Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 14–A Bài 101-150 Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng

Thứ năm - 06/07/2017 06:10
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 14–A Bài 101-150 Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng
Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 14–A Bài 101-150 Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng

Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 14–A Bài 101-150 Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng
-----------------------------
Phúc Âm: Mt 11, 25-30: "Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu lên tiếng nói rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. - Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho.
"Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng". - Ðó là lời Chúa.
-----------------------------
TN 14-A101: Ai vất vả mang gánh nặng nề. 2
TN 14-A102: Hãy cầm lấy và đọc! 4
TN 14-A103: Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền. 7
TN 14-A104: TRI ÂN.. 10
TN 14-A105: “Hãy đến với Ta”. 16
TN 14-A106: Những kẻ bé mọn. 18
TN 14-A107: “Hãy đến với Tôi” (Bài giảng Chúa nhật XIV thường niên A) 20
TN 14-A108: Ách là hiền lành và khiêm nhường. 22
TN 14-A109: Suy niệm của Lm Trầm Phúc. 25
TN 14-A110: Thiên Chúa yêu thương người nghèo. 27
TN 14-A111: Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Minh. 30
TN 14-A112: Trở nên hèn mọn – AM Trần Bình An. 33
TN 14-A113: Học trường Giêsu - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ. 35
TN 14-A114: HÃY ĐẾN VỚI TÔI 38
TN 14-A115: ÁCH TA ÊM ÁI, GÁNH TA NHẸ NHÀNG.. 41
TN 14-A116: HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG.. 45
TN 14-A117: ĐÔI VAI 48
TN 14-A118: CHA ĐÃ GIẤU.. 53
TN 14-A119: Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà. 55
TN 14-A120: Gạn sạch tâm hồn – Lm. Ignatiô Trần Ngà. 58
TN 14-A121: Chúa Nhật 14 Thường Niên. 60
TN 14-A122: Nghịch lý thập giá Chúa Kitô -Lm Phêrô Hồng Phúc. 62
TN 14-A123: Hãy mang lấy ách của Tôi và hãy học cùng Tôi 64
TN 14-A124: Chú giải và suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông. 68
TN 14-A125: Chúa Nhật 14 Thường Niên. 75
TN 14-A126: Cha mặc khải 77
TN 14-A127: Hãy đến cùng Tôi 79
TN 14-A128: Càng cao cả càng cúi xuống. 82
TN 14-A129: Sống hiền hậu và khiêm nhường như Đức Kitô. 84
TN 14-A130: Chúa Nhật 14 Thường Niên. 89
TN 14-A131: Chúa Nhật 14 Thường Niên. 92
TN 14-A132: Anh em hãy học cùng Ta. 93
TN 14-A133: Hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. 96
TN 14-A134: Hiền lành. 98
TN 14-A135: Những kẻ bé mọn. 100
TN 14-A136: Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 102
TN 14-A137: KHÔNG CÓ LỜI NÀO ÊM TẠI VÀ MÁT LÒNG HƠN.. 108
TN 14-A138: TẤT CẢ HÃY ĐẾN VỚI TA.. 112
TN 14-A139: NHÀ CHÚA, KHÓA HỌC CỦA SỰ HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG.. 114
TN 14-A140: HÃY ĐẾN VỚI TÔI 116
TN 14-A141: LÀM ĐẸP LÒNG CHÚA CHA.. 118
TN 14-A142: HÃY NÊN BÉ MỌN.. 119
TN 14-A143: GÁNH NẶNG.. 122
TN 14-A144: SỰ THÁCH ĐỐ CỦA ĐỨC TIN.. 124
TN 14-A145: HỌC CÙNG GIÊSU.. 126
TN 14-A146: NƯƠNG TỰA BÊN CHÚA.. 128
TN 14-A147: HÃY TỰ MANG LẤY “ÁCH” VÀ “GÁNH” CỦA MÌNH.. 129
TN 14-A148: HÃY ĐẾN CÙNG TÔI 132
TN 14-A149: CÂU DANH NGÔN HAY.. 134
TN 14-A150: HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG- 136

----------------------------------
 

TN 14-A101: Ai vất vả mang gánh nặng nề


 (Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
 

Hãy đến với ta….!” Đối tượng của lời kêu mời tâm tình nhất Đức Giêsu từng làm là ‘những ai đang TN 14-A101


“Hãy đến với ta….!” Đối tượng của lời kêu mời tâm tình nhất Đức Giêsu từng làm là ‘những ai đang vất vả mang gánh nặng nề’. Nhưng họ là những ai? Câu trả lời không viển vông chút nào và rất cần thiết, vì nếu không xác định rõ, rất có thể chính tôi sẽ tự loại mình ra khỏi số đối tượng được Chúa kêu mời cách khẩn thiết nhất.

Tra cứu một số nhà chú giải kinh thánh để tìm đáp án, tôi đã khám phá ra điều đáng kinh ngạc. Ngoài ý nghĩa gánh nặng luật pháp mà người Do Thái thời đó phải gánh chịu, với vô vàn các nghi lễ và qui định đè nặng trên đầu trên cổ, căn cứ vào đoạn sách Công Vụ Tông Đồ 15,10, phần đa các tác giả, dựa vào Thánh Vịnh 38 (37), nhất trí coi ‘ai mang gánh nặng nề’ là những kẻ tội lỗi “Tội chồng chất ngập đầu ngập cổ, như gánh nặng vượt quá sức con (câu 5). Xin đan cử ra đây lời chú giải tiêu biểu của Barnes: ‘Không còn nghi ngờ gì nữa, đối tượng Ngài kêu mời chủ yếu là các tội nhân đáng thương, lầm lạc và quị ngã: những con người bị đè bẹp dưới gánh nặng của ý thức những lỗi lầm đã phạm, run rẩy trước hiểm nguy bị luận phạt, và tìm mọi cách để được giải cứu. Trước tình trạng đó, một lối thoát đã được mở ra. Đức Ki-tô kêu mời họ tới với Ngài, tin vào Ngài, và phó thác cho Ngài, và chỉ mình Ngài mà thôi, hầu được giải thoát và cứu rỗi. Thực hành điều này, Ngài sẽ cho họ an nghỉ - an nghỉ khỏi tội lỗi mình phạm, an nghỉ khỏi lương tâm cắn rứt, an nghỉ khỏi các luật pháp đáng khiếp sợ, và an nghỉ khỏi nỗi sợ hãi phải trầm luân muôn đời.’

Cuộc thổ lộ tâm tình nhất của Thánh tâm Giêsu (Thánh Phanxicô Sa-lê gọi là ‘heart speaks to hearts’) có đối tượng duy nhất là các tội nhân. Ai tự cho mình là thánh thiện, là đạo đức, là khôn ngoan thông thái… đều tự tách mình ra khỏi lời mời gọi này. Quả không sai khi Người dâng lời tạ ơn lên Chúa Cha vì ‘… đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn!’ Điều này hoàn toàn ăn khớp với lời Người từng tuyên bố ngay từ thời gian đầu của sứ vụ rao giảng: ‘Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năm’ (Lc 5, 31-32). Trong thổ lộ tâm tình này, tầng số mà hai con tim cùng rung lên, cùng đập để rồi gắn chặt lại với nhau là cực thấp cực trầm. Tầng số đó không gì khác hơn là khiêm hạ, khiêm nhường thẳm sâu. “Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”. Về phía Thiên Chúa, khiêm hạ có vẻ là điều không tưởng vì địa vị quyền uy tột bậc của ngài, nhưng qua Đức Giêsu trong việc nhập thể trở nên giống chúng ta mọi đàng, nó đã trở thành nét đặc sắc nhất của Thiên Chúa. Còn lại là phía chúng ta. Vẫn tưởng rằng khiêm nhường sẽ dễ lắm, nhưng thực tế không phải vậy. Kinh nghiệm cho thấy, gợi nhớ sự thấp hèn và tội lỗi của thân phận mình vẫn là điều cực kỳ khó khăn, kinh tởm, hầu như không thể vượt qua nổi đối với phần đa mọi người chúng ta. Thậm chí ngay trong nỗ lực sống lành thánh, nhiều khi ta vẫn còn thấy lởn vởn đâu đó nỗi sợ hãi phải nhìn nhận thân phận tội lỗi và thấp hèn của mình.

Lòng tôn sùng Thánh Tâm vì thế đòi nơi tôi điều kiện sine qua non là đi sâu vào con người vất vả gánh nặng của mình. Con tim tôi càng nặng nề, Trái Tim Chúa càng dễ dàng tiếp nhận và bao bọc lấy; đồng thời, trong cái lỗ vết thương sâu hoắm của tội lỗi và luận phạt, nó càng có khả năng đón nhận trọn vẹn lòng nhân từ và thương xót của Thiên Chúa. Vinh quang lớn nhất của Thánh Tâm Chúa chính là đây, “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen cha!”

Lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa được phổ biến sâu rộng trong thế kỷ 17 với thánh nữ Magarita A-la-cốc (1647-1690) đã dẫn tới tôn sùng lòng thương xót Chúa vào thế kỷ 20 với thánh nữ Faustina (1905-1938). Mong rằng hai ‘tôn sùng’ này không dừng lại ở một vài việc đạo đức, mà sớm trở thành nét nổi bật nhất của Tin Mừng (cả trong suy tư thần học nữa), để giúp Ki-tô hữu chúng ta khám phá ra dung mạo đích thực nhất của Thiên Chúa.

Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, qua vết thương do lưỡi đòng khoét sâu nơi con tim Chúa, thánh Gioan đã nhận ra tình yêu ‘làm của lễ đền tội’ (1Ga 4,10). Con biết mình chỉ có thể vào sâu trong Trái Tim Chúa khi chân thành thú nhận tội lỗi mình đã phạm. Xin cho con học thuộc bài học khiêm nhường mà Thánh Tâm Chúa là thày dạy lỗi lạc nhất. Xin dìm con ngập sâu trong tội lỗi mình để con suy tôn và thờ lạy Thánh Tâm Giêsu Tình Yêu cách chân thật nhất. Amen.

----------------------------------
 

TN 14-A102: Hãy cầm lấy và đọc!


(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
 

Chúa Giêsu không chỉ giảng dạy về đời sống đức tin và siêu nhiên mà còn dạy cách sống nhân bản. TN 14-A102


Chúa Giêsu không chỉ giảng dạy về đời sống đức tin và siêu nhiên mà còn dạy cách sống nhân bản. Những ai học theo giáo huấn của Người sẽ trở thành con người sống dễ thương, dễ mến và do đó sẽ thành công trong cuộc đời.

Sứ điệp Chúa Giêsu gởi đến Chúa nhật hôm nay là: “Anh em hãy học với Tôi, vì Tôi hiền lành và khiêm nhường” (Mt 11,29).

- Hiền lành là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo, không cứng cỏi. Hiền lành là nhân đức bao gồm tâm thế bên trong và phản ứng bên ngoài. Tâm thế bên trong luôn êm ái, hoà nhã, nghĩ tốt về người khác, yêu thương, khoan dung, thông cảm; phản ứng bên ngoài luôn nhẹ nhàng, tôn trọng.

- Khiêm tốn là chấp nhận đứng thấp, ở dưới như Gioan Tẩy Giả khiêm tốn “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé lại”.

Chúa Giêsu hiền lành, dễ thương trong lòng. Người luôn yêu thương người khác. Đặc biệt là những người bé mọn. Người luôn muốn và làm điều tốt cho mọi người. Người không lên án, không thành kiến với những người mà xã hội coi là xấu xa, tội lỗi. Lời nói và hành động của Người luôn toả ra sự dịu dàng, nâng đỡ, khích lệ, ủi an. Người không nặng lời, không kết án, Người sống bằng tình thương. Người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, Chúa Giêsu chẳng những dễ thương với người phụ nữ mà còn dễ thương đối với những người đã tố cáo chị ta. Những người này tự cho mình là công chính. Chúa Giêsu không la, không quát, không hét, không hò, Người chỉ thinh lặng cúi xuống hiền từ dùng ngón tay viết lên cát. Bị hỏi mãi Chúa mới trả lời: “Ai trong các ông sạch tội, hãy ném đá trước đi”. Họ rút lui bắt đầu từ những người lớn tuổi. “Tôi cũng không kết án chị đâu, chị hãy ra về và từ nay đừng phạm tội nữa” (x.Ga 8,1-11).

Chúa Giêsu dạy chúng ta sống hiền lành, dễ thương. Người khuyên chúng ta bắt chước người mục tử trong dụ ngôn “Con chiên lạc” (Lc 15, 4-7). Người mục tử không hề đánh đập, giận dữ, quát tháo, hay kéo lê con chiên lạc về mà lại tử tế đặt nó lên vai mình, vác về đàn. Chúa Giêsu cũng khuyên chúng ta bắt chước người cha trong dụ ngôn “Đứa con hoang đàng” (Lc 15,11-32). Người cha không mắng chửi đứa con đầy lầm lỗi trở về, cũng không cãi cọ, không xua đuổi mà lại ôm hôn và dọn tiệc ăn mừng. Chúng ta có thể kể rất nhiều ví dụ trong Phúc âm về sự hiền lành, dễ thương của Chúa Giêsu.

Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc đời khiêm nhường. Vì khiêm nhường nên Người không ngừng đi xuống. Từ trời cao, Người đã hạ mình xuống trần thế. Từ thân phận là Thiên Chúa, Người đã hạ mình xuống làm một người lao động bình thường. Là Thiên Chúa cao sang, Người đã tự nguyện xuống làm một người dân dã nghèo hèn. Là Đấng thánh thiện vô cùng, Người đã tự nhận lấy thân phận tôi đòi. Là Đấng Hằng Sống, Người đã tự nguyện chết khổ đau. Suốt cuộc đời, Người không ngừng cúi xuống những thân phận tăm tối, nghèo hèn, tội lỗi, bị loại trừ. Người đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Thiên Chúa đã quỳ trước mặt nhân loại, Thiên Chúa rửa chân cho con người. Ôi lạ lùng thay! sự khiêm nhường thẳm sâu của Thiên Chúa. Trong khi con người kiêu ngạo, muốn vươn lên làm Chúa thì Thiên Chúa lại hạ mình xuống làm người. Trong khi con người thấp hèn, muốn nâng mình lên bằng cách chà đạp người khác thì Thiên Chúa cao cả lại hạ mình xuống nâng con người lên. Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là hèn nhát mà trái lại là dũng mãnh cam đảm, hạ mình để phục vụ. Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nô lệ, nhưng trái lại là một cử chỉ đầy tình yêu. Hạ mình là con đường của Thiên Chúa. Khiêm tốn là khuôn mặt của Thiên Chúa. (ĐTGM Ngô Quang Kiệt).Vì Thiên Chúa khiêm nhường luôn tìm đường đi xuống nên những ai kiêu căng, tìm cách nâng mình lên sẽ chẳng bao giờ gặp được Người. Thiên Chúa khiêm nhường nên chỉ ai khiêm nhường, nhỏ bé mới gặp được Người. Vì thế, Chúa Giêsu đã “ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp lòng Cha” (Mt 11,25-26).

Trang Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu tha thiết mời gọi: Hãy học cùng Tôi vì Tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng. (Mt 11,29).

Vậy hãy ghi danh vào học trường Giêsu. Hãy học bài học hiền lành, dễ thương, không những chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa mà Thiên Chúa sẽ rũ sạch mọi vất vả, âu lo và chúng ta sẽ tìm được nguồn bình an cho tâm hồn (Mt 11,28). Hãy học bài học Giêsu, hãy học với Thầy Giêsu.

Augustinô là một thanh niên có tư chất thông minh nhưng lỡ đi lạc đường. Về phương diện trí thức, Augustinô ỷ mình thông thái, dùng kiến thức của mình để truy tìm những học thuyết uyên bác. Kết quả là lạc vào bè rối Manikê. Về phương diện luân lý, Augustinô sống buông thả theo những đòi hỏi của xác thịt, kết quả là một cuộc sống tội lỗi. Thế rồi một hôm, trong lúc tâm hồn đang trống rỗng, vô vị, Augustinô bỗng nghe một tiếng nói từ đâu đó vang lên: “Tolle et lege” (hãy cầm lấy và đọc). Augustinô thấy trước mặt một cuốn Kinh Thánh, Ngài cầm lên, mở ra và gặp ngay đoạn thư Thánh Phaolô gởi giáo đoàn Rôma: “Đừng sống theo xác thịt nữa, mà hãy sống theo Thánh Thần”. Cuộc hoán cải của Augustinô đã được dọn đường nhờ sự cầu nguyện và hãm mình của mẹ Ngài là thánh Monica, nhưng chính câu Thánh kinh này là yếu tố quyết định thay đổi cuộc đời Thánh nhân. Trở nên một giáo phụ, một triết gia, một thần học gia, một vị thánh lỗi lạc, rất mực thánh thiện của Giáo hội, Augustinô nhờ việc học hỏi về Chúa Giêsu qua Thánh kinh.

Chúng ta cũng hãy học với Thầy Giêsu qua Lời Chúa mỗi ngày. Yêu mến Lời Chúa, sống Lời Chúa để Lời Chúa biến đổi đời chúng ta sống theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Hãy học hỏi Tin mừng và hãy để Tin Mừng soi sáng lòng trí của mình. Hãy múc lấy sức mạnh từ ân sủng của Bí tích Hoà Giải và Bí tích Thánh Thể. Hãy siêng năng Chầu Thánh Thể. Đó là sứ điệp Lời Chúa gởi đến cho chúng ta trong Chúa nhật này.

Học với Thầy Giêsu suốt đời, lột bỏ những tự hào về khôn ngoan thông thái, sống hồn nhiên khiêm tốn như trẻ thơ, đó là điều cần thiết để mỗi người được Thầy Giêsu mạc khải và đưa vào thế giới của Thiên Chúa.
 

----------------------------------
 

TN 14-A103: Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền


KHI CÁI ÁCH MANG TÊN TÌNH YÊU

Kính thưa ông bà và anh chị em,
 

Trong những tuần lễ qua, cả hành tinh đang nóng lên cùng với quả bóng đang lăn trên các sân vận TN 14-A103


Trong những tuần lễ qua, cả hành tinh đang nóng lên cùng với quả bóng đang lăn trên các sân vận động tại quốc gia Brazil. Nước mắt và nụ cười, thành công hay thất bại, ở lại hay ra đi…tất cả đã làm nên một bức tranh tuyệt vời của cuộc sống, của xã hội, của kiếp người.

Có một điều không ai phủ nhận là, nét đặc trưng của kỳ world cup nầy chính là hình ảnh của bức tượng Chúa Cứu Thế, một biểu tượng của thành phố lớn Rio de janeiro, luôn thấp thoáng trên màn ảnh tv trong các chương trình world cup. Đó là chưa kể, trong mọi cuộc thi đấu bóng đá, hầu hết các cầu thủ của vùng Nam Mỹ, Trung Mỹ và một số các nước Châu Âu như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nhà, Croatia, Ý…mỗi khi ra sân hay rời sân, họ đều làm Dấu Thánh Giá, một cử chỉ, một biểu tượng của niềm tin vào Chúa Giêsu…

Mà không chỉ biểu tượng thôi đâu ! Cả câu chuyện của Thánh Kinh cũng được nhắc đến. Chẳng hạn như trong trận Hà Lan gặp Costa Rica, một bình luận viên trên kênh VTV3 đã ví von rằng: đội Costa Rica như một chàng Đa-vít tí hon đang chiến đấu với gã khổng lồ Goliat Hòa Lan…

Trong Kinh Thánh Cựu Ước, chàng chăn chiên Đa-vít, con út của Giê-sê, thuộc dân Ít-ra-en chiến đấu tay đôi với đại tướng Goliat của dân Philitinh, và đã chiến thắng ngoạn mục chỉ với vài viên đá cuội và chiếc ná. Tuy nhiên, trước đó, khi đối diện với tên Goliat, Đa-vít đã mạnh mẽ và xác tín tuyên bố rằng: “Mầy mang gươm, mang giáo, cầm lao đến với tao. Còn tao, tao đến với mầy nhân danh Đức Chúa các đạo binh là Thiên Chúa các hàng ngũ Ít-ra-en mà mầy thách thức…” (1 Sm 17,45).

Có lẽ đây là mô hình mẫu cho mọi cuộc chiến đấu của niềm tin mà Thiên Chúa đã vạch ra trên suốt chiều dài của lịch sử cứu độ. Ngài đã sử dụng những con người, những phương tiện xem ra bé nhỏ, giản đơn, nghèo hèn, để chiến thắng những đầu óc ngông cuồng, những trái tim kiêu căng hợm hĩnh. Một Môsê bé bỏng trôi nổi bồng bềnh trong cái thúng đã vươn lên chiến thắng Pharaô kiêu hùng…; một Juđitha liễu yếu đào tơ đã chặt đầu đại tướng Hôlôphecnê (Gđt 13, 1-17), một Esther hoàng hậu cùng với dân tộc Ít-ra-en đứng bên bờ vực thẳm của sự tiêu diệt, đã quật ngược thế cờ (Et 7, 1-10)… Và đến thời Tân ước, lại những chuyện lạ lụng, vĩ đại vẫn cứ được ký thác nơi những thân phận bé nhỏ nghèo hèn: Đức Maria, Thánh Giuse, các anh dân chài chất phác, thất học bên bờ hồ Gailiê, cô gái làng chơi Maria Mađalêna…Vâng, chính những con người bé mọn ấy, những thân phận khiêm tốn ấy đã làm cho công trình cứu độ vĩ đại của Thiên Chúa từng bước hiện thực trong lịch sử trần gian, đã mang Tin Mừng Cứu Độ giải sáng khắp thế giới.

Và trên hết, như cách diễn tả của sứ ngôn Gia-ca-ri-a trong Bài đọc 1 hôm nay, Đấng Cứu Thế là “Đấng chính trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ…”. Nhưng lại là Đấng “quét sạch chiến xa khỏi Ep-ra-im và chiến mã khỏi Giê-ru-sa-lem…”. Đó chính là hình ảnh tiên trưng về Chúa Giêsu, Đấng đã tiến vào Giê-ru-sa-lem cũng trong cung cách hiền lành như thế để hoàn tất sứ mệnh cứu thế bằng cái chết tủi nhục thương đau trên thập giá, một sự hạ mình khiêm nhượng thẳm sâu, một sự hiền lành cho đến mức cuối cùng.

Chắc chắn, chính trong cái trực cảm sâu sắc và đầy xác tín nầy, Chúa Cứu Thế đã thốt lên lời nguyện tạ ơn sốt sắng với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã dấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm nước Trời, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn…”.

Và như thế, bài học đầu tiên, xuyên suốt và cuối cùng mà Đức Ki-tô đề nghị với chúng ta hôm nay vẫn là hoán cải để trở nên khiêm hạ, bé nhỏ: “hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền lành và khiêm nhường”.

Thế nhưng, đối với nhiều người, chấp nhận đi con đường của Đức Ki-tô, chấp nhận thực hành bài học khiêm nhường và hiền lành của Chúa Cứu Thế, con đường của Tám Mối Phước Thật…vẫn luôn là một cái “ách”, một “gánh nặng” mà họ không thể mang nổi, hay nếu có mang, thì cũng trầy trật, dở dang, chẳng đem lại ích lợi gì. Bằng chứng là đã có biết bao người đã ra đi khỏi mái nhà Hội Thánh, đã chọn những bước chân tự do của Giu-đa Is-ca-ri-ốt ra đi trong “bóng tối” với 30 đồng bạc phản bội, thay vì ở lại nơi Bàn Tiệc Lý với Thầy và anh em.

Cũng y chang như thế, ngày hôm nay, có biết bao đôi vợ chồng đã vất đi cái “ách của bí tích Hôn Phối” mà họ đã long trọng cử hành để được được tự do chạy theo những xúc cảm và đam mê của riêng mình ; đối với họ đã “xưa rồi diễm ơi cái thứ hôn nhân một túp lều tranh hai trái tim vàng”, còn chăng chỉ là một “của nợ” phải thanh toán, một địa ngục phải thoát ra…. Biết bao bạn trẻ đã khức từ cái “gánh nặng của nhân đức khiết tịnh, trong sạch” để được tự do luyến ái trước hoặc ngoài hôn nhân ; biết bao những người mẹ, ông cha sẵn sàng vất đi mạng sống của chính con mình vì sợ “gánh nặng phải đẻ đau, nuôi dạy hay những phiền phức khác cho hạnh phúc cá nhân…”…

Nói chung, vẫn còn biết bao người Ki-tô hữu vẫn xem các giá trị của Tin Mừng và bao lề luật khác của Chúa và Hội Thánh như một cái “ách khó chịu” chẳng cần phải giữ, và mọi cuộc dấn thân để phục vụ cho Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh như một “gánh nặng nề” chẳng đáng để dấn thân…Bởi vì trên đôi vai và cái cỗ của họ không bao giờ xuất hiện một bóng dáng tình yêu như trên vai và trên cỗ của người cha Lê Văn Hồng, đã cõng người con là Lê Xuân Bách suốt 18 năm[1], hay đã lâu rồi, như trên cuộc đời thủy chung, tha thiết của tình yêu nơi người chồng Trương Văn Chín và người vợ tật nguyền đi xe lăn Nguyễn Thị Phương[2]…

Và như thế, với sứ điệp lời Chúa được đề nghị hôm nay, chúng ta lại được dẫn tới một bài học thứ hai: để học được với Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhượng thì trước hết và trên hết, chúng ta phải đón nhận tất cả trong tình yêu, phải nhận ra cái “ách” và cái “gánh nặng” trên đôi vai cuộc đời chính là “tình yêu”.

Thế nhưng, muốn được như thế, Lời Chúa hôm nay lại đề nghị: phải cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Bởi vì, chỉ có những ai mang Thần Khí của Đức Ki-tô thì mới thuộc về Ngài và mới có cuộc sống mới để bước đi trên những nẻo đường của Ngài (Bđ 2). Nói cách khác, chính Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi con tim và cuộc sống để từ hôm nay, cái “ách” và “gánh nặng” của Tin Mừng, của Chúa Giêsu sẽ mang một tên mới, đó là “Tình Yêu”. Amen.

--------------------------------
[1] Ông Lê Văn Hồng cõng con là thí sinh Lê Xuân Bách, bị teo cơ, lên Hà Nội thi vào Đại học. Ông đã cõng con như thế suốt từ 18 năm nay, kể từ Lê Xuân bách lên 4 tuổi. bản tin của trang mang vnExpress đăng ngày 5/7/2014.

[2] Chị Nguyễn Thị Phương, người phụ nữ nằm liệt giường suốt 9 năm trời, và anh Trương Văn Chín, một người đàn ông khỏe mạnh bình thường, đã vì tình yêu cũng như tình thương sâu sắc mà hy sinh cuộc đời, chấp nhận làm chồng của chị mặc dầu chị bị tật nguyền.

----------------------------------
 
 

TN 14-A104: TRI ÂN

 

Tri ân là một trong những cảm xúc mạnh mẽ nhất mà con người khả dĩ có được trong cuộc sống hàng TN 14-A104 Ephata


Tri ân là một trong những cảm xúc mạnh mẽ nhất mà con người khả dĩ có được trong cuộc sống hàng ngày của mình. Động thái tri ân liên quan việc đền ơn đáp nghĩa bằng một cách nào đó. Cựu nghị sĩ Hạ Viện Les Brown ( sinh 1945, Hoa Kỳ ) có cách ví von đơn giản mà thú vị: “Người ngồi trong bóng râm ngày hôm nay là nhờ đã trồng cây từ lâu về trước”. Người trồng đó có thể là chính mình hoặc một người nào đó, thường là người khác đã trồng cho chúng ta được hưởng.

Tri ân là biết ơn, trái ngược với vô ơn. Con người chẳng có gì, tất cả đều do Chúa ban, nhưng con người lại làm toán trừ rất nhanh: vô ơn ! Mười người cùi được Chúa Giêsu chữa lành, nhưng chỉ có một người quay lại để cảm ơn, người đó là người ngoại giáo ( Lc 17, 11-19 ); bao người được Chúa Giêsu thi ân, nhưng không có ai giúp Ngài khi Ngài phải vác Thập Giá, chỉ có một người ngoại đã làm điều đó: ông Simôn, người Kyrênê ( Mt 17, 32; Mc 15, 21; Lc 23, 26 ); không ai dám lên tiếng bênh vực Chúa Giêsu, chỉ có tướng cướp Dimas, người chịu đóng đinh với Ngài ( Lc 23, 40-41 ). Chúng ta vô cùng xấu hổ, thế mà vẫn ra vẻ “ta đây”. Thật tồi tệ !

Thi sĩ Ralph Waldo Emerson ( 1803-1882, Hoa Kỳ ) có nhận định khá độc đáo: “Ai trong đời rồi cũng phải cảm ơn những khiếm khuyết của mình”. Sai lầm mà phải cảm ơn ư ? Hãy nghe Tuân Tử lý giải: “Người chê ta mà chê đúng, đó là thầy ta; người khen ta mà khen đúng, đó là bạn ta; những kẻ vuốt ve, nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy”. Một dạng triết lý sống không phải ai cũng có thể hiểu ra và chấp nhận.

Cảm Ơn và Xin Lỗi là hai động thái cần thiết trong cuộc sống thường nhật, trong mọi lĩnh vực. Cảm ơn là tạ ơn, là cảm tạ, cảm ơn, biết ơn, nhớ ơn – tức là TRI ÂN. Sống trên đời, không ai là một ốc đảo, nghĩa là luôn có mối liên đới với người khác, bằng cách này hay cách khác, trực tiếp hoặc gián tiếp. Không ai lại không thọ ân của người khác, đơn giản nhất là nhờ ông bà, cha mẹ, anh chị em, hàng xóm, thầy cô, bạn bè... Tục ngữ nói: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đó là tiền nhân muốn nhắc nhở chúng ta về tâm tình tri ân.

Tri ân là biết tự trọng, biết tôn trọng người khác, là người có giáo dưỡng, là người khiêm tốn và trọng chữ tín. Trong cuốn sách “Những Lời Khai Thị Vàng Ngọc”, Tịnh Không Pháp Sư viết: “Hãy biết ơn những người khiển trách ta, vì họ giúp ta tăng trưởng định tuệ; hãy biết ơn những người làm ta vấp ngã, vì họ khiến năng lực của ta mạnh mẽ hơn; hãy biết ơn những người bỏ rơi ta, vì họ đã dạy cho ta biết tự lập; hãy biết ơn những người đánh đập ta, vì họ đã tiêu trừ nghiệp chướng cho ta; hãy biết ơn những người lường gạt ta, vì họ tăng tiến kiến thức cho ta; hãy biết ơn những người làm hại ta, vì họ đã tôi luyện tâm trí của ta; hãy biết ơn tất cả những người khiến ta được kiên định và thành tựu”. Những ý tưởng thật là cao thượng, ai sống đúng được như vậy thì đúng là vĩ nhân rồi !

Là một phàm nhân mà biết được như vậy thì thật đáng quý, đáng trân trọng. Có lẽ vì thế mà chúng ta không còn ngạc nhiên, và có thể hiểu được lý do Chúa Giêsu bảo chúng ta phải yêu kẻ thù: “Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em” ( Lc 6, 28 ).

Luật yêu của Chúa Giêsu khác Cựu Ước – tương đương mà dị biệt, có vẻ “ngược đời” lắm, nhưng đó lại là nghịch-lý-thuận. Cựu Luật dựa trên nền tảng công bằng: “Mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, mạng đền mạng” ( Xh 21, 24; Lv 24, 20; Đnl 19, 21 ). Đó là luật báo phục tương xứng. Thế là “huề cả làng”, nhưng như vậy còn ở mức tiêu cực. Còn Tân Luật dựa trên nền tảng yêu thương, mà yêu thương thì phải tha thứ. Rất lô-gích. Tân Luật chủ động và tích cực. Quả thật, hiểu cho sâu xa thì ai cũng là ân nhân của chúng ta, dù ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, nghĩa là chúng ta luôn phải biết ơn người khác. Đối với Thiên Chúa, chúng ta càng phải biết tạ ơn nhiều hơn và tạ ơn không ngừng. Tạ ơn phải được lặp đi lặp lại rất nhiều lần như một điệp khúc của bài trường ca vậy !

Thánh Vịnh gia đã tự vấn và tự trả lời: “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Người đã ban cho ? Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh Chúa” ( Tv 116 [114-115], 12-13 ). Tạ ơn Thiên Chúa là bổn phận của chúng ta, và công việc chúng ta thể hiện đó chẳng thêm gì cho Ngài nhưng lại sinh ơn cứu độ cho chính chúng ta. Kỳ diệu quá !

Khi đề cập động thái tạ ơn, chúng ta có thể nhớ lại chuyện mười người phong hủi, chuyện thật chứ không là dụ ngôn hoặc ngụ ngôn. Cả mười người đều được sạch, nhưng chỉ có một người ngoại bang trở lại tạ ơn Chúa Giêsu ( Lc 17, 11-19 ). Như vậy, chắc chắn chín người kia là “đạo gốc”, chính đạo chứ không tà đạo, thế nhưng người ta vẫn “vô tư” vô ơn vì có lẽ tưởng mình, là “số dzách”, là “number one”. Ái chà, “ngon” dữ nghen ! Câu chuyện này vừa “nhắc khéo” vừa “nguyền rủa” chúng ta về việc vô ơn bội nghĩa đối với Thiên Chúa và tha nhân.

Câu chuyện này cũng phần nào liên quan thánh ngôn của Chúa Giêsu khi Ngài nói về người môn đệ chân chính: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa ! lạy Chúa !’ là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” ( Mt 7, 21 ). Có những người nhân danh Chúa mà nói tiên tri, trừ quỷ, làm nhiều phép lạ,... nhưng Chúa Giêsu lại không hề biết họ, và Ngài “phang” thẳng thừng: “Xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác !” ( Mt 7, 23 ). Họ làm những việc “đạo đức tốt lành” mà Chúa Giêsu lại bảo là “điều gian ác”. Tại sao ? Bởi vì giả hình và khoe mẽ trước bàn dân thiên hạ, làm lấy tiếng khen, lấy bằng tri ân, lấy danh dự khi tên mình được khắc vào bia đá... Coi chừng “ý tứ” và “cách làm”, nếu không thì chúng ta rất có thể ở trong đám người ấy, và nếu như thế thì thật khốn nạn biết bao !

Còn những người khiêm nhường, họ biết mình và biết người, họ vui vẻ nhớ ơn chứ không ưu sầu. Thánh Vịnh gia lên tiếng mời gọi: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò ! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” ( Dcr 9, 9 ). Lý do để chúng ta vui mừng rất rõ ràng.

Thiên Chúa đến với chúng ta bằng nhiều cách, dạng phổ biến nhất là Hồng Ân. Thánh Ân của Ngài cũng lạ “phép lạ” luôn xảy ra trong cuộc đời hằng ngày của mỗi chúng ta – đơn giản mà cần thiết là không khí. Không cần phải rỉ tai nhau đi tìm “sự lạ” ở nơi kia, chỗ nọ. Phép lạ Thánh Thể hằng ngày không ngừng xảy ra ngay tại nhà thờ của giáo xứ hoặc cộng đoàn của mình, còn phải đi đâu mà tìm ? Vì thế, chúng ta không thể không biết tạ ơn Ngài. Ngài còn đến với chúng ta qua từng người chúng ta gặp hằng ngày, và rồi chúng ta cũng phải biết ơn những người chúng ta gặp – dù họ là ai, bởi vì ai cũng có cái để chúng ta học hỏi – nếu họ đúng thì mình theo, nếu họ sai thì mình tránh. Lợi cả đôi đàng !

Rất nhiều thứ để chúng ta phải tri ân. Chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài là Đấng cứu thoát chúng ta khỏi kẻ thù và làm cho chúng ta được sống bình an và an cư lạc nghiệp: “Người sẽ quét sạch chiến xa khỏi Épraim và chiến mã khỏi Giêrusalem; cung nỏ chiến tranh sẽ bị Người bẻ gãy, và Người sẽ công bố hoà bình cho muôn dân. Người thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất” ( Dcr 9, 10 ). Vả lại, “chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban” ( Ga 3, 27 ). Vậy thì tại sao không thể hiện lòng tri ân ? Có những thứ người ta gọi là ngẫu nhiên hoặc tình cờ, nhưng thực ra đó là ý Chúa quan phòng, cho phép chúng ta gặp điều này hoặc sự nọ.

Bài ca nguyện tuyệt vời và cần thiết là Điệp Khúc Tạ Ơn. Tình Khúc này phải được lặp đi lặp lại hằng ngày trong suốt cuộc đời: “Lạy Thiên Chúa con thờ, là Vua của con, con nguyện tán dương Chúa và chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời” ( Tv 145, 1-2 ). Thiên Chúa vui lòng thì có lợi cho chúng ta vô cùng. Tuy nhiên, chúc tụng Chúa khi cuộc đời chúng ta xuôi chèo mát mái thì không có gì đáng nói, nhưng thật “đáng nói” nếu cuộc đời chúng ta luôn gặp trắc trở, số kiếp luôn lận đận, gặp xui chứ chẳng hên, toàn là “họa vô đơn chí”.

Và Thánh Gióp là tấm gương sáng chói điển hình để chúng ta soi vào. Sau khi bị mất tất cả, từ tài sản tới con cái, bản thân ông cũng bị bệnh tật, mọi người đều xa tránh, nhưng ông vẫn tận trung với Thiên Chúa. Ông minh định rạch ròi: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa !” ( G 1, 21 ). Cả đời chúng ta cũng không thể so sánh với một góc nhỏ của Thánh Gióp. Có xách dép cho ông thì cũng chỉ đi xa xa thôi, mấy ai đủ “trình độ” mà đi gần ông Gióp. Có nhiều người đã nên thánh nhờ “xách dép” theo ông Gióp. Đau khổ ( tinh thần hoặc thể lý ) là “visa” để nên thánh đấy !

Ôi, Đức Tin của Thánh Gióp lớn lao quá ! Nhưng niềm tin đó không mơ hồ hoặc ảo tưởng, mà hoàn toàn chính xác, đúng như Thánh Vịnh gia nói: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên. Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng, để nhân loại được tường những chiến công của Chúa, và được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang” ( Tv 145, 8-12 ).

Chẳng có ai khác hoặc thần linh nào khác, mà chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, Ngài “đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên” ( 1Sm 2, 6; Kn 16, 13 ), Ngài “bắt phải nghèo và cho giàu có, hạ xuống thấp và nhắc lên cao” ( 1Sm 2, 6-7 ). Nghe có vẻ “oải” quá ! Nhưng không phải vậy đâu. Ngài vẫn “thành tín trong mọi lời Ngài phán, và đầy yêu thương trong mọi việc Ngài làm. Ai quỵ ngã, Ngài đều nâng dậy, kẻ bị đè nén, Ngài cho đứng thẳng lên” ( Tv 145, 13-14 ). Thánh Vịnh gia đã trải nghiệm và chân thành tạ ơn: “Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống” ( Tv 30, 4 ). Đúng là Hồng Ân chồng lên Hồng Ân nhờ Đức Tin quyện vào Đức Mến và Đức Cậy. Quả thật, tri ân Thiên Chúa là điều hoàn toàn hợp lý !

Tuy nhiên, trong cuộc sống của mỗi chúng ta lại thường xuyên có động thái trái ngược, biết mà không làm. Thế mới chết ! Do đó, Chúa Giêsu đã phải cảnh báo: “Tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn” ( Mt 26, 41; Mc 14, 38 ). Thân xác thật nặng nề, nặng hơn đá đeo ! Chúng ta vẫn lòng chai dạ đá, “máu” lắm, bởi vì chỉ “ưa thích chuyện hư không, chạy theo điều giả dối” ( Tv 4, 3 ).

Với kinh nghiệm “xương máu”, Thánh Phaolô chia sẻ: “Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn” ( Gl 5, 17 ). Thần Khí Chúa rất quan trọng trong đời sống chúng ta, vì chính Chúa Thánh Thần đã tác động và biến đổi chúng ta, như Thánh Phaolô nói: “Anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Đức Kitô thì không thuộc về Đức Kitô” ( Rm 8, 9 ).

Một cách cặn kẽ hơn, Thánh Phaolô giải thích: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới. Vậy thưa anh em, chúng ta mang nợ, không phải mang nợ đối với tính xác thịt, để phải sống theo tính xác thịt. Vì nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em thì anh em sẽ được sống” ( Rm 8, 11-13 ). Quả thật, chúng ta luôn là “con nợ” của Thiên Chúa và tha nhân. Nhưng mặc dù là “con nợ” cũng vẫn phải biết ơn, bởi vì mắc nợ cũng là một dạng mang ơn vậy. Thọ ân thì phải tri ân. Lẽ tất nhiên thôi !

Đối với Thiên Chúa, Hồng Ân lớn nhất mà chúng ta mắc nợ Chúa Giêsu, và phải tri ân Ngài, đó là ơn cứu tử của Ngài dành cho chúng ta, điều mà chính Chúa Giêsu đã minh định: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” ( Ga 10, 15 ). Vâng, chính cái chết của Ngài là Hồng Ân cao cả, không gì sánh bằng, và chẳng bao giờ chúng ta có thể đền ơn đáp nghĩa cho cân xứng. Nhưng Ngài không đòi hỏi gì nhiều ở chúng ta, mà Ngài chỉ cần chúng ta biết tin yêu Ngài và biết cảm tạ Ngài trong mọi hoàn cảnh – dù vui hay buồn, dù sướng hay khổ, dù hên hay xui. Điều kiện có khó gì đâu, thế mà chúng ta vẫn chỉ “hứa lèo”, có máu di truyền của Chú Cuội, hứa nhiều mà giữ chẳng bao nhiêu. Thiết tưởng cũng nên tự trách: “Tôi tồi tệ thật !”

Về động thái tri ân, chính Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta khi Ngài cất tiếng tạ ơn Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” ( Mt 11, 25-26 ). Ngài là Sư Phụ hiền lành và khiêm nhường ( Mt 11, 29 ) nên Ngài chỉ thích những con người “hèn mọn” mà thôi. Chắc chắn là thế !

Sau khi dâng lời tạ ơn, Chúa Giêsu cho biết: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho” ( Mt 11, 27 ). Ai khiêm nhường thì Ngài sẽ mặc khải cho những điều bí ẩn. Chắc chắn như vậy. Và Ngài luôn mời gọi mọi người, không trừ ai: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” ( Mt 11, 28-30 ).

Quả thật, ách của Ngài là ách êm ái, gánh của Ngài là gánh nhẹ nhàng. Không ai lại không vất vả và mang gánh nặng nề, không cách này thì cách khác, dù theo nghĩa bóng hoặc nghĩa đen, có nghĩa là không ai lại không cần đến Ngài để được Ngài nâng đỡ.

Cuộc đời có rất nhiều thứ chúng ta phải “gồng mình” mà chịu đựng, thậm chí có những lúc chúng ta cảm thấy mệt mỏi và hầu như kiệt sức. Cái ách thô ráp và cái gánh nặng trĩu ở đâu cũng có, dù trong gia đình hoặc cộng đồng tu trì. Nhưng có lẽ chúng ta chưa thực sự kề vai vào gánh vác Ách và Gánh của Chúa Giêsu nên chúng ta vẫn thường “than” đủ thứ, “thở” đủ điều, và “trách” đủ kiểu. Thế mới biết phàm nhân yếu hèn và khốn nạn quá sức, vậy mà vẫn “chảnh” lắm, lúc nào cũng chỉ rình nổi loạn mà thôi !

Đối với mỗi chúng ta, được sinh ra làm người là một đại ân, được có vóc dáng và tâm trí bình thường lại là một đặc ân nữa, được lành lặn và khỏe mạnh lại thêm một đại ân nữa. Hôn thế nữa, chúng ta lại được Chúa Giêsu cứu độ, đó là một đặc ân cao cả khác nữa. Ơn chồng lên ơn. Quá nhiều.

Như vậy, chúc tụng và tạ ơn là một trong các bổn phận ưu tiên hàng đầu mà chúng ta phải thực hiện đối với Thiên Chúa. Có nhiều cách thể hiện, một cách đơn giản là tránh tội: “Hãy run sợ, và đừng phạm tội nữa, trên giường nằm, suy nghĩ và lặng thinh” ( Tv 4, 5 ). Một cách khác cũng đơn giản là ca hát: “Hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa” ( Ep 5, 19 ).

Tương tự, con cái không thể nào trả hiếu cho cha mẹ, và cha mẹ cũng không đòi hỏi gì nhiều, chỉ cần con cái ngoan ngoãn là trả hiếu rồi.

Thật chí lý khi ca dao Việt Nam nhắn nhủ: “Ai mà phụ nghĩa quên công / Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm”. Quả thật, lòng biết ơn rất quan trọng, dù chúng ta đang đứng trên đỉnh núi Tabor hoặc Canvê. Thật dễ tạ ơn khi phấn khởi đứng trên đỉnh Tabor, nhưng rất khó tạ ơn khi ủ rũ sầu thảm trên đỉnh Canvê. Hằng ngày, một lời cảm ơn rất đơn giản nhưng lại rất thường bị lãng quên ! Cuộc đời chúng ta phải là bản “trường ca tri ân” vô tận, đối với ai cũng vậy mà thôi. Trong đó có những “nốt tình” khác nhau về trường độ và cao độ, mỗi “nốt” có vị trí khác nhau nhưng vẫn luôn hài hòa để tạo thành bản tổng phổ hoàn chỉnh để ca tụng Lòng Thương Xót bao la của Thiên Chúa dành cho chính mình, cho gia đình, và cho tha nhân.

Tri ân có thể là đền ơn. Việc đền ơn nên luôn được sử dụng trong cách hành xử. Theo nghiên cứu tâm lý, người ta cảm thấy hạnh phúc hơn nếu biết ơn về những điều tích cực trong cuộc sống ( tức là những gì mình có ) hơn là cứ lo lắng về những gì mình không có.

Nhà từ thiện William Clement Stone ( 1902-2002, Hoa Kỳ ) đặt vấn đề: “Nếu thực sự có lòng biết ơn, bạn sẽ làm gì ? Hãy chia sẻ với mọi người”. Còn nữ tác giả Betty Smith ( 1896-1972, Hoa Kỳ ) xác định: “Quan tâm tới mọi việc xung quanh cho dù đó là gặp lần đầu hay lần cuối, và rồi cuộc sống của bạn sẽ trở nên hạnh phúc”. Cuộc sống vốn dĩ nhiêu khê vì bao nỗi khổ, thế nên hãy đơn giản hóa và đi xuyên qua đau khổ để gặp được hạnh phúc ngay trong tâm hồn của mình, và như thế sẽ gặp được Thiên Chúa, Đấng là Nguồn Hạnh Phúc.

Lạy Thiên Chúa, con thật tồi tệ, bởi vì đã bao lần con vô ơn bội nghĩa với Ngài và với tha nhân. Con thành tâm xin lỗi Ngài. Xin ban thêm cho con được dồi dào ba đức đối thần và các đức đối nhân để con thanh thản bước đi khi vác thập giá hằng ngày, xin giúp con đủ sức lên tới đỉnh Canvê. Xin giúp con thể hiện tình yêu thương và tâm tình tri ân Ngài qua mọi người để con khả dĩ hoàn thiện như Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.

TRẦM THIÊN THU

----------------------------------
 

TN 14-A105: “Hãy đến với Ta”

 

Chúa mời gọi tất cả chúng ta: hãy đến với Ngài. Chúa hiểu rõ chúng ta hơn chính chúng ta hiểu mình. TN 14-A105


Chúa mời gọi tất cả chúng ta: hãy đến với Ngài. Chúa hiểu rõ chúng ta hơn chính chúng ta hiểu mình.Ngài muốn cất nhẹ gánh lo cho chúng ta, để chúng ta được thanh thản, phó thác và cậy trông Ngài. Ngài sẵn sàng chia sẻ và đồng hành để chúng ta được vơi nhẹ bao nỗi lo toan chất chồng.

Chúa muốn tất cả chúng ta hãy trút tất cả gánh lo đời người vào Ngài, bởi những lo toan có thể làm cho cuộc đời chúng ta “bị tràn ngập” và không có lối thoát. Người ta vẫn luận “Cuộc đời là bể khổ”, mà khổ thật. Bởi chẳng có gì là hạnh phúc thật, mà chỉ là sự lừa dối và bất ổn. Tìm cho mình một chỗ dựa, kiếm cho mình một lối thóat,chắc chắn chúng ta sẽ cảm thấy vơi nhẹ gánh lo và tìm gặp được bình an.

Ngài mời gọi chúng ta hãy đến với Ngài, bởi Ngài muốn tham dự, đồng hành và chia sẻ với cuộc đời mỗi người. Thực thế, Ngài là chỗ dựa an toàn và bình an nhất cho chúng ta. Chẳng ai thương và bảo vệ chúng ta, ngay cả cha mẹ hay người thân ở trần gian, ngoại trừ Chúa

Ngài muốn chúng ta hãy học với Ngài bởi Ngài hiền lành và khiêm nhượng thật trong lòng. Với giáo lý yêu thương của Ngài, Chúa muốn chúng ta hãy học tha thứ, đón nhận anh em, sống khiêm nhường và phó thác. Học với Ngài để chúng ta đón nhận và làm cho cuộc sống mình hài hòa với mọi người, sống hiệp nhất và nên giống Ngài.

Trong tình thương Thiên Chúa, chúng ta sẽ tìm được hạnh phúc thật mà trên trần gian không ai có thể ban tặng. Đón nhận tình thương của Thiên Chúa, được học nơi trường: khiêm nhường và hiền lành của Ngài, tâm hồn chúng ta như được yên nghỉ an toàn và tìm được con đường dẫn đến sự sống.

Khiêm nhường và hiền lành thật khi chúng ta biết chia sẻ, cảm thông và giúp đỡ anh em như Chúa, bởi tình thương của Ngài không loại trừ hay xua đuổi ai, và để xây dựng sự hiệp nhất trong anh em.

Khiêm nhường và hiền lành thật khi chúng ta không cướp công của người khác mà biết trân trọng và đánh gía đúng công sức của anh em mình, để tránh được căn bệnh ung thư di căn “cả vú lấp miệng em”, phí phạm hoặc đối xử kiểu “vắt chanh bỏ vỏ” trên chính anh em hoặc cộng sự mình

Khiêm nhường và hiền lành thật cũng chính là biết phục vụ với hết khả năng và biết tự ẩn mình như người đầy tớ bé nhỏ,để ngăn ngừa phần nào căn bệnh “say mê quyền lực, đánh bóng tên tuổi” bằng chính công sức của người khác, nhưng biết cảm thông và chia sẻ với những yếu đuối của anh em như của chính mình.

Khiêm nhường và hiền lành thật là không khoe khoang hay lên mặt với anh em mình dẫu rằng mình có hơn họ một mặt nào đó, bởi “Không có Thầy, chúng con chẳng làm được việc gì!”

Khiêm nhường và hiền lành thật còn là sẵn sàng chịu phần thiệt về mình để anh em được chia sẻ, được hạnh phúc. Có mất mát, có đau đớn, có chịu thiệt thòi mới hiểu và thương xót được anh em mình. Bởi trước mặt Chúa, chúng ta đã chẳng là gì và sẽ mãi mãi chẳng là ai cả!

