Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật TN 13-A Bài 1-50: Kẻ nào không mang lấy thập giá, thì không xứng đáng với Thầy. ----------------------------- Phúc Âm: Mt 10, 37-42: “Kẻ nào không mang lấy thập giá, thì không xứng đáng với Thầy; kẻ nào tiếp đón các con, là tiếp đón Thầy”.
Như chúng ta đã biết: Thiên Chúa hứa ban cho Abraham một dòng dõi đông như sao trên trời: TN 13-A1
Như chúng ta đã biết: Thiên Chúa hứa ban cho Abraham một dòng dõi đông như sao trên trời và nhiều như cát dưới biển. Thế nhưng, hai ông bà đã già mà vẫn còn son sẻ.
Đến khi có được một mụn con trai là Isaac, thì Thiên Chúa lại đòi ông phải đem lên núi, sát tế mà dâng kính Ngài.
Dầy vậy, ông vẫn không lùi bước trước đòi hỏi của Thiên Chúa, mặc dù đã phải trải qua những giây phút giằng co và xâu xé, băn khoăn và lo nghĩ.
Cuối cùng, ông đã dám tin và đã dám chấp nhận, cho dù ông không hiểu. Ông đã dám yêu mến Thiên Chúa hơn Isaac, vốn là lẽ sống và là niềm hy vọng của ông. Thiên Chúa đã thử thách để ông có dịp bày tỏ tình mến và làm cho tình mến nơi ông được liên tục phát triển.
Chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền đòi hỏi con người yêu mến Ngài trên hết mọi sự, bởi vì Ngài là Đấng sáng tạo. Ngài phải chiếm chỗ nhất trong trái tim cũng như trong cuộc đời mỗi người chúng ta. Ngài chính là giá trị tuyệt vời, vượt lên trên mọi giá trị khác.
Qua đoạn tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng đã đưa ra những đòi hỏi quyết liệt không kém.
Trước hết, Ngài đòi chúng ta phải yêu mến Ngài hơn cả cha mẹ.
Thực vậy, đối với người Á đông, chữ hiếu vừa là một giá trị cao cả, lại vừa là một bổn phận quan trọng. Ngài không bao giờ đi ngược lại điều răn thứ tư về bổn phận thảo kính cha mẹ.
Thế nhưng, nếu có sự xung đột giữa tình yêu đối với cha mẹ và tình yêu đối với Thiên Chúa, thì Ngài đòi chúng ta phải đặt Thiên Chúa lên trên cả cha mẹ, không được vì cha mẹ mà trở nên thờ ơ trước lời mời gọi của Thiên Chúa.
Thực vậy, đã có người ngần ngại và do dự đối với lời mời gọi của Ngài, anh ta muốn trì hoãn một thời gian để chôn cất cha già, hay đúng hơn để lo phụng dưỡng cho đến khi cha già qua đời. Thế nhưng, Chúa đòi anh theo Ngài ngay lập tức, để lên đường đi loan báo Tin mừng.
Trường hợp thánh Phanxicô Assie là một thí dụ điển hình về thái độ siêu thoát đối với những tình cảm gia đình, để sống theo những thôi thúc của Chúa. Đúng thế, thánh nhân đã dám cởi bỏ cả bộ áo quần trên mình, trả lại cho cha mẹ, để đi ăn xin trong chính thành phố mà gia đình mình đang sống.
Mỗi người chúng ta đều có một cội nguồn. Cội nguồn ấy chính là ông bà cha mẹ. Ngoài ra, cội nguồn ấy còn là truyền thống dân tộc, được hình thành từ bao đời, và vẫn còn được tiếp tục trong thời buổi hiện nay.
Vì thế, cần phải mở rộng để đón nhận những giá trị quí báu của dĩ vãng và hiện tại, đồng thời cũng cần phải để thanh lọc những gì không phù hợp với giáo lý Đức Kitô. Điều quan trọng đó là phải làm sao để tinh thần của Đức Kitô trở thành tiêu chuẩn giúp chúng ta nhận ra những giá trị đích thực, cần được gìn giữ và phát huy trong một thế giới đảo điên, vàng thau lẫn lộn.
Tiếp đến, Ngài đòi chúng ta phải yêu mến Ngài hơn cả những đứa con mà chúng ta đã mang nặng đẻ đau.
Thực vậy, có cha mẹ nào mà lại không yêu thương con cái của mình. Tuy nhiên, hai chữ con cái ở đây còn được hiểu theo một nghĩa rộng, đó là tất cả những gì con người đã làm ra.
Nhân loại hôm nay không ngừng sáng tạo và phát minh. Thế nhưng, có những thứ sản phẩm, thay vì là phương tiện giúp đỡ con người, thì đã trở nên một thứ ông chủ, đẩy con người vào tình cảnh nô lệ cho chính những gì mình đã phát minh, đã làm ra.
Cuối cùng, con người chỉ biết cắm đầu chạy theo những lợi nhuận và những tiện nghi vật chất. Một xã hội chỉ biết hưởng thụ, chắc chắn sẽ không còn chỗ dành cho Đức Kitô.
Sau hết, Ngài đòi hỏi chúng taph vác thập giá mình mà bước theo Ngài.
Thực vậy, chúng ta không tìm kiếm đau khổ, nhưng luôn sẵn sàng chấp nhận để góp phần vào thập giá Chúa, cũng như cộng tác với Ngài trong chương trình cứu độ. Lúc đó thập giá sẽ trở thành dấu chỉ của tình yêu. Bởi vì không ai yêu mình hơn người hiếm mạng sống mình vì bạn hữu.
Willton Rix có kể một câu chuyện đầy kịch tính như sau “Vào một sáng mùa đông tuyết lạnh: TN 13-A2
Willton Rix có kể một câu chuyện đầy kịch tính như sau “Vào một sáng mùa đông tuyết lạnh, Sadhu Sundar Singh và một người bạn du lịch qua miền núi Bắc Ấn Độ. Thình lình một cơn bão tuyết ào ào đổ tới, gió lạnh gào thét bên tai họ, khiến hai người phải chống trả hết sức khó khăn.
Đang lúc “dầu sôi lửa bỏng” ấy, họ lại thấy một người đàn ông nằm vất vưởng bên đường chờ chết. Sadhu muốn dừng lại để cứu giúp người bị nạn, nhưng bạn ông cho rằng, nỗ lực ấy chỉ hoài công thôi. Vì để cứu lấy chính mình trong lúc này cũng đã vất vả lắm rồi. Và ông bạn ấy đã bỏ đi.
Chạnh lòng xót thương, Sadhu ở lại bên kẻ bất hạnh, xoa nóng tay chân con người sống dở chết dở ấy. Với sức lực còn lại, Sadhu cố gắng cõng anh trên lưng và khó nhọc đi qua vùng bão tuyết. Hơi ấm của hai thân thể hòa quyện lấy nhau khiến người kia hồi sinh và cả hai cùng mạnh sức.
Đi khoảng một dặm, họ kinh ngạc khi nhìn thấy một xác chết lạnh cóng bên vệ đường. Họ càng sững sờ hơn nữa khi nhận ra đó chính là anh bạn cùng đi với Sadhu sáng nay.
Nghĩa cử yêu thương của Sadhu đã minh chứng hùng hồn cho lời nói của Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay:”Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”. Ông bạn của Sadhu đã cố giữ lấy mạng sống mình nên đã mất mạng, còn Sadhu liều mất mạng “Vì anh em” nên đã được sống. Một người không có khả năng từ bỏ mình “Vì anh em” thì họ cũng không có khả năng yêu thương. “Phải liều mất đi” để “tìm thấy lại”. Đó là nghịch lý mà Đức Giêsu đã trải qua để nêu gương cho chúng ta. Người đã sẵn lòng chịu chết ô nhục để rồi sống lại vinh quang, và cũng để nói lên lời yêu thương con người.
“Ai liều mất mạng sống mình vì Thầy”. “Vì Thầy” cũng chính là “Vì anh em”. Biết bao lần, Đức Giêsu đã đồng hóa mình với tha nhân. Đó là sợi chỉ hồng xuyên suốt các Tin mừng. Người tuyên bố:”Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy”. Đến ngày phán xét, Người cũng sẽ nói với mỗi người chúng ta:”Mỗi lần các ngươi làm cho một người nhỏ bé nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy”.
“Người bé nhỏ nhất” không cần phải tìm đâu xa. Họ không ở tận Châu Mỹ, Châu Âu, cũng không sống nơi chân trời góc biển. Họ ở trước cửa nhà chúng ta, họ là những kẻ nghèo hèn khốn khổ, họ là những người cô thế cô thân, họ là những ai không cửa không nhà, họ là những người già cả cô đơn, họ là những kẻ nghiện ngập sa đọa, họ là những ai bị hất hủi lãng quên.
Đức Giêsu còn hứa:”Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì không mất phần thưởng đâu”. Cho “một chén nước lã” là cử chỉ nhỏ bé ai cũng có thể làm được, dù là một đứa trẻ.
“Một chén nước lã” đối với Chúa lại là “một chén ân tình”. Điều đó cho thấy, Thiên Chúa không hề bỏ sót một nghĩa cử yêu thương nào của chúng ta. Đồng thời Người cũng muốn nói, cho dù chỉ là nghĩa cử bé nhỏ âm thầm, một khi đã được khoác vào tấm áo tình yêu thì nó liền trở nên vô cùng cao cả. Tình yêu chính là trọng tâm của đời sống người tín hữu.
Tình yêu là chiếc đũa thần biến thập giá trở nên nhẹ nhàng, vừa sức cho mỗi người. Tình yêu là liều thần dược giúp người tín hữu dám liều mất mạng sống vì Thầy.
Tình yêu đã làm cho người tín hữu mến Chúa hơn cha mẹ, con cái, cũng sẽ giúp họ yêu thương phục vụ mọi người cách thiết thực, chân tình.
Sức mạnh phi thường khiến thánh Phaolô vượt qua bao gian nan thử thách trên đường truyền giáo chính là tình yêu. Ngài viết:”Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con dám sống chết cho tình yêu Chúa. Cho chúng con biết:
Chân thành hơn trong yêu thương, bác ái hơn trong lời nói, nhân từ hơn trong cách cư xử.
Xin cho cuộc đời chúng con mãi mãi là mùa hoa nhân ái.
Một trong những lý do khiến nhiều anh em lương dân không muốn gia nhập Kitô giáo, đó là vì: TN 13-A3
Một trong những lý do khiến nhiều anh em lương dân không muốn gia nhập Kitô giáo, đó là vì họ nghĩ rằng nếu vào đạo họ sẽ phải bỏ ông bà, bỏ cha mẹ. Sẵn có một ý nghĩ như vậy, nếu họ lại được nghe lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin mừng hôm nay, họ sẽ càng tin chắc rằng suy nghĩ của họ về đạo Công giáo là đúng.”Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy”. Thật rõ ràng và dứt khoát. Nhưng có thật là khi vào đạo Công giáo người ta sẽ phải từ bỏ cha mẹ của mình không?
Để trả lời cho câu hỏi trên, ta có thể nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói về đời sống vợ chồng:”Người đàn ông sẽ lìa bỏ cha mẹ và luyến ái với vợ mình và cả hai sẽ nên một huyết nhục”.
Trong cuộc đời này có mối quan hệ nào thân thương, gắn bó mật thiết cho bằng mối tình của cha mẹ và con cái? Ta càng cảm nghiệm điều này rõ ràng hơn khi cha mẹ qua đời. Cha mẹ qua đời là một mất mát to lớn không thể bù đắp được trong cuộc đời của những đứa con. Dù thân thương gắn bó như vậy, thế mà anh thanh niên vẫn có thể lìa bỏ cha mẹ để sống với một người thiếu nữ xa lạ nào đó mà anh đã chọn làm bạn đời. Thì ra có một cái gì đó thật mãnh liệt đã kéo anh thanh niên ra khỏi vòng tay yêu thương của cha mẹ để gắn bó với người bạn đời của mình. Điều mãnh liệt ấy là gì nếu không phải là tình yêu? Và thật ra, dù lìa bỏ cha mẹ để gắn bó với người bạn đời của mình, thì không phải anh thanh niên cắt đứt tình nghĩa với cha mẹ. Tình nghĩa vẫn còn đó, nhưng lìa bỏ cha mẹ là để cho cuộc sống mới được phát sinh và vươn cao.
