Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 17-A Bài 151-187: Anh bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng đó --------------------------------------- Phúc Âm: Mt 13, 44-46 {hoặc 44-52}: “Anh bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng đó”.
Lúc tàu của cha Đức Lộ[1] cập bến ở Cửa Bạng, Thanh Hóa, người Việt hồ hởi ùa đến. Số là TN 17-A151
Lúc tàu của cha Đức Lộ[1] cập bến ở Cửa Bạng, Thanh Hóa, người Việt hồ hởi ùa đến. Số là những tàu thương nhân Tây Ban Nha thường mang theo mặt hàng quý báu từ Phương Tây. Lúc lên bờ, người ta hỏi Đắc Lộ có gì bán cho họ không? Cha chậm rãi nói bằng Tiếng Việt: “Tôi có viên ngọc quý. Đây là báu vật tôi muốn trao cho các bạn.”[2] Bà con lúc ấy mừng khôn tả. Họ vây quanh ông Tây để mong được chút báu vật ấy. Cha nhìn quanh và nói: “Báu vật của tôi là Tin Mừng Nước Trời, là Lời của Thiên Chúa muốn dành cho mỗi người Việt nơi đây.”
Hẳn là cha Đắc lộ đã thuộc nằm lòng dụ ngôn bài Tin Mừng Chúa Nhật 17 hôm nay[3]: Kho báu và ngọc quý. Đây là loạt dụ ngôn Đức Giêsu giới thiệu về Nước Trời cho dân chúng và các môn đệ. Điệp khúc “Nước Trời giống như…” là lối nói dụ ngôn vốn rất tiêu biểu trong cách giảng dạy của Đức Giêsu để diễn giải về Nước Trời. Gọi là dụ ngôn vì Đức Giêsu dùng những ngôn ngữ và hình ảnh đời thường để giúp chúng ta hiểu những điều bí nhiệm của Nước Trời. Chẳng hạn, chúng ta nghe Tin Mừng hôm nay: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng.” (Mt 13,44). Hình ảnh này nói lên giá trị của Nước Trời. Hẳn là cha Đắc Lộ cũng cảm nhận được niềm sung sướng của người nhận ra và đặt được kho báu này. Cha muốn người Việt cũng được biết và thừa hưởng Nước Trời.
Cựu Ước không có khái niệm Nước Trời. Có chăng các thánh vịnh gia chỉ đề cập đến Thiên Chúa là Vua (Tv 47,49). Chỉ tới thời Tân Ước, trung tâm lời giảng của Chúa Giêsu chính là Nước Trời. Lúc ấy người ta vẫn còn xa lạ với thuật ngữ này. Lạ lùng vì dân chúng thời ấy cũng chẳng hiểu thầy Giêsu đang nói về vùng trời nào mà Thiên Chúa của họ ngự trị. Bởi đó, thầy Giêsu mới tìm mọi cách để giúp dân hiểu và hướng cuộc đời họ vào mục đích là: Tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước hết. (Mt 6,33).
Thật may cho con người vì Đức Giêsu chính là hiện thân của Nước Thiên Chúa. Ngài tỏ lộ Nước ấy bằng những hình ảnh như: người tù được tha, người mù được thấy, người què đi được,… Đó là Vương Quốc của tình yêu, công chính, bình an và niềm vui trong Thần Khí (Rm 14,17). Chúng ta vẫn quen gọi Nước ấy là Thiên Đàng, vì có Thiên Chúa ngự trị.
Chúng ta chưa một lần bước vào Vương Quốc ấy! Có chăng chúng ta chỉ cảm nghiệm được hạnh phúc vô bờ khi được ở gần Chúa. Rồi mọi bôn ba của kiếp người cũng để tìm được nguồn hạnh phúc bình an đích thực. Nếu quy chiếu khao khát này vào tình trạng của Nước Trời, hẳn là người ta phải ưu tiên tìm kiếm cho bằng được Nước Trời! Đó là kho báu mà người ta sẵn sàng bán mọi thứ để mua cho bằng được. Đó là viên ngọc quý mà thương gia nào cũng muốn bán tất cả để sở hữu được nó. Nghe có vẻ ngồ ngộ, vì thực tế biết bao người đâu để ý đến Nước Trời trong thời đại của chúng ta. Người đời vẫn lao vào cuộc sống mưu sinh, chạy theo niềm vui thế trần.
Tiếc là với tội lỗi và hậu quả của nó, con người ngày càng xa lạ với Thiên Đàng. Họ thích bám vào mặt đất này hơn. Vật chất trần gian chiếm hết tâm trí nhiều người. Biết bao vinh hoa phú quý bủa vây lòng dạ người ta. Đó chưa kể là để được kho tàng Nước Trời, Chúa đòi người ta “bán tất cả” để đạt được. Vả lại, không phải ai nói: “Lạy Chúa, Lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu, nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7,21).
Hoặc giải thích như Đức Bênêdictô XVI: “Chúa Giêsu đã đến để dạy ta rằng Người muốn cho mọi người được lên Thiên đàng; còn hỏa ngục mà ngày nay người ta ít nói đến nhưng nó vẫn có đó, và nó chỉ là đời đời đối với tất cả những ai khép lòng mình lại trước tình yêu của Người.” Người ta có tự do để đón nhận Thiên Chúa, hoặc loại Ngài ra khỏi đời sống của họ.
Vài lý do này cho thấy Nước Thiên Chúa vẫn còn xa vời với nhiều người.
Trước thực tế ấy, dĩ nhiên Đức Giêsu không bỏ cuộc. Giáo Hội vẫn luôn giới thiệu cho nhân loại biết Nước Trời quý giá như kho báu và ngọc đẹp. Bởi, “Thiên Chúa muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết chân lý.” (1Tm 2,4). Như Chúa Giêsu, Giáo Hội cũng mang hạt giống Nước Thiên Chúa gieo trồng và làm sao cho hạt giống ấy được phát triển trong mọi dân tộc. Một khi Nước Trời gần với ai đó, người ấy sẽ được tình yêu, hạnh phúc và bình an. Khi ấy, họ “muốn tất cả những gì Chúa muốn, và muốn như thế trong mọi hoàn cảnh và không ngập ngừng; đó là Nước Trời đang ở trong họ rồi.” (François Fénelon). Hoặc nói như Mẹ Têrêsa Calcutta:
“Chúng ta thường luyến nhớ đến niềm vui trên trời, nơi Chúa ngự. Chính mỗi người đều có khả năng ở với Chúa trên trời ngay từ bây giờ, và ngay lúc này được hưởng hạnh phúc với Chúa. Nhưng được hạnh phúc với Chúa ngay từ bây giờ nghĩa là gì: là giúp đỡ như Chúa giúp đỡ, cho đi như Chúa cho đi, phục vụ như Chúa phục vụ, cứu độ như Chúa cứu độ, yêu mến như Chúa yêu mến.” (Youcat 52)
Chúng ta kết thúc bài suy niệm với niềm vui của cha Đắc Lộ. Trong ít ngày cha đã rửa tội cho 32 người, thuộc nhiều tầng lớp dân chúng, không chỉ tại xóm Cửa Bạng, nơi tàu đậu, mà cả những làng lân cận, dân chúng vì hiếu kỳ đến xem đã được cha truyền đạo cho[4]. Chắc hẳn họ là những người đã nhận ra sự cao quý của Nước Trời. Từ vài nhóm khởi đầu như thế, Giáo Hội Việt Nam đã phát triển và lớn mạnh như ngày hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con hạnh phúc vì được biết đến mầu nhiệm Nước Trời. Tuy không hiểu hết, nhưng chúng con ước ao thuộc về Vương Quốc ấy, ngay trên trần gian này. Rồi sau cái chết, hy vọng Thiên Chúa đón chúng ta vào Nước Trời hưởng cuộc sống hạnh phúc thiên thu. Amen
………….
[1] Sau hơn một năm học tiếng Việt ở Đàng Trong, cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes) trở lại Macao để chuẩn bị tới Đàng Ngoài truyền giáo. Cùng với Pedro Marques, cha cập bến Cửa Bạng, Thanh Hóa ngày 19 tháng 3 năm 1627. [2] Đọc thêm: https://www.giaophandanang.org/chua-nhat-iii-mua-chay-nam-a.html [3] 26-7-2020: Chúa Nhật 17 Mùa TN. Rm 8, 28-30; Mt 13,44–52. [4] Cha Bùi Đức Sinh, Giáo Hội Công Giáo Ở Việt Nam, Tập I, trang 124-125.
Thời gian gần đây, chúng ta thấy một loạt quan chức và những đại gia phải ra hầu tòa trước vành TN 17-A152
Thời gian gần đây, chúng ta thấy một loạt quan chức và những đại gia phải ra hầu tòa trước vành móng ngựa. Những người này can tội lợi dụng chức quyền, tham ô chiếm đoạt của công. Trước khi bị phanh phui, họ là những người “nói mọi người nghe, đe mọi người sợ”, vì họ nắm trong tay chức quyền và của cải. Sự giàu có và quyền chức của họ cũng là điều nhiều người mơ ước. Dưới cái nhìn thế gian, họ đã là những người may mắn và khôn ngoan. Bỗng chốc, sự khôn ngoan của họ biến thành sự dại dột. Những lời khen ngợi dành cho họ trước đây, nay trở thành những lời nguyền rủa phỉ báng. Vinh quang của họ biến thành nỗi nhục. Những sự kiện này khiến chúng ta đặt ra câu hỏi: đâu là sự khôn ngoan đích thực? Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta đâu là sự khôn ngoan đích thực. Salomôn là vị vua có cái nhìn xa trông rộng. Khi vừa lên ngôi kế vị cha mình là Đavít, ông đã thấy rõ điều ông cần thiết không phải là của cải vật chất hoặc mạng sống quân thù, nhưng là sự khôn ngoan để cai trị quốc gia. Thực ra, lời cầu xin của ông đã chứng tỏ ông là một người khôn ngoan. Bởi lẽ, khi người ta đã có sự khôn ngoan, thì sẽ có mọi sự. Cuộc đời của Salomôn đã chứng minh điều đó. Chúa tỏ cho ông biết: điều ông xin vừa là điều chính đáng, vừa là điều đẹp lòng Chúa. Vì vậy, Chúa ban cho ông sự khôn ngoan phi thường, đến nỗi ông trở thành biểu tượng của sự khôn ngoan trong lịch sử. Khôn ngoan đích thực không phải là sự lươn lẹo mánh lới và thủ đoạn, nhưng là sống theo sự thật. Người sống theo lương tâm ngay thẳng, tôn trọng sự thật, sẽ luôn được an bình thanh thản. Những ai sống mưu mô, trục lợi, dù có thành đạt cũng không bền lâu và sớm muộn cũng bị đưa ra ánh sáng. Người Việt chúng ta thường nói : “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Việc làm của chúng ta có đạt được kết quả hay không còn tùy thuộc vào ý Trời. Những gì tốt lành, ngay thẳng, sẽ thuận ý Trời và sẽ thành công. Người khôn ngoan đích thực còn là người chọn lựa Chúa như đích điểm tối ưu của đời mình, đồng thời cố gắng làm mọi sự để trung thành với sự chọn lựa ấy. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh người khám phá ra kho tàng quý giá trong thửa ruộng, và người lái buôn biết giá trị của viên ngọc quý. Cả hai người này đều giống nhau ở chỗ, họ bán tất cả để mua thửa ruộng có chứa kho tàng và mua viên ngọc quý. Hình ảnh này muốn dạy chúng ta, một khi đã chọn Nước Trời là lý tưởng, người tín hữu phải hy sinh từ bỏ những gì có thể cản trở họ trong việc đón nhận giáo huấn của Chúa. Mỗi chúng ta đều được đón nhận hồng ân đức tin. Đức tin là một viên ngọc quý mà Chúa ban tặng cho chúng ta. Có những lúc chúng ta không ý thức được giá trị của hồng ân này. Vì vậy chúng ta không để ý lo lắng cho đức tin được lớn lên và thể hiện cách rõ nét trong đời sống. Các thánh tử đạo là những người đã khám phá ra giá trị của Nước Trời, nên sẵn sàng hy sinh cả mạng sống để đạt được điều các ngài hy vọng trông mong. Trong xã hội hôm nay, trước những trào lưu mệnh danh là “tiến bộ”, “hiện đại”, nhiều tín hữu coi đức tin như một thứ trang sức cho đẹp, hoặc như một đồ cổ quý giá nhưng chỉ để trưng bày trong tủ kính. Họ e ngại khi phải hy sinh để sống đức tin và thực hành giáo huấn của Giáo Hội. Tóm lại, đức tin không có một vị trí quan trọng trong đời sống của họ. Vì thế, khi gặp những khó khăn thử thách, họ sẵn sàng chối bỏ đức tin để chọn lựa những gì hào nhoáng và giá trị nhất thời. Người tin vào Chúa không bước theo những ảo vọng, nhưng chắc chắn sẽ được Chúa yêu thương và lắng nghe lời họ nguyện cầu. Thánh Phaolô khẳng định với chúng ta: “Những kẻ yêu mến Thiên Chúa thì Người giúp họ được mọi sự lành. Họ là những người kêu gọi nên thánh” (Bài đọc II). Ơn khôn ngoan là một trong bảy ơn của Chúa Thánh Thần. Chúng ta hãy xin Ngài soi sáng cho chúng ta biết nhận ra đâu là khôn ngoan đích thật. Xin Ngài thêm sức mạnh để chúng ta trung thành với đức tin, coi đó là lý tưởng cao cả nhất của cuộc đời. Đó chính là viên ngọc mà Chúa ban cho chúng ta khi lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy. Đó cũng chính là sản nghiệp mà chúng ta có bổn phận phải làm cho sinh hoa kết trái qua những việc làm mỗi ngày.
Salomon không xin gì với Chúa ngoài sự khôn ngoan. Khôn ngoan không chỉ là một đức tính TN 17-A153
Salomon không xin gì với Chúa ngoài sự khôn ngoan. Khôn ngoan không chỉ là một đức tính mà còn là một ơn do Thiên Chúa ban. Vậy ơn khôn ngoan là gì?
Trước tiên hãy đi tìm kiếm sự khôn ngoan bằng nỗ lực của mình. “Lý do khiến ta muốn khôn ngoan thường liên hệ với rất nhiều sự tích cực: cảm thấy hài lòng hơn với cuộc sống, ít cảm xúc tiêu cực hơn, quan hệ tốt hơn và ít cảm giác căng thẳng hơn, theo Igor Grossman từ Đại học Waterloo ở Canada.” (trích từ bài từ báo BBC, ngày 08 -03 -2017). Đưa ra khỏi chính mình những buồn phiền, tiêu cực để sống lạc quan và tin tưởng.
Khôn ngoan sẽ giúp con người sống vui tươi hơn và làm cho con người hạnh phúc hơn. Người khôn ngoan biết điều này mà Tôn Tử đã viết: “Biết người biết ta, trăm trận không nguy; không biết người mà chỉ biết ta, một trận thắng một trận thua; không biết người, không biết ta, mọi trận đều bại.”
Biết mình là một điều khó.
Khó để biết mình vì cái tôi luôn che phủ trong mình. Chúa Giêsu dạy trong câu truyện cái đà trong mắt mình và cái rác trong anh chị em (Mt 7, 1 – 5). Làm sao lấy cái đà trong mắt mình ra. Câu trả lời vẫn cần tìm ở nơi Thiên Chúa, như Thánh Augustine vẫn cầu nguyện: “Lạy Chúa, Chúa biết con, xin cho con biết Chúa; xin cho con biết Chúa như con được Chúa biết. Lạy Chúa là sức mạnh tâm hồn con, xin ngự vào và uốn nắn tâm hồn con cho hợp với Chúa để nó thành sở hữu của Chúa, không còn một vết nhơ hay nếp nhăn nào. Đó là niềm hy vọng của con. (Tự Thuật Augustine).
Để biết Chúa.
Theo Thánh Gioan Tông đồ, Biết Chúa là cái biết hoán cải chính mình mỗi ngày. Là một hoán cải nên cần đến ơn ngoan mà chính Chúa Thánh Thần Đấng ban sự khôn ngoan soi dẫn cho. Trong kinh cầu Chúa Thánh Thần, thường đọc: “ chúng con xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần xuống. – Sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con. Chúng con cầu cùng Đức Chúa Trời xưa đã cho Đức Chúa Thánh Thần xuống soi lòng dậy dỗ các Thánh Tông Đồ, thì rầy chúng con cũng xin Đức Chúa Trời cho Đức Chúa Thánh Thần lại xuống, yên ủi dạy dỗ chúng con làm những việc lành, vì công nghiệp vô cùng Đức Chúa Giêsu Kitô là Chúa chúng con. Amen.”
Là một ơn nên người Kitô hữu luôn cần nhờ đến Chúa Thánh Thần yên ủi lúc đau buồn, gian nan. Dạy dỗ khi chưa biết thế nào cho phải lẽ, ban ơn trợ lực khi thi hành và hoàn tất trong niềm vui Chúa ban.
Xin cho con biết bán đi những gì con có để mua lấy Nước Trời. Đó là những gì Chúa mời gọi con hôm nay. Xin giúp con. Amen.
Thầy Giêsu rời bỏ đám đông mà về nhà, chỉ còn Thầy và trò trong căn nhà ấm cúng. Thầy trò TN 17-A154
Thầy Giêsu rời bỏ đám đông mà về nhà, chỉ còn Thầy và trò trong căn nhà ấm cúng. Thầy trò cùng quây quần bên nhau. Thầy thì say sưa giảng, trò thì chăm chú lắng nghe. Có lẽ, đây là một lớp học lý tưởng cho mọi thời đại.
Nước Trời là một mầu nhiệm. Chính vì thế, Thầy Giêsu phải dùng nhiều dụ ngôn mà giảng cho dân chúng và các môn đệ. Khi chỉ còn Thầy và trò thì Thầy giải nghĩa dụ ngôn. Thầy dùng dụ ngôn kho báu và ngọc quý, dụ ngôn chiếc lưới mà nói về Nước Trời cho các môn đệ nghe. Nước Trời là một kho báu. Là kho báu nên có lắm người muốn chiếm cho bằng được. “Có một người kia gặp được kho báu chôn trong ruộng, anh liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy”. (Mt 13, 44). Có được thửa ruộng là có kho báu. Người này là một người khôn ngoan. Nước Trời lại giống như một viên ngọc quý mà người thương gia vất vả kiếm tìm. Khi tìm được rồi, ông cũng bán tất cả những gì mình có để mua viên ngọc ấy. Là kho báu hay viên ngọc, muốn chiếm được đều phải dám đánh đổi những gì mình có. Có một chàng thanh niên kia rất đạo đức, anh được Thầy Giêsu rất thương mến. Thầy chỉ cho anh cách chiếm được sự sống đời đời làm gia nghiệp, đó là bán đi những gì mình có mà cho người nghèo. Nghe xong, anh buồn rầu bỏ đi, vì anh có nhiều của cải, anh không đành lòng bán tất cả để mua lấy Nước Trời. Là môn đệ của Thầy Giêsu, được bước theo Thầy mỗi ngày, ta có đặt mình trong tâm thế của một người biết đi tìm Nước Trời, dám đánh đổi tất cả mọi sự mình có để có được Nước Trời không? Nước Trời là niềm hy vọng của ta, muốn chiếm được ta phải đi tìm trong sự kiên nhẫn và bền chí. Lòng khao khát có được Hạnh Phúc sẽ thôi thúc ta bước đi. Giống như ngọc quý khó tìm mà ngọc giả thì ta dễ lẫn lộn, hay kho báu chỉ có một mà có nhiều thửa ruộng khác nhau. Vậy, đâu là viên ngọc quý thật sự và đâu là thửa ruộng có kho báu mà ta cần bán tất cả mọi sự mà mua lấy? Nếu ta là một thương gia nhiều kinh nghiệm, ta sẽ biết đâu là ngọc quý. Khi ta thật sự muốn tìm kiếm kho báu, ta sẽ chấp nhận cất công kiếm tìm. Tìm kho báu phải có một lược đồ hay ít là phải biết kho báu kia là gì. Cũng vậy, Nước Trời là nơi dành cho những ai có tâm hồn trẻ thơ. Để vào được Nước Trời, Thầy Giêsu đã sắm sẵn cho ta một hiến chương cụ thể, đó là Tám mối phúc mà trong bài giảng trên núi, Thầy đã tận tình vạch ra. Điều quan trọng là ta có thật sự muốn chiếm lấy phần thưởng ấy không.
Thầy lại ôn tồn đưa ra một dụ ngôn khác: dụ ngôn chiếc lưới. Từng môn đệ chăm chú lắng nghe như nuốt lấy từng Lời Thầy giảng, đợi dịp cho Lời được “tiêu hóa”. Chiếc lưới được thả xuống biển và gom được đủ thứ cá: cá tốt được thu vào giỏ còn cá xấu bị vứt ra ngoài. Ta có muốn bị quẳng ra ngoài như đồ xấu xa không? Hẳn nhiên là không rồi. Nhưng làm sao để trở nên một người công chính và được vào hưởng hạnh phúc Nước Trời? Có thể ví đời ta như một chiếc lưới được quẳng xuống biển. Từng ngày sống như những lần ra khơi buông lưới. Có ngày mệt nhoài bên mẻ lưới đầy ăm ắp những cá, mệt đó nhưng lòng ta phơi phới. Cũng có những ngày ta vất vả mà chẳng được gì. Sau một ngày, một tuần, một tháng hay một năm, và có thể là dài hơn với biết bao nhiêu lần buông lưới nơi khơi xa, đến một ngày ta giật mình nhận ra: chiếc lưới đời ta đã rách nát. Đó là kết quả của những lần ta lười biếng giặt lưới hay không quan tâm khâu vá lại những mắt lưới bị hỏng. Ta chẳng chú trọng mấy đến công việc xét mình. Chiếc lưới tâm hồn ta cũng rách đi vì đầy rác rưởi. Lưới quẳng xuống thì nặng mà kéo lên chẳng được bao nhiêu cá, vì còn đâu chiếc lưới lành lặn một thời. Ta có suy nghĩ gì khi nhìn lại một chiếc lưới rách nát bị bỏ quên bên chiếc tàu hỏng không thể ra khơi?
Thầy giảng và các môn đệ bây giờ thì hiểu. Lòng Thầy phấn khởi và người học trò cũng hăng hái hơn. Thế nhưng, hành trình đi tìm ngọc quý lắm gian nan vất vả mà sức người thì có hạn. Thầy biết những yếu đuối của người môn đệ, Thầy không bỏ rơi những ai có tâm hồn khao khát đi tìm Nước Trời. Những khi mệt mỏi chán chường, ta hãy đến bên Thầy để được Thầy cho nghỉ ngơi bồi dưỡng, và nhất là để học cùng Thầy bài học “hiền lành và khiêm nhường”. Người biết đi tìm Nước Trời không phải là kẻ hấp tấp vội vàng, cũng không phải là kẻ vỗ ngực vì sự hiểu biết của bản thân nhưng là người biết âm thầm nhẫn nại và luôn để Thần Khí hướng dẫn, luôn luôn dõi theo Lời để bước đi và sẵn sàng bán đi tất cả mọi thứ mình có mà mua lấy Nước Trời.
Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu! Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng con cách thức để chiếm được Nước Trời, xin Chúa ban cho chúng con lòng khao khát của một người thiện chí, luôn lắng nghe sự thúc đẩy của Thần Khí và lấy Lời Chúa làm lương thực hằng ngày. Amen.
Đứa con đi học về: – Mẹ ơi, con đói bụng quá. Hôm nay ăn gì hả mẹ? – A, con về rồi à, rửa tay TN 17-A155
Đứa con đi học về:
– Mẹ ơi, con đói bụng quá. Hôm nay ăn gì hả mẹ? – A, con về rồi à, rửa tay đi rồi vào ăn cơm. Hôm nay, chúng ta ăn thịt tiếp. – Hôm qua ăn rồi mà mẹ. – Ùm, nhưng hôm nay ăn thịt quay mà. – A, thịt quay, thích quá!
Vâng, người mẹ nào cũng yêu thương con mình. Vì yêu nên luôn suy nghĩ và tạo cho con nhiều điều bất ngờ. Cũng là thịt, nhưng người mẹ đã chế biến ra nhiều kiểu nấu: nào là thịt kho, thịt luộc… Và mỗi món ăn có một hương vị khác nhau. Tình yêu của Mẹ là thế đó. Tình yêu của Giêsu còn hơn thế nữa. Không những cho ăn, Ngài còn ban cho chúng ta nguồn lương thực từ chính Lời của Ngài. Ngài đã dùng dụ ngôn cùng những câu chuyện khác nhau để nói với chúng ta về mầu nhiệm Nước Trời.
Các Chúa Nhật vừa qua, chúng ta đã được nghe dụ ngôn người gieo giống và cỏ lùng, dụ ngôn hạt cải và nắm men. Hôm nay, Giáo Hội tiếp tục cho chúng ta nghe dụ ngôn viên ngọc quý và kho báu được chôn giấu trong ruộng. Qua những dụ ngôn ấy, Chúa Giêsu muốn giới thiệu, tỏ lộ và mời gọi chúng ta điều gì?
Chúa Giêsu thường dùng dụ ngôn để giúp con cái Ngài hiểu hơn về mầu nhiệm Nước Trời. Người Việt nam cũng thường dùng những câu chuyện cổ tích, dân gian để nhắc nhở con người học biết về cách sống và làm người. Một trong những hình ảnh dân gian đó là câu chuyện “Ăn khế trả vàng”. Câu chuyện nói về hai anh em có hai hoàn cảnh khác nhau. Vợ chồng người em nghèo, chỉ có một túp liều và một cây khế trước nhà. Còn người anh thì giàu có hơn. Nhưng khi biết người em khá hơn nhờ con chim “ăn khế trả vàng”, vợ chồng người anh liền đổi tất cả tài sản cho người em để cũng được chở đi nhặt vàng. Dừng lại câu chuyện ở đây, chúng ta sẽ thấy có điểm giống với dụ ngôn kho báu và dụ ngôn ngọc quý. Chúa Giêsu nói: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng…” (x. Mt 13,44 – 46). Cả hai dụ ngôn nói đến hai con người, hai tính cách khác nhau, nhưng đều khao khát tìm kiếm và muốn có được những cái mình muốn.
Như người thương gia đã đánh đổi những gì mình có để chiếm cho được mảnh ruộng có kho báu là chính Nước Trời. Để đạt được kho báu là Nước Trời, đòi hỏi chúng ta phải hy sinh rất nhiều thứ. Sự hy sinh vất vả ấy được thể hiện cho chúng ta biết qua dụ ngôn chiếc lưới. Nói đến lưới là phải nhắc đến những người ngư phủ. Họ sống phụ thuộc vào nghề cá. Họ phải xa gia đình ra khơi, lênh đênh trên biển để đánh cá. Đó là một nghề không biết ngày trở về, nhưng họ vẫn phải đi. Họ cũng không biết trước được chuyến đi sẽ đánh được nhiều hay ít cá. Họ sống trong sự may rủi. Khi đánh được nhiều cá, họ phải khéo léo kéo lên, phải ngồi xuống lựa những con cá to, tươi ngon bỏ vào giỏ. Còn cá nhỏ thì quăng ra ngoài. Chúng ta có dám hi sinh như thế để đạt được phần thưởng là Nước Trời không?
Chiếc lưới còn là hình ảnh của ngày tận thế. Trong ngày ấy, “Các thiên xứ sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, người ta phải khóc khóc lóc nghiến răng” (x. Mt 13, 49-50). Đọc dụ ngôn, chúng ta được đánh thức lại thái độ sống hằng ngày của mình. Chúng ta muốn mình là những con cá tốt được bỏ vào giỏ hay là những con cá xấu bị quăng ra ngoài? Quả thực, không dễ gì cho chúng ta nhìn ra được bản thân mình.
Xuyên suốt các dụ ngôn, tất cả đều làm cho ta phải suy nghĩ, phải đắn đo và đặt câu hỏi cho bản thân. Sống dụ ngôn là chúng ta phải lựa chọn những điều trái ý chúng ta. Với ánh sáng mặt trời nó có thể là ân huệ soi sáng con mắt lành mạnh, mà cũng có thể làm cho con mắt ta đau yếu. Nhưng với Chúa Giêsu, chúng ta xác tín Ngài thật sự là Thiên Chúa. Ngài dùng lời và khung cảnh rất gần gũi với chúng ta để đưa chúng ta đến với mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Dụ ngôn Chúa đó Lời của Chúa đó Vẫn mãi vang lên Con nghe dễ hiểu Như ngay cuộc sống Đi vào bản thân Con lại điên đảo Điên đảo phải xét Điên đảo phải thấy Điên đảo phải nhận Nhưng con cam chịu Vì Lời Hằng Sống Vì tình yêu Chúa Vì hạnh phúc con.
Lạy Chúa, không dễ gì có ai lại trao ban tất cả bản thân mình cho người khác. Nhưng đối với Chúa, Ngài đã trao ban cho con người tất cả, kể cả Con Một của Ngài. Và chính Người Con cũng không ngừng tiếp nối tình yêu trao ban ấy. Xin cho chúng con nhận ra tình yêu trường tồn qua việc suy niệm và yêu mến Lời Chúa mỗii ngày. Sâu xa hơn, xin cho chúng con biết nhìn thẳng vào bóng tối con người thật của con. Nhờ đó, những lời Chúa dạy sẽ biến đổi đời con. Amen.
Ở cuối chương 13, Phúc âm Mat-thêu kể cho chúng ta ba câu chuyện khác nữa, để ví von Nước TN 17-A156
Ở cuối chương 13, Phúc âm Mat-thêu kể cho chúng ta ba câu chuyện khác nữa, để ví von Nước Trời. Nếu ba dụ ngôn tuần trước (hạt cải, cỏ lùng, nhúm men) cho thấy Nước Trời từ góc độ bên trong, với sức mạnh kiên trì nội tại, thì hình như những dụ ngôn hôm nay lại như muốn trình bày một khía cạnh khác: Nước Trời nhìn từ góc độ ‘đón nhận’: “Nước Trời giống như câu chuyện…” kho báu…, viên ngọc…, chiếc lưới… Tuy là ba, nhưng các câu chuyện lại chỉ qui về một nội dung duy nhất:
Nếu Nước Trời là việc đón nhận tình yêu thương xót của Thiên Chúa, thì việc đón nhận đó, cách này hay cách khác, phải đạt tới độ tuyệt đối, tức là tiếp nhận tình yêu thương xót như một điều quan trọng bậc nhất trong đời sống. Nói tới lòng thương xót, ít khi ta cho rằng: nó cần phải được đón lấy cách tuyệt đối. Nói khác đi, chẳng mấy ai cho rằng mình thật sự cần tới lòng thương xót như một lẽ sống; thái độ này phổ biến, vì hiếm khi nào con người cho rằng mình mãi rơi vào cùng cực và vô vọng, vì dẫu có biết mình là hèn hạ thấp kém, ta vẫn luôn nghĩ rằng: mình còn có thể tự lo tự liệu được và một ngày kia mình sẽ thoát khỏi tình trạng này. Con người đề cao sự tự trọng là vậy! Chính vì thế mà, đứng trước tình yêu xót thương của Thiên Chúa, có mấy ai cảm thấy mình thật sự cần, cần như một nhu cầu sống còn, cần như bám lấy một cái phao cứu sinh? Các dụ ngôn hôm nay tập chung nhấn mạnh điểm này: tình yêu cứu độ của Thiên Chúa không chỉ là kho báu hay viên ngọc quí bất kỳ, nhưng là kho báu và viên ngọc quí đáng cho người nào khám phá ra, hay tìm thấy nó, phải “bán tất cả những gì mình có mà mua… lấy”.
Lấy một thí dụ để minh họa việc tìm thấy báu vật và khám phá ra giá trị thật của nó là hai điều rất khác nhau: một nhà sưu tầm tem phát hiện ra một con tem cổ nằm trong cuốn sách cũ, ông có thể vui mừng vì con tem ‘quí’ đó sẽ bổ sung cho bộ sưu tập vốn đã rất phong phú của ông. Nhưng sau khi tra cứu, ông phát hiện ra: đó là con tem duy nhất còn sót lại của cả một thời đại; con tem có giá trị tới độ nếu sở đắc được nó, ông sẽ được thiên hạ coi như nhà sưu tập tem vĩ đại nhất qua mọi thời đại. Ta có thể hiểu được thái độ của ông lúc đó là thế nào ngay cả đối với bộ sưu tập vốn đã rất giá trị của mình. Tương tự như thế, vấn đề tiếp nhận Tin Mừng cứu rỗi không đơn thuần là: biết Chúa thương yêu mình, mà còn phải biết Chúa yêu như thế nào, đồng thời mình cần tới lòng thương xót ấy bao nhiêu. Đức Giê-su khảng định: Nước Trời chính là khám phá và đón nhận Tin Mừng tình yêu này tới độ, thấy cần phải “bán tất cả những gì mình có để mua lấy”. Niềm tin Ki-tô hữu chính hệ tại ở điều này. Niềm tin đó trưởng thành hay không, cao hay thấp tùy vào mức độ khám phá ra tình yêu xót thương của Thiên Chúa đã được thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, để rồi đón nhận lấy nó như một kho tàng vô giá, một lẽ sống giữa cuộc đời ô trọc, một suối mát giữa sa mạc nóng bỏng, một viên thuốc hồi sinh giữa cơn bệnh thập tử nhất sinh. Niềm tin vào Tin Mừng của chúng ta chỉ thật sự lớn mạnh khi coi niềm cậy trông vào ơn cứu độ mà Đức Ki-tô mang lại nhờ cái chết thập giá của Người, còn lớn hơn, cao trọng hơn và cần thiết hơn tất cả các kho báu của khôn ngoan, của tu thân tích đức, của đạo hạnh…
Và như thế, nếu Nước Trời chính là sự đón nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa đã được Đức Ki-tô thể hiện trên thập giá, thì một khi được quảng bá sâu rộng, ta có thể so sánh nó: ‘giống như chiếc lưới thả xuống biển’. Dưới nước thì con cá nào cũng là cá, chỉ khi lưới được kéo lên bãi (ngày tận thế, hay thế tận đối với mỗi người khi chết) người ta mới phân biệt được loại cá tốt với loại cá xấu. Cá được đánh giá là tốt hay xấu dựa theo tiêu chuẩn người bủa lưới đặt ra cho mình. Tiêu chuẩn lưới Tin Mừng của Đức Ki-tô sẽ rất khác với tiêu chuẩn ‘lưới luân lý’ của người đời hay Cựu Ước. Đối với ‘lưới đón nhận Tin Mừng’, cá tốt phải là những ai đã khám phá ra tình yêu cứu độ và đón nhận nó cách thiết thân tới độ sẵn sàng “bán tất cả những gì mình có…”, còn cá xấu là ai không đón nhận, hoặc vì không khám phá ra, hoặc đã khám phá nhưng chưa đủ lực tới độ sẵn sàng bán hết… Quả vậy đối với Tin Mừng, Nước Trời chính là niềm tin tuyệt đối vào tình Chúa yêu thương được biểu lộ nơi Đức Ki-tô Giê-su, do đó kẻ nào có niềm tin đó sẽ ‘được nhặt cho vào giỏ’, vì… “ai tin vào Con của Người thì không bị kết án”; còn ai không có thì ‘bị vứt ra ngoài’, vì ‘kẻ không tin thì bị lên án rồi’ (Ga 3:18). Ngay cả một người vì một lý do nào đó, đã không tin truyệt đối rằng: ơn cứu độ chỉ có nơi Đức Ki-tô Giê-su, để rồi tiếp tục bám vứu lấy bất cứ giá trị nào khác, chẳng hạn như thần thánh, công nghiệp, khôn ngoan, đạo hạnh hay nhân đức… tiền của hay chức quyền… hầu mong nhờ đó mà được cứu thoát, thì chắc chắn sẽ phải qua cửa ải xét xử mà thôi. Mà một khi bị xét xử thì thử hỏi mấy ai, kể cả những kẻ được người đời coi là đạo đức thánh thiện nhất, lại không nhận ra rằng: nơi mình vẫn còn tồn tại khiếm khuyết nào đó để đáng bị lên án! Như vậy đã rõ: ‘hàng ngũ người công chính’ hay ‘cá tốt được nhặt vào giỏ’ khi lưới Tin Mừng được kéo lên, sẽ chỉ còn là những con người mà, trong thẳm sâu cõi lòng mình, đã khẩn thiết thốt lên: “Lạy Ngài, xin thương xót con!” Họ đúng là những người “đã giặt và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7:14; xem 22:14)!
Lạy Chúa, xin cho con tin thật rằng: ơn cứu độ chỉ có thể có nơi đức Ki-tô Giê-su; và khi nhìn lên Thập Giá, con biết nhận ra rằng: đón lấy tình yêu cứu độ mới là điều hệ trọng hơn hết mọi sự. Xin cho con không bao giờ ỷ vào bất cứ điều gì, bất cứ giá trị nào khác hầu mong được cứu thoát, cho dầu đó là bậc tu sĩ linh mục, cho dầu là khôn ngoan thánh thiện, hay nhiệt tình tông đồ…; điều duy nhất con cầu xin Chúa là: được khiêm nhường hơn, biết nhìn nhận các yếu hèn của mình hơn, hầu ngày càng thâm tín đón lấy lòng thương xót vô điều kiện của Chúa. Con mong rằng, chính con sẽ là con cá được chính Chúa nhặt và cho vào giỏ cứu độ, chứ không phải là con cá cố gắng tự mình lách vào giỏ. A-men.
Sống trên đời, ai cũng mong được hạnh phúc. Có những thương gia rất giàu có, tiền dư của để ê TN 17-A157
Sống trên đời, ai cũng mong được hạnh phúc. Có những thương gia rất giàu có, tiền dư của để ê hề nhưng cuối đời vẫn phải buồn bã thốt lên : “Tôi là một con người quá bất hạnh”. Ngược lại, có những người đã trải qua một cuộc sống rất đơn sơ và bình dị, âm thầm phục vụ trong những trại cùi, các viện mồ côi hay các nhà dưỡng lão, nhưng tâm hồn vẫn cảm thấy bình an và ngập tràn hạnh phúc. Họ tìm được niềm vui và ý nghĩa trong những công việc rất nhỏ bé và âm thầm hằng ngày. Thậm chí, có những con người khi sinh ra đời đã hứng chịu biết bao thiệt thòi trong thân phận tật nguyền, vẫn có thể cất vang lời hát ‘Cuộc đời vẫn đẹp sao’. Quả thật, hạnh phúc chỉ đến khi chúng ta biết chọn lựa đúng và tìm được cho mình niềm vui cũng như sự an bình. Đó là thái độ khôn ngoan mà các bài đọc lời Chúa hôm nay vạch dẫn.
Khôn ngoan trong sự lựa chọn.
Ngày xưa, triết gia Diogène dọn một quầy hàng ra ngồi giữa chợ để bán. Ông treo một tấm bảng có viết hàng chữ : ‘Ở đây có bán sự khôn ngoan’. Một người giàu đi ngang qua, tò mò muốn biết sự khôn ngoan mà vị hiền triết Hy lạp rao bán là gì. Diogène lấy ra một tờ giấy và viết trên đó : “Đầu mối sự khôn ngoan ở đời, là hãy nghĩ đến cùng đích” (Memento finis). Ông cắt nghĩa tiếp, điều dại dột và ngu xuẩn nhất ở đời, là ta đang sống nhưng không biết cuộc sống ta từ đâu đến, ta sống để làm gì, và cuộc sống mai sau chúng ta sẽ đi về đâu. Tuy nhiên, sự khôn ngoan theo kiểu thế gian hay theo những suy tư triết học mà Diogène nói tới, chưa phải là sự khôn ngoan theo định hướng nước trời mà các bài đọc hôm nay chỉ dẫn.
Trong bài đọc 1, vua Salomon đã xin Chúa ban cho mình một ơn. Đó không phải là sự giàu sang phú quý, cũng không phải là tài cán giỏi giang, nhưng là sự khôn ngoan, có tài phân định để xét xử. Salomon đã xin Chúa ơn này cùng với một tâm hồn khiêm tốn biết lắng nghe để điều hành đất nước. Điều vị vua cầu xin rất đẹp lòng Chúa, và Salomon đã trở nên một ông vua nổi tiếng về sự khôn ngoan thông thái.
Cũng tương tự, trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu kể ba dụ ngôn rất cụ thể để minh họa thái độ khôn ngoan trong sự chọn lựa theo định hướng mà Ngài mời gọi. Đó là dụ ngôn kho báu chôn dấu trong ruộng, dụ ngôn anh thương gia đi tìm viên ngọc quý và dụ ngôn mẻ lưới thời cánh chung. Cả ba dụ ngôn này nhắm tới một thái độ khôn ngoan biết chọn lựa, đồng thời phải hy sinh từ bỏ tất cả để đạt đến mục đích. Muốn có được kho báu, người lái buôn đã phải bán đi tất cả gia sản của mình. Muốn tậu được viên ngọc quý, anh thương gia cũng phải hoán đổi bằng những gì mình có. Muốn được xếp vào loại cá tốt trong mẻ lưới ngày cánh chung, chúng ta phải sống tinh thần từ bỏ mà Chúa Giêsu luôn mời gọi.
