Suy Niệm Tin Mừng Lễ Hiển Linh ABC - Bài 51-100 Chúng tôi đã thấy Ngôi Sao của Người ------------------------
Phúc Âm: Mt 2,1-12: "Chúng tôi từ phương Ðông đến thờ lạy Ðức Vua".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi Chúa Giêsu sinh hạ tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, trong đời vua Hêrôđê, có mấy nhà đạo sĩ từ Ðông phương tìm đến Giê-rusalem. Các ông nói: "Vua người Dothái mới sinh ra hiện đang ở đâu ? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Ðông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người". Nghe nói thế, vua Hêrôđê bối rối, và tất cả Giêrusalem cùng với nhà vua. Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Ðức Kitô sinh hạ. Họ tâu nhà vua rằng: "Tại Bêlem thuộc xứ Giuđa, vì đó là lời do Ðấng Tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bêlem, đất Giuđa, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hết trong các thành trì của Giuđa, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel dân tộc của Ta". Bấy giờ Hêrôđê ngầm triệu tập mấy nhà đạo sĩ tới, cặn kẽ hỏi han họ về thời giờ ngôi sao đã hiện ra. Rồi vua đã phái họ đi Bêlem và dặn rằng: "Các khanh hãy đi điều tra cẩn thận về Hài Nhi, rồi khi đã gặp thấy, hãy báo tin lại cho Trẫm, để cả Trẫm cũng đến triều bái Người". Nghe nhà vua nói, họ lên đường. Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Ðông phương, lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng. Và khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy Hài Nhi và Bà Maria Mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống sụp lạy Người. Rồi, mở kho tàng ra, họ đã dâng tiến Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. Và khi nhận được lời mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, họ đã qua đường khác trở về xứ sở mình. - Ðó là Lời Chúa. -------------------- Mục Lục:
Rosaleen lớn lên giữa một khu vườn dễ thương có tường bao bọc chung quanh trong một công: HiểnLinh ABC51
Rosaleen lớn lên giữa một khu vườn dễ thương có tường bao bọc chung quanh trong một công ty có hàng ngàn những bông hoa hồng khác, tất cả đều có màu đỏ, giống như bản thân cô. Người ta nói với cô bé rằng thật là một đặc ân lớn, khi được sinh ra trong Thị Tộc Hoa Hồng Đỏ. Người ta chờ đợi nơi cô bé những tiêu chuẩn cao. Và cô bé phải tuân theo nhiều qui định. Một trong những qui định nghiêm cấm cô bé không được cố gắng trèo qua bức tường của khu vườn.
Nhưng đến khi lớn tuổi hơn, cô bé bắt đầu tự hỏi điều gì ở phía bên kia bức tường. Ngày kia, với đầy sự tò mò, cô bé trèo qua bức tường, và lén nhìn ra ngoài. Cô bé nhìn thấy gì ? Cô nhìn thấy một khu vườn khác giống như khu vườn của mình, trong đó trồng nhiều hoa hồng, giống hệt khu vườn của cô bé, ngoại trừ màu sắc – một số bông hoa có màu hồng, một số màu trắng và một số màu vàng.
Cô bé sửng sốt. Sau cùng, người ta nói với cô rằng chỉ có duy nhất một loại hoa hồng – hoa hồng màu đỏ. Nhưng sau đó, một người lớn tuổi trong thị tộc nói với cô bé “Con hãy quên những bông hoa ở phía bên kia bức tường đi. Chúng không thuộc về thị tộc của chúng ta. Hãy nhớ rằng: Loại hoa hồng duy nhất chính là hoa hồng màu đỏ”.
Tuy đã cố gắng hết sức, nhưng cô bé vẫn không thể quên được những bông hoa đó. Vì thế, vào một ngày khác, cô bé lại trèo qua bức tường. Và bắt đầu nói chuyện với một bông hoa màu hồng ở phía bên kia. Trường hợp của cô bé trở nên nổi tiếng. Càng ngày càng có thêm nhiều hoa hồng ở cả hai phía bắt đầu gặp gỡ và nói chuyện với nhau xuyên qua bức tường.
Dần dần, xảy ra một thay đổi lớn. Khi nhận biết sự tồn tại của nhau, những bông hoa hồng từ từ đi đến chỗ chấp nhận sự khác biệt. Mặc dù bức tường còn tiếp tục ngăn cách chúng, nhưng chúng vẫn tìm được cách liên lạc với nhau. Cuối cùng, chúng đã tiến tới việc nhận ra mình như là những thành viên của một gia đình rộng lớn – gia đình hoa hồng. Một gia đình xinh đẹp và gồm rất nhiều loại.
Lễ Hiển Linh là một ngày lễ cách mạng. Đức Kitô được mặc khải như là Đấng Cứu Độ, không phải là của một nhóm người được chọn, nhưng của tất cả mọi dân tộc. Đức Giêsu đã bẻ gãy rào cản to lớn tồn tại giữa dân Do thái và dân ngoại. Trên thực tế, sứ điệp của Đức Giêsu, người Anh Cả của toàn thể vũ trụ, đã vượt qua tất cả những rào cản của bộ tộc, họ hàng.
Lễ Hiển Linh là một ngày lễ đẹp, bởi vì ngày lễ này đưa mọi người lại với nhau. “Bây giờ, tất cả mọi người đều được chia sẻ cũng một quyền thừa kế, họ trở nên một phần của cùng một thân thể”. Nhưng điều này không có nghĩa là những rào cản này đều biến mất một cách kỳ lạ. Ngày nay, khi đi đến bất cứ nơi đâu, chúng ta đều nhận thấy có sự chia rẽ giữa các dân tộc, trong các gia đình, cộng đồng, thành phố, quốc gia. Những rào cản của thời đại ngày nay là những rào cản của chủng tộc, màu da, xã hội và tôn giáo. Tất cả những kiểu chia rẽ này phản ánh sự chia cách của chúng ta khỏi Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã sai Đức Giêsu đi vào thế giới, để hòa giải mọi người với Thiên Chúa và với nhau. Khi hòa giải với Thiên Chúa thông qua Đức Giêsu, chúng ta được giao phó sứ mạng hòa giải. Vượt qua những rào cản là một việc quan trọng. Các Kitô hữu đều được kêu gọi trở nên những tác nhân của tình yêu, đây là một yếu tố có thể nối kết tất cả những sự phân chia, và chữa lành được tất cả những vết thương. Giáo Hội phải trở thành một nơi mà trong đó, tất cả những hàng rào đều sụp đổ, một túp lều mà trong đó, có đủ chỗ cho tất cả mọi người.
Một trong những dụ ngôn của Aesop như sau: Một bé gái đang ngồi bên cạnh bức tường, thì: HiểnLinh ABC52
Một trong những dụ ngôn của Aesop như sau: Một bé gái đang ngồi bên cạnh bức tường, thì đột nhiên, có một con cóc ló ra từ một cái hang. Cô bé này liền trải chiếc khăn quàng lụa của mình ra trước mặt con cóc, đây là loại vải mà con cóc rất thích bước lên trên đó. Ngay khi vừa nhìn thấy chiếc khăn quàng, con cóc liền quay trở vào hang và trở ra ngay, mang theo một vương miện nhỏ bằng vàng đính trên chiếc khăn quàng, rồi lại quay về hang.
Ngay tức khắc, cô bé liền cầm lấy cái vương miện, và bỏ vào túi. Ít lâu sau, con cóc lại trở ra, nhưng khi không nhìn thấy vương miện trên chiếc khăn quàng, thì con cóc liền bò lên bức tường, nó cứ đập cái đầu nhỏ xíu của nó vào bức tường một cách đầy đau khổ, cho đến cuối cùng nó bị vỡ đầu và chết. Nếu cô bé cứ để cái vương miện ở nguyên tại chỗ, thì chắc chắn con cóc sẽ còn mang thêm những kho tàng của nó ra khỏi hang nữa.
Mục đích của câu chuyện ngắn này cho thấy rằng mỗi người đều có một kho tàng để chia sẻ. Vấn đề là: Làm thế nào để chia sẻ kho tàng đó ra. Điều này đòi hỏi nhiều sự kiên nhẫn. Bí quyết hệ tại ở việc chia sẻ một cách tự nguyện. Không có lý do nào để bắt buộc mọi người phải hy sinh. Nếu bạn lấy đi những thứ của người khác, thì chúng bị nghèo nàn đi. Nhưng nếu bạn trao tặng chúng, thì chúng lại được phong phú lên. Con người về căn bản đều tốt, nhưng nếu họ đi vào vương quốc của tình yêu, thì họ phải đánh thức và kêu gọi tấm lòng tốt này.
Ở đây, Lễ Giáng Sinh đến hỗ trợ chúng ta. Nếu Con Thiên Chúa đến trong sự giàu sang, thì Người càng làm cho chúng ta ý thức về sự nghèo nàn của mình. Từ đó, Người sẽ khơi gợi một cảm giác thèm thuồng nơi chúng ta, và làm hủy hoại tâm hồn chúng ta. Nhưng Người đã đến trong sự yếu đuối, do đó, Người càng làm cho chúng ta ý thức về sự giàu có của mình. Sự nghèo khó của Người khơi gợi nơi chúng ta một cảm giác thương xót, từ đó, mang tâm hồn chúng ta đến với sự sống. Khi nhìn vào cảnh nghèo hèn của Hài Nhi vua vũ trụ, giúp chúng ta biết cởi mở tâm hồn của mình ra. Chính sự nghèo hèn của Đức Giêsu đã làm cho các đạo sĩ mở ra kho báu của họ, gồm có vàng, nhũ hương và mộc dược, và đặt tất cả trước mặt Người. Thay vì bị nghèo nàn đi, các đạo sĩ lại được trở nên giàu có. Chính nhờ biết cho đi, mà chúng ta trở nên phong phú, bởi vì thông qua sự cho đi, chúng ta phát hiện được sự phong phú của bản thân mình.
Lễ Hiển Linh thách thức chúng ta cởi mở tâm hồn của mình ra. Khi biết cởi mở tâm hồn, là bắt đầu biết sống. Đức Giêsu không cần đến những quà tặng của chúng ta. Nhưng người khác có thể cần đến. Người mong muốn chúng ta chia sẻ chính bản thân chúng ta cho người khác. Và nếu nhờ được biết Đức Giêsu, mà chúng ta có khả năng mở kho tàng của tâm hồn ra và chia sẻ cho người khác, thì chính chúng ta cũng sẽ cảm thấy mình được trở nên phong phú.
Alan đang hồi phục trong bệnh viện, sau một tai nạn xe cộ. Lễ Giáng Sinh sắp đến. Một đêm kia, trong: HiểnLinh ABC53
Alan đang hồi phục trong bệnh viện, sau một tai nạn xe cộ. Lễ Giáng Sinh sắp đến. Một đêm kia, trong khi đang nằm trên giường, anh nhìn ra bên ngoài cửa sổ, và nhận thấy bầu trời đầy sao. Đột nhiên, anh bắt đầu suy nghĩ về các đạo sĩ, và cuộc hành trình đi Giêrusalem của họ, để tìm kiếm Đức Kitô. Thế rồi anh lại bắt đầu suy nghĩ về bản thân mình, có một điều gì đó mà cho đến nay, chưa bao giờ anh thực sự làm. Và anh tự nhủ “Mình đã 22 tuổi rồi, mình đã làm được gì cho cuộc đời của mình ? Mình đã đi đến đâu ?” Câu trả lời là “Không đi đến đâu”. Anh vẫn còn sống theo những chuyện kích động và phấn khích. Anh đã lãng phí những năm tháng đẹp đẽ nhất của cuộc đời mình, những năm tháng mà một nhà thơ đã gọi là “những năm tháng rực rỡ”. Sau đó, anh suy nghĩ về mối tương quan của anh đối với Thiên Chúa. Các đạo sĩ đã không có được Chúa ngay từ đầu. Nhưng họ đã tìm kiếm Người, và kiên trì tìm kiếm, cho đến khi phát hiện ra Người. Đối với anh, thì trái ngược lại. Anh không hề tìm kiếm Chúa. Anh đã có được Chúa ngay từ đầu. Anh được lãnh Bí tích Thanh tẩy và được huấn luyện thành người Công giáo. Anh đi lễ nhà thờ thường xuyên, cho đến năm lên 15 tuổi. Nhưng đến nay, anh đã bỏ tất cả. Anh đánh mất Chúa. Và thay vì tìm kiếm Người, thì anh lại cố tình quay lưng lại với Người. Anh đã hoàn toàn rời xa Người. Ngoài ra, anh còn chống lại Người nữa.
Đối với anh, đó là một điểm rất tối tăm, khi tất cả những điều này dồn dập đến trong tâm hồn anh. Nhưng khi bóng tối đạt đến độ dày đặc nhất, thì một điều tốt đẹp xảy ra. Dường như ngôi sao của Chúa mọc ngay trước mặt anh. Anh nhận ra rằng ánh sáng của Chúa không hề bị dập tắt, nhưng vẫn còn tiếp tục tỏa sáng trong tất cả những năm tháng của cuộc đời anh, ngoại trừ có khi ánh sáng đó bị những đám mây che khuất. Và một sự thật tuyệt vời đã ló dạng trên anh: Mặc dù anh đã từ bỏ Chúa, nhưng Người vẫn không hề bỏ anh. Trong tất cả những năm tháng này, Chúa vẫn đang tìm kiếm anh.
Tâm hồn anh tràn đầy niềm vui. Chưa bao giờ anh nghĩ rằng mình đáng giá đối với bất cứ ai, nhất là đối với Thiên Chúa. Và anh đã tự nhủ “Kể từ bây giờ, tôi có một ngôi sao sẽ không đánh lừa tôi, tôi có một chiếc la bàn sẽ không nói dối tôi”.
Khi các đạo sĩ tìm thấy Chúa, họ dâng lên Người những lễ vật tuyệt vời – vàng, nhũ hương. Mộc dược. Bây giờ, Alan đã gặp được Chúa, vậy anh có thể dâng lên Người cái gì đây ? Có một thời gian, anh đã từng hoàn toàn bị lạc lối. Nhưng rồi anh nhận ra rằng có điều gì đó mà anh có thể dâng lên Chúa. Anh có thể dâng lên Chúa chính bản thân mình. Nhưng tất nhiên là trước hết, anh phải tìm thấy bản thân mình, trước khi anh có thể hiến tặng bản thân mình như là một quà tặng cho bất cứ người nào khác. Tuy nhiên, ít nhất anh có thể khởi sự, và anh xác định là phải làm điều đó ngay tức khắc.
Lễ Giáng Sinh đến, mà Alan vẫn còn ở trong bệnh viện. Nhưng mọi người đều ngạc nhiên khi nhìn thấy sự thay đổi nơi anh. Cho đến nay, anh luôn mang đầy vẻ cay cú về cuộc sống nói chung, vụ tai nạn của anh nói riêng. Bây giờ, anh đã có nụ cười và lời nói vui vẻ với tất cả mọi người. Ai cũng bối rối không biết điều gì đã làm anh thay đổi. Nhưng chính Alan đã biết điều đó: Chính nhờ sự kiện anh đã gặp được Chúa. Không ai có thể thực sự tìm thấy Chúa, mà không thay đổi. Những năm sau đó, anh nói “Đó là ngày lễ Giáng Sinh đích thực đầu tiên trong cuộc đời tôi. Không, tôi không hề nghe được các thiên thần hát trên bầu trời. Nhưng tôi đã cảm nghiệm được một sự bình an, mà các thiên thần đã hát trong đêm Giáng Sinh đầu tiên đó”. Mọi người đều cần có một ngôi sao để đi theo, giống như những con tàu cần đến ngọn hải đăng mang ánh sáng, để hướng dẫn chúng vào bến bờ một cách an toàn. Phúc cho chúng ta, nếu chúng ta đi theo ngôi sao của Chúa ở trước mặt chúng ta, và chúng ta càng được chúc phúc gấp bội, nếu chúng ta kiên vững đi theo ngôi sao đó trong toàn bộ cuộc sống của mình. Điều này có nghĩa là chúng ta gắn bó toa tàu của chúng ta vào ngôi sao đó, một ngôi sao của hy vọng, ngôi sao của Bêlem. Nhiều người trải qua cuộc sống của họ trong sự tìm kiếm những điều mà chúng ta có, mà vẫn không tìm thấy được.
Và chúng ta không được sợ hãi, nếu kết quả đưa đến là chúng ta nhận thấy cuộc sống của mình thay đổi – sự thay đổi sẽ tốt đẹp hơn. Điều này sẽ đem lại cho chúng ta niềm vui, mà thế gian không thể đem lại được.
Thông thường mỗi sự kiện quan trọng trong đời sống đều nói đến một thông điệp nào đó. Chẳng: HiểnLinh ABC54
Thông thường mỗi sự kiện quan trọng trong đời sống đều nói đến một thông điệp nào đó. Chẳng hạn, như lụt lội hoành hành là sự trả thù của thiên nhiên đối với sự phá phách môi trường của con người. Tình trạng bạo hành hiện nay trên thế giới là kết quả của một lối sống buông thả, chọn tự do và quá đề cao bản ngã cá nhân. Vấn đề quan trọng là phải đọc được nội dung của thông điệp đó. Nội dung này đôi khi ẩn dấu rất khó khám phá, nhưng không vì thế mà không có những dấu chỉ để khi xem thì người ta thấy chứ không phải xem để mà xem.
Do đó, xem một sự kiện và thấy ý nghĩa của nó chính là một yêu cầu của mỗi người chúng ta khi nhìn xem những dấu chỉ thời đại. Những điều này cũng đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm trên đất nước Palestin vào thời Đức Giêsu sinh ra và các đạo sĩ đã thấy được nội dung thông điệp khi nhìn xem ngôi sao lạ tại phương đông.
Các đạo sĩ đã xem thấy ánh sáng.
Các đạo sĩ đông phương những bậc thông thái về bói toán, y học, chiêm tinh và giải mộng. Họ không phải là người Do thái nhưng là dân ngoại. Họ đã lên đường tìm đến Giêrusalem để “bái lạy Người”. Họ đã thấy gì ? Họ đã thấy “vì sao của Người xuất hiện bên phương đông”. Điều mà họ thấy là Hài Nhi mới sinh chính là Vị Cứu Tinh (Đấng Mêssia) mà dân Do thái từ lâu mong đợi. Hơn nữa, họ cũng thấy một vương quyền toàn cầu từ nơi Hài Nhi này. Tức là điều mà họ thấy là Thiên Chúa cứu độ đã tỏ mình ra, đã hiển linh cho thế giới, Người là Đấng đến cứu người tội lỗi, Người là ánh sáng huy hoàng bừng lên cho đoàn người đi trong đêm tối. Người là Đấng Mêssia được xức dầu để loan báo Tin Mừng. Những điều này có lẽ Hêrôđê và dân thành Giêrusalem không biết.
Anh sáng Chúa Kitô không làm cho người ta ngạc nhiên, nhưng để người ta thấy sứ mệnh của Ngài: Anh sáng đó là để chiếu soi muôn dân.
Anh sáng chiếu soi muôn dân.
Chính Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe nói lên cho chúng ta rằng có một sự biểu lộ đồng thời về sự phổ quát của ơn cứu độ và sự tập hợp mọi người trong ánh sáng Chúa Kitô, vì không ai bị loại bỏ khỏi Vương quốc của Người.
Chúa Giêsu không phải của dân Do thái. Người cũng không phải của riêng ai. Chúa Giêsu là của mọi người. Người là ánh sáng chiếu soi muôn dân. Vì thế, cụ già Simêon đã chào mừng Đức Giêsu như “Anh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israen dân Ngài”. Người chính là Lời của Thiên Chúa, là sự sống và là ánh sáng cho con người, là ánh sáng đích thực chiếu soi mọi người khi Người đến trong thế gian. Anh sáng đã đến thế gian và đẩy lùi bóng đêm của sự dữ và tội lỗi. Các đạo sĩ đã nhận ra ánh sáng chỉ Đấng Cứu Tinh, họ đã theo ánh sáng và đã gặp được Đức Giêsu. Anh sáng này còn biểu trưng cho ân sủng, tác động của Thiên Chúa trong tâm trí mọi người, và hướng dẫn mọi người đến với Đức Kitô. Vâng, Thiên Chúa đã âu yếm nhìn các nhà đạo sĩ ngoại giáo đang tiến về Đức Giêsu. Trong cuộc đời của mỗi người chúng ta, cũng có ân sủng đang hướng dẫn chúng ta tìm kiếm Đức Giêsu. Mỗi người chúng ta có can đảm đi theo ân sủng đó hay không ? Hãy bước theo ánh sáng.
Vậy đâu là dấu chỉ ngày nay để chúng ta nhận ra ánh sáng, ân sủng, và sự can thiệp của Chúa trong cuộc đời ? Điều gì cho phép chúng ta và cũng làm cho chúng ta bắt đầu một cuộc mạo hiểm thiêng liêng như các đạo sĩ năm xưa ?
Quả thật, đây là vấn đề ám ảnh mọi người lo âu tìm kiếm chân lý. Các đạo sĩ đã được ngôi sao hướng dẫn đến Giêrusalem, như những đại diện của các quốc gia được thu hút bởi ánh sáng vinh quang của Đấng Toàn năng mà ngôn sứ Isaia đã nhắc tới. Một cách tương tự, 2000 năm sau, những dấu chỉ mà chúng ta cảm nhận hướng dẫn chúng ta đến với Lời Chúa được gìn giữ bởi Giáo Hội và được mạc khải bởi sự chăm sóc mọi thời.
Các đạo sĩ đã biểu lộ sự khao khát tìm kiếm chân lý với thái độ đầy ý nghĩa. Nhìn thấy ngôi sao, họ biết được dấu chỉ chất chứa nội dung thông điệp. Họ sẵn sàng bỏ lại quá khứ và lên đường tìm kiếm. Nhờ vào Lời Chúa với những cố gắng vượt qua những thử thách, họ đã tiếp cận với chân lý tại Bêlem. Nếu các bạn dám mạo hiểm, liều mình theo Lời Chúa, thì các bạn sẽ gặp được niềm vui như các đạo sĩ năm xưa. Sau khi vượt qua dấu chỉ đầu tiên đến sứ điệp phổ quát, một hòa điệu sẽ được khám phá giữa thông điệp ánh sáng của Chúa và kinh nghiệm của đời sống thường nhật. Có như thế, chúng ta mới có thể nhận biết Đấng hiện diện ngay trong chính đời sống của chúng ta.
Như thế, qua việc đọc Lời Chúa chúng ta sẽ thấy, sẽ khám phá, sẽ hiểu được dấu chỉ. Dấu chỉ đó có thể là một hài nhi đang nằm trong máng cỏ hay là một con người bị thất bại đau thương trên thập giá; đó cũng có thể là một người lang thang không nhà ở, đang gặp đau khổ cần sự giúp đỡ. Nhưng đó chính là chân lý, là nguồn hạnh phúc của chúng ta, vì đó là dấu chỉ sự hiện diện và thông điệp của ánh sáng.
Anh sáng dịu êm ! Xin hướng dẫn chúng con từng bước, từng bước một thôi để đến với Ngài. Và một khi đến và gặp gỡ Ngài xin cho cuộc đời chúng con cũng được biến đổi và trở thành ánh sáng để soi dẫn người khác đến với Ngài – Đấng là đường, là sự thật và là sự sống. ---------------------------------
Thượng Viện La-Mã phong cho Hêrôđê làm Vua dân Do-thái vào năm 40 trước công nguyên: HiểnLinh ABC55
(c.1) Thượng Viện La-Mã phong cho Hêrôđê làm Vua dân Do-thái vào năm 40 trước công nguyên. Ông ta là một chính trị gia nhiều mưu mô, tàn nhẫn ngay cả với gia đình, và nổi tiếng về xây cất nhiều công trình đồ sộ. Khi các chiêm tinh gia tìm hỏi "Vua dân Do Thái" là tước hiệu của chính ông, ông sợ có kẻ cướp ngai vàng.
(c.1 và 11) Tiếng "nhà chiêm tinh" không lột hết ý nghiã. Các vị này còn biết giải thích giấc mộng và làm tư tế trong đền thờ xứ Ba-tư. Các món quà của họ có vẻ là sản phẩm của Ả-rập. Vì có 3 món quà, nên tục truyền thành 3 chiêm tinh gia. Họ được đặt tên là Caspar, Balthasar, và Melchior, và Caspar trở thành da đen. Các ngài đại diện cho toàn thể dân ngoại từ khắp nơi.
(c.5) Bêlem là một thành nhỏ quãng 5 dặm về phía nam của Giêrusalem, và là quê của vua Đa-vít. Dấu Chúa sanh ở đây chỉ rằng Ngài là dòng vương giả.
(c.11). Ý nghĩa các tặng vật:
- Vàng: kim loại quý trong triều đình. Chúa là vua.
- Nhũ hương: thường dùng trong việc tế tự. Khói hương bay lên như những lời khấn nguyện. Chúa Giêsu là Chúa.
- Mộc dược: để tẩm liệm xác chết. Chúa là người, đấng chịu chết để cứu thiên hạ.
Một Điểm Chính
Các nhà chiêm tinh từ khắp thế giới dến bái lạy Chúa, còn Hê-rô-đê chỉ kiếm cớ bái lạy để tìm giết Chúa. Chuyện các nhà chiêm tinh ngoại giáo ở đầu Phúc Âm liên quan trực tiếp tới cảnh kết thúc của Phúc Âm này, khi các môn đệ bái lạy Chúa và Chúa sai các ngài "làm cho muôn dân trở thành môn đệ" (28:17-20).
Suy Niệm
* Tôi nhận ra Chúa bằng dấu nàỏ Tôi cảm thấy sao khi nhận ra các dấu ấỵ Rồi tôi làm gì? * Tôi đã tìm và đã thấy Chúa chưa? Ngài ra saỏ Ngài nói gì? * Tôi tặng Chúa lễ vật gì? Chúa phản ứng ra sao?
Thông thường khi muốn đến một nơi nào chưa biết, người ta sẽ bằng nhiều cách: tìm xem qua: HiểnLinh ABC56
Thông thường khi muốn đến một nơi nào chưa biết, người ta sẽ bằng nhiều cách: tìm xem qua bản đồ, nhờ người biết trước chỉ hay dẫn đường. Nếu không người ta sẽ rất dễ bị lạc đường. Càng đến nơi quan trọng bao nhiêu thì người ta lại càng phải tìm hiểu kỷ bấy nhiêu.
Hôm nay, cùng với Giáo hội chúng ta mừng lễ Chúa Hiển linh hay còn gọi là lễ Ba vua. Nói đúng hơn đây là Ba vị hiền sĩ từ Phương Ðông. Họ được báo tin có Vua dân Do thái mới sinh ở Bêlem. Vì thế, họ cùng nhau lên đường theo sự hướng của Ngôi sao lạ đến Bêlem. Trên đường đi, chẳng may Ngôi sao lạ biến mất nên họ vào hỏi thăm vua Hêrôđê.
Không ngờ chính vua Hêrôđê cũng chẳng hay biết gì. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Ðấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu (Mt 2, 4). Họ trả lời: “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời." (Mt 2, 5 - 6). Sau khi chỉ đường cho các nhà đạo sĩ vau Hêrôđê căn dặn kỷ lưỡng: : “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." (Mt 2, 8b). sau đó, họ đã tiếp tục lên đường. May mắn thay, Ngôi sao lạ đã tiếp tục xuất hiện và dẫn đường cho họ. “Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng.” (Mt 2, 10)
Các Hiền sĩ là những người rất thành tâm thiện chí. Họ đã nhờ Ngôi sao lạ dẫn đường đến thờ lạy Hài nhi Giêsu. Mặc dù, khi Ngôi sao biến mất thì họ vẫn không nản lòng. Họ đã tìm cách hỏi thăm cho bằng được. Nhưng rồi họ lại hết sức vui mừng khi Ngôi sao lạ lại xuất hiện để tiếp tục dẫn đường cho họ.
Ngôi sao lạ ấy chính là thánh ý quan phòng của Thiên Chúa. Có thể lúc Ngôi sao biến mất là lúc Thiên Chúa muốn thử thách sự kiên trì của họ. Với sự kiên trì và tấm lòng yêu mến sự thật họ đã tìm được nơi và người họ muốn tìm.
Trong đời sống đức tin của chúng ta, chính lời Chúa và những chỉ dẫn của Giáo hội là Ngôi sao dẫn đường cho ta đến Thiên đàng. Những lúc cảm thấy như Ngôi sao biến mất là những lúc Chúa muốn thử thách lòng tin của chúng ta. Xin cho chúng ta luôn biết kiên trì và thật lòng như các Vị Hiền sĩ để mỗi ngày theo sự hướng dẫn của Chúa và Giáo hội đi về Thiên đàng.
Các bạn hãy cùng tôi tưởng tượng ra cuộc đối thoại khi một trong HiểnLinh ABCnói với vợ mình rằng: HiểnLinh ABC57
Các bạn hãy cùng tôi tưởng tượng ra cuộc đối thoại khi một trong HiểnLinh ABCnói với vợ mình rằng ông sẽ ra đi với hai nhà vua kia để tìm kiếm vua mới sinh...
"Anh đi tìm cái gì? Một Hài Nhi?" "Đúng thế, một Hài Nhi đặc biệt mà có thể sẽ trở thành vua." "Điều gì đã làm cho anh nghĩ như thế?" "Khi chúng tôi nhìn ngắm sao trời vào tối kia, chúng tôi đã nhìn thấy một hình thể kỳ diệu của sao Thổ, sao Mộc, và sao Hỏa. Chúng tôi tin rằng đó là dấu chỉ của một sự giáng sinh thuộc hoàng quí tộc." "Nếu vậy tại sao các anh không làm như những người khác, là chờ đợi cho đứa trẻ đó lớn lên và trở thành vua?" "Không hẳn vậy đâu. Nhớ không, cách đây vài năm có một lái buôn châu báu đã bán cho chúng ta một vài châu báu?" "Có chứ, tôi vẫn nhớ, người đó tên là Giacób." "Đúng ông ấy, chính ông ấy đã nói cho chúng ta về một Đấng Cứu Độ sẽ đến trong một ngày nào đó." "Cứ cho điều đó là đúng, nhưng anh có biết trong một ngày có bao nhiêu đứa trẻ sinh ra tại Do thái không?" "Chúng tôi sẽ hỏi đường. Nếu nhà lái buôn châu báu còn biết, thì dĩ nhiên các nhà lãnh đạo tôn giáo chắc còn phải biết rõ hơn." "Vậy các anh tìm những người này ở đâu?" "Tại thủ đô Giêrusalem, chúng tôi sẽ hỏi các nhà học thức ở tại đó." "Em nghĩ là anh bị điên rồi." "Có lẽ em nói đúng. Đó là cơ hội mà người ta chọn lựa. Tuy nhiên, nếu Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một dấu kỳ diệu trên trời cho tất cả thế giới nhìn thấy, thì có lẽ Hài Nhi này không những chỉ là Vua Do Thái, nhưng còn là Vua tất cả vũ trụ." "Các anh sẽ làm một chuyến hành trình vô ích." "Chúng tôi gọi đó là cuộc hành trình đức tin."
Đó là điều mà chúng ta sẽ nói đến hôm nay, cuộc hành trình đức tin: Cuộc hành trình đức tin của ba nhà chiêm tinh và cuộc hành trình đức tin của chúng ta. Chúng ta thực hiện cuộc hành trình đức tin mỗi khi chúng ta phải ra khỏi con đường thường nhật và phải chặt phá đi những bụi cây. Chúng ta thực hiện cuộc hành trình đức tin mỗi khi chúng ta bước xa hơn những gì mà thiên hạ gọi là "hợp lý." Chúng ta thực hiện cuộc hành trình đức tin khi chúng ta để cho Thánh Thần của Thiên Chúa chiếm đoạt toàn diện con người chúng ta. Chúng ta thực hiện cuộc hành trình đức tin, giống như ba nhà chiêm tinh, khi chúng ta bắt mối liên hệ với Đấng mà Thiên Chúa sai đến là Đấng Cứu Thế.
Câu hỏi, "Đâu là ý nghĩa của cuộc sống?" chỉ có đức tin mới có thể trả lời. Cuộc hành trình của ba nhà chiêm tinh và của nhiều người khác tìm kiếm Thiên Chúa là cuộc hành trình phổ quát của tất cả mọi người. Sự xuất hiện của ngôi sao là dấu chỉ ngay từ ban đầu rằng Chúa Giêsu là "Đường, Sự Thật, và Sự Sống" cho tất cả mọi người. Cũng như Blaise Pascal, nhà toán học và khoa học người Pháp đã nói, "Trong tâm hồn của mỗi người hiện diện một khoảng không dưới dạng Thiên Chúa."
Cuộc hành trình đức tin thường là cuộc hành trình cô độc. Cuộc đối thoại giữa nhà chiêm tinh và người vợ của ông mà chúng ta đã tưởng tượng ra, có lẽ là một sự thật. Một vài người vẫn không hiểu.
Đôi khi cuộc hành trình đức tin là cuộc hành trình mà không một người thân nào trong gia đình sẽ đi với chúng ta. Nhiều người đã phải bỏ cả người chồng đang ngồi đọc báo Chúa Nhật, hoặc là người vợ đang ngồi xem TV, hoặc là con cái đang ngủ để đi Lễ Chúa Nhật. Và điều đó thật là nhức nhối.
Cuộc hành trình đức tin có thể phải trả một giá rất đắt. Cộng thêm vào chuyến du hành, ba nhà chiêm tinh còn dâng cúng những lễ vật quí giá như vàng, mộc dược, và trầm hương. Không ai bắt ép họ phải dâng những đồ ấy, nhưng chính họ đã quá vui mừng trong sự hiện diện của Người Con mà họ cảm thấy phải tôn kính. Lòng tôn kính thật sự luôn khởi động sự rộng rãi.
Nếu các bạn thực hiện cuộc hành trình đức tin của mình một cách thành thật, các bạn sẽ thấy mình phải cho đi của cải mà bạn có thể dùng cho bản thân mình. Đó chỉ là một sự bắt đầu của cuộc du hành. Nó còn bắt bạn phải hy sinh cả thời gian và sức lực để làm những công việc truyền giáo. Lý do là bởi vì khi bạn trả lời để theo tiếng gọi của Chúa Kitô, bạn sẽ phải đi cùng một lối mà chính Chúa Giêsu đã phán, "Ta đến để phục vụ chứ không để được phục vụ" (Mt 20:28).
Chúng ta vừa mới nói với nhau về sự cô đơn và tốn kém của cuộc hành trình đức tin, nhưng nó cũng là cuộc hành trình sáng tươi. Bạn sẽ tìm thấy được sự trợ giúp đắc lực. Ba nhà chiêm tinh được ngôi sao dẫn đường, còn các Kitô hữu ngày nay sẽ được Lời Chúa dẫn dắt. Ba nhà chiêm tinh được thúc đẩy bằng sự hứng khởi của chính họ, nhưng các Kitô hữu thì được thúc đẩy bằng tình yêu của Chúa Kitô. Ba nhà chiêm tinh được tăng cường sức mạnh bằng chính sức lực của họ, nhưng các Kitô hữu thì được tăng cường bằng chính sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Khi các bạn sống cuộc sống của Chúa Kitô thì các bạn có thể chắc chắn một điều là các bạn đang đầu tư cuộc sống của các bạn vào một mục tiêu quan trọng mà thế giới không thể biết được. Đó là một cuộc hành trình đức tin dẫn đến cuộc sống vĩnh cửu. "Ta là", Chúa Giêsu phán, "Sự Sống lại và là Sự Sống; ai tin Ta sẽ không phải chết, nhưng sẽ được sống" (Gn 11:25).
Khi vừa sinh ra ở máng cỏ trong hang Bethlehem, Chúa tỏ mình ra cho các mục đồng, những: HiểnLinh ABC58
Khi vừa sinh ra ở máng cỏ trong hang Bethlehem, Chúa tỏ mình ra cho các mục đồng, những con người đơn sơ, hèn mọn. Nhưng kế hoạch của Ngài quá lạ lùng, ít ai có thể ngờ đến: đó là một số các nhà khoa học (mà còn quen gọi là đạo sĩ hay 3 vua) cũng được Thiên Chúa mạc khải. Họ đã lặn lội, vượt biết bao hiểm nguy, tìm đến nơi để triều bái và dâng tiến các lễ vật đầy ý nghĩa lên Ngài. Chúng ta cùng tìm hiểu biến cố hết sức quan trọng này.
Hôm nay Giáo Hội kể lại biến cố ba nhà thông thái tìm đến để triều bái Chúa Hài Đồng (“Magi” có nghĩa là những nhà khoa học kinh nghiệm (Mature Scientists), họ là những chiêm tinh gia và những nhà thiên văn). Họ đến từ phương đông, dĩ nhiên họ không phải là người Do Thái. Và chỉ hỏi có hai câu: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.”
Có nhiều người cho rằng có lẽ các khoa học gia này đã nhìn thấy sao chổi, và đi theo. Nhưng năm 1603, nhà toán kiêm thiên văn Johannes Kepler giải thích theo tài liệu cho thấy vào thời điểm ấy cả ba hành tinh: Hỏa, Mộc và Thổ tinh rất gần nhau, đồng thời xếp thẳng một hàng. Bởi thế các nhà khoa học với mắt thường đã nhìn thấy một ngôi sao rất to và sáng. Nhưng điểm muốn nhấn mạnh ở đây, là tại sao các nhà thông thái biết chắc chắn là vua Do Thái đã sinh ra (chúng ta biết rằng các nhà khoa học không bao giờ hấp tấp hay kết luận một cách hồ đồ). Phải chăng các ngài đã được Thiên Chúa mạc khải?
Vì được Thiên Chúa mạc khải nên các ngài đã hăng hái lên đường, bỏ lại tất cả, bất chấp mọi hiểm nguy, đi mà không biết nơi đến. Chúng ta thử tưởng tượng khi gặp vua Hêrôđê, đương kim Hoàng đế mà dám hỏi “Vua dân Do Thái mới sinh ra ở đâu?”, trong khi mình là người nước ngoài, chỉ riêng tội nhập cảnh tùy tiện này là có thể bị tống ngục rồi, chứ đừng nói đến tội “khi quân”. Thế mà các ngài đã không sợ hãi, tại sao vậy ? Ai ban cho các ngài sự can đảm phi thường này? Ai trang bị cho các ngài tinh thần từ bỏ chỉ dành riêng cho các môn đệ này? Rồi khi trở về quê hương của mình, với tài năng và uy tín của các ngài, ai dám không tin điều các ngài đã chứng kiến tại Bethlehem !
Chúng ta không thể chối cãi đức Maria, mẹ của Thiên Chúa là người môn đệ đầu tiên của Chúa, thì chúng ta cũng có thể nghĩ rằng các nhà khoa học hôm nay cũng là những môn đệ dân ngoại đầu tiên của Chúa. Vì chính các ngài đã gặp được Chúa rồi đem Chúa đến cho ngưới khác. Khi vào nhà, thấy Hài nhi họ liền sấp mình thờ lạy và dâng tiến vàng, nhũ hương, và mộc dược. Cả ba tặng vật này đều quý giá và có rất nhiều ý nghĩa. Thứ nhất: vàng, tượng trưng cho hoàng gia, quý tộc. Điều này chứng tỏ Ngài là vua, là kẻ có uy quyền trên nhân loại. Thứ hai: nhũ hương, tượng trưng cho lòng sùng kính dành cho Thượng đế, nói cách khác là công nhận Thiên Tính của Ngài. Thứ ba: mộc dược: dùng để tẩm, liệm xác chết. ý nói rồi đây Ngài cũng sẽ chết, vì ngài là con người. Như thế vàng, nhũ hương và mộc dược là biểu tượng của Thiên Chúa, vương quyền, và con người.
Chúng ta cũng có thể định nghĩa rằng; Vàng là kim loại quý, tượng trưng cho sự quyền quý, giàu sang, vua chúa. Khi dâng tiến vàng tức là công nhận Ngài là Vua của Thiên quốc nơi Ngài ngự trị, Ngài là vua trên mặt đất, vì tất cả đều là tạo vật của Ngài, và là vua của tất cả các linh hồn, vì ở đó ân sủng của Ngài hiện diện. Hiểu theo linh đạo Kitô giáo thì vàng cũng là biểu tượng của lời thề “nhân đức khó nghèo”. Dâng tiến Nhũ hương tức là công nhận Thiên tính của Chúa Kitô. Nó cũng là biểu tượng của “nhân đức vâng lời”. Dâng tiến mộc được tức là công nhận nhân tính của Chúa Kitô. Xác chết sẽ được liệm với mộc dược. Nó cũng là biểu tượng của “nhân đức trong sạch”.
Biến cố hôm nay cho chúng ta thấy một hài nhi nhỏ bé, đang nằm trong máng cỏ, nhưng đã làm cho một ông vua hung hãn trên trái đất phải run sợ. Khiếp sợ đến nỗi phải sử dụng một biện pháp vô cùng độc ác “thà giết lầm hơn bỏ sót”: ra lệnh giết tất cả con trai từ hai tuổi trở xuống ! -trung bình một vùng có khoảng 1000 dân cư, thì vào khoảng 30 trẻ em vô tội bị giết- Như vậy, ngày Ngài trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết tình cảnh sẽ ra sao ? Thứ hai, khi sinh ra Ngài đã tỏ lộ cho dân Do Thái và các dân tộc khác nữa, Ngài cũng đã tỏ lộ cho kẻ ngu dốt cũng như những nhà thông thái. Hay nói cách khác Ngài nhập thể để Cứu Độ cho toàn thể nhân loại, không trừ một sắc tộc, quốc gia hay bất cứ một người nào.
Tóm lại, khi đến trong thế gian Chúa đã tỏ lộ cho ba hạng người tiêu biểu cho cả nhân loại: trước hết là các mục tử đơn sơ, nghèo nàn: loại người này tượng trưng cho các Tông đồ, và Linh mục trong Giáo Hội Công Giáo. Kế đến là những nhà thông thái, giàu có, quảng đại: họ tượng trưng cho dân ngoại; thứ ba là Ông Simion công chính: tượng trưng cho dân tộc Do Thái. Các nhà thông thái đã dâng tiến Chúa những thứ quý giá như vàng, nhũ hương và mộc dược, còn phần chúng ta -những chi thể của Chúa- phải dâng tiến Chúa gì đây ? Một vị Giáo Hoàng đã nói: ”Thiên Chúa trở thành người, để con người có thể trở thành Thiên Chúa” Đúng là một hiện thực đáng sợ nhưng đầy thú vị. Ngày lễ Hiển Linh hôm nay là thời gian để chúng ta tạ ơn Chúa, không phải chỉ vì Chúa đã nhập thể và tỏ mình cho nhân loại. Hơn thế nữa, chúng ta vui mừng vì Ngài tiếp tục ở lại với mỗi người. Chúng ta có nhiệm vụ tiếp tục công việc làm tỏ lộ dung mạo của Thiên Chúa cho nhân loại, bởi vì chúng ta cùng thông chia sự sống của Ngài. Chúng ta phải làm cho khuôn mặt của Ngài càng ngày càng tỏ hiện; phải viết tiếp câu chuyện của “Ba nhà đạo sĩ”; và tiếp bước các ngài: qua chính cuộc sống của mỗi người chúng ta. Ngày xưa các nhà thông thái đã từ bỏ tất cả và lên đường tìm Chúa cho bằng gặp mới thôi. Hai ngàn năm sau, hôm nay ước gì chúng ta cũng học tập, bắt chước nhân đức khôn ngoan, can đảm, cương quyết, khiêm tốn và từ bỏ như các ngài.
