Suy Niệm Tin Mừng Lễ Hiển Linh ABC - Bài 1-50 Chúng tôi đã thấy Ngôi Sao của Người ------------------------
Phúc Âm: Mt 2,1-12: "Chúng tôi từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: "Vua người Dothái mới sinh ra hiện đang ở đâu ? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta". Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người". Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình. - Ðó là Lời Chúa. -------------------- Mục Lục:
Đức Giêsu là người lịch sử. Tin Mừng Matthêu ở hai chương đầu, cho thấy một loạt những địa danh: HiểnLinh ABC1
Đức Giêsu là người lịch sử. Tin Mừng Matthêu ở hai chương đầu, cho thấy một loạt những địa danh: Bêlem nơi Đức Giêsu sinh ra; Ai Cập nơi Người lánh nạn; Rama nơi các hài nhi bị giết oan khi Người bị truy lùng như kẻ đe doạ chiếm ngai vàng; Nadarét nơi được chọn để Người sống ẩn dật ba mươi năm.
Nhưng Đức Giêsu còn là người của lịch sử dân tộc Do Thái, dân riêng của Thiên Chúa. Có một điệp khúc cứ trở đi trở lại nơi hai chương đầu của Tin Mừng Mátthêu là: "Tất cả các việc này xảy ra để thực hiện đúng như Chúa đã phán qua lời ngôn sứ xưa" (1,22; 2,5.15.17.23).
Chính Đức Giêsu là con người chiếu sáng cho cả quá khứ và đem lại ý nghĩa cho cả giòng lịch sử dân Chúa. Chính Người sẽ căn cứ vào lịch sử quá khứ dân tộc mình để từng bước nhận ra được ý nghĩa của sứ mạng của mình và cách thức hoàn thành sứ mạng ấy.
Tin Mừng Mátthêu ở chương 2, sau khi xác định Bêlem là nơi Người cất tiếng chào đời thời vua Hêrôđê trị vì (năm 37-4 trước Công Nguyên), kể lại biến cố các đạo sĩ từ phương Đông tới bái lạy Hài Nhi Giêsu. Đó là những nhà chiêm tinh có thể đã đọc được dấu lạ do thấy ánh sáng của hành tinh sao mộc và sao thổ lồng vào nhau. Hay một cách đơn giản lời loan báo về ngôi sao phát xuất từ nhà Giacóp (Ds 24,17) đã được ứng nghiệm với biến cố sinh ra của Đức Giêsu là vị cứu tinh.
Nhưng điều được nhấn mạnh trong bài Tin Mừng hôm nay là dân ngoại mà các đạo sĩ là người đại diện, đến bái lạy Hài Nhi Giêsu (cc.2,8.11), còn ngược lại, các lãnh tụ đạo đời tại thành thánh Giêrusalem, không hề nhúc nhích. Riêng vua Hêrôđê có nói đến việc vua đến bái lạy Hài Nhi mới sinh nhưng chỉ để mưu sát Hài Nhi (c.16).
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy phần nào niềm vui lớn lao của Giáo Hội sơ khai khi thấy dân ngoại sẵn sàng đón nhận Tin Mừng trong khi rất tiếc người Do Thái là dân riêng của Chúa lại tỏ ra cứng tin. Thực ra ngay ở chương thứ hai này Mátthêu đã chuẩn bị cho màn Đức Giêsu được nhìn nhận là vua người Do Thái (Mt 27,11.29.37) cũng như chuẩn bị cho cuộc phái các môn đệ rao giảng Tin Mừng cho muôn dân, tức là các dân ngoại (Mt 8,11-12; 28,18-20).
Nay Kitô hữu được mời nghênh đón Chúa cách mới mẻ
Bài Tin Mừng hôm nay nói tới biến cố con người đi tìm Thiên Chúa. Nhưng Tông thư "Tiến Đến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba" nhắc nhở chúng ta rằng: "Trong mầu nhiệm nhập thể không phải chỉ là chuyện con người đi tìm Thiên Chúa, mà là Thiên Chúa đích thân đến nói cho con người biết về mình và chỉ cho con người thấy đường để họ có thể đến với Thiên Chúa" (TNK 6a; xem 19,24d). Giáo Hội chính là thân thể nhiệm mầu nối dài của Đấng Thiên Chúa nhập thể đó. Do đó mà tài liệu Hướng Dẫn Năm Toàn Xá 2000 nói đến việc khởi động một sức mạnh loan Tin Mừng và truyền giáo mới mẻ (trang 34). Cái mới mẻ nói đây bao gồm hai thái độ là tất cả chúng ta cần được loan báo Tin Mừng ngay trong cộng đoàn mình, để đến lượt chúng ta có thể loan báo Tin Mừng cho mọi người và thế là không ai không được nghe Tin Mừng cứu độ, tức biến cố Đức Giêsu Kitô.
Tài liệu nói trên đề nghị cách cụ thể:
+ Cần nhấn mạnh kinh nghiệm đức tin là một sự ngạc nhiên thích thú trước ơn hiệp thông Chúa ban xuống cho ta do tình yêu và do ý muốn cứu độ của Người.
+ Cộng đoàn cũng như mỗi cá nhân đã được chịu phép rửa, phải nỗ lực tìm ra những phương cách và những hình thức cụ thể cho việc loan Tin Mừng cách mới mẻ, để có thể giải thích tại sao chúng ta tin và chúng ta trông cậy cho tất cả những ai, tuy đã được chịu phép rửa, nhưng không còn tiếp xúc với Đức Kitô và Giáo Hội nữa… Cần phải có việc làm chứng đồng bộ và có ý nghĩa, về đức tin trong các lãnh vực của cuộc sống: gia đình, giáo dục, quan hệ xã hội, nghề nghiệp dấn thân về mặt xã hội, chính trị và văn hoá.
+ Cần phải có những sáng kiến mới về việc động viên truyền giáo, công tác truyền giáo và giáo dục chuyên môn cho việc truyền giáo, đào tạo tinh thần liên đới và cởi mở đại đồng (xem trang 35).
Một giáo dân giúp người Do Thái tìm kiếm Chúa
Tháng sáu 1996, trong ba ngày 25-27, một cuộc họp rất đáng ghi nhớ được tổ chức tại cơ sở Công Giáo ở Roma. Đó là cuộc họp các đại diện của 1600 người Do Thái là thành viên và thiện cảm viên của một phong trào hiệp nhất thế giới mà ai cũng biết nòng cốt là người Công giáo. Số tham dự viên là 35 người, trong đó có ba ráp-bi Do thái giáo. Họ đến từ nước Ít-ra-en, Achentina, Braxin và một số nước Âu Châu.
Đề tài cơ bản của cuộc họp là: lòng mến Chúa và yêu người trong linh đạo Do thái giáo và linh đạo Phong trào Tổ Ấm Focolare. Người ta lấy làm lạ về sự đồng quan điểm giữa linh đạo của phong trào này khi so sánh với quan điểm truyền thống nhất như được ráp-bi David Rosen từ Giêrusalem trình bày về giới răn yêu thương.
Tiếp theo là đời sống chứng tá của một số dự viên nam nữ, cho thấy lý tưởng hợp nhất bằng tình thương giữa con người với nhau, đã mang lại tương quan đáng kể như thế nào ngay trong bối cảnh gia đình và cộng đoàn của những người cùng một tôn giáo với nhau.
Đỉnh cao của cuộc họp là ngày chót với lời cam kết yêu thương và tha thứ giữa nhau, diễn ra trong cảnh cảm động rướm lệ. Lời cam kết này đã được một dự viên đề nghị và đã được mọi dự viên và các thành viên Focolare khác có mặt hưởng ứng. Thế là tất cả những người có mặt đều tự nguyện tham gia thể hiện cử chỉ hoà giải giữa Do thái và Kitô hữu, cũng như giữa các dự viên Do thái với nhau thuộc nhiều truyền thống khác nhau.
Người ta đặc biệt chú ý đến sứ điệp mà các dự viên cuộc họp gửi tới người phụ trách Phong trào Tổ Aám là chị giáo dân Lưu Bích (Chiara Lubich) hiện ở Balan không về dự được. Sứ điệp nói: "Chị Ciara mến yêu, chị thực là ngôn sứ của hoà bình. Chúng tôi đã tới cuộc họp như những người xa lạ đối với nhau, nhưng tình yêu mà chị đã gieo vào lòng chúng tôi quả thật đã làm cho một thân cây khổng lồ (Phong trào Focolare) mang lại những trái sẽ nuôi dưỡng nhiều người (...). Thiên Chúa thực đã hành động trong quyền năng của Ngài." (Nouvelle Cité, Montréal, Nov - Dec 1996, trg 6).
Tình liên đới và cởi mở hướng tới một thế giới đại đồng đúng là cái mới mẻ mà người Kitô cần phát huy hướng tới năm Toàn Xá 2000, để kỷ niệm hai ngàn năm Con Thiên Chúa làm người. Mục đích Người đến là để trở nên người anh em với mọi người không trừ một ai, để mọi người đều thấy Thiên Chúa yêu thương loài người tới mức nào. Tại Bêlem các đạo sĩ đại diện muôn dân trên thế giới, đã đến bái lạy Người. Vua Hêrôđê đã tìm cách mưu sát Người chỉ vì lầm tưởng rằng Người đến để chiếm ngai vàng mình đang ngồi. Các thượng tế và các kinh sư tuy không nhúc nhích tìm kiếm Vua mới sinh ra để bái lạy, nhưng họ đã xác định chính xác nơi Đức Giêsu sinh ra là Bêlem (Mt 2,5). Biết đạo chưa đủ, người tin Chúa còn phải đưa cái biết đó vào thực hành. Điều cơ bản nhất trong đạo cần được thể hiện là giới răn yêu thương. Giới răn ấy mà đưa ra thực hành thì không riêng người Do Thái nhưng mọi người sẽ hiểu và dễ chấp nhận đạo Chúa dậy.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn nghĩ gì về cuộc họp ba ngày của đại biểu của 1600 người Do Thái là thành viên và thiện cảm viên của Phong Trào Tổ Ấm là phong trào giáo dân Công giáo?
2. Bạn nghĩ gì về lời Đức Gioan Phaolô II nói "Trong mầu nhiệm nhập thể không phải chỉ là chuyện con người đi tìm Thiên Chúa, nhưng chính Thiên Chúa đích thân đến nói cho con người biết về mình và chỉ cho con người thấy đường để họ có thể đến với Thiên Chúa?"
Đoạn Tin Mừng trên nói về các nhà chiêm tinh dân ngoại theo ánh sao mà tìm đến bái yết Hài Nhi: HiểnLinh ABC2
Đoạn Tin Mừng trên nói về các nhà chiêm tinh dân ngoại theo ánh sao mà tìm đến bái yết Hài Nhi
Một loạt câu hỏi thường được đặt ra hôm nay. Làm sao một ngôi sao có thể dẫn đường cho họ đi? Nếu đó là một ngôi sao sáng lạ lùng thì tại sao thành Giêrusalem lại không nhận biết? Bởi đâu ngôi sao lại không đi thẳng tới Bêlem? Có tin được chuyện ngôi sao ngừng lại trước cửa nhà không? Các câu hỏi trên đều xoay quanh ngôi sao lạ. Một ngôi sao như thế có thật không hay đây chỉ là một truyền thuyết?
Thánh Mátthêu đã viết đoạn Tin Mừng này theo một thể văn đặc biệt của người Do Thái. Chúng ta không nên hiểu mọi chi tiết theo nghĩa đen. Điều quan trọng không phải là có một ngôi sao lạ, một ngôi sao thông minh biết dẫn lối chỉ đường. Điều quan trọng là điều Mátthêu muốn nói với ta: Đức Giêsu không phải chỉ là Mêsia cho dân Do Thái, Ngài còn là Đấng Cứu Độ cho cả nhân loại.
Các nhà chiêm tinh là dân ngoại. Họ đại diện cho mọi dân tộc, cho chính chúng ta. Họ khao khát tìm ơn cứu độ. Qua những dấu chỉ kỳ diệu hay đơn sơ trong vũ trụ, họ nghe thấy lời mời gọi lên đường. Chấp nhận lên đường là chấp nhận bỏ lại tất cả và bước đi trong đêm tối. Các nhà chiêm tinh không dựa vào điều gì khác ngoài ánh sao khi tỏ khi mờ. Cần có đức tin cứng cáp mới dám dựa vào một dấu chỉ mong manh như thế. Cũng cần có đức tin mạnh mẽ mới dám tin rằng vị vua mới sinh đang khiêm tốn sống trong một ngôi nhà ở Bêlem, chứ không uy nghi ngự giữa hoàng cung lộng lẫy. Cần có một đức tin khiêm tốn biết chừng nào mới có thái độ sấp mình bái lạy trước Hài Nhi, và tiến dâng lễ vật quý giá.
Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại đến với Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường. Không phải là ánh sao trên trời cao, mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người. Mỗi người chúng ta phải trung thành với ánh sáng đó, và bước vào cuộc hành trình đức tin đầy mạo hiểm, như các nhà chiêm tinh ngày xưa.
Đôi khi chúng ta có nét giống Hêrôđê, sợ hãi bối rối trước sự xuất hiện của Đấng Cứu Độ. Hãy để Chúa làm lung lay ngai vàng của bạn, đưa bạn vào sự bấp bênh, mong manh, để rồi cuối cùng bạn gặp được sự vững vàng trong Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Sống đời Kitô hữu là bước vào một cuộc hành trình đức tin. Trong cuộc hành trình đầy cam go ấy, vẫn thường có những ánh sao. Có khi nào bạn gặp được một ánh sao lạ hướng dẫn bạn không?
Thiên Chúa đi tìm con người và con người đi tìm Thiên Chúa. Bạn có thấy đó là hai yếu tố quan trọng trong đời sống người Kitô hữu không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng. Đó là vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng phút giây của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con. Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa, để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa. Amen. FB
Khởi đầu mùa Vọng cho đến sau ngày trọng đại mừng Chúa Giáng Sinh, chúng ta đã lần lượt hình dung: HiểnLinh ABC3
Khởi đầu mùa Vọng cho đến sau ngày trọng đại mừng Chúa Giáng Sinh, chúng ta đã lần lượt hình dung gương mặt của Đấng Tạo Hóa:
+ quyền uy trong việc tạo dựng muôn loài
+ nhân từ khoan dung trước sự phản bội của tạo vật đắc ý nhất: nguyên tổ loài người
+ đề xướng hợp tác với loài người trong chương trình đem lại "Bình An dưới thế cho người Chúa thương"
+ đích thân mặc xác phàm đến-ở-vời-loài-người để vạch đường dẫn lối cho con người tìm lại tình trạng "rất tốt lành" nguyên thủy
Tuy nhiên, ngoại trừ Adong và Eva tổ tông loài người được "thấy" tận mắt, "nghe" tận tai Đấng Tạo Hóa trước và ngay sau khi phạm tội (KN. 1-2), còn tất cả chúng sinh sau khi "cửa vườn Eden bị trấn đóng" đều chỉ "thấy và nghe" Thiên Chúa qua một trung gian: thiên sứ, tiếng sấm chớp, luồng ánh sáng, làn gió nhẹ, v.v... Mãi cho đến khi "Ngôi Lời đã mặc xác phàm và ở giữa chúng tôi... Chúng tôi đã thấy vinh quang Người" (Gioan 1:18).
Người đã đến - phải, nhưng mấy ai nhận ra Người?
Niềm vui rạng rỡ của các mục tử hối hả đến BêLem chợt bùng lên: "Cứ dấu này mà các ngươi sẽ nhận biết Người: các ngươi sẽ thấy một trẻ sơ sinh, cuốn trong chiếc khăn và đặt nằm trong máng cỏ..." - Hân hoan vui mừng khôn xiết... Rồi cũng tan biến, chìm dần vào quên lãng...
Ba (3) vị hiền sĩ hăng hái lên đường tìm cho được vị Vua các vua vừa chào đời, dù bao nhiêu là trở ngại và mưu toan ác độc. "Họ vui mừng khôn xiết khi thấy lại ánh sao... " Gặp rồi, vui mừng thật, hứng khởi thật, hy vọng thật... Nhưng rồi, tất cả lại chìm vào quên lãng...
Lắm lúc chúng ta chê trách và than phiền người Do Thái thời bấy giờ: "có mắt mà không có con ngươi!", "có tai mà không có lá nhĩ!", v.v.... Ngôi Lời đang-ở-với-chúng-ta như thế mà không thấy!!! Thiên Chúa tỏ Mình cho dân người một cách tưởng không còn gì rõ ràng hơn nữa mà không nhận thấy Người!!! - Chúng ta không chê trách sai đâu, vì chính Đức Kitô sau này cũng đã chê trách họ như vậy rồi! Nhưng Đức Kitô chê trách họ thì được, phần chúng ta thì quá vội chê trách chăng?
Quả thật khó hiểu và khó tưởng tượng, xét về mặt tâm sinh lý phát sinh tự nhiên của mỗi người, nếu chúng ta dễ bỏ quên - dù vô tình hay cố ý bỏ quên - một biến cố nào đó tương đối quan trọng đã xảy ra cho mỗi một chúng ta. Một biến cố xã hội xảy ra trong một thời điểm nhất định còn khó - nếu không muốn nói không thể - bị bỏ quên, ví dụ biến cố 30-4-75, đối với một hay nhiều thế hệ dân tộc Việt, huống chi một biến cố riêng tư nào đó đã xảy ra cho từng cá thể, cho mỗi người... Chúng ta gọi một cách nôm na những biến cố đó là những kinh nghiệm sống của mỗi người.
Một người bạn tâm sự: "... sao kỳ vậy hè? - Những kỹ niệm dù rất nhỏ liên quan đến chính bản thân mình thì khó quên, nhưng những điều lạ lùng cả thể, mặc dù có ít nhiều ảnh hưởng đến bản thân mình, mà liên quan đến việc cao siêu - đến tôn giáo, đến Thiên Chúa, đến ơn cứu độ, đến tội lỗi và quyết chí ăn năn thề hứa không tái phạm, v.v... - thì... ummmm... chóng nhớ mà lắm lúc rất chóng quên!!!!"
Thầy chí thánh Kitô đã chẳng nhắc nhở cho chúng ta: "Kho tàng của các ngươi ở đâu, thì lòng trí của các ngươi cũng ở đó!" (Luca 12:34) đó sao ? Đức Maria luôn luôn "giữ kín mọi sự và suy niệm trong lòng" - Thánh cả Giuse luôn luôn nhận ra và mau mắn thi hành thánh ý Thiên Chúa trong mọi biến cố của cuộc đời.
Lắm lúc chúng ta nài xin Chúa cho chúng ta thấy, nghe tỏ tường một lần, và đoan hứa sẽ không bao giờ xa Chúa nữa đâu!!! = Chúa đã nhậm lời chúng ta rồi đó chứ! - Không phải chỉ một lần mà không biết bao nhiêu ngàn lần rồi... mà chúng ta không cảm nhận, hoặc không dám cảm nhận, hoặc làm bộ không nghe - không thấy đó thôi! = tiếng nói của lương tâm - tiếng thì thào của Thần Khí Thiên Chúa trong thâm tâm mỗi người chúng ta là ánh sao lạ luôn luôn hiện tỏ tường trong cuộc sống của mỗi người chưng ta.
Thánh LaSan cảm nhận rất rõ nét ánh sao lạ đó trong đời sống và dùng dấu hiệu ngôi sao - ánh sao đức tin - làm huy hiệu và tinh thần của Dòng: Tinh Thần Đức Tin.
Theo bài Tin Mừng, những kẻ gặp được Đức Giê-su là người có đạo hay ngoại đạo? Tại sao? Bạn có: HiểnLinh ABC4
1. Theo bài Tin Mừng, những kẻ gặp được Đức Giê-su là người có đạo hay ngoại đạo? Tại sao? Bạn có rút ra được kết luận gì không?
2. Có Kinh Thánh, giáo huấn của Chúa và Giáo Hội trong tay, điều đó đã đủ để ta gặp Chúa chưa? Còn thiếu điều gì nữa?
3. Trong thời đại này, ta có thể tìm gặp Chúa ở đâu? trong nhà thờ? trong phụng vụ? trong các bí tích? hay nơi những người anh em chung quanh ta? Theo tinh thần của Tin Mừng, thì Chúa muốn ta gặp Ngài ở đâu hơn?
Suy niệm
1. Người ngoại cũng được vào Nước Trời
Ngày xưa, những người theo đạo Do Thái quan niệm chỉ có những người theo đạo Do Thái, nghĩa là có chịu phép cắt bì mới được cứu rỗi. Sách Công Vụ Tông đồ cho thấy quan niệm ấy của họ: “Có những người từ miền Giu-đê đến dạy anh em rằng: "Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể được cứu độ" (Cv 15,1). Ngày nay, nhiều người Ki-tô hữu cũng có quan niệm tương tự như thế. Nhưng tinh thần của bài Tin Mừng hôm nay mạc khải một sự thật hoàn toàn ngược lại quan niệm ấy.
Qua bài Tin Mừng, ta thấy chính những người Do Thái –mặc dù biết Đấng Cứu Thế sinh ra tại đâu– nhưng lại không thèm tìm kiếm Đức Giê-su mới sinh ra. Những người tìm kiếm Ngài và đã thấy Ngài, thờ lạy Ngài và dâng tặng vật cho Ngài, lại là dân ngoại từ tận đâu đâu đến. Kinh Thánh còn cho ta biết: người Do Thái chẳng những không tìm kiếm Đức Giê-su, mà còn bách hại Ngài nữa. Vì thế, Nước Trời vốn ưu tiên dành cho người Do Thái, nhưng vì họ từ chối bằng thái độ lãnh đạm, thậm chí chống đối, nên Nước Trời đã được đem đến cho dân ngoại: “Phao-lô và Ba-na-ba mạnh dạn lên tiếng: "Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại” (Cv 13,46). Và lịch sử cho thấy: có vô số dân ngoại đã vào Nước Trời –mà dấu chỉ là Giáo Hội– đang khi người Do Thái lại đứng ở ngoài. Thật đúng với câu Đức Giê-su nói: «Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng» (Mt 8,11-12). Đức Giê-su cũng đã dùng nhiều dụ ngôn để nói lên sự thật này: (x. Mt 21,28-32: Hai người con kẻ nói vâng người nói không; Mt 21,33-46: Những thợ vườn nho sát nhân; Mt 22,1-14; Tiệc cưới).
2. Bài học cho người Ki-tô hữu hôm nay
a) Có Kinh Thánh và giáo lý trong tay… không đủ!
Điều trớ trêu trong bài Tin Mừng hôm nay là người Do Thái –đặc biệt là những tư tế và luật sĩ– có Kinh Thánh trong tay, nên họ biết Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra ở đâu, và lúc nào họ cũng tỏ ra mong chờ Đấng ấy đến. Thế nhưng những người gặp được đấng Cứu Thế -các đạo sĩ và mục đồng– lại là những kẻ chẳng biết gì về Kinh Thánh. Điều ấy chẳng làm cho chúng ta suy nghĩ sao?
Người Ki-tô hữu hôm nay có đủ mọi phương tiện để được cứu rỗi: Kinh Thánh (Cựu và Tân Ước), giáo lý, giáo huấn Giáo Hội (các văn kiện Tòa Thánh), các sách thần học, tu đức, luân lý, rồi các bí tích, các giờ phụng vụ… Nhưng hãy coi chừng kẻo lịch sử lại lập lại «y trang» như cách đây 2000 năm. Vì bài Tin Mừng cho thấy: để gặp được Đấng Cứu Thế, có Kinh Thánh trong tay không đủ, mà còn cần phải có sự nhạy bén để biết thời điềm, đồng thời phải biết lên đường tìm kiếm Ngài. Người Do Thái –cụ thể là các tư tế và luật s– có nhiều điều kiện để gặp Ngài hơn các đạo sĩ (có Kinh Thánh, ở gần nơi Ngài sinh ra, được các đạo sĩ báo về ngôi sao của Ngài), nhưng đã không lên đường tìm kiếm Ngài. Họ muốn yên thân với những tập tục đạo đức của họ, với cách giữ đạo cổ truyền của họ, và họ nghĩ rằng Đấng Cứu Thế sẽ chủ động đến để gặp họ, đem sự giải phóng đến cho họ. Nhưng sự thật đã xảy ra không phải như vậy.
b) Điều cốt yếu là tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa và tha nhân
Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi người Ki-tô hữu xét lại xem: cách sống đạo của chúng ta có giúp chúng ta đến gặp Chúa hay không, nghĩa là có thể đem lại ơn cứu độ cho chúng ta hay không. Chúng ta đừng an tâm tưởng rằng cứ giữ những tập tục đạo đức truyền thống cho tốt là bảo đảm vào được Nước Trời. Như thế không đủ! Điều cốt yếu để vào được Nước Trời không chỉ là tin vào Đức Giê-su mà còn phải thể hiện niềm tin ấy bằng việc sống theo lời Ngài: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13: 34). Nghĩa là chúng ta phải chứng tỏ được tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và tha nhân. Mà tình yêu đối với Thiên Chúa lại được thể hiện qua tình yêu đối với tha nhân: «Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; bởi ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không trông thấy?» (1Ga 4,20).
c) Tình yêu phải được thể hiện thành hành động cụ thể.
Giấy thông hành để vào Nước Trời chính là tình yêu, mà phải là tình yêu đích thực. Không ai thiếu tình yêu mà vào Nước Trời được, vì Nước Trời là Nước của Tình Yêu. Tình yêu đích thực tự bản chất là phải được thể hiện bằng hành động. Nếu «đức tin không có hành động thì là đức tin chết» (Gc 2,17), thì cũng vậy, tình yêu không có hành động là tình yêu giả hiệu. Với tình yêu giả hiệu, chúng ta không thể vào Nước Trời được.
Nhưng, làm sao ta dám nói là ta có tình yêu đích thực đối với anh em mình, khi họ lâm nạn mà ta lại khoanh tay đứng nhìn? Làm sao tình yêu của ta là đích thực được, khi ta thấy rõ ràng anh em mình đang chịu bất công, mà ta lại không chịu lên tiếng hay can thiệp, nhất là khi tiếng nói của ta có thể rất hữu hiệu? Nếu ta thấy anh em mình chịu bất công tỏ tường mà vì muốn yên thân, ta lại làm chứng với mọi người rằng đó không phải là bất công, thì tình yêu của ta là chân thực sao được? Nếu cách hành động của ta là như thế, thì dù ta có tuân thủ giữ những tập tục truyền thống trong tôn giáo một cách hoàn hảo không chê vào đâu được, thì chúng ta vẫn luôn luôn ở ngoài Nước Trời.
d) Cần cảnh giác với thứ đạo đức hương nguyện, thiếu việc làm
Tệ hơn nữa, là khi chính chúng ta đã không chịu thể hiện tình yêu ra vịệc làm cụ thể, mà lại cổ võ một thứ đạo đức không việc làm, luôn luôn đề cao việc đọc kinh cầu nguyện, dâng thánh lễ… mà không hề nhấn mạnh bổn phận phải dấn thân phục vụ anh em, không quan tâm mưu cầu hạnh phúc cho những người chung quanh, không tích cực lo biến cải xã hội nên công bằng hơn và tốt đẹp hơn, thì phải chăng là chúng ta đang tiếp tay cho kẻ ác ru ngủ quần chúng, làm tê liệt sức đấu tranh cho công bằng xã hội của họ? Phải chăng chúng ta đang biến tôn giáo của chúng ta thành «thuốc phiện» thật sự? Chúng ta quên rằng «điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành» (Mt 23,23). Và có thể chúng ta miệng thì nói về Nước Trời, nhưng thật sự ta lại dẫn quần chúng đến một nơi khác vì những giáo huấn của ta khác hẳn với tinh thần Tin Mừng? Đức Giê-su nói: «Các người đi rảo khắp nơi để tìm đưa được một người vào đạo; nhưng khi họ theo rồi, thì các người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người» (Mt 23,15), liệu câu này có đúng với ta chăng? Vì nhiều khi cứ để họ ngoại đạo, họ lại quan tâm đến việc thể hiện tình yêu với tha nhân, hơn khi họ vào đạo? Đến khi vào đạo, họ lại chỉ nghe lời ta, chỉ biết quan tâm tới những tập tục đạo đức cổ truyền, mà bỏ đi những việc từ thiện bác ái họ vẫn quen làm xưa nay?
Trái lại, những người không có Kinh Thánh trong tay, không có giáo lý hay giáo huấn của Giáo Hội, không có bí tích, nhưng họ lại có tình yêu đích thực, tức có giấy thông hành để vào Nước Trời. Rất có thể họ lại vào Nước Trời trước chúng ta, là đối tượng ưu tiên của Nước Trời. Bởi chúng ta lúc nào cũng nói về Nước Trời mà không lo hành động cho Nước Trời! Thánh Phao-lô nói: «Người ta được Thiên Chúa coi là công chính, không phải vì nghe biết Lề Luật, nhưng là vì tuân giữ Lề Luật» (Rm 2,13), và «nếu người không được cắt bì, mà biết giữ những điều Luật dạy, thì tuy họ không được cắt bì, nhưng Thiên Chúa đã coi họ như đã được cắt bì rồi» (Rm 2,26). Bài Tin Mừng hôm nay và nhiều dụ ngôn của Đức Giê-su cho chúng ta thấy viễn cảnh ấy! Và đó cũng là một lời cảnh cáo chúng ta!
Cầu nguyện: Lạy Cha, nhiều khi chúng con làm chuyện hết sức khờ dại. Chúng con luôn luôn đề cao đạo của mình trước mặt mọi người, nhưng chính chúng con lại chẳng sống tinh thần đạo ấy. Đang khi có nhiều kẻ ngoại giáo, lại thật sự sống được tinh thần ấy. Việc đề cao tôn giáo của chúng con, tự nó là một điều rất tốt, nhưng nhiều khi lại xuất phát từ một khuynh hướng kiêu ngạo tập thể, chứ không phải là tình yêu. Vì nếu nó xuất phát từ tình yêu đích thực, thì chúng con đã phải thể hiện tình yêu ấy, bằng sự dấn thân đích thực, cho những anh em đang chịu khốn khổ cơ cực. Sự im lặng trước những bất công, sự thụ động trước những cảnh khốn cùng của đồng loại, chứng tỏ chúng con chưa có tình yêu đích thực. Vì thế, việc đề cao tôn giáo của chúng con, chỉ là một hình thức kiêu căng tập thể, là điều Cha rất ghét. Xin cho chúng con biết sống đích thực tinh thần đạo của mình trước khi đề cao nó, để sự đề cao ấy có giá trị đích thực, làm sáng danh Cha. Amen.
Thế nào là Thiên Chúa hiển linh? 2. Đức Giê-su, Con Một Thiên Chúa hiển linh như thế nào?: HiểnLinh ABC5
* Câu hỏi gợi ý:
1. Thế nào là Thiên Chúa hiển linh? 2. Đức Giê-su, Con Một Thiên Chúa hiển linh như thế nào? 3. Từ việc Thiên Chúa hiển linh nơi Hài Nhi Giê-su, chúng ta học được gì?
* Suy tư gợi ý:
Ý nghĩa của Thiên Chúa hiển linh?
Trong truyền thống Thánh Kinh, có nhiều lần Đấng Thiên Chúa siêu việt và vô hình đã tỏ mình ra cho con người một cách hữu hình, trông thấy, cảm nhận được! Nhưng vì không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa mà có thể sống nổi nên Thiên Chúa thường tỏ mình ra trong đám mây, đám lửa, trong cảnh sấm sét bão bùng hay cảnh tầng trời mở ra. Trước cảnh Thiên Chúa hiển linh oai phong, lẫm liệt như thế thì thái độ của những người chứng kiến là phủ phục quì lạy, vì con người cảm thấy mình vô cùng bé nhỏ, bất xứng trước Thiên Chúa siêu việt!
Việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người có ý nghĩa quyết định cho đời sống tâm linh: Thiên Chúa rất thích được con người biết đến và Người rất muốn có mối quan hệ thân tình với họ. Hơn nữa Thiên Chúa có sáng kiến đi bước trước để con người đỡ phải vất vả tìm kiếm, vì chưng Người là Đấng cao cả khôn lường, vượt xa mọi khả năng trí tuệ nhân trần.
2. Đức Giê-su, Con Một Thiên Chúa hiển linh như thế nào?
Trong phụng vụ của Giáo hội Công giáo Ro-ma thì Lễ Hiển Linh đi liền sau Lễ Chúa Giáng Sinh, vì việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại là phần tiếp nối của sự kiện Thiên Chúa nhập thể làm người. Trong phụng vụ của Giáo hội Chính thống thì biến cố Chúa Giáng Sinh và tỏ mình ra cho dân ngoại được cử hành chung trong Lễ Hiển Linh. Vì thế Lễ Hiển Linh có một ý nghĩa hết sức đặc biệt: Đức Giê-su, Ngôi Lời mặc lấy xác phàm, sinh ra nơi hang bò lừa Bêlem. Người là Con Một Thiên Chúa, là Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nhưng Người không chỉ ở cùng chúng ta là những người tín hữu Do Thái giáo mà Người còn tỏ mình ra cho dân ngoại tức là cho hết mọi người trên cõi đất này, mà ba nhà chiêm tinh Phương Đông là đại diện và biểu tượng.
Chắc hẳn ba nhà chiêm tinh khi lên đường đi theo ngôi sao của Đức Vua dân Do Thái thì họ chẳng đi một mình. Trái lại đi theo họ là cả một đoàn tùy tùng đông đảo, với ngựa xe lạc đà lủng cà lủng củng. Họ đi đến đâu lôi kéo sự chú ý đến đó. Quang cảnh ấy giống hệt như quang cảnh tưng bừng của một Giê-ru-sa-lem vào ngày Chúa đến viếng thăm thành thánh mà ngôn sứ I-sai-a đã mô tả (bài đọc 1).
Trái ngược hẳn với cảnh ồn ào náo nhiệt của đoàn ngựa xe trên đường hành hương, ba nhà chiêm tinh bỗng chốc lọt vào một quang cảnh hết sức tĩnh lặng, đơn sơ và bình dị: một hài nhi bé bỏng trong vòng tay của người mẹ hiền. Hài nhi ấy có tên là Giê-su. Người mẹ hiền ấy là Đức Ma-ri-a. Nhưng với ngôi sao dẫn đường - tức với ơn soi sáng của Thiên Chúa- ba nhà chiêm tinh Phương Đông nhận ra Hài Nhi ấy là Đức Vua của Dân Do Thái, là Đấng mà muôn người trông đợi, là Vị Thiên Sai từ trời cao, là Đấng Cứu Độ chúng sinh từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam. Vì thế mà họ có ngay thái độ xứng hợp "họ liền sấp mình thờ lạy Người, rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến."
3. Từ cách Thiên Chúa hiển linh nơi Hài Nhi Giê-su, chúng ta học được gì ?
Nếu việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại - được đại diện bằng ba nhà chiêm tinh Phương Đông - đã được các ngôn sứ loan báo trước, thì dường như cách Thiên Chúa bộc lộ mình ra nơi Hài Nhi Giê-su vẫn chứa đựng nhiều bất ngờ. Thật vậy, trong thị kiến hay trong cái nhìn về tương lai xa xăm, các ngôn sứ trong Cựu Ước thường thấy và mô tả lại trong các sách sấm ngôn, cảnh huy hoàng, tráng lệ của việc hay của ngày Thiên Chúa tỏ mình ra. Đàng này Thiên Chúa hiển linh chỉ là Hài Nhi Giê-su bé bỏng trong vòng tay của Mẹ Ma-ri-a, trong một khung cảnh bình dị, đơn sơ và nghèo nàn thì quả là điều hết sức bất ngờ!
Đó phải chăng là điều mà chúng ta cần học nhất? Trong cách sống đạo, nhiều người trong chúng ta có xu hướng ưa chuộng những cách thể hiện "hình thức", "phô trương", bề ngoài", "làm oai"… Ngược lại, Chúa Giê-su đã chọn cách sống âm thầm, kín đáo, bình dị, khiêm cung, khó nghèo. Và Người đã chọn cách tỏ mình là người yếu kém, bé bỏng….Bê lem có nhiều nét giống Na-gia-rét và Can-vê! Nhà thần học Tin lành Đức Moltmann đã nói một câu đáng chúng ta suy nghĩ "Chính lúc Thiên Chúa tỏ mình ra yếu kém nhất, lại là lúc Người mạnh mẽ nhất" Không đâu Thiên Chúa tỏ ra yếu kém cho bằng ở máng cỏ Bê-lem và trên Thập tự giá! Bài học ấy, chúng ta hãy học cho thuộc lòng và áp dụng vào cuộc sống!!!
NGUYỆN
Lạy Chúa Giê-su Hài Nhi, Chúa là Thiên Chúa siêu việt, là Ngôi Lời Thiên Chúa toàn năng, hằng hữu, Đấng có mặt trong buổi đầu Tạo Dựng. Thế mà vì muốn thiết lập mối quan hệ thân tình, bạn hữu với chúng con, với nhân loại, Chúa đã sinh ra làm một Hài Nhi. Chúa muốn mời gọi mọi người, mọi dân đến với Chúa để Chúa bộc lộ mình ra, nhưng Chúa lại thích bộc lộ mình trong hình hài bé nhỏ của một trẻ thơ trong vòng tay của mẹ hiền. Có phải vì Chúa muốn chúng con đến với Chúa mà không phải sợ hãi điều gì? Oi sao Chúa thương chúng con thế! Sao Chúa đối xử với chúng con tinh tế như vậy! Chúng con cảm tạ Chúa! Chúng con đến với Chúa đây! Chúng con thờ lạy Chúa! Xin Chúa tỏ mình ra cho chúng con! Xin Chúa đón nhận lễ dâng hèn mọn của chúng con là con người chúng con với tất cả tội lỗi, yếu đuối, ươn hèn, là những nỗ lực và hy sinh bé nhỏ hằng ngày của chúng con.
Trong cuộc tiếp đón ba phi hành gia trên chiếc hàng không mẫu hạm, sau chuyến đổ bộ lên mặt trăng: HiểnLinh ABC6
Trong cuộc tiếp đón ba phi hành gia trên chiếc hàng không mẫu hạm, sau chuyến đổ bộ lên mặt trăng và đã trở về được an toàn, tổng thống Nixon đã tuyên bố sự thành công của Apollo 11, đã đánh dấu sự kết thúc của một tuần lễ vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại kể từ cuộc sáng tạo.
Những ngày sau đó, ba phi hành gia đã thực hiện chuyến du hành thiện chí vòng quanh thế giới. Họ đã thăm viếng 23 quốc gia trong 45 ngày. Cảm động nhất là cuộc viếng thăm Vatican với quà tặng khác thường của Đức Thánh Cha Phaolô VI, đó là ba bức tượng của ba nhà đạo sĩ Phương Đông, được làm bằng sứ tuyệt đẹp. Đức Thánh Cha nói:
- Ngày xưa ba nhà đạo sĩ đã đến được với Chúa Hài đồng nhờ nhìn lên những vì sao. Còn hôm nay, những phi hành gia cũng đã đạt tới mục đích của mình nhờ nhìn xem các vì sao như vậy.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào ý nghĩa của ngày lễ hiển linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại, mà đại diện là ba nhà đạo sĩ Phương Đông qua ánh sao lạ trên bầu trời.
Như chúng ta đã biết: Sau khi Adong Eva phạm tội, Thiên Chúa đã không bỏ mặc loài người, trái lại, Ngài đã hứa ban cho nhân loại một đấng cứu thế. Chính Ngài đã chọn dân Do thái làm dân riêng để lặp lại lời hứa thuở ban đầu. Qua các tiên tri, hình ảnh về đấng cứu thế cứ mỗi ngày một thêm đậm nét, chẳng hạn tiên tri Isaia đã loan báo:
- Một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và tên con trẻ là Emnauel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.
Đồng thời các tiên tri còn thúc đẩy họ trông chờ đấng cứu thế:
- Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa đấng cứu đời.
Và chính dân Do thái vào thời Chúa Giêsu, cũng vẫn đang đang mong đợi Đấng Cứu Thế. Như vậy, dưới một góc độ nào đó, họ là những người ở gần Chúa.
Thế nhưng với câu chuyện về đêm sinh nhật và về việc ba nhà đạo sĩ Phương Đông, thì chúng ta lại thấy họ là những kẻ xa Chúa.
Thực vậy, chính họ đã không dành cho Chúa lấy một chỗ trong quán trọ. Chính họ đã không nhận biết và thờ lạy Ngài. Chính họ ngày hôm nay đã bàng hoàng lo lắng với nguồn tin vua dân Do thái mới sinh ra.
Rồi sau này, trong cuộc sống công khai của Chúa, chính họ đã về phe với bọn biệt phái và luật sĩ hò la kết án Chúa:
- Đóng đinh nó vào cây thập giá.
Quả thực, họ là những kẻ xa cách Chúa. Trong khi đó ba nhà đạo sĩ Phương Đông bị coi là dân ngoại. Các ngài không được các tiên tri hướng dẫn. Các ngài không phải là thành viên trong cộng đồng dân riêng của Chúa. Và như vậy, dưới một góc độ nào đó, các ngài là những kẻ xa Chúa.
Thế nhưng, khi nhìn thấy ánh sao lạ, đồng thời do học hỏi các ngài đã nhận ra thánh ý nhiệm mầu của Chúa, cho nên các ngài đã can đảm từ bỏ tất cả, lên đường dấn thân vào một cuộc phiêu lưu mạo hiểm để tìm kiếm Chúa. Cuối cùng, các ngài đã gặp được Chúa nơi máng cỏ Bêlem. Các ngài đã quì gối thờ lạy và dâng tiến lễ vật. Nhờ đó, các ngài đã trở nên những người thực sự ở gần Chúa.
Còn chúng ta thì sao ?
Vốn tự hào là người có đạo, có đức tin, chúng ta là những người ở gần Chúa. Thế nhưng trong lúc này, Chúa có thực sự ngự trị trong cõi lòng chúng ta hay không? Rất có thể vì những tội lỗi chồng chất, rất có thể vì những đam mê dục vọng sai trái thúc đẩy, chúng ta đã xua đuổi Chúa ra khỏi tâm hồn chúng ta, để rồi chúng ta trở nên những kẻ thực sự xa cách Chúa.
Và như thế, các nhà đạo sĩ Phương Đông tuy xa mà lại gần, còn chúng ta tuy gần mà lại xa.
Tại nước Camơrun ở Phi Châu, có một vùng đất tên là Fontem, dân số khoảng 20 ngàn người, là một: HiểnLinh ABC7
Tại nước Camơrun ở Phi Châu, có một vùng đất tên là Fontem, dân số khoảng 20 ngàn người, là một bộ lạc bị đe dọa tuyệt chủng vì nhiều thứ bệnh, nhất là bệnh ngủ và bệnh giun chỉ.
Tộc trưởng của bộ lạc Fontem đã đi cầu cứu nhiều nước và nhiều tôn giáo nhưng không kết quả. Cuối cùng, c ông đã đến với Đức cha Peeters thuộc giáo phận Buca ở Camơrun, đặt vào tay ngài một số tiền và nói: “Bộ lạc chúng tôi chẳng tốt lành gì để đáng được Chúa thương nhận lời, vậy chúng tôi xin Đức cha và các tín hữu của ngài cầu cùng Chúa cho chúng tôi. Hy vọng Chúa sẽ nhận lời”.
Đức Cha Peeters và giáo dân của người không chỉ cầu nguyện mà còn hành động. Họ chung tay góp sức làm cho bộ lạc Fontem ngày càng tốt đẹp hơn. Khởi đầu là 2 bác sĩ, 1 bác sĩ thú y, cùng với 3 phụ nữ thuộc phong trào Giáo dân Hoạt động cho thế giới được Hiệp nhất trong Yêu thương.
Ngày nay, bộ lạc Fontem đã hoàn toàn đổi mới. Xưa kia là rừng thiêng nước độc thì nay là phố xá đô hội. Điều bất ngờ là chính thành phố này lại là chiếc nôi của một phong trào Giáo dân Thiện nguyện tới phục vụ ở rất nhiều nước tại Phi Châu. Số người xin học đạo và gia nhập Giáo hội nhiều vô kể.
“Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện”. Các nhà đạo sĩ đã nhìn thấy ánh sao lạ, và đã mau mắn lên đường trong niềm hy vọng tràn đầy. Vâng, chính trong niềm hy vọng tràn đầy mà tộc trưởng Fontem đã hăng hái đến với Đức cha Peeters như ánh sao hy vọng. Ong hy vọng bộ lạc của ông sẽ thoát cảnh bệnh tật và nghèo đói, ông hy vọng dân tộc mình sẽ bước theo kịp văn minh tiến bộ của nhân loại. Cuối cùng, hoa hy vọng đã khai mùa mở cánh. Bộ lạc của ông đã được ngôi sao hy vọng tỏa sáng để họ không chỉ đến với nền văn minh khoa học mà còn tiến bước vào nền văn minh tình thương.
Ngôn sứ Isaia đã nói: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”.
Anh sáng bừng lên chiếu rọi, chính là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Sao Hy Vọng của muôn dân. Kể từ khi nguyên tổ phạm tội, ánh hào quang của địa đàng vụt tắt, nhân loại mò mẫm trong bóng đêm tội lỗi, mỏi mòn chờ mong ánh sáng cứu độ chiếu rọi nhân gian.
Ngôi Sao Hy Vọng đã xuất hiện ở trời Đông, và sẽ không bao giờ lặn đi.
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình cho dân ngoại, mà đại diện là ba nhà đạo sĩ, trong đó có tất cả chúng ta.
Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã chiếu rọi vào cuộc đời tăm tối của chúng ta, thì Người cũng muốn chúng ta sẽ là những ánh sao, luôn chiếu tỏa niềm tin yêu và hy vọng nơi con người.
Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã không bao giờ thất vọng về con người, cho dù con người thất trung phản bội, thì chúng ta cũng đừng bao giờ thất vọng về chính mình.
Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã không hề để ai phải thất vọng khi trông cậy nơi Người, thì chúng ta cũng đừng bao giờ để một nỗi thất vọng nào chạm được đến anh em.
Tuy Ngôi Sao Hy Vọng xuất hiện ở Phương Đông đã 2000 năm qua, nhưng tại Á Châu này tỷ lệ những người được Ngôi Sao chiếu rọi mới chỉ có 10,4o/o. Đó là nỗi thao thức của Giáo hội và cũng là trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bày tỏ trong Tông Huấn “Giáo hội tại Á Châu” như sau: “Những kẻ tin vào Chúa Kitô vẫn là một thiểu số bé nhỏ trong lục địa mênh mông và đông dân nhất này. Nhưng không phải là một thiểu số nhút nhát, họ sống đức tin cách sống động đầy hy vọng và ban sức sống, mà chỉ có duy nhất tình yêu, mới có thể mang lại”.
“Tham vọng duy nhất của Giáo hội là tiếp tục sứ mạng phục vụ và yêu thương của mình, để tất cả dân Á Châu “có sự sống và sống dồi dào”.
Arthur Jones gia nhập không lực Hoàng gia, anh được huấn luyện trong một trại lính cùng với: HiểnLinh ABC8
Arthur Jones gia nhập không lực Hoàng gia, anh được huấn luyện trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải cân nhắc về một quyết định: “Có nên quì gối đọc kinh như thói quen ở nhà không ?”. Ban đầu anh cảm thấy hơi ngượng, nhưng rồi anh tự nhủ: “Chẳng lẽ mình phải thay đổi cách sống vì sợ kẻ khác dòm ngó sao ?”.
Anh liền quyết định cứ quì gối đọc kinh như thói quen. Khi vừa làm dấu kết thúc buổi cầu nguyện, mọi người biết anh là người Công giáo. Hơn nữa, anh lại là người Công giáo duy nhất trong trại lính. Tuy nhiên, anh vẫn quì gối cầu nguyện hàng đêm, và sau đó thường dẫn đến những cuộc tranh cãi hàng giờ.
Cuối khóa huấn luyện, có người đến nói với anh:
- Anh là người Kitô hữu tốt nhất mà tôi gặp.
Anh liền đáp lại:’- Cám ơn bạn, tôi không nghĩ mình là Kitô hữu tốt nhất đâu. Có thể tôi là người Công giáo dám công khai biểu lộ đức tin.
Anh sáng đức tin của người lính đã tỏa sáng trong trại huấn luyện của không lực Hoàng gia. Đúng như lời Đức Giêsu đã nói: “Các con là ánh sáng thế gian”. Như ánh sao lạ đã mọc lên để dẫn đường cho các đạo sĩ, ngôi sao Tin Mừng cũng đã xuất hiện để soi dọi vào tâm hồn tăm tối của chúng ta. Để từ đây, ánh sáng đức tin luôn chiếu tỏa rạng ngời.
Nhưng tin không phải là thấy. Tin là dựa vào lời Chúa mà liều mình, mà dấn thân và nhiều khi phải vượt qua gian nan thử thách.
Các đạo sĩ khi nhìn thấy ánh sao lạ, họ đã tin tưởng vào một Đấng Cứu Tinh mà ngôi sao là dấu chỉ, họ vội vã lên đường mà không biết ngôi sao sẽ dẫn đi đâu. Khi ánh sao biến mất, họ không thất vọng, không bỏ cuộc, nhưng dò hỏi kiếm tìm. Hành trình của họ là hành trình đức tin, con đường của họ là con đường thánh giá.
Để giữ vững đức tin, nhiều khi chúng ta phải can trường lướt thắng bản thân, phải liên lỉ chiến đấu hy sinh, phải anh dũng biểu lộ niềm tin. Tổng Giám mục Fulton Sheen khẳng định: “Để trắc nghiệm đức tin của chúng ta, cần phải xem phản ứng lúc đau khổ và thử thách, chứ không phải lúc đời lên hương, thuận buồm xuôi gió”.
Như các đạo sĩ tìm lại ánh sao sau khi lạc mất, người tín hữu Kitô luôn được mời gọi nhìn lên ánh sao của niềm hy vọng. Chính trong niềm hy vọng mà chúng ta can đảm dấn thân đi tới.
Trong cuộc sống đời thường, có rất nhiều dấu chỉ như ánh sao dẫn ta đến với Chúa. Có thể là:
- Một câu Kinh Thánh đánh động lòng ta. - Một nghĩa cử yêu thương nồng ấm. - Một lời khuyên nhắc nhở chân tình. - Một gương sáng làm ta xúc động.
Nếu cuộc đời chúng ta đã từng có những ánh sao dẫn đường, thì đến lượt mình, hãy là những vì sao ngời sáng như kim cương trên bầu trời, là những ánh đèn đêm hoa đăng ngày đại hội. Eliot đã viết:
“Nếu bạn không thể là ngôi sao sáng, Thì hãy là ánh lửa non cao. Nếu không là ánh lửa non cao, Xin hãy làm ánh nến tỏa sáng trong gia đình”.
Đức Gioan Phaolô II trong Giáo lý Năm Thánh 2000 có viết: “Việc giáo dân tham dự và cùng có trách nhiệm trong cộng đồng Kitô hữu, cùng với nhiều hình thức tông đồ và phục vụ của họ trong xã hội, khiến chúng ta có lý mà hy vọng rằng, vào buổi bình minh của thiên niên kỷ thứ ba, sẽ có một cuộc “hiển linh” trọn vẹn và tốt đẹp nơi thành phần giáo dân”.
Nhìn vào các hang đá, ngoài những nhân vật quen thuộc như Chúa Giêsu Hài đồng, Đức Maria, thánh: HiểnLinh ABC9
Nhìn vào các hang đá, ngoài những nhân vật quen thuộc như Chúa Giêsu Hài đồng, Đức Maria, thánh Giuse, mấy mục đồng… Chúng ta còn thấy ba người mặc phẩm phục như những ông vua, tay mang lễ vật, đang khúm núm rất trịnh trọng trước hài nhi mới sinh. Họ là ai ? Họ từ đâu đến ? Họ thuộc nước nào? Tại sao họ có mặt ở đây ?
Theo mẫu đối thoại thánh Matthêu kể lại trong Tin Mừng, người ta truyền tụng nhau và gọi họ là ba vua. Nhưng thực sự Tin Mừng không nói thế mà chỉ gọi họ là các nhà chiêm tinh, tức là các ông lớn, những nhà thông thái, chuyên nghiên cứu thiên văn, nghiên cứu các ngôi sao để cố vấn cho nhà vua trong vấn đề chính trị.
Có nhiều người lại đặt ra vấn đề: các ông này có thật không hay chỉ là một huyền thoại ? Cho đến nay, ngoài phạm vi tôn giáo, chưa có một nguồn tài liệu nào khẳng định rõ ràng dứt khoát. Ở vùng Trung Đông có rất nhiều nước kể chuyện này và được coi như một chuyện cổ tích. Nhưng đối với chúng ta, dựa vào Tin Mừng, thì sự hiện diện của ba vị này ở hang đá Bêlem là chuyện có thực. Nhưng các ông từ đâu đến thì chúng ta không thể căn cứ vào đâu mà xác quyết. Có một điều chắc chắn là cũng chỉ ở trong vùng Trung Đông thôi. Tuy nhiên, những chi tiết đó không quan trọng, điều quan trọng nhất là bài học mà các vị này để lại cho chúng ta.
Trước hết, cuộc hành trình của các nhà chiêm tinh được xem là hình ảnh cuộc hành trình đức tin của chúng ta. Với một dấu hiệu không chắc chắn, không rõ rệt là một ngôi sao, các ông đã lên đường tìm kiếm sự thật. Với tấm lòng yêu chuộng sự thật, các ông đã miệt mài tìm kiếm cho đến khi biết được sự thật và gặp được Chúa Giêsu. Cuộc đời của chúng ta cũng phải luôn đi tìm Chúa. Dù chúng ta đã có đức tin, nhưng lòng tin của chúng ta có những lúc bị chao đảo, bị thử thách vì những khó khăn, đau khổ của cuộc sống. Nhưng dù hoàn cảnh thế nào, chúng ta vẫn kiên quyết giữ đức tin và sống đức tin.
Chúng ta phải sống bằng đức tin chứ không thể sống bằng tình cảm. Trong tình cảm có vui có buồn. Nhưng vui buồn lúc có lúc không. Nếu chúng ta chỉ dựa vào niềm vui và khi vui mới khiến chúng ta tin. Vậy khi hết niềm vui thì sao ? Lòng tin của chúng ta sẽ bị suy giảm. Hay khi gặp những chuyện buồn thì sao? Chúng ta còn tin không ? Vì thế, chúng ta phải sống bằng niềm tin vững chắc, không lệ thuộc vào ai, cũng không lệ thuộc vào hoàn cảnh.
Hơn nữa, đức tin của chúng ta phải được thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê đã nói: “Đức tin không có việc làm là một đức tin chết”. Chúng ta tin vào tình yêu Chúa Kitô. Niềm tin ấy không chỉ là một hạt giống gieo trong lòng chúng ta rồi nằm yên đấy. Một niềm tin như thế có lẽ chẳng ích lợi gì cho chính mình hay cho bất cứ ai. Đức tin của chúng ta cần phải trổ sinh hoa trái bằng việc làm để mọi người có thể hiểu được thế nào là tình yêu mà chúng ta tin và có thể nhận ra khuôn mặt của Đấng mà chúng ta suy phục, tôn thờ.
Thứ hai, các vị này đã dâng cho Chúa Hài đồng vàng, nhũ hương và mộc dược. Đó là ba loại lễ vật đặc biệt và quí giá nhất của Đông phương. Nhưng những lễ vật vô tri kia chỉ là dấu hiệu biểu lộ tâm hồn của họ, chứng tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn kính và yêu mến của họ đối với Chúa Hài đồng.
Văn sĩ Dô-ơ-den-sen (Joergensen), người Đan Mạch đã nghĩ ra một câu chuyện minh họa cho chúng ta thấy rõ điều đó. Ông đã tưởng tượng ra một vị chiêm tinh thứ tư. Vị này đến gặp Chúa Giêsu hài đồng sau ba vị kia. Gặp Chúa, nhưng ông rất buồn vì không còn gì để dâng tặng cho Ngài. Trước khi lên đường, ông đem theo ba viên ngọc quí giá. Dọc đường, ông gặp một cụ già đói nghèo, ông tặng viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường, ông gặp một toán lính đang làm nhục một cô gái. Ông lấy viên ngọc thứ hai thương lượng với chúng để chuộc cô gái. Cuối cùng, khi đến Bêlem, ông gặp một người lính do vua Hêrôđê sai đi để tàn sát các hài nhi, ông lấy viên ngọc thứ ba cho anh ta và thuyết phục anh ta từ bỏ hành động gian ác. Đến khi gặp được Chúa Hài đồng, ông chỉ còn hai bàn tay trắng. Ông bối rối kể lại cuộc hành trình của mình. Nhưng thật lạ lùng, Chúa Giêsu đưa hai tay ra và mỉm cười nói với ông: “Con đã dâng cho Ta món quà quí giá nhất. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân”.
Chúa Giêsu đã nói: “Bất cứ điều gì các con làm cho người khác là làm cho chính Ta”. Chúng ta vẫn luôn gặp Chúa trong cuộc sống hằng ngày qua những anh chị em sống với chúng ta, và tất cả những gì chúng ta làm cho họ là chúng ta làm cho chính Chúa. Như vậy, lễ vật làm hài lòng Chúa nhất chính là những gì chúng ta trao tặng cho tha nhân.
Từ “Epiphany” có nghĩa là sự biểu thị hay mặc khải. Theo văn mạch, đó là “vén màn ra”. Ngày nay: HiểnLinh ABC10
Từ “Epiphany” có nghĩa là sự biểu thị hay mặc khải. Theo văn mạch, đó là “vén màn ra”. Ngày nay, tấm màn ấy đã được vén ra. Để cho thấy một mầu nhiệm lớn lao, đó là Đức Kitô chính là Đấng Cứu độ, không chỉ cho dân Do thái, mà còn cho cả dân ngoại nữa.
Thánh ý Thiên Chúa muốn cho tất cả mọi người đều được cứu rỗi và hiểu biết sự thật. Đây là ý nghĩa thần học của ngày lễ hôm nay. Thiên Chúa mời gọi toàn thể dân Do thái và dân ngoại cùng chia sẻ ân sủng cứu độ. Trong Đức Kitô, mọi người đều là những chi thể của cùng một thân thể.
Chúng ta không cần phải nhấn mạnh nhiều về ngôi sao, nếu không thì ngày lễ này sẽ mang một ý nghĩa hoàn toàn thay đổi, rất hạn hẹp và tẻ nhạt. Bất kể ngôi sao là gì đi chăng nữa, thì nó vẫn chỉ là một phương tiện mà qua đó, một mầu nhiệm lớn lao đã được mặc khải. Đó là mặc khải về Đức Kitô trong tư thế là Đấng Cứu độ cho mọi dân tộc.
Trong Cựu ước, dân Do thái được mô tả như là dân tộc được Thiên Chúa chọn. Nhưng ý tưởng này đã được giải nghĩa liên quan đến tình trạng của giai cấp thứ hai đối với tất cả các dân tộc khác. Ngày lễ này cho thấy rằng sự chọn lựa của Thiên Chúa không là một đặc ân chỉ dành riêng cho một số người, nhưng là niềm hy vọng cho tất cả mọi người. Điều này chấm dứt mọi thứ
chủ nghĩa độc quyền. Vậy chúng ta đang cử hành một ngày lễ toàn cầu.
Lễ Hiển linh đã phá đổ bức tường ngăn cách giữa dân Do thái và dân ngoại. Phần lớn sứ vụ của Đức Giêsu đã bị giới hạn cho dân riêng của Người. Mặc dù vậy, Người cũng vẫn đến được với người phụ nữ Samaria, người Canaan, những người ngoại quốc, và tất cả mọi tầng lớp trong xã hội. Người đã làm cho các nhà lãnh đạo Do thái tức giận, khi nói cho họ biết rằng nước Thiên Chúa được mở ra cho tất cả mọi người. Nguồn tin về việc dân ngoại cũng sẽ được đón nhận giống như họ đã gây cho người Do thái một cú sốc và hoang mang. Khi giao nhiệm vụ cho các tông đồ lần cuối cùng, Đức Giêsu đã nói với các ông “Anh em hãy đi khắp thế gian, và hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ Ta”.
Sự thật lý thú lớn lao này đã được mặc khải một cách phôi thai, khi ba nhà đạo sĩ – ba người dân ngoại – đến chúc tụng Thiên Chúa là Cứu Chúa của họ. Các đạo sĩ chính là hoa quả đầu mùa của thế giới dân ngoại, đã đến chia sẻ những ơn huệ của Đấng Mêsia.
Đây là một ngày lễ vui mừng, là một ngày lễ bao hàm tất cả. Chúng ta là những người dân ngoại, nay được trở nên con cái trong nhà. Chúng ta đã từng là những kẻ xa lạ, mà nay được trở thành phần tử của gia đình Thiên Chúa.
Ông Black Elk, một nhà lãnh đạo vĩ đại của Mỹ, đã nói một câu rất khôn ngoan “Thật khó mà dõi theo: HiểnLinh ABC11
Ông Black Elk, một nhà lãnh đạo vĩ đại của Mỹ, đã nói một câu rất khôn ngoan “Thật khó mà dõi theo một cảnh tượng vĩ đại, trong cái thế giới của tăm tối và đang thay đổi, với đầy rẫy những bóng đen này. Giữa những bóng tối đó, con người đã bị lạc lối”. Tuy nhiên, đó là điều mà các nhà đạo sĩ đã thực hiện. Họ đã dõi theo một cảnh tượng vĩ đại, và đã theo đuổi cho đến cùng.
Điều mà họ có được là lòng dũng cảm, can trường, và một cuộc hành trình đầy ấn tượng. Tuy nhiên, đối với nhiều người, đó là một sự ngu dại, điên khùng, một cuộc hành trình không hề dễ dàng chút nào. Chắc hẳn là các đạo sĩ gặp nhiều khó khăn, và đã từng có lúc nghi ngờ và gặp nguy hiểm trong suốt cuộc hành trình của mình. Mỗi khi ngôi sao biến mất (dưới những đám mây hoặc dưới ánh sáng ban ngày), họ đã từng tạm thời bị mất phương hướng.
Chắc hẳn có những lúc các vị ấy đã từng tự hỏi không biết mình có phí phạm thì giờ hay không, và có một ý nghĩ “Không hiểu người ta sẽ nghĩ gì về chúng ta ?”. Tuy nhiên, mặc dù bị nghi ngờ, khó khăn và nguy hiểm, nhưng các vị ấy đã kiên trì trong cuộc hành trình tìm kiếm của mình, và được thưởng công xứng đáng, khi cuối cùng, họ tìm thấy Đức Giêsu.
Mặc dù được hướng dẫn nhờ ánh sáng trên trời – một ngôi sao – nhưng các đạo sĩ vẫn không biết được ngôi sao sẽ đưa dẫn mình đến đâu. Từ đây, cuộc hành trình của các đạo sĩ là cuộc hành trình của lòng tin. Và ngay khi vừa nhìn thấy Con Trẻ, các vị ấy còn phải làm một động tác đức tin. Xem thấy chưa hẳn đã là tin.
Câu chuyện về các đạo sĩ có mối liên quan rất lớn đối với chúng ta, bởi vì chúng ta cũng đang trên cuộc hành trình – hành trình cuộc đời – Tương tự như các đạo sĩ đã được hướng dẫn nhờ ánh sao, chúng ta cũng được hướng dẫn nhờ ánh sáng đức tin. Cuộc hành trình của các vị ấy phù hợp với cuộc hành trình của chúng ta.
Tuy nhiên, chúng ta có được nhiều lợi thế hơn, vì đã được nhận biết Đức Kitô. Chúng ta được gần gũi Người bằng đức tin. Đức Kitô – ánh sáng thế gian – là “ngôi sao” mà chúng ta đang dõi theo. Chúng ta chưa được nhìn thấy Người diện đối diện, điều đó có nghĩa là chúng ta chưa tới đích sau cùng. Chúng ta có đức tin, không có nghĩa là đã biết được tất cả mọi câu trả lời. Chúng ta vẫn còn đang tìm kiếm, và vẫn còn phải phiêu lưu.
Các đạo sĩ đã không đi một mình riêng lẻ, mà cả ba người cùng lên đường với nhau, tạo thành một cộng đoàn nhỏ của những kẻ tin. Chúng ta cũng có một cộng đoàn để nâng đỡ trong cuộc hành trình đức tin.
Xin cho ánh sáng đức tin không bao giờ phai mờ trong tâm hồn chúng ta. Xin cho ánh sáng đó chỉ đường cho chúng ta vượt qua cảnh tăm tối của trần gian, cho đến khi chúng ta tìm ra được Bêlem trên trời, là nơi chúng ta sẽ được nhìn thấy Đức Kitô trong vinh quang.
Dân Do thái rất được đặc ân. Thiên Chúa đã tự mặc khải ra cho họ bằng một cách đặc biệt qua Kinh: HiểnLinh ABC12
Dân Do thái rất được đặc ân. Thiên Chúa đã tự mặc khải ra cho họ bằng một cách đặc biệt qua Kinh thánh. Dân ngoại không có Kinh thánh. Thiên Chúa tự mặc khải ra cho dân ngoại qua thiên nhiên. Và vì thế, thánh Matthêu cho thấy các đạo sĩ nhận ra mặc khải nhờ thiên văn. Đây là sự mặc khải không hoàn hảo, vì khi nói cho các đạo sĩ về sự sinh ra của “Vua dân Do thái”, thì mặc khải đó đã không nói là phải tìm kiếm Người ở đâu. Bí mật cuối cùng về nơi con trẻ được sinh ra đã bị khóa lại trong mặc khải, mà Thiên Chúa dành cho dân Israen, nghĩa là chỉ có trong Kinh thánh mà thôi.
Nhưng thánh Matthêu đã đối chiếu đức tin của các vị khách ngoại đạo này, và sự không tin tưởng của các nhà lãnh đạo Do thái (đời và đạo). Những người dân ngoại đã đáp lại lời mời gọi của đức tin nơi Đức Kitô, ngược lại, dân được Thiên Chúa chọn thì lại khước từ đức tin đó. Thánh Matthêu đã làm sáng tỏ điều nghịch lý ấy: những người ỷ có Kinh thánh từ chối Đức Giêsu, trong khi với sự trợ giúp của Kinh thánh đó, thì dân ngoại đã tìm kiếm và thờ lạy Người.Trong câu chuyện này, chúng ta thấy có hai cách đáp trả lại đối với Đức Giêsu: Tin và không tin. Ở đây, chúng ta có câu chuyện chính yếu của Tin mừng được rút gọn. Đối với thánh Matthêu, câu chuyện về các đạo sĩ và ngôi sao đã trở thành niềm mong đợi của Tin Mừng cứu độ, một niềm mong đợi mà ngài đã biết sẽ xảy đến sau biến cố sống lại. Điểm chủ yếu của Tin Mừng là: Thiên Chúa đã tự hiện diện giữa chúng ta, trong cuộc đời của một con người bước vào trái đất này, quả thật có một sự hiện diện đích thực nơi chính Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Đối với một số người, mặc khải này là sự xúc phạm và mâu thuẫn. Nhưng lại là ơn cứu rỗi đối với những người có mặt để nhìn xem, và có tâm hồn để tin tưởng. Các đạo sĩ là ba người đi tiên phong, trong số những người đến thờ lạy Đức Giêsu, Đấng sẽ sống lại, mà các tông đồ đã rao giảng.
Câu chuyện trên còn cho chúng ta thấy ơn phúc lớn lao của đức tin. Hêrôđê và nhiều người ở Giêrusalem đã bối rối vì sự không tin của mình. Nỗi sợ hãi của họ tương phản với niềm vui mừng tuyệt vời mà các đạo sĩ cảm thấy, khi họ dõi theo ngôi sao trên đường đến Bêlem. Niềm vui của họ là hoa quả của đức tin. Thông qua Tin mừng, chúng ta nhận thấy chủ đề về niềm hạnh phúc, ơn phúc lành dành cho những kẻ tin. Những điều tuyệt vời chỉ xảy ra cho những kẻ tin. Bạn có thể nói rằng trọng tâm của Tin mừng là ơn chúc lành của những người có đức tin. Tất cả lời rao giảng của Đức Giêsu đều có một mục đích là gợi lên lòng tin trong tâm hồn con người. Tuy nhiên, không đơn thuần chỉ là vấn đề của đức tin, mà là niềm tin tưởng và hành động theo đức tin, hoặc sống theo đức tin. Vấn đề là biết lắng nghe lời Chúa, và làm theo, nghĩa là phiêu lưu và hy sinh vì lời Chúa (giống như các đạo sĩ đã làm). Nếu biết lắng nghe và hành động theo lời Chúa, thì chúng ta cũng sẽ được chúc lành.
Lần kia, dân chúng trong một xứ đạo rất nghèo nhưng sẵn lòng sắm cho bằng được một bộ tượng đắt: HiểnLinh ABC13
Lần kia, dân chúng trong một xứ đạo rất nghèo nhưng sẵn lòng sắm cho bằng được một bộ tượng đắt tiền để làm hang đá Giáng sinh. Họ làm việc cực nhọc, cùng nhau thu góp tiền bạc, để mua những bức tượng được làm bằng đồ gốm quí hiếm. Cuối cùng, họ đã có được hang đá của mình, và họ rất hãnh diện vì hang đá này. Nhà thờ được mở cửa suốt cả ngày lễ Giáng sinh, để mọi người có thể đến viếng hang đá. Buổi tối, cha xứ mới ra khóa cửa lại. Trước đó, cha xứ nhìn vào hang đá, và hốt hoảng khi phát hiện ra rằng tượng Chúa Hài Đồng không cánh mà bay. Ông thắc mắc không hiểu người nào lại mất đạo đức quá đến nỗi đã đánh cắp tượng Chúa Hài đồng.
Trong khi còn đang đứng đó, ông phát hiện một em bé gái với chiếc xe đẩy trẻ con đang đi vào nhà thờ. Cô bé tiến thẳng đến hang đá, rồi bế Chúa Hài đồng ra khỏi chiếc xe đẩy, và thân ái đặt Hài nhi trở lại đúng vị trí – ngay trước mặt Đức Maria, thánh Giuse và con khỉ, con bò đang tư thế thờ lạy. Trước khi đi ra, cô bé quì gối và cầu nguyện trước hang đá.
Khi cô bé đang ra khỏi nhà thờ, cha xứ chặn cô bé lại, và hỏi cô bé đã làm gì với tượng Chúa Hài đồng. Cô bé nói với vị linh mục rằng trước lễ Giáng sinh, cô bé đã cầu xin Chúa Hài đồng cho mình một chiếc xe đẩy. Cô bé hứa với Người rằng nếu có được chiếc xe đẩy đó, thì Chúa Hài đồng sẽ là người đầu tiên được lái xe. Ngay khi nhận được món quà đó, cô bé đã giữ lời hứa.
Câu chuyện nhỏ này cho thấy sức mạnh của lễ Giáng sinh. Lễ Giáng sinh khơi gợi lòng quảng đại nơi con người, đặc biệt đối với trẻ con. Để nhìn vào sự nghèo nàn của Vua Vũ trụ, đòi hỏi chúng ta phải mở tâm hồn của mình ra. Khi đến trong tư thế yếu đuối, Con Thiên Chúa khơi gợi nơi chúng ta một cảm giác thương xót, từ đó, giúp chúng ta mở lòng ra với cuộc đời.
Chính sự nghèo nàn của Hài nhi Giêsu đã khơi gợi hành động quảng đại đầy yêu thương đó nơi cô bé. Chính sự nghèo nàn của Hài nhi Giêsu đã làm cho ba nhà đạo sĩ mở những kho tàng của họ là vàng, nhũ hương và mộc dược, rồi đặt tất cả trước mặt Người.
Người nghèo luôn luôn phải thần phục những người giàu có – qua công việc lao động, đóng thuế v,v… Nhưng trong cuộc thăm viếng của ba nhà đạo sĩ đến với Hài nhi Giêsu, chúng ta nhận thấy một sự đảo ngược trật tự các sự việc. Chỉ có Đức Kitô là người đầu tiên mang lại nhiều sự thay đổi tận gốc.
Thay vì bị nghèo nàn đi, thì ba nhà đạo sĩ lại được phong phú lên. Chính khi cho đi, chúng ta được nhận lãnh, bởi vì qua việc cho đi, chúng ta mới phát hiện ra sự phong phú của riêng mình.
Sự nghèo nàn của Đức Giêsu cũng là một thách đố đối với chúng ta, tạo cho chúng ta một cơ hội để cởi mở tâm hồn của mình ra. Cởi mở tâm hồn là bắt đầu sống. Đức Giêsu không còn cần đến những món quà tặng của chúng ta nữa, nhưng những người khác có thể cần đến. Người mong muốn chúng ta chia sẻ chính bản thân mình với người khác. Và chúng ta cũng sẽ cảm thấy mình được trở nên phong phú, và từ kết quả của sự nhận biết Đức Giêsu, chúng ta sẽ có khả năng mở những kho tàng của tâm hồn chúng ta, và chia sẻ với người khác.
Có một giai thoại nói rằng không chỉ có ba nhà đạo sĩ, mà đến bốn vị. Tên của vị thứ tư là Artaban: HiểnLinh ABC14
Có một giai thoại nói rằng không chỉ có ba nhà đạo sĩ, mà đến bốn vị. Tên của vị thứ tư là Artaban. Ông cũng nhìn thấy ngôi sao và đã quyết định dõi theo ngôi sao, ông mang đi một viên hồng ngọc, một viên ngọc bích và một viên kim cương làm quà biếu vị Vua mới. Ba người đồng hành là Caspar, Melchior, và Balthasar đang chờ đợi ông tại một điểm hẹn. Tuy nhiên, trên đường đến đó, ông gặp một người bị thương nằm bên vệ đường. Ông đưa vào quán trọ, và săn sóc người đó.
Cuối cùng, khi đến điểm hẹn, ông phát hiện rằng những người bạn đồng hành của ông đã bỏ đi rồi. Vì cần có một con lạc đà và những đồ dự trữ để vượt qua sa mạc, nên ông đã bán đi một viên ngọc bích để mua những thứ đó. Khi gần đến Bêlem, một lần nữa, ông lại đến quá trễ, Đức Maria và thánh Giuse đã đưa con trẻ trốn sang Ai cập, để lẩn tránh những tên giết người của vua Hêrôđê.
Trong ngôi nhà mà ông đang tá túc, có một đứa bé trai lên 1 tuổi. Bà mẹ rất lo sợ cho mạng sống của con trai bà. Vào một buổi tối, quân lính đến gõ cửa, Artaban đi ra gặp họ. Ông lấy viên hồng ngọc hối lộ cho quân lính không vào nhà, và đã cứu thoát được đứa trẻ. Bà mẹ rất đỗi vui mừng. Tuy nhiên, Artaban lại buồn rầu bởi vì lúc bấy giờ, ông chỉ còn lại một viên kim cương duy nhất để làm quà biếu vị Vua mà thôi.
Trong suốt những năm sau đó, ông đã đi nhiều nơi để tìm kiếm vị Vua. Nhưng dường như ông luôn luôn đến trễ. Khoảng 30 năm sau, ông đến Giêrusalem. Bấy giờ, ông đã già yếu kiệt sức, và mất nhuệ khí. Ngay hôm ông đến đó, thì có một số người bị đóng đinh. Ông kinh hãi khi nghe tin rằng Đức Giêsu ở trong số những người đi xử tử. Ông vội vàng đến ngọn đồi nơi diễn ra cuộc hành quyết. Có lẽ với viên kim cương, ông có thể cứu thoát được mạng sống của Đức Giêsu.
Tuy nhiên, trên đường đến đồi Can-va-riô, ông gặp một cô gái đang chạy trốn một toán lính. Cha của cô gái đó đã bị mắc lừa những khoản nợ lớn, và cô gái bị bán đi làm nô lệ. Artaban lấy viên kim cương của ông ra, đưa cho quân lính, và cô gái đó đã được thả cho đi. Nhưng bây giờ, ông phải đến gặp vị Vua với hai bàn tay trắng.
Ngay sau đó, bầu trời bắt đầu tối tăm u ám. Một trận động đất rung chuyển mặt đất. Các nhà cửa bắt đầu bị lay động. Những viên ngói trên mái nhà bắt đầu bay vèo vèo. Một trong những viên ngói đó rơi trúng vào đầu của Artaban. Ông gắng sức vật lộn với vết thương chết người đó. Nhưng ông đã chết trước khi đến gần được ngọn đồi nơi diễn ra cuộc hành quyết. Ông không bao giờ gặp gỡ được vị Vua.
Tuy nhiên, về mặt ý nghĩa, Artaban luôn luôn có vị Vua của ông. Trong suốt những năm tháng đó, ông đã mang vị Vua này trong tâm trí và cõi lòng của ông. Vị Vua này đã truyền lại cho ông những hành động đầy yêu thương, quảng đại, và đã soi sáng cho cuộc hành trình của ông đầy ý nghĩa và hy vọng.
Artaban đã tìm thấy vị Vua của mình, bởi vì người nào, thực sự tìm kiếm Thiên Chúa, thì đã tìm thấy Người rồi. Artaban là một gương mẫu của lòng tin. Những ai tin tưởng và yêu mến Đức Giêsu thì đều được thay đổi: họ hành động và sống một cách khác hẳn.
Các thượng tế và kinh sư Do Thái biết rõ Đấng Cứu Thế sinh ra ở đâu lại không đến gặp Ngài: HiểnLinh ABC15
1. Các thượng tế và kinh sư Do Thái biết rõ Đấng Cứu Thế sinh ra ở đâu lại không đến gặp Ngài, còn các nhà chiêm tinh ở mãi tận đâu đâu, phải nhờ các thượng tế và kinh sư Do Thái chỉ cho, thì lại gặp được Ngài. Tại sao lại có chuyện mỉa mai và nghịch lý như vậy?
2. Rút kinh nghiệm từ bài Tin Mừng thì để gặp được Thiên Chúa, điều quan trọng nhất là gì? Cần phải có tôn giáo chân chính, hay phải có thiện chí và quyết tâm đi tìm Ngài? Cái nào là yếu tố quyết định để gặp được Ngài?
3. Động lực gì khiến vua Hê-rô-đê muốn giết hài nhi Giê-su, cho dù biết hài nhi ấy là người của Thiên Chúa? Tuy Kinh Thánh không đề cập đến, nhưng ta thử đoán xem các thượng tế và kinh sư Do Thái - với bản chất của họ như ta đã thấy trong các Tin Mừng - đã có thái độ nào trước tội ác của Hê-rô-đê: can đảm ngăn cản nhà vua hay mặc kệ Đấng Cứu Thế mà họ mong chờ ra sao thì ra?
Suy tư gợi ý:
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy ba hạng người khác nhau với ba thái độ khác nhau đối với Đức Giê-su mới sinh ra. Trước hết là các nhà chiêm tinh đến từ phương Đông, sau là các thượng tế và kinh sư tại Giê-ru-sa-lem, và cuối cùng là vua Hê-rô-đê. 1. Thái độ của các nhà chiêm tinh đông phương
Các nhà chiêm tinh được nói đến như những người thuộc dân ngoại, không phải là người Do Thái giáo. Họ đại diện cho các dân tộc, các quốc gia trên thế giới đến thờ lạy Đức Giê-su, Đấng trong tương lai và vĩnh cửu sẽ là vua của toàn thể thế giới và vũ trụ. Thái độ của các nhà chiêm tinh là thái độ của những người tìm kiếm, khắc khoải đối với Thiên Chúa, với tha nhân, với chân lý, công lý và tình thương. Và chính vì họ quyết tâm lên đường và ra công tìm kiếm nên họ đã gặp, đúng như Đức Giê-su nói: «Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho» (Mt 7,8). Khi ngôi sao biến mất, việc tìm kiếm bị thử thách, họ không nản chí bỏ cuộc, vẫn tiếp tục tìm kiếm, vì họ đã quyết tâm và hết lòng tìm kiếm: «Các ngươi tìm Ta thì các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi hết lòng tìm kiếm Ta» (Gr 29,13); «Kẻ yêu Ta sẽ được Ta yêu lại, người tìm Ta ắt sẽ gặp Ta» (Cn 8,17).
2. Thái độ của các thượng tế và kinh sư tại Giê-ru-sa-lem
Các thượng tế và kinh sư Do Thái là những bậc thông thái, hiểu biết Kinh Thánh, thông thạo các lẽ đạo của tôn giáo chân chính do chính Thiên Chúa thiết lập. Vì thế, họ đại diện cho những người có chính đạo. Họ là những người có Kinh Thánh trong tay, nắm vững những kiến thức thần học, họ rao giảng và bảo vệ chân lý của Thiên Chúa. Nhưng khi Đức Giê-su đến, những hiểu biết rộng rãi và sâu xa của họ chẳng giúp ích gì cho họ trong việc tìm gặp Ngài. Họ biết rất rõ Đấng Cứu Thế sinh ra tại Bê-lem, vì Kinh Thánh cho biết như thế. Nhưng họ biết để mà biết, để mà dạy người khác, để mà tự hào rằng mình hiểu biết, chứ không phải biết để áp dụng vào đời sống, để đem ra thực hành. Vì thế, cái biết của họ trở nên vô ích cho họ.
Cũng vậy, rất nhiều Ki-tô hữu hiểu biết rất sâu xa về Thiên Chúa, về chân lý, nhưng họ biết chỉ để biết, để khoe, để dạy người khác, để rao giảng, chứ không phải để áp dụng sự hiểu biết ấy vào đời sống thực tế. Vì thế, sự hiểu biết ấy không đem lại sự cứu rỗi cho họ. Đức Giê-su nói: «Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá... Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát» (Mt 7,24.26). «Mẹ tôi và anh em tôi chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành» (Lc 8,21); «Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em» (Ga 13,17); «Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa» (Lc 11,28). Dụ ngôn người gieo giống (Lc 8,11-15) cho thấy những người nhận được Lời Chúa mà không đem áp dụng vào đời sống thực tế cũng giống như những mảnh đất «vệ đường», đầy «đá sỏi», đầy «bụi gai», khiến Lời Chúa không phát triển được. Còn những ai đem Lời Chúa ra thực hành, giống như mảnh đất mầu mỡ khiến Lời Chúa sinh hoa kết trái.
3. Bài học cho những ai đang theo chính đạo
Câu chuyện về hai mẫu người trên cho chúng ta bài học quí giá. Những người tưởng rằng mình đang nắm được Thiên Chúa cùng với chân lý, công lý và tình thương trong tay, đồng thời ngủ say và an tâm trong sự lầm tưởng ấy, họ sẽ chẳng bao giờ gặp được Ngài và thực thi được những giá trị kia. Vì Thiên Chúa, chân lý, công lý và tình thương là những thực tại sống động, không phải thứ đồ vật tĩnh lặng có thể nắm được trong tay, nên chỉ có thể tìm kiếm và gặp được trong từng thời điểm, chứ không thể nắm bắt một lần cho mãi mãi. Cho nên muốn gặp Thiên Chúa, muốn sống trong chân lý, công lý và tình thương, ta phải không ngừng lên đường tìm kiếm, ra sức thực hiện trong từng thời điểm. Ngừng tìm kiếm, ngừng nỗ lực, thì những thực tại cần thiết ấy sẽ vuột khỏi ta ngay, và sự ngừng nghỉ ấy sẽ tạo cho ta một ảo tưởng rằng mình đang nắm được Thiên Chúa, chân lý, công lý và tình thương ở trong tay. Trong khi ấy, thực tế là ta đang xa rời Thiên Chúa và thường hành động ngược lại với chân lý, công lý và tình thương. Thật vậy, những ai dù đang theo chính đạo, tự hào tự mãn về chính đạo của mình, tưởng mình đang nắm được chân lý trong tay, nhưng trong thực tế lại không sống đạo của mình, lại còn khinh chê người khác, họ sẽ trở thành những kẻ tự lừa dối chính mình: «Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình» (Gc 1,22). Những ai chỉ biết rao giảng Lời Chúa cho người khác, còn chính bản thân mình lại không thèm áp dụng, hãy lo ngại cho số phận mình như thánh Phao-lô: «Tôi phải bắt thân thể tôi chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại bỏ» (1Cr 9,27).
Chuyện các nhà chiêm tinh - mà truyền thống Giáo Hội coi là đại diện cho người ngoại và các dân tộc - cho thấy: dù là người ngoại giáo hay không có tôn giáo chân chính, nhưng nếu người ta thật sự nỗ lực tìm kiếm Thiên Chúa thì họ sẽ gặp được Ngài, nếu thật sự muốn thực thi chân lý, công lý và tình thương thì họ sẽ thực hiện được. Còn những người có tôn giáo chân chính, nhưng lại thờ ơ với việc tìm kiếm Thiên Chúa, với việc thực thi chân lý, công lý và tình thương, người ấy sẽ chẳng gặp được Ngài, và trong người ấy không có chân lý, công lý và tình thương. Tôn giáo chân chính được ví như một chiếc xe hơi tốt, có thể giúp ta đi đến nơi cần đến một cách an toàn, nhanh chóng và bảo đảm. Còn các tôn giáo khác như những loại xe kém hơn. Nhưng có đi đến nơi hay không, không tùy thuộc vào loại xe cho bằng ý chí quyết tâm muốn đi đến nơi. Người không có xe, phải đi bộ mà quyết tâm đi thì chắc chắn sẽ tới nơi, còn có xe tốt và bảo đảm đến đâu, nhưng chính bản thân lại không quyết tâm đi, thì không thể đến nơi cần đến được. Thiên Chúa vẫn luôn luôn tôn trọng đồng thời đòi hỏi sự tự do và quyết định của con người.
4. Thái độ của vua Hê-rô-đê, nhà cầm quyền
Nói tới Hê-rô-đê, ta thấy ông có một nỗi sợ hãi khi nghe các nhà chiêm tinh cho biết: «Đức Vua dân Do-thái mới sinh». Ông sợ hài nhi mới sinh ấy sẽ lật đổ vương quyền của ông. Và dù biết hài nhi ấy đến từ Thiên Chúa, ông vẫn quyết tâm trừ khử. Như thế, tính tham quyền cố vị - ngoài xã hội cũng như trong Giáo Hội - có thể làm người ta mất hết lương tri, sẵn sàng gây nên tội ác, hay ít ra là im lặng để mặc sự ác phát triển. Hê-rô-đê quyết tâm tìm giết con trẻ Giê-su bằng cách «sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận từ hai tuổi trở xuống» (Mt 2,16). Tin Mừng không nói đến thái độ của các thượng tế và kinh sư trước tội ác của nhà cầm quyền. Như đã nói trên, sự hiểu biết của họ về việc sinh ra của Đấng Cứu Thế chỉ là thứ hiểu biết để mà hiểu biết, để mà rao giảng, chứ không hề làm cho họ trở nên lo lắng cho số phận của Đấng Cứu Thế hài nhi. Đối với họ, sinh mạng của Đấng Cứu Thế chẳng là gì cả, chuyện quan trọng đối với họ là sự an toàn bản thân và giữ cho vững những «chiếc ghế» của họ trong tôn giáo Do Thái. Theo họ, lên tiếng để làm gì cho liên lụy đến bản thân, cho mất quan hệ tốt đẹp với nhà cầm quyền? Im lặng cho mọi sự qua đi, bất chấp tốt xấu, đó không phải là thái độ của những ngôn sứ hay mục tử đích thật. Nếu họ sẵn sàng «bỏ chiên mà chạy khi thấy sói đến» (Ga 10,12) thì họ cũng sẵn sàng im lặng bỏ mặc Đấng Cứu Thế mà họ rao giảng ra sao thì ra, dẫu có nguy hiểm đến tính mạng.
Cầu nguyện
Lạy Cha, con tưởng cứ theo chính đạo do Cha sáng lập là bảo đảm được cứu rỗi. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, kẻ ngoại giáo quyết tâm tìm kiếm Cha - là chân lý, công lý và tình thương - thì lại bảo đảm gặp được Cha hơn là người có chính đạo mà lãnh đạm với Cha. Xin Cha đừng để con say ngủ trong chính đạo mà thờ ơ với những gì là chân lý, công lý và tình thương. Amen.
Lễ Giáng Sinh và lễ Hiển Linh tuy hướng về hai biến cố khác nhau nhưng cũng qui về một mầu nhiệm: HiểnLinh ABC16
Lễ Giáng Sinh và lễ Hiển Linh tuy hướng về hai biến cố khác nhau nhưng cũng qui về một mầu nhiệm duy nhất của mùa Giáng Sinh là Thiên Chúa tỏ mình cho nhân loại. Lễ Hiển Linh cử hành biến cố ba nhà đạo sĩ đến thờ lạy Chúa. Họ là ba người ngoài Do Thái, được coi là dân ngoại đã khám phá và tin nhận Chúa Giêsu là Chúa của mình. Vì thế ngày lễ này được coi là ngày lễ của niềm tin. Chiêm suy ngắm cuộc hành trình đức tin của ba nhà đạo sĩ, chúng ta có dịp để hâm nóng lại niềm tin của mình.
1. Chiêm ngắm biến cố của ba nhà đạo sĩ, chúng ta thấy được ba bước căn bản ở trong cuộc hành trình đức tin của người Kitô như sau:
- Khám phá Thiên Chúa qua vũ trụ. Đây chính là con đường chung của mọi tôn giáo và cũng có thể nói của mọi tâm hồn khao khát tìm kiếm Chúa. Ánh sao đêm đã trở thành dấu chỉ trước tiên gọi mời các đạo sĩ để lên đường tìm kiếm Chúa Cứu Thế.
Con người luôn có những tra vấn về mình và vũ trụ: vũ trụ do đâu mà có? Tại sao có những định luật vô cùng hài hòa trong không gian bao la này? Mọi vật trong vũ trụ có liên hệ nào với sự sống của con người? Chính khi đặt những câu hỏi như vậy, chúng ta sẽ khám phá ra thế giới và vũ trụ này hẳn không phải do ngẫu nhiên hay tình cờ mà có, nhưng có một Đấng Thượng Trí vô song tác thành.
- Khám phá Thiên Chúa qua Thánh Kinh: Nếu chỉ dừng lại bước thứ nhất, chỉ tin nhận một Thiên Chúa của lý trí thì sự hiểu biết ấy rất đỗi mờ nhạt và rất dễ sai lầm. Ngay một người bạn nếu họ không bao giờ bày tỏ nội tâm của họ, tôi cũng chẳng thể hiểu được họ cách sâu xa; thì đối với Thiên Chúa, Đấng tuyệt đối cao cả và thiêng liêng, làm sao tôi có thể hiểu được Ngài nếu Ngài không tự tỏ lộ.
Nếu các nhà đạo sĩ đã cần đến lời sự sống của Kinh Thánh để tiếp tục lên đường tìm gặp Chúa, thì chính Thánh Kinh là những bày tỏ, bộc bạch nỗi niềm mà Thiên Chúa muốn ngỏ cho chúng ta. Chính nhờ Kinh Thánh, chúng ta biết rõ nét về chính khuôn dung và tấm lòng đích thực của Thiên Chúa đối với chúng ta.
