anh da đen ở vùng hoang vắng, quen nghe tiếng dế, tiếng dã thú nên dễ nhận ra tiếng dế kêu. Anh da trắng thường tiếp xúc với tiền, quen tiếng rơi của tiền nên dễ dàng nhận ra khi nó rơi. Khi chúng ta quen lắng nghe, tìm kiếm cái gì, thì chúng ta mới có thể dễ nhận ra điều đó.
2. Điều này làm cho chúng ta suy nghĩ, đêm Chúa sinh ra đời, lời mời gọi, tiếng hát của Thiên Thần hẳn là văng vẳng cả cánh đồng Bêlem:” Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương ” (Lc 2,14). Thế nhưng không phải ai cũng nghe được tiếng mời gọi đó để đi đến hang Bêlem thờ lạy Chúa. Trong bài Tin Mừng theo thánh Luca chúng ta vừa nghe, chỉ có các mục đồng là những con người đơn sơ, không vướng bận những của cải, tiền bạc, không bận bịu với những cuộc vui nơi phố xá, khách sạn… những con người ấy mới mau nhận ra tiếng mời gọi của thiên thần, vì thế họ mới “hối hả” đến Bêlem để thờ lạy Chúa. Đây là một thái độ nhanh chóng thi hành thánh ý Chúa.
Tin Mừng theo thánh Matthêu cũng cho ta thấy, khi Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem, từ phương đông xa xăm, ba nhà thông thái, chúng ta thường gọi là ba vua, đã dõi theo và được ánh sao lạ dẫn đường, đã tìm đến để thờ lạy Chúa Hài đồng (Mt 2,1-12). Các ông tuy là những nhà trí thức, hiểu cao học rộng nhưng với tinh thần đơn sơ khiêm tốn nên mới có thể nhận ra, nhạy cảm với lời mời gọi của Chúa để tìm đến thờ lạy Người dù họ ở rất xa Bêlem. Ngược lại tại Giêrusalem nơi cách Bêlem khoảng 10 cây số, cả triều thần của vua Hêrôđê, có cả những nhà thông thái, rất thạo về lời tiên tri báo trước nơi Đấng Cứu Thế sinh ra. Thế mà họ không nhận ra, đúng hơn là không chịu nhận ra Đấng Cứu Thế giáng sinh ! Lại còn mưu mô giết Hài Nhi nhỏ bé bởi gì danh vọng, chức quyền, thú vui đã bóp nghẹt lòng họ lại!
Như thế, dù là những người đơn sơ, hèn kém như các mục đồng hay trí thức, quyền hành như ba nhà thông thái trên, điều đó không quan trọng cho bằng chúng ta cần có một tấm lòng đơn sơ, khiêm tốn, không quá bận tâm những lo toan sự đời, mới có thể nhạy bén nhận ra quyền năng, tình thương của Chúa.
3. Ngày hôm nay, tuy chúng ta không được như các mục đồng năm xưa trực tiếp nghe tiếng mời gọi của Thiên Thần, nhưng xung quanh chúng ta có biết bao nhiêu dấu chỉ, để chúng ta có thể nhìn nhận ra sự hiện diện, quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Thế nhưng không phải ai cũng có thể nhận ra được điều này, thật vậy, Đấng Cứu Thế đã giáng sinh trên 2000 năm nay, Tin Mừng đã được rao giảng khắp nơi, tuy nhiên vẫn còn rất nhiều người chưa biết Chúa, chưa lắng nghe tiếng của Chân Lý qua lời rao giảng, qua các dấu chỉ.
Câu chuyện sau đây phần nào cho chúng ta hiểu hơn được điều đó, vào ngày 12.04.1961 Juri Gagarin, phi hành gia người Nga được bay vào vũ trụ, ông ta nói tôi đã bay qua các tầng trời, tôi không thấy Thiên Chúa đâu cả, thật là một câu nói đầy ngạo mạn. Ít lâu sau, vào ngày 20 tháng 7 năm 1969, phi hành gia người Mỹ Neil Amstrong và 2 người bạn nữa đã đi trên tàu Apolo lên mặt trăng, vừa đặt chân lên mặt trăng, trước cảnh tượng hùng vĩ của mặt trăng, của vũ trụ, ông đã làm dấu thánh giá, và cất lời ngợi khen tôn vinh Thiên Chúa, Đấng tạo dựng vụ trụ vạn vật. Hai phi hành gia, hai nhà trí thức nhưng hai thái độ thật khác nhau trước dấu chỉ hiện diện của Thiên Chúa qua vũ trụ.