Đã hơn hai ngàn năm, câu chuyện ba nhà đạo sĩ Đông Phương hay nói nôm na ra HiểnLinh ABCdõi: HiểnLinh ABC59
Đã hơn hai ngàn năm, câu chuyện ba nhà đạo sĩ Đông Phương hay nói nôm na ra HiểnLinh ABCdõi theo ánh sao lạ tới hang Bêlem để triều bái Hài đồng Giêsu luôn gây ấn tượng cho những người theo Chúa. Mà không ngạc nhiên, không lạ lùng sao được khi trên trời cao có một ánh sao bỗng hiện ra dẫn đường chỉ lối cho ba nhà đạo sĩ Đông Phương tới cung chiêm vua Giêsu bằng những tặng vật quí gia của địa phương nước mình. Cái lạ lùng là ánh sao không dẫn đường cho Hêrôđê hay quân lính của ông ta tới tìm giết Giêsu. Chính cái lạ ấy đã gây sự tò mò của nhiều người qua nhiều thế hệ. Câu chuyện HiểnLinh ABCcó gì lạ ? Nó có liên hệ gì với đời sống nhân loại, với cá nhân mỗi người chúng ta ?
VẪN LÀ CÂU CHUYỆN NGÔI SAO LẠ:
Đọc trình thuật của thánh sử Matthêu 2, 1-12, nhân loại như vẫn còn nhớ rõ mồn một rằng vào thời Hêrôđê trị vì, Chúa Giêsu đã theo ý định của Chúa Cha được Mẹ Maria sinh ra nơi hang đá Bêlem. Lúc bấy giờ, rất ít người biết đến biến cố này, ngoại trừ các mục đồng, các kẻ chăn chiên giữa đêm khuya như có một sức mạnh nào đó thúc đẩy, đã xôn xao, xáo xác nửa tỉnh nửa ngủ vì muôn cơ binh thiên thần đang rợp tiếng tung hô vua Giêsu giáng sinh làm người. Và rồi thiên thần không những chỉ tung hô, ca ngợi, nhưng chính sứ thần Thiên chúa đã hiện ra với các mục đồng, loan báo cho họ tin vui mừng vì nơi Bêlem, miền Giu-đê, Đấng cứu thế đã sinh ra. Các mục đồng quả mở cờ trong bụng vì rằng trong cơn ngái ngủ, họ đã hối hả đi về Bêlem, tới nơi họ đã gặp Mẹ Maria, thánh cả Giuse và Hài Đồng Giêsu. Họ đã thờ lạy Chúa Giêsu. Câu chuyện không kết thúc ở đó…Nhưng các mục đồng ra về, vừa đi vừa ca tụng tôn vinh Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ( Lc 2, 20 ).Trình thuật của Luca còn được thánh Matthêu gây ngạc nhiên hơn nữa khi thánh sử Matthêu kể lại sự việc ba nhà chiêm tinh đến bái lạy Đức Giêsu tại Bêlem. Tin mừng Matthêu đoạn 2, 2 viết: ” Đức vua dân Do Thái mới sinh, hiệnn ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông nên chúng tôi đến bái lạy Người”. Tin mừng viết tiếp: ” Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem xôn xao”( Mt 2, 2 ). Và rồi con người nham hiểm của Hêrôđê đã lòi chân tướng. Ông liền triệu tập tất cả các thượng tế, các kinh sư trong dân lại, và hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu( Mt 2, 4 ). Họ trả lời:” tại Bêlem, miền Giuđê…”( Mt 2, 5 ). Hêrôđê, một vị vua độc ác đã có cái nhìn trần tục về Chúa Giêsu, nên Ông ngầm tìm cách thủ tiêu Chúa Giêsu và lừa các nhà chiêm tinh để biết nơi Hài Đồng Giêsu ở hầu dễ thanh toán Chúa Giêsu. Nhưng các nhà đạo sĩ đã biết mưu đồ của Hêrôđê, nên khi ngôi sao lạ ở Phương Đông lại dẫn đường ba nhà đạo sĩ đi tìm Giêsu và dừng lại nơi Hài Nhi ở( Mt 2, 9 ). Ba nhà đạo sĩ sung sướng, vui mừng vì thấy lại ngôi sao lạ. Các nhà đạo sĩ vào nhà, thấy hài nhi và thân mẫu là bà Maria, họ liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến( Mt 2, 11 ). Các nhà đạo sĩ đã được mộng báo đừng trở lại với Hêrôđê, nên đã đi lối khác mà về xứ mình(Mt 2, 12 ). Quả thực ngôi sao lạ đã dẫn đường cho ba nhà đạo sĩ phương Đông tới triều yết vua Giêsu, nhưng không bao giờ ngôi sao lạ này đã hiện ra với vua Hêrôđê độc ác…
TÌM GẶP CHÚA GIÊSU:
Ba nhà đạo sĩ cứ theo ánh sao mà tới gặp Chúa Giêsu. Cái quý giá nhất các nhà đạo sĩ có được là họ trung thành với ánh sáng đã nhận được từ trên cao:" Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Ngài bên phương Đông, và chúng tôi đến bái yết Ngài” ( Mt 2, 2 ).Ngôi sao lạ vẫn hiện ra sáng rực trên trời thẳm và chỉ ba nhà đạo sĩ mới có thể nhìn ra vì họ được ơn soi sáng. Và như một câu chuyện nhỏ mà một đức bé gái đơn sơ, đã hoàn toàn vâng theo lời của mẹ mình rằng đừng tìm Chúa trong những công việc vĩ đại, Chúa đang có đó trong hơi thở, trong cử động, trong nụ cười, trong ánh mắt, trong cung cách đi đứng, đừng tìmChúa trong những gì cao sang khó với, nhưng Chúa đang có đó trong những việc nhỏ bé, trong những sự kiện tầm thường. Vâng, ngôi sao là chính Đức Kitô, là ý muốn của Ngài. Nhân loại không nhận ra ngôi sao lạ vì con người vẫn còn sống trong ích kỷ, tối tăm, lòng tin yếu kém. Gặp được ánh sao hay ngôi sao lạ, nhân loại phải liều lĩnh như ba nhà đạo sĩ là ra khỏi sự dễ dai, thích tiện nghi, hưởng thụ.Nhân loại chỉ có thể tìm gặp Chúa Giêsu khi gắn liền với Mẹ Maria vì Mẹ còn có sứ mạng lớn lao là giới thiệu Chúa Kitô cho nhân loại, cho mọi người, cho mỗi người. Các nhà đạo sau khi đã gặp được Hài Đồng Giêsu, họ vui mừng lấy ra những món quà cao quí của đất nước mình:vàng, nhũ hương và mộc dược.Nhân loại vẫn có thể dâng cho Chúa những gì quí giá nhất của mình là con tim, lời cầu nguyện và hy sinh để làm vinh danh Chúa. Chúa đã tỏ mình ra cho nhân loại. Chúa muốn mọi người nhận biết Ngài.
Xin cho nhân loại và mọi người có đức tin để thế giới luôn nhận ra ánh sáng chân lý là Chúa Giêsu, Đấng mang ơn cứu độ cho nhân loại. Xin cho các sứ giả của Chúa luôn trung kiên để nhờ các Ngài mà đức tin được bén rễ sâu và nhờ các Ngài mà niềm vui hiển linh được tỏ lộ.
GỢI Ý CHIA SẺ:
1. Bạn hiểu gì về lễ Hiển Linh ? 2. Tại sao trước kia gọi là lễ HiểnLinh ABCchứ không gọi là Hiển Linh ? 3. Ngôi sao lạ là gì ?
Trên đường tiến về miền đất Thiên Chúa đã hứa cho các Tổ phụ, đoàn dân của ông Môsê: HiểnLinh ABC60
Trên đường tiến về miền đất Thiên Chúa đã hứa cho các Tổ phụ, đoàn dân của ông Môsê đã phải giao tranh với nhiều lân bang thời đó, có khi chỉ vì lý do xin di ngang qua nước của lân bang mà không được chấp nhận, đành phải dùng biện pháp đánh nhau để vượt qua như khi đối đầu với dân Êmôri. Và đoàn dân nhỏ bé của ông Môsê đã không đánh thì thôi, chứ đánh là thắng làm cho các nước lân bang đều run sợ. Một trong những nước lo sợ đạo quân của Môsê đó là vua người Môáp. Chính vì lo phải đối đầu với dân Israel mà vua Môáp sai sứ đến với một phù thủy có tên là Bilơam thuộc đất dân Ammon để xin phù thủy này “trù ẻo” dân Israel để dân này ra suy yếu và vua sẽ nhân vì sự ấy tiến đánh.
Các sứ giả vua Môáp lên đường tìm gặp phù thủy Bilơam để trao cho ông lời sấm “chúc dữ” dân Israel. Bilơam mời các sứ giả nghỉ qua đêm để ông thỉnh ý Đức Chúa. Sáng sau, Bilơam nói cùng các sứ giả rằng ông không thể làm theo yêu cầu của vua Môáp được. Nhưng đến lần thứ hai, dưới tác động của Thiên Chúa, ông chấp nhận ra đi với các sứ giả vua Môáp.
Bilơam đến miền đất dân Môáp để chúc dữ cho dân Israel trên lưng một con lừa cái và đi cùng với hai chú tiểu đồng. Trên đường đến với vua Môáp, con lừa của Bilơam thấy Thần sứ của Thiên Chúa đứng cản đường cùng với thanh gươm cầm sẵn trong tay. Thấy thế, con lừa cái bèn tránh đường đi xuống ruộng. Bilơam đánh đập con lừa và bắt nó phải đi trên đường.
Khi đến con đường mòn hai bên đều xây tường, con lừa cái khi thấy Thần sứ liền ép sát vào tường làm cho chân của Bilơam bị cọ sát trầy xước. Tức giận ông phù thủy lại đánh con lừa cách thậm tệ.
Nhưng đến khi đến đoạn đường hẹp không thể nào đi được nữa vì Thần sứ chận đứng, con lừa đành phải nằm bẹp xuống chân ông Bilơam. Thấy vậy, Bilơam càng tức giận. Ông dùng gậy tới tấp đánh con lừa. Đến lúc này, con vật mới lên tiếng: “Ông thấy không, có bao giờ tôi chống ông không, tôi có làm gì ông mà ông đánh tôi đến ba lần.” Bilơam nhìn lên thì thấy Thần sứ Thiên Chúa thì run sợ. Theo hướng dẫn của Thần sứ Thiên Chúa, Bilơam đến với vua Môáp nhưng không phải để chúc dữ cho dân Israel mà là chúc phúc.
Trong bài diễn văn chúc phúc đó, phù thủy Bilơam đã tiên báo về Ngôi sao xuất hiện trong nhà Giuđa:”Một Vì Sao xuất hiện từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel” (Ds 24, 17)
Sở dĩ phải kể câu chuyện phù thủy Bilơam là vì nó liên quan đến ít nhiều Lời Chúa Chúa nhật hôm nay. Các nhà chiêm tinh Đông phương nhìn thấy ngôi sao xuất hiện và lên đường tìm kiếm. Bài Tin mừng hôm nay nhằm làm nổi bật những ý nghĩa sau:
Hài Nhi mới sinh chính là vị Cứu tinh mà Israel mong đợi từ lâu. Vị Cứu tinh đó chào đời tại Bêlem như lời Ngôn sứ Mikha đã loan báo, từ Bêlem, sẽ xuất hiện một vị lãnh tụ chăn dắt dân Israel. (x. Mk 5,1)
Hài nhi Giêsu nắm giữ vương quyền phổ quát, là dấu chỉ cho dân ngoại nhìn nhận ngay khi Ngài mới chào đời. Nơi Hài nhi Giêsu, ứng nghiệm điều ngôn sứ Isaia đã loan báo khi xưa về ngày dân ngoại sẽ lũ lượt tiến về Giêrusalem, mang theo những lễ vật trân quý để tiến dâng (x. Is 60)
Tại Trung đông xưa, các nhà chiêm tinh hay các đạo sỹ là những nhà trí thức của thời đại, thường thuộc hàng Tư tế và làm cố vấn cho các vua. Các nhà chiêm tinh trong tin mừng đến từ vùng đất phương Đông, quê hương của phù thủy Bilơam. Các nhà chiêm tinh đó là ai? Vào thế kỷ VIII, thánh Bêđa đã miêu tả các nhà chiêm tinh như sau:
- Người thứ nhất tên là Melchior. Đây là một cụ già với mái tóc trắng và chòm râu bạc phơ. Ông đến dâng cho Chúa vàng như là dấu chỉ để chân nhận Vương quyền của Chúa.
- Người thứ hai tên là Gaspar. Đây là người còn trẻ, da đỏ. Ông dâng lên Chúa nhũ hương để chân nhận Thiên tính của Chúa.
- Vị thứ ba tên là Balthasar. Là một người da ngăm đen, râu rậm. Ông dâng Chúa mộc dược, vì biết rằng Đức Giêsu, Con Thiên Chúa mà cũng là con loài người và Ngài phải chết để cứu độ chúng ta.
Ngôi sao mà các nhà chiêm tinh nhìn thấy vốn là dấu hiệu chỉ vương quyền, nó nhắc lại lời sấm chúc phúc của phù thủy Bilơam thuở xưa nói về triều đại David và về chính Đấng Mêsia. Các nhà chiêm tinh không đến viếng Chúa tay không, các ông đến để dâng lên Chúa Vàng, Nhũ hương và Mộc dược là những lễ vật quý nơi quê hương các ông. Theo các Giáo phụ, lễ vật mà các nhà chiêm tinh mang đến để dâng Chúa có những ý nghĩa sau:
- Vàng chỉ Vương quyền (Vua) của Chúa - Nhũ hương chỉ Thiên tính của Chúa - Mộc dược chỉ Nhân tính của Chúa.
Mừng lễ Chúa Hiển linh, phải chăng đó là dịp để mỗi người trong chúng ta một lần nữa nhận ra sự đối kháng rõ rệt giữa thái độ thờ ơ và thù nghịch của dân Dothái đối với Hài nhi và lòng tin mau mắn cách quảng đại của dân ngoại. Các thượng tế và kinh sư vốn nắm vững Kinh thánh và lời các Ngôn sứ mà không nhận ra Đấng Cứu Thế; trái lại những người ngoại đạo lại nhìn nhận dấu chỉ của Người và lên đường kiếm tìm để thờ lạy. Lên đường tìm kiếm Chúa và thờ lạy Ngài không phải là việc của một dân tộc, một màu da, một nền văn hoá mà là của toàn thể thế giới đại đồng.
Câu chuyện HiểnLinh ABCvà ngôi sao lạ đã làm khơi động tính tò mò của loài người về nhiều chi tiết: HiểnLinh ABC61
Câu chuyện HiểnLinh ABCvà ngôi sao lạ đã làm khơi động tính tò mò của loài người về nhiều chi tiết khác nhau. Thời nay những nhà chú giải Thánh kinh gọi HiểnLinh ABClà ba nhà bác học, nhà thông thái hay hiền triết. Theo truyền thống, người ta mô tả HiểnLinh ABCvới ba màu da khác nhau: một ông da trắng, một ông da đen, ông kia da vàng tượng trưng cho các chủng tộc trên mặt đất. Tất cả những cuộc suy đoán về HiểnLinh ABCvà ngôi sao lạ có thể làm ta sao lãng cái phần thiết yếu của câu chuyện. Phần thiết yếu của câu chuyện là việc HiểnLinh ABCđi tìm Đấng cứu thế mới sinh và việc Đấng cứu thế tỏ mình ra cho họ. Đây là lần đối diện đầu tiên giữa Đấng Thiên sai và thế giới ngoại đạo.
Ngày lễ mừng cuộc gặp gỡ đầu tiên đó được gọi là lễ Hiển linh, có nghĩa là việc bày tỏ mình cho nhân loại. Trong ngày lễ Giáng sinh, Chúa tỏ mình ra cho người Do thái. Còn trong ngày lễ Ba vua, Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, nhân danh các vị đạo sĩ. Theo quan niệm Do thái cổ xưa, thì tất cả những ai không thuộc dòng dõi Do thái, đều là dân ngoại. Trước cái biến cố này thì đức tin vào Chúa, được giới hạn vào một dân tộc là dân Do thái. Cái thủ đô và trung tâm thờ phượng của dân tộc họ là Giê-ru-sa-lem. Trong bài trích sách tiên tri I-sa-i-a, vị tiên tri nhìn thấy trước mặt một thành Giê-ru-sa-lem mới có tính cách thiêng liêng và bao quát. Như vậy cái vương quốc mà Chúa hứa cho dân trong đạo cũ bây giờ được mở rộng ra cho các dân tộc muốn vào và ơn cứu độ được hứa cho dân riêng thì bây giờ được đến với các dân tộc. Như vậy Đấng cứu thế đến để cứu chuộc dân Chúa, Người còn là Đấng cứu thế của mọi dân tộc. Chúa đến để thiết lập một Giáo hội cho mọi dân tộc. Do ý định của Thiên Chúa, Giáo hội mở cửa cho những ai muốn gia nhập. Theo nghĩa này thì Giáo hội thuộc mọi chủng tộc, màu gia và ngôn ngữ. Và đó phải là cái đẹp của Giáo hội. Theo nghĩa này thì Giáo hội có thể ví như một vườn hoa gồm trăm hoa đua nở với muôn vàn màu sắc. Và đó là cái đẹp của Giáo hội.
Trong ngày lễ hiển linh, ta cảm đội ơn Chúa đã tỏ mình ra cho dân ngoại vì ta một thời cũng là dân ngoại. Cái thái độ và mục đích của HiểnLinh ABCtrong cuộc hành trình tìm Chúa khiến ta cần tìm hiểu và học hỏi. Họ chân thành tìm Chúa để thờ lạy Người chứ không giả hình như vua Hê-rô-đê. Hê-rô-đê khi nghe tin Đấng cứu thế mới sinh thì bối rối sợ hãi vì sợ mất ngai vàng. Còn các nhà thông thái thì nhửng nhưng vì họ cậy họ có sẵn kho tàng thánh kinh. Họ cho rằng nếu Đấng cứu thế xuất hiện thì tự nhiên họ phải biết chứ không cần đi tìm kiếm. Cái thái độ tự mãn đó đã làm họ mù quáng không nhận ra ngôi sao lạ để đi tìm Chúa.
Được rửa tội từ nhỏ, ta cũng có thể có thái độ tự mãn, giữ đạo theo thói quen hình thức mà không tiếp tục đi tìm Chúa. Ta vẫn phải tiếp tục đi tìm Chúa. Cũng như ngôi sao lạ là dấu chỉ của sự hiện diện của Chúa mới sinh, thì những sự vật trong trời đất, những kỳ công của vũ trụ như núi rừng, biển cả, sông ngòi, mặt trăng, mặt trời, tinh tú, cỏ cây hoa lá là những dấu chỉ cho thấy những dấu vết của việc Chúa hiện diện. Những biến cố thiên nhiên trong vũ trụ như sóng gió, bão táp, lụt lội, động đất cũng là những dấu chỉ về quyền năng của Chúa. Những biến cố trong đời sống như sinh tử, là những dấu chỉ có bàn tay của Thiên Chúa. Để có thể khám phá ra và cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa, ta phải biết loại bỏ những chướng ngại vật trong tâm hồn để tâm hồn được bình an và thanh thản hầu có thể nhận ra và cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa. Để con mắt tâm hồn được trong sáng, ta cần rửa mắt khỏi dỉ để có thể nhìn thấy ánh sáng siêu nhiên.
Thiên Chúa hiển linh là các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng: HiểnLinh ABC62
1. Thiên Chúa hiển linh là các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” * Đó là ý nghĩa cốt yếu nhất của Lễ Hiển Linh. Nếu ngày hôm nay thánh Phaolô viết lại những điều thì chắc ngài sẽ không viết: … “cùng thừa kế với người Do Thái……” mà sẽ viết “cùng thừa kế với người Công giáo” vì người Công giáo nói riêng và người Kitô hữu nói chung đã thừa kế gia sản và lịch sử của người Do Thái. Dân riêng (dân Do Thái) đã mở rộng thành Dân Thiên Chúa bao gồm mọi dân tộc trên trái đất này, không phân biệt mầu da, chủng tộc, ngôn sứ, văn hóa, trình độ văn minh hay kỹ nghệ.
* Vậy thì mừng Lễ Hiển Linh một cách “chính thống” nhất là chúng ta phải hướng lòng, hướng suy nghĩ và hành động của mình và của cộng đoàn về những người ngoại, về các dân ngoại. Điều này hết sức phù hợp với tinh thần và đường hướng mục vụ của Năm Truyền Giáo vừa được tôn lên thành Năm Thánh Truyền Giáo của Giáo hội Việt Nam. Trong số 80 triệu người sống trên đất nước này thì chỉ có khoảng 6-7% là người Công giáo và Tin Lành. Tin Mừng đã được cha ông chúng ta tiếp nhận cách đây khoảng 470 năm, một thời gian đã khá dài. Hơn nữa chúng ta còn có thể nói rằng: mảnh đất hình chữ S thân thương này đã thấm ướt máu đào của các thánh và các anh hùng Tử Đạo. Thế nhưng trong số những người Công giáo và Tin Lành Việt Nam hỏi được bao nhiêu phần trăm là các tín đồ xác tín, nhiệt thành, dấn thân? Và trong xã hội ta hiện nay nổi cộm tình trạng gia đình tan vỡ, gia đình rối và tình trạng bỏ đạo nhất là ở giới trẻ. Bên cạnh đó là các tệ nạn xã hội như đĩ điếm, ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ em, buôn gian bán lận, tham nhũng hối lộ… càng ngày càng lan rộng và làm nhiều người, nhiều gia đình điêu đứng, khốn khổ, nhiều giá trị đạo đức truyền thống dân tộc bị băng hoại. Đó là những thách thức lớn đối với người và cộng đoàn Kitô giáo. Đó là các môi trường và những con người đang trông chờ Chúa đến và đang cần được Người biến đổi và cứu độ.
* Các nhà chiêm tinh Phương Đông đã nhờ ngôi sao lạ của “Vua dân Do Thái mới sinh ra” tức của Hài Nhi Giêsu, mà đến được Bêlem và gặp được Hài Nhi Giêsu cùng Mẹ Người là Bà Maria. Cũng thế hơn 70 triệu người Việt Nam nói riêng và hằng trăm triệu người châu Á nói chung sẽ chỉ nhận ra Đức Giêsu là Cứu Chúa nếu mỗi người Công giáo Việt Nam là một SAO dẫn đường chỉ lối chỉ cho họ. Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã hơn một lần nhắc nhở chúng ta là con người thời nay trông chờ (và tin tưởng) các chứng nhân hơn là các thày dạy, vì có nhiều thày dạy lại dạy một đàng mà sống một nẻo, thậm chí sống ngược lại những điều họ giảng dạy, chẳng khác gì các Biệt phái Pharisêu thời Chúa Giêsu. Trong cụ thể, chỉ khi người Kitô hữu sống tinh thần Bát Phúc, sống yêu thương, trách nhiệm, công bình, thanh liêm, hy sinh, phục vụ tha nhân và ích chung thì mới trở thành SAO trên bầu trời và trong cộng đồng con người được. Nói cách khác là chỉ khi nào chúng ta để cho Thiên Chúa hiển linh trong tâm hồn và đời sống của mình thì chúng ta mới là SAO của Người.
2. Để trở thành SAO: Bạn sửa sai hay tăng cường một lối sống nào đó của bạn để người khác nhìn vào bạn mà nhận ra Chúa. Nói cách khác “Bạn hãy cho thấy mình là người có đức tin. Đức tin được diễn tả qua hành động yêu thương cụ thể, và yêu thương lại làm cho đức tin lớn lên” (Manna năm C)
* God’s Epiphany(self -manifestation) is for all *
Thiên Chúa tự tỏ mình trong Đức Giêsu là ánh sáng chiếu nơi tối tăm. Dân ngoại đã đáp lại sự mạc khải này: HiểnLinh ABC63
* BÀI ĐỌC 1: Isaia 60, 1-6 = Thiên Chúa tự tỏ mình trong Đức Giêsu là ánh sáng chiếu nơi tối tăm. Dân ngoại đã đáp lại sự mạc khải này./ God manifesting Himself in Jesus Christ is a light shinning in the darkness. The Gentiles are responding to this revelation of God.
* BAÌ ĐỌC 2: Ephêxô 3, 2-3; 5-6 = Phaolô đã nhấn mạnh sự tỏ mình của Chúa trong Đức Kitô không phải chỉ cho DoThái nhưngcho moị dân tộc./ Paul stresses that God manifested Himself…not only to the Jews but to all nations.
* TIN MỪNG(Gospel) Mat. 2, 1-12 = Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi hài nhi ở mới dừng lại./ The star which they had observed at its rising... a stand over the place where the child was.
A- Bạn và tôi cùng cảm nghiệm Sống và chia sẻ ba bài đọc trên: ( Reflections, live out and share )
1/ Các nhà chiêm tinh là dân ngọai từ phương Đông hỏi vua Hê-rô-đê: “Đức Vua Do Thái mới sinh hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” Lòng tin mau mắn của dân ngoại cho tôi thấy sự thờ ơ cuả dân Do Thái vơí Chúa Cứu Thế quá rõ rệt. Nhất là các thượng tế và kinh sư chuyên lo các lời ngôn sứ nhưng lại không nhận ra Chúa. Ngày nay vẫn có người giống như vậy.! Chia sẻ cái nhìn và cách sống Lời Chúa cuả tôi? (Sống đạo)
“Where is the newborn king of the Jews? We saw His star at its rising and have come to do him homage.” (Mat. 2, 2)
2/ Ba nhà chiêm tinh được bái lạy Hài nhi và Mẹ Maria, rồi: “Sau đó họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên họ đã đi xứ khác mà trở về xứ mình.” Hành trình đi tìm Chúa là cuả mỗi người vơí nhiều thử thách cam go như vàng thử lửa. Bạn đã được gặp Chúa trong đời sống và qua tha nhân rất cần thay đổi, đừng trở laị đường cũ nữa. Nói lên những quyết tâm bạn đã đổi mới? (Hành đạo)
“Having been warned in a dream not to return to Herod, they departed for their country by another way.” Mat. 2, 12)
3/ Trong baì đọc 1 đã nói đến mọi dân tộc tìm Chúa: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước.” Chúa đã tỏ mình Ngaì cho moị người, mọi dân tộc, chứ không phải riêng tôi, họ đã nhờ ánh sáng Tin Mừng mà biết Chúa, tự do chúc tụng và theo chương trình sáng tạo và kế hoạch cứu độ của Ngài. Tôi nghĩ thế nào về ngừơi khác tôn giáo? (Học đạo)
“Nations shall walk by your light and kings by your shinning radiance, they all gather and come to you.” (Is. 60, 3)
4/ Thánh Phaolô còn cho bạn biết thêm về mầu nhiệm này: “Trong Đức Kitô và nhờ Tin Mừng các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” Rõ ràng là mọi người đều nằm trong chương trình cứu độ của Chúa, Ngaì đã sáng tạo yêu mến và cứu thoát họ. Bạn kể những cộng tác với Chúa trong việc này?(Sùng đạo)
“the Gentiles are coheirs, members of the same body and copartners… in Christ Jesus through the Gospel.”( Êph 3, 6)
B- Câu Kinh Thánh đánh động tôi chọn làm Châm ngôn Sống tuần này: (The Best God’s Word )
… CÁC DÂN NGOẠI CÙNG ĐƯỢC THỪA KẾ GIA NGHIỆP VỚI NGƯỜI DO THÁI…”
“ … the Gentiles are now coheirs with the Jews, members of the same body…” (Êphêxô 3, 6)
Vatican II: Thiên Chúa muốn mời gọi mọi người tham dự vào sự sống của Ngài, không những chỉ từng cá nhân không liên lạc gì với nhau, mà Ngài còn liên kết họ thành một dân duy nhất… (Truyền gíao#2)
Mẹ Maria: Ngài liên kết tất cả mọi người cần được cứu rỗi…Ngài thật là Mẹ các chi thể… (GH#53)
C- Ngay bây giờ tôi phải làm gì: (So what am I doing / For Action)
a/ Tôi chọn 1 trong 4 Gơị ý Cảm nghiệm Sống và chia sẻ ở phần A để áp dụng vào đời sống hôm nay.
b/ Bạn cần thay đổi về cái nhìn của mình trong Chúa với các anh em túng nghèo và bên lương dân hay tôn giáo bạn…
D- Tôi cầu nguyện với Lời Chúa và Sồng cầu nguyện: ( I pray and practice / Pray in Action )
Lạy Cha! Cha đã cho ngôi sao xuất hiện bên phương Đông để ba nhà chiêm tinh thấy nơi con Cha sinh ra. Xin Cha soi sáng tâm hồn con biết sống gần guĩ và nhìn thấy con Cha trong mọi người…, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc…
Lời hay ý đẹp: ĐỂ GIỐNG ĐỨC KITÔ, CHÚNG TA PHẢI HỌC TỪ THẦY MÌNH
To become like Christ, we must learn from the MasterPt. Huyền Đồng
Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, ...... Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, và cả thành HiểnLinh ABC64
- “Khi Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi: “Đức Vua dân Do thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt 2,1-2).
- Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế, các kinh sư trong dân lại, và hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu (Mt 2,3-4).
- Họ trả lời: “Tại Bêlem, miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ có chép rằng: “Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền Giuđa. Vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen dân Ta sẽ ra đời” (Mt 2,5-6).
- Bấy giờ vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn rằng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người” (Mt 2,7-8).
- Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng” (Mt 2,9-10).
- Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Maria, liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hêrôđê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình (Mt 2,11-12).
2) Ý chính:
Thiên Chúa đã soi sáng cho các vị đạo sĩ qua ánh sao lạ để các ngài tìm đến thờ lạy Con Chúa mới giáng sinh đang khi chính dân Ítraen lại thờ ơ, thậm chí còn có thái độ thù ghét và tìm cách giết hại Người.
3) Chú thích: Xem phần CHÚ THÍCH trong bài Tin Mừng Hiển Linh Năm A và B. Ở đây chỉ lưu ý một ít điểm bổ sung như sau:
- Trình thuật này muốn đưa về ý tưởng sau đây: Hài Nhi mới sinh chính là vị Cứu Tinh (Mêsia) mà dân Ítraen đã từ lâu mong chờ. Chào đời tại Bêlem đúng như lời tuyên sấm của ngôn sứ Mi-kha đã báo trước. Người thống lãnh toàn thể Ítraen theo ý muốn của Thiên Chúa (x. Mk 5,1 tt) và đáp ứng nguyện vọng của tất cả các chi tộc như phụ vương Đa-vít (x. 2 Sm 5,2). Ngôi sao vốn là dấu hiệu chỉ vương quyền, ở đây gợi lại lời sấm của thầy chiêm tinh Bi-lơ-am trong Ds 24,17 nói về triều đại Đavít và về chính Đấng Mêsia.
- Hài Nhi còn nắm một vương quyền bao quát toàn cầu nữa. Quả thế, qua các vị chiêm tinh, dân ngoại đã nhìn nhận vương quyền của Người ngay từ lúc Người mới chào đời. Như thế là ứng nghiệm những sấm ngôn Cựu Ước về tôn giáo phổ quát thời cánh chung (x. Is 49,23; Tv 72,10-15; Is 60,6). Ở Trung Đông xưa, nhất là tại Ba-Tư, các vị chiêm tinh hoặc đạo sĩ là lớp người trí thức của thời đại, thường thường thuộc hàng tư tế và làm cố vấn cho các vua. Các vị trong câu chuyện này đến từ phương Đông, quê hương của Bi-lơ-am (x. Ds 23-24). Ong Bi-lơ-am thấy ngôi sao còn xa (x. Ds 24,17). Còn các vị này thấy ngôi sao đó đã mọc lên rồi (x. Mt 2,2).
- Có sự đối kháng rõ rệt giữa thái độ thờ ơ và thù nghịch của dân Do Thái đối với Hài Nhi và lòng tin mau mắn quảng đại của dân ngoại: các thượng tế và kinh sư nắm vững lời các ngôn sứ mà không nhận ra Đấng Mêsia, trong khi những người dân ngoại này giống như ông Bi-lơ-am ngoại đạo xưa, lại nhìn nhận Người và đi tìm kiếm mà thờ lạy.
- Bê-lem (x. Mt 2,1): Một thành nhỏ bé nằm cách Giêrusalem 7 cây số về phía Nam. Thành tuy nhỏ nhưng có danh tiếng, vì là quê hương của vua Đa-vít. Bê-lem còn được ngôn sứ Mi-kha tuyên sấm là nơi Đấng Cứu Thế sẽ ra đời (x. Mk 5,1).
- Mấy nhà chiêm tinh hay đạo sĩ (x. Mt 2,1): Đầu tiên được gọi là các tư tế Ba-Tư. Nhưng vào thời Hy Lạp cai trị, từ này thường ám chỉ những người Đông phương hiểu biết khoa chiêm tinh. Ở đây là những nhà chiêm tinh Babilon đã từng có dịp tiếp xúc với tứ tưởng Thiên Sai Do Thái. Vì thế họ có ý thức về đấng Thiên Sai và muốn đi tìm kiếm Người. Dựa vào lễ vật dâng hiến là những sản phẩm đặc biệt của xứ A-ra-bie, nên có thể quả quyết các ngài từ A-ra-bie mà đến. Đồng thời dựa vào số tặng vật, chúng ta đoán được các ngài có 3 người. Về sau, vào thế kỷ thứ 8, người ta mới đặt tên cho các ngài là: Mel-chi-or, Bal-tha-zar và Gas-par. Người ta coi các ngài là đại diện cho ba châu lục của thế giới là châu Á, châu Au và châu Phi.
- Ngôi sao lạ (x. Mt 2,2): Thiên Chúa có thể dùng những hiện tương tự nhiên vào mục đích của Người. Cũng như xưa Người dùng cột mây cột lửa để hướng dẫn dân Do Thái đi trong hoang địa về miền Đất Hứa, thì nay Chúa cũng dùng ngôi sao lạ để dẫn đường cho các đạo sĩ.
Hỏi: Nhưng tại sao ngôi sao không dẫn thẳng tới Bêlem, mà lại dẫn tới thủ đô Giêrusalem và vụt tắt đi, rồi sau đó tái xuất hiện và dẫn đường đi tới Bêlem ?
Đáp: Tác giả muốn trình bày cho chúng ta thấy rằng: Ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái !
- Họ sắp mình bái lạy Người (x. Mt 2,11): Mátthêu xử dụng 13 lần động từ bái lạy (Cả Tân Ước xử dụng 57 lần). Tột đỉnh là các tông đồ bái lạy Chúa Giêsu phục sinh ở điểm hẹn trên núi tại Galilê. Trong cuộc đối đáp với Xatan (Mt 4,9-10) Chúa Giêsu đã bảo phải bái lạy một mình Thiên Chúa mà thôi. Vậy thì qua chuỗi bái lạy này, ngay từ đây, Mátthêu đã đặt người đọc trước mặt Đức Giêsu và mời gọi tuyên xưng Người là Chúa, như Người tuyên bố với các tông đồ ở cuối sách.
- Vàng, nhũ hương và mộc dược (x. Mt 2,11): Các giáo phụ thường giải thích các lễ vật dâng Chúa Hài Nhi theo nghĩa tượng trưng; Vàng chỉ Hài Nhi là Vua; Nhũ hương chỉ Thiên Chúa; Mộc dược chỉ nhân tính. Có người lại giải thích ý nghĩa của 3 lễ vật như sau: Vàng ám chỉ đức tin thể hiện qua thái độ phục bái suy tôn; Nhũ hương ám chỉ đức cậy, thể hiện qua tâm tình cầu nguyện sốt sắng; Mộc dược ám chỉ đức mến, thể hiện qua những hy sinh khiêm nhường phục vụ tha nhân.
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1) Lời Chúa: “Họ liền sắp mình bái lạy Người. Rồi mở bảo tráp, họ lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến” (Mt 2,11).
2) Câu chuyện: Món quà của AR-TA-BAN.
Henry Van Dyke có thuật lại câu chuyện nhan đề: “Còn một nhà Đạo Sĩ khác nữa”, kể về nhân vật thứ tư là người đáng lẽ đã cùng ba nhà đạo sĩ kia đi tìm vua Do Thái mới sinh. Nhân vật này tên là Ar-ta-ban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Ar-ta-ban có mang theo một túi đưng những viên đá quí để dâng tặng Au vương. Thế nhưng trên đường đi gặp 3 vị đạo sĩ kia, Ar-ta-ban đã dừng chân để giúp một người nghèo khổ bên lề đường. Thế là ông bị lạc không tìm thấy ba vị kia. Dù vậy, ông vẫn tiếp tục cuộc hành trình. Mỗi lần gặp người khốn khó, ông lại bán đi một viên đá quí và giúp đỡ người kia cách tận tình. Sau nhiều năm, Ar-ta-ban đã trở nên một người già nua ốm yếu, thế mà ông vẫn chưa gặp được vị Au Vương như lòng hằng mong ước.
Một ngày kia đang trọ trong thành Giêrusalem, Ar-ta-ban thấy cả thành đều xôn xao náo nhiệt vì cái tin nhà cầm quyền sắp sửa hành hình một tội nhân. Ar-ta-ban hòa theo dòng người tò mò đi xem cuộc hành hình. Khi nhìn thấy tội nhân váv cây thập tự ngã té nhiều lần, Ar-ta-ban cảm thấy thật xúc động, trái tim của ông cứ đập liên hồi, linh tính cho ông biết đó chính là vị vua mà ông đã suốt đời tìm kiếm. Ong ước mong được đến gần ôm lấy vị vua bị đóng đinh treo trên cây thập tự, nhưng ông bị lính canh xua đổi. Trong lúc đứng nhìn lên vua Giêsu chịu đóng đinh, bỗng Ar-ta-ban nghe thấy tiếng thì thầm bên tai ông: “Này Ar-ta-ban, con đừng buồn nữa. Ta cám ơn con vì con đã nhiều lần tặng quà cho Ta từ khi Ta mới sinh ra cho đến ngày hôm nay. Nhiều lần Ta đói con đã cho cơm ăn, Ta khát con đã cho nước uống. Ta rách rưới, con đã cho đồ mặc, Ta là khách lạ con đã đón Ta vào nhà con”.
Nghe những lời của ông vua Giêsu nói với mình từ trên cây thập tự, Ar-ta-ban cảm thấy vui mừng vì đã được toại nguyện: Ông đã gặp được Vua Cứu Thế nhiều lần trong cuộc đời mà ông không hay biết. Từ đây ông hiểu rằng: món quà giúp cho người nghèo khổ là đã tặng cho chính Vua Giêsu. Món quà đó không nhất thiết phải là tiền bạc vật chất, nhưng còn là tình người, là sự thông cảm vời người đau khổ, là thái độ khiêm tốn phục vụ tha nhân. Trong giờ phán xét, Vua Thẩm Phán Giêsu sẽ ngự trên mây trời mà tuyên bố: “Hãy đến, hỡi những kẻ được Cha Ta chúc phúc, Hãy vào hưởng Vương Quốc dành sẵn cho các con từ thuở khai thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các con đã cho ăn. Ta khát các con đã cho uống. Ta là khách lạ các con đã đón tiếp, Ta rách rưới các con đã cho đồ mặc, Ta ở tù các con đã viếng thăm Ta…Vì bất cứ điều gì các con làm cho một trong những kẻ bé mọn này của Ta, là các con đã làm cho chính Ta” (Mt 25,34-36.40).
3) Câu chuyện 2: Mỗi gia đình tín hữu phải là một ngôi sao lạ.
Một nhà truyền giáo đã kể lại câu chuyện lạ về một hòn đảo thuộc vùng Ca-rô-lin. Một hòn đảo chưa co nhà truyền giáo nào đặt chân tới. Nhưng đã có hơn 100 gia đình ở đảo đã theo đạo công giáo rồi. Họ rửa tội cho nhau và hướng dẫn nhau sống đời Kitô hữu đạo đức. Hỏi ra mới biết thì cách đó mười năm, có một gia đình công giáo tới định cư trên đảo. Đó là một gia đình tín hữu hạnh phúc, vợ chồng sống hòa thuận thương yêu nhau. Chính bầu khí yêu thương hạnh phúc trong gia đình họ kèm theo việc đọc kinh cầu nguyện sốt sắng đã cảm hóa được các gia đình lương dân khác trên đảo. Người ta từ sự nể phục, tiến dần đến chỗ đi theo gia đình này sống lý tưởng đời Kitô hữu.
4) Suy niệm:
+ Khi Chúa Cứu Thế Giáng Sinh, trên bầu trời xuất hiện ngôi sao lạ. Có lẽ nhiều người đã nhìn thấy ánh sao lạ, nhưng chỉ có các nhà chiêm tinh ngoại giáo nhận ra dấu chỉ của Vua Thiên Sai, và sẵn sàng mang theo lễ vật lên đường theo ánh sao để tìm vị Vua mới sinh. Các ngài không nề quản bao nỗi gian nan vất vả, không ngại đường xa vô định, không sợ phải hy sinh bao nhiêu công sức thời giờ và tiền bạc, không nản chí thất vọng khi gặp trở ngại dọc đường. Chính vì có đầy thiện chí như vậy nên cuối cùng các ngài đã gặp được Hài Nhi Cứu Thế, đã dâng tiến cho Người lễ vật tượng trưng lòng thành kính, và đã được Người ban cho ơn đổi mới đời sống.
+ Đang khi ấy vua Hêrôđê lo sợ cuống cuồng cho ngai vàng của mình, nên tìm cách sát hại Hài Nhi Cứu Thế. Còn các thượng tế và kinh sư thì dửng dưng. Các ông có thể chỉ đường cho các vị đạo sĩ, nhưng lại không dấn bước đi tìm gặp Người. Về sau chính những người này đã hợp tác với nhau để giết hại Vua Thiên Sai trên thập giá.Thế là ứng nghiệm lời kinh thánh rằng: “Giêrusalem, Giêrusalem ! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi ! Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu” (Mt 23,37).
+ Trong cuộc sống, Chúa cũng gửi tới cho ta nhiều dấu chỉ, như những ngôi sao dẫn ta về với Người. Có thể là một lời dạy dỗ nhủ khuyên, có thể là một gương sáng ta được nghe, được thấy. Nhưng muốn nhìn những điều tốt đẹp đó như ánh sao của Chúa, ta phải chuẩn bị tâm hồn như thửa đất đã cày bừa dọn sạch gai góc sỏi đá, sẵn sàng đón nhận hạt giống tốt. Phải biết tìm hiểu ý Chúa nơi mỗi biến cố trong cuộc sống và gắng sức thực hiện những gợi ý Chúa gữi cho.
+ Ngoài ra mỗi Kitô hữu luôn phải là một ánh sao. Lời nói việc làm, cách xử thế của mỗi chúng ta phải nên gương mẫu cho bạn bè, cho người còn xa cách Chúa, cố thực hiện Lời Chúa. Một nụ cười, một ánh mắt, một lời khích lệ cũng bừng sáng rực rỡ chẳng kém một vì sao; “Giữa một thế hệ sa đọa, anh em hãy tỏa sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2,15). Chúng ta chỉ là những vì sao sáng khi chúng ta để mọc lên trong lòng chúng ta ngôi sao mai là chính Đức Kitô (x. Kh 2,28).
5) Thảo luận:
- Những dân ngoại ở xa có thể gặp Chúa, còn những kinh sư thông thạo Kinh Thánh ở sát thành Bêlem lại không gặp được Ngài. Theo bạn, để gặp được Chua, cần phải có thái độ nào và cần những điều kiện nào ?
- Ở môi trường bạn đang sống và làm việc, người ta cần thứ ánh sao nào ? Bạn có thứ ánh sao đó hay không ?
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU: 1) Lạy Chúa Giêsu, Tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sao mặt trời mặt trăng, và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất. Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng. Đó là vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề. Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền và thất vọng. Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng phút giây của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con. Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối. Nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa, để cả trái đất ngập tràn ánh sáng của Chúa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ)Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria, Hêrôđê và những kinh sư am tường Kinh Thánh, sống trong đền vua đã không nhận biết Đấng Cứu Thế. Trong khi đó, thật vinh dự và an ủi cho các nhà đạo sĩ. Họ chân thành đi tìm Chúa và họ đã gặp được Chúa. Con chiêm ngắm các nhà đạo sĩ trên đường đến với Chúa: Họ đã hy sinh tất cả. Họ chẳng quảng vất vả. Họ không thỏa mãn. Họ không kiêu căng tự mãn với cuộc sống của mình. Họ không sống ích kỷ. Họ chân thành tìm Chúa để thờ lạy Chúa. Họ không hề có ý đồ nào xấu trong việc tìm Chúa. Con thấy các đạo sĩ đang rong ruổi cách trung thành theo ánh sao trời để tìm Chúa. Con nhận ra các đạo sĩ đang vâng lời tuyệt đối. Họ đi con đường ngôi sao dẫn đưa họ. Có lúc lý trí cũng soi dẫn họ: Họ nghĩ Chúa phải sinh ra trong hoàng cung. Nhưng làm theo lý trí, họ đã không tìm ra Chúa. Họ phải nhờ Thánh Kinh để nhận ra Ngài.