Nếu chỉ có tình yêu mới lý giải được sức mạnh đã lôi kéo người thanh niên ra khỏi cuộc sống chung với cha mẹ để gắn bó với người yêu, thì cũng chỉ có tình yêu mới lý giải được lời mời gọi của Chúa Giêsu:”Ai yêu cha mẹ hơn Thầy sẽ không xứng đáng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống vì Thầy sẽ lại tìm thấy”. Phải có lòng yêu mến Đức Giêsu mãnh liệt lắm người ta mới dám từ bỏ và đánh đổi mọi sự, kể cả mạng sống của mình. Và khi từ bỏ những mối liên hệ thân thương của đời mình, thì không phải là phủ nhận giá trị của những mối liên hệ ấy, lại càng không phải là hủy diệt đi, nhưng là để cho cuộc sống mới, cuộc sống của Đức Kitô được vươn cao trong lòng mình, trong đời mình.
Đi đạo, theo đạo là sống cuộc sống của Chúa Giêsu, là yêu mến và gắn bó với Người, là đi vào một cuộc tình với Người. Mà dấu chỉ cho thấy một người có lòng yêu mến Đức Kitô chính là người ấy biết yêu thương anh em mình. Chúa Giêsu đã khẳng định rõ ràng điều ấy:”Bất cứ sự gì các ngươi làm cho một người trong các anh em bé mọn của Ta đây là các ngươi làm cho chính Ta”. Và “Ai cho một trong những kẻ bé mọn này dù chỉ là một ly nước lã thôi sẽ không mất phần thưởng đâu”.
Nếu đối với những người khác mà Chúa Giêsu còn đòi ta phải quan tâm, phải đối xử tốt như vậy huống chi là tổ tiên, là ông bà, là cha mẹ của ta? Chỉ có điều là Người muốn chúng ta đừng để bất cứ mối liên hệ nào, bất cứ giá trị trần gian nào ngăn cản lòng yêu mến của ta đối với Người. Càng yêu mến Chúa nhiều ta càng được thôi thúc để yêu mến ông bà, cha mẹ và mọi người nhiều hơn. Thế thì đâu có phải khi theo Chúa là phải bỏ ông bà, cha mẹ.
Tại đảo Sycilia, dân chúng còn truyền miệng nhau câu chuyện về một họa sĩ tài danh trong:TN 13-A4
Tại đảo Sycilia, dân chúng còn truyền miệng nhau câu chuyện về một họa sĩ tài danh trong vùng sống cách đây vài trăm năm trước và là tác giả của bức họa nổi tiếng về cuộc đời Chúa Giêsu hiện được trưng tại nhà thờ chánh tòa trong vùng.
Sau thời gian làm việc, họa sĩ này đã vẽ xong dung mạo các tông đồ, nhưng còn hai dung mạo không vẽ được, đó là dung mạo của Chúa Giêsu và dung mạo của Giuđa người môn đệ phản Thầy.
Ông phải đình lại công việc để đi tìm người mẫu cho dung mạo của Chúa Giêsu. Sau nhiều tháng đi tìm, ông chọn được một thanh niên làm mẫu cho dung mạo của Chúa Giêsu. Vấn đề khó khăn cuối cùng là đi tìm người làm mẫu cho dung mạo Giuđa. Ông đã phải đi tìm rất nhiều năm mà không gặp, đến lúc gần cuối đời tưởng mình sẽ không thể nào hoàn thành bức tranh được nữa, ông buồn bã đi dạo trên đường phố quanh đó, thì bỗng gặp một người hành khất rách rưới với dung mạo đầy khổ đau mà cũng vừa gian ác. Cho đây là mẫu người lý tưởng cho dung mạo của Giuđa, ông mời người hành khất về nhà làm mẫu cho bức tranh còn dang dở.
Nhìn thấy bức tranh Chúa Giêsu và các môn đệ được trình bày trong phòng, người hành khất bỗng biến sắc và càng lúc càng trở nên bối rối hơn.
Người họa sĩ hỏi lý do tại sao?
Người hành khất trả lời:
Thưa ông, chính tôi đây là người đã ngồi làm mẫu cho ông vẽ chân dung Chúa Giêsu trong bức tranh này cách đây vài chục năm về trước, và bây giờ cũng chính tôi là người làm mẫu cho ông vẽ chân dung của Giuđa, người phản bội Chúa. Thật tôi không ngờ là tôi đã trở nên tồi tệ như vậy.
Câu chuyện trên giúp chúng ta đi sâu hơn một chút vào ý nghĩa câu nói của Chúa Giêsu ghi lại nơi đoạn Phúc âm của Chúa nhật hôm nay:”Người nào đón tiếp chúng con là đón tiếp Thày, và người nào đón tiếp Thày là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”.
Trên con đường trở về nhà Cha, đón tiếp Thiên Chúa và được Thiên Chúa đón tiếp, chúng ta cần đi qua một con đường duy nhất, đó là anh em, đó là mỗi người chúng ta cần trở nên giống Chúa Giêsu Kitô, trở nên một Chúa Giêsu Kitô khác, đến độ anh em có thể nhìn vào dung mạo tinh thần của chúng ta mà nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu Kitô, để rồi từ đó mà lên gặp gỡ Thiên Chúa Cha, Đấng vô hình:”Người nào đón tiếp chúng con là đón tiếp Thầy”.
Kể từ giây phút Con Thiên Chúa Nhập Thể làm người để con người có thể nhìn được Thiên Chúa vô hình nơi dung mạo hữu hình của Chúa Giêsu Kitô:”Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy”. Kể từ giây phút đó con người chúng ta, mỗi người chúng ta cũng được ban cho quyền năng để trở nên giống như Chúa Giêsu Kitô, để trở nên dấu chỉ hướng dẫn anh em đến cùng Thiên Chúa Cha:” Ai đón tiếp chúng con là đón tiếp Thầy”. Và để chúng ta được trở nên một Chúa Giêsu khác, được giống như Chúa Giêsu thì dường như chỉ có một bí quyết duy nhất và bí quyết đó được Chúa Giêsu nhắc lại trong đoạn Phúc âm hôm nay, đó là tình yêu vô điều kiện. Đối với Chúa Giêsu, yêu mến Chúa trên hết mọi sự, trên hết mọi người, tình yêu sẽ làm cho hai người trở nên giống nhau.
Chúng ta hãy nhìn lại cuộc sống của mình, chúng ta đã được Chúa ban cho hồng ân để trở nên giống như Chúa từ ngày chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa tội, như được thánh Phaolô đã nhắc lại trong bài đọc thứ hai hôm nay qua cách nói:”Chúng ta đã chịu phép rửa trong Đức Kitô, là chịu phép rửa trong sự chết với Người và cùng chịu mai táng với Người, để được thanh tẩy trong sự chết của Người và nhờ sức mạnh của Người, như Chúa Giêsu sống lại thế nào thì chúng ta cũng sẽ được sống lại như vậy”. Mỗi người chúng ta đã được đón nhận hồng ân trở nên giống như Chúa và hồng ân này cũng là trách nhiệm mỗi người chúng ta, mỗi người chúng ta cần phải thực hiện điều mà Chúa ban cho, là trở nên giống như Chúa. Hồng ân và trách nhiệm luôn đi đôi với nhau.
Thử hỏi tình yêu được Chúa đổ vào trong tâm hồn chúng ta hiện tại đã được phát triển như thế nào? Chúng ta có trở nên giống như Chúa hơn hay chúng ta đã phung phí tình yêu đó? Phung phí ân sủng Chúa ban cho để rồi chúng ta không còn thể hiện dung mạo của Chúa nữa mà thể hiện dung mạo của một người phản bội của Chúa, như dung mạo của Giuđa.
Ông Inhac Pađêrốtki, nhạc sĩ người Ba Lan. Một hôm, sau khi trình diễn, người ta gặp thấy: TN 13-A5
Ông Inhac Pađêrốtki, nhạc sĩ người Ba Lan. Một hôm, sau khi trình diễn, người ta gặp thấy ông ngồi im lặng sau hậu trường, vẻ mặt thẩn thờ, mắt nhìn xa xăm. Người nhạc công phụ diễn với ông, ngạc nhiên hỏi ông có đau bệnh gì không? Pađêrốtki trả lời: “Tôi vẫn khỏe. Tôi chỉ buồn vì thiếu mất hai người bạn. Họ là đôi vợ chồng có mái tóc màu nâu. Hôm nay vắng mặt họ tại hàng ghế thứ tư, nơi họ thường ngồi”. Người bạn kinh ngạc thốt lên: “Không ngờ ông lại có bạn nơi thành phố này. Ông quen thân với họ chứ?”. Pađêrốtki đáp: “Tôi biết họ rất rõ, nhưng tôi chưa bao giờ gặp họ hai mươi năm nay, cứ mỗi lần tôi đến đây trình diễn, họ đều có mặt tại hàng ghế ấy. Tôi mến họ cách thưởng thức nhạc. Họ là tư duy của tôi. Và tất cả những bản nhạc tôi chơi đều dành riêng để tặng họ. Hôm nay tôi mất hết hứng thú vì vắng họ”. Ngừng một lát, rồi ông tiếp: “Mong sao không có gì xảy ra cho họ”.
Chỉ nhờ vào cách thưởng thức nhạc mà đôi vợ chồng thính giả ấy đã được nhạc sĩ Pađerốtki dành trọn tài năng âm nhạc của ông cho họ. Một sự đáp trả vượt quá tưởng tượng. Tuy nhiên, sự đáp trả mà Chúa Giêsu hứa cho những kẻ theo Ngài còn vượt xa hơn biết bao. Khi chọn lựa theo Chúa Giêsu, người môn đệ biết sẽ không tránh được nhiều mất mát. Nhưng Thiên Chúa không để cho họ thiệt thòi. Ngài sẽ đền bù, một sự đền bù vượt xa mọi chờ mong. Trước mặt Thiên Chúa, sẽ không có gì bị bỏ quên. Một bát nước lã thôi cũng sẽ được đền bù xứng đáng. Và cũng không có việc làm nào là kém giá trị.
Đón tiếp một ngôn sứ sẽ lãnh phần thưởng của ngôn sứ. Đón tiếp người công chính sẽ lãnh phần thưởng của người công chính. Đón tiếp người rao giảng sẽ lãnh phần thưởng của người rao giảng. Chúa Giêsu đã nói như thế trong Tin mừng hôm nay. Người môn đệ đừng sợ mất phần thưởng, nhưng hãy sợ mình chưa trung thành thực thi bổn phận. Với Thiên Chúa, bổn phận, dù công khai hay âm thầm, cũng vẫn luôn cần thiết. Thiên Chúa cần những con người ngày đêm nhiệt thành rao giảng, làm chứng cho Ngài, thì Ngài cũng cần những tiếp tay âm thầm hỗ trợ cho những con người ấy. Đây chính là niềm phấn khởi, hi vọng cho mỗi Kitô hữu. Tài hèn,sức kém, chúng ta không thể làm ngôn sứ, làm người lãnh đạo, hoặc làm kẻ gánh vác những trách vụ nặng nề, nhưng chúng ta vẫn có thể đóng góp một vài giúp đỡ cho những con người ấy.
Dù là vĩ nhân, cũng cần đến những nhu cầu căn bản của đời sống. Công chúng sẽ chẳng bao giờ biết đến những con người đứng sau hậu trường. Nhưng nếu không có họ thì xã hội chẳng thể nào có được các vĩ nhân. Lịch sử chỉ nhớ đến các vĩ nhân, chứ lịch sử không đủ giấy bút để ghi lại những khuôn mặt đã góp phần vào đời sống của vĩ nhân. Lịch sử không nhớ, nhưng Thiên Chúa lại nhớ tất cả, chẳng bỏ sót một khuôn mặt nào. Phần thưởng của họ cũng có giá trị như của các vĩ nhân. Cũng có thể là các việc đạo đức của chúng ta không đặc biệt sáng chói để được gọi là người công chính, là thánh nhân. Tuy nhiên, nếu chúng ta góp phần làm cho một người khác trở thành công chính, góp phần bằng cầu nguyện, hi sinh, thì chúng ta cũng lãnh nhận triều thiên của người công chính.