Chúa Giêsu đã từng nói: “Được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn, nào có ích gì.” Câu nói này đã đánh động tâm hồn của Augustinô, khiến Ngài từ bỏ tất cả và trở nên một vị thánh. Biết bao tu sỹ ngày nay cũng đã chấp nhận cắt bỏ tất cả những gì thuộc về thế gian, để mong chiếm được kho tàng và tậu được viên ngọc quý. Kho tàng trường cửu và viên ngọc quý giá ấy chính là Thiên Chúa, là hạnh phúc viên mãn, bởi vì có Chúa là có tất cả, và Chúa trở nên gia nghiệp vĩnh cửu cho họ.
Những chọn lựa sai lầm tai hại.
Theo dõi báo chí và các phương tiên truyền thông, chúng ta thấy nhan nhản những vụ xét xử về tình trạng tham ô bất chính đang xảy ra nhan nhản khắp nơi ngoài xã hội. Những phạm nhân đứng trước vành móng ngựa là những con người mong muốn làm giàu thật nhanh và tìm mọi cách để có tiền, ngay cả bằng những phương thế vô nhân và bất chính. Ví dụ, báo chí thuật lại câu chuyện xảy ra tại Hà nội về một thanh niên gốc Thái Nguyên dính vào nghiện hút. Anh ta quen biết ông chủ của một tiệm vàng. Sau khi ngủ nhờ qua đêm, chàng thanh niên đã dùng dao Thái Lan giết chết hai người con trai của ông ta bị bệnh tâm thần và giết luôn cả hai ông bà già trên 70 tuổi để cướp đi một số nữ trang. Những vụ việc tương tự xảy ra khá nhiều trong xã hội hôm nay, một xã hội duy vật đang đặt đồng tiền lên trên hết và đưa dẫn giới trẻ đến những lựa chọn rất nguy hiểm và sai lầm. Chúng ta không cần nhìn đâu xa, nhưng hãy can đảm nhìn vào chính Giáo hội, vào chính bản thân từng người chúng ta để duyệt xét lại cuộc sống. Một vị linh mục Việt Nam ở giáo phận San Jose bên Hoa Kỳ cũng mới bị đưa ra tòa vì biển thủ một số tiền do giáo dân đóng góp. Mới đây, một Giám mục ở Indonesia cũng bị cáo buộc thâm lạm gần một trăm ngàn dollar từ ngân quỹ của giáo phận. Sự việc khiến hơn 70 linh mục bực bội và đã làm đơn xin từ nhiệm do thái độ thiếu đạo đức của vị Giám mục kia. Kể ra những sự kiện này làm chúng ta cảm thấy xấu hổ, nhưng đó là sự thật khá nhức nhối. Đồng tiền luôn là tên cám dỗ lớn nhất tấn công tất cả mọi người, không loại trừ ai.
Trong ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta đã công khai chọn Thiên Chúa chứ không chọn thế gian và ma quỷ. Trong ngày khấn dòng cũng như lãnh tác vụ linh mục, chúng ta đã tự nguyện chọn đời sống khó nghèo, thanh khiết và vâng phục theo Chúa Kitô. Nhưng đã biết bao lần chúng ta phản bội, đi ngược lại với sự chọn lựa ban đầu. Chúng ta không nên trách cứ các vị mục tử như vừa nêu trên, bởi vì con người ai cũng có những yếu đuối và sa ngã. Vả lại có những tình tiết liên quan đến sự việc mà chúng ta không thể nắm bắt cách rõ ràng, nên đừng vội kết án bất cứ ai. Tuy nhiên, chúng ta phải bình thản lục soát lại lương tâm, xem chúng ta đã chọn lựa và sống sự lựa chọn ấy như thế nào trong đời sống đức tin của mình.
Từ bỏ tất cả và đặt Thiên Chúa vào chỗ tối thượng.
Sử sách có ghi lại câu chuyện về chàng thư sinh Lý Công Tá, đời nhà Đường. Chàng thanh niên lên kinh đô ứng thí. Anh ta tạt vào một cái quán nhỏ bên đường xin tá túc qua đêm. Chủ quán nấu một nồi cháo kê để anh ăn cho đỡ đói. Thiu thiu trong giấc ngủ, chàng thư sinh trẻ nằm mơ thấy mình thi đỗ, được vua chọn làm phò mã và gả công chúa cho. Sau thời thái lai tới cơn bĩ cực, anh ta cầm quân đi đánh giặc và thua trận tơi bời. Lúc về đến nhà thì vợ chết, chàng trai bị nhà vua cất chức do bất tài, và cuối cùng mọi vinh hoa phú quý tan tành theo mây khói. Chàng thanh niên chợt tỉnh dậy. Quay mặt ra, anh ta thấy chủ quán vẫn còn đang nấu nồi cháo kê. Chàng thư sinh mới nhận ra rằng, cho dù công thành danh tọai, có lúc lên voi có lúc xuống chó,…cuối cùng cuộc đời ngắn ngủi sẽ chóng qua tựa thời gian chỉ để nấu một nồi cháo. Vì thế dân gian đã có câu ‘Giấc nam kha khéo bất bình, bừng con mắt dậy thấy mình tay không’. Cuộc sống trần thế, tất cả chỉ là phù vân. Để có được kho báu và viên ngọc quý trong ruộng, anh thương gia đã phải bán tất cả những gì mình có. Cũng vậy, để đạt đến phần thưởng đích thực mai sau, chúng ta phải can đảm đi vào hành trình từ bỏ và đặt Thiên Chúa vào chỗ tối thượng. Chỉ mình Thiên Chúa mới đem lại cho con người hạnh phúc đích thực.
Kết luận
Lời Chúa hôm nay là một thách đố đối với tất cả mọi người. Chúng ta có can đảm dấn mình vào cuộc phiêu lưu mạo hiểm này hay không ?. Xin Chúa ban cho chúng ta sự khôn ngoan đích thực để sống theo sự lựa chọn mà Ngài luôn mời gọi.
Thiên Chúa phán với Sa-lô-môn rằng: “Ngươi muốn gì cứ xin đi, Ta sẽ ban cho”.(1V 3,5)
Nếu Chúa cũng hỏi ta như thế thì ta sẽ xin gì đây? Ta sẽ xin cho được sống lâu; xin cho có được TN 17-A158
Nếu Chúa cũng hỏi ta như thế thì ta sẽ xin gì đây?
Ta sẽ xin cho được sống lâu; xin cho có được nhiều tiền, nhiều của; hay xin cho kẻ thù của ta phải chết; hoặc xin cho ta được mạnh khỏe, xin cho ta được thành công trong công ăn việc làm? Chắc chắn là ta sẽ xin như vậy.
Thế nhưng vua Sa-lô-môn đã không xin như thế. Ngài xin : “Xin cho tôi tớ Chúa đây, một tâm hồn biết nghe nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái”. Một lời xin rất khôn và đẹp lòng Chúa. Và Chúa đã ban cho Vua có được “một tâm hồn khôn ngoan và minh mẫn”(x.1V3,12).
Ta nên chú ý là một TÂM HỒN chứ không phải một CÁI ĐẦU. Tại sao? Tại vì con người nên thánh nên thiện là từ cái tâm chứ không phải từ cái đầu. Khôn ở cái đầu dễ làm cho ta tự kiêu tự đại và từ đó làm cho tâm hồn ta nên xấu xa và gian ác. Khôn ở cái tâm sẽ làm cho ta biết khiêm nhường và ta sẽ có được một cái đầu khôn ngoan và minh mẫn.
Vua Sa-lô-môn đã xin : Một “tâm hồn” biết lắng nghe. Tại sao lại là một tâm hồn biết lắng nghe chứ không phải một “đôi tai” biết lắng nghe?
Nghe ở đây là nghe bằng tâm chứ không nghe bằng tai. Nghe bằng tai thì ta có thể nghe tai này rồi chạy qua tai kia; nghe cho có nghe, “nghe như vịt nghe sấm” vậy thôi chứ chẳng để để ý, chẳng hiểu gì, chẳng biết gì và tất nhiên cũng chẳng thực hành chi. Phải nghe bằng cái tâm, bằng cái lòng mới được. Nghe bằng tấm lòng là ta nghe mà ta chăm chú, ta để ý, ta suy gẫm, ta suy niệm; rồi ta hiểu, ta nhận và ta thực hành.
Nếu ta có được một tâm hồn như vua Sa-lô-môn, ta sẽ biết đâu là ruộng có kho tàng; đâu là viên ngọc quí. Có thể là một thửa ruộng, không có giá trị gì, nhưng ta biết trong thửa ruộng đó có một kho tàng, nên ta bán mọi sự để có được thửa ruộng đó. Đương nhiên là không vì thửa ruộng mà vì cái kho tàng trong đó. Có thể là một viên ngọc xoàng như khi được mài dũa sẽ là viện ngọc sáng và có giá trị.
Thửa ruộng đó là gì? Đó chính là việc sống Lời Chúa. Vì trong Lời Chúa có một kho tàng là sự khôn ngoan của Chúa và sự sống đời đời. Ta mà nghe Lời Chúa; nghe cách chăm chú; rồi ta suy gẫm, ta suy niệm, ta sẽ tìm được sự khôn ngoan của Chúa. Rồi khi ta biết đem ra thực hành nghĩa là sống Lời Chúa trong cuộc đời của mình, ta nên thánh, nên thiện, thì ta sẽ có được sự sống đời đời; sẽ có cơ may được lên thiên đàng.
Còn viện ngọc quí là gì? Đó chính là việc cầu nguyện. Việc cầu nguyện là việc cao quí nhất của con người; để tôn vinh, ca ngợi và cảm tạ Chúa. Và qua việc cầu nguyện ta sẽ lãnh nhận được nhiều ơn Chúa. Ơn Chúa là thứ cao quí để cho linh hồn ta sống. Có ơn Chúa tâm hồn ta sẽ có bình an và có niềm vui. Ơn Chúa như nước vậy. Như cây sống nhờ nước thế nào thì ta cũng sống nhờ ơn Chúa như vậy.
Không có ơn Chúa, thì dù ta có khôn ngoan mấy thì cũng “oan trái” nhiều mà thôi. Người ta đã nói mà: “Khôn ngoan lắm thì oan trái nhiều”. Cái khôn đó là cái khôn lỏi, khôn ranh; chỉ biết lợi dụng, mưu mô, nên sẽ gây nhiều phiền toái. Đâu có ai để yên cho mà ăn không, ăn giựt được; gian dối, xảo trá mà, làm sao mà ăn ngon lành được.
Không có ơn Chúa thì dù có nhiều tiền, nhiều của cũng chẳng có bình an và hạnh phúc trong tâm hồn được. Lúc nào cũng lo ngay ngáy. Lo sợ người ta cướp, người ta giực; lo sao cho tiền để ra tiền; có mất một vài đồng cũng như đứt từng đoạn ruột. “Đồng tiền nó liền khúc ruột” mà.
Nhưng khi có ơn Chúa rồi ta sẽ sống vui, sống khỏe. Sống vui, sống khỏe thì trẻ mãi không già, lo chi mà không sống được lâu;
Có ơn Chúa ta sẽ hăng say làm việc. Hăng say làm việc thì ta sợ gì mà không có thành công. Thành công thì ta sẽ có nhiều tiền; có tiền ta sẽ sắm của đâu có gì khó.
Có ơn Chúa ta sẽ chăm chỉ học hỏi, ta sẽ có được nhiều kiến thức, nhiều kinh nghiệm sống; sợ gì mà không phân biệt đâu là phải đâu là trái. Ta cứ theo lẽ phải mà thu xếp công việc của mình và cư xử đúng mực với mọi người. Khó khăn nào ta cũng vượt qua, kẻ thù nào ta cũng đánh thắng. Thắng được kẻ thù chính là làm chủ được bản thân của ta; chứ không đánh đập ai khác.
Vậy ta hãy noi gương vua Sa-lô-môn hãy xin Chúa ban cho ta có được một tâm hồn biết lắng nghe; một tâm hồn khôn ngoan và minh mẫn. Có thế ta sẽ sống lâu, sống vui, sống khỏe và sống đời đời. A-men.
Mầu nhiệm nước Thiên Chúa hay nói nôm na mầu nhiệm nước trời là mục đích chính của người TN 17-A159
Mầu nhiệm nước Thiên Chúa hay nói nôm na mầu nhiệm nước trời là mục đích chính của người Kitô hữu tìm kiếm và đạt được. Theo Chúa, làm môn đệ của Người, nước trời là báu vật, người môn đệ phải tìm và tậu được. Do đó, mọi Kitô hữu mặc dầu sống giữa trần gian, giữa biển đời với nhiều sóng gió, đều luôn một mực tín thác vào Chúa và đặt dưới sự quan phòng của Người. Bài Tin Mừng của thánh Matthêu hôm nay, Chúa Giêsu dùng hình ảnh người thương gia đi tìm viên ngọc quý để nói về mầu nhiệm nước trời.Đoạn Tin Mừng này cho hay khi phát hiện ra viên ngọc quý, người thương gia liền bán hết tài sản của mình để mua cho bằng được viên ngọc quý này…
Người ta đưa ra rất nhiều ví dụ để so sánh việc muốn đạt được thành công thì tất cả mọi người đều phải cố gắng, hy sinh, quảng đại và đặc biệt là miệt mài chăm chỉ làm việc. Chẳng hạn một sinh viên y khoa muốn trở thành bác sĩ thì phải cố gắng, phấn đấu, hy sinh, miệt mài học hành với bao nhiêu công sức, vất vả, với biết bao năm học hành, thực tập mới mong cầm trong tay bằng tốt nghiệp bác sĩ. Người sinh viên luật cũng vậy, người sinh viên kiến trúc cũng vậy vv và vv…Tất cả muốn có một bằng cấp, muốn có một địa vị, một việc làm, tất cả đều phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt, mới mong được thành công. Một vận động viên muốn đạt huy chương cũng phải luyện tập ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác mới mong đạt được kết quả tốt đẹp cho mình, cho tập thể của mình và cho đất nước của mình.
Người linh mục hay tu sĩ cũng vậy thôi, ngoài việc Chúa chọn, cá nhân của mỗi người cũng phải tu tập, học hành, và nỗ lực nhiều tháng, nhiều năm mới mong có ngày vinh quang. Tin Mừng cho chúng ta thấy nước trời là viên ngọc quý đến nỗi khi tìm thấy rồi, người thương gia hay tất cả chúng ta phải tìm mọi cách : bán tài sản, miệt mài, nỗ lực bán tài sản, tìm cách nào tốt nhất, thuận tiện nhất để mua cho được viên quý giá ấy. Người Kitô hữu cũng giống một tay buôn ngọc hay một vận động viên trong một cuộc tỷ thí, trong Sea games hay Olympic. Tất cả đòi sự dâng hiến và dấn thân trọn vẹn. Tuy nhiên, vẫn có một sự khác biệt giữa chọn lựa của một Kitô hữu hay một vận động viên bơi lội, chạy đua vv…Vận động viên mong đạt được huy chương vàng trong một cuộc tranh tài, tranh sức, nhưng huy chương vàng rồi cũng mau qua. Còn người Kitô hữu khi chọn nước trời là báu vật cao quý, không ten sét, không hư nát và có giá trị vĩnh cửu, tồn tại đời đời. Thánh Phaolô đã nêu rõ sự khác biệt này trong thư gửi tín hữu Côrintô :” Mọi vận động viên trong thời kỳ tập luyện, đều phải tuân theo một kỷ luật nghiêm khắc, chỉ để được khoác lên đầu vòng hoa vinh quang chóng tàn lụi, còn chúng ta chịu gian khổ là để đoạt được vòng hoa vinh quang tồn tại muôn đời “ ( 1 Co 9, 25 ).
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra mục đích rất quan trọng : “ Không có gì trên thế gian này dù địa vị, giầu sang, phú quý, thú vui xác thịt có thể ưu tiên thay thế Nước Thiên Chúa mà chúng ta đang dong duổi, tìm kiếm và mong chiếm lấy. Điều quan trọng nhất mà Tin Mừng chỉ ra là không phải sau khi chết chúng ta đã để lại gia tài lớn lao, hay chúng ta để lại bao nhiêu nhà máy, bao nhiêu cây vàng, bao nhiêu mẫu đất, nhưng là chúng ta trở nên như thế nào.Nghĩa là :
Chúng ta đã lắng nghe lời Chúa và thực hiện lời Chúa thế nào ? Chúng ta có yêu mến người nghèo và giúp đỡ họ không ? Chúng ta có an ủi kẻ sa cơ thất thế, những kẻ thấp cổ bé họng không ? Chúng ta có can đảm nói lên sự thật để bảo vệ những người nhỏ bé, những người gặp thử thách gian nan không ? Chúng ta có cho kẻ đói ăn, kẻ khát uống, kẻ rách rưới ăn mặc ? Chúng ta có thăm viếng cô nhi quả phụ ? Chúng ta có thăm những kẻ tù tội, những kẻ bị áp bức không ? Chúng ta có sẵn sàng sẻ chia cơm bánh cho những kẻ ăn xin, lỡ đường, túng quẩn không ?
Vâng mỗi người chúng ta cũng phải khao khát nước trời, tìm kiếm nước trời bằng sự hy sinh, quả cảm, hiến thân xả kỷ, chia sẻ cơm bánh và sẵn sàng quảng đại hy sinh giúp đỡ tha nhân bằng chính những hành động bác ái, những cử chỉ yêu thương để tìm được nước trời là nơi ở vĩnh viễn cho chính đời sống mai sau của chúng ta không ?
Chúng ta hãy nghe lời thánh Phaolô dạy bảo :” Chúng ta luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Chúa Giêsu, để Chúa Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân phận mỏng giòn của chúng ta.Thật vậy, đang sống nhưng tôi hằng bị cái chết đe dọa vì Chúa Giêsu, để cái chết của Chúa Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác hay chết của chúng ta “ .
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con ơn kiên vững để chúng con luôn giữ vững kho tàng đức tin, giữ vững và làm triển nở ân sủng Chúa đã ban cho chúng con. Amen.
Gợi ý để chia sẻ :
1.Người thương gia tìm được viên ngọc quý, ông đã làm gì ? 2.Viên ngọc quý tượng trưng cho cái gì ? 3.Nước trời là gì ? 4.Muốn tìm được và tận hưởng nước trời, chúng ta phải làm gì ? 5.Những cái có được ở trần gian có giá trị vĩnh viễn không ?
Chọn lối sống hướng thiên hay hướng địa là chọn khuôn mẫu cho cuộc sống. Chọn lựa này không TN 17-A160
Chọn lối sống hướng thiên hay hướng địa là chọn khuôn mẫu cho cuộc sống. Chọn lựa này không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống hiện tại hay tương lai mà còn ảnh hưởng đến cuộc sống trường sinh. Phúc Âm đưa ra nhiều dụ ngôn về cuộc sống trường sinh, tất cả đều bắt đầu bằng hình ảnh cụ thể trong cuộc sống. Dụ ngôn người gieo giống nói về lượng từ bi của chủ vườn, không nhổ cỏ dại ngay sợ bị ảnh hưởng đến hạt giống, mà đợi cho đến lúc thu hoạch mới thu thóc lúa vào kho và cỏ dại bị thiêu huỷ bởi lửa. Dụ ngôn trộn bột chung với men cho biết sự kiên nhẫn mong đợi trong hy vọng chờ cho men dậy bột. Dụ ngôn hạt cải nói lên tương quan, hữu dụng trong cuộc sống, cải là hạt bé nhỏ trở thành nơi che mát cho chim trời. Dụ ngôn người tìm được viên ngọc quí nói lên chọn lựa khôn ngoan của người mua ngọc, ông ta đánh đổi toàn thể tài sản để mua viên ngọc. Dụ ngôn người đánh cá đề cao hy vọng bởi rất khó định trước ình trạng sông biển, có khi đi về không. Hy vọng có cá và cá tốt. Tất cả các dụ ngôn đều có điểm chung liên quan đến thời gian, kiên tâm làm việc trong hy vọng. Bởi có làm việc nên có hy vọng. Hy vọng gặt hái thành quả tốt đẹp. Người nông dân mong thu hoạch mùa lúa tốt, người làm bánh mong đước cái bánh tốt, theơm ngon, và người chài lưới mong bắt mẻ cá lớn. Bởi có lao nhọc nên không hy vọng hão, mơ màng mà hy vọng của tâm sức.
Chọn lối sống hướng thiên là chọn điều tốt nhất, không phải chỉ tốt mà là tốt nhất, trọn hảo. Chọn điều trọn hảo là chọn đặt í trời lên trên í cá nhân. Đối với Kitô hữu í trời chính là í Chúa- í Chúa Trời. Chọn í Chúa là chọn hướng thiên, hướng về thiên quốc, sống cuộc sống trần thế nhưng tâm hồn hướng về cuộc sống trên trời. Chọn sống theo í Chúa là chọn cách sống làm đẹp lòng Chúa. Làm đẹp lòng Chúa cả trên trời lẫn nơi trần thế. Chọn theo kinh Lậy Cha cho í Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Các tông đồ đã chọn lối sống hướng thiên khi các ông nghe tiếng Đức Kitô mời gọi các ông đã bỏ thuyền, bỏ chài, bỏ cha và đồng nghiệp bước đi theo Đức Kitô. Mt. 4, 18-22.
Chọn hướng thiên là để cuộc đời được hướng dẫn bởi giáo huấn của Đức Kitô, Đấng đến từ trời cao. Loại bỏ lối sống cũ để sống theo lối sống mới; sống tin theo Đức Kitô; sống thực hành lời Chúa dậy, mến Chúa yêu người; sống thuộc về Chúa; đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô.
Sau khi gieo hạt người chủ ruộng kiên nhẫn chờ đến mùa lúa chín mới phân chia lúa cho vào kho, còn cỏ dại đốt đi trong lửa. Dân chài lưới lựa cá tốt và bỏ cá xấu. Viên ngọc quí cần phải mài dũa cho bóng láng mới làm bật giá trị thật của nó. Muốn đánh bóng ngọc quí cần dụng cụ và kĩ thuật cũng như kiên tâm mới có được viên ngọc quí. Như thế cuộc sống trần thế luôn có giới hạn về thời gian. Đến một ngày nào đó sẽ có sự phân chia, có đón nhận và từ bỏ. Cuộc sống trần thế của con người cũng có giới hạn. Một ngày nào đó đời sống trần gian sẽ kết thúc và ai chọn cuộc sống thiên quốc sẽ được đón nhận vào thiên quốc. Ai chọn cuộc sống trần gian sẽ đi vào lịch sử trần gian bởi chính họ tự nguyện chọn lối sống đó.
Các học giả Kinh Thánh thường dùng hình ảnh chài lưới để nói về Giáo Hội Chúa nơi trần thế. Hình ảnh này gắn liền với lời mời gọi đi theo Đức Kitô để trở thành kẻ chài lưới người ta. Giáo Hội Chúa nơi trần thế gồm người lành , kẻ dữ sống chung, cùng thờ phượng chung, chung sống xóm làng nhưng có cuộc sống khác nhau, niềm tin khác nhau và đưa đến kết quả cuối đời khác nhau. Tất cả đều là tội nhân nhưng người lành thánh là người nhận biết mình tội lỗi và xin ơn Chúa thanh tẩy, nhận ân sủng Chúa để cố gắng sống tốt hơn, lành thánh hơn. Họ trở thành tông đồ của Đức Kitô, sống cho Chúa và đặt í Chúa trên í riêng. Họ nhận biết mọi sự họ có đều thuộc về Chúa, do Chúa ban và sống tâm tình tạ ơn, cảm mến. Họ không sống riêng cho cá nhân mình nhưng nhận biết mọi người đều là con cái Chúa, mang hình ảnh Đức Kitô trong người nên họ học yêu mến, thương yêu, tha thứ và nâng đỡ mọi người. Họ cũng nhận biết sau cuộc đời này sẽ đi về với Đấng tạo dựng nên họ nên họ chuẩn bị cho ngày tái ngộ nơi Thiên quốc. Hãy xin ơn khôn ngoan biết chọn lựa cuộc sống hướng thiên để được cùng về trời với Con Chúa là Đức Kitô.
Tục ngữ ca dao Việt Nam có câu : “Khôn ngoan cũng chỉ đàn bà, dẫu rằng vụng dại nhưng là đàn TN 17-A161
Tục ngữ ca dao Việt Nam có câu : “Khôn ngoan cũng chỉ đàn bà, dẫu rằng vụng dại nhưng là đàn ông”. Vâng, câu ca dao lục bát trên đọc lên, chúng ta hiểu là bắt nguồn từ thời đại “phong kiến” trong nam , khinh nữ.
Vâng, không sai, nhưng xét theo căn cơ, mặc nhiên cổ nhân cũng có cái lý khi phát biểu tư tưởng nầy.
Nhưng, trong xã hội, nền văn hóa nhận thức còn thấp ở xã hội Việt Nam cách đây hàng ngàn năm, tất nhiên không tránh khỏi sự lệch lạc, lạm dụng, bóp méo.
Nhưng, thật ra câu ca dao ấy phát xuất từ nguyên lý , xây dựng nền tảng gia đình, có trên có dưới, mới có thủy có chúng, có đạo đức gia đình. Vì, người đàn ông trong gia đình bao giờ và cho đến muôn đời trong trách năng nề hơn người phụ nữ. Vâng, đó là nguyên lý sáng tạo, nhưng, ý tưởng trên được áp dụng cho các “bậc” trượng phu thì vô cùng hữu ích, nhưng, được áp dụng cho những” đức ông” sáng say, chiều xỉn, tối lai rai. Thì vô cùng tai hại, vì như thế sẽ là : “ chồng chúa, vợ tôi ” chiếc nôi khóc thét.
Vâng, đây là sự thật, nhưng KHÔN NGOAN của Lời Chúa thì khác. Đó là sự khôn ngoan dựa trên : CHÂN LÝ và TÌNH YÊU .
Có lần ,Chúa Giêsu đã dạy :”Các con hãy khôn ngoan như con rắn, nhưng, hiền lành như chim bồ câu” (Mt 10 , 16)
Vâng, rõ ràng, dây là một hình ảnh triết lý của sự khôn ngoan. Vì, rắn và bồ câu đều “nhu mì”, nhưng, rắn không có sự ” hiền lành “, chỉ có sự mềm mòng, nhưng, bồ câu có cả hai. Tại sao Chúa Giêsu dùng hình ảnh cả hai, bởi vì, có rắn tuy không hiền lành , đơn sơ, nhưng , rắn có sự “nhu mì” đến khôn khéo, dẫn đến rắn có sự can đảm, tức khôn ngoan. Ngược lại, chim bồ câu có sự hiền lành, đơn sơ, nhưng nhát đảm, động đến là vỗ cánh bay đi, mặc nhiên thiếu sự “khôn ngoan”. Vâng, người Tông đồ đích thực phải là người có “hai “đặc tính ấy, nếu không, không thể gieo Lời Chúa được.
Như vậy, : “Khôn ngoan như rắn, và hiền lành như chim bồ câu”, đó là ”CHÂN LÝ và TÌNH YÊU “. Vì, chỉ có tình yêu không thôi, thì không có sự sáng suốt, không sáng suốt tất không có can đảm, không có can đảm, mặc nhiên sự sợ hãi xâm chiếm.
Sự sợ hãi xâm chiếm, mặc nhiên không có lý trí, sẽ vỗ cánh bay đi. Còn, nếu như có chân lý, thì mặc nhiên có sự can đảm, có can đảm , thì có bình an, vì lý trí là ánh sáng chân thật, gọi là chân lý, vì được bắt nguồn từ Thiên Chúa.
Theo đó, sự KHÔN NGOAN đích thực từ Thiên Chúa phải có hai yếu tố nêu trên. Đó là Chân Lý và Tình Yêu.
Vâng, dường như chưa dẫn vào chủ đề lời Chúa hôm nay (lạc đề) phải không, thưa quý vị ? Thưa không, vì điều nầy dẫn chứng cho nguồn gốc của sự “ khôn ngoan”, mà khởi đi từ bài đọc I hôm nay ( 1 V 3, 5. 7-12), Vua Salomon được mệnh danh là vị vua khôn ngoan nhất, vì ngài đã cầu xin sự, ơn “khôn ngoan”, tức cầu xin chính Thiên Chúa, vì Thiên Chúa chính là ”Thần “ Chân lý và Tình Yêu.
Ơn khôn ngoan chính là tình yêu và ơn cứu độ bởi Thiên Chúa, tiếp đến “KHÔN NGOAN “là một kho tàng dẫn chứng Thánh Kinh, là một cuốn sách triết ly tuyệt vời của người Israel.
Trở lại Ba Dụ Ngôn Tin Mừng hôm nay (Mt 13, 44 -52), chúng ta thấy Nước Trời là một sự “khôn ngoan”. Người tìm thấy Nước Trời , để mua lấy Nước Trời là hành động khôn ngoan.
-Dụ ngôn : Thửa ruộng tốt – Dụ ngôn : Viên ngọc quý – Dụ ngôn : Chiếc lưới cá
Riêng Dụ ngôn chiếc lưới cá, chúng ta thấy giống dụ ngôn cỏ lùng, dẫu lòng từ bi, nhẫn nại của Thiên Chúa bao nhiêu đi nữa, thì kết cục của “cỏ lùng “ và “cá xấu” cũng phải chịu trừng trị. Thiên Chúa là Đấng thượng trí vô song, là Đấng khôn ngoan tối thượng, vì vậy , sự công chính của Thiên Chúa vẫn phải tiêu diệt sự ác. Đó là cùng đích cảu sự khôn ngoan. Kẻ ác lúc ấy chỉ có khóc lóc và nghiến răng vì sự ác của chúng.
Thửa ruộng tốt và viên ngọc quý là thái độ “kín đáo” khi nhận ra Nước Trời, Nước Trời trước tiên phải do ơn mặc khải, sau đó khi nhận ra thì âm thầm thực hiện. Vì, khi chính bản thân chúng ta chưa sở hữu được Nước Trời thì nói không ai nghe đâu.
Nước Trời là một sự đánh đổi, từ cái chúng ta có hiện hữu để trở nên cái quý giá cho chúng ta khi nhận ra. Muốn có được Nước Trời , chúng ta phải biết “đánh đổi”, thửa ruộng tâm hồn chúng ta cằn cỗi, chúng ta phải biết thay đổi bằng “tâm hồn” Nước trời, điều mà chúng ta phải trả giá, đó là sự hoán cải. Nếu trước đây chúng ta sống ích kỷ, độc ác, thì bấy giờ chúng ta phải thay đổi để sống tốt lành, đó là mua lấy Nước Trời.
Ba Dụ Ngôn hôm nay, hai dụ ngôn day chúng ta phải biết “thay đổi” cuộc sống, từ xấu đến tốt.
Dụ ngôn thứ ba cho chúng at biết, nếu chúng ta không thay đổi cuộc sống từ độc ác đến lương thiện, thì chúng ta như loại cá xấu, cuối cùng sẽ bị ném ra ngoài.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy cho chúng con Ba Dụ Ngôn của Đoạn Tin Mừng hôm nay, hầu giáo huấn cho chúng con biết hoán cải đời sống, cải tà quy chánh, để chúng con đạt đến Nước Trời, vì đó là điều khôn ngoan tuyệt đối mà Chúa muốn giáo huấn cho chúng con/. Amen.
Các dụ ngôn về kho báu và viên ngọc quý có chung một sứ điệp: Nước Trời là kho tàng quý giá TN 17-A162
Các dụ ngôn về kho báu và viên ngọc quý có chung một sứ điệp: Nước Trời là kho tàng quý giá. Để tậu được kho tàng ấy,Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta phải bán đimọi vật chúng ta sở hữu. Nhưng để thấy được điều này, chúng ta cần sự khôn ngoan mà Thiên Chúa ban cho. Hai dụ ngôn này cũng là một thức tỉnh chúng ta lưa chọn giữa cái vĩnh cửu và cái nhất thời, nhận rabổn phận làm con Thiên Chúa với phẩm giá thần linh và một định mện vĩnh cửu. Vì thế chúng ta phải tìm thấy ý nghĩa và sống cuộc sống ấy như thế nào?
Trước hết, hai dụ ngôn đều nói lên sự cao quý của Nước Trời đến nỗi một người nào đó gặp được kho báu trong ruộng hay một thương gia đi tìm ngọc gặp được viên ngọc quý, cả hai đều bán hết những gì mình có để mua kho báu hay viên ngọc quý đó. Để có được viên ngọc quý, người thương gia đã vất vả đi tìm; còn người nông dân thì tình cờ khám phá ra kho báu trong ruộng. Cũng thế, có người được ơn Thiên Chúa mà tìm được Nước Trời; cũng có người phải nhọc công đi tìm. Khi tìm được rồi, phải dám hy sinh tất cả những gì mình có, ngay cả đến mạng sống mình để mua cho được kho báu hay viên ngọc quý. Đó là người khôn ngoan mà khôn ngoan là ân huệ, là quà tặng Thiên Chúa ban cho chúng ta để nhận ra ý nghĩa của đời sống và sự cao cả của số phận. Số phận ấy là được là con Thiên Chúa và được ở cùng Ngài.
Để tìm được kho báu hay viên ngọc qúy, chúng ta phải có con mắt đức tin để khám phá, ơn khôn ngoan để nhận ra đâu là chân lý. Đức tin đem lại cho chúng ta một cuộc sống để khám phá, tìm kiếm và khao khát.Đức tin là một kho tàng quý giá đòi buộc mỗi người Kitô hữu phải đầu tư tất cả cuộc sống của mình để mua cho được kho tàng ấy.
Thái độ của người tìm được ngọc quý là phải chọn lựa hoặc của cải vật chất hay linh hồn. Phải dứt khoát, không nhập nhằng nước đôi, không bắt cá hai tay. Chọn lựa cuộc sống vĩnh cửu hay cuộc sống tạm bợ? Chọn hạnh phúc viên mãn hay hạnh phúc tạm thời? Điều mà chúng ta phải làm để được hưởng hạnh phúc Nước Trời, là đừng để mình lệ thuộc vào đời sống vất chất
Khi so sánh Nước Trời như một viên ngọc qúy hay một kho tàng vô giá, Đức Kitô muốn nói với chúng ta rằng: Cứu cánh của cuộc sống người Kitô hữu là đi tim kho báu Nước Trời. Muốn nhận ra viên ngọc quý hay kho tàng, chúng ta phải đi tìm bằng con mắt đức tin. Khi đã tìm được thì phải làm một cuộc hoán cải tội lỗi tận gốc rễ như người lái buôn đã bán tất cả những gì mình có để mua cho được thửa ruộng có chứa kho báu, hay như người thương gia kia đã bán tất cả tài sản mình có để mua cho được viên ngọc quý, và phải đầu tư tất cả cho cuôc sống đức tin. Nước Trời đáng giá hơn mọi vật mà chúng ta có. Những người tìm ra được nó quả thật may mắn và có phúc. Cho dù trong con mắt của thế gian, họ có vẻ điên rồ và nghèo túng thi trong con mắt của Thiên Chúa, họ là những người khôn ngoan và giàu có.
Chúng ta sẽ đánh mất hạnh phúc trừ khi chúng ta tìm được kho báu mà Thiên Chúa đã giấu kín trong cánh đồng của chính chúng ta. Khi tìm thấy kho báu ấy, chúng ta mới xứng đáng là con cái của Ngài như thánh Phaolô tiết lộ: “ Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ Người kêu gọi theo như ý Người định,” Nhưng điều quan trọng là chúng ta có tìm thấy kho báu ấy không, và khi đã tìm thấy, chúng ta có can đảm bán hết để mua kho tàng ấy không!
Thiên Chúa yêu thương chúng ta và đã làm cho mỗi người chúng ta một kho báu cao quý, đó là được làm con cái Thiên Chúa, được làm công dân Nước Trời. Mẻ lưới kéo lên. Việc phân chia cá tốt hay cá xâu không thuộc quyền của cá, nhưng thuộc quyền người đánh lưới. Số phận những con cá tốt được cho vào giỏ hay cá xấu bị quăng ra ngoài là tùy thuộc ở quyết định của mỗi người chúng ta.
Chúa nhật hôm nay, Giáo Hội đề cập đến sự khôn ngoan Kito giáo. Khôn ngoan để nhân biết Thiên TN 17-A163
Chúa nhật hôm nay, Giáo Hội đề cập đến sự khôn ngoan Kito giáo. Khôn ngoan để nhân biết Thiên Chúa, tôn thờ Thiên Chúa, để được cứu rỗi và đạt Nước Trời. Hai bài đọc và bài Phúc âm hôm nay sẽ dẫn đưa chúng ta tới ba chủ đề đó.
VUA SOLOMON XIN ƠN KHÔN NGOAN
Đọc bài đọc I hôm nay (1V 3:5; 7:12), chúng ta nên để ý đến bối cảnh lịch sử của nó. Solomon lên làm vua Israel khi còn rất trẻ, nhưng đã có cuộc sống công cộng và giao tế khá nổi tiếng từ trước. Dù còn trẻ và cứng đầu cứng cổ nhưng Solomon vẫn phủ phục trước mặt Thiên Chúa, vì biết trước ông có thể sai lầm khi cai trị dân.
Biết mình có khuyết điểm, Solomon xin Thiên Chúa cái gì? Ông xin ơn khôn ngoan, nghĩa là “có tâm hồn hiểu biết” (3:9), “biết lắng nghe một cách thông minh, nhận thức rõ vấn đề và vâng theo”. Ông cũng xin Chúa giúp ông biết “phân biệt phải trái rõ ràng và đối sử khôn ngoan.” Thiên Chúa đã ban cho ông trí thông minh hiểu biết, tâm hồn khôn ngoan và khéo léo. Solomon đã được toại nguyện như ý (c.12), ông khôn ngoan nên chú ý lắng nghe, chấp nhận và vâng lời Chúa.
Thiên Chúa rất vui lòng nên đã cho ông, không chỉ điều ông xin mà cả những điều ông không xin như giàu sang, phú quí, danh vọng. Sự khôn ngoan của Solomon bây giờ thật tuyệt vời khiến dân Israel ‘đã phải kính sợ”, vì khôn ngoan của ông chính là do Thiên Chúa. Chúa Giesu cũng đã nhắc đến sự khôn ngoan của Solomon: “…Và đây, còn lớn lao hơn cả Solomon nữa” (Mt 12:42). Chúa ám chỉ Người là đức Kito con Thiên Chúa.
NÊN XIN ƠN KHÔN NGOAN KHI NÀO
Chúng ta nên chú ý đến lời kinh của vua Solomon. Khi xin Thiên Chúa điều gì, chúng ta phải tin là Người sẽ ban cho ta điều ta muốn nhưng theo cách thức của Người. Khi nào chúng ta cần ơn khôn ngoan? Phải chăng khi chúng ta mong được vâng lời, trông cậy vào Chúa đúng theo nghĩa khôn ngoan của Chúa? Chúng ta có tin chắc là Chúa sẽ ban ơn cho chúng ta không?
TRỞ NÊN GIỐNG HÌNH ẢNH CON CHÚA
Theo thánh Phaolo (Rm 8:28-30) thì ơn gọi làm người Kito hữu đã được tiền định như giống hình ảnh con Chúa (8:29). Thiên Chúa cứu chuộc những kẻ tin Người đã được định từ trước khi có thế gian và được Thiên Chúa biết và chọn từ trước (8:29-29). Con người là hình ảnh Thiên Chúa (St 1:26-27) nay nhờ phép Thanh Tẩy, hình ảnh Thiên Chúa (2Cr 4:4; Cl 1:15) được đổi mới lại (Cl 3:10). Gọi là tiền định, nhưng không có nghĩa Thiên Chúa là người trọng tài đứng đó bắt chúng ta phải làm theo mà theo Phaolo thì Thiên Chúa để ý và chăm lo để cứu chuộc người Kito hữu, cho chúng ta vào vương quốc Thiên Chúa.
LÀM SAO ĐỂ NHẬN RA VƯƠNG QUỐC?