- Nhưng bước thứ ba mới quan trọng đó là: Gặp gỡ Thiên Chúa trong Đức Kitô. Ở nơi Chúa Giêsu, tất cả chân lý được tỏ hiện nên Ngài là trung tâm điểm của niềm tin chúng ta.
Bước đi của ba nhà đạo sĩ cũng là bước đi của mỗi Kitô hữu chúng ta: từ chỗ khám phá một cách mơ hồ sự hiện diện của Thiên Chúa qua vũ trụ đến chỗ thấy được Ngài rõ nét hơn, đến gần với Ngài hơn qua mạc khải của Kinh Thánh để cuối cùng gặp được Ngài cách sống động nơi Đức Giêsu Kitô.
2. Nhưng phải làm gì để có thể bước qua ba giai đoạn và được gặp Ngài như vậy?
Dựa vào hành trình của ba nhà đạo sĩ, chúng ta có thể đặt ra những việc cơ bản sau:
- Trước hết mang một nỗi khao khát thật sâu xa về Chúa mong tìm được Ngài.
- Nỗi khao khát ấy thôi thúc chúng ta đi tìm Chúa qua tiếng gọi của vũ trụ, qua dẫn dắt của tha nhân, nhất là qua việc học hỏi Kinh Thánh, qua lắng nghe tiếng Chúa trong thầm lặng cầu nguyện.
- Để cuối cùng khi nhân ra Ngài, chúng ta dám lên đường để tìm gặp Ngài: bỏ lại đằng sau nhà cửa, người thân để lên đường như ba nhà đạo sĩ đã khó. Nhưng bỏ lại đằng sau sự lười biếng, sự tự mãn, kiêu căng, một sự ra đi như vậy đòi hỏi rất nhiều từ bỏ và hy sinh. Nhưng chắc chắn sự từ bỏ này sẽ được đền bù cân xứng của một lần gặp Chúa thật sâu.
3. Gặp được Chúa để ra đi nói về Ngài:
Nếu gặp được Chúa Giêsu hẳn chúng ta cũng sẽ bước vào con đường mà chính Chúa Giêsu đã chọn cho chúng ta, lối sống mà chính Ngài đã dạy cho chúng ta. Gặp Ngài là chắc chắn biến đổi. Để từ đó chúng ta muốn nói về Thiên Chúa cho mọi người, cuộc đời mới của chúng ta trở thành ánh sao dẫn nhiều người về với Chúa. Càng gặp Chúa sâu xa, chúng ta càng có khả năng để nói về Chúa cách hồn nhiên và đầy lôi cuốn.
Chúa Giêsu Hài Nhi hôm nào vẫn đang mời gọi chúng ta đến để tôn thờ và đón nhận. Xin Ngài củng cố niềm tin của chúng ta thêm sâu sắc, để mỗi người chúng ta hôm nay bước vào hành trình mới của niềm tin, hành trình trong niềm vui, hy vọng và chan chứa sự sống. ---------------------------------
Đoạn này được viết theo văn thể Midrash, tức là vận dụng nhiều chi tiết (kể cả những chi tiết hoang: HiểnLinh ABC17
Đoạn này được viết theo văn thể Midrash, tức là vận dụng nhiều chi tiết (kể cả những chi tiết hoang đường) để giúp người đọc (nhất là độc giả bình dân) hiểu được ý nghĩa sâu sắc của một đoạn hay một câu Sách Thánh.
Thánh Matthêu đã dùng hình ảnh ngôi sao lạ mọc lên phía trời Tây (phía Tây của miền Lưỡng Hà Địa ngoại giáo), và cuộc hành trình tìm kiếm của các đạo sĩ phương Đông, để trình bày Chúa Giêsu chính là ngôi sao cứu tinh của nhân loại, theo lời tiên báo của Balaam trong sách Dân Số: “Một ngôi sao mọc lên từ nhà Giacóp, một vương trượng nổi dậy từ nhà Israel” (Ds 24,17)
B. ... nẩy mầm.
1. Mặc dù thánh Matthêu viết Tin Mừng cho độc giả do thái, nhưng ngay từ đầu tác phẩm, ngài đã trình bày Chúa Giêsu là Đấng Cứu tinh cho muôn dân, Ngài đã tỏ mình ra cho lương dân.
2. Các đạo sĩ đại diện cho những người thành tâm thiện chí: họ đang theo một tín ngưỡng khác, họ mê tín (đạo sĩ), nhưng họ vẫn luôn kiếm tìm (nhìn ngắm sao trời), khi thấy dấu lạ, họ đã kiên trì đi theo, họ dọ hỏi, cuối cùng họ đã gặp được Chúa Giêsu và họ dâng cho Ngài những thứ quý giá nhất.
3. Một chủ đề khác cũng được Mt ngầm trình bày trong đoạn này là: ngay từ khi Chúa Giêsu mới sinh ra, Ngài đã bị dân mình từ chối: “Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao”. Chữ “xôn xao” có ngữ căn là chữ “seismos”, một chữ được Thánh Kinh dùng cho những thế lực chống đối Chúa Giêsu.
4. Hành trình tìm kiếm Chúa của lương dân gặp nhiều khó khăn, ngăn trở và kể cả hiểm nguy (đường xa, đất lạ, bị Hêrôđê gạt gẫm, sinh mạng bị đe dọa). Nhưng họ được trợ lực và hướng dẫn bởi một ngôi sao. Thánh Phaolô, vị tông đồ truyền giáo, đã hiểu ngôi sao ấy là cuộc sống tốt đẹp của kitô hữu “Giữa thế hệ đó, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Philipphê 2,15)
5. Huyền thoại về cây nến nhỏ: Một buổi tối, một người cầm cây nến nhỏ leo lên một chiếc cầu thang.
- Chúng ta đi đâu thế ? Cây nến nhỏ hỏi. - Ta lên sân thượng để soi đường cho thuyền bè vào bến. - Nhưng tôi quá nhỏ bé, thuyền bè nào mà thấy được ánh sáng của tôi ? - Chỉ cần ngươi cố gắng chiếu sáng. Mọi việc khác để ta liệu.
Khi họ đã leo lên sân thượng thì thấy ở đó có sẵn một chiếc đèn lồng lớn. Người ấy cầm ngọn nến châm vào ngọn đèn. Một luồng sáng lớn bùng lên, tỏa rộng chung quanh, ánh sáng lan đến tận biển khơi.
Chúng ta là những cây nến nhỏ trong tay Chúa. Sứ mạng của ta chỉ là chiếu sáng. Còn kết quả thế nào là hoàn toàn tùy Ngài. (Purnell Bailey).
6. “Trông thấy ngôi sao, các nhà chiêm tinh mừng rỡ vô cùng” (Mt 2,10)
Đêm trước lễ Noel, một cô bé nghèo muốn dành hết số tiền ít ỏi của mình để mua cho chị một chuỗi ngọc lam quý giá. Số tiền quá ít, không đủ, nhưng tình yêu của cô bé thật tuyệt vời ! Nó như một ánh sao làm bừng lên niềm tin yêu cuộc sống cho anh bán hàng đang tuyệt vọng khổ đau.
Noel năm nay, tôi ước ao rằng mãi về sau, trên máng cỏ đời mình vẫn luôn có một ngôi sao lấp lánh.
Chúa Hài đồng ơi. Xin lớn lên trong lòng con, để cả cuộc đời con ngời lên như ánh sao của Chúa. (Epphata)
Các ông là người phương Đông. Người phương Đông không như người phương Tây. Phương Tây tìm: HiểnLinh ABC18
Các ông là người phương Đông. Người phương Đông không như người phương Tây. Phương Tây tìm Chúa để chiếm hữu Chúa như họ chiếm hữu vùng đất mới sau bao nhiêu cuộc mạo hiểm. Họ chiếm hữu để thỏa mãn lòng tham giàu có, danh vọng. Người Do thái cũng như người phương Tây. Họ cầu mong Đấng Cứu Thế đến để thỏa mãn nguyện vọng bá chủ thiên hạ, làm cho dân Israel chiến thắng vinh quang, cho “Giêrusalem bừng sáng lên, cho nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, cho của cải muôn dân nước sẽ đến với ngươi, cho lạc đà từng đàn che rợp đất từ Madian, Êpha, Saba, hết thảy kéo đến mang theo vàng với trầm hương đổ vào nước ngươi” (Is. 60, 1-6).
Người phương Đông tìm Chúa, không để chiếm hữu Ngài, Ngài là Đấng tối cao, chí linh, chí thánh, vô biên. Họ kính Ngài ngự chốn rất cao xa. “Kính nhi viễn chi”. Họ biết mình thân phận thụ tạo hèn mọn, không dám gần Ngài. Dù là kẻ phàm trần được Ngài cho làm vua, mệnh danh là thiên tử. Họ cũng không dám ngẩng mặt nhìn dung nhan ông vua của họ. Huống chi là Thượng Đế chí tôn. Vậy họ tìm Chúa làm gì ? Họ tìm Chúa, thực ra là để tìm thiên mệnh, là thánh ý Chúa. Qua tri thiên mệnh, qua các hiện tượng của trời đất, các tinh tú, thời tiết, qua các tâm hồn thánh nhân, qua cuộc sống của hiền nhân quân tử, và nhất là qua lương tâm trong sáng của lòng họ: “Tri tâm tắc tri thiên” (Mạnh Tử. Tận tâm. Thượng 1). Cho nên, không biết thiên mệnh không đáng làm quân tử: “Bất tri mạng, vô dĩ vi quân tử” (Luận Ngữ xx. 3). Không biết thánh ý Chúa, không thể làm con Chúa.
Biết thánh ý Chúa là điều quan trọng nhất của người phương Đông để biết phép tắc của trời và sống đúng theo ý trời:
“Thiên hữu hiển đạo, quyết loại duy chương” – Trời có đạo lý rõ ràng, các loài phải thấy rõ mà theo (Kinh Thư. Thái hệ hạ 2).
Khổng Tử sở dĩ trở thành “vạn thế sư biểu” và “Thánh chi thời” là nhờ ông lo tìm biết ý trời mãi tới năm mươi tuổi mới thấu được thiên mệnh, đến sáu mươi tuổi mới thuận theo được ý trời và tới bảy mươi tuổi tâm tưởng hoàn toàn không trái phép trời: “Ngũ thập nhi tri thiên mạng, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tùng tâm sở dục, bất du củ” (LN. II, 4).
Chính Hài Nhi Giêsu khi đến thế gian đã thưa với Chúa Cha rằng: “Này con xin đến để làm theo tôn ý Cha”. Lúc lên mười hai tuổi, Người cũng đã thưa với thân mẫu trần gian rằng: “Tại sao tìm con, con phải lo làm việc của Cha con đó” (Lc. 2, 49).
Tri thiên mệnh, làm theo ý Chúa Cha đó là lễ vật lòng thành hoàn hảo nhất mà HiểnLinh ABCđem đến dâng tiến Chúa Giáng Sinh qua ba lễ vật hữu hình: vàng, nhũ hương và mộc dược.
Vàng là kim loại óng ánh, rực rỡ, tinh ròng để trang sức cho trần gian, các ông dâng lên Ngài, làm ngai vàng cho Ngài ngự trị, tôn vinh Ngài làm vua trên hết các vua. Các vua còn muốn nó thay cho lòng mến nồng nhiệt, bền vững nhất gói ghém trọn vẹn cả tâm tư, trí khôn, ý chí, sức lực của chính các ông và muôn dân mà các ông là đại biểu cho họ hôm nay và mãi mãi.
Nhũ hương: một thứ nhựa cây tầm thường, không mùi vị, nhưng khi đốt vào lửa hồng, nó tỏa hương thơm ngào ngạt, bay lên những làn khói trắng nhẹ nhàng. Các ông muốn nó thay cho mọi của cải trần gian từ nay chỉ được dùng tiến dâng tế lễ Ngài, không bao giờ để nó làm tôi đòi cho các thần tượng bất chính. Mọi sự do Ngài dựng nên, trao ban cho loài người, thì phải dùng để tôn thờ Thiên Chúa. Các ông còn ước ao những làn hương thơm đó ôm ấp những lời nguyện hèn mọn của các ông và của hết mọi người ở khắp nơi, bay tỏa lên trước tôn nhan Thiên Chúa, xin Ngài làm cho bao nhiêu nỗi âu lo, buồn phiền cay đắng, nhọc nhằn, khốn cực của nhân loại được trở nên dịu dàng, thơm tho, ngọt ngào trong lửa kính mến Ngài.
Mộc dược là nước lấy từ thứ cây có vị đắng và thơm, để tắm gội, thanh tẩy và ướp xác khi khâm liệm. HiểnLinh ABCdâng lễ vật này lên Hài Nhi đang nằm trong nơi hôi thối, để cảm tạ Ngài đã hy sinh giáng trần, thí mạng sống lấy máu thịt Ngài ướp lấy mạng sống của các ông và của cả nhân dân thế giới khỏi dòi bọ tội lỗi phá hủy, các ông dâng mộc dược còn tượng trưng sự hy sinh hãm mình của chính các ông đã ra sức thanh tẩy đầu óc mê tín dị đoan của các tà thần dân ngoại. Những cố gắng từ bỏ lối sống ham danh trục lợi, ăn chơi tội lỗi. Đặc biệt các ông dâng lên Ngài lòng biết ơn sâu xa của các ông mà Ngài đã ban cho các ông biết hy sinh lớn lao cho công cuộc nghiên cứu khoa học, tìm tới chân lý, nhất là Ngài đã dạy các ông biết thực thi bác ái, cứu giúp đồng bào.
Đã từ lâu, Chúa Hài Nhi hằng mong chờ lễ vật lòng thành của tôi. Tôi đã có một chút lòng mến óng ánh như vàng, một chút kinh nguyện nồng nàn thâm trầm như hương thơm n
gọt ngào, một chút hy sinh cay đắng như mộc dược dâng lên Ngài chưa ?
Lạy Chúa, Người là tình yêu, Người yêu con vô bờ, chẳng cần chi thiên phúc, sống thân phận bần cùng đồng hàng với con hèn, cho con được đồng phận thiên phúc của Người. Lạy Chúa, con đền ơn trời biển làm sao ? Xin cho con biết hiến dâng cho Người: một con tim nồng ấm dạt dào thương mến như Người, một khối óc cởi mở đón nhận chân lý hằng sống của Người, một thân xác lành mạnh luôn luôn biết phụng sự các chi thể của Người.
1) Ý CHÍNH: DÂN NGOẠI TÌM KIẾM CHÚA VÀ ĐÃ GẶP ĐƯỢC NGƯỜI
Khi Chúa Giêsu giáng sinh tại Bê-lem, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đã theo ngôi sao lạ: HiểnLinh ABC19
Khi Chúa Giêsu giáng sinh tại Bê-lem, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đã theo ngôi sao lạ đi tìm kiếm người. Nhưng khi các ông tới thủ đô Giê-ru-sa-lem thì ngôi sao lạ dẫn đường đột nhiên biến mất . Các ông liền vào triều, hỏi thăm nhà vua Do-Thái là Hê-rô-đê, về nơi sinh của Đấng Cứu Thế khiến nhà vua và dân chúng Do Thái xôn xao náo động. Lập tức vua Hê-rô-đê triệu tập các vị thượng tế và các kinh sư vào triều để bàn hỏi. Sau đó nhà vua đã trả lời cho các ông kia về nơi sinh của Đấng Cứu Thế theo Thánh kinh chính là Bê-lem, quê hương của vua Đa-vít. Sau đó Hê-rô-đê cho họ tiếp tục lên đường. Nhà vua còn yêu cầu họ trở lại báo tin sau khi xác định Hài Nhi Cứu Thế kia là ai, để ông cũng sẽ đến bái yết Người. Ra ngoài thành Giêrusalem thì ngôi sao lạ lại xuất hiện khiến các nhà chiêm tinh rất vui mừng. Nhờ ánh sao dẫn đường, các ông đã đến tận nơi Hài Nhi Cứu Thế đang cư ngụ. Vào nhà, thấy Hài Nhi và Mẹ Ngài là bà Maria, các ông đã quỳ gối xuống sụp lạy Người và dâng tiến Người 3 lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược. Sau đó, do được mộng báo là không được trở lại với Hê-rô-đê gian ác, nên các ông đã theo đường khác trở về xứ sở mình.
2) CHÚ THÍCH:
* Khi Đức Giêsu ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem và hỏi: "Đức Vua dân Do Thái mới sinh hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người" (Mt 2,1-2):
+ Vua Hê-rô-đê: Đây là Hê-rô-đê Đại Vương, phân biệt với Hê-rô-đê An-ti-pa là Hê-rô-đê Con, cai trị xứ Ga-li-lê sau khi Hê-rô-đê Đại Vương băng hà vào năm 4 sau Công Nguyên (x. Mt 2,15). Hê-rô-đê Đại Vương này là con người đa nghi, độc ác và tham quyền cố vị. Chúa Giêsu đã sinh ra tại Bê-lem miền Giu-đê dưới quyền cai trị của ông vua này.
+ Mấy nhà chiêm tinh: Cũng gọi là đạo sĩ, là những người đến từ phương Đông, quê hương của Ba-la-am (x. Ds 23-24). Đây là những người thông thái, am tường khoa chiêm tinh. Dựa vào 3 lễ vật họ dâng mà người ta quả quyết có 3 vị. Truyền thuyết dân gian còn kể tên 3 vị ấy: Một là Melchior da trắng; Hai là Gaspar da vàng; và ba là Balthazar da đen. Qua đó ngầm nói lên rằng: Ơn Cứu Độ của Chúa là ơn phổ quát cho mọi dân tộc, màu da hay tiếng nói, chứ không riêng cho một dân tộc là dân Do Thái.
+ Đức Vua dân Do Thái mới sinh hiện ở đâu ?: Câu hỏi của các nhà chiêm tinh ngoại giáo được nói lên như một lời loan báo cho người Do Thái biết là Đấng Cứu Thế của họ đã ra đời.
+ Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện: Cổ thời thường cho rằng việc ra đời của các vĩ nhân thường kèm theo sự xuất hiện của một ngôi sao lớn. Các nhà chiêm tinh thường nghiên cứu sự chuyển động của các ngôi sao trên bầu trời, để đoán vận mệnh của nhân loại. Pháp sư ngoại giáo tên là Bin-am thời Mô-sê có lần đã tuyên sấm về một ngôi sao đang hiện ra từ xa (x. Ds 24,17). Còn các vị chiêm tinh này thì thấy ngôi sao đã mọc lên rồi.
+ Chúng tôi đến bái lạy Người: Người Do Thái thường dửng dưng và thậm chí còn chống đối Đấng Cứu Thế. Đang khi lương dân lại tha thiết tìm kiếm và mau mắn đón nhận Người. Như thế là ứng nghiệm những sấm ngôn về một tôn giáo phổ quát trong thời tận thế (x. Is 49,23; Tv 72,10-15).
* Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế, các kinh sư trong dân lại, và hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu (Mt 2,3-5):
+ Vua Hê-rô-đê bối rối: bối rối vì thiếu lòng tin và đa nghi, lo sợ cho ngai vàng của mình sẽ bị Đấng Cứu Thế đến tước đoạt.
+ Cả thành Giêrusalem xôn xao: Xôn xao hay hoảng hốt. Đây là thái độ của các đầu mục dân Do Thái tại thủ đô đã đứng về phía nhà vua Hê-rô-đê để chống lại sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế.
* Họ trả lời: Tại bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ có chép rằng: "Phần ngươi hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa. Ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa. Vì ngươi là nơi Vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời" (Mt 2,5-6):
+ Họ trả lời: "Tại Bê-lem...": Có một sự đối nghịch về thái độ đối với Đấng Cứu Thế giữa dân Do Thái và lương dân: Các thượng tế và kinh sư là những người am tường Kinh Thánh , biết rõ nơi sinh của Hài Nhi Cứu Thế, nhưng không tin nhận Người, đang khi dân ngoại lại nhìn nhận và đi tìm Người mà thờ lạy.
+ Thành Bê-lem miền đất Giu-đê: Là một thị trấn nhỏ thuộc miền núi xứ Giu-đê, cách Giêrusalem 10 cây số về phía Nam. Bê-lem này là quê hương của vua Đa-vít (x. 1 Sm 16,1 tt). Câu sấm ngôn về Bê-lem Ep-ra-tha được trích trong sách ngôn sứ Mi-Kha (Mk 5,1).
* Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật với các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho Trẫm, để Trẫm cũng đến bái lạy Người" (Mt 2,7-8):
+ Hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện: Vì Hê-rô-đê muốn biết Hài Nhi Cứu Thế được mấy tuổi. Chính ông đã ra lệnh cho quân lính giết các trẻ em tại Bê-lem và vùng phụ cận từ hai tuổi trở xuống tính theo ngày tháng ông đã cặn kẽ hỏi các nhà chiêm tinh (x. Mt 2,16).
+ Xin báo lại cho Trẫm để Trẫm cũng đến bái lạy Người: Hê-rô-đê nói gạt các nhà chiêm tinh là muốn xác định rõ Hài Nhi Cứu Thế để sẽ đến bái lạy Ngài, trong khi thực sự ý đồ là để tiêu diệt.
* Nghe nhà vua nói thế , họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng (Mt 2,9-10):
+ Ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại xuất hiện dẫn đường cho họ: Đây là một ngôi sao có những đặc tính khác thường như: Lúc ẩn lúc hiện, lúc đi trước dẫn đường và lúc thì dừng lại...và như vậy có thể nói: đây là một ngôi sao lạ, do Thiên Chúa ban để trợ giúp các nhà chiêm tinh đi tìm Hài Nhi Cứu Thế.
+ Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng: Các nhà chiêm tinh hết sức mừng rỡ vì giờ đây nhờ ánh sao dẫn đường, họ lại có hy vọng sẽ tìm gặp được Đấng Cứu Thế.
* Họ vào nhà, thấy Hài Nhi và thân mẫu là bà Maria, liền sắp mình bái lạy Người. Rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình (Mt 2,11-12):
+ Họ vào nhà: Chắc chắn sau đêm Chúa giáng sinh, hai ông bà Giuse Maria không tiếp tục cư ngụ ở cánh đồng Bê-lem vì thiếu các tiện nghi tối thiểu để sinh hoạt ăn ở và nuôi dưỡng Hài Nhi mới sinh. Có lẽ các ngài đã vào thị trấn và thuê một căn nhà ở tạm một thời gian.
+ Sắp mình bái lạy Người: Trong cuộc đối đáp với Sa-tan khi ra giảng đạo, Chúa Giêsu đã bảo phải bái lạy một mình Thiên Chúa mà thôi (x. Mt 4,9-10). Như vậy, ở đây, qua hành động bái lạy Người, các nhà chiêm tinh đã thể hiện lòng tin vào Hài Nhi Giêsu. Ngài vừa là Đấng Cứu Thế, vừa là Con Thiên Chúa.
+ Lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến: Theo phong tục Đông Phương, sau khi bái yết nhà vua là đến phần dâng lễ vật. Các nhà chiêm tinh dâng lên Chúa là Vàng, nhũ hương và mộc dược là những đặc sản nơi quê hương của các ngài. Vàng tượng trưng Đức Tin, nhũ hương tượng trưng Đức Cậy và mộc dược tương trưng Đức Mến. Theo các giáo phụ thì đây là cuộc tuyên xưng các tước vị của Hài Nhi mới sinh: Vàng ám chỉ tước vị Vua, nhũ hương chỉ tước vị Tư Tế, mộc dược chỉ tước vị Đấng Cứu Thế sau này sẽ chịu tử nạn, được mai táng bằng mộc dược và sẽ phục sinh vinh quang.
+ Được mộng báo đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê, nên họ đã đi lối khác về xứ mình: Hê-rô-đê tuy là người nham hiểm và gian ác quỉ quyệt, không thể chống lại tình thương và cứu độ của Thiên Chúa. Những ai chống lại Thiên Chúa sớm muộn rồi cũng sẽ thất bại và chỉ chuốc tai họa vào thân mình mà thôi.
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1) MỖI TÍN HỮU PHẢI LÀ MỘT NGÔI SAO LẠ CHO LƯƠNG DÂN:
* Câu chuyện về dân cư trên đảo Ke-rô-lai: Đây là một hòn đảo được coi là hoang vắng từ trước đến nay chưa có một vị thừa sai nào đặt chân đến. Nhưng rồi vào một hôm, một vị linh mục kia có dịp đi ngang qua đảo. Ông dùng ống nhòm quan sát và thấy có nhiều ngôi nhà trên đảo. Ông càng ngạc nhiên hơn khi thấy một trong các mái nhà đó có gắn một cây thánh giá đơn sơ làm bằng tre. Ông cho thuyền ghé vào đảo tìm hiểu và rất vui mừng khi thấy hầu hết dân cư trên đảo đều tin có Thiên Chúa và nhận mình là người công giáo, dù họ chưa hiểu biết bao nhiêu về giáo lý Công Giáo. Số là khoản 20 năm trước đây, một đôi vợ chồng Công Giáo cùng hai đứa con trai đã phiêu bạt đến và sinh sống trên hòn đảo này bấy giờ còn rất hoang vu. Đây là một gia đình công giáo đạo đức: Họ rất thương yêu nhau, và sẵn sàng quan tâm giúp đỡ mọi người. Do đó dần dần họ đã gây được thiện cảm của các người dân sống trên đảo. Về Đức Tin tôn giáo, đôi vợ chồng đã dựng bàn thờ Chúa ngay trong phòng khách và đọc kinh chung gia đình hằng ngày. Vào mỗi buổi tối, cả nhà cùng ngồi quây quần trước bàn thờ, nghe đọc một đoạn Kinh Thánh, rồi gia trưởng sẽ gợi ý giúp suy niệm Lời Chúa và dâng lời cầu tự phát quyết tâm thực hành Lời Chúa và kết thúc bằng một bài thánh ca. Các người hàng xóm lúc đầu đến xem vì tò mò, rồi dần dần được mời vào nhà cùng tham dự buổi cầu kinh. Số người đến dự ngày một gia tăng. Nhờ các buổi kinh nguyện có suy niệm Lời Chúa, kèm theo những việc bác ái cụ thể phục vụ tha nhân cách vô vụ lợi, mà gia đình tín hữu này đã đưa được rất nhiều người tin nhận Chúa và trở thành con cái của Ngài.
* Thánh Phao-lô đã khuyên các tín hữu thành Phi-líp-phê như sau: "Anh em hãy làm mọi việc mà đừng kêu ca hay phản kháng. Như thế anh em sẽ trở nên trong sạch, không ai chê trách được điều gì, và sẽ trở nên những người con vẹn toàn của Thiên Chúa, giữa một thế hệ gian tà sa đọa, Giữa thế hệ đó, anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời ..." ( Pl 2,14-15). -Trong Mùa Giáng Sinh này, ngôi sao Đức Tin của mỗi người chúng ta phải phát quang chiếu sáng qua những việc bái ái cụ thể nào để trở nên ngôi sao soi đường dẫn lối cho anh em lương dân nhận biết tôn thờ Thiên Chúa như chúng ta ?
2) SỨ MỆNH CỦA MỘT NGỌN NẾN NHỎ:
* Vào một đêm mưa bảo, ngọn đèn hải đăng bị mất điện tắt ngấm . Người phụ trách hải đăng vội vã đốt một cây nến nhỏ và cầm cây nến theo đường cầu thang leo lên sân thượng để đốt đèn lên. Bấy giờ cây nến mới lên tiếng hỏi người phụ trách rằng: "Ông đem tôi đi đâu vậy ?". Ông ta trả lời: "Ta mang nhà ngươi lên sân thượng để chiếu sáng giúp tàu bè từ ngoài khơi biết đường trở về và cập bến an toàn". Cây nến lại nói: "Nhưng tôi chỉ là một cây nến nhỏ bé thế này thì tàu bè ở tận ngoài khơi làm sao nhìn thấy ánh sáng của tôi được ?". Người phụ trách trả lời: "Bây giờ ta chỉ cần nhà ngươi đừng bị gió thổi tắt là được. Còn các chuyện khác thì đã có ta lo liệu !". Khi cả hai leo lên đến nơi, thì người phụ trách đã dùng cây nến châm lửa và trong giây lát ánh sáng từ cây đèn lồng rực lên chiếu tỏa ra chung quanh. Chiếc đèn lồng này đã được thiết kế để khi cần có thể sử dụng thay bóng đèn điện . Ánh sáng của nó có sức chiếu ra tận ngoài khơi, hầu giúp tàu bè dễ dàng định hướng để quay về cập bến an toàn.
* Mỗi người chúng ta cũng là một cây nến nhỏ trong bàn tay Chúa quan phòng. Bổn phận của chúng ta là phải làm hết khả năng Chúa ban và phó thác kết quả cho Thiên Chúa định liệu. Chúng ta cần ý thức rằng: Trong mọi sự việc , đặc biệt những việc có liên quan đến Đức Tin siêu nhiên như trình bày về Chúa cho người lương, giúp các tội nhân như những kẻ nghiện ngập, những người vợ nọ con kia, những kẻ phạm pháp được hồi tâm trở về với Chúa...thì là những công việc vượt quá tầm sức của chúng ta. Điều ta có thể làm được là nêu gương sáng, và động viên khuyên bảo họ khi có thể ... Rồi phó thác kết quả trong tay Chúa quan phòng. Về vấn đề này thánh Phaolô cũng đã dạy: "Tôi trồng, A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới là Đấng làm cho cây mọc lên". Ngoài ra, người ta cũng thường nói: "Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên" - "hãy làm việc hết mình trước đã, rồi Chúa sẽ thêm sức cho sau". Trong mọi hoàn cảnh, chúng ta cần thực hành theo câu châm ngôn sau: "Thà thắp sáng lên một ngọn đèn, còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối!".
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1) Lạy Chúa Giêsu, Cuộc đời chúng con nhiều khi cũng gặp phải hoàn cảnh bế tắc như các nhà chiêm tinh xưa khi ngôi sao dẫn đường biến mất . Chúng con không biết phải cư xử, giải quyết vấn đề thế nào cho ổn thỏa. Không rõ phải đi theo con đường nào mới là đường Chúa muốn chúng con đi ? trong những giờ phút thử thách ấy, xin cho chúng con đừng nản lòng thất vọng ! Nhưng biết nói gương các nhà chiêm tinh xưa là không bao giờ nản chí buông xuôi, nhưng kiên trì tìm kiếm.
Xin cho chúng con biết chạy đến với các vị chủ chăn trong Giáo Hội. Con tin rằng: Chúa không muốn chúng con phải chịu đựng quá sức chúng con. Chúa sẽ kịp thời soi sáng, giúp chúng con biết những việc phải làm cho đẹp lòng Chúa và mưu ích cho phần rỗi tha nhân.
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
2) Lạy Mẹ Maria, Trong cuộc sống hàng ngày, Mẹ luôn tìm hiểu Thánh Ý Chúa và khiêm tốn "xin vâng". Đối với những việc xảy ra mà chưa được hiểu rõ, thì Mẹ đã luôn "ghi nhớ những sự việc ấy và suy niệm trong lòng". Trong cuộc sống hôm nay, chúng con cũng gặp biết bao những khó khăn trở ngại. Xin Mẹ thương nâng đỡ giúp chúng con noi gương Mẹ: luôn tìm hiểu Thánh ý Chúa bằng việc dâng lời cầu nguyện lên Chúa: "Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì trong hoàn cảnh cụ thể này?", rồi quyết tâm làm những điều tốt nhất theo tiếng Chúa nói trong lương tâm.
Xin cho chúng con biết chiếu sáng Đức Tin bằng những việc yêu thương, quên mình và phục vụ tha nhân, nhất là phục vụ những người đau khổ khốn cùng, như thánh Phaolô dạy: "Anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời" (Pl 2,15). Hoặc như lời Chúa Giêsu phán: " Ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời" (Mt 5,16).
X) HIỆP CÙNG MẸ MARIA. - Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Trái tim đã thực sự yêu sẽ không bao giờ quên . Nhưng như tình yêu chân thật thì nó sẽ yêu cho đến: HiểnLinh ABC20
"Trái tim đã thực sự yêu sẽ không bao giờ quên . Nhưng như tình yêu chân thật thì nó sẽ yêu cho đến cùng hoa hướng dương cũng hướng về chúa của nó (là mặt trời ) khi mặt trời lặn ,và cũng quay nhìn như thế khi mặt trời mọc " ( Thomas Moore ) .Dõi theo một ánh sao ,ba nhà đạo sĩ phương Đông xưa đã gặp được Hài Đồng Giêsu ,vua các vua nơi hang đá Bêlem . Hoa hướng dương cũng lần theo ánh mặt trời để chào đón và từ biệt vua mặt trời
I. VẪN LÀ ÁNH SAO...
Trên bầu trời cao, mênh mông,muôn vàn tinh tú lấp lánh, có một vì sao và chỉ một ngôi sao cứ hiện nguyên hình chiếu soi ,dẫn đường đưa lối cho ba nhà đạo sĩ ở phương Đông tới Bêlem để tìm gặp vị vua của muôn vua. Cái ánh sao hay ngôi sao dẫn đường vẫn ẩn hiện khi mưu đồ của Hêrôđê muốn đánh lừa ba vị đạo sĩ lạ ở phương xa .Ngôi sao lạ ấy quả thực đã khuất bóng khi ba nhà đạo sĩ tới gặp con cáo già Hêrôđê và rồi khi hiểu được lòng dạ nham hiểm,thẩm sâu của Hêrođê, ba nhà đạo sĩ đã lén ra đi,không bao giờ quay trở lại gặp Hêrôđê nữa thì này "... ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại" (Mt 2,9 ). Cái trớ trêu ở chỗ một vị Thiên Chúa đã hóa kiếp làm người đến trần gian với hình hài, với con người bằng xương bằng thịt lại nằm trong hang đá Bêlem, nghèo nàn, rét mướt .
Nhưng đoạn Tin Mừng của thánh Matthêô 2,1-12 trích đọc trong lễ Hiển Linh lại diễn tả tấn bi kịch của lịch sử cứu độ của Chúa Giêsu đối với dân riêng Người đã tuyển chọn , đồng thời lại nói lên tấm lòng bao la từ bi nhân ái hay chạnh lòng thương xót của Thiên Chúa. Hêrôđê là ông vua độc ác,ham quyền cố vị, tượng trưng cho quyền lực ,một thứ quyền lực gian xảo,ti tiện, mưu đồ quỉ quyệt chỉ biết khư khư giữ lấy ngai vàng như một lẽ sống, như một chân lý của cuộc đời mình. Hêrôđê không biết rằng: "Chúa các vua không phải là một ông vua thế trần gian tham,ham quyền cố vị ,nhưng Chúa là vua nhân ái,vua hòa bình,vua khiêm nhượng đến để ban an bình như lời muôn vàn Thiên Thần tung hô ngày Người đản sinh,giáng thế , Đấng đến để thực hiện lời ngôn sứ Isaia:muôn dân muôn nước sẽ nhận biết Người,qui về một mối mà ca tụng ngợi khen Thiên Chúa, Đấng đến để giải thoát kẻ bị áp bức khỏi tay người quyền thế, thương xót kẻ yếu đuối,cơ bần " (đáp ca).
Đấng Cứu Tinh lại là một Hài Nhi được bọc khăn,đặt nằm trong máng cỏ .Đấng ấy,đáng lẽ phải được toàn dân Giêrusalem đón chào như vị cứu tinh duy nhất của họ,nhưng lạ lùng và ngạc nhiên thay,dân thành Giêrusalem lại hốt hoảng lên cùng với Hêrôđê khi hay tin Đấng Cứu Tinh Giêsu đã Giáng Sinh. Họ bị mù lòa vì lòng dạ tối đen,mờ ám,họ không nhìn ra ánh sao dẫn đường cho dù họ có thể tìm cách để nhận ra ngôi sao như ba nhà đạo sĩ ngoại đạo Họ biết rõ vị cứu tinh là Giêsu có thể thay đổi họ,có thể ban cho họ sự an bình,nhưng họ ngại hy sinh,họ sợ dấn thân , họ cố bám vào quyền lực trần thế của một con cáo già Hêrôđê. Còn các vị tư tế,thông luật,các nhà lãnh đạo tôn giáo lúc đó dù biết rất rõ nơi vị cứu tinh sinh ra,họ có thể tìm gặp Hài Đồng Giêsu để triều bái, để thờ lạy người vì lời các ngôn sứ đã loan báo cho họ biết rất rõ về nơi ở của Hài Đồng Giêsu, nhưng lòng dạ họ đã đóng lại,con tim của họ đã ra chai đá,đôi mắt của họ đã trở nên mù lòa, họ phất lờ và chẳng màng gì đến Đấng Cứu Thế ! Chỉ ba nhà đạo sĩ, ba người ngoại có thế giá ở phương Đông,ba người đối với dân Do Thái là dân ở ngoài, dân bên lề đã tìm gặp Giêsu với một ánh sao soi dẫn...
Quả thực, đoạn Tin Mừng hôm nay diễn tả lại tất cả công trình cứu độ của Thiên Chúa:Chúa đến không phân biệt ai dù là người Do Thái hay không phải Do Thái, Chúa đến để qui tụ như bài đọc hai của thánh Phaolô gửi tín hữu Êphêrô nói: "Chính nhờ rao giảng Tin Mừng mà Đức Kitô đã đến với muôn dân muôn nước để chia sẻ ân sủng và lời hứa ban hạnh phúc cho mọi người " .
Vẫn một ánh sao, vẫn một ngôi sao có người đã nhận ra dù họ coi là thành phần ở ngoài,nhưng có nhiều người ở trong đã không nhân thấy vì trái tim của họ đã không thực sự yêu... Nếu yêu chân thật, họ sẽ như hoa hướng dương cũng hướng về chúa của nó (là mặt trời) khi mặt trời lặn, và cũng quay nhìn như thế khi mặt trời mọc (Thomas Moore ) .
II. ÁNH SAO NGÀY NAY...
Ngày nay vào những đêm tối ở nhiều nước còn chiến tranh vẫn có nhiều đốm hỏa châu rực sáng cả bầu trời .Nhưng, ánh sáng hỏa châu vẫn là thứ ánh sáng soi đường cho con người chém giết hận thù lẫn nhau . Ánh sáng hỏa châu quả thực vô nghĩa và hoàn toàn phi lý !
Trên bầu trời ngày nay,vẫn có hằng hà sa số các vì sao thắp sáng,vẫn có nhiều giải ngân hà với triệu triệu ngôi sao tỏa sáng,có ánh sao sáng,có ánh sao lu mờ ,có những vì sao con mắt trần không thể nào nhìn thấy được. Ngày nay,với phương tiện truyền thông văn minh tột bậc, với vi tính , É-Mail ,Internet ... người ta vẫn quảng bá,quảng cáo cho muôn vàn mặt hàng,muôn nghìn cách thức tiếp thị. Nhưng vẫn không có hàng hàng lớp lớp Thiên Thần tung hô,ca ngợi,loan báo cho các mục đồng tìm gặp Chúa ở Bêlem . Cũng không còn ánh sao soi đường chỉ lối như các vị đạo sĩ phương Đông nhất quyết đi tìm gặp Hài Đồng Giêsu: "Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Ngài bên trời Đông , và chúng tôi đến bái yết Ngài".
Ngày nay, vẫn có nhiều ngôi sao trên bầu trời mênh mông, bát ngát, vẫn có muôn vàn tinh tú đổi ngôi, vẫn thỉnh thoảng có ánh sao băng vụt lòe nhanh nhanh như chớp... nhưng con người không nhìn ra một vì sao chỉ đường để tới gặp Chúa . Ánh sao hôm nay vẫn là ý Thiên Chúa mà con người phải thực hiện, vẫn là chính Thiên Chúa hóa kiếp làm người ở với,ở cùng và vì con người ,vì mọi người.Con Thiên Chúa là Giêsu đã đích thân sống hòa đồng với mọi người ngoại trừ tội lỗi, ngoại trừ bóng tối âm u, lầm lạc. Ánh sao bây giờ không còn là ánh sáng hỏa châu soi đường cho nhân loại chém giết lẫn nhau .Ánh sáng của ngôi sao dẫn ba nhà đạo sĩ hôm nay không thể là chớp lòa của bom đạn hàng trăm ngàn, hàng triệu tấn trút xuống đồi núi,làng mạc của vùng vịnh hay gần hơn của nước A Phú Hãn .Ánh sao hôm nay, không thể là những đốm lửa lập lòe của khủng bố,phá hoại và ám sát của bom đạn, mã tấu vv... đang rực lên ở nhiều nơi trên thế giới . Ánh sao Bêlem không thể là chém giết, hận thù của Israen và Do Thái, Pakistan và Ấn Độ vv... Ánh sao hôm nay phải là Hài Đồng Giêsu -Ánh sáng chiếu dọi cho mọi dân tộc.
Vậy , Ánh Sao xưa soi chiếu cho các đạo sĩ tới gặp được Chúa Hài Đồng với phẩm vật quí giá là Vàng, Nhũ Hương và Mộc Dược phải là Ánh sáng của đức tin ,của lòng vị tha và xả kỷ của mỗi người . Muốn gặp được Hài Đồng Giêsu , ta phải ra khỏi cái vỏ của hận thù, ghen ghét và ích kỷ của lòng ta. Ta phải liều mạng như ba nhà đạo sĩ dù có gặp cáo già Hêrôđê vẫn cương quyết ra đi để tìm gặp Chúa Giêsu.Hãy ra khỏi sự an thân,nhàn hạ và ươn hèn để ra đi .
Chúa đã nói: "Ai cho người đói ăn là cho Ta ăn,cho kẻ khát uống, cho kẻ trần truồng mặc, thăm viếng kẻ lao tù là thăm chính Ta “(Mt 25,1tt) .Ta chỉ có thể gặp Chúa Giêsu Mẹ Maria và thánh Giuse khi ta gặp gỡ tha nhân với tất cả con người của mình, với tất cả lòng bác ái , vị tha , xả kỷ, chia sẻ của mình.
Gặp được Chúa, ba đạo sĩ đã tiến dâng cho Chúa: "Vàng , Nhũ Hương và Mộc Dược" là ba phẩm vật quí giá nhất của miền phương Đông và thế giới muôn thời . Ta hãy dâng cõi lòng ta, con tim quảng đại, yêu thương và lời cầu nguyện liên lỉ của chúng ta cho Vị Cứu Tinh Giêsu .
Ánh sao hôm nay vẫn luôn tỏa sáng,vẫn luôn dẫn đường, nếu chúng ta biết trao tặng tha nhân , nhất là những người nghèo, những người ta cần giúp đỡ với con tim rộng mở của ta.
III. ÁP DỤNG THỰC TẾ:
Qui chiếu các bài đọc hôm nay,trong thánh lễ này ,chúng ta tự coi chúng ta là người ở trong ,là người Kitô hữu chân chính ,là người chắc chắn sẽ lãnh được phần rỗi đời đời .
Chúng ta hãy xét lại thái độ và đời sống đạo của chúng ta xem chúng ta đã sống như những người ở trong ,hay chúng ta vẫn hờ hững nhiều khi chưa bằng người bên ngoài .
Chúng ta có nhớ cầu nguyện cho các vị tông đồ,các nhà truyền giáo đã nói Lời Chúa,đã rao giảng Tin Mừng cho ta, nhờ đó ta có đức tin và Chúa Kitô tỏa chiếu trong ta.
• Ta có tìm gặp Chúa nơi tha nhân chứ không ngồi đu đưa chờ đợi Chúa như câu chuyện ông già đu đưa trên ghế xích đu chờ đợi Chúa hay không mà tìm gặp Chúa là phải tìm nơi những sự nhỏ hèn,nơi những con người nghèo nàn,cơ nhỡ vv...
Chúng ta hãy đọc tư tưởng của thánh Augustinô:" Thấy miền đất hòa bình là một chuyện,nhưng đặt chân lên con đường dẫn tới miền đất đó lại là một chuyện khác "
LỜI CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu, xin chỉ đường dẫn lối cho chúng con để chúng con thấy được đâu là nơi chúng con phải tới, đâu là nơi chúng con phải đi.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Bạn nghĩ gì về ba nhà đại sĩ phương Đông ? 2. Bạn đã gặp Chúa chưa ?
Những người tìm và gặp được Chúa Hài Đồng là những ai? Tại sao không phải là những người: HiểnLinh ABC21
1. Những người tìm và gặp được Chúa Hài Đồng là những ai? Tại sao không phải là những người thông Kinh Thánh? những tư tế hay thầy Lêvi? Chúng ta có thể rút ra bài học gì?
2. Tại sao có biết bao người "dài cổ" trông chờ Đấng Cứu Thế đến, thế mà khi Ngài đến họ lại chẳng hay biết gì? Họ trông chờ kiểu gì mà "sôi hỏng bỏng không" vậy?
Suy tư gợi ý:
1. Một chuyện trớ trêu trong đoạn Tin Mừng hôm nay
Trong bài Tin Mừng, ta thấy có điều khá ngộ nghĩnh và buồn cười, đó là: Dân Do Thái nóng lòng trông chờ suốt mấy trăm năm trời Đấng Cứu Thế mà các ngôn sứ loan báo trước đó. Thế mà chẳng mấy ai muốn tìm kiếm Ngài, nên khi Ngài đến, thì chẳng mấy ai trong nhận ra mà đến gặp Ngài. Thật đúng như Tin Mừng Gio-an nói: "Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận" (Ga 1,11). Chẳng những họ không nhận ra, mà còn bách hại Ngài nữa.