Tìm hiểu thêm một chút nữa, chúng ta sẽ ý thức hơn và hiểu rõ hơn điều ấy: Càng đi tìm chính mình, chúng ta càng đánh mất chính mình. Càng co cụm trong vỏ ốc của mình, chúng ta càng chết dần trong nỗi cô đơn. Niềm khao khát hạnh phúc, chúng ta chỉ có thể lấp đầy khi đến với tha nhân mà thôi. Đó là chân lý nền tảng về con người. Con người chỉ thành đạt thực sự, con người chỉ thực sự là người khi biết sống cho tha nhân.
Qua cuộc tử nạn và cái chết của Ngài, Chúa Giêsu cũng khẳng định chân lý ấy. Ngài bảo chúng ta: “Ai tìm mạng sống mình, sẽ mất. Ai đành mất mạng sống mình, sẽ gặp lại”. Đó là nghịch lý của Kitô giáo. Nhưng đó cũng là chân lý của cuộc đời. Thật thế, tất cả những ai miệt mài trong tiền của, danh lợi, chức quyền, lạc thú riêng mình, thì rồi cũng chỉ chuốc lấy đắng cay, chua xót, muộn phiền mà thôi. Trái lại, một cuộc sống tiêu hao vì người khác sẽ luôn là một cuộc sống tràn đầy, sung mãn. Chính trong phục vụ chúng ta mới tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Chính qua những cử chỉ yêu thương chúng ta mới tìm được bản thân mình. Đó là chính là ý nghĩa của “Kinh Hòa Bình” mà chúng ta vẫn thường hát: “Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người…chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân…”
“Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy”.
Mỗi người chúng ta đều có một thập giá phải vác không cần phải làm ra, hoặc tìm kiếm một: TN 13-A6
Mỗi người chúng ta đều có một thập giá phải vác không cần phải làm ra, hoặc tìm kiếm một cái khác. Thập giá của chúng ta đủ nặng cho chúng ta. Nhưng chúng ta có sẵn sàng vác nó, chấp nhận nó như là thập giá của mình không?
Đức Giêsu đã vác thập giá của Người. Chúng ta cũng phải vác thập giá của mình. Thập giá của chúng ta không làm bằng gỗ nhưng bằng những gánh nặng của chúng ta: các lo lắng, các khó khăn, bệnh hoạn, xung đột trong gia đình… danh sách này thì bất tận. Có lẽ, không có thập giá to lớn mà chỉ có rất nhiều những thập giá nho nhỏ. Tuy nhiên, có lúc đủ để làm tràn một ly nước đã đầy.
Thập giá mà chúng ta vác, người khác có thể không thấy. Nó có thể là một sự việc bên trong chứ không phải bên ngoài như sự chán nản, buồn phiền. Có những thập giá nặng nề dù chúng ta không thể dùng cân để cân nó.
Tuy nhiên, thập giá đau đớn nhất là thập giá mà chúng ta không thể lựa chọn được. Ví dụ như thập giá vì phải sống với một con người khó khăn. Chọn cho mình một thập giá dễ dàng hơn nhiều so với việc chấp nhận một thập giá đến với mình trên con đường của bổn phận. Có thể nói như thế.
Vượt trên những thập giá ấy mà mỗi người chúng ta đều gặp, có những thập giá đến với chúng ta vì chúng ta là những môn đệ của Đức Kitô. Những lý do chung nhất khiến người ta từ bỏ việc thực hành đức tin không thuộc bình diện trí thức mà thuộc bình diện đạo đức. Người ta biết rằng theo Đức Kitô có thể làm đảo lộn những kế hoạch của họ, vốn là những kế hoạch vụ lợi và tìm hư danh và như thế theo Đức Kitô có nghĩa là nói không với chính họ trong một số việc.
Đức Kitô không chọn con đường của sự dễ dàng và đào thoát. Người chọn con đường hy sinh bản thân và đau khổ. Điều đó không có nghĩa là Người thích thú với sự đau khổ. Không. Đó là vì Người chọn con đường của tình yêu. Và tình yêu không tránh khỏi việc dẫn đến khổ đau. Nhưng rồi tình yêu là vật duy nhất làm cho đau khổ có thể được tha thứ và sinh hoa trái.
Chúng ta được cứu không phải bởi đau khổ của Đức Kitô nhưng bởi tình yêu của Người. Và qua sự đau khổ của Người mà Người đạt đến vinh quang. Nếu chúng ta đau khổ với Người ở đời này thì chúng ta sẽ được đội mão triều thiên với Người trên thiên đàng.
Con đường đau khổ là một con đường hẹp và khó khăn. Từ nay, chúng ta có một an ủi lớn vì Đức Kitô, Đấng vô tội và thánh thiện, đã đi qua con đường đau khổ ấy trước chúng ta và đã đi trọn con đường ấy cho đến cùng. Con đường ấy không giống như trước khi Người đi qua. Và một ánh sáng huy hoàng chiếu sáng nó. Và nó không chấm dứt ở núi Canvariô nhưng ở cuộc Phục sinh.
Một trong những điều dễ chịu, thú vị trong đời sống là gặp được một người cởi mở, thân thiện: TN 13-A7
Một trong những điều dễ chịu, thú vị trong đời sống là gặp được một người cởi mở, thân thiện, nồng nhiệt và mến khách. Lòng mến khách là một dấu ấn xác nhận người môn đệ chân chính của Đức Kitô.
Khi mùa đông dài chấm dứt, thì mùa xuân trở lại. Dọc theo đường phố, người ta vui mừng. Họ kéo màn và mở các cửa sổ. Không khí mát, ánh sáng mặt trời và hơi ấm tràn vào nhà họ. Họ thốt lên “Cám ơn Thiên Chúa vì mùa xuân về, cám ơn Thiên Chúa vì ánh sáng mặt trời!”
Thế rồi đúng lúc ấy, một người ăn xin xuất hiện ở cuối đường. Anh ta bị phát hiện qua những cửa sổ mở rộng. Dọc theo chiều dài của con đường những cửa sổ đóng lại từng cái một các tấm màn cửa kéo kín lại, và các then cửa gài chặt lại. Người ăn xin gõ vào mỗi cánh cửa nhà trên đường, nhưng không có cánh cửa nào mở ra cho anh ta.
Một cách tuyệt vọng, anh ta rời bỏ con đường và hướng về một nơi nào khác. Không lâu sau khi anh ta đi khỏi, các màn cửa lại được kéo ra lại, các cánh cửa một lần nữa mở ra. Ánh sáng mặt trời và không khí trong lành lại ùa vào. Và mọi người lại vui mừng.
Điều lạ lùng là nhà chúng ta luôn mở rộng để đón nhận ánh sáng mặt trời và không khí trong lành của Thiên Chúa nhưng thường không mở ra để đón nhận con cái của Người, đặc biệt khi người này đến trong cảnh cơ hàn.
Đức Kitô khuyến khích chúng ta phải mến khách. Ngày nay lòng mến khách rất khác với ngày xưa khi không cần khóa chặt cửa nhà mình. Khổ nỗi, những ngày ấy đã qua rồi. Ngày nay là thời buổi ổ khóa, then cài, lỗ quan sát, nhìn qua cửa, hệ thống báo động, chó… Vì thế ngày nay hơn bao giờ hết, cần đến lòng mến khách thân thiện. Trong thế giới ngày nay, có rất nhiều cảnh cô đơn, nhiều người xa lạ, ngoại kiều, kẻ tha hương.
Lòng mến khách đối với một người bạn không có gì đáng kể. Nó không bao hàm nguy cơ, và xem ra ân nghĩa có thể được đáp trả. Nhưng lòng mến khách đối với một người xa lạ đến với mình. Lòng mến khách không có nghĩa làm họ giống mình. Nó có nghĩa chấp nhận những người khác như họ vẫn thế. Điều này làm họ tỏa sáng sự xa lạ của họ, đồng thời vẫn trở thành thành viên của cộng đoàn.
Nếu những người Kitô hữu sống thành những khu đặc biệt cứ trong đó họ củng cố và bảo đảm cho chính họ và những đặc tính của họ thì thế giới còn hy vọng được điều gì? Đức Kitô kêu gọi chúng ta phải đến với người xa lạ. Và phần thưởng sẽ rất lớn. Người nói rằng ngay cả một hành động nhân từ nhỏ bé như cho uống một chén nước lã thì hành động này cũng sẽ được thưởng công. Nhưng cũng có phần thưởng trần thế và là những phần thưởng lớn – Sự phát triển hiểu biết, tình thân hữu và hợp tác là những điều mà những người láng giềng của chúng ta đòi hỏi.
Đó là một loại mùa xuân mà chúng ta có thể làm cho nó đến nhà và khu phố của chúng ta, một mùa xuân sẽ xua đuổi mọi đám sương mù của sợ hãi, nghi kỵ, thù hận. Đối với những môn đệ của Đức Kitô, lòng mến khách không phải là điều phụ thuộc ngoại lệ. Nó là trung tâm của Tin mừng. Và động lực tối hậu của nó luôn sáng tỏ, đón tiếp người xa lạ là đón tiếp chính Đức Kitô.
Lòng mến khách không phải mở cửa nhà mình cho bằng mở cửa tâm hồn mình. Mở cửa tâm hồn mình thường gặp những nguy cơ. Người ta có thể bị tổn thương. Nhưng mở cửa tâm hồn mình là bắt đầu sống. Đóng cửa tâm hồn mình là bắt đầu chết.
Đức Giêsu nói:”Ai cho anh em dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, người đó sẽ không mất: TN 13-A8
Đức Giêsu nói:”Ai cho anh em dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Cho một chén nước lã là một vật rất nhỏ. Tuy nhiên trong sa mạc một chén nước có thể là một sự khác nhau giữa sống và chết. Điều này cho thấy một công việc to lớn không buộc phải có nhiều.
Khi nhà văn Ái Nhĩ Lan, Oscar Wilde bị bắt giam (vì tội đồng tính luyến ái), đối với ông quả là một điều sỉ nhục ghê gớm. Ông đã từng nổi tiếng là một nhà văn tinh tế và được xem như một nhà văn vừa nổi tiếng, vừa tài ba.
Khi Wilde được hai người cảnh sát dắt từ trại giam đến tòa án, một đám đông ồn ào, tức giận bu lại. Nhưng sau đó, một người bạn của ông xuất hiện, ông này biểu lộ một cữ chỉ thân thiện và tôn trọng làm đám đông phải im lặng. Khi Wilde đi ngang qua, tay bị còng lại, đầu cúi xuống, người bạn ông giở nón chào ông. Đó là một điều rất nhỏ nhặt nhưng có giá trị to lớn đối với ông trong lúc đó. Sau này, khi suy nghĩ về cử chỉ đơn sơ ấy, Wilde đã viết:
“Người ta hẳn đã lên thiên đàng vì những điều nhỏ nhặt hơn thế. Tôi không biết trong lúc này đây bạn tôi có biết rằng tôi vẫn còn nhớ tới hành động của anh ấy. Đó không phải là một hành động mà người ta có thể trở lại bằng những lời cám ơn hình thức trong một từ ngữ hình thức. Tôi lưu trữ hành động ấy trong nhà kho của tâm hồn tôi. Tôi giữ nó ở đó như một món nợ thầm kín mà tôi không bao giờ có thể trả lại”.