4. Lại một lần nữa, Giáng Sinh trở về. Giáng sinh không chỉ là niềm vui của riêng người Kitô hữu, mà của mọi người. Chúng ta thấy anh chị em lương dân cũng đi viếng máng cỏ, chúng ta cũng đi viếng. Nhưng đứng trước máng cỏ sẽ có những tâm tình rất khác nhau, ngay chính cả người Kitô hữu chúng ta cũng thế, có thể chúng ta chỉ đến để xem coi lễ năm nay có tổ chức lớn không, hát hay không ? Hang đá có đẹp hơn năm rồi không ? Nếu vậy thì tiếc quá, chúng ta hãy đến với Giêsu Hài Đồng trong tâm tình đơn sơ, khiêm tốn và nhạy cảm để nhận ra Hài nhi Giêsu bé nhỏ đó chính là Đấng cứu thế. Chúng ta hãy có được tâm tình của Đức Maria suy niệm những việc kỳ diệu mà Thiên Chúa đã thực hiện cho loài người : mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa qua Đức Kitô được khởi đầu từ máng cỏ đơn hèn và cao đỉnh của tình thương đó là trên thập giá ?
Các mục đồng đã đến thờ lạy Chúa Hài đồng và dâng lên Chúa những lễ vật rất đơn sơ mà họ có : chiên cừu để hà hơi ấm, củi để sưởi… nhưng với tất cả tấm lòng của mình. Ba vua từ phương xa đến đem vàng, nhủ hương, mộc dược, đó là những lễ vật quý giá cùng với tấm lòng của họ. Như thế của lễ không quan trọng cho bằng tâm tình, cách để hiến dâng, mọi người chúng ta hãy xem coi, tôi đã làm gì và sẽ làm gì để dâng Chúa Hài Đồng trong dịp lễ Giáng Sinh này ?
Chúng ta thấy qua bài Tin Mừng, các mục đồng sau khi thờ lạy Chúa Hài Đồng, liền đem tin vui cho những anh chị em khác, chúng ta có đem tin vui, tin mừng của Chúa vào cuộc sống hay không? Là người Công Giáo, chúng ta cũng phải lo làm ăn sinh sống như những người khác, nhưng có điều chúng ta cũng phải có nét đặc trưng của mình : đó là sống bác ái, yêu thương và công bằng như Lời Chúa dạy, đó là một cách đem tin vui của Chúa vào cuộc sống.
5. Lễ giáng sinh năm nay cũng như những năm khác, đến rồi sẽ qua đi, khung cảnh nhộn nhịp cũng sẽ hết, nhưng mỗi lần lễ Giáng sinh qua, còn đọng lại gì nơi lòng của chúng ta? Chúng ta có nhạy cảm hơn với tiếng Chúa mời gọi trong lương tâm của chúng ta hay không ? Muốn thế, chúng ta hãy như Đức Maria, luôn luôn suy niệm trong lòng những biến cố về cuộc đời Đức Giêsu và những lời dạy của Người. Hãy nhạy cảm với tiếng Chúa gọi nhờ sự luyện tập. Như anh chàng da đen dễ dàng nhận ra chỗ dế ở nhờ thường nghe tiếng dế và như ba nhà thông thái luôn dõi tìm nơi trời cao nên mới có thể nhận ra dấu chỉ Thiên Chúa giáng trần.
Bài Tin Mừng của thánh Luca 2, 1-14 có thể nói được là một trang thời sự. Bởi vì, Tin Mừng này: GS-250
Bài Tin Mừng của thánh Luca 2, 1-14 có thể nói được là một trang thời sự. Bởi vì, Tin Mừng này đưa ra những mốc, những thời điểm, những biến cố xẩy ra trong lịch sử loài người. Lịch sử được ghi dấu bằng những chứng cớ rõ rệt, khiến những nhà sử học và những ai muốn truy cứu về những biến cố thời cuộc thời đó có thể dễ dàng tìm ra. Vậy, những sự việc xẩy ra lúc đó là những sự việc nào ?