Lời cầu nguyện:

Lạy Chúa, xin dạy chúng con sống khiêm nhường và hiền lành trong trường học yêu thương của Chúa. Xin dạy chúng con luôn biết cho đi mà không tính toán và củng chẳng bao giờ đòi hỏi quyền lợi. Xin dạy chúng con biết quên mình khi phục vụ, để phần lợi luôn thuộc về anh em, để Chúa được biết đến và lớn lên; còn chính chúng con “phải nhỏ lại”. Amen.

----------------------------------
 

TN 14-A106: Những kẻ bé mọn


Suy niệm:
 

Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin chúc tụng ngợi khen Cha... vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn”. TN 14-A106


Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin chúc tụng ngợi khen Cha... vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn”. Chữ bé mọn đây không phải là dáng người thấp bé hay là trẻ con. Nhưng là người có tấm lòng đơn thành như trẻ con, một tấm lòng biết mình là nhỏ bé trước Nước trời bao la, biết mình túng thiếu đơn độc mà bám vào tay Thiên Chúa quan phòng. Là những ai tự hạ tự khiêm phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa. Đã có một lần nào Chúa xác nhận “nếu các ngươi không trở nên giống trẻ thơ, các ngươi sẽ không được vào nước trời” (Mt 18,3).”Ai trong các ngươi lớn nhất là người bé nhỏ nhất” (Lc 9,48). “Hãy để trẻ nhỏ đến cùng Ta, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng” (Mc 10,14)

Tại sao Chúa Giêsu cứ lấy mẫu mấy em bé làm gương vậy? Chúng ta có thấy và có biết cái gì đã từng làm những bậc cha mẹ không thể cầm lòng được trước một đứa con nhỏ. Cái gì đã làm Chúa những người lớn đều ưa thích trẻ nhỏ? Thưa, đó chính là sự yếu đuối nhỏ bé. Vâng, chính cái sự yếu đuối nhỏ bé đó làm cho mọi người dễ thương dễ mến. Chính cái yếu đuối ấy của chúng ta là sức mạnh của tuổi thơ măng sữa. Đúng như lời thánh Phaolô “Lúc tôi yếu đuối nhất là lúc tôi mạnh mẽ” (2C 12,9-10). Nếu chúng ta trao phó hoàn toàn cho Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lo trọn vẹn cho chúng ta như một người mẹ nuôi con thơ.

Con thơ còn trẻ chẳng biết gì. Chúng không biết ăn, chúng chẳng biết mặc, không biết đi, không biết nói. Các bà mẹ lành nghề đều công nhận các bà cưng chiều đứa con mình khi chúng nhỏ xíu “Nâng như trứng, hứng như hoa”. Khi chúng lớn lên, khi chúng càng có thể tự túc, thì các bà bớt quyến luyến, hoặc khi chúng tự cao khinh dể mình. Tình mẫu tử rất gần với tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Thật sự không gì làm cho Thiên Chúa xa lánh loài người, cho bằng tính kiêu ngạo, tự mãn, tự phụ. Tính này phá hủy các nhân đức. Những mẫu gương tự cao tự đại vẫn còn đó, với Adong, Eva, Luxife, babel, với các nền văn minh xa xưa còn đâu...

Trong Tân ước, đã mấy lần Chúa Giêsu phàn nàn về nhóm biệt phái cũng mắc bệnh này, là tự cho mình chữ nghĩa đầy mình, đầy dẫy sự khôn ngoan, cho mình là đủ và tự tạo ra ơn cứu rỗi. Chúa Giêsu đã mấy lần cảnh cáo (Mt 23,13). Ai tin vào sức mạnh của mình sẽ bị Thiên Chúa để mặc và tất cả trở về hư vô cát bụi. Trái lại, kẻ tự khiêm sẽ được Thiên Chúa nhìn đến. Thánh Phaolô nói “Thiên Chúa thích dùng người khiêm nhường, bị thế gian bỏ chê để tỏ lộ mình ra” (1C 25,28t). Kẻ khiêm nhường được Thiên Chúa tha tội (Lc 18,14). Thánh nhân còn đặt khiêm nhường bên cạnh đức tin (Gal 5,22).

Thánh Augustinô nói “Đâu có khiêm nhường, đấy có đức ái”. Sự khiêm nhường là dấu chỉ thuộc về đức Kitô. Kinh thánh còn nói trong cơn thử thách ai hạ mình xuống dưới cánh tay toàn năng của Thiên Chúa thì đến bây giờ họ sẽ được Thiên Chúa tôn vinh như Đức Kitô và được thông phần vinh quang của con Thiên Chúa. Gương khiêm nhường của David trước Goliath, của Mẹ Maria, của chính Chúa Giêsu (Mt 11,29) của Têrêsa hài đồng, của một Cha sở xứ Ars.

Chúng ta hãy suy niệm câu nói của thánh nữ Têrêsa Lixieux “Chính Chúa Giêsu đã làm hết tất cả trong tôi, tôi chỉ trở nên bé nhỏ và hèn yếu”.

“Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức cho” (c.28)

Câu nói này hiểu được trên hai phương diện. Trên phạm vi siêu nhiên, Chúa Giêsu nói đến những lề luật Cựu ước và luật lệ mới của biệt phái không giải thoát con người tội lỗi để được cứu rỗi. Cho nên cần phải đến với Ngài và qua Ngài. “Không ai đến được với Thiên Chúa mà không qua Ngài”. Câu nói trên cũng hiểu được là những ai đau khổ bất an tinh thần vật chất cũng hãy đến để Ngài nâng đỡ.

Có một điều cần ghi nhận giữa những đau khổ ở đời, nếu chúng ta chỉ một mình loay hoay dậm chân tại chỗ, thì không giải quyết được gì. Một gánh nặng mà đã để xuống là khó mang đi nữa. Chúa Giêsu căn dặn chúng ta: “Hãy vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16,24). Và Chúa kêu mời “hãy đến với Ta...” (c.28). Chúng ta hãy đến với Chúa hôm nay để thực sự cảm nghiệm được sức nâng đỡ đó. Có một điểm cần lưu ý trong câu trên là Chúa nói: Ngài bổ sức cho chúng ta thôi, chứ Ngài không cất hết gánh nặng đi cho đâu. Chắc chắn Chúa Giêsu xuống trần gian, không phải vì mục đích để làm cho hết khổ đâu. Ngài qủa quyết là quê trời mới hết khóc than. Mặc dầu đã nhiều phép lạ chữa bệnh tật đau khổ phần xác, nhưng Chúa Giêsu chỉ muốn đem lại cho đau khổ một giá trị thực tiễn của Nước trời.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, chính Chúa đã dâng lời ngợi khen Cha vì đã mặc khải cho những kẻ bé mọn. Tinh thần nhỏ bé khiêm tốn luôn được Chúa đề cao, được mọi người trân trọng. Biết thế, nhưng Chúa ơi! Ở đời chúng con vẫn ham danh vọng, trọng quyền lợi. Chỉ có tình yêu Chúa mới uốn mềm lòng chúng con nên khiêm nhường bé nhỏ. Xin Chúa biến đổi tâm hồn chúng con trở nên nhỏ bé trước Thiên Chúa để chúng con được Ngài đổ đầy lòng chúng con hồng ân của Ngài.
Lạy Chúa, hôm nay là ngày thế giới xin ơn thánh hóa các Linh mục. Xin Chúa ban ơn nâng đỡ các Linh mục là những người Chúa chọn để chăm sóc đoàn chiên Chúa. Xin cho các Ngài ơn khôn ngoan thánh thiện. Một đời sống thánh đức sẽ toát lên qua việc cầu nguyện trong khiêm tốn. Để trong cầu nguyện, các Linh mục sẽ tiếp nhận được nguồn tình yêu và sức mạnh từ trái tim nhân hậu của Chúa hầu chuyển trao cho đoàn chiên sức sống dồi dào. Amen.

----------------------------------
 

TN 14-A107: “Hãy đến với Tôi” (Bài giảng Chúa nhật XIV thường niên A)

 

Hãy đến cùng Ta, hỡi tất cả những ai đang vất vả ». Chúa Giêsu hiểu thấu những gian truân của thân TN 14-A107


“Hãy đến cùng Ta, hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề !». Chúa Giêsu hiểu thấu những gian truân của thân phận con người. Người muốn đồng hành với họ để nâng đỡ họ trong hành trình trần gian.

Giữa biển đời đầy sóng gió ba đào, lời mời gọi "Hãy đến với Tôi" của Chúa Giêsu giúp chúng ta vững tin, nhờ đó ta có thêm can đảm nghị lực vươn lên trong cuộc sống. Bởi lẽ, có những lúc chúng ta cảm thấy đang đứng trước ngõ cụt của cuộc đời mà không tìm được lối thoát. Chúa Giêsu chính là niềm hy vọng và yên ủi cho những ai đang đau khổ và bế tắc trên đường đời. Hãy đến với Người. Người đang chờ đợi chúng ta.
 
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha. Không chỉ gồm những tâm tình thân thưa với Chúa Cha, lời cầu nguyện này còn nhằm mạc khải, soi sáng cho các môn đệ về sứ mạng thiên sai của Người. Người từ Chúa Cha mà đến, nên biết rõ Chúa Cha, cũng như biết rõ thánh ý của Ngài. Khi khẳng định những điều này, Chúa Giêsu cũng muốn giúp các môn đệ kiên vững lòng tin, để rồi, những lúc đối diện với khó khăn thử thách, các ông không ngã lòng.
 
Nếu chúng ta được mời gọi đến với Chúa, là vì trước hết Người đã đến với chúng ta. Lịch sử Cứu độ đã chứng minh Thiên Chúa chủ động đến với con người để can thiệp và giải thoát họ. Cuộc gặp gỡ với ông Môisen trong sách Xuất Hành đã chứng minh điều đó. Chúa nói với ông: "Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của Dân Ta bên Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than, vì bọn cai hành hạ. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai Cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật…" (Xh 3,7-8).
 
Mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Lời là bằng chứng của tình thương Thiên Chúa và việc Ngài chủ động đến với con người. Đức Giêsu khiêm nhường hạ mình mang lấy thân phận con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Thiên Chúa không còn chỉ ở trên cao, mà "hạ giới" làm người để gặp gỡ những mảnh đời bất hạnh. Người là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta".
 
Vì Thiên Chúa hiện diện với chúng ta, nên ngôn sứ Dacaria mời gọi chúng ta hãy vui lên. Ngôn sứ đã nhắc tới hình ảnh rất sinh động và bình dân, đó là các thiếu nữ Sion, trong trang phục truyền thống, múa nhảy reo hò chạy ra đón Đức Vua (Bài đọc I). Đây là ngày hội tưng bừng cho cả toàn dân. Đức tin Kitô giáo phải luôn diễn tả niềm vui và tinh thần của lễ hội, bởi lẽ Chúa hiện diện giữa chúng ta. Đó là niềm vui cao cả và tuyệt vời nhất. Tiếc thay, có nhiều người không cảm nghiệm được niềm vui này, nên cuộc đời của họ luôn âu sầu buồn bã.
 
Chúa đang hiện giữa giữa chúng ta, và Ngài mời gọi chúng ta đến với Ngài. "Hãy đến với Tôi". Đó vừa là lời diễn tả sự gần gũi thân tình, vừa là lời khích lệ những ai còn sợ sệt vì thấy mình bất xứng. Lịch sử ghi nhận biết bao người đã đến với Chúa và gánh nặng cuộc đời của họ đã trở nên êm ái nhẹ nhàng hơn. Đến với Chúa, họ vừa được tha thứ tội lỗi, vừa có sức mạnh vươn lên làm lại cuộc đời.
 
Hãy đến với Chúa để học sự khiêm nhường. Chúa Giêsu là bậc thày. Người dạy chúng ta về sự khiêm nhường. Cuộc đời và giáo huấn của Chúa luôn thể hiện nhân đức khiêm nhường. Vì khiêm nhường mà Chúa đã hạ mình làm người. Vì khiêm nhường mà Chúa đến với mọi người đau khổ. Vì khiêm nhường mà Chúa đã chết trên thập giá. Chúa dạy chúng ta hãy học dưới mái trường của Người, để sống khiêm tốn, hy sinh, vì tha nhân và vì công ích. Sống khiêm nhường hạ mình sẽ giúp chúng ta thanh thản vui tươi hơn, nhờ đó cuộc sống này sẽ tốt đẹp hơn.
 
«Hãy đến cùng Ta, hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề !». Chúa Giêsu hiểu thấu những gian truân của thân phận con người. Người muốn đồng hành với họ để nâng đỡ họ trong hành trình trần gian. Khi được thụ giáo tại ngôi trường của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ nên giống như Người đến nỗi trở thành đồng hình đồng dạng với Người. Hãy đến với Chúa Giêsu để được Người giáo huấn và dẫn đưa về cùng Chúa Cha. Bởi lẽ Người từ Chúa Cha mà đến. Người còn là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Đến với Chúa Cha để hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, đó cũng là đích điểm của cuộc sống chúng ta.
 
Đến với Chúa là một hành trình liên lỉ lâu dài. Trên hành trình này, có những cám dỗ cam go. Thánh Phaolô đã gọi đó là sự giao tranh giữa Thần Khí và tính xác thịt. Ai thiện chí sống theo Thần Khí thì sẽ chiến thắng mọi cám dỗ, trở nên hoàn thiện, diệt trừ được con người ích kỷ, sống đời sống mới trong Chúa Giêsu Kitô (Bài đọc II). Lối sống theo xác thịt luôn mang nhiều màu sắc lấp lánh hấp dẫn. Nó dễ làm cho chúng ta ảo tưởng lầm lạc. Xin Thần Khí Chúa soi sáng và hướng dẫn chúng ta biết khôn ngoan chọn lựa những gì đem lại ích lợi lâu bền, vĩnh cửu. Amen
 

+Gm Giuse Vũ Văn Thiên

----------------------------------
 

TN 14-A108: Ách là hiền lành và khiêm nhường


(Suy niệm của Lm. Jos. Quang Nguyễn)
 

Tục ngữ Việt nam có câu: ách giữa đàng mang vào cổ. Như thế người ta quan niệm cái ách như TN 14-A108


Tục ngữ Việt nam có câu: ách giữa đàng mang vào cổ. Như thế người ta quan niệm cái ách như cái gông, tượng trưng cho cái gì gánh nặng đè nén, làm cho con người mất tự do. Vậy mà hôm nay Chúa Giêsu nói hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta vì Ta có lòng hiền hậu và khiêm nhường trong lòng. Thế nhưng chúng ta hiểu thế nào là ách của Chúa và thế nào là hiền hậu và khiêm nhường của Chúa chưa? Trước hết, cái ách mà Chúa Giêsu nói ở đây có phải là cái ách của con bò được làm bằng gỗ không? Trong Thánh lễ khai mạc sứ vụ Giáo Hoàng, Đức Bênêđitô XVI nói rằng ách của Chúa chính là thánh ý mà chúng ta đón nhận. Và thánh ý Chúa chúng ta đón nhận không phải là gánh nặng bề ngoài đè nén và tước đọat quyền tự do của chúng ta. Trái lại, ách của Chúa nhẹ nhàng, bởi thánh ý của Chúa không làm chúng ta bị tha hóa nhưng thanh tẩy chúng ta dù phải đau khổ, đau thương hay súng sướng. Qủa thế, trong bài đọc 2, Thánh Phaolô nói: “Nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính”.

Vì vậy, Chúa Giêsu hôm nay nói hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành. Nhưng thử nhìn lại cuộc đời Chúa Giêsu, Chúa Giêsu có hiền thiệt không? Đọc Tin Mừng chúng ta thấy các Thánh sử kể Chúa tức giận quát mắng quỷ dữ cũng như con người. Thánh Máccô kể rằng “Đức Giêsu và các môn đệ đi vào thành Ca-phác-na-um. Ngay ngày sa-bát, Người vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư. Lập tức, trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: "Ông Giêsu Na-da-rét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!" Nhưng Đức Giêsu quát mắng nó: "Câm đi, hãy xuất khỏi người này!" (Mc 1,21-24). Hay là: “Gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái, Đức Giêsu lên thành Giê-ru-sa-lem. Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ” (Ga 2,13-15). Như vậy, Chúa Giêsu hiền lành cỡ nào? Như thế mình học nỗi không, theo nỗi không? Có lẽ chúng ta hiểu sai về sự hiền lành của Chúa rồi, bởi vì chúng ta đồng hóa sự hiền lành với nhu nhược. Hiền lành của Chúa Giêsu không phải là như nhược mà có lập trường, lập trường của chân lý. Cụ thể, Chúng ta nhớ lại đi, khi có một anh lính vả vào mặt Chúa Giêsu, Chúa không vả lại, dù Ngài chỉ cần thổi một phát anh đó bay xuống chín tầng đại ngục. Nhưng Ngài không vả, không thổi không phạt gì cả, mà Ngài cũng không im lặng, Ngài hỏi lại anh ta: nếu tôi nói phải sao anh đánh tôi, nếu tôi nói sai thì anh chỉ tôi sai chỗ nào. Rồi trong công cuộc rao giảng, Chúa Giêsu rao giảng giáo lý một cách hiền hòa, không chua cay, nóng nảy, bực tức hay thách đố những người chống đối, xuyên tạc và bắt bẻ Ngài. Đối với các môn đệ quê mùa, nóng tính, tham vọng. Ngài bình thản chấp nhận và nhẹ nhàng dạy bảo. Trước tòa án Do thái, người ta đổ vạ vu oan cho Ngài đủ điều, Ngài chỉ làm thinh. Tại dinh Philatô cũng thế, Ngài không nói nửa lời để minh oan, bào chữa, đến nỗi Philatô phải ngạc nhiên. Bị tát vào má, nhổ vào mặt, đánh trên lưng, đội vòng gai trên đầu, bị nhạo cười mắng nhiếc, Ngài chịu đựng tất cả, không một lời phản đối, bực tức hay phẫn uất. Trên thập giá, Ngài còn biện hộ cho những người làm khổ mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Như vậy sự hiền lành của Chúa Giêsu là sự hiền lành là tự chủ, kiên nhẫn, chịu đựng và tha thứ hết lòng hầu cho thánh ý Chúa Cha được nên trọn.

Bên cạnh nhân đức hiền lành, Chúa Giêsu khuyên bảo chúng ta học nơi Ngài gương khiêm nhường. Vâng, nói đến sự khiêm nhường chúng ta nghĩ ngay đến sự khiêm nhường của Con Một Thiên Chúa, Đức Giêsu là Đấng Messia khiêm nhường mà Dacaria đã loan báo rằng: “Hãy báo thiếu nữ Xion: kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ” (Mt 21,5). Qủa thế, Đức Giêsu Kitô không phải chỉ là một người phàm, mà còn là Chúa (Rm 8,3) Ngài ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã huỷ mình ra không đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta (Pl 2,6tt) nhờ đó chúng ta khỏi hư mất (Lc 19,10).

Lão Tử dạy quân tử trong phép xử thế rằng “Bậc thượng thiện giống như nước; nước thì hay làm lợi cho vạn vật mà không tranh, ở chỗ nào mà người ta đều ghét, nên gần với đạo. Ở thì hay lựa chỗ thấp; lòng thì chịu chỗ thâm sâu, xử thế thích dùng đến lòng nhân” (Đạo Đức Kinh, chương 66), vì vậy, “hãy lấy nhu thắng cương, nhược thấy cường. Lấy cường xử hạ, nhu nhược xử thượng” (Đạo Đức Kinh, chương 76). Qủa thật, khiêm nhường một đức tính không thể thiếu trong mọi tương giao và xử thế bởi; nếu “Tôi kiêu căng sắc xảo, tôi thành tôi sắc tối; mà huênh hoang huyền hoặc tôi thành tôi huyền tồi; tự ái tôi nặng nề tôi thành tôi huyền tội” (Cha Quang Uy, bài hát “đơn giản tôi là”), như thế đời tôi còn ý nghĩa gì? Chẳng đẹp như ước mơ!

Chúa Giêsu mục tử nhân lành, hiền hậu và khiêm nhường đã nêu gương cho chúng ta trước và “Người để lại mẫu gương cho chúng ta dõi bước theo, vì Người không hề phạm tội, chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà không hề ngăm đe, nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công minh” (1Pr 2,21-23). Như vậy, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải có lòng khiêm nhường thẳm sâu nhất, đó là phục vụ Thiên Chúa và tha nhân, dùng tình yêu mà hạ mình xuống để tôn vinh Thiên Chúa và cứu vớt mọi người. Cho nên, Đức nguyên Giáo Hoàng Bênêđictô khẳng định rằng: “Tình yêu trong sự thuần khiết và vô tư là chứng cớ tốt nhất về Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta tin và thúc đẩy chúng ta yêu thương” (Thông Điệp, Thiên Chúa là Tình Yêu, số 31).

Qủa vậy, tình thương của Kitô giáo được xây dựng trên nền tảng sự khiêm nhường, vì chưng, Thánh Tôma Aquinô nói: “Kiêu ngạo là thích được đề cao hơn người khác, và kiêu ngạo là khoe khoang, là cay đắng, là tàn nhẫn, là chỉ nghĩ đến bản thân, cho nên kiêu ngạo khiến ta đố kỵ nhau. Bởi vậy, muốn yêu thương phải bắt đầu để cho tâm hồn mình thấm nhuần sự khiêm nhường và hiền lành”. Cho nên, có khiêm nhường, chúng ta mới nhận được tình yêu của Chúa Kitô thúc bách chúng ta phục vụ yêu thương tha nhân một cách dễ dàng và thanh thản, không so đo tính toán và không vụ lợi. Vì vậy, Thánh Phaolô nói: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, hiến thánh và yêu thương, nên anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm cung, hiền hòa và nhẫn nại để dạy bảo nhau” (Cl 3,12) và “Hãy biểu lộ cho mọi người biết tình yêu Thiên Chúa giữa lòng thế giới, nhờ chứng tá đặc biệt trong sứ mạng của Đức Kitô được hoàn tất khi chúng ta tận hiến hoàn toàn cho Chúa; hãy nêu gương sáng cho mọi người cả Kitô hữu lẫn ngoài Kitô hữu; hãy khiêm tốn, hiền lành và yêu thương phục vụ, nhất là những người bé nhỏ” (Tông huấn Á Châu, số 44) ngõ hầu tất cả mọi người trên mặt đất hiệp nhất trong tình yêu Thiên Chúa nhờ giáo huấn của Chúa Giêsu Kitô, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Vậy, Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta sống nhân đức của Chúa đó là ách của Chúa, chính là sống thánh ý Ngài giữa cuộc sống dù có gian nan, dù khi sung sướng hãy luôn để Thánh ý Chúa được thực hiện nơi chúng ta hầu chúng ta sống dồi dào và bình an. Thứ hai đó là hãy tập sống hiền như Chúa Giêsu hầu tạo nên trong gia đình một bầu khí hòa thuận và êm ấm. Và cũng chính sự hiền lành sẽ bắt được một nhịp cầu cảm thông sẽ tạo được những mối liên hệ tốt ngoài xã hội giữa chúng ta với nhau bởi vì: - Giận quá thì mất khôn. Sự nóng giận là như dầu đổ vào lửa, làm cho lửa bùng cháy lên. Trong khi đó, sự hiền lành bao giờ cũng xoa dịu, cũng hàn gắn.

Lạy Chúa xin cho chúng con biết sẵn sàng mang lấy ách của Chúa và sống hiền như Chúa hầu chúng con càng ngày càng giống Chúa. Amen.

----------------------------------
 

TN 14-A109: Suy niệm của Lm Trầm Phúc

 

Một đôi khi trong các sách Tin Mừng, các thánh sử ghi lại những lúc Chúa Giêsu cầu nguyện với TN 14-A109


Một đôi khi trong các sách Tin Mừng, các thánh sử ghi lại những lúc Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha. Thường thì các ngài nói vắn tắt rằng, Ngài lên núi cầu nguyện thâu đêm, nhưng trong một vài trường hợp, các ngài ghi lại cả những lời cầu nguyện của Chúa, nhất là trong những lúc ở giữa các môn đệ. Những lời cầu nguyện này thường cho thấy mối liên hệ mật thiết của Ngài với Chúa Cha, một mới liên hệ mật thiết mà chúng ta không thể hiểu được, chứng tỏ rằng Chúa Giêsu với Cha Ngài là một. Ngài không làm gì ngoài ý Chúa Cha. Hôm nay Ngài cầu nguyện và ngợi khen Cha vì đã không cho những người khôn ngoan theo thế gian biết, mầu nhiệm Nước Trời, mà chỉ mạc khải cho những người hèn mọn. Vì sao? Vì những người khôn ngoan theo thế gian thường tự phụ, tưởng rằng mình đã khôn ngoan đủ và không muốn theo ý của ai khác. Họ khép kín trong sự hiểu biết của họ. Chúa chỉ yêu thích những tâm hồn bé mọn luôn rộng mở đón tiếp những gì tốt đẹp của tha nhân mà không đòi hỏi vòng vo. Thánh Phêrô khi tuyên xưng Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống, Chúa Giêsu đã nói gì? “Phêrô, anh có phúc vì không phải thế gian hay xác thịt đã cho anh biết điều đó, mà Cha trên trời đã cho anh biết. Phêrô chính là một tâm hồn bé mọn mà Chúa chấp nhận. Hơn nữa, chính Chúa Giêsu đã chúc phúc cho những người nghèo khó. Theo tiếng Do Thái, nghèo khó có nghĩa là thấp hèn, đơn sơ, không tự ái xét nét. Tâm hồn nghèo khó như một trang giấy trắng, luôn sẵn sàng đón nhận nét bút của Chúa. Họ vẫn giữ được nét ngây thơ của tuổi thơ, vì thế, Chúa cũng bảo chúng ta trở nên như trẻ thơ, hồn nhiên và trong sáng, và như thế Chúa Cha mới in lên đó những nét bút của Ngài, vẽ lên nét đáng yêu của Mầu Nhiệm Nước Trời. Mầu Nhiệm đó chính là Giêsu, Con yêu dấu của Chúa Cha, vì không ai biết rõ Người Con, trừ Chúa Cha; cũng không ai biết rõ Chúa Cha, trừ Người Con và kẻ người Con mạc khải cho. Chúa Con chính là hiện thân hữu hình của Chúa Cha. Vì thế, muốn hiểu biết Mầu Nhiệm Nước Trời, phải trở nên hèn mọn như Chúa Giêsu, vì Ngài đến trong thế gian trong thân phận một con người hèn mọn, mặc dù Cha tôi giao phó mọi sự cho tôi.

Tiên tri Dacaria đã nhấn mạnh đến sự thấp hèn của Chúa khi đến với con người. Ngay cả những lúc được tung hô vạn tuế, Ngài chỉ vào thành thánh ngồi trên lưng một con lừa con, vì Ngài đến thực hiện sứ mệnh cứu rỗi của Ngài trong khiêm hạ và nghèo khó. Tất cả những ai muốn bước vào Nước Trời phải đi vào con đường khiêm nhu và hèn mọn đó.

Vì thế, Chúa Giêsu lên tiếng kêu gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, vì tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”.

Chúng ta có nghe tiếng Chúa kêu mời không? Ai trong chúng ta không mang gánh nặng nề, lao đao trong cuộc sống? Ai trong chúng ta luôn sống trong bình an và hạnh phúc? Ngày nào mà không lo toan tính toán đủ mọi thứ? Hãy đến với Chúa, vì Chúa sẽ cùng với chúng ta vượt lên trên mọi khó khăn cực nhọc, thắng vượt những nặng nề của xác thịt, của đam mê vật chất, cho chúng ta được sống trong Thánh Thần là nguồn suối bình an và hoan lạc. Chúa không hứa sẽ cất gánh nặng cho chúng ta, Ngài chỉ hứa cho chúng ta được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Những ai đã nghe lời Ngài, đến với Ngài, đều đã cảm nghiệm được niềm hoan lạc của Thánh Thần, dù sống trong những hoàn cảnh hết sức cùng cực và nguy hiểm. Trong thế gian không có gì bảo đảm cho chúng ta cả. Một cơn bệnh hiểm nghèo, một tai nạn bất thần có thể phá đổ tất cả. Chúa Giêsu mới là nơi an toàn duy nhất thôi. Dù mọi sự quanh ta có thay biến thế nào, Chúa vẫn là nơi ẩn náu duy nhất. Chúa vẫn là thuẫn đỡ khiên che. Và những ai trông cậy vào Chúa sẽ không bao giờ thất vọng.

Chúng ta vẫn được vinh dự ăn lấy Chúa, có thể là mỗi ngày, thì chúng ta còn sợ gì những lao nhọc cực khổ? Chúng ta đã được nuôi dưỡng bằng mình và máu Chúa, đã mang Chúa trong con người thì có gì mà phải e sợ lo lắng? Chỉ khi nào chúng ta tách rời ra khỏi tình yêu Chúa, chúng ta mới sợ, vì lúc đó chúng ta chỉ còn là yếu đuối và mong manh. Tiền bạc và quyền lực thế gian không thể bảo đảm hạnh phúc của chúng ta. Chỉ có Chúa thôi.

Nhưng đến với Chúa, không chỉ là lo hạnh phúc cho chính mình, mà là để đến với anh em. Nếu Chúa là nơi nương ẩn cho chúng ta, chúng ta cũng có thể là nơi nương ẩn cho những người anh em khốn khổ khác, những người chưa biết Chúa là nguồn bình an của họ. Khi đã mang Chúa trong tâm hồn, chúng ta sẽ là sứ gỉả của tình yêu Chúa cho mọi người chung quanh. Đó là điều Chúa mong muốn. Vì Chúa đã thương chúng ta, chúng ta phải yêu thương anh em, đó là lời khuyên nhủ của thánh Gioan. Mầu Nhiệm Nước Trời chính là mầu nhiệm của tình yêu muôn thuở của Chúa đối với nhân loại. Những người hèn mọn đã được mạc khải Mầu Nhiệm Nước Trời, phải dấn thân yêu thương như Chúa đã yêu, nếu không, giữ đạo là một điều vô ích. Người ta sẽ không thể hiểu một người Kitô hữu mà không biết yêu thương. Thánh Gioan cũng nói: “Ai nói mình yêu mến Chúa mà không thương yêu anh em là kẻ nói dối”… Vì Thiên Chúa là Tình Yêu”.

Chúa Giêsu lại buộc chúng ta học một bài học duy nhất mà chúng ta có thể tìm thấy, đó là: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng”. Một bài học duy nhất. Trong  Tin Mừng, chỉ có một lần duy nhất Chúa bảo chúng ta phải học với Ngài. Chúng ta có thực sự học bài học đó không? Hiền lành và khiêm nhượng là hai đức tính hiếm hoi trong xã hội loài người. Ai cũng muốn được một chỗ đứng trong mặt trời. Ai cũng muốn danh giá, quyền lực. Ai cũng muốn “có danh gì với núi sông”. Chỉ có Chúa Giêsu dạy chúng ta khiêm tốn và hiền lành. Điều kiện tất yếu của tình yêu. Yêu mà không khiêm nhường là tình yêu giả hiệu, và yêu mà không hiền lành là tình yêu dối trá. Chúng ta đến với anh em không phải để đòi hỏi mà để cho đi. Và cho đi thì phải hiền lành và khiêm tốn, thì việc cho đi mới trọn vẹn. Đó mới là tình yêu đích thực. Hãy nhìn Chúa Giêsu  hiền lành và khiêm tốn, chúng ta mới hiểu thế nào là yêu thương.

----------------------------------
 

TN 14-A110: Thiên Chúa yêu thương người nghèo



(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.)
 

Người đời thường coi trọng người khôn ngoan giầu sang quyền quý, nhưng Tin Mừng hôm nay TN 14-A110


Người đời thường coi trọng người khôn ngoan giầu sang quyền quý, nhưng Tin Mừng hôm nay cho thấy Thiên Chúa yêu thương người nghèo, và mặc khải những gì kín ẩn cho những người bé nhỏ nghèo hèn.

1. Thiên Chúa yêu thương cả những người khôn ngoan

Những người khôn ngoan thông thái, học cao hiểu rộng, thường được mọi người tôn trọng. Người ta thường hiểu rằng những người này dễ dàng đón nhận chân lý, và hiểu biết những điều mà những người bình dân ít học không hiểu được. Tuy vậy, Tin Mừng hôm nay cho thấy Đức Yêsu tạ ơn Thiên Chúa Cha, vì Ngài đã dấu những điều kín ẩn với những người khôn ngoan quyền thế, nhưng lại mặc khải cho những kẻ bé mọn.

Người “bé nhỏ” được Thiên Chúa mặc khải ở đây, là những người có tinh thần mở rộng, sẵn sàng đón nhận sự thật, sẵn sàng để được dạy dỗ từ bất cứ ai, sẵn sàng đón nhận chân lý từ bất cứ người nào. Những người “khôn ngoan thông thái” là những người cho mình là người hiểu biết, không sẵn sàng mở lòng học nơi người khác vì họ cho rằng họ hơn người khác, được học hơn người khác, hiểu biết hơn người khác, thông minh hơn người khác. “Tạ ơn Cha vì Cha đã che dấu những người khôn ngoan thông thái nhưng mặc khải cho những người bé mọn nghèo hèn”. Không phải Thiên Chúa không yêu thương và không mặc khải cho những người khôn ngoan giầu sang, nhưng vì những người này không thể đón nhận những gì Thiên Chúa mặc khải khi họ cho rằng họ không có gì để học nơi những người “bình thường” như Đức Yêsu.

Thiên Chúa yêu thương tất cả mọi người. Ngài yêu thương cả người khôn ngoan giầu có quyền năng cũng như những người nghèo. Ngài làm mặt trời mọc trên kẻ dữ lẫn người lành. Đức Yêsu tạ ơn Cha, vì những người nghèo đã mở lòng đón nhận điều Thiên Chúa mặc khải qua Ngài.

2. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa

Theo kinh nghiệm, không phải những người “có học” lập gia đình với nhau là có lối sống văn minh và đời sống hạnh phúc. Kiến thức và mức độ trưởng thành về đời sống nhân bản là hai lãnh vực khác nhau. Kinh nghiệm cho thấy có những người có bằng cấp, ăn nói rất giỏi, lý luận vững chắc nhưng lại có đời sống nhân bản không cao lắm. Với những người “hữu tài mà vô đức”, ai sống với họ quả là một bất hạnh. Một người có tài mà không có đức là một mối họa cho xã hội nhiều hơn là một người vô đức nhưng bất tài.

Một người có học, có thể học biết nhiều để nói về Thiên Chúa, học biết những điều những người khác hiểu về Thiên Chúa. Tuy vậy, không phải tất cả những người có học đều là những người hiểu biết và gặp gỡ Thiên Chúa hơn những người ít học. Lời Chúa viết trong thư thứ nhất của thánh Yoan: “Ai yêu thương thì biết Thiên Chúa, ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”. Một người có học thường nói giỏi về điều mình học, nhưng không hàm chứa sống điều đó hơn người khác. Một người học thần học, không luôn luôn hàm chứa người đó yêu mến Thiên Chúa hơn những người bình dân không được học nhiều về thần học; một người học về tâm lý, không luôn luôn hàm chứa người đó có cách cư xử đẹp lòng người hơn người không học tâm lý.

Biết và sống là hai lãnh vực khác nhau. Một người có thể biết hay nói giỏi nhưng lại sống rất dở. Một người có thể có bằng cấp thần học, nhưng lại “mất đức tin”. Một người có thể có tiếng là Kitô-hữu nhưng lại sống không giống như một Kitô-hữu: “không phải tất cả những kẻ nói Lạy Chúa Lạy Chúa là được vào nước Thiên Chúa, nhưng là kẻ làm theo ý Thiên Chúa.”

3. Hãy mang lấy ách của Ta

Có một số người cho rằng “là Kitô-hữu” là một bất lợi, vì họ phải giữ mười giới răn nên không được ăn trộm ăn cắp, không được lang chạ vợ chồng, phải đi lễ ngày Chúa Nhật, phải sống lương thiện, không được thù ghét nhưng phải sống yêu thương. Tuy nhiên, suy nghĩ của những người này không đúng, vì lối sống của Kitô-hữu là lối sống mang lại cho người ta hạnh phúc đích thực. Người ta không thể sống hạnh phúc, nếu người ta không sống theo lương tâm, không ăn ngay ở lành, không sống yêu thương.

Cái ách của Đức Yêsu, chính là lề luật của Thiên Chúa, là những điều Đức Yêsu dạy. Sống theo điều Đức Yêsu dạy, theo lề luật của Thiên Chúa, cũng đòi người ta phải hy sinh, phải chống lại những xu hướng bình thường của xác thịt. Tuy nhiên, khi làm như vậy, người ta sẽ sống bình an; những người sống bên cạnh người đó cũng cảm thấy an toàn hơn; và người ta sẽ hạnh phúc hơn.

Lý tưởng mỗi người, là chính Đức Yêsu Kitô. Đức Yêsu đã sống an bình, Ngài đã chỉ cho con người cách sống đem lại hạnh phúc đích thực. Lối sống của Ngài, làm con người sống hạnh phúc không chỉ ở đời sau, nhưng ngay ở đời này nữa. Lối sống của Ngài, không chỉ làm Ngài sống an bình hạnh phúc, nhưng giúp người khác sống an bình và hạnh phúc nữa.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Theo đạo, có là một gánh nặng đối với bạn không? Tại sao?

2. Đâu là điều tuyệt nhất của đạo đối với bạn?

3. Xin bạn so sánh cuộc sống của bạn và cuộc sống của Đức Yêsu về khía cạnh kinh tế, tương quan xã hội, cảm nghiệm hạnh phúc, và ao ước làm cho thế giới này tươi đẹp hơn.

----------------------------------
 

TN 14-A111: Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Minh


“Thiên Chúa mặc khải mầu nhiệm Nước Trời cho những kẻ bé mọn”

I. Dẫn vào phụng vụ lời Chúa:
 

Sau khi khiển trách những thành ven biển hồ đã không tin Ngài vì cậy vào sự thông thái của mình TN 14-A111


Sau khi khiển trách những thành ven biển hồ đã không tin Ngài vì cậy vào sự thông thái của mình, Chúa Giêsu lên tiếng tạ ơn và chúc tụng Chúa Cha đã mặc khải mầu nhiệm nước trời cho những kẻ bé mọn, tức là những người “nghèo trong tinh thần” mà Ngài đã nói trong bát phúc: những người tội lỗi, những kẻ ít học.

Ngài còn nói: “vì ý Cha muốn an bài như vậy”. Nghĩa là thái độ hoặc tin hoặc cứng tin mà Chúa Giêsu gặp chẳng phải là chuyện may rủi, cũng chẳng phải do tài năng hoặc bất tài của Ngài, mà là chương trình khôn ngoan của Thiên Chúa: Ngài luôn ưu ái những kẻ bé mọn và hạ bệ những hạng khôn ngoan thông thái tự  cao.

Con người có thể khước từ Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa thì không bao giờ từ bỏ con người: Ngài luôn mời gọi con người trở về để lãnh nhận ân sủng và sự sống của Ngài. Thiên Chúa mời gọi mỗi người không phân biệt, nhưng để đáp trả con người có thể có một trong hai thái độ: thái độ của những kẻ bé mọn khiêm tốn để cho Chúa dạy dỗ; và thái độ của những kẻ thông thái tự cao, cho mình là nhóm nhỏ tách khỏi đại đa số dân chúng. Những kẻ thông thái được Chúa Giêsu trực tiếp nhắm đến trong Tin Mừng hôm nay là nhóm biệt phái đang đứng trong hàng lãnh đạo sinh hoạt Tôn Giáo và chống đối Chúa. Họ cho rằng chỉ cần am tường luật Môsê trong Kinh Thánh cũng như những tập tục truyền khẩu là con người có thể đến với Chúa: họ tự phụ mình biết Thiên Chúa, nhưng thực ra họ lìa xa Ngài.

Kinh Thánh, nhất là Tân ước hay đối lập kẻ nghèo hèn bé nhỏ với người giàu sang quyền thế, và người nghèo hèn bé mọn thường được đề cao. Chính Đức Maria trong bài ca “Magnificat” cũng đã thốt lên: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc 1,52-53).

II. Đức Giêsu hân hoan dâng lời tạ ơn và ca tụng Chúa Cha

Hôm nay, Chúa lại nói trong bài Tin Mừng: con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm nước trời, nhưng lại mạc khải cho những kẻ bé mọn  (Mt 11,25).

Người bé mọn là người sống khiêm tốn đơn sơ chất phác, dễ dàng tin vào lời dạy dỗ khôn ngoan vì hứa hẹn thành tín của Thiên Chúa, không thắc mắc nghi nan, không kiêu hãnh tự mãn mà biết tìm tới chân lý và thuận phục ý Chúa.

Chúng ta cần trở nên những người bé mọn theo tinh thần Phúc âm, để cảm mến tin theo và sống hiệp thông với Thiên Chúa. Một con người khiêm tốn có thể có đức tin sâu xa hơn một nhà thông thái. Đức tin là một hồng ân cần được lãnh nhận hơn là kết quả của sưu tầm trí thức của con người. Thánh Têrêsa Avila, tuy không học hành nhiều, nhưng đã có kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa và đã trình bày kinh nghiệm thiêng liêng của mình một cách tốt đẹp, đến nỗi đã được đặt làm tiến sĩ Hội thánh, vì giáo huấn của thánh nữ để lại là kho tàng thiêng liêng quí báu giúp mọi thành phần Giáo hội đến với mầu nhiệm Thiên Chúa.

Dĩ nhiên, ở đây Chúa Giêsu không có ý loại trừ những bậc khôn ngoan thông thái, nhưng chỉ có ý cảnh tỉnh những ai cậy dựa vào sự thông thái của họ mà tự mãn chối bỏ niềm tin vào Đức Kitô sẽ không gặp được Thiên Chúa, không thể đạt được tới sự hiệp thông với Thiên Chúa và được cứu rỗi.

Nói chung con đường Chúa Giêsu  mạc khải để giúp con người đến với Thiên Chúa chính là tâm hồn đơn sơ khiêm tốn.

III. Đức Giêsu mời gọi lắng nghe sứ điệp của Người (c.28-30)

Một tư tưởng nữa của Tin mừng hôm nay đó là lời kêu gọi những kẻ đói khát, những ai mệt nhọc hãy đến với Ngài: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề hãy đến cùng Tôi, Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” và “anh em hãy học với Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.”

- Trong ngôn ngữ Thánh Kinh “gánh” chỉ lề luật.

- “Mang lấy ách” là một kiểu nói bóng của các Thầy Rabbi xưa quen dùng, hàm ý nhận ai làm Thầy.

- Ách và gánh của Chúa Giêsu là đạo lý Tin Mừng, đạo lý này bao gồm 3 điểm:

* Tin: Thụ giáo để trở thành môn đệ.
* Khiêm nhường: là thái độ của người môn đệ đối với Chúa.
* Hiền lành: là thái độ của người môn đệ đối với tha nhân.

- Học với Chúa Giêsu là học được tính hiền lành và khiêm tốn.
- Luật của Ngài là luật yêu thương.
- Bởi thế ai mang lấy ách của Ngài và học với Ngài thì tâm hồn người đó sẽ gặp được bình an.

Những kẻ vất vả mang gánh nặng mà Tin Mừng hôm nay nhắc đến được các nhà chú giải hiểu là những con người đơn sơ khiêm tốn, sẵn sàng để Thiên Chúa dạy dỗ hướng dẫn, như được nói đến trong đoạn Tin Mừng trước đó.

Tâm hồn họ đã sẵn sàng, giờ đây Chúa Giêsu mời gọi họ đến với Ngài để được Ngài nâng đỡ bổ sức cho, để Ngài giải thoát khỏi gánh nặng – Gánh nặng nào? Đó là gánh nặng của lề luật mà các nhà thông luật chất trên vai những con người đơn sơ, hèn mọn. Họ bó gánh nặng lên vai người khác, còn chính họ thì không muốn động ngón tay vào, như lời Chúa trách cứ thái độ giả hình của những người biệt phái, tinh thần vụ luật, vụ hình thức đã làm cho những vị lãnh đạo Do Thái giáo không còn có quả tim thông cảm nữa.

Chúa Giêsu mời gọi dân chúng đến với Ngài để được Ngài giải thoát khỏi gánh nặng và được nâng đỡ bổ sức. Chống lại những người biệt phái, Chúa Giêsu đề ra một cái ách mới cho những ai chấp nhận Ngài. Đây chẳng phải là không còn lề luật, bởi vì giáo huấn của Chúa Giêsu đòi hỏi không thua gì lề luật của Môsê. Nhưng điều làm cho luật của Chúa trở thành êm ái đó là tình yêu, và những kẻ tuân giữ luật Chúa được sức mạnh tinh thần nâng đỡ an ủi, đó là sức mạnh của Thánh Thần mà Ngài đã ban cho các môn đệ để họ tuân giữ luật Chúa, và như vậy luật Chúa trở nên nhẹ nhàng, dễ chu toàn.

Người tín hữu không lẻ loi một mình, không tự sức mình tuân giữ luật Chúa. Hàng ngày họ được nuôi dưỡng bằng chính Mình Máu Thánh Ngài và được ban cho tràn đầy Thánh Thần. Sống theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, họ sẽ cảm nghiệm được rằng đời sống đức tin với tất cả những hệ lụy, những đòi buộc của nó sẽ không còn là gánh nặng, mà là niềm tin và sức mạnh trong mọi biến cố, mọi hoàn cảnh cuộc đời.

Xin Chúa cho chúng con biết lắng nghe lời mời gọi đến với Chúa, tin tưởng vào Chúa và lấy tình yêu đáp trả tình yêu để “ách Chúa trở nên êm ái và gánh Chúa trở nên nhẹ nhàng cho chúng con”. Vì chỉ nơi Chúa, chúng con mới kín múc được niềm vui và sự bình an đích thực.

----------------------------------
 

TN 14-A112: Trở nên hèn mọn – AM Trần Bình An

 

Năm 1979, trên đường trở về từ Oslo, sau khi nhận giải Nobel Hòa Bình, mẹ Têrêsa Calcutta dừng lại TN 14-A112


Năm 1979, trên đường trở về từ Oslo, sau khi nhận giải Nobel Hòa Bình, mẹ Têrêsa Calcutta dừng lại tại Roma. Các ký giả chen chúc chờ đợi gặp mẹ trong khuôn viên nhỏ bé của ngôi nhà cộng đoàn các nữ tu Thừa Sai Bác Ái ở Monte Celio. Mẹ Têrêsa không để cho các ký giả tấn công. Trái lại, mẹ tiếp họ như những người con. Mẹ nhẹ nhàng đặt vào tay mỗi người một ảnh đeo Đức Mẹ Vô Nhiễm. Các ký giả ráo riết bao vây mẹ để chụp hình và để phỏng vấn. Một ký giả táo bạo hỏi:

- "Thưa mẹ, năm nay mẹ 70 tuổi. Khi mẹ qua đời thế giới cũng sẽ như trước! Vậy đâu có gì thay đổi sau bao nhiêu cực nhọc?" Mẹ Têrêsa đăm đăm nhìn chàng ký giả trẻ tuổi và nở một nụ cười thật tươi, nụ cười như một cái vuốt ve trìu mến, rồi mẹ từ tốn nói:

- "Anh thấy đó, tôi không bao giờ nghĩ rằng mình có thể thay đổi thế giới. Tôi chỉ tìm cách trở thành một giọt nước trong, một giọt nước lóng lánh rạng ngời Tình Yêu Thiên Chúa, thế thôi. Anh cho là quá ít sao?" Chàng ký giả trẻ tuổi lúng túng. Các ký giả khác đứng im không nhúc nhích. Mẹ Têrêsa thản nhiên tiếp tục cuộc đối thoại:

- "Anh cũng nên cố gắng trở thành một giọt nước trong, như thế, sẽ có hai giọt nước trong. Anh lập gia đình chưa?".

- “Dạ rồi,” chàng ký giả đáp.

- "Vậy anh cũng nên nói với vợ và như thế chúng ta sẽ là ba giọt nước trong. Anh có con chưa?"

- Thưa mẹ, ba đứa!

- "Tốt lắm. Vậy anh cũng nên nói với các con anh, và như thế, tất cả chúng ta sẽ là 6 giọt nước trong! (Sr Jean Berchmans Minh Nguyệt. Mẹ Têrêsa Calcutta)

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Chúa Giêsu cảm tạ, ngợi khen Đức Chúa Cha đã thương yêu mặc khải cho những kẻ bé mọn mầu nhiệm Nước Trời. Mẹ Têrêsa Calcutta cũng tự nhận mình bé mọn, chỉ là một giọt nước trong, một giọt nước long lánh rạng ngời Tình Yêu Thiên Chúa, dù Mẹ đã làm biết bao kỳ công giúp đỡ người nghèo khổ tại Ấn Độ và khắp nơi trên thế giới.

Hèn mọn bản thân

Khi Chúa Giêsu giáng sinh tại Bêlem với dáng dấp hài nhi bé bỏng yếu đuối, thì những kẻ chăn chiên, những mục đồng bé mọn lại là những người đầu tiên được vinh dự đến thăm Hài Nhi. Đến khi đi rao giảng, Người mời gọi mọi người hãy sống đơn sơ, ngây thơ, trong trắng, chân chất, thật thà, thân thiện, hòa nhã như trẻ em, để được Ơn Cứu Độ: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không quay trở lại, mà nên như trẻ em, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.”(Mt 18, 3)

Bí quyết cải lão hoàn đồng không phải trẻ lại thân xác mau hư nát, mà canh tân, đổi mới tâm hồn, bỏ đi những thói hư tật xấu, toan tính, lọc lừa, tất cả cái khôn ngoan thế gian, mà sống vô tư, phó thác hoàn toàn vào Chúa Quan Phòng, như em bé âu yếm nép vào lòng mẹ che chở.

Trở nên hèn mọn như Mẹ Maria tự cảm nhận qua Kinh Maginificat: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới,” chính là gương mẫu hoàn hảo cho toàn thể Kitô hữu noi theo, để xứng đáng ân hưởng tình yêu Chúa.