“Nó được ướp và giữ cho mềm mại bằng nhũ hương của biết bao nước mắt. Khi sự khôn ngoan đã trở nên vô ích đối với tôi, và triết học đã trở nên cằn cỗi, và những châm ngôn, tục ngữ của những người tìm cách an ủi tôi như tro bụi trong miệng tôi thì ký ức về hành động yêu thương thầm lặng đã mở ra cho tôi mọi giếng nước của lòng thương xót, làm bằng những nụ hoa giống hoa hồng, và đưa tôi ra khỏi những nỗi cay đắng của đời sống lưu đày cô tịch để bước vào sự hòa điệu với Đấng bị thương tích, bị tan nát và là trái tim cao cả của thế gian”.
Một công việc được làm với tinh thần nào, làm cho ai và trong trường hợp nào có thể làm một công việc nhỏ trở nên to lớn, không phải chúng ta phải làm bao nhiêu công việc nhưng chúng ta phải đặt vào đó bao nhiêu tình yêu mến. Ít người trong chúng ta có được những cơ hội để làm những công việc lớn. Nhưng cơ hội cho một bát nước lã có thể đến với chúng ta nhiều lần trong ngày. Chén nước lã là biểu tượng của công việc tốt lành nhỏ bé. Công việc nhỏ bé tuy không nhiều, nhưng có thể đem lại sự bình an.
Một linh mục người Úc đến Ái Nhĩ Lan và thăm Dublin. Chiều hôm ấy, ông được hỏi ông thấy Dublin như thế nào. Ông trả lời “Dublin là một trong ít thành phố trên thế giới để cửa mở rộng cho bạn, hoặc người ta sẽ nói:”Xin lỗi” nếu thình lình người ta đâm sầm vào bạn, hoặc “xin tha lỗi” nếu người ta chen lấn bạn”.
Vị linh mục ấy căn cứ vào những việc rất nhỏ bé để đưa ra lời nhận xét. Tuy nhiên, khi tích lũy những điều nhỏ bé ấy, ông đã rút ra kết luận rằng Dublin căn bản là một nơi thân thiện. Những bông hoa nhỏ có thể không có nhiều hương thơm. Nhưng gom lại thành bó, chúng có thể làm cho cả căn phòng tỏa hương thơm ngát.
Công việc có thể không to lớn nhưng có thể đem lại sự an ủi giúp đỡ cho người nhận được hành động ấy. Hẳn nó phải có một phẩm chất nào đó. Phẩm chất ấy là gì? Đó là sự nồng ấm. Mọi công việc đi từ trái tim đều có sự nồng ấm đó
Phần cuối của bài giảng về sứ mạng tông đồ. Chúa Giêsu thẳng thắn cho biết những đòi hỏi khó: TN 13-A9
Phần cuối của bài giảng về sứ mạng tông đồ. Chúa Giêsu thẳng thắn cho biết những đòi hỏi khó khăn của Tin Mừng: Vì Tin Mừng là giá trị cao quý nhất cho nên nếu cần thì người ta phải dám từ bỏ tất cả những thứ khác để đổi lấy nó.
Sau đó Chúa Giêsu khuyến khích người ta quảng đại tiếp đón những sứ giả của Tin Mừng, vì tiếp đón họ chính là tiếp đón Chúa và sẽ được Chúa trọng thưởng.
B.... nẩy mầm.
1. Thú thật Lời Chúa mấy ngày nay khiến con rất sợ: để đón nhận Tin Mừng của Chúa, con phải hy sinh và từ bỏ rất nhiều ; khi làm tông đồ của Chúa, con cũng sẽ đương đầu với biết bao khó khăn và đau khổ. Con hiểu được tại sao nhiều người không kiên trì sống đức tin, và nhiều người ngại làm tông đồ cho Chúa. Con cũng sẽ đào ngũ chăng ? Con cũng sẽ nản lòng chăng ? Thật tình con không muốn thế bao giờ. Xin cho con được kiên trì và can đảm.
2. “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy”: hiện giờ con đang yêu những gì hơn Chúa ? Xin cho con sức mạnh dám từ bỏ những thứ đó để con xứng đáng hơn với Chúa.
3. “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng đáng với Thầy”: xin cho con biết thập giá hiện nay của con là gì, và xin thêm sức để con vác nổi thập giá ấy.
4. Một thiếu nữ trẻ đẹp, con nhà quyền quý muốn nhập vào một dòng tu rất khắc khổ. Để thử thách ơn gọi của cô, Mẹ Bề trên vẽ lên một bức tranh đáng sợ về những đòi hỏi khắc khe của tu viện. Nghe xong, cô bé có vẻ lung lay và im lặng. Một lúc sau Mẹ bề trên hỏi:
- Con không nói gì ư ?
- Thưa mẹ con chỉ có một câu hỏi: trong nhà dòng này có nhiều cây Thánh giá không ?
- Ồ, khắp nơi trong nhà, chỗ nào cũng có cây Thánh giá.
- Vậy thì thưa mẹ, con hy vọng sẽ không gặp gì khó khăn cả, bởi vì ở mọi nơi và trong mọi giây phút, con đều có Thánh giá bên cạnh. Con có thể chịu đựng tất cả. (Góp nhặt)
5. “Ai giữ lấy mạng sống mình thì mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10,39)
Kìa một em bé ! Đúng rồi, một em bé ! Làm thế nào để cứu em bây giờ ? Hàng chục cặp mắt đang dõi theo em với đầy vẻ lo lắng và thương xót. Bỗng từ trên thành cầu, một bóng người lao vội xuống cố nắm lấy bàn tay nhỏ xíu của em đang quờ quạng giữa khoảng không tưởng như vô vọng… Em bé đã được cứu sống ! khoảnh khắc quá mỏng manh giữa cái chết và sự sống.
Câu chuyện đã xảy ra vào một buổi chiều tháng năm cách đây gần một năm… như một luồng sáng chiếu vào cõi lòng vốn vị kỹ của tôi, và tôi đã hiểu một tình yêu cao cả đòi hỏi một sự dấn thân quên đi chính mạng sống mình để cứu lấy mạng sống người khác. Tình yêu đó chính là tình yêu mang tên Giêsu.
Lạy Chúa, xin giúp con hiểu thế nào là mầu nhiệm “tự huỷ” của Ngài, để luôn biết quảng đại dấn thân cứu sống người anh em mà không sợ đau thương hay nguy hiểm. (Hosanna)
6. Trong cuốn phim “American Anthem” có hai cảnh trái ngược hẳn nhau như sau: - một thanh niên kia bị tai nạn và phải cưa mất một chân. Anh không thể nào chấp nhận thực tế đó. Anh ở miết trong phòng, kéo rèm che kín các cửa sổ, cấm không cho ai vào phòng, và ở đó mà rầu rỉ.
- Còn Robert Bruce thì một hôm đang đi trên đường phố bỗng nghe ai đó cất tiếng hát vang rất vui vẻ. Khi nhìn kỹ thì ra đó là một người cụt hết cả hai đang ca hát trên chiếc xe lăn.
Trong hai người đó, một người không chấp nhận thập giá đời mình nên phải u sầu thất vọng, còn người kia biết chập nhận nên đã tìm thấy niềm vui.
Thập giá nào trong đời bạn mà bạn thấy không chấp nhận nhất ? (Mark Link, Vision 2000)
7. “Con cám ơn Chúa vì sự tàn phế của con, vì nhờ đó con đã tìm gặp chính bản thân con, công việc của con và Đức Chúa của con” (Helen Keller)
Với Chúa nhật XIII này, kết thúc bài “diễn từ sai đi truyền giáo”.
Sẵn sàng để theo Đức Kitô.
Đức Giêsu nói với “mười hai môn đệ” thân thiết mà Người vừa phong làm tông đồ, tức là những: TN 13-A10
Đức Giêsu nói với “mười hai môn đệ” thân thiết mà Người vừa phong làm tông đồ, tức là những kẻ “được sai đi” của Người.
Bài diễn từ có chia làm phần rõ rệt:
- Phần thứ nhất tập trung vào SỰ SẴN SÀNG TRỌN VẸN và sự gắn bó triệt để của người môn đệ vào Đức Kitô.
. Đức Giêsu đòi người môn đệ yêu mến Người hơn những gì thân yêu nhất: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy không xứng đáng làm môn đệ Thầy. Ai yêu con cái hơn Thầy không xứng làm môn đệ Thầy”.
Những lời này không đi ngược với giới răn thảo kính cha mẹ. Trong thể văn khoa đại kiểu sêmít, những lời này chỉ nhắm thiết lập một trật tự ưu tiên trong những lựa chọn. Những tình cảm gia đình, dù chính đáng, không thể kìm hãm, càng không thể ngăn chặn những môn đệ bước theo Đức Giêsu. Những mối dây liên hệ thiêng liêng này chỉ là tương đối so với mối liên hệ tuyệt đối: gắn bó vô điều kiện vào bản thân Đức Giêsu.
Ở đoạn văn trước đó, cũng đậm đặc chất sêmít, Đức Giêsu đã nói không úp mở cho những ai muốn theo Người biết những chọn lựa đau đớn mà họ sẽ phải trải qua: “Thầy đến để tách lìa con trai khỏi cha, con gái khỏi mẹ, con dâu khỏi mẹ chồng, người trong một nhà sẽ chống đối nhau”. Claude Tassin gợi ý: “Hãy nghĩ tới những người ngoại đạo mới trở lại, từ chối không thờ lạy thần của gia đình vì đức tin Kitô hữu... Giữa “ngôi nhà” của Thiên Chúa (câu 25) và “ngôi nhà của riêng mình”, người môn đệ luôn luôn bị đẩy vào chỗ phải lựa chọn giữa “nhà” của Thiên Chúa và “nhà của riêng mình”.
. Đức Giêsu sẽ đi xa hơn nữa: Người mời gọi môn đệ yêu mến Người hơn chính bản thân họ, hơn cả mạng sống của họ! Và vì người môn đệ đã chọn chia sẻ vận mệnh với Người, Đức Messia chọn đóng đinh, họ sẽ không ngại ngùng vác lấy “thập giá bản thân” mà “theo Người”.
Nếu ta thường cho rằng kiểu nói “vác thánh giá” thuộc về một ngôn ngữ ước lệ thì các độc giả của Mt không nghĩ thế, vì họ phải sống trong một hoàn cảnh bắt bớ, đe doạ, nơi cái chết trên thập giá xảy ra rất thường và là hình khổ tàn bạo, nhục nhã hơn hết, hình khổ dành cho nô lệ.
Thế nên ai chọn nối bước Đức Giêsu chắc chắn rồi sẽ, như Thầy mình, gặp phải hiểu lầm, thù ghét, và cả bắt bớ nữa.
2. Đón tiếp các môn đệ Đức Kitô.
- Với 4 câu, phần thứ hai trở lại đề tài “ĐÓN TIẾP” môn đệ Đức Kitô.
. Trước hết để xác định sự duy nhất giữa Đấng sai đi và người được sai đi: “Ai tiếp đón các con là tiếp đón Thầy; ai tiếp đón Thầy là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”.
. Sau đó, để phân biệt chi tiết sự đón tiếp theo 3 mức độ giảm dầm một cách nghịch lý: các “tiên tri”, những “người công chính”, những “kẻ bé mọn”, và long trọng xác nhận họ có tư cách xứng đáng là sứ giả của Phúc Âm.
- Các “tiên tri” hiển nhiên là những Kitô hữu. Họ đã thi hành một tác vụ được chấp nhận trong Giáo Hội sơ khai.
- Những “người công chính” có lẽ là những thành phần được kính trọng trong cộng đoàn Kitô hữu.
- Còn những kẻ “bé mọn” là các môn đệ, họ chẳng làm gì hơn là “tin” vào Đức Giêsu. Họ cũng đáng được trân trọng và yêu mến đặc biệt.
J. Perron ghi nhận: “Không ý nghĩa sao, khi “diễn từ tông đồ” này khởi đầu như chỉ nói riêng với nhóm 12, tách họ riêng ra, trao cho họ trách nhiệm và tư cách người được sai đi của Đức Kitô, lại kết thúc bằng trao ban cho cả những người bé nhỏ nhất sự cao trọng và trách nhiệm y như thế?”.
III. BÀI ĐỌC THÊM:
(Mgr. L. Daloz, Le Règne descieux s'est approché DDB).
