Có phải chỉ đứa trẻ mới đặt câu hỏi, tại sao biển khơi lúc nào cũng đầy sóng gió, đầy nguy hiểm TN 19-A151
Có phải chỉ đứa trẻ mới đặt câu hỏi, tại sao biển khơi lúc nào cũng đầy sóng gió, đầy nguy hiểm ? Chắc không phải ai cũng đủ bản lĩnh chiến đấu với kẻ gian ác, trong khi mọi người đều tự do để sống tinh thần: ba cây chụm lại nên hòn núi cao. Người già, người trẻ, khác nhau về nhận thức, kinh nghiệm, nhưng luôn có chung khao khát đầy đủ “năng lượng”, cùng nhau sống bình an hạnh phúc. Thực tế, dù văn võ song toàn cũng chẳng ai muốn đối đầu với kẻ ngông cuồng gian ác, hoặc phải biết sống dĩ hoà vi quý: một sự nhịn chín sự lành. Khó khăn, phức tạp, nơi cuộc sống là điều không thể tránh, việc cần làm là lựa chọn cách thức để vượt qua. Tình thầy trò, tình bạn hữu, tình đôi lứa, tiêu chí đẹp chính là bình đẳng, sống thân thiện, cởi mở, dễ dàng trong giao tiếp, hãy trân trọng tình liên đới hiệp thông.
Năm xưa Thầy Giêsu cắt ngang niềm vui nơi các học trò, sau khi Thầy thực thi đức yêu thương và quyền năng cho đám đông được ăn no, Thầy giục các ông xuống thuyền vượt biển hồ. Trên con thuyền vượt biển vắng bóng Thầy, phải đối diện với đêm đen gió lớn, khiến các ông hoảng loạn, nhìn nhận sự việc không còn chuẩn, “ma kìa” ! Các chuyên gia cho rằng: tiền là thứ sắc sảo nhất, tiền có thể cắt được những thứ mà dao kéo không thể cắt, đó là tình yêu và tình bạn. Trong khi đó, “nghi ngờ”, lại là nguyên nhân phá hỏng các mối tình thân thương nhất. Đức Giêsu có mặt đúng lúc, đúng hoàn cảnh “bi đát” của các học trò, với lời trấn an: “chính Thầy đây, đừng sợ”. Vâng, khổ đau, sợ hãi, làm người ta mất bình tĩnh, dẫn đến sai lạc đủ điều; sóng gió, tại biển hồ hôm đó, khiến các học trò không nhận ra sự có mặt kịp thời của Thầy !
“Chính Thầy đây, đừng sợ” ! Có phải vì nghi ngờ, hay vì sự nhanh nhạy nhất trong số môn đệ, ông Phêrô buột miệng nói: “nếu phải là Thầy, xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy”. Có lẽ Đức Giêsu không phải “lỡ yêu”, đúng hơn, Vị Thầy muốn cho Phêrô và cả thế giới nghe thật rõ lời yêu thương: “chính Thầy đây, đừng sợ”. Mang thân phận người, không ai hoàn hảo, chẳng có phương tiện nào tuyệt đối an toàn, chẳng có hành trình nào không có “sóng gió”, hiểu cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Cũng không có đối tượng nào mà Thiên Chúa tạo dựng lại không quan tâm, Đức Giêsu đến trần gian không phải vì người công chính, dù tội nhiều, lỗi ít, vẫn nằm trong chương trình của Chúa, hãy tin tưởng kêu cầu: “lạy Thầy, xin cứu con”. Thầy Giêsu giơ tay cứu Phêrô và Thầy tỏ cho các học trò nhận biết tình yêu thương của Thiên Chúa.
“Chính Thầy đây”, sẽ còn là điều kỳ diệu cho con người mọi thời đại, nếu cuộc đời gặp giông tố, bão táp, hãy khiêm tốn thân thưa: “lạy Thầy, xin cứu con”. Thời gian là thứ quý giá mà cuộc sống ban tặng mỗi người, thời gian có thể làm ta quên mình là ai, thời gian có thể giúp ta biết rút kinh nghiệm mà sống có ý nghĩa hơn. Hãy quên lời quở trách “đồ hèn tin, tại sao lại nghi ngờ”, ở mọi hoàn cảnh, hãy ghi vào con tim khối óc của mình: “chính Thầy đây, đừng sợ”. Đức Giêsu không hứa sẽ cho chúng ta một con thuyền vĩ đại, chắc chắn, cũng không ban cho con người phương tiện hiện đại nào để không có sóng gió, bão táp nguy hiểm ! Ở trong con thuyền giáo hội, mọi người sẽ cảm nhận được bình an vì có sự hiện diện của tình yêu Giêsu.
Hành trình đời người đầy nguy hiểm phức tạp, dù không thể đương đầu hoặc né tránh sóng gió, với ơn ban tự nhiên, ai cũng có tự do ít là để tự vệ: khoẻ dùng sức, yếu dùng mưu. Cuộc đời cao quý lắm, hãy chân thành và sống hết tình, hết mình, đừng nuối tiếc những thành quả đã gầy dựng, hãy hướng đến hành trình hạnh phúc ở phía trước. Lời trấn an từ sâu thẳm nơi mỗi người: “chính Thầy đây, đừng sợ”, hãy tin, sóng gió cuộc đời sẽ dịu êm, khi ta biết cậy dựa vào sức mạnh tình yêu Giêsu. Đau khổ, thất bại, gió lốc, bệnh tật, đang mài giũa ta thành “hình tròn”, nghĩa là ta sẽ tròn đầy nhân đức, lăn xa mãi đến đích hạnh phúc. Năm xưa các môn để hoang mang sợ hãi không phải chỉ vì sóng gió, chính xác vì thiếu sự hiện của Thầy Giêsu. Trên con thuyền giáo hội hôm nay, chúng ta không sợ đói khát, điều đáng sợ là chúng ta thiếu niềm tin, thiếu sức mạnh tình yêu Chúa để chiến thắng sự dữ, sự xấu.
“Chính Thầy đây”, sẽ còn vang vọng suốt hành trình vượt biển trần của mỗi chúng ta, dù không phản ứng nhanh nhạy như Phêrô “lạy Thầy, xin cứu con”, Đức Giêsu vẫn đang hiện diện trên con thuyền cuộc đời của ta. Có một anh thanh niên tìm đến thiền viện xin sư phụ nhận làm đệ tử, thiền sư hỏi: bạn đến với ta để tìm hư danh, tìm sự thông thái, trường thọ, hay tìm phú quý ? Người thanh niên: dạ thưa thầy, con đến thiền viện này, rất ước mong phản ánh được một chút thánh đức của thầy. Vượt biển trần gian, đúng là không thể tự sức mình mà đến bến bờ, có chăng chỉ là ảo tưởng, người thanh niên đã ý thức sự đơn độc của mình, thật khôn ngoan để vượt biển trần, với sự thông hiệp của thiền viện. Không ai ở ngoài kế hoạch tình yêu thương của Thiên Chúa, hãy tin và hãy xin, bạn sẽ nghe được lời trấn an: “chính Thầy đây, đừng sợ”.
Sau khi đã cho dân chúng ăn no nê, Chúa Giêsu giục các môn đệ xuống thuyền mà qua bờ bên TN 19-A152
Sau khi đã cho dân chúng ăn no nê, Chúa Giêsu giục các môn đệ xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Chiều đến, Người vẫn ở đó một mình. Còn chiếc thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió. Các môn đệ vất vả chèo chống. Khoảng canh tư, Đức Giêsu đi trên mặt biển mà đến cùng các ông (Mt 14, 22-33). Có qua nhiều con sóng dữ dội mà cả Thầy và trò phải đối diện.
Đứng trước những lời khen ngợi, tung hô ai trong chúng ta chẳng thấy vui sướng. Dường như chúng ta cứ muốn ở lại mãi trong cảm giác lâng lâng, tê tê của sự thành công. Đức Giêsu và các môn đệ vừa làm một việc thật quá tuyệt vời. Chỉ với năm cái bánh và hai con cá mà cả đám đông dân chúng được no nê.Thầy tài giỏi thì trò cũng sướng lây. Ấy thế mà Chúa Giêsu lại không muốn các môn đệ của mình ảo tưởng, ở lại trong sự tung hô, vui sướng ấy. Người muốn các ông đi xuống thuyền, qua bờ bên kia trước. Phận làm trò không dám cãi lệnh thầy, các ông vâng lời xuống thuyền, bỏ lại sau lưng những lời ca khen nức mũi. Lòng hãy còn chút quyến luyến, ra giữa khơi các ông lại phải chống chọi với cơn sóng dữ của biển cả. Sóng lòng chưa đủ hay sao mà nay còn thêm sóng biển. Chắc hẳn các ông ai cũng mệt mỏi vì phải tự mình chống chọi với sóng biển khi không có Thầy bên cạnh. Sự đời khó là ở chỗ đó.
Đức Giêsu đã ở lại trên bờ, lên núi cầu nguyện cho đến khoảng canh tư mới đi trên mặt biển mà đến với các ông. Đức Giêsu biết rằng, đám đông đang muốn tôn mình làm vua. Người đang phải đối diện với cơn sóng trong lòng. Dường như đám đông chỉ muốn tôn Ngài làm vua của họ. Còn Thiên Chúa, Ngài muốn Con Một yêu dấu làm vua toàn cõi địa cầu, làm vua tình yêu. Sóng lòng cũng nổi lên từ đó. Đứng trước cơn sóng ấy, Đức Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha. Ngài chỉ muốn làm theo thánh ý Cha vì lương thực của Ngài là thi hành thánh ý Cha. Bởi đó, Ngài chọn cách rút lui, lên núi cầu nguyện một mình, bỏ lại sau lưng những khen chê.
Vượt qua cơn sóng lòng, Đức Giêsu đến với các môn đệ trong con sóng biển đang gầm thét, lấy hết sức lực của các môn đệ. Trời nửa tối, nửa sáng, các môn đệ hoảng hốt khi nhìn thấy Thầy đi trên mặt biển mà đến với mình. “Ma kìa!”, các ông hoảng hốt la lên. Trước sự dữ tợn của biển cả, lại có Người cả gan đi trên mặt biển, các ông tưởng ma là phải. Phêrô muốn chứng thực nên xin Thầy cho mình được đi trên mặt biển mà đến với Ngài. Một lời đề nghị thật táo bạo. Được Thầy cho phép, ông hiên ngang bước đi trên mặt biển. Nhưng vừa bước được mấy bước và khi thấy sóng biển nổi lên, ông đâm sợ. Khi bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” (Mt 14, 30). Phêrô được một phen hết hồn hết vía. Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?” Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay (Mt 14, 31-32).
Đi giữa biển đời, nhiều lần chúng ta cũng phải trải qua những đợt sóng dữ dội. Nó không kém gì với những cơn sóng của Thầy trò Chúa Giêsu hôm nay. Cơn sóng đó có thể được tạo nên từ sự xung khắc của những chọn lựa. Chọn sống theo giáo huấn của Chúa hay chọn theo kiểu sống của người đời? Chọn được ca khen, tung hô hay chọn âm thầm phục vụ? Chọn sống theo khuôn phép hay chọn sống buông thả, dễ dãi? Đứng trước những cơn sóng lòng, chúng ta hãy rút lui, cầu nguyện như Chúa Giêsu đã làm. Cầu nguyện để ta có thể bình tâm chọn lựa đúng đắn. Khi bắt đầu “chìm” thì hãy khiêm tốn kêu cầu Chúa như Phêrô đã làm. Đừng ngại khi nghe Thầy trách mắng. Hãy vững tâm và tin rằng, dù chuyện gì xảy ra đi nữa thì chúng ta cũng đang ở trong tầm ngắm của Chúa. Ngài thấy và biết rõ chúng ta đang phải đối diện vưới khó khăn, thử thách và Ngài sẽ xuất hiện đúng lúc. Lúc bấy giờ, biển sẽ lặng và gió sẽ ngưng.
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Thường Niên XIX, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn TN 19-A153
chúng ta ý thức rằng: chúng ta đã được phúc gọi Thiên Chúa là Cha, nên chúng ta phải ngày càng hiếu thảo với Người, để chúng ta đáng được hưởng gia nghiệp mà Thiên Chúa đã hứa ban.
Thật vậy, Chúa Nhật XIX Thường Niên là Chúa Nhật của tình phụ tử, tình Cha chí ái: các bản văn Lời Chúa được các nhà phụng vụ lựa chọn đều xoay quanh chủ đề này. Mở đầu bằng bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Hôsê cho thấy: Thiên Chúa như người cha nhân từ, bị con cái đối xử bạc bẽo: Khi Ítraen còn là đứa trẻ, Ta đã yêu nó, từ Aicập Ta đã gọi con Ta về, nhưng ta càng gọi chúng, chúng càng bỏ đi. Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi. Mặc dù, bị con cái đối xử bạc bẽo, nhưng, ngôn sứ Hôsê cho biết: Thiên Chúa vẫn một dạ xót thương, và Người không hành động theo cơn nóng giận. Điều này được sách các Vua quyển thứ nhất nói đến trong bài đọc một của thánh lễ: Ngôn sứ Êlia đang bị bách hại, ông những mong Thiên Chúa ra tay can thiệp, tiêu diệt những kẻ đang truy cùng diệt tận ông. Tuy nhiên, Thiên Chúa không hành động theo cơn nóng giận: không ở trong gió bão, không ở trong trận động đất, không ở trong lửa, nhưng, lại hiện diện qua làn gió hiu hiu…
Bài đọc hai của giờ Kinh Sách trích từ sách Đối Thoại của thánh Catarina về Thiên Chúa là Cha Quan Phòng, thánh nữ có cùng tâm tình với thánh Phaolô khi nói: Làm sao con có thể yên tâm khi thấy con được hưởng sự sống, còn dân Chúa lại chìm trong sự chết? Trong bài đọc hai, thánh Phaolô viết cho những tín hữu Rôma: là những người dân ngoại, thánh nhân cho biết: mặc dù, họ không phải là con cháu của các tổ phụ về mặt huyết thống, nhưng, họ vẫn thuộc về dõng dõi của các ngài, vẫn là con cái của Thiên Chúa, và khi thánh Phaolô nói điều này, thì ngài đã cam chịu bị nguyền rủa bởi những người đồng bào của mình, và chấp nhận bị xa lìa Đức Giêsu về mặt huyết thống.
Bài Đáp Ca, với Thánh Vịnh 84, vịnh gia cho thấy Thiên Chúa là Cha nhân ái qua việc Người tỏ lòng nhân hậu và ban ơn cứu độ cho chúng ta. Thiên Chúa nhận chúng ta làm nghĩa tử qua việc Người ban cho chúng ta Ngôi Lời, Con Một của Người, làm Đấng trung gian hòa giải giữa chúng ta với Người, để: tín nghĩa, ân tình được hội ngộ; hòa bình, công lý được giao duyên. Người sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Người, để vinh quang của Người hằng chiếu toả trên đất nước chúng ta.
Trong bảy ơn Chúa Thánh Thần, ơn đạo đức đi trước ơn kính sợ, khi nghe nói tới “đạo đức”, chúng ta nghĩ ngay tới các nhân đức. Tuy nhiên, ơn đạo đức (Piety, don de piété) dịch đúng phải là: ơn hiếu thảo, là đạo làm con. Một người con năng chạy đến với cha là người con có hiếu. Ơn kính sợ cộng với ơn hiếu thảo khiến ta: kính sợ Chúa như con cái yêu mến, kính sợ Cha hiền. Ơn hiếu thảo là một ơn riêng của Chúa Thánh Thần, và với ơn này, chúng ta mới dám gọi Thiên Chúa là Cha của mình (x. Ga 4,6; Rm 8,15). Các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin cho mình: ngày càng hiếu thảo với Chúa, để ta đáng được hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban.
Chúng ta phải hiếu thảo với Chúa bằng cách nào? Thưa, bằng cách tin tưởng, phó thác như con thơ trong tay Cha nhân hiền. Chắc hẳn, chúng ta đã từng chứng kiến cảnh: ông bố tung đứa con bé nhỏ của mình lên không trung, có em thì thích thú, phấn khởi, bảo bố tung nữa đi, nhưng, cũng có em lại quấy khóc, và đòi bố mau mau bỏ mình xuống đất, đâu là điểm khác nhau giữa hai em bé này?
Chúng ta ở trong trời đất này, đầu đội trời chân đạp đất, chúng ta không thể đi trên nước, nhưng, thánh Phêrô lại xin được đi trên mặt nước mà đến với Đức Giêsu. Khi tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, thánh nhân đã đi được trên nước, nhưng, khi thấy gió nổi lên, thì đâm sợ, mà bị chìm xuống, và bị Chúa trách: kém lòng tin. Nếu chúng ta tin tưởng mình đang ở trong vòng tay của Chúa như con thơ đang được bố tung hứng, thì sóng gió cuộc đời có hề chi, ngược lại, chúng ta lại còn thấy thích thú, phấn chấn nữa là khác.
Bài Tin Mừng cho thấy Thiên Chúa là Cha quan phòng, luôn có mặt để giải cứu con cái mình thoát những điều nguy hại. Tin Mừng thuật lại: Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay. Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!” Thiên Chúa không tạo dựng vũ trụ, rồi để mặc cho nó vận hành theo những quy luật của nó, nhưng, Thiên Chúa là Cha nhân hậu, Người luôn nhập cuộc, Người đã xuống thuyền cùng với con người, đồng cam cộng khổ với con người. Con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, ấy thế mà, Thiên Chúa lại muốn trở nên giống con người trong thân phận phàm nhân. Người đã lấy nhân tính khốn cùng và tội lỗi của Ađam làm đám mây che khuất thần tính vĩnh cửu của Người. Thiên Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho những ai kính sợ Người. Kính sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan, nhưng, chúng ta kính sợ Chúa: không như người đầy tớ khiếp sợ ông chủ hà khắc, mà là, kính sợ Chúa như con thơ kính sợ Cha hiền. Xin cho chúng ta biết ngày càng sống hiếu thảo với Chúa để đáng được hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban. Ước gì được như thế!
Quý vị có bao giờ rơi vào vũng lầy khổ đau tuyệt vọng, hay bối rối hoang mang trước khó khăn TN 19-A154
Quý vị có bao giờ rơi vào vũng lầy khổ đau tuyệt vọng, hay bối rối hoang mang trước khó khăn của cuộc đời không? Có lẽ trong những lúc gặp bất trắc xảy đến thì điều chúng ta cần chính là có một cánh tay tình thương chạm vào ta và truyền thêm sức mạnh, để vết thương trong ta được xoa dịu, để lòng ta được bình yên hầu can đảm vượt qua những đoạn đường nghiệt ngã.
Đây là bàn tay nâng đỡ mà ai cũng cần ít nhất vài lần trong đời, vì sống trong cuộc đời có mấy ai luôn mỉm cười thanh thản trước những đổi thay bất chợt, mà dường như luôn sững sờ lo sợ trước đổi thay! Vì biển đời mênh mông vô tận, trong lòng nó luôn chất chứa những đợt sóng ngầm, nó sẽ sẵn sàng kéo con thuyền ta ra xa và nhấn chìm bất kỳ lúc nào nếu ta không kịp tỉnh táo và đủ sức để đối phó.
Nhìn vào đàn ngỗng bay hình chữ V cũng là một bài học về sự trợ giúp lẫn nhau mới vượt xa ngàn dặm để tránh mùa đông. Khi chúng bay theo hình chữ V thì nhịp vỗ cánh của con bay sau sẽ tiếp sức cho nhịp vỗ cánh của con bay trước, cứ thế mà chúng tiết kiệm được 70% công lực thay vì bay một mình. Điều lý thú là khi con dẫn đàn thấm mệt thì nó sẽ lùi lại để con thứ hai hoán vị với mình, nó không bao giờ độc tài lãnh đạo cả.