Hèn mọn với tha nhân

Trở nên bé mọn với tha nhân là khiêm nhường, hạ mình xuống, nhu mì, nhân ái, xóa tan đi cái tôi tự cao, tự đại, mà tình nguyện coi mình là người đầy tớ phục vụ tha nhân, như Đức Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. “Vậy nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.” (Ga 13, 14)

Trở nên bé mọn là hiền lành và nhẫn nhục, nhường nhịn, nhân ái, không còn kiêu căng, ngạo mạn, củng cố địa vị, chỗ đứng, so đo, ganh đua, kèn cựa với bất kỳ ai. “Ai muốn kiện tụng hầu đoạt chiếc áo cánh của ngươi, hãy nhường cả áo ngoài cho họ. Ai bắt ngươi đi một dặm đường, ngưoi hãy đi với nó hai dặm nữa. Ai xin ngươi cứ cho, họ muốn vay mượn ngươi đừng từ chối.” (Mt 6, 40-42)

Trở nên hèn mọn là vui lòng chịu đựng những sự khốn khổ do cường quyền, ác nhân áp bức, hành hạ, tra tấn, bỏ tù, sát hại, bức tử vì danh Chúa. “Đừng chống cự với người ác. Trái lại, nếu ai tát má bên phải ngươi, hãy đưa má kia cho họ nữa.” (Mt 6, 39)

Thánh Phaolô cũng hết lòng khuyên nhủ sống khiêm hạ: “Đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình.” (Pl 2,3)

Hèn mọn với Thiên Chúa

Noi gương Đức Giêsu, Người trở nên hèn mọn trước mặt Đức Chúa Cha, hóa thân làm phàm nhân, người Kitô hữu cũng nhìn nhận mình là tạo vật hèn mọn, chẳng là chi cả trước Thiên Chúa, như bắt chước người thu thuế đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mặt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng:” Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.“ ( Lc 18, 13 )
Hoặc khi làm được bất cứ việc chi tốt lành, hãy nhận lấy thân phận hèn mọn, đầy tớ bất xứng mà thưa cùng Chúa, như Người đã từng dạy: "Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm."(Lc 17, 10)

Thánh Phêrô còn minh định thêm về đức khiêm nhường: “Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường. Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định.” (1Pr 5, 5-6)

Khi một viên chức cao cấp của chính phủ Ấn Độ chúc mừng Mẹ Têrêsa được trao giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1979, thì Mẹ vui vẻ đáp lại: “Tất cả vì vinh quang Chúa!”

“Người khiêm nhượng như hạ mình sát đất, không còn ngã xuống đâu nữa. Người kiêu ngạo như leo trên tháp cao, rất dễ nhào và ngã nặng khủng khiếp.” (Đường Hy Vọng, số 517)

Lạy Chúa Giêsu, luôn hiền hậu và khiêm nhường, xin ban cho chúng con biết sống hèn mọn ngay với bản thân, với tha nhân và nhất là với Thiên Chúa cao cả, để có hiệp thông vào mầu nhiệm Nước Trời.

Lạy Mẹ Maria, kính xin Mẹ dạy chúng con noi gương Mẹ, trở nên đầy tớ hèn mọn, để được Chúa đoái thương nhìn đến. Amen.

----------------------------------
 

TN 14-A113: Học trường Giêsu - Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

 

Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay là lời chúc tụng tạ ơn của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha. Khi TN 14-A113


Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay là lời chúc tụng tạ ơn của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha. Khi Chúa cầm lấy chén, tạ ơn (x. Mt 26,27); Lời tạ ơn diễn tả tâm tình của tạo vật đối với Đấng Tạo Hóa. Chúa Kitô thường quen tạ ơn. Người tạ ơn vì biết trước rằng Chúa Cha đã nhận lời. Người tạ ơn vì sức mạnh uy quyền toàn năng của Thiên Chúa hiển hiện nơi Người để Người tỏ uy quyền toàn năng của Đấng Tạo Hóa ra trước mặt thiên hạ. Người tạ ơn vì công trình cứu chuộc Người đã hoàn tất, và Người tạ ơn vì việc Người làm để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh.

Như vậy, hiện tại hóa hy tế đời đời của Chúa Kitô trên thập giá trong Thánh Lễ được hiểu như là một hành động tạ ơn cao cả nhất. Chính trong nghĩa đó mà từ "Thánh Thể" là hành động tạ ơn được nên trọn vẹn. Chúa Giêsu đã dâng hiến thân mình thay cho mọi tạo vật trên thế giới. Người cũng mời gọi các tạo vật phải tạ ơn Đấng Tạo Hóa cho xứng.

Tiếp theo hành động tạ ơn là lời Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đến trường Giêsu và học bài “Hiền Lành Và Khiêm Nhường”. Bài đọc I cho thấy, Đấng Messia mà Giacaria nói tới trong Cựu Ước, Đấng ấy không đến trong quyền uy với vũ khí hủy diệt, nhưng đến với một thứ vũ khí đặc biệt là “hiền lành và khiêm nhường”. Vua hòa bình ngồi trên lưng lừa, không đến để giết chết mà để cứu sống (x. Dcr 9,8-10).

Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu tạ ơn Chúa Cha vì Ngài quí chuộng những kẻ bé mọn, hiền lành và khiêm nhường. Chính Ngài đã mạc khải cho họ, trong khi lại giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy (x. Mt 11,25-30).

Nhân dịp này, Chúa Giêsu cũng khuyên những người bé mọn đó hãy “mang lấy ách của Chúa” và “hãy học cùng Chúa” bài học: “Hiền lành và khiêm nhường” trong cuộc sống hằng ngày để làm môn đệ Chúa.

Hiền lành, theo nguyên ngữ Hy lạp được dùng trong Kinh Thánh thì nó có nghĩa là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo, cứng cỏi. Như thế hiền lành phải có cả bên trong lẫn bên ngoài. Bên trong thì phải êm ái, hòa nhã, yêu thương, khoan dung, thông cảm. Bên ngoài thì phải nhẹ nhàng, không có hành động cứng rắn hay thô bạo. Hiền lành thì phải tránh tính nóng nảy. Hiền lành hay hiền hậu là đức tính tốt lành của người có lòng thương người, không độc ác, nhưng có đức hạnh và hay làm điều thiện.

Lịch sử minh chứng, con người ở mọi nơi mọi thời thường say mê quyền lực và muốn thống trị, sai khiến người khác theo ý mình, nên theo một số người thì hiền lành và khiêm nhường có thể bị coi như một thái độ hèn nhát, nhu nhược. Trái lại, cũng có rất nhiều người cho rằng, người có bản lĩnh vững vàng cao thượng mới có thể thực hiện được nhân đức khiêm nhường và hiền lành, họ đáng được ca tụng.

Hiền lành và khiêm nhường ngày nay không còn được đánh giá cao như xưa. Trước kia, lời khen ngợi tốt nhất mà ta có thể trao tặng cho người khác khi gọi họ là “người hiền lành khiêm nhường”. Nhưng ngày nay, bạo lực lại phổ biến hơn hiền lành dễ thương.

Người hiền triết và khôn ngoan, thường khó đi vào trong các mầu nhiệm Nước Trời, vì họ không mở lòng mình ra để đón nhận các mạc khải của Thiên Chúa; Thiên Chúa không ngừng mạc khải chính mình, nhưng họ thì lại tự tin vào hiểu biết của chính mình; vì thế, mạc khải của Thiên Chúa không làm họ ngỡ ngàng được. Trái lại, người đơn sơ như trẻ nhỏ lại đón nhận được mạc khải của Thiên Chúa; họ giống như tấm bọt biển khô hấp thấm nước vậy, họ ngỡ ngàng và thán phục trước mạc khải của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, cũng có trường hợp, họ là học giả khôn ngoan, nhưng khiêm tốn trước Thiên Chúa, họ có thể hiểu biết về Thiên Chúa.

Ngược lại với thái độ của những kẻ tầm thường chỉ biết hành động theo tình tư dục, những bậc hiền nhân quân tử có cái nhìn khác. Những kẻ tầm thường không có cái suy nghĩ và hành động như các vị đó.

Thánh Francois de Sales nói: “Tất cả đều được chinh phục bởi hiền lành chớ không phải bạo lực”.

Nhà hiền triết Mạnh Tử nói: “Thiên đạo vô thân. Thường dữ thiện nhân (Đạo trời không riêng một người, Luôn gia ân cho kẻ hiền lành).

Ông Gandhi nói: “… Tôi tin rằng Ấn độ không phải là vô lực. 100.000 người Anh làm gì mà đến 300 triệu người Ấn kia phải sợ? Bất bạo động đâu phải chịu lụy kẻ làm hại mình. Bất bạo động, là dùng sức mạnh của cả tâm hồn để chống lại với cường quyền của kẻ độc tài”.

“Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” là thông điệp Đức Giêsu gửi đến mỗi người chúng ta. Người đã làm gương trước, chúng ta chỉ việc học đòi bắt chước Người thôi.

Vậy, chúng ta hãy thực hiện được lời Chúa dạy, cố gắng vượt thắng tính nóng nảy và hay trả thù của mình. Đứng trước tấm gương của những người hiền lành nhịn nhục, không ai dám coi họ là những người hèn nhát mà phải suy tôn họ là anh hung.

Trong bài giảng “Tám Mối Phúc Thật” (Mt 5,1-12). Chúa Giêsu đã khẳng định: “Phúc cho ai có tinh thần hiền lành vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”. Chỉ có người theo học trường Giêsu, quyết học bài học hiền lành và khiêm nhường cả đời, chỉ có người biết cư xử với lòng khoan nhân, mới tìm được an bình và hạnh phúc trên cõi đời nầy cùng sự nghỉ ngơi miên viễn khi đã ‘ra trường’.

Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết khiêm nhường thật trong lòng, để chúng con được kể vào số những kẻ bé mọn của Tin Mừng, những người Thiên Chúa Cha hứa mạc khải cho biết mầu nhiệm Nước Trời. Amen.

----------------------------------
 

TN 14-A114: HÃY ĐẾN VỚI TÔI


+ ĐTGM Giuse Vũ Văn Thiên
 

Vào những lúc gặp khó khăn đau khổ, người ta thường đặt câu hỏi: Thiên Chúa ở đâu? Trong lúc TN 14-A114


Vào những lúc gặp khó khăn đau khổ, người ta thường đặt câu hỏi: Thiên Chúa ở đâu? Trong lúc đại dịch viêm phổi Vũ Hán (Covid-19) lan rộng toàn cầu, đã có người đặt vấn nạn: tại sao Thượng đế lại cho phép một dịch bệnh tàn khốc như vậy xảy ra? Đây cũng là câu hỏi đã được đặt ra trước sự kiện Tháp đôi bị đánh sập tại Hoa Kỳ năm 2001. Để trả lời cho vấn nạn này, một tác giả đã nói: Tại sao các bạn lại đổ lỗi cho Thiên Chúa, trong khi chính các bạn đã loại bỏ và xua đuổi Ngài ra khỏi bệnh viện, học đường, gia đình và nơi công cộng? Các bạn bênh vực và cổ võ phá thai, trong khi đó nhiều người có lương tâm trên thế giới phản đối và coi như một tội ác. Các bạn bênh vực hôn nhân đồng tính, trong khi nhiều người lên án như một việc trái tự nhiên. Các bạn ủng hộ ly dị trong khi nhiều người lên án là vô đạo đức. Và, bây giờ tội ác xảy ra thì các bạn lại đổ lỗi cho Thiên Chúa. Quả vậy, khi Thiên Chúa không diện diện trong cuộc đời, thì thay vào đó sẽ là bạo lực, sa đọa và giết chóc. Trong những ngày này, qua đài truyền hình, chúng ta nhận những thông tin thời sự về phong trào biểu tình ở Hoa Kỳ sau cái chết của một người da đen là anh George Floyd. Những người biểu tình cướp phá siêu thị, dỡ bỏ một số tượng đài của các nhân vật lịch sử và cựu tổng thống Hoa Kỳ. Trong cơn bạo loạn, họ đe dọa sẽ phá bỏ tượng Chúa Giêsu. Một đất nước ghi trên đồng tiền đô-la “Chúng tôi trông cậy nơi Chúa – In God we trust” mà lại ngông cuồng đến mức phá bỏ tượng của Chúa. Một nền văn hóa thường kết thúc những diễn văn quan trọng bằng câu” Chúa chúc lành cho nước Mỹ - God bless America!” mà lại phỉ báng chính Con Thiên Chúa. Một khi loại bỏ Thiên Chúa, cuộc đời sẽ chỉ còn là một bãi chiến trường, thảm khốc và đau thương. Cũng may, giữa cảnh náo loạn này, Tổng thống Hoa Kỳ, ông Donald Trump đã cảnh báo: một khi ông còn tại vị tổng thống, không ai được phép phá hủy tượng Chúa Giêsu!

Giữa những xáo trộn của cuộc sống đầy bất an, Kitô hữu là người chọn Chúa Giêsu và tin tưởng phó thác nơi Người. Mặc dù có những nhân vật, những phong trào hùng hổ giơ tay loại trừ Thiên Chúa, vẫn có hàng hàng lớp lớp những người yêu mến, tôn thờ và cậy trông nơi Ngài. Quả vậy, Đức tin vào Chúa không chỉ thể hiện khi được an vui, mà còn cả trong khi bị thử thách. Đức tin cũng không phải là hành động ùa theo đám đông, nhưng là bản lĩnh và là niềm xác tín của con người. Tin Mừng hôm nay là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha. Không chỉ gồm những tâm tình thân thưa với Chúa Cha, lời cầu nguyện này còn nhằm mạc khải, soi sáng cho các môn đệ về sứ mạng thiên sai của Người. Người từ Chúa Cha mà đến, nên biết rõ Chúa Cha, cũng như biết rõ thánh ý của Ngài. Khi khẳng định những điều này, Chúa Giêsu cũng muốn giúp các môn đệ kiên vững lòng tin, để rồi, những lúc đối diện với khó khăn thử thách, các ông không ngã lòng.

“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến với tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”. Giữa biển đời đầy sóng gió ba đào, lời mời gọi “Hãy đến với Tôi” của Chúa giúp chúng ta vững tin, nhờ đó ta có thêm can đảm nghị lực vươn lên trong cuộc sống. Bởi lẽ, có những lúc chúng ta cảm thấy đang đứng trước ngõ cụt của cuộc đời mà không tìm được lối thoát. Chúa Giêsu chính là niềm hy vọng và yên ủi cho những ai đang đau khổ và bế tắc trên đường đời. Hãy đến với Người. Người đang chờ đợi chúng ta. Chúa Giêsu hiểu thấu những gian truân của thân phận con người. Người muốn đồng hành với họ để nâng đỡ họ trong hành trình trần gian. Người còn là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Đến với Chúa Cha để hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, đó cũng là đích điểm của cuộc sống chúng ta.

“Hãy đến với Tôi”, đó vừa là lời diễn tả sự gần gũi thân tình, vừa là lời khích lệ những ai còn sợ sệt vì thấy mình bất xứng. Lịch sử ghi nhận biết bao người đã đến với Chúa và gánh nặng cuộc đời của họ đã trở nên êm ái nhẹ nhàng hơn. Đến với Chúa, họ vừa được tha thứ tội lỗi, vừa có sức mạnh vươn lên làm lại cuộc đời.

Hãy đến với Chúa để học sự khiêm nhường. Chúa Giêsu là bậc thày. Người dạy chúng ta về sự khiêm nhường. Cuộc đời và giáo huấn của Chúa luôn thể hiện nhân đức khiêm nhường. Vì khiêm nhường mà Chúa đã hạ mình làm người. Vì khiêm nhường mà Chúa đến với mọi người đau khổ. Vì khiêm nhường mà Chúa đã chết trên thập giá. Chúa dạy chúng ta hãy học dưới mái trường của Người, để sống khiêm tốn, hy sinh, vì tha nhân và vì công ích. Sống khiêm nhường hạ mình sẽ giúp chúng ta thanh thản vui tươi hơn, nhờ đó cuộc sống này sẽ tốt đẹp hơn. Khi được thụ giáo tại ngôi trường của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ nên giống như Người đến nỗi trở thành đồng hình đồng dạng với Người. Hãy đến với Chúa Giêsu để được Người giáo huấn và dẫn đưa về cùng Chúa Cha. Bởi lẽ Người từ Chúa Cha mà đến.

Đến với Chúa là một hành trình liên lỉ lâu dài. Trên hành trình này, có những cám dỗ cam go. Thánh Phaolô (trong Bài đọc II) đã gọi đó là sự giao tranh giữa Thần Khí và tính xác thịt. Ai thiện chí sống theo Thần Khí thì sẽ chiến thắng mọi cám dỗ, trở nên hoàn thiện, diệt trừ được con người ích kỷ, sống đời sống mới trong Chúa Giêsu Kitô. Lối sống theo xác thịt luôn mang nhiều màu sắc lấp lánh hấp dẫn. Nó dễ làm cho chúng ta ảo tưởng lầm lạc. Nhờ Thần Khí Chúa soi sáng và hướng dẫn, chúng ta biết khôn ngoan chọn lựa những gì đem lại ích lợi lâu bền, vĩnh cửu.

Hành trình đến với Chúa cũng là hành trình nên thánh. Muốn đến được với Chúa, phải học với Người để trở nên khiêm nhường như Người. Trong lời cầu nguyện với Chúa Cha, Chúa Giêsu đã thân thưa: “Con xin ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn”. Người “bé mọn” mà Chúa Giêsu nói tới ở đây, chính là những người khiêm tốn, luôn luôn tín thác và cậy trông vào Chúa và chuyên tâm thực thi thánh ý của Ngài. Trong truyền thống Thánh Kinh, những người bé mọn luôn được Chúa yêu thương và bênh vực. Thiên Chúa chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa đứng về phía người nghèo khó và bé mọn. Người nghèo trong Thánh Kinh không chỉ là người nghèo khó về vật chất, nhưng còn là người luôn cậy trông vào Chúa, dù phong ba bão táp của cuộc đời.

Nếu chúng ta được mời gọi đến với Chúa, là vì trước hết Người đã đích thân đến với chúng ta. Lịch sử Cứu độ đã chứng minh Thiên Chúa chủ động đến với con người để can thiệp và giải thoát họ. Cuộc gặp gỡ với ông Môisen trong sách Xuất Hành đã chứng minh điều đó. Chúa nói với ông: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của Dân Ta bên Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than, vì bọn cai hành hạ. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai Cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật…” (Xh 3,7-8). Mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Lời là bằng chứng của tình thương Thiên Chúa và việc Ngài chủ động đến với con người. Đức Giêsu khiêm nhường hạ mình mang lấy thân phận con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Thiên Chúa không còn chỉ ở trên cao, mà "hạ giới" làm người để gặp gỡ những mảnh đời bất hạnh. Người là Emmanuel, tức là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta". Vì Thiên Chúa hiện diện với chúng ta, nên ngôn sứ Dacaria mời gọi chúng ta hãy vui lên. Ngôn sứ đã nhắc tới hình ảnh rất sinh động và bình dân, đó là các thiếu nữ Sion, trong trang phục truyền thống, múa nhảy reo hò chạy ra đón Đức Vua (Bài đọc I). Đây là ngày hội tưng bừng cho cả toàn dân. Đức tin Kitô giáo phải luôn diễn tả niềm vui và tinh thần của lễ hội, bởi lẽ Chúa hiện diện giữa chúng ta. Đó là niềm vui cao cả và tuyệt vời nhất. Tiếc thay, có nhiều người không cảm nghiệm được niềm vui này, nên cuộc đời của họ luôn âu sầu buồn bã.

Cuộc sống hôm nay còn bao gian nan vất vả. Tuy vậy, người tin vào Chúa vẫn khám phá những niềm vui. Quả thế, còn gì vui bằng có Chúa ở với chúng ta? Hãy cùng chung tay làm cho niềm vui Đức tin lan tỏa đến mọi nẻo đường của cuộc sống, vì “Cung nỏ chiến tranh sẽ bị bẻ gãy, và Người sẽ công bố hòa bình cho muôn dân, Người thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng trái đất”.  Đó chính là xã hội tương lai mà chúng ta đang cố gắng để đạt tới. Như thế, thay vì bạo loạn đòi phá hủy tượng Chúa Giêsu và loại trừ Người khỏi cuộc sống, thế giới hãy yêu mến tôn thờ Người, vì Người chính là Vua hòa bình và là Đấng Cứu độ trần gian.

----------------------------------
 

TN 14-A115: ÁCH TA ÊM ÁI, GÁNH TA NHẸ NHÀNG


VÀ TA THÌ HIỀN LÀNH

Bác sĩ Nguyễn iến Cảnh, MD
 

Con người khi vui thì cười, khi buồn thì khóc. Trong bài Tin Mừng Mátthêu hôm nay, Chúa Giêsu TN 14-A115


Con người khi vui thì cười, khi buồn thì khóc. Trong bài Tin Mừng Mátthêu hôm nay, Chúa Giêsu nói “Hãy mang lấy ách của ta và hãy học cùng ta, vì ta dịu dàng và khiêm nhường trong lòng; và tâm hồn các ngươi sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng….” (Mt 11:29). Chúa dịu dàng và hiền lành chắc Chúa phải luôn luôn tươi cười?

CHÚA GIÊSU CÓ CƯỜI KHÔNG?

Có ai thấy Chúa Giêsu cười không? Người thì nói Chúa luôn luôn cười. Người thì nói chưa thấy Chúa cười bao giờ vì trong Tân Ước chẳng có chỗ nào nói Chúa cười. Có thể Chúa diễn tả cảm súc của Chúa khác chúng ta. Nhưng chắc chắn Chúa đã khóc trước cái chết của ông Lazaro và nổi giận ở trong đền thờ vì thấy người ta biến chỗ này làm nơi buôn bán. Người cũng tỏ ra khó chịu khi thấy mấy vị lãnh đạo tôn giáo đặt câu hỏi để gài bẫy người. Có bao nhiêu lần Người bực bội vì thấy các môn đệ tối dạ không hiểu được ý Người nói qua những dụ ngôn, những tiên đoán về khổ nạn và việc Chúa sắp lìa xa các ông?

Có người thắc mắc không hiểu tại sao Kinh Thánh lại không nói Chúa cười dù chỉ là mỉm cười, hoặc cười đùa với các môn đệ? Sao Chúa lại không cười khi trẻ con vui đùa bu quanh Chúa? Diện mạo Chúa thế nào khi nhìn Zacchaeus trèo lên cây sung ở Jericho để được thấy mặt Chúa? Tôi đoán chắc cũng có những lúc Chúa mỉm cười hoặc cười lớn tiếng khi vui đùa giải trí. Lúc ở sườn đồi Galile, sau một bài giảng dài trong khi đám đông đói bụng đi tìm thức ăn, lúc ngồi nghỉ xả hơi thư dãn chắc Chúa cũng cười đùa với các môn đệ chứ. Khi nói về những kẻ giả hình nhân đức, Chúa cũng nói vài điều về chính Người. Ngày nay nhiều người trong Giáo Hội cũng tỏ ra lạnh nhạt không cười đùa như Chúa Giêsu. Có lẽ họ muốn tỏ ra mình nghiêm trang, quan trọng, công minh và khắc khe, để đừng ai hy vọng gì ở họ!

Bàn về cái cười của Chúa Giesu vì qua bài Phúc Âm hôm nay Chúa mời gọi những ai mang gánh nặng và khó nhọc hãy đến với Chúa, Chúa sẽ nâng đỡ bổ túc cho…vì Chúa hiền lành và khiêm nhường. Chúa hiền lành vui tươi chẳng lẽ Chúa lại không cười?

CÂU CHUYỆN VUI VỀ CẦU NGUYỆN CỦA CHÚA GIÊSU

Ở đời, những người khiêm nhường thường dễ thay đổi do yêu cầu hơn là những kẻ luôn coi mình là quan trọng và tài giỏi hơn người. Trong bài Tin Mừng Mátthêu hôm nay, Chúa cho chúng ta bài học về cầu nguyện rất phấn khởi, nói rõ Chúa là ai và Chúa ước ao mọi người nhận biết Chúa giống ai.

Bài Phúc Âm có ba chuyển động. Chuyển động thứ nhất, Chúa Giêsu nói về mình với Chúa Cha. Người vui mừng thấy Chúa Cha yêu thương kẻ nghèo khó và thấp hèn như Chúa đã làm. Tiếp theo, Chúa Giesu nói rõ căn tính của mình. Chúa là Con biết rõ về Chúa Cha. Trọng điểm sứ mệnh của Chúa Con nói lên Chúa Cha. Sau cùng, Chúa Giêsu trực tiếp nói với tất cả những ai mong ước được an ủi, chia sẻ gánh nặng và được thoải mái. Trong mỗi chuyển động Chúa Giêsu đều đã mỉm cười, thở phào nhẹ nhàng vì tràn đầy niềm vui về những gì đang xẩy ra giữa các môn đệ. Người mỉm cười với lòng trắc ẩn khi mời gọi những kẻ gẫy gánh giữa đường, những kẻ buồn phiền, bị áp bức và thấp hèn muốn được an bình thoải mái.

CHÚA ƯU TIÊN CHO TÌNH LIÊN ĐỚI

Nói là mang lại nghỉ ngơi, an ủi và bằng an cho những kẻ gẫy gánh và mang ách nặng, nhưng nghĩ kỹ, chuyện này không phải dễ đâu. Chúa Giesu đã từng nói:“Ai yêu cha mẹ, anh em, con cái mình hơn Thầy thì không xứng đáng với Thấy…”(Mt 10:37). Vì Chúa đã coi tình liên đới giữa cha me và con cái là ưu tiên nên bản văn phải được hiểu theo nguyên gốc nghĩa là những mất mát đã xẩy ra vào khoảng thế kỷ I, khi những người theo phong trào Kitô giáo họ đã bỏ lại tất cả mọi sự mình đang có từ ông bà cha mẹ, con cháu đến của cải dù nhiều hay ít là những thứ làm cho họ dễ chịu, vui sướng ở trần gian. Bài Tin Mừng hôm nay trả lời trực tiếp cho những ai tự mình bỏ hết mọi sự trần thế, thì Chúa Giesu là thầy an ủi sẽ mở rông cánh tay chào đón họ cũng như những ai bị đàn áp, đánh đập, chối bỏ, ruồng rẫy và mang ách nặng sẽ được Chúa giúp đỡ. Câu này trong Mátthêu (11:25-26) giống như trong Luca (10:21-22) trừ một vài chi tiết nhỏ, đều nói lên một niềm vui là trong khi những kẻ khôn ngoan, học thức, những tên Pharisêu từ chối lời giảng của Chúa thì những trẻ đơn sơ bé mọn lại chấp nhận.

CHẤP NHẬN ÁCH NẶNG CỦA CHÚA

Chấp nhận gánh nặng của Chúa Kitô thì Chúa là Thầy hiền từ và khiêm nhường sẽ bảo đảm có được an vui. Mọi gánh nặng được chấp nhận vì tình yêu hỗ tương thì sẽ trở nên nhẹ nhàng. Bài Phúc Âm hôm nay là một trong những thông điệp rất phổ thông trong Kinh Thánh. Ai mà không cảm động khi được Chúa Giêsu an ủi giúp đỡ: “Những ai đang vất vả mang gánh nặng hãy đến với ta, ta sẽ cho bồi dưỡng nghỉ ngơi. Hãy mang lấy ách của ta và học với ta vì ta hiền lành và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng, ví ách ta êm ái và gánh ta nhẹ nhàng” (Mt 12:28-30).

Từ “Ách” là một ẩn dụ dùng để tả những gì trấn áp, điều khiển đời sống con người. Dân quê luôn luôn mang ách vì phần lớn họ là những kẻ làm thuê bị chủ đất ức hiếp bóc lột. Đời sống của họ lại bị thống trị bởi những tên lảnh đạo tôn giáo, ngồi mát ăn bát vàng trong đền thờ, không hề nghĩ đến người nghèo khó. Những tên biệt phái đặt 613 điều luật trên vai họ là những điều mà chúng gọi là phải giữ để làm vừa lòng Thiên Chúa. Đối với người Do Thái, thuộc nằm lòng và sống theo sách Đệ Nhị Luật: Câu “Hỡi Israel, hãy nghe đây. Đức Chúa, Thiên Chúa của chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng hết dạ hết sức…”(Đnl 6:4) được biết là “ách nặng của vương quyền Thiên Chúa.”

Chúa Giêsu nhắn nhủ người nghe: “Hãy học nơi ta vì ta là mẫu mực”. Lời nhắn nhủ này là dư âm của Khôn Ngoan trong sách Huấn Ca/Sirach (51:23,26): “Hỡi những kẻ không được giáo huấn, hãy đến gần ta và ở trong nhà giáo huấn của ta….Hãy đưa ách vào cổ, và để tâm hồn thu nhận giáo huấn.” Để thay cho ách lề luật đã bị các luật sĩ cắt nghĩa rối tung, Chúa Giêsu mời gọi những người gánh nặng hãy chấp nhận ách vâng Lời Chúa thì sẽ được nghỉ ngơi (Gr 6:16). Chúa Giêsu đưa ra cho họ một cách sống, là chấp nhận ách; nó khác hẳn cái ách mà các nhà lãnh đạo các tôn giáo khác đã dạy vào thời Chúa. Người hứa ách êm ái và gánh nhẹ nhàng. Chẳng lạ gì có nhiều người nghèo khó nhận thấy Lời Chúa dễ thương vô cùng! Chúa không nói suông, Lời Chúa nói luôn luôn đi đôi với việc Chúa làm; Chúa đã cho chúng ta một gương sáng tuyệt vời cần phải giữ lấy và thực hành hàng ngày. Tôi tưởng tượng Chúa Giesu đang nói lời an ủi với nụ cười hiền hòa và trong sáng.

TẠI SAO CHÚA GIÊSU NGÀY NAY VẪN CÒN HẤP DẪN

Hồi xưa Chúa Giêsu đã hấp dẫn rồi, bây giờ Chúa vẫn còn hấp dẫn, lôi cuốn cả hàng triệu triệu người. Thiên sứ đến giữa chúng ta không như chiến sĩ đi chinh phục nhưng là kẻ hèn yếu và an hòa. Không giống ông vua cuối cùng xứ Giuđa ngồi trên xe tứ mã  (Gr 17:25; 22:4) nhưng như ông hoàng ngồi trên lưng lừa (St 49:11; Tl 5:10; 10:4). Các thánh sử đã thấy lời tiên tri được hoàn thành trọn vẹn như trong bài đọc 1 sách Zechariah, đấng cứu thế khải hoàn đi vào Jerusalem (Mt 21:4-5; Ga 12:14-15) .

Đức Giêsu thành Nazareth đã được tung hô nhiệt liệt. Tất cả dân từ tỉnh thành đến thôn quê, giàu nghèo, già trẻ, dân chài lưới, kẻ thu thuế, đàn bà như Mary Magdalene và quân đội đều đổ xô ra đường chào đón hoan hô Chúa Giêsu tưởng chừng như chưa bao giờ có. Tôi dám chắc Chúa có một sức quyến rũ đầy quyền uy, nhưng với một nụ cười dịu hiền và trong sáng xen lẫn hài hước và tràn ngập yêu thương. Căn tính Thiên Chúa của Chúa Giêsu - dù sứ mệnh đắng cay sắp tới trên thập giá và sống lại vinh hiển - đã cho thấy Chúa là con người phi thường có khả năng nối kết với mọi người. Làm sao Chúa lại không cười khi thốt nên Lời: “…Hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Hãy mang lấy ách của tôi và học nơi tôi vì ách tôi thì êm ái, gánh tôi nhẹ nhàng”. Đây khó có thể là những lời nhắc nhở với cái nhìn nghiêm khắc và giọng nói nặng nề! Đây là những lời thoát ra từ miệng một người bạn hiền chí tình, một người đầy tình yêu tha nhân.

CUỘC SỐNG NGƯỜI KITÔ HỮU LÀ MỘT THÁCH ĐỐ LIÊN TỤC

Sau khi cảnh cáo giáo hữu Rôma (ch.7) về việc hoàn thành mục đích thánh một cách sai lầm (Rm 6:22), thánh Phaolô đã đưa ra cách sửa đổi. Người Kitô hữu còn giữ xác thịt, nhưng xác thịt đó lại xa lạ đối với con người mới của họ vì đời sống của họ bây giờ có chúa Thánh Thần nên đã trở nên mới, được hướng dẫn và điều khiển bởi Chúa Thánh Thần (Rm 8:9; 11-13). Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, người Kitô hữu có khả năng hoàn thành ước muốn của Thiên Chúa (Rm 8:4). Cùng một Thánh Thần đã khích lệ người Kitô hữu nên thánh sẽ làm cho thân xác họ sống lại vào ngày sau cùng (Rm 8:11). Do đó đời sống người Kitô hữu là một thử thách có tính thách đố liên tục để dẹp bỏ mọi nhu cầu tội lỗi của thân xác, vươn tới đời sống thánh đức có Chúa Thánh Thần ngự trị (Rm 8:13).

----------------------------------
 

TN 14-A116: HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG


Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
 

Chúa Giêsu giảng dạy về đời sống đức tin và siêu nhiên và cả cách sống nhân bản. Những ai học TN 14-A116


Chúa Giêsu giảng dạy về đời sống đức tin và siêu nhiên và cả cách sống nhân bản. Những ai học theo giáo huấn của Chúa sẽ trở thành con người sống dễ thương, dễ mến và nhờ đó sẽ thành công trong cuộc đời.

Sứ điệp nhân bản Chúa dạy hôm nay: “Anh em hãy học với Tôi, vì Tôi hiền lành và khiêm nhường”.

– Hiền lành là dịu dàng, ngọt ngào, không thô bạo, không cứng cỏi. Hiền lành là nhân đức bao gồm tâm thế bên trong và phản ứng bên ngoài. Tâm thế bên trong luôn êm ái, hòa nhã, nghĩ tốt về người khác, yêu thương, khoan dung, thông cảm; phản ứng bên ngoài luôn nhẹ nhàng, tôn trọng. Người ở hiền sẽ có hậu: “Ở hiền gặp lành”, “Cha mẹ hiền lành để đức cho con”.

– Khiêm tốn là chấp nhận đứng thấp, ở dưới như Gioan Tẩy Giả “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ bé lại”. Khiêm tốn thể hiện qua lời nói cử chỉ hành động cách chân thành. Người khiêm tốn luôn biết lắng nghe, tìm thấy cái tốt nơi người khác.

Chúa Giêsu hiền lành, dễ thương trong lời nói và việc làm. Người luôn yêu thương mọi người. Lời nói và hành động của Chúa luôn toả ra sự dịu dàng, nâng đỡ, khích lệ, ủi an. Chúa không nặng lời, không kết án, nhưng luôn yêu thương. Người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, Chúa Giêsu chẳng những dễ thương với người phụ nữ mà còn dễ thương đối với những người đã tố cáo chị nữa. Họ tự cho mình là công chính. Chúa Giêsu chỉ thinh lặng cúi xuống dùng ngón tay viết lên cát. Bị hỏi mãi Chúa mới trả lời: “Ai trong các ông sạch tội, hãy ném đá trước đi”. Họ rút lui bắt đầu từ những người lớn tuổi. “Tôi cũng không kết án chị đâu, chị hãy ra về và từ nay đừng phạm tội nữa” (x.Ga 8,1-11).

Chúa Giêsu dạy hãy sống hiền lành, dễ thương. Người khuyên chúng ta bắt chước người mục tử trong dụ ngôn “Con chiên lạc” (Lc 15, 4-7); người mục tử không hề đánh đập, giận dữ, quát tháo, hay kéo lê con chiên lạc về mà lại tử tế đặt nó lên vai mình, vác về đàn. Chúa Giêsu cũng khuyên chúng ta bắt chước người cha trong dụ ngôn “Đứa con hoang đàng” (Lc 15,11-32); người cha không mắng chửi đứa con nhiều lầm lỗi trở về, cũng không nóng nảy, không xua đuổi mà lại ôm hôn con và dọn tiệc ăn mừng. Còn rất nhiều câu chuyện trong Phúc âm kể về sự hiền lành, dễ thương của Chúa Giêsu.

Hiền lành và khiêm nhường nơi Chúa Giêsu là luôn tự ý bước xuống và trút bỏ vinh quang. Thánh Phaolô viết: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa.Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá” (Pl 2, 6-8).

Vì Thiên Chúa khiêm nhường luôn tìm đường đi xuống nên những ai kiêu căng, tìm cách nâng mình lên sẽ chẳng bao giờ gặp được Người. Thiên Chúa khiêm nhường nên chỉ ai khiêm nhường, nhỏ bé mới gặp được Người. Vì thế, Chúa Giêsu đã “ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp lòng Cha” (Mt 11,25-26).

Hãy ghi danh vào học trường Giêsu. Hãy học bài học hiền lành, dễ thương, không những chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa mà Người sẽ rũ sạch mọi vất vả, âu lo và chúng ta sẽ tìm được nguồn bình an cho tâm hồn.

Augustinô là một thanh niên có tư chất thông minh nhưng lỡ đi lạc đường. Về phương diện trí thức, Augustinô ỷ mình thông thái, dùng kiến thức của mình để truy tìm những học thuyết uyên bác. Kết quả là lạc vào bè rối Manikê. Về phương diện luân lý, Augustinô sống buông thả theo những đòi hỏi của xác thịt, kết quả là một cuộc sống tội lỗi. Thế rồi một hôm, trong lúc tâm hồn đang trống rỗng, vô vị, Augustinô bỗng nghe một tiếng nói từ đâu đó vang lên: “Tolle et lege” (hãy cầm lấy và đọc). Augustinô thấy trước mặt một cuốn Kinh Thánh, Ngài cầm lên, mở ra và gặp ngay đoạn thư Thánh Phaolô gởi giáo đoàn Rôma: “Đừng sống theo xác thịt nữa, mà hãy sống theo Thánh Thần”. Cuộc hoán cải của Augustinô đã được dọn đường nhờ sự cầu nguyện và hãm mình của mẹ Ngài là thánh Monica, nhưng chính câu Thánh kinh này là yếu tố quyết định thay đổi cuộc đời Thánh nhân. Trở nên một giáo phụ, một triết gia, một thần học gia, một vị thánh lỗi lạc, rất mực thánh thiện của Giáo hội, Augustinô nhờ việc học hỏi về Chúa Giêsu qua Thánh kinh.

Khi còn là một chủng sinh, thánh Gioan Vianney học hành rất kém. Một lần kia, thấy thầy Vianney quá kém cỏi, một cha giáo tức bực hét lên : “Thầy dốt như một con lừa !”. Thầy Vianney rất mực khiêm tốn trả lời : “Thưa cha giáo, ngày xưa, chỉ với một cái hàm của con lừa, Samson đã đánh đuổi cả đội quân Philitinh. Giờ đây, với cả một con lừa như con, chẳng lẽ không giúp ích gì được cho Hội Thánh sao ?”. Thánh Vianney đã giúp ích rất nhiều cho Hội Thánh. Như một kẻ bé mọn hiền lành và khiêm tốn, ngài đã dẫn đưa rất nhiều tâm hồn về với Chúa.

Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII. Khi làm khâm sứ ở Bungari và Thổ, Ngài nhận được bức thư của một linh mục chỉ trích ngài đủ mọi thứ. Ngài đọc thư và không nói gì. Sau đó ngài làm Hồng Y, rồi làm Giáo Hoàng (1958). Sau này, có dịp vị linh mục đó cùng với giáo dân sang Rôma để yết kiến Đức Giáo Hoàng. Vị linh mục đã kể lại buổi yết kiến đáng nhớ: trong khi đứng chờ, đầu óc của tôi cứ nghĩ tới bức thư ngày trước và vừa hối hận vừa lo sợ. Thời gian lâu rồi chắc Đức Thánh Cha đã quên? Không ngờ vừa mới gặp, Đức Thánh Cha kéo lá thư trong cuốn sách kinh ra. Tôi hoảng sợ, chuyện gì sẽ xảy ra cho mình đây? Nhưng Ngài ôn tồn nói: “Con đừng sợ, cha cám ơn con. Cha để lá thư trong sách để mỗi ngày đọc và xét mình. Hầu dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại và tránh những lầm lỡ có thể xảy ra trong tương lai. Mỗi lần như thế cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con”.

Trong Tin Mừng, tất cả những câu mệnh lệnh của Chúa Giêsu đều nói đến việc “làm”, như: “Hãy tin”, “hãy từ bỏ”, “hãy cầu nguyện”, “hãy tha thứ”, “hãy yêu thương nhau”… Và chỉ có một câu duy nhất này, Chúa bảo “hãy học”. Như vậy, hẳn là môn học mà Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy học, ấy là môn học quan trọng lắm. Đã vậy Chúa lại bảo “hãy học cùng Ta”, không học ở nơi thầy nào khác, cho thấy rằng chỉ có Chúa Giêsu mới xứng đáng là thầy dạy môn học này. Môn học đó là “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”. Chúng ta cũng hãy học với Thầy Giêsu qua Lời Chúa mỗi ngày. Yêu mến Lời Chúa, sống Lời Chúa để Lời Chúa biến đổi đời chúng ta sống theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Hãy học hỏi Tin mừng và hãy để Tin Mừng soi sáng lòng trí của mình. Hãy múc lấy sức mạnh từ ân sủng của Bí tích Hoà Giải và Bí tích Thánh Thể. Hãy siêng năng Chầu Thánh Thể.

Học với Thầy Giêsu suốt đời, lột bỏ những tự hào về khôn ngoan thông thái, sống hồn nhiên khiêm tốn như trẻ thơ, đó là điều cần thiết để mỗi người được Thầy Giêsu mạc khải và đưa vào thế giới của Thiên Chúa. Nhờ vậy, người hiền lành khiêm nhường luôn sống hiệp thông với mọi người, dễ thu hút người xung quanh; luôn biết quên mình, và chỉ muốn phục vụ người khác; sống tế nhị chân thành với mọi người, biết đền đáp những người làm ơn, trân trọng với hết mọi người, không làm mất lòng ai; luôn cảm thấy tâm hồn bình an, hạnh phúc trong Chúa và với mọi người. Chúa ưa thích ai sống hiền lành và khiêm nhường và sẽ ban thưởng phần phúc Nước Trời cho họ. “Phúc thay ai có tâm hồn (khiêm nhường) nghèo khó. Vì Nước Trời là của họ.Phúc thay ai hiền lành. Vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp” (Mt 5, 3-4).

----------------------------------
 

TN 14-A117: ĐÔI VAI


Trầm Thiên Thu
 

Thiên Chúa tạo dựng con người rất cân đối với nhiều cặp đôi: hai bán cầu não, đôi mắt, đôi tai TN 14-A117


Thiên Chúa tạo dựng con người rất cân đối với nhiều cặp đôi: hai bán cầu não, đôi mắt, đôi tai, đôi tay, đôi chân, đôi vai. Có lẽ khổ nhất là đôi vai – một vai tình và một vai nợ. Vì cần tình mà nhận tình, vì nhận tình mà mang nợ. Và nợ tình chẳng bao giờ trả hết, thế nên suốt đời vẫn phải mang ơn.

Nhưng “nợ tình” thì rất đáng vay: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái.” (Rm 13:8a) Tạ ơn là cảm tạ, cảm ơn, tri ân, biết ơn, nhớ ơn. Sống trên đời, không ai là một ốc đảo, nghĩa là luôn có mối liên đới với người khác, bằng cách này hay cách khác, trực tiếp hoặc gián tiếp. Không ai lại không thọ ân của người khác, đơn giản nhất là nhờ ông bà, cha mẹ, anh chị em, hàng xóm, thầy cô, bạn bè,... “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” và “Uống nước nhớ nguồn” là những câu tục ngữ nhắc nhở về lòng biết ơn.

Biết ơn là một “khoản” trong đạo lý làm người. Thế nào là biết ơn? Biết ơn là biết tự trọng, biết tôn trọng người khác, thể hiện sự giáo dưỡng, sống khiêm tốn và trọng chữ tín. Trong cuốn “Những Lời Khai Thị Vàng Ngọc,” Tịnh Không Pháp Sư viết: “Hãy biết ơn những người khiển trách ta, vì họ giúp ta tăng trưởng định tuệ; hãy biết ơn những người làm ta vấp ngã, vì họ khiến năng lực của ta mạnh mẽ hơn; hãy biết ơn những người bỏ rơi ta, vì họ đã dạy cho ta biết tự lập; hãy biết ơn những người đánh đập ta, vì họ đã tiêu trừ nghiệp chướng cho ta; hãy biết ơn những người lường gạt ta, vì họ tăng tiến kiến thức cho ta; hãy biết ơn những người làm hại ta, vì họ đã tôi luyện tâm trí của ta; hãy biết ơn tất cả những người khiến ta được kiên định và thành tựu.” Tư tưởng cao cả, bất cứ ai sống đúng như vậy thì đúng là vĩ nhân rồi – và cũng thực sự là thánh nhân vậy.

Cũng chỉ là phàm nhân mà người ta còn biết như thế thì thật đáng quý trọng. Và có lẽ nhờ đó mà chúng ta không còn ngạc nhiên, đồng thời cũng hiểu được lý do Chúa Giêsu bảo chúng ta PHẢI yêu kẻ thù: “Hãy chúc lành cho kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em.” (Lc 6:28) Luật yêu của Ngài khác Cựu Ước, có vẻ “ngược đời” lắm, nhưng đó lại là nghịch-lý-thuận. Quả thật, hiểu cho sâu xa thì ai cũng là ân nhân của chúng ta, dù ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, nghĩa là chúng ta luôn phải biết ơn người khác. Với Thiên Chúa, con người càng phải biết tạ ơn nhiều hơn. Tâm tình tạ ơn phải được lặp đi lặp lại rất nhiều lần như một điệp khúc của bài trường ca, từng ngày và suốt đời.

Thật vậy, cảm thấy lòng luôn bồi hồi nên Thánh Vịnh gia đã tự vấn – và tự trả lời: “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ vì mọi ơn lành Người đã ban cho? Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh Chúa.” (Tv 116 [114-115]:12-13) Tạ ơn Thiên Chúa là bổn phận và trách nhiệm của mỗi tín nhân – các thụ tạo, mặc dù việc đó chẳng thêm gì cho Ngài nhưng lại sinh ơn cứu độ cho chính chúng ta. Thật là kỳ diệu vô cùng. Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa yêu thương chúng ta tới mức chúng ta không thể tưởng tượng được.

Liên quan vấn đề biết ơn, chúng ta có thể nhớ lại chuyện mười người phong hủi, chuyện thật chứ không là dụ ngôn. Cả mười người đều được sạch, nhưng chỉ có một người ngoại bang trở lại tạ ơn Chúa Giêsu. (Lc 17:11-19) Như vậy, chắc chắn chín người kia là “đạo gốc,” nhưng họ lại vô ơn, có lẽ họ tưởng mình là “ngon lành” rồi. Câu chuyện này “nhắc khéo” về việc chúng ta thường vô ơn không chỉ với tha nhân, mà đáng quan ngại là vô ơn với Chúa. Cầu nguyện thì xin đủ thứ, chẳng thấy tạ ơn chi ráo trọi. Tệ thật!

Quả thật, khi Ngài nói về người môn đệ chân chính, Chúa Giêsu nói thẳng: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai THI HÀNH ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7:21) Có những người nhân danh Chúa mà nói tiên tri, trừ quỷ, làm nhiều phép lạ,... nhưng Chúa Giêsu không hề biết họ: “Xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (Mt 7:23) Chúng ta làm những việc mà chúng ta tưởng là “đạo đức” nhưng với Chúa thì chỉ là tồi tệ. Cái thói “chảnh” thật đáng quan ngại, vì không khéo thì chúng ta có thể ở trong đám người ấy. Lạy lắm mỏi gối, mỏi lưng, mỏi tay,… cũng vô ích nếu chẳng thật lòng mà chỉ có ý… khoe. Nếu thế thì “chết” thật!

Khiêm nhường không phải là “ra vẻ,” và rồi người ta cũng biết. Người khiêm nhường thì biết ơn người khác, vui vẻ chứ không ưu sầu hoặc khó chịu. Kinh Thánh mời gọi: “Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ.” (Dcr 9:9) Lý do để sống vui mừng rất rõ ràng. Thiên Chúa đến với loài người bằng nhiều cách, dạng phổ biến nhất là Thánh Ân của Ngài. Vì thế, chúng ta không thể không biết tạ ơn Ngài. Ngài còn đến với chúng ta qua từng người chúng ta gặp hằng ngày, và rồi chúng ta cũng phải biết ơn những người chúng ta gặp – dù họ là ai, vì ai cũng có cái để chúng ta học hỏi – họ đúng thì mình theo, họ sai thì mình tránh. Nợ tình cứ chồng chất thêm, vai đời cứ trĩu xuống. Suốt đời như thế.

Là con người, dù cuộc sống có như thế nào, chúng ta vẫn phải tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài là Đấng cứu thoát chúng ta khỏi kẻ thù và làm cho chúng ta được an cư lạc nghiệp: “Người sẽ quét sạch chiến xa khỏi Épraim và chiến mã khỏi Giêrusalem; cung nỏ chiến tranh sẽ bị Người bẻ gãy, và Người sẽ công bố hoà bình cho muôn dân. Người thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất.” (Dcr 9:10) Vả lại, “chẳng ai có thể nhận được gì mà không do Trời ban.” (Ga 3:27) Và Chúa Giêsu nói rất cụ thể: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15:5)

Có vẻ như Thánh Vịnh gia không lúc nào an tâm: “Lạy Thiên Chúa con thờ, là Vua của con, con nguyện tán dương Chúa và chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời. Ngày lại ngày, con xin chúc tụng Chúa và ca ngợi Thánh Danh muôn thuở muôn đời.” (Tv 145:1-2) Thiên Chúa vui lòng thì có lợi cho chúng ta vô cùng. Tuy nhiên, chúc tụng Chúa khi cuộc đời chúng ta xuôi chèo mát mái thì không có gì đáng nói, nhưng thật đáng nói nếu cuộc đời chúng ta luôn gặp trắc trở với số kiếp lận đận, mơ không thấy, ước không xuôi, hầu như thua kém mọi người. Thánh Gióp là tấm gương sáng chói về vấn đề đó. Mặc dù bị mất tất cả, từ tài sản tới con cái, bản thân ông cũng bị bệnh tật, mọi người đều xa tránh, nhưng ông vẫn trung tín với Thiên Chúa.

Ông xác định: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1:21) Cả đời chúng ta cũng không thể so sánh với một góc nhỏ của Thánh Gióp. Lý do ông đưa ra đơn giản mà… nhiêu khê, nhưng rất cụ thể, bởi vì ai cũng sinh ra và vào đời với hai bàn tay trắng. Chúa biết nên Ngài ban cho đôi vai để chúng ta chịu đựng khi sống ở cõi tạm này.

Quả thật, niềm tin của Thánh Gióp vô cùng lớn lao! Niềm tin của ông không mơ hồ hoặc ảo tưởng, mà hoàn toàn chính xác, đúng như Thánh Vịnh gia đã xác định: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương. Chúa nhân ái đối với mọi người, tỏ lòng nhân hậu với muôn loài Chúa đã dựng nên. Lạy Chúa, muôn loài Chúa dựng nên phải dâng lời tán tạ, kẻ hiếu trung phải chúc tụng Ngài, nói lên rằng: triều đại Ngài vinh hiển, xưng tụng Ngài là Đấng quyền năng, để nhân loại được tường những chiến công của Chúa, và được biết triều đại Ngài rực rỡ vinh quang.” (Tv 145:8-12)

Chắc chắn chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, Ngài “đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên,” (1 Sm 2:6; Kn 16:13) Ngài “bắt phải nghèo và cho giàu có, hạ xuống thấp và nhắc lên cao.” (1 Sm 2:6-7) Nghe có vẻ “oải” lắm, nhưng không phải như vậy, bởi vì Ngài vẫn “thành tín trong mọi lời Ngài phán, và đầy yêu thương trong mọi việc Ngài làm. Ai quỵ ngã, Ngài đều nâng dậy, kẻ bị đè nén, Ngài cho đứng thẳng lên.” (Tv 145:13-14) Thánh Vịnh gia đã trải nghiệm: “Lạy Chúa, từ âm phủ Ngài đã kéo con lên, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống.” (Tv 30:4) Đúng là Hồng Ân chồng lên Hồng Ân, thế nên tạ ơn Chúa là điều hoàn toàn hợp lý. Và Ngài không hề quên đâu!