Lạy Mẹ, cuộc đời của con cũng là cuộc hành trình đi tìm Chúa. Ánh sáng Chúa vẫn luôn dẫn lối chỉ đường cho con. Đó chính là những lời của Chúa trong Thánh Kinh. Chúa đang dẫn con từng bước qua lời dạy của Giáo Hội như một ánh sao đặc biệt. Các đạo sĩ đã nhận ra Chúa, vì họ đã nỗ lực tìm Chúa. Con cũng muốn noi gương các vị đạo sĩ, luôn quên mình bất chấp mọi khó khăn đến với Chúa trong bí tích Thánh thể. Con quyết tâm mỗi ngày nhận ra Chúa nơi anh em con, nhất là nơi những người nghèo khó bệnh tật. Đây không phải là chuyện dễ làm ! Xin Mẹ thương giúp con. Con sợ lòng kiêu căng và sự tự mãn làm con ra mù tối đến nỗi không gặp được Chúa như Hêrôđê và các nhà kinh sư xưa. Nhưng con chân thành chạy đến với Mẹ. Xin Mẹ thương giúp đỡ con.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
Khi Thiên Chúa Ngôi Lời sinh ra là một trẻ thơ nằm trong máng cỏ thì thiên sứ đã báo tin vui HiểnLinh ABC65
Khi Thiên Chúa Ngôi Lời sinh ra là một trẻ thơ nằm trong máng cỏ thì thiên sứ đã báo tin vui cho những người chăn chiên có mặt trên cánh đồng Bêlem để họ đến nhìn nhận, thờ lạy, ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa. Đó chính là việc Thiên Chúa hiển linh tức tỏ mình ra cho con người. Nhưng nếu hiển linh theo nghĩa chặt là Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, tức cho những người chưa biết và tin thờ Chúa, thì câu chuyện ba nhà chiêm tinh Phương Đông (chúng ta còn thường gọi là ba vua) đi tìm “Vua dân Do Thái (tức Hài Nhi Giêsu) mới sinh ra” mới được coi là biểu trưng của việc Thiên Chúa hiển linh. Mừng Lễ Hiển Linh năm nay, chúng ta hãy mở rộng tâm hồn lắng nghe và đón nhận Lời Chúa và đem sứ điệp của Lời ấy vào cuộc sống để Chúa được hiển linh trong và qua cuộc đời của chúng ta.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA
2.1 Bài đọc 1: Is 60,1-6: * “Sách Isaia là cuốn sách ngôn sứ lớn nhất. Sách gồm ba phần thuộc ba thời kỳ khác nhau. Isaia 56-66 gọi là Isaia đệ tam, có lẽ là một bộ sưu tập lời rao giảng của nhiều vị ngôn sứ trong thời kỳ từ lúc xây xong đền thờ mới (515 trước CN) cho đến 445 trước CN. Khi Nơkhêmia hoàn tất việc trùng tu tường thành, dân chúng chán nản vì thấy đền thờ mới quá khiêm tốn, đời sống kinh tế chẳng khá gì, đời sống đạo đức cũng chẳng hơn xưa: vẫn đầy áp bức bóc lột, thối nát. Các ngôn sứ củng cố niềm tin của cộng đồng Do Thái hồi hương” (Kinh Thánh trọn bộ, Dẫn nhập Cựu ước, trang 28-29).
* Is 60, 1-6: là một đoạn văn đầy phấn chấn và hoan lạc vì tác giả nói về ngày vinh quang của Thiên Chúa chiếu tỏa trên thành thánh Giêrusalem và trên dân tộc Ítraen nhỏ bé. Đó là ngày Thiên Chúa đến ngự trong đền thờ và giữa lòng dân. Mọi chuyện thay đổi một cách kỳ diệu và Giêrusalem sẽ là trung tâm của hoàn vũ: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông… Nguồn giầu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Epha: tất cả những người từ Sơvađến, đều mang theo vàng với trầm hương và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa.”
* Tất cả những điều ngôn sứ nói trên không thể chỉ được hiểu theo nghĩa đen của các từ, các chữ. Vì nếu chỉ được hiểu theo nghĩa đen thì quang cảnh huy hoàng ấy cũng chẳng đáng là bao, so với sự giầu sang, lộng lẫy của các đền đài vua chúa hay phủ tổng thống hay bản doanh của các nhà tài phiệt, các vua dầu lửa ngày nay. Chúng ta phải hiểu những điều ấy theo nghĩa bóng, nghĩa tâm linh.
2.2 Bài đọc 2: Ep 3,2-3a.5-6: * Thánh Phaolô truyền đạt cho các tín hữu E-phêsô một điều cực kỳ quan trọng và bất ngờ: đó là “Trong Đức Kitô và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” Thánh Phaolô gọi đó là mầu nhiệm của Thiên Chúa và nói rõ hơn: “Mầu nhiệm này Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông đồ và ngôn sứ của Người.”
* Nói là điều cực kỳ quan trọng và bất ngờ, vì đó là điều then chốt của mạc khải Kitô giáo và vì vượt ngoài trí tưởng tượng của người Do Thái đã trở thành các tín hữu đầu tiên. Như vậy thì lịch sử dân Ítraen hay mối tương quan của Thiên Chúa với dân Ítraen chỉ là một giai đoạn của lịch sử nhân loại, chỉ là bước chuẩn bị cho Giao Ước mới giữa Thiên Chúa và loài người, nhờ đó mọi dân tộc trên trái đất này đều trở thành đồng thữa kế với dân riêng của Giavê, mọi người đều có quyền gọi Thiên Chúa là Chúa Tể, là Vua và là Cha.
* 2.3 Bài Tin Mừng: Mt 2,1-12: Là tường thuật của Mátthêu về việc ba nhà chiêm tinh từ Phương Đông tìm đến Giêrusalem để nhìn nhận và bái thờ Vua dân Do Thái mới sinh ra. Sở dĩ họ biết được biến cố trọng đại này là vì họ nghiên cứu các hiện tượng của thiên nhiên như là các nhà thiên văn học. Nhưng sỡ dĩ họ đọc ra dấu hiệu (hay dấu chỉ) là vì họ được Thiên Chúa soi sáng trong lòng: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người xuất hiện bên Phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người”.
* Khi tường thuật câu chuyện trên, Phúc âm Mátthêu làm nổi bật cảnh xôn xao, thắc mắc và lo sợ của vua Hêrôđê và thành Giêrusalem. Phải nhờ đến sự am tường Thánh Kinh Cựu Ước của các thượng tế và kinh sư họ mới biết được nơi Đức Kitô (tức Đấng được xức dầu tấn phong Vua) sinh ra:“Tại Bêlem vì miền Giuđê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: “Phần ngươi, hỡi Bêlem miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giuđa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ítraen dân Ta sẽ ra đời.”
* Vì ngộ nhận “Vua dân Do Thái mới sinh ra” mà các nhà chiêm tinh đang tìm kiếm là nhân vật sẽ tranh giành ngai vàng với mình nên vua Hêrôđê nhanh chóng biết mình phải xử sự thế nào để tránh hiểm họa sau này: “Bấy giờ vua Hêrôđê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến hỏi cặn kẽ với ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bêlem và dặn rằng: “Xin quí ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người” Thật ra vua Hêrôđê không hề có ý đến bái lạy “Vua dân Do Thái mới sinh ra” mà có ý đồ giết hại “Vua mới sinh ra” ấy. Chính vì thế mà Thiên Chúa đã can thiệp để các nhà chiêm tinh không bị mắc lừa và Hài Nhi Giêsu không bị Hêrôđê ám hại.
* Trở lại với các nhà chiêm tinh: Sau khi từ giã vua Hêrôđê để tiếp tục lên đường tìm kiếm, họ lại được thấy ngôi sao và nhờ ngôi sao dẫn đường ấy, họ đã tới tận nơi Hài Nhi đang ở. Họ gặp Hài Nhi và Mẹ Người là Đức Maria. Họ sấp mình thờ lạy Người và tiến dâng lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược là những vật phẩm quí giá và phù hợp với cương vị vua chúa. Họ hân hoan ra về dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
III. ĐÓN NHẬN & SỐNG SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA
3.1 Thiên Chúa hiển linh là các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” * Đó là ý nghĩa cốt yếu nhất của Lễ Hiển Linh. Nếu ngày hôm nay thánh Phaolô viết lại những điều thì chắc ngài sẽ không viết: … “cùng thừa kế với người Do Thái……” mà sẽ viết “cùng thừa kế với người Công giáo” vì người Công giáo nói riêng và người Kitô hữu nói chung đã thừa kế gia sản và lịch sử của người Do Thái. Dân riêng (dân Do Thái) đã mở rộng thành Dân Thiên Chúa bao gồm mọi dân tộc trên trái đất này, không phân biệt mầu da, chủng tộc, ngôn sứ, văn hóa, trình độ văn minh hay kỹ nghệ.
* Vậy thì mừng Lễ Hiển Linh một cách “chính thống” nhất là chúng ta phải hướng lòng, hướng suy nghĩ và hành động của mình và của cộng đoàn về những người ngoại, về các dân ngoại. Điều này hết sức phù hợp với tinh thần và đường hướng mục vụ của Năm Truyền Giáo vừa được tôn lên thành Năm Thánh Truyền Giáo của Giáo hội Việt Nam. Trong số 80 triệu người sống trên đất nước này thì chỉ có khoảng 6-7% là người Công giáo và Tin Lành. Tin Mừng đã được cha ông chúng ta tiếp nhận cách đây khoảng 470 năm, một thời gian đã khá dài. Hơn nữa chúng ta còn có thể nói rằng: mảnh đất hình chữ S thân thương này đã thấm ướt máu đào của các thánh và các anh hùng Tử Đạo. Thế nhưng trong số những người Công giáo và Tin Lành Việt Nam hỏi được bao nhiêu phần trăm là các tín đồ xác tín, nhiệt thành, dấn thân? Và trong xã hội ta hiện nay nổi cộm tình trạng gia đình tan vỡ, gia đình rối và tình trạng bỏ đạo nhất là ở giới trẻ. Bên cạnh đó là các tệ nạn xã hội như đĩ điếm, ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ em, buôn gian bán lận, tham nhũng hối lộ… càng ngày càng lan rộng và làm nhiều người, nhiều gia đình điêu đứng, khốn khổ, nhiều giá trị đạo đức truyền thống dân tộc bị băng hoại. Đó là những thách thức lớn đối với người và cộng đoàn Kitô giáo. Đó là các môi trường và những con người đang trông chờ Chúa đến và đang cần được Người biến đổi và cứu độ.
* Các nhà chiêm tinh Phương Đông đã nhờ ngôi sao lạ của “Vua dân Do Thái mới sinh ra” tức của Hài Nhi Giêsu, mà đến được Bêlem và gặp được Hài Nhi Giêsu cùng Mẹ Người là Bà Maria. Cũng thế hơn 70 triệu người Việt Nam nói riêng và hằng trăm triệu người châu Á nói chung sẽ chỉ nhận ra Đức Giêsu là Cứu Chúa nếu mỗi người Công giáo Việt Nam là một SAO dẫn đường chỉ lối chỉ cho họ. Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã hơn một lần nhắc nhở chúng ta là con người thời nay trông chờ (và tin tưởng) các chứng nhân hơn là các thày dạy, vì có nhiều thày dạy lại dạy một đàng mà sống một nẻo, thậm chí sống ngược lại những điều họ giảng dạy, chẳng khác gì các Biệt phái Pharisêu thời Chúa Giêsu. Trong cụ thể, chỉ khi người Kitô hữu sống tinh thần Bát Phúc, sống yêu thương, trách nhiệm, công bình, thanh liêm, hy sinh, phục vụ tha nhân và ích chung thì mới trở thành SAO trên bầu trời và trong cộng đồng con người được. Nói cách khác là chỉ khi nào chúng ta để cho Thiên Chúa hiển linh trong tâm hồn và đời sống của mình thì chúng ta mới là SAO của Người.
3.2 Để trở thành SAO: Bạn sửa sai hay tăng cường một lối sống nào đó của bạn để người khác nhìn vào bạn mà nhận ra Chúa. Nói cách khác “Bạn hãy cho thấy mình là người có đức tin. Đức tin được diễn tả qua hành động yêu thương cụ thể, và yêu thương lại làm cho đức tin lớn lên” (Manna năm C)
Cùng là một tin Đấng Cứu Thế đã sinh ra, nhưng nó gây ra bao nhiêu phản ứng hoàn toàn trái: HiểnLinh ABC66
Cùng là một tin Đấng Cứu Thế đã sinh ra, nhưng nó gây ra bao nhiêu phản ứng hoàn toàn trái ngược nhau! Các nhà chiêm tinh hay biết, lòng họ rất đổi vui mừng hớn hở, bằng mọi giá phải đi tìm cho bằng được để có dịp chiêm ngưởng, thờ lạy Ngài. Trái lại, vua Herode và dân Do-thái được ở sát ngay bên, lại không buồn biết đến; tới khi biết đến lại không vui chút nào, nhưng sợ sệt và ganh tị đến tối mặt! Một Herode đầy uy quyền và tiền của đã không cần đến ơn cứu độ của Thiên Chúa; trái lại ông lo sợ rằng sẽ bị mất hết những gì ông đang sung sướng hưởng thụ. Sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế lúc này là một khuấy động không cần thiết cho cuộc sống nhung lụa của ông. Phần dân Do-thái vẫn trông chờ một Đấng Cứu Tinh, nhưng cần phải kèm theo điều kiện đầy vẻ uy quyền cao sang của trần thế, mới có thể lãnh đạo dân chúng đánh đuổi ngoại bang, giải cứu dân tộc và đất nước thoát ách thống trị tàn bạo của đế quốc La-mã, và còn đưa dân Do-thái tới ngôi vị bá chủ hoàn cầu. Do đó Tin Mừng về một Đấng Cứu Tinh phải sinh ra nghèo hèn yếu đuối không thể chấp nhận được, vì chẳng biết là có thể làm nên cơm cháo gì cho dân cho nước?
Sở dĩ có những phản ứng rất đối nghịch nhau như vậy, là vì lòng trí của những người liên hệ đã có những dự tính riêng của họ, và họ muốn Chúa phải đáp ứng đúng ‘những hoạch định và chương trình hết sức tốt đẹp ấy’, nghĩa là Chúa không nên làm theo ý Chúa vì nó không hợp với ý loài người chúng con! Cũng có nghĩa là chúng con sẳn sàng tin Chúa bao lâu Chúa chìu theo “những ý muốn rất tốt đẹp” của chúng con; bằng không Chúa không phải là Chúa vì chẳng có khả năng chìu theo ý chúng con.
Chúa nhân từ vẫn ban cho hết mọi người tình thương và ân sủng tốt lành của người như mưa với nắng; nhưng có nhận hay không là do lòng trí ta có sẳn sàng hay không. Mùa Giáng Sinh này. tôi sẽ theo HiểnLinh ABCđi tìm Ngài để triều bái và tạ ơn cho xứng với đạo làm con; hay tôi vẫn lạnh lùng để mọi sự trôi vào lặng lẽ; hay tệ hơn nữa: tôi đang hốt hoảng toan tính những mưu mô hiểm độc như Herode?
Những khi ngắm cảnh chiều hoàng hôn nhẹ buông hay bình minh lên rực rỡ,ta cảm nhận vẻ đẹp: HiểnLinh ABC67
Những khi ngắm cảnh chiều hoàng hôn nhẹ buông hay bình minh lên rực rỡ,ta cảm nhận vẻ đẹp huyền diệu của trời đất.Biết thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên,ta sẽ thấy sự huyền diệu của Đấng Tạo Hoá.
Những đêm đẹp trời,nhìn lên bầu trời đầy sao,ta thấy Sao Bắc Đẩu.Sao Bắc Đẩu nằm trong chòm sao Gấu Lớn (còn gọi là Đại hùng tinh) và nằm ở phương Bắc.Người đi biển không có la bàn hay người đi rừng thường nhìn sao Bắc đẩu để nhắm hướng Bắc,nhờ đó họ có thể đi biển an toàn,không sợ lạc trên biển cả mênh mông, trong rừng già hoang vắng.Sao Bắc Đẩu là sao định hướng.
Cách đây hơn 2000 năm,trên bầu trời đầy sao bổng xuất hiện một ngôi sao lạ ở phương Đông.Các nhà chiêm tinh nhận ra ngôi sao lạ vì họ chuyên nghiên cứu các vì sao.Ngày xưa người ta tin rằng những vĩ nhân chào đời thường được báo hiệu bằng những ngôi sao.Bởi đó khi thấy xuất hiện một ngôi sao lạ,họ đã nghiên cứu đối chiếu với lời tiên báo trong trong sách Dân số ” Một vì sao xuất hiện từ Giacop,một vương trượng chỗi dậy từ Israel”( 24,17),họ tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái.Họ lập tức khởi hành, lên đường tìm kiếm.
Khi đến thủ đô Giêrusalem,các nhà chiêm tinh dò hỏi tông tích của vị tân vuơng.Nghe tin ấy vua Hêrôđê bối rối liền triệu tập các thượng tế và kinh sư lại.Khi biết rằng Đấng Kitô hạ sinh ở Bê lem theo lời tiên báo các ngôn sứ,Hêrôđê bày trò gian xảo nhằm tiêu diệt ấu vương.Con cáo già giở giọng ngọt ngào: xin quý Ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi và khi đã tìm thấy,xin báo lại cho tôi,để tôi cùng đến bái lạy Người. Không gạt được các nhà chiêm tinh,vị bạo chúa ra lệnh giết hết con trẻ ở Bêlem và các vùng lân cận từ hai tuổi trở xuống tính theo ngày tháng ông đã hỏi cặn kẻ các nhà chiêm tinh.
Ngôi sao lạ lại xuất hiện dẫn đường các nhà chiêm tinh mừng rỡ tìm đến Bêlem.Họ đã gặp Hài Nhi liền sấp mình bái lạy,rồi dâng tiến lễ vật vàng nhũ hương mộc dược.
Câu chuyện tuyệt đẹp, ba nhà chiêm tinh đi tìm Đấng cứu Thế theo ánh sao lạ. Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây lửa để dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về Đất hứa thì Người cũng có thể dùng ngôi sao dẫn đường cho các Đạo sĩ đến Bêlem để gặp Đấng Cứu tinh.Nhưng sự thật vô cùng trớ trêu là khi vị cứu tinh xuất hiện sau bao thế kỷ chờ đợi thì Dân do thái thờ ơ lãnh đạm.Các thượng tế, kinh sư có thái độ dửng dưng thụ động.Họ rành rẽ kinh thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế nhưng họ chẳng cất bước đến Bêlem.Hêrôđê hốt hoảng bối rối,sợ ngai vàng bị lung lay nên tìm cách loại trư với mưu mô cạm bẫy. Tấn bi kịch cuộc đời Hài Nhi bắt đầu, bị người đồng hương từ khước,bị tẩy chay,bị giết chết.Chỉ có các đạo sĩ hăng hái lên đường lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm.Họ đã làm tất cả miễn sao gặp được Đấng cứu tinh.Cho dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lâu đài điện ngọc nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận,xin được bái kiến và dâng lễ vật quý giá với cả tấm lòng thành.
Phụng vụ giáo hội đọc câu chuyện này trong ngày Lễ Hiển Linh, Thiên Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại.Các đạo sĩ là dân ngoại,họ đại diện cho mọi dân tộc,họ khao khát tìm kiếm ơn cứu độ.Sau này Chúa Giêsu đã xác định : từ phương đông phương tây nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng tổ phụ Abraham,Isaac,Giacop trong nước trời.
Các thượng tế và các kinh sư thông hiểu Thánh kinh,họ giảng giải thật hay cho Hêrôđê,nhưng chỉ là lý thuyết.Họ tìm Đấng Cứu Thế trong Thánh kinh nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những người chuyên nghiên cứu sách vở đầy sự uyên bác thông thái, thế nhưng chỉ ngồi bàn giấy, không lên đường,không thao thức tìm kiếm thì chẳng bao giờ gặp được Thiên Chúa.Trái lại những tâm hồn đơn sơ,khó nghèo như các mục đồng,hay cởi mở và khao khát chân lý như các đạo sĩ lại được diễm phúc gặp gỡ Người vì họ đã dám mạo hiểm lên đường tìm kiếm,bước đi theo các dấu chỉ.
Thiên Chúa vẫn luôn tỏ mình ra cho nhân loại qua những dấu chỉ tự nhiên của trời đất,qua từng biến cố lịch sử,qua Lời Người trong Thánh kinh,qua sự hiện diện của Dân Chúa là Giáo hội,qua các bí tích.Muốn gặp được Người nhất thiết phải nổ lực tìm kiếm.Cho dầu có những thử thách, cam go,những hiểm nguy cạm bẫy vẫn luôn kiên trì trong đức tin, bền đổ trong lòng mến.Niềm tin các đạo sĩ chính là hành trình đức tin của người Kitô hữu.Có những gian truân vất vả vẫn vững tin rằng tất cả sẽ kết thúc trong ánh sáng huy hoàng.
Chủ đề : Có tôn giáo chân chính chưa đủ, mà còn phải thật sự sống tinh thần tôn giáo ấy nữa.
Câu hỏi gợi ý:
Lúc Đức Giêsu sinh ra, những ai biết được Ngài đã sinh ra và sinh ở đâu? Họ biết được là nhờ phương : HiểnLinh ABC68
1. Lúc Đức Giêsu sinh ra, những ai biết được Ngài đã sinh ra và sinh ở đâu? Họ biết được là nhờ phương tiện gì? Phương tiện nào giá trị và chính xác nhất? Và phương tiện nào đã giúp đương sự thật sự gặp được Đức Giêsu?
2. Biết về Thiên Chúa một cách đúng đắn và chính xác có bảo đảm là sẽ thật sự gặp gỡ và cảm nghiệm được Ngài không? Những kẻ không biết đúng đắn và chính xác về Ngài có thể gặp gỡ và cảm nghiệm Ngài không? Yếu tố quan trọng để gặp gỡ và cảm nghiệm Ngài là gì?
3. Bạn rút ra bài học gì về khả năng được cứu rỗi của dân ngoại? Điều quan trọng để được cứu rỗi là tin, là biết cho chính xác, hay là thực hiện điều mình tin, điều mình biết, tức thật sự sống tinh thần yêu thương của Thiên Chúa?
Suy tư gợi ý:
1. Ba cách biết khác nhau về sự kiện Đấng Cứu thế sinh ra
Cách đây khoảng 2000 năm, Đức Giêsu - Đấng Cứu Thế mà các ngôn sứ đã tiên báo hàng trăm năm trước - đã sinh ra một cách rất âm thầm tại làng Bêlem. Âm thầm, nhưng vẫn có những người biết sự kiện này. Đó là các mục đồng, rồi đến các nhà chiêm tinh ngoại giáo, sau cùng là vua Hêrôđê và các kinh sư Do Thái. Họ biết theo những cách thức khác nhau, và phản ứng của họ sau khi biết cũng rất khác nhau.
Các mục đồng đơn sơ chất phác thì được các thiên sứ trực tiếp đến báo tin. Đây là cách biết dễ dàng nhất, mau lẹ nhất, khỏe nhất, không đòi hỏi tài năng hay suy luận cao xa, không đòi hỏi phải chủ động tìm kiếm rồi mới biết, mà lại chính xác nhất… Tất cả đều do Thiên Chúa sắp đặt và cho biết một cách vô điều kiện. Và sau khi biết Đấng Cứu Thế sinh ra ở đâu, các mục đồng đã đến thăm viếng Ngài.
Các nhà chiêm tinh thì biết theo kiểu khác. Các ông khám phá ra sự xuất hiện của một ngôi sao lạ. Các ông dùng kiến thức về chiêm tinh học để suy đoán ra ý nghĩa của ngôi sao ấy. Và điều rất quan trọng là các ông đã lên đường tìm kiếm «Đức Vua Dân Do Thái mới sinh» (Mt 2,2), dù xa xôi. Và các ông đã gặp được Ngài là một hài nhi nằm trong máng cỏ. Cách biết này mang tính tự nhiên, không chính xác, đòi hỏi thêm nhiều kiến thức tự nhiên của con người. Tuy vậy, cách biết bất toàn này đã giúp các ông thật sự gặp được Đấng Cứu Thế mới sinh.
Vua Hêrôđê và các kinh sư Do Thái lại biết theo kiểu khác nữa. Nếu không nhờ các nhà chiêm tinh đến hỏi thăm thì họ sẽ chẳng bao giờ đặt vấn đề hay tìm hiểu về việc Đấng Cứu Thế sinh ra. Nhưng phải công nhận là sau khi được hỏi tới, họ biết được ngay nơi Đấng Cứu Thế sinh ra nhờ tra cứu Kinh Thánh, là mặc khải siêu nhiên và bảo đảm của Thiên Chúa. Nhờ Kinh Thánh, họ biết đích xác nơi Đấng Cứu Thế sinh ra là tại làng Bê-lem. Nhưng khác với hai loại người trước, họ biết rồi để đấy, cái biết của họ - tuy rất chính xác và bảo đảm - chỉ là một cái biết thuần túy, chẳng dẫn tới hành động, chẳng dẫn họ đến với Đấng Cứu Thế, cội nguồn ơn cứu độ.
2. Phải lên đường đi tìm, phải biến cái biết thành hành động
Như vậy, để biết về Thiên Chúa, về Đức Giêsu, hay về chân lý có thể có nhiều cách biết khác nhau. Có cách do tự nhiên, có cách do siêu nhiên; có cách hoàn toàn do Thiên Chúa, có cách đòi hỏi sự góp phần của con người; có cách bảo đảm đúng và dễ dàng, có cách còn mơ hồ và còn phải nỗ lực nhiều mới đạt được sự chính xác… Nhưng xem ra không phải những ai biết chính xác về Thiên Chúa thì sẽ đương nhiên gặp được Ngài, còn những ai không biết đúng về Ngài thì sẽ không gặp được Ngài. Nhiều người biết rất chính xác về Thiên Chúa nhưng lại chẳng có một nỗ lực nào đi tìm Ngài, nên cái biết ấy vô ích chẳng khác gì không biết! Ngược lại, có những người biết về Ngài rất lờ mờ, thậm chí sai lạc, nhưng lại có quyết tâm đi tìm Ngài. Cuối cùng chỉ những người thật sự đi tìm Ngài mới gặp được Ngài. Vì đối với Thiên Chúa hay Chân Lý, thì «ai tìm, sẽ thấy» (Mt 7,7-8). Còn nếu chỉ biết do nghe nói về Ngài, mà không lên đường đi tìm Ngài, thì cái biết ấy vô ích. Cái biết ấy tuy quí giá, nhưng chẳng khác gì một món tiền lớn đựng mãi trong két sắt, chẳng bao giờ được đem ra xài, nên chẳng lợi ích gì cho người chủ của nó: chủ nó thiếu thốn vẫn tiếp tục thiếu thốn.
Quả thật, nhiều người Kitô hữu tự hào về tôn giáo của mình là tôn giáo mặc khải, là tôn giáo chân chính phát xuất từ Thiên Chúa. Họ biết rất nhiều và rất chính xác về Thiên Chúa. Nhưng cái biết ấy chẳng đem lại lợi ích gì cho tâm linh và sự sống đời đời của họ. Vì họ chẳng đem chỉ biết ấy ra thực hành. Đức Giêsu nói họ chẳng khác gì những «người ngu dại xây nhà trên cát» (Mt 7,26). Giữa việc biết và việc thực hành cái biết ấy là cả một vực thẳm phải vượt qua, như một linh mục nọ thường nói: «Từ cái tai đến cái tay là cả một khoảng cách» (Lm Nguyễn Văn Siêu, sj).
3. Nỗ lực thành công của dân ngoại đến tìm Chúa
Bài Tin Mừng của lễ Hiển Linh hôm nay cho thấy: dân ngoại mà nỗ lực tìm kiếm Thiên Chúa thì sẽ gặp được Ngài, còn chính dân của Thiên Chúa nếu không nỗ lực tìm kiếm Ngài thì chẳng gặp được Ngài. «Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý» (1Tm 2,4; x. Dt 2,9), nên đối với những người ngoài Kitô giáo, Thiên Chúa vẫn dành cho họ những con đường riêng biệt để đến với Ngài. nhưng «bằng cách nào thì chỉ có Chúa biết thôi» (Cđ Vat II, MV 22,5).
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy có những con đường ấy bằng một trình thuật đầy oái oăm: Những kẻ có tôn giáo chân chính, có Kinh Thánh hay Lời Chúa trong tay, hiểu biết rất chính xác về Thiên Chúa thì lại không gặp được Ngài. Còn những kẻ không có tôn giáo chân chính, không có phương tiện hữu hiệu để biết Ngài, thì lại gặp được Ngài nhờ quyết tâm tìm kiếm Ngài. Điều ấy thật ứng nghiệm lời Kinh Thánh: «Dân mà trước đây không phải là dân của Ta, thì Ta sẽ gọi là Dân của Ta» (Os 1,10 ® Rm 9,26). Với những kẻ tự hào mình có tôn giáo chân chính, có Lời Chúa trong tay mà không chịu sống tôn giáo ấy, không chịu thực hành Lời Chúa, thánh Phaolô viết: «Còn bạn, bạn mang danh là đạo Do-thái, lại ỷ rằng mình có Lề Luật, và tự hào vì có Thiên Chúa; bạn được biết ý Người, được Lề Luật dạy cho điều hay lẽ phải; Bạn tự hào vì có Lề Luật, mà bạn lại vi phạm Lề Luật, và như vậy bạn làm nhục Thiên Chúa! Thật đúng như lời chép: Chính vì các người mà danh Thiên Chúa bị phỉ báng giữa chư dân» (Rm 2,17-18.23-24).
Những người này, cũng theo thánh Phaolô, trước mặt Thiên Chúa, không giá trị bằng những người ngoại mà sống đúng theo luật lương tâm: «Còn phép cắt bì, đã hẳn là có ích, nếu bạn thi hành Lề Luật. Nhưng nếu bạn vi phạm Lề Luật, thì bạn có được cắt bì cũng kể như không cắt bì. Nếu người không được cắt bì mà giữ những điều Luật dạy, thì tuy họ không được cắt bì, Thiên Chúa chẳng coi họ như đã được cắt bì sao? Người không được cắt bì trong thân xác mà vẫn chu toàn Lề Luật, người ấy sẽ lên án bạn, vì bạn có Lề Luật ghi chép hẳn hoi và bạn đã được cắt bì, mà vẫn vi phạm Lề Luật» (Rm 2,25-27).
Do đó, được là người Kitô hữu là một ơn rất lớn lao và đặc biệt. Nhưng lại cũng là một trách nhiệm, vì ai nhận nhiều thì sẽ bị đòi hỏi phải sinh lợi ra nhiều, ai nhận ít thì bị đòi hỏi ít (x. dụ ngôn yến bạc: Mt 25,14-30). Nếu ta sống đúng tinh thần của người Kitô hữu là luật yêu thương của Đức Giêsu (x. Ga 13,34), thì hạnh phúc và phần thưởng cho chúng ta, đời này cũng như đời sau (x. Lc 18,30; Mc 10,30), sẽ vô cùng lớn lao. Nhưng nếu ta không đem tinh thần yêu thương của Đức Giêsu ra thực hành trong đời sống, thì giá trị của ta không bằng người ngoại giáo biết sống đúng theo lương tâm của họ.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, là người Kitô hữu, chúng con thường tự hào rằng tôn giáo của mình là chính giáo. Nhưng quả thật, nhiều khi chúng con lại không sống tinh thần yêu thương của Đức Kitô bằng nhiều người ngoại giáo. Qua bài Tin Mừng lễ Hiển Linh hôm nay, xin cho chúng con ý thức được nguy cơ này: coi chừng chúng con cũng giống như Hêrôđê và các kinh sư Do Thái, có tôn giáo chân chính, có phương tiện để gặp Cha, để được cứu rỗi trong tay, nhưng cuối cùng tất cả những ưu đãi ấy đều trở thành vô ích vì sự ù lỳ của chúng con. Đang khi ấy, nhiều người ngoại giáo lại có diễm phúc gặp Cha và gần Cha hơn chúng con, chỉ vì họ biết dấn thân quảng đại đáp lại những ơn Cha ban, dù ơn đó họ được ít ỏi hơn chúng con. Xin cho chúng con biết thật sự sống tinh thần yêu thương của Đức Giêsu, để chúng con xứng đáng là người Kitô hữu đích thực. –
Bầu khí lễ hội tưng bừng mừng Thiên Chúa làm người đang tàn lụi dần. Tuy nhiên ở vài nơi vẫn: HiểnLinh ABC69
Bầu khí lễ hội tưng bừng mừng Thiên Chúa làm người đang tàn lụi dần. Tuy nhiên ở vài nơi vẫn còn rơi rớt một vài dấu vết, thí dụ như trong thánh đường giáo xứ hôm nay. Bạn sẽ là người yếm thế nếu không còn cảm thấy lây nhiễm cái vui của ngày lễ. Bạn sẽ là người chán nản nếu cây thông Noel, quà cáp, nến đèn lung linh, bài ca du dương, diễu hành hoành tráng không tác động đến linh hồn bạn nữa. Mùa Giáng Sinh chưa chấm dứt. Nó không kết thúc vào sáng 26, ngày đi làm, nhưng còn kéo dài mãi tới hôm nay và cả tuần tiếp theo nữa. Thánh lễ sáng nay hãy còn ở trong thời sung mãn của nó. Tâm hồn các tín hữu còn đang hoan hỷ, vui tươi. Dầu vậy, về một khía cạnh nào đó, trong cộng đoàn có những linh hồn cảm thấy lạc lõng, không đồng nhịp với người khác. Họ không phải là những kẻ vô đạo, nhưng có một nỗi đau mà càng đối diện với ngoại cảnh ồn ào thì càng gia tăng cường độ, vào mùa này chẳng hạn. Và bởi vì không muốn phá đám, quấy rầy người khác, họ ngậm tăm, chịu đựng một mình.
Tôi bấm bụng phỏng đoán số linh hồn như thế trong cộng đoàn chúng ta không phải là nhỏ. Dẫu rằng bề ngoài họ vẫn bình thường vui cười như người khác, nhưng tâm hồn không chút phấn khởi: Vui là vui gượng kẻo mà, ai tri âm đó, mặn mà với ai? Nhìn bề ngoài chẳng dễ gì nhận ra! Họ đứng ngoài vòng chơi là bởi nhiều nguyên do. Có thể còn bé họ bị người lớn hành hạ, lạm dụng tình dục, hiếp dâm, bị cha mẹ bỏ rơi, gia đình tan rã, lang thang ngoài đường phố. Có thể do nghèo đói, không đủ khả năng cung cấp các nhu cầu cần thiết cho gia đình, con cái không được học hành đầy đủ, vô sinh, đồng tính luyến ái, con chết, vợ bỏ đi. Có khi phải chịu đựng một chứng bệnh hiểm nghèo, vô phương chữa chạy như ung thư, phong thấp, Parkinson, Alzheimer, trầm cảm, tim mạch,… bệnh tật chẳng biết thời gian, nơi chốn nào cả. Thiên hạ càng vui thì người mang bệnh càng buồn, một xóm buồn, cả làng cùng buồn khi nhìn sang bên cạnh giàu có tổ chức lễ hội tưng bừng, ngôi sao, hang đá to đùng, đèn nến như sao sa.
Nhưng ngày lễ hôm nay có lẽ cho chúng ta một tia hy vọng, một niềm vui bất ngờ, khi ngỡ ra rằng, HiểnLinh ABCcũng được hài nhi Giêsu kêu mời tới thờ lạy, nhận phước lành từ tay Thượng Đế. Họ cũng thuộc dân tộc vòng ngoài, những kẻ bên lề, chầu rìa ơn cứu độ của Israel. Lễ Hiển Linh cử hành Thiên Chúa tỏ lộ mình ra cho dân ngoại. Sự kiện này được thể hiện trong ba biến cố: Ngày hôm nay, các hiền sĩ đến thờ lạy Chúa Hài Đồng, dâng lên Ngài vàng, mộc dược và nhũ hương. Tuần tới Chúa Giêsu chịu phép rửa ở sông Giođan và tiếng từ trời phán: “Này là người con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng” (Mt 3,17). Và ở tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu làm phép lạ đầu tiên biến nước thành rượu, bày tỏ quyền phép trước mặt nhân loại (chúa nhật 2 thường niên, 18/1). Như vậy là Ngài đã hiện diện ở những địa điểm cần đến Ngài, khi bóng tối xem ra nắm chặt lấy số phận, trái tim và tinh thần nhân loại. Trong bài đọc một, tiên tri Isaia hô lớn: “Đứng lên, bừng sáng lên, Giêrusalem hỡi, vì ánh sáng của người đã đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất và mây mù phủ lấy chư dân. Nhưng trên ngươi, Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang người xuất hiện trên ngươi” quả là một lời loan báo vĩ đại, ánh sáng của Thiên Chúa xuất hiện như bình minh. Anh sáng này là Hoàng Tử Hoà Bình vừa mới chào đời tại hang đá Bêlem. Từ “bóng tối” vị ngôn sứ nhắc nhở chúng ta liên tưởng đến: “Bóng tối bao trùm mặt đất” của sáng thế ký (1,1), trước khi Thiên Chúa dựng nên sự sáng. Lúc ấy, sức mạnh của Thiên Chúa chiến thắng bóng tối. Vị tiên tri muốn chỉ bảo độc giả điều chi Thiên Chúa đã làm thì lúc này Ngài vẫn thực hiện. Ngày xưa bóng tối đã bị ánh sáng đẩy lui thì bây giờ cũng vậy. Câu văn chứa đựng nhiều hy vọng vĩ đại bằng một liên từ “nhưng”: Nhưng trên ngươi. Từ này diễn tả một tình trạng đổi ngược, chấm dứt cái cũ và bắt đầu điều mới. Đức Chúa như bình minh chiếu toả. Sau khi chúng ta gọi tên bóng tối, gọi tên những nỗi nhọc nhằn của mình, thì đặt tin cậy vào sức mạnh của Đức Chúa và Ngài sẽ nói “Nhưng” tức thời ánh sáng, hy vọng, niềm vui đến: “Vinh quang của Người xuất hiện trên ngươi”. Trong cảnh ngộ như thế, chi duy Tạo Hoá mới có quyền năng đổi thay. Ngài ban cho chúng ta sức mạnh và can đảm để băng qua khó khăn.
Như vậy là tiên tri Isaia đã sửa soạn cho chúng ta am hiểu bài Tin Mừng. Ông nói các tín hữu sẽ kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa trong bản thân mình, rồi từ ánh sáng của chúng ta, thiên hạ sẽ tiến bước trên con đường công chính. Thiên Chúa với tới dân ngoại qua các tín hữu. Đúng như vậy, ánh sáng huy hoàng của Hội Thánh chiếu tới mọi dân tộc qua nguồn sung mãn của học thuyết thánh thiện, qua sự tinh tuyền luân lý, qua ơn sủng tràn đầy, qua nếp sống đạo đức, qua các tác phẩm vô giá, qua phụng vụ nghiêm trang và vẻ đẹp lộng lẫy của các nhà thờ, cung thánh. Các tín hữu có thể làm tăng thêm ánh sáng này bằng cuộc sống cá nhân. Xin cân nhắc kỹ hành vi của mình như một thành viên của Hội Thánh. Mùa này nhiều dân tộc cảm nhận mình chỉ là dân ngoại, ước ao được nghe nốt nhạc hy vọng của tiên tri Isaia. Họ chờ đợi một tia sáng từ Bêlem. Sẽ có ánh sáng cho họ và muôn dân sẽ tụ tập về Giêrusalem đã được khôi phục.
Xin nhớ thời Chúa Giêsu, người Do thái coi dân ngoại, đàn bà, trẻ con là những kẻ ngoài lề. Họ không được phép bước vào tiền đường đền thờ Giêrusalem. Họ chẳng có quyền lợi nào cả trong đạo. Hôm nay chúng ta cũng nên đồng hoá với họ và nghe tiếng tiên tri Isaia nói: “Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa sẽ hướng về ngươi mà tiến bước… mặt mày ngươi sẽ rạng rỡ, lòng dạ ngươi hớn hở tưng bừng” và khi không nhận ra phương hướng hoặc ơn cứu giúp từ chân trời, chúng ta phải dựa vào lời hứa này của dân Do Thái mà tiến bước. Bởi nó không phải là lời hứa suông nhưng rất nặng ký, có nội dung vững chắc. Nó không phải là cái vỗ vai an ủi, khích lệ, mà là sự trung tín của Thiên Chúa. Ngài sẽ ban ánh sáng, hạnh phúc cho những nơi thiếu vắng, ban bình an yêu thương cho những phần đất hận thù, chiến tranh. Chúng ta là những dân ngoại lầm lũi bước trong bóng tối tội lỗi, chúng ta cần tin tưởng vào lời hứa này để đạt được những gì mình vật lộn, khát khao trong bóng tối. Thiên Chúa sẽ thực hiện những công việc, làm loài người phải bật tiếng ngợi khen, tạ ơn.
Các vị đạo sĩ bước vào thờ lạy (lễ này xin đọc bài thơ nổi tiếng T.S. Eliot, nhan đề cuộc hành trình của ba vua, mà năm vừa rồi tôi đã trích vài câu căn bản). Họ đã thực hiện cuộc hành trình dài, vất vả để đi tìm sự thật. Họ bỏ lại đàng sau tất cả, gia đình, vợ con, châu báu, ngai vàng, bạn bè thân thuộc, nghề nghiệp, nếp sống ấm cúng… để đến Giêrusalem tìm một bé thơ nghèo nàn. Họ không có Thánh Kinh của Do Thái Giáo hướng dẫn. Họ phải hỏi vua Hêrôđê để biết chỗ con trẻ sinh ra ở đâu. Đến lượt Hêrôđê phải hỏi các thầy thông luật (tức hội đồng Sinhedrin) và được biết Đấng Mêsia, Thiên Sai của Thiên Chúa được sinh ra tại Bêlem. Thật lạ lùng nếu như Hêrôđê không nắm được thông tin này! Và những lãnh đạo tôn giáo lại không cất công tìm kiếm Đấng các tiên tri nói tới, toàn dân tộc trông đợi. Thay vì họ, các đạo sĩ, những kẻ ngoài rìa truyền thống lại nỗ lực thử vận mệnh của mình. Họ là những kẻ mở rộng tương lai cho những điều mới lạ.
Cho nên, xin hãy gạt sang một bên những luật lệ tôn giáo cũ. Ngày hôm nay chúng ta có một nhật kỳ đầy ánh sáng Phúc Âm khác. Chúng ta có thể đẩy quá khứ về phía sau, và để câu chuyện HiểnLinh ABChướng dẫn mình làm cuộc hành trình, dầu vất vả, đến nơi sự thật cư ngụ. Hôm nay là ngày người ta nên rũ bỏ mọi hình thức trói buộc tinh thần mình, làm những quyết tâm mới và tiến theo hướng Đấng có khả năng ban cho chúng ta tham vọng mới. Lễ này có tính phổ quát. Nghĩa là mọi người đều được Thiên Chúa mời gọi tiến vào vòng tay cứu độ của Ngài. Các tâm hồn ngoài truyền thống Do Thái chẳng có chi phải sợ hãi.