Đức Giêsu không chỉ đồng hoá với các tông đồ mà Người sai đi loan báo Nước Thiên Chúa. Người còn đồng hoá với mỗi một môn đệ, nhất là với những người bé nhỏ nhất. Người sẽ nói: “Ai vì danh Thầy mà đón tiếp một trẻ nhỏ chính là đón tiếp chính Thầy” (18,5). Đặc biệt, Người mời gọi ta nhận biết Người trong những kẻ túng cùng, khốn khổ: “Quả thực, Thầy bảo anh em, mỗi lần anh em làm như thế cho một trong những kẻ bé mọn này, là anh em làm cho chính Thầy” (25,40). Hôm nay, ngay khi nói với các tông đồ: “Ai tiếp đón anh em là tiếp đón Thầy”. Người nói tiếp và cho biết Người gắn bó biết bao với từng người: cho một tiên tri vì họ là tiên tri, cho người công chính vì họ là người công chính, cho kẻ bé mọn nhất vì họ là môn đệ. Ai đón tiếp họ, Người hứa sẽ ban phần thưởng. Khi đón tiếp họ, cũng là chọn đứng về phía Người. Giữa Đức Giêsu và các môn đệ có một dây hiệp thông sâu xa. Đôi khi ta nói về “bí tích huynh đệ”. Các bí tích, trước hết là bí tích Rửa tội, không biến anh em ta, một cách nào đó, thành những “bí tích” của Đức Giêsu Kitô mà họ đã được ghi dấu đó sao? Cái nhìn đức tin phải giúp ta nhận biết Đức Giêsu hiện diện trong anh em ta. Mỗi người chúng ta được sai đến với con người để cho họ biết Đức Giêsu đã đến gần...”.
2. Điều bình thường nhất trở thành nơi diễn ra lắm bất ngờ.
Yêu thương, tiếp đón là những từ ngữ thuộc về ngôn từ và phong tục của Nước Trời. Cái bình thường, cái thường ngày trở thành ân sủng, khả năng khám phá ra niềm vui Nước Trời. Điều bình thương nhất như cho một ly nước uống, bỗng trở thành nơi diễn ra sự bất ngờ, mạc khải. Có lẽ Thiên Chúa muốn thời gian nghỉ hè sắp tới sẽ giúp ta trở nên biết quan tâm tới người khác, tới Đấng khác. Như thế, chúng ta sẽ trở thành những con người của niềm tin, những tín hữu.
Mở đầu bài Tin Mừng Chúa phán: “Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn thầy, thì chẳng xứng đáng: TN 13-A11
Mở đầu bài Tin Mừng Chúa phán:
“Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn thầy, thì chẳng xứng đáng với thầy, và kẻ nào yêu con trai, con gái hơn thầy thì không xứng đáng với thầy… Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì thầy, thì sẽ tìm lại được nó.”
Thánh Phêrô Đinh Văn Dũng (tử đạo ngày 6-6-1862, 62 tuổi) cùng bị bắt và giam với Thánh Phêrô Đinh Văn Thuần (tử đạo ngày 6-6-1862, 60 tuổi). Gông cùm xiềng xích cũng như những cực hình dã man không làm các Ngài bò Chúa, nên các quan đã dùng đến mưu kế tình cảm để thuyết phục hai ông: quan cho lính dẫn hai ông về thăm gia đình, gặp lại vợ. Trước cảnh gông cùm xiềng xích, người cha, cả gia đình đều nức nở khóc lóc buồn thảm. Nhưng điều quan quân không thể ngờ được. Hai ông can đảm bình an ủi vợ con sống can đảm, chấp nhận việc hy sinh của các ông. Ông Phêrô Dũng nói: “Hãy vui lên, chúng tôi được dâng mạng sống vì danh Đức Kitô.” Đều năm 1862, thảm họa đã đổ xuống trên làng Đông Phú. Trong dịp này, hai ông Phêrô Dũng và Phêrô Thuần cùng bị bắt giải về huyện Quỳnh Côi (Thái Bình). Rồi tống giam vào ngục Ngọc Trí. Tại đây hai ông đã chịu nhiều cực hình, cổ mang gông, chân chịu xiềng xích. Nhiều lần lính đưa hai ông đến trình diện quan, rồi bị cưỡng ép đạp Thập giá. Nhưng hai ông luôn luôn can đảm tuyên xưng đức tin. Các quan đã phải dùng đến mưu kế tình cảm để khuất phục hai ông, quan cho lính dẫn hai ông về thăm gia đình, gặp lại vợ con, những các ông vẫn sẵn sàng hy sinh chết vì Chúa. Quả thực các ông đã giữ vững Lời Chúa, sẵn sàng bỏ qua tình yêu con cái, yêu gia đình để xứng đáng là môn đệ Chúa, để đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu.
Tuy ông Phêrô Thuần đã một lần thối chí và nghe quan đạp lên Thánh giá. Thế nhưng sau khi gặp lại các bạn cũ, ông đã trở lại tuyên xưng đức tin, bất chấp mại đòn vọt dã man hơn trước.
Tháng 4-1862, các quan đày hai ông đến làng Lương Mỹ, giam ở đó hơn hai tháng.
Nhận thấy việc kéo dài thời gian giam giữ hai ông cũng vô ích, các quan kết án thiêu sinh hai ông. Ngày 6-6-1862, quan cho nhốt hai ông vào một cũi chật hẹp, rồi chất củi thiêu sống. Thi thể cháy đen của hai đấng tử đạo được chôn cất ngay tại chỗ. Về sau, giáo hữu đem an táng tại nhà thờ Đông Phú, quê hương của hai vị.
Thánh Antôn Nguyễn Đích (tử đạo ngày 12-8-1838, 69 tuổi) cũng là con người triệt để tuân theo Lời Chúa.
Khi Thánh Antôn Nguyễn Đích được dẫn ra tòa, quan nói với Thánh nhân:
“Ông đã cao niên, các con đã trưởng thành, các cháu đông đảo, có nhà cửa phong lưu, ông hãy quá khóa để vui hởng tuổi già với đàn con cháu có hơn không?” Thánh Đích trả lời:
“Bẩm quan, con cháu chi cũng mặc, tôi đã lo cho chúng. Tôi có bổn phận tôn thờ Thiên Chúa, quan tha hoặc kết án hoặc kết tội thì tùy, chứ đừng ép bỏ đạo.”
Các quan làm án xử trảm ông Đích, Cha Mai Năm, và ông Mỹ. Bản án được đệ lên triều đình xin châu phê. Ngày 12-8-1838, ba vị được biết vua Minh Mạng đã y án. Cả ba vui mừng hớn hở chuẩn bị tâm hồn lãnh nhận Bí tích hòa giải và rước Mình Thánh Chúa cách sốt sắng. Cũng ngày ấy, ba vị anh hùng hân hoan bước đến nơi xử, vừa đi vừa hát bài Thánh ca: “Chúc tụng Chúa đi, hết thảy công trình Chúa. Muôn ngàn đời hãy ca tụng suy tôn. Chúc tụng Chúa đi, các Thiên Sứ của Người. Chúc tụng Chúa đi, chín tầng trời thăm thẳm… Nào chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần. Mãi muôn đời cùng ca tụng suy tôn…” (Dn 3,57…)
Đến pháp trường Bãy Mẫu, ba chứng nhân quỳ cầu nguyện một lúc. Ông Lý Mỹ sin cử cha Giacôbê Mai Năm và cụ Antôn Nguyễn Đích trước, quan chấp thuận. (coi Thánh Micae Mỹ). Dân lương cũng như giáo phá vòng vây của binh sĩ, ùa vào thấm máu các đấng tử đạo. Thi hài các đấng được rước về làng Vĩnh Trị ngay trong đêm đó, giữa một rừng đèn đuốc sáng rực cả góc trời. Đến sau, hài cốt của ba vị được đem đến nhà chung Kẻ Sở (Ninh Phú)
Thánh Kinh ghi lại những cuộc tiếp đón rất đẹp và rất dễ thương 1/ Abraham thấy 3 người: TN 13-A12
Thánh Kinh ghi lại những cuộc tiếp đón rất đẹp và rất dễ thương 1/ Abraham thấy 3 người khách lạ đang đi trong sa mạc. Ông chạy ra năn nỉ họ vào nhà và ân cần chăm sóc họ. Đó là 3 sứ giả của Thiên Chúa. Đáp lại tấm lòng của Abraham, 3 sứ giả này ban ơn cho vợ chồng son sẻ của Abraham có con trai đầu lòng (St 18); 2/ Một gia đình ở Sunam chẳng những tiếp đón ngôn sứ Elisê, mà còn dọn hẳn cho ông một căn phòng để những lần sau ông tới có chỗ trọ. Đáp lại, Elisê cũng giúp họ thoát khỏi tình trạng son sẻ (bài đọc I); 3/ Gia đình Matta, Maria và Lazarô ở Bêtania là nơi thường xuyên tiếp đón Đức Giêsu và các môn đệ. Đáp lại, Đức Giêsu đã làm cho Ladarô sống lại.
Qua những chuyện trên, chúng ta hãy tìm hiểu thêm hai vấn đề:
1/ Tại sao những chủ nhà ấy quảng đại tiếp đón khách? Thưa vì họ không chỉ nghĩ đến mình mà còn quan tâm tới người khác: Abraham lo cho 3 người khách kia đi trong sa mạc sẽ bị đói khát và không có chỗ nghỉ ngơi để lấy lại sức; gia đình ở Sunam lo sợ ngôn sứ Elisê phải bơ vơ tứ cố vô thân ở một miền đất lạ; gia đình Bêthania thì muốn Đức Giêsu và các môn đệ được nghỉ ngơi sau một thời gian mệt mỏi vì công việc rao giảng Tin Mừng. Trong hai chuyện sau, còn một lý do nữa, là những chủ nhà ấy ý thức rằng những người khách mà mình tiếp đón là sứ giả của Thiên Chúa.
2/ Phần thưởng của tấm lòng quảng đại ấy là gì?
Là sự sống: hai đứa con trai đầu lòng cho hai vợ chồng son sẻ, và mạng sống được trả lại cho Ladarô đã chết 4 ngày. Xét cho cùng, ơn ban sự sống ấy không phải do những người khách, mà chính Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống, ban cho họ.
Những câu chuyện rất đẹp trên đây khuyến khích chúng ta hãy quảng đại tiếp đón:
-Tiếp đón không chỉ là đón người vào trọ trong nhà mình, cho họ ăn, cho họ nghỉ, mà còn là biết quan tâm tới nhu cầu của người khách và đáp ứng theo khả năng của mình.
-Khi tiếp đón, dĩ nhiên chúng ta phải mất mát: mất giờ, mất tiền của, mất công...Nhưng Thiên Chúa sẽ trọng thưởng chúng ta: Ngài sẽ cho sức sống thần linh của Ngài thêm lớn mạnh trong sự sống chúng ta.
2. Chúa Giêsu là số mấy?
Phần đầu của bài Tin Mừng hôm nay đặt vấn đề: người môn đệ của Đức Giêsu đặt Ngài ở số mấy trong đời họ?
Bình thường, người ta coi bân thân là số một, vợ chồng số hai, gia đình số ba thân nhân số bốn... Chúa thì có lẽ cao lắm cũng chỉ từ số năm trở xuống.
Trong đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu kể ra những người dành cho Chúa vị trí số hai:
-Một là cha mẹ, hai là Chúa -Một là con cái, hai là Chúa -Một là mạng sống mình, hai là Chúa
Được xếp ở vị trí số hai như thế cũng là được coi trọng lắm rồi. Nhưng Đức Giêsu vẫn không chịu. Ngài nhất quyết đòi vị trí số một: "Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy; ai yêu mến con trai con gái hơn thầy thì không xứng đáng với Thầy"; Ngài còn đòi chúng ta phải dám mất mạng sống vì Ngài nữa! Mỗi người chúng ta hãy tự hỏi: phần tôi, tôi xếp Chúa vào vị trị số mấy?