Trong cuộc sống, có lẽ chúng ta vẫn thường hành động trái ngược: biết mà không làm. Chúa Giêsu cũng đã nhắc nhở: “Tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.” (Mt 26:41; Mc 14:38) Thân xác thật nặng nề lắm, đến nỗi người ta ví von là “nặng như đá đeo.” Vẫn lòng chai dạ đá, con người chỉ “ưa thích chuyện hư không, chạy theo điều giả dối.” (Tv 4:3) Chẳng khác dân Israel xưa: cứng lòng và thách thức. (x. Tv 95:8-9)

Với kinh nghiệm đầy mình, Thánh Phaolô chia sẻ: “Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn.” (Gl 5:17) Thần Khí Chúa rất quan trọng trong cuộc sống, bởi vì chính Chúa Thánh Thần luôn tác động để biến đổi chúng ta: “Anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Đức Kitô thì không thuộc về Đức Kitô.” (Rm 8:9) Không thuộc về Ngài bởi vì không có ngài. Không có Ngài bởi vì không thương xót tha nhân. (x. G 6:14)

Rất cặn kẽ với lời giải thích của Thánh Phaolô: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới. Vậy thưa anh em, chúng ta mang nợ, không phải mang nợ đối với tính xác thịt, để phải sống theo tính xác thịt. Vì nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em thì anh em sẽ được sống.” (Rm 8:11-13) Quả thật, chúng ta luôn là “con nợ” của Thiên Chúa và tha nhân. Nhưng con nợ cũng vẫn phải biết ơn, vì mắc nợ cũng là một dạng thọ ân vậy. Mọi điều người khác làm cho mình đều là ân huệ đối, nhận biết như vậy là biết sống khiêm nhường.

Chắc chắn Hồng Ân lớn nhất mà chúng ta mắc nợ Chúa Giêsu, và phải nhớ mà tạ ơn Ngài, đó là ơn cứu tử của Ngài dành cho chúng ta: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10:15) Vâng, chính cái chết của Ngài là Hồng Ân cao cả, không gì sánh bằng, và chẳng bao giờ chúng ta có thể đền đáp cân xứng. Loại phản ứng này không thể cân bằng như phản ứng hóa học. Tuy nhiên, Ngài không đòi hỏi gì nhiều ở chúng ta, mà Ngài chỉ cần chúng ta biết hết lòng tin yêu Ngài và tạ ơn Ngài trong mọi hoàn cảnh – dù vui hay buồn, dù sướng hay khổ: “Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện.” (Pl 4:6)

Chính Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta khi Ngài cất tiếng tạ ơn Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.” (Mt 11:25-26) Ngài là Sư Phụ hiền lành và khiêm nhường (Mt 11:29) nên Ngài chỉ thích những con người “hèn mọn” mà thôi.

Chúa Giêsu “bật mí” điều quan trọng: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.” (Mt 11:27) Ai khiêm nhường thì Ngài sẽ mặc khải cho những điều bí ẩn. Chắc chắn như vậy. Và Ngài luôn mời gọi mọi người, không trừ ai: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt 11:28-30)

Không ai lại không vất vả và mang gánh nặng nề, không cách này thì cách khác, dù theo nghĩa bóng hoặc nghĩa đen, có nghĩa là không ai lại không cần đến Ngài. Cuộc đời có rất nhiều thứ chúng ta phải “gồng mình” mà chịu đựng, thậm chí có những lúc chúng ta cảm thấy mệt mỏi và hầu như kiệt sức. Cái ách thô ráp và cái gánh nặng trĩu ở đâu cũng có, dù trong gia đình hoặc cộng đồng tu trì. Nhưng có lẽ chúng ta chưa thực sự kề vai vào gánh vác Ách và Gánh của Chúa Giêsu nên chúng ta vẫn thường “than thở” đủ thứ, than trách đủ kiểu. Thế mới biết phàm nhân yếu hèn quá đỗi, vậy mà vẫn “chảnh” lắm, thế nên lúc nào cũng chỉ rình nổi loạn.

Ơn nối tiếp ơn, phúc chồng lên phúc. Được sinh ra làm người là một đại ân, được lành lặn và khỏe mạnh là một đại ân nữa. Rồi chúng ta lại được Chúa Giêsu cứu độ, đó là một đặc ân khác. Như vậy, chúc tụng và tạ ơn là một trong các bổn phận hàng đầu mà chúng ta phải thực hiện đối với Thiên Chúa. Có nhiều cách, một cách đơn giản là tránh tội: “Hãy run sợ, và đừng phạm tội nữa, trên giường nằm, suy nghĩ và lặng thinh.” (Tv 4:5) Một cách khác cũng đơn giản là ca hát: “Hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa.” (Ep 5:19) Có điều rất đặc biệt này: Tạ ơn Chúa là làm vinh danh Ngài. (x. Tv 50:23)

Thật thú vị và thấm thía với ca dao Việt Nam: “Ai mà phụ nghĩa quên công, Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm.” Quả thật, lòng biết ơn rất quan trọng, dù chúng ta đang hưng phấn trên đỉnh Ta-bor hoặc rũ rượi trên đỉnh Can-vê. Rất dễ dàng tạ ơn khi phấn khởi ở Ta-bor, nhưng rất khó tạ ơn khi ủ rũ ở Can-vê. Hằng ngày, một lời cảm ơn rất đơn giản nhưng lại rất thường bị lãng quên!

Chữ gánh thật hay, vì “gánh” có hai bên, biết gánh thì có thể giữ thăng bằng, không biết gánh thì không thể giữ thăng bằng. Ách và Gánh đều liên quan đôi vai. Chắc hẳn không ngẫu nhiên mà có hai vai – chứ không một vai. Hai vai để có thể sử dụng luân phiên, mỏi vai này thì chuyển vai kia. Khi vác thập giá cũng cứ làm như vậy thì không lo sợ “bán đồ nhi phế” đâu. Thiên Chúa quan phòng, tiền định, và lo liệu. Thật kỳ diệu!

Lạy Thiên Chúa, xin cảm tạ Ngài về mọi sự – dù vui hay buồn. Xin gia tăng ba đức đối thần và các đức đối nhân để chúng con đủ sức vác thập giá bằng cả hai vai, đồng thời có thể học thuộc bài học khôn ngoan từ Thập Giá của Đức Kitô. Xin giúp chúng con không ngừng nỗ lực hoàn thiện với một vai tình và một vai nợ, như hai nhánh ghép thành thập giá để đóng đinh tính xác thịt là cái tôi tồi tệ của chính mình.

Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân lành, một số nơi trên thế giới vẫn khốn khổ vì sự dữ Corona, xin Ngài thương xót mà ngăn chặn cho con cái Ngài được bình an tôn thờ Ngài, đặc biệt xin ban cho chúng con được hưởng Công Lý và Bình An, vì còn nhiều người bị oan ức quá. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

----------------------------------
 

TN 14-A118: CHA ĐÃ GIẤU


Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
 

Với lời cầu nguyện: “Con ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái TN 14-A118


Với lời cầu nguyện: “Con ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn”, Chúa Giêsu phân biệt rõ hai hạn người: “khôn ngoan thông thái” và “những kẻ bé mọn”.

1. NGƯỜI BÉ MỌN DỄ ĐÓN NHẬN CHÂN LÝ.

Ðấng Cứu Thế đến trần gian mang ơn cứu độ cho nhân loại. Ơn cứu độ của Chúa đã được ban rộng rãi, nhưng không phải ai cũng có thể đón nhận. Chúa Giêsu chỉ đích danh hạn người khó đón nhận ơn cứu độ, đó là kẻ “khôn ngoan thông thái”.

Bởi một khi cậy mình khôn ngoan, có kiến thức, hiểu biết nhiều, chắc chắn họ sẽ không thể thông hiểu những kín nhiệm của Trời cao, khó đón nhận chân lý Tin Mừng, chân lý đức tin. Những chân lý ấy không thể lĩnh hội chỉ bằng lý trí, vì đó là những thực tại đứng ngoài lý trí.

Bởi thế, càng kiêu ngạo, càng muốn đem kiến thức để giải thích chân lý đức tin, họ càng xa rời đức tin, xa rời Tin Mừng của Chúa. Một khi đã xa cách Chúa, chắc chắn không bao giờ họ có thể có Chúa ở bên để mà cậy dựa.

Chân lý Tin Mừng đòi phải nỗi lực sống từng ngày, cảm nghiệm từng ngày, liên lỷ cầu nguyện trong chân thành, khiêm tốn, mới có thể tiếp cận và khám phá.

Chỉ những tâm hồn đơn sơ, khiêm hạ mới có thể hội đủ điều kiện đón nhận Chúa, đón nhận chân lý đức tin, chân lý Tin Mừng. Nói cách khác, đơn sơ, khiêm hạ chính là cánh cửa mở ra để loài người bước vào ơn cứu độ của Chúa.

Thiên Chúa yêu người hèn mọn. Người bênh vực người yếu đuối. Chính Chúa Giêsu cho thấy điều ấy khi Người cảm tạ Chúa Cha vì Chúa Cha đã yêu thương nâng đỡ và kêu gọi người nhỏ bé, hèn mọn.

Chính trong sự nhỏ bé của con người, huyền nhiệm tình yêu được tỏ bày. Chỉ có người bé mọn mới dễ đến và tín thác đời mình trong tay Chúa.

Chỉ người nghèo của Chúa mới có thể thấu hiểu thâm sâu tấm lòng của Chúa. Chính Chúa Giêsu khi ở thế gian, thường đến nhà những kẻ thấp bé, bình dân. Chúa lưu tâm đến người nghèo hèn thống khổ. Người không là gì trước mắt nhân loại, lại có vị trí đáng kể trong trái tim nhân từ của Chúa.

Càng trí thức, giàu có, không ngoan…, thì càng phải siêu thoát, càng tập luyện tinh thần khó nghèo, dẹp bỏ thói cậy mình có tất cả, hơn tất cả mới có thể nhận ra Chúa hiện diện, đến gần Chúa, và mang Chúa trong tâm tư mình.

Ngụp lặn theo kiểu thế gian dễ làm ta kiêu ngạo. Mà kiêu ngạo sẽ đưa tới thất bại trên đường tìm Chúa. Nó còn làm ta xa rời đồng loại, mất ân nghĩa với Chúa, dễ đi vào lối mòn của satan, kẻ đã từng phản bội Chúa.

2. CHÚNG TA CẦN CHỌN LỰA KHÔN NGOAN TRONG CHÚA.

Để thánh thiện như Thiên Chúa, ta phải có tâm hồn trẻ thơ trong trắng, đơn sơ, khiêm nhường. Ta cần nhìn nhận mình chẳng là gì, chẳng có gì. Tất cả chỉ nhờ Chúa và do Chúa mà thôi.

Hãy luôn khiêm nhường để được nương tựa bên Chúa. Chính lúc được nương tựa bên chúa, là lúc ta được Chúa bảo vệ, nâng đỡ. Người cứu giúp để ta không vướng vào vòng nguy hiểm của tội lỗi và cám dỗ.

Cần trở nên những người bé mọn theo tinh thần Phúc Âm, để cảm nếm và sống hòa hiệp với Thiên Chúa. Ðức tin Kitô giáo hướng dẫn ta đến một con người cụ thể, chứ không phải những lý lẽ thần học cao siêu. Con người cụ thể ấy là Chúa Giêsu Kitô. Người là vị Thiên Chúa chấp nhận sống với con người.

Hãy nhớ, một người khiêm tốn có thể có đức tin sâu xa hơn một nhà thông thái. Ðức tin là hồng ân cần được lãnh nhận hơn là kết quả do sưu tầm trí thức của con người.

Thánh Têrêsa Avila, tuy không học nhiều, nhưng đã có kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa và đã trình bày kinh nghiệm thiêng liêng của mình một cách sâu sắc, đến nỗi thánh nữ được đặt làm tiến sĩ Hội Thánh, vì giáo huấn của thánh nữ để lại là kho tàng thiêng liêng quí báu giúp mọi thành phần dân Chúa đến với mầu nhiệm Thiên Chúa.

Xin Chúa mở rộng tâm hồn chúng ta để lắng nghe Lời Chúa với sự khiêm tốn, mến yêu. Xin cho chúng ta biết sống theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần để đến với Thiên Chúa và anh em.

----------------------------------
 

TN 14-A119: Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà


HỌC SỐNG HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỢNG VỚI CHÚA GIÊSU
 

Nhiều người cho rằng muốn trở nên hùng mạnh và thắng được người khác thì mình phải hung tợn TN 14-A119


Nhiều người cho rằng muốn trở nên hùng mạnh và thắng được người khác thì mình phải hung tợn hơn, tàn ác hơn, phải dùng sức mạnh để quật ngã, phải dùng khí giới để huỷ diệt và khủng bố kẻ thù... Nhưng suy nghĩ như thế là thiển cận và sai lầm.

Lịch sử loài người cho thấy những bạo chúa hung tàn bậc nhất như Nê-rô thời xưa, Hitler, Polpot thời nay hay bất kỳ một thế lực bạo tàn nào… tuy họ nắm được quyền lực trong tay và dùng bạo lực cường quyền để uy hiếp người khác, nhưng rốt cuộc, họ đều bị hạ bệ, bị người đời lên án và chuốc lấy thất bại não nề.

Trong khi đó, lịch sử đánh giá rất cao những con người hiền lành, khiêm nhượng, ôn hoà bất bạo động như Mahatma Gandhi, Martin Luther King và nhiều hiền nhân khác đã biết dùng sự hiền hậu, dịu dàng để chiến thắng sự hung bạo một cách hiệu quả và vẻ vang. Nhân loại qua bao thời vẫn nhìn nhận họ là những bậc vĩ nhân đáng ngưỡng mộ, biết dùng “nhu để thắng cương”, biết “dụng nhược để thắng cường” (Lão Tử).

Thế nên, mặc dù Chúa Giêsu có rất nhiều phẩm chất cao đẹp đáng nêu gương, nhưng phẩm chất đầu tiên mà Ngài kêu gọi mọi người nên học với Ngài là đức tính hiền hậu và khiêm nhường. Qua Tin mừng Mát-thêu chương 11 câu 29, Chúa Giêsu mời gọi: “Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng.” (Mt 11, 29) và “Phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp” (Mt 5, 4).

Hiền hậu là lợi khí của người khôn

Trong vườn Dầu, khi Phê-rô tuốt gươm ra để bảo vệ Chúa trước đám đông binh lính xông đến bắt Ngài, Chúa Giêsu bảo ông: “Hãy xỏ gươm vào bao. Ai dùng gươm sẽ phải chết vì gươm.” (Mt 26,52)

Bạo lực không là giải pháp khôn ngoan, nên người khôn không bao giờ dùng bạo lực để kháng cự bạo lực, không dùng hận thù để trả đũa hận thù, nhưng biết dùng tính khiêm nhường hiền hậu để ứng xử với mọi người, ngay cả khi bị người khác đối xử tàn ác, thô bạo với mình.

Khi búa tạ tấn công vào đá; đá sẽ dùng sự cứng rắn của mình để kháng cự lại nên bị vỡ tan. Đá thất bại hoàn toàn.

Khi búa tấn công nước; nước sẽ dùng sự mềm mại dịu hiền của mình để đối lại. Bằng cách nầy, nước không hề bị sứt mẻ hư hao, còn búa thì bị chìm lĩm xuống tận đáy bùn! Thế là nước thắng lớn, búa thua to.

Khi búa hung hăng đập vào tường; bức tường sẽ dùng sự cứng rắn của mình chống lại sự thô bạo của búa; thế là bức tường cao sẽ bị sập xuống. Tường thất bại.

Thế nhưng, khi búa đập vào bức màn; tấm màn sẽ dùng sự dịu dàng của mình né tránh sự thô bạo của búa. Màn bình yên vô sự, còn búa sẽ bị mất thăng bằng và bị lao vào khoảng không. Thế là màn chiến thắng.

Như thế, với tấm lòng hiền hậu, khiêm nhường, dịu dàng, mềm mại… người ta có thể thắng được sự thô bạo, hung hăng của người khác.

Ngoài ra, với đức tính khiêm nhường hiền hậu, người ta không chỉ thắng được những lực đối kháng bên ngoài mà còn chinh phục được lòng người. Như nước luôn luôn chảy về chỗ trũng, thì lòng yêu thương quý mến của nhiều người khác cũng dồn về cho những người có tâm hồn hiền hậu, khiêm nhường.

Gương hiền hậu, khiêm nhường của Chúa Giêsu

Trong cuộc khổ nạn, tấm gương hiền lành và khiêm nhường của Chúa đã được nêu cao: Mặc dù là Thiên Chúa quyền năng cao cả, là Con Một của Thiên Chúa Cha, Ngài đã chấp nhận cho người đời hèn mọn nhạo cười, phỉ báng, lăng nhục, khạc nhổ vào mặt, đánh đập tơi bời, lại còn chịu vác thập giá, chịu đóng đinh và chết ô nhục trên thập giá… mà vẫn không oán hờn hay kháng cự; hơn nữa, còn cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây đau khổ cho mình.

Lạy Chúa Giêsu,

Khiêm nhường và hiền hậu là tính cách nổi bật nhất nơi con người và cuộc đời của Chúa.

Khiêm nhường và hiền hậu là nhân đức được toả sáng trong cuộc thương khó của Ngài.

Khiêm nhường và hiền hậu là một trong những bài học quan trọng nhất mà Chúa kêu mời chúng con phải học với Chúa từng ngày.

Lẽ nào chúng con là những môn đệ đã chọn Chúa làm Thầy và là mẫu mực cho mình, lại gạt bỏ ra khỏi tâm hồn mình bài học quý báu nầy sao!

Xin cho chúng con luôn noi gương bắt chước Chúa để sống khiêm nhường hiền hậu như Chúa đã nêu gương.

----------------------------------
 

TN 14-A120: Gạn sạch tâm hồn – Lm. Ignatiô Trần Ngà


Bấy giờ, Đức Giêsu cất tiếng nói: “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.”
 

Thoạt nghe câu nói trên, có người tưởng rằng Thiên Chúa phân biệt đối xử, bạc đãi những người khôn TN 14-A120


Thoạt nghe câu nói trên, có người tưởng rằng Thiên Chúa phân biệt đối xử, bạc đãi những người khôn ngoan thông thái và ưu ái những người bé mọn.

Thiên Chúa là Cha chung của mọi người, của người giàu cũng như kẻ nghèo, của người khôn cũng như kẻ dại… Mọi người đều được yêu thương và đối xử như nhau. Thế thì tại sao Thiên Chúa lại che giấu “kho tàng” của Ngài đối với những bậc khôn ngoan thông thái mà lại mạc khải cho những người bé mọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa đối xử bất công với con cái Ngài sao?

Chắc chắn Thiên Chúa không thiên vị ai, nhưng sở dĩ có người được nhận nhiều hồng phúc của Chúa, kẻ khác không được gì, là do con người chứ không phải do Thiên Chúa.

Hai hình ảnh sau đây giúp ta hiểu rõ điều này:

Hình ảnh thứ nhất:

Có hai chiếc ly được đặt cạnh nhau, ly lớn chứa đầy cát còn ly nhỏ thì rỗng không. Nếu ta muốn rót sữa hay một thức uống bổ dưỡng cho đầy hai chiếc ly đó thì chỉ có chiếc ly nhỏ nhận được đầy tràn chất dinh dưỡng, còn chiếc ly lớn thì chẳng được chút nào. Như thế, không phải vì người rót thiên vị, nhưng là vì chiếc ly lớn đã đầy cát thì không thể đón nhận thêm bất cứ thứ gì.

Những người tự cao tự đại, tự cho mình khôn ngoan thông thái, học rộng tài cao… lẽ ra phải nhận được nhiều điều khôn ngoan của Thiên Chúa, thế nhưng, vì tâm hồn họ tràn đầy kiêu căng tự phụ, giống như những chiếc ly đầy cát, nên Thiên Chúa không thể rót gì thêm vào tâm trí họ được.

Trong khi đó, tâm hồn những người bé mọn, khiêm nhu, chất phác… giống như những chiếc ly rỗng, sẵn sàng đón nhận thiên ân, nên được Thiên Chúa đong đầy.

Hình ảnh thứ hai:

Một ao nước có đầy dẫy rác rến cũng như rong rêu sinh trưởng dày đặc trong đó, khiến nước ao trở nên dơ bẩn, đen ngòm… nên không thể in bóng những cụm mây lướt qua bầu trời bên trên mặt nước.

Trái lại, một ao nước khác rất trong lành, không bị vẩn đục vì rác rưởi, không bị các thứ rong, tảo hoặc các loại bèo… xâm chiếm, chắc chắn sẽ in được cả những gợn mây rất mỏng, cả những cánh én nhỏ bé bay qua vòm trời và mỗi khi đêm về, có thể in bóng vô số vì sao trên bầu trời khuya.

Tương tự như thế, những tâm hồn bị vẩn đục bởi tính tự mãn tự kiêu, tự cho mình là khôn ngoan thông thái… thì không thể đón nhận chân lý do Thiên Chúa mặc khải được. Còn tâm hồn của người người đơn sơ khiêm tốn… như một hồ nước trong veo, sẽ dễ dàng đón nhận sự khôn ngoan đích thực do Thiên Chúa thông ban.

Hãy làm rỗng chiếc ly của mình

Vào thời Minh Trị Thiên Hoàng ở Nhật (1860-1912), có một vị thiền sư tên là Nan-in đón tiếp một giáo sư đại học đến hỏi về thiền. Nan-in mang trà đãi khách. Ông rót trà đầy tách của khách nhưng vẫn tiếp tục rót thêm. Vị giáo sư ngồi nhìn nước trong tách trà tràn ra cho đến khi không kìm mình được nữa nên thốt lên: “Thưa thầy, tách trà đầy quá rồi, xin đừng rót nữa.”

Vị thiền sư trả lời: “Thưa ngài, đầu óc của ngài cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng… làm sao tôi có thể bày tỏ thiền cho ngài được, trừ phi ngài làm cạn cái tách của ngài trước đã.”

Lạy Chúa Giêsu,

Nếu tâm hồn chúng con như chiếc ly đầy cát, đó là tính kiêu căng tự phụ, tự cho mình khôn ngoan thông thái, thì xin giúp chúng con đổ hết thứ cát bẩn này ra, để được Chúa đong đầy ân phúc.

Nếu tâm hồn chúng con như ao nước đục ngầu vì bị ô nhiễm bởi nhiều loại rác rến như đam mê tội lỗi, ước vọng thấp hèn… thì xin giúp chúng con gạn sạch tâm hồn để hình bóng Chúa được in sâu.

Nguyện xin Chúa giúp chúng con dứt khoát trút bỏ tất cả những gì làm cho tâm hồn trở nên hẹp hòi, khô cứng… để tâm hồn chúng con như chiếc ly rỗng, như tách trà không… nhờ đó, được Chúa rót đầy ân sủng và tình yêu.

----------------------------------
 

TN 14-A121: Chúa Nhật 14 Thường Niên

 

Chúa Giêsu Kitô xuống trần gian để mạc khải tình thương của Thiên Chúa cho con người và mời TN 14-A121


Chúa Giêsu Kitô xuống trần gian để mạc khải tình thương của Thiên Chúa cho con người và mời gọi con người trở về với tình thương ấy. Hôm nay, Ngài mạc khải cho chúng ta về chính Ngài: "hiền lành và khiêm nhường". Ngài mời gọi ta hãy đến với Ngài, học với Ngài và mang lấy ách của Ngài: "Hãy đến cùng ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng... hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng" (Mt 11, 28 - 29).

Mang thân phận con người, người ta phải chấp nhận sống khổ đau, khổ cực, khổ luỵ; cuộc đời con người bấp bênh, dường như không có gì là bền vững, là đảm bảo,.. Hơn nữa người ta phải chấp nhận quy luật " mạnh được yếu thua" hoặc "được làm Vua thua làm giặc"...gần như là tất yếu và phổ biến. Thấu hiểu kiếp người như thế nên Chúa Giêsu đã mời gọi "hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng" (Mt 11, 29). Hiền lành và khiêm nhượng là hai đức tính đặc biệt nổi bật nhất nơi Chúa Giêsu. Thánh Phaolo đã nói: "Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự" (Pl 2, 6 - 8). Như thế, Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường đến nỗi đã tự nguyện vâng lời chết trên thập giá vì tội lỗi nhân loại. Điều đó cho thấy sự hiền lành và khiêm nhường tột cùng của một Vì Thiên Chúa yêu thương nhân loại.

Mang thân phận loài người, Chúa Giêsu được sinh ra trong chuồng súc vật, lớn lên trong một gia đình nghèo nàn nơi làng quê Nagiareth không có gì tiếng tăm, đi giảng đạo cũng nghèo đến nỗi "không có chỗ gối đầu" và cuối cùng chết cũng trần trụi trên thập giá cho thấy sự nghèo nàn tột cùng. Ngài mốn đón nhận tất cả mọi người không loại trừ ai, kể cả những người Pharisêu ương ngạnh vì muốn họ thay đổi cái nhìn và lối sống thích hợp với thời đại Tân ước nên Ngài không ngừng dạy dỗ thậm chí là bề ngoài Ngài nói có vẻ cứng rắn và thẳng thắn nhưng bên trong lòng Ngài vẫn dành cho họ một chỗ yêu thương: Ngài làm bạn và cùng đồng bàn với người thu thuế và người tội lỗi.

Như thế, Chúa Giêsu thật là Đấng hiền lành và khiêm nhường. Ngài yêu thương và luôn bênh vực những tâm hồn bé nhỏ và khiêm nhường. Những người có tâm hồn như thế dễ dàng đón nhận chân lý mạc khải của Ngài. Trong lời cảm tạ Chúa Cha, Chúa Giêsu đã nói: "Lạy Cha, con ngợi khen Cha vì đã giấu không cho nhữn bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời mà lại mạc khải cho người bé mọn". Trang Phúc âm còn cho chúng ta biết những kẻ bé mọn là những người nghèo khổ, những kẻ đang vất vả và mang gánh nặng. Người ta mang ách nặng của công việc làm ăn, người ta còn mang ách nặng nề của lề luật Do Thái lúc bấy giờ mà cụ thể là do các kinh sư và Pharisêu đang chất lên vai người ta. Thấy điều đó là bất công, Chúa Giêsu không thể chấp nhận những kẻ thông thái đạo đức giả chỉ cậy dựa vào thành tích giữ luật của mình để rồi sống bất công với người ta. Ngài loan bào Tin Mừng và cho người ta biết về luật lệ trong Vương quốc của Ngài: "ách êm ái và gánh nhẹ nhàng". Ví đó là gánh đó và ách yêu thương.

Là người Kitô hữu, chúng ta cũng được mời gọi bước theoi Chúa Giêsu, mang lấy ách êm ái yêu thương của Ngài. Đồng thời, Chúa Giêsu cũng muốn mời gọi chúng ta hãy dành cho tha nhân ách yêu thương đó. Có thể trong gia đình chúng ta con cái là một gánh nặng nhưng dạy dỗ cho chúng nên người càng trở nên là gánh nặng hơn, vợ chồng là gánh nặng của nhau vì những điều trái ý bất đồng đôi chút, công ăn việc làm là một gánh nặng, việc đi lễ giữ đạo là một gánh nặng. Thế nhưng, sống trong thế trần, làm sao con người có thể thoát ra cảnh "đời là bể khổ". Có thể có đôi lần chúng ta muốn tháo chạy, muốn buông xuôi mặc kệ dòng đời trôi dạt. Hãy nhìn lên Chúa Giêsu trên thập giá. Ngài đớn tột cùng. Ngài đau khổ gấp ngàn lần. Tình yêu của Ngài đã bị thất đoạt, đã bị từ chối và thậm chí đã bị phản bội. Dù vậy, Ngài không thể tránh né, không thể bỏ cuộc. Ngài vẫn phó thác cuộc đời trong tay Cha. Ngài đi trọn con đường của mình. Hãy nhìn lên Ngài. Hãy bước đi theo Ngài. Hãy phó thác cuộc đời mình cho Ngài. Hãy dâng những đau buồn, sướng khổ, lo âu..tất cả cho Ngài. Hãy cùng với Ngài đọc lại những dấu chỉ trong cuộc đời mình: con cái là hồng ân, dạy chúng nên người theo ý Chúa là chia sẻ trách nhiệm với Chúa; vợ chồng là món quà tuyệt vời của Đấng Tạo Hoá, những cái bất thường, trái ý làm cho cuộc đời này thêm phong phú và nhờ đó người t khám phá và thể hiện tinh thần đùm bọc, chở che. Cuộc sống lao động là vất vả nhưng đó lại là một quyền lợi mà Thiên Chua 1trao ban cho con người cộng tác với Ngài trong việc "làm bá chủ thiên nhiên", lao động sáng tạo, con người giúp cho mình và thiên nhiên vạn vật về cùng đích là Chúa Kitô. Do đó, chúng ta hãy để Chúa Giêsu chia sẻ và cùng đồng hành với chúng ta. Chúng ta hãy an tâm vì "Thầt đây, đừng sợ" và " ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng"

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con cảm nghiệm Chúa yêu thương chúng con để chúng con theo Chúa, sống giữa thế trần nhưng biết khao khát Chúa, cảm nhận Chúa luôn yêu thương luôn ở ngay bên chúng con. Ngài sẽ giúp chúng con sống vui, sống tốt và sống thành công giữ luật êm ái yêu thương của Chúa và cũng biết đối xử êm ái yêu thương cho tha nhân. Amen.

----------------------------------
 

TN 14-A122: Nghịch lý thập giá Chúa Kitô -Lm Phêrô Hồng Phúc

 

Thập giá Đức Giêsu Kitô là một cớ vấp phạm cho người Do Thái và điên rồ đối với dân ngoại (x. 1Cr 1,23) TN 14-A122


Thập giá Đức Giêsu Kitô là một cớ vấp phạm cho người Do Thái và điên rồ đối với dân ngoại (x. 1Cr 1,23). Tức là một nghịch lý của cuộc đời, cho đến bây giờ vẫn thế và còn cho đến tận thế. Lúc nào Thập giá cũng là một thách đố rất lớn đối với mọi thời đại. Thập giá cũng là một chướng ngại rất lớn đến với từng con người. Đức Giêsu đã khẳng định ngay từ đầu rằng, Ngài là một viên đá - một viên đá làm cớ vấp phạm đối với những ai không nhận ra Ngài, không nhận ra chương trình cứu độ của Ngài.

Khi chỉ nhìn nhận những thực tại bên ngoài mà thôi, Thập giá là một hình phạt nặng nề của những người Roma dành cho những người tử tội. Đức Giêsu đã nhận cho mình hình phạt này. Đó không phải là một sự tôn vinh, bởi vì, Thập giá là biểu hiện của sự chết. Thập giá chỉ được tôn vinh sau khi Đức Giêsu Kitô hoàn tất chương trình cứu độ. Ngay khi Ngài ở trên Thập giá, chính Ngài cũng đã bị lời sỉ nhục của những kẻ qua đường chế nhạo, thậm chí Ngài còn bị những lời sỉ nhục của những kẻ cùng đóng đinh với Ngài trên Thập giá. Như vậy, Thập giá vẫn là một sỉ nhục, một cực hình dành cho những ai bị kết án. Đức Giêsu cũng là người bị kết án, Ngài bị kết án do tòa án của nhân loại, mà Philato tuyên án. Ngài là người bị kết án do chính những người con cái trong nhà: "Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó đi!". Thập giá mãi mãi vẫn là một bản án, một bản án đóng trên đầu Đức Giêsu Kitô: "Đức Giêsu Nadaret, Vua dân Do Thái". Như vậy, Thập giá không có gì đáng để tôn vinh: Thập giá là đau khổ; là kết án; là sự chết.

Vậy tại sao chúng ta suy tôn Thập giá Đức Giêsu Kitô như vậy?

Vâng! Đúng là chúng ta suy tôn Thập giá Đức Giêsu Kitô vì Đức Giêsu Kitô đã dùng Thánh giá mà cứu chuộc nhân loại. Đó là ý nghĩa mà chúng ta đang đi sâu vào tìm hiểu. Nếu Thập giá chỉ là một bản án tử hình, chỉ là một huyền thoại, một sự kết án thì mãi mãi Thập giá là một sự hổ ngươi cho tất cả những người Kitô hữu. Nhưng nếu Đức Giêsu Kitô đã dùng Thánh giá mà cứu chuộc thế gian thì đây chính là triết lý của sự khôn ngoan; triết lý của sự sống. Như vậy, trong nghịch lý hàm chứa một chân lý; ở trong bản kết án ấy lại chính là một sự xóa án. Tất cả diễn ra nơi Thập giá Đức Giêsu Kitô. Chúng ta nhìn thấy sự sống và sự chết ở cùng trên Thập giá Đức Giêsu Kitô, Ngài đã nói những lời cuối cùng, Ngài phó linh hồn cho Đức Chúa Cha. Sự sống của Đức Giêsu Kitô trên Thập giá và sự chết của Đức Giêsu Kitô cũng trên Thập giá. Sự sống và sự chết gặp nhau trên Thập giá của Đức Giêsu Kitô. Nhưng chúng ta cũng thấy rằng sự sống và sự chết của Đức Giêsu trên Thập giá cũng chính là sự sống và sự chết của chúng ta. Bởi lẽ từ cạnh sườn bị đâm thâu, máu và nước chảy ra, từ đó phát sinh ra Bí tích của Hội Thánh như trong Kinh Tiền Tụng chúng ta đọc. Vậy từ Thập giá Đức Giêsu Kitô, máu và nước chảy ra: nước tượng trưng cho Bí tích Rửa Tội. Nhờ đó mà chúng ta được đi từ cõi chết đến cõi sống. Và máu, tượng trưng cho các Bí tích, những Bí tích của tình yêu thương, để tha tội, để thêm sức, để thánh hóa những tâm hồn. Chúng ta hình dung một Đức Giêsu Kitô hiến mạng sống của mình để hướng tới cái chết. Và từ cái chết ấy, mà chúng ta bắt đầu nhận được trở lại sự sống của Thiên Chúa, sự sống thật của con người theo thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa khi tạo dựng con người.

Cái sống và cái chết không chỉ đấu tranh trong con người Đức Giêsu Kitô mà trong toàn thể Hội Thánh, là nhiệm thể của Đức Kitô. Nếu Đức Giêsu Kitô không chết trên Thập giá thì không có sự hoàn tất chương trình cứu độ của Ngài. Nếu Đức Giê su Kitô không chấp nhận cái chết trên Thập giá thì bản án của nhân loại mãi mãi vẫn còn. Vì vậy trong bản án được treo trên đầu Đức Giêsu Kitô đã nói rõ vương quyền của dân Thiên Chúa: Tiên tri, Tư tế, Vương giả. Chúng ta, những người Kitô hữu cũng mang trong mình một danh Kitô, mà danh ấy là Vua Do Thái. Như vậy, trong bản án mà Đức Giêsu phải chịu bao hàm cả chức vụ Tư tế, Tiên tri, Vương đế của mỗi người Kitô hữu chúng ta. Nếu không có Thập giá thì những danh hiệu ấy không có ý nghĩa gì. Cho nên, người Kitô hữu chúng ta hôm nay, đứng trước Thập giá Đức Giê su Kitô là đối diện với một mầu nhiệm, một mầu nhiệm hàm chứa nghịch lý, chân lý đan xen nhau. Không phải ai cũng nhận ra chân lý của Thập giá. Vì thế, thánh Phaolo đã diễn tả những cách thức mà mỗi một thời đại, mỗi một dân tộc tượng trưng cho một ý thức hệ, một quan điểm khác nhau, rằng: Thập giá Đức Giêsu Kitô là cớ vấp phạm cho người Do Thái và là sự điên rồ đối với dân ngoại; hoặc là sự khôn ngoan cho những người được tuyển chọn, vì đó chính là những gì mà con người được sàng lọc, được trắc nghiệm đi sâu vào tâm hồn mình để nhận ra Thập giá. Người đời đã biết áp dụng nguyên tắc Thập giá theo triết lý "Lửa thử vàng, gian nan thử đức", rằng "Đoạn trường ai có qua cầu mới hay". Đó là triết lý của Thập giá áp dụng trong cuộc sống, vì ai cũng sợ đau khổ, ai cũng sợ sự chết. Nhưng "Lửa thử vàng, gian nan thử đức" và "Đoạn trường ai có qua cầu mới hay" nghĩa là những người có ở trong tình trạng đau khổ (đoạn trường = đứt ruột) mới hiểu được,và trong đau khổ ấy người ta mới tìm được giá trị của Thập giá. Cho nên ngay ở trường đời, cũng có giá trị thập giá và người ta đã tìm ra triết lý khôn ngoan của nó. Các thánh mô tả Thập giá là sự khôn ngoan. Bởi vì Thập giá Đức Giêsu hiện nguyên hình là sự chết, vì khi không qua đau khổ và sự chết con người sẽ không đạt tới đích thật sự sống của mình.

Vì vậy, chúng ta nói về Thập giá, suy tôn Thánh giá là chúng ta đang nói tới tình yêu thương và chân lý mà Thiên Chúa muốn chúng ta đi qua sự chết để vào cõi sống; để nhìn qua những đau khổ, sự chết của Đức Giêsu Kitô nhận ra chương trình cứu độ. Vì vậy, đối với những người được tuyển chọn, Thập giá là ơn cứu độ, còn mãi mãi vẫn là cớ vấp phạm và sự điên rồ đối với những kẻ không tin hay với người quá khích.

Hôm nay và mãi mãi cho đến tận thế, Thập giá dạy chúng ta những bài học khôn ngoan để chúng ta nhận ra chân giá trị của cuộc đời. Thập giá mãi mãi vẫn là trường dạy chúng ta sự khiêm tốn, sự khôn ngoan và cho chúng ta hiểu tình yêu - một tình yêu đích thật.

Những người Kitô hữu hôm nay, đeo Thánh giá trên cổ, lần tràng hạt trên tay có Thánh giá và đặt Thánh giá trên nóc đỉnh cao của tháp Nhà thờ; Thánh giá ngày xưa còn dùng làm dấu hiệu của những người theo Đạo hay không theo Đạo, sống hay là chết: bước qua Thập giá là bỏ Đạo, là sự sống trước con mắt thế gian, còn không bước qua Thập giá là chết trước con mắt thế gian. Nhưng đó lại là các Thánh Tử Đạo!

Thập giá như là một đường ngang, đường xích đạo phân đôi địa cầu của chúng ta; đường dọc như là trục giữ cho trái đất giữ của chúng ta định vị trong vũ trụ. Đường dọc, đường ngang ấy đã tạo nên Thập giá. Đường dọc đi tới tận Thiên Chúa để Ngài tuôn đổ ơn lành xuống cho trái đất của chúng ta, không bị sai lạc vị trí của mình. Đường ngang ôm chặt lấy trục để cho chúng ta hiểu biết là: trong Thập giá, chúng ta có tình huynh đệ, tình yêu thương và chúng ta gặp gỡ nhau trong Đức Kitô.

----------------------------------
 

TN 14-A123: Hãy mang lấy ách của Tôi và hãy học cùng Tôi

 

Có lẽ chúng ta sẽ nghĩ rằng bài trích sách Dacaria nên đọc vào ngày Chúa Nhật Lễ Lá khi Đức TN 14-A123


Có lẽ chúng ta sẽ nghĩ rằng bài trích sách Dacaria nên đọc vào ngày Chúa Nhật Lễ Lá khi Đức Giêsu tiến vào thành Giêrusalem. Thực ra, bài này đã được thánh Mathêu trích dẫn (Mt 21,1-11) và được đọc ngay khi bắt đầu cuộc rước. "Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ"

Dacaria không chỉ nói mơ hồ. Ông cho biết rõ ràng Đấng Messia thuộc Dòng Đavit sẽ như thế nào. Dacaria đã mong một Đấng Mesia như một thủ lãnh không dùng bạo lực. Chỉ cần liếc qua những đầu báo hôm nay cũng thấy những đàn áp vũ lực đối với các cuộc biểu tình ở Syri và Liby. Nhưng ngay cả các nước dân chủ cũng chưa chắc không dính đến bạo lực. Ngược với những kinh nghiệm thông thường của chúng ta. Dacaria mời gọi thính giả của mình chiêm ngưỡng một đấng cứu thế hiền lành, cưỡi trên lưng một con lừa, loài súc vật chở đồ cho người nghèo, chứ không phải chiến mã của các bậc đế vương.

Dacaria chờ mong đấng Messia sẽ chấm dứt các quốc gia hùng mạnh tự mãn về chính mình. Ngài sẽ không phải là một chiến binh, nhưng dẹp qua một bên những vũ khí, chiến xa, chiến mã, cung tên để loan báo hòa bình. Được một người không có đất đai, chư hầu, Đấng không muốn làm người điều khiển cỗ máy chiến tranh đứng ra lãnh đạo - đối với ngày nay có lẽ đó là kiểu lãnh đạo hoàn toàn khác biệt! Chúng ta đã từng nghe những bài phát biểu của các ứng cử viên tổng thống tiềm năng sẵn sàng cho cuộc đua đến chức tổng thống. Cái nhìn của Dacaria chắc chắn thách thức công tác lãnh đạo hiện nay và tiềm năng của đất nước chúng ta, cũng như nhận thức của chúng ta về việc lãnh đạo.

Nơi Đức Giêsu, chúng ta bắt gặp một Đấng cứu thế mà Dacaria đã tiên đoán, trong Bài Giảng Trên Núi, chúng ta nghe Người công bố luật của sự sống cho những ai đón nhận Người. Hôm nay, chúng ta được mời gọi đi vào lời cầu nguyện của Đức Giêsu, tạ ơn Chúa Cha vì đã ban cho Người các môn đệ, những kẻ bé mọn, hiền lành và khiêm nhường.

Thế giới của chúng ta không xem hiền lành và hèn mọn như những lối sống. Thực ra, đó chính là "những kẻ bé nhỏ" bị thế giới quyền lực gạt qua một bên. Người hiền lành không chỉ bị hãm hại, họ còn bị miệt thị, lợi dụng và thậm chí bị giết. Vì thế, sức mạnh và sự quả quyết thì cần thiết để chống lại sự bóc lột những kẻ cô thế cô thân để họ có thể sống trọn vẹn cuộc sống nhân loại. Làm thế nào chúng ta có thể cân bằng giữa việc làm "những kẻ bé mọn" như Đức Giêsu tán dương với Chúa Cha với nhu cầu của chúng ta hiện nay phải dùng sức mạnh để giúp con người thôi bị áp bức? Đó là một vấn đề nan giải. Làm thế nào kẻ mạnh mẽ cũng có thể hiền lành và nhẹ nhàng, thành một trong những "kẻ bé mọn" của Đức Giêsu? Sức mạnh và quyền lực không xóa bỏ sự ôn hòa, hiền lành và phó thác nơi Thiên Chúa.

Ngay trong đoạn trước của bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu bị các Pharisêu cũng như những người trong các thành Người đến rao giảng tẩy chay Người (11,20-24). Ngay cả lúc bị loại trừ, Đức Giêsu vẫn tạ ơn Thiên Chúa vì đã mạc khải sự khôn ngoan cho "những kẻ bé nhỏ". Trong bài đọc hôm nay, một lần nữa Người trình bày cho các môn đệ biết những phẩm cách của những ai là thành viên của Thiên Quốc.
Cái "ách" của luật Dothái được xem như đặc quyền của những người Dothái nhiệt thành, vì nó cho thấy hồng ân của sự khôn ngoan của Thiên Chúa tỏ ra trong sống hàng ngày. Giờ đây, Đức Giêsu xem mình như là sự khôn ngoan của Thiên Chúa và ban tặng những cái ách ấy cho ai đón nhận Người. Con người có thể học từ luật lệ, phong tục và giáo huấn của đạo, nhưng nguồn mạch căn bản giúp chúng ta hiểu đường lối của Thiên Chúa thì không hệ tại nơi những kến thức đó. Nhưng là nơi việc đón nhận Đức Giêsu và sứ điệp của Người. Thực ra, việc tuân giữ lề luật cách tỉ mỉ có thể khiến cho cho người ta ra tối tăm trước tự do của Thần Khí mà Đức Giêsu ban tặngcho chúng ta. Đức Giêsu cho rằng hiểu biết về Thiên Chúa thì không phải chỉ nhờ vào những theo đuổi của con người - dù là với ý hướng tôn giáo tốt nhất. Người nói, "Cha đã giao phó mọi sự cho tôi". "Mọi sự" - mạc khải trọn vẹn về Thiên Chúa mà chúng ta tìm thấy nơi Đức Giêsu. Người sẵn sàng bày tỏ "mọi sự" về Thiên Chúa cho chúng ta.

Đức Giêsu nói cho những người nghèo, kẻ dốt nát và những ai bị áp bức. Họ phải lo lắng, vật lộn để sống qua ngày. Họ không có nhiều thời gian và cũng chẳng được đi học để mà nghiên cứu những luật lệ, truyền thống về niềm tin của họ như cách các Pharisêu thường làm. Đức Giêsu kết án các Pharisêu chất những gánh nặng lên vai người nghèo còn bản thân họ lại chẳng buồn đưa lấy một ngón tay để nhấc những gánh nặng ấy. Những người phải bươn trải kiếm sống không thể đọc hay nghiên cứu luật, vì thế họ vô tình phạm luật, và kết quả là bị những kẻ thông luật kết án.

Đức Giêsu mời gọi những người bị xem như "kẻ phạm luật", "hãy theo Tôi". Người ban cho họ một cái ách, là sự đón nhận tình yêu và ơn tha thứ của Thiên Chúa mà Người ra giảng. Chẳng phải họ thấy nhẹ hơn khi biết rằng mình không phải là những tội nhân, những kẻ bên ngoài như họ từng bị cáo buộc sao? Nay, qua Đức Giêsu, họ cảm nhận được lòng tha thứ của Thiên Chúa và lối sống của Đức Giêsu. Chúng ta cũng nên tắc mắc: chẳng phải sứ điệp của Đức Giêsu về tình yêu của Thiên Chúa và sự sẵn sàng tha thứ mang lại cho chúng ta một gánh nhẹ nhàng hơn và cảm nhận đến gần Thiên Chúa khi chúng ta cần đó sao?

Trong đoạn văn này của Mathêu, chúng ta có hai chọn lựa - tin hay không tin. Nhưng việc tin tưởng vào Thiên Chúa thì không hê tại ở nỗ lực của chúng ta. Nhưng, tin là hồng ân của Thiên Chúa và không tin là vì sự ngạo mạn và kiêu hãnh của những người từ chối tặng phẩm của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Hôm nay, Đức Giêsu nói cho chúng ta biết Người chính là mặc khải về Thiên Chúa và ý muốn của Thiên Chúa cho chúng ta. Người mời gọi những ai bị áp bức hãy tin vào người. Vì họ, "những kẻ bé mọn", sẽ không phải mang những gánh nặng hay trói buộc tôn giáo nào. Những "kẻ bé mọn" là những người xuất hiện trong toàn bộ Tin mừng, chẳng hạn như những người thu thuế, gái điếm và những người tội lỗi, những người đã lắng nghe và đón nhận giáo huấn của Đức Giêsu. Giờ đây, Đức Giêsu mang lại sự nghỉ ngơi lâu dài và mãi mãi của thời đại Messia, là thành quả của việc Người đến thế gian.

Chẳng phải lạ lắm sao khi mà vừa nghĩ đến chuyện nghỉ ngơi lại vừa nghĩ đến chuyện mang ách?Ách là một công cụ để làm việc, cho cả con người và súc vật. Cái ách là để thi hành một tác vụ. Đối với chúng ta, đó là để phục vụ Đức Kitô. Chúng ta có đón nhận cái ách mà Đức Giêsu ban cho hay không? Một điều chúng ta thấy được từ Đức Giêsu là cái ách của Người không phải là gánh nặng; thánh Phaolô nói cái ách đó dẫn chúng ta đến tự do. Khi chúng ta đón nhận cái ách của Đức Giêsu thì chúng ta cũng đón nhận Ngài như người luôn trợ giúp chúng ta, một người "cùng mang ách" với chúng ta. Điều đó giải thích việc làm thế nào người Kitô hữu có thể hoàn thành được những nhiệm vụ hết sức khó khăn và thậm chí bất khả thi, cho dù là tử đạo, nhờ Danh Đức Giêsu.

Chúng ta đã cố hết sức để có được nền giáo dục đào tạo mà chúng ta cần để sống nốt cuộc đời này. Chúng ta muốn sự yên ổn cho chính chúng ta và gia đình mình. Chúng ta có lẽ cũng đã tăng cường vốn kiến thức và kỹ năng cho mình bằng những khóa học thêm, cố gắng hơn và tốn kém hơn. Chúng ta có lý do chính đáng để thu thập được càng nhiều kiến tthức càng tốt. Đó không phải là những gì Đức Giêsu phê phán khi người đề cập đến những kẻ "khôn ngoan và thông thái" - trừ khi việc "khôn ngoan và thông thái" ấy che đậy bản chất mỏng dòn của chúng ta và cho chúng ta cảm giác sai lầm về sự an toàn ở ngoài Thiên Chúa. Chúng ta có thể vừa "khôn ngoan và thông thái" vừa ở trong số "những kẻ bé mọn" mà hôm nay Đức Giêsu đã dâng lời cầu nguyện và tạ ơn cho.

Ở đoạn trước trong Tin mừng Mathêu, Đức Giêsu chúc phúc cho những ai "có tinh thần nghèo khó" (Mt 5,3) như thể đã có được nước trời làm sản nghiệp. Những người đọc Sách Thánh sẽ nhận ra rằng khi Đức Giêsu nói đến "những kẻ bé mọn" là người đang lấy lại hình ảnh của Kinh Thánh bản Hippri, từ "anawim" - có nghĩa là những người hèn mọn và khiêm nhường. Họ là những người không có uy thế, quyền lực, địa vị hay chức vụ cao sang. Họ chẳng có gì để có thể khoe khoang thế giới. Vì thế, họ chấp nhận phó thác nơi Thiên Chúa mà không chút do dự hay kiêu hãnh giả tạo nào.

Trong Thánh lễ này, giống như những "anawin", chúng ta đón nhận sự khao khát Thiên Chúa của chúng ta và khiêm tốn nài xin: "Con chẳng có gì để kiêu hãnh trước mặt Chúa, lạy Thiên Chúa Chí Thánh. Con hoàn toàn phụ thuộc vào ân sủng của Người". Thiên Chúa thấy được sự trống trải của chúng ta và đổ đầy trong chúng ta nguồn lương thực tốt nhất, là Mình và Máu của Đấng đang mời gọi chúng ta hôm nay, "Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường".

----------------------------------
 

TN 14-A124: Chú giải và suy niệm của Lm. Inhaxiô Hồ Thông

 

Phụng Vụ Chúa Nhật 14 Thường Niên năm A này trổi lên cung giọng hân hoan. Bài Đọc I và TN 14-A124


Phụng Vụ Chúa Nhật 14 Thường Niên năm A này trổi lên cung giọng hân hoan. Bài Đọc I và Tin Mừng ca ngợi giá trị cao cả của con người. Bài Đọc II ca mừng cuộc chiến thắng của Thần Khí trên xác thịt, sự sống trên sự chết.