Điều ngược đời và trớ trêu là những người đến tìm Ngài, nhận ra Ngài là Vua, là Đấng Cứu Thế, lại không phải là những người mang danh là vẫn trông chờ Ngài đến, không phải là những người đã từng nghe nói về Ngài, không phải là những người thông thạo Kinh Thánh, càng không phải là người biết được Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra ở đâu. Đúng lý ra, chính những người trông chờ Ngài, biết nhiều về Ngài phải là những người đến tìm Ngài và nhận Ngài đầu tiên, trước tất cả những người khác. Nhưng trớ trêu thay, những người tìm Ngài, gặp được Ngài, và nhận ra Ngài là ai, lại là những người ngoại giáo ở tận đâu đâu, rất xa xôi, và những mục đồng dốt nát chẳng hề cầm đến cuốn Kinh Thánh, thậm chí có thể chẳng biết Kinh Thánh nói gì.
Điều ấy khiến chúng ta nhớ đến lời Đức Giêsu nói khi nghe viên đại đội trưởng đến xin Ngài chữa bệnh cho con gái ông ta: "Tôi không thấy một người Ít-ra-en nào có lòng tin như thế. Tôi nói cho các ông hay: Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng" (Mt 8,11-12).
2. Biết đâu chuyện trớ trêu ấy lại ứng nghiệm nơi chúng ta!
Những sự kiện ấy khiến chúng ta phải suy nghĩ. Nhiều khi chúng ta tự hào mình là đạo gốc, là người thuộc hàng giáo sĩ, tu sĩ, là giáo lý viên, là giáo dân loại "hảo hạng", hay là người thông thạo lẽ đạo, hiểu biết nhiều về Kinh Thánh, v.v Vì thế, chúng ta nghĩ mình sẽ là những người ưu tiên vào Nước Trời: ta nghĩ rằng nếu mình mà còn không được vào Nước Trời thì còn ai vào được nữa? Suy nghĩ và tự hào như thế có thể chúng ta đã lầm. Một cái lầm hết sức tai hại.
Chúng ta tưởng rằng mình có đức tin, chúng ta tưởng rằng cách giữ đạo của mình hiện nay là đẹp lòng Thiên Chúa. Chúng ta tự hào là mình đã nắm được ý muốn của Thiên Chúa, luật lệ của Ngài, hiểu rõ lẽ đạo, chân lý của Ngài, và tưởng rằng mình đang sống đúng đường lối của Ngài. Nhưng thật ra chúng ta đang sống một lối sống ích kỷ, kiêu căng, tự mãn, tự hào về những công đức của mình, chẳng hề quan tâm và giúp đỡ những người khốn khổ chung quanh ta. Có thể chúng ta có tính ganh tị, thấy ai hơn mình, may mắn hơn mình, thì tìm cách dèm pha, hạ giá họ xuống. Có thể chúng ta là những người không thể cộng tác với nhau và với ai, vì "cái tôi" của chúng ta lớn quá. Có thể chúng ta có tính không tha thứ khi có ai đó xúc phạm đến ta. Có thể chúng ta chưa yêu thương những người sống ngay bên cạnh ta ở mức độ đúng như Chúa đòi hỏi. Có thể chúng ta có rất nhiều hành vi có vẻ yêu thương, chứ không phải thật sự yêu thương. Có thể chúng ta đang sống rất xa Chúa, mà cứ ngỡ là mình gần Chúa lắm.
Chúng ta tưởng rằng mình thiện chí hơn, sống tốt hơn những người ngoại đạo, hay hơn nhiều Kitô hữu khác, nhưng trong thực tế, chúng ta kém họ, chúng ta không quảng đại bằng họ, không hy sinh cho những người sống chung quanh bằng họ, không cư xử có tình có nghĩa bằng họ. Và chính vì thế, họ gặp được Chúa, được Ngài chúc phúc, còn chúng ta thì chẳng gặp được Ngài, không nhận ra sự hiện diện rất cụ thể và tràn đầy của Chúa ở nơi những người mình gặp, trong những biến cố hằng ngày. Và vì thế, những người chung quanh ta không cảm thấy hạnh phúc vì có ta ở giữa họ, ở với họ.
Những người thông luật, thông Kinh Thánh, được tiếng là đạo đức như những người Pha-ri-siêu, các Ráp-bi Do Thái, các tư tế, các thầy Lê-vi đã không gặp được Ngài lúc Ngài sinh ra. Và ngay cả sau này, khi Ngài đích thân đến gặp họ, nói chuyện với họ, thì họ cũng chẳng nhận ra Ngài, mà tệ hơn nữa, còn tìm cách hãm hại Ngài. Hãy nghiêm túc tự hỏi: tinh thần của chúng ta hiện nay có giống họ không? giống chỗ nào? và nếu có khác, thì khác họ ở chỗ nào? Nếu Chúa đến theo cách khác hẳn với cách mà chúng ta vẫn nghĩ - mà chắc chắn là như vậy - thì ta có nhận ra và tiếp đón Ngài không? hay chúng ta lại nhân danh luật đạo và niềm tin của ta để kết án Ngài, giống như những người có vẻ đạo đức xưa kia đã làm cho Ngài? Ngài tiên báo sẽ đến như kẻ trộm, mà kẻ trộm thì lúc nào cũng đến bất ngờ, không chỉ theo thời gian mà theo cách thế nữa. Nếu không tỉnh thức, làm sao biết được. Coi chừng Ngài đang ở ngay bên ta, mà ta đâu có biết!
3. Đây là dịp để chúng ta xét lại cách suy nghĩ về cách sống
Trong lịch sử cứu độ, ta thấy Thiên Chúa dành rất nhiều ưu tiên cho Dân Ngài trong việc lãnh nhận ơn cứu độ. Đức Giêsu cũng vậy. Ngài nói với các môn đệ: "Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Sa-ma-ri. Tốt hơn là hãy đến với các chiên lạc nhà Ít-ra-en" (Mt 10,5-6), hoặc "Ta chỉ được sai đến với các chiên lạc của nhà Ít-ra-en thôi" (Mt 15,24). Nhưng điều tai quái xảy ra là những kẻ được ưu tiên thì lại tự hào về sự ưu tiên ấy, để rồi sống ngược lại với ý của Thiên Chúa, khiến họ không xứng đáng được cứu rỗi. Dụ ngôn tiệc cưới (xem Mt 22,1-14, hay Lc 14,15-24) cho thấy rõ điều đó. Người được ưu tiên mời thì không chịu đến, khiến cho chủ tiệc phải mời tất cả những người ở ngoài đường vào dự tiệc. Thiên Chúa đã sai các ngôn sứ đến với họ, nhưng họ không nhận ra đó là ngôn sứ của Thiên Chúa, trái lại họ nghe thấy các ngôn sứ nói chói tai, và giết đi.
Phải coi chừng kẻo điều ấy lại xảy ra tương tự cho chính chúng ta, những người đã được rửa tội, mang danh là Kitô hữu, là người theo Chúa, là người đạo đức, nhưng nếu trong thực tế, đời sống chúng ta lại phản lại Tin Mừng, nghĩa là ích kỷ, kiêu căng, rất tự hào về đạo mình, khinh chê đạo khác. Liệu Đức Giêsu có thể nói với chúng ta như đã từng nói với người Do Thái xưa: "Tôi nói cho các ông hay, Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi" (Mt 21,43).
Lễ Hiển Linh là một tin mừng đặc biệt cho dân ngoại. Qua nhiều đoạn Tin Mừng (như đã từng trưng dẫn ở trên), ta thấy Thiên Chúa mạc khải rằng chính dân ngoại cũng có thể được cứu rỗi nếu họ sống đúng theo lương tâm, hay sống đúng theo truyền thống tôn giáo của họ, sống xứng đáng là người đúng nghĩa là con người (xem thêm Rm 2,17-29; Rm 10,19-21; v.v)
Nguyện:
Lạy Chúa, bài Tin Mừng về lễ Hiển Linh khiến con phải xét lại cách sống đạo của con. Có thể con đang sống theo kiểu người Do Thái xưa, hiểu biết về Chúa rất nhiều, nhưng lại sống một lối sống hết sức xa lạ với tinh thần Tin Mừng. Xin Chúa hãy làm cho trái tim của con mềm lại thành trái tim bằng thịt đích thực, biết rung cảm trước những đau khổ, những cảnh nghèo nàn túng thiếu, những thế kẹt của những người đang sống quanh con, đồng thời biết quảng đại ra tay giúp đỡ, dấn thân bênh vực. Amen
Sau khi Đức Giê-su giáng sinh tại hang đá, các thiên thần đã vang tiếng hát tưng hô, và các người: HiểnLinh ABC22
Sau khi Đức Giê-su giáng sinh tại hang đá, các thiên thần đã vang tiếng hát tưng hô, và các người chăn chiên đã kéo nhau đến thờ lạy Người. Hai sự kiện này có chung một mục đích là diễn tả việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại, nhất là cho người nghèo. Sau này, chính Đức Giê-su quả quyết với những người được ông Gio-an Tẩy Giả sai đến: ''người nghèo được nghe Tin Mừng (Mt 11,5). Đức Giê-su đến trần gian với sứ mệnh là bày tỏ cho người nghèo, cho họ biết rằng Thiên Chúa yêu thương và bênh vực họ.
Thế thì, tại sao trình thuật Tin Mừng về ba nhà đạo sĩ lại được sử dụng để mừng kính việc Đức Ki-tô tỏ mình ra lần thứ nhất ? Hai sự kiện trên không đủ ư ? Các đạo sĩ là những người trí thức, họ có mặt tại hang đá với mục đích gì ? Họ đem những tặng phẩm quý giá như vàng, nhũ hương và mộc dược, những tặng phẩm vốn dành cho bậc vua chúa, đến hang đá để làm gì?
Thật ra, đây chính là một cuộc tỏ mình ra của Đức Ki-tô, một cuộc Hiển Linh. Kiến thức hiểu biết, sự giàu sang của các nhà đạo sĩ hoàn toàn tương phản với sự trần trụi, yếu ớt của vị vua mà họ đến thờ lạy.
Để đến được Bê-lem, các nhà đạo sĩ đã phải từ bỏ tất cả. Họ vốn là những bậc quyền thế, hiểu nhiều biết rộng và có nhiều của cải nhưng họ đã từ bỏ mọi sự để lên đường. Họ là những người hiểu biết, nhưng lại lên đường theo một ánh sao, một ánh sáng từ bên trong, một lời mời gọi. Đây cũng là một cuộc Hiển Linh của Đức Kitô.
Sau cuộc gặp gỡ với vua Hê-rô-đê, người đang nắm quyền tại chỗ, và với những người thông thạo về Lề Luật, các nhà đạo sĩ đã ra đi, chẳng thỏa mãn, nếu không muốn nói là thất vọng. Họ đã tìm lại được bình an và niềm vui khi gặp lại ngôi sao, chứ không phải do những hiểu biết trong sách vở hay những lời dối trá của quyền bính. Từ đó, họ đã thay đổi cái nhìn, họ đã sám hối, họ khám phá ra rằng quyền hành đích thực nằm trong tay con trẻ vừa mới giáng sinh tại hang đá Bê-lem: đây cũng là cuộc tỏ mình ra của Đức Ki-tô, một cuộc Hiển Linh.
Xưa nay, người ta vẫn muốn trình bày niềm tin vào Đức Giê-su Ki-tô tựa như lòng tin của người dân quê mùa, chất phác, ngược hẳn với niềm tin do hiểu biết, suy tư ... Theo cách nhìn này, Tin Mừng dường như chỉ dành cho những người ngu dốt, đần độn.
Đúng ra, đây chỉ là một vấn đề giả. Cuộc gặp gỡ với Đức Ki-tô không phải là một hoạt động dựa trên chỉ số thông minh, nhưng do thái độ sẵn sàng đón tiếp của tâm hồn. Tin Mừng luôn được loan báo cho mọi người, không ai bị loại trừ, thế nhưng, chỉ những ai có tâm hồn rộng 'mở mới có thể hiểu được.
Những người nghe được Tin Mừng là những người khát khao tìm kiếm và sẵn sàng cất bước lên đường.
Những người cứ nghỉ yên trong kiến thức của mình, trong quyền hành và sự giàu có của mình, đó là những người điếc.
Món quà đẹp nhất và quý giá nhất các đạo sĩ đem đến để tặng Đức Giê-su, chính là con đường họ đã đi, chính là niềm tin vào ngôi sao, chính là thái độ nhận ra mình thiếu sót và yếu đuối, mặc dù họ đang có rất nhiều thứ.
2. Khởi đầu từ những người nghèo
Đọc lại những trình thuật Tin Mừng về cuộc giáng sinh của ' Đức Ki-tô, người ta thấy được một chi tiết khá thú vị: những người nhìn nhận Đức Giê-su là Đấng Cứu Thế là những người chăn chiên, cụ già Si-mê-on, các đạo sĩ. Ngoại trừ ông cụ Si-mê-on, những người kia không phải là những người được chọn trước, và cũng không chuẩn bị gì. Ngược lại, những người không nhìn nhận Đức Giê-su lại là những nhà thông thái, những người được lựa chọn trước và được chuẩn bị rất kỹ để đón tiếp Đấng Cứu Thế: chính họ đã chỉ cho các đạo sĩ biết rõ về nơi Đấng Cứu Thế giáng sinh.
Tại sao thế ?
Những nhà thông thái biết quá nhiều, nhưng chỉ biết thôi chứ không hiểu. Ngược lại, những người chăn chiên và các đạo sĩ tuy không biết nhiều nhưng họ có khả năng hiểu, vì họ sẵn sàng và khao khát kiếm tìm. Sau này Đức Giê-su sẽ nói: ''Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha vì điều Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết, thì Cha lại mặc khải cho những người bé mọn. " (Mt 11,25)
Có học thức, đó chưa phải là điều kiện cần thiết để hiểu biết những mầu nhiệm về Thiên Chúa, còn một điều khác cần hơn, đó là phải nhận rằng mình còn thiếu sót. Tính kiêu ngạo là một thứ màn tối dầy đặc che khuất ánh sáng, còn thái độ khiêm tốn là cửa ngõ để đón nhận ánh sáng.
Ngoài ra, khi thuật lại câu chuyện các đạo sĩ từ phương Đông tìm đến với Đức Giê-su, tác giả Mát-thêu muốn nói đến ơn phổ quát của Tin Mừng. Các nhà lãnh đạo tại Giêrusalem đã từ khước, không nhìn nhận Đấng Cứu Thế, thì đây các dân ngoại lại đón tiếp Người. Ngay từ giai đoạn đầu trong cuộc sống của Đức Giê-su, sức mạnh truyền giáo của giao ước mới đã được bày tỏ, và sẽ lan mãi đến toàn thế giới. Đến cuối sách Tin Mừng, tác giả Mát-thêu ghi lại huấn lệnh cuối cùng của Đấng Phục Sinh: ''Anh em hãy đi đến với muôn dân ... để muôn dân trở nên môn đệ của Thầy. '' (Mt 29,19-20). Những dân ngoại ấy hiện đã có mặt tại hang đá, qua hình ảnh ba đạo sĩ từ phương Đông đến.
Như thế, Tin Mừng được trao tặng cho tất cả mọi người, bởi vì họ đều được Thiên Chúa yêu thương trong Đức Ki-tô. Mọi người đều được mời đến gặp Đức Giê-su tại hang đá, miễn là họ có được tâng hồn nghèo khó và thái độ sẵn sàng. Và từ hang đá, mỗi người cũng nhận được lệnh đem Tin Mừng đến mọi miền của thế giới, của tám hồn con người.
3. Các đạo sĩ của hôm nay
Các đạo sĩ của ngày hôm nay là ai ? Ngày nay, ai là những người từ xa đến để nhận ra Đức Giê-su ở giữa những người nghèo ?
Các đạo sĩ của thế kỷ XX có thể là những người chúng ta đã gặp đây đó. Họ là những người nam cũng như nữ, biết bỏ lại kho tàng của mình (văn minh, hiểu biết ...) để phục vụ những người nghèo, nhất là những trẻ em. Họ là những người đã đi theo một ánh sao, đã nhận ra rằng người nghèo chính là hình ảnh của Đức Ki-tô. Họ là những người luôn có thái độ sẵn sàng đón tiếp người khác, và biết sử dụng những điều kiện mình đang có để đem lại niềm vui cho người khác. Họ là những người sung sướng khi được hưởng những tiện nghi trong đời sống; nhưng họ cảm thấy hạnh phúc hơn, sung sướng hơn khi từ bỏ những tiện nghi của riêng mình để làm cho người khác được sống xứng đáng hơn.
Những con người như thế, chúng ta gặp rất nhiều. Đời sống của họ là một cuộc Hiển Linh của Đức Ki-tô, hay nói cách khác, Đức Ki-tô dùng cuộc đời của họ để bày tỏ cho thế giới về chính Người.
Phần chúng ta, chúng ta sẽ đem gì đến trước hang đá của Đức Giê-su ? Đời sống của chúng ta có phải là sự diễn tả về Đức Giê-su ? Đời sống của chúng ta có phải là một cuộc Hiển Linh của Đức Ki-tô ?
Những câu hỏi như thế được nêu lên không phải chỉ một lần. Mỗi năm, vào mùa Giáng Sinh, chúng ta lại được nhắc nhở về sứ điệp ấy. Mỗi năm chúng ta lại bắt đầu lên đường bởi vì nhận thấy rằng có nhiều lần chúng ta đã bỏ dở hành trình, đã từ chối yêu mến.
Hãy dành một phút thinh lặng để suy niệm và cầu nguyện trước hang đá. Hãy cùng với các nhà đạo sĩ lên đường tìm đến hang đá, và phục lạy. Hãy dâng cho Con Trẻ món quà quý giá nhất là chính đời sống của chúng ta.
Chủ đề: Các tặng vật của các đạo sĩ tượng trưng cho nhân tính, thiên tính và vương quyền của Chúa Giêsu. Các tặng vật ấy mời gọi chúng ta hành động xứng với người Kitô hữu.
Một ngày nóng bức tháng bảy năm 1969 trên boong tàu một chiếc hàng không mẫu hạm ở: HiểnLinh ABC23
Một ngày nóng bức tháng bảy năm 1969 trên boong tàu một chiếc hàng không mẫu hạm ở Thái Bình Dương, các thuỷ thủ đang đưa ống dòm tìm kiếm trong vùng bầu trời phía trên chíêc mẫu hạm. Bỗng nhiên họ kêu lên. Có ba chiếc dù màu cam và trắng nở xoè ra trên bầu trời xanh thẳm, đong đưa phía dưới là vật giống như một trái banh. Đó chính là chiếc phi thuyền con Apollo 11. Vài phút sau, chiếc phi thuyền con đâm sâu vào dòng nước ấm áp của Thái Bình Dương. Nước biển tung toé lên đánh dấu sự kết thúc thành công của chuyến du hành mang ba người lên mặt trăng.
Khi các Phi Hành Gia mỉm cười trồi lên từ chiếc phi thuyền nhỏ, Tổng Thống Nixon liền nhảy tung tăng trên bong chiếc mẫu hạm. Ong đã bay nửa vòng trái đất đến đây để chứng kiến giây phút làm nên lịch sử này. Tổng Thống nói rằng vệt nước tung toé của chiếc phi thuyền đã đánh dấu sự kết thúc tuần lễ vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại kể từ cuộc tạo dựng.
Trong những tháng đầy phấn khích sau đó, ba phi hành gia đã thực hiện chuyến du lịch thịên chí vòng quanh thế giới. Họ đã thăm viếng 23 quốc gia trong vòng 45 ngày. Phi hành gia Ed Aldrin nói rằng: “Một trong những thời gian phấn khích nhất” của chuyến đi là cuộc thăm viếng Vatican. Các phi hành gia đặc bịêt xúc động khi nhận được những quà tặng khác thường của Đức Giáo Hoàng Phaolô Vi. Ed Aldrin viết trong quyển sách của mình tự a đề: Re- turn to Earth (trở lại trái đất) như sau:
Đức Thánh Cha mở lớp vải gói ba bức tượng ba nhà đạo sĩ làm bằng sứ tuyệt đẹp. Ngài nói rằng ba vị đạo sĩ đã đến được với Chúa Giêsu Hài Đồng là nhờ nhìn lên những vì sao, còn chúng tôi đã đạt đến đích của mình cũng là nhờ nhìn xem các vị sao như vậy”.
Khi chiêm ngắm các bức tượng bằng sứ tượng trưng cho ba nhà thông thái, ba phi hành gia liền nghĩ ngay đến câu chuyện họ đọc được trong bài Phúc âm hôm nay. Và chắc chắn, giống như chúng ta, họ cũng suy nghĩ về ý nghĩa sâu xa hơn ẩn giấu trong câu chuyện này.
Dĩ nhiên tất cả các học sinh đều biết được ý nghĩa câu chuyện này rồi. Đây là việc Chúa Giêsu tự biểu lộ mình ra cho dân ngoại. Cho thế giới ngoài Do Thái Giáo. Chính vì thế, chúng ta gọi lễ này là lễ “Hiển Linh” (Epiphany). Từ ngữ Hiển Linh có nghĩa là “Thiên Chúa biểu lộ ra”.
Bởi vì Hiển Linh mừng kính việc Chúa Giêsu tự biểu lộ mình cho thế giới dân ngoại, nên một số quốc gia mừng lễ này còn trọng thể hơn lễ Giáng Sinh. Thực thế, Lễ Hiển Linh là lễ Giáng Sinh dành cho dân ngoại.
Ba nhà thông thái hay ba chiêm tinh gia từ phương Đông đến ấy đã nhìn Chúa Giêsu thế nào? Họ nghĩ gì về Hài Nhi được hạ sinh trong trường hợp đặc biệt như thế?
Thánh Mathêu hình như cũng mang trong tâm trí câu hỏi khi Ngài liệt kê những tặng vật mà các vị thông thái này dâng lên Chúa Giêsu. Thánh Matthêu viết: “Khi bước vào nhà và nhìn thấy hài nhi cùng Đức Maria Mẹ Ngài, họ liền quỳ gối xuống tôn thờ Hài Nhi đoạn mang các tặng vật ra gồm vàng, nhũ hương và mộc dược dâng lên Ngài”.
Người xưa thường coi vàng là vua của mọi thứ kim loại. Vì thế, vàng là tặng vật lý tưởng cho một vị vua. Vì thế các Kitô hữu cắt nghĩa tặng vật vàng tượng trưng cho Vương quyền của Chúa Giêsu. Về vương quyền của Chúa Giêsu, Thánh Phaolô có viết trong thư gởi tín hữu Ephêsô như sau: “Chúa Cha đã Phục Sinh Đức Kitô từ cõi chết và đặt Đức Kitô bên hữu Ngài trên Thiên Quốc. Đức Kitô cai trị trên vạt vật… Thiên Chúa đã đặt mọi sự dưới chân Đức Kitô”. (Ep 1: 20- 22)
Từ đó, chúng ta đề cập đến tặng vật thứ hai là nhủ hương. Người xưa thường dùng nhủ hương trong việc thờ phụng. Hương và khói bay lên trời biểu tượng những lời ca tụng và cầu nguyện dâng lên các thần linh. Các Kitô hữu cắt nghĩa tặng vật nhũ hương tượng trưng cho thiên tính của Đức Giêsu. Khi nói về thiên tính Chúa Giêsu; thư gởi tín hữu Do Thái đã diễn tả như sau: “Chúa Giêsu phản chiếu sự chói lọi vinh quang của Thiên Chúa và là hình bóng bản thể của Thiên Chúa. ngài lấy lời quyền phép của mình để nâng đỡ vạn vật” (Dt 1:3)
Điều này dẫn chúng ta đến tặng vật cuối cùng là một dược. Người xưa thường dùng mộc dược để ướp xác người chết trước khi an táng. Hãy nhớ lại các phụ nữ đã tùng đem mộc dược đến mộ Chúa Giêsu. Vì chết là thân phận của con người, nên các Kitô hữu thường cắt nghĩa mộc dược tượng trưng cho nhân tính Chúa Giêsu. Bàn về nhân tính Chúa Giêsu, Thánh Phaolô đã viết trong thư gởi tín hữu Philipphê như sau: “Chúa Giêsu dù luôn mang bản tính Thiên Chúa, nhưng Ngài đã trở nên… như một con người … Ngài hạ mình vâng phục đến nỗi chịu chết – chết trên Thập Giá” (Pl 2: 6-8)
Hơn mười lăm thế kỷ trước, Thánh Peter Chrysologus đã nói về lễ hôm nay như sau: “Ngày hôm nay, các vị đạo sĩ đã ngạc nhiên sâu sa trước điều họ chiêm ngắm: đó là trời ở trên đất, đất ở trong trời, con người trong Thượng Đế , Thượng Đế trong con người, Đấng mà cả vũ trụ không thể chứa nổi giờ đang đựơc bó gọn trong một thân xác bé xíu. Khi ngắm nhìn họ đã tin và không hề thắc mắc, vì những tặng vật đầy tính tượng trưng của họ đã làm chứng điều ấy. Nhũ hương để tặng Thiên Chúa, vàng để tặng Vua và mộc dược để tặng cho một người sẽ phải chết.
Nói một cách thực tế, tất cả điều này có ý nghĩa gì đối với chúng ta hiện đang có mặt trong giáo đường nayf?
Nó có nghĩa như sau:
Chúng ta phải tiếp tục những gì Chúa Giêsu đã khởi sự khi Ngài còn ở dương thế. Nếu mọi dân tộc nhận biết được sứ điệp của Chúa Giêsu thì đó là nhờ chính nổ lực của chúng ta. Chúng ta phải chia sẻ với họ “tin mừng” là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã mang lấy nhục thể và đã sống giữa chúng ta. Chúng ta phải chia xẻ cho họ “tin mừng” là Chúa Giêsu đã đi vào lịch sử, không chỉ cho riêng dân Do Thái mà là cho tất cả mọi người. Chúng ta phải chia xẻ với họ “tin mừng” là Chúa Giêsu đã đến khánh thành vương quốc Tc. Ngài đến để thiết lập nên một trật tự thế giới mới. Một trật tự trong đó sẽ không còn khổ đau phiền muộn, một trật tự trong đó kẻ túng thiếu sẽ tìm được bạn bè thân thương thay vì chỉ tìm thấy những kẻ xa lạ trong đêm tối.
Đó là “Tin Mừng” mà chúng ta phải mang đến cho thế gian… Đó là sứ điệp thực tế của Lễ Hiển Linh. Đó là sứ điệp mời gọi mỗi Kitô hữu chúng ta dấn thân vào hành động.
Chúng ta hãy kết thúc với những lời do một Kitô hữu vô danh viết ra để tóm tắt sứ điệp thực tế của Lễ Hiển Linh bằng một hình ảnh tuyệt đẹp như sau:
“Khi khúc hát các vị thiên sứ lặng yên, “khi sao trời lịm tắt, “Khi vua chúa, hoàng tử trở về nhà, “Khi mục đồng cùng bầy gia súc về đến chuồng, “thì việc Gíang Sinh bắt đầu khởi sự: “là cho kẻ đói ăn “Thả kẻ tù tội “Dựng xây các dân tộc “Mang hoà bình đến giữa mọi người “và reo ca bằng tâm hồn mình”.
Tháng 12 năm 1968, ba nhà du hành vũ trụ đã xếp đặt chương trình cho chuyến bay đầu: HiểnLinh ABC24
Tháng 12 năm 1968, ba nhà du hành vũ trụ đã xếp đặt chương trình cho chuyến bay đầu tiên vòng quanh mặt trăng. Cả thế giới chờ đợi. Vài tuần lễ trước khi chuyến bay được thực hiện, Hiệp hội các nhà thiên văn Anh đã đưa ra những lời tiên đoán ảm đạm. Họ báo trước là chuyến bay sẽ thất bại. Tại sao? Vì hành tinh Upiter và Uranus đang tiến gần nhau, gây ra thay đổi cá tính nơi các phi hành gia. Như tất cả chúng ta đã biết: chuyến bay Apollo 8 thành công. Các nhà bói theo ngôi sao đã lầm.
Bảng liệt kê những sai lầm của những người tự nhận là có thể nói trước về tương lai thì thật là vô cùng. Tuy nhiên, có trên 10 triệu người Mỹ nghĩ là tương lai của họ được ghi trên những ngôi sao. Vô vàn nhật báo và tạp chí đăng lá số tử vi nói về những điều lành và điều dữ sẽ xảy đến cho người ta vào một ngày nào đó.
Đây là vài dữ kiện về điều vô nghĩa và tai hại này:
1. Không có bằng chứng khoa học về ảnh hưởng của các ngôi sao đối với đời sống chúng ta.
2. Những lời báo trước ở tạp chí rất phổ quát, có thể áp dụng cho bất cứ người nào.
Mỗi ngày, mỗi người đều có kinh nghiệm về môt vài điều tốt, điều xấu, thành công, thất bại, một vài thắng lợi, một vài mất mát!
3. Có một số người xài phí tiền bạc vào cái ngón bịp bợm này.
Năm 1974, người ta xài phí cả 100 triệu đô la vào chuyện vô nghĩa lý này.
4. Nếu có điều gì đó, thì tại sao những người đọc được ngôi sao này không vào chợ mà làm một chuyến lãi vớ bở? Tại sao họ không đi đua ngựa làm giàu cho mau?
5. Một số người học phất phơ về những ngôi sao chỉ để làm trò cười, nhưng nếu người ta chăm chú vào đó là họ phá vỡ lề luật đầu tiên của Thiên Chúa: "Ngươi sẽ không có thần nào trên Ta". Khi chúng ta dành cho tạo vật - như một ngôi sao - quyền năng chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa là chúng ta xúc phạm đến Thiên Chúa.
Nhưng các Đạo sĩ đã đi theo ngôi sao có phải không? Thưa phải! Chúng ta tin rằng Thiên Chúa đã dùng ánh sáng khác thường, lạ lùng, hay một ngôi sao để dẫn đưa các Đạo sĩ tới máng cỏ Con Ngài. Hơn nữa, họ đã theo lời tiên tri của các sứ giả Thiên chúa. Những lời này chắc chắn và xác thực.
Trong ngày lễ Hiển Linh, chúng ta thường gợi nhắc rằng: Tất cả chúng ta theo ngôi sao đã dẫn HiểnLinh ABCđến thờ kính Chúa Hài Đồng. Hôm nay tôi đề nghị là chúng ta theo một ngôi sao trên trời, và ngôi sao đó sẽ dẫn chúng ta đến máng cỏ Chúa Hài Đồng. Ban đêm đầy sao trên trời, bạn hãy nhìn lên và chọn lấy một ngôi sao, bất cứ ngôi sao nào, dù nó nhỏ bé. Nếu nó đang lấp lánh thì càng tốt.
Ai đã trưng bày những viên kim cương nhỏ bé lên tấm nhung xanh tuyệt vời đó? Một Thượng Trí quyền năng phải không? Bạn hãy gọi Đấng này hay quyền năng này như bạn muốn. Còn chúng tôi, chúng tôi gọi Ngài là Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa tạo dựng hàng tỉ kim cương lấp lánh. Thiên Chúa tạo dựng ngôi sao chúng ta đang nhìn thấy. Thiên chúa gởi con của Ngài đến cứu độ chúng ta. Ngôi sao đó, hay bất cứ ngôi sao nào, có thể dẫn chúng ta đi tìm con của Ngài. Ước gì ngôi sao ấy, hay bất cứ ngôi sao nào, dẫn chúng ta tới bàn thờ này, dẫn chúng ta lên Rước lễ, dẫn chúng ta mang của lễ của việc phục vụ và tình yêu chúng ta dành cho Đấng Cứu Thế nhỏ bé sinh ra ở đây trong mỗi thánh lễ.
- Bài đọc I: "Hỡi Giêrusalem hãy tỏa sáng, các dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi."
- Đáp ca: "Lạy Chúa, các dân nước sẽ ca ngợi Ngài."
- Tin Mừng: "Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Ngài ở phương Đông và chúng tôi đến để triều bái Ngài."
- Bài đọc II: "Nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Ngài trong Chúa Giêsu Kitô."
Minh họa
- Hình: Mille images 41 C
- Câu Thánh Kinh: "Khi Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem, có mấy đạo sĩ từ Phương đông đến bái lạy Ngài" (Mt 2,1-2)
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Chúa Giêsu là ánh sáng. Trong dịp lễ Giáng sinh, Ngài đã chiếu sáng các nhà thờ và các gia: HiểnLinh ABC25
Chúa Giêsu là ánh sáng. Trong dịp lễ Giáng sinh, Ngài đã chiếu sáng các nhà thờ và các gia đình tín hữu. Nhưng Ngài còn muốn là ánh sáng cho tất cả mọi người nữa.
Ngày hôm nay chúng ta mừng lễ Hiển linh, kỷ niệm việc ngày xưa Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho các đạo sĩ, đại diện cho lương dân. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người ngoài Kitô giáo cũng nhận được ánh sáng Chúa; và cho chính chúng ta ý thức bổn phận mang ánh sáng Chúa đến cho mọi người.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng ta có tội vì quá thờ ơ với việc mang ánh sáng Tin Mừng đến cho lương dân.
- Chúng ta có tội vì cộng đoàn xứ đạo chúng ta không nêu gương sáng trước mặt mọi người.
- Chúng ta có tội vì không quan tâm tìm ý Chúa qua những đấu chỉ hằng ngày.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Is 60,1-6
Mặc dù đang sống trong chốn lưu dày, ngôn sứ Isaia đã mơ tới ngày hồi hương. Khi đó Giêrusalem sẽ được tái thiết lại huy hoàng và là nơi thu hút muôn dân tuôn đến:
- Trong khi cả trái đất ngập chìm trong tăm tối thì Giêrusalem lại bừng sáng, vì có Chúa là Ánh sáng đang ngự ở đó.
- Bởi thế, muôn dân từ khắp nơi sẽ tuốn về ánh sáng của Giêrusalem.
Trên thực tế, dân do thái đã được hồi hương và Giêrusalem đã được tái thiết. Nhưng Giêrusalem đâu có được đúng như Isaia đã mơ. Giấc mơ của Isaia chỉ được thực hiện trọn vẹn nơi Đức Giêsu. Ngài chính là Ánh sáng đến trần gian.
2. Đáp ca: Tv 71
Tv này cầu nguyện cho một vị vua lý tưởng mà trong triều đại ngài hòa bình và công lý ngự trị, mọi người đều hạnh phúc.
Vị vua lý tưởng ấy cũng chính là Chúa Giêsu.
3. Tin Mừng: Mt 2,1-12
Các "đạo sĩ" là những nhà trí thức ở vùng Babylo
n phía Đông xứ Palestine. Do niềm tin có phần mê tín rằng ngôi sao lạ là điềm báo một Đấng cứu tinh đã sinh ra, họ đã đi theo ánh sao và tìm đến với Hài nhi Giêsu.
Nhưng cuộc hành trình của các vị cũng không phải là trơn tru dễ dàng vì có lúc ánh sao biến mất. Nhưng nhờ các vị kiên trì, ánh sao đã xuất hiện lại và cuối cùng các vị đã tìm đến nơi.
Như thế, qua ánh sao lạ, Chúa Hài nhi đã tỏ mình ra cho đại diện lương dân, đang khi các nhà trí thức do thái ở Giêrusalem tuy thông thạo Thánh Kinh nhưng đã không nhận ra Chúa.
4. Bài đọc II (Êp 3,2-6)
Để thấy được nét độc đáo của đoạn thư này, trước hết chúng ta hãy lưu ý đến tâm thức của người do thái: họ cho rằng dân tộc họ được Thiên Chúa đặc biệt tuyển chọn, cho nên ơn cứu độ là độc quyền của họ.
Thánh Phaolô thì không nghĩ như vậy. Trong thư viết cho dân thành Êphêxô, một "dân ngoại", ngài tiết lộ cho họ biết một "mầu nhiệm", đó là Thiên Chúa đã trao sứ mạng cho ngài đem ân sủng của Tin Mừng phân phát cho tất cả các dân. Nhờ Tin Mừng này, mọi dân tộc đều trở thành "đồng một thân thể" với nhau và với Đức Giêsu Kitô, hơn thế nữa họ trở nên "đồng thừa tự" để hưởng gia tài của Đức Giêsu Kitô và "đồng thông phần" với lời hứa cứu độ của Ngài.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Mặt trời là của ai ? Chúa của ai ?
Chúa Giêsu là Ánh Sáng, ánh sáng huy hoàng hơn cả mặt trời.
Nếu mặt trời không phải là của riêng ai, thì Chúa Giêsu cũng là của mọi người, mọi dân. Ngài mang ơn cứu độ đến cho muôn dân. "Không ai thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt trên giá để soi cho mọi người".
Bởi thế, ngay sau khi giáng sinh, tỏ mình ra cho những kẻ chăn chiên nghèo hèn, Chúa Giêsu cũng sớm tỏ mình ra cho các đạo sĩ đại diện cho lương dân.
Vì Chúa muốn tỏ mình ra cho muôn dân, cho nên lương dân có quyền được biết Chúa, và những người đã biết Chúa có bổn phận giúp cho lương dân biết Chúa.
Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay dùng một hình ảnh vừa rất đẹp vừa rất hay để dạy chúng ta cách giúp cho người khác biết Chúa, đó là Ánh Sáng:
- Hãy đưa cao Tin Mừng như người ta nâng cao ngọn đuốc sáng để soi chiếu mọi vùng tăm tối.
- Cách sống của những người đã biết Chúa phải là một ngọn đèn sáng gương mẫu cho những người chung quanh. Chúa Giêsu nói: "Sự sáng của chúng con cũng hãy tỏa sáng trước mặt mọi người. Còn Thánh Phaolô thì nói: "Anh em hãy chiếu sáng như những tinh tú trên bầu trời".
2. Hành trình đức tin
Hành trình của các đạo sĩ là hình ảnh minh họa cho hành trình của mọi kẻ tin:
a/ Hành trình khởi đầu bằng một điều gì đó lạ lùng khiến người ta chú ý (thí dụ ánh sao lạ đối với các đạo sĩ). Điều lạ lùng này mời gọi người ta từ bỏ nếp sống đã quen để dấn thân đi tìm một cái gì đó cao hơn, xa hơn, tốt đẹp hơn.
b/ Tiếp theo là những bước thăng trầm trong cuộc hành trình: có khi con đường rất bằng phẳng êm ái, có khi lại quanh co gồ ghề, có lúc ánh sao sáng tỏ trên bầu trời, có lúc nó vụt biến mất.
c/ Nhưng miễn là người ta không nản lòng mà cứ kiên trì dấn bước thì cuối cùng người ta sẽ gặp được Chúa.
Đó là cuộc hành trình của kẻ chưa có đức tin tìm đến với Chúa, mà cũng là cuộc hành trình của kẻ đã tin rồi nhưng muốn đến với Chúa một cách gần gũi thân tình hơn.
3. Lên đường:
Có những người tìm kiếm như các đạo sĩ, lên đường như Abraham. Cũng có những người ngồi một chỗ như Hêrôđê. Muốn biết ư ? Ông đã có các chuyên viên. Muốn tiêu diệt đối phương ư ? Ông có cả ngàn quân lính dưới quyền. Thiên Chúa hướng dẫn những ai muốn tìm Người cách lạ lùng. Người trốn thoát khỏi những kẻ muốn tìm bắt. Người không hung hãn chống lại những kẻ muốn huỷ diệt Người. Người tự xóa mình đi và biến mất.
Người ở đâu, Đức Giêsu ẩn dấu của thời đại ? Trong làng quê heo hút nào, trong gia đình nghèo khó nào có ánh sáng Thiên Chúa mời ta nhận ra Người ? "Ta đói các ngươi đã cho Ta ăn… Thực, Ta bảo các ngươi: mỗi lần các ngươi làm cho một trong những kẻ bé nhỏ nhất là anh em Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta" (Mt 25,35-40). Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng có lời kinh thánh: Ta đã không bị cám dỗ dùng lời Kinh Thánh để át giọng kẻ quấy rầy ư ? Đức Giêsu đâu để cho ta đền bù. Nếu ta muốn nắm lấy Người để được an tâm, Người sẽ thoát khỏi tầm tay ta. Nếu ta chấp nhận lên đường tìm kiếm Người, ta sẽ như các đạo sĩ, được đầy tràn niềm vui và tìm thấy Người (…) Đọc kỹ Kinh Thánh thôi chưa đủ, còn phải để Kinh Thánh gợi hứng cho đời ta, để ta đem ra thực hành, để ta đặt mình dưới sự điều khiển của Kinh Thánh. Các luật sĩ và các thầy thượng tế biết lời sấm lắm chứ. Nhưng họ chỉ biết trưng dẫn thôi… Hêrôđê thì dùng Kinh Thánh để tìm cách giết Hài nhi… Còn các đạo sĩ, bản thân chẳng biết Kinh Thánh, chỉ được Hêrôđê chỉ dẫn, đã lên đường tìm kiếm Đức Giêsu và họ đã gặp Người… (Mgr Lucien Daloz, Le Règne des cieux s’est approché, Trích dịch bởi Fiches dominicales, trang 55-56).
4. Mảnh suy tư
Ánh sáng và bóng tối
Các đạo sĩ đã đi trong bóng tối nhờ tia sáng của một ánh sao dẫn đường.
Các ông đã tìm được Chúa vì không sợ bóng tối nhờ tin vào ánh sáng.
Thực ra, ta chỉ thấy được ánh sáng của ngôi sao khi trời tối
Trời càng tối thì sao càng sáng.
Tất cả chúng ta cũng là những khách lữ hành đi trong đêm tối
Nhưng chúng ta đừng sợ vì Đức Kitô là ánh sáng đã đến trần gian:
- Ánh sáng bừng lên trong đêm tối - Ánh sáng xóa tan tăm tối - Ánh sáng mà không sự tối tăm nào dập tắt được.
5. Chuyện minh họa
a/ Tôn giáo nào có Chúa ?
Ngày nọ, Chúa và tôi đến một hội chợ, không phải hội chợ thương mại, mà là Hội chợ Tôn giáo. Nhưng những người tham dự luôn tỏ ra hung bạo và tuyên truyền ầm ĩ.
Tại quầy hàng của người Do thái, chúng tôi nhận được những tờ quảng cáo nói rằng Chúa là Đấng thương xót và dân Do thái là dân được Ngài tuyển chọn. Ngoài những người Do thái, không ai khác được chọn như họ.
Tại quầy hàng của người Hồi giáo, chúng tôi học biết rằng Chúa đầy lòng khoan dung và Mohammed là ngôn sứ duy nhất của Ngài. Sự cứu độ đến nhờ việc nghe ngôn sứ duy nhất của Chúa.
Tại quầy hàng của người Kitô giáo, chúng tôi khám phá ra Chúa là tình yêu và không có sự cứu độ ở ngoài giáo hội. Hoặc gia nhập giáo hội hoặc phải chịu kết án đời đời.
Trên đường trở ra, tôi hỏi Chúa: "Ngài nghĩ gì về những điều nói về Chúa ?"
Chúa nói: "Ta không tổ chức Hội chợ đó. Ta thấy xấu hổ ngay cả khi đến thăm nó".
b/ Các tôn giáo
Chúa Giêsu nói rằng Ngài chưa bao giờ xem bóng đá. Vì thế, bạn tôi và tôi dẫn Ngài đi xem một trận. Đó là trận đấu gay cấn giữa những người Tin lành và những người Công giáo.
Người Công giáo ghi bàn thắng trước. Chúa Giêsu reo hò và tung mũ lên. Rồi đến người Tin lành ghi bàn thắng, Chúa Giêsu cũng reo hò và tung mũ. Điều này gây khó chịu cho anh thanh niên ngồi sau chúng tôi. Anh vỗ nhẹ lên vai Chúa Giêsu và hỏi: "Này anh bạn tốt, anh ủng hộ bên nào ?"
Lúc này Chúa Giêsu thấy hứng thú vì trận đấu, Ngài trả lời: "Tôi hả ? Ồ, Tôi không đứng về bên nào. Tôi chỉ thưởng thức trận đấu".
Anh quay sang người bạn bên cạnh, nhếch mép cười: "Hừ, kẻ vô thần".
Trên đường trở về, chúng tôi cho Chúa Giêsu biết về tình trạng các tôn giáo trên thế giới ngày nay: "Chúa ạ, thật buồn cười về những người trong các tôn giáo. Dường như họ luôn nghĩ rằng Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại những người khác".
Chúa Giêsu đồng ý: "Đó là lý do tại sao Ta không ủng hộ các tôn giáo. Ta ủng hộ con người. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sabát".
Một trong chúng tôi nói với vẻ lo lắng: "Ngài phải thận trọng. Ngài biết, Ngài đã một lần bị đóng đinh vì nói như thế".
LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
CT: Anh chị em thân mến
Thiên Chúa yêu thương và muốn cứu độ hết thảy mọi người. Người đã dùng ngôi sao hướng dẫn muôn dân đến gặp gỡ Đấng Cứu Thế. Với tâm tình cảm tạ tri ân Thiên Chúa là Cha nhân hậu, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1- Chúa là Vua lãnh đạo muôn dân / Người đã mời gọi các hiền sĩ / là những người ngoại giáo đầu tiên đến thờ lạy Người tại Bêlem / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi người trong Hội Thánh / biết tôn thờ và phụng sự Chúa hết lòng.
2- Chúa là Vua công bình chính trực / Người đến giải thoát người nghèo cô thân cô thế / chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người cùng khổ sầu đau / luôn được Chúa thương xót đỡ nâng.