Nước Trời được chúa Giesu diễn tả dưới nhiều dạng thức: như người chăn chiên và chiên lạc, người đàn bà mất đồng bạc, người cha mất con. Nước trời đến với chúng ta như khi chúng ta đi tìm những cái chúng ta đã mất. Chúa Giesu tuyên bố khi khởi đầu sứ vụ: “Nước trời ở trong tầm tay”. Nhưng các môn đệ chẳng hiểu nên hỏi: “Khi nào thì nước trời đến? Làm sao chúng tôi nhận ra được nó?” Chúa trả lời là khó có thể nhận ra được nước trời bằng con mắt thế tục. Chúa lại nói nước trời đang “ở trong tầm tay” có nghĩa là rất gần và nó đến bất ngờ. Người biểu lộ nước trời dưới hai hình thức: Phép lạ để chứng tỏ uy quyền Chúa vượt trên ma quỉ; dụ ngôn là những sứ điệp về nước trời.
NHỮNG DỤ NGÔN VỀ NƯỚC TRỜI
Để hiểu ý nghĩa những dụ ngôn, chúng ta phải để ý đến khung cảnh lịch sử của câu chuyện. Thời đức Giesu, người Palestine thường hay chôn dấu những vật quí giá ở dưới đất (Mt 13:44). Hai chuyện đầu trong số ba dụ ngôn trong Mathieu (Mt 13:44-52) đều có cùng một đặc điểm, người thấy kho tàng chôn ở dưới đất và người lái buôn thấy ngọc quí đã về bán tất cả những gì họ có để mua cho được những thứ họ vừa khám phá ra. Tương tự như vậy, ai hiểu được giá trị cao quí của nước trời thì sẽ bỏ hết mọi sự mình có để đạt cho được. Sự vui mừng của họ đã biểu hiện rõ ràng trong hai dụ ngôn đầu. Kết luận dụ ngôn lưới cá (Mt 13:47-50) và chuyên hạt giống bị ngộp (Mt 13:18-23) là những kẻ tội lỗi gian ác cuối cùng sẽ bị loại ra khỏi nước trời.
NHỮNG QUAN NIỆM VỀ NƯỚC TRỜI
Hiện nay có người quan niệm vương quốc Thiên Chúa không phải là một thực tế riêng lẻ vượt lên trên mọi truyền thống và kinh nghiệm tôn giáo, nhưng là một nhân vật có danh xưng diện mạo rõ ràng là Đức Giesu thành Nazareth, hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Chúng ta không thể đóng khung mặc khải Kito giáo và sự truyền đạt của Giáo Hội bằng một cái nhìn không phải là Kito giáo, vì đã hiểu sai danh từ “Vương Quốc” hay “Nước Thiên Chúa” rồi thay thế bằng đức Giesu Kito và Giáo Hội của người.
Để hiểu rõ ràng bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nên coi lại phần tài liệu chuẩn bi cho Thượng Hội Đồng Các Giám Mục về Tân Phúc Âm hóa vào tháng 10 năm 2012.
Đoạn #24 Tân Phúc Âm hóa: Một viễn kiến về Giáo Hội hôm nay và ngày mai
“Hiện nay chúng ta đang đối diện với những dấu chỉ thay đổi lớn lao, thường gây ra bắt bớ và sợ hãi. Tình trạng này đòi hỏi chúng ta phải có một viễn kiến mới, để chúng ta nhìn về tương lai với con mắt đầy hy vọng, không còn than khóc và chán nản. Như “Giáo Hội”, chúng ta đã có viễn kiến đó rồi, chính là Vương quốc Nước Trời đang đến, được loan báo cho chúng ta bởi đức Kito và được diễn tả trong những dụ ngôn của người. Vương quốc này đã được chuyển tải cho chúng ta qua giáo huấn của đức Giesu, và trên tất cả, qua cái chết và phục sinh của Người. Ngoài ra, đôi khi chúng ta cảm thấy không có khả năng tạo ra được cái viễn kiến ấy, nói cách khác, không thể biến nó “thành của mình” và “mang nó vào cuộc sống” cho chính chúng ta và những người chúng ta gặp hàng ngày và biến nó thành nền tảng của đời sống Giáo Hội và tất cả những hoạt động mục vụ của nó.”
Đoạn #25: Niềm vui khi rao truyền Tin Mừng
“Tân phúc âm hóa có nghĩa là chia sẻ những ước vọng sâu xa về ơn cứu chuộc thế giới, đồng thời biến niềm tin của chúng ta thành dễ hiểu bằng cách truyền đạt những danh hiệu hy vọng (1Pr 3:15). Thời đại ngày nay, nhân loại cần hy vọng để sống. Nội dung của niềm hy vọng này là “Thiên Chúa, đấng có diện mạo loài người và là đấng ‘yêu thương chúng ta đến tận cùng’.” Vì lý do đó, Giáo Hội, tự bản tính, là truyền giáo. Chúng ta không thể ích kỷ giữ riêng lấy cho mình lời hằng sống mà chúng ta đã nhận được khi tiếp cận với đức Giesu Kito. Những lời đó đã được tiền định cho từng người và tất cả mọi người. Mỗi người chúng ta ngày nay, dù biết hay không biết nó cũng cần phải tuyên xưng nó.
“Không nhận biết nhu cầu đó là tự tạo ra sa mạc và trống rỗng. Thật ra, những trở ngại của việc tân phúc âm hóa rõ ràng là thiếu sót niềm vui và hy vọng trong dân chúng, nó phát xuất ra và lan rộng là do nhiều hoàn cảnh khác nhau trong thế giới ngày nay. Lắm khi sự vắng bóng niềm vui và hy vọng này trầm trọng đến độ nó ảnh hưởng cả chính giá trị nội dung của cộng đồng Kito hữu của chúng ta. Đó là lý do cần phải kêu gọi làm sống lại việc tân phúc âm hóa, không đơn giản chỉ là thêm trách nhiệm mà còn phải có phương cách tái tạo lại niềm vui và cuộc sống trong những hoàn cảnh đang giam hãm mình trong sợ hãi.
“Vì vậy, khi bàn về việc tân phúc âm hóa, chúng ta phải hân hoan vui sướng. Chúng ta sẽ học hỏi cách rao truyền phúc âm với niềm vui sảng khoái và dịu dàng, ngay cả những lúc việc tuyên xưng của chúng ta xem ra giống như gieo hạt giống trong nước mắt (Tv 126:6). “Chớ gì, đối với chúng ta, nó có ý nghĩa –như đối với Gioan Tiền Hô, Phero và Phaolo và các tông đồ khác cũng như biết bao nhiêu vị từng rao truyền Tin Mừng xuyên suốt giòng lịch sử Giáo Hội- là niềm hăng say đầy nhiệt huyết không một ai, bất cứ cái gì có thể làm suy giảm được. Chớ gì nó là niềm vui vĩ đại của cuộc sống tận hiến của chúng ta. Và chớ gì thế giới của thời đại chúng ta -đang tìm kiếm, đôi khi với khổ não, đôi khi với hy vọng- khả dĩ có thể nhận được Tin Mừng không phải do những vị rao truyền tin mừng bị từ chối, bị nản chí, mất kiên nhẫn hoặc lo lắng áy náy, nhưng do những thừa tác viên Phúc Âm có cuộc sống sáng ngời với nhiệt thành, những người đã nhận niềm vui của đức Kito trước tiên, và những người tự nguyện liều mạng để vương quốc nước trời được tuyên xưng và Giáo Hội được thiết lập giữa lòng thế giới.”
(44) “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. (45) Nước Trời lại giống như một thương gia đi tìm ngọc đẹp. (46) tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy. (47) Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. (48) Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. (49) Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính. (50) Rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng. (51) Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không ? “Họ đáp: Thưa hiểu”. (52) Người bảo họ: “Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ”.
Ý CHÍNH:
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su tiếp tục dùng ba dụ ngôn là Kho Báu, Ngọc Quý và Lưới TN 17-A164
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su tiếp tục dùng ba dụ ngôn là Kho Báu, Ngọc Quý và Lưới Cá, nhằm trình bày những khía cạnh khác nhau của Nước Trời mà Người sắp thiết lập: Nước Trời có giá trị thiêng liêng giống như một kho báu hay một viên ngọc quý giá, mà người khám phá ra, sẽ bằng lòng hy sinh mọi thứ mình có ở đời này để mua lấy Nước Trời có giá trị vĩnh hằng ấy. Vào ngày tận thế, chỉ những tín hữu sống đức tin cậy mến, giống như những con cá tốt, mới được tiếp nhận, còn những kẻ bất tín gian ác, giống như loài cá xấu, sẽ bị loại khỏi Nước Trời.
CHÚ THÍCH:
– C 44:
+ Nước Trời giống như: Không phải Nước Trời được so sánh với kho tàng châu báu, nhưng giống như thái độ của người khám phá ra giá trị của kho báu.
+ Kho báu chôn giấu trong ruộng: Dân Do Thái luôn bị các nước lớn chung quanh như Ai Cập, Át-si-ri, Ba-by-lon… xâm lược và cướp bóc tài sản, nên họ thường đào hố chôn giấu vàng bạc châu báu trong ruộng của mình. Về sau, thỉnh thoảng có người đã đào được những kho báu chôn giấu như thế.
+ Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại: Luật La Mã và Do thái thời bấy giờ cho phép ai tìm thấy tài sản trên đất của mình thì có quyền sở hữu. Ở đây người nông dân này không có quyền sở hữu đất ruộng mà anh đang cày thuê, nên anh ta vội vã chôn vùi lại để tránh bị kẻ khác biết, rồi tìm cách mua thửa ruộng ấy để có thể công khai chiếm hữu kho báu kia. Ở đây kho báu được tình cờ tìm thấy, cho thấy việc khám phá ra Nước Trời là một ơn cho không của Thiên Chúa. + Rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy: Kho báu kia quý giá đến nỗi đã thôi thúc anh đánh đổi mọi cái đang có. Cũng vậy, Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập cũng là một kho báu thiêng liêng, mà khi khám phá ra, người ta sẵn sàng hy sinh từ bỏ mọi sự để có được Nước Trời ấy.
Tóm lại: Nước Trời đòi người ta phải đáp trả cách trọn vẹn, sẵn sàng hy sinh bản thân (x. Mt 16, 24), tình cảm gia đình (x. Mt 10, 37), chấp nhận mất mát cả những bộ phận cơ thể quý giá như mắt, tay, chân (x. Mt 18, 8-9), và ngay cả mạng sống của mình nữa (x. Mt 10,39) để có được Nước Trời làm gia nghiệp. Dù hy sinh như vậy nhưng người ta vẫn không bị thiệt, mà trái lại sẽ được lợi gấp trăm ở đời này và còn được hưởng hạnh phúc Nước Trời đời sau (x. Mt 19, 28-29).
– C 45-46:
+ Giống như chuyện một thương gia: Dụ ngôn không nhằm so sánh Nước Trời với viên ngọc đẹp, mà nhấn mạnh tới hành động của người thương gia sau đó.
Sa-lo-mon là con của vua Đa-vít. Ông là một vị vua nổi tiếng về sự khôn ngoan trong việc cai trị điều hành nước Ít-ra-en. Danh tiếng về sự khôn ngoan của ông đã truyền đi khắp nơi và được mọi người mến phục. Ông còn được một nữ hoàng Sa-ba ở tận Phương Nam xa xôi tìm đến thăm viếng để học tập sự khôn ngoan của ông. Nhưng tại sao Sa-lo-mon có sự khôn ngoan như thế? Bài trích sách Các Vua hôm nay thuật lại như sau:
Trước khi lên ngôi, Thiên Chúa đã hiện ra và cho Sa-lô-mon được chọn lựa: “Ngươi muốn gì, cứ xin, Ta sẽ ban cho”. Khác với lẽ thông thường : người ta sẽ xin giàu sang phú quý, danh vọng chức quyền… Nhưng vua Sa-lo-mon đã không màng những thứ ấy. Ông đã cầu xin như sau: « Chính Chúa đã đặt tôi tớ Chúa lên kế vị Đa-vít, thân phụ con, mặc dầu con chỉ là một con trẻ yếu đuối… ở giữa một đám dân đông đúc không kể xiết. Vậy xin Chúa ban cho tôi tới Chúa đây một tâm hồn biết lắng nghe Lời Chúa để cai trị dân Chúa và phân xử cách khôn ngoan ». Lời cầu xin này đẹp lòng Chúa. Sa-lô-mon không xin của cải, không xin sống lâu, cũng không xin chiến thắng quân thù mà chỉ xin khôn ngoan. Nên Chúa đã ban cho ông sự khôn ngoan vượt bậc, và còn ban cho ông tất cả những gì ông không xin như Ngài phán: « Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi không một ai được như ngươi, và sau ngươi không ai được bằng ngươi ». Salomon đã không xin cho mình, mà chỉ xin những điều ích lợi cho dân Chúa.
2) VIÊN NGỌC QUÝ ĐÍCH THỰC LÀ SỰ BÌNH AN TRONG TÂM HỒN :
Một hôm, có một người kia gặp một tu sĩ đang đi qua con đường ở đầu làng, liền chạy theo và kêu lên: “Xin ông cho tôi viên ngọc quý trong cái bị của ông”. Vị tu sĩ ngạc nhiên hỏi “Viên ngọc quý nào?”. Ông ta nói: “Đêm qua tôi nằm mơ thấy có một tiên ông bảo là nếu tôi có được viên ngọc quý của một tu sĩ sắp đi ngang qua làng vào ngày hôm sau, thì tôi sẽ trở thành một người giàu có nhất trên đời. Vậy xin ông cho tôi viên ngọc quý giá đó”. Vị tu sĩ tốt bụng liền móc từ trong bị ra một vật và nói: “Có phải cái này không? Tôi mới nhặt được nó ở cánh đồng bên kia bờ suối. Nếu ông muốn thì tôi sẵn sàng biếu cho ông”. Người kia sung sướng cầm lấy viên ngọc quý, cám ơn rối rít rồi quay về nhà, vừa đi vừa sung sướng tự nghĩ: “Từ nay ta đã là một người giàu có, không còn phải hằng ngày lo toan kiếm sống vất vả nữa”. Thế nhưng đêm hôm ấy ông cảm thấy áy náy, suy nghĩ trằn trọc không sao ngủ được. Sáng hôm sau, ông cầm viên ngọc quý kia đi tìm vị tu sĩ và thấy ông ta đang nằm ngủ ngon lành dưới một gốc cây bên bìa rừng. Ông rón rén đến gần đánh thức vị tu sĩ và nói: “Thưa ông, tôi xin trả lại ông viên ngọc quý này, xin ông ban cho tôi viên ngọc quý khác, tức là sự giàu có của tâm hồn, thứ đã làm ông sẵn lòng tặng cho tôi viên ngọc quý này không chút tiếc xót”.
Vậy viên ngọc quý tâm hồn khiến vị tu sĩ sẵn sàng bỏ qua giàu sang không chút tiếc xót kia là gì ? Đó chính là viên ngọc quý được Đức Giê-su đề cập tới trong Tin Mừng dụ ngôn Nước Trời.
3) CHỈ TỪ BỎ CỦA CẢI ĐỜI NÀY NẾU XÁC TÍN VÀO HẠNH PHÚC ĐỜI SAU :
Đức Hồng Y Martini thường hay kể câu chuyện sau đây mà Ngài lấy làm tâm đắc: Có người đến gặp vị ẩn sĩ trong sa mạc và hỏi: “Thưa cha, cha là người có nhiều kinh nghiệm, xin cha giải thích cho con rõ: tại sao có nhiều bạn trẻ vào tu trong sa mạc này, nhưng sau đó nhiều người lại bỏ về nhà, và chỉ ít người là bền đỗ tu đến cùng?”. Vị ẩn sĩ trả lời: “Chuyện này giống như câu chuyện một con chó kia nhìn thấy một con thỏ đang chạy phía trước liền đuổi theo, vừa đuổi vừa sủa lên inh ỏi. Nhiều con chó khác nghe thấy tiếng sủa và thấy con chó đang chạy cũng bắt chước chạy theo mà chẳng hiểu chạy theo như vậy để làm gì. Chẳng mấy lúc các con cho chạy sau bị mệt và ngừng lại. Chỉ có con chó đầu tiên là tiếp tục chạy cho đến khi bắt được con thỏ !
Qua câu chuyện này, vị ẩn sĩ muốn dạy: “Chỉ người nào nhìn thấy mục tiêu mình đang theo đuổi thì mới bền đỗ đến cùng, dù gặp nhiều gian khổ”. Cũng vậy: Nếu chúng ta xác tín Nước Trời chính là kho báu quý giá, và Đức Giê-su cũng là viên ngọc quý có giá trị rất lớn, thì chúng ta sẽ sẵn sàng từ bỏ mọi thứ có giá trị đời này là của cải danh vọng trần gian để theo làm môn đệ của Chúa và hăng say chu toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời cho mọi người.
4) GƯƠNG TỪ BỎ DANH LỢI TRẦN THẾ CỦA THÁNH PHAN-XI-CÔ XA-VI-Ê :
PHAN-XI-CÔ XA-VI-Ê (1506-1552) là con của gia đình quí tộc nước Tây Ban Nha. Lớn lên được cha mẹ cho sang Pháp du học. Phan-xi-cô có một người bạn thân là I-nha-xi-ô Lôi-ô-la. Một hôm trong khi tham dự thánh lễ, Phan-xi-cô đã nghe được Lời Chúa phán: “Lời lãi cả và thế gian mà mất linh hồn, nào được ích gì?” Câu Kinh thánh này đã ảnh hưởng sâu xa trong suốt thời gian học đại học của Phan-xi-cô. Cũng chính câu lời Chúa ấy đã đánh động tâm hồn khiến anh quyết định từ bỏ mọi danh vọng trần thế đang chờ đón, để chọn theo lý tưởng tu trì phụng sự Chúa Giê-su. Phan-xi-cô đã xin gia nhập vào dòng Tên do I-nha-xi-ô thành lập. Sau đó anh vâng lời bề trên từ giã quê hương sang truyền giáo bên nước Ấn độ xa xôi và đã đưa được hàng vạn người về với Chúa. Sau đó, Phan-xi-cô còn có ước vọng đi truyền giáo tại nước Trung Hoa. Nhưng trên đường đi, ngài đã bị bệnh nặng và chết trên một hòn đảo, mặt luôn hướng về đất nước Trung Hoa.
5) THÁI ĐỘ NGHE GIẢNG CỦA MỘT NÔNG DÂN :
Một bác nông dân kia đến nhà thờ vào ngày Chúa Nhật để nghe một nhà giảng thuyết lừng danh tên là GION OÉT-LÂY (John Wesley) giảng về đề tài “Phải sử dụng của cải đời này như thế nào ?”. Trong phần thứ nhất, nhà giảng thuyết triển khai tư tưởng: “Hãy tìm mọi cách để làm giàu”. Bác nông dân nghe vậy thì cảm thấy phấn khởi. Bác ta thúc nhẹ cùi chỏ vào ông bạn bên cạnh và nói: “Một bài giảng thật tuyệt vời !”. Sau đó diễn giả khai triển sang điểm thứ hai: “Cần phải tiết kiệm tối đa”. Bác nông dân lại tiếp tục suýt xoa khen: “Ôi chao ! Tôi chưa bao giờ được nghe một bài giảng hay như vậy !”. Nhưng khi diễn giả sang điểm thứ ba: “Hãy chia sẻ tối đa của cải kiếm được cho người nghèo” thì bác ta cụt hứng, đành im lặng rời nhà thờ về nhà với bộ mặt buồn bã thất vọng, vì cuối cùng bài giảng đã không phù hợp với quan điểm sống của bác ta.
Người ta thường làm việc do động lực lợi lộc thôi thúc; người nông dân trong Tin Mừng hôm nay đã bán tất cả gia sản để mua bằng được thửa ruộng có chứa kho tàng quý giá. Ông nhà buôn cũng sẵn sàng bán hết tài sản để mua bằng được viên ngọc quý giá. Vì ham lợi, các nhà doanh nghiệp không ngần ngại đầu tư tiền bạc công sức vào các công trình xây dựng, hy vọng mang lại nhiều lợi nhuận trong tương lai. Vì muốn dành được huy chương vàng, các vận động viên sẵn sàng bỏ ra nhiều thời gian tiền bạc và sức lực vào công việc tập luyện. Để có tương lai tốt đẹp, các sinh viên đại học chăm chỉ học hành để thi đậu và được cấp bằng đại học. Còn chúng ta: để có được Nước Trời làm phần gia nghiệp, chúng ta cần phải đầu tư những gì ngay từ hôm nay ? Chúng ta cần phải vượt qua những trở lực nào trong cuộc sống hiện tại ?
6) LỜI NHẮN NHỦ CÁC BẠN TRẺ CỦA MỘT BÁC SĨ TÀI DANH :
Bác sĩ RICHARD TEO KENG SIANG, 40 tuổi. Một triệu phú ngành giải phẫu thẩm mỹ ở đảo quốc Sin-ga-pore. Đột nhiên phát hiện mình đã bị ung thư phổi giai đoạn cuối khi anh đang ở đỉnh cao tiền tài và danh vọng. Richard Teo qua đời ngày 18/10/2012. Những chia sẻ của anh khi được đưa lên facebook đã gây một xúc động rất lớn cho các bạn trẻ và được nhiều lời bình luận đồng ý.
– “Chào tất cả các em. Tôi tên là Richard và là một bác sĩ. Từ lúc trẻ, tôi là sản phẩm đặc trưng của xã hội ngày nay. Hồi nhỏ, tôi lớn lên trong một gia đình sống dưới mức trung bình. Tôi được mọi người dạy rằng: thành công và giàu có đồng nghĩa với hạnh phúc. Với suy nghĩ này, tôi quyết tâm ganh đua học tập ngay từ nhỏ và đã đạt được thành công và có được mọi thứ như lòng mong ước. Nhưng thật trái ngược, chỉ khi sắp chết thì tôi mới nhận biết mình nên sống ra sao. Tôi biết điều này nghe có vẻ phi thực tế, nhưng lại là sự thật mà chính tôi đang trải qua: Sự thành công, xe cộ, nhà cửa, những thứ mà tôi nghĩ sẽ đem lại hạnh phúc cho mình. Nhưng thực ra chúng đã không mang lại niềm vui, mà nếu được chọn lựa lại, tôi sẽ chọn một lối sống khác tốt đẹp hơn.”
– Đây không chỉ là lối sống thực dụng của Richard Teo, mà còn của mọi người chúng ta. Chúng ta đã quá lo toan lao vào cuộc cạnh tranh tìm kiếm tiền tài danh lợi, mà quên đi giá trị cao cả hơn là hạnh phúc vĩnh hằng đời sau. Chúng ta đã đầu tư quá nhiều công sức vào những thứ mau qua và chỉ có giá trị tương đối, mà bỏ qua cơ hội để tích lũy cho mình một gia tài thiêng liêng có giá trị lâu bền đời sau.
SUY NIỆM:
1). SỰ KHÔN NGOAN CỦA VUA SA-LÔ-MON :
Sa-lô-mon là con vua Đa-vít và được thừa kế ngai vàng của vua cha. Sa-lô-mon nhận biết mình “trẻ người non dạ” và còn nhiều hạn chế trước trọng trách làm vua. Ông được Đức Chúa hứa ban các ơn cần cho chức vụ cai quản dân Chúa. Sa-lô-mon đã không xin của cải giàu có, quyền lực vinh quang hay sống lâu trường thọ. Ông chỉ xin Chúa ban sự khôn ngoan để hướng dẫn dân Chúa đi theo đường lối của Ngài. Điều ông xin đẹp lòng Đức Chúa và ông đã được Chúa ban cho ông trở thành một vị vua tài trí bậc nhất thiên hạ. Danh tiếng về sự khôn ngoan của ông vượt ra khỏi biên giới đất nước : Trước ông, không ai được như ông và sau ông cũng không ai được bằng ông.
2) Ý NGHĨA CỦA HAI DỤ NGÔN NƯỚC TRỜI LÀ KHO BÁU VÀ VIÊN NGỌC QUÝ:
Đức Giê-su đến rao giảng Tin Mừng Nước Trời và mời gọi mọi người gia nhập để được ơn cứu độ. Người đòi người ta phải khôn ngoan chọn lựa Nước Trời qua hai dụ ngôn là Kho Báu và viên Ngọc Quý như sau :
– Một nông dân nghèo phải đi cày thuê để kiếm sống. Một hôm ông ta tình cờ phát hiện ra một cái chum trong có chứa nhiều vàng bạc quý báu, được ai đó đem chôn giấu trong ruộng mà anh đang cày thuê. Một nhà buôn nọ tình cờ gặp thấy một viên ngọc quý được bán với giá hời. Phản ứng của hai người giống nhau là khôn ngoan trở về nhà, âm thầm đem bán tất cả nhà cửa ruộng vườn và những gì đang có, lấy tiền mua lấy thửa ruộng có chôn kho báu, mua lấy viên ngọc mà chỉ ông ta mới biết giá trị lớn lao thực sự của nó.
– Kho báu và viên ngọc quý nói chung là những gì có giá trị trước mắt, vì chúng hứa hẹn sự giàu có mà ai cũng mong muốn. Chúng chính là động lực thôi thúc người ta sẵn sàng hy sinh tất cả để lấy làm của riêng mình. Nhưng Lời Chúa hôm nay dạy các tín hữu chúng ta: Kho báu và ngọc quý nói trên dù sao cũng chỉ lcó giá trị tương đối và không bền vững. Chúng chỉ mang lại cho người ta thứ hạnh phúc bọt bèo chóng qua không bền vững. Mới đây báo chí đăng tin về một vụ cướp bằng súng AK ngay trên đường phố. Hồi 19 giờ tối, một vụ cướp táo bạo đã xảy ra trên đường Huỳnh khương Ninh, Phường Đa Kao, Quận 1. Một ông chủ tiệm chở vàng bằng xe du lịch từ tiệm vàng về nhà, thì bất ngờ bị 2 tên cướp đi xe Su-zu-ki Sì-po áp sát. Chúng dùng súng AK hãm thanh bắn gục cô người làm khi cô vừa mở cửa nhà. Sau đó, trước khi tẩu thoát chúng tiếp tục bắn ông chủ mấy phát và giật phăng chiếc túi xách chứa vàng ông đang ôm, và để lại hiện trường một khẩu súng AK. Theo lời khai của nạn nhân thì trong túi vàng chứa 250 lượng vàng SJC, 20 ngàn đô la và khoảng 20 triệu đồng. Như vậy: giàu có của cải đã không mang lại hạnh phúc cho chủ của, mà có thể còn là nguyên nhân gây tai họa cho bản thân và những người thân nữa.
3) NGƯỜI TÍN HỮU CẦN SẴN SÀNG HY SINH CỦA CẢI ĐỜI NÀY ĐỔI LẤY NƯỚC TRỜI:
Nhiều người coi Nước Trời chỉ là một thứ kho báu thiêng liêng không thực tế, nên đã không muốn từ bỏ của cải mình đang có. Nhưng đối với các tín hữu chúng ta: Nước Trời thực sự là một kho báu. Chỉ khi nào xác tín như thế, chúng ta mới dám hy sinh từ bỏ của cải chỉ có giá trị tương đối, để đổi lấy kho báu trên trời có giá trị vĩnh hằng (x. Mt 6,10-20). Tin Mừng Mác-cô có thuật lại câu chuyện về một chàng thanh niên giàu có muốn nên trọn lành đến gặp Đức Giê-su để hỏi mình phải làm gì để được nên trọn lành. Anh cho biết đã tuân giữ các giới răn ngay từ khi còn nhỏ dại. Nhưng khi Đức Giê-su yêu cầu anh về nhà bán của cải phân phát cho người nghèo, đổi lấy kho báu thiêng liêng trên trời, rồi đến theo làm môn đệ của Người, thì anh sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh không thể bỏ được những của cải vật chất đang chiếm hữu (x Mc 10,17-22).
Thánh Phao lô dạy: “Phàm là tay đua, thì phải kiêng kỵ đủ điều, song họ làm như vậy là để đoạt phần thưởng chóng hư. Trái lại, chúng ta nhằm phần thưởng không bao giờ hư nát” (1 Cr 9,25). Vàng bạc châu báu khi ta chết sẽ về tay kẻ khác. Huy chương vàng sau khi vận động viên chết đi sẽ chỉ còn là một vật lưu niệm. Trái lại, nếu người tín hữu biết từ bỏ của cải vật chất để mua lấy Nước Trời bằng các việc bác ái từ thiện, thì sau khi chết, họ sẽ chiếm hữu Nước trời là của cải quý giá và có giá trị muôn đời.
4) CHÚNG TA CẦN KHÔN NGOAN CHỌN LỰA THẾ NÀO TRONG CUỘC SỐNG ?
– Hôm nay Chúa mời gọi chúng ta phải khôn ngoan chọn lựa : Chọn lựa của cải trần gian mau qua hay chọn Nước Trời vĩnh cửu. Chọn với thái độ dứt khoát không nửa vời, vì “thà mất một mắt, một tay, một chân mà được vào Nước Trời, hơn là có đủ nguyên vẹn mà phải sa hỏa ngục”. Chọn với sự đánh đổi : Đổi những gì mình có để mua lấy Nước Trời ?
– Để có Nước Trời là hạnh phúc đời đời, các tín hữu chúng ta phải biết khôn ngoan cầu xin Chúa như vua Sa-lô-môn: Ông không cầu xin Chúa ban giầu có hay khả năng đánh bại quân thù, mà chỉ xin Chúa ban sự khôn ngoan để chọn làm theo ý Chúa, phân biệt thiện ác, làm theo lẽ phải.
– Tìm kiếm Nước Trời và từ bỏ mọi sự để đạt được Nước Trời cần phải có ơn Chúa trợ giúp. Thực vậy: Làm sao chúng ta dễ dàng bán hết những gì một đời vất mới có được ? Làm sao chúng ta có thể từ bỏ một mối tình vụng trộm đầy sức cuốn hút ? Làm sao từ bỏ được một thói quen mang lại sự thỏa mãn xác thịt ? Làm sao chúng ta có thể bỏ lỡ một cơ hội giúp kiếm được nhiều tiền… để chu toàn bổn phận đến nhà thờ tham dự thánh lễ Chúa Nhật ? Làm sao chúng ta có thể bố thí cho một bệnh nhân nghèo một ít tiền chữa bệnh, dù chúng ta có thể dễ dàng chi gấp nhiều lần cho một chai rượu ngoại để nhậu với bạn bè ? Làm sao chúng ta có thể xin lỗi người dưới khi mình sai ? Làm sao chúng ta có thể không đi làm thêm để học giáo lý ?… Để có thể chọn lựa lối hành xử đúng đắn, chúng ta cần năng nghe Lời Chúa dạy và suy niệm để tìm ra ý Chúa muốn và xin ơn Thánh Thần soi dẫn, giúp chúng ta vâng phục ý Chúa.
– Tóm lại, nếu vì hạnh phúc Nước Trời mà mình có thể bị nghèo đi, bị mất công ăn việc làm, hay có thể mất cả địa vị xã hội… thì chúng ta cũng vẫn phải đánh đổi. Vì dù sao tiền tài danh vọng cũng không dành riêng cho mình và cũng không mang lại cho chúng ta hạnh phúc thực sự. Chỉ có hạnh phúc Nước Trời mới có giá trị lâu dài và mang lại hạnh phúc thực sự cho chúng ta, như ông Gia-kêu sau khi gặp Chúa đã sẵn sàng chia phân nửa gia sản bố thí cho người nghèo, và sẵn sàng đền gấp bốn lần những thiệt hại đã gây ra cho người khác.
Như mọi người đều biết trong những bài Tin mừng mấy Chúa nhật vừa qua, Chúa Giêsu kể cho TN 17-A165
Như mọi người đều biết trong những bài Tin mừng mấy Chúa nhật vừa qua, Chúa Giêsu kể cho chúng ta nghe những dụ ngôn như Người Gieo Giống; Hạt cải; Men Bột Bánh; Cỏ Lùng và Lúa để ám chỉ Nước Trời. Trong bài Tin mừng hôm nay, Người tiếp tục dạy chúng ta về Nước Trời qua ba dụ ngôn Kho Báu; Viên Ngọc Quí và Mẻ Lưới Cá. Hai dụ ngôn cho thấy sự khôn ngoan và thái độ quyết tâm của người tìm được khó báu cũng như viên ngọc quí. Họ bán hết tài sản để mua vì họ biết chắc rằng kho báu kia,viên ngọc kia quí cao quí và có giá trị hơn những gì họ đang có. Dụ ngôn Mẻ Lưới Cá giống như dụ ngôn Cỏ Lùng và Lúa mọc bên nhau trong thửa ruộng mà chúng ta đã nghe tuần trước. Người tốt, xấu sống chung với nhau ở đời này, nhưng sau ngày phán xét đời sau sẽ bị tách ra. Người tốt, thánh thiện được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu Nước Trời, người xấu, tội lỗi sẽ bị ném xuống hỏa ngục chịu cực hình đau khổ trầm luân.
Tôi còn nhớ khi còn là linh mục chánh xứ của một giáo xứ người Mỹ, tôi có gặp một học sinh trong xứ đang tập luyện để được tuyển vào đội football của trường trung học em đang học. Em cho biết có một chương trình tập luyện hằng ngày như sau: sáng thức dậy lúc 5 giờ 30 chạy bộ và cử tạ trong vòng 2 tiếng rưỡi. Sau đó tắm rửa, ăn sáng và đến trường học. Sau lớp học, em ra sân tập dượt với các bạn, học và thực tập các thế chơi. Sau đó em tiếp tục cử tạ trong vòng 2 tiếng đồng hồ. Em quyết tâm và kiên trì theo chương trình tập luyện đó hằng ngày.
Tôi hỏi em tại sao lại phải theo một chương trình huấn luyện bận rộn và khắt khe như vậy. Em đã thành thật trả lời em quyết tâm muốn trở thành một cầu thủ xuất sắc, được tuyển chọn vào hội của trường và đoạt giải vô địch, làm vinh dự cho trường. Em cho biết hy vọng sẽ nhận được học bổng của trường đại học danh tiếng nào đó và trở thành một cầu thủ chuyên nghiệp. Vì vậy em cho biết em không “party” hay rong chơi với bạn bè nhiều, hay làm những công việc gì khác vì sẽ phí thời giờ, làm giảm cơ hội và trở thành những chướng ngại vật chiếm đoạt được mục đích. Càng tập dượt, em cho biết, càng giỏi hơn và mạnh hơn, và nói thêm rằng hy sinh, cố gắng và quyết chí là tâm điểm để đoạt được mục đích.
Tôi nghĩ rằng nếu Chúa Giêsu sống trong thời đại của chúng ta hôm nay, thì có lẽ Chúa dùng câu chuyện một lực sĩ hay cầu thủ đã hy sinh tất cả để đạt được nguyện vọng thay cho dụ ngôn “Kho báu và Viên ngọc quí” mà người thương gia đã bán hết tài sản để mua như trong bài Tin mừng để giảng dạy chúng ta.
Vậy chúng ta thử đặt một câu hỏi: người đi tìm khó báu và người thương gia trong bài Tin mừng có điểm nào liên quan với cầu thủ football trên? Họ có những đặc điểm nào giống nhau? Xin thưa thứ nhất, họ có những đặc điểm là đều có chung một nguyện ước và ý chí cho cuộc sống. Và thứ hai họ đều cố gắng và hy sinh để đạt được ước nguyện, mục đích đề ra. Người thương gia muốn mua thủơ ruộng chứa kho tàng, người lái buôn muốn mua và chiếm giữ viên ngọc quí, và người cầu thủ muốn trở nên xuất sắc để giúp đội đoạt được giải vô địch.
Ông bà anh chị em thân mến. Đó là bài học thứ nhất Chúa muốn dạy chúng ta qua 2 dụ ngôn kho tàng và viên ngọc quí hôm nay. Muốn đạt được bình an và hạnh phúc đích thực đời này và Nước Trời đời sau đòi hỏi một sự cương quyết, nhất trí và hy sinh. Là một công dân Nước Trời, chúng ta cần phải có ý chí và lòng quyết tâm sống giáo huấn của Chúa Kitô và của Giáo hội hằng ngày, không phải chỉ tuân theo khi nào thuận tiện, có lợi hay khi nào chúng ta cảm thấy thoải mái. Chúa Ki-tô và sống lời của Người dạy phải là điều tiên quyết, trên hết và trước hết trong cuộc sống của chúng ta.
Chúng ta đang sống giữa những xoay chuyển của xã hội vì vậy các giá trị bị đảo lộn. Trong xã hội này, nhiều người đặt tiền bạc, của cải vật chất, sự tự do, hưởng thụ và ích kỷ hàng đầu và trên hết. Còn các việc đạo đức, thánh thiện, bác ái, hy sinh phục vụ có giá trị tinh thần vào hàng thứ yếu. Thành thật mà nói trong xã hội hôm nay có nhiều Ki-tô hữu đang sống đức tin bề ngoài, đời sống nội tâm và đức tin của họ thiếu vắng bóng Thiên Chúa. Họ đã đánh mất mục đích, giá trị cao quí, nền tảng căn bản cuộc sống Kitô hữu.
Là những Ki-tô hữu, cuộc sống của chúng ta có mục đích và có những ước nguyện được sống trong an bình và hạnh phúc thật đời này cũng như Nước Trời đời sau. Chúng ta biết cuộc đời này chỉ là tạm bợ và chúng ta cần phải cố gắng chiếm hữu những điều có giá trị vĩnh cửu ngay trong cuộc đời này kẻo quá muộn. Chúng ta hãy tự hỏi chúng ta đã chiếm hữu được những gì có giá trị vĩnh cửu? Chúng ta hãy nhớ cuộc đời này là một dịp thuận tiện, một cơ hội và mỗi ngày là một ơn sủng Chúa ban. Chúa ban cho chúng ta tự do và khôn ngoan để quyết định điều gì cao quí và có giá trị cho mình. Chúa còn ban nhiều ơn lành để chúng ta cương quyết và can đảm sống theo ước nguyện của mình.
Ông bà anh chị em thân mến. Ở đây chúng ta phải chú ý đến một bài học quan trọng thứ hai mà Chúa muốn dạy chúng ta qua bài Tin mừng hôm nay. Bài học này nằm trong sự khác biệt giữa người thương gia; người lái buôn trong dụ ngôn, người cầu thủ chơi banh trong câu chuyện và chúng ta, những người Kitô hữu chân thực có lòng xác tín vào Chúa. Đó là khi người thương gia, người lái buôn và cầu thủ nhắm mắt qua đời họ mất tất cả những gì họ cố gắng chiếm giữ đời này, còn chúng ta, nếu chúng ta chiếm giữ những điều có giá trị cao quí tinh thần thì không những có niềm vui mừng, an bình và hy vọng đời này, mà sẽ còn tồn tại vĩnh viễn và trường cửu đời sau.
Tìm ra và chiếm hữu được đời sống vĩnh cửu Nước Trời hay không là do sự quyết định, hy sinh và cố gắng của chính mỗi người chúng ta hôm nay. Chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta sự khôn ngoan sáng suốt của Salômôn trong bài đọc 1 để biết phân biệt lành dữ, tốt xấu, nhận ra điều gì quan trọng, cao quí và có giá trị vĩnh cửu cũng như cố gắng hy sinh chiếu hữu để bảo đảm hạnh phúc Nước Trời ngày sau.
Người đời có câu: “Khôn thì sống, dại thì chết” Đó là đúc kết kinh nghiệm sống của loài người TN 17-A166
Người đời có câu: “Khôn thì sống, dại thì chết” Đó là đúc kết kinh nghiệm sống của loài người, không chỉ trong lãnh vực trần thế mà cả trong lãnh vực tâm linh nữa. Người khôn là người biết định giá (hay lượng giá) đúng. Người khôn là người biết chọn lựa đúng. Vì thế mà người khôn là người có được kho báu. Điển hình là người đi tìm ngọc đẹp và thương gia tìm thấy kho báu. Hai người ấy bán hết tài sản họ đang có để mua cho được viên ngọc quý hay thửa ruộng trong đó có chôn giấu kho báu, vì họ định giá đúng về viên ngọc quý hay kho báu vừa tìm thầy.
Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn kho báu và viên ngọc quý để nói về Nước Trời. Chẳng những Người nhấn mạnh đến giá trị của Nước Trời mà còn đề cao sự chọn lựa khôn ngoan của người đi tìm ngọc quý hay kho báu. Chớ gì chúng ta đón nhận sứ điệp của Lời Chúa hôm nay để có được Nước Trời hay đúng hơn là vào được Nước Trời.
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH
2.1 Trong bài đọc 1 (1 V 3,5.7-12): "Xin ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan" Trong những ngày ấy, tại Gabaon, ban đêm, Chúa hiện ra cùng Salomon trong giấc mộng và phán rằng: "Ngươi muốn gì thì hãy xin, Ta sẽ ban cho ngươi". Salomon thưa: "Lạy Chúa là Thiên Chúa, Chúa khiến tôi tớ Chúa cai trị kế vị Đavít thân phụ con. Nhưng con chỉ là một trẻ nhỏ, không biết đường đi nước bước. Tôi tớ Chúa đang sống giữa dân Chúa chọn, một dân đông đảo không thể đếm và ước lượng được. Vậy xin Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan để đoán xét dân Chúa, và phân biệt lành dữ, vì ai có thể xét xử dân này, một dân của Chúa đông đảo thế này?"
Điều Salomon kêu xin như trên đã đẹp lòng Chúa, nên Chúa phán cùng Salomon rằng: "Vì ngươi đã xin điều đó, mà không xin sống lâu, được giàu có, của cải, mạng sống quân thù, lại xin cho được khôn ngoan để biết xét đoán, thì đây Ta ban cho ngươi điều ngươi xin, và ban cho ngươi tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi không có ai giống ngươi, và sau ngươi không có ai bằng ngươi".
2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 8,28-30): "Người đã tiền định cho chúng ta trở nên giống hình ảnh Con Người" Anh em thân mến, chúng ta biết rằng những kẻ yêu mến Thiên Chúa thì Người giúp họ được sự lành, họ là những người theo dự định của Chúa, được kêu gọi nên thánh. Vì chưng, những kẻ Chúa đã biết trước, thì Người đã tiền định cho họ nên giống hình ảnh Con Người, để Ngài trở nên trưởng tử giữa đoàn anh em đông đúc. Những ai Người đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; mà những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho họ được vinh quang.
2.3 Trong bài Phúc Âm (Mt 13,44-46 hoặc 44-52): "Anh bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng đó” Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước Trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy. Nước trời cũng giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy.
"Nước Trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá. Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài. Trong ngày tận thế cũng vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng. Các ngươi có hiểu những điều đó không?" Họ thưa rằng: "Có".
Người liền bảo họ: "Bởi thế, những thầy thông giáo am tường về Nước Trời cũng giống như chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái mới, cũ trong kho mình".
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:
* Là Đấng đã ban cho vua Salômôn sự khôn ngoan mà vua đã xin. Vua Salômôn đã là người khôn ngoan khác thường khi cầu xin Thiên Chúa ban cho mình sự khôn ngoan chứ không cầu xin Thiên Chúa ban cho mình giầu sang và quyền lực là những thứ mà người ta thường xin. Và Thiên Chúa đã ban cho vua Salômôn một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn đến nỗi trước ông, chẳng một ai sánh bằng, và sau ông, cũng chẳng có ai bì kịp!
* Là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã dùng dụ ngôn mà giảng dậy cho dân chúng hiểu về giá trị cao quý của Nước Trời và lưu ý họ rằng nếu họ muốn được chọn vào Nước Trời thì phải là những con nguời lương thiện, hoàn hảo (cá tốt).
* Là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn hiện diện và cùng hành động với Chúa Cha khi Thiên Chúa ban cho vua Salômôn một tâm hồn khôn ngoan; Người cũng hiện diện và cùng hành động với Chúa Giêsu khi Người giảng dậy về Nuớc Trời cho dân chúng bằng các dụ ngôn đơn sơ mà sâu sắc. Chúa Thánh Thần cũng là Đấng hiện diện và hành động trong tâm hồn người Kitô hữu để mở lòng, mở trí chúng ta đón nhận mạc khải của Chúa Giêsu mà quyết chọn Nước Trời bằng mọi giá.
3.2 Sứ Điệp Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?):
Qua ba bài Sách Thánh, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay gồm hai điều:
* Một là Nước Trời [hay Nước Chúa hay Vương Quốc hay Triều Đại của Thiên Chúa] là Thế Giới Yêu Thương Hạnh Phúc mà Thiên Chúa muốn chia sẻ với con người khi con người mở lòng đón nhận mạc khải Tình Yêu của Thiên Chúa và sống trong đó. Vì thế Nước Trời là một THỰC TẠI CÓ GIÁ TRỊ VÔ CÙNG LỚN LAO CAO CẢ và TUYỆT VỜI, đáng chúng ta hy sinh tất cả mọi sự mà chiếm cho được Nước ấy.
* Hai là muốn vào Nước Trời mọi người phải qua một cuộc sàng lọc, một cuộc tuyển lựa như người ngư phủ chọn lấy cá tốt và loại bỏ cá xấu sau khi rũ cá ra khỏi lưới. Chỉ những ai sống lương thiện, nhiệt thành, đạo đức, bác ái, phục vụ…(cá tốt) mới được chọn vào Nước Thiên Chúa. Còn những kẻ sống bất lương và bất nhân trong đời thường, thờ ơ và trễ nải trong đời sống tâm linh (cá xấu) thì chắc chắn sẽ bị loại và bị ném vào lò lửa đời đời.
IV. SỐNG VỚI THIÊN CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI
4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, như môn đệ sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và tuân phục! Đặc biệt là sống với Chúa Thánh Thần là Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa và với Chúa Giêsu là Thầy Dậy về Nước Trời cho những ai khát khao sự tốt lành, thánh thiện .
4.2 Thực thi sứ điệp (hay giáo huấn) của Lời Chúa hôm nay chúng ta phải thực hiện hai việc sau đây:
* Một là phải cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Thiên Chúa Cha vì Chúa Cha đã ban Đức Khôn Ngoan là Thánh Thần để Người giúp chúng ta thấu hiểu ý nghĩa sâu sắc và cụ thể của những dụ ngôn mà Chúa Giê-su đã dùng để trình bày về Nước Trời.
* Hai là phải tập sống hy sinh từ bỏ những điều phù phiếm ít giá trị để tìm cho ra và chiếm cho được kho báu quý giá là Vương Quốc Tình Yêu của Thiên Chúa.
V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy” Chúng ta hãy cầu nguyện cho thế giới loài người hôm nay, trong đó có rất nhiều người chỉ biết chạy theo tiền bạc, chức quyền và lạc thú mà không biết tới một kho báu vô cùng quý giá mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại là Nước Trời.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 “Xin ban cho tôi tớ Chúa đây, một tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái" Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Ki-tô - nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế, Tu Sĩ Nam Nữ và các giáo dân lãnh đạo -, để mọi Kitô hữu biết sống theo tiếng nói khôn ngoan của Thánh Thần trong khi phục vụ Dân Chúa.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các người trong giáo xứ/cộng đồng chúng ta để mọi người dám hy sinh từ bỏ những gì là phù phiếm chóng qua để có được Kho Báu là Nước Trời.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 “Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp” Chúng ta hãy cầu nguyện cách đặc biệt cho những nhà lãnh đạo các quốc gia, nhất là cho các nhà lãnh đạo Việt Nam, để họ được ơn khôn ngoan mà đưa đất nước đến chỗ phát triển hài hòa và thịnh vượng đích thực.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Sàigon ngày 26 tháng 07 năm 2020 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.
Hai dụ ngôn Kho báu và Viên ngọc quý không làm ta ngạc nhiên, bởi lẽ ở vào hoàn cảnh đó, ai TN 17-A167
Hai dụ ngôn Kho báu và Viên ngọc quý không làm ta ngạc nhiên, bởi lẽ ở vào hoàn cảnh đó, ai trong chúng ta cũng làm thế. Nếu ta là một nông dân gặp được kho báu khi đang cày ruộng, ta cũng sẽ tìm cách để mua được thửa ruộng đó bằng mọi giá. Mua được thửa ruộng là có được kho báu vô chủ. Có được kho báu là cuộc sống hoàn toàn không như xưa. Nếu ta là một thương gia sành sỏi chuyên buôn ngọc, đi khắp nơi để lùng những viên ngọc quý hiếm. Nhờ may mắn mà tìm thấy được viên ngọc chỉ có trong mơ, hẳn ta sẽ tìm mọi cách để chiếm được viên ngọc đó. Khi người nông dân tìm thấy kho báu, hay khi người thương gia tìm thấy viên ngọc quý, cả hai đều có phản ứng như nhau. Đó là sự say mê, phấn khích, và thèm muốn đến tột cùng. Cả hai đều sẵn sàng làm bất cứ điều gì để sở hữu được chúng. Kho báu hay viên ngọc quý thu hút toàn bộ suy nghĩ của họ. Mọi sự khác trên đời dường như chẳng còn giá trị gì. Họ coi cuộc đời họ như bị đổ vỡ nếu không chiếm được chúng. Chính vì thế cả người nông dân và người thương gia đều làm những hành động giống nhau: đi, bán tất cả những gì mình có, và mua cho bằng được. Không có dấu vết của nuối tiếc hay đắn đo. Chỉ có niềm vui của người nghĩ mình đã làm đúng. Chỉ có hạnh phúc của người biết là mình đã khôn ngoan. Đấy là chuyện về kho báu và viên ngọc quý ở trần gian. Còn Nước Trời có là kho báu hay viên ngọc quý đối với tôi không, lại là chuyện khác. Nước Trời có vẻ xa xôi, vô hình, mà tôi lại chưa có cảm nghiệm, nên tôi không dễ thấy được giá trị và vẻ đẹp của Nước Trời. Kho báu Nước Trời thì khó thấy, ít hấp dẫn. Còn kho báu trần gian phù du thì ai cũng mong tích trữ, đến nỗi Đức Giêsu phải kêu: Hãy tích trữ kho báu trên trời (Mt 6,20). Vấn đề là tôi chọn kho báu nào, kho báu ở đâu thì tim ở đó (Mt 6,21). Chỉ khi thấy Nước Trời là kho báu bền vững và vượt trội, ta mới dám đi, bán tất cả những gì mình có mà mua. Nếu chúng ta còn ngần ngại, bị giằng co giữa hai kho báu, thì đó là vì chúng ta chưa thấy sự ưu việt của kho báu trên trời. Để có được kho báu trên trời, cần làm một chọn lựa quan trọng. Đó là bán tất cả những gì mình có. Bán tất cả mọi sự không hẳn là trở nên trắng tay, nhưng là đặt mọi sự mình có ở dưới Thiên Chúa. Cả tương lai, gia đình, hạnh phúc, của cải, uy tín, thành công: những kho báu đó phải đặt dưới Kho Báu viết hoa là Nước Trời, và khi cần, chúng ta phải vui lòng hy sinh mọi sự. Để thấy được vẻ đẹp của Nước Trời, cần có thời gian. Để mê thiên đàng, cần gỡ mình khỏi những trói buộc vật chất. Khi có kinh nghiệm về kho tàng mối mọt đục khoét được, chúng ta sẽ dễ tìm đến kho báu đích thực, tuyệt đối. Trước khi bán tất cả tài sản để mua viên ngọc quý là Nước Trời, ta cần bán từ từ, từng món một, qua những buông bỏ mỗi ngày. Rồi có lúc ta sẽ thấy mình tự do và siêu thoát. Anh thanh niên giàu có buồn rầu bỏ đi vì muốn giữ của. Còn người vui sướng bán tất cả lại thấy mình giàu có khi trắng tay.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã trìu mến nhìn người thanh niên giàu có và mời anh theo Chúa để được sự sống đời đời. Chúa mời anh đi bán tài sản mình, cho người nghèo, rồi đến và theo Chúa. Nhưng anh đã buồn rầu bỏ đi, vì quá gắn bó với của cải. Anh bị giằng co, vì anh muốn được kho tàng trên trời, nhưng lại không muốn mất kho tàng dưới đất. Hẳn Chúa cũng buồn và tiếc cho anh. Chúa có mong anh ấy một ngày nào trở lại?
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã ngước nhìn ông Gia-kêu khi ông còn ở trên cây. Chúa chỉ gọi tên ông và xin đến nhà của ông. Chúa chẳng đòi ông phải hoán cải hay bỏ nghề thu thuế, Nhưng trong cách cư xử trân trọng của Chúa, ông nhận ra một lời mời. Gia-kêu đã vui sướng đáp lại lời mời đó, khi ông hứa sẽ đền gấp bốn, và cho người nghèo nửa phần gia sản. Bỗng nhiên Gia-kêu được tự do khỏi của cải từng làm ông mê say. Ông ngất ngây vì giờ đây nhà ông được hưởng ơn cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu, buông bỏ tất cả để sống cho những điều trên cao, vừa khó lại vừa dễ. Chỉ cần Chúa chạm đến chúng con một giây, và vén mở cho chúng con thấy kho tàng trong trái tim Chúa, chúng con sẽ hết bị ràng buộc bởi những thứ mau qua, để sống cho những giá trị vĩnh cửu.
Trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, khi nói về Nước Trời, Đức Giê-su dùng nhiều dụ ngôn TN 17-A168
Trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, khi nói về Nước Trời, Đức Giê-su dùng nhiều dụ ngôn. Theo sự phân chia của lịch phụng vụ năm A, những dụ ngôn này được công bố trong ba Chúa Nhật liên tiếp, Chúa Nhật XV (dụ ngôn Người Gieo Giống), Chúa Nhật XVI (dụ ngôn Cỏ Lùng, dụ ngôn Hạt Cải, dụ ngôn Nắm Men) và Chúa Nhật XVII hôm nay (dụ ngôn Kho Tàng, dụ ngôn Viên Ngọc và dụ ngôn Mẻ Lưới).
Như thế, một dụ ngôn không thể diễn tả hết được mầu nhiệm Nước Trời; và để hiểu và sống mầu nhiệm Nước Trời, chúng ta cần lắng nghe nhiều dụ ngôn, vì mỗi dụ ngôn nói cho chúng ta một khía cạnh về mầu nhiệm Nước Trời.
1. Các dụ ngôn về Nước Trời
Dụ ngôn Người Gieo Giống (13, 1-23) là dụ ngôn đầu tiên, vì thế là dụ ngôn của mọi dụ ngôn, là “dụ ngôn mẹ”. Thực vậy, dụ ngôn này mặc khải cho chúng ta “những điều được giữ kín từ thủa tạo thiên lập địa” (c. 35), đó là mầu nhiệm Ngôi Lời Thiên Chúa trong Sáng Tạo, mầu nhiệm Ngôi Lời Thiên Chúa trong Lịch Sử, ngang qua những mảnh đất khác nhau và những hình ảnh nói về tội và Sự Dữ, về mầu nhiệm Nhập Thể và về mầu nhiệm Vượt Qua. Do đó, các Tin Mừng kể về dụ ngôn này dài nhất: dụ ngôn Người Gieo Giống (c. 1-9); ngôn ngữ dụ ngôn (c. 10-17); giải thích dụ ngôn Người Gieo Giống (c. 18-23). Và vì tầm mức quan trọng của dụ ngôn Người Gieo Giống, nên Đức Giê-su đã trách các môn đệ, khi họ xin Người giải thích: “Anh em không hiểu dụ ngôn này, thì làm sao hiểu các dụ ngôn khác” (Mc 4, 13).
Sau dụ ngôn Người Gieo Giống, Đức Giê-su kể thêm một loạt sáu dụ ngôn. Tùy theo nội dung, các dụ ngôn này có thể được sắp xếp như sau:
(A) Dụ ngôn cỏ lùng (c. 24-30) (B) Dụ ngôn hạt cải và nắm men (c. 31-33)
Du ngôn kho tàng và ngọc quí (c. 44-46) (A’) Dụ ngôn mẻ lưới (c. 47-50)
(1) Dụ ngôn cỏ lùng và mẻ lưới nói về thời điểm tận cùng chắc chắn sẽ xẩy ra và về hành động của chính Thiên Chúa tách biệt ánh sáng và bóng tối, sự sống và sự chết, điều tốt và điều xấu, những người công chính và những người gian ác.
(2) Dụ ngôn hạt cải và nắm men nói về sự lớn mạnh và viên mãn tất yếu của Nước Trời, do dù điểm khởi đầu rất nhỏ bé, giới hạn và khiêm tốn.
(3) Hai dụ ngôn kho tàng và viên ngọc quí khá giống nhau, vì đều nói đến thời gian sống hôm nay và đến hành động của con người, hành động này là sự lựa chọn dứt khoát, triệt để và trong niềm vui hướng về điều rất cao quí mình hằng ao ước và tìm kiếm.
Các dụ ngôn này soi sáng cho nhau, bởi vì nếu nhóm dụ ngôn thứ nhất chất vấn chúng ta và làm cho chúng ta sợ hãi, thì nhóm dụ ngôn thứ hai và thứ ba mang lại cho chúng ta niềm hi vọng và chỉ ra cho chúng ta con đường vượt qua sự sợ hãi, đó là lòng khao khát và tìm kiếm « Điều Cao Quí ». Và « Điều Cao Quí », chính là Đức Ki-tô, là lựa chọn và dấn thân trọn vẹn, triệt để và dứt khoát để có được « Điều Cao Quí », như kinh nghiệm của chính thánh Phao-lô:
Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người.
(Phil 3, 7-8)
Còn một điều khác, rất thú vị, chúng ta cũng cần để ý, đó là, để giúp chúng ta hiểu Nước Trời, ngang qua các dụ ngôn, Đức Giê-su khởi đi từ những điều rất đời thường ở dưới đất, đó là hạt giống, cây lúa, cọng cỏ, đánh bắt cá, kho tàng, viên ngọc. Do đó, chúng ta được mời gọi « bắt chước » Đức Giê-su, và nhất là dưới ánh sáng đến từ ngôi vị của Ngài, từ lời nói và hành động của Ngài và nhất là từ mầu nhiệm Vượt Qua, chúng ta được mời gọi nhìn, nghe và sống những thực tại đời thường trong thiên nhiên và trong đời sống của chúng ta, như là những « dụ ngôn » nói về Nước Thiên Chúa và nói về chính Thiên Chúa.
2. Tại sao Đức Giê-su dùng dụ ngôn?
Đức Giê-su giảng dạy bằng dụ ngôn, đó là vì dụ ngôn có nhiều nghĩa, giống như một bức tranh; và vì thế, dụ ngôn rất tôn trọng ngôi vị và tự do của người nghe, như chính Đức Giê-su hay kết thúc dụ ngôn bằng câu nói: “Ai có tai thì nghe” (c. 9). Người nghe có thể tự do chú ý đến bất cứ chi tiết nào, hay tự do đặt mình vào bất cứ yếu tố biểu tượng (chẳng hạn hình ảnh mảnh đất sỏi đá, đất không nhiều) hay nhân vật nào trong dụ ngôn, và tự mìmh khám phá ra ý nghĩa tùy theo kinh nghiệm sống, vấn đề và tâm trạng hiện có của mình. Đức Giê-su thích dùng dụ ngôn là vì vậy, Ngài tôn trọng ngôi vị và tự do của chúng ta, dù chúng ta là ai và đang ở trong tình trạng nào.
Ngoài ra, khi các môn đệ hỏi Người: “Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với dân chúng?” (c. 10) Đức Giê-su trả lời rằng, đó là ngôn ngữ dành riêng cho những người có ơn hiểu biết, là các môn đệ:
Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không.
(c. 11)
Vì thế, khi nghe các dụ ngôn, các môn đệ với ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, họ sẽ được hiểu mầu nhiệm này sâu rộng hơn nữa, như Người nói: “Ai đã có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa” (c. 12). Trong khi đó, dân chúng, vì không có ơn hiểu biết, họ giống như người “nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu”! Vậy, để hiểu các dụ ngôn, chúng ta phải có ơn “hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời”; và các mầu nhiệm Nước Trời là các mầu nhiệm liên quan đến chính ngôi vị của Đức Giê-su, bởi vì Người rao giảng Nước Trời và làm cho Nước Trời hiện diện bằng chính ngôi vị của mình. Vì thế, để đón nhận ơn “hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời”, chúng ta không có con đường nào khác, là con đường đi theo Đức Giê-su như người môn đệ.
Chúng ta là Ki-tô hữu, nghĩa là người môn đệ của Đức Ki-tô, người đi theo Đức Ki-tô trong một ơn gọi, ơn gọi gia đình hay dâng hiến, chúng ta hãy khát khao và xin Người ban cho chúng ta ơn “hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời”, để chúng ta biết lắng nghe các dụ ngôn nói về Nước Trời và để, như các môn đệ, có thể trả lời cho Đức Giê-su như các môn đệ, khi Người hỏi:
“Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?” Họ đáp: “Thưa hiểu.”
(c. 51)
Và một khi biết lắng nghe các dụ ngôn, chúng ta cũng sẽ “lắng nghe” đời mình như là một dụ ngôn nói về Thiên Chúa và Nước của Người, bởi lẽ dụ ngôn là kinh nghiệm sống được hiểu dưới ánh của Đức Giê-su Ki-tô, Con TC, Ngôi Lời nhập thể. Khi đó, có thể nói chúng sẽ giống như các “kinh sư” được học hỏi về Nước Trời. Thật vậy, Đức Giê-su nói:
Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ.
(c. 52)
Và xin Chúa đừng để chúng ta tự đặt mình vào phía “dân chúng” hay đám đông, nghĩa là nhóm người lòng đã ra chai đá, khiến họ “bịt tai nhắm mắt”, hoặc “có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy”. Bởi vì, ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời có liên quan đến đối mắt và đôi tai.
3. Dụ ngôn cỏ lùng và chiếc lưới
Thế giới chúng ta đang sống giống như cánh đồng lúa, trong đó có lúa, những cũng có cỏ, cỏ ở khắp nơi; hay giống như cá ở dưới biển: có đủ thứ cá, cá tốt và cá xấu. Các dụ ngôn, khi được hiểu dưới ánh sáng của mầu nhiệm Vượt Qua, sẽ củng cố niềm hi vọng mỏng dòn của chúng ta.
Với dụ ngôn thứ nhất về cỏ lùng, chúng ta cần ghi nhận rằng, chính kẻ thù đã gieo điều xấu. Điều này có nghĩa là, điều xấu không đến từ chúng ta, nhưng đến từ bên ngoài, từ Con Rắn (x. St 3, 1-7). Sự thật này phải giải phóng chúng ta khỏi mặc cảm tội lỗi chết chóc, và cởi bỏ khỏi lòng chúng ta trách nhiệm hoàn toàn đối với sự dữ và tội lỗi. Sự dữ đến từ bên ngoài và mạnh hơn chúng ta; vì thế, chúng ta là nạn nhân cần được thương cảm hơn là bị lên án. Nhưng nếu Sự Dữ mạnh hơn chúng ta, thì Thiên Chúa mạnh hơn Sự Dữ. Lịch sử cứu độ, mà điểm tới là Mầu nhiệm Vượt Qua, nói cho chúng ta chân lí này.
Dụ ngôn này nói cho chúng ta biết rằng cây lúa, nghĩa là sự thiện, vẫn được bảo vệ và gìn giữ cho đến cùng, nghĩa là cho đến mùa gặt. Vì thế, chúng ta không cần phải đối đầu với sự dữ để chống chọi với sức của chúng ta, bởi vì Đức Giê-su mời gọi chúng ta « Đừng chống lại kẻ dữ » (Mt 5, 39); trong cuộc Thương Khó, Đức Giê-su đã sống lời này của Ngài, và sống cho đến cùng. Hơn nữa, chúng ta đâu có chống lại được Sự Dữ (x. St 3, 1-7); và thực tế cho thấy, chúng ta hay dùng phương tiện của Sự Dữ để chống lại Sự Dữ. Nhưng chúng ta được mời gọi nhận ra và làm cho sinh hoa kết quả « phần đất tốt » vốn có nơi chúng ta, nhận ra « hạt giống » tốt lành đã được gieo, và vẫn được gieo cách quảng đại mỗi ngày. Bởi vì, chúng ta được dựng nên bởi Ngôi Lời (x. St 1 và Ga 1, 3), theo hình ảnh của Ngôi Lời và cho Ngôi Lời. Và chính Sự Thiện và những gì thuộc về Sự Thiện có sức mạnh lấn át Sự Dữ và những gì thuộc về Sự Dữ, tương tự như ánh sáng phá tan bóng tối một cách tự nhiên và tất yếu.
Theo hai dụ ngôn này, sự phân loại sau cùng là điều tất yếu, vì sẽ đến lúc ánh sáng, sự sống và sự thiện sẽ phải tách rời tuyệt đối khỏi bóng tối, sự chết và sự dữ; đó là lúc chúng ta phải trở về với Chúa hay vào ngày tận thế, và thời điểm này có thể làm cho chúng ta sợ hãi, bởi vì chúng ta hay tự xếp loại mình. Chúng ta hãy để cho Chúa « xếp loại » chúng ta: chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, được sinh ra và được tái sinh làm con Thiên Chúa trong Đức Ki-tô. Vì thế, trong Ngài, không còn bị lên án nữa (x. Rm 8, 1): chúng ta là giống tốt sinh ra lúa tốt, chúng ta là « cá tốt » chứ không phải cá xấu, là chiên chứ không phải là dê (x. Mt 25, 31-46). Chúa mời gọi chúng ta nhận ra, ước ao và nỗ lực sống mỗi ngày căn tính của chúng ta, ngang qua sự mỏng dòn và những thăng trầm của cuộc sống.
Chắc chắn, chúng ta sẽ là những « người công chính » (c. 43) vào thởi điểm tận cùng của cuộc sống và của thời gian, vào thởi điểm mà chỉ còn một mình Thiên Chúa mới có thể hành động mà thôi. Chúng ta là những người công chính không phải là do nỗ lực của chúng ta, vì chúng ta không thể tự tạo cho mình đức công chính của Nước Trời xuất phát từ con tim (x. Mt 7, 17-48), nhưng là đức công chính đích thực mà Đức Ki-tô chết và phục sinh ban cho chúng ta, như thánh Phao-lo nói:
Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang (Rm 8, 30)
4. Dụ ngôn hạt cải và nắm men
Hai dụ ngôn này diễn tả Nước Trời rất nhỏ bé và rất tự nhiên (nghĩa là không có những yếu tố “lạ thường” mà các dụ ngôn thường có), nhỏ bé và tự nhiên như chính hình thức (rất ngắn) và nội dung của dụ ngôn (hạt cải và nắm men nhỏ bé khiêm tốn). Tuy nhiên, niềm hy vọng mà hai dụ ngôn này có thể khơi dậy nơi tâm hồn người nghe thì rất to lớn và rất siêu nhiên:
Niềm hy vọng to lớn. Bất chấp tất cả, bất chấp Sự Dữ, bất chấp những hoàn cảnh khó khăn hay bất lợi, bất chấp những giới hạn, yếu đuối, tội lỗi của loài người, của người khác, của anh em, của chị em và của chính chúng ta, bất chấp hạt giống rất nhỏ bé mong manh đang có trong thế giới, trong cộng đoàn và trong lòng chúng ta, Nước Trời mà chúng ta hy sinh cả đời để xây dựng trong hành trình đi theo Đức Ki-tô trong ơn gọi gia đình hay ơn gọi dâng hiến, tất yếu sẽ hiện hữu, lớn mạnh và đạt tới sự viên mãn. Hình ảnh cây cải cành lá sum suê đến độ chim trời làm tổ trên cành được và hình ảnh cả ba thúng bột dậy men diễn tả sự viên mãn tất yếu của Nước Trời.
Niềm hy vọng siêu nhiên. Bởi vì đó chỉ có thể là công trình của Thiên Chúa, công trình kì diệu diễn ra trước mắt chúng ta. Thật ra, ngay trong tiến trình lớn lên tự nhiên của hạt cải, tiến trình dậy men tự nhiên trong ba thúng bột, đã có điều gì đó là siêu nhiên rồi, trong mức độ con người không thấu suốt và làm chủ được hoàn toàn.
Điều mà hai dụ ngôn này muốn diễn tả, đang được thực hiện cho cộng đoàn chúng ta, cho từng người chúng ta mỗi ngày ngang qua việc đọc và cầu nguyện với Lời Chúa, ngang qua Thánh Lễ được cử hành và ngang qua ngày sống được nuôi dưỡng bằng Lời và Mình của chính Đức Ki-tô. Từng ngày và từng ngày, dù bất cứ điều gì đã xẩy ra trong nội tâm của chúng ta, tất cả chúng ta, từng người và cả cộng đoàn, đã được Chúa gieo hạt giống và tất cả đã được Chúa vùi vào một nắm men. Hạt giống và nắm men thật nhỏ bé và mong manh, nhưng tất yếu sẽ trở nên to lớn và bền vững. Bởi vì đó là sức mạnh tất yếu của Lời Chúa. Hạt giống và nắm men chính là Lời Chúa.
Lời TA, một khi xuất phát từ miệng ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.
(Is 55, 11)
Trong bữa tiệc li, theo Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu nói: « Anh em là bạn của Thầy » và « Không có ai có tình yêu lớn hơn người từ bỏ sự sống cho những người bạn của mình » (Ga 15, 13-14). Qua hành vi trao bánh và rượu cho các môn đệ, qua hành vi rửa chân của các ông, Đức Giêsu muốn thánh Phê-rô và tất cả chúng ta hiểu ra rằng, Ngài không chỉ muốn gieo Lời của Ngài, nhưng còn muốn gieo chính bản thân của Ngài. Vì Lời của Ngài và Ngôi Vị của Ngài là một. Hạt giống và nắm men chính là Sự Thiện và Sự Sống nơi Đức Kitô, mạnh hơn Sư Dữ và Sự Chết, chính vì vậy mà sự viên mãn của Nước Trời là tất yếu.
5. Dụ ngôn kho báo và ngọc quí
a. Dụ ngôn kho báu
Một người đi bán tất cả những gì mình có để mua một thủa ruộng. Hành động của người này vừa tận căn và vừa kì lạ.
Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.
Tận căn, vì người này bán tất cả những gì mình có; tính tận căn hệ ở « tất cả », chứ không phải một phần. Như thế, ngang qua quyết định bán tất cả, người này dấn thân hoàn toàn và dứt khoát. Và chúng ta có thể nói rằng, ở đâu có sự dấn thân hoàn toàn và dứt khoát vì điều gì đó, có giá trị lớn lao, ở đó có sự hiện diện của Nước Trời.
Kì lạ, bởi vì người này đi bán tất cả những gì mình có, nhưng rốt cuộc là để mua một thủa ruộng, bề ngoài xem ra rất bình thường; hơn nữa, anh ta còn thực hiện việc mua bán này trong niềm vui. Đúng là thủa ruộng này không giống như các thủa ruộng khác, nhưng không ai biết chuyện này, chuyện thủa ruộng mà người này mua có ẩn chứa kho tàng. Người này có kinh nghiệm đích thân khám phá ra kho tàng và chôn dấu lại.
Như thế, điều làm cho người này dấn thân trọn vẹn và dứt khoát, đó là khám phá ra một cách đích thân điều thuộc bình diện bí ẩn, chứ không phải lộ ra bên ngoài, nhưng có giá trị rất lớn lao, lớn lao đến độ mang lại cho anh niềm vui, đi bán tất cả, từ bỏ tất cả để sống với kho tàng được chôn dấu trong thủa ruộng. Đó là gì nếu không phải là Ngôi Vị tuyệt vời của Đức Ki-tô hiện diện cách kín ẩn trong những trang sách có vẻ bình thường của Kinh Thánh, và Ngài cũng hiện diện nơi những gì và những ai bé nhỏ, hiền lành và khiêm tốn.
b. Dụ ngôn ngọc quí
Dụ ngôn viên ngọc quí dường như có cùng một sứ điệp như dụ ngôn kho báu:
Một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.
Tuy nhiên, nếu chúng ta để ý, vẫn có sự khác biệt đầy ý nghĩa giữa hai dụ ngôn: trong dụ ngôn thứ nhất, Đức Giê-su nói: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn dấu trong ruộng…”; nhưng trong dụ ngôn thứ hai: “Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp”. Như thế, dụ ngôn thứ nhất nhấn mạnh đến đối tượng được tìm thấy, còn dụ ngôn thứ hai mời gọi chúng ta chú ý đến người đi tìm.
Vậy, chúng ta có đang đi tìm những gì có giá trị lớn lao không? Đó là những gì? Chúng ta đã tìm thấy chưa? Nếu đã tìm thấy, đâu là quyết định của chúng ta?
Chủ đề: Thiên Chúa luôn ban những sự tốt lành cho chúng ta
"Nước Trời giống như kho báu giấu trong ruộng" (Mt 13,44)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Hằng ngày, hằng phút, hằng giây chúng ta sống trong tình thương ấp ủ của Thiên Chúa. Nhưng chúng TN 17-A169
Hằng ngày, hằng phút, hằng giây chúng ta sống trong tình thương ấp ủ của Thiên Chúa. Nhưng chúng ta không ý thức điều đó, cho nên nhiều khi chúng ta bi quan chán nản, và mặt khác chúng ta không đáp lại tấm lòng của Chúa.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy nhớ đến những ơn lành Chúa đã ban, và khơi lên trong lòng mình những tâm tình cảm mến và biết ơn Ngài.
II. Gợi ý sám hối
Chúng ta ít suy gẫm về tình thương của Chúa đối với chúng ta.
Chúng ta ít biết ơn Chúa mặc dù đã nhận được rất nhiều ơn từ bàn tay rộng rãi của Ngài.
Ơn quý trọng nhất mà Chúa ban cho ta là Nước Trời. Nhưng xem ra chúng ta không coi trọng ơn này.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (1V 3,5.7-12)
Salomon lên ngôi vua kế vị Ðavít. Salomon biết mình còn trẻ nên thiếu khả năng. Ông cũng biết rằng trách nhiệm rất nặng nề. Ông còn ý thức rằng vương quyền của ông là do Thiên Chúa ban, để phục vụ cho dân của Chúa. Bởi vậy khi Thiên Chúa bảo ông muốn xin bất cứ điều gì thì Ngài sẵn sàng ban cho, Salomon chỉ xin một điều duy nhất, đó là được khôn ngoan. Thiên Chúa rất hài lòng về lời xin đó, nên đáp lại Ngài chẳng những ban cho ông được khôn ngoan, mà còn nhiều ơn khác nữa.
2. Ðáp ca (Tv 118)
Thánh vịnh này cảm tạ Chúa vì Ngài đã ban Luật cho dân Ngài. Tác giả rất đề cao Luật Chúa:
Luật pháp Chúa quý hơn vàng bạc châu báu Luật pháp Chúa là nguồn vui sướng Luật pháp Chúa là phần gia nghiệp
3. Tin Mừng (Mt 13,44-52)
Ðoạn Tin Mừng này gồm 3 dụ ngôn:
Hai dụ ngôn đầu (kho báu dấu trong ruộng và viên ngọc quý) dạy rằng Nước Trời là thứ quý giá nhất, đáng cho người ta bán mọi thứ để đổi lấy.
Dụ ngôn thứ ba (mẻ lưới gồm nhiều thứ cá) mang cùng một ý nghĩa với dụ ngôn lúa và cỏ lùng (Tin Mừng tuần vừa qua): Hiện tại trong Nước Trời có người tốt và kẻ xấu lẫn lộn. Nhưng đến ngày tận thế thì sẽ có sự lọc lựa: kẻ tốt sẽ được thưởng, còn kẻ xấu sẽ bị phạt.
4. Bài đọc II (Rm 8,28-30)
Thánh Phaolô nói đến tình thương Thiên Chúa đối với kẻ mến yêu Ngài:
Ngài giúp họ được sự lành Ngài kêu gọi họ nên thánh Ngài tiền định cho họ nên giống hình ảnh Con của Ngài. Ngài kêu gọi họ và sẽ ban cho họ được vinh quang.
IV. Gợi ý giảng
1. Thương thì cho
Thương thì cho: thương ít cho ít, thương nhiều cho nhiều. Nếu muốn biết người nào đó thương mình thật không thì hãy xem người đó có cho mình cái gì không.
Nhưng nói như trên cũng chưa đúng lắm, vì còn tuỳ của cho là tốt hay xấu, có ích hay có hại đối với người nhận nữa. Người ta nuôi chim bồ nông, hằng ngày cho chúng ngửi thuốc phiện. Rồi người ta tròng vào cổ chúng một cái vòng, xong thả chúng đi kiếm cá trên mặt biển. Vì có cái vòng trên cổ nên những chú bồ nông này chỉ nuốt được những con cá nhỏ. Còn cá lớn thì chúng cứ ngậm trong miệng. Tới lúc cơn ghiền thuốc phiện hành, chúng bó buộc phải trở về tàu, nhả cá lớn ra. Những người nuôi chim này cũng cho, nhưng không phải vì thương các chú chim bồ nông kia đâu. Thương thật thì phải cho những thứ tốt, những thứ có ích cho người nhận.
Thiên Chúa yêu thương loài người, và thương thật tình.
Chính vì thương nên có nhiều điều tuy chúng ta cứ nằng nặc xin Ngài nhưng Ngài biết có hại cho chúng ta nên Ngài không cho.
Ngài cho chúng ta những điều mà Ngài biết là tốt nhất, có ích cho chúng ta nhất. Ðó là những điều mà các bài đọc hôm nay kể cho ta biết: sự khôn ngoan, luật Chúa, ơn làm con Chúa và nhất là Nước Trời.
2. Ơn khôn ngoan
Bài đọc 1 khiến chúng ta nhớ lại những chuyện về những lời ước: một vị thần tiên cho hai vợ chồng nghèo 3 điều ước. Chồng ước một thứ, vợ ước một thứ ngược lại, cuối cùng họ đã sử dụng hết 3 điều ước nhưng nghèo vẫn hoàn nghèo.
Chuyện vua Salomon cũng thuộc loại đó, nhưng ý nghĩa lại rất khác. Vua Salomon xem ra "dại" nhưng thực ra là quá "khôn". Chúa đã bảo ông: "Ngươi muốn gì cứ xin, Ta sẽ ban cho ngươi". Ông dại quá, không xin giàu có, không xin sống lâu, không xin một thế lực hùng mạnh... mà lại xin khôn ngoan. Tuy nhiên thực ra ông quá khôn, bởi vì khôn ngoan là nền tảng và nguồn gốc của mọi thứ khác: nhờ khôn ngoan nên sau đó ông giàu có, triều đình ông vững bền, đất nước ông giàu mạnh... và nhất là ông được Thiên Chúa che chở bảo vệ.
Trong 7 ơn của Chúa Thánh Thần, đứng đầu là ơn Khôn ngoan.
Khôn ngoan là gì? Thưa là nhận biết cái gì là đúng cái gì là sai, cái gì là chính cái gì là phụ, cái gì là quan trọng cái gì là thứ yếu, cái gì là bền vững cái gì là chóng qua. Sách Thánh còn chỉ cho chúng ta biết: "Kính sợ Chúa là đầu mối sự khôn ngoan" Chúng ta hãy tự kiểm điểm xem chúng ta có khôn ngoan hay không:
Nhiều người ham tiền. Ðối với họ, tiền là trên hết, hay nói cách khác, không có gì trọng bằng tiền. Nhưng thử hỏi tiền có bền vững mãi mãi không? Dĩ nhiên là không. Rất nhiều bằng chứng về điều này... Vậy, người suốt đời lo kiến tiền và chạy theo tiền là người dại.
Nhiều người hám danh. Họ ham được khen, họ thích địa vị. Họ bỏ tiền ra để mua danh. Nhưng thử hỏi Danh có bền vững mãi không? Cũng không. Và cũng có rất nhiều bằng chứng... Cho nên hám danh cũng là dại.
Nhiều người mê tình: tình yêu trai gái, tình bạn, tình dục v.v. Cũng thế thôi.
Một câu chuyện: Người kia có 3 người bạn. 2 người trước là bạn rất thân, người thứ ba thường thường vậy thôi. Ngày kia ông bị tòa bắt xử liền xin 3 người bạn đi theo để biện hộ. Người bạn thứ nhất từ chối ngay, viện cớ bận việc quá không đi được. Người thứ hai bằng lòng đi đến cửa quan nhưng lại không dám vào. Chỉ có người thứ ba tuy không được ông yêu thích nhưng tỏ ra trung thành vào tận tòa án biện hộ cho ông ta không những trắng án mà còn được thưởng nữa.
Người bạn thứ nhất là Tiền bạc. Khi ta chết, tiền bạc bỏ rơi ta, chỉ để lại cho ta một chiếc chiếu và một cái hòm. Người bạn thứ hai là Bà Con Bạn Hữu. Họ khóc lóc đưa ta tới huyệt rồi về. Người bạn thứ ba là các Việc Lành. Chúng theo ta đến tòa phán xét và đưa ta vào cửa thiên đường. (Trích "Phúc")
3. Bỏ để được
Bỏ ít để được nhiều là khôn. Bỏ cái tầm thường để được cái quý giá là khôn.
Hai người trong bài Tin Mừng hôm nay rất khôn ngoan: người thứ nhất khám phá một kho tàng dấu trong một thửa ruộng. Anh vội về nhà bán hết tài sản rồi trở lại mua thửa ruộng đó. Người thứ hai thấy được một viên ngọc quý, cũng về nhà bán hết tài sản để trở lại mua viên ngọc quý đó. Ai trong chúng ta khám phá một kho tàng hay một viên ngọc quý mà không làm như hai người ấy! Ðương nhiên chúng ta sẽ làm như họ thôi. Chúng ta dám bỏ tất cả vì chúng ta biết mình sẽ được lại cái còn quý giá hơn nhiều.
Qua bài Tin Mừng này, Ðức Giêsu không dạy chúng ta cách kiếm thêm nhiều tiền bạc của cải, mà dạy chúng ta kiếm một thứ còn quý hơn tiền bạc của cải vô cùng, đó là Nước Trời. Tiền bạc của cái mang lại sung sướng về vật chất, Nước Trời mang hạnh phúc cả vật chất lẫn tinh thần, cả tự nhiên lẫn siêu nhiên. Tiền bạc của cải giúp ta sung sướng đời này, Nước Trời làm ta hạnh phúc mãi mãi.
Chúng ta dám bỏ tất cả để được một kho tàng, để được một viên ngọc quý. Tại sao chúng ta không dám bỏ tất cả để được Nước Trời?
4. Chuyện minh họa
a/ Tìm lại được kho báu của mình
Một viên chức kia luôn cố gắng vươn lên ngày càng cao trên chiếc thang danh vọng, vì thế mà ông bỏ hết thời giờ và công sức vào việc tạo dựng sự nghiệp, chẳng còn thời giờ chăm sóc vợ con, cũng chẳng có giờ để giải trí. Nhìn cách sống của ông, ai cũng biết kho báu mà ông tìm nằm ở đâu.
Thế rồi ông bị một cơn đau tim quật ngã, phải vào bệnh viện, nằm ở đấy nhiều ngày trong tình trạng hôn mê. Trong những cơn mê, ông thấy lại cuộc sống của mình, những công việc của mình và những người mình gặp gỡ. Và ông cảm thấy mọi sự, mọi người đều như xa lạ quá. Cảm giác ấy khiến ông rất cô đơn và chán nản. Một ngày kia ông bắt đầu tỉnh lại, ông thấy một số khuôn mặt mờ mờ hiện ra trước mắt. Một lúc sau nhìn rõ hơn thì đó là những khuôn mặt của vợ con ông, những người duy nhất ngày đêm túc trực bên giường bệnh của ông, trong khi các bạn bè đồng nghiệp đều biến đâu mất hết.
Biến cố ấy đảo ngược lại mọi giá trị đời ông. Nó giúp ông hiểu rằng gia đình chính là mục tiêu ông phải nhắm tới và cũng chính là kho báu của đời ông.
b/ Kho tàng chôn dưới đất
Một anh thợ may nằm mơ gặp một vị thần cho biết là có một kho báu chôn dưới đất trong sân của hoàng cung. Anh liền lên đường tìm đến hoàng cung. Tuy nhiên anh không vào được vì ở đó lính gác đông quá. Nhưng anh không bỏ cuộc. Anh nán lại đấy nhiều ngày và tìm cách kết thân với vị chỉ huy. Khi đã thân thiết với nhau rồi, anh thành thật bày tỏ ý định của mình là vào hoàng cung đào lấy kho báu. Anh đề nghị vị chỉ huy hợp tác và hứa sẽ chia đôi.
Vị chỉ huy nghe xong phì cười và cũng chia xẻ lại: Tôi cũng vừa có một giấc mơ, trong đó tôi cũng thấy một vị thần cho biết là có một kho báu đang chôn trong sân nhà của một người thợ may giống hệt như anh vậy.
Nghe xong, người thợ may vội vàng trở về nhà và đào bới mảnh đất sau vườn. Quả thật ở đó có một kho vàng.
Lời bàn: Kho báu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người được chôn dấu không phải ở đâu xa, mà ngay trong con tim người đó.
c/ Kho tàng bị quên lãng
Vincent Van Gogh là một họa sĩ nổi tiếng thế giới. Một hôm ông bệnh nặng, và dĩ nhiên phải gọi bác sĩ đến. Sau một thời gian điều trị lâu dài, ông khỏi bệnh. Nhưng vì không có tiền trả cho bác sĩ nên Van Gogh đã cố gắng vẽ một bức tranh để tặng. Tuy nhiên ông bác sĩ này không thích hội họa nên cũng chẳng biết thưởng thức bức tranh. Ông lấy nó làm tấm chắn cửa sổ. Với thời gian, nắng mưa đã làm cho bức tranh ấy hư hao dần và cuối cùng mục nát.
Về sau, người ta tìm thu thập những bức tranh của Van Gogh. Mỗi bức trị giá hàng trăm ngàn đôla. Nhưng có một bức không ai tìm lại được. Ðó chính là bức tranh nhà danh họa đích thân vẽ tặng cho vị bác sĩ nọ.
Lời bàn: Thiên Chúa cũng tặng cho mỗi người chúng ta một kho tàng vô giá là phẩm vị làm con của Ngài. Ðừng để nó bị tàn phai hủy hoại như bức tranh kia.
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Nước Trời quả là một kho tàng vô giá, một viên ngọc quý báu mà bất cứ người khôn ngoan nào cũng đều nhất quyết chiếm cho bằng được. Với ước mong chiếm hữu được Nước Trời, chúng ta cùng dâng lời cầu xin. 1. Chúa đã trao phó cho Ðức Thánh Cha nhiệm vụ săn sóc Hội Thánh trên khắp hoàn cầu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho Người được lòng tin mạnh mẽ / lòng trông cậy vững vàng / và lòng yêu mến thiết tha. 2. Xưa Chúa đã lưu lạc nơi đất khách quê người / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa an ủi đỡ nâng / những kẻ đang phải sống xa gia đình / xa quê hương yêu dấu của mình. 3. Giáo lý của Chúa thật quý báu và cần thiết biết bao / cho đời sống đức tin của người kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết chuyên cần học hỏi giáo lý của Chúa / để nhờ đó mà hiểu biết yêu mến Chúa nhiều hơn. 4. Muốn được vào Nước Trời / người tín hữu phải từ bỏ những gì không phù hợp với lề luật Chúa / chấp nhận hy sinh gian khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết chọn con đường hẹp là con đường dẫn đến cõi trường sinh.
CT: Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì đã ban cho chúng con được phúc làm con Chúa, được Hội Thánh là mẹ chăm sóc, được Tin Mừng Chúa hướng dẫn trong cuộc sống thường ngày. Xin cho cuộc đời chúng con là một lời cảm tạ Chúa không ngừng. Chúng con cầu xin nhờ...
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Ðức Giêsu đã hứa "Hãy xin thì sẽ được". Ngài còn dạy chúng ta những điều tốt nhất cần phải xin trong Kinh Lạy Cha. Trong tâm tình con thảo, chúng ta hãy sốt sắng xin những điều ấy trong lời kinh sau đây.
VII. Giải tán
Chúng ta sung sướng biết mình đang sống trong tình thương ấp ủ của Thiên Chúa là Cha chúng ta. Chớ gì tâm tình này luôn tràn ngập tâm hồn chúng ta suốt cả tuần này.
Chúng ta đang suy niệm về những dụ ngôn Nước Trời. Chúa nhật vừa qua chúng ta đã suy nghĩ TN 17-A170
Chúng ta đang suy niệm về những dụ ngôn Nước Trời. Chúa nhật vừa qua chúng ta đã suy nghĩ về dụ ngôn ruộng lúa có cỏ lùng, hôm nay chúng ta tiếp tục suy nghĩ về những dụ ngôn Nước Trời mà thánh Matthêu đã gom lại trong một chương những dụ ngôn được rao gỉảng đó đây trong cuộc đăng trình rao giảng của Chúa Giêsu.
Những dụ ngôn không có gì khó hiểu, chỉ khó là chúng ta có thấy được mối liên hệ gì trong dụ ngôn đó không? Những dụ ngôn cũng là những bài học thực tế Chúa Giêsu dùng để khuyến dụ mọi người tìm được ý nghĩa của cuộc sống, và đạt đến đích điểm của cuộc sống.
Những dụ ngôn kho tàng và viên ngọc quí gần như có một chủ đích như nhau.
Kho tàng chôn giấu trong thửa ruộng. Chúa Giêsu muốn nói đến giá trị tuyệt đối của Nước Trời. Nước Trời được so sánh với một kho tàng quí báu đến nỗi người nào tìm được sẽ vui mừng đến nỗi tìm hết mọi cách để đoạt cho bằng được kho tàng, dù bán cả gia tài cũng sẵn sàng. Vấn đề ở đây là kho tàng không dễ thấy vì nó bị chôn giấu trong thửa ruộng. Nước Trời không là một thực tại dễ nhận ra mà là một thực tại bị chôn vùi trong cuộc sống, giữa bao nhiêu biến cố của cuộc sống. Phải tìm kiếm mới có thể tìm được.
Chúng ta có ra công tìm kiếm Nước Trời không? Chúa nói: “Ai tìm thì sẽ gặp”. Chúng ta có tìm không? Chúng ta có biết Nước Trời là kho tàng quí giá không? Không mấy người biết vì thế không mấy người cố công tìm kiếm. Kho tàng đó chứa đựng những gì, Chúa Giêsu không nói rõ chỉ nói rằng người tìm được vui mừng và về nhà bán hết tài sản để mua lấy thửa đất có chứa kho tàng. Trong dụ ngôn về viên ngọc quí, Chúa Giêsu cũng nói như thế. Người tìm được viên ngọc quí đã vui mừng về bán hết tài sản để mua viên ngọc quí đó. Chúa muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng, giá trị tuyệt đối của Nước Trời. Nước Trời có gì quí giá đến nỗi người ta dám bán cả gia tài sản nghiệp để mua cho bằng được? Chúa Giêsu không nói rõ, nhưng cách nói của Chúa có thể cho chúng ta thấy rằng không có gì trên trần gian này có thể so sánh với Nước Trời, và phải mua với giá cao nhất.
Trên trần gian này chúng ta thấy mọi sự đều tan biến. Những công trình đồ sộ nhất trong thế giới cũng theo thời gian tàn tạ, nhiều công trình vĩ đại chỉ còn là kỷ niệm, là vết tích của một thời nào đó. Những con người danh tiếng nhất cũng chỉ còn là những cái tên mà chỉ có một số người biết. Mọi sự chỉ là tương đối. Chỉ có cái gì tuyệt đối mới thực sự có giá trị. Nước Trời không nằm trong số những gì vật chất mà là sự sống đời đời, không tan biến theo thời gian, không bị ảnh hưởng của thời gian.
Con người hôm nay, dù giàu có hay tiến bộ đến mức nào, cũng mang trong tâm hồn một sự thiếu thốn vì họ không thể hạnh phúc thực sự. Sự chết vẫn là một nỗi ám ảnh khôn nguôi. Đứng trước thế giới, con người vẫn thấy mình nhỏ bé, bất lực. Những trận bão táp, những cơn động đất hay một cơn sóng thần cũng cho họ thấy, mình chỉ là một tạo vật nhỏ bé thôi. Vì cảm thấy mình mong manh và không tìm được hạnh phúc, con người càng thắc mắc về cuộc sống, và háo hức tìm mọi cách để được hạnh phúc, nhưng hình như cũng không thành công. Chúng ta cũng đang tìm hạnh phúc, nhưng chúng ta, những kẻ tin, vẫn có chỗ nương tựa vì Chúa chính là hạnh phúc của chúng ta. Nước trời là đó, là cái gì con người không tìm được, và nếu có tìm được thì chỉ là một thứ hạnh phúc vật chất, không bảo đảm. Chúng ta có thể hạnh phúc và chính Chúa là hạnh phúc thật, là hạnh phúc vững bền, sung mãn.
Nước Trời chính là kho tàng được chôn giấu trong lòng đất. Ai tìm được sẽ vui mừng. Hai dụ ngôn về kho tàng và viên ngọc quí có cùng một ý nghĩa, là niềm vui cho người tìm được.
Thế giới của chúng ta vẫn thiếu niềm vui, niềm vui nhẹ nhàng sâu thẳm và bền vững. Những niềm vui vật chất chỉ là một lúc, ngắn ngủi và mong manh. Niềm vui thật chỉ có trong tâm hồn.
Thánh Phanxicô Assisi, khi đã tìm được Chúa đã bỏ hết mọi sự, kể cả cha mẹ gia đình để theo Chúa, Phanxicô đã thấy vui mừng khôn tả. Cả đời chỉ có một manh áo dính da, thế nhưng ngài đã hạnh phúc. Đối với Phanxicô, Chúa là tất cả. Ngài đã tìm được kho tàng quí giá. Ngài đã đạt được niềm vui. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng vậy và tất cả các thánh mà chúng ta biết đều giống nhau ở điểm đó. Họ đã tìm được kho tàng và dám hy sinh tất cả để đoạt được kho tàng đó là Chúa Giêsu. Các ngài dám bán tất cả, chúng ta dám như thế không? Chúng ta có biết kho tàng đó quí như thế nào không? Nếu chúng ta biết giá trị của kho tàng đó, chúng ta đã sống khác rồi. Đối với chúng ta cái gì quí nhất hôm nay? Có phải là Giêsu không hay là tiền, hưởng thụ, sung sướng thế gian? Trong chúng ta mấy người đã tìm được kho tàng và viên ngọc quí đó?
Tại sao chúng ta không vui? Tại sao chúng ta nặng nề kéo lê cuộc sống của chúng ta? Phải chăng vì chúng ta chỉ biết kho tàng trần gian mà không biết kho tàng trên trời? Ai cũng biết mọi sự chỉ là tro bụi, nhưng hình như chúng ta thích tro bụi hơn? Nó thỏa mãn những nhu cầu thân xác chúng ta, nó đáp ứng những ước mơ sung sướng của chúng ta. Còn Chúa? Hình như Chúa xa vời quá! Không, Chúa không xa như chúng ta tưởng. Ngài vẫn đứng ngoài và gõ cửa, Ngài mời gọi mọi người vào niềm vui của Ngài, vào bàn tiệc yêu thương của Ngài. Chúa luôn mời gọi chúng ta vào tình yêu đang đón chờ của Ngài. Nhưng tình yêu không là một cái gì có sẵn mà là một tìm kiếm không nguôi. Tình yêu là kho tàng được chôn giấu trong vùng đất cuộc sống. Chúng ta phải khám phá ra Thiên Chúa Tình Yêu mới thấy rằng cuộc đời là đáng sống, cuộc đời là một hồng ân không thể mua bằng tiền.
Đừng đánh mất tình yêu. Đừng đánh mất Thiên Chúa vì vắng Chúa cuộc đời sẽ trở thành vô nghĩa. Tại sao con người hôm nay chỉ biết tiền bạc, giàu sang hưởng thụ? Vì họ không biết Thiên Chúa. Họ cần một bảo đảm cho cuộc sống, nhưng không tìm đâu được, họ tìm cái gì có thể cho họ một chút bảo đảm, nhưng cũng không gì tồn tại và con người như một trẻ mồ côi không nơi nương tựa, và cái chết vẫn sờ sờ ra đó, đe dọa.
Chúng ta là những kẻ tin, hãy vui mừng vì chúng ta vẫn có chỗ nương thân. Thiên Chúa chính là nguồn hạnh phúc vững vàng không bao giờ suy giảm, chỉ cần tìm Ngài, tìm mãi cho tới khi tìm được. Khi chiếc lưới cuối cùng chụp xuống trên mọi người và ngư phủ lựa cá tốt bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném đi. Lúc đó chúng ta mới thấy cuộc đời có ý nghĩa gì. Lúc đó niềm vui của chúng ta mới trọn vẹn. Chúng ta đã tìm được kho tàng vĩnh cửu.
Trong khi chúng ta tìm kiếm Chúa, Thiên Chúa đã tìm chúng ta. Ngài đã đến và ở lại với chúng ta cho đến tận thế, bằng tấm bánh nhỏ, khiêm tốn, và Ngài mời gọi chúng ta đi vào cuộc tìm kiếm với Ngài và chính Ngài là của ăn để chúng ta đủ sức bước đi, không chán nản trên con đường gay go là cuộc sống cho đến khi đạt đến Tình Yêu.
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Ba dụ ngôn trong đoạn tin mừng nầy nằm ở phần cuối của loạt bảy dụ ngôn về Nước Trời (13 TN 17-A171
– Dụ ngôn kho tàng ẩn giấu (13,44); 6- Dụ ngôn viên ngọc quý (13,45-46); 7- Dụ ngôn lưới cá và giải thích (13,47-50); và những câu cuối là phần kết luận chung của các dụ ngôn trong chương 13 nầy (cc. 51-52). Các diễn từ nầy ngỏ với các môn đệ (c. 36). Từ thesaurus, “kho tàng” đóng khung đoạn nầy (cc. 44 và 53). Từ kryptō, “che giấu” liên kết các dụ ngôn nầy với dụ ngôn trước (cc. 35 và 44) Hai dụ ngôn Kho tàng và Viên ngọc đắt giá (cc. 44 và 45-46)
Hai dụ ngôn ngắn có cấu trúc tương tự nhau, gồm nhập đề với “Nước Trời giống như…” + chủ đề của dụ ngôn, và tiếp theo là các hành động tương tự của người trong dụ ngôn. Hai câu chuyện nầy có những từ ngữ chung với các dụ ngôn trước: Homoios, basileia tōn ouranōn, “Nước Trời cũng giống như”, kryptō, “(chôn) dấu” (13,35), anthropos, “người” (13,24.25.28…), argos, “ruộng” (13,24.27.31), panta, “tất cả” (13,32.34.41), chara, “vui mừng” (13,20), aperkhomai, “đi khỏi đó” (13,25.28.46). Các từ ngữ nầy giúp giải thích hai dụ ngôn nầy trong tương quan với các dụ ngôn trước.
Chủ đề của hai dụ ngôn nầy tương tự nhau. Dụ ngôn đầu tiên nói về thesauros, “kho tàng”, hiểu hoặc là nơi cất giữ những điều quý giá (2,11), hoặc là vật/điều/người quý giá. Dụ ngôn thứ hai nói về kalous margaritas, “những viên ngọc quý”, và người tìm kiếm đã gặp thấy polytimon margaritēs, “viên ngọc đắt giá”. Một viên ngọc đắt giá cũng là một kho tàng. Cả hai đều quý giá (x. 7,6). Vậy có thể giải thích hai dụ ngôn nầy chung với nhau.
Vài nhận xét:
– Từ parabolē, “dụ ngôn” (13,3.10.13.18.24.31.33.34.36) không thấy trong cc. 44, 45-46, và cả trong 47-50, và nó xuất hiện lại vào phần kết luận ở cuối chương 13 (c. 53), mặc dù vẫn dùng cụm từ “Nước Trời giống như…”;
– Mục đích của việc dùng dụ ngôn là để cho các môn đệ biết “những mầu nhiệm Nước Trời” (13,10-11a; x. 11,25.27). Chúa Giêsu đã giải thích riêng dụ ngôn lúa và cỏ lùng cho các một đệ (13,36-43). Đối với dân chúng và người nghe “họ không được cho biết” (13,11b). Họ “nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu (13,13);
– Kết thúc dụ ngôn men trong bột (13,33), Chúa Giêsu tuyên bố là Ngài dùng các dụ ngôn để nói cho biết “những điều đã được dấu, kekrymmeva, từ lúc khởi nguyên vũ hoàn” (13,35; x. Tv 78,2).
– Và ở đây Ngài nói đến kho tàng được chôn dấu, krytō (c. 44 [2x]), trong ruộng, và hạt ngọc đắt giá phải đi tìm kiếm mới gặp; hành động “tìm kiếm” (c. 45) hàm ý sự “che dấu” đối với con mắt và hiểu biết.
Như thế, “điều che dấu” mà Chúa Giêsu nói ra trong các dụ ngôn, chính là “những mầu nhiệm Nước Trời”, cũng là “lời của Nước Trời” (13,11). Và hai câu chuyện kho tàng và viên ngọc đắt giá (cc. 44 và 45-46) được kể ra nhằm nhấn mạnh việc đi tìm kiếm và mua cho được những mầu nhiệm Nước Trời nầy.
Thái độ trước tiên của người nghe là đi tìm kiếm (c. 45). Ai tìm kiếm sẽ gặp được (cc. 44.46; 7,7; 13,45tt; 21,22). Và hiệu quả khi tìm thấy kho tàng Nước Trời là niềm vui lớn, chara (c. 44; x. 2,10; 25,21.23). Hậu quả nầy kéo theo hành động là “bán tất cả những gì mình có” để mua lấy kho tàng. Cụm từ “bán tất cả những gì anh có/đã có” (cc. 44.46), được dùng trong cả hai câu chuyện. Cụm từ nầy hiểu là tất cả những gì một người có trên trần gian nầy (18,25). Chúa Giêsu đòi hỏi bán đi tất cả. Trong 19,21 có cả hai cụm từ “bán đi tất cả những gì mình có” và “kho tàng trên trời”, và người môn đệ của Chúa Giêsu, khi chịu “bán đi tất cả những gì mình có”, như điều kiện tiên quyết, mới được “kho tàng trên trời” (19,22; x. 10,39; 16,25).
Kho tàng là “những mầu nhiệm Nước Trời”, là chính Chúa Giêsu. Ngài được “che dấu” trong ruộng trần gian (x. 13,38). Muốn gặp Ngài, phải cất công tìm kiếm, và khi đã gặp được, phải bán đi tất cả mới có được Ngài.
Dụ ngôn Lưới cá và giải thích (cc. 47-50)
Dụ ngôn nầy làm liên tưởng đến dụ ngôn cỏ lùng và cảnh ngày phán xét (cc. 36-43). Giữa hai dụ ngôn có những tương đồng về từ ngữ: angelos, “thiên thần”, dikaios, “người công chính”, aiōn, “thời tận thế”, syllegō, “thu lại”, “khóc lóc và nghiến răng”. Dụ ngôn nầy tuy ngắn, gồm hai phần: Câu chuyện dụ ngôn (cc. 47-48), và Giải thích dụ ngôn (cc. 49-50). Dụ ngôn nầy tập trung nói về “kẻ dữ”, ponēros, và số phận của họ: bị tách ra khỏi “người công chính”, dikaios, và chịu hình phạt vào thời tận thế.
Câu chuyện dụ ngôn chiếc lưới mô tả hình ảnh của phán xét. “Nước Trời được ví như chiếc lưới rùng thả xuống biển và bắt đủ các loại cá” (c. 47). Sagēnē, là một loại lưới cá thả sâu tận đáy nước; “lưới rùng” (Nguyễn Thế Thuấn). “Lưới rùng dùng ở hồ Giênnezaret dài khoảng 250 đến 450 mét và khoảng 2 mét chiều rộng. Mỗi bên lưới có một sợi dây thừng buộc vào. Một bên lưới buộc những vật nặng dọc theo lưới để làm cho lưới chìm xuống; bên kia buộc phao hoặc gỗ nhẹ để làm cho lưới nổi lên. Người ta dùng thuyền kéo lưới ra khơi, rồi kéo vào bờ” (Luz, U., Koester, H.,Matthew 8-20: A Commentary, Minneapolis, 2001, p. 283).
“Đủ tất cả các loại”, nghĩa là cả cá tốt, kalos, lẫn cá xấu, sapros. Hai hạn từ kalos – sapros nầy, bàn về cách sống của mỗi người, cũng được Matthêô dùng để nói về các cây và trái của chúng, “Cây tốt thì sinh trái tốt…” (7,16-22; 12,33). Bởi đó trong phần giải thích của dụ ngôn, chúng được thay thế bằng ponēros “kẻ dữ” và dikaios, “người công chính”. Trong ngày phán xét, kẻ dữ và người công chính chịu phán xét về việc mình làm (25,37.46). Aigialos, “bãi biển” (cc. 2.48), đóng khung chương 13. Như cá đủ loại được kéo lên bãi biển, dân chúng sẽ được phân loại theo tiêu chuẩn tốt-xấu/kẻ dữ-người lành. Hình ảnh “ngồi và lựa ra” (c. 47) ám chỉ việc xét xử (19,28; 25,31; 26,64). Điểm nhấn mạnh của dụ ngôn nầy là số phận của kẻ dữ. Thiên thần sẽ tách kẻ dữ ra khỏi người công chính, như thợ gặt gom cỏ lùng lại và đem đi đốt trước khi thu lúa vào kho lẫm (13.30). Dụ ngôn nầy là một lời cảnh báo, nên không nói nhiều đến người công chính.
Vậy trong khi hai dụ ngôn kho tàng và viên ngọc đắt giá nói về khía cạnh tích cực của người tin vào Chúa Giêsu và thực hành giáo huấn của Ngài về Nước Trời, dụ ngôn lưới cá chú tâm đến số phận của người không tin vào những mầu nhiệm Nước Trời, nên không sống như Chúa Giêsu dạy.
Kết luận (cc. 51-52)
Gồm một mẫu đối thoại ngắn giữa Chúa Giêsu và các môn đệ (c. 51), và một dụ ngôn ngắn minh họa (c. 52).
Trong câu 51, Chúa Giêsu đặt vấn đề với các môn đệ về “hiểu các dụ ngôn”. Động từ syniēmi, “hiểu”, ở đây có nghĩa là hiểu ý nghĩa của các dụ ngôn liên quan đến cách sống. Tauta panta ám chỉ những điều Chúa Giêsu đã nói trong các dụ ngôn (c. 34). Trong chương 13, động từ syniēmi được dùng đến 5 lần, và có thể chia ra làm hai: người nghe mà không hiểu (cc. 13.14.15.19), người nghe và hiểu (cc. 23.51). Người nghe mà không hiểu thì điều họ nghe sẽ bị ma quỉ lấy đi (c. 19), và tất nhiên là không thể sinh hoa trái. Còn người nghe và hiểu, họ sẽ sinh nhiều hoa trái (c. 23). Các môn đệ hiểu, nên họ thuộc hạng người nầy.
Trong câu 52 Chúa Giêsu nói về một dụ ngôn. Dia touto, “về điều nầy”, dùng để khai triển thêm ý tưởng đã nói ở câu trước (6,25; 12,31; 13,31), chỉ việc các môn đệ hiểu các dụ ngôn. Việc hiểu các dụ ngôn Nước Trời liên quan đến kinh sư, grammateus. Bởi hiểu được các mầu nhiệm Nước Trời, người nầy trở nên kinh sư của/cho Nước Trời. Động từ mathētēuōđược dùng ởđây như một nội động từ (13,52; và cũng ở 27,57), có nghĩa là “được làm/trở thành môn đệ”, cũng có nghĩa là “được giáo huấn”; vì nhờ được thầy giáo huấn mà một người có thể trở thành môn đệ. Sau nầy khi đã hiểu được các mầu nhiệm Nước Trời, họ sẽđi làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Nước Trời, lần nầy động từ mathētēuō dùng như một ngoại động từ, “bằng cách dạy dỗ cho họ tất cả những điều Thầy đã truyền cho các con” (28,19-20).
Kinh sư nầy được ví như một oikodespotēs, “chủ nhà”, biết lấy điều mới điều cũ ra từ kho tàng mình. Chủ nhà là người biết biết rõ những gì thuộc về gia sản mình, biết khai thác và làm sinh hoa trái (20,1; 21,33). Kinh sư là người giảng dạy, giải thích đường lối của Thiên Chúa (23,10-12), biết rút ra từ kho tàng mầu nhiệm Nước Trời những điều mới vàđiều cũ. Hai tĩnh từ kainos, “mới” và palaios, “cũ” được dùng trong 9,16-17, nói về rượu mới (26,29), ám chỉChúa Giêsu. Như thế, điều mới ởđây chính là tin mừng của Chúa Giêsu; và điều cũ là“Lề luật và các ngôn sứ” (5,17). Chính việc hiểu các mầu nhiệm Nước Trời của các môn đệ làm cho họ trở thành kinh sư của/cho Nước Trời (23,34) và giúp họ biết sử dụng “điều mới” vàđiều cũ” cho tương hợp, “như rượu mới phải đổ vào bầu da mới” (9,14-17) trong vai trò kinh sự của họ.
Vậy ở các dụ ngôn cuối nầy, một đàng Chúa Giêsu nói đến sự vô giá của Nước Trời mà mỗi người phải làm tất cả để có thể được kho tàng nầy. Đàng khác, sẽ đến ngày ai không có được Nước Trời sẽ bị loại ra ngoài. Vậy hãy tìm kiếm để gặp được Chúa Giêsu, vàđi làm cho người khác nên môn đệ của Ngài.
Hầu hết các giáo xứ tại Nhật đã có Thánh lễ trở lại, tuy nhiên vẫn phải giữ mọi biện pháp phòng tránh TN 17-A172
Hầu hết các giáo xứ tại Nhật đã có Thánh lễ trở lại, tuy nhiên vẫn phải giữ mọi biện pháp phòng tránh dịch có thể. Được trở lại tham dự Thánh lễ trực tiếp là niềm vui mừng của biết bao nhiêu người, và cũng là thách thức tránh bị nhiễm bệnh và lây lan trong thời điểm này. Vì thế, với sự cộng tác và ý thức của người Công giáo, chúng ta cùng nhau sống đức tin, hầu vượt qua thời gian khó khăn và khủng hoảng này.
Một lần nọ, trong một dịp thảo luận chuyên đề, con có đặt ra một số câu hỏi đại loại như: “trong cử toạ, ai trong chúng ta muốn vào Nước Trời?”. Ngay sau câu hỏi, hàng trăm cánh tay giơ cao không chút do dự. Tuy nhiên, sau khi nghe con hỏi: “ngay lúc này đây (ngay bây giờ), ai trong chúng ta muốn về Nước Trời liền?”. Vừa nghe xong, cũng khá nhiều cánh tay giơ lên, nhưng rồi những cánh tay mới giơ cao ấy từ từ được bỏ xuống trong sự e dè, ngại ngần.
Thiết nghĩ, giả sử câu hỏi thứ hai được thay thế bằng một câu khác như: “ngay giờ phút ngồi đây, ai trong chúng ta muốn được qua Mỹ, qua Nhật hay qua các nước Châu Âu?”. Có lẽ mọi cánh tay đều được giơ lên cao một cách dứt khoát, không mảy may do dự! Phải chăng chúng ta kỳ vọng và ước mơ những gì không như Thiên Chúa mong mỏi “Nước Trời giống như kho tàng…, Nước Trời giống như người buôn đi tìm ngọc quý…Nước Trời giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá, nhưng chỉ chọn cá tốt, còn cá xấu thì ném ra ngoài”? (x. Mt 13, 44-48). Dường như chúng ta chưa được cảm nghiệm nhiều về Nước Trời! Chúng ta chưa được cảm nghiệm một cách sâu sắc đến nỗi biến đổi cuộc sống của mình hầu dám bỏ hết tất cả để được Nước Trời!
Một cách nào đó, chúng ta chưa dám khẳng khái xác tín như Thánh Phao-lô đã tin nhận rõ ràng trong thư gửi cho giáo đoàn Phi-líp-phê: “Họ là những người chỉ nghĩ đến những sự thế gian. Còn chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Ki-tô từ trời đến cứu chúng ta” (x. Pl 3, 19-20). Trong bản văn tiếng Việt đây, chúng ta chưa thấy rõ tính thuộc về Nước Chúa của mỗi Ki-tô hữu. Ít nhất, bản dịch Kinh Thánh tiếng Nhật và tiếng Anh giúp chúng ta nhận ra ‘quốc tịch đích thật’ của người Ki-tô là gì, và ‘thuộc về Nước Trời’ ra sao, “For our citizenship is in heaven (God’s Reign or Kingdom)” và “私たちの国籍は天(天の国)にある”. Trong chúng ta, ai cũng mang một quốc tịch nhất định và thuộc về một quốc gia nào đó, mà nơi đó chúng ta gọi là quê hương. Đối với quê hương ấy, không cần nói ra, chúng ta đều có tình cảm đặc biệt dành cho và mang niềm tự hào nhất định nào đó. Dẫu cho trải qua bao thăng trầm khó khăn nhất trong đời khiến nhiều người chúng ta phải rời xa xứ, xa quê hương, và rơi vào tình trạng vô quốc tịch hoặc đến một nơi bến bờ tự do, được nhận quốc tịch mới nào đi chăng nữa, thì tình cảm đau đáu sâu thẳm trong lòng của mỗi chúng ta dành cho quê hương, nơi mà chúng ta được sinh ra, nơi ‘chôn nhau cắt rốn’, nơi còn mồ mả ông bà tổ tiên…không thể nào tan biến hoặc ‘cuốn theo chiều gió’ hay ‘già nua theo năm tháng’! Hơn nữa, là một người Ki-tô hữu, khi được nhận lãnh bí tích Thanh Tẩy (lúc lọt lòng hay khi đã trưởng thành) thì chúng ta được mang lấy một ‘quốc tịch’ mới mà Thánh Phao-lô xác nhận và gọi là ‘quốc tịch đích thật’ hay ‘quốc tịch Nước Chúa/Nước Trời’. Và ‘quốc tịch’ này không mặc định chúng ta được vào Nước Trời khi chẳng cần sống đạo, mà đúng hơn là mở ra cánh cửa giúp chúng ta có cơ hội được tiến vào Nước Chúa sau khi chu toàn mọi bổn phận và sống đạo trung thành.
Để được nhập tịch một quốc gia nào đó, chúng ta phải hội đủ mọi điều kiện, tuân theo Hiến pháp của nước ấy. Trong khi đó, để được có ‘quốc tịch Nước Trời’, chúng ta không cần phải vượt qua những kỳ thi trong kỳ hạn nào, không cần phải chứng minh nhân thân, không cần hoàn thành một tá giấy tờ phức tạp, v.v…mà chúng ta được Thiên Chúa mời gọi, ban thưởng nhưng không, được bày biện cho chúng ta không dựa trên công trạng hay thành quả của chúng ta. Hơn hết, chỉ nhờ vào lòng thương xót, tình yêu thương Thiên Chúa dành cho chúng ta như Thánh Phao-lô trình bày cụ thể trong thư gửi cho giáo đoàn Rô-ma “những ai Người đã tiền định, thì Người cũng kêu gọi: nhưng ai Người đã kêu gọi, thì Người cũng làm cho nên công chính; mà những ai Người đã làm cho nên công chính, thì Người cũng cho họ vinh quang” (Rm 8, 30).
Và khi chúng ta được lãnh nhận ‘quốc tịch Nước Trời’ thì chúng ta cũng phải sống theo Hiến Chương Nước Trời (hay nói theo ngôn ngữ bình dân: là sống đạo) hầu được vào Nước Chúa cùng với chư Thánh, bao gồm cả ông bà cha mẹ, những người thân hữu đã được hưởng nhan Thánh muôn đời trước chúng ta. Nói một cách khác, chúng ta không thể ‘ngồi mát ăn bát vàng’ hay ‘ngồi chơi xơi nước’ hoặc ‘ngồi chờ sung rụng’, mà chúng ta phải cộng tác với ơn Chúa và nỗ lực trung thành sống đạo, hy sinh, bỏ hết những gì tạm thời để có cơ hội thuộc về Nước Trời vĩnh hằng: “Nước Trời như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia khi tìm được, vui mừng trở về bán tất cả để mua thửa ruộng ấy” (Mt 13, 44), và chịu đánh đổi mọi thứ chóng qua hầu đạt được “Nước Trời như ngọc quý. Tìm được viên ngọc quý, người buôn nọ về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy” (Mt 13, 45). Sau cùng, ngoài việc tận dụng sống với ơn Chúa, nỗ lực sống đạo mỗi ngày, chúng ta phải trở nên ‘cá tốt’ được chọn khi “Nước Trời giống như lưới thả bắt mọi thứ cá, nhưng khi kéo lên bãi, ngồi lựa ra cá tốt thì cho vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài” (x. Mt 13, 47-48). Và để đạt được mọi điều này, chúng ta cần xin ơn khôn ngoan phân định như Vua Sô-lô-mon đã chẳng xin gì từ Thiên Chúa ngoài ơn khôn ngoan, phân biệt lành dữ “vậy xin Chúa ban cho tôi tớ Chúa tâm hồn khôn ngoan để đoán xét dân Chúa, và phân biệt lành dữ, vì ai có thể xét xử dân này, một dân của Chúa đông đảo thế này?” (1V 3, 9). Chúng ta không xin ơn khôn ngoan nhận ra Thánh ý Chúa hầu như Vua Sô-lô-mon để lãnh đạo dân, nhưng có được ơn khôn ngoan biết đón nhận - thực thi theo ý Chúa; có được ơn khôn ngoan hầu phân định điều đúng - sai, điều gì cần làm và không nên làm…trong cuộc hành trình dương thế đầy cam go, chông gai, truân chuyên, nhiều nỗi buồn nhưng cũng lắm niềm vui.
Chúng con cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con ơn được làm công dân quê hương Nước Trời khi chúng con được lãnh nhận Bí tích Thanh Tẩy; Lạy Chúa, xin đồng hành nâng đỡ chúng con sống xứng đáng với ‘tư cách của công dân Nước Trời’ trong cuộc sống hằng ngày:
Nước Trời Chúa ban cho ta Chẳng vươn cao thẳm, không xa đời mình. Được gọi công dân an minh Quê hương đích thật, quang vinh muôn phần Khôn ngoan phân định thánh ân Sẵn sàng buông bỏ, lãnh phần Chúa trao. Amen!
“Rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có” (Mt 13,44-52) “Anh em có hiểu tất cả những điều ấy không?” “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng; tựa như thương gia đi tìm hạt ngọc quý và cũng giống như chuyện chiếc lưới cá thả xuống biển… Và đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy.”
Những dụ ngôn tiếp nối những dụ ngôn mà chúng ta được Chúa Giêsu giảng giải. Chuyện Nước Trời TN 17-A173
Những dụ ngôn tiếp nối những dụ ngôn mà chúng ta được Chúa Giêsu giảng giải. Chuyện Nước Trời thật đơn giản và dễ hiểu như những chuyện đời thường, nhưng quan trọng là chúng ta có hiểu hay có muốn hiểu hay không.
Nhiều người “thưa hiểu” nhưng thực sự chẳng hiểu, chẳng biết cái gì cả…
Vì họ cũng chỉ trả lời như cái máy, “theo phong trào”, cho nó vui, cho có bè có bạn. Bởi cách sống của họ là cái vỏ bề ngoài, là cái hình thức hấp dẫn “không đụng hàng” chứ không cần cái nội dung, cái chất lượng.Cái gật đầu của họ cũng chẳng qua là cho nó “có” với chúng bạn.
Vì họ hiểu theo “kiểu của họ”: Chúa phải là người phục vụ họ, làm theo ý muốn của họ và Chúa trở thành “con rối”của lòng tham.Rốt cục “họ nói hiểu mà thực chất chẳng hiểu gì!”.
Vì họ chỉ hiểu theo “nghĩa đen” và cuộc đời của họ là những chuyện quanh quẩn của những hành động “vơ, vét, vào”: là mong đạt được những gía trị trần thế,là có được của cải mối mọt xông đến được,để rồi ngày tận thế là một sự thất vọng và trở thành “kẻ bị loại trừ”.
Nhiều người “thưa hiểu” và quả thực họ hiểu được ý nghĩa sâu xa của những dụ ngôn về Nước Trời và dám can đảm đầu tư tất cả để tìm được những kho tàng vô gía và sự tồn tại của mình. Người đời vẫn thường dạy “có gan thì làm giàu”.Họ vui mừng ra về và bán hết tất cả những gì mình có để được Nước Trời.
Khôn ngoan của người hiểu biết là sự chọn lựa giữa những cái vô gía và cái “có giới hạn”.
Khôn ngoan của người thương gia là dám can đảm bán hết tất cả, đánh đổi tất cả để chiếm hữu cả kho báu.
Khôn ngoan của người hiền lành là biết đứng về phía cá tốt để “được chọn lựa” và “không bị vứt ra ngoài” trong ngày tận thế.
“Và đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy…. Họ đáp lại: thưa hiểu”
Chẳng ai dại mà nhặt cá xấu để bỏ vào giỏ, nhưng ngược lại.
Thiên sứ sẽ tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính.
Như chủ nhà lấy ra từ kho của mình cả cái xấu lẫn cái cũ,để lọai trừ. Và sẽ chẳng bao giờ có cơ hội lần thứ hai, cho bất kỳ ai và cho cả chính chúng ta.
Người đời vẫn thường nói “Khôn chết, dại chết, biết sống”. Qủa thế,người hiểu biết là người khôn ngoan hơn cả.Biết, vì không ai chết hoặc chịu thưởng phạt cho ai cả. Biết, vì mọi người phải tự quyết định đời mình mà không ai có thể giúp gì cho ai được. Biết, vì tốt xấu sẽ được phân định một cách rõ ràng mà chẳng ai đứng ra biện hộ hoặc phân bua cho ai được cả. Chúa đã ban cho chúng ta sự tự do và mỗi người phải chịu trách nhiệm về chính sự tự do của mình.
Họ đáp “thưa hiểu” và Chúa đã dạy “hãy biết tận dụng cả cái mới cái cũ trong kho của mình” để đầu tư cho sự chọn lựa của chính đời mình. Cái khôn của người hiểu biết là can đảm “bán hết tất cả” để có được cái vĩnh cửu,cái đời đời, không mối mọt và hư họai.
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sáng suốt chọn lựa cứu cánh cho cuộc đời mình và xin cho chúng con “biết liều” với sự chọn lựa đúng đắn để trở thành “cá tốt” được bỏ vào giỏ. Xin giúp mỗi người chúng con luôn can đảm, kiên trì sống với chính sự chọn lựa của mình trong tin tưởng, tín thác vào tình thương Chúa. Amen.
Với Tin mừng hôm nay chúng ta tiếp tục được nghe thêm những dụ ngôn của Chúa Giêsu trong đó TN 17-A174
Với Tin mừng hôm nay chúng ta tiếp tục được nghe thêm những dụ ngôn của Chúa Giêsu trong đó có hai dụ ngôn “Viên ngọc quí” và “kho tàng chôn giấu” được coi là dụ ngôn sinh đôi vì có cùng một ý nghĩa là khi khám phá ra thì cả hai người đều vui mừng bán đi tất cả những gì mình có để sở hữu được kho tàng hay viên ngọc quí đó nhưng cũng có vài chi tiết khác nhau như sau:
Dụ ngôn viên ngọc quí do người đi buôn gặp được không phải do vô tình nhưng vốn trong nghề buôn bán, người này đã có ý đi tìm và mãi tới nay mới gặp được. Còn người đi cày thì vô tình tìm thấy kho tàng chôn giấu trong ruộng mà anh đang cày. Kho tàng này không phải do tổ tiên để lại, cũng không phải do anh công khó vất vả mới tìm được nhưng hoàn toàn là một sự tình cờ may mắn.
Điều giống nhau là cả hai người đều nhận biết giá trị cực cao của viên ngọc quí cũng như của kho tàng chôn giấu nên họ đều xử sự giống nhau là vui mừng về nhà bán đi tất cả những gì mình đang có để mua viên ngọc hay thửa ruộng đó. Người đi cày khám phá ra tất nhiên phải vùi lấp kho tàng lại rồi mới đi mua ruộng vì một khi làm chủ được thửa ruộng thì anh ta mới có quyền sở hữu kho tàng.
Qua dụ ngôn này Chúa Giêsu muốn nói lên sự cao quí của Nước Trời cũng như của Tin Mừng và là chính Chúa Giêsu nữa. Nước Trời cao quí hơn tất cả những gì chúng ta đang có thậm chí hơn cả bản thân và mạng sống ta nữa. Ý thức được sự cao quí đó tất nhiên thái độ của ta trước hết là vui mừng rồi sẵn sàng hi sinh tất cả mình đang có để được viên ngọc quí hay kho tàng này. Thánh Phaolô sau khi trở lại đã ý thức điều đó nên Ngài đã nói: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi (Pl 3,8)”. Còn thánh Fanxicô Xavie đã thấm nhuần lời Chúa Giêsu dạy và đã sống lời này: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì? (Lc 9,25)”. Thánh Louis Gonzaga là con của một vị bá tước quyền hành giàu sang nhưng đã xin cha cho đi tu dòng Tên. Cha không chịu nhưng Louis kiên trì xin mãi, hai năm sau mới được chấp thuận, sau đó đã nhường quyền thừa kế cho em để vào tu trong Dòng, sống khó nghèo vâng lời bề trên. Trong nạn dịch xảy ra khi đó thầy Louis đã tận tụy cứu giúp các bệnh nhân có lần thầy còn vác xác chết đem đi chôn táng, nên thầy bị lây bệnh và qua đời năm mới 23 tuổi, thời gian nhuốm bệnh Thầy viết thư cho mẹ, có lời như sau: “Xin mẹ đừng khóc con như khóc một người chết vì mẹ con ta sẽ gặp nhau trên Thiên đàng”.
Đức Giáo Hoàng Fanxicô ra tông huấn về việc nên thánh với đề tài “Gaudete et Exsultate” nghĩa là “Hãy vui mừng và hân hoan” qua đó Đức Giáo Hoàng khẳng định nên thánh là việc vui mừng và hân hoan. Mỗi lần dâng lễ chúng ta hãy có tâm tình như lời Thánh Vịnh: “ Con hân hoan bước lên bàn thờ Chúa: Đến cùng Thiên Chúa là nguồn hoan lạc tuổi xuân con”. Vì thế chúng ta sống đạo Chúa với niềm vui, với nét mặt hân hoan như Chúa Giêsu khi nói về việc ăn chay là “hãy rửa mặt và xức dầu thơm trên đầu chứ đừng làm ra bộ mặt rầu rĩ”. Chúa thích những người cho đi cách vui lòng cũng như muốn chúng ta sống đạo Chúa với niềm vui từ trong tâm hồn vì đạo Chúa là Tin mừng cho cuộc đời chúng ta.
Chúng ta phải biết rằng Nước Trời là một Ơn huệ nhưng không Chúa ban cho ta nhưng Chúa cũng đòi ta có tình yêu đáp lại lòng quảng đại yêu thương của Chúa vì thế Chúa dạy: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia Người sẽ thêm cho (Mt 6,33)” như vua Salomon chỉ xin Chúa ban cho tâm hồn khôn ngoan để đoán xét Dân Chúa. Điều vua xin đẹp lòng Chúa vì vua không xin sống lâu, được giàu có, của cải, mạng sống quân thù, nên Chúa đã ban sự khôn ngoan như vua xin và kèm theo đó là nhiều ân huệ vật chất khác nữa.
Câu chuyện: Ngày 10/3/2008, báo chí quốc tế đưa tin: bà Stead, một phụ nữ 49 tuổi ở New Abbot, hạt Devon nước Anh, khi đang ăn chiếc bánh bích quy giúp tiêu hoá của hãng Mc. Vitie’s, bất ngờ cắn phải một vật lạ, nhìn kỹ ra thì đó là một viên kim cương bé tí xíu. Người phụ nữ có một con này rất ngạc nhiên nhưng tỏ ra thích thú với món quà bất ngờ này. Bà Stead đâu ngờ mình may mắn làm chủ được “viên ngọc quí” vô tình ấy.
Cuộc đời chúng ta đôi khi Chúa cũng cho chúng ta nhưng ơn huệ bất ngờ: ơn huệ thiêng liêng cũng có và ân huệ vật chất cũng có, chúng ta hãy biết đón nhận với lòng biết ơn và phát huy để đem lại lợi ích cho mình và cho Nước Chúa. Amen.
Cái gì, vật gì, điều gì mà bạn cho là quý giá nhất? Cái mà bạn đang có hay đang khao khát muốn TN 17-A175
Cái gì, vật gì, điều gì mà bạn cho là quý giá nhất? Cái mà bạn đang có hay đang khao khát muốn có, muốn sở hữu và tìm mọi cách để có nó cho bằng được. Có người thích sưu tầm đồ cổ, người nghiện mua đồ hiệu, người thích chơi đồ gỗ, người thích đồ đá, người thích các loại hoa, cá, cây cảnh… với những người này, họ phải bỏ ra, tiêu tốn không biết bao nhiêu thời gian và tiền bạc để đi tìm cho được “món đồ” mà họ ưa thích và khi sở hữu được nó thì “món đồ” này làm cho chủ nhân vui thích, mãn nguyện và trân quý nó. Đối với chúng ta, là người Kitô hữu, là con cái Chúa, kho báu, vật báu quý giá mà chúng ta đang đi tìm và muốn sở hữu là gì? Vật báu hay kho báu nào làm cho chúng ta thực sự hạnh phúc và sống đúng phẩm giá là người con cái Chúa? Các bài đọc Lời Chúa ngày hôm nay soi sáng và giúp cho chúng ta biết lựa chọn để có cung cách thái độ sống phù hợp với Thánh ý Chúa.
Bài đọc 1, Salomon là một vị Vua, chắc hẳn mọi thứ giàu sang phú quý ở đời này thì ông đã có, thế nhưng những thứ của cải trần gian có làm cho ông hạnh phúc và thỏa lòng ước nguyện không? Chúa biết rõ lòng dạ vua, nên Ngài đã phán: “Con cứ xin đi, Ta sẽ ban cho”. Cũng như bao nhiêu người khác, trước muôn vàn thứ, ông cũng phân vân không biết phải xin gì. Nhưng rồi với sự soi dẫn, ông đã xin Chúa ban cho ông “tấm lòng trung chính và sự khôn ngoan” để biện phân, để biết đâu là điều tốt đẹp theo như ý Chúa muốn, để giúp ích cho dân và giúp vua cai trị dân cho đúng mực. Thật vậy, với lời khẩn cầu của Salomon, Chúa đã hài lòng vì đây là điều kêu xin đẹp lòng Chúa, nên Chúa không những ban cho vua sự khôn ngoan như ý nguyện cầu, mà Chúa còn ban cho ông mọi sự giàu sang, phú quý khác nữa. Thưa ACE, hôm nay Chúa cũng đang mời gọi chúng ta hãy đến và kêu xin Ngài; vậy chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta điều gì? Có giống như điều mà vua Salomon đã xin không?
Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô nhắc nhở cho chúng ta biết, ngay trước khi chúng ta kêu xin Ngài, thì Thiên Chúa vì yêu thương đã đi bước trước mà ban cho chúng ta chính Người Con yêu dấu của Ngài là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chính là ơn ban nhưng không cách đặc biệt để những ai tin, kết hiệp mật thiết với Ngài, noi gương, sống như Ngài, thì được Thiên Chúa cho trở nên người công chính, thánh đức. Với Phaolô, khi đã gặp được Đức Kitô và sống gắn bó với Ngài, thì Đức Kitô trở nên một trong Ngài và Đức Kitô thực sự là “kho tàng quý giá” mà Ngài đã sở hữu được. Với Phaolô giờ đây “không có gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Đức Kitô”.
Tin mừng tường thuật cho chúng ta dụ ngôn về kho báu chôn trong ruộng và viên ngọc quý. Nói đến kho báu hay viên ngọc quý, con người ai cũng thích và muốn sở hữu nó, nên nhiều bộ phim truyện đã khai thác và nói về những hành trình đi tìm kho báu, cái họ không biết, mà chỉ nghe nói. Rồi kết cuộc cay đắng là gì? Chính là sự loại trừ, hủy diệt tàn khóc lẫn nhau, vì ai cũng muốn sở hữu riêng, mà không muốn kho báu này rơi vào tay người khác. Khác với phim truyện, điều thú vị trong hai dụ ngôn là: Người thương gia khi bôn ba tìm kiếm, khi thấy, biết, nhận ra kho báu và viên ngọc, rất vui mừng nhưng anh ta không chiếm đoạt, mà trở về nhà bán hết những của cải mình có để mua, đổi lấy nó. Đây là một sự hy sinh, một hành trình sống dấn thân để đạt được cái mình cho là trân quý nhất.
Phaolô đã có Đức Kitô là kho báu, Ngài đã đánh đổi tất cả, và ngay cả mạng sống mình để được thuộc trọn về Đức Kitô. Công Đồng Vaticano II đã tuyên bố rằng: “Lời Chúa và các Bí Tích là nguồn ân sủng vô giá mà Thiên Chúa vì yêu thương đã ban cho con người. Vậy, với bạn và tôi, kho báu và viên ngọc quý mà chúng ta muốn sở hữu là gì? Chúng ta có tìm kiếm cho mình cái gì thực sự là kho báu và viên ngọc cho chính mình chăng?
Câu chuyện về người chết lành và chết dữ. Người chết lành trước khi chết được lãnh các bí tích sau cùng với khuôn mặt vui tươi, mắt nhìn thẳng hướng về trời và có các Thiên Thần ca hát xung quanh. Người chết dữ, giờ phút sau cùng, thì mặt luôn quay vô tường, buồn bã, sợ hãi; trong lúc đó, ma quỷ thì vui sướng, hò reo. Khi người này chết, người ta khám phá ra bên trong bức tường nơi người này nằm, đã cất giữ vàng bạc của mình trong đó. Thật vậy, “kho tàng con ở đâu, thì lòng trí con ở đó”.
Thưa ACE, cuộc sống là một hành trình tìm kiếm “Chân-Thiện-Mỹ” và hạnh phúc đích thực. Thiên Chúa qua nhiều cách thế đã trao ban và tạo nhiều cơ hội để cho chúng ta có được ơn thánh và hạnh phúc đích thực đó. Thật vậy, qua Lời Chúa và các Bí tích, các “kho báu vô giá” này được vén mở cho chúng ta, để chúng ta tìm kiếm, lựa chọn và sở hữu. Xin cho mỗi người chúng ta được sở hữu Chúa và ơn Thánh của Ngài là đích điểm và là hạnh phúc vĩnh cửu của chúng ta. Amen.
Tin mừng Mt 13:44-52: Tất cả mọi dụ ngôn đều nói cho ta về Nước Trời qua một khía cạnh nào đó. Toàn bộ các dụ ngôn này trình bày thực tại Nước Trời trong chính Chúa Giêsu. Trong Người, Nước Trời đã đến thế gian. Theo Người, chọn Người là đi vào Nước Trời.
Các bản văn Kinh thánh của Chúa nhật hôm nay trình bày về sự khôn ngoan. Salômôn không xin TN 17-A176
Các bản văn Kinh thánh của Chúa nhật hôm nay trình bày về sự khôn ngoan. Salômôn không xin Chúa điều gì ngoài sự khôn ngoan minh mẫn để đủ khả năng làm vua. Tin mừng Chúa Giêsu trình bày về thái độ khôn ngoan lo đi tìm kiếm kho tàng Nước Trời. Chúa Giêsu chính là mầu nhiệm tình yêu sống động của Chúa Cha dành cho nhân loại, Người là sự khôn ngoan và là sự sống của Thiên Chúa. Con người khôn ngoan là con người biết tìm Người, theo Người và sống với Người.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: 1V 3,5.7-12
Salômôn cầu xin ơn khôn ngoan
Salômôn kế vị cha mình là Vua Đavít, ông nhận rõ sự trẻ người non dạ và những hạn chế của bản thân trước trọng trách làm vua. Ông cầu xin Chúa ban cho ông được khôn ngoan để lãnh đạo đất nước. Điều này đẹp lòng Chúa và ông được như ý.
a. Salômôn một vị vua trẻ được Chúa yêu thương cho ông được quyền xin ơn gì ông cần. Ông không xin giàu có, không xin vinh quang và cũng không xin trường thọ. Nhưng ông xin được khôn ngoan để hướng dẫn dân được tuyển chọn đúng theo đường lối của Chúa.
b. Điều ông xin làm hài lòng Thiên Chúa và ông được nhận lời. Salômôn trở nên một vị vua tài trí bậc nhất trong thiên hạ. Sự khôn ngoan của ông vượt ra khỏi biên giới Israel. Trước ông không ai như ông và sau ông không ai bằng ông.
c. Noi theo Salômôn, Kitô hữu cũng phải biết xin Chúa ban ơn khôn ngoan để biết đi đúng đường lối của Chúa.
2. Bài đọc II: Rm 8,28-30
Kế hoạch tình yêu của Thiên Chúa
Để nhấn mạnh đến sự quan phòng của Thiên Chúa và biết cậy trông vào Ngài, Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma đã trình bày kế hoạch yêu thương mà Thiên Chúa đã dành cho những ai yêu mến Ngài được nên công chính và đạt được vinh quang.
a. Thiên Chúa, theo như Thánh Phaolô nói, kêu gọi và tuyển chọn những ai yêu mến Ngài để làm cho họ được nên công chính, được chia sẻ vinh quang với Đức Kitô.
b. Thánh Phaolô gọi đó là những con người được tiền định. Tất nhiên ở đây không thể hiểu tiền định theo thuyết định mệnh, Chúa đã an bài mọi sự rồi, con người không thể làm được gì nữa, không thể chịu trách nhiệm về vận mạng của mình. Nhưng tiền định ở đây chính là việc nếu ai đi theo Chúa, yêu mến Ngài thì sẽ được Ngài làm cho nên công chính, thánh thiện và được hưởng vinh quang của Ngài.
c. Đó chính là kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa từ khi tạo dựng vũ trụ muôn loài, Ngài đã muốn cho con người thông phần sự sống và vinh quang của Ngài. Ngay cả khi con người phạm tội, Ngài vẫn yêu thương cứu độ họ để chia sẻ cuộc sống cho họ.
3. Tin mừng: Mt 13,44-52
Mất tất cả để được tất cả
Trong các dụ ngôn sau cùng của bài giảng nói về Nước Trời, Chúa Giêsu đã đẩy người nghe đến một thái độ dấn thân cụ thể ; một thái độ chọn lựa dứt khoát để được vào Nước Trời.
a. Các dụ ngôn kho tàng và viên ngọc quí nhấn mạnh trước hết đến đời sống hiện tại này: phải biết dứt khoát chọn lựa Nước Trời. Một khi lời mời gọi của Chúa đã vang lên thì phải đáp trả trọn vẹn, dấn thân hoàn toàn và trưng dụng tất cả những gì mình có, không ngần ngại một hy sinh nào để đạt cho được hạnh phúc Nước Trời.
b. Trong dụ ngôn lưới cá cũng như dụ ngôn cỏ lùng nhắm đến ngày cánh chung, ngày phán xét phân biệt người lành kẻ dữ được ví như sự chọn lựa cá tốt và cá xấu.
c. Tất cả mọi dụ ngôn đều nói cho ta về Nước Trời qua một khía cạnh nào đó. Toàn bộ các dụ ngôn này trình bày thực tại Nước Trời trong chính Chúa Giêsu. Trong Người, Nước Trời đã đến thế gian. Theo Người, chọn Người là đi vào Nước Trời.
II. GỢI Ý BÀI GIẢNG
1. Vào Nước Trời đòi phải biết dấn thân:
Nước Trời đòi buộc phải hy sinh, bán tất cả những gì ta có, một khi đã khám phá ra nó. Đây là một chọn lựa dứt khoát, quyết liệt, không dễ dàng. Sự từ bỏ theo Chúa Giêsu chính là thái độ dấn thân vì Nước Trời. Sự từ bỏ theo Tin mừng này không phải là phương thế để đạt được Nước Trời mà chính là hệ quả tất yếu của việc khám phá ra Nước Trời. Vì tìm thấy Nước Trời, thấy được giá trị cao quí của Nước Trời, cho nên mới can đảm hy sinh từ bỏ tất cả để có được. Người nông dân bán tất cả để mua cho được mảnh ruộng có kho tàng ; người đi buôn bán tất cả tài sản để mua cho bằng được viên ngọc quý là hình ảnh nói lên việc phải dứt khoát chọn lựa Nước Trời.
Nước Trời là một kho báu đòi hỏi phải bỏ ra tất cả những gì mình có, kể cả bản thân để mua cho bằng được.
2. Tìm được Nước Trời là niềm vui cuộc đời:
Anh nông dân, người đi buôn đều vui mừng khi tìm được kho tàng hay viên ngọc quí. Cũng vậy thái độ của người đã gặp Chúa, đã khám phá ra Nước Trời trong cuộc sống mình là thái độ hân hoan vui mừng. Tìm kiếm được niềm vui này mới làm cho con người có khả năng dứt bỏ mọi sự để theo Chúa. Bấy giờ tất cả những gì trước nay cho là quí giá thì mất hết giá trị so với niềm vui mừng có được Thiên Chúa. Có Chúa là có tất cả. Đây là kinh nghiệm không dễ có được một khi thờ ơ không dám lên đường tìm kiếm Chúa và hạnh phúc Nước Trời. Nếu chỉ biết loanh quanh trong việc tìm kiếm của cải trần thế, thú vui xác thịt thì sẽ không bao giờ khám phá được niềm vui Nước Trời, niềm vui trong Chúa.
Tìm kiếm Nước Trời và từ bỏ tất cả để đạt cho bằng được là niềm vui của đời Kitô hữu và đây cũng là thái độ chọn lựa khôn ngoan. Trong Chúa mới làm nên ý nghĩa đích thực của đời sống, nơi Chúa mới tìm kiếm được nguồn mạch thỏa mãn mọi nỗi khát khao hạnh phúc. Nước Trời chính là kho báu phải biết khôn ngoan chọn lựa.
III. Dẫn vào Phụng vụ Thánh thể:
Bản thân con người vốn dĩ yếu đuối, không thể tự mình làm được gì nếu không có Chúa trợ giúp. Cũng vậy để khôn ngoan chọn lựa Nước Trời rất cần có ơn Chúa. Thánh thể chính là nguồn sức mạnh giúp cho Kitô hữu can đảm chọn Chúa, chọn Nước Trời.
IV. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu yêu thương mời gọi chúng ta khôn ngoan tìm kiếm và can đảm hy sinh tất cả để đạt được Nước Trời. Trong niềm tin tưởng, chúng ta cùng dâng lên những lời cầu xin Chúa ban thêm sức mạnh và niềm tin cho chúng ta.
1. Sứ mạng nền tảng của Giáo hội là giúp con người tìm kiếm và khám phá Nước Trời. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi thành phần trong Giáo hội, đăc biệt là các vị chủ chăn được ơn khôn ngoan, đạo đức để biết hướng dẫn mọi người tìm đến Nước Trời.
2. Trong xã hội ngày nay những giá trị vật chất, những trào lưu đam mê hưởng thụ xác thịt được đề cao và bành trướng mạnh mẽ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo quốc gia, lãnh đạo tinh thần và mọi người thành tâm thiện chí biết nỗ lực xây dựng một nếp sống lành mạnh cho xã họi và con người biết sống có nhân cách, có lý tưởng và mang lại sự công bằng, hòa bình và hạnh phúc.
3. Mọi người Kitô hữu được mời gọi hy sinh tất cả để mua cho bằng được hạnh phúc Nước Trời. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết yêu mến học hỏi sống lời Chúa để khám phá được Nước Trời trong đời sống đức tin của mình.
Lời kết: Lạy Thiên Chúa là Tình yêu, chúng con cảm tạ Chúa đã yêu thương và ban tặng hạnh phúc Nước Trời cho chúng con nơi Chúa Giêsu, Con Một của Chúa. Xin ban ơn nâng đỡ, soi sáng trí lòng để tất cả chúng con có được sự khôn ngoan biết tìm kiếm và chỉ muốn hạnh phúc Nước Trời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn kho báu và viên ngọc quý để diễn tả về Nước Trời, Ngài dạy: Nước TN 17-A177
Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn kho báu và viên ngọc quý để diễn tả về Nước Trời, Ngài dạy: Nước Trời giống như kho báu trong đám ruộng, người kia đi gặp được thì vui mừng bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng đó. Nuớc trời cũng giống như người buôn đi tìm ngọc quý, tìm được một viên ngọc quý, thì bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy (x. Mt 13,44-45).
Có ba khía cạnh ý nghĩa của dụ ngôn này cần hiểu. Thứ nhất, điều quý giá nhất trên đời, đó là Nước Trời; Nước Trời quý gía hơn mọi thứ khác trên trần gian này.
Thứ hai, đó là sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan này đòi hỏi sự nổ lực tìm kiếm điều quý giá nhất, cho dù phải cực nhọc, phải hy sinh từ bỏ những cái khác để có được điều quý giá nhất đó. Nói một cách khác, sự khôn ngoan biết tìm kiếm và tạo cho mình có đựợc điều đáng giá, đáng quý trọng bậc nhất, chứ không dừng lại ở những điều tầm thường, vụn vặt.
Thứ ba, đó là biết tìm kiếm điều quý giá nhất trên đời ở đâu.
Ngày xưa có một anh nông dân sở hữu một cánh đồng nhỏ. Một đêm nọ một khách lạ xin trọ nhà anh nông dân. Đêm hôm đó, ngồi bên ánh lửa, người lạ mặt bắt đầu nói về những hạt kim cương. Người ấy nói ông ta đang tìm kiếm những hạt kim cương. Nếu như tìm được một viên cho dù nó to cỡ bằng móng tay cũng được. Vì bấy nhiêu thôi cũng đủ cho ông sống sung sướng cả cuộc đời, không phải làm ăn vất vả gì nữa. Người nông dân rất có ấn tượng về câu chuyện viên kim cương. Đêm ngủ mà tâm trí vẫn cứ vẫn vờ với kim cương. Cuối cùng chàng bán mảnh ruộng với giá rẻ rồi lên đường rong ruổi tìm kim cương. Chàng đi rất xa nhưng vẫn không tìm được viên kim cương nào cả.
Trong khi đó, người mua rẻ lại đám ruộng của anh, một ngày nọ anh tình cờ cày bật lên một hòn đá lấp lánh dưới ánh mặt trời. Đó đúng là một viên đá kim cương. Chàng đào xới thêm và thấy có nhiều viên khác nữa. Quả đúng là một mỏ kim cương mà chàng ta khám phá ra từ mảnh ruộng người nông dân trước đã bán rẻ lại để đi tìm kim cương.
Chúng ta có lẽ thương tiếc cho chàng nông dân ban đầu và trách sao lại quá ngu dại.
Cái ngu dại là không biết mình sẽ đi tìm ngọc quý ở đâu. Nó nằm ngay trong thửa ruộng của mình mà mình lại dong ruổi đường xa vạn dặm để đi tìm nó.
Nước Trời nằm ngay trong Lời Chúa mà ta vẫn nghe, ở rất gần với ta, nhưng mà ta lại chẳng tìm kiếm, lại chẳng bỏ công sức để mà khám phá, để mà có được Nước Trời.
Nhiều khi ta tưởng mình khôn ngoan, bỏ công sức để tìm viên ngọc quý nơi thế gian. Ta tưởng lầm nơi thế gian có điều quý giá. Ta không ngờ rằng thế gian có đầy những viên ngọc giả tạo, đầy những phù vân ảo ảnh. Nhìn vào thực tế, ta thấy sách Giảng viên nói rất đúng: “Phù vân nối tiếp phù vân. Thế gian tất cả chỉ là phù vân” (Gv 1,1).
Nhiều khi có kẻ tưởng mình khôn ngoan nhưng cuối cùng thì mới biết mình dại, bởi vì đã tin vào những sự của thế gian, tin vào những sự phù vân ảo ảnh. Chúng như những miếng vàng Tây, trông rất đẹp nhưng lại là vàng giả hay kém phẩm chất. Hơn nữa, cũng là ngu dại khi anh lười biếng, không chịu đi tìm cho mình viên ngọc quý thật sự. Thực tế, nhiều người sống một cuộc sống thật trống rỗng, vô vị, không có cùng đích rõ ràng cho cuộc sống. Anh mãi mê xem ti vi, và nếu có người lấy cái ti vi đi mất thì mà anh ta suốt ngày chăm chăm vào đó thì anh ta sẽ không biết làm cái gì nữa. Anh không còn khả năng để phân biệt đâu là cái quan trọng trong cuộc sống. Ngược lại, anh bằng lòng với cái vụn vặt cái thú vui tầm thường, với cái hạnh phúc vụn vặt, như nhậu một bửa, đi chơi một bửa cho thỏa thích. Một sự bằng lòng như thế, đánh mất phẩm giá cao cả của con người, đưa con người xuống hàng sự vật.
Bởi vậy, người khôn ngoan, là người biết đi tìm kiếm điều quý giá nhất cho cuộc đời mình. Đi tìm kiếm, tất nhiên vất vả cực nhọc đêm ngày. Cái đích điểm tìm kiếm phải là Nước Trời. Nước Trời của hạnh phúc vĩnh cửu, chứ không phải cái hào nhoáng, giả trá, phù vân của thế gian. Nước Trời đó lại được ẩn dấu ngay trong Lời Chúa, trong Phúc Âm, ở bên cạnh chúng ta. Hãy tìm kiếm viên ngọc quý nơi Lời của Chúa. Tìm hiểu và đem ra thực hành Lời Chúa thì ta sẽ được viên ngọc quý, được kho tàng quý giá nhất trên đời.
Vậy thì, chúng ta hãy tự hỏi chính mình, chúng ta có thực sự đang tìm kiếm và hy sinh tất cả để có được điều quý giá nhất là Nước Trời hay không, hay là mình đang tìm kiếm những điều vụn vặt tầm thường. Và nếu đúng là đang tìm kiếm những điều nhỏ nhoi, vụn vặt tầm thường, chóng qua, thì chúng ta là kẻ ngu dại.
Xin Chúa cho chúng ta được khôn ngoan, biết tìm kiếm và hy sinh cho điều quý giá nhất là Nước Trời.
Bài Tin Mừng hôm nay là ba dụ ngôn về mầu nhiệm Nước Trời: Nước Trời được ví như kho báu TN 17-A178
Bài Tin Mừng hôm nay là ba dụ ngôn về mầu nhiệm Nước Trời: Nước Trời được ví như kho báu, viên ngọc và cái lưới. Trong đó kho báu hay ngọc quý nói lên giá trị cao quý của Nước Trời và cái lưới nói lên sự phân định cuối cùng trong ngày chung thẩm.
1. Sự cao quý của Nước Trời.
Trước hết, dụ ngôn kho báu và viên ngọc quý muốn nói tới sự cao quý tột bực của Nước Trời mà không có thứ giá trị nào sánh bằng. Tựa như khi phát hiện ra kho báu hay tìm được viên ngọc đẹp, người ta bán hết tất cả những gì mình có để tậu cho được, thì khi những ai đã khám phá ra Nước Trời, mọi giá trị người ta từng theo đuổi từ trước đều phải nhường chỗ và họ sẵn sàng đánh đổi tất cả để dành cho được nước ấy.
Nhưng để đạt được Nước Trời không phải chỉ là một sự tình cờ, nhưng phải thao thức đi tìm, biết phân định chọn lựa, dám mạo hiểm dấn thân và từ bỏ tất cả để đổi lấy nó.
Thao thức đi tìm: Hình ảnh “kho báu” và “viên ngọc quý” vừa rõ ràng vừa huyền bí. Rõ ràng ở chỗ ai biết giá trị của chúng thì quý hóa, còn huyền bí ở chỗ có nhiều người không biết giá trị tiềm ẩn đó. Nước Trời có đó nhưng mấy ai khám phá ra và mấy ai nhận thấy được giá trị vĩnh cửu để đầu tư đời mình. Kho báu được chôn giấu nên phải tìm kiếm và đào bới, muốn có ngọc đẹp phải bôn ba đây đó tìm mua. Nước Trời là một thực tại siêu việt nên phải vất vả tìm kiếm với cả lòng khao khát và hy sinh.
Biết biện phân chọn lựa: Người nông dân biết giá trị của kho tàng dù nó còn đang bị chôn giấu dưới lòng đất sâu, thương gia kia biết giá trị của viên ngọc dù nó còn đang nằm giữa khối đá sù sì xấu xí và lẫn tạp trong chốn chợ đời. Cũng vậy, giữa đời sống đem đến cho ta đủ mọi loại giá trị, nên cần biết phân định đâu là giá trị vĩnh cửu và đâu là những giá trị chóng qua để đầu tư hay từ bỏ, từ đó nhận ra giá trị vĩnh cửu của Nước Trời, dù Nước Trời chưa tỏ hiện rõ ràng trên thế gian.
Dám mạo hiểm dấn thân: Người nông dân nọ, thương gia kia dám mạo hiểm dấn thân tậu cho được nơi có kho báu hay mua bằng được viên ngọc quý, thì người tìm kiếm Nước Trời cần một sự mạo hiểm đầu tư tất cả những gì mình có thể để được Nước Trời là quê hương đích thực. Khi nhận ra Chúa là gia nghiệp, Abraham dám mạo hiểm ra đi tới một nơi Chúa sẽ chỉ mà ông chưa hề hay biết. Người dám mạo hiểm dấn thân tìm kiếm Nước Trời cần một sự đức tin mãnh liệt, dám mạo hiểm và tín thác vào Lời Chúa hứa. Khi đã biết được giá trị Nước Trời, họ dấn thân theo đuổi đến cùng.
Đánh đổi tất cả: Phải bán tất cả mới đủ tiền tậu thửa ruộng có kho báu hoặc mua viên ngọc quý. Có thể người kia đã phải bán cả nhà cửa và mọi tài sản, thậm chí phải mất cả gia đình họ hàng chỉ vì “cái tội” mê viên ngọc đẹp. Cũng thế, phải đầu tư trọn vẹn con người với tất cả tài năng trí tuệ, sức lực, thời giờ mới mong chiếm đoạt được Nước Trời. Muốn đón nhận giáo lý của Chúa Giê-su để đạt được hạnh phúc đời đời, đòi hỏi các môn đệ Chúa Giê-su phải từ bỏ tất cả và vượt lên trên những tiếc nuối truyền thống và luật cũ.
Như vậy, thực tại Nước Trời phải được khám phá ra và hiểu đúng. Tất cả các giá trị khác, như gia đình, nghề nghiệp, địa vị xã hội, của cải, tiện nghi, sức khỏe, lợi lộc, thú vui… không phải là những giá trị và tiêu chuẩn tối hậu, nhưng những tiêu chuẩn đó phải được thay thế và nhắm tới mục tiêu vĩnh cửu là Nước Trời. Nước Trời có đó, nhưng là một thực tại đang bị chôn giấu giữa thửa ruộng thế gian, sự sống vĩnh cữu đang ở ngay giữa chợ đời vàng thau lẫn lộn; nên để đạt được Nước Trời là sự sống vĩnh cửu đòi hỏi con người phải lên đường tìm kiếm, phải sáng suốt phân định, phải can đảm dấn thân và phải bỏ lại đàng sau những gì không còn thích hợp cho sự sống mai sau.
2. Sự phân định cuối cùng.
Dụ ngôn “cái lưới” có ý nghĩa tương tự như dụ ngôn “cỏ lùng”, nghĩa là giữa thế gian vàng thau lẫn lộn, giữa biển đời cá tốt cá xấu, giữa cuộc đời người lành kẻ dữ cùng chung sống với nhau và chỉ được Chúa phân định trong ngày ra trước tòa phán xét, để thương công hay luận phạt. Ngày đó, như nông dân gom lúa vào lẫm và đốt cỏ lùng, như ngư dân bỏ cá tốt vào rổ và cá xấu vứt đi, thì Thiên Chúa cũng thưởng công Nước Trời hạnh phúc cho kẻ lành và ném vào hỏa ngục những kẻ gian ác tội lỗi.
Số phận thật của những con cá khi mẻ lưới được kéo lên sẽ hoàn toàn tuỳ thuộc vào chất lượng của những con cá ấy. Những con cá xấu sẽ bị ném ra ngoài. Vì thế, trước khi tấm lưới được kéo lên trong ngày chung thẩm, con người cần phải trở thành những con cá tốt. Số phận đời đời của mỗi người tuỳ thuộc vào chất lượng của cuộc sống hiện tại này.
Dụ ngôn cái lưới có mục đích diễn tả lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa, Người chấp nhận tốt xấu pha trộn, đợi đến ngày cuối cùng Chúa mới lấy quyền phân xử. Trong trần gian cũng như trong Giáo hội luôn có những người xấu sống bên cạnh những người tốt, cái thiện và cái ác lẫn lộn. Ánh sáng và bóng tối trong thế giới ta đang sống, thiện và ác trong lòng mọi người. Thiên Chúa cho kẻ lành người dữ sống chung với nhau, cũng như để cho cá tốt cá xấu sống chung trong biển cả, đến ngày tận thế Thiên Chúa mới phân xử, mới tách biệt cá tốt ra khỏi cá xấu, người lành khỏi kẻ dữ.
Trong Hội thánh và nơi mỗi người có một sự pha trộn thánh thiện và tội lỗi, thiện và ác đó là điều không tránh được. Hội thánh là thánh thiện tự bản chất, nhưng Hội thánh cũng có những con người yếu đuối và tội lỗi, và chúng ta, mặc dầu đã nhận nhiều ân sủng qua phép Rửa tội cũng có khuynh hướng phạm tội.
Như thế, qua dụ ngôn này, chúng ta đừng có ảo tưởng có một thế giới toàn thiện hay là có thể có một Hội thánh hoàn hảo ở trên trần gian này, trong đó chỉ toàn những người tốt và thánh thiện. Trái lại, kẻ lành người dữ sống chung với nhau. Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi cho kẻ dữ biết ăn năn sám hối để được tha thứ.
Tóm lại, bài Tin Mừng hôm nay qua ba dụ ngôn: Kho báu, ngọc quý và cái lưới, Chúa Giê-su dạy chúng ta coi giá trị cao quý nhất và vĩnh cửu là Nước Trời, vượt trên mọi thứ giá trị trần thế vì nó sẽ qua đi. Đồng thời ý thức rằng cuộc sống con người ở trần gian còn đang ở trong tình trạng tranh tối tranh sáng, chỉ khi đến ngày phán xét, mọi sự sẽ trở nên sáng tỏ. Vậy, cứ lo tìm kiếm Nước Trời thì sẽ không bao giờ lầm, vì đó là một bảo đảm cho những ai dám đặt tất cả niềm tin vào Chúa Giê-su Ki-tô.
Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con luôn biết hướng lòng lên những thực tại Nước Trời và lo tìm kiếm để đạt được sự sống vĩnh cửu trong nước ấy, nhờ đó chúng con dám từ bỏ tất cả và dấn thân theo Chúa cho đến ngày được hợp đoàn với các thánh chung hưởng tôn nhan Chúa trong Nước Trời. Amen.
Đây là câu chuyện được báo chí trong nước loan tải khá nhiều trong những năm gần đây, thu TN 17-A179
Đây là câu chuyện được báo chí trong nước loan tải khá nhiều trong những năm gần đây, thu hút sự chú ý của nhiều độc giả.
Từ năm 1963, ông Trần Văn Tiệp nắm được những thông tin rất thuyết phục cho rằng trong thời kỳ Nhật chiếm đóng Việt Nam, quân đội Nhật Bản sau khi bị quân đồng minh đánh bại, được lệnh rút khỏi Việt Nam, có mang đi một khối lượng vàng rất lớn mà họ vơ vét được tại các nước châu Á mà họ chiếm đóng, nhưng vì bị phe đồng minh ngăn chận, quân Nhật không thể chuyển ngay số vàng mà họ chiếm được về nước nên đã chôn giấu chừng 4.000 tấn vàng trên núi Tàu, một ngọn núi nhỏ thuộc huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận, để chờ khi có cơ hội thuận tiện sẽ đưa về Nhật sau.
Thế là ông Tiệp ấp ủ giấc mơ tìm cho được kho báu đó với ước tính lên đến 4.000 tấn vàng suốt mấy chục năm và cuối cùng, ông đã được Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Thuận cho phép thăm dò và khai thác. Ông đã đầu tư rất nhiều tiền bạc cho dự án này, nhưng không may, đến tháng 3 năm 2015, giấy phép hết hạn nên ông phải ngừng công cuộc thăm dò mà vẫn chưa tìm thấy dấu vết kho tàng.
Câu chuyện nầy liên quan mật thiết với dụ ngôn Chúa Giê-su dạy hôm nay:
“Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.
"Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.”
Kho báu quý nhất trên đời
Có một kho báu triệu lần đáng quý hơn bất cứ kho báu nào khác ở trần gian đang nằm trong tầm tay chúng ta nhưng tiếc thay, có nhiều người không biết đến, đó là Lời Chúa phán dạy trong Tin mừng, ta gọi đó là kho báu Tin mừng.
- Kho báu Tin mừng đáng quý triệu lần hơn mọi báu vật trần gian vì nhờ lời Chúa dạy trong Tin mừng mà muôn người được cứu rỗi và được hưởng phúc thiên đàng đời đời vinh hiển.
Các thánh Tông đồ, các thánh nam nữ được hưởng phúc thiên đàng không phải vì chiếm hữu được kho báu trần gian, không phải vì có nhiều vàng ngọc châu báu… nhưng vì các ngài thủ đắc được kho tàng lời Chúa trong Tin mừng và áp dụng những lời khôn ngoan đó vào cuộc sống.
- Kho báu Tin mừng đáng quý triệu lần hơn mọi báu vật trần gian vì khi được thấm nhuần những lời dạy của Tin mừng, tính nết con người được cải thiện, phẩm chất con người được nâng cao, đời sống con người thêm hạnh phúc… trong khi những người nắm giữ kho báu trần gian dễ bị sa đọa vì xa hoa và lạc thú do tiền tài mang lại, nên dễ dàng đánh mất hạnh phúc thiên đàng.
Kiên tâm tìm kiếm kho báu Tin mừng
Ông Trần Văn Tiệp đã thao thức tìm kiếm kho báu núi Tàu gần 50 năm, mãi cho đến lúc lìa đời vào năm 2016; Còn chúng ta, chúng ta có chấp nhận bỏ ra mỗi ngày mươi phút để khai thác kho báu Tin mừng hay không?
Kho báu trần gian thường nằm ở chốn rừng hoang, ở những nơi xa xôi hiểm trở hoặc dưới lòng đất sâu… nên cần phải mạo hiểm, cần đầu tư rất nhiều tiền bạc và công sức may ra mới chiếm hữu được; trong khi kho báu Tin mừng nằm trong tầm tay mọi người, muốn khai thác lúc nào cũng được mà không phải tốn kém. Vậy thì chúng ta hãy khởi sự khai thác ngay hôm nay để làm giàu cho đời sống thiêng liêng của mình.
Lạy Chúa Giêsu,
Rất nhiều người nao nức, háo hức tìm kiếm kho báu trần gian nhưng rất hiếm người tìm gặp; còn bất cứ ai khao khát tìm kiếm kho báu Tin mừng chắc chắn sẽ được toại nguyện như lời Chúa nói: “Ai tìm thì sẽ được, ai gõ thì sẽ mở cho.”
Và cho dù chúng con có thu tóm “được mọi kho báu trên thế gian này mà mất linh hồn thì cũng chẳng được ích gì.”
Vì thế, chỉ có kho báu Tin mừng là bảo vật cao quý nhất, cần thiết nhất mà mỗi người chúng con phải ra công tìm tòi khám phá và sở hữu cho bằng được, nhờ đó, chúng con sẽ trở nên người nhân đức thánh thiện ở đời này và được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng mai sau.
Hẳn ai, người Việt ta, đã hơn một lần phải di tản, chắc hiểu được phần nào dụ ngôn Chúa Giêsu nói TN 17-A180
Hẳn ai, người Việt ta, đã hơn một lần phải di tản, chắc hiểu được phần nào dụ ngôn Chúa Giêsu nói khi ví Nước Trời giống như kho tàng chôn giấu. Người Do thái thời Chúa Giêsu cũng không xa lạ gì với khái niệm một kho tàng chôn trong lòng đất. Lịch sử nước Palestine từng ghi nhận nhiều bước xăm lăng của các đế quốc Babylon, Assyria, Ba tư, Hy lạp, Rôma và nhiều sắc tộc khác. Không những thế, nội chiến cũng thường xuyên xảy ra. Trên dải đất từng bị mất đi chiếm lại nhiều lần như thế, chuyện chôn giấu tài sản, khi không thể đem theo trên đường di tản, là việc đương nhiên đối với dân thời loạn.
Và khi chôn giấu như thế, làm sao tránh khỏi trường hợp chủ nhân không may mất mạng trên đường tản cư, ai biết được ông giấu chỗ nào. Hay có người không thể nhớ ra chỗ mình chôn giấu, vì lâu ngày mới trở lại được thì bụi tre mà mình chôn chum của xưa, nay trở thành một sân bóng đá, biết đào nơi nao. Hoặc vùng đất ta ở trước đây, bị kẻ thù chiếm đóng lâu năm lâu tháng không thể trở về, khiến kho tàng ta chôn giấu trước kia trở thành kho tàng bí mật. Điều này khiến cho không ít người thế hệ sau, tình cờ đào được những kho tàng quí báu ngay trên mảnh đất nhà mình. Và theo luật thời ấy, ai làm chủ vùng đất nào sẽ được quyền thủ đắc mọi thứ nằm trong vùng đất đó.
Đức Giêsu đã dùng chính khái niệm thông thường này để nói với người ta về Nước Trời. Ngài kể: “Có người kia may mắn đào trúng một kho tàng trên một thửa đất nọ; anh ta vội chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả thứ gì mình có để mua cho bằng được miếng đất ấy.”
Thoạt nghe dụ ngôn, ta có thể có 3 nhận xét sơ khởi này:
(1) Có lẽ anh này là một tay thợ làm công, đang cày thuê cuốc mướn để kiếm miếng ăn. Cũng có thể anh đang lang thang đào cua bắt rắn để sinh sống qua ngày. Như vậy, anh ta không phải là người giàu có gì.
(2) Kho tàng anh gặp thấy phải là lớn lắm, khó lòng đem đi mà không bị phát giác, nếu không, anh đã âm thầm mang về nhà chứ hơi đâu lấp đất phủ che.
(3) Rồi, chắc giá trị của tất cả những gì anh có cũng quá bé nhỏ so với kho tàng anh bắt gặp, chứ nếu tài sản anh đang có thật lớn thì anh đã chẳng dại gì bán hết mọi thứ để mua cho bằng được thủa ruộng cho dẫu có kho tàng gì đi nữa.
Nhưng có lẽ Chúa không có ý sánh ví những gì anh ta có nhỏ hơn so với những gì anh được nơi thửa ruộng, trên cùng một chủng loại, là của cải vật chất, cho bằng Chúa Giêsu muốn nhắn bảo với nhân loại rằng: không gì sánh được với giá trị của Nước Trời. Nó đáng vạn lần lớn hơn những gì người ta có. Dẫu là ta có xe hơi nhà lầu ngay tại đường Lê Lợi trung tâm. Nếu phải đánh đổi tất cả để chiếm Nước Trời cũng không đáng cho người ta phân vân hay lo buồn. Vì đó là một nguồn lợi vô cùng lớn, nguồn lợi làm nên nỗi vui mừng hân hoan khiến “anh vui mừng đi bán tất cả những gì mình có để mua thửa ruộng đó” (Mt 13,44). Lời thánh Phaolô còn vang vọng đâu đây: “Tôi coi mọi sự là thua lỗ bất lợi cả trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Giê-su Chúa tôi, vì Người, tôi đành mất tất cả.” (Pl 3,8)
Nhưng để hiểu được điều như thánh Phaolô nói đây, không dễ. Cũng như một thửa ruộng có kho báu, và kho báu ấy được chôn sâu trong đất, không phải chỉ có đi qua bước lại mà thấy được kho báu. Đúng hơn, nhờ vất vả lao nhọc mưu sinh mà rồi người ta tình cờ khám phá. Đây cũng là một thách đố cho ai đang khao khát Nước Trời. Bởi vì không phải dễ dàng mà thấy được dưới lớp đất sinh lầy hay nứt nẻ kia có một kho tàng vô giá. Lắm khi người ta phải tận lực đào bới, bền chí thi hành bổn phận hàng ngày mới có thể gặp được Nước Trời.
Nhưng Nước Trời là gì?
Nước Trời không chi khác hơn chính là Thiên Chúa trong Đức Giêsu. Thế nên “tìm kiếm Nước Trời", “gặp thấy” Nước Trời, và “mua được” Nước Trời, cũng chính là việc “chiếm hữu” được Đức Giêsu.
Nếu nói kho báu là Chúa Giêsu thì thửa ruộng chứa kho báu ấy sẽ là Giáo Hội, nơi đó, khi chịu khó lao công, bạn sẽ khám phá kho tàng. Nhưng trước hết, cần phải mua thửa ruộng ấy, tức là phải sở hữu Giáo hội bằng niềm tin và trung thành lao công trên mảnh đất Giáo hội, lúc ấy bạn mới có thể chiếm hữu trọn vẹn kho tàng Giêsu.
Thiên Chúa là Đấng quảng đại. Ngài biết “thửa ruộng” có “kho báu", nhưng Ngài vẫn sẵn lòng “bán” cho ai khát khao. Trong cuộc mua bán này, giá cả chênh lệch vô cùng, nhưng phần lời bao giờ cũng nghiêng về người mua.
Chuyện kể một phú ông kia chẳng may bị chết vợ trong ngày bà sinh hạ đứa con đầu lòng. Ông buồn phiền quá sức nhưng cũng phải kiếm vội người vú nuôi để chăm nom đứa bé và coi sóc cửa nhà.
Rủi thay, đứa bé kia lớn lên cũng thiệt mạng trong một tai nạn giao thông khi chưa tới tuổi trưởng thành. Người giàu có cũng chết sau đó vài năm vì một cơn đau tim bất ngờ.
Vì không có ai là họ hàng thân thích và bởi không tìm thấy một tờ di chúc nào nên người ta chẳng biết gia tài khổng lồ sẽ đi về đâu. Cuối cùng, toàn bộ gia sản được giao cho chính quyền giải quyết.
Theo lệ thường, người ta cho trưng bày và đấu giá trước một số vật dụng. Sau đó vài tháng sẽ cho đấu giá toàn bộ.
Ngày đấu giá sơ khởi diễn ra. Các con buôn tụ tập rất đông. Người vú nuôi ngày xưa cũng đến tham dự, không phải để được mua sắm với giá hời, nhưng vì lòng thương nhớ gia đình chủ xưa khiến bà tìm đến để nhìn lại lần cuối các vật dụng chứa đầy kỷ niệm.
Trong số các thứ được đem ra đấu giá, người vú nuôi chợt thấy tấm hình con ông chủ được lồng trong một khung kính đơn sơ. Bà chợt thương nhớ da diết cậu bé ngày xưa! Nước mắt bà rơi xuống. Thế rồi khi thấy chẳng ai thèm chú ý đến tấm hình, người vú nuôi liền giơ tay mua nó với giá sơ khởi là một đồng.
Bà mang tấm hình về, tháo khung ra, dự tính đặt ba tấm hình vợ chồng và đứa con của gia đình chủ xưa vào chung một chiếc khung lớn. Nhưng lúc vừa gỡ mặt sau tấm hình cậu bé, bà thấy có mấy tờ giấy rơi ra. Xem có vẻ quan trọng, bà bèn mang chúng đến một luật sự nhờ xem giúp.
Vị luật sư sau khi quan sát kỹ các giấy tờ đã tươi cười nói với bà: “Xin chúc mừng bà! Người chủ của bà đã viết rằng: ông ta muốn giao lại toàn bộ tài sản cho người nào yêu mến đứa con của ông đến nỗi chịu mua bức hình đó, và như thế, bà được quyền thừa hưởng di chúc này.”
Thật hạnh phúc muôn lần hơn cho những ai yêu mến người Con Một của Thiên Chúa, tức Đức Giêsu Kitô!
Yêu mến Đức Giêsu cũng có nghĩa là yêu mến ba (thành bốn) chữ “thánh”: Thánh Thể, Thánh Kinh, và yêu mến Thánh Mẫu. Điều “thánh” thứ ba này nghe có vẻ hơi lạ. Thế nhưng đâu có gì thái quá khi nói: trong “thửa ruộng Maria” có “kho tàng Giêsu” - trong cung lòng Đức Mẹ có Con Thiên Chúa. Mà truyền thống dạy rằng khi Thánh Kinh nói về Thánh Mẫu, thì cũng hiểu được nói về Hội Thánh; tức kho tàng Giêsu trong cung lòng Mẹ Maria, cũng là trong lòng Hội Thánh là mẹ. Ai ở lại trong Hội Thánh, người đó có kho tàng Giêsu, có Nước Trời.
Vậy ta có 4 nơi để gặp kho tàng : Thánh Thể, Thánh Kinh, Thánh Mẫu, và Thánh Hội, tức Hội Thánh. Ai yêu mến cả bốn hay một trong bốn thôi cũng gặp được kho tàng Giêsu là Nước Trời.
Về Nước Trời, ngoài ba dụ ngôn ruộng lúa có lẫn cỏ lùng, dụ ngôn hạt cải và dụ ngôn men trộn TN 17-A181
Về Nước Trời, ngoài ba dụ ngôn ruộng lúa có lẫn cỏ lùng, dụ ngôn hạt cải và dụ ngôn men trộn vào bột khiến bột dậy men, Chúa Giêsu con khẳng định Nước Trời là kho tàng, là viên ngọc quí, là tấm lưới bắt cá. Mỗi khẳng định nói lên một tính chất của Nước Trời.
Chúng ta hãy chăm chú đọc bài Phúc âm Chúa Nhât XVII Thường Niên A hôm nay trong Mt 13,44-46 và nắm bắt nhũng điều Chúa Giêsu muốn trao gửi cho chúng ta để chúng ta chiếm được Nước Trời.
II. LẰNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 13,44-46 hoặc 44-52: Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước Trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy. Nước Trời cũng giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy.
"Nước Trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá. Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài. Trong ngày tận thế cũng vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng. Các ngươi có hiểu những điều đó không?" Họ thưa rằng: "Có".
Người liền bảo họ: "Bởi thế, những thầy thông giáo am tường về Nước Trời cũng giống như chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái mới, cũ trong kho mình".
III. SUY NIỆM LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 13,44-46 hoặc 44-52:
3.1 NướcTrời là gì hay thế nào là Nước Trời? Tuy chúng ta không thấy Chúa Giêsu xác định thề nào là Nước Trời nhưng qua nhiều đoạn Phúc âm chúng ta hiều được Nước Trời là gì. Nước Trời hay Vương Quốc của Thiên Chúa hay Triều Đại của Thiên Chúa là thế giới trong đó Thiên Chúa được tôn thờ, luật lệ của Thiên Chúa được tuân giữ và mọi người được yêu mến và quý trọng vì tất cả đếu là con cái của Thiên Chúa. Vậy bât cứ ở đâu (không gian) và bất cứ khi nào (thời gian) những điều nói trên hịện hữu thì nơi đó, lúc đó Nước Trời hiện diện.
3.2 Nước Trời là kho tàng là viên ngọc quý: Nước Trời vô cùng quý giá nên Chúa Giêsu đã ví Nước Trời như kho tàng, như viên ngọc quí. Người nào tím thấy hay gặp được nó đều sắn sàng bán hết tài sản mình có để sở hữu nó.
3.3 NướcTrời là tấm lưới thả xuống sông/biển đễ bắt cá: Nước Trời còn được ví như tấm lưới được thả xuống dòng sông hay xuống biển để bắt cá. Nhưng chỉ cá tốt mới được giữ lại, cá xấu sẽ bị loại bỏ. Có nghĩa là chỉ những người tốt lành thánh thiện mới được giữ lại trong Nừớc Trời. Còn những kể xấu sẽ bị loại bỏ và bị ném ra ngoài.
IV. THỰC THI LỜI CHÚA TRONG BÀI PHÚC ÂM Mt 13,44-46 hoặc 44-52:
4.1 Chúng ta hãy tìm kiếm và trân quí Nước Trời. Tuy chúng ta, nhờ Phép Rữa đã là Kitô hữu, đã sở hữu kho tàng hay viên ngọc là Nước Trời, nhưng chúng ta phải luôn cố gắng tìm kiếm và trân quí Nước Trời. Nước Trời là hồng ân to lớn mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một cách nhưng không. Chúng ta phải biết ơn và đền ơn Thiên Chúa bằng lời nói, vịêc làm xứng hợp.
4.2 Chúng ta hãy là những con cá tốt để được giữ lại trong lưới Nước Trời. Nước Trời giống như tấm lưới khổng lồ chụp xuống trần gian, bắt được cả người tốt và người không tốt. Nhưng chỉ những người tốt mới được giữ lại trong Nước Trời, nên chúng ta phải nỗ lực là người tốt.
Ý VÀ LỜI CẦU NGUYỆN
KHAI MỞ: Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu Kitô và là Cha của chúng con, chúng con cảm tạ, ngợi khen và chúc tụng Cha vì Cha đã ban cho chúng con Con Một Cha là Chúa Giêsu Kitô, là Đấng đã giảng giải về Nước Trời cho chúng con. Xin Cha nghe lời chúng con cầu xin.
1.- «Nước Trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho càng ngày càng có nhiều người khát khao tìm thấy Nước Trời.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
2.- «Nước Trời cũng giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Thiên Chúa cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ và tất cả giáo dân để mọi Kitô hữu bíết tìm kiếm và trân quí Nước Trời.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
3.- «Nước Trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho các Kitô hữu trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta và trong các cộng đoàn giáo xứ khác, để mọi giáo dân ý thức mình đang nằm trong phạm vi bao phủ của Nước Trời.
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
4.- «Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài.» Chúng ta hãy dâng lời cầu xin Chúa cho tất cả các Kitô hữu và những người thành tâm thiện chí biết nỗ lực trở nên người tốt để được giữ lại trong Nước Trời
Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!
LỜI KẾT:
Lạy Thiên Chúa là Cha của Chúa Giêsu và là Cha của chúng con, chúng con xin chúc tụng ngợi khen và cảm tạ Cha, vì Cha đã ban Con Một Cha là Chúa Giêsu cho chúng con và Người đã mạc khải cho chúng con về NướcTrời.
Chúng con xin Cha ban cho chúng con sức mạnh để chúng con biết tìm kiếm và trân quý kho tàng và viên ngọc quí Nước Trời mà Con Cha đã ban cho chúng con. Chúng con cầu xin nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Con Cha Chúa chúng con. Amen.
Sàigòn ngày 29 tháng 7 năm 2023 Giêrônimô Nguyễn Văn Nội
Ba dụ ngôn hôm nay là phần kết thúc của một chuỗi gồm 7 dụ ngôn trong Tin Mừng theo thánh TN 17-A182
Ba dụ ngôn hôm nay là phần kết thúc của một chuỗi gồm 7 dụ ngôn trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu. Có thể nói, ý chính của các dụ ngôn này là mời gọi chúng ta hãy nhận ra giá trị đích thực của Nước Trời. Để được như thế, chúng ta cần có sự khôn ngoan. Không phải là khôn ngoan mánh lới kiểu thế gian, nhưng là sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Hai con người, người thứ nhất là một người thường (có thể là nông dân); người thứ hai là một thương gia. Cả hai người đều có tài quan sát tinh tường. Thửa ruộng và viên ngọc, mỗi ngày có biết bao nhiêu người nhìn thấy, mà họ lại chẳng nhận ra giá trị đích thực, nên dửng dưng bàng quang đi qua. Thửa ruộng và viên ngọc, xem ra chẳng có giá trị là bao dưới quan sát của mọi người. Ấy vậy mà chúng lại trở nên vô giá đối với hai người này. Cả hai người đều có điểm chung: đó là bán tất cả những tài sản mình đang có để mua bằng được thửa ruộng và viên ngọc.
Trong ngữ cảnh của Tin Mừng, ba dụ ngôn này nằm trong giáo huấn của Chúa Giê-su về Nước Trời. “Nước Trời” là nội dung chính trong lời rao giảng của Chúa Giê-su: “Thời kỳ đã mãn, và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 115). “Triều đại Thiên Chúa” và “Nước Trời” là hai cách nói diễn tả cùng một thực tại.
Trong suốt bề dày lịch sử, rất nhiều người đã khám phá Nước Trời, và để đạt được Nước Trời, họ đã chấp nhận đánh đổi cả gia sản, thậm chí cả mạng sống của mình, như trường hợp các thánh Tử Đạo. Họ đã nhận ra giá trị đích thực của Nước Trời. So với Nước Trời, mọi bổng lộc trần gian chỉ là tro bụi.
Ki-tô hữu là người đã đón nhận hồng ân Đức tin để theo Chúa Giê-su. Hành trình theo Chúa đầy gian nan thử thách. Người tín hữu phải chọn Nước Trời như ưu tiên hàng đầu. Họ cũng phải lấy những giá trị Nước Trời làm tiêu chuẩn cho những lời nói và hành động của mình trong cuộc sống đời thường. Nhờ vậy, Nước Trời ngày một lớn lên trong tâm hồn và toả sáng trong cuộc đời của các con cái Chúa.
Nước Trời đã hiện hữu chưa? Nhiều người đặt câu hỏi này. Dựa vào giáo huấn của Giáo Hội, chúng ta khẳng định, Nước Trời hay Vương Quốc của Thiên Chúa đã khởi đầu ở trần gian, nhưng chưa đạt mức thành toàn. Vì thế mà Chúa Giê-su dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin cho Nước Cha trị đến!”. Nước Trời không phải là một không gian được phân định bằng ranh giới quốc gia hay vùng miền. Nước Trời cũng không phải là một tổ chức quy tụ số đông các thành viên. Chúa Giê-su đã khẳng định: “Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông” (Lc 17, 21). Trước tòa Phi-la-tô, Chúa Giê-su đã khẳng định: khái niệm vương quốc hay Nước Trời của Người không mang tính chính trị, nhưng vương quốc của Người bao gồm những ai thành tâm đón nhận chân lý: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi” (Ga 18,37). Như thế, khi chúng ta đón nhận Chúa Giê-su và thực thi lời Người dạy, là chúng ta đón nhận Nước Trời, hay nói cách khác, chúng ta thuộc về Nước Trời và Nước Trời không ngừng lớn lên trong tâm hồn và cuộc đời chúng ta.
Chắc chắn rằng Nước Trời, trong sự hoàn hảo của nó, là một thực tại đang đến. Nhưng với Chúa Ki-tô, Nước Trời cũng là một thực tại đã đến rồi. Và khi đó, mầu nhiệm đức Ki-tô đang thể hiện trong chính thời gian. Lịch sử trở thành thành phần toàn vẹn của Vương Quốc. “Vương Quốc ấy đã hiện diện cách mầu nhiệm ở trần gian này và sẽ được kiện toàn khi Chúa đến” (Công đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ, số 39)
Nếu người nông dân khám phá kho báu chỉ là vô tình, nếu người thương gia phát hiện viên ngọc giá trị nhờ một thời tìm kiếm, thì mọi người sinh ra trên đời, dù muốn hay không, đều có điểm tận cùng, đó là ngày tận thế. Dụ ngôn thứ ba nhằm nói với chúng ta như vậy. Chúa Giê-su đã đi từ hình ảnh chiếc lưới với những người dân chài ngồi nhặt cá, để đến với những thiên thần can thiệp tách biệt người tốt với người xấu. Chọn lựa Nước Trời là một đề nghị của Chúa Giê-su, con người có quyền chấp thuận hay từ chối, nhưng đến ngày sau hết, người ta phải trả giá cho sự chọn lựa của mình.
Để chọn lựa Nước Trời, cần có sự khôn ngoan. Không phải sự khôn ngoan mánh lới kiểu thế gian, nhưng là ơn khôn ngoan đến từ Thiên Chúa. Trong ngày kết vị vua cha Đavít trên ngai vàng, Salomon đã không xin gì với Chúa, ngoại trừ sự khôn ngoan. Lời cầu nguyện này đẹp lòng Chúa và Ngài đã nhận lời. Ngài ban cho ông hơn cả lời cầu xin. Salomon vừa khôn ngoan, vừa giàu có. Ông là niềm tự hào cho dân tộc Israel.
Con người chỉ sống một lần trên trần gian. Chọn lựa Nước Trời là một chọn lựa mang tính quyết định cho tương lai, vì chọn lựa này vừa định hướng cho cuộc đời, vừa giúp ta vượt lên những khó khăn thử thách. Như vua Salomon, chúng ta xin Chúa ban ơn khôn ngoan để biết đối nhân xử thế, nhất là biết nhận ra những dấu chỉ của Nước Trời trong cuộc sống xung quanh chúng ta.
Trong các tuần vừa qua, chúng ta đã được nghe các dụ ngôn về Nước Trời trong Tin Mừng theo TN 17-A183
Trong các tuần vừa qua, chúng ta đã được nghe các dụ ngôn về Nước Trời trong Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu. Tuần này chúng ta nghe thêm ba dụ ngôn ngắn, trong đó Đức Giê-su đã dùng ba hình ảnh: kho báu, ngọc trai tinh khiết và lưới cá để tiếp tục dậy bảo cho chúng ta về mầu nhiệm của Nước Trời.
Dụ ngôn lưới cá kết nối với dụ ngôn lúa và cỏ lùng trong bài Tin Mừng tuần trước. Trong dụ ngôn này, Đức Giêsu đã ví Nước Trời giống như một chiếc lưới ném xuống biển bắt đủ mọi loại cá. Khi lưới đầy, nó được đưa vào bờ. Những con cá tốt được bỏ vào giỏ, và những con cá xấu bị ném đi. Dụ ngôn này mang âm hưởng và ý nghĩa giống như dụ ngôn cỏ lùng. Giống như lúa tốt và cỏ lùng cùng lớn lên thế nào thì những con cá tốt và xấu bơi chung một vùng biển như thế. Dụ ngôn này còn hướng chúng ta về ngày tận thế, về sự phán xét sau cùng, trong đó người xấu xa, độc ác (mô tả là những con cá xấu) sẽ bị tách ra khỏi đội ngũ của những người công chính và bị quẳng xuống địa ngục.
Còn hai dụ ngôn kho báu và ngọc quý nhằm nói đến giá trị cao quí của Nước Trời mà không một thứ gì trên trần gian có thể so sánh được. Tuy Nước Trời là một bảo vật được chuẩn bị và tặng ban cho chúng ta qua cuộc sống và sứ vụ của Đức Giê-su, nhưng để có thể sống theo đúng tiêu chuẩn của Nước Trời đề ra thì con người cần có một quyết tâm thật mãnh liệt, cho dù có phải hy sinh tất cả mọi sự thì người đó vẫn vui mừng đánh đổi để tậu cho được kho báu hay viên ngọc.
Như chúng ta đã biết, Nước Trời đã được xuất hiện bởi lời rao giảng và việc làm của Đức Giêsu. Lối sống của Người thật mới mẻ và không một ai trong hàng ngũ lãnh đạo của Do thái giáo lúc bấy giờ dám thực hiện, và họ cũng không đủ can đảm chấp nhận lối sống mất mát và hy sinh như thế. Đức Giêsu đã chọn những người tội lỗi, những người gái điếm, hạng thu thuế, những người nghèo khổ, những người không nhà không cửa và những người sống bên lề xã hội làm bạn.
Tìm kiếm sự hiện diện của Nước Trời để nhận ra giá trị và sức mạnh vô song mà Nước ấy đem lại là nghĩa vụ và bổn phận của các Kitô hữu. Điều này có nghĩa là chúng ta phải cùng với Đức Giêsu, Đấng đang hiện diện và đồng hành với cuộc sống của mỗi người, để lên đường ra đi tìm kiếm và kết bạn với những người bất hạnh mà chúng ta vừa đề cập ở trên. Đây chính là ước muốn của Đức Giê-su, Chúa chúng ta. Và điều mà Chúa mong ước này thúc đẩy niềm mong ước của chúng ta. Như vậy, muốn làm chứng về Nước Trời thì chúng ta phải có lối sống mới như Đức Giê-su.
Thật vậy, nhìn vào cuộc sống và sứ vụ của Đức Giêsu, con người sẽ khám phá ra mầu nhiệm của Nước Trời; và ngay lúc đó, chúng ta biết là đã tìm đuợc một kho tàng. Kho báu này làm thỏa mãn mọi khát vọng và đam mê của đời mình. Và từ trong nỗi khát khao đó, con nguời đuợc tự do, chứ không bị ép buộc, bán tất cả mọi sự để tậu cho được.
Hành động bán tất cả mọi sự mà mua kho báu và viên ngọc quí giá của các nhân vật trong dụ ngôn này làm chúng ta nhớ đến lời mời gọi của Đức Giê-su dành cho thanh niên giàu có trong Tin Mừng. Mời anh chị em cùng theo dõi:
Truớc lời mời gọi của Chúa là hãy từ bỏ tất cả những gì anh đang có và sẽ sở hữu một kho tàng trên trời rồi theo Chúa, thì anh làm không được. Lời mời gọi mà Đức Giê-su đề nghị với anh và cho chúng ta hôm nay không dừng lại ở việc sống và thực hiện một số việc làm đạo đức. Bổn phận và nhiệm vụ của một thành viên trong Nước Trời cần được thể hiện bằng các việc làm, không cho riêng mình, hay gia đình và dòng tộc mình, mà cho tất cả mọi người; đặc biệt là giới nghèo, những ai bị thương tích, những con người đang sống trong tình trạng mỏng dòn dễ vỡ. Sau đó Đức Giê-su mời anh bán gia tài, tặng cho người nghèo để tậu cho anh có một sản nghiệp trong Nước Trời, rồi đi theo Người.
Đề nghị này của Đức Giê-su gồm ba bước, gắn bó với nhau:
Thứ nhất là bán gia tài. Gia tài ở đây không chỉ là tiền bạc; nhưng là tất cả những gì anh đang có, những gì anh đang quản lý. Nó có thể là tiền bạc, thời giờ, sức khoẻ, tài năng. Bán đi là hành động chứng tỏ anh không lệ thuộc vào nó, nhưng làm chủ nó. Nói khác đi, người thanh niên phải nhận ra rằng những gì mà anh đang có không thể là của riêng anh. Đó là của chung. Tất cả chỉ là phương tiện giúp anh dễ dàng hơn trong việc theo Chúa. Tất cả những gì anh có đều là hồng ân của Chúa, còn anh và chúng ta chỉ là những người quản lý.
Vì thế, việc kế tiếp mà anh và chúng ta cần nhắm đến là tha nhân, những người nghèo khổ đầy thương tích đang ở chung quanh anh. Có nghĩa là anh cần chuyên tâm sống nguyên tắc không dính bén và biết chia sẻ. Không nghĩ đến mình, mà còn phải biết nghĩ đến tha nhân, phải mở rộng con tim, giang rộng đôi tay để ôm ấp, giúp đỡ những người tất bạt rồi quì xuống mà phục vụ anh em.
Người nghèo không chỉ thiếu tiền thiếu bạc và của cải. Họ còn thiếu tình thương, lời an ủi, niềm khích lệ, sự tôn trọng… Vì thế, chúng ta không chỉ mời gọi trao ban cho họ tiền của, mà còn cho họ thời giờ, sức lực và cả trí tuệ, con người của mình nữa. Nhiều khi, chỉ cần trao cho họ một nụ cười, trả lại cho họ niềm kính trọng như một con người thì còn cao quí hơn các tặng vật.
Sau khi thực hiện các việc làm đó rồi hãy đi theo Chúa. Lúc này, anh không còn bị vướng bận, thảnh thơi để buớc vào giai đọan sau cùng của người môn đệ là theo Chúa, là thành viên của Nước Trời. Theo Chúa là làm giàu cho Chúa những gì đã được tặng ban. Như thế, muốn bước theo Đức Giê-su, con người phải để cho mình hết sức nhẹ nhàng và thanh thản, không còn bị dính bén hay bị bận rộn trong việc tính toán theo thói thế gian, mà phải hoàn toàn nhẹ nhàng và thanh thoát.
Đức Giê-su đã đáp ứng điều mà anh nhà giầu đang kiếm tìm bằng cách chỉ cho anh điều mà anh đang thiếu, điều mà anh cần dứt bỏ để có thể tiến vào hạnh phúc đích thật và viên mãn trong Nước Trời. Tuy nhiên, trước lời mời gọi của Đức Giê-su, anh đã “sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải”.
Thái độ buồn rầu của anh giúp chúng ta nhận ra một điều là anh dám mơ ước, nhưng không dám hy sinh, không dám bán đi tất cả để đạt được ước mơ của mình. Một cuộc chiến thật gay go! Sau cùng, anh đã buồn chán rồi bỏ đi, vì anh không cảm nhận đuợc tầm quan trọng của Nước Trời trong cuộc sống anh. Anh cứ bám vào những điều cũ kỹ. Anh không nhận ra sứ vụ và con người đang nói với anh là biểu hiệu của Nước Trời. Anh đã làm mọi sự theo luật dậy. Nhưng niềm vui giữa những người thuộc về Nước Trời thì anh còn thiếu hay là chưa có! Anh là một người trong chúng ta!
Chúng ta dành nhiều thời gian để tìm hiểu về lối ứng xử của người thanh niên giàu có là để nhớ đến phận mình! Anh buồn rầu vì không dám từ bỏ để mua kho báu. Còn chúng ta, qua bài Tin Mừng hôm nay, đâu là kho báu của ta, đâu là gia nghiệp của mình, đâu là quà tặng như viên ngọc qúy của Thiên Chúa đã ban cho mình?
Có một câu chuyện nghe như truyện cổ tích nhưng đọc kỹ lại thì hình như là truyện của mình. Truyện như sau: Tại một xóm giáo kia, có một ông chồng chuyên cần trong việc bổn phận đến mức độ quên ăn và mất ngủ. Ông mong ước mọi người chung quanh nhận ra nỗ lực và mọi cố gắng của ông. Mơ ước của ông là được thăng tiến trong sự nghiệp và leo lên vị trí lãnh đạo trong xã hội. Ông đã làm việc rất chăm chỉ. Ông coi việc làm là lẽ sống. Ông dành trọn thời gian và mọi nỗ lực cho công việc. Ông có rất ít gần như chẳng còn thời gian cho gia đình, thậm chí ông đã dành rất ít thời gian để quan tâm cho cuộc sống của mình. Và, qua lối sống như thế chúng ta đều biết rõ kho tàng của ông ta ở đâu!
Nhưng, vào một ngày kia, ông bị nhồi máu cơ tim, được đưa đến bệnh viện để cấp cứu. Ông đã nằm trong bịnh viện nhiều ngày, nhiều tháng. Lúc mê lúc tỉnh và không biết mình sẽ sống hay chết. Có những lúc ông nhận ra những bóng người đang đứng bên giường mình, lúc khác lại không nhận ra. Cho đến một ngày nọ, những người đó xuất hiện rõ hơn và ông lập tức nhận ra họ. Họ là vợ và các con, túc trực ngày đêm bên giường bệnh của ông.
Trong khoảnh khắc đó ông đã nhìn thấy kho báu của mình ở đâu. Kho báu đó được đặt trong gia đình ông, trong món quà cuộc sống đáng gìn giữ mà ông một chút nữa đã đánh mất, và tất nhiên đó là kho báu của Chúa, đã ban cho ông. Trong giây phút đó, ông đã thì thầm xin Chúa trả lại cuộc đời cho ông để ông có cơ hội thay đổi lối sống và làm chứng cho Chúa về kho báu mà ông đã lãng quên.
Sau cùng ông được xuất viện. Trong quãng đời còn lại, ông đã thay đổi lối sống. Thay vì chú tâm đến những mơ ước của bản thân thì nay ông mở ra cho mọi người, trước tiên là vợ và các con. Rồi sau đó cùng với mọi thành viên trong gia đình, ông mở ra và đón nhận tất cả mọi người ông gặp hàng ngày. Cũng kể từ ngày hôm đó, mọi người nhận ra ông vui vẻ và khỏe mạnh hơn. Phục vụ trong yêu thương và hy sinh là kho báu mà ông tậu được. Đó chính là kho tàng vĩnh cửu mà mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không ăn cắp được.
Qua kinh nghiệm nói trên, chúng ta nhớ rằng con người là bảo vật, là viên ngọc tinh khiết mà Chúa cất công tìm kiếm trước. Ngay từ ngày đầu, Thiên Chúa đã lên đường tìm kiếm con người, cho dù phải thắp đèn, quét nhà, moi móc mọi nơi mọi chốn thì Người cũng phải tìm cho ra bảo vật đó; rồi mời bà con lối xóm đến cùng chia vui. Tất cả nghĩa cử đó nói lên tình yêu của Thiên Chúa muốn bộc lộ cho con người là bảo vật quí báu của Người. Phần chúng ta hãy quyết tâm sống xứng đáng như một bảo vật quí giá của Thiên Chúa dành cho tha nhân, và tiếp tục khám phá vẻ đẹp, sự mới mẻ và những nét trân quý nơi mình và nơi người khác, vì tất cả đều là những viên ngọc tinh xảo mà Thiên Chúa đã dựng lên. Amen!
Chúa Giêsu mặc khải Nước trời như một kho báu quý giá. Trong dụ ngôn thứ nhất, chúng ta thấy TN 17-A184
Chúa Giêsu mặc khải Nước trời như một kho báu quý giá. Trong dụ ngôn thứ nhất, chúng ta thấy hình ảnh kho báu được giấu kín: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng” (Mt 13: 44). Trong dụ ngôn thứ hai, chúng ta thấy hình ảnh một viên ngọc trai rất giá trị: “Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp” (Mt 13: 45).
Chúa Giêsu cho thấy Nước trời là vô giá. Ngài chỉ ra cho chúng ta một giá trị lớn lao. Nhưng là người phàm, vốn chỉ mải mê tìm kiếm những sự trần gian, chúng ta không nhìn ra giá trị nơi lời giảng dạy của Chúa Giêsu hoặc nơi những gì Ngài đang cố gắng đem lại. Isaia đã tiên tri về tình cảnh của Chúa Giêsu khi Ngài đến trần gian: “Người bị đời khinh khi ruồng rẫy, phải đau khổ triền miên và nếm mùi bệnh tật. Người như kẻ ai thấy cũng che mặt không nhìn, bị chúng ta khinh khi, không đếm xỉa tới” (Isaia 53:3).
Như vậy, Isaia nói rằng người ta không coi trọng giá trị phi thường của Chúa Giêsu. Người ta không xem Ngài là kho báu. Người ta không coi trọng Nước trời mà Ngài đang mang đến để họ vui hưởng.
Ra đi tìm kiếm
Làm thế nào mà người kia tìm thấy một kho báu ẩn giấu? Người ấy hẳn đã tìm kiếm nó. Chúng ta thấy ý tưởng này được khẳng định trong dụ ngôn thứ hai. Thương gia đi tìm kiếm ngọc đẹp và làm tất cả những gì có thể để có viên ngọc đó: “Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” (Mt 13: 46).
Cũng thế, chúng ta cần phải đi tìm kho báu, đi tìm giá trị lớn nhất cho cuộc sống của chúng ta. Tất cả chúng ta cần phải đi tìm một điều gì đó tốt lành hơn những thứ của cải vật chất trần gian này. Nhưng trên thực tế, Satan sử dụng của cải vật chất trần gian để chống lại việc đi tìm giá trị vĩnh cửu đó: “Chúng bảo: "Chúa Trời đâu có biết, Đấng Tối Cao nào hiểu chuyện chi!” (Tv 73: 11). Nó nói với chúng ta rằng những của cải vật chất trần gian này là giá trị và kho báu lớn nhất cho cuộc sống của chúng ta rồi, không cần tìm điều gì khác nữa: “Vậy, nào đến đây, hưởng lấy của đời này, tuổi còn trẻ, ta cố mà tận dụng hết những chi đang có sẵn trên trần. Nào, ta say rượu quý, ta ngất hương thơm, những đoá hoa xuân, ta đừng bỏ phí. Nụ hoa hồng, ta đem kết triều thiên trước khi hoa tàn lụi. Đừng ai vắng trong các cuộc truy hoan, dấu vết ăn chơi, ta để lại khắp nơi khắp chốn, bởi đó chính là phần, là số ta được hưởng” (Khôn ngoan 2: 6-9).
Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta thấy con người đang tìm kiếm nhiều thứ, rất nhiều. Họ đang tìm kiếm giá trị, kể cả ý nghĩa cho cuộc sống của họ. Nhưng họ nghĩ và sống như thể những kho báu ấy, ý nghĩa của cuộc sống ấy, hệ tại những gì họ cân đo đong đếm được theo tiêu chuẩn giá trị thực dụng của trần thế này: “Có một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, mới nghĩ bụng rằng: "Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu! Rồi ông ta tự bảo: "Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!” (Lc 12: 16-21).
Giá trị tiềm ẩn của kho báu
Kho báu thực sự với giá trị lớn lao được giấu kín. Kho báu của Chúa không lộ liễu. Chúa đã để kho báu đó ở nơi mà chúng ta phải tìm kiếm thì mới thấy. Chúa Giêsu và kho báu Nước trời của Ngài chỉ được trao cho những ai thực sự muốn có nó.
Trong hai dụ ngôn này, cả hai người đều bán tất cả những gì họ có để mua kho báu: “Kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy” (Mt 13: 44). Người lái buôn bán tất cả những gì mình có và mua viên ngọc quý: “Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” (Mt 13: 46).
Tại sao người chủ viên ngọc lại bán viên ngọc quý cho thương gia? Tại sao chủ ruộng lại bán ruộng cho người đã tìm thấy kho báu bị giấu kín? Bởi vì họ không nhìn ra giá trị trong những gì họ sở hữu. Họ có kho báu lớn ngay trước mặt nhưng họ không nhận ra giá trị to lớn của nó và do đó họ không coi trọng nó. Đây là bóng tối mà cả thế giới bị bao trùm như lời Tin Mừng theo Thánh Gioan nói: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách” (Ga 3:19).
Chúa Giêsu đến trong trần thế. Ngài đã từng nói: “Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10:39). Ngài cũng nói: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16: 24-26). Điều gì xảy ra trong tâm trí và cõi lòng của chúng ta khi nghe những lời này? Chúng ta bắt đầu nghĩ về nỗi đau phải từ bỏ chính mình, đến sự hy sinh vác thập giá để theo Ngài. Chúng ta không nhận ra, thậm chí không cho rằng những thói hư, tội lỗi và việc làm xấu xa của mình cần phải từ bỏ để nhận được giá trị vượt trội là được biết Chúa Kitô. Vấn đề là chúng ta không nhìn thấy giá trị của Ngài. Đây là những gì ngớ ngẩn trong quyết định của chúng ta. Mỗi người trong chúng ta rồi sẽ chết. Chúng ta không thể giữ bất cứ thứ gì chúng ta có. Tất cả mọi thứ trên trần thế này rồi ra sẽ là hư không. Chúng ta có khờ dại không khi chấp nhận rằng thà có đôi chút vui vẻ bây giờ với những cái phù hoa mau qua còn hơn là từ bỏ những cái ấy để có được niềm vui vĩnh cửu? Chúa Giêsu đang cố gắng mở đôi mắt mù lòa của chúng ta và cho chúng ta thấy rằng Ngài là kho báu ẩn giấu lớn hơn tất cả những gì có trong cuộc sống và Ngài đáng để chúng ta đánh đổi mọi thứ trong cuộc đời mình để có được Ngài.