Dcr 9, 9-10

Bài Đọc I, được trích từ sách Da-ca-ri-a, là một lời mời gọi hãy vui lên, được gởi đến dân thành Giê-ru-sa-lem, vì Vua của họ sẽ trở lại viếng thăm họ, cỡi trên một con lừa con: Vua Mê-si-a là một vị vua khiêm tốn và hòa bình.

Rm 8, 9. 11-13

Trong thư gởi các tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô công bố rằng người Ki-tô hữu sống theo Thần Khí thì chiến thắng tính xác thịt và tội lỗi, vì Thần Khí là sự sống và là sự sống lại.

Mt 11, 25-30

Đoạn Tin Mừng Mát-thêu là bài “thánh thi ngợi ca”. Đức Giêsu vui mừng vì Cha Ngài mặc khải những điều bí nhiệm của mình cho những người bé mọn và khiêm hạ.

BÀI ĐỌC I (Dcr 9, 9-10)

Bản văn này được trích dẫn từ phần thứ hai của sách Da-ca-ri-a, nhưng tác giả không phải là ngôn sứ Da-ca-ri-a. Ngôn sứ Da-ca-ri-a thật sự sống vào thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên vào thời kỳ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được tái thiết (521-515 trước Công Nguyên) sau thời lưu đày Ba-by-lon. Trong khi phần thứ hai của sách mang tên của vị ngôn sứ thì khoảng hai thế kỷ sau đó. Phần này bao gồm từ chương 9 đến chương 14 được gán đúng hơn cho nhiều tác giả dưới danh xưng là Da-ca-ri-a đệ nhị. Tác phẩm hỗn hợp này quy tụ nhiều mảnh văn khác nhau, vô danh và không có niên biểu. Nó được định vị vào thời kỳ giữa truyền thống ngôn sứ biến mất và sự khai sinh các sách khải huyền. Vào lúc đó, người ta đọc lại những tác giả thời quá khứ, giải thích và làm mới lại sứ điệp của họ. Bản văn mà chúng ta đọc thì đầy những hồi ức của I-sai-a, Xô-phô-ni-a, Mi-kha, hai sách Các Vua, vân vân.

Đề tài về Đấng Thiên Sai nối kết những yếu tố rời rạc giữa chúng. Đấng Thiên Sai được tuyên sấm qua ba dung mạo, cả ba dung mạo này đều có âm vang lớn lao mà các tác giả Tin Mừng: 1- dung mạo vị vua thiên sai, khiêm hạ và hòa bình; 2- dung mạo người mục tử nhân lành bị các lãnh tụ của dân Ngài loại bỏ; 3- sau cùng dung mạo của một Đấng Bị Đâm Thâu mầu nhiệm.

Trong phần thứ nhất này, bản văn gợi lên cho chúng ta dung mạo của Vua Thiên Sai:

1. Vua Thiên Sai tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem:

“Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!

Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng rao hò!

Vì kìa Đức Vua đến với ngươi” (Dcr 9: 9)

 “Thiếu nữ Xi-on” và “thiếu nữ Giê-ru-sa-lem” là hai diễn ngữ Do thái được dùng để chỉ dân cư thành thánh Giê-ru-sa-lem và ngọn đồi Xi-on.

Bài hoan ca, loan báo Vua Thiên Sai ngự đến, được gợi hứng bởi những tiếng hoan hô phụng vụ tán dương vương quyền của Đức Chúa. Các Thánh Vịnh cung cấp nhiều ví dụ như Tv 47: 2:

“Vỗ tay đi nào, muôn dân hỡi!
Mừng Thiên Chúa, hãy cất tiếng hò reo!
Vì Đức Chúa là Đấng Tối Cao, Đấng khả úy,
là Vua Cả thống trị địa cầu”.

Hay Tv 95: 1-3:

“Hãy đến đây ta reo hò mừng Chúa,
tung hô Người là Núi Đá độ trì ta,
vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm tạ,
cùng tung hô theo điệu hát cung đàn.
Bởi Đức Chúa là Chúa Trời cao cả,
là Đại Vương trổi vượt chư thần”.

Ngôn sứ Xô-phô-ni-a cũng đã tán dương các thánh thi phụng vụ này như vậy rồi:

“Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on,
hò vang dậy đi nào, nhà Ít-ra-en hỡi!
Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi.
….
Đức Vua của Ít-ra-en đang ngự giữa ngươi, chính là Đức Chúa” (Xp 3: 14-15).

2. Ngài là Vua khiêm tốn:

Vị vua tương lai này sẽ là “Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Năng”. Tác giả lấy lại những phẩm chất quen thuộc trong truyền thống thuần túy về trào lưu Vua Thiên Sai (x. I s 9: 6; 11: 4; 16: 5; Gr 23: 5; vân vân). Tuy nhiên, danh xưng “Đấng Chính Trực” gợi lên sự thánh thiện của Ngài hơn là phẩm chất của Đấng Thiên Sai Thẩm Phán; còn về danh xưng được dịch “Đấng Toàn Năng”, theo nguyên ngữ có nghĩa “được giải thoát khỏi những thù địch của Ngài”. Tác giả ghi nhận sự toàn năng, vì ông muốn nhấn mạnh một phẩm chất cốt yếu khác của Vua Thiên Sai: đức khiêm tốn.

“Khiêm tốn ngồi trên lưng lừa,
một con lừa hãy còn theo mẹ” (Dcr 9: 9)

Con lừa là con vật mà các vị lãnh tụ thời xưa của dân Ít-ra-en cỡi, sau đó được thay thế bởi con ngựa vì cần thiết cho chiến binh xung trận. Thường dân vẫn cỡi lừa.

Bản văn của Da-ca-ri-a đệ nhị này là bản văn Cựu Ước duy nhất – không kể đến những gợi ý của Người Tôi Trung – trình bày Đấng Thiên Sai ngự đến dưới những đường nét của một nhân vật rất mực khiêm tốn. Sấm ngôn này sẽ được thực hiện bởi Đức Giêsu, Ngài tiến vào Giê-ru-sa-lem cỡi trên một con lừa con trong tiếng reo mừng hân hoan của đám đông.

3. Ngài là Vua bình an:

 “Người sẽ quét sạch chiến xa khỏi Ép-ra-im,
và chiến mã khỏi Giê-ru-sa-lem;
cung nỏ chiến tranh sẽ bị bẻ gãy” (Dcr 9: 10).

Tác giả muốn nói rằng kỷ nguyên Mê-si-a sẽ là kỷ nguyên của sự thống nhất hai vương quốc. Ngài là Vua đem lại bình an, vì thế, tất cả bộ máy chiến tranh sẽ bị hủy bỏ. Nhiều ngôn từ nhắc nhớ nhiều bản văn Kinh Thánh: ngôn sứ Hô-sê đã loan báo:

“Trong ngày đó, vì dân Ta,

….

Ta sẽ bẻ gãy cung nỏ gươm đao,
chấm dứt chiến tranh trên toàn xứ sở,
và Ta sẽ cho chúng được sống yên hàn” (Hs 2: 20).

Chúng ta cũng đọc thấy tại Mi-kha:

“Ta sẽ cho ngựa của ngươi biến khỏi xứ,
sẽ hủy diệt xe trận của ngươi” (Mk 5: 9).

Hòa bình phải là điều thiện hảo tuyệt mức của thời Thiên Sai. Vua Thiên Sai “sẽ công bố hòa bình cho muôn dân” (Dcr 9: 10). Diễn ngữ này hoàn toàn kinh điển như Is 57: 19: “Bình an! Bình an cho khắp xa gần!” (x. Tv 46 và 72), tức là bình an cho cả dân Do thái (dân ở gần) lẫn muôn dân (dân ở xa). Đó cũng là vai trò của Người Tôi Trung là trở nên ánh sáng muôn dân và đem ơn cứu độ đến tận cùng cõi đất.

Bất chấp cái mâu thuẫn bên ngoài, Đấng Thiên Sai hòa bình sẽ mở rộng vương quyền của Ngài trên một lãnh địa rộng lớn:

“Người thống trị từ biển này qua biển nọ,

và từ sông Cả đến tận cùng cõi đất” (Dcr 9: 10).

Được hiểu sát từ, những lời tiên báo này đặt nền tảng trên những niềm hy vọng của dân Chúa chọn vào sự khôi phục nền quân chủ thời Đấng Thiên Sai. Đây là niềm mơ ước bền bỉ mà Chúa Giêsu sẽ còn gặp phải khi các môn đệ hỏi Ngài sau biến cố Phục Sinh: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ít-ra-en không?” (Cv 1: 6). Nhưng đó không là viễn cảnh của vị ngôn sứ, ông đã để cho hiểu rằng “sự thống trị” của vị vua hòa bình sẽ không thuộc lãnh vực trần thế.

BÀI ĐỌC II (Rm 8, 9. 11-13)

Với một lập luận vững chắc, thánh Phao-lô đã cho thấy rằng Thần Khí đang hoạt động ở nơi biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô, bởi vì Thần Khí là nguồn sống, Ngài bảo đảm cùng một sự sống lại cho con người phải chết của chúng ta, ở đó Ngài thiết lập chỗ ở của Ngài.

Sau khi đã gợi lên sự nghèo nàn về phương diện luân lý của nhân loại dưới quyền lực của tội lỗi, khởi đi từ chương 8 của thư gởi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô phác họa đời sống mới của người Ki-tô hữu: được Chúa Ki-tô công chính hóa, từ nay họ sống dưới quyền lực của Chúa Thánh Thần.

Trong một phản đề mạnh mẽ, thánh Phao-lô đối lập bản tính yếu đuối và tội lỗi của con người mà thánh nhân gọi “tính xác thịt” với bản tính được ân sủng đổi mới thì sống theo tác động của Thần Khí. Ở đây chúng ta nên lưu ý rằng thánh Phao-lô liên tục nói về Thần Khí của Thiên Chúa và Thần Khí của Đức Ki-tô trong một phương trình hoàn hảo.

Dưới sức mạnh của Thần Khí này, từ nay chúng ta có thể chiến thắng những sức mạnh của sự dữ, “diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi chúng ta”. Thần Khí ở trong con người phải chết của chúng ta, chính Ngài thanh tẩy, thánh hóa và thần hóa chúng ta; chính Ngài bảo đảm sự phục sinh của chúng ta.

TIN MỪNG (Mt 11, 25-30)

Lời cầu nguyện tạ ơn này Chúa Giêsu ngỏ lời với Chúa Cha đều được thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca ghi lại. Thánh Lu-ca đặt lời cầu nguyện này vào lúc bảy mươi hai môn đệ hoan hỷ trở về từ sứ mạng của mình, vào lúc đó Chúa Giêsu cùng vui với họ và tạ ơn Cha Ngài về sứ mạng thành công. Lời cầu nguyện này xem ra được đặt vào trong bối cảnh này (Lc 10, 21-22).

Khi trình bày lời cầu nguyện này trong một bối cảnh khác, thánh Mát-thêu cho nó một chiều kích thần học có lẽ sâu xa hơn. Đức Giêsu vừa chịu những thất bại: sự chống đối của những người Pha-ri-sêu càng tăng lên, nhất là trong ba thành phố miền Ga-li-lê: Ca-phác-na-um, Bết-sai-đa và Khơ-ra-din. Chúa Giêsu báo trước án phạt đối với các thành này: chúng sẽ bị triệt hạ.

1. Thánh thi chúc tụng:

Ấy vậy, thay vì cảm thấy sự cay đắng, Chúa Giêsu lại chúc tụng Cha Ngài. Lời cầu nguyện của Ngài theo thể văn xuôi Hy-lạp có vần có điệu, cũng được gọi là “thánh thi chuc tụng”. Nên nghĩ rằng những lời nói của Đức Giêsu, được thốt lên bằng tiếng A-ram, bao gồm một sự cấu trúc tương tự, theo văn phong nói thông thường của người Do thái, ở đó vần điệu giúp cho việc ghi nhớ được dễ dàng.

2. Tán dương “những người bé mọn”:

Chúa Giêsu ngợi khen Cha Ngài vì đã khai lòng mở trí cho “những người bé mọn” hiểu, trong khi lại giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời. Chúa Giêsu chủ yếu nhắm đến những giới kinh sư và nhóm Pha-ri-sêu, họ tự phụ về sự hiểu biết của mình và giam hãm mình vào trong sự khôn ngoan nhân loại. Các ngôn sứ đã loan báo điều này, như I-sai-a:

“Vì thế, Ta sẽ tiếp tục làm cho dân này phải sững sờ kinh ngạc
vì bao nhiêu dấu lạ điềm thiêng.
Bấy giờ sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan sẽ chuốc lấy thất bại,
và trí thông minh của người thông minh sẽ tan thành mây khói” (Is 29: 14)

Ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã ngỏ lời với các kinh sư Giê-ru-sa-lem:

“Những hạng khôn ngoan ấy
sẽ thẹn thùng, run sợ, và sa vào cạm bẫy.
Này, lời Đức Chúa thì chúng khinh miệt,
chúng khôn ngoan nỗi gì?” (Gr 8: 9).

“Những người bé mọn” trước tiên chỉ ra các môn đệ của Chúa Giêsu - sau này Ngài sẽ gọi họ như vậy nhiều lần - nhưng cũng những người khiêm hạ trong đám đông lắng nghe lời Ngài, vì họ không bị bối rối bởi tính tự hào tự phụ về sự hiểu biết của mình.

Chúa Giêsu còn nhiều lần khác sẽ ca ngợi tinh thần trẻ thơ. Chính xác thánh Mát-thêu thuật lại một sự cố có ý nghĩa. Trong khi lũ trẻ reo hò trong Đền Thờ: “Hoan hô con vua Đa-vít”, thì các thượng tế và kinh sư tức tối. Đức Giêsu trích dẫn Tv 8: 2 nói với họ: “Lời này các ông chưa bao giờ đọc sao: Ta sẽ cho miệng con thơ trẻ nhỏ cất tiếng ngợi khen?” (Mt 21: 14-16).

3. Chúa Cha và Chúa Con:

Qua lời thân thưa này: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất”, Chúa Giêsu không còn có thể khẳng định địa vị Con Thiên Chúa của Ngài rõ ràng hơn nữa.

“Không ai biết Chúa Con, trừ Chúa Cha: cũng như không ai biết Chúa Cha, trừ Chúa Con, và người mà Chúa Con muốn mặc khải cho”. Cung giọng của đoạn văn rất gần với cung giọng của Tin Mừng Gioan, ở đó, thánh Gioan nhắc đi nhắc lại nhiều lần những mối liên hệ mật thiết hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con trong sự hiểu biết và tình yêu.

Khi khẳng định: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi”, Chúa Giêsu xem ra nói trước lời khẳng định mà Ngài sẽ công bố sau khi Ngài sống lại: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (Mt 28: 18). Trong bối cảnh định vị những lời này, chắc hẳn Chúa Giêsu gợi lên công trình cứu độ mà Ngài có sứ mạng thực hiện và nay các môn đệ được mặc khải cho biết. Chúa Giêsu là Đấng Trung Gian duy nhất. Về vấn đề này Tin Mừng Gioan cung cấp sự bổ túc tốt nhất, như “Thật vậy, Chúa Cha đã ban cho Người quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người” (Ga 17: 2).

4. “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi”:

Trong Tin Mừng Mát-thêu chứ không Tin Mừng Lu-ca, lời cầu nguyện của Chúa Giêsu được theo với một bản văn được liệt vào trong số những hạt ngọc Tin Mừng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”.

Gánh nặng và cái ách là hai hình ảnh rất nổi tiếng của đạo Do Thái để chỉ Lề Luật. Thánh Vịnh 19 công bố rằng:

“Luật Pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn.
Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn” (Tv 19: 8-9).

Nhưng vì phó mặc cho các nhà lãnh đạo Do thái quá chi ly, Lề Luật đã bị chất quá tải với những tuân giữ nặng nề. Luật của Đức Giêsu, Luật yêu thương, mang sức mạnh giải thoát:

“Quả thật, yêu mến Thiên Chúa
là tuân giữ các điều răn của Người.
Mà các điều răn của Người
có nặng nề gì đâu” (1Ga 5: 3).

Khi tuyên bố: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học gương tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng”, Chúa Giêsu mượn cách nói của ngôn sứ Giê-rê-mi-a:

“Hãy dừng lại trên các nẻo đường mà coi,
hãy tìm hiểu những đường xưa lối cũ
cho biết đâu là đường ngay nẻo chính, rồi cứ đó mà đi:
tâm hồn các ngươi sẽ bình an thư thái” (Gr 6: 16).

Đức Giêsu, Đấng “có lòng hiền hậu và khiêm nhường”, kêu gọi chúng ta trở nên môn đệ Ngài. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất ghi nhận tấm lòng dịu dàng này của Đức Giêsu, cũng như thánh nhân là thánh ký duy nhất trích dẫn bức chân dung Người Tôi Trung của I-sai-a: “Người không lên tiếng giữa phố phường, không đành bẻ gảy cây lau bị giập, chẳng nở tắt đi tim đèn leo lét”, và áp dụng vào Đức Ki-tô (Mt 12: 18).

------------------------------
 

TN 14-A125: Chúa Nhật 14 Thường Niên


(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy Niệm
 

Khi thi hành sứ vụ, Đức Giêsu nhận ra một điều lạ. Những người khôn ngoan học thức thường khó TN 14-A125


Khi thi hành sứ vụ, Đức Giêsu nhận ra một điều lạ.
Những người khôn ngoan học thức thường khó đón nhận Tin Mừng,
còn những người đơn sơ, bé mọn lại dễ mở lòng hơn.
Khôn ngoan theo kiểu trần gian làm người ta dễ tự hào, tự mãn.
Học thức, hiểu biết về Kinh Thánh có khi làm người ta khép lại.
Đức Giêsu thấy mình khó chạm được vào trái tim
của những vị kinh sư hay các ông Pharisêu khả kính.
Có biết bao định kiến như thành lũy vây bọc tầm nhìn của họ.
Nhưng Ngài lại thấy dễ rao giảng về Nước Trời
cho đám đông những người ít học bình dân.
Lòng họ như thửa đất đã được cầy bừa, chờ gieo hạt giống.
Đức Giêsu thấy hiện tượng trên đây nằm trong ý định của Cha.
Tâm tình ngợi khen Cha bật ra trên môi Ngài cách hồn nhiên.
“Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Mt 11,26).
Qua Con, Cha muốn mặc khải về chính mình cho mọi người,
nhưng Cha vẫn tôn trọng tự do đón nhận của từng người.
Khi rao giảng, Đức Giêsu cũng muốn đón nhận như Cha.
Có khi Ngài đành chịu thua trước người cứng cỏi chai đá.
Có khi sướng vui trước một trái tim rộng mở đón chờ.
Đức Giêsu ý thức về sự cao cả và vai trò của mình.
Ngài biết Cha đã giao phó cho Ngài mọi sự trên trời dưới đất.
Ngài cũng biết mình là Người Con của Cha,
Người Con duy nhất biết rõ Cha vì luôn ở trong cung lòng Cha,
vì thế cũng là Đấng duy nhất có thể mặc khải về Cha trọn vẹn.
Như thế cả Cha và Con đều là Đấng mặc khải (Mt 11,25.27).
Cha biết rõ Con và mặc khải về Con cho người biết mở lòng.
Cả người khôn ngoan thông thái cũng có thể mở lòng
nếu họ biết khiêm tốn vượt qua những rào cản của thành kiến.
Con biết rõ Cha và mặc khải về Cha cho người biết mở lòng.
Cả những người quê mùa, ít học cũng có thể nắm bắt được
những chân lý cao siêu vượt quá tầm hiểu biết của trí tuệ.
Cha và Con mặc khải về nhau hơn là mặc khải về mình.
Ai đón nhận những mặc khải đó
sẽ được đưa vào thế giới thầm kín nhưng rộng mở của Cha và Con.
Ngay từ trần gian này, người ấy được biết Cha và biết Con
trong mầu nhiệm khôn dò của Thiên Chúa.
Thiên Chúa có một thế giới riêng tư, nhưng lại không khép kín.
Thế giới ấy luôn có những cánh cửa mở ra về phía con người.
Ba Ngôi hạnh phúc viên mãn khi sống cho nhau,
nhưng lại muốn chia sẻ hạnh phúc ấy cho loài người thụ tạo.
Ba Ngôi muốn nhân loại có tương quan thiết thân với từng Ngôi.
Vào thiên đàng là đi vào thế giới hạnh phúc của Thiên Chúa.
Người ta bắt đầu vào thiên đàng ngay từ trần gian này
khi đến thông hiệp với Người Con là Chúa Giêsu.
Hôm nay Chúa Giêsu mời những ai mang gánh nặng nề đến với Ngài,
bất cứ thứ gánh nặng nào mà sức ta không sao mang nổi.
Ngài đổi gánh nặng ấy bằng gánh nhẹ nhàng của Ngài.
Gánh nhẹ nhàng vì Ngài đã điều chỉnh cho vừa vai ta.
Ách êm ái vì ta học được cách mang ách của Ngài,
đón nhận mọi nghịch cảnh với trái tim hiền hậu, khiêm nhu.
Hãy đến với Giêsu, không chỉ để nhận được mặc khải trên cao,
mà còn để được Ngài an ủi vỗ về, dạy dỗ và cho ta bình an.

Cầu Nguyện

Lạy Thiên Chúa là Cha toàn năng,
chẳng có chuyện gì xảy ra mà Chúa không cho phép.
Cả những chuyện xấu xa tồi tệ mà con người làm cho nhau.
Cả sự dữ đang hoành hành do Xatan gây ra trên mặt đất.
Nhiều khi chúng con không hiểu được
tại sao Chúa lại cho phép xảy ra những chuyện như thế.
Nhưng chúng con tin rằng, đối với ai yêu mến Chúa,
mọi sự đều đem lại điều tốt cho họ.
Chúng con tin rằng những gì Chúa cho phép xảy ra
đều vì yêu thương chúng con
và vì ích lợi cho cuộc sống vĩnh hằng của chúng con.
Chúa đau đớn khi phải dùng roi mà sửa dạy
như người cha sửa dạy con mình để mong con nên người.
Xin cho chúng con nhận ra điều Chúa muốn nhắc nhở,
để cải hóa bản thân và điều chỉnh đời mình cho hợp với ý Chúa.
Lạy Thiên Chúa là Cha đầy lòng nhân ái,
trên đường về quê trời,
Chúa muốn chúng con trải qua những thử thách cam go,
như bệnh tật, khổ đau và cái chết,
để chúng con nên cứng cáp và trưởng thành.
Xin cho chúng con đừng nổi loạn trước thử thách,
nhưng biết nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên thánh giá,
để nhẫn nại và giữ vững niềm hy vọng,
kể cả khi thấy Thiên Chúa vắng bóng, thinh lặng hay khoanh tay.
Ước gì dịch bệnh làm chúng con ý thức sự bất lực của mình,
để tha thiết cầu xin và tín thác vào tình yêu Chúa.
Ước gì khi Chúa cho chúng con được chữa lành,
chúng con lại thấy sự sống của Chúa chiến thắng vinh quang.

------------------------------
 

TN 14-A126: Cha mặc khải


(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy niệm:
 

Bài Tin Mừng hôm nay là một lời nguyện tự phát của Đức Giêsu. Đó là một lời tạ ơn, một lời TN 14-A126


Bài Tin Mừng hôm nay là một lời nguyện tự phát của Đức Giêsu.
Đó là một lời tạ ơn, một lời ngợi khen của Con dâng lên Cha.
Đức Giêsu gọi Thiên Chúa bằng từ Abba thân thương gần gũi,
nhưng Thiên Chúa ấy cũng là Đấng siêu việt ngàn trùng,
Đấng quyền uy tối thượng, Chúa Tể cả trời đất (c. 25).
Đức Giêsu ca ngợi Cha vì hành vi mặc khải của Cha cho con người.
Cha có một kế hoạch cứu độ nhân loại qua Con của Cha là Đức Giêsu.
Và Cha muốn vén mở kế hoạch đó cho con người biết.
Có những người đã thành tâm đón nhận, và có những người cố ý từ chối.
Nhưng tất cả đều không nằm ngoài chương trình của Cha (c. 26).
Lối nói kiểu Do thái của Đức Giêsu có thể khó hiểu đối với ta ngày nay:
“Cha đã giấu các điều này trước những người khôn ngoan thông thái.”
Thật ra, chẳng phải Thiên Chúa ghét bỏ hay phân biệt đối xử,
vì Ngài muốn cho mọi người được cứu độ (1 Tm 2, 4).
Chẳng phải Cha ghét bỏ các người khôn ngoan và cổ võ sự ngu dốt.
Ngài cũng không che giấu mầu nhiệm Nước Trời trước một ai.
Nhưng quả thật ai tự hào, tự mãn với hiểu biết khôn ngoan của mình,
và khép lại trước những gì vượt quá trí hiểu nông cạn của họ,
người ấy sẽ không có cơ may đón nhận được mặc khải của Thiên Chúa.
Một số kinh sư và người Pharisêu giỏi giang về Sách Thánh và truyền thống,
đã không thể đón nhận được cái hoàn toàn mới mẻ nơi giáo lý Đức Kitô,
vì họ quá bám víu vào cái biết cũ mà họ coi là tuyệt đối.
Nhưng các người bé mọn, ít tri thức và sách vở, lại dễ dàng đón nhận hơn.
Họ hồn nhiên mở ra trước mặc khải của Thiên Chúa qua Đức Giêsu.
Chính vì thế họ biết được những điều sức người không thể nào đạt tới.
Câu cuối (c. 27) là một mặc khải lớn của Đức Giêsu trong tư cách là Con.
Ngài cho thấy giữa Cha và Con có sự hiểu biết nhau cách độc nhất vô nhị.
“Không ai biết rõ Con trừ ra Cha và không ai biết rõ Cha trừ ra Con…”
Sự hiểu biết nhau thân tình và sâu xa này
như thể tạo ra một thế giới riêng giữa Cha và Con.
Muốn biết Cha phải nhờ Con, Đấng duy nhất có đủ thẩm quyền mặc khải.
Hơn nữa, muốn biết Con cũng phải nhờ Cha mặc khải.
Phêrô phải nhờ Cha mới biết được Đức Giêsu là ai (Mt 16, 17).
Nói chung Cha và Con làm nên một thế giới riêng tư, nồng ấm.
Nhưng thế giới ấy lại không khép kín, mà mở ra để mời con người vào .
Cha và Con đều muốn mặc khải thế giới ấy cho con người.
Cha đưa ta gặp Con, Con đưa ta gặp Cha.
Chỉ cần gặp Con hay Cha là có thể bước vào thế giới đó, để gặp cả Cha và Con.
Chị Edith Stein là một phụ nữ Do thái được coi là thông thái, trí tuệ.
Chị đậu tiến sĩ triết học với hạng tối danh dự tại Đức.
và là người cộng tác với ông tổ của Hiện tượng luận là triết gia Husserl.
Việc tìm kiếm Chân Lý đã dẫn chị đến với đạo Công giáo.
Chị đã đi tu Dòng Kín Cát Minh và đã bị giết tại trại giam của Đức quốc xã.
Năm 1998 chị Bênêđicta Thánh Giá được Đức Gioan Phaolô II phong thánh.
Sự thông thái khiêm tốn đã giúp Chị gặp được Nước Trời như một kẻ bé mọn.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa hiện diện
và hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu
để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu
để con dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.

------------------------------
 

TN 14-A127: Hãy đến cùng Tôi


(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
 

Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha. Vì thế, chúng ta hãy chung lời cầu với Ngài, tạ ơn Chúa TN 14-A127


Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha. Vì thế, chúng ta hãy chung lời cầu với Ngài, tạ ơn Chúa Cha. Ngài tạ ơn Cha vì đã thương mạc khải cho những kẻ bé mọn mầu nhiệm Nước Trời. Ngài cầu nguyện cho chúng ta đấy, vì chúng ta chính là những kẻ bé mọn của Ngài. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa Cha vì đã thương chúng ta, đã cho chúng ta biết được mầu nhiệm Nước Trời, nhờ đó chúng ta có niềm hy vọng được chung hưởng với Ngài hạnh phúc mà Ngài dành cho chúng ta, những kẻ bé mọn đã tin vào Ngài, gắn bó với Ngài.

Chúng ta thật diễm phúc vì chúng ta được Ngài thương, vì chúng ta chỉ là những người hèn mọn mà Ngài tìm kiếm và yêu thương!

Chúa Giêsu, khi còn ở trần gian đã làm như thế, Ngài tìm những người mà Ngài gọi là những kẻ nghèo khó, những người có tâm hồn đau thương giập nát, những người mà thế gian cho là điên rồ, những người bị chà đạp khinh chê. Ngài tìm những Mađalêna, những người thu thuế như Giakêu, Matthêu, những người như người nữ Samari, người đàn bà ngoại tình, những kẻ bệnh hoạn tật nguyền, không ích lợi gì cho xã hội, những người bị loại trừ, những kẻ tội lỗi, những gì đã hư mất, những con chiên lạc…

Chúng ta được diễm phúc vì Chúa Giêsu đã thương mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm Nước Trời. Nhưng chúng ta biết mầu nhiệm Nước Trời là gì không?

Nước Trời, chính Chúa Giêsu nói ra chúng ta mới biết. Thế nào là Nước Trời? Nhiều người sẽ không thể trả lời, và nếu trả lời thì chỉ vu vơ, Nước Trời là một cõi nào đó, hạnh phúc. Nước Trời không chỉ là như thế mà sâu xa hơn, Nước Trời chính là tình yêu của Chúa Cha. Chúa Giêsu cho chúng ta thấy mối tình liên kết Chúa Cha và Chúa Con: “Chúa Cha giao phó mọi sự cho tôi”. Chúng ta hiểu thế nào? Chúng ta không thể hiểu hay chúng ta chỉ biết sơ sài. Lời đó chứng tỏ quyền tuyệt đối của Chúa Con: “Và Chúa Con làm gì cũng do Chúa Cha. Ngài không làm gì tự ý mà luôn nhìn nơi Chúa Cha, Ngài làm những gì đẹp ý Chúa Cha”. Đó mới là tình yêu tuyệt đối. Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta mối tình thần linh đó, và chúng ta được sống trong tình yêu đó: “Không ai biết rõ Người Con, trừ Chúa Cha; và cũng không ai biết rõ Chúa Cha trừ người Con và những kẻ mà người Con mạc khải cho”. Đó mới thực sự là Nước Trời. Ai sống trong người Con mới hiểu được mối tình thần linh đó. Từ “biết” của Kinh Thánh có nghĩa là biết theo nghĩa tình yêu, như hai vợ chồng biết nhau. Chúa Con biết Chúa Cha và Chúa Cha biết Chúa Con, nghĩa là Chúa Cha yêu thương Chúa Con và Chúa Con yêu thương Chúa Cha. Mối tình đó chính là Chúa Thánh Thần. Chúng ta nhận được mạc khải tuyệt vời đó qua Chúa Con. Đừng để nó mờ nhạt đi, nhưng càng phải làm cho nó sáng lên trong cuộc sống hôm nay của chúng ta.

Bằng cách nào? Bằng cách kết hiệp mật thiết với Chúa Con, gắn bó với Ngài tha thiết hơn, nhờ đó mạc khải tình yêu sẽ rõ nét hơn. Hãy ăn lấy Chúa Con để Ngài có thể sống trong chúng ta, yêu thương Chúa Cha trong chúng ta. Chúng ta không thể tự mình yêu mến Chúa Cha, mà chỉ nhờ Con của Ngài thôi. Người Con ấy đã đến với chúng ta thật gần, chúng ta có thể tin vào Ngài và nhờ Ngài yêu mến Cha, vì Cha chính là nguồn cội, là sự sung mãn. Trong Chúa Con chúng ta nhận lãnh ơn này đến ơn khác từ sự sung mãn của Ngài.

Những người tự mãn sẽ không thể chấp nhận được mạc khải của tình yêu. Điển hình là những ông Pharisêu đầy tự mãn kiêu căng. Họ tự cho rằng họ biết quá nhiều và khinh thường những kẻ bé mọn. Họ khăng khăng từ chối sứ điệp của Chúa, cho rằng chỉ có những kẻ dốt nát và quân tội lỗi mới tin tên Giêsu đó. Và họ cho rằng Chúa Giêsu bị quỉ ám. Họ đã ra mù quáng đến nỗi không thể nhìn thấy những dấu lạ hiển nhiên Chúa làm trước mắt họ. Họ chỉ tin cậy vào sự hiểu biết của họ, không cần đến ai. Những kẻ bé mọn như anh mù bẩm sinh, người đàn bà Samari thì nhìn thấy được Đấng đã đến mang bình an cho con người, cứu con người khỏi tội lỗi và cho chúng ta được làm con Chúa Cha như Ngài.

Chúng ta hãy trở nên như Chúa Giêsu đã dạy: “Hãy trở nên như trẻ thơ”, nghĩa là hãy nhỏ bé, hãy tin tưởng không ngờ vực. Biết mình không thể làm gì tự mình, luôn cảm thấy mình cần đến Chúa. Hãy nhìn Chúa Giêsu. Ngài hoàn toàn là trẻ thơ trong tay Cha Ngài. Ngài dùng từ abba: cha ơi của trẻ thơ để gọi Cha, cho thấy Ngài thực sự là một em bé trong tay Cha Ngài. Vì thế mà Chúa Cha trao hết mọi sự trong tay Ngài.

Chúa Giêsu lên tiếng mời gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến với tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.” Vì Ngài nắm mọi sự trong tay, Ngài có thể là nơi nương tựa cho chúng ta. Lời mời gọi thật êm đềm! Chúng ta có cảm thấy sung sướng khi nghe tiếng mời gọi đầy yêu thương đó không? Ngài biết chúng ta phải nặng gánh như thế nào. Cuộc sống là một gánh nặng. Thân xác, con người của chúng ta cũng là một gánh nặng. Tất cả đều là gánh nặng và chúng ta ai cũng rên siết dưới gánh nặng đó. Hơn nữa chúng ta còn mang gánh nặng của bao nhiêu yếu đuối lỡ lầm, những tật xấu không chừa, những đam mê luôn thôi thúc. Phải luôn chiến đấu để sống còn, để trung thành với Chúa. Còn bao nhiêu gánh nặng đang đè trên vai chúng ta, gánh nặng của một xã hội đầy tội ác, hận thù, gánh nặng của gia đình…

Hãy đến với Ngài. Chỉ có Ngài mới có thể giúp chúng ta bước tới, lướt thắng mọi trở ngại trên con đường dẫn tới hạnh phúc thật. Chỉ có Ngài mới giúp chúng ta gánh cái gánh của cuộc sống mà không rên siết, mà nụ cười vẫn không tắt trên môi.

Đến với Ngài, Ngài sẽ dạy chúng ta bài học duy nhất là hiền lành và khiêm nhượng.

Trong suốt bốn sách Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu chỉ dạy chúng ta một bài học duy nhất đó thôi. Hiền lành và khiêm nhượng, những nhân đức mà thế gian không bao giờ muốn có. Thực ra bài học này nằm trong tám mối phúc, nhưng Chúa đặc biệt chú ý đến. “Phúc cho những ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp” và “phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước trời là của họ”. Nước Trời thuộc về họ là hôm nay, chứ không phải ngày mai. Chúng ta có thấy như thế không? Những người khiêm nhượng không ham mê gì khác mà chỉ có một mình Chúa làm gia nghiệp, thì quả đúng như thế, họ đã được Nước Trời ngay từ hôm nay. Đây có thể là một điều không tưởng? Không, đây là sự thật. Ai sống khiêm nhượng thật sẽ thấy rõ điều đó. Chỉ một điều là chúng ta không khiêm nhượng, chúng ta chưa thấy được điều đó thôi.

Chúa lại bảo chúng ta mang ách của Ngài. Nói tới cái ách, ai cũng cảm thấy nặng nề khó hiểu. Tại sao ách mà nhẹ nhàng? Những người yêu nhau, họ có cho là nặng nề không? Tình yêu chính là một cái ách, nhưng sao nó nhẹ nhàng và dễ chịu thế? Ách của Chúa phải chăng là tình yêu, một tình yêu vô vị lợi, tình yêu không tính toán, là cho đi và cho hết. Chúng ta dám tin vào Chúa đến nỗi chúng ta dám làm bất cứ điều gì cho Chúa không? Các thánh tử đạo đã chấp nhận cái chết đau đớn mà vẫn vui? Tại sao? Những nhà truyền giáo sống kham khổ với những người khốn khổ suốt đời vẫn cảm thấy vui tươi nhẹ nhàng và hạnh phúc? Tại sao? Ách của Chúa nhẹ nhàng là như thế đó. Vì ách của Chúa là tình yêu trọn vẹn. Và tình yêu đích thực bao giờ cũng mang lại hạnh phúc. Là sự nghỉ ngơi trong Chúa.

------------------------------
 

TN 14-A128: Càng cao cả càng cúi xuống


(Suy niệm của Lm. Minh Anh)

“Ai yêu thương, người ấy mới có thể khiêm nhượng;
Ai khiêm nhượng, người ấy mới có thể yêu thương”.

Kính thưa Anh Chị em,
 

Một trong những chủ đề chính của phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay là dịu hiền và khiêm TN 14-A128


Một trong những chủ đề chính của phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay là dịu hiền và khiêm nhượng. Thiên Chúa dịu hiền và khiêm nhượng, Chúa Giêsu dịu hiền và khiêm nhượng mời gọi chúng ta dịu hiền và khiêm nhượng như Ngài, “Hãy học cùng Tôi, vì Tôi dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng”.

Nói đến yêu thương, trước hết phải nói đến Thiên Chúa và nói đến khiêm nhượng, cũng phải nói đến Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu, một tình yêu đời đời nên Người khiêm nhượng lặng lẽ ra khỏi mình liên lỉ để trao ban; dẫu quyền uy vô song nhưng Người cũng là một Thiên Chúa ẩn mình, luôn luôn ẩn mình. Lần giở các trang Thánh Kinh, chúng ta đọc thấy tính cách yêu thương và khiêm nhượng của Thiên Chúa như đan quyện nhau để trở thành một tính cách duy nhất nơi Người. Vì yêu thương, Thiên Chúa không dè giữ cho mình một điều gì nhưng ra khỏi chính mình để cho đi sự sống, cho đi hơi thở; Người ban cho mọi loài mọi vật, ban cho con người sự sống của chính mình. Khi con người sa ngã, Thiên Chúa lại ra khỏi mình một lần nữa để làm lại từ đầu; Người tha thứ, đợi chờ và Thiên Chúa đó quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình. Ai trong chúng ta cũng đã ít nhiều trải nghiệm thế nào là được Thiên Chúa yêu thương, được Người thứ tha và chữa lành.

Bài đọc thứ nhất hôm nay là một minh chứng cho tình yêu khiêm hạ của Thiên Chúa. Sách ngôn sứ Zacharia cho thấy đó là một Thiên Chúa dịu hiền và khiêm nhượng khi Người quên hết mọi lỗi phạm của dân để hạ mình, tái tạo và chữa lành; cũng Thiên Chúa đó, Người hứa cho dân mà Người đã trót yêu một tương lai hạnh phúc; Người hứa với họ không còn phải lưu đày nhưng được an cư lạc nghiệp và nhất là hứa ban cho họ một đấng Messia, đấng ấy là vua hoà bình, sẽ xuất hiện và khai mạc một vương quốc an bình bao la rộng lớn, “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy nhảy mừng; hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy reo mừng! Này vua ngươi đến với ngươi. Người là Đấng công chính và là Đấng cứu độ; Người khiêm tốn ngồi trên lừa con, con của lừa mẹ”. Qua đó, Thiên Chúa muốn nói với dân rằng, từ nay, Người sẽ hiện diện giữa họ; sẽ không còn chiến tranh, sẽ không còn binh đao. Vua chúa ngày xưa vẫn ngồi trên lưng lừa hoặc la, hình ảnh con lừa tượng trưng cho thời không còn chiến tranh. Đấng Messia ngồi trên lưng lừa cũng sẽ đối xử dịu hiền và khiêm nhượng với những ai thuộc Nước mới của Ngài.

Chúa Giêsu, Đấng thiên sai ấy lên tiếng trong Tin Mừng hôm nay. Ngài nói đến các công dân của Nước Ngài, đó là những tâm hồn bé mọn được Chúa Cha mặc khải những mầu nhiệm Nước Trời, những mầu nhiệm vốn không dành cho kẻ kiêu căng tự phụ, “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như thế”. Tin Mừng cho thấy những con người bé mọn đã đến với Chúa Giêsu. Họ là những bệnh nhân, người tội lỗi, người nghèo… họ đã đến và từ Ngài, lãnh nhận bao ơn lành hồn xác đang khi người biệt phái tự kiêu đã không nhận ra Ngài cũng không đón nhận ơn cứu độ Ngài ban. Đấng thiên sai nhu mì đó được Isaia diễn tả thế này, “Người không bẻ gãy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn khói”. Ngài khiêm nhượng và hạ mình cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự nên Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài lên như thánh Phaolô xác tín.

Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trong mọi đấng bậc, làm cha mẹ, làm anh làm chị và mọi người đến với Ngài, “Hãy học cùng Tôi, vì Tôi dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn anh em sẽ gặp được bình an”. Ngài biết, kiêu ngạo có dây mơ rễ má từ tội nguyên tổ vốn là một gánh nặng, rất nặng đối với mọi người. Kiêu căng khiến chúng ta bất an; tự phụ khiến chúng ta gánh nặng. Cha Karl Rahner nói, “Trong nỗi giày vò của sự thiếu hụt tất cả mọi thứ mong đạt được; cuối cùng, chúng ta biết rằng, trong cuộc đời này, tất cả mọi bản hoà âm đều phải dang dở. Để rốt cuộc, tất cả chúng ta chết đi với một cuộc đời chưa hề được hoàn thành trọn vẹn. Và chuyện đó đâu dễ chấp nhận! Mọi sự trong con người chúng ta vùng lên chống lại nó và hầu hết tất cả chúng ta sống trong sự thống khổ của một tình trạng vô danh, chúng ta chỉ được công nhận và nổi danh trong những giấc mơ hão huyền; sự vĩ đại của chúng ta chẳng ai biết đến. Và chuyện đó cũng không dễ chấp nhận”. Khắc khoải và gánh nặng đó chỉ có thể nhẹ nhàng; bất an chỉ trở thành bình an khi chúng ta biết chạy đến với Chúa Giêsu, Đấng bổ sức cho mỗi người. Học biết sự dịu hiền và khiêm nhượng nơi Chúa chính là học biết yêu thương như Ngài, cúi xuống như Ngài và quên mình như Ngài.

Trong những tuần qua, các cơn mưa như trút nước ở Trung Quốc khiến hàng triệu người phải khốn khổ khi lũ lụt lăm le nhấn chìm nhiều thành phố của họ. Các con sông êm ả thường ngày nay trở nên những con nước cuồng nộ khiến bao người khiếp hãi. Thế nhưng, hình ảnh nước cũng cho chúng ta những bài học lớn lao. Nước thật mạnh mẽ nhưng cũng thật dịu dàng. Nước chảy đến đâu, đem sự sống và niềm vui đến đó, nước thật vô vị lợi; khi chảy xuống, nước không lưỡng lự dựa vào vách đá, nước thật khiêm tốn; nước nhẵn nhụi nhưng cũng có thể tạo thành vực sâu ẩn kín, nước thật khôn ngoan. Gặp chướng ngại cản lối, nước chảy vòng vòng, nước biết nhịn nhục; nước hoạt động ngày đêm để chiến thắng vật cản, nước thật kiên trì. Dù bao nghịch cảnh, nhưng không một giây phút nào nước đánh mất đi hướng đi vĩnh cửu của mình là chảy ra biển khơi, nước ý thức cùng đích. Và cho dù có khi vẩn đục, nước luôn cố gắng trong sạch trở lại, nước luôn canh tân chính mình.

Anh Chị em,

Khiêm nhượng không là hèn nhát và chỉ ai mạnh mẽ mới có thể khiêm nhường. Thiên Chúa mạnh mẽ vô song nhưng Người cũng khiêm nhượng vô lường. Càng cao cả, Người càng cúi xuống; Chúa Giêsu đã làm người rốt hết, không ai dành được chỗ rốt của Ngài, Ngài đã cúi xuống; Mẹ Maria đã cúi xuống, Mẹ Têrêxa và các thánh đã cúi xuống, các ngài được Chúa nâng lên. Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy học trở nên như Thiên Chúa, trở nên như Chúa Giêsu, trở nên những dòng nước yêu thương trao ban sự sống và niềm vui.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, kiêu ngạo khiến con cứng cỏi, khiêm nhượng giúp con mềm mỏng. Xin cho con trở nên trũng thấp để hứng được nhiều, từ đó, biết chảy xuống để yêu thương nhiều”, Amen.

------------------------------
 

TN 14-A129: Sống hiền hậu và khiêm nhường như Đức Kitô


(Suy niệm của Lm. Anthony Đinh Minh Tiên, OP)

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Sống hiền hậu và khiêm nhường như Đức Kitô.
 

Khi so sánh tiêu chuẩn của Nước Trời với tiêu chuẩn của thế gian, chúng ta nhận ra những khác biệt TN 14-A129


Khi so sánh tiêu chuẩn của Nước Trời với tiêu chuẩn của thế gian, chúng ta nhận ra những khác biệt quan trọng: tiêu chuẩn của Nước Trời thường đối nghịch với tiêu chuẩn của thế gian. Các bài đọc hôm nay chỉ cho ta thấy những khác biệt và lý do của chúng.

Trong bài đọc I, ngôn sứ Zechariah (6 BC) tiên báo Đấng Thiên Sai sẽ vào Thành, không bằng những cỗ xe ngựa dành cho những vị vua chiến thắng khải hoàn; nhưng Ngài sẽ cỡi trên lưng một lừa con, vẫn còn theo sau một lừa mẹ. Trong bài đọc II, thánh Phaolô khuyên các tín hữu không được làm nô lệ cho tính ích kỷ của xác thịt; nếu không, họ sẽ chết. Các tín hữu đã được Đức Kitô giải thoát để sống theo Thánh Thần, nếu họ để cho Thánh Thần hướng dẫn, họ sẽ được sống. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu mặc khải Mầu Nhiệm Nước Trời không được mặc khải cho những người khôn ngoan, thông thái; nhưng được mặc khải cho những người bé mọn (nêpios). Ngài mời gọi tất cả những ai đang cảm thấy những gánh nặng, mệt mòi, và chán chường của cuộc sống, hãy đến với Ngài và học hỏi hai nhân đức hiền hòa và khiêm nhường của Ngài, họ sẽ cảm nhận được sự bình an trong tâm hồn.

KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:

1/ Bài đọc I: Người thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất.

1.1/ Đấng Thiên Sai sẽ đến cách hiền lành và khiêm nhường: Trình thuật chúng ta đọc hôm nay được các học giả xếp loại thuộc về Zechariah thứ hay đệ nhị. Phần này ít nhấn mạnh tới việc xây dựng Đền Thờ sau khi lưu đày, nhưng tập trung trong việc loan báo triều đại của Đấng Thiên Sai sắp tới. Trong số 12 tiên tri nhỏ, Zechariah có lẽ là ngôn sứ cho chúng ta biết nhiều chi tiết nhất về cuộc đời của Đấng Thiên Sai.

Trình thuật hôm nay là một điển hình. Ông cho chúng ta thấy trước Ngày Đấng Thiên Sai long trọng vào thành Jerusalem. Đây là dấu chỉ để nhận ra Đấng Thiên Sai: “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ.” Khi thấy dấu hiệu này, “Hỡi thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Jerusalem, hãy vui sướng reo hò!” Biến cố long trọng vào thành Jerusalem của Chúa Giêsu hoàn thành lời tiên tri này (Mt 21:5-11; Jn 12:12-15).

1.2/ Đấng Thiên Sai sẽ cai trị cả hoàn cầu: Tuy hiền hòa và khiêm nhường như thế; nhưng Ngài sẽ chinh phục cả hoàn cầu và lên ngôi cai trị toàn cõi đất, chứ không phải chỉ cai trị dân tộc Israel mà thôi. Cách Ngài chinh phục và cách Ngài thống trị hoàn tòan khác biệt với cách của các hoàng đế của thế gian: “Người sẽ quét sạch chiến xa khỏi Ephraim và chiến mã khỏi Jerusalem; cung nỏ chiến tranh sẽ bị Người bẻ gãy, và Người sẽ công bố hoà bình cho muôn dân. Người thống trị từ biển này qua biển nọ, từ sông Cả đến tận cùng cõi đất.”

2/ Bài đọc II: Nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống.

Chương 8 của Thư Rôma phải được đọc chung với chương 6-7. Lý do là vì con người đã được Đức Kitô giải phóng để khỏi làm nô lệ cho tội lỗi, Lề Luật, và sự chết để sống theo Thần Khí. Nhiều người hiểu lầm thánh Phaolô là ngài quảng bá tư tưởng: con người chỉ cần đặt niềm tin vào Đức Kitô là được cứu độ và không cần làm gì cả. Trong chương 8, thánh Phaolô cắt nghĩa con người được Đức Kitô giải phóng khỏi phải làm nô lệ cho tính xác thịt, để được tự do sống theo Thần Khí.

2.1/ Sống theo tính xác thịt: là sống theo các cảm xúc của con người như sự tham lam của con mắt, sự ham muốn của trái tim, và mọi đam mê dục vọng. Người sống theo tính xác thịt chẳng khác chi loài cầm thú, vì chúng hành động theo bản năng tự nhiên; nhưng con người không được phép sống như thế, vì ngoài thân xác, Thiên Chúa còn ban cho con người có linh hồn, trí tuệ, và ý chí để điều khiển các quan năng của xác thịt. Thánh Phaolô diễn tả điều này như sau: “Nhưng anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em.” Thần Khí của Thiên Chúa cũng là Thần Khí của Đức Kitô ngự trong các tín hữu để hướng dẫn và ban sức mạnh để các tín hữu có thể sống theo sự thật, những gì Đức Kitô dạy bảo: “Những ai bị tính xác thịt chi phối thì không thể vừa lòng Thiên Chúa.”

2.2/ Sống theo thần khí của Đức Kitô: Thánh Phaolô liệt kê ba lợi điểm của những người sống theo Thần Khí:

(1) Thần Khí làm cho con người được sống: Sống theo thần khí mới là sống thật, sống theo tính xác thịt là làm nô lệ cho tội lỗi và hậu quả là cái chết.

(2) Thần Khí làm cho con người được trở nên công chính: bằng tin và thực hành những gì Đức Kitô truyền dạy. Lề Luật không có sức mạnh làm cho con người nên công chính.

(3) Thần Khí sẽ làm cho con người sống lại từ cõi chết: “Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.”

3/ Phúc Âm: Hãy học với Ta, vì Ta hiền hậu và khiêm nhường trong lòng.