3- Chúa đến làm ánh sáng chiếu soi muôn người / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những người đang tìm Chúa / qua những bóng mờ và hình ảnh / được ánh hào quang của Đức Kitô soi sáng và hướng dẫn / để họ thêm phấn khởi trên đường tìm chân lý.
4- Mỗi tín hữu phải là một ngôi sao dẫn đường cho người khác tìm về với Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho công đoàn giáo xứ chúng ta / biết dùng đời sống bác ái yêu thương / phục vụ khiêm tốn / mà giới thiệu Chúa cho những anh chị em chưa nhận biết Chúa.
CT: Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã sai chúng con mang sứ điệp Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Xin cho đời sống thường ngày của chúng con thể hiện một cách trung thực tình yêu bao la của Chúa đối với nhân loại. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. TRONG THÁNH LỄ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúa Giêsu đã tỏ mình ra cho lương dân vì Ngài muốn quy tụ tất cả mọi người trong Nước của Ngài. Chúng ta hãy cùng với Ngài thiết tha cầu xin cho Nước Chúa mau trị đến.
VII. GIẢI TÁN
Ngày xưa Chúa đã dùng ánh sao lạ dẫn đường các đạo sĩ đến với Ngài. Ngày nay Ngài muốn dùng mỗi người chúng ta như một ánh sao lạ dẫn đường cho anh em lương dân đến với Ngài. Rồi nhà thờ trở về với cuộc sống, chúng ta hãy sống như một ánh sao trước mặt mọi người. Chúc anh chị em bình an.
Chuyện minh hoạ:
Tặng phẩm chúa mong đợi
Một đêm giáng sinh nọ, Thánh Giêrônimô đang quỳ bên máng cỏ để suy niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người thì bỗng Chúa Hài Đồng hiện ra trong vầng sáng chói loà. Ngài hỏi thánh nhân:
- Giêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày Ta giáng sinh không ? - Lạy Chúa Hài Đồng, thánh nhân đáp, con xin dâng Chúa trái tim của con. - Được lắm, nhưng còn gì khác nữa không ? - Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và tất cả những gì con có thể. - Con còn điều gì khác nữa không ? - Con có điều gì khác để dâng Chúa nữa đâu. Thánh nhân khẩn khoản thưa.
Chúa Hài Đồng bảo:
- Này Giêrônimô, hãy dâng cho ta cả những tội lỗi của con nữa. - Ô lạy Chúa, Thánh nhân hốt hoảng hỏi lại, làm sao con dâng cho Chúa tội lỗi của con được ? - Được chứ ! Ta muốn con dâng cho Ta tội lỗi của con để Ta có thể tha thứ cho con. Đó là điều Ta rất mong đợi.
Nghe thế, thánh nhân bật khóc vì sung sướng. (Trích ”Món quà giáng sinh”)
Câu chuyện các nhà đạo sĩ đi thờ lạy Chúa vừa hay vừa dễ hiểu; nhưng không phải vì vậy mà: HiểnLinh ABC26
Câu chuyện các nhà đạo sĩ đi thờ lạy Chúa vừa hay vừa dễ hiểu; nhưng không phải vì vậy mà hôm nay là LỄ BA VUA, cho dù chúng ta có muốn đồng hóa các đạo sĩ với ba vua. Phúc âm không nói rõ con số người đi thờ lạy Chúa và nhất là những người ấy không nhất thiết phải là vua. Có lẽ họ là những nhà chiêm tinh. Nhưng vì bài Tin Mừng kể họ dâng 3 thứ lễ vật, nên người ta đã muốn có mỗi người mang một thứ (?). Và khung cảnh câu chuyện một phần đã xảy ra trong đền vua, nên dân chúng dễ coi họ là vua. Hơn nữa Thánh vịnh 72 nói đến các vua Tarsis, Ảrập và Saba đến dâng lễ vật cho Chúa, lại thêm một cớ cho người ta khẳng định các người đến thờ lạy Chúa trong câu chuyện hôm nay là các vua.
Dù sao, nếu hiểu lễ hôm nay là lễ kính nhớ câu chuyện các vua đi thờ lạy Chúa, thì không đúng tí nào. Ngày từ đầu, Phụng vụ đã gọi tên ngày lễ hôm nay là HIỂN LINH, tức là Chúa vinh hiển hiện ra, tỏ mình cho chúng ta, mà việc soi sáng cho lương dân đến thờ lạy chỉ là một diện, mặc dầu là diện quan trọng hơn cả. Như vậy Chúa đã hiển linh khi giáng sinh, để cho người ta thấy Người nơi máng cỏ; Người đã hiển linh cho các mục đồng và Người cũng đã hiển linh trong ngày chịu cắt bì và nhận Tên là Yêsu. Nhưng hôm nay Phụng vụ nhấn mạnh đến việc Người tỏ mình ra cho lương dân. Mà vì Giáo hội gồm hầu hết các dân tộc trước kia là lương dân, nên Giáo hội mừng lễ này thật lớn, vì thấy Chúa thương yêu mình quá đỗi.
A. Hạnh phúc của Dân Chúa
Hai bài đọc Kinh thánh đầu tiên nói lên hạnh phúc của Dân Chúa. Isaia say sưa nhìn ngắm vinh quang của Yêrusalem. Đang khi các dân tộc chìm đắm trong u tối, một mình Yêrusalem nổi lên rực sáng. Không phải tự sức mình, nhưng đó là ánh sáng của Chúa chiếu soi, vinh quang của Người toả xuống. Các dân tộc kéo nhau về Yêrusalem: nào thuyền bè từ đại dương, nào lạc đà từ sa mạc, chở muôn dân đến thờ lạy Chúa.
Isaia có bao giờ nhìn thấy một cảnh tượng tưng bừng như thế không? Lịch sử Israel được mấy lúc như thời Salomon, mà vua bà Saba nghe tiếng đã tìm tới? Chắc chắn Isaia đã tiên báo về thời cứu thế. Những lời tiên tri của ông sẽ chỉ thực hiện hoàn toàn khi, như lời Chúa nói: người phương Đông phương Tây sẽ tuôn vào Nhà Chúa, trong khi con cái trong nhà sẽ bị đuổi ra ngoài. Chỉ trong ngày Chúa quang lâm mới thực hiện hoàn toàn những lời tiên tri trên.
Nhưng hiện nay đã khởi sự thực hiện rồi! Ngôi sao đã đứng lại trên nhà Hài Nhi ở; Yêrusalem bừng sáng chính là con người Đức Kitô mà các đạo sĩ đến thờ lạy; và việc muôn dân ngày nay gia nhập Giáo Hội để thờ lạy Chúa làm chứng Hội thánh là Yêrusalem mới; mỗi giáo đoàn, mỗi nhà thờ, mỗi người tín hữu - đền thờ của Chúa - là một Yêrusalem được rực sáng nhờ mang trong mình sự thánh thiện của Chúa. Đó là ân sủng đã được ban phát cho ta, như lời thư Phaolô nói; và là mạc khải đặc biệt của Tân ước.
Như vậy, khi nói đến hạnh phúc của Dân Chúa, phải nghĩ đến vinh dự của người dân tín hữu của hết thảy chúng ta, để mỗi người cảm mến hồng ân của Chúa đã đoái thương chọn mình làm nơi cho Người hiển linh. Từ ngày chịu phép Rửa tội, mọi tín hữu đã được trao cây nến cháy để trở thành ánh sáng của Chúa giữa thế gian, để nên Yêrusalem rực sáng trước mắt tiên tri Isaia. Hôm nay chúng ta hãy nhận ra vinh quang của mình, tức vinh quang của Chúa sáng trên ta, để chúng ta sáng lên trước mắt mọi người.
Nhưng đặc biệt chúng ta phải nghĩ đến Hội thánh, đến các Giáo hội và giáo đoàn. Chúng ta cầu xin, phải xây dựng để mọi cộng đoàn Kitô giáo làm tròn sứ mệnh của mình; trở nên các Yêrusalem rực sáng cho mọi người mang lễ vật đến thờ lạy Chúa, kết hợp mọi dân vào gia nghiệp Lời Hứa. Và cho được như vậy, cho được có những Giáo hội bừng sáng, phải có những đạo sĩ đi thờ lạy, phải có chúng ta nối tiếp truyền thống các đạo sĩ. Và vì thế phải suy nghĩ câu chuyện Tin mừng hôm nay.
B. Các Đạo sĩ đi thờ lạy Chúa
Các bài tường thuật trong Phúc âm thường vắn tắt, không thỏa mãn mọi thắc mắc vụn vặt của ta. Các đạo sĩ kia từ bên Đông tới nhưng thuộc nước nào? Hêrôđê đã cặn kẽ hỏi họ về thời gian ngôi sao đã hiện ra khi nào, nhưng thánh Matthêô không ghi lại câu trả lời. Và nhất là làm sao họ đã nhận ra ngôi sao lạ đó, biết ngay là dấu chỉ một vua Dothái mới sinh ra, và vì sao lại phải thờ lạy vua đó? Thánh Matthêô dường như không để ý đến những chi tiết chúng ta vừa nêu lên. Ngài chỉ khẳng định một điều: các đạo sĩ tin chắc chắn Hài Nhi mới sinh là Vua và là Chúa, tức là Chúa Cứu thế mà muôn dân trông đợi. Thế nên họ đã mang theo vàng, nhũ hương và mộc dược làm lễ vật. Đó là những sản phẩm quý giá của miền Ảrập, dùng trong đền vua. Mà ở Đông phương, vua cũng là chúa nên đền vua sơn son thiếp vàng thường phảng phất mùi hương. Và mộc dược được dùng trong việc ướp hoặc liệm xác các hoàng đế.
Các đạo sĩ tin như vậy chỉ vì một ánh sao, đang khi các tư tế và luật sĩ Dothái có sách Thanh và thuộc Thánh kinh lại không nhận ra Chúa vừa Giáng sinh. Đó là điều thánh Matthêô muốn nhấn mạnh trong bài tường thuật này, với một cảm tình chua chát trong lòng. Ngài như muốn phác họa trước câu chuyện tử nạn của Chúa ở đây. Hêrôđê đóng vi chính quyền sẽ ra lệnh giết Chúa, nhưng chính hàng tư tế và luật sĩ sẽ cung cấp cho ông tài liệu để thi hành tội ác kia. Trong khi đó, lương dân được Ơn Chúa soi sáng, đã nhận biết Chúa và thờ lạy Người. Các đạo sĩ ở đây tiêu biểu cho họ. Các ông diễn tả khuôn mặt đức tin của những người được Chúa kêu gọi và soi sáng. Thấy ánh sao, các ông đã bỏ hết mọi suy nghĩ cũ kỹ, từ giã mọi sự để lên đường hân hoan và đơn thật đến nỗi dường như không đoán biết ý đồ đen tối của Hêrôđê, cũng như không ngần ngại sấp mình thờ lạy một Hài Nhi mà bề ngoài xem ra chẳng có gì khác thường.
Chúng ta có thể bắt chước niềm tin như vậy không?
C. Nếp sống đức tin
Không những chúng ta có thể mà còn phải bắt chước niềm tin của các đạo sĩ, vì mục tiêu của ngày lễ hôm nay là vậy. Chúng ta chỉ cần từ bỏ thái độ của hàng tư tế và luật sĩ Dothái là có thể theo chân các đạo sĩ. Thật ra, nếu không cẩn thận, chúng ta luôn sống như các tư tế và luật sĩ Dothái. Như họ, chúng ta có Thánh kinh ở trong tay; chúng ta thuộc giáo lý của Chúa nữa; ai hỏi chúng ta tư tưởng đạo đức nào, chúng ta có thể trả lời ngay. Nhưng chúng ta chẳng bao giờ thực hành, chẳng muốn sống theo Lời Chúa dạy bảo. Chúng ta chỉ muốn quên các đòi hỏi của Tin Mừng để sống theo bản năng, dục vọng; cố gắng hưởng đời theo các phương tiện ích kỷ. Chúng ta mất rồi lòng nhiệt thành của hồi được Chúa soi sáng, như khi Rước lễ lần đầu, chịu phép Thêm sức, hoặc Hôn phối, tĩnh tâm và được những ơn đặc biệt. Những hồi ấy, chúng ta đã quên mình, chỉ nhiệt thành mến Chúa và muốn cứu giúp các linh hồn, dấn thân xây dựng Giáo hội và xã hội theo công bình bác ái. Thái độ nhiệt thành của những người mới theo đạo nhắc lại cho ta nhớ tâm tình và nếp sống của mình trong những hồi sốt sắng kia. Và chắc chắn chúng ta phải công nhận con người chúng ta lúc đó thật rực sáng, khác nào Yêrusalem được bừng sáng dưới vinh quang của Chúa.
Xã hội mới đang thúc giục ta từ bỏ con người và nếp sống cũ kỹ. Giáo hội Việt Nam đang muốn vươn lên trong giai đoạn mới. Phụng vụ Thánh Thể luôn luôn đưa chúng ta vào mầu nhiệm Phục sinh, tức là sống lại, sống mới. Mỗi Thánh lễ là một cuộc hiển linh của Chúa. Ở đây, hương nến đang mời chúng ta đến thờ lạy Chúa. Phụng vụ của chúng ta sẽ chân thật, khi bắt chước các đạo sĩ, hôm nay chúng ta ra về “bằng con đường khác”, tức là vào đời với thái độ mới, nhiệt thành xóa bỏ cái cũ, xây dựng cái mới để như lời thư Êphêsô: mọi dân, mọi người được đồng kế thừa, đồng tham dự, đồng chia sẻ Lời Hứa của Thiên Chúa nhờ Tin Mừng cứu độ của Đức YÊSU KITÔ. ---------------------------------
Đức Giêsu, vua dân Do thái được những người ngoại đạo từ xa tìm đến bái lạy trong khi chính: HiểnLinh ABC27
Đức Giêsu, vua dân Do thái được những người ngoại đạo từ xa tìm đến bái lạy trong khi chính vua Hêrôđê lại tìm cách thủ tiêu. Ông và cả thành Giêrusalem sôi động do tin về ông vua của người Do thái mới sinh ra. Những nhà thông thái của thủ đô tra cứu Kinh Thánh và biết rõ nơi ông vua này chào đời, nhưng họ chẳng hề nhúc nhích tìm đến, dầu chỉ để thỏa mãn tính tò mò. Đó là tóm tắt bản bi kịch ở tâm điểm của Tin Mừng Matthêu: Đức Giêsu bị người đồng hương từ khước và tầy chay. Họ từ chối đón nhận Nước Thiên Chúa như Đức Giêsu giới thiệu , chủ yếu vì Nước đó được mở rộng cho cả dân ngoại gia nhập.
Quả thật, Nước Thiên Chúa mà Đức Giêsu đến thiết lập vượt hẳn tầm nhìn và hy vọng của dân Do thái. Họ vẫn nghĩ rằng người ngoại đạo nếu muốn gia nhập Nước Thiên Chúa cũng được nhưng phải giữ đạo như người Do thái và phải thờ phượng Chúa tại Giêrusalem, chứ không thờ phượng Chúa ở nơi nào khác.
Sự kiện Đức Giêsu sinh ra tại Bêlem (c.1) đã được lịch sử minh chứng. Riêng bài Tin Mừng hôm nay cho phép ta định vị cuộc sinh ra ấy xảy ra trước khi vua Hêrôđê Cả băng hà năm 4 trước công nguyên (lẽ ra Đức Giêsu sinh ra vào năm 1 công nguyên mới đúng, nhưng đã xảy ra một sự tính lầm tới ít là bốn năm.)
Tin Mừng Matthêu nêu câu hỏi quan trọng: “Vua của người Do Thái mới sinh ra ở đâu?“ Cũng câu hỏi ấy được đặt lại trước toà án tổng trấn Philatô (Ga 18,33-37) nơi Đức Giêsu khẳng định Nước tôi không thuộc về thế gian này (c.36). Đó là điều các thượng tế từ khước cách quyết liệt khi đáp: “Chúng tôi không có vua nào cả, ngoài Xêdarê” (Ga 19,15). Nhưng Philatô còn quyết liệt hơn khi cho treo trên thập giá Đức Giêsu, tấm bảng viết bằng tiếng Hipri, La tinh và Hy lạp, để ai qua lại cũng đọc được nội dung là Giêsu Nadarét, Vua dân Do Thái (cc.19-20).
Nhưng bảng INRI của Philatô chẳng phải là lời tuyên tín. Đó là lời buộc tội cho thấy lý do tại sao Đức Giêsu chịu đóng đinh trên thập tự.
Trong cả thành Giêrusalem duy một mình Hêrôđê quan tâm về con trẻ mới sinh tại Bêlem, nhưng sự quan tâm ấy lại là lý do cho cuộc chạy tị nạn Ai cập của Thánh Gia Thất Đức Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse (Mt 2,13-15). Đó cũng là lý do của cuộc tàn sát kinh hoàng tất cả các trẻ em từ hai tuổi trở xuống, tại Bêlem và vùng phụ cận.
Trong bối cảnh đó của Tin Mừng, ta thấy xuất hiện những con người bí nhiệm từ phương Đông (Mt 2,1). Họ là ai? Đó là những nhà đạo sĩ từ Ba Tư hoặc một nước nào khác bên phương Đông. Tin Mừng Matthêu không xác định ho là những ông vua, cũng không nêu số người của phái đoàn.
Điều quan trọng là họ chẳng phải là người Do Thái mà lại biết được nguồn tin mật mà triều đình vua Hêrôđê không biết. Tin ấy tất cả giới lãnh đạo và trí thức của toàn dân họp lại để nghiên cứu mới có thể trả lời được cho nhà vua (cc.3-6). Hậu quả là cuộc tị nạn của thánh gia và cuộc tàn sát dã man các thánh anh hài tại Bêlem như đã nói trên. Tất cả chỉ vì nhà vua sợ mất ngai vàng.
Nhờ được chỉ dẫn đích xác hướng tới Bêlem, những con người bí nhiệm kia lại lên đường. Và lạ lùng cách những người ấy được dẫn tới Bêlem cũng bí nhiệm, bởi lẽ ngôi sao họ thấy ở phương Đông lại xuất hiện. Điều được ám chỉ là sự hiện hữu của ánh sao dẫn đưa họ. Ánh sao ấy đã tắt lịm đi khi họ đi tìm chỉ dẫn nơi những nhà thông thái và quyền thế tại Giêrusalem. Giả như họ không dừng lại ở Giêrusalem, ánh sao đã dẫn đưa họ tới đích lâu rồi. Nhưng chỉ dẫn của Kinh Thánh tự nó vẫn có giá trị. Nó nối kết biến cố ông vua chào đời tại Bêlem với toàn bộ lịch sử cứu độ được viên mãn nơi Đức Giêsu.
Lễ vật dâng tiến Hài Nhi là những sản phẩm quý từ Arabia. Các đạo sĩ phủ phục trước Hài Nhi Giêsu với những lễ vật đó, cho thấy ứng nghiệm lời loan báo (Tv 72) về vị vương quân cứu tinh trong tương lai, chính là Đức Giêsu. Ngôn sứ Isaia cũng đã loan báo rằng các dân nước sẽ mang lễ vật từ Arabia là vàng, nhũ hương, đến làm vang lên những lời chúc tụng Giavê. (x.Is 60,6).
Khỏi mặt đất
Vậy bài Tin Mừng Matthêu không những cho thấy Đức Giêsu là ông vua Mêsia, thuộc dòng tộc Đavít (c.2) mà còn cho thấy dân ngoại tuốn đến bái lạy Người. Điều đó khác với Tin Mừng Luca (chương 2) nơi chỉ thấy có người Do thái là các mục đồng của Bêlem tới kính chào Hài Nhi mới sinh ra. Sự xuất hiện của các đạo sĩ phương Đông (Mt 2,1) loan báo về điều sẽ xảy ra khi Đức Giêsu còn sinh thời, nhưng nhất là sau đó nơi Giáo Hội sơ khai và sau này. Người Do thái sẽ dửng dưng hoặc thù địch với Đức Giêsu, trong khi dân ngoại đông đảo sẽ đón nhận Tin Mừng Người công bố về Nước Thiên Chúa.
Khi còn sinh thời, Đức Giêsu đã có những người Hy lạp không phải gốc Do thái tìm đến với Người (Ga 12,20). Đó là cơ hội để Người tiên báo “một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32). Đức Giêsu có ý ám chỉ về nỗi chết của Người trên thập giá (x.Ga 12,33). Nỗi chết ấy là dấu chỉ của tình yêu cao cả vì “không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Đó là tình yêu có sức mạnh vô song để lôi kéo mọi người về cùng đích nhờ Đức Giêsu Kitô: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).
Tin vào Đức Giêsu là đặt mình để cho tình yêu cao cả của Ngài dẫn đưa. Như xưa các nhà đạo sĩ đã để cho ánh sao từ trời cao dẫn đường, thì nay muôn dân cũng cần để cho tình yêu xả kỷ của Đức Giêsu cuốn hút vào Nước của Thiên Chúa. Chính Ngài lãnh đạo họ bằng con đường thập giá đưa tới vinh quang. Đó là điều đã được loan báo tại Bêlem với cuộc chạy tị nạn sang Ai cập, nhất là được nói rõ hơn nữa khi những người Hy lạp không phải gốc Do thái ngỏ ý muốn được gặp Đức Giêsu. Đó là lúc Ngài tuyên bố: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo và lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,23-24).
Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi (Ga 12,33)
Chính từ nỗi chết tự nguyện của Đức Giêsu trên thập giá, nên mới có Phục Sinh và có lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống với khoảng ba ngàn người chịu phép rửa nhờ đón nhận Lời Tin Mừng được công bố do tông đồ Phêrô.
Sau hai mươi thế kỷ, lễ Hiện Xuống 1998 được tổ chức tại Roma cuối tháng 5/1998 do vị kế nhiệm thứ 263 của thánh Phêrô. Lần này riêng người Công giáo đã có cả tỷ người tin vào Đức Kitô. Lễ Hiện Xuống 1998 được tổ chức do ý muốn của Đức Gioan Phaolô II để quy tụ những phong trào và những cộng đoàn của Giáo hội khắp nơi trên thế giới. Con số của các tập thể vừa nói có mặt là 56 với 280,000 thành viên đại biểu. Mỗi tập thể là một bó đuốc rực sáng của đặc sủng qua đó Chúa Thánh Linh đang cuốn hút hàng triệu người muôn nước dấn thân đáp lại tình yêu của Đấng hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu. Sau đây là một số Phong Trào đã có mặt trong lễ Hiện Xuống 1998:
Phong Trào Tân Tòng (Neocatechumenal Way) được Giáo Hội nhìn nhận năm 1990, hoạt động tại 150 quốc gia với 15,000 cộng đoàn trong 800 giáo phận tại 5,000 giáo xứ, góp phần mở 35 chủng viện để đào tạo các thừa sai truyền giáo.
Phong Trào Hội Học Kitô giáo Cursillo với 4 triệu thành viên trên thế giới.
Phong Trào Con Tàu Đức Tin và Ánh Sáng (L'Arche) gồm 105 cộng đoàn tại 25 quốc gia, là cơ sở tình thương bảo vệ phẩm giá của những người tàn tật và bệnh tâm thần. Tại Ấn Độ và Trung Đông người Kitô hữu chung sống với anh em Hồi giáo và Ấn giáo.
Phong Trào Tổ Ấm Focolare gồm 2 triệu thành viên ở những cấp độ khác nhau và nhiều triệu cảm tình viên, chủ trương trở nên tình yêu để chiếu toả tình yêu.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn nghĩ gì về sự kiện dân ngoại tìm đến bái lạy Đức Giêsu sinh tại Bêlem, trong khi dân Do thái đồng hương của Ngài lại tỏ thái độ dửng dưng hoặc thù địch? Sự kiện ấy còn kéo dài chăng? Nó có là cản trở cho đức tin của bạn đối với Đức Giêsu chăng?
2. Nhưng hãy coi ngôi sao đã dẫn đường cho các đạo sĩ tới tận nơi Đức Giêsu sinh ra. Chính bạn nghiệm thấy bạn được Chúa Thánh Linh dẫn đường như thế nào để nhận ra Đức Giêsu là Đấng cứu bạn khỏi cảnh diệt vong?
3. Bạn nghĩ gì về lời Đức Giêsu tuyên bố: “Khi nào được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” Ga 12,33)?
Sáng ngày 26 tháng 11 năm 1994, đông đảo giáo dân của địc phận Paterson thuộc tiểu bang New: HiểnLinh ABC28
Sáng ngày 26 tháng 11 năm 1994, đông đảo giáo dân của địa phận Paterson thuộc tiểu bang New Jersey đã vui mừng sung sướng và bồi hồi chứng kiến biến cố có một không hai trong lịch sử Giáo hội: lễ truyền chức linh mục cho một thầy mù, Michael Joly.
Số là sau lần giải phẩu bướu não khẩn cấp lúc 5 tuổi, thần kinh thị giác của bé Michael đã bị hư hại nặng nề. Thế giới Michael dần dần bị một bức màn đen bao phủ. Cuối cùng, bé bị mù cả hai mắt.
Thế nhưng, từ trong bức màn đen tăm tối đó đã bừng lên một ước mơ. Michael mơ ước được trở thành linh mục để minh chứng cho tình yêu Thiên Chúa dành cho con người. Thế nhưng mơ ước là một chuyện, còn thực hiện ước mơ lại là chuyện khác.
Đối với người bình thường, quan sát một biến cố, phân tích một sự kiện, đoán định chính xác một vấn đề đã không phải dễ dàng chi, đàng này anh Michael lại là một con người mù loà. Thành ra mộng ước của anh quả là táo bạo và xa vời, nếu không nói là chẳng thực tế chút nào.
Thế nhưng với ý chí sắt đá cộng với ơn Chúa chan hoà, anh Michael đã đấu tranh để lướt thắng bao thử thách chông gai trên con đường thực hiện ước mộng làm linh mục kia. Michael tâm sự thế này: "Khó khăn lớn nhất của tôi là việc đọc các sách triết và thần học." Mù thì đọc sách sao được!
Nhưng rồi với sự kiên nhẫn tìm tòi, anh đã phát hiện rằng computer có khả năng ghi nhận tất cả các chữ trong một cuốn sách qua máy scanner, rồi cũng chính computer sẽ đọc chúng lớn tiếng qua bộ phận chuyển âm. Và thế là anh Michael đã không bỏ lỡ cơ hội để biến ước mơ thánh thiện của mình thành hiện thực. Kết quả, anh học xong chương trình triết học và thần học và được phong chức linh mục, phục vụ Giáo hội tại địa phận Paterson.
Lùi về quá khứ cách đây 2000 năm, trên thế gian cũng từng xuất hiện những con người ôm ấp bao mộng ước thánh thiện. Họ đã cất công vượt bao gian nan để đạt đến đích cùng. Đó là ba nhà đạo sĩ hay còn được gọi là ba vua.
Mơ ước của họ là được thấy Đức Kitô, "Vua dân Do thái." HiểnLinh ABCđược biết đến như ba chiêm tinh gia, những người chuyên nhìn ngắm sao trời để đoán biết những biến chuyển của thế giới và con người. Thế nên khi vừa phát hiện một ngôi sao lạ và biết ngôi sao ấy báo hiệu một Đấng Cứu Thế vừa mới sinh ra cho nhân loại, tức thì ba ông lên đường. Họ ra đi với mục đích và khát mong duy nhất: tìm gặp Đấng Cứu Thế mới hạ sinh.
Mơ ước là thế, nhưng đạt được ước mơ lại là chuyện khác. Họ phải băng qua nhiều đồi, vượt qua nhiều núi, lại còn phải tiến vào vùng sa mạc hoang dại Trung Đông với khí hậu khắc nghiệt: ngày nóng cháy da, đêm lạnh thấu xương.
Địa đã bất lợi mà thiên cũng chẳng thời. Dưới đất bao khó khăn trắc trở mà trên trời còn như muốn gây thêm gian nan để thử lòng người. Ấy là có một ngôi sao dẫn lối thì nay lại biến mất. Mất sao dẫn đường thì có khác chi người đang sáng bỗng dưng bị mù. Thế nhưng, dù gặp bao gian nan, dù thiên không thời địa không lợi, dù hoang mang trắc trở vì lạc mất sao, ba nhà đạo sĩ vẫn quyết tâm thực hiện ước mơ. Họ vẫn tìm kiếm hỏi han. Câu hỏi "Vua dân Do thái mới sinh ra hiện đang ở đâu?" đã bộc bạch trọn niềm khao khát được thấy Đức Kitô của họ.
Với những ai thành tâm tìm Chúa, Ngài chẳng để thất vọng bao giờ. HiểnLinh ABCthiết tha tìm kiếm Đấng Cứu Thế và Ngài đã chẳng để họ về không. Ngài đã cho ánh sao tái hiện. Ngài làm cho họ "hết sức vui mừng." Ngài tỏ mình ra và họ quì gối bái phục.
Cuối cùng, họ đã đạt được ước mơ.
Thế ra, có những người biết dùng tài năng kiến thức để đi tìm Chúa như ba chiêm tinh gia; có người biết tận dụng khoa học kỹ thuật tân tiến làm ánh sao dẫn lối để đạt đến mộng ước cao cả của đời mình như Michael Joly. Không biết tôi có dùng kiến thức, tài năng, khoa học kỹ thuật trong cuộc sống để tìm gặp Đức Kitô chăng, hay tôi đã dùng bao thứ ấy để làm mù loà tâm hồn và méo mó hướng đi cuộc đời?
Phải chăng, thay vì dùng computer hay TV như những phương tiện học hỏi để biết Chúa hơn và phục vụ Ngài nhiệt thành hơn, tôi lại dùng chúng để tiêu tốn thời gian và tìm xem những điều không nên?
Phải chăng đang khi có những người biết dùng kiến thức và khoa học để truyền đạo, dẫn lối những người u mê đến với Tin mừng Đức Giêsu, tôi lại dùng những thứ đó để làm cho niềm tin và hình ảnh Thiên Chúa nhạt nhoà trong bao tâm hồn?
Có nhiều người đang trên đường tìm kiếm. Song mục tiêu kiếm tìm của họ không phải là Chúa mà là tiền bạc, của cải, danh vọng, xác thịt, đam mê... Phải chăng họ không nhận ra giá trị trường tồn và niềm vui tuyệt đối chính là Chúa; hay đời họ đang mù tối vì thiếu ánh sao soi đường?
Sau 2000 năm kể từ ngày ánh sao lạ xuất hiện, vẫn còn cần lắm những ánh sao đưa đường cho bao tâm hồn lạc lối niềm tin hôm nay. Bạn và tôi đang được mời gọi làm nên những ánh sao giữa thế giới vật chất và sa đoạ này.
Có không ít người vẫn đang thắc mắc: "Vua dân Do thái hiện đang ở đâu?" Thử hỏi tôi có thưa được rằng: "Ngài đang ở trong tất cả ước mơ của đời tôi" chăng?
Phải, như Phụng Vụ Lời Chúa trong Chúa Nhật Thứ Hai sau Lễ Giáng Sinh đã tỏ bầy, và Lời Chúa: HiểnLinh ABC29
Phải, như Phụng Vụ Lời Chúa trong Chúa Nhật Thứ Hai sau Lễ Giáng Sinh đã tỏ bầy, và Lời Chúa trong chính Lễ Hiển Linh này cũng lập lại, đó là "chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người" trước hết phát ra từ dân Do Thái: "Hỡi Gia-Liêm, hãy chỗi dậy trong quang sáng! Ánh sáng của ngươi đã đến, vinh quang của Chúa chiếu tỏa trên ngươi. Kìa, tối tăm bao phủ trái đất, và những đám mây mù đang che lấp các dân' thế nhưng, trên ngươi Chúa đang chiếu sáng và nơi ngươi vinh quang của Ngài xuất hiện. Các dân tộc sẽ bước đi nhờ ánh quang rực rỡ của ngươi" (bài đọc 1).
Lời Thánh Kinh Cựu Ước của dân Do Thái này đã hoàn toàn ứng nghiệm nơi sự việc: "Sau khi Chúa Giêsu được sinh ra ở Bêlem xứ Giuđêa trong triều đại vua Hêrôđê, có các nhà chiêm tinh từ phương đông đến Gia-Liêm" (Phúc Âm). Bởi vì: "Dự án kín mật của Thiên Chúa... đó là trong Chúa Giêsu Kitô, các Dân Ngoại nay cũng được thừa tự với những người Do Thái, họ là những phần thể của cùng một thân thể, và nhờ việc rao giảng Phúc Âm mà họ cũng là các người thừa tự của lời hứa" (bài đọc 2).
"Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta" đã tỏ hiện vinh hiển của Người ra cho Dân Ngoại thấy qua "ngôi sao của Người" (Phúc Âm). Và Dân Ngoại quả thực "đã thấy... nên chúng tôi đến để triều bái Người" (Phúc Âm). Qua "các nhà chiêm tinh từ phương đông", Dân Ngoại đã "tiến vào nhà (tác động biểu hiệu cho việc gia nhập Giáo Hội, nơi Chúa ngự trên thế gian), họ thấy con trẻ với Mẹ Người là Maria" (Phúc Âm).
Thế nhưng, sự kiện Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa bao giờ cũng được Giáo Hội sắp xếp theo ngay sau Lễ Hiển Linh chắc chắn cho thấy hai lễ này phải có gì rất liên hệ với nhau. Bởi vì, hai lễ này có dính dáng với nhau một cách mật thiết, ở chỗ là cả hai đều cho thấy Chúa Kitô Hiển Linh, Người hiển linh trước thành phần Dân Ngoại, tiêu biểu là Ba Vua, và Ngài cũng hiển linh trước Dân Chúa, đại diện là Gioan Tiền Hô, vị đã thú rằng mình đã nhận ra Người khi thấy Thần Linh xuống trên Người (x Jn 1:33).
Theo ý nghĩa Năm Phụng Vụ, Lễ Hiển Linh là thời điểm kết thúc Mùa Giáng Sinh, Mùa Phụng Vụ Giáo Hội cử hành Mầu Nhiệm Thiên Chúa Hóa Thân Làm Người để tỏ mình ra cho chung loài người, chứ không riêng gì Dân Do Thái, vì Ngài đã thực sự mặc lấy bản tính chung của loài người. Tuy nhiên, nhân tính loài người Ngài mặc lấy ấy lại mang huyết tộc Do Thái, một dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn để trực tiếp đón nhận Đấng Cứu Thế Thiên Sai như Ngài hứa ban theo giòng lịch sử của họ. Do đó, theo lịch trình thực hiện Dự Án Cứu Độ của Thiên Chúa, trước hết, Ngài đã tỏ mình cho Dân Do Thái, rồi sau đó, qua họ Ngài mới tỏ mình cho tất cả loài người biết, đúng như lời Ngài hứa với tổ phụ Abraham của họ xưa là “tất cả mọi dân nước sẽ được chúc phúc nơi giòng dõi của ngươi” (Gen 22:18). Theo tôi, nếu “Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý”, như Vị Tông Đồ Dân Ngoại đã xác tín trong Thư Thứ Nhất gửi Timôthêu ở đoạn 2 câu 4, thì việc cử hành mầu nhiệm Thiên Chúa Hóa Thân Làm Người hơn hai ngàn năm trước đây trong Mùa Giáng Sinh hằng năm đúng là phải được kết thúc hay lên đến tuyểt đỉnh ở Lễ Ba Vua, Ngày Lễ Chúa Kitô tỏ mình Hiển Linh cho Dân Ngoại.
Chính vì Thiên Chúa muốn tỏ mình ra cho chung loài người qua Dân Do Thái mà, để mở đầu cho Mùa Thường Niên nói chung, Giáo Hội đã cử hành Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa, tức cử hành việc Chúa Kitô bắt đầu sứ vụ Thiên Sai của mình nơi xã hội Do Thái, cũng là việc Người tỏ mình là Đấng Thiên Sai cho Dân Chúa biết và như họ trông chờ. Đó là lý do tại sao Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo số 528 mới cảm nhận về Lễ HiểnLinh ABCcó liên quan đến vị trí và vai trò của Dân Do Thái như sau: “Biến cố Hiển Linh là việc Chúa Giêsu tỏ mình ra như là một Đấng Thiên Sai của dân Yến Duyên, là Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Tinh của thế giới… Việc các nhà đạo sĩ đến Gialiêm để tôn kính vua dân Do Thái chứng tỏ là họ, theo ánh sáng thiên sai của ngôi sao thuộc giòng tộc Đavít, muốn tìm kiếm nơi dân Yến Duyên một Đấng sẽ làm vua cai trị các dân tộc (x Mt 2:2; Num 24:17-19; Rev 22:16). Việc họ đến với Chúa Giêsu ngụ ý là dân ngoại có thể nhận ra Chúa Giêsu và tôn thờ Người như là Con Thiên Chúa và như là Đấng Cứu Tinh của thế giới, ở chỗ họ chỉ việc hướng về dân Do Thái và lãnh nhận từ nơi dân tộc này lời hứa thiên sai được chất chứa ở trong Cựu Ước (x Jn 4:22; Mt 2:4-6)…”.
Theo tôi nhận định qua mạc khải Phúc Âm, Chúa Kitô bao giờ cũng tỏ mình cho Dân Do Thái như là một Đấng Thiên Sai của họ, cho đến cuối cùng Người cho họ thấy Đấng Thiên Sai ấy chính là Con Thiên Chúa, như Người tỏ mình ra cho Hội Đồng Do Thái biết và vì thế đã bị họ lên án tử (x Mt 26:63-66), còn Dân Ngoại thì Người tỏ mình cho họ thấy như là một Đức Vua, rõ ràng nhất là lúc trước mặt tổng quyền Philatô (x Jn 18:33-37), và quyết liệt nhất là vào lúc Người từ kẻ chết sống lại để sai các tông đồ đi tuyển mộ môn đồ nơi tất cả mọi dân tộc với lời mở đầu: “Thày được toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28:18). Tóm lại, Đấng mà HiểnLinh ABCPhương Đông được thấy chính là Đấng Thiên Sai của Dân Do Thái, Người thực sự là Con của Thiên Chúa cũng là Vua của muôn dân và muôn loài tạo vật vậy.
Tuy nhiên, tại sao các nhà thông thái của Dân Do Thái, căn cứ vào việc truy tầm Sách Thánh, biết được rõ ràng Chúa Kitô thực sự sinh ra ở đâu, “ở Bêlem xứ Giuđêa” (Mt 2:5), và đã tâu lên quận vương Hêrôđê như ông hỏi, nhờ đó HiểnLinh ABCDân Ngoại lạc vào thành Gialiêm bấy giờ mới biết được nơi Chúa Kitô sinh ra để đến triều bái Người, thì tại sao chính dân Do Thái lại không đến với Người, mà HiểnLinh ABCPhương Đông không hề được mạc khải gì về Người trước đó như trường hợp Dân Do Thái lại nhận ra ngôi sao của Người mà đến với Người? Phải chăng thông Thánh Kinh cũng chưa chắc đã nhận ra và gặp được Chúa Kitô, trái lại, chỉ cần có một tầm mức hiểu biết thường thức, như HiểnLinh ABCbiết coi điềm trời là ngôi sao lạ, cộng với thiện tâm, là có thể gặp được Người. Nơi trường hợp HiểnLinh ABCthành tâm này, khoa học dẫn các vị đến đức tin chứ khoa học không phản lại đức tin, như nơi một số khoa học gia ngày nay, hay như phi hành gia người Nga sau chuyến thám hiểm không gian ngay từ đầu khi trở về đã tuyên bố chẳng thấy Thiên Chúa đâu cả!
L ạy Cha chúng con ở trên trời, Cha là "Thiên Chúa đã chọn chúng (con) trong Người (Đức Giêsu Kitô) trước khi thế gian hiện hữu, để (chúng con được) nên thánh hảo và vô tì tích trước nhan (Cha), cho (chúng con) đươc tràn đầy tình yêu" (bài đọc 2 Chúa Nhật Thứ Hai sau Lễ Giáng Sinh) - Xin Cha cho chúng con, như các chiêm gia đông phương, sau khi đã "được nhìn thấy vinh hiển của Người" thì "phục xuống thờ lạy Người. Đoạn mở kho báu của mình ra, dâng cho Người các lễ vật là vàng bạc (biểu hiệu vương quyền tuyệt đối của Người trên tất cả mọi sự), nhũ hương (biểu hiệu thiên chức thượng tế đời đời của Người để làm trung gian duy nhất giữa Cha và loài người), và mộc dược (biểu hiệu hiến tế của Người dâng lên Cha để cứu chuộc loài người)" (Phúc Âm). Ôi, "lạy Chúa, mọi dân tộc trên địa cầu đều thờ lạy Chúa" (đáp ca).
Lễ Hiển Linh có thể gọi là lễ ánh sáng. Từ ngàn xưa Isaia đã loan báo ánh sáng của Chúa sẽ chiếu HiểnLinh ABC30
Lễ Hiển Linh có thể gọi là lễ ánh sáng. Từ ngàn xưa Isaia đã loan báo ánh sáng của Chúa sẽ chiếu tỏa: “Đứng lên, bừng sáng lên, Giêrusalem hỡi, vì ánh sáng của ngươi đến rồi.Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa trên ngươi”.
Bài Tin mừng cho thấy lời tiên tri đã ứng nghiệm. Ngôi sao xuất hiện trên bầu trời soi lối. HiểnLinh ABCtừ phương đông đã tiến về Belem như Isaia đã báo trước: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước”.
Ánh sáng đó chính từ Thiên Chúa phát ra: “Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi”.
Chúa Giêsu đã chiếu lên làn ánh sáng nào để HiểnLinh ABCnhận biết và tuân phục Người? Ba loại lễ vật nói lên ba làn ánh sáng Chúa Giêsu chiếu tỏa.
1. Chúa Giêsu chiếu tỏa làn ánh sáng hi vọng.
HiểnLinh ABCdâng vàng để tôn vinh Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa lại tự hạ làm loài người. Làm một em bé nhỏ sơ sinh, nghèo hèn. Con người cao ngạo muốn làm Thiên Chúa nến đã gieo bóng tối lầm lạc. Khi muốn làm Thiên Chúa, con người trở thành nô lệ cho cao vọng của mình. Khi phủ nhận Thiên Chúa con người lâm vào bế tắc. Khi loại bỏ Thiên Chúa, thế giới không có tương lai. Đó là một bóng tối tuyệt vọng dầy đặc. Để phá tan bóng tối đó, Thiên Chúa làm người chiếu lên ánh sáng hi vọng. Vì khi Thiên Chúa tự hạ làm người thân phận con người thay đổi. Phẩm giá được nâng cao. Được yêu thương kính trọng. Và có một tương lai tươi sáng.
2. Chúa Giêsu chiếu tỏa làn ánh sáng hạnh phúc.
HiểnLinh ABCdâng trầm hương để tôn vinh chức vụ tư tế của Chúa. Chúa Giêsu là tư tế muôn đời. Người không dâng một lễ vật nào đó. Người dâng chính thân mình làm của lễ. Bêlem nghĩa là “nhà bánh”. Sinh trong “nhà bánh”, Chúa Giêsu trở thành tấm bánh nuôi sống con người. Nằm trong máng cỏ, Chúa Giêsu trở thành của ăn của uống nuôi đàn chiên. Thế giới chìm trong bóng tối áp bức. Cá lớn nuốt cá bé. Người mạnh hiếp người yếu. Người ta làm giầu trên người nghèo. Người ta chiếm đoạt của người nghèo. Người ta xây hạnh phúc trên khổ đau của người khác. Khi tự hiến thân mình, Chúa Giêsu chiếu lên ánh sáng hạnh phúc phá tan bóng tối đau khổ. Người chịu nghèo khổ để ta được giầu có. Người trở thành bé nhỏ để ta được tôn vinh. Người chịu đau khổ để ta được hạnh phúc.
3. Chúa Giêsu chiếu tỏa làn ánh sáng sự sống.
HiểnLinh ABCdâng mộc dược để ướp xác Chúa. Đó là tôn vinh Chúa chịu chết cho nhân loại. Nhân loại chìm trong bóng tối chết chóc. Chiến tranh, hận thù, hưởng thụ đã làm tiêu hao bao sinh mạng. Người ta giết người khác để được sống. Giết người để được tự do hưởng thụ. Giết người để bảo vệ địa vị quyền lợi. Đó là thứ bóng tối hủy diệt thế giới. Khi chịu chết cho nhân loại, Chúa Giêsu chiếu lên ánh sáng sự sống phá tan bóng tối chết chóc đang vây phủ thế giới. Chúa chịu chết để xây dựng hòa bình. Chúa chịu chết để nhân loại được sống.
Đó là những làn ánh sáng cứu độ thế giới. Là giải pháp cho một thế giới đang bế tắc. Là ánh sáng cho một nhân loại đang đi trong tăm tối. Là hi vọng cho những ai tuyệt vọng. Là hạnh phúc cho những người đau khổ. Là sự sống hứa hẹn tương lai.
Ngày hôm nay thế giới vẫn chìm trong bóng tối. Vẫn còn những bóng tối lầm lạc, bóng tối áp bức bất công, bóng tối chiến tranh hận thù. Thế giới đang mong chờ những làn ánh sáng từ hang đá Bêlem tiếp tục chiếu tỏa.
Không lạ gì khi Đức Thánh Cha Phanxicô đã được tạp chí Time bầu làm nhân vật của năm 2013. Và mới 9 tháng trong cương vị Giáo hoàng, ngài đã đem đến niềm vui tươi phấn khởi cho Giáo Hội và cho mọi người. Số người đi lễ trên thế giới tăng lên 20%. Số người tín nhiệm và yêu mến Giáo Hội là 85%. Vì Đức Thánh Cha cũng đang tỏa sáng.
