Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 12-A Bài 1-50 Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác -------------------------------------------- Phúc Âm: Mt 10, 26-33: “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác”.
Đọc lại Phúc âm, hẳn chúng ta còn nhớ : khi sai các môn đệ đi thực tập truyền giáo, Chúa:TN 12-A1
Đọc lại Phúc âm, hẳn chúng ta còn nhớ : khi sai các môn đệ đi thực tập truyền giáo, Chúa Giêsu đã căn dặn các ông đừng mang theo bao bị, bạc tiền, nghĩa là Ngài đòi các ông phải ra đi trong một tình trạng bấp bênh nhất. Sở dĩ như vậy là để các ông tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Ngài.
Chúng ta cũng thế. Sống giữa những gian nan và thử thách, khổ đau và hiểm nguy, rất có thể chúng ta sẽ bị gục ngã. Tuy nhiên, nếu có chết, thì cũng chỉ là một cái chết về phần xác mà thôi.
Thế nhưng, đối với những người có đức tin, nhận biết giá trị đích thực của linh hồn, thì cái chết này không đáng sợ. Thân xác có chết nhưng giữ được linh hồn là giữ được tất cả. Trái lại, mất linh hồn là mất hết.
Tuy nhiên, trong thực tế, chúng ta thường có khuynh hướng để tâm lo lắng cho thân xác một cách thái quá, mà lãng quên phần linh hồn của mình, đúng như lời Chúa đã cảnh báo :
- Tinh thần thì mau lẹ, nhưng xác thịt lại yếu đuối.
Ngày nay, người ta ít tin tưởng vào việc Chúa quan phòng, nên họ cũng không chấp nhận những giá trị và ý nghĩa của đau khổ. Họ mang tâm trạng bất mãn và muốn nổi loạn chống lại Thiên Chúa. Đối với chúng ta thì khác. Là người Kitô hữu, chúng ta tin tưởng vào việc quan phòng của Chúa. Chúng ta xác tín rằng Ngài hằng yêu thương và chăm sóc chúng ta.,
Đó không phải là một sự quan phòng yếu ớt đến độ Ngài không thể trợ giúp chúng ta được gì cả, nhưng là một màu nhiệm phong phú và ngập tràn tình thương. Chúng ta có một người Cha trên trời. Ngài là nguồn mọi tình phụ tử. Nếu một người cha phần xác mà còn biết yêu thương và chăm sóc cho con cái mình, thì huống nữa là Thiên Chúa, người Cha chúng ta ở trên trời, Ngài dư quyền năng và ngập tràn tình thương, lẽ nào Ngài lại chẳng đoái nhìn và chăm sóc cho con cái mình hay sao?
Là con Thiên Chúa, chúng ta có quyền được Ngài gìn giữ và chở che. Bởi đó, chúng ta phải biết đánh giá đúng mức những thực tại trần gian. Nước Thiên Chúa hay nói một cách mạnh mẽ hơn, chính Thiên Chúa phải chiếm chỗ nhất trong tâm hồn và trong cuộc đời chúng ta, rồi sau đó mới đến những tạo vật khác.
Và những thụ tạo ấy cũng phải được chúng ta nhìn dưới ánh sáng của Chúa. Chim trì không gieo không gặt, mà cũng được Thiên Chúa chăm sóc và nuôi ăn. Cánh hoa đồng nội không dệt không may mà cũng được Thiên Chúa chăm sóc và tô điểm bằng những màu sắc lộng lẫy. Vậy chúng ta lại chẳng đáng giá hơn chim trời và cánh hoa đồng nội đó sao ?
Dù gặp phải cảnh nghèo túng hay gặp phải tai ương hoạn nạn, chúng ta vẫn có thể vui mừng cảm tạ Chúa vì Ngài biết những việc Ngài làm và những sự chúng ta cần đến. Ngày kia, thánh Vianney tới thăm một em nhỏ nằm liệt trên giường bệnh, không còn cơ may được cứu sống. Cha hỏi em :
- Con có đau lắm không ?
Em trả lời :
- Thưa cha, không ạ. Bởi vì cơn đau hôm qua, thì hôm nay con không còn cảm thấy nữa. Còn cơn đau hôm nay, thì ngày mai con cũng sẽ chẳng cảm thấy gì.
- Thế con có muốn được khỏi bệnh hay không ?
- Thưa cha, không. Bởi vì trước kia con bị đau dữ lắm. Sợ rằng khỏi bệnh, con sẽ bị đau dữ hơn. Cứ thế này cũng được.
Và cha Vianney đã nhận xét :
- Chúng ta phải lấy làm xấu hổ khi so sánh mình với em nhỏ đầy lòng tin tưởng vào Chúa quan phòng. Hãy yêu mến thánh giá, vì đó là ơn lành Chúa ban cho những người bạn hữu nghĩa thiết, dưới ánh sáng đức tin, thì mọi sự đều là hồng ân của Chúa. Riêng trong lãnh vực tông đồ truyền giáo, chúng ta hãy ý thức : Chúng ta là những thành viên trong “công ty” của Chúa. Việc chúng ta làm là việc của Chúa. Chính Chúa mới là Đấng quản trị mọi sự. Ngài là người đầu tiên bị thiệt thòi hay được hưởng lời. Ngài là người chịu trách nhiệm nhiều nhất.
Do đó, cuộc sống của chúng ta liên hệ tới Ngài nhiều hơn là liên hệ tới chính bản thân chúng ta. Không có điều gì xảy ra ngoài ý muốn của Ngài. Ngài điều khiển mọi việc chúng ta làm. Chúng ta thành công là chính Ngài thành công. Chúng ta thất bại là chính Ngài thất bại.
Từ đó, Chúa luôn đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta hai thái độ chính yếu :
- Thái độ thứ nhất, đó là phải thừa nhật quyền ưu tiên của Chúa, của Nước Trời. Đây phải là việc chúng ta lo liệu trước tiên vì chỉ có Ngài, chỉ có nước Ngài mới đáng kể. Giữ được linh hồn mình là giữ được tất cả. Còn mất linh hồn là mất hết.
- Thái độ thứ hai, đó là phải xác tin rằng Chúa sẽ không bao giờ để cho chúng ta phải thiếu những gì chính đáng và cần thiết. Và nếu có thiếu chăng nữa, thì ơn lành của Ngài cũng sẽ bù lại. Vậy hãy để cho Chúa hành động và hướng dẫn dòng đời chúng ta.
Với hai thái độ trên, chúng ta có thể mỉm cười và cảm tạ Chúa giữa những đau khổ và thử thách mình phải gánh chịu.
Khi đến thăm một trại cùi, ông Raoul Follereau tiến đến bên cạnh một cô gái phong cùi và: N12-A2
Khi đến thăm một trại cùi, ông Raoul Follereau tiến đến bên cạnh một cô gái phong cùi và chìa tay ra bắt. Cử chỉ này khiến thiếu nữ bở ngỡ, và cô không dám đưa tay ra đáp lễ.
Thấy ông Raoul ngỡ ngàng, vị giám đốc trại phong bèn giải thích :
- Thưa ông, qui luật của trại chúng tôi không cho phép bệnh nhân bắt tay khách, vì nhiều người sợ lây bệnh.
Cám ơn ông giám đốc. Nhưng qui luật trại chỉ cấm bệnh nhân bắt tay khách, chứ đâu cấm khách hôn bệnh nhân?
Vừa nói xong, ông Raoul liền tiến đến ôm hôn người cùi. Mọi người sững sờ trước cử chỉ đầy yêu thương và thân thiện ấy. Phút chốc, cả đám người cùi nhào đến ôm lấy ông. Và một giọng nói ngẹn ngào thốt lên :
- Hôm nay chúng tôi cảm thấy mình thực sự là con người.
Thánh Gioan viết :”Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi”.
Vâng, chính tình yêu hoàn hảo dành cho những người phong cùi bất hạnh đã khiến ông Raoul Follereau không một chút sợ hãi vi trùng Hansen ghê rợn, không mảy may kinh khiếp máu mủ hôi tanh của bệnh nhân phong cùi.
Chính tình yêu hoàn hảo là tình yêu đã dẫn Đức Giêsu đến chân thập giá.
Chính tình yêu hoàn hảo đã thúc đẩy các tông đồ can đảm chịu bách hại và bình thản bước tới cái chết.
Chỉ trong một đoạn ngắn của Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu đã nhắc lại ba lần câu :”Anh em đừng sợ”. Con người có muôn vàn nỗi sợ ; sợ bệnh tật, sợ già nua, sợ chết chóc. Sợ tai họa, sợ chiến tranh, sợ nghèo đói. Sợ bóng tối, sợ khổ đau, sợ ngu dốt…Danh sách các nỗi sợ của chúng ta còn rất dài, nhưng xem xét kỹ đa số đều là sản phẩm của trí tưởng tượng, nó không có thật, nó chưa xảy ra, và rất nhiều khi chẳng bao giờ xảy ra. Nếu đem phơi trần các nỗi sợ hãi, có khi chúng ta phải phá lên cười... Không ít người để cho nỗi sợ hãi biến các buổi bình minh tươi sáng, an bình thành những chiều hoàng hôn ảm đạm, buồn thảm!
“Tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi”. Một khi đã yêu Chúa rồi, chúng ta sẽ can đảm rao giảng lời Chúa, chúng ta chẳng còn sợ “những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn”. Một khi đã yêu anh em rồi, chúng ta chẳng còn sợ ai đố kỵ, ghen ghét, hận thù; chẳng còn ghê tởm, kinh hãi những kẻ thấp kém, đốn mạt, hung hăng. Chính tình yêu là khí giới xua đuổi mọi sợ hãi đang dằn vặt con người, cho dù là cái chết. Vì chính tình yêu của Thiên Chúa sẽ dẫn đưa chúng ta từ đêm dài tăm tối của tử thần đến bình minh sáng lạn của đời sống mới.
Nếu Thiên Chúa là đấng nhân ái đã lấy tình yêu rộng lớn của Người mà ôm ấp nhân loại vào lòng thì chúng ta hãy mạnh dạn mà đặt trọn niềm tin nơi Người. Thật vậy, hôm nay Đức Giêsu khẳng định :”Ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quí giá hơn muôn vàn chim sẻ”.
Nếu Thiên Chúa là đấng độc nhất vĩnh cửu, đã dùng sự khôn ngoan mà hướng dẫn, dùng sức mạnh mà bảo vệ, dùng tình yêu mà giữ gìn con người, thì chúng ta còn chờ đợi gì nữa mà không tin cậy phó thác nơi Người.
Nếu Thiên Chúa là tình yêu, Người đã nâng đỡ chúng ta trên mọi nẻo đường, và luôn sẵn sàng ban cho chúng ta muôn vàn ân huệ trong mỗi thăng trầm của cuộc sống, thì chúng ta còn lý do gì để bi quan và sợ hãi.
Chính đức tin thắng vượt sợ hãi, đức tin là con đê vững chắc để chống lại những đợt sóng dữ dội là các nỗi sợ hãi. Đức tin đem lại sự an bình nội tâm để đối phó với căng thẳng và gánh nặng của cuộc đời. Đức tin biến cuồng phong thành gió mát, thất vọng thành hy vọng.
Đại ý đoạn Phúc Âm Mt 10, 26 – 33: Phải khôn ngoan sáng suốt để nhận ra đối phương, phải: TN 12-A3
1. Đại ý đoạn Phúc Âm Mt 10, 26 – 33: Phải khôn ngoan sáng suốt để nhận ra đối phương, phải khách quan lượng giá nguy hiểm đang đến, nhưng sau đó cần đứng vững giữa mọi cơn cám dỗ và mọi cuộc tấn công. Đức Tin xua đuổi sự sợ hãi và ý thức rằng mình thuộc về Đấng mà số phận mình phải giống như Ngài, sẽ giúp ta can đảm và vững lòng.
2. “Môn đồ” của Chúa Giê-su: là người được Chúa Giê-su sai đi. Hay nói cách khác: nhờ được Chúa Giê-su sai đi mà người ta có được địa vị “môn đồ”.
3. Những thái độ một môn đồ đích thực của Chúa Giê-su cần phải có: Chấp nhận sự lựa chọn của Chúa. Lắng nghe và vâng phục lời kêu gọi của Chúa trong cuộc sống.
4. “Anh em đừng sợ người ta”: Câu này không có ý nói rằng: đừng sợ người ta vì người ta không làm gì chống lại anh em được, nhưng có ý nói rằng: đừng sợ người ta vì anh em không thể đòi hỏi một số phận ít đau khổ hơn số phận của Thầy anh em đâu. Nói khác đi: Ước gì nỗi sợ hãi của anh em không ngăn cản việc anh em làm chứng cho Thầy.
5. Người môn đồ của Chúa Giê-su không sợ là vì: Vì sứ điệp vĩ đại của Nước Thiên Chúa sắp được tỏ lộ. Vì sự sống đích thực của con người không thể bị xâm phạm. Vì Thiên Chúa Quan Phòng hằng chăm sóc mọi loài thụ tạo.
6. Câu: “Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy...” chứng tỏ Chúa Giê-su không xuất hiện như là vị Thẩm Phán ngày sau hết, nhưng như là vị Trạng Sư biện hộ cho các tín hữu trước mặt Thiên Chúa Cha là Đấng xét xử.
7. Trên con đường Đức Tin, người có Đạo phải chấp nhận sự chống đối, phân rẽ, công kích, tố cáo. Ngoài ra, phải thẳng tay loại bỏ mọi mơ ước dễ dãi khi đi truyền đạo, nhưng thâm tín rằng hy sinh chịu khó, khiêm tốn phục vụ mới xứng đáng môn đồ của Chúa Giê-su.
8. Sống Đạo vì sợ hay vì Đức Tin: Hãy biết rằng ở đâu còn sợ, ở đấy chưa có Đức Tin. Ở đâu còn nghi ngờ về tương lai, ở đó còn có nghi ngờ này: Thiên Chúa có hay không ? Thiên Chúa đã chế.
Thánh Matthêu ghi chép rất rõ, đây là lời Chúa Giêsu dành cho mười hai tông đồ, bài học căn:TN 12-A4
Thánh Matthêu ghi chép rất rõ, đây là lời Chúa Giêsu dành cho mười hai tông đồ, bài học căn bản này là bài học để cho các tông đồ lo công việc sứ mạng Tin mừng của Chúa trao cho. Ngài cho biết thời gian gian truân khổ ải còn trổi vượt hơn cực hình mà ngôn sứ Giêrêmia phải làm chứng thời xưa. Thiếu niềm tín thác người được sai đi rao giảng Tin mừng sẽ sống trong hồi hộp lo sợ không ngừng, sợ phải nói lên sự thật, sợ người có thế lực hành hạ: “Người ta sẽ nộp các con trước quan tòa, nơi đó tòa án sẽ xét xử, lúc ấy các con đừng lo, chính Thánh Thần Chúa sẽ soi dẫn các con”.
Câu kết thúc bài học của Chúa Giêsu trong Phúc âm hôm nay nghe như dễ, nhưng thực hành điều ấy không dễ : “Ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời, thì Ta sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Ta, Đấng ở trên trời. Ai chối bỏ Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ chối bỏ nó trước mặt Cha Ta Đấng ngự trên trời”.
Các tông đồ Chúa đã vâng lệnh loan truyền lời Chúa khắp nơi không giấu diếm điều gì, các ngài loan truyền điều gì đã nghe và đã thấy khi thụ huấn nơi Chúa Giêsu. Bài học Phúc âm hôm nay thực hành qua các thế hệ kế tiếp các tông đồ, không những hàng giám mục là những người thừa kế sứ mạng các tông đồ, mà cả đến những người thấp kém nhất trong Hội thánh của Chúa Kitô. Nhớ lại lịch sử các thánh Tử đạo Việt Nam, chúng ta sẽ cảm phục lòng tín thác anh dũng của các ngài, dù sống trong cơ cực, dù gông cùm, dù bị hành hình khủng khiếp, các ngài không hãi sợ nhưng vẫn một lòng cậy tin, và các ngài còn hát lên để ca khen danh Chúa Kitô trước án tử hình của các ngài.Nhưng nếu các bạn chưa tin yêu Ngài, chúng ta cũng đừng hãi sợ, vì Chúa Giêsu dặn như thế, vì chính sợ hãi sẽ làm cho chúng ta mất can đảm, mất bình tĩnh.
Đức Phật đã tu luyện cao thâm, một hôm có một tên cướp giết người đến hăm dọa mạng sống của ông, ông nói với tên cướp ấy rằng, khi anh giết tôi, xin anh thỏa mãn nguyện vọng cuối cùng đời tôi, là anh hãy chặt đứt cành cây kia đi. Chỉ một lát gươm cành cây rơi xuống đất.
Tên cướp nạt lớn, còn gì nữa?
Đức Phật bình tĩnh nói :
Bây giờ xin anh ráp cành cây ấy lại với thân cây như cũ.Tên cướp cười ngất, ông điên hả, chỉ có người điên mới làm như ông bảo.
Anh chính là người điên ấy, vì anh hành động ấu trĩ quá. Anh có biết rằng, người có thế lực là người biết xây dựng và là những người có thể chữa lành được.
Thánh kinh đồng hóa Thiên Chúa với sự khôn ngoan thượng trí, nếu chúng ta cầm, đọc và nghiền ngẫm Thánh kinh, chúng ta sẽ tìm thấy những điều hữu ích cho cách xử thế của chúng ta hằng ngày. Chúa Giêsu nhấn mạnh :”Đừng sợ hãi, hãy tín thác vào Chúa”. Nếu bạn quá lo sợ, bạn sẽ làm hại chính bản thân.
Ngày nọ dịch tả vội vã đến làng Damas, dọc đường gặp nhóm người đi buôn bán, anh trưởng đoàn ấy hỏi :
Anh đang tính làm kế hoạch gì vậy?
Dịch tả đáp rằng :
Tôi đi lấy một ngàn mạng sống tại làng Damas.
Xong việc dịch tả trở về, gặp lại nhóm trưởng giả ấy họ cật vấn :
Anh nói chỉ giết một ngàn người, nhưng sao đến mười ngàn người chết? Dịch tả mỉa mai :
Tôi chỉ giết đúng một ngàn thôi, phần còn lại là do sợ hãi giết đó.
Trong các cuộc di tản bởi chiến tranh, trong các biến cố do thiên tai khủng khiếp, kê ra số người chết vì sợ gấp nghìn lần số người chết vì bom đạn và thiên tai.
Chúa Giêsu hiểu rất rõ tâm trạng sợ sệt của chúng ta, đặc biệt của các đồ đệ của Ngài, nên khi vừa sống lại Ngài đã đến đem bình an cho họ và đã trao ban Thánh Thần cho họ. Khi lãnh nhận Thánh Thần trong ngày lễ Hiện xuống. Phêrô đã can đảm đứng lên rao giảng Tin mừng và tiếp theo đó các sứ đồ đã hãnh diện vì được chịu khổ nhục và cực hình vì danh Chúa.
Cọp chết để da, ta chết để sống. Người Kitô hữu chúng ta sống vì Tin mừng của Chúa Kitô, và những ai tìm biết Chúa Kitô, sống Tin mừng Chúa Kitô, chắc chắn Chúa Giêsu sẽ giữ lời hứa, Ngài sẽ giới thiệu chúng ta trước mặt Thiên Chúa Cha, để chúng ta được Chúa Cha nhìn nhận chúng ta và chúng ta được sống hạnh phúc.
Có một y sĩ đã phát biểu rằng: “Lo sợ là một điều rất tai hại và phá hoại hoại nhiều hơn cả”: N12-A5
Có một y sĩ đã phát biểu rằng: “Lo sợ là một điều rất tai hại và phá hoại nhiều hơn cả”. Trong quan điểm của vị y sĩ này thì lo sợ là kẻ giết người. Bởi vì sợ hãi giết chết niềm tin, niềm hy vọng và sự lạc quan làm cho con người tê liệt và tự hủy hoại chính mình.
Các nhà tâm lý học đã nói nhiều về sự lo sợ, nhưng không ai tìm ra nguồn gốc của nó. Về điều này kinh thánh cho chúng ta biết : Khi Adong, con người đầu tiên lỗi lệnh truyền của Chúa, ông đã lo sợ và đi ẩn mình. Kể từ đó sự lo sợ cứ ám ảnh mãi trong dòng giống loài người. Nhưng thật vui mừng cho nhân loại là Adong thứ hai đã xuất hiện, đó là Chúa Giêsu, Đấng Cứu thế. Thánh Phaolô đã viết : “Chúa Giêsu là Adong thứ hai, nghĩa là một khởi đầu mới. Nhân loại lầm lạc vì Adong thứ nhất. Nhưng Chúa Giêsu đến để cứu chuộc và lập lại một dòng giống mới. Và Chúa Giêsu không ngừng mời gọi mọi người “Đừng sợ”. Chẳng hạn như bài Tin mừng hôm nay, có tới ba lần Chúa nói đừng sợ.
Phản ứng tự nhiên của con người trước khó khăn, bách hại, là lo sợ. Chúa Giêsu khuyên các tông đồ can đảm làm chứng cho Ngài, và Ngài khuyên họ đừng sợ. Đừng sợ những kẻ vu oan, vì không có gì ẩn khuất mà không bị lộ, trung thành với sự thật đôi khi cũng khiến chúng ta phải trả giá, có khi bằng chính mạng sống của mình, Chúa Giêsu cũng nhắc chúng ta đừng sợ những kẻ chỉ có thể làm hại thân xác, mà không thể giết được linh hồn. Thân xác có thể bị thiệt thòi, nhưng linh hồn sẽ không hề hấn gì, nếu chúng ta vững tin vào Chúa. Lần thứ ba Chúa nhắc chúng ta đừng sợ là vì chúng ta quí trọng hơn nhiều, nếu Thiên Chúa đã chăm lo cho chim sẻ ngoài đồng, thì huống hồ là con người. Ý thức mình được Thiên Chúa yêu thương chăm sóc, chúng ta sẽ dấn thân nhiều hơn để làm chứng cho Chúa.
Nếu chúng ta hỏi bất cứ ai : họ sợ gì? Hết thảy đều sẽ trả lời giống nhau : sợ bệnh tật, sợ mất tài sản hoặc việc làm, sợ sống một mình, sợ mất tiếng tốt, sợ gặp tai nạn, sợ bị xa cách người thân, sợ chết… Những mối lo sợ đó là chính đáng, bởi vì chúng ta có thể làm chúng ta bị tổn thương, hoặc cướp mất của chúng ta những gì chúng ta sở hữu, hoặc làm cho chúng ta nên yếu kém, tàn tật, hoặc làm chúng ta không còn sống ở trần gian nữa…
Nhưng có nhiều điều đáng lẽ phải làm cho người ta sợ, nhưng người ta lại không để ý hay không sợ, chẳng hạn chúng ta hỏi người ta : có sợ không mến Chúa yêu người đủ không? Có sợ không chia sẻ tài sản của mình đủ không? Có sợ đã không coi Tin mừng là quan trọng đủ, đã không cầu nguyện đủ, đã không nói đủ về Chúa Giêsu không?... Có lẽ những người được chúng ta hỏi như thế sẽ tỏ ra rất ngỡ ngàng. Thường những cái sợ như vậy không hề xảy ra trong tâm trí họ.
Chúng ta thường sợ những điều không đáng sợ và không sợ đủ những gì đáng lẽ thực sự phải làm cho chúng ta sợ. Làm cho chúng ta sợ! Nói như thế hẳn là không đúng, vì Chúa Giêsu không muốn chúng ta sống trong sợ hãi, nhưng sống trong sự tin tưởng sâu xa vào tình thương của Ngài.
Có người đã cố công tìm những chi tiết trong Kinh thánh và đã đếm được 365 tiếng “đừng sợ” trong toàn bộ Kinh thánh. Như thế là mỗi ngày trong một năm chúng ta đều được kêu gọi và nhắc nhở đừng sợ. Sống ở đời có lẽ ai trong chúng ta cũng đã có nhiều lần trải qua một nỗi lo sợ nào đó hay kinh qua những giờ phút đen tối trong cuộc sống. Bởi vì cuộc đời này luôn có những cam go, gian truân, thử thách, nguy hiểm, đau thương… Đứng trước những hoàn cảnh như thế, ai cũng lo lắng, sợ hãi. Lắm khi chúng ta giống như những con chim non, ngỡ ngàng sợ hãi trước bổn phận làm người, trước ơn gọi làm Kitô hữu. Nhưng Chúa Giêsu không ngừng mời gọi chúng ta đừng sợ. Chúng ta không sợ vì chúng ta tin rằng bên cạnh chúng ta luôn có Đấng phù trợ che chở. Chúng ta tin rằng Thiên Chúa là Cha yêu thương luôn quan tâm săn sóc chúng ta. Với niềm tin đó sẽ giúp chúng ta có thái độ lạc quan hơn trước cuộc sống và bình tĩnh để đối phó với những khó khăn thử thách. Nếu niềm tin không đem lại cho chúng ta sự an bình, thanh thản thì đó là dấu chỉ cho thấy niềm tin của chúng ta chưa mạnh mẽ đủ, chúng ta phải xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta.
Mang thân phận con người, chúng ta luôn phải đương đầu với nhiều nỗi lo sợ: sợ mất tiền của: TN 12-A6
Mang thân phận con người, chúng ta luôn phải đương đầu với nhiều nỗi lo sợ: sợ mất tiền của, sắc đẹp, danh dự, sợ mất sức khoẻ, địa vị, người thân yêu... Nhưng lo sợ lớn lao nhất, đó là sợ mất mạng sống. Còn sống là còn có hy vọng và cơ hội tìm lại được nhiều cái đã mất, giữ lại được những gì đang có và chiếm hữu được nhiều cái chưa có. Như vậy, quả thật mạng sống rất quý trọng, quý trọng đến nỗi người ta có thể, nếu cần, đánh đổi tất cả để bảo tồn nó, hoặc nhiều khi chỉ là để kéo dài đời sống thêm một thời gian vắn nữa. Nhìn vào chính cuộc sống của chúng ta và của những người chung quanh, ai cũng nhận ra điều đó.
Nhưng qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mở ra cho chúng ta một lãnh vực mới, xa hơn, cao hơn, và quan trọng hơn, đó là, dù mạng sống đời này có quý trọng đến mấy thì nó cũng không đáng kể khi so sánh với định mệnh đời sau. Thân xác này có cao trọng bao nhiêu, cũng chỉ là tổng hợp của vật chất trong vũ trụ. Thân xác này có tồn tại trong trần gian một thời gian, cũng chỉ hơn kém một cây cỏ, có thể chấm dứt đời sống bất cứ lúc nào, do bất cứ nguyên nhân nào (Tv. 103,15-16). Thân xác này có được bao bọc bằng giàu sang phú quý, vẫn thua kém bông hoa ngoài đồng nội. (Mt 6,28-29). Vì thế, điều quý trọng và giá trị nhất không phải là thân xác hay cuộc sống đời này, nhưng chính là linh hồn với định mệnh vĩnh cửu mai sau. Ý thức được như thế, chúng ta sẽ không quá lo âu: đời người quá vắn vỏi, cuộc sống quá thiếu thốn, số phận quá cay nghiệt, nhưng nên sợ rằng: hạnh phúc vĩnh cửu có thể bị mất; và nếu hạnh phúc này mất, là mất tất cả, mất hoàn toàn, mất vĩnh viễn, mất không đền bù...
"Sợ Đấng có thể vứt cả linh hồn và thân xác chúng ta xuống hoả ngục" (Mt 10,28b). Đó mới là mối lo sợ thực sự và chính đáng nhất. Dĩ nhiên, Chúa không muốn nói đến một tâm trạng sợ sệt thoái lui và tiêu cực. Nhưng đúng hơn, mối lo sợ, ở đây được hiểu như một quan tâm chính đáng và cần thiết.Từ mối quan tâm này, chúng ta sẽ tìm ra những biện pháp tốt nhất và những cố gắng thực tế nhất để chăm sóc cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau. Nói khác, để bảo đảm cho định mệnh này, con phải biết dứt khoát trước những quyến rũ bất chính, biết can đảm trước mọi nghịch cảnh, và biết khước từ những gì có thể dẫn đến sự bất lợi cho linh hồn mình...Thật ra, là người Công giáo, chúng ta luôn xác tín vào giá trị của linh hồn và định mệnh vĩnh cửu mai sau. Nhưng điều đáng lo ngại ở đây - và chính vì thế, Chúa Giêsu đã nhắc nhở chúng ta- đó là, nhiều khi chúng ta quá lo lắng cho cuộc sống hiện tại và những gì thuộc thế giới này, mà quên đi việc chuẩn bị cho cuộc sống mai sau, hoặc tệ hơn nữa, chúng ta dám liều lĩnh đánh đổi định mệnh đời sau để lấy hạnh phúc đời này.
Thánh Basilio bị điệu ra trước Hoàng đế Rôma. Nhà vua tìm mọi cách bắt thánh nhân bỏ đạo. Thất bại, nhà vua nói: "Ta sẽ tịch thu tài sản, tống giam ngươi, và sẽ giết ngươi". Thánh nhân can đảm đáp: "Tâu Bệ Hạ, Tôi không có tài sản để tịch thu. Tống giam ư? Tôi sẽ được tự do vĩnh cửu. Giết tôi? Tôi càng sớm về Nước Trời. Tất cả, tôi đều không sợ. Tôi chỉ sợ một điều, đó là sợ mất hạnh phúc muôn đời."
Lm Bùi Mạnh Tín
Khi Đức Giêsu sai các tông đồ đi loan báo công khai giáo huấn của Người và làm chứng cho:TN 12-A7
Khi Đức Giêsu sai các tông đồ đi loan báo công khai giáo huấn của Người và làm chứng cho Người trước thế giới. Người biết rằng họ sợ hãi. Và họ có lý do để sợ hãi vì biết rằng họ phải đối đầu với khó khăn và bách hại. Vì thế, không chỉ một lần nhưng có đến ba lần, Người nói với họ anh em đừng sợ.
Một đôi khi, nếu chúng ta thiếu can đảm và cảm thấy sợ hãi thì đó là một việc bình thường và tự nhiên. Bất cứ người nào đã hoàn thành đại sự đều phải có lần biết đến sợ hãi. Chúng ta nghĩ đến tiên tri Giêrêmia (bài đọc một) đến Martin Luther King, và đến chính Đức Giêsu trong vườn Giệtsimani.
Sợ hãi không nhất thiết là một điều xấu. Đôi khi sợ hãi có chức năng bảo vệ, cảnh báo chúng ta về sự hiện diện của một nguy hiểm. Trong trường hợp này, sợ hãi là một ân huệ. Tuy nhiên, sợ hãi có thể là một dị tật. Nó có thể làm tê liệt mỗi con người. Nó làm cho một con người trở nên hèn nhát.
Ngày xưa có một con chuột rất sợ mèo. Một thày phù thủy thương hại nó và hóa phép cho nó thành một con mèo. Nhưng sau đó, nó lại sợ những con chó. Vì thế thày phù thủy đổi nó thành một con chó. Nhưng rồi nó lại sợ những con báo. Vì thế thày phù thủy hóa phép cho nó thành một con báo. Nhưng rồi nó lại sợ những thợ săn. Tới nước này, thày phù thủy bỏ cuộc. Ông đổi nó trở lại thành con chuột, và nói “Tao làm cho mày điều gì, cũng chẳng giúp được mày vì mày có tâm hồn của một con chuột”.
Đức Giêsu biết rằng các tông đồ sợ hãi. Người hiểu những nỗi sợ hãi của họ và xem xét một cách nghiêm túc. Khi Người nói với họ anh em đừng sợ hãi, Người nói với chính nỗi sợ của họ và làm cho chúng dịu bớt. Người cố gắng đem đến cho họ lòng can đảm. Người cố gắng động viên họ vượt qua sợ hãi, vì biết rằng sợ hãi có thể làm cho họ trở nên nhút nhát, không thể hoàn thành sứ vụ của mình.
Bằng cách nào, Người có thể giúp họ vượt qua những nỗi sợ hãi? Trên căn bản, qua sự tín thác và trông cậy vào Thiên Chúa. Người thúc giục họ hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng đã ưu ái chăm lo cho sự sống và sự chết của những thụ tạo dù nhỏ nhất và ít giá trị nhất như những con chim sẻ. Đức Giêsu bảo đảm với họ rằng Thiên Chúa biết từng chi tiết của đời họ, và sẽ nâng đỡ họ trong mỗi lần khủng hoảng.
Ngôn sứ Giêrêmia duy trì ơn gọi của ông trong suốt thời kỳ rối loạn. Thời kỳ này chứng kiến sự thất bại của Israel và sự tàn phá Giêrusalem và đền thờ. Mạng sống của ông thường xuyên bị đe dọa. Tuy nhiên, dù sự gì xảy ra, ông luôn tin tưởng vào ơn gọi của mình. Vậy chính điều gì đã giúp ông có thể vượt qua những nỗi sợ hãi và luôn luôn trung thành với sứ mạng của mình? Đó là niềm xác tín rằng Thiên Chúa ở bên cạnh ông: “Đức Chúa ở bên cạnh tôi, một trang anh hùng dũng mãnh”.
Đức Chúa ở bên cạnh chúng ta. Và trong lúc cảm thấy sợ hãi, chúng ta không được để cho sự sợ hãi làm chúng ta tê liệt. Sống đời sống Kitô hữu đòi hỏi phải có lòng can đảm. Nhưng mặt khác cách sống có ý nghĩa nào cũng đòi hỏi lòng can đảm. Trong cuộc sống cái gì đòi hỏi nhiều tính anh hùng như sự can đảm thông thường.
Lòng can đảm là nhân đức quan trọng nhất, bởi vì nếu không có lòng can đảm bạn không thể thực hành bất cứ nhân đức nào với sự bền bỉ. Đức tin là một suối nguồn của lòng can đảm. Là những người sống đức tin, chúng ta tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ cho chúng ta sức mạnh để đương đầu với bất cứ điều gì xảy đến.
Tự do lớn nhất là tự do thoát khỏi mọi sợ hãi, chúng ta không thể vượt qua sự sợ hãi, chúng ta không thể sống một đời sống có phẩm giá. Tuy nhiên, sợ hãi và can đảm không loại trừ nhau. Chúng có thể cùng tồn tại. Can đảm không phải là không bao giờ sợ. Nó sợ nhưng vượt qua nỗi sợ, hoặc nó tiến hành bất chấp nỗi sợ hãi. Là môn đệ của Đức Giêsu có tâm hồn của con chuột không đủ. Người ta cần có một trái tim can đảm. Xin Đức Giêsu ban cho mỗi người chúng ta trái tim can đảm đó.
Khi Đức Giêsu sai các tông đồ làm chứng cho Người trong thế gian, Người biết họ đặt đời sống:TN 12-A8
Khi Đức Giêsu sai các tông đồ làm chứng cho Người trong thế gian, Người biết họ đặt đời sống họ trong sự nguy hiểm. Người biết rằng vì lẽ đó họ sợ. Người cũng đã biết những sợ hãi của họ và cố gắng nó giảm nhẹ nó, Người nói với họ đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Họ nên sợ Thiên Chúa, Đấng có thể bắt tội một người phải chịu số phận tệ nhất là hình phạt đời đời.
Đó là điều mà người ta gọi là sự sợ hãi lành thánh mà chúng ta phải có đối với Thiên Chúa. Kinh thánh nói “Sợ hãi Thiên Chúa là bắt đầu của sự khôn ngoan”. Điều đó có nghĩa là sợ làm mất lòng Thiên Chúa, sợ mất Thiên Chúa và sợ hình phạt đời đời. Nhưng nỗi sợ hãi này có thể là những sức mạnh thúc đẩy mạnh mẻ. Một đôi khi, sợ hãi có chức năng bảo vệ, cảnh báo sự hiện diện của một mối nguy hiểm. Trong trường hợp này, sợ hãi là một ân sủng.
Nhưng Đức Giêsu không nói với chúng ta rằng chúng ta phải đặt mối liên hệ với Thiên Chúa trên nền tảng của sự sợ hãi. Đúng ra, Người thúc giục chúng ta đặt mối liên hệ ấy trên nền tảng đức tin. Người nói :”Hai con chim sẽ có thể mua với một xu phải không? Thế mà không có một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em… Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quí giá hơn muôn vàn chim sẻ”.
Điều Đức Giêsu làm là cố gắng đưa chúng ta từ nỗi sợ hãi đến đức tin. Sợ hãi sinh ra hoài nghi, tạo ra khoảng cách để tự vệ và được an toàn. Đức tin dẫn đến sự gần gũi thân mật, và ý thức về sự an toàn. Một tôn giáo tốt làm cho người ta hết sợ. Một tôn giáo xấu tăng thêm nỗi sợ hãi trong lòng con người.
Khi Đức Giêsu nói “Không có một con chim sẻ nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em”. Người muốn chúng ta hiểu rằng nhận thức và sự chăm sóc của Thiên Chúa bao trùm tất cả và đi xa đến mức nào. Bất cứ điều gì xảy ra cho một thụ tạo của người, dù là một thụ tạo vô nghĩa nhất, thì Thiên Chúa đều thấy và đối với người, đều quan trọng – vâng, cả trường hợp một con chim sẻ rơi xuống. Sự việc Người không ngăn cản nó rơi xuống, không có nghĩa là Người thờ ơ đối với nó. Thiên Chúa không bao giờ thờ ơ lãnh đạm về số phận của bất kỳ thụ tạo nào.
Vậy nếu Thiên Chúa quan tâm đến những con chim sẻ, chúng ta có thể tin chắc rằng Người quan tâm đến chúng ta là những con cái của Người. Dù chúng ta không có được sự bảo đảm rằng không có điều gì xấu sẽ xảy ra cho chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta tin rằng cả khi phải chết, Thiên Chúa sẽ chăm sóc chúng ta.
Đức tin không phải là một ảo tưởng trấn an rằng mọi sự đều tốt đẹp. Đúng ra, nó có nghĩa là biết rõ đời sống có đầy những sự rủi ro, bất trắc, tuy nhiên vẫn vui mừng trong mọi biến cố – đó là yếu tính của đức tin.
Ngày nay, nhờ có máy Camêra an ninh, chúng ta thường hay bị nhìn, bị theo dõi bằng một con mắt lạnh lùng, vô cảm chỉ nhằm chụp lấy chúng ta khi chúng ta làm điều quấy. Cảm giác có người theo dõi chúng ta không phải là một cảm giác dễ chịu. Nhưng cảm giác có ai đó nhìn chúng ta để chăm sóc là một cảm giác yêu thương. Thiên Chúa không theo dõi chúng ta. Thiên Chúa chăm nom chúng ta. Niềm xác tín Thiên Chúa chăm nom chúng ta đem lại cho chúng ta niềm an ủi, sức mạnh và hy vọng, đặc biệt là trong những lúc khó khăn và nguy hiểm. Sau cùng chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm dịu đi những nỗi sợ hãi sâu xa nhất của chúng ta.
Trong Tin mừng, Đức Giêsu kêu gọi những người làm nhân chứng cho Người. Nhân chứng là:TN 12-A9
Trong Tin mừng, Đức Giêsu kêu gọi những người làm nhân chứng cho Người. Nhân chứng là những người không sợ thừa nhận mình là môn đệ của Người, sẵn sàng dấn thân vào giữa một thế giới hoài nghi và đôi khi thù địch. Sợ hãi là một điều làm cho các Kitô hữu không dũng cảm và quảng đại làm chứng cho Tin mừng. Ba lần, Đức Giêsu nói với các tông đồ anh em đừng sợ.
May mắn thay, trong Giáo Hội, luôn luôn có những người được ân sủng của Thiên Chúa, có thể vượt qua những nỗi sợ hãi và làm chứng cho Tin mừng trong những hoàn cảnh khó khăn và nguy hiểm.
Oscar Romero là một ví dụ đáng chú ý. Khi ông được phong làm Tổng Giám mục ở San Salvador năm 1977, ông là một người bảo thủ. Nhưng sau đó ít lâu, ông đã thay đổi khi ông thấy những điều đang xảy ra. Mỗi Chúa nhật, ông giảng tại nhà thờ lớn. Bài giảng của ông nảy lửa đến nỗi những công việc trong nước dừng lại khi ông cử hành thánh lễ. Ông đã công khai lên án những tội ác mà các nhân viên trong chính phủ đã gây ra và không ai có thể nói ra.
Ông luôn bị de dọa bị ám sát. Một vài người bạn tốt nhất của ông đã bị giết chết. Còn ông, ông không thể im lặng. Ông cũng không thể trốn tránh hoặc bỏ đi. “Khi thấy có sự nguy hiểm, người mục tử không thể bỏ chạy và để mặc cho bầy chiên chống đỡ. Tôi sẽ ở lại với giáo dân của tôi”, ông nói. Ông bị bắn chết vào tháng ba năm 1980 khi đang dâng thánh lễ. Theo Romero, không cần phải tỏ ra can đảm mà phải hiểu rằng những kẻ thù của ông muốn bắt ông phải sợ, và nếu ông không sợ họ thì họ không có quyền lực nào trên ông cả. Họ có thể giết chết thân xác ông, nhưng họ không thể giết được linh hồn ông.
Còn có câu chuyện của một linh mục, trong suốt thời kỳ diệt chủng ở Ruănđa (1994) đã cho người Tutsis ẩn náu trong nhà ông. Khi một bọn phiến loạn đến trước cửa nhà ông và ra lệnh ông đuổi họ đi, ông từ chối làm điều đó, chúng bắn ông và bắt những người Tutsis đi. Cho dù chúng ta không thể ao ước tính cách anh hùng ở mức độ cao như thế thì những người như thế là một nguồn cảm hứng cho chúng ta. Lời của Đức Kitô chắc chắn áp dụng cho họ :”Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy”.
Mỗi nơi đều cần chứng từ của người Kitô hữu. Đức Kitô nói: “Làm chứng cho Thầy trước mặt thiên hạ”. Chính trong thế giới chúng ta phải hoạt động tích cực và có ảnh hưởng. Làm những môn đệ bí mật của Đức Kitô không đủ. Chúng ta phải đem lại cho dân chúng chứng từ về đức tin Kitô giáo.
Trong một vài quốc gia làm chứng cho Đức Kitô là đặt đời sống mình vào nơi nguy hiểm. Nhưng trong phần lớn các quốc gia, sự việc không như thế. Nhưng những nước sau cũng cần phải có những nhân chính, bởi vì đức tin và những giá trị Kitô đã bị xói mòn. Trong những nước này, việc làm chứng có khi còn khó khăn hơn. Điều mà chúng ta có lẽ phải đối diện, không phải là sự thù nghịch hoặc chống đối, nhưng là một điều gì còn khó khăn hơn : sự lãnh đạm chết chóc. Làm chứng trong trường hợp này đòi hỏi một sự can đảm đặc biệt. Điều này có nghĩa là chúng ta phải vượt qua nỗi sợ hãi của chúng ta về điều người ta sẽ nghĩ về mình hoặc nói về mình, và nỗi sợ hãi về cái giá mà chúng ta phải trả trong những lời lẽ như “Hãy để mặc kệ chúng tôi”.
Khi Đức Giêsu nói với các tông đồ anh em đừng sợ, Người không nói rằng họ phải không bao giờ cảm thấy sợ hãi. Người biết rằng đôi khi họ phải sợ. Vấn đề là họ cảm thấy nỗi sợ hãi nào có thể là nỗi sợ hãi làm họ tê liệt hoặc trở nên quá nhút nhát khiến họ không thể làm tròn sứ mạng của họ. Đức Giêsu đã tìm cách động viên họ để họ có thể hoạt động giữa những nỗi sợ hãi.