3.1/ Thiên Chúa thích mặc khải cho những kẻ bé mọn: Có mấy từ chuyên môn chúng ta cần hiểu ở đây:

– Giấu (krupto): có hai trường hợp: (1) Cất giấu đi để đừng ai nhìn thấy; ví dụ: giấu vàng trong ruộng. (2) Giấu kín để đừng ai khám phá ra; ví dụ: giấu tông tích hay những điều bí ẩn của mình. Chúa Giêsu muốn nói về trường hợp thứ hai này.

– Mặc khải (apo krupto) có nghĩa làm cho những gì đã giấu kín được tỏ lộ ra, mang ra ánh sáng những gì đang ở trong bóng tối, hay làm cho một người hiểu những gì họ chưa biết hay còn mù mờ.

– Kẻ bé mọn (nêpios): có thể chỉ một trẻ nhỏ hay những ai chưa tới tuổi thành niên như luật pháp ấn định (ví dụ, 18 tuổi).

Chúa Giêsu so sánh giữa những người khôn ngoan và thông thái (sophos, sunetos) với kẻ bé mọn (nêpios), để nói với khán giả: họ cần có thái độ của trẻ thơ là tin tưởng, khiêm nhường, ham học hỏi, để Ngài chuyển thông cho họ những kiến thức về Thiên Chúa. Một thái độ kiêu hãnh và nghi ngờ sẽ ngăn cản họ nhận ra những gì Ngài muốn mặc khải cho họ. Khi con người muốn lãnh nhận kiến thức về Thiên Chúa, họ phải có thái độ của trẻ: cái gì cũng là mới cả với các em.

3.2/ Kiến thức về Thiên Chúa: “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.”

(1) Chúa Giêsu là người biết về Chúa Cha rõ ràng hơn ai hết: Động từ Hy-lạp dùng ở đây là “epiginôskô,” biết như một con người hay sự vật là. Con người hiểu biết về Thiên Chúa với nhiều cấp độ khác nhau; nhưng chỉ có Chúa Giêsu hiểu biết Thiên Chúa trong cấp độ hoàn hảo nhất. Điều này không ngạc nhiên, vì Chúa Giêsu là chính Lời hay tư tưởng của Thiên Chúa. Ngài và Cha Ngài là một.

(2) Con người biết Thiên Chúa qua mặc khải của Chúa Giêsu: Nếu Thiên Chúa không chọn để mặc khải cho con người, con người không bao giờ có thể biết Thiên Chúa. Đức Kitô chính là mặc khải của Thiên Chúa; Ngài đến để mặc khải cho con người biết về Chúa Cha, như Ngài đã tuyên bố với các môn đệ: “Ai thấy Thầy là thấy Cha.” Hơn nữa, để con người có thể hiểu những mặc khải này, họ cần được Thánh Thần do Chúa Cha sai tới để hướng dẫn và thúc đẩy từ bên trong.

3.3/ Xét mình trước tôn nhan Thiên Chúa: Mệt mỏi có thể là do lao động (thể xác) hay do sức ép của cuộc sống (tinh thần). Mệt mỏi thể xác có thể được phục hồi bằng việc nghỉ ngơi; mệt mỏi tinh thần phải được chữa trị bằng phương cách tâm linh. Chúa chỉ cho con người biết làm sao để tránh những mệt mỏi tinh thần này.

Tại sao chúng ta đã cố gắng hết sức mà vẫn không thành công? Có thể chúng ta đã không biết cách làm việc để đạt kết quả tốt đẹp? Có thể chúng ta lo lắng quá độ những gì không cần phải lo quá như vậy? Có thể chúng ta đang làm theo ý, theo cách, và theo đường hướng của chúng ta mà không phải là ý, cách, hay đường hướng của Thiên Chúa? Đức Kitô mời gọi chúng ta nhìn lại để học cách làm việc sao cho thành công hơn! Ngài muốn chúng ta quẳng đi những mối lo không cần thiết! Hay chú trọng đến những gì là quan trọng thay vì những cái quá nhỏ nhặt thiển cận!

3.4/ Hai điều quan trọng chúng ta cần học hỏi cùng Chúa Giêsu: Người môn đệ tuy vẫn phải mang ách và mang gánh nặng; nhưng họ không mang chúng theo cách của thế gian, mà mang chúng theo cách của Đức Kitô. Để biết mang ách và gánh đúng cách, họ cần phải học với Đức Kitô. Hai nhân đức quan trọng họ cần học nơi Ngài:

(1) Hiền lành: Đây là mối thứ hai trong Bát Phúc. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Ngài có quyền tiêu diệt những ai nói những lời xúc phạm, đánh đòn, và giết chết Ngài; nhưng Ngài đã không làm những chuyện đó. Ngài chọn con đường tha thứ: “Lạy Cha! Xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.” Ngài hòa giải con người với nhau và với Thiên Chúa. Ngài dạy phải thương yêu, cầu nguyện và làm ơn cho kẻ thù. Con người cũng thường có khuynh hướng yêu thích những ai hiền lành, nhã nhặn, và tha thứ.

(2) Khiêm nhường: là nhân đức diệt trừ tính kiêu ngạo, tội đầu tiên trong bảy mối tội đầu. Không ai thích người kiêu ngạo và tâm lý chung chẳng ai thích người hay “nổ.” Khiêm nhường là biết mình trong mối tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân. Người khiêm nhường biết mọi sự mình có được là do Thiên Chúa ban, nên họ không huyênh hoang lên mặt với người khác; nhưng biết dùng tài năng để mở mang Nước Chúa và phục vụ anh em. Người kiêu ngạo đánh cắp công ơn Thiên Chúa và luôn bất an vì sợ người khác hơn họ. Họ bất an khi không nhận được những gì họ muốn và khó chịu với mọi người.

ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:

– Chúng ta cần học nơi Đức Kitô cách lãnh đạo: không bằng cách phô trương quyền hành và danh vọng; nhưng bằng cách khiêm nhường phục vụ và yêu thương mọi người.

– Vì Đức Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi làm nô lệ cho xác thịt và ban Thánh Thần, chúng ta phải luôn cố gắng để sống theo sự hướng dẫn và thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.

– Chúng ta cần học nơi Đức Kitô hai nhân đức: hiền lành và khiêm nhường. Hiền lành để luôn biết đối xử nhân hậu với tất cả mọi người. Khiêm nhường để nhận ra chỗ đứng hèn hạ của mình trong mối tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân.

------------------------------
 

TN 14-A130: Chúa Nhật 14 Thường Niên


ĐẾN VỚI GIÊSU, HỌC CÙNG GIÊSU VÀ MANG LẤY ÁCH GIÊSU

(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)

Kính thưa cộng đoàn Phụng Vụ!
 

Đọc bài Tin Mừng ngày hôm nay, con nhớ đến một câu hỏi mà một chị giáo dân người Nhật đặt TN 14-A130


Đọc bài Tin Mừng ngày hôm nay, con nhớ đến một câu hỏi mà một chị giáo dân người Nhật đặt ra cho con khi con dạy chuyên đề về Chúa Ki-tô. Cũng đoạn Tin Mừng này, đặc biệt ở câu 25 (Mt 11, 25), chị ấy suy niệm xong, bèn hỏi con: “tại sao Thiên Chúa lại giấu những chương trình, kế hoạch của Ngài, không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết; ngược lại, Ngài lại mạc khải cho những người bé mọn?” Vừa nghe câu hỏi ấy, thì con đã có câu trả lời! Chẳng phải vì con giỏi giang đâu, mà nếu chúng ta đọc tiếp câu 26 thì sẽ thấy câu trả lời do chính Chúa Giê-su khẳng định: “Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy” (Mt 11, 26)

Có lẽ chúng ta đôi lúc cũng có câu hỏi như chị giáo dân ấy, rồi cuộc sống cứ dần trôi, công việc, gia đình, những nỗi lo toan, muộn phiền, v.v…dường như đưa chúng ta đến một dấu chấm hỏi lớn hơn thay vì đi tìm câu trả lời! Nhưng thiết nghĩ, qua Lời Chúa hôm nay, lời cầu nguyện chân thành của Chúa Giê-su dâng lên Thiên Chúa Cha; Ngài cảm tạ, tán tụng vì chương trình và ý định cao vời của Chúa Cha, và sau đó Ngài mời gọi mỗi chúng ta hãy đến với Ngài, học nơi Ngài sự hiền lành và lòng khiêm nhượng, sau cùng mang lấy ách của Ngài.

Trước hết, ‘đến với Chúa Giê-su’: “…hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức” (x. Mt 11, 28). Chúa mời gọi tất cả mọi người hãy tựa nương bình yên nơi Thánh Tâm Ngài. Khó nhọc, vất vả không chỉ về thể xác, mà cả về tinh thần và linh hồn nữa! Những ai đang mang gánh nặng đời, nặng gánh gia đình, gánh nặng tâm hồn, muộn phiền, đau buồn vì mất mát, tan thương, vì sự xung đột, chiến tranh hay vì sự hận thù, ghét ghen, thù hằn giữa các bộ tộc, sắc dân, v.v…Chúa mời gọi họ và tất cả chúng ta nữa, hãy đến dâng hết cho Ngài, và thầm thỉ với Ngài ‘Giê-su, con…(tên) đây!” Mỗi lần chúng ta chạy đến với Chúa với tất cả tấm lòng, nỗi niềm chân thành chất chứa sự tín thác thì Chúa thương đón nhận, ‘nâng đỡ, bổ sức’ (x. Mt 11, 28). Lúc ấy, chúng ta phần nào hiểu được lời nguyện của Chúa Giê-su (Mt 11, 25) “Thiên Chúa mạc khải cho những kẻ bé mọn…”, họ là những ai đặt niềm tin tưởng vào Chúa, thay vì quá tin vào bản thân; họ là những ai biết trông cậy vào Chúa, thay vì hy vọng vào trần thế chóng qua, điều lệ khập khiễng của xã hội vật chất; họ là những ai yêu mến, nhận lấy sự hướng dẫn của Chúa, thay vì ‘tôn thờ’ lí trí, sự hiểu biết giới hạn của con người, sùng bái sự khôn ngoan hư mất; họ là những người sống theo Thần Khí như Thánh Phao-lô nói một cách đanh thép: “anh chị em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh chị em” (x. Rm 8, 9).

Thứ đến, ‘học cùng Chúa Giê-su, và học nơi Chúa Giê-su’: “…vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (x. Mt 11, 29). Dẫu là Con Thiên Chúa làm người, nhưng Chúa Giê-su ‘đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, sống như người trần thế…’ (x. Phil 2, 6-7). Ngài hiền lành không từ chối một ai, đón nhận những người tội lỗi, chữa lành bệnh nhân, tật nguyền; Ngài chẳng hề xua đuổi ai đến với Ngài, kể cả những thành phần không được xã hội thời ấy ghi nhận như đàn bà, con trẻ, người goá bụa, người ngoại kiều…Sự diệu hiền của Ngài biểu lộ rõ nét qua lòng thương xót, cảm động đến rơi lệ của vị Vua tình yêu khi nhìn thấy sự đau khổ, bệnh tật, sự hất hủi của thần dân mọn hèn. Và hơn nữa, Ngài luôn khiêm nhường và khiêm nhu, ‘chậm bất bình, và rất mực khoan nhân’ (x. Tv 102, 8-9), cũng như lời tiên tri Da-ca-ri-a tuyên sấm về Ngài “kìa Ðức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Ðấng Chính Trực, Ðấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (x. Dcr 9, 9). Những ai khiêm tốn đích thật, những ai học tính khiêm nhường, khiêm nhu là người biết đặt Thiên Chúa nơi trung tâm đời sống của mình, thay vì đặt cái tôi to tướng làm tâm điểm cuộc đời! Những ai khiêm nhượng thật sự là người biết vị tha, hướng đến anh chị em, nghĩ cho anh chị em thay vì vị kỷ, chỉ biết sống cho bản thân, muốn người khác ‘xoay quanh trục cái tôi’ của mình! Chỉ có những ai học cùng Giê-su khiêm cung thì tâm hồn người ấy sẽ gặp được bình an (x. Mt 11, 29). Trở lại lời tán tụng của Chúa Giê-su dâng lên Chúa Cha “…vì Cha đã giấu, không cho những người hiền triết, khôn ngoan biết; ngược lại, Cha lại mạc khải cho kẻ bé mọn biết” (x. Mt 11, 25). Thiên Chúa không che giấu chương trình yêu thương của Người, và Người không phải là người nhỏ mọn, ích kỷ; nhưng tại sao những ai khôn ngoan, hiền triết lại không nhận ra ý định cao vời của Thiên Chúa? Thiết nghĩ, đó là vì sự kiêu căng, ngạo mạn, lòng tự cao tự đắc của họ đã ‘che’ mất, khiến họ không nhận ra kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa mà thôi. Trái lại, những người khiêm tốn đích thật (sống như Giê-su) là ‘kẻ bé mọn’ lại nhờ ân sủng bình an nơi tâm hồn, sự tín thác, tin tưởng của họ vào Thiên Chúa, giúp họ nhận ra và đón nhận ý định của Người.

Sau cùng ‘hãy mang lấy ách của Chúa Giê-su’: “…vì ách của Ta êm ái, và gánh của Ta nhẹ nhàng” (x. Mt 11, 30). Ở đây Chúa Giê-su mời gọi chúng ta hãy mang lấy ách và gánh của Ngài, thay vì mang lấy ách nô lệ của sự đam mê, thú vui, thói đời, nhỏ nhen, ích kỷ, tội lỗi (hình ảnh cái ách: khi chúng ta muốn sử dụng con ngựa, trâu, bò, v.v…thì chúng ta dùng ách đặt lên cổ của nó), và nhận lấy gánh của Ngài, thay vì gánh gồng những muộn phiền, ưu hoài, não nề của sự lo lắng trần thế, hay gánh những chứa chất hiềm tị, hận thù, oán trách trong lòng! Những ai mang lấy ách của Chúa Giê-su và nhận lấy gánh của Ngài thì tâm hồn luôn thảnh thơi vì ‘ách của Ngài êm ái, gánh của Ngài nhẹ nhàng” (x. Mt 11, 30). Nếu chúng ta sống được như vậy thì quả thật như Thánh Phao-lô viết trong thư gửi giáo đoàn Rô-ma “chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để chúng ta sống theo xác thịt. Vì chưng, nếu anh em đã sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Trí mà anh em đã giết được các hành động (xấu xa của) thân xác, thì anh em sẽ được sống” (x. Rm 8, 12-13). Thật vậy, khi chúng ta sống theo Thần Khí, chúng ta bỏ những ách tội đời, thói quen không tốt, tránh thú vui, đam mê, ước muốn mà thân xác mang lại. Và hơn nữa, đời sống thiêng liêng, cầu nguyện, hy sinh, hãm mình, bác ái sẽ giúp chúng ta chạy đến với Chúa Giê-su, học cùng với Ngài hiền lành, khiêm nhượng và nhận lấy ách êm ái, dịu hiền của Ngài.

Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể
Mỗi lần con đến dâng lễ tạ ơn,
Cho con suy gẫm hồng ân,
Năn chạy tới Chúa, ân cần nguyện xin.
Được nâng đỡ, mãi hy sinh
Học nơi gương Chúa, huyền linh diệu hiền.
Khiêm nhu, nhân hậu mãi liên
Xót thương, tha thứ, ngoan hiền, khoan dung.
Trọn đời mang ách thuỷ chung
Dịu ngọt êm ái, gánh cùng Giê-su. Amen!

------------------------------
 

TN 14-A131: Chúa Nhật 14 Thường Niên


(Suy niệm của Lm Gioan Phan Tiến Dũng)
 

Sức mạnh thực sự đến từ đâu? Từ tiền bạc-của cải, súng đạn-vũ khí, hay quyền lực? Các bài đọc TN 14-A131


Sức mạnh thực sự đến từ đâu? Từ tiền bạc-của cải, súng đạn-vũ khí, hay quyền lực? Các bài đọc Lời Chúa hôm nay minh chứng cho chúng ta biết: Sức mạnh đích thực đến từ những hành động bác ái-yêu thương của những con người “hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Điều mà trong thực tế xã hội ngày nay hiếm và ít khi chúng ta bắt gặp. Tại sao lại như vậy? Dẫu biết rằng ai trong chúng ta cũng muốn trở nên những người hiền lành và khiêm nhường, nhưng để trở nên và sống đúng thì thật là khó? Tại sao vậy?

Lúc còn học tại Chủng viện bên Philippines, trong một lần đi mục vụ ở một nhà tù tại Manila, tôi có dịp gặp và trò chuyện với một thanh niên, nhìn khuôn mặt thì hiền lành, dễ thương. Nhưng khi nhìn thấy cánh tay và chân của anh, tôi giật mình vì những hình xăm, những vết sẹo lồi chằng chịt. Sau một hồi giới thiệu và nói chuyện, khi anh ta đã mở lòng, tôi liền hỏi, tại sao lại có những vết sẹo lớn dày đặc như vậy trên cả tay và chân, có đau không, sao lại có nhiều vậy…? Cậu ta bắt đầu rớm mắt và kể cho tôi; đó là sau những lần bị bạn tù ăn hiếp và đánh đập; để cho người ta khỏi làm vậy nữa, cậu bắt đầu lấy những vật nhọn, rạch tay chân mình, sau đó chà sát muối, ớt và giấm lên và khi vết thương lành thì sẽ nỗi sẹo lên, càng nhiều sẹo như vậy, thì các bạn khác sẽ không còn dám ăn hiếp và bắt nạt nữa. Còn chúng ta thì sao? Thực tế của chúng ta thế nào? Liệu chúng ta có muốn trở nên người có sức mạnh theo cách thế gian, hay “hiền lành và khiêm nhường” thực sự? 

Bài đọc 1 nói cho chúng ta biết, có vị vua sẽ đến, ông sẽ giải phóng Gierusalem, từ đây sẽ không còn chiến tranh, bạo lực. Vị vua này lại là người công chính, vị vua khiêm tốn, đến ban ơn giải thoát và cứu độ. Hình ảnh vị vua cưỡi trên lưng lừa là hình ảnh không có trong thực tế; vì vua luôn trên chiến sa, trên voi, ngựa, với giáo mác và vũ khí. Nhưng hình ảnh vị vua này báo trước hình ảnh Đức Giêsu Kitô-Con Thiên Chúa. Vua Giêsu sau này đã trên lưng lừa vào thành Gierusalem để chịu khổ nạn và chịu chết, chết trên thập giá. Vị vua Giêsu này mời gọi những ai tin, chấp nhận, theo và sống như Ngài, thì được Ngài giải thoát khỏi ràng buộc của tội lỗi và sự chết, ban cho họ sức mạnh của tình yêu, để có cuộc sống bình an đích thực.

Trong bài đọc 2, Phaolo nhắc nhở cho chúng ta biết: có hai loại sức mạnh đến từ Thần khí và đến từ xác thịt-thế gian. Sức mạnh của Thần khí đem lại ơn cứu sống, bình an, ơn thánh cứu độ. Trong khi đó sức mạnh của xác thịt-thế gian gây nên hận thù, đau khổ, chia rẽ, hủy diệt và chết chóc. Qua cách sống cũng như sự khôn ngoan của Phaolo, mời gọi chúng ta, hãy sống theo sức mạnh của Thần khí, sức mạnh đến từ Đức Kitô Giêsu, Đấng đã vượt qua cuộc khổ nạn, cái chết, đã sống lại và ban Thánh thần cho chúng ta. Qua thư gởi cho tín hữu Roma này Phaolô cũng mời gọi chúng ta  hãy sống cung cách hiền lành, khiêm nhường, công chính và sự thật. Thật là khó để cho chúng ta thực hiện được điều này, đặc biệt với những người đang vì đức tin, vì Chúa và vì Tin mừng mà bị bách hại, tù tội và ngay cả với cái chết. Thật vậy, chỉ có ai dám chọn Chúa, tin vào Chúa và sống theo sự hướng dẫn của Thần khí thì họ mới đủ sức để vượt qua tất cả mọi sự.

Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu dâng lời chúc tụng tạ ơn Chúa Cha cho “những con người bé mọn”, đồng thời Ngài mời gọi những con người này “Hãy đến với Ta…khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ bổ sức cho các ngươi”. Vì chỉ có những con người phận nhỏ-bé mọn này mới dám chấp nhận Chúa Giêsu, tin Ngài và sống cho Ngài. Chấp nhận Chúa Giêsu là vị Vua của họ, vị Vua hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Khi tin và chấp nhận họ tiến bước theo con đường của tình yêu, tha thứ, hòa giải và ban ơn.

Thưa ACE, vậy chúng ta có chọn Chúa và theo đường lối của Ngài, hay chúng ta vẫn cứ chọn theo cách và đường lối của chúng ta? Lời Chúa và sự khôn ngoan của thần khí đã hướng dẫn cho chúng ta, chuyện còn lại là sự lựa chọn của chúng ta. Chắc chắn khi lựa chọn và theo Chúa, không bảo đảm cho chúng ta khỏi những đau khổ. Nên Chúa đã mời gọi chúng ta hãy chạy đến với Ngài để được nâng đỡ, bổ dưỡng, và ban cho sức mạnh. Thật vậy, khi chúng ta đến với Chúa qua cầu nguyện, qua các bí tích, nhất là bí tích Hòa giải và Thánh thể, chúng ta thực sự sẽ được sức mạnh và ơn Thánh. Xin cho mỗi người chúng ta biết cam đảm để chọn Chúa, tin vào Chúa và vâng theo những đường lối, thánh ý Ngài trong suốt cuộc sống chúng ta. Amen.

------------------------------
 

TN 14-A132: Anh em hãy học cùng Ta


(Suy niệm của JB. Lê Ngọc Dũng)

Chúa Giêsu  nói: “Con ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11, 26).
 

Điều này làm tôi suy tưởng đến những ông bà cụ nhà quê, ít học, những người có số phận gắn liền TN 14-A132


Điều này làm tôi suy tưởng đến những ông bà cụ nhà quê, ít học, những người có số phận gắn liền với bệnh tật, với sự nghèo khổ, gắn liền với hậu quả của sự bất công xã hội, của sự tham danh danh vọng của những người cấp trên. Chúng ta suy tưởng đến họ vì họ quả thật đáng thương, xấu số. Nhưng quả thật là họ có nhiều điều kiện để đón nhận Lời Chúa và hưởng hạnh phúc Nước Trời.

Điều này cũng làm chúng ta suy tưởng đến đối tượng ngược lại, những kẻ giàu có, những kẻ tri thức, có địa vị trong xã hội. Họ không đương nhiên là bị xa rời Nước Thiên Chúa, nhưng chính hoàn cảnh, cái gọi là số phận may mắn ở đời này lại là một cản trở khiến họ xa rời Phúc Âm, xa rời Nước Trời. Như Chúa Giêsu đã phán dạy:  “Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao [...] Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa” (Mc 10, 17-27).

Chúa Giêsu sau khi ngợi khen Thiên Chúa, với hướng lòng về những kẻ mọn, Ngài kêu gọi:

Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của ta, và hãy học cùng ta, vì ta hiền hậu và khiêm nhường trong lòng. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách ta thì êm ái, và gánh ta thì nhẹ nhàng (Mt 11,28-30).

Chúng ta sẽ học nơi Chúa như thế nào?

Ông bà anh chị em hãy thử trả lời giúp tôi một lá thư hỏi như thế này:

Con là Vinh Sơn, theo đạo khi kết hôn, bây giờ đã 43 tuổi. Hiện con có 2 con gái rất siêng học giáo lý và sinh hoạt trong nhà thờ. Gia đình con có thói quen đọc kinh tối trước khi ngủ. Riêng bản thân con sống đời sống công giáo tương đối tốt. Trong 3 năm gần đây, còn giữ lại khoảng 30% tiền lương hàng tháng của con để phụ giúp ba mẹ già ở quê tiền thuốc thang, nhưng việc làm này con giấu vợ con. Vậy thưa cha, việc con làm này có phạm tội trọng lừa dối vợ không? Và liệu vợ con có tha thứ  và thông cảm cho con khi biết chuyện này không?

Vậy tôi xin hỏi các bà, trong trường hợp này, ông chồng có lừa dối vợ mình không; các bà có tha thứ cho ổng không? Và giả thiết khác đi, tôi xin hỏi các ông, nếu vợ lén lút đưa tiền về giúp cha mẹ già, các ông có cho đó là vợ lừa dối mình không, các ông có tha thứ cho vợ mình không?

Nếu người vợ cho đó là lừa dối mình, thì chắc hẳn bà ấy sẽ thấy mình mang một gánh nặng. Vì nhiều khi không dám nói ra, không dám phản ứng mạnh mẽ để nói những lời khó nghe, không dám mắng chưởi gây xung đột vợ chồng, nhưng trong lòng vẫn không bình an. Ý tưởng chồng lừa dối, gạt gẫm mình cứ vẫn ẩn hiện trong đầu óc. Cứ nghĩ trong tâm trí rằng, gia đình mình đang  nghèo khổ, đang cần tiền để lo cho con cái ăn học, đang cần tiền để lo thuốc thang, đang cần tiền để sửa lại cái nhà đã cũ... Vả lại, cha mẹ ảnh đâu có nghèo; còn anh Ba anh Tư, họ cũng giàu có mà họ có lo gì cho cha mẹ ảnh đâu! Chồng tôi tội gì phải lo... Một gánh nặng trong tâm trí như thế, làm sao giải tỏa được. Tâm tư cứ chồng chất những cái mình thấy phi lý, mình thấy bất công, làm phát sinh những bực dọc này đến bực dọc khác. Tình yêu vợ chồng, vì vậy, suy giảm. Sự bất hòa như đang đe dọa hạnh phúc gia đình. Có khi nó sẽ bùng nỗ, gây tan vỡ gia đình.

Chúng ta phải chạy đến Đức Kitô để học sự hiền lành và khiêm nhường. Cần phải nhìn lên Thập Giá Chúa Kitô, phải nhớ đến Thập Giá Chúa Kitô, khi hành động, khi xử sự với người anh em, với vợ, với chồng, với cha mẹ, với con cái, với bạn hữu, với bà con lối xóm, với những người xa lạ, để ta có thể hành xử một cách hiền lành và khiêm nhường. Và khi đó những gánh nặng ta mang sẽ trở nên nhẹ nhàng.

Một người mà thấy mình đang bị vợ hay chồng đang lén lút giấu diếm mình mà đưa tiền giúp cha mẹ hay anh em hoặc những người sa cơ thất thế, thì hãy học nơi Chúa Giêsu, để có thể nói với chồng hay vợ mình rằng: “Anh ơi, ba mẹ anh ở nhà quê già yếu bệnh tật, chúng ta tìm cách giúp đở ba mẹ đi! Nếu không có ba mẹ anh sinh ra và nuôi dưỡng anh thì làm sao có anh đây để lo cho em và cho các con!” Hoặc người vợ ấy có thể nói một cách nào đó để tỏ lộ sự đồng tình, sự khích lệ người chồng sống hiếu thảo với cha mẹ hoặc sống giúp đở người khác, không sợ bị thua thiệt, không sợ bị mất mát.

Xử sự được như vậy thì gánh nặng trong lòng người vợ tan biến mất. Gánh nặng nơi người chồng với nỗi sợ vợ mình biết sẽ nổi giận cũng tan bay. Hạnh phúc gia đình đầm ấm sẽ được nâng cao, con cái cũng được hưởng phúc lộc của cha mẹ. Xử sự ngược lại, theo kiểu khôn ngoan thế gian, gia đình sẽ tan nát, hạnh phúc sẽ chẳng còn.

Xin Chúa cho chúng ta luôn nhìn về Chúa Kitô và Thập Giá của Ngài, để có thể hành xử được một cách hiền lành và khiêm nhường, để có thể được xếp vào hàng ngũ những kẻ bé mọn mà Chúa Giêsu nói đến, những người được hưởng hạnh phúc Nước Trời.

------------------------------
 

TN 14-A133: Hiền lành và khiêm nhượng trong lòng


(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin mừng Mt 11:25-30 Cuộc đời của Kitô hữu chúng ta không phi lý, bởi vì những vất vả, lao nhọc của chúng ta là một phương thế để cứu rỗi chúng ta.

Truyện  Đức Gioan 23 và bức thư
 

Lúc được phong chức Tổng Giám Mục, Đức Cha Roncalli là khâm sứ toà thánh kiêm đại diện TN 14-A133


Lúc được phong chức Tổng Giám Mục, Đức Cha Roncalli là khâm sứ toà thánh kiêm đại diện tông tòa quản trị các giáo phận ở Bungari và Thổ Nhĩ Kỳ. 

Công việc của ngài rất khó khăn, vì phải trông coi một vùng rộng lớn đang sôi động về mặt chính trị, chia rẽ về mặt tôn giáo, Công Giáo với Tin Lành, Chính Thống, Hồi Giáo, và các linh mục triều lại chia rẽ với các tu sĩ.

Trong lúc thi hành công việc mục vụ, Đức Tổng Giám Mục Roncalli nhận được một bức thư nặng lời chê bai chỉ trích ngài về mọi mặt, do một linh mục trong giáo phận. Đọc xong, Đức cha Roncalli không nói một lời, nhưng lòng vẫn tha thiết yêu thương vị linh mục ấy.

Thời gian trôi qua, ngài được thăng chức  sứ thần toà thánh tại Paris, rồi hồng y giáo chủ Vênêcia, và cuối cùng đắc cử Giáo Hoàng với danh hiệu Gioan 23 năm 1958. Linh mục bất mãn viết thư năm nào vẫn còn sống. Một ngày kia vị linh nmục này sang Rôma và xin được yết kiến Đức Giáo Hoàng. Linh mục này đã thuật lại cuộc tiếp kiến riêng với Đức Giáo Hoàng như sau:

“Trong lúc đứng ở phòng khách trên lầu cao Vatican, đầu óc tôi cứ nghĩ tới bức thư bất mãn năm xưa mà lòng tôi vô cùng hối hận. Tôi trộm nghĩ, đã mấy chục năm rồi, giờ đây chắc hẳn Đức Thánh Cha không còn nhớ nữa... Nhưng ai ngờ, sau khi tiếp chuyện thân mật, Đức Thánh Cha mở cuốn Thánh Kinh và lôi ra trước mặt tôi bức thư khốn nạn ấy.

Đang khi tôi lo âu lúng túng, Đức Thánh Cha đã cầm lấy tay tôi và dịu dàng bảo ”Con đừng hoảng sợ, cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là con người, cũng còn những yếu đuối, cha ngăn bức thư con viết vào cuốn Thánh Kinh để hằng ngày cha đọc mà xét mình, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại, hoặc xa tránh những lầm lỡ có thể xẩy đến trong tương lai. Mỗi lần như thế cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con.” 

Đức Gioan 23 đã thể hiện sự hiền lành của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng  hôm nay

 “Hãy học cùng ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng”.

Chúa Giêsu không có thành kiến với những người tội lỗi. Ngài luôn luôn nghĩ tốt cho cho người khác. Ngài luôn luôn yêu thương chúng ta, nhất là đối với những người bé mọn.

Nhưng ai là những kẻ bé mọn?

Theo Tin Mừng Thánh Matthêu, những kẻ bé mọn là những người nghèo khổ, những người yếu thế, những kẻ đang vất vả và phải mang gánh nặng. Trong Do Thái Giáo, cái ách hay là gánh nặng thường là hình ảnh của những luật lệ. Các thầy thông luật tự cho mình là khôn ngoan thông thái, thường hay bày vẽ ra đủ thứ luật lệ mà những kẻ đơn sơ, bé mọn dù cố gắng đến đâu cũng chẳng thể nào tuân giữ trọn vẹn được.

Làm sao đầu óc đơn sơ chất phác của họ có thể phân biệt được cái gì là chính yếu, cái gì là thứ yếu trong những luật lệ chi li lắt léo mà các Luật Sĩ, Biệt Phái lập ra, khiến cho những kẻ đơn sơ chất phác không thể nào lọt vào được bên trong cái thế giới mà họ cho là cái thế giới thánh thiêng cao cả của họ.

Chúa Giêsu không thể chấp nhận một thứ vương quốc của Thiên Chúa chỉ dành riêng cho những kẻ khôn ngoan thông thái và những kẻ đạo đức giả chỉ biết cậy vào thành tích giữ luật của mình. Ngài đã đến như một người nghèo khó sống giữa những người nghèo hèn tội lỗi.

Hỡi những ai đang gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức cho, vì ách của Ta thì êm ái và gánh của ta thật nhẹ nhàng. Chúa không hứa với chúng ta là sẽ cất khỏi chúng ta những cái ách mà chúng ta phải mang. Nghĩa là khi theo Chúa, Chúa không hứa rằng, chúng ta sẽ không còn đau khổ nữa, chúng ta không còn phải vác thánh giá nữa, nhưng Chúa chỉ hứa là sẽ làm cho những cái ách của chúng ta ra nhẹ nhàng, nghĩa là Chúa mang đến một ý nghĩa cho những cái ách mà chúng ta phải mang. Những cái ách đó giúp chúng ta tham dự vào những đau khổ của Chúa để cứu chuộc chính chúng ta. Đây là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với Kitô hữu chúng ta. Nó mang đến cho chúng ta một ý nghĩa vô cùng lớn để chúng ta sống cuộc sống Kitô hữu của chúng ta.

Huyền thoại Sisyphe kể rằng, Sisyphe bị Thượng Đế đẩy xuống trần gian và phải chịu một hình phạt là mỗi ngày phải đẩy một tảng đá lên đỉnh núi. Khi đã đẩy lên đỉnh núi rồi  lại thả tảng đá đó lăn xuống chân núi. Rồi lại tiếp tục đẩy tảng đá đó lên đỉnh núi rồi lại thả xuống.

Và cứ lặp đi lặp lại như thế cho đến suốt đời. Cái hình khổ nặng nề của Sisyphe không phải là việc lăn tảng đá lên đỉnh núi, nhưng là cái sự vô lý của công việc: lăn tảng đá lên đỉnh núi rồi lại thả xuống. Một công việc chẳng giúp ích gì cho ai, và cũng chẳng mang lại cho mình điều gì. Một sự vô cùng phi lý mà cứ phải lặp đi lặp lại.

Cuộc đời của Sisyphe thật vô lý, nhưng cuộc đời của Kitô hữu chúng ta không phi lý, bởi vì những vất vả, lao nhọc của chúng ta là một phương thế để cứu rỗi chúng ta. Ách của Chúa thì êm ái và gánh của Chúa thì nhẹ nhàng là như vậy. Chúng ta hãy ghi nhớ và thực hiện Lời Chúa hôm nay: hãy mang lấy ách của Ta vì ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thật nhẹ nhàng. Amen.

------------------------------
 

TN 14-A134: Hiền lành


(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
 

Hôm nay Chúa dạy chúng ta: “hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Sự TN 14-A134


Hôm nay Chúa dạy chúng ta: “hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Sự hiền lành của Chúa không phải là đi tìm sự thỏa hiệp với thế gian. Chúa không im lặng trước sự dữ. Chẳng hạn, Chúa đã từng lên án gắt gao thói giả hình và gian tà của những kẻ biệt phái. Chúa đã từng xô đuổi con buôn ra khỏi đền thờ. Chính vì những điều Chúa làm, những lời Chúa nói đã ảnh hưởng đến miếng cơm manh áo, đến địa vị, chỗ đứng của các biệt phái mà người ta tìm cách giết Chúa. Sự hiền lành của Chúa là vì công lý mà chịu nhiều thiệt thòi không kháng cự. Vì dám nói sự thật mà phải chết nhục nhã trên cây thập giá, nhưng Ngài không oán hận, và còn xin cùng Chúa Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm. Chúa đấu tranh nhưng bất bạo động, vì “ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”, “oán báo oán, oán chập chùng” và còn tha thứ cho sự xúc phạm của tha nhân không chỉ “7 lần mà là 70 lần bảy”.

Trong tám mối phúc, Chúa đã chúc phúc những cho ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nườc Trời là của họ. Như thế hiền lành ở đây là sống thật và làm chứng cho sự thật. Không nhượng bộ, không thỏa hiệp với dối gian. Cho dù vì lẽ công chính mà mình bị bách hại, bị thiệt thòi vẫn chấp nhận, vì phần thưởng của chúng ta là Nước trời. Sự hiền lành của Chúa còn hệ tại ở sự cảm thông với lỗi lầm của người khác. Không thành kiến đối với những người bị xã hội ruồng bỏ. Ngài yêu thương họ. Ngài đến để đối thoại với họ. Ngài mở cho họ một con đường mới. Ngài giúp họ làm lại cuộc đời như Madalena, như Giakêu, hay như người thiếu phụ bên bờ giếng Giacóp.

Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa quyền năng, thế mà đã trở nên như một con chiên hiền lành trước người thợ xén lông. Vì thế, hiền lành chính là nhân đức của người mạnh và phải có bản lãnh mới kiềm chế nổi sự nóng giận của mình. Vậy nhân đức hiền lành nắm giữ vai trò nào trong cuộc sống mỗi người chúng ta? Kinh nghiệm cho thấy: chúng ta không thể nào sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một pháo đài biệt lập, mà trái lại chúng ta sinh ra là sống cho với và sống nhờ tha nhân. Và trong cuộc sống chung này, chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội, những buồn phiền, vì nhân vô thập toàn, ai cũng có những sai lỗi, khuyết điểm của mình. Hơn thế nữa, bá nhân bá tánh, mỗi người đều có một tính tình riêng. Bởi đó, chúng ta cần phải biết quên đi và tha thứ, nhường nhịn và chịu đựng, vì một sự nhịn là chín sự lành. Vậy vậy, thứ nhất, chính sự hiền lành sẽ tạo nên trong gia đình và ngoài xã hội một bầu khí hòa thuận và êm ấm: “Chồng giận thì vợ bớt lời. Cơm sôi nhỏ lửa, chẳng đời nào khê”. Thứ 2, chính sự hịền lành sẽ bắt được một nhịp cầu cảm thông và sẽ tạo được những mối liên hệ tốt ngoài xã hội giữa chúng ta với nhau, bởi vì: “Già néo thì đứt giây. Bên thẳng thì bên phải chùng. Cả hai đều thẳng, thì cùng đứt dây. Thứ 3, chính sự hiền lành giúp chúng ta bớt đi bạo lực gia đình hay xã hội do tính nóng, giận quá mức của con người vì chưng: “Giận quá thì mất khôn. Và cuối cùng là sự hiền lành thường đi song song với khiêm tốn. Hiền lành để tha nhân dễ gần chúng ta và khiêm tốn để ta dễ hòa đồng giữa ta với với tha nhân. Kẻ kiêu căng thường phân loại để chơi. Người khiêm nhường thì đối xử mọi người như nhau. Người hiền lành ai cũng muốn tới gần. Kẻ gian ác kiêu ngạo ai cũng chạy xa. Chúa Giêsu Ngài hiền lành và khiêm nhường nên ai cũng có thể tiếp xúc với Ngài, và Ngài cũng có thể gặp gỡ trao đổi với mọi người: từ em bé đến người già, từ người giầu có đến kẻ hèn, từ người công chính đến tội lỗi và người đau yếu đến người khuyết tật.

Xin Chúa giúp chúng ta biết học nơi trái tim yêu thương của Chúa: “sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Ngài không ở trên cao nhưng tự hạ mặc lấy thân phận con người. Ngài còn dạy chúng ta bài học khiêm tốn khi quỳ gối rửa chân cho các môn đệ. Một cử chỉ khiêm tốn đến nỗi Phêrô đã bộc trực thốt lên: “Không đời nào Thầy lại rửa chân cho con sao?”. Đó là một sự tự hạ không ủy mị hay luồn cúi mà là bài giáo huấn sống động về tinh thần hiền lành hy sinh phục vụ lẫn nhau. Ngài đã dạy chúng ta hãy sống đúng với thân phận con người là lệ thuộc vào Chúa. Ngài đã dạy chúng ta hãy hạ mình để sống hòa hợp với tha nhân. Đừng tự cao tự đại để gạt Thiên Chúa ra bên ngoài như Adam - Evà năm xưa chỉ dẫn tới diệt vong. Đừng tự cao tự đại đến nỗi đè bẹp người khác để mình được tôn vinh.  Đừng khinh bỉ người tội lỗi, bất hạnh nhưng yêu thương và tôn trọng họ. Và trên hết, hãy mang lấy tâm hồn hiền lành để luôn đơn sơ và bé nhỏ trước mặt Chúa, trước mặt tha nhân. Vì sự đơn sơ và bé nhỏ là dấu chỉ đặc thù của sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng mà Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay. Đây cũng là phương thế để chúng ta đón nhận mạc khải Nước Trời và đón nhận tình thương của Chúa tuôn đổ xuống trên cuộc đời chúng ta. Amen.

------------------------------
 

TN 14-A135: Những kẻ bé mọn


Suy niệm:

Lạy Cha là Chúa trời đất, con xin chúc tụng ngợi khen Cha... vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn”.
 

Chữ bé mọn đây không phải là dáng người thấp bé hay là trẻ con. Nhưng là người có tấm lòng TN 14-A135


Chữ bé mọn đây không phải là dáng người thấp bé hay là trẻ con. Nhưng là người có tấm lòng đơn thành như trẻ con, một tấm lòng biết mình là nhỏ bé trước Nước trời bao la, biết mình túng thiếu đơn độc mà bám vào tay Thiên Chúa quan phòng. Là những ai tự hạ tự khiêm phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa. Đã có một lần nào Chúa xác nhận “nếu các ngươi không trở nên giống trẻ thơ, các ngươi sẽ không được vào nước trời” (Mt 18,3).”Ai trong các ngươi lớn nhất là người bé nhỏ nhất” (Lc 9,48). “Hãy để trẻ nhỏ đến cùng Ta, vì Nước Trời thuộc về những ai giống như chúng” (Mc 10,14)

Tại sao Chúa Giêsu cứ lấy mẫu mấy em bé làm gương vậy? Chúng ta có thấy và có biết cái gì đã từng làm những bậc cha mẹ không thể cầm lòng được trước một đứa con nhỏ. Cái gì đã làm Chúa những người lớn đều ưa thích trẻ nhỏ? Thưa, đó chính là sự yếu đuối nhỏ bé. Vâng, chính cái sự yếu đuối nhỏ bé đó làm cho mọi người dễ thương dễ mến. Chính cái yếu đuối ấy của chúng ta là sức mạnh của tuổi thơ măng sữa. Đúng như lời thánh Phaolô “Lúc tôi yếu đuối nhất là lúc tôi mạnh mẽ” (2C 12,9-10). Nếu chúng ta trao phó hoàn toàn cho Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lo trọn vẹn cho chúng ta như một người mẹ nuôi con thơ.

Con thơ còn trẻ chẳng biết gì. Chúng không biết ăn, chúng chẳng biết mặc, không biết đi, không biết nói. Các bà mẹ lành nghề đều công nhận các bà cưng chiều đứa con mình khi chúng nhỏ xíu “Nâng như trứng, hứng như hoa”. Khi chúng lớn lên, khi chúng càng có thể tự túc, thì các bà bớt quyến luyến, hoặc khi chúng tự cao khinh dể mình. Tình mẫu tử rất gần với tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Thật sự không gì làm cho Thiên Chúa xa lánh loài người, cho bằng tính kiêu ngạo, tự mãn, tự phụ. Tính này phá hủy các nhân đức. Những mẫu gương tự cao tự đại vẫn còn đó, với Adong, Eva, Luxife, babel, với các nền văn minh xa xưa còn đâu...

Trong Tân ước, đã mấy lần Chúa Giêsu phàn nàn về nhóm biệt phái cũng mắc bệnh này, là tự cho mình chữ nghĩa đầy mình, đầy dẫy sự khôn ngoan, cho mình là đủ và tự tạo ra ơn cứu rỗi. Chúa Giêsu đã mấy lần cảnh cáo (Mt 23,13). Ai tin vào sức mạnh của mình sẽ bị Thiên Chúa để mặc và tất cả trở về hư vô cát bụi. Trái lại, kẻ tự khiêm sẽ được Thiên Chúa nhìn đến. Thánh Phaolô nói “Thiên Chúa thích dùng người khiêm nhường, bị thế gian bỏ chê để tỏ lộ mình ra” (1C 25,28t). Kẻ khiêm nhường được Thiên Chúa tha tội (Lc 18,14). Thánh nhân còn đặt khiêm nhường bên cạnh đức tin (Gal 5,22).

Thánh Augustinô nói “Đâu có khiêm nhường, đấy có đức ái”. Sự khiêm nhường là dấu chỉ thuộc về đức Kitô. Kinh thánh còn nói trong cơn thử thách ai hạ mình xuống dưới cánh tay toàn năng của Thiên Chúa thì đến bây giờ họ sẽ được Thiên Chúa tôn vinh như Đức Kitô và được thông phần vinh quang của con Thiên Chúa. Gương khiêm nhường của David trước Goliath, của Mẹ Maria, của chính Chúa Giêsu (Mt 11,29) của Têrêsa hài đồng, của một Cha sở xứ Ars.

Chúng ta hãy suy niệm câu nói của thánh nữ Têrêsa Lixieux “Chính Chúa Giêsu đã làm hết tất cả trong tôi, tôi chỉ trở nên bé nhỏ và hèn yếu”.

“Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức cho” (c.28)

Câu nói này hiểu được trên hai phương diện. Trên phạm vi siêu nhiên, Chúa Giêsu nói đến những lề luật Cựu ước và luật lệ mới của biệt phái không giải thoát con người tội lỗi để được cứu rỗi. Cho nên cần phải đến với Ngài và qua Ngài. “Không ai đến được với Thiên Chúa mà không qua Ngài”. Câu nói trên cũng hiểu được là những ai đau khổ bất an tinh thần vật chất cũng hãy đến để Ngài nâng đỡ.

Có một điều cần ghi nhận giữa những đau khổ ở đời, nếu chúng ta chỉ một mình loay hoay dậm chân tại chỗ, thì không giải quyết được gì. Một gánh nặng mà đã để xuống là khó mang đi nữa. Chúa Giêsu căn dặn chúng ta: “Hãy vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16,24). Và Chúa kêu mời “hãy đến với Ta...” (c.28). Chúng ta hãy đến với Chúa hôm nay để thực sự cảm nghiệm được sức nâng đỡ đó. Có một điểm cần lưu ý trong câu trên là Chúa nói: Ngài bổ sức cho chúng ta thôi, chứ Ngài không cất hết gánh nặng đi cho đâu. Chắc chắn Chúa Giêsu xuống trần gian, không phải vì mục đích để làm cho hết khổ đâu. Ngài qủa quyết là quê trời mới hết khóc than. Mặc dầu đã nhiều phép lạ chữa bệnh tật đau khổ phần xác, nhưng Chúa Giêsu chỉ muốn đem lại cho đau khổ một giá trị thực tiễn của Nước trời.

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, chính Chúa đã dâng lời ngợi khen Cha vì đã mặc khải cho những kẻ bé mọn. Tinh thần nhỏ bé khiêm tốn luôn được Chúa đề cao, được mọi người trân trọng. Biết thế, nhưng Chúa ơi! Ở đời chúng con vẫn ham danh vọng, trọng quyền lợi. Chỉ có tình yêu Chúa mới uốn mềm lòng chúng con nên khiêm nhường bé nhỏ. Xin Chúa biến đổi tâm hồn chúng con trở nên nhỏ bé trước Thiên Chúa để chúng con được Ngài đổ đầy lòng chúng con hồng ân của Ngài.

Lạy Chúa, hôm nay là ngày thế giới xin ơn thánh hóa các Linh mục. Xin Chúa ban ơn nâng đỡ các Linh mục là những người Chúa chọn để chăm sóc đoàn chiên Chúa. Xin cho các Ngài ơn khôn ngoan thánh thiện. Một đời sống thánh đức sẽ toát lên qua việc cầu nguyện trong khiêm tốn. Để trong cầu nguyện, các Linh mục sẽ tiếp nhận được nguồn tình yêu và sức mạnh từ trái tim nhân hậu của Chúa hầu chuyển trao cho đoàn chiên sức sống dồi dào. Amen.

------------------------------
 

TN 14-A136: Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt


TIN MỪNG MẶC KHẢI CHO NGƯỜI HÈN MỌN

CÂU HỎI GỢI Ý
 

Làm sao đặt đoạn văn này vào trong toàn bộ chương 11? Nó có tiếp nối chủ đề trung tâm của TN 14-A136


1. Làm sao đặt đoạn văn này vào trong toàn bộ chương 11? Nó có tiếp nối chủ đề trung tâm của các chương 11-13 không?
2. Thành ngữ “thuở ấy” có giá trị gì đặc biệt?
3. Tại sao Chúa Giêsu đội ơn Cha Người vì đã gặp thất bại nơi các kẻ “khôn ngoan và thông thái”?
4. Hãy đọc kỹ các chú thích của BJ.
5. Đâu là ý nghĩa của chữ “biết” theo Kinh Thánh?
6. Hãy đối chiếu đoạn văn này với Hc 6, 25-30; 24, 19 và 51, 1-30: có tương đồng về ngữ vựng, cơ cấu không?
7. “Ách” của Chúa Giêsu dịu dàng hơn ách Biệt phái theo nghĩa nào? Phải chăng Người đòi hỏi ít hơn họ?

1. Trong thần học của các giáo sĩ Do thái, việc gán tính cách lịch sử cho hành động của Thiên Chúa đã dẫn đến hậu quả này là làm cho thời hiện tại mất đi mọi giá trị đối với việc cứu rỗi. Hành động cứu rỗi của Thiên Chúa không còn được đặt trong tương quan trực tiếp với hiện tại nữa; việc cứu độ của Ngài có thể bảo là đã bị giản lược thành một âm vang, được nhiều tiếng nói trung gian truyền đạt. Và chỉ nhờ các tiếng nói này, là những loại âm vang gián tiếp, mà Thiên Chúa ngỏ lời với mỗi cá nhân. Ngài đã bộc lộ thánh ý Ngài xưa kia, và mọi suy tư thần học của các giáo sĩ đều tham chiếu về chính cái “xưa kia” của Sinai ấy. Dĩ nhiên, người ta cũng hy vọng đợi chờ ngày cánh chung lúc Thiên Chúa sẽ tái can thiệp một cách mạnh mẽ và dứt khoát để diễn lại các kỳ công xa xưa của Ngài. Nhưng thời hiện tại, cái thời gian kỷ niệm quá khứ và hy vọng sự hoàn thành ơn rỗi trong tương lai, đối với nền thần học đương thời Chúa Giêsu chỉ là một giây phút trống rỗng, mà dấu hiệu là sự bất an của tâm hồn đạo đức. Rồi phải thêm rằng ý muốn sống động của Thiên Chúa được đồng hóa với Lề luật (Tora). Vì thế, phương diện hiện sinh của tri thức về Thiên Chúa, nghĩa là sự kiện mỗi cá nhân hiện sống được hiệp thông với Ngài nhờ ân sủng, và do thấy yếu tố hữu ngã của sự sống Ngài trong lịch sử cứu rỗi đều bị giảm thiểu để nhường chỗ cho một yếu tố thuần lý là sự cần thiết phải học hỏi thánh ý Ngài trong Lề luật để trở thành người đạo đức. Do đó mà trong Do thái giáo của các giáo sĩ, hình ảnh Thiên Chúa đã bị trừu tượng hóa một cách lạ lùng. Trái lại Chúa Giêsu, qua nhiều lời tuyên bố mình hiện sống thân mật với Thiên Chúa một cách hiện sinh, đã tỏ ra khác biệt hoàn toàn với các thần học gia đương thời.