Lễ vật của các đạo sĩ gợi nhớ thánh vịnh 72, câu 10 và câu 11: “Từ Tarsit và hải đảo xa xăm, hàng vương giả sẽ về triều cống. Cả những vua Ả Rập, Xơva cũng đều tới tiến dâng lễ vật. Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự”. Vàng tượng trưng cho quyền quý cao sang, mộc dược để ướp xác kẻ chết, nhũ hương để tôn thờ thần linh. Ba lễ vật gói ghém hiện tại tương lai của bé thơ Giêsu. Cuộc đời mỗi người đều là hành trình về quê hương thiên quốc. Cũng giống như ba vua, chúng ta phải thăm dò, lạc đường, tìm lối, nguy hiểm để vượt quãng đừơng xa. Khi mười năm, hai mươi năm, năm sáu bảy chục năm, lâu nữa thì hàng trăm năm, thử hỏi ai không vấp ngã? Và chúng ta biết mình đi về đâu? Với Thiên Chúa, Đấng tinh tuyền vô biên! Cho nên sợ hãi vô cùng, không cầu nguyện, ăn chay hãm mình làm sao đứng vững? Lại còn phải nhờ bàn tay Thiên Chúa dẫn dắt. Tuy hôm nay Ngài đến với mỗi linh hồn như món quà Thiên Chúa thương ban, nhưng phần đa số không trân trọng, có linh hồn coi nó rẻ mạt cho đến giờ hấp hối. Lúc ấy mới thấy là quý giá vô cùng, nhưng đã muộn! May thay còn đức tin bảo đảm cho định mệnh của mình. Và không giống như các đạo sĩ, chúng ta chẳng cần mang theo lễ vật. Chỉ duy bản thân và lòng tin kính Đức Kitô. Mọi thứ khác để lại phía sau. Khi ra giảng đạo, Ngài sẽ nói cho chúng ta hay phải làm thế nào: Dấn thân phục vụ người khác, mang lương thực cho kẻ đói nghèo, áo mặc cho kẻ rách rưới, chỗ ở cho kẻ lang thang, thuốc men cho những ai đau yếu, tha nợ cho kẻ túng thiếu, giải phóng kẻ tù tội, hiện diện bên những người cô đơn (Mt 25). Hôm nay chính thức Đức Chúa Trời tỏ mình ra cho nhân loại như món quà quý báu. Việc đó Chúa thực hiện, không phải chúng ta, và vì ích lợi cho mỗi linh hồn, cho thế giới, mọi nơi, mọi thời đại. Trước mắt, Ngài thể hiện món quà này trong bí tích Thánh Thể và trong ơn hiển linh chúng ta cử hành hôm nay.
Chẳng mấy bữa nữa, thiên hạ sẽ dọn dẹp cây Noel, hang đá, đèn sao, nhà cửa trở về nếp sống bình thường. Nhưng đừng bao giờ quên rằng trung tâm của mùa Giáng Sinh là Đức Kitô bé thơ, quà tặng Thiên Chúa ban. Chúng ta tin tưởng vào đường lối của Ngài trên đường về quê trời. Ngài là ngôi sao giáng sinh luôn trung tín dẫn lối. Chúng ta làm việc để mỗi ngày đem thêm Ngài vào linh hồn mình và vào tình hình thế giới. Lễ Hiển Linh là ngày hội của những kẻ lữ hành, nó luôn nhắc mọi người bé thơ Giêsu sinh ra trong hang bò lừa, nhưng luôn cùng tiến bước với nhân loại trở về với Thiên Chúa hằng sống. Amen.
Henry van Dyke có thuật lại câu chuyện nhan đề The Other Mise Ma (Còn một nhà đạo sĩ khác nữa): HiểnLinh ABC70
Chủ đề:
Món quà to tát nhất dâng lên cho Vua các vì vua chính là cuộc sống đầy tình yêu thành tín và phụng sự tha nhân.
Henry van Dyke có thuật lại câu chuyện nhan đề The Other Mise Ma (Còn một nhà đạo sĩ khác nữa), kể về nhân vật thứ tư là người đáng lẽ đã cùng ba nhà đạo sĩ kia đi tìm vị vua vừa sinh ra. Nhân vật này tên là Artaban. Trong lúc chuẩn bị lên đường, Artaban mang theo một túi đựng đá quí để dâng tặng Ấu vương. Thế nhưng trên đường đến gặp 3 vị thông thái kia để cùng đi, Artaban lại dừng chân để giúp một người nghèo khổ và thế là ông ta bỏ mất cơ hội theo kịp các vị kia. Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục kiên trì dừng lại giúp đỡ những ai gặp khốn khó. Cuối cùng, ông cho đi tất cả số đá quí của mình. Kết cuộc là Artaban đã trở nên già nua nghèo khổ. Và ông chẳng bao giờ thực hiện được giấc mơ gặp được vị vua các vua để đặt túi đá quí của ông dưới chân Ngài.
Câu chuyện The Other Wise Man có thể kết thúc ở đây nhưng nếu chỉ có thế thì đây quả là một câu chuyện đáng buồn vì nó kể chuyện một người chưa thực hiện được giấc mộng lớn của đời mình. Nhưng may thay câu chuyện đã không kết thúc ở đây. Một ngày kia Artaban đang ở trong thành Giêrusalem, cả thành phố đầy xôn xao, náo nhiệt vì nhà cầm quyền sắp sửa hành hình một tội nhân. Khi Artaban nhìn thấy tội nhân, trái tim ông đập lên thình thịch. Linh tính báo cho ông biết đây chính là vua các vì vua mà ông đã suốt đời tìm kiếm. Nhìn cảnh tượng trước mắt Artanban cảm thấy trái tim như bị tan vỡ ra, nhất là vì ông chẳng có thể làm được gì để giúp đỡ vị vua ấy. Thế nhưng thật kỳ diệu thay khi Artanban nghe tiếng vị vua ấy nói cùng ông:
“Này Artanban, đừng buồn khổ nữa. Suốt đời ông đã từng giúp đỡ Ta. Khi Ta đói ông đã cho Ta ăn, Ta khát, ông đã cho ta uống, Ta trần trụi ông đã cho Ta mặc, Ta là khách lạ, ông đã đón ta vào nhà”.
Câu chuyện về Artanban cũng là câu chuyện của nhiều người thời đại này. Giống như Artanban, khi bắt đầu vào đời, nhiều người cũng đã từng mơ ước làm được một điều gì cao cả. Nhưng thời gian trôi qua, những hoàn cảnh dồn dập xảy đến vượt quá khả năng kiếm soát của họ khiến họ không thực hiện được những giấc mơ của mình, để rồi cuối cùng những ước mơ ấy tan biến đi. Chẳng hạn như một thiếu nữ đã từng mơ ước đi theo nghề thương mại hoặc mỹ thuật, nhưng trước khi bắt đầu nghề nghiệp của mình thì cô lại gặp và lấy một người đàn ông nào đó. Chẳng bao lâu sau, họ bắt đầu cuộc sống gia đình , thế là mộng ước của thiếu phụ ấy dần dần nhạt mờ giống như trường hợp của Artanban. Thiếu phụ ấy cuối cùng chỉ còn biết dâng trọn thời giờ cho cái gia đình trẻ trung của mình.
Câu chuyện này có thể kết thúc ở đây, và nếu thế, đây là một câu chuyện đáng buồn, vì nó kể chuyện một phụ nữ chưa bao giờ thực hiện được hoài bão lớn lao của đời mình. Tuy nhiên, câu chuyện không kết thúc ở đây. Nó chỉ kết thúc vào một ngày trong tương lai, khi Chúa Giêsu nói với người phụ nữ điều Ngài đã nói với Artanban: “Suốt đời con đã giúp đỡ Ta; điều gì con làm cho gia đình con, chính là con làm cho Ta”.
Hoặc chúng ta hãy xét đến trường hợp một thanh nhiên có tài. Chàng mơ ước leo lên được địa vị cao trong công ty của chàng. Vì thế chàng làm việc chăm chỉ và hy sinh mọi thứ. Thế nhưng đột nhiên xảy ra sự cố trục trặc gây cản trở bước tiến của chàng dù chàng chẳng hề lầm lỗi chi, đó chẳng qua là việc xui xẻo mà thôi. Tuy vậy, chàng thanh niên vẫn tiếp tục sống lương thiện, làm việc chăm chỉ và trung tín. Câu chuyện có thể kết thúc ở đây, nhưng nếu chỉ có thế thì đây là một chuyện buồn, vì nó đề cập đến một chàng trai không bao giờ thực hiện được giấc mộng to tát của đời mình. Thế nhưng câu chuyện không kết thúc ở đây. Nó sẽ chỉ kết thúc vào lúc Chúa Giêsu nói với chàng ta điều mà Ngài đã nói với Artanban: “Suốt đời con đã giúp đỡ Ta, vì điều gì con đã làm một cách lương thiện và trung tín, tức là con đã làm cho Ta”.
Ngoài ra ta còn có thể nêu ra một câu chuyện có thực về một thanh niên tên là Tony. Chàng du lịch khắp thế giới và xuất hiện thường xuyên trên sân khấu lẫn truyền hình với tư cách là tay trống trong một nhóm ca nhạc nổi tiếng khắp thế giới. Rồi một ngày nọ, Tony cảm thấy được Chúa gọi làm linh mục. Khi chàng rời bỏ nhóm ca nhạc để vào chủng viện. Nhiều người cho rằng chàng là kẻ điên khùng. Câu chuyện có thể kết thúc ở đây, nhưng nếu như vậy thì đây là một câu chuyện buồn về một gã thanh niên để cho mộng ước vuột khỏi tầm tay mình. Tuy nhiên câu chuyện không kết thúc ở đây. Hiện Tony đang làm linh mục tại gíao phận Dallas. Chàng sống rất hạnh phúc. Một ngày kia, Chúa Giêsu cũng sẽ nói với chàng như đã từng nói với Artanban: Hỡi Tony, suốt đời con đã giúp đỡ Ta, điều gì con làm cho giáo dân trong xứ, chính là con đã làm cho Ta”.
Như thế, Lễ HiểnLinh ABCnhắc nhở chúng ta rằng tất cả chúng ta đều có một món quà để dâng tặng cho vị vua các Vua. Và câu chuyện “Còn một nhà đạo sĩ khác nữa” (The Other wise Man) nhắc chúng ta nhớ rằng món quà của chúng ta còn quí giá hơn những món quà của Ba Vua, bởi vì món quà chúng ta dâng không phải chỉ là tặng phẩm trao dâng một lần như vàng, như nhũ hương, mộc dược, mà chính là món quà liên lỉ của tình yêu và tinh thần phục vụ tha nhân. Nhiều người sẽ cho rằng chúng ta điên rồ khi tặng dâng những món quà này, nhưng chẳng qua là vì họ không biết được màn cuối của câu chuyện khi mà Chúa Giêsu sẽ nói với chúng ta như Ngài đã từng nói với Artanban: “Hãy đến đây, hỡi những người được Cha Ta chúc phúc, hãy vào hưởng vương quốc dành sẵn cho các con từ thuở khai thiên lập địa, vì xưa Ta đói các ngươi cho Ta ăn, Ta khát các ngươi cho Ta uống, Ta là khách lạ các ngươi đã đón tiếp Ta. Vì bất cứ điều gì các ngươi làm cho một trong những kẻ bé mọn này…. của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta” (Mt 25: 34-35-40).
Chúng ta hãy kết thúc với lời “nguyện xin lòng quảng đại” của thánh Ignatio de Loyola:
Lạy Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại, biết phục vụ Chúa cho xứng đáng, biết cho đi mà không hề tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không tìm an nghỉ, biết xả thân mà không tìm một phần thưởng nào khác ngoài việc biết mình đã thi hành Thánh Ý Chúa. Amen”.
Trên cổng trước một căn nhà ở Lansing thuộc bang Michigan có một bóng đèn điện đã thắp: HiểnLinh ABC71
TRÊN CỔNG TRƯỚC MỘT CĂN NHÀ Ở LANSING THUỘC BANG MICHIGAN CÓ MỘT BÓNG ĐÈN ĐIỆN ĐÃ THẮP SÁNG TỪ NĂM 1937. ĐÓ LÀ NHÀ CỦA BÀ FRANCES CHO TỚI NĂM 1972 BÓNG ĐÈN ĐÓ VẪN CÒN SÁNG. ÔNG GIÁM ĐỐC CÔNG TY LANSING, CÔNG TY CUNG CẤP ĐIỆN NƯỚC GIẢI THÍCH RẰNG; “MỘT BÓNG ĐIỆN CÓ THỂ SÁNG LÂU NHƯ VẬY, NHƯNG ĐÓ LÀ MỘT BÓNG ĐÈN CŨ, VÌ NGÀY NAY CHÚNG TÔI KHÔNG SẢN XUẤT NHƯ VẬY NỮA” ÔNG NÓI THÊM: “MẶC DÙ VỚI CÙNG MỘT CÔNG XUẤT, BÓNG ĐÈN LOẠI CŨ KHÔNG SÁNG BẰNG LOẠI MỚI, VÌ TIM CỦA NÓ DẦY HƠN, ÍT BỊ OXIT HOÁ HƠN NÊN BỀN HƠN, NHỮNG BÓNG ĐÈN MỚI SẢN XUẤT CHỈ THẮP SÁNG TRONG KHOẢNG 1.300 GIỜ.
HÔM NAY CHÚNG TA XUM HỌP ĐỂ CHIÊM NGẮM ÁNH SÁNG KHÁC, MỘT NGÔI SAO LẤP LÁNH ĐÃ THẮP SÁNG GẦN 2.000 NĂM NAY. NGÔI SAO ẤY CHIẾU TỎ MỘT ÁNH SÁNG THẬT, ÁNH SÁNG CỦA THẾ GIAN, HÀI NHI BÉ NHỎ TRONG MÁNG CỎ BELEM. MỘT ÁNH SÁNG NHỎ TRÊN NỀN TRỜI ĐÃ DẪN DẮT CÁC ĐẠO SỸ TRÊN ĐƯỜNG XA ĐẾN CUNG KÍNH TÔN THỜ ÁNH SÁNG CỦA TRẦN GIAN. ĐỨC GIÊSU KITÔ. VIỆC CÁC ĐẠO SỸ TÌM ĐẾN LÀ MỘT CÁCH BÀY TỎ SỰ SÁNG CHO THẾ GIAN.
THẾ GIAN CẦN ÁNH SÁNG ĐÓ BIẾT BAO. THẾ GIAN CẦN CHÚA KITÔ BIẾT BAO CHÚNG TA CẦN ÁNH SÁNG ĐỂ THẤY. CHÚNG TA KHÔNG THỂ TÌM ĐƯỢC MỘT VẬT TRONG BÓNG TỐI, TRỪ KHI CHÚNG TA BẬT ĐÈN LÊN, CHÚNG TA MỚI CÓ THỂ TÌM ĐƯỢC CÁI CHÚNG TA MUỐN.
CHÚA KITÔ GIÚP CHÚNG TA THẤY, THẤY ĐIỀU CHÚNG TA CẦN TIN, THẤY ĐIỀU CHÚNG TA CẦN LÀM. NGƯỜI GIÚP CHÚNG TA THẤY ĐƯỢC GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ. NGƯỜI GIÚP CHÚNG TA THẤY ĐƯỢC NGƯỜI LỐI XÓM ĐANG THIẾU THỐN, NGƯỜI GIÚP CHÚNG TA THẤY CHÚNG TA CÓ THỂ LÀM GÌ ĐỂ GIÚP THA NHÂN.
ÁNH SÁNG DẪN ĐƯỜNG CÓ KHI NÀO BẠN ĐI TRÊN VỈA HÈ TỐI TĂM VỚI HAI BA NGƯỜI KHÁC MÀ CHỈ MỘT NGƯỜI TRONG NHÓM CÓ ĐÈN PIN? NGƯỜI CÓ ĐÈN SOI ĐƯỜNG CHO NHỮNG NGƯỜI KHÁC. CHÚA KITÔ LÀM ĐIỀU ĐÓ, NGƯỜI CHÍNH LÀ ÁNH SÁNG, LÀ NGUỒN MỌI ÁNH SÁNG. NGƯỜI SOI ĐƯỜNG CHÚNG TA PHẢI ĐI, SOI LỐI CHÚNG TA PHẢI SỐNG NHƯ BÀI ĐỌC MỘT LOAN BÁO: “MỌI DÂN TỘC BƯỚC ĐI TRONG ÁNH SÁNG CỦA CHÚA”, CẦN ÁNH SÁNG ĐỂ NHÓM LỬA TRẠI SINH VÀ NGƯỜI SĂN BẮN MỘT QUE DIÊM QUẸT RẤT QUÍ GIÁ. BẾP GAS, BẾP LÒ RẤT CẦN MỘT TIA LỬA MỒI. ĐỂ NHÓM LỬA CHÚNG TA CẦN CÓ LỬA.
CHÚA KITÔ LÀ ÁNH SÁNG THẬT. NGƯỜI NHÓM LỬA TÌNH YÊU TRONG CON TIM CHÚNG TA. QUA NGƯỜI CHÚNG TA ĐƯỢC ÁNH LỬA LÀM CHÚNG TA ƯỚC MONG LÀM ĐẸP LÒNG CHÚA VÀ LÀM ÍCH CHO NGƯỜI LÂN CẬN.
CŨNG NHƯ ÁNH SÁNG SOI SÁNG, LÀM VUI VÀ LÀM HẠNH PHÚC. CHÚA KITÔ SOI SÁNG, KHÍCH LỆ VÀ CHO CHÚNG TA HẠNH PHÚC CHÂN THỰC VÀ TRƯỜNG CỬU.
CHÚNG TA THẮP ĐÈN CẦY TRÊN BÀN THỜ TRONG KHI CỬ HÀNH THÁNH LỄ ĐỂ NHẮC NHỞ CHÚNG TA RẰNG CHÚA KITÔ LÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN, LÀ ÁNH SÁNG CỦA TRÁI TIM CÁC BẠN VÀ TÔI. ÁNH SÁNG CHIẾU TỎA TRONG HY LỄ THÁNH NÀY, CHIẾC ĐÈN CHẦU CŨNG NÓI LÊN RẰNG CHÚA KITÔ LÀ ÁNH SÁNG, THẬT SỰ TRONG NHÀ TẠM NÀY NGÀY ĐÊM.
Cũng như các đạo sỹ, chúng ta đến tôn thờ ánh sáng thật trong thánh lễ này, xin Người giúp chúng ta thấy và tìm ra con đường chúng ta phải đi, để biết yêu thương và đạt được hạnh phúc. Amen.
Ngày 6-1 (khi cử hành lễ Hiển Linh vào Chúa nhựt 7 hoặc 8 tháng giêng)
***
Mc 1:6-11: “Ông Gio-an mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, ăn châu chấu và mật ong rừng. Ông rao giảng rằng: "Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho Người. Tôi thì tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người, Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần." Hồi ấy, Đức Giê-su từ Na-da-rét miền Ga-li-lê đến, và được ông Gio-an làm phép rửa dưới sông Gio-đan. Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con."
***
A. Hạt giống...
Trong đoạn này, tuy Thánh Marcô viết về việc Chúa Giêsu chịu phép rửa, nhưng ngài không nhằm: HiểnLinh ABC72
Trong đoạn này, tuy Thánh Marcô viết về việc Chúa Giêsu chịu phép rửa, nhưng ngài không nhằm tường thuật việc đó (bởi đó, Mc chỉ dùng động từ “làm phép rửa” nhưng không mô tả chút gì về việc đó). Điều Mc nhắm tới là dùng dịp Chúa Giêsu chịu phép rửa để giới thiệu con người và sứ mạng của Chúa Giêsu :
- Chúa Giêsu cao trọng hơn Gioan : Ngài quyền thế hơn Gioan (câu 7), Ngài sẽ làm một phép rửa trọn vẹn hơn trong Thánh Thần (câu 8).
- Ngài là Messia Con Thiên Chúa (câu 11 : tiếng từ trời).
B.... nẩy mầm.
1. Cả hai vai chính trong chuyện này đều khiêm tốn : Gioan khiêm tốn tự hạ mình để đề cao Chúa Giêsu ; Chúa Giêsu khiêm tốn xin Gioan làm phép rửa cho mình. Người khiêm tốn là người chỉ nghĩ đến việc chu toàn nhiệm vụ chứ không quan tâm đến vinh dự cá nhân.
2. Đoạn Tin Mừng này nằm trong chương đầu của Tin Mừng Mc. Nét đầu tiên thánh Mc giới thiệu về Chúa Giêsu là khiêm tốn. Chính vì Chúa Giêsu khiêm tốn nên Ngài được Chúa Cha hài lòng (“Cha hài lòng về con”) và được Chúa Cha tôn vinh (“Con là Con yêu dấu của Cha”).
3. Một chiếc xe tải không thể qua cầu được vì nóc xe cao quá nên chạm vào mái che của chiếc cầu. Chẳng ai nghĩ ra được cách nào cả. Khi đó một cậu bé đưa ý kiến : hãy xì bớt hơi các bánh xe của nó. Người ta đã làm theo, và xe đã qua được cầu. (Quote).
5. “Con là Con yêu dấu của Cha. Cha hài lòng về con” (Mc 1,11)
Tôi vừa đưa tiễn một người bạn thân đến nơi an nghỉ cuối cùng. Trên đường về, tôi luôn tự hỏi : Tôi là ai ? Tôi từ đâu tới và sẽ đi về đâu ? Tôi sống để làm gì ? Và tại sao lại phải chết ?
Chắc có lần bạn cũng đã hỏi như tôi, vì một khi không biết sống để làm gì thì làm sao sống một cuộc đời trọn vẹn ý nghĩa được. Hôm nay Chúa Cha long trọng giới thiệu Con yêu dấu của Người cho chúng ta để nhờ Người Con ấy chúng ta nên nghĩa tử của Người, được gọi Thiên Chúa là Cha và được tham dự vào gia đình của những người con Thiên Chúa. Đó là phẩm giá của con người trên khắp thế giới.
Cảm tạ Cha đã ban Con yêu dấu của Người cho chúng con. Và cùng với Ngài chúng con kêu lên Abba, Cha ơi ! (Epphata)
Ngày 7-1 : a/ (Khi mừng Lễ Hiển Linh vào ngày Chúa nhựt 7 hoặc 8/1)
Ga 2:1-12
“Ngày thứ ba, có tiệc cưới tại Ca-na miền Ga-li-lê. Trong tiệc cưới có thân mẫu Đức Giê-su. Đức Giê-su và các môn đệ cũng được mời tham dự. Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giê-su nói với Người: "Họ hết rượu rồi." Đức Giê-su đáp: "Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến." Thân mẫu Người nói với gia nhân: "Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo." Ở đó có đặt sáu chum đá dùng vào việc thanh tẩy theo thói tục người Do-thái, mỗi chum chứa được khoảng tám mươi hoặc một trăm hai mươi lít nước. Đức Giê-su bảo họ: "Các anh đổ đầy nước vào chum đi!" Và họ đổ đầy tới miệng. Rồi Người nói với họ: "Bây giờ các anh múc và đem cho ông quản tiệc." Họ liền đem cho ông. Khi người quản tiệc nếm thử nước đã hoá thành rượu (mà không biết rượu từ đâu ra, còn gia nhân đã múc nước thì biết), ông mới gọi tân lang lại và nói: "Ai ai cũng thết rượu ngon trước, và khi khách đã ngà ngà mới đãi rượu xoàng hơn. Còn anh, anh lại giữ rượu ngon mãi cho đến bây giờ." Đức Giê-su đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Ca-na miền Ga-li-lê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người. Sau đó, Người cùng với thân mẫu, anh em và các môn đệ xuống Ca-phác-na-um và ở lại đó ít ngày.
***
A. Hạt giống...
Tường thuật này không phải đơn giản nói về một bữa tiệc cưới, nhưng còn là “dấu chỉ đầu tiên: HiểnLinh ABC73
Tường thuật này không phải đơn giản nói về một bữa tiệc cưới, nhưng còn là “dấu chỉ đầu tiên” qua đó Đức Giêsu “bày tỏ vinh quang của Ngài” để cho “các môn đệ tin vào Ngài” (câu 11). Chúa bày tỏ những gì ?
1. Trước hết Ngài cho thấy Ngài Đấng khai mở một thời kỳ hoan lạc mới. Thánh Kinh thường dùng hình ảnh tiệc cưới để chỉ thời hoan lạc Messia, và hình ảnh chú rể để chỉ Đấng Messia. Trong đám cưới ở Cana, lẽ ra chú rể phải cung cấp đủ rượu cho khách dự tiệc, và như thế bữa tiệc mới vui mừng trọn vẹn. Thế nhưng chú rể ấy đã không chu toàn. Kẻ cung cấp rượu và làm cho bữa tiệc vui mừng trọn vẹn lại chính là Đức Giêsu.
2. Ngài còn cho thấy Ngài đến để thiết lập một tín ngưỡng mới thay thế tín ngưỡng đã quá lỗi thời của người do thái : bài tường thuật có nhắc đến những chum đựng nước để cho người ta thanh tẩy trước khi dự tiệc. Đấy là một tục lệ tiêu biểu của đạo cũ. Hôm nay những chum ấy đã được Chúa Giêsu cho tràn ngập rượu mới, lại là thứ rượu ngon vượt sức tưởng tượng của người ta. Nghĩa là tín ngưỡng mới mà Đức Giêsu thiết lập vượt xa tín ngưỡng cũ quá bám víu vào hình thức bề ngoài.
3. Bài tường thuật cũng nói tới “giờ” (Đức Giêsu nói với Đức Maria : “Giờ con chưa đến”). “Giờ” là lúc Đức Giêsu được vinh quang khi chịu chết trên Thập giá để tuôn ơn cứu độ cho loài người. Hôm nay ở Cana, tuy chưa tới “giờ” ấy, nhưng Ngài cũng tỏ chút vinh quang cho các môn đệ và người ta thấy trước qua việc Ngài làm phép lạ cho nước hóa thành rượu.
4. Vinh quang Chúa đã được hé lộ trước cũng do công của Đức Maria, kẻ đã tế nhị thấy hoàn cảnh khó khăn của chủ nhà và chủ động đến xin Đức Giêsu can thiệp.
B.... nẩy mầm.
1. Tín ngưỡng mới mà Đức Giêsu thiết lập không bám víu vào những hình thức lễ nghi bề ngoài, nhưng chú trọng đến đức tin bên trong và nhất là tin vào mầu nhiệm thập giá.
Hình như mặc dù tôi đã ở thời Tân Ước và đang ở vào cuối thiên niên kỳ thứ hai, nhưng đạo của tôi vẫn mới chỉ là một lớp vỏ bề ngoài với một ít hình thức lễ nghi. Xin Chúa cho con thêm đức tin, nhất là tin vào mầu nhiệm thập giá vinh quang của Chúa.
2. Những người đầy tớ hôm đó đã vâng lời Chúa mà đi xách nước đổ vào các chum. Thế là nước lã hóa thành rượu ngon. Nhiều khi Chúa cũng bảo tôi làm những việc rất tầm thường. Nhưng những việc tầm thường ấy nếu được làm vì vâng lời và tin tưởng thì sẽ sinh ra những hiệu quả kỳ diệu không ngờ.
3. Đức Maria có cặp mắt tế nhị tuyệt vời. Không cần ai nói, Người chỉ thấy thái độ bối rối của các gia nhân là hiểu ngay hoàn cảnh khó khăn của họ. Và Người đã nói với Chúa.
Xin ban cho một con cắp mắt tế nhị và một trái tim nhạy cảm để sớm thấy và giúp đỡ những khó khăn bối rối của anh chị em con.
4. Và Đức Maria còn dạy tôi một cách thức cầu nguyện : Xem ra Người không xin gì cả, chỉ trình bày hoàn cảnh “Họ hết rượu rồi”, và để Chúa giải quyết.
Khi cầu nguyện, tôi cũng phải có tinh thần tin tưởng phó thác như thế. Tôi trình bày hoàn cảnh khó khăn của mình, tôi không đòi hỏi hay áp đặt cho Chúa bất cứ cách giải quyết nào, vì tôi tin chắc rằng Chúa đã hiểu hoàn cảnh của tôi và Ngài có cách giúp đỡ tôi.
5. “Khi thấy thiếu rượu, thân mẫu Đức Giêsu nói với Người rằng “Họ hết rượu rồi” (Ga 2,3)
Vào một buổi chiều, tôi đạp xe đạp quanh thành phố. Bên cạnh tôi, biết bao người cũng đang tất bật, vội vã. Chiếc xe Honda chạy trước tôi bỗng để rơi vật gì đó. Tôi thản nhiên vượt qua, sát một bên. Nhưng người lái chiếc xe bên cạnh đã nhắc tôi “Nhặt giúp họ nhanh lên, kẻo xe cán hư mất”. Tôi giật mình, cúi xuống lượm những thứ ấy lên để trả lại cho chủ nhân của nó.
Cuộc sống tất bật đã khiến tôi bàng quan với mọi chuyện. Tôi coi chuyện của người khác chẳng dính dáng gì đến mình. Tôi chỉ biết sống cho riêng mình, sòng phẳng với nhau là đủ lắm rồi. Và tôi chỉ muốn co mình lại, để được yên ổn trong dòng chảy của cuộc đời.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết noi gương Mẹ, biết nhìn ra chung quanh để thấy được nhu cầu của những người đang cần đến sự giúp đỡ của con. (Epphata)
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Hiển linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân, mà đại diện: HiểnLinh ABC74
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Hiển linh, ngày Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân, mà đại diện là ba nhà đạo sĩ, ba nhà bác học phương đông.
Câu hỏi thứ nhất : các ngài là ai ?
Phúc âm đã dùng danh từ “magi” để nói về các ngài. Magi có nghĩa là các vị tư tế, ngoài việc tôn giáo, họ còn chuyên môn về khoa học, nhất là thiên văn, vì thế họ thường được triều đình tôn làm cố vấn. Ngoài ra, magi còn có nghĩa là các nhà đạo sĩ, dùng phép thuật của mình như một kế sinh nhai. Phúc âm không xác định rõ các ngài thuộc vào hạng người nào.
Tuy nhiên, chúng ta có thể tin chắc chắn các ngài là những người học rộng biết nhiều và thông thạo về thiên văn. Bởi đó, gọi các ngài là những nhà bác học, thiết tưởng cũng không sai cho lắm.
Ngoài ra, dựa vào những lễ vật dâng tiến, cũng như dựa vào thánh vịnh 71 :
- Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm, Hàng vương giả sẽ về triều cống. Cả những vua Ả-rập, Xơ-va, Cũng đều tới tiến dâng lễ vật. Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, Muôn dân nước thảy đều phụng sự.
Tertulianô đi tới kết luận : các người là những bậc vương đế. Vì thế, từ xa xưa người ta thường gọi lễ này là lê Ba Vua. Tuy nhiên, lập luân trên không được xác thực cho lắm.
Câu hỏi thứ hai : các ngài có bao nhiêu người ?
Những bức bích họa dưới các hoang toại đạo vào những thế kỷ đầu, có bức vẽ hai vị, có bức vẽ ba vị, có bức vẽ bốn vị, thậm chí có bức vẽ tới…mười hai vị. Ngày nay, chúng ta thường nói tới ba vị, vì dựa vào ba thứ lễ vật các ngài dâng tiến. Câu hỏi thứ ba : các ngài từ đâu mà tới ? Magi là hạng người xuất hiện đầu tiên tại Ba Tư. Các họa sĩ cổ xưa thường vẽ các ngài với y phục Ba Tư, nên nhiều người đã xác quyết các ngài từ Ba Tư mà đến. Tuy nhiên, lý luận này cũng không được ổn cho lắm. Phúc âm chỉ nói các ngài từ phương đông mà tời. Và phương đông là tên người Do Thái thường dùng để gọi xứ Ả Rập. Hơn nữa, những lễ vật như vàng, nhủ hương và mộc dược, là thổ sản của xứ này. Như vậy, các ngài từ Ả Rập mà đến thì có lẽ đúng hơn.
Sau cùng, câu hỏi thứ bốn : đâu là bài học chúng ta cần ghi nhận ?
Bài học chúng ta ghi nhận hôm nay, đó là sự tử bỏ. Thực vậy, các ngài là những người giàu sang, có một địa vị lớn trong xã hội thời bấy giờ, thế nhưng một khi đã nhận biết ý Chúa qua ánh sao lạ, các ngài đã can đảm, dám liều, dám từ bỏ tất cả để lên đường tìm đến với vị vua mới sinh ra.
Đúng thế, các ngài đã để lại sau lưng nào vợ đẹp con khôn, nào tiền bạc giàu sang, nào địa vị chức auyền, để dấn thân vào một cuộc phiêu lưu vô định, dưới sự soi dẫn của một ánh sao. Các ngài đã phải vượt qua biết bao nhiêu khó khăn, đã phải chấp nhận biết bao nhiêu nguy hiểm : nào là những nụ cười mỉa mai của bà con bè bạn, nào là những vất vả cực nhọc suốt khoảng đường dài…Thế nhưng, các ngài vẫn cất bước tiến lên với một lòng tin tưởng vững chắc.
Nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy bất kỳ ơn gọi nào cũng đều đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ, phải hy sinh, như lời Chúa đã phán :
- Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.
Tôi xin đưa ra hai trường hợp tiêu biểu. Trước hết, đó là trường hợp của Abraham. Ông đang sống yên ổn với gia đình trong cảnh giàu sang, thế nhưng Thiên Chúa đã hiện ra bảo ông phải lên đường tới một vùng đất nào đó mà Ngài sẽ trao ban làm sản nghiệp. Abraham liền cúi đầu vâng nghe. Rồi khi tới tuổi già và có được một mụn con trai để nối dõi tông đường, thế mà Thiên Chúa lại truyền phải sát tế mà dâng kính Ngài. Abraham cũng đã cúi đầu vâng nghe.
Tiếp đến, đó là là trường hợp của các tông đồ. Các ông đang sống yên ổn bằng nghề chài lưới, thế rồi một hôm Chúa Giêsu đi ngang qua và lên tiếng gọi :
- Hãy theo ta.
Lập tức các ông từ bỏ ghe thuyền, chài lưới và những người thân yêu để bước theo Chúa.
Với Mathêu cũng vậy, đang làm giàu với nghề thu thế, nhưng sau khi nghe tiếng gọi của Chúa, ông cũng đã từ bỏ tất cả để đi theo Ngài.
Từ mẫu gương của ba nhà ba nhà bác học phương đông, của Abraham và của các tông đồ, chúng ta đi tới một kết luận : Muốn theo Chúa, muốn chu toàn thánh ý của Ngài, chúng ta cũng phải dám liều, dám từ bỏ mọi sự, dám hy sinh tất cả, dám dấn thân vào một cuộc phiêu lưu đầy bấp bênh. Thế nhưng liệu chúng ta có đủ quảng đại để đáp trả tiếng gọi của Chúa và có đủ can đảm để thực hiện những điều ấy không ?
Xưa kia có một tu sĩ thánh thiện sống ở Ai Cập. Một ngày nọ có chàng thanh niên đến thăm: HiểnLinh ABC75
Xưa kia có một tu sĩ thánh thiện sống ở Ai Cập. Một ngày nọ có chàng thanh niên đến thăm và muốn xin ngài dạy bảo. Anh thỉnh cầu với tu sĩ : “Thầy là người thánh thiện, xin thầy chỉ cho con biết làm thế nào tìm thấy Thiên Chúa”. Tu sĩ là người khỏe mạnh và lực lưỡng. Ngài hỏi chàng thanh niên : “Anh có thực sự muốn đi tìm Thiên Chúa không ?” Chàng thanh niên trả lời : “Đúng vậy, thưa ngài, con thực sự ước ao muốn tìm kiếm Thiên Chúa”.
Sau đó tu sĩ dẫn chàng thanh niên xuống bờ sông. Thình lình, ngài túm lấy cổ anh rồi nhấn đầu xuống nước. Thoạt tiên chàng thanh niên nghĩ rằng tu sĩ ban cho anh nghi thức thanh tẩy đặc biệt giống như Phép Rửa tội của thánh Gioan Tẩy giả ở bờ sông Giođan. Nhưng sau gần hai phút tu sĩ vẫn không buông ra, anh bắt đầu vùng vẫy. Dù vậy tu sĩ vẫn dìm anh dưới nước. Bị ngộp thở, chàng thanh niên đã phải vùng vẫy mãnh liệt hơn nữa. Sau vài phút, tu sĩ lôi cổ anh lên khỏi mặt nước và nói: “Khi nào anh ước muốn tìm Thiên Chúa mạnh mẽ như anh ước ao có không khí để thở, lúc ấy anh sẽ tìm thấy Thiên Chúa”.
Hôm nay thánh Matthêu nói với chúng ta về những người có một ước muốn mãnh liệt đi tìm kiếm Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Đó là các nhà đạo sĩ.
Một số người Kitô hữu gốc Do Thái trong cộng đoàn của Matthêu thắc mắc rằng theo Đức Giêsu có phản bội lại đức tin của tổ tiên không. Họ hỏi : “Thưa ngài Matthêu tại sao nhiều người không phải là Do Thái đang đi theo Chúa Giêsu, trong khi đa số những người đồng hương Do Thái lại từ chối Ngài ?” Matthêu đã trả lời rằng vì những người không phải Do Thái, những người ngoại trở lại đã có một lòng ước muốn mãnh liệt tìm kiếm Đấng Cứu Thế. Trái lại, những vị lãnh đạo Do Thái nghĩ rằng họ đã có Thiên Chúa rồi, họ nhận thấy không có lý do gì phải đi tìm kiếm Đấng họ đã có. Đối với họ, có Đấng Cứu Thế thì cũng tốt, nhưng không phải là vấn đề cấp thiết như sự sống và sự chết. Do đó, họ đã không có một lòng ước ao mãnh liệt để tìm kiếm Ngài.
Các nhà đạo sĩ chính là những nhà thiên văn đã kiên trì nghiên cứu trong Thánh Kinh, sách của người Do Thái, nói về những dấu hiệu xuất hiện trên trời, những dấu hiệu của Đấng Cứu Thế đang đến. Họ theo dõi hằng đêm, cho đến khi khám phá thấy một vì sao. Vì lòng ao ước tìm kiếm chân lý mãnh liệt họ đã từ bỏ xứ sở của mình và lên đường. Đây là cuộc hành trình rất vất vả, khổ cực và đầy nguy hiểm trong sa mạc với đoạn đường dài 800 dặm, khoảng 1280 km, từ Babylon tới Giêrusalem. Còn chúng ta, chúng ta có khao khát muốn tìm gặp Chúa hay không ?
G.K. Chesterton, tác giả nổi tiếng người Anh, đã viết một câu chuyện thú vị về ba nhà thông: HiểnLinh ABC76
G.K. Chesterton, tác giả nổi tiếng người Anh, đã viết một câu chuyện thú vị về ba nhà thông thái hiện đại. Họ đã nghe biết rằng có một thành phố hòa bình, một thành phố mà chưa bao giờ có chiến tranh, loạn lạc, giặc giã và khổ đau. Họ cũng nghe biết rằng, phải mang theo những lễ vật đến để chứng tỏ họ là những con người của hòa bình, và đóng góp vào việc duy trì hòa bình trong thành phố này. Do đấy họ lên đường đi tới thành Bêlem mới này với những lễ vật họ tin chắc rằng sẽ bảo đảm giữ được hòa bình và cho phép họ ở lại trong thành phố đó.
Khi đến cổng thành họ gặp thánh Giuse đứng kiểm soát những lễ vật của họ. Nhà thông thái hiện đại thứ nhất mang vàng đến. Ông giải thích rằng vàng có thể mua được mọi thứ khoái lạc trên trần gian. Hưởng khoái lạc rồi người ta không còn muốn chiến tranh nữa. Nhà thông thái hiện đại thứ hai đã không mang nhũ hương, mà mang hóa chất đến. Ông mang khoa học hiện đại vào thành phố. Với khoa học kỹ thuật ông có thể làm cho tâm trí con người ngủ mê trong hạnh phúc trần gian. Ông có thể chế ra những hạt giống nhân tạo phát sinh hoa trái và kiểm soát dân số trên mặt đất. Lúc đó dân chúng có thể thỏa mãn được tất cả nhu cầu cần thiết, và như vậy họ không phải đánh nhau nữa. Nhà thông thái hiện đại thứ ba mang một phân tử hạch nhân đến để chế bom nguyên tử, một thứ mộc dược mới, một biểu tượng mới của sự chết. Ông lập luận cứng rắn rằng bất cứ ai chống đối lại con đường hòa bình sẽ phải chết.
Sau khi khám xét lễ vật, thánh Giuse đã khước từ không cho bất cứ người nào vào cả. Họ lao nhao lên phản đối rằng : “Chúng tôi đã mang theo tất cả những phương tiện để cung cấp sự giàu có, kiểm soát thiên nhiên, và tiêu diệt kẻ thù. Chúng tôi còn phải mang thêm cái gì đến nữa để chứng tỏ rằng chúng tôi là những con người của hòa bình ?” Thánh Giuse bèn kề vào tai mỗi người rồi thì thầm một lúc. Sau đó họ lặng lẽ bỏ ra đi trong buồn bã. Bạn có biết thánh Giuse nói gì với họ không ? Ngài nói rằng họ đã quên mất chính Hài Nhi Giêsu !
Đó cũng là lời khuyên của Công đồng Vatican II cho thế giới văn minh khoa học ngày nay : “Chính Chúa Con Nhập Thể là thái tử của hòa bình, đã dùng thập giá của Người để hòa giải mọi người với Thiên Chúa. Người đã tái lập sự hiệp nhất mọi người thành một dân tộc và một thân thể”.
Ngày nay với chủ trương duy khoa học kỹ thuật, với sự giàu có và quyền lực, con người nghĩ rằng họ là những nhà thông thái hiện đại. Họ có thể xây dựng hòa bình mà không cần hài Nhi Giêsu. Thế nhưng họ đã lầm ! Hòa bình và hạnh phúc không thể có nếu thiếu Hài Nhi Giêsu. Ngài là “Thái Tử của Hòa Bình”. Tách rời ra khỏi Thiên Chúa, con người không thể tự tạo ra hòa bình được.
Trong tông huấn Tertio Millennio Adveniente, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng cho rằng càng phát triển về văn minh vật chất, con người càng trở nên nghèo nàn về tinh thần và tạo nên cơn khủng hoảng văn minh hiện nay. Ngài nói : “Đứng trước cơn khủng hoảng văn minh đó, cần phải đáp lại bằng văn minh của tình yêu – đặt nền tảng trên các giá trị phổ quát là hòa bình, liên đới, công lý và tự do, là những giá trị gặp thấy nơi Đức Kitô sự kiện toàn đầy đủ của chúng ta”. “Chúng tôi đến để thờ lạy Người”. Tìm kiếm và thờ lạy Thiên Chúa là ước vọng thâm sâu nhất của con người như thánh Augustinô đã nói : “Chính Ngài đã thúc đẩy con người làm như thế bằng cách làm cho con người thấy khoái trá khi ca tụng Ngài, vì Ngài đã tạo thành chúng con cho Ngài, và tâm hồn chúng con sẽ không an vui bao lâu chưa được an nghỉ nơi Ngài”.
Sách Giáo lý Công giáo cũng dạy rằng : “Sự ước ao Thiên Chúa đã được ghi sâu trong tâm hồn con người, bởi vì con người đã được sáng tạo bởi Thiên Chúa và cho Thiên Chúa”.
Tìm kiếm Thiên Chúa để trở nên giống như Ngài, vì con người đã được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, với phẩm giá của mình, với ơn gọi là con cái Thiên Chúa được chia sẻ hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài. Bởi thế, con người phải trở nên hoàn thiện như Ngài. Đó là ơn gọi làm thánh (sainthood). Mỗi người được mời gọi để trở nên thánh thiện như Thiên Chúa Cha là Đấng thánh.