Họ phải vượt qua sự sợ hãi như thế nào? Người thúc giục họ phải hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa, Đấng chăm nom với lòng yêu thương sự sống và sự chết của họ những thụ tạo nhỏ bé nhất và ít có giá trị nhất, ví dụ như những con chim sẻ.
Con người có nhiều nỗi sợ : sợ khổ, sợ chết, sợ thất bại, sợ cô đơn, sợ dấn thân… Cái sợ làm:TN 12-A10
Con người có nhiều nỗi sợ : sợ khổ, sợ chết, sợ thất bại, sợ cô đơn, sợ dấn thân…
Cái sợ làm tê liệt con người : không có sức làm việc, không suy nghĩ sáng suốt, không giải quyết được tình huống... Ngay cả những người làm việc tông đồ cũng không tránh khỏi nỗi sợ : sợ không đủ khả năng, sợ người ta không nghe mình, sợ bị chống đối bởi những người không có thiện cảm với Tin mừng… Vì sợ như thế nên có người không dám mạnh dạn rao giảng, có người trốn tránh sứ mạng.
Trong bài Tin mừng này, Đức Giêsu bảo đừng sợ. Ngài không chỉ cho chúng ta cách làm thế nào để khỏi sợ. Lý do duy nhất Ngài đưa ra là gương của Ngài :
- Chúng ta là môn đệ của Ngài. Vì thế việc chúng ta gặp khó khăn và bách hại không có gì lạ, vì thầy của chúng ta cũng đã từng bị như thế và còn bị nặng hơn chúng ta nhiều. Vì vậy, nếu là môn đệ Đức Giêsu thì đừng tìm cách trốn tránh khó khăn và bách hại.
- Hãy noi gương Đức Giêsu mà can đảm giữ vững lập trường của mình và tiếp tục sứ mạng của mình, không phải bận tâm về bất cứ điều gì khác :
a/ Không cần bận tâm đến mạng sống bởi vì ngay cả mạng sống một con chim sẻ nhỏ bé mà còn do Chúa định đoạt, huống chi mạng sống con người;
b/ Không cần bận tâm đến sự chống đối của người đời, vì “Ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời thì Thầy sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Thầy”. Cha Charles de Foucauld nói :”Cách làm chứng tốt nhất cho Chúa là chúng ta không bao giờ sợ gì cả”.
Nhiều người có một thái độ rất đặc biệt ; gặp chuyện vui hay chuyện buồn, họ cũng đều nói: N12-A11
Nhiều người có một thái độ rất đặc biệt ; gặp chuyện vui hay chuyện buồn, họ cũng đều nói “Đó là ý Chúa”; thành công hay thất bại, họ cũng nói “Đó là ý Chúa”; trước mọi khó khăn, nguy hiểm, họ nói “Để Chúa lo”… Phải chăng thái độ đó là quá ngây thơ : đành rằng có Chúa đó, nhưng bản thân mình cũng phải xoay trở chứ! “Hãy tự giúp mình trước, rồi Chúa sẽ giúp thêm”!
Nhưng suy cho cùng, thái độ tin tưởng phó thác vào Chúa quan phòng có những cơ sở rất vững vàng :
- Người phó thác vào Chúa quan phòng tin rằng Chúa luôn hiện diện bên cạnh con người trong mọi tình huống. Tin như thế là rất đúng, vì Thánh kinh hằng lặp đi lặp lại biết bao lần chân lý ấy :”Ta hằng ở với con”, “Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế”…
- Người phó thác vào Chúa cũng tin rằng Chúa có kế hoạch của Ngài và không điều gì xảy ra ngoài kế hoạch của Thiên Chúa. Tin như thế cũng rất đúng :”Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi”.
- Người phó thác vào Chúa còn xác tín rằng Thiên Chúa là Cha và mình là con. Một người Cha toàn năng và hết sức yêu thương con như Thiên Chúa thì chắc chắn biết cách an bài cho con cái mình những điều tốt nhất :”Cha chúng con trên trời thừa biết chúng con cần gì”. --------------------------------------------
Ngày nay, Kitô hữu nói về Thiên Chúa ít hơn xưa. Tuy nhiên Đức Giêsu yêu cầu ta “Hãy la: N12-A12
Ngày nay, Kitô hữu nói về Thiên Chúa ít hơn xưa. Tuy nhiên Đức Giêsu yêu cầu ta “Hãy la lớn trên mái nhà”" điều gì đã “thì thầm vào tai”. Lời chúc dữ của Người :”Ai từ chối Ta trước mặt người đời. Ta cũng sẽ từ chối họ trước mặt Cha Ta trên trời”.
Im hay nói? Có nhiều loại im lặng. Im lặng sợ hãi, im lặng lãnh đạm, im lặng phản bội. Cũng có những im lặng mừng vui, im lặng sung mãn, im lặng yêu thương, im lặng giấu kín một bí mật. Những phút mãnh liệt nhất trong đời là những lúc “Không còn lời lẽ”. Lúc ấy im lặng còn diễn tả hơn mọi lời lẽ : nó cho ta nghe điều không diễn tả được.
Làm sao trẻ em và giới trẻ biết được Đức Giêsu nếu ta cứ im lặng mãi? Ta đề nghị niềm hy vọng nào nếu ta lặng thinh? Im lặng cần có từ ngữ mới có sức mạnh : nếu không có bản giao hưởng, làm sao nghe được sự im lặng tràn ngập căn phòng sau hợp âm cuối cùng?
Đức Giêsu đã chẳng nói đó sao :”Tất cả những gì che dấu sẽ được tỏ lộ. Tất cả những gì giấu giếm rồi mọi người sẽ biết”. Phải chăng ta không cần như thánh Phaolô nói “vào lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” để rao giảng Phúc âm cho cả nhân loại qua mọi thế hệ?
Cần phải loan báo thứ sứ điệp vượt quá mọi từ ngữ và mọi giáo thuyết. Nhà khôn ngoan lớn tuổi viết sách Giảng viên đã nói: “Có thời để nói, có thời để im lặng”. Những thời điểm này nối tiếp nhau trong cuộc đời con người cũng như trong Giáo Hội từ ngàn đời. Vì đôi khi ta nói quá nhiều, rồi sẽ tới ngày những từ ngữ biến nghĩa và chẳng còn “nói lên được điều gì nữa”. Chính sự sống và sự im lặng để làm chín mùi những lời lẽ mới mẻ và tươi trẻ.
Ta đang ở vào một mùa lịch sử mà nhiều từ ngữ không nói lên điều gì nữa : vì đôi khi trong quá khứ người ta đã dùng sai từ ngữ, và vì ta đã bước vào một lối hiện hữu mới nơi mọi người đang thay đổi lối sống, lối suy nghĩ, diễn tả và truyền đạt.
Mong sao Kitô hữu cố gắng mỗi ngày sống Phúc âm hơn. Thánh Thần của Đức Giêsu sẽ khơi dậy trong lòng họ sự im lặng hoặc từ ngữ. Lời đầu tiên của họ vẫn luôn luôn là sự sống của họ. Còn những lời khác sẽ không ngừng tái tạo, từ thời đại này qua thời đại khác, mà không bao giờ bị sa lầy trong những từ ngữ bị thói quen làm cho lu mờ.
Thấy đám đông, Đức Giêsu động lòng thương xót, vì họ mệt mỏi rã rời như đàn chiên không:TN 12-A13
Thấy đám đông, Đức Giêsu động lòng thương xót, vì họ mệt mỏi rã rời như đàn chiên không người chăn dắt, Người liền kêu gọi 12 môn đệ mà Người gọi là “tông đồ” (nghĩa là được sai đi).
Nhưng trước khi sai họ đi “đến với những chiên lạc nhà Israel”, Người còn nói với họ một “diễn từ sai đi”, là diễn từ thứ 2 trong số 5 diễn từ chính của Đức Chúa Giêsu trong Phúc Âm thứ nhất. Sách Bài đọc chia ra hai bài, hôm nay và Chúa nhật tuần tới, nhưng không chia ra hai loạt những nhắn nhủ các nhà truyền giáo:
- Một đàng là những nhắn nhủ về sự dứt bỏ, vô vị lợi mà họ phải làm chứng, về cách họ phải cư xử khi được đón tiếp hay bị chối từ khi loan Tin Mừng (câu 9-15).
- Đàng khác là những cảnh báo liên hệ đến sự bắt bớ mà họ sẽ phải chọn (câu 16-23) vì Thầy, nếu họ trung thành với sứ điệp của Người (câu 24-25): “Nếu chủ nhà đã bị coi là Belzebu, thì những người trong nhà sẽ còn bị đối xử tệ hơn”. Hai câu cuối cùng này là cao điểm của bài diễn từ Cl. Tassin bình luận: “Hai câu này nhìn sứ mạng của Kitô hữu như đồng bộ với thái độ của Đức Giêsu: cũng Người hiến mình cho đoàn chiên mệt mỏi lang thang, và chấp nhận những thử thách như Người, đó là sứ mạng đích thực của mọi Kitô hữu. Mười hai tông đồ vẫn là những mẫu mực không so sánh được về truyền giáo, không phải do những thành công, nhưng do các Ngài đã cùng Đức Giêsu cảm nghiệm đến cùng cảm tính định mệnh của các ngài.
2. Những người được sai đi của Đức Giêsu không được sợ nói.
Sau khi đã loan báo cho các môn đệ biết sự bắt bớ đang chờ họ và họ thấy rõ nguyên nhân của sự bắt bớ - căn tính sâu xa giữa Người và các môn đệ - Đức Giêsu hướng dẫn họ thái độ phải có khi gặp thử thách. Một tư tưởng hướng dẫn chạy xuyên suốt các lời Thầy, một điệp khúc tạo nên dấu chấm câu: “Các con đừng sợ!... Đừng sợ!... Đừng sợ gì cả...”.
- Đừng sợ, dám nói, vì lời họ nói không phải là lời của riêng họ nhưng là lời Đức Giêsu, lời có hiệu quả của lời Thiên Chúa. Do đó, môn đệ đừng mất can đảm nếu thành công trong hiện tại còn mỏng manh, thậm chí còn chưa thấy; như mặt trời mọc lên chiến thắng đêm đen, sứ điệp rồi cũng sẽ xuyên thủng tăm tối.
- Đừng sợ khi bị bắt bớ, vì nếu những kẻ bắt bớ chỉ có quyền trên sự sống dương trần (thân xác) chỉ mình Thiên Chúa nắm giữ đời sống vĩnh cửu và phán quyết của Người có thể huỷ diệt trần thế con người (cả xác lẫn hồn).
- Đừng sợ, vì Thiên Chúa, Đấng xét xử ta cũng là “Người Cha” chăm sóc mọi người, dù bé nhỏ đến đâu, và yêu thương từng người con bằng sự âu yếm của người mẹ: “Các con đáng giá hơn những con chim sẻ nhiều”.
Đối với những ai gắn bó sự nghiệp của họ với sự nghiệp của Người đến liều cả mạng sống, Đức Giêsu cũng hứa sẽ gắn bó với họ trong ngày phán xét. Người sẽ là luật sư biện hộ cho họ “Ai tuyên xưng ta trước mặt người đời, ta sẽ tuyên xưng họ trước mặt Cha Ta trên trời”.
II. BÀI ĐỌC THÊM:
1. Trong bày tay Thiên Chúa (Mgr. L. Daloz, Le Règne des cieux s'est approché, DDB).
Với môn đệ được sai đi, Đức Giêsu không hứa hẹn một đời sống dễ dãi. Nhưng Người cũng không để các ông trắng tay. Người bảo đảm cho các ông có sự trơ giúp của Chúa Thánh Thần. Người cũng trấn an các ông rằng từ nay các ông được Chúa Cha gìn giữ nên họ sẽ không lo gặp sự dữ. Chúng ta sống trong bàn tay của Thiên Chúa hằng sống, Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần. Loan báo Phúc Âm đâu phải là của riêng của những bậc anh hùng, những con người có óc phiêu lưu mạo hiểm! Loan báo Phúc Âm đòi có sự can đảm, có sức mạnh, nhưng không phải sự can đảm hay sức mạnh của riêng ta. Ta tìm thấy sự bảo đảm vẹn toàn ấy ở nơi Thiên Chúa. Dù bản chất ta yếu ớt, nhát sợ, ta vẫn có chỗ trong việc truyền giáo. Các tông đồ đã chẳng nhát sợ đó sao? Chính Thánh Thần Thiên Chúa trong ngày lễ Hiện xuống đã ban cho họ sức mạnh để họ ra khỏi nhà, đến với mọi người. Thánh Phaolô tự phụ vì những yếu đuối của Ngài, vì qua những yếu đuối ấy, quyền năng Thiên Chúa được tỏ hiện. Ta là con của Người Cha trên trời, của Thiên Chúa sáng tạo và giữ gìn tạo vật của Người. Là con Thiên Chúa thì khác hẳn với chỉ là tạo vật. “Người ta chẳng bán hai chim sẻ một đồng đó sao? Thế mà không một con nào rơi xuống đất mà không do ý Cha. Còn các con, ngay cả tóc trên đầu các con cũng đã được đếm rồi”. Ta có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Người yêu ta như cha, như mẹ ta. Vì thế, Đức Giêsu luôn khuyên ta đừng sợ hãi: “Đừng sợ, các con có giá trị hơn chim sẻ kia nhiều”.
Tuyên xưng niềm tin khi ta sống giữa những người đồng đạo, trong một cộng đoàn Kitô giáo thì thật dễ. Cho dù ở trong cộng đoàn, ta vẫn có tự do. Nhưng điều tối quan trọng, cực kỳ khó khăn đó là ta dám hành xử, ăn nói theo đức tin giữa một thế giới lãnh đạm, nghi kỵ hoặc thù ghét. Đức Giêsu đòi hỏi ta điều đó. Đức Giêsu sai môn đệ để họ đi rao giảng Nước Trời cho thế gian, chứ đâu phải chỉ để họ rao giảng cho nhau. Không đủ nếu ta chỉ mời người khác đến tham dự các buổi họp, thánh lễ vì ở đó, ta vẫn thường nói về Đức Giêsu Kitô, ta chẳng phải liều lĩnh gì cả, ta vẫn ở “nhà” ta, trong khuôn viên của ta. Nhưng cũng không cần phải ra ngoài đường phố mà rao giảng. Tuy nhiên, khi dám nói một lời trong xã hội ta sống, trong gia đình, với các bạn bè, các đồng nghiệp, “tại nhà họ”, không khiêu khích, nhưng cũng không sợ hãi, đó là gieo hạt giống Nước Trời vào thúng bột trần gian... Đó là một liều lĩnh, nhưng lười biếng, im lặng còn là một liều lĩnh lớn hơn...
Lạy Chúa, xin hãy gìn giữ chúng con trong trung tín với Chúa. Chúng con chỉ đứng vững nhờ sức mạnh Chúa ban. Chúa là sự vững mạnh, là tảng đá cho chúng con nượng tựa. Xin cất khỏi chúng con mọi sợ hãi loài người. Xin hãy tuyên xưng chúng con trước mặt Cha để Người ban cho chúng con đủ sức tuyên xưng Chúa trước mặt người đời. Xin cho chứng từ của chúng con là một bằng chứng cho mọi người thấy rằng Chúa chính là bảo đảm cho chúng con trước mặt Chúa Cha. Xin cho lời tuyên xưng đức tin của chúng con cho mọi người biết Chúa là Con yêu dấu của Chúa Cha. Khi chúng con sợ chống đối hay chế diễu, không dám tuyên xưng danh Chúa, xin hãy tha thứ cho chúng con, như Chúa đã tha thứ cho Phêrô. Nếu chúng con phản bội, thì Chúa vẫn một mực trung tín. Xin nâng đỡ chúng con để dù chúng con sợ hãi, tình yêu của Chúa vẫn là mạnh nhất. Để qua sự yếu đuối của chúng con, chúng con biết làm chứng về sức mạnh của ơn Chúa tha thứ.
2. Im hay nói? (G. Bessierè, Dieu si proche, DDB).
Ngày nay Kitô hữu nói về Thiên Chúa ít hơn xưa. Tuy nhiên, Đức Giêsu yêu cầu ta: “Hãy la lớn trên mái nhà” điều gì đã “thì thầm vào tai”. Lời chúc dữ của Người: “Ai từ chối Ta trước mặt người đời, ta cũng sẽ từ chối họ trước mặt Cha Ta trên trời”.
Im hay nói? Có nhiều loại im lặng. Im lặng sợ hãi, im lặng lãnh đạm, im lặng phản bội. Cũng có những im lặng mừng vui, im lặng sung mãn, im lặng yêu thương, im lặng dấu kín một bí mật. Những phút mãnh liệt nhất trong đời là những lúc “Không còn lời lẽ”. Lúc ấy im lặng còn diễn tả hơn mọi lời lẽ: nó cho ta nghe thấy điều không diễn tả được.
Làm sao trẻ em, và giới trẻ biết được Đức Giêsu nếu ta cứ im lặng mãi? Ta đề nghị niềm hy vọng nào nếu ta lặng thinh? Im lặng cần có từ ngữ mới có sức mạnh: nếu không có bản giao hưởng, làm sao nghe được sự im lặng tràn ngập căn phòng sau hợp âm cuối cùng?
Đức Giêsu đã chẳng nói đó sao: “Tất cả những gì che giấu sẽ được tỏ lộ. Tất cả những gì giấu giếm rồi mọi người sẽ biết”. Phải chăng ta không cần như thánh Phaolô, nói “vào lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” để rao giảng Phúc Âm cho cả nhân loại qua mọi thế hệ?
Cần phải loan báo thứ sứ điệp vượt quá mọi từ ngữ và mọi giáo thuyết. Nhà khôn ngoan lớn tuổi viết sách Giảng Viên đã nói: “Có thời để nói, có thời để im lặng”. Những thời điểm này tiếp nối nhau trong cuộc đời con người cũng như trong Giáo Hội từ ngàn đời. Vì đôi khi ta nói quá nhiều, rồi sẽ tới ngày những từ ngữ biến nghĩa và chẳng còn “nói lên được điều gì nữa”. Chính sự sống và sự im lặng để làm chín muồi những lời lẽ mới mẻ và tươi trẻ.
Ta đang ở vào một mùa lịch sử mà nhiều từ ngữ không nói lên điều gì nữa: vì đôi khi trong quá khứ người ta đã dùng sai từ ngữ, và vì ta đã bước vào một lối hiện hữu mới nơi mọi người đang thay đổi lối sống, lối suy nghĩ, diễn tả và truyền đạt.
Mong sao Kitô hữu cố gắng mỗi ngày sống Phúc Âm hơn. Thánh Thần của Đức Giêsu sẽ khơi dậy trong họ sự im lặng hoặc từ ngữ. Lời đầu tiên cua họ vẫn luôn luôn là sự sống của họ. Còn những lời khác sẽ không ngừng tái tạo, từ thời đại này qua thời đại khác, mà không bao giờ bị sa lầy trong những từ ngữ bị thói quen làm cho lu mờ.
Trong bài Tin Mừng ta vừa nghe, Chúa bảo chúng ta: “Các con đừng sơ những kẻ giết được: TN 12-A14
Trong bài Tin Mừng ta vừa nghe, Chúa bảo chúng ta:
“Các con đừng sợ những kẻ giết được tân xác, nhưng không thể giết được linh hồn, các con hãy sợ Đấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục”.
Cha ông chúng ta, những vị tử đạo, đã phải trải qua bản án thật khủng khiếp: xử trảm, xử giảo, lăng trì, bá đao, thiêu sinh… tức là bị bản án chám đầu, bị cắt tứ chi rồi mới chém đầu, hoặc thân xác bị cắt xẻo từng trăm miếng cho tới chết… Các Ngài vẫn cương quyết chịu đựng, vì cuộc sống vĩnh cửu, vì phần rỗi đời đời, vì Nước trời.
Vua Napoléon III, trong cuộc du lịch qua Algérie, có vào thăm một nữ tu viện, vua có hỏi một nữ tu: “Sơ muốn tôi giúp gì không? Sơ có bà con nào cần tôi nâng đỡ không?”
Nữ tu đó trả lời: “Thưa Hoàng Đế, tôi chỉ có một nguyện vọng. Xin nhà vua giúp cho.”
Vua Napoléon băn khoăn hỏi: “Nguyện vọng gì?”
Nữ tu đáp: “Tôi xin đức vua bảo đảm cho tôi được vào thiên đàng.”
Nhà vua trả lời với cả sự trịnh trọng: “Ôi điều đó ngoài uy quyền của một ông vua dưới đất. Chính sơ lại có thể dùng lời cầu nguyện để giúp tôi việc đó, hơn là chính tôi có thể làm được cho Sơ.”
Sau khi Thánh Gise Túc (tử đạo ngày 1-6-1862, 19 tuổi), bị bắt, một số thân hữu lo lót lính gác để tạo cơ hội cho Ngài trốn khỏi ngục, nhưng Ngài nói: “tôi sẽ không trống bằng bất cứ cách nào, vì nếu tôi trốn sẽ làm khó người khác. Chúa muốn thế nào tôi xin vâng như thế.”Khi một bạn tù tỏ vẻ lo không biết khi bị xử, người nhà có được tin để lãnh xác hay không, Thánh Túc bình thản bày tỏ cảm nghĩ của mình: “Tôi an tâm, không lo lắng gì cả. Nếu Thiên Chúa cho tôi đổ máu vì đạo, tôi tin chắc sẽ được về trời. Còn thân xác này chôn được thì chôn, bằng không chôn, thì cũng không sao.”
Anh Giuse Túc bị bắt vào đầu năm 1862. Anh bị giam ít ngày ở huyện, rồi giải lên tỉnh. Sau đó, anh bị biệt giam bốn tháng tại Đông Khê, phủ Khoái Châu. Ban ngày phải mang gông nặng, ban đem chân bị cùm xích. Dầu vậy, anh Túc vẫn trung thành với đức tin. Nhiều bạn bè cùng bị giam với anh như Phêrô Kiên (18t) Phêrô Ngân (15t). Phêrô Lương (20t). Các anh thường gặp nhau đọc kinh chung và an ủi khíck lệ nhau can đảm đến cùng.
Cuối tháng 5-1862 anh Túc được dẫn trở về thị xã Hưng Yên.
Những lời dụ dỗ, dọa nạt và tra khảo nhiều lần, không lay chuyển được lòng tin sắt đá của anh. Các quan nhất trí kết án trảm quyết anh.
khi lập án phong Á Thánh cho anh Giuse Túc, ông Đaminh Hưng kể lại rằng: “Tôi đi theo cậu Túc ra tới pháp trường. Cậu sốt sắng cầu nguyện và luôn kêu tên cực Thánh Chúa Giêsu. Sau khi cậu bị chém đầu, tôi đã mai táng thi thể cậu rất tử tế.”
Bà Maria Linh kể lại bà đã nhìn thấy đầu của người tôi tớ Chúa bị lý hình tung lên cao cho quan thấy, để trình với quan là họ đã thi hành lệnh, hôm đó là ngày 1-6-1862.
Thi hài vị tử đạo được chôn tại chỗ, sau được cải táng và đem vào nhà thờ xứ Ngọc Đồng.
Khi Thánh Vinhsơn Điểm (tử đạo ngày 24-11-1838, 77 tuổi) bị đưa ra tòa, quan hỏi:
“Này đạo trưởng Điểm, hoàng thượng đã ra lệnh cấm đạo rất ngặt, dầu vậy nếu ông chịu khóa quá, tôi sẽ tha ông ngay tức khắc.”
Cha đáp:
“Tôi thà chết trăm lần, chẳng thà bỏ đạo.”
Sau chiếu chỉ 25-1-1838, nhà vua cho truy lùng rất gắt các thừa sai… Quân lính được lệnh bổ vây vùng Bắc Bố Chánh và bắt được cha Vinhsơn Nguyễn Thời Điểm và một chủng sinh, đang lang thang tìm nơi ẩn trú ngoài đồng ruộng làng Đơn Sa. Hai cha con bị dẫn vào thị trấn Đồng Hới. Vì già gần 80 tuổi, cha Điểm không bị đánh đập.
Tại nhà giam Đồng Hới Cha Điểm đã gặp Cha Khoa và Đức Cha Cao. Cha mạnh dạn tuyên xưng đức tin, nhưng vì mệt mỏi và sợ hãi, cha lỡ lời khai ra mấy nhà giáo dân. Đến sau Đức Cha Cao cho biết những lời khai ấy đã làm hại một số giáo dân, Cha diểm tìmcách sửa lời thưa lại quan: “Tôi già nua lẩm cẩm, trong lúc sợ hãi quá đã khai dông dài, có khi gây oan ức cho một số người. Xin quan bỏ lời khai của tôi, đừng bận tâm đến những người ấy, kẻo tôi mang tội.”
Trở về ngục, hàng ngày 3 chiến sĩ đức tin cùng nhau đọc kinh Mân Côi, hát vang bài ca “Ave Maris Stella” (Lạy Mẹ là ngôi sao sáng). Biết không thể lay chuyển được ý chí ba nhà truyền giáo, quan nghị án gởi vào kinh đô. Ngày 24-11-1838 quan tới trại giam tuyên đọc bản án: Đức Cha Borie Cao phải xử trảm, hai cha Vinhsơn Điểm và Phêrô Khoa xử giảo. Ba vị cùng cất tiếng: “Nào cảm tạ Chúa, vì Chúa rất nhân từ- Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 117)
Cũng ngày ấy ba vị được dẫn đến pháp trường ngoại thành Đồng Hới. Sau mấy phút cầu nguyện hai cha Điểm và Khoa bị trói chân tay vào cột, lý hình tròng dây vào cổ. Nghe hiệu lệnh, lý hình cầm hai đầu dây xiết mạnh cho đến khi hai vị anh hùng nghẹt thở và lịm dần.
Con người chúng ta có bảy loại tình cảm gọi là thất tình, đó là: hỉ nộ ai cụ ái ố dục. Trong đó có TN 12-A15
Con người chúng ta có bảy loại tình cảm gọi là thất tình, đó là: hỉ nộ ai cụ ái ố dục. Trong đó có thứ tình cảm sợ hãi. Như vậy, tự bản chất con người đã có sẵn tính sợ hãi. Ai cũng có nỗi sợ hãi. Còn sống trên đời là còn sợ. Không sợ cái này thì sợ cái khác. Không sợ người này thì sợ người kia. 'Trẻ sợ ma, già sợ chết'. Đàn bà con gái thì sợ xuống sắc lắm. Họ mong đến tuổi hồi xuân may ra còn cứu vãn được ít nữa! Trong Kinh thánh có rất nhiều lần Thiên Chúa phán 'đừng sợ'. Thời cựu ước, nhiều vị ngôn sứ khi được Thiên Chúa chọn gọi cũng thoái thác vì sợ hãi, nhưng Thiên Chúa luôn bảo họ rằng: đừng sợ, vì có Ta ở với ngươi. Mẹ Maria khi được sứ thần báo tin sẽ mang thai Chúa Giêsu cũng sợ hãi, nhưng thiên thần trấn an: 'Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa"(Lc 1,30). Khi Chúa Giêsu hiện ra trên mặt biển, các tông đồ sợ hãi tưởng là ma, Chúa bảo: chính Thầy đây, đừng sợ!
Tin Mừng Mt 10,26-33 Chúa Giêsu nhắc tới ba lần "đừng sợ". Chúa Giêsu đã thấy trước những nỗi khó khăn, thử thách, gian truân bách hại mà các môn đệ sẽ phải đương đầu với những thế lực trần gian nên Ngài đã trấn an các môn đệ: "Anh em đừng sợ những kẻ giết giết thân xác mà không giết được linh hồn". Ngài đã từng cầu nguyện rất nhiều cho các môn đệ, vì Ngài biết giữa họ và thế gian trái ngược nhau cho nên thế gian sẽ ghen ghét, vu khống, đánh đòn và giết hại các môn đệ của Chúa. Nhưng nếu đã chấp nhận làm môn đệ Chúa thì không sợ chi cả.
Thấy trước sự bắt bớ các tông đồ sẽ phải đương đầu cho nên Chúa Giêsu trấn an: đừng sợ. Lời trấn an này không chỉ dừng lại là lời an ủi, động viên, khích lệ mang tính tâm lý giao tiếp mà là một lời có kèm theo sức mạnh đồng hành của Chúa 'vì có Ta ở với ngươi' mà. Đây là một loại sức mạnh sánh ngang tầm với vũ khỉ bảo hộ được trao gửi làm hành tranh khi các ông phải đơn thân độc mã chống chọi với mọi nghịch cảnh éo le. Chính vì thế, sau này, hầu như chẳng môn đệ nào sợ hãi trước sức mạnh của thế gian, của kẻ thù bách hại.
Ngày 22/10/1978, ĐTC Gioan Phaolô II khởi đầu sứ vụ Phêrô đã nói: 'đừng sợ'! Ngày 24/4/2005 ĐTC Bênêđictô XVI khởi đầu sứ vụ cũng nhắc lại và thêm: 'Tôi không cô đơn, tôi không phải gánh vác một mình, điều mà thực ra tôi không bao giờ gánh vác nổi. Và lời cầu nguyện của anh chị em, những bằng hữu thân mến của tôi; lòng sốt mến, đức ái đức tin đức cậy của anh chị em đồng hành với tôi'.
Đặc tính của người lãnh đạo là can đảm và bình tĩnh. Các môn đệ Chúa Giêsu cũng thế. Nếu sợ hãi bỏ chạy thì đoàn chiên sẽ tan tác. Các giám mục, linh mục, cha ông chúng ta đã không sợ hãi bỏ chạy khi có lệnh cấm đạo.
Chúa Giêsu thấy chúng ta thường hay sợ hãi nên Ngài trấn an 'đừng sợ'. Chúng ta được cấp trên giao nhiệm vụ và bảo đừng sợ thì sẽ cảm thấy bình tĩnh, an vui, can đảm thi hành nhiệm vụ. Người môn đệ Chúa là người công bố niềm hy vọng và sự sống cho mọi người bằng lời nói và việc làm, cho nên phải can đảm: nếu thế gian, xã hội này sống gian dối, không muốn sống trong sự thật, chúng ta phải minh chứng về Tin mừng của Chúa là sự thật. Nếu thế gian tối tăm không muốn tiếp nhận ánh sáng, sợ những hành động đen tối bị phơi bày, chúng ta hãy minh chứng cho họ về Tin mừng là sự sáng thế gian. Nếu thế gian sống chia rẽ, hận thù, không yêu thương kẻ thù, chúng ta hãy minh chứng về Tin mừng là tình yêu. Nếu thế gian tranh giành nhau, đấu đá nhau thậm chí chém giết nhau để đạt của cải, danh vọng, chức quyền, chúng ta hãy minh chứng cho họ biết về Tin mừng cứu độ có sức giải phóng tất cả. Cha Charles de Foucauled nói: 'cách làm chứng tốt nhất cho Chúa là không bao giờ sợ hãi gì cả'.
Đức Tổng giám mục giáo phận San Salvador - Oscar Rômêô không chấp nhận bất công xã hội, mỗi chủ nhật ngài giảng đều tố cáo tội ác mà đa số do các viên chức chính phủ. Lời của ngài ảnh hưởng rất lớn tới xã hội. Khi ngài giảng mọi người ngưng việc lắng nghe. Tính mạng của ngài bị đe doạ. Một vài người bạn bè của ngài bị giết. Ngài vẫn không im tiếng, không trốn đi nơi khác. Ngài nói: 'một mục tử chân chính khi thấy nguy hiểm không thể bỏ đoàn chiên để cứu lấy mạng sống mình. Tôi sẽ ở lại với dân tôi'. Và ngài đã bị bắn chết dưới làn đạn vào tháng 3/1980 lúc đang dâng thánh lễ.
Số phận đời đời của chúng ta cũng tuỳ thuộc vào tư cách sống chứng nhân cho Lời Chúa, chứ không phải trên tư cách là một người mang một tên gọi cho dẫu tên gọi ấy hay lắm, đẹp lắm, xứng đáng lắm. Chúa đã từng từ chối dứt khoát những kẻ chỉ thờ kính Ngài bằng môi miệng còn lòng dạ thì xa Chúa. 'Hãy xéo đi hỡi quân làm điều gian ác. Ta không biết các ngươi là ai'.
'Vì phàm ai nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời'(Mt 10,33). Chắc chắn chúng ta phải sợ Đấng ấy.
Ngôn sứ Giêrêmia đã nói: 'nhưng có Chúa ở với tôi như một chiến sĩ oai hùng, nên những kẻ tìm hại tôi sẽ phải lảo đảo và không thắng nổi tôi'. Đó là niềm xác tín của một ngôn sứ, một nhân chứng. Và không một nhân chứng nào thoát khỏi con đường gian nan, bấp bênh. Vậy nếu trong cuộc sống đề cao tình nghĩa yêu thương mà chúng ta gặp những gian nan thử thách, trù dập, vu cáo, chống đối...đó là những dấu chỉ chắc chắn nhất chúng ta đã đi đúng con đường của Chúa Kitô. Và nếu chúng ta đã không sợ hãi thì hãy can đảm rao giảng và làm chứng cho Chúa bằng lời nói cũng như việc làm ở tất cả mọi nơi mọi lúc.
Trong bài đọc thứ hai trích ở Thánh thư gửi giáo đoàn Roma, Thánh Phaolô ám chỉ đến một tội:TN 12-A16
Trong bài đọc thứ hai trích ở Thánh thư gửi giáo đoàn Roma, Thánh Phaolô ám chỉ đến một tội truyền tới mọi người mà chúng ta quen gọi là “tội tổ tông truyền”. Ngày nay, các nhà thần học đặt lại vấn đề đó, vì nó liên quan mật thiết đến các tín hữu điều căn bản của đức Tin trong việc giảng dạy Giáo lý.
Vậy Phaolô đã nói làm sao? Đọc kỹ Thánh thư, chúng ta thấy rằng Thánh Phaolô không đặt tầm quan trọng của Ađam, Ngài chỉ ám chỉ sơ qua để làm thấu hiểu vai trò của Chúa Kitô.
Đối với Thánh Tông đồ, con người quan trọng hơn cả trong lịch sử cứu rỗi, không phải là Ađam mà là Chúa Kitô. Giờ quyết liệt không phải là lúc tội nguyên tổ rơi vào nhân loại, mà là giờ chiến thắng của Chúa Phục sinh. Nền luân lý Kitô giáo không dựa trên tội nguyên tổ mà dựa trên mầu nhiệm sống lại.
Chúng ta hay quan niệm việc nguyên tổ sa ngã trong vườn địa đàng như là một sư kiện lịch sử đầy mầu sắc với trái cấm đong đưa, với con rắn cám dỗ. Và từ đó giòng sông tội lỗi cuồn cuộn chảy cho đến ngày nay, khi cây Thập giá chận đứng lại.
Còn đối với Phaolô, chân lý căn bản thế gian lịch sử ấy là việc Chúa Kitô chịu chết trên Thập giá. Thảm kịch ấy nói lên thảm kịch của tội lỗi. Mọi người đều cảm thấy mình tội lỗi, tội cá nhân hay tội của tập thể nhân loại. Nhưng “như do một người mà tội lỗi đã nhập vào thế gian…thì do ơn một người là Đức Giêsu Kitô làm cho nhiều người được ơn dư đầy”. Chúa Giêsu chính là Ađam mới và lòng Chúa yêu thương không thể đo lường được; để cứu chuộc người tôi tớ, Chúa đã nộop chính Con Mình. Đêm vọng Phục sinh Giáo Hội hát: “Ôi! Tội Ađam thật là cao cả, tội đã được tẩy xóa nhờ sự chết của Chúa Kitô. Ôi, tội hồng phúc, vì đã đáng được Đấng Cứu chuộc cao sang như thế!”
Trong bài Phúc Âm, Matthêô gom góp nhiều lời của Chúa nói với Tông đồ về sứ mạng rao giảng của họ: “Chúng con đừng sợ”. Đó là lời căn dặn thứ nhất của Chúa cho các người thợ Tông đồ. Có những người thợ Phúc Âm lại sợ những đòi hỏi Phúc Âm, không dám nói sự thật hay chỉ trình bày một thứ Phúc Âm nửa vời, không làm hại ai. trong khi Chúa Kitô là “một mục tiêu cho người ta chống đối”, đòi hỏi một sự dấn thân, một đức Tin mạnh mẽ, một chí khí hào hùng sẵn sàng chết vì đạo.
Lời căn dặn thứ hai của Chúa là phải rao giảng Lời Chúa cho mọi người. Đành rằng có thể chia sẻ Phúc Âm trong từng nhóm nhỏ, như Chúa đã làm với các môn đệ, nhưng Chúa phán: “Điều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói ra nơi ánh sáng, và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà”. Lời của Chúa là “sức mạnh cứu rỗi”, có tiếng vang trong mọi lãnh vực đời sống cá nhân cũng như xã hội và chính trị. Ngày nay trên diễn đàn quốc tế, Lời của Chúa còn vang vọng như đã từng vang vọng trên núi đồi năm xưa. Năm 1965, Đức Phaolô VI là vị Giáo Hoàng đầu tiên đã bước lên diễn đàn Liên Hiệp quốc. Ngài tuyên bố: “Chúng tôi kết thúc ở đây một cuộc hành trình cam go đi tìm sự đối thoại với cả thế giới, từ khi lệnh truyền đã được ban bố cho chúng tôi. Hãy đi đem Tin Mừng cho mọi quốc gia. Chính quý vị là đại diện cho mọi quốc gia trên thế giới” (Diễn văn ngày 4-10-1965 tại LHQ).
Tuy nhiên muốn rao giảng trên mái nhà và không phải chỉ là tiếng não bạt âm vang thì phải lắng nghe Lời Chúa trong chính mình đã. Làm sao thuyết phục kẻ khác khi lời Chúa khắc phục chính nội tâm của mình.
Lời căn dặn thứ ba của Chúa là phải hiên ngang can đảm tuyên xưng Thiên Chúa, đừng bao giờ chối Chúa. Phêrô đã chối Chúa, Giuđa đã bán Thầy. Nhưng ngày nay, cũng còn nhiều người bị cám dỗ chối bỏ Thầy một cách tế nhị hơn. Phải chăng, là một cách chối Chúa khi im lặng sống trong xã hội đầy bất công, tham nhũng, hưởng thụ, một xã hội muốn loại bỏ tôn giáo ra ngoài, hay dùng tôn giáo để bênh vực cho một ý thức hệ phản lại Phúc Âm.
Chúng ta là đồ đệ của Ngài Lời đã sai chúng ta đi ào giữa muôn dân, không phải để giữ im lặng mà để rao giảng “trên mái nhà”. Vì Phúc Âm, Chúa đã thí mạng, vì Tin Mừng mà các Tông đồ đều đã hy sinh. “Ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn chối Thầy trước mặt người đời, Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời”.
Giữa tháng 5-1992, mười ngàn giáo dân bất chấp cảnh sát đã đi dự đám tang của Đức Cha Phêrô-Giuse Fan Xuyan, Giám mục Baodinh và lãnh đạo Giáo Hội hầm trú Trung Hoa, trung thành với La Mã. Xác Đức Cha được giao lại trong một túi Plastic, hai chân bị gẫy, mặt đầy vết thương. Trong tù công sản, còn 9 Giám mục chui như vậy. “Ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời. Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”.
Không có chỗ nào sự chân thành của Chúa Giêsu được bộc lộ thật linh động bằng ở đây. Ngài: N12-A17
Không có chỗ nào sự chân thành của Chúa Giêsu được bộc lộ thật linh động bằng ở đây. Ngài phán với các môn đệ đúng điều họ sẽ gặp nếu họ chấp nhận chức năng làm sứ giả của Ngài. Tại đây Ngài đưa ra những đòi hỏi rất cao, rất mạnh và không thể dung hòa được, và cũng cho họ biết chẳng những được Thiên Chúa chăm sóc nhưng cũng được thiện cảm của loài người.
Trước hết Chúa Giêsu cho biết cái giá phải trả khi chấp nhận làm sứ giả:
1. Một lựa chọn quyết liệt:
Khi một chính nghĩa xuất hiện, hậu quả tất nhiên là chia rẽ giữa con người, những kẻ đáp ứng và những kẻ chối từ chính nghĩa đó. Đối diện với Chúa Giêsu là phải đối diện với một chọn lựa, hoặc tiếp nhận hoặc chối bỏ Ngài. Thế gian bị chia đôi bởi những người thừa nhận Chúa Giêsu và những người không chấp nhận Ngài. Điều chua chát nhất trong cuộc chọn lựa này là kẻ phải loại bỏ lại chính là người thân. Có thể một người vì quá yêu gia đình đến nỗi không dám dấn thân phục vụ và hi sinh. Không dám theo Chúa vì không dám xa gia đình hoặc e ngại nguy hiểm.
Một người có thể đã từ chối phục vụ trong một sứ mạng nào đó vì người đó để tình cảm riêng làm tê liệt. Con người ít khi phải đối diện với sự lựa chọn này, có người suốt đời không hề gặp, nhưng sự thật vẫn là: những người thân yêu có thể trở thành kẻ cám dỗ nếu những lo nghĩ về họ có thể ngăn cản chúng ta làm theo điều Chúa muốn.
2. Chúa Giêsu hứa ban thập giá:
Người dân Galilê hiểu rất rõ thập giá. Khi tướng La mã Varus dẹp tan cuộc phản loạn của Giuđa ở Galilê, ông đóng đinh 2000 người Do thái vào thập giá trồng dọc hai bên đường cái xứ Galilê . Thời đó phạm nhân phải vác thập giá của mình đến chỗ hành hình. Những kẻ nghe Chúa nói đã từng thấy kẻ tử tội loạng choạng dưới sức nặng của cây gỗ và chết trong đau đớn cực độ. Những vĩ nhân của đức tin biết rõ điều họ đang làm. Khi một vị tử đạo bị dẫn đến trước quan tòa, ngài nói với quan tòa: "Thưa quan, luật pháp của Chúa chúng tôi đã dự bị hai cách tuân thủ: một là làm cách tích cực điều lương tâm tôi tin rằng buộc mình phải làm; hai là nơi nào mà tôi không thể tích cực vâng phục lương tâm tôi được, thì tôi sẵn lòng nằm xuống để chịu mọi đau khổ người ta đem tới cho tôi."
Kitô hữu có thể phải hy sinh những tham vọng riêng, sự thoải mái và tiện nghi mình được hưởng, hi sinh công trình mình đã thành đạt, cũng có thể dẹp bỏ mơ ước, phải biết rằng những cái huy hoàng mình thoáng thấy không phải là để cho mình. Sẽ phải hy sinh ý muốn mình, vì không có kitô hữu nào có thể làm điều mình muốn mà phải làm điều Chúa muốn. Trong Kitô giáo bao giờ cũng có thập giá vì Kitô giáo là Đạo thập giá.
3. Ngài ban cho một cuộc phiêu lưu:
Chúa bảo họ:"Ai giữ mạng sống thì mất, còn ai đành mất mạng sống vì Ngài sẽ giữ lại được". Nhiều lần điều đó đã được chứng minh cụ thể. Một điều luôn luôn đúng là nhiều người có thể cứu mạng sống mình cách dễ dàng, nhưng cứu được rồi thì lại mất, vì chẳng còn nghe ai nói đến nữa.
Epicteus nói về Socrates: "Bởi chịu chết mà ông được sống, vì ông không chạy trốn". Socrates có thể cứu mạng sống mình cách dễ dàng, nhưng làm thế con người Socrates rồi cũng sẽ chết và sẽ chẳng còn ai nghe thấy tên ông nữa.
Trong đời sống kitô hữu không có chỗ nào cho chính sách thủ thân. Người nào dành ưu tiên đi tìm sự thoải mái, yên ổn cùng sự thỏa mãn những khát vọng riêng, người đó có thể được tất cả những điều này, nhưng sẽ không bao giờ hạnh phúc, vì bạn đã được sai đến trần gian để phục vụ Chúa và anh chị em mình. Người ta có thể ôm giữ sự sống mình nếu muốn, nhưng bạn sẽ mất tất cả những gì làm cho cuộc đời đáng sống và có giá trị cho người khác. Con đường phục vụ Chúa và tha nhân, con đường làm trọn mục đích Chúa cho chúng ta, con đường dẫn đến chân phúc là dấn thân, sử dụng cuộc đời mình cách không ích kỷ, vì chỉ như thế mới tìm được sự sống trong đời này và cả trong cõi vĩnh cửu “chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Người sứ giả đích thực được Thiên Chúa ân cần săn sóc và sẽ được dân chúng tôn trọng. Khi Chúa Giêsu phán những lời này thì Người cũng dùng lối nói thông thường của người Do thái . Bao giờ họ cũng cảm thấy đón tiếp sứ giả của ai là tiếp nhận chính người đó. Tỏ lòng tôn kính sứ giả là tôn kính nhà vua đã sai người đến. Hoan nghênh người đại diện bạn cũng chính là hoan nghênh chính bạn mình. Người Do thái bao giờ cũng cảm thấy tôn trọng người đại diện là tôn trọng chính người đã ủy thác. Điều này áp dụng cho những nhà thông thái, những người dạy chân lý của Thiên Chúa . Các rabi thường nói:"Kẻ nào tiếp đãi người khôn ngoan không khác gì đem trái đầu mùa dâng cho Thiên Chúa . Kẻ nào chào hỏi người học thức chẳng khác gì chào mừng Chúa". Nếu ta tiếp một người thật thuộc về Chúa tức là tiếp nhận Đấng đã sai người ấy.
Lời Chúa đây trình bày bốn mắc xích trong sợi dây cứu chuộc:
- Thiên Chúa yêu thương, từ đó khởi sự toàn thể tiến trình cứu chuộc. - Chúa Giêsu đem sứ điệp yêu thương đến với loài người. - Loài người làm sứ giả, các tiên tri rao giảng, các người tốt làm gương, các môn đệ học hỏi và truyền lại cho người khác Phúc Âm mà chính họ đã nhận. - Người tiếp nhận sứ giả và sứ điệp của Thiên Chúa nhờ đó tìm được sự sống cho linh hồn mình.
Trong đoạn Lời Chúa này có một điều thật đẹp, thích hợp cho những tâm hồn đơn sơ khiêm cung.
a) Chúng ta không thể đều là tiên tri, giảng và rao truyền lời của Thiên Chúa, nhưng người nào tiếp đãi sứ giả của Chúa sẽ nhận phần thưởng không kém chính vị sứ giả đó. Có nhiều người đã từng làm nhân vật đối với công chúng, có nhiều người với tiếng nói có thể nhen lửa trong lòng hàng vạn con người, có những người đã từng mang một gánh nặng vô cùng lớn lao về trách nhiệm và sự phục vụ công chúng; tất cả những người đó đều vui mừng làm chứng rằng họ không bao giờ duy trì được nỗ lực và yêu cầu của công tác nếu không có tình thương và sự chăm sóc, thiện cảm và tâm tình phục vụ của những người ẩn tích ở nhà. Khi đó sự cao trọng thật trước mặt Chúa người ta sẽ rất thường thấy một người chuyển động thế gian mạnh mẽ hơn cả lại hoàn toàn tùy thuộc vào một người khác, một người ẩn danh không ai biết đến. Các tiên tri cũng phải có bữa ăn, phải có áo quần, tiên tri cũng có một gia đình. Mong những ai thường làm những công tác dẫu dễ bị quên ơn như dọn dẹp nhà cửa, nấu ăn, giặt quần áo, coi em...đừng bao giờ suy nghĩ đó là những công việc chán ngắt và buồn tẻ mà là công tác cao trọng nhất của Chúa: và chắc sẽ được lãnh phần thưởng của tiên tri hơn là những người chỉ lo hội họp bỏ bê gia đình.
b) Tất cả chúng ta không thể đều là những gương sáng về việc lành, cũng không thể tất cả đều được cả thế giới biết là công chính, nhưng ai có thể giúp một người trở nên tốt sẽ nhận được phần thưởng của người tốt. G.H. Gee kể một câu truyện khá hay. Một cậu bé trong làng kia, sau nhiều gian nan, đã đạt đến chức mục sư. Người đã giúp cậu trong những ngày còn đi học là người thợ sửa giày trong làng. Ông này như nhiều đồng nghiệp khác, là người đọc nhiều, thấy xa và đã giúp cậu bé rất nhiều. Rồi đến ngày cậu được phép giảng dạy, ông thợ giày nói: "Mơ ước của tôi là được làm người rao giảng Phúc Âm, nhưng hoàn cảnh đời tôi không cho phép. Còn anh, anh đã đạt được điều mà tôi không thể đạt được. Tôi muốn anh hứa rằng sẽ để tôi đóng và sửa giày miễn phí cho anh. Tôi cũng muốn anh mang giày tôi đóng mỗi khi lên tòa giảng, như vậy tôi sẽ cảm thấy rằng anh đang đứng trên giày của tôi để giảng một Phúc Âm mà tôi mong muốn rao giảng". Bằng cách đó, người thợ giày đang phụng sự Chúa y như người truyền đạo và phần thưởng sau này của người thợ giày cũng y như vậy.
c) Không phải tất cả chúng ta đều dạy trẻ được, nhưng mỗi người đều có thể phục vụ trẻ. Có lẽ chúng ta không biết phương pháp dạy, nhưng buộc phải làm những nghĩa vụ đơn sơ mà nếu thiếu trẻ không sống được. Có lẽ trong đoạn này có ý không nói nhiều đến trẻ con về phương diện tuổi tác, nhưng nói về phương diện đức tin. Rất có thể các rabi thường gọi các môn sinh là bầy nhỏ. Có thể về phương diện kỹ thuật và văn hóa chúng không biết dạy, nhưng vẫn có thể dạy bằng đời sống và gương sáng mà một người đơn sơ nhất cũng có thể làm được.
Vẻ cao đẹp của giáo huấn này là nhấn mạnh đến sự vật đơn giản. Chúa và Hội Thánh bao giờ cũng cần đến những người hùng biện, những gương sáng của cuộc đời thánh thiện, các giáo sư lớn, những người mà tên tuổi thường được nhắc đến, nhưng Chúa và Hội Thánh cũng cần đến những người có một gia đình hiếu khách, những bàn tay săn sóc việc nhà, có tấm lòng quan tâm chăm sóc do tình yêu kitô hữu : "Tất cả mọi phục vụ đều bằng nhau trước mặt Thiên Chúa " (Browning) "hãy cám ơn ngọn đèn vì ánh sáng của nó , nhưng chớ quên người cầm đèn đang kiên nhẫn đứng trong đêm"(Tago).
Trong một khúc sách ngắn này, ba lần Chúa Giêsu bảo các môn đệ Ngài đừng sợ. Sứ giả phải: TN 12-A18
Trong một khúc sách ngắn này, ba lần Chúa Giêsu bảo các môn đệ Ngài đừng sợ. Sứ giả phải có lòng can đảm, không biết sợ hãi, phải khác hơn người thường.
1. Mệnh lệnh thứ nhất (trong c.26-27) nói lên sự không sợ trong hai phương diện:
a) Họ không sợ vì chẳng có gì che giấu mà sẽ không lộ ra và chẳng có gì kín mà sẽ không được biết. Ý nghĩa trong câu này là chân lý sẽ thắng. Châm ngôn La tinh có câu:" chân lý là vĩ đại và chân lý sẽ thắng". Khi vua Giacôbê VI hăm dọa treo cổ hoặc lưu đày Anrê Meville, ông khảng khái đáp: "vua không thể treo cổ hoặc lưu đày chân lý". Khi kitô hữu chịu khổ và hy sinh, thậm chí chết vì đạo, thì phải nhớ rằng một ngày kia mọi sự được phơi bày, lúc đó quyền lực của kẻ bách hại và sự anh dũng của người theo Chúa sẽ được minh giải và mỗi người sẽ nhận đúng phần công của mình.
b) Họ không phải sợ mà rao truyền sứ điệp mình đã nhận. Những gì Chúa Giêsu truyền dậy, họ phải nói lại cho loài người. Câu này đủ nói lên chức năng thật của người truyền đạo. Trước hết chính mình phải nghe, phải ở riêng với Chúa để trong những giờ phút tăm tối Ngài có thể phán dạy, và trong nơi cô quạnh Ngài có thể thì thầm bên tai. Không ai có thể nói về Chúa Giêsu trừ người đã được Ngài nói với. Không ai có thể công bố chân lý trừ phi đã được nghe, vì không ai có thể nói điều mình không biết rõ. Người nào giảng và dạy trước hết phải ở trong nơi kín nhiệm để nghe và học.
Thứ hai, người giảng đạo nói điều mình đã nghe Chúa Giêsu và phải nói lại dù phải chuốc lấy oán ghét của người đời, thậm chí có thể mất mạng. Người đời không ưa chân lý, vì "chân lý như ánh sáng chiếu vào mắt đau" (Diogens). Một lần giáo sĩ Latimer đang giảng, có cả vua Henri dự, ngài biết mình sắp nói một điều vua không ưa. Ở trên tòa giảng ngài nói lớn như nói với chính mình: "Latimer, Latimer, Latimer, coi chừng điều ngươi nói, có vua Henri đấy". Kế đó ngài ngưng, rồi nói tiếp: "Latimer, Latimer, Latimer, coi chừng điều ngươi nói, có Vua của các vua đang ở đây". Người giảng đạo đem một sứ điệp nói cho loài người, nhưng phải nói trong sự hiện diện của Thiên Chúa . Khi chôn Gioan Knox, người ta nói về ông: "Đây là nơi yên nghỉ của một người kính sợ Thiên Chúa đến nỗi không bao giờ sợ hãi trước mặt loài người". Chứng nhân Kitô là người không biết sợ, vì biết sự phán xét đời đời sẽ điều chỉnh sự phán xét tạm thời. Người truyền giảng và giáo sư Kitô là người lắng nghe cách cung kính, và nói với lòng can đảm, vì xác tín rằng vô luận nghe nói đều ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa .
2. Mệnh lệnh thứ hai ở trong câu 28:
Một cách đơn giản, điều mà Chúa Giêsu nói là không có hình phạt nào của con người có thể so sánh được với số phận tối hậu của một người phạm tội bất tuân đối với Thiên Chúa . Con người có thể giết chết thể xác nhưng Chúa Trời có thể lên án chết cả linh hồn. Ở đây có 3 điều chú ý:
a) có người tin vào sự bất tử có điều kiện. Đây là niềm tin chủ trương rằng phần thưởng của người nhân đức là linh hồn người lành sẽ thăng lên, lên mãi cho tới chừng hội nhập với sự bất diệt, chân phúc của Thượng Đế. Và hình phạt cho kẻ dữ là người không sửa chữa đường lối mình dù Thượng Đế đã kêu gọi, thì linh hồn người ấy cứ đi xuống, xuống mãi cho đến cuối cùng là tiêu tan. Chúng ta không thể dựng lên một giáo lý chỉ dựa trên một đoạn Kinh Thánh, nhưng điều Chúa Giêsu phán ở đây lại giống như vậy.
Người Do thái biết rõ sự kinh khủng về hình phạt của Thiên Chúa : “Quả thực Chúa có quyền trên sự sống và sự chết, Ngài đưa xuống tận âm phủ rồi Ngài kéo lên. Còn người ta do lòng gian ác có thể giết chết, nhưng khi linh hồn xuất ra rồi, nó không tài nào dẫn về được cũng không giải thoát được linh hồn ra khỏi âm phủ” (Kn 16,13-14).
Trong cuộc khởi nghĩa Maccbê, bảy anh em trong gia đình tử đạo đã khuyến khích lẫn nhau bằng cách nói rằng: “Đừng sợ kẻ tưởng có thể giết chúng ta, vì cực nhọc và đau đớn khủng khiếp của phần hồn trong hình khổ đời đời đang chờ kẻ phạm giới mạng của Chúa Trời” (2Macb 7,1s). Chúng ta luôn nhớ rằng sự trừng phạt của loài người chẳng nghĩa lý gì đối với sự trừng phạt của Thiên Chúa , cũng như phần thưởng Người thương ban.
b) Điều thứ hai trong đoạn này dạy chúng ta là còn một chỗ trong đời sống đạo nào mà ta có thể gọi là sự kính sợ thánh. Người Do thái biết rõ sự kính sợ này: người ta kể rằng ngày kia rabi Jochanan đau, môn đệ đến thăm, nhìn thấy họ ông bật tiếng khóc. Các môn đệ ngạc nhiên thưa: "Ôi ngọn đèn của Is-ra-en , trụ cột tay hữu cái búa đại năng, tại sao thầy khóc?". Ông đáp: "Nếu ta bị dẫn đến trước một vua trần gian là người nay còn mai mất, nếu có giận ta thì cơn giận của người không vĩnh viễn, nếu người có bắt giam ta thì sự giam cầm cũng không đến muôn thu, nếu có lên án tử hình thì sự chết không phải đời đời, người đó ta có thể làm nguôi cơn giận bằng lời nói hay bằng của hối lộ, vậy mà ta cũng khóc. Phương chi bây giờ ta được đưa đến trước mặt Vua các vua, Đấng Thánh đáng chúc tụng. Nếu Ngài nổi cơn thịnh nộ thì cơn giận của Ngài là vĩnh viễn, nếu Ngài hạ ngục ta, sự tù đày là vĩnh viễn, nếu Ngài lên án chết, sự chết đó là đời đời. Ngài là Đấng ta không thể là nguôi giận bằng lời nói hoặc bằng hối lộ. Hơn thế nữa, trước mặt ta có hai con đường, một dẫn đến thiên đàng, còn đường kia dẫn đến địa ngục, và ta không biết sẽ được dẫn đi đường nào, ta lại không khóc sao?"
Không phải người Do thái quên đi tình yêu. Tình yêu là điều trọng đại nhất, họ nói: "phần thưởng cho người nào dành cho tình yêu là gấp đôi hoặc gấp tư. Hãy hành động với lòng yêu thương vì nơi nào có sự sợ hãi thì nơi đó không có tình yêu thương, và nơi nào có tình yêu thưng thì nơi đó không có sợ hãi ngoại trừ trong mối liên hệ với Thiên Chúa!" Người Do thái bao giờ cũng chắc chắn rằng trong liên hệ với Chúa có cả yêu lẫn kính: "Kính sợ Chúa và yêu thương Ngài, luật phán dạy cả hai, hãy hành động với tình yêu và lòng kính sợ. Hành động bởi tình thương, không ai yêu thương mà lại ghét; hành động bởi kính sợ, bởi không ai kính sợ mà dám chống nghịch". Người Do thái cũng không bao giờ dám quên sự thánh thiện của Thiên Chúa , chúng ta cũng phải như vậy.
Đối với người kitô hữu , vấn đề càng ràng buộc hơn, vì chúng ta không chỉ sợ Thiên Chúa phạt mà còn sợ làm buồn lòng Ngài. Người Do thái cũng như Chúa Giêsu không bao giờ phải đối diện với mối nguy tình cảm hóa tình yêu của Chúa. Thiên Chúa là yêu thương nhưng Ngài cũng thánh thiện vì Ngài là Thiên Chúa . Trong lòng và trong tư tưởng chúng ta chỉ có chỗ cho tình yêu để đáp ứng tình yêu của Chúa, lẫn cho sự tôn sùng kính sợ để đáp ứng sự thánh thiện của Ngài.
c) Hơn nữa, trong đoạn này cho chúng ta biết có những điều tệ hại hơn cả sự chết, mà một trong đó là bất trung. Nếu một người phạm tội bất trung, nếu người ấy dùng danh dự đổi lấy sự an thân thì không còn đáng sống nữa. Người ấy không thể đối diện với loài người và với chính mình, càng không thể đối diện với Thiên Chúa . Có những lúc tiện nghi, an toàn, và chính đời sống khiến chúng ta phải trả giá đắt.
3. Mệnh lệnh thứ ba ở trong câu 31,
Dựa vào sự chắc chắn được Thiên Chúa chăm lo từng chi tiết. Nếu Ngài chăm sóc chim sẻ thì chắc chắn Ngài sẽ chăm sóc con người. Matthêu nói rằng hai con chim sẻ được bán để lấy một xu, ấy thế mà có con nào rớt xuống đất mà Chúa không biết đâu. Luca cho ta lời Chúa Giêsu phán đó dưới một hình thức hơi khác: "năm con chim sẻ há chẳng bán được hai đồng xu sao? Thế mà trước mặt Thiên Chúa không một con nào bị bỏ quên" (12,6). Điểm đáng lưu ý ở đây là: hai chim sẻ bán được một xu, nhưng người mua sẵn sàng trả hai xu để lấy không phải bốn mà đến năm chim sẻ. Con chim được thêm ở trong tình trạng mặc cả, Chúa cũng chăm sóc đến, mà theo sự tính toán của con người, nó chẳng đáng gì cả. Nhưng cả đến con chim sẻ cho thêm đó cũng đáng giá trước mặt Thiên Chúa .
"Chẳng một con nào rơi xuống đất mà Thiên Chúa không biết". Chữ "rơi" tự nhiên khiến ta nghĩ đến sự chết, nhưng rất có thể tiếng Hi lạp dịch từ một chữ Aram có nghĩa là "đậu trên đất". Không phải Thiên Chúa chỉ lưu ý đến con chim sẻ rơi xuống đất và chết, mà hơn thế nữa, Ngài còn lưu ý mỗi lần nó đậu xuống và nhảy trên đất. Lý luận của Chúa Giêsu là nếu Thiên Chúa còn chăm lo đến một con chim như thế huống chi là con người chúng ta.
Người Do thái cũng biết và hiểu lời Chúa Giêsu phán. Không có một dân tộc nào có quan điểm về sự chăm sóc tỉ mỉ của Chúa như thế đối với tạo vật của Ngài. Rabi Chania nói: "Ở thế hạ này không ai làm tổn thương đến ngón tay mình, trừ phi Thiên Chúa đã định". Các rabi cũng có câu: "Chúa Giavê nuôi cả thế giới từ cái sừng trâu cho đến cái trứng rận'"
Danh sư Hillel có lời giải thích kỳ diệu về thánh vịnh 135. Thánh vịnh ấy khởi đầu bằng câu truyện về Chúa là Đấng Sáng Tạo làm nên bầu trời, trái đất, mặt trời, mặt trăng và các vì sao (cc 1-9), kế đến mô tả là Chúa của lịch sử, giải cứu Is-ra-en và chiến đấu cho dân này (cc 11-24), sau đến việc Ngài bam đồ ăn cho mọi loài xác thịt (c 25) Chúa dựng nên thế gian, Chúa kiểm soát lịch sử cũng chính là Chúa ban đồ ăn cho loài người. Bánh chúng ta ăn mỗi ngày cũng do hành động của Thiên Chúa giống như hành động tạo thành vũ trụ và giải phóng khỏi thân phận nô lệ. Tình thương của Thiên Chúa không chỉ thấy trong sự toàn năng của việc tạo thành và trong những biến cố lớn của lịch sử, nhưng còn thấy trong sự chăm nuôi thể xác con người hằng ngày. Sự can đảm của sứ giả của Vua dựa trên lòng xác tín rằng bất cứ việc gì xảy ra sứ giả không bao giờ trôi giạt ra khỏi tình thương và sự chăm sóc của Thiên Chúa . Sứ giả biết giờ của mình vĩnh viễn ở trong tay Chúa, Ngài sẽ chẳng quên, chẳng bỏ tôi tớ Ngài, sẽ được sự chăm sóc của Ngài bao phủ. Và nếu vậy, chúng ta còn sợ ai?
Bài Tin Mừng Chúa Nhật XI Thường NIÊN hôm nay được thánh Matthêu ghi chép thật rõ ràng: N12-A19
Bài Tin Mừng Chúa Nhật XI Thường niên hôm nay được thánh Matthêu ghi chép thật rõ ràng về những lời Chúa Giêsu dành cho mười hai tông đồ, đó là bài học căn bản Ngài dành cho các tông đồ để lo việc rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Qua đó, Ngài cũng báo trước cho các tông đồ biết những gian truân khổ ải sẽ xảy đến với các ngài.
Vì thế, sứ mệnh tông đồ cần phải có một đức tin vững mạnh để tin tưởng vào Đấng đã sai đi. Nếu thiếu niềm tín thác, người được sai đi rao giảng Tin Mừng sẽ sống trong hồi hộp, lo sợ không ngừng. Sợ phải nói lên sự thật sợ người có thế lực hành hạ: "Người ta sẽ nộp các con nơi toà án để xét xử các con. Lúc ấy, Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho các con phải nói gì". Câu kết thúc của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay nghe như có vẻ dễ dàng, nhưng thực hành điều này thì lại khác: "Ai xưng Thầy trước mặt thiên hạ, Thầy cũng khen họ trước mặt Cha Thầy ở trên trời. Ai từ chối Thầy trước mặt người ta, Thầy cũng chối họ trước mặt Cha Thầy trên trời".
Các tông đồ Chúa đã vâng lệnh loan truyền lời Chúa khắp nơi, họ không giấu diếm điều gì mà họ đã nghe khi thụ huấn với Chúa Giêsu. Bài Phúc âm hôm nay được trích gửi các thế hệ kế tiếp các tông đồ, không những hàng Giám mục là những người thừa kế sứ mạng các tông đồ, mà cả đến những người bé nhỏ nhất trong giáo Hội của Chúa Kitô.
Nhớ lại lịch sử của các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta sẽ cảm phục lòng tín thác anh dũng của các ngài. Dù sống trong cơ cực, dù gông cùm và bị hành hình khủng khiếp, nhưng các ngài đã không hãi sợ, nhưng vẫn một lòng cậy tin và các ngài còn hát lên để ca khen danh Chúa Kitô trước án tử hình mà các ngài lãnh nhận.
Mặt khác, qua những lời Chúa Giêsu dặn như thế, nếu chúng ta chưa tin yêu Ngài cách mạnh mẽ, chúng ta cũng đừng sợ vì những nỗi gian truân bắt bớ ấy. Vì chính khi sợ hãi như vậy sẽ làm cho chúng ta mất can đảm bình tĩnh.
Người ta có kể một câu chuyện như sau: Đức Phật đã tu luyện cao thâm, một hôm có một tên cướp giết người đến hăm dọa mạng sống của ông, ông nói với tên cướp ấy rằng:
-Sau khi anh giết tôi, xin anh thoả mãn nguyện vọng cuối cùng đời tôi là anh hãy chặt đứt cành cây này đi, và chỉ một tát gươm cành cây rơi xuống đất. Tên cướp nạt lớn:
-Còn gì nữa?
Đức Phật bình tĩnh nói tiếp:
-Bây giờ xin anh ráp cành cây ấy lại với thân cây cũ.
Tên cướp cười ngất ngây và nói:
-Ông điên hả? Chỉ có người điên mới làm như ông bảo.
Đức Phật tiếp lời:
-Anh chính là người điên ấy, anh hành động ẩu tả quá. Anh có biết rằng người có thế lực là người biết xây dựng và là những người có thể chữa lành được.
Kinh Thánh đồng hoá Thiên Chúa với sự khôn ngoan thượng trí. Nếu chúng ta đọc và nghiền gẫm Kinh Thánh, chúng ta sẽ tìm thấy những điều hữu ích cho cách xử thế của chúng ta hằng ngày. Chúa Giêsu nhấn mạnh: "Đừng sợ hãi. Hãy tín thác vào Chúa". Nếu bạn quá lo sợ, bạn sẽ làm hại chính bản thân.
Ngày nọ, một cơn dịch tễ vội vã đến làng Damas, dọc đường gặp nhóm người đi buôn bán, anh trưởng đoàn ấy hỏi, dịch tễ đáp rằng: "Tôi sẽ lấy 1000 mạng sống lại làng Damas". Xong việc trở về gặp lại nhóm thương gia, họ cật vấn: Anh nói chỉ giết 1000 người, nhưng sao đến 10.000 người chết. Dịch tễ mỉa mai: tôi chỉ giết đúng 1000 thôi, phần còn lại là do sợ hãi giết đó
Trong các cuộc di tản bởi chiến tranh, trong các biến cố do thiên tai khủng khiếp, số người chết vì sợ hãi gấp nghìn tần số người bị chết vì bom đạn và thiên tai. Chúa Giêsu rất hiểu tỏ tâm trạng sợ sệt của chúng ta, đặc biệt của các sứ đồ của Ngài, nên khi sống lại Ngài đã đem ơn bình an đến cho họ và trao ban Thánh Thần để nâng đỡ họ.
Khi lãnh nhận Thánh Thần rạng ngày Lễ Hiện Xuống, thánh Phêrô đã can đảm đứng lên rao giảng Tin Mừng, và tiếp theo đó các sứ đồ đã hãnh diện và can đảm chịu đựng mọi khổ nhục và cự hình vì danh Chúa Kitô Phục Sinh.
"Cọp chết để da, người ta chết để tiếng". Người Kitô hữu chúng ta cũng như tất cả những ai sống Tin Mừng của Chúa Kitô, chắc chắn Chúa Giêsu sẽ gìn giữ họ và Ngài sẽ giới thiệu họ trước mặt Thiên Chúa Cha để Thiên Chúa Cha nhìn nhận và ban cho sự sống hạnh phúc đời đời.
Bộ sách Thủy Hử Trung Quốc được chuyển thành phim nhiều tập. Các đài truyền hình Việt Nam:TN 12-A20
Bộ sách Thủy Hử Trung Quốc được chuyển thành phim nhiều tập. Các đài truyền hình Việt Nam đã trình chiếu nhiều lần. Tác phẩm bất hủ này đã tuyên dương 117 vị anh hùng hào kiệt Lương Sơn Bạc. Người anh hùng nổi tiếng nhất là Tống Giang, còn gọi là Tống Công Minh, xuất chúng về đạo đức, công minh, phục vụ chính nghĩa, nhưng bị nhiều quan lại tham ô, gian hùng, ghen ghét, hãm hại. Tống Giang võ nghệ cao cường, sức địch muôn người mà vẫn cam chịu cổ đeo gông, tay mang xiềng xích, đi theo lệnh hai tên công sai áp tải, giải đi lưu đầy. Ông đã chứng tỏ tinh thần thượng tôn pháp luật, dù đó là án lệnh bất công của kẻ nịnh thần bất chính của vua mù quáng nhu nhược.
Phải chăng, phải trải qua bao nhiêu cực hình bất công dưới thời nhà Tống, 117 vị anh hùng đã tuyên dương chính nghĩa thương dân, ái quốc và chứng tỏ chính nghĩa luôn luôn thắng gian tà. Kẻ công chính mãi mãi được lòng dân mên phục, dẫu không thành công, nhưng đã thành nhân, quân tử.
Trước Tống Giang gần ngàn năm, ngôn sứ Giêrêmia đã can đảm tuyên dương chính nghĩa cứu nhân độ thế của Thiên Chúa, bất chấp cực hình của bọn gian ác, tham quyền cố vị hãm hại ông. Suốt ngày, Giêrêmia bị coi là thứ trò hề cho họ nhạo báng, xỉ nhục, đến nỗi ông phải kêu lên : Ôi hành hung, ức hiếp… nhưng Thiên Chúa đã ở với ông như tướng quân oai hùng (Gr. 20, 7-8). Nhờ thế ông càng tin tưởng vững mạnh, cầu nguyện và ca tụng Thiên Chúa … Ông tiếp tục công bố sứ điệp của Thiên Chúa vừa bằng lời nói, vừa bằng đời sống.
+ Bằng lời nói : Ông nói những gì ông đã nghe Thiên Chúa phán, ông kêu gọi mọi tầng lớp Vua quan, đảng phái, dân chúng từ bỏ đường lối gây hấn, hận thù, từ bỏ liên minh với Ai Cập, với tà thần, trở về với Thiên Chúa thì mới được Thiên Chúa giải thoát dân tộc khỏi nô lệ diệt vong.
+ Bằng đời sống : Ông sống cô đơn, bị ruồng rẫy, bị bỏ rơi, một hình ảnh Thiên Chúa bị bỏ rơi. Ông tự đeo gông vào cổ, xiềng xích vào tay để cảnh giác họ đang bị gông cùm nô lệ của ngoại bang (Gr. 38, 6). Vì thế ông đã bị kết án bỏ tù xuống giếng, chìm sâu trong bùn lầy (Gr. 27, 2)
Dưới giếng sâu bùn lầy, ông còn loan báo cho dân tộc, nếu không bỏ đường lối lầm lạc đó, họ sẽ bị lưu đầy trong ô uế, nhơ bẩn hơn ông ở dưới giếng sâu. Còn ông, ông nói : “Thiên Chúa đã siêu độ tôi khỏi âm phủ, cứu sống tôi thoát phận những kẻ xuống mồ” (Tv. 30, 4)
Khi Đức Giêsu sai các môn đệ đi công bố những điều Người dạy, Người đã thấy những cực khốn mà những chứng nhân cho chính nghĩa phải chịu như Giêrêmia. Người đã khuyên các ông : “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diêt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”. Đừng sợ vì Cha anh em đã lưu ý đến cả những con chim sẻ chẳng đáng giá gì, cả từng sợi tóc trên đầu anh em, Chúa đã dựng nên, săn sóc, nuôi dưỡng, bảo tồn mọi thứ hèn mọn, nhỏ bé như thế, huống chi đối với anh em, “anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ”, lẽ nào Ngài không săn sóc, bảo vệ, hướng dẫn, lo lắng cho anh em sao ?
Đức Giêsu đã đưa ra những chứng cứ cụ thể mà Thiên Chúa đã làm cho muôn loài, muôn vật được sinh sống tốt đẹp, để thúc đẩy các môn đệ và chúng ta tin tưởng mạnh mẽ vào Thiên Chúa. Có lòng tin mạnh mẽ mới can đảm chiến thắng những đe dọa, những cực khổ tạm bợ ở đời này. Thiếu lòng tự tin vào Thiên Chúa sẽ không thể sống công minh, không thể hy sinh cho chính nghĩa, không thể tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, không dám rao giảng Tin mừng cứu độ muôn dân. Tin mừng của Thầy là sự thật, thế gian sống gian dối, không muốn sống trong sự thật. Tin mừng của Thầy là sự sáng, thế gian sống trong tối tăm, không tiếp nhận ánh sáng vì họ sợ những hành động đen tối bị phơi bày. Tin mừng của Thầy là tình yêu, thế gian sống chia rẽ hận thù, không thể yêu thương kẻ thù. Tin mừng của Thầy là cứu độ, thế gian lại chỉ muốn hãm hại, tranh dành nhau, chém giết nhau để chiếm của cải, danh vọng.
Ai cam đảm theo chính nghĩa, theo Thầy, “tuyên bố Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”.
Ai theo bất chính, bất nhân, sợ không dám theo Thầy, “chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”.
Để giáo đoàn Rôma và chúng ta chọn lựa theo Đức Giêsu Kitô hay theo Adam, tuyên bố nhận Đức Kitô hay nhận Adam, Thánh Phaolô đã chỉ cho thấy : Ai theo Adam, tuyên nhận Adam kẻ bất chính, kẻ tội lỗi đã gây nên sự chết đã đem tội lỗi và sự chết xâm nhập vào trần gian, thì sẽ bị sự chết thống trị.
Ai theo Đức Giêsu Kitô, tuyên nhận Đức Kitô, thì nhờ Đức Kitô, được dồi dào ân sủng của Thiên Chúa ban biết mấy.
Mỗi khi được xem những trận bóng đá thế giới (World Cup), chúng ta thấy nhiều cầu thủ nổi tiếng làm dấu Thánh giá khi chạy vào sân banh và sau khi đá được trái banh vào lưới. Họ đã làm dấu Thánh giá để tuyên bố nhận Đức Giêsu trước mặt thiên hạ. Còn chúng ta, chúng ta có mạnh mẽ tuyên bố nhận Đức Giêsu trước mỗi việc làm, mỗi cuộc họp, mỗi bữa ăn trước mặt thiên hạ không ?
“Lạy Chúa Giêsu, Người đã khuyến khích con đừng sợ khi phải tuyên xưng đức tin. Xin cho con can đảm không bao giờ đỏ mặt xấu hổ khi rao giảng Tin mừng. Xin giúp con vui vẻ chấp nhận những hiểu lầm, những thử thách, những cực khổ hãm hại vì danh Chúa. Amen”.
Bài Tin Mừng hôm nay nói về đức "vô úy" (không sợ) hay "can đảm" mà người Ki-tô hữu sẽ có khi quyết tâm thi hành nghĩa vụ vương đế (làm chủ) và ngôn sứ (làm chứng) mà họ đã lãnh nhận khi chịu phép rửa tội. Bài Tin Mừng hôm nay nói rất mạnh đến sứ mạng của chúng ta là làm chứng cho Đức Giê-su: "Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng". Sứ mạng ấy không phải là ta muốn làm hay không tùy ý ta, mà nó có thể đem đến những kết quả tốt: "Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy", hoặc hậu quả xấu: "Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy".
1. Nghĩa vụ ngôn sứ trong đời sống Ki-tô hữu
Đây là một nghĩa vụ quan trọng nhưng người Ki-tô hữu thường lãng quên, phần lớn là do những người có trách nhiệm giáo dục trong Giáo Hội chưa quan tâm nhắc nhở hay nhấn mạnh đủ. Nói chung, người ta có khuynh hướng giản lược Ki-tô giáo vào nghĩa vụ tư tế (làm lễ, hay thờ phượng Chúa) mà bỏ quên hai nghĩa vụ còn lại là:
- vương đế (làm chủ bản thân, gia đình, xã hội và Giáo Hội), và
- ngôn sứ (làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương bằng lời nói và nhất là bằng đời sống).
Thật vậy, người ta thường coi việc đọc kinh, cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích quan trọng hơn cả việc sống cho có tình có nghĩa với người khác. Nhiều mục tử coi bổn phận cử hành các bí tích cho con chiên còn quan trọng hơn cả việc làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương, hơn cả nghĩa vụ bênh vực con chiên mình khi họ bị ức hiếp, đối xử bất công. Thậm chí hai nghĩa vụ sau không còn được coi là nghĩa vụ nữa. Hành xử như thế, người Ki-tô hữu đang trình bày cho thế giới bằng chính đời sống mình một thứ Ki-tô giáo què quặt, biến dạng, méo mó, một thứ Ki-tô giáo "thuốc phiện", đầy tính ru ngủ… Ki-tô giáo đó khác hẳn với thứ Ki-tô giáo do Đức Giê-su thiết lập, một Ki-tô giáo coi trọng sự thật, công lý, tình thương, mang nặng tính dấn thân và phục vụ.
Chúng ta cùng xét lại xem trong ba nghĩa vụ ấy Đức Giê-su coi nghĩa vụ nào là quan trọng ưu tiên. Ngài nói: "Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế" (Mt 9,13); "Những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và sự chân thật" (Mt 23,23b); "Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình" (Mt 6,23-24); Ngài còn nhấn mạnh: "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,35), chứ không phải ở dấu thánh giá, hay việc cầu nguyện, đi lễ, rước lễ, mặc dù những việc này không được bỏ hay coi thường (Mt 23,23c).
Bổn phận ưu tiên phải làm chứng cho tình yêu, nghĩa là phải thật sự yêu thương anh chị em mình - là hiện thân của Đức Giê-su - cũng được Thánh Gioan Kim Khẩu nhấn mạnh: "Anh em có muốn tôn kính thân thể Chúa Kitô không? Vậy thì đừng bỏ qua Ngài khi thấy Ngài trần truồng. Đừng tôn vinh Ngài với đủ gấm vóc lụa là trong đền thờ, trong khi lại bỏ mặc Ngài đang run lạnh và trần truồng ngoài trời. Đấng đã từng nói "Đây là mình Thầy" cũng chính là Đấng sẽ nói "Các ngươi đã thấy ta đói mà không cho ăn"… Có ích gì khi bàn Thánh Thể thì chất nặng những chén lễ bằng vàng, trong khi Đức Kitô đang hấp hối vì đói khát? Hãy cho Ngài hết đói khát đã, rồi mới lấy những gì còn lại mà trang hoàng bàn thờ!" (Tông huấn Giáo Hội tại châu Á, số 41§2). Có phải nhiều người chúng ta trong thực tế đã quan niệm và hành xử khác hẳn không?
Dù vô tình hay cố ý, sự giản lược hay bỏ quên hai nghĩa vụ sau rất dễ hiểu, vì trong bất kỳ tôn giáo nào, việc thờ cúng hay cầu xin thần linh cũng hứa hẹn nhiều lợi lộc (về thiêng liêng cũng như vật chất) cho người thi hành nó. Động lực thúc đẩy người ta thờ cúng hay cầu xin nhiều khi là vị kỷ, vì ích lợi cá nhân cho dù là thiêng liêng. Và sự quan trọng hóa việc thờ cúng thần linh chẳng những không làm mất mát gì cho giới tăng lữ mà còn đem lại cho họ rất nhiều quyền và lợi. Còn hai nghĩa vụ kia mang tính vị tha, đòi hỏi tất cả những ai muốn thi hành nó phải xả thân, hy sinh, chấp nhận mất mát, thiệt thòi. Tuy nhiên, hai nghĩa vụ này rất cần thiết cho quyền lợi chung của con người, của xã hội và Giáo Hội. Muốn thi hành hai nghĩa vụ này, cần phải "dám", phải "vô úy", "không sợ", phải can đảm chấp nhận đau thương. Đừng nghĩ rằng có đức "vô úy" rồi thì ta mới thi hành được nghĩa vụ ngôn sứ, mà hãy nghĩ rằng ta sẽ có nhân đức này khi quyết tâm thi hành nghĩa vụ ấy. Đừng sợ rằng mình không có can đảm, hãy sợ rằng mình không muốn can đảm.
2. Tại sao lại "đừng sợ"?
Đức Giê-su đưa ra một số lý do để khuyên ta đừng sợ:
a) Phải sợ Thiên Chúa hơn sợ người ta
Ngài đã đưa ra một nỗi sợ lớn hơn để tiêu diệt nỗi sợ nhỏ hơn. Ngài nói: "Đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục". Thật vậy, rất có thể một ngày nào đấy Vua Giê-su nói với ta: "Quân bị nguyền rủa kia, hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn…" (Mt 25,41tt). Hoặc "Phường hèn nhát kia, hãy xéo khỏi mặt Ta, vì các ngươi đã không dám làm chứng, không dám nói sự thật để bênh vực công lý, bênh vực Ta khi Ta bị đàn áp, bách hại, hàm oan…". Bài Tin Mừng cũng nói: "Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy". Nghĩ như thế, ta sẽ có thêm can đảm để nói và làm những gì cần phải nói phải làm. Không chịu chấp nhận tai họa nhỏ để rồi phải chấp nhận một tai họa lớn gấp bội thì thật là ngu xuẩn!
b) Phải tin vào phẩm giá cao quý của mình và tình thương quan phòng của Thiên Chúa
Con người - nhất là người Ki-tô hữu - là "con cái Thiên Chúa" (Mt 5,15; Rm 8,14.16; Gl 3,26; 4,6), được dựng nên "giống như Ngài" (St 1,26), "theo hình ảnh của Ngài" (1,26.27), được "thông phần bản tính Thiên Chúa" (1Pr 1,4), được Thiên Chúa yêu thương (Ga 3,16; 1Ga 3,1). Như vậy, con người có một phẩm giá hết sức cao quí. Cao quí đến nỗi Thiên Chúa đã phải sai Con Một mình xuống thế chịu chết cho con người (Rm 5,6-8; 1Cr 15,3). "Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào", thế mà "không một con nào rơi xuống đất ngoài thánh ý Thiên Chúa". Là con cái Thiên Chúa, được thông phần bản tính Ngài, ta quí giá hơn chim sẻ hàng tỷ lần: "anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ", đến nỗi "tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi"! Như vậy, có chuyện gì xảy đến với ta khi ta làm chứng cho Ngài lại không do thánh ý Ngài?
3. Xét mình
Như vậy, nếu có đức tin, ta sẽ không sợ. Nhưng liệu ta có đủ đức tin để không sợ hầu làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý chăng? Rất có thể ngoài miệng ta tuyên xưng đức tin rất mạnh mẽ, đồng thời sẵn sàng kết án những kẻ tuyên xưng khác với ta. Nhưng nếu thành thực xét lại niềm tin của ta vào sự quan phòng của Thiên Chúa để dám dấn thân thật sự, rất có thể ta lại thấy đức tin ta còn yếu kém hơn cả những kẻ ta kết án! Và để khỏi phải dấn thân như đức tin và lương tâm đòi hỏi, ta thường nại vào sự khôn ngoan và thận trọng. Nhưng quả thật khó mà xác định được lằn ranh giữa khôn ngoan và hèn nhát! Ta có thể nhân danh sự khôn ngoan để có thể hèn nhát "một cách có lý" hầu không ai chê trách được! Và cũng như thầy tư tế, thầy Lê-vi và người Do Thái trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu (Lc 10,30-37), ta có thể nhân danh nghĩa vụ tư tế (làm lễ) để khỏi phải làm nghĩa vụ ngôn sứ (làm chứng) của mình. Đó quả là vấn đề tế nhị của lương tâm mà mỗi Ki-tô hữu cần năng tự vấn!
Trên đời này có rất nhiều cái sợ : sợ đau khổ, sợ thử thách, sợ bệnh hoạn, sợ thiếu thốn và nhất là sợ chết . Xem ra, nỗi sợ hãi luôn ám ảnh con người và con người dù muốn, dù không vẫn bị dầy vò bởi trăm ngàn nỗi hiểm nguy . Hiểu rõ điều đó, Chúa Giêsu khi huấn luyện các môn đệ, Ngài luôn chỉ rõ cho các môn đệ thấy rõ con đường theo Chúa là khổ, là vất vả, nhưng có vượt thắng giữa trăm ngàn khó khăn thử thách, mới đạt được vinh quang ." Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mà theo Chúa ". Con đường theo Chúa là con đường chông gai, thử thách, khó khăn . Lướt thắng những nghịch cảnh, những khó khăn thử thách, con người mới tới được vinh quang. Chúa Giêsu trước khi về với Chúa Cha, đã luôn trấn tỉnh các môn đệ :" Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế "( Ga 14, 18 ).
I. CÁC CON ĐỪNG SỢ
Nỗi bận tâm của Chúa Giêsu đối với các môn đệ là việc Ngài ra đi về với Chúa Cha sẽ làm cho các ông hoang mang, lo âu, xao xuyến . Các môn đệ lo âu vì các ông sợ Chúa rời xa, sẽ không có ai giúp đỡ họ. Gặp thử thách, gặp những nghịch cảnh thảm khốc, các ông biết nương tựa, cậy nhờ vào ai ? Chính sự hoang mang, bỡ ngỡ xem ra hụt hẵng , càng làm cho các môn đệ sợ sệt và lo lắng . Thấu suốt tâm hồn các ông, Chúa Giêsu đã an ủi các ông trước biến cố Ngài ra đi chấp nhận cái chết để cứu độ con Người: " Lòng các con đừng xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy" ( Ga 14, 1 ) , và Chúa lại hứa với các ông: " Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi, Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế " ( Ga 14, 18 ). Đây là lời hứa đã nung nấu lòng các môn đệ thêm can đảm, phấn chấn . Chúa lại nói để củng cố đức tin của các môn đệ vì Ngài biết rằng khi Ngài ra đi, các môn đệ sẽ phải buồn sầu, đau khổ :" Vì Thầy đã nói thế với các con, thì ưu sầu tràn ngập lòng các con. Nhưng Thầy nói thật với các con, là Thầy ra đi thì ích lợi hơn cho các con, vì nếu Thầy không ra đi thì Đấng bầu chữa không đến với các con. Còn nếu Thầy ra đi, thì Thầy sẽ sai Người đến với các con "( Ga 16, 6-7). Chúa Thánh Thần có sứ mạng hướng dẫn, soi sáng, an ủi và làm cho các môn đệ can đảm, hiên ngang để loan báo Tin Mừng ( Ga 14, 26 ; 15, 26-27 ). Chúa Giêsu đã luôn luôn căn dặn và an ủi các môn đệ để các Ngài vững chí hiên ngang mà làm chứng nhân cho Chúa Giêsu phục sinh . Nên, trong Mt 10, 26-33 , Chúa Giêsu đã nhấn mạnh với các môn đệ ba điểm .
Lời cặn dặn thứ nhất, Chúa nói:" Các con đừng sợ người ta " ( Mt 10, 26 ). Chúa nhấn mạnh với các môn đệ về sứ mạng loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa phục sinh . Vì Chúa và vì Tin Mừng, các môn đệ có khi phải hy sinh đến cả mạng sống. Rồi tiếp theo Chúa lại nói với các môn đệ là phải rao giảng về Chúa cho mọi người . " Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần " ( Mt 28, 19 ). Điểm thứ ba Chúa căn dặn các môn đệ phải can đảm, hiên ngang tuuyên xưng danh Chúa, không được chối Chúa. "Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời "( Mt 10, 32 ).
Lúc nào, Chúa cũng nhắc nhở các môn đệ : "Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn" ( Mt 10, 28 ) hoặc " Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ " ( Mt 10, 31 ).Nhưng điều làm các môn đệ an tâm và không sợ hãi vì Chúa đã hứa: " Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế "( Mt 28, 20 ).
II. LÀM CHỨNG NHÂN CHO CHÚA , ĐỪNG SỢ :
Sợ sệt có thể làm con người chùn bước trước muôn vàn nghịch cảnh đang giăng mắc và xẩy ra trong đời sống của con người. Chính vì thế, Chúa luôn cảnh tỉnh các tông đồ của Ngài hãy tỉnh thức, đừng sợ, sao nhát đảm đến thế ! Chúa có đó và luôn can thiệp kịp thời những biến cố xẩy ra trong lịch sử cứu độ, trong đời sống riêng tư của con người. Khi Chúa ngủ ở đầu mạn thuyền, sóng to, gió lớn trổi dậy, các môn đệ cuống cuồng, lo âu sợ sệt . Chúa nói:" Sao các con nhát đảm thế" và Chúa khiến gió bão im lặng . Trong cuộc đời muôn thời, người tông đồ của Chúa được sai đi, không phải để im lặng, để thỏa hiệp hầu được lợi nhuận, được dễ dàng, nhưng họ phải rao " trên mái nhà " ( Mt 10, 27 ). Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, khi khai mạc triều đại của Ngài, đã dõng dạc tuyên bố :" Đừng sợ, hãy mở tung cửa đón Chúa Kitô ". Bao nhiêu vị Thánh Tử Đạo cũng nhất mực không bao giờ sợ dù biết rằng họ sẽ phải hy sinh cả tới tính mạng . Chính dòng máu của vị tử đạo đã làm cho Giáo Hội vững chắc và bền bỉ . Một Mahatma Gandhi đã đấu tranh bất bạo động để dành độc lập cho tổ quốc ông, ông đã phải hy sinh dưới nhát dao của một kẻ quá khích. Một mục sư da đen Martin Luther King đã gục ngã dưới những viên đạn oan nghiệt cho mầu da đen được nhìn nhận và được bình đẳng . Còn biết bao các vị anh hùng dân tộc khác, tất cả đều đã hy sinh cho đất nước, cho tổ quốc mình được đẹp hơn, tốt hơn. Tất cả đều không sợ dẫu họ biết chính mạng sống của họ phải hy sinh . Theo Chúa, trở thành môn đệ của Chúa, người tông đồ luôn phải cảm nghiệm vì Chúa họ sẽ phải hy sinh như chính Chúa đã vì tội lỗi nhân loại mà chịu chết trên thập giá ( Ga 15, 13 ) và cũng vì làm chứng cho Chúa phục sinh mà các môn đệ đã ngã gục trước các bàn tay khát máu . " Ai tuyên xưng nhận Thầy trước mặt người đời, Thầy cũng tuyên bố nhận Người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời " ( Mt 10, 32 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con lòng can đảm để trước mọi nghịch cảnh của đời sống, chúng con luôn tìm được sự an bình của Chúa. Xin cho mọi người chúng con khi theo Chúa luôn biết tuân giữ mọi điều Chúa dậy và trung kiên làm chứng nhân cho Tin Mừng cứu độ của Chúa.
Xin cho chúng con đừng bao giờ thỏa hiệp để mưu tìm sự dễ dãi, mà luôn nhiệt thành giới thiệu Chúa Giêsu phục sinh cho mọi người ( Mt 28, 19 ).
Có những người quá nhát sợ. Gặp con dán hay con chuột cũng co rúm người, mặt cắt không: TN 12-A23
Có những người quá nhát sợ. Gặp con dán hay con chuột cũng co rúm người, mặt cắt không còn giọt máu. Có những người, trái lại, chẳng biết sợ là gì. Coi mạng sống nhẹ như tơ. Lên xe là phóng như bay.
Liều lĩnh thường thiệt mạng. Nhút nhát quá đâm hỏng việc. Một đàng bất cập, một đàng thái quá. Vì thế vấn đề không phải là sợ hay không sợ. Vấn đề là phải biết phân định. Biết những gì nên sợ và những gì không nên sợ.
Hôm nay Đức Giê-su giúp ta phân định để biết sợ và biết không sợ.
Trước hết Người dạy ta biết phân định giá trị. Sự sống là quí giá ta phải trân trọng. Mất sự sống là mất tất cả. Tuy nhiên sự sống có nhiều cấp độ. Có sự sống thân xác nhưng cũng có sự sống linh hồn. Có sự sống đời này nhưng còn có sự sống đời sau. Sự sống đời này là chóng qua. Sự sống đời sau vĩnh cửu. Sự sống thân xác mau tàn. Sự sống linh hồn bất diệt. Ta phải yêu quí cả hai sự sống. Nhưng khi không thể giữ gìn vẹn toàn cả hai thì phải biết chọn sự sống cao quí , vĩnh cửu, đó là linh hồn, là sự sống đời sau.
Người cũng dạy ta phân định thời cơ. Thời cơ chỉ đến một lần. Lỡ thời sẽ không bao giờ tìm lại được nữa. Lỡ thời có thể hỏng cả cuộc đời.
Có thời cơ để rao giảng Lời Chúa. Hiện nay, Lời Chúa bị che giấu, chỉ thì thầm bên tai, còn nhiều người chưa biết. Ta được cơ hội đóng góp phần mình vào việc rao truyền Lời Chúa. Nhưng sẽ đến ngày mọi sự kín đáo sẽ tỏ lộ. Lời Chúa sẽ được mọi người nhận biết. Bấy giờ cơ hội sẽ hết.
Có thời cơ tuyên xưng danh Chúa. Khi còn ở trần gian, giữa những người chưa biết Chúa, giữa những thế lực thù địch, trong cơn gian nan, chính là cơ hội cho ta tuyên xưng danh Chúa. Khi cuộc đời trần gian chấm dứt, cơ hội đó sẽ không còn.
Và sau cùng là phân định nguyên lý. Thiên chúa là chủ mọi loài. Thiên chúa nắm quyền sinh tử. Thiên chúa an bài mọi sự. Con người chỉ là quản lý của Chúa trong một thời gian, trong một vài lĩnh vực. Khi thời gian chấm dứt, chính Thiên chúa xét xử và thưởng công, trừng phạt.
Khi đã có những phân định rõ ràng ta sẽ biết sợ và biết không sợ.
Biết sợ Chúa là Chủ tể mọi loài, mọi sự. Không những làm chủ thân xác mà còn làm chủ cả linh hồn. Không những làm chủ đời này mà còn làm chủ cả đời sau.
Biết sợ mất linh hồn. Linh hồn là món quà cao quí nhất Thiên chúa tặng cho con người. Sự sống của linh hồn là sự sống Thiên chúa ban, hạnh phúc vĩnh cửu bên Chúa. Mất linh hồn là mất tất cả. Như Đức Giê-su vẫn nhắc nhở : "Được lời lãi cả thế gian mà phải mất linh hồn thì nào được ích gì ?".
Biết sợ lỡ thời cơ. Hãy biết làm việc khi còn ban ngày, khi trời còn sáng, khi ta còn sống. Thời cơ chỉ đến một lần, nếu ta không tận dụng sẽ lỡ cả một đời. Như những cô trinh nữ khờ dại chỉ còn đứng ngoài cửa Thiên đàng mà than khóc. Như người đầy tớ lười biếng chôn giấu nén bạc phải khóc lóc nghiến răng.
Khi đã biết sợ như thế, ta sẽ không sợ người đời, vì người đời chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Ta sẽ không sợ mất mạng sống, vì sự sống thân xác nay còn mai mất, chẳng tồn tại lâu dài. Ta sẽ không sợ hình khổ hành hạ thân xác, vì khổ hình rồi cũng sẽ qua.
Nói không sợ cũng không đúng hẳn. Đau đớn khổ cực ai mà không sợ. Nhưng như Đức Giê-su trong vườn Cây Dầu, dù sợ vẫn cứ bước vào cuộc khổ nạn, Người môn đệ vẫn can đảm tuyên xưng danh Chúa, vẫn kiên trì rao giảng Lời Chúa, chấp nhận tất cả những khó khăn hiểm nguy đe dọa, rình rập, chấp nhận những đau đớn thua thiệt chóng qua đời này, với niềm tin vững chắc rằng chính Thiên chúa là Cha nhân lành an bài mọi sự, Người sẽ ban thưởng cho ta phần thưởng không gì so sánh được, đó là hạnh phúc vĩnh cưủ đời sau.
Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Bạn đã từng bị những nỗi sợ nào đè nặng. Những nỗi sợ đó có chính đáng không ?
2- Sống đạo là chấp nhận thiệt thòi. Bạn có dám chấp nhận thiệt thòi vì Chúa không ?
3- Muốn trung thành với Chúa, bạn làm cách nào để tránh được những nỗi sợ do người đời đem đến ?
Đức Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt
Chúng ta nắm giữ chìa khoá làm cho kẻ khác có được hình ảnh về chinh họ có thể yêu thương: TN 12-A24
Chúng ta nắm giữ chìa khoá làm cho kẻ khác có được hình ảnh về chinh họ có thể yêu thương và thành đạt trong cuộc sống hay không.
Cách đây nhiều năm, Stanley Coopersmith, thuộc đại học California bỗng tò mò thắc mắc chẳng hiểu tại sao một số người thì thành công đang khi những người khác cũng có tài và cơ hội mà trái lại thất bại. Để trả lời cho câu hỏi này, ông đã bỏ ra sáu năm nghiên cứu theo dõi 1.700 sinh viên qua những năm trưởng thành quan trọng của họ. Những khám phá của Stanley Coopersmith thật đáng lưu ý. Chúng cho thấy là tác nhân quan trọng nhất góp phần vào việc thành bại là chính hình ảnh một người tự có về chính mình ( selflimage). Người luôn có về mình hình ảnh tích cực thì dễ thành công . Còn người có hình ảnh tiêu cực về mình thì dễ thất bại. Nói cách khác nếu chúng ta nhận thấy mình có giá trị hoặc đáng yêu, chúng ta hẳn sẽ dễ thành công trong việc chúng ta làm. Nhưng nếu chúng ta không xem mình là có giá trị hoặc đáng yêu thì chắc hẳn chúng ta sẽ thất bại.
Tuy nhiên hậu quả của hình ảnh tự có về mình còn rộng hơn thế nữa. Các nhà tâm lý học cho chúng ta hay rằng hình ảnh chúng ta tự có về mình là chìa khoá dẫn đến thành công không chỉ xét như những người tài khéo mà còn xét với tư cách Kitô hữu nữa.
Tại sao thế ?
Xin thưa : sự thành công của chúng ta xét với tư cách Kitô hữu được đo lường bằng khả năng yêu mến Chúa và đồng loại của chúng ta. Các nghiên cứu cho thấy người luôn mang hình ảnh tích cực về mình thì có khả năng yêu mến Chúa và đồng loại hơn rất nhiều người mang hình ảnh tiêu cực về mình.
Tại sao lại như thế ?
Tại vì tình yêu là sự tự dâng hiến. Tình yêu là quà tặng của một người cho kẻ khác chính bản thân mình. Và đây chính là sự gay go. Nếu chúng ta không nghĩ rằng mình có giá trị hay đáng yêu thì chúng ta sẽ không thể nào trao tặng chính mình như một món qùa cho kẻ khác một thứ đồ vặt vãnh, nhất là khi kẻ ấy là người mình kính trọng và khâm phục. Chúng ta sẽ không chịu khoác lên mình giấy bóng kiếng (ăn mặc tươm tất), cột quanh người dây đỏ và đặt chân lên ngưỡng cửa của kẻ khác nếu chúng ta tự nghĩ mình là đồ rác rưởi.
Điều này nêu lên một câu hỏi quan trọng. Làm thế nào chúng ta khai triển được hình ảnh chúng ta có về mình? Chúng ta đào đâu ra những ý nghĩ mình là người có giá trị và đáng yêu ?
Câu trả lời cho vấn nạn này sẽ làm chúng ta kinh hãi. Chúng ta có được ý nghĩa này là từ những người khác, đặc biệt những người gần gũi chúng ta nhất như gia đình chúng ta. Nếu kẻ khác xem chúng ta chẳng có giá trị và chẳng đáng yêu thì lúc đó chúng ta tự thấy mình không có giá trị và không đáng yêu. Ngược lại nếu họ xem chúng ta có giá trị và đáng yêu thì lúc đó chúng ta sẽ bắt đầu tự thấy mình có giá trị và đáng yêu. Xem ra thật đáng sợ khi những kẻ khác, đặc biệt là những kẻ thân thiết nhất với chúng ta nắm giữ chiếc chìa khoá tạo ra hình ảnh chúng ta có về mình. Khi bình phẩm về sự kiện đáng sợ này, nhà tâm lý học Bonaro Overstreet nói : “ chúng ta không chỉ là người mà còn là người thợ nặn ra anh em chúng ta nữa”. Khi bình phẩm về tầm quan trọng của kẻ khác trong việc đúc ra hình ảnh của chúng ta có về mình, Robet Bierstedt thuộc đại học Nữu Ước có nói :
“Tôi không phải là hình ảnh mà tôi tự gán cho mình, tôi cũng không phải là hình ảnh mà anh gán cho tôi, mà tôi chính là hình ảnh tôi nghĩ rằng anh gán cho tôi ”.
Nói cách khác, nếu tôi nghĩ anh cho tôi là đồ bỏ, thì cuối cùng tôi sẽ phát triển cái hình ảnh tôi có về mình đó.
Điều này dẫn chúng ta đến một kết luận thực hành.
Với tư cách Kitô hữu, chúng ta tin Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta theo hình ảnh Ngài; nên chúng ta phải có hình ảnh tích cực về mình hơn bất cứ ai. Bài Phúc Am hôm nay nhấn mạnh đến sự kiện này. Chúa Giêsu nói rằng Cha chúng ta trên trời biết cả đến số sợi tóc trên đầu chúng ta.
Dưới con mắt Chúa, chúng ta mong một giá trị khôn kể. Ngài yêu chúng ta vô cùng. Ngài yêu và Ngài xem chúng ta có giá trị đến độ Ngài đã sai con một Ngài đến cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Như thế điều quan trọng là chúng ta phải cư xử với nhau giống như cách thức Cha chúng ta đã cư xử với chúng ta, điều quan trọng là chúng ta phải truyền lại cho kẻ khác chính sứ điệp Chúa đã truyền cho chúng ta, đó là : Chúng ta có giá trị đáng yêu vượt quá mọi suy tính. Nếu chúng ta cư xử với ké khác kém hơn thế thì chúng ta đã truyền lại cho họ một lời dối trá, dối trá khủng khiếp. Chúng ta bảo với họ là họ không có giá trị hoặc không đáng yêu. Không chỉ chúng ta nói dối họ mà chúng ta còn tiêu hủy khả năng yêu thương của họ như Thánh kinh từng dạy bảo họ.Vì nếu chúng ta trao cho họ ý tưởng họ là kẻ vô giá trị và không đáng yêu thì họ sẽ không thể nào yêu kẻ khác được.
Thật khá ngạc nhiên khi Thánh Phaolô viết cho các Kitô Hữu ở Corintô như sau :“ Giả như tôi có thể nói được các ngôn ngữ của loài người, và ngay của các Thiên Thần nhưng nếu tôi không có tình yêu thì lời nói của tôi khác gì tiếng đồng kêu hay tiếng chuông vang ồn ào ? Giả như tôi có đặc sủng thuyết giảng, biết đủ mọi thứ bí mật, giả như tôi có đức tin mạnh mẽ đến chuyển núi dời non, nhưng nếu tôi không có tình yêu thì tôi chả là gì hết”.“ Tôi có thể cho đi tất cả những gì tôi có, ngay cả hiến dâng thân xác để bị thiêu đốt, nhưng nếu tôi không có tình yêu thì điều ấy chả ích gì cho tôi hết” ( 1Cr 13: 1-3).
Bài phúc âm hôm nay nói cho chúng ta một sứ điệp quan trọng đó là chúng ta thực sự có giá trị và đáng yêu. Chính Chúa đã bảo cho chúng ta là nói lại cho nhau nghe sứ điệp tình yêu này, đặc biệt cho đám người trẻ. Hạnh phúc trong tương lai của họ nơi trần thế này và trong cả cuộc sống mai hậu tùy thuộc vào điều ấy.
Chúng ta hãy dùng những lời Chúa Giêsu để kết thúc :
“Như Cha yêu mến Ta, Ta cũng yêu mến các con… Ta nói với các con điều này ngõ hầu niềm vui của Ta ở trong các con và niềm vui các con được trọn vẹn… này, đây là lệnh truyền của Ta: "Các con hãy yêu thương nhau”.( Ga 15:9,11.17)
CHỦ ĐỀ : Vững lòng trông cậy Chúa dù đang sống giữa khó khăn
Sợi chỉ đỏ :
Các bài đọc hôm nay nêu lên ba tình huống khó khăn khác nhau: - Ngôn sứ Giêrêmia bị dân: TN 12-A25
Các bài đọc hôm nay nêu lên ba tình huống khó khăn khác nhau :
- Ngôn sứ Giêrêmia bị dân do thái tìm cách làm hại (Bài đọc I - Gr 20,10-13) : "Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng"
- Tác giả Tv 68 bị những người thân thích bài xích (Đáp ca - Tv 68) : "Chúa nghe những người cơ khổ"
- Các sứ giả Tin Mừng bị bách hại (Mt 10,26-33) : "Tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi"
Những vai chính trong 3 bài đọc trên đều vững lòng trông cậy nơi Chúa, với niềm xác tín được Chúa bảo vệ và giải thoát.
- Bài đọc II (Rm 5,12-15) (Chủ đề phụ) : "Do tội của một người mà nhiều người phải chết, thì ơn nghĩa của Thiên Chúa và ân huệ ban do ơn một người là Đức Giêsu Kitô làm cho nhiều người được ơn dư đầy hơn bội phần"
Minh họa
- Mille images 137 E
- "Anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ" (Mt 10,31)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Cuộc sống của chúng ta trên dương thế này thường xuyên gặp phải biết bao khó khăn gian khổ. Nhưng Lời Chúa hôm nay xác quyết rằng nếu chúng ta trông cậy vào Chúa thì Ngài sẽ bảo vệ và giải thoát chúng ta.
Trong Thánh Lễ này, chúng ta hãy đặc biệt xin Chúa củng cố lòng trông cậy của chúng ta.
II. Gợi ý sám hối
- Nhiều khi gặp đau khổ, chúng ta đã bỏ đọc kinh cầu nguyện.
- Nhiều khi vì quá khổ, chúng ta phiền trách Chúa.
- Nhiều khi trong lúc khó khăn, chúng ta mê tín dị đoan.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Gr 20,10-13)
Giêrêmia là một ngôn sứ phải nhận lãnh một sứ mạng rất khó khăn và cay đắng, đó là vạch tội của dân và cảnh cáo rằng Chúa sẽ trừng phạt họ. Vì thế, dân chúng thù ghét ông và nhiều lần tìm cách hãm hại ông.
Nhưng giữa những khó khăn và khổ sở đó, Giêrêmia luôn trông cậy vào Chúa. Ông tin vững vàng rằng "Chúa ở cùng tôi như người lính chiến hùng dũng".
2. Đáp ca (Tv 68)
Thánh vịnh này là lời cầu nguyện của một người công chính đáng bị kẻ ác hãm hại, cùng một tâm tình với ngôn sứ Giêrêmia. Giữa những lúc khó khăn như thế, tác giả vẫn ngợi khen Chúa và tin chắc rằng Ngài sẽ nhậm lời.
3. Tin Mừng (Mt 10,26-33)
Đoạn Tin Mừng này tiếp nối những lời Đức Giêsu sai các môn đệ ra đi truyền giáo. Ngài khuyến cáo họ rằng có thể họ sẽ gặp nhiều khó khăn và cả bách hại nữa. Nhưng Ngài bảo họ "Đừng sợ", bởi vì Chúa quan phòng luôn ở bên họ để che chở : "Tóc trên đầu chúng con đã được đếm cả rồi"
4. Bài đọc II (Rm 5,12-15) (Chủ đề phụ)
Văn mạch : Trong đoạn được trích đọc tuần trước, Phaolô đã bắt đầu luận đề người ta được công chính hóa không phải nhờ việc làm, mà là nhờ đức tin.
Trong đoạn thư hôm nay, Phaolô đưa ra lập luận thứ nhất để chứng minh luận đề ấy :
- Do tội của Ađam mà tất cả loài người phải gánh hậu quả là cái chết.
- Do công của Đức Giêsu Ađam mới mà tất cả loài người được ơn nghĩa dư đầy của Thiên Chúa.
Như thế, con người được ơn nghĩa của Thiên Chúa là nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô.
IV. Gợi ý giảng
1. Bàn về sự sợ
Con người có nhiều nỗi sợ : sợ khổ, sợ chết, sợ thất bại, sợ cô đơn, sợ dấn thân v.v.
Cái sợ làm tê liệt con người : không có sức làm việc, không suy nghĩ sáng suốt, không giải quyết được tình huống v.v.
Ngay cả những người làm việc tông đồ cũng không tránh khỏi nỗi sợ : sợ không đủ khả năng, sợ người ta không nghe mình, sợ bị chống đối bởi những người không có thiện cảm với Tin Mừng v.v. Vì sợ như thế nên có người không dám mạnh dạn rao giảng, có người trốn tránh sứ mạng.
Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu bảo "đừng sợ". Ngài không chỉ cho chúng ta cách làm thế nào để khỏi sợ. Lý do duy nhất Ngài đưa ra là gương của Ngài :
- Chúng ta là môn đệ của Ngài. Vì thế việc chúng ta gặp khó khăn và bách hại không có gì lạ, vì Thầy của chúng ta cũng đã từng bị như thế và còn bị năng hơn chúng ta nhiều. Vì vậy, nếu là môn đệ Đức Giêsu thì đừng tìm cách trốn tránh khó khăn và bách hại.
- Hãy noi gương Đức Giêsu mà can đảm giữ vững lập trường của mình và tiếp tục sứ mạng của mình, không phải bận tâm về bất cứ điều gì khác : a/ không cần bận tâm đến mạng sống bởi vì ngay cả mạng sống một con chim sẻ nhỏ bé mà còn do Chúa định đoạt, huống chi mạng sống con người ; b/ không cần bận tâm đến sự chống đối của người đời, vì "Ai tuyền xưng Thầy trước mặt người đời thì Thầy sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Thầy".
Cha Charles de Foucauld đã nói : "Cách làm chứng tốt nhất cho Chúa là chúng ta không bao giờ sợ gì cả"
2. Suy nghĩ về Chúa Quan Phòng
Nhiều người có một thái độ rất đặc biệt : gặp chuyện vui hay chuyện buồn, họ cũng đều nói "Đó là ý Chúa" ; thành công hay thất bại, họ cũng nói "đó là ý Chúa" ; trước mọi khó khăn, nguy hiểm, họ nói "Để Chúa lo"… Phải chăng thái độ đó là quá ngây thơ : đành rằng có Chúa đó, nhưng bản thân mình cũng phải xoay trở chứ ! "Hãy tự giúp mình trước, rồi Chúa sẽ giúp thêm" !
Nhưng suy cho cùng, thái độ tin tưởng phó thác vào Chúa quan phòng có những cơ sở rất vững vàng :
- Người phó thác vào Chúa quan phòng tin rằng Chúa luôn hiện diện bên cạnh con người trong mọi tình huống. Tin như thế là rất đúng, vì Thánh Kinh hằng lặp đi lặp lại biết bao lần chân lý ấy : "Ta hằng ở với con" (Gr 1,10), "Thầy sẽ ở với chúng con mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28,20)…
- Người phó thác vào Chúa cũng tin rằng Chúa có kế hoạch của Ngài và không điều gì xảy ra ngoài kế hoạch của Thiên Chúa. Tin như thế cũng rất đúng : "Không con chim sẻ nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi" (bài Tin Mừng hôm nay)
- Người phó thác vào Chúa còn xác tín rằng Thiên Chúa là Cha và mình là con. Một người Cha toàn năng và hết sức yêu thương con như Thiên Chúa thì chắc chắn biết cách an bài cho con cái mình những điều tốt nhất : "Cha chúng con trên trời thừa biết chúng con cần gì" (Mt 632).
3. Im hay nói ?
Ngày nay, Kitô hữu nói về Thiên Chúa ít hơn xưa. Tuy nhiên Đức Giêsu yêu cầu ta "Hãy la lớn trên mái nhà" điều gì đã "thì thầm vào tai". Lời chúc dữ của Người : "Ai từ chối Ta trước mặt người đời, Ta cũng sẽ từ chối họ trước mặt Cha Ta trên trời".
Im hay nói ? Có nhiều loại im lặng. Im lặng sợ hãi, im lặng lãnh đạm, im lặng phản bội. Cũng có những im lặng mừng vui, im lặng sung mãn, im lặng yêu thương, im lặng dấu kín một bí mật. Những phút mãnh liệt nhất trong đời là những lúc "không còn lời lẽ". Lúc ấy im lặng còn diễn tả hơn mọi lời lẽ : nó cho ta nghe điều không diễn tả được.
Làm sao trẻ em và giới trẻ biết được Đức Giêsu nếu ta cứ im lặng mãi ? Ta đề nghị niềm hy vọng nào nếu ta lặng thinh ? Im lặng cần có từ ngữ mới có sức mạnh : nếu không có bản giao hưởng, làm sao nghe được sự im lặng tràn ngập căn phòng sau hợp âm cuối cùng ?
Đức Giêsu đã chẳng nói đó sao : "Tất cả những gì che dấu sẽ được tỏ lộ. Tất cả những gì dấu diếm rồi mọi người sẽ biết". Phải chăng ta không cần như thánh Phaolô, nói "vào lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện" để rao giảng Phúc âm cho cả nhân loại qua mọi thế hệ ?
Cần phải loan báo thứ sứ điệp vượt quá mọi từ ngữ và mọi giáo thuyết. Nhà khôn ngoan lớn tuổi viết sách Giảng viên đã nói : "Có thời để nói, có thời để im lặng". Những thời điểm này nối tiếp nhau trong cuộc đời con người cũng như trong Giáo Hội từ ngàn đời. Vì đôi khi ta nói quá nhiều, rồi sẽ tới ngày những từ ngữ biến nghĩa và chẳng còn "nói lên được điều gì nữa". Chính sự sống và sự im lặng để làm chín muồi những lời lẽ mới mẻ và tươi trẻ.
Ta đang ở vào một mùa lịch sử mà nhiều từ ngữ không nói lên điều gì nữa : vì đôi khi trong quá khứ người ta đã dùng sai từ ngữ, và vì ta đã bước vào một lối hiện hữu mới nơi mọi người đang thay đổi lối sống, lối suy nghĩ, diễn tả và truyền đạt.
Mong sao kitô hữu cố gắng mỗi ngày sống Phúc âm hơn. Thánh Thần của Đức Giêsu sẽ khơi dậy trong lòng họ sự im lặng hoặc từ ngữ. Lời đầu tiên của họ vẫn luôn luôn là sự sống của họ. Còn những lời khác sẽ không ngừng tái tạo, từ thời đại này qua thời đại khác, mà không bao giờ bị sa lầy trong những từ ngữ bị thói quen làm cho lu mờ. (G. Bessière, Dieu si proche, DDB, trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 211-212).
4. Chuyện minh họa
a/ Đức Giám mục Oscar Romero
Khi mới lên làm Tổng Giám Mục giáo phận San Salvador, Đức Cha Oscar Romero vẫn còn theo lập trường bảo thủ. Nhưng chẳng bao lâu sau, khi nhìn thấy những bất công xã hội, ngài đã thay đổi. Mỗi ngày Chúa nhật, ngài giảng ở nhà thờ chánh tòa tố cáo những tội ác đã diễn ra mà đa số là do các viên chức chính phủ. Các bài giảng của ngài như một luồng điện mạnh chạm đến toàn xã hội. Khi ngài nói, hầu như mọi người đều ngưng việc để lắng nghe.
Ngài bị đặt vào tình trạng bị đe dọa thường xuyên. Một vài bạn bè thân thích của ngài đã bị giết chết. Nhưng ngài vẫn không im tiếng, cũng không lánh đi nơi khác an toàn hơn. Ngài nói : "Một mục tử chân chính khi thấy nguy hiểm không thể bỏ đoàn chiên để cứu lấy mạng sống mình. Tôi sẽ ở lại với dân tôi". Và ngài đã bị chết dưới lằn đạn tháng ba năm 1980 đang lúc dâng Thánh Lễ.
b/ Trái tim chuột
Có một con chuột kia rất sợ mèo. Một vị thần tội nghiệp nó nên biến nó thành mèo. Thành mèo rồi nó lại sợ chó. Vị thần biến nó thành chó. Thành chó rồi nó lại sợ cọp. Vị thần cho nó thành cọp. Nhưng thành cọp rồi nó lại sợ người thợ săn. Vị thần đành chịu thua : "Ta có biến mi thành bất cứ thứ gì đi nữa thì cũng không giúp mi hết sợ, bởi vì trái tim của mi vẫn là trái tim chuột".
V. Lời nguyện cho mọi người
CT : Anh chị em thân mến
Tin tưởng mãnh liệt vào sự quan phòng kỳ diệu của Thiên Chúa, và hân hoan sống trọn vẹn niềm tin đã lãnh nhận, phải là quyết tâm của từng người kitô hữu. Trông cậy vào ơn Chúa trợ giúp, chúng ta cùng dâng lời cầu xin.
1- Đức Thánh Cha có sứ mạng củng cố đức tin của người tín hữu trên toàn thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ân cần chăm sóc giữ gìn Người / để nhờ Người / đức tin của mọi tín hữu luôn bền vững sắc son.
2- Ngày nay / nhiều kitô hữu / nhất là các kitô hữu trẻ / mất đức tin chỉ vì vốn liếng giáo lý không đủ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết tận dùng thời giờ Chúa ban / để học hỏi sâu rộng giáo lý của Chúa / nhờ đó đức tin của họ ngày càng vững chắc và trưởng thành hơn.
3- Nhiều tín hữu hiểu một cách đơn giản rằng / tin là giữ một số lề luật của Chúa và Hội Thánh / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi kitô hữu hiểu rằng / tin là gắn bó cùng Chúa và dấn thân theo Người đến cùng.
4- Tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Chúa / và hiên ngang sống đức tin / phải là thái độ căn bản của mọi tín hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn khôn ngoan chỉ tin tưởng một mình Chúa / và mạnh dạn tuyên xưng đức tin trong đời sống thường ngày.
CT : Lạy Chúa, đức tin của chúng con còn rất yếu kém, chúng con dễ hoang mang giao động trước mọi thử th1ch trong cuộc sống. Vậy, xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con. Chúng con cầu xin nhờ…
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha : Khi đọc lời "Xin tha nợ chúng con", chúng ta hãy đặc biệt xin Chúa tha thứ cho những lần chúng ta không phó thác vào sự quan phòng của Chúa.
- Sau kinh Lạy Cha : "... xin đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Xin giúp chúng con thoát khỏi mọi nỗi sợ hãi. Nhờ Cha rộng lòng thương cứu giúp..."
VII. Giải tán
Thánh lễ đã hết, anh chị em hãy mạnh dạn ra đi làm chứng cho Chúa giữa đời.
SỐ PHẬN CHỨNG NHÂN
( sưu tầm)
Vào ngày 19/06/1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong 117 vị tử đạo tại Việt Nam lên bậc hiển thánh. Các thánh tử đạo vẫn được gọi là những chứng nhân anh hùng của Chúa Kitô. Không chỉ có 117 vị, nhưng còn có hàng ngàn ngàn các Kitô hữu khác dù chưa được phong thánh, nhưng cũng xứng đáng với danh hiệu chứng nhân như vậy. Lý do là họ đã dám chấp nhận thiệt thòi, chấp nhận mất mát, chấp nhận chê cười, thậm chí hy sinh đến cả mạng sống để bảo vệ niềm tin của mình và để chứng tỏ cho mọi người biết rằng họ là môn đệ Đức Kitô.
Có thể nói bất cứ người môn đệ, bất cứ chứng nhân chân chính nào của Chúa Kitô cũng đều phải chấp nhận một số phận hẩm hiu và bi đát trong cuộc sống. Các Ngôn Sứ trong Cựu Ước hầu hết đã bị giết chết. Vị Ngôn Sứ cuối cùng của Cựu Ước là thánh Gioan Baotixita đã bị chém đầu. Đặc biệt vị Ngôn Sứ đầu tiên của Tân Ước là Đức Kitô đã bị chết treo ở trên thập giá. Và lịch sử Hội Thánh vẫn còn đầy những chứng tích đau thương của những cuộc đời chứng nhân Chúa Kitô như vậy.
Sở dĩ như thế là vì luôn có sự đối kháng giữa Lời Thiên Chúa và thực tế của cuộc đời mà con người đang sống. Thực tế cuộc đời trong thế giới hôm nay là sự lan tràn dữ dội của cái ÁC: bóc lột, đàn áp, bất công, xảo trá, hận thù, ganh ghét, đâm chém, vô luân, dâm ô, bất trung... và còn biết bao điều ác khác đang ngự trị trong tâm hồn và cuộc đời con người.
Trong một bối cảnh như thế thì Lời Chúa được rao giảng sẽ trở thành một lời tố cáo, một lời lên án, một lời đe doạ, và vì thế mà Lời Chúa khó lòng được chấp nhận, thậm chí phải loại trừ. Mà muốn loại trừ Lời Chúa phải loại trừ những con người rao giảng Lời Chúa, những con người sống theo giáo huấn của Người.
- Trong một tổ chức mà ai cũng nghĩ tới chuyện biển thủ, bớt xén của công thì những người sống thanh liêm trong tổ chức ấy sẽ bị coi là một cái gai phải nhổ đi.
- Trong mối quan hệ làm ăn, người nào không biết đến các quán bia ôm, các nhà chứa, các khách sạn sẽ bị coi là khờ khạo, là không biết điều, là không chịu chơi, và như thế hẳn mối quan hệ làm ăn sẽ khó lâu bền...
Chính như thế đó mà lời dạy của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay thật quan trọng.
* Người thúc giục ta hãy can đảm rao giảng và sống Lời Người.
* Người trấn an ta đừng sợ những hệ lụy sẽ xảy đến do việc rao giảng và sống lời ấy.
* Người bảo đảm ta sẽ được đền bù trước nhan Cha trên trời.
Ta có dám sống và làm chứng cho Tin Mừng của Chúa Giêsu không?
Vào tuần thánh năm 1980, một đài phát thanh nước Áo truyền đi một bài phỏng vấn vô cùng: TN 12-A26
Vào tuần thánh năm 1980, một đài phát thanh nước Áo truyền đi một bài phỏng vấn vô cùng cảm động. Người được phỏng vấn là một nữ sinh viên đang nằm chờ cái chết đến từng ngày tại một bệnh viện ở thủ đô Áo. Cô phát biểu cảm nghĩ của mình như sau:
- Sau khi bác sĩ chuẩn đoán và cho biết tôi mắc chứng sưng bạch huyết, tôi có cảm tưởng như trời sập xuống trên tôi. Tuy nhiên, với đức tin tôi có cảm thấy như Chúa muốn gửi đến cho tôi một cơ may mới. Từ hai ba năm nay tôi đã bắt đầu có một cái nhìn mới. Tôi nhận ra đau khổ của riêng tôi cũng như của những người chung quanh phản ảnh chính nỗi đau khổ của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi trên thập giá. Tôi đã tìm cách yêu thích nỗi đau khổ ấy.
Chính vì muốn chấp nhận đau khổ mà cô gái đã ghi danh vào trường y khoa. Nằm trên giường bệnh, biết mình không còn sống bao lâu nữa, vậy mà cô vẫn cầm trên tay một cuốn sách và một cây viết. Cô giải thích:
- không ai có thể nói cho tôi biết chắc một trăm phần trăm là tôi sẽ không học xong hoặc tôi sẽ không bao giờ trở thành bác sĩ. Tuy nhiên, vẫn luôn có những phép lạ. Và riêng tôi, tôi xác tín rằng tôi phải thực thi ý chúa, nếu tôi muốn tiến tới. Đó là cách thế tôi chuẩn bị đón nhận cái chết, chuẩn bị đi vào thiên đàng. Tôi để Chúa làm việc hầu cho tất cả mọi việc trở thành tình yêu. Tất cả mọi sự, từ việc học hành của tôi cho đến những việc nhỏ mọn tôi làm cho người khác. Bởi vì tôi không làm được những việc quan trọng nữa.
Không khỏi ngạc nhiên trước những lời phát biểu trên đây, người phóng viên liền hỏi:
- tôi đọc thấy trên gương mặt của cô niềm vui và hy vọng, thế nhưng cô còn chờ đợi gì nơi cuộc sống này?
Cô mỉm cười nói:
- Tôi chờ đợi mọi sự từ cuộc sống. Nhưng trên hết mọi sự là tình yêu của Chúa. Chính Ngài cho tôi nếm thử thiên đàng. Chỉ có như thế tôi mới đương đầu được với những đau khổ đang đè nặng trên tôi. (trích Món quà Giáng Sinh)
"Anh em đừng sợ". Sợ hãi làm cho chúng ta ra tê liệt, làm cho chúng ta không còn là chính chúng ta nữa. Trong cuộc sống ngày nay, chúng ta có biết bao nhiêu là cái sợ: sợ gặp phải đau khổ, sợ mất việc làm, sợ cô đơn, sợ thất bại, sợ tai nạn, sợ chết... không phải riêng chúng ta. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy chính các Tông đồ xưa cũng đã phải trải qua nhiều cái sợ: sợ địch thù, sợ nói trước công chúng, sợ bị bỏ rơi, và nhất là sợ chính Thiên Chúa bỏ rơi.
Tại sao lại có nhiều sự sợ hãi như thế? Phải chăng chúng ta chưa cảm nghiệm được ý nghĩa của cuộc sống đích thực, chưa thực sự đặt niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa, chưa cảm nghiệm được tình yêu bao la của Ngài! Ngày nay chúng ta sợ không giám nói lên niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa trước thế giới đầy tân tiến. Nhiều người còn cho rằng một ngày nào đó, khoa học sẽ chứng minh cho chúng ta thấy đức tin vào Thiên Chúa của chúng ta sẽ vô ý nghĩa...
Không, dù tài ba mấy đi chăng nữa, dù tân tiến mấy chăng nữa con người khoa học vẫn "không một lời" trước cái chết của một người thân mình! Chỉ có đức tin vào Thiên Chúa mới có thể mang lại ý nghĩa và làm tan biến sự sợ hãi. Sức mạnh của khoa học không thể nào phá hủy được phẩm giá cao quí của con người: những người con đáng yêu của Thiên Chúa, và chỉ tình yêu Ngài mới xứng đáng. Đừng sợ, hãy sống như cô nữ sinh Áo: đi tìm cho mình một ý nghĩa cuộc sống đích thực trong hạnh phúc cũng như trong đau khổ, và giám làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa. "Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế".
PĐT, O.M.I.
1. TẠI SAO ĐỨC GIÊ-SU ĐÒI CHÚNG TA PHẢI CÔNG KHAI TUYÊN XƯNG NIỀM TIN KI-TÔ CỦA CHÚNG TA ?
Dù cắt nghĩa cách này hay cách khác thì lời của Đức Giê-su vẫn rành rành không thể chối cãi được: TN 12-A27
Dù cắt nghĩa cách này hay cách khác thì lời của Đức Giê-su vẫn rành rành không thể chối cãi được: “Phàm ai tuyên bố nhận Thày trước mặt thiên hạ, thì Thày sẽ tuyên bố nhận ấy người trước mặt Cha Thày là Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thày trước mặt thiên hạ, thì Thày cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thày là Đấng ngự trên trời”. Như vậy là Đức Giê-su đòi các Ki-tô hữu phải tuyên xưng một cách công khai trước mặt người đời Niềm Tin mà chúng ta đặt nơi Người. Vì tin mà không tuyên xưng tức thể hiện niềm tin ấy ra bên ngoài thì không thể coi là tin được.
Tin mà không sống theo niềm tin ấy thì có thể coi đó là niềm tin đích thực được không ? “Đức Tin không việc làm là đức tin chết”. Thánh Gia-cô-bê đã nói như thế. Hơn nữa, Thiên Chúa ban Đức Tin cho chúng ta không chỉ để chúng ta sở hữu Đức Tin ấy cho riêng mình, mà còn để chúng ta làm cho người khác tin vào Chúa. Câu chuyện người phụ nữ Sa-ma-ri – sau khi nhận ra Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a, là Sứ Gỉa của Thiên Chúa – đã sốt sáng giới thiệu Đức Giê-su cho những người đồng hương là một minh họa tuyệt vời về sứ mạng của người đã đón nhận được Đức Tin.
2. CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ĐỂ TUYÊN XƯNG NIỀM TIN KI-TÔ ?
Trên màn ảnh truyền hình trực tiếp các trận tranh tài bóng đá ở World Cup 2002 tại Hàn Quốc và Nhật Bản đang diễn ra, chúng ta thường thấy một số cầu thủ và trọng tài đã làm dấu Thánh Giá khi ra sân hoặc rời sân. Đó là một cách tuyên xưng Niềm Tin Ki-tô của những cầu thủ ấy. Tuyên xưng Niềm Tin Ki-tô một cách công khai không chỉ đơn giản là làm cho những người chung quanh biết rằng chúng ta là người công giáo, là Ki-tô hữu. Việc ấy tương đối dễ và chưa đủ.
Tuyên xưng niềm Tin Ki-tô một cách công khai cốt yếu nhất là bộc lộ các mầu nhiệm của Đạo Ki-tô và minh chứng các gía trị của Đạo ấy bằng cả cuộc sống của chúng ta. Đạo Ki-tô dạy chúng ta rằng Thiên Chúa là Cha của hết mọi người và mọi người là anh em chị em của nhau, thì chúng ta phải sống Đạo làm con với Thiên Chúa và Tình Huynh Đệ Đại Đồng với mọi người. Đạo Ki-tô dạy chúng ta rằng vì yêu thương nhân loại Thiên Chúa Cha đã sai Con Một xuống trần để cứu độ nhân loại, thì chúng ta phải dùng hết khả năng loan báo và làm cho mọi người biết và đón nhận Tin Mừng ấy.
Đạo Ki-tô dạy chúng ta phải yêu thương tha nhân như chính mình, như chính Đức Ki-tô đã yêu thương... thì đời sống chúng ta phải toát lên tình yêu thương, lòng nhân ái đối với hết mọi người. Đạo Ki-tô dạy chúng ta rằng trần gian này chỉ là nơi tạm bợ, cuộc sống vĩnh hằng ở bên kia thế giới thì đời sống cá nhân và cộng đoàn của chúng ta phải toát lên nét siêu thoát, không dính bén của cải vật chất, không tham sân si.
Đạo Ki-tô dạy chúng ta rằng Nước Thiên Chúa hay Triều Đại của Thiên Chúa đã hiện diện và đang hoàn thành trong không gian và thời gian thì chúng ta phải là những chiến sĩ hăng say và tích cực xây dựng Công Lý, Hòa Bình và Yêu Thương là những giá trị lớn của Nước hay Triều Đại ấy, trong xã hội Việt Nam ngày nay.
3. KHI TUYÊN XƯNG NIỀM TIN KI-TÔ CHÚNG TA SẼ GẶP PHẢI KHÓ KHĂN, TRỞ NGẠI NÀO ?
Người ta thường nói: Sống theo Phúc Âm là leo giốc, là bơi ngược dòng, Thật vậy, khi tuyên xưng Niềm Tin Ki-tô, chắc chắn chúng ta sẽ gặp ít nhiều khó khăn hoặc từ bên ngoài hoặc từ chính bản thân chúng ta.
Từ bên ngoài là thái độ ngờ vực, thiên kiến, ác cảm và thù nghịch của những người chung quanh, của các cơ chế hay guồng máy xã hội. Ví dụ: những người chống tham nhũng và tệ nạn xã hội ( mãi dâm, buôn bán phụ nữ, ma túy... ) trong xã hội Việt Nam hiện nay thì không thể không có nhiều kẻ thù. Cách sống của các chứng nhân Ki-tô sẽ làm cho những người kia mất bình an, có mặc cảm tội lỗi cũng như đe dọa quyền lợi “bất chính” của họ ! Vì thế mà họ sin ra thù ghét và tìm cách sát hại những ai cản trở họ. Đức Giê-su đã bị bắt, kết án và giết chết trên Thập Giá cũng chỉ vì Người là chứng nhân của một Thiên Chúa yêu thương, gần gũi, hầu hạ con người, nhất là người nghèo và người bị gạt ra ngoài lề xã hội.
Từ chính chúng ta là nỗi sợ hãi có sẵn trong chúng ta: sợ bị thiệt thòi, bị mất mát, bị bách hại, bị ghét bỏ và bị thù oán. Cái sợ này nằm rất sâu trong cõi lòng chúng ta và chi phối một cách tinh tế mọi suy nghĩ và hành động của chúng ta. Phải tỉnh táo lắm chúng ta mới nhận ra chúng.
Chính Đức Giê-su đã thấy trước những khó khăn nội ngoại tại ấy của chúng ta. Nên Ngài mới nói: “Anh em đừng sợ người ta”, “Đừng sợ những kẻ chỉ có thể giết được thân xác anh em mà không giết được linh hồn anh em!”và hứa không bỏ chúng ta một mình mà luôn ở liền bên chúng ta.
4. ĐỂ VƯỢT THẮNG CÁC KHÓ KHĂN, TRỞ NGẠI ẤY, CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ?
Nếu việc vượt thắng chính mình đã là khó thì việc vượt thắng kẻ thù bên ngoài chắc còn khó khăn hơn. Nhưng cũng có nhiều vị thánh lại cho rằng cái khó nhất là vượt thắng chính bản thân mình, vì kẻ thù bên ngoài thì luôn ở bên ngoài, chỉ bản thân ta mới là nội thù của chúng ta.
Chúng ta không thể vượt thắng được những khó khăn trở ngại kể trên, nếu chúng ta chỉ cậy dựa vào sức lực, khả năng của mình. Sức mạnh của chúng ta phải là Chúa Giê-su Ki-tô và Thập giá của Ngài! Sức mạnh của chúng ta phải là Chúa Thánh Thần là Sức Mạnh của Thiên Chúa. Vì thế chúng ta phải biết
Vun đắp một đời sống nội tâm, cầu nguyện gắn bó mật thiết với Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần;
Có một tinh thần sẵn sàng hy sinh tất cả vì Chúa và vì Nước của Ngài;
Hàng ngày luyện tập cách sống hy sinh từ bỏ để thể hiện Niềm Tin Ki-tô của mình.
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, phải chăng Chúa đòi hỏi ở chúng con một chuyện quá khó ? Chúa biết chúng con yếu đuối, hèn nhát, sợ sệt như thế nào mà! Chúng ta sẵn sàng tuyên xưng Chúa một cách công khai, nhưng trong một chừng mực nào thôi! Chứ Chúa đòi chúng con phải bỏ tất cả vì Danh Chúa thì chúng con không làm nổi!
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô, xin Chúa ban Sức Mạnh của Chúa cho chúng con. Xin Chúa giúp chúng con biết nhìn lên Thập giá của Chúa để chúng con múc được Sức Mạnh của Chúa.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu như muốn khuyên nhủ chúng ta rằng : - Đừng sợ: TN 12-A28
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu như muốn khuyên nhủ chúng ta rằng :
- Đừng sợ hãi khi phải nói lên sự thật. Thiên Chúa yêu thương chúng ta và ngài sẽ ân thưởng cho chúng ta, nếu nếu chúng ta luôn trung thành với Ngài.
Đồng thời, Ngài cũng truyền dạy chúng ta :
- Đừng sợ hãi, trái lại hãy can đảm công bố Tin Mừng cho muôn dân. Hãy kêu to trên mái nhà và đừng giấu kín sự gì. Bởi vì một ngày kia, tất cả đều được bật mí, tất cả đều được phơi bày.
Đừng sợ hãi khi phải đứng trước mặt thiên hạ, bởi vì sự ác và đau khổ sẽ bị giới hạn trong thời gian và không thể nào giết hại được linh hồn chúng ta.
Trái lại, nếu chúng ta không trung thành với sứ mạng Chúa đã trao phó, thì chỉ nên sợ hãi trước Đấng có thể ném cả thân xác lẫn linh hồn chúng ta xuống hỏa ngục mà thôi, bởi vì những kẻ độc ác nhất trên trần gian cũng không thể nào sát hại được linh hồn chúng ta.
Đừng sợ hãi con người, bởi vì con người không thể nào cướp mất khỏi tâm hồn chúng ta niềm vui mừng và hy vọng.
Trong khi đó, Thiên Chúa luôn yêu thương và chăm sóc đến mỗi người chúng ta. Ngài đã nuôi từng con chim sẽ và đã đếm từng sợi tóc trên đầu. Chúng ta còn cao trọng hơn những con chim sẻ và quí giá hơn những sợi tóc bội phần. Ngài đã dành cho mỗi người chúng ta một chỗ đứng đặc biệt trong trái tim của Ngài.
Bởi đó, hãy tin tưởng vào tình thương cũng như vào quyền năng của Ngài và đừng bao giờ chối bỏ Ngài. Vì chưng, tuyên xưng Ngài trước mặt người đời, thì sẽ được cứu thoát. Còn chối bỏ Ngài trước mặt người đời, thì sẽ bị trừng phạt.
Ngay trong lòng Giáo hội, cũng không thiếu gì những khuyết điểm, những sai lỗi, những lầm lạc, khiến cho chúng ta cảm thấy băn khoăn và bối rối.
Không phải chỉ có những kẻ thù đã tấn công Giáo hội, mà hơn thế nữa, nhiều lúc chính những người giáo dân hữu danh vô thực, mang tên gọi tín hữu, nghĩa là là có đức tin, hay mang tên gọi Kitô hữu, nghĩa là có Đức Kitô, nhưng lại chẳng bao giờ sống đạo, sống đức tin của mình. Hơn thế nữa, họ còn quay lưng chống lại Đức Kitô cũng như chống lại Giáo hội của Ngài, hay ít nữa là họ cũng đã chối bỏ Đức Kitô, chối bỏ Giáo hội từ thẳm sâu cõi lòng của mình.
Như thế, trong phạm vi đức tin, chúng ta thấy có hai loại nguy hiểm.
Loại thứ nhất, đó là những bắt bớ, cấm cách trực tiếp nhắm vào đức tin của chúng ta. Còn loại thứ hai, cũng không kém phần nguy hiểm, đó là những sự tấn công gián tiếp, vừa tinh vi lại vừa tế nhị, vốn thường được mặc lấy những hình thức, những lý do bên ngoài vừa hợp tình lại vừa hợp lý.
Chẳng hạn như để hoán cải thế gian, tôi phải đi sâu vào ngôn ngữ, vào tập tục, vào cách nhìn, vào cách nghĩ cũng như vào cách sống của thế gian, để rồi cuối cùng tôi đã bị nhận chìn lúc nào cũng không hay. Trung thành gắn bó với Đức Kitô và Giáo hội bao giờ cũng đòi buộc chúng ta phải hy sinh, có khi phải hy sinh cả bản thân, cả mạng sống của mình, thế nhưng đó lại là điều kiện để được cứu độ, như lời Chúa đã phán :
- Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời. Còn ai chối bỏ Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ chối bỏ nó trước mặt Cha Ta ở trên trời.
Thời hoàng đế Vát-pa-si-a-nô, thượng viện Rôma đã bàn luận xem nên gọi vị thần tốt nhất và: TN 12-A29
Thời hoàng đế Vát-pa-si-a-nô, thượng viện Rôma đã bàn luận xem nên gọi vị thần tốt nhất và lớn nhất của họ là gì, người thì đề nghị nên gọi là “Thần giầu sang”, người thì cho rằng nên gọi là “Thần khôn ngoan”, người khác nữa đề nghị nên gọi là “Thần uy quyền”. Sau cùng, một ông nghị phát biểu : “Theo ý tôi, chúng ta nên gọi là “Thần nhân lành”, vì nếu chúng ta gọi là “Thần giầu sang” thì những người khó có gì ? Nếu chúng ta gọi là “Thần khôn ngoan” thì những người bình dân, đơn sơ chất phác có gì ? Và nếu chúng ta gọi là “Thần uy quyền” thì những người khiêm tốn có gì ? Vậy chúng ta muốn vị thần ấy hợp với tất cả mọi người thì chúng ta chỉ có thể gọi là “Thần nhân lành”, mọi người đều hoan nghênh.
Đối với chúng ta, những người tin Chúa Kitô, thì hơn thế nữa, chúng ta sẽ có một ý tưởng tốt đẹp biết bao khi gọi Thiên Chúa là “Cha nhân lành” của chúng ta. Người Hy Lạp, Rôma ngày xưa đã không biết Chúa là Cha. Thích Ca Mâu Ni không thấy Chúa là Cha, Mahômét cũng không hề rao giảng Chúa là Cha, cả dân Do Thái trong Cựu Ước không bao giờ có ý tưởng xưng hô Chúa là Cha. Đối với họ, Thiên Chúa là ông chủ nghiêm khắc, Đấng đã ban truyền những điều răn trong sấm chớp và ánh sáng, Đấng thẩm phán sửa dạy họ nghiêm khắc mỗi khi họ bất tuân hay phản bội, nhưng từ khi rao giảng Tin Mừng, chính Chúa Giêsu đã dạy nhân loại : Chúa là Cha, Ngài nhắc đi nhắc lại nhiều lần : Thiên Chúa không phải là một ông chủ độc ác, nhìn chúng ta như bầy tôi, nô lệ, nhưng Chúa là Cha, Người luôn luôn săn sóc và yêu thương chúng ta.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho chúng ta thấy rõ ý tưởng đó. Sau khi khuyến khích các môn đệ hãy can đảm và mạnh dạn công bố cho mọi người biết tất cả những điều Chúa đã dạy các ông trong nơi kín đáo, Chúa khích lệ các ông đừng sợ chi cả, hãy tuyệt đối tin tưởng vào Chúa, vì Thiên Chúa là Cha, Đấng thông biết mọi sự và quan phòng tất cả.
Đúng vậy, Chúa quan phòng cai trị mọi vật. Chúa dựng nên những cái vĩ đại cũng như những cái bé nhỏ. Chúa săn sóc người này cũng như người kia : “Nào người mẹ có thể quên con mình không ? Và cho dù người mẹ có quên con mình đi nữa, Chúa cũng không quên chúng ta”, “Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không ? Thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em”, “Hãy xem chim trời, Cha anh em vẫn nuôi chúng. Anh em lại không hơn chúng sao ?”, “Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng, Chúa còn cho chúng đẹp đến thế, phương chi anh em, Chúa còn săn sóc hơn nhiều”. Thánh Âu Tinh nói : “Lo lắng cho cả vũ trụ còn vĩ đại hơn làm cho năm ngàn người no nê bằng năm chiếc bánh, vậy mà chẳng ai lạ lùng về chuyện đó. Chúa săn sóc mỗi người dường như chỉ có một người đó ở trên đời và Chúa săn sóc tất cả mọi người dường như Chúa săn sóc cho một người”.
Chính vì yêu thương săn sóc chúng ta như thế, nên nhiều lần Chúa Giêsu đã khích lệ chúng ta đừng sợ. Đừng sợ không có nghĩa là đừng làm gì, đừng lo đến sinh kế, đừng cố gắng nỗ lực. Không, ngàn lần không. Đừng sợ không phải là như vậy, nhưng có nghĩa là cứ làm, cứ lo sinh kế, cứ cố gắng nỗ lực, đồng thời phải tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Nhưng như vậy có phải là chúng ta tin chắc vào đôi tay rắn chắc khỏe mạnh chăng ? Tin vào tuổi đang lên, đầy sức sống nghị lực chăng ? Hoặc cậy dựa vào những người khác ? Không, vì đôi tay khỏe mạnh này ngày mai sẽ yếu đi, tuổi đôi mươi sẽ chóng qua, còn nghị lực thì rất mỏng giòn, còn những người khác mà chúng ta cậy dựa vào hôm nay thì thường hay thay đổi, thiếu thiện chí và làm sao họ có thể bảo đảm cho chúng ta lâu dài được. Ngoài những điều trên, chúng ta phải trông cậy vào một sức mạnh khác, có thể bảo đảm cho chúng ta hôm nay và mãi mãi về phần hồn cũng như phần xác, sức mạnh đó chính là Thiên Chúa, vì Ngài là Cha của chúng ta, Người hoàn toàn hiểu những nhu cầu, những thiếu thốn, những ước mơ của chúng ta và Người biết những điều nào thích hợp và cần thiết cho chúng ta hơn. Cho dù một người mẹ trần gian chăm chỉ nhất, yêu thương con cái nhất, còn có thể không biết đến một vài nhu cầu của con mình, bà có thể quên sót, nhầm lẫn trong việc lo liệu hoặc lâm vào tình trạng không thể giúp đỡ con mình được. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ lâm vào tình trạng như thế. Do sự quan phòng, Ngài biết, Ngài thấy và Ngài có thể làm được tất cả.
Tuy nhiên, để được Thiên Chúa yêu thương săn sóc như thế, Chúa đòi chúng ta phải tin tưởng vào Chúa, tuyệt đối tín thác vào Chúa, hoàn toàn vâng theo thánh ý Chúa, Người là Cha của chúng ta, Người luôn mong muốn điều tốt lành cho chúng ta.
Cuộc chiến tranh chủng tộc đẫm máu ở Sarajevo, Yugloslavia Nam Tư, đã để lại hàng trăm: TN 12-A30
Cuộc chiến tranh chủng tộc đẫm máu ở Sarajevo, Yugloslavia Nam Tư, đã để lại hàng trăm trẻ em với những rối loạn nghiêm trọng về tình cảm. Vào thập niên 1990 những y tá quân y Hoa Kỳ phục vụ tại Sarajevo đã báo cáo rằng các bệnh viện tràn ngập trẻ em cần phải được săn sóc về cả thể lý lẫn tinh thần. Trong một bệnh viện, vấn đề khó khăn hằng đêm là làm sao giúp các trẻ em ngủ yên giấc. Ngay khi bóng đêm vừa phủ xuống, các em bắt đầu khóc. Các y tá không thể tìm ra một phương thức nào an ủi được các em. Sau cùng, một người y tá đã đề nghị rằng nỗi sợ hãi của các em có thể liên hệ tới sự thiếu an ninh. Họ đã đưa ra một sáng kiến rất độc đáo là cho mỗi em một miếng bánh mì để giữ vào ban đêm. Bởi các em đã từng trải qua những cơn sợ hãi vì chết đói, miếng bánh mì tạo ra sự bảo đảm đối với các em. Đêm hôm đó, tất cả các em đã ngủ ngon lành, trong tay mỗi em nắm chặt miếng bánh mì của mình.
Sau trận tấn công của quân đội Nhật ở Trân Châu Cảng – Pearl Harbor – vào năm 1941, Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã cảnh giác như sau : “Chúng ta không có gì để sợ ngoại trừ chính sự sợ hãi”. Tổng thống đã ngụ ý rằng kẻ thù xấu xa nhất của Hoa Kỳ trong cuộc đệ nhị thế chiến không phải là người Nhật, nhưng chính là sự sợ hãi.
Trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã vạch ra đúng vấn đề của chúng ta khi nói : “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Đúng hơn, các con hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục”.
Phúc âm hôm nay tiếp tục những hướng dẫn của Chúa Giêsu cho các tông đồ khi Ngài sai họ ra đi loan truyền Tin Mừng của Vương Quốc Thiên Chúa. Những giá trị của Tin Mừng rất khác biệt với những giá trị của trần thế. Do đó sứ điệp của Tin Mừng và ngay cả những người loan tin cũng thường bị người đời từ chối và chống báng. Lịch sử của Giáo Hội đã chứng minh rằng hầu như tất cả các tông đồ đã bị giết chết một cách thê thảm. Thánh Phêrô và Anrê đã bị đóng đinh trên thập giá. Thánh Gioan Tiền Hô, Giacôbê và Phaolô đã bị chặt đầu. Thánh Barthôlômêô đã bị lóc thịt lột da. Thánh Stêphanô bị ném đá chết… Vì thế, các tông đồ sợ hãi khi phải thi hành sứ mạng trong một thế giới thù nghịch là điều rất tự nhiên. Nhưng nếu vì sợ hãi để cứu lấy xác thịt mà bỏ rơi việc rao giảng Tin Mừng lại là một nguy hiểm nữa. Do đó Chúa Giêsu đã hướng dẫn họ làm thế nào chiến thắng nỗi sợ hãi này. Điều chính yếu là hãy nhìn vào chính Chúa Giêsu như một vị anh hùng gương mẫu như Ngài đã dạy : “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ”.
Phúc âm đưa ra hai sự sợ hãi : sợ bị tố cáo gian, bị tuyên án, và sợ bị hại thân xác, bị chết. Trong bất cứ trường hợp nào, Chúa Giêsu dạy họ phải chiến thắng sự sợ hãi bằng cách tập trung tâm trí vào, không phải đời này và bây giờ, nhưng vào Vương Quốc Thiên Chúa sẽ đến mai sau. Phải có sự phó thác tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa như sách Giáo lý Công giáo số 303 đã nói : “Thánh Kinh nhất trí làm chứng rằng : sự ân cần chăm lo của Chúa quan phòng thì cụ thể và trực tiếp. Ngài chăm lo cho mọi sự vật, từ những sự vật bé nhỏ nhất đến những biến cố lớn lao nhất của vũ trụ và của lịch sử”. Đúng như lời Chúa phán : “Ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi”.
Một mục sư cùng với một nhóm học sinh từ Canađa đi sang Kenya – một quốc gia ở phía đông Phi Châu – theo chương trình huấn luyện về truyền giáo vào mùa hè. Họ sử dụng chiếc xe Jeep để có thể lái đến những vùng quê xa xôi hẻo lánh. Trong một chuyến viếng thăm nọ, chiếc xe Jeep bị hỏng và họ phải mướn những người thợ máy địa phương trong làng sửa chữa giùm. Người thợ máy đã tìm ra chỗ hỏng nhưng phải đi lên tỉnh để mua đồ phụ tùng về thay thế, rồi mới trở về để sửa xe được. Anh phải làm việc vất vả suốt ba ngày mới sửa được chiếc xe Jeep.
Mục sư kể rằng vì sợ công việc sửa chữa này quá tốn kém, ông tìm cách bắt ép anh thợ máy địa phương tính giá rẻ. Ông đã đi vào trong phòng vệ sinh, lấy gần hết số tiền đang có trong ví ra và dấu vào trong hai đôi vớ. Ông làm vậy với ý đồ là khi người thợ máy nói với ông số tiền phải trả, ông sẽ mở ví ra và nói : “Anh hãy nhìn xem, đây là tất cả số tiền của tôi có”. Sau đó, ông đi khỏi phòng vệ sinh và sẵn sàng lên đường. Ông nói với anh thợ máy, :Và bây giờ, anh tính bao nhiêu tiền công sửa xe ?” Anh thợ máy nhìn mục sư và nói : “Thưa mục sư, ngài là người của Thiên Chúa. Tôi làm việc này cho Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ trả công cho tôi. Đối với ngài thì miễn phí, khỏi tính tiền”. Mục sư kết thúc câu chuyện với lời thú nhận rằng anh thợ máy, qua đức tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa, đã chiến thắng được nỗi sợ hãi của sự nghèo nàn và sự dính bén tới tiền bạc, mà chính ông, một nhà truyền giáo đã không thể làm được việc đó.
Trong phần mở đầu của cuốn sách suy niệm có tựa đề là “St. Teresa’s bookmark”, “Cái đánh dấu trang sách của thánh têrêsa” đã ghi những lời sau đây : “Đừng để điều gì quấy rối bạn, đừng để điều gì làm bạn sợ hãi. Tất cả mọi sự sẽ qua đi, còn Thiên Chúa không bao giờ thay đổi. Kiên trì đạt được tất cả. Đối với người có Thiên Chúa thì chẳng thiếu gì – chỉ mình Thiên Chúa là đủ”.
Những lời này cũng tóm tắt đầy đủ ý nghĩa của những bài Thánh Kinh trong thánh lễ hôm nay dạy ta phải tin tưởng vào tình yêu, sự quan phòng và sự giúp đỡ của Thiên Chúa. Ngài không bao giờ từ bỏ những ai trung thành với Ngài.
Thánh nữ Têrêsa Avila là một nhà thần học nổi tiếng, một vị cải cách của dòng Carmêlô, và là vị cố: TN 12-A31
Thánh nữ Têrêsa Avila là một nhà thần học nổi tiếng, một vị cải cách của dòng Carmêlô, và :là vị cố vấn tinh thần cho nhà thần bí vĩ đại người Tây Ban Nha thời Trung cổ, thánh Gioan Thánh giá. Nhưng công việc mục vụ của thánh nữ Têrêsa đã không được đón nhận trọn vẹn trong cộng đoàn thánh nữ yêu mến. Những nữ tu trong dòng đã chểnh mảng sống đức tin và thực hành đời sống tu đức. Do đó thánh nữ đã kêu gọi một cuộc cải cách. Và để đáp lại lời kêu gọi đó, họ đã tìm cơ hội để trục xuất thánh nữ ra khỏi tu viện mà chính thánh nữ đã thành lập.
Cơ hội đã đến, vào một đêm giông bão, thánh nữ đã bị đuổi ra khỏi tu viện. Đang khi cưỡi xe lừa ra đi với bộ áo dòng chùm kín mít từ đầu tới chân, thì hai chiếc bánh xe bị chui xuống đường mương, rồi cả chiếc xe bị lật úp, đổ thánh nữ xuống vũng bùn. Têrêsa đã ngồi yên ở đó, trong vũng bùn, nhìn lên bầu trời và cầu nguyện : “Lạy Chúa, nếu đây là cách Ngài đối xử với bạn bè của Ngài, thảo nào Ngài không có nhiều bạn được”.
Mặc dù chán nản, Têrêsa vẫn tin tưởng vào Thiên Chúa. Thánh nữ đã viết : “Thiên Chúa dùng ma quỉ như một cục đá nhọn đâm vào những người Kitô hữu”. Têrêsa đã không chỉ dạy bài học này, mà chính bản thân thánh nữ đã sống. Thánh nữ đã không đầu hàng, ngay cả khi bị những nữ tu vây cánh với các linh mục và giám mục để gây khó khăn. Thánh nữ vẫn giữ vững đường ngay nẻo chính. Và sau cùng, thánh nữ đã chiến thắng bằng sự trung thành với Thiên Chúa. Và ngày nay, một nữ tu đã từng bị tống cổ ra khỏi tu viện đã trở thành thánh Tiến sĩ của Giáo Hội, một bậc thầy và tư tưởng gia mẫu mực, trong khi những nữ tu đã cư xử tệ bạc với thánh nữ đã chết từ lâu rồi mà vẫn chưa được ai biết đến.
Cũng giống như thánh nữ Têrêsa Avila, sự nghiệp của tiên tri Giêrêmia trong bài đọc thứ nhất, cũng bị sàng sẩy bởi vô số những kinh nghiệm ngập tràn sợ hãi. Khi được Thiên Chúa gọi, ông sợ mình còn quá trẻ. Ông sợ không biết phải nói gì và nói thế nào để dân chúng biết ông nói nhân danh Thiên Chúa. Ông sợ phải đối chọi với những người khác về sự thật tội lỗi của họ. Ông sợ phải nói lời của Thiên Chúa. Ông sợ vì không nói lời của Thiên Chúa và khi đã nói ra ông lại sợ những hậu quả của hành động của mình. Nhưng sau cùng nhờ lòng tin tưởng vào Thiên Chúa tiên tri đã hát lên rằng : “Hãy hát mừng Chúa, hãy ca tụng Chúa, vì Người đã cứu thoát mạng sống người bất hạnh khỏi tay kẻ dữ”.
Khi còn là một linh mục trẻ làm việc ở Bergamo, nước Ý, Angelo Roncalli – sau trở thành Giáo Hoàng lấy tên là Gioan XXIII – đã viết những dòng chữ về lòng tin tưởng và phó thác rất khiêm tốn của ngài như sau :
“Tôi sẽ cố gắng không để cảm giác lo âu về tương lai hay những ý kiến của bất cứ người nào, ngay cả vì lòng tốt của họ, dù có suy nghĩ và có nền tảng chắc chắn ảnh hưởng đến cuộc sống của tôi. Tôi đã sinh ra trong sự nghèo nàn và tôi sẽ phải chết nghèo. Chắc chắn rằng vào đúng lúc Thiên Chúa quan phòng, cũng như trong quá khứ, sẽ lo liệu điều cần thiết cho tôi còn hơn điều tôi đã mong đợi. Điều rất xấu cho tôi nếu tôi trở nên dính bén với của cải thế gian, ngay cả trong cấp độ nhẹ nhất. Đối với những giấc mơ dị thường mà trong đó lòng kiêu hãnh của tôi có thể được vui thỏa bằng những tư tưởng đáng kính, những địa vị, v.v… tôi sẽ rất cẩn thận không để thỏa mãn chúng, nhưng phải khước từ ngay lập tức. Chúng làm cho tâm trí an bình của một người trở nên buồn thảm, làm hao tổn nghị lực và lấy đi tất cả nguồn vui thực sự, cùng những giá trị và phẩm giá của một người tốt có thể làm ra. Đối với tôi, tôi chỉ nghĩ đến điều duy nhất rất khiêm tốn, rất mực khiêm tốn, là từ bỏ mọi sự cho Thiên Chúa”.
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã sống rất khiêm tốn và phó thác tất cả mọi sự trong bàn tay của Thiên Chúa quan phòng, là tấm gương sáng phản ảnh lời Chúa giảng dạy trong bài Phúc âm hôm nay : “Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao ? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ : các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần”.
Nỗi sợ cứ quấn lấy đời người. Đứa bé sợ xa mẹ, cô gái sợ già, người già sợ chết. Nỗi sợ xuất: TN 12-A32
Nỗi sợ cứ quấn lấy đời người.
Đứa bé sợ xa mẹ, cô gái sợ già, người già sợ chết.
Nỗi sợ xuất hiện dưới muôn ngàn dáng vẻ. Sợ cô đơn, sợ bệnh tật, sợ phụ bạc, sợ tương lai. Sợ thất nghiệp, sợ nghèo đói, sợ thất học, sợ chia ly...
Có những nỗi sợ mang tính đạo đức: sợ phải sống theo lương tâm, phải làm chứng cho sự thật, sợ trước sự ác đang hoành hành, sợ tôn giáo bị mai một...
Có khi người ta sợ nhau: người da đen sợ người da trắng, nước nghèo sợ nước giàu, bạn bè, anh em, hàng xóm cũng sợ nhau.
Lắm khi chúng ta sợ Chúa, không như con sợ cha, nhưng như mộ nô lệ trước một ông chủ khó tính . Nỗi sợ cứ quấn lấy đời người. Nỗi sợ làm người ta mất vui, mất bình an và tự do. Bởi thế Đức Giêsu khuyên các môn đệ đừng sợ. Đừng sợ người đời, cứ mạnh dạn nói Lời Chúa (c.27). Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác thôi (c.28). Đừng sợ vì chúng ta có giá trị trước mặt Chúa (c.23). Lắm khi Đức Giêsu đến với các môn đệ mà họ lại sợ hãi, tưởng là ma (Mt 14,27; Lc 24,37).
Nhưng sợ hãi cũng là chuyện bình thường của phận người.
Có ai làm người mà không một lần sợ hãi.
Đức Giêsu khuyên các môn đệ đừng xao xuyến (Ga 14,1) nhưng chính Ngài cũng xao xuyến trước cuộc khổ nạn.
Tin Mừng Gioan hai lần nhắc đến điều đó (Ga 12,27; 13,21).
Đức Giêsu xao xuyến đến tột cùng trong Vườn Dầu: "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được" (Mt 26,37-38), và có lẽ Ngài cũng bị xao xuyến trên thập giá: "Lạy Chúa tôi, tại sao Chúa bỏ tôi?" (Mt 27,46).
Sợ hãi, xao xuyến không phải là một tội.
Kitô hữu không phải là người không biết sợ, hay không dám khiêm tốn thú nhận là mình sợ. Nhưng họ là người không để nỗi sợ chi phối đời mình, không vì sợ mà không dám sống cho chân lý.
Đức Giêsu nói tiếng Xin Vâng ngay trong lúc sợ hãi và đã uống cạn chén đắng Cha trao.
Con người hôm nay an toàn nhờ đủ thứ bảo hiểm, nhưng bảo hiểm cũng bắt nguồn từ nỗi sợ cái bất trắc.
Mỗi người chúng ta đều có nỗi sợ riêng.
Cần đối diện và vượt qua bằng lòng tín thác, để rồi được an tĩnh và tự do.
Chỉ thắng được nỗi sợ nhờ niềm tin vào Thiên Chúa. Ngài là Cha chúng ta, chăm lo đến từng sợi tóc cho ta, và chúng ta có giá trị lớn lao trước mặt Ngài.
Chỉ thắng được nỗi sợ nhờ tin vào đời sau. Cái chết thân xác không là dấu chấm hết của đời người.
Cuối cùng, chỉ thắng được nỗi sợ nhờ tin vào Đức Giêsu, Đấng không bị sợ hãi nuốt chửng và đã đi tới cùng.
Đấng phục sinh vẫn mời gọi chúng ta hôm nay: "Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian" (Ga 16,33).
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn thấy người trẻ hôm nay sợ điều gì hơn cả? Để thắng vượt nỗi sợ cần làm gì? Cầu nguyện thôi, có đủ không? Cố gắng thôi, có đủ không?
Chấp nhận sống ơn gọi Kitô hữu là chấp nhận thiệt thòi ở đời này. Có khi nào bạn đã muốn chọn thiệt thòi để nói lên hay sống một chân lý của Đức Kitô không?
Cầu Nguyện
Lạy Thiên Chúa, đây lời tôi cầu nguyện: Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi mọi biển lận tầm thường. Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên để gánh chịu mọi buồn vui. Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang để đem tình yêu gánh vác việc đời. Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó, hay cúi đầu khuất phục trước ngạo mạn, quyền uy. Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày. Và cho tôi sức mạnh tràn trề để âu yếm dâng mình theo ý Người muốn. (R. Tagore)
Chúa Nhật tuần trước chúng ta chia sẻ với nhau về chân dung của người được sai đi, thì Chúa Nhật XII: TN 12-A33
Chúa Nhật tuần trước chúng ta chia sẻ với nhau về chân dung của người được sai đi, thì Chúa Nhật XII thường niên năm A tuần này Giáo Hội lại cho chúng ta suy nghĩ về lời trấn an của Chúa Giêsu đối với người được sai đi : “ các con đừng sợ” (Mt.10,26), không sợ gì hết vì người tông đồ không làm việc một mình, mà có Thiên Chúa đi cùng “ Người sẽ cứu họ khỏi tay kẻ dữ” (Ger.20,23), và dù có tội lỗi ngập tràn cũng không sợ vì “ ở đâu tội lỗi đầy tràn, ở đấy ân huệ càng chan chứa”(x.Rm.5,15).
Đừng sợ không có nghĩa là kẻ bách hại không làm gì được ta, nhưng có ý muốn nói với chúng ta rằng : ta không nên sợ vì số phận của ta giống Đức Kitô. Phải sợ những kẻ bách hại vì họ đáng sợ, nhưng chúng ta phải chấp nhận sự sợ đó và tuyên xưng đức tin, phải tỏ lộ cho mọi người biết mầu nhiệm về Nước Thiên Chúa qua lời chứng của chúng ta.
Chúa bảo chúng ta đừng sợ vì :
Sứ điệp vĩ đại về Nước Thiên Chúa sẽ được tỏ lộ ra, mặc dầu từ trước tới giờ những bước đầu rất khiêm tốn và bị ẩn khuất. Người tông đồ có thể tưởng rằng mầm sống hay những hạt giống đã bị chết đi. Nhưng không phải thế, những gì mà trước kia còn trong bóng tối thì sẽ được mạc khải ra trong vinh quang sáng lạn, khi ấy Tin Mừng sẽ tỏ sáng và chiến thắng như ánh mặt trời ban mai.
Không ai có thể làm chết đi cuộc sống đích thực của con người tức là cuộc sống cả hồn cả xác. Cùng lắm người ta chỉ giết được thân xác chứ không giết được linh hồn. Chỉ có Thiên Chúa mới làm cho con người sống hoặc chết đi, mới là Đấng mà ta phải kính sợ. Cuộc sống đích thực không thể bị xén bớt hay giết đi bởi con người. Và hãy nhớ : “ơn Ta đủ cho con”
Lý do thứ ba mà Chúa đưa ra để khuyến khích người tông đồ đừng sợ là tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Thiên Chúa quan phòng có nghĩa là Thiên Chúa gìn giữ mọi tạo vật Ngài đã dựng nên, kể cả những tạo vật hèn kém và vô giá trị như con chim sẻ, như sợi tóc trên đầu. Nhưng sự quan phòng ấy không phải là một thứ định luật khắc nghiệt của tự nhiên, nhưng là một sự chăm sóc của một vị Thiên Chúa hằng sống và là Cha chúng ta. Tuy nhiên, nếu lời chứng của người tông đồ đưa đến cái chết, thì sự chết ấy cũng không ở ngoài ý muốn của Thiên Chúa. Không phải vì Ngài muốn họ chết, nhưng là muốn mọi người được sống. Và chính vì muốn cho hết mọi người được cứu thoát, hết mọi người so sánh nghe rao giảng Tin Mừng và Ngài muốn thấy các chứng nhân của Ngài phải chết.
Chúa Giêsu muốn người tông đồ đi truyền giáo để làm chứng Ngài là Đấng Messia trước mặt người đời, và trong ngày xét xử Ngài sẽ làm chứng họ thuộc về Ngài trước mặt Thiên Chúa Cha. Trái lại, nếu họ từ chối Ngài, Ngài sẽ chối từ họ. Điều cần để ý ở đây là Chúa muốn nhấn mạnh đến bổn phận chinh yếu của người tông đồ là rao giảng về Nước Thiên Chúa chứ không về chính mình. Đàng khác ở đây Chúa cho chúng ta thấy vào lúc xét xử Ngài sẽ là trạng sư bênh vực cho chúng ta.
Như vậy, lời nhắn nhủ của Chúa Giêsu : “các con đừng sợ” có nghĩa là người tông đồ cần phải khôn ngoan, tỉnh thức để cân nhắc mọi nguy hiểm có thể xẩy đến cho mình, và phải vững tâm, chứ đừng lo âu xao xuyến trước những tấn công và thử thách. Niềm tin sẽ giúp họ khôn ngoan và phá tan sự sợ hãi. Niềm tin ấy được bộc lộ như sau : Mình thuộc Đấng Messia vì là tông đồ của Ngài, chịu đựng cùng một số phận như Ngài và rồi sẽ được vinh quang như Ngài. Chính cái ý thức đó sẽ là nguồn an ủi và gia tăng sức mạnh cho người tông đồ của Chúa Giêsu.Những suy nghĩ trên cho chúng ta thấy chân dung của người tông đồ là tiếp nối truyền thống các ngôn sứ. Ngay từ thời Abraham cho đến thời Chúa Giêsu và sau đó, chân dung người tông đồ vẫn là một : hy sinh chính mạng sống mình để có đời sống mới đích thực hơn.
Lạy Chúa, xin cho chúng con khi làm việc tông đồ biết đón nhận mọi nghịch cảnh trong niềm tin và phó thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa, trung thành, can đảm, hiên ngang loan báo Tin Mừng dù có phải thiệt thòi, dù có phải hi sinh mạng sống miễn sao Danh Chúa được tỏa sáng trên toàn thế giới.
Matt.10,26-33 “Các con đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác, nhưng thể giết được linh hồn”
Chúa trấn an mọi người :đừng sợ” nhưng cũng có một thực tế khi mang thân phận con người “ai trong: TN 12-A34
Chúa trấn an mọi người :đừng sợ” nhưng cũng có một thực tế khi mang thân phận con người “ai trong chúng ta cũng sợ”.
Trần gian với những gía trị ảo vẫn thường xuyên làm cho chúng ta cảm thấy hụt hẫng, bấp bênh, sợ sệt. Những gì chúng ta tìm kiếm được hôm nay sẽ là con số không của ngày mai và nhất là khi chúng ta phải đối diện với Chúa, là chính sự sống đời của mình.
Trần gian, nơi môi trường sống của con người với đầy dẫy sự thử thách, bươm chải lại dễ làm cho chúng ta cảm thấy hụt hẫng và mất hết phương hướng.
Mang thân phận là thụ tạo,con người chúng ta sợ đủ thứ : sợ nghèo, sợ khổ, sợ buồn, sợ đói, sợ tai nạn… và đủ thứ sợ trên đời. Nhưng có một điều thật đáng sợ : đó là chính cái chết. Bởi chết là không tồn tại, là trở về cái không không, là không hiện hữu. Nhưng chết về thể xác chưa phải là hết, mà chúng ta còn phải đối diện với một cái chết còn kinh khủng hơn : đó là cái chết về phần linh hồn.Kẻ chỉ giết được thân xác chưa phải là điều gì đang ghê ghớm, bởi nó chỉ khống chế cái giới hạn của con người.
Cái làm cho chúng ta “bất tử” chính là linh hồn của chúng ta.Nó thuộc về Thiên Chúa, và chỉ ai biết sống vì và cho Ngài, người ấy sẽ trường tồn muôn thuở.
“Các con đừng sợ”, vì:
Chúa chính là nơi nương tựa, ẩn thân vững chắc duy nhất của cuộc đời chúng con.
Chúa chính là Người sẽ trả lãi cho chúng con những gì chúng con đã cố gắng trên đời
Chúa là hạnh phúc đời đời của chúng con.
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, con ẩn thân bên Chúa vì Chúa là Chúa của chúng con.
Xin cho chúng con luôn tin tưởng và phó thác vào tình thương bao la của Chúa, vì Chúa là tất cả của cuộc đời chúng con. Amen.
· Gr 20,10-13: (11) Đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng. Vì thế những kẻ từng hại con sẽ thất điên bát đảo, sẽ không thắng nổi con. Chúng sẽ phải thất bại, và nhục nhã ê chề: đó là một nỗi nhục muôn đời không thể quên.
· Rm 5,12-15: (15) Sự sa ngã của A-đam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.
· TIN MỪNG: Mt 10,26-33
Hãy nói giữa ban ngày, đừng sợ (// Lc 12,2-9)
(26) "Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. (27) Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng.
(28) "Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục. (29) Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. (30) Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. (31) Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.
(32) "Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. (33) Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
Phải can đảm thì mới làm ngôn sứ được, hay là phải quyết tâm làm ngôn sứ thì mới phát sinh lòng can đảm? Câu: N12-A35
1. Phải can đảm thì mới làm ngôn sứ được, hay là phải quyết tâm làm ngôn sứ thì mới phát sinh lòng can đảm? Câu nào đúng hơn?
2. Bạn có quan tâm đến nghĩa vụ ngôn sứ (=làm chứng cho Thiên Chúa, cho Đức Giê-su, cho chân lý, công lý và tình thương) trong đời sống không?
3. Làm sao để đừng sợ khi phải làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương?
Suy tư gợi ý:
Bài Tin Mừng hôm nay nói về đức "vô úy" (không sợ) hay "can đảm" mà người Ki-tô hữu sẽ có khi quyết tâm thi hành nghĩa vụ vương đế (làm chủ) và ngôn sứ (làm chứng) mà họ đã lãnh nhận khi chịu phép rửa tội. Bài Tin Mừng hôm nay nói rất mạnh đến sứ mạng của chúng ta là làm chứng cho Đức Giê-su: "Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng". Sứ mạng ấy không phải là ta muốn làm hay không tùy ý ta, mà nó có thể đem đến những kết quả tốt: "Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy", hoặc hậu quả xấu: "Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy".
1. Nghĩa vụ ngôn sứ trong đời sống Ki-tô hữu
Đây là một nghĩa vụ quan trọng nhưng người Ki-tô hữu thường lãng quên, phần lớn là do những người có trách nhiệm giáo dục trong Giáo Hội chưa quan tâm nhắc nhở hay nhấn mạnh đủ. Nói chung, người ta có khuynh hướng giản lược Ki-tô giáo vào nghĩa vụ tư tế (làm lễ, hay thờ phượng Chúa) mà bỏ quên hai nghĩa vụ còn lại là:
- vương đế (làm chủ bản thân, gia đình, xã hội và Giáo Hội), và
- ngôn sứ (làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương bằng lời nói và nhất là bằng đời sống).
Thật vậy, người ta thường coi việc đọc kinh, cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích quan trọng hơn cả việc sống cho có tình có nghĩa với người khác. Nhiều mục tử coi bổn phận cử hành các bí tích cho con chiên còn quan trọng hơn cả việc làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương, hơn cả nghĩa vụ bênh vực con chiên mình khi họ bị ức hiếp, đối xử bất công. Thậm chí hai nghĩa vụ sau không còn được coi là nghĩa vụ nữa. Hành xử như thế, người Ki-tô hữu đang trình bày cho thế giới bằng chính đời sống mình một thứ Ki-tô giáo què quặt, biến dạng, méo mó, một thứ Ki-tô giáo "thuốc phiện", đầy tính ru ngủ… Ki-tô giáo đó khác hẳn với thứ Ki-tô giáo do Đức Giê-su thiết lập, một Ki-tô giáo coi trọng sự thật, công lý, tình thương, mang nặng tính dấn thân và phục vụ.
Chúng ta cùng xét lại xem trong ba nghĩa vụ ấy Đức Giê-su coi nghĩa vụ nào là quan trọng ưu tiên. Ngài nói: "Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế" (Mt 9,13); "Những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và sự chân thật" (Mt 23,23b); "Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình" (Mt 6,23-24); Ngài còn nhấn mạnh: "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,35), chứ không phải ở dấu thánh giá, hay việc cầu nguyện, đi lễ, rước lễ, mặc dù những việc này không được bỏ hay coi thường (Mt 23,23c).
Bổn phận ưu tiên phải làm chứng cho tình yêu, nghĩa là phải thật sự yêu thương anh chị em mình - là hiện thân của Đức Giê-su - cũng được Thánh Gioan Kim Khẩu nhấn mạnh: "Anh em có muốn tôn kính thân thể Chúa Kitô không? Vậy thì đừng bỏ qua Ngài khi thấy Ngài trần truồng. Đừng tôn vinh Ngài với đủ gấm vóc lụa là trong đền thờ, trong khi lại bỏ mặc Ngài đang run lạnh và trần truồng ngoài trời. Đấng đã từng nói "Đây là mình Thầy" cũng chính là Đấng sẽ nói "Các ngươi đã thấy ta đói mà không cho ăn"… Có ích gì khi bàn Thánh Thể thì chất nặng những chén lễ bằng vàng, trong khi Đức Kitô đang hấp hối vì đói khát? Hãy cho Ngài hết đói khát đã, rồi mới lấy những gì còn lại mà trang hoàng bàn thờ!" (Tông huấn Giáo Hội tại châu Á, số 41§2). Có phải nhiều người chúng ta trong thực tế đã quan niệm và hành xử khác hẳn không?
Dù vô tình hay cố ý, sự giản lược hay bỏ quên hai nghĩa vụ sau rất dễ hiểu, vì trong bất kỳ tôn giáo nào, việc thờ cúng hay cầu xin thần linh cũng hứa hẹn nhiều lợi lộc (về thiêng liêng cũng như vật chất) cho người thi hành nó. Động lực thúc đẩy người ta thờ cúng hay cầu xin nhiều khi là vị kỷ, vì ích lợi cá nhân cho dù là thiêng liêng. Và sự quan trọng hóa việc thờ cúng thần linh chẳng những không làm mất mát gì cho giới tăng lữ mà còn đem lại cho họ rất nhiều quyền và lợi. Còn hai nghĩa vụ kia mang tính vị tha, đòi hỏi tất cả những ai muốn thi hành nó phải xả thân, hy sinh, chấp nhận mất mát, thiệt thòi. Tuy nhiên, hai nghĩa vụ này rất cần thiết cho quyền lợi chung của con người, của xã hội và Giáo Hội. Muốn thi hành hai nghĩa vụ này, cần phải "dám", phải "vô úy", "không sợ", phải can đảm chấp nhận đau thương. Đừng nghĩ rằng có đức "vô úy" rồi thì ta mới thi hành được nghĩa vụ ngôn sứ, mà hãy nghĩ rằng ta sẽ có nhân đức này khi quyết tâm thi hành nghĩa vụ ấy. Đừng sợ rằng mình không có can đảm, hãy sợ rằng mình không muốn can đảm.
2. Tại sao lại "đừng sợ"?
Đức Giê-su đưa ra một số lý do để khuyên ta đừng sợ:
a) Phải sợ Thiên Chúa hơn sợ người ta
Ngài đã đưa ra một nỗi sợ lớn hơn để tiêu diệt nỗi sợ nhỏ hơn. Ngài nói: "Đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục". Thật vậy, rất có thể một ngày nào đấy Vua Giê-su nói với ta: "Quân bị nguyền rủa kia, hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn…" (Mt 25,41tt). Hoặc "Phường hèn nhát kia, hãy xéo khỏi mặt Ta, vì các ngươi đã không dám làm chứng, không dám nói sự thật để bênh vực công lý, bênh vực Ta khi Ta bị đàn áp, bách hại, hàm oan…". Bài Tin Mừng cũng nói: "Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy". Nghĩ như thế, ta sẽ có thêm can đảm để nói và làm những gì cần phải nói phải làm. Không chịu chấp nhận tai họa nhỏ để rồi phải chấp nhận một tai họa lớn gấp bội thì thật là ngu xuẩn!
b) Phải tin vào phẩm giá cao quý của mình và tình thương quan phòng của Thiên Chúa
Con người - nhất là người Ki-tô hữu - là "con cái Thiên Chúa" (Mt 5,15; Rm 8,14.16; Gl 3,26; 4,6), được dựng nên "giống như Ngài" (St 1,26), "theo hình ảnh của Ngài" (1,26.27), được "thông phần bản tính Thiên Chúa" (1Pr 1,4), được Thiên Chúa yêu thương (Ga 3,16; 1Ga 3,1). Như vậy, con người có một phẩm giá hết sức cao quí. Cao quí đến nỗi Thiên Chúa đã phải sai Con Một mình xuống thế chịu chết cho con người (Rm 5,6-8; 1Cr 15,3). "Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào", thế mà "không một con nào rơi xuống đất ngoài thánh ý Thiên Chúa". Là con cái Thiên Chúa, được thông phần bản tính Ngài, ta quí giá hơn chim sẻ hàng tỷ lần: "anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ", đến nỗi "tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi"! Như vậy, có chuyện gì xảy đến với ta khi ta làm chứng cho Ngài lại không do thánh ý Ngài?
3. Xét mình
Như vậy, nếu có đức tin, ta sẽ không sợ. Nhưng liệu ta có đủ đức tin để không sợ hầu làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý chăng? Rất có thể ngoài miệng ta tuyên xưng đức tin rất mạnh mẽ, đồng thời sẵn sàng kết án những kẻ tuyên xưng khác với ta. Nhưng nếu thành thực xét lại niềm tin của ta vào sự quan phòng của Thiên Chúa để dám dấn thân thật sự, rất có thể ta lại thấy đức tin ta còn yếu kém hơn cả những kẻ ta kết án! Và để khỏi phải dấn thân như đức tin và lương tâm đòi hỏi, ta thường nại vào sự khôn ngoan và thận trọng. Nhưng quả thật khó mà xác định được lằn ranh giữa khôn ngoan và hèn nhát! Ta có thể nhân danh sự khôn ngoan để có thể hèn nhát "một cách có lý" hầu không ai chê trách được! Và cũng như thầy tư tế, thầy Lê-vi và người Do Thái trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu (Lc 10,30-37), ta có thể nhân danh nghĩa vụ tư tế (làm lễ) để khỏi phải làm nghĩa vụ ngôn sứ (làm chứng) của mình. Đó quả là vấn đề tế nhị của lương tâm mà mỗi Ki-tô hữu cần năng tự vấn!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con là người nhút nhát, nhưng con lại không muốn sống hèn nhát, không muốn trở nên một thằng hèn. Xin ban cho con thật nhiều tình yêu đối với Cha và tha nhân, vì chỉ có tình yêu mới làm cho con can đảm thật sự. Cũng như người mẹ vì yêu thương con mà trở nên vô cùng can đảm, sẵn sàng chấp nhận đau khổ và cả cái chết khi con mình gặp nguy hiểm. Xin hãy ban cho con nhiều tình yêu hơn nữa!
Một sĩ quan quân đội Nga đến gặp một vị mục sư Hungary và xin được nói chuyện riêng với ông. Viên:TN 12-A36
Một sĩ quan quân đội Nga đến gặp một vị mục sư Hungary và xin được nói chuyện riêng với ông. Viên sĩ quan là một chàng trai trẻ, tướng khí hung hãn và dương dương tự đắc trong tư thế của kẻ chiến thắng.
Khi cửa phòng khách đã được đóng lại rồi, viên sĩ quan chỉ cây thánh giá treo trên tường và nói với vị mục sư rằng: “Ông biết không, cái đó là sự dối trá do các mục sư bày đặt ra để làm mê hoặc đám dân nghèo, để giúp những người giàu dễ dàng kềm hãm họ trong tình trạng ngu dốt. Bây giờ chỉ có tôi và ông, ông hãy thú nhận với tôi rằng: ông không hề bao giờ tin rằng Chúa Giêsu Kitô là con Thiên Chúa”.
Vị mục sư cười và trả lời rằng: “Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật”. “Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi”, viên sĩ quan hét lên. Anh ta rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào vị mục sư và hăm doạ: “Nếu ông không nhận rằng đó chỉ là một sự dối trá, thì tôi sẽ nổ súng”.
Vi mục sư điềm tĩnh trả lời: “Tôi không thể nói như thế, vì không đúng. Đức Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa”.
Viên sĩ quan vứt khẩu súng xuống sàn nhà và chạy đến ôm vị mục sư. Anh ta vừa khóc vừa nói: “Đúng thế, đúng thế. Tôi cũng tin như vậy, nhưng tôi đã không thể tin rằng có những người dám chết vì đức tin cho đến khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Bây giờ chính tôi cũng có thể chết cho Đức Kitô. Ngài đã chứng minh cho tôi rằng: Điều này có thể làm được”.
“Các vị tử đạo nhắc nhở chúng ta rằng: chết vì niềm tin là hồng ân được trao ban cho thiểu số, nhưng sống niềm tin là ơn gọi của mọi tín hữu”.
Công đồng Vatican II đã mở ra một kỷ nguyên mới, đã mang đến cho Hội Thánh và mỗi tín hữu một mùa xuân mới, đã nêu bật và tạo cho mọi tín hữu nhiều cơ hội để biểu lộ niềm tin qua hành động sống đạo và hành đạo. Nhờ quan điểm nay. Đạo đã không bị giới hạn trong nhà thờ và trong những giờ kinh, nhưng đạo và niềm tin đã được đem ra sống và thực hành trong mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Nhưng câu vấn nạn thường gây nhiều thắc mắc vẫn là: sống niềm tin và thực hành niềm tin nào?
Quan trọng nhất có lẽ là tin vào Thiên Chúa tình yêu. Đối với mỗi người trong chúng ta Thiên Chúa tình yêu nào có một chương trình để dẵn dắt chúng ta đi trong tin yêu và đạt được tình yêu hoàn hảo. Rồi bước thứ hai là thực hành tình yêu với câu hỏi đơn sơ: nếu Chúa là tôi, thì trong hoàn cảnh cụ thể này, Ngài sẽ xử trí và hành động như thế nào ?
Trang Tin mừng hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta về vấn nạn niềm tin. Chúa hỏi chúng ta rằng chúng ta có can đảm tuyên tín, tuyên xưng Chúa trước mặt thiên hạ hay là chúng ta chối Chúa trước mặt thiên hạ ?
Tưởng chừng vấn nạn này đơn giản nhưng phải nói là vấn nạn này là vấn nạn lớn của cuộc đời mỗi người chúng ta.
Chưa đề cập đến lòng tin vào Thiên Chúa, chỉ đề cập đến đời sống thường nhật của chúng ta thôi chúng ta sẽ thấy một sự thật thật phũ phàng.
Phải nhìn nhận với nhau một điều là ngày hôm nay con người ta không biết do ảnh hưởng từ đâu mà người ta sống với nhau thật vô trách nhiệm, hay trốn tránh trách nhiệm. Nhan nhản các phương tiện thông tin đại chúng như tivi, báo chí đưa tin đấy, quá nhiều, quá nhiều người đã không can đảm đón nhận sự thật, đón nhận trách nhiệm của mình và cứ cố đẩy đưa trách nhiệm cho người khác được bao nhiêu hay bấy nhiêu.
Không biết thời trước có vậy không nhưng thời này con người sống thiếu trách nhiệm quá ! cái sự vô trách nhiệm hình như nó được luyện từ ngày còn bé thì phải. Nhiều và nhiều vị phụ huynh có con trẻ, khi cho chúng ăn, khi cho chúng chạy nhảy, khi cho chúng chơi … thế nào chúng cũng bị vấp té. Vấp té vì hấp tấp, vì lăng tăng, vì thiếu quan sát chướng ngại vật của trẻ vậy mà đa số các ông bố, các bà mẹ sau khi thấy con té thì vực con dậy và lấy tay đập vào cạnh bàn, đập vào cái ghế và dạy cho con trẻ biết rằng nó chính là thủ phạm gây cho con trẻ té chứ không phải là lỗi do chính con trẻ.
Tưởng chừng là chuyện nhỏ nhưng dần dần cái lối sống, lối nghĩ, lối hành động của trẻ nó sẽ in sâu vào tư tưởng của trẻ là vô trách nhiệm, chối bây bẩy những hành vi của mình. Từ những chuyện nhỏ đó nó vô tình đã dẫn đến cho con người tác hại vô cùng to lớn đó là trốn trách trách nhiệm.
Nhìn rộng hơn một chút chúng ta sẽ thấy ngay trong gia đình ngày hôm nay. Khi vui, khi hạnh phúc thì ai cũng giành phần của mình rằng mình là tác nhân mang đến hạnh phúc trong gia đình nhưng khi khốn khó một chút, khi gặp điều chẳng may chẳng lành thì từ chồng đến vợ đến con chẳng ai dám đứng ra lãnh cái trách nhiệm về mình cả. Vì trốn tránh trách nhiệm, từ chối bổn phận của mình trong gia đình nên rồi chuyện nhỏ nó xé ra thật to. Lỗ nó nhỏ vậy mà nó gây đắm thuyền ngày nào không hay. Mạnh chồng chồng chối, mạnh vợ vợ chối, mạnh con con chối bổn phận và trách nhiệm trong gia đình để rồi dẫn nhau ra toà. Ra đến toà cũng chẳng tránh khỏi cái kịch bản chối.
Ngày hôm nay, nhiều đôi hôn phối chia ly vì cái nguyên nhân căn bản đó là chẳng ai chịu nhìn vào bổn phận và vị trí phải có của mình trong gia đình. Vì chối từ đời sống gia đình thì chẳng chóng thì chày một ngày nào đó cũng chia tay.
Mở rộng ra một chút, khi sống trong xã hội, hoà nhập với xã hội trong công việc làm ăn. Thử hỏi mấy người trong công ty, trong xí nghiệp dám đứng ra lãnh phần trách nhiệm của mình sau khi để lại hậu quả không tốt. Buồn cười ở chỗ là khi có nguồn lợi, khi đạt thành tích thì ai ai cũng đua nhau chen vai vào giành một phần của mình đã đóng góp để được cái thành tích ấy. Để rồi cuối cùng con người cứ quấn quýt với nhau trong cái vòng xoắn của sự vô trách nhiệm.
Nhìn lên một chút nữa, những vị có trách nhiệm với nước với dân. Đã là người thì chẳng ai tránh khỏi thiếu sót, sơ xuất nhưng nhiều vụ án, nhiều sự việc xảy ra để lại những hậu quả khôn lường vậy mà người ta chỉ bị khiển trách vì vô ý đã gây hậu quả to lớn cho dân và cho nước.
Nhìn vào đời sống kitô hữu, lời Chúa trong trang Tin mừng hôm nay quả là một lời nhắc nhớ mỗi người chúng ta. Chúng ta là công dân Việt nam: Đúng ! nhưng thật sự nó chỉ đúng ở khía cạnh vật chất, khía cạnh con người còn khía cạnh tâm linh, thiêng liêng thì phải nói chúng ta là công dân nước trời. Nước Trời có Thiên Chúa làm chủ như Chúa Giêsu nói Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Chúng ta sống trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian vì nước của chúng ta không thuộc về thế gian này như Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta. Chúng ta được Chúa mời gọi là chúng ta phải tuyên xưng Chúa trước mặt thế gian này để mai kia Chúa cũng sẽ tuyên xưng chúng ta trước mặt Thiên Chúa Cha.
Quả thật, chuyện tuyên xưng Chúa trước mặt thế gian này không phải là chuyện đơn giản. Chúng ta phải làm chứng về Chúa như vị mục sư đã can đảm tuyên xưng lòng tin vào Chúa trước mặt thế gian dẫu rằng họng súng, cái chết gần kề với ông.
Chúa Giêsu không thử thách chúng ta nghiệt ngã như viên sĩ quan thử thách vị mục sư kia là phải chết nếu không tuyên xưng. Chúa mời gọi chúng ta tuyên xưng lòng tin của chúng ta vào Chúa ngay trong đời sống thường nhật nhỏ bé hằng ngày.
Có nhiều người ngày hôm nay không dám làm dấu Thánh giá trước khi ăn cơm vì ngại ! Dấu Thánh Giá và lời tạ ơn trước khi ăn là một nghĩa cử đẹp của một người biết ơn và một người nhìn nhận Chúa là Chúa của đời mình. Biết ơn trước mỗi bữa ăn điều này thật đúng và phải đạo vì lẽ ta có bữa ăn tạm gọi là cũng chẳng cao lương mỹ vị gì nhưng nhiều người khó nghèo hơn chúng ta, những nạn nhân của những cơn bão lụt, những vụ động đất làm gì mà có như ta, họ nằm mơ cũng chẳng có được như ta để rồi ta cảm ơn cũng chẳng thừa. Khi làm dấu ta tuyên xưng Chúa là chủ đời ta cũng đúng thôi vì thật ra cuộc đời của ta có nằm ngoài bàn tay của Chúa đâu như Chúa nhắc chúng ta: “thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu của anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ” (Mt 10,30.31).
Có người thì tham dự Thánh lễ cắt đầu cắt đuôi. Có khi cha giảng mới đến và khi mọi người rước lễ thì kéo nhau về. Hành động như thế tự nó nó nói lên sự chối Chúa trước mặt người đời. Thử hỏi ai trong chúng ta đãi tiệc mà thực khách đến muộn về sớm không ? Thử hỏi Chúa có buồn không khi con cái Chúa cư xử với Chúa như vậy ?
Chưa hết, không phải đi lễ cắt trước cắt sau như thế mà thậm chí còn bỏ lễ Chúa nhật. Người ta vẫn thường nói “ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt” để rồi có những người vô tư bỏ lễ Chúa nhật. Vì lẽ thường thì bỏ một lần xong lại cứ bỏ tiếp thôi, dần dần cái thói quen xấu bỏ lễ nó thâm nhập vào người ta lúc nào mà người ta không biết. Giữ đạo như thế phải chăng là một cách chối Chúa trước mặt người đời.
Còn những người đi lễ, thật sự thì có đi lễ đấy nhưng có làm cho thánh lễ nối dài trong cuộc sống hay là bước chân ra khỏi nhà thờ thì mọi chuyện đâu vào đấy. Sống Thánh lễ nối dài đó chính là một cách tuyên xưng Chúa trước mặt người đời.
Chắc có lẽ Chúa không đòi buộc con cái Chúa sau khi tham dự Thánh lễ ra khỏi cổng nhà thờ là hô hoán lên rằng tôi mới đi lễ xong, tôi là người Công Giáo. Ngày nay cũng chẳng còn cấm đạo như thời Minh Mạng hay những thời khó khăn để Chúa đòi hỏi kitô hữu phải đổ máu đào để minh chứng về Chúa.
Phải nhìn nhận thẳng rằng chính những lúc cấm đạo, những lúc bắt đạo thì đời sống đạo của Kitô hữu rất cao, không chỉ là đời sống đạo mà cách hành đạo rất tốt. Ngày xưa càng cấm đạo người ta càng giữ đạo và càng làm chứng về đạo. Ngày nay tình hình tự do tôn giáo được mở ra một chút thì đời sống đạo lại tụt dốc. Ngày hôm nay có nhiều phương tiện hơn, có nhiều cơ hội đến nhà thờ hơn nhưng người ta lại ít đến với nhà thờ hơn.
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nói rằng ngày nay người ta không cần thầy dạy nữa mà người ta cần chứng nhân ! Chứng nhân của Chúa là gì ? nhận Chúa là Chúa, là chủ tể đời mình là gì ? Phải chăng đó chính là ăn tiếng nói, cư xử, hành vi của kitô hữu mới chính là cách tuyên xưng Chúa trước mặt người đời.
Và Chúa Giêsu đã hơn một lần nhắc nhở các môn đệ, nhắc nhở mọi người chúng ta: “Cứ dấu này người ta nhận ra anh em là môn đệ của Thầy đó là anh em hãy yêu thương nhau”.
Chúa cũng sẽ chất vấn chúng ta về hành vi, về thái độ làm chứng hay chối Chúa trước mặt người đời trong ngày sau hết. Chắc có lẽ, tự vấn lòng mình, tự soi vào tận sâu thẳm lòng mình chúng ta chúng ta mới biết được là mối tình giữa chúng ta và Chúa nó được bao nhiêu hay là nó phai tàn theo năm tháng và sợ nó không còn nữa. Nếu nó mờ đi thì chúng ta phải tìm cách để cho nó sáng hơn để cho mọi người nhìn vào ta họ thấy có sự hiện diện của Chúa trong đời ta.
Làm chứng cho Chúa, làm chứng có Chúa chính là sống đời sống bác ái yêu thương.
Nguyện xin Chúa là chủ, là Chúa của Tình Yêu tuôn đổ xuống trên mỗi người chúng ta tình yêu dạt dạo của Chúa và xin cho mỗi người chúng ta biết rộng mở tấm lòng để chia sẻ tình yêu mà chúng ta nhận được từ Chúa.
Nguyện xin Chúa cho chúng ta biết làm chứng về Chúa trước mặt người đời bằng cách ăn nết ở của chúng ta để ngày kia trên Thiên quốc Chúa cũng làm chứng cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa như Chúa đã hứa. Anmai, CSsR
Bài Tin Mừng hôm nay là phần quan trọng của “Bài Giảng Về Sứ Mệnh Truyền Giáo” (Mt 10): TN 12-A37
Bài Tin Mừng hôm nay là phần quan trọng của “Bài Giảng Về Sứ Mệnh Truyền Giáo” (Mt 10). Các môn đệ được Đức Giêsu sai đi loan báo “Nước Trời đã đến gần” (Mt 10,7). Họ được Ngài cho biết trước những khó khăn trên đường thi hành sứ mạng của mình, một sứ mạng được so sánh với hình ảnh “chiên đi vào giữa bầy sói” (Mt 10,16). Do vậy, bị ngược đãi và bị bách hại là số phận thường tình của những môn đệ trung thành với sứ mạng được trao.
“Như Cha đã sai Con đến thế gian, thì Con cũng sai họ đến thế gian” (Ga 17,18). Sứ mạng của người môn đệ tiếp nối sứ mạng của Con Thiên Chúa đã lĩnh nhận từ Cha. Chính vì vậy, người môn đệ cũng có chung số phận của Thầy “Nếu họ đã bắt bớ Thầy, họ cũng sẽ bắt bớ anh em” (Ga 15,20). Được sai đến thế gian, sống giữa thế gian (x. Ga 17,11) nhưng các môn đệ lại là những người không thuộc về thế gian (x. Ga 17,16) vì họ đã được tuyển chọn và được tách khỏi thế gian bởi Cha (x. Ga 17,6) và bởi Thầy Giêsu (Ga 15,19). Chính đây là lý do của việc họ bị thế gian thù ghét và bách hại (x. Ga 15,19).
Vinh Quang nơi Thập Giá
Đức Giêsu đã tôn vinh Thiên Chúa Cha bằng chính cuộc khổ hình Thập giá. Giờ tử nạn của Ngài cũng chính là giờ Cha tỏ bày vinh quang cho Con Người (x. Ga 17,1-2). Ngay giây phút chết bi thương trên khổ giá, Đức Giêsu tỏ cho con người biết phẩm giá cao quí nhất của mình: Đó là phẩm giá làm con Thiên Chúa: viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39).
Vì Đức Giêsu, người môn đệ sẽ bị mọi người thù ghét (Mt 10,22). Thế nhưng, những đau khổ mà người môn đệ phải chịu lại mang một ý nghĩa thật lớn lao, đó là “cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô vào Thập Giá” (Gl 2,19). Như thánh Phaolô xưa, người môn đệ của Đức Kitô Giêsu qua bao đời vẫn có thể nói: “những gian nan thử thách Đức Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh” (Cl 1,24).
Trong đức tin, người môn đệ vẫn hằng lấy mầu nhiệm Thập Giá của Thầy làm vinh quang của mình “Vinh quang của ta là Thập Giá Đức Kitô. Nơi Ngài ơn cứu độ của ta, phục sinh của ta”. Người môn đệ là người được chính Thầy tỏ lộ cho biết những mầu nhiệm Nước Trời (x. Mt 13,11), đó là mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời đại và qua bao thế hệ, nhưng nay đã được tỏ ra cho họ (x. Cl 1,26). Mầu nhiệm này đã được thánh Phaolô xác định cách rõ ràng, đó là mầu nhiệm “Đức Kitô đang ở giữa nhân loại, Đấng ban cho con người niềm hy vọng đạt tới vinh quang (x. Cl 1,27). Đức Giêsu muốn cho người môn đệ tiếp tục công cuộc tỏ bày mầu nhiệm cứu độ ấy cho những ai chưa được nghe thấy: “Những điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày, và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng (Mt 10,27). Vì mục đích và sứ mạng rao giảng này, người môn đệ phải vất vả chiến đấu (x. Cl 1,29), nhưng chính Đức Giêsu Phục Sinh vẫn hằng hoạt động mạnh mẽ nơi người môn đệ, khi họ thi hành sứ mạng được trao. Người môn đệ luôn cảm nhận một sức sống trào dâng nơi đời mình, một sự sống nhiệm mầu được diễn tả bằng câu nói: “Tôi sống nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).
Có Đấng Phục Sinh đồng hành
Vì có Đức Kitô Phục Sinh đồng hành trên đường thi hành sứ mạng, nên người môn đệ vẫn hằng cảm thấy niềm vui khi bị bách hại và chịu thử thách trăm bề (x. Cl 1,24). Như Đức Giêsu, Đấng hằng vâng ý Cha, lấy ý Cha làm lương thực của mình (x. Ga 4,34), người môn đệ cũng được mọi người tín thác vào tình thương quan phòng của Cha để luôn vâng ý Cha.
Ngắm nhìn vũ trụ bao la, thế giới xinh đẹp, người môn đệ khắc ghi sâu đậm nơi lòng mình tình Cha vẫn hằng ấp ủ đỡ nâng tất cả mọi loài thọ sinh. Tuy là Đấng có thể tiêu diệt cả xác lẫn hồn, nhưng Cha vẫn mãi mãi là Đấng rất mực từ nhân. Cha hằng chăm sóc cho từng cánh hoa đồng nội, trang điểm cho đẹp xinh hơn cả vinh hoa tột bậc của vua Salomon quí phái (x. Mt 6,29). Cha giữ gìn từng cánh chim bé bỏng, nuôi chúng no đủ từng ngày (x. Mt 6,26) và không con nào phải rơi xuống đất ngoài ý Cha (Mt 10,29). Riêng đối với những môn đệ của Con Chí Ái, những người thuộc về Cha (x. Ga 17,6), Cha ân cần săn sóc đến nỗi biết đến từng sợi tóc trên đầu họ (x. Mt 10,30). Trong tình thương diệu vời của Cha, người môn đệ có cùng một lòng tri ân, thán phục của tác giả thánh vịnh 138:
“Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước,
Bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con.
Kỳ diệu thay, tri thức siêu phàm,
Quá cao vời, con chẳng sao vươn tới!
Đi mãi đâu cho thoát thần trí Ngài,
Lẫn nơi nào cho khuất Thánh Nhan?
Con có lên trời, Chúa đang ngự đó,
Nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài.
Dù chắp cánh bay từ phía hừng đông xuất hiện
Đến ở nơi chân trời góc biển phương tây,
Tại đó cũng tay Ngài đưa dẫn.
Cánh tay hùng mạnh giữ lấy con (câu 5-9)
Chẳng giết được linh hồn
Hãy noi gương thánh nữ tử đạo Anê Lê Thị Thành. Người phụ nữ này bị bắt chính vì bà đã cho các thừa sai trú ẩn nơi nhà mình. Bà đã hành xử giống như nhóm phụ nữ cùng với Nhóm Mười Hai theo chân Đức Giêsu và đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ (x. Lc 8,1-3).
Tại Nam Định, quan toà bắt bà Anê Thành chối đạo, bà đáp: “Tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa, không bao giờ tôi bỏ đạo Chúa muôn đời.”
Các quan truyền đánh đòn bà, lúc đầu bằng roi, sau bằng thanh củi lớn quật vào chân bà. Dịp chồng bà đến thăm, bà đã giải thích lý do tại sao bà chịu đựng nổi cơn đánh đập hung bạo đó: “Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Đức Mẹ giúp sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn.”
Dã man nhất là màn thả rắn độc vào trong áo bà Thành đang mặc. Họ đã túm lấy tay áo bà, có ý để rắn bị bức xúc sẽ cắn vào người bà. Nhưng bà Thành bình tĩnh lạ thường, không nhúc nhích, nên rắn không cắn, chỉ lượn vài vòng rồi bò ra.
Người con út của bà Thành là Luxia Nụ tới thăm mẹ và thấy y phục mẹ mình đầy vết máu, nên khóc nức nở. Bà Thành an ủi con: “Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?”
Bà Thành còn nói với cô Nụ: “Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác thánh giá đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên Nước Thiên Đàng.”
Trong thời gian ngồi tù, bà Thành không những chịu cực hình tra tấn, chịu đói, chịu khát, mà còn chịu khổ vì bệnh kiết lị hành hạ. Nhưng bà được an ủi nhiều vì có hai nữ tu cùng bị giam, săn sóc và giúp đỡ bà. Các linh mục cũng gởi thuốc, đến thăm và ban bí tích hoà giải, xức dầu.
Cuối cùng bà đã phó linh hồn trong tay Chúa theo gương Thầy Chí Thánh ngày 12 tháng 7, 1841, sau ba tháng bị giam, hưởng thọ 60 tuổi, và được Đức Gioan Phaolô II phong hiển thánh năm 1998.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn được đánh động nhất về điều gì trong cuộc tử đạo của thánh Anê Lê Thị Thành? Bạn nghĩ thánh Anê Thành neu gương sáng nào cho người môn đệ Chúa Giêsu?
2. Trong thế giới công nghiệp ta hiện đang sống, bạn thấy người Kitô hữu phải hy sinh từ bỏ đặc biệt về những khía cạnh nào trong cuộc sống để theo chân Chúa Giêsu?
Vào một ngày đầu tháng Bảy, một nông dân ngồi trên chiếc ghế đu đưa trước hiên nhà, tay cầu: TN 12-A38
Vào một ngày đầu tháng Bảy, một nông dân ngồi trên chiếc ghế đu đưa trước hiên nhà, tay cầu tẩu thuốc hút có vẻ nhàn hạ. Một người khách lạ qua đường hỏi thăm:
- Ruộng trồng bông gòn của ông có khá không?
Nông dân trả lời:
- Tôi không có trồng bông gòn vì sợ có nhiều cỏ dại.
Người kia hỏi tiếp:
- Vậy thì vườn bắp của ông ra sao?
- Tôi không trồng bắp vì sợ hạn hán.
- Vậy ông có trồng khoai tây không?
- Không có, vì sợ sâu đất.
Người khách lạ mở to đôi mắt ngạc nhiên hỏi:
- Vậy thì ông trồng cái quái gì?
- Hổng trồng gì ráo trọi để khỏi sợ gì hết.
Sợ là một yếu tố tâm lý có ảnh hưởng lớn trong đời sống con người. Bậc cha mẹ và giới giáo dục thường dùng hình phạt gây sợ hãi để huấn luyện con cái, học sinh khi còn nhỏ. Chính phủ và các thể chế điều hành nắm vào sự sợ hãi đến một mức nào đó để giữ kỷ luật, trật tự. Các hãng bảo hiểm xe cộ, nhà cửa, sức khoẻ, sinh mạng... cũng khai thác yếu điểm tâm lý này nơi con người để... phát tài. Vụ khủng bố lớn ngày 11/9/2001 và những vụ khủng bố gần đây tại Do Thái cho chúng ta thấy có những người quá khích dùng nỗi sợ hãi như võ khí để khống chế, gây áp lực trên những cường quốc như Hoa Kỳ và các nước Âu Châu, Do Thái...
Sợ hãi quá mức làm cho con người bị tê liệt, không thể làm gì được giống như ông nông dân kể trên. Ngược lại không biết sợ là gì khiến con người trở nên điên cuồng, quá khích, mất quân bình như những tử sĩ Palestine ôm bom tự tử để giết người của phe Do Thái. Sợ đúng mức giúp con người xa tránh những điều nguy hiểm, bảo vệ an toàn bản thân, đem lại hạnh phúc cho cuộc sống. Vì thế sợ hãi không phải là điều hoàn toàn xấu. Nó là một phần trong bản năng tự vệ, sinh tồn của con người.
Thế nào là sợ hãi đúng mức? Đối tượng của sự sợ hãi chính đáng là những gì có thể gây tổn thương, nguy hại đến tính mạng của người ta. Khi đi vào rừng người ta sợ cọp từ trong bụi nhảy chồm ra xơi tái là điều chính đáng. Các cô nường khi thấy con gián, con chuột xuất hiện trong nhà vội vàng trèo lên bàn đứng hét không phải là nỗi sợ chính đáng.
Trong bài Phúc Âm Chúa Kitô dạy cho các môn đệ biết nỗi sợ chính đáng. Chúa nói đừng sợ những người bắt bớ ai theo Chúa Kitô vì họ chỉ có thể làm hại đến thân xác, cùng lắm giết chết phần xác. Cuộc sống ở trần gian này rồi cũng sẽ chấm dứt không sớm thì muộn. Nếu phải chết sớm để làm chứng cho Chúa Kitô thì điều đó là cách diễn tả tình yêu đến tột cùng mà Ngài đã làm gương. Đó là một vinh dự, không phải là điều đáng sợ. Điều đáng sợ Chúa muốn nói chính là tội lỗi, chống lại Thiên Chúa, cắt đứt mọi liên hệ với Ngài để tự đưa mình vào hoả ngục, nơi đoạ phạt đời đời.
Chúa muốn nhắc nhở rằng nguy hại đến thân xác không đáng sợ bằng những gì gây hại đến linh hồn. Chúng ta cần chú ý đến điểm này vì xã hội nặng vật chất này đang ru chúng ta vào cơn mê ngủ hưởng thụ, chôn vùi lương tâm mình trong vật chất. Có nhiều điều bệnh hoạn thông truyền qua phim ảnh, báo chí, Internet dưới danh hiệu "người lớn" (Adult) thật sự đang đầu độc cả người lớn và trẻ con. Có những cách gian lận chính phủ, hãng Satellite Disc, cable TV, sở làm... mà người Kitô hữu vướng vào và vẫn đi rước lễ tỉnh queo. Tất cả những điều đó đem lại cho con người thoải mái trong chốc lát, nhưng sẽ đưa linh hồn vào chốn đoạ phạt đời đời. Đó mới là điều đáng sợ và phải xa tránh.
Giêrêmia là vị tiên tri trong thời quân Babylon cai trị đất nước Giuđa. Năm 605 trước khi Chúa: TN 12-A39
Giêrêmia là vị tiên tri trong thời quân Babylon cai trị đất nước Giuđa. Năm 605 trước khi Chúa Giêsu sinh ra, vua Nabucôđônôsor bành trướng đế quốc Canđê đến tận Palestine. Sang năm 597 B.C, nhà vua chiếm Giêrusalem và đưa một số đông người Do thái sang lưu đày bên đất Babylon. Đây là đợt lưu đày thứ nhất. Năm 587 B.C., do sự nổi dậy của dân cư Giêrusalem, đạo binh Canđê lại tiến đánh và tàn phá đền thờ. Đợt lưu đày thứ hai bắt đầu.
Giêrêmia trải qua gian đoạn thê lương đó trong lịch sử Do thái. Được linh ứng, ông lên tiếng báo trước các tai ương sẽ đổ xuống trên những kẻ phản bội Giavê, thành đô sẽ tan nát dưới bàn tay ngoại bang. Ông cũng răn đe sự lạm dụng nơi thờ phượng để trục lợi riêng tư và kêu gọi một cuộc cải cách phụng tự.
Thế nhưng chẳng ai nghe Giêrêmia, thậm chí còn tố cáo ông là kẻ gieo tai rắc vạ, là người chủ bại, là tên bán nước. Rốt cuộc ông bị bắt nhốt. Các đầu mục Do thái muốn giết ông. Người ta ném ông xuống giếng, nhưng một hoạn quan ngoại giáo đã cứu ông. Về sau, khi những người Do thái ám sát quan tổng trấn Gôđôlia, rồi vì sợ bị trả thù, nên họ đã trốn sang Ai cập, kéo theo Giêrêmia. Và trên vùng đất xa lạ này ông bị giết chết.
Phải đương đầu với bao gian khổ, bị tẩy chay và bắt bớ, nhưng Giêrêmia vẫn trung thành sống trọn vai trò người ngôn sứ của Giavê. Ông một thân một mình chấp nhận bao lăng nhục đoạ đày để Lời Chúa được công bố và rao truyền. Giêrêmia được mệnh danh là vị tiên tri khổ đau, người đã phải sống trước số phận đắng cay của một dân tộc bội bạc. Thế nhưng ông không sợ. Gian nan và cái chết không bịt miệng hay quật ngã được tâm hồn ngôn sứ của ông. Kết quả, Lời Chúa vẫn được nói lên; sứ điệp vẫn được loan truyền.
Trước khi sai các môn đệ lên đường rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu cũng nhắn bảo các ông: "Đừng sợ chúng." Tức là đừng nhát đảm trước những kẻ gian dối và phủ nhận chân lý Phúc âm, nhưng hãy can đảm loan báo sự thật.
"Điều gì Thầy nói với anh em trong bóng tối, hãy nói ra nơi ánh sáng. Điều gì anh em nghe rỉ tai, hãy rao lên trên mái nhà" (Mt 10:27). Tin Mừng Đức Kitô phải được truyền rao cho hết mọi người. Thánh Phaolô từng quả quyết: "Quả như nơi tôi có sự thật của Đức Kitô thì sẽ không ai bịt miệng tôi được" (2 Cor 11:10).
Song trên hành trình loan báo chân lý, gieo rắc tin mừng sự sống, không phải là không có kẻ thù chống đối ngăm đe. Khó khăn, nhục nhằn, khổ đau, và cả cái chết đang chờ đợi bước chân của người ngôn sứ. Nhưng Đức Giêsu lại một lần nữa nhắc nhở: "Đừng sợ kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn."
Thử thách và khổ đau của thân xác không đáng là gì khi so với sự sống của tâm hồn có Đức Giêsu—Đấng là Đường, là sự Thật và là sự Sống. Thánh Phaolô đã không ngừng viết đi viết lại niềm xác tín của mình: "Tôi coi mọi sự hết thảy là thua lỗ bất lợi, vì cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân bón, để lợi được Đức Kitô" (Pl 3:8). Có Đức Kitô là có tất cả. Mất Đức Kitô là mất tất cả.
Càng gắn bó với Thiên Chúa, càng yêu mến chân lý Phúc âm, thì càng dễ nhận biết giá trị linh hồn con người, và dù đang phải đứng trước khổ đau do kẻ thù mang lại, con người vẫn có thể nhìn ra tình thương quan phòng của Ngài trong cuộc đời. Người vững tin vào Đưc Giêsu sẽ khám phá ra rằng: "Tất cả mọi sự đều sinh ích lợi cho những ai yêu mến Thiên Chúa" (Rm 8:28).
Oscar Romero đã trở nên mẫu gương can đảm cho thời đại hôm nay khi không khiếp sợ khuất phục trước kẻ thù của Tin Mừng.
Khi mới được chọn làm Tổng Giám mục San Salvado năm 1977, Đức Cha Oscar là con người bảo thủ và trầm lặng. Nhưng ngài đã đổi thái độ khi chứng kiến những gì đang sảy ra trên quê hương đất nước. Các bài giảng của ngài đã vạch trần tội ác của chính quyền đương nhiệm và làm chấn động các thành phần liên hệ. Mặc dù tính mạng bị đe doạ thường xuyên, cũng như tận mắt nhìn thấy các thân hữu bị sát hại, ngài vẫn không khiếp sợ. Đức Cha khẳng định: "Khi gặp hiểm nguy người chủ chăn không thể nào trốn chạy hay rời bỏ đàn chiên để bảo đảm an toàn cá nhân. Thế nên, tôi cũng sẽ ở với đàn chiên của tôi cho đến cùng."
Hậu quả là ngài bị kẻ thù bắn chết lúc đang dâng Thánh lễ vào một sáng tháng Ba năm 1980.
Những kẻ sát hại Đức Cha tưởng bịt được miệng chân lý, nhưng càng bịt họ càng rơi vào tình trạng sợ hãi và thất bại. Riêng Đức Cha Oscar, mặc dầu thân xác bị ngã xuống vì hận thù, gian ác và bất công, nhưng linh hồn ngài vẫn tồn tại trong Thiên Chúa đến muôn đời.
"Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác nhưng không giết được linh hồn. Nhưng hãy sợ Đấng có thể ném cả xác và hồn vào hoả ngục." Lời nhắc nhở đó không chỉ cho các môn đệ ngày xưa trước lúc lên đường rao truyền Chân lý Phúc âm, nhưng còn cho cả bạn và tôi hôm nay khi mà Chân lý đang bị xé mảnh và đóng đinh từng giây.
Ngày hôm nay có biết bao người chỉ thấy hưởng thụ thân xác là trên hết; có biết bao người cho luân lý làm cản bước tiến của nhân loại; có biết bao người sẵn sàng bóp chết kẻ khác vì tư lợi; có biết bao người đang đắm chìm trong ngoại tình, phá thai, li dị, gian tham, bất công... mà không hề mảy may giao động cõi lòng. Trước một thế giới đang làm tê liệt lương tâm con người như vậy, bạn và tôi được mời gọi: "Đừng sợ khi phải sống công chính, đạo đức. Đừng sợ khi phải yêu thương cách chân thành. Đừng sợ khó khăn đau khổ khi phải sống theo các giá trị Tin Mừng."
Chỉ khi không sợ như thế ta mới trở nên lời chứng cho niềm tin vào một sự sống thiêng liêng phong phú mà nhân loại phải tìm kiếm.
Thánh Kinh Cựu Ước cho thấy vị ngôn sứ đóng vai trò sứ giả của Thiên Chúa như thế nào. Họ có: TN 12-A40
Thánh Kinh Cựu Ước cho thấy vị ngôn sứ đóng vai trò sứ giả của Thiên Chúa như thế nào. Họ có thể tiên báo - hoặc không - về những biến cố trong tương lai. Sứ mệnh của vị ngôn sứ là nhắc nhở cho dân Chúa: họ là ai, và họ phải sống thế nào và làm gì với tư cách là dân được chọn. Khi các ngôn sứ cảnh giác dân chúng về những tội thờ tà thần, gian trá, vô luân và bất trung, thì thường không được tiếp đón trong cộng đồng. Ðó chính là điều mà ngôn sứ Giêrêmia đã phải gánh chịu: bị vua quan và dân chúng vu cáo vì họ không muốn nghe ông nói lên sự thật làm mất lòng. Tuy nhiên ngôn sứ Giêrêmia vẫn cảnh giác tội bất trung và lạm dụng của họ trong đền thờ, vì ông biết rằng Thiên Chúa sẽ là gia nghiệp đời ông.
Vai trò của ngôn sứ không phải chỉ thuộc thời Cựu Ước mà thôi, nhưng còn cần thiết cho cả thời Tân Ước. Khi Chúa Giêsu về trời, thì các tông đồ phải tiếp tục công việc cứu thế của Chúa. Nếu các ngôn sứ trong Cựu Ước thường bị bách hại, thì các môn đệ của Chúa trong thời Tân Ước cũng bị bách hại bằng cách này hay bằng cách khác. Vì thế trong Phúc Âm hôm nay, Chúa căn dặn các môn đệ ba lần: đừng sợ. Thoạt tiên Chúa bảo: Anh em đừng sợ người ta (Mt 10:26). Nói như vậy là Chúa muốn sửa soạn cho họ đối phó với những thử thách và hiểm nghèo mà họ sẽ gặp trong việc rao giảng tin mừng cứu độ. Ðiều Chúa nói với họ lúc đêm hôm, họ phải nói ra giữa ban ngày (Mt 10:27) có nghĩa là điều Chúa nói với nhóm Mười hai, thì họ phải rao giảng cho khắp muôn dân. Ðiều họ nghe rỉ tai, thì họ phải lên mái nhà rao giảng (Mt 10:27) có nghĩa là điều họ nghe riêng tư, họ phải giảng dạy cách công khai. Rồi sau này Giáo hội còn dùng mọi phương tiện truyền thông như sách vở, báo chí, truyền thanh, truyền hình, mạng tin hoàn cầu để rao giảng.
Ðiều nhắn nhủ thứ hai mà Chúa bảo họ là: Anh em đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn (Mt 10:28). Ý nghĩa lời Chúa ở đây thật là hiển nhiên. Rao giảng phúc âm có thể gây thiệt mạng cho người rao giảng. Chẳng thế mà từ hồi Giáo Hội sơ khai đã có muôn vàn các vị tử đạo trên khắp thế giới, bất chấp cực hình, sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho đức tin. Riêng Giáo Hội Việt Nam cũng chứng kiến một trăm mười bảy vị Thánh Tử Ðạo trong số hơn một trăm ngàn vị đã chết vì đạo. Ðúng là họ đã áp dụng lời Chúa, nên không sợ những người chỉ giết được thân xác họ mà thôi.
Lời Chúa trong Phúc Âm hôm nay xem ra không còn thích hợp với thời đại ta đang sống. Ngày nay không còn có chuyện cấm đạo, bắt đạo và sát hại người theo đạo như xưa, trừ ra ở một số quốc gia quá khích. Tuy nhiên ngay cả tại những quốc gia có tự do tôn giáo, người ta vẫn sợ khi biểu lộ và làm chứng cho đức tin. Khi mà cách sống và lời nói biểu lô đức tin của ta khác biệt với người đời, ta sẽ bị chê cười, nhạo báng, nghi kị và tẩy chay. Bất cứ hình thức chống đối nào cũng có thể làm ta sợ. Ta có thể sợ mất việc làm, mất bạn bè chỉ vì muốn trung thành tuân giữ đức tin. Có điều nữa làm ta lo sợ là sợ chính mình: sợ không dám đối diện với chính mình, không muốn nghe sự thật về mình vì có những sự thật làm đau lòng. Trong triều đại giáo hoàng của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, nhiều lần Ngài đã nhắn nhủ người tín hữu trên khắp thế giới, lập lại sứ điệp Phúc Âm: Ðừng sợ. Khi thăm viếng những quốc gia có tệ đoan như về tình trạng luân lý suy đồi, về tội phá thai, về mức ly dị, về chính sách đàn áp, về nạn bất công tham nhũng, về mức sống qúa chênh lệch giữa người giàu và nghèo, Ngài đã dám nói lên sự thật, mặc dù có làm mất lòng giới lãnh đạo của quốc gia đó. Ngài còn viết cuốn sách với tựa đề: Ðừng sợ. Mỗi người công giáo được gọi để làm chứng cho đức tin bằng lời nói, việc làm và cách sống. Ðiều đó có nghĩa là mỗi người tùy theo hoàn cảnh, cơ hội, phương tiện và khả năng có thể được gọi để làm chứng cho đức tin vào Chúa.
Lần thứ ba Chúa bảo các tông đồ: Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quí giá hơn muôn vàn chim sẻ ngoài đồng (Mt 10:31). Mặc dù chim sẻ không đáng giá là gì, nhưng vẫn được Chúa quan phòng săn sóc. Nếu Chúa quan phòng cho chim sẻ ngoài đồng nội, thì Chúa còn quan phòng gấp bội cho loài người. Ðức tin vào lời Chúa và quyền năng Chúa sẽ giải thoát ta khỏi sợ. Người Việt Nam trải qua hai cuộc di cư vĩ đại: một lần từ Bắc vào Nam, một lần từ quê hương ra ngoại quốc. Nhiều người bỏ nhà ra đi hầu như với hai ban tay không. Thế mà qua sự quan phòng của Chúa, họ lại có thể làm lại cuộc đời, và còn tạo nên sự nghiệp. Ðó chính là ý nghĩa lời Chúa: Trước hết, hãy tìm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn tất cả mọi sự khác, Chúa sẽ thêm cho (Mt 6:33). Lời Chúa có nghĩa là trước hết hãy tìm cách giữ đạo và tìm giờ thờ phượng Chúa, còn mọi sự khác như ăn uống, việc làm, nhà ở, đồ dùng. .. Chúa sẽ ban sau.
Lời nguyện xin cho được an tâm vững dạ:
Lạy Chúa, Chúa là thành luỹ và là khiên thuẫn che chở con.
Con xin tạ ơn Chúa đã khích lệ bảo con: ‘đừng sợ’.
Khi con nhát đảm trong việc tuyên xưng đạo Chúa,
xin ban cho con lòng can đảm và sức mạnh.
Khi con sợ hãi trước những tẩy chay, chống đối,
xin Chúa đến với con làm lẽ trấn an.
Xin dạy con biết đặt trọn niềm tin cậy, phó thác vào Chúa
trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời con:
khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như lúc thất bại
Làm ngôn sứ của Thiên Chúa, cá nhân hay tập thể, không phải là chuyện dễ, lại càng không phải là an TN 12-A41
Làm ngôn sứ của Thiên Chúa, cá nhân hay tập thể, không phải là chuyện dễ, lại càng không phải là an nhàn thư thái. Ngược lại nó đòi hỏi nhiều gian truân, khốn đốn. Có khi phải hy sinh cả tính mạng. Vì vậy, bài đọc I trích sách tiên tri Giêrêmia và đọc 3 nói về số phận các môn đệ Chúa Giê-su, đầy rẫy những từ ngữ mang tính đe doạ, gây sợ hãi như kinh hoàng, tố cáo, mắc bẫy, trả thù, khiếp sợ, rỉ tai, âm mưu... Kìa lão “kinh hoàng tứ phía”, chúng ta hãy tố cáo nó đi. Tất cả bạn bè thân thích đều rình xem con vấp ngã. Họ nói: Biết đâu nó chẳng mắc lừa, rồi chúng ta sẽ thắng và trả thù được nó”. Giọng điệu bài Tin Mừng nói về số phận các tông đồ tuy kém gay gắt hơn nhưng vẫn đậm màu sợ hãi: “Anh em đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn...” Cũng những từ giết chết, khước từ, bí mật, kinh hãi, sợ sệt... Tại sao vậy? Tại số phận của các ngôn sứ Thiên Chúa là như thế.
Phụng vụ chọn các bài đọc để chúng hoà hợp với nhau, bài nọ bổ túc cho bài kia, gởi đến chúng ta một sứ điệp về số phận các môn đệ Chúa. Chúng ta nhìn kỹ hơn các nguyên nhân gây nên tình trạng ấy? Những ai sống đúng ơn gọi đều cảm nghiệm những “chống đối” của thế gian, xác thịt và satan... Đúng như Chúa Giê-su đã nói trong Phúc âm Gio-an: “Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em...” (15,18). Tuần lễ vừa qua chúng ta nghe về ơn gọi của dân tộc Ít-ra-en, được Thiên Chúa chọn làm dân riêng, làm dân thánh giữa các quốc gia (Xh 12,2-6). Tương tự, Giê-rê-mi-a được gọi làm ngôn sứ và các môn đệ được Chúa Giê-su chọn làm tông đồ, ban quyền năng rao giảng Nước Trời, đều phải chịu chung một số phận bị ghen ghét, ngược đãi, mặc dầu công việc của họ là cao quý, tức làm phát ngôn viên của Đức Chúa Trời, công bố tình thương xót của Thiên Chúa và kêu gọi thiên hạ sống đáp trả bằng hình thức yêu thương và hành động công bằng đối với tha nhân. Chúa Giê-su còn đi xa hơn, loan báo và thiết lập “Nước Đức Chúa Trời” giữa nhân loại. Một hiện thực Thiên Chúa ngự giữa nhân loại. Một cộng đồng thi hành công bình, bác ái đến mức trọn hảo.
Bài Tin Mừng hôm nay, như vậy, là hệ quả của Tin Mừng tuần trước. Chúa chọn lựa các tông đồ, sai phái các ông đi vào đồng lúa chín vàng, những đám đông vất vưởng như đàn chiên không có người chăn. Hôm nay Chúa báo trước cho họ số phận của mình, họ sẽ gặp chống đối gay gắt từ thế lực hoả ngục. Satan và tay sai nhất tề nổi dậy quyết sống mái với các thợ gặt Nước Trời. Ngày nay chúng ta vẫn cảm nghiệm như vậy. Giống như Giê-rê-mi-a và các tông đồ, Hội Thánh vẫn chịu bách hại đến mức độ tử đạo. Chỉ những thợ gặt trá hình ngon ngọt với thế gian là được an bình. Tiên tri Giê-rê-mi-a đã tuân thủ lời Chúa kêu gọi, cảnh cáo các vua chúa quan quyền, các thế lực đền thờ, và toàn thể nhà Giu-đa sẽ bị trao vào tay đế quốc Ba-by-lon nếu không ăn năn trở về với Thiên Chúa (20,1-6). Họ đã bịt tai, tẩy chay, bắt bớ, đánh đòn và giam ông vào ngục tối, bắt đeo gông cùm. Giê-rê-mi-a không ngờ mình phải chịu số phận nặng nề đến thế khi vâng lệnh làm ngôn sứ. Ông nói, ông đã bị Thiên Chúa “lừa” vào sứ vụ: “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con và Ngài đã thắng, suốt ngày con đã nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng con” (20,7). Ông phàn nàn một cách cay đắng số phận làm ngôn sứ cho Chúa trong một thế giới ương ngạnh. Bây giờ ông muốn im lặng cũng chẳng được, bởi lời Ngài như bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt (20,4).
Tuy vậy, ông vẫn tin vào Thiên Chúa và trung thành với sứ vụ, bất chấp những khốn đốn, kiệt quệ vì đồng bào, vì quyền lực đền thờ, ngay cả vì thân thích bạn bè: “Tất cả những bạn bè thân thích đều rình xem con vấp ngã. Họ nói: Biết đâu nó chẳng mắc lừa, rồi chúng ta sẽ thắng và trả thù được nó.” Cố gắng thi hành ý Chúa như lương tâm mình phân định, sẽ luôn luôn đặt chúng ta trước sự chống đối của kẻ khác, ngay cả họ hàng thân thích, vì não trạng nô lệ tư tưởng hiện hành, những giá trị lừa dối, xu thời. Giê-rê-mi-a ở trong hoàn cảnh này và ngày nay những linh hồn lành thánh cũng vậy. Họ sẽ phải hứng chịu thù địch, chỉ trích ở ngay những nơi xem ra là thân thiện, nâng đỡ, ủng hộ, khích lệ, giữa gia đình, bạn bè, giáo xứ, tu hội. Trong cơn đau đớn thể xác và tâm hồn Giê-rê-mi-a cảm thấy bị bỏ rơi, bị Thiên Chúa trừng phạt. Nhưng thực sự Ngài luôn nâng đỡ ông. Người ta đo thành công ở thế gian bằng tiếng tăm và của cải hữu hình như giàu có, vàng bạc, nhà cửa. Còn người tín hữu bằng tiêu chuẩn nào? Nếu thiếu đức tin chúng ta cũng giống như vậy thôi. Khi gặp tai ương hoạn nạn, thiệt hại về tinh thần, vật chất chúng ta cũng nghĩ bị Chúa trừng phạt và không được Ngài yêu thương ban phước. Trường hợp của Giê-rê-mi-a chứng minh ngược lại. Càng trung thành với Thiên Chúa, ông càng bị đồng bào tẩy chay, hành xích. Nhưng đó chỉ là bề mặt. Thiên Chúa vẫn kiện cường, bảo vệ và chúc phúc cho ông.
Vậy thì chúng ta phải xử trí ra sao? Chúng ta thấy nhiều lần ông than van với Thiên Chúa, ngay cả trách móc Ngài. Chúng ta có được phép làm như vậy không? Khi còn ở trung học, chúng tôi phải nghiên cứu từ jeremiad. Xem trong từ điển thì thấy định nghĩa là: Lời than vãn kéo dài và công phu. Dĩ nhiên từ này xuất phát từ tên của ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Ông ta luôn phàn nàn trách cứ Thiên Chúa. Nhưng đức tin của ông không thể bàn cãi. Ông hoàn toàn tin cậy Thiên Chúa, đến độ có thể nói là ngây thơ. Khi hoàn cảnh chống lại ông một cách khắc nghiệt, bị đánh đòn, bị đeo gông, bị cùm chân ông vẫn không tháo lui, nản chí. Ông hiên ngang rao giảng sứ điệp Thiên Chúa trao, bất chấp các đau khổ, khốn đốn. Tuy nhiên, ông đã nhiều lần than van cho số phận mình. Có lẽ chúng ta cũng được phép làm như vậy, khi vì ơn gọi mà phải gánh chịu cay đắng, miễn là giữ vững đức tin.
Cộng đoàn Thánh Matthêu chắc chắn đã phải trải qua kinh nghiệm của tiên tri Giê-rê-mi-a nhiều lần. Họ sống và rao giảng đức tin vào Chúa Giê-su Ki-tô trong môi trường không thuận lợi và đã cảm nghiệm sự chống đối của đồng bào chung quanh. Cũng giống như ngôn sứ Giê-rê-mi-a họ than thân trách phận vì tình hình không được như ý muốn. Ngược lại bị bách hại và xua đuổi, nếu không, thánh sử chẳng khi nào ghi lại lời an ủi của Chúa Giê-su cho những hoàn cảnh tương tự. Chúa nhắc nhớ các môn đệ: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước.” (Ga 15,18) Nó bách hại anh em vì nó đã đóng đanh Thầy. Ngụ ngôn hai con chim sẻ bao hàm một điềm dữ. Chúng rơi xuống đất có ý nghĩa chính các môn đệ sẽ phải đối mặt với cái chết. Tuy nhiên, việc nhỏ nhặt như vậy mà Thiên Chúa không bỏ qua, huống hồ số phận của các kẻ theo Chúa! Tôi chẳng hiểu sau này mình có bị giết chết hay bỏ tù vì đức tin hay không? Và lúc ấy sẽ sợ hãi như thế nào? Nhưng điều chắc chắn là phải trả giá vì tín ngưỡng của mình, dù đắt dù rẻ nhưng vẫn là một cái giá, có khi là đau khổ, phải hy sinh, bị chê cười, nhạo báng, nhục mạ… như xưa nay các tín hữu trung kiên vẫn thường phải chịu.
Thói thường của người rao hàng dùng giọng nói cao và lạc quan để giới thiệu món hàng của mình: trái thơm ngon ngọt, sản phẩm cao cấp, chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, xe hơi hiện đại, đầy đủ tiện nghi, máy lạnh đa năng, ngôi nhà thông minh… chẳng hiểu Chúa Giê-su có học hỏi kỹ thuật tiếp thị của thời đại Ngài hay không? Còn cứ như Phúc âm hôm nay thì Ngài quá chân thật, nói với các tông đồ vừa chọn lựa, cần nâng đỡ thì lại dùng ngôn từ chẳng giống ai: sợ hãi, đau khổ, chết chóc, kinh hoàng trong các môi trường thù nghịch. Đúng lý, Ngài phải hứa hẹn với họ: vinh quang, địa vị, quyền cao chức trọng, bánh vẽ… Nhưng suốt trong bài đọc ba không thấy lời nào như vậy cả, phải can đảm lắm mới có thể làm môn đệ Ngài! Ngày nay chúng ta theo Ngài vì đã được mặc khải, được hiểu rõ tương lai theo Chúa là gì. Vào thời ấy mọi sự vẫn còn mù mờ, vẫn còn phải đánh bạc với số phận.
Tuy nhiên, dù chương trình của họ trước quyền bính thế gian có khiêm nhường, nhỏ bé, vô nghĩa, họ cũng không phải tự ty mặc cảm hoặc sợ hãi trước những vĩ đại của thế gian. Vì trong lúc này, tin mừng phải giấu diếm, rỉ tai. Mầu nhiệm nước trời chỉ được loan báo trong số nhỏ dân chúng. Chúa Giê-su rao giảng trong bóng tối, sứ điệp của Ngài phải nói thầm lén. Nhưng sẽ có ngày tất cả được công bố, mặc khải, được biết đến: “Điều Thầy nói với anh em, lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà mà rao giảng.” Bởi vì chân lý không thể giấu diếm được. Nó thuộc sở hữu chung của nhân loại, là ngọn đèn pha dẫn lối cho loài người, không ai thắp đèn rồi lấy thùng mà đậy lại. Không có lý do gì mà người ta phải xấu hổ về sự thật. Cho nên, các tín hữu có nhiệm vụ loan báo chân lý của Chúa Giê-su cho toàn thể nhân loại, bất chấp hoàn cảnh ngược lại. Sống đức tin vào Chúa Giê-su có thể bị chèn ép bởi những lời hô hoán điếc tai của thế gian, những quyết định áp đảo của quyền lực thế tục ảnh hưởng tới tương lai thế giới. Nhưng cuối cùng đường lối tiếp cận sự sống của Ki-tô giáo vẫn là chân lý toàn thắng. Lịch sử loài người nhiều lần đã khẳng định như vậy. Những ý thức hệ vô đạo, những triết lý ngoại giáo, luôn luôn phải nhường bước cho giáo lý của Chúa Giê-su.
Cho nên, Chúa truyền các môn đệ rao giảng chân lý ấy trên mái nhà, nơi công trường. Nhưng làm thế nào? Một số người trong lịch sử thực sự đã làm như vậy. Họ là những nhà hùng biện vĩ đại đứng trên đỉnh cao mà rao giảng cho mọi người xem được, nghe được. Tuy nhiên, đa phần chúng ta sợ hãi đỉnh cao và yêu thích vị trí khiêm tốn hơn, dù vẫn đòi hỏi can đảm. Mới đây tôi đọc được một câu châm ngôn của Brazin: “Từ điểm bạn đứng, bạn suy nghĩ”. Chúng ta được Chúa mời gọi đứng chung trên mảnh đất với Ngài, thì chúng ta cũng phải suy nghĩ như Ngài. Trái tim chúng ta đồng nhịp đập với trái tim Ngài. Nếu như chúng ta cùng đứng với Chúa Giê-su, chúng ta phải làm thế nào để đời sống và hành vi của mình được thế gian biết tới như có nguồn mạch từ Chúa Giê-su. Đó là phương pháp chúng ta rao giảng nơi quảng trường, trên mái nhà. Đáng tiếc hành động của chúng ta nhiều khi trái nghịch với những điều rao giảng, thì làm sao mang danh là môn đệ Chúa Giê-su? Ngài đã cho chúng ta dấu hiệu để làm môn đệ thực sự của Ngài khi rao giảng. Đó là đứng chung đất với Ngài về lương thiện, tha thứ, tốt bụng, quan tâm, tín thác, ân cần, nhưng đức tính mà sẽ gây chống đối từ phía thế gian. Đúng như sứ điệp của Ngài đã dẫn Ngài đến cái chết thê thảm trên thập giá. Ngài ý thức rất rõ sự kiện ấy sẽ xảy tới cho các kẻ trung thành theo Ngài, cho nên Ngài bảo họ: “Anh em đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn”. Bởi vì họ có quyền trên thân xác mà thôi. Thiên Chúa mới có quyền lực tối thượng và hoàn toàn, có thể “huỷ diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục”. Nhưng môn đệ không phải sợ quyền năng của Thiên Chúa, bởi vì Ngài chăm sóc chúng ta cho đến sợi tóc trên đầu. Con chim sẻ bay nhảy trên bầu trời chẳng đáng giá là bao, thế mà không con nào rơi xuống đất ngoài ý muốn của Thiên Chúa, huống chi tính mạng của con cái Ngài?
Tuy nhiên điều bảo đảm này không loại trừ những khốn khó thử thách ra khỏi cuộc sống các tôi tớ Chúa. Ngược lại, như tiên tri Giê-rê-mi-a nói lên trong bài đọc I, chính ông phải hứng chịu tình cảnh kinh hoàng (tứ phía kinh hoàng), vì bị bỏ rơi, trừng phạt, khiếp sợ, trước mặt quân thù, thì các nhà rao giảng tân thời làm sao tránh khỏi? Bởi vậy, tìm kiếm địa vị, sang giàu, quyền bính, tiếng tăm, sung sướng trong sứ vụ rao giảng là điều không tưởng, trừ phi chúng ta giả hình như nhóm Biệt phái. Tai hại thay ngày nay nhóm này rất đông, tới chỗ nào cũng gặp, ngay cả trong các tu viện, giáo xứ, hội đoàn. Con đường của những kẻ theo Chúa là con đường khổ nạn. Chúa Giê-su đã dùng hình ảnh đôi chim sẻ gãy cánh rơi xuống đất, chết banh thây để mô tả những nhà rao giảng lời Chúa. Đồng thời Ngài cũng bảo đảm rằng Đức Chúa Trời vẫn quan tâm tới họ, dù phải ngụp lặn trong gian truân. Chúa Giê-su cũng tuyên bố công nhận người ấy trước mặt Thiên Chúa trong ngày phán xét chung. Tuần trước Ngài gọi và chọn chúng ta. Gởi chúng ta đi rao giảng Nước Trời, bởi Ngài thương đám dân nghèo khổ vất vưởng. Chúng ta nên phản ánh ơn kêu gọi, bằng cuộc sống Ngài mô tả trong Phúc âm hôm nay. Chẳng có hành động bác ái nào hơn là ban bản thân mình trong nếp sống thánh thiện mà Chúa đòi hỏi. Các hành động chỉ là bề ngoài, mạng sống mới là căn bản. Hành động mà không có nếp sống thánh thiện chẳng qua vẫn là giả hình. Trong một thế giới đầy bất công, độc ác, lừa đảo, âm mưu, sống cho xứng đáng danh hiệu môn đệ Chúa quả là khó khăn, cần nhiều can đảm và ơn Chúa. It is easier said than done (nói thì dễ làm thì khó) câu ngạn ngữ tiếng Anh là điều chúng ta phải luôn suy gẫm trong sứ vụ làm con Chúa. Xin Ngài ban thêm đức tin và nghị lực trong thánh lễ hôm nay. A-men.
Lm. Jude Siciliano, OP
ROME (Zenit. org).- Trong một bài giải thích về các bài Đọc Chúa Nhật, Cha Capuchin Raniero Cantalamessa, người Giảng Phủ Giáo Hoàng trình bày Chúa Kitô là chìa khóa chiến thắng sự sơ
* * *
Đừng sợ!
Chủ đề nổi bật của bài Tin Mừng Chúa Nhật nay là Chúa Kitô giải thoát chúng ta khỏi sự sợ hãi:TN 12-A42
Chủ đề nổi bật của bài Tin Mừng Chúa Nhật nay là Chúa Kitô giải thoát chúng ta khỏi sự sợ hãi. Giống như chứng bịnh, những sự sợ hãi có thể là cấp tính hay mãn tính. Những sự sợ hãi cấp tính được quyết định bởi một tình huống nguy hiểm bất thường. Nếu tôi sắp bị xe đụng, hay bắt đầu cảm giác trái đất rung chuyển dưới chân tôi do một trận động đất, tôi bị sững sờ vì những sự sợ hãi cấp tính. Cũng như những sự sợ sệt đó nổi lên cách bất ngờ và không báo trước, thì chúng cũng biến mất khi qua cơn nguy hiểm, có lẽ chỉ còn lưu lại một ký ức xấu. Những sự sợ hãi đó không tùy thuộc chúng ta và chúng xảy đến tự nhiên. Những sự sợ hãi mãn tính nguy hiểm hơn, đó là những sự sợ hãi sống với chúng ta, những sự sợ hãi mà chúng ta mang theo từ lúc mới sinh hay lúc còn bé, trở nên thành phần của hữu thể chúng ta và thỉnh thoảng cuối cùng chúng ta bị ràng buộc với những sự sợ hãi đó.
Sự sợ hãi tự nó không phải là điều dữ. Thường đó là dịp mặc khải sự can đảm và sức mạnh không ngờ. Chỉ ai biết sợ mới biết can đảm là gì. Sự sợ hãi có thể thật sự trở thành một sự dữ làm hao mòn và không để người ta sống, chớ không phải là một sự thúc đẩy phản ứng và là một lò xo hành động, nó có thể là một lý do thiếu hoạt động, một cái gì làm tê liệt. Khi sự sợ hãi trở nên sự áy náy: Chúa Giêsu đã gọi tên những sự áy náy thông thường nhất của con người: "'Ta sẽ ăn gi?' hay là 'Ta sẽ uống gì?' hay là 'Ta sẽ mặc gì?' " (Mt 6:31), Sự áy náy đã trở thành bịnh thế kỷ, và nó là một trong những nguyên nhân chính cho những cơn đau tim.
Chúng ta sống trong sự áy náy, và đó là lý do tại sao chúng ta không muốn sống! Sự áy náy là một sự sợ sệt vô lý về một đối tượng mình không biết. Luôn luôn sợ hãi mọi sự, chờ đợi cách hệ thống sự xấu nhất, và luôn luôn sống trong môt sự thấp thỏm. Nếu không có nguy hiểm, sự áy náy bày ra nó; nếu có nguy hiểm, sự áy náy khuếch trương nó. Người áy náy chịu sự dữ hai lần: lần thứ nhất trong sự nghĩ trước tới nó và sau đó khi nó xảy ra trong thực tế. Điều Chúa Giêsu lên án trong Ting Mừng không đơn thuần là sự sợ vô nghĩa hay sự quan tâm đúng về ngày mai, nhưng chính xác là sự áy náy và bất ổn này. "Anh em đừng lo lắng về ngày mai, ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy”.
Nhưng chúng ta hãy chấm dứt diễn tả những sự sợ hãi của chúng ta thuộc nhiều loại khác biệt và, ngược lại, chúng ta thử xem Tin Mừng cho chúng ta phương thuốc gì để chiến thắng những sự sợ hãi của chúnhg ta. Phương thuốc được tóm tắt trong một lời: tin tưởng vào Chúa, tin vào sự Chúa quan phòng và tin vào tình yêu của Cha trên trời. Nguồn gốc thật của mọi sự sợ hãi là cảm thấy mình cô đơn, cũng như sự sợ hãi liên tục của đứa bé bị bỏ rơi.
Và Chúa Giêsu bảo đảm với chúng ta về điều này: chúng ta không bị bỏ rơi. "Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì hãy còn có Chúa đón nhận con", Thánh Vịnh (27:10) nói. Dầu mọi người bỏ chúng ta, Chúa không bỏ. Tình yêu của người mạnh hơn tất cả.
Nhưng, trên phương diện này chúng ta không thể bỏ qua chủ đề sự sợ hãi, làm như vậy là thiếu thực tế. Chúa Giêsu muốn cứu chúng ta khỏi những sự sợ hãi và Người luôn luôn cứu chúng ta. Nhưng Người không phải chỉ có một cách làm, Người có hai cách: hoặc Người cất sự sợ khỏi lòng chúng ta hay Người giúp chúng ta sống với sự sợ hãi trong một cách mới, tự do hơn, biến sự sợ hãi thành một dịp ân sủng cho chính chúng ta và cho những người khác.
Chính Người đã muốn sống kinh nghiệm này. Có lời chép rằng, trong vuờn Cây Dầu " người bắt đầu cảm thấy buồn và áy náy. " Bản văn gốc còn gợi ý về một sự sợ hải cô đơn, như sự sợ hãi của một người cảm thấy bị đẩy xa khỏi tổ chức con người, trong một cảnh cô độc phi thường. Và Người đã muốn kinh nghiệm chính xác điều này để cứu chữa phương diện này cũng của hoàn cảnh con người. Từ ngày đó, sống hiệp nhất với Người, sự sợ hãi nhất là sợ chết, có quyền năng nâng cao thay vì hạ thấp chúng ta, làm chúng ta chăm chú hơn tới những người khác, hiểu biết hơn, và nói được một lời là nhân bản hơn. –
Chúng ta đang họp nhau cử hành Thánh lễ Chúa Nhật XII quanh năm. Chúa nhật hôm nay lại trùng ngày: TN 12-A43
Chúng ta đang họp nhau cử hành Thánh lễ Chúa Nhật XII quanh năm. Chúa nhật hôm nay lại trùng ngày 19.06, ngày mà cách đây 17 năm, tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Cố Giáo Hoàng G.P. II đã long trọng tôn vinh 117 Vị Á Thánh Tử đạo tại Việt nam lên hàng Hiển Thánh để toàn thể Dân Chúa trên khắp hoàn cầu tôn kính khẩn cầu. Sự kiện phụng vụ nầy lại hoàn toàn ăn khớp với sứ điệp Lời Chúa sắp được công bố mà trọng tâm ý nghĩa đó chính là mệnh lệnh của Chúa Kitô truyền cho các tông đồ và cho muôn thế hệ Kitô hữu : “Anh em đừng sợ”. Chắc chắn, vì trung thành với mệnh lệnh “Đừng Sợ” nầy, mà các Thánh Tử đạo tại Việt nam đã anh dũng hy sinh mạng sống để đáp trả tình yêu và trung thành với đức tin Công Giáo. Chúng ta cầu xin với các Thánh Tử Đạo tại Việt nam một lần nữa cầu thay nguyện giúp để chúng ta “không sợ hải” trước mọi gian lao thử thách, biết phó thác cuộc đời trong tay Thiên Chúa và can đảm làm chứng đức tin, loan báo Tin mừng.
Giờ đây chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi chúng ta để xứng đáng cử hành thánh lễ.
Giảng Lời Chúa :
Các nhà tâm lý học Á Đông từ xưa đã phân tích tâm lý con người bao gồm 7 cái tình (thất tình), đó là : Hỉ (mừng vui), nộ (giận dữ), ai (thương cảm), cụ (sợ hải), ái (yêu thích), ố (chán ghét ), dục (ước muốn). Đã là một người thì phải mang lấy thất tình, phải biết vui buồn, phải trải qua sợ hảit, phải kinh nghiệm yêu ghét giận hờn…Nếu đọc trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu, trong bản tính nhân loại, cũng đã có nhiều lần biểu lộ “thất tình” như thế : Ngài đã từng được Thánh Thần tác động đã hớn hở vui mừng (hỉ) thốt lên : “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha…” (Lc 10,21), Ngài cũng giận dữ (nộ) đánh đuổi người Do thái bán buôn trong đền thờ, Ngài đã từng khóc thương (ai) Giêrusalem vì thấy trước sự sụp đổ của thành nầy, hay khó thương trước cái chết của Ladarô, Ngài đã yêu mến (ái) Matta, Maria và Ladarô ở Bêtania và đã phục sinh ông nầy sau khi chết chôn trong mộ, Ngài đã sợ hải bồi hồi xuyến xao (cụ) trước cuộc tử nạn đến độ đã cầu xin Chúa Cha cho được khỏi uống chén đắng, và ước muốn (dục) tha thiết của Ngài là tất cả các môn sinh của Ngài sẽ được đoàn tụ cùng Ngài trong vinh quang Nước Chúa (Ga 17, 24)…
1. Điều quan trọng hơn : biết chiến thắng sợ hải :
Tin mừng của Chúa Giêsu mang đến không nhằm dạy loài người dẹp bỏ thất tình để biến trái tim thành chai đá, biến các mối tương quan nhân loại thành máy móc giả hình, biến niềm tin dành cho Thiên Chúa thành cũ mòn xơ cứng. Không. Ngài mang Tin Mừng đến rọi chiếu vào sâu thẳm lương tâm con người để điều chỉnh, uốn nắn thất tình hầu dẫn lối đưa đường để con người biết tận dụng mọi khả năng mà tôn vinh Thiên Chúa và cứu rỗi chính mình, để biết vui với kẻ vui, khóc với người khóc, biết khi nào phải buồn rầu chay tịnh, khi nào phải rạng rỡ hân hoan, biết yêu thương bằng mối tình sẵn sàng hy sinh mạng sống, và ghét chê những lối ỉch kỷ giả hình, biết can đảm thắng vượt những nổi sợ hải để vượt qua chu toàn Thiên ý…
Chính vì thế, mệnh lệnh mà Ngài đã căn dặn cho các môn sinh của Ngài khi phái các ông ra đi rao giảng đó chính là “Anh em đừng sợ”. Khi căn dặn như thế, phải chăng Chúa Giêsu đã thoáng thấy trên đường tông đồ của các môn sinh sẽ có rất nhiều gian nguy thử thách, nhiều bách hại truân chuyên, sẽ khiến các ông chùn bước, lo sợ, như chính Ngài rồi đây, khi đối diện với khổ nạn thập giá cũng đã từng run sợ đến độ mồ hôi máu toát ra… Tuy nhiên, điều quan trọng là Ngài đã chiến thắng sợ hải để hoàn thành sứ mệnh cứu độ.
Trên hành trình cuộc sống hôm nay, chúng ta cũng không thoát khỏi những gian nguy thử thách, những đe dọa trăm chiều, những áp lực nặng nề bủa vây giăng mắc trên mọi nẽo đời thường. Sợ hạnh phúc gia đình tan vỡ, sợ tình yêu bị phản bội chối từ, sợ công ăn việc làm thất bại, sợ thi không đổ, sợ bệnh tật, sợ con cái bất phục cứng đầu, sợ chồng đánh, sợ vợ ghen, sợ thanh danh hoen ố, sợ nghèo, sợ bị kết án, sợ tù tội, sợ sinh con, sợ chết…Cuộc đời của Vị Ngôn Sứ được trích đọc hôm nay, sứ ngôn Giêrimia, là phản ảnh rõ nét những xuyến xao, lo sợ như thế, khi Ngài phải đối diện với bao nổi oái ăm, nguy khốn tràn ngập cuộc đời làm chứng cho chân lý. Tuy nhiên, điều cuối cùng mà Sứ ngôn Giêrimia muốn gióng lên lại là : “Nhưng Đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng…Hãy ca ngợi Chúa, hãy ngợi khen Đức Chúa, vì Người đã giải thoát kẻ cơ bần khỏi tay phường hung bạo” (BĐ 1).
Đó cũng chính là điều mà Đức Kitô, Đấng được tiên báo qua sứ điệp và hình ảnh của sứ ngôn Giêrimia, đã cô đọng thành một mệnh lệnh dứt khoát : “Anh em đừng sợ người ta…Anh em đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn…”.
Nhưng thử hỏi, điểm tựa nào, lý do nào, đã khiến sứ ngôn Giêrimia và nhất là, Đức Kitô “đừng sợ”. Thưa, vì các Ngài đã biết “ném cuộc đời vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa”.
2. Để “đừng sợ”, hãy ném cuộc đời vào bàn tay Thiên Chúa
Nếu Thiên Chúa của Giêrimia là một “trang chiến sĩ oai hùng”, thì Thiên Chúa của Đức Kitô lại là một người Cha nhân ái sẵn sàng bảo đảm cuộc sống cho những con chim sẻ, giữ gìn cho từng sợi tóc trên đầu của tôi của anh khỏi rơi rụng vô cớ ! Vâng, đó chính là Tin mừng, một Tin Mừng xóa tan đi những lo sợ hải hùng của các Tông đồ trên biển hồ Tibêriát khi giông bảo nổi dậy giữa đêm đen để nhường lại một chuyến đi giữa trời yên bể lặng bằng chính sự hiện diện đầy quyền năng : "Thầy đây, đừng sợ !"; tin Mừng xóa tan đi những xuyến xao buồn thảm của của Bà góa Naim trước cái chết của đứa con một thân yêu, để đem về một sự sống hân hoan tươi đẹp; Tin mừng biến cõi lòng mắc cở, hổ thẹn điếng người khi người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang và bị đem xử án, thành một con người hoàn lương ra đi làm lại cuộc đời trong tin yêu phó thác…và rồi Tin mừng biến những những con tim hoang mang sợ hải của những tông đồ như Phêrô, Giacôbê, Tôma…tan vở thất vọng đóng cửa cài then vì sợ người Do Thái sau biến cố cái chết của thầy, thành vui mừng rạng rỡ vào Ngày thứ Nhất trong tuần khi Đấng Phục Sinh xuất hiện và ưu ái ban tặng bình an; đã biến những cõi lòng sầu muộn tái tê của hai môn sinh trên nẽo đường Emmau sau Ngày Thứ Sáu thê lương của biến cố thập giá, thành hân hoan đầy tràn sức sống vội vã lên đường công bố tin vui Chúa đã sống lại…
Làm sao chúng ta có thể sợ hải được khi Thiên Chúa là Đấng Emmanuen, khi Thiên Chúa là Cha nhân lành, khi Thiên Chúa là người luôn đồng hành chia sẻ kiếp phận nhân sinh, khi Thiên Chúa là Đấng luôn đưa mắt diệu hiền đỡ nâng an ủi.
Để minh họa cho chân lý nầy, có một câu chuyện nhỏ để chia sẻ :
Một sĩ quan người Anh có đức tin mạnh mẽ cùng gia đình xuống tàu để phục vụ ở một xứ xa. Tàu rời bến được vài ngày thì gặp bão. Mọi người rất sợ, nhưng vợ viên sĩ quan sợ hơn cả, còn ông thì bình thản như chẳng có gì xảy ra. Vợ ông trách là ông không quan tâm gì đến an nguy của vợ con. Ông không nói nhiều, vào phòng rồi quay trở ra với một thanh kiếm trong tay. Ông dí mũi kiếm vào ngực vợ. Lúc đầu bà tái mặt nhưng liền sau đó bỗng cười lớn tiếng không tỏ gì là sợ hãi nữa.
- Làm sao em có thể cười khi anh dí mũi kiếm vào ngực em ?
- Làm sao em sợ được khi lưỡi kiếm ấy ở trong tay một người rất thương em !
- Vậy tại sao em lại muốn anh sợ cơn bão này khi anh biết rằng nó ở trong tay của Cha anh là người hằng yêu mến anh ?
Tuy nhiên, chúng ta đừng hiểu lầm : thái độ “Đừng Sợ” ở đây không là “giải pháp tạm thời” để lẫn tránh thực tại, để chạy trốn hiểm nguy. Không, đó luôn phải là một chọn lựa anh hùng và đầy can đảm, mà điểm đến cuối cùng chính là hy sinh mạng sống. Điều nầy, chúng ta sẽ nhận thấy rõ nét qua chứng từ của các Thánh Tử Đạo Việt nam : dù gông cùm trăn trói, dù đói khát nhục hình, dù phải bị thiêu, thắt cổ, đâm chém, xẻo từng miếng da…các Ngài vẫn mĩm cười trung trinh với Chúa Kitô, với đức tin Công Giáo.
3. Sứ vụ ngôn sứ đòi hỏi nhiều can đảm
Ngày xưa, sau khi nhận lãnh sức mạnh Chúa Thánh Thần, các tông Đồ đã mạnh mẽ ra đi loan báo Tin Mừng. Cho dù bị bắt bớ, đánh đập, bị điệu đến trước tòa án để bị cấm loan báo Tin Mừng, cấm nói về Chúa Kitô, các Ngài vẫn can đảm thực hành sứ vụ, cho đến ngày làm chứng bằng cái chết Tử đạo. Điều đó đã khẳng định lời tiên báo hôm nào của Đức Kitô mà tin Mừng hôm nay chúng ta vừa đọc lại : “Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm thì hãy nói ra giữa ban ngày, điều anh em nghe rỉ tai thì hãy lên mái nhà rao giảng”. Quả thật, nếu các Ngài sợ hải, chùn bước, thối lui, thì làm gì có chúng ta hôm nay, làm gì có Giáo hội, làm gì thế giới biết được Tin Mừng cứu độ, biết Chúa yêu thương con người đến độ chết trên thập giá, biết được niềm hy vọng phục sinh…
Trong thế giới hôm nay, một thế giới muốn quay lưng lại với những giá trị của Tin Mừng, một thế giới muốn xây dựng trật tự xã hội trên duy chỉ bằng quyền lực chính trị và kinh tế, một thế giới chiến tranh khủng bố, bạo lực hận thù…thì các người môn đệ của Chúa Kitô là phải dấn thân “đừng sợ” để lên đường.
Khi mới lên làm Tổng Giám Mục giáo phận San Salvador, Đức Cha Oscar Romero vẫn còn theo lập trường bảo thủ. Nhưng chẳng bao lâu sau, khi nhìn thấy những bất công xã hội, ngài đã thay đổi. Mỗi ngày Chúa nhật, ngài giảng ở nhà thờ chánh tòa tố cáo những tội ác đã di diễn ra mà đa số là do các viên chức chính phủ. Các bài giảng của ngài như một luồng điện mạnh chạm đến toàn xã hội.
Khi ngài nói, hầu như mọi người đều ngưng việc để lắng nghe. Ngài bị đặt vào tình trạng bị đe đọa thường xuyên. Một vài bạn bè thân thích của ngài đã bị giết chết. Nhưng ngài vẫn không im tiếng, cũng không lánh đi nơi khác an toàn hơn. Ngài nói: “một mục tử chân chính khi thấy nguy hiểm không thể bỏ đoàn chiên để cứu lấy mạng sống mình. Tôi sẽ ở lại với dân tôi". Và ngài đã bị chết dưới lằn đạn tháng ba năm 1980 đúng lúc dâng Thánh Lễ.
Không phải ai cũng được gọi mời để can đảm loan báo chân lý theo kiểu của ĐGM Oscar Romero. Tuy nhiên, can đảm làm chứng đức tin bằng chính cuộc sống đời thường lại là một đòi buộc dành cho tất cả mọi người. Có biết bao nhiêu sự yếu hèn đầu hàng sự dữ, chùn bước trước những đe dọa tầm thường, im lặng vì lười biếng, thiếu trách nhiệm và tự ái…đã khiến bao gia đình tan vỡ hạnh phúc, bao cuộc ly dị vợ chồng, con cái đánh mất niềm tin nơi cha mẹ, bạn bè trở nên hận thù hiềm khích. Đôi khi, chỉ cần can đảm nói lên một lời xin lỗi, sẵn sàng nhẫn nhục để thứ tha, cố gắng nở một nụ cười, giằng lại một lời nói cay cú, một cơn nóng giận nhỏ nhen…thì có cả một “bầu trời xanh” bình an và đầy tin yêu hy vọng tỏa sáng. Chính vì thế, lời cầu nguyện “Kinh Hòa Bình” của Thánh Phanxicô khó khăn mãi mãi cần được lặp lại trên môi miệng chúng ta, những người kitô hữu : “Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa...”
Kết : Đừng biến trái tim người thành “trái tim chuột” :
Có một con chuột kia rất sợ mèo. Một vị thần tội nghiệp nó nên biến nó thành mèo. Thành mèo rồi nó lại sợ chó. Vị thần biến nó thành chó. Thành chó rồi nó lại sợ cọp. Vị thần cho nó thành cọp. Nhưng thành cọp rồi nó lại sợ người thợ săn. Vị thần đành chịu thua: "Ta có biến mi thành bất cứ thứ gì đi nữa thì cũng không giúp mi hết sợ, bởi vì trái tim của mi vẫn là trái tim chuột".