3. Nhiều loại từ bỏ.
Có nhiều loại từ bỏ:
-Tôi soạn lại tủ áo của tôi. Nhiều áo quá. Có những chiếc đã cũ và lỗi thời, tôi có thể bỏ bớt để đem cho người nghèo.
-Trong sân nhà tôi có hai cây mọc cạnh nhau. Nếu cứ để như thế thì hai cây vẫn sống, nhưng không cây nào lớn mạnh tốt được. Tôi nên bỏ bớt một cây để cây kia mọc tốt hơn.
- Nha sĩ khám thấy có một chiếc răng của tôi đang bị hư nặng. Ông bảo phải bỏ nó đi, nếu không, nó sẽ lây cho những chiếc bên cạnh.
Đức Giêsu kêu gọi người đi theo Ngài hãy từ bỏ. Bỏ những gì và bỏ cách nào? - Có những thứ ta có thể bỏ. Thí dụ bớt chút thức ăn bớt chút giờ ngủ khi ta ăn chay hãm mình.
- Có những thứ ta nên bỏ để cuộc sống của ta nên tốt hơn. Thí dụ khi ta nhường nhịn không trả đũa, không đòi lại của cải hoặc danh dự bị người khác làm tổn thương, mất mát.
- Có những thứ ta bó buộc phải bỏ như: tội lỗi, thói xấu, dịp tội.
4. Hai chi tiết quan trọng trong bài Tin Mừng Trong bài Tin Mừng này, có hai chi tiết mà nếu ta không dừng lại tìm hiểu kỹ thì sẽ để vuột mất những ý nghĩa rất sâu sắc:
- Câu 38 (quyển Bài đọc ấn bản 1970 bỏ sót không in câu này) "Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy": Theo cách xử tử của Rôma, người bị kết án tử đóng đinh thập giá phải tự vác lấy thập giá của mình (chỉ vác thanh ngang, còn thanh dọc để sẵn ở pháp trường) đi ra pháp trường. Vì thế, kiểu nói "vác thập giá mình" có nghĩa là bị kết án tử. Do đó, câu nói của Đức Giêsu có nghĩa là ai muốn xứng đáng làm môn đệ đi theo Chúa thì phải chấp nhận thân phận mình như là người đã bị kết án tử.
- Câu 39 "Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó": chữ Hy Lạp psyche có nghĩa rất rộng, chỉ “lòng", "trí", "tim", tổng quát là cả "cuộc sống", toàn thể "con người". Như thế,"đành mất mạng sống" có nghĩa là dám mất tất cả. Và như vậy thì kiểu nói này cũng đồng nghĩa với ý tưởng coi mình như người đã bị kết án tử mà ta vừa phân tích ở trên.
5. Những bài toán.
Thông thường, người ta thích làm toán công và toán nhân, nghĩa là cứ muốn có thêm và có thêm thật nhiều thật nhanh.
Nếu ta đọc kỹ lại những lời Đức Giêsu dạy dỗ các môn đệ thì thấy Ngài dạy ta làm hai bài toán khác, đó là toán trừ và toán chia: làm toán trừ là từ bỏ, làm toán chia là bố thí, chia xẻ, phân phát cho người khác.
Tuy làm toán trừ và toán chia thì ta sẽ bị mất mát. Nhưng chính Thiên Chúa sẽ đích thân làm toán cộng và toán nhân cho ta: "Chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất vì Thầy và vì Tin Mừng mà bây giờ ngay ở đời này lại không nhận được...gấp trăm... và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.
6. Chuyện minh họa
a/ Tiếp đón
Chúa hứa với một bà là Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bài rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.
Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói: "Không, hôm nay tôi không giúp anh, vì Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều gì". Bà đuổi anh và đóng cửa lại.
Mấy phút sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở cửa nhanh hơn trước. Thấy gì? Vài người già nghèo nàn. "Rất tiếc, tôi đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ các ông". Rồi bà đóng sầm cửa lại.
Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh xin ăn và nghỉ qua đêm. "Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến. Tôi không thể tiếp anh". Người ăn xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.
Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.
Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ. Bà ngủ: quên và mơ thấy Chúa đến với bà và nói: "Hôm nay Ta đã đến với con 3 lần và cả 3 lần con đều đuổi Ta".
b/ Mất và được
Tái ông thất mã: Ngày xưa có một ông lão ở gần cửa ải mất một con ngựa. Có người đến thăm phàn nàn cho sự rủi ro. Ông đáp: "Biết đâu chuyện mất ngựa chẳng là điều may." Vài ngày sau, con ngựa cũ trở về lại rủ được một con ngựa Hồ rất hay. Có người cho đó là điều may mắn. Ông nói: "Chưa hẳn được ngựa là may đâu” Ông có đứa con trai, thấy ngựa Hồ hay, liền bắt cởi thử, chẳng may bị ngã ngựa té gãy chân. Nhiều người cho rằng xui xẻo. Ông lại nói chưa biết chừng đây là điềm báo trước điều phúc cho gia đình ông. Qua năm sau, giặc Hồ tràn sang nước ông. Theo lệnh vua, các trai tráng trong làng đều phải sung vào cơ ngũ đi dẹp loạn, 10 người chỉ sống sót được một. Con trai ông vì tàn tật nên được miễn dịch, nhờ đó mà thoát chết, gia đình ông được an toàn. Nên việc họa phúc không biết đâu mà ngờ được.
Văn hào hiện sinh vô thần Jean Paul Sartres có nói: “Hỏa ngục là người khác!” Thật là câu: TN 13-A13
Văn hào hiện sinh vô thần Jean Paul Sartres có nói: “Hỏa ngục là người khác!” Thật là câu nói quái gở, đi ngược lại hoàn toàn tinh thần Phúc Âm.
Đối với chúng ta, người khác là ai? Ta hãy nghe Chúa Giêsu trả lời: Người khác, chính là Ta: “Sự gì ngươi làm cho một kẻ bé nhỏ nhất vì danh Ta, là làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
Người khác đó ở đâu? Làm sao tìm ra họ? Họ ở một thế giới khác? Họ ở chân trời góc biển, ở tận Châu Phi, Á châu xa lắc?
Không! Như Lazarô, họ ở ngoài cửa chúng ta. Họ là những người hèn mọn không ai nghĩ tới, những kẻ lạc loài, không cửa không nhà. Họ ở ngay đường phố, cùng chung cư hàng xóm chúng ta. Cũng có thể họ là những người trong gia đình, nhưn ta đã cố tình quên họ trong cảnh sống cô đơn, góa bụa, già cả của họ. Họ là “hỏa ngục của ta”, vì họ làm rầy ta trong cảnh sống “Thiên đàng” mà ta cho là đã tạo dựng được.
Hôm nay, qua bài Phúc Âm, Chúa dạy: “Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu”.
Chúa dạy chúng ta ân cần tiếp đón anh em, một vấn đề được Kinh Thánh nhiều lần nhắc đến. Phúc Âm noái đến Chúa Kitô như một người khách mà người ta niềm nở đón tiếp hay là thờ ơ xua đuổi. Nên chú ý rằng Chúa Giêsu không bao giờ mời khách, nhưng Ngài luôn là khách được mời. Ngài đến cách riêng với người tội lỗi để có dịp gọi họ trở lại, như tại nhà Matthêô (Mt 9,10-18) và Giakêu (Lc 19,5-10). Ngài đến với gia đình quen thân của hai chị em Martha và Maria, cũng chỉ để nói lên một sự cần thiết nhất là lắng nghe và thực thi Lời Chúa. Ngài đến như một người khách lạ đến khuýay động lòng người, đặt lại mọi vấn đề. Vì thế, Gioan nói: “Người đến trong nhà Người và các gia nhân Người không tiếp nhận” (Gn 1,11)
Vì thế, chúng ta phải ân cần tiếp đón anh em trong niềm tin, vì người hành khất đến gõ cửa, người lao động đến xin việc làm, “người hỉ khách ấy chính là Ngài”.
Ở xứ Palestine, vấn đề nước là vấn đề sinh tử. Davit trong cánh đồng khô cháy Rơphaim (2 Samuel 23,15) đã kêu lên: “Chớ gì tôi được uống nước ở Belem!” Giọt nước ấy, Chúa Giêsu đã đến xin cùng thiếu nữSamaria bên bờ giếng, giữa một trưa hè. Phải chăng nhiều lần Ngài cũng bị từ chối, nên Ngài hứa phần thưởng cho những ai cho hẻ khác chỉ một bát nước lã. Và phải chăng cách đón tiếp anh em ân cần hơn cả, là tìm cách cho họ được iết và sống với Chúa là “suối hằng sống”. “Ai tin Ta, thì như lời Thánh Kinh dạy: Từ lòng họ nước hằng sống sẽ chãy ra như giòng sông” (Gn 7,38).
Thánh Bác sĩ Giuseppe Mascatti lúc đậu bác sĩ lúc 22 tuổi. Cả cuộc đời chuyên lo ngo người nghèo ở thành Naples. Bác sĩ luôn khuyên bảo các thanh thiếu niên gặp gỡ điều này: trước khi uống thuốc lo đi xưng tội rước lễ đã. Ngài được tôn phong Hiển Thánh vào Chúa nhật cuối tháng 10 năm 1987.
Lạy Chúa, xin cho con tìm thấy Chúa trong người anh em.
Lại đảo Xêcilia ở bên Italia, dân chúng còn truyền miệng nhau câu chuyện về một hoạ sĩ tài: TN 13-A14
Lại đảo Xêcilia ở bên Italia, dân chúng còn truyền miệng nhau câu chuyện về một hoạ sĩ tài danh trong vùng đã sống cách đây vài trăm năm và là tác giả bức họa nổi tiếng về cuộc đời của Chúa Giêsu được trưng bày nơi nhà thờ chính toà trong vùng. Sau thời gian làm việc, họa sĩ đã vẽ xong các dung mạo tông đồ, nhưng còn hai dung mạo không vẽ được, đó là dung mạo của Chúa Giêsu và dung mạo của Giuda; người môn đệ phản Thầy. Vì ông không tìm được người làm mẫu, nên ông phải đình chỉ lại việc vẽ của mình để đi tìm dung mạo của Chúa Giêsu.
Sau nhiều ngày, nhiều tháng vất vả để đi tìm người mẫu cho Chúa Giêsu, tình cờ một hôm ông đã gặp được chàng thanh niên trông mặt khôi ngô tuấn tú, ông mời về làm mẫu cho dung mạo của Chúa Giêsu.
Nhưng giờ đây, đến lúc tìm người mẫu để vẽ dung mạo của Giuda, ông đã phải ngưng việc để đi tìm người làm mẫu cho dung mạo của Giuda, và ông mất nhiều năm mà không tìm được. Đến lúc gần cuối đời, tưởng mình sẽ không thể hoàn thành công việc này được nữa, ông sắp thất vọng thì đột nhiên ông gặp mặt người hành khất rách rưới đi ngang qua, vẻ mặt in đầy những vết của sự khổ đau và gian ác. Ông mời người hành khất về nhà mình làm mẫu để vẽ dung mạo của Giuda trong bức họa về cuộc đời của Chúa Giêsu.
Nhìn thấy bức tranh và những đồ trưng bày trong căn phòng của họa sĩ, người hành khất biến sắc, thái độ càng lúc càng trở nên bối rối hơn. Nhà họa sĩ hỏi lại sao? Người hành khất trả lởi rằng: Thưa ông, ông không còn nhớ ra sao? Chính tôi đây là người đã ngồi cho ông vẽ dung mạo của Chúa Giêsu cách mấy chục năm qua, giờ đây cũng chính tôi ngồi làm mẫu cho ông vẽ dung mạo của Giuda, người đồ đệ phản bội Chúa. Thật tôi không ngờ mọi sự đã thay đổi và tôi không hiểu lại sao tôi đã trở nên tồi tệ như vậy.
Mỗi người chúng ta đã được dựng nên giống hình ảnh Chúa và được tái sinh trong Bí tích Rửa Tội để trở nên giống Chúa hơn, trở nên đồng hình đồng dạng với Người, như vậy mỗi người Kitô hữu chúng ta là một Kitô thứ hai. Đó là ân sủng vô giá đã được trao ban cho mỗi người chúng ta ngay từ đầu, cốt để cho chúng ta mỗi ngày một trở nên giống Chúa Giêsu hơn.
Thế nhưng, với thời gian qua đi, mỗi người chúng ta có thể thay vì trở nên giống Chúa Giêsu hơn thì lại trở nên giống người đồ đệ phản bội Chúa là Giuda. Chúng ta hãy xét mình lại xem hiện nay tôi còn giữ nguyên vẹn hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô không để có thể làm mẫu cho anh chị em xung quanh nhìn thấy Chúa Giêsu hiện diện nơi tôi, hay là đã trở thành xấu xí trở thành dung mạo của một người không giống Chúa Giêsu.
Bài Phúc âm hôm nay ghi lại những lời của Chúa Giêsu cho các đồ đệ, đó là một bí quyết quan trọng và căn bản nhất. Để mỗi ngày một trở nên giống Chúa hơn, chúng ta phải yêu mến Chúa trên hết mọi sự, trên hết mọi người, như lời Chúa phán: "Kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Ta, thì không xứng đáng làm môn đệ Ta. Kẻ nào yêu mến con trai con gái hơn Ta, kẻ nào yêu mến mạng sống mình thì sẽ mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Ta thì sẽ tìm được nó", như vậy tình yêu sẽ làm cho hai người trở nên giống nhau.
Để trở nên giống Chúa, người đồ đệ cần phải có một tình yêu thật mạnh mẽ đối với Chúa. Yêu Chúa trên hết mọi sự, trên hết mọi người, kể cả cha mẹ, anh chị em và phải yêu Chúa hơn cả mạng sống mình, nhờ đó ta có thể sống trọn vẹn những gì Chúa đề ra cho những chứng nhân của Ngài, cho mỗi người Kitô hữu chúng ta: "Ai tiếp nhận các con là tiếp nhận Thầy".
Vậy mỗi người chúng ta cần trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn để làm mẫu cho anh chị em nhìn thấy Chúa hiện diện nơi cuộc sống của chúng ta. Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được trung thành với đức tin, được trở nên giống Chúa và cùng nhau tuyên xưng đức tin của mình vào một Thiên Chúa duy nhất.
Ngày 19/06/1988, tại đền thờ Thánh Phêrô ở Rôma, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã: TN 13-A15
Ngày 19/06/1988, tại đền thờ Thánh Phêrô ở Rôma, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong Hiển Thánh 117 Đấng anh hùng Tử Đạo Việt Nam, trước sự tham dự của gần một trăm ngàn người Việt Nam đến từ khắp năm châu và hơn năm chục ngàn người Phi Luật Tân, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Đại lễ đã long trọng tuyên dương các Đấng đã thí mạng sống vì Đức Giêsu Kitô.
+ Các Ngài đã thí mạng sống vì Chúa bằng nhiều cách: bằng sống Tin mừng thương yêu, thân ái với mọi người, cả những kẻ thù bắt bớ làm hại mình ; Thánh Linh mục Dụ nói: “Tôi kính mến Thiên Chúa như thượng phụ, kính Vua như trung phụ, và song thân như hạ phụ. Không thể nghe cha ruột mà hại Vua, tôi cũng không phải vì Vua mà phạm đến thượng phụ là Thiên Chúa”. Thánh Linh mục Dũng Lạc đã chia sẻ quà tiếp tế cho lính canh. Thánh y sĩ Phan Khắc Hòa đã rộng rãi giúp người nghèo khó, miễn phí cho các bệnh nhân túng thiếu. Martinô Thọ nói: “Công bằng chưa đủ, phải có bác ái nữa”. Ông đã trồng dâu kiếm tiền giúp người nghèo. Thánh trùm Đính thường xuyên thăm viếng trại cùi, và sẵn sàng nuôi người mắc bệnh dịch trong nhà. Thánh Linh mục Triệu đã nhường tiền bữa ăn ân huệ trước giờ xử tử cho người nghèo: “xin cầm tiền và gửi cho người nghèo dùm tôi”.
+ Các Ngài đã thí mạng sống vì Thầy: bằng mặn nồng tình nghĩa gia đình. Thánh Đaminh Úy mạnh dạn tuyên bố giữ vững niềm tin của cha ông: “Nếu tôi cả gan bước lên Thánh giá, thì tôi xúc phạm đến Chúa, bất hiếu với cha mẹ ; vì song thân sinh ra tôi đã dạy tôi trung thành với đức tin cho đến chết”
Thánh Martino Thọ căn dặn các con: “Các con thân mến, ý Chúa muốn cha xa lìa các con mãi mãi, nhưng các con còn có mẹ, hãy cố gắng vâng lời mẹ. Các con lớn hãy nhớ quan tâm chăm sóc các em mình. Các con phải nhớ kính trọng vâng lời anh chị. Hãy yêu thương nhau, siêng năng làm việc đỡ đần mẹ. Hãy nhớ đọc kinh tối sáng và lần chuỗi Mân Côi hằng ngày, Chúa trao cho mỗi người một thánh giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên tâm giữ đạo”.
Thánh Linh Mục Triệu vì thương mẹ, ở lại Huế ba tháng dựng nhà cho mẹ nên bị bắt.
Thánh Trùm Phụng tại pháp trường gặp lại con gái, cô Anna Nhiên, đã đeo ảnh Thánh giá vào cổ con và nói: “Con hãy nhận lấy kỷ vật của ba. Đây là ảnh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, ảnh này quý hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều, con nhé”.
Tình yêu thương của các thánh tử đạo đối với cha mẹ, vợ, con có phải mâu thuẫn với Tin mừng hôm nay chăng ?
Tin mừng nói: “Ai yêu cha mẹ, con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy”.
Phải quả quyết rằng tình yêu thương gia đình của các Ngài đã thể hiện đúng Tin mừng của Đức Giêsu, vì Người đã dạy ta phải giữ giới răn thảo kính với cha mẹ. Chính Người “hằng vâng phục các ngài” (Lc. 2, 51 ; Ga. 19, 26-27).
Sở dĩ các Ngài yêu mến Chúa hơn cha mẹ, con cái vì trung thành với đạo của cha mẹ, vì hiếu thảo với cha mẹ, nối chí của cha mẹ. Hơn nữa, các Ngài hiến mạng sống mình cho Chúa là để cho cha mẹ, vợ con được sống dồi dào trong ơn phúc của Thiên Chúa, đem lại sự sống muôn đời cho cha mẹ, vợ con và muôn người.
+ Các Thánh tử đạo đã thí mạng sống vì Thày bằng sẵn sàng hy sinh dâng hiến tình yêu cha mẹ, tình yêu phụ tử, tình yêu gia đình cho Chúa, còn hy sinh tình yêu mạng sống mình cho Chúa để chứng tỏ các ngài mến Chúa trên hết mọi sự, vì “mọi sự Chúa ban cho, bây giờ Chúa cất đi”, như Thánh Gióp đã nói. Chẳng những các ngài không mất gì mà còn được mạng sống đó đến muôn đời: “Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm thấy được, sẽ cứu được mạng sống ấy, cho đến đời đời” (Mt. 11, 39 ; Lc. 9, 24; Ga. 12, 25)
Như vậy, chúng ta thấy không còn mâu thuẫn giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với gia đình và chính bản thân mình nữa.
Các Thánh tử đạo hy sinh thí mạng sống mình, thí tình yêu gia đình, tình yêu mọi người chính là để cho mình, cho gia đình, cho mọi người được đón nhận tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Nhờ tình yêu Thiên Chúa, chúng ta sẽ thực hiện được tình yêu chân chính, tình yêu cao cả, tình yêu phục vụ mọi người, tiếp đón những bậc ngôn sứ, những bậc công chính vị vọng cũng như những kẻ bé mọn hèn kém và những kẻ thù nữa.
Đó mới thật là người thí mạng sống vì Thầy.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã thúc giục chúng con thí mạng sống vì Chúa để mở rộng tâm hồn ra đón tiếp và phục vụ mọi người như Chúa đã hy sinh cứu độ chúng con. Xin cho chúng con biết noi gương các Thánh Tử Đạo cha ông chúng con, biết hiến thân làm chứng cho Tin mừng của Chúa.
2. Kính yêu cha mẹ và thương mến con cái là điều hợp tình hợp lý. Thế thì tại sao Chúa lại nói nếu ai làm như vậy là không xứng đáng với Ngài ?
3. Cái gì làm cho ta không xứng đáng với Chúa ?
4. Vì lý do gì mà Chúa đòi hỏi chúng ta gắt gao như thế ?
5. “Vác thập giá mình mà theo Thầy”. Tại sao theo Chúa lại phải vác thập giá của chính mình ?
6. Câu: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy” phải hiểu thế nào ?
7. Muốn vác thập giá mình được nhẹ nhàng phải có điều kiện gì ?
8. Trong cuộc sống của mỗi người, có một ngưỡng cửa giúp kiểm chứng cách rõ ràng việc ta phó thác cho Chúa và từ bỏ mình có thật sự và thực tâm hay không là nhờ điều gì ?
ĐIỀU KIỆN ĐỂ BƯỚC THEO ĐỨC GIÊ-SU LÀ PHẢI CÓ TINH THẦN TỪ BỎ Những điều cần phải từ bỏ:
Đức Giê-su đòi người thanh niên giàu có muốn theo Ngài phải về bán hết của cải mà cho kẻ khó: TN 13-A17
Đức Giê-su đòi người thanh niên giàu có muốn theo Ngài phải về bán hết của cải mà cho kẻ khó. Các tông đồ khi được kêu gọi, đã bỏ chài lưới ( Mt 4, 18 – 20 ), bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, từ bỏ người thân: cha mẹ, con trai, con gái... ( Mt 10, 37 ), và một cách quyết liệt hơn ”từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo…” ( Mt 16, 24 – 26 ). Sự từ bỏ đó nói lên thái độ dứt khoát theo Chúa: hãy để kẻ chết chôn kẻ chết của họ ( Mt 8, 21 – 22 ); kẻ cầm cày, mà còn ngoái lại đằng sau thì không xứng với Ngài... Chính Đức Giê-su đã nêu gương trước: “Người vốn dĩ là Thiên Chúa... nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ……hạ minh cho đến chết, chết trên cây thập tự...” Ngài đã làm thế vì yêu mến nhân loại lỗi lầm. Sự đáp trả của Thiên Chúa:
Thiên Chúa luôn đối xử đại lượng với chúng ta, Ngài ban ơn gấp bội cho những ai dám từ bỏ mọi sự vì Ngài: đáp lại tấm lòng hiếu khách của Su-nêm và chồng của bà, ngôn sứ Ê-li-sa, người khách trọ, đã ban cho ông bà sinh được một cậu con trai kháu khỉnh để bế bồng, điều mà ông bà không thể ngờ trước ( Bài đọc 1 ); đối với những ai sẵn sàng từ bỏ mình để cùng chết với Ngài, Đức Ki-tô sẽ ban cho họ sự sống mới, sự sống vĩnh cửu ( Bài đọc 2 ).
Trong bài Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su hứa ban thưởng cho những ai thực hành bác ái cho dù là những việc nhỏ nhặt nhất như một ly nước lã cho kẻ khó ( Mt 10, 42 ), và nơi khác, Ngài đã tuyên bố: “Phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và được sự sống đời đời làm gia nghiệp” ( Mt 19, 30 )
PHẢI YÊU MẾN THIÊN CHÚA NHƯ THẾ NÀO ? YÊU NGƯỜI CÓ PHẢI LÀ YÊU CHÚA KHÔNG ?
Đức Giê-su dạy chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa trên hết: “Ai yêu cha mẹ... con trai con gái hơn Thầy thì không xứng với Thầy...” ( 10, 37 ). Trong sách luật Mô-sê có ghi: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu mến người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.” ( Mt 22, 37 ). Như vậy, rõ ràng, mến Chúa và yêu tha nhân là hai bổn phận khác biệt nhau. Nhưng trong thực hành, hai bổn phận này không thể tách rời. Cũng như khi khen một tác phẩm, là mặc nhiên, ta khen ngợi chính người làm ra tác phẩm đó. Thiên Chúa yêu thương con người là hình ảnh của Ngài, là tác phẩm do tay Ngài tạo nên.
