Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XX Thường Niên Năm A nầy đều có chung một đề tài: mở rộng TN 20-A151
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XX Thường Niên Năm A nầy đều có chung một đề tài: mở rộng lòng mình để đón tiếp muôn dân nước, tức là bất kỳ ai, dù thuộc dân tộc nàò, nếu bày tỏ niềm tin của mình vào Thiên Chúa chân thật.
Is 56: 1, 6-7
Bài Đọc I là sứ điệp loan báo ơn cứu độ phổ quát: mời gọi cộng đồng Giê-ru-sa-lem đón nhận vào cộng đồng mình những kiều cư, những ai kính sợ Thiên Chúa Ít-ra-en.
Rm 11: 13-15, 29-32
Trong thư gởi các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô nhắc lại sứ vụ Tông Đồ dân ngoại của thánh nhân, vì dân Do thái, dân Chúa chọn, từ chối nên lời loan báo cứu độ được gởi đến cho muôn dân.
Mt 15: 21-28
Tin Mừng Mát-thêu tường thuật câu chuyện Đức Giê-su với một người đàn bà xứ Ca-na-an. Cuối cùng Đức Giê-su nhận lời khẩn cầu của người đàn bà ngoại giáo nầy và ca ngợi đức tin của bà.
BÀI ĐỌC I (Is 56: 1, 6-7)
Đoạn trích nầy mở ra phần thứ ba của sách I-sai-a. Phần thứ ba nầy, xét toàn bộ, được gán cho vị ngôn sứ biệt danh là I-sai-a đệ tam (ch. 56-66), vì người ta không biết tên ông. Cũng như vị tiền nhiệm của ông là ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (ch. 40-55), ông kín đáo ẩn mình dưới danh nghĩa của vị ngôn sứ I-sai-a vĩ đại (ch. 1-39).
Ngôn sứ I-sai-a đệ tam thi hành sứ vụ của mình ở Giê-ru-sa-lem, trong những thập niên sau cuộc lưu đày Ba-by-lon trở về, và nhất là vào thời kỳ tái thiết Đền Thờ (521-515 trước Công Nguyên). Ngay đầu tác phẩm của mình, ngôn sứ I-sai-a đệ tam công bố sứ điệp gởi đến muôn dân nước.
1. Những kiều cư.
Chắc chắn vào lúc nầy có một số lượng khá lớn những “kiều cư” ở Giê-ru-sa-lem và Giu-đê. Chúng ta nghĩ đến những người ngoại bang đã đến định cư ở đây trong khi một phần dân cư bị đưa đi lưu đày. Đối với những người ngoại bang đến định cư lập nghiệp, luật dự kiến một quy chế thuận lợi; họ được hưởng một số lượng quyền lợi nào đó. Sách Lê-vi đồng hoá họ với “những người thân cận” và đòi hỏi phải “yêu thương họ như chính mình” (Lv 19: 33-34).
Trái lại, những những người “nhập cư”, tức những người ngoại quốc sinh sống trong một thời gian hạn định nào đó, không hưởng được bất kỳ một quyền lợi nào khác ngoài phong tục tập quán của lòng hiếu khách. Đơn giản là những người này được cư xử với lòng khoan dung độ lượng, đôi khi bị đồng hóa với những kẻ thù; họ bị cấm không được tham dự phụng tự và bị tước đoạt nhiều quyền lợi.
“Đức Chúa phán như sau: Hãy tuân giữ điều chính trực,
thực hành điều công minh, vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới,
và đức công chính của Ta sắp được biểu lộ” (Is 56: 1).
Qua những lời này, vị ngôn sứ, “nhân danh đức công chính và điều chính trực”, tố cáo những kỳ thị như thế. Đức Chúa phán: “Vì ơn cứu độ của Ta đã gần tới”, diễn ngữ nầy muốn nói rằng Đức Chúa sẵn sàng can thiệp bởi vì Ngài là Đấng bảo vệ những người thân cô phận hèn.
2. Yêu mến Danh Người.
Ngôn sứ liệt kê những điều kiện khái quát để đón nhận những kiều cư vào cộng đoàn Ít-ra-en:
“Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cùng trở nên tôi tớ của Người, hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm, cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta” (Is 56: 6)
Theo văn hóa Do thái, tên chính là người, vì thế, “Yêu mến Thánh Danh” đồng nghĩa “yêu mến chính Thiên Chúa”. Diễn ngữ: “Yêu mến Thánh Danh”, không gặp thấy nơi nào khác ngoài đoạn văn Cựu Ước nầy. Nhưng thật có ý nghĩa khi vị ngôn sứ đòi hỏi trước tiên lòng yêu mến đối với Đức Chúa, Thiên Chúa của dân Ít-ra-en. Kiểu nói: “Để phụng sự”, không gợi lên bất kỳ phụng sự tôn giáo nào; thành ngữ “tôi tớ” chỉ chung các tín hữu.
Trong câu nói: “hết những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm”, điểm nhấn được đặt trên việc tuân giữ “ngày sa-bát” rất có ý nghĩa. Trong thời lưu đày, việc tuân giữ ngày sa-bát đã mang lấy một tầm quan trọng lớn lao. Ngày sa-bát đã trở nên dấu hiệu biệt phân, nhờ đó người Do thái bị tản mác ở giữa dân ngoại khẳng định căn tính của mình.
Câu nói: “cùng những ai tuân thủ giao ước của Ta”, tóm gọn những đòi hỏi được liệt kê ở trên. Trong số những đòi hỏi nầy, phép cắt bì không được kể ra. Vả lại, phép cắt bì chỉ đòi hỏi những tân tòng, chứ không “những người kính sợ Thiên Chúa”, tức là những người thiện cảm với Do thái giáo, như viên bách quản Rô-ma, ông Co-nê-li-ô.
3. Sứ điệp phổ quát.
Vị ngôn sứ công bố nhân danh Đức Chúa. Việc phục hồi quyền lợi của những kiều cư và tháp nhập họ vào dân Chúa chọn là sáng kiến của Thiên Chúa:
“Đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta” (Is 56: 7a).
Trong Kinh Thánh, chúng ta thường gặp thấy niềm vui được phụng thờ Đức Chúa. Các “thánh vịnh lên Đền” ca ngợi tâm tình hân hoan tôn giáo nầy, ví dụ như Thánh Vịnh 43:
“Con sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa, tới gặp Thiên Chúa, nguồn vui của lòng con” (Tv 43: 4),
Chúng ta cũng gặp thấy như vậy trong lời khẳng định của Thiên Chúa qua vị ngôn sứ của mình:
“Trên bàn thờ của Ta, Ta sẽ ưng nhận, những lễ toàn thiêu và hy lễ chúng dâng, vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện của muôn dân” (Is 56: 7b).
Lời khẳng định nầy mang một cung điệu đặc biệt, một cung điệu mang chiều kích phổ quát nhất trong toàn bộ Cựu Ước. Đức Giê-su sẽ lập lại lời khẳng định nầy khi Ngài xua đuổi những người buôn bán ra khỏi khuôn viên Đền thờ, chính xác là nơi dành cho dân ngoại mong ước cầu nguyện với Thiên Chúa Ít-ra-en. Hành vi của Đức Giê-su không chỉ muốn nói rằng tất cả điều nầy rồi sẽ sớm biến mất, nhưng nơi nầy phải được dành cho muôn dân nước.
BÀI ĐỌC II (Rm 11: 13-15, 29-33)
Đoạn trích thư của thánh Phao-lô hôm nay hòa hợp với các bài đọc khác của Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật nầy: cả ba bài đọc đều nói về việc rộng mở lòng mình để đón nhận muôn dân.
Việc rộng mở lòng mình để đón nhận muôn dân nầy càng khẩn thiết hơn khi dân Do thái, nói chung, cố chấp trong sự mù quáng của mình. Đó là nguyên do tại sao thánh Phao-lô ưu phiền. Thánh nhân ngỏ lời với các tín hữu Rô-ma, những người Ki-tô hữu gốc dân ngoại: “Tôi xin ngỏ lời với anh em là những người gốc dân ngoại”.
Thánh Phao-lô tự đặt mình lần lượt vào trong hai viễn cảnh: viễn cảnh của chính ngài, vị Tông Đồ dân ngoại, và viễn cảnh của Thiên Chúa, Đấng đầy lòng xót thương.
1. Viễn cảnh của vị Tông Đồ dân ngoại (Rm 11: 13-15)
Đọc đoạn văn này lần đầu, chúng ta có thể nghĩ rằng thánh Phao-lô hiến trọn cuộc đời mình cho sứ vụ tông đồ dân ngoại với một hậu ý: làm cho đồng bào Do thái của mình ganh tị khi thấy việc dân ngoại mỗi ngày mỗi thêm đông được dự phần vào kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, thế chỗ cho dân Chúa chọn. Chắc chắn đây không là mục đích hàng đầu trong hoạt động truyền giáo của thánh nhân, nhưng là ý định kèm theo của thánh nhân: ở đây thánh nhân bày tỏ nỗi lòng của mình: ơn cứu độ của dân Ít-ra-en ám ảnh thánh nhân. Thánh nhân mong muốn cảm hóa đức tin của “một ít người” như mầm mống và bảo chứng cho việc cảm hóa đức tin của tất cả mọi người. Nếu dân Do thái bị gạt ra bên lề, đó lại là cơ hội cho thế giới được hòa giải với Thiên Chúa, tức là cuộc hoán cải của dân ngoại. Nếu giai đoạn đầu tiên là ơn cứu độ phổ quát cho muôn người, thì giai đoạn thứ hai sẽ là tuyệt vời biết mấy khi mà toàn thể dân Ít-ra-en được tái tháp nhập vào cộng đồng đức tin, tức là “từ cõi chết bước vào cõi sống”.
Đối với vị Tông Đồ dân ngoại, Thiên Chúa không thể bỏ rơi dân riêng của Ngài: ơn gọi của dân Chúa chọn không thể nào đổi thay: “Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Người không hề đổi ý”.
Cả dân ngoại lẫn dân Do thái đều đã “không vâng phục Thiên Chúa”. Ở đầu bức thư của mình, thánh nhân đã cho thấy rằng dân ngoại đã đón nhận đủ ánh sáng để có thể cư xử với nhau một cách chính trực và nhân ái, nhưng họ đã lún sâu vào trong sự bất chính và tôn thờ ngẫu tượng: theo nghĩa nầy, họ đã không vâng phục Thiên Chúa. Đến phiên mình, dân Do thái, đến thời Thiên Sai, đã không thấy ánh sáng và cũng đã không vâng phục Thiên Chúa.
Thánh Phao-lô thiết lập mối quan hệ nhân quả giữa việc bất phục tùng của dân Ít-ra-en và sự hoán cải của dân ngoại. Chắc chắn đây là quan hệ nhân quả lịch sử. Trước việc dân Do thái chống đối có hệ thống, thánh Phao-lô, thánh Ba-na-ba và các Tông Đồ khác đã quyết định quay về phía dân ngoại. Nhưng, còn sâu xa hơn, thánh nhân cho thấy mối quan hệ nhân quả thuộc trật tự tâm lý trong ý định Thiên Chúa. Lúc đó, theo lối hành văn biền ngẫu đặc thù của dân Do thái, thánh nhân mô tả chuyển động kép của lòng Chúa xót thương: chính nhờ lòng Chúa xót thương, dân ngoại đã có thể trở lại cùng Thiên Chúa, thì cũng chính nhờ lòng Chúa xót thương, dân Ít-ra-en cũng sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Cuối cùng, thánh nhân tóm lược kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa, trong một biểu thức thấm thía: “Quả thế, Thiên Chúa đã giam hãm mọi người trong tội không vâng phục, để thương xót mọi người”.
TIN MỪNG ( Mt 15: 21-28)
Câu chuyện người đàn bà xứ Ca-na-an được định vị trong bối cảnh đặc thù: kể từ phép lạ hóa bánh ra nhiều và việc đám đông dân chúng không nhận ra sứ điệp của Ngài, Đức Giê-su quyết định tập trung sứ vụ của mình vào việc đào tạo các môn đệ của mình. Thế nên, “Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đôn”. Hiện thời, Ngài đang ở miền đất dân ngoại sau khi đã vượt qua biên giới phân chia giữa miền Ga-li-lê và xứ Phê-ni-xi, xa khỏi đám đông dân Do thái và những luật sĩ, những người đã đặt ra nhiều câu hỏi để tìm cớ hãm hại Ngài. Trong bầu khí thanh bình của miền đất dân ngoại, Ngài dành hết thời giờ cho các môn đệ để chuẩn bị sứ vụ tương lai của họ.
Dân Ca-na-an là tên gọi cổ xưa của dân Phê-ni-xi. Thánh Mát-thêu sử dụng cách nói “người đàn bà Ca-na-an” không vì quan tâm đến tên gọi cổ xưa, nhưng vì tên gọi nầy nhắc lại quá khứ thù địch giữa dân Ca-na-an và dân Ít-ra-en, cũng như thánh Gioan nói “người đàn bà Sa-ma-ri” để gợi lại ở nơi tên gọi nầy những thù hiềm thâm căn cố đế giữa hai dân tộc nầy (Ga 4: 8). Thêm nữa, khi nói: “người đàn bà Ca-na-an” chứ không “người đàn bà xứ Ca-na-an”, thánh Mát-thêu muốn xác định nguồn gốc của bà: bà nầy là dân ngoại, chứ không phải là một người Do thái đến sinh sống ở miền đất Ca-na-an.
1. Cuộc gặp gỡ của người đàn bà Ca-na-an với Đức Giêsu:
Người đàn bà Ca-na-an đã nghe người ta đồn thổi về Đức Giê-su và bà đã biết Đức Giê-su hiện đang có mặt ở trong miền. Vì thế, không bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng này, bà đã vội vả đến gặp Ngài để khẩn khoản van xin Ngài, không phải cho bà nhưng cho đứa con gái bệnh hoạn của bà. Bengel đã nói về bà: “Bà đã xem nỗi bất hạnh của con gái bà như của chính bà”, còn William Barclay thì xoáy sâu vào tình mẫu tử ở nơi người đàn bà ngoại giáo nầy: “Chính bởi tình yêu khiến bà đến gần người ngoại quốc nầy, chính tình yêu khiến bà cam chịu sự nín lặng, lạnh nhạt của Ngài mà vẫn tiếp tục kêu xin, chính tình yêu mà bà cam chịu đau khổ vì lời từ chối tàn nhẫn, chính tình yêu mà đã khiến bà có thể thấy được niềm thương cảm phía sau những lời nói của Chúa Giê-su”.[1]
Trong lời kêu xin của mình: “Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!”, bà khẩn cầu Đức Giê-su với tước hiệu thiên sai: “con vua Đa-vít”. Phải chăng thánh Mát-thêu đã muốn nhấn mạnh sự bạo dạn của người đàn bà Ca-na-an nầy khi dùng tước hiệu đặc thù của Do thái giáo cho Đức Giê-su? Hay đúng hơn thánh ký muốn ghi nhận ở nơi người đàn bà nầy một tấm lòng tin tưởng không hề lay chuyển ngay từ giây phút gặp gỡ đầu tiên? Lời khẩn cầu nầy vang lên như cung điệu phụng vụ: “Xin Chúa, xin thương xót chúng con” (“Kyrie Eleison”). Thánh Mát-thêu chuẩn bị cho chúng ta tham dự vào chiều kích phổ quát vĩ đại của câu chuyện.
2. Thái độ của Đức Giê-su.
Để khơi dậy đức tin ở nơi người đàn bà Ca-na-an, Đức Giê-su sử dụng khoa sư phạm có thể được gọi phương pháp thử thách. Phương pháp nầy bao gồm hai giai đoạn: trước hết, thinh lặng: “Người không đáp một lời nào”; đoạn, từ chối thẳng thừng: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Ít-ra-en mà thôi”. Người đàn bà không hề nhụt chí vẫn một mực bám riết theo Ngài mà kêu xin đến mức các môn đệ cũng phải cảm thương.
3. Một đức tin chịu thử thách.
Cảm thương người phụ nữ này vừa lẻo đẻo theo sau vừa khẩn khoản van nài đến độ các môn đệ không thể nín lặng được nên cầu xin Đức Giê-su lên tiếng bảo bà ấy về đi cho xong chuyện. Đức Giê-su đáp lại bằng cách từ chối thẳng thừng: “Thầy chỉ được sai đến cứu những con chiên lạc nhà Ít-ra-en mà thôi”. Cũng một cách như vậy, vào lúc sai nhóm Mười Hai đi truyền giáo, Đức Giê-su đã chỉ thị: “Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Sa-ma-ri. Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en.” (Mt 10: 5-6).
Quả thật, Đức Giê-su đặt ưu tiên sứ vụ của Ngài cho “các con chiên lạc nhà Ít-ra-en”. Tuy nhiên, Ngài đã động lòng xót thương trước lời khẩn cầu của viên bách quản ngoại giáo tại Ca-pha-na-um cho người đầy tớ đau nặng của ông được lành bệnh. Có biết bao nhiêu sự việc tương tự như thế giữa câu chuyện của viên quan ngoại giáo và câu chuyện người đàn bà Ca-na-an. Ngài không khíp kín từ tâm đối với dân ngoại. Họ là hoa trái đầu mùa của sứ điệp của Ngài. Tuy nhiên, đó là thời gian của các môn đệ Ngài, họ sẽ thực hiện tất cả mọi chiều kích rộng mở cho muôn dân nước.
Lời từ chối thẳng thừng của Đức Giê-su cũng không làm người phụ nữ này chùn bước. Bà đến sụp lạy mà van xin: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”. Đức Giê-su nói thẳng với bà để bà hiểu ra rằng bà không thuộc dân của Ngài: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Dân Do thái thường khinh bỉ dân ngoại là “Đồ lũ chó dân ngoại!”. Tuy nhiên, trong lời nói của Đức Giê-su “lũ chó con” từ Hy lạp “kunaria” gợi lên chó cưng nuôi trong nhà, đối lập với chó hoang lang thang ngoài đường. Vì thế, thánh Mác-cô, trong câu chuyện song đối của mình, đặt bối cảnh nầy vào “trong một nhà nọ” (Mc 7: 24). Quả thật, câu nói của Đức Giê-su và câu đáp trả của người đàn bà rất đối xứng với nhau theo từng từ và được định vị trong cùng một bối cảnh trong nhà: bánh, chó con, bàn ăn, những mảnh vụn.
4. Đức tin rực sáng của người đàn bà Ca-na-an.
Người đàn bà Ca-na-an đáp trả với tất cả tấm lòng khiêm cung của mình: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con lại được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Bà đã nhận ra rằng sứ điệp của Đức Giê-su gởi đến trước tiên cho dân Do thái và tất cả phép lạ mà Ngài đã thực hiện, trước hết trong quê hương của Ngài: “Thưa Ngài, đúng thế”. Nhưng với một trực giác tuyệt vời, bà tin rằng lòng xót thương của Thiên Chúa chắc hẳn vượt ra bên ngoài khung cảnh dân Do thái, vì thế, bà cũng có thể đón nhận những mảnh vụn lòng xót thương của Thiên Chúa.
Đức Giê-su thán phục đức tin của người đàn bà Ca-na-an như Ngài đã thán phục đức tin của viên quan ngoại giáo. Ngài nhậm lời khẩn cầu của bà.
5. Dấu chỉ của bánh.
Chính dưới dấu chỉ của bánh mà Đức Giê-su ngỏ lời với người đàn bà xứ Ca-na-an. Thật khó mà nghĩ rằng đây chỉ là một sự ngẫu nhiên. Theo lời Đức Giê-su, bánh trước hết được dành riêng cho “con cái”, nghĩa là cho dân Do thái, dân Chúa chọn, đám đông nầy mà Đức Giê-su đã nuôi dưỡng no nê bánh vật chất, nhưng chỉ là tiên báo bánh thần linh, như bánh man-na trong sa mạc tiên báo những thiện hảo của thời Mê-si-a. Chính từ bánh nầy mà người đàn bà Ca-na-an đã đón nhận những mảnh vụn. Bà đã nhận được bảo chứng của những phúc lộc Vương Quốc mà các môn đệ sau biến cố Phục Sinh nhận được chỉ thị của Đấng Phục Sinh là phân phát trọn vẹn cho muôn dân.
____________________ [1] W. BARCLAY, The Gospel of Matthew, bản dịch tiếng Việt tập, nhà xuất bản Đức Bà Hòa Bình, tập II, tr. 100.
Đôi khi Chúa Giêsu làm chúng ta ngạc nhiên. Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa đọc cho thấy TN 20-A152
Đôi khi Chúa Giêsu làm chúng ta ngạc nhiên. Trong đoạn Tin Mừng chúng ta vừa đọc cho thấy một trong những thái độ lạ kỳ của Chúa. Ngài là con người đầy lòng nhân hậu, Ngài đoái thương mọi người và dùng quyền năng của Ngài để cứu giúp mọi người, nhưng sao đứng trước nỗi thống khổ của một bà góa, Ngài xem như không màng tới mà có thái độ như dửng dưng. Tại sao? Chúng ta không thể hiểu. Có người cho rằng Ngài muốn thử thách lòng tin của bà. Có lẽ cũng có lý, nhưng chưa hẳn là như thế. Có thể có một lý do nào khác.
Miền Tia và Xiđôn là miền mà người Do Thái là thiểu số, Ngài đến đó như muốn yên nghỉ một lúc và để có thể gần gũi với các môn đệ và huấn luyện họ, sau khi đã chạm trán với những người lãnh đạo Do Thái. Thánh Maccô nói rõ hơn, Ngài không muốn ai biết Ngài. Nhưng rồi người đàn bà ngoại giáo này đã khám phá ra Ngài và đến cầu cứu trong cơn hoạn nạn thống khổ của mình. Bà dùng một tước hiệu mà chỉ có người Do Thái mới biết là gọi Chúa bằng tước hiệu Con Vua Đavít, tức là Đấng Mêsia, Đấng Cứu Thế của người Do Thái. Bà cũng nói rõ là con gái của bà đang bị quỉ ám. Những người mù ở Giêricô cũng gọi Ngài như thế. Đó là điều đáng chú ý nhất đối với Chúa Giêsu. Nhưng lạ lùng thay, Ngài lại làm ngơ, không trả lời.
Chúng ta không thể biết Chúa muốn gì khi tỏ thái độ như thế? Ngài là Đấng nhân hậu vô biên làm sao Ngài dửng dưng trước nỗi thống khổ của một bà mẹ như thế? Chúng ta có thể nghĩ rằng, Chúa biết rõ tâm hồn của bà mẹ khốn khổ đó, nhưng cũng muốn dùng dịp này cho các môn đệ một bài học. Có lẽ cũng thử thách đức tin của người mẹ đó, nhưng Ngài cũng chú tâm đến các môn đệ, cho họ một bài học rất quí báu.
Ngài đi từ cách đối xử của người Do Thái đến cách đối xử của Ngài. Người Do Thái kỳ thị những người ngoại đạo. Ngài cũng làm như thế đối với người phụ nữ ngoại giáo này. Ngài tỏ ra dửng dưng, không hề để ý tới lời cầu khẩn của bà. Nhưng bà không nản vì thái độ chối từ đó, bà tiếp tục nài nĩ mãi đến nỗi các môn đệ bực bội và xin Ngài cho bà ấy về đi. Ngài lại dùng cách nói của người Do Thái để trả lời cho bà và các môn đệ: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc nhà Israel mà thôi”. Hai lần bị xua đuổi, nhưng người mẹ này không nản chí và tiếp tục nài xin. Lần thứ ba Ngài vẫn như không màng gì đến lời cầu khẩn của bà và khẳng định quyền lợi của người Do Thái: “Không nên lấy bánh trên bàn của con cái mà ném cho chó”. Đây là một cách nói của người Do Thái, xem người ngoại như loài chó thôi. Người mẹ đau khổ này vẫn bền chí, bám vào hy vọng cuối cùng: “Thưa Thầy, lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Và đây chính là kết cuộc. Chúa Giêsu ngỡ ngàng trước lòng tin can đảm của người đàn bà đau khổ: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì được như vậy”.
Nói rằng Chúa muốn thử thách lòng tin của người phụ nữ này cũng đúng, và khi thấy bà mạnh tin Chúa đã đáp lời bà. Nhưng đối với các môn đệ, đây là một bài học khác. Chúa Giêsu cho thấy cần phải có một cái nhìn mới chứ không chỉ khư khư trong những quyền lợi của mình, của nhóm đặc quyền của mình. Chúa Giêsu cho thấy Ngài vẫn tôn trọng quá khứ nhưng Ngài nhìn về tương lai. Phải vượt qua những rào cản của thủ tục, của những thói quen lâu đời. Ngài nhìn mọi người như nhau, lương hay giáo. Mọi người đều được mời gọi vào bàn tiệc Nước Trời. Tuy người Do Thái là ưu tiên, nhưng không chỉ là Do Thái. Thánh Phaolô phải đương đầu với những người Kitô hữu đầu tiên thân Do Thái và phải vất vả lắm mới có thể chấp nhận người ngoại vào đạo. Đối với Ngài, không còn ranh giới giữa Do Thái hay Hy Lạp, mà mọi người đều được quyền thừa hưởng ơn cứu chuộc của Chúa. Thánh Phêrô cũng gặp khó khăn khi chấp nhận người ngoại trở về với Chúa. Từ khi ngài được thị kiến từ trời những người quanh ngài mới chấp nhận cởi mở. Việc truyền giáo mới bắt đầu đi vào một đường lối mới.
Công Đồng Vatican II đã mở rộng con đường đối thoại với các tôn giáo và đã cho thấy quyền tự do tôn giáo của mọi người, vì con người có một phẩm giá cao cả. Không ai được quyền xem người khác là “chó” như người Do Thái xưa. Chúa Giêsu phá đổ mọi ranh giới ngăn cản con người hiệp thông với con người. Ngài từ từ giúp các môn đệ hiểu đường hướng mới của Ngài bằng cách chấp nhận một cách rõ ràng đức tin của người phụ nữ ngoại giáo kia.
Chúa Giêsu cũng muốn cho thấy rằng đức tin không là của riêng ai, hay của một dân tộc nào mà của mọi người. “Những con chó con” trở thành thực khách trong bàn tiệc cứu độ của Chúa. Đức tin cũng không là những tập tục tôn giáo hẹp hòi, mà là một hướng đi nhắm thẳng vào Chúa. Nhiều cộng đoàn Kitô hữu hẹp hòi vẫn còn giữa những tập tục xưa cũ, rườm rà, trở thành những chướng ngại cho người khác tìm về với Chúa. Nhiều linh mục vẫn còn óc hẹp hòi đòi hỏi những thủ tục rườm rà, những điều kiện gắt gao khiến nhiều người rời bỏ đức tin.
Một đám cưới. Khi đàng trai Công giáo đến rước dâu. Đàng gái là gia đình ngoại đạo chấp nhận cho con theo đạo. Khi bước vào nhà gái, thấy trên bàn tiệc có thắp mấy cây nhang. Cả bên đàng trai bỏ ra khỏi nhà vì nói rằng họ không ăn đồ cúng. Chủ nhà giải thích: “Chúng tôi không có cúng mà vì ruồi quá chúng tôi dùng nhang để đuổi ruồi thôi”. Nhưng đàng trai không chịu nghe lời giải thích và bỏ ra về. Chúng ta nghĩ sao? Đó chỉ là một ví dụ. Sự hẹp hòi đã đưa đến những hậu quả tai hại.
Chúa Giêsu đã bị người Do Thái lên án vì Ngài đã sống cho con người chứ không cho một thủ tục nào. Ngài đã từng tuyên bố: “Ngày sabat được tạo cho con người chứ không phải con người được tạo nên cho ngày sabat”.
Chúng ta đang sống trong một xã hội đầy những ranh giới, màu da, sắc tộc, xã hội, tôn giáo, kinh tế… Con người hôm nay chỉ biết sống cho quyền lợi cá nhân hay phe nhóm của mình và loại trừ tất cả những người không cùng chung chí hướng với mình, đã tạo nên một tình trạng căng thẳng trong tất cả mọi lãnh vực. Có những nơi bách hại tôn giáo cực kỳ dã man. Chúa Giêsu luôn chủ trương hiền lành và khiêm nhượng. Người Công giáo chúng ta cần can đảm không nhượng bộ về đức tin, nhưng vẫn luôn chấp nhận mọi người nhất là những người thiện chí để cùng nhau xây dựng một xã hội nhân đạo hơn.
Chúa Giêsu muốn cho thấy, Kitô giáo là không có ranh giới. Mọi người là con của Cha trên trời. Giáo hội vẫn là gia đình của mọi dân tộc. Những lễ hội như những Đại Hội Giới Trẻ thế giới là những dịp để mọi người thấy rằng Giáo hội là của mọi người, phục vụ mọi người, và mọi người là anh em, không còn phân biệt chủng tộc màu da, nam hay nữ. Tất cả đều cùng nhau vui mừng trong tình yêu của Cha trên trời, cùng nhau ca tụng Cha bằng ngôn ngữ của mình, bằng tiếng hát, bằng nền văn hóa đặc thù của mình.
Chúa Giêsu nhậm lời người phụ nữ ngoại giáo kia, cho chúng ta thấy rằng phải xóa bỏ những rào cản của chính chúng ta, những thói quen kỳ thị, những tiên kiến, những tị hiềm của chúng ta để hướng tới những người anh em khác đang cần được che chở, được ủi an, được khích lệ, để gieo niềm vui cho một xã hội đã tiều tụy vì tham lam và đầy gian ác. Hãy làm sao cho con tim chúng ta luôn rộng mở để biết lắng nghe những tiếng gọi của biết bao nhiêu người đang bập bềnh trong một cuộc sống không còn hy vọng.
Muốn thế, chúng ta cần trở về với Chúa, với tình yêu vô biên của Ngài, vì chúng ta luôn hẹp hòi, bảo thủ trong pháo đài cá nhân của chúng ta. Chúa Giêsu bảo chúng ta: “Hãy ra khơi”. Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng bảo: “Hãy ra đi”.
Chúng ta ngại chăng? Vì chúng ta không dám ra khơi, chúng ta sợ mất mát không dám cho đi. Làm sao Chúa Giêsu được yêu thương nếu chúng ta ngại ngùng không dám dấn thân? Có muôn ngàn cách dấn thân. Có những người rời bỏ gia đình để đi phương xa rao truyền Danh Thánh Chúa, có những người dấn thân giúp đỡ người cùng khốn, những nạn nhân của những bệnh ngặt nghèo, tranh đấu cho những mục tiêu nhân đạo… Nhưng cũng có những cách dấn thân khác. Dấn thân không có nghĩa là phải chỉ là đi xa hay bỏ việc gia đình, mà là đem vào cuộc sống thường ngày tình yêu của Chúa thay vì chỉ nghĩ đến đồng tiền hay lợi nhuận. Dấn thân trong cầu nguyện liên lỉ, bằng những hy sinh nhỏ bé, những việc phục vụ đơn thường và vui tươi, trong gia đình cũng như trong mọi môi trường khác. Là người tin Chúa, chúng ta không thể không làm gì cho Chúa hay cho anh em. Chúng ta có rất nhiều công việc phải làm, tùy theo khả năng, môi trường của mỗi người. Điều quan trọng là chúng ta có thực sự muốn làm việc cho Chúa hay không.
Chúa Giêsu, con người đã triệt để dấn thân vào trần gian, đã mở cho chúng ta con đường mới, con đường của tình yêu. Ngài vẫn còn tiếp tục công việc của Ngài qua những con người hèn kém của chúng ta và muốn chúng ta cộng tác với Ngài. Ngài vẫn tiếp tục nuôi chúng ta bằng chính thịt máu Ngài để chúng ta can đảm hơn. Ngài bảo chúng ta: “Hãy đến”, như đã bảo Phêrô đi trên mặt nước. Hãy đến ăn lấy tấm bánh thần linh, hãy là thực khách của bàn tiệc tình yêu để dám cho đi, cho đi tất cả cuộc đời trong khiêm nhu và tin yêu.
Một người đàn ông Hồi giáo ở Ai-cập giết vợ vì chị này đọc Kinh Thánh, rồi đem chôn cùng với TN 20-A153
Một người đàn ông Hồi giáo ở Ai-cập giết vợ vì chị này đọc Kinh Thánh, rồi đem chôn cùng với hai đứa con gái, một còn đang bú và một đã lên tám. Cả hai bé gái đều bị chôn sống! Sau đó anh ta đến báo với cảnh sát là một ông chú đã giết chết hai đứa bé. Mười lăm ngày sau, một thành viên khác trong gia đình qua đời. Khi đưa người chết đi chôn, người ta tìm thấy hai bé gái bị vùi dưới cát vẫn còn sống!
Toàn quốc Ai-cập đều căm phẫn sâu sắc về vụ việc xảy ra, và kẻ sát nhân bị hành hình vào cuối tháng Bảy, 2008. Người ta hỏi bé gái 8 tuổi làm cách nào để có thể sống sót được và em đã trả lời: "Một người đàn ông mặc áo trắng rực rỡ, cùng với các vết thương trên hai bàn tay, hằng ngày đến nuôi sống chúng cháu. Người ấy đánh thức mẹ cháu dậy để mẹ cháu có thể cho em bú." Cô bé đã được phỏng vấn bởi một phụ nữ Hồi giáo mang mạng che mặt phụ trách kênh tin tức trên Đài Truyền Hình Ai-Cập. Người này đã nói công khai trên truyền hình: "Đó chính là Đức Giêsu, bởi chẳng một ai khác có thể làm được những việc như thế!"
Những người Hồi giáo tin rằng Isa (tức là Chúa Giêsu) đã thực hiện việc đó, các vết thương có nghĩa là Người thực sự đã chịu đóng đinh, và rõ ràng là Người đang sống! Đằng khác, cũng hết sức rõ ràng là đứa bé không thể bịa ra được một câu chuyện như thế, và hai đứa trẻ không thể nào sống sót nếu không có một phép lạ thực sự. Các nhà lãnh đạo Hồi giáo đang phải trải qua một thời khắc khó khăn chưa biết xử trí ra sao về việc này, và việc phổ biến các phim ảnh "Chết Vì Đạo" cũng chẳng giúp được gì! Ai-cập là một quốc gia nằm ở trung tâm của việc truyền thông và giáo dục tại vùng Trung Đông, các bạn có thể tin chắc là câu chuyện này sẽ được phổ biến rộng rãi. Đức Kitô vẫn đang kiểm soát và biến đổi thế giới. Hãy sẵn lòng chia sẻ câu chuyện này với mọi người. Đức Chúa phán: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa." (Gr. 17) (CBS)
Người mẹ đã chịu tử vì đạo vì tin, cậy, mến Lời Chúa và Ngôi Lời đã thương xót cứu hai bé gái. Trình thuật Tin Mừng Thánh Matthêu hôm nay, cũng một người mẹ dân ngoại, hết lòng cầu xin Đức Giêsu cứu chữa con bà khỏi quỷ ám. Người động lòng cứu giúp, và còn ca ngợi đức tin vững mạnh của bà.