VIỆC ĐÃ XẨY RA LÀ : Hoàng đế Augustinô thời ấy ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Tin Mừng thánh Luca cho biết :” Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện đời ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Syria “ ( Lc 2, 2 ). Với cuộc tổng kiểm tra này, mọi người dân đều phải trở về nơi sinh trưởng để khai tên tuổi. Đó là điểm rất quan trọng vì nó có liên quan đến hai nhân vật chính yếu trong biến cố lúc đó :” Giuse và Maria”. Ông Giuse từ thành Nagiarét, miền Galilê, lên thành Bêlem, miền Giuđê, là thành vua Đavít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đavít ( Lc 2, 4 ). Ông Giuse lên đó để khai tên tuổi, lý lịch cùng với người đã thành hôn với ông là Maria, lúc ấy đang có thai ( Lc 2, 5 ). Sự việc không chỉ dừng lại đó, nhưng mấu chốt vẫn nằm ở chỗ ” Khi hai người đang ở đó, thì bà Maria đã đến ngày mãn nguyệt khai hoa “ (Lc 2, 6 ). Tin Mừng nhấn mạnh và nút đã được mở :” Bà sinh con đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ” ( Lc 2, 7 ). Chúa Giêsu đã đản sinh trong hang đá Bêlem và rồi sự việc đã tới ngoài sự tưởng tượng của con người. Các mục đồng, những trẻ chăn chiên, chăn cừu, canh giữ đoàn gia súc ngoài đồng. Họ kinh khiếp hãi hùng vì kìa sứ thần của Thiên Chúa đang đứng bên họ và vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh. Các mục đồng quả thực là những người đã thấy, đã nghe và đã chứng kiến sự việc xẩy ra đêm Chúa giáng sinh.
Họ là những người được Chúa yêu thương mạc khải đầu tiên và họ là những người đã gặp gỡ Con Thiên Chúa đầu tiên nơi máng cỏ hang lừa theo lời sứ thần bảo họ :” Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân : Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Vua Đavít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người : anh em sẽ gặp thấy một kẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ “ ( Lc 2, 10-12 ). Tin Mừng Chúa sinh ra được các mục đồng, những kẻ bé mọn lãnh nhận một cách hứng thú và vui tươi. Tin Mừng ấy là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa nằm trong máng cỏ và Tin Mừng ấy được vang lên với muôn vàn thiên binh cùng với sứ thần ca ngợi chúc tụng Thiên Chúa :” Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương” ( Lc 2, 13-14 ).
QUÀ TẶNG THIÊN CHÚA TRAO BAN CHO NHÂN LOẠI CHÍNH LÀ HÀI ĐỒNG GIÊSU :
Hài Đồng Giêsu là quà tặng cao quí nhất Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại, cho con người. Hài Nhi Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa tình yêu :” Thiên Chúa là tình yêu “. Hài Nhi Giêsu là tấm lòng ưu ái nhất Thiên Chúa trao ban cho mỗi người, cho con người. Tin Mừng là chính Hài Nhi Giêsu nằm trong máng cỏ Belem. Tin Mừng ấy Thiên Chúa tặng ban nhưng không cho nhân loại. Do đó, câu chuyện về giáng sinh vẫn là câu chuyện về tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa. Những người kể lại, làm chứng về sự kiện có một không hai trong lịch sử cứu độ không ai khác chính là những con người yếu hèn, những con người thấp cổ bé họng, những con người không có một chút địa vị nào trong cuộc sống. Chính những mục đồng là những người kể lại biến cố này. Tin Mừng của thánh Luca trong đoạn kế tiếp đã nói rất rõ. Các mục đồng đã thấy bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này ( Lc 2, 16-17 ). Các mục đồng quả thực sung sướng và hạnh phúc vì không những họ đã được nghe sứ thần nói với họ về Hài Nhi Giêsu, nhưng còn hơn thế, chính mắt họ đã thấy đích thực điều sứ thần đã nói với họ. Họ vui mừng thuật chuyện cho những người họ gặp và Tin Mừng Luca thuật tiếp : “ Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên “ ( Lc 2, 18 ). Tình yêu của Con Thiên Chúa đã biểu lộ cho mọi người. Chính Hài Nhi Giêsu là quà tặng chân thành nhất, khiêm tốn nhất Thiên Chúa gửi tới cho nhân loại và cho mỗi người chúng ta.
Tình yêu giáng sinh luôn đòi hỏi chúng ta đáp trả, điều con người có thể làm để dâng cho Chúa Hài Đồng chính là nghĩa cử yêu thương, bác ái chúng ta dành cho tha nhân. Hài Đồng Giêsu vẫn lớn lên trong ta mỗi lần chúng ta thực hành nghĩa cử yêu thương đối với những người chung quanh, những người đồng loại.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết trao ban nhưng không những gì chúng con có cho anh em chúng con như chính Chúa đã trao ban chính mình người cho nhân loại. Amen.