Thánh Phaolô đã nhắc nhở các Kitô hữu thời Giáo Hội sơ khai như sau : “Kính gửi tất cả anh: HiểnLinh ABC77
Thánh Phaolô đã nhắc nhở các Kitô hữu thời Giáo Hội sơ khai như sau : “Kính gửi tất cả anh chị em ở Rôma, những người được Thiên Chúa yêu thương, được gọi là thánh, xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an”. “Kính gửi Hội thánh của Thiên Chúa ở Côrintô, những người đã được hiến thánh trong Đức Kitô Giêsu, được gọi là thánh…”
Các Kitô hữu đã được thánh Phaolô gọi là thánh, vì đã có lòng ước ao tìm kiếm Thiên Chúa mãnh liệt, đã ăn năn sám hối và canh tân đời sống mỗi ngày để trở nên thánh.
Một vị thánh sẽ không bao giờ dám tự coi là mình đã chiếm hữu được chân lý, đã có Thiên Chúa, hay đã biết tất cả mọi điều về Thiên Chúa ! Đối với các ngài, luôn luôn có những khám phá mới mẻ về Thiên Chúa, bởi lòng ước ao tìm kiếm và yêu mến Thiên Chúa sẽ không bao giờ vui thỏa. Nói như thánh Augustinô, các ngài chỉ vui thỏa khi nào nghỉ yên trong Chúa.
Câu chuyện Thánh Kinh về ba nhà đạo sĩ Đông phương nói với chúng ta rằng đời sống tinh thần sẽ chỉ bắt đầu khi một người có một lòng ước muốn mãnh liệt đi tìm kiếm Thiên Chúa. Khi một người cảm nghiệm được sự thúc bách nội tâm, một lòng khát khao muốn có một sự liên hệ cá nhân sâu xa với Chúa Giêsu, cuộc hành trình tinh thần của người đó mới bắt đầu khởi sự.
Trước đệ nhị thế chiến, có một cô gái người Pháp, trẻ đẹp, hát hay và khiêu vũ rất giỏi. Nhờ thế cô rất nổi tiếng dưới ánh đèn sân khấu trong các vũ trường ở thủ đô Paris. Đúng lúc đó thế chiến thứ hai bùng nổ, nước Pháp lâm nguy nên mọi người ra sức bảo vệ tổ quốc. Cô gái tài sắc đó đã trở thành y tá cứu thương trên chiến trường. Chẳng may cô bị thương và rủi hơn nữa chính vết thương này đã khiến cô không còn khả năng sinh sản. Với lòng ước ao mạnh mẽ để được làm mẹ và trước những đau khổ mất mát của tha nhân, cô đã không buông xuôi thất vọng, trái lại cô còn có một quyết tâm khác thường.
Thay vì làm mẹ ruột, cô làm mẹ nuôi của các trẻ mồ côi bị bỏ rơi. Để có điều kiện thực hiện ý định đó, cô trở lại làm nghề vũ nữ và ra sức lao động cật lực. Cùng lúc cô đi tìm kiếm các trẻ mồ côi đủ mọi quốc tịch, màu da để nuôi nấng yêu thương. Đứa bé cuối cùng cô nhặt được trong một thùng rác ở thủ đô Paris vào đêm Noel 1983 là một em bé người Pháp. Bây giờ cô trở thành người mẹ nuôi của 12 em, 12 quốc tịch và màu da khác nhau. Với 12 miệng ăn cô không đủ tiền chi phí nên phải bán đồ đạc trong nhà để sống thêm được một thời gian. Sau đó, mẹ con dắt nhau đi lang thang ăn xin. Biết được tình cảnh đáng thương đó, công chúa Monaco đã cho mẹ con cô tá túc trong lâu đài của mình. Hai năm sau cô qua đời và báo chí đã đặt tên cho gia đình cô là một “gia đình liên hiệp quốc”.
Lễ Hiển Linh nhắc nhở chúng ta rằng Ngôi Hai Thiên Chúa đến viếng thăm tất cả mọi người có lòng ao ước tìm kiếm và đến thờ lạy Ngài. Không một ai bị loại trừ ra khỏi tình yêu Thiên Chúa. Thật “Vui mừng cho những tâm hồn tìm kiếm Thiên Chúa” (Tv 105, 3).
Trong khi chúng ta tiến vào năm mới, thật là an ủi khi biết rằng các tinh tú sao trời đang chiếu: HiểnLinh ABC78
Trong khi chúng ta tiến vào năm mới, thật là an ủi khi biết rằng các tinh tú sao trời đang chiếu cố chúng ta. Đây là thời của Chòm Sao Bảo Bình (Aquarius).
Khi ánh trăng mọc trên nóc nhà thứ bảy Và khi Mộc Tinh thẳng hàng với Hỏa Tinh Thì an bình sẽ dẫn dắt các hành tinh Và tình yêu sẽ xâm nhập các tinh tú
Đấy chính là những gì các nhà thiên văn đang nói cho chúng ta, và nó không có khó khăn nhấn mạnh về sự kiện rằng khoảng chừng 50 triệu người Bắc Mỹ tham khảo "Tử Vi" trên những tờ nhật báo, và rằng những sách về thiên văn được tiêu thụ hàng trăm ngàn cuốn mỗi năm. Giữa các người trẻ, thiên văn chính là môn thích thú của họ -- bất hạnh thay, trong nhiều trường hợp, nó là loại thay thế cho tôn giáo mà họ đang chối bỏ. Với nhiều hình thức dự đoán, thiên văn có thể thật là phiền hà bởi vì nó thường hay mập mờ và rất khó chú giải. Một người nói với một người bạn của anh rằng một nhà thiên văn đã nói với anh, "Người chồng thứ hai của vợ anh thật là giàu có, thông thái và đẹp trai." Và người bạn hỏi, "Anh chẳng tức tối khi nghe thấy lời dự đoán đấy sao?" "Đúng, nó làm tôi thật tức giận," người đàn ông trả lời. "Tôi không biết vợ tôi đã xuất giá trước kia hay không." Dĩ nhiên, đối với một số người những dấu chỉ tinh tú có thể mang ý nghĩa những gì mà họ muốn chúng mang ý nghĩa. Thế nhưng cũng thật là hứng thú khi để ý rằng người ta chú giải những dấu chỉ tinh tú để mang ý nghĩa mà chúng ta đang tiến đến một kỷ nguyên mới của tình huynh đệ, an bình và yêu thương. Đây phải là điểm quan trọng nhất với chúng ta những người Kitô hữu bởi vì nguồn đáng tin cậy nhất của chúng ta về tin tức liên quan đến vận số của thế giới -- Tân Ước -- cũng nói cùng một sự thể. Và, thật là không ngờ, nó khởi đầu kể cho chúng ta câu chuyện hạ sinh của một hài nhi.
Việc hạ sinh một hài nhi luôn luôn là một biến cố vô cùng đặc biệt. Tất cả chúng ta ai cũng có những hồi ước đặc biệt trong tâm khảm của chúng ta về sự diệu kỳ của việc hạ sinh hài nhi. Tuy nhiên, cái mà làm cho chúng ta thật sự bỡ ngỡ chính là sự kiện cuộc hạ sinh lần đầu vẫn chưa đủ. Sứ điệp của Tân Ước chính là sự trọn vẹn hòa hảo của chúng ta lệ thuộc và cuộc hạ sinh khác, cuộc hạ sinh thứ hai. Chúng ta phải trở nên giống như con trẻ bé nhỏ một lần nữa. Khác với lần hạ sinh lần thứ nhất, cuộc hạ sinh lần thứ hai là tự nguyện. Sự chọn lựa thuộc về chúng ta: noi theo giáo huấn của Chúa Giêsu để trở nên những con trẻ bé nhỏ hay là chối bỏ nó.
Phúc Âm Thánh Gioan, ông Nicôđêmô người Pharisiêu đến với Chúa Giêsu và hỏi, "Làm sao một người lại sinh ra lần nữa khi họ đã già rồi? Người ấy phải nhập vào lòng mẹ và tái sinh ư?" (Jn 3:4). Giống như Nicôđêmô, chúng ta muốn biết thực sự điều ấy có nghĩa gì. Chúng ta không thông suốt. Chúng ta cố tìm một phương thế có thể để thoát ly khỏi nó. Một số chúng ta bắt chước Nicôđêmô cố khởi đầu bằng những lý lẽ thần học với Chúa Giêsu về vấn đề này. Trong trường hợp nào, việc "tái sinh" theo nghĩa Thánh Kinh mang ý nghĩa gì?
Chữ Hy Lạp mà chúng ta chuyển dịch thành "tái sinh" hay "sinh ra" thật sự mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Thế nhưng khi chúng ta ghép chúng lại hầu cố đưa ra một ý nghĩa đơn giản và rõ ràng nhất, điều mà nó truyền đạt cho chúng ta chính là sự biến đổi tận gốc thì cần thiết trong đời sống các bạn cũng như của chính tôi: một sự thay đổi hoàn toàn, một khởi đầu mới.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta quá sức khi Ngài kêu mời chúng ta vào trong sự sống, vào trong lòng tốt lành vĩ đại của Ngài. Ngài ban cho chúng ta hai lần sinh ra: Lần sinh ra thứ nhất là mang chúng ta vào trong thế gian này và rồi lần sinh ra thứ hai là mang chúng ta vào trong sự sống.
"Chúng tôi đã thấy ngôi sao Ngài mọc tại Phương Đông và đã đến để triều bái Ngài." Trong ngày Chúa Nhật đầu tiên của Năm Mới, nếu chúng ta khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa thẳm sâu trong chính trung tâm nội tại của ta thì chúng ta sẽ không bỏ lỡ ngôi sao của Chúa Giêsu mọc tại Phương Đông, và chúng ta sẽ biết phải triều bái Ngài như thế nào. Giống như các nhà chiêm tinh thời xưa, chúng ta sẽ là những Người Mang Lễ Vật tới Thiên Chúa tại trung tâm điểm của đời sống chúng ta; chúng ta sẽ triều bái Con Trẻ mới sinh qua những lễ vật của lòng trắc ẩn, kiên nhẫn và quan tâm đến tha nhân. Lễ vật vĩ đại nhất của chúng ta cho thế giới trong Năm Mới này chính là món quà của bản thân. Đây chính là lễ triều bái chúng ta dâng lên Ngài: yêu thương tha nhân như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta.
Các bài đọc của lể Hiển Linh đều hướng về một chủ đề chính: "Chúa Kitô là ánh sáng chiếu: HiểnLinh ABC79
Các bài đọc của lể Hiển Linh đều hướng về một chủ đề chính: "Chúa Kitô là ánh sáng chiếu soi muôn dân". Nơi bài đọc I được trích từ sách tiên tri Isaia: "Hãy đứng lên, hãy tỏa sáng ra" (Is 60,1-6).
Đó là lời tiên tri Isaia loan báo về tương lai huy hoàng của Giêrusalem. Giêrusalem có được như vậy, được trở thành trung tâm của muôn dân đổ dồn về đó là vì nhờ Giêrusalem có Thiên Chúa hiện diện ở giữa. Không có Thiên Chúa hiện diện thì Giêrusalem vẫn chỉ như bao thành khác. Ánh sáng mà Giêrusalem nhận được từ Chúa đã chiếu soi muôn người, ánh sáng đó lôi kéo tất cả mọi người, không trừ một ai đến với Chúa. Giêrusalem ngày xưa là hình ảnh của Giáo Hội, vì Giáo Hội là nơi qui tụ tất cả mọi dân tộc.
Lời tiên tri Isaia loan báo về tương lai huy hoàng cho Giêrusalem được ứng nghiệm trong biến cố các vua từ Phương Đông tìm đến Vua dân Do Thái mới sinh đã được thánh sử Luca ghi lại (x.Lc 2,1-12).
Gặp được Chúa Giêsu và thờ lạy Ngài, đó là mục đích cuối cùng của đời người chúng ta, và đó cũng là trung tâm của bài Tin Mừng Lễ Hiển Linh hôm nay. Các mục tiêu cuối cùng trên, chúng ta thấy có những nhân vật nổi bật như vua Hêrôđê, các trưởng tế và luật sĩ tại Giêrusalem, các đạo sĩ từ Phương Đông. Mỗi một người trong hoàn cảnh riêng của họ đều được Chúa mạc khải cho, được Chúa mời gọi đến với Ngài bằng những con đường khác nhau. Các đạo sĩ nhờ ngôi sao sáng của thiên nhiên trong vũ trụ, một kỳ công sáng tạo của Thiên Chúa. Các trưởng tế và luật sĩ thì qua con đường mạc khải của Kinh Thánh, qua lời dạy của các tiên tri mà họ biết nằm lòng. Vua Hêrôđê thì qua chứng tá của những kẻ qua con đường gặp Chúa, qua chứng tá của các đạo sĩ và các trưởng tế, luật sĩ tại Giêrusalem. Nhưng rồi chỉ có các đạo sĩ là đi đến cùng con đường, là gặp được Chúa Giêsu và thờ lạy Ngài.
Chúa ban cho mỗi người, cho mọi người con đường để gặp Ngài, nhưng chỉ có những ai thành tâm thiện chí và can đảm đi đến cùng, đi trọn con đường thì mới thành công trong việc gặp gỡ được Chúa.
Trong ngày Lễ HiểnLinh ABChay Lễ Hiển Linh hôm nay, chúng ta trước nhất vui mừng vì thấy rõ hành động Thiên Chúa không dành riêng ân sủng của Ngài cho một nhóm người nào, nhưng Ngài kêu gọi tất cả mọi người đến với Ngài, đồng thời chúng ta cần tự vấn chính mình về thái độ trước Chúa Kitô, chúng ta đã thực sự gặp Chúa và tôn thờ Ngài hay chúng ta cũng có thái độ giống như vua Hêrôđê xem Chúa như là kẻ thù, như là người cản trở sự thành đạt của mình, vì đó mà hành động ngấm ngầm chống lại Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con được bắt chước thái độ của các đạo sĩ ngày xưa muốn ra đi khỏi nơi an toàn tự nhiên của mình để gặp Chúa và tôn thờ Chúa tại nơi mà Chúa muốn dùng để mạc khải cho chúng con về Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con được gặp Chúa và tôn thờ Chúa là Đấng cứu rỗi duy nhất đời con. Amen.
Thiên Chúa không chỉ tỏ mình cho dân Ít-ra-en. Ngài còn tỏ mình cho các dân tộc khác, vì: HiểnLinh ABC80
Thiên Chúa không chỉ tỏ mình cho dân Ít-ra-en. Ngài còn tỏ mình cho các dân tộc khác, vì Ngài muốn cứu độ mọi người chẳng trừ ai.
Các nhà chiêm tinh vùng Babylon là đại diện cho dân ngoại.
Đối với họ, bầu trời là một cuốn sách, các vì sao nói về những biến cố trên địa cầu. Có thể Thiên Chúa đã muốn dùng sự xuất hiện của một vì sao để báo hiệu Con Ngài chào đời.
Thiên Chúa chấp nhận dùng thứ ngôn ngữ đầy khiếm khuyết đó để mời họ lên đường đi gặp Đấng Cứu Độ.
Hôm nay, Ngài vẫn ngỏ lời với những ai chưa biết Ngài bằng muôn vàn cách thức khác nhau, khiến họ hiểu được.
Thiên Chúa vẫn làm sáng lên muôn ánh sao, không ở trên trời cao, nhưng ở trong lòng người.
Ánh sao có thể là một lý tưởng, một khát vọng mãnh liệt: khát vọng sự thật, tự do, ấm no, hạnh phúc?
Ánh sao đưa con người lên đường tìm kiếm, và Ngài không ngừng ban niềm vui trong suốt cuộc hành trình.
Các nhà chiêm tinh đã phải ra khỏi nhà, ra khỏi mình, ra khỏi những định kiến, để đón tiếp cái bất ngờ.
Họ chỉ mong được bái lạy vị Vua mới sinh. Nhưng vị Vua này chẳng ở Giêrusalem cao sang, mà lại ở vùng Bêlem bé nhỏ.
Vị lãnh tụ dân Ít-ra-en chỉ là một hài nhi bình thường, sống trong một căn nhà bình thường.
Hêrôđê bối rối lo sợ khi nghe tin sinh hạ Vua Do thái.
Các thượng tế và kinh sư tuy biết rõ nơi Ngài sinh, nhưng họ không muốn lên đường tìm kiếm.
Các nhà chiêm tinh chỉ có một cái biết mơ hồ, nhưng họ đã can đảm ra đi, tích cực tìm kiếm, tin tưởng sấp mình bái lạy và cung kính dâng lễ vật.
Vẫn có đám đông những người không phải là Kitô hữu đang miệt mài nghiên cứu trong mọi lãnh vực, khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật, tư tưởng..., đang gắng công tu tập trong các tôn giáo, hay đang tận tụy làm cho trái đất được tốt đẹp hơn. Có ánh sáng nào soi chiếu nẻo đường họ đi. Họ đã chấp nhận bao hy sinh từ bỏ, để nhẹ nhàng, thanh tịnh mà tiến bước.
Các nhà chiêm tinh ngày xưa đã gặp được Đấng họ tìm.
Hôm nay, còn bao người vẫn trên đường dong ruổi. Thiên Chúa đồng hành với họ mà họ chẳng hay. Họ đã ở gần Chúa ngay khi chưa gặp Ngài. Lễ Chúa Hiển Linh mời ta nhận ra và trân trọng hoạt động của Thiên Chúa nơi anh chị em ngoài Kitô giáo.
Có khi chúng ta giống các thượng tế và kinh sư tự mãn với cái biết lý thuyết của mình về Thiên Chúa, nên chẳng muốn lên đường gặp mặt Ngài.
Ước gì chúng ta không coi mình như người đã tìm thấy, nhưng khiêm tốn học hỏi nơi những người đang tìm kiếm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có nhìn thấy Thiên Chúa đang hoạt động nơi những anh chị em ngoài Kitô giáo không? Bạn có quen ai làm bạn cảm phục không?
Thiên Chúa đến với bạn qua những đại lộ (là Thánh Lễ, các Bí Tích...) Nhưng Ngài cũng đến với bạn qua các ngõ hẻm (một biến cố, một bài báo, một câu nói bâng quơ...). Đâu là những ngõ hẻm Chúa thường đến với bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ, nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói, dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa, xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ. Xin dạy con sự hiền hậu để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân. Xin dạy con sự khiêm nhu để con dám buông đời con cho Chúa. Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm, vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài, hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
Nếu có dịp làm hay quan sát các hang đá, chúng ta thấy rằng không có hang đá nào giống: HiểnLinh ABC81
Nếu có dịp làm hay quan sát các hang đá, chúng ta thấy rằng không có hang đá nào giống hang đá nào. Điều làm cho các hang đá này khác nhau là do cách trang trí của những người làm hang đá. Có những hang đá to lớn, với những thác nước nhân tạo cùng với nhiều đèn chớp lộng lẫy, nhưng cũng có những hang đá thật đơn sơ với một vài phiến đá, gốc cây. Tuy nhiên, có một điều mà không một hang đá nào lại không có, đó là các ngôi sao. Và một trong số các ngôi sao ấy lại có một ngôi sao có một cái đuôi sáng hướng về hang đá, nơi Hài Nhi Giêsu được sinh ra. Như thế, một cách mặc nhiên, ngôi sao đã trở nên biểu tượng cho mùa Giáng Sinh, một dấu chỉ cho người ta nhận biết nơi Chúa sinh ra.
Các ngôi sao không những là dấu chỉ cho chúng ta hôm nay biết rằng đã đến mùa Giáng Sinh, nhưng ngay từ đầu, cũng chính các ngôi sao đã báo tin và dẫn đường cho các đạo sĩ đại diện cho muôn dân đến thờ lạy Con Thiên Chúa mới sinh ra đời.
1. Thiên Chúa đến với nhân loại:
Với việc cho Con Thiên Chúa Nhập Thể và Giáng Sinh, Thiên Chúa đã thực hiện trọn vẹn lời Người đã hứa với các tổ phụ. Do đó, đúng ra đây phải là một niềm vui mừng trọng đại cho toàn thể dân Do Thái, và họ phải hân hoan chào đón ngày Đấng Messia đến, vì từ đây niềm hy vọng từ bao đời của họ đã trở thành hiện thực. Con Thiên Chúa đã xuất hiện để giải thoát họ khỏi ách thống trị của tội lỗi, đưa họ đến với ánh sáng ban sự sống. Ánh sáng mà ngôn sứ Isaia đã loan báo trước đó hơn 500 năm: “Hãy đứng lên, hãy toả sáng, hỡi Giêrusalem! Vì sự sáng của ngươi đã tới, vì vinh quang của Chúa đã bừng dậy trên mình ngươi”. Sự xuất hiện của Chúa sẽ đem lại một ánh sáng rực rỡ phá tan mọi bóng tối của tội lỗi và sự chết, đem lại cho những ai tin tưởng nơi Ngài một sự sống mới, như lời ngôn sứ Isaia: “Kìa tối tăm đang bao bọc địa cầu, vì u minh phủ kín các dân, nhưng trên mình ngươi Chúa đang đứng dậy, vì vinh quang của Ngài xuất hiện trên mình ngươi”.
Thế nhưng, vào ngày Con Chúa ra đời, Ngài đã không được dân Ngài đón tiếp. Họ đã từ chối Ngài, khiến Ngài phải sinh ra trong một nơi ở tồi tàn của súc vật, thật đúng như lời Gioan nói: “Ngài đã đến nơi nhà của Ngài, mà người nhà đã không tiếp nhận Ngài” (Ga 1, 11). Và do bởi sự từ chối của dân Chúa, Tin mừng giờ đây đã được ban cho dân ngoại, mà ba đạo sĩ từ Phương Đông xa xôi là đại diện, như lời báo trước của ngôn sứ Isaia: “Chư dân sẽ lần bước tìm về sự sáng của ngươi, và các vua hướng về ánh bình minh của ngươi”. Thật là trớ trêu, những người dân ngoại lại đến hỏi dân Do thái về vị vua mới sinh của chính dân Do thái, trong khi dân Do Thái lại đang chối từ: “Vua Do Thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông Phương, và chúng tôi đến để triều bái Người”. Như thế, với sự Giáng Sinh của con Thiên Chúa, ơn cứu độ không còn bị giới hạn bởi một dân tộc, một miền đất nào nữa, nhưng được ban cho hết mọi người. Kể cả những người mà dân Do thái cho là dân ngoại, thì chính họ giờ đây, lại trở thành một trong những người đầu tiên đến để thờ lạy Con Thiên Chúa.
Đây quả thực là một mầu nhiệm của Thiên Chúa, mầu nhiệm của tình yêu, một tình yêu không biên giới, không phân biệt, một tình yêu dành cho hết mọi người, và cho từng người chúng ta. Thánh Phaolô cũng xác tín điều đó trên bước đường rao giảng Tin mừng của Ngài khi nói: “Thiên Chúa đã ban cho tôi việc phân phát ân sủng cho anh em, là theo ơn mặc khải, tôi đã được thấu hiểu mầu nhiệm mà con cái loài người các thế hệ khác không được biết”.
2. Bước đường con người đến với Thiên Chúa:
Tình yêu của Thiên Chúa thì bao la và không giới hạn đã được ban sẵn cho con người chúng ta. Tuy nhiên, để đón nhận được ơn đó, mỗi người chúng ta cần đóng góp phần của mình. Ơn Chúa cũng giống như trời mưa, nước đã sẵn, nhưng nếu muốn có nước, chúng ta lắp đặt máng xối để hứng thì mới có nước. Chúng ta có thể học được nơi ba vị đạo sĩ trong bài Tin mừng hôm nay bước đường để con người đến với Chúa và nhờ đó, nhận được ơn cứu độ của Ngài. Điều đầu tiên, chúng ta có thể học được nơi các đạo sĩ là lòng khao khát, tìm kiếm vị Cứu Chúa. Mặc dù ở tận Phương Đông xa xôi, giữa một bầu trời đầy sao, các ông vẫn liên tục tìm tòi, học hỏi để phát hiện vị sao lạ giữa muôn ngàn tinh tú. Tuy nhiên, để nhận ra ngôi sao này là điềm báo “Vua dân Do thái mới sinh”, chắc hẳn các đạo sĩ này đã phải nhớ tới lời loan báo trong sách Dân số mà dân Do Thái đã loan truyền trong thời gian họ bị lưu đày ở Babilon: “Một ngôi sao mọc lên từ Giacóp, một vương trượng xuất từ Israel” (Ds 24, 17).
Thế nhưng, ánh sao dẫn đường cho họ nay đột nhiên biến mất. Một lần nữa, họ phân vân: “nên tiếp tục cuộc hành trình hay trở lại quê nhà?”. Họ đã phải hỏi chính những người Do thái: “Vua người Do thái mới sinh hiện đang ở đâu? Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông phương, và chúng tôi đến để triều bái Người”. Và rồi một lần nữa, qua các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân Do thái, các đạo sĩ lại được lời Thánh Kinh soi dẫn: “Tại Bethlehem, thuộc xứ Giuda, vì đó là lời do Đấng tiên tri đã chép: Cả ngươi nữa, hỡi Bethlehem, dất Giuda, không lẽ gì ngươi bé nhỏ hơn hét trong các thành trì của Giuda, vì tự nơi ngươi sẽ xuất hiện một thủ lãnh, Người đó sẽ chăn nuôi Israel, dân tộc của Ta”. Và rồi lòng nhiệt thành của họ đã được đáp ứng cách xứng đáng: “Và kìa ngôi sao họ xem thấy ở Đông phương lại đi trước họ, mãi cho tới nơi và đậu lại trên chỗ Hài Nhi ở. Lúc nhìn thấy ngôi sao, họ hết sức vui mừng”.
Điều cuối cùng, chúng ta có thể học được nơi các đạo sĩ là sự lên đường. Lên đường nghĩa là hành động. Họ đã nhìn thấy vì sao lạ. Họ đã nhớ đến lời Kinh thánh, nhưng tất cả những điều đó sẽ không ích lợi gì, nếu họ không lên đường ra đi tìm kiếm.
Tóm lại, nhờ luôn biết khiêm tốn, lắng nghe lời của Thiên Chúa, cùng với việc chăm chú nhìn xem các dấu chỉ trong cuộc sống hàng ngày và sẵn sàng lên đường, các đạo sĩ đã được diễm phúc là một trong số những người đầu tiên được chiêm bái Chúa Hài Nhi.
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội mừng lễ Chúa Hiển Linh, nghĩa là mừng việc Chúa tỏ mình ra cho chúng ta. Thế nhưng, nhìn lại lòng mình, tôi và quý ông bà anh chị em đang hiện diện nơi đây đã thực sự gặp được Chúa chưa? Hay là chúng ta cũng giống như vua Hêrôđê và những người Do Thái khi xưa. Chúng ta nói thật hay và thật nhiều về Chúa, nhưng chúng ta chưa một lần lên đường đi tìm Chúa, nghĩa là chúng ta chưa một lần dám sống điều mà chúng ta vẫn tuyên xưng nơi môi miệng. Và có lẽ vì thế, tâm hồn tôi và quý ông bà anh chị em chưa thật sự cảm nếm được niềm vui trong ngày Con Chúa giáng trần.
Giờ đây, noi gương các đạo sĩ, nhờ sự trợ lực của Thánh Thể Chúa, từng người chúng ta hãy quyết tâm đứng dậy làm một cuộc lên đường ra khỏi những lười biếng, tính ù lì, an phận, can đảm chấp nhận những thua thiệt trước mắt, sẵn sàng khiêm tốn học hỏi và sống tất cả những gì Chúa dạy. Nhờ đó, chúng ta sẽ có được niềm vui gặp gỡ Chúa và qua chúng ta, niềm vui Con Chúa Giáng Sinh cũng sẽ được lan tỏa cho mọi người đang sống quanh ta. Amen.
Trong bài Phúc Âm của lễ Hiển Linh có một từ đáng cho chúng ta suy niệm: thấy. Có mắt: HiểnLinh ABC82
Trong bài Phúc Âm của lễ Hiển Linh có một từ đáng cho chúng ta suy niệm: thấy. Có mắt để phát hiện những điều bí ẩn, những con mắt hiển linh như các nhà đạo sĩ: “Họ thấy Con Trẻ và Mẹ Ngài và họ liền sấp mình thờ lạy Ngài”.
Họ thấy gì? Họ tưởng tượng điều gì? Từ bậc quyền cao chức trọng nào họ phải xuống để thích ứng ngay với thực tế rất khiêm hạ này: một cặp vợ chồng và đứa con của họ? Các đạo sĩ đã “thấy”.
Lời mời gọi đầu tiên của lễ Hiển Linh là: thấy Con Trẻ. Thấy tất cả những gì có nơi Đấng Tuyệt Đối duy nhất này, thầm bảo rằng qua Ngài chúng ta có thể thấy Thiên Chúa, như phụng vụ Acmêni diễn tả rất hay: Hôm nay, Đấng vô hình hiển linh. Đấng mà con người không thấy nay tỏ hiện để chúng ta được thấy.
Làm sao không nghĩ đến câu nói nổi tiếng của thánh Irênê mà luôn luôn phải trích dẫn nguyên vẹn: “Vinh quang của Thiên Chúa chính là sự sống của con người, và sống đối với con người chính là thấy Thiên Chúa”.
Thấy Chúa. Thánh Gioan nói trong đoạn mở đầu Phúc Âm của mình: “Không ai thấy Thiên Chúa; chính Con duy nhất ngự trong lòng Chúa Cha mới tỏ bày Ngài cho chúng ta”.
Ước gì chúng ta có mắt để thấy những điều này! Con mắt đức tin, con mắt xưa kia, ở Palestine, biết mở ra để nhìn vào mầu nhiệm của Chúa Giêsu, và cái nhìn nội tâm giờ đây làm chúng ta phải sấp mình trước mặt Ngài. Thánh nữ Têrêsa thành Avila đã viết: “Cái gì ngăn cản chúng ta dùng con mắt của tâm hồn để nhìn về Chúa? Ngài chỉ chờ đợi cái nhìn của chúng ta mà thôi”.
Cái nhìn nội tâm này, sức mạnh của con mắt đức tin này không được đóng kín chúng ta trong một tháp ngà nhỏ: “Anh và tôi!” hoặc trong một tháp ngà lớn hơn: “Chúng ta, những người theo Kitô giáo”. Đây là lời kêu gọi thứ hai của lễ Hiển Linh: nhận rõ ràng Con Trẻ xuất hiện vì tất cả chúng ta. Đàng sau các đạo sĩ, ta thấy được những đám đông mà các vị là biểu tượng, những đám đông mà Isaia phát hiện bằng con mắt hiển linh: “Hãy nhìn xem, hỡi Giêrusalem! Bóng tối bao trùm muôn dân nhưng Chúa sẽ xuất hiện trên ngươi, các dân tộc hướng về ánh sáng của ngươi. Hãy nhìn xem! Họ đang quy tụ lại”.
Người ta nói rằng định mệnh hạn chế cái nhìn của chúng ta. Chúng ta được tạo dựng cho những gì là to lớn của một thế giới đang chờ đợi Chúa và chúng ta cúi xuống nhìn vào cuộc sống của chúng ta và nhìn vào giáo xứ của chúng ta. Thỉnh thoảng, những đám đông hoan hô Đức Thánh Cha làm cho chúng ta cảm nhận làn sóng Công Giáo, nhìn thấy muôn dân họp lại đời đời. Nhưng chúng ta nhanh chóng trở về với chúng ta, những nhóm nhỏ đang hành đạo.
Chúng ta có quá dễ dàng chấp nhận làn sóng những người không tin đang gia tăng hay không? Quen sống trong những khu vực theo Kitô giáo, ở giữa những môi trường mà hai tiếng Thiên Chúa không còn ý nghĩa gì nữa có phải là điều bình thường hay không?
Lạy Chúa, xin khơi dậy nơi chúng con lòng nhiệt thành của những người theo Kitô giáo đầu tiên mà đối với họ lời của Chúa Giêsu vẫn còn sống động: “Các con hãy đi dạy dỗ muôn dân” (Mt 28,19). Ước chi Giáo Hội của Ngài, Giáo Hội vào thời đại có nhiều người không tin này, không ngừng chọn lựa làm những người thừa sai, ước chi trong số mười linh mục người ta không chọn chín vị để nâng niu chiều chuộng các tín hữu và một vị để xông pha những chỗ mà Chúa không còn ở đó nữa.
Trong khi cầu nguyện như thế con cảm thấy con cũng thiếu tinh thần truyền giáo. Hay có lẽ con sợ hãi. Con sống ở giữa những anh chị em không thấy Chúa và con làm như thể con cũng là một người không thấy Chúa. Nhưng làm sao để nói với những người ở ngoài đường, ở trong các cửa hàng và trong nhà máy về Chúa? Và thậm chí đơn giản hơn là nói với anh A chị B mà con thường gặp từ bao nhiêu năm nay nhưng không nói gì với họ về Chúa? Tôn trọng ý kiến, lương tâm của họ chăng? Phải tôn trọng rồi. Con coi thường khi người ta nói về những chứng nhân của Giêhôva nhưng con, con làm gì để truyền giáo?
Con làm chứng nhân như thế nào đây? Thật đơn giản khi nhắc lại rằng người ta làm chứng bằng cuộc sống của mình, con biết rõ rằng đôi khi việc loan báo Tin Mừng cần đến lời nói, thế mà con im lặng. Thậm chí sau cùng thì con không còn thấy những người có lẽ đang chờ đợi chứng tá của con nữa. Xin Chúa cho con có những cặp mắt của người tông đồ, những con mắt hiển linh.
Điều đáng lưu ý trong bài Tin Mừng Lễ Hiển Linh chính là việc Thiên Chúa mặc khải chân lý – ở: HiểnLinh ABC83
Điều đáng lưu ý trong bài Tin Mừng Lễ Hiển Linh chính là việc Thiên Chúa mặc khải chân lý – ở đây là việc giáng sinh của Đấng Cứu Thế – một cách không chính thức cho dân ngoại, là những người không thuộc tôn giáo chính thống của Ngài, và họ đã đạt được chân lý hay gặp được Đấng Cứu Thế.
Trong bài Tin Mừng này, ta thấy có hai hạng người:
1. Dân Do Thái, cụ thể là giới lãnh đạo xã hội và tôn giáo, là dân được Thiên Chúa tuyển chọn và có tôn giáo chính thống của Thiên Chúa. Dân Do Thái đã được Thiên Chúa chính thức mặc khải việc Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra qua các ngôn sứ trước đó hàng mấy trăm năm, mặc khải này đã được ghi lại trong Kinh Thánh, và toàn dân đều mong đợi Đấng Cứu Thế đến. Có Thánh Kinh trong tay, giới lãnh đạo xã hội và tôn giáo của Do Thái biết Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra tại Bê-lem.
2. Dân ngoại, mà đại diện là “mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông” ( Mt 2, 1 ). Họ không có tôn giáo chính thống của Thiên Chúa, cũng không có Kinh Thánh trong tay, vì thế họ không biết chính xác Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra và sinh ra ở đâu. Nhưng Thiên Chúa cho họ biết Đấng Cứu Thế đã sinh ra nhờ một phương tiện khác, có thể là kiến thức khoa học hay tôn giáo riêng của họ.
Kết quả là những người có tôn giáo chính thống, có Kinh Thánh trong tay, biết được chính xác nơi sinh ra của Đấng Cứu Thế lại không gặp được Ngài vì họ không thèm đi tìm. Còn những người không có tôn giáo chính thống, chỉ biết được Ngài sinh ra một cách rất mơ hồ, lại gặp được Đấng Cứu Thế, vì họ đã quyết tâm tìm kiếm Ngài. Sự kiện này phải làm chúng ta suy nghĩ và rút ra bài học. BIẾT SUÔNG KHÔNG ĐỦ, PHẢI BIẾN CÁI BIẾT THÀNH CUỘC SỐNG
Sự kiện trên cho chúng ta thấy: việc có tôn giáo chính thống hay biết được những mặc khải chính thức của Thiên Chúa là một điều rất thuận lợi để đạt được chân lý hay để gặp được Thiên Chúa. Nhưng có đạt được chân lý hay có gặp được Thiên Chúa hay không còn tùy thuộc vào thiện chí và nỗ lực tìm kiếm của con người. Những người Do Thái – cụ thể nhất là giới lãnh đạo Do Thái giáo – tuy biết được chính xác Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra tại Be-lem, nhưng họ chỉ biết để mà biết, để rao truyền, để thông tin cho người khác, chứ không phải để sống hay để thực hiện điều mình biết. Nên cuối cùng những thuận lợi hay kiến thức ấy trở thành vô ích cho họ. Còn dân ngoại – mà các nhà chiêm tinh là một điển hình – tuy được Thiên Chúa mặc khải chân lý một cách mù mờ không chính xác, nhưng nếu họ có thiện chí, và nỗ lực tìm kiếm để đạt đến chân lý, để gặp Thiên Chúa, thì cuối cùng Ngài cũng giúp họ đạt được điều họ tìm kiếm. Đúng như lời của Đức Giê-su: “Ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì cửa sẽ mở cho họ” ( Mt 7, 8 ). Vậy vấn đề quan trọng là ta có nỗ lực đi tìm hay thực hiện điều mình biết hay không.
Nếu các nhà chiêm tinh cũng có não trạng như giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái, thì khi “thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông” ( Mt 2, 2 ), họ cũng sẽ chỉ coi đó như một kiến thức như bao kiến thức khác chẳng ảnh hưởng gì đến họ, và họ sẽ chẳng gặp được Đấng Cứu Thế. Nhưng trong thực tế họ đã quyết tâm lên đường tìm kiếm Ngài. Và Thiên Chúa đã giúp họ bằng cách cho ngôi sao dẫn đường đến nơi Đấng Cứu Thế sinh ra. Điều khiến họ hơn hẳn những người được chính thức mặc khải là việc dấn thân tìm kiếm. Kết quả cho thấy nỗ lực tìm kiếm chân lý hay Thiên Chúa có giá trị hơn việc biết được những mặc khải chính thức rất nhiều. ĐỪNG VỘI TỰ MÃN VỀ VIỆC MÌNH CÓ TÔN GIÁO CHÂN CHÍNH
Vì thế, chúng ta đừng vội tự hào rằng tôn giáo của chúng ta là tôn giáo chân chính, và cứ thế mà an tâm vì chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho những chân lý bảo đảm nhất. Nếu chúng ta quyết tâm lợi dụng tôn giáo chính thống hay những mặc khải chính thức để tìm gặp Thiên Chúa, thì chúng ta có lợi thế hơn người ngoại giáo rất nhiều. Nhưng nếu chúng ta ỷ lại vào lợi thế đó để khỏi phải cố gắng sống đúng theo những mặc khải đó thì coi chừng chúng ta sẽ chẳng đạt được gì cả.
Chuyện ngụ ngôn thỏ và rùa chạy đua là một bài học rất đích đáng cho những người có tôn giáo chính thống như chúng ta. Thỏ có nhiều thuận lợi để thắng cuộc hơn rùa rất nhiều, nhưng chính vì ỷ lại vào những thuận lợi đó mà thỏ đã thua cuộc. Cũng vậy, người đi bộ hay đi chiếc xe đạp cọc cạch mà quyết tâm tới đích thì vẫn bảo đảm sẽ tới đích hơn là người có chiếc xe hơi thật tốt thật nhanh nhưng lại không quyết tâm đi tới đích ấy.
Qua bài Tin Mừng về Lễ Hiển Linh, ta thấy để gặp được Thiên Chúa, cần có hai yếu tố: về phía Thiên Chúa, ta cần phải được Thiên Chúa soi sáng, chỉ dẫn, mời gọi và giúp sức; về phía ta, chính ta phải đáp lại lời mời gọi và nỗ lực tìm kiếm Ngài. Thiếu một trong hai yếu tố đó, việc gặp Thiên Chúa không thể thành tựu được. Yếu tố về phía Thiên Chúa luôn là yếu tố khởi động: Ngài mời gọi ta trước, và Ngài để ta được hoàn toàn tự do trong việc đáp lại hay từ chối lời mời gọi của Ngài. Yếu tố về phía ta vẫn là yếu tố chủ động mang tính quyết định.
Đối với các kinh sư Do Thái, qua Kinh Thánh, Thiên Chúa đã cho họ biết Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra. Họ được mặc khải rõ ràng, được mời gọi một cách ưu tiên hơn và trân trọng hơn các nhà chiêm tinh rất nhiều, nhưng họ lại không chủ động đáp lại lời mời gọi ấy. Còn đối với các nhà chiêm tinh, Thiên Chúa đã cho họ thấy vì sao của Đấng Cứu Thế. Họ tuy được mặc khải rất ít, và không được ưu tiên mời gọi, nhưng lại chủ động đáp lại lời mời gọi và lên đường tìm kiếm. Thiên Chúa đã giúp họ tìm kiếm bằng ngôi sao dẫn đường, và họ đã tìm được Đấng Cứu Thế.
Từ đó, ta có thể kết luận: yếu tố quan trọng để gặp Chúa không nằm ở việc có tôn giáo chính thống cho bằng ở chính nỗ lực của con người có quyết tâm đáp lại lời mời gọi của Ngài và có tìm Ngài hay không. Người không có tôn giáo chân chính vẫn có thể gặp được Ngài nếu quyết tâm và nỗ lực tìm kiếm Ngài. Ngược lại, người có tôn giáo chân chính mà thiếu nỗ lực đó thì tôn giáo chân chính trở nên vô ích đối với họ. Chính vì thế, Đức Giê-su mới nói: “Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng” ( Mt 8, 11 – 12 ).
Thánh Phaolô quảng diễn ý tưởng ấy rõ ràng hơn: “Phép cắt bì hẳn là có ích nếu bạn thi hành Lề Luật. Nhưng nếu bạn vi phạm Lề Luật, thì bạn có được cắt bì cũng kể như không cắt bì” ( Rm 2, 25 ). Câu này cho thấy phép cắt bì hay rửa tội, dấu chứng của người có tôn giáo chân chính, sẽ trở nên vô ích nếu ta không tuân giữ luật của Thiên Chúa. Thánh Phao-lô viết tiếp: “Trái lại, nếu người không được cắt bì mà giữ những điều Luật dạy, thì tuy họ không được cắt bì, Thiên Chúa lại chẳng coi họ như đã được cắt bì sao ? Người không được cắt bì trong thân xác mà vẫn chu toàn Lề Luật, người ấy sẽ lên án bạn, vì bạn có Lề Luật ghi chép hẳn hoi và bạn đã được cắt bì, mà vẫn vi phạm Lề Luật” ( Rm 2, 26 – 27 ).
Lời này cho thấy người không được cắt bì hay rửa tội, nếu sống đúng thánh ý Thiên Chúa, tuân giữ luật Chúa được ghi khắc trong lương tâm họ ( x. Rm 2, 15 ) – nghĩa là yêu mến Thiên Chúa bằng đời sống yêu thương tha nhân, sống trọn tình trọn nghĩa – thì họ cũng được Thiên Chúa coi như đã được cắt bì hay rửa tội. Vì thế, điều quan trọng đối với chúng ta, người Ki-tô hữu, là phải làm theo thánh ý Thiên Chúa, giữ đúng luật mới và cũng là duy nhất của Đức Ki-tô là “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” ( Ga 13, 34 ). Không giữ luật của Ngài thì việc theo Chúa hay có tôn giáo chân chính của ta chẳng những trở nên vô ích, mà còn là lý do để Thiên Chúa kết án ta nữa.
Lạy Cha, Cha đã mặc khải chân lý cho con qua Đức Giê-su. Đó là một thuận lợi đặc biệt cho con hơn những người ngoài Ki-tô giáo để sống đúng là con cái Cha và đáng được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu mà Cha dành cho con cái mình. Xin giúp con ý thức hồng ân cao cả ấy để con sống đúng là con cái hiếu thảo của Cha, sống đúng thánh ý Cha là sống có tình có nghĩa với Cha và với tất cả mọi người chung quanh con. Nếu không, tất cả những chân lý mà Cha mặc khải cho con đều trở nên vô ích và còn nên cớ cho con bị lên án trong ngày phán xét cuối cùng nữa.
Ngày xưa, những người theo đạo Do Thái quan niệm chỉ có những người theo đạo Do Thái : HiểnLinh ABC84
Ngày xưa, những người theo đạo Do Thái quan niệm chỉ có những người theo đạo Do Thái, nghĩa là có chịu phép cắt bì mới được cứu rỗi. Sách Công Vụ Tông đồ cho thấy quan niệm ấy của họ: «Có những người từ miền Giuđê đến dạy anh em rằng: “Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo tục lệ Môsê, thì anh em không thể được cứu độ”» (Cv 15,1). Ngày nay, nhiều người Kitô hữu cũng có quan niệm tương tự như thế. Nhưng tinh thần của bài Tin Mừng lễ Hiển Linh mạc khải một sự thật hoàn toàn ngược lại quan niệm ấy.
Qua bài Tin Mừng, ta thấy chính những người Do Thái – mặc dù biết Đấng Cứu Thế sinh ra tại đâu – lại không thèm tìm kiếm Đức Giêsu mới sinh ra. Những người tìm kiếm Ngài và đã thấy Ngài, thờ lạy Ngài và dâng tặng vật cho Ngài lại là dân ngoại từ tận đâu đâu đến. Kinh Thánh còn cho ta biết người Do Thái chẳng những không tìm kiếm Đức Giêsu, mà còn bách hại Ngài nữa. Vì thế, Nước Trời vốn ưu tiên cho người Do Thái, nhưng vì họ từ chối bằng thái độ lãnh đạm, thậm chí chống đối, nên đã được đem đến cho dân ngoại: «Phaolô và Banaba mạnh dạn lên tiếng : “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố Lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại» (Cv 13,46). Và lịch sử cho thấy dân ngoại vô số người đã vào Nước Trời – mà dấu chỉ là Giáo Hội – đang khi người Do Thái lại đứng ở ngoài. Thật đúng với câu Đức Giêsu nói: «Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, Ixaác và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng» (Mt 8,11-12). Đức Giêsu cũng đã dùng nhiều dụ ngôn để nói lên sự thật này: xem Mt 21,28-32 (Hai người con kẻ nói vâng người nói không), Mt 21,33-46 (Những thợ vườn nho sát nhân), Mt 22,1-14 (Tiệc cưới).
Bài học cho người Kitô hữu.
Có Kinh Thánh và giáo lý trong tay… không đủ!
Điều trớ trêu trong bài Tin Mừng lễ Hiển Linh là người Do Thái – đặc biệt những tư tế và luật sĩ – có Kinh Thánh trong tay, nên họ biết Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra ở đâu, và lúc nào họ cũng tỏ ra mong chờ Đấng ấy đến. Thế nhưng những người gặp được đấng Cứu Thế – các đạo sĩ và mục đồng – lại là những kẻ chẳng biết gì về Kinh Thánh. Điều ấy chẳng làm cho chúng ta suy nghĩ sao?
Người Kitô hữu có đủ mọi phương tiện để được cứu rỗi: Kinh Thánh (Cựu và Tân Ước), giáo lý, giáo huấn Giáo Hội (các văn kiện Tòa Thánh), các sách thần học, tu đức, luân lý, rồi các bí tích, các giờ phụng vụ… Nhưng hãy coi chừng kẻo lịch sử lại lập lại như cách đây 2000 năm. Vì bài Tin Mừng cho thấy: để gặp được Đấng Cứu Thế, có Kinh Thánh trong tay không đủ, mà còn phải nhạy bén để biết thời điềm, đồng thời thật sự lên đường tìm kiếm Ngài. Người Do Thái – cụ thể là các tư tế và luật sĩ – có nhiều điều kiện để gặp Ngài hơn các đạo sĩ (có Kinh Thánh, ở gần nơi Ngài sinh ra, được các đạo sĩ báo về ngôi sao của Ngài), nhưng đã không lên đường tìm kiếm Ngài. Họ muốn yên thân với những tập tục đạo đức của họ, với cách giữ đạo cổ truyền của họ, và họ nghĩ rằng Đấng Cứu Thế sẽ chủ động đến để gặp họ, đem sự giải phóng đến cho họ. Nhưng sự thật đã xảy ra không phải như vậy.
Điều cốt yếu là tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa và tha nhân.
Bài Tin Mừng lễ Hiển Linh mời gọi người Kitô hữu xét lại xem: cách sống đạo của chúng ta có giúp chúng ta đến gặp Chúa hay không, nghĩa là có thể đem lại ơn cứu độ cho chúng ta hay không. Chúng ta đừng an tâm tưởng rằng cứ giữ những tập tục đạo đức truyền thống cho tốt là bảo đảm vào được Nước Trời. Như thế không đủ! Điều cốt yếu để vào được Nước Trời không chỉ là tin vào Đức Giêsu mà còn phải thể hiện niềm tin ấy bằng việc sống theo lời Ngài: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13: 34). Nghĩa là chúng ta phải chứng tỏ được tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và tha nhân. Mà tình yêu đối với Thiên Chúa lại được thể hiện qua tình yêu đối với tha nhân: «Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối ; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1Ga 4,20).
c) Tình yêu phải được thể hiện bằng hành động thật sự.
Giấy thông hành để vào Nước Trời chính là tình yêu, mà phải là tình yêu đích thực. Không ai thiếu tình yêu mà vào Nước Trời được, vì Nước Trời là Nước của Tình Yêu. Tình yêu đích thực tự bản chất là phải được thể hiện bằng hành động. Nếu «đức tin không có hành động thì là đức tin chết» (Gc 2,17), thì cũng vậy, tình yêu không có hành động là tình yêu giả hiệu. Với tình yêu giả hiệu, chúng ta không thể vào Nước Trời được.
Nhưng làm sao ta dám nói là ta có tình yêu đích thực đối với anh em mình khi họ lâm nạn mà ta lại khoanh tay đứng nhìn? Làm sao tình yêu của ta là đích thực được khi ta thấy rõ ràng anh em mình đang chịu bất công mà ta lại không chịu lên tiếng hay can thiệp, nhất là khi tiếng nói của ta có thể rất hữu hiệu? Nếu ta thấy anh em mình chịu bất công tỏ tường mà vì muốn yên thân ta lại làm chứng với mọi người rằng đó không phải là bất công, thì tình yêu của ta là chân thực sao được? Nếu cách hành động của ta là như thế, thì dù ta có tuân thủ giữ những tập tục truyền thống trong tôn giáo một cách hoàn hảo, không chê vào đâu được, chúng ta vẫn luôn luôn ở ngoài Nước Trời.
d) Cần cảnh giác với thứ đạo đức hương nguyện, thiếu việc làm. Tệ hơn nữa, là khi chính chúng ta đã không chịu thể hiện tình yêu, mà lại cổ võ một thứ đạo đức không việc làm, luôn luôn đề cao việc đọc kinh cầu nguyện, dâng thánh lễ… mà không hề nhấn mạnh bổn phận phải dấn thân cho anh em, phải quan tâm mưu cầu hạnh phúc cho những người chung quanh, biến cải xã hội nên công bằng và tốt đẹp hơn, thì phải chăng chúng ta đang tiếp tay cho kẻ ác ru ngủ quần chúng, làm tê liệt sức đấu tranh cho công bằng xã hội của họ? Phải chăng chúng ta đang biến tôn giáo của chúng ta thành «thuốc phiện» thật sự? Chúng ta quên rằng «điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành» (Mt 23,23). Và có thể chúng ta miệng thì nói về Nước Trời, nhưng thật sự ta lại dẫn quần chúng đến một nơi khác vì những giáo huấn của ta khác hẳn với tinh thần Tin Mừng? Đức Giêsu nói: «Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người» (Mt 23,15), liệu câu này có đúng với ta chăng? Vì nhiều khi cứ để họ ngoại đạo, họ lại quan tâm đến việc thể hiện tình yêu với tha nhân hơn khi họ vào đạo? Đến khi vào đạo, họ lại nghe lời ta chỉ biết quan tâm tới những tập tục đạo đức cổ truyền?
Trái lại, những người không có Kinh Thánh trong tay, không có giáo lý hay giáo huấn của Giáo Hội, không có bí tích, nhưng họ lại có tình yêu đích thực, tức có giấy thông hành để vào Nước Trời. Rất có thể họ lại vào Nước Trời trước chúng ta, là đối tượng ưu tiên của Nước Trời, là những kẻ lúc nào cũng nói về Nước Trời mà không hành động cho Nước Trời! Thánh Phaolô nói: «Người ta được Thiên Chúa coi là công chính, không phải vì nghe biết Lề Luật, nhưng là vì tuân giữ Lề Luật» (Rm 2,13), và «nếu người không được cắt bì mà giữ những điều Luật dạy, thì tuy họ không được cắt bì, Thiên Chúa chẳng coi họ như đã được cắt bì sao» (Rm 2,26). Bài Tin Mừng lễ Hiển Linh và nhiều dụ ngôn của Đức Giêsu cho chúng ta thấy viễn cảnh ấy! Và đó cũng là một lời cảnh tỉnh chúng ta!●
Tất cả chương hai làm thành một trình thuật đầy đủ. Không cần đọc chương một cũng hiểu. Sự: HiểnLinh ABC85
1. Tất cả chương hai làm thành một trình thuật đầy đủ. Không cần đọc chương một cũng hiểu. Sự đứt đoạn này của bản văn cho thấy là người ta đã chắp nối những tài liệu khác nhau có sẵn. Chủ đề “hoàn thành lời tiên tri” trở đi trở lại luôn (2.6.15.18.23). Bốn cảnh được phối trí cách chặt chẽ tạo nên nội dung của chương này; những biến cố đó rõ ràng là đã được chọn để phù hợp với các bản văn tiên tri đều có một điểm chung: cùng nhấn mạnh đến một hoàn cảnh địa dư.
Tuy thế, trong chương hai này, người ta có thể phân biệt các câu 1-12 với 13-23. Các chi tiết mô tả được giản lược nhiều trong 2,13-23; chỉ còn lại những gì đủ minh chứng sự thể hiện các lời tiên tri. Đề tài chính yếu cũng khác nhau trong hai phần, như chúng ta sẽ thấy. Các đạo sĩ làm trung tâm của 2,1-12, trong khi Giuse, người không được mảy may nhắc tới trong phần đầu, lại trở thành nhân vật chính của các câu 13-23. Mgôi sao là phương tiện Chúa dùng để dẫn đưa các đạo sĩ, trong lúc Giuse lại nhận được lệnh của một thiên thần Chúa trong giấc mộng (y như trong 1,18-25). Tuy nhiên về phương diện thuật sự, Hêrođê là mối dây liên lạc giữa hai phần này.
Chương hai đưa vào một chủ đề lớn của Mt: ơn cứu rỗi Chúa Kitô mang lại bị người Do thái từ khước và được lương dân đón nhận. Hêrođê, Archélaus con ông và dân thành Gierusalem đại diện người Do thái, các chiêm tinh gia đại diện cho dân ngoại. Chỗ mà người Do thái vì từ chối tin, đã rời bỏ trong dân Chúa, lương dân sẽ chiếm lấy. Họ là Israel đích thực của những ngày sau hết, được kêu gọi chia phần hạnh phúc của thời sẽ tới. Chuyển động biện chứng (Do thái từ chối - lương dân đón nhận) trở đi trở lại suốt cả chương này, cũng như toàn thể phúc âm cho tới cuộc tử nạn (x.27,39-44.54). Về phưng diện đó, chúng ta có thể bảo các trình thuật các đạo sĩ là bản tóm lược phúc âm Mt.
Lịch sử của tuyển dân đã khởi đầu với việc xuất hành. Người ta cũng hy vọng là vào thời cánh chung, Đấng Messia, Tân Môisen, sẽ hướng dẫn dân Ngài mở một cuộc xuất hành mới. Đó là chủ đề mà Mt khơi mào trong phần thứ hai của chương này, nơi câu 13-23.
2. Trong trình thuật các đạo sĩ, hình như Mt cố gắng trả lời cho một vấn nạn khắc khoải mà Kitô hữu gốc Do thái thuộc thế kỷ I đặt ra: vì sao Israel không trở lại với Tin mừng, trong lúc lương dân trở về hàng loạt ? Trả lời: lương dân ngoan ngoãn với TC hơn. Thí dụ: các đạo sĩ. Những vị này, nhờ sự hiểu biết tự nhiên và dưới sự hướng dẫn của Chúa quan phòng (tượng trưng bằng một ngôi sao), đã tin vào Hài Nhi. Trái lại, các thủ lãnh của Do thái giáo, cùng với vị vua nửa giáo nửa lương của họ, đã không tin vào Ngài, mặc dầu họ có được lời Mạc khải của TC trong thánh kinh (lời đã loan báo rõ ràng: Hài nhi sẽ sinh tại Belem). Việc người ngoại nhận biết Chúa Giêsu gợi lại các lời tiên tri Isaia 2,10-15(49,23 và 60,3-6) cũng như Tv 72,10-15 mà Mt cho rằng đã ứng nghiệm; nên nhớ sự cứu rỗi của lương dân là một chủ đề lớn của CƯ và truyền thống Do thái (St 12,3; Is 2,2-5; 19,16-25; 45,14-17; 66,18-21; Tv...).
Như trong trình thuật trước, trình thuật chỉ xác quyết sự thụ thai đồng trinh để rồi đào sâu ý nghĩa, thì ở đây cũng vậy, việc ra đời của Chúa Giêsu chỉ được nhắc qua. Mt ghi lại hai hoàn cảnh rất tổng quát của việc Giáng sinh: nơi chốn và thời gian là những cái cần biết để hiểu câu chuyện tiếp theo. Mt không quan tâm trình bày hết những sự kiện căn bản, chủ ý của ông là soi sáng chúng để nhấn mạnh tầm mức của chúng. Mt đọc CƯ dưới ánh sáng của những sự kiện mà ông ta tường thuật. Ông không tìm cách chứng minh thực tại tính của chúng. Ông chỉ giáo huấn. Ông đòi những bản văn Kinh thánh đặt lại những sự kiện lấy từ truyền thống vào trong viễn tượng thần linh của nhiệm cục cứu rỗi. Đấy là lới xử dụng thánh kinh tạo ra trình thuật mà nó soi sáng. Mt sẽ dùng kinh thánh suốt cả phúc âm nhưng không bao giờ nhiều như ở đây. Vì thế sự kiện Giáng sinh sẽ tìm lại được ý nghĩa đích thật trong cuộc gặp gỡ giữa các đạo sĩ với Hêrođê và trong thái độ tương phản của họ đối với Chúa Giêsu.
Trình thuật này gây cho ta hai cảm tưởng: một đàng người ta để xem toàn thể như một chuyện thần tiên huyền hoặc: cuộc hành trình dài của các đạo sĩ, ngôi sao hướng dẫn, nỗi băn khoăn của nhà vua, và dân thành Gierusalem, ân mưu Herôđê, và sau cùng là việc TC báo mộng cho các đạo sĩ. Tất cả những nét đó cho ta một cảm tưởng là câu chuyện không có thực. Đàng khác, muốn so sánh trình thuật này với những gì chúng ta biết về Hêrođe và Palestine thời ấy, ta phải nhận rằng câu chuyện có thể xảy ra: việc các chiêm tinh gia đông phương thường nói tới một vị hoàng đế cứu tinh và những cơn thịnh nộ bệnh hoạn của Herôđe hoàn toàn phù hợp với trình thuật. Nhưng có thể xảy ra không nhất thiết là thực sự xảy ra. Vậy thì phải phán đoán trình thuật của Mt như thế nào ?
3. Những trình thuật của chương này xem ra không có tính cách lịch sử theo nghĩa chặt, như thể tác giả thuật lại những biến cố thời thơ ấu Chúa Giêsu đúng sự thực xảy ra, nhưng phải nói là hình như chúng thuộc về một loại văn thể tạm goi là “văn thể chú giải” (genre littéraire midrashique - do tiếng Midrash, sách chú giải CƯ của các rabbin Do thái). Nghĩa là tác giả không chỉ muốn thuật lại những sự kiện lịch sử, nhưng còn muốn dùng những trình thuật đó để chú giải một vài sự kiện, làm nổi bật tầm quan trọng của chúng đối với lịch sử cứu rỗi qua việc trích dẫn CƯ hay bằng một lối tường thuật sự kiện khá phóng khoáng. Chúng ta hãy cố xác định ý nghĩa của Midras hay “ghesựnre midrashique” (văn thể chú giải).
Một tác giả Do thái diễn tả Midras như sau: “Đối với người Do thái, luật Torah gồm tóm tất cả những gì cần biết. Vì thế người ta phải chứng minh rằng nó chứa đựng mọi sự, ít nhất trong mầm sống, trong nguyên lý. Thực hiện công việc này là phận sự của loại văn thể Midras (nghĩa là: trình bày)(Strack). Văn thể này gồm hai tiểu loại: halackah và aggada, tiểu loại đầu trình bày cách cư xử luân lý, còn loại sau trình bày lịch sử cứu rỗi. Aggada theo sát bản văn Kinh thánh. Tuy nhiên nó chứa đựng chuyện quá khứ và tương lai, ghi lại những biến cố cũng như thần thoại của lịch sử Israel, những lời ca tụng Chúa , những câu chuyện xây dựng và đủ loại khuyến dụ.
Như vậy Midras đề cập đến rất nhiều đề tài, do đó mà khó định nghĩa. Dầu vậy có thể nói rằng văn chương Midras ám chỉ một loại văn xây dựng và giải thích, liên kết chặt chẽ với kinh thánh; trong loại văn này, phần quảng diễn thực sự có nhưng chỉ là thứ yếu và luôn luôn phụ thuộc vào mục đích tôn giáo chính yếu, là làm nổi bật giá trị tác phẩm của Thiên Chúa, lời TC (R.Bloch, mục “Midras” trong Supplément du Dictionaire de la Bible 5 (1957), cột 1263-1281).
Vậy phải chăng có thể xem những trình thuật của Mt về thời thơ ấu của Chúa Giêsu như là một loại aggada Kitô giáo, chú giải những sự kiện có thực trong mục đích áp dụng kinh thánh, ca ngọi TC, mạc khải những chương trình quá khứ và tương lai của Ngài, như là một câu chuyện xây dựng cho cộng đoàn ? Tại sao không ? Vì Aggada không loại trừ lịch sử tính của những sự kiện làm cơ sở cho nó, những sự kiện mà Mt rút ra ý nghĩa. Có thể Mt còn dùng loại văn này nơi khác, nhưng bởi vì các nhà chú giải loại aggada khác nhau, nên trong mỗi trường hợp nghiên cứu, cần xác định đặc tính của trường hợp và những tương quan giữa lời tiên tri và lời khuyến dụ, giữa sự kiện và lời giải thích. Nếu Mt đã lấy lại một loạt các trình thuật về thời thơ ấu thuộc loại văn chương đặc biệt, thì ông chỉ là tiếng vọng của các truyền thống bình dân có khuynh hướng biểu dương nguồn gốc Đấng Messia và những đường lối của TC trong việc hướng dẫn một lịch sử vốn đã thánh ngay từ đầu. Không ai có thể dùng lối phê bình thuần lý để xác định một cách chính xác tuyệt đối hệ số lịch sử tính của loại văn chương này. Tốt hơn nên tôn trọng thái độ Mt, một thái độ cảm phục và tùng phục trước những đường lối của TC. Sự linh ứng một bản văn luôn đi đôi với các hoạt động của trí tuệ tác giả. Nếu bảo rằng linh ứng phải loại trừ mọi tối tăm khó hiểu và mơ hồ của nguồn liệu thì thật là sai lầm.
KẾT LUẬN
Trong đoạn van này, tính cách của Đavit của Đấng tiên sai không còn được chứng minh bằng liên hệ pháp lý của đứa con Maria với dòng dõi Đavit, nhưng bằng việc sinh ra tại Belem, thành Đavit. Ở đấy, Ngài “đã mọc lên” trong Israel để thống trị nhiều dân tộc (Ds 24,7.17) Việc giáng sinh của Ngài đã là biến cố cánh chung và đã thực hiện toàn thể chương trình cứu rỗi mà lời sấm “về ngôi sao” từng loan báo.
Việc các đạo sĩ kính thờ vua người Do thái là đoạn cuối cùng của một cuộc tìm kiếm. Lương dân phải chấp nhận và tuân theo chương trình của TC, nghĩa là họ phải tin vào sự thể hiện lời Ngài đã hứa, và vào ơn gọi đặc biệt của tuyển dân. Nhưng họ đã vấp phải sự thụ động của một dân tộc không chịu kiếm tìm. Sự thụ động này sẽ biến thành sự hốt hoảng và thù nghịch. Trình tuật này cho ta chứng kiến sự đối chọi giữa hai mối băn khoăn: một của những người đói khát ơn cứu rỗi đang vận dụng toàn lực để tìm kiếm theo chương trình của TC, một của những người đau đớn nghĩ rằng việc dân Do thái mới sinh sẽ làm đảo lộn cuộc đời của họ. Cuối chặng đường tìm kiếm, những người dầu gặp được niềm vui (2,10) khi khám phá ra Đấng cứu thế, những người sau trong nỗi buồn chờ đợi không mấy thực tâm, đã trở thành thù nghịch của Đấng Messia: họ tự mình từ khước quyền lợi được trao ban do việc hoàn thành các lời hứa thiên sai, vì thế quyền lợi này sẽ bị hạng thực khách thứ hai của nước trời chiếm lấy.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Ở thời đại chúng ta cũng như trong mọi thời đại, nhiều tâm hồn thiện chí đi tìm sự thật với một tinh thần mở rộng, nhạy cảm trước mọi dấu hiệu khả dĩ đưa họ về đường sự sống. Một cuộc kiếm tìm lâu dài, có khi trong tăm tối. Tin với một lòng tin mơ hồ, họ không dừng lại giữa đường, nhưng tiến về Chúa Giêsu Kitô.
2. Trái lại, nhiều tín hữu tỏ ra như Hêrođê và các người đương thời, tự mãn với những xác tín của mình, làm điếc giả ngơ trước những lời TC mời gọi tiến xa hơn. Tuy nhiên, họ không tránh được câu hỏi của những kẻ thăm dò đường: Vua các ngươi ở đâu?
3. Các lãnh đạo tinh thần của Israel, những chuyên gia thần học thời bấy giờ, trích dẫn kinh thánh như một tài liệu cổ, một văn tự chết, không cảm thấy mình đang được mời gọi. Đối với chúng ta, Chúa Giêsu phải chăng chỉ là một mớ lý thuyết và quan niệm vô hồn ? Chúng ta có sẵn sàng để Ngài rút khỏi những tập quán ù lì để lên đường tìm kiếm Ngài luôn không ?
4. Giáo hội là nơi tụ họp mọi dân tộc, giáo hội luôn sẵn sàng đón nhận kho tàng của các quốc gia và một khi họ đã vào “nhà” liền đáp lễ bằng cách thông truyền cho họ kho tàng duy nhất của mình là Chúa Kitô.
Chúa Giêsu là ánh Sáng, ánh sáng huy hoàng hơn cả mặt trời. Nếu mặt trời không phải là của: HiểnLinh ABC86
Chúa Giêsu là ánh Sáng, ánh sáng huy hoàng hơn cả mặt trời.
Nếu mặt trời không phải là của riêng ai, thì Chúa Giêsu cũng là của mọi người, mọi dân. Ngài mang ơn cứu độ đến cho muôn dân. Không ai thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt trên giá để soi cho mọi người.
Bởi thế, ngay sau khi giáng sinh, tỏ mình ra cho những kẻ chăn chiên nghèo hèn Chúa Giêsu cũng sớm tỏ mình ra cho các đạo sĩ đại diện cho lương dân. Vì Chúa muốn tỏ mình ra cho muôn dân, cho nên lương dân có quyền được biết Chúa,và những người đã biết Chúa có bổn phận giúp cho lương dân biết Chúa.
Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay dùng một hình ảnh vừa rất đẹp vừa rất hay để dạy chúng ta cách giúp cho người khác biết Chúa, đó là Ánh Sáng:
-Hãy đưa cao Tin Mừng như người ta nâng cao ngọn đuốc sáng để soi chiếu mọi vùng tăm tối.
-Cách sống của những người đã biết Chúa phải là một ngọn đèn sáng gương mẫu cho những người chung quanh. Chúa Giêsu nói: “Sự sáng của chúng con cũng hay tỏa sáng trước mặt mọi người”. Còn Thánh Phaolô thì nói: “Anh em hãy chiếu sáng như những tinh tú trên bầu trời’.
2. Hành trình đức tin
Hành trình của các đạo sĩ là hình ảnh minh họa cho hành trình của mọi kẻ tin:
a/ Hành trình khởi đầu bằng một điều gì đó lạ lùng khiến người ta chú ý (thí dụ ánh sao lạ đối với các đạo sĩ). Điều lạ lùng này mời gọi người ta từ bỏ nếp sống đã quen để dấn thân đi tìm một cái gì đó cao hơn, xa hơn, tốt đẹp hơn.
b/ Tiếp theo là những bước thăng trầm trong cuộc hành trình: có khi con đường rất bằng phẳng êm ái, có khi lại quanh co gồ ghề, có lúc ánh sao sáng tỏ trên bầu trời, có lúc nó vụt biến mất.
c/ Nhưng miễn là người ta không nản lòng mà cứ kiên trì dấn bước thì cuối cùng người ta sẽ gặp được Chúa.
Đó là cuộc hành trình của kẻ chưa có đức tin tìm đến với Chúa, mà cũng là cuộc hành trình của kẻ đã tin rồi nhưng muốn đến với Chúa một cách gần gũi thân tình hơn.
3. Lên đường.
Có những người tìm kiếm như các đạo sĩ, lên đường như Abraham. Cũng có những người ngồi một chỗ như Hêrôđê. Muốn biết ư? Ông đã có các chuyên viên. Muốn tiêu diệt đối phương ư? Ông có cả ngàn quân lính dưới quyền. Thiên Chúa hướng dẫn những ai muốn tìm Người cách lạ lùng. Người trốn thoát khỏi nhưng kẻ muốn tìm bắt Người không hung hãn chống lại những kẻ muốn huỷ diệt Người. Người tự xóa mình đi và biến mất.
Người ở đâu, Đức Giêsu ẩn dấu của thời đại? Trong làng quê heo hút nào, trong gia đình nghèo khó nào có ánh sáng Thiên Chúa mời ta nhận ra Người? Ta đói các ngươi đã cho Ta ăn... Thực, Ta bảo các ngươi: mỗi lần các ngươi làm cho một trong những kẻ bé nhỏ nhất là anh em Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta (Mt 25,35-40).
Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng có lời Kinh thánh: Ta đã không bị cám dỗ dùng lời Kinh Thánh để át giọng kẻ quấy rầy ư? Đức Giêsu đâu để cho ta đền bù. Nếu ta muốn nắm lấy Người để được an tâm, Người sẽ thoát khỏi tầm tay ta. Nếu ta chấp nhận lên đường tìm kiếm Người, ta sẽ như các đạo sĩ được đầy tràn niềm vui và tìm thấy Người (...) Đọc kỹ Kinh Thánh thôi chưa đủ, còn phải để Kinh Thánh gợi hứng cho đời ta, để ta đem ra thực hành, để ta đặt mình dưới sự điều khiển của Kinh Thánh. Các luật sĩ và các thầy thượng tế biết lời sấm lắm chứ. Nhưng họ chỉ biết trưng dẫn thôi... Hêrôđê thì dùng Kinh Thánh để tìm cách giết Hài nhi ... Còn các đạo sĩ, bản thân chẳng biết Kinh Thánh, chỉ được Hêrôđê chỉ dẫn, đã lên dường tìm kiếm Đức Giêsu và họ đã gặp Người...
4. Mảnh suy tư
Ánh sáng và bóng tối.
-Các đạo sĩ đã đi trong bóng nhờ tia sáng của một ánh sao dẫn đường. -Các ông đã tìm được Chúa vì không sợ bóng nhờ tin vào ánh sáng -Thực ra, ta chỉ thấy được ánh của ngôi sao khi trời tối. -Trời càng thì sao càng sáng -Tất cả chúng ta cũng là những khách lữ hành đi trong đêm tối
Nhưng chúng ta đừng sợ vì Đức Kitô là ánh sáng đã đến trần gian: -Ánh bừng lên trong đêm tối. -Ánh sáng xóa tan tăm tối. -Ánh sáng mà không sự tối tăm nào dập tắt được.
5. Chuyện minh họa
a/ Tôn giáo nào có Chúa?
Ngày nọ, Chúa và tôi đến một hội chợ, không phải hội chợ thương mại, mà là Hội chợ Tôn giáo. Nhưng những người tham dự luôn tỏ ra hung bạo và tuyên truyền ầm ĩ. Tại quầy hàng của người Do thái, chúng tôi nhận được những tờ quảng cáo nói rằng Chúa là Đấng thướng xót và dân Do thái là dân được Ngài tuyển chọn. Ngoài những người Do thái, không ai khác được chọn như họ.
Tại quầy hàng của người Hồi giáo, chúng tôi học biết rằng Chúa đầy lòng khoan dung và Mohammed là ngôn sứ duy nhất của Ngài. Sự cứu độ đến nhờ việc nghe ngôn sứ duy nhất của Chúa.
Tại quầy hàng của người Kitô giáo, chúng tôi khám phá ra Chúa là tình yêu và không có sự cứu độ ở ngoài giáo hội. Hoặc gia nhập giáo hội hoặc phải chịu kết án đời đời.
Trên đường trở ra, tôi hỏi Chúa: “Ngài nghĩ gì về những điều nói về Chúa?”
Chúa nói: “Ta không tổ chức Hội chợ đó. Ta thấy xấu hổ ngay cả khi đến thăm nó”.
b/ Các tôn giáo
Chúa Giêsu nói rằng Ngài chưa bao giờ xem bóng đá. Vì thế, bạn tôi và tôi dẫn Ngài đi xem một trận. Đó là trận đấu gay cấn giữa những người Tin lành và những người Công giáo.
Người Công giáo ghi bàn thắng trước. Chúa Giêsu reo hò và tung mũ lên. Rồi đến người Tin lành ghi bàn thắng, Chúa Giêsu cũng reo hò và tung mũ. Điều này gây khó chịu cho anh thanh niên ngồi sau chúng tôi. Anh vỗ nhẹ lên vai Chúa Giêsu và hỏi: “Này anh bạn tốt, anh ủng hộ bên nào?”
Lúc này Chúa Giêsu thấy hứng thú vì trận đấu, Ngài trả lời: “Tôi hả? Ồ, Tôi không đứng về bên nào. Tôi chỉ thưởng thức trận đấu”.
Anh quay sang người bạn bên cạnh, nhếch mép cười: “Hừ, kẻ vô thần”.
Trên đường trở về, chúng tôi cho Chúa Giêsu biết về tình trạng các tôn giáo trên thế giới ngày nay: “Chúa ạ, thật buồn cười về những người trong các tôn giáo. Dường như họ luôn nghĩ rằng Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại những người khác”.
Chúa Giêsu đồng ý: “Đó là lý do tại sao Ta không ủng hộ các tôn giáo. Ta ủng hộ con người. Con người quan trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sabát”.
Một trong chúng tôi nói với vẻ lo lắng: “Ngài phải thận trọng. Ngài biết, Ngài đã một lần bị đóng đinh vì nói như thế”.
Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem, và hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện ở phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người." Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế, các kinh sư trong dân lại, và hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: "Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách Ngôn sứ, có chép rằng:
Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Is-ra-en dân ta sẽ ra đời”.
Bấy giờ Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: "Xin quí ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." Nghe nhà vua nói thế , họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi và thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
Bêlem (tên tắt của Betlehem) là một thị trấn cách Giêrusalem 10 cs về phía Nam. Ngày xưa nó: HiểnLinh ABC87
Bêlem (tên tắt của Betlehem) là một thị trấn cách Giêrusalem 10 cs về phía Nam. Ngày xưa nó còn được gọi là Eprata. Nó có nghĩa là "nhà bánh", vì nằm trên một vùng quê phì nhiêu nên tên đó rất thích hợp. Nó đứng trên ngọn đồi đá vôi cao hơn, có hai đỉnh hai bên, ở giữa lõm xuống như yên ngựa. Từ vị trí đó Bêlem trông như một thị trấn đặt giữa một đại hí trường tạo bằng những núi đồi. Bêlem có một lịch sử lâu đời, đó là nơi Giacóp chôn cất Rachel, vợ ông, và dựng một trụ cột tưởng niệm bên cạnh mộ. Đó cũng là nơi bà Rút đã sống và gặp ông Bôô, và từ Bêlem bà có thể nhìn thấy vùng đất Môáp quê hương của mình bên kia sông Giođan. Nhưng trên hết Bêlem là nhà và là thành của Đavít , chính từ dòng dõi nhà Đavít mà Thiên Chúa ban Đấng Cứu Thế đến với dân Ngài như tiên tri Mikêa đã nói: "Hỡi Bêlem, Eprata, ngươi bé nhỏ trong hàng ngũ Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ ra đời một đấng cai trị Is-ra-en, gốc tích Ngài là bởi từ đời đời, từ trước vô cùng" (5,1). Tự Bêlem, thành của Đavít, người Do thái trông đợi hậu tự của Đavít sinh ra và cũng tại đó họ trông đợi Đấng chịu xức dầu của Thiên Chúa đến trong thế gian, và thật, Đấng đó đã đến.
Bức tranh chuồng bò và máng cỏ, nơi Chúa Giêsu được sinh ra, là bức tranh được ghi khắc sâu đậm trong tâm trí chúng ta. Justin Martyr, một trong các giáo phụ đầu tiên sống khoảng năm 150 SC, xuất thân từ một vùng gần Bêlem cho chúng ta biết Chúa Giêsu đã sinh ra trong một hang đá gần làng Bêlem , và điều này có thể đúng. Nhà cửa ở Bêlem được cất trên dốc núi đá vôi, họ cũng thường làm chuồng bò nơi hang đá đẽo lõm vào trong phía dưới căn nhà. Rất có thể Chúa Giêsu đã giáng sinh trong một chuồng bò như vậy. Ngày nay ở Bêlem vẫn còn một hang đá như thế và được xem là nơi Chúa Giêsu giáng sinh. Tại đó đã xây "giáo-đường-Chúa-giáng-sinh", đó là công trình của vua Constantin khi cả đế quốc Rôma trở lại kitô giáo. Ông Morton tả lại chuyến đi thăm giáo đường đó: ông đến một bức tường lớn, ở đó có một cửa rất thấp, đến nỗi một người lùn cũng phải khom lưng mới vào được. Qua cái cửa, bên kia bức tường là đền thờ. Bên dưới bàn thờ chính có một hang đá. Khi người viếng nơi thánh vào hang đá sẽ thấy một cái động nhỏ, tối, dài muời bốn mét và ngang bốn mét được thắp sáng bởi năm mươi ba ngọn đèn bằng bạc và trên nền có một ngôi sao, chung quanh ngôi sao có bảng đề bằng tiếng Latinh: "Đây là nơi Chúa Giêsu sinh ra bởi trinh nữ Maria". Khi Chúa vinh hiển nhập thế, Ngài sinh ra trong một hang đá, nơi người ta dùng làm nơi nghỉ cho đàn gia súc. Hang đá ấy nay được ở trong giáo đường Chúa giáng sinh tại Bêlem . Có thể đúng là hang đá đó, cũng có thể không, không ai biết chắc. Nhưng có một điều lý thú trong biểu tượng này là nhà thờ xây trên hang đá có một cái cửa rất thấp đến nỗi ai muốn vào cũng phải khom người xuống. Bất cứ ai muốn đến cùng Hài Nhi Giêsu đều phải quì xuống khiêm cung.
Khi Chúa Giêsu giáng sinh tại Bêlem có những nhà hiền triết từ Đông phương tìm đến tỏ lòng tôn sùng Ngài. Danh hiệu của những người này là Magi, một chữ rất khó dịch. Magi nguyên là một chí phái Mêđi, người Mêđi là một phần thuộc đế quốc Ba tư, họ cố gắng lật đổ người Ba tư đem chính quyền về cho người Mêđi. Mưu toan thất bại, từ đó người Magi từ bỏ tham vọng về quyền hành hoặc uy tín và trở nên chi phái của thầy tế lễ. Các Magi đối với dân Ba tư cũng giống như người Lêvi đối với người Is-ra-en vậy. Họ trở thành giáo sư và huấn luyện viên cho các vua Ba tư. Tại Ba tư không được dâng của lễ nếu không có một Magi hiện diện, họ là người của sự thánh thiện và khôn ngoan. Họ được coi là những bậc thánh và cũng là những nhà hiền triết đi tìm chân lý.
Vào thời đó mọi người đều tin ở khoa chiêm tinh. Họ tin rằng, dựa vào các vì sao, họ có thể đoán tương lai. Họ cũng tin rằng số mệnh một người được an bài bởi ngôi sao đã xuất hiện lúc người ấy sinh ra. Điều này cũng dễ hiểu, vì các ngôi sao đi theo một đường cố định, chúng tượng trưng cho trật tự vũ trụ. Nếu thình lình có một vì sao sáng xuất hiện, nếu trật tự của tầng trời bị rối động bởi một hiện tượng đặc biệt, thì dường như Thiên Chúa đang can thiệp vào chính trật tự của Ngài để loan báo một sự đặc biệt nào đó. Chúng ta không biết các Magi đã thấy ngôi sao như thế nào, nhưng các ngài là những vị chiêm tinh gia, nên ánh sáng ngôi sao lạ xuất hiện trên trời báo hiệu cho biết một vị đại vương đã đến với thế gian.
Đối với chúng ta, dường như việc các vị này từ Đông phương lên đường đi tìm vua là một việc khác thường. Nhưng thật lạ lùng, ngay lúc Chúa Giêsu giáng sinh, trong thế giới bấy giờ cũng có những sự ngưỡng vọng kỳ lạ về một vị vua sẽ đến. Ngay các sử gia La mã cũng biết rõ điều này, sau đó không lâu, nhằm đời trị vì của hoàng đế Vespasian, sử gia Suetonius đã viết: "Khắp Đông phương có một niềm tin phổ thông rằng vào thời đó nhất định có người từ Giuđa đến cai trị thế gian". Sử gia Taccitus cũng nói đến cùng niềm tin đó: "Có sự xác tín rằng trong chính thời gian này Đông phương trở nên hùng mạnh và những người cai trị sẽ đến từ Giuđê sẽ chiếm được đế quốc toàn cầu". Còn Giosephus, sử gia Do thái : Chúng ta không nên nghĩ rằng câu truyện các Magi đến nơi máng cỏ chỉ là một huyền thoại dễ thương, nhưng chính đó là loại biến cố đã xảy ra trong thế giới cổ. Khi Chúa Giêsu đến thì thế gian đang tha thiết trông đợi. Loài người thật đang trông chờ Thiên Chúa, sự khát khao Thiên Chúa nung nấu lòng người. Họ đã khám phá ra rằng mình không thể tạo được thời đại hoàng kim nếu không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã ngự đến với một thế gian đang khắc khoải mong đợi và khi Ngài đến, con người từ những phương trời xa xôi nhất đã tề tựu quanh nôi Ngài. Đó là dấu hiệu và biểu tượng đầu tiên chinh phục thế giới của Chúa Giêsu .
Sau khi được biết nơi sinh của Chúa Giêsu , các nhà thông thái theo ánh sao tìm được đường tới Bêlem . Có một huyền thoại thật dễ thương thuật rằng khi ngôi sao ấy đã hoàn thành chức năng dẫn đường thì rơi xuống một cái giếng tại Bêlem, ngôi sao vẫn còn đó và đôi khi những người có lòng trong sạch vẫn còn thấy được nó. Những huyền thoại về sau cũng rất bận tâm về các nhà thông thái. Truyền thuyết phương Đông đầu tiên nói tới có mười hai vị, nhưng ngày nay hầu như ba vị là truyền thuyết phổ thông nhất. Tân Ước không nói rõ có ba vị, nhưng ý đó hẳn là do ba lễ vật mà các vị dâng hiến. Các huyền thoại về sau tôn họ là những vị vua, lại còn xưng danh là Gasper, Melchior và Balthasar. Huyền thoại về sau nữa mô tả hình dạng cá nhân và phân biệt lễ vật của mỗi người dâng lên cho chính Chúa Giêsu. Melchor là ông già tóc hoa râm, có bộ râu dài là người dâng vàng. Gaspar còn trẻ không râu, mặt đỏ au đã dâng nhũ hương. Balthasar da đen, mới để râu, là người dâng mộc dược. Ngay từ những ngày đầu, người ta đã thấy mỗi lễ vật các nhà hiền triết dâng lên đều tương xứng với đặc điểm của Chúa Giêsu trong công việc của Ngài.
1. Vàng là lễ vật cho vua: Seneca cho biết chẳng ai được vào chầu vua mà không có lễ vật . Vàng, vua của mọi lim loại xứng hợp với lễ vật con người dâng cho vua. Cũng vậy, Chúa Giêsu là người "sinh ra để làm vua", nhưng Ngài không cai trị bằng vũ lực nhưng bằng tình yêu, và Ngài cai quản lòng người không từ ngai vàng mà từ thập giá.
Chúng ta phải nhớ rằng Chúa Giêsu là Vua. Chúng ta không thể gặp Ngài bằng vai ngang hàng, nhưng phải gặp Ngài với thái độ thuận phục trọn vẹn. Nelson, vị đô đốc lừng danh bao giờ cũng đãi ngộ kẻ thù chiến bại của mình cách nhân từ và lễ độ. Sau một trận thủy chiến đắc thắng, vị đô đốc bại trận được đưa lên soái của Nelson, vào sân lái của tàu Nelson. Biết Nelson nổi tiếng về phép lịch sự, nghĩ rằng có thể lợi dụng điều đó, vị đô đốc bại trận tiến ngang qua sân lái, bàn tay chìa ra như tiến lên bắt tay với người ngang hàng. Nhưng tay Nelson vẫn giữ ở bên mình. Ông bảo: "ngài hãy nạp gươm trước, sau đó hãy đưa tay". Trước khi kết thân với Chúa Giêsu , ta phải qui phục Ngài.
2. Nhũ hương là lễ vật dâng cho vị tư tế: trong cuộc thờ phượng nơi đền thờ và trong việc dâng lễ vật, người ta thường xông một lễ vật có mùi thơm dịu. Chức vụ của vị tư tế là mở đường cho loài người đến với Thiên Chúa . Tiếng Latinh chữ tế lễ là Pontifex có nghĩa "người bắc cầu". Vị tư tế là người bắc cầu giữa loài người và Thiên Chúa .
3. Mộc dược là lễ vật cho người phải chết: mộc dược là hương liệu để xông xác người chết. Holman Hunt có một bức tranh nổi tiếng về Chúa Giêsu. Bức tranh mô tả Chúa Giêsu tại trước cửa xưởng thợ mộc ở Nazareth, Ngài vẫn còn thanh niên. Nắng chiều còn trên hiên cửa, chàng thanh niên Giêsu đứng đó, duỗi tay chân và vươn vai vì tứ chi mệt mỏi sau một ngày lao động. Người đứng đó với cánh tay giơ ra, phía sau, mặt trời sắp lặn in bóng Ngài trên tường. Bóng đó là hình thập giá. Đằng sau, bà Maria đang đứng, đôi mắt hiện rõ nét lo âu về thảm kịch sẽ xảy đến cho con mình khi bà thấy bóng thập giá. Chúa Giêsu đã đến trong thế gian để sống cho loài người và cuối cùng để chết cho loài người. Ngài đến để ban cho loài người sự sống và sự chết của Ngài. Vàng là để tặng vua, nhũ hương tặng vị tư tế, mộc dược dành cho Đấng phải chết. Đấy là những lễ vật của các bậc hiền triết dâng ngay trước nôi của Chúa Cứu Thế . Những lễ vật đó dự báo rằng Ngài là Vua chân thật, vị tư tế trọn vẹn, và sau hết Ngài là Chúa Cứu Thế cao cả của loài người.
Hôm nay, Giáo hội rừng lễ Hiển Linh, lễ Chúa tỏ Mình cho dân ngoại. Họ là ba vị đạo sĩ từ: HiểnLinh ABC88
Hôm nay, Giáo hội rừng lễ Hiển Linh, lễ Chúa tỏ Mình cho dân ngoại. Họ là ba vị đạo sĩ từ phương Đông tìm về xứ Giuđêa để bái yết vua Do Thái.
Họ là ai? Có mấy người ? Phúc âm không nói đến. Nhưng người ta phỏng đoán gồm ba người vì có ba lễ vật dâng tiến. Họ là những đạo sĩ, chiêm tinh gia thường đoán vận mạng theo hình sao chỉ trên trời. Họ là những người giầu có vì giá trị lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược...
Nhất là họ có lòng tin mạnh mẽ. Nhìn thấy một ánh sao lạ mọc lên ở trên trời, họ tin tưởng vào một Đấng Cứu Tinh mà ngôi sao là dấu chỉ, đã vội ra đi mà không biết ngôi sao sẽ hướng dẫn về đâu Rồi khi sao trời biến mất, họ không ngã lòng thất vọng, không bỏ cuộc trở về, mà đi hỏi cho ra tông tích của vì Vua mới sinh.
Ba nhà đạo sĩ là hình bóng toàn thể dân ngoại là chúng ta hết chảy. Chúng ta cũng đã sống mò mẫm trong đêm tối. Rồi ngôi sao đức Tin đã mọc lên, soi vào trong bóng đêm tối. Và chúng ta được biết Chúa và Tin Mừng.
Thánh Phao lô qua bài đọc 2 , nói lên đặc ân ấy. Ngài nói: "Thiên Chúa dã ban cho tôi việc phân phát ân sủng cho anh em...và nhờ Tin Mừng các dân ngoại nên đồng thừa tự, đồng thừa mộc thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người trong Đức Kitô ".
Chúng ta đã có đức Tin. Ngôi sao Tin Mừng một ngày kia đã mọc lên và soi dọi vào tâm hồn tăm tối của chúng ta. Nhưng tin không phải là thấy. Tin là dựa vào Lời Chúa, và nhiều khi phải vượt qua bao nhiêu khó khăn trắc trở và bao nhiêu khủng hoảng mới giữ vững được đức Tin. Ba nhà đạo sĩ khi vừa đến Giêrusalem không còn trông thấy ánh sao hướng dẫn. Đường đi của họ là con đường thánh giá.
Sau khi đã tìm lại được ánh sao, họ vui mừng, tiến vào nhà "quỳ xuống sụp lạy”- sụp lạy không phải là bái kính mà là motc cử chỉ thờ lạy, nhìn nhận con trẻ hài nhi là Thiên Chúa. Mathêô dùng danh từ ấy đến 13 lần (Luca và Marcô 2 lần).
Họ đã phủ phục thờ lạy, và mở kho tàng ra dâng tiến là vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng để nhìn nhận con trẻ là vua, nhũ hương để ám chỉ Ngài là vị Tư tế đời đời, mộc dược tiên báo một ngày kia. Ngài sẽ hiến tế thể xác làm vật hy sinh đền tội, nằm trong mồ ba ngày giữa hương liệu mộc dược rồi sống lại vinh hiển.
Ba vị đạo sĩ đã được ngôi sao đức Tin hướng dẫn và cuộc gặp gỡ hài nhi là một sự đổi mới. Họ không trở vè đường cũ, đã “qua đường khác" trở về xứ sở.
Từ đây họ đã trở nên "muối ướp, đèn soi", "ngôi sao hướng dẫn” kẻ khác tìm về với Chúa. Lòng đạo đức bình dân khoác cho họ tấm áo hoàng vương dựa trên Thánh vịnh 72: "Vua Tarsis và các đảo sẽ kiện đến lễ vật, vua Saba và Saba sẽ đem triều cống lại chầu".Và đặt cho họ ba danh hiệu là Melchior, Balthazar và Gaspard, một ông trắng, một ông đen, và một ông vàng, đại diện cho mọi dân tộc, mầu da và nước tóc, được kêu gọi đến với Chúa. Lễ Hiển Linh-Epiphania- đã trở nên “Lễ Tin Mừng các dân ngoại được nên đồng thừa tự" (Epn 6) , là lễ đức Tin. Đức Tin là sức mạnh vũ bão. Khi trực diện với người đao phủ đang rút chiếc gương trần giơ lên. Thánh Phêrô Veren hiên ngang tuyên bố. "Tôi tin! " Khi miệng loang lổ máu không còn nói được nữa, Ngài vẫn bình tĩnh lấy ray thấm máu và viết lên mặt đất hai chữ tôi Tin". Lạy Chúa, con tin nhưng xin Dan thêm đức Tin cho con.
Khi Đức Giêsu ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì.
Đó chỉ là những từ duy nhất, rất ngắn ngủi mà Mát-thêu dùng để nói về lễ Giáng sinh. Ít thật: HiểnLinh ABC89
Đó chỉ là những từ duy nhất, rất ngắn ngủi mà Mát-thêu dùng để nói về lễ Giáng sinh. Ít thật! Thực sự, Mát-thêu có vẻ chú ý quá ít đến biến cố đơn thuần, khác với Luca. Trái lại, một cách rõ rệt, Mát-thêu chủ ý trình bày với các độc giả của mình ý nghĩa của sự sinh ra. Và ông cho họ hiểu ý nghĩa trong câu truyện này về các nhà chiêm tinh..., chính câu truyện được triển khai tối đa, và được trình bày, nếu chúng ta lưu ý, như một thứ dẫn nhập cho toàn bộ Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu.
Thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ Phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi: “Đức Vua dân Do Thái mới sinh, hiện ở đâu?"
Mát-thêu so sánh, như hai chất nổ, hai danh hiệu: Vua Hê-rô-đê... vua dân Do Thái. Câu hỏi này mà những người nước ngoài sắp nhắc lại trên các phố phường chật hẹp ở Giêrusalem, đã vang đến tai những người Do Thái như một sự mỉa mai cay độc. Người ta hiểu rằng nó cũng làm cho Hê-rô-đê vốn đa nghi phải giao động. Qua lịch sử, người ta biết rằng cả đời ông bị ám ảnh vì sợ mất quyền bính, và ông thấy chỗ nào cũng có âm mưu, nên chỉ luôn luôn sống trong các thành lũy, và cho giết chết ba người con trai, bà mẹ vợ và thậm chí chính người vợ riêng của mình.
Đấy là về chuyện lịch sử. Những ý nghĩa mà Mát-thêu dành cho danh hiệu "Vua dân Do Thái" này lại sâu xa hơn nhiều; Nước trời sẽ là một trong những đề tài ông ưa thích. Mát-thêu, ngay từ đầu loan báo về đức Vua của Vương quốc này. Ngay trang đầu trong sách Tin Mừng của ông, có một vương miện đang tranh chấp: ai thực sự là “vua" dân Do Thái? Hê-rô-đê, một nhà vua chuyên chế, hiếu sát và tân bạo? Hay là Giêsu, người bé nhỏ, yếu hèn, không có vũ khí sẽ chết như nạn nhân vô tội? Chính ở trang cuối cùng sách Tin Mừng của mình, theo một phương thức viết hàm ý quen dùng trong văn chương Sê-mít, mà Mát-thêu đã đặt lại cho Đức Giêsu "Vua dân Do Thái” này. Nhưng binh lính sẽ nói "Ngự tâu, Vua dân Do Thái" (Mt 27,29) Philatô sẽ cho ghi "Này là Vua dân Do Thái" ở trên đầu Đức Giêsu chịu khổ hình thập giá, để chỉ rỏ cái “lý do khiến người bị kết án" (Mt 27,37). Tất cả các kinh sử và đại giáo trưởng sẽ cười nhạo "Nếu y là Vua dân Do Thái, thì y cứ xuống khỏi thập giá đi" (Mt 27,37).
Từ khi sinh ra, Thánh Mát-thêu gợi ý, Đức Giêsu chỉ là một vua khiêm tốn, hình ảnh của "Người đầy tớ chịu đau khổ" của I-sai-a, vị vua này sẽ chỉ cưỡi trên lưng lừa (Mt 21,5) trong cuộc khải hoàn chóng qua với những tàu lá vị vua đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ (Mt 20,28), và sẽ yêu cầu các bạn hữu của mình" đừng thống trị, mà hãy làm cho mình trở thành những đầy tớ" (Mt 20,25-26). Vương quyền của vị Vua này không thuộc về thế gian này, nó không hề giống vương quyền của Hê-rô-đê: nó chỉ được tiết lộ một cách nghịch lý trong ngày Người thụ nạn. Chúng ta sẽ hàm ý gì dưới những từ lặp lại trong lời kinh của chúng ta: "Xin cho Nước Cha trị đến!"... "Người trị đến với Chúa Cha và Chúa Thánh Linh đến muôn muôn thế kỷ".
Chúng tôi đã trông thấy vì sao của Người xuất hiện.
Ngày nay, Giáo Hội so sánh câu truyện Hiển Linh này với bản văn của I-sai-a, được chọn lựa giữa vô số bản văn Kinh Thánh loan báo Đấng Mê-si-a đến như một ánh sáng. "Hãy đứng lên hỡi Giêrusalem, ánh sáng của ngươi đã đến và vinh quang của Đức Chúa xuất hiện trên ngươi. Hãy nhìn xem: bóng tối lại bao trùm mặt đất, nhưng Đức Chúa xuất hiện trên ngươi, và vinh quang của Người chiếu tỏa trên ngươi. Các dân nước sẽ tiến về phía ánh sáng của ngươi, và các vua, về phía luồng sáng bình minh ngươi...(Is 60,l-6). Người ta nhớ lại ánh sáng của Đấng Cứu Độ được hát vào Mùa Vọng và trong Lễ đêm Giáng sinh: Người đi trong bóng tối đã trông thấy xuất hiện một ánh sáng lớn lao, bởi vì một Hài nhi đã sinh ra cho chúng ta" (Is 9,1-5).
Trong chủ đề về ngôi sao, có cả một ý nghĩa mà Thánh Phêrô chỉ rõ khi người nói về đức tin như "sao Mai xuất hiện trong lòng chúng ta" (2.Pr 1,19). Ngôi sao tượng trưng cho ánh sáng của Chúa, ân sủng của Chúa, tác động của Chúa trong tâm trí của mọi người, và dẫn dắt mọi người hướng về Đức Kitô. Vâng, Thiên Chúa nhìn ngắm với tình yêu những nhà chiêm tinh ngoại giáo tiến về Đức Giêsu.
Trong đời tôi, cũng có một ơn hướng dẫn tôi khám phá ra Đức Giêsu. Tôi có can đảm đi theo ơn đó cho đến nơi mà ơn huệ hướng dẫn tôi không? Xin hãy dẫn dắt con trong ánh sáng này một bước, một bước, chỉ một bước hướng tới Chúa!
Và chúng tôi đến bái lạy Người
“Bái lạy". Động từ này được Mát-thêu sử dụng ba lần trên trang này chỉ thái độ sâu xa của các nhà chiêm tinh ngoại giáo này. Họ đến để thờ lạy.
Còn tôi ? Đôi khi tôi có bái lạy không? Trước cái gì? Trước ai? Tôi gán cho một ý nghĩa gì về việc bái lạy của tôi lúc dâng Thánh Thể trong thánh lễ không. Nhiều bạn trẻ ngày nay, tìm lại được cái cử chỉ bái lạy lớn lao, ở đó con người nhận biết sự bé mọn của mình, đã hoàn toàn phục dài trên mặt đất trong lòng tôn thờ của tất cả vạn vật
Nghe tin ấy vua Hê-rô-đê bồi rối và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân Ít ra-en lại.
Giữa câu truyện Hiển Linh, Mát-thêu đưa ra hai thái độ mà chúng ta luôn luôn thấy lại trong sách Tin Mừng của ông: "Một đàng là sự khước từ của các lãnh tụ chính trị và tôn giáo Do Thái. Đáng lẽ họ phải là những người đầu tiên nhận ra Đấng Mê-si-a. Thế mà, họ làm gì họ sợ hãi, họ lo âu. Họ không động tĩnh. Ngay từ đầu họ tìm giết Đức Giêsu. Người ta tưởng đã nghe thấy tiếng kêu buồn rầu to lớn Đức Giêsu thốt ra về Giêrusalem: “Khốn thay! Các kinh sư và các Pha-ri-sêu... Hỡi Giêrusalem! Giêrusalem! Ngươi giết chết những người ta sai đến với ngươi bao nhiêu lần ta đã muốn tập hợp các con cái ta! Và các người đã không muốn" (Mt 23,27-37).
Đàng khác, trái lại, sự "đón tiếp" của những nhà chiêm tinh ngoại giáo. Dù không được chuẩn bị bao nhiêu để nhận biết Đấng Mê-si-a, chính họ lại đi tìm kiếm người, họ năng động, và không chút lo âu, họ cảm thấy "một nỗi vui mừng lớn lao". Người ta tưởng chừng nghe thấy câu kết luận của sách Tin Mừng Mát-thêu: Các ông hãy đi, và hãy làm cho tất cả các dân nước trở thành môn đệ (Mt. 28,19).
Thực ra, trang Tin Mừng này, trong những thế kỷ đầu tiên, được dành để cố giải thích cho các Kitô hữu gốc Do Thái (Mát-thêu muốn nói trực tiếp cho chính họ) hiểu tại sao Giáo Hội gồm có đa số là những Kitô hữu gốc ngoại giáo khi mà Thiên Chúa lại gắn bó quá mạnh mẽ với Do Thái Mátthêu, chứng minh, nơi Giêsu, một Đấng Cứu Độ được mong đợi, Người đến vì tất cả mọi người: và nước Do Thái mới gồm có những người Do Thái hay ngoại giáo, bái lạy trước Đức Giêsu. Điều đó được tất cả những lời phát ngôn ‘có tính chất phổ độ" loạn báo trước: Giêrusalem phải trở nên kinh đô của tất cả các dân tộc. “Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha: tất cả những người từ Saba kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa” (Is 60,1-6). Người ta nhớ đến, bên Ít-ra-en, nữ hoàng Saba, đến từ xa, bà đã lên Giêrusalem để gặp gỡ Salômôn. Thánh Vịnh 71, được hát ngày lễ Hiển Linh, lặp lại cùng một chủ đề của phần mở đầu: “Các vua xứ Tacsi và các hải đảo sẽ mang các tặng phẩm đến". Và cũng chính Mát-thêu sẽ nói lại trong sách Tin Mừng của ông rằng các dân tộc "sẽ đến từ Phương Đông và Phương Tây, dự phần vào bữa tiệc với Áp-ra-ham” (Mt 8,11). Một lần nữa, người ta thấy sách Tin Mừng này được cấu tạo như thế nào.
Vâng, các "nhà chiêm tinh" tượng trưng cho tất cả những người ngoại giáo (và những người không tin) ở mọi thời đại. Và trong những từ này, chúng ta không đưa vào đó một ý nghĩa xấu nào cả, trái lại! Trong số các bạn bè của chúng ta, có đông người như thế, tất cả những người này hoàn toàn chân thành trong các xác tín của họ, họ có một cuộc sống ngay thẳng, có một ý thức về công lý, và về việc phục vụ tha nhân, họ có một đời sống gia đình gương mẫu, và làm trọn một cách hoàn hảo những nghĩa vụ nghề nghiệp của họ. Dẫu vậy, họ không biết Đức Giêsu Kitô theo nghĩa mạnh.
Lễ Hiển Linh là lễ của tất cả những người không biết Đức Giêsu, của tất cả những người có niềm tin khác với chúng ta. Và Thiên Chúa yêu mến họ, soi sáng cho họ, Thiên Chúa dùng ân điển vô hình để lôi kéo họ đến với Người. Nhưng, chúng ta, chúng ta phê phán họ như thế nào ?
Và đây là điều ngôn sứ đã viết: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa,... vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời”.
Tại sao, hãy nói cho tôi hay, ngôi sao lại không trực tiếp dẫn lối những nhà chiêm tinh, nếu phải làm, đến Bê-lem, gần đức Giêsu? Tại sao có đường vòng qua Giêrusalem, qua các "kinh sư và thượng tế". Bởi vì Thiên Chúa trung thành với những lời người hứa, và vì, nếu ơn cứu độ được đưa đến cho tất cả mọi người, thì ơn đó đến qua trung gian những người Do Thái (Rm 9,10-11).
Họ mở bảo tráp, lấy tặng vật mà dâng tiến... Họ đi lối khác mà về xứ mình...
Việc thờ phượng là một trong những chức năng chính yếu của Giáo Hội: sự thờ phượng thật, chính là dâng tiến lên Thiên Chúa kết quả lao động của con người và của đất. Như vậy, cuối cùng tất cả mọi giá trị mà nhờ đó các nền văn minh sinh tồn được. Cuộc gặp gỡ đức Kitô biến đổi cuộc đời: một con đường mới mở ra... Tin Mừng vui biết bao, lạy Chúa?
Tạp chí Focus mới đăng tải một bài báo giới thiệu cách giải thích của nhà thiên văn học người Anh: HiểnLinh ABC90
Tạp chí Focus mới đăng tải một bài báo giới thiệu cách giải thích của nhà thiên văn học người Anh, ông Nigel Henbest, về ngôi sao dẫn đường cho ba đạo sĩ đến Bêlem năm xưa. Theo ông, ánh sao ấy chính là sự hội ngộ của hai hành tinh sáng nhất trong thái dương hệ.Thực ra từ xưa đến nay đã có rất nhiều giả thuyết được đưa ra về ánh sao thơ mộng của Mùa Giáng Sinh. Tuy nhiên, với người Kitô hữu. Cốt lõi của vấn đề không phải ở chỗ xác định xem ngôi sao đó là ngôi sao nào; mà là ở nội dung tôn giáo. Và nội dung ấy hàm chứa trong chính tên gọi của ngày lễ: HIỂN LINH, Thiên Chúa tỏ mình. Cũng chính nội dung ấy mời gọi chúng ta suy niệm, xét mình và kiểm điểm trong ngày lễ hôm nay.
I.CÓ NHỮNG BĂN KHOĂN
Đối chiếu nội dung ngày lễ với cuộc sống cụ thể của người Kitô hữu, chúng ta không khỏi băn khoăn về sự tương phản mà bài Tin Mừng vén mở.
Thiên Chúa tỏ mình ở đây qua hình hài một trẻ thơ be bỏng nằm trong hang đá, giữa mùa đông rét mướt. Và những người mong mỏi kiếm tìm, để cuối cùng khám phá và gặp gỡ được Ngài lại là những người ngoại đạo, tượng trưng qua ba đạo sĩ từ Phương Đông xa xôi tìm đến. Còn những người được gọi là có đạo, là dân riêng của Chúa từ Hêrôđê cho đến các kinh sư, luật sĩ thì lại chối từ.
Liệu sự tương phản ấy còn tiếp tục diễn ra trong cuộc sống hôm nay?
Hang đá hôm nay có thể là những túp lều nghèo nàn, trong đó những đứa trẻ sinh ra hoàn toàn thiếu thốn, trong đó nức nở tiếng khóc của người nghèo... Có những tấm lòng nhân hậu đã tìm đến những túp lều đó để nâng đỡ ủi an... Và họ lại là những người ngoại giáo. Còn những người được gọi là có đạo lại chỉ lấy đồng tiền làm tiêu chuẩn đời sống, không hề quan tâm đến sự thiếu thốn của người khác.
Hang đá hôm nay cũng có thể là một cái am bé nhỏ, ẩn khuất trong rừng vắng. Có những tâm hồn yêu mến sự cô tịch đã tìm đến, và trong sự cô tịch ấy, họ đã gặp được Đấng Vô Biên, cũng là Đấng ở trong họ sâu hơn chính họ. Mà họ lại là những người bị coi là ngoại giáo, còn nhiều kẻ có đạo lại xa lánh sự cô tịch, sợ hãi sự thinh lặng ... và chẳng bao giờ nghe được tiếng Chúa.
Hang đá hôm nay cũng có thể là một mái gia đình, tuy nghèo tiền nghèo của nhưng chan chứa tình thương, cho nhau trong nhà và cho cả hàng xóm láng giềng. Mà những gia đình ấy lại là gia đình ngoại giáo, đang khi nhiều gia đình Công Giáo đã chẳng còn là mái ấm yêu thương.
Còn nhiều và còn nhiều những hình ảnh khắc họa sự tương phản.
Sự tương phản ấy còn cay đắng và trớ trêu hơn nữa, khi những người ngoại giáo tìm đến với kẻ có đạo để hỏi han đường về sự sống; và kẻ có đạo tự hào mình biết rõ đường đi nên mạnh mồm lớn tiếng chỉ dẫn đường đi cho thiên hạ.
Sự tương phản đó lại chẳng được mình họa ngay trong câu chuyện Tin Mừng hay sao? Khi đến Giêrusalem, ánh sao dẫn đường biến mất và ba đạo sĩ đã phải vào yết kiến vua Hêrôđê, để xin chỉ đường dẫn lối. Rồi người Do Thái đã đem Kinh Thánh ra dẫn giải, vì Kinh Thánh là nguồn sáng lớn hơn mọi ánh sáng soi đường. Có thể hiểu ánh sao đẫn đường như biểu tượng cái lương tri, lương tri thúc đẩy con người kiếm tìm chân lý. Nhưng còn có nguồn sáng lớn hơn lương tri nhân loại rất nhiều, đó là Mạc Khải. Người có đạo được hồng phúc đón nhận Mạc Khải, và vì thế, có thể chỉ đường cho người khác, nhưng chính họ lại không đi. Trớ trêu là ở đó ?
II. NỖI BĂN KHOĂN BIẾN THÀNH TIẾNG GỌI
Nếu chúng ta băn khoăn thực sự về những tương phản nói trên, hãy để cho những băn khoăn ấy biến thành tiếng gọi.
Tiếng gọi trước hết mang tính tra vấn. Hai khuôn mặt trong câu chuyện Tin Mừng giúp ta soi bóng chính mình.
Trước hết là khuôn mặt các luật sĩ. Ho đem Kinh Thánh ra dẫn giải, nhưng chính họ không lên đường trong thực tế. Nghĩa là họ biết nhưng không hành động. Ai trong chúng ta cũng dễ rơi vào thái độ đó. Trong cuộc đối thoại với anh em Mácxít, nhà thần học H. Kung đã phát biểu: Cái mà Kitô giáo thiếu không phải là lý thuyết, nhưng là Praxis, chuyển lý thuyết thành hành động. Chỉ khi nào ta dám chuyển cái biết thành cái làm, mới thực sự là biết Chúa. Và mỗi ngày trong suốt cuộc đời ta còn bị tra vấn về đòi hỏi này mãi mãi.
Tiếp đó là khuôn mặt Hêrôđê. Ông hành động nhưng là hành động ngược lại: Tìm kiếm Hài Nhi không để tôn thờ mà để thủ tiêu. Và động lực sâu xa thúc đẩy bạo tàn là tham vọng quyền bính, gắn liền với nỗi lo mất mát quyền lợi. Không phải không có những lần chúng ta cũng đang tâm bóp chết mầm sống và tiếng gọi của chân lý trong tâm hồn, cũng lại vì không muốn cuộc sống yên ổn vì thỏa hiệp với tội lỗi của mình bị khuấy động. Dám đối diện với sự thật này sẽ là bước đầu cho hành trình hoán cải.
Nỗi băn khoăn còn phải biến thành tiếng gọi "Lên đường". Tôi nhớ lại những ngày này năm ngoái: Từ 08/01 đến 15/ 01, giới trẻ Công Giáo toàn thế giới hẹn gặp nhau tại Philippin với chủ đề "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em". Một chủ đề mang nội dung truyền giáo, trên một đất nước giữa lòng A Châu vốn chỉ có 2% Công Giáo, vào tuần lễ Hiển Linh... thật ý nghĩa.
Con đường ba đạo sĩ từ Phương Đông đến Giêrusalem là con đường kiếm tìm Mình Triết, kiếm tìm Đấng Cứu Thế, Đấng giải thoát nhân loại. Với nội dung ấy mà quay nhìn về A Châu và Việt Nam, thật là ý nghĩa.
Thiết nghĩ không phải là quá đáng khi nói rằng các dân tộc A Châu là các dân tộc mong mỏi kiếm tìm Mình Triết. Bởi vì trong lịch sử lâu đời của mình, A Châu đã là cái nôi của những truyền thống tôn giáo cổ kính và sâu sắc: Ấn Giáo, Phật Giáo, Lão Giáo, Khổng Giáo...
A Châu cũng lại là vùng đất nghèo. bị thực dận đô hộ nên người A Châu kiếm tìm giải thoát. Chủ nghĩa Mác (chủ nghĩa nhằm thực hiện công cuộc giải phóng) đã được khơi nguồn ở Âu Châu về mặt tư tưởng nhưng lại được ứng dụng chủ yếu ở A Châu. Và đến ngày nay, coi như chỉ còn tồn tại ở A Châu.
Nếu người Công Giáo tự hào mình có được kho tàng Mình triết của nhân loại là Kinh Thánh, và xác tín Đức Giêsu là Đấng duy nhất có thể cứu độ con người; thì liệu chúng ta có thể đóng góp gì cho anh em chung quanh mình, trong vùng đất mà mình đang sống? Cộng đoàn Kitô hữu phải sống thế nào để hiện thực hóa lời ngôn sứ Isaia nói về Giêrusalem và cũng hiểu được về Giáo Hội:"Bừng sáng lên, Giêrusalem hỡi!... Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. Đưa mắt nhìn tứ phía mà xem: ai nấy đều tụ họp, kéo đến với ngươi, con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông" (Bài đọc I).
* * *
Hiểu như thế, mừng Lễ Hiển Linh sẽ không chỉ là tưởng nhớ một biến cố, một sự kiện, cho dẫu nên thơ và dễ thương đến mấy; nhưng là cảm nhận nổi băn khoăn và đón nhận một tiếng gọi: tiếng gọi gửi đến mỗi người và mọi người Kitô hữu, để góp phần với nhau làm bừng sáng dung nhan Thiên Chúa trên quê hương mình, khởi đi từ chính môi trường nhỏ bé mình đang sống.
LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
+ Trong ngày Chúa Hiển Linh hôm nay, ngày lễ mừng nhân loại tìm về Đức Kitô Giêsu Ánh Sáng, chúng ta hãy để lòng mở rộng đón nhận tất cả mọi người, cách riêng những anh chị em đang trên đường tìm kiếm Đức Kitô.
1. Hôm nay trong đêm tối của cuộc đời không còn ý nghĩa khắp nơi có những người nam nữ đi tìm một ánh sao... Có khi nào họ gặp được một Kitô hữu mở cho họ những trang Lời làm cho sống?
2. Hôm nay trong đêm tối của chiến tranh và nghèo đói nhiều dân tộc khát khao tìm một ánh sao... Tìm đâu ra những con người đứng lên lãnh đạo bắc cầu, lấp vực thẳm mở đường hòa giải, cứu nhân dân?
3. Hôm nay trong đêm tối của thử thách, lẻ loi bao gia đình, bao người trẻ mong chờ một ánh sao... Có khi nào họ gặp được một bạn đường trên lối bước lắng tai nghe chia sẻ những nỗi lòng?
4. Hôm nay, cả ở đây, giữa cộng đoàn Dân Chúa vẫn có những người nam nữ, trẻ già đi tìm người chỉ lối tới Ánh Sao...Họ gặp được chăng một người anh người chị say mê tìm Chúa, ham mê Tin Mừng đón tiếp?
+ Lạy Thiên Chúa tối cao vinh hiển không ai đã thấy Chúa nhưng Con Một Chúa đã xuống trần bày tỏ cho chúng con. Xin cho mọi người kiếm Chúa hôm nay cũng gặp được Con Chúa nơi những ai đã kiếm tìm Người. Chúng con nguyện xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Lễ Hiển linh trước hết đã bị lẫn lộn với lễ Giáng sinh dưới danh hiệu Thần hiển (Théophanie): HiểnLinh ABC91
Lễ Hiển linh trước hết đã bị lẫn lộn với lễ Giáng sinh dưới danh hiệu Thần hiển (Théophanie). Từ giữa thế kỷ IV, lễ này đã được tách biệt ra, để kỷ niệm biến cố các đạo sĩ đến kính thờ Chúa Hài Đồng mà thánh sử Mathêu ghi lại (Mt 2,1-2).
Các đạo sĩ là những người đầu tiên đến kính thờ Chúa Hài Nhi sau các mục đồng. Các Ngài là những bậc có thế giá vì nhân cách tài năng và nhất là vì sự hiểu biết thiên văn của mình. Theo truyền thống cổ xưa, các đạo sĩ này gồm có ba vị, nắm quyền cai trị quốc gia. Khi nhận thấy một ánh sao lạ, các Ngài ngạc nhiên và nhớ lại lời tiên tri của Balaam:
- “Một ngôi sao mọc lên từ Giacop”
Một vương trượng xuất từ Israel” (Dt 24,17)
Các Ngài hiểu rằng vì sao báo tin một vì vua mới sinh ra. Lập tức các Ngài đã lên đường theo tiếng gọi của ơn thánh trong lòng và dưới sự hứơng dẫn của ánh sao. Vượt qua bao trở ngại đường xa, các Ngài hướng về miền Palestina, tới tận Giêrusalem. Nhưng vừa tới thành này thì sánh sáng sao ngụp tắt. Vào yết kiến Hêrôđê, các Ngài hỏi:
- “Vua dân Do thái mới sinh hiện ở đâu ? Vì chúng tôi thấy ngôi sao của Ngài bên trời Đông và chúng tôi đến yết bái Người”.
Hêrôđê và cả dân thành hoảng hốt vì câu hỏi này. Ông triệu tập các thượng tế và ký lục của dân để hỏi: “Họ cho ông biết theo các lời tiên tri rằng: Đấng thiên sai sinh ra “tại Bêlem xứ Giudea” (Mt 2,5). Hêrođê bí mật cho mời các đạo sĩ lại để hỏi kỹ về thời gian ngôi sao xuất hiện rồi bảo họ:
- “Các ông hãy đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi tìm thấy, hãy báo lại cho trẫm, để trẫm cùng đi bái yết Ngài” (Mt 5,8)
Các đạo sĩ phấn khởi tiếp tục lên đường. Nhưng vừa mới ra khỏi thành thì ánh sao lại hiện ra dẫn lối các Ngài. Tới nơi Hài Nhi ở, các Ngài quì xuống sụp lạy Chúa, rồi mở tráp báu, các Ngài dâng Chúa vàng, nhũ hương và mộc dược. Các lễ vật này đều có ý nghĩa biểu trưng cho tấm lòng các Ngài dâng lên Chúa: vàng để tỏ lòng tôn kính vương quyền Chúa, nhũ hương để suy phục thiên tính Chúa và mộc dược để suy tôn nhân tính Chúa.
Sau khi đã thỏa lòng mong ước, các đạo sĩ được báo mộng cho biết đừng trở lại với Hêrôđê. Bởi vậy, các Ngài đã trở về xứ sở theo đường khác.
Người ta kể lại rằng, sau này, thánh Tôma đã rửa tội cho các Ngài và các Ngài cùng với thánh nhân rao giảng Tin Mừng tại Ba Tư. Đầu các Ngài được lưu trữ làm thánh tích tại Cologna. Nơi đây, người ta kính nhớ các Ngài dưới danh hiệu: Melchior, Balthazar và Gaspard.
Mừng lễ Hiển Linh, chúng ta cảm tạ tình thương Chúa đã thương tỏ mình cách rộng rãi cho hết mọi người, không phân biệt dân tộc mầu da văn hóa. Đồng thời chúng ta cũng nhận biết bổn phận mình phải dễ dạy dưới sự hướng dẫn mà Chúa hằng khơi dậy trong lòng như các nhà đạo sĩ đã biết mau mắn vâng theo ánh sáng dẫn đường.
Lễ Hiển Linh mà Giáo Hội mừng kính hôm nay thường được gọi là Lễ Ba Vua, nhưng thật ra: HiểnLinh ABC92
Lễ Hiển Linh mà Giáo Hội mừng kính hôm nay thường được gọi là Lễ Ba Vua, nhưng thật ra trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe đọc, những đạo sĩ từ Phương Đông đến thờ Lạy Chúa Hài Đồng lại Be-lem không phải là những vị vua, và bản văn cũng không nói rõ là có ba người. Dầu vậy, trải qua một thời gian dài, truyền thống Kitô giáo đã phong vương cho họ, có lẽ vì áp dụng câu 10 của Thánh Vịnh 72 đề cập đến sự kiện các vua "Thác-xê quần đảo dâng cúng lễ. A-rập, Sáp cũng sẽ tặng quà". Và con số ba được phát xuất từ ba lễ vật được nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay là: vàng, nhũ hương và mộc dược.
Vì thế, muốn hiểu rõ công việc và muốn sống ý nghĩa ngày lễ Hiển Linh hôm nay, thiết nghĩ trước tiên chúng ta phải xác định là câu chuyện mấy nhà đạo sĩ hay mấy nhà thông thái Phương Đông đi tìm vị Vua Do Thái mới sinh không phải là thiết yếu trong câu chuyện lịch sử, nhưng là một câu chuyện mang tính cách truyền giáo và huấn giáo, chờ đợi ta phải rút ra từ đó một bài học cho cuộc sống của niềm tin mình.
Vì vậy, câu hỏi chúng ta đặt ra là thánh Matthêu muốn dạy chúng ta những gì qua câu chuyện này? Hay sức điệp nào Ngài muốn chúng ta rút ra từ đấy? Đây là câu hỏi mà bài chia sẻ Tin Mừng hôm nay muốn đề nghị trong câu trả lời, đồng thời chúng ta cũng nên tự hỏi: "Chúng ta có đóng những vai trò trong câu chuyện không?".
Trước tiên, chúng ta thấy mấy nhà đạo sĩ Đông Phương được gọi là nhà thông thái, vì họ là những người biết đặt những câu hỏi cho cuộc sống để rồi dẫn họ đến việc tìm kiếm. Đặt những câu hỏi quan trọng, vì chúng có ý nghĩa cho cuộc đời của mình. Họ đang đi tìm một nhân vật có khả năng ban cho cuộc đời họ một ý nghĩa, và họ tự hỏi: "Liệu vị Vua Do Thái mới sinh ra có phải là nhân vật đó không?".
Ngoài ra, gọi họ là thông thái, vì họ không dừng lại ở những câu hỏi, nhưng họ dấn thân bỏ hết mọi sự để mạo hiểm lên đường đi tìm câu trả lời, hay nói đúng hơn là đi tìm Đấng có thể ban cho họ những câu trả lời về ý nghĩa của cuộc đời. Cả chúng ta cũng gọi được là khôn ngoan thông thái, nếu chúng ta dám đặt những câu hỏi về ý nghĩa cuộc đời của mình, để rồi chúng ta cũng dám dấn thân bỏ hết mọi sự đi tìm chân lý cho cuộc đời lên đường gặp Đấng có khả năng giải đáp những câu hỏi và nhất là có thể ban cho cuộc đời của chúng ta một ý nghĩa, một sự sống vĩnh cửu.
Tiếp đến, mấy nhà thông thái được một ngôi sao hướng dẫn, ngôi sao của niềm hy vọng, rồi lại thủ đô Giêrusalem họ đã được các giáo trưởng và luật sĩ dùng Kinh Thánh kiểm chứng niềm hy vọng đó. Như thế nhờ ánh sao của niềm hy vọng và nhờ Kinh Thánh họ đã tìm được vị Vua Do Thái, họ đã tìm gặp được Ngài không phải lại Giêrusalem, trung tâm của chính trị và tôn giáo, nhưng là lại một làng nhỏ bé Be-lem, nơi họ uốn gối trước một Hài Nhi đơn sơ, yếu đuối, để triều bái, để công nhận Ngài là Vua của cuộc đời mình.
Kế đến, vua Hêrôđê cũng đóng một vai trò quan trọng trong câu chuyện. ông ta nhìn thấy nơi vị Vua Do Thái mới sinh là một đối thủ đe dọa, chiếm đoạt chiếc ghế ngai vàng của mình. Vì thế bằng mọi giá, vua Hêrôđê muốn diệt trừ đối thủ ngay từ trong trứng nước. Thành thật tự đáy lòng, chúng ta phải tự thú là trong cuộc sống người Kitô hữu, chúng ta cũng thường đóng vai Hêrôđê, vì chúng ta cũng muốn gạt Đức Giêsu qua một bên, chúng ta cũng muốn Ngài im hơi tặng tiếng.
Vì lời Ngài phá rầy lương tâm của chúng ta, Lời Ngài đòi chúng ta làm nhiều hơn chúng ta muốn. Lời Ngài đòi chúng ta giơ má bên phải cho kẻ tấn công, trong khi chúng ta đã giơ tay để trả đũa, để tấn công lại Lời Ngài đòi chúng ta phải chia sẻ cho những người túng thiếu, trong khi ta muốn giữ mọi cái cho mình. Lời Ngài muốn chúng ta phải đồng hoá mình với những người rách rưới, những kẻ đói khát, những người sa cơ lỡ bước, những trẻ em sống đầu đường xó chợ, các bệnh nhân và với tất cả những người bị giam cầm để yêu thương và giúp đỡ họ, trong khi chúng ta lên án họ hay muốn tẩn mặt làm ngơ trước những đau khổ và nghèo túng của họ.
Cuối cùng, các giáo trưởng và luật sĩ cũng có mặt trong câu chuyện. Họ là những học giả Kinh Thánh, thuộc lòng Thánh Kinh. Họ học hỏi khảo cứu Kinh Thánh để giúp ích cho kẻ khác, nhưng họ không dấn thân thực hành. Trong trường hợp này, họ biết rõ nơi Đấng Cứu Thế sinh ra và chỉ đường dẫn đến Belem. Cả chúng ta cũng thế, bài Tin Mừng vừa đọc lên trong Thánh lễ hôm nay, có thể mỗi người chúng ta đã biết rõ câu chuyện, thông biết lẽ đạo, đọc làu làu những câu Kinh Thánh, chúng ta biết việc suy niệm Lời Chúa cần phải đem ra thực hành. Chúng ta đọc kinh bằng môi Mtệng, chứ không phải bằng chính con tim. Qua đó chúng ta chỉ là những người có đạo, chứ không sống đạo và không hành đạo, không dấn thân để Lời Chúa hoán cải, sửa đổi cuộc đời và đổi mới bộ mặt xã hội.
Vì thế, Anh chị em thân mến!
Cũng như mấy nhà đạo sĩ thông thái sau khi đã gặp gỡ công nhận và thờ Lạy Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, họ đã đi qua đường khác mà trở về xứ sở của mình. Vì cuộc gặp gỡ Đức Giêsu đã đổi mới họ, đã làm cho họ trở nên những con người mới.
Hy vọng lễ Hiển Linh hôm nay giúp chúng ta gặp gỡ công nhận và tôn thờ Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, để chúng ta cũng trở về nhà bằng con đường khác, bằng cách cố gắng từ bỏ vai trò độc ác và lòng ham muốn chức cao quyền cả của vua Hêrôđê cũng như của các giáo trưởng Do Thái. Chúng ta cần noi gương mấy nhà đạo sĩ thông thái đặt câu hỏi về ý nghĩa của cuộc đời, sau đó can đảm từ bỏ quá khứ để lên đường đi tìm Đấng có thể ban cho cuộc đời chúng ta một ý nghĩa đích thực. Để rồi sau khi đã gặp gỡ, công nhận và thờ Lạy Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, chúng ta cũng quyết tâm giã từ những con đường của nếp sống tội lỗi, để từ nay Đức Giêsu thật sự là vị Vua ngự trị trong tâm hồn chúng ta.
Khi Chúa Giêsu sinh ra, hẳn nhiều nguời đã thấy ánh sao lạ, nhưng chỉ có mấy đạo sĩ đã nhận ra đó là "tín hiệu" loan báo Chúa Cứu thế giáng sinh. Con trẻ sinh ở Bêlem hẳn nhiều ngườt đã thấy hoặc đã biết, Nhưng chỉ có mấy đạo sĩ nhận ra rằng trẻ sơ sinh đó chính là Con Thiên Chúa làm nguời. Bởi thế họ quỳ xuống dâng lễ vật và thờ lạy
KẺ THẤY NGƯỜI KHÔNG
Đứng trước cùng một sự kiện kẻ thấy người không, kẻ tìm ra ý nghĩa người không. Làm sao cắt: HiểnLinh ABC93
Đứng trước cùng một sự kiện kẻ thấy người không, kẻ tìm ra ý nghĩa người không. Làm sao cắt nghĩa được sự khác biệt đó ?
Nguyên nhân gây ra khác biệt là do một bên nhìn bằng con mắt thường cho nên chỉ thấy một việc thường, còn một bên nhìn bằng đức tin cho nên nhờ đức tin khám phá ra thực chất và ý nghĩa ở bên trong.
Sự vật thay đổi diện mạo và ý nghĩa tùy theo cách nhìn và mức độ quan sát. Cùng một giọt máu nếu nhìn bằng mắt thường thì chỉ thấy màu đỏ, còn quan sát bằng kính hiển vi thì có thể đếm được hồng cầu và bạch cầu. Đức tin cũng giống như một kính hiển vi, giúp cho người ta thấy rõ hơn, lớn hơn, thật hơn. Bởi thế đức tin là một sự khám phá, một cái nhìn tinh tế theo chiều sâu, một thứ ánh sáng cực mạnh dọi vào sự vật giúp ta nhìn thấy tận bên trong. Chính vì các đạo sĩ có lòng tin nên đã nhận ra Con Thiên Chúa trong khi những người khác chỉ thấy một trẻ thơ.
KINH NGHIỆM NỘI GIỚI
Như vậy thì đức tin có phải là cái gì hoàn toàn chủ quan không? Người tin có phải chỉ là một người bị ám ảnh bởi một đối tượng do chính mình tưởng tượng ra?
Đức tin thật ra không hoàn toàn khách quan mà cũng không hoàn toàn chủ quan. Không hoàn toàn khách quan vì những điều người tín hữu tin không thế cân, đoạng, đo, đếm được. Không thế chứng minh bằng lý luận như một bài toán hay một định luật khoa học, không thế viết thành công thức đưa vào máy điện toán để kiểm chứng. Tin là một xác tín cá nhân chỉ chắc chắn cho chính người tin.
Nhưng đức tin cũng không hoàn toàn chủ quan vì không phải chỉ có một người tin nhưng hằng bao nhiêu tỷ người thuộc các thế hệ cùng tạin. Và những người tin này đều lành mạnh, tỉnh táo, sáng suốt, trong đó có biết bao nhiêu nhà bác học hàng đầu của thế giới. Ở thế kỷ XIX, trong số 432 nhà bác học lớn đã có tới 357 Kitô hữu.
Thực ra đức tin là một thứ kinh nghiệm nội giới độc đáo có tính riêng tư. Kinh nghiệm này, mình thấy rõ, thấy thật, mình cảm nghiệm được, nhưng hầu như không thế truyền đạt giải thích cho người khác, chỉ mình mình biết. Trong lãnh vực tôn giáo, mỗi người phải cảm nghiệm cho mình bằng tâm hồn. Tự chúng những thực tại tôn giáo không thế chứng minh được, lý lẽ nào cũng chỉ là gợi ý có tính thuyết phục tương đối. Vì thế mới cần đến chứng tá đời sống. Chính đời sống sẽ biện minh cho những gì không thế giải trình bằng lý luận.
Đức tin cũng giống như cảm hứng và cái nhìn của nghệ sĩ. Nghệ sĩ hơn người ở chỗ cảm thấy cái đẹp, nhìn thấy cái đẹp, nhận diện được cái đẹp ở những nơi, vào những lúc mà người thường chẳng thấy gì cả. Không thế nói người nghệ sĩ bịa đặt ra một cái gì thực ra không có, nhưng phải nhìn nhận rằng tâm hồn không nghệ sĩ thiếu nhạy bén. Người có đức tin giống nghệ sĩ ở chỗ tâm hồn cởi mở, nhạy cảm nên nắm bắt, lĩnh hội được cái vô hình. Tâm hồn người tín hữu bắt trúng tần số.