Vì thế mà sự khôn ngoan người xưa nhắc nhở ta rằng :
Đi như một bầy chim Vượt vùng trời băng giá Đừng một mình ra khơi Biển đời nhiều sóng cả
Cuộc đời chúng ta ngoài sự nương tựa để dìu nhau qua gian khó, còn có một bàn tay sẵn sàng dìu dắt chúng ta qua biển đời gian nguy, đó chính là bàn tay Thiên Chúa. Ngài luôn đồng hành cùng chúng ta. Ngài luôi dõi bước theo hành trình cuộc đời chúng ta. Hành trình cuộc đời chúng ta không đơn độc nhưng luôn có Chúa đi bên cuộc đời chúng ta. Bài phúc âm Chúa nhật 19 Năm A kể rằng vào canh tư đêm tối, khi thấy con thuyền các tông đồ đã ra giữa biển khơi, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió. Chúa Giê-su đã đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: “Ma kìa!”, và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng.
Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!”. Và Phê-rô đã muốn thể hiện sự can đảm của mình liền xin đi trên mặt nước như Thầy, nhưng lòng ông bất an. Sóng gió đã nhấn chìm ông dần dần cùng với sự sợ hãi. Trong hoảng loạn ông đã đưa tay ra xin Chúa nắm lấy và cứu ông ra khỏi sự dữ.
Và hôm nay, trong đại dịch Covid, dường như Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta hãy trao vào tay Chúa những lo lắng, những sợ hãi vì sự dữ đang bủa vây chung quanh. Hãy tin Thiên Chúa vẫn luôn dõi mắt theo hành trình của chúng ta. Ngài không bao giờ để chúng ta đơn độc. Ngài mời gọi chúng ta hãy vững tin vào Ngài. Con người chúng ta có thể bất lực trước sự dữ nhưng với quyền năng Thiên Chúa sẽ luôn thắng vượt sự dữ. Ngài sẽ đánh bại sự dữ vì Ngài đã từng nói: “anh em đừng sợ vì Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33)
Đồng thời, Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy nương tựa vào nhau để cùng nhau vượt qua sóng gió trên dòng đời. Chúa muốn chúng ta hãy là chứng nhân cho tình thương và hiệp nhất của anh em con một Cha trên trời. Đây là điều mà Đức Thánh Cha Phanxico cũng từng nhắc nhở chúng ta, khi ngài viết: “Giống như một cơn bão bất ngờ, cơn khủng hoảng virus corona đã khiến tất cả chúng ta đau khổ, và với tình cảnh bi thảm này cho thấy rõ bản tính dễ tổn thương của con người, bị giới hạn , nhưng nó lại cho chúng ta cơ hội để hướng cuộc sống chúng ta trở về với Thiên Chúa; nó mời gọi chúng ta dùng cuộc sống phục vụ tha nhân, và cuối cùng ngài mời gọi các tín hữu đừng để mình nhiễm Corona nhưng hãy để mình nhiễm tình yêu Thiên Chúa để chúng ta có thể “Truyền nhiễm” tình yêu từ trái tim này sang trái tim khác.
Truyền nhiễm tình yêu thương qua việc sống tiết kiệm, thanh đạm để có thể liên đới và chia sẻ cho những người đang đối diện với thiếu thốn hay khổ đau trực tiếp vì Covid. Truyền nhiễm tình yêu thương còn là ý thức của cộng đồng cùng chung tay đánh bại Covid. Mỗi người hãy biết sống mình vì mọi người và đừng bắt mọi người vì mình. Mình vì mọi người qua việc ý thức đeo khẩu trang, giữ vệ sinh chung nơi công cộng và thực hiện giãn cách để tránh lây lan. . .
Cuộc đời ai mà không cần sự nâng đỡ, bao bọc của người khác. Thật không ngoa khi nói rằng chúng ta đều lớn lên trong tình thương giúp đỡ của người khác cụ thể là cha mẹ, là thầy cô, bạn bè … Thế nên, hãy sống có ích cho tha nhân. Hãy đến với tha nhân để xoa dịu nỗi đau cho họ, để dìu họ đi qua những khổ đau, để giúp họ đứng dậy làm lại cuộc đời.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta lòng mến nồng nàn để sẵn lòng mang tình yêu và lòng nhân ái đến cho anh chị em chung quanh. Nguyện xin Chúa ban thêm đức tin và đức cậy để chúng ta luôn biết cậy dựa vào ơn trợ giúp của Chúa và an bình sống trong sự quan phòng của Ngài. Amen
Khi Chúa gọi Abram bỏ thành Ur, nơi ông đã có một gia sản, cuộc sống ổn định, ra đi đến một TN 19-A155
Khi Chúa gọi Abram bỏ thành Ur, nơi ông đã có một gia sản, cuộc sống ổn định, ra đi đến một miền đất mới chưa bao giờ biết tới.
Khi Chúa gọi ông Abraham hiến tế đứa con duy nhất do lời hứa của ông.
Khi Chúa gọi Moisê, người đang chăn chiên, đi về nói chuyện với Pharaô phóng thích dân của ông khỏi kiếp nô lệ.
Khi Chúa dẫn dân của Người qua hành trình 40 năm hoang mạc…
Biết bao lần Chúa thử thách lòng tin của dân Người.
Và khi Chúa Giêsu xuất hiện tại Galilê, gọi các môn đệ bỏ thuyền, bỏ lưới để theo chân Người không nơi tựa đầu.
Và khi Chúa dùng chỉ năm chiếc bánh và hai con cá để nuôi năm ngàn người.
Và hôm nay Chúa lại gọi Phêrô bước xuống mặt nước và đến với Chúa đang đi trên mặt biển.
Khi Chúa gọi bạn đang lo âu nhiều chuyện, chỉ có một chuyện cần? Khi Chúa mời bạn đi vào thanh vắng, khi bên ngoài đang ồn ào huyên náo? Khi bóng tối đang bao trùm, sự dữ tràn lan, Chúa gọi bạn bước ra vùng ánh sáng.
Khi bạn đang sống tự do cá nhân chủ nghĩa, hưởng thụ, Chúa gọi bạn từ bỏ để bước vào lối sống Tin Mừng.
Khi bạn đang cố chiếm hữu, Chúa bảo bạn hãy từ bỏ. Khi bạn đang hận thù ghen ghét, Chúa bảo bạn hãy tha thứ và khoan dung.
Có lẽ còn nhiều và nhiều điều nữa Chúa đang mời gọi: “Hãy đến!”, “Hãy bước ra”
Một chân lý vô cùng quan trọng là Thiên Chúa của Đức Giêsu không bao giờ làm sợ, vì Ngài TN 19-A156
Một chân lý vô cùng quan trọng là Thiên Chúa của Đức Giêsu không bao giờ làm sợ, vì Ngài là Tình Yêu (1 Ga 4,8), “điều Chúa phán là lời chúc bình an” (Tv 84,9), và ở Ngài “tín nghiã ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên. Tín nghiã mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao” (Tv 84,11-12).
Chân lý ấy đã thực hiện nơi ngôn sứ Êlia, khi ông bị truy lùng bởi Giêraben đã đến được núi Hôrép sau bốn mươi đêm ngày trốn chạy vất vả, ở đây, ông đã được gặp Thiên Chúa và Ngài đã không chỉ an ủi, nâng đỡ ông mà còn tỏ cho ông và dân Ngài biết: Thiên Chúa của họ là Thiên Chúa không làm sợ hãi như “ngẫu thần” mà thiên hạ tin thờ, nhưng yêu thương, nhân hậu và đến với con người trong cơn gió nhẹ nhẹ của bình an khi phán với ông: “Kià Đức Chúa đang đi qua. Gió to bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng trước nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa không ở trong cơn gió bão. Sau đó là động đất, nhưng Đức Chúa không ở trong trận động đất. Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa là tiếng gió hiu hiu” (1 V 19,11-13).
Tin Mừng Mátthêu thì thuật lại sự kiện Đức Giêsu đi trên mặt nước vào khoảng canh tư đến với các môn đệ đang hoảng sợ trên thuyền “khi thuyền đã xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió”(Mt 14,24).
Đến với các ông đang hoảng hốt vì thuyền sắp chìm, cũng như khuyến khích Phêrô cứ đến với Ngài khi bước đi trên mặt nước, Đức Giêsu đã tỏ uy quyền của Ngài trên sự dữ và trấn an các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ !” (Mt 14,27).
“Đừng sợ!” là tâm tình Đức Giêsu gửi trao chúng ta trong mọi hoàn cảnh đắng đót, tình huống thất vọng; là lời chúc bình an phục sinh của Ngài cho chúng ta giữa những thử thách tưởng không thể vượt qua; là lời hứa cứu độ của Ngài cho chúng ta, những tội nhân biết ngước trông lên và cầu khẩn Ngài thương xót, như Ngài đã “ban bình an” cho các môn đệ của Ngài sau khi sống lại (x. Ga 20, 19; Lc 24,37).
Vâng, con thuyền chòng chành tưởng như sắp chìm vì bị sóng đánh và ngược gió là thuyền đời của mỗi người và là thuyền Giáo Hội. Như thánh Phaolô đã chia sẻ: “Có Đức Kitô chứng giám, tôi xin nói sự thật, tôi không nói dối, và lương tâm tôi, được Thánh Thần hướng dẫn, cũng làm chứng rằng: lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi” (Rm 9,1-2), chúng ta cũng đau khổ, ưu phiền như ngài, và Giáo Hội cũng không ngừng bị thử thách đủ cách, đủ mức độ. Nhưng có Thiên Chúa là Đấng không bao giờ làm sợ, nhưng luôn có mặt chở che, bênh đỡ, ban bình an như Ngài đã từng can thiệp trong đời sống cá nhân và đời sống Giáo Hội, chúng ta có đủ lý chứng và nền tảng để tin vào Lời Hứa của Đức Giêsu, Thiên Chúa: “Thầy đây, đừng sợ !” (Mt 14,27) vì “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Sau khi cho năm ngàn người ăn no, Đức Kitô nói với các tông đồ xuống thuyền đi qua bờ bên TN 19-A157
Sau khi cho năm ngàn người ăn no, Đức Kitô nói với các tông đồ xuống thuyền đi qua bờ bên kia, Ngài lưu lại giải tán dân chúng và cầu nguyện. Gốc ngư phủ, các tông đồ có nhiều kinh nghiệm sóng to, bão lớn, các ông tiếp tục chèo chống con thuyền tiến tới. Trong đêm tối, các ông trông thấy sự lạ. Điều này chưa từng xảy ra, có người bước trên đầu sóng tiến về phía các ông. Các ông sợ hãi. Đây là sự thật hay do quáng gà, mệt mỏi, vất vả, thiếu ngủ khiến mắt nhìn cò hoá quốc. Rồi các ông nghe được giọng nói quen thuộc, ‘Thầy đây, đừng sợ’. Vẫn còn hoài nghi, Phêrô lên tiếng, ‘Nếu quả là Thầy, xin cho con đi trên mặt nước đến với Thầy’ c.28a. Được phép, Phêrô nhảy xuống nước tiến về phía Đức Kitô, thình lình cơn sóng khổng lồ trào đến che khuất tầm mắt, ông hoảng sợ, la lớn, ‘Thầy ơi, cứu con’ c.30. Sau khi hai thầy trò lên thuyền, Đức Kitô ra lệnh cho gió yên, sóng lặng. Mọi người trong thuyền kinh ngạc, bái lậy Ngài xưng tụng, ‘Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa’ c.33. Điều này chứng tỏ Đức Kitô có toàn quyền trên thiên nhiên. Ngài có quyền ban sự sống và trên thần chết.
Phúc Âm không cho biết ai là chủ thuyền? Chắc chắn không phải là một trong số các tông đồ. Có thể Đức Kitô mượn hoặc thuê thuyền của ai đó. Điều quan trọng trong bài không phải là chủ quyền của con thuyền. Hình ảnh con thuyền chính là hình ảnh của Giáo Hội Chúa nơi trần gian. Con thuyền Giáo Hội gặp hoạn nạn ngay từ buổi sơ khai. Từ những ngày đầu tiên và liên tục kéo dài cho đến hiện nay, chưa lúc nào con thuyền Giáo Hội thiếu sóng to, gió cả. Bắt bớ, tù đầy, chém giết, đốt sách vở, tịch thu tài sản, chiếm đoạt nhà đất, bão táp do tham vọng lãnh tụ, vua chúa trần gian tạo ra liên tục. Bao triều đại đã đi qua, bao vua chúa đã ngã gục, bao chính thể bị đào thải, bao í thức hệ bị loại bỏ, bao chủ thuyết bị xoá sổ, con thuyền Giáo Hội vẫn tiến, lúc nhanh, lúc chậm. Có lúc con thuyền Giáo Hội như mất hút, chìm sâu dưới làn sóng, trào lưu, rồi con thuyền đó lại vượt sóng tiến lên. Tương tự như các tông đồ, vất vả chèo, chống, mệt mỏi, đói khát, kiệt sức, mất ngủ, các ngài vẫn kiên trì, giữ vững tay chèo. Các nhà lãnh đạo trong Giáo Hội bị đánh tơi bời, bị giải thể, bị đầy ải. Tử vì đạo sớm gặp Đức Kitô. Kẻ sống sót tiếp tục chèo chống, chờ đợi lâu hơn, rồi cũng có ngày gặp Đức Kitô. Tin vào Đức Kitô xác định rõ mục đích và điểm đến của cuộc lữ hành. Hiện nay con thuyền Giáo Hội phải đương đầu về cả đối nội lẫn đối ngoại. Vấn đề xấu hổ, muối mặt hoàn cầu chính là việc lạm dụng tình dục trẻ em trong hàng ngũ tu sĩ. Kế đến là thiếu ơn gọi tu trì và ít người tham dự các buổi lễ cuối tuần làm cho đời sống sinh hoạt Giáo Hội bị nghèo nàn. Vấn đề chọn người lãnh đạo có khả năng, tài ba cũng là vấn nạn lớn. Ngoài xã hội các phong trào mọc lên như nấm, như phong trào bình quyền, phong trào đòi tái định nghĩa truyền thống gia đình do tổ chức đồng tình luyến ái phát động. Phong trào áp đặt chủ nghĩa quốc gia, dân tộc vào tôn giáo. Vấn đề thay đổi lề lối suy nghĩ, đòi tự làm chủ cuộc sống, đòi đặt tài năng và trí tuệ con người lên trên sự không ngoan Thiên Chúa. Giới thương mại có đủ tài chánh thu hút thành phần có khả năng quảng bá chủ trương tiêu thụ, cạnh tranh, giai cấp, chọn phái tính và hưởng lạc, chính xác hơn, nhanh hơn, bắt khách hơn. Tiếng nói của Giáo Hội bị coi là thứ yếu, đơn độc một mình lên tiếng phản đối, khuyến cáo về vấn đề đạo đức suy đồi, tha hoá và các hủ hoá xã hội.
Cá nhân cũng như đoàn thể đều có những khó khăn riêng, bệnh tật, già nua bị đào thải. Tất cả những điều đó cho thấy con người bất toàn. Cuộc sống là một hành trình và thế giới luôn có những bất ổn do xu hướng chính trị khác nhau tạo ra. Tư tưởng mở mang bờ cõi đã lỗi thời. Cá nhân này chiếm của người này, đoạt của người khác đã bị loại bỏ. Ngày nay người ta học sống chung hoà mình. Thời gian tranh chấp đã lỗi thời, xa xưa, đã mãn, đã đi vào dĩ vãng. Hầu hết lãnh tụ các quốc gia đã từ bỏ tư tưởng chiếm đất, lấn biển. Người ta dồn hết khả năng tài chánh và năng lực trí óc vào việc thám hiểm vũ trụ, tìm kiếm cách chống tác hại môi trường; tìm cách cung cấp rau xanh, thực phẩm tốt, nước uống trong lành cho mọi người, cho mọi dân tộc. Các phòng thí nghiệm tìm cách diệt vi khuẩn, chữa bệnh các loại và cùng nhau làm cho cuộc sống thoải mái hơn, đời bớt đau khổ hơn.
Bên cạnh thiên tai và khó khăn do con người gây nên, cuộc sống vẫn rất tốt, vẫn có nhiều niềm vui. Chúng ta sống trong lo sợ và hy vọng, sống vừa cạnh tranh để cùng tiến vừa nâng đỡ. Trên đường đi đến bờ bên kia, tông đồ Đức Kitô gặp gian nan, khốn khó, chèo chống con thuyền ngoài khơi. Cuối cùng các ông gặp Đức Kitô và sống yên bình. Kitô hữu không sống trong bi quan, nhưng sống lạc quan bởi Đức Kitô cùng đồng hành với ta trong cuộc sống. Kitô hữu luôn khiêm nhường nhận biết cuộc sống trần thế luôn có quyết định sai, luôn có hành động trái. Đời sống luôn có bất ổn kèm theo. Bất ổn do lãnh đạo tạo ra cũng có. Bất ổn do chính mình gây nên cũng nhiều. Kitô hữu luôn nhớ rằng khi khó khăn xảy đến Đức Kitô đưa tay cứu vớt. Khi nào Ngài dơ tay, cá nhân ta không có quyền quyết định. Đức Kitô tự Ngài quyết định bởi Ngài biết khi nào và làm ra sao là do của Ngài. Kitô hữu cần học hỏi cách đón nhận. Chúng ta xin học biết ơn đón nhận ơn Chúa ban.
Từ việc bị lật xe tại Quảng Bình làm chết 15 người; từ việc nổ nhà máy tại Beirut, Lebaon, làm TN 19-A158
Từ việc bị lật xe tại Quảng Bình làm chết 15 người; từ việc nổ nhà máy tại Beirut, Lebaon, làm chết hàng trăm người và bị thương hơn 5000 người; lũ lụt, chấu chấu xuất hiện đầy dẫy, động đất và thiên tai đang hoành hành gần 3 tháng nay tại Trung Quốc; nhất là gần 1/2 năm đại dịch Virus Covid 19, đã giết chết gần triệu người, bị nhiễm bệnh với con số khủng lồ không đếm hết được vì đang lây lan từng giây phút trên toàn thế giới,….
Con thuyền của các môn đệ đã bị gió cản trở làm cho việc chèo chống khó khăn và mệt mỏi! Con thuyền bị ngược gió này đang nhắc nhở các môn đệ, nhất là Phê-rô rằng con thuyền không có Thầy là con thuyền đầy gian nan và thử thách; con thuyền vắng bóng sự hiện diện của Thầy Giê-su là con thuyền đối diện với nhiều sự cản trở của ác thần và sự dữ! Con thuyền ngược gió của các môn đệ cần sự trợ giúp của Chúa hơn là tự sức mình chèo chống; (chuyện cá nhân, gia đình hay tập thể sẽ khó giải quyết nếu thiếu đi đời sống cầu nguyện, sự phó thác và lòng trông cậy vào Chúa; ví dụ: gia đình gặp phải sự suy đồi của một người con, người chồng rượu chè, cờ bạc, nghiện ngập,…) Đây là sóng gió cuộc đời, đây là sóng gió của gia đình, nếu tự mình chèo chống và giải quyết thì sinh ra phàn nàn, kêu ca, chán chường, thất vọng và đương nhiên sẽ rất khó đạt được kết quả, nhưng ngược lại, như các môn đệ, khi có sự hiện của Đức Giê-su trên thuyền thì gió đã lặng im và thuyền đã cập bến an toàn, cũng vậy, đứng trước sự chông chênh con thuyền gia đình, mỗi chúng ta hãy biết mời Chúa đi vào con thuyền đó để “gió” sẽ yên và “biển” sẽ lặng! Mọi chuyện sẽ qua kèm theo bình an và hạnh phúc nếu trong từng giây phút của cuộc đời, mỗi người trong chúng ta biết dành một vị trí cho Chúa trong “chiếc thuyền cuộc đời”! Vì “không có Thầy anh em chẳng làm được gì” (Ga 15,5), vì thế, để mọi đường đi nước bước của chúng ta trên “con thuyền cuộc đời” vượt qua được sóng gió là đau khổ, bệnh hoạn tật nguyền, là cô đơn hẻo lánh, là tai ương hoạn nạn,… chúng ta phải biết cầu nguyện, đọc Lời Chúa, Viếng Thánh Thể, là Lần Chuỗi Mân Côi, nhất là siêng năng tham dự Thánh lễ mỗi ngày để qua đó mỗi người luôn luôn gặp gỡ Chúa và được Ngài ở cùng trong mọi biến cố vui buồn của cá nhân, của gia đình!
Quả thật, con thuyền cuộc đời không thể không có gian nan và thử thách, điều quan trọng là chúng ta phải chấp nhận đối diện và chèo chống! Tuy nhiên, nếu chúng ta tự cậy sức mình, tự cho mình là giỏi, tự hào mình giàu có, khôn ngoan, mà không cần sự trợ giúp của người khác, hay loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi “cuộc chơi”, ra khỏi con thuyền thì không chóng thì chầy, con thuyền cuộc đời đó không những gặp khó khăn và gian nan, nhưng sẽ mau chìm bởi quá kiệt sức và đầy “nước” của những thất vọng và đau thương! Vì thế, sự hiện diện của Chúa nơi con thuyền cuộc đời và cuộc sống hết sức cần thiết cho nhân loại nói chung, cho mỗi chúng ta nói riêng! Vì thế, mỗi người hãy tìm mọi cách làm sao “mời” cho được Chúa ngồi vào một vị trí quan trọng trong con thuyền đời mình để có Chúa sẽ có bình an, có Chúa sẽ có hạnh phúc, có Chúa sẽ dễ dàng chèo chống con thuyền đó dẫu có “ngược gió” bởi những lo toan, nhân tai và thiên tai! Được như thế, mỗi người chúng ta sẽ luôn vui vẻ và dấn thân trên mọi nẻo đường mà không ngại khổ và ngại khó! Được như thế, chúng ta dễ dàng mang niềm vui, bình an và hạnh phúc đến cho anh chị, nhất là cho những người đang phải gồng mình vất vả chèo chống những “ngược gió” trên đường đời bởi họ “chưa biết” hay không chịu đón nhận sự trợ giúp của ai đó, nhất là sự trợ giúp của Thiên Chúa Tình Yêu, là Vị Thiên Chúa luôn sẵn sàng đến – gõ cửa và vào nhà nếu người nhà mở cửa và sẽ ở lại để ban ơn giúp sức cho người ấy và chắc chắn rằng gia đình đó, cá nhân đó sẽ được chữa lành và nhận được ân lộc tràn đầy cho con thuyền cuộc đời! Amen!
Chúng ta cảm thấy thán phục khi nhìn thấy những em khiếm thị thổi sáo, đánh đàn thật hay. Và
Chúng ta cảm thấy thán phục khi nhìn thấy những em khiếm thị thổi sáo, đánh đàn thật hay. Và cả những người khuyết tật, họ làm được những việc mà có lẽ nhiều người trong chúng ta không thể làm được, như anh Nick Vujicic, tuy là một người khuyết tật cả tay và chân nhưng anh lại là một nhà diễn thuyết nổi tiếng. Hôm nay, chúng ta cũng thấy ngạc nhiên về hình ảnh ông Phêrô đi trên mặt nước mà đến với Đức Giêsu, chuyện này con người chẳng thể làm được. Đó là một phép lạ. Cũng vậy, trong cuộc sống, chúng ta có thể thực hiện được những việc mà tưởng chừng như chưa bao giờ chúng ta làm được. Nhưng làm sao có thể thực hiện được những điều ấy? Phải chăng phép lạ xảy đến là điều tự nhiên chẳng có khó khăn gì?
Chúng ta mong muốn có những phép lạ xảy ra trong cuộc đời chúng ta lắm chứ! Nhưng đã bao giờ chúng ta dám mơ ước những điều vượt ra khỏi “vùng trời” quen thuộc của bản thân? Chẳng hạn, có khi nào chúng ta dám đứng trước đám đông, hay bứt phá đi ra khỏi vùng quê của mình để lập nghiệp, hoặc thử sức lãnh trách nhiệm trong một hội đoàn, trong giáo xứ, ở nơi làm việc? Và còn khó khăn hơn khi chúng ta can đảm dám bước ra khỏi chính bản thân, ra khỏi những “lời dị nghị, đàm tiếu” của người khác để đến với tha nhân, đến với một người đã xúc phạm đến chúng ta. Tâm hồn rộng mở, quan điểm đổi mới để chúng ta tha thứ cho người khác, đón nhận người khác khi họ sai lỗi, hư hỏng trở về! Thật là khó! Nếu chúng ta chỉ nhìn vào bản thân, chúng ta không thể thực hiện những chuyện ấy được. Nhưng giống như Thánh Phêrô: “từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu” (Mt 14, 29), chúng ta can đảm xin Chúa cho con được thực hiện, và dám mơ ước, dám bước ra khỏi những gì là “thói quen” để làm được những điều vĩ đại. Theo kinh nghiệm của Thánh Augustino, ngài đã nói: “ông này bà kia nên thánh, tại sao tôi không nên thánh”?, trong khi ngài đang ở trong tình trạng tội lỗi, ăn chơi, dùng những lý luận sắc bén để phản bác lại Giáo hội. Thế mà khi trở về ngài đã trở thành một vị đại thánh, ngài làm Giám mục, và dùng khả năng mà Chúa đã ban để bảo vệ đức tin của Hội thánh. Chúng ta hãy bước ra khỏi “lối sống cũ” để đi đến “những chân trời mới”, ở đó Thiên Chúa sẽ thực hiện những phép lạ mà chúng ta không thể ngờ tới
Việc bước ra ấy chẳng dễ chút nào như kinh nghiệm của ông Phêrô đi trên mặt nước, khi thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và ông đã chìm (Mt 14, 30). Quả thật, việc bước ra ấy là cả một quá trình chiến đấu, chiến đấu với chính bản thân và cả những khó khăn của hoàn cảnh nữa. Chẳng hạn, khi lập nghiệp, chúng ta ngại đến một môi trường mới, bởi “vốn liếng” chưa có, không người thân giúp đỡ, sợ thất bại. Hay khi lãnh trách nhiệm trong giáo xứ, chúng ta sợ mất thời gian, công sức và e dè do không có khả năng. Hoặc khi chúng ta đi bước trước đến với tha nhân, chúng ta sợ người khác coi là hèn nhát, không có bản lĩnh, chịu thua… Tất cả những điều đó là những sóng lớn làm cho chúng ta không dám bước ra khỏi “vùng an toàn”, chúng ta chẳng còn gì để bám víu. Nhưng chính lúc đó, chúng ta hãy học gương của Thánh Phêrô, hãy thưa lên với Đức Giêsu: “Thưa Ngài, xin cứu con với” (Mt 14, 30). Ban đầu, có thể, chúng ta không nhận ra được dấu vết, và bàn tay Thiên Chúa đang hành động ,nhưng chúng ta hãy tin tưởng. Ngài luôn có đó, Ngài đang hiện diện và cùng đồng hành với chúng ta. Ngài không thực hiện những việc hoành tráng như chúng ta vẫn nghĩ, nhưng là sự âm thầm. Trong kinh nghiệm của Tiên tri Giêrêmia: Thiên Chúa không ở trong bão tố, động đất, lửa, nhưng Người ở trong tiếng gió hiu hiu (x 1V 19, 11-13a). Chính những lúc khó khăn ấy, chúng ta hãy thinh lặng để cảm nhận, và giữ lấy bình an- nguồn sức mạnh chúng ta tựa nương. Chắc hẳn, chúng ta biết bài hát Dấu chân (Thông Vi Vu) diễn tả hình ảnh Thiên Chúa đang đi song hành bên ta, và khi chúng ta mệt nhoài, cô đơn và tưởng như phải chống trả một mình, nhưng chính lúc đó, Thiên Chúa đã ẵm chúng ta trên cánh tay của Ngài. Chúng ta hãy cứ tin tưởng và can đảm cộng tác vào những ơn mà Thiên Chúa ban, để chúng ta cùng Ngài thực hiện trong công trình tốt đẹp của Ngài dành cho mỗi người chúng ta.
Lạy Chúa, đã từ lâu con chỉ ngồi trong cái vỏ ốc- khung trời của con mà mong phép lạ xảy ra, con đã ở yên vị trong đó mà không dám bước ra. Giờ đây, xin cho con can đảm, dám mơ ước những điều cao xa và dám buông bỏ để Chúa thực hiện phép lạ trên cuộc đời của con. Con biết với sức riêng con thì không thể, bởi con sợ, sợ vất vả, sợ tổn thương, sợ thất bại,… Nhưng xin cho con luôn nhớ và tin tưởng có Chúa luôn hiện diện ban ơn cho con, cùng đồng hành với con. Giống như một đứa trẻ đang tập đi, dù biết ngã nhiều lần và rất đau, nhưng khi nhìn thấy ánh mắt yêu thương của ba mẹ đang mong chờ nó tiến tới, thì nó nhanh nhảu bước tới. Cũng vậy, dù khó khăn đến mấy, con cũng hăng hái chạy tới để sà vào vòng tay yêu thương của Chúa đang sẵn chờ con. Amen.
Có nhiều dạng cấp cứu, không thể trì hoãn – tai họa, tai nạn, bệnh tật, áp bức, bách hại,… cụ thể TN 19-A160
Có nhiều dạng cấp cứu, không thể trì hoãn – tai họa, tai nạn, bệnh tật, áp bức, bách hại,… cụ thể và rõ ràng nhất là những người nhiễm covid-19 trong thời gian này: “Lạy Chúa, vì danh dự của Ngài, xin cho con được sống. Bởi vì Ngài công chính, xin cứu con khỏi bước ngặt nghèo.” (Tv 143:11)
SOS là tín hiệu cấp cứu phát bằng vô tuyến điện báo hoặc cách phát khác, nghĩa là có sự nguy hiểm nghiêm trọng, cấp bách đang đe dọa và yêu cầu trợ giúp. Quy ước tín hiệu SOS được đề xuất lần đầu tiên tại Hội nghị Quốc tế về Liên lạc Điện tín trên biển ở Berlin năm 1906, được quốc tế phê chuẩn năm 1908 và được sử dụng rộng rãi từ đó.
Để dễ nhớ, SOS có thể được hiểu là “Xin Cứu Tàu Chúng Tôi” (Save Our Ship – Titanic là con tàu đã sử dụng tín hiệu SOS khi bị đắm vào tháng 4-1912), “Xin Cứu Linh Hồn Chúng Tôi” (Save Our Souls), hoặc “Xin Gởi Cứu Trợ” (Send Out Succour), và còn các nghĩa khác… Thật ra không có ý nghĩa riêng nào nên hoàn toàn sai khi đặt các dấu chấm giữa các mẫu tự đó. SOS được chọn vì là tín hiệu ngắn, dễ nhận biết và có thể gửi đi nhanh chóng.
Có nhiều thứ sóng – tốt và xấu, nhưng thường là sóng dữ. Khi nói đến sóng, người ta nghĩ ngay tới biển với những con sóng. Sóng có lúc rất hiền hòa, rất thơ mộng khi sóng “mơn man vỗ mạn thuyền,” do đó mà người ta áp dụng nghĩa này cho vấn đề trừu tượng và gọi là “lãng mạn.” Sóng cồn dù dữ dội nhưng là sóng nổi, không đáng sợ bằng sóng ngầm, không thể nhìn thấy. Sóng còn khủng khiếp hơn nếu đó là sóng bạc đầu hoặc sóng thần, điển hình là sóng thần tại Nhật Bản ngày 11-03-2011 đã cuốn mất khoảng 16.000 người và quét sạch mọi thứ vào lòng biển khơi. Biển vừa hiền vừa dữ, sâu thẳm và bao la, lòng biển không bao giờ lặng, luôn động, dù có lúc nhìn biển rất tĩnh.
Biển đời cũng vậy, có đủ loại sóng. Sóng còn gọi là ba đào (dậy sóng – ba: sóng, đào: nổi dậy.) Chúng ta đang miệt mài hành trình lữ hành trần gian, lênh đênh trên biển đời, luôn gặp những loại sóng đời – đủ dạng và đủ cỡ. Không vững tay chèo là thuyền đời chìm ngay. Vì thế, lúc nào chúng ta cũng phải phát tín hiệu báo khẩn: SOS, lạy Thiên Chúa! Thật vậy, ngày nay sóng dữ “bách hại tôn giáo” nổi lên khắp nơi. Có phải là lúc đang ứng nghiệm chương 11 sách Đaniel chăng? Nói về vua phương Bắc mặc sức tung hoành, chống lại vua phương Nam.
Thiên Chúa hiện diện mọi nơi và thể hiện trong mọi sự, kể cả những thứ chúng ta cho là không tốt, nhưng Thiên Chúa tốt lành, không bao giờ làm điều xấu. Các loại đau khổ và những thứ không tốt xảy ra cho chúng ta, không phải Ngài không biết, nhưng Ngài cho phép nó xảy ra theo tự nhiên để dạy chúng ta bài học giá trị. Có thể đó là hậu quả do sai lầm của chúng ta hoặc của người khác, nhưng cũng có thể là để làm vinh danh Chúa – như trường hợp người mù bẩm sinh. (Ga 9:1-3) Tội lỗi cũng có tính liên đới: Xả rác bừa bãi gây ô nhiễm môi trường, không ngăn nắp gây dơ bẩn, rồi bệnh tật,… Lối sống thụ động cũng gây hệ lụy tất yếu. Có rất nhiều liên đới như vậy.
Ngày xưa, ông Êlia vào một cái hang và nghỉ đêm tại đó. Chúa hỏi ông làm gì ở đó. (1 V 19:9) Rồi Ngài nói với ông: “Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt Đức Chúa. Kìa Đức Chúa đang đi qua.” (1 V 19:9) Gió to, bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng trước nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa KHÔNG ở trong cơn gió bão. Sau đó là động đất, nhưng Đức Chúa KHÔNG ở trong trận động đất. Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng KHÔNG ở trong lửa. Sau lửa có tiếng gió hiu hiu.
Vừa nghe tiếng đó, ông Êlia lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang. Ông nhận biết Đức Chúa đang ở trong làn gió nhẹ đó. Quả thật, lúc đó có tiếng hỏi ông như trước: “Êlia, ngươi làm gì ở đây?” (1 V 19:13) Ông thưa: “Lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh, nung nấu con, vì con cái Israel đã bỏ giao ước với Ngài, phá huỷ bàn thờ, dùng gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài. Chỉ sót lại một mình con mà họ đang lùng bắt để lấy mạng con.” (1 V 19:14) Ông phải chạy trốn làn sóng bách hại. Thiên Chúa đã cấp cứu ông.
Quả thật, không dễ dàng lắng nghe tiếng Chúa hoặc nhận biết ý Chúa, vì thế mà chúng ta phải không ngừng cố gắng lắng nghe để nhận biết ý Ngài, rồi tiếp tục cố gắng chấp nhận và thực hiện, người có lòng nhiệt thành đối với Chúa thì sẽ để ý Chúa nên trọn chứ không mong ý mình nên trọn. Về lĩnh vực này, chúng ta lại thường có xu hướng trái ngược, vì chúng ta luôn thích “xin được như ý” theo kiểu theo ý mình chứ không theo ý Chúa.
Với kinh nghiệm tâm linh, Thánh Vịnh gia chia sẻ: “Tôi LẮNG NGHE điều Thiên Chúa phán, điều Chúa phán là lời chúc bình an cho dân Người, cho kẻ trung hiếu và những ai hướng lòng trí về Người. Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Chúa, để vinh quang của Người hằng chiếu toả trên đất nước chúng ta.” (Tv 85:9-10) Thiên Chúa đại lượng, nhưng Ngài chỉ ban ơn cho những người cần, Ngài không ép ai.
Chắc chắn ở đâu có Chúa thì mọi sự đều tốt đẹp. Gặp “xui xẻo” thì phải xét lại cách sống của mình. Thánh Vịnh gia nói: “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hoà bình công lý đã giao duyên. Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao. Vâng, chính Chúa sẽ tặng ban phúc lộc và đất chúng ta trổ sinh hoa trái. Công lý đi tiền phong trước mặt Người, mở lối cho Người đặt bước chân.” (Tv 85:11-14) Điều này cũng có nghĩa là ở đâu vắng bóng Thiên Chúa thì sẽ hoang vu, thậm chí là nguy hiểm và ảnh hưởng tính mạng.
Vậy phải làm sao? Không gì hơn là mau chóng gọi cấp cứu và đón Chúa vào lòng, càng sớm càng tốt, trước khi công lý được áp dụng, trước khi hết thời gian thương xót. Thiên Chúa vẫn kiên trì chờ đợi chúng ta trở về như người cha nhân hậu mong ngóng đứa con hoang đàng trở về. (Lc 15:11-32) Ai khôn ngoan thì biết tỉnh thức đợi chờ Ngài như mười trinh nữ khôn ngoan chờ đón chàng rể, (Mt 25:1-13) vì thời gian như thoi đưa, không chờ đợi ai. Lý do? Bởi vì “Chúa đã gần đến,” (Pl 4:5) “ngày Chúa quang lâm đã gần tới,” (Gc 5:8) và “thời giờ đã gần đến.” (Kh 1:3; Kh 22:10) Đó là không ngừng rèn luyện Đức Tin, để khi gặp thử thách sẽ không bị chao đảo, không như hạt giống rơi vào đất sỏi đá hoặc bụi gai.
Bất cứ ai biết tỉnh thức chờ Chúa như vậy thì không thể ngồi yên, luôn như biển động, luôn nổi sóng bồn chồn – lúc mạnh, lúc nhẹ. Thánh Phaolô cũng đã đứng ngồi không yên. Ông thề có Đức Kitô chứng giám, rồi nói sự thật chứ không nói dối, nhờ Thánh Thần hướng dẫn: “Lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi.” (Rm 9:2) Tại sao vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Kitô, tôi cũng cam lòng. Họ là người Israel, họ đã được Thiên Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quang, ban tặng các giao ước, lề luật, một nền phụng tự và các lời hứa; họ là con cháu các tổ phụ; và sau hết, chính Đức Kitô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống với họ. Người là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Rm 9:3-5) Có Chúa thì hạnh phúc và vinh dự, cụ thể là luôn thản nhiên, bình an.
Tuy nhiên, con người thường có tính xấu: nói rồi quên, hứa rồi thôi. Phàm nhân thật là khốn nạn, vì không chỉ nghe người khác nói mà chứng kiến tận mắt, thế mà vẫn chưa tin. Ôi, con người thật tồi tệ!
Trình thuật Mt 14:22-33 đề cập việc Phêrô xin cấp cứu: Vào một buổi chiều nọ, có lẽ trời quang mây tạnh, đẹp lắm, thú vị lắm. Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn no, Đức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Ngài giải tán dân chúng, vì chắc chắn dân chúng lưu luyến Ngài, khoái Ngài lắm, không thể về được, dù trời đã gần tối. Mãi mới giải tán được. Khi giải tán họ xong, Ngài lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến, Ngài vẫn ở đó một mình.
Chúa Giêsu luôn thích sống tĩnh lặng để kết hiệp với Chúa Cha qua lời cầu nguyện. Ngài luôn căn dặn mọi người phải cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. (Lc 22:40-46) cầu nguyện là sức sống và sức mạnh của linh hồn: Thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hoạt động.
Trong lúc Chúa Giêsu ở một mình và cầu nguyện, chiếc thuyền chở các môn đệ đã ra xa bờ vài cây số, bị sóng đánh vì ngược gió. Lúc đó khoảng canh tư – tức là quá nửa đêm về sáng, Ngài đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. Thấy Ngài đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy!” Họ sợ hãi và la lên. Ngài liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14:27) Nghe vậy, ông Phêrô bán tín bán nghi nên liền thưa: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.” (Mt 14:28) Ngài ôn tồn: “Cứ đến!” Ông Phêrô mạnh dạn bước ngay xuống khỏi thuyền, đi trên mặt nước mà đến với Ngài. Rất ngon lành. Thế nhưng khi thấy GIÓ thổi, ông đâm SỢ, hồn xiêu phách lạc, chín vía lên mây ráo trọi, và bắt đầu CHÌM, ông la toáng lên: “Sư Phụ ơi, xin cứu đệ tử với!” (Mt 14:30) Đức tin cần thiết nhưng không đơn giản.
Và cuộc đời của mỗi chúng ta cũng vậy, chẳng hơn gì Phêrô đâu. Biển đời chỉ mới gợn sóng lăn tăn thôi, vậy mà thuyền đời của chúng ta đã tròng trành tưởng chừng chìm đến nơi. Lòng tin tích góp bao năm, bỗng “bốc hơi” như muốn cạn kiệt; cây đức tin vun tưới bao năm, bỗng héo úa mau chóng. Ôi, lạy Chúa! Đức tin chỉ “sống” khi dòng đời êm ả, khi tiệc tùng linh đình, khi ung dung rung đùi, khi được người ta tâng bốc lên tận mây xanh,… Còn khi gặp phải gió xoáy hoặc gió lốc, con-thuyền-đức-tin quay tít như chong chóng, mất cả phương hướng. Kém cỏi thật, và khổ thật!
Khi thấy đệ tử Phêrô ngoi ngóp trong dòng nước, Chúa Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà KÉM TIN vậy! Sao lại HOÀI NGHI?” (Mt 14:31) Lời trách nhẹ nhàng mà đau điếng. Đó cũng là lời trách mà Thầy Giêsu đang nói với mỗi chúng ta hôm nay, ngay bây giờ. Lời trách thẳng thắn nhưng đầy ắp yêu thương, vì Ngài muốn chúng ta thực sự trưởng thành trong đức tin.
Sau khi hai thầy trò đã lên thuyền thì gió yên, biển lặng ngay. Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Ngài và nói: “Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa!” (Mt 14:33) Đó là bài học đức tin vô giá mà Chúa Giêsu dạy chúng ta ngay trong những lúc chúng ta gặp cơn sóng gió của cuộc đời. Ước gì chúng ta khả dĩ nhận biết mình yếu kém về đức tin, nhờ đó mà có thể cố gắng chăm sóc cây đức tin ngày càng lớn mạnh, luôn đổ thêm nhiên liệu đức tin để ngọn đèn tâm linh không lúc nào lu mờ.
Về thể lý, có thể có người chưa phải cấp cứu; nhưng về tâm linh, chắc chắn chúng ta đã nhiều lần cần cấp cứu. Thật vậy, cuộc đời không như thảm lụa hoặc như chiếu trải hoa hồng. Thiên nhiên còn lúc nắng, lúc mưa, lúc hạn hán, lúc mưa dầm, thậm chí là áp thấp hoặc bão tố. Cụ Nguyễn Công Trứ đã đã đặt vấn đề: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?” Giữa sóng gió cuộc đời, dù nhỏ hay lớn, ước gì chúng ta vẫn luôn khả dĩ xác tín với Đức Giêsu Kitô: “Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa!” (Mt 14:33) Đặc biệt là luôn gọi tổng đài Thiên Đàng để được Thầy Giêsu cấp cứu: “SOS, Chúa ơi!”
Thánh Tiến sĩ Teresa Avila xác định: “Tất cả tội lỗi đều do thiếu đức tin mà ra.” Câu này đáng để chúng ta “giật mình” để cố gắng tự chấn chỉnh và làm cho đức tin phát triển mỗi ngày một hơn.
Lạy Thiên Chúa toàn năng, gian trần đầy bất trắc, xin cấp cứu chúng con, gia tăng tín lực và ái lực để chúng con kiên vững trong mọi hoàn cảnh như Tổ Phụ Ápraham, Thánh Gióp, Đức Maria và Đức Giuse, nhất là trong loại sóng dữ corona vỗ mạnh hiện nay. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Bằng kinh nghiệm, tiền nhân chúng ta rất tự tin khi quả quyết: nắng tốt dưa, mưa tốt lúa. Khởi TN 19-A161
Bằng kinh nghiệm, tiền nhân chúng ta rất tự tin khi quả quyết: nắng tốt dưa, mưa tốt lúa. Khởi đi từ trái tim biết rung nhịp cảm mến: gia đình huyết tộc, bà con anh chị em giữa tình làng nghĩa xóm, tối lửa tắt đèn có nhau, người người xa gần không ngại gắn kết với nhau: bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. Nhờ có đời sống nghiêm túc, kỷ luật, biết làm chủ bản thân, những nguy hiểm, đau khổ, sự thất bại, không làm cho họ phải khiếp sợ hay gục ngã, bỏ cuộc. Bằng những kiến thức phổ thông, người ta phân biệt được trắng đen, tính toán được lợi nhuận trong công việc làm ăn. Nhờ chiếc điện thoại thông minh, dù xa xôi cách trở, ai cũng có thể nhìn thấy hình ảnh của nhau, tham khảo ý kiến người khôn ngoan, bậc hiền tài.
Nhờ sự hiện diện của Đức Giêsu, tất cả những ai đi trên con thuyền giáo hội vượt biển trần gian, đều đến bến bờ bình an. Tiến trình Phêrô và các bạn của ông năm xưa, chèo chống con thuyền vượt sông nước đầy khó khăn, song quả là kỳ diệu, khi tình yêu thương và quyền năng Đức Giêsu được thể hiện. Cha ông chúng ta thật chí lý khi nói: nhìn người đẹp thì thích mắt, ở gần người tài giỏi thì không phải ưu tư lo lắng, trước mọi tình huống ; nhưng ta sẽ bình an, tự tin, khi sống với bậc khôn ngoan, có lý có tình trong cư xử. Các môn đệ sợ hãi bởi thuyền ngược gió, bởi sự khôn ngoan và sức mạnh của các ông quá giới hạn so với biển cả trần gian bủa vây tư bề. Đức Giêsu đã cho các môn đệ và những người ở trên con thuyền thấy điều gì ? Có phải đó là sức mạnh của niềm tin hiệp nhất, sức mạnh của tình yêu Giêsu, hay sự hiện diện đầy quyền năng của Thầy Giêsu ?
“Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ”. Tiếng gọi mời, lời trấn an, đầy thân thương, còn đó khi người ta đặt tin tưởng, kêu cầu như các môn đệ, như Phêrô: “lạy Thầy, xin cứu con”. Sức mạnh của quyền lực trần gian cùng lắm bảo vệ ta vượt qua phút chốc vinh dự tạm thời: còn tiền, còn bạc, còn đệ tử, ….! Sức mạnh của đôi trai tài gái sắc, chỉ bảo đảm trong khung thời gian tương đối: tình chỉ đẹp khi còn dang dở ! Sức mạnh của tình yêu quê hương, liệu có bền vững không ? hay chỉ tồn tại trong ký ức tuổi thơ: quê hương là chùm khế ngọt, quê hương là con diều biếc, quê hương là con đỏ nhỏ, … ! Sức mạnh của tình Chúa, sẽ mở ra một khung trời mới đầy tình người, không toan tính hơn thiệt: “lạy Thầy, nếu quả là Thầy, xin truyền cho tôi đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy. Chúa Giêsu trả lời Phêrô: hãy đến”.
Trong giáo dục, bậc tiền bối vẫn nhắc: nhặt được tiền của rơi rớt đã là hiếm, tình yêu ở đời thì đầy, nhưng tình yêu thật biết tìm nơi đâu ? Trên con thuyền vượt biển, tất nhiên là có nguy hiểm, nhưng nếu không tin vị thuyền trưởng và các thuỷ thủ, bạn hãy tìm phương tiện khác, kẻo vì bạn mà hành trình trở nên rắc rối. Con thuyền đầy ắp kỷ niệm có Phêrô và các bạn, con thuyền hiện tại và tương lai, đều có sức mạnh Giêsu tình yêu, nếu có sự bất an hoặc nghi ngờ, ta nên suy xét mình sống vô kỷ luật hoặc đang đi nhầm thuyền. Chính vì thiếu niềm tin nơi Vị Thầy, những học trò năm đó mới hoảng loạn trông gà hoá cuốc: “ma kìa”. Cũng vì còn nặng tính “tham – sân – si” ở đời, nên các môn đệ chưa nhận biết quyền năng vượt trội nơi sức mạnh của tình yêu Giêsu.
“Chính Thầy đây, đừng sợ”. Lời yêu thương đó, Đức Giêsu còn mơ ước cả nhân loại chúng ta hôm nay phải nghe được. Lời cầu cứu hết sức khẩn thiết của Phêrô: “lạy Thầy, xin cứu con”, chắc chắn Chúa Giêsu còn muốn cả người tội lỗi và người thánh thiện, hãy tiếp tục nghe, tin tưởng cậy trông, sức mạnh tình yêu Chúa. Đức Giêsu sẽ rất vui, khi đoàn thuỷ thủ và tất cả mọi người ở trên con thuyền giáo hội, cập bến an toàn. Trong tình huống lo lắng hoảng sợ của các môn đệ, ít nhiều cũng nhắc nhớ hậu thế, đừng bao giờ sống vu vơ vô kỷ luật đến độ Chúa phải quở trách: “người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ”. Chúa Giêsu sẽ mãi mãi là hiện thân lòng thương xót nơi trần thế, hãy ở trong con thuyền giáo hội, dù giông bão, vẫn có Thầy.
Trong ngôn ngữ tình yêu có câu: thuyền ai lơ lửng bên sông, có lòng đợi khách hay không, hỡi thuyền ? Bến bờ thì mọi lúc mọi thời đều mong đợi thuyền cập bến, bến bờ còn thao thức ở trên thuyền các thành viên đều vượt qua gian khổ trong an vui hạnh phúc. Hành trình vượt biển hồ năm xưa có sự chỉ đạo của Thầy Giêsu, các môn đệ cho thấy nhờ sức mạnh đầy quyền năng của tình yêu Giêsu, các ông chiến thắng mọi ưu tư sợ hãi, nhờ các ông tin, các ông nghe được tiếng trấn an: “chính Thầy đây, đừng sợ”. Trong tương quan giữa tình Chúa và tình người, dấu hiệu khả thi nhất vẫn là hãnh diện vì có bình an và hạnh phúc. Trong hành trình vượt biển trần đời, mỗi người đều được mời gọi hãy ở trên con thuyền của giáo hội, hãy sống kỷ luật, sống trong tình yêu và sức mạnh của tình yêu, bến bờ Giêsu luôn trông ngóng đợi chờ con thuyền cập bến có thật đông đủ các thành viên chúng ta. Amen.
Trang Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một vấn đề căn bản trong đời sống đức tin: Khi ta chọn TN 19-A162
Trang Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một vấn đề căn bản trong đời sống đức tin: Khi ta chọn Chúa, khi ta theo sự hướng dẫn của Chúa thì đời ta bình an, hạnh phúc dù dưới chân ta sóng thần, động đất đang ập đến, dù trước mặt ta sóng gió phong ba đang ùa về, dù chung ta quanh ta ngàn hiểm nguy đang bủa vây giăng mắc… Ngược lại, những lúc ta không chọn Chúa, ta không hướng lên Chúa thì là những lúc ta cảm thấy sợ hãi và mất bình an dù xung quanh ta có đủ đầy mọi thứ, cũng chẳng có sự dữ nào… Phêrô xin Chúa cho ông đi trên mặt biển mà đến với Chúa, Chúa cho ông làm được điều đó. Nhưng khi gặp gió nổi lên thì ông sợ hãi và bắt đầu chìm xuống. Cũng may lúc đó ông còn nhớ đến Chúa và van xin: “Thưa Ngài, xin cứu con với!” Chúa đã đưa tay nắm lấy ông và hai thầy trò cùng nhau lên thuyền, lúc đó trời yên biển lặng. Hình ảnh Phêrô có thể đi trên mặt nước là vì ông đang tin tưởng vào Chúa, ông đang nhắm mục đích đời mình là đến với Chúa. Đến khi sóng gió nổi lên, ông sợ quá không còn nhìn lên Chúa nữa mà nhìn xuống dưới chân mình nên ông đã bắt đầu chìm.
Có một vị tu sĩ trẻ đến gặp Mẹ Têrêxa để than phiền về việc bề trên của thầy đã thuyên chuyển thầy đi chỗ khác trong khi thầy đang phục vụ người cùi. Anh ta nói với Mẹ Têrêxa: “Thưa Mẹ, ơn gọi của con là phục vụ người cùi, vậy mà bề trên của con đã thuyên chuyển con đi lo việc dạy học, con rất bất bình về việc này”. Mẹ Têrêxa từ tốn nhìn thẳng vào mắt chàng tu sĩ trẻ và nói: “Ơn gọi của con không phải là lo cho người cùi, cũng không phải lo cho học sinh, nhưng ơn gọi của con là thuộc về Đức Kitô”. Ơn gọi chúng ta không phải là làm được điều này việc nọ chuyện kia, nhưng làm sao để chúng ta thuộc về Đức Kitô. Đây cũng là kinh nghiệm của tôi tớ Chúa, ĐHY Px. Nguyễn Văn Thuận. Khi ngài bị bắt và biệt giam trong tù. Ban đầu ngài không chấp nhận nổi việc mình là một Giám Mục trẻ, tài năng, Giáo Phận và Giáo hội đang mong đợi sự dẫn dắt của mình. Vậy mà bây giờ mình bị biệt giam, không làm gì được cho Giáo hội… Bỗng một hôm có tiếng từ đáy lòng nói cho ngài biết: “Con phải biết phân biệt giữa Chúa và việc của Chúa. Những việc con làm cho Giáo hội, cho Giáo phận là tốt, nhưng đó là việc của Chúa chứ không phải là chính Chúa. Nếu Chúa muốn con giao những việc đó lại cho Chúa thì con cứ giao lại cho Ngài, Ngài làm tốt hơn con nhiều, phần con hãy chọn Chúa chứ đừng chọn việc của Chúa”. Và từ lúc đó ngài nhận ra cùng đích của cuộc đời mình là thuộc về Chúa, là sống gắn bó với Chúa, chứ không phải để làm những việc của Chúa. Khi đã thuộc về Chúa, khi đã gắn bó với Chúa thì Chúa muốn mình làm việc gì, Chúa muốn mình ở đâu, Chúa định đoạt số phận mình ra sao, mình cũng sẵn sàng vâng theo, vì mình đang chọn Chúa, nên chọn luôn thánh ý của Chúa.
Đời sống đạo của ta phải là sự chọn theo Chúa một cách liên lỉ. Ngày xưa dân Do Thái đã đi khập khiểng, lúc chọn Chúa, lúc chọn thần Ba-an, lúc chọn thần A-sê-ra… Thiên Chúa gọi đó là tội ngoại tình. Ngày hôm nay thần minh của ta không còn là Ba-an, hay A-sê-ra nữa, nhưng ta vẫn tôn thờ nhiều vị thần minh khác. Ta chưa hẵn loại trừ Chúa, nhưng ta tôn thờ những thần minh khác ngang hàng với Thiên Chúa.
Những thần minh đó là tiền bạc. Sở dĩ gọi tiền là thần vì chúng ta tôn thờ nó, ta lệ thuộc vào nó và để cho nó chi phối cuộc sống mình. Để có được đồng tiền ta cậy dựa vào “thần bài”, “thần đề”, “thần gà”, “thần sắc” và nhiều phương thế bất chính khác. Còn khi ta sử dụng đồng tiền như phương thế để làm cho đời sống thêm hạnh phúc hơn, và là dịp để ta làm việc bác ái thì quá tốt.
Thần minh của ta đôi khi là “con heo”, biểu tượng của những đam mê nhục dục, của những ăn uống say sưa, bài bạc rượu chè.
Thần minh của ta đôi khi là “con công”, biểu tượng của những ăn mặc diêm dúa, lố bịch, chạy theo những kiểu thời trang hiện đại, những siêu xe, những điện thoại thông minh đời mới và hàng loạt những máy móc khác… Tất cả những điều này nếu không để ý nó sẽ là “thần minh” để lôi kéo ta khỏi Chúa, nó làm cho ta không còn giờ để nghĩ về Chúa, và lúc đó thuyền đời ta sẽ rất bấp bênh vì không có Chúa cùng đồng hành, cuối cùng sẽ có nguy cơ bị nhấn chìm giữa lòng đại dương.
Mặt khác, một khi đã xác định lý tưởng đời mình là “thuộc về Chúa”, thì ta sẽ hướng lên Chúa để nghe lời Chúa dạy, để theo đường Chúa đi và làm theo những điều Chúa hoạch định.
Tuy nhiên, làm sao để ta luôn hướng lên Chúa mới là điều quan trọng. Một số lý do để ta không còn hướng lên Chúa.
Lý do trước tiên là vì ta hướng đến những đối tượng khác ngoài Chúa. Khi ta để cho tâm hồn mình bị một “bóng hồng” nào đó lôi kéo thì ta không còn thời giờ, sức lực, năng lực hướng đến Chúa nữa. Có “anh thanh niên” lâu ngày không đi lễ, hỏi ra mới biết thất tình. Cô gái dễ thương, xinh đẹp, ngoan hiền, đạo đức lâu ngày không thấy sinh hoạt với cộng đoàn, tìm hiểu kỹ mới biết cô đã là “thư ký riêng” của một giám đốc… Rõ ràng vì một đối tượng nào đó đã làm cho ta xa Chúa.
Lý do thứ hai để ta không hướng lên Chúa là vì ta đang “hướng xuống” những xấu xa, những thấp hèn. Sở dĩ Phêrô đi được trên mặt biển là vì ông hướng nhìn lên Chúa. Đến khi ông nhìn xuống mặt biển, thấy hãi hùng quá nên ông đã sợ và mất niềm tin. Khi tâm hồn ta cao thượng, nghĩa là ta hướng đến những giá trị cao siêu trên trời, thì chúng ta sẽ gặp Chúa. Nhưng khi tâm hồn ta bị những thứ thấp hèn lôi kéo thì ta không thể thấy Chúa được. Những thứ thấp hèn đó là những đam mê, những nết xấu, nó cứ trì trệ khiến con người của ta không thể vươn lên được mà cứ ì ạch mãi thôi. Có người tốt lành lắm, nhưng bị nhục dục lôi kéo làm điều lỗi đạo với gia đình. Có người siêng năng làm việc lắm, nhưng làm được bao nhiêu tiền là đổ vào sòng bạc…
Khi đã nhìn thấy được hai nguyên nhân chính để ta không thể hướng lên Chúa là vì ta hướng đến đối tượng khác ngoài Chúa, hoặc vì ta nhìn xuống những thứ thấp hèn, thì chúng ta hãy biết nhìn lại chính mình đang bị những thứ nào lôi kéo để ta biết gỡ bỏ những ràng buộc đó, cho tâm hồn của mình thanh thoát để thuộc về Chúa.
Một sự thật làm ta thêm mạnh mẽ là Chúa vẫn hiện diện trong từng biến cố vui buồn của cuộc đời ta. Dù ta thế nào Chúa vẫn yêu thương ta. Nhưng nếu ta không hướng về Chúa, không làm theo những gì Chúa chỉ dạy, con người của ta sẽ dần hư hoại và mất đi bình an, hạnh phúc. Chúa vẫn hiện diện và cứu giúp ta trong từng biến cố. Vì vậy ta hãy biết gạt bỏ những lôi kéo, những ràng buộc để hướng nhìn lên Chúa, nhất là trong những lúc khó khăn, nguy hiểm để nói như thánh Phê rô: “Lạy Chúa xin cứu giúp con”.
Xin Chúa qua lời bầu cử của Mẹ Maria, thánh cả Giuse, Cha Phanxicô và các thánh, cho con thanh thoát, nhẹ nhàng mà sống theo thánh ý Chúa để con mãi thuộc trọn về Chúa thôi!
“Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt Đức Chúa. Kìa Đức Chúa đang đi qua” (Is 19,11).
Có 4 hình ảnh mà ngôn sứ Ê-li-a đã thấy. Đó là gió bão, động đất, lửa và gió hiu hiu. Qua đó TN 19-A163
Có 4 hình ảnh mà ngôn sứ Ê-li-a đã thấy. Đó là gió bão, động đất, lửa và gió hiu hiu. Qua đó, sẽ cho thấy Thiên Chúa chúng ta là Đấng nào.
Hình ảnh thứ nhất: Gió bão. “Gió to bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá trước nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa không ở trong gió bão” (x. Is 11,19b).
Trên khắp thế giới, hằng năm chúng ta nghe thấy có nhiều cơn bão và đặc biệt có những cơn bão lớn gây thiệt hại nặng nề về tài sản cũng như thương vong cho con người. Đi kèm với bão là những cơn gió mạnh, chúng thổi bay tất cả. Người ta gọi đó là thiên tai. Dầu vậy, nếu không có bão, chắc cũng ít có mưa, nên bão cũng có lợi phần nào đó.
Thế nhưng khi gặp những cơn bão lớn, con người chúng ta cũng hay than trời trách Chúa lắm. Tại sao Chúa lại để xảy ra như vậy? Người chết thì mất xác; người sống thì mất nhà mất của.
Lời Chúa nói : “Nhưng Đức Chúa không ở trong gió bão”. Điều đó có nghĩa là Chúa không làm ra gió bão. Chúa không dùng gió bão để trừng phạt con người. Vì nếu khi trừng phạt thì Chúa sẽ trừng phạt người xấu; đằng này, khi có gió bão thì cả người tốt lẫn người xấu đều bị ảnh hưởng. Nói cho cùng, gió bão chỉ là những hiện tượng tự nhiên, mà khoa học đã chứng minh và tìm ra được nguyên nhân. Và nguyên nhân đó không phải là Chúa; mà là do khí áp nóng và lạnh chênh lệch quá lớn.
Qua đó cũng nói lên rằng Chúa không phải là Đấng “tàn bạo”.
Ngày nay, hình như càng có nhiều cơn bão lớn, không phải vì tội lỗi của con người nhiều mà do con người ngày càng phát minh ra những điều hay và đi kèm đó cũng gây ra không kém những tác hại cho môi trường sinh thái. Như rác thải nhựa hay các linh kiện điện tử; chặt cây, phá rừng,……..
Hình ảnh thứ hai là động đất. “Sau đó là động đất, nhưng Đức Chúa không ở trong động đất” (x. Is 19,11c).
Động đất cũng là một hiện tượng tự nhiên. Chúng gây là những thiệt hại kinh hoàng nếu kèm theo sóng thần. Theo các nhà khoa học, động đất là do các vụ nổ mạnh ở trong lòng đất, làm cho bề mặt của trái đất rung chuyển. Nếu nhỏ thì ta cảm thấy như có một làn sóng nhẹ bò qua chân của ta. Nếu mạnh từ 5 độ rích-te trở lên, sẽ làm rung chuyển các tòa nhà. Những tòa nhà cao tầng, đưa qua đưa lại như chiếc võng, người ta chạy ra ngoài mà sợ phát khiếp vì không biết chúng sẽ sụp đổ lúc nào. Còn các tòa nhà không xây kiên cố sẽ sụp đổ tan tành ngay thức khắc. Sự thiệt do động đất không nhỏ chút nào, nào là người chết, nào nhà cửa không còn. Động đất cũng không là hình phạt của Chúa. Và Chúa cũng không phải là “Tên bạo chúa”.
Hình ảnh thứ ba là lửa. “Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa” (x. Is 19,12).
Lửa ở đây, chúng ta có thể hiểu là những cuộc phun trào của các núi lửa. Ngày nay, vẫn còn các ngọn núi lửa phun. Chúng như một cột lửa khổng lồ, phun trào nham thạch; chúng chảy xuống núi như nước biển tràn và đốt cháy tất cả những gì chúng đi qua, với nhiệt độ trên 4000 độ. Ngay tại miệng núi lửa, chúng như cái chảo khổng lồ đang sôi sùng sục. Đó cũng chỉ là hiện tượng tự nhiên.
Chúa không ở trong lửa, có nghĩa là Chúa không dựng nên núi lửa và cũng không dùng núi lửa phun để trừng phạt con người chúng ta. Chúa cũng không là Đấng Nóng Nảy như bà La-xát trong phim Tây Du Ký, muốn tru diệt con người đâu. Chúa Giê-su có dùng hình ảnh lửa này trong hỏa ngục. “Con người sẽ sai các Thiên Thần của Người tập trung mọi kẻ làm gương xấu, gương mù và mọi kẻ làm điều gian ác, mà tống ra khỏi Nước của Người, rồi quẳng chúng vào lò lửa, ở đó chúng phải khóc lóc và nghiến răng”(x. Mt 13,41-42).
Hình ảnh thứ bốn là gió hiu hiu. “Sau lửa có tiếng gió hiu hiu” (x. Is 19,12b).
Tiếng gió hiu hiu là tiếng gió thổi nhẹ, man mác, trái lại với gió to bão lớn; không mạnh mẽ như động đất; không ào ào, nóng bỏng như núi lửa phun. Nói cách khác trong gió hiu hiu có Chúa. Thiên Chúa của chúng ta là “Thiên Chúa nhân hậu, từ bi; hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín” (x. Xh 34,6).
Thiên Chúa ở trong thinh lặng và nhẹ nhàng. Thiên Chúa chúng ta giàu lòng xót thương; không dữ dằng; không tàn bạo; không trừng phạt con người như chúng ta nghĩ đâu. Chúa hằng yêu thương và ban mọi ơn lành cho mọi người, mọi nơi và mọi lúc. Ơn Chúa ban như mặt trời chiếu sáng trên kẻ xấu cũng như người tốt; như mưa xuống trên kẻ bất lương cũng như trên người công chính (x. Mt 5, 45).
Quả thật, Chúa hằng mong muốn cho con người chúng ta được sống bình an và hạnh phúc ở đời này cũng như ở đời sau. Qua những hiện tượng tự nhiên đó, chúng ta càng phải thêm tin tưởng, hy vọng và yêu mến Chúa hơn. Thế nhưng, chúng ta là những người kém lòng tin như Phê-rô, cứ mãi hoài nghi và than trách Chúa thôi. Dầu vậy, như Phê-rô, chúng ta cứ an tâm mà đến với Chúa. Nếu có sợ hãi chi thì xin Chúa cứu giúp: “Lạy Chúa, xin cứu, xin giúp chúng con, Chúa ơi !!!”.
Và nhất là chúng ta phải cố gắng sống tốt lành và thánh thiện, theo Lời Chúa dạy, để chúng ta đứng vững và không phải vào lửa hỏa ngục đời đời kiếp kiếp. Ngôi nhà của chúng ta sẽ không sụp đổ : “Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như người khôn xây nhà mình trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây nhà trên nền đá” (x. Mt 7, 24-25).
Chúa chỉ ở trong “tiếng gió hiu hiu” thôi, nên chúng ta hãy đến với Chúa trong sự thinh lặng và âm thầm. Trong cuộc sống sô bồ và sôi động của thế giới này, chúng ta hãy dành những giờ phút âm thầm và thinh lặng để gặp gỡ Chúa, để nói chuyện với Chúa; để cầu nguyện với Chúa. Ta sẽ có được sự bình an và sức mạnh để sống và làm việc trên trần gian này.
Cả ba bài đọc Lời Chúa trong Chúa nhật XIX thường niên đều cho thấy những hoàn cảnh bi ai TN 19-A164
: Bài đọc I nói về cuộc chạy trốn của ngôn sứ Ê-li-a trước sự săn đuổi của vua A-kháp và hoàng hậu I-dê-ven sau cuộc thách thức với 450 ngôn sứ của thần Ba-an. Thánh Phao-lô trong Bài đọc II lại nói về nỗi khổ tâm luôn dằn vặt ngài, vì sự cứng lòng của những người đồng bào cùng dòng tộc Do Thái. Bài Tin Mừng thánh Mát-thêu cho thấy nỗi sợ của các môn đệ vào lúc canh tư đêm tối trên biển hồ Ga-li-lê. Trong tất cả những hoàn cảnh này, Lời Chúa gửi đến chúng ta một thông điệp, đó là “Đừng sợ!”.
Trong Thánh Lễ bế mạc Ngày Giới trẻ thế giới lần thứ 37, được tổ chức tại Lisbone, thủ đô Bồ Đào Nha, từ ngày 3 đến ngày 6-8-2023, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô cũng gửi đến cho giới trẻ thế giới thông điệp “Đừng sợ!”. Giữa một xã hội được đánh giá là “bệnh hoạn” và đang bị xâu xé vì chiến tranh, bạo lực, xung đột, vị Mục tử của Giáo Hội Công giáo mượn lời Chúa để trấn an các tín hữu, đặc biệt là các bạn trẻ: Đừng sợ! Đây không phải là một lập luận giả tưởng nhằm quên đi thực tế phũ phàng, nhưng là một thông điệp dựa trên lời Chúa Giê-su. Tin Mừng kể với chúng ta, nhiều lần Chúa Giê-su khẳng định với các môn đệ rằng Người không bao giờ bỏ rơi họ. Người khuyên họ hãy can đảm lên, vì chính Người đã thắng thế gian. Mặc dù quyền lực thế gian có mạnh đến đâu chăng nữa, cũng không thể thẳng nổi quyền năng của Thiên Chúa. Chúa nhật trước, chúng ta vừa cử hành lễ Chúa Hiển Dung. Việc Chúa tỏ vinh quang của Người cho ba môn đệ, cũng nhằm mục đích khích lệ các ông trước bóng đen của thập giá đang dần xuất hiện. “Đừng sợ!”. Đó cũng là phương châm của Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II, kể từ khi đăng quang Giáo Hoàng năm 1978. Hai từ này đã mang lại cho ngài can đảm phi thường, giúp ngài trở thành một trong những vị Giáo Hoàng sáng giá trong lịch sử Giáo Hội, với rất nhiều kỷ lục trong mọi lãnh vực.
Nếu cả ba bài đọc đều diễn tả những hoàn cảnh bi ai, thì cả ba bài cũng cho chúng ta thấy những kết thúc tốt đẹp. Ngôn sứ Êlia đã gặp Chúa sau cuộc trốn chạy gian nan. Chúa đã an ủi ông. Ngài cũng đã sai thiên sứ dẫn đường và khích lệ ông, mang bánh và nước cho ông để ông khỏi chết đói chết khát, đủ sức đi đến núi Hô-rép là núi của Thiên Chúa. Thánh Phaolô, trong cơn bĩ cực, vẫn xác tín vào quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa và niềm hy vọng nơi Đức Kitô. Các môn đệ mặc dù sợ hãi hoảng loạn, và tông đồ Phêrô dẫu có chìm xuống nước, cuối cùng vẫn được Chúa cứu và các ông tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Như thế, Lời Chúa cho chúng ta thấy, trong bất cứ tình huống nào, Chúa vẫn ở bên chúng ta. Người không bao giờ để chúng ta chịu đựng quá sức. Những thử thách gian nan cũng là dịp tôi luyện đức tin và lòng trung thành của chúng ta.
Bài Tin Mừng ngắn gọn nhưng đã diễn tả những trạng thái tâm lý khác nhau của Tông đồ Phê-rô. Trước hết, ông ra điều kiện với Chúa: nếu là Thày, thì xin cho con đi được trên mặt nước như Thày. Sau đó, ông đi được theo lệnh truyền của Chúa. Thế rồi, khi sóng gió bão táp nổi lên, ông quá sợ hãi và bắt đầu chìm dần xuống nước. Cuối cùng Chúa là Đấng giải thoát ông. Phó thác tin tưởng vào Chúa là điều không dễ. Trình thuật này phác họa cuộc sống cụ thể của chúng ta. Những khó khăn thử thách làm chúng ta khiếp sợ. Bài Tin Mừng hôm nay cũng giúp chúng ta liên tưởng tới phép lạ Chúa đã làm để dẹp yên bão táp trên biển hồ Ga-li-lê-a (x. Mt 8,23-27). Cuộc sống trần gian được sánh ví như một cuộc vượt biển. Có những tháng ngày êm ả, nhưng cũng có những tháng ngày dậy sóng. Để đến được bến bờ bình an, chúng ta phải có chỗ cậy dựa vững chắc. Chính Chúa là nguồn sức mạnh của chúng ta. Người giúp chúng ta vượt biển trần gian để cập bến an bình.
Khi ngỏ lời với giới trẻ trong thánh lễ bế mạc Đại hội với lời trấn an “Đừng sợ!”, Đức Thánh Cha mời gọi người trẻ kiên vững đức tin trong một bối cảnh xã hội tục hóa lãng quên Thiên Chúa. Một khi tin tưởng phó thác vào tình yêu quan phòng của Chúa, người trẻ sẽ hăng say cộng tác xây dựng Giáo Hội của Chúa Ki-tô. Kết thúc Đại Hội Giới Trẻ thế giới là một cuộc lên đường vĩ đại. Với chủ đề của Đại Hội là “Đức Ma-ri-a vội vã lên đường” (Lc 1,39), Đức Thánh Cha mong ước mỗi người trẻ hãy là một chứng nhân đức tin trong đời sống hằng ngày. Có lần, một bạn trẻ hỏi Đức Phan-xi-cô: “Thưa Đức Thánh Cha, làm sao chúng con có thể truyền giáo được?”. Ngài trả lời: “Rất đơn giản. Các con hãy sống tốt trong gia đình và trong xã hội. Những người xung quanh sẽ đặt câu hỏi: bạn là ai? Vì lý do nào mà bạn trung thực và thân thiện như thế? Vậy là truyền giáo rồi!”.
Thế gian là chốn ba đào. Mỗi chúng ta hãy tin tưởng cậy trông vào quyền năng của Chúa. Người sẽ giữ gìn và nâng đỡ chúng ta.
Chúng ta đã nghe khá nhiều bài giảng về đoạn Kinh thánh này, có người khen ngợi đức tin của TN 19-A165
Chúng ta đã nghe khá nhiều bài giảng về đoạn Kinh thánh này, có người khen ngợi đức tin của Phêrô vì đã can đảm “từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Chúa Giêsu” (Mt 14: 29) dù ông mới chỉ được nghe bóng người ấy nói: “Cứ đến!” (Mt 14:29) và chưa mấy tin rằng người đang đi trên mặt biển là Thầy Giêsu: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài” (Mt 14:28). Dường như ông không đặt vấn đề, lỡ ra đó không phải là Thầy Giêsu mà là một bóng ma hay một ảo ảnh gì đấy thì sao. Hành động của ông thật liều lĩnh nhưng cũng thật tin tưởng! Tuy nhiên, vấn đề mà người ta thường đặt ra là khi ông không nhìn vào Chúa Giêsu, thì đức tin của ông bắt đầu lung lay, và Chúa Giêsu ở đó để cứu ông. Vì vậy, bài giảng kết luận: hãy can đảm, ra khỏi thuyền, nhưng hãy tập trung vào Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa toàn năng.
Đó là lời khích lệ tốt lành cho những ai muốn biến niềm tin của họ thành hành động. Đúng là đức tin cần hành động vì: “Quả vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2:17). Tuy nhiên, nhân vật chính của câu chuyện không phải là Phêrô. Thực tế là, “Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng ngay. Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Ngài và nói: "Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!” (Mt 14: 32-33). Người ta không thấy một môn đệ nào chúc mừng Phêrô vì đã bước đi trên nước khá tốt và chúc ông may mắn hơn vào lần sau! Vì thật ra, nhân vật trọng tâm thực sự trong câu chuyện là Chúa Giêsu, là Con Thiên Chúa, Đấng mà các môn đệ bái lạy; chi tiết này lần đầu tiên được thuật lại trong sách Tin mừng Mátthêu. Chúa Giêsu chính là Con Thiên Chúa, Đấng tạo dựng đất trời, núi cao, biển sâu…quyền năng của Ngài “thực hiện giữa dòng nước lũ. Chúa truyền lệnh khiến bùng lên bão táp, lớp sóng xô cuồn cuộn dập dồn. Họ nhô lên tận trời, nhào xuống vực sâu, lúc nguy hiểm, hồn xiêu phách lạc, bị quay cuồng, lảo đảo như say, khéo cùng khôn đã chìm đâu mất. Khi gặp bước ngặt nghèo, họ kêu lên cùng Chúa, Ngài đưa tay kéo họ ra khỏi cảnh gian truân. Đổi phong ba thành gió thoảng nhẹ nhàng, sóng đang gầm, bỗng đâu im tiếng, họ vui sướng, vì trời yên bể lặng và Chúa dẫn đưa về bờ bến mong chờ” (Tv 107: 23-30). Tất cả những ai theo Chúa Giêsu cần phải đặt trọn vẹn niềm tin nơi Ngài, suy phục và tín thác hoàn toàn sự sống của mình nơi quyền năng và lòng thương xót của Ngài. Do vậy, khi họ “ngó quanh”, không nhìn vào Ngài nữa thì họ bắt đầu chìm xuống. Phêrô chỉ là một minh chứng; ông đã có thể “từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Chúa Giêsu” khi ông còn tin cậy và tập trung vào Ngài, nhưng lại lung lay khi tập trung vào bản thân và hoàn cảnh của mình.
Chúng ta cũng bước đi trên mặt nước mọi nơi mọi lúc trong cuộc sống. Có những cơn bão đi qua cuộc đời chúng ta và dường như không bao giờ kết thúc. Đôi khi chúng là những cơn bão buộc chúng ta phải lèo lái con thuyền nhỏ của mình bằng mọi cách để nó không bị vỡ tan trên những tảng đá ngầm vô vọng là “thế gian, ma quỷ, xác thịt”. Cuộc đời như một chuyến hành trình trên đại dương; trong đó con người giống như những người đi biển mang trong tim một khát vọng. Một số người không bao giờ có thể ra khơi. Những người khác thực hiện cuộc hành trình một cách liều lĩnh và cuối cùng bị lạc hướng vả cuốn trôi trong những cơn bão lớn, không bao giờ đạt được mục tiêu mong muốn của họ. Nhưng có những thủy thủ, dù bị vùi dập, vẫn xoay sở để đưa tàu của họ trở về bến cảng mong chờ nhờ tìm thấy và chăm chú nhìn vào ánh sao Bắc Đẩu. Cuộc sống của con người vốn như vậy, rất ít an toàn, bếp bênh luôn mãi, như con thuyền trên mặt biển đầy sóng gió gập ghềnh, như Phêrô “thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và bắt đầu chìm” (Mt 14:30). Điều quyết định đến sự sống là Phêrô đã biết kêu lên Chúa Giêsu, Đấng vốn là Con Thiên Chúa toàn năng.
Bàn tay Giêsu, bàn tay yêu thương cứu độ của Thiên Chúa.
Trong cuộc hải hành trần gian, chúng ta cần phải lèo lái con thuyền đời mình trong sự tin cậy vào Thiên Chúa, và biết rằng sự tin tưởng cậy trông như thế là cần thiết đến nỗi chúng ta phải luôn kêu lên như Phêrô: “Thưa Ngài, xin cứu con với !” (Mt 14: 30) để được bảo vệ trong những lúc đáng sợ nhất của cuộc đời, chẳng hạn như vào giờ chết. Để có thể được như vậy, chúng ta cần phải kêu cầu với Chúa Giêsu luôn mãi, ngay bây giờ, từng giây phút: “Muôn lạy Chúa, xin đừng bỏ mặc, đừng nỡ xa con, lạy Thiên Chúa con thờ. Lạy Chúa cứu độ con, xin Ngài mau phù trợ” (Tv 38: 22-23).
Có những lúc trong cuộc sống dường như Chúa đã thực sự quên chúng ta và hy vọng của chúng ta bắt đầu tàn lụi. Có một sự im lặng không thể giải thích được cứ như buộc chúng ta phải tự mình vận dụng mọi sức lực trong chúng ta để tiếp tục sống. Các môn đệ hoảng sợ, sợ cái chết sắp xảy ra và dường như những gì họ đang thi hành theo mệnh lệnh của Chúa Giêsu chỉ là ảo ảnh, là bóng ma: “Thấy Ngài đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy!”, và sợ hãi la lên” (Mt 14:26). Như thể tâm trí và cõi lòng của họ đã từ bỏ niềm tin rằng Thiên Chúa vẫn nhớ đến họ. Các môn đệ phải bắt tay vào việc; họ phải khám phá ra cách đối mặt với những cơn bão bất ngờ của cuộc đời; họ buộc phải học cách cứu con tàu. Chính khi đương đầu với nỗi sợ hãi, các môn đệ sẽ nhìn ra những gì thực sự là con người của họ, họ đang mang trong lòng những gì. Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài cảm nhận và thấy rõ sự yếu đuối bất lực của họ ngay chính nơi tưởng chừng như quá quen thuộc với họ, qua đó Ngài cũng chỉ cho họ thấy họ cần tin tưởng và cậy dựa không vào ai khác ngoài chính Ngài, Đấng đầy quyền năng và lòng yêu thương “đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ” (Mt 14: 25). Khi chúng ta bị tra tấn bởi nỗi sợ hãi và sự nản lòng, chúng ta cần phải chiến đấu kiên trì để vững tin rằng cuối cùng Chúa Kitô cũng sẽ tỏ mình ra, “đưa tay nắm lấy” chúng ta và rồi chúng ta sẽ nhận ra sự hiện diện cứu độ của Ngài.
Bàn tay Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu, là bàn tay luôn chìa ra cho con người. Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha sai đến trần gian là để chìa tay ra cho tất cả và mỗi người chúng ta, như ánh sao Phương Bắc chỉ đường, để hướng dẫn chúng ta, nâng đỡ chúng ta, giúp chúng ta vững vàng, và cứu chúng ta khỏi chìm xuống những đáy sâu tuyệt vọng của kiếp người muôn ngàn bất trắc. Một cái chạm tay của Chúa Giêsu đã cứu Phêrô khỏi hoảng sợ và khỏi chìm xuống: “Chúa Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông” (Mt 14:31) và Phêrô tìm thấy sự cứu thoát nơi bàn tay nắm chặt của Chúa Giêsu.
Kiên trì vững tin vào Chúa Giêsu.
Không phải các môn đệ là những người quyết định giong buồm ra khơi. Chính Chúa Giêsu đã buộc họ phải đương đầu với những nỗi sợ hãi của họ: “Chúa Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước” (Mt 14:22). Lúc đó là chiều tối rồi, nhưng họ phải “xuống thuyền”, bước vào cuộc sống với những mối nguy hiểm và đối mặt với sự mất an toàn của họ. Ra biển, đối với một người Do Thái, là đi vào nơi dễ chết chóc nhất. Các môn đệ vừa cảm nghiệm được quyền năng của Thiên Chúa: Chúa Giêsu đã hóa bánh ra nhiều để nuôi sống đám đông (Mt 14: 15-21), thế nhưng kinh nghiệm đó về Thiên Chúa không giúp các ông thoát khỏi nỗi sợ hãi bị bỏ rơi: “Giải tán họ xong, Ngài lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến Ngài vẫn ở đó một mình. Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió” (Mt 14:23-24). Sóng gió kéo dài lạ thường “Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ đến cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió” (Mt 14:24), nó bắt đầu từ chiều tối nhưng mãi đến khi đêm gần tàn, Chúa Giêsu mới quyết định ra đón các ông: “Vào khoảng canh tư, Ngài đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ” (Mt 14: 25).
Đôi khi giữa những cơn sóng nghi ngờ của một lý trí đầy suy nghĩ trăn trở về kiếp người, chúng ta không tin rằng mình có thể bước đi trên mặt nước xao động. Đoạn Tin mừng nhắc nhở chúng ta đừng như Phêrô, ban đầu bất chấp nỗi sợ hãi của chính mình, “từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và bắt đầu chìm”, mà hãy cùng với các anh em, dù có thể cũng đang hoảng hốt trong con tàu Giáo hội, chúng tay đừng rời mắt khỏi Chúa Giêsu và đừng cứ nhìn vào những yếu đuối, tội lỗi và giới hạn của chính mình, của người khác, là điều khiến chúng ta bắt đầu chìm xuống, nhưng hãy nhìn thẳng vào Chúa Giêsu, vững tin không sợ chìm.
Kinh nghiệm về chết đuối và được cứu thoát
Phêrô hiểu rằng, tự mình, ông sẽ chẳng đi đến đâu; nếu không có Chúa Giêsu, chắc chắn ông sẽ chìm xuống dưới sức nặng của con người yếu đuối tội lỗi là chính mình. Tuy nhiên, chính khi ông đang chìm xuống, ông cầu cứu Chúa Giêsu “xin cứu con với” và ông cảm nghiệm được bị Ai đó tóm lấy và kéo ra khỏi vùng nước tuyệt vọng. Đây là kinh nghiệm được ghi khắc trong đức tin của mỗi người chúng ta: không có Chúa, chúng ta chết đuối, nhưng khi chúng ta đuối sức, Chúa đưa tay ra nắm chặt chúng ta và cứu chúng ta trong những cơn bão của cuộc đời.
Kinh nghiệm về chết đuối và được cứu thoát này là kinh nghiệm của các Tông đồ, của cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên, và của tất cả các Kitô hữu mọi thời đại. Chúng ta thấy có hai câu nói, một cầu xin, một tuyên xưng: “Lạy Chúa, xin cứu con!” và “Quả thật, Ngài là Con Thiên Chúa.” Toàn bộ cuộc sống của chúng ta là một chuyển động giữa hai lời cầu xin và tuyên xưng này, từ bao nỗi sợ hãi trong cuộc sống, cuối cùng là cái chết không tránh khỏi, đến việc nhận ra rằng chúng ta đã được Thiên Chúa cứu độ, nhờ Chúa Giêsu Kitô.
Nhiều khi chúng ta không thể làm gì cho chính mình và cho những người chúng ta yêu thương ngoại trừ giao phó chính mình và những người chúng ta yêu thương trong bàn tay của Thiên Chúa, vì tin rằng Thiên Chúa yêu thương tất cả chúng ta và Ngài biết rõ hơn chúng ta những gì tốt lành cần phải làm cho chúng ta, như đã làm cho tiên tri Êlia trong bài đọc thứ nhất: “Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt Chúa. Kìa Chúa đang đi qua” (1 V 19: 11). Thiên Chúa làm cho Êlia kiên vững trong đức tin và xác tín vào quyền năng của Chúa là Đấng thống trị trần gian, luôn bước đi và hành động ngay bên, để giữa cơn sóng gió làm chao đảo tâm hồn và cuộc sống của ông, ông vẫn vững tin có Chúa hiện diện với mình: “Gió to bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng trước nhan Chúa, nhưng Chúa không ở trong cơn gió bão. Sau đó là động đất, nhưng Chúa không ở trong trận động đất. Sau động đất là lửa, nhưng Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa có tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe tiếng đó, ông lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang. Bấy giờ có tiếng hỏi ông: "Êlia, ngươi làm gì ở đây ?” (1 V 19: 11-13).
Hôm nay, Tin mừng đảm bảo với tất cả những ai, dù đức tin còn yếu ớt, nhưng đang dần lớn lên, rằng sự hiện diện của Chúa Giêsu với Giáo hội của Ngài, trong các Bí tích, trong Lời Chúa, trong cộng đoàn Dân Chúa, và nơi những người anh em bé nhỏ nhất của Ngài, là một điểm tựa mà chúng ta có thể dựa vào, khi an lành cũng như lúc hoảng sợ, như thánh Phaolô khẳng định trong bài đọc thứ hai rằng Chúa Kitô: “là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Ngài đến muôn thuở muôn đời. A-men” (Rm 9:5).
Trong những năm gần đây, chúng ta được nghe rất nhiều tin làm chấn động cả thế giới: những trận TN 19-A166
Trong những năm gần đây, chúng ta được nghe rất nhiều tin làm chấn động cả thế giới: những trận động đất, sóng thần, bão tố, sạt lở liên tiếp xảy ra, phá hủy bao công trình phúc lợi công cộng. Những trận cuồng phong bão táp chúng ta có thể thấy bằng con mắt giác quan, còn có những trận cuồng phong vô hình đã và đang từng ngày đổ ập vào người ta như sóng gió hữu hình đến với các môn đệ Chúa Giêsu, và chắc chắn có sóng cả ba đào đổ ập vào đời ta.
Tin Mừng Thánh Mátthêu thuật lại: “Khi dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà sang bờ bên kia trước… ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió…” (Mt 14,22-25). Đang lúc các môn đệ hết sức sợ hãi thì Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến với họ, lại thêm một bóng người lạ đang tiến gần họ, họ tưởng rằng “Ma” nên càng sợ hãi, bán tín bán nghi. Chúng ta đặt mình vào trong tình huống này, giữa đêm khuya trên biển cả, gió gào, sóng thét, tâm thế chúng ta sẽ ra sao?
Biển là gì? Theo người Do Thái, biển là sào huyệt của Satan, cuồng phong thể hiện sức mạnh của tà thần. Con thuyền của các môn đệ là hình ảnh của Giáo hội, việc Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các ông giữa lúc đêm khuya sóng đành chứng tỏ đời luôn có Chúa. Đức Cố Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã nói tại quảng trường thánh Phêrô sáng thứ tư 27-2-2013 rằng : “Giáo hội là con thuyền… có lúc vui, nhưng cũng có lúc không dễ dàng. Tôi đã cảm thấy như thánh Phêrô với các Tông Đồ trong con thuyền trên hồ Galilêa: Chúa đã cho chúng ta những ngày đánh được đầy cá; cũng có lúc ngược gió, như trong suốt lịch sử của Giáo hội và xem ra Chúa ngủ. Nhưng tôi biết rằng trong thuyền luôn có Chúa … và con thuyền Giáo hội là của Chúa, Chúa không để cho nó chìm; chính Chúa điều khiển nó...”
Thật vậy, nếu ngày nào đó chúng ta phải đương đầu với các cơn cám dỗ không thể tránh được, như khó khăn, vất vả, mệt nhọc bủa vây quanh ta, thuyền của chúng ta đang ở giữa đại dương mênh mông, với những cơn sóng đang tìm cách nhấn chìm đức tin của chúng ta. Hãy tin rằng, Giáo hội là của Chúa, Người không để cho nó chìm; Chúa chỉ đợi chúng ta tin tưởng vào Chúa.
Đối diện với sự dữ xảy ra trong cuộc sống, niềm tin vào tình yêu và sự toàn năng của Thiên Chúa bị thử thách. Chúng ta hãy vững tin vào Chúa, Đấng luôn muốn điều tốt cho con người. Chúa sẽ biến những đường cong thành đường thẳng. Chúa sẽ làm cho đêm tối của chúng ta thành ánh sáng. Chúng ta có thể bình an bước đi ngay cả trong đêm tối, khi đối mặt với sự dữ bởi chúng ta không bước đi một mình, nhưng có Chúa cùng đồng hành.
"Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?". Chúng ta hãy mời Chúa Giêsu bước lên những con thuyền cuộc sống của chúng ta. Hãy phó thác cho Chúa những lo sợ của chúng ta để Người chiến thắng chúng. Như những môn đệ chúng ta sẽ cảm nghiệm thấy rằng có Chúa ở trên thuyền, thuyền sẽ không bị đắm. Vì sức mạnh của Thiên Chúa là: tất cả những gì xảy ra cho chúng ta, cả những điều bất hạnh, đều mưu ích cho chúng ta. Chúa đưa sự thanh thản vào trong những bão tố của chúng ta, vì với Thiên Chúa, sự sống sẽ không bao giờ chết.
Chúa đặt câu hỏi cho chúng ta, giữa biến cả lữ thứ trần gian của chúng ta, Chúa mời gọi chúng ta hãy đánh thức và khởi động tình liên đới và hy vọng, có khả năng mang lại sự vững chắc, nâng đỡ và mang lại ý nghĩa cho những lúc này, trong đó tất cả dường như bị chìm. Chúa đến bước vào con thuyền của đời ta, hồi sinh niềm tin của chúng ta.
Với lời kêu cứu của Phêrô: “Lạy Thầy, xin cứu con!” (Mt 14,30) Chúa Giêsu đáp lại bằng cử chỉ và lời. Người giơ tay nắm lấy ông và trách: “Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?” (Mt 14,31) Khi gió thổi mạnh, nỗi sợ hãi và nghi ngờ về quyền năng của Chúa đột nhập vào Phêrô, một con người yếu lòng tin. Cứu ông lên khỏi nước, Chúa Giêsu dạy ông rằng, tình thầy trò không phải là đức tin của người môn đệ, nhưng là lòng trung thành của Thầy. Cảnh tượng trên phơi bày sự cao cả cũng như thấp hèn của người môn đệ. “Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: “Thật, Thầy là Con Thiên Chúa” (Mt 14,32-33). Quả thật, niềm tin vào Con Thiên Chúa chỉ có được sau một hành trình dài của đau khổ, chết và phục sinh của Đức Giêsu Con Thiên Chúa.
Nếu một ngày nào đó chúng ta phải đương đầu với các cơn cám dỗ không thể tránh được, hãy nhớ rằng Chúa Giêsu buộc chúng ta xuống thuyền ; từ bờ bên này sang bờ bên kia không thể không có sóng gió. Và khi chúng ta thấy những khó khăn, vất vả, mệt nhọc giữa đời vây quanh ta, thuyền của chúng ta đang ở giữa đại dương mênh mông, với những cơn sóng đang tìm cách nhấn chìm đức tin của chúng ta. Chúng ta hãy vững tin rằng, Con Thiên Chúa sẽ đi trên mặt nước đến gần chúng ta, giơ tay kéo chúng ta lên; Chúa chỉ mong đợi chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Chúa.
Lạy Mẹ Maria, gương mẫu về lòng tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa, xin giúp chúng con vững tin vào Chúa, để giữa bao bận tâm, lo lắng, khó khăn giữa biển cả cuộc đời đang làm chúng con giao động, chúng con vẫn nghe thấy lời trấn an của Chúa Giêsu, Con Mẹ: “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!” (Mt 14,27). Amen. mục lục
Sự nghi ngờ có thể tốt, có thể xấu. Tốt khi nghi ngờ để tìm ra sự thật, các khoa học gia đã nghi TN 19-A167
Sự nghi ngờ có thể tốt, có thể xấu. Tốt khi nghi ngờ để tìm ra sự thật, các khoa học gia đã nghi ngờ để có được những kết quả chính xác tốt đẹp. Xấu khi nghi ngờ với ý không tốt và thái quá, hầu như không còn tin tưởng.
Nghi ngờ về tâm linh đáng lưu ý hơn nhiều, nhất là về mầu nhiệm và tín điều. Thánh Phanxicô Assisi xác định: “Nơi nào đầy những hoài nghi, tôi phải gieo hạt giống đức tin. Nơi nào đầy sự mất mát, tôi phải gieo hạt giống cậy trông.” Thánh John Henry Newman chia sẻ: “Từ năm tôi mười lăm tuổi, tín lý vẫn là nguyên lý căn bản đạo giáo của tôi: tôi không biết một đạo giáo nào khác, tôi không thể biết về một thứ đạo giáo nào khác; đối với tôi, nếu đạo giáo chỉ là cảm tình thì nó là giấc mơ và là sự nhạo báng. Một ngàn nỗi khó khăn cũng không tạo nên một sự nghi ngờ.” Niềm tin như vậy thật đáng khâm phục!
Trình thuật Mt 14:22-33 (≈ Mc 6:45-52; Ga 6:16-21) cho biết rằng, sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn no, Chúa Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Ngài giải tán dân chúng, vì chắc chắn dân chúng lưu luyến Ngài lắm, không thể về được, dù trời sắp tối. Mãi mới giải tán được đám đông, rồi Chúa Giêsu lên núi một mình mà cầu nguyện. Tối đến, Ngài vẫn ở đó một mình, Ngài luôn thích sống tĩnh lặng để kết hiệp với Chúa Cha qua lời cầu nguyện, và Ngài cũng căn dặn mọi người phải cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Cầu nguyện là sức sống và sức mạnh của linh hồn. Thứ nhất là cầu nguyện, thứ nhì mới là hoạt động. Bác học André-Marie Ampère nói: “Người ta chỉ vĩ đại khi cầu nguyện.” Thật kỳ lạ! Thảo nào Chúa Giêsu bảo chúng ta phải cầu nguyện không ngừng, cầu nguyện liên lỉ.
Chiếc thuyền chở các môn đệ đã ra xa bờ vài cây số, rồi bị sóng đánh vì ngược gió. Vào khoảng canh tư – tức là quá nửa đêm về sáng, Ngài đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ. Thấy bóng người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt la lên: “Ma đấy!” Chúa Giêsu liền bảo họ: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!” Nghe vậy, ông Phêrô bán tín bán nghi nên thưa: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.” Chúa Giêsu bảo ông: “Cứ đến!” Ông mau mắn bước ngay xuống khỏi thuyền, đi trên mặt nước mà đến với Chúa. Rất vô tư. Rất ngon lành. Thế nhưng khi thấy gió thổi, ông đâm sợ, hồn xiêu phách lạc, chín vía lên mây ráo trọi. Ông bắt đầu chìm nên la to: “Thưa Ngài, xin cứu con với!”
Chúng ta cũng vậy giữa biển đời này, không hơn gì ngư phủ Phêrô. Biển đời chỉ mới gợn sóng lăn tăn thôi, vậy mà thuyền đời của chúng ta đã tròng trành, tưởng chừng chìm đến nơi. Lòng tin tích góp bao năm, giờ bỗng “bốc hơi” gần cạn kiệt; cây đức tin vun tưới bao năm, giờ bỗng héo úa mau chóng. Ôi, đức tin chỉ “sống” khi dòng đời êm ả, khi trời quang mây tạnh, khi tiệc tùng linh đình, khi được tâng bốc lên tận mây xanh,... Còn khi gặp gió xoáy hoặc lốc xoáy, con-thuyền-đức-tin quay tít như con cù, chẳng còn biết đâu là phương hướng nữa!
Thấy ông Phêrô ngoi ngóp trong dòng nước, Chúa Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà KÉM TIN vậy! Sao lại HOÀI NGHI?” Lời trách rất nhẹ nhàng mà đau điếng. Đó cũng là lời Chúa Giêsu đang trách mỗi chúng ta ngay lúc này, để đánh động chúng ta.
Thầy trò cùng lên thuyền. Gió yên, biển lặng. Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Ngài và tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa. Đó là bài học đức tin vô giá mà Chúa Giêsu dạy ngay trong những lúc chúng ta gặp sóng gió cuộc đời. Cuộc đời không như thảm lụa hoặc vườn hoa hồng. Thiên nhiên có lúc nắng, lúc mưa, lúc hạn hán, lúc mưa dầm, thậm chí là áp thấp hoặc bão tố. Cuộc sống cũng vậy, chang bao giờ hết lo sợ.
Cụ Nguyễn Công Trứ đặt vấn đề: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai?” Giữa sóng gió cuộc đời, dù nhỏ hay lớn, ước gì chúng ta vẫn luôn khả dĩ xác tín với Chúa Giêsu Kitô thực sự là Con Thiên Chúa thì đó là sống đức tin, là làm chứng nhân giữa đời thường. Có lúc Chúa Giêsu dẹp yên sóng đời để cứu chúng ta ngay, nhưng có lúc Ngài cứ để cho biển đời dậy sóng để dẹp yên “sóng lòng” của chúng ta. Thánh Ý Chúa luôn mầu nhiệm.
Đề cập vấn đề đức tin, Thánh TS Têrêsa Avila xác định: “Tất cả tội lỗi đều do thiếu đức tin mà ra.” Rất đáng để chúng ta phải “giật mình” mà cố gắng tự chấn chỉnh lắm. Tất nhiên không thể quên khẩn nguyện: “Xin cứu vớt, lạy Thiên Chúa của con!”
Không có sóng thì không là biển. Lúc nào biển cũng có sóng, sóng ngầm hoặc sóng cồn, sóng to hoặc sóng nhỏ, nghĩa là biển luôn dậy sóng, mặc dù có lúc thấy biển bình lặng. Ba đào là con sóng lớn – ba: sóng, đào: nổi dậy. Sóng không bao giờ lặng, như người ta có câu: “Bình địa ba đào.” – nghĩa là sóng gió nổi lên ở vùng đất bằng, ý nói cuộc tai biến bất ngờ có thể xảy ra bất cứ lúc nào trong đời người. Câu “bình địa ba đào” có lẽ phát xuất từ của thơ của cụ Nguyễn Du viết trong Truyện Kiều: “Gặp cơn bình địa ba đào, Vậy đem duyên chị buộc vào cho em.” (câu 3065-3066)
Khi nói đến sóng, người ta thường nghĩ tới biển – không ai nghĩ tới sóng phát thanh, truyền hình, wi-fi. Sóng có lúc rất hiền hòa, thơ mộng khi sóng “mơn man vỗ mạn thuyền,” người ta áp dụng nghĩa này cho vấn đề trừu tượng và gọi là “lãng mạn.” Sóng cồn dù dữ dội nhưng là sóng nổi, thật đáng sợ nhưng không đáng sợ bằng sóng ngầm, vì sóng ngầm không thể nhìn thấy. Còn khủng khiếp hơn nếu đó là sóng bạc đầu hoặc sóng thần. Biển vừa hiền vừa dữ. Biển sâu thẳm và mênh mông, bao la tình yêu thương, được ví von là Tình Mẹ. Lòng biển không bao giờ lặng, luôn xao động, dù có lúc có vẻ rất tĩnh. Và biển cũng giống như cuộc đời của con người vậy!
Sóng đa dạng. Có loại sóng dữ dội và dai dẳng, gọi là “sóng đời.” Phàm nhân miệt mài hành trình lữ hành trần gian, lênh đênh trên biển đời, chắc chắn không thể tránh được những đợt “sóng đời” – đủ dạng và đủ cỡ. Không vững tay chèo thì thuyền đời tròng trành, thậm chí còn có nguy cơ “chìm” bất cứ lúc nào. Do đó, tín nhân phải sẵn sàng phát tín hiệu khẩn cấp: “SOS, lạy Chúa, xin cứu con!” Bất kỳ lúc nào, càng nhanh và càng rõ thì càng tốt.
Thiên Chúa hiện diện mọi nơi và mọi lúc. Ngài tác động mọi sự, kể cả những thứ chúng ta cho là không tốt, nhưng Thiên Chúa không làm điều không tốt – nghĩa là Ngài chỉ làm điều thiện, bởi vì Ngài là Đấng Thánh, (Lv 11:44-45; Lv 19:2; Lv 20:26; Lv 21:8; Tv 89:36; Tv 99:5 & 9; Is 6:3; Br 4:22; Hs 11:9; Am 4:2; 1 Pr 1:16; Ga 6:69) và nhân lành. (Mc 10:18; Lc 18:19; Ga 10:11 & 14) Đau khổ và những thứ không tốt xảy ra, không phải là Ngài không biết, nhưng Ngài cho phép nó xảy ra theo tự nhiên để cảnh tỉnh chúng ta với bài học vô giá. Có thể đó là hậu quả do sai lầm của chúng ta hoặc của người khác, nhưng cũng có thể đó là để vinh danh Chúa – như trường hợp người mù bẩm sinh. (x. Ga 9:1-3) Mọi thứ đều có tính liên đới, kể cả tội lỗi.
Ngày xưa, Đức Chúa hỏi khi ông Êlia vào nghỉ ngơi một cái hang: “Êlia, ngươi làm gì ở đây?” (1 V 19:9) Rồi Ngài truyền lệnh: “Hãy ra ngoài và đứng trên núi trước mặt Đức Chúa. Kìa Đức Chúa đang đi qua.” (1 V 19:11) Cơn gió lồng lộng, cơn bão lớn xẻ núi non, đập vỡ đá tảng trước nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa không ở trong những “sự kiện” đó. Sau đó là động đất, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong trận động đất. Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa.
Sau lửa có tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe tiếng đó, ông Êlia lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang. Ông nhận biết Đức Chúa đang ở trong làn gió nhẹ đó. Quả thật, lúc đó có tiếng hỏi ông như trước: “Êlia, ngươi làm gì ở đây?” (1 V 19:13) Ông thưa: “Lòng nhiệt thành đối với Đức Chúa, Thiên Chúa các đạo binh, nung nấu con, vì con cái Israel đã bỏ giao ước với Ngài, phá huỷ bàn thờ, dùng gươm sát hại các ngôn sứ của Ngài. Chỉ sót lại một mình con mà họ đang lùng bắt để lấy mạng con.” (1 V 19:14) Thiên Chúa dịu dàng nhưng cương quyết!
Ngài vẫn luôn phán dạy nhưng không dễ để lắng nghe tiếng Ngài hoặc nhận biết ý Ngài, vì thế chúng ta phải cố gắng lắng nghe để nhận biết ý Ngài, rồi tiếp tục cố gắng chấp nhận và thực hiện, người có lòng nhiệt thành đối với Chúa để ý Ngài nên trọn chứ không mong ý mình nên trọn. Thế nhưng chúng ta thường có xu hướng trái ngược, vì chúng ta thích xin được như ý mình hơn là như ý Chúa.
Thánh Vịnh gia chia sẻ chân thành: “Tôi lắng nghe điều Thiên Chúa phán, điều Chúa phán là lời chúc bình an cho dân Người, cho kẻ trung hiếu và những ai hướng lòng trí về Người. Chúa sẵn sàng ban ơn cứu độ cho ai kính sợ Chúa, để vinh quang của Người hằng chiếu tỏa trên đất nước chúng ta.” (Tv 85:9-10) Thiên Chúa là Đấng nhân lành, thế nên bất cứ nơi nào Ngài hiện diện thì mọi sự đều tốt đẹp: “Tín nghĩa ân tình nay hội ngộ, hòa bình công lý đã giao duyên. Tín nghĩa mọc lên từ đất thấp, công lý nhìn xuống tự trời cao. Vâng, chính Chúa sẽ tặng ban phúc lộc và đất chúng ta trổ sinh hoa trái. Công lý đi tiền phong trước mặt Người, mở lối cho Người đặt bước chân.” (Tv 85:11-14) Điều này cũng đồng nghĩa với điều này: Ở nơi nào vắng bóng Thiên Chúa thì mọi sự sẽ hoang vu, tiêu điều và nguy hiểm!
Ai biết sợ cảnh “thiếu vắng Thiên Chúa” thì phải mau đón nhận Ngài, càng sớm càng tốt, trước khi công lý được áp dụng, trước khi chấm dứt “thời gian thương xót” của Ngài. Thiên Chúa vẫn kiên trì chờ đợi tội nhân trở về như người cha nhân hậu trông mong đứa con hoang đàng trở về. (Lc 15:11-32) Ai khôn ngoan thì biết tỉnh thức đợi chờ Ngài như mười trinh nữ khôn ngoan chờ đón chàng rể, (Mt 25:1-13) vì thời gian không chờ đợi ai. Lý do? Bởi vì “Chúa đã gần đến,” (Pl 4:5) “ngày Chúa quang lâm đã gần tới,” (Gc 5:8) và “thời giờ đã gần đến.” (Kh 1:3; Kh 22:10) Đó là không ngừng rèn luyện đức tin, để khi gặp thử thách sẽ không bị chao đảo, không như hạt giống rơi vào đất sỏi đá hoặc bụi gai, nhưng là hạt sinh lợi gấp nhiều lần. (x. Mt 13:4-8)
Sống “tỉnh thức” thì không thể ngồi yên, cõi lòng luôn như biển động, luôn nổi sóng nhưng không bị dao động. Thánh Phaolô cũng đã đứng ngồi không yên. Ông thề có Đức Kitô chứng giám, rồi nói sự thật chứ không nói dối, nhờ Thánh Thần hướng dẫn: “Lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không ngơi.” (Rm 9:2) Lý do là đây: “Giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết thống, mà tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Kitô, tôi cũng cam lòng. Họ là người Israel, họ đã được Thiên Chúa nhận làm con, được Người cho thấy vinh quang, ban tặng các giao ước, lề luật, một nền phụng tự và các lời hứa; họ là con cháu các tổ phụ; và sau hết, chính Đức Kitô, xét theo huyết thống, cũng cùng một nòi giống với họ. Người là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. Amen.” (Rm 9:3-5) Có Chúa thì hạnh phúc biết bao!
Nhưng phàm nhân không hề đơn giản, vì cứ nói rồi quên, cứ hứa rồi thôi. Khốn nạn lắm. Đôi khi không chỉ nghe người khác nói mà còn chứng kiến tận mắt, thế mà vẫn chưa dám tin. Con người phức tạp quá! Mong sao mọi Kitô hữu đều biết sống Tin Mừng, làm chứng sống động về niềm tin, lòng ngay chính và tình yêu thương tha nhân trong hoàn cảnh sống thực tế hằng ngày.
Đề cập sự nghi ngờ, William Arthur Ward nhận định: “Lạc quan là hạt giống gieo trồng trên mảnh đất của niềm tin, bi quan là hạt giống cất giữ dưới căn hầm nghi ngờ.” Henri Frederic Amiel nói: “Nghi ngờ sự tồn tại của tình yêu sẽ khiến chúng ta nghi ngờ mọi thứ.” Thật nguy hiểm! Và còn hơn thế nữa, “nghi ngờ là bạn đồng hành của những tâm hồn bần tiện và là tai ương của xã hội tốt đẹp.” (Thomas Paine) Khi nghi ngờ, đừng hành động!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con vững tin và vững tay chèo trong biến động của cuộc đời, dù sóng to hay nhỏ, dù sóng mạnh hay nhẹ, xin đừng để chúng con nghi nan, và xin giúp thuyền đời chúng con được cập bến bình an. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
Tại sao Đức Giê-su ép buộc các môn đồ ra đi? Tại sao Người giải tán dân chúng sau khi đã TN 19-A168
Tại sao Đức Giê-su ép buộc các môn đồ ra đi? Tại sao Người giải tán dân chúng sau khi đã nói họ chớ nên “xa khỏi” Người? Các chi tiết đó quan trọng, mang đầy ý nghĩa. Chúng đều được Mt và Mc thuật lại. Nhưng chỉ Gio-an mới cho lời giải thích: “Việc ban bánh trong hoang địa” có ý nghĩa tiên báo Đấng Thiên Sai (Mê-si-a) làm dấy lên nhiệt tình của dân chúng vốn luôn bị kích động bởi lắm “thiên sai” (dỏm) trong giai đoạn lịch sử Ít-ra-en này. Với thói hồ đồ cố hữu và hành động nông nổi, quần chúng lúc đó đã muốn lôi Đức Giê-su vào trong một cuộc phiêu lưu chính trị-tôn giáo, như từng xảy ra lắm phen ở cái xứ bị Rô-ma thống trị này mà thường chấm dứt trong những cuộc đàn áp đẫm máu: “Đức Giê-su biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình” (Ga 6,15). Biết các môn đệ cũng gắn bó với những viễn ảnh thiên sai trần tục như thế, dễ để mình ngây ngất vì cuộc “biểu dương” chính trị như vậy, Đức Giê-su đã vội vàng buộc họ phải ra đi. Có thể tưởng tượng Người sau đó tranh luận gay gắt với những tay ngoan cố, nhiệt tình không muốn bỏ lỡ cơ hội: “Nhưng không! Tôi không đến để làm chính trị; nước tôi đâu thuộc thế gian này… Tôi chẳng có nhiệm vụ cho anh em ăn mỗi ngày… Thức ăn trần thế đâu phải là thứ quan trọng nhất đối với anh em” (x. Ga 6,27).
Mệt mỏi vì những tranh luận ấy, khi còn lại một mình, Đức Giê-su cảm thấy cần cầu nguyện. Giờ đây, trong bóng đêm, Người men theo lối đi đầy đá cuội để lên núi. Dễ đoán ra nội dung lời cầu nguyện của Đức Giê-su đêm ấy. Thiên hạ đã cố gắng lôi Người ra khỏi sứ mệnh chủ yếu của Người. Nhưng Người trở về lại đó cách tự nhiên, theo bản năng: vai trò Người có tính cách thiêng liêng, dẫu đem lại nhiều hậu quả quan trọng về mặt vật chất. Một lần nữa, Đức Giê-su phải chiến đấu với con quỷ “chủ nghĩa thiên sai quốc gia” vốn từng hứa cho Người tất cả các nước thế gian nếu Người chịu bái lạy nó (x. Mt 4,8.10). Cám dỗ khủng khiếp, ám ảnh, gần gũi, lặp đi lặp lại. Nhờ lời cầu nguyện, Đức Giê-su chống lại cách cam đảm. Không! Người sẽ chẳng làm “vua” vinh quang và danh giá, thống lĩnh với quyền lực chính trị oai hùng. Người sẽ là “Đấng Thiên sai” nghèo khó, âm thầm, chịu đau khổ và chết ô nhục, để giải thoát nhân loài khỏi 3 quyền lực ghê gớm hơn: tội lỗi, ác quỷ và tử thần. Đức Giê-su chắc hẳn cũng cầu cho các “môn đệ” vừa bị xua đi, nghĩ đến Giáo hội Người vừa thành lập, đến cơn cám dỗ thường xuyên của Giáo hội là đưa các phương tiện thế gian lên hàng đầu và luôn muốn mình oai phong hiển thắng.
2. Tỏ mình như Chúa tể vũ trụ.
Trong một cú xoay camêra đột ngột, Mt chuyển từ hình ảnh Đức Giê-su trên núi sang hình ảnh chiếc thuyền “bị sóng đánh vì ngược gió” trên biển. Mọi nhà chú giải, từ các Giáo phụ đầu tiên, đã thấy chiếc thuyền này như một biểu tượng của Giáo hội. Vào thời Mt, các cộng đoàn Ki-tô hữu thật sự chỉ là những chiếc thuyền mỏng manh bé tí, lênh đênh vất vả trên biển dậy sóng tôn giáo đa thần, ngẫu thần! Các Tông đồ đã phải chèo chống suốt đêm và “vào khoảng canh tư, Đức Giê-su đi trên mặt biển mà đến với họ”. Việc “đi trên biển” này có thể bị nhiều người cho như một chuyện cổ tích thần tiên, chỉ dành cho trẻ nít và kẻ ngây ngô khờ khạo. Khác với các phép lạ “chữa lành” mà ta nắm bắt ngay được ý nghĩa vì chúng “có ích”, ta ngạc nhiên vì cử chỉ xem ra vô ích, “nặng phần trình diễn” này. Đó là vì chúng ta rất hay quên rằng các phép lạ của Đức Giê-su trước tiên là những “dấu chỉ”, những hành vi ý nghĩa, có một điều gì đó muốn nói với con người. Ý nghĩa biểu tượng của chúng nằm hàng đầu, và các tác giả Tin Mừng đã tìm ra ý nghĩa đó nhờ “đọc lại” các biến cố từ ba yếu tố giải thích: 1/ Cuộc phục sinh của Đức Giê-su … 2/ Truyền thống của Cựu Ước… 3/ Các nhu cầu của cộng đoàn tín hữu…
Trong toàn bộ Thánh Kinh, “biển” tượng trưng các quyền lực sự ác chống lại con người. Như bao dân “sống trên cạn” khác, người Hip-ri tự bao đời vẫn sợ biển, nơi cư trú các quái vật thần thoại: Lê-vi-a-than, Ra-háp (x. Tv 74,13-14; 104,5.9.26; 106,9; G 41; Is 51,9-10. Việt Nam ta cũng có hình tượng thủy quái: giao long, thuồng luồng…). Trong mọi ngôn ngữ, biển không những được coi như một hiện tượng tự nhiên mà còn như biểu trưng của những tà lực mạnh hơn con người. Vì thế Thiên Chúa được trình bày như Đấng “thống trị đại dương”, “bước đi trên biển” (x. Ga 9,8; Tv 77,20; Hc 24,5; Kb 3,15). Việc Đức Giê-su đi trên mặt nước do đó cho thấy đây là một cuộc “biểu dương của Tạo Hóa” có tính chất tiên báo, một “cuộc thần hiển đích thực”. Từ chối ngai vua trần thế, Người vẫn chứng tỏ mình không kém là Vua vũ trụ, và vương quyền này sẽ thực hiện trong cuộc Phục sinh nay mai, lúc Người toàn thắng tội lỗi, ác quỷ và thần chết với tất cả uy lực Chúa tể của Người.
Môn đồ “hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy!” và sợ hãi la lên. Đức Giê-su liền bảo các ông : “Cứ yên tâm! Chính Thầy đây, đừng sợ!” Các cuồng phong không thiếu trong cuộc sống con người. Biết bao lần chúng chúng ta đã cảm thấy buồn nôn say nóng muốn chết đi được (x. Tv 107,25-27). Chúng ta đâu có chọn lựa Biển hồ, thời tiết, bão táp, tối tăm, cám dỗ, thử thách. Thế là nỗi sợ xâm chiếm chúng ta! Nhưng này chúng ta được kêu mời, như môn đệ trên Biển hồ, cảm nhận “sự hiện diện của Đấng Khiếm diện” và đừng kinh hãi.
Nghe thấy thế, Phê-rô, kẻ được trình bày như “Tông đồ” đầu hết, như “phát ngôn viên” của Nhóm Mười Hai, bèn xin Đức Giê-su cho được đi trên nước như Thầy, nhưng ông đã sớm chứng tỏ mình là kẻ “kém lòng tin” số một (x. Mt 6,30; 8,26; 14,31; 16,8; 17,20). Chúng ta cũng thấy mình như vậy. Đức tin đâu phải là một cái gì “làm sẵn”, có được một lần là xong. Đúng hơn đó là một “đời sống” phải tăng trưởng, một “tình sử” phải tiến dần, một mối tương quan không ngừng phát triển giữa hai chủ thể. Đức Giê-su chấp nhận “sự yếu tin” của ta, nhưng mời gọi ta tiến bộ. Và chính trong thử thách, trong các cơn bão cuộc đời, mà “đức tin nhỏ bé” của chúng ta được kiểm chứng và thực thi.
Ở đây, đức tin được trình bày trong một bối cảnh bi thảm, như một trận chiến chống lại nghi ngờ và hãi sợ. Phê-rô đã rời mắt khỏi Đức Giê-su mà nhìn xuống mặt biển giông bão nên suýt chìm lỉm, y như nhân vật trong câu chuyện sau đây : Vào lúc mới có thuyền buồm, một cậu bé nọ xin đi biển để học làm thủy thủ. Một hôm biển có bão, người ta bảo cậu leo lên cột buồm. Cậu leo nửa phần đầu rất dễ, vì cứ đưa mắt gắn chặt vào bầu trời. Nhưng đến lưng chừng, cậu lại phạm sai lầm lớn. Cậu nhìn xuống mặt nước trong cơn bão, thế là bị chóng mặt và sắp sửa ngã. Thấy thế, một thủy thủ già liền la to lên với cậu: “Này nhóc, ngước nhìn lên lại bầu trời đi! Nhìn lên lại bầu trời đi!” Cậu bé nghe theo lời chỉ dẫn và sau hết đã leo tới đỉnh an toàn. Lỗi lầm của cậu bé giống lỗi lầm của Phê-rô. Cậu ta đã rời mắt khỏi đích nhắm của mình mà nhìn xuống mặt biển giông tố, giống như Phê-rô đã rời mắt khỏi Đức Giê-su và nhìn xuống giông tố mặt biển.
Nhưng khi Phê-rô ngước lên lại Thầy với lời cầu nguyện thành khẩn, Đức Giê-su đã đưa tay cho ông, như rồi đây sẽ đưa mắt cho ông sau ba phen ông chối Thầy trong cuộc Khổ nạn, và đưa thị kiến “Người lại vác thập giá đi chịu chết” giữa lúc Phê-rô sắp nao núng cuống cuồng trong những cơn bão khác trầm trọng hơn tại Rô-ma thời hoàng đế Nê-rông (xem tiểu thuyết lịch sử lừng danh “Quo vadis?” (Thầy đi đâu) của văn hào Ba-lan Henryk Sienkiewicz).
Trước khi suy gẫm việc Đức Giê-su đi trên mặt biển trong bài Tin Mừng hôm nay, xin mời anh TN 19-A169
Trước khi suy gẫm việc Đức Giê-su đi trên mặt biển trong bài Tin Mừng hôm nay, xin mời anh chị em cùng ôn lại cuộc vuợt biển năm nào. Chuyến vượt biên nào cũng trải qua những giây phút kinh hoàng và khiếp sợ. Đầy gian khổ. Kẻ bị lừa. Người vào tù. Người chết vì bão tố. Lại có một số người bị hải tặc tấn công, cướp bóc nhục mạ cho đến chết, chết không toàn thây. Nói chung nếu cho chọn lại không mấy ai dám vượt biển nữa. Đối với tôi, biến cố ra đi tìm sự sống qua cõi chết vẫn là một sự cố kinh hòang mà tôi không thế nào quên được.
Trong chuyến vượt biên vào năm 1982, thuyền của chúng tôi đã bị mắc kẹt trong cơn bão (thật ra là gần cuối cơn bão). Chúng tôi đã trải qua những giây phút thật hoảng sợ. Hầu như tất cả đều bất lực truớc sự tàn phá của thiên nhiên.
Có khoảng chừng tám mươi người trên tầu. Ngọai trừ gia đình chủ tầu, tài công là những người quen biết nhau từ trước; còn chúng tôi hòan tòan xa lạ đối với nhau. Một số gốc Công giáo; những người khác theo Phật giáo và còn một số là tín đồ của các giáo phái như Cao Đài… Nói chung, trong giây phút nguy hiểm đó, tất cả chúng tôi không cần biết mình thuộc tôn giáo nào nữa. Tất cả đều qui huớng về Đấng Chí Tôn, Đấng Tạo Hóa để cầu xin. Chỗ này lần hạt cầu nguyện, chỗ kia niệm kinh Nam Mô. Chúng tôi cùng chia sẻ một niềm tin vào Đấng Tạo Dựng và điều khiển vũ trụ. Chúng tôi tin rằng chỉ có sức mạnh tối cao từ Đấng Tạo Hóa, Đấng có thể cứu chúng tôi khỏi cơn gian nan đầy nguy hiểm này.
Thời gian cứ thế trôi qua. Sóng biển vẫn tiếp tục gầm thét như muốn ăn tươi nuốt sống chúng tôi vào lòng biển. Tất cả đều quá mệt mỏi và đuối sức đến độ ngay cả lời cầu nguyện cũng im dần. Tất cả đều chờ đợi sự chộp bắt của Thần Chết.
Thật may mắn, sau đó cơn bão đã suy yếu dần. Thuyền của chúng tôi tiếp tục lênh đênh trên biển cả. Năm ngày sau, chúng tôi được sự hướng dẫn của các nhân viên trên dàn khoan dầu, con thuyền từ từ đến đảo Ku-ku, một trong những hòn đảo rất quen thuộc đối với các thuyền nhân tạm cư tại các trại tỵ nạn bên In-đô.
Thành thật mà nói, tôi nghĩ rằng không có ai trong chúng ta còn đủ can đảm để đi trên biển trong hoàn cảnh như thế! Và, cho đến hôm nay, mỗi lần đi dạo trên bờ biển, nhất là vào buổi tối, đứng nhìn sự bao la và cũng rất đáng sợ của biển cả, cảm giác sợ hãi vẫn ám ảnh. Tôi nhận ra cuộc vượt biên ra đi tìm sự sống trong cái chết của chúng ta quả thật đáng sợ; và việc đến được bến bờ tự do quả thật diệu kỳ, chỉ còn biết coi đó là hồng ân mà thôi.
Thưa anh chị em,
Như anh chị em đã biết, đối với những người sống cùng thời với Chúa Giêsu. Họ tin rằng, sự kết hợp của biển cả và bão tố là biểu tượng của sự tàn phá và hỗn loạn; nó đe doạ sự sống của con người. Thậm chí, tại một số nền văn hoá cổ đại, người ta vẫn tin rằng bão tố là biểu tuợng của thần dữ, tàn phá và tạo nguy hiểm cho chúng sinh.
Trong khi đó, Tin Mừng hôm nay đã trình bầy Đức Giêsu đi trên biển và làm cho sóng gió yên lặng. Thánh sử không nhắm đến việc Đức Giêsu làm phép lạ cho bằng nhấn mạnh đến quyền năng tái tạo của Người. Chúa có quyền trên sóng gió biển cả, có quyền trên các thế lực có thể hủy họai thế giới. Người đem đến sự bình an bằng cách khơi khơi đi trên mặt biển.
Không chỉ như thế, Người còn cho phép Phêrô và mỗi nguời chúng ta có thể làm được như thế. Phê-rô nhẹ nhàng đi trên mặt biển khi nhìn và tin vào Chúa. Đến lúc ông chú tâm vào giông tố và sóng gió, không tập trung vào sự hiện diện của Chúa thì ông bắt đầu bị chìm. Phê-rô đã quên điều Chúa nói “hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!” Đó chính là sứ điệp mà Chúa muốn gửi đến cho chúng ta.
Thực tế, sợ hãi, lo sợ gắn liền với cuộc sống của con người; nó cứ quấn lấy mình. Đã làm người thì không ai trong chúng ta có thể thoát đuợc một vài lần kinh sợ. Nó làm cho chúng ta mất bình an, sống lo âu. Vì biết tầm nguy hiểm và những tác hại của nỗi sợ hãi nên Chúa nói “hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!”
Thế mà, chúng ta vẫn sợ, sợ mọi thứ và cũng có lúc không biết mình sợ gì nữa. Dường như sự lo âu và sợ hãi gắn liền với cuộc sống của con người. Trong lúc âu lo và sợ hãi đó, chúng ta không còn nhìn thấy được gì. Cuộc sống dường như được bao phủ bởi màn đêm, chỉ còn nhìn thấy chung quanh đâu cũng là nguy hiểm, cho dù xoay xở thế nào cũng không đi ra khỏi vùng xoáy đó. Bước ra khỏi tầu sẽ bị chết đuối. Ở lại trong tầu thì bị sóng dập.
Thưa anh chị em,
Vấn đề không dừng lại ở cách chọn lựa của chúng ta để đối diện với những khó khăn nhất thời. Việc quan trọng mà Đức Giê-su muốn đặt ra cho chúng ta hôm nay là mời Người lên thuyền và trao tay lái để Người điều khiển. Giống như kết quả đã được kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay là khi Đức Giê-su lên thuyền thì sóng gió ngừng, biển lại an bình và nguy cơ để tầu bị đắm không còn nữa.
Đây là một trong các chủ đề chính mà cộng đoàn của Thánh Mát-thêu sẵn sàng tuyên xưng. Khi ngự đến trong cung lòng của Mẹ mình, Đức Giê-su đã được gọi là ‘Emmanuel’ có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Và trước khi về cùng Cha, Đức Giê-su đã hứa sẽ cùng với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Nói như thế, thì chúng ta cảm thấy vô cùng may mắn, vì dù trong hoàn cảnh nào, cho dù cuộc sống có khó khăn và gian nan đến đâu thì Chúa vẫn không bỏ rơi chúng ta. Người vẫn hiện diện và ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.
Như vậy, sứ điệp của bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta sống tin tưởng hơn để đối diện với các khó khăn, gian nan và nguy hiểm trong cuộc sống. Thiên Chúa vẫn ở cùng chúng ta. Đấng đang hiện diện với chúng ta trong mọi cảnh huống. Hãy tin rằng chúng ta được Chúa yêu thuơng. Chúa yêu ta vô bờ bến. Tay Chúa vẫn dang rộng để chờ đợi và nắm bắt ta khi ta bắt đầu chìm. Đừng sợ, nhưng hãy tin.
Thật vậy, con người chỉ thắng được các nỗi sợ hãi nhờ tin vào Ðức Giêsu, Ðấng đã nhẹ nhàng đi trên mặt biển vì Tin vào quyền năng của Thiên Chúa lúc nào cũng họat động trong Người và với Người. Người đã không ngã gục vì sợ hãi mà đã đi tới cùng theo ý định của Thiên Chúa. Chúng ta sẽ được như thế. Hãy tin và mời Chúa lên con thuyền cuộc đời và trao tay lái cho Người vì Người sẽ điều khiển và lèo lái con thuyền của chúng ta đến bến bờ bình an. Amen! mục lục
Chúa biểu Elijah đợi Chúa ở trên núi. Vì tin nên Elijah đã được chứng kiến cảnh tượng tàn phá TN 19-A170
Chúa biểu Elijah đợi Chúa ở trên núi. Vì tin nên Elijah đã được chứng kiến cảnh tượng tàn phá của gió, của động đất và của lửa. Sau những biến cố đó Chúa đã nói với Elijah qua tiếng nói thì thầm...(x.Bài đọc 1). Thánh Phaolo rất buồn phiền trong lòng, đã sẵn sàng hy sinh xa cách Chúa Giêsu để cho những người anh em Israel của ông được cứu rỗi (x.Bài đọc 2). Chúa Giêsu -trong bài Tin Mừng Phúc Âm hôm nay- sau khi đã cho đám đông ăn uống no đủ thì đi lên núi cầu nguyện. Các môn đệ muốn qua bên kia hồ nhưng sóng lớn gió mạnh nổi lên. Chúa Giêsu hiện ra trên mặt hồ và Phero ra khỏi thuyền bước đến với Chúa, nhưng vì hồ nghi Phero đã bị chìm. Chúa Giêsu đã cứu ông lên và khiển trách ông vì yếu niềm tin. Đoạn Chúa khiến gió lặng biển yên.
Cả ba bài, bài đọc 1 và 2 và bài Phúc âm của Chúa Nhật này đều đặt trọng tâm vào niềm tin. Có niềm tin thì làm cái gì cũng được. Có niềm tin thì có Chúa hiện diện trong mình giúp đỡ.
Bài đọc 1 (1V 19:9a, 11-13a) tả lại câu chuyện gặp gỡ giữa Elijah và Thiên Chúa. Để hiểu rõ bài đọc này, chúng ta nên biết Elijah là một ngôn sứ của Thiên Chúa vào thời vua Ahab mà vợ là Jezebel, một người ngoại quốc thờ ngẫu tượng thần Baal. Sau khi Elijah bắt giết các ngôn sứ của Baah trong thung lũng suối Wadi Kishon ở Galilee thì Jezebel thề sẽ giết ông để trả thù nên Elijah đã sợ và chạy trốn về Beersheba cách xa cả hơn trăm dặm và trốn trong hang hoang địa, nằm dưới một lùm cây và cầu xin được chết. Lạ thay một thiên thần hiện đến đánh thức ông dậy và biểu ông dùng đồ ăn nước uống đã để sẵn đó cho ông. Rồi một lần khác nữa thiên thần lại đến và biểu ông ăn uống để chuẩn bị cho hành trình lên núi Horeb cũng gọi là núi Sinai (1V 19:1-8).
Khi đến núi Herob, Thiên Chúa đã biểu ông làm những điều phải làm. Elijah đã trả lời, than phiền là sao dân Chúa đã bỏ giao ước, phá hủy bàn thờ của Chúa và giết các ngôn sứ. Elijah còn thêm “Chỉ còn lại có một mình con mà chúng cũng tìm cách giết” (1V 19:10). Đến đây là bắt đầu bài đọc 1 hôm nay. Chúng ta nghe Thiên Chúa nói với Elijah hãy ra khỏi hang và đứng trên núi trước tôn nhan Chúa. Câu “đứng trước tôn nhan Chúa” là ám chỉ Elijah được kêu gọi ra đi để phục vụ. Gió lớn, động đất và lửa là những hiện tượng đi kèm theo việc hiển linh -biểu hiện của Thiên Chúa- nhưng nó chỉ là một “tiếng động nhỏ, một âm thanh rì rào” mà Elijah nhận biết ra đó là Thiên Chúa hiện diện. Thế là Eijah đã ra khỏi hang nhưng còn dấu mặt vì người xưa tin rằng không ai có thể nhìn Thiên Chúa mặt đối mặt mà còn sống. Ngày nay, chúng ta có lẽ cũng không thể nhìn mặt đối mặt với Thiên Chúa, nhưng chúng ta có thể nhìn thấy Thiên Chúa qua những hoạt động của Ngài ở trần gian trong vũ trụ nếu chúng ta chú ý quan sát và suy niệm. Thiên Chúa ở đâu trong sinh hoạt hàng ngày của chúng ta?
Bài đọc 2 (Rm 9:1-5) là thư tiếp theo của thư thánh Phaolo gửi tín hữu Roma ở những Chúa Nhật trước. Bài này là chương mở đầu một cuộc đấu khẩu tranh luận dài bắt đầu từ Rm 9:1 tới Rm 11:36. Ngày nay chúng ta hiểu chữ đấu khẩu theo nghĩa tiêu cực, có tính đối nghịch và tức giận. Theo văn chương và thời thánh Phaolo thì từ ‘đấu khẩu’ có nghĩa là tranh luận, trong đó một người đưa ra một giả thuyết để thách thức người khác và hỏi những câu hỏi về nhiều phương diện để bàn cãi. Ở đây trong thư hôm nay, quan niệm của Phaolo rất rõ ràng. Ông lo buồn vì những người bạn Do Thái của ông đã không chấp nhận Chúa Giêsu Kito là đấng Thiên sai và không đi theo phong trào của Chúa Giêsu. Hy vọng quí vị hiểu được ý nghĩa của nỗi buồn sâu thẳm và áy náy đó đang dày vò tâm can Phaolo. Ông nói, thà rằng ông đoạn tuyệt với chúa Kito vì dân Do Thái -một hành động tồi tệ nhất mà Phaolo có thể nghĩ ra- để họ tin vào Chúa và được cứu rỗi. Ông cũng thêm vào 7 đặc ân mà Thiên Chúa đã ban cho dân Chúa chọn một đặc ân thứ 8 là sai Chúa Kito -thuộc dòng con cháu của những tổ phụ- đến trần gian mà một số người Do Thái cũng từ chối. Cuối cùng, Phaolo đã đi đến kết luận là lý do người anh em Do Thái của ông đã từ chối Chúa Giêsu nên mới có giao ước của Thiên Chúa và được loan truyền đến cả dân ngoại.
Bài Tin Mừng Phúc Âm hôm nay (Mt 14:22-33). Đây là một câu chuyện khác về Thiên Chúa hiển linh, tiếp theo ngay sau khi phép lạ thứ nhất trong hai phép lạ biến bánh và cá thành nhiều (Mt 14:13-21, 15:32-39). Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu trước tiên truyền cho các tông đồ đi về phía bên kia biển hồ Galilee, xa cách khỏi đám đông đã tụ họp và được nuôi ăn no đủ bằng 5 chiếc bánh và 2 con cá. Đoạn một mình Chúa ra xa và cầu nguyện. Biển Galilee là một hồ nước ngọt rộng lớn với chu vi chừng 33 dặm. Vì địa dư nên thời đó bão về đêm rất thường hay xẩy ra có khi cả ngày nay, đôi lúc cũng thấy xẩy ra.
Chuyện kể là khi thuyền chở các môn đệ ra xa bờ chừng vài dậm thì Chúa Giêsu cảm thấy có gió lớn mà các môn đệ gặp phải. Chúa liền ra ngay gặp họ lúc sáng sớm có lẽ trước khi hay gần lúc mặt trời mọc. Các môn đệ đã cực nhọc chống trả với bão lớn mưa to suốt đêm. Bất ngờ họ thấy một bóng người đi trên mặt nước đến gần họ thì họ lại càng sợ hãi hơn nữa. Họ nghĩ đó là bóng ma hay quái vật do bão tố tạo ra. Nhưng Chúa Giêsu đã lên tiếng và họ nhận ra đó chính là chúa Giêsu thầy mình.
Trong quang cảnh đó Phero đã xin Chúa Giêsu được đi trên mặt nước đến với Chúa. Đây là lời xin chỉ thấy trong Tin Mừng Mathieu không thấy trong Marco 6:45-52. Phero rất phấn khởi và bước đi trên nước, nhưng trong nháy mắt vì hồ nghi ông đã chìm xuống nước. Cuối cùng khi Chúa dẹp cho biển yên sóng lớn mưa to ngừng lại thì họ nhận biết ra có Chúa Giêsu hiện diện thực sự. Các môn đệ cúi đầu xấp mình thờ lạy và nhận biết ra chính Người là Con Thiên Chúa.
Lạy Chúa! Xin hãy nhìn vào giao ước của Chúa, và đừng quên cuộc sống của những kẻ đang khốn khổ. Lạy Thiên Chúa! Xin hãy đứng dậy và bảo vệ căn nguyên của Chúa, xin đừng quên những tiếng kêu than khóc của những kẻ muốn tìm kiếm Chúa (Tv 74 (73): 20,19, 22, 23).
Lạy Chúa! Xin cho chúng con nhận biết ra được lòng nhân từ đầy tình thương sót của Chúa và ban ơn cứu độ cho chúng con. mục lục