Tình mẹ biển cả
Lòng mẹ thắm thiết và sâu lắng, thường được ví von bao la như biển Thái Bình. Hình tượng người mẹ luôn sáng lạn, rạng ngời trong tâm khảm dân Việt cũng như nhân loại từ ngàn đời.
Đố ai đếm được lá rừng, Đố ai đếm được mấy từng trời cao, Đố ai đếm được những vì sao, Đố ai đếm được, công lao mẫu từ.
Tình mẫu tử của bà mẹ Canaan hôm nay thật xúc động. Bà quá yêu thương cô con gái yếu đuối bị quỷ ám, đã can đảm vượt qua cái hố ngăn cách bất thân thiện, thậm chí thù hận giữa dân Chúa và dân ngoại, hớt hải nhanh chân tìm đến với Chúa. Bà hoàn toàn tín thác, trông cậy, khẩn cầu, năn nỉ Chúa đoái thương cứu giúp.
Bà công khai tuyên xưng đức tin, khi xướng lên thánh danh Đấng Messia. Rồi kể sự tình, không phải cầu xin cho bà, mà thành tâm khẩn khoản xin cho con gái đáng thương: “Lạy Ngài là Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi. Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”
Mặc dù Người tảng lờ, như không nghe, không biết, không hề đáp lại, bà vẫn khiêm nhường, nhẫn nhục, vẫn không hề chao đảo, nhụt chí trước thái độ ghẻ lạnh của các môn đệ: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!” (Mt 15, 23)
Vượt qua thử thách, khinh dể, rẻ rúng, giả điếc làm ngơ, bà mẹ Canaan cứ mãi kiên trì, vững tin vào lòng từ bi nhân ái của Đức Giêsu. Chẳng hề ngại ngùng quấy rầy Người, bà cứ mãi lẽo đẽo bám theo, năn nỉ, van nài. Mặc dù “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi!” Vượt qua thái độ từ khước công khai của Đức Giêsu, bà mẹ kính cẩn khấu đầu, quỳ sụp xuống, van lạy tha thiết khẩn cầu, càng mạnh dạn hơn nữa bà mẹ hoàn toàn tin cậy vào lòng thương xót vô biên của Đức Giêsu.
Khi nghe lời từ chối quá phũ phàng và dứt khoát: “Không nên lấy bánh cho con cái mà ném cho lũ chó con!” bà mẹ liền tìm ngay được mẩu phao cứu sinh. Nhẫn nhục, bà chẳng tự ái, chẳng giận hờn, hoặc thất vọng bỏ cuộc. Bà chẳng hề mơ được nguyên tấm bánh, mà khiêm tốn chỉ dám mong đợi một chút vụn bánh rơi rớt dưới nền nhà. Chẳng lẽ Ông Chủ giàu có và hào phóng lại nỡ từ chối?
Cuối cùng trái tim thắm tình mẫu tử được toại nguyện. Đức Giêsu cảm động nhận lời giải thoát quỷ dữ khỏi con gái bà và còn khen ngợi đức tin bền vững và mạnh mẽ của bà. “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy.” (Mt 15, 28)
Tình Chúa vô bến bờ
Dù tình mẫu tử dạt dào biết bao đi nữa, thì cũng có giới hạn nhất định, như biển rộng bao la vẫn có bến bờ. Hiện nay, tại các bảo sanh viện, còn rất nhiều người mẹ trẻ vẫn đang nhẫn tâm phá thai, với sự đồng lõa của những đao phủ áo trắng, được mệnh danh thật khôi hài và mỉa mai là “lương y như từ mẫu.”
Trong khi Thiên Chúa luôn mãi nhân từ vô biên, vô hạn, đã khẳng định qua lời ngôn sứ Isaia: “Có người phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ.” (Is 49, 15)
Tình Yêu Thiên Chúa không hạn hẹp, không phân biệt, không kỳ thị sắc tộc, cũng không hề có ranh giới như con người: “Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác.” (Lc 6,35) Thiên Chúa vô cùng quảng đại, rộng lượng, chí công, chí ái, chí tình: “Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên kẻ công chính cũng như kẻ bất chính.” (Mt 5, 45)
Không những xót thương cứu giúp những người bệnh liệt, đau ốm, tàn tật thân xác, Đức Giêsu còn tìm đến những bệnh nhân tâm hồn. Người từng hung hồn khẳng định đến thế gian để tìm lại những gì đã hư mất, những người lầm lạc, những con chiên ham vui, đi hoang lạc bầy: "Ta không đến để kêu gọi người công chính, mà để gọi người tội lỗi sám hối ăn năn." (Lc 5,32)
“Con thấy quả tim con yếu đuối. Các thánh cũng như con. Nhưng nhờ vậy họ mới làm thánh: Nhờ ơn Chúa và ý chí.” (Đường Hy Vọng, số 181)
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã thử thách niềm tin, cậy, mến của bà mẹ Canaan, xin Chúa ban ơn cho chúng con luôn mãi tín thác, kiên trì, vững vàng, mạnh mẽ tin yêu vào Chúa.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ đã luôn đồng hành với Chúa Giêsu từ khi Mẹ thọ thai, đến khi Người khôn lớn, đi rao giảng, chịu khổ nạn, chịu chết và sống lại. Tình Yêu Mẹ dành cho Chúa Con chẳng thế lấy gì sánh nổi. Kính xin Mẹ thương ban, san sẻ cho chúng con Tình Yêu cao sang vĩ đại đó, để chúng con được thánh hóa, trở nên đồng dạng, đồng hình với Người giữa tha nhân. Amen.
Mẫu đối thoại giữa Chúa Giêsu và người đàn bà xứ Canaan đưa chúng ta đến cuộc gặp gỡ giữa TN 20-A154
Mẫu đối thoại giữa Chúa Giêsu và người đàn bà xứ Canaan đưa chúng ta đến cuộc gặp gỡ giữa đức tin và tình yêu.
Trước tiên là tình yêu của người mẹ đối với đứa con gái. Chỉ một mẫu đối thoại ngắn giữa bà và Chúa Giêsu người ta đọc được chữ yêu to tướng trong trái tim của bà dành cho cho đứa con gái tật nguyền. Nhà văn Agatha Christie đã trình bày: “tình yêu của mẹ dành cho con chẳng giống thứ gì trên thế giới này. Nó không có quy tắc, không có thương hại, nó vượt qua và nghiền nát tất cả mọi thứ chắn lại đường đi của nó”. Quả thật, người đàn bà xứ Canaan đã nghiền nát sự tự ái, đạp đổ cái tôi, vượt thắng sự e ngại để cuối cùng bà đã mang lại niềm vui cho đứa con gái của bà. Nó được Chúa chữa lành khỏi bị quỷ ám.
Phải chăng tình mẫu tử của người đàn bà xứ Canaan đã khuất phục được Đức Kitô, để Ngài rộng tay chữa lành cho đứa con của bà? Thưa không phải thế, nhưng tình mẫu tử là con đường dẫn đến gặp Chúa với một điều xác tín: chỉ có Chúa mới có thể chữa lành được cho con gái. Và chính niềm xác tín này đã hình thành nơi bà đức tin, và đây là điểm cốt lõi để Chúa thực hiện điều bà xin.
Đối với người Kitô hữu chúng ta, đức tin là một ân ban của Chúa, nhưng ân ban này là một quà tặng vô giá vì nhờ đó mà chúng ta nhận được ơn cứu sống, không có ân ban này chúng ta mãi mãi sống trong u tối, xa cách với Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống và hạnh phúc của chúng ta. Thế nhưng hồng ân đức tin chỉ thực sự mang lại hiệu quả khi chúng ta thực sự tín thác trọn vẹun cuộc sống của chúng ta vào bàn tay yêu thương của Thiên Chúa.
Sự tín thác đòi hỏi chúng ta đi ra khỏi cái tôi chính mình, bởi đó là thành trì ngăn cản chúng ta gặp ân sủng Thiên Chúa, vì “cái tôi” luôn loại trừ dấn thân mà chỉ là đòi hỏi cho những quyền lợi vị kỷ, trong khi đức tin là một hành vi dấn thân để gặp gỡ với Đấng mình tin, một cuộc gặp gỡ để thanh luyện con tim và khối óc, để hoán cải hầu có thể đáp ứng yêu cầu của đức tin. Nói như đức Giáo hoàng Benêđictô XVI, đức tin ra đi ra khỏi chính mình đến “gặp gỡ với một Đấng thật gần gũi, một Đấng đỡ nâng chúng ta, tặng ban cho chúng ta một tình yêu bất hoại, vượt lên trên mọi gặp gỡ bất cập trong cõi nhân sinh, một tình yêu không những khao khát vĩnh cửu mà còn mang lại vĩnh cửu”.
Quả thật, người đàn bà xứ Canaan đã được hoán cải từ một hành trình đến gặp Đức Kitô vì đứa con gái thành một con người khiêm cung, nhận ra sự hèn kém của mình để việc van xin sự cứu chữa không còn là nài xin một sự thương hại, nhưng là kêu cầu đến lòng thương xót của một Đấng mà bà nhận ra rằng, chỉ có Ngài mới có thể cứu con bà không phải do lời van xin của bà, nhưng do chính tình yêu thương mà Ngài dành cho bà vì đức tin của bà.
Thật kỳ diệu về cuộc gặp gỡ giữa tình yêu và đức tin. Người đàn bà xứ Canaan đến gặp Chúa vì tình mẫu tử, và Chúa Giêsu chữa con gái của bà lành mạnh vì tình thương dành cho bà bởi bà tin.
Lạy Chúa, trong cuộc hành trình trên đường về nhà Cha, đức tin là đuốc sáng chỉ đường, nhưng đức tin chỉ cháy sáng khi chúng con thực sự tín thác vào Chúa, một sự tín thác vì lòng mến yêu. Để được như thế xin Chúa giúp chúng con nhận ra rằng, lòng mến yêu chỉ có được khi chúng con luôn tìm gặp Chúa, cũng có nghĩa là chúng con phải ra khỏi cái tôi ích kỷ, đừng để đức tin chỉ là phương thế phục vụ cho những nhu cầu riêng tư của chúng con, nhưng đức tin là cách thể để chúng con gặp được Chúa, đối thoại với Chúa, lắng nghe tiếng Chúa và bước theo Thánh ý Chúa. Ước gì chúng con có tâm tình của người phụ nữ trong đoạn Tin Mừng: khiêm cung và hoàn toàn tín thác vào Chúa. Amen.
Tin Mừng Mt 15: 21-28: Tin và Yêu giống như chiếc chìa khoá vạn năng có thể mở được mọi cánh cửa. Mở được cánh cửa Nước Trời. Mở được cả tâm hồn của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy: Thiên Chúa không chỉ dành riêng cho người Do Thái TN 20-A155
Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy: Thiên Chúa không chỉ dành riêng cho người Do Thái mà còn ban ơn cho cả dân ngoại. Người đàn bà Canaan là một người dân ngoại, đáng lẽ bà không được hưởng hồng ân Chúa ban vì Đức Giêsu chỉ muốn thi hành sứ mệnh của Ngài với dân Do Thái, nhưng Chúa không ngần ngại nhận lời cầu xin của người dân ngoại này.
Tại sao Chúa ban hồng ân cho bà ấy?
Vì bà có một đức tin rất khiêm nhường và hoàn toàn trông cậy vào Chúa. Đức Tin mạnh mẽ đã làm phát sinh lòng can đảm, khiêm hạ và kiên trì. Bà đã can đảm, bởi vì bà là người ngoại giáo mà dám đến xin phép lạ cho con mình.
Vào thời Chúa Giêsu người ngoại với người Do Thái không bao giờ liên hệ với nhau. Với người phụ nữ ngoại giáo, khoảng cách lại càng xa hơn, thế mà người phụ nữ này đã vượt qua mọi rào cản để đến với Chúa. Bà đã kiên trì và khiêm nhường xin cho được một ân huệ, bất chấp sự hững hờ của Chúa Giêsu.
Các Tông đồ muốn đuổi bà đi, và chính Chúa Giêsu cũng dùng kiểu nói hơi nặng lời "Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”.
Bà sụp lạy trước mặt Ngài hơn lũ chó con nằm chờ chực vụn bánh từ trên bàn chủ rơi xuống, nên không lạ gì bà đã thưa: ”Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con cũng được ăn những vụn bánh trên bàn rơi xuống”.
“Con cái” ở đây được hiểu về dân Do Thái, “chó con” được hiểu về dân ngoại. Chúa Giêsu dùng cách nói thông thường của người Do Thái chứ không có ý mỉa mai. Chúa dùng chữ “chó con” mà không dùng chữ “chó” xuông. “Chó con” là giống nuôi trong nhà được vỗ về, còn chó chạy lang thang ngoài đường phố mới có nghĩa khinh bỉ. Và chính tiếng “chó con” này đã gợi cho bà một lời thỉnh cầu đầy khiêm nhường và tin tưởng.
”Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con cũng được ăn những vụn bánh từ trên bàn rơi xuống”.
Sở dĩ người đàn bà Canaan có lòng can đảm khiêm nhu và kiên trì như thế bởi vì bà rất thương yêu đứa con của bà. Yêu con tha thiết nên bà không thể nhẫn tâm ngồi nhìn ma quỷ hành hạ đứa con yêu quí. Yêu con tha thiết nên bà không ngần ngại đi tìm thầy tìm thuốc ở khắp mọi nơi, kể cả những nơi bị coi là cấm kỵ. Yêu con tha thiết nên bà chấp nhận tất cả, bất chấp sự dửng dưng lạnh nhạt và ngay cả sự khinh khi nhục mạ nữa.
Tôi còn nhớ một câu chuyện xảy ra ở Đông Âu vào tháng 2 năm 2002: Có hai mẹ con chưa thật sự thấu hiểu nhau. Đứa con gái 13 tuổi luôn cho rằng địa vị người mẹ thấp hèn, có người mẹ như vậy không thể ngẩng đầu lên nhìn ai được. Một ngày kia, người mẹ rủ con gái đi trượt tuyết trên núi Alpes. Trong lúc trượt tuyết, do thiếu kinh nghiệm, hai mẹ con đã lạc đường, rồi một trận lở tuyết dữ dội xảy đến. Mẹ con họ chống chọi hai ngày hai đêm trên núi tuyết, mấy lần trông thấy trực thăng cứu hộ đang đi tìm họ, nhưng đều không thể phát hiện ra họ bởi vì cả hai mẹ con đều mặc bộ đồ màu trắng bạc như tuyết. Cuối cùng, người con gái ngất đi do sức yếu, khi tỉnh dậy cô bé thấy mình đang nằm trong bệnh viện, còn người mẹ của cô đã qua đời.
Các bác sĩ nói với cô rằng, người mẹ đã dùng cả sinh mạng để cứu cô. Thì ra, người mẹ đã tự cắt động mạch lấy máu nhuộm đỏ một vùng tuyết trắng để các trực thăng cứu hộ phát hiện ra con gái mình. Tình thương của người mẹ là như thế đó, và tình thương của người đàn bà trong bài Tin Mừng hôm nay cũng vậy. Bà yêu thương đứa con nhỏ yếu đuối, không tự làm được gì để cứu mình, nên bà đã làm mọi cách để cứu đứa con của mình. Yêu con nên bà đã tin Chúa.
Tin Chúa có quyền năng thống trị ma quỷ. Tin Chúa có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa. Tin Chúa có trái tim rộng mở sẽ không phân biệt người ngoại kẻ đạo. Yêu con nên bà đã tín thác vào Chúa. Bà tin chắc chắn Chúa sẽ cứu chữa con bà.
Một đức tin mạnh mẽ đã làm phát sinh lòng can đảm, khiêm nhu và kiên trì và đức tin mạnh mẽ ấy đã khiến Đức Giêsu không thể từ chối.
Tin và Yêu giống như chiếc chìa khoá vạn năng có thể mở được mọi cánh cửa. Mở được cánh cửa Nước Trời. Mở được cả tâm hồn của Thiên Chúa. Đó chính là điều Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen.
Người công giáo chúng ta có tin có ma? Tin có quỷ ám không? Thế thì ma là gì? Và quỷ là TN 20-A156
Người công giáo chúng ta có tin có ma? Tin có quỷ ám không? Thế thì ma là gì? Và quỷ là gì? Ma và quỷ có khác nhau không? Cuốn từ điển bách khoa toàn thư Việt nam định nghĩa rằng khi con người chết, linh hồn xuất khỏi thể xác thành ma hoặc quỷ. Quỷ là oan hồn (linh hồn người chết oan) vất vưởng lâu năm, chất chứa nhiều nỗi oán hận thù. Còn tờ Báo An ninh Thủ đô nói ma là linh hồn của những người chết vì lí do nào đó đã “lạc lối” vào trần gian khi đang trên đường sang thế giới bên kia. Và theo quan điểm của một số tôn giáo, quỷ dùng để gọi một số sinh vật (thuộc về cõi siêu hình) có những khả năng siêu phàm, độc ác và xấu xa. Từ những định nghĩa trên chúng ta thấy ma thì hiền quỷ thì dữ phải không? Ma thì có hình bóng, còn quỷ thì siêu hình. Đúng thế, Giáo lý Công giáo dạy chúng ta rằng Thiên Chúa tạo dựng nên Thiên Thần mà Thiên thần là thụ tạo thiêng liêng. Thiên Chúa tạo dựng nên Thiên thần để phụng sự Ngài và phục vụ con người theo ý Ngài cùng hưởng hạnh phúc đời đời. Trong số các Thiên Thần có một số Thiên Thần không tuân theo lệnh Chúa truyền, tự ý tách mình không muốn lệ thuộc Thiên Chúa. Ta gọi các Thiên thần sa ngã ấy là quỷ. Cho nên, quỷ không hình không bóng nên nó thấy con người có hình bóng hơn nữa hình bóng của Chúa nữa nên nó tức, muốn ám hay nhập vào con người, và luôn làm hại con người bằng mọi cách, cám dỗ con người phạm tội, chống lại ý Thiên Chúa, làm ta mất ơn nghĩa với Chúa. Và các hoạt động của quỷ là cho con người bị mù quáng và tê liệt trước những giá trị tinh thần, giá trị của Tin Mừng của Chúa.
Các nhà chú giải Thánh kinh bảo rằng thời Chúa Giêsu vấn đề ma và quỷ có thực cho nên thời bấy giờ chuyện ma và quỷ đó là niềm tin mang tín phổ quát. Cụ thể, Tin Mừng hôm nay kể rõ rằng: “khi ấy, Đức Giê-su lui về miền Tia và Xi-đôn, thì này có một người đàn bà Ca-na-an, ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: "Lạy Ngài là con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi! Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!”. Và với lòng tin sắc đá của bà, Chúa Giêsu đã trừ được tên quỷ đó. Điều đáng chú ý ở đây là tại sao giả Chúa trừ quỷ tên quỷ đó, bởi vì Chúa Giêsu có quyền năng của Thiên Chúa có thể khống chế quỷ vì Ngài là Thiên Chúa.
Hôm nay chúng ta đang sống trong một thời đại bị thống trị bởi một văn hoá tính dục, nền văn hoá tôn thờ tiền bạc và đòi hỏi tự do tuyệt đối đến nỗi cắt đứt nó khỏi tương quan với những giá trị luân thường đạo lý, chẳng hạn người ta coi phái thai, giết người là nhỏ như giết một con vật, rồi nạn bạo lực học đường xảy ra khắp đó đây, các em đánh người bạn của mình như đánh một con vật; mà con người đâu phải con vật, con người có xác và hồn linh thiêng lắm mà cho nên Khổng tử nói: con người là linh ư vạn vật. Vì vậy, có người và từ người mới thành thần thánh chứ. Vậy trong thời đại này, chúng ta có chắc rằng mình không bị quỷ ám, quỷ dụ dỗ không? Chắc chắn không, lúc này lúc khác chúng ta bị quỷ vô hình ảm, cám dỗ chúng ta phạm tội với Chúa và với tha nhân. Nhưng chúng ta luôn có Chúa Giêsu, Ngài có mặt trong cuộc đời chúng ta để không chế quỷ ám hay cám dỗ và Ngài mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài để chống trả quỷ dữ. Chính vì vậy, chúng ta chiêm ngắm hình tượng người phụ nữ Canaan trong Tin Mừng hôm nay như một người cộng tác với Chúa Giêsu để trừ cái ác quỷ trong cuộc sống của con bà. Người phụ nữ đã cộng tác với Chúa Giêsu bằng cách đi vào trong cuộc chiến đấu chống lại quỷ ám bằng cách nào?
Bà Canaan là người ngoại đạo nhưng bà đã chiến đấu mãnh liệt thể hiện qua tiếng gào thét để nài xin Chúa Giêsu cứu chữa đứa con gái của mình. Bà kiên trì kêu cứu, bà kêu nhiều đến nỗi các môn đệ Chúa Giêsu có ác cảm với bà, cho nên các môn đệ đến nài xin Chúa Giêsu cho bà ấy đi về cho khỏi phiền toái. Thế nhưng, bà không nản chí bà tiếp cuộc chiến đấu và vượt qua rất nhiều thử thách trong đó có thứ thách đớn đau nhất là thử thách của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu với bà: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”, câu này khó nghe thật! Nhưng Bà vẫn bình tâm nói với Chúa Giêsu: "Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống." Bấy giờ Đức Giê-su đáp: "Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy". Từ giờ đó, con gái bà được khỏi”.
Thử hỏi bà lấy sức mạnh ở đâu để vượt qua những thử thách ấy? Trước hết là tình yêu của người mẹ dành cho con, chính tình yêu ấy mà bà lấy nỗi đau của đứa con làm nỗi đau của chính mình và vẫy vùng bằng mọi cách để thoát ra khỏi nỗi đau đớn quỷ ám này. Tình yêu đó làm nên sức mạnh, nghị lực, nhiệt tình để bà chịu đựng vượt qua bao thử thách. Cùng với tình yêu bà có niềm xác tính mãnh liệt vào Chúa Giêsu, dù bà là người phụ nữ ngoại giáo nhưng bà vẫn xác tín mãnh liệt rằng chỉ có mình ông Giêsu mới có thể cứu đứa con bà. Tình yêu cộng niềm tin làm nên một sức mạnh phi thường khiến bà xung vào cuộc chiến chống quỷ ám và cuối cùng bà chiến thắng nó.
Cuộc đời chúng ta cũng bị khống chế bởi quỷ dữ. Quỷ ám chúng ta và làm cho chúng ta không thấy giá trị Tin Mừng cứu độ và hằng sống của Chúa Giêsu mà chỉ thấy được giá trị vật chất, danh lợi thú mà cuộc đời này đề cao. Có khi chúng ta thấy giá trị Tin Mừng đó nhưng mình quỷ ám không đủ sức để sống những giá trị đấy bằng chứng là mình biết rõ phạm tội nói tục, chửi bới, nói hành nói xấu, ăn cắp, bất hiếu… là không đúng nhưng vẫn phạm tội như thường. Rồi, ngay chính chúng ta nhìn thấy con cái mình, học trò mình, giáo dân của mình, em mình, bạn mình hay chính mình… bị quỷ ám lôi theo những xu hướng xấu nhưng lao theo mà bỏ Chúa, bỏ giá trịn Tin Mừng cứu độ nên không còn tha thiết với những giá trị của thánh, thiện, bác ái, từ tâm, nhân hậu…
Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta cần phải bắt chước người phụ nữ xông vào cuộc chiến đấu với Chúa để khống chế áp lực của quỷ dữ để quay trở về với Thiên Chúa. Cuộc chiến chúng ta phải mãnh liệt và kiên trì vì sự dữ xem ra càng thống trị nhiều hơn. Chúng ta phải có đức tin và tình yêu chính mình, yêu mọi người. Chúng ta phải có sự tha thiết với giá trị của Tin Mừng và niềm xác tín rằng chỉ mình Chúa Giêsu mới có thể là Đấng ban tặng cho chúng ta ý nghĩa của đời sống và làm cho cuộc sống chúng ta có giá trị và hạnh phúc đáng sống. Chỉ mình Chúa Giêsu mới giúp chúng ta có sức mạnh sống Lời Chúa mạnh mẽ và một khi sống Lời Chúa mạnh mẽ đương nhiên sẽ trừ được mọi mưu ô chước độc của quỷ ám. Vì vậy, càng sống trong thời đại có nhiều cám dỗ của quỷ dữ, chúng ta phải càng có tâm tình cầu nguyện mãnh liệt tha thiết qua việc kinh nguyện qua việc tham dự thánh lễ và rước Mình Máu Thánh Ngài nhờ đó Chúa sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để chiến đấu chống lại quỷ ám hay cám dỗ ta trong ngay đời sống thường ngày. Amen.
Bài Tin Mừng hôm nay kể việc Chúa Giê-su mở rộng việc truyền giáo xuống miền duyên hải – địa TN 20-A157
Bài Tin Mừng hôm nay kể việc Chúa Giê-su mở rộng việc truyền giáo xuống miền duyên hải – địa hạt Tyrô và Siđôn. Tại đây, Người gặp một người đàn bà ngoại giáo đến xin người trừ quỷ cho con gái của bà. Cuộc đối thoại và việc chữa lành trong câu chuyện làm nổi bật lên hai đặc tính: Niềm tin và ơn cứu độ phổ quát:
1. Sự thử thách niềm tin
Trước sự cầu xin của người đàn bà ngoại giáo (không thuộc Do-thái giáo), câu trả lời đầu tiên của Chúa Giê-su nghe có vẻ nặng nề và miệt thị, nhưng cũng qua đó cho thấy niềm tin của người đàn bà rất mạnh vượt lên trên mọi ngăn cách tôn giáo, sự kỳ thị và có thể cả sự khinh khi.
“Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con.” Câu nói này có vẻ mang dáng dấp của một sự khinh miệt và xúc phạm danh dự (điều này chúng ta sẽ bàn sau), nhưng thật không ngờ người đàn bà không nao núng theo tính tự ái mà còn thân thưa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con.” Trước đức tin cao độ như thế, Chúa Giê-su đành chào thua mà ban cho bà điều bà xin. Bà tin lòng thương xót của Chúa bao la, chắc chắn cũng vượt ra bên ngoài dân Do-thái, nên bà có thể hưởng được những mảnh vụn lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa thương yêu mọi người, muốn cứu rỗi mọi người. Lòng tin khiêm tốn bền vững của con người càng chiếm được tình yêu và ơn cứu rỗi của Chúa.
Lại nữa, xác tín mạnh mẽ vào quyền năng và vào lòng tốt của Chúa Giê-su, cùng với tình yêu mãnh liệt đối với đứa con gái khốn khổ, chính là những yếu tố chính yếu làm cho người đàn bà ngoại giáo thành công trong lời cầu nguyện tha thiết của mình.
Chúng ta cũng thế, trong cầu nguyện, nhiều lần chúng ta cũng cảm nhận như Chúa từ chối, nên rất cần sự kiên trì tin tưởng và tu luyện đức tin mình được vững chắc. Càng gặp khó khăn đức tin của chúng ta càng lớn lên, càng sâu sắc và giàu kinh nghiệm. Càng gặp khó khăn trong đời sống, đức tin của chúng ta càng có giá trị khi ta một mực trung thành với Chúa, đức tin của chúng ta sẽ rạng rỡ trước mặt mọi người, và trước mặt Thiên Chúa.
2. Ơn cứu độ phổ quát.
Trở lại với vấn đề ở trên: Liệu câu nói của Chúa Giê-su có mang tính miệt thị không?
Sứ mạng của Chúa Giê-su được khẳng định từ đầu là ưu tiên tìm kiếm con chiên lạc nhà Israel trước: “Thầy chỉ được sai đến cứu những con chiên lạc nhà Israel mà thôi”. Cũng như Chúa đã chỉ thị khi sai nhóm mười hai “Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Samaria. Tốt hơn, là hãy đến với các con chiên lạc nhà Israel” (Mt 10, 5-6). Mãi cho đến thời các Tông Đồ, chính thánh Phêrô vẫn không dám đến với dân ngoại sau khi nhận được thị kiến về cái khăn buộc túm bốn góc chứa đầy những rắn rết bọ cạp mà Chúa bảo thánh nhân làm thịt mà ăn (x. Tđcv 10,9-16). Thánh Phaolô và Barnaba cũng từng khẳng định sứ mạng này (x. Tđcv 13,46-47). Đây là chương trình của Thiên Chúa qui tụ dân Israel trước rồi mới đến muôn dân thiên hạ. Vì thế, câu nói của Chúa Giê-su: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con” không thể giải thích đó là dấu biểu thi sự khinh miệt của Người đối với người khác đạo; đúng hơn, Chúa muốn mọi người đừng quên ưu thế của người Do-thái trong việc thừa hưởng ơn cứu độ, bởi vì Thiên Chúa đã chọn cha ông họ và muốn tỏ lòng trung thành với cha ông họ. Người Do-thái được ưu tiên, chứ không phải là những người duy nhất được hưởng ơn cứu độ; vì thế, dù quan tâm săn sóc người Do-thái nhiều đến đâu, Chúa Giê-su cũng không để trở thành vật sở hữu độc quyền của họ, Người vẫn có tự do bày tỏ tình thương đối với người khác.
Tuy vậy tấm lòng của Chúa Giê-su vẫn hằng rộng mở trước lời cầu xin của người dân ngoại như viên đại đội trưởng thành Caphanaum và người đàn bà ngoại giáo miền Tyrô. Họ là hoa quả đầu mùa sứ điệp của Người, sau đó các môn đệ Người sẽ tiếp nối để mở rộng cửa tiếp đón muôn dân nước vào Nước Trời. Có thể nói, khi người đàn bà ngoại giáo với niềm tin mãnh liệt vượt qua cả sự ngăn cách tôn giáo và sự kỳ thị dân tộc để đến với Chúa, thì Chúa Giê-su cũng sẵn sàng vượt qua sứ mạng ban đầu để đến với bà và chữa lành cho con gái bà.
Sự từ chối bên ngoài của Đức Giê-su đối với lời cầu xin của người đàn bà ngoại giáo mang ý nghĩa như là một sự mạc khải trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa: chính lòng tin làm cho con người trở thành “con cái” thay vì là “chó con” và đáng được hưởng tất cả những lời hứa dành cho Abraham và dòng dõi người. Chính sự xem ra từ chối của Chúa Giê-su lại là dịp để người đàn bà đi từ chỗ chấp nhận chỉ là “chó con” đến chỗ được hưởng ân huệ dành cho “con cái” nhờ lòng tin. Nay không chỉ có “Dân Chúa” được sinh ra từ dòng dõi Abraham theo huyết nhục nữa, mà có một “Dân Thiên Chúa” rộng lớn hơn nhiều được sinh ra bởi lòng tin vào Chúa Giê-su Ki-tô là tất cả mọi Ki-tô hữu trên toàn thế giới.
Trong thực tế cuộc sống, lắm lúc tưởng chừng như Thiên Chúa “phớt lờ” khi làm như “thinh lặng” không quan tâm gì đến lời van xin và tình cảnh bi đát của chúng ta. Nhưng có thể đó là vì Thiên Chúa đang muốn dẫn chúng ta đến một chân trời mới, lớn lao và thực chất có giá trị hơn hẳn những gì chúng ta xin mà chúng ta không thể hiểu được. Ước gì khi gặp những tình cảnh như vậy, chúng ta có được niềm tin như người đàn bà Canaan – ngoại giáo trong bài Tin Mừng hôm nay.
Lạy Chúa xin ban cho mọi người chúng con có một đức tin vững chắc, luôn trung thành với Chúa, luôn tin tưởng cậy trông vào Chúa là Đấng duy nhất có quyền năng làm được mọi sự, cho dù bất cứ hoàn cảnh nào xảy đến cho chúng con. Amen.
Có một lời ca mà ta nghe rất quen, của Y-Vân: “Lòng mẹ bao la như biển thái bình dạt dào, Tình TN 20-A158
Có một lời ca mà ta nghe rất quen, của Y-Vân: “Lòng mẹ bao la như biển thái bình dạt dào, Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào.” Lời ca đó có thể dẫn ta đến một người mẹ mà bài Tin Mừng hôm nay nhắc tới: bà mẹ người ngoại, người Canaan. Bà bất chấp tất cả, bất chấp nhục nhã để đi van xin cho con gái của bà bị quỉ ám được chữa lành. Chắc bà này đã đi nhìều thầy, chạy nhiều thuốc mà tiền mất tật mang. Cứ xem cách mô tả trong bài Tin Mừng hôm nay thì rõ. Bởi vì lần đến với ông thầy Giêsu này, bà đã tỏ ra lão luyện trong nghề van xin đến độ Chúa phải khen: “Lòng tin của bà mạnh thật!” Thật đẹp, thật phúc biết bao nếu Đức Giêsu cũng nói câu đó với tôi, “Lòng tin của con mạnh thật!” Nói như thế, tức là có những người “lòng tin của ngươi yếu quá!” Vậy ta sẽ trả lời 2 câu hỏi: (1) Tại sao có người lòng tin mạnh, có người lòng tin yếu; và câu (2) quan yếu hơn: nếu lòng tin yếu, có cách nào làm cho mạnh không?
1. Tại sao có người lòng tin mạnh, có người lòng tin yếu.
Ta phải giới hạn để nâng câu hỏi này lên hàng “thiêng liêng.” Đức tin khác lòng tin. Giữa người với người là lòng tin. Giữa người với đấng Tối Cao là đức tin. Tại sao có những người đức tin thật mạnh mà có những người đức tin yếu kém. Hỏi đổi lời: “Tại sao có những người dễ dàng tin vào Chúa vào Mẹ. Còn có những người cảm thấy rất khó khăn để tin Chúa tin Mẹ?”
Câu hỏi này cũng giống như câu hỏi: Tại sao có những người thật mập mạp khoẻ mạnh lại cũng có những người khẳng khiu ốm yếu?
Họ khẳng khiu ốm yếu là do cha mẹ họ. Họ thừa hưởng một thân xác eo xèo của mẹ của cha. Cha nào con nấy. Cha gầy gò, con ốm yếu. Nhưng cũng có những người ốm yếu vì chính họ không biết chăm sóc sức khoẻ cho chính mình.
Điều đúng cho sức khoẻ thể lý thế nào thì cũng gần đúng cho sức khoẻ tâm linh, tức đức tin của chúng ta thể ấy. Một số người đức tin yếu kém là do cha mẹ tổ tiên của họ. Cha mẹ có đức tin loại ba cọc ba đồng thì đức tin của con cái làm sao mạnh mẽ được. Đức tin của cha là loại “con quì lạy Chúa Ba Ngôi, con lấy được vợ con thôi nhà thờ” thì con cái họ sinh ra làm sao có được lòng tin vào Chúa vào Mẹ vững mạnh được. Người ta nhận xét, những Giáo hội có tổ tiên là những vị tử đạo, thì đức tin của Giáo hội đó vững mạnh. Giáo hội Việt Nam thừa hưởng đức tin 117 vị thánh Tử đạo, 2000 người tử đạo khác đã có hồ sơ chờ xin phong thánh và cả trăm ngàn người chưa có hồ sơ. Đại Hàn với 103 vị thánh tử đạo là tổ tiên, và cách đây 3 năm, 16-8-2014, đức giáo hoàng Phanxicô đến Đại Hàn để phong chân phước cho 124 vị tử đạo nữa, khiến con dân Giáo hội Đại Hàn có một đức tin kiên vững, bậc nhất ở Á Châu này. Đức tin cũng như sức khoẻ phải vun đắp. Thừa hưởng đức tin bất khuất từ cha ông, mà không tài bồi vun đắp thì đức tin cũng lung lay yếu ớt. Đến đây ta qua câu hỏi 2.