2. Nhưng còn một điều mới mẻ căn bản hơn nữa. Đó là Chúa Giêsu tuyên bố rằng, qua sự hiện diện của Người, sự hiện của Ngôi Con, Thiên Chúa đã dấn thân vào một công cuộc quyết liệt và dứt khoát, rằng người lớn hơn một ngôn sứ hay hơn .Vị Ngôn sứ mà Đnl 18, 15 đã loan báo ngày xưa. Các tác giả Tin Mừng quá hiểu điều vừa nói, bằng chứng là Mt và Lc đặt trước bài hoan ca hôm nay (đoạn văn chúng ta) lời Người khiển trách các thành mà, mặc dầu thấy bao phép lạ làm trước mắt, vẫn không chịu nhận rằng qua các công việc đó Người muốn tỏ mình như là yêu sách tối hậu của Thiên Chúa. Tính cách dứt khoát của yêu sách này tạo thêm một tiêu chuẩn phán xét họ. Tội lỗi của họ, Khoradin và Betsaiđa, quả kinh khủng hơn là tội của Sôđôm, là tấm gương xưa nay về sự bất chính.

3. Toàn thể các chương 11, 12 và 13 rất ăn khớp với nhau trên phương diện thần học? vì cùng bị chi phối bởi chủ đề về cái được “dấu kín”; thành thử các câu 25-30 thật là nằm gọn hoàn toàn trong cơ cấu chung. Chúng rõ ràng có một giọng điệu của Gioan, về hành văn cũng như về tư tưởng, nhất là câu 27 (x. Ga 3, 35; 17, 2; 7, 29; 10, 14-15). Đàng khác nên lưu ý rằng, trong văn mạch này, đoạn văn không đặt trọng tâm trên Chúa Con xét như là Con cho bằng là trên cái Người mặc khải cho nhân loại. Xét trong toàn bộ, các câu 25-27 chẳng những nói rằng Thiên Chúa thường mặc khải cho những kẻ bé mọn” điều Ngài dấu với hạng thông thái khôn ngoan, nhưng còn bảo đó chính là cách thức riêng biệt mà Ngài dùng để tự mặc khải qua sứ vụ Chúa Giê-su.

4. Nhịp điệu của lời Chúa Giêsu cầu nguyện trong đoạn văn này khá gần với nhịp điệu nằm suốt bài ca tạ ơn mà Bensira đã dùng để kết thúc cuốn sách của ông (Hc 51,1-30); bài ca ấy cũng mở đầu bằng một lời “tuyên xưng” (examologoumaisoi, cùng thành ngữ như trong Mt 11, 25), rồi khai triển chủ đề đi tìm sự Khôn ngoan Thiên Chúa đã ban tặng, và kết thúc với một lời kêu gọi hãy học với nó, hãy nhận lấy “ách” và “gánh” của nó, để tìm được sự “nghỉ ngơi” (Xem thêm Hc 6, 25-30 và 24, 19, nơi gặp lại cùng những thành ngữ này).

Một nhịp điệu tương tự cũng gặp thấy trong sách khôn ngoan (Kn 6-9) là sách tán dương sự cao cả của đức khôn ngoan và kêu mời độc giả hãy đến làm môn đồ của nó đặc biệt xem Kn 8, 9; 9, 1. 4. 9). Tuy nhiên bản văn Mt đi xa hơn nhiều, vì đánh dấu việc hoàn thành của chính sự Khôn ngoan thần linh trong Chúa Giêsu, và bối cảnh cánh chung của chương cho phép hiểu, dưới ánh sáng của Đn 7, 13-14, rằng Chúa Giêsu thật là Con Người đã được loan báo (11, 19), đã được ban cho quyền năng trên mọi dân nước trần gian. Việc hoàn thành ấy nằm trong sự kiện là Chúa Giêsu, người đầu tiên, tự trở nên “bé mọn”, hay nói cách khác, nên “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” (11, 29). Như vậy là tử hệ của Chúa Giêsu, người Tôi tớ, đã được mặc khải ra.

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Thuở ấy". Chi tiết xác định này có một giá trị thần học hơn là thời gian; nó nối kết câu 25 với cc. 20-24: dù quê hương của Chúa Giêsu (Capharnaum, c.23) có từ khước Người chăng nữa, thì những kẻ bé mọn vẫn hiệp lòng với lương dân (Tyr, Siđon c.21) để đón tiếp Người. Các thành, trung tâm của các trường giáo sĩ và của văn hóa tôn giáo đã chẳng biết Đấng mà những kẻ "đơn hèn" nhận ra vậy.

“Con xin ngợi khen Cha": Chúa Giêsu đội ơn hay xưng tụng Cha Người vì đã gặp thất bại nơi những kẻ khôn ngoan thông thái; không phải Người ưa thích đám hèn dân hơn hạng ưu tú vì tính khí hay là vì thiện cảm tự nhiên đâu; song Người nhận ra rằng thất bại ấy, và sự thành công đi kèm theo, đều tương ứng với chính bản chất của công cuộc Người thực hiện để phục vụ nhân loại là cứu kẻ nghèo, hạng người bị giới quyền cao khinh bỏ.

“Lạy Cha": Ở đây, Matthêu dùng hô cách (vocatif) patôr là hình thức đúng của tiếng kêu. Nhưng trong câu tiếp, cũng tiếng kêu ấy của Chúa Giêsu (Lạy Cha!) lại được diễn tả bằng chủ cách (nominatif) (ho patôr) là hình thức sai trong Hy ngữ. Việc chuyển từ hô cách sang chủ cách cho thấy từ ngữ Aram Chúa Giêsu dùng hẳn là Abba, tiếng mà vào thời Người, thường được sử dụng khi gọi (hô cách) cũng như khi nói về người cha (Hy ngữ ho patôr). Điều này thánh Phaolô đã xác nhận lúc bảo Kitô hữu cầu khẩn Thiên Chúa bằng mấy tiếng “Abba, ho patôr" (Rm 8,15 và Gl 4, 6). Thế mà, chữ Abba là một tiếng kêu thân mật dành cho việc xưng hô trong gia đình. Không bao giờ một người Do thái dám gọi Thiên Chúa bằng Abba tương đương với chữ ba ơi trong việt ngữ, papa trong Pháp ngữ. Người ta chẳng tìm thấy một lời khẩn cầu nào với Thiên Chúa bằng chữ Abba trong mọi kinh nguyện Do thái của 10 thế kỷ đầu trước Chúa Kitô, cũng như trong các kinh nguyện phụng vụ hoặc kinh nguyện riêng tư cả. Thành ra ngôn ngữ của Chúa Giêsu ở đây có một cái gì đó mới mẻ, độc đáo, lạ lùng: Người dám nói với Thiên Chúa như một đứa bé nói với cha nó cách đơn sơ, thân tình, không chút sợ hãi. Tiếng này mặc khải chính nền tảng của mối thông hiệp giữa Chúa Giêsu với Thiên Chúa vậy.

“Chúa trời đất": Đây là nơi duy nhất trong Tin Mừng mà chúng ta gặp tiếng xưng hô long trọng này. Công thức thật đặc biệt quan trọng ở đây vì cho phép ta thực sự lượng giá được tầm mức và ý nghĩa của những lời sắp nói.

"Đã che dấu ": Cặp động từ "che dấu-mặc khải" nổi bật lên trên toàn bộ các chương 11-13 và là chìa khóa giúp hiểu được chúng. Không phải loài người, cũng chẳng phải Chúa Giêsu, song chính Thiên Chúa là chủ từ của động từ ấy; câu 26 sẽ nhấn mạnh điều đó; sự cứng lòng và niềm tin mà Chúa Giêsu gặp không phải là những tai nạn, cũng chẳng phải là những kết quả tích cực hay tiêu cực, của các nguồn lực riêng của Người đâu; chính quyền bính và ý muốn Thiên Chúa điều khiển tất cả hoạt động của Người.

“Điều ấy": Không phải là những phương diện riêng biệt đặc biệt cao sâu của sứ vụ Chúa Giêsu, song là ý nghĩa tổng quát của toàn thể công trình mặc khải của Người. Các tiếng “Khôn ngoan" và “thông thái" cùng chỉ hạng học thức, chuyên môn, có thẩm quyền trong lãnh vực tôn giáo (x. Is 29, 14 và 1Cr 1, 19); trong lúc tiếng bé mọn" chỉ những “người nghèo trong tinh thần” của Bát phúc (Tv 19, 8; 116, 6), chỉ đám cùng dân là những người "tội lỗi" mà Biệt phái bao giờ cũng khinh bỉ; lý tưởng của những kẻ sau này ngày càng thoái hóa sự hiểu biết có tính cách vật chất và thuần lý về Lề Luật các truyền thống giáo sĩ. Như vậy ở đây Chúa Giêsu vừa đối lập với ngộ đạo kiểu quý phái của Qumrân vừa sung khắc với các tôn giáo huyền bí của các nhóm người Hy lạp.

“Không ai biết được Cha trừ ra Con": Đối lại với tri thức thuần lý của các giáo sĩ, Chúa Giêsu đưa ra một tri thức diện hiện sinh, làm bằng sự thân mật và tình yêu. Ý chí, tình yêu, cảm giác, nghĩa là tất cả mọi hình thức của trí tuệ mến yêu (inteuigence aimnte) đều tham dự vào tri thức đó. Đàng khác, Kinh Thánh đã chẳng gọi cuộc gặp gỡ sâu xa nhất giữa hai vợ chồng trong tình yêu là sự "hiểu biết" đó sao (St 17, 25...)? Ở đây biết và yêu chỉ là một chuyện. Đây cũng là nơi duy nhất trong các trình thuật Nhất lãm phát biểu một cách rõ ràng và không chối cãi được mối tử hệ thần linh của Đấng Mê-si-a.

"Hết thảy những kẻ lao đao và vác nặng". Cũng một tiếng Hy lạp có nghĩa "gánh nặng được dùng chỗ này và Mt 23, 4 nơi Chúa Giêsu quở trách Biệt phái đã đặt những “gánh nặng nề" lên vai người khác. Như vậy ở đây Chúa Giêsu chẳng nghe lời các thử thách và khó khăn của đời sống, sức nặng của tội lỗi v v nhưng đến gánh nặng không thể nào chịu đựng của tinh thần vụ luật giáo sĩ. Điều này được xác nhận trong các câu tiếp theo: "mang lấy ách" là một thành ngữ thông thường các giáo sĩ dùng để chỉ ách của nước Thiên Chúa, của Lề luật, của trời, của các huấn lệnh v.v... xem chú thích BJ). "Ta sẽ nâng đỡ các con": Hy ngữ: anapausô - dịch sát chữ là: "Ta sẽ cho nghỉ ngơi lại sức".

"Hãy mang lấy ách của Ta": Chúa Giêsu không đến để miễn cho con người mọi bó buộc luân lý; Người thay thế các yêu sách Lề luật Do thái bằng những đòi hỏi của Người là những đòi hỏi, như đã thấy trong Diễn từ trên núi, cũng có tính cách nghiêm chỉnh, và còn triệt để hơn các đòi hỏi của luật Môisen. Chỉ có điều là vị Tôn sư đề nghị ra chúng thì hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, khác xa với các giáo sĩ. Và chẳng những Người ban cho môn đồ sức mạnh để mang ách đó trong vui tươi song còn làm gương cho họ bằng cách sống điều mình đòi hỏi: "Lịnh truyền của Người không nặng nề" (1Ga 5, 3) và "chỉ tóm lại nơi một lời này: Ngươi hãy yêu mến đồng loại như chính mình ngươi" (Rm 13, 9).

"Ta hiền lành": Nơi đây Mt dùng chữ praus (hiền lành) như ơ chân phúc thứ hai. Chúa Giêsu là kiểu mẫu của môn đồ vậy.

“Ach Ta thì êm ái và gánh Ta lại nhẹ nhàng": Điều này chẳng có nghĩa là Chúa Giêsu đòi hỏi ít thua các giáo sĩ đâu. Người đòi hỏi nhiều hơn nhưng cách khác. Tình yêu làm mọi gánh hoá ra nhẹ nhàng. "Nơi nào có tình yêu, nơi ấy chẳng có gian khổ" thánh Augustin đã nói như thế.

KẾT LUẬN

Học theo đức Khôn ngoan chân thật của Nước Trời là nên nghèo hèn với Chúa Giêsu. Cái thường gây vấp phạm, là cách thức Chúa mặc khải chính mình Người: quyền này tỏ trong sự yếu đuối!

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Giống hạng người "khôn ngoan, thông thái" mà Chúa Giêsu nhắm đến là những kẻ dùng trí tuệ riêng để xây cho mình một Thượng đế quan, một vũ trụ quan hoàn toàn đóng kín, cùng nhất định không muốn thay đổi chúng để học thêm điều gì mới lạ. Họ tưởng mình đã biết hết về Thiên Chúa, đã nắm trọn học thuyết đích thật về Ngài. Nhưng người ta có bao giờ mà nắm được chân lý, chính Chân lý luôn nắm chúng ta, và chỉ cần chúng ta để cho Ngài nắm lấy. Cơn cám dỗ ngàn đời của tâm trí con người, khởi từ câu chuyện biểu tượng của Adam và Eva, bao giờ cũng vẫn là một: Đó là tin rằng "mắt chúng ta sẽ mở ra" và "chúng ta sẽ nên giống Thiên Chúa" bằng cách ăn trái cây hiểu biết, bằng cách vận dụng trí tuệ của mình, thay vì chấp nhận rằng chính trong khi tự biến đi trong tình yêu Thiên Chúa mà chúng ta trở nên giống Ngài nhờ ân sủng.

2. Đức tin chúng ta đừng bao giờ biến thành một gánh nặng không thể vác nổi, một gánh nặng làm tróc thịt trầy da. Nếu nó trở thành một gánh nặng, hãy tin chắc rằng nó không chính thực đâu. Tình yêu chỉ biết mang lại tự do, ánh sáng và sự nâng đỡ cho những tâm hồn gặp gỡ được nó.

3. Trong đoạn này, Chúa Giêsu cho chúng ta một tấm gương cầu nguyện. Lời cầu nguyện ấy bắt đầu bằng một lời tạ ơn nói lên lòng chấp nhận thánh ý Chúa Cha và biết ơn Ngài vì đã cho gặp thử thách của thất bại. Nó tiếp tục bằng cách đi lên đến tận nguồn của lịch sử cứu rỗi, tức là mầu nhiệm Thiên Chúa trong chính mình Ngài. Sau cùng nó kết thúc bằng cách hứa ban cho ta ơn cứu rỗi ấy một cách cụ thể nếu chúng ta chấp nhận trở nên khó nghèo.

4. Ngày nay những kẻ "bé mọn" là ai? Phải chăng là một giai cấp xã hội? Có tương quan nào giữa lời nhận xét của Chúa Giêsu cách đây 2000 năm và cái chúng ta có thể nhận xét hôrn nay các tin hữu không? đâu là những kẻ khôn ngoan và thông thái của thời đại này? Phải hiểu thông thái và khôn ngoan theo nghĩa trần tục hay nghĩa tôn giáo? Ta có được đi đến chỗ bảo rằng các tín hữu tưởng mình biết mọi sự về Thiên Chúa những kẻ khôn ngoan và thông thái hiện thời mà ơn cứu rỗi bị che dấu đi không?

5. “Ach dịu dàng của Chúa Giêsu chỉ các đòi hỏi của đức tin Kitô giáo, chỉ bổn phận Kitô hữu: giữ mười giới răn, chống lại tính xấu thực hành luân lý Tin Mừng của Diễn từ trên núi, tuân phục các quyết nghị của Giáo Hội, chấp nhận bệnh tật, già nua, cái chết. Gánh này, thay vì đè nặng chúng ta, lại ban cho đời chúng ta một ý nghĩa. Như đôi cần chim, nó mang chúng ta lên trong lúc chúng ta tưởng phải mang nó.

6. Chúng ta sẽ học ở trường nào nếu không phải là trường của Chúa Giêsu Kitô? Xa Người, chúng ta chỉ có thể học đòi theo những thúc đẩy mù quáng và mâu thuẫn của đam mê, những cái nhìn thiển cận và tầm thường của tinh thần thế tục, học đòi … theo sự khôn ngoan nhân loại, thứ khôn ngoan tự biết mình không thể ban một ý nghĩa cho cuộc đời. Còn nơi trường Chúa Kitô, chúng ta học biết rằng mình là con cái được yêu đang tiến về Chúa Cha, dưới sự dẫn dắt của Chúa Con hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.

------------------------------
 

TN 14-A137: KHÔNG CÓ LỜI NÀO ÊM TẠI VÀ MÁT LÒNG HƠN


CHÚA NHẬT XIV THƯỜNG NIÊN NĂM A

 (9/7/2023)

[Dcr 9,9-10; Rm 8,9.11-13; Mt 11,25-30]

I. DẪN VÀO PHỤNHG VỤ
 

Loài người không sai khi cho rằng cuộc đời này là bể khổ: nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, hận TN 14-A137


Loài người không sai khi cho rằng cuộc đời này là bể khổ: nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, hận thù, lừa đảo và bất công xã hội. Trong bối cảnh ấy mọi người, lương cũng như giáo, đều ao ước nghe được những lời êm tai và mát lòng từ những người xung quanh và nhất là từ Thiên Chúa Tối Cao. Chúa Giêsu Kitô, đai diện của Thiên Chúa đã đáp lại sự mong đợi của loài người khi Ngài nói:  "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng!”

Chúng ta hãy để tâm hồn lắng đọng mà nghe và cảm nhận những lời ngọt ngào của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.

II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI SÁCH THÁNH

2.1 Trong bài đọc 1 (Dcr 9,9-10): "Này vua ngươi khiêm tốn đến với ngươi"

Đây Chúa phán: "Hỡi thiếu nữ Sion, hãy nhảy mừng; hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy reo mừng! Này vua ngươi đến với ngươi. Người là Đấng công chính và là Đấng cứu độ; Người khiêm tốn ngồi trên lừa con, con của lừa mẹ. Người đã loại bỏ các chiến xa khỏi Ephraim, và ngựa khỏi Giêrusalem. Cung tên chiến trận sẽ được phá huỷ. Người sẽ công bố hoà bình cho các dân tộc. Quyền bính của Người sẽ bành trướng từ biển này đến biển nọ, từ sông cái đến tận cùng trái đất".

2.2 Trong bài đọc 2 (Rm 8,9.11-13) "Nếu nhờ thần trí mà anh em đã giết được hành động của xác thịt, thì anh em sẽ được sống" Anh em thân mến, anh em không sống theo xác thịt, nhưng sống theo tinh thần, nếu thật sự Thánh Thần Chúa ở trong anh em. Nếu ai không có Thánh Thần của Đức Kitô, thì kẻ ấy không thuộc về Người. Và nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Kitô từ cõi chết sống lại, cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em.

Anh em thân mến, chúng ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để chúng ta sống theo xác thịt. Vì chưng, nếu anh em đã sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ Thần Trí mà anh em đã giết được các hành động (xấu xa của) thân xác, thì anh em sẽ được sống. 

2.3 Trong bài Tin Mừng (Mt 11,25-30): "Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng" Khi ấy, Chúa Giêsu lên tiếng nói rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. - Mọi sự đã được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai biết Cha, trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho.

"Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và gánh của Ta thì nhẹ nhàng".  

III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG VÀ SỨ ĐIỆP LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH

3.1 Chân Dung của Thiên Chúa (Thiên Chúa là Đấng nào?): Trong ba bài Sách Thánh hôm nay chúng ta khám phá Thiên Chúa:

- Là Đức Vua mà Thiên Chúa gửi đến với con cái nhà Israel để giải thoát họ khỏi sự đe dọa và giết hại của kẻ thù. Người là vị sứ giả khiêm tốn, hiền hòa nhưng là Đấng Toàn Thắng. Người không chịu được bất công, áp bức mà những kẻ cậy của cậy quyền đàn áp con dân của Thiên Chúa vì Người là Đấng Chính Trực!

- Là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã mạc khải đưòng lối hay cách hành động của Thiên Chúa Cha cho chúng ta. Đường lối hay cách hành động đó là Thiên Chúa Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều cao siêu của Nước Trời, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn biết những điều ấy. Chúa Giêsu Kitô còn cho chúng ta biết là Chúa Cha đã giao phó hết mọi sự cho Người và vì thế Người trở thành con đường và phương thế để người ta đến cùng Thiên Chúa và hiểu biết Thiên Chúa. Sau hết Chúa Giêsu Kitô là Đấng đã dành cho những người nghèo khổ một sự ưu ái đặc biệt: "Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng."

- Là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn hiện diện và tác động trong tâm hồn người Kitô hữu để làm cho người ấy thuộc về Chúa Kitô, sống bằng tinh thần và sự sống mới của Chúa Kitô Giêsu và sau này được sống lại với Chúa Kitô.

3.2 Sứ Điệp Lời Chúa (Thiên Chúa dậy gì hay muốn chúng ta làm gì?): Qua ba  bài Sách Thánh, chúng ta khám phá ra giáo huấn hay sứ điệp của Lời Chúa hôm nay gồm ba việc:

- Một là chúng ta biết cảm tạ ngợi khen Thiên Chúa Cha vì Người đã chọn chúng ta làm người Kitô hữu và đã bộc lộ cho chúng ta thấy và đã ban cho chúng ta bí mật Nước Trời.

- Hai là chúng ta biết chạy đến với Chúa Giêsu Kitô để được nâng đỡ ủi an (trong cơn gian nan thử thách) và nhất là để được Người dẫn đưa đến cùng Thiên Chúa Cha.

- Ba là chúng ta biết chọn mang ách của Chúa Kitô (là lề luật, là giới răn yêu thương) và biết học với Người vì Người có lòng hiền hậu và khiêm nhường.

IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA NGƯỜI

4.1 Sống với Thiên Chúa như con cái sống với cha mẹ, như kẻ thụ ơn đối với Đấng ban ơn, như môn đệ sống với Thầy. Sống bằng cả một tấm lòng yêu thương, tôn kính và tuân phục! Đặc biệt là sống với Chúa Giêsu là Đấng hiền lành và khiêm nhường s8ãn sàng chia sẻ mọi nỗi nhọc nhằn của chúng ta.

4.2 Thực thi sứ điệp Lời Chúa hay giáo huấn của Lời Chúa hôm nay, chúng ta phải xem xét lại cách sống của chúng ta dưới ba góc độ khác nhau:

- Một là chúng ta hãy kiểm điểm xem chúng ta có cảm nhận được ơn huệ đặc biệt mà Thiên Chúa đã ban cho khi được là người Kitô hữu không? (chỉ cần so sánh con số 6-7 triệu công giáo (trong đó có chúng ta) với số gần 100 triệu người Việt Nam). Chúng ta có biết dâng lời cảm tạ, ngợi khen Thiên Chúa về ơn huệ này không? Chúng ta thể hiện lòng biết ơn như thế nào?

- Hai là chúng ta hãy xét mình xem chúng ta có thường xuyên chạy đến với Chúa Giêsu Kitô khi vui cũng như lúc buồn để được Người bổ sức và dẫn đến với Thiên Chúa Cha không?

- Ba là chúng ta hãy nhìn lại xem mình có chọn sống theo Chúa Giêsu Kitô, có biết học với Người để sống yêu thương, bác ái, hiền lành và khiêm nhường không?

V. CẦU NGUYỆN CHO THẾ GIỚI VÀ HỘI THÁNH

5.1 "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha”  Chúng ta hãy cầu nguyện cho các dân các nước, nhất là cho các dân tộc nhỏ bé và chậm phát triển, để mọi dân nước sớm đón nhận được mạc khải của Thiên Chúa yêu thương.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa! Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

5.2 “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho”  Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh Chúa Kitô - nhất là cho Đức Thánh Cha Phanxicô, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ -, để mọi Kitô hữu luôn ý thức và sống xứng đáng với căn tính cao quý của mình.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!  Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!        

5.3  “Thưa anh em, anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em. Ai không có Thần Khí của Chúa Kitô, thì không thuộc về Chúa Kitô” Chúng ta hãy cầu nguyện cho giáo dân của giáo xứ/cộng đoàn/cộng đồng chúng ta, để mọi người biết sống và hành động theo Thần Khí của Chúa Kitô.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!  Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

5.4 “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” Chúng ta hãy câu nguyện cho những người nhỏ bé, túng nghèo và khổ cực trong xã hội để họ được Thiên Chúa nâng đỡ và ủi an.

Xướng: Chúng ta cùng cầu xin Chúa!  Đáp: Xin Chúa nhận lời chúng con!

Sàigòn ngày 5 tháng 7 năm 2023
Giêrônimô Nguyễn Văn Nội.

------------------------------
 

TN 14-A138: TẤT CẢ HÃY ĐẾN VỚI TA


Tuần 14 TN-A: Mt 11, 25-30

Lm. Jos DĐH, GP. Xuân Lộc
 

Trọng người tài, nể phục người có tâm, có tầm, cẩn thận với kẻ quyền hành, chức tước, ngao ngán TN 14-A138


Trọng người tài, nể phục người có tâm, có tầm, cẩn thận với kẻ quyền hành, chức tước, ngao ngán làm việc với kẻ khờ dại, ắt hẳn thời nào cũng quan niệm như thế. Kẻ có tiền vẽ tiên vẽ phật, người không tiền lật đật mưu sinh. Người khôn ngoan là người nhìn cuộc đời này bằng một con mắt, còn mắt kia họ để nhìn lại chính mình. Cuộc sống sẽ thực sự đáng yêu và đầy ý nghĩa, khi mỗi người biết đặt mình vào vị trí của nhau. Thực ra, trong thâm tâm ai chẳng mơ ước đến một ngày, sẽ tự tin nói: khôn sống, dại sống, biết cũng sống, và sống ngập tràn yêu thương hạnh phúc. Nhiều người cho rằng cuộc đời này đừng có chữ “nếu”, đừng ai sử dụng chữ “tưởng”, sẽ dễ chịu biết bao ! Đức Giêsu từ xa xưa đã cho thấy có sự khác biệt: “lạy Cha là Chúa trời đất, con xưng tụng Cha vì đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn”.

Nếu một ngày nào đó, bạn cảm thấy thật buồn và muốn khóc, hãy gọi cho tôi. Nếu mai này bạn phát hiện ra sự thật: tưởng người hiền triết và khôn ngoan là người luôn thành công; tưởng người giầu chẳng bao giờ phải khóc, nhưng không, giầu nghèo, khôn hay khờ, tất cả đều đáng thương. Kinh nghiệm ở đời cho rằng: ngu ngốc không phải là thất bại, mà là do chưa đủ nhẫn nại để làm lại cuộc đời. Thất bại không phải là ngã, là gục, mà là vì từ chối đứng dậy. Sống trên đời này: tài giỏi, thấp kém, tri thức, bình dân, có, nhưng không ai là vô dụng, chẳng qua là ta đọc sai, chưa đặt đúng vị trí của họ mà thôi. Các đấng bậc rất khôn ngoan khi nói: bạn chưa đến đỉnh cao của thành công, nhưng chắc chắn bạn đã gần “đích điểm” hơn vị trí mà hôm qua bạn sống. Đức Giêsu vẫn đang là Vị Thầy vĩ đại: “tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và ganh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi”.

Tất cả hãy đến với Ta, lời Đức Giêsu mãi mãi là sự thật và là sự sống: “mọi sự đã được Cha trao phó, không ai biết Cha trừ ra Con và không ai biết Con trừ ra Cha và kẻ con muốn mạc khải cho”. Tình yêu vô cùng kỳ diệu, khiến xa lạ trở nên thân quen, không máu mủ ruột thịt bỗng trở thành bạn tri kỷ. Tình yêu có lực hút đặc biệt, đến độ người ta sẵn sàng buông bỏ tất cả để tự nguyện làm môn đệ Đức Giêsu. Tình yêu khai mở được tâm trí của kẻ bé mọn, giúp họ hiểu được mầu nhiệm Nước Trời. Tình yêu có sức biến đổi tâm hồn chai đá trở nên hiền hoà đáng yêu, có khả năng thay đổi tâm tính, giúp người tội lỗi biết sám hối ăn năn. Tất cả hãy đến với Ta, đến để cảm nghiệm Thiên Chúa Đấng giầu lòng xót thương, đến để học hiểu và sống mầu nhiệm yêu thương.

Tất cả hãy đến với Ta, tất cả không phân biệt giầu nghèo, thông thái hay dại khờ, thánh thiện hay tội lỗi, tất cả đều là đối tượng lòng thương xót Chúa. Tất cả những nét đẹp về tinh thần, không thể nhìn rõ, cũng không hề dễ hiểu, mà phải cảm nhận bằng trái tim. Điều đáng ngại nhất không phải là kẻ hiền triết khôn ngoan, hay kẻ hèn mọn, điều đáng sợ nhất cũng không phải là bạn không có thứ gì trong tay, mà là trái tim của bạn không còn tha thiết điều gì nữa. Tất cả hãy đến với Ta, Đức Giêsu gián tiếp nói với nhân loại: con người sinh ra không đơn thuần là để tan biến như hạt cát vô danh, chính xác, được sinh ra là để in dấu lại cho hậu thế, in dấu lại trong trái tim những ai ta gặp gỡ. Đức Giêsu cũng đang nói: mối tương quan đẹp nhất, đáng yêu nhất, là khi tin tưởng, yêu thương, ta sẽ dành những điều vượt lên trên những nhu cầu đòi hỏi từ người anh chị em của ta.

Tất cả mọi người sinh ra không phải là để hưởng thụ, tất cả tự nhiên không ai hoàn hảo, và tất cả dù tài giỏi, khiếm khuyết, đạo đức, tội lỗi, đều được tự do mang vác cuộc đời của mình cậy nhờ Đức Giêsu. Tất cả hãy đến với Ta, những kẻ hèn mọn, thấp kém trong xã hội, họ dễ dàng cảm nhận được tình yêu thương của Chúa Cha, nhưng người hiền triết khôn ngoan họ vẫn là đối tượng lòng thương xót Chúa. Trong tình yêu, các đấng các bậc đã rút tỉa được nhiều điều thú vị: âm thanh đẹp nhất của cuộc sống, không phải là sự ồn ào bên ngoài, mà là tiếng nói sâu thẳm của một người nói yêu một người. Trong muôn vàn những âm thanh phức tạp ở đời, mỗi người đều có giây phút lắng đọng để nghiệm ra: phải duyên phải kiếp thì theo, giầu ăn khó chịu lo gì mà lo.

Triết lý sống của tình yêu và trách nhiệm vẫn đang gõ cửa từng tâm hồn: gà con nói với gà mẹ, mẹ có thể ngưng đẻ trứng một ngày để sớm mai dẫn con đi chơi không ? Gà mẹ trả lời dứt khoát, không được. Gà con lại lý sự tại sao ? Vì mẹ đã đẻ nhiều trứng, đã cống hiến cho chủ nhiều rồi mà ! Gà mẹ giải thích, chính tình yêu và trách nhiệm mách bảo mẹ, bao lâu còn khoẻ, còn có thể mang lại cho chủ những sản phẩm tốt, mẹ vẫn chu toàn. Đức Giêsu cũng nói: hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng…”. Hãy đến với Thầy Giêsu, mỗi người không những vơi nhẹ gánh nặng cuộc đời, tất cả còn hạnh phúc hơn, khi đã cảm nhận giá thật của mầu nhiệm Nước Trời, chính là tình liên đới hiệp thông trong yêu thương. Amen.

------------------------------
 

TN 14-A139: NHÀ CHÚA, KHÓA HỌC CỦA SỰ HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG


Thiên San, MTG. Thủ Đức
 

Sau một ngày vất vả, dường như ai trong chúng ta cũng mong ước được trở về bên tổ ấm gia TN 14-A139


Sau một ngày vất vả, dường như ai trong chúng ta cũng mong ước được trở về bên tổ ấm gia đình, về lại nơi ta được yêu thương, chăm sóc, được nghỉ ngơi. Điều này càng được thể hiện rõ nơi những ai đang được sống trong một mái ấm hạnh phúc. Nhà là nơi đón nhận ta, cưu mang những vui buồn, mệt mỏi, thành công và cả thất bại của ta. Hôm nay, Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta bước vào gia đình của Ngài, nơi ấy ta sẽ được học nơi Ngài sự hiền lành và khiêm nhường, Ngài sẽ cho ta được nghỉ ngơi bồi dưỡng: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt 11, 28-30).

Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa đã đến với con người, chia sẻ, sống kiếp người như ta, Như lời thánh Phao lô đã khẳng định: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.” (Pl 2, 6-7). Quả thực, Ngài có đủ lý do để mời gọi chúng ta đến với Ngài. Những khó khăn, vất vả trên đường đời trở nên những gánh nặng ta phải mang. Có những gánh đè nặng lên đôi vai gầy gò ốm yếu, có những gánh nặng ghì chặt những mảnh đời lầm than vất vưởng. Gánh nặng của cơm áo, gạo tiền; gánh nặng lo cho tương lai con cái; gánh nặng khi lấy phải một người chồng vũ phu, một người vợ cờ bạc… Đức Giêsu mời gọi tất cả chúng ta hãy đến với Ngài. Đến để được nghỉ ngơi bồi dưỡng.

Người sẽ cho ta được nghỉ ngơi, bồi dưỡng như thế nào? Khi mang trong mình những lo toan của cuộc sống, chúng ta ít có được sự bình an. Tâm hồn nặng trĩu, cùng với những điều bất như ý xảy đến khiến ta dễ cáu kỉnh, bực bội, nóng tính. Nếu ai trong chúng ta khi đến với tha nhân cũng mang lấy những tâm trạng này thì thử hỏi điều gì sẽ xảy ra? Dường như chúng ta sẽ chỉ làm tổn thương nhau. Đức Giêsu không chỉ hứa hẹn sự nghỉ ngơi bồi dưỡng cho những ai đến với Ngài mà còn mời gọi họ tham gia một khóa học dài hạn: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.” (Mt 11, 29-30). Hiền hậu và khiêm nhường chính là chìa khóa giải quyết những xung đột, giúp ta xây dựng tương quan với tha nhân. Đặc biệt là giúp ta có được sự bình an.

Để tham gia khóa học này, học viên cần học cách mang lấy ách của Chúa và học với Ngài sự hiền lành và khiêm nhường. Tại sao chúng ta phải mang lấy ách của Ngài? Ách ta mang chưa đủ hay sao mà Ngài còn bắt ta mang thêm ách của Ngài? Phải chăng ách của Chúa là những giới răn của Ngài? Nếu khi ta đang buồn phiền, nóng nảy, chua chát, cau có thì những gì ta mang đến cho người khác chỉ toàn nước mắt. Nhưng khi ta mang ách của Chúa, nghĩa là mang lấy giới răn yêu thương của Ngài để đến với người khác bằng cách đến của Chúa, nhìn người khác với ánh nhìn của Chúa thì chắc chắn yêu thương sẽ được nở hoa trên cuộc đời họ.

Khóa học còn mở ra cho chúng ta cơ hội được học nơi Ngài sự hiền lành và khiêm nhường. Như đã nói ở trên, hiền lành và khêm nhường là chìa khóa hóa giải những xung đột, những tổn thương, giúp ta có được sự bình an trong tâm hồn. Còn gì hơn khi được học nơi Con Một Thiên Chúa sự hiền lành và khiêm nhường. Ngài thật sự khiêm nhường khi chấp nhận trút bỏ vinh quang của Thiên Chúa để mặc lấy thân nô lệ, sống kiếp phàm nhân. Một Thiên Chúa hoàn toàn vì yêu thương mà đến với con người, khiêm tốn sinh ra nơi máng cỏ nghèo hèn, và cuối cùng chết nhục thân trên thánh giá để cứu chuộc con người. Một Thiên Chúa khiêm nhường hơn tất cả. Ngài thật sự hiền lành khi để cho đám đông dân chúng lôi lên tới đỉnh núi để xô xuống vực, Ngài hiền lành khi chấp nhận để cho người ta đánh đòn, đóng đinh vào thập giá. Tất cả chỉ vì yêu thương, để cứu độ con người mà Thiên Chúa đã chấp nhận để con người làm mình “đau”.

Sự hiền lành và khiêm nhường của Thiên Chúa mời gọi chúng ta học cách bỏ mình để nghĩ cho người khác, học cách đến với tha nhân với tình yêu thương. Chúng ta cần học bài học này suốt cả cuộc đời. Khóa học chỉ kết thúc sau khi ta đã nhắm mắt lìa đời. Khi ta học đi học lại, làm đi làm lại bài tập “hiền lành và khiêm nhường” mà Chúa dạy, chắc chắn chúng ta sẽ sống vui hơn, bình an hơn. Chúng ta không chỉ học sự hiền lành và khiêm nhường trên lý thuyết nhưng trên hết chúng ta sẽ được trải nghiệm và sống những gì đã học. Đức Giêsu là một vị Thầy tuyệt vời bởi cả cuộc đời của Ngài nói lên cho ta điều đó. Còn đợi gì nữa, hãy nhanh tay đăng ký và đến với Thầy Giêsu trong khóa học này nhé.

------------------------------
 

TN 14-A140: HÃY ĐẾN VỚI TÔI


Gm Giuse Vũ Văn Thiên
 

Giữa biển đời đầy sóng gió ba đào, lời mời gọi “Hãy đến với Tôi” của Chúa Giêsu giúp chúng ta TN 14-A140


Giữa biển đời đầy sóng gió ba đào, lời mời gọi “Hãy đến với Tôi” của Chúa Giêsu giúp chúng ta vững tin, nhờ đó ta có thêm can đảm nghị lực vươn lên trong cuộc sống. Bởi lẽ, có những lúc chúng ta cảm thấy đang đứng trước ngõ cụt của cuộc đời mà không tìm được lối thoát. Chúa Giêsu chính là niềm hy vọng và yên ủi cho những ai đang đau khổ và bế tắc trên đường đời. Hãy đến với Người. Người đang chờ đợi chúng ta.

Tin Mừng Chúa nhật hôm nay là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha. Không chỉ gồm những tâm tình thân thưa với Chúa Cha, lời cầu nguyện này còn nhằm mạc khải, soi sáng cho các môn đệ về sứ mạng thiên sai của Người. Người từ Chúa Cha mà đến, nên biết rõ Chúa Cha, cũng như biết rõ thánh ý của Ngài. Khi khẳng định những điều này, Chúa Giêsu cũng muốn giúp các môn đệ kiên vững lòng tin, để rồi, những lúc đối diện với khó khăn thử thách, các ông không ngã lòng.

Nếu chúng ta được mời gọi đến với Chúa, là vì trước hết Người đã đến với chúng ta. Lịch sử Cứu độ đã chứng minh Thiên Chúa chủ động đến với con người để can thiệp và giải thoát họ. Cuộc gặp gỡ với ông Môisen trong sách Xuất Hành đã chứng minh điều đó. Chúa nói với ông: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của Dân Ta bên Ai Cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than, vì bọn cai hành hạ. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai Cập, và đưa chúng từ đất ấy lên một miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất tràn trề sữa và mật…” (Xh 3,7-8).

Mầu nhiệm nhập thể của Ngôi Lời là bằng chứng của tình thương Thiên Chúa và việc Ngài chủ động đến với con người. Đức Giêsu khiêm nhường hạ mình mang lấy thân phận con người như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Thiên Chúa không còn chỉ ở trên cao, mà “hạ giới” làm người để gặp gỡ những mảnh đời bất hạnh. Người là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”.

Vì Thiên Chúa hiện diện với chúng ta, nên ngôn sứ Dacaria mời gọi chúng ta hãy vui lên. Ngôn sứ đã nhắc tới hình ảnh rất sinh động và bình dân, đó là các thiếu nữ Sion, trong trang phục truyền thống, múa nhảy reo hò chạy ra đón Đức Vua (Bài đọc I). Đây là ngày hội tưng bừng cho cả toàn dân. Đức tin Kitô giáo phải luôn diễn tả niềm vui và tinh thần của lễ hội, bởi lẽ Chúa hiện diện giữa chúng ta. Đó là niềm vui cao cả và tuyệt vời nhất. Tiếc thay, có nhiều người không cảm nghiệm được niềm vui này, nên cuộc đời của họ luôn âu sầu buồn bã.

Chúa đang hiện giữa giữa chúng ta, và Ngài mời gọi chúng ta đến với Ngài. “Hãy đến với Tôi”. Đó vừa là lời diễn tả sự gần gũi thân tình, vừa là lời khích lệ những ai còn sợ sệt vì thấy mình bất xứng. Lịch sử ghi nhận biết bao người đã đến với Chúa và gánh nặng cuộc đời của họ đã trở nên êm ái nhẹ nhàng hơn. Đến với Chúa, họ vừa được tha thứ tội lỗi, vừa có sức mạnh vươn lên làm lại cuộc đời.

Hãy đến với Chúa để học sự khiêm nhường. Chúa Giêsu là bậc thày. Người dạy chúng ta về sự khiêm nhường. Cuộc đời và giáo huấn của Chúa luôn thể hiện nhân đức khiêm nhường. Vì khiêm nhường mà Chúa đã hạ mình làm người. Vì khiêm nhường mà Chúa đến với mọi người đau khổ. Vì khiêm nhường mà Chúa đã chết trên thập giá. Chúa dạy chúng ta hãy học dưới mái trường của Người, để sống khiêm tốn, hy sinh, vì tha nhân và vì công ích. Sống khiêm nhường hạ mình sẽ giúp chúng ta thanh thản vui tươi hơn, nhờ đó cuộc sống này sẽ tốt đẹp hơn.

«Hãy đến cùng Ta, hỡi tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề !». Chúa Giêsu hiểu thấu những gian truân của thân phận con người. Người muốn đồng hành với họ để nâng đỡ họ trong hành trình trần gian. Khi được thụ giáo tại ngôi trường của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ nên giống như Người đến nỗi trở thành đồng hình đồng dạng với Người. Hãy đến với Chúa Giêsu để được Người giáo huấn và dẫn đưa về cùng Chúa Cha. Bởi lẽ Người từ Chúa Cha mà đến. Người còn là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Đến với Chúa Cha để hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, đó cũng là đích điểm của cuộc sống chúng ta.

Đến với Chúa là một hành trình liên lỉ lâu dài. Trên hành trình này, có những cám dỗ cam go. Thánh Phaolô đã gọi đó là sự giao tranh giữa Thần Khí và tính xác thịt. Ai thiện chí sống theo Thần Khí thì sẽ chiến thắng mọi cám dỗ, trở nên hoàn thiện, diệt trừ được con người ích kỷ, sống đời sống mới trong Chúa Giêsu Kitô (Bài đọc II). Lối sống theo xác thịt luôn mang nhiều màu sắc lấp lánh hấp dẫn. Nó dễ làm cho chúng ta ảo tưởng lầm lạc. Xin Thần Khí Chúa soi sáng và hướng dẫn chúng ta biết khôn ngoan chọn lựa những gì đem lại ích lợi lâu bền, vĩnh cửu. Amen.

------------------------------
 

TN 14-A141: LÀM ĐẸP LÒNG CHÚA CHA


Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi
 

Cả cuộc đời của Chúa Giêsu là một lời cầu nguyện liên lỉ. Thật vậy, đọc Tin mừng của Chúa, chúng TN 14-A141


Cả cuộc đời của Chúa Giêsu là một lời cầu nguyện liên lỉ. Thật vậy, đọc Tin mừng của Chúa, chúng ta thấy Chúa Giêsu cầu nguyện không ngừng. Tuy nhiên, các Sách Tin Mừng đã ghi lại một số lần Chúa cầu nguyện và một số lời cầu nguyện của Chúa. Chúa đã dạy kinh Lạy Cha cho các môn đệ. Hôm nay, trong đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu 11,25-30 cho thấy, đây là một lời cầu nguyện của Chúa Giêsu. Lời cầu nguyện này giống như một lời than thở, nhưng điều cốt lõi Chúa muốn :” tôn vinh Chúa Cha, chúc tụng và cảm tạ Ngài “.

Xuyên suốt Tin Mừng nhất lãm và Tin Mừng của thánh Gioan cho chúng ta ý thức sâu xa : cả cuộc đời dưới thế của Chúa Giêsu là vâng phục thánh ý Chúa Cha, hiếu thảo với Cha và làm theo Chúa Cha. Sự vâng phục của Chúa Giêsu luôn làm hài lòng Chúa Cha. Qua lời cầu này, Chúa Giêsu chỉ rõ chúng nhân loại, cho chúng ta biết Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ, thế giới và dựng nên con người. Ngài là chủ tế thế giới, và vũ trụ, con người. Ngài hoàn toàn tự do, yêu thương.Ngài muốn tỏ ra cho ai là quyền tự do của Ngài. Ngài muốn chọn ai là do sáng kiến của Ngài. Ngài muốn hướng dẫn, chỉ bảo ai điều gì, lúc nào, ở nơi nào là do tình thương vô biên của Ngài.Nhưng, chắc chắn một điều là Ngài không tỏ mình ra cho những con người tự kiêu, tự đại, tự cho mình là khôn ngoan, thông thái vv…theo quan niệm của đời thường, của thế gian mà chỉ tỏ cho những kẻ đơn sơ, nhỏ bé.Bởi vì, Chúa đã cất tiếng nguyện cầu :” Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn “. Chúng ta nhận ra, Chúa Giêsu đã làm đẹp lòng Chúa Cha thế nào khi chính Thiên Chúa Cha đã xác nhận điều đó khi Chúa Giêsu đã nhận phép rửa bởi tay Gioan Baotixita bên dòng sông Giorđăng khi Ngài vừa lện khỏi nước, trên trời, Chúa Cha đã phán :” Đây là con yêu dấu của Ta, đẹp lòng Ta mọi đàng “. Do đó, qua lời cầu nguyện hôm nay, Chúa Giêsu cho biết tại sao mầu nhiệm Nước Trời lại được trao cho những kẻ nhỏ bé, những kẻ khiêm hạ vì “ đó là điều đẹp ý Cha “. Chúa Giêsu muốn cho chúng ta biết những vị lãnh đạo tôn giáo lúc đó, những Pharisêu, những Biêt phái, Luật sĩ là những người cho mình là biết rõ Lề luật, thấu đáo Kinh Thánh, tuy nhiên họ đã không đón nhận Lời Chúa, không nhận ra Chúa là ai và cũng hoàn toàn mù tịt về Nước Trời. Họ đã không được diễm phúc Chúa mặc khải những điều tốt lành, những bí nhiệm của Nước Trời cho họ…Như vậy, Chúa nhắc bảo mọi người, nhắc bảo riêng chúng ta, nếu chúng ta muốn vào Nước Trời hay muốn được Chúa Mặc khải Nước Trời, chúng ta phải sống hiền lành, đơn sơ và khiêm tốn. Bên cạnh việc loan báo Tin Mừng, rao giảng Nước Trời, một trong những điều mà Chúa Giêsu đã làm để sống đẹp lòng Thiên Chúa, là sống hiền lành, khiêm nhượng, yêu thương. Các Sách Tin Mừng thuật lại Chúa Giêsu đến với mọi lớp người, mọi hạng người, lo lắng, an ủi, chữa lành, cảm thông với từng lớp người, đặc biệt những người mang gánh nặng nề, bệnh hoạn, tật nguyền, đau khổ, bị thử thách, yếu đuối, hèn kém, bị xã hội bỏ rơi vv…

Chúng ta được Chúa mời gọi làm môn đệ của Ngài. Chúng ta hãy noi gương, bắt chước Ngài sống khiêm nhường, phó thác, lo lắng, chia sẻ, ủi an, cảm thông, giúp đỡ mọi người, đặc biệt những người bé mọn, thấp cổ bé họng, những người bị loại trừ, những người đau khổ, tật nguyền, lao đao, vất vả. Chúa đã đồng hóa với tất cả những kẻ nhỏ bé đó. Đây chính là những của lễ chân thành làm đẹp lòng Chúa nhất.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã trút bỏ mình ra không, chuốc lấy tội lỗi của nhân loại để cứu rỗi và độ trì tất cả. Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng cxon để chúng con biết noi gương bắt chước Chúa mà sống phó thác tốt lành, để mọi người khi gặp gỡ chúng con, họ nhận ra ngay Chúa đang hiện diện nơi chúng con.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Cả cuộc đời của Chúa Giêsu là gì ?
2.Kẻ bé mọn là gì ?
3.Biệt phài, Luật sĩ và Pharisêu được liệt vào hạng người nào ?
4.Ai đã mặc khải Nước Trời cho những kẻ bé mọn ?
5.Chúa Giêsu đã đồng hóa với ai ?

------------------------------
 

TN 14-A142: HÃY NÊN BÉ MỌN


Lm JB Nguyễn Minh Hùng

“Con ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho những người khôn ngoan và thông thái biết, Cha lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy” (Mt 11, 25).
 

Trong lời cầu nguyện của mình, Chúa Giêsu nhắc đến những người “bé mọn”. Người “bé mọn” TN 14-A142


Trong lời cầu nguyện của mình, Chúa Giêsu nhắc đến những người “bé mọn”. Người “bé mọn” là ai mà lại được Cha yêu thương tỏ mình để mạc khải cho họ? Họ chính là người nghèo của Chúa. Họ là những người nhiệt thành đi tìm Chúa. Họ thấy mình cần Chúa, ước mong được Chúa ngự vào tâm tư mình.

Vì thế, cái “bé mọn” mà Chúa ưu tiên tỏ mình không chỉ là nghèo vật chất, thiếu thốn cái ăn, cái mặc, mà còn bao gồm nhiều thái độ sống tốt như: sống siêu thoát trước vật chất, khước từ sự tham lam vật chất, khiêm nhường, đói tình thương, thiếu thốn đời sống tinh thần, bị cướp bóc văn hóa, bị tước đoạt từ vật chất, tình yêu đến nội tâm… Đúng hơn, họ là những người bé mọn trước thế gian, nhưng lớn lao trước Chúa.

Nếu người bé mọn trước thế gian được Chúa yêu thương mạc khải cho, thì ngược lại, người không bé mọn – họ được Chúa Giêsu gọi là “người khôn ngoan và thông thái” – sẽ xa Chúa diệu vợi. Nói nặng hơn, họ sẽ đui mù trước Chúa, bởi bị Chúa “che giấu” mầu nhiệm bản thân Người. Bằng câu chuyện cụ thể sau đây, ta có thể hiểu “người khôn ngoan và thông thái” mà Chúa Giêsu nói đến là ai.
Người đàn ông đến xin cho con trai ông được rước lễ trọng thể, nhân dịp giáo xứ chúng tôi tổ chức rước lễ trọng thể vào một ngày giữa tháng 7, dù con ông đang học giáo lý ở một giáo xứ khác. Tôi đồng ý với điều kiện, cha xứ, nơi mà em đang học giáo lý cho phép.

Nếu chuyện chỉ có thế thì không còn gì đáng nói. Nhưng lần thứ hai, đến gặp tôi, ông cho biết, con ông học trường tư, nội trú, có tiếng là nghiêm khắc trong vấn đề kỷ luật và học tập. Đầu tháng 7, con ông tựu trường để vào lớp 12.