Hai người trong dụ ngôn này có thái độ đau buồn và miễn cưỡng như chúng ta không? Họ có thất vọng vì nghĩ rằng phải đánh đổi nhiều quá để có được viên ngọc trai không? Họ bán tất cả những gì họ có bởi vì họ thực sự muốn như vậy. Chúa Giêsu nói rằng họ bán tất cả những gì họ có trong niềm vui của mình. Họ vui vẻ từ bỏ mọi thứ. Làm sao chúng ta có thể vui vẻ từ bỏ mọi thứ chúng ta có? Điều gì sẽ khiến chúng ta thoát khỏi mọi thứ? Chỉ có một cách đem lại sức mạnh cho chúng ta để thực hiện điều này: hiểu thấu giá trị của kho báu. Những người hiểu được giá trị vượt trội của Chúa Giêsu và vương quốc của Ngài sẽ vui mừng từ bỏ mọi thứ, vui vẻ nói không với tội lỗi. Họ sẽ vui mừng dâng đời sống mình cho Chúa Giêsu, hân hoan đi theo Ngài. Họ sẽ vui mừng hy sinh mạng sống vì Chúa Giêsu. Chúng ta hãy lắng nghe thánh Phaolô bày tỏ ý tưởng này: “Thật vậy, tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta” (Rm 8: 18) và “Nhưng, những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì nay, vì Chúa Kitô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Chúa Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Chúa Kitô và được kết hợp với Ngài. Được như vậy, không phải nhờ sự công chính của tôi, sự công chính do luật Môsê đem lại, nhưng nhờ sự công chính do lòng tin vào Chúa Kitô, tức là sự công chính do Thiên Chúa ban, dựa trên lòng tin” (Philíp 3: 7-9).
Và trong bài đọc thứ hai hôm nay, thánh Tông đồ nói: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Ngài, tức là cho những kẻ được Ngài kêu gọi theo như ý Ngài định. Vì những ai Ngài đã biết từ trước, thì Ngài đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài, để Con của Ngài làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc. Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Ngài cũng kêu gọi; những ai Ngài đã kêu gọi, thì Ngài cũng làm cho nên công chính; những ai Ngài đã làm cho nên công chính, thì Ngài cũng cho hưởng phúc vinh quang” (Rm 8: 28-30).
Cho đi Tất Cả Vì Chúa Giêsu
Thánh Phaolô có cái nhìn mà Chúa Giêsu đang dạy trong dụ ngôn này. Thánh Phaolô từ bỏ mọi sự để có được giá trị vượt trội là được biết Chúa Kitô, bởi vì không gì trên thế gian này có thể so sánh được với việc biết Ngài và thuộc về Ngài: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Chúa Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Chúa Kitô và được kết hợp với Ngài” (Philíphê 3: 8-9). Điều này thực sự quan trọng. Nếu chúng ta không muốn hoàn toàn dâng hiến cuộc đời mình cho Chúa Giêsu, thì chúng ta không quý trọng Ngài với giá trị vượt trội của Ngài. Chúng ta đang đặt cuộc sống của chính mình ở một tầm mức cao hơn Chúa. Chúng ta đang coi cách nghĩ và cách sống, những thú vui và mong muốn của chúng ta, sự giàu có, tiện nghi và giải trí, kể cả tội lỗi của chúng ta, có một giá trị cao hơn Chúa. Chúng ta không nhìn thấy giá trị đích thực. Không ai buồn bã vì phải bán những gì họ có, dù là tất cả, vốn chỉ đáng giá vài triệu đồng, nhưng lại mua được kho báu hàng tỷ đồng. Không ai có thể nói rằng điều này khó làm quá. Như vậy, chúng ta không đến với Chúa Giêsu và chán nản hỏi: “Sao tôi lại phải từ bỏ mọi sự vì Thầy?” Thay vào đó, cõi lòng của chúng ta sẽ bùng cháy và hỏi trong niềm vui: “Con phải làm gì để có được kho báu này?”
Vì vậy, việc tìm ra kho báu là không đủ, cũng như việc biết rằng có Chúa Giêsu là không đủ. Chúa Giêsu không kể những dụ ngôn này để chúng ta nghe rồi thôi.
Chúa Giêsu cần được chúng ta công bố Ngài là kho báu của cuộc đời của chúng ta bằng cách thay đổi cách sống của mình để Ngài thực sự là ưu tiên hàng đầu của chúng ta.
Đừng để điều gì trong cuộc sống ngăn cản chúng ta có Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đáng được biết đến và đáng được chúng ta đánh đổi mọi thứ trong cuộc đời để có được Ngài. Chúng ta chưa quý trọng Chúa Kitô theo cách mà Ngài xứng đáng được và vì thế chưa nhận được kho báu mà Ngài ban cho mỗi người chúng ta. Nếu chúng ta trân trọng Chúa Giêsu và muốn có Ngài, thì chúng ta hãy xin Chúa Giêsu như vua Salômôn: “Xin ban cho tôi tớ Chúa đây, một tâm hồn biết lắng nghe” (1 Vua 3:9) để: “Chúng ta biết rằng: Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Ngài, tức là cho những kẻ được Ngài kêu gọi theo như ý Ngài định. Vì những ai Ngài đã biết từ trước, thì Ngài đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Ngài, để Con của Ngài làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc. Những ai Thiên Chúa đã tiền định, thì Ngài cũng kêu gọi; những ai Ngài đã kêu gọi, thì Ngài cũng làm cho nên công chính; những ai Ngài đã làm cho nên công chính, thì Ngài cũng cho hưởng phúc vinh quang” (Rm 8: 28-30).
Đức Giê-su hôm nay làm tay bán hàng rong của Thiên Chúa: “Xin quý bà quý ông vui lòng đứng TN 17-A185
Đức Giê-su hôm nay làm tay bán hàng rong của Thiên Chúa: “Xin quý bà quý ông vui lòng đứng lại nghe tôi: đây là ngày may mắn của quý vị, tôi cho quý vị một cơ hội độc nhất, một viên ngọc và một kho tàng, đừng để may mắn bay đi. Tôi sắp kể cho quý vị câu chuyện con người đã tìm ra được một kho tàng và câu chuyện con người đã mua được viên ngọc đẹp nhất”.
May mắn lớn nào? Khám phá ra Đức Giê-su là kho tàng và là viên ngọc! Một trang sách, một cuộc gặp gỡ, một cuộc tĩnh tâm, một niềm hân hoan hay một nỗi đớn đau mãnh liệt xảy đến, và thế là người ta thình lình hiểu: sự sống chính là Đức Giê-su. Trong ánh sáng này, tất cả thành giản đơn, tất cả mang một ý nghĩa, chúng ta từ nay biết tại sao mình sống và sẽ sống như thế nào.
Chúng ta đã nắm bắt cơ may này chưa? Hai dụ ngôn xinh đẹp đối với chúng ta là những quan tòa phê phán. Bạn muốn kho tàng, bạn muốn viên ngọc! Nhưng bạn lại ra đi mà không quyết định bán tất cả để mua chúng. Vì cơ may thật tuyệt diệu, nhưng lại đắt giá biết chừng nào. Người nông dân sẽ bán “hết thảy những gì mình có”; tay thương gia sẽ bán “những gì mình có hết thảy”. Nếu không bán hết như thế, chúng ta tất cả sẽ là những kẻ thuê Đức Giê-su thôi, coi Người như một trong muôn giá trị.
Hãy xem người thế xử sự ra sao trước những gì họ mong đạt được. Santa Clara (Hoa Kỳ) là một câu lạc bộ bơi lội cho các thiếu nữ. Mỗi buổi sáng, các cô đều dậy lúc 5g30 và vội vã băng qua bầu không khí lạnh lẽo chạy đến hồ bơi. Ở đó họ bơi suốt hai giờ đồng hồ. Sau đó ăn sơ sài chút ít rồi vội vã đến trường học. Sau khi ở trường ra, các cô quay lại hồ bơi thêm hai tiếng nữa. Tối 6 giờ, họ nhanh nhẹn trở về nhà, vùi đầu vào sách vở, ăn bữa tối trễ và mệt lả leo lên giường. Sáng hôm sau chuông báo thức lại vang lên vào lúc 5g30 và họ lại bắt đầu toàn bộ công việc thường nhật. Khi được hỏi tại sao lại chấp nhận tuân theo một thời biểu kỷ luật đến thế, một cô gái đã trả lời: “Mục đích của chúng tôi là gia nhập đội thi Olympics. Nếu như đi dự tiệc hay du ngoạn mà phương hại đến mục đích đó thì đi làm gì! Chẳng có gì là quá đáng trong việc tập luyện nầy cả. Tôi càng bơi được nhiều dặm thì tôi lại càng bơi khá. Sự hy sinh là điều dĩ nhiên”.
Chúng ta cũng thế, muốn chiếm được Đức Ki-tô, muốn nên công dân Nước Trời, cần phải dấn thân triệt để. Chúng ta không thể theo đuổi điều đó như làm một công việc ngoài giờ. Chúng ta không thể theo đuổi điều đó như làm một công việc tiêu khiển. Phải dấn thân vào đó trăm phần trăm, phải xem nó là ưu tiên số một của cuộc đời mình và phải bán những gì cần thiết để mua lấy điều đó.
2. Bán những gì để mua?
Bán gì? Tôi không thể trả lời thay bạn. Tôi thấy cái mà tôi ngần ngại bán, và tôi nghĩ nếu bạn nhìn một chút vào đời bạn trong lúc này đây, bạn cũng sẽ thấy cái đang ngăn cản bạn mua viên ngọc và kho tàng.
Hai dụ ngôn mini này rốt cục là lời mời gọi từ bỏ gay go nhất. “Bán tất cả” nếu tôi muốn mua sự sống. Muốn được Đức Giê-su, phải đem thế chấp cả cuộc đời mình. Nói rõ ra thì điều đó có nghĩa: từ bỏ tất cả những gì ngăn cản tôi chọn Đức Giê-su. Thành thử tôi phải bán các an ninh của tôi, các ích kỷ của tôi, các tự mãn của tôi, các biếng nhác của tôi, các kiêu căng của tôi: “Có những kẻ mơ mộng hy sinh đời mình nhưng không biết hy sinh khuyết điểm tật xấu của họ”. Mỗi lần các dụ ngôn này trở lại, ta như nhận được một nhiệt tình, một sức bật mới. Nhưng có thể chúng ta cũng muốn giữ thể diện mà nghĩ rằng: dẫu sao mình sẽ không theo kiểu thánh Phan-xi-cô được, Thiên Chúa đâu có đòi hỏi thế!
Quả thế, việc từ bỏ để được ngọc có thể mang những hình thức thái quá kiểu thánh Phan-xi-cô A-xi-di-ô, nhưng Tin Mừng là cho tất cả. Đức Giê-su đâu có rao giảng cho mấy tay chỉ biết hô hào từ bỏ thật giật gân, Người cũng chẳng công bố niềm mơ ước hay điều không tưởng. Tiếng “bán tất cả” của Người là khó nhưng phải là có thể đối với bất cứ ai, trong bất cứ hoàn cảnh nào: “Mọi hoạt động, mọi công trình, mọi cuộc sống thực sự tốt đẹp, thực sự Ki-tô giáo, luôn mang dấu hiệu kép này : tình yêu và hy sinh” (Hồng y Gabriel-Marie Garrone).
Cách đơn giản, phải tự nhủ rằng người ta không theo Đức Giê-su với hàng tấn tiện nghi hay hàng núi ngập ngừng trước một trong những đòi hỏi chính xác của Người, ví dụ đòi hỏi tha thứ. Tiếng “bán tất cả” của Người có thể nói lên một sự từ bỏ tính tự ái cách mạnh mẽ, một lòng quảng đại về tài chánh hơi điên rồ, hay một tin tưởng anh hùng trước cơn bệnh khủng khiếp. Và dĩ nhiên, cũng là vâng theo một ơn gọi.
Trong hai dụ ngôn này, nơi mà mỗi lời đều được cân nhắc, có một từ cho ta thấy việc chọn Đức Giê-su là một may mắn tuyệt diệu cần biết nắm bắt cho dẫu phải đặt vào đó giá nào đi nữa: “Trong hân hoan…”. Hân hoan điên cuồng, người ta bán tất cả. Cơ may của cuộc sống chúng ta, đó là khi ta “bán tất cả” trong một niềm vui điên cuồng.
3. Được lợi những gì nào?
Vậy người Ki-tô hữu cũng giống như tay buôn ngọc, kẻ tìm kho báu hay như vận động viên bơi lội ở câu lạc bộ Santa Clara. Họ cần phải có sự dâng hiến và dấn thân trọn vẹn trong một niềm vui điên cuồng. Tuy nhiên có một điểm khác biệt lớn lao giữa một Ki-tô hữu với ba người ấy. Thánh Phao-lô đã nêu sự khác biệt này trong thư gởi tín hữu Cô-rin-tô: “Phàm là tay đua thì phải kiêng kỵ đủ điều, song họ làm như vậy là để đoạt phần thưởng chóng hư; trái lại chúng ta nhằm phần thưởng không bao giờ hư nát” (1Cr 9,25).
Đó chính là điểm khác biệt. Phần thưởng của tay buôn ngọc, kho báu của gã nông dân, huy chương của lực sĩ vận động đều có thể lụi tàn. Khi tay buôn ngọc chết đi, viên ngọc chẳng còn giá trị gì đối với anh ta nữa. Khi người nông dân chết đi, của báu của anh đối với anh cũng sẽ thành vô dụng. Và khi vận động viên chết đi thì tấm huy chương của cô cũng chỉ còn là một vật lưu niệm đối với bà con gia đình. Nhưng khi các Ki-tô hữu chết, đặc biệt khi “các thiên sứ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính” thì vinh quang Nước Trời sẽ tỏa sáng, tỏa sáng mãi cho họ, hạnh phúc của Thiên Chúa sẽ tràn ngập họ đến thỏa lòng. Vào lúc chết thì chỉ có một điều là đáng kể. Đó không phải là viên ngọc quý, kho báu hiếm hay chiếc huy chương vàng mà chúng ta đã có được lúc còn sống. Điều đáng kể là chúng ta đã trở nên cái gì (con người của tình yêu) trong tiến trình cố gắng tìm viên ngọc, tậu của báu hoặc giành huy chương. Nếu những người đó đã sẵn sàng hy sinh rất nhiều cho một phần thưởng hư nát, thì chúng ta phải sẵn lòng hy sinh hơn cho phần thưởng mãi mãi tồn tại kia biết chừng nào. Và chắc chắn phần thưởng này sẽ vô cùng trọng hậu, nghĩa là cuộc đời ta lúc đó mới thành tựu đẹp đẽ.
Khi đề cập Nước Trời, Chúa Giêsu đã đưa ra nhiều dụ ngôn để mô tả. Một lần nọ, Ngài nói liền TN 17-A186
Khi đề cập Nước Trời, Chúa Giêsu đã đưa ra nhiều dụ ngôn để mô tả. Một lần nọ, Ngài nói liền ba dụ ngôn: Kho Báu, Ngọc Quý, và Chiếc Lưới. Ngắn gọn mà súc tích.
1. KHO BÁU (Mt 13:44) – “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.”
Dụ ngôn này không khó hiểu, nhưng khó quyết định “bán tất cả những gì mình có” hay giữ lại, đó là quyền chọn lựa riêng của mỗi người.
2. NGỌC QUÝ (Mt 13:45-46) – “Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.”
Dụ ngôn này cũng không khó hiểu, nhưng cũng khó quyết định bán hay không bán, hoàn toàn tùy ý riêng.
Có lẽ đa số chúng ta là dân nghèo, không mấy ai là triệu phú hoặc tỷ phú (tính theo ngoại tệ, cụ thể là Mỹ kim, chứ nội tệ thì “tệ” lắm, ngày nay người Việt nào cũng chí ít là triệu phú, bởi vì tiền Việt là… “vô giá,” Việt tệ là vậy) nhưng dù nhiều hay ít thì tài sản riêng của ai cũng “lớn” lắm, không dễ gì dứt khoát từ bỏ. Tài sản đó không phải là vật chất, mà là “cái tôi” – tính tự ái, lòng kiêu ngạo, thói sĩ diện,... đặc biệt là “kho tàng” tội lỗi, bởi vì phạm tội cũng có cái “thú riêng.” Trái cấm bao giờ cũng hấp dẫn, “ăn vụng” ngon lắm! Bởi vậy, Chúa Giêsu nói: “Kho tàng của bạn ở đâu thì lòng bạn ở đó.” (Mt 6:21; Lc 12:34)
3. CHIẾC LƯỚI (Mt 13:47-50) – “Nước Trời lại còn giống như chuyện chiếc lưới thả xuống biển, gom được đủ thứ cá. Khi lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi nhặt cá tốt cho vào giỏ, còn cá xấu thì vứt ra ngoài. Đến ngày tận thế, cũng sẽ xảy ra như vậy. Các thiên thần sẽ xuất hiện và tách biệt kẻ xấu ra khỏi hàng ngũ người công chính, rồi quăng chúng vào lò lửa. Ở đó, chúng sẽ phải khóc lóc nghiến răng.”
Dụ ngôn thứ ba có vẻ “nặng” hơn, mạnh hơn và rõ hơn. Dụ ngôn này tương tự dụ ngôn “Cỏ Lùng.” (Mt 13:24-30) Không ngư dân nào để chung cá xấu với cá tốt, chắc chắn họ sẽ loại cá xấu ra. Cá xấu “bị vứt ra ngoài” thì “không còn gì để nói.” Bị vào nơi chỉ có lửa thì tha hồ mà “sưởi,” tha hồ khóc lóc và nghiến răng. Ở Hỏa Ngục thì “sướng” vô cùng, than thở suốt đời mà chẳng ai dỗ dành, an ủi, chẳng ai thương xót, hết đường thoát, Chúa cũng không cứu nổi, bởi vì đó là cách chọn theo ý muốn tự do của chúng ta. Khủng khiếp không thể tả!
Đây là điều chắc chắn: HỎA NGỤC CÓ THẬT, thật hơn cả sự thật. Nhiều người phải sa Hỏa Ngục bởi vì họ chưa bao giờ tin Hỏa Ngục có thật, mặc dù đã nghe nói tới nhiều rồi (x. Nhật Ký Thánh Faustina, số 741) Chúa Giêsu cũng đã mặc khải Hỏa Ngục cho vài vị thánh được thị kiến. Thật chứ không đùa. Nếu chưa đủ lòng mến để có thể ăn năn tội cách trọn thì cũng vì sợ mà ăn năn tội cách chẳng trọn. Chúa chấp nhận cả hai cách vì Ngài “giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta.” (Ep 2:4)
Thánh Faustina cho biết sự thật: “Đa số các linh hồn ở Hỏa Ngục là những người đã không tin có Hỏa Ngục.” Về Luyện Ngục, Thánh Tôma Aquinô nói: “Những người từ chối có Luyện Ngục là chống lại công lý của Thiên Chúa.”
Chúa Giêsu hỏi các môn đệ có hiểu tất cả những điều ấy hay không, họ trả lời có hiểu. Và Ngài kết luận: “Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ.” (Mt 13:52) Chúng ta đã nghe nói và biết nhiều về Nước Trời, càng nhiều tuổi càng nghe nhiều, phần quyết định thuộc về mỗi người. Mong sao mọi người đủ can đảm để “bán những gì mình có” để có được tấm “Visa Nước Trời” thì an tâm chờ “chuyến bay” vào bất cứ lúc nào.
Đề cập điều kiện vào Nước Trời, được cứu độ, Thánh Tôma Aquinô cho biết: “Có ba điều cần để con người được cứu độ: biết mình TIN gì, biết mình MUỐN gì, và biết mình LÀM gì.” Tin, Muốn và Làm là ba động từ quan trọng, giống như tam-giác-sống của mỗi Kitô hữu, là điều kiện “ắt có và đủ” để trở nên “công dân Nước Trời.”
Có nhiều thứ trái ngược – cụ thể và trừu tượng, một trong các cặp đối lập là Khôn và Khờ. Hai chữ bắt đầu bằng mẫu tự K, hai mẫu tự giống nhau về cách viết và cách phát âm, nhưng lại hoàn toàn trái ngược về ý nghĩa. Thế nào là khôn ngoan và ai khôn ngoan? Triết gia Albert Schweitzer (1875-1965, Đức quốc) nhận định: “Người lạc quan nhìn đâu cũng thấy màu xanh, người bi quan thấy khắp nơi chỉ toàn màu đỏ, còn người thực sự khôn ngoan thì mù màu.” Một cách nói thật thú vị. Khôn ngoan là điều rất quý giá.
Đức khôn ngoan vĩnh tồn vì khôn ngoan là “cội rễ không thể nào hư hoại” (Kn 3:15) và là “kho báu vô tận cho con người. Chiếm được Đức Khôn Ngoan là được nên bạn hữu với Thiên Chúa, và được Người tin cậy, vì đã tiếp nhận những lời dạy dỗ bảo ban.” (Kn 7:14) Quả thật, sự khôn ngoan không chỉ là điều rất cần thiết trong cuộc sống mà còn là một nhân đức. Sách Châm Ngôn xác định: “Khôn ngoan chính là cây sự sống đối với người nào nắm được khôn ngoan. Giữ được khôn ngoan quả là hạnh phúc.” (Cn 3:18) Sách Giảng Viên cho biết: “Sự khôn ngoan làm cho gương mặt con người ngời sáng, và nét cứng cỏi nên dịu dàng.” (Gv 8:1) Đặc biệt là sách Huấn ca xác định: “Bước đầu của khôn ngoan là kính sợ Đức Chúa, lòng kính sợ Đức Chúa là tuyệt đỉnh của khôn ngoan, mang lại bình an và sức khỏe dồi dào.” (Hc 1:14:18) Khôn ngoan hữu ích vô cùng!
Người giỏi giang và thông minh chưa chắc khôn ngoan, người ngu dốt không hẳn là thiếu khôn ngoan. Khôn ngoan không liên quan tình trạng giỏi giang, bộ óc thông minh hoặc ngu dốt. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu học hành chẳng bao nhiêu nhưng được Giáo Hội tôn phong là Tiến Sĩ vì thánh nữ có bí quyết nên thánh đơn giản là “con đường thơ ấu.” Chị thánh còn được tôn phong là bổn mạng các xứ truyền giáo, các phi công, những người bán hoa, và các bệnh nhân – đặc biệt là các bệnh nhân AIDS (SIDA). Thánh nữ Faustina (1905-1938) cũng chỉ là người kém cỏi về chữ nghĩa nhưng lại được Chúa Giêsu mặc khải bí quyết nên thánh là “tín thác vào Đức Kitô.” Thật là mầu nhiệm, như Chúa Giêsu đã tạ ơn Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.” (Mt 11:25; Lc 10:21)
Có nhiều loại kho tàng, cả nghĩa đen và nghĩa bóng, nhưng chắc hẳn “kho tàng khôn ngoan” là kho tàng quý giá nhất. Quả thật, sự khôn ngoan rất cần thiết, nhất là đối với những khách hành hương đường trần gian nguy khó này. Vì thế, Chúa Giêsu đã căn dặn: “Anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu.” (Mt 10:16) Khôn – Dại còn tùy quan niệm, cái khôn của người này có thể là cái dại của người khác, và ngược lại. Người Công giáo có câu vè thế này: “Khôn thế gian làm quan Địa Ngục, dại thế gian làm quan Thiên Đàng.” Dù không tin vào Đức Kitô, người đời cũng vẫn đề cao sự khôn ngoan. Nhưng khôn ngoan cũng có năm nẻo, bảy đường, nhiều lối.
Văn hào Victor Hugo (Pháp) nói: “Sự thận trọng là con trưởng của sự khôn ngoan.” Văn sĩ Robert Heinlein (Mỹ) so sánh: “Lòng tốt thiếu đi sự khôn khéo thì chẳng khác gì cái ác.” Kịch tác gia Menander (Hy Lạp) nhận định: “Tóc bạc không sinh ra sự khôn ngoan.” Đó là dạng triết-lý-sống ở đời, đôi khi phải biết “sống ngược đời” như cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm tự trào: “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, Người khôn người tìm chốn lao xao.” Chẳng mấy ai có “cái dại” như cụ Trạng Trình đâu.
Vào một đêm xưa tại Ghípôn, Đức Chúa đã hiện ra báo mộng cho vua Salômôn: “Ngươi cứ xin đi, Ta sẽ ban cho.” (1 V 3:5) Giấc mộng kỳ lạ quá, đúng là hơn cả tuyệt vời, được Chúa “bật đèn xanh” thì còn gì bằng. Nhưng khác hẳn với ý tưởng thông thường, vua Salômôn lại khiêm hạ: “Chính Ngài đã lấy lòng nhân hậu lớn lao mà xử với tôi tớ Chúa là Đavít thân phụ con, như người đã bước đi trước nhan Chúa cách trung thực, công chính, với tâm hồn ngay thẳng. Chúa đã duy trì lòng nhân hậu lớn lao ấy đối với người, khi ban cho người có một đứa con ngồi trên ngai của người hôm nay. Và bây giờ, lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của con, chính Chúa đã đặt tôi tớ Chúa đây lên ngôi kế vị Đavít, thân phụ con, mặc dầu con chỉ là một thanh niên bé nhỏ, không biết cầm quyền trị nước. Con lại ở giữa dân mà Chúa đã chọn, một dân đông đúc, đông không kể xiết, cũng không đếm nổi. Xin ban cho tôi tớ Chúa đây một tâm hồn biết lắng nghe để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái; chẳng vậy, nào ai có đủ sức cai trị dân Chúa, một dân quan trọng như thế?” (1 V 3:6-9)
Thật là khôn ngoan khi vua Salômôn xin ơn khôn ngoan mà không nói rõ là sự khôn ngoan, mà chỉ xin “biết lắng nghe” và “biết phân biệt phải trái.” Biết hai điều đó thì khôn ngoan tột đỉnh rồi. Thật vậy, chính Chúa đã hài lòng khi vua Salômôn xin điều đó. (1 V 3:10) Và rồi Thiên Chúa phán với ông: “Bởi vì ngươi đã XIN điều đó, ngươi đã KHÔNG XIN cho được sống lâu hay được của cải, cũng KHÔNG XIN cho kẻ thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho được TÀI PHÂN BIỆT ĐỂ XÉT XỬ, thì này, Ta làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi cũng chẳng có ai bì kịp.” (1 V 3:11-12) Vua Salômôn không chỉ là người khôn ngoan nhất thế gian, mà ông còn là người hạnh phúc nhất thế gian, bởi vì ông đã chiếm hữu được “kho báu” của Thiên Chúa. Ước gì chúng ta cũng biết xin những điều có lợi cho người khác để Thiên Chúa vui lòng, như vậy thì chúng ta cũng sẽ được Ngài ban một phần của vua Salômôn.
Cũng rất khôn ngoan khi Thánh Vịnh gia thân thưa: “Lạy Chúa, con đã nói: phần của con là tuân giữ lời Ngài.” (Tv 119:57) Chúng ta phải noi gương này, phải “coi trọng luật Chúa truyền ban hơn vàng muôn bạc triệu.” (Tv 119:72) Đó là một dạng “từ bỏ mình” để theo Chúa, và như vậy là khôn ngoan. Nhưng điều đó không dễ thực hiện nếu không “tự khó với chính mình.” Rất cần nỗ lực để có thể quyết tâm như “ông bụi đời” Gioan Tẩy Giả là làm cho Chúa phải nổi bật lên, còn mình phải lu mờ đi. (x. Ga 3:30)
Tự khó với chính mình nhưng không khó với người khác. Đó là một quyết tâm rất khó, nhưng phải cố làm, và phải xin Thiên Chúa xót thương: “Xin Chúa lấy tình thương mà an ủi, theo lời đã hứa với tôi tớ Ngài đây. Xin chạnh lòng thương cho con được sống, vì luật Ngài làm con vui sướng thỏa thuê.” (Tv 119:76-77) Quyết tâm như vậy rồi mới có thể thân thưa: “Mệnh lệnh Ngài, con yêu quý, quý hơn vàng, hơn cả vàng y. Vì thế, theo mọi huấn lệnh Ngài, con thẳng bước, lòng ghét mọi đường nẻo gian tà. Thánh ý Chúa kỳ diệu lắm thay, nên hồn con tuân giữ. Giải thích lời Ngài là đem lại ánh sáng cho kẻ đơn sơ thông hiểu am tường.” (Tv 119:127-130)
Chắc chắn khiêm nhường là điều Thiên Chúa muốn, Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhưng Ngài đã tự hạ tột cùng, tất nhiên Ngài không chỉ mong muốn mà còn bắt buộc chúng ta phải sống khiêm nhường. Trong bài Magnificat, Đức Mẹ đã xác định: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.” (Lc 1:52)
Nền tảng của tòa nhà nhân đức là sự khiêm nhường, Cựu Ước cũng đề cao “viên đá góc tường” khiêm nhường và xác định: “Đức Chúa hạ bệ những ai quyền thế, và đặt kẻ hiền lành ngồi lên thay.” (Hc 10:14) Ngôn sứ Isaia nói rõ: “Đức Chúa làm nhục mọi đứa cao sang ngạo mạn, và hạ bệ mọi kẻ hiển danh trên mặt đất.” (Is 23:9) Thật lạ lùng, vua Nabucôđônôxo đã phải lên tiếng ca ngợi, tán dương và tôn vinh Thiên Chúa, đồng thời công nhận mọi việc của Ngài là chân thật và đường lối của Ngài là công minh: “Ngài có quyền hạ bệ kẻ quen thói kiêu căng hống hách.” (Đn 4:34)
Ý Chúa huyền nhiệm, quan phòng kỳ diệu, tiền định lạ lùng, chúng ta không thể nào hiểu thấu. Về ý định cứu độ của Thiên Chúa, Thánh Phaolô cho biết: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Người, tức là cho những kẻ được Người kêu gọi theo như ý Người định. Vì những ai Người đã biết từ trước thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc.” (Rm 8:28-29) Thật tuyệt vời! Chúng ta được Thiên Chúa yêu quý và thương xót, được giải thoát khỏi ách tội lỗi nhờ Máu Đức Kitô, được phục hồi cương vị làm con cái, lại còn được làm em của Chúa Giêsu nữa. Phàm ngôn không thể diễn tả niềm hạnh phúc mà chúng ta đang được tận hưởng ngay ở đời này.
Thánh Phaolô xác định với chuỗi hệ lụy liên kết với nhau: “Những ai Thiên Chúa đã tiền định thì Người cũng kêu gọi; những ai Người đã kêu gọi thì Người cũng làm cho nên công chính; những ai Người đã làm cho nên công chính thì Người cũng cho hưởng phúc vinh quang.” (Rm 8:30) Được “hưởng phúc vinh quang” tức là được vào Nước Trời, được vào Thiên Đàng là được vĩnh sinh.
Mục đích duy nhất của tín nhân là như thế. Nhưng muốn vào Nước Trời hay không là quyền tự do riêng của mỗi người, Thiên Chúa không ép buộc bất kỳ ai, vì Ngài ban cho chúng ta quyền tự do, và Ngài luôn tôn trọng quyền đó nơi bất cứ ai. Nhưng vì thương xót chúng ta, Ngài không thể bỏ mặc chúng ta, nên Ngài vẫn cảnh báo hoặc động viên chúng ta, vì Ngài muốn tất cả chúng ta được vào Nước Trời, không muốn ai phải hư mất. Có lẽ vì tôn trọng tự do của chúng ta mà Chúa Giêsu thường sử dụng dụ ngôn và nói: “Ai có tai thì nghe.” (Mt 11:15; Mt 13:9; Mt 13:43; Mc 4:9; Mc 4:23; Mc 7:16; Lc 8:8; Lc 14:35) Tín nhân phải thực sự tỉnh thức, phải sống khôn ngoan chọn lựa để có thể trở nên công dân Nước Trời.
Lạy Thiên Chúa, Ngài thấu suốt mọi sự, xin dạy bảo thánh chỉ Ngài, dẫn chúng con đi trên chính lộ, xin hướng lòng chúng con nghiêng về Thánh Ý, không ngả theo danh lợi phù vân, biết khao khát huấn lệnh Ngài để được hưởng tình thương và ơn cứu độ như Ngài hứa, (Tv 119:41) xin ban thính giác tâm linh để lắng nghe tiếng Ngài, xin ban thêm thông minh và khôn ngoan để chúng con thi hành đúng ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen..
Tuần này Giáo Hội lại khuyên chúng ta phải biết khôn ngoan trong chọn lựa. Hai bài đọc 1, 2 và TN 17-A187
Tuần này Giáo Hội lại khuyên chúng ta phải biết khôn ngoan trong chọn lựa. Hai bài đọc 1, 2 và bài Tin Mừng Phúc Âm Mathieu đều nói về sự khôn ngoan để giúp chúng ta biết chọn lựa chính xác.
Theo bài đọc 1 (1V 3-5, 7-12) Vua Solomon cầu xin Thiên Chúa ban cho sự khôn ngoan để dẫn dắt dân Chúa. Thiên Chúa đã rất vui vì thấy Solomon đã không xin giầu sang phú quý và uy quyền mà chỉ xin được nhận biết thế nào là đúng và thế nào là sai. Thiên Chúa đã hứa cho ông sự khôn ngoan và hiểu biết mà từ trước đến giờ cũng như trong tương lai sẽ chẳng ai có. Vua Solomon trong một đêm cầu nguyện chuyện vãn với Thiên Chúa đã có một viễn kiến về quyền lực. Ở chương trước của bài đọc này, chúng ta thấy Solomon lên ngôi kế nghiệp vua cha là David ở Jerusalem để cai trị dân Israel. Trước khi băng hà, David dặn Solomon phải tuân theo những pháp lệnh của luật Maisen. David truyền cho con phải giải quyết những món nợ với kẻ thù của ông mà ông còn mắc. Solomon cũng có một người anh là Adonijah đã bị giết, vì ông ta nhận thấy người này là mối đe dọa cho ngôi vua của mình. Sau cùng khi ông đã thành lập vương quốc, ông bắt đầu xây dinh thự cho mình và đền thờ Jerusalem.
Người kể truyện cho biết Solomon “đã yêu mến Chúa, bước tới trước tượng vua cha David” (1V 3:3). Đó là lý do tại sao Thiên Chúa đã nói với Solomon, “Hãy xin ta điều gì thì Ta sẽ ban cho.” Trả lời của Solomon gồm ba điều. Điều thứ nhất không nằm trong bài đọc 1 này, nói về tình liên đới với Thiên Chúa của vua cha David, một người được Thiên Chúa yêu thương vì lòng trung thủy, sự chính trực, tâm hồn ngay thẳng của một người cầm quyền. Người xưa tin rằng trái tim là phối hợp của mọi súc động cũng như tư tưởng, suy nghĩ, phân biệt và ước nguyện. Thứ hai nói về tình liên đới hiện tại của Solomon với Thiên Chúa. Solomon tự coi mình như là đầy tớ của Chúa, đã được Thiên Chúa chọn làm vua nối nghiệp cha là David, dù ông cảm thấy không đủ tư cách. Thứ ba là đòi hỏi có được “Trái tim/tâm hồn hiểu biết”, nghĩa là biết lắng nghe để phân biệt đúng sai hầu hành động để việc cai trị dân Chúa được tốt đẹp và hoàn hảo. Thiên Chúa đã ca ngợi ông là đã không xin những điều mà một quân vương thường đặc biệt mong ước, và ban cho Solomon sự khôn ngoan và biết phân biệt như ông xin. Chúa còn nói thêm Solomon quả là vị vua duy nhất của dân Israel. Nhưng buồn thay, triều đại Solomon kết thúc rất khác biệt với lúc khởi đầu, vì ông đã ngừng không thực thi những điều răn của Thiên Chúa (Xem 1K 11:1-13).
Bài đọc 2 (Rm 8:28-30) cũng là một tiếp nối của thư Phaolo gửi tín hữu Roma ở Chúa Nhật trước. Thần Khí Thiên Chúa sẽ can thiệp và giúp chúng ta biết cách cầu nguyện cùng Thiên Chúa khi chúng ta không biết. Phaolo tiếp tục bảo đảm với độc giả là Thiên Chúa kiểm soát mọi sự, và tất cả mọi sự chúng ta cảm nghiệm thấy đều là một phần nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa. Vậy kế hoạch của Thiên Chúa là gì đối với những người yêu Chúa? Thánh Phaolo coi cộng đồng ở đây như một tổng thể có đủ tài trí công sức, không phải là những cá nhân. Nhưng nên để ý Phaolo không dùng từ “tiền định” như các nhà thần học ngày nay dùng, cho rằng Thiên Chúa đã định trước ai sẽ được cứu rỗi ai không. Mà thực ra điều giống như “Thiên Chúa đã định trước” là điều mà Thiên Chúa muốn con người được tạo thành giống như hình ảnh hoặc giống như Chúa Kito. Vậy Thiên Chúa kêu gọi chúng ta, công chính hóa chúng ta -đặt chúng ta trong chiều hướng tình liên đới chính đáng với Thiên Chúa- để chúng ta có thể được vinh danh cùng với Chúa Kito. Thực sự là thánh Phaolo có ý nói về việc Thiên Chúa mời gọi chúng ta tham dự vào màu nhiệm Phục Sinh, chết với Chúa Kito để chúng ta có thể tái sinh đầy đủ trong Chúa Kito.
Trong bài Phúc Âm hôm nay (Mt 13:44-52/13:44-46) Chúa Giêsu đã so sánh giá trị của vương quốc Thiên Chúa như một kho tàng dấu kín, một viên ngọc rất quí giá, một mẻ lưới cá. Đây là một suy nghĩ đặc biệt vượt quá hiểu biết của con người, nhưng cuối cùng thì tỏ rõ, thiên thần của Chúa sẽ gạn lọc những kẻ đã sống cuộc sống tốt đẹp thánh thiện khỏi những kẻ tội lỗi không biết ăn năn hối cải.
Bài Tin Mừng lại có thêm 3 ngụ ngôn nữa diễn tả triều đại Thiên Chúa, cũng được Mathieu gọi là “vương quốc thiên đàng.” Hai ngụ ngôn đầu -ngụ ngôn kho tàng và viên ngọc quí- có cùng một quan trong như nhau, nên cho ra chung cùng một thông điệp. Cả hai trường hợp, giá trị của kho tàng và viên ngọc quí đã được xác định. Giá trị của triều đại Thiên Chúa là một kho tàng có giá trị vô kể, không gì trên trái đất này có thể sánh ví được. Vậy người kiếm ra được kho tàng và viên ngọc đó có ý nghĩa gì? Kiếm được vật có giá, người đó đem bán hết của cải mình có để mua cho được những thứ đó là thứ bền vững thực sự cho chắc ăn. Đây chính là triều đại của Thiên Chúa, người khôn ngoan sẽ nhận biết ra nó và từ bỏ mọi sự, vui mừng tham dự hợp tác với nó một cách hoàn toàn và trọn vẹn.
Ngụ ngôn thứ ba có vẻ hao hao giống như ngụ ngôn cỏ dại và lúa ở Chúa Nhật trước.
Biển thì đầy dẫy cá cả cá dở lẫn cá tốt. Cũng như cánh đồng có cả lúa và cỏ dại mọc chung lẫn lộn cho tới mùa gặt. Vậy lưới cá và nhặt cá xấu ra khỏi cá tốt trong ngụ ngôn này có cùng một mục đích khi mùa gặt đến bác nhà nông đem cỏ dại đi đốt và giữ lại lúa tốt như trong ngụ ngôn trước. Cả hai đều là biểu tượng về phán xét vào ngày sau cùng, người công chính sẽ được tách ra khỏi những kẻ gian ác. Nói cho rõ, Thiên Chúa chính là quan tòa, không phải là nơi để chúng ta xét sử những ai khác mà là phải hành động một cách kiên nhẫn và đầy tình bác ái. Thiên Chúa sẽ xét sử hợp thời, đúng giờ đúng lúc. Ngoài ra tất cả chúng ta còn có hy vọng, bởi lẽ phán xét của Thiên Chúa thì tuyệt vời, một phán xét hòa nhịp giữa công bằng, công lý và đầy lòng thương sót.
Lạy Thiên Chúa! Chúa là đấng che chở những ai hy vọng vào Chúa. Không có Chúa, chẳng có gì là vững chắc thánh thiêng. Xin hãy đổ tràn chúng con đầy tình thương xót, Và ban cho chúng con nỗi thương tình đó. Chúa là đấng cầm cân nảy mực hướng dẫn chúng con, Chúng con có thể vui hưởng hanh phúc chóng qua thế nào thì cũng có thể yêu mến hạnh phúc bất giệt như vậy. Cùng với Chúa Giêsu Kito, Con Chúa, đấng hàng sống hàng trị với Chúa trong Hiệp nhất với ChúaThánh Thần là một Thiên Chúa duy nhất đến muôn đời. Amen.