Suy Niệm Tin Mừng Lễ Thánh Gia ABC Bài 101-150 Thánh Gia, một gia đình gương mẫu về mọi mặt.
------------------------- Năm A:
Lời Chúa: Mt 2, 13-15. 19-23: Hãy đem Con Trẻ và mẹ Người trốn sang Ai-cập
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. Khi các đạo sĩ đã đi rồi, thiên thần Chúa hiện ra với ông Giuse trong lúc ngủ và bảo ông: "Hãy thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và ở đó cho tới khi tôi báo lại ông, vì Hêrôđê sắp sửa tìm kiếm Hài Nhi để sát hại Người". Ông thức dậy, đem Hài Nhi và mẹ Người lên đường trốn sang Ai-cập đang lúc ban đêm. Ông ở lại đó cho tới khi Hêrôđê băng hà, hầu làm cho trọn điều Chúa dùng miệng tiên tri mà phán rằng: "Ta gọi con Ta ra khỏi Ai-cập". Bấy giờ Hêrôđê thấy mình bị các đạo sĩ đánh lừa, nên nổi cơn thịnh nộ và sai quân đi giết tất cả con trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo thời gian vua đã cặn kẽ hỏi các đạo sĩ. Thế là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia đã nói: Tại Rama, người ta nghe những tiếng khóc than nức nở, đó là tiếng bà Rakhel than khóc con mình, bà không chịu cho người ta an ủi bà, vì các con bà không còn nữa.
Khi Hêrôđê băng hà, thì đây thiên thần Chúa hiện ra cùng Giuse trong giấc mơ bên Ai-cập và bảo: "Hãy chỗi dậy, đem Con Trẻ và mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm hại mạng sống Người đã chết". Ông liền chỗi dậy, đem Con Trẻ và mẹ Người về đất Israel. Nhưng nghe rằng Arkhêlao làm vua xứ Giuđa thay cho Hêrôđê là cha mình, thì Giuse sợ không dám về đó.
Ðược báo trong giấc mộng, ông lánh sang địa phận xứ Galilêa, và lập cư trong thành gọi là Nadarét, để ứng nghiệm lời đã phán qua các tiên tri rằng: "Người sẽ được gọi là Nadarêô".
Năm C:
Phúc Âm: Lc 2,41-52: "Hai Ông Bà gặp Chúa Giêsu đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. Hằng năm cha mẹ Chúa Giêsu có thói quen lên Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua. Lúc bấy giờ Chúa Giêsu lên mười hai tuổi, cha mẹ Người đã lên Giêrusalem, theo tục lệ mừng ngày lễ Vượt Qua. Và khi những ngày lễ đã hoàn tất, hai ông bà ra về, trẻ Giêsu đã ở lại Giêrusalem mà cha mẹ Người không hay biết. Tưởng rằng Người ở trong nhóm các khách đồng hành, hai ông bà đi được một ngày đàng, mới tìm kiếm Người trong nhóm bà con và những kẻ quen biết. Nhưng không gặp thấy Người, nên hai ông bà trở lại Giêrusalem để tìm Người. Sau ba ngày, hai ông bà gặp thấy Người trong đền thờ đang ngồi giữa các thầy tiến sĩ, nghe và hỏi các ông. Tất cả những ai nghe Người nói đều ngạc nhiên trước sự hiểu biết và những câu Người đáp lại. Nhìn thấy Người, hai ông bà đã ngạc nhiên, và mẹ Người bảo Người rằng: "Con ơi, sao Con làm cho chúng ta như thế ? Kìa cha Con và mẹ đây đã đau khổ tìm Con". Người thưa với hai ông bà rằng: "Mà tại sao cha mẹ tìm Con ? Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư ?" Nhưng hai ông bà không hiểu lời Người nói. Bấy giờ Người theo hai ông bà trở về Nadarét, và Người vâng phục hai ông bà. Maria mẹ Người ghi nhớ những việc đó trong lòng. Còn Chúa Giêsu thì tiến tới trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng, trước mặt Thiên Chúa và người ta. - Ðó là Lời Chúa. ---------------------------------------
Hôm nay lễ Gia đình Thánh Gia Nazareth, la ngày lễ thánh hóa các gia đình Công Giáo. Chúng ta hãy lắng nghe lời Đức Giáo Hoàng Phaolô đệ lục nhắn nhủ chúng ta sau đây:
Nazareth là trường học đầy tín nhiệm, chính nơi đây các con học được chính cách sống của Chúa Giêsu và các con hiểu hơn về những gì Ngài đã dạy trong Phúc Âm. Chính nơi đây các con có thể quan sát và cân nhắc về lối sống đơn thành của Con Thiên Chúa dấu ẩn những ý nghĩa cao thẳm Ngài muốn thể hiện nơi trần gian, Ngài muốn các con chiêm ngắm và thực hành.
Chính nơi gia đình Nazareth các con thực sự biết Chúa Kitô thế nào, các con thực sự cảm nghiệm và sống cho gia đình nơi dương thế. Nơi thể hiện đầy đủ thời giờ cho nhau, của cải cho nhau, tình thương cho nhau, nơi thể hiện đầy đủ ngôn ngữ, văn hóa, phong tục, tôn giáo.... Tất cả được gồm tóm nơi trường học gia đình, mà Chúa Giêsu đã thực sự sống theo kiếp sống con người, và chính nơi gia đình Nazareth cũng đã lột lại hết mọi ý nghĩa ấy.
Chính nơi gia đình này, chúng con học được cả tinh thần tông đồ, khi chúng con thực sự muốn nên môn đệ gieo vãi Tin Mừng, gieo vãi niềm vui, gieo vãi hy sinh, gieo vãi dấn thân, gieo vãi bác ái đồng loại, gieo vãi lòng đạo đức, và gieo vãi chính tinh thần Chúa, cho mọi người trong gia đình con nữa. Lời Chúa qua Phúc Âm cũng chỉ dạy như vậy.
Nhiều lúc cha muốn trở lại thành con trẻ, trở lại tuổi trẻ của mình xưa kia, để được tham gia vào những hoạt động thánh thiện của gia đình chúng ta, của gia đình Nazareth, để được gần Đức Mẹ Maria, gần người mẹ, mà học lại những bài học đầy nhiệt tâm của mẹ mình truyền thụ. Gần người cha để thực tập những bài học quí báu của trường đời cha đã từng trải. Gần người anh, người chị để học lại lối sống đạo sốt sáng, anh chị đã học được nơi trường học Công Giáo, nơi các cha, các soeurs, nơi sách Phúc Âm Thánh.
Nền giáo dục gia đình quan trọng chừng nào! Tuy cha không trở lại được tuổi trẻ, cũng như nhiều các con đã quá tuổi thơ mộng ấy, nhưng bài học gia đình không bao giờ chấm dứt cả. Còn học và học mãi. Khi nhìn lại máng cỏ, nhìn lại căn nhà Nazareth, cha cũng như các con chắc chắn sẽ mang theo hình ảnh của gia đình này về nhà, suy niệm và thực hành nơi gia đình chúng ta.
Trước hết, các con hãy đem bầu khí yên tĩnh của gia đình Nazareth về. Cái yên lặng của gia đình dạy chúng con bài học an bình thoải mái. Đêm an bình Nazareth đã mở ra, nhắc các con làm an bình cho nhau, đừng để xáo trộn nếp sống tốt đẹp của gia đình. Giữ nếp sống yên lặng gia đình, giúp chúng con biết hướng lòng về với Chúa. Cảm nghiệm được Thiên Chúa ngự trong gia đình.
Điều thứ hai, chúng con hãy học nơi nếp sống gia đình Nazareth gương mẫu sự thánh thiện của mỗi tâm hồn: Mọi người đều biết lo cho nhau, chia sẻ cho nhau tình người qua việc săn sóc, giúp đỡ, vâng lời, yêu mến, nhường nhịn, kính trên nhường dưới, hòa bình trong gia đình là ở đó.
Điều cuối cùng các con học nơi gia đình Nazareth là sự làm việc và thương yêu. Mẹ Maria, Thánh Giuse, Chúa Giêsu làm việc luôn, không ai quên nhiệm vụ mình phải làm. Không ai ỷ lại vào người khác. Chu toàn nhiệm vụ, chính là gương mẫu tuyệt hảo, để đánh giá trị cho cuộc sống mai sau đó các con ạ.
Một lần nữa, cha nhắc lại với các con: Làm trọn nhiệm vụ mình trong gia đình là một việc bác ái cao cả với chính bản thân mình. Và hữu ích hơn nữa, khi các con làm thay cho người khác nữa. Đó là đặc tính của Đức Ái Công Giáo. Đức Tính của hòa bình.
Để kết luận, cha nhắc các con gắng nhìn sâu vào: Nếp sống gia đình Nazareth, vì nơi đây không có gì khác gia đình chúng con đang sống đâu. Chỉ khác ở chỗ gia đình an hòa trong yên tịnh, gia đình bác ái trong phục vụ, chia sẻ. Gia đình yêu thương trong thánh thiện đạo đức. Chúa Giêsu, Mẹ Maria, Thánh Giuse là thầy, là Chúa, là Mẹ chúng ta đã làm gương rồi đó.
Áp dụng vào cuộc sống, chúng ta hãy học nơi gia đình Nazareth gương sống: An hòa trong yên tịnh. Bác ái trong việc phục vụ nhau, và Yêu thương nhau trong đời sống thánh thiện đạo đức.
Đọc lại sách Sáng Thế, ta thấy gia đình ông bà Ađam và Evà đã sống không đúng đường lối Chúa muốn, vì thế gia đình ông bà tổ tiên bị xáo trộn. Chúa Giêsu đã chọn một gia đình để sinh ra, Ngài đã làm cho gia đình trần thế có một ý nghĩa cao vời, sâu xa. Chúa đã không đến thế giới, đến gian trần này như các vị tiên giáng thế, dù rằng Ngài có thể làm điều đó và dễ dàng làm điều đó. Nhưng Chúa Giêsu đã chọn một gia đình như mọi người, nghĩa là Ngài cũng có mẹ, có cha vì Ngài đã sống thật kiếp người ngoại trừ tội lỗi. Hôm nay, Giáo Hội mừng kính lễ thánh gia thất. Hội Thánh muốn đề cao gia đình thánh Giuse, mẹ Maria và thánh Giuse như mẫu gương cho mọi gia đình Kitô giáo. Gia đình thánh là ai? nhân loại có thể học được gì nơi gia đình thánh gia?
I. GIA ĐÌNH THÁNH:
Nhìn vào gương gia đình thánh, nhân loại sẽ thấy có một điều rất lạ lùng: Chúa Giêsu là Chúa, Ngài đã chấp nhận đến trong một gia đình và khi đã có một gia đình để sống kiếp làm người, Chúa Giêsu đã sống hoàn toàn con người của mình. Ngài đã sống tôn trọng cha mẹ của Ngài. Chúa Giêsu quả đã làm gương cho ta về sự hiếu thảo của Ngài đối với thánh Giuse và mẹ Maria.
Ngài đã làm nổi bật điều răn thứ bốn trong mười thập giới của Thiên Chúa. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Alpha và Oméga, nghĩa là Đầu và Cuối, Chúa là nguồn mạch sự sống, Ngài đến để ta được sống và sống dồi dào( Ga 1,4 ). Chúa Giêsu đã sống những ngày trong gia đình Nagiarét với tất cả lòng yêu mến, kính trọng, Ngài đã sống phó thác, yêu thương, khiêm nhu, vâng lời cha mẹ. Còn Maria là Mẹ Thiên chúa, là Nữ vương các thiên thần và các thánh, Mẹ cũng là Mẹ nhân loại và Mẹ mỗi người chúng ta. Mẹ đã giữ vai trò hết sức khiêm tốn trong gia đình thánh gia. Mẹ đã làm nghề nội trợ, đã yêu thương Chúa Giêsu và thánh Giuse với tất cả con người đơn sơ của mình. Mẹ luôn sống hy sinh, quảng đại, xả thân vì gia đình. Mẹ luôn luôn hiền lành và phục vụ thánh Giuse, Chúa Giêsu một cách hết sức chu đáo và không bao giờ quản ngại khó khăn, nguy khốn.
Thánh Giuse đã được nhìn tận mắt, sờ tận tay điều mà các ngôn sứ và các tổ phụ khi xưa hằng mong đợi. Thánh Giuse đã dưỡng nuôi, bảo vệ Chúa Giêsu. Người đã hoàn thành trách nhiệm Thiên Chúa Cha trao phó một cách xuất sắc và tốt đẹp nhất. Nhìn chung gia đình thánh gia ba Đấng tuy là ba bậc đại thánh không ai có thể sánh ví, nhưng ba Đấng đã sống tôn ty trên thuận dưới hòa và hoàn toàn tin tưởng nhau.
II. NHÂN LOẠI HỌC ĐƯỢC GÌ NƠI GIA ĐÌNH THÁNH ?
Dưới lăng kính nhân loại, gia đình Nagiarét là gia đình khó nghèo, nhưng nhìn về siêu nhiên, ta có thể hiểu rõ rằng gia đình Nagiarét là một gia đình lý tưởng cho mọi gia đình vì nơi gia đình này ta bắt gặp sự trinh khiết, trong trắng của ba Đấng sự trong trắng mà Chúa Giêsu đã dậy:” Phúc cho những ai có tấm lòng trong sạch vì họ sẽ được xem thấy Thiên Chúa”( Mt 5, 8 ).Gia đình thánh gia có đủ mọi nhân đức.Cả ba Đấng đều rất cao trọng nhưng cả ba đều sống khiêm tốn, vâng phục vì cả ba Đấng đều tìm thánh ý Thiên Chúa trên hết mọi sự. Ba Đấng đều sống khó nghèo, đều hoàn toàn sống theo ý Chúa. Gia đình thánh gia lúc nào cũng có Chúa hiện diện và như thế cảnh gia đình thánh là cảnh thiên đàng. Gia đình thánh luôn sống hòa thuận yêu thương nhau và như thế, gia đình thánh luôn sống tình bác ái thẩm sâu, luôn quên thân mình để nghĩ đến người khác. Tất cả ba Đấng đều sống theo địa vị mình: thánh Giuse âm thầm làm việc để lo lắng cho gia đình, mẹ Maria làm nghề nội trợ phục vụ thánh Giuse và Chúa Giêsu; Chúa Giêsu luôn ngoan hiền, vâng phục, hiếu thảo với cha mẹ và san sẻ gánh nặng với cha mẹ mình. Nơi gia đình Nagiarét, nhân loại còn học được ý nghĩa của sự cần cù lao động: những giọt mồ hôi của thánh Giuse, mẹ Maria và Chúa Giêsu đổ ra có giá trị cứu rỗi, góp phần vào việc cộng tác với cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá và mang cho nhân loại sự hạnh phúc tuyệt vời. Gia đình thánh gia quả đã nêu gương cho nhân loại về một mẫu gia đình hoàn hảo nhất trong mọi nhân đức và đặc biệt trong việc tuân theo ý Chúa.
Lạy Chúa, Chúa đã muốn đề cao thánh gia như tấm gương sáng lạn để mọi người bắt chước. Xin làm cho chúng con cũng biết noi gương để ăn ở đúng lễ nghĩa gia phong, sống đùm bọc lẫn nhau trong tình yêu mến, hầu được chung hưởng niềm an vui vĩnh cửu trong nhà Chúa trên trời( Lời nguyện nhập lễ, lễ thánh gia thất).
GỢI Ý CHIA SẺ:
1. Bạn nghĩ gì về gia đình Thánh Gia: Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse ?
2. Chúa Giêsu giữ vai trò gì trong gia đình Thánh Gia ?
3. Ba Đấng đã sống thế nào ? Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Hôm nay là Chúa Nhật Lễ Thánh Gia Thất. Nhưng hôm nay cũng là Chúa Nhật trong tuần Bát Nhật Giáng Sinh. Nghĩa là niềm vui tưng bừng, một niềm vui cả thể; đó cũng là một niềm vui thánh thiện, vẫn còn đó và ngự trị trong lòng người thật rộn ràng và thật mênh mang. Một niềm vui trọng đại mà nếu chỉ bằng lời, không diễn tả nỗi, chỉ có bằng Đức Tin mới có thể cảm nhận thấm thía và thấu hiểu. Bởi từ những lời Kinh Thánh đến Phụng Vụ của Giáo Hội; từ tâm thức của Giáo Hội đến đời sống của xã hội đều nhìn Mùa Giáng Sinh bằng ánh mắt của vui tươi. Niềm vui ấy đối với đa số người hình như còn lấn át cả đêm phục sinh.
Không biết tôi có bi quan quá không, khi trong không khí hòa chan của niềm vui lớn lao ấy, tôi lại nói đến “Thập giá trong Thánh Gia”. Dẫu sao đó cũng là một sự thật. Dù là Mùa Giáng Sinh hay Mùa Phục Sinh đi nữa, thập giá vẫn mang nhiều ý nghĩa không dễ gì bỏ qua hay tránh né... Và hiểu được ý nghĩa của thập giá cần cho đời người, thập giá làm cho đời ta sinh sản thêm nhiều hoa trái thánh thiện, và hiểu rằng thập giá luôn luôn có mặt trong cuộc đời, cho dù Mùa Giáng Sinh, hay Phục Sinh, thì thập giá phải được nêu cao. Đàng khác, thập giá có mặt trong Thánh Gia là một thực tế không thể chối cãi, thì thập giá ấy cần nhắc nhở mọi nơi mọi lúc, để dù đang sống trong Mùa Phụng Vụ nào, ta đều có thể học lấy bài học xin vâng của Thánh Gia.
Bạn ạ, nếu hiểu thập giá là đau khổ, là sự bất an trong đời sống, thì ngay khi Chúa Giê-su vừa nhập thể trong lòng Đức Ma-ri-a, thập giá lập tức xảy ra ngay trong Thánh Gia. Đọc lại những trang Tin Mừng, ta sẽ nhận ra điều đó. Tin Mừng Thánh Lu-ca và Thánh Mát-thêu cho biết, khi mà niềm vui được làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Ma-ri-a nhờ thiên thần Gáp-ri-en loan báo, còn đang nóng bỏng, và nét ngạc nhiên trong lòng cũng như trên khuôn mặt rạng ngời của Mẹ còn chưa tan hết, thập giá đã bắt đầu. Thánh Giu-se đang âm thầm nghi ngờ bào thai mà Mẹ mang nơi lòng dạ mình. Quyết định bỏ đi một cách âm thầm của Thánh Giu-se, tuy là cách giải quyết khôn ngoan và tốt đẹp cho Đức Ma-ri-a, nhưng chắc chắn, Mẹ không khỏi không hoang mang, không suy nghĩ.
Và từng giai đoạn, từng biến cố trong cuộc đời của Chúa Giê-su, dấu ấn của thập giá ngày càng lớn hơn và rõ dần hơn. Thập giá mà Chúa Ki-tô đã chấp nhận từ thủơ đầu đời của mình cũng chính là thập giá mà Chúa mang đến trong gia đình mình.
Hôm nay, chúng ta tưng bừng cử hành lễ Sinh Nhật Chúa Giê-su trong niềm vui, trong ơn thánh, trong lòng mến và sự thánh thiện... Nhưng để có tất cả những điều ấy, ta phải hiểu rằng, hơn hai ngàn năm trước đây, Thánh Gia đã phải long đong biết bao nhiêu. Khi mà bào thai trong lòng Đức Mẹ đã gần đến những ngày cuối cùng để chuẩn bị chào đời, thì chính lúc ấy, hoàng đế ban hành lệnh kiểm tra dân số. Trên đường trở về quê hương của Thánh Giu-se xa xôi, và chắc chắn con đường ấy không hề là con đường nhựa trơn tru như chúng ta ngày nay, nhưng sẽ là con đường lắm gồ ghề. Thánh Giu-se đã đưa Đức Mẹ ra đi trở về quê trong những điều kiện như thế.
Rồi chuyện gì đến đã đến. Đức Mẹ đã tới hồi sinh nỡ. Có người mẹ, người cha nào vui được khi nhìn cảnh con mình sinh ra trong những điều kiện quá sức hèn hạ. Làm sao ta có thể hiểu được, nơi loài cầm thú sinh sống chính là nơi Con Thiên Chúa giáng trần. Chắc Đức Ma-ri-a và Thánh Giu-se cũng không hiểu hết sự nhiệm mầu của cái nghèo mà Thiên Chúa dành lấy cho mình. Làm sao có thể tưởng tượng nỗi, Đấng Thiên Chúa cao sang là thế, lại chấp nhận hóa thai trong lòng một thụ tạo do chính mình làm ra. Càng không sao hiểu nổi, Đấng là Thiên Chúa, lại chối từ tất cả, đến cả những gì căn bản nhất cho một con người khi sinh ra, để làm người, sống và chết. Chúa Ki-tô chấp nhận thập giá đến cùng tận, đến mức hoàn hảo tuyệt đối ý nghĩa của thập giá.
Và bước theo Chúa Ki-tô, tưởng được làm Mẹ Thiên Chúa, làm người cha che chở bảo bộc Thiên Chúa làm người, Đức Ma-ri-a và Thánh Giu-se có tất cả mọi vinh quang, danh dự và quyền thế. Nào ngờ vinh quang ấy chính là vinh quang thập giá, danh dự ấy chỉ có thể là danh dự khi cùng ghé vai với con mình vác thập giá. Và quyền thế mà Đức Ma-ri-a và Thánh Giu-se chỉ có thể có được, đó là cùng với con tiến đến vinh quang thập giá.
Đến lúc Hài Nhi Giê-su vừa giáng sinh, khi mà tiếng hát của thiên thần: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” còn chưa dứt, thì Đức Ma-ri-a cùng thánh Cả Giu-se đã phải ôm con chạy trốn vì bạo vương Hêrôđê tìm giết hại. Bình an của lễ Giáng sinh, được công bố, vốn đã ngược đời khi mà người ta nhìn vào hang đá và nhận ra tất cả sự nghèo rách của Gia Đình Thánh, lại càng mâu thuẫn hơn khi biết Gia Đình Thánh hãi hùng trước sự đe dọa và rượt đuổi của bạo quyền. Hóa ra bình an mà Thiên Chúa trao ban không bao giờ là bình an theo suy nghĩ của chúng ta. Đó là bình an của người sống phó thác đời mình cho Chúa, bình an của những tâm hồn biết sống cùng Chúa để được cùng Người vác thập giá. Bình an ấy chính là thái độ nội tâm của người vâng theo ý Chúa.
Và hôm nay, trong Lễ Thánh Gia Thất, một lần nữa chúng ta lại suy niệm biến cố lạc mất con trong đền thờ. Có người cha, người mẹ nào lại không lo âu, sợ hãi đến mức kinh hoàng vì bỗng dưng không thể thấy con mình. Nỗi kinh hoàng đó, Đức Ma-ri-a và Thánh Giu-se đã phải chịu đựng không phải trong vài giờ đồng hồ, nhưng là ba ngày trời. Dẫu vất vả, long đong, cộng với đường xa mệt mỏi để tìm con, đối với Đức Mẹ và Thánh Giu-se lúc ấy, chắc chắn sẽ không lớn bằng nỗi lo lắng, hoang mang, sợ hãi mà các ngài dành cho người con một dấu ái của mình. Thập giá đã đến, vẫn đến trong lòng của một gia đình không chỉ thánh thiện mà còn rất thánh.
Và các thành viên trong Gia Đình Thánh vẫn tiếp tục vác thập giá để theo Chúa Ki-tô trong suốt cuộc đời của Người. Người Con ấy càng lớn lên, thập giá càng trở nên rõ nét và nặng nề hơn theo sứ vụ mà Người Con ấy phải cưu mang. Nhất là trong biến cố Can-va-ri-ô, một Ma-ri-a dưới chân thập giá, hiện diện từ đầu cuộc hành hình mà người ta dành cho con mình, đã không thể thốt lên một lời nào. Sự im lặng giữa những tan thương ấy là sự im lặng của một tâm hồn tan lòng, nát cõi.
Thập giá của Chúa Giê-su quá lớn lao. Và người môn đệ của Chúa cũng sẽ là người vác thập giá bước đi bên cạnh Người bằng thái độ vâng phục, dẫu có nặng nề cách mấy.
Khó khăn của gia đình hôm nay cũng chính là thập giá mà mỗi gia đình phải mang, phải gánh. Vác thập giá và xin vâng theo thánh ý Chúa, chúng ta sẽ là những con người thuộc về Chúa hơn. Thánh Gia đã chấp nhận thánh ý Thiên Chúa bằng tất cả thái độ nội tâm ấy: không một lời than oán, không một thái độ kêu trách, nhưng chỉ có lòng phó thác và xin vâng. Xin Chúa ban cho tất cả chúng ta, và mọi thành viêng trong gia đình những thái độ nội tâm đáng quý ấy. Xin Chúa chúc lành và ban bình an cho các gia đình, để các gia đình sẵn lòng đón nhận thập giá Chúa trao gởi.
Phúc Lành và Bình An của thập giá mà chúng ta vừa nguyện xin ấy, đó chính là lòng khao khát của mỗi người, khao khát mãnh liệt của các gia đình. Khao khát Chúa đến và khao khát để được bước đi cùng Người, đồng hành với Người như Mẹ Ma-ri-a và như Thánh Giu-se.
Niềm khao khát cháy bỏng ấy, Đức Cha JB. Bùi Tuần đã diễn tả trong bài “Đón mừng Chúa giáng trần với lòng khao khát” ( CG và DT, số đặc biệt Mừng Chúa Giáng Sinh 2004 ). Ta hãy học lấy tâm tình của Đức Cha: “Tôi khao khát Chúa đến. Không phải đến trong các Nhà Thờ, trong các máng cỏ, nhưng đến với mỗi người. lòng chúng ta sẽ thay cho máng cỏ hang đá. Chúng ta có thể thắp sáng lên bên cạnh Chúa Hài đồng ba ngọn nến: Một ngọn mang lửa sám hối – Một ngọn mang lửa vâng lời – Một ngọn mang lủa truyền giáo. Riêng với tôi, ba cây đèn cầy đó là rất bé nhỏ. Nhưng hy vọng đó sẽ là của lễ thành kính tôi khao khát được Chúa Hài đồng chấp nhận”.
Có một truyền thuyết xa xưa về cuộc chạy trốn của Thánh Gia sang Ai Cập như sau: giữa một cuộc hành trình các ngài gặp phải một lũ cướp và bị chúng bao vây. Vừa khi nghe chúng nhào tới tính trấn lột đôi vợ chồng trẻ, thì một đứa trong bọn tên là Dismas nhận ra tay Đức Maria có ẵm một hài nhi. Hắn quá xúc động trước vẻ mặt hài nhi Giêsu, nên đã khuyên can đám cướp để cho các ngài được an toàn ra đi. Trước khi cả bọn rút lui, Dismas nghiêng mình trên hài nhi Giêsu và nói: “Xin hãy nhớ đến tôi và đừng bao giờ quên giờ phút này”. Truyền thuyết kể rằng về sau tên cướp ấy đã trở thành tên trộm lành bị đóng đinh cùng với Chúa Giêsu và chính Ngài đã nói với hắn rằng: “Hôm nay đây ngươi sẽ ở cùng Ta trên nước Thiên Đàng”. (Lc 23: 43)
Dĩ nhiên đây chỉ là một truyền thuyết có lẽ đã chẳng xảy ra. Tuy nhiên nó bộc lộ cho thấy hai điều quan trọng. Thứ nhất là khi trốn chạy sang Ai Cập, Thánh Gia đã gặp phải nhiều nguy hiểm. Thời xưa, hầu hết mọi người đều đi thành từng đoàn đông đúc vì nhiều con đường bị lũ cướp kiểm soát. Điên rồ lắm mới đi một mình, trừ khi nguy cấp giống trường hợp Thánh Gia mà thôi. Thứ đến, truyền thuyết trên còn đề cao sự quan phòng đặc bịêt của Chúa đối với Thánh Gia lúc Chúa Giêsu vừa mới chào đời. Thánh sử Matthêu kể rằng đang khi thánh Giuse ngủ, một thiên thần Chúa đã truyền lệnh cho ngài trốn sang Ai Cập và sau đó một thiên thần lại truyền cho ngài trở về khi tình hình đã lắng yên.
Chúng ta hãy lưu tâm tới điểm thứ hai nói về vị thiên thần lãnh nhiệm vụ che chở đặc biệt cho Chúa Giêsu. Thiên thần ấy là ai?
Ngày nay, khi nhắc đến từ ngữ Thiên Thần có lẽ mỗi người hiểu một cách khác nhau. Khán giả xem truyền hình có lẽ sẽ nghĩ rằng chúng ta đang nói đến một chương trình truyền hình hấp dẫn của Michael Landon. Chương trình này mang tên “Highway to heaven (xa lộ về trời). Trong đó Landon đóng vai thiên thần chuyên nguỵ trang đi cứu giúp người nguy khốn; còn khán giả thích xem chiếu bóng khi nghe từ Thiên thần có lẽ sẽ nghĩ đến bộ phim “The Heavely kid” (chú bé thiên thượng ). Trong đó có một người bố trẻ đã lên thiên đàng nhưng lại trở về trái đất để lo đám cưới cho con trai mình. Còn người Kitô hữu có lẽ sẽ nghĩ những sinh vật thần thiêng thường che chở chúng ta trong cơn nguy khốn. Về điểm này chúng ta nên phân tách ra hai ý niệm: ý niệm Thiên thần nói chung và ý niệm thiên thần bản mệnh nói riêng.
Đầu tiên ta hãy bàn đến các thiên thần nói chung. Vài năm trước đây, Billy Graham có viết một quyển sách nhan đề Thiên Thần (Angels). Cuốn sách ngay tức khắc bán rất chạy, bán ngay được hơn triệu cuốn. Graham đã quảng diễn lời dạy của truyền thống Giáo hội, cho rằng các thiên thần là loài thiêng liêng. Dưới nhãn quan công giáo, truyền thống Giáo hội tin rằng các thiên thần là thụ tạo vô hình của Chúa. Chúng ta thường ám chỉ đến các vị ấy trong kinh Tin Kính đọc trong thánh lễ: “Tôi kinh kính một Thiên Chúa… Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình”. Chúng ta cũng nhắc đến các vị ấy lúc khởi đầu thánh lễ qua lời kinh Cáo Mình: “Tôi xin Rất Thánh Đức Bà Maria trọn đời đồng trinh, các Thiên Thần, các Thánh và anh chị em, khẩn cầu cho tôi trước toà Thiên Chúa, Chúa chúng ta”. Ngoài ra trong kinh tiền tụng, chúng ta vẫn thường đọc: “Vì thế, cùng với các thiên thần và toàn thể các thánh, chúng con đồng thanh tung hô vinh quang Chúa rằng: Thánh, Thánh, Thánh…”. Trong Kinh thánh, chúng ta thấy các thiên thần cũng thường được nhắc đến, từ cuốn đầu tiên tức Sáng Thế Ký đến cuốn sau cùng tức Khải Huyền. Đặc biệt các vị này được nhắc đến trong cuộc Giáng Sinh của Chúa Giêsu. Thánh Kinh thường phác hoạ các vị như là những sứ giả của Chúa, chẳng hạn như trong bài Phúc Âm hôm nay. Thêm vào đó, dường như Thánh Kinh còn dùng từ ngữ Thiên Thần để ám chỉ việc Chúa hiện ra, chẳng hạn trong Cựu Ước, Hagar đã nói về một thiên thần của Chúa như sau: “Làm sao tôi trông thấy Chúa mà lại còn sống được?” (St 16: 13)
Tiếp theo, chúng ta hãy bàn đến các thiên thần bản mệnh, tức các vị được Chúa chỉ định che chở chúng ta. Thánh Kinh ít nói rõ về điểm này. Tuy nhiên Chúa Giêsu có nhắc đến khi Ngài nói về các trẻ em như sau: “Thiên thần của chúng…. hằng chiêm ngưỡng Thánh nhan Cha Ta ở trên trời” (Mt 18: 10).. Giáo hội chưa bao giờ buộc ngặt chúng ta phải tin rằng mỗi người đều có riêng thiên thần bản mệnh, tuy nhiên khái niệm về thiên thần bản mệnh rất được Giáo hội kính chuộng, vì ít nhất nó cũng làm nổi bật một trong những giáo huấn nền tảng của Đức tin chúng ta. Theo đó, Thiên Chúa luôn luôn yêu thương và quan tâm đặc biệt đến mỗi người chúng ta, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ về tình yêu và sự quan tâm đặc biệt này như sau: “Không một con chim sẻ nào mà không được Thiên Chúa lưu tâm đến… đừng sợ, các con còn quí giá hơn chim sẻ rất nhiều”. Vậy, để kết luận chúng ta nên nhớ rằng Giáo hội dạy chúng ta hai điều liên quan đến các thiên thần; thứ nhất, các thiên thần có thực, các vị ấy là những sứ giả và có lẽ là những biểu lộ của chính Thiên Chúa; thứ đến, mỗi người chúng ta là đối tượng được Chúa yêu thương và quan tâm đặc biệt, đôi khi tình thương và lòng quan tâm của Ngài được hình ảnh hoá thành một thiên thần bản mệnh. Tuy nhiên Giáo hội không có buộc chúng ta phải tin có một thiên thần bản mệnh nơi từng người.
Để kết thúc, tôi xin trưng dẫn một bài thơ của một nhà thần học hiện đại tên là John Shea, mô tả vai trò quan trọng của ý niệm thiên thần bản mệnh trong tuổi thơ của ông đồng thời muốn truyền đạt ý niệm ấy cho đám trẻ ngày nay. Shea nói:
“Tôi thực buồn cười khi nhớ lại vào năm lớp hai, Dì Phước dạy giáo lý đã bắt chúng tôi ngồi xích ra một chút để nhường chỗ cho thiên thần bản mệnh của mình. Tôi thì mập ú mà cái ghế ngồi thì nhỏ xíu, nên tôi thường bị tuột ra khỏi thành ghế giống như một chiếc bánh săng-uých trét bơ nhão nhoẹt, và đau đớn nghĩ rằng sao thiên thần bản mệnh của mình lại lấn ép mình thế! Nhưng rồi tôi đã lớn nhanh hơn thiên thần bản mệnh. Thiên thần này không phải là một tên đầy tớ hay là một người bạn tưởng tượng ra để cùng chơi với mình, mà là một người bạn đích thực (giống như người bạn của Tôbía – trong chuyện Tôbia- là người đã giúp chàng chu toàn sứ mệnh làm người của mình). Nếu không, có lẽ nó sẽ quên mất bố nó đã trưởng thành trong đức tin, nhờ tin rằng tình yêu của Thiên Chúa đã phủ cánh trên mỗi người chúng ta”
(Trích trong bài A praver of Inheritance trong cuốn The God who fells from Heaven: Thiên Thần từ trời rơi xuống, Tabor xuất bản năm 1979).
Bridget một phụ nữ tuổi trung tuần, làm nghề lau nhà trong một toà nhà lớn ở NewYork một tối kia đi làm về muộn, một người đàn ông chạy ra giựt bóp của chị. Bridget nắm chặt bóp kéo lại. Kẻ cướp và chị kéo qua lại cái bóp, sau cùng với cánh tay còn lại, chị vung lên và ấp úng: “Giêsu, Maria, Giuse” chị nắm chặt cằm đối phương và quật anh té nhào, chị nằm đè lên ngực kẻ cướp và thét lên cho tới khi cảnh sát tới.
Câu truyện khôi hài này gợi ý trong ngày lễ Thánh Gia Thất. cũng như chị Bridget, chúng ta cần phải cầu nguyện với Chúa Giêsu, Đức Maria và Thánh Cả Giuse, nhưng chúng ta cũng cần có hành động, chúng ta cần kêu cầu các đấng, nhưng cũng cần làm một cái gì. Hãy nhớ câu châm ngôn của các vị thánh: “Hãy cầu nguyện và làm việc, hãy làm việc và cầu nguyện”. Chúng ta phải làm cả hai.
Có một số trong chúng ta chỉ làm phần cầu nguyện, chúng ta xin thánh gia thất giúp giải quyết những vấn đề của gia đình như nóng giận, hiểu lầm nhau, ích kỷ… nhưng rồi chúng ta ngồi không, gặm móng tay, hy vọng. Thánh gia thất làm cho mọi người trong gia đình dễ thương mà không cần cố gắng.
Cũng như Bridget, chúng ta cần có hành động song song với lời cầu nguyện của chúng ta. Ví dụ chúng ta cần nghĩ tới người khác, nghĩ tới hoàn cảnh làm chúng ta nóng giận, chúng ta cần chuẩn bị chính mình để mỗi lần nóng giận chúng ta phải nói gì, làm gì? Chúng ta phải cố gắng ra sao để giữ mình bình tĩnh.
Ngược lại, có nhiều người hành động mà không cầu nguyện. Ngày thì dài, mà chúng ta không tìm được một vài phút để chạy đến cùng Thánh gia thất. Ngay cả khi chúng ta làm việc, rửa chén, lái xe, đợi xe buýt, chờ chương trình TV. Chúng ta hãy than thở với Chúa Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse. Rồi chúng ta thực hành lời chỉ dẫn của thánh Tông Đồ Phaolô trong bài đọc thứ hai hôm nay: “Tất cả những gì anh em làm, trong lời nói, trong hành động, anh em hãy làm mọi sự trong Chúa Giêsu Kitô”.
Hãy tìm về máng cỏ. Hãy bày tỏ với Thánh gia thất những lo âu, những khó khăn trong đời sống riêng tư của bạn trong gia đình, học đường, nghề nghiệp và đời sống xã hội.
Hãy xin tinh thần của các đấng, tình yêu của các đấng. Hãy xin các đấng chỉ cho bạn làm sao cho đẹp lòng Thiên Chúa như Chúa Giêsu, bạn lớn lên trong ơn nghĩa cùng Chúa và tình nghĩa với mọi người.
Chúng ta tiếp tục Thánh lễ, xin Thánh gia thất thúc đẩy chúng ta ca tụng và tôn vinh Cha trên trời như các đấng: Bằng lời cầu nguyện và làm việc. Amen.
Câu chuyện Thánh Gia hành hương lên Giêrusalem dự lễ vượt Qua đã được thánh Luca ghi lại trong 3 phần như sau:
- Phần thứ nhất (c. 41-45): Trẻ Giêsu bị thất lạc và được cha mẹ đi tìm trong lo âu: Năm Đức Giêsu 12 tuổi thì Người bắt đầu theo cẹ đi hành hương hằng năm tại Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua. Sau khi kỳ lễ đã xong, mọi người ra về thì cha mẹ mới phát hiện ra trẻ giêsu bị thất lạc. Hai ông bà lo lắng vất vả đi tìm kiếm người trong đám bà con thân thích, rồi quay trở lại đền thánh Giêrusalem mà tìm.
- Phần thứ hai (c. 46-50): Cha mẹ tìm thấy con trẻ trong vui mừng: sau ba ngày hai ông bà mới tìm thấy Người trong đền thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe vừa đặt câu hỏi. Bấy giờ Mẹ Người lên tiếng trách yêu con thì Người đã đáp lại như sau: “Sao cha mẹ lại tìm con ? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao ?”.
- Phần thứ ba (c. 51-52): Trẻ Giêsu nêu gương hiếu thảo với cha mẹ: Tin Mừng Luca viết: “Người đi xuống cùng với cha mẹ trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài”.
2) CHÚ THÍCH:
- Hằng năm, cha mẹ Đức Giêsu trẩy hội đền Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, theo tập tục ngày lễ (Lc 2,41-42):
+ Hằng năm: Luật Môsê qui định: Tất cả nam giới người Do Thái bất phân tuổi tác phải lên thành thánh trình diện Chúa vào ba dịp lễ mỗi năm là: lễ Bánh Không Men (hay Vượt Qua), lễ Ngũ Tuần và lễ Lều (x. Xh 23,14-17; Đnl 16,16).
+ Khi Người được mười hai tuổi: Tại Ítraen, sau khi học giáo lý, đứa trẻ 13 tuổi sẽ tuyên tín bước vào thế giới người lớn, trở thành “Con của Lề Luật”. Ngày đó người ta yêu cầu đứa trẻ bước lên bục của hội đường để đọc sách To-rah. Trong câu này, khi nói lên 12 tuổi, là tác giả muốn đề cao về sự khôn ngoan sắc sảo của trẻ Giêsu.
+ Cả gia đình cùng lên đền: Dù Luật chỉ buộc những người đàn ông đến tuổi khôn đi hành hương, nhưng do lòng đạo đức mà Đức Mẹ có thói quen năm nào cũng đưa trẻ Giêsu cùng theo thánh Giuse lên đền thờ vào dịp lễ Vượt Qua.
- Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết. Ong bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành. Nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem mà tìm (Lc 2,43-45):
+ Xong kỳ lễ: Lễ Vượt Qua hay lễ Bánh Không Men kéo dài 7 ngày (x. Xh 12,15-16; Lv 23,6-8; Đnl 16,1-8). Thực ra Luật chỉ buộc ở lại Đền thờ 3 ngày đầu. Khi nói đến ngày lễ đã hoàn tất, tác giả ngầm đề cao lòng đạo đức của Thánh Gia.
+ Hai ông bà trở về, còn cậu bé Giêsu thì ở lại Giêrusalem, mà cha mẹ chẳng hay biết: Trong dịp lễ này, những người ở xa đền thờ thường tổ chức thành từng đoàn lữ hành và đi từng chặng đường. Lúc đi đường, họ cùng nhau hát những bài ca khúc “Lên Đền” (x. Tv 120-134). Sau ngày lễ, những người hành hương lại nhập đoàn ra về. Nhưng không có tổ chức trật tự như lúc đi. Họ có thể không cùng đi dọc đường, miễn sao cùng dừng chân lại ở chặng đường đã định để nghỉ đêm. Vì thế lúc ra về, hai ông bà Giuse Maria vẫn yên tâm khi không thấy trẻ Giêsu cùng đi chung trong đoàn. Vì câu có thể đi trước hay đi sau, chung trong đám bà con cùng lứa tuổi.
+ Sau một ngày đường mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc: Đến chặng nghỉ đầu tiên, tức là sau một ngày đườn, hai ông bà không thấy trẻ Giêsu đâu nên bắt đầu lo lắng và đi tìm.
+ Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giêrusalem: Hai ông bà đi ngược trở lại Giêrusalem để tìm con. Vì ngày lễ có đông người chen lấn nhau, nên việc tìm trẻ em 12 tuổi thất lạc không phải là điều dễ dàng.
- Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong đền thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đáp của cậu (Lc 2,46-47):
+ Sau ba ngày: Con số ba ngày nhắc ta nhớ đến biến cố Tử Nạn và Phục Sinh: Đức Giêsu sẽ chịu chết và đến ngày thứ ba thì sống lại.
+ Đang ngồi giữa các thầy dạy: Các bậc thầy (Ráp-bi) thường ngồi dạy Kinh Thánh ở tiền đình bên trong khuôn viên đền thờ. Đức Giêsu về sau cũng làm như vậy (x. Lc 19,47). Hình thức giảng dạy có tính cách đối thoại là hỏi và đáp.
+ Ai nghe cậu nói cũng đều ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đáp của cậu: Sự thông minh và khôn ngoan của trẻ Giêsu khiến mọi người đều ngạc nhiên. Về sau, khi ra giảng đạo, Đức Giêsu cũng làm cho dân chúng ngạc nhiên về sự đối đáp khôn ngoan của Người (x. Mt 12, 1-8; 19,3-9). Bấy giờ Đức Giêsu xuất hiện như một nhà chú giải Kinh Thánh có thẩm quyền (x. Lc 4,32).
- Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và Mẹ Người nói với Người: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy ? Con thấy không, cha con va mẹ đây đã phải cực lòng tìm con !” Người đáp: “Sao cha mẹ lại tìm con ? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao ?” Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói (Lc 2,48-50):
+ Hai ông bà sửng sốt: Nếu mọi người ngạc nhiên vì sự thông minh và khôn ngoan của trẻ Giêsu thì hai ông bà lại ngạc nhiên vì thấy trẻ Giêsu có vẻ thản nhiên vô lo, trong lúc cha mẹ đang hết sức lo buồn tìm kiếm cậu. Vì thế Mẹ Người mới thốt lên lời có vẻ trách yêu Người rằng: “Con ơi ! Sao con lại xử với cha mẹ như vậy ? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con !”
+ “Sao cha mẹ lại tìm con ? cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao ?”: Lời đầu tiên và cuối cùng của Đức Giêsu trong Tin Mừng Luca (x. Lc 23,46; 34,49) đều nói đến Thiên Chúa Cha. Quan hệ giữa Người với Chúa Cha phải được đặt lên trên mọi quan hệ khác. Thái độ của trẻ Giêsu đối với cha mẹ đang tìm Người cũng giống như thái độ mà sau này Người có đối với mẹ và anh em đến tìm gặp Người (x. Lc 8, 19-21). Thái độ này nói lên rằng: Người muốn giới thiệu Người còn một gia đình siêu nhiên nữa, chứ không phải chỉ có một gia đình tự nhiên mà Đức Maria là Mẹ, và thánh Giuse là cha nuôi mà thôi.
+ Ông bà không hiểu lời Người vừa nói: Mầu nhiệm Đức Giêsu là con Thiên Chúa biểu lộ qua câu trẻ Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha mình, vượt quá mọi hiểu biết của loài người kể cả đối với hai ông bà Giuse và Maria.
- Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét và hằng vâng phục các Ngài. Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu thì ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến (Lc 2,51-52):
+ Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadarét: Việc trẻ Giêsu ở lại đền thờ Giêrusalem không phải là một thái độ bất tuân, nhưng là một sự tuân phục uy quyền lớn hơn là Chúa Cha trên trời. Vì thế sau khi đã vâng phục Chúa Cha, thì Người lại trở về thành Nadarét và vâng phục cha mẹ trần gian của Người.
+ Riêng Mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng: Đức Maria đều ghi nhớ kỹ những gì thuộc về Đức Giêsu. Ghi nhớ có nghĩa là suy niệm sâu xa để hiểu rõ ý nghĩa những sự việc đã xảy ra và sẵn sàng vâng phục theo Thánh Ý Thiên Chúa.
+ Còn Đức Giêsu thì ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến: Câu này tương tự như câu nói về ngôn sứ Samuen: “Còn cậu bé Samuen thì càng lớn lên, và đẹp lòng cả Đức Chúa lẫn người ta” (1 Sm 2,26).
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA:
1) LỜI CHÚA: “Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái…Người làm vợ phải phục tùng chồng. Như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa” (Cl 3,14.18).
2) CÂU CHUYỆN 1: Ly hôn vì những lý do không đâu.
Tại quận Cam (Orange) bang California Hoa Kỳ gần đây đã xảy ra một vụ vợ chồng đưa nhau ra tòa xin ly hôn chỉ vì lý do lẩm cẩm như sau: Anh Uyt-len (Wheatland) và chị Giu-đi Su-li-ven (Judi Sullivan) nộp đơn xin ly hôn vì không thống nhất với nhau về việc chăm sóc con chó cưng Răn-nơ-uê (Runaway) nuôi trong nhà. Quan tòa tuyên bố rất tiếc không thể hỏi ý kiến của con chó xem nó thích ở với ai trong hai người ! Và tòa tuyên bố phán quyết như sau: Hai người sẽ luân phiên nhau nuôi giữ con chó ! Ong chồng không chấp nhận phán quyết nói trên và kiện lên tòa thượng thẩm quận Cam. Tại đây hai người lại cãi nhau về quyền được nuôi chó. Ông chồng nói: “Bà ấy đã không chịu trả con chó cho tôi vào tháng 12 vừa qua, khiến tôi bị mất đi niềm vui trong dịp lễ Giáng Sinh”. A vợ đáp lại: “Vì con Răn-nơ-uê lúc ấy đang có bầu. Ong làm sao chăm sóc con chó cái sắp sinh cách tốt đẹp bằng tôi được !”. Tòa đòi hai bên phải nghiêm chỉnh thi hành phán quyết của tòa. Bấy giờ ông chồng liền phân bua: “Tôi luôn thi hành đúng theo quyết định của tòa. Chỉ có bà ta mới cố ý làm sai thôi. Tôi đã làm hết bổn phận đối với con Răn-nơ-uê, và sau khi nó sinh được 4 chó con, tôi cũng đã chia cách công bằng: Mỗi bên đều được hai con chó nhỏ. Bây giờ bà ấy sẽ không thể than trách về bất cứ điều gì nữa !”
Chính vì người ta đã coi thường hôn nhân gia đình và thiếu chuẩn bị trước khi kết hôn, nên đôi vợ chồng sẽ dễ đi tới quyết định chia tay nhau. Nhiều khi họ xin ly hôn chỉ vì những lý do không đâu như đôi vợ chồng trong câu chuyện trên.
CÂU CHUYỆN 2: Ly hôn vì thiếu tôn trọng nhau.
Gần đây một tờ báo lớn ở thủ đô Luân Đôn của nước Anh đã làm một cuộc điều tra về các nguyên nhân gây đổ vỡ hạnh phúc gia đình. Trong bản câu hỏi đề nghị các nam độc giả trả lời, có một câu hỏi như sau: Trong gia đình của bạn, ai là chủ nhà có quyền quyết định mọi việc ? Là bạn, vợ bạn hay một người nào khác ? Kết quả phiếu thăm dò là: 70 phần trăm các ông trả lời là: “Vợ tôi làm chủ”. 20 phần trăm cho biết: “Là mẹ tôi”. Và chỉ có 10 phần trăm trả lời rằng “Tôi làm chủ”.
Vì thế không lạ gì khi thấy tại nước Mỹ người ta ước tính: Cứ có hai cặp tổ chức đám cưới thì một cặp ra tòa xin ly hôn chỉ sau một thời gian ngắn sống chung. Tại nước Anh tình trạng các gia đình bất hạnh cũng có tỷ lệ giống như vậy ! Gia đình bị tan vỡ phần lớn là do trong nhà không có tôn ti trật tự: mỗi thành viên không chu toàn bổn phận của một người chồng người cha và của một người vợ người mẹ.
CÂU CHUYỆN 3: Người cầu toàn:
Theo một chuyện cổ của Hồi giáo thì NA-TRÚT-ĐIN là hiện thân của những chàng trai độc thân khó tính. Trong một buổi trà dư tửu hậu, khi bạn bè chất vấn lý do tại sao đến tuổi bốn mươi rồi mà anh ta vẫn chư lấy vợ, Na-trút-đin đã tâm sự về tình trạng độc thân bất đắc dĩ của anh như sau:
“Tôi đâu phải là không muốn lấy vợ như các bạn nghĩ: Suốt cả tuổi thanh xuân, tôi đã đi khắp nơi để tìm cho mình một người vợ hoàn hào như ý muốn. Tại Cai-rô, thủ đô nước Ai Cập, tôi đã sớm gặp được một thiếu nữ vừa đẹp người lại vừa thông minh. Nàng có đôi mắt bồ câu với con ngươi đen nhánh giống như hai hạt ô-liu. Tôi ưng ý ngay trong lần gặp đầu tiên. Nhưng chỉ vài ngày sau, tôi đã khám phá ra rằng: Nàng ta không phải là một cô gái hiền thục nết na thùy mị như tôi mong muốn. Thế là tôi liền rời bỏ Cai-rô để đến thành phố Bát-đa là thủ đô của I-rắc, để tìm kiếm một người vợ lý tưởng, nghĩa là phải vừa đẹp vừa thông minh, mà còn phải dịu hiền nữa ! Tại đây, nhờ Thánh Al-lah phù hộ nên tôi đã sớm gặp được một thiếu nữ thật hoàn hảo, đúng như lòng tôi hằng mong ước: Nàng của tôi vừa đẹp người, vừa thông minh, lại vừa hiền dịu ngoan ngoãn. Nhưng có điều là hai người chúng tôi khi nói chuyện lại khắc khẩu: Thường không mấy khi có cùng quan điểm với nhau về bất cứ lãnh vực nào. Thế là tôi đành âm thầm chia tay với nàng. Từ đó, tôi liên tiếp trải qua nhiều mối tình với nhiều phụ nữ khác nhau. Nhưng người được mặt này thì lại thiếu mặt kia, được tính tốt này thì lại phải tật xấu nọ. Đến lúc tôi cảm thấy thất vọng, tưởng chừng như sẽ không khi nào tìm ra được một người đàn bà hoàn hảo về mọi phương diện. Thế rồi một hôm, Thánh Al-lah đã sắp xếp cho tôi gặp được một thiếu nữ thật tuyệt vời. Có thể nói: Nàng là sự kết hợp nhiều đức tính của một người vợ lý tưởng mà tôi hằng mong muốn: Nàng vừa đẹp, vừa thông minh, vừa hiền dịu lại rất quảng đại và tử tế…Ngoài ra nàng còn có nhiều tài năng trổi vượt khác như: Hát hay múa giỏi, nấu ăn ngoan, cắm hoa đẹp, thêu thùa may cắt thạo…Thế nhưng các bạn có biết vì sao cho đến giờ này tôi vẫn là một chàng trai độc thân khó tính không ? Vì khi tôi mạnh dạn ngỏ lời cầu hôn với nàng, thì đã bị nàng thẳng thừng từ chối, vì nàng cũng đang đi tìm một mẫu đàn ông lý tưởng để lấy làm chồng. Mà theo đánh giá của nàng thì tôi chỉ là một gã đàn ông tầm thường, có quá nhiều thói hư tật xấu, không xứng đáng làm chồng của nàng được !”
3) SUY NIỆM
+ Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Thánh Gia Na-da-rét: Thánh Giuse, Đức Mẹ và trẻ Giêsu, là gương sáng của một gia đình hòa hợp hạnh phúc. Nói đến gia đình là nói đến một định chế do Thiên Chúa thiết lập, đang và sẽ tồn tại cho đến tận thế. Gia đình là nền tảng của xã hội và là tế bào của Giáo Hội ! Nếu gia đình mà bền vững hạnh phúc thì xã hội sẽ được an vui và Giáo Hội ngày càng phát triển cả về số lượng cũng như chất lượng. Hôm nay Giáo Hội giới thiệu Thánh Gia cho các gia đình công giáo học tập: Trong gia đình thánh này có thánh Giuse là một người công chính. Người luôn tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa và xin vâng. Chồng có bổn phận phải yêu thương vợ, và là một người cha có tinh thần trách nhiệm trong việc nuôi dạy con cái. Trong gia đình này, Đức Maria nêu gương cho các bà vợ. Các bà phải yêu mến vâng phục chồng mình, luôn quan tâm “nuôi con khỏe dạy con ngoan”. Trong gia đình thánh này, cũng có một người con là trẻ Giêsu, một đứa con hiếu thảo, luôn tôn kính và vâng lời cha mẹ.
+ Về phạm vi trần thế, gia đình Na-da-rét có tôn ti trật tự: Thánh Giuse là gia trưởng, rồi đến Đức Maria là hiền mẫu và cuối cùng trẻ Giêsu. Nhưng trước mặt Thiên Chúa thì giá trị ấy lại hoàn toàn đảo ngược. Chúa Giêsu là Con Thiên chúa. Rồi đến Đức Maria Mẹ Người. Và cuối cùng là thánh Giuse. Tuy nhiên cả ba nhân vật trên đều ý thức rõ về vai trò và địa vị của mình trong gia đình, để luôn tỏ ra sự trọng kính nhau, luôn tìm dịp làm vui lòng nhau và sẵn sàng hy sinh phục vụ lẫn cho nhau. Chính sự tương kính được thể hiện trong cách cư xử tôn ti trật tự, là yếu tố quan trọng xây dựng hạnh phúc gia đình.
+ Muốn cho gia đình hòa hợp hạnh phúc, thì mỗi thành viên cần thực hành các lời khuyên của thánh Phaolô như sau: “Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng đay nghiến với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng “ (Cl 3,18-21).
+ Muốn cho gia đình hòa hợp hạnh phúc thì cần phải có một yếu tố quan trọng, không thể thiếu được. Đó là phải có Chúa hiện diện trong gia đình: Chúa là tình yêu, là sợi dây liên kết đôi vợ chồng với nhau. Chúa là thầy dạy, là gương mẫu cho các thành viên trong gia đình noi theo, là sức mạnh giúp gìn giữ và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Hai vợ chồng cần phải đồng tâm hiệp lực vượt qua mọi phong ba của cuộc đời. Có Chúa hiện diện thì đôi vợ chồng sẽ dễ thương yêu nhau hơn, tin tưởng nhau hơn, can đảm chịu đựng những thói hư tật xấu của nhau hơn, và dễ tha thứ những lầm lỗi khuyết điểm cho nhau hơn (x. 1 Cr 13,7).
4) THẢO LUẬN:
- Gia đình hôm nay gặp nhiều khó khăn như: khó giữ trọn được lời thề hứa sẽ yêu thương và chung thủy với nhau cho đến chết. Con cái dễ bị hư hỏng và mắc phải những thói hư tật xấu, gia đình dễ rơi vào tình trạng khủng hoảng nghèo đói cả về vật chất cũng như tinh thần…Theo bạn thì đâu là khó khăn lớn nhất và phải khắc phục như thế nào ?
- Theo bạn thì một gia đình hạnh phúc phải có những đặc điểm nào ? Để xây dựng gia đình như thế cần phải có những điều kiện gì ?
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU:
1) Lạy Chúa Giêsu, xin nhìn đến những gia đình đang thiếu vắng tình yêu, hay đang thiếu những phương tiện vật chất tối thiểu, những gia đình đang buồn sầu vì vắng tiếng cười của trẻ thơ, hay trái lại: đang vất vả lo âu vì đàn con nheo nhóc. Xin nâng đỡ những gia đình đã trở thành hỏa ngục vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, kiêu căng giận hờn và thù ghét nhau.
Lạy Chúa Giêsu, xin nhìn đến những trẻ em đang cần sự chăm sóc và tình thương, những trẻ em bị lạm dụng, bị bóc lột và trở thành những món hàng để con buôn trao đổi buôn bán; Những trẻ em đang lạc lõng bơ vơ không được học hành, những trẻ em bị vùi dập và trở nên hư hỏng.
Xin biến đổi các gia đình tín hữu chúng con biết noi gương Thánh gia xưa. Xin sai Thánh Thần Tình Yêu đến đốt lên ngọn lửa tin yêu trong mọi thành viên của gia đình. Xin cho mỗi người trong các gia đình biết chu toàn nhiệm vụ của mình, hầu gia đình ngày thêm hòa hợp hạnh phúc, trở thành dấu chỉ giúp người đời nhận biết Thiên Chúa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
2) Lạy Mẹ Maria, Tin Mừng lễ Thánh Gia hôm nay thuật lại sự việc trẻ Giêsu bị thất lạc tại đền thờ năm Người 12 tuổi. Mẹ và thánh Giuse đã lo lắng đi tìm kiếm con trẻ. Nhờ quyết tâm tìm, nên sau ba ngày đã gặp được Người đang đàm đạo với các bậc thầy về Kinh Thánh. Sau đó, trẻ Giêsu mặc khải cho biết người còn có sứ mệnh cao cả khác tại nhà của Thiên Chúa Cha của Người (x. Lc 2,49). Sau cùng Người đã đi theo cha mẹ trần gian, “trở về Na-da-rét và vâng phục các ngài” như một người con hiếu thảo (Lc 2,51).
Lạy Mẹ, ngày nay nhiều bậc cha mẹ không ý thức nhiệm vụ của mình là phải giáo dục đức tin cho con cái. Xin cho các cha mẹ ý thức bổn phận tập cho con cái mình thói quen đạo đức: năng đến nhà thờ đọc kinh dự lễ, chăm chỉ học giáo lý khi đến tuổi khôn. Xin cho con cái chúng con hâm mộ những việc đạo đức, vâng lời người trên để trở thành những con ngoan trò giỏi. Lạy Mẹ, nếu chẳng may có lúc nào đó gia đình chúng con bị thất lạc mất Chúa khi vợ chồng giận hờn ghen ghét nhau, anh chị em trong nhà tranh chấp và làm hại lẫn nhau, hay khi chúng con sa ngã phạm tội mất lòng Chúa…Xin cho chúng con mau mắn cầu xin ơn Chúa tha thứ qua bí tích giao hòa, cho chúng con mau mắn đi tìm Chúa nơi cộng đoàn Giáo Hội. Nếu chúng con quyết tâm đi tìm chắc sẽ gặp được Chúa. Gia đình chúng con lại được yên vui hạnh phúc.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con. LM Đan vinh
Thành phần tham dự, các đôi vợ chồng, và những người đã mất một nửa phần kia.
Chỗ ngồi: Hai vợ chồng ngồi bên nhau, nếu có con cái tham dự thì ngồi sang bên hàng ghế bên cạnh song song. Hàng ghế riêng cho các ông và các bà chỉ còn một mình.
Các gia đình rước Đòan chủ tế.
Dẫn Đầu Lễ:
Anh chị em thân mến
Hôn nhân, như đã được thiết lập bởi Thiên Chúa, là một sự kết hiệp trung tín, độc quyền và suốt đời giữa một người nam và một người nữ được kết hiệp trong một một cộng đoàn mật thiết của đời sống và tình yêu. Họ dâng hiến hoàn toàn chính họ cho nhau và cho bổn phận diệu kỳ là đem con cái của họ vào trong thế gian này và nuôi dưỡng chúng. Ơn gọi hôn nhân được đan sâu trong tâm trí con người. Nam cũng như nữ. Tuy nhiên, như đã được tạo dựng, họ tuy khác biệt nhưng đã được tạo ra cho nhau. Sự bổ túc lẫn nhau này, bao gồm cả sự khác biệt về giới tính, lôi kéo họ lại với nhau trong một sự kết hiệp yêu thương lẫn nhau và luôn mở ngõ cho sự sản sinh con cái.
1. Nghi thức sám hối:
- Hai vợ chồng quay mặt vào nhau để xin lỗi nhau về những điều đã làm mất lòng nhau trước sự hiện diện của Thiên Chúa.
- Các đôi vợ chồng bắt tay giao hòa.
- Cha chủ tế đọc lời nguyện xin Chúa tha thứ.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là Cha yêu thương. Chúng con xin Cha tha thứ những ngày qua, chúng con đã làm cho bầu khí gia đình trở nên nặng nề vì những thiều sót và thờ ơ của chúng con. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô. Chúa chúng con.
- Amen.
2. Nghi thức lặp lại cam kết hôn phối sau Kinh Tin Kính.
CT: Anh chị em thân mến.
Hôm nay, các anh chị đến đây để lập lại lời kết ước hôn phối của anh chị, trước mặt người đại diện Hội Thánh, cũng như tòan thể cộng đòan, tình yêu của các anh chị đã được Thiên Chúa chúc phúc và giữ gìn, bởi đó giờ đây trước nhan Thiên Chúa tôi xin hỏi anh chị:
CT: Anh chi có sẵn sàng tha thứ và đón nhận nhau không?
- Thưa sẵn sàng.
CT: Anh chị có sẵn sàng giúp đỡ nhau trên con đường nên thánh không?
- Thưa sẵn sàng.
CT: Anh chị có sẵn sàng giữ lòng chung thủy, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời không?
- Nhờ ơn Chúa giúp, chúng con xin sẵn sàng.
Các gia đình đọc chung:
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xác tín rằng: Hôn nhân và gia đình là công trình sáng tạo của Thiên Chúa, công trình của yêu thương, khôn ngoan và thánh thiện. Chúng con tin rằng Chúa muốn và luôn ban ơn, để hôn nhân được hạnh phúctrong sự duy nhất và bền bỉ, trong việc truyền sinh và phát huy sự sống.
Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương mà nâng hôn nhân lên hàng bí tích, xin Chúa giúp các đôi vợ chồng chúng con sống trung thành với nhau, cho cha mẹ biết ý thức trách nhiệm giáo dục con cái, chgo con cái biết vâng phục và cha mẹ yêu mến cha mẹ. Xin Chúa làm cho các thế hệ trẻ tìm được nơi gia đình sự nâng đỡ chắc chắn giá trị làm người của họ, và được trưởng thành trong chân lý và tình thương.
lạy Thánh gia Nadaret là gương mẫu của đời sống thánh thiện, công bình và yêu thương, xin cho gia đình chúng con trở nên nơi đào tạo nhân đức, trong hiền hòa, phục vụ và cầu nguyện. xin cho chúng con xây dựng gia đình thành niềm an ủi cho cuộc đời đầy thử thách. Xin cho chúng con biết làm cho mọi người trong gia đình đều được thăng tiến để góp phần vào việc phát triển xã hội, và cộng tác trong việc xây dựng Hội Thánh.
Xin ba Đấng luôn hiện diện trong gia đình chúng con khi vui cũng như lúc buồn phiền, khi làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi, khi lo âu cũng như lúc hy vọng, khi sinh con cũng như lúc có người thân qua đời, để khi trải qua mọi thăng trầm của cuộc sống, chúng con luôn chúc tụng Chúa cho đến muôn đời.
CT: Xin Thiên Chúa tái xác nhận lời ưng thuận này và ban ơn thêm cho họ, để họ chu tòan tốt đẹp những nghĩa vụ chính yếu tại gia đình và làm cho gia đình ngày càng giống gia đình Nadaret xưa. Chúng con cầu xin…
3. Đại diện các đôi hôn nhân dâng lễ vật.
4. Chào chúc bình an, vợ chồng bắt tay chúc nhau, và các con cái cũng đến mừng chúc cho cha mẹ.
PHẦN II: Tọa Đàm và Hát cho nhau
1. Tọa Đàm:
Chủ đích: Làm sống lại giá trị gia đình theo Tin Mừng.
- Trao đổi (có tính chất gợi ý):
1) Xã hội và Hội Thánh có cần đến định chế hôn nhân không?
2) Định chế hôn nhân và gia đình đang gặp những khó nhăn nào?
3) Tại sao Hội Thánh bảo vệ hôn nhân và gia đình?
4) Những nguyên nhân nào đang đe doạ đời sống hôn nhân và gia đình?
5) Thế nào là nhận định theo Tin Mừng?
6) Người giáo dân có thể làm gì để góp phần xây dựng hôn nhân và gia đình?
7) Hôn nhân và gia đình Á Đông và Việt Nam có những nét đẹp nào?
8) Khi đã nắm vững kế hoạch nguyên thuỷ của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình, trong khi vẫn trung thành với giáo huấn của Chúa Kitô, chúng ta cần phải làm gì để gia đình Kitô hữu mặc lấy những nét đẹp của văn hoá Việt Nam?
9) Tại sao khoa học kỹ thuật phải kết hợp với sự khôn ngoan của các nhà hiền triết?
10) Kinh Thánh diễn tả tình yêu giữa Thiên Chúa và dân Người qua hình ảnh nào?
11) Tạo sao định chế hôn nhân lại phải mang đặc tính bất khả phân ly?
12) Hội Thánh chờ đợi gì nơi gia đình?
13) Chúa Giêsu căn cứ trên hình ảnh hôn nhân nào để xác định ý định của Thiên Chúa về hôn nhân một vợ một chồng?
14) Tại sao hôn nhân phải là bất khả phân ly xét về nhân bản Kitô giáo?
15) Trong hiện tình của thế giới hôm nay, những thử thách nào đang đe doạ hôn nhân và gia đình?
Phúc Âm hôm nay diễn tả sinh hoạt quan thuộc của từng gia đình. Thỉnh thoảng trong các làng xóm hoặc khu phố lao động, người ta bàn tán với nhau con nhà này học giỏi, đứa trẻ khác thông minh. Thậm chí nhiều đứa tỏ ra thần đồng ngay từ tuổi thơ, Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay cũng vậy, Ngài đã xuất sắc ngay từ lúc mười hai tuổi: “Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong đền thờ, đang ngồi giữa các bậc thầy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng kinh ngạc về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu.” Khi thánh Giuse và Đức Maria đặt lời trách yêu thì Ngài tuyên bố mối bận tâm chủ yếu của mình bây giờ là ở lại nhà Thiên Chúa và công việc trọn đời là thi hành bổn phận Thiên Chúa trao. Chúa Giêsu đã là thần đồng về phương diện luân lý, điều này tiết lộ gia đình thánh Giuse và Maria là một chiếc nôi đạo đức Do Thái và hàng năm Ngài được lên Giêrusalem mừng lễ Vượt Qua.
Ngài là con đầu lòng nên phải thi hành bổn phận này. Cha mẹ trẻ Giêsu đã giữ cặn kẽ các điều lề luật quy định và hài nhi Giêsu được thừa hưởng di sản giáo dục tốt từ cha mẹ. Ngày nay, các bậc làm cha làm mẹ, ông bà, cô dì, chú bác phải lấy Thánh Gia làm gương mẫu cho việc giáo dục con cháu mình. Nên biết rằng chúng sẽ là phần thưởng nếu được giáo dục tốt, và là hình phạt cho cha mẹ nếu cha mẹ không quan tâm huấn luyện chúng trở thành người. Các trẻ hư hỏng là do cha mẹ hư hỏng trước. Trong Tin Mừng thánh Luca mô tả ba ngày lo âu của thánh Giuse và Đức Mẹ đi tìm Chúa Giêsu. Ngày nay biết bao cha mẹ phải lo lắng, phiền muộn vì những con cái lêu lổng, xì ke, ma tuý và bụi đời. Chúng còn quá trẻ để có thể làm những quyết định đúng đắn, phần lớn bị bạn bè xấu lôi cuốn và vì thiếu giáo dục tốt nên dễ bị sa ngã.
Nói chung, làm cha làm mẹ được nhiều hạnh phúc hơn buồn phiền. Qua các báo chí chuyên về gia đình, tôi nắm được thông tin như vậy và tôi cũng tưởng tượng ra nỗi vui mừng của cha mẹ trẻ Giêsu khi tìm thấy con trong đền thánh: “Khi thấy con, hai ông bà rất đỗi sửng sốt…” Lời trách yêu của Đức Mẹ: “Con ơi, sao con lại làm cha mẹ như thế? Con thấy không, cha con và mẹ đây đang cực lòng tìm con!” là dấu chỉ rõ ràng các bậc cha mẹ cảm nhận thế nào về hạnh kiểm của con cái. Từ Do Thái “lo lắng” có nghĩa buồn phiền, thất vọng, cạn kiệt sức lực, tâm trí căng thẳng. Thánh Luca dùng từ này để mô tả nhà phú hộ cầu xin tổ phụ Abraham sai Ladarô làm mát lưỡi mình: “Lạy tổ phụ Abraham, xin thương xót con và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con cho mát, vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khốn khổ lắm” (16,24). Khốn khổ lắm trong nguyên văn là “hấp hối, cực lòng” đúng như trạng thái của Đức Mẹ khi lạc mất Chúa Giêsu. Đây cũng là trạng thái của các bà mẹ, ông cha khi nhận tin con mình hư hỏng. Hình như lúc này Đức Mẹ muốn giáo dục con. Nhưng Chúa Giêsu lại có mục tiêu khác mà hai ông bà chẳng hiểu: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” Câu trả lời không phải là xin tha thứ mà là một mặc khải. Thánh Luca mô tả Chúa Giêsu như một con trẻ đã biết lựa chọn. Ngài nghiêng hẳn về bổn phận trong nhà Thiên Chúa, ơn gọi bắt buộc Ngài rời bỏ liên hệ máu mủ, gia đình, làng mạc, đất nước.
Đây là một mầu nhiệm mà chúng ta cần suy nghĩ. Hiến thân cho đường lối Thiên Chúa đòi hỏi chấp nhận mau mắn. Chúa Giêsu mười hai tuổi đã làm gương cho nhân loại noi theo. Ngài đã trung thành với ơn gọi của mình cho đến chết. Những thế lực thế gian cố gắng làm cho Ngài đi chệch con đường đó. Họ đã thất bại và tìm cách trừ khử Ngài, nhưng lúc này mới chỉ là khởi đầu. Ngài còn tiếp tục gây lo âu và cực lòng cho cha mẹ, nhất là Đức Maria, cho đến khi Mẹ đứng chết lặng dưới chân thập giá của con. Con đường mặc khải là một con đường dài từ khi sinh ra cho đến lúc tử, chúng ta cần chứng kiến và dõi theo, bằng không chúng ta sẽ tìm ra trăm ngàn lý do để thoái thác. Xưa nay đã thường xảy ra như vậy, nhất là trong cuộc sống tu trì. Gương Chúa đã để lại là toàn thể cuộc sống chứ không phải từng đoạn, từng khúc. Chúng ta không thể chọn đoạn dễ, đoạn vinh hiển và bỏ đoạn khó, đoạn hy sinh.
Xin nhìn vào mạch văn của thánh Luca tự khắc hiểu ra vấn đề. Thánh nhân khởi sự Phúc Âm của ông bằng một lời tựa gồm hai phần. Phần thứ nhất từ đoạn một câu năm đến đoạn hai câu bốn mươi. Sách các bài đọc sử dụng phần này cho Mùa Vọng, Giáng Sinh và lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm. Nó nói về nguồn gốc Chúa Giêsu. Phần hai ngắn hơn, từ đoạn hai câu bốn mươi mốt đến đoạn hai câu năm mươi hai nói về định mệnh của Ngài. Ngài sẽ trở về với Thiên Chúa. Phúc Âm ngày hôm nay bắt đầu tỏ lộ điều mà Chúa Giêsu nói: “Công việc nhà của Cha tôi” tức là sứ mệnh Ngài phải hoàn thành. Người tín hữu cũng phải theo cùng một tiến trình. Trước hết là nguồn gốc các cộng đồng, các kẻ theo Chúa từ Galilê. Đoạn bốn câu mười bốn đến đoạn chín câu bốn mười lăm, sau đó phải theo Ngài lên Giêrusalem để chịu chết, phần còn lại của Phúc Âm, cho nên không theo trọn vẹn cuộc đời của Chúa Cứu Thế là một sai lầm lớn.
Tôi có dịp may là được chiêm ngưỡng bức hoạ Thánh Gia Thất của George de la Tour. Trong bức ảnh thánh Giuse dạy cậu Giêsu học nghề thợ mộc. Dụng cụ để học là hai thanh gỗ sắp thành hình thánh giá. Nhà hoạ sĩ muốn nói ngay từ thời trai trẻ Chúa Giêsu đã yêu thích bóng hình cây thập tự mà sau này thân xác cậu sẽ bị treo lên. Người hoạ sĩ có cùng tư tưởng như thánh Luca. Ngày nay thiên hạ khấn hứa theo Chúa mà lại đi tìm đời sống sung sướng, đầy tiện nghi thì hẳn là chuyện ngược đời. Vậy mà cứ xảy ra nhan nhản trong lịch sử Giáo Hội, phổ thông đến độ cần những cuộc cải cách mạnh tay. Khi thuật lại biến cố truyền tin, thánh Luca cho chúng ta hay Thánh Thần “rợp bóng” trên Đức Mẹ và Maria trở thành Mẹ Đấng Cứu Thế. Tuy không được học hành, nhưng người con gái Do Thái đã nhận ra ơn Thiên Chúa gọi và đáp trả thuận lợi. Cô đã sẵn sàng cộng tác với Thượng Đế trong công trình cứu chuộc nhân loại. Tiếng “xin vâng” của cô khai mở một trang sử mới Thiên Chúa mặc lấy thân xác loài người. Vâng theo con đường của Thiên Chúa đòi hỏi hy sinh vĩ đại và hôm nay cô bắt đầu cảm thấy cuộc hy sinh đó thể hiện trong lòng mình: “Con biết không, cha và mẹ đã cực lòng tìm con”. Maria khởi sự cái đau của bậc phụ huynh vì hạnh kiểm của con cái. Chúng sẽ gây cho gia đình lo âu và thắc mắc. Ngoài Chúa Thánh Linh hiện diện trong cuộc đời của cô Maria, thì còn có bóng cây thập tự cũng thấp thoáng đó đây, rồi dần dần rõ nét. Trong Phúc Âm thánh Luca, độc giả thấy rõ cây thập tự luôn ngả bóng trên cuộc đời Chúa Giêsu. Chúng ta cũng thấy nó ngả bóng trên mỗi gia đình, trên mỗi cá nhân người tín hữu. Trước khi nó mang đến niềm vui của cuộc sống mới thì đã thấy đau khổ. Cho nên trốn tránh gian truân ở thế gian này là vô lý. Thánh Luca kể “hai ông bà không hiểu lời người vừa nói”, các tông đồ, các thế hệ tín hữu chân chính cũng chẳng hiểu. Chúng ta phải đi trong ánh sáng tin cậy, phó thác để có khả năng trung thành với Thiên Chúa, ngay cả khi câu trả lời cho các vấn nạn còn là vô định.
Khi lớn lên, tôi bắt đầu có trí khôn, tôi thường được nghe vô số bài giảng về gia đình Thánh Gia. Quý vị thuyết giảng tha hồ tô son vẽ phấn cho tổ ấm Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse. Tưởng chừng như không kém các bức tranh đâu đây trên tường nhà thờ hoặc ở các tư gia. Tôi yêu mến Thánh Gia vô cùng. Nhưng khi nhìn vào các gia đình trong khu xóm thì tôi lại thấy nó khác biệt quá xa, chẳng giống gia đình nào. Ngày xưa Thánh Gia Thất sống như vậy sao? Ngây thơ, trong trắng, bình an,vô tư, chẳng phải lo gì đến miếng cơm manh áo, tiền bạc, chợ búa, lao động? Chúa Giêsu chẳng có em để tranh giành miếng bánh to, chẳng đi chơi, nghịch đất, nặn tượng, bắt chim với các trẻ hàng xóm sao? Tôi nghĩ không phải vậy, các ngài sinh hoạt bình thường như trăm ngàn gia đình khác, cho nên chúng ta phải mang những kinh nghiệm loài người vào quang cảnh Phúc Âm hôm nay, để mỗi khi nhớ đến Thánh Gia là liên tưởng ngay đến nếp sống gia đình nhân loại: Vất vả lao động, lo lắng kinh tế, lựa chọn giáo dục cho con cái, phiền phức láng giềng hàng xóm. Cái khuyết điểm của chúng ta và các nhà giảng thuyết là có thành kiến, những quan niệm lý tưởng rồi bắt thực tế phải rập theo. Làm như vậy vô tình chúng ta biến gia đình Thánh Gia xa rời đời sống thực hàng ngày. Còn đâu để mà noi gương bắt chước, còn đâu để mà nên thánh như các ngài?
Các dòng kết thúc bài Tin Mừng hôm nay, thánh Luca kể: “Sau đó Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nadaret, hằng vâng phục các ngài. Riêng Mẹ Người thì ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa trước mặt Thiên Chúa và người ta”. Chúng ta phải nói thêm sự tăng trưởng của Chúa Giêsu về thể xác và tâm hồn, không thể xảy ra một ngày, trong một giấc ngủ. Mà phải qua một tiến trình lâu dài, dần dần tới ba mươi năm trường. Ngài thuộc gia đình đạo Do Thái truyền thống, để lại cho con cháu đức tin và lòng nhiệt thành từ thế hệ này qua thế hệ khác hàng trăm ngàn năm. Chúa Giêsu nhận từ cha mẹ lương thực và giáo dục cho tới khi công khai rao giảng Nước Đức Chúa Trời. Thiên Chúa mặc lấy xác phàm đã ở với chúng ta, sinh sống như chúng ta, lớn lên giữa muôn người dưới hình thức một thanh niên đạo đức, tuấn tú trong ảnh hưởng của cha mẹ, họ hàng, bạn bè, xóm làng không khác chi một người bình thường. Không thấy Phúc Âm thuật lại Ngài sống trong đền thánh Giêrusalem giữa các thầy thông luật, tư tế xa rời nếp sống gia đình. Dẫu rằng thiên hạ không thể hiểu thấu Ngài trọn vẹn. Tôi nghĩ mỗi người sinh vào thế gian này đều là như vậy cả. Độc nhất vô nhị. Vậy xin cho mỗi người cũng càng lớn lên, càng thêm tuổi, càng thêm nhân đức trước mặt Thiên Chúa và loài người. Amen.
Thomas Merton: Bé Giêsu sinh vào thế gian như vị khách không mời mà đến, chẳng có chỗ cho Ngài ở hàng quán, lâu đài. Không có một chiếc phòng ấm áp tình người nào cho Ngài. Ngài sinh vào một hành tinh điên khùng, không có chỗ cho mình, Ngài lạc lõng, không được đón nhận, luôn bị tẩy chay. Bạn của Ngài là những kẻ cùng đinh luôn luôn bị xua đuổi tủi hờn. Thiên hạ coi họ như rơm rác, những kẻ yếu đuối, không đáng tin cậy, những kẻ không nhân phẩm, đáng bị hạ, bỏ bom tiêu diệt. Với những ai không có chỗ trên hành tinh này, bé thơ Giêsu luôn hiện diện.
Tôi rất thích bài hát “Tình con cho ba” của Linh Mục nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên. Tôi thường hát tặng khi gặp gỡ chia sẽ với giới gia trưởng, giới trẻ, giới thiếu nhi. Lời hay, nhạc êm ái như lời tri ân của người con dành cho ba của mình.
“Ba thương yêu dắt con vào đời. Ba bên con giúp con học chăm.
Ba hy sinh khuya sớm nắng mưa,gió rét khó khăn ngại chi, khuyên con vững tâm học hành.
Ba ru con những đêm trăng rằm. Ba bên con từ lúc thưở hàn vi.
Con yêu ba nguyện ước có ngày, tương lai sáng tươi thành công, vinh danh người ba kiêu hùng.
Khắc ghi sâu những lời ba khuyên, lương tri trong sáng xây đời, cội nguồn lòng con ghi nhớ.
Bao yêu thương kỷ niệm ngày mơ, bên ba nô đùa tuổi thơ, con vui ở bên ba hiền.
Ba khuyên con ngẩng cao yêu đời. Thương tha nhân và giúp ai người đơn côi.
Không tham lam lợi danh thế trần. Vinh danh giống dân rồng tiên, thoả lòng người ba ước mong
Ba ơi, con xin nghe lời. Ba ơi, con nghe lời ba khuyên
Ba ơi con yêu người. Ba ơi, con muôn đời ghi ơn”.
Lễ Thánh Gia, Phụng Vụ Giáo Hội hướng người tín hữu về một gia đình mẫu mực nhất. Giáo Hội như người mẹ hiền mong muốn con cái mình hãy noi gương bắt chước Thánh Gia hầu mang lại hạnh phúc đầm ấm cho mỗi gia đình Công Giáo.
“Hàng năm cha mẹ Chúa Giê-su có thói quen lên Giê-ru-sa-lem để mừng Lễ Vượt Qua...” ( Lc 2, 41 ). Một gia đình đi hành hương để thờ phượng Thiên Chúa: Thánh Giu-se, Mẹ Ma-ri-a và Chúa Giê-su. Hai ông bà là người sùng đạo, tuân giữ lề luật cách trung tín. Họ thao thức chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa là Đấng phải yêu mến trên hết mọi sự.
Theo luật quy định người Do-thái phải hành hương về Giê-ru-sa-lem “mỗi năm ba lần mọi người nam phải trình diện trước Đấng Toàn Năng là Đức Chúa”. Một lần đi bộ hành hương về Nhà Chúa phải mất một tuần lễ. Họ vừa đi vừa hát Thánh Vịnh Lên Đền: “Tôi vui sướng biết bao khi người ta nói với tôi rằng nào ta tiến về Nhà Chúa”.
Năm nay, Chúa Giê-su lên 12 tuổi, được cha mẹ đưa đi cùng đoàn hành hương tiến về Đền Thờ theo tập tục ngày lễ. Đối với người Do-thái 12 tuổi là tuổi trưởng thành. Chúa Giê-su đã bộc lộ sự khôn ngoan trước các bậc thông thái. Sau khi dự Lễ Vượt Qua, Người ở lại Đền Thờ tranh luận với các tiến sĩ luật “mọi kẻ nghe Người đều sửng sốt về trí thông minh và các lời Người đối đáp”.
Phụng Vụ muốn đem câu chuyện này vào kể trong Mùa Giáng Sinh, mùa Chúa tỏ mình ra. Người là đấng khôn ngoan am tường đường lối Thiên Chúa để dạy dỗ nhân loại. Hai ông bà tìm được con trong Đền Thờ. Mẹ trách nhẹ: “Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con” ( Lc 2, 48 ). Người đáp lại: “Sao cha mẹ tìm con ? Cha mẹ không biết là con có bổn phận đối với nhà của Cha con sao ?” ( Lc 2, 49 ). Chúa Giê-su muốn nhấn mạnh bản tính siêu phàm của Người. Cha Người không phải là ông Giu-se mà chính là Thiên Chúa. Cần chu toàn bổn phận đối với Cha trên Trời...
Sau đó cả gia đình trở về Na-da-rét. Chúa Giê-su hằng vâng phục hai ông bà. Người đã chu toàn cả hai phận sự đạo và đời.
Con Thiên Chúa làm người và thuộc về một gia đình: Thánh Gia. Chúa Giê-su có thể sinh ra như một nhân vật thần kỳ nào đó trong các huyền thoại hay được giáng trần như Thánh Gióng, Tiên Nga... Nhưng Đức Giê-su không muốn làm thế. Ngài muốn có một tổ ấm, một mái gia đình, có cha có mẹ. Chấp nhận làm người là chấp nhận thuộc về một gia đình.
Con Thiên Chúa đã lớn lên trong bầu khí gia đình. Mái nhà là trường học đầu tiên. Cha mẹ là thầy cô căn bản. Đức Giê-su lớn dần về mọi mặt trong Thánh Gia đạo hạnh. 30 năm sống dưới mái nhà Na-da-rét, Đức Giê-su đã thành một người chín chắn và trưởng thành, sẵn sàng lãnh nhận sứ vụ Chúa Cha trao phó. Thánh Giu-se đã “dắt trẻ Giê-su vào đời, hy sinh khuya sớm nắng mưa, ru trẻ Giê-su những đêm trăng rằm, dạy những bài học yêu thương tha nhân giúp người đơn côi...”
Đức Giê-su đã học nơi Thánh Giu-se tinh thần lao động miệt mài, sự mau mắn thi hành thánh ý Thiên Chúa, lòng nhiệt thành chu toàn trách nhiệm đối với gia đình. Đức Giê-su học nơi Đức Mẹ Ma-ri-a nét đẹp hiền lành đơn sơ, tế nhị, tận tuỵ phục vụ, sự buông mình sống trong lòng tin phó thác và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.
Các nhà tâm lý học cho biết rằng: đứa trẻ cần đến sự nâng đỡ của người cha cũng như người người mẹ. Người cha tạo cho con cái hùng, cái nghiêm trang mực thước. Người mẹ ảnh hưởng trên cảm tình con cái về sự tế nhị, dịu dàng, bao dung. Vì thế đứa trẻ mồ côi cha thường sống uỷ mỵ, nhát đảm, thiếu cương quyết và nghị lực. Đứa trẻ mồ côi mẹ thường mang tính cứng cỏi, cộc cằn, dễ u buồn, thiếu tế nhị vui tươi. Trẻ thơ cần được giáo dục về đời sống tình cảm và lý trí. Tình cảm dễ ảnh hưởng nơi người mẹ. Lý trí thường nhờ cậy người cha. Do đó người Ý có lý khi nhận xét: “Người mẹ yêu thương dịu dàng, người cha yêu thương khôn ngoan. Người dân Anh nhận xét chí lý: “Khi còn thơ con cái bú mẹ, lúc lớn khôn chúng lại bú cha...” Tục ngữ Việt Nam thì có câu: “Mẹ đánh một trăm không bằng cha ngăm một tiếng...”
Nền tảng cho việc đào tạo lý trí và tình cảm của một con người là đạo đức. Trên nền móng đạo đức vững chắc, xây một ngôi nhà gia đình hạnh phúc. Nếp sống đạo đức của Thánh Gia đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc đời Đức Giê-su. Người thừa hưởng nơi Thánh Giu-se và Đức Mẹ lòng yêu mến lề luật, gắn bó với đền Thờ, thói quen siêng năng nghe và đọc Lời Chúa.
Người học nơi cha mẹ tâm tình vâng phục thánh ý Chúa, thái độ hiền lành khiêm nhường, tinh thần phục vụ quên mình,sự chuyên chăm làm việc, sự ân cần âu yếm đối với con cái. Gia sản quý báu từ Thánh Gia bàng bạc trong những lời Người giảng dạy, trong đời sống của Người.
Gia đình thật quan trọng. Chính gia đình quyết định tương lai của trẻ thơ. Gia đình là vườn ươm. Hạt giống tuổi thơ lớn mạnh được là nhờ vườm ươm có đầy đủ nước, phân bón và sự ân cần chăm sóc. Gia đình là bầu khí quyển. Bầu khí có trong lành thì trẻ thơ mới phát triển được mọi mặt. Gia đình là con đường. Đường có ngay thẳng có định hướng thì tương lai trẻ mới tươi sáng không đi vào ngõ cụt cuộc đời.
Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô 2 hằng nhắc nhở về sự thánh thiêng của gia đình khi Ngài gọi gia đình là nền tảng của Giáo Hội. Đức Thánh Cha Phao-lô 6 gọi gia đình là Cung Thánh của Giáo Hội, là trường học đầu tiên của con cái mà cha mẹ là thầy cô.
Một gia đình mà cha mẹ, con cái siêng năng tham dự Thánh Lễ, chuyên chăm Kinh Nguyện tại gia, biết dùng Lời Chúa làm ánh sáng soi đường chỉ lối, luôn sống hoà thuận yêu thương nhau thì đó chính là gia đình gương mẫu theo Thánh Gia. Từ gia đình tốt này sẽ trao tặng những người con hữu ích cho xã hội và Giáo Hội.
Đức Thánh Cha Pi-ô 11 trong Thông Điệp về Giáo Dục Ki-tô giáo đã dạy rằng: “Nền giáo dục bền bỉ nhất và hữu hiệu nhất là nền giáo dục được nhận lãnh từ một gia đình Ki-tô giáo có quy củ khuôn phép. Gương lành cha mẹ càng chiếu tỏa, kết quả giáo dục càng lớn lao”.
Đức Thánh Cha Gio-an 23, trong một lá thư gởi cha mẹ nhân ngày mừng ngũ tuần của mình có đoạn: “Thưa ba mẹ, hôm nay con được 50 tuổi. Chúa thương ban cho con nhiều chức tước trong Hôi Thánh, được đi nhiều nơi, học nhiều sách, nhưng không có trường học nào dạy dỗ và làm ích cho con bằng hồi con được ngồi trên chân ba mẹ”.
Đức cố Hồng Y F. X. Nguyễn Văn Thuận cũng từng viết: ”Chủng Viện thứ nhất, Đệ Tử Viện thứ nhất, trường Sư Phạm thứ nhất là Gia Đình Công Giáo. Không vị giám đốc tài ba nào, hay chuyên môn đến đâu có thể làm thay cha mẹ được. Nếu cơ sở bậc nhất ấy bị hỏng, tương lai Hội Thánh và xã hội cũng rung rinh sụp đổ”.
Thánh Gia là một gia đính lý tưởng, đạo đức, yêu thương, hạnh phúc ngập tràn. Nguyện xin Thánh Gia luôn nâng đỡ và gìn giữ gia đình chúng con...
1. Mới đây, Robert Aron, trong cuốn “những năm ẩn dật của Chúa Giêsu, xuất bản tại Paris năm 1960, trang 119-169, đã cố công thiết lập lại đoạn văn này với những chi tiết dồi dào phong phú dưới một hình thức rất sống động. Thật là một lợi ích rất thiết thực cho những ai muốn hình dung lại các sự kiện quá khứ cụ thể; tuy nhiên cần phải chú ý đến điều chính yếu thuộc bình diện học thuyết. Tất cả mọi chi tiết trong đoạn này của Lc đều qui về một lời được coi như là chóp đỉnh và là chìa khóa để hiểu toàn bộ đoạn văn.
2. Tuy nhiên, xin mạn phép lưu ý điều này: bản văn không nói rõ ràng đây là lần đầu tiên Chúa Giêsu theo cha mẹ Ngài lên Giêrusalem. Như Lc đã chép: câu đó chỉ có ý nghĩa là biến cố đó xảy ra lúc Chúa Giêsu lên 12 tuổi; điều đó không có nghĩa rằng trước kia Chúa Giêsu không bao giờ lên thành thánh. Theo Xac 23,17 và Đnl 16,16 tất cả nam giới ở Palestine, bất phân tuổi tác, phải đi trình diện trước Chúa vào 3 lễ trọng trong năm: lễ bánh không men, nghĩa là lễ vượt qua, lễ cầu mùa, cũng gọi là lễ gieo giống, và lễ gặt cũng gọi là lễ Lều tạm.
Đàng khác, thiếu niên Do thái chỉ chính thức tham dự phụng tự hội đường lúc 13 tuổi, và có một liên hệ nào giữa nghi thức này được người Do thái thực hiện khắp nơi, với cuộc hành hương do tác giả phúc âm kể lại.
Có lẽ phải nghĩ tác giả nhắm nói lên một biểu tượng. Con số 12 có nghĩa là toàn mãn, hoàn thành. Ghi nhận Chúa Giêsu lúc ấy, được 12 tuổi là cốt ý đưa độc giả nghĩ đến ngày chấm dứt sứ mệnh trần gian của Ngài, ngày Ngài phải trở về cùng Cha. Thế mà, chúng ta sẽ thấy, chính việc loan báo úp mở về ngày Phục sinh là điều mà trình thuật này cố ý nhắm đến đầu tiên.
3. Khung cảnh chẳng có gì khác thường. Các giảng sư kinh thánh thời đó, những vị chuyên môn về sách Torah, không hề xua đuổi các cậu du khách trẻ tuổi ưa nghe những bài chú giải của họ. Họ không có coi thường việc thảo luận với các cậu. Do đó, ngoài Chúa Giêsu còn có thể có những thiếu niên cùng lứa tuổi khác đến dự các buổi thảo luận trên.
Lc tiếc: “Vừa thấy Ngài, cha mẹ Ngài rất xúc động. Và mẹ Ngài nói cùng Ngài: Này sao conn làm thế ? Kìa cha con và mẹ phải lo lắng tìm con”.
Và Chúa Giêsu trả lời, một câu trả lời đầy ý nghĩa và mầu nhiệm đến nỗi cha R. Laurentin đã phải để ra phần lớn một tác phẩm khá quan trọng của ông để bàn giải mà không thế tát cạn nội dung câu trả lời đó: “Tại sao tìm con ? Lại còn không biết rằng con phải ở tại nhà cha con sao ?” (il me faut être chez mon Père).
Nghĩa từng chữ theo bản văn Hylạp: “dans tes de mon Père”. Đây là kiểu nói có vẻ hàm hồ, quá hàm hồ đến nỗi có nhiều tác giả, từ thế kỷ 16 trở đi, tưởng có thể chú giải như Chúa Giêsu muốn nói: “Cha mẹ không biết con phải lo việc của Cha con sao ?” (je me dois aux affaires de mon Père). Nhưng lỗi phiên dịch này không thể đứng vững. Xét theo văn phạm thì không thể được và không có một chỗ dựa nào truyền thống giáo phụ. Đó chỉ là một sáng tác của óc duy trí (volontarisme) và duy hoạt động (activisme) tây phương. Qua một cuộc chứng minh sâu rộng, Laurentin cho thấy cách rõ ràng kiểu nói “dans les de mon Père” ám chỉ vật này vật nọ, không ám chỉ ai, lãnh vực nào, việc chi, nhưng chỉ có nghĩa “trong nhà cho con” (dans la maison de mon Père), hay cụ thể hơn, theo văn mạch của đoạn này là “trong đền thờ của Cha con” (dans le temple de mon Père). Nhưng những lối phiên dịch này bất lợi ở chỗ quá minh diện hóa một kiểu nói ẩn ngữ và giảm bớt tính cách bí ẩn của nó. Trong tiếng pháp, có một kiểu nói tương đương và giữ được yếu tố huyền bí của câu “dans les de mon Père” là kiểu nói “chez mon Père”. Công thức này lột tả chính xác ý nghĩa Lc muốn mà vẫn phú hợp với văn phạm hy lạp, với lối chú giải nhất trí của các giáo phụ Hy lạp và với chính văn mạch của đoạn này. (Nhưng than ôi ! bản dịch BJ đã chép lại truyền thống sai lầm. May thay bản dịch mới của TOB (traduction Oecuménique de la Bibles), xuất bản năm 1972, đã dịch chez mon Père).
Cần nhấn mạnh thêm về điểm này, vì việc quán triệt đúng đắn và chính xác kiểu nói “dans les de mon Père” là chìa khóa để hiểu 2 chương phúc âm nói về thời thơ ấu của Chúa Giêsu và một cách nào đó, là chìa khóa để hiểu thần học phúc âm thứ ba cũng như của sách Cv.
Kiểu dịch “lo việc của cha con” (aux affaires de mon Père) rõ ràng làm mất ý nghĩa của trình thuật. Lo việc của Chúa Cha, đó chính là công việc mà Chúa Giêsu sẽ thực hiện bắt đầu từ khi chịu phép rửa. Công việc vĩ đại, công việc duy nhất của Ngài là hoàn thành công cuộc của TC. Nhưng không phải là từ lúc 12 tuổi, khi lên đền thờ với cha mẹ. Lúc này Ngài chỉ muốn đến ở đó. Người ta không nói gì về những điều Ngài đàm đạo với các giảng sư Do thái mà chỉ nói Ngài “nghe và hỏi” các ông (c.46), có lẽ khi họ xin Ngài xác định lại một câu trả lời vừa phát biểu. Đó chỉ là cuộc đối thoại thầy trò, như thường xảy ra khi học về luật Torah. Trong bản văn không có gì cho phép nghỉ, như một lối giải thích nào đó của truyền thống, là Chúa Giêsu đã dậy dỗ các thầy tiến sĩ bằng cách “nói ra trước” lời loan báo về nước TC. Không phải là lúc Ngài tự hiến thân lo việc Cha Ngài. Giờ của Ngài chưa đến.
Nhưng kể từ lúc này, Ngài ở trong nhà Cha Ngài, trong nhà Ngài; sự hiện diện này còn là một sự hiện diện thể lý trong đền thờ.
4. Theo phúc âm, cha mẹ Ngài không hiểu được lời nói ấy. Thánh Giuse cũng như Đức Maria không lĩnh hội ngay được ý nghĩa đích thực của Lời đó. Không phải vì họ không biết nguồn gốc siêu việt của đứa con sinh ra theo phép lạ đó đâu; hơn ai hết, các Đấng là những người biết rõ nguồn gốc siêu việt của Chúa Giêsu. Nhưng các Đấng không hiểu được ngay là Chúa Giêsu muốn nói Cha Ngài ở trên trời cũng như việc Ngài gọi TC là Cha của Mình theo nghĩa đen. Nhất là các Đấng không thể đoán được tất cả mọi ý nghĩa sâu xa giấu ẩn sau lời nói con trẻ Giêsu, một lời nói đầy tính cách tiên tri, một lời nói mạc khải cách đơn sơ một tương lai hoàn toàn vượt khỏi khả năng hiểu biết của các Ngài.
Một ngày kia Ngài sẽ nói với vài người Do thái ở Giêruselem: “các ngươi sẽ tìm kiếm Ta nhưng sẽ không gặp; vì nơi Ta ở, các ngươi không thể đến được” (Ga 7,34). Các thành kiến sai lạc về Ngài của những người đối thoại với Ngài cản ngăn họ vươn tới bình diện thiêng liêng, không cho họ đi sâu vào lãnh vực thần linh, nơi mà Chúa Giêsu đang ở và nơi mà cuộc tử nạn và Phục sinh sẽ đặt Ngài vào một cách hoàn toàn.
Lúc 12 tuổi, ở trong đền thờ, Chúa Giêsu không những chỉ nói với cha mẹ Ngài mà còn nói với một cử tọa vô hình, với tất cả những ai Do thái hay lương dân, chỉ thấy Ngài như một vĩ nhân, một tiên tri, một người làm phép lạ, với những ai tìm Ngài chỉ vì một lợi ích trần tục, hạn hẹp trong cuộc đời này. “Tại sao các ông tìm tôi, như thể các ông không biết nơi tôi đang ở, nơi tôi phải ở, tôi phải ở với cha tôi luôn luôn, tại nhà Người”
Câu Chúa Giêsu trả lời mẹ Ngài hiển nhiên là khó hiểu. Xét cho kỹ, câu trả lời không giải thích gì, không nhắm bào chữa cách cư xử của Ngài, mà chỉ kêu mời Đức Maria và thánh Giuse vươn lên khỏi bình diện của những mối bận tâm thường nhật để đến trình diện thần linh, nơi mà Ngài luôn ở. Đó là một giáo huấn hơn là một câu trả lời. Cách mặc nhiên, nó cho thấy người nói lời đó không phải như các người khác và thái độ của người ấy chẳng giống thái độ của kẻ khác tí nào.
Hơn nữa, và nhất là nó hé mở trước câu hỏi mà Lc sẽ gán cho sứ thần khi ông kể lại việc khám phá mồ trống vào sáng ngày phục sinh. Các phụ nữ từng theo Chúa Giêsu từ Gâlilê và đã chứng kiến sự khổ hình Ngài đến viếng mồ từ tảng sáng ngày thứ nhất trong tuần. “Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mồ; nhưng khi vào trong, họ không gặp thấy xác Chúa Giêsu. Đang khi họ phân vân về điều đó thì có hai người hiện ra cho họ, áo chói lòa. Họ đâm sợ, sấp mặt xuống đất, hai người kia mới nói với họ: “làm sao các ngươi tìm Đấng sống giữa những kẻ chết ? Ngài không có ở đây, nhưng đã sống lại” (Lc 24,2-5). Rồi hai người gợi lại cho các bà những lời Chúa Giêsu đã phán dạy trước kia” làm sao Ngài đã loan báo âm mưu các thầy thượng tế, cuộc khổ nạn, cái chết trên thập giá và sau cùng là cuộc phục sinh của Ngài ngày thứ ba.
” Tại sao tìm con ? Cha mẹ không biết rằng...”. Đấng luôn ở cùng Chúa Cha không thể chết mãi, không thể bị tiêu diệt ngàn đời. Ngài thật vĩ đại, Ngài là Đấng hằng sống; mọi lo lắng về Ngài đều không đúng chỗ, vì không chứng tỏ rằng nếu phải là một sự thiếu đức tin thì ít nữa cũng là một đức tin chưa nhận thức được tầm mức rộng lớn của đối tượng của nó.
5. Ở đây đã đến lúc hồi tưởng lại các chi tiết được Lc cố gom góp để hướng tâm trí độc giả về một lối giải thích không những chính xác mà còn phong phú nhựa sống thiêng liêng về lời hài nhi Giêsu nói.
Chúng ta đã nêu lên ý hướng của tác giả phúc âm khi ông ghi nhận rằng lúc đó Chúa Giêsu lên 12 tưởi. Hình như ông đã thấy trong con số này biểu tượng một sự hoàn thành, một sự hoàn tất. Cùng một ý tưởng đó được tìm thấy nơi đoạn ông viết: “Khi các ngày ấy đã mãn” những ngày của lễ vượt qua - thánh Giuse và đức Maria rời khỏi thành thánh. Nơi Lc ý tưởng “hoàn tất” này được liên kết với việc tử nạn Phục sinh (12,50; 18,31; 22,37; 9,51; 9,31; 22,16; 22,44; 21,24...), biến cố được coi như là đích điểm và hoàn thành sứ mệnh trần thế của Chúa Giêsu. Giây phút mà con trẻ nói lên một lời tiên tri liên quan đến việc Ngài trở về cùng Cha trùng hợp với giây phút Ngài hoàn tất và vâng lời nghiêm túc các giới răn của lề luật.
Chỉ sau ba ngày, thánh Giuse và đức Maria mới tìm thấy con trẻ lạc mất. Ba ngày đó chính là khoảng thời gian từ khi chết đến lúc sống lại, vì phải hiểu thành ngữ này theo nghĩa “vào ngày thứ ba”. Đây là thành ngữ Lc thừng dùng. Thành ngữ này có lẽ cảm hứng theo một bản văn của Ôse (6,2) hoặc sách các vua quyển hai (20,5)
Một yếu tố khác. Chúa Giêsu quả quyết, trong câu trả lời cho đức Maria và thánh Giuse: “Con phải ở nhà Cha con”. Kiểu nói “phải” xuất hiện 6 lần khác trong phúc âm Lc và luôn luôn có liên quan đến cuộc tử nạn của Chúa Giêsu nhưng là việc hoàn tất các lời tiên tri (13,33; 24,26; 24,44...). Dường như đoạn văn chúng ta đây không đi ra ngoài thông lệ đó và xem ra đây là lời Chúa Giêsu tiên báo về cuộc tử nạn của Ngài. Vì vậy thành ngữ “ở nhà Cha con” tại chỗ này ám chỉ việc Chúa Giêsu trở về cùng Cha Ngài nghĩa là việc Ngài chết và sống lại.
Rồi đức Maria và thánh Giuse cũng không hiểu về mối tử hệ thần linh của Chúa Giêsu đâu. Vì đức Maria, ngay từ lần truyền tin, đã rõ mối tử hệ thần linh này rồi. Các nhà chú giải cắt nghĩa bản văn theo nghĩa đó cho rằng ở đây có một mâu thuẫn. Nhưng cũng ở đây, phải chú giải đoạn văn bằng cách đối chiếu với những đoạn song song. Thế mà chủ đề “không hiểu” xuất hiện nhiều chỗ trong Lc (9,45; 18,34; 14,25) và luôn luôn liên hệ với những lời Chúa Giêsu ám chỉ bí nhiệm cuộc tử nạn của Người. Do đó, việc không hiểu ở đây chẳng phải là điều đáng trách, nhưng là do lời Chúa Giêsu loan báo cuộc tử nạn còn phải che dấu đối với những người nghe. Họ chỉ hiểu được ý nghĩa lời Ngài nói sau khi các lời loan báo đó được hoàn thành.
6. Ngoài ra trình thuật này còn nhiều yếu tố thần học khác thuộc loại giáo lý. Một trong những yếu tố đó là trí thông minh mà Chúa Giêsu bày tỏ qua việc trả lời các câu hỏi của các tiến sĩ luật. Sự thông minh này làm họ phải kinh ngạc (2,47). Điều này cũng sẽ thường xảy ra trong đời công khai của Chúa Giêsu. Các phúc âm ghi lại nhiều cuộc tranh luận của Chúa Giêsu với các ký lục và biệt phái. Những người này đặt nhiều câu hỏi, tìm cách làm cho Ngài lúng túng; và Chúa Giêsu làm cho Ngài kinh ngạc vì sự đối đáp khôn ngoan của Ngài (Mt 12,1-8; 19,3-9). Nói cách tổng quát, Chúa Giêsu xuất hiện trong phúc âm như một nhà chú giải kinh thánh có thẩm quyền. Một đoạn của Lc đã cho thấy điều đó: một ngày sabat nọ, sau khi Chúa Giêsu đã giảng dạy, nghĩa là đã chú giải kinh thánh, thì “ai nấy đều kinh ngạc trước lời giảng giải của Ngài (4,32).
Như vậy, đoạn này có tiêu mục giáo lý khác là cho ta thấy Chúa Giêsu thông hiểu kinh thánh đến nỗi chính các tiến sĩ luật phải công nhận. Qua đó Chúa Giêsu được chứng tỏ như là một thày dạy đáng tin. Và đó là một trong những khía cạnh chính yếu của bài giáo lý sơ khai. Nếu Chúa Giêsu là Đấng cứu thế thì Ngài cũng là thầy dạy. Thánh Gioan đã làm nổi bật cách đặt biệt khía cạnh này. Nhưng khía cạnh đó cũng không kém quan trọng đối với phúc âm nhất lãm. Đặc điểm của đoạn văn chúng ta đây là uy quyền của Chúa Giêsu được biểu lộ ngay từ thời Ngài còn niên thiếu.
7. Một yếu tố khác của trình thuật cũng quan trọng đối với giáo lý, là thái độ của Chúa Giêsu đối với đức Maria và thánh Giuse. Khía cạnh này tự nó độc lập với khía cạnh trên và đã được Lc khai triển một cách dài dòng. Chúa Giêsu ở lại trong đền thờ Gierusalem mà không báo trước cho cha mẹ Ngài. Hai ông bà thoạt tiên tưởng Ngài đã về với những người hành hương khác. Sau một ngày tìm mà không gặp, hai Đấng đã trở lại Giêrusalem. Bấy giờ họ mới thấy Ngài ở trong đền thờ, đức Maria phàn nàn đã vì Ngài mà băn hoăn lo lắng... Tất cả những điều đó đều có tính cách lịch sử. Chắc hẳn biến cố xôn xao này đức Maria đã giữ lại một kỷ niệm đáng nhớ. Cho nên phủ nhận tính cách lịch sử của trình thuật không còn gì phi lý bằng.
Tuy nhiên giai thoại cũng có một ý nghĩa học thuyết và vì thế mà giáo lý đã giữ lại. Một lần nữa chúng ta gặp lại trong phúc âm những đoạn song song nói về thái độ tương tự của Chúa Giêsu đối với đức Maria và thánh Giuse. Như trong Lc,19-21 (song song với Mc 3,32) ta thấy: mẹ và anh em Chúa Giêsu hay và Ngài trả lời: “Mẹ và anh em ta là những người nghe và giữ lòi TC”. Cũng y như vậy trong trình thuật tiệc cưới Cana của phúc âm Gioan. Do đó đây chính là một điểm giáo huấn khiến người ta duy trì điểm này. Và giáo huấn đó là việc Chúa Giêsu xác quyết Ngài thuộc về một vũ trụ khác với vũ trụ gia đình nhân loại.
Lời quả quyết này được biểu lộ qua chính lối cư xử của Chúa Giêsu: việc Ngài không báo trước cho cha mẹ Ngài hay chứng tỏ Ngài độc lập với hai Đấng xét như Ngài là Con TC và sự độc lập này được nhấn mạnh bằng lời quả quyết tương phản tiếp đó về sự tùng phục đối với hai ông bà sau khi trở về Nazareth (c,51). Điều ấy chứng thực Ngài lệ thuộc đức Maria và thánh Giuse với tư cách Ngài là con người. Nhưng hành vi của Chúa Giêsu được biểu lộ cách minh nhiên qua lời Ngài nói: “Con phải ở tại nhà Cha con” (2,49), câu nói đối chiếu tử hệ thần linh của Chúa Giêsu với mối dây họ hàng thuần nhân loại được gợi qua câu “cha và mẹ hằng tìm con”.
8. Người ta có thể tự hỏi tại sao chỉ mình Lc ghi lại giai thoại này thôi. Dường như có ba lý do: lý do thứ nhất là vì giai thoại đã xảy ra trong đền thờ (2,46). Mà như chúng tôi đã lưu ý, Lc rất thích nói đến chủ đề đền thờ. Tin mừng của ông khởi đầu với việc thiên thần Gabriel hiện ra cho Giacaria trong đền thờ; rồi tiếp đến là việc dâng Chúa Giêsu vào đền thánh. Do đó thật dễ hiểu khi Lc ghi lại một giai thoại cho phép ông kết thúc phần đầu này của phúc âm bằng cách ám chỉ đến đền thờ, như ông sẽ làm với toàn bộ phúc âm (24,53). Lời của Chúa Giêsu: “Con phải ở tại nhà Cha con”, nghĩa là ở trong đền thờ, đem lại cho sự hiện diện của Chúa Giêsu tại đó chiều kích biểu tượng nói lên việc Chúa Giêsu trở về nhà Cha Ngài.
Nhưng từng ấy không thể giải thích được tại sao Lc, khác với Mt, đã ghi lại một giai thoại liên quan đến thời niên thiếu của Chúa Giêsu. Sở dĩ ông ghi lại là vì, hơn các tác giả phúc âm khác, ông hằng quan tâm đến việc trình bày cho chúng ta một “tiểu sử” của Chúa Giêsu hợp với qui định của văn thể tiểu sử thời đó. Mà những “tiểu sử” này, theo sách Haggada Do thái và sách hiền nhân Hy lạp chú tâm nhiều đến thời niên thiếu. Vì vậy Lc đã muốn lấp đầy khoảng trống giữa những trình thuật về thời thơ ấu và những trình thuật về thời công khai của Chúa Giêsu. Nội dung của thời kỳ này được nói rõ qua hai câu mở và kết thúc đoản văn. Trong hai câu này (2,40 và 2,52) đều nói đến vấn đề Chúa Giêsu lớn lên trong sự khôn ngoan (sophia). Nếu nội dung chính yếu của phúc âm thời thơ ấu là như thế đối với Lc, thì việc ông chọn một giai thoại để làm nổi bật sự khôn ngoan vô song của Chúa Giêsu là một điều dễ hiểu.
Nhưng ngoài việc tôn trọng những qui luật của thể văn lịch sử còn một lý do tín lý nữa. Trong Kitô giáo chúng ta thấy xuất hiện rất sớm một trào lưu tư tưởng cho rằng Chúa Giêsu là một con người như bao người khác, được sinh ra do cuộc hôn nhân giữa đức Maria và Giuse, nhưng Chúa Thánh Thần đã xuống trên Ngài khi Ngài chịu phép rửa để biến Ngài trở nên tiên tri cao trọng nhất. Dòng tư tưởng này là của những Kitô hữu gốc Do thái, những người Ebionites và của một vài nhà ngộ đạo. Phúc âm Mc, khai mạc đời Chúa Giêsu với phép rửa, có thể là cơ hội cho quan điểm này. Nên đây có thể là một trong những lý do thúc đẩy Lc minh chứng rằng Chúa Giêsu đã ý thức mình là Con Thiên Chúa từ lúc thiếu thờ, để bài bác sai lầm của tư tưởng kia. Chúng ta thấy có chuyện tương tự như thế trong phúc âm Gioan, nếu thực sự Gioan cũng nhằm bác bỏ thuyết ảo thân của Cérinthe.
KẾT LUẬN
Giai thoại này xuất hiện như là câu kết và điểm hội tụ của toàn thể Tin mừng thơì thơ ấu. Đồng thời đó cũng là một bài giáo lý với hai khía cạnh: khía cạnh luân lý (sự vâng phục của Chúa Giêsu) và khía cạnh mầu nhiệm (sự biểu lộ mầu nhiệm phục sinh). Thật ra chính khía cạnh thứ hai mới trổi vượt hơn. Điều đã khiến Lc chọn lựa giai thoại “tìm lại Chúa Giêsu” đây, với các chi tiết (khung cảnh lễ vượt qua, Giêrusalem, đền thờ, ba ngày...) và lối trình bày đặc biệt, chính là hoài bão muốn bày tỏ, trong thời thơ ấu Chúa Giêsu, các dấu chỉ báo trước cuộc tử nạn và việc trở về cùng Cha bằng cái chết, là điểm chính yếu trong mầu nhiệm của Chúa Giêsu.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Từ khi còn niên thiếu, Chúa Giêsu đã ý thức rằng Ngài sẽ phải trở về cùng Cha trên trời ngang qua một cái chết khủng khiếp đã được thánh kinh tiên báo (Is 53; Tv 22,69...) và cũng theo lời thánh kinh (Os 6,2); 2V 20,5), người ta chỉ gặp lại ngài sống lại sau ngày thứ ba. Đó là tất cả mầu nhiệm Tử nạn - phục sinh mà Ngài muốn sống một cách biểu tượng để chuẩn bị cho đức Maria và thánh Giuse, trước khi sống một cách đích thực. Đấy là ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm mà chúng ta cử hành hôm nay. Xét cho kỹ, chúng ta sẽ khám phá rằng mọi giai thoại về cuộc đời Chúa Giêsu, mới thoạt nhìn xem ra quá tầm thường, nhưng luôn luôn chỉ nói vè mầu nhiệm trung tâm của số phận Ngài và của đức tin Kitô giáo của chúng ta: cuộc tử nạn - sống lại của Đấng cứu thế, mầu nhiệm phục sinh. Đối với chúng ta cũng vậy, những biến cố tầm thường trong cuộc sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi giúp chúng ta sống mầu nhiệm phục sinh trong thân xác chúng ta, nghĩa là vượt qua (:Pâques) cuộc sống con người để sống chính cuộc sống Thiên Chúa. Chúng ta cũng chỉ có một số phận” là ở trong nhà Cha chúng ta, không phải bằng cách ở trong nhà thờ suốt ngày (Chúa Giêsu không ở lại trong đền thờ nhưng đã trở về Nazaret) song bằng cách sống dưới cái nhìn của Chúa Cha, bằng cách chết cho mình mỗi ngày, cho tính ích kỷ tự nhiên để hoàn toàn sống đời tình yêu mà Chúa Cha hằng mời gọi.
2. Chúa Giêsu đối chiếu thánh giuse, cha nuôi của Ngài với Cha trên trời: “Cha con và mẹ tìm con” - “Cha mẹ không biết rằng con phải ở tại nhà Cha con sao ?”. Tử hệ thần linh của Chúa Giêsu vượt trên mọi mối liên hệ nhân loại. Ai yêu gia đình mình hơn Đấng Kitô thì không xứng đáng với Ngài (x. Mt 10,37).
Sứ mệnh của Chúa Giêsu giả thiết một sự vượt qua các đòi hỏi thiết yếu của gia đình. Để thực hiện sứ mệnh này, Chúa Giêsu một ngày kia sẽ bỏ gia đình để hoàn toàn hiến thân cho Nước Trời. Giai thoại về cuộc đi tìm Chúa Giêsu đây đã là một loan báo, một báo động về sứ mệnh tương lai của Ngài. Đức Maria và thánh giuse chưa hiểu điều đó, nhưng khi đến giờ chia ly dứt khoát, các Ngài sẽ không chống lại thánh ý Thiên Chúa. Mọi gia đình Kitô giáo đích thực cũng thế, phải rập theo khuân mẫu của thánh gia thất. Cha mẹ đừng bao giờ chống lại ơn gọi làm linh mục hay tu sĩ của con cái mình, cũng như đừng chống đối việc con cái lập gia đình khi đã khôn lớn. Muốn giữ con cái lại cho mình với bất cứ giá nào là một hình thức ích kỷ không thích hợp với tình yêu Kitô giáo đích thực.
4. Nhưng sự độc lập của Chúa Giêsu cho ơn gọi thần linh của Ngài không có nghĩa là một sự thoát ly quá sớm; việc Ngài lưu lại Giêrusalem không phải là bất tuân nhưng là tuân phục một mệnh lệnh lớn hơn. Người sẽ chứng minh điều đó ngay lập tức bằng việc hoàn toàn vâng phục thánh Giuse và đức Maria ở Nazaret. Và suốt phần còn lại của đời Ngài, Ngài vẫn nêu gương về điểm đó cho mọi thời đại; qua gương sáng của Ngài, Ngài cho thấy quyền bính của cha mẹ và sự vâng phục của con cái là luật lệ thánh trong nền giáo dục Kitô giáo. Điều đó còn đi xa hơn nữa khi Chúa Giêsu - con TC đã phải tùng phục mệnh lệnh của hai người đơn sơ và chất phác.
5. Chúa Giêsu lạc mất: việc Ngài tự ý biến mất không thể qui trách cho thánh Giuse và đức Maria là những vị đã hết lòng săn sóc lo lắng cho Ngài. Chuyện xảy ra đã vượt quá mọi tiên liệu. Khi trong đời sống thiêng liêng, chúng ta cảm thấy khô khan, nghi ngờ, tối tăm, cảm thấy Chúa Giêsu dường như ẩn khuất và lẩn tránh lời cầu nguyện của chúng ta, điều đó có thể một phần vì lỗi chúng ta. Nhưng cũng có thể là Chúa Giêsu muốn lẩn khuất để thử thách chúng ta (Lc 24,28). Ngài nói với chúng ta: “Còn một ít lâu nữa, các con sẽ lại thấy Ta” (Ga 16,16-19). Trong khi chờ đợi, đừng cam chịu xa cách Chúa Giêsu: “Hãy tìm và sẽ gặp”. Như đức Maria và thánh Giuse, phải đi tìm kiếm Chúa cho đến khi gặp được Ngài.
6. Chúa Giêsu đã muốn trở thành người hoàn toàn, biết qua những giai đoạn tăng trưởng, phát riển của đời người. Nhưng Ngài cũng muốn thánh hóa lao động, tình yêu gia đình và muôn ngàn chi tiết của cuộc sống thường nhật. Chính trong khung cảnh gia đình và lao động mà chúng ta có thể sống tốt làm con Chúa, sống hạnh phúc vì được ở nhà Cha.
Bài Tin Mừng hôm nay nói tới hai trong ba nghi lễ cổ mà một gia đình Do Thái phải tuân giữ. Ba nghi lễ ấy là:
Cắt bì:
Mỗi con trai Do Thái phải chịu cắt bì vào ngày thứ tám, sau khi sinh. Nghi lễ này quan trọng đến nỗi có thể làm vào ngày sa bát, là ngày mà luật cấm làm hầu hết các công việc không tuyệt đối cần thiết, và trong ngày đó con trẻ được đặt tên.
Chuộc con đầu lòng:
Theo luật (Dnl 13,2) thì mọi con đầu lòng, dù người hay súc vật, đều biệt riêng ra cho Thiên Chúa. Luật này có thể là sự tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa ban cho loài người được sự sống hay cũng có thể là dấu tích của thời kì khi con trẻ được dâng cho các thần. Dĩ nhiên nếu luật đó được tuân thủ sít sao thì sự sống không còn trên mạt đất, vì thế mới có nghi lễ chuộc con đầu lòng (Ds 18,16). Người ta lại quy định rằng dâng một số tiền năm shekel, cha mẹ có thể chuộc đứa con từ nơi Chúa. Số tiền đó phải trả cho các thầy tế lễ và không thể nộp trước ba mươi mốt ngày sau khi sinh đứa trẻ và cũng không trì hoãn nhiều.
Lễ tẩy sạch sau khi sanh nở:
Khi người đàn bà sinh con trai thì người mẹ bị ô uế trong bốn mươi ngày, nếu con gái thì ô uế trong tám mươi ngày. Người mẹ có thể đi lại trong nhà, làm công việc hằng ngày, nhưng không thể vào Đền thờ hay tham dự các nghi lễ Tôn giáo khác (Lv 12). Khi thời hạn đó chấm dứt, người mẹ phải vào Đền thờ, đem theo con chiên làm của lễ toàn thiêu và một chim bồ câu non làm của lễ chuộc tội. Đó là một của lễ khá tốn kém vì thế luật định rằng (Lv 12,8)nếu người mẹ không thể mua một con chiên thì có thể đem đến một con chin bồ câu thứ hai. Của lễ bằng hai con chim bồ câu thay vì một con chiên và một con chim bồ câu gọi là của lễ của người nghèo. Đức Mẹ Maria đã dâng của lễ đó. Chúng ta thấy Chúa Giêsu sinh ra trong một gia đình nghèo, không chút xa xỉ, ở đó mỗi đồng xu cũng được tính kĩ, ở đó những người trong gia đình biết rõ những khó khăn của cuộc sống và những gia nan của kiếp người. Khi nào đời sống trở nên bế tắc cho chúng ta. Chúng ta nên nhớ rằng Chúa Giêsu đã nếm trải đủ mùi cay đắng đó rồi.
Ba nghi lễ này là nghi lễ cổ và lạ, nhưng cùng hàm chứa một niềm tin rằng con cái là ơn phúc Chúa ban cho. Trong các ơn phúc Chúa đưa đến không có ơn phúc nào khiến ta mang nhiều trách nhiệm với Chúa ban cho bằng con cái. Sinh con ra, chúng ta còn lo giáo dục và nuôi dưỡng chúng nên người.
Trong địa hạt giáo dục, bước đầu là quan hệ hơn hết: dạ con từ thủa còn thơ. Điều cần thiết là phải bắt đầu cho đúng lúc và kết quả cuối cùng là tùy ở đó.
Trước hết, con cái lúc ấu thời phải được sống trong bầu khí sung sướng. Có người tưởng rằng trẻ con thì sung sướng rồi, nhưng phải cho trẻ con sống trong hoàn cảnh bảo vệ sung sướng ấy. đứa trẻ bao giờ cũng nhạy cảm và dễ rung động tùy theo vui hay buồn của những người xung quanh. Tự nó không gây ra cho nó sung sướng. Không phải cứ đầy đủ vật chất trong gia đình là đứa trẻ sung sướng. Sự sung sướng của nó tùy thuộc vào bầu khí gia đình và nhất là tùy ở cách cư xử giữa hai bố mẹ nó. Bầu khí yêu thương, vui vẻ, tin cậy giữa hai bố mẹ giúp cho trẻ con phát triển tốt đẹp. Anh hưởng tốt đẹp ấy không những cho những đứa trẻ sơ sinh mà còn cho các thai nhi, vì thế trong các lớp huấn luyện hôn nhân đã phải có vấn đề “thai giáo”. Bầu khí gia đình có ảnh hưởng rất mạnh, hoặc xấu hoặc tốt ngay từ khi trẻ nằm trong bụng mẹ. người đàn bà có thai hay giật có thể làm thiệt hại cho đứa trẻ, hay lo âu có thể làm thiệt hại cho bộ thần kinhlà cả một gia tài tự nhiên của nó. Vì thế người mẹ khi có thai phải tránh không nên cau có, giận hờn, nhưng luôn bình tĩnh vui tươi… Câu tục ngữ “con hư tại mẹ” có phần hơi quá đáng, nhưng “con nên tại mẹ” thì thật đúng.
Vì người mẹ giữ vai trò giáo dục con cái ngay khi còn là bào thai. Các cụ nhà ta rất khôn ngoan nên những bà mẹ thời xưa khi mang thai đã được bảo cho biết phải lo cho con cả về thể dục, trí dục, tâm hồn. Nàng vận động để thai mạnh. Nàng không ăn nhiều chất bổ dưỡng nguyện con quá mập khó chào đời. Không ăn cua vì sợ sanh ngang (ngang như cua). Kiêng ăn ốc vì sợ con nhiều rãi, không xem những cảnh khiếp sợ. thương tâm hầu tránh cho con khỏi chịu ảnh hưởng xấu cho tính tình. Nàng ăn nhiều trứng cho da con được trắng trẻo, uống nước dừa cho da con được mát tươi. An nhiều đu đủ cho da con được hồng hào…
Đến ngày con ra chào đời, “khi con sinh người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình, nhưng sinh con rồi, thì không còn nghĩ đến gian nan nữa,bởi được tran chứa niềm vui vì một đứa con đã sinh ra trong thế gian” (Gioan 16,21).
Đứa con luôn mang dấu vết củ cha mẹ:
Lung linh mắt biếc sáng ngời Môi con đỏ thắm tươi cười nhìn cha, Này môi, này mắt, này da, Mũi con giống mẹ, giống cha miệng cười Có con có cả bầu trời Cầu xin ơn Chúa thương đời của con (Thanh Tùng)
Đứa trẻ bao giờ cũng dễ dàng cảm xúc giọng nói và nét mặt của người mẹ. Mẹ nó khóc nó cũng khóc, mẹ nó cười nó cũng cười. Kính ảnh thâu hình bên ngòai dễ dàng, tế nhị như thế nào thì bộ máy thần kinh của đứa trẻ cũng thâu nhận sự thay đổi tính khí của người mẹ như vậy. Trước mặt đứa trẻ không nên nói lời giận dữ, không nên cãi nhau. Những cái đó làm hại bộ máy thần kinh của đứa trẻ. Ngoài ra trẻ nhỏ lại bắt chước người lớn, vì trẻ nhỏ bao giờ cũng dễ bắt chước.
Cách cư xử giữa cha mẹ cũng ảnh hưởng rất nhiều đến con cái. Nếu cha mẹ ở với nhau lịch sự thì con cái cũng bắt chước cái lịch sự đó, không bao giờ chúng lại có những cử chỉ mà chúng không thấy ở nhà. Không phải bỏa nó nên làm việc này mà không nên làm việc kia mà làm thành tính tình của chúng. Tính tình của chúng là do điều chúng thấy và nghe mà có. Không có cái gì làm chúng thích thú hơn là bắt chước cha mẹ. gương mẫu có hiệu lực hơn là những lời giáo huấn.
Lời kinh mà chúng ta đọc “xin cho cha mẹ biết cách giáo dục con cái” nhằm nhắc cho cha mẹ sự cần thiết phải có một chương trình nhất dịnh để giáo dục con. Lúc mới sinh ra, trẻ con chỉ cần bú sưã, ngủ,tắm rửa, thay tã. Thường thường no rồi thì nó ngủ, và có thức là chỉ để bú thêm, vây khi nó bú no rồi hãy đưa nó vào nôi ngay. Bằng cách đó phải tập dần đưa nó vào kỉ luật: bú có giờ, ngủ có giấc. Đừng nhượng bộ trước những sở thích chớm nở của nó, vì như thế nó chóng trở thành một “bạo chúa” ưa làm khổ những người xung quanh một cách không cần thiết. Đưá bé nào nín khóc ngay khi bồng ra khỏi nôi, không khóc vì đau đớn, vì không thể hết đau đớn phút chốc như thế được. Vậy nó khóc là cốt được nâng niu. Đó chính là cái ý muốn không chế người khác. Cha mẹ cần phải cương quyết với con ngay từ lúc đầu, không nên sợ như vậy là thiếu yêu thương. Chiều như vậy không có lợi ích cá nhân gì cho đứa nhỏ mà cũng không có ích gì cho sức khoẻ của nó. Và khi đứa nhỏ no đủ sự chiều chuộng, nó sẽ không biết giá trị của sự chiều chuộng nữa. Đứa trẻ tập thói quen đòi hỏi, để tự mãn nguyện bằng cách muốn gì được đấy, làm cha mẹ không còn đủ sức chiều nữa !…
Cha mẹ nào lại không hãnh diện, sung sướng khi có được những đứa con ngoan ngoãn, hiếu thảo, sinh tươi. Hãnh diện vì chúng chính là công lao của mình. muốn được thế, các cha mẹ phải học tập gương mẫu của Chúa Giêsu, Đấng đã thưa với Chúa Cha “vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Gioan 17,19)
Cha mẹ nào cũng mong gây dựng cơ nghiệp cho mình và mong cơ nghiệp ấy sẽ tồn tại mãi mãi. Là con cái Chúa, chúng ta được chính lời hướng dẫn:
“Này con cái là hồng ân Chúa,
Bầy con sinh hạ là phần thưởng Chúa ban” (Tv 127,3).
Vậy chúng ta phải học tập Chúa Giêsu, phải thánh hiến chính bản thân mình, phải dùng Lời Chúa mà hướng dẫn con cái chúng ta vào con đường tin kính Chúa và yêu thương người như Kinh Thánh dạy. Chúng ta vào Thiên Đàng cũng chẳng mang theo được gì ngoài con cái chúng ta nếu chúng cùng niềm tin với chúng ta. Và đó chính là phần thưởng Chúa ban.
“Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giu-se rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập, và cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy !" Ông Giu-se liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập. Ông ở đó cho đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập.
Sau khi vua Hê-rô-đê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giu-se bên Ai-cập, báo mộng cho ông rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi." Ông liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Ít-ra-en. Nhưng vì nghe biết Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giu-đê, nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Ga-li-lê, và đến ở tại một thành kia gọi là Na-da-rét, để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi là người Na-da-rét.”
Thế giới xưa hoàn toàn tin tưởng rằng Thiên Chúa loan báo sứ điệp của Ngài cho con người qua các giấc chiêm bao. Vậy thánh Giu-se được khuyến cáo trong một giấc chiêm bao phải lánh qua Ai-cập là điều hoàn toàn tự nhiên. Thường thường trong những thế kỷ nhiễu nhương trước thời Chúa Giê-su, khi gặp nguy hiểm, bạo ngược, bắt bớ, làm cho cuộc sống của người Do-thái muôn phần cơ cực, họ đều lánh sang Ai-cập. Kết quả là trong mỗi thành Ai-cập đều có cộng đoàn kiều dân Do-thái. Trong thành Alexandri đã có hơn một triệu người Do-thái, và trong thành phố có vài quận coi như giao hẳn cho họ. Trong lúc nguy cấp đó, Giu-se cũng làm như những người khác đã làm. Khi Giu-se và Ma-ri-a đến Ai-cập không thấy mình hoàn toàn xa lạ, vì thành nào cũng có người Do-thái lánh nạn trước.
Về sau kẻ thù của Ki-tô giáo và kẻ nghịch chống Chúa Giê-su thường dùng chuyện này để vu cáo, nói xấu Chúa. Ai-cập thường được coi như xứ của phù phép và thuật sĩ. Sách Talmud nói: "Mười đường phép thuật trút xuống thế gian, Ai-cập nhận chín và cả thế giới còn lại chỉ nhận được một đường." Do đó những kẻ chống nghịch Chúa tuyên truyền rằng: chính tại Ai-cập, Chúa Giê-su đã học ma thuật phù phép khiến Ngài có thể làm phép lạ lừa dối người đời.
Nhưng vu khống như thế đa bóp méo suy nghĩ liên quan đến chuyến lánh sang Ai-cập và rõ ràng là giả dối vì Chúa Giê-su được đem qua Ai-cập từ lúc sơ sinh và cũng được đem về khi còn là một em bé.
Đến kỳ đã định, Hê-rô-đê băng hà. Khi Hê-rô-đê chết, vương quốc ông bị phân chia. Người La-mã tin cậy Hê-rô-đê và giao cho ông một địa phận rất rộng lớn, nhưng Hê-rô-đê thừa biết rằng các con trai ông sẽ không có ai duy trì được quyền hành như vậy. Vì thế, ông chia đất nước ra làm ba trong di chúc ông để lại cho mỗi người con trai một phần. Ông để Giu-đê cho Achêlao, Ga-li-lê cho Antipaas, và phần đất xa xôi phía đông bắc bên kia sông Gio-đan cho Phi-lip-phê.
Nhưng cái chết của Hê-rô-đê không giải quyết được vấn đề. Achêlao là một vua xấu không ở trên ngôi được bao lâu. Thật ra Achêlao khởi sự trị vì với một mưu toan vượt hẳn Hê-rô-đê, vì ông đã mở màn cuộc cai trị bằng cách cố ý tàn sát ba ngàn người có ảnh hưởng nhất trong xứ. Rõ ràng dù Hê-rô-đê đại đế đã băng hà nhưng trở về xứ Giu-đê với Achêlao man rợ và tàn bạo đang ngồi trên ngôi thì không an toàn chút nào, nên Giu-se được dặn trở về Ga-li-lê vì tại đó Antipas vị vua tốt hơn nhều đang cai trị. Giu-se định cư tại Na-da-rét là một thành nhỏ bé, yên tịnh, cách biệt với mọi sinh hoạt và các biến động bên ngoài. Na-da-rét nằm trong một thung lũng trống trải giữa miền đồi núi phía nam Ga-li-lê.
Sự an toàn của Hài nhi Giê-su là điều mà thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a quan tâm hơn tất cả, nên dầu nhận được lệnh ban đêm, gia đình thánh cũng vội vã lên đường. Đối với các bậc cha mẹ, không gì quan trọng bằng sinh mạng của con cái. Các vĩ nhân, các bậc thánh thường xuất thân từ các gia đình có những cha mẹ có một đời sống cao cả.
Phi trường O' Hare ở Chicago là một phi trường có số máy bay cất cánh và hạ cánh nhiều nhất thế giới. O' Hare là tên của viên phi công thuộc hải quân Mỹ đã bắn hạ nhiều phi công Nhật trong thế chiến thứ II, và cuối cùng đã tử trận ở giữa Thái Bình Dương trong một một trận không chiến. Để kỷ niệm người chiến sĩ dũng cảm tài ba này, thành phố Chicago đã lấy tên ông đặt cho phi trường Chicago.
Nhiều người biết về phi công O' Hare, nhưng ít người biết đến cha của viên phi công này, ông tên là Eddie O' Hare, là người đã từng cộng tác với Al Capore, một tướng cướp khét tiếng ở vùng Chicago vào thập niên 20. Nhờ cộng tác với Al Capone trong nhiều vụ làm ăn bất hợp pháp, ông trở nên giàu có. Nhưng một đêm nọ, ông bí mật đến tiếp xúc với nhà chức trách để tìm cách loại trừ đảng cướp của Al Capone. Ông biết chắc chắn thế nào ông cũng bị đảng cướp này trả thù giết chết, nhưng ông cũng thừa biết một điều mà ông coi là quan trọng hơn là nếu ông không dứt khoát với bọn cướp, đứa con trai duy nhất của ông trước sau gì cũng đi vào con đường tội ác của ông. Để con có lối thoát, ông Eddia O' Hare đã quyết định hi sinh cho con. Và sau đấy mọi việc đã xảy ra như ông dự đoán trước. Ông đã bị đảng cướp hạ sát, và con ông đã có cơ hội sống cuộc đời lương thiện và trở thành một người hùng được nhiều người nhắc nhở mỗi khi họ đáp mày bay xuống phi trường Chicago. Vì sinh mệnh của con, ông Eddie O' Hare đã không ngần ngại chấp nhận hi sinh. Bao nhiêu thế hệ và ngay cả cho đến ngày nay, các dân tộc Trung Hoa và Việt Nam đều chịu ơn thầy Mạnh Tử về các giáo huấn cao siêu giúp đời, nhưng nếu thầy không có được moệt bà mẹ hiền đức, chúng ta sẽ mất một hiền nhân. Đã ba lần bà phải dời nhà để cho con khỏi nhiễm lây tính xấu của láng giềng. Nhà ở gần nghĩa địa, con bà bắt chước khóc lóc than van; bà dời nhà đến gần chợ, con bà bắt chước ăn gian nói dối; bà dời nhà đến gần trướng học, con bà theo chúng bạn học chữ thánh hiền. Nhưng rồi, ngày kia, cậu Mạnh bỏ lớp học về nhà, thấy thế bà mẹ đưa tay cắt đứt hàng chỉ đang dệt, rồi gọi con cho một bài học cụ thể: đang học mà bỏ về cũng như hàng chỉ đang dệt bị cắt đứt sẽ không dùng vào việc gì được. Cậu Mạnh tỉnh ngộ, để sau này chúng ta có một bậc hiền triết đại tài.
Nhưng hơn hết tất cả các bậc cha mẹ ấy, thánh Giu-se và Đức Ma-ri-a đã sống thuận theo ý Chúa. Đức Ma-ri-a đã công khai thưa:"Tôi là nữ tỳ của Chúa, xin vâng như lời Ngài dạy." Thánh Giu-se không phát biểu thành lời, nhưng ngài đã thực hành ngay khi nhận được ý Chúa. Xin cho các gia đình chúng ta cũng có được các bậc cha mẹ như thế.
Hôm nay, Giáo hội mời chúng ta đi thăm một gia đình: Gia đình Thánh Giuse, Đức Mẹ và Chúa Hài Đồng. một gia đình ngàn xưa nèu gương cho các gia đình soi chung.
Thánh Mathêô thường thích những tường thuật dài có kết cấu, nhưng ở đây Người chỉ trình bày cho chúng ta một gia đình, gia đình Kitô giáo đầu tiên. Trong gia đình ấy có ba nhân vật: Giuse bác thợ mộc là gia trưởng, Ma ria, cô nội trợ khiêm tốn, Chúa Hài Nhi là con của gia đình.
Trước mặt xã hội thì Giuse lớn hơn cả vì là gia trưởng, nhưng trước mặt Thiên Chúa thì người nhỏ nhất lại là lớn nhất vì Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
Hạnh phúc gia đình ấy được xây dựng trên 3 yếu tố.
Trước tiên, họ rất hòa thuận khắng khít: Không có một khó khăn sóng gió nào có thể làm lung lạc danh nghĩa vợ chồng, mặc dầu họ gặp bao nhiêu trắc trở. Chỉ cần nói đến cuộc di cư gấp gáp qua Ai Cập giữa đêm thâu, chỉ cần nhắc lại cuộc hồi hương trở về trong lo âu và đến định cư trong làng bé nhỏ Nagiaret.
Họ rất trung tín: Vợ chồng lấy chữ tín làm đầu. Và chúng ta biết đối với Giuse không phải là dễ, khi nhìn thấy Đức Mẹ có dấu đã mang thai. Cần có một lệnh truyền bởi trời, mối hoài nghi mới chấm dứt trong sung sướng, khi biết mình được gọi để chia sẻ mầu nhiệm Con Thiên Chúa giáng trần. Và từ đó, cả hai tuân phục Thánh ý Chúa, sẵn sàng hy sinh tất cho hạnh phúc của con mình cũng là Con Thiên Chúa.
Họ sống khiêm tốn, nghèo nàn, theo khả năng, theo gia cảnh. Giuse là bác thợ mộc thì con nối nghề Cha cũng làm thợ mộc.
Gia đình Nagiaret là một gia đình hạnh phúc vì 2 lý do nữa sau đây: một là, xét về tương quan nội bộ, trong gia đình ấy có trật tự và đâu có trật tự là ở đó có hòa bình hạnh phúc. Hai là vì trong gia đình ấy có Thiên Chúa hiển diện, mà đâu có Thiên Chúa hiện diện là ở đó có hạnh phúc, ở đó là Thiền đàng.
Ngày nay, chúng ta thấy nhiều gia đình xuống dốc vì thiếu trật tự mà Chúa đặt để an bài. Trong gia đình không có trên dưới, không có quền bính, đường ai nấy đi, hạp thì ở, chán thì đi, con mặc kệ con, đã có chính phủ nuôi!
Vậy muốn có hạnh phúc, trước tiên mỗi người phải biết ở trong địa vị của rình là chồng là vợ là con cái, ngày nào cái trật tự ấy bị đảo lộn, bị lấn át thì gia đình sẽ bị lung lạc tan rã. Một tờ báo ở Luân đôn, Anh quốc, đã mở cuộc điều tra nới các ông chồng và xin các độvc giả mày râu trả lời câu hỏi sau đây: Trong gia đình bạn ai làm chủ thực sự ? Kết quả là 80% trả lời: vợ tôi làm chu; 20% trả lời: mẹ vợ tôi làm chủ. Chỉ có một số ít trả lời: chính tôi làm chủ, vì tôi đã chết vợ! Không lạ gì mà sau nước Mỹ, nước Anh có nhiều gia đình đổ vỡ nhất. Cứ hai đám cưới thì có một đám ly dị.
Yếu tố quan trọng thứ hai là một gia đinh muốn có hạnh phúc phải có Chúa hiện diện ở giữa: như Chúa Giêsu hiện diện ở trong gia đình Nagiaret.
Có đức Tin, có lòng đạo mới biết thương yêu nhau, nhường nhịn nhau. Chồng biết thương yêu vợ, vợ biết thương yêu chồng. Con cái biết thương yêu nhau. Vì thế trong bài đọc II, Thánh Phaolô căn dặn: anh em hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hòa, nhẫn nại chịu đựng nhau... Anh em haỹ làm mọi việc vì sáng Danh Chúa". Trong đời sống vợ chồng có lúc vui mà có lúc buồn, có lúc phải chịu đựng nhau, vác thánh giá của nhau, vác cho đến cùng đến chiết, để đền tội. Trong một tuần
Đại phúc, Cha giảng phòng tổ chức làm phép Thánh giá. Cha rao: Ai có Thánh giá mang lên để làm phép. Một cụ già đưa vợ lên và nói: đây là Thánh giá con, xin Cha làm phép cho con biết chịu khó vác...đến cùng! Vợ là thánh giá cho chồng thì chồng cũng có thể là thánh giá cho vợ.
Thánh Mathêô viết: “Ngươi sẽ được gọi là Nagiarêô. Cha Charles de Foucault đã đến định cư ở làng Nagiaret, sống đời sống Chúa Giêsu như một người Nagiarêô. Ngài cầu nguyện cùng Thánh gia: "Lạy Đức Trinh nữ, lạy Thánh Giuse, là mẹ là cha của con, hãy đưa dẫn con đến cùng Chúa Giêsu. Xin cho con, sau khi được Chúa ban ơn được chia sẻ hoàn hoàn cảnh khung cảnh bên ngoài của đời sống các Đấng thì cũng được chia sẻ đời sống nội tâm các Đấng... trong tình yêu, chiêm nghiệm và thờ lạy trong tinh thần khó nghèo, gạt bỏ cơn đề được tràn đầy Chúa".
Đương nhiên người cha và người mẹ là hai vai trò quan trọng nhất trong gia đình. Còn nếu so sánh người cha với người mẹ thì có lẽ vai trò người cha quan trọng hơn:
-Gia đình nào có người mẹ tốt nhưng người Cha xấu thì các con trong gia đình khó mà tốt hết được. Hình như tấm lòng của người mẹ không hữu hiệu bằng sự hướng dẫn của người cha.
-Gia đình nào có người cha tốt thì hầu như mọi người trong nhà đều dễ trở thành tốt, vì người cha là cột trụ cho cả nhà dựa vào, là vị chỉ huy điều khiển mọi người, là người cầm lái đưa cả gia đình theo một hướng.
Gia đình Nadarét có Thánh Giuse làm gia trưởng. Dù Đức Maria và Chúa Giêsu là những người cao quý hơn thánh Giuse, nhưng Thiên Chúa đã đặt hai vị dưới quyền Thánh Giuse; khi Thiên Chúa muốn nói gì với gia đình này thì Ngài nói với Thánh Giuse; và hai vị kia vâng lời Thánh Giuse như vâng lời Thiên Chúa.
Phần Thánh Giuse, có lẽ Ngài không thông minh và tài cán bao nhiêu, nhưng Ngài rất tận tụy trong bổn phận, nhất là Ngài đều hành việc gia đình theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay kể: trong hai tình huống nghiêm trọng nhất là trốn sang Ai cập và hồi hương về Nadarét, Thánh Giuse đều làm theo lời Chúa. Bản văn viết rõ: “Giuse thức dậy, đưa hài nhi và mẹ Người trốn sang Ai cập” (hoặc: về đất Is rael). Dù đang ngủ nhưng mau mắn thức dậy và liền thi hành ngay lời Chúa dạy.
Đối chiếu với gương thánh Giuse, chúng ta hiểu được lý do khiến cho nhiều gia đình không được tốt:
-Lý do thứ nhất là vì người cha gia đình không tận tuỵ với bổn phận mình.
-Lý do thứ hai là vì người cha gia đình không điều hành gia đình theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
2. Lòng hiếu thảo không phải là bản năng
Cha mẹ thương con là do bản năng: dù đứa con xinh đẹp hay xấu xí, ngoan ngoãn hay ngỗ nghịch, cha mẹ vẫn luôn yêu thương và hy sinh tất cả cho nó. Người ta nói “Nước bao giờ cũng chảy xuôi xuống”.
Nhưng con cái thương cha mẹ không phải là bản năng (con cái bám lấy cha mẹ mới là bản năng): khi đứa con còn cần đến cha mẹ thì xem ra nó thương cha mẹ lắm. Đến khi nó không cần đến cha mẹ nữa, nhất là khi cha mẹ cần đến nó thì nhiều đứa thờ ơ, hắt hủi, bất hiếu... Cha mẹ nuôi con như biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.
Nếu là bản năng thì không cần được dạy. Vì không phải là bản năng nên cần được dạy mới biết. Người Việt Nam dạy con cái hiếu thảo cha mẹ cách tiêu cực bằng lời đe dọa: ai bất hiếu ngỗ nghịch với cha mẹ thì sẽ bị trời đánh.
-Sách Đức Huấn Ca dạy cách tích cực bằng Lời Chúa hứa ban cho kẻ thảo hiếu cha mẹ nhiều ơn lành (xem phần giải thích Bài đọc I phía trên) Dù dạy cách tiêu cực bằng lời đe dọa, hay cách tích cực bằng lời hứa, cả hai lời dạy trên đều giống nhau.
Ở điểm quy lòng hiếu thảo về nguồn gốc là Thiên Chúa (hay ông Trời): chính Thiên Chúa muốn con cái hiếu thảo với cha mẹ, do đó Ngài thưởng kẻ hiếu thảo và phạt kẻ bất hiếu.
Vì thế những kẻ làm con phải ý thức rằng: Hiếu thảo với cha mẹ.
-không chỉ là một tình cảm tự nhiên được thúc đẩy bởi bản năng, mà còn là một đạo lý nhân bản (đạo làm người: nhân đạo)
-Hơn nữa, đó còn là lệnh truyền của chính Thiên Chúa (thiên-đạo)
3. Bảo vệ con
Để bảo vệ Hài nhi Giêsu khỏi sa vào nanh vuốt Hêrôdê, Thánh Giuse và Đức Maria đã phải vượt qua con đường hiểm trở dài gần 500 cây số xuyên qua sa mạc El-Arish đến Ai Cập; một sa mạc trải dài hơn 200 cây số toàn cát trắng như biển cả mênh mông, không một bóng cây, một cọng cỏ, một giếng nước. Đoàn lữ bành phải đeo đủ đồ ăn, nước uống để chịu đựng cả nữa tháng rất kham khổ. Năm mươi năm trước Chúa Giáng sinh đoàn quân Rôma phải vượt qua quãng đường này thấy khủng khiếp hơn đánh nhau với quân Ai Cập. Năm 967, đại quân Ai cập đã sa lầy trong sa mạc này khi chiến tranh với quân Do thái.
Sự khủng khiếp của những đoàn quân hùng mạnh làm ta cảm thấy sự khốn cực của Thánh Gia lúc đi tị nạn. Ngày ngày các ngài phải lê gót từng bước chân trên cát lầy sụp lở, vượt qua các đồi cát dưới ánh nắng mặt trời thiêu đốt, giữa biển cát nóng hừng hực, vẫn phải tiết kiệm từng giọt nước và những cơn bão cát khủng khiếp như muốn chôn sống các ngài.
Có một số sách hoang đường mô tả cuộc tị nạn của Thánh Gia như thiên đường: những dã thú hiền từ đến lậy dưới chân Chúa Hài Nhi, những cây chà là rợp bóng rũ trái để các Ngài ngủ mát, ăn điểm tâm; nước chảy lênh láng để các Ngài giải khát, tắm rửa giữa sa mạc!
Ở trần gian Thánh Gia không được hưởng cảnh thanh nhàn đó. Chúa muốn các Ngài phải chịu trăm chiều đau khổ để nêu gương cho ta khi gặp gian nan biết vui lòng hy sinh như các Ngài, nhất là khi gặp thử thách dể bảo vệ Hài Nhi Giêsu, bảo vệ Hội Thánh, bảo vệ đức tin và các hài nhi con cháu mình. Phải bảo vệ hài nhi khỏi tay kẻ dữ, khỏi không bị hận thù bất công, khỏi bạn bè gian ác, trộm cắp, đồi truỵ. Đó là nhiệm vụ của cha mẹ, của các vị tinh thần và mọi Kitô hữu.
Biết bao hài nhi đã bị huỷ hoại trong bào thai, khi chào đời lại bị cha mẹ vô luân liệng bỏ, và bị bao nhiêu tệ nạn xấu xô đẩy. Thật khổ tâm!
Cách bảo vệ hài nhi an toàn nhất là hãy tỉnh thức nghe tiếng Chúa trong lương tri, trong Tin Mừng và giáo huấn của Hội Thánh, mới mong tránh khỏi tay những Hêrôđê tàn bạo: Nhất là hãy dắt con em mình đến nương ẩn dưới cánh tay uy quyền và tình thương bao la của Chúa, Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse.
4. Những bài học của con trẻ
Nếu trẻ con sống với những lời phê phán, chúng học được thói hay lên án. Nếu chúng sống với sự hận thù, chúng học được thói thích đánh nhau. Nếu chúng sống với những lời chế nhạo, chúng học được thói nhút nhát. Nếu chúng sống với sự chê bai, chúng học được mặc cảm tội lỗi . Nếu chúng sống với sự bao dung, chúng học được tính nhẫn nhục Nếu chúng sống với sự khuyến khích, chúng học được lòng tự tin. Nếu chúng sống với lời khen, chúng học được cách thưởng thức cái hay của người. Nếu chúng sống với sự lương thiện, chúng học được tính công bình. Nếu chúng sống với sự che chở an toàn, chúng học được lòng tin cậy. Nếu chúng sống với sự chấp nhận, chúng học biết yêu thích chính mình. Nếu chúng sống với tình thương, chúng học được cách tìm thấy Chúa trong cuộc đời.
5. Bà mẹ thánh thiện và đảm đang thành Luân Đôn
Đầu thế kỷ XX này, tại Luân Đôn, có một gia đình công nhân vừa nghèo khó lại vừa đông con: cả thảy 3 đứa! Bố của chúng phải đi làm việc suốt ngày ở xí nghiệp. Bà mẹ ở nhà làm nghề phụ và lo việc nội trợ. Dù đầu tắt mặt tối, bận bịu suốt ngày suốt đêm, nhưng bà Vaughan vẫn vui vẻ thay mặt chồng dạy dỗ con cái học giáo lý, tập luyện chúng có tinh thần đạo đức, khuyên chúng chịu khó học tập, lao động, và đặc biệt trưa nào rửa chén bát xong bà Vaughan cũng đến nhà thờ chầu Chúa một giờ.
Láng giềng ai cũng lấy làm lạ và hỏi bà: “Một bầy con 3 đứa, bận rộn sáng tối, mà sao trưa nào chị cũng đi chầu Thánh Thể?” Bà tươi cười bảo: “Thấy một bầy con lúc nhúc, ăn bữa mai chạy gạo bữa hôm, tôi lo lắm. Hơn thế chúng còn đến trước trường học, theo bạn bè rủ rê đi chơi hoặc ra phố phường xa hoa, do đó nhiều nguy hiểm, tôi càng thao thức hơn. Thành thử mỗi ngày dầu bận việc đến đâu, tôi cũng bỏ ra một giờ để chầu Chúa, sốt sắng xin Người ban ơn cho vợ chồng tôi nuôi nấng các cháu hằng ngày dùng đủ và dạy dỗ chúng nên người đạo đức”.
Chúa đã nhận lời và ân thưởng cho lòng tin. Cùng sự hy sinh của bà Vaughan: trong 3 người con, một người làm Hồng Y Tổng Giám Mục giáo phận Luân Đôn, một người khác làm Tổng Giám Mục, hai người làm Linh mục, hai nam tu sĩ, hai nữ tu sĩ, còn 5 người ở thế gian lập gia đình lưu truyền nòi giống, sống cuộc đời đạo đức thánh thiện.
Ông Gheorge đã đến tuổi 70. Ong không lập gia đình. Ông là thủy thủ, cả cuộc sống lênh đênh trên biển cả. Ông không có nhà riêng. Cháu trai ông trên là Bill rất thương bác Gheorge nên mời bác về sống với Bill, với vợ và 5 con của Bill. Đó là một sự giúp đỡ lẫn nhau. Gheorge có nhà ở, và gia đình Bill có dịp đi chu du vòng quanh thế giới trong tưởng tượng khi lắng nghe bác Gheorge kể lại kinh nghiệm của mình.
Đôi khi Bill cảm thấy nhàm chán và bất mãn với cuộc sống gia đình. Rảo quanh thế giới không lo lắng, thảnh thơi sung sướng biết bao. Bill bày tỏ nỗi lòng cho Bác.
Một chiều kia, bác Goerge nhắc tới một nơi xa xăm Bác có đánh dấu trên bản đồ một kho tàng chôn giấu. Bill ghi nhớ lời đó, nên sau khi bác Gheorge chết vài năm, Bill coi lại đồ đạc của bác, thấy một bao thơ đề cho Bill, trong đó có một tấm bản đồ.
Tim đập mạnh, tay run run, Bill cố gắng tìm ra nơi cất giấu kho tàng. Sau cùng chàng cũng xác định được địa điểm. Đó là căn nhà của chàng, nơi mà chàng đang đứng. Bác Gheorge đã chối lại cho chàng một khó báu là ý thức rằng: nhà của chàng, gia đình riêng của chàng là một kho báu.
Hôm nay Chúa giới thiệu Thánh gia thất như một kho báu, Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse không chỉ thánh cho các Ngài; nhưng để giúp chúng ta nên thánh. Chúng ta không buộc phải ăn, mặc, và làm như thánh gia thất, nhưng chúng ta có thể làm việc nhà, việc khác trong tinh thần của các Đấng.
Ví dụ: các Ngài có tinh thần yêu thương: yêu Chúa. Như là muốn làm hài lòng Chúa; và yêu thương người nghĩa là mong làm điều lành cho kẻ khác, đặc biệt những người gần gũi, những phần tử trong gia đình.
Các Ngài cố gắng làm hài lòng Chúa bằng cách lên đền thờ Chúa cùng thờ phụng Chúa, như chúng ta nghe đọc trong bài Tin Mừng hôm nay. Mỗi người chúng ta có thể giống Ngài như thế. Các Ngài có niềm tin, đúng hơn các Ngài đón nhận điều Chúa phán dạy các Ngài qua kinh thánh. Chúng ta có thể làmhài lòng Chúa qua việc học hỏi những gì Chúa đã nói với chúng ta.
Thánh gia thất đã cố gắng làm điều tốt cho nhau và cho người lối xóm. Chúng ta nhận rằng: đời sống gia đình hôm nay khó khăn hơn bao giờ hết. Nhưng tinh thần tương trợ lẫn nhau là cần thiết hơn tất cả.
Thế giới đang gặp khó khăn, quê hương ta đang gặp khó. Chúng ta không dừng lại ở đó. Phương thuốc chữa là: hãy củng cố gia đình, xây dựng gia đình, nâng cao đời sống gia đình. Hãy đưa tinh thần mới vào đơn vị cơ bản của xã hội. Tìm tinh thần ấy ở đâu ? Từ thánh gia thất.
Quả thật, gia đình bạn là kho báu. Nơi đó bạn tìm thấy giá trị của cuộc đời, những cái đáng giá, thực sự gia đình bạn rất là thánh, vì nó được xây dựng nên ngay trên cung thánh này. Để giữ nó thánh mãi, làm nó thánh mãi, chúng ta cần ơn linh ứng và trợ giúp siêu nhiên. Hãy kêu cầu Đức Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse giúp chúng ta làm gia đình chúng ta được lòng Chúa và hữu ích cho bà con láng giềng
Tường thuật chuyện Thánh gia hành hương lên Giêrusalem dự lễ Vượt qua: - Luật hành hương chỉ ThánhGia ABC 116
1. Tường thuật chuyện Thánh gia hành hương lên Giêrusalem dự lễ Vượt qua:
- Luật hành hương chỉ buộc những “nam nhân”, tức là người nam và từ 13 tuổi (tuổi được luật pháp công nhân là trưởng thành) trở lên. Thế mà cả Đức Mẹ và Đức Giêsu năm đó mới 12 tuổi cũng đi.
- Lễ Vượt qua kéo dài 7 ngày. Nhưng luật chỉ buộc dự 3 ngày đầu thôi, những ngày sau tuỳ ý. Thánh gia đã dự cho đến “xong kỳ lễ”.
Như thế, Thánh Gia đã giữ luật đạo rất chín chắn, hơn cả mức đòi buộc của Luật.
2. Sau khi kỳ lễ đã xong, trong khi mọi người ra về thì Đức Giêsu còn ở lại trong Đền thờ. Khi cha mẹ tìm gặp Ngài thì Ngài đáp “Con có bổn phận ở nhà của Cha con”. Qua thái độ và lời nói này, Đức Giêsu muốn chuẩn bị cho cha mẹ Ngài biết và chấp nhận rằng Ngài còn có bổn phận đối với Chúa Cha.
3. Nhưng Đức Giêsu không phải là một đứa con bất hiếu, bởi vì Tin Mừng thuật tiếp rằng “Sau đó Ngài cùng cha mẹ trở về Nadarét và hằng vâng phục các ngài”.
B.... nẩy mầm.
1. Gia đình Nadarét được gọi là Thánh Gia, là gương mẫu cho mọi gia đình tín hữu. Qua đoạn Tin Mừng này, ta có thể thấy những nét của một gia đình tín hữu tốt:
- Một gia đình tốt không chỉ co rút trong ngôi nhà của mình, nhưng còn thích cùng nhau lên Nhà Chúa: theo luật, việc hành hương chỉ buộc những “nam nhân”, tức là người nam và từ 13 tuổi (tuổi được luật pháp công nhân là trưởng thành) trở lên. Thế mà cả Đức Mẹ và Đức Giêsu năm đó mới 12 tuổi cũng đi.
- Một gia đình tốt là gia đình tuân giữ luật Chúa: Thánh gia đã tuân giữ luật cách chín chắn hơn cả mức đòi buộc của luật.
- Một gia đình tốt là gia đình cha mẹ yêu thương con cái và con cái vâng phục cha mẹ.
- Gia đình tốt có thể nghèo (phía trước: c 24: lễ vật của Thánh Gia chứng tỏ các Ngài nghèo), và không tránh khỏi đau khổ (c 35: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà”), nhưng vẫn hạnh phúc vì có Chúa Giêsu ở giữa, có Chúa Giêsu là thành viên.
2. Một thanh niên Scốt-len tìm được một chân làm vườn trong một gia đình giàu có. Nhưng chỉ hai tuần sau, anh xin thôi việc. Một người bạn hỏi:
- Có phải công việc quá cực nhọc không ? - Không, công việc rất nhàn. - Có phải lương quá ít không ? - Không, lương khá lắm. - Hay anh không thích đồ ăn ở đó ? - Cũng không phải. Đồ ăn rất ngon. - Vậy tại sao anh thôi việc ? - Vì nhà đó không có mái che.
Đối với người Scốtlen, thành ngữ “nhà không có mái che” nghĩa là gia đình không biết cầu nguyện. (Tonne).
3. Một nhóm người thiện chí bàn nhau cách phổ biến Tin Mừng. Có người đề nghị quảng cáo trên TV, người khác đề nghị dùng báo chí. Một thiếu nữ Châu Phi chia xẻ: Ở xứ tôi, khi muốn loan Tin Mừng cho một vùng nào đó thì chúng tôi gởi đến đấy một gia đình công giáo tốt để gia đình này sống giữa những người khác trong vùng. (Barclay)
4. Trên tường một nhà thờ cổ ở Đức có một bức tranh được vẽ cách nay khoảng 500 năm, diễn cảnh trẻ Giêsu đang đi học. Họa sĩ vẽ Ngài là một cậu bé 6 tuổi đang một tay nắm tay bà ngoại Anna và tay kia cầm cặp.
Trẻ Giêsu cũng giống như những bé trai, bé gái cùng thời đến trường để thêm kinh nghiệm, như Thánh Kinh nói: “Con trẻ ngày càng khôn lớn”. (Góp nhặt).
5. Trong khi người Ấn độ được đánh giá là giỏi triết lý, người Trung hoa được đánh giá là giàu lễ nghĩa, thì người do thái được đánh giá là tinh thần tín ngưỡng cao. Nhờ đâu ? Nhờ người cha do thái biết quan tâm đến việc đạo trong gia đình. Trong gia đình do thái, người cha chủ sự những buổi cầu nguyện, người cha lãnh trách nhiệm khai tâm tôn giáo cho con, người cha hãnh diện truyền lại cho con truyền thống đạo đức của ông bà tổ tiên.
Hằng năm, cha mẹ Đức Giê-su trẩy hội đền Giê-ru-sa-lem mừng lễ Vượt Qua. Khi Người được mười hai tuổi, cả gia đình cùng lên đền, như người ta thường làm trong ngày lễ. Xong kỳ lễ, hai ông bà trở về, còn cậu bé Giê-su thì ở lại Giê-ru-sa-lem, mà cha mẹ chẳng hay biết. Ông bà cứ tưởng là cậu về chung với đoàn lữ hành, nên sau một ngày đường, mới đi tìm kiếm giữa đám bà con và người quen thuộc. Không thấy con đâu, hai ông bà trở lại Giê-ru-sa-lem mà tìm.
Sau ba ngày, hai ông bà mới tìm thấy con trong Đền Thờ, đang ngồi giữa các thầy dạy, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu. Khi thấy con, hai ông bà sửng sốt, và mẹ Người nói với Người: "Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy ? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con !" Người đáp: "Sao cha mẹ lại tìm con ? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao ?" Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói.
Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta.
Sau biến cố năm mười hai tuổi, Chúa Giê-su cùng cha mẹ lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua và Ngài tự ý ở lại ba ngày. Đức Giê-su đã trở về Na-da-rét, và mất một thời gian dài Chúa Giê-su đã sống trong khung cảnh gia đình, hoàn toàn giống như một người dân Na-da-rét, thực hiện đúng lời Em-ma-nu-en-Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta đã được tiên tri loan báo. Trong Chúa Giê-su, chúng ta thấy Thiên Chúa đang dự phần vào những công việc thân thiết quen thuộc nhất trong gia đình, đây là Thiên Chúa đang tự mặc lấy hình người, đang sống cuộc đời chúng ta. Sự thật là như vậy, và chúng ta có thể nói nhiều điều quý báu về Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa đã bước vào một căn nhà tầm thường và gia đình tầm thường.
Ai cũng nghĩ rằng nếu Thiên Chúa đến thế gian, chắc Ngài phải đến với tư cách một nhà vua, đến sống trong cung điện nguy nga của bậc đế vương đầy thế lực, quyền quý, sang trọng. Nhưng ở Na-da-rét Chúa Giê-su đã sống như mọi người khác, nhà Ngài ở và cách Ngài ăn mặc cũng giống như người đương thời (Lc 8,44), Ngài ăn uống như người đồng hương (Mt 9,19). Ngài dùng tiếng nói nơi Ngài ở, trong Phúc Âm, không ai tìm được một danh từ chuyên môn nào. Ngài trình bày những mầu nhiệm tôn giáo cao siêu bằng những từ ngữ thông thường của nơi Ngài sống. Ngài dùng cách diễn tả tư tưởng của người đồng thời và lối văn họ quen dùng. Ngài biết những bận tâm, những nhu cầu của họ và không ngạc nhiên khi nghe họ nói: "Chúng ta sẽ ăn gì ? Chúng ta sẽ mặc gì ?" Ngài dùng những thành ngữ của họ, dầu có nhiều khuyết điểm và thiếu văn hoa. Tỷ như để định vị trí cho một người không những không nghe theo những lời khuyên nhủ kín đáo nhưng cả những cảnh cáo của giáo hội, Ngài dùng diễn ngữ này: "Ngươi hãy coi nó như một dân ngoại hay một người thu thuế." (Mt 18,17).
Trong mọi sự Chúa Giê-su không có gì tỏ ra xa lạ với những người đến để được cứu rỗi. Ngài thật sự ở giữa chúng ta, chung sống với chúng ta, nên giống chúng ta hoàn toàn ngoại trừ tội lỗi. Như vậy, qua Chúa Giê-su, Thiên Chúa đã thánh hóa một lần tất cả mọi công việc từ khi co con người, thánh hóa mái gia đình nhiêm nhượng của giới bình dân và thánh hóa toàn thể tuổi ấu thơ.
2. Thiên Chúa đã bằng lòng làm công việc của loài người mà không xấu hổ.
Suốt ba mươi năm trường, Ngài đã không làm một điều gì ngoại thường, Ngài âm thầm sống như một người dân thường, học nghề nơi cha nuôi và tự tay làm việc nuôi sống bản thân và gia đình. Ngài hoàn toàn giống mọi người dân làng đến nỗi họ ngạc nhiên khi Ngài bắt đầu giảng dạy: "Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế ? Ông không phải là con bác thợ sao ? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a ; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Gio-xép, Si-mon và Giu-đa sao ? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao ? Vậy bởi đâu ông ta được như thế ?" (Mt 13, 54-56). Thiên Chúa trong Chúa Giê-su đã đến thế gian như một công nhân. Chẳng bao giờ chúng ta nhận thức đầy đủ sự kiện Thiên Chúa thấu hiểu công việc hằng ngày của chúng ta tới mức độ nào. Ngài biết nỗi khó nhọc để kiếm đủ sống của chúng ta ; Ngài biết nỗi khó khăn khi gặp khách hàng khó tính hay khách hàng không chịu trả tiền. Ngài biết tất cả những khó khăn của cuộc sống chung trong một gia đình, và Ngài biết từng vấn đề chúng ta thường gặp hằng ngày. Theo Cựu ước, lời rủa sả sau khi loài người phạm tội trong vườn Địa đàng: "Ngươi phải đổ mồ hôi trán mới có mà ăn." (St 3,19), nhưng theo Tân ước, sự làm việc thông thường được khoác lên một ánh hào quang khi có bàn tay Thiên Chúa chạm vào.
3. Trong Chúa Giê-su, chúng ta thấy một Thiên Chúa yêu thương.
Lúc tình yêu thương bước vào đời sống thì đau đớn cũng vào theo, nếu chúng ta có thể sống hoàn toàn tách biệt mọi người, có thể thu xếp cuộc đời thế nào cho mình dửng dưng được với hết mọi sự, mọi người, thì cũng sẽ không còn đau đớn, buồn khổ, lo lắng. Nhưng trong Chúa Giê-su chúng ta thấy Thiên Chúa đang hết sức chăm sóc và tha thiết với loài người. Ngài cảm thấy đau đớn cho loài người và với loài người. Thật ra, chính tình yêu là khởi điểm của sự hiện diện của Chúa Cứu Thế nơi chúng ta. Chính vì Ngài yêu chúng ta nên Chúa Cha ban Ngài cho chúng ta. Thật vậy, như lời thánh Gio-an: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời." (Ga 3,16). Và cũng chính vì tình yêu mà Chúa Giê-su đã xả diệt thân mình "trở nên hoàn toàn giống anh em Ngài" vì Ngài "không lấy làm xấu hổ gọi chúng ta là anh em Ngài." (Dt 2,17. 11) Tình yêu đòi phải nên giống. Vì Ngài quá yêu anh em của Ngài sống trong thế gian nên có thể nói dĩ nhiên Ngài đẩy mạnh đến cùng mức độ nên giống họ (Ga 13,13).
Cécil Northcott trong quyển "Chúa hiển hiện đời nay" thuật lại một cuộc thảo luận trong trại hè dành cho thanh thiếu niên đại diện nhiều quốc gia trên thế giới: "Một đêm mưa khi các trại sinh thảo luận về nhiều phương cách khác nhau làm sao nói cho người khác biết về Chúa Giê-su. Họ hỏi một nữ trại sinh Phi châu: "Ma-ri-a, ở nước cô thì cô làm thế nào ?" Ma-ri-a trả lời: "Chúng tôi không có hội truyền giáo, cũng không phát truyền đơn về đạo. Chúng tôi chỉ sai một hoặc hai gia đình tín hữu đến sống, làm việc trong làng. Khi dân làng thấy cuộc sống Ki-tô như thế nào, họ đều muốn thành ki-tô hữu."
4. Trong Chúa Giê-su, Thiên Chúa sống trong trắng và thánh thiện giữa loài người,
Nếu sau này Ngài có thể quả quyết: "Ai thấy Ta là thấy Cha" thì trong thời gian sống tại Na-da-rét, Ngài cũng vẫn luôn mang đặc tính ấy mặc dầu nhiều người không nhận ra. Ngài quả thật có nên giống chúng ta trong mọi sự, nhưng không trong tội lỗi. Không những suốt đời Ngài không hề có một khuyết điểm nào, nhưng qua cuộc sống, Ngài đã biểu lộ thiên tính. Không bao giờ Ngài thông đồng, dù bằng lời nói hay bằng việc làm, bằng cử chỉ với những tội lỗi nơi người đồng hương, vì Ngài thấy ở đó khởi đầu để đồng bào Ngài ghét Ngài.
Sau khi các nhà chiêm tinh đến thăm Bê-lem... Nếu bạn có một sách Tin Mừng tại nhà bạn và nếu các bạn có chút hiếu kỳ thiêng liêng, hãy đọc lại những câu truyện này
1.Trong gia phả, Đức Giêsu được gọi là Con Đa-vít, Con Áp-ra-ham.
2.Trong tin báo cho Giuse, chính hài nhi này bắt đầu thực hiện những lời hứa trong Kinh Thánh, và được mạc khải như Thiên Chúa cứu độ, Thiên Chúa ở cùng chúng tôi
3. Rồi theo Mát-thêu, tiếp ngay đến cuộc thăm viếng của các nhà chiêm tinh? Không có những mục đồng Do Thái. Giêrubalem, dẫu thế, được báo cho biết trước về chuyện đang xảy ra trong vùng ngoại ô kế cận (Bê-lem cách độ 8km!) vẫn không động tĩnh... trong khi những người nước ngoài từ Phương Đông đến từ xa, phục lạy trước hài nhi, được gọi khi ấy là vị đứng đầu sẽ chăn dắt Do Thái dân của tôi".
Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse.
Trong trang mà chúng ta sắp đọc, tên Giuse được kêu lên bốn lần. Đó là người duy nhất được gọi tên như thế. Giuse là vai trung tâm của câu truyện. Chủ gia đình, ông chịu trách nhiệm nhóm nhỏ, luôn luôn được giới thiệu vô danh cho hai nhân vật khác là Hài nhi và Mẹ của Hài nhi.
Chúng ta cũng sẽ lưu ý rằng trên trang này, Giuse có tầm quan trọng lớn lao, ông không nói một lời. Chính ông là người dự phần trước sân khấu, là người nhận trực tiếp các sứ điệp trên trời, lại không nói... mà ông hành động.
Này ông, đậy đem hài nhi và mẹ người trốn sang Ai Cập .
Oi, cái tiếng Dậy đi!
Tất cả những người nghiên cứu tiếng Do Thái sẽ nhận ra kiểu nói rất hay gặp trong Kinh Thánh. "Koum!" "Dậy đi". Cái thể mệnh lệnh, cái động từ chỉ tất cả những lời kêu gọi. Áp-ra-ham (St 13,1), Elia (IV 19,5). Nàng yêu dấu của Diễm Ca (2,10), Giôna (Gn 1,2), Giêrusalem (Is 60,11), Đanien (10,11). Tiếng "Dậy đi!" đầy dẫy trong Tân Ước: Mát-thêu 2,13 - 2,20 - 9,5 - 17,7 - 26,46; Mác-cô 10,49; Luca 17,19 - 22,46; Gioan 5,8; Công Vụ 3,6 - 8,26 - 9,34 - 9,40 - 12,7 - 14,10.
Nếu tôi biết lắng nghe, tôi sẽ nghe thấy, cả tôi nữa, Thiên Chúa lặp lại "Dậy đi!"
Thiên Chúa muốn con người đứng dậy. Thiên Chúa đẩy những con người năng động.
Trong cuộc sống gia đình mà chúng ta mừng lễ hôm nay, có biết bao nhiêu cơ hội có thể đưa chúng ta đến chỗ khước từ, đầu hàng, chạy trốn, từ nhiệm... Và đây là tiếng gọi của Chúa, trong đáy đêm tối của chúng ta, trong tình huống bức bách đè nặng trên vai chúng ta, nói lại với chúng ta: "Đứng lên! Dậy đi!”.
Có một thu hình ảnh Thánh Gia hiền dịu, êm ả và bị sai lạc. Máng cỏ bằng giấy đá, quá “hợp môi sinh", những mục đồng xinh xắn và những con cừu nhí, những tràng hoa ánh sáng... có cái nguy làm cho chúng ta coi "chuồng bò lữa nơi Thiên Chúa sinh ra" (đó là một cái sườn mái!) là một nơi nóng nực và rất tiện nghi. Và với cái vẻ dịu hiền hay với thái độ chiếu cố, người ta tìm được cái chuyện thần tiên hợp với khẩu vị các trẻ em. Nhưng đấy không phải là Giáng sinh thật. Có thể tai hại nhiều nếu máng cỏ cổ truyền chỉ là một sự trung tín với quá khứ, trong khi nó là một sự kỳ vọng cho hiện tại và tương lai. Gia đình mà bạn nhìn ngắm với sự hiền dịu trong cái hang hốc nhà quê có lẽ bạn quên rằng nó đã bị liệng đi trên các nẻo đường lưu đày chăng? Khi đó bạn đã đứng lên một "thánh gia" không có thực. Và bạn nói liều: “Thật quá đẹp...nhưng, ở nhà chúng tôi không giống như thế, nơi mái ấm của chúng tôi gia đình của chúng tôi buộc phải sống giữa những âu lo: sức khỏe, tranh chấp, ngân sách, những khó khăn định hướng, những cuộc đối thoại không thể có được...
Những mái ấm trẻ...hay những mái ấm nào khác...
Tôi dám chắc với các bạn, các bạn có thể nhìn xem gia đình của Giuse, của Hài nhi và Mẹ Người. Và hãy tỉnh ngộ! Giống như mọi gia đình, gia đình ấy cũng biết đến những giằng xé, những khắc khoải, nó cũng bị cuốn trong những cơn lốc của lịch sử. Và chúng ta nhớ lại câu nói nổi tiếng của Charles Péguy. Những người cha và người mẹ gia đình... những kẻ phiêu lưu vĩ đại của thế giới hiện đại này!".
Cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy.
Hình ảnh thực, như thế đấy. Một đôi lứa trẻ trung, đó là một cặp vợ chồng không bếp không nhà. Số phận thê thảm của những người tị nạn, những người bị xua đuổi trốn chạy về nơi vô định, bị đuổi khỏi nhà họ vì chiến tranh, đói ăn, thất nghiệp, hay ý thức hệ đàn áp. Những trẻ em Việt Nam, Li Băng, Cam Bốt, Áp-ga-nít-tăng,... và nhiều nơi khác. Những hình ảnh không cầm lòng được đang làm xáo động sự yên ổn của chúng ta. À, không, máng cỏ năm nay không đẹp. Thế thì bạn hãy nghĩ, họ đã có ý tưởng, trong giáo xứ chúng tôi, làm máng cỏ bằng tre mục... hay bằng vải lều cho những trại tị nạn... hay bằng gạch nén gợi ra những nơi trú ngụ đáng thương của những kẻ xấu số trong những vụ động đất... và họ đã để Hài nhi trên rơm, thứ rơm rác thật!
“Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài nhi đấy..."
Họ muốn giết trẻ con..Than ôi, vâng, hiện nay...
Ông Giuse liền trổi đậy, và đang đêm, đưa Hài nhi và mẹ Người trốn sang Ai Cập.
Để nhấn mạnh đến sự vâng phục của Giuse, sự thi hành ý muốn của Thiên Chúa được diễn tả chính xác. Trong những lời lẽ của sứ điệp nhận được từ trên cao
Đi ngay ban đêm!
Đi trong đức tin: Làm thế nào? Cần phải cứu Hài nhi cứu độ? Người đã được loan báo như Thiên Chúa Cứu Độ Thiên Chúa ở củng chúng tôi? Và cần phải che chở Người ngay bây giờ? Nghịch lý của Thiên Chúa tự đặt mình vào trong tay chúng tôi? Thiên Chúa không tự bênh vực. Cần phải "cứu”! Đức tin... ban đêm... Thiên Chúa được đặt lại trong tay những người tin.
Ông ở Ai Cập cho đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, đề ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng thiên sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai cập
Trong mùi tử khí ngự trị, một sự cứu thoát bộc phát, Chúa nói: Con ta!
Trên cái nền bi thảm của các biến cố xảy đến trong gia đình này, có sự gì khác tác động: một ánh sáng chiếu soi tình hình... một dự tính của Thiên Chúa,... được bộc lộ trong những lời sấm của ngôn sứ một khuôn mặt ẩn giấu, đầy hy vọng. Nghịch lý mới của Thiên Chúa: chính lúc mà người ta cảm thấy phải đi, thì đúng là lúc Tin Mừng trích dẫn một tiết Kinh Thánh ở đó vấn đề đặt ra là trở lại. Người ta chỉ nói ve sự lưu đày để nói về việc xuất hành. Người ta chỉ gợi ra cái chết để nói về sự sống... Còn bạn, trong cuộc sống của bàn, bạn được mời gọi nhìn thấy mặt bị che khuất của điều xảy đến với bạn.
Toàn thể gia đình va chạm với những cái bất an. Việc chúng ta tìm kiếm những sự an toàn là điều bình thường Giuse thậm chí còn nhận lệnh của Chúa thì sự tìm kiếm những của cải tạm thời, chẳng phải càng được chúng ta đặt bên dưới việc làm tròn lời Kinh Thánh sao? Sống Tin Mừng, hoàn thành các ý muốn của Thiên Chúa, kiên trì trong cái mà Thiên Chúa đòi hỏi tôi. Mỗi Kitô hữu, mỗi gia đình.,. hoàn tất một phần của lịch sử thánh, một dự tính huyền nhiệm của Thiên Chúa. Và đó không phải là trong lúc đi ra khỏi các tình huống của chúng ta, thậm chí khó khăn, thậm chí mong manh, nhưng bằng cách khám phá ở đó các mặt bị che khuất mà đức tin bày tỏ ra cho chúng ta
Sau khi vua Hê-rô-dê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Ai cập, báo mộng cho ông rằng: Này ông dậy đem Hài nhi và Mẹ Người về đất ít-ra-en, vì những kẻ tìm giết Hài nhi đã chết rồi. Giuse trỗi dậy đưa Hài nhi và Mẹ Người về đất Ít-ra-en.
Những kẻ muốn tìm giết Hài nhi con số nhiều lạ lùng. Cho đến đây, người ta chỉ nói đến Hê-rô-đê...Nhưng Mát-thêu nghĩ đến một trường hợp có trước trong Kinh Thánh và miệt mài đưa tất cả câu truyện của ông vào việc gợi ra số phận của Môisê, mà Pharaon tìm cách giết chết (St 2,15), phải trốn sang Ai Cập và trở về, bởi vì tất cả những người muốn tìm giết đều đã chết (Xh 4,19-20). Khoa" chú giải Do Thái, trong các giáo đường, luôn luôn sử dụng phương cách, mà người ta gọi là "midrach", nhằm làm sáng tỏ một đoạn Kinh Thánh bằng những biến cố của thời sự để chứng minh rằng ý đồ của Thiên Chúa cứ tiếp tục. Đức Giêsu, trong bản thân của Người, tái hiện lịch sử dân tộc Ít-ra-el: bạo vương muốn khử trừ cậu Môisê được Thiên Chúa sai đến để cứu dân Người... bạo vương tung ra cuộc tàn sát các trẻ nhỏ (St 1,10)... nhưng lại không thể làm gì được chống lại người mà Thiên Chúa che chở và trở nên Đấng Cứu độ dân Người... dẫn dắt dân này về Đất Hứa.
Ngày nay lịch sử này vẫn luôn luôn tiếp tục. Không gì mà Thiên Chúa không thể làm được. Người tiếp tục viết thật thẳng trên những đường cong của chúng ta. Ý đồ của Người vẫn tiến lên, bất chấp mọi sự.
Nhưng vì biết A-khê-lau đã kế vị người cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giu-đê, nên ông sợ không dám về đó. Rồi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở một thành kia gọi là Na-da-rét, để ứng nghiệm lời các ngồn sứ rằng: Người sẽ được gọi bằng Na-đa-rét.
Bản văn này nói cho chúng ta biết rõ ràng là trước hết Giuse đã có ý định trở về Giuđê. Nhưng tất cả những kẻ muốn tìm giết Đức Giêsu, chưa biến mất hết. Mặt khác, một ngày kia, Đức Giêsu sẽ trở lại trong chính miền Giu-đê này, và về đó để bị giết chết. Cuộc thụ nạn diễn ra ở cuối cuộc hành trình này. Cái chết luôn luôn ở đó. Tin Mừng ngày hôm nay đầy chết chóc.
Chính vì cần thiết mà Đức Giêsu đến sống tại Galilê, miền xa xôi, một nửa ngoại giáo, khá xa đất Thánh Giêrusalem. Đối với Mát-thêu, miền Galilê ngoại giáo này (Mt 4,12-16) là biểu tượng của thế giới phổ quát, nơi mà sứ vụ của Đức Giêsu được thực hiện, nơi mà Đấng đã sống lại hiện ra nhiều lần, và từ đó mà sứ vụ khởi phát. Và bạn nữa, phải chăng bạn chung sống trong những miền Galilê loại mới ư?
Thế giới ngày nay đã đạt tới một đỉnh cao văn minh và tiến bộ chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Song cũng chính thế giới ấy đang bị đe dọa bởi những hiểm nguy không ngờ: hiểm nguy do những khí giới nguyên tử cất dấu trong kho đạn dược của nhiều quốc gia, hiểm nguy do tình trạng môi trường sinh thái, do bệnh Siđa...Và có một mối nguy đe dọa trực tiếp tương lai nhân loại, đó là sinh mạng của nhiều trẻ thơ đang bị đe dọa.
Lời báo động mạnh mẽ nhất phải chăng là Năm Quốc Tế Gia Đình do Liên Hiệp Quốc phát động vào năm 1994, và gần đây tại Việt Nam, là cuộc Hội Nghị tư vấn lần thứ III khu vực Đông Nam A và Thái Bình Dương:"Vì Trẻ em và Phát triển đến năm 2OOO" được tổ chức tại Hà Nội, tháng 11 năm 1995.
Cách đây gần 2.000 năm, tính mạng Con Thiên Chúa làm người, tính mạng của Hài Nhi Giêsu cũng đã bị lâm nguy. Lời Chúa trong ngày lễ Thánh Gia hôm nay đã nhắc lại biến cố đó Thiên Chúa đã giải quyết như thế nào? Chúng ta hy vọng Lời Chúa sẽ đem đến một chút ánh sáng cho vấn đề của nhân loại hôm nay.
I. KHI TÍNH MẠNG HÀI NHI GIÊSU BỊ ĐE DỌA
Sách Tin Mừng theo thánh Matthêu kể:"Khi vua Hêrôđê không thấy ba nhà chiêm tinh trở lại báo cáo về Hài Nhi, ông đã nổi giận và ra lệnh giết chết tất cả Con trẻ dưới hai tuổi ở Bêlem và vùng lân cận.
Lúc ấy, Thiên Chúa đã cho sứ thần báo mộng với ông Giuse, truyền cho ông thức dậy mang Hài Nhi và Mẹ Người sang Ai Cập. Ở lại đó cho đến khi vua Hêrôđê băng hà. Rồi Thiên Chúa lại cho Thánh Giuse biết phải đưa Hài Nhi và Mẹ Người về lại Israel, đến ở tại Nagiarét".
Những điều đáng lưu ý: Trong biến cố trên đây, có 3 điều đáng lưu ý:
1. Trước hết, đó là sự can thiệp của Thiên Chúa. Ngài đã trực tiếp quan phòng cho sứ thần đến với Thánh Giuse. Tính mạng trẻ Giêsu quan hệ đến kế hoạch của Thiên Chúa, nên Ngài phải ra tay hành động theo cách thức của mình.
2. Và Thiên Chúa yêu cầu Thánh Giuse đứng lên thi hành phận sự làm cha của mình, đó là bảo vệ con. Người cha có trách nhiệm chỉ đạo, quyết định điều cần làm để đối phó tình hình, bảo đảm an toàn cho cả mẹ lẫn con. Và Thánh Giuse đã mau mắn, tích cực, trung thành vâng theo lệnh Thiên Chúa. Ngài đã không quản ngại đêm đen, đường dài, nỗi khó khăn nơi xa lạ, để bảo vệ Hài Nhi và Mẹ Người.
3. Điều thứ ba đáng lưu ý đó là: bản văn Tin Mừng khi nhắc tới chuyện đi đứng của Hài Nhi đều liên kết Người với Mẹ. Bốn lần thánh sử viết: "Hài Nhi và Mẹ Người".
Cha lo cho con, mẹ gắn liền với con: chuyện tưởng chừng quá đơn giản, tự nhiên, đương nhiên. Trẻ thơ nào lại không cần cha cần mẹ để được an toàn để sống và lớn lên bình an. Song đó là một sự thật hiển nhiên, quan trọng cho sự sống của một hài nhi mà ngày nay hình như nhiều người quên lãng. Đến như Con Thiên Chúa trong cuộc sống tại thế, khi gặp hiểm nguy còn cần đến một người cha bảo vệ, một người mẹ ôm ấp; huống chi là những trẻ thơ, con cái loài người hôm nay. II. NGÀY NAY, TÍNH MẠNG TRẺ THƠ CŨNG ĐANG BỊ LÂM NGUY
Ngày nay, tính mạng trẻ thơ cũng đang bị đe dọa bởi trăm thứ: từ thể chất đến tâm lý, trong đời sống cũng như trong tâm hồn
1. Từ thể chất
Tháng 11 năm nay, tại thành phố Hồ Chí Minh có 486.396 trẻ được uống Sabin để ngừa bại liệt. Qua tháng 12, các em lại được uống Vitamin A để ngừa bệnh khô mắt, trước khi uống Sabin đợt 2. Rồi còn được khuyến khích ăn muối Iốt cho khỏi bệnh bướu cổ. Đến đầu mùa mưa phải đề phòng bệnh xuất huyết...
Người ta còn cho biết vùng ngoại thành có đến 20% trẻ em bị suy dinh dưỡng.
2. Đến tinh thần
Nhưng các hiểm nguy về thể chất không thấm vào đâu so với bao nỗi khó khăn về mặt tinh thần, trẻ thơ Việt Nam còn phải gánh chịu không biết tới ngày nào. Người ta có thể kể:
-Hàng chục ngàn vụ ly dị mỗi năm tại thành phố Hồ Chí Minh, để lại trên biết bao con cái những hậu quả khôn lường.
-Hàng trăm ngàn trẻ em bỏ học khi chưa qua cấp II, phải vào đời sớm: đánh giầy, bán vé số, xin ăn...
Bao nhiêu sách báo xấu, phim vidéo đen, bạn bè không tốt có thể tất động trên thiếu nhi, thiếu niên.
Và người ta còn có thể nêu thêm không biết bao nhiêu trẻ thơ là nạn nhân của bạo lực, của đam mê từ phía người lớn, khi bị lạm dụng tình dục, hay trở thành phương tiện kiếm tiền...
Quả thật, chưa bao giờ chúng ta phải chứng kiến nhiều trẻ thơ đã phải lâm vào cảnh khó khăn vật chất, tinh thần đến thế: một tình trạng báo động không chỉ cho Việt Nam mà còn chung cho nhiều nước khác, kể cả những nước tiến bộ, công nghiệp phát triển ở Âu Mỹ. Và khi trẻ em, tương lai của nhân loại bị đe dọa như thế, thì tương lai của nhân loại sẽ như thế nào? Trước tình trạng ấy, Lời Chúa hôm nay nói điều gì với chúng ta?
III. HÃY TRẢ LẠI CHO TRẺ THƠ NHỮNG NGƯỜI CHA, NGƯỜI MẸ
Bài học chúng ta nhận được từ Lễ Thánh Gia hôm nay phải chăng là 2 điều này:
-Người Cha là người bảo vệ gia đình, lãnh đạo gia đình theo ý muốn Thiên Chúa. -Đừng tấth trẻ thơ xa mẹ chúng.
1.Người cha: Hãy bảo vệ gia đình theo ý Chúa.
Để tính mạng trẻ thơ được an toàn trước những hiểm nguy hằng đe dọa người cha phải đứng lên bảo vệ vợ và con, trong sự tuân phục những chỉ dẫn của Chúa, theo đường lối kế hoạch của Người.
Ngày nay người ta chứng kiến bao nhiêu cảnh buồn lòng: người chồng, người cha không còn ý thức hay khả năng bảo vệ vợ con: lương người chồng đi làm chỉ đủ nuôi sống mình, không có phần của vợ con trong lương bổng... Công việc làm ăn liên tục kéo người ấy xa gia đình, xa con cái...Đi ngang qua các quán ăn, quán nhậu, người ta có thể thấy toàn là những khuôn mặt mày râu...
Nếu người chỉ đạo gia đình, là người chồng, người cha biết noi gương Thánh Giuse, biết lắng nghe Lời Thiến Chúa chỉ dạy về cuộc sống của gia đình cách sống với vợ con, chịu khó tìm hiểu điều Chúa muốn cho mình trong vai trò làm chồng, làm cha và sẵn sàng mau mắn tuân theo, chắc chắn tình trạng của trẻ thơ sẽ được an toàn bảo đảm.
2. Đừng tách trẻ thơ xa mẹ chúng.
Để sự nghiệp của trẻ thơ được bảo đảm, cần hết sức bảo vệ mối tương giao của mẹ con, đừng sớm tách con cái xa mẹ mình.
-Ngày nay, vì kế sinh nhai, vì muốn khẳng định tư cách bình đẳng của mình hay vai trò trong xã hội, nhiều người vợ nhiều bà mẹ đã phải xa con cái quá sớm hay quá nhiều. Họ không còn thời gian, tâm trí để gần gũi con, chăm sóc, trò truyện, dạy dỗ chúng.
-Vì nhu cầu học vấn, hoặc chính cha mẹ hoặc nhà trường đẩy trẻ thơ học thêm, học chuyên, học để đi thi cấp trường, cấp quận, cấp thành phố, cấp toàn quốc, cấp quốc tế. Chúng không còn giờ ở với gia đình, kể cả ngày Chúa Nhật và những ngày nghỉ.
Thiên Chúa muốn người cha bảo vệ con cái và mẹ của chúng. Thiên Chúa muốn người mẹ luôn gần gũi con cái, nhất là khi chúng còn nhỏ. Trẻ thơ được an toàn nhờ bàn tay của cha dẫn dắt, trong vòng tay của mẹ nâng niu.
Làm như thế, chắc chắn chúng ta sẽ đẩy lùi xa nhiều mối nguy đang đe dọa trẻ thơ hôm nay tại Việt Nam và trên thế giới.
-Xã hội đã và đang làm gì để bảo vệ mối tương quan và trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái? Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã kêu gọi xã hội nhìn nhận giá trị của việc sinh con và nuôi con của người nữ trong gia đình. Ngài kêu gọi xã hội hãy "trả lương" cho những bà mẹ nuôi con nhỏ trong gia đình.
Để chuẩn bị Năm Quốc Tế Gia Đình Liên Hiệp Quốc đã tham khảo ý kiến của nhiều tổ chức phi chính phủ, 80% trong số họ đã xem việc giáo dục con cái trong gia đình là điêu ưu tiên hay rất quan trọng: Vậy nếu xã hội và chính người cha người mẹ trong gia đình không quan tâm tạo điều kiện cho công việc giáo dục trẻ thơ trong gia đình, thì tương lai của chúng sẽ ra sao?
KẾT
Hôm nay, họp mừng Lễ Thánh Gia. Thiên Chúa dạy cho chúng ta cách thức bảo vệ tính mạng của trẻ thơ. Hãy để người cha bảo vệ con, hãy để người mẹ ôm con trong lòng. Đó là phương thế đầu tiên và ưu tiên.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người cha, người mẹ ngày nay, ý thức sứ mạng quan trọng và cao cả của mình đối với con cái.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho xã hội và chính quyền quan tâm tạo điều kiện cho cha mẹ chu toàn trách nhiệm đối với con.
Và chắc chắn tương lai của thế giới sẽ sáng tươi hơn, khi mạng sống của trẻ thơ được an toàn và an bình. Nhân loại ngày mai không phải sơ cảnh bạo lực, xáo trộn như ngày nay. Vì khi những trẻ thơ được thương yêu thực sự, khi lớn lên chúng sẽ biết yêu thương những người khác dễ dàng hơn
LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
+ Giờ đây, chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả mọi gia đình trên thế giới được trở nên tổ ấm của sự sáng và tình thương theo gương gia đình Chúa Giêsu, Đức Mẹ và Thánh Giuse.
1. Xin cho các gia đình Kitô hữu được thánh hiến trong bí tích Hôn Phối thật sự là những “hội Thánh nhỏ" nơi Thiên Chúa chúc lành và dẫn đắt con người.
2. Xin cho các nhà lãnh đạo và mọi tổ chức xã hội chăm lo bảo vệ quyền lợi chính đáng của gia đình giúp đỡ cha mẹ chu toàn bổn phận đối với con cái.
3. Xin cho các bạn trẻ thành hôn hay mừng hôn phối trong Mùa Giáng Sinh này luôn ngắm nhìn gương sáng của gia đình Nagiarét biết đặt Chúa ở trung tâm đời mình.
4. Xin cho anh chị em chúng ta họp nhau trong Nhà Chúa chia sẻ bàn tiệc của Cha ngày ngày góp sức xây dựng đại gia đình Hội Thánh.
+ Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con Cha đã muốn Đức Giêsu Con Cha lớn lên trong gia đình của Thánh Giuse và Đức Mẹ. Xin ban cho tất cả mọi gia đình chúng con được noi theo niềm tin của gia đình Nagiarét và gặp nhau trong Nhà Cha trên trời. Chúng con cầu xin, nhân danh Đức Kitô Chúa chúng con.
Trong những thời kỳ chiến tranh trên thế giới, có biết bao người phải chứng kiến cảnh nhà cửa, quê cha đất tổ bị tàn phá khủng khiếp. Họ đã chối bỏ tất cả mà ra đi để tránh bom đạn. Gần đây biết bao người ở “Mô dăm bích” ở Ap-ga-nis-tan, ở Nêpan, ở Nam-tư phải di cư lánh nạn. Bao nhiêu người ở Campuchia tản cư đi nơi khác. Nay hòa bình trở lại, họ lục tục trở về quê cũ.
Những hình ảnh này nhắc chúng ta về bức họa mà thánh Matthêu phác họa trong bài Tin Mừng hôm nay: “Thánh Giuse thức dậy, đem hài nhi và Mẹ Người lên đường trốn sang Ai cập đang lúc ban đêm, và ở lại đó cho đến khi Hêrôdê băng hà”.
Thánh gia Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse đã có kinh nghiệm về nỗi đau xót và khổ cực của những người di cư; phải bỏ lại mọi sự họ có. Trong ngày lễ của Ba Đấng di cư, lòng chúng ta hướng về những anh chị em đang trong cảnh cùng khốn vì phải rời bỏ quê cha đất tổ.
Nhưng những người di cư không phải chỉ là những người phải nhổ rễ mà tới nơi xa lạ. Như trong nhiều liên đoàn, những người quản lý và công nhân bị ép buộc rời chỗ mỗi năm. Gia đình của những quân nhân phải di chuyển từ nơi này đến nơi khác, có khi đi cả nước ngoài. Hàng ngàn nông dân phải bỏ miền quê, hứng chịu cực khổ, nghèo khó và những tiêu cực của thành thị. Điều kiện của những công dân di cư của chúng ta kêu thấu trời cho được công bằng. Biết bao nhiêu đàn ông, đàn bà, trẻ em đang bị ép buộc trốn sang những nước Ai cập tân thời vì sự tàn ác, tham lam và dại dột của những “Hêrô đê tân thời”.
Chúng ta có thể làm gì trước những sư kiện đó ? Hôm nay chúng ta có thể nghĩ đến và suy nghĩ một cách sâu xa những đau khổ thể chất và tinh thần mà hàng triệu người, Phải, hàng triệu người anh em trong gia đình nhân loại đang phải gánh chịu. Chúng ta có thể xin Thánh gia thương nhìn đến họ, củng cố họ, giúp đỡ họ về tinh thần cũng như vật chất. Chúng ta có thể động viên cộng đoàn chúng ta giúp đỡ những người gặp rủi ro ở mọi nơi. Bằng lời cầu nguyện và sự giúp đỡ về vật chất, chúng ta có thể nâng đỡ những nhà truyền giáo đang hoạt động cho dân nghèo. Chúng ta có thể đóng góp cho các cơ quan từ thiện, đang trực tiếp phục vụ những người phải rời bỏ nhà cửa đi đến sống ở những nơi xa lạ.
Trong thánh lễ này, chúng ta tạ ơn Chúa, vì chúng ta có nhà cửa êm ấm, chúng ta hãy xin Chúa ban cho mọi gia đình trên thế giới được có nhà cửa.
Trong sứ điệp Gíang sinh gửi toàn thế giới, Đức Gioan Phaolô II nêu bật rằng: Con Thiên Chúa đã chọn lựa đi vào trần gian trong một gia đình là gia đình Nazaret. Trong Mùa Gíang sinh, đôi mắt chúng ta vui mừng khi chiêm ngắm mầu nhiệm Thánh giá, cũng như trẻ em hân hoan khi nhìn về máng cỏ và nhận ra nơi đó một kiểu mẫu cho gia đình chúng.
Gia đình Nazanet quả là kiểu mẫu của mọi gia đình. Chúa Giêsu đã có một khung cảnh thích hợp để trưởng thành, Ngài đã được nuôi dưỡng và giáo dục bởi hai vị thánh là Đức Maria và Thánh Giuse. Nói như thế không có nghĩa là gia đình này không có vấn đề, Chúa Giêsu đã không được sinh ra trong những điều kiện bình thường, cha mẹ Ngài đã phải đi gõ cửa từng quán trọ, không bao lâu sau ngày Chúa Giêsu sinh ra, cả ba lại phải lên đường trốn sang Ai Cập, 12 tuổi Ngài lạc mất trong Đền thờ, cuối cùng thảm thương nhất đối với gia đình này hẳn phải là cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá.
Cũng như mọi gia đình trên thế gian này. Thánh gia đã phải trải qua nhiều vấn đề. Tuy nhiên Thánh gia là một gia đình đặc biệt. Ngày nay các nhà xã hội học đưa ra một lý do giải thích: Đây là một gia đình Do thái. Quả thế tại Hoa Kỳ cũng như tại hầu hết các nước thế giới, gia đình Do thái là gia đình trong đó mức phạm pháp của vị thành niên được coi là thấp nhất. Nhưng đâu là chìa khoá giải thích sự kiện này? Thưa chín hlà niềm tin. Các trẻ em Do thái luôn nhìn vào người cha như một đại diện của Chúa trong gia đình. Trong suốt năm, người Do thái có rất nhiều cuộc cử hành và trong các cuộc cử hành ấy, người cha luôn là người chủ tọa. Với tư cách đại diện của Chúa, người cha chúc lành cho con cái. Lớn lên, con cái có thể chê trách người cha của họ về nhiều thiếu sót, nhưng không bao giờ chối bỏ vai trò đại diện Chúa của người cha.
Có bao nhiêu người cha Công giáo đóng trọn vai trò trong gia đình như thánh Giêsu đã từng làm đối với Chúa Giêsu? Có bao nhiêu người cha Công giáo chủ toạ các buổi cầu nguyện trong gia đình? Có bao nhiêu người cha chúc lành cho con cái trước khi chúng đi ngủ? Có biết bao người cha hy sinh cho gia đình. Trái lại nơi nào người cha đóng trọn vai trò trong gia đình, thì quả thực niềm tin trong gia đình đó lớn lao chừng nào. Chúng ta có thể nói đó là bí quyết của Thánh gia: tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa như người cha trong gia đình.
Lời Chúa Giêsu nói với cha mẹ Ngài đáng cho chúng ta suy nghĩ: " Cha mẹ không biết là con phải ở trong nhà cha con sao?" Được ở trong nhà cha, luôn cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa trong gia đình, đó là bí quyết hạnh phúc gia đình gia đình mà Chúa Giêsu muốn chỉ cho mọi gia đình. Thật thế, chỉ trong niềm tin, con người mới có thể vượt qua được mọi khó khăn thử thách trong đời sống gia đình: chỉ trọng niềm tin vào Thiên Chúa là Cha, nói như thán Phaolô, con người mới có thể sống hiền lành, khiêm nhường, chịu đựng lẫn nhau.
Chúng ta hãy hướng về Nazaret, nơi Chúa Giêsu đã từng lớn lên như một con người biết vâng phục cha mẹ và cáng khôn lớn thì càng được Thiên Chúa và người đời thương mến. Sự vâng phục của Chúa Giêsu đốii với cha mẹ Ngài là một thể hiện của chính sự vâng phục của Ngài đối với Chúa Cha. Chính sự kết hiệp này đã giúp Chúa Giêsu sống vâng phục cha mẹ Ngài, và chính ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong con người Chúa Giêsu đã giúp cho Đức Maria và thánh Giuse vượt qua được khó khăn của cuộc sống gia đình.
Chúng ta cầu xin gì trước Hài nhi Yêsu trong máng cỏ, nếu không phải là niềm tin vào sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa, nhờ đó chúng ta có thể thắng vượt mọi cám dỗ thử thách trong cuộc sống.
Hiệp nhau trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa thương chúc lành cho tất cả các gia đình, đặc biệt gia đình của chúng ta, cho mọi thành phần trong gia đình và để chuẩn bị cử hành mầu nhiệm thánh, xin Chúa tha thứ những tầm lỗi của chúng ta và chúng ta hứa với Chúa trong Thiên NIÊN Kỷ Mới này sẽ canh tân đời sống của mình một cách tốt đẹp hơn.
Anh chị em thân mến!
Chúng ta mừng lễ Thánh Gia Thất: Chúa Giêsu, Đức Maria và Thánh Giuse trong Chúa Nhật hôm nay, mỗi người chúng ta có thể thầm nghĩ rằng: "Phúc thay cho gia đình Thánh Gia Nazareth, vì được Chúa Giêsu luôn luôn hiện diện bên cạnh". Chúng ta thường nghĩ đến khía cạnh vinh quang của gia đình Nazareth, vì có Chúa Giêsu hiện diện giữa các Ngài mà chúng ta lại quên đi một khía cạnh khác, đó là khía cạnh Thập giá và đau thương.
Để hưởng được sự hiện diện của Chúa trong Gia Đình Thánh, đòi phải trả một giá rất đắt, đó là phải biết quên mình đi, quên cái tôi ích kỷ đóng kín trong chính mình để đón nhận hồng ân của Chúa và chấp nhận theo thánh ý Ngài. Đức Maria đã phải dứt khoát trả lời: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sức thần truyền ". Và Thánh Giuse cũng đã phải chống lại cám dỗ, chạy trốn bỏ rơi chương trình của Thiên Chúa và vâng lời sức thần đứng lại đúng chỗ Thiên Chúa muốn cho Ngài bằng việc tiếp nhận Maria và Con Trẻ về nhà mình.
Thưa anh chị em!
Tất cả những điều này chúng ta cũng dư biết và cũng đã suy niệm nhiều trong thời gian qua, nhất là trong chính ngày lễ Giáng Sinh. Phúc thay cho gia đình Thánh Gia Nazareth vì được Chúa Giêsu hiện diện giữa các Ngài, đó là khía cạnh vinh quang của gia đình Nazareth. Sự hiện diện của Chúa trong gia đình không có nghĩa là gia đình sẽ không gặp phải thử thách, những khó khăn trong cuộc sống hằng ngày.
Đây là khía cạnh Thập giá mà Thánh Gia Nazareth phải trải qua. Đó là mặc dù Chúa Giêsu hiện diện lại gia đình Nazareth, nhưng Ngài không làm phép lạ để cho Thánh Gia Thất được trở nên giàu có. Chúa Giêsu hiện diện lại đó, nhưng Ngài đã không làm phép lạ để Ngài khỏi phải sinh ra nơi hang súc vật ngoài đồng trống, trong cảnh nghèo hèn. Chúa Giêsu hiện diện lại đó, nhưng Ngài đã không ra tay uy quyền ngăn chặn mưu đồ của kẻ thù là Hêrôđê, mà Ngài lại để cho Thánh Giuse và Đức Mẹ chịu cảnh truy lùng trốn chạy sang Ai Cập.
Anh chị em thân mến!
Bài Phúc âm hôm nay thuật lại cho chúng ta cuộc bách hại của vua Hêrôđê đối với gia đình Nazareth, vì ông muốn tìm giết Con Trẻ Gìêsu. Tất cả những gian truân khổ cực đã được Chúa cho xảy ra để làm sáng tỏ đức tin và lòng tin tưởng của Thánh Giuse và Mẹ Maria vào chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa.
Ngoài Thánh Gia Nazareth, nếu chúng ta suy niệm kỹ hơn, quan sát kỹ hơn thì bài Phúc âm mà chúng ta vừa đọc giúp chúng ta có thể nhận ra một cảnh gia đình thứ hai không được tốt đẹp gì tắm, đó là gia đình của vua Hêrôđê độc ác. Các sức giả đã kể lại rằng, vì quá ham quyền hành, tiền bạc, danh vọng đến độ nghi ngờ tất cả mọi người xung quanh, nên vua Hêrôđê độc ác này đã giết cả người vợ thân yêu và hai đứca con ruột của mình, vì nghi ngờ người vợ và hai đứca con muốn chiếm quyền của ông.
Đây là một bài học cho tất cả các gia đình nói chung, nhưng cách riêng có thể nói là bài học cho những gia đình không có Thiên Chúa ngự trị, không có đạo đức ngự trị, nơi chỉ có tiền bạc và danh vọng, quyền hành cai trị mà thôi. Bởi vì tiền bạc, danh vọng, quyền hành... nó có thể trở thành kẻ thù giết hại tẫn nhau.
Lạy Chúa, trong ngày lễ kính gia đình Thánh Gia hôm nay, xin Chúa ban cho tất cả mọi gia đình Công giáo được hiểu rằng, điều quan trọng không phải là cuộc sống gia đình không gặp thử thách, nhưng điều quan trọng là gia đình chúng con có được Chúa hiện diện luôn mãi hay không? Hay một lúc nào đó tiền bạc, quyền hành, danh vọng đã làm chủ và ngự trị trong tâm hồn chúng con. Vì thế, chúng con cần tích đức chứ không phải là tích chứa của cải vật chất, quyền hành và danh vọng. Xin cho chúng con biết luôn đặt Chúa làm trung tâm trong đời sống gia đình, để từ đó gia đình chúng con có thể vượt qua được những khó khăn, thử thách có thể xảy ra cách này hay cách khác cho mỗi gia đình chúng con.
Phúc thay cho Gia Đình Thánh Nazareth vì được Chúa hiện diện mãi trong đó. Ước gì gia đình chúng con cũng được nguồn hạnh phúc vô tận ấy là có Chúa luôn luôn hiện diện trong gia đình chúng con trong từng giây phút của cuộc sống gia đình.
Trong một cuộc thăm dò về gia đình, người ta đã đưa ra một câu hỏi như thế này:
- Khi dẫn con vô tiệm ăn, bạn có cảm thấy thoải mái khi yêu cầu chúng làm dấu thánh giá và đọc kinh trước khi ăn hay không ?
Câu hỏi này khiến chúng ta phải lưu ý tới một trong những vấn đề quan trọng, đó là sự cầu nguyện trong gia đình. Thực vậy, đời sống cầu nguyện trong gia đình phải được thực hiện dưới ba hình thức khác nhau.
Hình thức thứ nhất đó là cầu nguyện riêng tư.
Mỗi người trong gia đình phải cầu nguyện riêng với Chúa. Chẳng hạn người cha cầu nguyện khi đi đến công sở, người mẹ cầu nguyện khi chăm sóc đứa con đau yếu, con cái cầu nguyện khi đi đến trường… Có nhiều cách giúp chúng ta cầu nguyện riêng. Chẳng hạn như kinh Lạy Cha, vừa đọc vừa suy gẫm. Cũng có thể cầu nguyện bằng cách đọc và suy gẫm lời Chúa trong Thánh Kinh, hay cầu nguyện bằng chính những lời lẽ riêng tư, nói với Chúa như với một người Cha nhân từ.
Chúa Giêsu cũng thường cầu nguyện một mình. Sau một ngày vất vả mệt mỏi thì ban tối Ngài thường lên núi để chìm đắm trong sự kết hiệp với Chúa Cha…
Một trong những món quà quí giá nhất mà cha mẹ có thể trao tặng cho con cái là làm cho chúng biết yêu thích những giây phút cầu nguyện một mình và không có cách nào thực hiện điều đó tốt hơn bằng chính gương sáng của mình.
Một người ngoại giáo thăm người bạn của mình giữa lúc người bạn ấy đang cầu nguyện. Hình ảnh này đã làm cho người ngoại ấy cảm động và sau đó đã xin nhập Kitô giáo
Hình thức thứ hai đó là cầu nguyện chung trong gia đình.
Chẳng hạn những giờ kinh tối sớm hay trước lúc dùng bữa. Chúa Giêsu cũng thường cầu nguyện như thế. Người Do Thái coi trọng việc cầu nguyện chung trong gia đình, nhất là trước các bữa ăn. Họ thường nói:
- Ai ăn mà không tạ ơn Thiên Chúa, thì đó là kẻ trôm cắp.
Chúa Giêsu cũng thường cầu nguyện trước khi ăn. Chẳng hạn như khi làm phép lạ cho bánh hóa nhiều, khi ngồi với các tông đồ trong phòng tiệc ly, hay với hai môn đệ trên đường đi Emmaus.
Một lần nữa chúng ta có thể xác quyết:
- Một trong những món quà quí giá nhất mà cha mẹ có thể trao tặng cho con cái là làm cho chúng biết yêu thích việc cầu nguyện chung trong gia đình.
Tướng Mac Arthur đã viết như sau: Là một quân nhân chuyên nghiệp, tôi hãnh diện về điều ấy, nhưng tôi còn hãnh diện hơn nữa vì được làm một người cha với niềm hy vọng rằng khi tôi đã về bên kia thế giới, thì con cái tôi vẫn nhớ đến tôi với hình ảnh ở nhà, khi tôi cùng với chúng đọc lời kinh: Lạy Cha chúng con ở trên trời…
Sau cùng, hình thức thứ ba là cầu nguyện với cộng đoàn, với các gia đình khác trong khu xóm, nhờ đó mà khu xóm trở nên gần gũi, gắn bó, đoàn kết với nhau hơn.
Chúng ta có thể tổ chức những giờ kinh trong khu xóm hay cùng nhau đến nhà thờ để tham dự thánh lễ và các việc đạo đức khác, Chúa Giêsu cũng thường làm như vậy. Khi trở về Nagiarét, Ngài thường đến hội đường để cùng với dân làng đọc Kinh Thánh và cầu nguyện.
Còn chúng ta, chúng ta đã sống tinh thần cầu nguyện ấy như thế nào dưới mái gia đình của chúng ta.
Cổ tích vùng Bretagne, mạn Tây Bắc nước Pháp, kể lại câu chuyện sau đây: "Có một gia dình gồm cha mẹ và một người con sống rất hiệp nhất yêu thương nhau. Nhưng một đêm kia, đang lúc mọi người say ngủ thì một trận giông bão chưa từng thấy xảy ra, chỉ trong mấy giờ đồng hồ cả vùng bị lụt lớn, nhà cửa sập cả, thây người và vật trôi lềnh bềnh. Người cha của gia đình cõng vợ trên vai mình và bà vợ tay bồng đứa con. Nước càng lúc càng lên cao, chẳng bao lâu ngập đầu của hai vợ chồng. Dần dần ngập thở và vô cùng mệt mỏi bà vợ cố giữ lấy hai cánh tay đưa con lên cao quá khỏi mực nước cho đứa bé khỏi chết ngộp. Hai vợ chồng sẵn sàng chờ chết chỉ mong có ai cứu được đứa bé. Vừa lúc đó có một thiên thần bay ngang qua trông thấy cái đầu đứa bé nổi khỏi mặt nước, vội cầm lấy kéo lên và dính chùm nhau cả cha mẹ lẫn đứa con. Thế là nhờ yêu thương hiệp nhất mà cả gia đình được cứu sống".
Có lẽ chưa bao giờ cuộc sống gia đình lại bị khủng hoảng trầm trọng như trong thế giới chúng ta đang sống hiện nay. Rất nhiều gia đình trong xã hội chúng ta là những gia đình què quặt, những gia đình tan nát vì nạn ly thân, ly dị và phá thai; những gia đình phân tán, chia ly vì chiến tranh, bạo lực và áp bức; những gia đình bất hòa vì nạn thất nghiệp, với đời sống vật chất kinh tế khó khăn eo hẹp hay vì nạn cờ bạc, rượi chè, ma túy thuốc phiện và ham mê buông thả tình dục...
Và những người phải trả giá mắc nhất do hậu quả của các khủng hoảng nặng nề là trẻ em. Là giới trẻ, làm sao con người có thể hạnh phúc tươi vui khi phải sống trong gia đình như thế? Làm sao thế giới có thể an bình thịnh vượng khi các gia đình, tế bào nòng cốt của xã hội bệnh hoạn như thế?
Trong ngày lễ Thánh Gia, Giáo Hội kêu mời chúng ta suy tư nghiêm chỉnh, trở lại ý nghĩa cuộc sống gia đình và đề nghị với chúng ta một mẫu gương. Đó là mẫu gương tổ ấm yêu thương của gia đình Nagiarét, gia đình của Chúa Giêsu với Mẹ Maria và thánh Giuse.
Chương 3 sách Huấn Ca đã nhắc lại điều răn thứ tư của Mười điều răn, dạy con cái phải tin yêu và thảo hiếu với cha mẹ và những lý do luân lý tự nhiên với câu ca dao Việt Nam:
"Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".
Sách Huấn Ca còn nhấn mạnh đến lý do tôn giáo của thái độ hiếu kính cha mẹ, những người đã dày công mang nặng đẻ đau, sinh thành dưỡng dục chúng ta, có giá trị đền bù tội lỗi chúng ta đã vấp phạm. Thiên Chúa sẽ nghe lời những người con hiếu thảo khi họ kêu khẩn lên Ngài.
Suy tư trên đây là một ví dụ điển hình cho thấy để sống đạo, người đạo đức như tác giả sách Huấn Ca đã biết nhìn ra ý nghĩa sâu thẳm của nhân loại nằm trong chính cái tầm thường trong cuộc sống mỗi ngày. Thiên Chúa không xa vời, Người hiện diện trong cái tầm thường mỗi ngày của cuộc sống chúng ta, bởi vì Người đã sống giữa con cái loài người, đồng hành với con người và chia sẻ mọi niềm vui, mọi âu lo, khó nhọc của cuộc sống con người. Khi biết nhìn thực tại với đôi mắt của lòng tin, thì mọi sự trong thế giới hữu hình đều được biến đôi mắt của lòng tin, thì mọi sự trong thế giới hữu hình đều được biến đổi là điều nói lên sứ điệp Thiên Chúa muốn nhắn gởi chúng ta. Một gia đình trong đó mọi thành phần biết kính sợ Thiên Chúa, biết yêu thương tôn trọng nhau, hy sinh cho nhau, sống cho nhau và sống vì nhau sẽ là một gia đình được tràn đầy phúc lành và sức sống thiêng linh của Thiên Chúa.
Sự thật này được nêu bật trong thánh vịnh 128. Đây là bí quyết tạo dựng hạnh phúc cho gia đình, nhưng rất tiếc, cũng là điều rất thiếu sót trong các gia đình của xã hội chúng ta ngày nay. Làm sao gia đình có thể hài hòa hạnh phúc nếu mỗi thành phần chỉ ích kỷ sống và tìm hưởng thụ cho riêng mình mà không muốn yêu thương, không muốn chia sẻ, không muốn dâng hiến, trao ban, quí trọng và lo lắng cho những người khác.
Tình yêu đích thực bao giờ cũng sinh hoa kết trái và gia đình chỉ là gia đình khi có cha, có mẹ, có con cái. Một tình yêu không sinh hoa trái là một thứ tình yêu cằn cỗi, què quặt và bất bình thường. Một gia đình không có con cái là một gia đình buồn bã và không trọn vẹn. Dĩ nhiên, vì những lý do ngoài ý muốn, gia đình có thể thiếu vắng thành phần này hay thành phần kia, nhưng tình yêu là nhân tố nòng cốt không thể thiếu được. Một cuộc hôn nhân không tình yêu là một cuộc hôn nhân lầm lẫn, bởi vì chỉ có tình yêu chân thành sâu đậm được chăm bón, vun xới mỗi ngày mới khiến cho gia đình trở thành tổ ấm hạnh phúc. Lấy nhau vì tiền, vì lợi lộc, vì chức tước và địa vị, sẽ không bao giờ tạo dựng hạnh phúc cho con người và hôn nhân sẽ đi đến chỗ đổ bể. Nhưng tình yêu chân thành không thôi cũng chưa đủ để đảm bảo hạnh phúc cho gia đình, cần phải có các nhân đức Kitô và nhân đức xã hội tự nhiên nữa.
Trong chương 3 thơ gởi tín hữu Côlôsê, thánh Phaolô khuyên các tín hữu chu toàn các đòi buộc của lòng tin trong cuộc sống thường ngày, trước khi đề cập các bổn phận của các thành phần khác trong gia đình. Thánh Phaolô nhắc cho mọi người biết một số bổn phận căn bản phát xuất từ lòng tin Kitô. Là những người được Thiên Chúa chọn làm con cái Ngài, thành phần sống động của Giáo Hội và là công dân của Nước Trời, hơn ai hết, Kitô hữu phải noi gương Chúa Giêsu Kitô sống tình yêu thương bác ái, trọn vẹn cao độ đến sẵn sàng hy sinh mạng sống vì người khác. Bởi vì chính tình yêu thương là thái độ sống nền tảng khiến cho người Kitô hữu thật sự giống Thiên Chúa và là nền tảng của mọi nhân đức khác, đặc biệt là các nhân đức xã hội. Và do đó thánh Phaolô thôi thúc chúng ta hằng ngày mặc lấy các tâm tình của lòng thương xót nhân từ, khiêm tốn, hiền hậu và kiên nhẫn. Tất cả các nhân đức này đều giúp chúng ta duy trì được bầu không khí hài hòa trong nội tâm, trong gia đình và giữa cộng đoàn. Bởi vì khi có lòng xót thương và nhân từ, chúng ta sẽ dễ cảm thông với những lỗi lầm thiếu sót và yếu đuối của nhau, và dễ tha thứ cho nhau hơn, bắt đầu bằng chính các thành phần trong gia đình mình, giữa vợ chồng con cái, họ hàng bạn bè với nhau.
Khi khiêm tốn, chúng ta cũng biết nhận ra các tội lỗi, những khuyết điểm, những yếu hèn và thiếu sót của chúng ta, chớ không luôn luôn cho mình là hay, là giỏi, là nhất, hung hăng chỉ trích lên án và kết tội người khác. Khi khiêm tốn chúng ta dễ châm chước cho người khác, vì biết rằng mình cũng như họ thôi, có khi còn tệ hơn họ nhiều. Chúng ta sẵn sàng xin lỗi, sẵn sàng làm hòa, sẵn sàng đền bồi sửa chữa. Khi hiền dịu và kiên nhẫn, chúng ta không nóng giận, gay gắt với người khác, biết chịu đựng mọi thiếu sót sơ suất của họ, đồng thời ý thức được rằng người khác cũng đang phải kiên nhẫn chịu đựng mọi thiếu sót và sai quấy của ta. Lời Chúa mà chúng ta tâm niệm và ơn ban cho mỗi ngày sẽ giúp chúng ta tập được các nhân đức trọn lành này.
Sau khi khuyến khích mọi người, mỗi ngày hãy mặc lấy các tâm tình và tìm sống các nhân đức trên đây, thánh Phaolô đưa ra một nguyên tắc xem ra đơn sơ nhưng thực hiện cho đúng thật là không dễ. Đó là mỗi thành phần trong gia đình hãy cố gắng sống bổn phận riêng trong cương vị của mình một cách phù hợp với ý Chúa muốn. Vợ hãy phục tùng chồng và chồng hãy yêu thương vợ, đừng gắt gỏng với nàng. Còn con cái phải thảo kính cha mẹ và vâng phục các ngài. Cha mẹ thì phải biết khoa sư phạm và tính tâm lý trong việc dạy dỗ, đối xử với con cái, đừng quá khắt khe đòi hỏi để chúng chán nản ngã lòng. Có người coi các tôn ti trật tự trong các cuộc sống gia đình như thánh Phaolô trình bày là bất công, tùy tiện, lỗi thời trong xã hội nam nữ bình quyền ngày nay, đặc biệt là trong liên hệ giữa chồng và vợ. Nhưng nếu chúng ta để ý nguyên tắc lấy tình yêu thương làm nền tảng cho cuộc sống hằng ngày như thánh Phaolô đã nêu bật, thì sẽ không có vấn đề nữa. Bởi vì trong yêu thương, thì tất cả mọi người đều yêu thương nhau không có phân chia ngôi vị. Nói như thế không có nghĩa là trong cuộc sống gia đình sẽ không bao giờ gặp khó khăn, khủng hoảng, nhưng có nghĩa là cho dầu có khủng hoảng và khó khăn trầm trọng đến thế nào đi nữa, nếu mỗi thành phần gia đình đều có tình yêu thương đích thật và biết sống tình yêu thương đó cụ thể, thì sóng gió nào rồi cũng sẽ yên và con thuyền tổ ấm gia đình vẫn tiếp tục tiến tới.
Sống yêu thương, chân thành, quảng đại và vô vị lợi không phải là dễ, nhưng là điều có thể làm được và cần phải làm nếu chúng ta muốn tạo dựng hạnh phúc cho chính mình và cho người khác. Sự thật này được minh chứng trong bài Phúc Âm thánh Luca. Sự thường, 12 tuổi vẫn còn là lứa tuổi thiên thần dễ thương và dễ mến nhất. Nhân dịp lễ, gia đình Thánh Gia hành hương lên Giêrusalem. Năm ấy đã khiến cho thánh Giuse và Mẹ Maria một lần phải rụng rời tay chân, khi trẻ Giêsu ở lại trong đền thờ mà không nói gì với hai người. Sau ba ngày đêm hớt hải kiếm tìm và hỏi han khắp nơi, thì hai ông bà thấy trẻ Giêsu đang đối chất với các tiến sĩ luật trong đền thờ. Cái im lặng của thánh Giuse thật vô cùng ý nghĩa, nó vừa diễn tả nỗi lo âu thầm kín, vừa cho thấy thái độ của thánh nhân tôn trọng sự tự do của Chúa Giêsu và chấp nhận sự kiện không thể giải thích được. Bởi vì thánh nhân biết chắc phải có lý do bí ẩn nào đó, khiến cho người con ngoan ngoãn tuyệt diệu như Chúa Giêsu có thái độ hành sử này. Câu trả lời lạ lùng của Chúa Giêsu giải thích cho hành động bất thường ấy, đồng thời nó minh chứng cho thấy tuy còn nhỏ tuổi, nhưng Chúa Giêsu đã ý thức được sứ mạng và nguồn gốc của mình. Chúa Giêsu thuộc về một thế giới khác và qua sứ mạng phải chu toàn mà ít người có thể hiểu nổi kể cả Mẹ Maria và thánh Giuse. Tuy không hiểu được câu trả lời của con, nhưng Mẹ Maria ghi nhớ kỹ mọi sự và suy gẫm trong lòng. Cuộc suy gẫm ấy phải lâu dài và đau đớn. Và Mẹ chỉ tìm hiểu được mầu nhiệm đó khi đứng dưới chân thánh giá của người con yêu, trong ngày Chúa Giêsu tử nạn vì yêu thương. Sau biến cố kể trên, Chúa Giêsu lại theo cha mẹ về Nagiarét, lớn lên trong khôn ngoan tràn đầy ơn thánh và sống yêu thương vâng phục các ngài cho tới ngày công khai rao giảng Tin Mừng cứu độ.
Trên bình diện thuần tuý nhân loại, đây là một lối giới thiệu kỳ lạ. Đấng là khuôn mẫu đời sống của mọi Kitô hữu trọn lành, được mô tả trong hoạt cảnh bỏ nhà ra đi! Nói đúng ra, thánh sử mời gọi chúng ta hãy vượt qua cái bề ngoài, chỉ nên chú ý tới nội dung câu chuyện. Trước hết chẳng có gì là bi thảm, chúng ta để sang một bên nỗi lo âu nhất thời của hai ông bà. Sau đó, chúng ta học được ba thái độ đạo đức căn bản:
1) Thiên Chúa không cho chúng ta biết trước tình tiết cuộc đời chúng ta sẽ như thế nào. Đức Maria và thánh Giuse biết rõ con trẻ Giêsu là AI. Tuy nhiên, hai ông bà không hiểu biết theo lối chúng ta hiểu biết ngày nay nhờ thần học và giáo lý. Mỗi ngày một chút, hai ông bà phát hiện thêm sự thật của mầu nhiệm bao phủ cuộc đời mình và tầm mức bao la của số mệnh Chúa. Đối với Đức Maria và thánh Giuse, mỗi giai đoạn tăng trưởng của Chúa, là một khám phá, luôn luôn đòi hỏi hai ông bà phải vâng phục thánh ý Thiên Chúa, mỗi ngày phải đáp ứng bằng một tiếng vâng. Ngày này qua ngày khác, hai ông bà lúc nào cũng phải hành động, quyết định, suy xét và nhiều phen chẳng hiểu tại sao, luôn luôn phải thích ứng với những đoạn đường Chúa thúc đẩy phải tiến tới.
Chúng ta chẳng khác gì Đức Maria và thánh Giuse. Sau khi thưa vâng với Thiên Chúa để chấp nhận số mệnh mình, chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi hãy suy xét và hành động ngày này qua ngày khác, để mỗi ngày lại thưa vâng với Người. Trước hết Thiên Chúa đòi chúng ta gia nhập toàn diện vào số mệnh Người đề nghị. Sau đó, Thiên Chúa đòi chúng ta một sự gia nhập có tính cách chi tiết hơn và đặt giá cho sự gia nhập từng ngày trên đuờng định mệnh mình.
2) Công việc của Thiên Chúa phải đặt trước mọi sự, chúng ta phải hiểu như vậy khi đọc lên câu trả lời của Chúa Giêsu: “Cha mẹ không biết rằng Con phải lo công việc của Cha Con ư?”. Câu đáp đối với chúng ta có đôi chút sỗ sàng. Chúng ta cần giữ lại điều này: Thiên Chúa đáng chúng ta dành cho Người một sự ưu tiên tuyệt đối trong cuộc đời chúng ta. Thiên Chúa là trên hết và trước hết trong đời ta, điều đó có nghĩa là không được suy tôn bản ngã của chúng ta lên bằng Thiên Chúa. Bởi lẽ chúng ta có được hạnh phúc là nhờ ơn Thiên Chúa chứ không nhờ khả năng của ‘cái ta’.
3) Chúng ta phải tìm Chúa Giêsu ở nơi chốn Người đang ngự. Sự giải thích cổ xưa nhất về lời đáp của Chúa Giêsu làm nổi rõ sự việc Người ở trong đền thờ, trong nhà Cha Người, là điều tất nhiên, và muốn tìm Người thì phải đến đền thờ mà gặp Người. Khi nào chúng ta có ấn tượng đã mất Chúa, tất nhiên chúng ta hãy đến thánh đường cầu nguyện dưới chân nhà tạm, nếu có thể được.
Hôm nay chúng ta mừng lễ Thánh Gia, chúng ta cảm thấy thật hạnh phúc khi được sống dưới sự bảo trợ của Thánh Gia. Xét về phương diện quyền thế, không ai sánh được với ba Đấng. Chúa Giêsu chính là “Thiên Chúa ở cùng chúng tôi”. Ngài là ‘hình ảnh của Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử giữa mọi thụ sinh, vì trong Ngài vạn vật đã được tạo thành…’ Ngài có ưu thắng trên mọi sự, và mọi sự tồn tại nơi Ngài. Và Ngài là đầu của Thân Mình tức là Hội Thánh. Ngài là khởi nguyên, là trưởng tử giữa các vong nhân, ngõ hầu trong mọi sự Ngài là đệ nhất vô song… Và Ngài đã giảng hoà cả vạn vật nhờ Ngài và cho Ngài, đã ban lại bình an nhờ Bửu Huyết đổ ra nơi Thập Giá, cho mọi vật trên trời, dưới đất (Cl 1,15-20). Bản văn này gợi lên trong chúng ta niềm hân hoan tin tưởng, bởi vì Đấng bảo trợ chúng ta là Thiên Chúa, là Vua vũ trụ, mọi quyền trên trời, dưới đất đều ở trong tay Ngài. Chính Ngài nắm trong tay chìa khoá tử thần và âm phủ. Chính Ngài là Đấng ngự bên hữu Chúa Cha để cầu bầu cho chúng ta. Hơn thế nữa, Ngài còn là nguồn mạch sự sống, Ngài đã đến để ta được sống và sống dồi dào (Ga 1,4; 14,5)
Đức Maria chính là Mẹ Thiên Chúa, là Nữ Vương các thiên thần và các thánh, nhưng đồng thời Người cũng là Mẹ nhân loại, là Mẹ của từng người chúng ta. Người chính là tình yêu xả kỷ, hy sinh, thương xót và tha thứ. Sống bên Người bao giờ chúng ta cũng tìm được ơn nghĩa cùng Chúa, vì theo lời thánh Bênađô: ‘tất cả mọi ơn lành đến với chúng ta đều qua tay Đức Maria’.
Còn thánh Giuse là người đã được nhìn tận mắt, sờ tận tay Đấng mà các tổ phụ và các tiên tri hằng mong đợi. Hơn nữa, trước mặt Thiên Chúa và nhân loại, công lao của Ngài thật vĩ đại, vì chính Ngài đã tận tâm bảo vệ, nuôi dưỡng Chúa Giêsu là của lễ hy sinh đền tội thế gian và là Bánh nuôi sống linh hồn tín hữu cho đến ngày tận thế.
Dĩ nhiên chúng ta nhận Thánh Gia làm bổn mạng là để cậy nhờ, nhưng nhất là để noi gương, như mẫu mực cho đời sống chúng ta.
Gia đình là tế bào nền tảng của xã hội. Tội đã nhập vào gia đình thứ nhất và phá hoại nhân loại. Thiên Chúa muốn cải tạo xã hội nhân loại khi phái Con Một Ngài đến trong một gia đình nhân loại. Nagiarét là trường học lý tưởng cho mọi gia đình. Ở đó có mọi nhân đức cao quý của đời sống gia đình: cả ba đều hoàn toàn trinh khiết, cả ba đều cao trọng nhưng lại tuyệt đối khiêm tốn và vâng phục, bởi vì cả ba đều tìm thánh ý Thiên Chúa.
Nagiarét cũng là trường học của đức bác ái. Vì trong đó cả ba đều quên mình để nghĩ đến người khác, tận tuỵ phục vụ người khác. Thánh Giuse âm thầm làm việc không quản nhọc nhằn, Đức Maria chăm lo việc nội trợ, Chúa Giêsu ngoan ngoãn vâng phục và san sẻ vất vả với cha mẹ.
Cũng tại Nagiarét chúng ta tìm lại được giá trị siêu việt của lao động, đó là giá trị cứu rỗi. Những giọt mồ hôi của Chúa trong nhà Nagiarét không hề kém giá trị cứu rỗi hơn việc rao giảng Tin Mừng hay cuộc tử nạn của Ngài, vì trong mọi sự Ngài đều tìm đẹp lòng Thiên Chúa.
Chúng ta cũng có thể và phải tham gia công cuộc cứu rỗi nhân loại bằng chính đời sống chúng ta, trong việc thực thi thánh ý Thiên Chúa, trong sự dấn thân phục vụ, trong cầu nguyện âm thầm và hy sinh. Sống được như thế chắc chắn chúng ta sẽ đạt tới hạnh phúc chân thật.
Khi còn sống, trong một cuộc phỏng vấn dành cho đài BBC, công chúa Diana của Anh quốc đã không ngần ngại bộc bạch hết câu chuyện đổ vỡ của gia đình bà. Sự đổ vỡ của gia đình vương giả này khiến nhiều người phải tiếc xót. Bởi vì, nếu xét theo những tiêu chuẩn thông thường, thì quả thực cặp vợ chồng này có mọi sự để được hạnh phúc, như danh vọng, tiền tài, địa vị. Thế nhưng tại sao họ không tìm được hạnh phúc trong gia đình? Đâu là nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ này? Có lẽ họ còn thiếu một cái gì đó mà sự giàu sang phú quý không thể mua được cũng như khiến họ không thể vượt qua được khó khăn thử thách.
Hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm Thánh Gia để múc lấy bí quyết hạnh phúc gia đình. Cũng như bao gia đình khác, Thánh Gia cũng đã trải qua nhiều sóng gió, thử thách. Chúng ta hãy nhìn lại cảnh bối rối mà có lẽ ít có đôi vợ chồng trẻ nào phải trải qua: vợ sắp sinh đi tìm một quán trọ để qua đêm nhưng không có, cuối cùng phải vào một chuồng súc vật và sinh con ở đó, và rồi sau đó đã phải vội vã đi lánh nạn trong một cuộc hành trình cam go và sống giữa những người xa lạ. Bí quyết đã giúp Đức Maria và thánh Giuse vượt qua khó khăn thử thách, đó là có Chúa Giêsu bên cạnh. Sự hiện diện của Chúa Giêsu chính là nền tảng của gia đình Nagiarét.
Cũng như Thánh Gia, ngày nay các gia đình Việt Nam cũng đang trải qua bao khó khăn thử thách. Trước tiên là cái nghèo và rồi từ nghèo khổ sinh ra dốt nát, dốt nát kéo theo bao hệ lụy khác. Tuy nhiên, nhìn vào gương Thánh Gia, chúng ta thấy rằng nghèo khổ không đương nhiên gây nên bất hạnh và đổ vỡ cho gia đình. Tỷ lệ những đổ vỡ của các gia đình tại các nước công nghiệp tiên tiến là bằng chứng cho thấy giầu có chưa hẳn đã là một bảo đảm cho hạnh phúc gia đình.
Không những trải qua cảnh nghèo, Thánh Gia còn phải đương đầu với bạo chúa Hêrôđê nữa. Ngày nay, các gia đình cũng phải đương đầu với nhiều thứ bạo chúa, như các phương tiện truyền thông quảng bá lối sống đồi phong bại tục nhằm lung lạc và đầu độc giới trẻ, hoặc những luật pháp áp đặt những luật lệ nhằm phá đổ chính nền tảng thánh thiêng của gia đình, chẳng hạn luật cho phép phá thai, ly dị…
Thánh Gia đã vượt qua được sóng gió nhờ niềm tin vững chắc vào sự hiện diện của Chúa trong gia đình. Đó cũng là bí quyết mà Giáo Hội đề ra cho chúng ta khi mời gọi chúng ta chiêm ngắm Thánh Gia. Lấy sự hiện diện của Chúa Giêsu làm nền tảng vững chắc cho gia đình chính là mặc lấy tâm tình từ bi, nhân hậu, tha thứ cho nhau; lấy sự hiện diện của Chúa Giêsu làm nền tảng vững chắc cho gia đình chính là lấy sự cầu nguyện trong gia đình làm mối giây liên kết mọi người: một gia đình cầu nguyện chung với nhau là một gia đình đứng vững, và đó là điều chúng ta phải cầu xin cho nhau.
Khi đã đến ngày phải làm lễ tẩy uế theo luật Môsê... tiến dâng như Luật Chúa quy định... để chu toàn nghi thức theo Luật Chúa truyền...theo như những gì đã ghi trong luật... khi họ chu toàn nghi lễ, như thiên hạ thường làm theo luật.
Chắc chắn, đây không phải là ngẫu nhiên mà Luca nhấn mạnh tới 5 lần (các câu 22, 23, 24, 27, 39) về việc chu toàn lề luật. Dù là "Con Thiên Chúa" Đức Giêsu đã tuân theo lề luật của con người. Đó là nét thâm sâu và sự thật về mầu nhiệm nhập thể. Ngài không tự coi mình như “có đặc quyền". Người hành xử "như mọi người" không có gì phân biệt Người với kẻ khác. Tôi dùng thời giờ để suy niệm lâu hơn về sự khiêm hạ phi thường này, rnà Thánh Phaolô gọi là: một "cuộc làm cho mình hóa ra không", một “kénose" (Pl 2,7). Đừng tự đặt mình vào số ngoại lệ. Không nên đòi hỏi những đặc quyền. Nên thực tế chấp nhận những nghịch chướng thường có trong cuộc sống, những dịch vụ không vinh dự của thân phận chúng ta.
Cha mẹ Đức Giêsu đem Người lên Giêrusalem... vào Đền thờ.
Cuộc lên đường này mang đầy ý nghĩa. Đó là đỉnh cao của "hai chương" Luca dành cho tuổi thơ của Gioan Tẩy Giả và của Đức Giêsu. Nhưng Luca hữu ý tạo cho bước đường của Đức Giêsu sự ngược với Gioan. Việc báo tin cho Dacaria diễn ra trong khung cảnh trang trọng và huyền diệu của buổi lễ tế tự nơi Đền Thánh (Lc 1,0) nhưng Gioan con trai của ông lại ẩn mình "trong hoang địa" (Lc l,80). Còn việc truyền tin cho Maria xảy ra tại làng Nagiarét nhỏ bé tầm thường (Ga l,46), nhưng Giêsu con trai của bà lại được nhận biết như Đấng "Mêsia" trong thành thánh Giêrusalem; tại Đền thờ, giữa trung tâm thành phố, nơi hiện diện kỳ diệu của Thiên Chúa (Lc 2,27; 2,37). Như thế là chúng ta dang dừng lại trước " trang cuối cùng" ... kết thúc Cựu ước! Những người Do Thái, đôi vợ chồng trẻ, đang "chu toàn lề luật Môsê”. Một cách tượng trưng, lề luật được chấm dứt với cử chỉ này sẻ không cần tới Đền thờ nữa: người ta cũng sẽ phá hủy Đền. thờ, đó là "cuộc trở lại đầy Vinh quang của Thiên Chúa giữa Dân Người" như vị ngôn sứ loan báo (Ml 3, 1-4). Nhưng Thiên Chúa đến cách đột xuất, bất ngờ biết bao "! Không khi nào Người đến như người ta chờ đợi.
Có một người tên là Simêon. Ông là người công chính và sùng đạo... Lại cũng có một bà ngôn sứ tên là Anna.. Bà ở góa, đến nay đã 84 tuổi, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa trong Đền thờ”.
Không phải ngẫu nhiên mà ta thích thú nhận ra rằng, theo Luca, không phải giới có thẩm quyền như các thầy tư tế các kinh sư nhận biết Đức Giêsu.. mà là những con người tầm xoàng, nhưng kẻ nghèo khó? Qua hai người tiêu biểu cho những kẻ "bé mọn" trên đây, thì toàn thể dân chúng thuộc "nhóm người nghèo Thiên Chúa yêu thương" đã đến gặp gỡ Đấng Cứu độ của họ. Đằng khác, điều đó cũng đã được các ngôn sứ loan báo: "Ta sẽ chừa lại giữa ngươi một dân khiêm nhu hèn mọn..:" một số nhỏ "còn sót lại (Xp 3,12; Is 16.14 + 30, 17,37.4; Gr 6,9; Ge 3,5) Simêon và Anna tiêu biểu cho những người nghèo. Họ đều đã già cả; thuộc hạng người mà toàn thể xã hội muốn quên bỏ không mấy trân trọng "(Kn 3,13). Hơn nữa, Anna lại là cụ già "góa bụa", nghĩa là theo ngôn ngữ Kinh thánh, là cái nghèo hiện thân, vì cụ đã mất đi tất cả những gì đảm bảo cho mình chỗ đứng trong một xã hội mà chỉ người chồng mới có quyền pháp lý. Lạy Chúa, xin biến trái tim chúng con trở nên những tâm hồn của người nghèo, để chúng con biết nhận ra Chúa, trong những dạng bề ngoài khó nghèo mà Chúa thường ẩn dấu...
Simêon ẵm lấy hài nhi trên tay... Đấng Mêsia của Chúa... ơn cứu độ dành sẵn cho muôn dân... ánh sáng soi đường cho dân ngoại... vinh quang của Israel...
Thiên Chúa ưa đột xuất, dễ gây ngỡ ngàng! Người ta mong chờ "vinh quang", "quyền lực"! Thì Ngài lại xuất hiện trong thân phận một "trẻ nhỏ", một bé thơ thật sự khóc oe oe, chưa biết đứng thẳng, phải bồng ẵm trên tay! Chỉ có cụ già đó, tự để cho Đức tin và Thánh Thần mở mắt mình! Ba lần gọi tên trong bản văn, mới có thể nhận thấy được sự khám phá ra được điều đó, cần phải trở nên khó nghèo, Đức tin là một thứ nghèo khó: người ta nhìn mà không nhận biết (Ga 20,29). ấy thế mà dưới lớp vẻ bề ngoài nghịch thường bé bỏng của em nhỏ (ta nghĩ đến "hình dạng bề ngoài" của bánh mà ta lãnh nhận...), lại chính là lễ tấn phong cách công khai của Đức Giêsu "trong Đền thờ của Người": Những tước hiệu mà hai người nghèo khó trên đây tặng cho Người, thật là ngời sáng! Đức Giêsu – gói thịt đáng thương này (và Ngôi lời đã mặc xác phàm) lại chính là Đấng Mêsia của Thiên Chúa... "ơn cứu độ của muôn người "... "ánh sáng"... "Vinh quang"... "Sự giải thoát" Giêrusalem... Lạy Chúa, xin ban cho chúng con đức tin.
Những lời ông Simêon nói về Hài nhi làm cho cha mẹ Người ngạc nhiêm bỡ ngỡ.
Như thế, đây cũng là lời xác nhận rằng, "đức tin của cha mẹ" cũng cần phải tiến triển! Không biết lòng tin của họ ra sao, nhưng Maria và Giuse đều rất đỗi ngạc nhiên và bỡ ngỡ trước những "tước hiệu” mà ngời ta gán cho con mình. Biến cố này gợi lên lòng tin của ông bà. Mười hai năm sau, tại Đền thờ này, ông bà cũng sẽ không hiểu gì (Lc 2,48-50) và vẫn còn ngạc nhiên. Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa giúp chúng con luôn được ngạc nhiên bỡ ngỡ như thế.
Ông bà đem con lên Giêrusalem để tiến dâng cho Chúa... và dâng của lễ theo luật định.
Đó là hai kiểu nói Luca đã sử dụng để trình bày "nghi thức" mà đôi vợ chồng trẻ trên đây đã thi hành. Động từ Hy-lạp được dùng ở đây là (“parastènai": "dâng hiến"), cũng chính là từ mà Phaolô sẽ dùng để nói lên thái độ căn bản của Kitô hữu. Đừng quên rằng, Luca là thư ký của Phaolô, và các bức thư đều được viết trước các Tin Mừng. Thế nên, Luca đã chủ ý dùng một ít mang ý nghĩa. "Anh em đừng hiến thân xác anh em phục vụ tội lỗi nữa, nhưng anh em hãy hiến toàn thân để phục vụ Thiên Chúa" (Rm 6,13). "Anh em hãy hiến thi thể anh em để phục vụ sự công chính, để trở nên thánh thiện" (Rm 6,19). "Thưa anh em, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thực xứng hợp để anh em thờ phượng Người" (Rm 12,1.).
Như vậy, Maria và Giuse đến thi hành trước, điều mà sau này chính Đức Giêsu sẽ thực hiện trong bữa tiệc ly và trên thập giá... và mọi Kitô hữu được mời gọi thể hiện trong mọi thánh lễ: hiến dâng mạng sống của mình! "Đây là mình Thầy sẽ bị nộp vì các con". Lạy Chúa, khi thông hiệp với Chúa, chớ gì con biết hiến mạng sống mình vì yêu. Để làm nổi bật hai sự việc trên chỉ là một ("tiến dâng con" và "hiến dâng của lễ"), Luca trích dẫn hai đoạn văn Kinh Thánh, khi cần vẫn có thể tăng cường chiều kích "vượt qua" của trình thuật này: "Tất cả các con trai đầu lòng đều được thánh hiến dành cho Thiên Chúa" (Xh 13,2.12.15). Chúng ta hãy nhớ lại nguồn gốc của nghi thức này. Dân tộc Israel làm nô lệ bên Ai Cập. Để chấp nhận việc giải phóng vượt qua, vua Pharaô đã phải chứng kiến mọi con trai đầu lòng thuộc xứ sở mình đều chết hết. Một của lễ chiên vượt qua ghi dấu máu nơi cửa nhà Do Thái. Và để "ghi nhớ" ngày cứu độ giải phóng này, mọi con trai đầu lòng người Israel đều thuộc về Thiên Chúa! Muốn dẫn chúng trở lại gia đình, cần phải "chuộc lại" . Đó là biểu tượng lạ thường. Một vật thuộc về Thiên Chúa? Muốn dân chúng trở lại gia đình, cần phải "chuộc lại". Đó là biểu tượng lạ thường. Một vật thuộc về Thiên Chúa: là một vật được hiến thánh!
Chính Đức Giêsu cũng được "hiến thánh" cách trọn vẹn! Và việc đó được diễn ra vào "ngày thứ bốn mươi", thời gian tròn đầy.. và sau này còn có một "ngày thứ bốn mươi" nữa, để kết thúc mùa phục sinh dẫn tới biến cố lên trời làm cho sự hiện diện hữu hình của Đấng phục sinh biến khỏi. Đúng vậy, toàn bộ Tin Mừng đang nằm ở trang này. Và một cảnh vượt qua khác cũng sẽ diễn ra "ở Giêrusalem" (Lc 24, 47-52).
Phép rửa đã thánh hiến tôi cho Chúa. Biến cố đó có ý nghĩa gì đối với tôi không?
Của lễ là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu non…
Thật là cảm động, phải không? Nhưng coi chừng, ta có thể biến toàn thể trình thuật trên đây của Luca thành giai thoại mất thôi! Một lần nữa, ta cần ghi nhận rằng, Luca đã không thêm bớt gì. Rõ ràng ông chỉ dựa vào những thực hành tôn giáo Do Thái hiển nhiên. Nhưng ta cũng có thể nhìn ra, tại sao Đức Giêsu lại không được miễn chước khỏi việc tuân giữ những tập tục đó. Mà thôi, đối với Luca, điều quan trọng thực sự đó là "nội dung” thần học, là "ý nghĩa" thâm sâu của các sự kiện lịch sử. Vậy ta cứ chấp nhận quan điểm của người thuật chuyện. Nào ta sẽ đọc toàn bộ bản văn mà Luca đã trích dẫn một đoạn nơi sách Lêvi (12,8): "Nếu người mẹ không đủ khả năng kiếm đủ tiền mua con vật, thì có thể dùng đôi phim gáy hay một cặp bồ câu. Đó! đúng là lễ vật của người nghèo. Maria đã không thể làm gì hơn được. Bà không thể trả tiền cao hơn! Đó là điều mà Luca nhằm gợi lên cho ta, nếu ta biết đoán ra ý người viết, và ta biết rằng toàn bộ Tin Mừng của ông sẽ là "tin vui cho người nghèo (Lc 4,18). Phải, toàn bộ Tin Mừng đã nằm ở trang này, bề ngoài xem ra đầy hình ảnh dân gian. Phúc thay những người nghèo, vì nước trời là của họ.
Được “thánh hiến" cho Thiên Chúa... điều đó không đòi hỏi những dấu hiệu huy hoàng. Mọi người nghèo trên thế giới với áo quần rách rưới, lại "xứng đáng" với Thiên Chúa và được thánh hiến... Những người nghèo được "thánh hiến"! Tôi có kính trọng họ không?
Cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel phải hư vong hay được ơn cứu độ, cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng.
Đức Giêsu cũng là một "dấu hiệu”, một "dấu hiệu bị chống báng", một "dấu hiệu mà người ta có thể phủ nhận" . Thiên Chúa không muốn áp đặt. Người đã trao ban tự do. Người chấp nhận " dấu chỉ tình yêu của Người có thể bị người đời chối bỏ! Péguy sẽ nói: "Những khúm núm lụy phục của kẻ nô lệ không nói lên cho Người điều gì cả". Như thế mỗi người phải tự quyết định trước trường hợp "Giêsu” Ta có thể từ chối Ngài, nghĩa là phải hy vọng, phải quỳ xuống... ta có thể đón nhận Người, nghĩa là được ơn cứu độ được nâng lên...
Ngay tại trang này, ta đã có Đấng "Thẩm phán vũ trụ”, Đấng phân chia loài người ra làm hai trong Ngày cánh chung (Mt 25-31). Lạy Chúa xin nâng con lên. Xin giúp con biết chọn Chúa.
Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nagiarét, miền Galilê, còn hài nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh... tiến triển...
Cuộc hành trình lên thủ đô đã kết thúc. Đôi vợ chồng trẻ lại trở về miền quê tăm tối của mình. Nhưng giờ đây, chính Thiên Chúa luôn ở cùng. Người sắp sống tại xưởng thợ nơi gia đình. Dần dần, Người sẽ tập sống làm người. Người sẽ học đời, học đi (ban đầu có thể lao đao, rồi té xuống). Người sẽ học đọc tại trường, học nghề thợ mộc... ôi thôi! kéo cưa của cậu mới ‘tập sự’ chưa giúp được việc gì. Những, Người cứ tập tành... Người sẽ tiến bộ.
Trong đời, tôi đã dự nhiều Thánh Lễ Hôn Phối. Tôi thích bài đọc sách Tô-bi-a: “Buổi tối hôm thành hôn, hai người tâm sự: “Chúng ta là con cháu của các Thánh, chúng ta không thể kết bạn như những người chư dân, họ không nhìn biết Thiên Chúa”... ”Và giờ đây, thân lạy Chúa, Chúa biết rằng không phải vì lý do sắc dục mà tôi cưới lấy cô em đây làm vợ, song chỉ vì mến yêu dòng dõi của những người biết ca tụng danh Chúa tới muôn đời”. Ôi tình yêu vợ chồng tuyệt đẹp và thánh thiện !
“Không thể lấy nhau như chư dân”: Bí Tích Hôn Phối làm cho việc phối ngẫu giữa hai người nam nữ mang tính hợp pháp. “Không vì nhan sắc, không vì dục tình”: nói lên tính thánh thiện của Hôn Nhân Ki-tô giáo.
Nhưng, nhân Lễ Thánh Gia, Gia Đình Thánh Thiện của Chúa Giê-su, Mẹ Ma-ri-a và Thánh Giu-se, nhìn lại đời sống hôn nhân của tôi và của chúng ta hôm nay, tôi xin có đôi điều trăn trở.
1. Tính hợp pháp của Bí Tích Hôn Nhân bị lạm dụng:
Không ít đôi vợ chồng, không kể là trẻ hay già, ngay từ khi mới cưới nhau đã lầm tưởng Bí Tích Hôn Phối như là một cách hợp pháp hóa đời sống tính dục, nhất là ở những cặp vợ chồng được học hiểu quá ít Giáo Lý Bí Tích Hôn Phối Ki-tô giáo.Nền tảng về Đức Tin, về lòng đạo đức cũng không vững chắc, nên bị cuốn hút vào sự sa đọa ngay trong đời sống vợ chồng. Vợ chồng tìm đến nhau không còn là để củng cố tình yêu hôn nhân, không còn với mục đích sinh ra cho đời những con người ca tụng Chúa, mà chỉ là thỏa mãn những dục vọng thấp hèn. Cứ nghĩ là đã có Bí Tích Hôn Phối bảo kê, họ không còn phạm tội điều răn thứ sáu nữa. Trong khi đó, họ không biết rằng, hoặc họ quên rằng, họ đã liên tục phá hủy sự trong sạch vợ chồng, dẫn đến việc phạm tội điều răn thứ sáu ngay với vợ với chồng của mình, liên tục hạ thấp giá trị Bí Tích Hôn Nhân và biến Bí Tích Hôn Nhân thành một lá bùa tôn giáo vững chắc đến nỗi không một tòa án tâm linh nào có thể buộc tội được. Mà không buộc tội được thì không có tội gì mà không tiếp tục thao túng một cách theo họ nghĩ là hợp pháp.
Không được mấy đôi vợ chồng có vài phút đọc kinh, cầu nguyện với nhau như Tô-bi-a và Sa-ra trước giờ chăn gối, để hiến dâng giờ phút linh thiêng ấy, mầu nhiệm ấy cho Thiên Chúa, và xin Ngài chúc phúc; thậm chí còn, biến giờ phút mà hai con người đồng hình đồng dạng với nhau ấy thành giờ của những hưởng thụ tự trong thâm tâm riêng tư của mỗi người, bằng mọi phương cách có thể. Hưởng thụ vì sợ trách nhiệm hoặc một cách vô trách nhiệm, hoặc không thể chấp nhận kết quả của tình yêu đích thực là một bào thai, một đứa con. Trong họ không có tình yêu đích thực. Và còn tệ hơn thế nữa, vì nghĩ đến cái ích kỷ tư riêng của mình, nên nếu không đạt được đỉnh điểm khoái lạc thấp hèn, thì sự hòa hợp trở nên vô nghĩa và nhàm chán.
Cứ tiếp tục một cuộc sống vợ chồng, với Bí Tích Hôn Nhân Ki-tô giáo như thế, mà lương tâm vẫn thản nhiên nghĩ là không có tội tình gì, vì đã có “phép hôn phối”. Thế là “phép” Hôn Phối đang bị lạm dụng khắp nơi, trong các gia đình già cũng như trẻ, thành phố, thôn quê, không có đạo đã đành, người có đạo có khi còn tệ hơn nữa. Một cách nào đó, những học thuyết chống Thiên Chúa đã thành công từ trong cỏi sâu thẳm nhất của con người: Lương Tâm.
Và như vậy, sự thánh thiện của Bí Tích cũng bị bỏ quên hay cố tình gạt bỏ ra ngoài ý hướng của vợ chồng. Có những bà vợ, những ông chồng, thoạt đầu mới sống đời vợ chồng, ảnh hưởng Giáo Lý và tính thánh thiện còn phong phú lắm, nhưng rồi, không tăng cường trau chuốt những giá trị siêu nhiên ấy, cùng với việc sợ trách nhiệm, sợ tốn kém thời gian tiền bạc nuôi con, sợ đau đớn, sợ mất sức khỏe, mất nhan sắc... đã làm cho giảm dần ý thức thánh thiện ấy. Mặt khác, thẩm thấu ảnh hưởng của xã hội về kế hoạch hóa gia đình – các phương thức phương tiện để hưởng thụ trọn vẹn, ảnh hưởng từ phim ảnh tình cảm xã hội, từ cuộc sống thoải mái của những chị em bạn bè, đã tặng cho các gia đình một ‘túi khôn” theo kiểu của duy vật chủ nghĩa. Không còn sự thánh thiện nguyên thủy của Bí Tích Hôn Nhân, hạnh phúc gia đình hẳn nhiên sẽ mong manh, dễ vỡ tan,vì không có một nền tảng đạo đức và tình yêu đích thực trong cuộc sống gia đình.
2. Trào lưu “tìm lại chính mình”
Chúa Giê-su Ki-tô dạy phải “từ bỏ mình”. Và quả thật, trong đời sống đạo đức, chỉ có việc “từ bỏ mình”, mới đạt đến điều kỳ diệu là đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô. Và trong đời sống Hôn Nhân Ki-tô Giáo, khi đã đồng hình, đồng dạng với Chúa Giê-su Ki-tô, thì như một suy luận toán học, cả ba: Chúa Ki-tô, vợ vàchồng đều hiệp nhất với nhau nên một trong mối tình thật thắm thiết. Họ đang là một. Không phải là hai thành một, mà là cả ba thành một. Sự tan hòa thánh thiệnkhông còn bị chi phối bởi bất kỳ một dị biệt nào về phái tính, về suy tư, về đam mê khuynh hướng... Vì họ đang hoàn toàn bỏ cái riêng của chính mình, để làm thành một cái chung duy nhất, đó là Hạnh phúc Gia đình. Không thiếu những đôi vợ chồng đã gắn bó với nhau nhiều năm, tan hòa trong nhau, trong Chúa, trong niềm hạnh phúc thật thánh thiện...
Nhưng, tiếc thay, bài học “khôn” của bạn bè, của xã hội khi chủ trương như thế là đãđanh mất chính cả cuộc đời mình cho chồng, cho vợ cho con... như cơn cám dỗ ngọt ngào và hữu lý. Và họ bắt đầu “tìm lại chính mình”. Tìm lại sắc đẹp khi da đã chớm nhăn: có Olay, có thuốc chống nắng, có thẩm mỹ viện; tìm lại sức khỏe: có đủ loại thuốc bổ, thức ăn bồi dưỡng..., tìm lại thời gian rảnh rổi, ngay cả tìm lại sự hưng phấn cần thiết... tất cả đều có thể tìm lại. Thiết nghĩ, việc làm đẹp, duy trì sức khỏe... vì hạnh phúc gia đình, vì chồng, vì vợ, vì con thì vẫn là một việc tốt lành. Nhưng xét cho kỷ, thì thực ra, mục đích chính trong việc “tìm lại chính mình”, là để khẳng định mình có quyền lo cho cái riêng tư của mình đã đánh mất sau một thời đã cống hiến cho chồng cho vợ cho con.
Và cũng bắt nguồn từ trào lưu “tìm lại chính mình” ấy, đã gây nên bao nhiêu xáo trộn trong đời sống gia đình. Người bạn đời không còn là mẫu người lý tưởng, không còn làm cho cái riêng tư của mình được thỏa mãn. Thế là bắt đầu một chương trình “hướng ngoại”. Cùng với các phương tiện hiện thời, như điện thoại di động, xe riêng lớn nhỏ, cà-phê đèn mờ, khách sạn nhà nghỉ nhà trọ khắp nơi, chương trình hướng ngoại để “tìm lại chính mình” mau chóng đạt kết quả như ý. Tuổi nào cũng có xu hướng hướng ngoại. Nhiều nhất là ở độ tuổi 40 của cả vợ, lẫn chồng. Lời hứa thủy chung không còn mấy quan trọng.
Vẻ hiền thục, nét nhu mì của một Việt nữ ngày xa xưa không còn nữa, đổi lại, là sự quyến rũ cùng với phong cách rất mới khẳng định rằng mình cũng biết sống hợp thời. Từ việc đua đòi mua sắm các phương tiện, tiện nghi, đua đòi tân trang nhan sắc, đến việc đuađoi bằng chị bằng em – không chấp nhận mình là quê mùa, đã dẫn đến bao cuộc tình vụng trộm. Những biện pháp tránh thai mà xã hội cao rao đề xướng, một cách nào đó đã bảo kê an toàn cho những cuộc truy hoan ngoài hôn nhân, để việc tìm lại chính mình càng có hiệu quả thoải mái.
Tôi không lạ gì những câu nói vừa trào phúng vừa lột tả cái thực tế công cuộc “tìm lại chính mình” như:
“Hai vai hai núi đàn ông,
gánh qua phố chợ phiêu bồng hoan du,
chồng em vừa “điếc” vừa “mù”,
ngu gì chịu cảnh ở tù trăm năm ?”
“Chồng ( vợ ) là địch, bồ là ta,
chiến sự xảy ra, ta về với địch,
nằm trong lòng địch, lại nhớ về ta”.
“Chồng ta tuy xấu tuy già,
nhưng là đặc sản của bà nhà bên”.
“Vợ ta tuy xấu tuy già,
nhưng là tiên nữ của nhà xóm trên”.
Chuyện ngoại tình trong thời đại hôm nay ở đất nước Việt Nam hầu như “chuyện thường ngày ở huyện”. Trong gia đình tôi, trong gia đình bạn, trong tất cả gia đình Công Giáo chúng ta, nơi nào cũng có nguy cơ xảy ra tai nạn đau thương này, nếu không có một nền tảng đạo đức bền vững. Sự Dữ và những diễn biến xấu có ngay từ trong não trạng của mỗi con người đang sống trong một xã hội đầy dẫy những chủ trương “thoải mái” với trào lưu “tìm lại chính mình” đang lên cơn sốt dữ dội. Tôi còn nhớ một định nghĩa: Con người là một hữu thể gồm một nửa cái “con”, vàmột nửa cái “người”. Trào lưu “tìm lại chính mình” đang tìm lại nữa cái “con” đã mất ! Nên chăng, thiết lập lại một tinh thần đạo đức trong đời sống vợ chồng: duytrì sự thánh thiện của hôn nhân, bất kỳ ở tuổi nào, giai đoạn nào, là việc thật cấp bách.
3. Phá vỡ sự thánh thiện của Hôn Nhân Công Giáo và hạnh phúc gia đình là tiếp tay vàoviệc chống lại Thiên Chúa
Vâng, tôi nghĩ vậy, vì chúng ta đang sống trong một đất nước theo chủ nghĩa xã hội, với học thuyết duy vật và vô thần. Người vô thần chung quanh ta đang chủ trương không có Thiên Chúa, không có đời sau, và thiên đàng chính là sự giàu sang phú quí, khoái lạc ở trần gian này. Người Công Giáo Việt Nam ít nhiều đã thẩm thấu tư tưởng học thuyết vô thần này, và không những thẩm thấu, mà còn tiếp tay vào công cuộc rao giảng cho chủ trương chống lại Thiên Chúa. Con số hồ sơ xin ly dị, ly thân ở tòa đời đã đành, mà ngay tòa đạo mỗi ngày mỗi chồng cao lên mà không thể giải quyết nổi. Việc phá thai giết người hàng loạt mỗi ngày tại các bệnh viện đâu do chỉ những người vô thần, mà không có những người Công Giáo đó sao ? Tôi nghĩ Trung Tâm Bảo Vệ Sự Sống có đầy đủ thống kê về điều này.
Các vợ chồng Công Giáo có bao giờ nghĩ rằng mỗi lần chúng ta bỏ đi một thai nhi là một lần chúng ta đã bằng lòng bước qua thập giá ? Cuộc bách đạo – tạm gọi là cuộc chống lại Thiên Chúa – thời nay không còn thô sơ đơn giản như thời xưa, nhưng tinh vi hơn nhiều. Không ai cấm chúng ta đến Nhà Thờ đọc kinh dự lễ, không cấm chúng ta xây dựng Nhà Thờ, tổ chức các cuộc lễ hoành tráng, không bắt bỏ tù,đanh đập tra tấn, hành hình hay trảm quyết... nhưng là mời gọi các gia đình Công Giáo sống tinh thần thế tục, tinh thần “không thiên Chúa”, bằng những chủ trương rất dẽ thương, rất hợp lý. Một trong những chiến công hiển hách của chế độ vô thần là đã làm cho nền tảng thánh thiện của hôn nhân Ki tô Giáo lung lay tận gộc rễ. Đó là tín hiệu của một thế hệ vô thần sẽ được sinh ra và bành trướng trong tương lai trên đất nước này. Do đâu ? Tôi nghĩ, “không ai làm ta mất tự do, chỉ vì ta bằng lòng làm nô lệ”.
4. Sống Đạo: sống đời sống Hôn Nhân Thánh Thiện
Là cha mẹ trong các gia đình Công Giáo hôm nay, chúng ta chịu trách nhiệm trước mặt Chúa về cuộc sống Đức Tin của con cái. Các đôi trẻ thời đại mới có những quan niệm mới về cuộc sống lứa đôi, trong đó có những quan niệm tốt, nhưng không thiếu những quan niệm mang tính “chống lại Thiên Chúa” – việc sống thử yêu thử, việc tự do luyến ái, việc không cho thụ thai bằng các phương pháp không tự nhiên chẳng hạn. Cách sống mà lề luật của Thiên Chúa bị xem nhẹ, nhường chỗ cho một cuộc sống dễ dãi thoải mái hơn đã phát nguồn từ trong gia đình chúng ta, nhất là những gia đình có tuổi hôn nhân ba mươi năm trở lại đây, hôn phối sau ngày 30 tháng 4. Đã đến lúc mà xã hội đang khẩn trương chấn chỉnh những thiếu sót để kịp hội nhập với thế giới. Giáo Hội cũng luôn mời gọi sám hối và canh tân. Thiết nghĩ, các gia đình Công Giáo cần thiết thực đáp lại lời mời gọi SỐNG ĐẠO 2007 của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam bằng việc khẩn trương thiết lập lại tính Thánh Thiện của Hôn Nhân Ki-tô Giáo ngay trong các gia đình, các Họ Đạo, các Giáo Xứ.
Có một câu chuyện kể lại rằng: Giữa đường chạy trốn sang Ai Cập, để tránh khỏi sự tàn sát của Hêrôđê, Thánh Gia đã gặp phải một bọn cướp và bị chúng bao vây. Vừa khi chúng định nhào tới trấn lội đôi vợ chồng trẻ, thì một tên trong bọn tên là Dismas, bỗng nhận ra đôi tay Mẹ Maria có ẵm một Hài Nhi.
Quá xúc động trước nét mặt vô tội củaHài Nhi, hắn đã khuyên can đồng bọn để cho Thánh Gia ra đi được an toàn. Trước khi rút lui, hắn đã nghiêng mình trên Hài Nhi Giêsu và nói:
- Xin hãy nhớ đến tôi và đừng bao giờ quên giây phút này.
Truyền thuyết kể tiếp: Về sau tên cướp ấy đã trở thành người trộm lành, bị đóng đinh cùng với Chúa Giêsu trên thập giá. Và chính Ngài đã nói với anh ta:
- Ngày hôm nay, con sẽ được ở cùng Ta trên thiên đàng.
Dĩ nhiên đây chỉ là một truyền thuyết, nhưng từ đó, chúng ta có thể tìm thấy được một kết luận quan trọng. Đó là khi trốn sang Ai Cập, Thánh Gia đã gặp phải rất nhiều hiểm nguy.
Thời xưa, hầu như mọi người đều đi thành từng đoàn, bởi vì nhiều quãng đường thường bị những bọn cướp kiểm soát, uy hiếp và trấn lột. Điên rồ lắm mới đi một mình, trừ khi vì khẩn cấp như trường hợp của Thánh Gia hôm nay.
Thánh Gia cũng là một gia đình bình thường như gia đình của chúng ta, nghĩa là cũng đã phải gánh chịu những khổ đau và cay đắng.
Đầu tiên đó là việc Mẹ mang thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần mà Giuse không hay biết, khiến ông đã tính từ bỏ Mẹ một cách kín đáo. Rồi cuộc hành trình từ Nagiarét xuống Bêlem để đăng ký nhân hộ khẩu giữa lúc Mẹ đang bụng mang dạ chửa. Không tìm được quán trọ, Mẹ đã phải sinh Chúa trong cảnh khó nghèo của máng cỏ Bêlem. Hài nhi Giêsu mở mắt chào đời chưa được bao lâu, hai ông bà đã phải vội vã đem con trốn sang Ai Cập. Làm sao kể cho hết những hiểm nguy trên đường chạy trốn, cũng như những khó khăn vất vưởng nơi đất khách quê người. Rồi những năm tháng âm thầm vất vả nơi xưởng thợ Nagiarét. Và nỗi khổ đau khi lạc mất Chúa vào dịp lên đền thờ dự lễ vượt qua.
Thế nhưng, có một điều chúng ta cần phải học hỏi nơi Thánh Gia đó là đứng trước mọi biến cố khổ đau và bất hạnh, thánh Giuse và Mẹ Maria đều coi đó như là thánh ý Chúa gửi đến trong đời, để rồi các ngài đã mau mắn chu toàn, mà không một lời ca thán, mà không một tính toán hơn thiệt. Vì thế, lúc nào mái ấm của các ngài cũng ngập tràn hạnh phúc và bình an.
Còn chúng ta thì sao? Phải nhận rằng gia đình nào cũng có những vấn đề. Gia đình nào cũng có những lo lắng những khổ đau của mình. Gia đình nào cũng đã từng gặp phải những tai ương hoạn nạn. Tuy nhiên điều quan trọng là thái độ của chúng ta khi đứng trước những khổ đau gặp phải.
Rất có thể chúng ta đã phẫn uất, đã bực bội và tức tối, để rồi khổ đau chúng ta vẫn phải chịu mà chẳng đem lại lợi ích gì, mà hơn thế nữa, còn trở nên là một thứ chất độc làm hại tâm hồn chúng ta.
Trái lại, nếu chúng ta coi đó như là một thập giá, như là thánh ý Chúa gửi đến và cố gắng chu toàn trong lòng cuộc đời, lúc bấy giờ những khổ đau dù bé nhỏ và tầm thường nhất, cũng có được một giá trị to lớn, chúng sẽ trở thành những sợi chỉ vàng dệt nên tấm vải cuộc đời chúng ta.
“Hãy đem con trẻ và mẹ Ngài”. Mục tiêu giờ đây lại vẫn là Giuse. Chúng ta đã thấy người bối rối, bây giờ chúng ta thấy người là con người quyết định nhanh chóng. Ngay khi hiểu sứ mạng của mình là làm người cha hợp pháp của Đức Giêsu, người biết rằng từ nay về sau cuộc đời của người có một mục đích rõ ràng đó là chăm sóc con trẻ và mẹ Ngài.
Đây là một công việc lý tưởng, Giuse không giàu. Vào dịp lễ thanh tẩy Đức Mẹ và dâng Con Trẻ trong Đền Thánh, người chỉ có chim gáy để làm của lễ chứ không có chiên. Sự nghèo khó này cùng với một tấm lòng nghèo khó thực sự mới làm cho người ta hết sức tự do trong việc dâng hiến chính mình.
Yên lặng cũng là đặc tính tốt khi phải lắng nghe ý Chúa. Phúc Âm hôm nay cho ta thấy người là người lắng nghe đến độ nào. Thiên Chúa (“Thiên Thần Chúa” chỉ Thiên Chúa) nói với người trong giấc mộng, Ngài thâm nhập tận thâm sâu Giuse, vào lúc mà Giuse thụ cảm nhất. Cho nên Chúa dùng mệnh lệnh ngắn gọn đủ để nói với một người hoàn toàn sẵn sàng và thông minh: “Hãy chỗi dậy... Trốn... Ở đó... Lên đường... Chọn Nadarét”.
Ngay khi nắm được ý định của Chúa, Giuse thi hành ý định đó với một sự nhanh chóng rất hiệu quả. Không nhiều lời. Sau đó, khi sứ mạng đã hoàn tất, người ta không nói đến người nữa. Chúng ta chỉ biết rằng người đã biết gợi ra cho con trẻ sự ngưỡng mộ những điều tốt đẹp. Người ta đoán ra điều này do cách mà Chúa Giêsu nói đến công việc.
Tóm lại, chỉ vỏn vẹn gần sáu mươi hàng nói về Giuse, nhưng những hàng này cho chúng ta thấy loại người mà Thiên Chúa có thể tin tưởng được. Người chồng trẻ Giuse phải có sự quân bình, sự tự chủ biết bao khi nghe người ta (yêu cầu) đòi hỏi: sống và yêu thương Maria mặc dù không quan hệ xác thịt. Có nhiều người hiện nay chống lại ý tưởng rằng đây là số phận của Giuse, nhưng các cặp vợ chồng vẫn xin Ngài giúp đỡ để sống tình yêu đầy khó khăn của mình.
Những việc nhỏ mọn xảy ra hằng ngày trong đời sống của một đứa bé đều quan trọng đối với bậc cha mẹ, nhưng những người chung quanh ít để ý và mau quên lãng. Tuổi thơ ấu của Chúa Giêsu được đánh dấu bởi một ít việc khác thường, nhưng khi thánh Mátthêu viết Phúc Âm (chắc chắn số người biết rõ tuổi thơ ấu của Chúa đang sống tản mác hoặc đã từ trần rồi), thánh nhân chỉ phác vẽ lại cách giản dị kỷ niệm về các sự việc ấy và tán dương chúng bằng cách chiếu rọi lên chúng ánh sáng của Thánh Kinh. Cũng nên nói thêm rằng trong trường hợp này, tác giả giải thích Thánh Kinh một cách rất tự do. Trong sách tiên tri Ôsê (11,1), đứa con được gọi từ Ai Cập về chính là Israel.
Thật ra chiều sâu của thực tại thiêng liêng mà Mátthêu nêu lên, vượt xa trình độ của câu chuyện kể lại. Nhắc đến việc từ Ai Cập trở về, là nhắc đến biến cố Phục Sinh mang lại ơn cứu độ nhờ Đức Giêsu Kitô. Ngoài ra, ta nhận thấy thánh Mátthêu nói nhiều đến thánh Giuse trong các câu chuyện về thời niên thiếu của đức Kitô. Đối với người gia trưởng của Thánh Gia, tuổi thơ ấu của Đức Kitô không trôi qua trong bầu khí thơ mộng mà các nhà nghệ sĩ đã phổ vào tác phẩm của họ. Nó bi thiết lắm. Giuse là người di cư, là người đi tìm một nhà ở, là người thợ lo lắng tìm ra nghề để nuôi sống gia đình. Giuse xuất hiện với chúng ta như một con người sau khi đã chấp nhận dấn thân vào một định mệnh do Thiên Chúa đề nghị, vẫn trung thành với lời cam kết dù gặp khó khăn thử thách. Cái chìa khóa giúp ta hiểu thánh Giuse là lòng tuân phục Chúa. Ta nên lưu ý tới câu “Giuse chỗi dậy”. Câu này chỉ ba điều:
1) Sự tuân phục Thiên Chúa gây xáo trộn cho con người. Cứ tưởng tượng Giuse mới vất vả cất được căn nhà nhỏ ở Bêlem rồi ở Ai Cập. Thế rồi Chúa đến quấy rầy người. Hãy chỗi dậy! Câu chuyện này xảy ra trên bình diện đời sống gia đình đối với Giuse, vẫn thường xảy ra trên bình diện thiêng liêng cho mọi Kitô hữu có Đức Kitô trong cuộc sống mình. Đức Kitô thích phá tan những ‘tòa nhà’ ý tưởng, nhân đức tiện nghi tinh thần của ta. Phải sẵn sàng đứng dậy, nghĩa là để Chúa quấy rầy ta về trí thức cũng như luân lý.
2) Giuse chỗi dậy, nghĩa là vâng lời lập tức. Người vâng lời mau mắn vì Người yêu mến. Yêu mến Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Vì lợi ích của các Đấng, người không thể trì hoãn. Ta khó vâng lời vì ta thiếu mất một cái gì: thiếu tình yêu.
3) Giuse đặt tin tưởng nơi Thiên Chúa. Lòng tín thác là sự triển nở của đức tin chân chính. Chúa quấy rầy Giuse, đẩy người vào trong xa lạ. Người không bàn cãi, không hoảng hốt, người hành động.
Người có thể nêu ra bao nhiêu thứ câu hỏi về tương lai. Nhưng người hành động ngày này qua ngày khác, luôn luôn vâng lời Thiên Chúa. Ý nghĩ về ngày mai, người đặt vào trong đức tin nơi Thiên Chúa. Một lòng tín thác như thế vẫn phải trả giá rất đắt đối với mọi người cha gia đình ngày hôm nay, họ phải có đức tin mạnh để vượt qua những khó khăn lớn lao.
Ngày 08/12/1870, Đức Thánh Cha Piô IX đã chọn thánh Giuse làm bổn mạng Đại Gia Đình Giáo Hội. Ta hãy cầu nguyện như Đức Gioan XXIII: “Lạy thánh Giuse, xin lấy tinh thần bình an, lặng lẽ và hoạt động của Ngài phụng sự Hội Thánh, mà tăng cường sinh lực cho chúng con luôn mãi”.
Nếu bạn có một sách Tin Mừng tại nhà bạn và nếu các bạn có chút hiếu kỳ thiêng liêng, hãy đọc lại những câu truyện này.
1) Trong gia phả, Đức Giêsu được gọi là Con Đavít, Con Abraham.
2) Trong tin báo cho Giuse, chính hài nhi này bắt đầu thực hiện những lời hứa trong Kinh Thánh, và được mạc khải như Thiên Chúa cứu độ, Thiên Chúa ở cùng chúng tôi
3) Rồi theo Mátthêu, tiếp ngay đến cuộc thăm viếng của các nhà chiêm tinh? Không có những mục đồng Do Thái Giêrusalem, dẫu thế, được báo cho biết trước về chuyệ đang xảy ra trong vùng ngoại ô kế cận (Bêlem cách độ 8km !) vẫn không động tĩnh... trong khi những người nước ngoài từ Phương Đông đến từ xa, phục lạy trước hài nhi, được gọi khi ấy là “vị đứng ra sẽ chăn dắt Đo Thái dân của tôi".
Khi các nhà chiêm tinh dã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse.
Trong trang mà chúng ta sắp đọc, tên Giuse được kêu lên bốn lần. Đó là người duy nhất được gọi tên như thế. Giuse là vai trung tâm của câu truyện. Chủ gia đình, ông chịu trách nhiệm nhóm nhỏ, luôn luôn được giới thiệu vô danh cho hai nhân vật khác là Hài nhi và Mẹ của Hài Nhi. Chúng ta cũng sẽ lưu ý rằng trên trang này, Giuse có tầm quan trọng lớn lao, ông không nói một lời. Chính ông là người ở phần trước sân khấu, là người nhận trực tiếp các sứ điệp trên trời, lại không nói... mà ông hành động.
Này ông, dậy đem Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai Cập.
Ôi, cái tiếng ‘Dậy đi’!
Tất cả những người nghiên cứu tiếng Do Thái sẽ nhận ra kiểu nói rất hay gặp trong Kinh Thánh. "Khum!” "Dậy đi”. Cái thể mệnh lệnh, cái động từ chỉ tất cả những lời kêu gọi. Abraham (St 13.1), Elia (IV 19,5). Nàng yêu dấu của Diễm Ca (2.10), Giôna (Gn 1,2), Giêrusalem (Is 60,11), Đanien (10,11). Tiếng "Dậy đi !” đầy dẫy trong Tân Ước: Mátthêu 2,13 - 2,20 - 9.5 - 17.7 - 26,46; Máccô 10,49; Luca 17,19 - 22,46; Gioan 5,8; Công Vụ 3,6 - 8,26 - 9,34 - 9,40 - 12,7 - 14,10...
Nếu tôi biết lắng nghe, tôi sẽ nghe thấy, cả tôi nữa.
Thiên Chúa lặp lại "Dậy đi!".
Thiên Chúa muốn con người đứng dậy. Thiên Chúa đẩy những con người năng động.
Trong cuộc sống gia đinh mà chúng ta mừng lễ hôm nay, có biết bao nhiêu cơ hội có thể đưa chúng ta đến chỗ khước từ, đầu hàng, chạy trốn, từ nhiệm... Và đây là tiếng gọi của Chúa, trong đáy đêm tối của chúng ta, trong tình huống bức bách đè nặng trên vai chúng ta, nói lại với chúng ta: "Đứng lên ! Dậy đi!".
Có một thứ hình ảnh Thánh Gia hiền dịu, êm ả và bị sai lạc. Máng cỏ bằng giấy đá, quá “hợp môi sinh", những mục đồng xinh xắn và những con cừu nhí, những tràng hoa ánh sáng... có cái nguy làm cho chúng ta coi "chuồng bò lừa nơi Thiên Chúa sinh ra (đó là một cái sườn mái !) là một nơi nóng nực và rất tiện nghi. Và với cái vẻ dịu hiền hay với thái độ chiếu cố, người ta tìm được cái chuyện thần tiên hợp với khẩu vị các trẻ em. Nhưng đấy không phải là Giáng Sinh thật. Có thể tai hại nhiều nếu máng cỏ cổ truyền chỉ là một sự trung tín với quá khứ, trong khi nó là một sự kỳ vọng cho hiện tại và tương lai. Gia đình mà bạn nhìn ngắm với sự hiền dịu trong cái hang hốc nhà quê, có lẽ bạn quên rằng nó đã bị liệng đi trên các nẻo đường lưu đầy chăng? Khi đó bạn đã dựng lên một "Thánh Gia" không có thực. Và bạn nói liều: "Thật quá đẹp... nhưng ở nhà chúng tôi không giống như thế, nơi mái ấm của chúng tôi, gia đình của chúng tôi buộc phải sống giữa những âu lo: sức khỏe, tranh chấp, ngân sách, những khó khăn định hướng, những cuộc đối thoại không thể có được...".
Những mái ấm trẻ... hay những mái ấm nào khác...
Tôi dám chắc với các bạn, các bạn có thể nhìn xem gia đình của Giuse, có Hài Nhi và Mẹ Người. Và hãy tỉnh ngộ! Giống như mọi gia đình, gia đình ấy cũng biết đến những giằng xé, những khắc khoải, nó cũng bị cuốn trong những cơn lốc của lịch sử. Và chúng ta nhớ lại câu nói nổi tiếng của Charles Péguy "Những người cha và người mẹ này" “những kẻ phiêu lưu vĩ đại của thế giới hiện đại này!”
Cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi đấy.
Hình ảnh thực, như thế đấy. Một đôi lứa trẻ trung, đó là một cặp vợ chồng không bếp không nhà. Số phận thê thảm của những người tị nạn, những người bị xua đuổi trốn chạy về nới vô định, bị đuổi khỏi nhà họ vì chiến tranh, đói ăn, thất nghiệp, hay ý thức hệ đàn áp. Những trẻ em Việt Nam, Li Băng Cam Bốt, Áp-ga-nít-tăng,... và nhiều nới khác. Những hình ảnh không cầm lòng được đang làm xáo động sự yên ổn của chúng ta. À, không, máng cỏ năm nay không đẹp... Thế thì bạn hãy nghĩ, họ đã có ý tưởng, trong giáo xứ, chúng tôi làm máng cỏ bằng tre mục... hay bằng vải lưu cho những trại tị nạn... hay bằng gạch nén gợi ra những nơi trú ngụ đáng thương của những kẻ xấu số trong những vụ động đất... và họ đã để Hài Nhi trên rơn, thứ rơm rác thật!
“Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài Nhi đấy..."
Họ muốn giết trẻ con... Than ôi, vâng, hiện nay...
Ông Giuse liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và Mẹ Người trốn sang Ai Cập.
Để nhấn mạnh đến sự vâng phục của Giuse, sự thi hành ý muốn của Thiên Chúa được diễn tả chính xác trong những lời lẽ của sứ điệp nhận được từ trên cao.
Đi ngay ban đêm!
Đi trong đức tin: làm thế nào? Cần phải cứu Hài Nhi cứu độ? Người đã được loan báo như Thiên Chúa Cứu Độ, Thiên Chúa ở cùng chúng ta? Và cần phải che chở Người ngay bây giờ? Nghịch lý của Thiên Chúa tự đặt mình vào trong tay chúng tôi? Thiên Chúa không tự bênh vực. Cần phải “cứu" ! đức tin... ban đêm... Thiên Chúa được đặt lại trong tay những người tin.
Ông ở Ai Cập cho đến khi vua Hêrôđê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng thiên sứ: “Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai Cập”.
Trong mùi tử khí tự trị, một sự cứu thoát bộc phát, Chúa nói: Con Ta!
Trên cái nền bi thảm của các biến cố xảy đến trong gia đình này, có sự gì khác tác động: một ánh sáng chiếu soi tình hình... một dự tính của Thiên Chúa,... được bộc lộ trong những lời sấm của ngôn sứ. . một khuôn mật ẩn giấu, đầy hy vọng. Nghịch lý mới của Thiên Chúa: chính lúc mà người ta cảm thấy phải đi, thì đúng là lúc Tin Mừng trích dẫn một tiết Kinh Thánh ở đó vấn đề đặt ra là trở lại...
Người ta chỉ nói về sự lưu đày để nói về việc xuất hành. Người ta chỉ gợi ra cái chết để nói về sự sống... Còn bạn, trong cuộc sống của bạn, bạn được mời gọi nhìn thấy mặt bị che khuất của điều xảy đến với bạn.
Toàn thể gia đinh và chạm với những cái bất an. Việc chúng ta tìm kiếm những sự an toàn là điều bình thường. Giuse thậm chí còn nhận lệnh của Chúa thì sự tìm kiếm những của cải tạm thời, chẳng phải càng được chúng ta đặt bên dưới việc làm tròn lời Kinh Thánh sao? sống Tin Mừng, hoàn thành các ý muốn của Thiên Chúa, kiên trì trong cái mà Thiên Chúa đòi hỏi tôi. Mỗi Kitô hữu, mỗi gia đình... hoàn tất một phần của lịch sử thánh, một dự tính huyền nhiệm của Thiên Chúa. Và đó không phải là trong lúc đi ra khỏi các tình huống của chúng ta, thậm chí khó khăn, thậm chí mong manh, nhưng bằng cách khám phá ở đó các mặt bị che khuất mà đức tin bày tỏ ra cho chúng ta.
Sau khi vua Hêrôđê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Ai cập, báo mộng cho ông rằng: Này ông. dậy đem Hài nhi và Mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm giết Hài nhi đã chết rồi. Giuse trỗi dậy dưa Hài nhi và Mẹ Người về đất Israel.
Những kẻ muốn tìm giết Hài nhi? Con số nhiều lạ lùng. Cho đến đây, người ta chỉ nói đến Hêrôđê... Nhưng Mátthêu nghĩ đến một trường hợp có trước trong Kinh Thánh và miệt mài đưa tất cả câu truyện của ông vào việc gợi ra số phận của Môsê, mà Pharaon tìm cách giết chết (St 2,15). phải trốn sang Ai Cập và trở về, bởi vì tất cả những người muốn tìm giết đều đã chết (Xh 4,19-20). Khoa chú giải Do Thái, trong các giáo đường, luôn luôn sử dụng phương cách, mà người ta gọi là "midrach", nhằm làm sáng tỏ một đoạn Kinh Thánh bằng những biến cố của thời sự...để chứng minh rằng ý đồ của Thiên Chúa cứ tiếp tục. Đức Giêsu, trong bản thân của Người, tái hiện lịch sử dân tộc Israel: bạo vương muốn khử trừ cậu Môsê được Thiên Chúa sai đến để cứu dân Người... bạo vương tung ra cuộc tàn sát các trẻ nhỏ (St 1,10)... nhưng lại không thể làm gì được chống lại người mà Thiên Chúa che chở và trở nên Đấng Cứu độ dân Người ... dẫn dắt dân này về Đất Hứa.
Ngày nay lịch sử này vẫn luôn luôn tiếp tục. Không gì mà Thiên Chúa không thể làm được. Người tiếp tục viết thật thẳng trên những đường cong của chúng ta. Ý đồ của Người vẫn tiến lên, bất chấp mọi sự.
Nhưng vì biết A-khê-lau đã kế vị người cha là Hêrôđê, cai trị miền Giuđê, nên ông sợ không dám về đó. Mãi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở một thành kia gọi là Nadarét để ứng nghiệm lời, các ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi bằng Nadarét.
Bản văn này nói cho chúng ta biết rõ ràng là trước hết Giuse đã có ý định trở về Giuđê. Nhưng tất cả những kẻ muốn tìm giết Đức Giêsu, chưa biến mất hết. Mặt khác, một ngày kia, Đức Giêsu sẽ trở lại trong chính miền Giuđê này, và về đó để bị giết chết. Cuộc thụ nạn diễn ra ở cuối cuộc hành trình này. Cái chết luôn luôn ở đó. Tin Mừng ngày hôm nay đầy chết chốc. Chính vì cần thiết mà Đức Giêsu đến sống tại Galilê miền xa xôi, một nửa ngoại giáo, khá xa đất Thánh Giêrusalem. Đối với Mátthêu, miền Galilê ngoại giáo này (Mt 4,12-16) là biểu tượng của thế giới phổ quát, nơi mà sứ vụ của Đức Giêsu được thực hiện, nơi mà Đấng đã sống lại hiện ra nhiều lần, và từ đó mà sứ vụ khởi phát. Và bạn nữa, phải chăng bạn không sống trong những miền Galilê loại mới ư?
Gia đình là tế bào sống động của quốc gia, của nhân loại, cũng như của Hội Thánh. Tế bào căn bản này có khỏe mạnh và phát triển, thì toàn thể thân xác mới khỏe mạnh và phát triển. Sức khỏe và sự ổn định của gia đình ảnh hưởng tới sức khỏe và sự ổn định của quốc gia và Giáo Hội. Chính vì thế chúng ta phải đem vào trong gia đình một tinh thần Kitô giáo đích thực.
Thế nhưng ngày nay, vì chiến tranh, vì những trào lưu duy vật và chối bỏ đức tin, gia đình đã bị khủng hoảng và suy sụp, tế bào nền tảng này đã bị nhiễm độc. Vậy chúng ta phải làm gì để cứu vãn tình thế?
Điều tôi nhấn mạnh giờ đây, đó là tinh thần cộng đoàn. Thực vậy, mỗi người chúng ta phải biết từ bỏ tính ích kỷ để tiến đến một sự hòa hợp và yêu thương, như hình ảnh về thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô mà thánh Phaolô đã đề cập tới. Gia đình là một Giáo Hội cỡ nhỏ, là một nhiệm thể được thu hẹp. Đây không phải chỉ là một hình ảnh tượng trưng, mà còn là một thực thể sống động.
Người cha là đầu thân thể như Đức Kitô là đầu Giáo Hội. Người mẹ là thân thể như vai trò của Giáo Hội, và con cái là những phần tử như những tín hữu là chi thể của Đức Kitô.
Một gia đình đích thực phải hiệp nhất và trở nên một: Một tư tưởng, một ước muốn, một cõi lòng, một con tim. Người cha tìm kiếm cơm áo, người mẹ phân phát cơm áo và con cái thì lãnh nhận máu huyết và sự sống nơi cha mẹ. Người cha thì giống với Đức Kitô là đầu nhiệm thể. Người mẹ thì giống với Giáo Hội, còn con cái thì giống những chi thể trong nhiệm thể ấy.
Bởi đó hãy đón nhận và thực thi tinh thần hợp nhất. Là con cái, hãy nhìn thấy Đức Kitô nơi người cha, hãy yêu mến và trọng kính Đức Kitô nơi người cha của mình. Trgkhi đó, những người cha hãy sống như Đức Kitô và điều hành gia đình của mình trong tinh thần yêu thương.
Còn người mẹ, hãy lấy Giáo Hội làm lý tưởng cho mình, để có sự trung thành và hiền dịu. Con cái chính là những tế bào, trong đó Đức Kitô phải lớn lên, phải trưởng thành. Muốn thấm nhuần tinh thần ấy, chúng ta phải cần đến một bầu khí đạo đức. Bầu khí đạo đức này được tạo nên do thánh lễ, do phụng vụ, do các bí tích và đặc biệt do những giờ kinh chung trong gia đình.
Đây là những giây phút linh thiêng, cha mẹ, vợ chồng, con cái cùng quây quần bên nhau và cùng nhau quây quần bên Chúa, để dâng lên Ngài của lễ chung là những hy sinh gian khổ trong cuộc sống. Đây cũng là một liều thuốc thần diệu hàn gắn những đổ vỡ, vì trong những phút giây ấy chúng ta thực sự trở nên một.
Hãy xây dựng gia đình mình trong tinh thần hợp nhất như các chi thể hợp nhất với nhau và nhất là như Đức Kitô hợp nhất với Giáo Hội của Ngài.
Đoạn Phúc âm được đề nghị với chúng ta hôm nay thuật lại những sự kiện khá đơn giản, xét về bản chất chúng ta. Nếu coi đó như một đoạn văn, không hơn không kém thì có thể đặt một vài câu hỏi, về chi tiết thôi, chẳng hạn: sau khi dâng Con trẻ Giêsu trong Đền thờ, ông Giuse và bà Maria có thể trở về Nazaret ngay không? Vụ lánh nạn sang Ai Cập xảy ra lúc nào? Chúng ta đừng tìm kiếm trong Phúc âm một thứ tự rõ ràng, chắc chắn, cho ngày tháng và sự kiện. Điều chắc là thời kỳ Con trẻ Giêsu hết là ‘bé thơ’, giờ là một ‘nhi đồng’, đang lớn lên về phạm vi thiêng liêng – hai ông bà đã trở lại Nazarét rồi. Nghiên cứu đoạn văn người ta có thể dừng lại ở hai nhận vật Simêon và Anna, để suy niệm về sự kiện tâm trông đợi Đấng Cứu Thế và cầu nguyện của hai vị về lời tiên tri Simêon, khiến cho Maria lo sợ một kết cục đau khổ (cuộc thương khó của Đức Giêsu). Tốt hơn, chúng ta hãy chọn một đề tài cao hơn, đó là một tư tưởng lớn nằm trong hạ tầng toàn bộ Phúc âm và được thánh Luca diễn tả như sau: Con trẻ lớn lên, thân thể phát triển và được ơn khôn ngoan sung mãn. Ý niệm lớn đó là ý niệm tăng trưởng.
1) Chúng ta gặp thấy sự tăng trưởng thiêng liêng trước hết ở bà Maria và ông Giuse. Maria được gọi là người có phúc lớn, vì đã tin, trong biến cố Truyền tin. Rõ ràng là ở giây phút ấy nàng tin vào đề nghị của Thiên Chúa yêu cầu nàng ưng thuận một sự kiện xảy ra lúc đó. Đức tin của nàng không cho nàng xem thấy trước phối cảnh tương lai của toàn thể lịch sử Đức Giêsu, lúc đó mới sinh ra trong lòng nàng. Do một sự ưng thuận mỗi ngày, liên tục, nàng tiến dần vào mầu nhiệm định mệnh đời mình. Niềm tin Maria là 1 niềm tin luôn luôn tăng trưởng. Lời tiên tri của Simêông cho nàng biết trước 1 đường đời đau khổ, nhưng không cho rõ chi tiết. Do sự ưng thuận ngày một đổi mới, nhắc đi nhắc lại, Trinh nữ Maria hiểu rõ thêm Thiên Chúa đòi hòi gì ở nàng, biết rõ thêm Con Trẻ Giêsu là ai. Đối với Giuse cũng vậy. Đây là một điều quan trọng đối với chúng ta. Dường như mầu nhiệm tăng trưởng nhân tính của Đức Giêsu có mục đích là nhờ đức tin đưa chúng ta tiến vào mầu nhiệm tăng trưởng thần tính của chúng ta. Sự tăng trưởng thần tính đó, Maria và Giuse là những người đầu tiên được hưởng. Thật là một điều tốt lành khi nghĩ rằng hai ông bà rất gần với chúng ta trong điểm đó. Vì đã trải qua nên biết rõ, hai ông bà cầu bầu cho niềm tin của chúng ta tăng trưởng tốt.
2) Con trẻ lớn lên… Điều ghi nhận này liên hệ trực tiếp đến sự tăng trưởng thể chất của Đức Giêsu. Đó là một sự kiện trong phần lịch sử đã qua, thật sự qua rồi. Tuy nhiên có một sự kiện khác thuộc lĩnh vực mầu nhiệm, được hoàn tất trong lịch sử của chúng ta, ngày nay Đức Kitô tiếp tục lớn lên. Thật vậy, Người không những là Giêsu, một người như những người khác, đã sống ở Palextin từ năm nào đến năm nào đó. Người còn là Con Thiên Chúa đã xuống thế để thần hoá nhân loại. Người tiếp tục lớn lên trong nhân loại. Thánh Phaolô nói đên sự xây dựng thân thể mầu nhiệm Đức Kitô cho đến khi chúng ta hết thảy đạt thấu sự duy nhất trong kính tin và am tường về Con Thiên Chúa, mà nên người thành toàn, đạt đến tầm vóc xứng với sự viên mãn của Đức Kitô (Eph.4,13). Như vậy, Đức Kitô lớn lên trong tâm khảm sâu thẳm của mỗi người chúng ta. Dịp lễ Thánh Gia Thất, Giáo Hội dùng một đoạn Phúc âm gợi lên một trong những mối quan tâm chủ yếu của mọi gia đình, đó là sự lớn lên của đứa con. Chúng ta có thể từ đó suy niệm về sự lớn lên của Đức Kitô trong đại gia đình loài người, nghĩa là trong tâm hồn mỗi chúng ta.
Khi gợi lại kỷ niệm đáng ghi nhớ về gia đình của mình, Đức cố Hồng Y Marty, nguyên Tổng Giám Mục Giáo phận Paris, đã nói: “Tôi đã bập bẹ những tiếng đầu tiên về Thiên Chúa, khi nhìn mẹ tôi và cha tôi đọc kinh cầu nguyện. Tôi đã học biết sự sống, học biết sự chết, tôi đã học biết thế nào là yêu thương trong cuộc sống hằng ngày, khi tôi giao tiếp với thân nhân và những người quen thuộc. Tôi yêu mến Thiên Chúa, yêu mến Giáo Hội như đã yêu mến mẹ tôi. Tôi không học mà cũng biết người phụ nữ đó đã cho tôi sự sống và mạc khải cho tôi tình yêu”. Gương sáng của cha mẹ đã giáo dục cho con cái nhiều điều tốt.
Chúa Giêsu đã sinh ra trong một gia đình, mà lại là một gia đình nghèo. Ngài cũng có cha mẹ như bao trẻ thơ khác, như mỗi người chúng ta. Và cha mẹ Ngài cũng là những người lao động, phải sống bằng mồ hôi nước mắt như hầu hết các gia đình khác. Là Thiên Chúa, Ngài đã đến với loài người như một con trẻ, bé bỏng, cần đến sự đùm bọc, che chở của những người thân. Cũng như bao trẻ em khác, Ngài cũng bị những biến cố lớn nhỏ của gia đình và xã hội chi phối, đưa đẩy, ảnh hưởng.
Rồi những năm thơ ấu, những thời kỳ thơ ấu và thành niên, Chúa Giêsu đã sống bên cạnh Đức Maria, Mẹ Ngài và Thánh Giuse, cha nuôi Ngài. Ngài cũng đã phải tập đi, tập nói, tập đọc, tập viết. Ngài cũng đã phải học Thánh Kinh, Lề Luật. Ngài cũng đã phải tập lao động với những dụng cụ như cưa, bào, đục… trên những khúc cây, tấm ván. Ba mươi năm tại Nagiarét là một chuỗi ngày bình dị, như hàng trăm gia đình cùng thôn làng, như hàng triệu cuộc sống của con người qua các thời đại.
Đó là thời kỳ ẩn dật, vì Chúa Giêsu không để lộ chân tính đích thực của mình ra cho những người chung quanh biết. Đó cũng là thời gian chuẩn bị cho quãng đời công khai của Ngài, theo nghĩa là Ngài tích lũy cho mình những kiến thức và kinh nghiệm cần thiết cho việc rao giảng Nước Thiên Chúa sau này.
Dưới một khía cạnh khác, chúng ta có thể nói, đó là những năm tháng trao đổi, cho và nhận giữa Con Thiên Chúa và gia đình nhân loại, được đại diện nơi Thánh Giuse và Đức Maria. Nếu chỉ là Thiên Chúa, Đấng Cứu Thế không cần phải nhận ở nhân loại một thứ gì cả. Nhưng vì Ngài là Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta, nên Chúa Giêsu đã nhận rất nhiều của những người thân, nhất là của Mẹ Maria: cưu mang, sinh đẻ, nuôi dưỡng, giáo dục. Ngài cũng đã nhận rất nhiều từ cộng đoàn Nagiarét, từ Hội đường Do Thái, từ cuộc sống của những người chung quanh, nhất là những người nghèo khổ, bệnh tật, lao động. Chúng ta khó hình dung được những điều đó, vì chúng ta có khuynh hướng đặt Thiên Chúa ở chốn cao xa mà quên điều hệ trọng là Thiên Chúa đã làm người, đã nhập thể và nhập thế.
Chúa Giêsu đã nhận rất nhiều từ gia đình nhân loại, nhưng thực ra Ngài còn cho nhiều hơn, vì Ngài đã cống hiến tất cả cho chúng ta, cả bản thể Thiên Chúa, cả năm tháng, cuộc sống và cái chết của Ngài, một cách âm thầm, khiêm tốn vô vị lợi.
Trong cuộc sống bình dị nhưng chất chứa bao tình thương ấy, Chúa Giêsu đã sống thân mật với Cha Ngài, đã sống hiếu thảo với cha mẹ trần thế của Ngài, đã sống chan hòa bác ái với những người chung quanh. Rồi cha mẹ Ngài là những người kính sợ Thiên Chúa cũng đã sống hết mình với Thiên Chúa, tận tụy và thương yêu con cưng của mình. Giữa Đức Maria và Thánh Giuse thì thật là một mối liên hệ có một không hai trong lịch sử loài người, chắc chắn tình yêu thương đậm đà và lòng tôn kính là những nét đặc thù nhất, khiến Thánh Giuse được gọi là người công chính, còn Maria là người có phúc hơn mọi người phụ nữ.
Sách Huấn ca hôm nay đã nhấn mạnh đến lòng hiếu thảo của người con đối với cha mẹ trong gia đình, khiến chúng ta dễ hình dung ra cách sống của Con Thiên Chúa làm người dưới mái nhà Nagiarét. Thư thánh Phaolô gởi tín hữu Côlôsê đề cập đến mối quan hệ giữa những người được Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn sống thành gia đình, gia đình của Thiên Chúa: đó là lòng từ bi, nhân hậu, là khiêm cung, ôn hòa, là nhẫn nại chịu đựng, chấp nhận nhau và tha thứ cho nhau. Gia đình của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse là một gia đình đã sống trọn vẹn hơn ai hết tinh thần ấy, vì các thành viên trong gia đình thánh này đều là những tôi tớ của Thiên Chúa, trong ý nghĩa là mỗi vị và cộng đoàn ba vị đều lãnh nhận từ Thiên Chúa một sứ mạng đặc biệt. Gia đình Nagiarét là gương mẫu, là lời mời gọi đối với mỗi người chúng ta, đối với mỗi gia đình Công giáo ngày nay.
Ngày nay, hơn bao giờ hết, với sự tiến bộ của ngành khoa học nhân văn và xã hội, con người càng khám phá ra chiều kích xã hội của mình và tầm quan trọng của cộng đoàn gia đình trong đời sống xã hội. Gia đình là cái nôi đầu tiên đón tiếp con người và cung cấp cho con người những điều kiện cần thiết của cuộc sống và hạnh phúc. Đối với các kitô hữu, gia đình còn mang một ý nghĩa khác nữa: đó là một cộng đoàn yêu thương phản ảnh cộng đoàn của Thiên Chúa, theo gương gia đình Nagiarét. Trách nhiệm thật lớn lao của các bậc làm cha làm mẹ. Chức năng nhiệm vụ ấy cha mẹ chỉ có thể hoàn thành được nếu biết yêu thương và tha thứ như chính Chúa Kitô đã yêu thương và tha thứ cho chúng ta. Đó là quy luật trọng yếu trong mối quan hệ giữa vợ chồng, giữa con cái và cha mẹ. Vì trong cuộc sống gia đình, con người có thể biến cuộc sống ấy thành thiên đàng hay hỏa ngục trần gian. Cuộc sống gia đình tạo cho cha mẹ những cơ hội quý báu để thực hiện tinh thần yêu thương quên mình, mưu tìm hạnh phúc cho người khác. Cuộc sống gia đình luôn luôn đòi hỏi cha mẹ phải dẹp bỏ ý riêng mình, quan điểm riêng của mình, để tôn trọng và giúp đỡ con cái phát triển về mọi mặt.
Do sự khác biệt về tính tình, môi trường giáo dục, tuổi tác và sở thích, nên chuyện xung đột, căng thẳng, là chuyện đương nhiên không thể tránh được giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái. Nhất là trong một vài hoàn cảnh khó khăn về kinh tế tài chính. Muốn vượt qua những cảnh xung đột, những giờ phút căng thẳng ấy, mỗi người, dù là vợ hay chồng, cha mẹ hay con cái, đều phải thấm nhuần tinh thần của Chúa Kitô: “Tôi đến để phục vụ chứ không để được phục vụ”. “Ai muốn làm đầu thì hãy làm tôi tớ phục vụ mọi người” (x. Mt 20,26-28). Ở đây, cha mẹ có trọng trách nêu gương cho con cái, vợ chồng có trách nhiệm làm chứng cho nhau tình yêu quảng đại và vô vị lợi của Thiên Chúa. Lời căn dặn của Thánh Phaolô phải là phương châm cho các bậc cha mẹ cũng như con cái trong gia đình: “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Đức Giêsu Kitô, và nhờ Ngài mà cảm tạ Chúa Cha”(Cl 3,17).
Như thế, gia đình kitô hữu, theo gương đời sống gia đình của Thánh Gia Thất, với tình yêu thương và tha thứ, với tinh thần phục vụ quảng đại và vô vị lợi, sẽ là ngọn đèn tỏa sáng, sẽ là cái nôi hạnh phúc và đem lại hạnh phúc cho anh em đồng bào trong xã hội chúng ta hôm nay.
Thánh Luca không nói gì cho chúng ta về thời niên thiếu của vị tiền hô, tất cả thời tuổi trẻ của vị này đều chìm trong im lặng và cô đơn. Trái lại, thời niên thiếu của Chúa Giêsu được kể lại trong ba trường hợp. Trường hợp thứ nhất là lễ cắt bì, chỉ được kể lại trong có một câu. Sự cốt yếu của lễ này là đặt tên Giêsu, tên đã được Thiên thần nói trước, tên này nêu rõ bản tính của Hài nhi trong những ngày sắp tới. Chính do danh hiệu đó mà Giáo Hội mừng kính bằng một lễ đặc biệt, cũng chính danh hiệu đó mà biết bao người không ngớt chiêm niệm và đã là nguồn hân hoan vui sướng cho các nhà Thần bí: danh hiệu mà theo kiểu nói của Thánh Phaolô, mọi gối phải quỳ lạy ở trên trời, lẫn dưới thế và cả dưới hoả ngục.
Đang khi đó thì Thánh Luca lại viết lại cho chúng ta về lễ dâng Chúa trong đền thờ với nhiều chi tiết hơn và khiến ta phải lưu ý tới hai điều sau:
1. Những biến cố.
Nhìn bên ngoài, chẳng thấy có gì đáng lưu tâm. Hàng năm có cả trăm đôi cha mẹ trẻ bước lên Đền thờ tiến vào cửa trước dành cho các phụ nữ để được thanh tẩy theo nghi lễ và chuộc lại đứa con mới sinh. Luật buộc thanh tẩy vì sự thụ thai và sinh con đã liên kết chặt chẽ với tội lỗi và với đam mê hỗn độn. Theo chương trình của Thiên Chúa, cả hai việc đó, phải là cái gì mang tính chất bí tích vì đã chuyển đời sống siêu nhiên đồng thời với đời sống tự nhiên. Nhưng tội đã làm nào loạn nguồn mạch và như vậy, tội lẫn vào việc lành, ‘nhân loại đầy trần tục’ với thần thiêng. Lễ tế được đặt ra đối với người mẹ là bà cần phải thanh tẩy để có thể bước vào đền thờ. Đức Maria không có tiền để mua một con chiên làm lễ tế và phải đành lòng như bao người mẹ nghèo nàn khác, dâng một ccặp chim câu để làm lễ vật. Việc chuộc lại đứa trẻ trai được đặt ra vì tất cả những của đầu mùa, nơi ruộng nương, nơi đoàn vật và nhất là nơi con người đều đặc biệt thuộc về Giavê. Như vậy cậu con trai phải chuộc lại để có thể sống đời sống của mình. Tất cả những điểm đó chẳng có chi đặc biệt và đáng lưu tâm.
Tuy nhiên, nội dung của sự việc mới có khác biệt. Đức Maria rõ ràng là người Mẹ chẳng có dính bén chút gì để phải thanh tẩy. Mẹ đâu thụ thai bởi phàm nhân, mà do phép Chúa Thánh Thần. Mẹ cũng chẳng có một ước muốn xấu xa gì, vì Mẹ ‘không biết đến người nam’. Vì thế, việc chuộc lại Hài nhi chỉ mang hình thức bên ngoài. Chúa Giêsu xét là con đầu lòng của Chúa Cha, thì thuộc quyền sở hữu của Người. Nhưng Ngài sẽ chuộc lại những người khác và giá Ngài phải trả là giá máu của tim Ngài, chứ không phải bằng tiền bạc.
Như Đức Kitô tuân phục Lề luật Môisen hay sắc lệnh của Xêsarê, người Kitô hữu cũng phải phục tùng các quyền hành bên ngoài điều khiển nhân loại bằng ý muốn hay với phép của Thiên Chúa và tuân hành các quy luật như những người khác trong lãnh vực luật pháp. Bên ngoài chẳng có gì lạ kỳ đánh dấu sự hiện hữu và đời sống của người Kitô hữu. Vì không nhất thiết là sự biến đổi nội tâm trước nhan Chúa phải kéo theo sự cách mạng môi trường mình sống.
2. Những lời nói
Những biến cố này có thể qua đi mà ít được biết tới nếu không có một người đến gặp đôi vợ chồng trẻ để chào thăm Hài nhi với những ngôn từ lạ lùng. Ông này không phải là tư tế, mà chỉ là một người dân thường, một người thực công chính, đang chờ đợi ‘niềm an ủi của Israel’, chờ đợi Đấng Messia. Đầy Thần linh Thiên Chúa và nhờ ơn soi sáng, ông đã nhận ra Đấng Messia nơi Hài nhi do người Mẹ khiêm hạ này bồng trên tay.
Lời đầu tiên của ông là lời thân thưa với Thiên Chúa. ‘Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi’. Thiên Chúa là Chủ Tể, ai muốn phục vụ Ngài, là tôi tờ của Ngài. Đời sống của cụ già Simêon là một sự hiện hữu và là một công việc phục vụ Thiên Chúa, được kể như một cuộc phục dịch, nhưng bây giờ đã tới lúc nghỉ ngơi sau chuỗi ngày dài lao động. Sự chết là một cuộc nghỉ việc, một sự giải phóng trong an bình và về với an bình.
Hy vọng và ơn cứu độ là phần thưởng lúc trời chiều ngả bóng, đã nâng đỡ ông suốt thời gian thi hành nhiệm vụ khó khăn. Đấng Cứu độ đã đến, công việc đã có được ý nghĩa và đời sống dấn thân trên con đường cứu độ lời kinh ‘muôn lạy Chúa’ (Nunc dimittis) là lời kinh tối của Giáo Hội.
‘Mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ’. Cụ Simêon, con người ưu tư, suy nghĩ, hẳn phải đau khổ vì những cảnh vô đạo chung quanh. Chính đôi mắt này đã từng chứng kiến những cảnh tội lỗi và phản giáo, nay thấy Đấng mang lại ơn cứu độ và sự thánh thiện. Đức Kitô là thày thuốc sẽ chữa trị tất cả và là Đấng Thánh sẽ thánh hoá tất cả.
‘Chúa dọn ra trước mặt người trần’. Những chướng ngại hạn hẹp của Israel đã bị phá đổ, chiều kích của Giáo Hội phổ quát tỏ hiện. Israel ra đi mở rộng chân trời của Simêon và làm cho người ta nghĩ đến những khuôn khổ mới mẻ của tinh thần và con tim.
‘Ánh sáng rạng soi dân ngoại’. Những lời tiên tri của Isaia (đoạn 42 và 29) đã được nhắc lại ở đây. Dân ngoại không còn là người bị khinh khi, xua đuổi; không còn bị cái nhìn trịch thượng của những người đã được chọn ném xuống. Vì ánh sáng của Đức Kitô sẽ đâm thấu đêm đen, đuổi đi tất cả những bóng tối và đem đến một ngày mới không có chiều tà.
‘Còn Israel dân Chúa được vinh quang’. Nhờ Chúa Giêsu, cái cây của dân này sẽ triển nở sinh hoa kết quả. Israel xấu sẽ trở nên đối tượng của vấp phạm và tên nó sẽ bị nhiều người nhạo báng và ghét bỏ. Còn Israel chân thật sẽ là cánh đồng nơi các hoa mầu quý giá mọc lên, sẽ là núi đá vọt ra những dòng suối, sẽ là nền trời nơi mặt trời toả sáng; nên các tín hữu sẽ nhắc đến tên nó với lòng kính trọng và biết ơn.
Theo lời của Simêon, Israel đặt sự cao cả đã nhận được từ nơi Chúa, dưới chân Chúa nhập thể. Bài tang ca của Israel là một bài thánh thi cho Đức Kitô; Israel đã tàn lụi trong những tia sáng của luồng ánh sáng rạng rỡ hơn; Israel chết đi để được đưa vào một đời sống mới nhờ Đức Giêsu Đấng Thiên Sai.
Lời thứ hai của Simêon là lời nói với Đức Maria: ‘Hài nhi con bà sẽ được đặt lên để nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay chỗi dậy và làm dấu gợi lên chống đối’. Kitô giáo không cưỡng chế và cũng chẳng dùng sức mạnh để bắt buộc ai, trái lại chỉ là lời mời mọc và kêu gọi. Con người phải quyết định. Họ có thể nói nhận hay không. Nhờ lời ‘nhận’ họ sẽ đứng thẳng lên như người bị tê liệt được chữa khỏi, vì họ sẽ bước đi trên con đường của Thiên Chúa. Với tiếng ‘không’ họ tự mình chỗi dậy và tin rằng mình đã hoàn hảo: sự suy sụp của họ đã đến. Tất sẽ kết thúc bằng đổ vỡ và đồi bại.
Giữ một chỗ đối với Đức Kitô là quyết định số phận con người và nhân loại trước nhan Thiên Chúa. Đức Kitô đưa ra hai nẻo đường lớn dẫn tới cứu độ và sa ngã, dòng nước đôi ngả, sự nhận thức giữa chân và giả. Đối với Mẹ Ngài, việc biết được Đức Kitô, Đức Kitô đích thực, sẽ gặp chống đối và phản kháng hẳn phải là nỗi đau đớn ghê gớm trong đời Mẹ: ‘Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tim chị’. Vì tiếng ‘nhận’ và ‘không’ sẽ làm lộ nhiều tâm hồn trong Israel. Cái bị che dấu sẽ đưa ra ánh sáng. Cứng lòng, ý tưởng bất chính, ích kỷ cá nhân, kiêu ngạo và ghen tương… tất cả những gì là xấu xa, kẻ thù của Thiên Chúa, đều tỏ lộ ra. Tất cả những gì là bỉ ổi, suy đồi và hôi thối đều bị thấy rõ. Nhìn thấy các tư tưởng con người hệ ở chỗ vạch trần những giả dối và mở toang những nấm mồ quét vôi trắng. Nhưng trên hết phải là sự dửng dưng không tiếp nhận tình yêu Nhập thể, đó mới chính là mũi gươm đâm sâu vào trái tim người mẹ giầu tình thương này. Như vậy, ngay từ đầu đời Chúa Giêsu, người ta đã nhìn thấy ‘ Bà mẹ đau khổ’ là chính Người đứng dưới chân thánh giá, vào những giây phút cuối cùng với con bị đâm thấu tim, hoàn tất lễ hiến tế mạnh mẽ hơn lòng ghét ghen của nhân loại.
Khi Tin mừng nói rằng, ‘Cha và Mẹ Ngài ngạc nhiên về những gì nói về Ngài’ đã chứng tỏ cho ta thấy chính các vị cũng phải lần bước trong ánh sáng đức tin, đang khi luôn nhận thức và xác quyết những chân lý mới.
Hợp với ông già Simêon, có bà già khả kính Anna, đại diện cho cả dân tộc, nam cũng như nữ, ca tụng Thiên Chúa và mang tới một sứ điệp ‘cho những người đang trông đợi phúc cứu chuộc Israel’.
Người ta không thấy nhắc gì tới cái chết của ông già bà cả này. Các cụ đã làm tròn sứ mạng của mình và đã sang thế giới bên kia với tâm hồn bình an và vui sướng trong cũng một cảm nghĩ rằng Israel chân chính mới mẻ là người luôn cởi mở trong Đấng Messia.
Ở đây, chúng ta thấy gia đình Chúa Giêsu đã tuân thủ ba nghi lễ cổ mà người Do Thái phải giữ.
1) Cắt bì. Mỗi con trai Do Thái phải chịu cắt bì ngày thứ tám, sau khi sinh. Nghi lễ này quan trọng đến nỗi có thể làm vào ngày sabát, là ngày mà luật cấm làm hầu hết các công việc không tuyệt đối cần thiết, và như chúng ta đã biết, trong ngày đó đứa trẻ được đặt tên.
2) Chuộc con đầu lòng. Theo luật (Xh 13,2) thì mọi con đầu lòng dù người hay súc vật, đều biệt riêng ra cho Chúa. Luật này có thể là sự tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa đã ban cho loài người sự sống hay cũng có thể là dấu tích của thời kỳ trẻ con còn được dâng cho các thần. Dĩ nhiên nếu tục đó được tuân thủ sít sao thì sự sống không còn trên mặt đất. Vì thế mới có nghi lễ chuộc con đầu lòng (Ds 15,16). Người ta quy định rằng: dâng một số tiền năm shekel -chừng 15 shillings- cha mẹ có thể chuộc lại đứa con từ nơi Chúa. Số tiền đó phải cho các tư tế và không thể nộp trước 31 ngày sau khi sinh đứa trẻ và cũng không trì hoãn lâu.
3) Lễ Tẩy sạch sau khi sinh nở. Khi người đàn bà sinh con trai thì người mẹ bị ô uế trong 40 ngày, nếu con gái thì mẹ phải chịu ô uế trong 80 ngày. Người mẹ có thể đi lại trong nhà, làm công việc hàng ngày, nhưng không thể vào Đền Thờ hoặc tham dự các nghi lễ tôn giáo (Lv 12). Khi thời hạn đó chấm dứt, người mẹ phải vào Đền Thờ, đem theo một con chiên làm của lễ và một bồ câu non làm của lễ chuộc tội. Đó là một của lễ khá tốn kém, vì thế luật cũng định (Lv 12,8), nếu người mẹ không thể mua một con chiên thì có thể đem đến một con bồ câu thứ hai. Của lễ bằng hai bồ câu thay vì một con chiên và một con bồ câu gọi là “Của Lễ Của Người Nghèo”. Maria đã dâng của lễ đó. Một lần nữa, chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu sinh ra trong một gia đình nghèo, không chút sang trọng, ở đó mỗi đồng xu cũng phải được tính kỹ, ở đó các phần tử trong gia đình biết rõ những khó khăn của cuộc sống và những gian nan của kiếp người. Khi nào đời sống trở nên bế tắc cho chúng ta, chúng ta nên nhớ rằng Chúa Giêsu đã nếm trải đủ mọi mùi cay đắng đó rồi.
Ba nghi lễ này là nghi lễ cũ và lạ, nhưng cả ba cùng nói lên một niềm tin: con cái là phúc lộc Chúa ban. Những người khắc kỷ nói con cái không phải được ban cho cha mẹ mà là cho mượn. Trong các ơn phúc Chúa đưa đến, không có ơn nào khiến ta mang nhiều trách nhiệm với Chúa cho bằng con cái.
Lc 2, 25-35: Giấc mơ thành tựu
Không có người Do Thái nào không coi dân tộc mình là dân tộc được ưu tuyển. Nhưng họ biết rõ bằng phương tiện tự nhiên, đất nước của họ không thể đạt được tầm cỡ tuyệt vời trên thế giới mà họ chỉ tin đó là phần phúc cho họ. Đa số họ tin rằng vì Do Thái là tuyển dân nên một ngày kia họ sẽ làm bá chủ thế giới. Nhiều người tin rằng vào ngày đó sẽ có một vĩ nhân, một anh hùng từ trời giáng trần; nhiều người khác tin rằng sẽ có một vị vua bởi dòng dõi Đavít và mọi vinh hiển xa xưa sẽ trở lại; nhiều người khác tin chính Thiên Chúa sẽ trực tiếp bước vào lịch sử bằng những cách siêu nhiên. Nhưng ngược lại, cũng có một số ít người được gọi là “những kẻ yên lặng trong xứ”. Họ không mơ tưởng gì về sức mạnh và quyền thế, về quân đội với cờ bay trống giục, họ tin cậy vào một đời sống kiên trì cầu nguyện và lẳng lặng đợi chờ cho đến khi Thiên Chúa ngự đến. Suốt đời sống, họ trông đợi Chúa cách lặng lẽ và nhẫn nại. Simêon là một trong số những người đó, bằng đời sống cầu nguyện và thờ phượng, cứ khiêm nhường trung tín đợi chờ, ông trông mong được thấy người Thiên Chúa an ủi dân Ngài. Thiên Chúa đã hứa với ông qua Thánh Thần là ông sẽ không qua đời trước khi được xem thấy Đấng Xức Dầu của Ngài. Ông nhận biết vị vua đó nơi hài nhi Giêsu và ông mừng rỡ. Bây giờ ông sẵn sàng ra đi bình an và những lời của ông đã trở thành bài ca “Bây Giờ Xin Chết” (Nunc Dimittis), cũng là bài ca tuyệt tác của Hội Thánh.
Trong câu 34, Simêon cho một bản tóm lược về công việc và số phận của Chúa Giêsu.
1) Chúa Giêsu sẽ làm cớ cho nhiều người vấp ngã. Câu đó nghe lạ tai và khó chịu, nhưng đó là sự thật. Không phải Thiên Chúa đoán xét người ta cho bằng người ta tự đoán xét mình, và đoán xét của mỗi người là do phản ứng của họ đối với Chúa Giêsu. Nếu khi đối diện với sự nhân từ, thương yêu của Chúa Giêsu, họ mở lòng ra tiếp nhận tình yêu đó thì họ được ở trong vương quốc của Ngài. Nhưng nếu lòng họ cứ lạnh lùng cứng cỏi hoặc thù nghịch thì họ bị kết án. Có nhiều người chối bỏ Ngài, đồng thời không thiếu những người sẵn sàng nhận Ngài làm Chủ đời sống họ.
2) Chúa Giêsu sẽ làm cớ cho nhiều người được chỗi dậy. Triết gia Seneca nói rằng nhu cầu lớn nhất của loài người là được một bàn tay đưa xuống để nâng họ lên. Chính bàn tay Chúa Giêsu đã nâng vực con người lên khỏi đời sống cũ và đem vào đời sống mới, đem tội nhân khỏi vũng bùn tội lỗi và bước vào đời sống thánh thiện, ra khỏi những nhục nhã và bước vào chốn vinh quang.
3) Chúa Giêsu sẽ gặp nhiều sự chống đối. Đối với Chúa không có sự trung lập. Hoặc chúng ta tuân phục Ngài, hoặc đối nghịch với Ngài. Thảm kịch của đời sống là tính kiêu ngạo đã ngăn cản chúng ta thực hiện sự tuân phục dẫn đến chiến thắng.
Lc 2, 36-40: Tuổi già đáng yêu
Anna cũng là một trong số những người lặng lẽ trong xứ. Chúng ta không biết nhiều về bà, ngoài mấy câu Kinh Thánh này, nhưng bấy nhiêu cũng đủ để chúng ta có một bức họa về tâm tính bà.
1) Anna là một quả phụ. Bà đã từng nếm trải đau buồn nhưng lòng bà không hề cay đắng. Sự buồn rầu có thể đem đến cho chúng ta một trong hai điều: nó có thể làm chúng ta cứng lòng, cay đắng, uất hận, phản nghịch lại Chúa, hoặc làm chúng ta mềm mại hơn, dịu dàng hơn, nhân từ hơn. Nó có thể cướp mất lòng tin tưởng của chúng ta hoặc có thể giúp đức tin chúng ta đâm rễ sâu hơn, và trở nên bất khuất. Tất cả tùy thuộc cách chúng ta suy hiểu về Thiên Chúa. Nếu chúng ta nghĩ về Thiên Chúa như một bạo chúa thì chúng ta sẽ oán hận Ngài. Nếu nghĩ về Ngài như một người cha nhân từ thì chúng ta tin chắc rằng: tay của một người cha sẽ không làm cho con mình phải đổ một giọt nước mắt vô ích nào cả.
2) Bà đã già (84 tuổi) và không hề thôi hy vọng. Tuổi già cướp mất màu tươi thắm và vẻ cường tráng của thân thể chúng ta, nhưng còn tệ hại hơn, là năm tháng có thể giết chết sự sống trong tâm hồn chúng ta, đến nỗi bao hy vọng từng ôm ấp cũng chết lịm và chúng ta trở nên ảm đạm, ê chề, an phận thủ thường, không còn thiết tha điều gì nữa. Và điều đó cũng tùy thuộc vào cách chúng ta nhìn về Chúa: nếu chúng ta nghĩ rằng Chúa là một Đấng xa cách, không hề quan tâm đến chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ tuyệt vọng, Ngược lại, chúng ta tin Thiên Chúa có liên hệ mật thiết với cuộc sống chúng ta, Ngài điều khiển mỗi bước của chúng ta trên đường đời thì chúng ta sẽ thấy tương lai thật tốt đẹp. Tuổi tác, thời gian, sẽ không hề giết được hy vọng của chúng ta. Nhưng bà Anna làm sao để giữ vững niềm hy vọng đó?
a) Bà không hề ngưng nghỉ trong việc thờ phượng. Bà dâng đời sống mình trong nhà Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ban Hội Thánh của Ngài để làm mẹ chúng ta trong đức tin. Chúng ta đánh mất một kho tàng vô giá khi chúng ta không muốn thông công trong việc thờ phượng với dân Chúa.
b) Bà hằng cầu nguyện không ngừng. Việc thờ phượng công cộng là quan trọng, nhưng việc thờ phượng riêng cũng quan trọng. Có người đã nói rất đúng: “Người nào biết cầu nguyện riêng tốt sẽ biết cầu nguyện chung tốt”. Năm tháng đã không đem cay đắng vào lòng Anna, không làm tan hy vọng của bà vì mỗi ngày bà biết kết hợp với Đấng vốn là Nguồn sức mạnh, và trong sức mạnh của Ngài, sự yếu đuối của chúng ta trở nên mạnh mẽ.
Ngày nay có nhiều cha mẹ rất lo lắng về con cái. Lo vì không biết con cái có an toàn khi ra khỏi nhà hay không ? Không biết con có học hành đàng hoàng hay chạy theo bè bạn sống buông thả ? Không biết tương lai con ra sao ? Không biết con có làm bác sỹ, kỹ sư hay phải làm phu khuân vác ? Lo lắng quá, nhiều cha mẹ mất ăn mất ngủ. Thêm vào đó, những lo toan về cuộc sống vật chất, những tương quan gia đình và xã hội v.v. càng chất những gánh rất nặng nề trên vai họ.
Muốn tìm một lối thoát và sống hạnh phúc, cần nhìn vào Thánh Gia Thất hôm nay. Nơi đây có một bài học rất giá trị và lớn lao về đời sống gia đình. Bài học trước tiên là sự thinh lặng. Ðây là một điều kiện tuyệt vời và cần thiết cho tinh thần. Còn ai thinh lặng bằng Thánh Giuse, trưởng gia đình ? Còn Mẹ Maria, trước mọi biến cố, Mẹ “hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng.”[1] Phải có một sự thinh lặng nội tâm mới có thể giúp Mẹ suy gẫm và khắc sâu những sự kiện trong cuộc đời Chúa Cứu Thế. Sống trong vùng thôn quê, Mẹ càng dễ có điều kiện thinh lặng mà đi sâu vào mầu nhiệm Thánh Ý Thiên Chúa. Cần phải biết quý trọng sự thinh lặng, mới có thể thấy những giá trị lớn lao đang chìm sâu hay bị che khuất trong khung cảnh gia đình. Từ đó, cần có một nỗ lực tập thể mới có thể khai phá những giá trị cao quý đó.
Nỗ lực đó bắt đầu bằng một sự chiêm niệm mầu nhiệm sự sống trong Thánh Gia Thất. Thánh Gia dạy chúng ta biết sự sống gia đình là gì. Ðó là một cuộc hiệp thông tình yêu, một vẻ đẹp chân phương và đơn sơ, một tính chất thánh thiêng và bất khả xâm phạm. Sống giữa những tương giao thân thiết và ấm cúng, toàn thể thành phần trong căn nhà nhỏ Nadarét đã bước vào cuộc hiệp thông tình yêu sâu đậm và nồng nàn, vì Ðức Kitô hiện diện ở đó như “Emmanuen, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.”[2] Người là hiện thân tình yêu, một tình yêu khả giác giữa thế giới hữu hình. Qua Người, Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse đi vào cuộc hiệp thông sâu xa với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Ðức Kitô trở thành chìa khóa mở vào kho tàng tình yêu Thiên Chúa và nền tảng cho mọi niềm hy vọng. Nhờ đó, Thánh Gia đứng vững trước những cơn phong ba bão táp.
Trong Thánh Gia Thất, một chiều kích vô cùng thánh thiêng được tìm thấy trong tương quan giữa các phần tử, vì Ðức Kitô là tột đỉnh mạc khải tình yêu Thiên Chúa làm người. Người hiện diện như tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa giữa nhân loại. Vì thế, tuy là con, Người vẫn được tôn trọng. Nhưng không phải vì thế Người đánh mất lòng hiếu kính đối với cha mẹ. Suốt thời gian sống dưới mái Thánh Gia Thất, Người “hằng vâng phục các ngài,”[3] vì Người biết Ðức Mẹ và Thánh Giuse là những vị đại diện Chúa Cha. Chính nhờ tinh thần hiếu thảo đó, Ðức Giêsu đã trưởng thành về mọi mặt.[4] Nếu không, Người không thể nào đứng vững trước bao cơn thử thách và chấp nhận cái chết để cứu độ toàn thể nhân loại.
Nhiều gia đình hôm nay đổ vỡ vì đánh mất chiều kích thánh thiêng. Chỉ còn những nhu cầu vật chất. Những tương giao hoàn toàn nhân loại. Các thành phần gia đình không còn biết tôn trọng lẫn nhau và lo cho nhau. Tuy sống trong một môi trường nhỏ bé và dễ thẩm thấu, nhưng các thành phần gia đình vẫn là những thực tại bất khả xâm phạm, vì mỗi người mang một chiều kích thánh thiêng độc đáo.
Nhưng chiều kích thánh thiêng không làm cho tương giao giữa các phần tử gia đình nên phức tạp. Quả thế, càng thánh thiêng, Thánh Gia Thất bộc lộ rõ nét vẻ đẹp chân phương và đơn sơ, một đức tính ngày càng hiếm hoi trong các gia đình ngày nay. Càng nhiều nhu cầu, cuộc sống càng phức tạp và con người càng dễ đụng chạm và đòi hỏi. Gia đình càng dễ bất ổn và mất bình an. Muốn tìm lại được sự bình an, gia đình phải tìm lại hình ảnh đích thực của mình. Gia đình là phản ánh gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa. Thánh Gia Thất là hình ảnh tuyệt vời về Ba Ngôi. Quả thực, trong Thánh Gia Thất, Chúa Cha được tôn kính như suối nguồn sự sống và tình yêu tuyệt vời. Chúa Con là hiện thân thực sự của tình yêu này. Nhờ kinh nghiệm sống, các ngài cảm thấy Chúa Thánh Thần như một Tặng Phẩm tình yêu.[5] Sống trong tương quan Ba Ngôi, Thánh Gia cảm thấy hoàn toàn thỏa mãn. Tất cả trần gian chỉ còn là phương tiện để phục vụ cho một mục đích cao cả là tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi. Không còn gì đơn giản và phong phú hơn !
Ngôi Lời đã làm người và ở giữa Ðức Mẹ và Thánh Cả Giuse. Sống dưới mái ấm Nadarét, Ðức Giêsu luôn làm việc không những để nên giống Chúa Cha,[6] mà còn noi gương Ðức Mẹ và Thánh Giuse nữa. Nhờ lao động, Thánh Gia Thất mới tồn tại và phát triển. Cũng nhờ lao động, con người Ðức Giêsu mới quen nếp sống tự lập và trưởng thành. Ðây là bài học rất lớn của Con Bác Thợ Mộc Nadarét để lại cho chúng ta. Muốn thấu hiểu luật lao động cao cả và mang lại ơn cứu độ cho con người, cần phải nhìn kỹ vào Thánh Gia Thất. Lao động có một chiều kích siêu việt, chứ không chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất. Nếu nhắm đúng ý hướng Thiên Chúa, lao động có thể trở thành một phương tiện đem lại phúc trường sinh[7] và công bố ơn cứu độ cho muôn dân. Chính khi đổ mồ hôi, sôi nước mắt kiếm kế sinh nhai, Ðức Giêsu đã học một bài học hy sinh rất lớn.
Thánh Gia minh họa cho ta thấy rõ bản chất cụ thể của đời sống gia đình là gì. Ðó là một trường dạy nhân đức cho cả cha mẹ và con cái. Nơi đó, chúng ta tìm thấy Thiên Chúa, và học cách liên kết với Thiên Chúa và tha nhân. Gia đình là nơi tình yêu được trao ban hoàn toàn nhưng không. Ðó là nơi chúng ta học cách yêu thương, cầu nguyện và thực hành bác ái. Theo ÐGH Gioan Phaolô II, hơn bất cứ thực tại trần thế nào, gia đình là nơi con người được yêu thương chân thành và học cách thực sự hy sinh chính mình. Nói khác, nơi gia đình, con người học cách trở nên giống Thiên Chúa tình yêu. Càng sống trong gia đình, họ càng có nhiều cơ hội chịu đựng, tha thứ và bao dung. Trong khung cảnh nhỏ bé đó, không thiếu những thách đố cho những con người muốn làm chứng cho Chúa. Sống với nhau, không thể tránh những tiêu cực. Làm sao có thể thoát khỏi những tiêu cực đó, nếu không biết tha thứ cho nhau ?
Trong môi trường gia đình, con cái được dạy cách nhìn, cách sống và thực hành niềm tin. Từ đó, con người có thể dễ dàng chia sẻ cuộc sống trong cộng đoàn. Những đức tính như bác ái, quảng đại, anh hùng, bao dung đều được hun đúc trong môi trường đó. Những đức tính đó cũng là nền tảng cần thiết cho công cuộc cứu độ và là sức mạnh trấn át những lực phá hủy sự sống. Muốn thế, cần phải mở lòng lắng nghe tiếng nói từ Thiên Chúa như Thánh Giuse, Ðấng đã để lại một gương mẫu cho các bậc làm cha mẹ. Ðời sống Người được chúc phúc vì đã biết chăm lo đến Ðức Giêsu và Mẹ Maria. Mỗi khi Người gặp những nguy hiểm trong cuộc sống, thiên thần đều đến báo cho Người trong giấc mộng. Ðây là hình ảnh tuyệt vời của một con người lắng nghe và hành động theo tiếng nói nằm sâu tận tầng vô thức và được mạc khải trong giấc mơ. Người đã đem Chúa Giêsu và Mẹ Maria tới nơi tiếng đó mời gọi. Bởi vậy, Người đã trở thành bổn mạng cho Giáo hội toàn cầu, không phải chỉ vì đã coi sóc Thánh Gia Thất, nhưg còn vì cách coi sóc của Người. Muốn chu toàn bổn phận làm cha mẹ, chúng ta cần noi gương Người lắng nghe sứ điệp và các giáo huấn của Chúa qua Giáo hội. Nhờ đó, chúng ta mới được đầy tràn ân sủng để có thể hy sinh cho gia đình.
Nhìn vào nguồn ân sủng tràn ngập trong Thánh Gia Thất, chúng ta không khỏi băn khoăn về tình trạng gia đình hôm nay. Nhiều người thất bại trong cuộc sống hôn nhân và gia đình, chỉ vì thiếu ân sủng cần thiết. Họ không được hướng dẫn theo ý hướng Thiên Chúa như Thánh Gia Thất. Quá tự do hay quá lệ thuộc không phải là đường lối Thiên Chúa muốn cho cuộc sống gia đình. Quá tự do như trong nếp sống Tây Phương cũng dễ đưa con người rơi vào tình trạng cá nhân chủ nghĩa và hưởng thụ vật chất. Quá lệ thuộc như lối giáo dục Việt nam, con người cũng khó trưởng thành thực sự. Nhìn vào Thánh Gia Thất, mới thấy đường lối giáo dục rất khôn ngoan.
Khi làm người con sống dưới mái ấm Nadarét, Ðức Giêsu cũng lớn lên theo những định luật tâm, sinh, thể lý. Chắc chắn nhiều lần Người cũng được Ðức Mẹ và Thánh Giuse tập đi những bước đầu tiên. Khi tập tễnh bước theo cha mẹ, Người cũng đã có lúc ngã té. Sau mấy lần thất bại, Người đã có thể đi một mình. Từ lúc xa rời cánh tay cha mẹ, Người đã có những bước đi riêng. Bằng chứng suốt ba ngày ở lại trong Ðền thờ, Người đã làm cho các ngài lo lắng. Lúc gặp lại, Mẹ Người đã phải than lên: “Con ơi, sao con lại làm cho cha mẹ như thế ? Con thấy không, cha con và mẹ đây đang phải cực lòng tìm con !”[8] Thắc mắc đó ghi sâu vào cõi lòng Mẹ một nỗi đau vì sự chia cách trong thời gian ngắn, nhưng đồng thời cho thấy một hướng đi mới trong cuộc lữ hành trần thế. Người Con không còn bước theo cha mẹ nữa. Hướng đi mới đó có thể làm cho cha mẹ ngạc nhiên vì không thể hiểu thấu mọi góc cạnh, nhưng vẫn không làm cho Người Con xa lìa sự quan phòng của Thiên Chúa Cha. Tuy không hiểu những toan tính của Con, ông bà cũng vui mừng khi thấy Người Con “ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa trước mặt Thiên Chúa và người ta.”[9]
Ngày tháng cứ dần trôi. Ðức Giêsu ngày càng tỏ ra “khó hiểu.” “Bổn phận ở nhà của Cha”[10] ngày càng thúc bách Người. Người hướng về Giêrusalem, lúc mười hai tuổi cùng với cha mẹ, nhưng lúc trên ba mươi tuổi Người leo lên khổ giá một mình. Ðó là hướng đi không bao giờ nằm trong tầm nhìn của Mẹ Maria và Thánh Giuse. Nhưng cả hai Ðấng đều đã chuẩn bị rất kỹ cho Người Con trong Thánh Gia Thất.
Hôm nay, nhìn lại gia đình, chúng ta có bao giờ thấy những bế tắc trong việc giáo dục con cái không ? Tại sao chúng ta cứ để cho con cái bám mãi vào tay chúng ta ? Tập cho con đi là để con có thể đi một mình. Tại sao chúng ta không dám cho con tự chọn lấy hướng sống ? Lối giáo dục con theo chế độ bảo hộ có bảo đảm một tương lai tốt đẹp cho con không ? Có một sự bất ổn trong lối giáo dục gia đình Việt nam hôm nay, vì cha mẹ không hoàn toàn tin tưởng tương lai con cái nằm trong bàn tay Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con biết noi theo gương Thánh Gia Thất để biết sống tin tưởng và phó thác vào sự quan phòng đầy tình thương và khôn ngoan của Chúa. Con xin phó thác tất cả gia đình và con cái con trong tay Chúa. Xin Chúa thương che chở và giữ gìn gia đình chúng con. Amen. đỗ lực, 31.12.2006
Trung thành với Luật Môsê, các ngài dâng hiến Hài Nhi cho Thiên Chúa và cùng Đức Giêsu dấn thân lên đường.
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Chúa Giêsu tỏ mình ra trong đền thờ. Đây là lần Chúa tỏ mình ra trong Đền thờ, trung tâm sinh hoạt tôn giáo của người Do Thái. Cũng trong tư cách là Đấng Cứu Thế, việc tỏ mình này có liên hệ chặt chẽ với việc tỏ mình ra cho các mục đồng vùng Bêlem.
Luca làm cho các độc giả của mình liên tưởng ngay đến "Luật Môsê" ấn định một thời hạn là bốn mươi ngày kể từ ngày sinh con cho đến khi làm lễ thanh tẩy cho người mẹ trẻ. H.Cousin nhận xét: Như vậy là "Bảy mươi tuần đã trôi qua kể từ ngày Thiên Thần Gabrien loan báo Gioan Tẩy Giả chào đời ": Công cuộc giả phóng Giêrusalem được loan báo trong Isaia (Is 40-55) nay trở thành hiện thực, như lời ông Simêon rồi đây sẽ hát lên ("L'evangile de lúc", Centurion, trang 42).
Việc xảy ra tại thành đô "Giêrusalem”, nơi khi lên mười hai tuổi Đức Giêsu sẽ đi hành hương lần thứ nhất (2,42); nơi sẽ diễn ra cuộc "xuất hành" của Người (khổ nạn, chết, sống lại, lên trời) vào những ngày chót của cuộc hành hương long trọng cuối đời. Đây là điểm quan trọng, vì đối với Luca, Giêrusalem sẽ là trung tâm của biến cố Phục sinh và khởi điểm của công cuộc truyền bá Kitô giáo.
- Bối cảnh của sự việc là "Đền thờ', nơi đây Luca đã khởi đầu Tin Mừng bằng việc truyền tin cho ông Dacaria (1,5,25); nơi đây Tin Mừng Luca sẽ kết thúc bằng lời cầu nguyện của cộng đoàn các môn đệ Đức Giêsu "Hằng ở trong Đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa" (24,25). ' '
"Cha mẹ Đức Giêsu" đem con lên Giêrusalem, "để tiến dâng cho Chúa”. Luca đặt vào đây hai nghi lễ riêng biệt:
+ Một đàng theo sách Lêvi 12,8, lễ "thanh tẩy" cho người mẹ
trẻ, 40 ngày sau khi sanh con, nếu là con trai, kèm theo của lễ là “một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non" đối với gia đình nghèo.
+ Đàng khác, theo sách Xuất Hành 13,12 và để kỷ niệm ngày tổ phụ Abraham sẵn sàng dâng hiến cho Thiên Chúa người con trai duy nhất của ông là Isaac (bài đọc 2), còn có việc thánh hiến và chuộc "con trai đầu lòng”.
Có tới ba lần Luca nhấn mạnh đến ý muốn của Giuse và Maria là trung thành làm xong mọi việc "như Luật Chúa truyền”. Ngay cả những việc không tiên liệu nữa, bởi lẽ các ngài đích thân dâng tiến con trai đầu lòng theo gương bà Anna đến Nhà Chúa dâng bé Samuen vậy (1 Sam 1,22-24).
2. Ứng nghiệm những lời hứa, loan báo sứ mệnh của Đức Giêsu.
Hai nhân vật bất ngờ xuất hiện, một nam một nữ tiêu biểu cho niềm mong đợi Đấng Cứu Thế từ bao đời nay của Israel. Không hẹn, mà cả hai cùng đến gặp Maria và Giuse: "Và này đây tại Giêrusalem, có một người tên là Simêon... cũng có một nữ ngôn sứ là Anna”. Hai khuôn mặt đẹp gợi nhớ lại những vị thánh nam nữ trong Thánh Kinh kể từ Abraham là sa ra.. Hai bậc cao niên mà vì họ Hài nhi được Thánh Thần tác động, sẽ đến vén lên bức màn bao trùm biến cố để lộ ra ý nghĩa thực: nơi Hài nhi ấy các lời hứa đã được ứng nghiệm, hát nhi ấy loan báo việc sắp xảy ra.
- Trước tiên phải nói đến ông Simêon. Ông không phải là người có trách nhiệm phục vụ Đền Thờ vì ông không phải là tư tế, cũng chẳng phải là lê vi hay Kinh sư. ông chỉ là "người công chính" (nghĩa là người hoàn toàn "khớp với ý muốn của Thiên Chúa) và sùng đạo (nghĩa là người được lòng tin và niềm hy vọng của Israel hun đúc).
+ Trong Bài ca “an bình ra đi" của ông, ông chào mừng cuộc giáng lâm của Đấng cứu độ và tỏ ra mãn nguyện thấy lời Chúa hứa nay được thể hiện nơi Đức Giêsu.
Hài Nhi này đến làm cho lòng mong đợi của riêng ông và dân tộc ông được mãn nguyện; ông lên tiếng ngợi ca ơn lạ lùng Chúa đã ban cho chính ông, người trông đợi cuối cùng của Giao ước cũ, là được "bồng bế trên tay mình" Hài Nhi trưởng tử của một thế giới mới mà ông đã hình dung ra.
Rồi ngỏ lời trực tiếp với hài nhi, ông chào mừng con trẻ là Đấng Mêsia " là "ơn cứu độ " của Thiên Chúa, một ơn cứu-độ vượt khỏi biên giới Israel và có liên can tới mọi dân tộc, bởi lẽ hài nhi Giêsu này "là ánh sáng soi đường cho dân ngoại”. Ông kết thúc bài ca khi loan báo rằng nhiệm vụ trông đợi của Ông đã đến hồi kết thúc: "Giờ đây ông có thể ra đi an bình”.
Những lời tiên tri của ông Simêon khiến cho cha mẹ Hài Nhi "ngạc nhiên”, đồng thời cũng gây cho ông bà những thắc mắc đi đôi với sự hài lòng (xem dưới).
+ Thế rồi, sau khi chúc phúc cho cha mẹ Hài nhi, ông nói với Maria một lời tiên tri đau buồn, tương phản với niềm vui được bày tỏ trong Bài Ca: "Này, người con của bà đây...ông loan báo cảnh "chia rẽ”, sẽ có sự chia lìa vì Đức Giêsu: những kẻ ủng hộ Người thì người sẽ là sức mạnh vực họ chỗi dậy, những ai chống đối người, thì Người khiến họ phải "vấp ngã”. Bởi lẽ, R.Meynet chú giải "Chúa không áp đặt ơn cứu độ của người cho ai cả; người chỉ đưa ra, chỉ "dành sẵn cho muôn dân”, cho mọi dân tộc cũng như cho Israel. Người chỉ kêu mời người ta đón nhận trong tự do. Nhưng rnọi người đều sẽ phải quyết định. Đức Giêsu không phải là một chứng cứ không thể phi bác người là một dấu chỉ trước niềm tin và tự do của con người. Nhiều người trong Israel sẽ từ chối Người, nhưng những người khác sẽ chấp nhận đi theo Người. Nơi các dân tộc cũng thế thôi. Mọi người sẽ bị phân rẽ, ngay cả giữa cha mẹ mình, ngay cả Đức Maria cũng sẽ phải chịu thử thách ấy. Sự ngạc nhiên của cha mẹ Người là sự ngạc nhiên của lòng tin trộn lẫn với những thắc mắc và sự hài lòng trước những biến cố bất ngờ này. Trước xì-căng-đan của thập giá, lòng tín của Đức Maria cũng như của tất cả các môn đệ đều sẽ phải trải qua cơn xâu xé dày vò" ("L'evangile se lon saint lúc – Analyse rhétorique". Cerf, trang 40).
Và này đây một nhân vật khác, bà Anna, mà Luca gọi là "nữ ngôn sứ”. J . Potin viết: ""Bà cũng là hình ảnh người phụ nữ thánh thiện của Kinh Thánh. Bà kết hôn từ thuở niên thiếu, nhưng có lẽ chịu phận son sẻ, giống như bà mẹ của Samuen đã một thời hiếm muộn; bà ở goá để tưởng nhớ chồng, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phụng Thiên Chúa trong đền Thờ. Qua bà, cả một đoàn lũ đông đảo các phụ nữ thánh thiện Israel đang dâng lời cảm tạ Thiên Chúa vì từ nay Người khởi sự thực hiện việc giải thoát dân Người" ("Jésus, l'histoire vraie", Centurion, trang 95).
Phần cuối câu truyện không quên nhắc lại việc cha mẹ Đức Giêsu trung thành tuân thủ Lề Luật. Rồi bằng ít lời vắn gọn, Luca tóm kết tất cả cuộc đời thơ ấu của Đức Giêsu ở Nagiarét như sau: "Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nagiarét, miền Galilê. Còn Hài Nhi, ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ơn nghĩa cùng Thiên Chúa”.
Ơn khôn ngoan mà Hài Nhi được tràn đầy, chẳng bao lâu nữa người ta sẽ thấy biểu lộ trong trình thuật tìm gặp lại con trong Đền thờ (Lc 2,46-47).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. "Một khởi đầu mới mong manh”.
(L. Sintas, trong "Parole du Dteu pour la méditation ét l'homélie. Năm B", Médiaspaul. trang 22-23).
Để ghi nhớ việc tổ phụ Abraham hiến tế con đầu lòng cho Thiên Chúa, Luật truyền cho mọi con trai đầu lòng phải được hiến dâng cho Chúa (...). Maria và Giuse tuân thủ Luật Chúa truyền. Vì hai ông bà nghèo, nên dâng một cặp bồ câu non làm của lễ.
Hôm nay nghi lễ hiến dâng này có một tầm mức thật là độc đáo. Nếu đúng là mọi Hài Nhi ra đời đều là ơn huệ của Thiên Chúa mà mọi cha mẹ phải nhìn nhận và vui mừng, thì điều đó càng đúng biết bao đối với trường hợp của Hài Nhi Giêsu. Không ai trong số những người được trông thấy Maria và Giuse tiến vào Đền thờ hôm ấy, hiểu được điều ấy. Các môn đệ, các thánh sử thực ra chỉ hiểu rõ điều này sau khi Chúa phục sinh. Chỉ tới lúc ấy các ông mới nhận ra sự cao cả lạ lùng của Đức Giêsu, Đấng các ông đã sống kề cận trong ba năm qua. Sự cao cả lạ lùng đó Đức Giêsu đã có từ lúc đức Maria mang thai và sinh ra Người, dầu rằng lúc đó còn bị che giấu. Chỉ sau biến cố phục sinh, các ông mới có thể viết Tin Mừng về thời thơ ấu của Đức Giêsu là làm nổi bật được tính cách độc nhất vô nhị của Người.
Nơi bản thân ông Simêon, Luca như đọc được một bản tóm tắt toàn bộ mầu nhiệm ấy. Simêon là một con người được nhào nặn trong lòng tin của Israel. Nếu ông được coi là một người công chính, thì điều đó có nghiã là nơi ông, người ta gặp được sự thánh thiện của những chính nhân đầy lòng tin. Ông giữ một vị trí chính đáng trước mặt Thiên Chúa, trước lề luật của Thiên Chúa, cũng như trước mặt mọi người. Bởi được viết sau biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, nên Luca có thể gọi đích danh nhiệt tình thúc đẩy ông Simêon lên Đền Thờ, là sức mạnh dun dũi của Thánh Thần. Chúa Thánh Thần được giới thiệu ở đây như là sức mạnh duy nhất kiến tạo nên dân Chúa, dẫn dắt dân trong lòng tin (...). Sự hiệp nhất sống động giữa Cựu ước và Tân ước được biểu lộ ra bằng một biến cố. Một ông già mà cả đời đã được nuôi dưỡng trong lòng tin của tổ phụ Abraham giờ đây tiến đến trước Đấng Mêsia của lời hứa và được khao khát từ bao đời. Ông già ấy giờ đây ẵm bế trên tay mình Đấng Mêsia kia và hát lên-lời ca chúc tụng và tri ân Thiên Chúa:
Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi (...).
Ông già ấy có thể qua đi. Vậy thì ngọn lửa thiêng kia phải được trao lại cho ai? Trao cho một hài nhi bé bỏng. Điều này muốn nói lên rằng giai đoạn đầu mới lạ này quả là mong manh bé nhỏ. Nước Thiên Chúa giống như một hạt giống dù là loại hạt nhỏ nhất, nhưng vẫn hứa hẹn sẽ trở nên một cây to lớn. Nó cũng nói lên tầm quan trọng của Thánh Gia trong vai trò được trao phó và gìn giữ hạt giống mỏng manh kia. Quả là mong manh bé nhỏ khi toàn bộ thế lực sự ác sẽ ập đến tấn công hạt giống ấy. Và ông Simêon cũng nói cho Maria hay một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà. Cuộc khổ nạn đã có mặt ngay từ đây rồi. Phải, người ta sẽ chia rẽ vì hài nhi này. Trẻ ấy sẽ làm cho nhiều người phải vấp ngã. Thực tế cho thấy hận thù ghen thét dường như toàn thắng. Những thù địch của Đức Giêsu sẽ thắng được Người. Họ sẽ kết tội và đóng đinh Người.
Tuy nhiên, cũng chính Giêsu ấy sẽ làm cho nhiều người được chỗi dậy. Phục sinh đã được loan báo và ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ đem đến một cuộc phục hồi lớn lao vô cùng. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã danh sẵn cho muôn dân.
Đó chính là lý do khiến nữ ngôn sứ Anna, lúc ấy cũng tới nơi để cùng hát lên những lời tán tụng Thiên Chúa với ông Simêon.
2. “ Trung tín với thần khí”
(Đức Cha L.Daloz, trong "diệu a visité son peuple"; Desclée de Brouwer, trang 21-22).
"Để chu toàn các điều Luật truyền, cha mẹ Đức Giêsu đem Người lên Đền Thờ dâng tiến cho Thiên Chúa, và dâng của lễ nghèo hèn là "một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non" dành cho việc thanh tẩy Đức Maria. Được Thần Khí thúc đẩy, ông Simêon lên Đền Thờ gặp hai ông bà. "Ông Simêon là người đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Kitô của Đức Chúa? Hoạt động của thần Khí là sợi đây nối kết mọi hoàn cảnh xảy ra khi Đức Giêsu giáng sinh. Công trình Thần Khí thực hiện thì sung mãn, phong phú và hưng phấn. Câu truyện trong hai chương đầu của Tin Mừng Luca mang dấu ấn rõ rệt về hoạt động của Thần Khí. Những biến cố luôn hàm ý về tương lai, và người ta đã linh cảm được sứ mệnh phổ quát của Đức Giêsu. Những nhân vật như Maria, Dacaria, Êlisabét, Simêon và nữ ngôn sứ Anna đều là những người loan báo ơn giải thoát mà hạt giống đã được chôn vùi trong thế giới chúng ta. Các ngài đều làm chứng rằng ơn cứu độ đã tới và hết sức vui mừng.
Thần Khí hoạt động dựa trên các ngôn sứ, Thần Khí ấy của Thiên Chúa tràn đầy vũ trụ, đến thực hiện các lời hứa và ban ơn thông hiểu. Qua miệng ông Simêon, Thần Khí tỏ cho thấy ánh sáng đang đi vào thế giới và người Con của Đức Maria nắm giữ vai trò quyết định. Người con ấy sẽ là dấu hiệu cho người ta chống đối, khi phanh phui ra những tranh cãi của nhiều tâm hồn. Chúng ta hết thảy đều liên can tới điều mạc khải này vì nó cũng phanh phui những tranh chấp trong tòng ta. Cũng Thần Khí ấy của Thiên Chúa còn thâm nhập vào nơi sâu thẳm của bản thân ta và thúc đẩy ta, phải nhận biết Đấng ban ơn cứu độ. Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại ” ... Chỉ mình Thần Khí mới có thể mở mắt ta đón nhận ánh sáng này. Như ông già Simêon, như nữ ngôn sứ Anna, tâm hồn ta phải biết lắng nghe và nhạy bén với làn gió âm thầm của Thần Khí. Như vậy, chúng ta mới có thể đón nhận Đức Kitô - Anh sáng.
“Theo luật Môisen": người ta có thể thắc mắc tại sao Luca nhấn mạnh quá nhiều đến việc Thánh Gia hoàn tất các nghi thức Do thái. Nếu nhớ Luca là môn đệ của Phaolô, ta sẽ tìm ra được lý do tuyệt diệu trong suy tư sau đây của thư Galata: "Khi thời viên mãn đến, Thiên Chúa đã sai Con của Ngài, sinh bởi người nữ, sinh dưới quyền Lề luật, để giải phóng những kẻ ở dưới quyền Lề luật, ngõ hầu ban quyền nghĩa tử: cho ta. Và bởi vì anh em là nghĩa tử, nên Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con Ngài đến trong lòng anh em, chính Thần khí kêu lên: Abba, Cha ơi! Cho nên anh em không còn là nô lệ, nhưng là con; mà nếu là con, thì cũng là kẻ thừa tự thể theo (ý của) Thiên Chúa" (14,4-7). Bản văn này làm sáng tỏ Tin mừng thời Thơ ấu cách lạ lùng thật. Vì chẳng có nơi nào cho thấy rõ ràng Chúa Giêsu thật là Con Thiên Chúa, sinh bởi người nữ; chẳng có nơi nào mà Tin mừng nhấn ngạnh mãnh liệt việc Người tuân giữ các quy khoản Lề luật như đoạn văn hôm nay .
"Họ phải được thanh tẩy": Theo luật Môisen trong Lv 12 thì sau khi sinh con trai, người mẹ trở nên ô uế trong 7 ngày xét theo luật phụng tự (nghĩa là không được chạm đến vật gì đã thánh hiến cũng như tham dự phụng vụ tại Đền thờ) và tiếp đó phải ở riêng trong nhà 33 ngày nữa. Sau thời gian thanh tẩy theo nghi thức ấy bà phải đến Đền thờ dâng một của lễ. Người ta ngạc nhiên khi nghe thánh sử bảo: Họ phải được “thanh tẩy", vì chỉ mình người mẹ là cần chuyện này mà thôi. Có thể giải thích như sau: họ phải được thanh tẩy. Nghĩa là việc thanh tẩy này có liên can tới họ; thanh tẩy là điều bắt buộc đối với một mình người mẹ do việc sinh con ra, là việc sinh nở thì vừa liên hệ tới bà mẹ và liên hệ tới đứa bé. Người
ta cũng có thể ức đoán rằng Lc quan niệm lễ nghi thanh tẩy như được thi hành trong thực tế, nghĩa là có kèm theo nghi thức trình dâng đứa trẻ. Nếu thế thì đây là một lễ nghi tại Đền thờ trong đó Maria dâng các lễ tế tiên liệu cho việc thanh tẩy, đồng thời lợi dụng cơ hội để trình dâng Hài Nhi Giêsu. Nhưng dù sao chắc một điều là Giuse không dính dáng gì đến việc "họ được thanh tẩy", vì Lề luật chẳng hề buộc người chồng phải thanh tẩy.
"Và khi đến ngày, theo luật Môisen. họ phải được thanh tẩy, thì họ đem người lên Giêrusalem": Hai chữ “họ” của câu này xem ra giống nhau, nhưng văn mạch cho thấy là không phải vậy; chữ "họ" thứ nhất nhắm Maria và Giêsu, chữ "họ" thứ hai nhắm Maria và Giuse; câu văn hơi sai đôi chút. Vì Luca quá muốn gãy gọn mà lại quên lưu ý là các đại danh từ số nhiều đi liền nhau đây không chỉ cùng nhân vật. Tuy nhiên ý nghĩa cũng khá rõ ràng. Việc trình dâng Hài Nhi tại Đền thờ này không có trong lề luật. Chỉ việc chuộc đứa bé là truyền buộc thôi. Nhưng Luca chẳng hề nói qua một tiếng đến lễ nghi chuộc Chúa Giêsu đó, mà chỉ đề cập tới việc dâng trình Người. Ông lại còn nhấn mạnh đến việc trình dâng này bằng cách liên kết vào đó hai văn từ của lề luật mà thật ra chỉ liên hệ tới việc chuộc con. Làm như vậy là để mặc cho việc trình dâng một ý nghĩa long trọng: dâng hiến và thánh hiến. Thành thử đối với Luca, việc long trọng trình dâng Chúa Giêsu cho Giavê hôm nay tương đương với việc chu toàn cách thiêng liêng nguyên tắc pháp luật của Xh 13, theo đó mọi con trai đầu lòng (và nhất là Đứa Con đầu lòng này) đều thuộc về Giavê. "Một người tên là Simêon” Tên này rất thông dụng thời đó. Có kẻ đã đồng hóa ông Simêon với một giáo sĩ tên Simêon, con của Hillel và cha của Gamaliel, cả ba đều là những đại giáo sĩ ở Giêrusalem. Nhưng việc đồng hóa này không bảo đảm. Lời kinh Nunc dimittis quả cho thấy Simêon là một cụ già, song Luca chẳng quả quyết điều này một cách minh nhiên. "Niềm an ủi của Israel": Từ Is 40, 1; 51, 12; 61,2 ... từ ngữ này ám chỉ thiên sai thời đại.
“Thánh Thần ở trên ông": Theo ngôn ngữ Cựu ước (Ds 11, 17 .11,25.29; 2V 2, 15; Is 11,2; 41, 1; Ed 11,5), thành ngữ này muốn nói Simêon là ngôn sứ.
“Đức Kitô của Chúa": Đây là tước hiệu cổ truyền của Đấng thiên sai trong Cựu ước Hy lạp (1Sm 24,7,11; 26, 9. 11. 16.23; 2 Sm 1, 14. 16 ...) và tương đương với tước hiệu "Đấng Messia của Giavê”. Đừng lẫn lộn với thành ngữ Kitô Chúa" (thành ngữ riêng biệt của Lc trong Tin mừng, x. 2, 11) mà người ta thấy trong Ac 4,20 bản Hy lạp) và Tv Salomon 17,36 cũng như trong Phaolô nhiều lần về sau. Tước hiệu "Kitô Chúa" này rõ ràng có một ý nghĩa siêu việt mà những đồng hóa Đấng Messia với Giavê. Nó giàu nghĩa hơn tước hiệu "Đức Kitô của Chúa".
"Cha mẹ": Vì đã nhấn mạnh nhiều đến việc đầu thai đồng trinh của Chúa Giêsu, nên Lc không ngần ngại dùng chữ. "cha mẹ Người" (x. cc. 41.43) và ngay cả "cha Người" (cc. 33.48). Các sao lục viên vẫn thường thay các hạn từ vừa nói bằng chữ Maria và Giuse để làm nổi bật sự kiện Chúa Giêsu chỉ có một Cha ở trên trời.
"Giờ đây, lạy Chúa ...": Sấm ngôn nơi cc.29-32 này tương ứng với thánh ca Dacaria về Gioan Tẩy Giả trong Lc 1,67-79; nhưng thay vì cảm hứng từ các Thánh vịnh, ở đây sấm ngôn mượn lời của sách Isaia đệ nhị, phần thứ hai, và công bố rằng trong Chúa Ciêsu, ơn cứu độ đã được ban tặng. Thánh thi này đã được dùng trong kinh nguyện phụng vụ của Giáo Hội (kinh tối) từ thế kỷ V (x. Hiến pháp Sứ đồ 7,48).
"Theo lời Ngài": Các chữ này làm ta liên tưởng tới việc Thánh Thần đã mặc khải (c.26) cho Simêon biết ông sẽ được nhìn thấy Đấng Messia trước khi lìa đời.
"Anh sáng rạng soi dân ngoại": Việc cứu rỗi dân ngoại lần đầu tiên được loan báo ở đây trong tác phẩm Lc. Nhưng nó chỉ cược công bố cách minh nhiên rõ ràng từ sau mặc khải phục sinh (Lc 24,47).
“Vinh quang của Israel dân Ngài": Tước hiệu này rất đặc biệt. Nó đưa ta về đoạn Xh 40,35: "Đám mây bao phủ nhà tạm và Vinh quang Giavê lấp đầy chỗ Thần cư ". Đây là việc Vinh quang đi vào trong cung thánh; và Vinh quang chính là Giavê. Ở đây cũng vậy, cũng nói về Vinh quang trong cung thánh, nhưng Vinh quang được mạnh dạn đồng hóa với Chúa Giêsu: người là Vinh quang. Có một dấu chứng nói lên ý tưởng táo bạo này là: theo quan niệm Cựu ước, ai đã thấy Giavê (Xh 19,21; 33,20; Lv 16,2; Ds 4,20) hoặc chỉ nghe Ngài nói thôi (Xh 20,10, Đnl 5,24-26; 18,16) đều phải chết. Thế mà trong giai thoại trình dâng Chúa Giêsu đây, các thành ngữ "thấy cái chết" (2,26), “thấy Chúa Kitô của Chúa" (2,26), thấy ... Vinh quang" (2,30.32) lại liên quan mật thiết với nhau. Môisen đã không vào lều tạm vì sợ chết (Xh 40,35). Simêon thấy "vinh quang" và có thể lìa trần. Theo lối chơi chữ trong bản văn, thì ông "thấy" Vinh quang đồng thời với cái chết.
“Cha mẹ người đều kinh ngạc": Lc cố ý cho thấy sau các lần mặc khải đầu tiên ở 1,31-35 và 2, 11. 14, cha mẹ Chúa Giêsu vẫn chưa quán triệt hết mầu nhiệm của Người.
"Người có mệnh làm cớ cho nhiều người bổ nhào và chỗi dậy trong Israel": Chúa Giêsu là nhân vật bắt ta phải quyết định chọn lựa. Trong Người hoàn tất cái sấm ngôn hình như tiềm ẩn trong các lời Simêon nói: “Đối với các người, Ngài (Giavê) sẽ là cơ hội thánh hóa, là đá vấp phạm, là thạch nham nên dịp trượt ngã cho đôi nhà Israel, là tròng lưới là là cạn bẫy cho dân Giêrusalem. Lắm người sẽ trượt nhà trên đó; chúng ngã lăn và tan xương, chúng sẽ sa bẫy và bị chụp" (Is 8, 14). Nhưng lời tiên tri sau đây cũng đúng cho Chúa Giêsu: "Này Ta đặt trên Sion một viên đá hoa cương, viên đá góc quý giá làm nền. Ai cậy tin vào viên đá này sẽ không nao núng" (Is 28,16). Khi buộc mỗi người phải chọn theo hay chống lại người, Chúa Giêsu sẽ là dấu chỉ gây cớ vấp phạm. “Và hồn bà, một mũi gươm sẽ đâm thâu qua": Câu này từ lâu đặt ra cho các nhà chú giải nhiều vấn đề lóc búa. Một số dựa theo Origène (Reuss, Bleek ...) cho rằng lưỡi gươm là sự nghi ngờ sẽ đâm thâu suốt cuộc đời Maria, nỗi nghi ngờ về lai lịch sâu xa của Quý tử; nhưng lối chú giải này không mấy phù hợp với phần còn lại của Tin mừng là xem ra là một lối giải thích có tính cách tâm lý học vô bằng cứ.
Lối giải thích cổ truyền (từ paulin de no le và thánh Augustin) đã xem lưỡi gươm chính là việc Maria hiệp thông và nỗi đớn đau của đứa con tử nạn. Lối giải thích này dĩ nhiên có thể chấp nhận, nhưng không chắc chắn. Quả thế, nó cắt đứt chuyển thông liên tục của bản văn và xem ra đưa vào đấy một dấu ngoặc (BJ và Nguyễn thế Thuấn đặt câu nói giữa hai gạch ngang) là như thế là ngược lại với thói quen của người sêmita. Tiếp đến, nó quá thu gọn tư tưởng vào cá nhân con người Maria, một điều xem ra ngược với nhãn giới của thánh sử, vì đối với ông cũng như đối vật mọi tác giả Tân ước, tâm lý các nhân vật không đáng lưu tâm bằng vai trò của họ trong lịch sử cứu rỗi; người ta thấy rõ điều này trong các quang cảnh của thời Thơ ấu, trong đó Maria bao giờ cũng chỉ đóng một vai trò phụ thuộc sánh với vai trò Chúa Giêsu. Sau cùng lối giải thích cổ truyền đây quá quy chiếu về đồi Canvê mà loại bỏ mọi cái khác.
Gần đây, việc chú giải câu này đi theo một chiều hướng khác biệt. Trong Cựu ước, hình như lưỡi gươm vẫn thường được xem như là biểu tượng của sự đối kháng và chia rẽ (Ed 12. 14). Hơn nữa, Isaia lại còn bảo Thiên chúa đã biến miệng Người tôi tớ thành một "lưỡi gươm sắc bén" (49,2). Hình ảnh này đã được Khải Huyền lấy lại khi nói về Chúa Kitô (1.16; 2, 12. 16; 19, 15 .21). Khi nhớ rằng viên Ky mã trong Khải huyền, mà miệng võ trang bằng một lưỡi gươm sắc bén, được gọi là “Ngôi lời Thiên Chúa" (Kh 19, 13) và khi lưu ý rằng Is 49,2 đi trước Is 49,6 là đoạn gọi Người Tôi tớ là "ánh sáng muôn dân", thì ta phải lập tức nghĩ rằng cả hai câu này đã có trung tâm trí lực khi ông viết các câu 32.35a và rằng lưỡi gươm phân rẽ Israel làm đôi (c.34) chính là Lời mặc khải đến trong Chúa Giêsu, lời cứu độ nhưng cũng là lời phán xét (x. Dt 4, 12). Thế mà hình như chắc là trong hai chương đầu này. Luca trình bày Maria như là Nữ tử Sion, nghĩa là Israel nhân cách hóa (x. chứng minh dài dòng của Laurentin, sđd, tr.148- 163). Theo viễn ảnh như vậy, có thể Lc còn muốn tiếp tục việc nhân cách hóa này (trong quang cảnh trình dâng Chúa Giêsu và có lẽ rằng chính vì xét như là Nữ tử Sion mà Maria đã được Simêon ngỏ lời ở c.35a: trong con người của bà. Chính Israel sẽ bị gươm của Giavê xuyên thấu.
Lối chú giải này (của Sahlin. Black, Laurentin. Boismard, Benoit ...) có lợi điểm là làm cho c.35a thuần nhất với văn mạch của nó. Thay vì nằm trong ngoặc đơn, thì câu này trở thành một khâu trong chuỗi khai triển; nó t.iếp tục tư tưởng của câu trước và chuẩn bị cho tư tưởng kế tiếp theo. Chúng ta đã thấy mối liên lạc giữa c.34 và 35a: cơn khủng hoảng gây ra trong Israel bởi "dấu chỉ vấp phạm" được mô tả, theo Edêkien, như lưỡi gươm Giavê đâm thâu tâm hồn (dân Chúa). Còn c.35b thì đưa ra một kết luận ăn khớp: thử thách gây nên do việc Chúa Giêsu đến rồi đây sẽ vạch trần bí ẩn của mọi tâm hồn khi đòi con người phải chọn lựa theo hay chống Chúa Giêsu.
Được hiểu một cách ăn khớp với nhau như thế, cc.34-35 sẽ cân xứng tuyệt vời với các cc.30-32. Lời tiên tri của Simêon phân chia thành một bức song bình: một bên là việc chiếu soi dân ngoại và ơn cứu độ phổ quát, vốn tựng trưng cho vinh quang Israel; bên kia là cơn khủng hoảng trong chính Israel, cơn khủng hoảng sẽ khiến nhiều con cái tuyển đến ngã gục. Đó là tất cả bi kịch của lịch sử cứu rỗi, được Lc trình bày trong Tin mừng và sách công vụ; tấm bi kịch này được Simêon loan báo ở đây cách vắn tắt nhưng vô cùng mạnh mẽ.
Để biện minh cách tiêu cực cho lối giải thích vừa nêu, chúng ta hãy đưa ra một bắt bẻ quan trọng đối với lối giải thích cổ truyền. Trong Tin mừng Luca, chẳng có chỗ nào nói đến việc Maria hiệp thông vào số phận đau đến của Chúa Giêsu cả. Dĩ nhiên người ta có quyền giả thiết bà đã hiệp thông một cách nào đó. Nhưng nếu Luca đã muốn ngụ ý điều này khi đặt trên miệng Simêon lời tiên tri bí ẩn, thì hẳn sau đó ông đã cho thấy việc hiệp thông được thể hiện trong nhiều sự kiện rõ rệt. Thế mà Lc đã chẳng nhắc đến tên Trinh nữ trong số các người đàn bà theo dõi việc đóng đinh thập giá.
"Ngày đêm tham dự phụng tự (Nguyễn Thế Thuấn: “Bà không rời khỏi đền thánh, thờ Chúa ngày đêm”): Nét này, mà người ta còn gặp lại trong Lc 18,7; Cv 20,31; 26,7, hình như hơi lý trưởng hóa. Vì dù sao, các phụ nữ không được phép ở lại đêm trong khuôn viên Đền thờ.
"Họ trở về Galilê, đến Nagiarét ...": Đây chỉ là một lối tóm tắt, hoàn toàn theo kiểu của Luca. Matthêu cho thấy Thánh Gia đã ở lại Bêlem khá lâu (Mt 2,11), và thời hạn cuộc lưu trú này tùy thuộc vào ngày giờ gán cho cuộc thăm viếng của các đạo sĩ. Dựa vào Mt 2, 16, có người bảo là hai năm. Nhưng dầu giả thiết thế nào chăng nữa, thì việc Trình dâng tại Đền thờ cũng phải xảy ra trước cuộc Hiển Linh. Vì khó cho rằng Giuse, mà trong suốt thời thơ ấu của Chúa Giêsu luôn luôn tỏ ra khôn ngoan thận trọng, ai đi lôi kéo cơn lôi đình của Hêrôđê xuống trên đứa bé. Thành thử việc trở lại Nagiarét mà Luca nói ở đây trước tiên giả thiết việc lui về Bêlem rồi chạy trốn đến biên giời Ai Cập (hợp với Mt 2,13-15), và trùng hợp với việc định cư tại Nagiarét mà Mt 2,19-23 đã nói.
KẾT LUẬN
Với nhiều điển tích, nhiều ám chỉ Kinh thánh, Luca cho thấy việc Trình dâng Chúa Giêsu tại Đền thờ khai mào thời đại thiên sai, cái thời đại đã được các ngôn sứ xưa loan báo và được đánh dấu bằng việc Vinh quang của Giavê long trọng tiến vào Đền thờ.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Từ thuở ấu thơ, ngay cả khi chưa nói được. Chúa Giêsu đã hoàn tất các lời Kinh thánh. Hôm nay, Ngài thực hiện lời hứa đã ban cho Đanien (9,21-24), cho Malaki (3,1) và cho biết bao ngôn sứ khác ngày xưa. Hôm nay, trong con người trẻ bé Giêsu, chính Thiên Chúa trở lại cung thánh bị bỏ phế của Ngài. Vì, dù tội Israel thế nào chăng nữa, Thiên Chúa vẩn luôn trung thành với lời mình đã hứa. Sự thất trung của Israel chỉ làm trì hoãn việc thực hiện các lời hứa này, chứ không thể hủy bỏ chúng được. Trong cuộc đời chúng ta cũng thế. Ngày chúng ta được Rửa tội, Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm nghĩa tử Ngài. Rồi dù chúng ta có lắm bất trung, Ngài vẫn không khi nào ruồng rẫy. Dù tội chúng ta có xua đuổi Ngài ra khỏi cung thánh lòng ta, Ngài vẫn tìm mọi cách giúp chúng ta ăn năn thống hối. Hôm nay chúng ta hãy mở rộng cung thánh chúng ta cho Ngài, hãy mời Chúa Kitô đã từ nay vinh hiển đến ở mãi trong cuộc đời chúng ta, hãy cùng với Người tận hiến bản thân cho Thân phụ chí hảo của Người, để chúng ta cũng được trở nên "ánh sáng" (2,32) chiếu soi hết mọi người sẽ gặp chúng ta.
2. Hành động của Thánh Thần có mặt khắp cả bài Tin mừng hôm nay. Chính Thánh Thần ở trên Simêon (c.25) đã mặc khải cho ông biết ông sẽ thấy Đấng Messia trước khi qua đời (c.26), đã thúc đẩy ông vào Đền thờ ngay lúc Chúa Giêsu đến (c.27). Đối với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể sống dưới sự hoạt động của Thánh Thần cách thường xuyên nếu chúng ta ở trong ơn nghĩa thánh và biết chăm chỉ tuân theo những thúc đẩy bên trong của Ngài. Thánh Thần cũng có thể trở nên trong chúng ta một nguồn sáng giúp ta hiểu rõ hơn đức tin và bổn phận chúng ta, một nguồn sức mạnh và năng lực thiêng liêng giúp ta can đảm sống trọn đời môn đồ Chúa, một nguồn linh ứng cho lời cầu nguyện cũng như cho cuộc sống chúng ta thường ngày.
3. Simêon và Anna đã suốt đời chờ đợi giờ được cho xem thấy Chúa Kitô. Đối với chúng ta, họ là những tấm gương hy vọng và trung tín. lòng trung tín của họ đã được ân thưởng: họ được niềm vui bồng ẵm trên tay “Ang sáng dân ngoại”, “Vinh quang Israel", đích thân Thiên Chúa. Chúng ta cũng được hồng ân như vậy mỗi lần đi rước lễ. Chúng ta hãy chuẩn bị tiếp lấy ân sủng này trong sự trung tín mong chờ và đón nhận nó với tất cả tâm tình biết ơn như Simêon và Anna.
4. Maria và Giuse đã chấp hành hoàn hảo mọi yêu sách của Lề luật Môisen. Các đấng lại vâng phục dẫn độ còn thi hành thói quen đạo đức là Trình dâng con trai đầu lòng tại Đền thánh, một điều là luật không đòi hỏi. Sở dĩ các đấng đã đi quá Lề luật như thế, đó là vì các đấng đã tuân phục với tình yêu chứ không vì sợ hãi.
5. Maria, thụ tạo tinh tuyền nhất trong lịch sử nhân loại, đã khiêm tốn chấp hành nghi thức thanh tẩy. Phần chúng ta là những người đã bị tội lỗi làm cho ra vô cùng ô uế, chúng ta cũng hãy khiêm tốn lãnh nhận bí tích cáo giải để được thanh tẩy tâm hồn. Cho đến tận thế, Chúa Giêsu vẫn là dấu chỉ vấp phạm (c.34) vì buộc con người phải chọn lựa theo hay chống lại Ngài. Phần chúng ta, hãy làm lại việc dấn thân theo Ngài vô điều kiện. Nếu chúng ta trung thành với Ngài, thì "ân sủng Thiên Chúa cũng sẽ ngự xuống" (c.40) trên chúng ta và đổ đầy cuộc đời chúng ta niềm vui và ánh sáng.
7. Maria và Giuse đã ngạc nhiên khi nghe những điều Simêon và Anna nói về Quý tử. Sở dĩ ngạc nhiên, là vì các Đấng chưa hoàn toàn quán triệt mầu nhiệm sâu xa bao phủ con mình. Dù được sống thân mật với Chúa Giêsu, các đấng cũng phải tiến tới trong đức tin. Nhưng đức tin các đấng được đào sâu vì các đấng "gẫm suy mọi sự ấy trong lòng" (2,19). Đối với chúng ta, cũng chẳng có gì lạ nếu chúng ta không hiểu hết mầu nhiệm của Thiên Chúa. Dù đã qua 20 thế kỷ, Giáo Hội vẫn luôn luôn tiếp tục đào sâu mầu nhiệm Chúa Kitô. Như Chúa Kitô, đức tin chúng ta phải lớn lên, triển nở trong sức mạnh và ân sủng. Đức tin chúng ta, chính là sự tăng trưởng liên tục và dần dần của Chúa Kitô trong chúng ta.
Một ông vua muốn thử tài phán đoán của các con, ông đưa ra hai viên ngọc quý, một viên thật, một viên giả, viên ngọc thật ông gói trong giấy báo cũ, còn viên giả ông để trong một hộp thật đẹp. Ông gọi người con đầu tới và bảo anh chọn lấy một viên. Anh bỏ qua gói giấy xấu, lựa lấy viên trong hộp đẹp. Thế là anh đã chọn viên ngọc giả. Đến lượt người con thứ, vua cha cũng bảo như thế, anh này vốn là đứa con hiếu thảo, anh nói: “Thưa cha, con xin cha lựa giùm con”. Dĩ nhiên vua cha lựa cho anh viên ngọc thật.
Chúa Cứu Thế đến trần gian cũng ví được như một ngọc quý nhưng được che phủ trong dáng vẻ bình dị, tầm thường, ít người nhận ra. Muốn nhận ra Chúa Cứu Thế phải có ơn đặc biệt, phải chuẩn bị tâm hồn xứng hợp.
Chúa Giáng Sinh chẳng những như một em bé bình thường, mà còn kém các em bé bình thường nữa. Chúa cũng tuân giữ luật lệ như mọi người, dù em bé Giêsu là Thiên Chúa, dù Đức Maria vô cùng tinh sạch, Mẹ cũng bồng Chúa lên đền thờ làm nghi thức thanh tẩy và dâng lễ vật chuộc Chúa về. Một cặp chim, đó là lễ vật của nhà nghèo. Gia đình Chúa lên đền thờ như một gia đình nghèo khó thi hành luật định. Chúa như là viên ngọc dấu kín, thế nhưng đã có ông Simêon và bà Anna nhận ra Người.
Trong đền thánh có bao nhiêu người giỏi giang, thông thái như các tư tế, các luật sĩ. Họ am tường Kinh Thánh, hiểu rõ các lời ngôn sứ tiên báo về Chúa Cứu Thế, nhưng họ không nhận ra Chúa, vì Chúa quá nghèo khó bình dị. Trong khi ông chỉ là một ông lão nghèo. Bà Anna chỉ là một quả phụ, bần cùng yếu đuối, không quyền hành trong xã hội. Nhưng họ vốn là những người con hiếu thảo của Thiên Chúa: khiêm tốn, đạo hạnh, biết thờ Chúa với tất cả tấm lòng tin yêu phó thác vào quyền năng và tình thương của Thiên Chúa. Họ giống như người con thứ của vua trong câu chuyện kể trên. Họ đã được Chúa Thánh Thần soi sáng để nhận ra Chúa Cứu Thế qua dáng vẻ tầm thường của một hài nhi. Họ đã được đón nhận Chúa Cứu Thế, như những người nghèo hèn bé nhỏ được Chúa chúc phúc vậy.
Simêon và Anna nghèo khó đã hân hạnh được bồng ẵm Chúa Cứu Thế, được thay mặt nhân loại nói lời đầu tiên tung hô Chúa đến.
Simêon cũng đã tiên báo Chúa Cứu Thế sẽ là một báu vật được giấu kín giữa lòng thế nhân. Vì vậy có người nhận ra nhưng đa số vẫn từ chối Ngài, thậm chí còn chống đối Ngài. Do đó Ngài sẽ là duyên cớ cho nhiều người vấp ngã. Và thái độ họ sẽ như một lưỡi gươm đâm thấu trái tim Đức Maria, sẽ làm Mẹ tan nát cõi lòng như ta thấy về sau.
Chu toàn bổn phận theo luật định xong, gia đình Chúa Giêsu trở về Nagiarét. Ở đó, Chúa Giêsu lớn khôn, học hành, tập nghề thợ mộc như các bạn thiếu nhi. Cuộc sống Chúa vạch rõ tầm quan trọng của gia đình, cái nôi cần thiết cho mọi người. Chúa sống ở trần gian 33 năm, thì đã sống 30 năm bình thường trong gia đình nghèo khó.
Xin Chúa giúp chúng con theo gương Chúa sống trung hiếu với Cha trên trời, thảo kính ông bà cha mẹ ở trần gian và sống tình huynh đệ với mọi người. Biết vâng giữ luật Chúa, luật Hội Thánh và các luật lệ chính đáng trong xã hội.
“Tiếp nối tinh thần Thư Chung 2007 về giáo dục Kitô giáo, năm nay chúng tôi mời gọi anh chị em hãy cùng với chúng tôi suy tư và hành động để góp phần chấn chỉnh môi trường giáo dục tại gia đình (x. Thư Chung 2007, số 38). Giáo dục tại gia đình là vấn đề quan trọng và cần thiết, tạo tiền đề cho việc phát triển nền giáo dục nói chung, vì gia đình là nền tảng của Giáo Hội và xã hội. Nếu nền tảng gia đình được củng cố chắc chắn, Giáo Hội và xã hội tương lai sẽ phồn thịnh và phát triển. Qua Thư Mục vụ này, chúng tôi muốn bày tỏ mối ưu tư đối với hiện trạng gia đình Việt Nam và nêu lên những đề nghị cụ thể để góp phần canh tân mục vụ trong lãnh vực này, một lãnh vực căn bản của đời sống con người và đời sống Giáo Hội.” Đọc những dòng chữ trên của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong Thư Mục Vụ 2008 vừa mới được phổ biến đầu tháng 12.2008, chúng ta sẽ thấy rõ hơn ý nghĩa của Lễ Thánh gia năm nay: Thánh Gia là mẫu gương giáo dục gia đình.
II. LẮNG NGHE & TÌM HIỂU LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH 2.1 Lắng nghe Lời Chúa trong ba bài Thánh Kinh 2.1.1 Bài đọc 1: Hc 3,2-6.12-14: Ai kính sợ Đức Chúa thì hiếu thảo với cha mẹ. 2 Đức Chúa làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con. 3 Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, 4 ai kính mẹ thì tích trữ kho báu. 5 Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe. 6 Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng. 12 Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. 13 Người có lú lẫn, con cũng phải cảm thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người. 14 Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con.
2.1.2 Bài đọc 2: Cl 3,11-21: Đời sống gia đình theo tinh thần của Chúa.
11 Vậy không còn phải phân biệt Hy Lạp hay Do Thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ, nô lệ, tự do, nhưng chỉ có Đức Ki-tô là tất cả và ở trong mọi người. 12 Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại. 13 Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau. 14 Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: đó là mối dây liên kết tuyệt hảo. 15 Ước gì ơn bình an của Đức Ki-tô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó. Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân.
16 Ước chi lời Đức Ki-tô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú. Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan. Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng. 17 Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha.
18 Người làm vợ hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. 19 Người làm chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. 20 Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. 21 Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng.
2.1.3 Bài Tin Mừng: Lc 2,22-40: Hài Nhi ngày càng lớn lên, đầy khôn ngoan.
22 Khi đã đủ thời gian, đến ngày các ngài phải được thanh tẩy theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, 23 như đã chép trong Luật Chúa rằng: "Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa", 24 và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. 25 Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. 26 Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa. 27 Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, 28 thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
29 "Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. 30 Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ 31 Chúa đã dành sẵn cho muôn dân:
32 Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài."
33 Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Si-mê-ôn vừa nói về Người. 34 Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi: "Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; 35 và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà."
36 Lại cũng có một nữ ngôn sứ tên là An-na, con ông Pơ-nu-ên, thuộc chi tộc A-se. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, 37 rồi ở goá, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. 38 Cũng vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem.
39 Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê. 40 Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
2.2 Trong ba bài Thánh Kinh trên, chúng ta khám phá ra Thiên Chúa là Đấng nào?
2.2.1 Thiên Chúa mà Sách Huấn ca muốn trình bày là Đấng Thiên Chúa rất xem trọng các giá trị đạo đức của gia đình: lòng hiếu thảo và sự chăm sóc của con cái dành cho cha mẹ là những giá trị cao quý, làm vui lòng Thiên Chúa! Vì thế những kẻ làm con phải biết thờ cha kính mẹ, săn sóc và kính trọng các bậc sinh thành.
2.2.2 Thiên Chúa mà Thánh Phaolô muốn giới thiệu là Đấng Thiên Chúa đã phá đổ mọi ngăn cách giữa người với người và làm cho mọi người bình đẳng trước mặt Thiên Chúa. Vì thế các tín hữu - là những người đã được Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương - phải có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại đối với nhau, trước hết là trong gia đình rồi đến giữa cộng đoàn những kẻ tin và ngoài xã hội.
2.2.3 Thiên Chúa mà Thánh Luca muốn giới thiệu với thế giới là Chúa Giêsu Hài Nhi, Đấng Thiên Chúa nhập thể làm người đã chọn sinh ra trong một gia đình và sống mọi tình huống mà luật lệ đã quy định cho các gia đình. Người đã được cha mẹ dâng hiến cho Thiên Chúa trong đền thờ như Luật dậy và đã được các vị ngôn sứ của đền thờ (Si-mê-ôn và An-na) đón mừng và tiên báo tương lai. Sau đó Hài Nhi Giêsu sống đời ẩn dật với cha mẹ ở Na-da-rét: Người càng lớn càng khôn ngoan mạnh mẽ và được tràn đầy ân nghĩa cùng Thiên Chúa.
2.3 Qua ba bài Thánh Kinh trên, Thiên Chúa muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta?
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là chúng ta hãy chiêm ngắm, suy niệm và noi gương bắt chước CHÚA GIÊSU HÀI NHI là Đấng Thiên Chúa nhập thể làm người đã chọn nếp sống gia đình, đã sống ẩn dật và vâng phục cha mẹ (là Thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a) trong mái ấm Na-da-rét.
III. SỐNG LỜI CHÚA HÔM NAY
Là khi chúng ta thực hiện được ba việc quan trọng này:
3.1 Cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng Thiên Chúa về Mầu Nhiệm Con Thiên Chúa làm người sống đời sống gia đình bình dị như bao nhiêu con người trong thế giới loài người chúng ta!
3.2 Sống các giá trị của gia đình là lòng hiếu thảo và vâng phục đối với cha mẹ, săn sóc và kính trọng các bậc sinh thành.
3.3 Giáo dục con em chúng ta thành những đứa trẻ càng khôn lớn thì càng khôn ngoan vững mạnh và được nghĩa cùng Thiên Chúa.
IV. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ THẾ GIỚI
[Có thể dùng làm Lời Nguyện Giáo Dân trong Thánh Lễ]
4.1 «Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương » Chúng ta hãy dâng lời cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa vì Người đã tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương chúng ta trong Con Một của Người là Chúa Giê-su Hài Nhi!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.2 «Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng.» Chúng ta hãy chúc tụng, ngợi khen và cảm tạ Chúa Giê-su Hài Nhi: Người là Thiên Chúa cao sang, giầu có khôn lường mà đã hạ mình sống ẩn dật và vâng phục cha mẹ là phàm nhân!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.3 «Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha.» Chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa quyết tâm có làm gì nói gì thì sẽ làm sẽ nói nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
4.4 «Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa.» Chúng ta hãy cầu nguyện cho con em chúng ta và cho tất cả những người trẻ trong xã hội, để chúng càng lớn lên thì càng thêm vững mạnh, khôn ngoan và được ơn nghĩa cùng Thiên Chúa!
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
[Cũng có thể dùng Lời Cầu Nguyện sau đây]
Lạy Thánh Gia Na-da-rét, là gương mẫu của đời sống thánh thiện, công bình và yêu thương, xin cho gia đình chúng con trở nên nơi đào tạo nhân đức, trong hiền hòa, phục vụ và cầu nguyện. Xin cho chúng con xây dựng gia đình, thành nơi an ủi cho cuộc đời đầy thử thách. Xin cho chúng con biết làm cho mọi người trong gia đình, được thăng tiến để góp phần vào việc phát triển xã hội, và cộng tác trong việc xây dựng Giáo hội.
Xin Ba Đấng luôn hiện diện trong gia đình chúng con, khi vui cũng như lúc buồn, khi làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi, khi lo âu cũng như lúc hy vọng, khi sinh con cũng như lúc có kẻ qua đời, để khi trải qua mọi thăng trầm của cuộc sống, chúng con luôn luôn chúc tụng Chúa, cho đến ngày được sum họp với Ba Đấng trong Nước Trời. Amen.
Khi xuống thế làm người, Đức Kitô đã sống trong một gia đình, có cha có mẹ và tình yêu không hề thiếu vắng dưới mái nhà Nadarét. Chúng ta không biết nhiều về đời sống của Thánh Gia, nhưng qua Phúc Âm chúng ta thấy thánh Giuse, Mẹ Maria và Chúa Giêsu luôn gắn bó và ở bên nhau trong mọi biến cố vui buồn.
Thực vậy, chính thánh Giuse đã đưa Mẹ Maria xuống Bêlem để đăng ký hộ khẩu, giữa lúc ngày sinh đã tới gần. Rồi thánh Giuse cũng đã đưa Mẹ Maria lên đền thờ cùng với hài nhi Giêsu để chu toàn những điều luật định. Chúng ta cũng không quên việc thánh Giuse đưa Mẹ Maria và hài nhi Giêsu trốn sang Ai Cập, sau đó trở về Nadarét và sinh sống tại đó.
Một kỷ niệm khó quên khác nữa đó là lần Chúa Giêsu ở lại đền thờ khi lên 12 tuổi khiến cho thánh Giuse và Mẹ Maria phải lo âu tìm kiếm.
Cuộc sống của Thánh Gia không phải lúc nào cũng phẳng lặng, trái lại có những lúc tưởng chừng như muốn tan vỡ. Mặc dầu gắn bó mật thiết với Chúa, nhưng Thánh Gia cũng đã gặp phải những khó khăn và khổ đau, nhất là đối với Mẹ Maria. Nỗi bất hạnh lớn nhất của đời Mẹ đó là phải chứng kiến cảnh tượng con mình bị treo trên thập giá.
Cuộc sống gia đình của chúng ta cũng không thể tránh khỏi những hy sinh và mất mát, những lo âu và buồn phiền. Điều quan trọng là phải biến nắm lấy tay nhau và cùng nhau nắm lấy tay Chúa để có được những nghị lực cần thiết, nhờ đó mà vượt qua những gian nan thử thách, những sống gió cuộc đời.
Nhìn vào đời sống của Mẹ Maria, chúng ta thấy ngoài việc nội trợ hằng ngày, thì một việc khác quan trọng hơn Mẹ đã thực hiện, đó là cầu nguyện. Phúc Âm thường viết về Mẹ như sau: Mẹ ghi nhớ những sự việc ấy và suy niệm trong lòng.
Còn thánh Giuse thì sao? Ngài là người đứng mũi chịu sào cho cuộc sống của cả gia đình. Nói đến cuộc sống là nói đến cái ăn cái mặc và những nhu cầu cần thiết khác. Thời nào cũng có những khó khăn của nó. Thánh Giuse đã phải vất vả lo sao cho gia đình đủ sống. Lao động để phục vụ gia đình, phải chăng đó là con đường nên thánh của Giuse?
Và như thế, bầu khí của mái nhà Nadarét là bầu khí của yêu thương, cầu nguyện và lao động. Đức Kitô không phải là một thần đồng, cũng không phải là một Phù đổng Thiên vương, Ngài chỉ là một con người bình thường như chúng ta, đã từ từ lớn lên trong thời gian với bầu khí thân thương ấy.
Thời gian là ánh mặt trời làm cho trái xanh được chín. Không hấp tấp cũng không dậm chân tại chỗ. Chúa Giêsu đã đi một chặng đường dài hơn 30 năm để được trưởng thành và sẵn sàng thi hành sứ mạng cứu thế của mình.
Còn gia đình chúng ta thì sao? Có yêu thương? Có cầu nguyện và có lao động như Thánh Gia hay không?
Những tranh ảnh về Thánh Gia thường diễn tả một gia đình ấm êm hạnh phúc. Thánh Giuse làm thợ mộc trong nhà. Đức Mẹ ngồi may vá. Đức Giêsu phụ giúp Thánh Giuse. Phải chăng Thánh Gia luôn sống trong êm đềm thư thái, không hề biết đến khổ đau? Phải chăng cuộc sống gia đình thánh cứ phẳng lặng trôi như mặt nước mùa thu không gợn sóng gió? Không phải, trái lại Thánh Gia đã biết đến rất nhiều sóng gió, thử thách.
Còn thử thách nào lớn hơn cảnh nghèo. Vì nghèo mà biết bao gia đình sinh ra bất hoà, ấy thế mà Thánh Gia đã phải trải qua những kinh nghiệm đớn đau của kiếp nghèo. Bị xua đuổi, bị hất hủi đến nỗi phải trú ngụ trong chuồng bò lừa. Thê thảm hơn nữa, phải sinh con giữa bầy súc vật, không giường chiếu chăn màn.
Còn gì buồn hơn là bị thù ghét, bị săn đuổi? Thánh Gia sống hiền lành khiêm nhường, thế mà phải chịu đựng sự thù ghét của Hêrôđê. Vừa sinh ra, còn non nớt đã phải bồng bế nhau chạy trốn, xa quê hương đất nước.
Còn cảnh nào bi đát bằng cảnh vợ chồng hiểu lầm nhau? Thế mà Thánh Giuse đã hiểu lầm Đức Mẹ khi Đức Mẹ thụ thai bởi quyền phép Đức Chúa Thánh Thần. Ai đã trải qua cảnh nghi ngờ bị phản bội sẽ hiểu Thánh Giuse đã bị dày vò đau đớn đến mức nào.
Còn gì khiến cha me buồn hơn khi thấy con cái không ngoan ngoãn vâng lời, bỏ nhà ra đi? Vậy mà Thánh Giuse và Đức Mẹ đã phải chứng kiến cảnh đứa con ngoan ngoãn của mình tự động ở lại Đền Thờ mà không xin phép cha mẹ. Các ngài vất vả lo âu tìm kiếm thì ít, nhưng buồn phiền đau khổ thì nhiều. Làm sao các ngài tránh khỏi buồn phiền khi nghĩ rằng người con mà các ngài rất mực yêu quý đã cãi lời cha mẹ?
Những sóng gió mà Thánh Gia đã phải đương đầu như thế có lẽ nhiều và nặng nề hơn những gia đình bình thường. Thế nhưng các ngài vẫn giữ được hạnh phúc gia đình. Nhờ bí quyết nào các ngài đã vượt qua được biết bao cơn sóng gió như thế?
Trước hết các ngài luôn tìm thánh ý Chúa. Mỗi khi gặp gian nan thử thách, các ngài không tìm ý riêng mình, cũng không tìm ý thích của người đời, nhưng luôn đi tìm ý Thiên Chúa. Tìm ý Chúa mạc khải trong Kinh Thánh, qua các biến cố xảy đến. Tâm sự với Chúa trong giờ cầu nguyện. Hỏi ý kiến Chúa nơi các vị đại diện.
Khi biết được thánh ý Chúa, các ngài lập tức mau mắn vâng lời. Đức Mẹ muốn giữ mình đồng trinh, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Mẹ liền thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng lời thiên sứ truyền”. Thánh Giuse đang muốn bỏ đi, nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người ở lại, Người đã vâng lời ngay không ngần ngại.
Sau cùng, các ngài luôn quên mình vì hạnh phúc của mọi người trong gia đình. Thánh Giuse tuy là gia trưởng, nhưng đã hết tình phục vụ Đức Mẹ và Đức Giêsu. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng lại xưng mình là tôi tớ của Thiên Chúa. Còn Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng lại trở thành người con bé nhỏ nhất trong gia đình.
Ngày nay, nhiều gia đình gặp khủng hoảng, lâm vào cảnh cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, vì đã không biết áp dụng những bí quyết của Thánh Gia. Mỗi khi gặp khó khăn, thay vì cầu nguyện, đọc Phúc Âm để tìm ý Chúa thì lại đi tìm ý kiến ở những nơi mê tín dị đoan. Thay vì vâng lời Chúa qua các vị bề trên thì lại chỉ tìm ý riêng mình. Thay vì khiêm nhường quên mình thì lại kiêu ngạo tự ái, bắt người khác phải phục vụ mình.
Hôm nay, gia đình chúng ta hãy biết noi gương Thánh Gia: Bỏ ý riêng để tìm thánh ý Thiên Chúa; mau mắn vâng lời Chúa; và hạ mình khiêm nhường, quên mình để phục vụ người khác. Có như thế chúng ta mới hy vọng giữ được hạnh phúc gia đình, nhất là khi phải đối phó với những khó khăn ngày càng nhiều trong đời sống hiện nay.
Lạy Thánh Gia, xin nâng đỡ gia đình chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Mỗi khi gia đình có việc rắc rối, tôi thường làm gì trước: cầu nguyện, đọc Phúc Âm, hay là đi xem bói? 2. Mỗi khi có bất đồng ý kiến, tôi thường khiêm nhường xét mình, hay là tự ái bắt người khác phải nhận lỗi? 3. Qua tấm gương của Thánh Gia, tôi có quyết tâm gì để xây dựng hạnh phúc gia đình trong năm mới?
Đây là câu chuyện hết sức quan trọng của Kinh Thánh. Luật quy định rằng mọi người nam Do Thái đã lớn, sinh sống trong vòng 24 km chung quanh Giêrusalem phải đến Đền Thờ dự Lễ Vượt Qua. Trong thực tế thì mỗi người Do Thái đã sống ở bất cứ nơi nào trên trái đất đều ước mong được dự Lễ Vượt Qua tại Giêrusalem, ít nhất một lần trong đời.
Bé trai Do Thái được kể là thành nhân khi lên 12 tuổi. Vào tuổi này là đã trở nên con của lề luật và phải tuân giữ lề luật. Như vậy, lúc 12 tuổi, Chúa Giêsu đã dự Lễ Vượt Qua đầu tiên. Chúng ta có thể tưởng tượng là Chúa Giêsu thích thú đến dường nào khi nhìn xem thành thánh, xem Đền Thờ và thấy các nghi lễ.
Khi cha mẹ trở về thì Ngài ở lại. Cha mẹ đã lạc mất Ngài vì sơ ý. Thường thì đàn bà, con gái lên đường trễ hơn, đi mau hơn, và đến chiều tối, lúc cắm trại nghỉ, hai đoàn mới gặp nhau. Đó là Lễ Vượt Qua đầu tiên đối với Chúa Giêsu. Chắc hẳn Giuse nghĩ rằng Chúa Giêsu đi với Maria, còn Maria tưởng Ngài đi với Giuse, cho đến khi hạ trại lúc chiều tối họ mới hay đã lạc mất Ngài.
Họ trở lại Giêrusalem để tìm Chúa Giêsu. Vào dịp Lễ Vượt Qua, Toà Công Luận theo thói quen thường hội họp công cộng trong hành lang của Đền Thờ để bàn luận các vấn đề tôn giáo cho cả dân chúng được nghe. Chính tại đó, bà Maria và Giuse đã tìm thấy Chúa Giêsu. Chúng ta không nên nghĩ cảnh tượng một đứa trẻ thần đồng đang lấn át cả một đám người lớn là những nhân vật quan trọng. “Vừa nghe vừa hỏi” đó là câu nói rất thông thường của cậu học trò hỏi vị giáo sư của mình. Chúa Giêsu nghe các lời tranh luận và khát khao tìm hiểu như một cậu học trò chăm chỉ.
Và bây giờ đến một trong những câu chìa khoá về cuộc đời Chúa Giêsu. Maria nói “Cha và mẹ đã lo lắng tìm con” Chúa Giêsu đáp: “Cha mẹ không biết con phải ở trong nhà của Cha con sao?”. Ta thấy Chúa Giêsu vừa dịu dàng vừa cương quyết đoạt tiếng “Cha” khỏi Giuse và trao tiếng Cha đó cho Thiên Chúa. Đã có một lúc nào đó Chúa Giêsu phải khám phá ra mối liên hệ đặc biệt duy nhất của Ngài đối với Thiên Chúa. Ngài đã không thể biết điều đó khi Ngài còn nằm trong máng cỏ và khi còn nằm trong lòng mẹ, bằng không chính Ngài là một người kỳ dị. Thời gian trôi qua, chắc Ngài suy nghĩ, và rồi trong Lễ Vượt Qua đầu tiên này, với tuổi thành nhân chớm nở trong Ngài, Ngài bỗng nhận thức được rằng Ngài là Con Thiên Chúa theo một nghĩa đặc biệt và duy nhất. Ở đây chúng ta có câu chuyện về ngày Chúa Giêsu khám phá ra mình là ai. Hãy chú ý điều này –khám phá đã không làm cho Ngài kiêu căng. Điều đó không hề khiến Chúa Giêsu khinh thường cha mẹ chất phác của mình, bà Maria dịu dàng và ông Giuse cần cù lam lũ. Ngài trở về nhà và vâng phục cha mẹ. Chính sự kiện Ngài là Con Thiên Chúa đã khiến Ngài nên người con thảo hiếu với cha mẹ trần gian. Người thật sự thuộc về Thiên Chúa không bao giờ khinh dể những mối liên hệ tự nhiên. Chính vì chúng ta là người thuộc về Chúa mà chúng ta cần thực hiện bổn phận con người một cách trung tín tuyệt đối.
Những biến cố chung quanh vị thiếu niên trong đền thờ đã mang một tầm mức đặc biệt vì đó là tất cả những gì người ta biết được trong khoảng thời gian dài của ba mươi năm ẩn dật; chỉ có một lần này là im lặng bị phá vỡ: vì thế quang cảnh này như là một luồng sáng giữa đêm đen.
1. Lễ Vượt Qua.
Cần phải nói qua về lễ Vượt Qua. Từ nguồn gốc lễ Vượt Qua là lễ mùa xuân của những người chăn chiên du mục trong hoang địa. Mỗi khi họ tụ tập lại dưới căn lều để ăn thịt chiên thui và nướng, chia sẻ bánh và vây quanh chén lớn, thì họ ý thức về cộng đoàn của họ; với việc bôi máu chiên trên cọc lều họ tin rằng đã đuổi được ma quỷ. Cứ thế, họ có thể tán tụng mùa xuân đang tới trong niềm vui vẻ.
Môisen, sau khi đã biết lễ này nơi hoang địa, ông thánh hoá nó và mang lại cho nó một ý nghĩa mới. Đưa vào đó một mùa xuân của các tân cộng đồng, gia đình và dòng tộc dân Chúa. Trong máu con chiên là hiến lễ hy sinh, là bảo vệ đời sống và chiến đấu chống lại thần chết. Như vậy Israel hằng năm cử hành lễ kỷ niệm cuộc rời bỏ Ai cập và ra đi dưới sự phù trợ của Giavê. Nhưng phải đứng mà ăn chiên, tay cầm gậy du hành: dấu hiệu cho thấy Israel chưa đạt được mục đích và luôn trên đườgn lữ thứ.
Khi dự lễ Vượt qua cuối cùng, Chúa Giêsu sẽ mang lại cho nó một ý nghĩa mới nữa. Chính Ngài sẽ là con chiên và máu Ngài sẽ bảo vệ khỏi satan và khỏi cái chết thiêng liêng. Cộng đoàn dùng bữa mà Ngài thiết lập không hệ tại ở chuyện ăn cùng một bánh, uống cùng một chén: bánh này đã được đổi thành Thịt Ngài, rượu này thành Máu Ngài và như vậy, người ta sẽ thành kẻ đồng bàn với Ngài và bởi đó cũng là đồng bàn với nhau.
Để kỷ niệm cuộc thoát ách tôi đòi ở Ai cập ngày xưa, Ngài đã liên kết vào việc từ bỏ tội lỗi và làm nô lệ cho nó để đi vào đời sống mới của tự do. Sự sống lại từ cõi chết của Ngài là bước đầu của một dân mới Thiên Chúa trong nước Vinh Quang.
Hơn nữa, đó luôn còn là ngày lễ Giáo Hội lên đường. Nhưng với ngày tái lâm của Chúa mới là cuộc biến đổi thứ tư của lễ Vượt qua này. Khi đó, dân được chọn sẽ bỏ đời sống tạm này để bước vào cuộc biến hình trên trời.
Tất cả sẽ nhận biết rằng mình đã được cứu nhờ Máu Con chiên và được dự phần trong tiệc cưới của cộng đoàn Đức Kitô. Đó là lễ Vượt Qua vĩnh cửu mà người ta nhắc đến mỗi năm và nhớ đến mỗi tuần trong ngày Chủ nhật. Đây là những giai đoạn của cuộc lễ này, từ khởi đầu hoàn toàn tự nhiên và chưa được khai hoá, có tính cách tượng trưng nơi dân Israel, tới khi hoàn tất với việc Đức Kitô đến rồi trọn vẹn đầy đủ khi Ngài trở lại.
2. Cậu thiếu niên ở lại.
Đức Maria và Thánh Giuse lên đường trở về cùng với dân Nagiarét, mà tân hồn họ đang hân hoan vì còn vang vọng niềm vui ngày lễ. Các trẻ nhỏ thường đi chung với họ, và chỉ tìm thấy chúng vào buổi tối nơi trạm nghỉ chân đầu. Lần này Chúa Giêsu ở lại. Điều đó hẳn có ý nghĩa. Đây là lần đầu tiên Chúa ở lại đền thờ của Cha Ngài với đầy đủ ý thức và ở đó, trong ánh sáng chói loà, trong sự sung mãn dồi dào, trong sự cao cả lan toả. Ngài hiểu sứ mạng đặc biệt nhận từ nơi Cha, sự hiện diện của Ngài bên Cha, và trong Cha. Đó là cảnh huy hoàng, hùng vĩ thứ nhất của Tin mừng.
Cảnh thứ hai là khi Chúa chịu phép rửa ở sông Giođan với tiếng nói từ trời và Thần Trí ngự xuống, còn cảnh thứ ba là trên núi Tabor.
Cả khi Chúa Giêsu được hưởng kiến Chúa Cha trong bản tính cao với của Ngài, tâm hồn Ngài cũng không luôn để tràn ra nếu Ngài đã không biết đến đau khổ. Việc Ngài lớn lên, trưởng thành, học hỏi, triển nở tiệm tiến chỉ là một tác vi bên ngoài và mang tính cách nhân loại. Thỉnh thoảng ánh sáng từ trên cao mới vọt sáng nơi Ngài theo như sứ mạng cứu thế của Ngài. Trên bờ sông Giođan một sự sung mãn tràn lan trên Ngài, thống trị Ngài tới độ sự phong phú của Thần khí thúc đẩy Ngài xa lánh con người để vào nơi hoang địa.
Trên núi Tabor, ánh sáng chói ngời vây phủ Ngài đến nỗi Ngài biến hình hoàn toàn.
Ở đây, cậu bé mười hai tuổi, đã đầy tràn Thần khí Thiên Chúa đến độ ở lại đền thờ và trong một tầm mức nào đó, đã mất đi cái ý niệm về không gian và thời gian. Trong nhà của Cha Ngài, Ngài ngụ cách hữu hình đã vậy, nhưng luôn luôn vẫn là cách vô hình. Nhưng tại sao Ngài phải ra đi? Sự hiện diện của Ngài ở đền thờ không phải là cuộc hành hương ngắn ngủi; Ngài thực sự ở nhà Ngài, nơi mà Ngài phải ở. Cái làm ta ngạc nhiên là chuyện Ngài sẽ ra đi vào một lúc nào đó, chứ đâu phải chuyện Ngài ở lại.
Đối với chúng ta thì khác, sự diện kiến Chúa Cha trong những phút ngắn ngủi của các giờ kinh nguyện, luôn là một kinh nghiệm yếu đuối. Chỉ là một tiếng vọng vang nhẹ, xa xa của lời mời gọi mạnh mẽ đã đủ đi sâu vào tâm hồn thiếu niên Giêsu, thoát ra một luồng ánh sáng mờ mờ từ một Thần trí phong phú. Hình như đối với chúng ta, việc trở lại vết xe cũ một cách nhanh chóng, quả là quá tự nhiên. Chúng ta thấy mình bỡ ngỡ trong những cái mà chúng ta phải quen thuộc. Thế giới cầu nguyện có lẽ là cái gì không hề và ít được biết đến, đang khi chúng ta quá biết rằng chúng ta đang ở một nơi mà chúng ta phải nhận thực rằng: cách biệt với Thiên Chúa.
3. Lời của Chúa Giêsu
Đây là lời nói đầu tiên của Chúa Giêsu được ghi lại trong Tin mừng; nó mang đến cho chúng ta một ý nghĩa đặc biệt, và như trước và sau đó, là một vực thẳm im lặng vây kín. Lời đó giống như một hòn đảo kỳ dị chìm xuống đại dương trầm lặng.
‘Thì tại sao lại tìm con?’ Cha mẹ không biết là con phải ở nơi nhà Cha con sao? Lời của Đức Maria: ‘Này con, sao làm như vậy?’ Hẳn là một lời khiển trách nghiêm khắc. Chúa Giêsu đã trả lời lại với vẻ hơi ngạc nhiên và che dấu một sự trách cứ nhẹ nhàng. Tại sao người ta lại tìm Ngài ở những chỗ không phải là của Ngài? Nếu muốn kiếm Ngài, thì phải đến nơi Cha Ngài, đó là chỗ của Ngài. Chớ gì họ biết đến điều đó và hành động theo đó. Chúng ta cũng thế, đôi khi ta cũng tìm Đức Kitô không đúng chỗ, ta nghĩ Ngài sẽ đến chỗ đang xẩy ra những biến cố quá quan trọng nhưng lại thật vô ích; ở những nơi mà dục vọng quả thực là rất đê tiện, đã làm ta choáng váng, cuối cùng ở những chỗ mà chúng ta cho là quan trọng đối với cuộc sống, mặc dù nó chỉ là những cái không đáng để ý gì hết. Thật ra, chúng ta phải tìm Chúa không phải nơi ta ở mà là nơi Ngài ở: bên trong Chúa Cha, trong thánh ý và thần trí Ngài.
Lời Chúa nói đây đặt ra những khoảng cách đâỳ ý nghĩa. Ngài không thuộc về cha mẹ thế trần này. Ngài sẽ không ở trong căn nhà nhỏ bé Nagiarét, trong giới hạn của Thánh gia này. Nếu bây giờ Ngài trở về đó và vâng phục các vị, thì Đức Maria và Thánh Giuse, từ nay cũng biết rằng chuyện đó không kéo dài mãi đâu, vì đấy chỉ là tạm thời và nặng tính cách sửa soạn thôi. Ngài được ban cho các vị, thực ra, là để các vị trao lại Ngài. Ngài ở lại giữa các vị, ngõ hầu để Ngài đi vào giữa lòng dân tộc và nhân loại. Không phải vì chuyện ích kỷ mang mầu đạo đức hay lợi dụng ơn thánh, nhưng hồng ân phải được triển đạt và tuần hoàn.
‘Con phải ở nơi nhà Cha con’. Phải tham dự vào vẻ vĩ đại và bao la của nước Thiên Chúa. Thế giới và nhân loại thuộc về Cha Ngài. Tất cả thuộc Cha Ngài. Chính vì thế mà Ngài đến cho vũ trụ và con người, cho mọi loài và mọi người. Sứ mạng của Ngài thật lớn lao phổ quát. Khi Ngài ngồi dưới hàng cột đền thờ giữa các vị thông thái để hỏi và đáp lời họ, đó chính là dấu hiệu bên ngoài của thái độ ở giữa nhân loại của Ngài để đặt ra những câu hỏi mà đã lâu con người không biết trả lời và đưa ra những giải đáp mà không ngừng gây ngạc nhiên cho chính các vị thông minh và giỏi giang.
Từ những lời này, mỗi người trong nhân loại sẽ nhận được một lời mời gọi riêng của Thiên Chúa, dù là linh mục, tu sĩ, để biết rằng phải bỏ sự an toàn của đời sống gia đình êm ấm, nhưng chật hẹp, biết rằng họ sẽ phải ném vào làm mồi cho một thế giới náo loạn, hiếu chiến; vào những vấn đề lớn lao và khó khăn mà chỉ còn một nơi nương ẩn duy nhất là lòng Chúa Cha.
Biến cố lạ kỳ của ngày lễ Vượt qua đầu tiên đây chỉ là bước đầu; giai đoạn kỳ lạ hơn phải là ngày vượt qua cuối cùng của đời sống trần thế của Chúa Giêsu, đó mới là kết luận và đồng thời là khởi điểm của một đời sống mới bên Chúa Cha.
Tin mừng viết thêm: ‘Nhưng ông bà đã không hiểu lời Ngài nói với các vị’. Đức Maria và Thánh Giuse, những người sáng suốt, thông thái đã chẳng hiểu gì về cả các hành vi lẫn ngôn từ trong ngày lễ Vượt qua này. Mà đâu phải dễ hiểu, dù là trong tầm mức nhỏ nhoi, bí mật của Chúa Giêsu, và những lời nói lạ lùng của Ngài. Đức Maria chỉ có thể để những điều đó thấm vào lòng dần dần, từ từ, tầm trí Mẹ chỉ có thể được như vậy thôi, vì như Tin mừng cho thấy: ‘Ngài giữ hết những sự việc đó trong tâm hồn’. Chỉ ai có được trí tuệ thông suốt và một tâm hồn giầu đức ái, năng suy lời Chúa và giữ trong tâm hồn, mới đi dần dần, nhẹ nhàng vào thế giới bí ẩn thần thiêng được.
NAGIARÉT (2, 51-52)
1. Cuộc sống.
Người ta không thể hình dung đủ về cuộc sống ở Nagiarét như lúc khởi thuỷ được, cả bằng điều kiện sinh sống bên ngoài lẫn quá trình của cuộc sống. Đây là một làng ở hướng đông thành Galilê, nằm trên một miền cô quạnh của những đồi trọc, chỉ ngưng làm việc vào những ngày Sabbat và lễ tôn giáo. Người ta tự hỏi tại sao Chúa Giêsu mang trong mình một sứ mệnh quá ư là lớn lao mà lại làm người sống hơn ba mươi năm trong cảnh u tịch và xét về mặt con người trong cảnh sinh hoạt vô nghĩa này.
Tin mừng không cho ta biết lý do, vì thế, khi suy niệm, chúng ta phải tìm đến những suy tư cá nhân. Chắc chắn chúng ta được phép đề cập đến những điểm sau:
Trước hết, đời sống ẩn dật tự nó là một lý do đầy đủ vì nó cho ta thấy rằng đối với Thiên Chúa có cái gì khác; với cái nhìn phàm trần, để gây ấn tượng, thì phải có những gì đập vào mắt, vào tai, gây chú ý… Tác vi và công việc bên ngoài hình như là tiêu chuẩn quyết định. Còn với Thiên Chúa thì lại khác hẳn, ý hướng bên trong đáng giá hơn cả. Những việc bình thường thôi, nhưng được làm với lòng mến tuyệt vời lại lớn lao, đang khi việc lớn mà làm với ý hướng thấp yếu, thì kém giá trị.
Một dân quê cả đời chỉ biết có xóm làng quê mùa của miền sơn cước, hết năm này qua năm khác trung thành với nhiệm vụ của mình thôi, thì hiển nhiên, theo phán quyết của Thiên Chúa là lớn lao và ảnh hưởng hơn một người làm đảo lộn thế giới, hoàn tất những công trình vĩ đại, làm ngạc nhiên tất cả những ai như họ, và để lại đằng sau họ một luống sâu. Người không biết đến giá trị của đời sống âm thầm và ẩn dật không thể tự bào chữa trước mặt Thiên Chúa, Đấng hoà hoãn và ẩn mình.
Thứ đến phải nói thêm vào đó tầm quan trọng của việc sửa soạn. Trước một sứ mệnh thật lớn lao, Chúa Giêsu đã theo luật dậy là phải có thời giờ để sửa soạn. Một luật gia không thể xuất hiện trước quần chúng trước khi được ba mươi tuổi. Chỉ có người chín chắn thực sự mới được coi là đã chuẩn bị đủ để loan báo luật Chúa. Vì thế, linh mục mà vai trò của Ngài là giảng truyền và phân phát ơn thánh, phải biết dành tời giờ để sửa soạn lòng trí và tâm hồn. Những người đến với Ngài chắc chắn không phải để gặp một người lịch sự xã giao hoàn hảo, chỗ nào cũng đầy thoải mái, hay một cầu thủ ‘hết xẩy’ với vai u thịt bắp hoặc là một thương gia tài khéo, biết kinh doanh sinh lợi lộc về tiền bạc. Và càng không muốn tìm kiếm một người lành nghề tổ chức, không bao giờ thiếu kế hoạch kinh doanh; một nhà trí thức, thông thái trả lời được mọi vấn đề hay nhà ngoại giao giỏi giang luôn tìm ra được cánh cửa kín, nhưng người ta tìm nơi linh mục, người của Thiên Chúa, là người biết đón nhận lời Chúa trong học hỏi và cầu nguyện, và thành thực cố gắng sống theo những nguyên tắc đó. Trên tất cả, con người linh mục phải phát triển trong an hoà và tĩnh mịch.
Đó là lý do tại sao người ta đã tách các linh mục tương lai ra khỏi gia đình họ, khỏi đám bạn bè, khỏi nơi ồn ào và náo động của đời sống thị thành, và chỉ chọn các nơi yên tĩnh để lập Đại chủng viện và Tập viện. Vị linh mục cần có những năm yên ổn để học hỏi và suy nghĩ. Chỉ khi nào các Ngài có cuộc sống Nagiarét, các Ngài mới có thể sống và hoạt động cho lợi ích của Chúa Cha.
Ta còn tìm được lý do thứ ba của cuộc sống ẩn thân ở Nagiarét, vì đây là một cuộc thánh hoá đời sống gia đình: vì nơi đó, người cha, người mẹ và cậu con sống chung trong công việc và cầu nguyện, vui buồn có nhau. Đức Kitô đã sống ba mươi năm trong tổ ấm không được biết tới nhưng rất thánh thiện này để chứng tỏ cho thế giới thấy tầm quan trọng của đời sống gia đình và việc thánh hoá đời sống đó. Gia đình chúng ta ngày nay đang tan vỡ. Ngoài những nguyên do bên trong hay trật tự phong hoá đảo lộn, các sự việc bên ngoài cũng ảnh hưởng không ít: chính sách sai lầm về nhà cửa, với những gian nhà ổ chuột, người đàn bà bỏ sứ mạng làm mẹ nơi tổ ấm; với những người trẻ quá vất vả hầu như chẳng được chút tiền gì, với những bố trí chưa ổn trong việc giải trí và tất cả các thứ tổ chức khác…
Truyền thanh và truyền hình đôi khi cũng làm quấy rầy các cuộc truyện vãn trong gia đình, và nhất là các gia đình bị phá đổ bởi dễ dàng ly dị, bởi giới hạn sinh sản, mỗi ngày mỗi thiếu kính trọng, vâng phục và yêu thương nhau trong thẳm sâu của tổ ấm gia đình. Phải canh tân đời sống gia đình theo gương Thánh gia Nagiarét: đó là một trong những đòi hỏi quan trọng nhất hiện nay.
2. Lớn lên.
Chúa Giêsu lớn lên theo tuổi, khôn ngoan và ân sủng trước nhan Chúa và trước mặt người ta. Tin mừng nhấn mạnh tới các điểm này. Xét về tuổi thì chẳng có gì lạ cả. Trong phạm vi này, đó là luật chung dù muốn hay không cũng vậy. Nhưng với Chúa Giêsu Đấng làm chủ muôn loài, Ngài không lệ thuộc vào đó. Ngài, Đấng hoàn hảo, mà vẫn khuất phục luật sinh tồn phát triển. Ở Nagiarét, vâng lời cha mẹ Ngài, tuân hành luật luân lý cũng như uốn mình dưới các luật lệ khác của cuộc sống.
Vì thế nơi Ngài, thân xác vẫn phát triển: từ một trẻ nhỏ tới cậu thiếu niên, thanh niên và người lớn. Nụ phát triển thành hoa thành trái. Thân xác thêm mạnh mẽ, tâm trí thêm cởi mở lên. Ngài không đốt giai đoạn, vẫn tuân theo luật trưởng thành tiệm tiến và lâu dài trong kiên nhẫn và chịu đựng. Ngài không muốn cưỡng bức, ép buộc cái gì cả; Ngài tôn trọng luật phát triển cơ thể trong không gian và thời gian. Việc phục tùng luật thiên nhiên này cho thấy vẻ cao thượng của tâm hồn cùng với sự luôn sẵn sàng nhận biết và chu tất Thánh ý Chúa Cha.
Chúa Giêsu lớn lên về khôn ngoan. Điều này ta đã thấy rõ. Chắc chắn là mỗi ngày sao thấy được sự khôn ngoan này nẩy nở thêm ở bên ngoài, vì đó là sự phát triển tận bên trong. Đức Giêsu thực sự có học hỏi. Những kinh nghiệm về cuộc sống luôn được Ngài tổng hợp tất cả; đó không phải chỉ là một sự hiểu biết đã được tiêu hoá, mà còn là một sự khôn ngoan: vì Ngài thấy cả các sự vật trong liên hệ xác đáng với Thiên Chúa Cha và như vậy là hiểu đúng chỗ, đúng tầm mức và đúng quy cách.
Sự khôn ngoan này, sự khôn ngoan giúp phán đoán tất cả theo một thứ tự đúng đắn, không để bị ràng buộc mù quáng, không bước theo những dấn thân sai lầm, những xu hướng phóng đãng, những đam mê hỗn loạn, nhưng là được đức ái của Thiên Chúa hướng dẫn và đem đến với Ngài, đó là sự khôn ngoan đích thực mang lại giá trị riêng cho việc hiểu biết.
Chúa Giêsu lớn lên trong ơn sủng trước nhan Thiên Chúa và trước mặt người ta. Điều đó có nghĩa là mỗi ngày của cuộc sống quý giá này làm rạng rỡ thêm chương trình của Thiên Chúa và nhờ đó thánh hoá trái đất hơn nữa. Và vì thế, chứng tỏ từ tâm đã mỗi ngày mỗi lớn thêm. Ở Nagiarét, Chúa Giêsu đã chẳng làm gì cho người ta phải để ý đến. Chúng ta biết được điều đó khi Ngài xuất hiện lần đầu ở quê hương Ngài.
Trong cuộc đời tuổi trẻ của Ngài, Ngài đã chẳng làm một dấu kỳ phép lạ nào, nhưng Ngài được mọi người yêu mến, có cảm tình, quý chuộng… Sự yêu kính này kéo dài tới khi Ngài không đáp ứng được những ước vọng của người cùng quê Ngài vì họ đầy hẹp hòi, và Ngài đã làm nổ tung chân trời chật hẹp của họ. Tuy nhiên, trong những năm tuổi trẻ này, Ngài lắng nghe và vâng phục, im lặng lắng nghe nhiều hơn là nói năng, chống đối và phản ứng chưa xuất hiện.
Như vậy Ngài làm rạng rỡ trên tuổi trẻ của Ngài một bầu trời xanh của một thiếu niên đầy thiện chí. Ngài lớn lên và trưởng thành trong cảnh êm đềm sung sướng; đó là mùa xuân hứa hẹn một mùa hè phong phú và một mùa thu nặng chĩu hoa màu. Không ai có thể nghĩ khác, thực sự với cái nhìn của con người, thì cuộc sống của Chúa cứu thế tiến triển và kết thúc tốt đẹp.
Người nào không được hưởng nếm mùa xuân thực sự của tuổi trẻ, thì sẽ không thể sẵn sàng để đương đầu với những phong ba và nguy hiểm của cuộc đời. Cây phải có rễ để chống cự với bão táp. Nhà phải có nền kẻo lung lay. Hãy tạo một thế hệ mà tuổi trẻ của họ được hạnh phúc, thuần khiết về luân lý, xác đáng về tôn giáo, hẳn sẽ là thế hệ biết thống trị tương lai và rèn luyện mình theo Thánh Ý Thiên Chúa.
Câu kính thánh: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà Cha Con sao?” Chính là câu nói mà Chúa Giêsu đã trả lời cho Đức Mẹ và Thánh Giuse khi tìm được Ngài. Thú thật khi còn bé tôi không thể hiểu được tại sao Đức Giêsu lại nói vậy, có rất nhiều câu nói dễ nghe hơn sao Ngài lại không nói. Cho đến ngày hôm nay tôi mới hiều và càng khâm phục hơn về lời nói rất thâm sâu và co ý nghĩa về sự vâng phục phục tuyệt đối của Đức Giêsu. Thật hay là lúc đó Đức Mẹ và thánh Giuse cũng không hiểu nhưng các ngài cũng không tỏ ra giận, hay khó chịu, mà chấp nhận theo ý con một cách vui lòng. Do đó để hiểu rõ về ý nghĩa của ngày lễ Thánh Gia hôm nay chúng ta hãy nhìn lại hoàn cảnh và tâm tình khi Đức Giêsu lên 12 tuổi.
Vào năm đó Đức Giêsu cũng như các gia đình Do thái khác cùng nhau lên Giêrusalem để mừng lễ vượt qua. Khi trở về được một ngày đàng, Đức Mẹ và thánh Giuse mới biết mình đã lạc mất Chúa Giêsu. Hai ông bà lo buồn trở lại Giêrusalem tìm suốt ba ngày trường mới thấy Đức Giêsu trong đền thánh, Ngài đang cắt nghĩa Kinh Thánh cho những nhà thông luật. Khi gặp Ngài Đức Mẹ nói: “Này con, sao làm như vậy?” Hẳn là câu nói đó như có phần khiển trách. Chúa Giêsu trả lời lại hơi có vẻ ngạc nhiên và che dấu một sự trách cứ nhẹ nhàng. Cha mẹ tìm con làm chi, cha mẹ không biết rằng con không như các trẻ con khác, nhưng con phải ở nhà Cha Con để làm tròn thánh ý Người ư? Làm tròn thánh ý Thiên Chúa đây không chỉ là giảng dạy cho các thầy thông luật, nhưng cũng là sửa soạn cho Đức Mẹ và Thánh Giuse quen chấp nhận hy sinh về tình cảm tự nhiên để chấp nhận sứ mệnh mà Thiên Chúa sẽ trao phó đòi hỏi một sự can đảm và hy sinh. Lúc đầu hai ông bà hơi bỡ ngỡ, nhưng dần dần các ngài nhờ đức tin và sự suy ngắm, nhận biết Chúa Giêsu thật ra không thuộc về mình, vì thế từ lúc này về sau các ngài thêm lòng hy sinh, sẵn sàng chịu sự chia ly với Ngài hơn.
Là cha mẹ Công Giáo chúng ta có sẵn sàng hy tình cảm và lợi lộc đời này để cho con cái chúng ta dâng mình theo tiếng gọi của Chúa làm linh mục, tu sĩ không? Gương Đức Mẹ và thánh Giuse thật là mậu gương cho mọi người chúng ta noi theo. Qua bài Tin Mừng, ta thấy không những Chúa Giêsu vâng lời Chúa Cha, sẵn sàng hy sinh tình cảm gia đình để thánh hóa các thành viên trong gia đình ấy, mà Đức Mẹ và Thánh Giuse cũng sẵn lòng quy phục thánh ý Chúa, cho dù lúc đó hai người vẫn chưa biết thánh ý đó.
Chúa Giêsu chưa bao giờ làm mất lòng Mẹ Người, Ngài hằng tỏ ra vâng phục hết tình. Thế mà nay Chúa lại làm như vậy, chắc chắn phải có lí do. Nhưng Đức Mẹ không hiểu, vì thế lời tự nhiên có vẻ hơi trách móc, khó mà chấp nhận được. Câu trả lời của Chúa tuy giải thích cho Đức Mẹ hiểu nguyên do vì đâu Ngài làm vậy, nhưng vẫn còn giữ cả một huyền nhiệm sâu xa của nó: chính vì cha mẹ biết Con hằng vâng phục cha mẹ, mà trong việc này cha mẹ khỏi lo. Cha mẹ nên biết Cha ở trên trời có những ý định mà mội người chúng ta phải tuân theo. Nếu Chúa nói rõ ý định của Thiên Chúa từ trước thì cha mẹ Ngài không còn lo lắng gì nữa và sẽ ở lại Giêrusalem chờ Ngài. Nhưng Ngài đã không nói và Đức Mẹ nhìn thấy đó là một huyền nhiệm về sứ mệnh của Ngài, Đức Mẹ tạm yên lòng nhưng vẫn không hiểu rõ về vấn đề. Thái độ của Đức Mẹ và thánh Giuse không đòi Chúa cho biết rõ ràng, nhưng sẵn lòng vâng phục trong tối tăm là một tấm gương cao cả cho chúng ta. Kể cà khi: “Ông bà không hiểu lời Chúa nói”, nhưng mỗi người đều giữ lời Chúa trong lòng của mình mà suy niệm. Riêng Đức Mẹ người đã hiểu dần dần qua các biến cố lời đã hứa khi thụ thai: “này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền”.
Trong cuộc sống gia đình chắc chắn mỗi người chúng ta đều có những ưu tư, sầu khổ, lắm lúc không thể hiểu tại sao hoạn nạn tai ươn luốn đến với mình, tại sao ở hiền mà không gặp lành. Những lúc đó ta hãy noi gương gia đình thánh phục tùng và tuyệt đối vâng theo thánh ý Chúa. Vì Thiên Chúa luôn yêu thường và quan phòng, nếu Ngài để cho ta chịu những bài học đau đớn, đó là vì lợi ích phần hồn của ta và của người khác.
Lạy Chúa trong cuộc sống ai cũng muốn đời mình được êm ả, được như ý mình muốn. Nhưng chính những sở thích đó lại không là Thánh Ý Chúa muốn. Xin cho con biết noi gương gia đình thánh hôm nay để biết hoàn toàn chấp nhận theo ý Chúa. Amen
Biến cố Ngôi Lời Nhập Thể là biến cố quan trọng trong lịch sử nhân loại. Vì thế ngay khi mừng biến cố trọng đại này, Giáo Hội không quên nhắc nhở chúng ta gương mẫu gia đình Thánh Gia. Nơi gia đình này đã cộng tác tích cực trong công trình Cứu độ của Thiên Chúa đối với loài người.
Giáo hội mời gọi ta chiêm ngắm cảnh Thánh gia chạy trốn bạo vương Hê-rô-đê giữa đêm khuya. Thánh gia đã nhận ra những hiểm nguy đe doạ hạnh phúc gia đình và đã biết cách gìn giữ gia đình bình an qua cơn dông tố. Các bài sách thánh hôm nay trình bày cho ta những bí quyết mà Thánh gia sử dụng để giữ được hạnh phúc gia đình.
Bí quyết thứ nhất đó là nghe Lời Chúa. Thánh Giu-se nghe lệnh Chúa truyền một cách mau mắn và tuyệt đối. Dường như chúng ta thấy lệnh truyền này được ban ra không rõ ràng trong đêm khuya, điều này thật sự không mấy dễ dàng đối với người bình thường; tuy nhiên, khi nghe lệnh truyền trong đêm khuya, Thánh Giuse thức giấc thi hành ngay. Xem chừng lệnh truyền khó khăn nhưng Ngài vẫn mau mắn thi hành. Ðức Ma-ri-a và Chúa Giê-su cũng có một thái độ vâng phục tuyệt đối như thế. Thánh ý Thiên Chúa là tuyệt đối. Lời Chúa dạy là kim chỉ nam. Thiên Chúa chính là người điều khiển gia đình các Ngài. Vì thế, dù gặp nhiều gian nan thử thách, gia đình các Ngài vẫn giữ được hạnh phúc.
Bí quyết thứ hai đó là coi con cái là hồng ân, là báu vật quí nhất Chúa ban cho gia đình . Con cái là hồng ân, là báu vật quí nhất nên các Ngài đã đem hết sức lực ra bảo vệ. Khi có những nguy cơ đe doạ, các Ngài đem con cái chạy trốn tránh xa. Các Ngài sẵn sàng hi sinh tất cả: thời giờ, nhà cửa, tài sản, nghề nghiệp và công việc làm ăn, mong đem con cái đến nơi an toàn. Vì con cái là hồng ân, là báu vật quí nhất Chúa ban cho gia đình nên các Ngài không ngần ngại nâng niu phục vu. Hình ảnh Thánh Giu-se đi bộ dắt lừa cho Ðức Giê-su và Ðức Ma-ri-a là hình ảnh của một người chủ gia đình hết lòng nâng niu phục vụ vợ# con. Vì con cái là hồng ân, là báu vật quí nhất Chúa ban cho gia đình nên Ðức Ma-ri-a đã theo dõi con đến cùng, nhẫn nhục đứng bên thập giá chia sớt đau khổ với con.
Bí quyết thứ ba đó là con cái luôn hiếu thảo với cha mẹ. Ðức Giê-su là một người con hiếu thảo. Tin mừng tóm tắt cuộc sống thơ ấu của Người bằng một câu ngắn gọn: "Sau đó Người đi xuống cùng với cha mẹ trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các Ngài" (Lc 2, 51). Sự hiếu thảo của Ðức Giê-su được thấy trong tiệc cưới Ca-na. Khi đám cưới thiếu rượu, Ðức Ma-ri-a xin Người giúp. Tuy chưa đến thời điểm, nhưng Ðức Giê-su vẫn làm phép lạ cho nước biến thành rượu để giúp đám cưới theo yêu cầu của Mẹ. Cảm động hơn hết là giây phút cuối đời, khi bị treo trên thập giá, Ðức Giê-su vẫn quan tâm đến Mẹ nên đã gửi gấm nhờ thánh Gio-an, môn đệ yêu quí, chăm sóc Mẹ.
Ngày nay, nhiều gia đình đang trong tình trạng báo động. Từ thời mở cửa, gia đình Việt Nam đã biến chuyển mãnh liệt theo chiều hướng nguy hiểm. Số cặp vợ chồng li dị tăng nhanh một cách đáng sợ. Con cái không còn vâng lời cha mẹ như xưa. Theo đà tiến triển kinh tế, nhiều gia đình trở nên giàu có hơn, nhưng con cái lại bỏ bê học hành, lao vào con đường ăn chơi, vướng vào tệ nạn xã hội, làm cho cha mẹ buồn lòng, gia đình tan nát.
Ðể bảo vệ gia đình trước làn sóng văn minh vật chất hưởng thụ và cá nhân chủ nghĩa, ta hãy học hỏi gương mẫu Thánh gia.
Trước hết, cha mẹ phải coi con cái là hồng ân, là báu vật quí nhất Chúa ban cho gia đình. Báu vật này cần được quan tâm chăm sóc không phải chỉ bằng phương tiện vật chất mà quan trọng hơn, bằng tình thương, sự chăm sóc, dạy dỗ ngay từ khi tuổi còn thơ. Thiết nghĩ sự hiểu biết, cảm thông khi đến tuổi trưởng thành là điều hết sức cần thiết. Dù thành công trong xã hội mà con cái hư hỏng thì vẫn là thất bại cả cuộc đời.
Ðáp lại, phần mình là con cái thì phải có lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu thảo là một yếu tố nhân bản cần thiết của con người, nó còn vừa là một đức tính của người có lương tri vừa là một thái độ khôn ngoan của người khiêm tốn. Có lương tri và có sự khôn ngoan, con người mới phát triển toàn vẹn và trở nên hữu ích cho xã hội. Quan trọng hơn nữa, hiếu thảo với cha mẹ là điều răn thứ tư của Thiên Chúa mà người Kitô phải thi hành.
Sau cùng, cả gia đình phải sống theo Lời Chúa dạy. Lời Chúa là nền tảng của gia đình. Sống theo Lời Chúa là xây dựng gia đình trên nền đá vững chắc. Gia đình sống theo Lời Chúa sẽ vững vàng qua mọi bão lốc thời đại.
Gia đình Công giáo sống theo Lời Chúa không những giữ được hạnh phúc cho gia đình mà còn đóng góp vào việc xây dựng xã hội trong hoàn cảnh đạo đức đang xuống cấp hiện nay.
Lạy Thánh Gia, xin giúp gia đình chúng con sống theo gương lành của các Ngài. Amen
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Câu ca dao này dường như là người Việt nam ai cũng thuộc nằm lòng. Có thể nói bất cứ người Việt nam nào dù sang hay hèn, dù có hay không có địa vị đều ý thức và tôn trọng chữ Hiếu. Đây chình là một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt nam.
Không ai có thể phủ nhận rằng cha mẹ là những người có công lớn trong việc sinh thành và dưỡng dục ta. Lại nữa, trong đức tin ta biết rằng cha mẹ được ơn đồng sáng tạo với Thiên Chúa khi sinh ra ta. Do đó, con người dù thành đạt cách mấy mà không biết hiếu thảo với cha mẹ thì cũng được xem là thấp. Bởi vì, một trong những tiêu chuẩn để đánh giá một con người đó tấm lòng hiếu thảo với ông bà cha mẹ.
Với thân phận làm người, Chúa Giêsu cũng được sinh ra và lớn lên trong gia đình như ta. Người luôn ý thức và chu toàn tốt bổn phận làm con của mình. Phải công nhận gia đình Nagiareth là gia đình hạnh phúc và kiểu mẫu. Dù rằng có thể gia đình này thua sút nhiều mặt.
Trong mười điều răn Đức Chúa Trời sau ba điều về Chúa liền đó là điều dạy phải thảo kính cha mẹ. Rồi hằng năm vào mùng hai Tết âm lịch cũng như cả tháng 11 Giáo hội không ngừng nhắc nhở giáo dân nhớ đến ông bà cha mẹ. Ta không thể nào sống hiếu thảo với Chúa nếu như trước đó ta chưa sống hiếu thảo với cha mẹ.
Không biết đã có bao nhiêu bài hát, ca dao, tục ngữ, bài thơ......ca ngợi công ơn cha mẹ. Tuy nhiên, ngày nay do ảnh hưởng lối sống thực dụng nên có nhiều người dường như xem thường công ơn cha mẹ. Có nhiều kẻ làm con vì quá ích kỷ nên đã bỏ cha mẹ cô đơn, trong khi đó mình dư khả năng để lo cho các ngài. Thật đáng tiếc.
Có câu chuyện kể rằng trong gia đình nọ, ngày kia đứa con thấy cha nó gọt cái gáo dừa mới hỏi cha nó gọt làm chi. Lặng nhìn đứa con hồi lâu ông ta trả lời: “Để cho ông nội mày ăn cơm. Vì lúc này ông nội mày làm bể chén hoài, phí quá!”. Đứa con suy nghĩ và không nói gì. Vài ngày sau đó, nó cũng đem gáo dừa khác ra gọt. Tưởng là con cũng đồng tình với mình , người cha hí hởn hỏi: “Bộ mày tính giúp tao lo cho ông nội mày hả?”. Đứa con trả lời: “Đâu có, cái này con để dành cho cha. Khi nào cha như ông nội con sẽ cho cha xài”. Nghe xong câu trả lời người cha tái mặt......
Như vậy, công ơn cha mẹ không biết làm sao ta có có thể đáp đền cho cân xứng. Dù rằng ta có thành tài cách mấy đi nữa mà không có lòng hiếu thảo cha mẹ thì cũng kể bằng không. Hơn nữa, thái độ của ta với cha mẹ như thế nào thì con cháu sẽ nhìn vào đó để cư xử với ta như vậy.