Noi gương Chúa Giêsu, ngài đã chiếu lên làn ánh sáng hi vọng khi tự hạ mình xuống. Không xưng mình là Giáo hoàng, nhưng ngài tự xưng mình là Giám mục Rôma. Không ở trong dinh Tông Tòa, nhưng ở trong nhà khách Thánh Mácta. Không để cho người khác khiêng vác, nhưng ngài tự tay mang hành lý.
Ngài đã chiếu lên làn ánh sáng hạnh phúc khi tự hiến thân mình. Dành thời giờ tiếp đón mọi người, đặc biệt những người nghèo khổ bệnh tật. Ngài đi thăm người tị nạn, thăm trại tù, rửa chân cho tù nhân. Ngài sẵn lòng gọi điện thoại thăm hỏi và an ủi những người đau khổ, bất hạnh.
Ngài đã chiếu lên làn ánh sáng sự sống. Chống lại quyết định của tổng thống Obama khi khi cầu nguyện và cổ võ cho hòa bình tại Syria. Lên án các chế độ chính trị kinh tế lấy tiền bạc làm trung tâm bóc lột người nghèo.
Ta hãy noi gương Chúa Giêsu, cùng với Đức Thánh Cha: sống hạ mình, sống tự hiến và sống hi sinh quên mình, để góp phần chiếu tỏa ánh sáng của Chúa. Đó chính là sống tích cực tinh thần Tân Phúc-âm-hóa.
Lạy Chúa Giêsu là ánh sáng trần gian. Xin cho con luôn đi trong ánh sáng của Chúa. Amen.
Không mấy ngạc nhiên là trong thời đại khoa học và lý luận này, người ta đều quan tâm nhiều đến tinh: HiểnLinh ABC31
Không mấy ngạc nhiên là trong thời đại khoa học và lý luận này, người ta đều quan tâm nhiều đến tinh tú, chiêm tinh, tướng số tử vi. Ai nấy đều hài lòng khi đọc thấy trước một điều gì ngoạn mục sắp xẩy đến. Hành trình của ba Đạo sĩ theo ánh sao trời đi qua bao đồi núi sa mạc đã làm xôn xao tâm hồn chúng ta. Chúng ta cảm thấy mình cũng có những vì sao riêng cho mình dõi theo, một con đường riêng mà chỉ một mình chúng ta được kêu gọi dấn bước.
Khi ba vị đạo sĩ tìm thấy Hài Nhi Giêsu, bằng đôi mắt đức tin, các ngài có thể nhận ra qua dáng vẻ bên ngoài của trẻ bé này Ánh Sáng Thiên Chúa đã đến trần gian. Từ đó về sau, các ngài không còn được sao trời dẫn đường nữa, mà là được soi đường dẫn lối bằng chính Ánh Sáng của Hài Nhi ấy, Đấng mà các ngài nhận ra là Đấng Cứu Chuộc Trần Thế. Chúng ta cũng được trao ban đôi mắt đức tin để giúp chúng ta tiếp tục hành trình trong khi chúng ta theo Chúa trên khắp nẻo đường đời, kể cả những khi băng qua những lối mòn hoang vắng của cô đơn, đau đớn thất bại và bệnh tật...
Có một cái gì đó tuyệt đẹp trong câu chuyện Ba Vua. Ba Đạo Sĩ năm xưa đại diện cho tất cả chúng ta trên con đường thiêng liêng kéo dài suốt cuộc đời. Chúng ta đây sẽ là ba đạo sĩ của thời nay, có nhiệm vụ làm cho cả và thế giới nhận biết Đức Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Nhiệm vụ đặc biệt của chúng ta là làm cho mọi người sẵn sàng rộng mở tâm hồn đón tiếp Lời Chúa để có thể nhận ra Chúa Giêsu dọc theo mọi nẻo đường đời. Đức Giêsu cần chúng ta cộng tác để nối dài công trình của Người.
Ba vị đạo sĩ xưa kia đã không đến với Chúa với bàn tay trắng, nhưng mỗi người một món quà đặc tuyển để nói lên lý do mục đích tìm kiếm của các ông. Ngày nay chúng ta cũng không được phép đến với Chúa với bàn tay không. Tuy chúng ta không có vàng, nhũ hương, và mộc dược, nhưng chúng ta có thể dâng cho Người món quà của chính chúng ta là cả nhân loại tháp nhập với Đức Kitô. Dâng hiến bản thân là một món quà quí giá không bao giờ hao mòn.
Hôm nay Giáo Hội mong muốn tất cả chúng ta vui mừng, vì đây là ngày công bố cho cả thế giới rằng Đức Chúa Giêsu đến trần gian để cứu chuộc mọi người, và ảnh hưởng của ơn cứu chuộc ấy không giới hạn vào bất cứ nền văn hoá nào.
Lễ Giáng Sinh đã tạo ra hai cuộc hành trình: một hành trình tới Bêlem, và một hành trình trở về quê nhà bằng con đường khác. Tất cả chúng ta hiện đang trên đường trở về quê trời. Đã một lần tìm đến Bêlem trong đời, chúng ta hy vọng rằng vào cuối cuộc hành trình cuộc đời, chúng ta sẽ lại gặp nhau nhờ Đức Chúa Giêsu và Mẹ Maria.
NS Đức Mẹ Hằng Giúp Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR ---------------------------------
Khi dạy giáo lý cho người lớn, nhất là các đôi bạn chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân, tôi hay hỏi: HiểnLinh ABC32
Khi dạy giáo lý cho người lớn, nhất là các đôi bạn chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân, tôi hay hỏi: "Các bạn yêu nhau lắm phải không? Yêu đến mức lỡ ngày nào không gặp nhau, ta nhớ thương, nhớ tiếc, nhớ da, nhớ diết, nhớ như có ai xé lòng mình, đúng không?". Hầu hết các bạn đều mỉm cười bẻn lẻn. Tôi nói tiếp: "Các bạn yêu nhau lắm, tưởng như người này hòa trộn trong người kia, nhưng người kia nghĩ gì, bạn có biết không?". Tất cả trả lời "không!".
Mỗi người là một huyền nhiệm. Huyền nhiệm này lớn cho đến mức, dẫu là tình yêu lứa đôi, một thứ tình yêu tưởng như nên một trong nhau, vậy mà hai người vẫn cứ là hai thế giới xa nhau diệu vợi.
Càng không lạ gì khi Thiên Chúa luôn luôn là huyền nhiệm của con người.
Lễ Hiển Linh tức là lễ Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại. Đại diện cho dân ngoại là ba nhà đạo sĩ phương Đông. Ba ông nhận ra ánh sao trên bầu trời và vội vã lên đường đi tìm Con Thiên Chúa vừa giáng sinh. Gọi là Thiên Chúa tỏ mình, nhưng sự tỏ mình qua một ánh sao vẫn cho thấy Thiên Chúa là một huyền nhiệm lớn lao vô cùng. Dẫu ngôi sao trên bầu trời có lạ thường đến đâu, có sáng chói đến mức độ nào, thì sự tỏ mình ấy vẫn mù mờ, vẫn xa xăm đối với nhận thức của con người.
Bởi đó, chỉ có ai thao thức tìm kiếm Thiên Chúa, chỉ có trung thành sống đức tin mới có thể nhận ra Thiên Chúa đang tỏ mình với cuộc đời nói chung và cuộc đời của chính mình nói riêng. Thiên Chúa đã tỏ mình, nhưng tự bản chất, Ngài là một huyền nhiệm, nên để nhận ra sự tỏ mình của Thiên Chúa, mãi mãi vẫn cần một điều kiện. Điều kiện đó là lòng thao thức tìm kiếm Thiên Chúa và sống đức tin trung thành. Có như thế, ta mới có thể nhận ra Thiên Chúa hiện diện trong cuộc đời ta dẫu là sướng vui hay hạnh phúc.
Nói đơn giản: Thiên Chúa vẫn đang hiện diện và luôn luôn tỏ mình, chỉ cần bạn thao thức tìm kiếm Ngài và trung thành sống đức tin, bạn sẽ nhận ra Ngài. Ba nhà đạo sĩ đã lên đường tìm kiếm. Bạn cũng sẽ nhận ra Thiên Chúa tỏ mình bằng đời sống đức tin, bằng sự cầu nguyện, bằng tình yêu mà bạn hiến dâng cho Ngài. Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Chúa Nhật Lễ Chúa Hiển Linh -B: The Epiphany of the Lord
Lời Chúa cho hôm nay: CHÚA Ở GIỮA CON NGƯỜI * Manifestation of a God among human beings *
Chúa tỏ hiện trong Đức Giêsu Kitô là Ánh Sáng chiếu vào sự tối tăm của con người: HiểnLinh ABC33
BÀI ĐỌC 1: Isaia 60, 1-6= Chúa tỏ hiện trong Đức Giêsu Kitô là Ánh Sáng chiếu vào sự tối tăm của con người. God manifesting Himself in Jesus Christ is a light shinning in the darkness of the human condition.
BÀI ĐỌC 2: Êph. 3, 2-3; 5-6=Thánh Phaolô cho biết Dân ngoại cùng được thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, là chi thể của thân mình Đức Kitô. Paul stresses that the Gentiles are now co-heirs with the Jews, members of Christ's body.
TIN MỪNG ( Gospel) Math. 2, 1-12=Hiển Linh là tỏ hiện sự vinh quang của Thiên Chúa, Đấng Cứu tinh. Chúng tôi đã thấy ngôi sao ở bên phương đông và chúng tôi tới để thờ lạy Ngài. Epiphany means manifestation the glory of God's Messiah. We have seen His Star in the east, and we have come to adore the Lord.
A. Gợi ý Cảm nghiệm Sống và Chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share)
1/ Những nhà chiêm tinh từ phương đông đã đến hỏi vua Hê-rô-đe: "Đức Vua dân Do Thái mới sinh hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của người xuất hiên nên bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người." Họ là những người ngoại đạo, họ ra sức tìm kiếm Chúa; trong khi nhiều người đã thấy Chúa từ bao năm, nhưng rất rửng rưng.! chứng nào tật ấy? Tôi cần sống thế nào để chứng tỏ mình đã gặp Chúa? Where is the newborn king of the Jews? We observed His star at its rising and have come to pay Him homage. (Mt. 2, 2)
2/ Vua Hê-rô-đê ngoài vui vẻ nhưng trong đầy ác ý dặn: "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cùng đền bái lạy Người." Ngày nay có nhiều người có vẻ ăn nói đạo đức ở nơi công cộng, nhưng ra cuộc sống thực tế họ lại khác hẳn, nham hiểm và tính toán kỹ với anh em, không thấy dấu nào họ có Chúa trong mình.. Bạn đã có những cử chỉ và hành động nào với tha nhân?
Go and get deatailed information about the Child, ...report your findings ... .I may go and offer Him homage. (Mat.2, 8 )
3/ Thánh Phalô khẳng định về Mầu nhiệm Đức Kitô như sau: "Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hê trước được biết; nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mạc khải cho các thánh Tông Đồ và Ngôn sứ của người." Những nhân chứng tiên khởi là các tín hữu đầu tiên, họ đã đón nhận Thánh Thần trong sự hiệp nhất, cầu nguyện và bẻ bánh. Hôm nay tôi đang phục vụ anh em nhờ vào sức mạnh nàọ?
God's secret plan, unknown to men in former ages but now ... by the Spirit to the holy apostles and prophet. (Eph.3,5)
4/ Sách Tiên tri Isaia nói về Chúa Cứu Thế như sau: "Mọi dân tộc sẽ đi về phía Ánh sáng của Người,và các vua Chúa cũng hướng về ánh bình minh của Ngươi." Bạn thấy có hàng triệu triệu người đang tìm đến Lời Chúa là nguồn sự Sống, là Ánh sáng để theo. Những gì hôm nay đã thôi thúc bạn tìm gặp Chúa ?
Nations shall walk by your light, and kings by your shinning radiance . (Is. 60, 3)
B.Câu Kinh Thánh dánh động tôi đi tìm gặp Chúa hôm nay: ( The Best God's Word)
HỌ ĐƯỢC BÁO MỘNG LÀ ĐỪNG TRỞ LẠI GẶP VUA HÊ-RÔ-ĐÊ NỮA.... (Mat. 2, 12 )
They received a message in a dream not to return to Herod...
C.Ngay bây giờ tôi cần phải khôn ngoan tìm Chúa thế nào: (So what am I doing/ For Action)
a/ Tôi nên cẩn thận và ý tứ trong lời nói và hành động trong lúc làm chứng nhân cho Chúa.
b/ Bạn có thể chọn 1 trong 4 Gợi ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để thực hành.
D. Tôi cầu nguyện và Sống thực hành lời tôi cầu xin: ( I pray and practice / Pray in Action )
1/ Lạy Cha, Cha đã tỏ Ánh Sáng của Cha cho nhân loại qua Đức Cứu Thế Giêsu làm người như chúng con. Xin Cha dạy cho con biết sống khiêm nhường và hiền lành để mọi người nhìn thấy Cha đang ở trong con.
2/ Thánh Phaolô đã chỉ cho con thấy mâù nhiệm của Đức Kitô là nhờ Tin Mừng các dân ngoại được cùng làm thành một thân thể. Xin cho con được sống hài hòa và yêu mến các anh em cùng tin vào Đức Kitô.
Hoa thơm cỏ lạ: NHỮNG AI TRÔNG ĐỢI CHÚA SẼ KHÔNG BAO GIỜ THẤT VỌNG Those who wait on the Lord will never be disappointed
Suy nghĩ về lễ Hiển Linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, tôi có một nhận xét nhỏ: HiểnLinh ABC34
Suy nghĩ về lễ Hiển Linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, tôi có một nhận xét nho nhỏ, xin được chia sẻ. Nhận xét ấy như thế này:
Các nhà đạo sĩ phương đông là những người ít được chuẩn bị, ít được hiểu biết về Kinh Thánh, nhưng lại có một tấm lòng quảng đại, sẵn sàng đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa. Các ông đã lên đường, dấn thân vào một cuộc phiêu lưu hoàn toàn bấp bênh, để rồi cuối cùng các ông đã có được diễm phúc gặp gỡ Chúa nơi máng cỏ Bêlem dưới vóc dáng của một hài nhi nhỏ bé, nghèo túng và tầm thường.
Các ông là những người tuy xa mà lại gần.
Trong khi đó, các luật sĩ, tư tế và biệt phái sống tại Giêrusalem. Họ là những người đã được chuẩn bị rất kỹ lưỡng. Họ thông thuộc Kinh thánh. Bằng cớ là họ đã trả lời vanh vách nơi Đức Kitô sinh ra, thế nhưng họ đã không dám lên đường tìm gặp Ngài. Và hơn thế nữa, họ còn tiếp tay với Hêrôđê để sát hại Ngài.
Sở dĩ như vậy vì họ muốn Đấng Cứu Thế của họ phải được sinh ra trong lầu đài cung điện, để rồi một mai khi lớn lên, Đấng ấy sẽ là một ông vua hùng mạnh như Đavít, khôn ngoan như Salomon, sẽ giải thoát họ khỏi ách thống trị của đế quốc La Mã và dẫn đưa dân tộc họ tới một thời đại hoàng kim, khiến cho mọi dân nước phải quy phục và triều cống. Họ không muốn chấp nhận Ngài dưới vócdáng của một hài nhi nhỏ bé, nghèo túng và tầm thường. Và họ đã không lên đường tìm gặp Ngài.
Họ là những người tuy gần mà lại xa.
Cũng trong chiều hướng ấy, tôi nghĩ rằng những người dám hy sinh, dám dấn thân, dám lên đường tìm gặp Chúa nơi những kẻ nghèo túng và bất hạnh, để yêu thương và giúp đỡ, họ chính là những nhà đạo sĩ của thời buổi hôm nay.
Đúng thế, ngày hôm nay vẫn có những nhà đạo sĩ tìm gặp Chúa nơi những người anh em khổ đau và cùng khốn.
Có những người như Mẹ Têrêxa thành Calcutta, vừa mới được phong lên hàng chân phước, hằng ngày không ngần ngại đi lượm từng hình hài sắp chết, từng con trẻ bị bỏ rơi… rồi mang về chăm sóc.
Có những người như Cha Prado bên Pháp, đã sang tận Ấn độ để đem lại sức sống mới cho một cộng đoàn nghèo, hết lẽ sống và cũng hết muốn sống.
Có những người như những tu sĩ đã biến nhà mình thành nơi cư trú cho những trẻ em bị bại liệt, hay những thanh thiếu niên bụi đời, lang thang nơi đầu đường xó chợ.
Có những người như Đức Cha Casaldaliga, đã lập tòa giám mục của mình trên một chiếc thuyền độc mộc để ngày ngày, tay chèo tay chống, đi đấu tranh với các công ti tư bản cũng như với quân độ Brasil, vì quyền lợi của đám dân da đỏ mà Chúa đã trao ban như là những con chiên của Ngài.
Gần chúng ta và bên cạnh chúng ta, cũng không thiếu gì những mẫu gương sống động như thế.
Họ là những nữ tu trong bệnh viện. Họ là những thày cô công giáo trong các trường học. Họ là những công nhân có đạo trong các xưởng thợ. Họ là những y tá, những bác sĩ kitô hữu đã dành thời giờ mình được quyền nghỉ ngơi cho những người phong cùi, cũng như cho những bệnh nhân ở những vùng xa xôi hẻo lánh, thiếu thốn những tiện nghi vật chất.
Họ không phải chỉ làm những công việc này vì lòng đạo đức và tình bác ái, mà hơn thế nữa, vì họ đã nhận ra nơi những kẻ nghèo túng va bất hạnh mà họ đang phục vụ khuôn mặt đích thực của Đức Kitô.
Đúng như lời Đức Giám mục Bossuet đã nói:
- Người nghèo ở đâu thì Nước Trời ở đó. Người nghèo chính là một bí tích, một dấu chỉ của Đức Kitô.
Thế nhưng, liệu chúng ta có dám lên đường tìm gặp Chúa nơi những người anh em bất hạnh và khổ đau hay không ? ---------------------------------
Trong kế hoạch của Thiên Chúa Lễ Noel không hề là đích điểm mà chỉ là khởi điểm! Vì Thiên Chúa: HiểnLinh ABC35
Trong kế hoạch của Thiên Chúa Lễ Noel không hề là đích điểm mà chỉ là khởi điểm! Vì Thiên Chúa Ngôi Lời nhập thể và sinh ra làm người là để đến với hết mọi người, nhất là với lương dân. Đó cũng chính là trọng tâm của ba bài Thánh Kinh Giáo hội đọc trong ngày Lễ Chúa Hiển Linh. Chúng ta hãy lắng nghe, tìm hiểu và sống Lời của Chúa:
I. LẮNG NGHE LỜI CHÚA
1. Bài đọc 1: Is 60,1-6. 2. Bài đọc 2: Ep 3,2-3a.5-6. 3. Bài Tin Mừng: Mt 2,1-12 .
II. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1. Mầu nhiệm của Thiên Chúa được tỏ bày
Đó là "các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa". Điều Thánh Phaolô khẳng định trong thư Ephêsô 3, 6 đã được ngôn sứ Isaia báo trước cả bao thế kỷ (Is 60,1-6) và được chính Đức Giêsu thực hiện ngay khi Ngài sinh ra làm người (Mt 2,1-12). Câu chuyện ba nhà chiêm tinh (thường được gọi là ba vua) đến bái yết và dâng của lễ cho Hài Nhi Giêsu có nghĩa là Ơn Cứu Độ, Đấng Cứu Độ không chỉ được dành riêng cho người Ítraen mà được dành cho mọi dân tộc trên thế gian này. Ítraen chỉ là cái cầu, là trạm đầu dừng chân của Con Thiên Chúa, để Người đến với lương dân (Ad Gentes). Chính Đức Giêsu khi rao giảng Tin Mừng ở Palestin cũng đã nhiều lần khẳng định điều ấy.Ví dụ khi nói về vai trò mục tử của mình Đức Giêsu đã tuyên bố: "Tôi còn có những con chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử" (Ga 10,16). Những con chiên khác không thuộc ràn này là những người không phải là dân Ítraen theo huyết thống, mà là mọi dân tộc trên thế giới. Họ cũng là con cái của Chúa và Chúa đến để qui tụ, tập họp tất cả mọi người, mọi dân thành một dân duy nhất, là Dân Mới của Thiên Chúa.
2. Nỗi bức xúc của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trước ngàn năm thứ ba:
Ý thức được tầm quan trọng và tính cấp bách của việc rao giảng Tin Mừng cho nhân loại trong thiên niên kỷ thứ ba, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã cho tổ chức mừng kỷ niệm 2000 năm biến cố Chúa Giêsu xuống thế làm người và sinh ra là một con người vào năm 2000 vừa qua. Để chuẩn bị cho Năm Thánh 2000 ấy. Đức Thánh Cha đã lần lượt tổ chức các Thượng Hội đồng Giám mục mỗi châu lục: Mỹ, Phi, Au, Á để các Giám mục địa phương cùng với Đức Thánh Cha và các vị có trách nhiệm ở giáo triều Roma nghiên cứu, tìm tòi, trao đổi, cầu nguyện để tìm cách trình bày Giáo lý và Tin Mừng một cách thích hợp nhất của con người thời nay. Nhờ đó các Giáo hội Mỹ, Phi, Au, Á ý thức hơn về nhiệm vụ năng nề và các thách đố lớn lao đang được đặt ra cho mình trong lãnh vực Truyền Giáo.
3. Nỗi nhức nhối của người Kitô hữu Á châu: Đức Giêsu là người Á châu nhưng còn xa lạ với nhiều người Á châu:
Riêng các Giáo hội Á châu đã có Thượng Hội đồng Giám mục về Á châu được tổ chức từ ngày 19.4 đến ngày 14.5.1998 với chủ đề: "Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu chuộc và sứ mạng yêu thương và phục vụ của Ngài tại Á Châu: Để họ được sống và sống dồi dào" (Gioan 10,10). Sau đó vào ngày 6.11.1999 tại New Delhi (An Độ), Đức Gioan Phaolô II đã công bố Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á (Ecclesia in Asia). Trong Thượng Hội đồng Giám mục quan trọng này các Giám Mục tham dự đã bày tỏ nỗi nhức nhối riêng của mình và của các Kitô hữu Á châu, nỗi nhức nhối đã được chính Đức Thánh Cha nhắc lại trong Tông huấn Giáo Hội tại Châu Á:
"Theo ý kiến của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, những khó khăn còn tăng thêm vì Đức Giêsu thường được cho là xa lạ với Châu Á. Thật là nghịch lý khi nhiều người Á châu có khuynh hướng nhìn Đức Giêsu như là một người Tây Phương hơn là một người Á châu dù Ngài đã sinh ra trên chính mảnh đất Á châu" (số 20).
4. Làm thế nào để đồng bào Việt Nam nhận biết và xưng tụng Chúa Giêsu là người "Á châu" và là Cứu Chúa?
4.1 Trước tiên phải làm sao để nỗi nhức nhối chung của người Kitô hữu Á châu nói trên trở thành nỗi nhức nhối riêng của các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân Việt Nam. Thật ra nếu suy nghĩ cho đến nơi đến chốn, chúng ta còn phải có một nỗi nhức nhối khác nữa: Là con cháu của 117 Vị Thánh Tử Đạo và của hàng chục ngàn người Việt Nam đã chết vì Đạo, chúng ta có trách nhiệm rất lớn trong việc bảo vệ và truyền bá Đức Tin cho đồng bào Việt Nam. Có lẽ trong khoảng hơn 50 năm qua (tính từ 1954) chúng ta đã kiên cường bảo vệ Đức Tin chống lại các đợt bách hại từ bên ngoài. Đó là một nét son của Giáo hội Việt Nam, cách riêng của Giáo hội Miền Bắc (kể từ vĩ tuyến 17 trở ra). Nhưng có lẽ chúng ta chưa chú tâm đủ đến việc truyền bá Đức Tin cho các thế hệ kế tiếp và cho lương dân là đồng bào ruột thịt của chúng ta! Có thể trong những thập niên vừa qua, chúng ta bị giới hạn quá nhiều trong các sinh hoạt tôn giáo.
4.2 Theo tôi có lẽ Giáo hội Việt Nam nên khơi lên một Phong Trào về Truyền Giáo sâu rộng trong các giáo xứ, giáo phận và trong các hội đoàn công giáo tiến hành cũng như trong các hiệp hội gia đình và các Dòng Tu. Chúng ta nên đầu tư tài chánh, khả năng, nhân sự ...vào công cuộc cao cả và cực kỳ quan trọng này, ít là tương đương với việc chúng ta đầu tư vào việc xây cất Thánh Đường, mở rộng cơ sở Dòng Tu. Tại sao chúng ta không bắt chước kinh nghiệm quí báu của Giáo hội Hàn Quốc? Giáo hội này có hai kinh nghiệm mà chúng ta nên học tập.
Kinh nghiệm thứ nhất: Giáo hội Hàn Quốc đã có một Chiến Lược Truyền Giáo tuyệt diệu như sau: mỗi người Công giáo Hàn quốc, -bất kể nam nữ, già trẻ- phải tìm cách kết thân, kết nghĩa với một người không Công giáo, coi người đó như anh chị em ruộc thịt của mình, thường xuyên lui tới trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ khi có dịp? Từ sự gần gũi và quan tâm vô vị lợi của nhiều người Công giáo Hàn quốc ấy, nhiều người không Công giáo đã hiểu thế nào là người có Đạo và nhiều người đã tìm hiểu và gia nhập Giáo hội.
Kinh nghiệm tuyệt vời thứ hai mà chúng ta nên suy nghĩ: Giáo hội Hàn quốc chính thức sai (mandat) một số giáo dân, trong đó có những cặp vợ chồng đi truyền giáo. Họ là những người tình nguyện nhưng được Giáo hội đào taọ và nâng đỡ tinh thần, đôi khi cả vật chất nữa, để có thể sống tại môi trường mới và làm chứng cho Tin Mừng và xây dựng cộng đoàn đức tin.
4.3 Muốn được như thế có lẽ không thể không nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc học hỏi và đào sâu Thánh Kinh, Giáo Lý, Công Đồng. bằng các khóa đào tạo, các hội nghị, các buổi thuyết trình và thảo luận, các đợt tĩnh tâm, các chuyến đi truyền giáo. Cũng cần phải trang bị một số kỹ năng cần thiết cho giáo dân, để họ biết cách tiếp xúc với anh em chị ngoài Công giáo, mà không mặc cảm và không gây tác động ngược.
Mới đây tôi có dịp tham dự một buổi sinh hoạt thuộc Khóa Huấn Luyện về Truyền Giáo của linh mục đặc trách Truyền Giáo của giáo phận Cần Thơ. Tham dự viên là khoảng 40-50 giáo dân nam nữ của một số giáo xứ thuộc thành phố Cần Thơ và vùng lân cận. Các học viên được học cả lý thuyết tức Giáo lý, Thánh Kinh lẫn các Phương Pháp Thực Hành. Tôi cho rằng những Khóa Huấn Luyện như vậy rất hữu ích và cần thiết. Nhưng tại sao các giáo xứ, giáo phận khác, tại sao các hội đoàn của chúng ta không mở các Khóa Huấn Luyện tương tự? Tại chúng ta thiếu nhân sự, tài chánh hay tại chúng ta chưa yêu Chúa và đồng bào mình cho đủ mạnh ?
III. SỐNG LỜI CHÚA
Đối với tôi, cách mừng lễ Hiển Linh một cách ý nghĩa nhất là tôi tìm đến và kết thân với một hai anh chị em ngoài Công giáo sống bên cạnh nhà tôi hay trong cùng môi trường lao động nghề nghiệp với tôi.
IV.CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA
Lạy Chúa Cha yêu thương, chúng con cảm tạ Cha về Mầu nhiệm Hiển linh mà Cha đã mặc khải trong Đức Giêsu Kitô, Con Cha, Chúa chúng con.
Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã tỏ mình ra cho ba nhà chiêm tinh phương Đông, vì Chúa đến trần gian này là để gặp gỡ và cứu độ hết mọi người và đem mọi người vào trong mái ấm của nhà Cha. Xin Chúa thứ tha cho chúng con vì bấy lâu nay chúng con không quan tâm đến việc làm cho những người xung quanh chúng con gặp gỡ và nhận biết Chúa. Từ này xin Chúa hãy dùng chúng con như những dấu chỉ và công cụ của Chúa để làm cho anh chị em lương dân gặp gỡ và nhận biết Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần, ba nhà chiêm tinh phương Đông đã lên đường tìm kiếm Chúa Giêsu mới sinh ra, nhờ có ánh sao soi đường dẫn lối. Xin Chúa soi sáng và hướng dẫn các tâm hồn thành tâm thiện chí để họ gặp được Chúa Giêsu Cứu Độ và nhìn nhận, tùng phục và yêu mến Ngài! Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Các bài đọc Chúa nhật lễ Chúa Hiển Linh đều qui về điểm chính là Thiên Chúa mạc khải chính Ngài cho tất: HiểnLinh ABC36
Các bài đọc Chúa nhật lễ Chúa Hiển Linh đều qui về điểm chính là Thiên Chúa mạc khải chính Ngài cho tất cả mọi người, không phân biệt người Do thái thuộc dân Chúa hay kẻ ở ngoài, như các đạo sĩ từ phương xa đến. Trong khi đó, từ phía con người thì không phải tất cả mọi người đều đáp lại ơn Chúa, chấp nhận từ bỏ cuộc sống tội lỗi theo tính hư tật xấu của mình để đến gặp Ngài. Thiên Chúa mạc khải cho con người, cho tất cả mọi người bằng nhiều cách khác nhau.
Các bài đọc của thánh lễ Hiển Linh trình bày cho chúng ta suy nghĩ hai con đường và hai thái độ đáp trả lại lời mời gọi của Thiên Chúa: Con đường thứ nhất là con đường mạc khải chính thức trong lịch sử cứu rỗi do Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử dân Chúa chọn. Con đường thứ hai có thể nói là con đường tự nhiên qua các biến cố, nói được là tự nhiên trong thiên nhiên, trong sinh hoạt con người.
Hai thái độ đáp trả được nhắc đến trong bài Phúc âm là thái độ chấp nhận của các nhà đạo sĩ từ phương xa và thái độ chối từ lơ là không màng chi lời của vua Hêrôđê và các thầy thượng tế tại Giêrusalem. Kinh thánh đã loan báo trước cho họ biết, họ thuộc nằm lòng Kinh thánh để biết Con Thiên Chúa Giáng sinh tại Belem, nhưng họ lơ là hoặc quá say mê thụ hưởng những lợi lộc vật chất mà không chấp nhận từ bỏ, không chấp nhận ra đi đến nơi Thiên Chúa chờ sẵn, nơi Ngài có hẹn trước để gặp chúng ta.
Mừng lễ Hiển Linh, chúng ta hãy xét lại thái độ sống của mỗi người chúng ta. Thiên Chúa đã dùng tất cả phương thế để thức tỉnh mọi người. Đó là con đường mạc khải của Lời Chúa, của lời giảng dạy của Giáo Hội cũng như con đường của các biến cố trong thiên nhiên, trong cuộc sống hằng ngày, để nhắc chúng ta rằng Ngài đang đợi ở nơi đó, ở nơi hẹn trước với chúng ta để mong gặp chúng ta. Nhưng chúng ta có đáp trả hay không? Chúng ta có đủ can đảm như các nhà đạo sĩ thực hiện cuộc phiêu lưu ra đi từ bỏ nếp sống hưởng thụ vật chất, từ bỏ ngôi nhà vinh quang để đi gặp Chúa hay không ? Rồi khi gặp Ngài có thể không như chúng ta nghĩ trước trong hình thể ẩn mình như trường hợp của các đạo sĩ gặp con trẻ, chúng ta có khiêm tốn và đủ đức tin để sấp mình thờ lạy một Hài Nhi nhỏ bé là Con Thiên Chúa hay không ?
Chúng ta hãy nguyện xin Chúa ban ơn cho mỗi người chúng ta được đầy ơn can đảm, được khiêm tốn và kiên trì cho đến cùng trong suốt cuộc hành trình tìm Chúa. Xin Chúa thương gia tăng nhiều ơn lành để mời gọi và soi sáng cho biết bao tâm hồn thành tâm thiện chí đang âm thầm tìm Chúa. Lạy Chúa, xin chúc lành cho tất cả mọi người chúng con, cho chúng con được gặp Chúa và gìn giữ chúng con trong đức tin.
Thiếu Tá Gilbert Emilio là một sĩ quan của không lực Hoa Kỳ tại Colorado Springs, Tiểu bang: HiểnLinh ABC37
Thiếu Tá Gilbert Emilio là một sĩ quan của không lực Hoa Kỳ tại Colorado Springs, Tiểu bang Colorado. Ông cũng còn là một Điêu Khắc Gia lỗi lạc. Tới năm 1960, ông đã tham dự 740 lần trình diễn nghệ thuật điêu khắc khắp thế giới. Trong các nghệ thuật của ông, đa số là nghệ thuật tôn giáo. Ông quảng diễn một số các nghệ thuật điêu khắc về khuôn mặt và diện mạo Chúa Giêsu trên các loại đá quí. Nghệ thuật sâu sắc tôn giáo của ông đã được ông diễn tả:"Tôi thấy tôi là một dụng cụ tinh xảo và tế nhị của Thiên Chúa. Ngài đã dùng cánh tay tôi để diễn tả những nét uy thần và sâu sắc, Những vẻ nhân từ và khoan dung, những nét đầy cảm thương và đầy Thiên Chúa tính của Ngài".Ông đã chiếm được 7 giải Huy Chương vàng nghệ thuật, thì 3 tấm diễn tả về dung mạo của Chúa Giêsu.
Thiếu tá Emilio cố gắng trình bày khuôn mặt của Chúa Kitô với đầy nét thần uy, đầy khoan từ và nhân hậu. Trong lễ Hiển Linh đầu tiên Thiên Chúa cũng muốn trình bày diện mạo của Chúa Cứu Thế càng rõ ràng, chân thật đầy vẻ người mà lại đầy vẻ Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa đã mặc lấy một nhân tính đầy thùy mị, đầy hiển dung và khôn sáng, do máu huyết của một Trinh Nữ tuyệt diệu đã có trong ý định của Ngài từ muôn thuở. Thiên Chúa đã tỏ cho những người đơn thành và thiện tâm dưới thế nhận biết Ngài qua ánh sao Belem. Ngài cũng tỏ cho ba nhà Đạo Sĩ, đại diện cho muôn dân, là những người thiện tâm và đạo hạnh được biết và thờ lạy Ngài, dưới diện ngôi sao lạ dẫn đường chỉ lối cho các ngài tới ngắm nhìn khuôn mặt thực của Ngài, dưới hình thức một em nhỏ. Ngài đã soi trí cho các đạo sĩ thấy Ngài từ việc sưu tầm Thánh Kinh đến địa vật. Từ xa xưa đến những dấu hiệu gần cập, để các ngài nhận biết và tôn thờ. Như trong bài đọc hôm nay:"Lạy Chúa, Chúa đã dùng ngôi sao dẫn đường mà tỏ cho muôn dân biết Con Một Chúa". và Chúa lại lập lại trong bài đáp ca:"Mọi dân trên địa cầu đều thờ lạy Chúa".
Ngày nay, Chúa không dùng Sứ Thần hoặc ánh sao để chỉ cho thế giới nữa. Nhưng Ngài lại dùng ngôi đèn chầu chỉ lối Chúa ngự. Chúng ta hãy theo ngôi sao đó đến thờ lạy Ngài. Chúng ta hãy tới tham dự Thánh Lễ để gặp Ngài và hãy nhớ tới lời tạ lễ hôm nay:"Lạy Chúa, xin dùng ánh sáng thiên quốc dẫn đưa chúng con mọi nơi mọi lúc, để khi Chúa muốn chúng con tham dự mầu nhiệm này, Chúa cũng cho chúng con biết nhìn ra và lãnh nhận với lòng yêu mến xứng đáng" (2002).
Một buổi tối lập đông, gió bấc thổi từng cơn se lạnh, đó đây đì đùng tiếng súng, thỉnh thoảng: HiểnLinh ABC38
Một buổi tối lập đông, gió bấc thổi từng cơn se lạnh, đó đây đì đùng tiếng súng, thỉnh thoảng một ánh hỏa châu loé lên giữa bầu trời đêm. Ngôi làng nhỏ vẫn mù mịt khói sau trận oanh tạc sáng nay. Dân chúng đã kéo nhau chạy vào núi để ẩn náu. Trong một căn nhà nhỏ bé, đổ nát vì bom đạn, một cô bé gượng đứng bên khung cửa sổ, ngước nhìn lên trời và thở dài. Nhờ ánh trăng hiu hắt chiếu qua khung cửa, cô bé cúi xuống quờ quạng kiếm tìm. Một tiếng 'xẹt' khô khan giữa đêm vắng, một ánh nến chập chờn trong căn nhà đổ nát, hai dòng lệ lăn dài trên gò má ngây thơ. Mấy hôm sau, người ta tìm thấy xác cô bé, co rúm lại vì lạnh, một chân bị thương vì trúng bom, tay đang cầm hộp diêm nhàu nát, bên cạnh là xác của ba mẹ cô bé.
Chúng ta đang trong Mùa Giáng Sinh. Cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta suy niệm mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể, mang thân phận con người, sống giữa con người. Hôm nay, Lễ Hiển Linh, Giáo Hội gọi mời chúng ta đi sâu hơn nữa trong việc chiêm ngắm Chúa Kitô: Ánh Sáng Thế Gian. Chúa Kitô chính là 'Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối' (Jn 1:5), là Sao Mai lấp lánh giữa trời đêm, soi đường dẫn lối cho con người đến Nguồn Sự Sáng; sưởi ấm tâm hồn băng giá của con người bẩng hơi nóng của tình yêu chân thật từ trời cao.
Thế nhưng, 'Ánh Sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, nhưng thế gian lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận' (Jn 1:9-11). Đó chính là thái độ chối từ của vua Hêrôđê. Mặc dù các Vị Đạo sĩ đã thuật lại với vua về sự xuất hiện của ngôi sao lạ và sự chào đời của Vua dân Do-thái, lòng ghen tương và sự ham mê địa vị, giàu sang, thế lực trần gian đã khiến vua nhìn thấy nơi Con Trẻ hình ảnh của một tử thù mà vua phải tìm cách tiêu diệt bẩng bất cứ cách nào, ngay cả bẩng sinh mạng của biết bao trẻ em vô tội. 'Người đi trong bóng tối thì chẳng biết mình đi đâu vì bóng tối làm cho mắt người ấy ra mù quáng' (1Jn 2:10). Đó cũng là thái độ tự nhiên của con người. Con người thích bóng tối hơn sự sáng. Trong bóng tối, người ta được tự do, thoải mái làm điều mình muốn mà không sợ dư luận xôn xao, láng giềng cười nhạo, ngay cả lương tâm trách cứ.
Thái độ mà Giáo Hội mời gọi chúng ta và Thiên Chúa mong đợi nơi chúng ta là thái độ vâng phục, chấp nhận. Trong Mùa Vọng, Giáo Hội dùng tấm gương đón nhận của Mẹ Maria, của Thánh Giuse và Bà Elizabeth để mời gọi chúng ta. Trong đêm Giáng Sinh, Giáo Hội dùng hình ảnh các mục đồng để phấn khích chúng ta. Và hôm nay, Giáo hội đặt trước mắt chúng ta gương của các Vị Đạo sĩ phương Đông. Nhìn thấy Ngôi Sao lạ trên nền trời, các Vị đã xem đó như một lời mời gọi. Bỏ tất cả, các Vị không quản nề vất vả, lao nhọc, hiểm nguy, băng rừng vượt núi theo sự hướng dẫn từ trời cao. Cả khi ngôi sao hướng lộ vụt tắt, các Vị cũng không chùn chân. Hang đá lạnh lẽo, máng cỏ nghèo nàn đã không làm các Vị xao xuyến. Các Vị tin nhận Con Trẻ nghèo hèn, bé nhỏ là 'Vua dân Do Thái' và 'họ đã quì gối xuống, sụp lạy Người, và dâng tiến Người vàng, nhũ hương và mộc dược' (Mt 2:11).
Chúng ta có thể đồng hóa thái độ tâm hồn của mình với ai? Từ chối như Hêrôđê hay đón nhận như các đạo sĩ? Hoặc nếu đón nhận thì hành trình đón nhận ấy thế nào? Có dám từ bỏ, dám hy sinh, chấp nhận gian khổ để theo lời mời gọi của Vì Sao lạ, để theo đuổi cuộc hành trình đến với Ánh Sáng không? Có dám liều, dám ra đi, bỏ cảnh sống quen thuộc, bỏ những tiện nghi mình đang có, để đi theo sự soi sáng của ân sủng, dấn mình vào cuộc lữ hành vô định của đức tin, để không dừng lại ở ngôi sao lạ, nhưng coi đó như lời mời gọi từ trời cao, như sự hướng dẫn từ trời cao để tìm đến hang đá và khiêm tốn tôn thờ Vua Vũ Trụ nơi Con Trẻ trong máng cỏ???
Trong cuộc hành trình đức tin, đôi khi vì sao hướng lộ vụt tắt... điều đó có làm đôi chân lảo đảo và ý chí lung lay không? Một tâm hồn tin tưởng và thiện chí sẽ biết tìm phương cách để được tiếp tục hướng dẫn tới cùng đích như các nhà Đạo sĩ. Bóng tối bên ngoài không đe dọa niềm tin cậy và phủ lấp được đức ái bên trong.
Con Thiên Chúa đã nhập thể để đem ánh sáng của chân lý, công bình đến cho những ai đang ở trong bóng tối u mê của ngờ vực, của bất công. Ngài đem hơi ấm tình thương và hy vọng đến những người đang sống trong cô đơn, thất vọng, hận thù, ghen ghét.. cho những người bị xã hội ruồng rẫy, bỏ rơi. Hôm nay, Ngài gọi mời chúng ta hãy trở nên ánh sáng cho nhau, đem ánh sáng chúng ta đã lãnh nhận từ Ngài đến cho tha nhân vì 'không ai thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng để trên giá đèn hầu soi cho mọi người trong nhà '(Lc 11:33). Đặc tính của ánh sáng là soi sáng và sưởi ấm. Đón nhận ánh sáng từ Thiên-Chúa-làm-người, chúng ta cũng hãy trở nên ánh sáng, soi sáng và sưởi ấm tha nhân bẩng chính cuộc sống của mình, bẩng lời cầu nguyện, bẩng lời nói và những hành động cụ thể. . Thế giới chúng ta đang sống hôm nay tràn đầy bất công, hận thù, ghen tương, tràn đầy đau thương và nước mắt.. Ước mong hôm nay bạn sẽ đốt lên một ngọn nến để soi sáng và sưởi ấm một tâm hồn nào đó.. Ước mong một ngày nào đó tiếng khóc sẽ không còn, chiến tranh sẽ chấm dứt, hận thù được xoá bỏ để không còn những cô bé chết đơn côi vì lạnh, chết tang thương vì chiến tranh, vì sự tham lam, thù hận của con người nữa. NS. Trái Tim Đức Mẹ
Trong một khu vực bị hạn hán. Đã từ lâu, dân chúng mong đợi trời đổ mưa. Các ao hồ đều khô: HiểnLinh ABC39
Trong một khu vực bị hạn hán. Đã từ lâu, dân chúng mong đợi trời đổ mưa. Các ao hồ đều khô cạn. Từ người đến vật đều mong đợi vào mưa. Chỉ có mưa mới làm cho đồng cỏ xanh tươi trở lại, chỉ có mưa các gia súc mới hết ghẻ, và cũng chỉ có mưa con người mới trồng tỉa được để nuôi sống nhau. Tóm lại tất cả đều mong chờ vào mưa. Rồi một buổi chiều, dường như trời đã thấu lòng mong đợi nơi mọi người. Mây đen kéo dần đến phủ kín bầu trời trong vùng. Gió mạnh, sấm chớp cùng với những cơn mưa nặng hạt thi đua, liên tục trút nước xuống như thể để bù lại bao nhiêu tháng ngày nhàn rỗi. Cơn mưa kéo dài mãi đến nửa đêm mới nguôi cơn. Còn niềm vui nào tả nổi sự sung sướng của dân chúng trong vùng!
Hôm nay, lễ Chúa Hiển Linh. Thiên Chúa mạc khải chính Ngài cho mọi người. Cũng như dòng nước mưa đã làm cho vùng đất khô chồi nắng hạn được tưới dội sự hồi sinh, thì: Thiên Chúa cũng đến với mọi người trong chúng ta. Ngài chẳng phân biệt một ai, dù là người Do Thái hay người ngoài Kitô giáo. Ba Đạo Sĩ Đông Phương đáp trả ơn Chúa sau những dấu hiệu tự nhiên. Các Ông đã cương quyết dấn thân vào cuộc lữ hành đi tìm kiếm Chúa. Các Ông đã gặp được Chúa. Thái độ khiêm tốn sấp mình thờ lạy Chúa là bằng chứng Ngài mạc khải cho con người qua nhiều cách thức khác nhau. Bài Tin mừng hôm nay cho chúng ta hai thái độ, hai con đường để ta đáp trả lại ơn gọi của Ngài. Trước hết, Thiên Chúa đã đến để minh chứng những gì các tiên tri đã tiên báo về Ngài. Ngài đến giữa chúng ta và cứu độ chúng ta. Thứ đến là những biến cố trong thiên nhiên, trong vũ trụ làm dấu tiên báo cho sự Ngài sẽ đến. Thiên Chúa chờ sự đáp trả của con người. Thử xét xem, chúng ta có thái độ nào với Chúa chúng ta? Lãnh đạm, coi thường, bỏ ngoài tai như Hêrôđê, như các thầy thượng tế ở Giêrusalem. Hay ngược lại chúng ta tỏ ra thật mau mắn, năng nổ dốc tâm lực vào công việc tìm kiếm Chúa như thái độ của Ba Đạo Sĩ ?
Nếu chúng ta đem so sánh giữa Lễ Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh, chúng ta thấy được hai chiều kích nổi bật sau: Lễ Giáng Sinh là lễ Chúa mạc khải chính Ngài cho dân của Ngài. Còn lễ Hiển Linh là Chúa đến với những dân ngoài dân tộc Do Thái, với hết mọi người. Thánh Mátthêu trong trình thuật Tin mừng hôm nay, Ngài đã đồng hành với Thánh Gioan trong chương đầu Tin mừng thứ tư:" Người đã đến trong nhà Người, mà gia nhân của Người không tiếp nhận. Còn ai tiếp nhận thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa... Và chúng tôi đã được ngắm vinh quang của Người". Thánh Phao lô cũng đào sâu hơn vấn đề:" Mầu nhiệm trong các thế hệ trước chưa hề thống trị con cái loài người, thì nay được mạc khải ra. Họ là người dân ngoại cũng là những kẻ thừa tự, là thân mình và đồng hưởng lời hứa trong Đức Giêsu Kitô nhờ Tin mừng."
Để sống thật với lễ Hiển Linh mới, chúng ta cần có những quyết định sau:
a- Phải lên đường đến với tha nhân.
Tha nhân là những người chúng ta gặp trong cuộc sống hằng ngày. Họ ở trong xưởng máy, họ ở nơi phố chợ, cả những người thân yêu trong gia đình chúng ta nữa. Thái độ của ta tiếp đón, đối xử với họ thế nào cũng là câu trả lời rõ nét nhất về việc ta sống lễ hiển linh mặn mà như Ba Đạo Sĩ hay lạnh nhạt thờ ơ, chống phá như Hêrôđê.
b. Phải biết chấp nhận các biến cố khi đi tìm Chúa.
Nhiều khi những thử thách, những biến cố thường là niềm đau hay thất bại trong cuộc sống. Với những lúc như thế, chúng ta lồng vào trường hợp Ba Đạo Sĩ lạc mất ngôi sao chỉ đường. Đừng hoảng loạn, đừng nản lòng, đừng thối chí. Hãy vững tâm, cứ tiến bước lầm lũi trong đêm đen, thế nào cũng có lúc " Ngôi Sao Lạ" lại xuất hiện đó mà.
c. Phải luôn giữ Chúa lại khi đã gặp Ngài.
Biết thực hành những điều Chúa dạy, những lệnh truyền Thiên Chúa ban cho chúng ta qua các giáo huấn, các giới răn, lề luật, các đại diện Ngài là chính lúc chúng ta có Chúa ở bên, là cách thức để ta lưu Chúa lại khi đã gặp được Ngài.
Xin Chúa ban cho ai nấy trong chúng ta ơn kiên trì trong hành trình tìm gặp Chúa. Mau mắn trong thái độ, chấp nhận trong cam go thử thách và kiên vững niềm tin mỗi khi tâm hồn lạnh lẽo. Đợi chờ và trấn thủ cho đến khi sao lạ lại xuất hiện dẫn đường.
Lạy Mẹ Maria, xưa kia Mẹ đã đáp lại tiếng Xin Vâng và Ngôi Hai Thiên Chúa Nhập Thể cứu chuộc loài người chúng con. Nay xin Mẹ cũng soi động linh hồn chúng con luôn biết đón chờ, đợi trông thánh ý Chúa trong từng giây phút nơi cuộc sống. Luôn tỉnh thức để đề phòng những lúc mê ngủ mà kẻ thù có thể lợi dụng để đánh gục chúng con trên đường đi đến gặp Chúa.
Xin Ba Đạo Sĩ Phương Đông trở nên những ngôi sao lạ ngời sáng dẫn đường cho chúng con thượng lộ bến yêu thương kiếm tìm Thiên Chúa Tình Yêu.
Một ngày kia, có một vị Hoàng Đế cùng với đoàn cận vệ vào rừng săn nai. Đang lúc hứng thú rượt theo: HiểnLinh ABC40
Một ngày kia, có một vị Hoàng Đế cùng với đoàn cận vệ vào rừng săn nai. Đang lúc hứng thú rượt theo con mồi, thì bỗng nhiên nghe tiếng hát từ đâu vọng lại, tiếng hát thật véo von thánh thót làm say mê đoàn người săn bắn, đến khiến họ quên cả con mồi, để rồi cùng nhau đi tìm gặp cho được vị danh ca nào đó đang náu ẩn đâu đây. Sau một vài phút kiếm tìm, họ đã gặp, nhưng không phải một danh ca như họ thường lầm tưởng, như danh ca "Việt Dũng" chẳng hạn; mà trái lại, một người thanh niên có thân mình tiều tụy xanh xao gầy còm, áo quần rách rưới nghèo nàn đang ca hát ngợi khen Thiên Chúa trong một túp lều tranh xiêu vẹo. Một điều làm cho đoàn săn bắn phải sửng sốt, là thấy người thanh niên có thân xác đau khổ đó, lại tỏ ra luôn vui tươi hạnh phúc, hân hoan vui sướng. Vì quá bỡ ngỡ, vị Hoàng Đế hỏi: "Ông tới đây làm gì?" Vị Ẩn Sĩ không trực tiếp trả lời, nhưng hỏi lại: "Vậy thưa ngài, ngài tới đây làm gì?" Vị Hoàng Đế đáp lại: "Trẫm tới đây để săn thú vật". Bấy giờ vị Ẩn Sĩ mới tỏ ra sung sướng đáp lời: "Thưa ngài, còn tôi, tôi đến đây tìm kiếm Thiên Chúa!"
Tại sao con người có thân xác đau thương ấy lại tỏ ra lòng đầy vui sướng, vang lên qua những lời ca tiếng hát khiến cho người nghe phải say mê khoái thú? Phải chăng vị Ẩn Sĩ đó đã cảm nghiệm được niềm hoan lạc, khi thấy chẳng bao lâu nữa, bức tường thân xác sụp xuống và Thầy sẽ gặp được Chúa, Đấng mà suốt đời Thầy hằng phụng sự và khao khát kiếm tìm, để được thỏa lòng yêu mến Ngài!
I. CHÚNG TÔI TÌM ĐẾN TRIỀU BÁI NGÀI
Hôm nay, chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội mừng Lễ Hiển Linh, là lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc mà đại diện là ba nhà bác học. Bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe, tường thuật lại việc các nhà bác học từ Đông Phương tìm đến Jerusalem thăm dò tin tức: "Vua người Do Thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Vì chúng tôi nhận thấy ngôi sao của Người ở Phương Đông, và chúng tôi tìm đến để triều bái Người" (Mt 2:2). Được tin đó, Vua Herođê và dân thành Jerusalem đều xôn xao náo động. Vua tỏ ra rất hoảng hối lo sợ, cấp tốc triệu tập các vị Đại Giáo Trưởng và các luật sĩ, những nhà thông Kinh Thánh, để điều tra cho biết nơi Đức Kitô sinh ra. Sau khi được nghe các nhà thông Kinh Thánh cho biết, Đức Kitô sinh hạ tại Belem theo như lời tiên tri đã báo trước. Vua liền ngầm triệu tập các nhà bác học lại, hỏi han cặn kẽ, rồi phái họ đi và căn dặn: "Các khanh hãy đi, điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo lại cho trẫm, để cả trẫm cũng đến triều bái Ngài!" (Mt 2:8).
Nhưng với tấm lòng đơn thành sùng mộ, các nhà bác học đã tìm gặp được Chúa như lòng mong ước, họ tin kính Hài Nhi là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, là Đấng Cứu Tinh nhân loại hằng trông đợi, họ phủ phục tôn thờ và dâng lễ vật triều bái Ngài, họ được mãn nguyện vì đã gặp được Đấng là nguồn Ơn Cứu Độ, là sự sống, là an bình và hạnh phúc.
Trái lại, Hêrođê với tâm ý nham hiểm, ông muốn tìm kiếm Ngài, không vì tin yêu ngưỡng mộ, nhưng vì thù ghét muốn tiêu diệt Ngài, vì sợ ngai vàng của ông sắp sụp đỗ, nên ông đã không xứng đáng gặp được Ngài. Do đó, ông đã nổi cơn xung giận, phạm thêm một tội ác tày trời, là truyền giết chết tất cả các nam Hài Nhi từ hai tuổi trở xuống trong thành Belem và các vùng phụ cận để hả cơn tức giận, với hy vọng tiêu diệt được cả Đức Vua mới sinh. Hêrođê đã phải tuyệt vọng, sống bất an và đã bị lịch sử muôn đời nguyền rủa.
II. MỤC ĐÍCH CUỘC SỐNG TRÊN TRẦN GIAN
Mục đích con người sống trên trần gian là để tìm gặp Thiên Chúa, Đấng làm thỏa mãn mọi khát vọng, Đấng là Chân Thiện Mỹ, là Hạnh Phúc vĩnh cửu, đáng mọi loài thụ tạo trên trời dưới thế khát mong tìm kiếm.
Nhưng nếu con người chỉ tới khu rừng trần gian này "Để Săn Thú Vật" là tình, tiền, tài, danh vọng, chức quyền thì chắc chắn không bao giờ họ được mãn nguyện! Biết bao người đã hao tốn bao công sức trong suốt cả cuộc đời, với bao nhiêu xảo kế quỉ quyệt lừa đảo, để hy vọng đạt được những tham vọng ngông cuồng thiên đàng dương thế... Nhưng sau cùng, họ khác nào như kẻ vồ bóng, càng vồ bóng càng thoát khỏi vòng tay họ, và họ đã phải tuyệt vọng, lại phải mang hận suốt đời. Cái hậu quả tai hại của những con người cuồng tín, tin theo thuyết vô thần cộng sản trên 70 năm qua, đã là một bằng chứng thật cụ thể và chua cay.
Trái lại, nếu con người sống trên trần gian như là đường đưa tới cùng đích, họ xử dụng của cải đời này như phương tiện để đi tìm gặp Thiên Chúa, chắc chắn họ sẽ được mãn nguyện. Chính Chúa đã truyền dạy và hứa ban: "Chúng con hãy tìm Nước Thiên Chúa và sự Công Chính của Người trước, rồi mọi sự khác Người sẽ ban cho các con sau cách dư dật" (Mt 6:33).
III. CHÚNG TA ĐÃ GẶP ĐƯỢC CHÚA CHƯA ?
Là con cái Chúa, chúng ta đã "Tìm Nước Thiên Chúa và Sự Công Chính Người trước", là đặt Chúa làm cùng đích tối thượng và tối hậu, là hạnh phúc vĩnh cửu, là gia nghiệp đời đời mà chúng ta hằng khao khát kiếm tìm; hay chúng ta còn đặt tiền, tình, tài, danh, lợi, thú hơn Thiên Chúa? Nếu chúng ta đã thực sự đặt Chúa trên hết, đã chu toàn thánh ý Người, đi đúng theo đường lối Chúa chỉ định, chắc chắn chúng ta sẽ gặp được Chúa, chúng ta sẽ được hạnh phúc và được thỏa mãn mọi ước nguyện trong Chúa, vì chính Chúa là Nguồn Hạnh Phúc của chúng ta.
Là những linh hồn đã tình nguyện thánh hiến cuộc đời, để phụng sự yêu mến và làm vinh danh Chúa, chúng ta đã thực sự tìm gặp được Chúa, đã cảm nghiệm được niềm an vui hạnh phúc nơi một mình Chúa, chỉ khát khao chu toàn thánh ý Chúa, muốn điều Chúa muốn, làm điều Chúa muốn và chỉ có một ước vọng duy nhất làm vui lòng Chúa?
Hay trái lại, chúng ta còn đặt chính mình làm cùng đích, hoặc đặt bất cứ tham vọng trần gian nào hơn Chúa, trái với mục đích Đời Thánh Hiến của chúng ta?
KẾT LUẬN
Chúa Cha đã ban Con Một Người cho nhân loại qua tay Mẹ Maria. Do đó, không một ai trong nhân loại được nhận biết Chúa và được diễm phúc lãnh nhận Ngài ngoài Mẹ Maria. Các nhà bác học Đông Phương là những người thành tâm thiện chí, các mục tử Belem là những người chất phác quê mùa, đơn sơ khiêm tốn đã nhận ra Chúa, được diễm phúc lãnh nhận Ngài do tay Mẹ Maria trao ban.
Xin cho mỗi người chúng ta cũng được tâm hồn đơn thành khiêm tốn, để đáng được Mẹ luôn tỏ cho chúng ta thấy Chúa nơi tha nhân, nơi các công trình sáng tạo của Người, nơi mọi biến cố may rủi của cuộc sống, để chúng ta luôn được nếm hưởng hạnh phúc của những tâm hồn đơn thành khiêm tốn như các Thánh, những người con ngoan thảo của Chúa.
Những tư tưởng đầu tiên xuất hiện trong đầu óc tôi khi suy gẫm về lễ Chúa Hiển linh là các đạo: HiểnLinh ABC41
Những tư tưởng đầu tiên xuất hiện trong đầu óc tôi khi suy gẫm về lễ Chúa Hiển linh là các đạo sĩ phương đông và bài thơ tôi rất ưng ý: "Cuộc hành trình của các đạo sĩ " của thi sĩ T. S. Eliot. Thi sĩ đã nối kết sự sinh ra và cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu, sự sống và cuộc hành trình về cõi vĩnh hằng của các đạo sĩ. Bài thơ là tự truyện của một trong ba đạo sĩ với những dòng cuối cùng như sau:
"Tôi nhớ lại, tất cả những điều đó đã xảy ra lâu rồi. Nhưng nếu được đi con đường cũ lần nữa, tôi sẽ cất bước ra đi. Phải chăng bằng chính nó mà người ta được dẫn đến cái chết hoặc sự sống thiêng liêng? Chắc chắn đã có một sự hạ sinh chẳng nghi ngờ gì nữa. Chính tôi đã chứng kiến sinh nở và cái chết nhiều lần. Tôi nghĩ chúng khác nhau. Nhưng lần này sự sinh ra là một biến cố quá ư nhức nhối. Nó giống như giây phút hấp hối đầy cay đắng cho mọi người. Nó là tử thần, là cái chết của chúng ta. Chúng tôi đã trở về các vương quốc của mình. Nhưng chẳng được an vui trong niềm tin cũ. Chúng tôi cảm thấy bồn chồn, chung quanh toàn người xa lạ, bám víu vào các ngẫu tượng của họ. Chúng tôi thà chết cho niềm tin này. Như thế chẳng sung sướng, hạnh phúc hơn sao?"
Để có thể lên đường, Các đạo sĩ đã phải giã từ gia đình, xóm làng, ngai vàng, quang cảnh quen thuộc ấm cúng để đến miền đất hoàn toàn xa lạ, đầy khó khăn, nguy hiểm, bất định. Như thế, cuộc hành trình của họ không thuần tuý vật chất. Nó đòi hỏi cả tinh thần. Sự thay đổi không nguyên về nơi chốn mà cả về phần tâm linh. Những gì là quen thuộc, bây giờ trở nên xa lạ. Những kinh nghiệm của các đạo sĩ phương Đông cũng là những kinh nghiệm của chúng ta, nếu muốn lên đường tìm kiếm Thiên Chúa nhập thể. Ngay cả khi chúng ta vẫn ở lại nơi chốn cũ, không phải khăn gói dõi theo một ngôi sao thể lý nào. Nói chung mọi cuộc đời chân chính đều đòi hỏi thay đổi liên tục. Sơ cứng não trạng là chết chóc về phần tâm linh. Hãy dời bỏ những gì đang mục rữa và can đảm đối mặt với cái mới, cái bất trắc. Đó là quy luật biện chứng của trời đất, vũ trụ. Chúng ta không có lựa chọn nào khác. Nguyên tử luôn luôn chuyển động. Bám vào quá khứ là không có tương lai. Vậy dầu muốn dầu không, hãy để quá khứ trôi vào dĩ vãng.
Dĩ nhiên, cần một núi can đảm để dám chấp nhận cái mới, và hứng chịu hậu quả của nó. Thánh Augustinô nói: "Chúng ta không hề có một thành trì vững bền ở thế gian" (De civitate Dei). Ngài nói về cuộc đời bây giờ và mai hậu. Do đó, dầu ở đời này, chúng ta sống cố định trong một thành thị, làng mạc hay một ngôi nhà suốt cuộc đời, chúng ta vẫn luôn đi trên một hành trình vô tận và người bạn cùng đi là Đổi Thay. Nói một cách cụ thể, nhân loại toàn là những kẻ mục tử, cắm lều tại nơi nào đó, rồi lại nhổ lều bỏ đi đến nơi khác xa lạ, liên tục di chuyển, liên tục làm mới từ đầu. Cho nên, chúng ta nhận các đạo sĩ làm tổ sư là hợp lý. Bởi các vị cũng liên tục là khách hành hương. Không hành hương chúng ta bắt đầu rữa nát! Tự mãn là vô lý, bởi loài người đang ở trong tiến trình hoàn thiện: Homo fit, non est (người ta sinh ra để hoàn thiện, không phải đã hoàn thiện rồi). Châm ngôn khôn ngoan của người xưa là thế. Cuộc hành trình của các đạo sĩ có vài đặc điểm rõ nét. Thứ nhất, họ không bị ép buộc phải ra đi, mà đã tự ý lựa chọn cuộc viễn trinh. Họ là những kẻ tìm kiếm. Thứ hai, họ đã nhìn lên trời, nghe trong lòng có tiếng gọi, trông thấy một viễn tượng lạ và một lời hứa hẹn mơ hồ. Họ mạnh dạn cất bước ra đi vào nơi bất định để được gặp "Vua Do thái mới sinh ra."
Cuộc sống mỗi người chúng ta cũng là một tiến trình tìm kiếm chân lý và sự thiện! Chúng ta đang ở giai đoạn nào, địa điểm nào đây? Cái gì đã thúc đẩy chúng ta tới đây? Cuộc viễn chinh của chúng ta đúng hướng hay đã chệch đường? Coi chừng chúng ta chạy nhanh lắm, nhưng trật đường rồi, do đó càng chạy càng xa mục tiêu chẳng bao giờ tới đích, . Con đường của chúng ta là hy sinh hay hưởng thụ? Mới đây một chị bạn đã viết cho tôi một lá thư dài đầy an ủi. Chị kể rằng hôm tháng ba vừa qua, chị phải trải qua một cuộc giải phẫu ung thư. Một cuộc hành trình dài đầy gian khổ mà chị chẳng muốn, chồng chị, các con, các cháu chị cũng chẳng ưa! Họ lo lắng từng giây phút về sự chữa chạy, về sức khoẻ của chị. Nhưng chị chỉ nhìn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa trong những ngày đen tối đó. Ngôi sao dẫn đưa các đạo sĩ đến gặp "Vua Do thái mới sinh" là ánh sáng duy nhất hướng dẫn chị và gia đình vượt bể khổ trần gian. Cho nên giờ này tôi cũng ước ao ngôi sao hay ánh sáng đó dẫn dắt mỗi linh hồn và cộng đoàn trên hành trình riêng của mình. Chúng ta dâng lời cảm tạ Chúa nếu ánh sáng đó lại là Đức Kitô chúng ta cử hành trong thánh lễ này. Bằng không, nếu ánh sáng đó cần thay đổi hoặc làm cho sáng hơn thì xin Chúa Giêsu Thánh Thể thực hiện công việc đó tức ngự vào linh hồn mỗi người tràn đầy hơn trong buổi thờ phượng ngày hôm nay. Bởi lẽ vắng Ngài là vắng sự sáng và sự sống (When the Lord went out the light and the life went out, too!).
Ngược lại, chúng ta chỉ kinh nghiệm những biến động xôn xao như hôn quân Hêrôđê mà thôi! Tưởng rằng mình đang làm theo thánh ý Chúa, phân biệt tỏ tường đâu là lành thánh, đâu là sa đoạ, mà kì thực chỉ là ổn định trong những cái giả tạo, không muốn ra khỏi tổ kén của mình để có được sự thay đổi cần thiết. Cách đây ít lâu, tôi có cơ hội quen biết một doanh nhân danh tiếng, 50 tuổi đời, đã dời bỏ công việc nhiều lợi lộc của mình để trở thành một giáo viên quèn cho mấy đứa nhóc trong làng. Ông nói để có được ý nghĩa, tức một dấu ấn cho thế hệ tương lai. Ông muốn cuộc đời ông phải là một cái gì khác, giá trị hơn tiền bạc nhiều. Tôi lại gặp một thanh niên học thức, có bằng cấp cao, tốt nghiệp nhiều trường kỹ thuật, người ta đề nghị anh một vài vị trí béo bở trong các xí nghiệp, nhưng anh đã quyết định ghi tên vào chủng viện để trở thành mục sư cho giới trẻ. Người thứ ba là một goá phụ, bà đứng dậy từ đau thương của mình, thành lập một nhóm thăm viếng kẻ liệt, nhất là các tang gia, cống hiến cho họ một "ngôi sao", an ủi họ trong những giây phút đen tối và tuyệt vọng. Không giống Hêrôđê chỉ tra hỏi xuông về con trẻ Giêsu, những người này và muôn vàn linh hồn tốt lành khác đã quyết tâm bó gói lên đường dõi theo vì sao chỉ đạo bước vào cõi vô định, những miền đất xa xôi, những tương lai mờ mịt, đòi hỏi nhiều đổi thay và hy sinh. Tuy nhiên, cách nào đó, họ đã tìm thấy "Đấng cứu thế mới sinh" và dâng lên Ngài những lễ vật mọn hèn của lòng mình. Không liều lĩnh, họ chẳng có hạnh phúc như vậy.
Đến đây, một loại người lữ hành khác nẩy ra trong tâm trí tôi. Số là ban sáng tôi nhận được một gói bưu phẩm gởi từ địa phận Austin, Mỹ, do văn phòng mục vụ Tây Ban Nha chuyển. Trong gói đồ có lá thơ của Đức Giám Mục Thomas Wenski (phát ngôn viên của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ) về tuần lễ "Di dân ". Tuần lễ từ Chúa Nhật mồng 5 đến 11 tháng Giêng, 2003. Lá thơ cho biết: tổng số Di dân trên thế giới là hơn 15 triệu. Một con số khủng khiếp. Hầu hết phải tạm trú trong các lều vải và trước mắt chẳng có giải pháp khả thi nào để ổn định họ. Trong khi đó quốc hội Hoa Kỳ chỉ nhận 70 ngàn người cho năm 2002. Năm 2003 chỉ phỏng 40 ngàn.
Các người nhập cư hợp pháp cũng như bất hợp pháp phải trốn chạy khỏi quê hương mình vì lý do an minh hay đói khổ. Nhưng khi đến nước này lại bị các chủ nhân ông khai thác, bóc lột sức lao động. Các Giám mục nêu ra những khốn khổ của họ như tính dễ bị tổn thương, sợ hãi bị phát giác và trục xuất, xa cách gia đình lâu dài, bị các cư dân địa phương nghi ngờ, kì thị trong cách đối xử hay thù ghét, kể cả hành hung. Sau biến cố 11.9. 2001 hiện tượng bài ngoại gia tăng cường độ trên khắp nước Mỹ. Chủ đề của tuần lễ Di dân năm nay là: Tất cả anh chị em mới đến đều là quà tặng cho chúng ta. Rõ ràng chủ đề có liên quan chặt chẽ với ngày lễ hôm nay, và Đức giám mục Wenski đã muốn làm rõ tính kế thừa giữa các đạo sĩ cũ và mới. Phúc âm thách đố tín hữu Hoa kỳ nhìn thấy trong các di dân gương mặt của Chúa Giêsu và như vậy chấp nhận họ là ruột thịt với mình. Rất nhiều người nhập cư có đạo Công giáo, chia sẻ đức tin và trách nhiệm với chúng ta, làm cho giáo hội địa phương thăng tiến mạnh mẽ cả phẩm lẫn lượng. Nói chung, hầu hết những ai đến nước Mỹ để tìm kiếm tự do và cơ hội kinh tế tốt đều làm giàu cho quốc gia này rất nhiều. Một khi chúng ta gạt bỏ được sợ hãi, chúng ta sẽ thấy rõ điều đó, khỏi cần minh chứng.
Thường thường những di dân hoặc người tầm trú cảm thấy rất cô đơn trên đất lạ. Họ phải trải qua những kinh nghiệm tâm lý tai hại như nhút nhát, sợ sệt, sốc văn hoá, vật lộn để sống còn với các nhóm dân thiểu số khác, tranh dành viện trợ của các hội từ thiện, cộng đồng tôn giáo, hay của chính phủ. Vì thế, hội đồng Giám mục đề nghị thiết lập chương trình tiếp đón tại các giáo xứ. Nghĩa là, tại các giáo hội địa phương có những nhóm mục vụ, các uỷ ban phụng vụ, chăm lo bác ái, xã hội, công lý, đón tiếp ... để nâng đỡ những người mới đến. Mỗi địa phận cũng nên có văn phòng Di dân để chỉ đạo các hoạt động trên cho hiệu quả. Riêng về mục vụ các bí tích, thánh lễ phải được chú tâm đặc biệt hơn, bởi đa số di dân chưa thông thạo ngôn ngữ địa phương nơi họ đến cư ngụ. Cũng nên tổ chức các buổi viếng thămi, uống trà chung, huấn nghệ cho các thanh niên thiếu nữ để họ có thể dần dần tự lập và hội nhập với kinh tế, văn hoá chung. Tóm lại, nên giúp đỡ các người mới tới tối đa theo khả năng có thể, đừng để họ cảm thấy lẻ loi, bị bỏ rơi. Noi gương Các đạo sĩ, chúng ta dõi theo ngôi sao dẫn đàng, mạnh dạn bước tới những chân trời mới của lòng yêu thương, bác ái.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp đỡ chúng con nhận ra Chúa trong những thân phận lạc loài, những người di cư , các kẻ chạy trốn nghèo đói, chiến tranh, áp bức, truy nã...
Xin cho chúng con biết vui vẻ đón tiếp họ như đón tiếp chính Chúa. Xin cho chúng con nhận ra ơn Chúa trong họ, bất kể là ai phiêu bạt đến xứ sở này.
Giải phóng chúng con khỏi ích kỷ, sợ hãi và biết chia sẻ với họ nguồn tài nguyên phong phú Chúa ban cho đất nước chúng con, để một mai chúng con được nghe Chúa phán: "Nào những kẻ được Cha ta chúc phúc, hãy đến vui hưởng Vương quốc... vì xưa ta đói các ngươi đã cho ăn..." ( Mt 25).
Chúng con cầu xin trong danh thánh Chúa Cha, qua quyền năng Chúa Thánh thần. Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra những chi tiết tương phản lạ thường. Tương phản giữa Giêrusalem: HiểnLinh ABC42
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra những chi tiết tương phản lạ thường. Tương phản giữa Giêrusalem và Bêlem: Giêrusalem, thủ đô hoa lệ, trung tâm văn hoá chính trị của nước Do thái, nhưng đã khước từ, không đón tiếp Đấng Cứu thế. Trong khi đó, Bêlem, một thị trấn bé nhỏ, nghèo nàn lại là nơi đón tiếp Đấng Cứu thế hạ sinh. Tương phản giữa những người có đạo và những người ngoại đạo: Các bậc chức sắc thông thạo Kinh thánh, nhưng chỉ ngồi im tại kinh thành, không chịu lên đường, nên không gặp được Đấng Cứu thế. Trái lại, ba nhà đạo sĩ mà ta quen gọi là Ba Vua, là những người ngoại đạo, không am tường Kinh thánh, nhưng đã biết tìm tòi học hỏi, dấn thân lên đường, nên đã gặp được Chúa.
Tương phản giữa Vua giả và Vua thật: Hêrôđê được gọi là Vua, nhưng lại cứ nơm nớp lo âu, sợ mất ngai vàng, nên tìm cách tiêu diệt người khác.Trong khi đó, Đức Giêsu Kitô, Vua Trời lại thản nhiên bình an trong cảnh khó nghèo, mở rộng vòng tay đón tiếp mọi người xa gần.
Tất cả những tương phản ấy đáng cho ta suy nghĩ. Đấng Cứu thế không đến theo cơ chế, nhưng rất bất ngờ. Người không đến trong những cung điện sang trọng nhưng đến trong một chuồng bò tăm tối, hôi tanh. Người không đến trong quyền lực nhưng trong sự yếu đuối, khiêm nhường.
Tất cả những tương phản ấy khiến ta phải lo sợ. Không phải cứ có đạo là gặp đựơc Chúa. Không phải cứ giỏi giáo lý là biết Chúa. Muốn gặp được Chúa phải có thiện chí đi tìm. Muốn biết Chúa, phải dấn thân lên đường.
HiểnLinh ABClà những người ngoại đạo đến từ rất xa, nhưng đã trở nên gương mẫu cho ta trong việc đi tìm và hiểu biết Chúa. Các Ngài là những tâm hồn thiện chí. Là những tâm hồn thiện chí, luôn luôn khao khát điều lành, nên các Ngài luôn để tâm tìm kiếm. Đêm đêm ngước mắt lên trời cố dò tìm dấu vết thần linh. Chắc chắn không phải chỉ trong phút chốc mà các Ngài phát giác ra ngôi sao lạ, nhưng phải trải qua nhiều năm tháng kiên trì chiêm ngắm bầu trời, cặn kẽ theo dõi đường chuyển dịch của các vì tinh tú, các Ngài mới có thể nhận biết ngôi sao lạ khi nó xuất hiện.
Việc đi theo ngôi sao lạ cũng không giản đơn. Trước hết việc lên đường đòi phải ra khỏi nhà, giã từ những tiện nghi dễ chịu, từ bỏ những sinh hoạt quen thuộc, chấp nhận những thiếu thốn, những nguy hiểm, những bất tiện trên đường đi. Thiện chí của các Ngài rất cao, nên khi ngôi sao biến mất, các Ngài vẫn không nản lòng bỏ cuộc, nhưng tìm mọi cách vượt qua khó khăn, tìm mọi cách để đến gặp được Chúa. Chúa đã chúc lành cho thiện chí của các Ngài, nên đã cho các Ngài được gặp Chúa.
Đời sống chúng ta là một cuộc đi tìm Chúa. Trong cuộc đi tìm, ta phải có thiện chí như Ba Vua, biết dấn thân lên đường, biết phấn đấu chấp nhận hy sinh gian khổ, biết kiên trì không nản lòng bỏ cuộc khi gặp thử thách.
HiểnLinh ABCkhông thể đến với Chúa nếu không có ngôi sao dẫn đường. Hôm nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta là một ngôi sao lạ, loan báo tình thương của Chúa, đưa dẫn những tâm hồn thiện chí đến với Chúa. Hãy là ngôi sao sáng trong đời sống công bình. Hãy chiếu sáng đức thương yêu của Chúa. Hãy toả ánh sáng ấm áp tình người. Qua những làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và tìm về với Thiên chúa là ánh sáng chân thật.
Để kết thúc, tôi xin kể một câu chuyện có thật. Một buổi chiều, một người lái xe con đi trên con đường miền núi vắng vẻ. ở một khúc quanh, người ấy phát hiện một gia đình bị hỏng xe. Đường vắng, trời tối, họ lo âu sợ hãi vì đó là đoạn đường thường xảy ra cướp bóc. Biết sửa chữa xe , nên người ấy đỗ xe, xuống giúp sửa chữa. Xe hỏng nặng. Người ấy phải chui vào gầm xe, tháo ra từng bộ phận. Tối mịt xe mới nổ máy. Cả gia đình mừng rỡ, muốn trả công cho người ấy. Nhưng người ấy không lấy công. Cả gia đình cám ơn rối rít và xin địa chỉ hẹn ngày lên thăm. Khi lên thăm, gia đình mới biết đó là một vị giám mục. Gia đình đem lòng cảm phục và xin theo đạo cả nhà. Vị Giám mục ấy chính là 1đức cha o cao nguyen Trung phan vào những năm 60.
Nhân dịp đầu năm mới, tôi xin cầu chúc tất cả anh chị em có một đời sống đạo trong sáng như ngôi sao sáng để đưa dẫn nhiều tâm hồn về với Chúa.
CÂU HỎI GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ
1. HiểnLinh ABCthiện chí ở những điểm nào ? 2. Bạn có gặp thử thách trong đời sống đạo không ? Khi gặp thử thách, bạn đã ứng xử thế nào ? 3. Theo bạn, cách nào hữu hiệu nhất để làm chứng cho Chúa: giảng giáo lý, tranh luận, sống bác ái ? 4- Tuần này, bạn quyết tâm làm gì để thực hành Lời Chúa ?
Một người bị rơi xuống một thung lũng sâu tối tăm. Ông ta cố gắng tìm cách để trèo lên nhưng: HiểnLinh ABC43
Một người bị rơi xuống một thung lũng sâu tối tăm. Ông ta cố gắng tìm cách để trèo lên nhưng quá khó khăn không thể tự mình trèo lên để ra khỏi cái hang tối tăm đó. Khổng Tử đi ngang qua nhìn thấy người đó ở dưới thung lũng bèn nói, "Thật đáng tiếc, giá nó nghe lời giáo huấn khôn ngoan của ta thì nó đâu có phải rơi xuống cái thung lũng tối tăm đó!" Và rồi đức Khổng Tử tiếp tục lên đường.
Sau đó thì Đức Phật đi ngang qua và cũng trông thấy người đó dưới thung lũng bóng tối. Đức Phật liền nói, "Thật tội nghiệp giá hắn ta lên được trên này có thể ta sẽ giúp đỡ hắn." Và sau đó thì Đức Phật cũng tiếp tục lên đường. Sau cùng thì Đức Giêsu đi ngang qua. Ngài nhìn thấy người đàn ông cố gắng trong vô vọng và bất lực dưới thung lũng tối tăm. Ngài thương cảm và liền nhẩy xuống để cứu ông ta lên.
(Jack Mcardle "Incarnation", 150 More Stories for Preachers and Teachers # 98).
Ý Nghĩa Hiển Linh
Lễ Hiển Linh có nghĩa là ngày lễ kỷ niệm việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho nhân loại qua việc Chúa Giêsu Kitô sinh xuống làm người ở giữa nhân loại. Tiên tri Isaiah trong bài đọc thứ nhất công bố rằng Thiên Chúa sẽ xuất hiện cách rõ ràng sáng tỏ. Vinh quang của Thiên Chúa sẽ xuất hiện và chư dân sẽ tìm về sự sáng. Tất cả sẽ tuyên rao lời ca ngợi Chúa. Bài trích thư gởi tín hữu Ephêsô trong bài đọc hai xác nhận rằng những lời tiên tri và mặc khải của Thiên Chúa đã được thực hiện nơi Đức Giêsu Kitô. Ngài là nguyên nhân cho sự đoàn kết hợp nhất của mọi dân tộc. Bài Phúc âm kể lại câu truyện ba nhà Đạo sỹ từ Đông phương nhận ra ngôi sao lạ, và họ đã tìm đến Giêrusalem hỏi thăm, "Vua người Do Thái mới sinh ra hiện đang ở đâu?" Họ đã tìm đến để thờ lạy tôn phục và dâng lên Người lễ vật của họ bởi vì họ đã lâu ngày dầy công tìm hiểu và họ nhận ra danh tánh của Hài Nhi Giêsu nơi Bethlehem là ai.
Thiên Chúa Hiện Diện
Văn hóa thời xưa nhận ra Thiên Chúa và quyền lực của Ngài qua thiên nhiên, nơi bão gió, sắm sét, mặt trời, mặt trăng và tinh tú sao trời, cây cối cổ thụ, sông núi biển khơi. Nhiều nơi tôn thờ thần núi, thần sông, thần cây, thần cá, thần đá. . . Những người Hy Lạp và La mã cổ xưa tìm Thiên Chúa qua những huyền bí và những giấc mơ thần tiên. Văn hóa Đông phương tìm Thiên Chúa qua năng lực của tâm lý linh thiêng nơi con người, và qua vận mệnh tướng số. Người Do Thái tôn thờ một Thiên Chúa qua lịch sử của dân tộc. Và từ Do Thái Giáo, Kitô giáo trở nên một tôn giáo có đặc tính riêng tin tưởng rằng Thiên Chúa đã bày tỏ chính Ngài qua việc Đức Giêsu Kitô sinh hạ làm người. Qua nhiều thời đại, con người đã suy nghĩ tìm hiểu lý do và ý nghĩa của việc Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Nhưng Mầu nhiệm Đức Giêsu Con Thiên Chúa xuống thế làm người chỉ có thể hiểu được qua lăng kính tình yêu. Đức Giêsu Kitô là dấu chứng của tình yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại. Ngài thương yêu nhân loại và Ngài xuống thế làm người để cứu nhân loại. Chúng ta có nhận ra Đấng Cứu Thế và tình yêu của Ngài dành cho chúng ta hay không?
Thấy Hài Nhi Khi những nhà đạo sỹ đến Bethlehem và nhìn thấy Hài Nhi Giêsu, chắc hẳn họ đã không nhìn thấy một em bé có hào quang lộng lẫy và ánh sáng tỏa chiếu khác thường để nói cho họ biết đó là Vua trời đất và là Con Thiên Chúa. Trái lại bằng con mắt nhân loại, họ cũng chỉ nhìn thấy Chúa Giêsu Hài Đồng như một em bé đơn sơ yếu đuối, bọc trong khăn nằm trong máng cỏ. Họ chỉ nhận ra Hài nhi Giêsu là Con Thiên Chúa, là ánh sáng thế gian nhờ con mắt của đức tin.
Chúng ta thấy có một sự liên hệ gần gũi thật đẹp với những nhà Đạo Sỹ. Họ đại diện cho chúng ta là những người ở các thế hệ sau vẫn tiếp tục trong cuộc hành trình đức tin đi tìm gặp Đấng Cứu thế. Từ đâu đó lóe lên trong chúng ta một sự hiểu biết và một ước muốn đi tìm chân lý. Chúng ta cũng là những người đang nhìn và bước đi trong ánh sáng đức tin trong mọi nẻo đường của cuộc đời, khi vui cũng như khi buồn, khi cô đơn đau khổ cũng như lúc hạnh phúc vui tươi; khi thành công cũng như lúc thất bại; khi khỏe mạnh cũng như lúc yếu đau. Chúng ta đang là những nhà đạo sỹ, những người khôn ngoan của thời đại đi tìm gặp Đấng Cứu Thế và làm sáng tỏ sự hiện diện của Ngài trong thế giới. Chúng ta có vai trò phải đóng và nghĩa vụ phải chu toàn; đó là làm sáng tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi nẻo đường của cuộc sống bằng cách luôn biết tìm hiểu và đón nhận Ngôi Lời của Thiên Chúa. Thiên Chúa cần sự cộng tác của chúng ta để tiếp tục công việc của Ngài. Thêm vào đó, những nhà Đạo Sỹ khôn ngoan đã không đến gặp Chúa với đôi bàn tay trắng, nhưng họ đã đến với những lễ vật đặc biệt quý giá biểu tượng cho sự dấn thân và quy phục của họ đối với Con Thiên Chúa. Chúng ta cũng có thể dâng lên Thiên Chúa lễ vật bằng sự dấn thân hy sinh của chính chúng ta và những sản vật do tay chân và công sức của chúng ta để nói lên sự quy phục đối với Đức Kitô Đấng Cứu Thế của chúng ta.
Lời Mời Gọi của Lễ Hiển Linh
Do đó, Lễ Hiển Linh không phải là chỉ là lễ nói lên tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại mà thôi; trái lại lễ Hiển Linh cũng còn là một lời mời gọi chúng ta chiếu tỏa tình yêu của Thiên Chúa nơi cuộc sống của mỗi người. Là con cái của Thiên Chúa và là anh chị em của Đức Giêsu, chúng ta được kêu gọi trở nên chính sự bày tỏ của tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa là Tình yêu. Do đó bằng một cách nào đó, tất cả mọi tình yêu đều bày tỏ Thiên Chúa. Đây chính là lý do và ý nghĩa làm Kitô hữu: Bày tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa qua việc chúng ta dấn thân quyết tâm sống yêu thương. Thiên Chúa vẫn luôn luôn vô hình cho tới khi được chúng ta bày tỏ Ngài qua những cử chỉ và lối sống yêu thương của chúng ta đối với nhau.
Bạn và tôi chúng ta có bằng lòng chấp nhận cái ách làm Kitô hữu như thế hay không? Chúng ta có bằng lòng làm cho sự hiện diện của Thiên Chúa được bày tỏ qua lối sống yêu thương hay không?
Để sửa soạn cho việc con Thiên Chúa ra đời cứu nhân độ thế, Thiên Chúa đã chọn một dân tộc làm: HiểnLinh ABC44
Để sửa soạn cho việc con Thiên Chúa ra đời cứu nhân độ thế, Thiên Chúa đã chọn một dân tộc làm dân riêng để làm máng chuyển ơn cứu độ cho các dân tộc khác. Trải qua suốt dòng thời gian cựu ước, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri, các tổ phụ để biểu lộ cho dân được chọn về bản tính và quyền năng của Thiên Chúa, cũng như thử thách họ để luyện lọc thanh tẩy đức tin của họ. Tuy nhiên không phải vì thế mà các dân tộc khác phải đứng ngoài chầu rìa cho tới muôn kiếp. Vì thế mà có câu chuyện HiểnLinh ABCđi tìm Chúa mới giáng sinh. Và muốn tìm hiểu về Chúa giáng sinh, các nhà đạo sĩ mà ta quen gọi là HiểnLinh ABCđã phải tìm đến với dân tộc mà Thánh kinh được mạc khải cho họ. Trước hết họ đến thủ đô Giê-ru-sa-lem để yết kiến triều đình nhà vua. Tuy nhiên họ đã hỏi lầm người. Vua Hê-rô-đê vì sợ mất ngai vàng đã toan âm mưu đánh lừa họ.
Cái thái độ và mục đích của việc HiểnLinh ABCđi tìm Đấng cứu thế mới sinh đáng cho ta chú ý. Họ thành tâm đi tìm Chúa chứ không lừa đảo như Hê-rô-đê. Theo phong tục Á đông, họ đến để thờ lạy Đấng cứu thế mới sinh. Kính bái và thờ lạy thường được dành cho người mà ta coi là vĩ đại, cao trọng và quyền thế. Ta biết vua chúa thì thường sinh ra nơi cung điện huy hoàng. Ở đây Chúa cứu thế chọn sinh ra nơi hang bò lừa, có thể là hôi hám, chứ không đẹp như ta thấy trang hoàng, trong nhà thờ mùa giáng sinh. Vậy thì làm sao HiểnLinh ABCcó thể quì xuống thờ lạy một Hài nhi mới sinh nơi hang bò lừa? Đâu là cái dấu hiệu để ba nhận ra Hài nhi mới sinh trong hang bò lừa là Đấng cứu thế? Theo Thánh kinh thì cái dấu hiệu là ngôi sao lạ chỉ đường. Việc Đấng cứu thế giáng sinh tại Bê-lem đã được tiên tri Mi-ca loan báo cả ngàn năm trước. Vậy làm sao khi Đấng cứu thế sinh ra, mà dân được chọn không nhận ra? Lý do là vì họ mong đợi Đấng cứu thế đến trong uy quyền vinh quang, nên khi Người chọn sinh ra tại hang bò lừa, họ không nhận ra Người.
Thường người ta dùng những dấu hiệu và biểu tượng bề ngoài để biểu lộ tâm tình và lòng tin tưởng bên trong. Vậy ta cần tìm hiểu xem HiểnLinh ABCđã dùng những biểu tượng nào để bày tỏ tâm tình với Đấng cứu thế mới sinh? Phúc âm hôm nay thuật lại: Họ quì sụp xuống bái lậy Người và dâng cho Người những lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng tượng trưng cho vương quyền. Khi dâng vàng cho Đấng cứu thế mới sinh, HiểnLinh ABCmặc nhiên công nhận cái vương quyền của Đấng cứu thế. Nhũ hương là một tặng phẩm chỉ được dùng dâng lên Thiên Chúa. Bằng cách dâng hương , họ thừa nhận thiên tính của Đấng cứu thế. Mộc dược được dùng để ướp xác trong khi chôn cất. Khi dâng mộc dược, họ công nhận cái bản tính loài người của Đấng cứu thế.
Người Công giáo dùng những biểu hiệu và biểu tượng trong khi thờ phượng. Những tác động như: đứng, ngồi quì, chắp tay, cúi đầu, làm dấu thánh giá... là những biểu hiệu giúp khơi dậy trong ta những tâm tình thích hợp. Chỉ nguyên cái vị thế của thân người cũng diễn tả được cái gì mà không cần lời nói. Việc quì gối cầu nguyện biểu lộ cái tâm tình khiêm tốn, nói lên cái tâm trạng yếu hèn của loài người, là cần dựa vào Chúa. Vậy là người công giáo, ta cần trả lời cho những câu hỏi liên quan đến việc thờ phượng như: Tại sao quì gối? Tại sao đứng? Tại sao ngồi? Tại sao bái quì? Tại sao cúi đầu? Tại sao làm dấu thánh giá?...
Người công giáo phải coi thánh lễ là trung tâm điểm của đời sống người. Nói như vậy có nghĩa là cả tuần ta bận rộn với công ăn việc làm, với việc gia đình và cá nhân. Mỗi tuần ta dành cho Chúa vỏn vẹn có một giờ vào Chúa nhật. Ta đến nhà thờ để được bồi dưỡng bằng của ăn thiêng liêng là Lời Chúa và Mình Thánh Chúa. Cuối tuần khi kiệt sức về thể xác cũng như tinh thần, ta lại đến nhà thờ để được bổ dưỡng và tăng sức bằng Lời Chúa và Mình Thánh Chúa...
Hôm nay lễ Ba Vua. Phúc Âm chỉ nhắc đến ba vị vua. Thế nhưng văn sĩ Joergernen người Đan: HiểnLinh ABC45
Hôm nay lễ Ba Vua. Phúc Âm chỉ nhắc đến ba vị vua. Thế nhưng văn sĩ Joergernen người Đan Mạch thì lại tưởng tượng ra một vị vua thứ tư. Vị vua thứ tư này đến chầu Chúa Giêsu sau ba vị vua khác. Triều bái Hài Nhi Giêsu nhưng mặt ông tiu nghỉu bởi vì ông không còn gì để dâng tặng Ngài.
Trước khi lên đường, ông chọn ba viên ngọc quý nhất trong kho tàng của ông, thế những dọc đường gặp bất cứ ai xin, ông cũng mang ra tặng hết. Người thứ nhất mà ông đã gặp là một cụ già rét run vì lạnh. Động lòng trắc ẩn, ông đã tặng cho cụ viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường nữa, ông gặp một toán lính đang làm nhục một cô gái. Ông đành mang viên ngọc thứ hai ra thương lượng với chúng để chuộc lại cô gái. Cuối cùng khi tiến vào địa hạt Bêlem, ông gặp một người lính do vua Herôđê sai đi để tàn sát các hài nhi trong một ngôi làng lân cận. Vị vua thứ tư đành phải rút ra viên ngọc cuối cùng để tặng cho người lính và thuyết phục anh từ bỏ ý định gian ác.
Tìm được Hài Nhi Giêsu, vị vua thứ tư chỉ còn hai bàn tay trắng. Ông bối rối kể lại cuộc hành trình của mình. Nghe xong câu chuyện, Hài Nhi Giêsu mỉm cười đưa bàn tay bé nhỏ ra đón nhận quà tặng của ông. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng là tấm lòng vàng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân, nhất là những người túng thiếu, đói khổ, những người cần giúp đỡ.
Mùa Giáng Sinh là mùa của những bất ngờ. Bất ngờ của một Thiên Chúa hóa thân làm người. Bất ngờ của một thiên Chúa giáng hạ trong hang súc vật. Bất ngờ sự việc những người nghèo hèn nhất trong xã hội đã nhận ra Tin Mừng. Bất ngờ của những người dân ngoại tìm đến triều bái Vua các vua. Nhưng điều khiến con người sẽ không bao giờ ngờ đến: đó là Đấng Thiên Chúa hóa thân làm người ấy lại tự đồng hóa với mỗi một con người sinh ra trên cõi đời này, nhất là những con người bé mọn nhất trong xã hội. Ngài đã nói: tất cả những gì các người làm cho một trong những kẻ bé mọn nhất là các người làm cho chính Ta. Từ đây, người ta chỉ có thể gặp gỡ được Ngài qua tha nhân. Tất cả những gì người ta làm cho tha nhân là làm cho chính Ngài. Lễ dâng làm đẹp lòng Ngài nhất chính là những gì người ta trao tặng cho tha nhân, nhất là những người nghèo hèn túng thiếu hay bất cứ ai cần sự giúp đỡ. Trích Lẽ Sống Chân Lý Á Châu
Đó là “các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân: HiểnLinh ABC46
Đó là “các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa”. Điều Thánh Phao-lô khẳng định trong thư Ê-phê-xô 3, 6 đã được ngôn sứ Isaia báo trước cả bao thế kỷ ( Is 60,1 – 6 ) và được chính Đức Giê-su thực hiện ngay khi Ngài sinh ra làm người ( Mt 2, 1 – 12 ). Câu chuyện ba nhà chiêm tinh ( thường được gọi là HiểnLinh ABC) đến bái yết và dâng của lễ cho Hài Nhi Giê-su có nghĩa là Ơn Cứu Độ, Đấng Cứu Độ không chỉ được dành riêng cho người Ítraen mà được dành cho mọi dân tộc trên thế gian này. Ít-ra-en chỉ là cái cầu, là trạm đầu dừng chân của Con Thiên Chúa, để Người đến với lương dân ( Ad Gentes ). Chính Đức Giê-su khi rao giảng Tin Mừng ở Pa-lét-tin cũng đã nhiều lần khẳng định điều ấy.Ví dụ khi nói về vai trò mục tử của mình Đức Giê-su đã tuyên bố:
“Tôi còn có những con chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” ( Ga 10, 16 ). Những con chiên khác không thuộc ràn này là những người không phải là dân Ít-ra-en theo huyết thống, mà là mọi dân tộc trên thế giới. Họ cũng là con cái của Chúa và Chúa đến để quy tụ, tập họp tất cả mọi người, mọi dân thành một dân duy nhất, là Dân Mới của Thiên Chúa.
2. NỖI BỨC XÚC CỦA ĐỨC THÁNH CHA GIO-AN PHAO-LÔ II TRƯỚC NGÀN NĂM THỨ BA:
Ý thức được tầm quan trọng và tính cấp bách của việc rao giảng Tin Mừng cho nhân loại trong thiên niên kỷ thứ ba, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đã cho tổ chức mừng kỷ niệm 2.000 năm biến cố Chúa Giê-su xuống thế làm người và sinh ra là một con người vào năm 2000 vừa qua. Để chuẩn bị cho Năm Thánh 2000 ấy. Đức Thánh Cha đã lần lượt tổ chức các Thượng Hội Đồng Giám Mục mỗi châu lục: Mỹ, Phi, Âu, Á để các Giám Mục địa phương cùng với Đức Thánh Cha và các vị có trách nhiệm ở Giáo Triều Rô-ma nghiên cứu, tìm tòi, trao đổi, cầu nguyện để tìm cách trình bày Giáo Lý và Tin Mừng một cách thích hợp nhất của con người thời nay. Nhờ đó các Giáo Hội Mỹ, Phi, Âu, Á ý thức hơn về nhiệm vụ năng nề và các thách đố lớn lao đang được đặt ra cho mình trong lãnh vực Truyền Giáo.
3. NỖI NHỨC NHỐI CỦA NGƯỜI KI-TÔ HỮU Á CHÂU: ĐỨC GIÊ-SU LÀ NGƯỜI Á CHÂU NHƯNG CÒN XA LẠ VỚI NHIỀU NGƯỜI Á CHÂU:
Riêng các Giáo Hội Á Châu đã có Thượng Hội Đồng Giám Mục về Á Châu được tổ chức từ ngày 19.4 đến ngày 14.5.1998 với chủ đề: “Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu chuộc và sứ mạng yêu thương và phục vụ của Ngài tại Á Châu: Để họ được sống và sống dồi dào" ( Ga 10,10 ). Sau đó vào ngày 6.11.1999 tại New Delhi ( Ấn-độ ), Đức Gio-an Phao-lô II đã công bố Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á ( Ecclesia in Asia ). Trong Thượng Hội Đồng Giám Mục quan trọng này các Giám Mục tham dự đã bày tỏ nỗi nhức nhối riêng của mình và của các Ki-tô hữu Á Châu, nỗi nhức nhối đã được chính Đức Thánh Cha nhắc lại trong Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á: “Theo ý kiến của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng, những khó khăn còn tăng thêm vì Đức Giê-su thường được cho là xa lạ với Châu Á. Thật là nghịch lý khi nhiều người Á châu có khuynh hướng nhìn Đức Giê-su như là một người Tây Phương hơn là một người Á Châu dù Ngài đã sinh ra trên chính mảnh đất Á Châu” ( số 20 ).
4. LÀM THẾ NÀO ĐỂ ĐỒNG BÀO VIỆT NAM NHẬN BIẾT VÀ XƯNG TỤNG CHÚA GIÊ-SU LÀ NGƯỜI “Á CHÂU” VÀ LÀ CỨU CHÚA ?
4.1 Trước tiên phải làm sao để nỗi nhức nhối chung của người Ki-tô hữu Á Châu nói trên trở thành nỗi nhức nhối riêng của các Giám Mục, Linh Mục, Tu Sĩ Nam Nữ và Giáo Dân Việt Nam. Thật ra nếu suy nghĩ cho đến nơi đến chốn, chúng ta còn phải có một nỗi nhức nhối khác nữa: Là con cháu của 117 Vị Thánh Tử Đạo và của hàng chục ngàn người Việt Nam đã chết vì Đạo, chúng ta có trách nhiệm rất lớn trong việc bảo vệ và truyền bá Đức Tin cho đồng bào Việt Nam. Có lẽ trong khoảng hơn 50 năm qua ( tính từ 1954 ) chúng ta đã kiên cường bảo vệ Đức Tin chống lại các đợt bách hại từ bên ngoài. Đó là một nét son của Giáo Hội Việt Nam, cách riêng của Giáo Hội Miền Bắc ( kể từ vĩ tuyến 17 trở ra ). Nhưng có lẽ chúng ta chưa chú tâm đủ đến việc truyền bá Đức Tin cho các thế hệ kế tiếp và cho lương dân là đồng bào ruột thịt của chúng ta! Có thể trong những thập niên vừa qua, chúng ta bị giới hạn quá nhiều trong các sinh hoạt tôn giáo.
4.2 Theo tôi có lẽ Giáo Hội Việt Nam nên khơi lên một Phong Trào về Truyền Giáo sâu rộng trong các giáo xứ, giáo phận và trong các hội đoàn Công Giáo tiến hành cũng như trong các hiệp hội gia đình và các Dòng Tu. Chúng ta nên đầu tư tài chánh, khả năng, nhân sự... vào công cuộc cao cả và cực kỳ quan trọng này, ít là tương đương với việc chúng ta đầu tư vào việc xây cất Thánh Đường, mở rộng cơ sở Dòng Tu. Tại sao chúng ta không bắt chước kinh nghiệm quý báu của Giáo Hội Hàn Quốc ?
Giáo Hội này có hai kinh nghiệm mà chúng ta nên học tập. Kinh nghiệm thứ nhất: Giáo Hội Hàn Quốc đã có một Chiến Lược Truyền Giáo tuyệt diệu như sau: mỗi người Công Giáo Hàn quốc, – bất kể nam nữ, già trẻ – phải tìm cách kết thân, kết nghĩa với một người không Công Giáo, coi người đó như anh chị em ruộc thịt của mình, thường xuyên lui tới trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ khi có dịp ? Từ sự gần gũi và quan tâm vô vị lợi của nhiều người Công Giáo Hàn Quốc ấy, nhiều người không Công Giáo đã hiểu thế nào là người có Đạo và nhiều người đã tìm hiểu và gia nhập Giáo Hội. Kinh nghiệm tuyệt vời thứ hai mà chúng ta nên suy nghĩ: Giáo Hội Hàn Quốc chính thức sai ( mandat ) một số giáo dân, trong đó có những cặp vợ chồng đi truyền giáo. Họ là những người tình nguyện nhưng được Giáo Hội đào tạo và nâng đỡ tinh thần, đôi khi cả vật chất nữa, để có thể sống tại môi trường mới và làm chứng cho Tin Mừng và xây dựng cộng đoàn Đức Tin.
4.3 Muốn được như thế có lẽ không thể không nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc học hỏi và đào sâu Thánh Kinh, Giáo Lý, Công Đồng. bằng các khóa đào tạo, các hội nghị, các buổi thuyết trình và thảo luận, các đợt tĩnh tâm, các chuyến đi truyền giáo. Cũng cần phải trang bị một số kỹ năng cần thiết cho giáo dân, để họ biết cách tiếp xúc với anh em chị ngoài Công Giáo, mà không mặc cảm và không gây tác động ngược.
Mới đây tôi có dịp tham dự một buổi sinh hoạt thuộc Khóa Huấn Luyện về Truyền Giáo của linh mục đặc trách Truyền Giáo của Giáo Phận Cần Thơ. Tham dự viên là khoảng 40 – 50 Giáo Dân nam nữ của một số Giáo Xứ thuộc thành phố Cần Thơ và vùng lân cận. Các học viên được học cả lý thuyết tức Giáo Lý, Thánh Kinh lẫn các Phương Pháp Thực Hành. Tôi cho rằng những Khóa Huấn Luyện như vậy rất hữu ích và cần thiết. Nhưng tại sao các Giáo Xứ, Giáo Phận khác, tại sao các Hội Đoàn của chúng ta không mở các Khóa Huấn Luyện tương tự ? Tại chúng ta thiếu nhân sự, tài chánh hay tại chúng ta chưa yêu Chúa và đồng bào mình cho đủ mạnh ?
Đối với tôi, cách mừng Lễ Hiển Linh một cách ý nghĩa nhất là tôi tìm đến và kết thân với một hai anh chị em ngoài Công Giáo sống bên cạnh nhà tôi hay trong cùng môi trường lao động nghề nghiệp với tôi.
Lạy Chúa Cha yêu thương, chúng con cảm tạ Cha về Mầu Nhiệm Hiển Linh mà Cha đã mặc khải trong Đức Giê-su Ki-tô, Con Cha, Chúa chúng con
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa đã tỏ mình ra cho ba nhà chiêm tinh Phương Đông, vì Chúa đến trần gian này là để gặp gỡ và cứu độ hết mọi người và đem mọi người vào trong mái ấm của nhà Cha. Xin Chúa thứ tha cho chúng con vì bấy lâu nay chúng con không quan tâm đến việc làm cho những người xung quanh chúng con gặp gỡ và nhận biết Chúa. Từ này xin Chúa hãy dùng chúng con như những dấu chỉ và công cụ của Chúa để làm cho anh chị em lương dân gặp gỡ và nhận biết Chúa.
Lạy Chúa Thánh Thần, ba nhà chiêm tinh Phương Đông đã lên đường tìm kiếm Chúa Giê-su mới sinh ra, nhờ có ánh sao soi đường dẫn lối. Xin Chúa soi sáng và hướng dẫn các tâm hồn thành tâm thiện chí để họ gặp được Chúa Giê-su Cứu Độ và nhìn nhận, tùng phục và yêu mến Ngài !
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy ba hạng người khác nhau với ba thái độ khác nhau đối với: HiểnLinh ABC47
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy ba hạng người khác nhau với ba thái độ khác nhau đối với Đức Giê-su mới sinh ra.
Trước hết là các nhà chiêm tinh đến từ Phương Đông, sau là các thượng tế và kinh sư tại Giê-ru-sa-lem, và cuối cùng là vua Hê-rô-đê. THÁI ĐỘ CỦA CÁC NHÀ CHIÊM TINH ĐÔNG PHƯƠNG
Các nhà chiêm tinh được nói đến như những người thuộc dân ngoại, không phải là người Do-thái Giáo. Họ đại diện cho các dân tộc, các quốc gia trên thế giới đến thờ lạy Đức Giê-su, Đấng trong tương lai và vĩnh cửu sẽ là vua của toàn thể thế giới và vũ trụ. Thái độ của các nhà chiêm tinh là thái độ của những người tìm kiếm, khắc khoải đối với Thiên Chúa, với tha nhân, với chân lý, công lý và tình thương. Và chính vì họ quyết tâm lên đường và ra công tìm kiếm nên họ đã gặp, đúng như Đức Giê-su nói: “Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho” ( Mt 7, 8 ). Khi ngôi sao biến mất, việc tìm kiếm bị thử thách, họ không nản chí bỏ cuộc, vẫn tiếp tục tìm kiếm, vì họ đã quyết tâm và hết lòng tìm kiếm: “Các ngươi tìm Ta thì các ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi hết lòng tìm kiếm Ta” ( Gr 29, 13 ); “Kẻ yêu Ta sẽ được Ta yêu lại, người tìm Ta ắt sẽ gặp Ta” ( Cn 8, 17 ). THÁI ĐỘ CỦA CÁC THƯỢNG TẾ VÀ KINH SƯ TẠI GIÊ-RU-SA-LEM
Các thượng tế và kinh sư Do-thái là những bậc thông thái, hiểu biết Kinh Thánh, thông thạo các lẽ đạo của tôn giáo chân chính do chính Thiên Chúa thiết lập. Vì thế, họ đại diện cho những người có chính đạo. Họ là những người có Kinh Thánh trong tay, nắm vững những kiến thức thần học, họ rao giảng và bảo vệ chân lý của Thiên Chúa. Nhưng khi Đức Giê-su đến, những hiểu biết rộng rãi và sâu xa của họ chẳng giúp ích gì cho họ trong việc tìm gặp Ngài. Họ biết rất rõ Đấng Cứu Thế sinh ra tại Bê-lem, vì Kinh Thánh cho biết như thế. Nhưng họ biết để mà biết, để mà dạy người khác, để mà tự hào rằng mình hiểu biết, chứ không phải biết để áp dụng vào đời sống, để đem ra thực hành. Vì thế, cái biết của họ trở nên vô ích cho họ. Cũng vậy, rất nhiều Ki-tô hữu hiểu biết rất sâu xa về Thiên Chúa, về chân lý, nhưng họ biết chỉ để biết, để khoe, để dạy người khác, để rao giảng, chứ không phải để áp dụng sự hiểu biết ấy vào đời sống thực tế. Vì thế, sự hiểu biết ấy không đem lại sự cứu rỗi cho họ. Đức Giê-su nói: “Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà trên đá... Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát” ( Mt 7, 24.26 ). “Mẹ tôi và anh em tôi chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” ( Lc 8, 21 ); “Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em” ( Ga 13, 17 ); “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” ( Lc 11, 28 ). Dụ ngôn người gieo giống ( Lc 8, 11 – 15 ) cho thấy những người nhận được Lời Chúa mà không đem áp dụng vào đời sống thực tế cũng giống như những mảnh đất “vệ đường”, đầy “đá sỏi”, đầy “bụi gai”, khiến Lời Chúa không phát triển được. Còn những ai đem Lời Chúa ra thực hành, giống như mảnh đất mầu mỡ khiến Lời Chúa sinh hoa kết trái. BÀI HỌC CHO NHỮNG AI ĐANG THEO CHÍNH ĐẠO
Câu chuyện về hai mẫu người trên cho chúng ta bài học quý giá. Những người tưởng rằng mình đang nắm được Thiên Chúa cùng với chân lý, công lý và tình thương trong tay, đồng thời ngủ say và an tâm trong sự lầm tưởng ấy, họ sẽ chẳng bao giờ gặp được Ngài và thực thi được những giá trị kia. Vì Thiên Chúa, chân lý, công lý và tình thương là những thực tại sống động, không phải thứ đồ vật tĩnh lặng có thể nắm được trong tay, nên chỉ có thể tìm kiếm và gặp được trong từng thời điểm, chứ không thể nắm bắt một lần cho mãi mãi. Cho nên muốn gặp Thiên Chúa, muốn sống trong chân lý, công lý và tình thương, ta phải không ngừng lên đường tìm kiếm, ra sức thực hiện trong từng thời điểm. Ngừng tìm kiếm, ngừng nỗ lực, thì những thực tại cần thiết ấy sẽ vuột khỏi ta ngay, và sự ngừng nghỉ ấy sẽ tạo cho ta một ảo tưởng rằng mình đang nắm được Thiên Chúa, chân lý, công lý và tình thương ở trong tay. Trong khi ấy, thực tế là ta đang xa rời Thiên Chúa và thường hành động ngược lại với chân lý, công lý và tình thương. Thật vậy, những ai dù đang theo chính đạo, tự hào tự mãn về chính đạo của mình, tưởng mình đang nắm được chân lý trong tay, nhưng trong thực tế lại không sống đạo của mình, lại còn khinh chê người khác, họ sẽ trở thành những kẻ tự lừa dối chính mình: “Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” ( Gc 1, 22 ). Những ai chỉ biết rao giảng Lời Chúa cho người khác, còn chính bản thân mình lại không thèm áp dụng, hãy lo ngại cho số phận mình như thánh Phao-lô: “Tôi phải bắt thân thể tôi chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại bỏ” ( 1 Cr 9, 27 ). Chuyện các nhà chiêm tinh – mà truyền thống Giáo Hội coi là đại diện cho người ngoại và các dân tộc – cho thấy: dù là người ngoại giáo hay không có tôn giáo chân chính, nhưng nếu người ta thật sự nỗ lực tìm kiếm Thiên Chúa thì họ sẽ gặp được Ngài, nếu thật sự muốn thực thi chân lý, công lý và tình thương thì họ sẽ thực hiện được. Còn những người có tôn giáo chân chính, nhưng lại thờ ơ với việc tìm kiếm Thiên Chúa, với việc thực thi chân lý, công lý và tình thương, người ấy sẽ chẳng gặp được Ngài, và trong người ấy không có chân lý, công lý và tình thương. Tôn giáo chân chính được ví như một chiếc xe hơi tốt, có thể giúp ta đi đến nơi cần đến một cách an toàn, nhanh chóng và bảo đảm. Còn các tôn giáo khác như những loại xe kém hơn. Nhưng có đi đến nơi hay không, không tùy thuộc vào loại xe cho bằng ý chí quyết tâm muốn đi đến nơi. Người không có xe, phải đi bộ mà quyết tâm đi thì chắc chắn sẽ tới nơi, còn có xe tốt và bảo đảm đến đâu, nhưng chính bản thân lại không quyết tâm đi, thì không thể đến nơi cần đến được. Thiên Chúa vẫn luôn luôn tôn trọng đồng thời đòi hỏi sự tự do và quyết định của con người. THÁI ĐỘ CỦA VUA HÊ-RÔ-ĐÊ, NHÀ CẦM QUYỀN
Nói tới Hê-rô-đê, ta thấy ông có một nỗi sợ hãi khi nghe các nhà chiêm tinh cho biết: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh». Ông sợ hài nhi mới sinh ấy sẽ lật đổ vương quyền của ông. Và dù biết hài nhi ấy đến từ Thiên Chúa, ông vẫn quyết tâm trừ khử. Như thế, tính tham quyền cố vị – ngoài xã hội cũng như trong Giáo Hội – có thể làm người ta mất hết lương tri, sẵn sàng gây nên tội ác, hay ít ra là im lặng để mặc sự ác phát triển. Hê-rô-đê quyết tâm tìm giết con trẻ Giê-su bằng cách “sai người đi giết tất cả các con trẻ ở Bê-lem và toàn vùng lân cận từ hai tuổi trở xuống” ( Mt 2, 16 ). Tin Mừng không nói đến thái độ của các thượng tế và kinh sư trước tội ác của nhà cầm quyền. Như đã nói trên, sự hiểu biết của họ về việc sinh ra của Đấng Cứu Thế chỉ là thứ hiểu biết để mà hiểu biết, để mà rao giảng, chứ không hề làm cho họ trở nên lo lắng cho số phận của Đấng Cứu Thế Hài Nhi. Đối với họ, sinh mạng của Đấng Cứu Thế chẳng là gì cả, chuyện quan trọng đối với họ là sự an toàn bản thân và giữ cho vững những “chiếc ghế của họ trong tôn giáo Do-thái. Theo họ, lên tiếng để làm gì cho liên lụy đến bản thân, cho mất quan hệ tốt đẹp với nhà cầm quyền ? Im lặng cho mọi sự qua đi, bất chấp tốt xấu, đó không phải là thái độ của những ngôn sứ hay mục tử đích thật. Nếu họ sẵn sàng “bỏ chiên mà chạy khi thấy sói đến” ( Ga 10, 12 ) thì họ cũng sẵn sàng im lặng bỏ mặc Đấng Cứu Thế mà họ rao giảng ra sao thì ra, dẫu có nguy hiểm đến tính mạng. Lạy Cha, con tưởng cứ theo chính đạo do Cha sáng lập là bảo đảm được cứu rỗi. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, kẻ ngoại giáo quyết tâm tìm kiếm Cha – là chân lý, công lý và tình thương – thì lại bảo đảm gặp được Cha hơn là người có chính đạo mà lãnh đạm với Cha. Xin Cha đừng để con say ngủ trong chính đạo mà thờ ơ với những gì là chân lý, công lý và tình thương. Amen.
Chu kỳ Giáng Sinh gồm Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh. Phụng Vụ cử hành việc Thiên Chúa tỏ mình; HiểnLinh ABC48
Chu kỳ Giáng Sinh gồm Mùa Vọng và Mùa Giáng Sinh. Phụng Vụ cử hành việc Thiên Chúa tỏ mình cho nhân loại. Hai biến cố quan trọng cũng là hai lễ lớn của chu kỳ là Lễ Giáng Sinh và Lễ Hiển Linh. Lễ Giáng Sinh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân Do-thái. Lễ Hiển Linh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại.
Gaspar, Melchior và Balthasar là ba nhà Đạo Sĩ nổi tiếng ở Đông Phương được mệnh danh là con của các vì sao sáng, huyền phái của khoa học vũ trụ. Họ đã theo ngôi sao lạ đến Bê-lem, xứ Giu-đê để thờ lạy Đấng Cứu Thế. Họ đã dâng cho Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược.
Chúng ta cùng dừng lại nơi Hang đá Bê-lem có Hài Nhi Giê-su để suy niệm về sự lạ lùng của cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa các Mục Đồng, các Đạo Sĩ với Đấng Cứu Thế. Chỉ có các Mục Đồng, các Đạo Sĩ tìm gặp được Chúa. Có các Thiên thần, có một ngôi sao rực rỡ trong ánh sáng thần linh chiếu sáng cho họ. Đức Cha Fulton Sheen, nhà giảng thuyết lừng danh đã gọi họ những người đơn sơ và những người thông thái.
Khi các Mục Đồng canh giũ chiên ở ngọn đồi Bê-lem, họ bỡ ngỡ vì vẻ đẹp của Thiên Thần: Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng cứu độ đã sinh ra cho anh em trong thành của vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa ( Lc 2, 10 – 12 ). Còn các Đạo Sĩ ở bên kia xứ Ma-đi-an và Ba-tư nghiên cứu bầu trời đã thấy một ngôi sao chiếu sáng như chiếc đèn của nhà tạm vũ trụ, điện thờ của Thiên Chúa. Họ theo ánh sao tìm đến Hang đá tìm gặp Hài Nhi.
Như những cánh bướm bị thu hút bởi ngọn lửa, các Mục Đồng và các Đạo Sĩ tiến đến ngai vàng chỉ là một Hang đá, đến với Thiên Chúa chỉ là một Hài Nhi. Thiên Chúa Hài Nhi ngước nhìn từ Máng cỏ chỉ thấy hai hạng người tìm gặp Ngài và chỉ duy họ tìm gặp Ngài cho đến tận cùng thời gian. Đó là các Mục Đồng và các Đạo Sĩ, những người đơn sơ và những người thông thái.
Các Mục Đồng là những người đơn sơ. Họ chẳng biết gì tới chính trị, văn chương, nghệ thuật. Họ chỉ biết hai điều quan trong là Thiên Chúa ở trên họ và họ ở giữa đoàn chiên. Đêm hôm đó bầu trời rộng mở để loan báo Tin mừng. Thiên Thần cho biết Đấng họ nóng lòng chờ đợi vừa sinh ra trong Hang đá Bê-lem nhỏ bé. Họ đã tìm và gặp Đấng Chăn Chiên của họ
Các Đạo Sĩ tìm gặp Đấng Cứu Thế là những người thông thái. Họ không là những vua chúa. Họ không phải là những người nghiên cứu nông cạn mà là những bậc thầy hoàng vương, những nhà tinh thông về vũ trụ và họ đã khám phá ra một ngôi sao lạ. Đối với khoa học và tôn giáo họ được liệt vào hàng đầu trong nước của họ. Các vua chúa bàn hỏi với họ trước khi xuất chinh. Các nông dân hỏi ý kiến họ trước khi trồng tỉa. Hàng ngàn người đã thấy ngôi sao, nhưng sự uyên bác của ba Đạo Sĩ làm cho họ lên đường khám phá.
Chính nhà bác học Newton đã thốt lên khi quan sát vũ trụ: Tôi thấy Thiên Chúa đi qua kính viễn vọng của tôi. Đối với kẻ kiêu ngạo, tự phụ, ngôi sao chỉ là ngôi sao, nhưng đối với người thông thái đó là một dấu chỉ thời đại, một tác phẩm của Thiên Chúa. Thế nên các Đạo Sĩ đã đi theo ánh sáng ngôi sao với bao gian lao, đầy mạo hiểm. Đến nơi, mặc phẩm phục và quỳ trên nệm rơm, các Đạo Sĩ chiêm ngắm một trẻ sơ sinh chưa thể hỏi han hay đối đáp được điều gì. Họ tiến dâng Ngài tặng phẩm và tâm hồn để chứng tỏ sự thần phục của thế gian. Tặng phẩm là vàng, nhũ hương, mộc dược. Vàng, vì Hài Nhi sẽ là vua. Nhũ hương, vì Ngài sẽ là Tư Tế. Mộc dược, vì Ngài sẽ chết như mọi người. Các Đạo Sĩ đã tìm gặp được Đấng Khôn Ngoan.
Chỉ có các Mục Đồng và các Đạo Sĩ đã tìm gặp được Đấng Cứu Thế. Trong khi đó các người nổi nang trong đạo Do thái không gặp được Ngài. Bởi lẽ: Các Luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các Thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Các Kỳ lão chỉ lo lắng về truyền thống. Hêrôđê cũng là con người tìm tòi, ông đã cặn kẽ điều tra nơi Hài Nhi ở, không phải để đến thờ lạy mà tìm cách hủy diệt. Loại người nào cũng tự mãn trong những cơ chế phức tạp cứng nhắc ( Đức Cha Bùi Tuần ).
Thời nay cũng thế, đầy dẫy những triết gia, những nhà khoa học, những người vô thần theo thuyết bất khả tri... nhưng không ai trong họ đã nhìn thấy một thiên thần hay ánh sáng một ngôi sao. Dòng dõi của những Hê-rô-đê kiêu ngạo cho tới thời nay đã không tìm thấy Thiên Chúa vì họ muốn dùng lý trí để nắm bắt siêu việt. Họ quá phức tạp nên không hiểu lời xác quyết đơn sơ của các Mục Đồng, quá đầy kiến thức khoa học để lãnh hội chân lý do các Đạo Sĩ đem đến. Dòng dõi này che đậy tính kiêu ngạo và đi tới chỗ coi Giáo Hội là một thể chế đã lỗi thời cần loại bỏ.
Điều kiện tiên quyết để gặp được Thiên Chúa, đó là lòng khiêm nhường, chung cho cả người đơn sơ lẫn người thông thái. Những tâm hồn đơn sơ như các Mục Đồng mới gặp được Thiên Chúa bởi họ ý thức mình không biết gì cả. Những người thông thái đích thực như các Đạo Sĩ gặp được Thiên Chúa bởi vì họ ý thức mình không biết gì cả.
Chúa Giê-su không sinh ra ở giữa trời, nơi người ta có thể đứng thẳng. Ngài đã Giáng sinh trong Hang đá, nơi người ta phải cúi mình để đi vào. Đó là một cử chỉ khiêm nhường. Các Mục Đồng và các Đạo Sĩ đủ đơn sơ để nghiêng mình xuống. Khi làm như vậy, họ thấy mình ở trong Hang đá. Tại đó, một người nữ diễm lệ, đầu đội mặt trời, chân đạp mặt trăng và đôi tay ẵm lấy Hài Nhi, Đấng dùng những ngón tay bé nhỏ của mình nâng đỡ trái đất. Khi các Mục Đồng và các Đạo Sĩ quỳ gối, có lẽ các Đạo Sĩ ghen với các Mục Đồng vì con đường của các Mục Đồng ngắn hơn, họ tìm thấy sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa mau hơn.
Bước vào ngàn năm mới, Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả nhân loại đến với Con Một của Ngài là Đức Giê-su Ki-tô. Ngài vẫn không ngừng cho những ánh sao dẫn đường. Không phải là ánh sao trên trời cao mà là ánh sáng Ngài gieo vào lòng người. Mỗi người cần phải trung thành với ánh sáng đó, dấn bước trên hành trình đức tin đầy mạo hiểm của mình.
Các Thượng Tế, các Kinh Sư thông hiểu Thánh Kinh, họ cắt nghĩa cho Hê-rô-đê rất hay nhưng họ vẫn ngồi yên tại chỗ. Họ tìm Đấng Thiên Sai trong Thánh Kinh, nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những tâm hồn đơn sơ như các Mục Đồng, những tâm hồn cởi mở khao khát chân lý như các Đạo Sĩ lại được hạnh phúc nhận biết Người.
Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình cho thế giới qua các dấu chỉ tự nhiên của trời đất, của lịch sử, qua Thánh Kinh, qua Giáo Hội, qua các Bí Tích, qua cuộc sống hàng ngày. Để gặp Ngài, chúng ta cần có lòng khiêm nhường. Nhờ sự gặp gỡ này, mỗi người sẽ trở nên ánh sao dẫn lối cho nhiều người nhận biết và yêu mến Chúa.
Lễ Hiển Linh là ngày cử hành việc Thiên Chúa tỏ mình cho thế giới. Chúa Giêsu muốn cho: HiểnLinh ABC49
Lễ Hiển Linh là ngày cử hành việc Thiên Chúa tỏ mình cho thế giới. Chúa Giêsu muốn cho hết thảy mọi người biết rằng Ngài là sự hiện diện của Đấng Tối Cao trong thế giới để mọi người có thể đến gần Ngài.
Các hiền sĩ này là ai ? Có bao nhiêu vị ? Có một người da đen trong số họ không ? Ta không thể dừng lại lâu để tìm câu trả lời cho những vấn nạn này. Sẽ không bao giờ có câu trả lời. Đối với chúng ta, những người này là những người hăm hở tìm kiếm Thiên Chúa.
Ngôi sao mà họ đã thấy mọc lên, hôm nay ta có thể nhận ra nó trên bầu trời không ? Nó tương ứng với cuộc quan sát thiên văn nào ? Chẳng tìm đâu ra giải đáp cho những vấn nạn ấy cả. Vậy ngôi sao đó nói gì với chúng ta ? Nói rằng Thiên Chúa có thể dùng những dấu chỉ để ngỏ lời với chúng ta. Đôi khi những dấu chỉ này cấp bách đến nỗi chúng thúc đẩy chúng ta hành động. Đôi khi chúng buộc chúng ta phải thay đổi lối ứng xử.
Không phải mọi dấu chỉ đều từ Thiên Chúa mà đến. Ba hiền sĩ kiểm tra dấu chỉ ngôi sao thế nào ? Ngôi sao khiến họ tìm đến với Thánh Kinh. Là những người biết rõ các ngôn sứ, họ nhớ lại lời ngôn sứ Mikhêa: “… Hỡi Bêlem, từ nơi ngươi sẽ phát xuất một vị lãnh đạo chăn dắt Israel”. Dấu chỉ ngôi sao được xác định bởi Lời Thánh Kinh. Thiên Chúa không thể nói hai cách khác nhau. Nếu dấu chỉ xác nhận lời Ngài, thì nó chỉ có thể nói lên sự thật mà thôi. Có lẽ thế giới chúng ta còn phải học hỏi nhiều điều. Không bao giờ như hiện nay có vô số những con người tưởng mình được giao cho một sứ vụ thiêng liêng. Nếu, qui chiếu về Thánh Kinh, như ba hiền sĩ đã làm, có lẽ ta sẽ khám phá ra sự mâu thuẫn giữa sứ vụ ấy và lời Chúa.
Thế giới hiện nay có còn những người tìm kiếm Thiên Chúa không ? Trong các nước thế giới thứ ba hàng triệu người ngoại giáo đang tìm kiếm Thiên Chúa như ba hiền sĩ; trong Giáo Hội chúng ta, cũng có những kẻ đi tìm kiếm Thiên Chúa. Chúng ta chỉ cần nhớ lại những cuộc viếng thăm của Đức Giáo Hoàng và hàng nghìn người tín hữu đã sung sướng tìm lại được chỗ đứng của mình trong Giáo Hội giàu lòng thương xót. Ta cũng có thể nói về giới trẻ rằng khi tìm kiếm một ý nghĩa cho cuộc sống là họ đang tìm kiếm Thiên Chúa, và ngày càng có nhiều người ghi danh vào các khoa thần học hoặc các trung tâm giáo dục đức tin cho người lớn. Họ là ai nếu không phải là những người đi tìm kiếm Thiên Chúa ?
Lễ Hiển Linh xưa kia vẫn còn kéo dài trong những hiển linh khác nữa. Thời đại mới có những dấu chỉ mới. Đôi khi chúng ta có những dấu chỉ có thể là những sự biểu lộ Thiên Chúa cho đời sống cá nhân của chúng ta. Lại có những dấu chỉ khác muốn cho thấy Thiên Chúa tỏ mình cho thế giới.
Chúng ta có những cơ quan tầm cỡ quốc gia hoặc thậm chí tầm cỡ quốc tế muốn giới thiệu Thiên Chúa cho mọi người. Không nhất thiết phải là những cơ quan Công giáo. Nhưng chúng hướng về việc xây dựng một thế giới trong đó nhân phẩm được nhìn nhận. Ai mà không biết cơ quan An xá quốc tế, hoạt động của những người Kitô hữu nhằm hủy bỏ việc tra tấn, hay phong trào môi sinh ngày càng rộng lớn ? Ta cũng có thể thêm vào những cơ quan đó: cơ quan F.A.O lo về lương thực và nông nghiệp, tổ chức y tế quốc tế và tổ chức giúp đỡ trẻ em. Chiều kích thế giới của những tổ chức này, thực ra, hơn mọi phương tiện làm tông đồ khác, là những dấu chỉ của việc Chúa hiển linh trong thế giới chúng ta.
Biểu lộ Thiên Chúa cho thế giới, tức là loan báo Tin Mừng cho những ai không biết Tin Mừng hay biết mà đã chối bỏ nó, và đang tìm một chỗ đứng trong cộng đồng Kitô. Biểu lộ Thiên Chúa cho thế giới cũng là nhìn thế giới với cái nhìn của Thiên Chúa. Tức là giúp mọi người đối xử với nhau huynh đệ hơn nữa.
Lễ Hiển Linh vẫn còn đang được thực hiện. Chúa Giêsu đang tiếp tục ban ơn cứu độ cho hết thảy các quốc gia, cho những con người thuộc mọi hoàn cảnh. Chúng ta có thể làm gì để cộng tác vào công trình của Ngài ? Ở mức độ nào chúng ta là những người tìm kiếm Thiên Chúa và là “ngôi sao” đối với những ai tìm kiếm Ngài?
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay đều qui về một điểm chính là: “Thiên Chúa mạc khải chính: HiểnLinh ABC50
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay đều qui về một điểm chính là: “Thiên Chúa mạc khải chính Ngài cho tất cả mọi người”, không phân biệt ai, cho dù người Do thái hay kẻ ở ngoài Kitô giáo, như các đạo sĩ từ Phương đông đến. Nhưng đáp lại, không phải tất cả mọi người đều đáp lại ơn Chúa mà chấp nhận từ bỏ cuộc sống của mình, từ bỏ cuộc sống theo tính hư nết xấu của mình để đến gặp và sấp mình khiêm tốn thờ lạy Chúa. Thiên Chúa mạc khải cho con người, cho tất cả mọi người bằng nhiều cách khác nhau.
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay, nhất là bài Phúc âm trình bày cho chúng ta thấy hai con đường, hai thái độ đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa. Con đường thứ nhất là con đường mạc khải chính thức trong lịch sử cứu độ do Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử của dân Chúa. Con đường thứ hai có thể nói là con đường tự nhiên qua các biến cố xảy ra trong thiên nhiên, trong vũ trụ, trong sinh hoạt hàng ngày của con người. Và chúng ta cũng nhìn thấy hai thái độ chấp nhận của các đạo sĩ từ phương xa và thái độ từ chối lơ là không màng chi đến việc đón nhận Chúa như vua Hêrôđê và các thầy thượng tế tại Giêrusalem.
Kinh Thánh đã chỉ cho họ biết, và họ thuộc lòng Kinh Thánh để biết rằng: Con Thiên Chúa sẽ Giáng sinh tại Belem, nhưng họ lơ là hoặc quá say mê hưởng thụ những lợi lộc vật chất mà không chấp nhận từ bỏ, không chấp nhận ra đi đến nơi Thiên Chúa chờ sẵn để gặp họ, để gặp Con Người. Tệ hơn nữa, vua Hêrôđê lại sợ rằng Chúa đến để chiếm lấy quyền của ông, làm cho ông mất danh vọng, mất quyền hành, mất địa vị. Chính vì thế mà ông đã ngấm ngầm muốn hại Chúa, nên ông đã cho triệu tập riêng các đạo sĩ lại để hỏi cặn kẽ về ngày giờ, để rồi như chúng ta đã biết là sau đó, khi vua Hêrôđê đã thấy các đạo sĩ không trở lại với mình nữa, thì nhà vua đã tức giận và ra lệnh giết tất cả các hài nhi trong vùng, trong khoảng từ hai tuổi trở xuống. Ông hy vọng rằng trong số các hài nhi bị giết chết đó có Con Thiên Chúa, có Đấng mà người ta gọi là Đấng Thiên sai, Đấng đến để hướng dẫn dân tộc Do thái, để cứu rỗi nhân loại.
Mừng lễ HiểnLinh ABChôm nay hay nói được là lễ Hiển linh, lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc, cho tất cả mọi người. Lễ này chúng ta có thể nói là bổ túc cho lễ Giáng sinh mà chúng ta đã mừng trước đây.
Lễ Giáng sinh nhìn trên một phương diện nào đó chúng ta có thể nói đó là lễ Chúa mạc khải chính mình Chúa, Chúa đến với dân tộc của Ngài là dân tộc Do thái, và lễ Hiển Linh là Chúa đến với dân tộc ngoài Do thái, với tất cả mọi người và cách thức Chúa đến với họ khác với điều họ mong ước. Chúa đến với họ bằng một đứa trẻ mới sinh nghèo hèn, không ai chấp nhận. Chúa đến với họ trong nghèo hèn, trong khiêm tốn, trong âm thầm ngoài tưởng tượng của những người đáng lẽ ra phải nhận biết Chúa như vua Hêrôđê, các đạo trưởng, luật sĩ trong dân Do thái thời đó.
Thiên Chúa dùng mọi phương thế, mọi con đường, để đến với mọi người ở trong cũng như ở ngoài Giáo Hội Chúa. Con đường của mạc khải Lời Chúa qua lời giảng dạy của Giáo Hội cũng như con đường của các biến cố trong thiên nhiên, trong cuộc sống hằng ngày để nhắc chúng ta rằng, Ngài đang đợi ở nơi đó, Ngài đã hẹn trước với chúng ta để mong gặp chúng ta. Nhưng chúng ta có đáp lại lời mời gọi của Chúa hay không ? Ta có đủ can đảm như các nhà đạo sĩ thực hiện một cuộc phiêu lưu từ bỏ nếp sống hưởng thụ vật chất, từ bỏ ngôi nhà vinh quang để đi gặp Chúa hay không ?
Trở về cách đây hơn 2000 năm thì chúng ta thấy rằng, phương tiện di chuyển thời đó đường xa và không có nơi cư ngụ tiện nghi như ngày nay. Và để đi đường xa như vậy, từ một vùng đất xa lạ đến một xa lạ khác, và đi tìm một con người mà không ai trong ba nhà đạo sĩ này có thể biết trước là ở đâu, thì các vị đạo sĩ này hẳn đã phải cố gắng thật nhiều, và có lòng can đảm khác thường để liều lĩnh chấp nhận những cuộc hành trình và đích điểm còn mơ hồ chưa xác định được. Các ngài đã chứng tỏ cho chúng ta thấy là ơn Chúa đã chiến thắng nơi các ngài. Để lên đường đi tìm Chúa, các ngài đã can đảm chấp nhận những hy sinh, những liều lĩnh, cốt sao là tìm được trẻ thơ như trong giấc chiêm bao.
Nhìn về mỗi người chúng ta, chúng ta cũng có thể nói: mỗi người chúng ta đã được Thiên Chúa dựng nên để hướng về Ngài, tâm hồn luôn khao khát hướng về Thiên Chúa và khi Thiên Chúa cho ta biết Ngài đến gặp gỡ chúng ta, muốn gặp ta qua những biến cố trong cuộc sống hàng ngày, thì liệu chúng ta có đủ can đảm chấp nhận hy sinh như các nhà đạo sĩ để ra đi để gặp gỡ Chúa hay không ? Chúa đến với chúng ta, Chúa tìm chúng ta trước với những ơn lành của Ngài, những ơn soi sáng trực tiếp cũng như dấu chỉ mời gọi xảy ra trong cuộc sống, trong lịch sử của chính chúng ta cũng như lịch sử của dân tộc, của quốc gia và cả trong những biến cố lịch sử thế giới.
Thiên Chúa đi tìm con người để đưa con người trở về với Ngài. Nhưng mỗi người chúng ta có thành tâm thiện chí, có can đảm đủ để nhìn ra những dấu chỉ, những lời mời gọi của Chúa hay không ? Hay chúng ta nuôi dưỡng những thiện chí đó trong suốt cuộc hành trình giữa những khó khăn mà chúng ta gặp phải hoặc chúng ta bỏ dở nửa chừng vì những khó khăn đủ loại cản bước chúng ta tìm Chúa. Hay chúng ta sợ Chúa đến tách mất khỏi chúng ta những lợi lộc vật chất, những vinh quang, những uy quyền mà chúng ta đang hưởng như vua Hêrôđê.