Bình thường, trường đã nghiêm khắc. Bây giờ lên lớp 12, chắc chắn trường sẽ còn nghiêm khắc hơn. Con ông không dám và cũng không được phép nghỉ học bất cứ ngày nào. Trong khi tuần đầu của tháng 7 là tuần các em chuẩn bị rước lễ trọng thể ở giáo xứ chúng tôi tĩnh tâm. Nhưng vì luật của nhà trường như thế, người đàn ông đòi tôi phải cho em khỏi tĩnh tâm, và vẫn cho phép em cùng được rước lễ chung với các học viên khác.

Nghe xong câu chuyện, tôi buồn, thở hắt ra mà không biết phải nói lời nào. Chọn lựa của người Công Giáo thời nay là như thế sao: Sự học hành thay Thiên Chúa. Kiến thức ở đời thay lý lẽ đức tin. Giá trị trần thế thay giá trị Nước Trời. Cái chóng qua thay cho vĩnh cửu. Kiến thức đức tin bị đạp xuống hàng thứ yếu, đẩy kiến thức học vấn của đời tạm bợ vượt lên hàng chủ yếu.

Kiến thức đức tin là đường lối của Thiên Chúa, là phương hướng dẫn con người đến gặp chính Thiên Chúa, lại bị đạp xuống hàng thứ yếu, có khác gì Thiên Chúa đã bị người ta đẩy xuống để cuộc đời vượt lên! Hóa ra đời mới là “Thiên Chúa” của họ, còn Thiên Chúa lại bị họ biến thành một thứ xa xí phẩm nào đó, có cũng được, không có cũng không sao. Mà kẻ loại chính Thiên Chúa không ai khác hơn là chính con cái trong nhà, là người Công Giáo chính hiệu, là chính con Thiên Chúa.

Đáng thương cho lối suy nghĩ nông nổi dẫn đến cả một quyết định, cả một chọn lựa sai lầm lớn không thể nói hết. Người ta chấp nhận hình thức và sẵn sàng phục vụ thứ hình thức ấy một cách giả trá thay cho thực chất, thay cho lòng yêu mến Chúa thật. Chỉ cần đánh lừa lương tâm rằng, con tôi đã lãnh bí tích rồi, thế là đủ, chẳng cần để ý đến việc nó có hiểu biết gì về bí tích mà nó lãnh nhận hay không.

Người đàn ông trong câu chuyện bên trên muốn trang bị cho con của ông giàu có về sự học hành, lớn lao về đường công danh, bảo đảm cho tương lai đời nó.

Khi trang bị cho con mình, ông cũng đồng thời nghĩ tới ông, nghĩ tới gia đình ông bằng một giấc mơ thiên đàng trần thế về danh giá ở đời, về sự nổi nang, ngưỡng mộ trong ánh mắt mọi người xung quanh.

Nhưng ông lầm. Tìm kiếm thông thái và khôn ngoan trần thế mà không tháp nhập trần thế vào sự cứu độ siêu nhiên, ông có thể tìm được thành công trần thế, nhưng chắc chắn đời đời vắng bóng siêu nhiên.

Chỉ trong sự cứu độ siêu nhiên của Chúa, người ta mới đạt tới vĩnh cửu. Vì thế, nếu chỉ tìm kiếm trần thế, đó là sự đánh cắp đời mình, cắt đứt vĩnh cửu. Cắt đứt vĩnh cửu là làm ngắn đời mình.

Chính ông đã tự gieo, cũng như đã gieo vào tâm tư của con ông lối suy nghĩ, lối sống làm ngắn đời mình. Ông đã đánh cắp đời mình đã vậy, lại còn đánh cắp đời con của ông. Nguy hiểm hơn khi sự đánh cắp này có dấu hiệu “di truyền”.

Không biết có bi quan lắm không, nếu nói rằng, một khi con ông “thừa hưởng” thái độ đánh cắp ấy của ông, thì nó sẽ còn bao nhiêu lần đánh cắp như thế đến bao nhiêu thế hệ con người! Siêu nhiên mà vắng bóng, vĩnh cửu mà bị đánh mất, Thiên Chúa bị đẩy xa đời người, thông thái và khôn ngoan vẫn cứ là dốt nát.

Qua lời cầu nguyện cùng Chúa Cha, “Con ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho những người khôn ngoan và thông thái biết, Cha lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy”, Chúa Giêsu dạy ta phải có thái độ phó thác tuyệt đối của một người có tinh thần nghèo khó trọn vẹn.

Chỉ có trong ta tinh thần của một người nghèo, ta mới thấy mình chẳng là gì, chẳng có gì. Tất cả là bởi Chúa, phát xuất từ Chúa. Đối với Kitô hữu, chúng ta cần biết rằng, chính bản thân ta cũng chỉ là bụi đất, rồi sẽ trở về bụi đất. Tất cả những hy vọng, những tìm kiếm, những bươn chãi, những tranh giành, những vất vả, những hao mòn lặn lội mới có trong cuộc đời này… đều chỉ là hư không, tất cả chỉ là một trò ảo thuật.

Ta không là chủ đời mình, càng không bao giờ là chủ những gì mình tạo ra. Cùng với sự tắt thở của thân xác, ngay lập tức, ta trở nên thối rữa, nhơ nhớp. Vì thế, Chúa Giêsu dạy ta phải có thái độ phó thác tuyệt đối cho Chúa như một người bé mọn, chẳng có gì.

Phó thác tuyệt đối cho Chúa là làm giàu Thiên Chúa cho đời mình. Thiên Chúa là Vĩnh Cửu. Ai làm giàu Thiên Chúa, người đó bước vào vĩnh cửu. Vì thế, chỉ những ai biết làm giàu Thiên Chúa cho đời mình mới là người thật sự khôn ngoan.

Cuộc đời mà ta đồng hành với nó, chỉ là người bạn bạc bẽo. Lẽ nào ta chọn sự bạc bẽo làm chúa thay Thiên Chúa đầy lòng xót thương, Đấng mà ta phải tôn thờ suốt đời!

Đừng quên rằng, những người chỉ biết tìm kiếm sự thông thái, tìm kiếm khôn ngoan trần thế sẽ bị Chúa che giấu. Họ chỉ là những kẻ dại khờ, đui mù trước Chúa.

Chúa chỉ mạc khải chính Chúa cho những người bé mọn. Đó là những người nghèo khó thật sự, là những người phó thác trọn đời mình trong tay Chúa thực sự.

Lạy Thiên Chúa là Cha chúng con. Chúng con xin lặp lại chính lời cầu nguyện của Chúa Giêsu mà Vinh danh Cha rằng: Chúng con ngợi khen Cha vì Cha đã giấu không cho những người khôn ngoan và thông thái biết, Cha lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy, nên suốt đời, chúng con nguyện trở thành người nghèo của Cha, và là người bé mọn trong Nước Cha, biết phó thác đời mình trong tay Cha. Xin dẫn dắt chúng con đi tới, để chúng con hạnh phúc mãi mãi vì được ở trong nhà Cha.

------------------------------
 

TN 14-A143: GÁNH NẶNG


Lm. Trần Việt Hùng
 

Lạy Cha là Chúa muôn loài, Khôn ngoan tuyệt đối, thiên oai diệu vời. Con người thụ tạo trong TN 14-A143


Lạy Cha là Chúa muôn loài,
Khôn ngoan tuyệt đối, thiên oai diệu vời.
Con người thụ tạo trong đời,
Thông minh hiền triết, một thời thoáng qua.
Kiêu căng tự phụ điêu ngoa,
Trí tâm chẳng thấu, nhiều khoa ở đời.
Chúa thương ban xuống Ngôi Lời,
Vén màn mạc khải, cho người trần gian.
Những ai bé mọn tâm can,
Tinh thần thanh thản, Chúa ban dư đầy.
Cha ban mọi sự trong Thầy,
Những ai khó nhọc, kéo cầy khổ thân,
Trên đời gánh nặng nợ nần,
Ủi an nâng đỡ, chia phần lắng lo.
Hãy mang lấy ách nhỏ to,
Bước theo học hỏi, Thầy trò có nhau.
Nhẹ vơi thánh giá qua mau,
Hiền lành khiêm nhượng, nỗi đau xóa nhòa.
An bình phúc lộc chan hòa,
Nhẹ nhàng êm ái, thiên tòa rạng khơi.

Chúa Giêsu phán: “Hãy đến cùng Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi”. Ai trong chúng ta cũng đã trải qua những kinh nghiệm khó khăn trong cuộc sống. Những trải nghiệm đau thương nơi chính bản thân mình hoặc những người thân trong gia đình. Cảm nghiệm về con cái hư hỏng, về công ăn việc làm, về sự nghiện ngập, về sự chia ly, về thất vọng, về tình yêu, về bệnh hoạn tật nguyền hoặc những lo toan khác trong cuộc sống.

Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu giới thiệu Ngài như người bạn tốt kêu mời chúng ta đến với Ngài để tìm nguồn an ủi. Chúa mời chúng ta đặt niềm tin tưởng nơi Chúa như con trẻ đặt trọn niềm tin trong vòng tay người cha, người mẹ. Như khi còn bé nhỏ, chúng ta đặt trọn niềm tin tưởng vào sự bảo trợ của cha mẹ. Quan sát một em nhỏ, khi thấy chó sủa hoặc gặp nguy hiểm, em chạy tới bố mẹ để được bảo vệ và em cảm thấy an toàn trong vòng tay của mẹ cha.

Hiền lành trong khiêm nhượng là đức tính tốt. Nhớ câu truyện của Thomas Edison, thuở nhỏ ông học kém. Một ngày nọ, thầy giáo gởi giấy về cho bà mẹ, nói rằng em nhỏ bị nghễnh ngãng. Bà hãy đem con về nhà vì nó học qúa dốt không thể dạy. Bà kiên nhẫn bắt đầu dạy con. Cậu dần lớn khôn và về sau đã để lại cho hậu thế một phát minh vĩ đại mà mọi người đều mắc nợ. Thomas Edison đã phát minh ra máy chụp những hình ảnh di động, thu băng và bóng điện. Khi ông chết, cả nước Hoa Kỳ đã tắt hệ thống điện trong vòng một phút để tưởng nhớ ông.

Hãy đến với Chúa vì Chúa hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Sự hiền lành không phải là sự yếu ớt và thua kém. Sự dịu hiền chính là sức mạnh để thuyết phục. Chúa hiền lành trong lời nói, trong cách cư xử và hiền lành sự phán đoán. Nhiều câu truyện trong Phúc âm phản cách tư cách nhân hậu của Chúa. Đối với người đàn bà bị bắt qủa tang phạm tội ngoại tình, Chúa bênh đỡ và tha thứ. Với đứa con hoang đàng, Chúa đón nhận trở về với nụ hôn nồng ấm.

Hãy chạy đến với Chúa để trút gánh nặng và chúng ta sẽ tìm được sự nâng đỡ bổ sức. Chúa sẽ bổ sức cho chúng ta qua Lời của Ngài, qua các Bí Tích, qua chính Bí tích Thánh Thể. Chúa sẽ dẫn chúng ta tới nguồn nước chỗ nghỉ ngơi và bồi dưỡng tâm hồn chúng ta. Đừng ngại đến với Chúa để tìm nguồn  ủi an, Chúa sẽ chẳng bỏ rơi chúng ta.

------------------------------
 

TN 14-A144: SỰ THÁCH ĐỐ CỦA ĐỨC TIN


P. Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn,
 

Bạo lực là một sự “cuồng phong” của sự dữ, nó hất tung tất cả những gì nó muốn, bất chấp những TN 14-A144


Bạo lực là một sự “cuồng phong” của sự dữ, nó hất tung tất cả những gì nó muốn, bất chấp những định luật, hệ lụy, thường dấy lên bởi sự đối kháng, những tư tưởng ngạo mạn , bất chấp luân lý, đạo đức, tức tình người, nhân tính, chỉ biết trục lợi để thỏa mãn tham vọng ngông cuồng. Mặc nhiên, bạo lực là động cơ của satan, luôn chống lại sự thiện hảo.

Như vậy, bao lực là một chướng ngại vật trên hành trinh tiến về Nước Trời, là điều đối nghịch với Đức Tin Công giáo.

Mấy ngày qua, Đan viện Thiên An Huế dường như suy kiệt với sự đương đầu với nạn “bạo lực”, mà dường như chính quyền làm ngơ. Đây không phải vấn đề của riêng ai, mà là tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội bị “thui chột”. Chính quyền nắm quyền phải tuân thủ luật pháp, như vậy mới bảo toàn an ninh Quốc Gia, người dân mới chấp hành trong tuân phục. Các đan sĩ là những người tu hành, họ kế thừa những gì tiền nhân để lại, có trách nhiệm bảo quản tài sản là đất đai, chính phủ có trách nhiệm tôn trọng và công nhận những gì là tài sản của họ . Họ là những người đang ngày đêm làm lợi cho xã hội, vì họ là người của Giáo Hội. Đất đai của họ là mồ hôi, công sức được gây dựng từ bao đời tu sĩ, chứ không nghiễm nhiên một sớm một chiều mà có được. Họ là những công dân lao động cần cù, đối với giáo hội , họ cầu nguyện là lao động tâm linh, mài dũa đức tin hằng ngày, mặc nhiên họ sống thành cộng đoàn để cầu nguyện và làm việc thiện. Đối với xã hội công việc lao động hằng ngày của họ cũng góp phần làm cho bộ mặt xã hội mỗi ngày tốt đẹp hơn.

Thiết nghĩ, phần đất mà họ đành “ngậm ngùi” dâng hiến trong sự cưỡng chế cho chính quyền gần ½ tổng số đất đai của họ. (50/107 mẫu tây đất ). Trước đây là rừng, họ là những người đầu tiên trồng bạch đàn, tức cây khuynh diệp, gọi là cây tràm, cây để chế ra dầu tràm. Những cây nầy là chứng tích của phần đất đai mà họ đã mua và sử dụng cho đến ngày nay. Nếu nói là cư dân trong vùng đồi Thiên An, thì họ là những người tiên phong, thì tại sao bây giờ vu không cho họ là “chiếm đất” của người dân. Trong vùng núi rừng ấy, cách đây trăm năm làm gì có người ở.

Từ đó, cho thấy đất đai theo Bộ Luật Dân Sự của Việt Nam, thì gọi là “sở hữu toàn dân”, như vậy là bất hợp lý. Vì họ, tu sĩ Thiên An là một cộng đoàn tu trì hợp pháp, thì mặc nhiên, họ cũng là công dân, quyền sở hữu của họ bị xâm chiếm, lập tức chính quyền phải bảo vệ, có đâu để xảy ra 150 người kéo vào đánh đập tu sĩ, nếu ai đúng, ai sai lập tức phải được chính quyền xử lý, không thể có chuyện” MẠNH ĐƯỢC YẾU THUA”, như một cuộc xâm lược của ngoại bang.

150 người kéo vào Đan Viện đánh người là phi pháp, bất kể là ai, làm gi ? Lập tức phải khởi tố và truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu họ là” thường dân” , thì họ phải có tôn giáo của họ, nếu họ là ”cán bộ” thì họ càng phải chịu xử lý đúng mức, như vậy mới gọi là “ sống và làm việc theo hiến Pháp và pháp luật”.

Theo đó, không thể vu khống cho tu sĩ của Đan Viện đi chiếm đất của ai, bởi vì tổng điện tích đất của đan viện là 170 mẫu tây, nhưng đã “ngậm ngùi” chịu mất 50 mẫu tây, trong khi đó với lực lượng và phương tiện, thì các đan sĩ không thể làm cái chuyện “ châu chấu đá xe”. Những người sống đời tu sĩ trong các Đan Viện, đặc biệt là Đan Viện Thiên An, chính là những con người sống lý tưởng “XÃ HỘI CHỦ NGHĨA”  nhất,bởi vì, họ sống cho cộng đoàn và vì cộng đoàn nhất. Vì một cộng đoàn tu trì nào cũng góp phần làm nên một “ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI” , nếu đổi lại, như họ không đi tu, mà trở thành  những “tên cướp “ thì thật bất hạnh cho xã hội biết bao! Một xã hội có dân chủ, Đất Nước có chủ quyền thì tại sao lại có chuyện 150 vi phạm pháp luật như vậy. Vì Luật Cư Trú có ghi : “kẻ nào vào nhà người khác, mà không được sự đồng ý của họ ( chủ nhà) thì vi phạm pháp luật”. Theo đó, nếu 150 người kia là tu sĩ, thì chắc chắn họ không hành động như vậy. Vì vậy, 150 người không phải là tu sĩ, thì gây nguy hiểm cho xã hội biết bao !

Trở lại Trang Tin Mừng hôm nay, (Mt 11, 25 -30), chúng ta thấy Lời Giáo Huấn của Chúa Giêsu quả là “Lời Thách đố cho Đức Tin Công giáo”. Vì, Chúa nói :” Anh em hãy mang lấy ách của Tôi, và học cùng Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghĩ ngơi bồi dưỡng. Vì ách Tôi êm ái, và gánh Tôi nhẹ nhàng” ( c 29 -30).

Như vậy, nỗi oan trái mà cộng đoàn đan sĩ Đan Viện Thiên An Huế gánh chịu trong mấy ngày vừa qua và còn kéo dài nữa là một sự thách đố đối với Đức Tin Công giáo.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con học cùng Chúa, vì Chúa Hiền hậu và khiêm nhường. Trước những bất công của xã hội, những người bước theo Chúa ngày càng cố gắng xây dựng, nhưng, nếu cứ lui bước trước sự tấn công của sự dữ, thì cộng đoàn đan sĩ Đan viện Thiên An, sẽ trở nên một cộng đoàn khất thực đúng nghĩa, vì nếu tu mà không còn phương tiện mưu sinh, thì làm sao tồn tại. Xin Chúa thương ban cho cộng đoàn Đan Viện Thiên An một giải pháp hữu lý của Chúa, để ngõ hầu họ được tồn tại trong tình yêu của Chúa, hầu phụng thờ Ngài trong ơn gọi Đan Tu Biển Đức Thiên An./. Amen

Qua phần chia sẻ lời Chúa hôm nay, xin hiệp thông cầu nguyện cho những ai đang gặp hoạn nạn.

------------------------------
 

TN 14-A145: HỌC CÙNG GIÊSU


Bông hồng nhỏ
 

Hiểu về cha, đó là mong ước của người làm con. Con được cha hiểu cũng là một hạnh phúc lớn TN 14-A145


Hiểu về cha, đó là mong ước của người làm con. Con được cha hiểu cũng là một hạnh phúc lớn lao. Cha con hiểu nhau cuộc sống sẽ thuận hòa và ngập tràn hạnh phúc. Có những bất đồng trong quan hệ cha con làm cho tình cha con bị rạn nứt, tạo nên một khoảng cách vô hình khiến cha và con không thể xích lại gần nhau được.

Hiểu để yêu mến, đó là điều rất cần thiết trong bất kỳ mối quan hệ  nào. Có một mối tình phụ tử tuyệt đẹp, là khuôn mẫu cho mọi thời đại, đó là tình yêu Chúa Cha dành cho Chúa Con và Chúa Con dành cho Chúa Cha. Chúa Giêsu mặc khải về Chúa Cha cách trọn vẹn: Một Thiên Chúa giàu lòng xót thương. “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi.” ( Mt 11, 27). Giêsu hiểu và yêu Cha, Ngài thực hiện công trình Cha trao, “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự.” ( Pl 2, 8). Chúa Giêsu đọc ý Chúa Cha, hiểu Cha và yêu Cha hết lòng. Khi nhìn ngắm mẫu gương của Giêsu, ta học hỏi được điều gì? Đâu là điều đẹp ý Chúa Cha, chúng ta hãy mau mắn thực hiện. Ta tự hỏi mình rằng: Tôi có khao khát đọc được ý Chúa trong chính cuộc sống của mình không? Đâu là những chạm nhẹ của Thiên Chúa trên cuộc đời tôi? Giêsu mời gọi: “Hãy đến cùng tôi…”. Ta có hồ hởi và hăng say đến bên Giêsu? Chính lúc Giêsu đi bước trước để đến với ta, ta có tỏ ra hiếu khách với Giêsu hay xem Giêsu như người khách lạ mà thờ ơ? Chúa Giêsu ngợi khen Chúa Cha về những điều mà Cha đã mặc khải cho những người bé mọn. Hãy trở thành những người bé mọn trước mặt Thiên Chúa để xứng đáng lãnh nhận mặc khải từ Trời Cao. Thiên Chúa vẫn mặc khải cho những người bé mọn mỗi ngày.

Giêsu luôn mời gọi ta tha thiết: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.” Học nơi Giêsu sự hiền lành và khiêm nhường: một Thiên Chúa nhập thể, Hài nhi Giêsu nhỏ bé và đơn sơ trong máng cỏ, một Giêsu sống cuộc đời ẩn dật suốt ba mươi năm, một Giêsu miệt mài rao giảng và động lòng thương “bầy chiên không người chăn dắt”, không ngừng trao ban tình thương, và một Giêsu hiến mình trên thập giá, khiêm cung trong Thánh Thể tình yêu. Ta không hiểu thấu được vì sao Giêsu có thể im lặng khi bị phường tội lỗi kết án, sỉ vả và vu khống đủ điều xấu xa; dù bị con người đóng đinh trên thập giá cách nhục nhã nhưng Giêsu vẫn khẩn nài cùng Thiên Chúa cho họ: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ lầm chẳng biết.” (Lc 23, 34). Yêu  rồi thì sẽ tin. Giêsu sẽ dạy ta yêu như Ngài đã yêu. Ngài vẫn ở cùng ta mọi ngày cho đến tận thế. Dù ta lỗi tội và bất trung, Ngài vẫn trao ban một tình yêu nhưng không, luôn khát mong ta trở về. Ta đến cùng Giêsu và học cùng Giêsu với thái độ nào? Học cùng Giêsu trong chính tương quan của ta với Thiên Chúa, giữa ta với tha nhân và sau cùng là ta với chính mình. Khi đã được ơn hiểu biết về Thiên Chúa (dù chỉ là một phần nhỏ bé), hiểu về chính mình và hiểu tha nhân để ta bước vào đời với con tim mang nhịp đập của Giêsu. Đâu là những gánh nặng ta đang mang và đâu là những nhọc nhằn đời ta phải chịu? Hãy đến bên Giêsu và mang lấy ách của Giêsu, cái ách của tình yêu để khi yêu rồi, ta sẽ theo Ngài trên con đường Ngài đi. Kề bên lòng Chúa, hồn ta sẽ được nghỉ ngơi và bồi dưỡng.

Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu! Nguyện xin Chúa ban cho chúng con lòng yêu mến để khi đến với Chúa, chúng con học sự hiền lành và khiêm nhường theo gương Giêsu, Đấng đã đến và ở cùng chúng con. Đến với Chúa, chúng con được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Mọi nhọc nhằn và gánh nặng của cuộc sống sẽ qua đi và chúng con sẽ được ở bên Chúa mãi, chẳng bao giờ Chúa bỏ chúng con mồ côi. Amen.

------------------------------
 

TN 14-A146: NƯƠNG TỰA BÊN CHÚA


Anna Cỏ may
 

Cuộc đời của mỗi người đâu có ai muốn vất vả, đau khổ và bệnh tật, nhưng cái gì đến thì cứ TN 14-A146


Cuộc đời của mỗi người đâu có ai muốn vất vả, đau khổ và bệnh tật, nhưng cái gì đến thì cứ đến, không ai tránh khỏi. Có người vất vả với gia đình, công việc; có người đau khổ với thể xác và tinh thần… Trong lúc như vậy, ai cũng mong có một người chia sẻ hay cùng chung vai gánh vác trách nhiệm. Vợ chồng san sẻ cho nhau, bạn bè giúp đỡ nhau trong học tập, đồng nghiệp cùng hợp tác với nhau. Chúa Giêsu cũng đang cùng chia sẻ với mọi người: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.” (Mt 11, 28).

Đám đông dân chúng đã nhịn ăn ba ngày, họ đang đói. Đứng trước cảnh tượng ấy, Chúa Giêsu đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho họ no nê. Chúa Giêsu là một nhà tâm lý, là thầy thuốc và là Đấng nuôi dưỡng linh hồn. Lời Ngài mời gọi thiết tha: “Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng.” (Mt 11, 29). Chúng ta hãy quyết tâm và tự do đem tất cả sự vất vả của thể xác và gánh nặng nề của tâm hồn đến với Ngài. Ngài sẽ cho chúng ta nghỉ ngơi bồi dưỡng thỏa thuê. Chúng ta đã chẳng biết Ngài có một tâm hồn hiền hậu và khiêm nhường đó sao? Ngài là nguồn suối mát, là đồng cỏ xanh ngát, ở bên Ngài chúng ta được tràn đầy bình an và hạnh phúc.

Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt đẹp về sự tín thác vào tình thương của Chúa Cha. Ngài đã dâng lên Chúa Cha sự đau khổ, lo lắng và sợ hãi. Ngay trong vườn Giệtsêmani, Ngài đã sấp mặt xuống cầu nguyện cùng Chúa Cha rằng: “Lạy Cha nếu có thể được, xin cho Con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý Con mà theo ý Cha.” (Mt 26, 39). Chúa Giêsu cầu nguyện tha thiết cùng Cha, Ngài dâng cả trái tim, tâm hồn lên Cha. Nhờ vậy, Ngài đã đi trọn con đường cứu độ. Chúng ta hãy bắt chước và đến cùng Giêsu để được Ngài dạy dỗ. Ngài luôn mời gọi chúng ta mỗi ngày. Chúng ta hãy mau mắn để đến bên Ngài mà nghỉ ngơi bồi dưỡng, được tràn đầy tình yêu và ân sủng.

Ngoài ra, trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn cho chúng ta thấy trình tự như một giờ cầu nguyện. Đầu tiên, Ngài cất lời ngợi khen Chúa Cha. Tiếp đến, Ngài đón nhận hồng ân từ Chúa Cha. “Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi.” (Mt 11, 27). Từ hồng ân ấy, Ngài chia sẻ cho mọi người, cho tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề. Đó có thể là một cách để cho chúng ta cầu nguyện mỗi ngày cùng Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu! Chúng con là những người bất toàn, yếu đuối. Chúng con luôn sống trong sự lo toan cuộc sống. Xin cho chúng con biết đem tất cả sự lo lắng và gánh nặng của mình đến với Ngài, dâng cho Ngài, nhờ đó chúng con được hưởng niềm vui hoan lạc bên Chúa. Amen.

------------------------------
 

TN 14-A147: HÃY TỰ MANG LẤY “ÁCH” VÀ “GÁNH” CỦA MÌNH


JM. Lam Thy
 

Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật Lời Đức Giê-su kêu gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang TN 14-A147


Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật Lời Đức Giê-su kêu gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng.” (Mt 11, 28-30). Theo từ nguyên thì “ách” có 3 nghĩa: *1- Đoạn gỗ cong mắc lên cổ con vật (trâu, bò, ngựa…), để buộc dây kéo xe, cày, bừa (vd: bắc ách, quàng ách vào cổ trâu, tháo ách); *2- Gông cùm, xiềng xích (vd: ách áp bức, ách đô hộ, ách kìm kẹp); *3- Tai hoạ, việc rắc rối phải gánh chịu (vd: “ách giữa đàng quàng vào cổ” (tục ngữ); ách giặc giã cướp bóc). Cả 3 nghĩa đều nói lên “ách” là một ép buộc, một tai họa từ bên ngoài đưa tới, chẳng ai muốn gánh chịu. Như vậy, Lời dạy của Đức Giê-su “ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” thì có gì là mâu thuẫn không?

Nếu tỉ mỉ tìm hiểu những Lời của Đức Giê-su mời gọi mọi người đến và đi theo Người, thì sẽ thấy tất cả đều khác hẳn (nếu không muốn nói là mâu thuẫn) với lời mời gọi nêu trên. Thật thế, Đức Giê-su thường răn dạy các môn đệ: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.” (Mt 11, 38-39) ; “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16, 24); “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” (Mt 19, 21)… Đi theo Đức Giê-su phải sống và thực hành Lời dạy của Người như nêu trên, vậy mà gọi là “ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” được sao? Một vấn nạn nảy sinh: Chúa dạy “ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” thế thì tại sao Chúa vác thập giá của Chúa (cái ách, cái gánh của bản thân), sao lại nặng nề quá như vậy, nặng đến độ ngã xuống đất 3 lần, phải nhờ Si-mon vác đỡ? 

Vấn đề đặt ra là phải hiểu cây thập giá ấy do đâu mà có? Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật, chẳng chút bợn nhơ, nhưng vì vâng lệnh Chúa Cha, Người xuống trần mặc lấy thân xác yếu hèn của phàm nhân, gánh lấy tội lỗi loài người để cứu độ nhân loại; Người “đã làm việc bằng đôi bàn tay của con người, đã suy nghĩ với trí thông minh của con người, đã hành động với ý chí của con người, đã yêu thương với trái tim của con người.” (Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội “Gaudium et Spes”, số 22). Vì thế nên với thân xác phàm nhân ấy, Người đã vác cây thập-giá-tội-lỗi-loài-người quá sức nặng nề đến nỗi phải quỵ ngã ba lần. Thập giá ấy không phải của Chúa, mà là của loài người đã chất lên vai Chúa; nên khi Người nói “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” là Người muốn dạy người tín hữu hãy tự gánh lấy tội lỗi của bản thân (thập giá của mình) – nói cách khác là nhìn lại mình mà ăn năn sám hối tội lỗi đã mắc phạm – kiên quyết đi theo con đường Thập-tự-Giêsu, thì sẽ được cứu rỗi (“nghỉ ngơi bồi dưỡng”). Lời mời gọi chân tình đó chính là “ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng” vậy. 

Sở dĩ Chúa dạy như vậy, vì Nguời biết rõ tính xác thịt của con người rất là nặng nề, nặng nề nhưng lại quyến rũ hơn cả tinh thần hướng thượng (“thân xác dễ hư nát này khiến linh hồn ra nặng, cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống.” – Kn 9, 15). Con người không những đã chiều theo tính xác thịt, mà còn viện dẫn trăm ngàn lý do để bào chữa cho những hành vi mang tính xác thịt đó. Thánh Phao-lô đã cảnh báo: “Những ai sống theo tính xác thịt, thì hướng về những gì thuộc tính xác thịt; còn những ai sống theo Thần Khí, thì hướng về những gì thuộc Thần Khí. Hướng đi của tính xác thịt là sự chết, còn hướng đi của Thần Khí là sự sống và bình an.” (Rm 8, 5-6). Quả thật, theo Thầy thì rất muốn theo Thầy, nhưng bảo phải vác thập giá mình mà theo thì lại… buồn rầu bỏ đi một nước (giống hệt anh chàng thanh niên giàu có muốn theo Thầy Chí Thánh – Mt 19, 16-22).

Rõ ràng “Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ, đó là: dâm bôn, ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hoà, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác giống như vậy.” (Gl 5, 19-21), nên “hướng đi của tính xác thịt là sự phản nghịch cùng Thiên Chúa, vì tính xác thịt không phục tùng luật của Thiên Chúa, mà cũng không thể phục tùng được.” (Rm 8, 7). Điều đó cho thấy giữa “tính xác thịt” và Thiên Chúa luôn luôn đối lập nhau như ánh sáng và bóng tối: Thiên Chúa là ánh sáng ≠ tính xác thịt của con người là bóng tối. Vâng, “ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa” (Ga 3, 19). Ấy cũng bởi vì “ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách” (Ga 3, 20).

Quả thật chỉ có “từ bỏ chính mình”, từ bỏ bóng tối, thì mới đi theo được Ánh Sáng Chúa Ki-tô. Muốn được vậy, phải cầu xin Thiên Chúa ban ơn soi sáng để sống theo Thánh Linh như lời khuyên của Thánh Phao-lô (Gl 5, 16-18), ngõ hầu được trở nên những người con tự do (con cái ánh sáng) của Thiên Chúa. Sống đời Ki-tô hữu tốt đẹp là biết bước đi theo Thánh Linh, để Thánh Thần dẫn đưa. Có thể, người tín hữu học hỏi nhiều về Đức Ki-tô, nhưng vẫn chưa biết rõ về Người, chưa yêu mến và gắn bó với Người. Lý do là vì chưa bước đi theo Thần Khí của Người. Cũng bởi vì Thánh Thần là Đấng nối kết chúng ta với Chúa Ki-tô và với anh em chung một niềm tin; Thánh Thần là Đấng Soi Sáng, Đấng Giải Thoát, Đấng Bảo Trợ đầy sức mạnh thần thiêng làm cho chúng ta không bao giờ mệt mỏi, mất sức trên hành trình thi hành sứ vụ; đồng thời mở lòng mở trí cho chúng ta, để chúng ta nhận ra ý muốn của Thiên Chúa, giúp chúng ta giải quyết tốt đẹp các vướng mắc, dạy chúng ta cách cư xử cho phù hợp với ơn gọi Ki-tô hữu. Thánh Thần còn là Đấng Hiệp Thông (Thánh Phao-lô gọi Người là Ơn Thông Hiệp). Tắt một lời, Thánh  Thần làm cho sự sống thần linh trong chúng ta triển nở và lớn lên, đạt tới tầm vóc viên mãn của Chúa Ki-tô (trở nên “đồng hình đồng dạng với Người” cách trọn vẹn). 

Chính là nhờ Thánh Thần, với Thánh Thần và trong Thánh Thần, mọi Ki-tô hữu cùng hiệp thông xây dựng Nhiệm Thể Chúa Ki-tô (Giáo Hội) bền vững và phát triển đến thiên thu vạn đại. Để được như vậy, người Ki-tô hữu hãy tiến bước theo Thánh Linh trên con đường dấn thân phục vụ: Phục vụ trong tinh thần hiệp nhất “nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”; phục vụ vô vị lợi (phục vụ trong tinh thần “vị tha ”, hơn là “vị kỷ”); phục vụ trong khiêm tốn và thầm lặng (không khua chiêng gõ mõ, không “mồm loa mép giải”, không “ngồi trên tòa ông Mô-sê” hoặc “đứng ở ngã ba ngã tư”, “ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng, thích được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng…, ưa chiếm ghế danh dự trong hội đường, thích ngồi cỗ nhất trong đám tiệc…” (Mc 23, 1-36). Chung quy là hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Đức Vua Phục Vụ Giê-su Ki-tô. 

Cấp bậc cao nhất của việc từ bỏ chính mình là sẵn sàng hy sinh mạng sống khi việc phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ tha nhân đòi hỏi. Từ bỏ sự sống mình theo như Đức Ki-tô đòi hỏi, biểu hiện trong thực tế bằng việc phấn đấu và nỗ lực hằng ngày, chấp nhận mọi hy sinh, gian khổ (vác thập giá mình) trong cuộc sống chứng nhân, sẵn sàng thực thi những chứng tá bác ái. Khi người tín hữu “thuộc về Đức Ki-tô Giê-su thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5, 24), thì đó chính là lúc người tín hữu đã chết đi hằng ngày để được cùng sống lại với Đức Ki-tô (“Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người.” – Rm 6, 8). Chỉ có như vậy, người Ki-tô hữu mới thực sự được “nghỉ ngơi bồi dưỡng” tận hưởng “hoa quả của Thần Khí” (“Hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ.” – Gl 5, 22-23). 

Tóm lại, đi theo Đức Giê-su thì tất cả cái ách là những gánh nặng, những gông cùm, xiềng xích của tội lỗi đè nặng trên bản thân sẽ được Người vác thay (“Chính Người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta, đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta. Chính Người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; Người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành.” (Is 53, 4-5; Mt 8, 17). Vì thế nên đi theo Đức Giê-su thì sẽ được hưởng cái “ách êm ái, gánh nhẹ nhàng” của Người. Chính hoa quả của Thánh Linh sẽ giúp người Ki-tô hữu hiểu rõ được Lời dạy của Đấng Cứu Thế. 

Khi đã hiểu rõ “nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.” (Rm 8, 11); người Ki-tô hữu hãy cầu xin Thiên Chúa ban sự sống cho bản thân, ban Thánh Thần để có đủ sáng suốt và dũng khí tiến bước theo Đức Ki-tô, để được hưởng hoa quả đầu mùa “ách êm ái, gánh nhẹ nhàng”. Vâng, “Những ai thuộc về Đức Ki-tô Giê-su thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê. Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước.” (Gl 5, 24-26).

Ôi! “Lạy Chúa, nhờ con Chúa hạ mình xuống, Chúa đã nâng loài người sa ngã lên, xin rộng ban cho các tín hữu Chúa niềm vui thánh thiện này: Chúa đã thương cứu họ ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi, xin cũng cho họ được hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN. XIV/TN-A).

------------------------------
 

TN 14-A148: HÃY ĐẾN CÙNG TÔI


Fx Đỗ Công Minh
 

Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Matthêu ghi lại những lời Đức Giêsu cầu nguyện cùng Thiên Chúa TN 14-A148


Bài Tin Mừng hôm nay Thánh Matthêu ghi lại những lời Đức Giêsu cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha, một lời cầu nguyện được coi là khuôn mẫu cho chúng con khi thưa với Cha trên trời. Đọan Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu bày tỏ với Cha những tâm tình chân thành của Người : “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã dấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhệm nước trời, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng Lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha “ .

Trước tôn nhan Thiên Chúa, Đức Giêsu đã dâng lời chúc tụng, tôn vinh. Người đã tự nhận mình là con người bé mọn, không là gì trước mặt Chúa. Đây là điều mà trong lúc cầu nguyện, con ít để ý đến. Cầu nguyện như Chúa Giêsu là đặt mình trước Thiên Chúa, dâng lời chúc tụng tôn vinh Đấng toàn năng, khiêm tốn nhìn nhận mình là bé mọn trước Thiên Chúa và tin tưởng vào lời cầu nguyện đẹp ý Cha trên trời.

Cũng trong đọan tin mừng này, Chúa còn cho chúng con biết về sứ mạng của Người nơi trần gian. Người là con Thiên Chúa: ”Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi “ và Người cũng hé mở cho chúng con biết con đường, cách thức cầu nguyện với Cha:” Không ai biết rõ Chúa Cha trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho “. Từ Lời Chúa hôm nay, Chúa cho con nhận ra và biết phải làm gì khi cầu nguyện. Bài học cho con đó là phải khiêm tốn nhìn nhận mình là bé nhỏ. Muốn thưa với Cha trên trời hãy đến với Đức Giêsu Kitô, Người là đấng trung gian duy nhất.

Thánh Matthêu cũng cho chúng con nhận ra thông điệp của Đức Kitô gửi đến những con người đang lữ thứ nơi trần gian này, với bao gian truân thử thách. Người cho chúng con nhận biết Đấng mà con người có thể bấu víu nương tựa chính là Đức Giêsu Kitô . “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng “. Con nhớ đến mẩu chuyện tranh nhỏ được đưa lên Facebook vừa rồi. Chuyện về một nhóm người tham dự một cuộc thi về sự kiên trì nỗ lực. Mỗi người vác theo một cây thập tự ngang 1 mét, dọc 2 mét băng qua một quãng đường dài để về đích. Một chàng trai nọ mới vác đi được một chặng đường ngắn đã cảm thấy mệt mỏi, nặng nề. Anh dừng lại xin ban tổ chức cho phép anh đẽo bớt thanh dọc của cây thập tự để nhẹ nhàng hơn trên đường đua, trong lúc những người khác dù cũng mang vác nặng nề vẫn tiếp tục hành trình. Đi thêm một chặng đường, vẫn thấy cây thập tự nặng nề, anh dừng lại xin đẽo thêm một đọan nữa. Chỉ còn một  đoạn đường ngắn, vượt qua một vực sâu khỏang gần hai mét, là đến đích.

Những người khác dù đến bờ vực bên này sau anh, nhưng ai nấy đặt cây thập tự theo chiều dọc làm cầu bước sang bờ bên kia, rút cây thập tự vác tiếp, chỉ một quãng thì đến đích. Còn anh chàng “khôn lanh “ đành dừng lại bên bờ vì không có cách nào qua vực do thanh dọc đã quá ngắn không bắc ngang vực được.

Lạy Chúa,

Nhiều lúc trong cuộc sống, con tự cho là khôn ngoan hơn người khác. Con muốn chiếm được nước Trời bằng sự tính tóan, thông thái của mình mà quên đi sự khiêm nhu, tín nhiệm, phó thác vào Chúa. Trên chặng đường theo Chúa, bao người đều thấy vất vả và gánh nặng, nhưng họ đã vượt qua được vì họ chạy đến với Người. Họ tin vào Lời Chúa “Hãy mang lấy ách của tôi, vì ách của tôi thì êm ái, gánh của tôi thì nhẹ nhàng “ nên đã vượt qua những chặng đường khổ giá.

Xin cho con luôn biết học nơi Chúa sự hiền lành và khiêm nhường, đồng thời luôn biết tin tưởng vào Lời Người : “ Hãy đến cùng tôi.. . Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi, bồi dưỡng “. AMEN.

------------------------------
 

TN 14-A149: CÂU DANH NGÔN HAY


Lm. Jos. DĐH.
 

Tre già măng mọc, hậu sinh khả uý, con hơn cha, nhà có phúc, khi nghe đọc những câu thành ngữ TN 14-A149


Tre già măng mọc, hậu sinh khả uý, con hơn cha, nhà có phúc, khi nghe đọc những câu thành ngữ này, chẳng biết các đấng bậc sinh thành của ta có nhẹ vơi đi chút ưu tư về việc giáo dục con cháu không ? Biết bao lời hay ý đẹp, đầy dẫy những tác phẩm có giá trị nghệ thuật mà tiền nhân để lại, hậu thế vẫn coi đó là những di sản cao quý được lưu truyền. Cáo chết để da, người chết để tiếng, thực ra thì để lại tiền của, để lại kiến thức, để lại danh thơm tiếng tốt, hoặc để lại tình yêu thương, đều có ý nghĩa đối với con cháu, dòng tộc. Tất cả mọi người đều có cơ hội gặt hái thành công, nếu biết áp dụng vào cuộc sống bài học của cha mẹ, của bậc thánh hiền, dù hoàn cảnh chúng ta có khó khăn, khắc nghiệt, không giống nhau.

“Hiền lành và khiêm nhường”, không phải là câu danh ngôn hay đối với nhà quản trị kinh doanh, cũng không thích hợp với các vị ẩn tu. Những lời khuyên dạy phòng bệnh hơn chữa bệnh của giới y bác sĩ sẽ chẳng nghĩa lý gì đối với người lam lũ, cơm không đủ no áo không đủ ấm. Lời hay ý đẹp dù có ích lợi cho hôm nay và mai sau, cũng không thể làm thay đổi được lòng người, nếu họ chỉ biết đến “luật rừng”, sống trong hận thù, bất mãn, tự kỷ. “Hiền lành và khiêm nhường” có còn là câu danh ngôn hay đối với người tín hữu chúng ta hôm nay không ? “Hiền lành và khiêm nhường” có thể vẫn là câu trả lời khó, khi mà người ta xử với nhau theo lý lẽ: phép vua thua lệ làng, nhất thân nhì thế. “Hiền lành và khiêm nhường” sẽ là lời mời gọi thật hay, khi chúng ta muốn trở nên môn đệ Chúa, chọn  Chúa là Thầy hoặc từ chối tin Đức Giêsu là Đấng cứu độ trần gian.

Đâu phải vô tình mà người xưa nói rằng: khôn ngoan đến cửa quan mới biết, giầu có ba mươi tết mới hay ; cháy nhà mới ra mặt chuột. Không phải tự nhiên người trẻ hôm nay họ biết khích lệ nhau vượt qua thử thách để đi tới trưởng thành hơn: đừng buồn vì bạn không có người ấy, nhưng hãy sống sao để người ấy buồn vì không có bạn. Thực sự thì với độ “nhạy bén” vừa phải, người ta có thể kiểm chứng được người tài giỏi, người giầu có ; nhưng thước đo hạnh phúc, mức độ hiểu biết của chúng ta thì không được là trẻ con, phải thực sự là người trưởng thành trong đức ái. Người hiền triết và khôn ngoan, người tầm thường ít học hay người túng thiếu nghèo hèn, đều bất hạnh khi không có tình yêu, nhưng họ đều có chung một cơ hội, đó là ai cũng là đối tượng của Thiên Chúa cứu độ.

Câu danh ngôn hay không phải là câu nói nghe cho vui tai, lời hay ý đẹp chắc chắn không phải là những sản phẩm trưng bày để “bàn dân thiên hạ” xem cho vui mắt ? Người tín hữu chúng ta đều dễ dàng tin: phần thưởng nước trời không chỉ dành cho người lắm tiền nhiều của ở trần gian này, nhưng nước trời thuộc về tất cả mọi người biết sinh lợi những nén bạc mà Thiên Chúa trao ban. Không ai định nghĩa hạnh phúc là người giầu có địa vị, nhưng ai cũng hiểu và chấp nhận: hạnh phúc là người biết sống yêu thương và được yêu thương. Câu danh ngôn hay đối với người kitô hữu, hẳn không phải là câu bí ẩn khó hiểu, vì nghe, đọc: hiền lành khiêm nhường và trở nên bé nhỏ trong yêu thương cư xử, rất dễ, nhưng hay hoặc dở ở chỗ ta có tin và dám sống hèn mọn như Chúa đã sống không ?

Nếu sống ở đời này ta đủ đức đủ tài, chẳng màng đến giầu nghèo, thông thái hay khờ dại, hẳn ta sẽ không quan tâm đâu là câu danh ngôn hay để học để nhớ, làm chi. Vì “cái thừa, cái thiếu” trong mỗi  ta quả còn nặng nề, sai sót nhiều, nên ta phải dò tìm, học hỏi, hầu có điều kiện xoá đi những bất ổn trong các tương quan của ta. Nếu biết câu danh ngôn hay, chính là chìa khoá mở ra khung trời hạnh phúc mới, hẳn dù phải sắp hàng, đấu tranh, mới có cơ hội được nhìn xem, ta cũng quyết không bỏ cuộc. Tâm tình của Chúa Giêsu với Chúa Cha, với chúng ta, sẽ mãi là bí mật, là khó hiểu, nếu người ta không thuộc về Chúa, không muốn trở nên hiền lành và khiêm nhường như Chúa Giêsu.

Câu danh ngôn được cho là hay mà nhiều người chúng ta đã từng nghe: khôn cho người ta vái, dại cho người ta thương, sở dĩ câu nói này hay vì nhu cầu được yêu thương, ai trong chúng ta cũng có. Câu nói hay và sống động là khi ta biết cư xử có nhân có nghĩa, biết để lại nét đẹp cho con cháu. Vương quốc đầy “chất tình” của Chúa Giêsu được xây dựng trên nền tảng yêu thương, lời hay ý đẹp dẫn dắt chúng ta thoát được gánh nặng khổ đau, tội lỗi, khởi đi từ niềm tin vào Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ. Ngày hôm nay, bài học khiêm tốn để trở nên môn đệ Đức Giêsu, lời hay ý đẹp dẫn tới hạnh phúc thật đều phải trở nên giống Đức Kitô. Câu danh ngôn hay nhất chính là tình yêu Đức Giêsu, là học biết thực thi đức khiêm nhường bé nhỏ, là thấy độ rộng lớn mà kẻ bé mọn như Chúa Giêsu đang thực thi công lý yêu thương. Amen.

------------------------------
 

TN 14-A150: HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM NHƯỜNG-


Lm Giuse Hoàng Kim Toan
 

Hiền lành xuất phát từ trái tim rộng mở, từ ái, khoan dung. Khiêm nhường kín múc từ nguồn lực TN 14-A150


Hiền lành xuất phát từ trái tim rộng mở, từ ái, khoan dung. Khiêm nhường kín múc từ nguồn lực tình yêu, chỉ muốn trở nên không trước mọi người và tất cả cho mọi người. Cuộc sống con người thì lựa chọn ngược lại, hiền lành luôn bị bắt nạt, ức hiếp; khiêm nhường thì bị lợi dụng trở nên tôi mọi cho nhiều người và dễ bị đè bẹp.

Học với Chúa để sống đúng nghĩa của hiền lành và khiêm nhường.

Hiền lành:

Tình yêu tự thông ban:

Thiên Chúa tự thông ban chính mình, đó là biểu lộ bản chất của tình yêu vô biên. Khi Thiên Chúa tạo dựng nên con người, Người đã ban cho ơn cao trọng: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất.” (St 1, 26). Tình yêu tự thông ban nên tình yêu Thiên Chúa cũng đón nhận tất cả những hậu quả của con người gây nên khi phạm tội: “Thiên Chúa đi tìm kiếm con người” (St 3, 8 – 10); “Hứa ban đấng cứu chuộc” (St 3, 14 – 15).

Tình yêu tự hiến:

Một tình yêu tự thông ban cũng là một tình yêu phó nộp vì người mình yêu: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3, 16 – 17).

Người mục tử nhân lành:

“Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10, 11 – 15)

Như Con Chiên:

Tiên tri Isaia đã nói về Con Người chịu hiến tế: “Bị ngược đãi, người cam chịu nhục, chẳng mở miệng kêu ca; như chiên bị đem đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, người chẳng hề mở miệng” (Is 53,7). Và con người được thứ tha: “Anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích là Đức Kitô” ( 1 Pr 1,19).

Hiền lành không lên án:

Với người phụ nữ phạm tội ngoại tình công khai: “Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa! ” (Ga 8, 11). Và ngay khi trước khi chết Người cũng cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” (Lc 23, 34)

Khiêm nhường:

Tình yêu tự hạ:

Thánh nữ Têrêsa dùng một ví dụ đơn sơ để nói về tình yêu tự hạ: “Một người cha, khi muốn hôn đứa con nhỏ, tất nhiên không thể đứng thẳng người một cách ươn lười mà bảo đứa trẻ con leo lên, áp má nó vào môi mình, để có thể gọi là mình hôn yêu nó. Không, muốn hôn đứa con nhỏ, nhất định là người cha phải cúi sâu xuống tận mặt nó, hoặc bế nó lên trên tay mình, nhưng đằng nào cũng phải cúi…”

Thánh Phaolô thì định nghĩa: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ,rở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.” (Pl 2, 6 – 8)

Khiêm nhường biểu lộ trong vâng phục: Vâng phục là từ bỏ ý riêng, để tùy thuộc vào Chúa Cha, Chúa Giêsu, người đã nói với các môn đệ: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4, 34). Thánh Phaolô trong vinh tụng ca ngài xác tín: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.  Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su,cả trên trời dưới đấtvà trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa”” (Pl 2, 6 – 11).

Khiêm nhường trong phục vụ: Qua việc rửa chân cho các tông đồ, Chúa Giêsu cũng dạy cho các môn đệ bài học phục vụ trong yêu thương: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Ga 13, 12 – 15).

Hãy học cùng Thầy, là một lời mời gọi để có một đời sống hiền lành thật sự giữa những điều dữ, “đem yêu thương vào nới oán thù”. Và để học điều quan trọng trong cuộc sống là khiêm nhường, “chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân” (kinh hòa bình).

------------------------------

Tác giả: Nguyễn Văn Mễn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây