Hành trình đời người, ai cũng có sự tự do để vẽ, để viết, về con đường tình của mình, ai cũng TN 22-A151
Hành trình đời người, ai cũng có sự tự do để vẽ, để viết, về con đường tình của mình, ai cũng được tự do để xây dựng công danh sự nghiệp. Theo thầy học nghề, bơn trải theo vòng xoay xã hội vì nhu cầu “cơm bánh” cho gia đình, vì thao thức được gặt hái niềm vui, hạnh phúc, ở phía trước. Đi đâu cho thiếp theo cùng, đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam, cuộc đời đâu phải chỉ có tình ái, mà còn có người tình muôn thuở, người tình mang tên Giêsu, hằng thôi thúc. Chắc không phải chỉ có tình người hay tình đời, mà còn có tình thầy trò, thầy mời gọi đi Giêrusalem đầy nguy hiểm, có thể mất mạng, làm sao trò không hoảng sợ ? Theo thầy để tìm hưởng bộc lộc, khác với việc theo Thầy cùng chia sẻ sứ mạng được giao phó.
Do cái biết mong manh của phận người, vì sự cao siêu mờ mờ ảo ảo về Thầy Giêsu, Phêrô đại diện cho nhóm 12 đã phản ứng trước sứ mạng đau khổ thập giá của Đấng Kitô, các ông tin tưởng, hy vọng, Thiên Chúa quyền năng, sẽ đánh đông dẹp tây là sự thật. Cách cư xử của đấng bậc sinh thành, có thể bực dọc quát mắng con cháu là ngu ngốc, gay gắt hơn thì hét lên là đồ bất hiếu. Tuy nhiên, chúng ta vừa được nghe cách phản ứng khác thường của một Vị Thầy: đồ satan, hẳn đứa học trò phải hư lắm, Thầy mới nói nặng như vậy. Cha mẹ thương con thì cho roi cho vọt, tình yêu thương của Thầy Giêsu sẽ không chế tài, không giáng chức, không loại trừ, nhưng Thầy đã phải la lên, thức tỉnh Phêrô, giúp ông nhớ ông chỉ là học trò, theo Thầy là đi sau Thầy.
Mơ ước theo Thầy về dinh, các ngư phủ năm đó thầm mong theo Thầy đi trên con đường trải thảm, để làm quan làm tướng, coi như vỡ tan. Ngày hôm nay, thao thức mơ hồ như Phêrô và các độ đệ Đức Giêsu vẫn còn nặng lắm: tìm cách né tránh khổ đau, muốn vẽ đường đi cách an toàn nhất, muốn Thầy Giêsu cùng đi đường tắt, đi con đường không có thập giá. Thích Thầy không mang vác thập giá, thích Thầy Giêsu làm phép lạ, được đám đông tán thưởng tung hô, nhưng đó không phải là thánh ý Chúa Cha, mà là đường dẫn tới sự chết đời đời. Thầy Giêsu hôm đó không phải là đề nghị, mà là quả quyết: “ai muốn theo Ta, hãy tự bỏ mình, vác thập giá hàng ngày mà theo Ta”. Con đường theo Chúa phải là con đường đi từ đau khổ đến vinh quang, con đường từ bỏ cái tôi ích kỷ, để được biến đổi nên giống Thầy, đáng thông phần sự sống đời đời với Thầy.
Đau khổ thập giá sẽ mãi mãi là sứ mạng chung của người môn đệ theo Chúa, dù là linh mục tu sĩ, dù là người tín hữu bình thường, tất cả những ai theo đường Chúa đi, đều được nhắc nhớ đi sau Thầy và sẽ được hiểu, được sống trọn vẹn trong tình yêu Giêsu. Theo Thầy Giêsu hôm nay, vẫn là một mệnh lệnh chung: vượt qua đau khổ, đến vinh quang. Nhưng sẽ không phải là tự đội lên đầu mình vòng gai nhọn, tự tìm cây gỗ mang hình chữ thập mà vác, hoặc đặt lên vai người anh chị em mình những khổ đau. Cùng theo Chúa, đi đằng sau Chúa lên Giêsrusalem, cùng vác thập giá theo Chúa, để mỗi người cảm nhận rõ hơn về thánh ý Chúa, tình yêu Chúa, trong hành trình ơn gọi của mình. Thầy Giêsu không hứa hẹn cất hết, hoặc xóa bỏ hết đau khổ thập giá cho các học trò, nhưng Ngài có nhắc: “..…ai chịu mất sự sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được sự sống đời đời”.
Có hai người học trò, tìm đến nhà chuyên môn để xin được thọ giáo nghề câu cá. Thầy hỏi người thứ nhất, tại sao bạn đặt tin tưởng nơi ta để xin làm học trò ? anh ta trả lời, dạ thưa: tiếng lành đồn xa. Thầy hỏi người thứ hai, có đúng anh muốn trở thành người câu cá chuyên nghiệp không ? dạ thưa, đúng. Người thầy chậm rãi nói: để câu được cá, để trở thành thợ lành nghề, ai cũng phải đầu tư công sức, thời gian, đó là quy luật. Con đường theo Chúa làm môn đệ Đức Giêsu của mỗi người dài ngắn, thập giá nặng nhẹ thì khác nhau, nhưng ai cũng phải theo một “cấu trúc” chung: tự bỏ mình, vác thập giá, và đi sau Chúa.
Nếu tiền nhân chúng ta để lại kinh nghiệm cho con cháu: con đường đi tới thành công không có dấu chân kẻ lười biếng. Hẳn lời Đức Giêsu sẽ còn mãi thiết thực cho con đường ta theo Chúa: “nếu được lời lãi cả thế gian mà mất đi phần rỗi thì nào ích chi”? Người trẻ hôm nay nói rằng: để có một sắc đẹp như ý mà không phải đi thẩm mỹ viện, câu trả lời là chỉ có trong mơ ! Để được gọi là môn đệ theo Đức Giêsu mà không phải tự bỏ mình vác thập giá, hẳn người ta chỉ đạt tới hạnh phúc trần gian là cùng. Xin Thầy Giêsu giúp chúng con luôn giữ vững lập trường vác thập giá đi sau Thầy đến cùng tận của đời mình. Amen.
Trong bài huấn từ sau nghi thức ngắm đàng Thánh giá, nhân Ngày quốc tế Giới trẻ tại Balan năm TN 22-A152
Trong bài huấn từ sau nghi thức ngắm đàng Thánh giá, nhân Ngày quốc tế Giới trẻ tại Balan năm 2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã mở đầu bằng một loạt câu hỏi mà những người của thời đại chúng ta đang đặt ra: “Chúa ở đâu khi các Kitô hữu miền Trung Đông bị sát hại? Chúa ở đâu khi những người vô tội đã chết vì khủng bố? Chúa ở đâu khi những người Syria và Ly Băng phải bỏ quê hương để tìm nơi lánh nạn vì đất nước của họ chiến tranh triền miên? Chúa ở đâu khi hằng năm biết bao người chết hoặc trở nên nghèo đói do thiên tai lũ lụt?”. Sau khi đặt câu hỏi, chính Đức Thánh Cha đưa ra câu trả lời: “Chúa đang hiện diện trong chính cuộc đời những người đau khổ vừa được nêu, để nâng đỡ họ và giúp họ có nghị lực vươn lên giữa bao thử thách của cuộc đời. Bởi lẽ, Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa và là Đấng vô tội, cũng đã vác thập giá, đã chịu đánh đòn và đã chịu chết do bàn tay tàn ác của con người. Nếu thập giá là biểu tượng của yêu thương và tha thứ, thì thập giá cũng là cớ vấp ngã đối với nhiều người. Khi đối diện với thập giá, tức là những đau khổ, nhiều người đã phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa, đã “hận” Ngài vì nghĩ rằng Ngài gây đau khổ cho họ. Nhiều người tín hữu đã chán nản, thậm chí mất đức tin, khi thấy đời mình những đau khổ truân chuyên, gian nan khốn khó. Trước Chúa Giêsu 6 thế kỷ, ngôn sứ Giêrêmia cũng đã nản chí và định bỏ cuộc, vì mỗi khi ông nói Lời Chúa thì bị phản đối và vu khống, thậm chí còn bị đe dọa giết chết. Tuy vậy, vào những lúc ông định bỏ cuộc, thì lòng ông lại nóng như lửa đốt. Ông đã trung thành với sứ mạng ngôn sứ cho đến cùng (Bài đọc I). Thánh Mátthêu trong Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta về sự yếu đuối của Phêrô. Vừa khi nghe Chúa nói đến cuộc khổ nạn, ông lập tức can ngăn Thày mình. Ông chưa sẵn sàng để hiểu biết và đón nhận việc Chúa chị đau khổ, mặc dù Chúa đã nói rõ: “Ngày thứ ba sẽ sống lại”. Vì vậy mà Chúa quở trách ông là Satan, đồng thời Chúa đuổi ông: “Hãy lui lại đàng sau”. “Lui lại đàng sau” không chỉ thể hiện vị trí hay nơi chốn trong không gian, nhưng còn nói lên sự yếu đuối và bất xứng với Thày, khi nuôi dưỡng những tư tưởng ngược lại với sứ mạng thiên sai của Thày. Cần nhắc lại là liền trước đó, Chúa đã khen ông vì lời tuyên xưng đức tin: “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, và Chúa cũng vừa trao cho ông quyền ràng buộc và tháo cởi. Ấy vậy mà Chúa lại nặng lời khiển trách ông. Điều đó cũng cho thấy sự yếu đuối và đổi thay nơi mỗi con người chúng ta. Đứng trước thập giá, chúng ta dễ chán nản, ngã lòng và có nguy cơ từ chối Chúa. Thập giá không chỉ là câu chuyện của lịch sử xa xưa. Thập giá đang đi ngang qua cuộc đời của mỗi chúng ta. Thập giá hiện diện nơi những gia đình ly tán, mâu thuẫn xung đột. Thập giá cũng tồn tại nơi những gương mặt của anh chị em đang đau khổ vì bệnh tật, vì đói nghèo, vì bất an bất ổn. Thập giá cũng đang đi ngang qua cuộc đời của biết bao Kitô hữu bị bách hại trong những nước có chiến tranh, xung đột. Trong xã hội văn minh của chúng ta, vẫn còn đó những cuộc giết chóc dã man, những cuộc hành hình ghê rợn mà các tín hữu vô tội phải gánh chịu, chỉ vì lý do vì họ là Kitô hữu. Suy tư trong nghi thức Ngắm đàng Thánh Giá, Đức Thánh Cha muốn hiện tại hóa mầu nhiệm thập giá trong cuộc sống hôm nay. Ngài mời gọi những người đau khổ hãy nhận ra Chúa đang hiện diện trong cuộc đời họ. Ngài hiện diện để cùng với họ vác thập giá bước đi. Tin vào sự hiện diện của Chúa, thập giá cuộc đời sẽ trở nên nhẹ nhàng, đau khổ sẽ trở thành niềm vui, bị quan sẽ thành niềm hy vọng. Bởi lẽ, con người không chỉ có đời này, mà còn có đời sau, đó là lúc “Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.” Kitô hữu là người tin Chúa và là người cùng với Chúa vác thập giá đời mình. Chính vì muốn chuẩn bị chúng ta khỏi vấp ngã trước thập giá, mà Chúa đã dạy: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống vì Thày, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Chúa còn đưa ra một so sánh để chúng ta thấy đời sống vĩnh cửu quan trọng như thế nào: “Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”. Thánh Inhaxiô Loyola đã trở thành một tu sĩ và người sáng lập Dòng Tên nhờ câu Kinh thánh này. Ngài đã từ bỏ mọi sự, chỉ thao thức làm cho nhiều người biết Chúa và tin Chúa.
Trong “Hạnh các Thánh tử đạo Việt Nam”, có chép về một Thánh tử đạo là Augustinô Nguyễn Văn Mới. Quan dụ dỗ: “Nếu anh bước qua thập giá thì ta cho một nén bạc”. Người anh hùng đức tin không trả lời. Quan nói tiếp: “Vậy thì một nén vàng” – “Dạ bẩm quan chưa đủ”. “Vậy anh muốn bao nhiêu?” – “Bẩm quan lớn, quan lớn muốn cho tôi quá khoá thì quan lớn phải cho tôi đủ vàng bạc để tôi mua được một Linh hồn khác! Vâng làm sao mà có đủ vàng bạc để mua được một linh hồn”. Vị Thánh của chúng ta đã thấm nhuần lời Chúa dạy: “Được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì có lợi gì?”. Lời ấy đã giúp ngài trung thành với Chúa đến cùng, và như lời khuyên của Thánh Phaolô, ngài đã trở nên “của lễ sống động và thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa” (Bài đọc II).
“Anh em hãy canh tân lòng trí, để hiểu biết đâu là thánh ý Chúa, biết điều gì tốt lành đẹp lòng Chúa và hoàn hảo”. Xin cho chúng ta biết nhìn thập giá với cái nhìn mới mẻ. Một khi đón nhận thập giá với tâm tình yêu mến và cậy trông, chúng ta vừa có thể vác thập giá đời mình, đồng thời giúp anh chị em trong hành trình thập giá của họ. Amen.
Mỗi khi một mình tôi vẫn thích trải lòng mình qua bài hát “Một đời người một rừng cây” của nhạc TN 22-A153
Mỗi khi một mình tôi vẫn thích trải lòng mình qua bài hát “Một đời người một rừng cây” của nhạc sỹ Trần Long Ẩn. Bài hát với ca từ mang một triết lý sống giản dị nhưng rất sâu sắc. Lời ca như đang bắt chúng ta phải đối diện với chính bản thân mình. Nó chất vấn chúng ta về cuộc đời mà chúng ta đang sống.
Lời chất vấn nhẹ nhàng nhưng đi sâu vào tâm khảm con người:
“Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ dành phần ai Ai cũng một thời trẻ trai, cũng từng nghĩ về đời mình Phải đâu may nhờ rủi chịu, phải đâu trong đục cũng đành, phải không anh, phải không em?”
Câu hỏi mà tác giả đặt ra cũng chính là câu hỏi mà mỗi chúng ta phải tự hỏi hôm nay. Bởi vì chưa bao giờ, chủ nghĩa cá nhân lại lên ngôi đến nỗi bỏ mặc đồng loại để chạy theo chủ thuyết “makeno” mà tìm hưởng thụ riêng cho mình. Con người ngày nay như đang tìm mọi cách thu vén cho bản thân mình mà quên đi những lợi ích cho cộng đồng.
Nhưng chân lý vẫn thuộc về những ai sống có ích cho đời. Họ như ánh sao đêm phá tan đêm tối của ích kỷ và lòng tham. Họ không tìm sống cho riêng mình mà biết dấn thân phục vụ cho đời.
Chân lý thuộc về mọi người, không chịu sống đời nhỏ nhoi
Xin hát về bạn bè tôi, những người sống vì mọi người.
Ngày đêm canh giữ đất trời, rạng rỡ như rừng mai nở chiều xuân.
Lời ca như mỗi lúc lại cao trào hơn để dội vào lương người nghe. Nó bắt những người có lương tâm và có ý thức sống phải trả lời câu hỏi về lẽ sống. Con người phải sống như “Một đời người một rừng cây” đã sống nương tựa nhau thì phải biết dâng hiến cho nhau.
Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy bước đi theo Chúa. Theo Chúa là bước đi trên con đường hẹp buộc phải từ bỏ con đường rộng thênh thang. Theo Chúa là đón nhận thánh giá bổn phận mà không chọn việc nhẹ nhàng. Theo Chúa là để lại sau lưng những danh lợi thú trần gian. Vì “được lời lãi cả thế gian, chết mất linh hồn nào ích gì?”
Chúa Giê-su đã đi con đường như thế. Khi Ngài từ bỏ cõi trời mà mặc lấy kiếp phàm nhân. Ngài từ bỏ thân phận mình để trở nên mọi sự cho con người. Ngài tiếp tục đi vào con đường hẹp để tuân theo thánh ý Chúa Cha. Vì lương thực của Ngài chính là thánh ý Thiên Chúa. Ngài đã chọn vâng phục Chúa Cha và bằng lòng chết trên thập giá để cứu độ trần gian. Ngài đã không chọn vinh hoa phú quý trần gian mà chọn cho thánh ý Chúa Cha hiển trị. Thế nên, Chúa Cha đã tôn vinh Người và ban cho Người mọi danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.
Nhưng là người ai cũng “ham sướng sợ khổ”. Con người luôn thấy gian nan thì chuồn. Thấy vất vả thì tháo lui. Phê-rô cũng từng khuyên can Chúa trên đường hiến tế. Bởi vì ông sợ Chúa mất mạng là thiệt thòi cho ông và cho cả Chúa. Nhưng Chúa đã quở mắng ông: “Satan hãy lui ra khỏi Thầy, vì tư tưởng của con không phải là của Chúa”. Chúa còn cho các ông hiểu rằng: “được lời lãi cả thế gian chết mất linh hồn nào ích gì”. Hơn nữa, ai xả thân vì Nước Trời thì ngày Con Người đến sẽ thưởng phạt ai nấy tùy theo việc họ làm.
Xem ra cuộc sống người ky-tô hữu luôn phải đi ngược lại với trào lưu thời đại. Con người thời nay ích kỷ, thì người ky-tô hữu phải sống dấn thân. Con người ngày nay ham sướng sợ khổ thì người ky-tô phải lãnh lấy trách nhiệm như thập giá vì lòng yêu mến Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta luôn sống chứng nhân tin mừng khi biết sống cho đi mà không mong đền đáp. Amen.
Quan sát một đứa trẻ, chúng ta sẽ thấy nó luôn bắt chước mọi cử chỉ, lời nói và hành động của TN 22-A154
Quan sát một đứa trẻ, chúng ta sẽ thấy nó luôn bắt chước mọi cử chỉ, lời nói và hành động của người lớn. Nó làm như một người lớn vậy. Có bé mới đi học thường hay khóc nhiều và luôn đi theo cô nào mà bé thích, cô đi là bé đi, cô ngồi là bé ngồi… Nhiều lần như vậy, có lúc cô giáo cũng cảm thấy phiền. Còn Chúa Giêsu hôm nay lại mời gọi chúng ta đi theo Ngài. Ngài có thấy buồn không? Chắc chắn là không, Ngài không bao giờ buồn và không bao giờ chán chúng ta. Bởi vì, Ngài yêu chúng ta mất rồi. Ngài muốn chúng ta nên một với Ngài, muốn chúng ta bước đi và sống với Ngài. Ngài cho chúng ta tự do lựa chọn và quyết định. Ngài nói “Ai muốn theo Thầy phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Mt 16,24). Đây cũng là bài học theo Thầy đầu tiên của các môn đệ.
a. Ai muốn theo Thầy
Theo Chúa là một hành động được nói đến rất nhiều trong bài Tin Mừng. Có người theo Chúa vì được ơn gọi đặc biệt, có người theo Chúa vì cảm mến và theo Chúa vì nhận thấy Ngài là người có uy quyền, lòng xót thương. Như vậy, có nhiều cách theo Chúa với những mục đích khác nhau. Nên chúng ta phải nhìn lại mục đích theo Chúa của mình là gì?
Vâng, theo Chúa là chúng ta bước theo sau Ngài để Ngài dẫn đường chỉ lối cho ta. Theo Chúa là đi vào con đường cứu độ, con đường phục vụ. Theo Chúa là đi vào con đường riêng của bản thân mà Thiên Chúa đã mời gọi: như đời sống giữa trần gian hay ơn gọi dâng hiến. Theo Chúa là chấp nhận những gì Ngài bước đi. Và hơn thế nữa, theo Chúa là chúng ta cần phải từ bỏ mình.
b. Từ bỏ mình
Đối với bản thân chúng ta, người thân nhất là cha mẹ, anh chị, bạn bè. Thứ ta cần nhất có thể là tiền bạc, và thứ ta yêu nhất có thể là chính mình. Nhưng đó lại là tất cả những gì mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta từ bỏ. Từ bỏ dịch sát nghĩa là “ghét”. Mà ghét nghĩa là chúng ta giảm bớt tình yêu với ai hay cái gì mà mình đang thích. Mặt khác, chúng ta cũng thấy rằng Chúa không bỏ cha mẹ Ngài. Vì Ngài vẫn thường về thăm quê hương là Nadarét nơi cha mẹ Ngài sống (Mt 13,54). Và khi ở trên thánh giá, Ngài trối lại cho ông Gioan “Đây là mẹ của anh” (Ga 19,27). Ngài vẫn thương nhớ cha mẹ, nhưng vì Chúa Cha, vì sứ mệnh, Ngài không ở bên cha mẹ. Ngày hôm nay, những người đi tu vẫn có ít nhiều bổn phận đối với cha mẹ, như điều răn thứ tư dạy. Nhưng họ vẫn luôn đặt tình yêu, sứ mạng của Thiên Chúa lên hàng đầu. Vậy nên không có gì là sợ khi theo Chúa. Nói đến của cải cũng vậy, Ngài cũng không đòi hỏi việc từ bỏ của cải như một luật chung. Ngài mời gọi từ bỏ của cải chỉ có giá trị cho những con người cụ thể nào đó, hay tình huống của người đó. Như người thanh niên giàu có muốn nên hoàn thiện nhưng anh vẫn không từ bỏ được của cải. (Mt 19,21). Ngài muốn chúng ta từ bỏ bớt đi, và hạn chế hơn, nhờ đó chúng ta mới nhẹ nhàng trong tâm hồn được. Nhẹ nhàng hơn nữa là từ bỏ chính mình. Từ bỏ mộng mơ kiêu sa, sự ham vui, danh vọng địa vị và có khi những cái không xấu nếu cần cũng phải từ bỏ. Chẳng hạn, bạn là người nhiệt tình trong công việc, nhưng vì nhiệt tình mà bỏ bê việc phụng sự Chúa thì bạn cần xem xét lại. Chúng ta càng bỏ mình thì chúng ta càng dễ dàng trở nên giống Chúa. Trọn hảo hơn nữa là chúng ta hãy vác thập giá mình mà đi theo Ngài.
c. Vác thập giá mình
Theo Chúa còn có nghĩa là đi vào con đường thập giá. Chúa Giêsu có thập giá của Ngài. Chúng ta có thập giá của chúng ta.Thập giá của chúng ta là những khó khăn của cuộc sống, những lo toan của cuộc đời và những công việc bổn phận hằng ngày và ngay cả những thập giá trên bước đường thành công của chúng ta. Chính khi chấp nhận được thập giá, chúng ta sẽ thấy bình an hạnh phúc. Vác thập giá là hy sinh. Thập giá chúng ta vác không chỉ một ngày, mà là suốt cuộc đời. Có ít người nhìn vào những người đi tu, họ thấy sự hiền lành, nhân hậu vui tươi… Họ cho rằng, những người đi tu làm gì có thập giá để vác. Đó là một sai lầm, bởi thập giá luôn có mọi nơi, cắm mọi chỗ và nơi mọi người. Vì thế, chúng ta có né, có tránh cũng không được. Nếu chúng ta biết đón nhận, thì cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên dễ dàng, nhẹ nhàng. Còn nếu không, chúng ta sẽ thấy nó như một cực hình. Đó là tất cả những gì Chúa Giêsu muốn chúng ta biết và hiểu về việc đi theo Chúa là như thế nào. Theo Chúa, chúng ta phải muốn-theo-từ-vác.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cứ ngỡ đi theo Ngài là không có gì khó khăn. Nhưng Lời Chúa đã làm cho chúng con nhận ra và hiểu rõ hơn, bước theo Chúa chúng con nên làm gì? Giờ đây, chúng con cần phải xem xét lại chính mình đã theo Chúa đến đâu. Vì thế, xin Chúa soi sáng, hướng dẫn để chúng con can đảm và tiếp tục bước đi theo Chúa luôn. Amen.
Hành trình theo Thầy mỗi ngày một khăng khít và gắn bó hơn. Đó là cảm nghiệm của các Tông TN 22-A155
Hành trình theo Thầy mỗi ngày một khăng khít và gắn bó hơn. Đó là cảm nghiệm của các Tông đồ khi theo Thầy được hơn hai năm. Theo Thầy Giêsu, các ông được Thầy dạy dỗ và yêu thương. Từng người được Thầy chất vấn về vị trí của Thầy trong lòng họ bấy lâu nay. Phêrô được Chúa Cha mặc khải cho, nên đã trả lời quả quyết “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16). Niềm tin mạnh mẽ và tình yêu mãnh liệt mà các ông có một lần nữa lại được thử thách.
Tư tưởng của Thiên Chúa Thầy Giêsu tiên báo về cuộc Thương Khó lần thứ nhất. Vì là lần thứ nhất nên các ông không tránh khỏi sự bàng hoàng, sửng sốt, không chấp nhận nổi. Thầy gọi các ông làm Tông đồ không giống cách một thủ lãnh vẫn thường thâu nạp đệ tử, nghĩa là cắt máu ăn thề, nhưng chỉ là vì lòng xót thương. Điều kiện phải có để theo Thầy cũng chẳng giống ai. Một con đường rất ngược đời và chẳng mấy ai đi.
Lẽ thường, đón nhận những lời yêu thương, ngọt bùi thì lòng ta cũng tự nhiên vui lên, cảm thấy phấn khởi và hân hoan. Cũng vậy, các Tông đồ thích nghe những lời ca tụng của dân chúng, đặc biệt là lời khen ngợi mà chính Thầy dành cho. Ông Phêrô vừa được Thầy Giêsu khen là có phúc, được Chúa Cha mặc khải cho. Chắc chắn dù khiên tốn nhưng trong lòng ông vẫn rạo rực một niềm vui. Bởi ông vẫn chỉ là một con người bình thường như bao người. Thầy trò cùng rong ruổi bên nhau, tình nghĩa mặn nồng, tha thiết. Thầy biết giờ của Thầy sắp đến. Thầy lắng nghe và thực thi chương trình cứu độ Cha trao. Thầy cũng chuẩn bị trước tinh thần cho các ông. “Thầy phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16, 21). Các ông tin vào sự tiên báo của Thầy, vì “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16, 16). Nhưng lòng các ông cũng rất bối rối. Chẳng lẽ đó là sự thật? Nếu thế thì phải can ngăn Thầy ngay. Phêrô trong vai trò là trưởng nhóm, liền kéo Thầy ra và bắt đầu trách “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16, 22b). Làm sao các ông có thể vô tâm đứng nhìn Thầy “đâm đầu vào chỗ chết” được. Thế nhưng, tư tưởng của các ông là tư tưởng của phàm nhân. Thầy Giêsu biết tình yêu ông dành cho mình là chân thành nhưng lương thực của Thầy là thi hành thánh ý Chúa Cha. Bởi vậy, Thầy cương quyết chỉnh ông “Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16, 23). Lòng nhiệt thành của ông lại bị Thầy “tạt” cho một gáo nước lạnh mà tỉnh ra. Nếu ta là Tông đồ Phêrô, ta sẽ cảm thấy thế nào? Bị gọi là xatan, có lẽ, ông xấu hổ và bất mãn lắm. Học trò yêu sai thì phải sửa dạy nghiêm khắc, phải chọn ý Chúa Cha trên hết. Thầy hiểu lòng người học trò hơn ai hết. Thầy lại ôn tồn nói cho các ông biết về điều kiện phải có để theo Thầy.
Điều kiện phải có để theo Thầy
Đi xa, chúng ta sẽ chọn xa lộ, đường cao tốc và những con đường tắt để đến đích. Chọn lựa một lộ trình tốt nhất là chọn lựa của những người khôn ngoan, biết tính toán. Theo Thầy, chúng ta lại lội ngược dòng, đi trên con đường chật hẹp mà ở đó “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24). Người ta vẫn cổ võ, hô hào để đề cao cái tôi cá nhân. Hãy hưởng thụ đi, hãy sắm cho mình một kho tàng là địa vị, chức quyền, tiền bạc. Hãy khẳng định chỗ đứng của bản thân trong xã hội này, một xã hội mà kẻ mạnh thế luôn luôn thắng. Vậy mà giáo lý của Thầy kỳ cục quá, ai mà nghe nổi. Lúc bấy giờ, các Tông đồ cũng cau mày, nhăn nhó khi nghe Thầy dạy. Giáo lý của Thầy đòi buộc các ông phải bỏ mình, phải vác thập giá mình hằng ngày mà theo Thầy. Kỳ cục quá bởi người ta cố gắng bao nhiêu có thể để quẳng đi gánh nặng đeo bám trên vai, vậy mà Thầy lại dạy hãy vác lấy thập giá mình. Chẳng lẽ Thầy ái khổ ư? Không phải thế. Cái khổ không phải là mục đích để đạt tới nhưng nếu ta biết dùng chính những đau khổ ấy để đạt tới một mục đích cao đẹp hơn là đến với Thiên Chúa, một Thiên Chúa giàu lòng xót thương. Khi ta nhận ra thân phận yếu hèn của bản thân, cái thân xác mau hư nát này, ta sẽ biết rằng mình cần Chúa tới mức nào. “Được lời lãi cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi lấy mạng sống mình?” (Mt 16, 26). Bước theo Thầy quả là một thách đố bởi điều kiện phải có để theo Thầy dường như luôn làm khổ ta. Tôi phải thế này, tôi phải thế kia. Một tình yêu trưởng thành là một tình yêu của người hiểu được, tại sao tôi lại chọn con đường này mà không phải là con đường kia. Tại sao tôi dám đánh đổi tất cả, dám trả giá để được Nước Trời làm gia nghiệp. Tôi muốn. “Muốn theo Thầy”, đó là động lực để ta dám thí mạng sống mình vì Thầy, để đón nhận một sự sống đích thực và viên mãn trong Nước Thầy.
Chúng ta vẫn thường ca vãn “đời là bể khổ” nhưng ít ai biết dùng chính những sự khổ ở đời để chọn một con đường dẫn đến hạnh phúc. Theo Chúa không là ái khổ nhưng là đón lấy thập giá đời mình, yêu Đấng Chịu Đóng Đinh, luôn hướng tâm hồn và thân xác về Đấng đã hiến mình vì yêu ta.
Lạy Chúa! Ngày con ra trước tòa Chúa, Chúa sẽ hỏi về tình yêu con dành cho Chúa và tha nhân. Những gì con đã sống sẽ trở thành lời kết án hay là phần thưởng dành cho con. Xin Chúa cho con từng ngày biết xin điều Chúa muốn và can đảm thi hành thánh ý Chúa Cha. Amen.
Giê-ru-sa-lem cao vời, Là Thành Vua cả, gọi mời tiến thân. Chúa về thành Thánh nhiều lần, Chu toàn sứ mệnh, thế nhân cứu đời. Khổ đau hiến tế diệu vời, Con đường cứu độ, rạng ngời vinh quang. Chết đi sống lại huy hoàng, Cứu nhân độ thế, phát quang rạng ngời. Theo Thầy, từ bỏ cuộc đời, Hy sinh mạng sống, một thời khổ đau. Tin vào hạnh phúc mai sau, Thế trần cuộc sống, qua mau cõi đời Hưởng nhan thánh Chúa muôn đời, Trường sinh bất tử, tuyệt vời biết bao. Phê-rô thắc mắc vì sao? Thật lòng can gián, đừng vào Thánh Đô. Sợ lo tâm trạng hồ đồ, Sa-tan, Chúa mắng, nông nô đừng phiền. Sáng danh Thiên Chúa nhân hiền, Yêu thương tha thứ, cõi thiên tìm về.
Thánh Phêrô được Chúa Giêsu khen thưởng. Chúa đã trao trách nhiệm cho ông cầm giữ, đó là chìa khóa Nước trời. Chúa tin tưởng và trao phó Giáo Hội cho Phêrô cai quản. Phêrô đã lãnh nhận trách nhiệm làm đầu có quyền cầm buộc và tháo cởi.
Phêrô đã nhận lãnh vai trò lãnh đạo, nhưng Phêrô chưa hoàn toàn hiểu được sứ mệnh Chúa muốn trao gởi. Ông đặt niềm tin nơi Chúa. Tính của ông rất bộc trực, mạnh mẽ và không quanh co trong ý nghĩ. Một mực nhiệt thành trong sứ mệnh. Chính vì thế, đã nhiều lần ông được Chúa khen và không ít lần bị Chúa mắng cho. Chúa từ từ huấn luyện, dậy dỗ và đưa ông vào con đường Chúa sẽ đi.
Con đường Chúa đi là con đường khổ đau và thập giá. Con đường của hy sinh mạng sống vì đàn chiên. Vì là con người, Phêrô đã vui mừng nhận chìa khóa nước trời, nhưng lại muốn chối từ thánh giá. Ông chưa hiểu ý nghĩa của sứ mệnh.
Chúa nói với các môn đệ:”Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi và vác thập giá mình mà theo Thầy.” Chúa đòi hỏi điều kiện theo Chúa không dễ đâu. Chúng ta có thể theo Chúa, nhưng chúng ta khó từ bỏ mình. Từ bỏ mình làm sao được khi mà các ước vọng cứ vật vã và lôi kéo chúng ta trở về với con người yếu đuối của chúng ta. Chúng ta muốn đuợc vinh quang và được khen thưởng, nhưng chúng ta lại không muốn vác thánh giá. Thánh giá chính là chìa khóa mở của Nước trời. Vác thập giá theo Chúa luôn là một cố gắng không ngừng.
Muốn làm môn đệ của Chúa, chúng ta phải chấp nhận đau khổ, hiểu lầm, chống đối và bị chối bỏ. Theo Chúa, thánh giá kề bên mỗi ngày. Ngước nhìn lên Thánh Giá, Chúa vẫn còn ở đó treo lơ lửng trên thập giá. Chúa mời gọi chúng ta hãy từ bỏ mình và vác thập giá theo Chúa. Qua thập giá sẽ tới vinh quang.
Đó là lần duy nhất trong đời, Đức Giê-su trực tiếp nguyền rủa một người là Xa-tan, và người đó TN 22-A157
Đó là lần duy nhất trong đời, Đức Giê-su trực tiếp nguyền rủa một người là Xa-tan, và người đó không may lại là Phê-rô, người môn đệ ruột vừa được Người ca ngợi và tin tưởng trao phó sứ mệnh lớn là trở nên đá tảng của Hôi Thánh Người. Tại sao lại thế nhỉ?
Trong xã hội Do Thái cũng như xã hội chúng ta ngày nay, biệt danh Xa-tan luôn mang một nội dung bỉ ổi, dành để ám chỉ những con người rất xấu xa đê tiện, những con người không những phạm đủ mọi thứ tội trên đời mà còn có dã tâm lôi kéo, cám dỗ người khác phạm tội, chống lại uy quyền của Thiên Chúa. Nếu quả thật là như thế thì trong trường hợp cụ thể này, việc Đức Giê-su gán danh xưng này cho Phê-rô – người môn đệ trung kiên nhất đang nhiệt tình và chân thành can gián Thầy mình khỏi những rủi ro bất hạnh, điều này không ai trong chúng ta muốn chấp nhận, vì nó quá là bất công. Hoặc Đức Giê-su đã quá lời, hoặc chỉ là lối diễn tả đặc trưng của người Do Thái, hoặc là chúng ta phải chỉnh sửa lại quan niệm của mình về Xa-tan và tội lỗi sao cho ăn khớp với suy nghĩ của Đức Giê-su.
Điều duy nhất mà Phê-rô đã làm để bị Đức Giê-su nguyền rủa ‘Xa-tan’ chính là việc, ông đã cố ngăn cản Người thực hiện điều chứng tỏ đích thực Người là đấng Ki-tô. Trước đó khi tuyên xưng “Thầy là đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” chắc hẳn Phê-rô vẫn chỉ luẩn quẩn trong cái quan niệm phổ biến mà nhiều người Do Thái thời đó, do bối cảnh chính trị xã hội, đã có về đấng Ki-tô; ngài phải là một người đầy quyền uy được Thiên Chúa sức dầu tấn phong để giải phóng và lãnh đạo dân riêng được tuyển chọn; do đó Đấng này phải là một vị thống lãnh oai hùng và hiển hách. Chính để chống lại khái niệm ‘Ki-tô’ như thế, mà Đức Giê-su đã nhiều lần phải lên tiếng ‘cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là đấng Ki-tô’. Và cũng kể từ đó, một trong các nội dung quan trọng nhất của việc huấn luyện các môn đệ chính là: làm sao thay đổi được quan niệm họ vốn có về đấng Ki-tô. Không dưới ba lần các Phúc Âm đã ghi nhận điều này; Người giới thiệu cho các ông về một đấng Ki-tô ‘phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết…’ Bất cứ động thái nào đi ngược lại việc chấp nhận diện mạo đấng Ki-tô như thế, Người sẽ không dung tha; chẳng hạn như trường hợp hai anh em nhà Giê-bê-đê xin lửa bởi trời xuống đốt cháy làng mạc Sa-ma-ri vì đã không tiếp đón Thầy mình (Lc 9:51-55). Đối với các môn đệ có gốc gác Do Thái thì việc chỉnh đổi này là rất thiết yếu, nó đánh dấu một chuyển biến trong suy tư quan trọng từ Cựu Ước qua Tân Ước, từ một đấng Ki-tô thống trị qua một đấng Ki-tô tự hiến và yêu thương. Tôi thiết nghĩ: bài học này sẽ còn là dài dài cho tất cả các môn đệ Ki-tô qua mọi thời đại, bắt đầu từ hai môn đệ trên nẻo đường Em-mau được ông khách đồng hành cặn kẽ giải thích… cho tới Ki-tô hữu chúng ta sống trong thời đại hôm nay.
Như vậy, cùng với việc chỉnh đổi khái niệm về đấng Ki-tô, hình như quan niệm về Xa-tan và tội lỗi cũng có một chuyển biến sâu sắc từ Cựu Ước qua Tân Ước. Đối với Tin Mừng của Đức Giê-su, Xa-tan và tội lỗi không còn mang nặng yếu tố chống đối uy quyền và sự thánh thiện của Thiên Chúa cho bằng chống lại hay không chấp nhận một Thiên Chúa tự hiến cứu rỗi và xót thương. Theo tiêu chuẩn đó, Đức Giê-su đã không lên tiếng kết án hoặc loại trừ thậm chí một người đàn bà tội lỗi ‘bị bẩy quỉ ám’. Đối với Người, tiêu chuẩn thánh thiện hay nhân đức không còn phải là trung thành nắm giữ các lề luật hay qui tắc luân lý, mà là mở rộng cõi lòng đón lấy tình yêu tha thứ và cứu độ Thiên Chúa ban. Cũng tương tự như thế, tiêu chuẩn của việc đáng bị luận phạt hay được thưởng công cũng đã bị đảo lộn toàn diện; chính vì thế mà sự khác biệt căn bản giữa ‘thánh’ Phê-rô và ‘thằng’ Giu-đa sẽ không hệ tại ở việc trung thành hoặc phản bội Thầy, nhưng ở việc biết mở rộng hay đóng kín cõi lòng trước lòn thương xót và cứu độ Thầy ban tặng. Bất luận con đường nào dẫn đến việc chân thành tiếp nhận tình thương xót cứu độ, đều được Người trân trọng đề cao, thậm chí cả con đường: ‘được tha nhiều nên yêu nhiều hơn’ (Lc 7:36-50). Và như thế thì, Xa-tan sẽ không còn là kẻ xâm phạm hay cám dỗ kẻ khác xâm phạm và chối bỏ sự thánh thiện hay uy quyền của Thiên Chúa nữa, mà là kẻ ‘cản lối Thầy’, tức là tự mình chối bỏ, và còn lôi kéo kẻ khác chối bỏ kế hoạch tự hiến yêu thương Người đang thực hiện trong Đức Ki-tô Giê-su. Nếu quả là như thế, thì Xa-tan của Tân Ước sẽ không hiếm hoi đâu! Qua trường hợp điển hình của Phê-rô, Đức Giê-su cho thấy nó có thể xuất hiện ngay giữa hàng ngũ những người được mệnh danh là cột trụ của Giáo hội, trong số các người được coi là môn đệ thâm tín nhất của Người, bất cứ khi nào “tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người”. Cũng tương tự như thế, ‘tiên tri giả’ mà Người lên tiếng cảnh giác cũng có thể là bất cứ hạng người nào: tất cả những ai lôi cuốn người khác xa rời lòng nhân ái của Thiên Chúa cứu độ.
Trong tư cách linh mục, tôi cũng nên tự hỏi: có thể chính mình đôi khi cũng nằm trong số những Xa-tan hoặc tiên tri giả đó chăng, khi mà tôi chỉ lo vun xới nơi tâm hồn các tín hữu nỗi lo sợ bị Chúa luận phạt, và đẩy xa khỏi tâm hồn họ sự tín thác tuyêt đối vào lòng thương xót vô bờ của Chúatừ nhân?
Lạy Thiên Chúa từ nhân, qua Thập Giá Chúa, con nhận ra trong ánh sáng Tin Mừng cứu độ có một loại thiên thần mới và một sự thánh thiện mới, đó là chấp nhận và cộng tác vào chương trình cứu độ đầy yêu thương của Chúa. Xin cho con, như Mẹ Maria, nhận thức được rằng: bước đầu tiên và căn bản nhất của sự thánh thiện Tân Ước phải là khiêm cung nhìn nhận con người yếu đuối của mình, hầu có thể hoàn toàn rộng mở đón nhận kế hoạch yêu thương của Chúa. Xin cũng giúp con, một linh mục của Chúa, biết cộng tác đưa được nhiều người, nhất là các tội nhân, vào con đường thánh thiện mới mẻ này. A-men.
Truyện Tây du ký kể lại cuộc ra đi đầy gian nan của Thầy Tam Tạng. Những gian nan thử thách TN 22-A158
Truyện Tây du ký kể lại cuộc ra đi đầy gian nan của Thầy Tam Tạng. Những gian nan thử thách xảy đến cho vị thiền sư họ Đường không phải là những gai góc hiểm nguy của cuộc hành trình dài, nhưng là những tật xấu nơi 3 đệ tử thân tín của ông : Tôn Ngộ Không; Trư Bát Giới và Sa Tăng. Ba anh học trò này là biểu tượng của 3 tật xấu mà vị thiền sư kia cũng như mọi người đều phải vượt qua để đạt đến chính quả, đó là tính kiêu căng, lòng ham mê nhục dục và sự lười biếng.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại sự ra đi của Chúa Giêsu trên lộ trình tiến về Giêrusalem. Ngài lên Giêrusalem để đi vào con đường Thập giá và tiến nhận cái chết. Trong cuộc hành trình ấy, Chúa đã hy sinh từ bỏ tất cả, cho đến cả mạng sống. Đó cũng là con đường độc đạo, là lối bước duy nhất mà các môn sinh của Chúa phải can đảm dấn thân để đi vào. Chúa Giêsu đã nói : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Bởi vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm đươc mạng sống ấy”. Lời mời gọi của Chúa hôm nay là thách đố lớn nhất đối với các tông đồ năm xưa, cũng như cho mọi người chúng ta ngày hôm nay.
Nghịch lý của thập giá
Thánh Phaolô đã viết “Tôi chỉ biết Đức Kitô, và là Đức Kitô bị đóng đinh trên Thập giá”. Cái chết tức tưởi và oan nghiệt của Chúa 2000 năm trước vẫn luôn là một ẩn số vĩ đại và không thể hiểu được đối với đầu óc con người. Một Thiên Chúa toàn năng và cao cả đã bị con người hạ xuống tận đáy bùn đen và bị kết án như một tên tội phạm đốn mạt nhất. Người Do Thái xem hình phạt thập gía như một sự sỉ nhục khủng khiếp và man rợ. Người Hy Lạp sánh ví những con người bị đóng đanh như là những tên khờ khạo và xuẩn ngốc. Nhưng Đức Giêsu đã tự nguyện chọn cái chết kinh hoàng ấy để mở toang cho chúng ta một chân trời mới, chân trời của ơn cứu độ. Nghịch lý của Thập giá cũng chính là nghịch lý của một tình yêu cao cả mà người đời không thể hiểu nổi. Các môn đệ năm xưa cũng không hiểu được. Vì thế, Phêrô đã ra sức can ngăn. Chúa quay lại nói với Phêrô : “Satan, hãy lui ra đằng sau Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người”. Những suy nghĩ của con người luôn khác xa với điều Thiên Chúa mong muốn. Vì vậy, nghịch lý của Thập giá mãi luôn là một ẩn số lớn nhất đối với tất cả mọi người chúng ta.
Từ bỏ tận căn – Đòi hỏi của con đường Thập giá
Khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Thiên Chúa và quyết tâm từ bỏ: Từ bỏ ma quỷ, từ bỏ thế gian cùng những cuốn hút dẫn đến tội lỗi. Trong đêm Thứ Bảy tuần thánh, chúng ta cũng lập lại lời tuyên tín này với ngọn nến thắp sáng cầm trên tay. Nhưng có bao giờ chúng ta bình tâm ngồi lại để lục soát lương tâm, xem chúng ta đã thực hiện tinh thần từ bỏ ấy như thế nào. Sự từ bỏ Chúa nói trong bài Tin Mừng hôm nay không phải chỉ là sửa chữa một vài tật xấu hay những thói quen không lành mạnh, cũng không phải chỉ giới hạn trong một vài hy sinh khổ chế, nhưng đó chính là sự từ bỏ tận căn, hy sinh ngay đến cả mạng sống. Chúa nhắc lại một tiêu chí căn bản để chúng ta thực hiện cho mình sự chọn lựa “Nếu người ta được lời lãi cả thế giới mà thiệt mất linh hồn, thì nào có lợi gì” (c. 26). Tiêu chí ấy phải trở thành quy chuẩn căn bản trong sự chọn lựa của chúng ta mỗi ngày, kéo dài trong suốt cả cuộc đời.
Xã hội ngày hôm nay đầy những cám dỗ và thử thách. Nếp sống hưởng thụ theo hình thái duy vật đang dần gặm nhấm niềm tin của chúng ta đặt để nơi Thiên Chúa. Đây là một kiểu sống vô thần, không phải chỉ trên lý thuyết nhưng trên thực hành cách cụ thể. Chúng ta vẫn thường tôn kính Thánh giá, đặc biệt trong cử hành phụng vụ ngày Thứ Sáu tuần thánh. Ngoài ra, nhiều người vẫn hay đeo ảnh Thánh giá trên ngực, nhưng chỉ để trang trí hơn là để tôn thờ. Tại nhiều giáo xứ, người ta vẫn hay tổ chức tưởng niệm cái chết của Chúa với những bài ngắm nguyện, những nghi thức táng xác hay than mồ cách trang trọng kèm theo những tiếng khóc than ai oán. Nhưng quả là rất giả tạo khi chúng ta tổ chức những cuộc rước suy tôn Thánh giá một cách hoành tráng và rầm rộ bên ngoài, nhưng cuộc sống cụ thể lại đi ngược lại với những đòi hỏi của Thập giá, như Chúa Giêsu nói tới trong bài Tin mừng hôm nay.
Hiến dâng thân mình làm của lễ sống động
Sứ điệp mà Thánh Phaolô nói tới trong bài đọc 2 hôm nay tóm kết những gì chúng ta cần phải thực hành để tiếp bước dấu chân của Đức Giêsu trên con đường Thập giá. Thánh Tông đồ viết : “Anh em đừng có làm theo thế gian, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm hồn”. Cũng như Đức Giêsu đã đón nhận cái chết để trở nên của lễ vô giá dâng lên Chúa Cha, thì những học trò của Ngài cũng phải sống mầu nhiệm Thập giá mỗi ngày để biến đời sống chúng ta trở thành của lễ sống động dâng lên Thiên Chúa. Như vậy, tự bản chất, ơn gọi Kitô hữu luôn hàm ngậm cái chết tử đạo. Đây không phải là cuộc tử đạo bằng máu nơi pháp trường, nhưng là sự từ bỏ liên lỷ trong những hy sinh nhỏ bé và liên lỉ của cuộc sống hằng ngày. Trong xã hội duy vật vô thần hôm nay, lời mời gọi của Chúa Giêsu để sống mầu nhiệm tử đạo ngày càng khẩn thiết và quyết liệt hơn bao giờ hết. Đặc biệt, đứng trước sự cuốn hút của tiền bạc, của danh lợi, của một lối sống hưởng thụ và ích kỷ, giới trẻ ngày nay đang có nguy cơ rơi vào một cuộc sống vô thần rất nguy hiểm. Lời Chúa hôm nay cho dầu chúng ta đã nghe đi nghe lại rất nhiều lần, nhưng vẫn luôn mang tính thời sự cho tất cả mọi người, đặc biệt đối với các bạn trẻ.
Kết luận
Có một đôi vợ chồng trẻ mới cưới nhau và dắt nhau đi hưởng tuần trăng mật. Đôi bạn khá nghèo và ước mơ có một căn nhà khang trang để ở. Hai anh chị thầm thì với nhau về ước mơ ấy khi ngồi nghỉ trên một ghế đá tại công viên. Một tỷ phú ngồi gần đó tình cờ nghe thấy. Ông ta hứa sẽ cho đôi vợ chồng một triệu đôla để thỏa mãn ước mơ với một điều kiện duy nhất, đó là cô vợ sẽ phải qua đêm với ông ta trong một khách sạn. Nghe vậy, cặp vợ chồng trẻ suy tính thật kỹ và chấp nhận. Hôm sau, họ đến văn phòng luật sư để làm giấy cam kết. Nhưng sau một đêm với nhà tỷ phú, cô ta bỗng thấy anh chồng của mình chỉ là một anh nhà quê cù lần và nghèo kiết xác, tài sản chẳng có gì đáng giá. Cô ta đổi ý, làm đơn xin ly dị với anh chồng mới cưới và về ở với chàng tỷ phú giàu có kia. Cuối cùng gia đình trẻ này bị tan vỡ. Cô gái trẻ về sống với ông nhà giàu cũng chẳng được bao lâu và cuộc sống mới của cô ta chẳng khác gì hỏa ngục. Thế là cô ta mất hết, tiền bạc không còn, tình yêu cũng vỗ cánh bay cao và cuối cùng cô nàng đã tự vẫn trong tuyệt vọng.
Câu chuyện hư cấu trên không phải chỉ có trong tiểu thuyết hay trong phim ảnh, nhưng vẫn đang xảy ra trong cuộc sống hôm nay nơi các bạn trẻ. Còn chúng ta, chúng ta có dám nói không trước sự cuốn hút của tiền bạc, của lạc thú hay lối sống hưởng thụ hôm nay hay không. Xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng ta sống tinh thần từ bỏ theo lời mời gọi của Chúa Giêsu.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay trình bày chủ đề: Muốn theo Chúa thì phải từ bỏ mình và vác thập TN 22-A159
Phụng vụ lời Chúa hôm nay trình bày chủ đề: Muốn theo Chúa thì phải từ bỏ mình và vác thập giá. Bài đọc I được các nhà chú giải Thánh kinh gọi là“Lời tự thú của tiên tri Giêrêmia”. Vị ngôn sứ than thở về những đau khổ ông phải chịu trong sứ vụ Chúa trao phó: bị chống đối, chế nhạo, lên án, nhiều lần bị mưu sát khiến ông chỉ thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Sau cùng, Giêrêmia đã bị giết chết để trung thành với sứ mạng tiên tri. Bài đọc II, thánh Phaolô kêu gọi tín hữu hãy “Hãy hiến thân làm của lễ sống động và thánh thiện” cho Thiên Chúa. Nói cách khác phải chấp nhận hy sinh, gian khổ trên con đường theo Chúa.
Trong bài Tin mừng, sau khi Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn, Phêrô đã ngăn cản Thầy. Đức Giêsu đã quở trách Phêrô nặng lời, Người gọi ông là satan. Ngay sau đó, Đức Giêsu đưa ra điều kiện cho ai muốn đi theo Ngài, muốn làm môn đệ Ngài.
“Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.
Điều kiện thứ nhất là từ bỏ mình. Theo nghĩa thần học, từ bỏ mình không có nghĩa là tha hóa, đánh mất chính mình, nhưng là chúng ta hóa nên giống như Đức Giêsu, đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu Kitô. Như vậy, từ bỏ chính mình để nên giống Chúa là một lý tưởng tuyệt vời, là tìm lại chính mình. Đây là một nghịch lý của niềm tin Kitô giáo: “Ai mất mạng sống vì Thầy, thì sẽ được mạng sống ấy”. Chính lúc chết đi là lúc sống muôn đời.
Điều kiện thứ 2 là vác thập giá mà đi theo Chúa: vác thập giá là đón nhận mọi vất vả, cực nhọc, đau khổ, hy sinh trong đời để vươn lên trong niềm hy vọng với một tương lai tốt đẹp hơn. Theo luật Rôma, người bị kết án đóng đinh phải tự vác lấy thập giá của mình ra pháp trường. Như thế “vác thập giá mình” coi như là mình bị kết án tử, chấp nhận cả cái chết để trung thành với Thiên Chúa, với Đức Giêsu Kitô.
Khi nói đến việc hy sinh từ bỏ, đa số chúng ta không muốn như Phêrô, coi sự từ bỏ như một điều bất thường. Thực vậy, từ bỏ là một quy luật rất bình thường trên phương diện tự nhiên, sinh học. Có nhiều thứ ta phải loại bỏ mới bảo vệ sự sống được. Khúc chân bị hoại tử phải cắt bỏ, ung thư bướu cổ cần phải được cắt bỏ, cành cây sâu cũng phải chặt bỏ đi, cây mới tốt và sinh hoa kết trái. Trên phương diện luân lý, cải thiện cuộc sống là từ bỏ nếp sống cũ, những tật xấu, những gì không tốt để tiếp nhận những cái tốt hơn mới trở nên con người mới, đạo đức, lương thiện. Như thế từ bỏ là quy luật sinh tồn, phát triển của cuộc sống xã hội và luân lý. Cuộc sống là phải biết lựa chọn, lựa chọn là từ bỏ, phải biết bỏ cái này, bỏ cái kia mà nhiều khi phải bỏ hoàn toàn, bỏ tất cả. Chẳng hạn chiếc xe máy hư quá nặng, nếu tiếp tục sửa có ngày sẽ gây tai nạn. Vì thế tôi cần bỏ hẳn để mua xe khác, mới bảo đảm an toàn.
Làm môn đệ của Đức Kitô là phải từ bỏ tất cả, hy sinh tất cả để nên giống Đức Kitô, sống như Đức Kitô. Các Thánh tử đạo Việt Nam đã dám bỏ tất cả, bỏ cả mạng sống mình vì danh dự Đức Giêsu Kitô. Đối với các ngài, bỏ nhưng không mất, mà lại được tất cả. Trong kinh Hòa Bình, thánh Phanxicô Assisi đã khẳng định:
“Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, mchính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Con đường từ bỏ mình, con đường thập giá, là con đường của người môn đệ Đức Kitô, con đường của ơn cứu độ, của sự phục sinh và là con đường vinh quang giúp chúng ta thành công trong cuộc sống.
Giáo dục là chuyện “muôn thuở”. Con người cần tái giáo dục vì đã phạm tội. Về việc giáo dục TN 22-A160
Giáo dục là chuyện “muôn thuở”. Con người cần tái giáo dục vì đã phạm tội. Về việc giáo dục, mỗi thời mỗi khác về cách thức, nhưng trọng tâm vẫn là muốn hoán cải người ta nên tốt hơn theo “bản gốc” của con người: “Nhân chi sơ tính bổn thiện”. Ngày nay, tuy hình thức trừng phạt thể lý không được đề cao, nhưng đôi khi vẫn thực sự cần thiết. Thật vậy, theo xã hội trần gian, người ta có nhiều dạng kỷ luật liên quan thể lý, cao nhất là tử hình. Cựu Ước cũng có luật tử hình (St 26:11; Xh 31:14-15; Xh 35:2; Lv 20:9, 10-13, 15-16, 27; Lv 24:16-17, 21; Lv 27:9; Ds 35:16-17).
Tiền nhân nói: “Thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”. Tục ngữ cũng ví von: “Miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời”. Còn Thánh Phaolô nói: “Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt” (Dt 12:6).
Giáo dục là sửa dạy. Tuy nhiên, sửa dạy phải có lòng yêu thương, nhưng phải cương quyết: “Hãy nghiêm khắc sửa dạy họ, để họ có một đức tin lành mạnh” (Tt 1:13). Ngoài ra, người được sửa dạy không nên tự ái, nghĩa là phải biết khiêm nhường, phục thiện và chấp nhận: “Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy” (Dt 12:7).
Giáo dục cũng liên quan việc khen – chê. Triết gia Tuân Tử (313–238 trước công nguyên, thời Chiến quốc, nước Sở, Trung Hoa) nhận định: “Người chê ta mà chê phải là thầy ta, người khen ta mà khen phải là bạn ta, những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy”.
Giáo dục ảnh hưởng tính cách của con người. Người có trách nhiệm giáo dục rất quan trọng, bởi vì giáo dục sai có thể gây hại cho cả một thế hệ, thậm chí hại cả một dân tộc. Tính cách là tính chất, là đặc điểm nội tâm của mỗi con người, có ảnh hưởng trực tiếp đến cách suy nghĩ, lời nói và hành động của người đó. Trong văn nói, tính cách gọi là “tính tình” hoặc nói gọn là “tính” – tính hiền, tính thẳng thắn, tính giản dị,… Một người có thể có nhiều tính cách và nhiều người có thể có cùng một tính cách nào đó.
Chắc chắn rằng tính cách là yếu tố quan trọng của một con người, chính tính cách đó có thể tạo nên số phận của người đó. Người ta thường đánh giá các động thái – đôi khi kể cả cách suy nghĩ – của một người, từ đó suy ra tính cách của người đó, cuối cùng là kết luận về bản chất của người đó.
Thông thường, tính cách được chia làm hai loại: tính tốt và tính xấu. Tốt và xấu là theo quan niệm của đa số. Tuy nhiên, đối với những tính cách mà số người cho là xấu bằng số người cho là tốt, hoặc không ai cho là tốt hay xấu gì cả, chúng ta nên xem xét lại trong từng trường hợp cụ thể hoặc “gắn” cho nó cái quan niệm trung lập. Đôi khi không hẳn cứ đa số là đúng!
Người ta thường nói: “Cha mẹ sinh con, Trời sinh tính”. Người ta không thể hiểu hết một con người, có gọi là “đi guốc trong bụng” thì cũng chỉ là một phần mà thôi. Ngay cả vợ chồng nên “một xương, một thịt” và sống với nhau vài chục năm rồi mà cũng chẳng hiểu hết tính tình của nhau. Và rồi vì không hiểu hết nhau, người ta đâm ra dị đoan bằng cách đoán tính cách qua giờ sinh, ngày sinh, năm sinh, chòm sao,… Hoàn toàn vô ích. Vớ vẩn và ngu xuẩn!
Là phàm nhân với cuộc sống đời thường, ai cũng thích may mắn và sợ xui xẻo, thế nên người ta thường nói: “May hơn khôn”. Điều gì xảy ra hợp ý mình thì người ta cho đó là may mắn, là hên; điều gì xảy ra không hợp ý mình thì người ta cho đó là xui xẻo. Thật ra chẳng có gì là hên hoặc xui, chỉ là cách so sánh của con người mà thôi. Tuy nhiên, sách Huấn Ca cho biết: “Người khôn ngoan biết thinh lặng chờ dịp tốt, còn kẻ bép xép, dại khờ lại bỏ lỡ cơ may. Kẻ nhiều lời sẽ bị chán ghét, người hiếu thắng thì bị khinh chê” (Hc 20:7-8). Người ta cũng thường nói: “Mình tính không bằng trời tính”. Một khái niệm đầy chất tâm linh. Rõ ràng tất cả mọi sự xảy ra không ngoài Thánh Ý Chúa. Thật vậy, có những mơ ước cháy bỏng nhưng rồi tan thành mây khói, có những điều mình không dám nghĩ tới thì lại xảy ra bất ngờ.
Đúng là như vậy, có những điều tưởng là “trời cho” mà chỉ là “trò chơi”, nhưng có những điều tưởng chỉ là “trò chơi” thì lại là điều “trời cho”. Thực tế cho chúng ta thấy có những điều nghịch lý mà lại “thuận” – gọi là nghịch-lý-thuận, và có những điều thuận lý mà lại “nghịch” – gọi là thuận-lý-nghịch. Một điều hiển nhiên: Thập Giá là đau khổ, là xui xẻo, nhưng chính Thập Giá lại trở nên hạnh phúc, là cái hên. Con người không thể hiểu hết hoặc biết chính xác. Hên hoặc xui, may mắn hoặc không may mắn, đó chỉ là quan niệm của con người mà thôi. Ngay cả khoa tâm lý học cũng chỉ suy luận từ những gì đã xảy ra nhiều lần ngẫu nhiên trùng hợp.
Trong cuộc sống, xã hội loài người đề cập những điều nghịch lý đã đành, Kinh Thánh cũng đề cập những điều nghịch lý: “Có khi lâm nạn lại thành công, gặp may mà hoá thiệt thòi” (Hc 20:9). Vì không biết vấn đề ra sao nên chúng ta gọi là “hên – xui”. Có một câu chuyện mà chắc hẳn nhiều người đã biết: Tái Ông mất ngựa. Chẳng biết đâu là hên hoặc xui. Cái mà chúng ta gọi là xui thì lại là hên, cái mà chúng ta cho là tốt thì có thể lại là xấu. Chỉ có Thiên Chúa biết, vì Ngài quản lý và sắp xếp mọi sự. Ngay cả những gì chúng ta cho là tự nhiên thì cũng chẳng tự nhiên, mà là cách sắp đặt của Thiên Chúa – tức là Ngài quan phòng và tiền định. Chúa biết tức là Ý Chúa muốn điều đó xảy ra cho chúng ta theo cách nào đó – dù chúng ta cho đó là hên hoặc xui, chắc chắn là Ý Chúa, vì Chúa Giêsu đã xác định: “Ngay đến tóc trên đầu anh em cũng được đếm cả rồi” (Lc 12:7).
Thiên Chúa toàn năng, toàn tri, quan phòng và tiền định. Chúng ta không thể nào hiểu hết Ý Chúa nhiệm mầu, vì thế chúng ta chỉ có thể cúi đầu và thân thưa: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước. Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện, để thấy uy lực và vinh quang của Ngài” (Tv 63:2-3). Chúng ta làm như vậy không phải vì miễn cưỡng hoặc “bị triệt buộc”, mà vì khiêm nhường chân nhận Thiên Chúa là Đấng duy nhất. Thánh Vịnh gia vừa lý giải vừa xác tín với tư cách đại diện cho mỗi chúng ta: “Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương. Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng, và giơ tay cầu khẩn danh Ngài. Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc, môi miệng con rộn rã khúc hoan ca” (Tv 63:4-6).
Ôi, thật là niềm vui trào dâng, chúng ta thực sự hạnh phúc sống trong sự quan phòng và sự chăm sóc của Thiên Chúa: “Quả thật Ngài đã thương trợ giúp, nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui. Trót cả tâm tình, con cùng Ngài gắn bó, giơ tay quyền lực, Ngài che chở phù trì” (Tv 63:8-9).
Khiêm nhường là nhân đức, người đời còn yêu quý huống gì Kitô hữu. Vì thế, tính cách của mỗi Kitô hữu phải thể hiện “phong cách” khiêm nhường. Không khiêm nhường sao được, vì chúng ta chỉ là tội nhân khốn nạn, đáng án tử, nhưng lại được Thiên Chúa thương xót nâng lên khỏi chốn bùn nhơ hôi tanh để được làm con cái của Ngài. Phép lạ lớn quá! Chúng ta đang “bị xui” mà “gặp hên” vì Thiên Chúa nhân hậu. Đó là chúng ta thực sự “gặp may”. Thánh Phaolô nhắn nhủ: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người. Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12:1-2).
Mỗi chúng ta đều phải tự chấn chỉnh đời sống, tu tâm sửa tính, thay đổi tính nết để có thể hoàn thiện mỗi ngày một hơn như lòng Chúa mong muốn. Tại sao? Để đáp lại lòng thương xót vô biên và vô điều kiện của Thiên Chúa, vì chính Chúa Giêsu đã nhắc nhở: “Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Ai biết thay đổi tính cách không chỉ có lợi về phương diện xã hội đời thường – được người khác quý mến, mà còn có lợi cả về phương diện tâm linh – được Thiên Chúa thương xót.
Chỉ vì ganh tỵ nên người ta đã ghét cay ghét đắng Đức Giêsu Kitô đến nỗi giết chết Ngài. Sao thế? Bởi vì Ngài có tính cách “khác người”, nhưng rất độc đáo: Thẳng thắn, cương trực, dứt khoát, nhưng khiêm nhường và nhân hậu. Ngài nói ít mà làm nhiều. Ngài rất ghét những người ba hoa, nói hay mà làm dở, ưa chỉ tay năm ngón, thích ăn trên ngồi trước, phe cánh, ưa hình thức, tự tôn, ra vẻ ta đây,… Nói chung là những dạng giả hình, những người có “máu” Pharisêu (Mt 23:2-7; Mc 12:38-40; Lc 11:39-46; Lc 11:52; Lc 20:45-47). Với những người khoái làm “ông này, bà nọ”, khoái “có tiếng” hơn “có miếng”, Ngài nói thẳng khuyến cáo: “Hãy phục vụ, đừng hưởng thụ” (Mt 20:28; Mc 10:45). Tuy nhiên, thực tế người ta chỉ thích vế thứ hai, chứ không muốn đề cập vế thứ nhất!
Thánh Mátthêu cho biết rằng, một hôm, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết “bí mật” bất ngờ: Ngài phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Vốn dĩ ngư dân chân chất, tính nóng như Trương Phi và thẳng như ruột ngựa, ông Phêrô liền kéo riêng Ngài ra và bắt đầu trách: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16:22).
Ôi chao, có lẽ lúc đó ông Phêrô tưởng sẽ được cảm ơn, ai dè Đức Giêsu quay lại “phang” liền, với một câu rất nặng: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16:23). Thầy kỳ ghê đi! Phêrô là “tổ trưởng” mà Thầy cũng chẳng nể nang chi ráo trọi. Không thể được! Tính cách của Chúa Giêsu là “thẳng thắn thật thà”, không phải cứ làm lớn thì có thể làm láo, càng lớn càng phải làm gương. Đó mới là lãnh đạo, và đó cũng là điều Chúa muốn.
Chúng ta có thể nói rằng Chúa Giêsu không nguyền rủa ai nặng như lời trách dành cho Phêrô – vị giáo hoàng tiên khởi. Phải bị vậy thì Phêrô mới không dám lên mặt, phải tự xem lại mình mà khiêm nhường. Chúng ta cũng có những lúc đã từng “ảo tưởng” như ông Phêrô, cứ nghĩ mình “ngon” hơn người khác về lĩnh vực này hoặc phương diện nọ, nhưng thực ra chỉ là “thùng rỗng kêu to”, đôi khi còn quá lố nên bị hố. Cứ bảo là lắng nghe nhưng thực ra lại bắt người khác phải “lắng”, còn mình không thèm nghe.
Xét ở tình huống này, chúng ta thấy tính cách của ông Phêrô rất bộc trực, chân thật, nghĩ sao nói vậy, không rào trước đón sau. Ông là dân thuyền chài chính hiệu, ít học, không giỏi giang hơn người khác, không nổi trội, nhưng Chúa Giêsu vẫn chọn ông làm “hoa tiêu” của Giáo hội, làm “đá tảng” để xây dựng Giáo hội, vì Ngài biết rõ tâm địa ông thẳng thắn và khiêm nhường. Vâng, Thiên Chúa cần người khiêm nhường, dù không giỏi, Ngài không cần người giỏi mà kiêu ngạo. Chính Thần Khí Thiên Chúa sẽ tác động: “Đức Khôn Ngoan mở miệng người câm, và cho lưỡi trẻ thơ nói năng dễ dàng” (Kn 21:25). Ai khiêm nhường thì có Chúa, và có Chúa là có tất cả.
Đức Giêsu nói nói về điều kiện “ắt có và đủ” để khả dĩ trở nên môn đệ của Ngài: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16:24-26). Chắc chắn chẳng có ai ra điều kiện “ngược đời” và “chói tai” như Chúa Giêsu. Thường thì khi muốn người khác về phe với mình, người ta đưa ra những điều kiện “béo bở”, được lợi này ích nọ, chứ chẳng ai dám hứa hẹn về sự đau khổ. Các công ty muốn có nhân viên giỏi thì hứa hẹn lương bổng cao, các tổ chức muốn có nhiều thành viên thì hứa hẹn nhiều lợi lộc (cả lợi và lộc). Chúa Giêsu hoàn toàn trái ngược. Ấy vậy mà càng ngày người ta càng nghiệm ra “ẩn số” trong tính cách độc đáo của Ngài và muốn theo Ngài tới cùng. Lạ thật!
Lúc còn sinh thời, ông Mohandas Karamchand Gandhi (1869–1948), một nhà ái quốc chủ trương bất bạo động, được dân Ấn Độ coi là “cha già” (Bapu) và “vị thánh” (Mahatma, tâm hồn vĩ đại), cũng đã từng thần tượng Chúa Giêsu sau khi đọc Kinh Thánh, đặc biệt là Bài Giảng Trên Núi (Bát Phúc, tám Mối Phúc). Quả thật, chỉ có người giỏi mới nhận ra tài năng độc đáo và cái giỏi của người khác. Người thực sự giỏi thì sẵn sàng tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Vĩ nhân Gandhi nhận định: “Tôi không cần biết có một Đức Giêsu trong lịch sử hay không, nhưng những gì Người dạy trong Bài Giảng Trên Núi là sự thật. Đối với tôi, Thiên Chúa là sự thật và tình yêu. Ngay lần đầu tiên đọc cuốn Tân Ước, tôi không hề tìm thấy chỗ nào bày về sự yếu đuối hay nhát đảm của Đức Giêsu. Không phải qua gươm giáo, nhưng qua thái độ chịu đau khổ sẽ giúp cho người ta đánh giá được bản lãnh và nhân đức của một con người. Ở đâu có yêu thương, ở đó có sự sống”. Quả thật, ông vẫn là một Kitô hữu thực thụ, dù ông chưa được rửa tội theo nghi thức Kitô giáo, đáng để chúng ta noi gương.
Về ngôn ngữ cũng có điều kỳ diệu: Chữ SANTA (thánh) và SATAN (ma quỷ) chỉ khác nhau ở cách xếp mẫu tự. Cách đảo tự có thể trở thành tốt hoặc xấu. Đúng là “sai một ly đi một dặm”. Và cách sống cũng tương tự. Đôi khi cứ tưởng là “bác ái” nhưng thực chất lại là “bái ác”. Khoảng cách để làm Thánh hoặc làm Quỷ thật là mong manh, vì thế mà phải cẩn trọng và cảnh giác!
Đối với các môn đệ và những người muốn theo Ngài, Chúa Giêsu không hứa hẹn mà chỉ giải thích: “Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm” (Mt 16:27). Thêm một ngày mới là thêm một khoảng sống, nhưng cũng là bớt một khoảng sống, nghĩa là cuộc đời mỗi người cứ dần ngắn lại, và Thời Cánh Chung cũng đang dần khép lại, hãy hoán cải để được Thiên Chúa cứu độ!
Lạy Thiên Chúa chí thánh, xin mở mắt đức tin của con để con biết hoán cải theo đúng Tôn Ý Ngài. Con đường dài nhất là con đường từ cửa miệng tới bàn tay, xin giúp con biết làm đúng với lời nói chứ không giả hình, và xin sửa dạy con thành một tín nhân đúng nghĩa. Con chân thành cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Truyện ngụ ngôn Aesop: Dê và Cáo, có nội dung như sau: một con dê nhỏ được người chủ để TN 22-A161
Truyện ngụ ngôn Aesop: Dê và Cáo, có nội dung như sau: một con dê nhỏ được người chủ để lại trong chuồng, vì nó chưa đủ khôn để có thể theo đàn đi ăn cỏ, đó cũng là cách bảo đảm để chú dê nhỏ không bị thú dữ ăn thịt. Rồi một hôm, dê con nhìn thấy cáo ở ngoài chuồng nó lấy hết sức la hét nhảy nhót và buông lời lăng nhục cáo. Cáo nói: ồ tao nghe mày chửi đó, điều mày xỉ vả tao có can gì đâu, nhưng tao báo cho mày biết, cái mái chuồng sắp đổ rồi đó. Câu truyện có ngụ ý đừng bao giờ nói những câu thừa thãi, và không nên gây sự với ai làm gì, nếu không muốn hoạ tới.
Người xưa có câu: khờ dại hay bị lừa, nói bừa hay vạ miệng. Kinh nghiệm ấy nhiều đấng bậc phải khốn khổ vì con dại, vì trò hư, dù các ngài luôn sẵn lòng chịu hình phạt thay cho chúng: con dại cái mang, tội quy về trưởng. Người học trò Phêrô bị quở trách do phát biểu “bừa bãi”, trò quá tự tin đến độ có ý vẽ lối cho Thầy: “xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp chuyện ấy”, trong khi Đức Giêsu mời gọi các học trò hãy cùng đi Giêrusalem. Nói liều, nói bạt mạng như Phêrô, không những các bạn ông, mà cả bàn dân thiên hạ sẽ còn lắc đầu vì ông dám múa rìu qua mắt thợ. Thông thường thầy trò sẽ nghỉ ngơi, hoặc đi tham quan du lịch, sau những ngày vất vả mệt nhọc, Thầy Giêsu lại tha thiết cùng các môn đệ đi Giêrusalem để chịu đau khổ, chịu chết, quả là khó nghe, khó hiểu, đối với số học trò còn đầy giới hạn.
Chuyên chăm học tập, để được thầy truyền hết bí quyết nghề nghiệp, để biết làm vẻ vang trường phái của thầy, thiết tưởng đó là trả ơn thầy ; nhưng không, Thầy Giêsu rất rõ ràng: “ai muốn theo Thầy, hãy tự bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy”. Nếu Đức Giêsu nói, nào chúng ta cùng đi Giêrusalem để làm vua, làm tướng, có lẽ các môn đệ và cả chúng ta hôm nay cũng hào hứng, sung sướng lắm. Cùng Thầy đi Giêrusalem đâu phải chỉ đối đầu với nguy hiểm khổ đau mất mát, nhưng là ơn gọi, là vinh dự được hiệp thông với sứ mạng làm Con Đấng cứu độ trần gian. Ơn gọi và sứ mạng theo Thầy Giêsu không sòng phẳng như thế gian mong đợi: ăn đồng chia đủ, phúc cùng hưởng hoạ cùng chia. Theo Thầy Giêsu sẽ mãi mãi là dấu chứng tình yêu Thiên Chúa đầy tràn sức mạnh nâng đỡ ta ngay ở đời này hầu dẫn ta đạt tới hạnh phúc đời sau.
Tục ngữ có câu: một nghề thì sống, đống nghề thì chết. Ngay từ ý nghĩ ban đầu cha ông chúng ta đã cho thấy: sống, chết, luôn chi phối con người, do đó hãy trở nên khôn ngoan hầu biết chọn lựa cơ nghiệp bền vững muôn đời. Cùng Thầy đi Giêrusalem đã làm cho các học trò năm xưa khiếp sợ, có thể làm cho chúng ta hôm nay cũng e dè bất an, nếu chúng ta chưa đủ khiêm tốn đi đằng sau Đức Giêsu. Theo Thầy Giêsu làm môn đệ, thì nghèo hèn, sang giầu, chưa thể gọi là thành công hay thất bại, có chăng vui khoẻ, bình an và trong các tương quan có đủ tình yêu thương, như thế cuộc sống mới giá trị, ý nghĩa. Cùng Thầy đi Giêrusalem không phải để tìm hưởng phú quý bổng lộc, không phải để liều thân chịu chết như kẻ chán sống, sợ hãi trách nhiệm, đúng hơn là để minh chứng tình yêu với sứ mạng người môn đệ theo Đức Kitô.
Kinh nghiệm ở đời cho thấy người bi quan luôn càm ràm mỗi khi thấy đau khổ thập giá ; người lạc quan một chút thì bảo nhau chờ đợi: sau cơn mưa trời lại sáng ; Đức Giêsu Ngài thích con người thực tế hơn: “nếu được lời lãi cả thế gian mà mất đi sự sống mình nào có ích chi ?”. Có dứt khoát theo Đức Giêsu đi Giêrusalem, các ngư phủ năm xưa mới hiểu đâu là giá trị của tin yêu, đâu là tự do chọn lựa gắn bó với Thầy, là biết tự bỏ mình để sống thánh ý Chúa, nên trọn vẹn trong tình yêu Giêsu. Theo quy ước tự nhiên “nhập gia tuỳ tục”, trò theo thầy, hãy đi đằng sau thầy, kẻ làm môn đệ Đức Giêsu không thể tìm cách né tránh thập giá, cũng không phải cứ lao mình vào nơi cùng cực, tìm đường chết, mà tất cả phải hiểu và sống sứ mạng người môn đệ theo Đức Kitô.
Cùng Thầy đi Giêrusalem vẫn là lời mời gọi những ai muốn theo Đức Giêsu làm môn đệ, theo Đức Giêsu sống thánh ý Chúa, theo Đức Giêsu là bỏ ý riêng và đi con đường thập giá hầu đạt đến vinh quang thật. Từ bỏ mình không đơn giản là bỏ đi những thứ dư thừa, hay bỏ đi một chút tiền cho kẻ nghèo đói, mà là bỏ đi tính ích kỷ để được Thầy Giêsu biến đổi nên người môn đệ của Ngài, sống tinh thần yêu thương phục vụ. Thời đại hôm nay đau khổ thập giá đang tồn tại dưới nhiều cách gọi khác nhau: thất bại, túng thiếu, bệnh tật, tai nạn, cô đơn… Vác thập giá hàng ngày chính là bài trắc nghiệm mỗi người chúng ta sống kỷ luật với bản thân mình, đang cùng Thầy Giêsu đi Giêrusalem để hoàn tất sứ vụ Chúa trao phó. Amen.
Khởi đi từ ý thức và tuyên xưng của thánh Phêrô, cũng là đại diện cho tông đồ đoàn: “Thầy là TN 22-A162
Khởi đi từ ý thức và tuyên xưng của thánh Phêrô, cũng là đại diện cho tông đồ đoàn: “Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” dành cho câu hỏi của Chúa Giêsu: “Các con bảo Thầy là ai?”, Chúa Giêsu dẫn dắt các môn đệ đến một mạc khải hay cũng là một thử thách quan trọng, đòi các ông phải dấn thân nhiều hơn cho đức tin. Vì “Đấng Kitô của Thiên Chúa”, không phải là Đấng “ăn trên, ngồi trước”, nhưng sẽ là Đấng hạ mình chết cho anh em, vì anh em. Đấng “phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, vã bị giết, và ngày thứ ba thì sống lại”.
Và sau khi mạc khải về thập giá của Chúa, Chúa lại mời gọi chúng ta vác thập giá của chính chúng ta: “Ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống”.
Đó là lời dạy của Chúa. Còn chúng ta, hôm nay, nhìn lên thánh giá Chúa, để rồi quay nhìn lại thánh giá đời mình, chúng ta dám khẳng định: THÁNH GIÁ LÀ NỖI ĐAU NHƯNG CŨNG LÀ NIỀM AN ỦI.
THÁNH GIÁ LÀ NỖI ĐAU.
Là nỗi đau vì:
– Chúa Kitô đã chết đớn đau trên thánh giá.
– Mọi con người, một khi mang thân phận con người, đều phải chấp nhận những đau khổ, những thách thức của đời sống. Tất cả những bất hạnh, lo âu, khổ sở ấy chính là thánh giá đè nặng trên đời người.
Có những thánh giá là một căn bệnh hiểm nghèo, là cái chết ngay tức khắc, là một cánh cửa nhà tù đang khép lại tương lai, là một quyết định phác lưu biệt xứ, là một cuộc tẩy chay, loại trừ ra khỏi cộng đoàn hiệp thông, là một cuộc thanh trừng sát hại không để lộ tông tích, là một sự đàn áp dã man không còn nhân tính, là những bức bách thể xác tinh thần đến độ mất ăn mất ngủ sinh kiệt sức đến lâm chung, là cách cai trị theo kiểu cai trị đám dân nô lệ vài ngàn năm khi nhân loại còn trong bóng đêm lạc hậu…
Có khi thánh giá cuộc đời là những rủi ro một cách khách quan ập đến. Nhưng cũng có những cây thánh giá do chính con người quẳn lên cuộc đời của nhau. Nếu thánh giá là chính người thân của mình tạo ra cho mình, chắc chắn đau khổ sẽ vô cùng lớn, bất hạnh chắc chắn nặng nề hơn.
Trên http://www.baomoi.com/nguoi-me-dau-kho-quy-lay-xin-con-trai-hay-song-lam-nguoi-tu-te/c/21644754.epi, tác giả Phương Quỳnh kể lại nỗi đau của người mẹ phải một mình lo cho chồng ốm đau quanh năm bên cạnh đứa con trai duy nhất ngang tàn, phá phách, lao mình vào “xã hội đen”.
Người mẹ đau khổ ngậm ngùi tâm sự: “Cuộc sống lêu lổng của nó cứ ngày này qua ngày khác rồi đến lúc hết tiền nó lại về vòi vĩnh vợ chồng tôi. Tôi khóc không thành tiếng, còn quỳ lạy con trai mình hãy sống làm người tử tế, đừng hành hạ bố mẹ như thế nhưng nó vẫn không tỉnh ngộ. Nó hỗn hào cãi: “Sinh ra được thì phải chịu đựng được”.
Tôi như chết lặng người khi tận mắt chứng kiến hành động hung hãn để lấy bằng được tiền của đứa con trai mà tôi đã vất vả sinh thành nuôi nấng.
Cũng mấy lần tôi nghĩ quẩn không muốn sống làm gì nữa nhưng nhìn chồng mình ốm đau, không có tôi chăm sóc thì phải làm sao nên tôi cố gắng gượng. Giờ đây, cứ mỗi lần thấy con trai về đến cổng là vợ chồng tôi lại hoảng sợ. Tôi không biết đến bao giờ con trai tôi mới thấu hiểu nỗi khổ của bố mẹ và gia đình tôi hết sóng gió?”.
Ước mong, mỗi chúng ta hãy sống bên nhau bằng tình yêu. Nhất là các Kitô hữu, những người được thấm thía lời dạy “hãy yêu nhau” của Chúa, càng phải sống cho nhau, vì nhau, và yêu nhau theo gương Chúa, để cuộc đời này vốn đã nhiều đau khổ, sẽ bớt đau khổ hơn. Chính tình yêu làm cho sự sống của chúng ta đang yêu, đáng sống, đáng xã thân hiến dâng đời mình.
THÁNH GIÁ LÀ NIỀM AN ỦI.
Vâng, có quá nhiều thánh giá cho các tín hữu thời nay. Thánh giá làm ta sợ hãi. Thánh giá gây nên những hoang mang, bất ổn trong cuộc đời. Ta muốn chạy trốn thánh giá. Ta muốn chối từ thánh giá, bởi thánh giá đã quá nhiều lần làm ta tê tái, rát buốt.
Nhưng thánh giá cũng là niềm an ủi. Bởi dù cho cuộc đời có vùi dập ta đến đâu, nhưng với một chút niềm tin, nhìn lên thánh giá Chúa Giêsu, ta sẽ được đỡ nâng, được thêm sức mạnh, thêm can trường.
Cha ông của chúng ta, các thánh Tử Đạo Việt Nam là những bằng chứng cụ thể về việc các ngài được an ủi lớn lao từ thánh giá Chúa Kitô. Các ngài đã anh hùng vác thánh giá suốt cuộc đời mình qua những cuộc bách hại.
Các ngài đã ôm cây thánh giá vào lòng trước mặt quan quyền. Các ngài đã quì gối hôn kính thánh giá để chấp nhận bao cực hình cho đến chết, dứt khoát không bước qua thánh giá.
Dấu thánh giá xưa trở thành niềm kiêu hãnh lớn lao cho các thánh Tử Đạo. Ngày nay thánh giá vẫn đang an ủi bao nhiêu con người tưởng chừng bị đè bẹp tận đáy của đời sống. Như cha ông mình, họ nhìn lên thánh giá Chúa mà chấp nhận cuộc tử đạo hàng ngày qua mọi thương đau mà họ phải gánh lấy.
Biết bao nhiêu tâm hồn chìm trong tội, nhận ra bầu trời trong–mát–dịu của thánh giá, can đảm tách rời khỏi quá khứ tội lỗi, làm lại cuộc đời.
Biết bao nhiêu tâm hồn suốt đời chỉ chìm trong bạo lực đã nhìn lên bóng thánh giá mà rửa mình sạch mọi dơ bẩn để trở nên hiền hòa, đức độ.
Biết bao nhiêu con người đêm ngày ngụp lặt trong bất công, xảo kế, bỗng một lần nhìn lên thánh giá, đã quay lưng với tất cả lợi lộc từ những gian xảo mang lại, để biến mình thành môn đệ Chúa Kitô.
Biết bao nhiêu những tâm hồn lồng lộng dữ dằn như những con thú hoang, bỗng một lần khám phá ánh sáng yêu thương chiếu dọi từ thánh giá, đã trở nên hiền hòa, nhân hậu, đáng mến.
Biết bao nhiêu kẻ sống ích kỷ, đêm ngày chỉ biết tư lợi, bỗng một lần nhìn lên thánh giá, đã trở thành kẻ xả kỷ, biết hiến thân và hiến dâng.
Cũng vậy: Biết bao nhiêu tâm hồn bị đày ải, khổ đau, cuộc sống như chỉ còn muốn sống cho qua ngày, đoạn tháng, bỗng được tình yêu của thánh giá chiếu rọi, trở nên bình an hơn, chấp nhận trong vui tươi hơn.
Biết bao nhiêu kẻ tử tù, trên đường đi về cái chết, đã nhìn thấy thánh giá, và thánh giá bỗng trở nên sức mạnh khiến cuộc ra đi không còn đau đớn, chỉ còn là niềm tin chiến thắng.
Biết bao nhiêu anh chị em của chúng ta thầm lặng, hoặc công khai, giữa những lúc bị bách hại, vì thánh giá, bất chấp mọi đe dọa, đêm ngày rao giảng đức tin vào tình yêu kỳ diệu của thánh giá Chúa Kitô.
Biết bao nhiêu người, nhìn cứ tưởng yếu đuối, mỏng dòn, nhưng nhờ tin vào thánh giá Chúa Kitô, họ đã có sức mạnh phi thường vượt thắng mọi thách thức mà con người, hay hoàn cảnh, hay môi trường mang lại.
Biết bao nhiêu người nghèo khổ, bệnh tật, bị bỏ rơi…, vì thánh giá Chúa Kitô, đã có thể sống trung thành với đức tin mà không gợn một chút nghi nan, một chút u uất nào.
Biết bao nhiêu tâm hồn đầy chữ nghĩa, khoa bản, hiểu biết…, nhìn lên thánh giá, đã biết học lấy bài học của khiêm tốn, sống đơn sơ, thậm chí thô sơ với mọi anh chị em dù họ thấp kém, hay sang trọng.
Ngược lại, cũng có biết bao nhiêu tâm hồn, nhờ tình yêu đối với thánh giá, và đêm ngày chỉ biết suy tư cùng thánh giá, ôm lấy thánh giá trọn đời mình, dù họ là người kém cõi, ít hiểu biết, lại trở nên khôn ngoan, thấu hiểu những chân lý cao siêu lạ thường.
Biết bao nhiêu người suốt đời chỉ biết nhìn lên thánh giá, chọn thánh giá làm lẽ sống, vì thế đời họ luôn luôn sáng rực nụ cười và gieo nụ cười ấy khắp nơi.
Biết bao nhiêu người đã có thể trải lòng mình cho mọi người ở mọi nơi, mọi lúc, nhờ kiên định trong tình yêu đối với thánh giá Chúa Kitô.
Biết bao nhiêu người bước ra từ trong đau khổ, vẫn không mất niềm bình an, bởi họ đã tin vào thánh giá Chúa Kitô.
Cứ như thế, thánh giá sẽ chở che bất cứ ai vững lòng trông cậy. Từ ngàn xưa cho đến muôn đời, chắc chắn ai tin tưởng nơi thánh giá, họ sẽ không bao giờ thiếu vắng niềm an ủi…
Sau khi ông Phêrô tuyên xưng: “ Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”,Đức Giêsu TN 22-A163
Sau khi ông Phêrô tuyên xưng: “ Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”,Đức Giêsu lại cho các ông biết : Ngài phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. Đó là con đường thập giá Ngài sẽ phải đi qua. Từ đó Ngài đòi hỏi ai muốn đi theo Ngài cũng phải “ từ bỏ mình, vác thánh giá mình”. Đó là con đường sống: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy.”
Với những người không tin vào Thiên Chúa, thì con người chỉ có một mạng sống; nhưng với người có niềm tin vào Thiên Chúa, tin có sự sống đời sau, thì cuộc sống trần gian hôm nay chỉ là một cuộc sống tạm bợ để đi về cõi sống hạnh phúc, vĩnh hằng.
Trong quyển sách nhan đề Underground Notes, một tù nhân chính trị người Nam Tư đã tả lại những kinh nghiệm của ông trong thời gian có cuộc bách hại khủng khiếp trên đất nước Nam Tư. Ông đã ghi lại nhiều câu chuyện về các tù nhân mà ông có dịp quen biết trong thời gian ấy.
Các tù nhân thường phải đối diện với một sự lựa chọn: hoặc trung thành với niềm tin của mình và chấp nhận hậu quả, hoặc đầu hàng trước thế lực áp bức và tránh được tra tấn.
Ông tả rất sinh động và rất thực cách thức mỗi nhóm tù nhân xoay xở. Những người trung thành với lương tâm của họ thì cảm thấy có một sức mạnh phi thường, một sức mạnh nội tại mà họ chưa bao giờ nhận ra ở nơi mình. Họ nhận thấy mình có đủ sức mạnh để đương đầu và vượt qua những hoàn cảnh gian khổ cùng cực. Ngược lại, những người muốn bảo toàn mạng sống mình lại hóa ra mất mát tất cả. Họ đánh mất tất cả giá trị của đời sống và sự sống.
Trò không hơn Thầy. Đức Kitô vì yêu thương con người đã vâng theo thánh ý Chúa Cha để xuống trần gian, mang thân phận con người để rồi phải chịu phản bội, chống đối, cuối phải lãnh án tử hình trên cậy thập giá. Con đường Đức Kitô đi là con đường thập giá, con đường hy sinh bản thân mình vì thánh ý Chúa Cha và vì yêu thương con người. Bởi thế, những ai muốn đi theo Đức Kitô cũng phải đi qua con đường thập giá như Đức Kitô đã đi; đó là con đường từ bỏ ý riêng mình, từ bỏ những đam mê dục vọng của mình để đi theo con đường vâng theo thánh ý Thiên Chúa để yêu thương phục vụ Thiên Chúa và con người. Đó là con đường hy sinh mạng sống mình, vì “ Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được sự sống ấy”.
Vậy muốn có được mạng sống đích thực, thì phải bước theo Đức Kitô là từ bỏ chính mình, vác thập giá mình. Đó là con đường dẫn chúng ta đến sự sống thật, sự sống vĩnh cửu.Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma cũng đã cho chúng ta thấy đâu là con đường dẫn đến sự sống đích thực: “ Tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống dộng, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa.”
Được làm con cái Thiên Chúa là một hồng ân, đồng thời chúng ta cũng được kêu gọi làm môn đệ của Ngài để đi loan báo Tin Mừng cho kẻ khác. Nhưng hồng ân ấy có thể bị đánh mất đi khi chúng ta đặt tự do của mình trên ý muốn của Thiên Chúa.
Cuộc sống chạy theo những nhu cầu vật chất là một trở ngại lớn cho những ai muốn là môn đệ của Đức Giêsu. Nếu muốn chiếm được Nước Trời, muốn tìm được sự sống đích thực, thì phải chết đi cho những gì chóng qua, hư nát. Chết đi để được sống.
Thiên Chúa tạo dựng con người không phải để bắt con người phải sống vất vả khổ cực, nhưng để được sống hạnh phúc. Thiên Chúa cũng không để mặc cho con người sống ra sao thì ra tùy số phận của con người, nhưng Ngài muốn cho con người sống hạnh phúc. Nhưng để đạt được mục đích ấy con người phải bước đi theo con đường của Ngài. Con đường ấy không phải là con đường thênh thang, dễ dãi nhưng là con đường hẹp. Con đường ấy là từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà đi theo Thầy Giêsu.
“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”
I. LẮNG NGHE LỜI CHỨA TRONG TIN MỪNG MÁT-THÊU (Mt 16,21-27):
21 Từ khi ông Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống, thì Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại. 22 Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” 23 Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”
Rồi Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. 25 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. 26 Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?
27 “Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.
II. TÌM HIỂU VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA
2.1 Sự tương đồng giữa Thầy và trò thì nền văn hóa nào cũng đề cao. Bằng chứng ai trong chúng TN 22-A164
2.1 Sự tương đồng giữa Thầy và trò thì nền văn hóa nào cũng đề cao. Bằng chứng ai trong chúng ta cũng thuộc lòng câu tiếng ta “thầy nào trò nấy” hay câu tiếng tây “tel maitre tel élève”. Cũng có nghĩa là Thầy đi con dường nào thì trò đi con đường nấy. Chính Đức Giê-su đã mời gọi tất cả những ai muốn làm môn đệ Ngài: “Ai muốn theo Thầy phải từ bỏ chính mình, vàc thập giá mình mà theo?” Con đường của Thầy là “phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại “
2.2 Việc Tông Đồ Phê-rô ngăn cản Đức Giê-su đi vào con đường thập giá cũng là chuyện bình thường và dễ hiểu, vì loài người là như thế. Thật ra không chỉ một mình Phê-rô mà cả 12 Tông Đồ đều không muốn Thầy của mình đi vào con đường thập giá. Trái lại cả 12 Tông Đồ -mà Gia-cô-bê và Gio-an đóng vai đại diện- đều mơ ước được Thầy dẫn vào con đường vinh quang: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người đuợc ngồi bên tả Thầy khi Thầy được vinh quang” (Mt 10,37).
2.3 Việc trò chịu đi con đường của Thầy là chìa khóa của đời sống tâm linh, vì nên thánh theo Ki-tô giáo chẳng là gì khác là nên giống Chúa Giê-su Ki-tô. Nói cách khác đi con đường thập giá, hy sinh từ bỏ mình chính là con đường nên thánh, nên hoàn thiện của các Ki-tô hữu.
III. THỰC THI LỜI CHÚA
3.1 Khi nói về Thánh Giê-rô-ni-mô, linh mục tiến sĩ Hội Thánh và là dịch giả Bộ Thánh Kinh Phổ Thông (Vulgata) từ tiếng Hy-lạp sang tiếng La-tinh, người ta thường kể câu chuyên vui nhưng nhiều ý nghĩa này:
Một đêm Giê-rô-ni-mô ngủ mơ thấy mình xuất hiện trước tòa Chúa Giê-su Ki-tô. Chúa hỏi ông: “Anh là ai?” Giê-rô-ni-mô nhanh nhẩu đáp: “Dạ con là Giê-rô-ni-mô”. Chúa hỏi tiếp: “Anh là môn đệ của ai?” Giê-rô-ni-mô không chần chừ đáp lại liền: “Dạ con là môn đệ của Chúa mà Chúa không nhận ra con sao?” Chúa Giê-su nhăn mặt hỏi thêm: “Hằng ngày anh đọc những sách nào?” Giê-rô-ni-mô ấp úng trả lời: “Dạ con đọc Ciceron và các tác phẩm văn chương La-mã, Hy-lạp ạ”. Chúa Giê-su liền nói: “Anh đọc sách của Ciceron thì anh là đồ đệ của Ciceron, chứ làm sao anh là đồ đệ của Ta được, anh có đọc sách của Ta đâu». Giê-rô-ni-mô giật mình tỉnh giấc và hiểu rằng anh phải đọc Sách Thánh thì mới là môn đệ của Chúa Giê-su Ki-tô. Và từ ngày đó Giê-rô-ni-mô không đọc các sách của Ciceron và các tác phẩm văn chương Hy-La nữa mà chỉ đọc Thánh Kinh Cựu và Tân Ước mà thôi.
Có lẻ nhờ kinh nghiệm của bản thân, Thánh Giê-rô-ni-mô mới nói một câu bất hủ: “Không biềt Thánh Kinh là không biết Chúa Ki-tô”
3.2 “Biết” theo nghĩa Thánh Kinh không chỉ là có kiến thức mà là có cảm nghiệm về Chúa, là sống mật thiết gắn bó với Chúa, là sống chết với Chúa, là theo chân Chúa, là đi con đường của Chúa. Người môn đệ của Chúa Ki-tô là người biết Chúa Ki-tô theo ý nghĩa đặc biệt này. Từ nhỏ tới lớn và từ lớn tới già tôi vẫn luôn cố gắng đi theo Chúa Giê-su Ki-tô trên con đường Người đã đi là con đường hy sinh, từ bỏ và phục vụ hiến dâng.
IV CẦU NGUYỆN VỚI LỜI CHÚA
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa làm người, là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa. Con dâng lời chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Chúa vì Chúa đã đi con đường thập giá và mời gọi con đi theo Chúa.
Chúa biết hy sinh, từ bỏ, vác thập giá theo Chúa là việc khó khăn vượt sức loài người. Nhưng con muốn đi theo Chúa vì con biết đó là con đường duy nhất dẫn con tới sứ sống và hạnh phúc thật.
Xin Chúa giúp con. Xin Chúa ban sức mạnh cho con.
Con cầu xin Chùa là Đấng hằng sống hằng trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần đến muôn đời. Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXII TN/A – Mt 16, 21-27) trình thuật sự kiện thánh Phê-rô bị quở TN 22-A165
Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXII TN/A – Mt 16, 21-27) trình thuật sự kiện thánh Phê-rô bị quở trách rất nặng: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” Cũng vì Đức Giê-su gọi thánh Phê-rô là Xa-tan, nên đã có nhiều bài chia sẻ cho rằng Thánh Phê-rô cám dỗ Chúa Giê-su, cũng giống như khi mở đầu cho hành trình công khai rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su vào hoang địa ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày, bị quỷ cám dỗ (Mt 4, 1-11). So sánh như vậy thì có vẻ không ổn, vì với lần vào sa mạc, quỷ đem những mồi nhử vinh hoa, phú quý, danh vọng cám dỗ Chúa, mục đích của chúng chỉ là để hạ bệ, làm nhục Chúa, và cũng vì thế, chúng thất bại nhục nhã, phải lủi thủi “bỏ Người mà đi”.
Còn việc Thánh Phê-rô trách Người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16, 23) có mục đích khác hẳn mục đích của quỷ dữ. Thánh nhân thấy Thầy mình tỏ cho biết hành trình khổ nạn tại Giê-ru-sa-lem mà Thầy sắp phải gánh chịu, thì vì quá thương Thầy, nên Thánh nhân mới thốt ra những lời nói làm phật ý Thầy. Nếu có hiểu từ “trách” (Thánh Phê-rô trách Đức Giê-su) mà sách Tin Mừng ghi lại, thì cũng nên hiểu đây chỉ là lời “trách yêu” – trách vì yêu – mà thôi, hoàn toàn không mang tính cám dỗ. Vả lại, thánh nhân chỉ cầu xin Thiên Chúa cho Thầy khỏi gặp cảnh ấy, chớ có mời mọc, dụ dỗ Thầy mình làm chuyện gì đâu, mà gọi là cám dỗ (theo từ nguyên, “cám dỗ” có nghĩa: khêu gợi lòng ham muốn đến mức làm cho sa ngã)? Thánh Phê-rô chỉ vì thương Thầy quá nên mới cầu xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy phải gánh chịu cuộc khổ nạn, mà cứ theo như lời kể của Thầy thì quá sức khủng khiếp.
Không thể vì thấy những lời quở trách của Đức Giê-su (gọi Thánh Phê-rô là Xa-tan) để rồi coi lời nói xuất phát tự đáy lòng của một con người chất phác bộc trực ấy là lời cám dỗ được (dù cho có nói chệch đi là ma quỷ mượn thánh Phê-rô để cám dỗ Chúa). Thiết tưởng mỗi Ki-tô hữu cần phải nhìn lại bản thân xem, đặt giả thử trực diện với hoàn cảnh tương tự, mình có được như thánh Phê-rô khi thấy Người Thầy mà mình vẫn tuyên xưng là Con Thiên Chúa sắp phải chịu thương khó cho đến chết, hay không? Đã không được như thánh Phê-rô thì chớ, biết đâu lại chẳng nghĩ rằng “Số của Thầy, Thiên Chúa đã định như thế thì phải chịu, vậy thôi!” Không tin vào Thầy, mà lại đi tin vào cái thuyết định mệnh (số mệnh), đó phải chăng mới chính là một cách gián tiếp vô hình chung đồng loã với tội ác? Vâng, và vì thế mới cần phải đi xa và sâu hơn một chút, sẽ thấy thánh Phê-rô cũng chỉ là một con người không hơn không kém, mà đã là con người thì tất yếu sẽ có những suy nghĩ rất con người (“vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”).
Như vậy thì đâu mới là tư tưởng của Thiên Chúa? Và đây: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16, 24-26). Khó hiểu quá! Đi theo Chúa thì chẳng phải mục đích là “cứu lấy mạng sống mình” hay sao? Vậy tại sao lại “ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất”? Nhưng suy niệm cho thấu đáo, thì Lời Chúa dạy chính là để diễn cho rõ ý nghĩa “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Đi theo Thầy không phải là để được sống một cuộc sống vật chất dư thừa, đi theo Thầy cũng không phải là để được làm ông nọ ông kia, quyền lực danh vọng đầy mình. Đi theo Thầy là phải từ bỏ tất cả, kể cả cha mẹ, vợ con, thậm chí hy sinh cả mạng sống mình; như vậy thì chẳng phải là vác thập giá đó sao? Còn những ai vẫn quyến luyến cuộc sống phù phiếm, mê đắm với bả vinh hoa, tức là muốn “cứu lấy mạng sống mình” nơi cõi thế, như vậy thì làm sao mà tìm được mạng sống mình nơi cõi phúc trường sinh?
Chuyện đã rõ ràng như 2 với 2 là 4: Nếu muốn đi theo Thầy để “cứu lấy mạng sống mình” hầu được về nơi quê trời vĩnh cửu, thì phải biết “liều mất mạng sống mình” nơi trần thế khổ đau. Hiểu được tư tưởng Thiên Chúa qua Lời Thầy dạy đã thấy khó khăn, nhưng để sống được, thực hành được Lời Thầy dạy, mới là thiên nan vạn nan. Tuy nhiên, “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông” (Nguyễn Bá Học), và cũng bởi vì “tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”. Ôi chao! Loài người mà! Nếu chẳng vậy thì Chúa đâu có phải chịu “đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết” (Mt 16, 21).
Tóm lại, hãy để cho Lời Chúa như ngọn lửa bừng cháy trong tim. Nói cách cụ thể là “Hãy sống theo Thần Khí” và dứt khoát “không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa. Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn.” (Gl 5, 16-17). Vâng, “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.” (Rm 12, 2). Chỉ có như thế mới có hy vọng “sẽ tìm được mạng sống” mình nơi cõi phúc đời đời.
Ối! “Lạy Chúa! Con đường nào Chúa đã đi qua, con đường nào Ngài ra pháp trường, mão gai nào hằn sâu trên trán. Lạy Chúa! Thánh giá nào Ngài vác trên vai, đau thương nào phủ kín tâm tư, đường tình đó Ngài dành cho con. Lạy Chúa! Xin cho con bước đi với Ngài, xin cho con cùng vác với Ngài thập giá trên đường đời con đi. Lạy Chúa! Xin cho con đóng đinh với Ngài, xin cho con cùng chết với Ngài, để được sống với Ngài vinh quang.” (Văn Chi – “Con đường Chúa đã đi” – TCCĐ). Ôi! “Lạy Chúa, mọi sự tốt lành đều bởi Chúa mà ra, xin cho chúng con thêm lòng tin yêu Chúa, để những gì tốt đẹp nơi chúng con ngày càng phát triển, và được Chúa chăm sóc giữ gìn. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lới nguyện nhập lễ CN XXII/TN-A).
Mỗi người đều có gánh nặng riêng mình, mang vác thế nào là một cách mỗi người tự giải quyết TN 22-A166
Mỗi người đều có gánh nặng riêng mình, mang vác thế nào là một cách mỗi người tự giải quyết, nhẹ nhàng hay chất nặng tùy theo sự gột bỏ chính mình.
Một chiếc tàu chở gạo, chất nặng, tải gạo từ miền Nam ra miền Bắc, chiếc tàu chở khẳm hơn thường lệ. Dọc đường vào quãng miền Trung, tin bão xa gần tới, chiếc tàu trở nên nặng nề để di chuyển đi tìm chỗ trú, những người theo tàu đề nghị trút bớt gạo xuống biển để tàu nhẹ hơn, nhưng người chủ hàng vì tiếc của đã không đồng ý.
Chiếc tàu chịu trận khi cơn bão ập đến, vời những cơn gió giật đầu tiên, chiếc tàu đã bắt đầu chuyển mình kêu răng rắc, một lúc sau chiếc tàu bị xé tóac ra, giữa gió bão chiếc tàu không thể chịu đựng hơn được nữa, chiếc tàu đã bị nhấn chìm giữa lòng đại dương.
Những người đi trên tàu vừa kịp mang vào trong mình những chiếc phao cứu hộ, rời xa chiếc tàu bị đánh đắm. Chỉ riêng người chủ hàng, vì tiếc của đã ôm lấy thân con tàu và bị sóng nhồi cho đến chết. Chiếc tàu, hàng hóa, chủ hàng đều đã ra đi, tất cả để lại một bài học, trút bỏ hay là cùng chết.
Bạn thân mến! trút bỏ bao giờ cũng không phải là dễ. Trút bỏ những điều xấu, như lòng tham lam, như những đam mê dục vọng, tưởng rằng là dễ nhưng thật ra rất khó. Khó bởi vì, thú vui nhất thời ấy là một phần của cuộc sống, không có nó, bạn thấy thiếu vắng nhưng có nó bạn đau khổ vì nó.
Bỏ một điều xấu đã khó, bỏ một điều tốt chính đáng được hưởng lại càng khó hơn, như một chiếc tàu cần chuyên chở với khả năng của mình lại chất chứa quá tải những gì nó có. Cứ chất lên, và càng chất lên càng khó bỏ xuống. Của cải là như thế, càng có người ta muốn có nhiều hơn, và muốn có nhiều hơn người ta càng tải nhiều hơn cho đến lúc không còn chịu đựng được nữa, mọi thứ đều bị phá tan.
Liều mất mạng sống
Mạng sống con người thật quý giá nhưng giá chuộc cho con người khỏi tội lỗi thật quý giá hơn. Chúa Giêsu luôn mời gọi các môn đệ của Người: “Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16, 26).
Xưa nay, con đường đưa tới chân lý, sự sống lại thường đổi bằng giá máu, bằng việc hy sinh. Con đường chân lý nặng gánh gian nan. Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Tin Mừng Nước Thiên Chúa được loan báo, và ai cũng dùng sức mạnh mà vào” (Lc 16, 16). Trong thiền viện các thiền sư luôn dạy các thiền sinh: “phải giật lấy chân lý thiền từ tay thiền sư”. Thánh Gandhi của Ấn Độ nói: “Đức hạnh là nền tảng của mọi thứ và chân lý là bản chất của mọi đức hạnh”. “Con người tiến đến chân lý không thể vươn tới qua hàng loạt sai lầm” (Aldous Huxley).
Từ bỏ chính mình, nghĩa là từ bỏ những ích kỷ, đê hèn nơi chính mình. Con đường khó khăn nhất để chiến thắng, đó là chiến thắng được chính mình. Nếu chính mình đã liều mất mạng sống vì chân lý, sự thiện và tình yêu thì còn có sự dữ nào có thể khuất phục được một con người như thế. Kết luận của Chúa Giêsu “Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian.” (Ga 16, 33).
Chúa đã thắng thế gian và đó là bằng chứng cho con người chính trực biết rằng, dù xem ra sự ác đang chiến thắng nhưng thực ra chỉ là nhất thời. Tin tưởng và hết lòng vì chân lý, sự thiện, tình yêu chắc chắn thành tựu sẽ bền vững và đạt tới vinh quang nước trời.
Thánh Tôma Aquinô cầu nguyện:
“Xin ban cho con một trái tim kiên vững, Để không tình cảm bất xứng nào có thể kéo con xuống. Xin ban cho con một trái tim bất khuất, Để không đau khổ nào có thể xói mòn. Xin ban cho con một trái tim chính trực, Để không lợi lộc tầm thường nào có thể làm con nao núng”
Dậy thì thành công”là trào lưu hot nhất trên mạng xã hội trong những tháng đầu năm 2017. Nhiều TN 22-A167
“Dậy thì thành công”là trào lưu hot nhất trên mạng xã hội trong những tháng đầu năm 2017. Nhiều bạn trẻ đã thi nhau đăng tải những bức ảnh của chính mình trong khoảng thời gian cách biệt từ 5 đến 10, thậm chí 15, 20 năm. Dĩ nhiên bức ảnh trong hiện tại hoàn toàn xa lạ với bức ảnh trong quá khứ. Điều đó các bạn trẻ gọi là “dậy thì thành công” vì từ một con vịt trở thành một con thiên nga. Trào lưu “dậy thì thành công” của các bạn trẻ khiến tôi suy nghĩ đến việc “hoán cải thành công” mà Lời Chúa ngày hôm nay mời gọi chúng ta. Trong phần dẫn nhập sách Giêrêmia của nhóm Phụng vụ Giờ Kinh đã viết về ông như sau: “Hơn mọi ngôn sứ khác, Giêrêmia phải gồng mình để chấp nhận lời Chúa và chấp nhận chính mình trong tương quan với lời ấy”. Những lời tâm sự của ông trong bài đọc thứ nhất cho chúng ta thấy sự dằn vặt trong chính nội tâm đã làm nên nét đẹp của riêng ông so với các ngôn sứ khác: “Lạy Chúa, Ngài quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ”. Chính sự quyến rũ đó đã khiến ông “trở nên trò cười cho thiên hạ”, “bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày”…Giêrêmia là một con người đa sầu đa cảm nhưng đã được Chúa hoán cải để trở thành một con người mạnh mẽ sống triệt để cho Lời Chúa. Từ lời rao giảng và việc đón nhận những đau khổ trong sứ mạng, ông cũng đã hoán cải được biết bao nhiêu con người khi họ đọc Lời Chúa trong sách tiên tri Giêrêmia. Trong bài đọc II, thánh Phaolô mời gọi các tín hữu Rôma hoán cải: “Anh em đừng có rập heo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mơi tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12, 2).
Sau khi loan báo cuộc khổ nạn, Đức Giêsu đã được sự khôn ngoan, tính toán theo kiểu thế gian của Phêrô bao bọc bằng cách: “Kéo riêng người ra và bắt đầu trách móc người: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy” (Mt 16, 22). Đức Giêsu bảo ông phải lui ra đàng sau, để Ngài tiến lên phía trước. Đây đích thực là sự hoán cải. Hoán cải nghĩa là chấp nhận lùi bước với những chương trình riêng tư của con người, để ý định của Thiên Chúa được thực hiện. Đức Giêsu đã triển khai ý tưởng đó một cách rõ nét hơn: “Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lời gì?” (Mt 16, 26).
Từ câu nói của Đức Giêsu đã hoán cải được nhiều vị thánh như Phanxicô Xaviê, Alphongsô hay Augustinô… Điểm chung của tất cả những vị thánh này là đã có hoặc đang tìm kiếm những sự thuộc về thế gian này, nhưng họ thấy một giá trị cao cả hơn nên đã mạnh dạn từ bỏ tất cả những gì đang có hoặc đang tìm, để bước theo một Đấng cho mình giá trị cao cả, sâu thẳm đó. Chắc chắn khi bước theo Đấng ấy để tìm kiếm một thứ hạnh phúc không thuộc về thế gian này thì họ phải đánh đổi tất cả, kể cả mạng sống mình. Và đó là đòi hỏi của Đức Giêsu: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24).Điểm chung cuối cùng của những vị thánh này là họ đã tìm kiếm được hạnh phúc đích thực cho riêng mình, và từ đó trở thành tấm gương cho thế hệ mai sau. Hay nói cách khác, họ đã hoán cải thành công. Giêrêmia đã thấy được sự thối nát của giới lãnh đạo cũng như sự hư hỏng của người dân Giuđa nên ông đã mạnh mẽ lên tiếng mời gọi một sự hoán cải, nhưng lời mời gọi của ông không được đón nhận, vì vậy Giuđa rơi vào cảnh mất nước và người dân phải chịu cảnh lưu đày. Thế cho nên, thời nào cũng vậy, từ xã hội cho đến Giáo hội; từ tập thể cho đến cá nhân đều cần phải có sự hoán cải vì những sai lầm của mình, nhất là khi những sai lầm đó đã được người khác phát hiện và chỉ cho thấy. Nếu họ đón nhận rồi khắc phục bằng những việc tốt và đem lại lợi ích cho người khác thì đó là hoán cải thành công. Nếu họ không đón nhận mà còn cố tình đi sâu vào những sai lầm của mình thì họ phải gánh lấy hậu quả. Một xã hội cần hoán cải để mưu cầu lợi ích cho người dân, để những quyền lợi chính đáng của họ được tôn trọng. Một Giáo hội cần hoán cải để tình thương của Thiên Chúa được dễ dàng loan báo đến “tận cùng trái đất”… Tuy nhiên những điều đó không nằm trong khả năng của chúng ta, nhưng chúng ta có thể góp phần bằng việc hoán cải chính mình. Lời của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay sẽ là khuôn vàng thước ngọc để mỗi người chúng ta hoán cải. a. Trước hết là hoán cải trong tư tưởng. Đức Giêsu đã nói với Phêrô sau khi ông ngăn cản không cho Ngài lên Giêrusalem (cụm từ nói về việc Ngài sẽ bước vào cuộc khổ nạn): “Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16, 23b).Tư tưởng của Phêrô cũng là tư tưởng chung của nhiều người. Tư tưởng đó là việc muốn có một cuộc sống an nhàn, ngại khó, ngại khổ, chỉ nghĩ đến bản thân mình chứ không nghĩ đến người khác, chỉ thấy những cái trước mắt mà không thấy những chuyện sâu xa… Đức Giêsu đã chỉnh đốn tư tưởng của Phêrô bằng việc nói lên sự thật: Đừng tưởng theo Thầy là chuyện dễ dàng, hoặc theo Thầy chỉ để được hưởng thụ, sung sướng… “Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24).
Như vậy hoán cải trong tư tưởng là luôn luôn ý thức con đường thập giá mình phải đi. Theo đạo, tin Chúa không phải để Chúa hóa giải những khó khăn trong cuộc sống (cũng có khi Chúa làm điều đó), nhưng quan trọng là để đủ sức mạnh vác lấy thập giá mỗi ngày. Nhiều người đổ thừa vì nghèo quá nên không đi lễ, đợi khi nào cuộc sống ổn định sẽ đi; đi lễ hoài mà không khá hơn, có lẽ Chúa không thương nên bỏ Chúa; cầu nguyện hết sức chân thành mà Chúa không nhậm lời nên nghi ngờ không biết có Chúa không… Đó là những tư tưởng cần được hoán cải. Hoán cải cho đến khi nào nhận thức được tình yêu của Chúa đã ban nhưng không nên tôi bước theo tình yêu đó như một cuộc dấn thân cho lý tưởng đời mình, chấp nhận tất cả, miễn là được sống cho tình yêu, thì đó là hoán cải thành công trong tư tưởng.
b. Kế đến là hoán cải trong việc làm. Việc tuyên xưng Thiên Chúa ngoài môi miệng không quan trọng, như Phêrô mới vừa mạnh mẽ tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô con Thiên Chúa hằng sống”, thì liền sau đó đã ngăn cản Thầy mình lên Giêrusalem… Chính hành động quay trở lại Giêrusalem để chịu chết vì danh Đức Giêsu mới làm nên giá trị con người của Phêrô, và đó là sự hoán cải thành công.
Cũng vậy, lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta một sự hoán cải để can đảm bước đi theo Đức Kitô trên con đường thập giá, thì mỗi người hãy nhìn xem chúng ta đã làm gì cụ thể trong đời sống đức tin của mình. Nếu bấy lâu nay tôi đi lễ chỉ vì ép buộc, vì người này người kia lôi kéo, thì từ hôm nay tôi quyết tâm tham dự Thánh lễ Chúa Nhật với tất cả sự ý thức để thờ phượng Chúa. Nếu trong đời sống gia đình, tôi vẫn còn những đam mê sai trái cho một thứ tình cảm riêng tư nào đó, mặc dù chưa ai biết, nhưng chắc chắn sẽ làm đổ vỡ gia đình tôi, thì hôm nay tôi quyết tâm từ bỏ để giữ lời thề trung thành với người bạn đời của tôi. Nếu đang có những việc làm sai trái như gian lận, lường gạt, cờ bạc, chứa chấp… thì hôm nay tôi quyết tâm từ bỏ để sống ngay chính, hành nghề lương thiện… Chắc chắn chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn khi phải từ bỏ những điều đó, nhưng vì sự sống đời sau mà tôi sẽ sẵn sàng vác thập giá theo Chúa.
Các bạn trẻ theo trào lưu “dậy thì thành công” để chứng tỏ hiện tại tôi đẹp hơn trong quá khứ. Thì sau khi được lời Chúa hôm nay soi dẫn, tôi phải thực sự trở thành con người mới. Vì vậy hãy cùng nhau quyết tâm hoán cải từ trong tư tưởng việc làm của mình. Quyết tâm của chúng ta chắc chắn sẽ được Chúa thánh hóa trong thánh lễ này, bằng việc một lát nữa đây, khi dâng lễ vật, chúng ta hãy hiệp với chủ tế để dâng quyết tâm cụ thể cua mình.
Xin Mẹ Maria, Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp cầu bầu cùng Chúa cho chúng con “Hoán Cải Thành Công”.
Linh mục Augustinô Nguyễn Viết Chung, nguyên là một bác sĩ Phật giáo, chuyên môn về Da TN 22-A168
Linh mục Augustinô Nguyễn Viết Chung, nguyên là một bác sĩ Phật giáo, chuyên môn về Da Liễu, khi lên 18 tuổi, nhân đọc một bài báo nói về cái chết của Ðức Cha Jean Cassaigne tại trại phong Di Linh, cậu Chung cảm thấy cuộc sống đó quá tốt đẹp và một cách vô tình, Ðức Cha Jean Cassaigne đã trở thành thần tượng của cậu. Từ đó, cậu Chung có ý nguyện học làm bác sĩ để phục vụ bệnh nhân phong như Ðức Cha Jean Cassaigne. Khi bắt đầu học năm thứ nhất Y khoa, nhân dịp tham dự Thánh Lễ khai khóa của Linh mục Giáo sư bác sĩ Lischenberg, cậu Chung nhận thấy con người khoa học uyên bác của Giáo sư Lischenberg đã biến thành một Linh mục khả kính, trang nghiêm siêu thoát, chìm đắm trong cõi phúc lạc thần thiêng. Ơn gọi làm Linh mục của cha Chung đã chớm nở từ đó. Khi bác sĩ Chung phục vụ tại trại phong Bến Sắn, Dì Hai Loan thuộc Tu Hội Nữ Tử Bác Ái là Phó Giám Ðốc. Dì là người đã phục vụ ở đây gần 17 năm, bất ngờ ngã bệnh ung thư và mất đi sau mấy tháng. Sau đó, bác sĩ Chung về dự tang lễ của Dì Hai Loan và đã quyết định theo Đạo. Một năm sau nữa, bác sĩ đã vào tu ở Tu Hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn và đã nhận lãnh Thánh chức Linh mục.
Cha cho biết, gia đình của cha là một gia đình nghèo. Ðời sống gia đình thường xảy ra cảnh “cơm không lành, canh không ngọt”. Ðiều đó đã ảnh hưởng cha từ thuở thiếu thời nên cha đã có ý định đi tu vì nhận thấy đời sống gia đình không mang lại hạnh phúc. Khi làm bác sĩ, trong hai năm đầu, cha đã hành nghề để có thể trả nợ cho gia đình. Trong những năm kế tiếp, cha đã giúp đỡ những người em ăn học và hiện có một em trai là bác sĩ chuyên môn về phổi. Người em nầy đã thay thế cha phụng dưỡng hai cụ thân sinh. Khi còn là tu sĩ, chưa được thụ phong Linh mục, một ngày kia, được tin cụ thân sinh bệnh, cha đi xe đạp về thăm. Vừa vào nhà, cụ thân sinh liền quở trách cha là một người “không biết nhục”. Theo lời cụ, các bạn bè của cha đều đi xe hơi, xây nhà lầu hai ba tầng cho bố mẹ ở. Còn cha, cha lại đạp chiếc xe đạp cọc cạch về thăm nhà.
Có những người nhận ra tiếng mời gọi của Chúa và bước theo Chúa có vẻ rất trơn tru, nhưng cũng có nhiều người theo Chúa phải đánh đổi bằng biết bao nhiêu đau khổ, từ bỏ mất mát. Đó chính là điều kiện, là lời mời gọi Chúa đã báo trước cho tất cả mọi người: Ai muôn theo thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo.
Ông Phêrô và các môn đệ đi theo Chúa, ông vừa tuyên xưng Chúa là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, Chúa Giêsu đã tiên báo cho các ông biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các thượng tế và kinh sư, rồi bị giết chết và ngày thứ ba Người sẽ chỗi dậy. Mặc dù là Con Thiên Chúa Hằng sống, Đức Giêsu cũng không tìm cách tránh né thập giá, nhưng Ngài đã sẵn sàng đón nhận vì vâng phục thánh ý Chúa Cha. Ông Phêrô và các môn đệ lại không muốn điều đó. Các ông theo Chúa với hy vọng tìm được địa vị chức tước bổng lộc, chứ không muốn gặp phải thập giá. Vì thế, Phêrô đã đứng ra can ngăn Chúa Giêsu: Thưa Thầy, xin Chúa thương đừng để thầy gặp phải điều đó.
Chúa Giêsu thấy Phêrô và tông đồ ham sống sợ chết, theo Chúa nhưng ngại khó khăn, tìm kiếm vật chất hơn là tin yêu Chúa. Vì thế, Chúa đã nặng lời khiển trách Phêrô: Satan! Hãy lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người. Phêrô đã rơi vào tình trạng tự mãn, mới trước đó, ông được Đức Giêsu khen và quyết định thiết lập Hội Thánh trên đức tin của ông. Phêrô cứ nghĩ mình sẽ là người dẫn đường cho Chúa, vì thế, ông tìm cách đi một con đường khác, đi trước Chúa, chỉ lối cho Chúa. Trong lời trách mắng Phêrô, Chúa nói với ông: Satan! Hãy lui ra đàng sau Thầy. Lui ra đàng sau có nghĩa là Phêrô phải trở về với đúng vị trí của mình. Dù làm thủ lãnh của Giáo Hội, ông vẫn phải là môn đệ của Chúa Giêsu, phải bước đi sau Chúa và đi theo con đường của Chúa, chứ không thể đi con đường nào khác.
Khi Chúa Giêsu trách mắng Phêrô, các tông đồ khác cũng cảm thấy đụng chạm đến họ và có phần như ngao ngán trước lời mời gọi của Chúa, Chúa Giêsu quay lại nói với các ông: Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. Chúa Giêsu không ép buộc ai theo Ngài, nhưng ai đã quyết định bước theo thì không thể đi con đường nào khác nữa, mà phải đi con đường Chúa đã đi, đó là con đường thập giá. Chúa cũng không bắt ai phải vác thập giá giùm cho Chúa, nhưng Chúa mời gọi mỗi người phải vác thập giá của chính mình và bước đi cùng con đường Chúa đã đi. Chúa cũng nói rõ cho mọi người biết cái được và cái mất khi theo Chúa: Ai dám liều mạng thì được sự sống, trái lại, ai tìm kiếm mạng sống thì gặp phải sự chết. Sự sống của thân xác là điều quý, nhưng sự sống của linh hồn là điều quý trọng hơn.
Thưa quý OBACE, nhiều người trong chúng ta được biết Chúa Giêsu do cha truyền con nối, nên chúng ta không cảm thấy sự vất vả và cái giá của sự kiếm tìm Chúa. Vì thế, nhiều người đã không biết trân trọng đức tin của mình và không thiết tha với lời mời gọi của Chúa. Nhiều người khác tin Chúa nhưng không muốn theo Chúa, hoặc theo Chúa nhưng chỉ theo đàng xa xa, hoặc tìm kiếm một con đường tắt nào đó. Theo Chúa, chúng ta không thể chối từ đau khổ và thập giá, không thể vừa vác thập giá lại vừa muốn tìm kiếm sự dễ dãi thoải mái, cũng không thể đi một con đường nào khác với con đường của Chúa Giêsu. Sống trong xã hội hôm nay, tin theo Chúa là dám chấp nhận bị người đời khinh chê, bị coi như công dân hạng hai, bị phân biệt đối xử. Chọn sống theo Tin Mừng của Chúa là dám chọn sống khác, dám lội ngược dòng trong dòng chảy của xã hội tiêu dùng hưởng thụ, ích kỷ này.
Vác thập giá mình hằng ngày là dám chấp nhận mọi khó khăn nghịch cảnh xảy ra, đón nhận mọi biến cố với niềm tin tưởng có Chúa cùng bước đi với mình. Thập giá hằng ngày của những bậc cha mẹ là bổn phận của mỗi người, là trách nhiệm đối với vợ, chồng, đối với con cái và gia đình. Thập giá mình còn là là chính con người của mình với những yếu đuối giới hạn về sức khỏe, về khả năng, về điều kiện sống. Hãy đón nhận thập giá không phải với sự gượng ép, miễn cưỡng, nhưng với sự chủ động và niềm vui.
Là môn đệ của Chúa Giêsu, xin cho chúng ta luôn tin tưởng bước đi theo Chúa trên con đường thập giá, để nhờ việc theo sát Chúa Giêsu, chúng ta cũng được chia sẻ vào sự phục sinh với Chúa. Xin cho chúng ta cũng đừng bao giờ chất gánh nặng thập giá lên vai người khác, hoặc biến mình trở thành thập giá cho kẻ khác, nhưng xin cho chúng ta biết kề vai để chia sẻ gánh nặng thập giá với anh chị em, cùng dìu nhau đi trọn con đường Chúa muốn. Amen.
Một người đàn bà đạo đức kia bị bệnh ung thư ngực rất đau đớn nhưng lại không dám mổ khối u vì sợ phải chịu đau đớn. Đến khi khối u phát triển nhanh thì bà mới chịu đi mổ, hy vọng sẽ kéo dài tuổi thọ thêm được một thời gian nữa. Bà có một cậu con trai tuổi thanh niên. Anh này trái với bà mẹ: khô khan việc đạo, đã bỏ dự lễ nhà thờ từ lâu. Hôm ấy, trước khi vào phòng mổ, bà yêu cầu bác sĩ cho phép con trai bà được chứng kiến cảnh bà chịu giải phẫu và yêu cầu đã được chấp thuận. Thời đó, vì chưa có thuốc tê, nên bệnh nhân phải trải qua những cơn đau đớn khủng khiếp mỗi lần bị mổ xẻ. Nhưng bà mẹ này đã can đảm cắn răng chịu đựng cơn đau. Đến khi con dao mổ đụng đến giây thần kinh thì bà mới oằn người lên và kêu to rằng: “Chúa ơi con đau quá, xin thương cứu con !”. Trườc cảnh mẹ bị đau đớn như vậy, anh con trai liền thốt ra lời phàn nàn xúc phạm đến Chúa. Nghe vậy, bà mẹ liền nghiêm nét mặt nói với con rằng: “Con hãy câm miệng lại ngay ! Con có biết là con đang làm cho mẹ phải chịu đau đớn nhiều hơn mấy ông bác sĩ này hay không ? Vì con đã sỉ nhục chính Đấng đã ban sức mạnh và luôn động viên an ủi mẹ”. Nói rồi, bà mở bàn tay ra cho con thấy một cây thánh giá nhỏ mà bà đã luôn nắm chặt từ đầu ca mổ đến giờ. Cây thánh giá đó chính là thứ thuốc gây mê đã làm dịu đi cơn đau đớn khủng khiếp mà bà đang phải chịu đựng.
Sau mấy tháng quằn quại trong đau đớn, bà mẹ đạo đức ấy đã an nghỉ trong Chúa. Trước lúc lâm chung, bà đã trao cây thánh giá nhỏ cho anh con trai và dặn rằng: “Con ơi ! Hãy giữ lấy cây thánh giá này. Đó là vật đã giúp mẹ chịu đựng được biết bao gian khổ trong đời mẹ. Hy vọng rằng nhờ cây thánh giá này, con cũng sẽ tìm thấy niềm an ủi và cậy trông mỗi khi gặp gian nan thử thách sau này”. Anh con trai rất xúc động trước đức tin và tình thương của mẹ dành cho mình. Từ ngày đó anh đã luôn đeo cây thánh giá trên cổ, để nhắc nhở anh về người mẹ thân yêu. Từ đây cây thánh giá đã trở thành vật hộ mệnh, giúp anh can đảm vượt qua các cơn sóng gió trong cuộc đời, giống như người mẹ thân yêu của anh.
2) THÁNH GIÁ NẶNG NHẸ LÀ DO TƯ TƯỞNG CỦA MỖI NGƯỜI :
Một hôm, Chúa Giêsu dẫn hai người trong số các môn đệ đến đầu đường, trao cho mỗi người một cây thánh giá giống nhau và bảo:
– Mỗi người chúng con vác thập giá của mình đi đến cuối đường trước mặt kia. Thầy đợi các con ở đó.
Hai môn đệ vâng lời, vác thập giá mình đi. Người thứ nhất vác cách dễ dàng, chân nhanh bước, dường như thập giá không cản trở hay gây phiền hà gì cho anh. Chẳng bao lâu anh đã đến cuối đường, gặp Chúa đang đợi ở đó. Và Thầy trò vui mừng hớn hở.
Còn người thứ hai vác đi nặng nề, dường như anh vác không nổi, kéo lê thập giá đến chỗ Chúa Giê su chỉ định, và anh đã kiệt sức. Vừa thấy Chúa, anh đã phàn nàn:
– Chúa bất công quá! Chúa trao cho con cây thánh giá quá nặng; còn trao cho anh kia cây thánh giá nhẹ hơn, nên anh đã đi đến trước con.
Chúa buồn đáp:
– Con ơi! Thầy không đối xử bất công với con đâu. Cả hai thập giá đều giống nhau và nặng bằng nhau, không cây nào nặng cây nào nhẹ. Sở dĩ con cảm thấy nó quá nặng đối với con, vì con không sẵn sàng chấp nhận. Suốt trên đường đi, con luôn than phiền trách móc nó nặng, càng than trách thì thập giá càng trở nên nặng cho con. Bạn con đã vác đến trước vì tâm hồn tràn đầy yêu thương. Tình yêu làm cho thập giá trở nên nhẹ nhàng.
Vui lòng vác thánh giá, thánh giá sẽ trở nên nhẹ nhàng. Càng kéo lê thánh giá, thánh giá càng trở nên nặng nề hơn.
3) AI CŨNG ĐƯỢC CHÚA TRAO CÂY THÁNH GIÁ HỢP VỚI KHẢ NĂNG CỦA MÌNH :
Thánh giá ta đang mang là thánh giá vừa sức ta. Câu chuyện ngụ ngôn dưới đây chứng minh điều đó : có một người luôn than van những nỗi khổ cực của mình. Một tối kia, thiên thần hiện đến phán bảo :
– Con hãy theo ta ra nghĩa địa, nơi đó người ta để lại thánh giá của mình. Con hãy mang thánh giá của con ra để đó và hãy lựa thánh gía vừa sức con.
Ông ta mang thánh giá của mình ra quăng nơi nghĩa địa, ông bắt đầu chọn cái khác nhẹ hơn, ông tìm kiếm mãi mà không được : có cây quá là dài, cây quá ngắn, có cây thì nhẹ nhưng sù sì, khó vác, có cây thì trơn tru nhưng nặng quá, và sau cùng ông nói với thiên thần :
– Thưa thiên thần, cây nào cũng khó vác quá, chỉ có cây con định vứt đi là vừa với con thôi.
– Phải, Chúa đã trao cho con một cây thánh giá vừa sức, con hãy vui lòng vác đi, đừng than van gì nữa.
GIÁ TRỊ CỦA SỰ ĐAU KHỔ THẬP GIÁ :
Người ta kể câu chuyện ngụ ngôn như sau : trong một khu rừng có một con hổ lớn và dữ tợn. Lũ khỉ ghét con hổ này lắm. Một ngày kia, chẳng may, con hổ bị sa xuống hố do người thợ săn đào sẵn. Không còn cách nào thoát thân, con hổ chỉ còn biết ngồi chờ thần chết đến.
Lũ khỉ đi qua thấy thế mừng lắm, chúng chế diễu và thay nhau lấy đá, lấy đất và bẻ các cành cây ném xuống đầu con hổ cho bõ ghét. Con hổ chỉ còn biết ngồi chịu trận, không còn biết làm cách nào khác. Thấy thế, lũ khỉ thích chí càng ném hăng, ném mãi không chán, nhưng không ngờ, chính những hòn đá, cành cây vứt xuống nhiều quá, làm cho hố cứ đầy dần lên, đến nỗi con hổ có thể nhờ đó mà nhảy ra ngoài hố được.
Đời là thế. Đau khổ cũng có ý nghĩa riêng của nó. Người ta nói : cái khó bó cái khôn. Nếu ta biết từ bỏ mình, vác thập giá mình thì chính những cái ấy có lợi cho ta . Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm về vấn đề này : Thậpgiá đã nói lên chân lý ấy, và “hạt giống có mục nát ra thì mới sinh hoa kết quả được. Có lẽ chúng ta không bao giờ hiểu được mầu nhiệm của đau khổ trong thế giới này, nhưng đây là điều chắc chắn : Một khi về trời chúng ta sẽ hiểu được điều ấy.
CẦN BIẾT CHỌN LỰA GIỮA « ĐƯỢC » VÀ « MẤT » :
Vào ngày 23.12.1993, ông VIN-CI-Ô người Ý, 58 tuổi, là giáo sư môn toán, đang đi trên đường về nhà thì chiếc xe hơi của ông bị nổ lốp giữa đường. Ông xuống xe loay hoay thay bánh xe “sơ cua”. Đúng lúc đó, có người tới giúp ông một tay. Khi gần ráp xong bánh xe sơ-cua, thì người đàn ông kia kiếu từ vì có việc gấp phải đi. Ráp xong bánh xe, ông Vincio thu lại đồ nghề mới biết hộp đồ nghề của ông đã bị mất cắp một số đồ mắc tiền, do người đàn ông “tốt bụng” kia lấy đi. Ông buồn rầu thở dài cho lòng tham của con người. Nhưng rồi ông lại thấy một tấm vé số nằm dưới đường, có lẽ của tên ăn trộm kia đánh rơi. Ông đã cầm tấm vé số bỏ vào túi áo.
Rồi đến ngày xổ số dịp đầu năm mới 1994, ông mang tấm vé số kia ra dò thì thật may : Tấm vé số nhặt được kia đã trúng 50 triệu lire (tiền Ý) tương đương 60.000 đôla Mỹ. Trúng được nhiều tiền ai mà chẳng thích. Nhưng sau đó ông Vincio lại bị áy náy lương tâm vì rõ ràng tấm vé số kia không phải là của ông. Ông luôn cảm thấy lương tâm cáo trách. Ông đã đăng quảng cáo trên báo để mong tìm ra chủ nhân thực sự của tấm vé trúng giải kia. Nhiều người tham lam đã tới nhận bừa tấm vé số kia là của mình. Nhưng chỉ cần vài câu hỏi, ông đã phát hiện ra họ chỉ là những kẻ tham lam. Đúng ba tuần sau, tên trộm hôm trước cũng đã xuất hiện xin nhận lại tờ vé số đã thất lạc. Anh ta đã diễn tả các chi tiết về ngày giờ và địa điểm liên can tới tấm vé số. Ông Vin-ci-ô đã mang ra 50 triệu lire trả lại cho chủ nhân của nó. Tên trộm quá cảm động, đã không ngớt xin lỗi ông Vin-ci-o và cho biết lý do anh phải ăn trộm đồ vì bị thất nghiệp và phải nuôi 2 đứa con nhỏ. Tên trộm cũng thắc mắc tại sao ông Vin-ci-ô không giữ lấy 50 triệu lire vì đâu có ai biết rõ sự thật. Vin-ci-ô trả lời : vì lương tâm không cho phép mình làm như vậy. Sau khi trả tiền cho chủ tờ vé số, ông Vin-ci-ô cảm thấy lòng nhẹ nhõm. Tuy ông bị mất món đồ sửa xe, nhưng ông lại nhận được nhiều tiền ; Rồi khi được tiền ông lại bị mất bình an tâm hồn. Cái vòng « mất được » kia cứ luẩn quẩn, cho đến khi ông Vin-ci-ô chấp nhận đổi số tiền để lấy lại sự bình an trong tâm hồn.
Câu chuyện trên rất phù hợp với câu Lời Chúa hôm nay : « Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy » (Mt 16,25). Liều mất mạng sống nghĩa là sẵn sàng « từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa » – được mạng sống đời sau là có Nước Thiên Đàng, có được Thiên Chúa là nguồn hạnh phúc đời đời.
Lời dạy thứ hai “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”.(Mt 16,25).
SỰ CHỌN LỰA KHÔN NGOAN CỦA THÁNH THOMAS MORUS :
Thomas Morus (1478-1453) thủ tướng nước Anh, dưới thời Henry VIII, bị tống ngục vì không chịu chối đạo. Sau đó ông bị kết án tử hình. Vợ liền tới thăm và hỏi chồng :
– Tại sao mình không lo cứu sống? – Này em theo em nghĩ thi anh sống ở trần gian này được bao lâu nữa? – Sức khỏe anh hứa hẹn ít nhất được 20 năm nữa. – Em đề nghị cho anh một hành động hết sức điên dại: để sống 20 năm mà phải hy sinh cả cuộc sống đời đời sao!
“Người nào được lời lãi cả thiên hạ mà thiệt phần tinh hồn hỏi có ích chi? Lấy gì đổi được tinh hồn mình?.”(Mt 16,26)
THÁI ĐỘ CAN ĐẢM TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN SẼ CỦNG CỐ ĐỨC TIN CHO THA NHÂN :
Khi quân đội Nga tiến vào thủ đô Bu-da-pest của nước Hung-ga-ri để trấn áp một cuộc bạo động, một viên sĩ quan trẻ hung hăng tìm đến nhà một linh mục chính xứ.
Bước vào trong phòng, anh đóng sập cửa lại, tay chỉ lên cây Thánh Giá treo trên tường và hạch hỏi vị linh mục:
– Này, ông có biết không, cái kia là một sự dối trá, một trò mê hoặc dân nghèo để bọn nhà giàu kềm hãm người ta trong sự ngu dốt. Bây giờ chỉ hai người chúng ta trong căn phòng này. Vậy ông hãy thú nhận là ông không tin ông Giê-su trên thập giá kia là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa…”
Vị linh mục điềm tĩnh trả lời:
– Không thể được, vì tôi đã thật sự tin vào Người !
Viên sĩ quan liền rút súng ra hăm dọa :
– Đừng đùa với tôi ! Nếu ông không chịu nói cho biết đây là điều dối trá, thì tôi sẽ giết ông !”
Bấy giờ linh mục liền đứng thẳng người, nhìn vào đôi mắt của anh ta và dõng dạc tuyên bố :
– Tôi không thể nói khác được: “Đức Giê-su đích thực là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa của tôi! “
Thật không ngờ, nghe đến đây, tay viên sĩ quan liền run lên. Rồi khẩu súng trên tay anh ta rớt xuống nền nhà. Anh đã chạy lại ôm chầm lấy vị linh mục, vừa khóc vừa nói :
– Thứ cha, xin lỗi cha. Con chỉ muốn thử xem cha có thực sự tin Chúa không. Con đã âm thầm tin Chúa ngay từ khi còn nhỏ. Nhưng giờ đây, con đã khám phá ra rằng: vẫn còn ít nhất một người đã tin Chúa và dám sống chết vì đức tin ấy. Chính cha đã củng cố đức tin cho con đó !
Thật đúng như lời Chúa Giê-su phán trong Tin Mừng hôm nay : “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy” (Mt 16,25).
SUY NIỆM :
Theo Tin Mừng Mát-thêu, khi Đức Giê-su hé mở con đường cứu thế của Người: “Người sắp phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21), thì Phê-rô, một người vừa được khen ngợi có phúc vì đã tuyên xưng đức tin vào Đức Giê-su, đã lên tiếng can Người rằng: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy !”. Ông đã bị Đức Giê-su mắng: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy ! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà của loài người” (Mt 16,22-23). Đức Giê-su đã phản ứng quyết liệt trước tư tưởng sai lạc của Phê-rô bằng việc xua đuổi ông như đã từng xua đuổi ma quỷ khi chúng cám dỗ Người. Sau này Phê-rô đã dần dần hiểu ra thánh ý Thiên Chúa, và đã sẵn sàng đi theo con đường thập giá để cùng chết và sống lại với Thầy.
Đức Giê-su nói: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Qua đó, ta thấy điều kiện để đi theo làm môn đệ là phải sẵn sàng hy sinh bỏ mình, vác thập giá mình mà đi theo Người. Người không ép buộc, nhưng mời gọi. Người cũng không bảo người ta phải tìm kiếm thập giá nào khác, nhưng là vui lòng vác chính cây thập giá trong đời mình. Đức Giê-su cho biết đau khổ là phương thế hữu hiệu giúp ta nên thánh. Mỗi người đều phải vác thập giá đời mình và “ngày nào có sự khốn khổ của ngày đó”. Ước gì nhờ được đau khổ thanh luyện, chúng ta sẽ ngày càng kết hiệp mật thiết và nên giống Đức Giê-su hơn.
– MỘT LÀ TỪ BỎ CHÍNH MÌNH :
Đức thánh Cha Phaolô VI trong buổi triều yết chung cho giáo dân ngày 11.03.1970 đã nói :”Đối với chúng ta những người thời nay, một trong những khía cạnh ít được hiểu biết nhất và cũng có thể nói ít được thiện cảm nhất trong đời sống Công giáo : đó là sự từ bỏ.
Từ bỏ mình tức là từ bỏ ý riêng mình mà chấp nhận thánh ý Chúa. Người ta nói : 3 với 4 là 7, có đúng không ? Chưa đúng. Muốn thực hiện 3 với 4 là 7 thì phải làm sao cho tan rã hai con số 3 và 4, rồi đúc nó lại thành con số 7 mới được. Chớ cứ để 3 với 4 kề nhau mãi thì làm gì thành 7 được, mà vẫn chỉ là hai con số 3 và 4. Cũng thế, muốn từ bỏ chính mình đòi phải làm tan đi ý riêng của chúng ta để hòa vào ý của Chúa, lúc đó chúng ta mới thực sự từ bỏ chính mình.
– HAI LÀ VÁC THẬP GIÁ MÌNH HẰNG NGÀY MÀ ĐI THEO CHÚA : Thập giá của mình vác theo chân Chúa Giê-su, chính là những tai nạn rủi ro, những điều phiền toái gặp phải trong cuộc sống như bệnh tật, các sự khó do tai nạn gặp phải, những thất bại thua lỗ trong công việc làm ăn, những người thân đang sống chung trong một mái nhà khó tính khó nết… Nếu chúng ta kiên nhẫn chịu đựng những sự khó chịu vf trái ý cực lòng này là chúng ta đang làm theo Lời Chúa dạy hôm nay.
2) CÁI KẾT BI THẢM CỦA MỘT KẺ KHÔNG CHẤP NHẬN THẬP GIÁ CHÚA GIÊ-SU :
Một văn sĩ Công giáo người Anh tên là Gilbert Chesterten, đã thuật lại câu chuyện bi thảm về một kẻ thù ghét thập giá như sau :
“Tôi biết có một người thù ghét thập giá. Ông ta tìm mọi cách để triệt hạ cho bằng được. Bao nhiêu tác phẩm nghệ thuật có hình thập giá ông đều xé nát. Ngay cả cây thập giá bằng vàng ở cổ vợ ông, ông cũng tìm cách để giựt đứt và liệng đi. Ông bảo rằng thập giá là biểu tượng của sự dã man, hoàn toàn đối nghịch với niềm vui, với cuộc sống.
Ngày kia, không còn chịu đựng nổi hình thù của thập giá nữa, ông đã leo lên tháp chuông nhà thờ giáo xứ, đập gẫy cây thập giá trên tháp và liệng xuống dưới.
Sự thù hằn đối với thập giá không mấy chốc đã biến thành sự điên loạn. Vào một buổi chiều mùa hè nóng bức, ông đứng tựa lưng vào một ban công gỗ, miệng phì phà khói thuốc. Bỗng chốc, ông thấy nguyên cả chiếc ban công gỗ biến thành một dãy cây thập giá. Rồi trước mặt và đàng sau lung ông, nơi nào cũng đều có thập giá. Hoa cả mắt lên, ông cầm gậy đánh đổ tất cả những cây thập giá ấy. Vào trong nhà, bất cứ vật gì làm bằng gỗ cũng được ông nhìn thấy với hình thù thập giá. Không thể dùng gậy mà đập nữa, người đàn ông đã phải dùng đến ngọn lửa, mới mau tiêu diệt được các cây thập giá. Rồi ngọn lửa bốc lên đã làm thiêu rụi cả căn nhà. Ngày hôm sau, người ta tìm thấy xác của người đàn ông đáng thương kia trong dòng sông bên cạnh nhà ông”.
Cuối cùng nhà văn đã kết luận như sau: “Nếu bạn bắt đầu bẻ gẫy thập giá, thì chẳng mấy chốc bạn cũng sẽ phá hủy chính cái thế giới trong đó bạn đang sống này”.
3) CHẤP NHẬN SỐNG TIN YÊU PHÓ THÁC VÀO CHÚA, RỒI MỌI SỰ SẼ NÊN TỐT ĐẸP :
Các tín hữu là những người say mê cuộc sống vĩnh cửu, nên sẵn sàng chấp nhận những mất mát tạm thời và cả mạng sống ở đời này nữa. Nhưng chúng ta tin rằng: Cuối cùng Chúa sẽ ban lại cho ta gấp bội. Ta chỉ chịu mất mát tạm thời để được hạnh phúc vĩnh viễn đời sau. Các thánh tử đạo vì muốn sống đời đời, nên đã sẵn sàng từ bỏ mọi vinh hoa, giàu sang, quyền lực… Sẵn sàng chịu mọi cực hình và chịu chết vì Danh Chúa, như lời trong kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô As-si-si sau đây : “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Một thanh niên mơ ước lên đại học, nhưng lại thi rớt, thì cũng đừng nản lòng. Anh hãy chấp nhận vác thập giá để theo chân Đức Giê-su. Người có thể dẫn anh đến một đời sống mới tốt đẹp hơn. Một người cao niên mơ ước nên giàu có, và có một gia đình hạnh phúc, nhưng lại bị thất bại, thì cũng đừng nản lòng. Vì Thiên Chúa có thể rút từ sự dữ ra sự lành. Thiên Chúa là Cha yêu thương, chỉ muốn làm những điều tốt cho con cái, như Đức Giê-su có lần đã nói: “Vậy nếu anh em là những kẻ xấu, mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha trên trời, Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người” (Lc 11,13).
THẢO LUẬN:
1) Muốn trở thành môn đệ Đức Giê-su người ta phải hy sinh từ bỏ. Vậy cụ thể bạn cần từ bỏ những gì ngay từ bây giờ ? 2) Thập giá hằng ngày ta phải vác là những gì ? Làm thế nào để theo chân Đức Giê-su trong hoàn cảnh của ta bây giờ ? 3) Gặp một người đau khổ chán nản không thiết sống, bạn sẽ khuyên họ phấn khởi và vui sống trở lại ?
NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng con thấy Chúa đã tỏ ra bình tĩnh trước đau khổ thập giá sắp xảy đến. Chúa đã sẵn sàng nhận phần thua thiệt để có thể ban ơn cứu độ loài người chúng con. Ngày nay, có một số đông nam nữ tu sĩ đã tận hiến cuộc đời, chấp nhận phục vụ những người bất hạnh và bị bỏ rơi. Họ đã đến sống chung với các bệnh nhân bị bệnh nan y như HIV-AIDS, bị ung bướu hay phong cùi. Có một số anh chị em đã tình nguyện nuôi dạy các trẻ bụi đời và mồ côi bất hạnh, giúp đỡ những cô gái lầm đường lạc lối trở về, hoặc phục vụ những người mù què câm điếc, bại liệt, những cụ già neo đơn không nơi nương tựa…
– LẠY CHÚA. Nhìn lại mình, chúng con thật xấu hổ khi quá ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình và thường bịt tai nhắm mắt trước những cuộc đời bất hạnh chung quanh. Hôm nay, xin Chúa giúp chúng con biết sống theo lời Chúa dạy là “bỏ mình”: bỏ đi những lo toan ích kỷ, để quảng đại phục vụ Chúa trong anh em. Xin cho chúng con biết chấp nhận những tai nạn rủi ro gặp phải trong cuộc sống, và sẵn sàng vác thập giá đời mình mà bước theo chân Chúa. Nhờ đó chúng con hy vọng sẽ được Chúa liệt vào hàng tôi trung hiếu thảo và nên môn đệ trung tín của Chúa. Để sau này khi ra trước toà Chúa phán xét, chúng con hy vọng sẽ được Chúa ban thưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa tiên báo cho các môn đệ biết về cuộc khổ nạn của Người sắp TN 22-A170
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa tiên báo cho các môn đệ biết về cuộc khổ nạn của Người sắp đến. Khi loan báo điều này, Chúa muốn cho các ông biết mục đích sứ vụ của Người. Và để chu toàn sứ vụ đó, Chúa nói với các ông, Người phải hy sinh chấp nhận và chịu những sự khó khăn, đau khổ, vác và chết trên thập giá. Tuy nhiên, Chúa cũng cho các ông biết một cách rõ ràng là thập giá không phải là cùng đích, có nghĩa là Người đến không để tìm sự đau khổ và cái chết, nhưng qua sự đau khổ và cái chết, sẽ đem đến niềm tin yêu và sự sống mới trong Thiên Chúa như lời Tin mừng xác quyết: “Người sẽ chiến thắng tội lỗi và sự chết. Ngày thứ ba Người sẽ sống lại vinh hiển.”
Chính vì tình yêu bao la, lòng vâng phục tuyệt đối, cùng với sự từ bỏ và khiêm hạ thẳm sâu, Chúa Giêsu đã biến thập giá, một công cụ của hình phạt, trở thành Thánh giá, một biểu tượng của tình yêu, ơn cứu độ và sự sống mới trong Thiên Chúa Cha. Vì vậy, Chúa nói rõ cho chúng ta biết “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đánh mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống.” Có nghĩa là Chúa muốn nói đến sự sống và sự chết, cái được và cái mất của người Ki-tô hữu chúng ta. Đây là qui luật sống để hướng dẫn đời sống đức tin của chúng ta, nhưng chúng ta muốn hỏi “Qui luật đó là qui luật gì để chúng ta áp dụng vào đời sống Ki-tô hữu?”
Thứ nhất, như chúng ta đều biết, nhất là trong xã hội này, bất cứ cuộc sống nào, công trình nào, kế hoạch nào hay quyết định nào cũng đòi hỏi một sự đầu tư, có nghĩa là vốn tiền bạc hay sự hy sinh, cố gắng công sức và thời giờ vào công việc đó. Và trong bất cứ cuộc đầu tư nào cũng có cái mất và cái được, cái bỏ ra và cái thu vào luôn gắn liền với nhau. Cái mất thường luôn đi trước để mở đường cho cái được sẽ đến sau. Có mất trước thì mới được sau và nhiều khi cái được sau nhiều hơn, như chúng ta thường nghe “Bỏ con tép, bắt con tôm.” Đó là định luật chung cho bất cứ cuộc đầu tư nào. Những cuộc đầu tư càng dài hạn, càng đòi hỏi nhiều vốn thì càng sinh nhiều lợi.
Như chúng ta biết, trong đời sống hôn nhân gia đình, muốn có hạnh phúc và hòa thuận suốt cuộc đời, vợ chồng phải “bỏ vốn đầu tư” dài hạn và liên tục. Bỏ vốn thời giờ, sự hy sinh và từ bỏ chính mình cho nhau và cho gia đình thì cái được là yêu thương, hòa thuận và hạnh phúc sẽ đến theo sau. Chúng ta biết yêu thương, hạnh phúc và hòa thuận sẽ không đến nếu chúng ta không đầu tư bỏ vốn trước.
Cũng thế, dự án, kế hoạch xây dựng ngôi thánh đường mới của giáo xứ chúng ta để làm nơi thờ phượng, kính mến Chúa, sống đức tin người Việt Nam và làm sáng danh Chúa, cũng cần “vốn đầu tư” về tài chánh, về công sức, về thời giờ và sự hy sinh của mỗi người giáo dân trong giáo xứ, trong thời gian chuẩn bị này. Chúng ta biết, mặc dầu kế hoạch sẽ gặp những khó khăn, trở ngại và thử thách, nhưng với đức tin và sự hiệp nhất, cùng với ơn Chúa phù giúp và đồng hành, chúng ta tin sẽ vượt qua và thành công. Và chúng ta cũng tin chắc rằng phần thu được về phía của chúng ta mà Chúa sẽ ban sẽ to lớn, cao quí và sẽ sinh ra nhiều “lợi lộc” khác nữa.
Thứ hai, chúng ta thấy chính Chúa Giê-su đã thực hiện một cuộc đầu tư quan trọng trong kế hoạch cứu độ nhân loại, và Người cũng đã theo qui luật nói trên. Khi sinh xuống trần, Người đã khiêm nhường đem vị thế Thiên Chúa của Người bỏ vào số vốn để đầu tư cho ơn cứu độ nhân loại. Thiên Chúa Cha cũng đã dùng Con Một Ngài vào số vốn đầu tư trong kế hoạch chuộc tội cho con người. Đây phải là một kế hoạch quan trọng như thế nào thì Thiên Chúa mới thực hiện, mới làm như vậy!
Ngoài ra chúng ta thấy chính Chúa Giê-su cũng đã làm một cuộc đầu tư quá thua lỗ, khủng khiếp. Người đã bỏ ra số vốn đau khổ và cái chết nhục nhã trên thập giá để đánh đổi lấy sự sống cho loài người. Chúa đã nhận lấy phần xấu cho mình vì yêu thương chúng ta. Giá đầu tư cao như vậy thì cái lợi mà Thiên Chúa muốn mang đến cho nhân loại phải lớn, quan trọng và cao quí như thế nào. Vì thế, chúng ta thấy Chúa Giê-su đã đặt một câu hỏi rất quan trọng cho chúng ta “Nếu được lợi cả trần gian, mà mất sự sống đời đời thì được ích gì?”
Sau cùng, là nếu chúng ta muốn sống trong ân sủng bình an của Chúa đời này và hạnh phúc vĩnh cửu đời sau, thì chúng ta cũng phải thực hiện một cuộc đầu tư cho chính mình. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su cho chúng ta biết rõ “Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy.” Con đường thập giá của Chúa xem ra thất bại trước mắt người đời, nhưng lại là con đường Chúa đã đi, con đường đưa tới tình yêu, tha thứ và sự sống vĩnh cửu. Vì thế, Chúa Giêsu đã mời gọi chúng ta cùng đi con đường này để nhận được những ơn sủng đó.
Thánh Thomas More, tên của giáo xứ hàng xóm của chúng ta trên đường 129, là thủ tướng nước Anh dưới thời vua Henry thứ 8. Ngài bị tù vì không chịu chối đạo và sau đó bị kết án tử hình. Vợ tới thăm và hỏi chồng: “Tại sao anh không lo cứu sống mình?” Ngài hỏi lại: “Này em! Theo em nghĩ, thì anh sống ở trần gian này bao lâu nữa?” Người vợ trả lời: “Em nghĩ rằng ít nhất 20 năm nữa.” Ngài trả lời: “Em đề nghị cho anh một hành động hết sức điên dại. Để sống 20 năm mà phải hy sinh cả cuộc sống đời đời sao!” Thánh Thomas More đã hiểu được ý nghĩa, giá trị Lời Chúa dạy, thà mất đời này, để được đời sau.
Ông bà anh chị em thân mến. Chúa không hứa cuộc đầu tư của chúng ta vì Chúa, vì Tin mừng và vì đức tin này sẽ mang đến nhiều tiền bạc, nhà tiệm hay danh vọng hơn, nhưng sẽ nâng cao giá trị và phẩm giá cuộc đời chúng ta. Nếu chúng ta sống Lời Chúa kêu mời, trở thành chứng nhân cho Chúa và Tin mừng, biết hy sinh, có lòng bác ái và quảng đại, chúng ta sẽ sống trong sự vui mừng, an bình và ân sủng của Chúa đời này và đời sau.
Con người tự nhiên hướng về Thượng Đế, như hoa hướng về mặt trời, như suối hướng về nguồn TN 22-A171
Con người tự nhiên hướng về Thượng Đế, như hoa hướng về mặt trời, như suối hướng về nguồn và như lá rụng về cội. Từ nơi sâu thẳm trong cõi lòng con người, Thiên Chúa đặt để một khát vọng sâu xa để luôn hướng về Ngài. Có thể hình ảnh về Thiên Chúa mang tính khác biệt tùy thuộc nền văn hóa, truyền thống hay thói quen, nhưng tựu trung, con người luôn hướng về Đấng Tuyệt Đối, Đấng Cao Cả, , Ông Trời, Đấng là Nguồn Cội của mọi sự mọi loài. Đức Giê-su đến trần gian để nói với chúng ta: Đấng ấy là Thiên Chúa, là Cha giàu lòng thương xót.
“Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước”. Lời Thánh vịnh 62 quen thuộc diễn tả sự khát khao của con người luôn hướng về Chúa như cội nguồn. Lời kinh cho thấy, trọn vẹn cả đời người tín hữu, sáng, trưa, chiều đều hướng về Chúa và không ngừng tìm kiếm Ngài. Đọc Tin Mừng, chúng ta sẽ thấy đây chính là tâm tình của Chúa Giê-su. Bởi lẽ, các tác giả Phúc âm kể lại, sau khi Chúa Giê-su làm việc vất vả cả ngày, thì sáng sớm, Người lánh ra một nơi thanh vắng để cầu nguyện. Trọn vẹn cuộc đời của Chúa Giê-su là kết hợp với Chúa Cha, tìm kiếm và thực hiện thánh ý của Ngài. Người tín hữu noi gương Đức Giê-su, luôn khao khát Chúa, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước. Những ai tìm gặp Chúa, Ngài sẽ tỏ mình ra cho họ, và sẽ ban cho họ niềm vui tràn đầy, như thửa đất màu mỡ, làm cho cây cối xanh tươi.
Tuy vẫn hướng về Chúa như hướng về Nguồn Cội, nhưng con người phải trải qua những cố gắng và những gian nan chiến đấu để đạt tới mức hoàn thiện như Chúa muốn. Giê-rê-mi-a là vị ngôn sứ sống ở thế kỷ thứ sáu trước Công nguyên. Ông phải trải qua nhiều thử thách gian nan, thậm chí có lúc muốn chối bỏ sứ mạng Chúa trao. Tuy vậy, mỗi lần ông muốn bỏ cuộc, thì ông lại cảm thấy bứt rứt khôn nguôi. Nói về Chúa, ngôn sứ Giê-rê-mi-a (Bài đọc I) dùng ngôn ngữ của đôi bạn tình: “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ”. Tình yêu dành cho Chúa đến từ hai phía. Đó vừa là sáng kiến đến từ Thiên Chúa, vừa là sự đáp trả từ phía con người. Đây là tình yêu gắn bó, không dễ gì rũ bỏ. Trong khi làm mục vụ, chúng tôi thường gặp những người tín hữu, vì hoàn cảnh xã hội đưa đẩy, hoặc vì tham gia công tác xã hội, nên đã bỏ Chúa và sống như người không công giáo. Một thời điểm nào đó, có thể vào lúc tuổi xế chiều, ơn Chúa tác động, đức tin hồi sinh, và những người này trở lại với Chúa, xin lãnh nhận các bí tích trước khi qua đời. Lúc đó vợ, chồng hoặc con cái mới biết cha ông mình là người có Đạo.
Tin theo Chúa như một cuộc chạy đua trên thao trường, mọi vận động viên đều phải cố gắng với hy vọng đạt được phần thưởng. Người tín hữu phải trải qua những gian nan để đổi mới bản thân, thay đổi quan niệm, thay đổi cách nhìn đối với tha nhân. Thánh Phao-lô (Bài đọc II) khuyên nhủ giáo dân Rô-ma “hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa”. Vào thời đó, đây là một quan niệm mới mẻ, vì của lễ dâng Chúa thường là chiên, bò, dê và tế vật. Dưới lăng kính Ki-tô giáo, của lễ dâng đẹp lòng Chúa chính là bản thân người tín hữu. cùng với lòng sám hối chân thành và lòng độ lượng bao dung. Của lễ chiên bò đã trở nên lỗi thời và không còn cần thiết nữa, vì chính Chúa Giê-su là Chiên vượt qua mới, đã chịu sát tế để đền thay tội lỗi muôn dân. Người tín hữu được mời gọi hiến dâng chính thân mình, kết hợp với hy tế của Chúa Giê-su.
Con đường theo Chúa cũng là con đường thập giá. Ngỏ lời với các môn đệ, Chúa Giê-su cho các ông biết những điều kiện phải có để đi theo Người, đó là vác thập giá. Theo Chúa là một chọn lựa tự do, không miễn cưỡng ép buộc. Chúa nói rõ: vác thập giá mình, tức là biết vượt lên những yếu đuối của bản thân và những khó khăn đang bủa vây cuộc sống. Chúa Giê-su đến trần gian, không phải để huỷ bỏ thập giá, nhưng Người đã vác thập giá trên vai. Một số người Do thái đã đặt thập giá lên vai Người và cuối cùng, họ đóng đinh Người vào cây gỗ thập giá ấy. Người tin Chúa không được “miễn nhiễm” khỏi thập giá, nhưng họ có Chúa vác thập giá với họ, nhờ đó gánh nặng cuộc đời trở nên nhẹ nhàng và bớt nghiệt ngã hơn.
Thập giá là một huyền nhiệm. Phê-rô chưa được chuẩn bị để hiểu được huyền nhiệm ấy. Vừa trước đó, ông mạnh mẽ tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống (x. Mt 16,16), vậy mà khi nghe Chúa nói đến cuộc khổ nạn, ông vội can ngăn. Đức Giê-su nghiêm khắc quở trách và gọi ông là “satan”. Lời quở trách nghiêm khắc này cho thấy Chúa không chấp nhận “bàn lùi” trong việc thực thi thánh ý của Chúa Cha. Chúa coi ý tưởng của Phê-rô như một cơn cám dỗ, như satan trong hoang địa đã từng cám dỗ Chúa bỏ cuộc. Hôm nay, thập giá vẫn đi ngang qua cuộc đời mỗi chúng ta. Dưới lăng kính đức tin, chúng ta có thể nhận ra ý nghĩa của đau khổ, đó là kết hợp với đau khổ của Chúa Giêsu, để cứu rỗi bản thân và vì hạnh phúc của đồng loại.
Thập giá mãi mãi cũng là một huyền nhiệm đối với chúng ta. Con người sinh ra ở đời đã cất ba tiếng khóc chào đời. Phải chăng đó là lời than vãn cho thân phận nghiệt ngã của mình? Tuy vậy, con người cũng mang phẩm giá cao cả vì là hình ảnh của Thiên Chúa và được Chúa yêu thương. “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Như thế, cuộc sống trần gian đan xen giữa hạnh phúc và đau khổ, giữa nụ cười và nước mắt. Người tin Chúa sẽ tìm được sức mạnh nơi thập giá Chúa Kitô. Nói đúng hơn là tìm được sức mạnh nơi Chúa. Người đã hứa ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế, để cùng bước đi với chúng ta trong hành trình cuộc đời.
Thưa anh chị em, mỗi ngày sống là một khám phá ra sự tốt lành của Chúa, và cảm nhận sự ngọt ngào mà sự hiện diện của Chúa mang lại. Xin Chúa ban cho chúng ta niềm vui nội tâm, để chúng ta tiếp tục tìm kiếm Chúa trong suốt cuộc đời. Amen.
Một ngày trong những tháng gần cuối năm 2013, tôi nhận một tin dữ: Một người trẻ trong hàng ngũ TN 22-A172
Một ngày trong những tháng gần cuối năm 2013, tôi nhận một tin dữ: Một người trẻ trong hàng ngũ chúng tôi chết trong tư thế bị treo. Xét nghiệm cho biết: người anh em chết vì tự tìm đến cái chết. Thông tin đau lòng này làm tôi nhớ lại, nhiều năm trước, cũng người trẻ, cũng cùng theo đuổi một ơn gọi, cuối cùng, cũng đã tự mình tìm đến sự rủi ro đáng sợ này.
Những cái chết như thế, với người bình thường, đã gây chấn động. Với những người có ảnh hưởng cách này, cách khác nơi cộng đồng, trên đời sống chung, càng tạo nhiều bàn tán trong dư luận, thu hút nhiều sự chú ý, gây nhiều sửng sốt, bàng hoàng, xót xa…
1. Tương quan mà thất bại thì...
Đây là thất bại trong tương quan của đời sống. Tương quan gồm cả hai phía. Không thể đơn lẻ một mình mà có thể có tương quan. Tương quan nghiêng ngã, hậu quả là tổn thương, đau buồn trong nhau. Đổ vỡ tương quan, hậu quả thật bẽ bàng. Đánh mất tương quan, hậu quả không thể lường hết.
Vì sống là sống trong tương quan. Sống bao giờ cũng phải có tương quan. Do đó, mất tương quan, người ta không có sự sống, hoặc không có lý tưởng sống đúng nghĩa. Vì thế, tương quan mà đổ vỡ, nó sẽ kéo về những xót đau, những nỗi niềm đáng suy nghĩ.
ĐỂ CỦNG CỐ TƯƠNG QUAN, NHẤT THIẾT PHẢI GỌI VỀ SỰ TỪ BỎ. Từ bỏ lớn nhất là thu nhỏ cái tôi của mình. Cái tôi mà đặt đúng chỗ đúng lúc, tương quan trổi vượt. Cái tôi mà thể hiện hợp lý, tương quan rộng mở. Cái tôi được biểu lộ là sự thanh thoát, là những nghĩ suy thông thoáng, tương quan đầy đặn, thắm thiết, chân thành.
2. Tương quan giả thiết cần lối sống "bỏ mình".
Trong Tin Mừng hôm nay, một lần nữa, Chúa Giêsu đòi: "Hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy". Dựa trên chính lời Chúa, chúng ta nói đến sự "BỎ MÌNH". Và bởi những tương quan trong đời, nhiều khi là chính thập giá cho mình, nên chúng ta bàn về sự bỏ mình để sống những tương quan, nhất là tương quan ngay với chính người đang sống bên cạnh mình.
Ngày xưa, một khi chấp nhận lời mời gọi của Chúa, các tông đồ chấp nhận lang thang cùng Chúa rày đây mai đó trên mọi nẻo đường, mọi làng quê, mọi nơi phố thị, dù ở giữa dân ngoại hay giữa cộng đoàn Do thái giáo…
Các Tông đồ gác lại việc đang làm, gác lại sự nghiệp, gác lại nghề nghiệp, gác lại việc phải kiếm tiền cho cuộc sống gia đình. Các tông đồ còn chấp nhận bỏ lại sau lưng một ít của cải mà mình có được, là thuyền và lưới.
Các ngài cũng gác lại thói quen sống tự do giữa mênh mông trời biển, gác lại não trạng của một ngư dân bình thường để chấp nhận đời sống cộng đoàn, gác lại thói quen vùng vẫy để khép mình vào đời sống lề luật, khép mình vào nếp sống không phải của riêng mình, để thuận theo nếp sống chung của cả cộng đoàn…
Từ bỏ quá nhiều như thế không dễ chút nào, nếu các tông đồ không ý thức để tự từ bỏ chính bản thân, từ bỏ ý riêng mình. Chắc chắn, các tông đồ phải thu nhỏ cái tôi của bản thân để tôn trọng, để sống chung, để hòa hợp cùng mọi anh em.
3. Ngay việc "bỏ mình" đã là "vác thập giá".
Vận dụng lời Chúa dạy: “Hãy bỏ mình"; "hãy vác thập giá" để sống trong một cộng đoàn là chấp nhận từ bỏ chính mình để đời sống cộng đoàn trổi vượt, để thượng tôn các tương quan trong đời sống, thì sự từ bỏ chính là vác thập giá. Sự từ bỏ ấy cần thiết để theo Chúa. Theo Chúa là hướng nhắm, là đích đến cuối cùng của việc từ bỏ, của việc vác thập giá.
Cho nên từ bỏ chính bản thân là một hy sinh lớn vô cùng. Nó là cây thập giá mà những người trong cuộc phải kiên trì vác lấy. Nó không miễn trừ ai. Nó đòi hỏi cả người lớn, kẻ nhỏ, có quyền hay không có quyền… phải ra sức thực hiện cho bằng được.
Sự bỏ mình có thể đến từ người đồng phận dành cho nhau; bề trên dành cho bề dưới; hoặc bề dưới đối lại bề trên. Càng chung sống, chung nhiệm vụ, chung những hoạt động… càng phải thực hành sự bỏ mình.
Khi sống cùng nhau, nếu từng cá nhân, ai cũng biết bỏ mình, tương quan sẽ ùa về, sẽ mỗi ngày một thêm lớn, thêm đẹp, thêm keo sơn, thắm thiết, bền chặt. Một cộng đoàn thấm đẫm tương quan, cộng đoàn ấy đầy tình yêu, niềm hạnh phúc, lòng tương trợ, nghĩa bao dung… Từng thánh lễ, từng giờ kinh nguyện của cộng đoàn không giả tạo, không bên ngoài, nhưng sốt sắng, dễ rung động tâm hồn, làm lắng sâu cõi lòng. Cá nhân của cộng đoàn ấy sẽ an bình, sẽ thấy nơi mình sống đáng để sống, đáng để hiến thân phụng sự, đáng để đời mình nương ẩn.
Sở dĩ có những cái chết oan uổng, gây kinh ngạc, gây suy nghĩ nhiều, là bởi trước đó, những ai hiện diện bên nhau đã để xảy ra tình trạng thiếu vắng hy sinh, thiếu vắng đặt mình vào nhau, thiếu vắng từ bỏ chính mình, hoặc từ bỏ ấy đã không tới được mức độ cần thiết của nó.
Khi rơi vào cô đơn hay cùng quẫn, bản thân sẽ quay quắt, thậm chí có những quyết định dại dột, đáng tiếc.
Phải chấp nhận cô đơn giữa tập thể, bản thân đau khổ. Phải cô đơn triền miên giữa tập thể, bản thân rơi vào bế tắc. Cô đơn đến mức bế tắc, tình trạng sẽ rất xấu…
Vì thế, đừng vội trách móc người đã tự mình hoàn tất số phận. Đơn giản, vì chỉ cần để xảy ra những đổ vỡ tương quan, thì dù người đang sống hay kẻ đã chết ít nhiều đều có trách nhiệm. Tuy nhiên, với tinh thần "nghĩa tử, nghĩa tận" hãy để cho người nằm xuống được an phần...
4. Sống bên Chúa như các Tông đồ.
Hãy nhớ, để giữ tương quan vững chắc, hãy luôn trung thành sống bên Chúa như các tông đồ của Chúa xưa. Hãy cố ra sức mà nắm chắc tương quan trong từng thời điểm sống.
Tương quan là cần thiết. Chẳng những tương quan giúp giải quyết tình trạng cô đơn, nhưng còn thăng tiến, phát triển con người; còn giúp con người rút tỉa nhiều bài học sống, nhiều kinh nghiệm sinh động.
Có tương quan tốt, chúng ta không chăm chăm nhìn mình, nhưng sẽ khôn ngoan hướng cái nhìn vào anh chị em, đặt mình vào họ, vào hoàn cảnh của họ, để có thể hiểu, cảm thông, đón nhận, yêu thương… nhau hơn.
Hòa bình, tình tương thân tương ái sẽ phát sinh nếu tương quan diễn ra tốt. Chúng ta sẽ trưởng thành tư duy, lớn lên tình cảm, sâu sắc nội tâm, nhạy bén tầm nhìn…, nếu tương quan của ta mỗi ngày một được nâng cấp, được mở rộng.
Nếu sống bên Chúa, các tông đồ cần có tương quan tốt, thì TƯƠNG QUAN CHÍNH LÀ ƠN GỌI. Đó là ơn gọi sống cùng và sống cho Chúa; sống cùng và sống cho anh chị em. Ơn gọi xây dựng tương quan là một trong những ơn gọi căn bản của người tông đồ. Không thể nói, mình theo Chúa, mà lại thiếu tương quan. Nếu tương quan không được đề cao, những người theo Chúa dễ bị xem là đội lốt, là phản chứng, là hình thức.
Có tương quan, ta sống mạnh mẽ cho niềm tin vào Thiên Chúa; giới luật yêu thương của Chúa mà ta áp dụng để cùng sống sẽ thành công. Vì thế, ơn gọi sống tương quan mà được lưu tâm, nó nâng đỡ mọi ơn gọi khác. Bởi một trong những lý do thất bại về sự sống, thất bại trong chọn lựa bậc sống, thậm chí thất bại cả về lý tưởng, là vì tương quan không thể xác lập, hoặc tương quan bị đổ vỡ. Vì thế, sống ơn gọi tương quan là vô cùng cần thiết, cấp bách.
Tương quan và sự từ bỏ bản thân luôn cần đến nhau, song hành cùng nhau, bổ túc cho nhau. Phải biết từ bỏ bản thân để có tương quan. Khi tương quan được nâng cao, càng thực hành từ bỏ bản thân dễ hơn. Người ta khó lòng từ bỏ bản thân vì kẻ thù của mình. Đã xảy ra tình trạng người này khó ưa, kẻ kia khó thương, nghĩa là tương quan đã biến mất, hoặc ở mức độ thấp, sự từ bỏ bản thân sẽ khó khăn, gượng ép, giả hình…
Chúng ta hãy theo chân các Tông đồ, sẵn sàng đáp trả lời mời gọi của Chúa, bằng việc hiến dâng sống ơn gọi đời mình. Nhưng như thế chưa đủ. Chúng ta phải noi gương các tông đồ tập tành việc từ bỏ chính mình, để ở với Chúa và sống cùng anh chị em. Khi biết bỏ mình, tương quan nảy sinh. Bỏ mình tốt, tương quan sẽ đi lên. Bỏ mình đến mức quên mình, tương quan đạt tới đỉnh cao.
Từ bỏ chính mình để gầy dựng tương quan, kinh nghiệm cho biết, sẽ đau đớn như thể bị sát thương. Nhưng chính lúc bị sát thương vì phải sống tương quan, có thể nói, đó là chính lúc sống lời Chúa mời gọi “bỏ mình, vác thập giá” theo Chúa.
Hãy hướng nhìn các tông đồ, những người đã đi trước chúng ta, sống thành công sự từ bỏ bản thân; xác lập thành công tương quan với Chúa, với anh em; và đã vác thập giá đời mình cách trung thành đến cùng.
Nhìn các Tông đồ, giúp chúng ta sống như các Tông đồ…
Chú ý: Nên đọc nguyên bản những bài đọc 1 (Gr 20:7-9), bài đọc 2 (Rm 12:1-2) và bài Phúc Âm thánh Mathieu (Mt 16:21-27) trước khi đọc bài suy niệm ở dưới.
Chủ đề suy niệm Chúa nhật này là Giáo Hội nhắc nhở chúng ta câu Chúa Giesu nói: “Ai muồn the TN 22-A173
Chủ đề suy niệm Chúa nhật này là Giáo Hội nhắc nhở chúng ta câu Chúa Giesu nói: “Ai muồn the Ta hãy từ bỏ mình”. Cả bài đọc1 và 2 cùng bài Phúc âm đều qui về một ý niệm đó. Theo Chúa để làm gì? Hãy suy niệm về những đề mục trên để hiểu rõ ràng ý niệm đó.
Trong bài đọc 1 (Gr 20:7-9), Jeremiah công nhận ông đã nhạo báng, chế riễu và trách móc Chúa. Nhưng ông không thể không nói ra thành tiếng, thật lớn Lời của Chúa.
Lời Jeremiah trong bài đọc hôm nay là lời than mạnh mẽ nhất mà chúng ta thấy trong Cựu Ước. Ông cho biết ông đã hoàn thành 3 lời tiên đoán về việc xụp đổ của Jerusalem (Gr 19:1-3, 14-15 và 20:1-5). Tiên đoán gần nhất là ám chỉ ngày tàn của thầy cả Pashhur, người đã cùm và đánh đòn ông trước cổng Đền Thờ (Gr 20:2). Sau tiên báo Pashhur và cả gia đình sẽ chết khi bị cầm tù ở Babylone, Jeremiah nghĩ đến Thiên Chúa và nói lên nỗi lòng hối hận của mình.
Jeremiah than là Thiên Chúa đã “phỉnh gạt” ông, kêu gọi ông, biểu ông làm phận vụ tiên tri. Tiếng Do Thái là Patâ dịch là phỉnh gạt (duped, seduced) cũng tương tự như dụ dỗ tình ái. Điểm chính của tiên tri là nói về Thiên Chúa cách mạnh mẽ hết sức có thể để chứng tỏ ông nản lòng bực bội đau khổ lắm đến độ ông đã công khai hóa nói ra cho thiên hạ biết từ lâu. Jeremiah than là công tác của ông là nói tiên tri nhưng lời ông nói đã rõ ràng bị từ chối và bị coi như “riễu cợt và trách móc”.
Tuy nhiên, ở câu cuối cùng Jeremiah hình như một lần nữa đã đầu hàng Thiên Chúa. Trong khi ông muốn quên Thiên Chúa, không muốn nghĩ đến Chúa nữa, nhưng tiếng Chúa kêu gọi ông như thúc giục trong tim“như lửa cháy trong lòng ông.” Ông biết ông sẽ cố gắng cương quyết giữ cho lửa đó tiếp tục cháy trong ông. Lửa đó phải được phát xuất ra ngoài. Ngôn từ của đoạn văn than van khóc lóc này nói lên sự cương quyết phải giữ Lời Chúa, phải nói ra lời thì quả không phải là đơn giản. Thánh Phaolo trong bài đọc 2 sẽ giúp chúng ta làm công việc này.
Bài đọc 2 (Rm 12:1-2): Thánh Phaolo đề nghị chúng ta phải hy sinh, hiến thân xác chúng ta như là của lễ hy sinh cho Chúa. Chúng ta cần phải bỏ đi những tiêu chuẩn của trần gian và canh tan tâm hồn để làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Chương 12 thư Phaolo gửi tín hữu Roma hàm chữa những lời khuyên về Khiêm nhường và Bác ái. Ông vừa kết thúc lời tuyên xưng vinh danh sự khôn ngoan vì lòng Chúa thương xót (Rm 11:33-36) thì ông mong muốn các tín hữu Roma phải đặc biệt sống và ăn ở cho phù hợp với lối sống chính đáng của Kito giáo. Nắm chặt lòng thương xót của Thiên Chúa, thánh Phaolo trong thư này đã gợi ý là hồng ân Thiên Chúa rất khả thi cho những ai biết tự hiến dâng hoàn toàn đời mình cả hồn xác làm “của lễ sống” cho Thiên Chúa. Theo Phaolo là hoàn toàn đầu hàng bản thân mình, chính cái tôi của mình. Sự biến cải này không chỉ ở trong trí trong tim mà là đường hướng, cái tham sân si do xác thịt tạo ra.
Để hoàn thành sự cải đổi này -nghĩa là luôn luôn có sự cộng tác với ước muốn của Thiên Chúa- người môn đệ cần phải chống trả lại chính cái khuôn mẫu của trần gian là đặt “quyền” và “lợi” cá nhân lên trên. Vì chuyển đổi đời sống mình theo khuôn mẫu cuộc sống của Chúa Kito là một tiến trình liên tục, người tin hữu phải tâm niệm và xác quyết rõ ràng điều gì“là thiện và ác, là lạc thú xác thịt, là toàn hảo.” Trước khi Phaolo kê khai ra một cách cụ thể những cách thức để cho các môn đệ sống ở trần thế với lòng khiêm tốn và bác ái, ngài cũng giúp cho các tín hữu Roma hình dung ra được một cuộc sống cần phải biến đổi thế nào để cho nó được vững chắc. Ngay cả trong một thế giới mà cuộc sống con người chỉ là tạm bợ (1Cr 7:31) thì Phaolo cũng muốn người tín hữu hiểu rõ rằng điều khó khăn nặng nề của họ trong cuộc sống là phài hy sinh để làm đẹp lòng Thiên Chúa. Đó phải chăng cũng là chủ đề của bài Phúc Âm hôm nay. Muốn theo Chúa phải bỏ mình.
Trong bài Phúc Âm Mathieu hôm nay (Mt 16:21-27) Chúa Giêsu đã nói trước cuộc khổ nạn của Người với những đau khổ ghê hồn và cái chết. Tất cả những ai muốn theo Chúa Giêsu thì phải vác thánh giá mình mà theo Chúa.
Đoạn này đánh đấu một chuyển đổi trong cấu trúc của Phúc Âm Mathieu. Ngay trước khi đi vào vấn đề của câu chuyện Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ về căn tính của Chúa và Phero đã đưa ra một tuyên xưng đức tin thật vĩ đại và tuyệt vời đã được ghi trong Mathieu 16:13-20 ở Chúa Nhật trước. Trong bản Tin Mừng hôm nay, Mathieu quay ra việc Chúa nói về Thánh Giá. Khi Phero đã xác định Chúa Giêsu là Đức Kito, thì đồng thời ông cũng kính cẩn sẵn sàng chấp nhận ước vọng của Chúa là đau khổ và cuối cùng là cái chết. Vậy thì hai vấn đề này được đặt sát kề nhau như vậy là để chứng minh cho cái khó khăn là ở chỗ giữ được sự kinh hoàng của thánh giá đi sát cùng với bản tính thiên sai của con người Chúa Giêsu.
Trong lúc khiển trách Phero “anh hãy đứng ra sau cho khuất mắt ta đi”, là Chúa muốn che dấu nỗi đau khổ buồn phiền của Chúa không cho Phero biết, là Chúa muốn nhắc nhở Phero là ông đã không có ý thức và nhận biết ra được ước muốn của Thiên Chúa mà đã nhìn quyền lực và uy quyền của Chúa theo lăng kính loài người. Tuy nhiên Chúa Giêsu đã quay lại với các môn đệ nói với tất cả mọi người là bản tính của quyền lực và uy quyền là thứ sẽ đến để được tôn vinh thờ kính trong Giáo Hội như là màu nhiệm vượt qua. Tình nghĩa môn đệ chính là ước muốn hy sinh chết cho tha nhân để được lấy lại sự sống. Chúa đưa ra ba đề mục còn gọi là chuyển động: Quên Mình, Vác Thánh Giá và Đi Theo Chúa. Không cần nghĩ đến phần thưởng vinh quang bổng lộc, việc vác Thánh Giá theo Chúa mới là mục đích chính. Lợi nhuận và tham lam không có trong tự điển về tình nghĩa môn đệ. Quên mình là tự từ bỏ mình, là quên cái tôi đáng ghét của mình, là từ bỏ Tham San Si, là Buông Bỏ (tiếng của nhà Phật) như tục ngữ có câu ‘thuyền nhẹ thì lướt nhanh’. Chúa Giêsu còn nói “Được lợi lộc cả thế giới mà phải mất sự sống thì còn ích lợi gì? Người Kito hữu phải tự từ bỏ chính mình, quên mình để nhận lại tất cả những gì Chúa giữ cho họ ở trong kho khi Chúa trở lại trong vinh quang. Câu cuối cùng của bài Tin Mừng hôm nay chính là hình bóng của câu chuyện mà Mathieu nói về Con Người sẽ phân loại chiên ra khỏi dê vào ngày Chúa Kito trở lại lần thứ hai (Mt 25:31-46).
Lời suy niệm nguyện xin:
Lạy Chúa! Xin thương xót chúng con, vì chúng con kêu van lên Chúa suốt ngày đêm. Lạy Thiên Chúa! Chúa là đấng tốt lành lại đầy lòng thương sót và tha thứ cho tất cả những ai kêu cầu đến Chúa, xin ban ơn cho chúng con.
Lạy Chúa Giêsu! Xin hãy canh tân tâm hồn chúng con, để máu thịt Chúa đã rơi chảy ra đau khổ vì chúng con, để chúng con hồi tỉnh lại mà thay đổi tâm tư bước theo Chúa, khiêm nhường phục vụ tha nhân như Chúa đã dạy “Muốn theo Ta phải bỏ mình vác thánh giá mình mà theo.”
Trang Tin Mừng hôm nay nối tiếp Chúa nhật tuần trước. Nhân danh nhóm Tông đồ, Phê-rô đã công TN 22-A174
Trang Tin Mừng hôm nay nối tiếp Chúa nhật tuần trước. Nhân danh nhóm Tông đồ, Phê-rô đã công nhận Đức Giê-su như Đấng Mê-si-a hay “Ki-tô”. Và lúc đó ông được tuyên bố là “có phúc” vì đã được Thiên Chúa thương “mạc khải” như vậy. Rồi Đức Giê-su giao cho ông sứ mạng làm Đá tảng trên đó Người sẽ xây Giáo hội mình ! Nhưng khi kết thúc lời hứa vĩ đại này, Đức Giê-su đã bảo các môn đồ “chớ nói cho ai biết Người là Đấng Ki-tô”. Tại sao buộc giữ bí mật như thế ? Phần tiếp trình thuật, mà chúng ta suy niệm hôm nay, sẽ cho thấy đó là Phê-rô lẫn bạn bè ông đã quan niệm lệch lạc về thân thế lẫn sứ mạng Đức Giê-su… và cần phải được điều chỉnh.
Đức Giê-su nói cho môn đệ biết Người sẽ “phải đi” Giê-ru-sa-lem để chịu đau khổ, theo ý định mầu nhiệm của Cha, kế hoạch khôn dò của Thiên Chúa. Người biết các biến cố đau thương sắp xảy tới không thoát ra khỏi chủ quyền tối thượng của Cha. Vâng ý Cha là khẳng định chính Thiên Chúa sẽ có tiếng nói sau cùng, chứ không phải là sự dữ đang nghiền nát chúng ta trong hiện tại. Loan báo cuộc Khổ nạn của mình ba lần (x. Mt 16,21; 17,22-23; 20,18-19), Đức Giê-su như thế đã sống từng tuần một với tư tưởng về cái chết. Lúc đó Người khoảng 30 tuổi. Sứ vụ của Người, dẫu quan trọng đến đâu, cũng sắp kết thúc một cách dữ dằn. Dưới mắt loài người, đó là thất bại, là chấm dứt tất cả. Đâu cần phải là thầy bói mới biết trước một vài cái “hạn” không thể tránh. Đức Giê-su đã thấy các giới chức mỗi lúc thêm căm ghét mình và dân chúng tuần tự bỏ đi cả. Người phân tích rất kỹ sự chống đối ấy, vốn phát triển và lan khắp Giê-ru-sa-lem : “kỳ mục, thượng tế và kinh sư…”, mọi thân hào nhân sĩ lãnh đạo. Thế mà bây giờ Người cố ý đi lên đó.
Phê-rô can gián lập tức. Nhưng ông liền bị kết án là “tên cám dỗ”: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy!” Mới được phong lên giáo hoàng, Phê-rô bị giáng ngay thành quỷ dữ. Đúng như lời Napoléon: “Vinh quang và ô nhục chỉ cách nhau có một bước”. Hay nói theo kiểu Việt Nam: “Lên voi xuống chó” ngay liền. Qua phản ứng này của Đức Giê-su, ta đoán ra Người đã cảm thấy trong chính xác thịt mình mối ghê tởm khủng khiếp như ta trước tất cả những gì trái ngược với bản năng, với các khao khát triển nở nơi con người. Cái mà Phê-rô đề nghị, tức thoát khỏi thập giá, Đức Giê-su cũng cảm thấy ước muốn. “Nếu có thể được thì xin cất chén này xa khỏi con”. Cảnh hấp hối (hay chiến đấu) ở vườn Ghet-sê-ma-ni không phải là một biến cố thoáng qua đơn lẻ: lắm phen trong đời mình, Đức Giê-su đã cảm thấy gớm ghét đau khổ… và đã từng bị cám dỗ bất tuân các ý định khôn dò của Cha: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội… Người đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết… Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 4,15; 5,7-8). Ở đây, Đức Giê-su đã thấy vâng phục khó khăn như thế nào. Câu đáp xem ra tàn nhẫn của Người cho thấy cám dỗ mạnh biết bao nhiêu.
Nhưng Đức Giê-su đã chiến thắng được vì không ngớt ngước con mắt linh hồn lên Thiên Chúa: “Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người”. Thiên Chúa thấy mọi sự khác với chúng ta. Trong các hoàn cảnh bắt buộc phải sống, chúng ta được mời gọi vượt quá “quan điểm con người” để chấp nhận “quan điểm Thiên Chúa “. Thời đại của chúng ta, hơn bao giờ hết, đang bị cám dỗ “giản lược” chính các vấn đề đức tin thành những cách thế suy tư kiểu con người. Hết thảy những gì vượt quá lý trí con người không dễ được chấp nhận. Nếu thế, sẽ đi đến chỗ cấm Thiên Chúa là Thiên Chúa! Người phải nên như chúng ta, phải khuôn theo tư tưởng của chúng ta… Nhưng lúc đó ta sẽ chỉ có một Thiên Chúa theo kích cỡ mình và hình ảnh mình… một Thiên Chúa do ta phát minh sáng tạo!
2. Một nên như môn đệ bước theo.
“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Tất cả não trạng hiện thời bao quanh ta và thấm nhiễm các phản ứng của ta, đều đề cao triển nở, lạc thú, tự do, sáng tạo, hưởng thụ: “Chơi xuân kẻo hết xuân đi. Cái già sồng sộc nó thì theo sau!” Đức Giê-su đưa ra một lôgích (lý luận) hoàn toàn khác. Lôgích của thập giá! Lôgích của tình yêu! Hoàn toàn trái ngược với hết thảy những gì thế gian đề nghị: “Phải từ bỏ chính mình”. Không thể yêu thật nếu không có bỏ mình. Và chỉ cần gợi lên một vài hoàn cảnh đau thương trong đó tình yêu gặp nguy cơ, thì sẽ hiểu yêu không phải dễ: tha thứ cho một kẻ thù, can đảm “bênh vực Chúa Giê-su” trong môi trường chống tôn giáo, lên tiếng đòi công lý cho những ai bị chà đạp nhân quyền, dạn dĩ công bố sự thật, trung thành yêu mến người phối ngẫu, tiếp tục phục vụ đám trẻ xem ra chế nhạo bạn, duy trì ý thức chia sẻ đang khi tất cả đều khuyến khích ta tích lũy hay tiêu pha cho mình, vẫn làm ăn lương thiện khi các quy luật kinh tế hay chính trị trở nên luật rừng trong đó người yếu bị kẻ mạnh đè bẹp. Muốn yêu thực, phải chấp nhận trả giá.
Như Phê-rô lúc ấy, chúng ta cũng bị cám dỗ “mài nhẵn” Tin Mừng, muốn Tin Mừng là đường thay vì là muối. Có lắm người, đặc biệt là giới trẻ, bị bản thân Đức Giê-su thu hút; họ phóng chiếu vào Người tất cả mọi giấc mơ của họ về tình huynh đệ, công bằng, tự do… Nhưng này Đức Giê-su yêu cầu họ “từ bỏ bản thân để theo Người”, cùng Người leo núi cao theo bước Người hướng dẫn. Người đi trước và sẽ bỏ mình hoàn toàn. Người lặp lại với họ mỗi Thánh lễ “phải thí mạng và đổ máu”… Thế là chẳng còn mấy ai muốn theo Người nữa.
Nhưng “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Ý kiến ngược đời của Đức Giê-su là đó: phải “mất” để “được”. Một công thức điên rồ, vốn sẽ chỉ sáng tỏ thật trong cuộc Phục sinh. Vì bất chấp vẻ bên ngoài, đây không phải là thái độ khổ dục hay bệnh hoạn: Đức Giê-su đâu có đòi chúng ta phải thích khổ đau hay từ bỏ… Người gợi ý cho chúng ta yêu mến đến cùng, sống thật viên mãn, đạt được điều chủ yếu. Và gợi ý của Đức Giê-su, bất chấp dáng vẻ bên ngoài, chẳng có gì phi nhân cả: “Con có yêu Ta đến độ bỏ mình được không? Nếu không, đừng nói với Ta về tình yêu, tình yêu nhân loại lẫn tình yêu Thiên Chúa !” Tình yêu, sự thật và hy sinh là ba cái chẳng bao giờ rời nhau cả. Không, Đức Giê-su đâu có lỗi thời. Người không ngừng nói với thế giới cái mà thế giới cần hơn cả. Vì đây là chuyện thành công, thành công trọn vẹn và dứt khoát. Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem để chịu nhiều đau khổ, bị giết chết nhưng sẽ… phục sinh ở đó ngày thứ ba. Chính chiến thắng ở cuối con đường chông gai này.
Đây là điều đã được ba thánh tử đạo Augustinô Phan Viết Huy (1795-1839), Nicôla Bùi Đức Thể (1792-1839) và Đôminicô Đinh Đạt (1803-1839) hiểu rõ và thể hiện trong đời mình. Hồi ấy (5-1838), tổng đốc Nam Định là Trịnh Quang Khanh ra tay bắt đạo rất dữ. Một hôm, ông tổ chức đại tiệc chiêu đãi mọi binh sĩ Công giáo. Tiệc tàn, ông cho mời hết thảy vào dinh, có bày sẵn những dụng cụ tra tấn, để thử lòng họ. Tiếc thay trong số 500 người, chỉ có 15 anh em trung kiên và tức khắc họ bị tống giam vào ngục. Mấy ngày tiếp, sau những trận đòn chí tử, chỉ còn lại 9, rồi 5, cuối cùng còn 3 ông Huy, Thể, Đạt. Tuy nhiên, khi quan cho tập trung kỳ mục làng Hạ Linh, Kiên Trung, Phú Nhai đến và đánh đập họ trước mặt các ông, cả ba thấy động lòng nên cũng bước qua Thánh giá, bỏ cuộc.
Thế nhưng ba người lính được tự do trở về lại thấy lương tâm cắn rứt. Việc bỏ đạo của những kẻ cuối cùng trong đám binh sĩ trở thành tin buồn lớn lao cho tập thể tín hữu đã hy sinh và cầu nguyện mỗi ngày cho họ. Thế là sau khi xưng tội, ba ông lên tỉnh xưng đạo lần nữa. Quan Tổng đốc chỉ ra lệnh đánh đòn và đuổi khỏi dinh, không tiếp. Quyết tuyên xưng đức tin, cả ba viết một lá đơn cho vua, rồi vào Huế để dâng trình. Ông Đạt bận việc quân nên chỉ ông Huy và Thể khăn gói vào kinh đô. Theo thủ tục, ba ông đến nộp đơn ở tòa Tam Pháp. Các quan nhận đơn nhưng chẳng trình lên vua. Sau lá đơn thứ hai mà vẫn không động tĩnh, hai ông tính đến một kế hoạch táo bạo. Nhân dịp Minh Mạng ngự giá đi dạo trong thành phố, hai vị đón đường để trình đơn thẳng lên vua. Đọc xong, vua nổi giận truyền tống giam cả hai vị. Bị tra khảo đánh đập, hai chứng nhân vẫn một lòng. Sau đó quan cho bày trước mặt hai ông mười nén vàng, một tượng Chúa chịu nạn và một thanh gươm rồi nói: “Cho bay tự ý chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển”. Hai ông bày tỏ ý muốn chọn gươm.
Ngày 13-6-1839, lính điệu 2 chứng nhân ra cửa Thuận An thi hành án lệnh. Chèo thuyền ra khơi, họ chặt đầu các vị rồi bổ thân làm 4, ném xuống biển. Phần ông Đinh Đạt, sau khi hay tin 2 bạn đã bị hành hình, cũng từ giã bà con lên tỉnh xưng đạo. Tổng đốc bảo ông: “Hai bạn ngươi vì cuồng tín không chịu bỏ đạo tà, nên đã bị chém làm tư quăng xuống biển. Còn ngươi, nếu khôn hồn thì chối bỏ thứ đạo đó đi để về với vợ con”. Ông thưa: “Tôi đã chịu lắm cực hình vì đức tin, nay xin sẵn sàng chịu thêm nhiều hình khổ khác nữa. Hai bạn tôi đã được phúc lớn, nay quan cứ chém tôi làm 8 khúc cũng được”. Biết có đe dọa cũng bất thành, quan liền lập án gởi về kinh xin xử giảo.
Trong bài Tin Mừng tuần trước, khi các môn đệ, qua Phêrô, thừa nhận Chúa Giêsu là: “Đấng Kitô TN 22-A175
Trong bài Tin Mừng tuần trước, khi các môn đệ, qua Phêrô, thừa nhận Chúa Giêsu là: “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 16) thì Chúa Giêsu đã trao cho Phêrô và các ông một quyền hạn cao nhất. Các ông được trao quyền của chính Thiên Chúa trên cộng đoàn tương lai của họ, một quyền năng lớn lao đến nỗi “quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” (Mt 16: 18): “Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16: 19). Chính Thánh Phêrô được nói đến như một tảng đá, vững chắc và không thể lay chuyển: “Trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy” (Mt 16:18).
Có lẽ các môn đệ đang nghĩ rằng Chúa Giêsu sẽ là một vị vua vinh quang và quyền năng đúng như mong đợi của người Do Thái. Và tất nhiên, họ sẽ có một phần đặc biệt trong vinh quang và những quyền lợi đi kèm với vinh quang đó, vì họ là những người đi theo Rabbi Giêsu.
Một cú sốc
Tuy nhiên, sự hưng phấn không kéo dài được lâu. Bản văn Tin mừng hôm nay thuật lại: “Chúa Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Ngài phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16: 21). Điều này chắc chắn là một cú sốc khủng khiếp đối với các môn đệ, hoàn toàn không thể nằm trong tâm trí của họ khi họ nghĩ về sự xuất hiện của Đấng Mêsia! Tệ hơn nữa, nguyên nhân gây ra sự sỉ nhục và cái chết của Chúa Giêsu sẽ không phải là một số kẻ thù bên ngoài, như những người ngoại đạo và dân tộc man rợ nào, mà lại là những người lãnh đạo và những người nổi trội nhất trong cộng đồng Do thái giáo của họ: “Ngài phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16: 21).
Hơn nữa, điều đó sẽ xảy ra tại Giêrusalem, thành thánh, nơi có Đền Thờ nơi Thiên Chúa ngự giữa dân Ngài, nơi các tiên tri đã chết và Chúa Giêsu đã nói với những người Pharisêu: “Giêrusalem, Giêrusalem, ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi!” (Mt 23:37). Hẳn các môn đệ đã cảm thấy rất băn khoăn và bối rối.
Một cuộc phản đối
Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi ấy, Phêrô, có lẽ vẫn còn hào hứng với địa vị mới có được của mình, đã kéo Chúa Giêsu sang một bên, nói chuyện với Ngài gần như một người ngang vai vế: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!” (Mt 16: 22). Làm sao điều này có thể xảy ra với Đấng Mêsia của Israel? Tuy nhiên phản ứng giận dữ của Chúa Giêsu xảy ra một cách hơi bất ngờ: “Satan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16: 23).
Đây là những lời lẽ cứng rắn dành cho một người vừa được trao quyền lãnh đạo cộng đoàn mà Chúa Giêsu sẽ để lại. Dù không thể coi Phêrô thực sự là một con quỷ, nhưng lời nói của ông được hiểu như một lời cám dỗ thực sự muốn Chúa Giêsu quay lưng lại với con đường mà Thiên Chúa muốn Ngài đi theo. Dù vô tình và có ý định tốt, nhưng Phêrô đang làm công việc của ma quỷ - cố gắng lèo lái Chúa Giêsu ra khỏi con đường mà Chúa Cha đã vạch ra cho Ngài.
Thánh Phêrô bị coi như một chướng ngại vật, một skandalon - cớ vấp phạm, một hòn đá cản đường khiến người ta vấp ngã. Trớ trêu thay, “tảng đá” mà Chúa Giêsu vừa nói sẽ là nền tảng cho “xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi” giờ đây lại bị coi là vật cản cho công cuộc và sứ mệnh của Chúa Giêsu!
Đã bao nhiêu lần chúng ta trở thành cám dỗ hoặc trở ngại cho người khác như vậy? Có lẽ thường xuyên hơn chúng ta nghĩ. Chúng ta gây ra chướng ngại cho người sống bên cạnh mình, vì Chúng ta không chú tâm đến chuyện của Thiên Chúa mà chú tâm đến việc của loài người.
Những tâm tình của Chúa
Các môn đệ của Chúa Giêsu có thể thừa nhận rằng Ngài là Đấng Mêsia, nhưng rõ ràng họ không biết Chúa Giêsu sẽ trở thành Đấng Mêsia theo cách nào. Như Chúa nói, họ chỉ suy nghĩ theo cách thuần túy của con người và chưa có được “những tâm tình như chính Chúa Kitô Giêsu” (Philípphê 2:5). Họ sẽ phải thay đổi hoàn toàn ý tưởng của mình về việc Đấng Mêsia sẽ như thế nào. Đấng Mêsia sẽ không phải là một nhà lãnh đạo chính trị và quân sự vĩ đại, có thể quét sạch mọi kẻ thù của Israel. Ngay cả sau khi Chúa sống lại họ vẫn nghĩ theo cách đó. Trên đường đi Emmau, hai môn đệ của Chúa vẫn nhắc lại ước mong đó: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Ngài là Đấng sẽ cứu chuộc Israel” (Lc 24:21). Ngay cả khi Chúa Giêsu chuẩn bị chia tay các môn đệ vào ngày Chúa Về Trời, các ông vẫn cứ hỏi: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Israel không?” (Công vụ 1:6)
Vâng, Chúa Giêsu sẽ là Vua, nhưng Ngài sẽ là Vua tình yêu, một Vua sẽ cai trị bằng cách phục vụ. Bởi vì Ngài yêu thương và phục vụ họ, nên nếu cần, Ngài sẽ sẵn sàng chết vì họ, vì đây là tình yêu lớn nhất mà một người có thể biểu lộ cho bạn bè của mình. Điều này không có nghĩa là Chúa Giêsu muốn chết trên thập giá, nhưng Ngài hoàn toàn sẵn sàng chịu đau khổ và chết, nếu tình yêu đòi hỏi điều đó - và điều đó đã xảy ra. Cuối cùng, các môn đệ sẽ hiểu ra rằng cái chết của Chúa Giêsu là nguồn gốc vinh quang và quyền năng lớn nhất của Ngài: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12:32).
Bước đi với Chúa Giêsu
Tin Mừng hôm nay yêu cầu chúng ta hiểu tại sao vinh quang của Chúa Giêsu, là Vua và là Chúa của chúng ta, lại được tìm thấy qua đau khổ và cái chết nhục nhã trên Thập Giá. Còn có một lời mời gọi nữa để chúng ta bước đi cùng con đường với Chúa Giêsu: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16: 24). Chúa Giêsu đang yêu cầu mỗi người chúng ta trao ban cuộc đời mình để hoàn toàn yêu thương và phục vụ người khác, ngay cả khi điều này dẫn đến sự hiểu lầm, chế giễu, đau đớn và thậm chí cả cái chết, như tiên tri Giêrêmia nói trong bài đọc thứ nhất: “Suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con... Vì lời Chúa mà con đây bị sỉ nhục và chế giễu suốt ngày...” (Gr 20: 7-8).
Sẽ hoàn toàn sai lầm khi nghĩ rằng Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta rằng để trở thành những Kitô hữu tốt lành thì chúng ta cần phải sống cuộc đời khốn khổ, vì một số người đã giải thích bản văn Tin mừng này như thế. Thực ra, để theo Chúa Giêsu một cách trọn vẹn, chúng ta phải có khả năng nhìn nhận cuộc sống như Chúa Giêsu nhìn nhận, nghĩa là phải có “những tâm tình như chính Chúa Kitô Giêsu”.
Khi chúng ta có những tâm tình như chính Chúa Kitô Giêsu, thì chúng ta có thể nhìn nhận cuộc sống của mình theo hướng yêu thương và phục vụ người khác chứ không theo đuổi tham vọng thuần túy lấy bản thân hoặc thậm chí lấy gia đình mình làm trung tâm. Như vậy, toàn bộ hướng đi của cuộc đời chúng ta sẽ thay đổi. Toàn bộ cách nhìn nhận của chúng ta về hạnh phúc sẽ thay đổi. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta không sống một cuộc sống hy sinh và đau khổ vì chính nó, mà là một cuộc sống hoàn toàn yêu thương và tự do, đến độ sẵn sàng chấp nhận hy sinh và đau khổ. “Từ bỏ chính mình” không phải là vất bỏ nhân cách của mình. Buông bỏ chính mình để có thể thực sự tìm thấy con người thật của chính mình, như Thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai: “Vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Ngài. Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12: 1-2).
Đây chính là điều mà các bài đọc hôm nay muốn nói đến: Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đến hạnh phúc đích thực. Có thể khi chúng ta đi theo con đường của Chúa Giêsu sẽ có người chê bai chúng ta ngu ngốc, thậm chí công kích chúng ta. Tuy nhiên, những người đã chọn con đường của Chúa Giêsu, vốn có vẻ như trái ngược với xã hội loài người, lại là “Một sự khôn ngoan cao cả và luôn có giá trị...Vì nghịch lý này chứa đựng quy luật vàng mà Thiên Chúa đã khắc ghi trong bản chất con người được tạo dựng trong Chúa Kitô: quy luật rằng chỉ có tình yêu mới mang lại ý nghĩa và hạnh phúc cho cuộc sống. Dành tài năng, sức lực và thời gian của mình chỉ để cứu, bảo vệ và hoàn thiện bản thân, trên thực tế, dẫn đến đánh mất chính mình, tức là một cuộc sống buồn bã và cằn cỗi. Thay vào đó, chúng ta hãy sống cho Chúa và đặt đời sống mình trên tình yêu, như Chúa Giêsu đã làm: chúng ta sẽ có thể nếm trải niềm vui đích thực, và cuộc sống của chúng ta sẽ không cằn cỗi; nó sẽ có kết quả” (ĐTC Phanxicô, Kinh truyền tin, 03 tháng 9 năm 2017).
Thiên Chúa, Đấng sáng tạo muôn loài, là chủ tể mọi loài (x. 2Mcb 7, 23; Kn 1, 14), là tác giả TN 22-A176
Thiên Chúa, Đấng sáng tạo muôn loài, là chủ tể mọi loài (x. 2Mcb 7, 23; Kn 1, 14), là tác giả của quá khứ, hiện tại và tương lai (x. Gdt 9, 5-6). Nhìn vào trật tự của vũ hoàn, chúng ta thấy quyền năng sáng tạo và bá chủ lịch sử thuộc về một mình Thiên Chúa. Mọi sự xảy ra không ngoài ý Chúa.
Nhìn vào cuộc đời và ơn gọi của Giêrêmia, ông đâu có muốn làm ngôn sứ cho Đức Chúa. Ông thưa cùng Chúa : “Lạy Chúa, Chúa đã khuyến dụ tôi, và Chúa đã đã khuyến dụ được tôi”(Gr 20,7). Ông đâu có chọn cho mình ơn gọi tiên tri; ông cũng chẳng thích tuyên sấm những lời bi quan khủng khiếp. Cực chẳng đã ông phải làm tiên tri. Chính Thiên Chúa dụ dỗ ông, biến ông thành khí cụ trong tay Ðấng điều khiển cả đất trời. Thánh ý Chúa thể hiện trong cuộc đời ông. Ông là "Người của Thiên Chúa".
Chúa Giêsu tuân hành ý Chúa Cha
Chúa Giêsu là khuôn mẫu hoàn hảo nhất trong việc thực hành ý Chúa Cha. Người sống bằng ý Chúa (x. Ga 4, 34). Đó là điều duy nhất mà Người tìm kiếm (x. 5, 30), và làm mọi sự đẹp ý Đấng đã sai mình (x. 8, 29). Dù ý đó mang một hình thức “mệnh lệnh”, nhưng Chúa Giêsu thấy đó là dấu chỉ mà “Cha yêu Người” (x. 10, 17). Sự vâng phục của Con là sự thông hiệp với ý Cha (x. 15, 19).
Trong vườn Cây Dầu cho thấy “điều Con muốn” và “điều Cha muốn” có vẻ không dung hợp (x. Mc 14, 36). Nhưng Chúa Giêsu đã vượt qua xung đột đó nhờ cầu nguyện tha thiết với Chúa Cha : “Xin đừng theo ý Con, một xin theo ý Cha.” (Lc 22, 42). Người đã tự nguyện nộp mình chịu khổ hình để ý Cha được hoàn toàn thực hiện, hầu mang lại ơn cứu độ cho loài người.
Chẳng có lạ, khi Chúa Giêsu tỏ cho các môn đệ thấy con đường khổ nạn và cái chết đau thương mình phải chịu. Chẳng may Người gặp phải một phản ứng tức thời, phản ứng của Phêrô, kẻ mà Người mới đặt làm Ðá để xây lên Hội Thánh.
Phêrô kéo Người lại với mình và can gián Người rằng : "Lạy Thầy, không thể thế được ! Thầy sẽ chẳng phải như vậy đâu" (Mt 16,22). Kể ra ông cũng rất tế nhị. Ông không dám thẳng thắn phản đối. Ông kéo Người ra để nói riêng, không muốn cho đồng bạn nghe thấy. Vậy mà Chúa Giêsu có vẻ phẫn nộ đối với Phêrô. Người nói to không nể mặt : " Hỡi Satan! Hãy lui ra đằng sau Thầy, con làm cớ cho Thầy vấp phạm" (Mt 16,23). Có lẽ câu tiếp theo làm cho người ta hiểu thánh ý Chúa hơn, Người bảo: "Vì con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người" (c. 23).
Dần dà Chúa Giêsu tỏ cho môn đệ thấy tương lai của Người, tương lai ấy do chính Chúa Cha xây dựng như Chúa Giêsu nói : "Ta đến không phải để làm theo ý muốn của mình, mà là ý của Ðấng đã sai Ta" (Ga 6,38). Như vậy, cuộc Tử nạn Phục sinh của Chúa Giêsu là kế hoạch của Chúa Cha. Phêrô chưa nhận ra điều ấy. Ông tưởng đó là ý riêng của Chúa Giêsu. Thế nên ông bộc bạch ý của ông cũng là ý của các môn đệ, là ý của quần chúng, của con cái Israel... và nói chung, của cả loài người. Ai ai cũng đang trông chờ một vị cứu tinh vinh quang, một Ðấng Cứu thế uy hùng, một Thầy Giêsu quyền phép sắp xây dựng Nước Trời trong huy hoàng, rực rỡ. Họ không biết, hoặc chưa biết "Con Người sẽ phải chịu đau khổ... Các lời tiên tri phải nên trọn... Người phải là Con Chiên Thiên Chúa gánh tội thiên hạ... Và người Tôi Tớ của Thiên Chúa kể trong sách Isaia chính là Người". Phát biểu của Phêrô là tiếng nói của loài người. Hơn nữa phá kế hoạch của Thiên Chúa là ý muốn của Satan. Lời Chúa Giêsu : "Nếu ai muốn đi sau Ta, thì hãy chối bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình và hãy theo Ta" (Mt 16,24). Ðó là bài học cụ thể phải rút ra sau khi đã thấy mầu nhiệm thánh ý Chúa.
Theo Chúa phải từ bỏ mình và vác thập giá
Chúng ta tự hỏi: “Từ bỏ” mình có nghĩa gì? Và tại sao ta phải tử bỏ mình?
Thật khó chấp nhận điều Chúa Giêsu đòi hỏi là từ bỏ và hy sinh. Sống trong một xã hội được lập trình sẵn, khuyến khích thành công nhanh, tận dụng tối đa làm ít, hưởng nhiều, đỡ tốn thời giờ và sức khỏe, nên không có lạ khi chúng ta làm và nhìn mọi sự theo kiểu con người chứ không theo cái nhìn của Thiên Chúa. Chính Phêrô, chỉ sau khi đã lãnh nhận Chúa Thánh Thần, ông mới ý thức được rằng, ông phải qua con đường ông đi và sống trong hy vọng. “Từ bỏ chính chúng ta”, là từ bỏ ý loài người để mặc lấy ý Chúa. Con đường “chịu mất chính mình” là điều cần thiết đối với con người, và nếu không có điều này, thì nó không thể tìm lại được chính mình” (BENEDICTO XVI, Ðức Giêsu thành Nagiarét 2007, 333).
Khởi đầu sứ vụ Giáo hoàng 14/3/2013, Đức Phanxicô nói: “Thánh Phêrô, người đã tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô, thưa cùng Người rằng: Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Con sẽ theo Thầy, nhưng đừng nói đến Thánh Giá! Ðiều này không có gì liên quan với nó. Con sẽ theo Thầy với các khả năng khác, mà không có Thánh Giá. Khi chúng ta đi mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng mà không có Thánh Giá, và khi chúng ta tuyên xưng Ðức Kitô mà không có Thánh Giá, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa: chúng ta thuộc về thế gian, chúng ta là Giám Mục, Linh Mục, Hồng Y, Giáo Hoàng, nhưng không phải là môn đệ của Chúa”.
Lạy Chúa, xin Chúa giúp chúng con biết từ bỏ chính mình, vác thánh giá đời chúng con mỗi ngày để theo Chúa. Amen.
Sau lời tuyên xưng Đức Ki-tô là Chúa và là Con Thiên Chúa thì lập tức Thánh Phêrô đã được TN 22-A177
Sau lời tuyên xưng Đức Ki-tô là Chúa và là Con Thiên Chúa thì lập tức Thánh Phêrô đã được Chúa Giêsu tán thưởng và cho thánh nhân biết lời tuyên xưng của Phê-rô là hồng ân của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã soi sáng cho thánh nhân biết chân tướng đích thật của Chúa Giê-su. Nhờ vào hành động tin yêu và phó thác nên Chúa đã trao quyền lãnh đạo Hội Thánh cho Phê-rô. Không chỉ có thế, Chúa còn muốn đặt ông làm đá tảng cho tòa nhà Hội Thánh mà Chúa muốn xây dựng trên nền tảng đó.
Nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay chúng ta khám phá ra mặt khác của thánh nhân. Sự thấu hiểu và nhận biết của Phê-rô về Chúa vẫn là cái biết theo nghĩa thế gian, vì thế sau khi đuợc Chúa tỏ ra cho ông biết là Người phải đi lên Giêrusalem để chịu đau khổ và sau cùng bị giết thì Phêrô lại lên tiếng can ngăn Thầy đừng đi. Ông còn xin Thiên Chúa bảo vệ Thầy mình khỏi bị giết chết nữa. Tấm lòng của Phêrô thật tốt, ông lo lắng và không muốn Thầy bị đau khổ. Ông nghĩ rằng Thầy là Chúa, và ông vừa đuợc Thầy tấn phong để làm ‘boss’ thay mặt Thầy, làm đá tảng cho người ta dựa. Thế mà Chúa lại nói Người sẽ bị đau khổ, rồi bị giết chết thì ông và nhóm 12 biết nuơng tựa vào ai đây! Nghe đến đâu lòng ông xốn xang đến đó. Vì thế, với tính bộc trực, nghĩ sao nói vậy, Phê-rô đã lên tiếng ngăn cản ý định của Thầy.
Nhưng ông đâu biết rằng ý tưởng và suy nghĩ của ông hòan tòan sai với ý định của Thiên Chúa, cho nên đã bị Chúa khiển trách “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.”
Như chúng ta đã biết, Phêrô đuợc đặt làm tảng đá nền móng để Chúa xây Hội Thánh của Người. Chúa xây chứ không phải Phêrô, và Hội Thánh là của Chúa chứ không phải của Phêrô. Vì thế, các góc cạnh của tảng đá đó cũng cần đuợc mài dũa để trở thành chỗ dựa cho các thành phần trong Hội Thánh Chúa. Trong tinh thần đó, tôi hình dung ra cảnh Thánh Phêrô, sau khi nghe xong lời khiển trách của Đức Giêsu, Ngài chỉ gãi đầu gãi tai và thưa cùng Chúa rằng: Thầy biết con yêu mến Thầy, con đâu muốn Thầy chịu khổ! Còn Chúa vẫn kiên tâm trong việc huấn luyện khi đã chọn Phêrô làm đá tảng. Thế là hòa cả làng.
Nhận biết và tuyên xưng Đức Kitô là Chúa, truớc tiên là một hồng ân; sau đó mới đến việc bổ nhiệm và trao ban năng quyền. Giống như thánh Phêrô, chúng ta không tự ‘đặt’ hay ‘bon chen, tìm cách để đuợc đặt’ vào vai trò lãnh đạo. Nhưng, đó là sự chọn lựa phát xuất một cách nhưng không bởi hồng ân của Thiên Chúa. Bổn phận của Phêrô và chúng ta, những môn đệ của Chúa là biết sống và lệ thuộc vào Đấng đã chọn và đặt chúng ta vào vị trí đó.
Như Thánh Phêrô, khi tuyên xưng Đức Kitô là Chúa là lúc chúng ta đặt cuộc sống mình duới quyền chỉ huy, quyền sinh sát của vị Chúa tể đó. Có nghĩa là lúc đó chúng ta không còn sống cho mình nữa; nhưng chấp nhận lối sống từ bỏ. Bỏ mình, chấp nhận đau khổ, vác Thập giá để theo Thầy… tất cả những điều đó không còn là các điều kiện mà là các yếu tố vô cùng quan trọng để tạo nên cuộc sống của người môn đệ. Và một khi chúng ta không thực hành việc bỏ mình và không sẵn sàng vác Thập giá thì chúng ta không còn là môn đệ chân chính của Chúa nữa.
Đến đây, xin thành thật chia sẻ với anh chị em rằng: Đã nhiều lần, trong lúc ngắm nhìn Thánh Giá Chúa, tôi đã quyết tâm sống Lời Chúa phán: “Hãy từ bỏ mình, vác thập giá của mình mà đi theo Chúa”, thì ngay lúc đó lại có một lực khác kéo tôi dừng lại. Tôi hành động như chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng; thay vì từ bỏ mọi sự để theo Chúa thì anh lại quay mặt lại với Chúa và tiếp tục bám víu vào những gì anh đang thụ hưởng. Phần Chúa, Người tôn trọng chọn lựa của anh, buồn sầu nhìn anh với lòng tiếc thương.
Các lời khuyên của Tin Mừng mà tôi đã cam kết sống vẫn chất vấn tôi; nhưng trên thực tế, tôi vẫn chưa thực hiện đuợc bao nhiêu. Có thể nói nhiều nhưng việc áp dụng cụ thể bằng hành động thì chưa đến đâu! Vẫn còn tham, còn dính bén, muốn đuợc làm chủ, chưa dám bỏ mình, ai chạm vào ý riêng, cái tôi (super-ego) của mình sẽ thấy ngay phản ứng của tôi, cho dù chưa bộc phát nhưng lòng vẫn không vui!… Ai nói về thập giá bằng tôi! Nhưng, chưa hẳn đã dám vác chưa nói đến yêu mến. Giả như có chấp nhận vác thì cũng thật miễn cuỡng, thiếu cộng tác, v.v...
Như vậy, làm thế nào để từ bỏ mình và vác Thập Giá theo Chúa đây?
Từ bỏ không phải là bỏ mặc và coi thuờng mạng sống mình, hay là việc áp dụng lối sống khổ chế, ghét mình, coi thuờng thân xác mình như một số người có quan niệm cho rằng thân xác là nguồn gốc của sự tội, vì thế phải đánh cho đau để nhớ mà chừa. Chẳng thà bị đau mà nên hoàn thiện còn hơn lành lặn về thể xác nhưng lòng lại xa Chúa… nên cần phải đánh xác như kiểu đánh tội thủa xưa…
Thật ra, từ bỏ mình vì yêu. Yêu Chúa không chỉ bằng lời nói hay hành động nhất thời; nó đòi hỏi chúng ta phải trung thành theo Chúa đến tận cùng của con đuờng Thập giá.
Từ bỏ là hy sinh. Đó là điều mà các bậc làm cha làm mẹ đã và đang sống. Tôi nhận ra mẫu gương hy sinh của các ngài. Trong việc giáo dục các ngài làm gương trước rồi dậy bảo và giáo huấn sau. Cha mẹ mình làm mọi sự để hỗ trợ cho con cái. Cha mẹ không chỉ đưa con cái mình đến truờng, nhưng còn len lén nhìn qua hàng rào để thấy con cái mình đi vào lớp học bình an. Để làm gương cho con cái, các ngài còn tham gia các sinh họat của nhà truờng như: cổ động viên cho các trận thể thao, tham gia các chương trình âm nhạc và gây quỹ. Họ tình nguyện phục vụ trong các ủy ban và các hoạt động khác của nhà truờng. Họ tham dự các sinh họat của Hội Phụ Huynh và gặp gỡ Thầy Cô.
Nói chung, các bậc làm cha làm mẹ muốn làm mọi thứ để có thể trở thành một phần trong các sinh họat của con họ. Họ làm như thế để nói cho những người con họ nhận biết rằng ba mẹ luôn đứng sau lưng, hỗ trợ cho các sinh họat tại nhà truờng của con. Vì sao! Vì yêu con cái nên họ vui lòng chấp nhận hy sinh. Đó không phải là việc dễ dàng. Nó đòi hỏi sự hy sinh thật cao cả và vĩ đại. Đôi khi, các bậc phụ huynh đã phải làm một chọn lựa thật khó khăn giữa nhu cầu riêng trong cuộc sống cá nhân mà họ muốn làm, và việc tham dự một sinh họat để hỗ trợ con cái.
Không có ngôn ngữ nào có thể diễn tả hết tấm lòng của cha mẹ mình. Nếu có thì chỉ là tình yêu và tấm lòng hy sinh của các ngài.
Thưa anh chị em,
Vẫn biết rằng từ bỏ mình, vác thập giá đi theo Chúa là những yếu tố cần thiết của người môn đệ, tín hữu của Hội Thánh. Nhưng trong bài suy niệm hôm nay, tôi nhấn mạnh và đề cao tấm lòng hy sinh, yêu thương và gương sáng của cha mẹ như một lời tri ân, nhân dịp mừng ‘ngày của cha (ba - bố)’ hôm nay. Uớc mong, Chúa tiếp tục chúc phúc và hiện diện trong mọi cảnh huống của cuộc đời bố (ba) chúng con, để các ngài mãi mãi là chỗ dựa, là đá tảng vững chắc cho mẹ, người bạn đồng hành, các con và các cháu của ba. Happy Father’s Day.