Kính thưa ông bà và anh chị em, trái tim chúng ta đã được dựng nên giống ảnh hình Thiên Chúa, được Thánh Thần tác động và thanh tẩy để thành một trái tim biết yêu thương, trung tín, một trái tim được nuôi dưỡng bởi Máu thịt Con Đức Chúa Trời, một trái tim của một dòng tộc mang danh là “Dòng tộc Tư Tế, Vương Đế”, của một Dân Thánh, lẽ nào chúng ta khiếp nhược để giam mình trong những nổi lo sợ vụn vặt của loài chuột. Chúng ta hãy xác tín vào lời của Đức Kitô : “Can đảm lên, đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian”. Hay như lời của Đức Cố giáo hoàng G.P. II : “Đừng sợ ! Hãy mở rộng cánh cửa cho Chúa Kitô…”.
Và khi nào phải đối diện với những gian nguy thử thách, vất vả hiểm nghèo, thì nếu không hồn nhiên phó thác “như đôi chim sẻ”, không thanh thản cậy trông như sợi tóc trên đầu, hay không an bình thư thái tin yêu như cánh hoa huệ ngoài đồng… thì ít nữa hãy biết cầu nguyện với Chúa như Thánh nữ Bernadette Soubirous rằng : “Lạy Chúa, con không xin Chúa cho con khỏi bị đau khổ, mà chỉ xin Chúa đừng bỏ con một mình trong lúc khổ đau”.
Chúa Giêsu tiếp tục dạy các tông đồ về sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Ngài báo trước là người: TN 12-A44
Chúa Giêsu tiếp tục dạy các tông đồ về sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Ngài báo trước là người tông đồ sẽ bị bách hại nhưng khuyến khích họ đừng sợ, vì những lý do sau :
- Lý do thứ nhất : khi chịu bách hại là họ được vinh dự chia sẻ thân phận của Thầy mình (cc 24-25 đoạn phía trước).
- Lý do thứ hai : những kẻ bách hại chỉ giết được thân xác nhưng không giết được linh hồn họ.
- Lý do thứ ba : người tông đồ còn được Chúa bảo vệ, bất cứ điều gì xảy đến cho họ cũng nằm sẵn trong kế hoạch quan phòng của Chúa.
- Lý do thứ tư : nếu họ vẫn trung thành và can đảm thì họ sẽ được phần thưởng là Chúa sẽ tuyên bố nhận họ là người của Ngài.
B.... nẩy mầm.
1. Khi thực sự yêu thương ai, người ta sẽ lấy làm sung sướng được chịu khổ vì người mình yêu. Các tông đồ đã sung sướng như thế (x. Cv 5,40-41). Xin cho con thêm tình yêu Chúa, đến độ cảm thấy vui mừng được chịu khổ vì Chúa.
2. “Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy rằng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy rằng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy đấng ngự trên trời” : Ta tuyên bố nhận Chúa bằng một cuộc sống đạo mạnh dạn không sợ dư luận, bằng cách tận dụng những cơ hội tốt để nói về Chúa cho người khác hiểu, và bằng cách chọn lựa coi trọng những giá trị siêu nhiên hơn những giá trị tự nhiên.
3. Một người kia nói chuyện với Chúa về những giá trị. Anh hỏi Ngài : - Giá trị một phút ở trên trời là bao nhiêu ? - Một tỷ năm. - Giá trị một xu trên trời là bao nhiêu ? - Một tỷ đô la. Anh liền xin : “Ngài có thể cho tôi một xu ?” Chúa nói : “Đợi một phút”. (Góp nhặt)
4. Một sĩ quan người Anh có đức tin mạnh mẽ cùng gia đình xuống tàu để phục vụ ở một xứ xa. Tàu rời bến được vài ngày thì gặp bão. Mọi người rất sợ, nhưng vợ viên sĩ quan sợ hơn cả, còn ông thì bình thản như chẳng có gì xảy ra. Vợ ông trách là ông không quan tâm gì đến an nguy của vợ con. Ông không nói nhiều, vào phòng rồi quay trở ra với một thanh kiếm trong tay. Ông dí mũi kiếm vào ngực vợ. Lúc đầu bà tái mặt nhưng liền sau đó bỗng cười lớn tiếng không tỏ gì là sợ hãi nữa. - Làm sao em có thể cười khi anh dí mũi kiếm vào ngực em ? - Làm sao em sợ được khi lưỡi kiếm ấy ở trong tay một người rất thương em ! - Vậy tại sao em lại muốn anh sợ cơn bão này khi anh biết rằng nó ở trong tay của Cha anh là người hằng yêu mến anh ? (Góp nhặt)
5. Nữ bác sĩ Sheila Cassidy đến nước Chilê làm việc phục vụ cho dân nghèo. Một hôm cô trị bệnh cho một lãnh tụ phe đối lập. Chính quyền biết chuyện nên bắt giam cô. Cô đã thuật lại như sau : “… Sau 4 ngày bị giam cầm và tra tấn, họ để tôi một mình trong phòng giam… Nhưng lạ thay, tôi không cảm thấy cô đơn và buồn chán, trái lại còn cảm thấy vui nữa, vì tôi biết có Chúa ở với tôi”. Bác sĩ Sheila đã cảm nghiệm được điều Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay : “Chúng con đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn chúng con”.
Hãy tự hỏi bạn sợ điều gì nhất trong đời ? Và bạn sẽ nói gì với Chúa về nỗi sợ đó ?
6. “Lạy Chúa, con không xin Chúa cho con khỏi bị đau khổ, mà chỉ xin Chúa đừng bỏ con một mình trong lúc khổ đau” (Thánh nữ Bernadette Soubirous)
Có một cậu bé được cha mẹ gửi học trong một trường nội trú. Ngay buổi tối đầu tiên, trước:TN 12-A45
Có một cậu bé được cha mẹ gửi học trong một trường nội trú. Ngay buổi tối đầu tiên, trước khi lên giường đi ngủ, cậu bé đã quì gối xuống và cầu nguyện. Thế là một chiếc giày bay vèo qua đầu cậu bé và tiếp theo là những tiếng cười giễu cợt.
Tối hôm sau, cậu bé cũng lại quì gối và cầu nguyện. Những em khác trong phòng thì chờ đợi để chế nhạo. Thế nhưng khi nhìn thấy dáng bộ trang nghiêm và sốt sắng của cậu bé., các em khác tỏ vẻ dè dặt, rồi im lặng và thán phục. Sau cùng, những em khác cũng đã bắt chước, quì gối và cầu nguyện trước khi đi ngủ.
Câu chuyện trên làm cho chúng ta nhớ tới lời nói của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay:
- Các con đừng sợ. (Mt 10,26).
Chúa Giêsu không nói tới một sự sợ hãi chung chung, nhưng Người nói rõ về một sự sợ hãi đặc biệt mà người Kitô hữu cảm thấy trong việc sống đức tin của mình. Chúng ta thường e dè, thường do dự mỗi khi nói những lời giống lời của Chúa, làm những việc giống việc của Chúa, bởi vì chúng ta sợ người khác chê cười, châm chọc. Chúng ta sợ bị chê là quê một cục, bị gọi là kẻ lên mặt đạo đức, hay là bị ngược đãi, như chiếc giày bay vèo qua đầu cậu bé.
Chúa Giêsu không phải là không biết đến những lý do của sự sợ hãi. Bởi vì có những người đã phải mất bạn bè, mất việc làm, mất địa vị và rất có thể mất cả mạng sống vì niềm tin nơi Ngài. Thế nhưng, bên trên những thiệt hại tạm bợ này là niềm hạnh phúc vĩnh cửu Chúa đã hứa ban cho những ai trung thành với Ngài.
Trong cuộc sống, có những lúc hình như chúng ta cũng cảm thấy sợ hãi. Sợ đọc kinh cầu nguyện trước mặt người khác. Sợ gặp phải những khó khăn khi trung thành sống đức tin của mình. Sợ làm dấu thánh giá trước bữa ăn. Sợ ngả mũ nón khi đi ngang qua nhà thờ. Sợ đổi đề tài khi có người kể những câu chuyện tầm phào và tục tĩu. Sợ không dám từ chối khi bè bạn rủ rê ăn nhậu và cờ bạc. Chúng ta cũng cảm thấy sợ hãi khi Giáo hội bị nhạo cười, bị tấn công.
Trong tất cả những trường hợp ấy, chúng ta hãy nhớ tới lời khuyên của Chúa:
- Các con đừng sợ.
Đồng thời, chúng ta cũng hãy khắc ghi lời Chúa đã nói: “Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời. Còn ai chối bỏ Ta trước mặt người đời, thì Ta cũng sẽ chối bỏ nó trước mặt Cha ta ở trên trời” (Mt 10, 32-33).
Như thế có nghĩa là, nếu chúng ta chối bỏ Đức Kitô thì Ngài cũng sẽ chối bỏ chúng ta.
Ước mong rằng trong suốt cả cuộc đời, chúng ta sẽ trung thành với Chúa mãi mãi, bởi vì, “ai bền đỗ đến cùng, thì người đó sẽ được cứu thoát”.
Đâu là những nỗi sợ của chúng ta? Đứng trước những lời “Các con đừng sợ, hãy sợ, chớ sợ”:TN 12-A46
Đâu là những nỗi sợ của chúng ta? Đứng trước những lời “Các con đừng sợ, hãy sợ, chớ sợ” của bài học ngày hôm nay, làm sao không nghĩ đến những người anh em của chúng ta đang sống tại các nước độc tài hoặc tại Châu Mỹ La tinh đang bị đe dọa và bách hại? Hiện nay có nhiều vị tử đạo hơn là vào thời kỳ đầu của Giáo hội. Đây là một điều người ta cố quên tại những nước mà việc tỏ ra mình là người Kitô hữu không nguy hiểm bao nhiêu. Trước hết bài suy niệm của chúng ta phải hướng về những người có lý do để hết sức sợ hãi, và về những người có thể chế ngự nỗi sợ của mình, đó là những người rao giảng Tin Mừng một cách anh hùng.
Nhưng trong khi cầu nguyện cho những người anh em bị bách hại của chúng ta và trong khi ngưỡng mộ họ, chúng ta đừng từ chối một câu hỏi có thể là khó chịu: ‘tôi có sợ hãi không?’
Đây không phải là những nỗi sợ của “cá nhân” của chúng ta: sợ đau khổ, sợ già hoặc sợ bom hạt nhân. Tin Mừng nói về những nỗi sợ trước điều mà đức tin đòi hỏi: sợ di luỵ đến bản thân, sợ dấn thân trong việc dạy giáo lý hoặc trong việc tông đồ khó khăn, sợ mất thời giờ, tiền bạc hay có lẽ linh hồn của mình vào đó. Khi Matthêu viết những câu vừa đen tối vừa làm hứng khởi này, Giáo hội của ngài đã nếm trải đủ loại khó khăn ở bên trong và những bách hại ở bên ngoài. Ba ngọn cờ ngài giương lên rất cao, nếu cần, sẽ làm cho chúng ta can đảm.
Sự khuyến khích đầu tiên: các con đừng sợ rao giảng Tin Mừng. Trong cuộc sống công khai của mình, Chúa Giêsu không thể mạc khải tất cả. Người ta không hiểu đó là cái gì và sứ điệp của Ngài tiến triển trong bóng tối. Nhưng đã có lễ Phục sinh và lễ Hiện xuống. Những người sợ hãi của ngày thứ sáu tuần thánh đã trở thành những người linh hoạt các đám đông. Không có lời mời gọi can đảm nào mạnh mẽ cho bằng bài đọc trong sách Công vụ Tông đồ. Chúng ta phải thường xuyên đi vào trong bầu không khí xác tín và can đảm của các Kitô hữu đầu tiên. Một sự sợ hãi kỳ lạ đã xâm chiếm chúng ta kể từ công đồng Vatican II, đó là sợ trở thành những kẻ “háo thắng”. Chắc chắn phải tìm lại sự đơn sơ và sự kín đáo, nhưng không phải để đắm chìm trong một Kitô giáo toàn những người câm. Giữa các tiếng la của thế giới, chúng ta phải nghe tiếng la của Tin Mừng: “Các con hãy đi loan báo Tin Mừng giữa ban ngày, trên mái nhà!”. Đó là một cuộc chiến tôn trọng con người. Có lẽ chúng ta sẽ không bao giờ đứng trước những kẻ tra tấn cương quyết bắt chúng ta chà đạp Thánh giá, nhưng khi chúng ta bị cám dỗ xấu hổ vì Chúa Kitô tại nơi làm việc chẳng hạn, thì ước gì lời cảnh báo của Ngài làm cho chúng ta trấn tỉnh đúng lúc: “Nếu các con nói về Thầy, Thầy cũng sẽ nói về các con; nếu các con chối Thầy, Thầy cũng sẽ chối các con”.
Sự khuyến khích thứ hai đối với những người anh em chúng ta bị đe doạ tra tấn và chết chóc: “Các con đừng sợ những kẻ giết hại thân xác các con, các con hãy sợ Đấng có thể giết chết linh hồn các con”. Đây là một nguyên tắc quan trọng và sáng chói để phân biệt giữa những nỗi sợ tốt và những nỗi sợ xấu. Cuối cùng chỉ có một điều cần phải sợ mà thôi, đó là người ta giật chúng ta ra khỏi Chúa Kitô, giật chúng ta ra khỏi sự sống vĩnh cửu với Thiên Chúa. Nhưng các bạn đã biết tiếng la chiến thắng chống lại mọi nỗi sợ hãi này rồi: “Nếu Thiên Chúa thân với ta, ai dám nghịch với ta?” (Rm 8,31). Không bị đe doạ lắm, có lẽ chúng ta cần phải xác minh những nỗi sợ hãi của chúng ta: chúng ta có sợ nhất những gì và những người có thể làm suy yêú đức tin của chúng ta hay không?
Sự khuyến khích thứ ba: chúng ta có một người Cha trên trời, Chúa Giêsu nói điều đó với những ẩn dụ dí dỏm Ngài dùng để truyền đạt một chân lý quan trọng: “Không có con chim sẻ đáng giá một xu nào rơi xuống đất mà không ngoài ý Cha các con trên trời, tóc trên đầu các con Ngài cũng đã đếm hết”.
Tốt hơn là người ta có thể nói đến sự quan phòng hay không? Đây không phải là sự siêu tổ chức của một Thiên Chúa có bộ óc điện toán. Đây là sự quan tâm chú ý của một người Cha nói với chúng ta qua Con của Ngài: “Con biết, đối với Ta Con đáng giá hơn tất cả các con chim sẻ trên thế giới này”.
Sợ hãi có thể làm tê liệt chúng ta. Nó có thể làm cho chúng ta cứng đờ và trở nên bất động. Nó có thể: TN 12-A47
Sợ hãi có thể làm tê liệt chúng ta. Nó có thể làm cho chúng ta cứng đờ và trở nên bất động. Nó có thể ngăn cản cả việc suy nghĩ lẫn hành động theo niềm tin Công giáo của chúng ta.
Một hình thức thiệt hại nghiêm trọng của sợ hãi đến từ sự hăm doạ. Đó là một loại sợ hãi mà nó có liên quan đến Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay. Khi Chúa Giêsu nói: “Đừng để cho người ta hăm dọa ngươi”, có lẽ người đang nghĩ đến vị tiên tri cao cả là Giêrêmia. Con người của Thiên Chúa này bất chấp sự đe doạ bằng cách tấn công những âm mưu làm hại mạng sống của ông, vì thế ông không sợ phát ngôn nhân danh Thiên Chúa.
Giêrêmia đã tố cáo tội lỗi của dân tộc ông, cho biết họ đã chống lại Chúa đang ở trên họ. Ông nhấn mạnh rằng tội chống đối nhau giữa họ cũng là chống đối lại Thiên Chúa. Ông kết án việc trông cậy vào sức mạnh quân đội hơn là vào sức mạnh Thiên Chúa và ông tiên báo thành Giêrusalem sẽ bị phá huỷ (điều này đã xảy ta vào năm 587 BC).
Giêrêmia đã bị kẻ thù cưỡng bách đi lưu đày ở Ai Cập. Theo truyền thống, ông đã bị giết chết bởi chình những người đồng hương của mình. Những kẻ xấu thì không còn nhớ giao ước với Thiên Chúa nữa, nhưng Giêrêmia vẫn nhớ. Ông sống không phải chỉ trong những trang Thánh Kinh nhưng với Chúa Giêsu trên thiên đàng, Đấng Mêsia mà ông chưa hề biết khi ở trần gian này nhưng ông đã trung thành với Đấng ấy mặc dù không biết điều ấy.
Những người khác đến sau Giêtêmia đang hiểu biết và yêu mến Chúa Giêsu cũng đã đạt đến chiều cao lớn lao của hành động anh hùng là sinh lại trong niềm tin sâu xa. Chỉ trong một thế kỷ XX này mà thôi cũng có rất nhiều mẫu gương như thế. Tổng giám mục Oscar Romero ở El Salvador là một vị tử đạo vì sự công bình xã hội. Ngài đã bị những kẻ vô lương giết chết khi thấy sự bảo vệ người nghèo của vị Tổng giám mục là một đe dọa cho những tham vọng của họ. Trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II, thánh Maximilian Kolbe, một linh mục Balan bất chấp sự đe dọa của những người lính phát xít đã hiến mạng sống mình để đổi mạng cho một người bạn tù, là người chồng và là cha của nhiều đứa con, và người sĩ quan chỉ huy của trại tập trung đã cho thi hành án.
Một cô gái trẻ ở Ý đã bất chấp sự đe dọa của một người đàn ông, khi ông đe dọa sẽ giết cô ta nếu cô từ chối quan hệ tình dục với ông ta. Và ông đã giết cô vì cô đã chống cự mãnh liệt, hôm đó là ngày 6 tháng 6 năm 1902. Maria Goretti đã được Đức Thánh Cha Piô XII phong thánh vào năm 1950. Mẹ của cô và Alexander Sereneli, người đàn ông đã giết thánh nhân, cùng hiện diện trong cuộc lễ tuyên phong hiển thánh này.
Những người đã dâng hiến và vô số những người nam và người nữ giống như họ đã có mặt suốt chiều dài của lịch sử, đã tin vào lời của Chúa Giêsu: “Bất cứ ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời thì Ta cũng sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời cũng như vậy”.
Ngày hôm nay chúng ta đang bị đe dọa bởi những phong trào trong xã hội của chúng ta. Chọn trước những người ủng hộ sẽ làm cho chúng ta cảm thấy rằng chúng ta xâm phạm quyền bình đẳng của người phụ nữ khi chúng ta nhấn mạnh phá thai là một tội ác không thể nào chịu nổi. Chủ nghĩa cá nhân đang ăn mòn và là sức mạnh chống lại sự quan tâm đến những người nghèo khổ, những người không nhà và những người đói khát. Chủ nghĩa bài ngoại và tham lam sẽ trút cơn giận dữ của họ lên những người nhập cư, chính vì những điều đó mà Giáo hội luôn bênh vực cho những quyền lợi của con người.
Chúa Giêsu nói với chúng ta khi chúng ta họp nhau lại để thờ lạy Người: “Thầy thấy các con đang hiện diện nơi đây trong nhà thờ này như là dân Thiên Chúa. Thầy sẽ tiếp tục tuyên xưng các con trước mặt Cha Thầy trên trời bao lâu các con còn tiếp tục theo sát giáo huấn của Thầy, chứ không theo những người chống đối Phúc âm. Cũng đừng để họ đe dọa các con”.
Giáo đề cho một toàn bộ những giáo huấn mà các môn đệ phải dựa theo để đào tạo cá tính và: TN 12-A48
Giáo đề cho một toàn bộ những giáo huấn mà các môn đệ phải dựa theo để đào tạo cá tính và hành động của mình: Có một lối xử sự của riêng Phúc âm. Người môn đệ cần thầm nhuần để nên giống Thày. Đàng khác gương mẫu sống động không ai ngoài chính Chúa. Vì thế như Chúa Giêsu đã gặp những chống đối, các môn đệ cũng sẽ bị chống đối nhưng họ không có gì phải sợ. Trước hết, họ hãy giữ niềm tin tưởng rằng chân lý cuối cùng sẽ tỏ rạng mặc dầu quyền lực của dối trá thống trị, họ chớ sợ tiếp nối công trình của Thày để loan truyền Tin Mừng. Chúa Giêsu nói rằng Ngài dạy trong bóng tối, điều ấy có nghĩa là Ngài trao truyền sứ điệp trong vòng các người thân tín, trong khung cảnh giới hạn và tối tăm của miền Galilêa. Ngài hành động như thế là vì thận trọng và vì muốn tôn trọng các dự định quan phòng giao phó việc rao truyền sứ điệp cho những vị khởi sự Giáo Hội. Những vị ấy sẽ phải nói trên mái nhà. Việc này nhắc đến một tập tục đặc biệt của miền Trung Đông. Buổi chiều, khi trời hạ cơn nóng, người ta hay tụ tập trên sân thượng. Nhà này nối qua nhà khác, cho nên các mái nhà làm thành một thứ công trường. Nói trên mái nhà tương đương với loan báo Tin Mừng sẽ gây ra nhiều chống đối hung bạo, Chúa dạy như thế. Từ lời cảnh cáo này, Ngài bảo các môn đệ cách thức định giá sự vật và phải đặt lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa ra sao.
1) Đừng sợ những kẻ giết được thân xác… Điều này có nghĩa là sự sống con người có những kích thước vượt quá phạm vi thể xác. Các quyền lực thế gian có thể làm hại thể xác nhưng đấy không phải là phần chính yếu của con người. Chúng không thể nào phá hủy con người trong những gì là nhân bản nhất, căn cốt nhất, những gì bất tử. Bản chất linh thiêng, nơi phát xuất những quyết định hữu trách và những khả năng chân chín hưởng nhận hạnh phục, đó mới là kho tàng đích thật của con người. Điểm thấm nhập của Phúc âm vào trong con người là linh hồn tự do, hữu trách, bất tử, được gọi tới hưởng hạnh phúc sung mãn. Người môn đệ của Đức Kitô phải biết rằng bản thể linh thiêng đáng cho ta hy sinh bản thể nhục phàm. Có thể xảy ra những trường hợp đặc biệt và các thánh tử đạo xưa và nay chứng tỏ điều ấy. Nhưng cũng có một vấn đề mà chúng ta phải nghĩ tới và có thể đặt ra bằng câu hỏi sau đây: trong cuộc sống thường ngày chúng ta có đặt vị trí ưu tiên cho các giá trị siêu nhiên không?
2) Không có một con chim sẽ nào rơi xuống ngoài ý Cha các ngươi. Các khó khăn, các cơn cám dỗ, các chướng ngại, các vấn đề, các sự trục trặc của chúng ta,… Thiên Chúa đều thấu tỏ. Giữa các khó khăn, dầu thế nào mặc lòng chúng ta luôn làm đúng khi quy hướng về Chúa Cha! Ngài canh phòng cho con cái Ngài và Ngài không để cho chúng chịu thử thách quá sức. Điều này không có nghĩa là Thiên Chúa cam kết sẽ can thiệp ngay trong mỗi trường hợp để giải thoát chúng ta. Chúng ta lệ thuộc vào thế giới như mắc cửi và Thiên Chúa là Đấng đã làm nên sẽ không phá bỏ đi. Nhưng chúng ta có được một phương kế phi thường: mọi khó khăn nhỏ nhặt nhất có thể làm đề tài nói chuyện riêng tư với Chúa vì Ngài biết sự khó khăn ấy. Không có gì xảy đến cho chúng ta mà Ngài không thấu tỏ. Mà Chúa Cha muốn điều tốt lành cho chúng ta. Do đó nếu chúng ta phó thác tất cả cho Thiên Chúa, mọi sự đều góp phần mưu ích cho chúng ta.
Vậy đừng sợ chúng": Chữ "vậy" liên kết cc. 26-27 với những gì đi trước. Tuy thế nó không loan:TN 12-A49
"Vậy đừng sợ chúng": Chữ "vậy" liên kết cc. 26-27 với những gì đi trước. Tuy thế nó không loan báo một kết luận đương nhiên nhưng là khai mào cho một lời khích lệ mới dựa trên điều đã nói. Ý nghĩa chẳng phải như thế này: đừng sợ chúng vì chúng không làm gì chống lại các con được, song là: đừng sợ chúng vì các con không thể đòi hỏi một số phận ít đau khổ hơn số phận của Thầy các con (c. 24-25). Các kẻ bách hại thật đáng sợ đấy nhưng phải biết khắc phục nỗi sợ hãi này và tuyên xưng niềm tin mới. Thành ra các chữ đầu tiên đây có nghĩa: ước gì nỗi sợ hãi của các con (mà người đời có thể hiểu được cc 17-25) không ngăn cản việc các con làm chứng về Thầy.
"Bị bại lộ ... bị thấu biết": Chủ từ không nói ra của hai động từ ở thể thụ động này là Thiên Chúa. Bây giờ Thiên Chúa muốn cho mọi người biết mầu nhiệm Nước Trời nhờ chứng tá các môn đồ. Lời khuyên đừng sợ hãi lần lượt dựa trên nhiều lý do. Trước tiên đừng sợ vì sứ điệp vĩ đại của Nước Thiên Chúa sắp được tỏ lộ... Bước đầu của “các điều mới" do Chúa Giêsu đem đến thật khiêm tốn vô cùng. Ai nấy đều tưởng dễ nghiền nát hạt giống nhỏ bé đó. Nhưng cái hiện nay đang sống trong âm thầm và thinh lặng, ngày kia sẽ được tỏ lộ cách vinh quang. Chúa Giêsu thực hiện sự nghiệp Người trong tư thế một tôi tớ khiêm hạ của Thiên Chúa... thế nhưng, Người sẽ tự mặc khải như niềm hy vọng của muôn dân (12, 17-21). Người nói trong bóng tối, nhưng đòi sứ đồ mình phải tuyên ra nơi ánh sáng. Điều Người rỉ bên tai, nghĩa là khuất mắt quần chúng (vì đám đônng không thể quán triệt sứ điệp Người trước cuộc Tử nạn Phục sinh và Hiện xuống), sứ đồ phải công khai loan báo trước mặt mọi người. Chúa Giêsu bất cần biết họ có được người chấp nhận hay không. Chính lời giảng dạy của họ sẽ luôn làm chứng về Tin Mừng cho Người; và Tin Mừng cuối cùng sẽ vinh thắng và chiếu sáng rạng ngời, như mặt trời buổi bình minh.
"Những kẻ giết được xác": Lý do đừng sợ thứ hai là sự sống đích thực của con người không thể bị xâm phạm. Các kẻ bách hại chỉ có thể giết (apokteinai) nhưng mình Thiên Chúa mới có thể diệt (apolosai) toàn thể con người. Sự sống thật (xác và hồn) thoát khỏi mọi cuộc tấn công. Nó được Thiên Chúa bảo đảm dứt khoát và không thể bị người đời giảm bớt hay cướp mất đi, ngay cả bằng việc tiêu trừ sự sống thân xác.
“Ngoài ý Cha các con": lý do đừng sợ thứ ba là: Thiên Chúa quan phòng hằng chăm sóc mọi tạo vật, kể cả những thứ vô nghĩa như loài chim sẻ. Nhưng sự quan phòng đó không phải là một định luật vô ngã của vũ trụ, song là sự trông coi có tính cách hữu ngã của Thiên Chúa hằng sống, Cha các con. Tuy nhiên, nếu chứng tá các môn đồ có thể đưa đến cái chết, thì đó không phải là ngoài ý muốn của Chúa Quan phòng, như thể Thiên Chúa, dầu âu yếm đứng bên giờ chết của vị tử đạo, vẫn không thể cứu thoát vị ấy được, nghĩa của đoạn này hoàn toàn khác. Matthêu muốn nhấn mạnh: dù đang chứng kiến cái chết của vị tử đạo? Thiên Chúa cũng không muốn tách cái chết đó ra khỏi thánh ý Ngài: sở dĩ Thiên Chúa phù giúp vị tử đạo chính là vì xét cho cùng, Ngài muốn cái chết đó. Hãy nói cho rõ hơn: Ngài không chấp nhận cái chết cách chung chung, lý thuyết, vì Ngài muốn con người sống và được cứu thoát; nhưng chính vì mong mọi người lắng nghe Tin Mừng, mà Ngài muốn có những Đấng tử đạo, là những kẻ Ngài hứa ban trong cùng một lúc cái chết bi thảm và ơn cứu rỗi.
"Ta cũng xưng kẻ ấy ra": Điểm đáng lưu ý là ở đây Chúa Giêsu không xuất hiện như là Thẩm Phán ngày sau hết, nhưng như Trạng sư biện hộ cho các tín hữu Người trước mặt Thiên Chúa Thẩm phán. Cả hai vai trò đều liên kết trong bản thân Người. Chúa Cha đã trao quyền xét xử cho Người (25, 31tt; 7, 23), nhưng chính Người lại đồng hóa với những kẻ tin tưởng cùng đi theo Người đến nỗi Người có thể đại diện cho họ (x. 10, 40; 18, 20; 25, 35tt).
KẾT LUẬN
Chúa Giêsu đã hơn một lần dùng kiểu nói đề phòng sau đây: "Hãy coi chừng” (7, 15; 10, 17...). Nhưng Người cũng bảo, như trong các câu này (3 lần): “đáng sợ". Cả hai chuyện đều cần thiết phải sáng suốt và khôn ngoan để nhận ra đối phương, phải khách quan lượng giá nguy hiểm đang đến; nhưng sau đó đứng vững giữa mọi cám dỗ và mọi cuộc tấn công. Đức tin xua đuổi sợ hãi và niềm ý thức rằng mình thuộc về Đấng Messia, mình phải chịu đựng số phận của mình như Đấng Messia sẽ giúp ta can đảm và vững lòng.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Trên đường đức tin, phải biết sẵn sàng đón nhận sự chống đối, phân rẽ, công kích, tố cáo. Phải biết thẳng tay loại bỏ những mộng ước dễ dãi về một công cuộc Phúc âm hóa đầy may mắn và tốt đẹp. Đừng sợ, nghĩa là phải chống đối, đấu tranh, kiếm tìm. Có trăm ngàn lý do để sợ: tiến bộ hay thủ cựu, khuynh hữu hay khuynh tá, bạo lực hay yếu hèn ... Tất cả đều hợp lực làm lu mờ chân lý. Giữa bao cảnh bạo tàn và gian manh láo khoét ấy, vang dội lời này: “Các con đừng sợ chúng".
2) Người ta có thể chất vấn mọi Kitô hữu: bạn lo sợ cho Nước Trời hay lo sợ cho xác thân, cho cuộc sống bạn? Nỗi lo âu của bạn là lòng nhiệt thành nung nấu hay ưu tư về chính bản thân? Sau cùng bạn quan tâm lo lắng cho tha nhân hay băn khoăn về cuộc đời của bạn? Nói cách khác, bạn sợ hay tin. Vì ở đâu còn sợ, ở đấy chưa có đức tin. Ở đâu còn nghi ngờ về tương lai, ở đó còn có sự nghi ngờ triệt để này? Thiên Chúa có thể cứu ta thực không? Phải chăng Ngài đã chết? Chắc gì Ngài lưu tâm đến ta? Không sợ là vững tin giữa cơn nguy hiểm rằng ngay cả tóc trên đầu ta cũng được đếm cả rồi.
3) Trong cuộc sống cụ thể mà Kitô hữu phải làm chứng về niềm tin mình mỗi ngày, thật khó phân biệt giữa sự gan dạ cần thiết với sự táo bạo nguy hiểm vô ích. Ta quá biết rằng mọi thái độ, cử chỉ đều có thể bị chỉ trích vì không gì tốt hảo hoàn toàn. Có thể đôi khi nên thinh lặng hơn là tuyên bố chẳng đúng thời đúng lúc; nhưng đừng thinh lặng vì sợ cho bản thân, vì sợ nguy hiểm cho thanh danh mình hay cho sự thoải mái bên trong. Hôm nay được gặp Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể, ta hãy xin Người giải thoát ta khỏi mọi sợ hãi và củng cố niềm tín thác cậy trông mà chỉ mình Người mới có thể ban được.
4) Việc Chúa quan phòng chăm sóc ta không có nghĩa là Ngài cất khỏi ta mọi khó khăn, nhưng là giúp đỡ ta qua mọi khó khăn gặp phải, để biến ngay cả cái chết thành một khúc ca tình yêu.
Thấy đám đông, Đức Giêsu động lòng thương xót, họ mệt mỏi rã rời như dẫn đàn chiên không người: TN 12-A50
Thấy đám đông, Đức Giêsu động lòng thương xót, họ mệt mỏi rã rời như dẫn đàn chiên không người chăn người liền kêu gọi 12 môn đệ mà Người gọi là tông đồ (nghĩa là được sai đi).
Nhưng trước khi sai họ đi "đến với những chiên lạc là Israel", Người còn nói với họ một "diễn từ sai đi", là diễn từ thứ 2 trong số 5 diễn từ chính của Đức Chúa Giêsu trong Phúc Âm thứ nhất. Sách Bài đọc chia ra hai bài, hôm nay và Chúa nhật tuần tới, nhưng không chia ra hoạt những nhắn nhủ các nhà truyền giáo:
Một đàng là những nhắn nhủ về sự dứt bỏ vô vị mà họ phải làm chứng, về cách họ phải cư xử khi được đón tiếp hay bị chối từ khi loan Tin Mừng (câu 9-15).
Đàng khác là những cảnh báo liên hệ đến sự bắt bớ mà họ sẽ phải chọn (câu 16-23) vì Thầy, nếu họ trung thành với sứ điệp của Người (câu 24-25): "Nếu chủ nhà đã bị coi là Belzebu, thì những người trong nhà sẽ còn bị xử tệ hơn". Hai câu cuối cùng này là cao điểm của bài diễn từ Cl Tassin bình luận: "Hai câu này nhìn sứ mạng " Kitô hữu như đồng bộ với thái độ của Đức Giêsu: cũng Người hiến mình cho đoàn chiên mệt mỏi lang thang, và chấp nhận những thử thách như Người, đó là sứ mạng đích thực của mọi Kitô hữu. Mười hai tông đồ vẫn là những mẫu mực không so sánh được về truyền giáo, không phải do những thành công, nhưng do các Ngài đã cùng Đức Giêsu cảm nghiệm đến cùng cảm tính định mệnh của các ngài.
2) Những người được sai đi của Đức Giêsu không được sợ nói.
Sau khi đã loan báo cho các môn đệ biết sự bắt bớ đang chờ họ và họ thấy rõ nguyên nhân của sự bắt bớ - căn tính sâu xa giữa Người và các môn đệ - Đức Giêsu hướng dẫn họ thái độ phải có khi gặp thử thách. Một tư tưởng hướng dẫn chạy xuyên suốt các lời Thầy, một điệp khúc tạo nên dấu chấm câu: “Các con đừng sợ!... Đừng sợ ! Đừng sợ gì cả…”
Đừng sợ, dám nói, vì lời họ nói không phải là lời của riêng họ nhưng là lời Đức Giêsu, lời có hiệu quả của lời Thiên Chúa. Do đó, môn đệ đừng mất can đảm nếu thành công trong hiện tại còn mỏng manh, thậm chí còn chưa thấy; như mặt trời mọc lên chiến thắng đêm đen, sứ điệp rồi cũng sẽ xuyên thủng tăm tối. Đừng sợ khi bị bắt bớ, vì nếu những kẻ bắt bớ chỉ có quyền trên sự sống dương trần (thân xác) chỉ mình Thiên Chúa nắm giữ đời sống vĩnh cửu và phán quyết của Người có thể huỷ diệt trần thế con người (cả xác lẫn hồn). Đừng sợ, vì Thiên Chúa, Đấng xét xử ta cũng là "Người Cha" chăm sóc mọi người, dù bé nhỏ đến đâu, và yêu thương từng người con bằng sự âu yếm của người mẹ: "Các con đáng giá hơn những con chim sẻ nhiều". Đối với những ai gắn bó sự nghiệp của họ với sự nghiệp của Người đến liều cả mạng sống, Đức Giêsu cũng hứa sẽ gắn bó với họ trong ngày phán xét. Người sẽ là luật sư biện hộ cho họ "Ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời, Ta sẽ tuyên xưng họ trước mặt Cha Ta trên trời”.
BÀI ĐỌC THÊM:
1) Trong bàn tay Thiên Chúa. (Mgr. L. Daloz, Le Règne de Cieux Siest approehé, DDB).
Với môn đệ được sai đi, Đức Giêsu không hứa hẹn một đời sống dễ dãi. Nhưng Người cũng không để các ông trắng tay. Người bảo đảm cho các ông có sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Người cũng trấn an các ông rằng từ nay các ông được Chúa Cha gìn giữ nên họ sẽ không lo gặp sự dữ. Chúng ta sống trong bàn tay của Thiên Chúa hằng sống, Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần. Loan báo Phúc âm đâu phải là của riêng của những bậc anh hùng, những con người có óc phiêu lưu mạo hiểm! Loan báo Phúc âm đòi có sự can đảm, có sức mạnh, nhưng không phải sự can đảm hay sức mạnh của riêng ta. Ta tìm thấy sự bảo đảm vẹn toàn ấy ở nơi Thiên Chúa. Dù bản chất ta yếu ớt, nhát sợ, ta vẫn có chỗ trong việc truyền giáo. Các tông đồ đã chẳng nhát sợ đó sao? Chính Thánh Thần Thiên Chúa trong ngày Lễ Hiện xuống đã ban cho họ sức mạnh để họ ra khỏi nhà, đến với mọi người. Thánh Phaolô tự phụ vì những yếu đuối của Ngài, vì qua những yếu đuối ấy, quyền năng Thiên Chúa được tỏ hiện. Ta là con của Người Cha trên trời, của Thiên Chúa sáng tạo và giữ gìn tạo vật của Người. Là con Thiên Chúa thì khác hẳn với chỉ là tạo vật "Người ta chẳng bán hai chim sẻ một đồng đó sao ? Thế mà không một con nào rơi xuống đất là không do ý Cha. Còn các con, ngay cả tóc trên đầu các con cũng đã được đếm rồi". Ta có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Người yêu ta như cha, như mẹ ta. Vì thế, Đức Giêsu luôn khuyên ta đừng sợ hãi . "Đừng sợ, các con có giá trị hơn chim sẻ kia nhiều".
Tuyên xưng niềm tin khi ta sống giữa những người đồng đạo, trong một cộng đoàn Kitô giáo thì thật dễ. Cho dù ở trong cộng đoàn, ta vẫn có tự do. Nhưng điều tối quan trọng, cực kỳ khó khăn đó là ta dám hành xử, ăn nói theo đức tin giữa một thế giới lãnh đạm, nghi kỵ hoặc thù ghét. Đức Giêsu đòi hỏi ta điều đó. Đức Giêsu sai môn đệ để họ đi rao giảng Nước Trời cho thế gian, chứ đâu phải chỉ để họ rao giảng cho nhau. Không đủ nếu ta chỉ mời người khác đến tham dự các buổi họp, thánh lễ vì ở đó, ta vẫn thường nói về Đức Giêsu Kitô, ta chẳng phải liều lĩnh gì cả, ta vẫn ở "nhà" ta, trong khuôn viên của ta. Nhưng cũng không cần phải ra ngoài đường phố mà rao giảng. Tuy nhiên, khi dám nói một lời trong xã hội ta sống, trong gia đình, với các bạn bè, các đồng nghiệp, "tại nhà họ", không khiêu khích, nhưng cũng không sợ hãi, đó là gieo hạt giống Nước Trời vào thúng bột trần gian . . . Đó là một liều lĩnh, nhưng lười biếng, im lặng còn là một liều lĩnh lớn hơn . . .
Lạy Chúa, xin hãy gìn giữ chúng con trong trung tín với Chúa. Chúng con chỉ đứng vững nhờ sức mạnh Chúa ban. Chúa là sự vững mạnh, là tảng đá cho chúng con nương tựa. Xin cất khỏi chúng con mọi sợ hãi loài người. Xin hãy tuyên xưng chúng con trước mặt Cha để Người ban cho chúng con đủ sức tuyên xưng Chúa trước mặt người đời. Xin cho chứng từ của chúng con là một bằng chứng cho mọi người thấy rằng Chúa chính là bảo đảm cho chúng con trước mặt Chúa Cha. Xin cho lời tuyên xưng đức tin của chúng con cho mọi người biết Chúa là Con yêu dấu của Chúa Cha. Khi chúng con sợ chống đối hay chế diễu, không dám tuyên xưng danh Chúa, xin hãy tha thứ cho chúng con, như Chúa đã tha thứ cho Phêrô. Nếu chúng con phản bội, thì Chúa vẫn một mực trung tín. Xin nâng đỡ chúng con để dù chúng con sợ hãi, tình yêu của Chúa vẫn là mạnh nhất. Để qua sự yếu đuối của chúng con, chúng con biết làm chứng về sức mạnh của ơn Chúa tha thứ.
2) Im hay nói ( G. Bessierè, Diêu si proche, DDB).
Ngày nay Kitô hữu nói về Thiên Chúa ít hơn xưa. Tuy nhiên, Đức Giêsu yêu cầu ta: "Hãy la lớn trên "mái nhà" điều gì đã "thì thầm vào tai”. Lời chúc dữ của Người: "Ai từ chối Ta trước mặt người đời, ta cũng sẽ từ chối họ trước mặt Cha Ta trên trời".
Im hay nói? Có nhiều loại im lặng. Im lặng sợ hãi, im lặng lãnh đạm, im lặng phản bội. Cũng có những im lặng mừng vui, im lặng sung mãn, im lặng yêu thương, im lặng dấu kín một bí mật. Những phút mãnh liệt nhất trong đời là những lúc "Không còn lời lẽ". Lúc ấy im lặng còn diễn tả hơn mọi lời lẽ: nó cho ta nghe thấy điều không diễn tả được. Làm sao trẻ em, và giới trẻ biết được Đức Giêsu nếu ta cứ im lặng mãi? Ta đề nghị niềm hy vọng nào nếu ta lặng thinh? Im lặng cần có từ ngữ mới có sức mạnh: nếu không có bản giao hưởng, làm sao nghe được sự im lặng tràn ngập căn phòng sau hợp âm cuối cùng?
Đức Giêsu đã chẳng nói đó sao: "Tất cả những gì che giấu sẽ được tỏ lộ. Tất cả những gì giấu giếm rồi mọi người sẽ biết. Phải chăng ta không cần như thánh Phaolô, nói "vào lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện" để rao giảng Phúc âm cho cả nhân loại qua mọi thế hệ?
Cần phải loan báo thứ sứ điệp vượt quá mọi từ ngữ và mọi giáo thuyết. Nhà khôn ngoan lớn tuổi viết sách Giảng Viên đã nói: "Có thời đã nói, có thời để im lặng. Những thời điểm này tiếp nối nhau trong cuộc đời con người cũng như trong Giáo Hội từ ngàn đời. Vì đôi khi ta nói quá nhiều, rồi sẽ tới ngày những từ ngữ biến nghĩa và chẳng còn "nói lên được điều gì nữa". Chính sự sống và sự im lặng để làm chín muồi những lời lẽ mới mẻ và tươi trẻ.
Ta đang ở vào một mùa lịch sử mà nhiều từ ngữ không nói lên điều gì nữa: vì đôi khi trong quá khứ người ta đã dùng sai từ ngữ, và vì ta đã bước vào một lối hiện hữu mới nơi mọi người đang thay đổi lối sống, lối suy nghĩ, diễn tả và truyền đạt. Mong sao Kitô hữu cố gắng mỗi ngày sống Phúc âm hơn. Thánh Thần của Đức Giêsu sẽ khơi dậy trong họ sự im lặng hoặc từ ngữ. Lời đầu tiên của họ vẫn luôn luôn là sự sống của họ. Còn những lời khác sẽ không ngừng tái tạo, từ thời đại này qua thời đại khác, mà không bao giờ bị sa lầy trong những từ ngữ bị thói quen làm cho lu mờ.