LÒNG THÀNH VÀ ƠN THÁNH
Bởi đâu người có đức tin lại có một cái nhìn thấu suốt như vậy ?
Điều kiện quan trọng là phải có lòng thành, ngay thật, khiêm tốn và trong sáng. Thiếu những điều đó đức tin khó có thể nảy sinh.
Tuy nhiên dầu có tất cả những điều đó cũng vẫn chưa đủ. Còn cần có tác động của Thiên Chúa trong tâm hồn. Nguồn mạch chính của đức tin là ơn Chúa. Đức tin trước hết là một hồng ân.
Chúng ta tin. Nhưng chính Thiên Chúa làm cho chúng ta có thể tin. Chính Ngài mở lòng mở trí chúng ta để chúng ta thấy và hiểu. Đức tin là một cuộc hiển linh: Thiên Chúa tỏ mình cho chúng ta được thấy Ngài. Chính Ngài rọi ánh sáng vào lòng chúng ta và rọi ánh sáng trên mọi sự để chúng ta có thể thấy. Lời thánh vịnh 39 thật có ý nghĩa: "Trong ánh sáng của Chúa chúng con nhìn thấy ánh sáng". Mọi ánh sáng đều bắt ngưồn từ nơi Thiên Chúa.
Người tín hữu là người đã nhận được ánh sáng của Thiên Chúa và nhìn thấy mọi sự trong và nhờ ánh sáng của Thiên Chúa.
Cũng như các đạo sĩ, người tín hữu đã được Thiên Chúa mở lòng mở trí, đã bắt được ánh sáng của Thiên Chúa, đã được đưa vào thế giới mới của Ngài. Phải gọi ơn này là gì ? Gọi là ơn trời biển thì cũng chưa nói được gì về cái phúc của minh. Hãy tri ân và đừng bao giờ coi thường phúc đó. Trái lại hãy sống trọn niềm tin của mình, thế hiện niềm tin đó trong cuộc sống giống như các đạo sĩ. Sau khi khám phá ra Chúa cuộc đời họ đã biến đổi hoàn toàn.
Ông G. Emillio là một người thông thạo trong trường Nghệ thuật. Từ những năm đầu của thập: HiểnLinh ABC94
Ông G. Emillio là một người thông thạo trong trường Nghệ thuật. Từ những năm đầu của thập niên 60, ông đã cho ra đời 740 tác phẩm điêu khắc khuôn mặt của Chúa Giêsu, khi ông nói với thính giả của ông về sự phát triển của mỹ thuật. Tinh thần tôn giáo sâu đậm của ông nói lên trong lời tuyên bố sau đây: Tôi cảm thấy mình như một dụng cụ và nghệ thuật thì vượt quá sức của tôi. Vì tôi không thể có cao vọng thông thạo tất cả. Tôi mất cả ký mồ hôi cho một tác phẩm. Có lần tôi mất tới 4 kilô mồ hôi để mở một cuộc triển lãm tại Texas.
Ông Emilia cố gắng trình bày khuôn mặt của Chúa Giêsu cho nhiều người như ông có thể. Trong ngày lễ Hiển Linh hôm nay, Thiên Chúa cũng muốn giới thiệu với chúng ta khuôn mặt của Chúa Giêsu. Hôm nay chúng ta mừng lễ kỷ niệm hàng năm biến cố thánh này.
Hiển linh có nghĩa là tỏ ra. Chúa Cha trên trời dùng ngôi sao lạ để dẫn đường ba nhà thông thái tới máng cỏ của Chúa Kitô, để dẫn đường cho họ tới nơi, ở đấy họ có thể thấy khuôn mặt của Thiên Chúa làm người dưới hình dạng một hài nhi. Thiên Chúa gợi ý những nhà thông thái này để họ từ xa mà đến, hầu nhấn mạnh rằng: mọi người trên dương gian được mời gọi chiêm ngắm khuôn mặt của Chúa Giêsu. Biết Người phụng thờ Người như trong lời nguyện mở đầu: “Lạy Cha, cha đã tỏ Chúa con cho mọi dân tộc bằng sự dẫn đường của ngôi sao”. Chúng ta còn nhắc lại ý nghĩa này trong bài đáp ca: “Lạy Chúa, mọi dân tộc trên mặt đất sẽ thờ lạy Chúa... Mọi vua Chúa tôn kính, muôn dân phụng sự Người”.
Hôm nay, chúng ta có thể đọc lên ý nghĩa đặc biệt của lời truyền phép Máu Thánh: “sẽ đổ ra cho các con và mọi người”. Mọi người phải thấy Người, mọi người phải biết rằng: Đức Giêsu đã đến để cứu chuộc họ.
Thời đại chúng ta, Chúa không dùng lời ca của Thiên Chúa hoặc ánh sáng của ngôi sao để giới thiệu Chúa Giêsu cho thế giới. Một số anh em chúng ta có thể dâng hiến tài năng để làm việc ấy, như ông Emilio đã làm. Phần lớn chúng ta, trong giới hạn của mình, có thể giới thiệu Chúa Giêsu cho những người chưa biết.
Cha mẹ là nhà đại sĩ thích hợp nhất, họ trình bày khuôn mặt Chúa Giêsu cho con cái của họ. Các thầy, các cô giáo là những người cộng tác với các nhà đạo sĩ. Các nhà truyền giáo, giáo dân, tu sĩ, linh mục là những nhà đạo sĩ. Họ đi đây đó để giới thiệu Chúa Giêsu cho những người khác.
Mỗi người chúng ta được mời gọi làm nhà đạo sĩ, để chiêm ngắm khuôn mặt của Chúa Giêsu rồi loan truyền về Người cho anh em khác. Phương thức tốt nhất để làm điều đó là nói và hành động như Chúa Giêsu.
Tới đây dâng lễ là một hành trình để thấy Chúa Giêsu. Chú ý tới lời nguyện sau hiệp lễ: “Lạy Cha, xin dẫn chúng con bằng ánh sáng của Cha. Xin giúp chúng con nhận ra Chúa Kitô trong bí tích Thánh Thể này và tiếp rước Người bằng tình yêu.
Đó là ý nghĩa của niềm vui của lễ Hiển linh. Ước gì tất cả chúng ta nếm được niềm vui giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác.
Khi Đức Giê-su ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem, và hỏi : "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu ? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người." Nghe tin ấy, vua Hê-rô-đê bối rối, và cả thành Giê-ru-sa-lem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Ki-tô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời : "Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng : 'Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời."
Bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng : "Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người." Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi. Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
Khi ngôi sao chiếu sáng trên bầu trời Bê-lem, là lúc tình trạng dân Ít-ra-en như thầy tư tế già Da: HiểnLinh ABC95
Khi ngôi sao chiếu sáng trên bầu trời Bê-lem, là lúc tình trạng dân Ít-ra-en như thầy tư tế già Da-ca-ri-a phát biểu "ngồi trong nơi tối tăm và trong bóng tử thần" (Lc 1,79). Tuyển dân của Chúa mà còn như thế huống nữa là dân ngoại. Thánh Phao-lô phác họa tình trạng thuộc linh của dân ngoại : "Thuở ấy anh em không có Đức Ki-tô, không được hưởng đặc quyền của Ít-ra-en, xa lạ với các giao ước dựa trên lời hứa của Thiên Chúa, không có niềm hy vọng, không có Thiên Chúa ở trần gian này." (Ep 2,12). Tóm lại, lúc Đấng Ki-tô giáng thế là lúc thế gian suy đồi cùng cực, đang đứng trên bờ vực thẳm, thì ngay khi ấy ngôi sao xuất hiện ở Đông Phương đem theo lời hứa vĩ đại Tin mừng.
Ngôi sao của hy vọng. Trong quan niệm của người Đông Phương, sự xuất hiện của một vì sao trên trời có quan hệ tới một nhân vật dưới trần, nhất là các vị đế vương, người ta vẫn gọi đó là ngôi sao chiếu mạng. Các nhà chiêm tinh Đông phương đều tin như vậy, vì thế nảy sinh hẳn một môn học chiêm tinh với các khoa tử vi. Lịch sử Trung quốc ghi lại truyện hoàng đế Quang Vũ đời Đông Hán rất kính trọng ông Nghiêm Tử Lăng, sai sứ đi nhiều lần mới mời được ông vào triều, nhà vua tiếp đón ông rất mực kính trọng và thân thiết, giữ ông lại trong cung đến đêm và nằm chung một giường. Nửa đêm, Tử Lăng gác một chân lên gụng nhà vua, nhà vua không nỡ làm ông thức giấc, cứ để yên cho ông làm như vậy. Sáng hôm sau liền có quan thái sử tâu lên vua rằng hồi hôm xem điềm trên trời, thấy sao của khách sâm phạm sao nhà vua rất gấp, xin hoàng thượng nên để ý. Vua Quang Vũ cả cười nói rằng : "Ta biết rồi, việc này xảy ra chỉ vì ta và Tử Lăng cùng nằm chung một giường, và chân Tử Lăng gác lên bụng ta mà thôi, các khanh chớ lo !" Đối với các nhà bác học Đông Phương, sự xuất hiện của một ngôi sao như thế là thực hiện một mong ước từ lâu, vì khi nghiên cứu các tinh tú, họ nhận thức rằng ngôi sao là đại biểu cho "ý muốn vĩnh cửu". Quan niệm của họ cũng tương hợp với lời tiên tri của Kinh Thánh : "Một vì sao hiện ra từ Gia-cóp, một vương trượng trỗi dậy từ Ít-ra-en" (Ds 24,17). Vì vậy khi họ thấy ngôi sao xuất hiện, liền biết thời giờ đã đến, nên chẳng ngần ngại lặn lội đường xa rủ nhau đi tìm cho thấy "vì sao xuất hiện từ Gia-cóp" hầu tìm ra con đường sáng cho mình trong một thế giới u minh.
Ngôi sao thần bí.
Khi nghe được tin này thì Hê-rô-đê hết hồn, với tầm óc hiểm độc và quỷ quyệt nhà vua coi đây là một điều rất dữ. Sự xuất hiện của ngôi sao cũng như sự xuất hiện những chữ viết trên bức tường trong cung điện vua Benxatxa ngày xưa, dự báo sự diệt vong của nhà vua. Điều đó có nghĩa là sẽ có một vua Giu-đa thay cho mình ngồi trên ngai vàng. Do đó nhà vua phải sử dụng đến mọi thủ đoạn ác độc để diệt trừ hậu họa khi còn trong trứng nước. Nhưng mưu độc của loài người làm sao phá hỏng được kế hoạch của Thiên Chúa. Con Trẻ mà Hê-rô-đê tìm giết lại là Con Trẻ thoát khỏi tai họa.
Một điều lạ kỳ ấy là ngôi sao một đàng là hy vọng, là niềm vui lớn cho mọi người thiện tâm, lại nên điềm dữ báo nguy cho hạng người tàn ác. Ý nghĩa cao đẹp của nó được những tấm lòng ích kỷ tham lam nhận ra. Sự xuất hiện của ngôi sao báo hiệu ngày tàn của họ đã tới !
Ngôi sao dẫn đường.
Ngôi sao trên bầu trời Bê-lem đã dẫn các đạo sĩ Đông Phương trải qua một cuộc lữ hành xa lạ, dầy khó khăn nguy hiểm đã đem các ông tới nơi Con Trẻ mà các ông muốn kiếm tìm. Chính ngôi sao đã bảo tồn cho họ niềm hy vọng, ước nguyện, đức tin mà Thiên Chúa đã mặc khải cho. Cũng chính ngôi sao đã cho họ thấy Con Trẻ cũng là vua của họ để họ chuẩn bị lễ vật triều kính Ngài.
Ngôi sao trên bầu trời Bê-lem vẫn luôn là ngọn đuốc soi đường cho tất cả những ai cần tìm chân lý, muốn được cứu rỗi linh hồn, và mong nhận được lòng yêu thương vĩ đại của Thiên Chúa.
Ngôi sao của vui mừng.
"Khi thấy ngôi sao dừng lại chỗ Con Trẻ, các hiền sĩ hết sức vui mừng." Vì đối tượng mà họ đã khổ công tìm kiếm nay đã thấy rồi, lòng khao khát chân lý với nếp sống quang minh chính trực nay đã được hoàn toàn thỏa mãn. Niềm vui của họ là điềm báo ân phúc lớn lao sau này Chúa dành cho các môn đệ : "Thầy nói điều đó với anh em để niềm vui của Thầy ở trong anh em và niềm vui của anh em nên trọn vẹn." (Ga 15,11)
Trong những năm sau khi Chúa Giê-su giáng thế, sự vui mừng mà các hiền sĩ Đông Phương đã được hưởng, thì bao nhiêu người khác cũng được hưởng nhờ ngôi sao này chỉ đường dẫn lối. Lòng khao khát chân lý của họ cũng được đền đáp vì họ nhận được lòng yêu thương vĩ đại của Thiên Chúa dành cho mọi người thiện tâm.
Và nếu ngôi sao trên bầu trời Bê-lem này như ngọn đuốc soi đường dẫn các hiền sĩ tới mục tiêu, thì cái thế giới mà chúng ta đang sống đây mới tìm ra được ý nghĩa mới, vui mừng và hy vọng mới thay vì tuyệt vọng và sầu thảm của những ngày cũ.
Nếu đặt câu hỏi : "Thế nào là đức tin ?" thì rất khó giải đáp hoặc chỉ có thể nhận được một định nghĩa trừu tượng. Nhưng nếu đặt câu hỏi cách khác : “Người có đức tin thường có thái độ nào ?" thì có thể trả lời khá dễ dàng và câu trả lời sẽ trở nên cụ thể. Cuộc hành trình của các đạo sĩ tới Bêlem minh họa rất rõ thái độ đức tin đó.
KHAO KHÁT VÀ TÌM KIẾM
Thời Chúa Giêsu giáng sinh, trong khi mọi người xa gần đều lãnh đạm, mải miết với công việc của: HiểnLinh ABC96
Thời Chúa Giêsu giáng sinh, trong khi mọi người xa gần đều lãnh đạm, mải miết với công việc của mình thì chỉ có các đạo sĩ có lòng khao khát và chờ đợi Đấng Cứu thế. Họ nghe ngóng dư luận, tra cứu sách vở, đợi chờ tín hiệu. Và qua ánh sao lạ họ đã thực sự bắt được tín hiệu. Lòng khao khát của họ đã được đáp ứng.
Thái độ của các đạo sĩ trái ngược hẳn với thái độ của Hêrôđê. Ông này mải mê theo đuổi giàu sang và quyên lực. Đấng Cứu thế sinh ra cách Giêrusalem không xa, nhưng ông chẳng hay biết gì. Trong Sách thánh có lời sấm về Đâng Cứu thế, nhưng ông không đọc. Đến khi sự việc xảy ra thì ông mới vội triệu tập các giáo trưởng và luật sĩ để dò hỏi.
Bài học đầu tiên có thể rút ra là: Không khao khát thì không bao giờ được đáp ứng, không tìm thì không bao giờ thấy.
LÊN ĐƯỜNG THỤC HIỆN CUỘC TÌM KIÉM
Nguyên khao khát chưa đủ. Khao khát mà ngồi yên để chờ thì không phải là khao khát thật. Các đạo sĩ không ngồi chờ thụ động. Thấy ánh sao lạ, họ quyết tâm lên đường ngay để thực hiện cuộc tìm kiếm. Đối với họ lên đường không phải là đơn giản. Dấn thân vào xứ lạ, đi nhưng chưa biết chắc địa chỉ mình đến, mà đã lên đường tìm kiếm thì phải ngưng công ăn việc làm, bỏ dở nhiều dự định. Ngoài ra hành trình vượt sa mạc mênh mông, khô cằn là một thử thách không nhỏ.
Trái lại các giáo trưởng và các luật sĩ biết rất rõ lời sấm, biết cả địa điểm Đấng Cứu tinh sẽ sinh ra, li ở gần kề nhưng đâu có lên đường.
Sự tương phản giữa hai thái độ trên cho thấy đức tin không phải là một ước mơ lãng mạn, một nhận thức suông. Trái lại tin là hành động, là thực hiện.
KHÔNG BỎ CUỘC KHI GẶP THỦ THÁCH
Trong suốt hành trình các đạo sĩ đã gặp không biết bao nhiêu khó khăn. Nhưng thử thách lớn nhất đối với họ xảy ra khi ngôi sao dẫn đường biến mất. Dầu vậy họ đã không nản lòng, cứ tiếp tục lên đường và lòng kiên trì đã đưa họ tới đích.
Như vậy con đường đức tin đòi hỏi sự trung kiên. Ai bỏ cuộc thì không thế gặp Chúa. Ai đi tới cùng mới gặp được Ngài.
NHẬN RA THIÊN CHÚA QUA TẤM MÀN CHE LẤP NGÀI
Khi tới bên máng cỏ các đạo sĩ chỉ thấy một trẻ sơ sinh. Họ đi tìm một Thiên Chúa vinh quang nhưng chỉ gặp một hài nhi nghèo hèn. Nhưng được Thánh Thần soi sáng họ đã nhận ra đó chính là Con Thiên Chúa. Họ quỳ xuống, thờ lạy và dâng lễ vật.
Đây chính là thực chất của đức tin. Tin không phải là nhìn thấy bằng con mắt thế xác, nhưng bằng đôi mắt tâm hồn. Đôi mắt của người tin cũng giống như đôi mắt của nghệ sĩ. Người nghệ sĩ nhìn thấy cái đẹp, giá trị thẩm mỹ của những sự vật, ở những nơi mà đôi mắt thường không thấy.
ĐỂ CHO CUỘC ĐỜI BIẾN ĐỔI
Sau khi ở Bêlem về các đạo sĩ đã sống một cuộc đời mới. Đời họ đã chuyển sang một hướng khác. Cuộc gặp gỡ với Hài nhi ở Bêlem đã đánh dấu một khúc quặt vừa bất ngờ vừa triệt để
Điều này không khó hiểu, bởi vì ai đã gặp Thiên Chúa thật, dầu chỉ một lần, thì không thế sống như trước nữa. Thiên Chúa sẽ chỉ cho một hướng đại khác, một chân trời khác. Vì ơn Chúa thôi thúc, tự nhiên mình cảm thấy nhu cầu phải đổi mới cách sống, bắt đầu một giai đoạn mới.
Nếu không có cuộc đổi đời kèm theo cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa thì tin chỉ là một thái độ tài tử, một chuyện huyền hoặc, chứ không phải là một niềm xác tín đưa tới phó thác và dấn thân.
Những thái độ nói trên không thế thiếu nơi người có đức tin và sống đức tin. Chúng xác nhận niềm tin của người tín hữu. Chúng là những tạiêu chuẩn chính xác giúp mỗi người kiểm tra lại và đánh giá đức tin của mình.
Các nhà bác học đã dâng tiến cho Chúa Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng để chỉ: HiểnLinh ABC97
Các nhà bác học đã dâng tiến cho Chúa Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng để chỉ Hài Nhi Giêsu là vua, nhũ hương để chỉ Hài Nhi Giêsu là Chúa và mộc dược để chỉ đến cái chết đau khổ của Hài Nhi Giêsu sau này… Thế nhưng những lễ vật này có ý nghĩa gì đối với chúng ta.
Trước hết là vàng. Vàng nói lên lòng yêu mến của chúng ta, một lòng yêu mến tinh ròng, cao cả và mãnh liệt như lời Ngài đã xác định :
- Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi.
Đồng thời thánh Phaolô còn nhấn mạnh :
- Ai có thể phân rẽ tôi ra khỏi lòng yêu mến đối với Đức Kitô, dù bắt bớ, dù tù đày, dù đòn vọt, dù đói khát cũng không thể nào được.
Vàng còn làm lên sự trung kiên của chúng ta, không vì một lý do, một hoàn cảnh nào mà bị chao đảo, mà bị lung lay để rồi đi đến chỗ phản bội. Hãy trung thành với Chúa cho đến chết, vì không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Sau hết, vàng còn nói nói lên sự chân thật của chúng ta. Thực vậy, chúng ta có thể lừa dối kẽ khác chứ chẳng thể nào lừa dối được Thiên Chúa. Con người thời nay thường thích hóa trang, thường thích đeo mặt nạ. Nhưng người Kitô hữu phải luôn biểu lộ con người và bộ mặt thật của mình. Phải là một thứ vàng ròng chứ không phải là một thứ vàng dổm.
Tiếp đến là nhũ hương. Nhũ hương nói lên tâm tình thờ lạy của chúng ta đối với Đức Kitô. Thực vậy, trong những nghi thức phụng vụ, nhũ hương thường được dùng khi đọc Phúc âm, khi dâng Mình Thánh, khi chầu Thánh Thể.
Qua hình ảnh nhũ hương chúng ta tìm thấy một niềm tin tưởng mãnh liệt vào bản tính Thiên Chúa của Đức Kitô. Đây không phải là một niềm tin tưởng có tính cách giáo điều hay lý thuyết mà là một niềm tin tưởng sống động và mãnh liệt, vì Đức Kitô là Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta và trở nên lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta qua Bí tích Thánh Thể, cũng như đang giảng dạy chúng ta qua lời Ngài trong Phúc âm.
Nhũ hương còn là tượng trưng cho tâm tình kinh nguyện, như thánh vịnh đã viết :
- Lạy Chúa, xin cho lời con nguyện cầu tựa hương thơm bay lên tôn nhan Chúa.
Sự cầu nguyện là một việc làm riêng tư, một sự kết hợp giữa tâm hồn chúng ta với Thiên Chúa, nó xuất phát tự cõi lòng, tự con tim chúng ta. Đồng thời sự cầu nguyện còn mang tính cách cộng đồng vì lời nguyện đẹp lòng Chúa hơn cả là lời nguyện của Giáo Hội và với Giáo Hội, vì qua lời nguyện của Giáo Hội chúng ta tìm thấy lời nguyện của Đức Kitô, là đầu của nhiệm thể.
Sau cùng là môc dược. Mộc dược là niềm tin tưởng vào Đức Kitô bị đóng đinh, mà bây giờ được tái diễn qua lễ dâng trên bàn thờ :
- Mỗi khi anh em ăn bánh này, anh em loan truyền việc Chúa chịu chết cho tới khi Ngài trở lại.
Chính vì thế, thánh Phaolô khuyên nhủ chúng ta :
- Anh em hãy mang lấy dấu tích của Đức Kitô nơi thân xác anh em.
Vì thế, mộc dược có ý nói tới việc hy sinh hãm mình, như lời Chúa đã phán :
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Tiếp đến, mộc dược còn nói lên những hy sinh trong cuộc sống. Hãy chấp nhận những khổ đau vì lòng yêu mến Chúa và hãy dâng tiến Chúa như một lễ vật nhỏ mọn, bấy giờ những đau khổ của chúng ta sẽ trở nên là một góp phần vào những đau khổ của Đức Kitô, là những giọt máu tử đạo chúng ta có thể đổ ra từng giây từng phút để làm chứng cho Chúa.
Mỗi người chúng ta hãy suy nghĩ và tự hỏi : Chúng ta đã dâng gì để làm lễ vật cho Chúa Hài Nhi hay chưa ?
Dựa vào câu chuyện các nhà hiền sĩ bước theo ngôi sao lạ để tìm đến Bé Giê-su, người Việt: HiểnLinh ABC98
Dựa vào câu chuyện các nhà hiền sĩ bước theo ngôi sao lạ để tìm đến Bé Giê-su, người Việt công giáo chúng ta thường treo lồng đèn ngôi sao mỗi độ Giáng Sinh về. Người công giáo Mỹ thì không làm lồng đèn, nhưng lại đính ngôi sao lên chóp cây Noel, như ánh sáng trên chóp đỉnh cây sự sống. Lồng đèn Việt, hay ngôi sao trên chóp cây thông Mỹ nhắc chúng ta nhớ đến Bé Giê-su là ánh sáng muôn dân: Chư dân sẽ lần bước tìm về ánh sáng của Ngươi. Và các vua hướng về ánh bình minh rạng ngời trên Ngươi.
Là Nhiệm Thể của Đức Ki-tô, Giáo Hội trở nên ánh sáng của muôn dân. Nhờ phép Rửa, chúng ta đã được tháp nhập vào Nhiệm Thể Đức Ki-tô, không phải chúng ta sống nữa, nhưng là chính Chúa Giê-su sống trong ta (Ga-lát 2: 20). Chúng ta có bổn phận phải trở nên ánh sáng cho con em, học trò, bạn bè của chúng ta. Chúng ta không thể sung sướng, thỏa mãn, an vui ôm lấy ngôi sao, chỉ đính lên chóp cây thông trong nhà mình, chỉ nhà mình hưởng, nhưng phải là lồng đèn chiếu sáng, đem treo ngoài ngõ, cho người khác chung hưởng nguồn vui của ơn cứu sống Thiên Chúa đã ban qua Con của Người: Chính anh chị em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che dấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lấy thùng ụp lại, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người. Cũng vậy, ánh sáng của anh chị em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh chị em làm, mà tôn vinh Cha của anh chị em, Đấng ngự trên trời (Mát-thêu 5: 14-16). Chúng ta đã trở nên ngôi sao, và chúng ta phải sống cho xứng là ngôi sao lạ dẫn lối cho lương dân đến cùng Bé Giê-su: Con em, học sinh, bạn bè sẽ lần bước tìm về ánh sáng của Chúa Ki-tô. Và họ sẽ hướng về ánh bình minh rạng ngời trên chúng ta.
Cũng như ngôi sao lạ trong chuyện ba vua, lắm khi ngôi sao của chúng ta cũng biến mất, tịt luôn. Là thân phận con người, ai mà không quên sót, phạm tội, hay ngã lòng. Nhưng Thiên Chúa vẫn hằng tin nhờ con người yêu đuối chúng ta. Chúng ta chỉ cần trông cậy vào ơn thánh, rồi gắng xuất đầu lộ diện trở lại, như ngôi sao lạ đã hiện ra lại cho các nhà hiền sĩ trong Tin Mừng: Bấy giờ ngôi sao họ đã thấy ở phương đông, lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi ở, mới dừng lại. Trông thấy ngôi sao, họ mừng rỡ vô cùng. Họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là bà Ma-ri-a, liền sấp mình bái lạy Người, rồi mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.
Nếu bạn đã tạm ngưng làm tông đồ, làm giáo lý viên. .. thì nay xin mời bạn tái xuất giang hồ nhe. Hãy dấn thân trở lại. Hãy là ngôi sao lạ cho người chung quanh. Trông thấy bạn trở lại, họ sẽ mừng rỡ vô cùng. Bạn và tôi, chúng ta được mời gọi làm ngôi sao lạ, không phải để cho con em, học trò, bạn bè chiêm ngắm mình, rồi trầm trồ ca ngợi, nhưng là để dẫn con em, học sinh, bạn bè đến NHÀ HÀI NHI. Và một khi các nhà hiền sĩ đã vào NHÀ BÉ GIÊ-SU đã gặp Ngài, gặp Mẹ Ma-ri-a và thánh cả Giu-se, thì không còn ai nhắc đến ngôi sao nữa. Đời tông đồ của chúng ta cũng thế: phải quy về Ki-tô, và chỉ quy về Ki-tô. Ơn giáo dục của chúng ta chỉ là sứ mạng dẫn trẻ đến cùng Chúa Giê-su. Nếu chúng ta cứ đứng chình ình ra đó, thu hút trẻ đến với mình, thì cũng có thể chúng ta thành công trong một thời gian ngắn. Nhưng chúng ta sẽ như những sao xẹt. Trái lại, nếu chúng ta biết lui vào quên lãng sau khi dẫn trẻ vào Nhà của Chúa Giê-su, thì chúng ta sẽ được Ngài biến thành sao lạ, cho sáng chói giữa muôn vì sao:Những ai giảng dạy đường công chính cho nhiều người sẽ muôn đời sáng chói như tinh sao. Lạy Chúa Giê-su, chỉ có Chúa là cùng đích, chỉ có Chúa là nguồn gốc mọi ơn tông đồ.
Trước đây chúng ta gọi ngày lễ hôm nay là lễ Ba Vua, đây là cách gọi quen thuộc đối với giáo: HiểnLinh ABC99
Trước đây chúng ta gọi ngày lễ hôm nay là lễ Ba Vua, đây là cách gọi quen thuộc đối với giáo dân Việt Nam, để nói về việc các nhà chiêm tinh phương Đông tìm đến Bêlem viếng Chúa Hài Đồng. Gọi là vua vì họ mặc phẩm phục như các vị đế vương, và xác định là ba người, vì có ba sắc dân được nói đến trong sách ngôn sứ Isaia, mà cũng vì lễ vật tiến dâng có ba thứ rõ ràng là vàng, nhũ hương và mộc dược như Tin Mừng thuật lại. Cứ thế, theo truyền thống, HiểnLinh ABCtrở nên tên gọi cho ngày lễ.
Nhưng điều quan trọng không phải là xác định họ là vua hay không phải là vua, họ có ba vị hay bao nhiêu vị, mà chính là hãy nhìn họ như hình ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng khao khát chân thành tìm kiếm Thiên Chúa khởi đi từ những thiện hảo tốt lành, nghĩa là họ là dân ngoại từ xa, không biết Kinh Thánh, nhưng lại chân thành và sẵn sàng vượt qua những chặng đường gian khổ để tìm gặp Chúa, trong khi đó dân Do Thái ở gần, hiểu biết Kinh Thánh, lại không mảy may kiếm tìm.
Mặc dầu tên gọi HiểnLinh ABCvẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng ngày nay Phụng Vụ sử dụng tên gọi Hiển Linh để làm nổi bật ý định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa trong Mùa Giáng Sinh, đó là Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm tìm Ngài. Vì thế, đây không chỉ là một biến cố của ngày đã qua mà còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới, Chúa vẫn tỏ mình, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.
Trong một tập truyện ngụ ngôn xuất bản gần đây, một linh mục đã tưởng tượng ra một câu chuyện như sau : Có một người đạo đức kia ước ao được xem thấy Chúa trước khi chết, ngày ngày bà ăn chay, cầu nguyện để ước nguyện này được Chúa nhận lời. Thế là một đêm nọ trong một giấc mơ, bà được Chúa cho biết sẽ đến thăm bà, suốt ngày hôm sau, bà quét dọn và trang hoàng nhà cửa để đón rước Chúa, thế nhưng bà chờ mãi mà không thấy Chúa đến.
Trong đêm kế tiếp, có tiếng Chúa hỏi : Tại sao bà không tiếp đón Ngài ? Người đàn bà trả lời bà đã chờ đợi Chúa ở trước cửa. Chúa cho bà biết Chúa đã chờ đợi ở cửa sau. Ngày hôm sau, người đàn bà lại chờ đợi Chúa ở cửa sau, nhưng bà vẫn không thấy bóng dáng Chúa. Đêm đến lại có tiếng Chúa hỏi tại sao bà không đón tiếp Chúa, bởi vì Ngài đến qua các cửa sổ. Suốt ngày hôm sau, người đàn bà hết ra cửa trước lại về cửa sau và nhìn qua các cửa sổ, nhưng bà cũng không hề thấy tăm hơi của Chúa. Đêm đến, bà lại nghe có tiếng nói của Chúa, và lần này Chúa bảo bà hãy tìm Ngài bên giếng sau nhà. Cũng thế, người đàn bà đã chạy ra bờ giếng, nhưng cũng không thấy Chúa đâu. Không còn đủ kiên nhẫn nữa, bà đã trách Chúa tại sao lại chơi trò cút bắt với bà. Bấy giờ Chúa mới nói : “Nếu con định đón rước Ta ở một nơi nào đó thì mãi mãi sẽ không bao giờ thấy Ta ở đâu cả, thay vì tìm kiếm khắp nơi, con hãy mở mắt tâm hồn và con sẽ thấy Ta”.
Đêm đó, người đàn bà không còn nghe thấy tiếng Chúa nữa, nhưng chung quanh mình, bà chỉ thấy bóng đêm dầy đặc, nhưng chính lúc đó, khi con mắt tâm hồn bà đã được mở rộng, bà đã nhìn thấy Chúa ở khắp mọi nơi. Đúng vậy, chúng ta chỉ có thể thấy Chúa bằng con mắt tâm hồn mà thôi, nếu tâm hồn chúng ta rộng mở, nếu tâm hồn chúng ta trong sạch, nghĩa là không bị ngăn chặn bởi bất cứ bức tường nào của dục vọng, của đam mê, ích kỷ, tiền bạc… thì chúng ta có thể thấy Chúa ngay cả trong mỗi người chúng ta gặp gỡ.
Xưa kia Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho ba nhà chiêm tinh bằng ánh sao lạ, chính nhờ ánh sao này, các ông đã đi tìm và đã gặp được Chúa Giêsu giáng sinh để thờ lạy. Từ đó Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình ra cho nhân loại để con người nhận biết sự thật và đón nhận sự sống. Cũng như ngày xưa Thiên Chúa đã mời gọi các ngôn sứ cộng tác, ngày nay Ngài cũng mời gọi chúng ta cộng tác vào công cuộc cao cả ấy, vẫn cần có những ánh sao để chỉ đường dẫn lối cho những người khác gặp thấy Chúa. Người Kitô hữu được mời gọi trở thành ánh sao cho những người chung quanh ngay trong cuộc sống bình thường hằng ngày của mình, để trong sinh hoạt bình thường ấy, người ta có thể gặp được những tín hiệu dẫn đưa đến Thiên Chúa, đó là ánh sao của cho đi, của quên mình, của bác ái, của phục vụ… những ánh sao đó có sức tỏa sáng, giúp người ta nhận ra Thiên Chúa, nhận ra tình thương của Ngài.
Theo truyền thống chúng ta vẫn gọi là lễ Ba Vua. Truyền thống nói rằng họ là những vị vua: HiểnLinh ABC100
Theo truyền thống chúng ta vẫn gọi là lễ Ba Vua. Truyền thống nói rằng họ là những vị vua dựa trên ba của lễ mà Thánh Kinh nói đến. Vàng biểu tượng của lòng trung thành. Nhũ hương biểu tượng của niềm hy vọng. Và mộc dược biểu tượng của sự hy sinh. HiểnLinh ABCđó là Balthasar da đen, vua của Arabia. Melchior già hơn, tóc hoa râm, vua xứ Persia. Caspar trẻ hơn, không có râu quai nón là vua của India. Truyền thống còn nói họ cưỡi trên những con lạc đà. Dĩ nhiên, Thánh Kinh không nói gì về những điều này !
Sách Giáo lý Công giáo nói rằng : “Lễ Hiển Linh là sự Chúa Giêsu được bày tỏ là Đấng Messia của Israel, là Con Thiên Chúa và là Chúa Cứu Thế. Cùng với phép rửa của Chúa Giêsu tại sông Giođan và tiệc cưới tại Cana, lễ Hiển Linh cử hành việc các đạo sĩ từ phương Đông đến thờ lạy Chúa Giêsu. Nơi các vị đạo sĩ này, những đại diện của các tôn giáo ngoại giáo ở vùng đó, Phúc âm đã nhận ra những hoa trái đầu mùa của các dân ngoại đón nhận Tin Mừng ơn cứu độ của mầu nhiệm nhập thể. Sự các đạo sĩ tới Giêrusalem “để tỏ lòng tôn kính vua của người Do Thái” đã cho thấy rằng, theo sự hướng dẫn của ánh sao Messia của nhà Đavid, các ông đến tìm tại Israel Đấng sẽ là vua của muôn dân”.
Chúng ta đã mừng lễ Giáng sinh và đang bước qua thềm năm mới. Cũng như các đạo sĩ, chúng ta tự hỏi mình xem đang đi tìm kiếm sự gì trong năm mới này ? Sức khoẻ tốt hơn ? Nhiều tiền bạc hơn ? Nghề nghiệp vững chắc hơn ? Gia đình hạnh phúc hơn ? Hôn nhân ? Tình yêu ? Nghề nghiệp ? Bằng cấp ? Sự bình an trong tâm hồn?
Dĩ nhiên đó là những mục đích chính đáng để tìm kiếm trong năm mới, nhưng ta phải xét xem giá trị nào là ưu tiên, cái nào là thứ yếu. Trong khi lựa chọn và tìm kiếm ta nên bắt chước thái độ khôn ngoan và tâm hồn của các nhà đạo sĩ.
I. Thái độ khôn ngoan của các nhà đạo sĩ :
A. Nhìn vào ngôi sao chỉ đường: “Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông Phương, và chúng tôi đến triều bái Người”.
Khi nhìn thấy ánh sáng của ngôi sao, các ngài nhìn lên nó và bước theo. Nhìn lên là cái nhìn với lòng hướng thượng, khát khao sự hoàn hảo. Nhìn vào ánh sáng là nhìn vào những ưu điểm, những điểm tốt mà học hỏi, bước theo.
Trong cuộc sống, chúng ta thường có thói quen nhìn xuống, nhìn vào những khó khăn, cản trở, và khuyết điểm rồi thối chí với thái độ bi quan tiêu cực. Hãy học hỏi nơi các nhà đạo sĩ. Chỉ nhìn vào một ngôi sao chiếu sáng mà các ngài đã tìm ra con đường dẫn tới Đấng Cứu Tinh.
Một bài ca – nhóm lên tia lửa Một bông hoa – khơi dậy giấc mơ Một cây cỏ – kiến tạo khu rừng Một con chim – tin mừng mùa xuân Một nụ cười – tình bạn liên kết Một siết tay – tâm hồn nâng cao Một vì sao – dẫn đường tàu biển Một lời nói – mục đích tạo nên. Một lá phiếu – đổi thay chế độ Một ánh sáng – tỏa khắp gian phòng Một ánh đèn – quét sạch tối tăm Một tiếng cười – chinh phục buồn căm. Một nhịp bước – khởi sự hành trình Một lời kinh – bắt đầu cầu nguyện Một hy vọng – nêu cao thần khí Một tiếp xúc – biểu lộ chăm lo. Một tiếng nói – thể hiện khôn ngoan Một con tim – cảm thông chân thật Một cuộc đời – làm nên khác biệt Bạn thấy đó – tùy thuộc bạn thôi ! (Lệ Hằng chuyển ngữ)
B. Lắng nghe các ý kiến: “Vua người Do Thái mới sinh ra hiện đang ở đâu ?” Các nhà đạo sĩ đã bàn hỏi với vua Hêrôđê : “Vua đã triệu tập tất cả các đại giáo trưởng và luật sĩ trong dân, và hỏi họ cho biết nơi mà Đức Kitô sinh hạ”.
Nhưng trước khi đến gặp vua Hêrôđê, các ngài đã nghiên cứu tìm hiểu, lắng nghe dư luận, và đặc biệt lời Chúa nói trong Thánh Kinh.
Ước gì trong năm mới, và trong suốt cuộc đời, chúng ta cũng biết lắng nghe tiếng Chúa như lời ca trong bài hát “Xin cho con biết lắng nghe, lời Ngài dạy con trong đêm tối. Xin cho con biết lắng nghe lời Ngài dạy con lúc lẻ loi… Lời Ngài là sức sống của con. Lời Ngài là ánh sáng đời con…”
C. Hành động đúng: “Nghe nhà vua nói, họ lên đường”. “Khi tiến vào nhà, họ đã gặp thấy bà Maria mẹ Người, và họ đã quỳ gối xuống, sụp lạy Người”.
Điều đầu tiên là các ngài quỳ gối xuống và thờ lạy Hài Nhi là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế. Các nhà đạo sĩ, như một nhóm người gồm các sắc tộc, đại diện cho cộng đồng nhân loại, hiệp nhất trong một đức tin, cùng nhau thờ lạy Thiên Chúa.
II. Tâm hồn của các đạo sĩ :
“Làng tôi có bụi tre cao ngất trời xanh, có sông sâu lơ lửng uốn quanh. Đồng quê, mơ màng…” “Làng tôi không có cây đa, mà có bụi tre già lão, tuổi đã mấy chục năm. Bụi tre gai, cách nhà ông bà nội tôi khoảng ba trăm thước. Bụi tre cao gần ba chục thước, cao hơn cây xoài thanh ca, vượt lên trên gốc long nhãn, bụi tầm vông, cây mận da người… Mỗi khi đi xa về, từ mặt sông cái, trên chuyến đò đầy, tôi luôn nhận ra bụi tre trước nhất”.
Cây tre rất gần gũi với đời sống người dân ở nông thôn Việt Nam. Đối với họ, sau cây lúa, tre là thực vật hữu dụng nhất. Vì thế, tre được trồng xung quanh vườn của gia đình, vừa làm hàng rào, vừa để sử dụng. Cây tre đa dụng tới nỗi khó mà đếm được xem có bao nhiêu vật dụng làm bằng tre. Kèo, đòn tay, vách, phên, cửa sổ, nong nia, ống đũa, chiếc điếu cày, lạt lợp nhà, đũa ăn cơm, tăm xỉa răng, ống thổi lửa, thúng giê, thúng giạ, cán dao, cái rổ, cái rế, cầu ao, chuồng heo, cột nhà… kể không xiết ! Ngoài cái đa dụng, cây tre, cây trúc còn mọc thẳng đứng, vươn lên cao vút trong bầu trời. Nhà thơ Dương Minh Tử, người Trung Hoa đã ví cây trúc với người quân tử : “Trúc hữu quân tử chi đạo” – “Cây trúc có đạo người quân tử”.
Nhìn thấy cái đa dụng và cao thượng của tre nhưng ít khi ta biết đến sự phát triển của một cây tre ra sao ? Tre được du nhập vào Việt Nam từ hồi nào không ai hay biết. Từ một bụi gốc tre giống được trồng xuống, tưới nước và bón phân, khoảng mấy năm đầu tiên, không trông thấy một sự phát triển nào rõ rệt. Thế nhưng bước sang năm thứ năm, cây tre sẽ mọc lên rất cao khoảng hai ba chục mét trong vòng sáu tuần lễ. Có phải cây tre phải mất năm năm để bắt đầu mọc lên không ? Không !
Mặc dù ta không trông thấy sự phát triển của nó, nhưng cả một hệ thống gốc rễ đã ăn sâu đậm vào lòng đất trong bốn năm đầu, tạo nên một sức sống mạnh mẽ để cây tre có thể phát triển mau chóng ở năm thứ năm. Rễ tre ăn rất sâu vào lòng đất, nên hủy diệt một bụi tre không phải là việc dễ làm ! Cây tre có thể đội xi măng mà chui lên nếu vẫn còn rễ.
Để chỉ về sự sống bền bỉ của gốc rễ tre, có một câu đố như sau : “Ông già ông chết đã lâu. Con mắt thao láo hàm râu vẫn còn”. Hỏi là cây gì ? Đó là gốc rễ tre.
Tiến trình gặp gỡ Đức Kitô của các đạo sĩ cũng không phải một sớm một chiều. Giống như rễ tre ăn sâu vào lòng đất, tâm hồn các ngài cũng đã bám sâu vào cõi tâm linh. Trước khi nhìn thấy ngôi sao, các ngài đã phải nghiên cứu qua sách vở với những kiến thức về thánh kinh và tôn giáo. Từ sự hiểu biết đi đến lòng khao khát chờ mong một Đấng cứu tinh đã được ôm ấp lâu ngày trong tâm hồn. Rồi khát vọng dâng trào trong tim đã hối thúc các ngài phải thực hiện cuộc hành trình ngay từ khi nhìn thấy ngôi sao lạ xuất hiện.
Ngôi sao xuất hiện cũng mới chỉ là khởi đầu cho một cuộc hành trình dài và gian khổ trong sa mạc, với cái nóng lạnh cực độ, đói khát, ốm đau bệnh tật cùng với bao nhiêu vất vả khổ cực khác. Con đường tìm đến chân lý bao giờ cũng là con đường cô đơn, chông gai, đầy hy sinh và từ bỏ . Thật là thích đáng nếu dùng hình ảnh của một bụi tre làm biểu tượng cho các nhà đạo sĩ Đông phương đến thờ lạy Chúa Hài Đồng trong thánh lễ hôm nay. Các ngài là những người quân tử Đông phương. Tâm hồn các ngài như rễ tre bám rất sâu vào lòng đất tâm linh, nhờ đó nó mới vươn lên cao vút trong khung trời chân lý được.