2. Nếu đức tin yếu, có cách nào làm cho mạnh không?
Thưa có, và phải như vậy. Một cơ bắp nếu không hoạt động không tập luyện thì sẽ yếu dần, có thể đi đến co rút lại. Một đức tin không củng cố sẽ lắc lư giữa dòng đời đầy cạm bẫy làm mình xa Chúa. Vậy đức tin năng tập luyện cũng sẽ thành đức tin mạnh. Học hỏi bàn luận suy niệm về Lời Chúa như chúng ta đang làm đây; tham dự thánh lễ với phần dâng lễ ít phút nữa cách chăm chú sốt sắng hơn; cầu nguyện mỗi ngày để trở thành thói quen trong đời sống… tất cả đều có thể làm đức tin mạnh hơn. Và còn một cách tập luyện đức tin xem ra hữu hiệu hơn. Đó cũng là cách chúng ta muốn nói hôm nay, Dostoievski trong tác phẩm “Anh em nhà Karamazov” có bàn tới cách này.
Trong tác phẩm, tác giả đề cập đến một bà lão, sức khoẻ thiêng liêng (đức tin) suy thoái cùng với sức khoẻ thể xác (càng già đức tin càng yếu…). Ngày nọ bà bàn luận vấn đề này với một vị linh mục cũng già tên là Zossima. Bà nói với linh mục về đức tin yếu kém và những ngờ vực của bà mới phát sinh khi … già: “Thiên Chúa có hay không? Ngài có quan tâm đến tôi? Có gì sau khi chết không?”
Linh mục già lắng nghe, cảm thông và nói với bà: Chẳng có cách nào chứng minh rõ ràng những điều bà thắc mắc. Nhưng bà vẫn có thể tin những điều đó cách vững vàng hơn.
- Bằng cách nào? bà giả hỏi.
- “Bằng yêu thương. Hãy cố gắng yêu người láng giềng của bà thật tình và bà sẽ nhận thấy có Chúa thật. Có một tương lai huy hoàng sau khi chết. Đây là điều chắc chắn, đã được thể nghiệm và đã có kết quả”.
Linh mục già Zossima nói thật chí lí. Càng yêu nhiều thì càng tin mạnh. Tin và yêu đi đôi với nhau như hai đường rầy xe lửa. Tìm được cái này là thấy rõ cái kia. Người phụ nữ Canaan trong bài Tin mừng hôm nay mà Chúa khen đức tin mạnh thật cũng là người yêu thật mạnh. Bà không xin Chúa cho bà mà bà xin cho con bà. Lòng mẹ bao la. Bà đã vượt qua cả 3 cửa ải, 3 bước khó để xin cho bằng được:
- Bước 1: Bà xin Chúa, Chúa nín thinh!
- Bước 2: Môn đệ nhắc khéo Chúa để đuổi bà về, Chúa bỏ lửng một câu: “Thầy chỉ được sai đến cứu những con chiên lạc nhà Israel thôi”
- Bước 3: Khi bà cố nài van nữa để chữa lành cho đứa con bị quỉ ám, thì Chúa cho một cú “ân huệ” (tức phát súng kết liễu kẻ bị án tử hình): “Không nên lấy bánh của con cái mà cho chó ăn.” Tưởng rằng cú ân huệ này sẽ hạ gục bà mẹ. Ai ngờ bà vẫn sống: “Đúng thế thưa Ngài, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.”
Đức Giêsu thua. Lòng tin bà mạnh thật. Bà tin mạnh vì bà yêu con bà quá sức. Yêu là việc làm của Tin. Đức tin không việc làm là đức tin (yếu). Tin mà không yêu là tin yếu. Muốn tin mạnh thì cũng hãy yêu nhiều. Chắc chắn như vậy. Amen.
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay có chung một chủ đề: lòng thương xót của Thiên Chúa cũng TN 20-A159
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay có chung một chủ đề: lòng thương xót của Thiên Chúa cũng dịch chuyển, người lương kẻ giáo, ai ai cũng được Thiên Chúa xót thương. Isaia linh cảm tính phổ quát của ơn cứu độ mà Thiên Chúa sẽ ban cho mọi nước mọi dân; thánh Phaolô nói, Chúa thương xót hết mọi người, con trong nhà, con người ngoài; và qua Chúa Giêsu, Tin Mừng xác nhận ý định ngàn đời của Thiên Chúa, ai ai cũng được Thiên Chúa xót thương.
Bàn tiệc Lời Chúa hôm nay thịnh soạn một cách bất ngờ. Vì lẽ thường, vào các Chúa Nhật thường niên, liên quan đến bài Tin Mừng, chỉ có bài đọc một; thế mà hôm nay, cả ba bài đều có chung một chủ đề.
Qua bài đọc thứ nhất, Isaia tiên báo về sự hào hiệp đại lượng của Thiên Chúa vì rồi đây, Người sẽ gửi giấy mời dự tiệc Nước Chúa đến tận các dân ngoại. Isaia trực giác về lòng xót thương của Thiên Chúa vốn sẽ được tỏ cho muôn dân; ông linh cảm về tính phổ quát của ơn cứu độ vốn sẽ được dịch chuyển, mở rộng. Qua miệng ngôn sứ, Thiên Chúa nói về dân ngoại rằng, “Ta sẽ dẫn chúng lên núi thánh, Ta sẽ cho chúng niềm vui trong nhà cầu nguyện”; “Ta sẽ nhận những lễ toàn thiêu và hiến tế của chúng trên bàn thờ. Vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc”. Rõ ràng, ý định ngàn đời của Thiên Chúa đã được hé lộ, lòng thương xót của Người dịch chuyển, người lương kẻ giáo, ai ai cũng được Thiên Chúa xót thương.
Dân ngoại hỷ hoan phớn phở, họ sẽ vui mừng khoái trá vì biết Chúa cai trị cả hoàn cầu theo lẽ công minh, Người đã ban cho họ ơn cứu độ. Niềm vui nhận biết Người vỡ oà qua Thánh Vịnh đáp ca, “Chư dân hãy ca tụng Ngài! Thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài”.
Tường tận hơn, thánh Phaolô, tông đồ dân ngoại, giải thích với anh em tân tòng qua thư Rôma rằng, “Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được xót thương”. Ngài muốn nói, vì người đạo dòng cứng lòng, nên dân ngoại được kêu gọi; để một khi thấy dân ngoại được kêu gọi, may ra người đạo dòng dịch chuyển mà ăn năn trở về cùng Chúa để lại được thương xót, “Nếu do việc họ bị loại ra, mà thiên hạ được giao hoà, thì việc họ được thâu nhận lại sẽ thế nào, nếu không phải là một sự sống lại từ cõi chết?”.
Đặc biệt với bài Tin Mừng, một phụ nữ ngoại giáo được Chúa Giêsu thương chữa lành cho con gái mình. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay rõ ràng là câu chuyện của một sự dịch chuyển, dịch chuyển từ vùng đất Israel sang vùng đất dân ngoại; dịch chuyển từ sự bất xứng đến với sự xứng đáng của người ngoại giáo; dịch chuyển từ niềm tin của bà đến với lòng thương xót Chúa và cuối cùng, dịch chuyển từ lòng thương xót Chúa đến phép lạ con gái bà được mạnh lại.
Và để có thể hiểu cũng như nắm bắt trọn vẹn ý nghĩa của tiến trình dịch chuyển này, một lần nữa, chúng ta lùi lại một chút trước đó với thánh Matthêu. Ở đó, Matthêu cho thấy dân Chúa chọn từ chối Con Thiên Chúa và dân ngoại được vui hưởng Ngài. Ở vùng đất ngoại giáo Tyrô và Sidon ấy, Chúa Giêsu được chào đón với tước vị con vua Đavít bởi một phụ nữ ngoại giáo. Bà cầu xin một phép lạ mà thoạt đầu Chúa Giêsu lờ đi, nhưng bà cứ nài nỉ đến nỗi các môn đệ xin Ngài can thiệp kẻo bà cứ quấy rầy. Chúa Giêsu nói với bà, Ngài đến để chỉ lo cho các chiên lạc Israel. Tương phản với dân Chúa chọn, người phụ nữ chấp nhận sự hư không của mình, chấp nhận ngang hàng với chó con để được nhặt những gì từ bàn chủ rơi xuống. Chúa Giêsu đầu hàng trước niềm tin và sự khiêm hạ của bà, Ngài khen ngợi và ban cho bà điều bà xin.
Anh Chị em,
Chúng ta, dân được chọn, đến với Chúa là Đấng ban cho chúng ta của ăn mỗi ngày như thế nào? Chúng ta cảm thấy mình công chính vì đã giữ luật Chúa để cảm thấy như Thiên Chúa đang mắc nợ chúng ta? Hay qua thái độ của người phụ nữ này, đức tin dẫn chúng ta đến một chỗ thấp hơn dưới gầm bàn của chủ nơi chúng ta chấp nhận một sự tuỳ thuộc tuyệt đối vào sự chăm sóc của Người, đồng thời, chờ đợi những miếng vụn rơi xuống từ bàn Người. Đừng quên, ngay chỉ với những mảnh vụn này thôi cũng đủ nuôi sống chúng ta, cho chúng ta no nê hơn những gì người phụ nữ trong Tin Mừng hôm nay ao ước. Như một người nghèo, bất xứng và vô dụng, hãy đến với Thiên Chúa và lòng nhân lành của Người sẽ nâng chúng ta lên. Người nâng lên, ban cho chúng ta điều này điều kia vì Người nhân lành chứ không vì chúng ta có công trạng này, công nghiệp nọ.
Mahatma Gandhi còn được gọi là thánh Cam Địa, người có công dành độc lập cho đất nước Ấn Độ, có lần tuyên bố, “Tôi yêu mến Chúa Kitô, nhưng tôi không phục những người Kitô hữu”. Câu nói của vị thủ tướng, người đã từng lấy giáo lý của Chúa Kitô làm nền tảng cho chủ trương bất bạo động đáng cho chúng ta suy nghĩ.
Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xét mình, chúng ta mắc nợ Thiên Chúa hay Người mắc nợ chúng ta? Chúng ta có xứng đáng với ơn lành của Người không? Là con cái trong nhà, có bao giờ chúng ta để cho ơn Chúa qua đi không? Hay là chúng ta đang dịch chuyển đời sống ân sủng của con cái Chúa đến với một đời sống mà Đức Thánh Cha Phanxicô gọi là những “Kitô hữu vô thần”?
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, lòng thương xót Chúa đổ xuống trên con vượt quá sự hiểu biết của con, một tội nhân nghèo hèn. Xin cho con biết dịch chuyển đến gần Chúa mỗi ngày làm sao để bớt bất xứng hơn”, Amen.
Tin Mừng Mt 15: 21-28: Tấm gương người đàn bà này là một lời mời gọi hãy tin tưởng vào Thiên Chúa. Có tin tưởng là có phép lạ; mạnh mẽ tin thì sẽ muốn sao được vậy.
Cả ba bài đọc Kinh thánh trong Chúa nhật XX này mở ra đề tài về tính phổ quát của dân Tin mừng TN 20-A160
Cả ba bài đọc Kinh thánh trong Chúa nhật XX này mở ra đề tài về tính phổ quát của dân Tin mừng. Ơn cứu độ của Đức Kitô không là đặc quyền, đặc lợi của một dân tộc hay của một ai. Ơn cứu độ được ban tặng cho hết thảy mọi người.
Danh xưng Công giáo của Giáo hội nói lên đặc tính phổ quát này: nghĩa là yêu thương, đón nhận, phục vụ tất cả mọi người không phân biệt nguồn gốc, văn hóa, chủng tộc… Vì đối với Thiên Chúa không có dân ngoại hay người ngoài mà tất cả đều là con cái của Người.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1. Bài đọc I: Is 56,1.6-7
Thiên Chúa đón nhận mọi người
Chính Đức Chúa loan báo Ngài sẽ dành cho mọi người cùng một sự đón nhận như dân được tuyển chọn. Tất cả sẽ nhận biết một Thiên Chúa Duy Nhất, Chân Thật và gắn bó với Ngài.
a. Bản văn trích trong sách Isaia này ra đời sau thời kỳ lưu đày ở Babylone. Đền thờ Giêrusalem đã tìm lại thời huy hoàng của mình, là nơi tập trung tất cả đời sống quốc gia và tôn giáo của dân Do Thái.
b. Ở đây Tiên tri suy tư về ơn gọi phổ quát của nhà cầu nguyện: tất cả mọi người không phân biệt nguồn gốc, văn hóa, tình trạng xã hội đều được Thiên Chúa đón nhận như Ngài đã đón nhận dân Do Thái.
c. Giáo hội sẽ chính là nơi thực hiện trọn vẹn sứ mạng phổ quát này. Chính trong Giáo hội, nhờ niềm tin vào Đức Kitô, sẽ tạo lập lại một giống nòi duy nhất, trở nên dân của Thiên Chúa.
2. Bài đọc II: Rm 11,13-32
Thiên Chúa tỏ lòng xót thương với con cái Israel
Mặc dù người Do Thái cố chấp trong sự hoài nghi, từ chối đón nhận Đức Kitô là Đấng được Thiên Chúa sai đến, nhưng Thánh Phaolô vẫn không thất vọng vì anh em đồng bào của mình: Ngài tin rằng một ngày nào đó, họ sẽ nhận ra lỗi lầm của mình và hoán cải.
a. Trong suốt những hành trình sứ vụ Tông đồ, Phaolô luôn vấp phải nỗi thương tâm: Khi mà phần đông những người ngoại tin nhận Đức Kitô, thì dân Do Thái lại chống đối Người, từ chối Người hàng loạt.
b. Tin mừng khởi đi từ dân Do Thái, nhưng họ đã không đón nhận. Tin mừng đã được loan đến anh chị em dân ngoại. Sự việc ấy, Thánh Phaolô mong rằng sẽ làm dân tộc của Ngài để ý đến Đức Kitô.
c. Dân Do Thái chắc chắn không bị loại bỏ vĩnh viễn. Dân ngoại xưa kia đã không tin, mà nay lại tin. Dân Do Thái cũng vậy, bây giờ họ không tin, ngày mai họ sẽ tin. Dân ngoại được cứu độ không có nghĩa là dân Do Thái bị loại trừ. Thiên Chúa yêu thương cứu độ hết thảy mọi người.
3. Tin mừng: Mt 15,21-28
Niềm tin lớn lao của người phụ nữ Canaan
Chúa Giêsu cứu chữa con gái người đàn bà xứ Canaan, ngoại giáo, vì bà có một lòng tin mạnh mẽ. Sự kiện này cho thấy giá trị cũng như vai trò của niềm tin. Thiên Chúa yêu thương cứu độ con người không hệ tại ở việc họ là ai, làm gì mà hệ tại ở chính niềm tin của họ. Chúa Giêsu đã khẳng định chân lý này khi nói với người đàn bà: "Này bà, bà có lòng tin mạnh, bà muốn sao thì được vậy".
a. Mặc dù, Chúa Giêsu thực hiện sứ mạng của mình chủ yếu nơi dân Do Thái, theo như lời Kinh thánh. Tuy nhiên, Người không từ chối thực thi tình yêu của Người đối với dân ngoại, nhất là khi họ tin tưởng vào Người.
b. Chúa Giêsu chỉ làm phép lạ sau khi đã chối từ lời khẩn cầu của người đàn bà nhiều lần. Và Người cũng khẳng định việc tuyển chọn Israel trước hơn mọi dân khác: "Ta chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Israel thôi". Tin mừng phải loan báo cho con cái trong nhà trước đã.
c. Tuy nhiên, câu chuyện đã dẫn dắt đến cao trào là đức tin của người đàn bà. Chính nhờ đức tin mà người ta trở nên con cái đích thực của Thiên Chúa, thuộc dòng dõi Abraham. Người đàn bà khiêm tốn nhận ra thân phận mọn hèn của mình trước những người Do Thái là dân được Thiên Chúa tuyển chọn, nên có ưu tiên hơn. Bà không xứng đáng, nhưng vẫn van xin vì biết rằng Thiên Chúa sẽ nhận lời bà. Điều này đã làm nên lòng tin lớn lao nơi bà.
II. GỢI Ý BÀI GIẢNG
1. Phép lạ chữa bệnh con gái người đàn bà Canaan minh chứng tình yêu không biên giới của Thiên Chúa:
Khi trả lời người đàn bà: Ta chỉ được sai đến với chiên lạc nhà Israel, xem ra Chúa Giêsu tỏ một thái độ cục bộ. Hơn nữa, Người ví bà cũng như dân ngoại là chó, quả thật, dễ gây sốc đối với người nghe. Tất nhiên, ở đây Chúa Giêsu không có ý cục bộ hay coi khinh người đàn bà Canaan này. Thực ra Chúa Giêsu nhắc tới lệnh sai đi của Chúa Cha đã được các Tiên tri loan báo. Ơn cứu độ của Thiên Chúa phải đi theo con đường lịch sử và địa lý trước, sau đó mới toàn thể các dân tộc và lan ra tạn cùng thế giới. Cuối cùng, Chúa Giêsu đã chấp nhận cứu chữa con gái bà. Tất cả những điều này nhằm nói lên tình yêu không biên giới của Thiên Chúa. Chúa Giêsu có vai trò là mục tử đến để qui tụ tất cả lại thành một đàn chiên duy nhất.
Dù là tội nhân, dù là người chưa lãnh nhận Bí tích Thánh tẩy, tất cả mọi người đều sẽ được hưởng nhận tình yêu của Thiên Chúa, đều được Người thi ân giáng phúc, điều cần thiết là tin tưởng và chạy đến với Người.
2. Phép lạ chữa bệnh con gái người đàn bà Canaan, lời mời gọi niềm tin:
Trước những lời nói xem ra đầy sự khinh miệt của Chúa Giêsu, người phụ nữ vẫn khiêm tốn khẩn nài Người cứu chữa con gái mình. Bà không phật lòng trước thái độ và lời nói của Chúa Giêsu, thậm chí còn dùng chính lời của Chúa để đáp trả một cách tinh tế: "Thưa Ngài, đúng vậy, nhưng những con chó nhỏ cũng được ăn những miếng bánh vụn rơi xuống từ bàn ăn". Bà chỉ cầu những miếng bánh vụn thôi, cũng đủ để con bà được chữa khỏi. Bà đã tin, và tin một cách mạnh mẽ. Niềm tin nơi bà đã giúp bà khiêm tốn khẩn cầu Chúa. Đức tin mãnh liệt ấy đã gây ngỡ ngàng cho Chúa Giêsu. Bánh mà người Do Thái, con cái trong nhà khước từ, vậy mà người phụ nữ này, một người xa lạ, người ngoại lại đón nhận với một niềm tin vững vàng. Đức tin ấy đã mang lại cho bà điều bà cầu xin: Bà có lòng tin mạnh mẽ, bà muốn sao được vậy.
Tấm gương người đàn bà này là một lời mời gọi hãy tin tưởng vào Thiên Chúa. Có tin tưởng là có phép lạ; mạnh mẽ tin thì sẽ muốn sao được vậy.
3. Phép lạ chữa bệnh con gái người đàn bà Canaan, lời mời gọi đến với tha nhân:
Với niềm tin mạnh mẽ của mình, người phụ nữ Canaan đã thuyết phục được Chúa Giêsu, để Người phá đổ mọi rào cản mà thi ân cho bà. Đó cũng là lời mời gọi Kitô hữu phải biết phá đổ mọi rào cản để đến với tha nhân. Chúa Giêsu ngợi khen người phụ nữ dân ngoại có đức tin mạnh mẽ, thế thì, chúng ta có quyền gì để có thể lên án chê bai, khích bác anh chị em không cùng tôn giáo chúng ta khi họ tin vào Chúa; khi họ có một nếp sống đạo đức, lành mạnh và gương mẫu. Cần phải biết rằng chúng ta cần phải học hỏi người khác. Đồng thời, chúng ta cũng phải biết mở lòng đến với mọi người. Tất cả đều được Thiên Chúa yêu thương ban ơn cứu độ, tất cả đều có cơ hội trở nên con cái Chúa và tất cả đều sẽ là anh chị em của nhau. Cho nên, chúng ta không có quyền loại trừ ai, cách ly một ai và từ chối một ai cần đến chúng ta yêu thương nâng đỡ.
Là môn đệ Chúa Giêsu Kitô, Kitô hữu chúng ta phải có tấm lòng bác ái quảng đại và lòng khiêm nhu tự hạ để có thể tôn trọng yêu mến mọi người. Điều này không phải dễ khi bản thân con người dễ bị óc tự tôn, tự mãn chi phối; rất dễ bị óc kỳ thị, thành kiến và cục bộ ảnh hưởng.
III. LỜI NGUYỆN TÍN HỮU:
Mở đầu: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa luôn yêu thương nhận lời cầu khẩn của những ai tin tưởng cầu xin Ngài. Vậy giờ đây, chúng ta cùng tin tưởng dâng lời cầu nguyện.
1. Giáo hội là nơi Chúa Giêsu thông ban tình yêu cứu độ của Người cho con người và thế giới qua mọi thời đại. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Giáo hội khắp nơi luôn là nơi nương tựa, chở che và trung thành phân phát tình yêu của Chúa qua việc nỗ lực bảo vệ sự sống, bênh vực công lý và xây dựng hòa bình.
2. Ngày nay, vẫn còn nhiều anh chị em chưa nhận biết Chúa, chưa được nghe sứ điệp Tin mừng. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người thành tâm thiện chí đi tìm chân lý, đi tìm tình yêu và đi tìm Chúa, gặp được ánh sáng của Tin mừng soi chiếu.
3. Bà có lòng tin mạnh mẽ, bà muốn sao được vậy. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta luôn biết gia tăng niềm tin của mình bằng đời sống gắn bó với Chúa, siêng năng đến với Thánh thể và chuyên chăm thực thi bác ái.
Lời kết: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu thương đến cứu độ chúng con là những người tội lỗi để chúng con được trở nên con cái Chúa Cha hằng hữu. Xin gia tăng thêm đức tin cho chúng con, để tất cả luôn trung thành bước theo Chúa mang tình yêu, Tin mừng cho mọi người chung quanh. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Đây là những lời được thốt ra từ miệng các môn đệ Chúa Kitô sau khi nghe người đàn bà van TN 20-A161
Đây là những lời được thốt ra từ miệng các môn đệ Chúa Kitô sau khi nghe người đàn bà van nài Chúa cứu giúp. Không biết quý bạn nghĩ sao chứ đối với tôi những lời này nghe rất là lạnh lùng, không tế nhị, và chẳng thấy có tấm lòng tí nào. Không hiểu làm sao các môn đệ lại phản ứng như vậy? Không hiểu sao họ lại không có một tí cảm thông nào hết vậy?
Và nữa, không những chỉ các môn đệ mà thôi, xem ra ở đây Chúa Giêsu cũng dửng dưng với những lời nài nẵng của người đàn bà này: “Lạy Ngài, con Vua Đavít, xin thương xót tôi!” Chúa Giêsu đã làm gì? Thánh Mat hêu nói rằng: “Người không đáp lại một lời nào.” Tại sao vậy? Tôi thiết nghĩ, có lẽ Ngài đang đợi xem các môn đệ của ngài phản ứng ra sao, xem họ suy nghĩ gì về việc này.
Ở đây tôi thấy có hai lý do: Lý do thứ nhất mà có lẽ chúng ta thấy xảy ra thường xuyên nơi chính chúng ta. Mặc dù không có nói rõ trong bản văn, nhưng chúng ta có thể đưa ra một vài suy luận về trường hợp này. Chúng ta nhớ là các môn đệ theo Chúa đi khắp mọi nơi, mọi chỗ, từ thành này đến thành khác. Và mỗi nơi họ đến người ta đều tuôn đến với Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng dậy và xin Ngài điều này điều nọ. Tôi đoán có lẽ là các môn đệ cũng đã rất mệt - mệt về thể xác và mệt cả về những điều mà người ta cứ nài xin Chúa. Do đó, các ngài khó chịu, và không muốn ai phiền hà nữa cả. “Đã bảo đủ rồi là đủ rồi mà.” Thỉnh thoảng đôi khi tôi cũng cảm thấy mình phản ứng giống như vậy.
Tuy nhiên, lý do thứ hai được thấy ghi rõ trong bản văn lại cả là một vấn đề và thật là một điều thất vọng. Như chúng ta đã biết, và đã thấy ghi lại nhiều nơi trong Thánh Kinh, người ta trong thế giới cũ đã vạch ra một sự cách biệt rõ ràng là ai ở “trong” và ai ở “ngoài.” Người Do Thái cũng thế. Không ngoại trừ. Do đó, có lẽ họ không hình dung ra được rằng Chúa Giêsu sẽ đến để lắng nghe và giúp đỡ người đàn bà thành Canaan này. Đối với các môn đệ thì đây là một điều hoàn toàn không thể nghĩ được. Người đàn bà thành Canaan này không phải là một trong những người của họ. Chúa là Chúa của họ. Chúa không có đứng về phía bên những người không phải Do Thái. Và như thế, người đàn bà này không có lý do gì để nài xin Chúa giúp cả. Chính vì vậy mà họ đã trả lời một cách lạnh lùng là “để bà ấy về đi…”
Ở đây, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã làm gì? Ngài đã xử lý một cách rất khéo về cái thành kiến đã ăn sâu trong lòng của các môn đệ (giả vờ là ngài cũng cảm thấy như vậy). Và n hư thế, sau khi nói với người đàn bà là ngài chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel, ngài còn đi xa hơn nữa… là dùng đến chữ có tính cách gièm pha, nhục nhã là “ch ó” để chỉ về bà. Chúng ta có thể dường như nghe được cảm nghĩ của các môn đệ “Đúng rồi thầy. Nói cho bả biết rõ… thân phận của bả là ai.”
Rồi chúng ta thấy đến lượt người đàn bà phát biểu. Bà đã tỏ ra khác hẳn cử chỉ thái độ của các môn đệ. Chúng ta có thể dường như thấy nơi ánh mắt của bà đang đợi xem Chúa sẽ làm gì.
“Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống.”
Quý bạn thân mến,
Những bức tường ngăn cách mà con người đã dựng nên, những lý do tức tối đã ăn sâu trong lòng con người từ thế hệ đến thế hệ khác, những căm thù, phẫn uất nào đi nữa… để đón nhận người này và loại bỏ người kia, đều không có phần ở nơi người đàn bà này. Bà không chấp nhận những sự bất công và những xếp hạng vô nghĩa của thế gian. Bà muốn vượt qua những bức tường ngăn cách này để tìm kiếm sự thiện, sự chữa lành, và ân phúc. Không một điều gì hoặc không một ai có thể ngăn cản bà tìm kiếm người có thể cứu giúp người con gái của bà - Đấng duy nhất có thể ban cho bà điều bà cần.
Chúa Giêsu đã làm gì?
“Này bà, bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy.”
Quý bạn thân mến,
Ở đây chúng ta thấy, tâm trí của các môn đệ đã đóng kín, còn của bà thì đã mở ra. Tấm lòng của các môn đệ thì hạn hẹp, đo lường, tính toán, còn của bà thì quảng đại và bao dung. Cái nhìn của các môn đệ rất thiển cận, còn cái nhìn của bà thì rất xa rộng. Và buồn thay, đức tin của các môn đệ thì lại không có, còn đức tin của bà thì thật sâu xa.
Như chúng ta đã quá biết, câu chuyện Phúc Âm hôm nay không chỉ là cái cửa sổ để nhìn vào quá khứ. Những sai lầm, thất bại, và thành kiến của các môn đệ vẫn còn đang tiếp tục lan truyền đến chúng ta ngày hôm nay. Chúng ta cũng vẫn thường tiếp tục tìm cách để loại trừ và không chấp nhận. Chúng ta thích quyết định ai là người sẽ chiếm được tình yêu của chúng ta và ai không, ai đáng được chúng ta yêu và ai không, ai được chúng ta để ý đến và ai là người mà chúng ta sẽ không bao giờ màng đến. Chúng ta đã dựng nên những bức tường ngăn cách, đã xếp hạng, và gán tên đủ loại. Chúng ta đã tạo nên những cách biệt thật là đau lòng về ai là “một trong những người của chúng ta” và ai không, ai là người “ở trong” và ai là người “ở ngoài.”
Tình Yêu của Thiên Chúa không có giới hạn. Và ngài cũng xin một điều giống như vậy ở nơi chúng ta. Chắc hẳn, hầu hết mọi người chúng ta đều có những người trong cuộc đời rất cần đến sự giúp đỡ của chúng ta, rất cần đến tình thương của chúng ta, cần đến sự thông cảm của chúng ta. Và có lẽ vì một vài lý do nào đó - hoặc có một vài thành kiến, hoặc không muốn phiền hà - chúng ta đã không yêu thương họ như Chúa đã xin chúng ta.
“Để bà ấy về đi....”
Ước mong sao những lời đó không bao giờ còn có trong lòng của chúng ta hoặc thốt lên nơi miệng lưỡi chúng ta. Trái lại, khi gặp một người nào đó cần sự giúp đỡ, chúng ta đều có thể làm một điều gì đó cho họ (cho dù chỉ là một lời nói nhã nhặn, đôi tai đồng cảm đón nghe, hoặc đôi vai để tựa nương…).
Chúng ta hãy suy nghĩ, xét xem, và cầu nguyện…“Lạy Chúa, con có thể làm gì để giúp họ?”
Hồi mới qua Mỹ, tôi ở gần một gia đình chồng Mỹ vợ Việt có ba đứa con trai tóc tai vàng khè TN 20-A162
Hồi mới qua Mỹ, tôi ở gần một gia đình chồng Mỹ vợ Việt có ba đứa con trai tóc tai vàng khè, mắt xanh mũi lõ. Nhìn vào ba đứa con, không ai dám nói là con lai cho đến khi nghe chúng nói tiếng Việt. Kể từ khi quen biết, chị vợ vẫn thường mời tôi đến nhà thưởng thức các món đặc sản của người Nam mà anh chồng và các con không tài nào dám thử như mắm cá lóc, tương cự đà... Còn anh chồng thì thỉnh thoảng nhờ tôi giải thích tại sao vợ của anh lại cầm đồng bạc quarter cạo đau điếng trên lưng với một chất dầu màu xanh khó ngửi cho đến khi lưng đỏ bầm mới thôi mỗi khi anh và các con bị cảm... Một hôm, anh chồng phàn nàn với tôi là phụ nữ Việt Nam quá bạo động, con cái nghịch phá mà đòi giết luôn cả chồng. Gạn hỏi ra thì mới biết tất cả cũng chỉ vì câu nói của chị vợ quát tháo tụi nhỏ: "Nói không nghe tao đánh chết cha mày bây giờ..." Một lần nữa, tôi lại phải giải thích cho anh hiểu câu nói "...đánh chết cha mày" của chị vợ chỉ là một kiểu nói suông người Việt Nam hay dùng chứ không có ác ý gì hết...
Thật vậy, để hiểu được ý tứ của các kiểu nói thông thường của một sắc dân, chúng ta cần phải thông thạo chẳng những ngôn ngữ mà còn phải hiểu rõ phong tục tập quán, kèm theo thời gian và hoàn cảnh lúc bấy giờ nữa. Chính vì vậy mà khi đọc lại lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ Canaan trong bài Phúc âm hôm nay của hai ngàn năm trước, chúng ta vẫn thường cho là Chúa quá nặng lời với một bà mẹ đang đau khổ vì bệnh tật của con gái.
Tuy nhiên, nếu đặt mình vào hoàn cảnh bấy giờ thì chúng ta sẽ thấy tại sao người đàn bà chẳng những không nổi giận mà còn bám sát Chúa Giêsu hơn nữa. Đối với người Do thái thời bấy giờ, người Canaan là dân ngoại, là quân tội lỗi không thể sánh ví với họ là dân riêng được tuyển chọn của Thiên Chúa. Do đó, họ coi khinh người Canaan cũng như những sắc dân của các vùng lân cận không mang quốc tịch Do thái. Chính vì vậy mà người đàn bà không cảm thấy bị xúc phạm khi Chúa sánh ví bà với loài chó. Còn về phía Chúa Giêsu thì Ngài không có ý coi khinh hoặc xỉ vả bà, nhưng chủ ý lợi dụng cơ hội đó để nói cho người Do thái biết rằng, trước mặt Thiên Chúa, quốc tịch trần thế không phải là điều kiện để được cứu độ mà là lòng tin của mỗi người. Nói cách khác, chiên lạc nhà Israel mà Chúa Giêsu có nhiệm vụ tìm kiếm không chỉ giới hạn ở số người mang quốc tịch Do thái sống rải rác trong vùng mà bao quát tất cả mọi người thuộc mọi thời, bất kể họ là Do thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do, nam hay nữ... miễn sao họ đặt trót niềm tin vào Con Thiên Chúa như người đàn bà xứ Canaan hôm nay: "Lạy Ngài là con vua Đavít, xin thương xót tôi..."
Nhìn vào cuộc sống, khi cư xử với người đồng loại, liệu tôi có kính trọng mọi người với nhân vị con người hay tôi lại phân chia theo tầng lớp và địa vị xã hội của họ? Khi đối đầu với những bất công và khó khăn trong cuộc sống, liệu tôi có khiêm nhượng đủ để giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa như người đàn bà xứ Canaan hay lại để cho tự ái làm chủ để gây gương mù hoặc đánh mất niềm tin Công giáo?
Trong Tin mừng Chúa nhật XX Thường niên hôm nay, chúng ta nghe câu chuyện người mẹ vùng TN 20-A163
Trong Tin mừng Chúa nhật XX Thường niên hôm nay, chúng ta nghe câu chuyện người mẹ vùng Canaan xin Chúa chữa lành cho con gái của bà. Lúc đầu, Chúa Giêsu phớt lờ lời cầu xin của bà, nhưng nhờ sự kiên trì đầy sáng tạo bà đã thuyết phục được Chúa Giêsu chữa lành cho con bà. Việc Chúa Giêsu ngay từ đầu không để ý đến lời cầu xin của người mẹ gây khó chịu cho người đọc. Có nhiều cách đọc giúp chúng ta hiểu trình thuật này.
Tin mừng Thánh Mátthêu nhấn mạnh thái độ của Chúa Giêsu đối với truyền thống văn hóa và cử tọa Do thái; và ngay lúc khởi đầu sứ vụ Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ rằng: “Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Samari. Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Israel” (Mt 10,5). Dù vậy, Chúa Giêsu vẫn chữa lành cho hai người dân ngoại là anh đầy tớ của viên đại đội trưởng (Mt 8,5-13) và con gái của người phụ nữ Canaan trong bài Tin mừng hôm nay. Hành động này cho thấy một mức độ cởi mở nào đó của Chúa Giêsu đối với dân ngoại, và điều này càng được khẳng định khi Chúa Giêsu sai các môn đệ làm phép rửa cho “muôn dân” sau khi Ngài sống lại (Mt 28,19).
Khi người phụ nữ Canaan xin Chúa chữa lành cho con bà, Chúa Giêsu nói: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó.” Một số nhà chú giải đã cố gắng làm nhẹ lại lời tuyên bố này bằng cách lưu ý rằng từ Hy lạp (kynaria) được sử dụng ở đây thực sự có nghĩa là chó con hay là con chó nhỏ. Tuy nhiên, câu trả lời của Chúa Giêsu vẫn còn gây xúc phạm khi ám chỉ người Do thái là trẻ con và người Canaan là chó con. Cũng có những sách khác trong Tân ước xem dân ngoại như “quân chó má” (Mc 7,27-28; Pl 3,2; Kh 22,15). Cuối cùng, Chúa Giêsu cũng đồng ý giúp đỡ sau khi người phụ nữ đã sáng tạo sửa lại những lời gây xúc phạm của Chúa Giêsu: “Nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Chúa Giêsu giải thích câu đáp trả cự tuyệt của bà là một dấu chỉ của lòng tin và ngay lập tức Ngài chữa lành con gái bà.
Đoạn văn này có thể phản ảnh thành phần trong cộng đoàn của thánh Mátthêu mà phần lớn là các Kitô hữu gốc Do Thái, họ đang tìm cách để hiểu được sự hiện diện của dân ngoại giữa các môn đệ Chúa Giêsu. Mátthêu đã điều chỉnh một cách thú vị bản văn gốc Mc 7,24-30. Trong Tin mừng Máccô, Chúa Giêsu vào nhà một người phụ nữ ở điạ hạt Tia, ngoài đất Do Thái, nhưng thánh Mátthêu lại xác định sự kiện ở một địa điểm mơ hồ hơn, có thể là trong hoặc ngoài địa hạt của dân ngoại. Trong câu nói gây xúc phạm theo bản văn thánh Maccô, Chúa Giêsu bắt đầu bằng cách nói rằng “ Hãy để cho con cái ăn no trước đã” (Mc 7,24), gợi ý rằng dân ngoại cuối cùng có thể đón nhận sứ vụ của Chúa Giêsu. Thánh Mátthêu bỏ câu nói này, làm cho sứ điệp của Chúa Giêsu có vẻ hướng đến người Do Thái cách đặc biệt hơn.
Trình thuật này cũng có thể biểu lộ cách suy nghĩ thoáng đạt hơn của thánh Mátthêu về Tin mừng và về vai trò của người phụ nữ dân ngoại trong lịch sử cứu độ. Tin mừng Mátthêu bắt đầu với gia phả của Chúa Giêsu, lần theo gốc gác Do Thái của Ngài từ ông Giuse đi ngược tới ông Ápraham. Các tên trong gia phả chủ yếu là đàn ông; nhưng ngoài Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, còn có bốn người phụ nữ khác là các bà Tama, Rakhap, Rút và vợ của Urigia (Bathsêba). Những người phụ nữ này, minh nhiên hay mặc nhiên không phải là người Israel, đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử của Israel. Thánh Mátthêu có thể nhìn người đàn bà Canaan theo cách thức này, một người phụ nữ ngoài truyền thống lại giúp đề ra hướng đi của truyền thống. Việc bà nài xin Chúa Giêsu chữa lành cho con gái góp phần vào sứ điệp nối kết của Tin mừng, cuối cùng bao gồm tất cả mọi người.
Chủ đề: "Cách thức để triển nở đức tin là thực hành nó, đặc biệt trong việc yêu thương tha nhân."
Một bé gái 6 tuổi đến ăn tại nhà một người bạn. Khi mọi người ngồi vào bàn, cô bé cúi đầu chờ TN 20-A164
Một bé gái 6 tuổi đến ăn tại nhà một người bạn. Khi mọi người ngồi vào bàn, cô bé cúi đầu chờ đợi mọi người đọc kinh ăn cơm. Chẳng thấy ai đọc kinh hết, cô bé thẹn thùng nói: "Cả nhà giống con chó nhà cháu qúa, cứ ngồi xuống là ăn!".
Dân Do Thái cũng nghĩ như thế đối với đám dân ngoại. Theo họ, dân ngoại xét về mặt thiêng liêng cũng giống như loài chó vì họ hoàn toàn thiếu nhạy cảm đối với Thiên Chúa. Ðiều này dẫn chúng ta đến chủ điểm quan trọng của bài Phúc Âm hôm nay.
Các học giả nhận xét là từ ngữ Hy Lạp mà Chúa Giêsu nói về "lũ chó" trong câu "không nên ném thức ăn cho lũ chó" là một hình thức giảm thiểu. Nó ám chỉ lũ chó cưng nuôi trong nhà, chứ không phải những con chó rông ngoài đường. Chúa Giêsu dùng từ ngữ ấy một cách thân ái. Câu đáp lại của người phụ nữ cho thấy rõ điều ấy. có lẽ bà ta vừa mỉm cười vừa nói:
"Những lũ chó cũng được ăn vụn bánh rơi xuống nền nhà chứ!".
Nói cách khác, bà ta đang nói với Chúa Giêsu: "Con biết Ngài hiện đang dành ưu tiên cho dân Israel, tuy nhiên trong khi Ngài thiết đãi họ, Ngài lại không thể đẩy cho con chút ít bánh vụn giống như đám nhóc quăng bánh xuống cho lũ chó cưng khi bố mẹ chúng không nhìn thấy sao?".
Chúa Giêsu liền trả lời cho bà ta:"Bà là người phụ nữ giàu lòng tin! điều bà mong muốn sẽ được trao ban cho bà".
Thật đẹp biết bao nếu Chúa Giêsu cũng nói như thế về anh chị em.
Ðiều này gợi lên một vấn nạn: Tại sao một số người có đức tin mạnh mẽ đang khi số khác đức tin lại yếu kém? Tại sao lại thấy đó là điều khó khăn? Và điều đó dẫn đến một vấn nạn còn khó khăn hơn: Nếu đức tin chúng ta yếu kém thì liệu chúng ta có thể làm gì để củng cố? Chúng ta hãy xét vắn tắt từng vấn nạn nêu trên.
Trước hết, tại sao có những người đức tin yếu kém và có những người đức tin mạnh mẽ? Ðiều này cũng giống hệt như hỏi tại sao có người yếu nhược còn có người lại khoẻ mạnh?
Một số người có sức khỏe yếu kém là do cha mẹ họ. Họ thừa hưởng một thân xác eo sèo. Nhưng cũng có những người sức khoẻ yếu kém vì họ chẳng biết chăm sóc sức khoẻ cho chính mình.
Ðiều đúng cho sức khoẻ thể lý thế nào thì cũng đúng cho sức khoẻ tâm linh đức tin của chúng ta như thế. Một số người đức tin yếu kém là do bởi cha mẹ họ. Sức khoẻ tâm linh được di truyền cũng tương tự sức khoẻ thể lý. Nếu bố mẹ lạnh nhạt với đức tin của mình thì điều này cũng thường tác động lên đám con cái họ. Mặt khác, đức tin chúng ta yếu kém cũng có thể là do chúng ta không chăm sóc đến nó.
Ðiều này dẫn chúng ta đến vấn nạn thứ hai. Nếu đức tin chúng ta yếu kém bất kể vì lý do gì, chúng ta có thể làm gì để củng cố nó lại? Ðức tin có thể được so sánh với một bắp thịt. Nếu chúng ta không chịu luyện tập, bắp thịt ấy sẽ từ từ yếu đi. Mặt khác, qúi bạn càng luyện tập, bắp thịt ấy càng mạnh mẽ lên. đức tin của chúng ta tương tự như thế. Nó cũng cần phải được tập luyện.
Có nhiều phương cách luyện tập đức tin. Chúng ta có thể học hỏi và bàn luận về Phúc Âm như hiện chúng ta đang làm. Chúng ta có thể tham dự thánh lễ mà ít phút nữa chúng ta sẽ cử hành một cách chăm chú hơn. Chúng ta có thể tập cầu nguyện mỗi ngày để việc cầu nguyện trở thành thói quen.
Tuy nhiên, còn một phương cách luyện tập đức tin chúng ta xem ra cực kỳ hữu hiệu. Cách này đáng được lưu tâm đặc biệt. Dostoevski có bàn đến nó trong tác phẩm của ông nhan đề: "Anh em nhà Karamazốp" (The Brothers Karamazov). Trong tác phẩm này, tác giả đề cập đến một bà lão nọ, sức khoẻ thiêng liêng của bà đã suy thoái mau chóng theo sức khoẻ thể lý. Ngày nọ bà ta bàn luận vấn đề của mình với vị linh mục già tên là Zossima. Bà kể cho ngài nghe về đức tin yếu kém của bà những nỗi ngờ vực vừa phát sinh, chẳng hạn như: Thiên Chúa có thực sự quan tâm đến vạn vật không? Có đời sống sau lúc chết không?
Linh mục Zossima thông cảm lắng nghe bà và nói: "Chẳng có cách nào minh chứng rõ ràng những điều này, nhưng bà vẫn có thể tin tưởng những điều ấy vững chắc hơn". Bà ta ngạc nhiên: "Bằng cách nào?" vị linh mục già đáp: "Bằng tình yêu. Hãy cố gắng yêu láng giềng của bà thật tình. Càng yêu thương, bà sẽ càng chắc chắn hơn về sự hiện hữu của Chúa và đời sống tương lai sau khi chết. Càng yêu mến đức tin bà sẽ càng lớn lên và các nỗi ngờ vực sẽ tiêu tan. Ðây là điều chắn chắn từng được thử nghiệm và nó đã có kết quả".
Linh mục Zossima nói thật chí lý. Ngài cho ta thấy điểm quan trọng là: tình yêu và đức tin đi đôi với nhau không khác gì hai đường rầy xe lửa. Tìm được cái này tức là tìm thấy cái kia. Ðức tin và tình yêu liên kết với nhau như xác với hồn. Albert Schweitzer, vị bác sĩ thừa sai vĩ đại cũng cùng quan điểm như trên trong cuốn sách của ông nhan đề Reverence For Life (Kính trọng cuộc sống ). Ông bàn đến một vài điều đem lại kết quả này như sau:
"Bạn có muốn tin vào Chúa Giêsu không? Bạn có thực sự muốn tin Ngài không? Như thế bạn phải làm một điều gì đó cho Ngài. Trong thời buổi đầy ngờ vực này thì không có cách nào khác đâu. Nếu vì Ngài mà các bạn cho kẻ khác cái gì đó để ăn, để uống hoặc để mặc, những nghĩa cử này Chúa Giêsu đã hứa chúc phúc như là làm cho chính Ngài, thì lúc đó quí bạn sẽ thấy rằng mình đã thực sự làm điều ấy cho Ngài. Chúa Giêsu sẽ mặc khải chính Ngài cho quí bạn như thể Ngài là một người vẫn còn sống".
Và điều này dẫn chúng ta trở lại với người phụ nữ trong bài Phúc Âm. Bà đến với Chúa Giêsu là vì kẻ khác chớ không vì chính bà, bà đã đến vì tình yêu, đã đến với tư cách một người mẹ đầy lòng yêu thương, tin tưởng.
Tôi xin nêu lên một gợi ý. Tôi tin rằng mỗi bài Phúc Âm khi được đọc trong thánh lễ đều mang theo một ân sủng đặc biệt. Nếu quí bạn là một bậc cha mẹ cảm thấy cần củng cố đức tin của mình thì hãy bắt chứơc người phụ nữ trên. Ngay tuần này, các bạn hãy bắt đầu đến với Chúa Giêsu mỗi ngày đều đặn để kêu cầu Ngài chúc phúc cho con cái quí bạn. Nếu quí bạn là một thanh niên cảm thấy cần củng cố đức tin của mình thì hãy làm điều Dostoevski và Schweitzer đã nói. Hãy bắt đầu cư xử một cách yêu thương đối với bố mẹ và anh chị em của mình.
Và tôi xin chia sẻ thêm một tư tưởng nữa về vấn đề đức tin. Bất cứ ai dù khoẻ mạnh đến đâu cũng phải trải qua những khó chịu bởi vì cuộc sống con người vốn là như thế. Chẳng hạn, vào ngày buồn sầu trong cuộc sống khi gặp phải cảm nghiệm chua chát, chúng ta thường gây gỗ với mọi người và mọi vật, chúng ta nguyền rủa kẻ thù và than phiền về bạn bè của mình. Còn vào ngày hưng phấn trong cuộc sống. Khi chúng ta cảm nghiệm được điều gì hoan hỉ, tự dưng chúng ta cảm thấy yêu mến mọi người và mọi sự. Chúng ta tha thứ cho kẻ thù và thích tỏ tình thân thiện bè bạn.
Ðức tin cũng rất giống như thế. Có ngày rất tươi sáng và rất phấn khích, có ngày ảm đạm, sầu thảm. Khi gặp phải một ngày "tồi tệ" của đức tin quí bạn hãy ghi nhớ câu chuyện có thực sau đây. Nó sẽ giúp bạn chịu đựng ngày ấy và giữ vững niềm tin của mình.
Sau thế chiến thứ hai ít lâu, có một số công nhân lo dọn dẹp sạch sẽ tàn tích của một ngôi nhà bị bom ở Cologne (nước Ðức). Họ thấy trên một bức tường nhỏ trong nhà, có một bản ghi chú đầy cảm động, hình như một người Do Thái trên đường trốn bọn Quốc Xã đã viết lên đó. Anh ta dùng tầng hầm của căn nhà để trốn bọn Quốc Xã. Sau đây là bản ghi chú đó:
"Tôi tin vào mặt trời ngay cả lúc nó không chiếu sáng. Tôi tin vào tình yêu ngay cả lúc tôi không cảm thấy nó. Tôi tin vào Thiên Chúa ngay cả khi Ngài yên lặng".
Tin Mừng Mt 15: 21-28: Chỉ có một lòng khiêm tốn tột cùng, nhận ra tất cả đều là ơn Chúa ban chứ không do công trạng con người, con người mới có thể nhận được hồng ân Chúa cách nhưng không.
Suy niệm
Khi nói lên tình người với nhau, chẳng có tình cảm nào thiêng liêng cho bằng tình phụ mẫu dành TN 20-A165
Khi nói lên tình người với nhau, chẳng có tình cảm nào thiêng liêng cho bằng tình phụ mẫu dành cho con cái. Chẳng thế mà ca dao chúng ta có câu:
“Nuôi con buôn tảo bán tần, Chỉ mong con lớn nên thân với đời. Những khi trái nắng trở trời, Con đau là mẹ đứng ngồi không yên. Trọn đời vất vả triền miên, Chăm lo bát gạo đồng tiền nuôi con.”
Công lao phụ mẫu ấy hôm nay đã được bà mẹ người Canaan bộc lộ thật xúc động. Người mẹ này vì quá yêu thương cô con gái yếu ớt bị quỷ ám, tìm khắp chốn cho ra người chữa con gái mình. “Có bệnh thì vái tứ phương”, bà còn can đảm đã vượt qua sự khinh thị giữa người Do Thái và dân ngoại, tìm đến với Chúa Giêsu mà bà tin Người là Đấng Cứu Thế khi kêu lên: “Lạy Ngài là Con vua Đavid, xin thương xót tôi”. Điều mà dường như chưa có một con chiên Do Thái nào nhận ra vào Danh Chúa Giêsu như thế lại có thể được tuyên xưng từ nơi môi miệng một kẻ ngoại giáo.
Trước lời cầu xin ấy, Chúa Giêsu chưa thực hiện việc cứu chữa ngay, mà thử thách lòng tin của bà bằng việc Người im lặng. Vâng, trong cuộc đời chúng ta, có những lúc đau khổ tột cùng, bệnh tật triền miên, chạy tới kêu cầu danh Chúa nhưng dường như Người vắng bóng. Sự im lặng của Thiên Chúa thực ra lại có giá trị thử thách xem đức tin của chúng ta tới đâu.
Người phụ nữ này vẫn kiên trì đến nỗi các môn đệ Chúa cảm thấy phiền và thưa Người: “Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi.” Chúa Giêsutiếp tục gia tăng sự thử thách khi Người bảo với các môn đệ: “Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel.” Lời tuyên bố của Chúa Giêsu như làm cho bà chơi vơi giữa dòng, nghe tới đó, chúng ta nghĩ không còn cách nào khác hơn là đành quay về. Nhưng chúng ta có biết chăng,
“Con ho lòng mẹ tan tành, Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi”.
Vì thế, trong sự thất vọng ấy, bà vẫn cố bám víu còn nước còn tát, tiếp tục nài xin Chúa cách khẩn thiết hơn nữa với cũng một lời cầu xin: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi.”.
Chúa Giêsu lại thử lòng bà về sự khiêm tốn vì chỉ trong cầu nguyện với lòng khiêm tốn, con người ta mới dễ được Thiên Chúa đoái nhìn. Người bảo với bà: “Không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho chó.” Nếu cứ sự thường, trước câu nói này, nếu là chúng ta thì vì lòng tự ái dâng cao, chúng ta sẽ quay đi với một sự tức tối và không thiếu kèm theo một lời lầm bầm. Nhưng không, trước câu nói xem ra phủ phàng này, khi mà chúng ta thấy Chúa dường như bít lối thì thật ra Người đang để chỗ cho chúng ta bám vào, Người chìa một cành cây cho người chơi vơi nắm lấy. Còn phần liệu người đó có đủ khiêm tốn để nắm giữ hay không. Với người phụ nữ có đứa con bị bệnh quảy ám, bà đã mau chóng nhận ra và đáp lại: “Vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống.” Quả thật, chỉ có một lòng khiêm tốn tột cùng, nhận ra tất cả đều là ơn Chúa ban chứ không do công trạng con người, con người mới có thể nhận được hồng ân Chúa cách nhưng không.
Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương trước niềm tin rất kiên định và chân thành của bà, và phải nói Người chịu thua lòng tin rất kiên trì của bà nên Người đáp lại: “Bà có lòng mạnh tin. Bà muốn sao thì được vậy.” Vì tình mẫu tử thiêng liêng, người mẹ này dám làm mọi sự vì đứa con. Niềm tin của bà vào Chúa Giêsu là một bài học cho mỗi người chúng ta khi cầu xin Chúa. Trước những khó khăn, gian truân, bồi hồi lo lắng của mình, chúng ta mong có một phép màu xảy ra. Nhưng chúng ta có biết chăng phép màu chỉ đến sau những khẩn thiết kêu xin bằng một sự chân thành khiêm tốn và nỗ lực cộng tác của con người để ơn Chúa có thể ban cho chúng ta. Lòng tin có một sự biện chứng với khiêm tốn, càng tin càng cần thể hiện sự hạ mình, để nhờ tin mà chúng ta nhận ra không điều gì chúng ta có là sức riêng của con người.
Hôm qua, chúng ta vừa mừng kính Đức Maria hồn xác lên trời, còn gọi là ngày lễ Mông Triệu nghĩa là Đức Mẹ được ơn Chúa gọi để kết hợp với Người trên Thiên Quốc. Đức Maria có thể lãnh nhận được ơn hồn xác lên trời toàn vẹn bởi mẹ đã thể hiện đức tin của mình bằng việc phó thác hoàn toàn vào tay Thiên Chúa và nhận ra tất cả những gì mình có là do ơn Chúa, nên mẹ đã hạ mình “này tôi là tôi tớ Chúa”. Và cũng bởi vì Mẹ để cho Thánh ý Chúa được hoạt động nơi mình, nên Mẹ nhận được những ơn vượt sức giới hạn của con người
Lạy Chúa, xin cho chúng con có một sự khiêm tốn đủ để nhận ra tất cả là ơn Chúa ban, và để chúng con không tự phụ nhưng sẵn sàng chạy đến trước Chúa để giải bày nỗi khắc khoải của con người chúng con. Amen.
Hãy so sánh trình thuật của Mt với trình thuật song song Mc 7, 24- 30. Mt nhấn mạnh nhiều hơn TN 20-A166
1. Hãy so sánh trình thuật của Mt với trình thuật song song Mc 7, 24- 30. Mt nhấn mạnh nhiều hơn Mc nhất là về các lời van xin của người đàn bà và lời chối từ của chua Giêsu. Tại sao?
2. Có gì lạ không khi bà xứ Canaan gọi Chúa Giêsu là “Con Đavít”?
3. Lời Chúa Giêsu tuyên bố mình chỉ được sai đến “cho những chiên lạc nhà Israel” phải chăng không mâu thuẫn với sự kiện cuối cùng Người đã chữa lành con gái của bà ngoại đạo này?
4. Tại sao thoạt tiên Chúa Giêsu chối từ lời cầu xin của bà xứ Canaan? Để thử đức tin của bà? Nhưng đức tin của bà không lớn sao khi gọi Chúa Giêsu là “Con Đavít” và bái lạy Người? Hay để soi sáng đức tin ấy? Bằng cách nào?
1. Như đã thấy trong các đoạn văn trước; sau khi bị dân Nadarét khước từ và sau cái chết của Gioan Tẩy giả, Chúa Giêsu đã dồn nỗ lực giảng dạy cho các môn đồ, chứ không ngỏ lời với đám đông dân chúng nữa, và chỉ chữa lành những kẻ yếu hệt trong họ mà thôi. Tuy nhiên, các cuộc tranh luận với nhóm Biệt phái vẫn tiếp tục diễn ra ngày càng sôi nổi. Chúa Giêsu khiển trách nhóm Biệt phái đã thêm nhiều quy khoản vào luật Môisen đến nỗi bộ Luật trong thực tế đã bị các quy khoản này hủy bỏ, đó là chưa kể chỉ có một ít người chuyên chú đến vô số khẩu truyền do tiền bối để lại, mới có thể chấp hành đúng các quy khoản ấy. Người phản ứng bằng cách chấn hưng luật Môisen lại trong tính cách giản đơn nguyên thủy của nó, để ai ai cũng có thể chấp hành được.
Trong đoạn văn nằm trước đoạn này, Chúa Giêsu còn đi xa hơn nữa. Suốt cuộc tranh luận với Biệt phái về thức ăn trong sạch và uế tạp, hình như Người ngụ ý có thể ăn các thực phẩm bị chính luật Môisen cấm? Thế mà đó là một trong các nguyên nhân chia rẽ chính giữa người Do thái và lương dân. Thành thử Chúa Giêsu xem ra thiên về đường hướng mềm dẻo hơn đối với dân ngoại. Chính trong bối cảnh ấy đã xuất hiện đoạn văn chữa lành con gái của người đàn bà xứ Canaan. Trong giai thoại này, Mt trình bày Chúa Giêsu làm phép lạ cứu giúp một phụ nữ ngoại giáo. Đứng trước sự cứng lòng tin của dân Người và thái độ chống đối ngày càng kịch liệt của các thủ lãnh họ, phải chăng Chúa Giêsu quyết định bỏ mặc Israel cho số phận nó, để từ đây chỉ đi đến với lương dân? Không, Mt bảo đấy không phải là chủ ý của Người. Quả thế, Chúa Giêsu chỉ làm phép lạ này sau một cuộc chối từ dai dẳng, như thể ban vì bất đắc dĩ mà thôi. Và trước khi ban, người còn muốn xác quyết mạnh mẽ việc tuyển chọn Israel trước mặt các môn đồ và ngay chính khi dân Do thái cứng lòng tin nhất: “Ta chỉ được sai đến cho những chiên lạc nhà Israel thôi “. Vả lại Người đã chẳng sai nhóm Mười hai đi truyền giáo cho họ đó sao (10, 6)? Phải phân phát bánh, nghĩa là Tin Mừng, cho “con cái”, nghĩa là cho những kẻ thừa tự Lời Hứa đã. Vì thế Chúa Giêsu chỉ nhượng bộ trước lời cầu xin của người đàn bà, sau khi bà đã nhận ra sự chia cách do Thiên Chúa muốn giữa dân Ngài và mọi dân khác. Sự chia cách ấy bao giờ cũng linh thánh vậy.
2. Đàng khác, nhưng một cách phụ tùy, lời Chúa Giêsu từ chối nhằm thử thách, và như thế để làm nổi bật đức tin của bà ngoại đạo Chính nhờ đức tin mà người ta trở nên con cái đích thực của Abraham. Nếu Israel ương ngạnh cứng lòng, thì Thiên Chúa được tự do gầy dựng, ở nơi Ngài muốn, một hậu duệ mới cho Abraham (3,9) và gọi là dân Ngài những kẻ xưa kia không phải là dân Ngài (1Pr 2, 10). Quả trình thuật này muốn phát biểu cái mầu nhiệm “chưa hề thông tri cho con cái loài người trong các thế hệ trước…ấy là dân ngoại là kẻ đồng thừa tự, là chi thể của cùng một Thân mình… ” (Ep 3, 4- 6). Chính mầu nhiệm ân sủng dành cho dân ngoại ấy, Giáo Hội đã phải thừa nhận tại Hội nghị Giêrusalem: “Thiên Chúa, Phêrô bảo, đã tẩy sạch lòng họ bằng đức tin” (Cv 15, 9) và Giacôbê nói tiếp: “Ngài đã chiếu cố lấy tự giữa lương dân một dân thờ danh Ngài” (Cv 15, 14).
Thành ra giai thoại người phụ nữ Canaan hàm chứa hai khẳng định có vẻ mâu thuẫn và nghịch lý: Israel là dân được tuyển chọn nhưng Thiên Chúa vẫn vô cùng tự do trong việc hoàn tất ơn cứu độ của Ngài.
3. Sau cùng, việc chấp nhận tiếng kêu xin kiên trì của người đàn bà là một lời gián tiếp lên án sự công chính và mối an tâm giả tạo của người Do thái, những kẻ vốn cậy dựa vào truyền thống và huyết thống của họ để đòi hỏi sự chọn lựa của Thiên Chúa, chứ không biết lãnh nhận ơn ấy trong đức tin. Còn người đàn bà Canaan cuối cùng đã được điều mình ước nguyện, vì biết đứng trước mặt Thiên Chúa, trong thái độ đợi chờ đầy khiếm tốn và từ bỏ mà Bát phúc đã diễn tả, thái độ xứng đáng được ban thưởng nước Trời. Dưới chân Chúa Giêsu, bà chỉ còn là một kẻ hành khất kiên trì kêu xin, bền lòng hy vọng, như Abraham, như bà góa trong dụ ngôn (Lc 18, 1- 8), như những người mạnh bạo chiếm đoạt lối vào Nước Trời (Mt 11, 12). Lời cầu nguyện của bà chỉ là hình thức cụ thể và sống động của đức tin bà có. Chúa Giêsu thấy lòng tin ấy lớn thật, vì là một đức tin toàn diện; nó biểu lộ một tâm hồn không san sẻ hằng chờ đợi ân sủng và ý muốn tự do của chủ thỏa mãn cơn đói. Nhưng đồng thời nó cũng làm hiển lộ sự mù quáng và thành kiến của những kẻ đồng hương với Chúa Giêsu vốn không chịu nhìn nhận Người là Đấng Messia của họ, trong lúc “con chó ngoại đạo” này đã nhận ra Người là “con Đavít” (c.22).
4. Giai thoại người đàn bà xứ Canaan gián tiếp đưa ra một bằng chứng về sự lương thiện rất mực của Mt trong tư cách chứng nhân lịch sử của truyền thống phát xuất từ chúa Giêsu. Quả thế, khi nhấn mạnh việc Chúa Giêsu từ chối nhậm lời cầu xin của bà ngoại đạo), Mt cho thấy người, dù bị giới cầm quyền Do thái phủ nhận, đã nghiêm túc giữ đúng chương trình chỉ rao giảng cho con cái Israel, chứ không rao giảng cho lương dân. Thế mà lúc Mt ghi chép Tin Mừng, và điều này lại càng đúng hơn nếu ta kéo lùi thời gian ông biên soạn, thì lương dân đã gia nhập Giáo Hội rồi. Thật là một cám dỗ (muốn loại bỏ) đối với thánh sử khi phải cho thấy sự kiện đó đã xảy ra trong sứ vụ rao giảng của Chúa Giêsu. Nếu có lần nào Mt bị cám dỗ biến giáo lý của ông theo những mục đích hộ giáo, thì có lẽ là trường hợp hiện tại. Thành thử giai thoại này, cái giai thoại không phải không gây khó khăn cho những người theo chủ trương phổ quát như Phaolô chẳng hạn, là một trong các chứng cớ chắc chắn nhất về tính cách vững chãi của truyền thống liên quan đến Chúa Giêsu, và về lòng ngay thật của các tác giả Tin Mừng.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui đến miền Tyrô và Siđôn”. Đừng tìm cách xác định lộ trình của Chúa Giêsu từ chỗ ra khỏi đó, một thành ngữ rất mơ hồ, đến miền Tyrô và Siđôn. Đúng hơn việc định vị này có một ý nghĩa thần học: Matthêu muốn nói Chúa Giêsu tiếp xúc với lương dân sống trong các miền ấy, nơi cũng có rất nhiều người Do thái ở. Thành ngữ Tyrô và Siđôn, theo cựu truyền, chỉ vùng đất của dân ngoại dọc theo biên giới bắc-đông bắc của Palestine, mà ta cũng còn gọi là xứ Phênixia. Dân Phênixia tự gọi mình là người Canaan, và Cựu ước lẫn Tân ước cũng kêu họ như vậy.
"Một phụ nữ Canaan...": Thành ra bà này không phải là một người Do thái sống trong vùng ngoại đạo nhưng, như phần tiếp trình thuật cho thấy, là một người ngoại đạo biết rõ hoạt động của Chúa Giêsu và có lẽ cũng nhiễm ít nhiều niềm tin Do thái. Đừng quá ngạc nhiên khi thấy bà ta gọi Chúa Giêsu là con Đavít: theo Mc 3, 8 danh tiếng Người đã vang nhanh đến các vùng này. Thành thử khi gán tước hiệu đó cho Chúa Giêsu, không chắc bà tin Người là Đấng Messia; có lẽ đúng hơn bà chỉ lặp lại điều đã nghe dân Do thái trong vùng nói về Người; vì thế, niềm tin mà Chúa Giêsu thán phục ở c. 28 đúng ra là chính niềm tin được biểu lộ trong câu đáp đầy khiêm tốn ở c.27, nơi người đàn bà Canaan minh nhiên công nhận, dù là ngoại giáo, quyền ưu tiên được cứu rỗi của Israel.
"Ra khỏi vùng đó... ": BJ dịch ra như thế các chữ Hy lạp apo ton horion ekeinon exelthousa và còn ghi chú thêm: "ân huệ mà cuối cùng Chúa Giêsu đã ban cho bà ngoại giáo ấy cũng chỉ được ban trong đất Israel". Nhưng hình như c.21 cho thấy là Chúa Giêsu ra khỏi lãnh thổ Israel để đến các vùng ngoại đạo mà? Kỳ thực, ranh giới địa dư, chính trị và chủng tộc giữa Galilê, Syria và Phênixia không có gì rõ ràng. Đàng khác động từ Hy lạp ra khỏi (exelthousa) với giới từ apo cũng có thể chỉ muốn nói bà này có xuất xứ ngoại đạo. Thành ra có thể dịch phần đầu của c.22 như sau: "Và này môt người đàn bà Canaan ở vùng đó...". Cách dịch này ăn khớp hẳn với câu trước vậy (c. 21).
“Ta chỉ được sai đến cho những chiên lạc nhà Israel thôi". Một câu trả lời nặng óc địa phương như thế hẳn là chướng tai đối với Giáo Hội, vì ngay từ trước thời Phaolô, Giáo Hội đã bắt đầu hoạt động truyền giáo giữa lương dân (Cv 10, 44-48). Thật ra Chúa Giêsu nhắc tời một ủy nhiệm lãnh từ Thiên Chúa động từ ở thể thụ động, không túc từ động tác, là một cách nói bóng gió về Thiên Chúa mà không nêu danh Ngài). Và ủy nhiệm này hoàn toàn phù hợp với các sấm ngôn tiên báo sẽ có ngày giao đuổi các mục tử giả nhà Israel để ban trách vụ mục tử cho Đấng Messia (Ed 34, 23). Chúa Giêsu loan báo giờ đó đã đến. Vai trò của Người là tái lập Israel thành một đàn chiên duy nhất, trung tín với Giavê. Khi dân Israel lại được quy tụ và đi theo Thiên Chúa, mục tử chân chính của nó, thì bấy giờ các dân tộc trên thế giới mới được quy tụ quanh Thiên Chúa thật. Nhưng giai đoạn thứ hai này của chương trình cứu rỗi không trực tiếp liên hệ đến sứ mệnh của Người, xét như là Đấng Messia. Người chỉ chuẩn bị giai đoạn đó thôi.
"Chó con": Hy ngữ kunarion (chó con) là hình thức yếu nghĩa (diminutit) của chữ khôn (chó). Đa số các nhà chú giải xem việc dùng yếu nghĩa từ này là cách làm dịu bớt sự khinh miệt trong lời nói của Chúa Giêsu (người Do thái gọi dân ngoại là “chó" chứ không phải chó con). Nhưng về ý kiến này, ta có hai nhận xét:
1/ Không chắc hình thức yếu nghĩa trong Hy ngữ bình dân có giá trị như một cách làm dịu bớt;
2/ Ngôn ngữ Aram không có yếu nghĩa từ tương ứng với “chó con"; chữ Chúa Giêsu nói hẳn là chữ quen dùng để chỉ người lương dân kaloba (chó) hơn là gurâ (con thú nhỏ).
"Lòng tin của bà lớn thật": người đàn bà Canaan đã hiểu rằng Chúa Giêsu không phải là một nhà thần thông nào đó hoạt động một cách cá nhân nhưng là thừa tác viên thi hành một kế hoạch của Thiên Chúa, mà trước tiên liên hệ đến tuyển dân; và bà đã khiêm tốn nhìn nhận tuyển dân này được ưu tiên trong chương trình cứu rỗi đó. Chính việc nhìn nhận như vậy làm nên đức tin của bà.
KẾT LUẬN
Chúa Giêsu giúp bà này chẳng phải vì bà là kẻ ngoại giáo, song vì bà có một đức tin lớn lao. Trật tự cứu rỗi được tôn trọng, các giới hạn của sứ mệnh ủy thác cho Chúa Giêsu được xác định rõ ràng. Nhưng một niềm hy vọng vĩ đại đã bừng dậy. Trong niềm hy vọng đó ta thấy hiện ra một dân Israel mới được xây trên một lòng tin cũng thật lớn lao. Trường hợp viên sĩ quan trước đó cũng thế (8, 10. 13). Vì như Thiên Chúa hoàn toàn đủ sức biến các "viên đá" thành con cái cho Abraham, thì ngày kia Ngài cũng sẽ gây dựng một Israel mới lừ những kẻ có lòng tin như vậy. Ơn cứu rỗi chưa đến với lương dân; Chúa Giêsu còn trở về Israel (c. 29) để bẻ bánh cho con cái dân Người. Nhưng rải rác đó đây, trong nhiều trường hợp xác định, người ta thoáng thấy một thực tại mới, một tương lai mới trong đó Thiên Chúa sẽ hoàn tất trật tự cứu rỗi đã thiết lập ngay từ đầu. Vì ơn cứu rỗi phải đến với mọi dân trên toàn cõi trái đất.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Vì được rửa tội trong Giáo Hội Công giáo, vì có niềm tin, nên đôi khi ta tưởng các con "chó " ở ngoài, nghĩa là lương dân quanh ta, không có cùng quyền lợi được cứu rỗi như ta. Giai thoại người đàn bà Canaan nhắc ta nhớ Thiên Chúa không bị ràng buộc bởi các cơ cấu tôn giáo. Cũng như Chúa Giêsu đã gặp “một lòng tin lớn" ngoài Israel trong khi chính Israel lại cứng lòng tin, thì ngày nay Người cũng có thể gặp một lòng tin lớn lao như thế, nghĩa là một lòng đói khát Thiên Chúa thực sự, ở ngoài Giáo Hội. Vì thiếu mặc khải minh nhiên và thiếu ánh sáng soi dẫn, nên lòng đói khát này là một nỗi mong chờ được nuôi dưỡng bằng những vụn bánh rơi tư bàn ăn của Thiên Chúa. Những người đói khát như vậy có lẽ có, dầu họ không biết, một đức tin tinh tuyền hơn lòng tin của ta, nếu ta khinh chê lương dân thì có khác gì những người Do thái tự mãn đã không chịu khiêm tốn tin vào Chúa Giêsu, viện cớ mình là "con cái Abraham"!.
2) Thiên Chúa thường bắt đầu tỏ ra giả điếc làm ngơ trước lời cầu xin của ta, như Chúa Giêsu đối với người đàn bà xứ Canaan, nhưng là để sau đó nhậm lời nếu ta biết khiêm tốn kiên trì van vái. Chính đó là cách Ngài giáo dục ta cho có một lòng tin chân thật vậy.
3) Lời cầu xin thực sự làm đẹp lòng Thiên Chúa là lời cầu xin không ỷ lại vào một quyền lợi nào, mà chỉ hoàn toàn trông chờ vào lòng tốt của Thiên Chúa như chó con đón lấy các mảnh vụn rơi từ bàn ăn gia đình.
Chuyện người phụ nữ Canaan hàm chứa hai khẳng định bề ngoài mâu thuẫn nhau: sự tuyển chọn TN 20-A167
Chuyện người phụ nữ Canaan hàm chứa hai khẳng định bề ngoài mâu thuẫn nhau: sự tuyển chọn Israel làm dân riêng của Thiên Chúa và Thiên Chúa hoàn toàn tự do trong việc thực hiện chương trình cứu độ. Qua đó, ta đọc chuyện bà Canaan để hiểu rằng niềm tin của ơn cứu độ và hy vọng, nhưng cũng phải luôn đề phòng xu hướng duy tín hoặc cuồng tín. Và ta thấy cuối cùng bà đã được Đức Giêsu lắng nghe, ta thấy đức tin của bà thì luôn luôn mãn nguyện như lòng bà mong muốn.
Trang Tin Mừng hôm nay ta bắt gặp một người đàn bà xứ Canaan đi ra kêu lên rằng: “Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi…”. Dù sao người phụ nữ cũng có linh cảm sắc bén hơn về con người, có cảm thức rất chính xác về từng con người họ gặp gỡ. Chắc chắn bà này đã được hỗ trợ bằng sự linh cảm rất nữ tính này.
Và ta thấy sự thật khi bà xin không phải cho bà, bà đến gặp để thỉnh cầu là con người có lòng nhân ái, thì bà chả có gì để sợ mất. Bà đã xin, xin mãi. Ta có thể nhớ đến dụ ngôn Đức Giêsu kể về bà góa nhất định xin ông quan toà bất nhân cứu xét cho vụ việc của mình ở chương 18 của Tin Mừng Luca. Dường như sự kiên trì là một đức tính chủ yếu của phái nữ.
Lời cầu xin của bà biểu lộ một niềm tin vững chắc vào Chúa Giêsu, xem Ngài là Đấng Mêssia, và lời cầu xin có vẻ bi thảm thống thiết, đáng thương, tuy không phải xin cho bà, nhưng là cho con gái của bà. Bà đã xem nỗi bất hạnh của đứa con gái như chính của bà. Hơn nữa bà mang lấy tình mẫu tử mà thưa với Chúa Giêsu, chính tình mẫu tử ấy giúp bà cam chịu cách đối xử của Chúa Giêsu, và cũng chính tình mẫu tử ấy bà có thể thấy được niềm thương cảm của Chúa Giêsu qua lời Ngài nói. Lời van xin nay còn van lên một cung giọng phụng vụ “xin Chúa thương xót chúng con”.
Ta nể phục bà Canaan này bởi lẽ bà đã vượt qua được mọi trở ngại, bằng sự kiên trì, bằng khả năng thuyết phục riêng của phái nữ: nhẹ nhàng, bình thản, nhưng cương quyết. Bà đã vượt qua được các trở ngại bằng trí thông minh đầy khiêm tốn, chứ không phải bằng sự ngạo mạn khiêu khích, hoặc bằng thái độ quỵ lụy, hạ mình, cầu cạnh. Để làm được như thế, trước tiên bà phải rất thương yêu đứa con của bà. Bà thương yêu đứa con nhỏ yếu đuối, không có thể tự làm gì để cứu mình. Bà trở thành đại diện cho nó; bà cũng trở thành đại diện cho những người không thể tự mình diễn tả ra vấn đề của họ. Bà là phát ngôn viên của những người cô thế cô thân, những người yếu đuối. Bà hiểu vụ việc của bà, bà xác tín bà có lý, bà chắc chắn là bà có quyền xin được cứu giúp. Không phải bà chỉ muốn bày tỏ nguyện vọng của mình, còn đáp ứng thế nào thì tùy Đức Giêsu; bà đã có cách xin khiến Đức Giêsu không thể từ chối được.
Một lời khác bà cũng thưa với Chúa Giêsu mà chúng ta lấy lại trong phần giáo đầu kinh phung vụ “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”. Để khơi dậy và làm sáng tỏ đức tin của bà ngoại giáo này, Chúa Giêsu đã dùng một khoa sư phạm tuyệt vời: trước hết là thinh lặng “ Người không đáp một lời nào”. Kế đến Ngài thẳng thắn từ chối. Nhưng bà vẫn bám riết theo sau Chúa Giêsu mà kêu xin, đến mức các môn đệ phải nao lòng “xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi”. Chúa Giêsu đáp “Thầy chỉ được sai đến cứu những con chiên lạc nhà Israel mà thôi”. Cũng như Chúa đã chỉ thị khi sai nhóm mười hai “Anh em đừng đi về phía các dân ngoại, cũng đừng vào thành nào của dân Samaria. Tốt hơn, là hãy đến với các con chiên lạc nhà Israel” (Mt 10, 5 – 6).
Đây là chương trình của Thiên Chúa qui tụ dân Israel trước rồi mới đến muôn dân thiên hạ. Tuy vậy tấm lòng của Chúa Giêsu vẫn hằng rộng mở trước lời cầu xin của người dân ngoại như viên bách quản ở Caphácnaum, người đàn bà xứ Canaan. Họ là hoa quả đầu mùa sứ điệp của Ngài, sau đó các môn đệ Ngài sẽ tiếp nối để mở rộng cửa tiếp đón muôn dân nước vào Nước Trời. Lời từ chối của Chúa Giêsu cho bà ấy biết, bà không thuộc về dân của Ngài “không được lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con”. Người đàn bà tinh ý , lũ chó con trong nhà cũng có khi được chủ cưng mà cho ăn những mẫu bánh vụn, bà trả lời với tấm lòng khiêm cung của mình: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng lũ chó con cũng lại được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”.
Bà tin lòng thương xót của Chúa bao la, chắc chắn cũng vượt ra bên ngoài dân Dothái, nên bà có thể hưởng được những mảnh vụn của lòng thương xót của Thiên Chúa, là những bảo chứng của phúc lộc vương quốc của Thiên Chúa, cho dù Chúa Giêsu xử đối cách bà cứ một mực “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi”. Chúa Giêsu thán phục đức tin của người đàn bà xứ Canaan, cũng như với viên bách quản ở Caphácnaum. Cách đối xử của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy đức tin kiên vững của người đàn bà Canaan, và một gương mẫu cho mọi người trong việc cầu nguyện, đức tin là yếu tố căn bản.
Trong việc cầu nguyện, nhiều lần chúng ta cũng cảm nhận như Chúa từ chối, noi gương người đàn bà trong phúc âm luôn kiên trì tin tưởng và tu luyện đức tin mình được vững chắc. Càng gặp khó khăn trong đời sống, đức tin của chúng ta càng có giá trị khi ta một mực trung thành với Chúa, đức tin của chúng ta sẽ rạng rỡ trước mặt mọi người, và trước mặt Thiên Chúa. Càng gặp khó khăn đức tin của chúng ta càng lớn lên, càng sâu sắc và giàu kinh nghiệm.
Hiểu như thế chúng ta sẽ vui vẻ bình an trong đời sống phụng sự Chúa, và luôn thưa với Chúa “Lạy Chúa, xin cứu giúp con”. Đức tin của người dàn bà Canaan cũng là cơ hội làm cho đức tin của các tông đồ thêm vững mạnh, vì vậy chúng ta cần sống đức tin thế nào để giúp cho đức tin người khác được sâu xa hơn. Chúng ta cũng cần giúp cho nhiều lương dân có đức tin, biết cầu nguyện với lòng tin để họ đáng được ăn bánh sự sống Chúa ban cho. Noi gương người đàn bà Canaan chúng ta còn cần biết cảm thương nỗi đau khổ của người khác, và cầu nguyện cho họ với lòng tin, để nhờ đức tin của chúng ta họ được ơn giải thoát.
Hội Thánh sống giữa lương dân, ta có nhiệm vụ công bố sứ điệp của Đức Giêsu cho họ: Đức Giêsu không giam hãm Thiên Chúa bên trong biên cương của Israel, nhưng đã để chính mình được đánh động bởi lòng tin của người phụ nữ ngoại giáo. Đối với cộng đoàn đã tách khỏi Israel, giai thoại này cho thấy các tín hữu có thể tìm được một cuộc sống mới và một vùng dấn thân mới giữa các Dân ngoại.
Trong cuộc sống: Nếu bạn đang lo toan…, biết trước những điều sắp xảy đến, khó có thể vượt qua TN 20-A168
Trong cuộc sống:
Nếu bạn đang lo toan…, biết trước những điều sắp xảy đến, khó có thể vượt qua, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ lấy lại sự bình tâm.
Nếu bạn cảm thấy công việc quá căng thẳng…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ giải tỏa được bức xúc.
Nếu bạn đang bị cám dỗ chiếm đoạt bằng mọi cách…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ nhận ra điều nên làm và điều không nên làm.
Nếu bạn đang có ý định vô ơn với người đã làm ơn cho bạn…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy mình không được phép bội nghĩa vong ân.
Nếu bạn đang bị cám dỗ sống man trá…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ tìm lại được tiếng Lương Tâm để làm việc thiện và bảo vệ chân lý.
Nếu bạn cảm thấy mình bị thiệt thòi, đối xử không công bằng về một điều gì đó…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ cảm thấy mình an vui.
Nếu bạn cảm thấy mình không bằng người khác về sắc đẹp, học vấn…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy mình hơn rất nhiều người.
Nếu bạn cản thấy mình sống ích kỷ…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ tìm được động lực để sống quảng đại và vị tha.
Nếu bạn cảm thấy mình đang là người sống vô trách nhiệm, ăn bám người khác và vô cảm với tha nhân…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy tính cộng đoàn đang cần sự hiện diện và cộng góp của bạn.
Nếu bạn đang cảm thấy chán trường và muốn kết thúc cuộc sống này bằng cái chết…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy được giá trị của sự sống.
Nếu bạn đang muốn dành dật một điều gì đó bất chính…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy đó là hành động của kẻ tiểu nhân.
Nếu bạn đang muốn nhận hối lộ…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ cảm thấy buồn cười, vô lý khi cướp đi gói mì tôm của người nghèo khó đang cần nó để sống qua ngày.
Nếu bạn ham hố chức quyền…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy trách nhiệm phải làm chứ không phải quyền hành.
Nếu bạn muốn ăn trên ngồi trước…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy xấu hổ vì đó là nguyên lý của trẻ con.
Nếu bạn ham hố tiền bạc và tìm mọi cách để đạt được…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy chết là hết, sao phải vất vả và làm nô lệ cho nó!
Nếu bạn có suy nghĩ người chung quanh đều là kẻ thù…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ ngộ ra một điều là đôi khi người ta tốt hơn mình.
Nếu bạn có ý định nói xấu người khác…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy rằng xấu miệng mình trước.
Nếu bạn thấy mình không thể hợp tác được với người khác vì họ bất đồng chính kiến với ta…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy mâu thuẫn sẽ làm sáng tỏ một điều khác tốt hơn.
Nếu bạn cảm thấy không thể sống được với những người không cùng xuất xứ với bạn…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ thấy có một nguyên lý thuận là: hiệp nhất trong đa dạng.
Nếu bạn có ý định trả thù ai đó…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ nghiệm ra rằng cần đào thêm cái hố nữa để chôn mình trước và kẻ thù sau.
Nếu bạn đang bị mất phương hướng…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ tìm ra được đích đến của cuộc đời.
Và, nếu bạn không còn mục đích nào tốt để đi…, hãy hít thở thật sâu, bạn sẽ có một hướng đi mới để đạt được mục đích tốt.
Tại sao vậy?
Thưa, “Hơi thở” là quà tặng của Thiên Chúa trao ban cho con người. Bao lâu còn hơi thở, ấy là lúc bạn vẫn sống. Hết thở, bạn sẽ chết.
“Hơi thở” là hình ảnh về Chúa Thánh Thần, mà Chúa Thánh Thần là Đấng Thánh Hóa, Ngài sẽ giúp bạn hóa giải mọi vấn nạn đang thường trực trong trái tim, suy nghĩ và toàn thể con người bạn.
“Hơi thở” chính là lời cầu nguyện. Nhờ lời cầu nguyện mà bạn được tiếp thêm năng lượng từ Chúa để bạn có đủ sức vượt qua.
Hơi thở thật cần thiết cho sự sống của con người và động vật thế nào thì đời sống cầu nguyện cũng cần cho đời sống thiêng liêng như vậy.
Quả thật:
Vắng bóng cầu nguyện, bạn như bị đi trong rừng vắng một mình với nhiều bóng đen vây hãm.
Vắng bóng cầu nguyện, bạn như thuyền không người lái và lênh đênh mất hướng. Vắng bóng cầu nguyện, bạn như đoàn tầu bị trật khỏi đường ray. Vắng bóng cầu nguyện, bạn như người đứng ở ngã ba đường và không biết đi về đâu. Vắng bóng cầu nguyện, bạn như diều đứt dây. Vắng bóng cầu nguyện, bạn như người lính ra trận và không có tướng. Vắng bóng cầu nguyện, bạn sẽ cảm thấy mình chỉ là một hòn đảo đơn côi. Vắng bóng cầu nguyện, bạn như người vô nghĩa trên đời. Vắng bóng cầu nguyện, bạn sẽ cảm thấy cuộc sống này không có ý nghĩa gì và sự hiện diện của bạn chỉ là cái nợ đời. Vắng bóng cầu nguyện, bạn như cá bị vớt lên khỏi nước và sẽ phải chết vì không có môi trường sống. Vắng bóng cầu nguyện, bạn như cành bị lìa khỏi cây. Vắng bóng cầu nguyện, bạn như cái xác không hồn, lập lờ như thây ma, trôi dạt như bèo lá.
Và:
Khi cầu nguyện, bạn sẽ cảm thấy an vui và hạnh phúc với cuộc sống hiện tại. Đón nhận tất cả vì lòng yêu mến Chúa, ngay cả những nghịch cảnh trong cuộc đời.
Khi cầu nguyện, ta với Chúa và Chúa với ta như hình với bóng. Ta sẽ cần đến Ngài và Ngài luôn ở bên ta.
Khi cầu nguyện, ta được gọi Chúa là Cha và có nhau là anh em.
Khi cầu nguyện, ta sẽ cảm thấy mình còn có bổn phận cầu nguyện và làm ơn cho cả kẻ ghét bỏ chúng ta.
Khi cầu nguyện, ta sẽ không vướng vào vòng lao lý là hăng say kết án người khác.
Khi cầu nguyện, ta sẽ cảm thấy mình yếu đuối và Chúa quyền năng.
Khi cầu nguyện, ta sẽ thấy: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”.
Khi cầu nguyện, ta sẽ tìm thánh ý Chúa hơn là công việc của Chúa.
Khi cầu nguyện, ta sẽ học được bài học khiêm nhường và hiền hậu của Thầy Giêsu.
Khi cầu nguyện, ta sẽ khám phá ra sự sống từ cây thập giá chết.
Khi cầu nguyện, ta sẽ không có ý định trở thành một ông thánh buồn, vì làm ông thánh buồn là một điều đáng buồn.
Khi cầu nguyện, ta sẽ vui vẻ đến với những người không có gì để đền ơn cho ta.
Khi cầu nguyện, ta sẽ kiên tâm theo Chúa đến cùng. Sự phục sinh chỉ đến với những ai bền đỗ trong sự trung thành.
Khi cầu nguyện, ta sẽ cảm thấy cần phải làm nhiều chuyện tốt hơn để bù đắp lại quãng đời phóng túng, lêu lổng đã qua.
Vậy thưa bạn,
Nào chúng ta còn chần chờ gì nữa, hãy mở rộng mọi cơ năng để đón luồng “Sinh Khí Mới” vào trong lá phổi vốn đã héo úa tàn phai, để chúng ta có một lá phổi tràn trề sinh lực của người lực sĩ ân sủng.
Chúa đang ngoài cửa lòng ta, Ngài đang gõ cửa tâm hồn ta và đang muốn cắm lều trong ngôi đền của Ngài là thân xác chúng ta.
Muốn đạt được điều đó, cần loại bỏ hai thái cực:
Cho rằng cuộc đời này ngắn ngủi, nên cứ phải gồng mình để chạy đua kẻo trễ. Tìm mọi cách để chiếm đoạt…, nếu không thì hết cơ hội.
Cho rằng cuộc đời này còn dài, nên cứ mải mê với sự đời. Họ không màng chi đến tương lai. Vì thế, cứ phóng túng cho bõ công vì quan niệm đời còn dài mà!
Thiết nghĩ, những thái cực trên mang nặng tính tiêu cực và hoàn toàn không hợp với giá trị cuộc sống.
Điều phù hợp là: chỉ có giây phút hiện tại là đẹp nhất. Sống trong tình yêu của Chúa cách trọn vẹn, đời sẽ đẹp, bởi nó được dệt nên từng triệu giây phút đẹp nhất. Đừng chờ đợi tương lai. Đừng hồi tưởng quá khứ. Bởi nó chưa tới hoặc đã qua.
Có hồi tưởng hoặc chờ đợi là để tìm ra ý nghĩa qua kinh nghiệm và để sống hiện tại cho tốt hơn mà thôi. “Cần phải nắm lấy cơ hội xảy ra mỗi ngày để chu toàn những công việc tầm thường như một cách phi thường" (Ðường Hy Vọng số 818 x. số 997).
Được như thế, chúng ta sẽ rất khiêm tốn để thưa với Chúa rằng: “lạy Chúa, nếu Chúa gọi con về với Chúa ngay lúc này, con vẫn cứ chơi, vì con đã chuẩn bị trong từng giây phút hiện tại”.
Bạn thân mến,
Các thánh là những người đã sống như thế bạn ạ. Các ngài đã ngã gục nhiều lần, nhưng lần cuối, tức là hiện tại các ngài đã đứng dạy và đứng luôn.
Cầu mong cho bạn và tôi, mỗi khi bình minh ló rạng, ta hãy tạ ơn Chúa vì Ngài ban cho ta thêm một ngày nữa để yêu thương. Đến khi chiều về, ta cũng hãy tạ ơn Chúa vì tất cả đều là ân sủng cho những ai yêu mến Ngài.
Giờ đây, xin bạn cùng với tôi, chúng ta hãy hiệp nguyện với Tôi Tớ Chúa, Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận cất lên lời cầu nguyện chân thành và đầy yêu mến sau:
"Lạy Chúa Giêsu, con sẽ không chờ đợi nữa. Con sống giây phút hiện tại cho tràn đầy tình yêu.
Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường dài.
Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống.
Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp. Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh.
Ðường Hy Vọng do mỗi chấm hy vọng. Ðời Hy Vọng do mỗi phút hy vọng (Ðường Hy Vọng số 977).
Như Chúa, lạy Chúa Giêsu, Ðấng đã luôn làm những gì đẹp lòng Thiên Chúa Cha.
Mỗi giây phút con muốn thưa với Chúa rằng: "Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến Chúa, cuộc sống của con sẽ luôn luôn là "một giao ước mới và giao ước vĩnh cửu" với Chúa.
Mỗi giây phút con muốn hát lên cùng với toàn thể Hội Thánh: "Vinh danh Chúa Cha, và Chúa Con và Chúa Thánh Thần... Amen".
Trời nào đã tạnh cơn mưa,” “Mà giông tố cũ còn chưa muốn tàn.” (Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên) TN 20-A169
“Trời nào đã tạnh cơn mưa,” “Mà giông tố cũ còn chưa muốn tàn.”
(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)
Cơn mưa cuộc đời khi xưa nay tạnh rơi. Giông tố lòng Đạo, lúc này vẫn ngổn ngang, chưa muốn tàn. Thật khó tàn, khi lòng nguời còn chứa chất nhiều tình-tiết rất Sa-tăng, như trình-thuật còn diễn-tả.
Trình thuật hôm nay diễn và tả về đời đi Đạo, là sống với thực tế cả một đời, trong đó có các sinh hoạt cả Đạo lẫn đời. Trong sinh hoạt Đạo, người tín hữu gặp đủ mọi loại người, từ thần thánh đến quỷ ma. Nơi đây, người đi Đạo vẫn cứ suy tư những chuyện trên trời lẫn trần gian, địa ngục. Ở đây, người người vẫn quan tâm đến đủ mọi thứ truyện kể. Những truyện kể như bên dưới:
Vào buổi sáng đẹp trời ngày của Chúa, nhiều người trong huyện đã thức giấc chuẩn bị để đến nơi nguyện cầu. Trước giờ lễ, người đi cầu nguyện có thói quen xì xào nhỏ to phía bàn quỳ. Họ kể cho nhau nghe những chuyện gia đình, và cuộc sống. Nói với nhau, về những chuyện có liên quan đức tin, kinh kệ, không thiếu xót.
Bất chợt, Sa-tăng xuất hiện như người thật bằng xương bằng thịt. Có người rú lên, sợ hãi; bỏ Chúa, bỏ Mẹ, chạy ra cửa tìm đường thoát thân. Chẳng mấy chốc, ngôi thánh đường trở nên êm ắng, lạnh tanh. Duy có lão bà vẫn lặng yên, bình thản ngồi nơi bàn quỳ. Chẳng bày tỏ nỗi lo lắng, xúc động. Khiến Sa-tăng tức giận, ngấc đầu ngạo mạn, hỏi:
- Này, lão bà, mụ có biết ta là ai không? - Đương nhiên là biết. - Thế, mụ không sợ ta sao? - Lão muội đây chẳng bao giờ sợ quỷ ma! - Sao mụ lại dám coi thường ta, đến như thế? - Muội đây, 48 năm trời từng sống với người anh của ngươi, nay còn biết sợ chi ai!…
Đến hôm nay, ở nhiều nơi có văn hóa khác biệt, vẫn còn thấy tổ chức lễ hội đình đám, lớn nhỏ. Ở đó, người văn minh thời đại vẫn đưa đẩy, kéo lôi mọi người về với quyền lực của tà thần, tăm tối. Điều này dễ nhận hơn, vẫn có vào thời của Đức Chúa. Những nào: bệnh trầm trọng, thân hình quái dị, thần trí bại xuội, lại đến: dịch tễ nhiễu nhương, thiên tai hãm hại. Lại cả những trận-địa nhục-nhã thất-bại, với đấu tranh.
Cứ thế, người người quy lỗi cho đó là hình phạt từ Đức Chúa. Hoặc, do ma quỷ nhúng tay vào. Dù, không coi đó là chuyện “khó tin nhưng có thật”, tai mắt ta vẫn cứ văng vẳng đâu đó, quả quyết của người đời, thời vi tính: quỷ thần có thật.
Truyện kể hôm nay, về người nữ miền Tyrô - Siđôn là ảnh hình minh chứng niềm tin nơi con người. Người đàn bà quê mùa ấy cho rằng: ma vương vốn lộng hành, nên con gái mình mới bị dày vò, vật vã. Thật ra, con gái bà chưa hẳn đã bị quỷ ám, hành hạ. Nhưng, bà ngại con mình mắc chứng ngặt nghèo, chẳng thể chữa. Thêm vào đó, bà còn bị người đời khinh khi, coi thường; bị những ánh mắt đầy đối kháng.
Ghét ghen. Kỳ thị. Suốt đời, bà chỉ là dân ngoài Đạo, luôn sống bên lề cộng đồng cao sang, người Do Thái. Nói tóm lại, chuyện kể về bà không làm Đức Kitô yên lòng. Và, nhìn từ góc cạnh nào đó, tình trạng của bà xem ra không ổn. Nơi bà, là cả một khác biệt về sắc tộc và Đạo giáo. Bởi vậy, môn đệ trung kiên của Đức Chúa mới nghĩ: dù bà có mon men đến gần, cũng chẳng xin được điều gì lớn lao, nơi Thầy mình.
Và xem ra, Ngài biểu đồng tình với các môn đệ về chuyện này, đã làm ngơ. Nói cách khác, người nữ phụ nọ nếu không cả gan nài nỉ, có lẽ bà cũng chẳng đạt được ân huệ khó kiếm, từ người Do Thái. Đồng thời, lời ví von về người đàn bà ngoài Đạo, như lũ chó con hèn hạ, được xã hội trong Đạo mặc nhiên công nhận, vào thời ấy.
* Một lần nữa, nhờ lanh trí đối đáp, tin vào sự kiên nhẫn của mình, người nữ phụ miền Tyrô - Siđôn mới làm cho sự thể trở nên khác thường. Bà thuần hóa mọi gièm pha, ghét ghen kỳ thị của người đời, vào thời ấy. Bà có lý khi biện giải rằng: dù có bị coi rẻ như lũ chó đớn hèn đi nữa, bà vẫn không là loài thú hoang, đáng bị bỏ rơi ở bên ngoài.
Trái lại, bà vẫn coi mình như loài thụ tạo thuần thục, chỉ quanh quẩn trong nhà chầu chực một ân huệ, Chúa đánh rơi. Bà biết phận, và hiểu mình hơn ai hết. Hiểu rằng: là thân phận bọt bèo, bà mới kéo được về phía của mình, sự quan tâm chú ý của Đức Chúa.
Có như thế, con bà mới được cứu chữa. Có như thế, lớp hậu duệ là chúng ta mới học thêm được bài học, là: Nước Trời luôn xuyên phá rào cản chặn ngăn ân huệ xuống ban cho chúng ta. Ơn cứu độ được ban xuống bằng những phương thức khá đặc biệt. Đặc biệt hơn, vẫn qua trung gian người ngoài Đạo.
* Phúc Âm hôm nay, cho thấy sức mạnh của lời cầu, qua trung gian một người. Và người ấy, lại là người ngoài Đạo. Người nữ trong truyện đã phải trải qua giờ phút căng thẳng, của đời bà. Bà cố chịu căng thẳng, nhục nhã không phải cho mình, mà cho con gái. Niềm tin của bà, là gạch nối qua đó cuộc sống của người khác được cải thiện. Bà làm thế, còn để cho tất cả chúng ta, nữa. Là tín hữu, ta thường cho bạn bè người thân biết rõ, ta luôn quan tâm nguyện cầu, cho họ. Cứ thường tình, khi nghe chuyện, dù không cùng niềm tin ai cũng đều cảm kích.
- Thành thử, khi nguyện cầu cho bất cứ ai, dù ở nhà hay tại nguyện đường, dù buổi Tiệc Thánh, hoặc gặp lúc có liên hoan, đây là giờ phút cao đẹp nhất cho tất cả. Ta học nhiều điều từ giáo xứ/cộng đoàn, cũng là nhờ vào nguyện cầu đỡ nâng như thế. Đây là giây phút quên mình đi, để chỉ nghĩ đến người khác. Cho người khác. Dù chỉ một khoảnh khắc. Dù, theo cách dị biệt.
Bởi, cầu và nguyện như thế, là tự đặt mình vào cảnh tình của người khác. Đến với người khác, bằng hiệp thông. Cầu và nguyện như thế, sẽ nhắc nhớ ta một điều: khi dự tiệc khoản đãi “cấp trên cao”, hay ở đâu đó, có thể vẫn có người nào đó quanh ta, mỏi mệt đang mong chờ nhặt nhạnh, dù chỉ là vụn bánh đánh rơi. Dù, chỉ là cơm thừa canh cặn. Với họ, đó là hạnh phúc. Thứ hạnh phúc, mà họ chưa một lần ấp ủ.
- Nguyện cầu sẻ san, còn khuyên ta nên ra đi về chốn bùn đen cuộc đời, ở nơi đó, có những người đang xuống cấp, ngã ngựa. Có ra đi, ta mới có thể đỡ nâng đàn con Đức Chúa ở chốn nghèo hèn, được lên nơi đủ ăn, đủ mặc. Nơi mọi người, đáng được hưởng ơn lành hơn ai hết. Sở dĩ đã nên nghèo, vì không ai để tâm đoái hoài đến họ. Nhưng thật ra, họ đều là con cái. Là, tạo vật của Đức Chúa.
- Trong tinh-thần cảm-nghiệm được những điều như thế, cũng nên ngâm lên lời thơ rằng:
“Trời nào đã tạnh còn mưa Mà giông-tố cũ còn chưa muốn tàn, Nhà người tôi quyết không sang Thù người, tôi những đem nằm nghiến rằng. Quên người – nhất quyết tôi quên, Mà sao gặp lại còn kiên-nhân chào.” (Nguyễn Tất Nhiên – Trúc Đào)
Tình người ở đời, xưa nay vẫn là thế. Tình người ở nhà Đạo, lúc này phải khác xưa. Khác, người, khác thời, khác cả tinh-thần mà mọi ngưòi cần đối xứ với nhau hệt như thành-viên của Nước Trời, ở đời. Vẫn cần ghi nhớ đến thiên thu.
Hãy cứ là tình-nhân,” “Để tháng ngày hoa mộng. Để hẹn hò yêu đương, Và khắc khoải chờ nhau TN 20-A170
“Hãy cứ là tình-nhân,” “Để tháng ngày hoa mộng. Để hẹn hò yêu đương, Và khắc khoải chờ nhau.” (Tú Minh – Hãy Cứ Là Tình-Nhân)
(Mt 12: 38-42)
Giả như có người thời nay nghe nhạc-bản này, lại hiểu chữ “tình-nhân” như nhân-tình, hoặc “người tình” nào đó mình từng gặp, thì còn được. Chứ đằng này, vừa mới nghe xong hai chữ “tình-nhân” lại hiểu ý của người viết như câu hát tiếp, e không ổn. Ổn sao được, khi người em của ai đó, cứ hát mãi những câu nặng chình-chịch, những bảo rằng:
“Em không thích làm vợ, không thích anh là chồng. Chỉ muốn yêu muốn nhớ, tìm nhau ở trong mơ...” Đừng là vợ là chồng, rồi nhìn nhau chán ngán. Hãy cứ là tình-nhân, để tình ta mênh-mông.” (Tú Minh – bđd)
Thật tình mà nói, nói thế là nói lên lập-trường của người nghe hoặc hát ca-từ mang dáng vẻ lơ-mơ/trữ-tình, nhưng thật ra: đâu muốn thế. Không muốn, là bởi: thế-gian này, đầy những chuyện cụp-lạc, lại bất ổn, làm sao đảm-bảo được “tình nồng đôi lứa” sẽ “cứ mãi là tình-nhân” được?
Thật tình mà nói, khi nhớ lại chuyện đời nhiều éo-le nên em mới hát thế, chứ mai kia/mốt nọ anh đây “cao bay xa chạy” rồi, làm sao chắc được rằng: em và anh vẫn trung-kiên, chung tình để chỉ là tình-nhân, thôi?
Thật tình mà nói, mỗi khi bàn chuyện đời/chuyện người, thì anh đây nhiều lúc, đã thấy khó lòng. Anh đi trước còn tránh được, chứ em đây lẽo-đẽo theo sau làm sao né?
Thật tình mà nói: ví dù anh và em có hát câu trữ-tình ấy, lại gồm tóm ý/lời cũng như sau:
“Hãy tìm em tìm em, rồi nhìn em nhìn em. Và nắm tay nắm tay cho hồn em ngất ngây. Chỉ cần em nhìn em, là tim em rã rời Chỉ cần anh nắm tay, là hồn em đắm say.” (Tú Minh – bđd)
Thật tình mà nói, bàn chuyện đời với người đi Đạo, cũng thấy nhiều người từng nói và hát lời yêu-thương da-diết quá, đến khi giáp mặt thực-tế, mới thấy cuộc đời thật không dễ. Vì thế, nên người đời nay, vẫn cứ phải tìm đến thánh-nhân/Mẹ Hiền để cầu khấn các đấng giúp mình thành “mãi mãi là tình-nhân” theo nghĩa: vẫn yêu nhau mãi, dù không thành vợ/chồng.
Thật tình mà nói: đòi hỏi như thế, khác nào trông chờ một phép lạ từ “Bà Tiên”, hệt như truyện kể ngắn gọn, ở dưới:
“Bác-sĩ nọ, bước vào phòng mạch với dáng vẻ trang-nghiêm, nhưng hy-vọng. Gia-đình bệnh-nhân chờ tin vui, cứ hồi hộp nhìn ông đợi một quyết-định quan-trọng. Ông chậm rãi nói rất khẽ cốt để mọi nguời đều nghe thấy:
-Tôi báo cho ông bà cùng quí vị đây biết, là: “phép lạ” có thể xảy ra ở đây/hôm nay, nhưng điều này có thành hiện-thực hay không, vẫn tùy thuộc một người...
-Là ai vậy, thưa Bác sĩ? Xin cho biết để chúng tôi đến đó mà tìm! Giọng người mẹ của bệnh-nhân trẻ ra như ứ-nghẹn từ trong cổ.
-Người đó là Bà Tiên, nhưng...
-Nhưng, sao Bác sĩ? Người cha tiếp tục hỏi dồn.
-Nhưng, đến giờ phút này, phép lạ vẫn hoàn-toàn tùy-thuộc vào quyết-định cuối của Bà ta.”
Kinh-nghiệm đời, nhiều chuyện cũng như thế. Người đời, xưa nay, vẫn ao ước gặp “Tiên Bà” có phép mầu thần-thông biến-hoá, ra như thế. Tiên Bà đây, sẽ biến không thành có, như câu hát ở bài “Hãy mãi là tình-nhân”. Và, Tiên Bà còn có thể biến có thành không, như truyện trên.
Muốn cho sự thể “Hãy mãi là tình-nhân” với nhau suốt đời, đã là khó. Còn khó hơn, khi mọi người trong gia-đình vẫn không chấp-nhận được cái chết dành cho người thân đang trọng bệnh. Vì thế nên, mọi người bèn chạy đến với “Tiên Bà”/“Mẹ Hiền” ở chốn miền cao tít đó, hầu khấn vái đủ mọi điều, chí ít là chuyện “mãi mãi là tình nhân” của nhau, với nhau.
Kinh-nghiệm về việc đến với Tiên Bà/Mẹ-Hiền ở trên cao, là kinh-nghiệm của nhiều người. Ở mọi thời. Từ thời rất sớm, đã thấy tâm-trạng của nhiều người chỉ muốn xin làm “tình-nhân” thôi, nhưng không được. Thế nên, các “cụ” bèn làm một chuyến đi về miền xa xôi, cõi trời Tây xứ người để nguyện-cầu/khấn-vái Đức (Tiên) Bà” thành Guađdalupê đất nước Mêhicô xa xôi/diệu vợi, quyết đạt cho được những gì mình mong muốn.
Trong số những vị lâu nay từng quyết như thế, thấy có đấng bậc nọ có nhiều thắc-mắc về trường-hợp Đức (Tiên) Bà thành Guađalupê nổi tiếng, bèn có thư hỏi đức thày John Flader ở Sydney, một câu ly-kỳ như sau:
“Thưa cha.
Con có cô bạn từ nước Mêxicô qua đây làm việc, khi biết con muốn xin “Tiên Bà” hay “Đức Bà” có tên gọi sao đó, ngõ hầu người yêu của con sẽ mãi yêu con và coi con là tình-nhân thôi. Cô bèn đề-nghị con hãy thử cầu-nguyện với Đức Bà thành Guađalupê, xem sao. Cô kể cho con nghe nhiều điều về chiếc khăn có hình Đức Bà, này nữa. Nay xin hỏi: có gì đặc-biệt nơi bức ảnh hiện trên khăn ấy? Và Đức Bà thành Guađalupê có thực sự làm phép lạ như người ta đồn, không?” (Một giáo dân Sydney gửi thư nhờ “The Catholic Weekly” giải-thích).
Nhờ ai, chứ lại nhờ Đức thày John Flader giải-mã chuyện “phép lạ” do Đức Mẹ đây đó từng làm, là chuyện nhờ vả cũng rất đúng. Đúng nơi/đúng chỗ rất không sai! Và, viết thư hỏi về chuyện gì, chứ chuyện lạ nhiệm-mầu của Đức Bà nổi tiếng nước Mêhicô, thì Đức thày đây lúc nào cũng cố trả lời ngay cho kịp, kẻo trễ. Thế nên, câu trả lời của Đức thày John Flader về chuyện này, như sau:
“Nhiều hình-ảnh về Chúa Mẹ hiện ra trên khăn/vải có mặt cùng khắp trên thế-giới vẫn là phép lạ. Phép lạ đây, tách-bạch khỏi chuyện sùng-kính diễn ra ở quanh đó. Có hai ví-dụ cụ-thể nên kể ra đây, là: vụ Chiếc Khăn ghi đậm diện-mạo Chúa ở thành Turinô, nước Ý. Và, hình Đức Mẹ thành Guađalupê, nước Mêhicô cũng là sự lạ khá nổi tiếng.
Hình Đức Bà thành Guađalupê có thời-gian-tính từ hậu bán thế-kỷ thứ 16, ở Mêhicô. Người Tây Ban Nha khi đó gặp khó trong việc kêu gọi thổ-dân Aztêca trở lại Đạo, là truyền-thống tin-tưởng, hành-đạo từ nhiều năm. Niềm tin, theo truyền-thống của người sống ở đây, từng hy-sinh tánh-mạng mỗi năm cả ngàn người, để vừa lòng thần-linh của mình.
Theo truyền-thống, thì: vào ngày 9/12/1531, có dự-tòng tên là Juan Diego có thói quen đi bộ hàng giờ nơi đồi Tepeyac vùng ngoại-ô thành-phố Mexico City, chợt thấy một Tiên Bà rất đẹp lại rất trẻ, anh hiểu ngay đó là Đức Maria mà anh từng cầu khấn. Đức Mẹ, khi ấy, đã dùng ngôn-ngữ của thổ-dân, yêu cầu anh cho xây-dựng một lăng-tẩm để vinh-danh Mẹ. Juan Diego bèn đi tìm vị Giám-mục chủ-quản giáo-phận mình là Giám-mục người Tây Ban Nha có tên là Fray Juan De Zumárraga nhờ giúp-đỡ; nhưng Giám-mục này còn ngờ-vực nhiều điều, nên bảo anh hãy quay lại xin vị nữ-lưu kia một dấu-hiệu để làm bằng.
Ba ngày sau, tức vào ngày 12 tháng 12 cùng năm, trong khi Juan Diego vội chạy lên đồi cao để thăm viếng ông cậu đang hấp-hối, anh lại được Đức Mẹ hiện ra với anh, một lần nữa. Anh nói với Đức Mẹ là: anh phải chăm sóc cho ông cậu sắp về chầu Chúa, nhưng khi đó Mẹ lại an ủi anh bảo rằng cậu của anh sẽ được chữa lành và quả y như rằng: ông cậu của anh vẫn còn sống. Khi ấy, Juan Diego bèn xin Mẹ ban cho anh một dấu chỉ để về trình với Giám-mục. Và, Mẹ khuyên anh hãy chạy lên đỉnh đồi nơi anh đứng, sẽ thấy nhiều loài hoa đang nở rộ.
Anh tức tốc làm ngay việc ấy, bèn thấy sự việc xảy ra đúng như lời Mẹ khuyên, dù tháng 12 nơi này không là mùa hoa nở, chí ít là trên đồi trọc như thế, từ xưa giờ. Anh rất đỗi ngạc nhiên khi thấy nhiều loài hoa lạ đã nở rộ vào ngày ấy. Và, anh được Mẹ giúp trang hoàng một bó hoa đẹp cắm trong ống xương rồng tươi đem về cho Đức Giám-mục mình, làm bằng.
Vừa về đến nhà vị Giám-mục địa-phận, tức thời mọi người đều thấy ảnh Mẹ hiện rõ trên ống xương rồng xanh tươi. Hình-ảnh này, nay còn đặt tại Vương-Cung Thánh-Đường Đức Bà thành Guađalupê ở Mexico City, để mọi người sùng-kính. Và, sự-việc này xảy ra với Juan Diego cách nay đến 500 năm.
Nhiều khoa-học-gia trên thế-giới đã bắt tay vào việc nghiên-cứu xem thực-chất của hình-ảnh xuất hiện trên ống xương rồng, đã khẳng-định rằng: đây không là hình vẽ vẫn thấy ngoài đời, vì không có các vết chấm phá như mọi người thường làm. Hơn nữa, chính hình-ảnh này đã tự điều-chỉnh sau lần bị chất a-mô-ni-ắc đổ lên đó, năm 1791. Và đặc biệt hơn nữa, sau vụ bom nổ dưới bàn thờ có di-ảnh Mẹ, xảy ra vào hôm 14/11/1921 mà di-ảnh không bị hư hại gì hết.
Tóm lại, có thể nói di-ảnh Đức Bà thành Guađalupê là cách sùng-kính Đức Mẹ được nhiều người biết đến. Lễ mừng tước hiệu Mẹ là Đức Bà thành Guađalupê được Giáo-hội mừng là ngày 12 tháng 12 mỗi năm. Và, thánh Juan Diego cũng được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong làm bậc hiển-thánh ngày 9/12/2002. Từ đó đến nay, tước hiệu Đức Bà thành Guađalupê trở thành Nữ Vương nước Mêhicô, Đấng Bảo-trợ Châu Mỹ và là thánh Bổn Mạng các hài-nhi chưa được sinh”. (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly 20/7/2014, tr. 18)
Thật tình mà nói, khi nghe Đức thày Flader kể chuyện “lạ” do Đức Bà với đủ tước hiệu khác nhau xảy ra ở đây, thấy hệt như nghe cha/cố vẫn kể ở nhà thờ, từ nửa thế-kỷ khi trước.
Thật tình mà nói, có phán về “sự lạ” do Tiên Bà ở nơi này/chỗ khác từng làm, phải nói theo kiểu thời nay thì người người mới chịu nghe và chấp-nhận. Bằng không, cũng như người nghệ-sĩ cứ hát những câu khó tin và khó nhận, như sau:
“Em không thích làm vợ, không thích anh là chồng. Chỉ muốn yêu muốn nhớ, tìm nhau ở trong mơ...” Đừng là vợ là chồng, rồi nhìn nhau chán ngán. Hãy cứ là tình-nhân, để tình ta mênh-mông.” (Tú Minh – bđd)
Thật tình mà nói, có nói hay/nói phải rất nhiều thứ, cũng chỉ nên nói những gì cần nói và cần có nghe, thôi. Chí ít, là những chuyện lạ trên đời với người đi Đạo và giữ Đạo. Bởi, đi Đạo và giữ Đạo thời nay, đâu phải và đâu chỉ giữ lại cho mình những chuyện chẳng liên-quan gì đến mỗi mình.
Thật tình mà nói, mỗi khi đề-cập đến “chuyện lạ” hoặc sự việc nổi cộm theo trào-lưu/thị-hiếu của người đọc/người nghe, người nói vẫn thấy đó là chuyện khó làm. Khó hơn nữa, là lúc ta bàn về chuyện “lạ” của “Bà Tiên” hay Đấng Thánh hiền ở đâu đó vẫn hay làm. Cái khó đó, mới là vấn-đề.
Và vấn-đề, là: nói làm sao, bàn thế nào về sự lạ như “phép lạ”, cho phải phép. Về chuyện này, xin chạy đến bậc thày ở trời Tây, từng giảng dạy rất nhiều điều cho học trò mình, như sau:
“Về “Phép lạ”, thật ra có sự khác-biệt khá trổi-bật giữa phép lạ tự-nhiên và sự việc chữa lành, hoặc gọi là việc “trừ tà” do từ Chúa. Phép lạ tự-nhiên dành để cho đồ-đệ (hoặc Mẹ) Đức Giêsu, còn việc chữa lành hoặc “trừ tà” là cho người ngoài...
Suy-tư về các truyện kể Tin Mừng thêm nữa, ta sẽ càng thấy rõ việc ấy. Như truyện kể về đồ-đệ Chúa tranh-cãi nhau trên thuyền về cách-thức làm giảm cơn giông xảy đến trên Biển Hồ Galilê vào lúc Đức Giêsu không có mặt ở đó, các thánh tông-đồ đành chào thua, không làm được gì. Kịp khi ấy, đã thấy Đức Giêsu đến với các thánh bằng việc Ngài lướt đi trên mặt nuớc, tức thì mọi việc trở nên im-ắng, an-lành. Ở truyện khác, các môn-đệ lên thuyền đi đánh cá ở Biển Hồ Galilê, hôm ấy lại cũng không có Đức GIêsu cùng đi với các ngài, nên môn-đệ chẳng bắt được thứ gì. Tức thì, từ trên bờ Biển Hồ, Đức Giêsu lên tiếng ới gọi các thánh và thế là, các thánh bắt được nhiều cá đến độ không ghì nổi.
Theo tôi, cả hai truyện trên, đều mang tính biểu-trưng, chứng tỏ một chuyện, là: nếu không có Đức Giêsu ở cùng, Hội-thánh không làm được gì hết. Ngược lại: có Đức Giêsu đồng-hành, là có hết mọi sự. Trong con thuyền Giáo-hội, chỉ mỗi Đức Giêsu mới thật đáng kể; Ngài là Đấng có trọng-trách đích-thực. Các thánh tông-đồ, dù có là lãnh-tụ cỡ nào đi nữa, vẫn hoàn-toàn tùy-thuộc vào Đức Giêsu...
Phép lạ tự-nhiên, là các câu truyện dụ-ngôn nói về quyền-bính mang tính quyết-định. Phép lạ tự-nhiên, thật ra không nói về quyền-uy của Đức Giêsu với thiên-nhiên, nhưng là thực-quyền của các tông-đồ trong Hội-thánh. Tôi xin phép nói thêm một điều, cốt ý bảo rằng: nếu ta hiểu truyện kể ở Tin Mừng một cách từng chữ, nghĩa đen, là ta hiểu sai toàn-bộ đại-ý của truyện...
Việc Đức Giêsu chữa lành và trừ tà, là đến từ quan-điểm khác hẳn. Ngài làm thế, là nhắm vào người dưng khách lạ ở ngoài cuộc, hơn là nói về đồ-đệ hoặc người trong cuộc. Ở đây, tôi xin được phép nói thêm đôi chút về trường-hợp riêng-tư mình trải-nghiệm cốt giúp ta hiểu về sự hiện-diện của Thiên Chúa trong lịch-sử nhân loại, đó mới là điều hệ-trọng.
Trước đây, tôi đã có dịp viếng trung-tâm Lộ-Đức ở Pháp, và Fatima ở Bồ Đào Nha, tức các tụ-điểm linh-thiêng kể về việc Đức Maria đã chữa lành nhiều người. Và tôi cũng có dịp ghé thăm trung-tâm Epidaurus ở Hy Lạp, và trung-tâm Pergamum ở Thổ Nhĩ Kỳ, là hai tụ-điểm linh-thiêng của thần Asklepios ngoài Đạo Chúa, từng chữa lành cho tín-đồ của họ. Các hồ-sơ chữa-lành ở cả hai nơi này, đều được ghi vào sổ bộ theo cùng một kiểu cách giống Đạo Chúa.
Tỉ như, tại hang Lộ-Đức có treo nhiều nạng gỗ cho thấy đây là chứng-cứ thầm-lặng ghi tạc cảnh những người đui mù/què-quặt đã tới đây và đã trở về lành-lặn. Tuy là thế, tôi vẫn không thấy có ai để lại các bộ-phận như chân tay giả, để làm bằng. Như thế, ta kết-luận thế nào đây?
Kết luận rõ nét nhất, là: Niềm tin chữa lành được nhiều điều!
Điều này cũng chắc-nịch như biết bao điều ta biết được. Có một số tật-bệnh đối với một số người, trong một số hoàn-cảnh, đều được chữa lành bằng niềm tin mang tính khả-thi giống như thế, như Epidaurus với người ngoại Đạo, như hang Lộ Đức với người Công-giáo, và như Benarès với người theo Ấn-giáo, và cứ thế ta nhân rộng thêm lên... Và, như Lời Đức Giêsu từng nói đi nói lại nhiều lần, là: Niềm tin của con đã chữa lành cho con!
Có câu hỏi: có đúng là những người đến với Đức Giêsu là để được chữa lành, không?
Đúng thế! Có ai hoặc có nhiều người được như thế không? Có chứ! Thế nhưng, có nhiều điều về Đức Giêsu khiến cho dân chúng đến với Ngài để được chữa lành, lại khác hẳn trường-hợp người đến với thánh Gioan Tẩy Giả là để thanh-tẩy chứ không để chữa lành. Đó là chuyện ta cần sưu-tra cho thật kỹ.
Hãy thử lấy ví-dụ cụ-thể xem Đức Giêsu từng chữa lành cho những ai? Ngài chữa bệnh gì?
Quay lại truyện kể về những người bị bệnh phung và coi đây như để rút kinh-nghiệm học hỏi, thì: trước nhất, điều hệ-trọng ta cần để ý, là: hỏi rằng từ-vựng ngày nay nói về bệnh phung cùi lại khác hẳn ý-nghĩa của từ-vựng dùng ở Tân Ước viết bằng tiếng Hy Lạp.
Từ vựng dùng trong Tân Ước Hy Lạp, đã qui về một số bệnh ngoài da khác nhau, hầu hết có liên-quan đến bệnh về da hoặc vết sần-xùi, có vảy như: bệnh vảy nến, chàm bội-nhiễm, hoặc xùi nấm, vv. Thành thử, mỗi khi đọc Kinh thánh thấy nói đến từ-vựng “phung cùi”, ta phải hiểu từ-vựng này dẫn về một số tật bệnh tương-tự như thế chứ không là thứ bệnh mà nay ta gọi là bệnh Hansen hoặc “phong hủi”, đâu...
Việc chữa-lành người bệnh nói ở Kinh thánh, vẫn là điều cần bàn. Nhưng, vấn-đề thâm sâu trong truyện kể về việc chữa lành ở Kinh thánh, còn đi sâu hơn thế. Đó là dụ-ngôn diễn-tả xã-hội nhân-loại nói chung. Các nhà nhân-chủng-học thường cho ta biết: cơ thể con người là biểu-tượng của xã-hội. Cung-cách ta đối xử với thân xác diễn-tả sự hiểu-biết về quan-hệ khác-biệt ở xã-hội.
Ngày nay, người trưởng thành đều đã hiểu, là: việc xâm-hình trên da, nhuộm tóc đủ mầu, xuyên lỗ/mổ xẻ hoặc trang-điểm thân xác đều trở thành chuyện thách-thức về văn-hoá xuất từ nhóm người nào đó một cách triệt-để, cũng để xác-định là mình nối-kết với nhóm nào đó.
Ví dụ như hồi thập niên 50’, hễ cứ để tóc dài là có ý cho thấy mình có thái-độ chống đối thể-chế nào đó ở xã-hội hoặc đạo-giáo. Thế nên, khi xét truyện kể về việc chữa lành, ta cũng nên đề cao cảnh giác về các vấn-đề “hình-ảnh thân xác” ở xã-hội thời Đức Giêsu còn sống. Điều đó nói lên rằng: thân xác con người đã trở-thành biểu-tượng của xã-hội. Xã-hội Do thái xưa bị đe-dọa tháp-nhập vào thứ văn-hoá đế-quốc đầy quyền-lực.
Trong tình-trạng có áp-bức về chính-trị, quân-sự, văn-hoá và đạo-giáo quyết nhấn mạnh lên việc bảo-vệ ranh-giới xã-hội được biểu-tượng-hoá bằng việc bảo vệ ranh-giới của thân xác. Thế nên, vấn-đề đặt ra, là: khi Đức Giêsu chữa lành người bị phung, có phải Ngài hoạt-động chỉ với tư-cách người chữa-lành bệnh-tật hoặc phê-bình toàn-thể xã-hội, không?...
Xem thế thì, điều mà Đức Giêsu vẫn làm cho người bị bệnh phung, đích-thực là để chào-đón họ vào lại với quan-hệ xã-hội mà họ bị đẩy lùi ra bờ rià xã-hội ấy. Nếu Đức Giêsu xuất-hiện ở đây/hôm nay, tôi lại sẽ không tin rằng Ngài sẽ chữa lành căn bệnh thời-đại là AIDS; nhưng tôi vẫn tin chắc rằng Ngài sẽ chữa lành cho cơn đau ốm có cùng một tên là AIDS, rất như thế.
Còn nếu hỏi: như thế tức bảo rằng: Đức Giêsu đã chữa lành cho người phung mà thôi chứ đó không phải là phép lạ, thì câu rả lời của tôi, là: tất cả đều tùy thuộc chuyện người hỏi hiểu thế nào là “phép lạ”, mà thôi. Nếu bạn hiểu theo nghĩa Ngài sử-dụng uyền-uy siêu-nhiên để gạt qua một bên mọi diễn-tiến thông-thường của thế-giới tự-nhiên, thì câu trả lời là: Không! Đó không là phép lạ.
Chắc chắn đó không là bằng-chứng cho thấy Thiên-tính của Ngài như một số người nhiều lúc vẫn cứ quan-niệm như thế, do bởi Ngài từng dạy những người theo chân Ngài cũng làm hệt như thế. Theo tôi, Đức Giêsu không chữa lành tật/bệnh nào có sự can-thiệp từ thế-giới thể-lý, nhưng Ngài chữa lành cơn ốm đau nào đó qua sự dính-dự của thế-giới xã-hội. Ngài chữa lành bằng cách chối-bỏ việc phải tuân theo các tập-tục đối với người lâm bệnh.
Đức Giêsu chữa lành “người phung” qua việc Ngài chào mời họ vào lại với cộng-đồng nhân-loại, đó là lý-tưởng mà cộng-đồng nhân-loại gọi đó là Vương Quốc của Chúa. Ngài từ-chối không chấp-nhận rằng: tật/bệnh như là sự nhơ-nhớp về nghi-thức phải bị loại-bỏ khỏi cộng-đồng xã-hội; và từ đó, Ngài thúc-bách mọi người hoặc chấp-nhận “người phung” trở về lại với cộng-đồng, hoặc từ-chối không cho chính Ngài được như thế. Quyền-uy chữa lành là quà-tặng của Thiên-Chúa xây-dựng vĩnh-viễn trong công-trình của vũ-trụ, chứ không chỉ là sự can thiệp tạm thời trong chốc lát của Thiên-Chúa vào vũ-trụ khép kín vốn thiếu xót khả-năng vẫn làm như thế.
Tóm lại, thì: riêng tôi, tôi vẫn tin rằng phép lạ không phải là sự thay đổi về thế giới thể-lý cho bằng sự đổi-thay trong thế-giới xã-hội. Dĩ nhiên, cũng nên có một số phép lạ giúp đổi thay thế-giới thể-lý nếu ta làm được, nhưng với tôi, điều đó xem ra vẫn chỉ là niềm ao-ước làm được một số đổi-thay còn nằm trong uy-quyền của ta trong thế-giới xã-hội, mà thôi”. (x. Richard G. Wattd & John Dominic Crossan, Who is Jesus, Westminster John Knox Press 1996, tr.62-68)
Thật tình mà nói: có nói về sự lạ hay phép lạ do Đấng bậc đầy quyền phép ở đâu đó, đã làm và đã bảo, cũng chỉ là thực-hiện những điều được khuyên dạy ở Kinh Sách vẫn từng kể:
“Bấy giờ có mấy kinh sư và người Pharisêu nói với Đức Giêsu rằng: Thưa Thầy, chúng tôi muốn thấy Thầy làm một dấu lạ. Người đáp: Thế hệ gian ác và ngoại tình này đòi dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ngôn sứ Giôna. Quả thật, ông Giôna đã ở trong bụng kình ngư ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày ba đêm như vậy. Trong cuộc phán xét, dân thành Ninivê sẽ trỗi dậy cùng với thế hệ này và sẽ kết án họ, vì xưa dân ấy đã sám hối khi nghe ông Giôna rao giảng; mà đây thì còn hơn ông Giôna nữa.” (Mt 12: 38-42)
Thật tình mà nói, khi bình-giải câu Chúa nói “mà đây thì còn hơn ông Giôna nữa”, Lm Nguyễn Thế Thuấn lại đã bàn rằng:
“Dấu lạ: để chứng thực về sứ-mạng của Ngài, Chúa Yêsu nêu ra lời giảng của Ngài, kết-thúc nơi sự Sống lại của Ngài. Đây ám-chỉ rõ-rệt đến sự Sống lại. Nhưng Tin Mừng thánh Mát-thêu đoạn 16 câu 1-4 chứng ở ngay nơi công việc rao-giảng của Chúa Yêsu.” (Lm Nguyễn Thế Thuấn CSsR, Kinh Thánh 1976, phần Tân Ước tr. 38)
Thật tình mà thưa với người đọc và người nghe ở đây rằng: tất cả mọi điều viết và đọc ở đây, chỉ để chứng thực mỗi điều đó, tức: sứ-mạng của Chúa đặt trọng-tâm nơi Sự Sống Lại của Ngài. Nếu không có Sống lại của Ngài, mọi sự lạ và phép lạ, đều ra như không, rất hư-luống.
Trong chiều hướng rất như thế, cũng nên thông-cảm ý/lời người nghệ-sĩ trong bài “Xin cứ làm tình nhân”, qua câu hát được tóm gọn làm đoạn kết rất như sau:
“Hãy tìm em tìm em, rồi nhìn em nhìn em. Và nắm tay nắm tay, cho hồn em ngất ngây. Chỉ cần em nhìn em, là tim em rã rời. Chỉ cần anh nắm tay, là hồn em đắm say.” (Tú Minh – bđd)
Thật đúng thế. “Chỉ cần anh nắm tay, là hồn em đắm say.” Như thế mới là sự lạ, và cũng là “phép lạ” dành cho người đời, ở trong đời.
Trần Ngọc Mười Hai Vẫn cứ mong mọi người ở đời Hãy tìm nhau rồi nhìn nhau mà đắm say, yêu thương nhau suốt đời. Thế đó mới là chuyện lạ và là phép lạ trong đời, với mọi người.
2 đoản khúc suy tư năm 2011
“Tôi kể người nghe đời Lan và Điệp,” một chuyện tình cay đắng… (Mạc Phong Linh – Chuyện Tình Lan và Điệp)
(2Cr 12: 3b-4)
Kể cho người nghe, mà sao chị cứ kể mỗi chuyện tình Lan và Điệp? Giảng cho người hiểu, mà sao anh cứ giảng và giải rất dài. Cũng rất dai. Chẳng ai hiểu? Chẳng kể gì người nghe có muốn nghe về “chuyện tình (rất) cay đắng”. “Lúc tuổi mộng mơ”, “đem viết thành bài ca”, ca về nhà Đạo?
Sống đời nhà Đạo, lại có những truyện kể về tình đời. Giống ở đời. Nghĩa là, tôi và bạn, lại cứ kể lể rồi còn giảng giải nhiều chuyện. Cả những chuyện, như đời “Lan và Điệp”, có những câu:
“Lan như bông hoa ngàn, thương yêu vô vàn, nguyện thề non nước, sẽ không hề lìa tan.” (Mạc Phong Linh – bde9d)
Sống Đạo giữa đời, người đi Đạo cũng từng sống, giống như thế. Tức, vẫn nhiều chuyện để kể. Cứ lễ mễ mà kể lể. Hết chuyện này chuyện khác. Kể, từ đầu đời đến cuối đời, vẫn không hết.
Trong chuyến ghé thăm đất miền Mễ Tây (rất căn) Cơ, bần đạo học được nhiều điều. Không phải để giảng Đạo, mà để kể về dân gian. Có vua quan cùng lãnh chúa. Rất bí nhiệm. Chuyện, của bậc vị vọng ở chốn trên cao chót vót, rất vua chúa. Chuyện vua quan lãnh chúa, không kể bằng miệng, suốt thế hệ này qua tthế hệ khác. Nhưng, bằng hoạ đồ khắc trên đá, mà bộ tộc giống giòng Maya, đã tô vẽ từ nhiều thế kỷ, mà không cần chữ viết. Khiến người người cứ cảm kích. Thán phục.
Điều mà nền văn minh Maya xứ miền rất Mễ chú trọng nhiều đến quyền của vua quan chốn cao tít mù tắp, rất uy lực, nay được một số đấng bấc ở thế kỷ 21, còn thực hiện.
Điều, mà nhà Đạo ở trên cao đang hiện thực, nay quên hết tình tiết xưa như nghệ sĩ từng viết:
“Chuông đổ chùa xa, chiều tan trường về, Điệp cùng Lan chung bước. Cuối nẻo đường đi, đôi bóng hẹn mùa thi Lan khóc đợi người đi.” (Mạc Phong Linh – bđd)
Nhà Đạo hôm nay, không còn thấy cảnh tình sánh bước giữa “Lan và Điệp”, dù hiu hắt. Mà, chỉ là cảnh “chia ly”, “khóc đợi người đi”, chẳng thi vị. Nhưng ê chề. Tham vọng nhiều, như người trong truyện kể dân gian rất phàm trần, lếu láo, như sau:
“Có một người đến nhà thờ xin Chúa cho 3 điều ước nguyện. Chúa thầm hỏi:
-Con nguyện và ước điều gì mà “căng” thế?
-Thưa Chúa, điều con nguyện ước chẳng có gì quá sức Ngài đâu! Con chỉ xin Chúa ban cho con 3 điều ước nguyện vỏn vẹn mỗi thế này: Điều một: Con ước mình được quyền “ăn trên ngồi chốc” giống các cha trong nhà thờ, hễ cứ phán bảo điều gì giáo dân nghe răm rắp thôi!
-Thế cũng được, Ta cho con ngay đây! Thế điều kế tiếp là những gì?
-Dạ thưa Chúa, điều kế tiếp con xin được giàu sang phú quí, chẳng làm gì, chỉ quát tháo doạ nạt đủ điều mà con chiên già trẻ lớn bé, vẫn cứ phục rồi dâng cúng
-Điều này không có gì khó, Ta sẽ ban cho con. Thế còn nguyện ước cuối?
-Điều cuối cùng, thì con muốn được mọi sự, cả những điều ước ở trên, lâu nay..
Chúa nhìn người đàn ông đang nài xin, mà tội nghiệp bảo:
-Con có thấy chân ta đang bị gì không?
-Dạ, chân của Chúa bị đóng đinh vào thập giá…
-Đúng! Chân ta mà không bị đóng đinh, thì Ta sẽ cho tất cả một đạp… Bọn con chỉ tham lam quyền bính với giàu sang thôi, chẳng được tích sự gì!...”
Truyện kể trên, chỉ là truyện tào lao, chẳng đáng cười. Bởi, Chúa nào lại làm thế. Có chăng, chỉ là phản ảnh của dân gian, dùng tiếu lâm nhạt để nói cạnh, nói xéo đấng vị vọng nhiều tham vọng. Lại hay lắm chuyện. Những chuyện không mang tính thiêng liêng, đạo đức gì hết.
Lắm chuyện hay không, thật ra cũng chả là chuyện có thật, ở nhà Đạo. Thời bây giờ. Thế nhưng, nhà Đạo hôm nay, cũng có một đôi “chuyện”, tức vấn đề làm người người cứ bứt rứt. Thao thức. Đến nản lòng. Tựa hồ vấn đề/truyện kể của đấng-bậc-không-còn-được-trọng-vọng nhưng vẫn muốn bày tỏ đôi sự thật thấy rất rõ, ở nhà Đạo, như sau:
“Tính đến nay, cũng đếm được 30 năm, kể từ ngày có những chuyện bê bối về xách nhiễu tình dục đối với con trẻ do một số linh mục vấp phạm. Nhưng vấn đề hôm nay hỏi rằng: lâu nay việc bứng tận gốc căn bệnh ung bướu loại này, đi tới đâu rồi? Ta học được gì, từ những bài học ấy?
Dù ngôn ngữ chọn lựa có xứng hợp hay không thuận lợi, vẫn có lời xin lỗi được đưa ra. Các thủ tục thực hiện nhằm giúp nhiều người hiểu được vấn đề, cũng đã có một số người tìm cách tự chữa lành. Và, nhiều dấu hiệu cho thấy vấn đề đã cải thiện cũng rất nhiều. Các vi phạm theo hình thức mới mẻ cũng đã suy giảm. Và, dù không phải là do có gia tăng lòng đạo đức, thì ít ra cũng vì một số người cũng đã biết sợ, bị bắt gặp.
Đàng khác, nhiều nạn nhân trên toàn quốc chưa cảm thấy thoải mái để kể lại chuyện riêng tư của mình và/hoặc chưa hài lòng về những giải pháp này khác hay không, nhiều nơi, nhiều nước vẫn chưa công khai phải đối phó với vấn đề. Cũng như, Hội thánh vẫn gặp nguy cơ bị cắt đứt, chia lìa đến nỗi chết xảy đến vào các thập niên tới.
Dù có thế, vấn đề chính vẫn còn mang tính đậm sâu hơn. Vẫn còn một số yếu tố thông thường khiến kẻ phạm pháp dễ tạo xách nhiễu. Và cũng có những vấn đề khác mang tính cách đặc biệt đối với cá nhân mỗi tội phạm. Giữa hai yếu tố ấy, hiện có những chuyện không lành mạnh đang xảy đến với một vài tổ chức hoặc xã hội mang tính riêng biệt khả dĩ khích lệ sự tăng trưởng một thứ văn hoá qua đó việc lạm dụng xách nhiễu càng có cơ xảy đến dễ dàng hơn. Hoặc cùng lắm, vẫn có thể làm ngơ trước vấn đề bằng cách đưa ra một đáp trả khá nghèo nàn.
Xách nhiễu lạm dụng chừng như dễ xảy đến khi cả ba yếu tố bao gồm một tâm lý không lành mạnh, những ý kiến bệnh hoạn và môi trường sống rất yếu kém cộng chung lại; đồng thời, việc đáp trả lại nghèo nàn khi những gì nằm trong nền văn hoá ấy lại khơi mào điều lợi cho người trong cuộc làm đối tượng cho lợi thế của cơ chế ấy.
Tôi nghĩ rằng, cho đến nay, sai lầm chính nơi đáp trả của Hội thánh đối vấn đề này là ở chỗ Hội thánh không chịu nhìn vào bất kỳ giáo huấn, lề luật, cung cách thực hiện hoặc động thái của chính mình trong chiều hướng đóng góp bất cứ thứ gì để sửa sai.
Hội thánh lại không thấy rằng có thể có những yếu tố trong “nền văn hoá của Đạo Công giáo” mình từng đóng góp vào việc xách nhiễu/lạm dụng hoặc đã đáp trả cách nghèo nàn đối với vấn đề xách nhiễu như thế. Tôi nghĩ có tất cả 7 yếu tố trong nền văn hoá Công giáo đã tạo nên xách nhiễu/lạm dụng và 5 yếu tố góp phần vào việc đáp trả khá nghèo nàn.
Bảy yếu tố góp phần vào hành vi xách nhiễu lạm dụng, phải kể đến, là:
1. Chỉ tôn thờ một Đức Chúa rất giận dữ, nay không còn tác dụng;
2. Nhiều yếu tố cho thấy hành vi xách nhiễu đều do nam nhân vướng mắc. Và, hầu như mọi chuyện lâu nay vẫn nằm trong tay người đàn ông, trong khi giới nữ ít quyền ăn nói;
3. Rất nhiều linh mục sống đời độc thân cách miễn cưỡng. Không ưa thích cũng chẳng vui lòng chọn lựa và không phải ai cũng cũng ở độc thân như thế. Thứ độc thân không ôm trọn tình yêu;
4. Thiếu trưởng thành về đạo đức, cứ tưởng rằng mọi tốt lành về mặt đạo đức chỉ nằm ở việc tuân phục một Đức Chúa mà họ nghĩ Ngài chuyên luận phạt,thôi. Thêm vào đó, là quan điểm chỉ biết vâng lời Hội thánh mà không biết tự mình nhận lãnh trách nhiệm;
5. Luôn có ý tưởng cho rằng nội việc nghĩ đến chuyện tình dục thôi, cũng đã là mắc tội trọng rồi. Và, đáng bị Chúa đời đời giáng phạt. Nói tóm lại, lúc nào cũng cho rằng đạo lý về dục tình đặt cơ sở trên luật tự nhiên hoặc trái với thiên nhiên, hơn là chú trọng đến những điều mà Tin Mừng của Chúa khuyên dạy;
6. Chủ nghĩa phò giáo sĩ hoặc đặc tính bí ẩn về chức linh mục
7. Cuộc sống linh mục và tu sĩ thiếu chuyên nghiệp thực thụ.
Năm yếu tố khiến hệ cấp giáo triều ứng đáp với sự việc cách nghèo nàn,là:
1. Chuyên ưa chuộng tính chính thống (tức: cho rằng niềm tin của mình là đúng) hơn là tạo thói quen công chính và trung thực (tức: phải có hành xử cho đúng). Bởi thế nên, mỗi khi nghe mọi người xầm xì về chuyện nên truyền chức cho nữ giới, là quyết thẳng tay lên án không thương xót. Ngược lại, hễ thấy linh mục xách nhiễu tình dục trẻ con lại dễ thứ tha;
2. Cho rằng Đức Giáo Tông là đấng bậc không thể nào sai lầm đuợc, dù việc ấy không thuộc phạm vi tín điều “vô ngộ”. Tức là: những gì dính dấp đến uy quyền của ngài, cũng đều “vô ngộ”;
3. Sự kiện Đức Gioan Phaolô II im hơi lặng tiếng của suốt hơn 25 năm về chuyện xách nhiễu tình dục trẻ em;
4. Văn hoá lặng thinh đã hằn sâu trong Giáo triều La Mã đến mức thâm căn;
5. Luôn ngăn chặn gạt ý hướng trung thực mỗi khi bàn luận về qui cách ứng đáp với cáo buộc về xách nhiễu tình dục.
Chính ra, Đức Giáo Tông cũng nên chủ động hướng dẫn giáo triều khai triển cách ngăn ngừa và đáp ứng các trường hợp như thế. Nhưng, ta cũng không nên chờ ngài có những quyết định như thế. Tôi thấy không có lý do gì khiến Hội Đồng Toàn Quốc Giáo Sĩ lại không chịu đưa vào nghị trình thảo luận hàng năm của mình để bàn về những gì liên quan đến hàng giáo sĩ, ra như thế.
Chẳng hạn, ta có thể nhìn vào cung cách xem ta có chủ trương giáo sĩ trị đang thể hiện trong cuộc sống của ta, trên toàn quốc hay không. Và, hãy nhìn vào cung cách hành xử để xem ta có thật sự thiếu ý thức chuyên nghiệp khi suy tư và hành xử, không.
Cũng nên nhìn vào cách ứng xử của hàng linh mục mình khi đất nước mình đang có những “phát giác kinh khủng”; nghĩa là, hãy tự hỏi xem mình có đứng về phe linh mục - phạm pháp hoặc cảm thông bước về phía nạn nhân bị xách nhiễu tình dục, là con trẻ? Các linh mục của mình có là thành viên theo phe của mình không, trong khi đó, các nạn nhân bị họ lạm dụng, giờ này ra sao? Ta có đến với các nạn nhân bị lạm dụng nhiều hơn với linh mục phạm pháp chứ? Hay, cả ta nữa, vẫn dễ dàng cho mình vô tội? Phải chăng ta ứng đáp chỉ đơn giản bằng cách mong cho vấn đề xách nhiễu tình dục/ấu dâm nơi hàng ngũ linh mục được xếp xó, để khỏi bận tâm, không? Các giám mục nhà mình có thành “địch thù” xử bất công với các linh mục mỗi khi đáp ứng trước những cáo buộc về xách nhiễu tình dục, nơi đàn em đệ tử mình?
Các câu hỏi của đấng bậc không-còn-là-chủ-quản nữa, có lẽ đẽ khiến tôi và bạn, lại nhớ đến ca từ của nghệ sĩ ngoài đời, rất hay hát:
“Bao nhiêu niềm vui cũng chôn vùi từ đây, vùi chôn từ đây!... Lỡ một cung đàn, phải chăng tình đời là vòng giây oan trái?” (Mạc Phong Linh – bđd)
Nghệ sĩ đời gặp chuyện ngang trái lại hỏi thế. Đấng bậc nhà Đạo, nhận định sự kiện “không phải”, ở trong Đạo, lại nghĩ khác. Khác, nhưng rất thực tiễn, như sau:
“Để hành xử của mình được lành mạnh, tưởng cũng nên đề cập đến những điểm gây bén nhạy, như hỏi rằng:
*Phải chăng hàng ngũ linh mục ở quanh ta đang sống cuộc đời độc thân mà không thích. Hoặc, không chứa đựng một tình yêu, mình đã chọn? Ta quan niệm thế nào về chuyện ấy? Hãy đưa vấn đề ra mà bàn thảo, cho nghiêm chỉnh.
*Ngày nay, ta có thực sự tin vào luân lý dục tình không? Phải chăng mỗi khi tưởng nghĩ đến chuyện tình dục, là mắc tội? Ta vẫn cho rằng mọi sa ngã về tình dục là trọng tội có thể dẫn đến nỗi chết, chứ? Ta vẫn coi động thái tự nhiên và phản thiên nhiên như nền tảng của đạo lý về tình dục chứ? Nếu không, ta tìm ra được nền tảng nào khác không?
*Ở giáo xứ, ta có thực sự lắng nghe tiếng nói của chị em giáo dân không? Các vị ấy có hoàn toàn đồng ý với câu đáp trả ta đưa ra không?
*Ta có còn quan niệm về Thiên Chúa chuyện giận dữ, trong đời mình không? Quan niệm như thế có còn ảnh hưởng lên ta không? Để ý lắng nghe cả trăm linh mục chia sẻ Lời Chúa vào ngày Chủ nhật, thông thường khi ra về ta mang theo ý nghĩ về Thiên Chúa như thế nào?
*Trong hành trình đời sống, ta đã bỏ đi ý tưởng về chuyện giáo hội dạy ta phải sống thế nào để làm hài lòng một Thiên Chúa chuyện luận phạt chưa?Trong cuộc sống, ta đạt mức độ trưởng thành về luân lý, đến cỡ nào?
*Ý hướng về luân lý đạo đức của ta là thế nào? Nhận thức của ta ra sao khi bị xã hội lên án, dẫu biết rằng ta là người vô tội? Ta đối đầu thế nào với thái độ của Hội thánh khi ứng đáp một cách nghèo nàn đối với các cáo buộc xách nhiễu tình dục, nói ở trên?
Những phát giác kinh khủng về xách nhiễu tình dục nơi hàng giáo sĩ lâu nay quả là một kinh nghiệm thương đau cho đội ngũ linh mục của ta. Nỗi lo ngại của tôi là nhiều người đã khoá sổ chỉ giữ cho mình những tư tưởng tiêu cực thôi. Và, xách nhiễu tình dục đã trở thành chuyện “khủng long chui tọt vào phòng”, mỗi khi các linh mục tụ tập.
Tôi khẩn thiết yêu cầu Hội Đồng Linh Mục Toàn Quốc hãy đóng vai trò đúng đắn để có được những trao đổi mang tính dựng xây về mọi khía cạnh của vấn đề này. Lâu nay, ta có quá đủ nỗi hãi sợ, chối bỏ, chạy trốn hoặc yếu kém rồi. Đã đến lúc, ta cần sống thực sự cởi mở, chính trực và xây dựng trong vấn đề này.” (x. Gm Geoffrey Robinson, The Elephant in the Room, rút từ The Swag 16/7/2011)
Như mọi lần, mỗi khi gặp các vấn đề gay góc xảy đến với người và với mình, chí ít là người mình ở nhà Đạo, bần đạo lại chạy đến với Lời của các thánh viết ở Tin Mừng. Hôm nay, bần đạo nhận được ân huệ “bắt gặp” một đoạn thơ có lời lẽ, xin san sẻ với bạn và với tôi, rất như sau:
“Đức Kitô, Người không nhu nhược đối với anh em đâu, nhưng Người đầy uy quyền giữa anh em. Thật vậy, Người đã chịu đóng đinh vì mang thân phận yếu hèn, nhưng nay Người đang sống nhờ quyền năng của Thiên Chúa. Cả chúng tôi nữa, trong Đức Kitô, chúng tôi cũng mang thân phận yếu hèn, nhưng cùng với Người, chúng tôi sống nhờ quyền năng của Thiên Chúa để xử sự với anh em.” (2Cr 13: 3b-4)
Nhớ lời “thơ” của thánh nhân nhà Đạo, nay lại nhớ thơ lời của người đời, cũngnhư sau:
“Người ta nói yêu là ngốc, Bởi chữ tình là nguồn gốc chữ ngu... Đôi khi con người ta cần dừng lại.. Dừng lại để rồi bước nhanh hơn...... Đôi khi con người ta cần buông tay.. Cần cho đi để rồi có nhiều hơn..... Đôi khi con người ta cần khóc.. Khóc thật lớn để rồi cười thật to..... Đôi khi con người ta cần một mình.. Một mình là để biết có nhau quan trọng như thế nào.”
Đã nhớ lời “thơ” Đạo cũng như đời rồi, nay lại tưởng nhớ chuyện của Lan và Điệp, cũng có những tình tiết như sau:
Nếu vì tình yêu, Lan có tội gì đâu sao vướng vào sầu đau. Nàng sống mà tim như đã chết Riêng bóng cô đơn đôi môi xing phai tàn Thương thay cho nàng buồn xa nhân thế náu thân cửa Từ Bi.” (Mạc Phong Linh – bđd)
Bần đạo thiết nghĩ: câu thơ trên, đâu chỉ áp dụng cho các vị nương náu cửa Phật hay nhà Đạo, đang “có vấn đề”, mà thôi. Nhưng, có lẽ, cũng áp dụng cho cả nạn nhân tội phạm xách nhiễu, hoặc sai lầm nhiều sơ xuất. Ở bất cứ nơi đâu. Thời nào. Như hôm nay.
Trần Ngọc Mười Hai vẫn cứ thương và nhớ hết tất cả. Trong Đạo. Ngoài đời.
Suy Niệm Chúa Nhật thứ 20 thường niên Năm A 14-08-2011
Sầu mưa gió. Lạnh khói sương. Có thể, đó là cảnh tình của người đời. Đàn rơi phiếm rũ. Nguyệt khuất mây mờ. Nhjưng, cũng chưa hẳn là tình tự của người trong Đạo, bấy lâu nay.
Tình tự nhà Đạo, nay thánh Mát-thêu kể về nữ phụ xứ Canaan gặp Chúa, rất cảm kích mới có lời xin. Xứ Canaan, có thủ phủ Ty-a và Si-đôn là đất miền cận duyên, bên bờ Địa Trung Hải. Hai thị trấn cách đất liền đến 80 cây số, phía Nam Phênixia. Hôm nay, thánh sử kể về các sinh hoạt khác thường của Chúa, ngoài đất nước Do thái, ở xứ Canaan.
Về sinh hoạt Chúa làm, ngoài xứ miền Do thái, thánh sử kể cũng khá nhiều. Nhưng, không nói lý do tại sao Chúa đi xa như thế. Có thể, Chúa đã mệt vì đường xa, xứ lạ. Thế mà, khi nữ phụ xa lạ lại đón Chúa vào thôn làng. Cũng có thể, luận cứ ở truyện kể còn quan yếu hơn chi tiết địa dư, khoảng cách.
Trình thuật nay là truyện kể nữ phụ “ngoài luồng” và con gái bà lâm bệnh. Đúng ra là, mẹ con sinh sống ở xứ miền Phênixia. Với người Trung Đông, Canaan là một trong những địa danh có tên rất xấu, gồm toàn những người lạ kỳ, về nhiều thứ ít thấy trong Thánh Kinh.
Nói gì thì nói, nữ phụ Canaan đây, thuộc lớp người ngoài Đạo, là người dưng khách lạ mà lại được Chúa đón nhận như người trong cuộc. Bởi thế nên, luận điểm đề cập nơi trình thuật hôm nay là để nhấn mạnh lối hành xử rất nhân lành hầu đón nhận người ngoài vào với cộng đoàn Hội thánh mình.
Trình thuật, nay nhấn mạnh khuynh hướng gọi họ bằng những tên rất xấu, để loại bỏ. Loại và bỏ, như người thời nay khi nói đến dân con Ả Rập/Hồi giáo, người người có thói quen chụp lên người họ bằng những mũ chụp thiếu thanh tao/lịch sự, như: dân Rệp hoặc đám Hồi giáo khủng bố. Và, trình thuật nay cũng nói đến cung cách Chúa dung nạp những người mang tai tiếng, xấu đến như thế.
Mặt khác, nữ phụ này lại có người con vướng mắc một thứ tật bệnh mà người thời ấy gọi là “quỷ tha ma bắt” khiến bà phải gào thét đến cuồng điên, cốt để Đức Chúa Nhân Hiền nghe biết đến với bà, để chữa trị cho con gái bà. Ngài có chữa kẻ ngoài luồng mắc chứng dơ bẩn hay không, đó mới là vấn đề. Và, dân thường thời bấy giờ vẫn còn thắc mắc.
Kể ra, thì nữ phụ Canaan dù ngoài Đạo, nhưng đã tin Đức Kitô, nên bà gọi Ngài là “Con Vua Đavít“. Với thánh Mát-thêu, bà là người đầu tiên trong kinh thánh, dám tuyên xưng Ngài là Chúa, bằng miệng lưỡi. Chính bà là người dùng lời khẩn cầu phụng vụ và thánh vịnh của các đấng bậc từng tuyên tín vào Đức Kitô, như lời kinh phụng vụ lâu nay vẫn nhắc: “Xin Chúa thương xót chúng tôi.”, một lời kinh bằng tiếng Hy Lạp, rất “Kyrie eleison”, trong thánh lễ. Bà còn bái gối lạy quỳ trước mặt Ngài, một động thái khẩn nài ít thấy nơi người Do thái, khi nhắc nhớ điều gì với Giavê Thiên Chúa.
Nói rõ hơn, nữ phụ ngoài Đạo đã van xin Chúa một ân huệ, rất khó thực hiện: là, xin Ngài vượt lằn ranh thói tục luôn chê bai kẻ hạ cấp/thấp hèn như mẹ/con bà, những kẻ bị đào thải khỏi mọi chọn lựa trở nên dân riêng của Giavê. Bà xin Ngài thực hiện điều mà Giavê Đức Chúa không có chọn lựa nào khác ngoài việc đưa toàn thể mọi người về với tình thương. Cả khi đồ đệ Ngài bày tỏ:”Hãy bảo bà ấy đi đi, đừng đến mà làm phiền Thày.”
Nơi trình thuật, chừng như Đức Giêsu đã thách thức lời kêu cầu của nữ phụ bằng lời từ chối. Đây là việc ít thấy ở Tin Mừng, mà các thánh vẫn ghi. Bởi lẽ, kinh nghiệm cho thấy, hễ ai kêu cầu Chúa điều gì, Ngài vẫn đáp ứng bằng đáp ứng trọn vẹn cho người ấy. Trường hợp ở đây, không giống thế. Ngài không ứng đáp lời kêu cầu của nữ nhân ngoại luồng, là bởi vì Chúa Cha gửi Ngài đến với dân con được chọn, thôi. Sứ vụ Ngài thực viện, chỉ dành cho dân con người Do thái, rất đích thực. Chính vì thế, mà người đọc mới nghe thấy những câu so sánh cũng khá lạ:“Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con (ở ngoài)." (Mt 15: 26). Bằng vào lời này, ta thấy người Do thái xưa vẫn coi dân “ngoài luồng”, rất thấp hèn. Thách thức ở đây, còn có nghĩa: Chúa phản ứng như người Do thái bình thường sống theo luật, không để lời nài van từ ngoài, áp lực Ngài hành xử ngoài ý định của Cha.
Nhưng, nữ phụ Canaan vẫn thưa:”Đúng thế, thưa Ngài, nhưng lũ chó con cũng được hưởng vụn bánh trên bàn chủ, rơi xuống." (Mt 15: 27) Điều mà bà goá xứ Canaan muốn nói đến, là: loài chó nuôi trong nhà, tuy chạy rong ngoài đường, nhưng cũng được hưởng ơn lành như thú đã thuần hoá. Tức, phải được hưởng công bằng cần thiết. Bên tiếng Hy Lạp, mỗi khi nói đến loài chó nuôi, là nói đến gia súc sống gần gũi với chủ, do đó ít nhiều cũng được đối xử như người nhà, gần chủ nhà. Tức, cũng có chỗ đứng/ngồi gần bàn tiệc, dù dưới gầm. Và đây là trọng điểm mà vấn đề trình thuật đặt ra.
Ngay đó, Chúa thay đổi cung cách Ngài đối thoại bằng ngợi khen niềm tin của người đàn bà. Trình thuật không nói rõ đó có là niềm tin vào Ngài, vào Chúa hay không. Nhưng, nữ phụ Canaan lại đã chứng tỏ rằng bà vẫn là bản vị hiện hữu cần được đối xử như người trong cuộc. Xem thế thì, qua việc khen ngợi niềm tin của bà goá, Chúa muốn bảo cho mọi người biết: nữ phụ “ngoài luồng” này, nay đã là người trong cuộc. Tức, đã có trọng trách khiến cho người dưng khách lạ thấy được sự công bằng cần có, khi đối xử với người trong cuộc. Trong Đạo. Tức, cần dân con trong Đạo yêu thương, đón nhận họ để họ trở nên thành viên Hội thánh, như mọi bản vị biết thương yêu. Nhân hiền.Cởi mở.
Cũng có thể, thánh Mát-thêu đã ghi lại tâm tình của Chúa muốn nói đến các chủ thể lâu nay vẫn bị coi rẻ như loài chó, cốt để thử thách niềm tin, thôi. Kịp khi nữ phụ Canaan sẵn sàng chấp nhận thân phận thấp hèn lâu nay của mình, bị đối xử tồi tệ như loài thú, nhưng vẫn muốn được yêu thương/trọng đãi như người nhà. Bởi, loài chó lâu nay vẫn được coi là gia súc rất trung thành với chủ mình. Vậy thì, loài gia súc đã thuần hoá, có thuỷ chung với người trong nhà, hay không? Nữ giới trong cuộc, có được đối xử đồng đều như nam nhân không? Có được yêu thương kính trọng không thua kém nam nhân không?
Đó là qui cách mà nữ phụ Canaan dùng đến, cốt để thuyết phục Chúa. Chính bà là người dám bộc lộ với Chúa tâm trạng của người “ngoài luồng”. Và, kêu cầu của bà, chính ra là để mọi người trong cuộc nên coi lại mà đối xử bà ngang bằng như người trong cuộc, một khi dân con của Chúa tin vào tình thương và sự lương thiện. Đây còn nói lên một đặc trưng yêu thương là không bao hàm yếu tố “lằn ranh/biên giới”, trong với ngoài!
Ngay đến ý định của Chúa Cha khi chọn lựa con dân trong hoặc ngoài luồng để cứu rỗi, giống như thế. Chúa có tự do thực hiện việc chữa lành cho bất cứ ai, kể cả những người trong hay ngoài luồng. Họ vẫn là những hữu thể, cũng tử tế, ngang bằng nhau. Và, họ cởi mở, ăn ở phải phép hệt như nhau. Lời nài van của nữ phụ, tuy không nói rõ, nhưng đã chứng minh được điều đó. Và, kết quả là: Chúa đã ban cho bà những gì bà khẩn nài. Con gái bà được chữa lành. Vậy, ý của trình thuật thánh sử muốn nhấn mạnh, là: hãy coi khách lạ người dưng, như người nhà vậy.
Điều khác nữa, là: thông thường thì, loài thú ít được nhắc đến ở Tin Mừng. Nhưng, khi đã được nhắc nhở, chúng đều có tên. Ta biết được tên loài thú vào hôm kiệu lá, lễ Vượt Qua, là: chú lừa. Và, loài thú được nói đến, khi thánh Phêrô chối bỏ Thầy mình, là gà trống. Ngoài ra, còn có: chiên lạc. Dê hiền. Đàn heo sạch vv...
Có vị giáo lý viên nọ người Pháp, vẫn quen thói đặt tên cho một số loài thú được nhắc đến ở Tin Mừng, như: chú lừa vào lễ Vượt Qua gọi là: lừa Placiđô. Gà trống hôm thánh Phêrô chối Chúa, là gà “Archibald”, vv… Còn chó nuôi trong nhà, ở trình thuật hôm nay, nên đặt tên gì đây?
Còn một điều cần kể thêm, là: ở trình thuật các thánh ghi, bất cứ ai được Chúa chữa lành, đều đã trở thành đồ đệ đắc lực, quyết theo chân Ngài, mà rao giảng. Con gái nữ phụ xứ Canaan đây, có làm những việc như thế không?
Tựu trung thì, bài học mà thánh Mát-thêu để lại nơi người đọc hôm nay, là: khi nghe ai đó gọi người Ả Rập bằng những tên rất xấu, như “dân Rệp”, hoặc “bọn Hồi giáo chuyên khủng bố”, vv… thiết tưởng người nghe/đọc Tin Mừng cũng nên liên tưởng đến chú chó vẫn nằm chực dưới gầm bần của chủ, để được hưởng ơn mưa móc của người trong nhà. Suy cho cùng, thì: loài chó nuôi trong/ngoài nhà, vẫn là gia súc được yêu thương, nể trọng. Không phải vì chúng sở hữu đặc tính trung thành với chủ. Mà, vì chúng được coi như thành viên như người nhà. Không là người dưng nước lã, nữa.
Sở dĩ Đức Giêsu là Đấng chữa lành mọi người, trong ngoài nhà Israel , vì Ngài là Đấng Nhân Hiền trong cuộc. Rất cao cả. Học được bài học quý giá rút tỉa từ trình thuật hôm nay, hẳn người nghe/đọc, sẽ quyết tâm noi gương lành của Chúa mà xử thế. Xử giống như Ngài vẫn dạy.
Với tâm tình đó, cũng nên ngâm nga lời ca mà người nghệ sĩ trích dẫn ở trên, từng bộc bạch:
Thương và tiếc, không chỉ “xót liễu, rụng đài trang” thôi, mà còn “trách buồn duyên, lỡ đá vàng”. Trách và thương, những ai vẫn cứ coi dân “ngoài luồng” như chú chó chạy ngoài đường, không thương tiếc. Mà quên rằng, Chúa vẫn tiếc và thương hết mọi người. Mọi loài. Vào mọi thời.
Trong các lớp giáo lý dành cho người trưởng thành, đôi khi có những học viên rất băn khoăn về TN 20-A171
Trong các lớp giáo lý dành cho người trưởng thành, đôi khi có những học viên rất băn khoăn về tương lai hậu vận của mình. Họ lo lắng vì nếu họ gia nhập Công giáo, thì cha mẹ tổ tiên ông bà của họ, vốn là những người “bên lương” sẽ ra sao ở đời sau? Bởi lẽ người Công giáo tin sẽ hưởng phúc Thiên đàng, mà cha mẹ và người thân của họ lại không phải là người Công giáo. Những người dạy Giáo lý phải giúp họ hiểu rằng, ở đời sau, chỉ có chỗ dành cho người lành là Thiên đàng và nơi dành cho người ác là hỏa ngục, chứ chẳng có nơi nào ở giữa hai thực tại này. Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, những ai chưa hoặc không có cơ may để đón nhận giáo huấn của Đức Giê-su, mà chân thành sống theo lương tâm và thực thi bác ái, thì cũng được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu. Giải thích này giúp người dự tòng an tâm, vì họ sẽ không mất gia đình mãi mãi.
“Dân ngoại”, đó là khái niệm người Do Thái xưa vẫn dùng để chỉ những người không thuộc dân tộc họ. Ngày nay, một số tín hữu vẫn dùng hai từ này để chỉ những người không cùng tôn giáo. Xưa cũng như nay, hai từ này đều gợi lên sự phân biệt, thậm chỉ mỉa mai và coi thường người khác. Chúa Giê-su đã đến trần gian để khẳng định: Thiên Chúa là Cha của mọi dân tộc. Những ai tin vào Chúa Giê-su, thì không còn phân biệt về dòng tộc hay ngôn ngữ, văn hóa, mà tất cả đều làm thành gia đình của Thiên Chúa. Một cách mật thiết hơn, những tín hữu Ki-tô làm thành một thân thể, gắn bó với nhau và luôn cảm thông chia sẻ hài hòa. Thân thể này có Chúa Giê-su là Đầu.
Thực ra, vào thời ban đầu, các tông đồ vẫn giữ quan điểm cho rằng ơn Cứu độ chỉ dành cho dân tộc Do Thái, vì họ là dân riêng Thiên Chúa chọn. Qua thị kiến chiếc khăn lớn từ trời buông xuống, có đủ mọi sinh vật, với lời mời làm thịt mà ăn, thánh Phê-rô đã nhận ra thông điệp: mọi dân tộc đều có thể được cứu độ trong Đức Giê-su (x. Cv 10, 9-16). Trong vụ việc mấy người Do Thái gây rối và phá đám tại An-ti-ô-ki-a khi hai tông đồ giảng, ông Phao-lô và ông Ba-na-ba đã mạnh dạn lên tiếng: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại. Vì Chúa truyền cho chúng tôi thế này: Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất” (Cv 13,46-47). Đây là bước quyết định quan trọng, thay đổi quan niệm xưa cũ. Từ đây, thánh Phao-lô dành hết tâm huyết của mình cho dân ngoại.
Cả ba bài đọc Lời Chúa hôm nay đều nhấn mạnh đến khái niệm “dân ngoại”, nhưng không phải để phân biệt và kỳ thị. Trái lại, những khẳng định này nhằm giới thiệu Thiên Chúa là Thượng Đế của muôn dân. Ngôn sứ I-sai-a (Bài đọc I) khẳng định: nhà Chúa sẽ là nhà cầu nguyện cho muôn dân. Ai cũng có quyền được đến với Chúa. Ngài sẵn sàng đón nhận mọi người và lắng nghe tâm sự của họ. “Người ngoại bang nào gắn bó cùng Đức Chúa để phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, đều trở nên tôi tớ của Người…”. Như thế, chẳng có ai bị Thiên Chúa loại trừ. Ngài yêu thương hết thảy mọi người. Thánh Phao-lô (Bài đọc II) lại diễn tả tình thương của Thiên Chúa thể hiện qua việc Thiên Chúa đã sai thánh nhân đi rao giảng Tin Mừng cho các dân ngoại. Vì thế, vị tông đồ này tự nhận mình là “Tông đồ của các dân ngoại”. Quả thật, nhờ thánh Phao-lô mà cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi không còn đóng khung nơi người Do Thái, nhưng đến với các dân. Là một nhà truyền giáo không mệt mỏi, ngài đi đến các nơi xa xôi để rao giảng Đức Giê-su và thiết lập cộng đoàn tín hữu. Thánh Mát-thêu (bài Tin Mừng) kể với chúng ta: lúc đó Chúa Giê-su đang ở miền đất của dân ngoại, tức là Tia và Xi-đon. Người phụ nữ gốc Canaan đến xin Chúa chữa cho con gái của bà đang bị quỷ ám khổ sở. Mặc dù xem ra có vẻ như Chúa Giê-su khước từ thẳng thừng, người phụ nữ vẫn nài xin Chúa chữa con mình. Tình mẫu tử của bà đã khiến bà chấp nhận mọi gian nan, kể cả khi Chúa Giê-su nói với bà: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con”. Lời khước từ thật cay nghiệt, nhưng không làm bà nản lòng. Cuối cùng, bà được nghe lời nói ngọt ngào của Chúa: “Lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy”.
Giáo hội Ki-tô thực ra cũng phát xuất từ dân ngoại. Chúng ta đâu phải người Do Thái, nhưng nhờ bí tích Thanh Tẩy, chúng ta được tháp nhập vào dân Israel mới, là con cháu Abraham do lòng tin chứ không phải do máu huyết.
“Lạy Con Vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi!” Đó là tiếng kêu than của cả nhân loại, đang tổn thương bầm dập vì chiến tranh, bạo lực và thiên tai sự dữ. Đặc biệt, đó là lời van xin của các Ki-tô hữu trong nghi thức sám hối khởi đầu Phụng vụ Thánh Thể: “Xin Chúa Ki-tô thương xót chúng con!”. Chúng ta hãy tin tưởng đến với Chúa Giê-su. Người đã bảo đảm với chúng ta: Ai xin thì sẽ được; ai tìm thì sẽ thấy; và ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Mt 7,7-11).
Bạn cảm thấy thế nào khi đọc bài Phúc Âm của Chúa Nhật hôm nay? Riêng tôi, tôi thấy tội nghiệp TN 20-A172
Bạn cảm thấy thế nào khi đọc bài Phúc Âm của Chúa Nhật hôm nay? Riêng tôi, tôi thấy tội nghiệp người đàn bà xứ Ca-na-an quá đi thôi! Bà đến năn nỉ, xin đi xin lại nhiều lần, đến độ các môn đệ cảm thấy khó chịu phải thốt lên: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!” Điều mà bà ta van xin Chúa lại là một điều hết sức hợp tình hợp lý, vì con gái bà đang bị quỷ ám. Vậy mà Chúa Giê-su tỉnh bơ khơng đáp lại một lời, lại còn tỏ ra lạnh lùng, hững hờ và thậm chí có một chút gì đó rất tàn nhẫn khi nói với bà ta rằng: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15:26). Tại sao vậy?
• Có phải là vì Ngài khinh dể mấy người dân ngoại? Không thể như thế được, bởi vì Phúc Âm ghi lại rằng, Ngài đã từng làm những phép lạ chữa lành cho dân ngoại, ví dụ như chữa cho tên đầy tớ của một viên đại đội trưởng (Mt 8:6-7); một người bị quỷ ám tại vùng đất của dân Ghê-ra-sa (Mc 5:8), và con trai của một viên sĩ quan người Rôma (Ga 4:49-50).
• Có phải là vì Chúa Giêsu bị… dị ứng với mấy người đàn bà ngoại bang? Cũng không thể như vậy được bởi vì có lần Ngài đã trò chuyện và tỏ lòng thương xót người phụ nữ Sa-ma-ri ở tại giếng nước Gia-cóp và lưu lại với dân Sa-ma-ri tới hai ngày kia mà (Ga 4:1-42)!
Như vậy thì tại sao? Tại sao Chúa Giêsu lại lạnh nhạt và hờ hững trước lời van xin của người đàn bà đáng thương này như vậy? Theo tôi, Ngài cố tình làm như vậy, để cho bạn và tôi thấy nơi người đàn bà xứ Ca-na-an mẫu gương của sự KIÊN NHẪN & KHIÊM NHƯỜNG. Qua đó,Ngài muốn dạy cho các môn đệ, và cho chúng mình một bài học của kiên nhẫn và khiêm nhường khi cầu xin với Thiên Chúa. Thật vậy!
• Nhờ vào sự kiên nhẫn, nên bà mới nghe được lời khen của Chúa Giê-su: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật! Bà muốn thế nào, sẽ được như vậy.”
• Và nhờ vào sự khiêm nhường, chân nhận ra thân phận của mình: “Thưa Ngài, đúng thế [lũ chó con, không đáng được ăn bánh của con cái của ông chủ] nhưng mà [con tin chắc rằng] lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” cho nên con bà đã được chữa lành.
Bạn thân mến, Chúa Giêsu đã hứa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho [và]… kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát (Mt 7:7; 24:13), Ngài là SỰ THẬT, nơi Ngài không hề có sự gian dối, Ngài đã hứa là Ngài sẽ thực hiện. Vì thế, khi cầu xin với Chúa bát cứ điều gì, xin bạn hãy noi gương người đàn bà xứ Ca-na-an ở ba điểm sau:
• Thứ nhất, KIÊN NHẪN khi cầu nguyện. Khi xin Chúa ban cho ơn này, ơn nọ…bạn và tôi đừng quên, XIN là chuyện của chúng mình, còn chuyện Chúa CHO hay không, thì đó là chuyện của Ngài. Đừng bắt Thiên Chúa phải ban cho mình tất cả những gì mình xin! Xin kiểu đó thì hóa ra tôi và bạn là chủ, còn Chúa thành đầy tớ của chúng mình mất rồi!
• Thứ hai, KHIÊM TỐN khi cầu nguyện, bởi vì cầu nguyện mà lại kiêu căng, ngạo mạn, coi thường người khác và coi thường cả Chúa thì chả bao giờ Chúa nhậm lời đâu! Tôi dám chắc như vậy! Bởi vì Thánh Phê-rô đã khẳng định: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1 Pr 5:5).
• Thứ ba, hãy xin những điều chính đáng, xin những điều đem lại lợi ích cho phần linh hồn, hơn là về mặt vật chất. Phải tin một cách mạnh mẽ rằng Thiên Chúa luôn lắng nghe lời cầu nguyện của chúng mình, và Ngài sẽ ban cho bạn và tôi những gì là tốt nhất, miễn là điều ấy có lợi ích cho chúng ta: “Nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình những của tốt lành, phương chi Cha anh em, Đấng ngự trên trời, lại không ban những của tốt lành cho những kẻ kêu xin Người sao? (Mt 7:11).
Nguyện xin Thiên Chúa là Cha rất nhân từ, chúc lành cho bạn và cho gia đình của bạn và xin Ngài gìn giữ mỗi người trong chúng ta khỏi những nguy hiểm hồn xác, và xin cho Giáo Hội thoát khỏi những thế lực của sự ác đang hoành hành khắp nơi trên thế giới này.
Trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu nổi tiếng là Đấng giàu lòng TN 20-A173
Trong suốt cuộc đời rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu nổi tiếng là Đấng giàu lòng xót thương, Đấng chạnh lòng thương. Có lần, khi từ trên thuyền xuống, nhìn thấy đám đông dân chúng bơ vơ, vất vưởng, Người chạnh lòng thương, làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho họ ăn no nê. Khi nhìn thấy cảnh mẹ già đưa tiến đứa con trai duy nhất về “nơi an nghỉ”, Người cũng chạnh lòng thương, cho con trai bà góa sống lại. Nhiều và rất nhiều lần Tin Mừng đã kể lại cho chúng ta về chân dung đầy lòng thương xót của Người. Lạ thay, hôm nay, trước lời kêu xin của người đàn bà Canaan, Đức Giêsu tỏ ra khá lạnh lùng: “Nhưng Người không đáp lại một lời.” (Mt 15, 23).
Cuộc sống có lắm khi khó khăn, vui buồn lẫn lộn. Sự đời thường khiến ta gặp nhiều trắc trở, gian nan, thử thách nhưng cũng không ít khi đem đến cho ta những cơ hội. Chính những khó khăn, thử thách nhiều khi lại trở nên phương thế Thiên Chúa dùng để tôi luyện, uốn nắn chúng ta. Thường những người thành công là những người biết vượt qua khó khăn thử thách, kiên trì, không bỏ cuộc. Họ biết cách biến tất cả những gì là trở ngại, khó khăn thành cơ hội giúp họ lớn lên, kiên cường và vững mạnh hơn. Nơi họ, ta thấy được sự khiêm tốn. Khiêm tốn khi họ biết chấp nhận sai lầm của mình, chấp nhận được sửa lỗi, chấp nhận làm lại từ đầu, nhận trách nhiệm về mình, khiêm tốn học hỏi và đón nhận sự giúp đỡ từ người khác. Người đàn bà Canaan trong bài Tin mừng hôm nay cũng là một trong những người như vậy.
Khi biết tin Đức Giêsu đến, bà đã không ngần ngại chạy đến kêu xin, nài nỉ sự giúp đỡ của thầy Giêsu. Bà bỏ lại sau lưng sự tự ái, nhảy qua bức tường của sự phân biệt chủng tộc để lẽo đẽo theo Chúa. Nếu khi xin mà được liền thì bà ấy đã chẳng phải theo Chúa một đoạn đường dài như thế. Một tâm hồn đang đau khổ vì đứa con gái bệnh tật, ước mong gặp được thầy Giêsu để được chữa lành ấy thế mà bà chỉ nhận được một sự thinh lặng, không “gật” mà cũng chẳng “lắc”. Tưởng chừng như mọi chuyện đã kết thúc trước sự thinh lặng của thầy Giêsu, nhưng người phụ nữ vẫn kiên trì theo chân Người. Dường như bà ta bị bỏ rơi, chẳng ai thèm để ý đến lời nài van của bà. Thấy vậy, các môn đệ đến xin với Thầy mình rằng: “Xin Thầy bảo bà ấy về đi, vì bà ấy cứ theo sau chúng ta mà kêu mãi!” (Mt 15, 24). Người đáp: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Itraen mà thôi.” (Mt 15, 24). Câu trả lời của Thầy đã quá rõ ràng. Bà ấy không phải là con cái Itraen. Nghe thấy thế, bà càng kêu lớn tiếng hơn: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi!”. Người đáp lại: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con.” Bà ấy nói: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.” Bấy giờ, Đức Giêsu đáp: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy. Từ giờ đó, con gái bà được khỏi.” (Mt 15, 25-28).
Trong hoàn cảnh của người phụ nữ Canaan, chúng ta có đủ bình tĩnh, kiên nhẫn và khiêm tốn được như bà ấy? Tình yêu dành cho con gái là động lực giúp bà vượt qua mọi trở ngại. Ngọn lửa tình yêu ấy đã phá tan cái “lạnh lùng” vốn có của sự thinh lặng và đổi lấy một câu trả lời từ tình yêu và sự chữa lành. Dường như sự thinh lặng của Chúa Giêsu thật khó hiểu. Phải chăng Người đang đợi điều gì đó từ người phụ nữ này? Trước sự kiên nhẫn, khiêm tốn và lòng tin vững mạnh của bà, Đức Giêsu đã cho bà được như ý muốn. Chúng ta cũng có thể làm được điều mà người phụ nữ này đã làm. Chỉ cần chúng ta có đủ tình yêu và vững tin vào tình thương bao la của Thiên Chúa dành cho mình. Bởi Thiên Chúa không hề lạnh lùng với chúng ta nhưng luôn yêu thương và chờ đợi chúng ta.
Lạnh lùng, cứng cỏi, nhẫn tâm! Đó là những từ ngữ mà người đọc có thể dễ dàng buông trên môi TN 20-A174
Lạnh lùng, cứng cỏi, nhẫn tâm! Đó là những từ ngữ mà người đọc có thể dễ dàng buông trên môi khi đọc nội dung câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Sao Chúa Giêsu lại có thể làm ngơ trước một lời cầu xin không chỉ tha thiết, khẩn thiết mà còn là lời cầu nguyện trong sự thâm tín, trong thái độ hiền lành, trong một cõi tâm chân chính?
Hơn thế, Hôm nay Chúa chính thức đến với dân ngoại! Chúa đã thật sự giẫm chân trên miền đất của kẻ ngoại. Người phụ nữ xứ Canaan đang van nài Chúa đúng thật là phụ nữ ngoại giáo.
Đã ở trong vùng của người ngoại, sao lại kỳ thị người ngoại? Người Do thái khinh dể dân ngoại, đó là chuyện của họ. Nhưng Chúa là Chúa. Chúa đến với con người, Chúa đi tìm con người, Chúa muốn con người đón nhận và thờ lạy Chúa, sao Chúa còn kỳ thị? Đã có thái độ kỳ thị, thì còn muốn con người quy phục Chúa để làm gì?
Người phụ nữ ngoại đạo dám đến xin phép lạ cho con mình. Đó đã là một nỗ lực lớn. Bà dư biết, người Do Thái không bao giờ muốn có mối liên hệ với người ngoại, càng không bao giờ muốn tiếp xúc với kẻ vừa ngoại giáo, vừa phụ nữ như bà.
Đàng khác, bà cũng dư biết Chúa là người Do thái, vậy mà bà vẫn muốn đến với Chúa. Chắc chắn, lý do lớn nhất thúc đẩy bà là tình mẹ. Nhưng trong thái độ, cách cư xử vừa nhịn nhục, vừa khôn ngoan, vừa chịu lụy, vừa khéo léo còn cho thấy, bà không đặt Chúa đứng chung hàng ngũ với mọi người Do thái.
Chắc chắn, bà tin Chúa phải có điều gì trổi vượt, phải là người hiểu biết, người thấu suốt và cảm thông để bà đặt lòng tin, đặt niềm hy vọng. Một khi người phụ nữ dám vượt hết mọi rào cản để đến với Chúa, chắc chắn đó không chỉ là nỗ lực của bản thân, mà còn là sự mong mỏi lớn đi liền với lòng tin lớn.
Nhưng thật bất ngờ, thậm chí "sốc" khi thái độ của Chúa là thái độ từ chối quyết liệt. Từ chối bằng im lặng. Từ chối thẳng thừng bằng lời nói: "Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel thôi". Và nặng nề đến mức tàn nhẫn: "Không được lấy bánh của con cái mà ném cho lũ chó con".
Nhưng hình ảnh người phụ nữ thật đẹp. Bà chấp nhận tất cả những thử thách. Bà đối đáp vừa khiêm tốn, vừa đáng thương nhưng không kém thông minh: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống”. Hình ảnh đẹp của bà đã khiến Chúa bật thốt lời khen ngợi: "Bà có lòng tin mạnh", Chúa đã chữa lành cho con gái bà, do đó "bà muốn sao thì được vậy".
Thật là khiêm tốn, nhưng cũng đầy tin tưởng. Thật bất ngờ mà cũng thật đẹp đẽ. Từ cuộc gặp gỡ giữa Chúa và người đàn bà ngoại đạo, cho ta bài học nhận diện lại đức tin và tương quan của mình với Chúa.
Hóa ra điều quan trọng không nằm ở phía Thiên Chúa, nhưng nằm ở phía chúng ta. Thiên Chúa muôn đời vẫn thế, vẫn hằng yêu thương trong một tình yêu rất đỗi quan phòng. Chỉ có ta và lòng tin của ta mới là vấn đề. Ta có tin Chúa hay không? Đức tin của ta mạnh đến mức độ nào? Thiên Chúa có thật là Đấng mà lòng ta tuyệt đối tôn thờ?
Hóa ra Thiên Chúa không im lặng. Thiên Chúa không nhẫn tâm. Lẽ nào một Thiên Chúa vì yêu đã tự nguyện thành người, chịu đau khổ để chia sớt nỗi khổ của nhân loại, lại làm ngơ khi nhân loại kêu nài?
Xin đừng phàn nàn, đừng trách móc Thiên Chúa, mà hãy tự nhìn lại mình, tự nhìn lại đức tin của mình xem nó đang ở mức độ nào?
Những lúc bị nhấn chìm trong thử thách, ta có còn tin Chúa hay không? Những lúc như phải đi trong cả cánh rừng đêm tối, ta có thật sự để ánh sáng đức tin chiếu dọi giúp bản thân can đảm, sáng suốt mà nhận ra đâu là đường phải đi, đâu hướng để nhắm đến không, hay chỉ biết than thân và trách móc Chúa?
Hãy nhìn lại mình, đừng vội nghi nan về lòng yêu thương, về sự đỡ nang của Thiên Chúa. Không sợ Thiên Chúa làm ngơ, không sợ Thiên Chúa im lặng, mà chỉ sợ lòng ta không còn ở lại với Chúa, sợ đức tin của ta lung lay. Xin đừng bao giờ đổ ngược cho Thiên Chúa, mà hãy đấm vào ngực mình mà than rằng “lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng” thì mới chính xác.
Hình ảnh khiêm nhu của người đàn bà ngoại đạo trong Tin Mừng dạy ta phải hết sức kiên trì, hết sức khiêm nhường, hết sức tin tưởng trong khi khẩn nài lòng thương xót của Chúa.
Hãy nhớ, lời cầu nguyện xuất phát từ trái tim chân thành và tình yêu mến thiết tha chắc chắn sẽ được Chúa nhận lời. Hãy luôn tin tưởng Thiên Chúa là Cha nhân hậu. Thiên Chúa chỉ muốn những điều tốt và ích lợi lâu dài cho con người mà thôi.
Tia và Xiđôn là những thành phố trên bờ biển Địa Trung Hải, thuộc Liban ngày nay. Xiđôn nằm TN 20-A175
Tia và Xiđôn là những thành phố trên bờ biển Địa Trung Hải, thuộc Liban ngày nay. Xiđôn nằm cách Tyrô 36km về hướng Bắc, có độ tuổi khoảng 4000 năm trước Công nguyên, được đặt theo tên của Xiđôn, con trai của Canaan; Canaan là con trai của Kham, một trong ba người con trai của Noê; Nôê là người đã đóng một chiếc tàu khổng lồ cứu muôn loài khỏi trận đại hồng thủy: “Các con trai ông Nôê ra khỏi tàu là: Sêm, Kham và Giaphét; ông Kham là cha của ông Canaan…Ông Kham, cha ông Canaan, thấy chỗ kín của cha mình và báo cho hai anh ở ngoài biết…Ông Sêm và ông Giaphét lấy cái áo choàng, cả hai đặt áo lên vai mình, rồi đi giật lùi mà che chỗ kín của cha. Mặt họ quay về phía sau, nên họ không trông thấy chỗ kín của cha. Khi tỉnh rượu, ông Nôê hay biết điều mà đứa con nhỏ nhất của ông đã làm đối với ông; ông liền nói: "Canaan đáng bị nguyền rủa! Nó phải là đầy tớ các đầy tớ của các anh em nó!" Rồi ông nói:"Chúc tụng Chúa, là Thiên Chúa của Sêm; Canaan phải là đầy tớ nó! Xin Thiên Chúa mở rộng Giaphét, nó hãy ở trong lều của Sêm, và Canaan phải là đầy tớ nó!" (Stk 8: 18-27)). Đối với người Do Thái vào thời Chúa Giêsu, Xiđôn đồng nghĩa với sự gian ác. Còn Tia được xây dựng bởi những người ban đầu đến từ thành phố Xiđôn với nhiệm vụ thiết lập một bến cảng mới, cho nên được coi là thành phố chị em của Xiđôn. Những thành phố này chưa bao giờ là một phần của Galilê nhưng ở gần biên giới đông bắc của Galilê. Vào thời Chúa Giêsu, hai thành này ở bên ngoài lãnh thổ của Hêrôđê Antipater, biệt danh Antipas, thủ hiến của Galilê và Pêrêa sau cái chết của cha mình là Hêrôđê Cả (Hêrôđê Cha). Hêrôđê Antipas cai trị Galilê và Pêrêa với tư cách là chư hầu của La Mã và xây dựng các công trình bao gồm thủ phủ Tiberia trên bờ Biển hồ Galilê, còn gọi là hồ Ghennêxarét, để vinh danh người bảo trợ của mình là Hoàng đế La mã Tiberius bấy giờ. Như vậy, Xiđôn và Tia là hai thành phố của dân ngoại. Chúa Giêsu “lui về miền Tia và Xiđôn” (Mt 15:21) này, là để tránh sự chú ý của Hêrôđê Antipas, kẻ vừa cho chém đầu Gioan Tẩy giả, có thể gây hại cho sứ mạng của Ngài: “Thời ấy, tiểu vương Hêrôđê nghe danh tiếng Chúa Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng: "Đó chính là ông Gioan Tẩy Giả; ông đã từ cõi chết trỗi dậy, nên mới có quyền năng làm phép lạ” (Mt 14: 1-2). Chúa Giêsu cũng muốn tránh đối đầu với nhà cầm quyền Do Thái khi chưa thực sự cần thiết, vì “Bấy giờ có mấy người Pharisêu và mấy kinh sư từ Giêrusalem đến gặp Đức Giêsu và nói rằng: "Sao môn đệ ông vi phạm truyền thống của tiền nhân, không chịu rửa tay khi dùng bữa?” (Mt 15: 1-2). Nhất là Ngài muốn tiếp tục tập trung vào việc huấn luyện các Tông đồ của Ngài như Ngài đã làm trong khoảng thời gian vừa qua: các bài giảng bằng dụ ngôn về Nước Trời (Mt 13), phép lạ hóa bánh ra nhiều (Mt 14: 13-21), đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ (Mt 15: 22-33), và rao giảng cho những người Do Thái sống tha hương tại đó.
Hầu hết cư dân của thành Tia và Xiđôn là người thờ các thần ngoại giáo, như đã được thuật lại trong sách Thủ lãnh: “Con cái Israel lại làm điều dữ trái mắt Chúa và làm tôi các thần Baan và Áttôrét, các thần của người Aram, các thần của người Xiđôn…” (Thủ lãnh 10:6), và trong quyển thứ I sách các Vua: “Vua Salômôn yêu nhiều người đàn bà ngoại bang; ngoài ái nữ của Pharaô, còn có các bà thuộc dân Môáp, Ammon, Êđôm, Xiđôn, Khết, những dân mà Chúa đã truyền cho con cái Israel là "các ngươi không được đi lại với chúng, và chúng cũng chẳng được đi lại với các ngươi; vì chắc chắn chúng sẽ làm cho lòng các ngươi ngả theo các thần của chúng” (1 V 11: 1-2). Theo sách Sáng thế ký: “Canaan sinh ra Xiđôn, là con đầu lòng” (Stk 10: 15). Như thế, thành Xiđôn có mối liên quan rất gần gũi với những người Canaan, và là một trong những thành đầu tiên được định cư bởi người Canaan. Thánh Mátthêu gọi người phụ nữ trong đoạn Tin mừng hôm nay là “một người đàn bà Canaan, ở miền ấy” (Mt 15: 22), chỉ ra rằng bà ấy là một người ngoại giáo, dân của một thành thờ các thần ngoại giáo. Điều đó cho thấy đức tin của bà vào Chúa Giêsu là rất đáng chú ý.
Một tiếng kêu phát ra từ một cõi lòng đau khổ
Lời cầu khẩn của người phụ nữ Canaan khá khác lạ: bà nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Mêsia, thậm chí bà còn kêu Chúa Giêsu là Con Vua Đavít, danh hiệu vốn chỉ những người Do thái mới biết: “Lạy Ngài là con vua Đavít” (Mt 15: 22). Người ta không biết chắc bà học được điều này ở đâu, có lẽ bà nghe được nhiều người đồn thổi khi bà cố tìm cách chữa bệnh cho con gái của bà khi bà nhận ra rằng các thầy thuốc và ngay cả các vị thần thánh của xứ sở của bà không thể giúp ích gì cho con gái bà! Chỉ còn cách cầu cứu Vị Thầy Do thái Giêsu mà khắp nơi người ta đang bàn tán rất nhiều: “Khi qua biển rồi, thầy trò lên đất liền, vào Ghennêxarét. Dân địa phương nhận ra Chúa Giêsu, liền tung tin ra khắp vùng, và người ta đem tất cả những kẻ đau ốm đến với Ngài. Họ nài xin Ngài cho họ chỉ sờ vào tua áo của Ngài thôi, và ai đã sờ vào thì đều được khỏi” (Mt 14: 34-36). Có thể bà đã hỏi han nhiều người, tìm hiểu về Chúa Giêsu và bắt đầu tin tưởng vào Ngài. Bà đợi có dịp gặp được Ngài. Nay dịp tốt đã đến, bà liền vội vã đi gặp Chúa Giêsu. Thánh Mátthêu kề: “Ra khỏi đó, Chúa Giêsu lui về miền Tia và Xiđôn, thì này có một người đàn bà Canaan ,ở miền ấy đi ra, kêu lên rằng: "Lạy Ngài là con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!” (Mt 15: 21-22). Bà không đợi Chúa Giêsu lên tiếng nhưng mau chóng đưa ra lý do, và cũng là một lời cầu khẩn: “Đứa con gái tôi bị quỷ ám khổ sở lắm!” (Mt 15: 22). Một lời cầu xin cho con gái khổ sở của bà và cũng là cho tình cảnh đáng thương của chính bà, đầy lòng tin tưởng vào quyền năng của Vị Thầy Giêsu, dù không cùng dân tộc với bà. Có sao đâu, miễn là con gái tôi được cứu, và cả tôi nữa! Chúng ta nhớ lại câu kêu cứu của Phêrô tuần trước: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (Mt 14: 30). Có sao đâu, đây là Vị Thầy có thể cứu tôi thì sao tôi lại không kêu cầu Ngài cơ chứ? Điều này trái ngược với sự không tin của người Do Thái đối với Chúa Giêsu: “Những kẻ đạo đức giả kia, ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” (Mt 15: 8-9). Bà bày tỏ nhu cầu của mình bằng những từ rõ ràng, đơn giản trong đời thường của một người mẹ thương con, xuất phát từ một tấm lòng tin tưởng và với tất cả sự khiêm nhường. Vậy mà… “Ngài không đáp lại một lời” (Mt 15: 23), lại nói tránh đi, không nói thẳng với bà, mà với các môn đệ của mình: “Thầy chỉ được sai đến với những con chiên lạc của nhà Israel mà thôi” (Mt 15: 24). Hẳn bà nghe thấy và hiểu ra rằng ngay cả là con chiên lạc của nhà Israel bà cũng không phải, không xứng đáng được nói chuyện với Vị Thầy Israel này, nói chi đến chuyện được quan tâm và cứu chữa. Thánh Mátthêu kể tiếp: “Bà ấy đến bái lạy Ngài” (Mt 15:25); rõ ràng bà không nản lòng trước những trở ngại, nhưng kiên trì và sẵn sàng làm mọi thứ, kể cả quỳ xuống phủ phục bái lạy Đấng mà mình tin chắc có thể cứu giúp mình. Chính vì thế, một lần nữa, bà lại kêu lên: “Lạy Ngài, xin cứu giúp tôi! Xin dủ lòng thương tôi!” (Mt 15: 22).
Đây là lần thứ hai bà khẩn cầu Chúa Giêsu, nhưng lại là lần thứ hai Chúa Giêsu khước từ; Ngài so sánh có vẻ nặng nề hơn: “Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con” (Mt 15: 26). Kinh Thánh cho biết chó có thói quen ăn những vật dơ bẩn. Chó ăn xác chết (I V 21:23-24), liếm máu người (II Vua 22:38), liếm lại thứ nó đã mửa ra (Cn 26:11), liếm ghẻ chốc (Lc 16:21). Vì chó ăn những vật dơ bẩn, cho nên các dân tộc sống ở vùng Cận Động đã dùng chữ “chó” để mô tả khái niệm bẩn thỉu như liếm ghẻ chốc, hung bạo như liếm máu người, dại dột vì liếm lại đồ đã mửa ra, và man rợ vì ăn xác chết. Câu nói của Chúa dường như có vẻ tàn nhẫn, lạnh lùng, và mang tính miệt thị. Hẳn người phụ nữ Canaan hiểu Vị Thầy Do thái Giêsu có ý nói rằng bánh phúc lành mà Thiên Chúa dành cho người Do Thái, con cái của Ngài, không thể quăng ném phung phí cho dân ngoại như quăng ném cho chó con. Bà không thể mong đợi nhận được những điều chỉ dành cho những đứa con trong gia đình, vì bà không phải là một thành viên trong gia đình của Thiên Chúa.
Sứ mệnh của Chúa Giêsu hướng đến những con chiên lạc nhà Israel.
Người ta nhớ đến câu Chúa nói trước kia: “Của thánh, đừng quăng cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em” (Mt 7: 6). Chúa Giêsu đến để đem Tin Mừng của Ngài cho toàn thế giới, nhưng chính Ngài chỉ ngỏ lời với người Do Thái, dân tuyển chọn của Thiên Chúa. Chỉ sau này Ngài mới giao nhiệm vụ cho các Tông Đồ của Ngài đi rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Chính Thánh Phaolô, trong các cuộc hành trình truyền giáo, cũng đã chủ trương rao giảng cho người Do Thái trước tiên: “Bấy giờ ông Phaolô và ông Banaba mạnh dạn lên tiếng: "Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại” (Cv 13,46). Thánh Phaolô cũng nói rõ trong bài đọc thứ hai hôm nay: “Tôi xin ngỏ lời với anh em là những người gốc dân ngoại. Với tư cách là Tông Đồ các dân ngoại, tôi coi trọng chức vụ của tôi, mong sao nhờ vậy mà tôi làm cho anh em đồng bào tôi phải ganh tị, và tôi cứu được một số anh em đó. Thật vậy, nếu vì họ bị gạt ra một bên mà thế giới được hoà giải với Thiên Chúa, thì việc họ được thâu nhận lại là gì, nếu không phải là từ cõi chết bước vào cõi sống?... Quả thế, khi Thiên Chúa đã ban ơn và kêu gọi, thì Ngài không hề đổi ý” (Rm 11:13-15, 29).
Thành khẩn trông chờ sự thương xót và lòng nhân từ của Chúa
Dẫu sao, một người bình thường sẽ rất khó chịu khi bị người ta gọi mình là chó. Một người kính trọng Chúa Giêsu như bà, và cả chúng ta, sẽ kinh ngạc và thắc mắc tại sao Chúa lại dùng những lời lẽ như vậy. Tuy nhiên, người phụ nữ Canaan này đã không cảm thấy bị xúc phạm trước câu nói của Chúa. Bà không quan tâm đến từ ngữ mang tính miệt thị mà người Do Thái thường dùng - và Chúa đã cố tình sử dụng để thử đức tin và thái độ của bà. Bà cũng không dám thay đổi chương trình và ý định của Thiên Chúa ban phúc lành cho người Do Thái. Bà công nhận những gì Chúa Giêsu nói là đúng và đã thưa với Chúa Giêsu rằng: “Thưa Ngài, đúng thế” (Mt 15:27). Bà vui lòng chấp nhận mình là lũ chó con, một cách hết mực khiêm cung, thành khẩn trông chờ sự thương xót và lòng nhân từ của Chúa: “nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống.”
Trước tấm lòng thành khẩn, khiêm cung, cùng với đức tin của người phụ nữ Canaan, Chúa Giêsu đã chữa lành cho con gái của bà. Chúa Giêsu khen người phụ nữ này: “Này bà, lòng tin của bà mạnh thật. Bà muốn sao thì sẽ được vậy” (Mt 15: 28). Và tác giả Mátthêu viết tiếp: “Từ giờ đó, con gái bà được khỏi” (Mt15:28). Chúa Giêsu đã đuổi quỷ ám ra khỏi con gái của người phụ nữ dân ngoại này, và ban bánh dành cho con cái của Thiên Chúa cho gia đình ngoại đạo này.
Đặt cuộc đời bị tổn thương của mình dưới chân Chúa Giêsu
Tôi có bao giờ kêu cầu Chúa Giêsu “Lạy Chúa Giêsu, xin cho con được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống, những mảnh vụn ân sủng từ Chúa. Thế là đủ cho con rồi” với tất cả lòng khiêm hạ, kiên trì và cậy tin như người phụ nữ dân ngoại chưa?
Chúng ta cũng cần phải có những phẩm chất đức tin, cậy trông, kiên trì và khiêm hạ như thế khi trò chuyện với Chúa Giêsu. Cuộc trò chuyện của chính chúng ta với Chúa Kitô cần phải có tâm tình của người phụ nữ Canaan, như Đức Thánh Cha Phanxicô trong bài chia sẻ Tin mừng tại buổi đọc kinh Truyền tin ngày 16 tháng 8 năm 2020: “Mỗi người chúng ta đều có câu chuyện của riêng mình, một câu chuyện thường khó khăn, đầy đau đớn, bất hạnh và tội lỗi. Tôi phải làm gì với câu chuyện của mình. Tôi có giấu nó không? Không. Thay vào đó, chúng ta phải mang nó đến với Chúa. Hãy suy nghĩ về câu chuyện cuộc đời của chính mình và biến lời cầu nguyện của người phụ nữ Canaan thành của chính mình. Chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu, gõ cửa trái tim Chúa Giêsu và nói với Ngài: “Lạy Chúa, nếu Chúa muốn, Chúa có thể chữa lành con.” Chúng ta sẽ có thể làm được điều này, nếu chúng ta luôn giữ khuôn mặt của Chúa Giêsu trước mặt chúng ta. Chúa Giêsu yêu thương chúng ta, con người thật của chúng ta, không giả tạo, với một tình yêu và lòng trắc ẩn gánh chịu tội lỗi, lỗi lầm và thất bại của chúng ta. Chúa Giêsu là Đấng yêu thương chúng ta, yêu thương chúng ta rất nhiều, vô cùng mong muốn cho chúng ta được hạnh phúc.” [*]
Lời cầu nguyện kiên trì của chúng ta không nhất thiết làm Thiên Chúa thay đổi, nhưng nó sẽ thay đổi chúng ta. Tất cả những điều này đều có thể thực hiện được nếu chúng ta để Chúa kiểm soát và để ý muốn, kế hoạch của Ngài thành hiện thực trong cuộc sống của chúng ta.
Cuộc gặp gỡ của Đức Giê-su và người phụ nữ xứ Ca-na-an trong bài Tin Mừng Chúa nhật 20 Mùa TN 20-A176
Cuộc gặp gỡ của Đức Giê-su và người phụ nữ xứ Ca-na-an trong bài Tin Mừng Chúa nhật 20 Mùa thường niên năm A thật tuyệt diệu. Bà tha thiết nài xin Chúa chữa cho cô con gái duy nhất của bà khỏi bị quỷ ám. Cuối câu chuyện Chúa đã chữa cho cô được khỏi bịnh. Nhưng giữa lời cầu xin của bà và việc chữa lành của Đức Giê-su là những lời đối thoại thật khó nghe từ Chúa. Tuy nhiên, cả hai nhân vật trong trình thuật đến với nhau bằng lòng chân thành và cả hai đều ‘khát khao’ tìm cách lấp đầy uớc muốn của nhau cho nên Đức Giê-su và người phụ nữ ngoại giáo đã gặp nhau. Sau đây chúng ta cùng nhau tìm hiểu ước mong, lòng can đảm pha chút lỳ lợm của người phụ nữ và tính phổ quát của ơn cứu độ mà Đức Giê-su muốn tỏ bầy.
Người phụ nữ Ca-na-an đã làm một hành động mà ít ai dám làm. Vì là dân ngọai và được coi như kẻ thù của dân Ít-ra-en cho nên việc bà công khai đến gặp Đức Giêsu có thể gây ra nhiều điều dị nghị. Hơn thế nữa, việc bà dám nói chuyện với một nam nhân giữa chốn đông người cũng không phải là hành vi hay cử chỉ của một phụ nữ đoan chính thời đó. Bà sẵn sàng đón nhận những lời chỉ trích và khinh khi từ kẻ khác, thậm chị các lời phê bình này có thể xuất phát từ môi miệng của những người trong nhóm của bà. Bà không còn thời gian để nghĩ đến những điều mà chúng ta vừa nói ở trên. Ngay lúc gặp Đức Giê-su, bà chỉ nghĩ được một điều duy nhất là tìm đến người sẽ chữa cho con bà khỏi bịnh. Chỉ có Tình yêu mới là động lực thúc đẩy bà vuợt qua mọi trở ngại.
Hòan cảnh của bà thật nghèo nàn. Bà cần giúp đỡ. Điều bà cầu xin nói lên tâm tư của một người mẹ, sẵn sàng làm tất cả mọi sự cho con mình. Cô con gái đó là nguồn vui, lẽ sống và là mọi sự của bà. Thế mà giờ đây, cô bị bịnh nan y, như bị quỉ ám. Bà cần làm tất cả cho con bà. Tình yêu, lòng thuơng xót của bà dành cho cô ta thúc đẩy bà vuợt qua mọi ranh giới.
Bà biết mình đâu được hưởng những đặc ân dành cho dân Is-ra-el. Tuy nhiên, trong lòng bà có một cơn khát vô bờ bến. Tuy phận là phận của người ngọai giáo, nhưng bà lại xưng hô với Đức Giêsu theo cách của người Do Thái thưa chuyện với Đức Mêsia, kêu cầu rằng: “Lạy Ngài là Con vua Đa-vít”. Dù là như thế, lời cầu xin của bà vẫn không được Chúa đáp nhận; cho đến khi bà đã tôn thờ Đức Giêsu như người ta bái lạy Thiên Chúa. Niềm xác tín của bà thật vĩ đại, dù là chó con, bà cũng được ăn những mảnh vụn từ trên bàn của chủ rơi xuống.
Còn Đức Giêsu thì sao? Người đến để thi hành ý định của Thiên Chúa. Tuy nhiên, với thân phận của một con người, Người cũng bị giới hạn về phong tục, địa dư, bối cảnh mà Người đã được sai đến. Người có đuợc sai đến vẫn là cho dân Is-ra-el trước hết.
Cho dù là như thế, chúng ta cũng không mấy hài lòng về thái độ của Đức Giêsu. Người thinh lặng và xem ra coi thuờng lời van xin của người phụ nữ Ca-na-an. Thật ra, không hẳn là như thế. Bởi vì, khi mô tả và trình bầy Đức Giêsu như thế, Thánh sử muốn đưa chúng ta đi từ ngạc nhiên, có thể gọi là bất đồng về thái độ của Chúa… Nhưng, khi gặp đuợc lòng kiên định và xác tín của bà; Chúa lại có cơ hội phá tung và quét sạch mọi cấm kỵ, mọi qui uớc, mọi lề luật do ‘tính bè phái’ của con người (nhỏ nhen, ích kỷ) tạo ra.
Quả thật cũng không sai khi chúng ta cho rằng nhờ vào sự kiên trì pha chút bướng bỉnh người phụ nữ Ca-na-an này mà Đức Giêsu đã có cơ hội bộc lộ chân tuớng đích thật của Đấng Thiên Sai; Đấng đuợc sai đến không chỉ dành cho người Do Thái mà thôi. Người đến để đem nguồn vui và ơn cứu độ cho muôn dân.
Sau cùng, trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, còn một nhóm người nữa. Họ là các môn đệ tượng trưng cho mỗi người chúng ta. Chỉ vì quyền lợi riêng, chỉ muốn được bình an, cho dù là giả tạo, nên đã xin Chúa bảo bà ấy đi để khỏi bị quấy rầy. Chúng ta đã gặp lời yêu cầu này trong trong phép lạ bánh hóa nhiều, khi các môn đệ không nhìn thấu nhu cầu của dân chúng mà chỉ biết đến quyền lợi của phe nhóm mình, muốn giữ lấy Đức Giê-su cho các mục tiêu mà họ đang đeo đuổi.
Thưa anh chị em,
Khi nghe câu chuyện này, chúng ta dễ nhận ra thân phận mình trong thân phận của người phụ nữ Ca-na-an. Cũng như bà, chúng ta chạy đến với Chúa để xin ơn, cho dù là ơn cứu độ. Nhưng, chúng ta đã kiên tâm như bà hôm nay chưa? Và thay vì xin cho nhu cầu của riêng mình; chúng ta có quảng đại trong lời cầu, xin cho những người đuợc Chúa gửi đến trong vòng tay yêu thuơng của chúng ta hay chưa? Không ai có thể trả lời các câu hỏi nêu trên thay cho chúng ta!
Muốn đạt đuợc nguyện uớc này, chúng ta cần có một trái tim quảng đại và nhậy cảm trước các nhu cầu thể chất và tinh thần của tha nhân mà chúng ta thuờng gặp. Họ không chỉ là những người đồng đạo, cùng chia sẻ một tín ngưỡng, cùng chung một quan điểm với chúng ta. Thật ra, còn có nhiều người mà chúng ta liệt họ vào ‘phe khác’; nhưng họ lại có lối sống và niềm tin mãnh liệt hơn chúng ta. Họ xứng đáng đón nhận phần ăn từ trên bàn của chủ, như chúng ta. Nhưng, đã nhiều lần, chỉ vì óc bè phái, tinh thần thủ cựu, khư khư ôm giữ truyền thống và tục lệ mà chúng ta đã ngăn cản họ đồng bàn và cùng chia sẻ hồng ân với mình.
Chúng ta còn tự nhốt mình vào pháo đài của giai cấp rồi tự cao tự đại, kiêu căng cho rằng chỉ có mình mới là kẻ xứng đáng rồi khinh chê người khác. Thật ra, không ai trong chúng ta lại không có một chút ‘huyết thống’ với những người mà chúng ta gọi là dân ngọai. Thế mà lại ra vẻ ta đây, giở giọng đạo đức giả, tôn kính Chúa bằng môi bằng miệng, còn lòng thì lại xa Chúa.
Hãy nhớ rằng: tình yêu dành cho cô con gái, sự bình thản nhưng cương quyết pha một chút bướng bỉnh của người phụ nữ Ca-na-an hôm nay đã khiến Chúa động lòng thương và từ chỗ động lòng thương Người đã nhận ra tính phổ quát của ơn cứu độ của Thiên Chúa. Người không chỉ được sai đến cho dân Do Thái mà còn cho lũ chó con nữa bởi vì tất cả đều là con của Thiên Chúa. Nơi Người, ơn cứu độ chứa chan, không loại trừ một ai.
Cũng thế, những ‘lũ chó con’ mà chúng ta gặp trong cuộc sống không là những trở ngại, mà còn là cơ hội để chúng ta nhận ra sự phong phú của Thiên Chúa, Đấng không chỉ họat động nơi các kẻ tin mà còn âm thầm tác động nơi ‘lũ chó con’ để tất cả muôn dân đều đuợc cứu độ. Amen! Lm. Giuse Mai Văn Thịnh, DCCT