Cha mẹ trần gian, vốn còn nhiều lỗi lầm, thế mà còn biết cho con cái những điều tốt đẹp huống chi Thiên Chúa là người Cha đích thực, người Cha nhân hậu. Ngài đã yêu thương và cứu nhân loại tội lỗi thoát khỏi án chết và ban cho tất cả sự sống mới trong Đức Giê-su. Đó là điều tốt lành lớn lao nhất mà Đức Giê-su đã mang đến cho nhân loại. Ngài đã kết hợp chúng ta thành một thân thể duy nhât, thân thể của Ngài. Chính vì thế, Ngài kể là làm cho chính mình những gì chúng ta thực hiện đối với người anh em, đặc biệt đối với những người bé mọn: “Kẻ nào tiếp đón một trẻ nhỏ này vì danh Ta, tức là tiếp đón Ta” ( Mt 17, 5 ) “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” ( Mt 10, 40 ).
Câu chuyện ngày cánh chung, Thánh Mat-thêu ghi lại, sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn điều đó: Ngày ấy khi Chúa vừa tuyên thưởng xong, thì những người công chính, đứng bên hữu, liền thưa: “Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống, ...khách lạ mà tiếp rước, hoặc mình trần mà cho mặc ? ...đau yếu hoặc ngồi tù mà đến thăm đâu ?” ...Rồi đến những kẻ đứng bên tả, cũng ngạc nhiên không kém khi bị Chúa luận tội, tiếp tục chất vấn Ngài... Bấy giờ Ngài đáp lại họ rằng: “Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi không làm như thế cho những người nhỏ bé nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy.” ( Mt 25, 31 – 46 ).
Vậy yêu người cũng là yêu Chúa và yêu người là bằng chứng chúng ta thuộc về Ngài: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ thầy, là các con yêu thương nhau.” ( Ga 13, 15 ).
3. NGÀI DẠY CHÚNG TA PHAI YÊU ANH EM NHƯ THẾ NÀO ?
Tình yêu phải biểu lộ bằng hành động. Đức Giê-su đã dạy chúng ta thực hiện Đức Ái bằng những bước hết sức căn bản và giản dị. Ngài không đòi hỏi chúng ta phải làm những việc to tát, nhưng là những việc thật nhỏ, âm thầm nhưng chân tình và đáng quý: một ly nước lã cho kẻ khó ( Mt 10, 42 ), một manh áo cho kẻ rách rưới, một chỗ nghỉ ngơi cho người lỡ bước ( 2V 4, 10 ).
Tình yêu, mà Thiên Chúa muốn chúng ta thể hiện, không chỉ nhắm đến những người tốt, mà còn mở rộng đến những người kém cỏi, thành phần tội lỗi. Quả vậy, trên bước đường rao giảng Tin Mừng, nhiều lần, Đức Giê-su đã tỏ lòng xót thương và quan tâm đặc biệt đến những người xấu số và những người tội lỗi: Ngài là người cha nhân hậu mừng rỡ đón đứa con hoang đàng trở về ( Lc 15, 11 – 31 ), là mục tử tốt lành, sẵn sàng bỏ 99 con chiên lại trong ràn để đi tìm một con chiên lạc ( Lc 15, 4 – 7 ).
Ngài thường gần gũi, tiếp xúc với những người thu thuế, những kẻ tội lỗi khiến những người Do-thái ngoan đạo phải dị nghị: “SaoThầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi như vậy ? ( Mt 9, 11 ). Ngài đã trả lời họ: “Có cần đến lương y, hẳn không phải là người khoẻ mạnh, mà là kẻ đau ốm ...Ta không đến kêu gọi những người công chính, mà là những kẻ tội lỗi.” ( Mt 9, 12 – 13 ). "Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải, hơn là vì chín mươi chín người công chính, những kẻ không cần phải ăn năn !” ( Lc 15, 7 ).
Đi xa hơn nữa, Ngài đòi chúng ta phải BÁC ÁI, mở rộng tình yêu đến với cả kẻ thù, tình yêu không biên giới, yêu giống như Thiên Chúa yêu: “Còn ta, Ta bảo các ngươi: hãy yêu mến thù địch và khẩn cầu cho những người bắt bớ các ngươi; ngõ hầu các ngươi nên những người con của Cha các ngươi, Đấng ở trên Trời, vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành và làm mưa trên người ngay và kẻ ác.” ( Mt 5, 44 – 45 )
Lòng yêu mến đó phải vượt lên trên những tình cảm vụn vặt tầm thường: “...nếu các ngươi yêu mến những kẻ yêu mến các ngươi, thì các ngươi có công gì ? Há những người thu thuế cũng không làm thế sao ? Và nếu các ngươi chỉ chào hỏi anh em các ngươi, thì các ngươi có làm gì lạ ? Há người ngoại cũng không làm thế sao ? Vậy các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành.” ( Mt 5, 46 – 48 )
Lạy Cha ! Chúng con tạ ơn Cha vì tình thương bao la Cha đã dành cho mỗi người chúng con. Cha đã ban cho chúng con Đức Giê-su, Con Một yêu dấu của Cha làm giá cứu chuộc đền bù tội lỗi chúng con. Xin Cha ban ơn giúp sức, để chúng con học được nơi Ngài bài học yêu thương, yêu thương rộng rãi thực tình, biết sống đoàn kết và phục vụ quên mình. Xin cho chúng con trở thành men, thành muối , góp phần vào việc đổi mới xã hội và thế giới hôm nay. Amen.
Bài đọc hôm nay kể lại cho ta một câu chuyện lý thú về tiên tri Elisêo. Tiên tri Elisêô qua lại: TN 13-A18
Bài đọc hôm nay kể lại cho ta một câu chuyện lý thú về tiên tri Elisêô. Tiên tri Elisêô qua lại miền Sunam nhiều. Tại Sunam có một gia đình rất trọng vọng tiên tri vì biết tiên tri là người của Chúa. Không những họ ân cần tiếp đón, mà còn coi tiên tri như một người trong nhà. Nên họ làm sẵn cho Ngài một căn gác để Ngài nghỉ ngơi.
Người của Chúa đã đáp lại lòng quảng đại của gia đình bằng cách ban tặng cho họ một món quà vượt quá lòng họ mong ước: Được một con trai để nối dõi tông đường.
Chúa là Đấng rộng lượng từ bi không bao giờ chịu thua lòng quảng đại của con người. Hôm nay, Người đã công khai hứa ban thưởng cho những ai tiếp đón giúp đỡ các môn đệ của Chúa. Dù chỉ cho môn đệ một chén nước lạnh thì Chúa cũng trả công. Mà sự trả công của Chúa thì vô cùng trọng hậu.
Nhưng ai thực sự là môn đệ của Chúa ? Người môn đệ của Chúa phải có những đức tính nào ? Qua những bài sách Thánh hôm nay ta thấy:
Trước hết người môn đệ của Chúa là người có tâm hồn quảng đại.
Tiên tri Elisêô đã hào phóng đối với gia đình tiếp đón Ngài. Tiên tri là hình ảnh đẹp về các môn đệ của Chúa. Người môn đệ là đại diện cho Đấng sai mình. Người đại diện tốt phải là người trình bày được dung mạo của Đấng sai mình.
Đức Giêsu, Đấng sai ta là người vô cùng rộng lượng. Người đến trần gian không phải để thu tích mà để ban phát. Trọn cuộc đời, Người ban phát không biết mệt mỏi. Người đến không phải để xét xử, luận phạt, nhưng để tha thứ. Người tha thứ một cách dễ dàng cho tất cả những tội nhân đến với Người. Người đến không phải để giết chết, nhưng là để cứu chữa. Người đến cho ta được sống và sống dồi dào.
Người môn đệ của Chúa phải là người sống khiêm nhường.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu gọi các môn đệ là những người bé mọn. Chống lại những thói kiêu căng, phô trương. Đức Giêsu luôn thao thức sao cho các môn đệ của Người trở nên bé nhỏ, khiêm nhường.
Bé nhỏ trong tâm tình đạo đức để phó thác mọi sự trong tay Cha. Bé nhỏ về của cải, đừng mang "hai áo, mang theo túi tiền". Bé nhỏ trong cách cư xử với nhau, đừng tranh giành chỗ nhất, nhưng hãy chọn chỗ chót. Bé nhỏ để quỳ xuống phục vụ: "như Thầy đã rửa chân cho các con, các con hãy rửa chân cho nhau". Bé nhỏ để sau khi làm mọi việc rồi, hãy nhận mình là "tôi tớ vô duyên bất tài".
Người môn đệ của Chúa phải là người biết tập trung vào Đức Kitô.
Người môn đệ là người chọn Đức Kitô làm lý tưởng. Người môn đệ cũng là người đi làm chứng về Đức Kitô. Vì thế mọi lời ăn tiếng nói, cả đến tâm tư tình cảm cũng phải qui hướng về Đức Kitô. Đức Kitô phải chiếm vị trí ưu việt trong tâm hồn người môn đệ. Nói thế không có nghĩa là người môn đệ chối bỏ mọi tình cảm chính đáng, dứt lìa những mối liên hệ gia đình. Nhưng có nghĩa là từ nay người môn đệ có yêu thương ai thì cũng là yêu thương trong tình yêu của Đức Kitô và bằng tình yêu của Đức Kitô.
Người môn đệ của Chúa là người sống cho Chúa và chết cho Chúa.
Đức Giêsu không sống vì mình và cho mình. Người luôn sống vì và cho người khác.
Người sống vì Chúa Cha và cho Chúa Cha. Nên mọi việc Người làm đều vì Chúa Cha và cho Chúa Cha. Người là tình yêu hoàn hảo dâng tặng Chúa Cha. Nên Người đã "vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá".
Người sống vì con người và cho con người. Nên người đã ban tặng chính sự sống của Người cho nhân loại, đã hiến mạng sống làm giá cứu chuộc nhân loại.
Nên thánh Phaolô khuyên người môn đệ của Chúa hãy bắt chước Chúa mà chịu phép rửa trong sự chết của Đức Kitô. Hãy yêu mến, sống cho Chúa và chết cho Chúa. Chết cho tội lỗi. Chết trong quên mình âm thầm. Chết trong những hy sinh nhỏ bé. Chết trong nhiệt thành phục vụ nước Chúa.
Chính khi chết đi như vậy, ta lại được một sự sống mới tràn ngập tâm hồn, sự sống sung mãn, phong phú của Thiên Chúa. Như lời Chúa hứa: “Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”. Chỉ có những ai đã trải qua cái chết, mới cảm nghiệm được sự sống ấy. Thánh Phanxicô Khó Nghèo chắc chắn đã trải qua cuộc lột xác ấy nên mới thốt ra được những lời bất hủ: "Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời". Vì thế thánh nhân đã trở nên môn đệ đích thực của Đức Kitô.
Lạy Đức Kitô, xin thanh luyện tâm hồn con, để con xứng đáng là môn đệ của Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Có khi nào bạn cảm nghiệm như thánh Phan xi cô Khó Nghèo: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân ... ? “
2- Bạn nghĩ gì về những đòi hỏi của Đức Kitô ? Có quá khắt khe ?
3- Trong thế giới khuyến khích tiêu tiền, hưởng thụ, những hi sinh từ bỏ có còn cần thiết không ?
Đức Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt
Chủ đề:"Khi thánh giá chúng ta trở nên quá nặng, chúng ta nên bắt chước Chúa Giêsu là chấp nhận cho kẻ khác giúp đỡ mình."
Clarence Jordan là người từng xuất bản dịch Tân Ước của Cotton Patch vài hai thập niên 1950: TN 13-A19
Clarence Jordan là người từng xuất bản dịch Tân Ước của Cotton Patch vài hai thập niên 1950 và 1960. Suốt thời kỳ này ông còn tham dự vào công việc giao hoà giữa các chủng tộc ở vùng Georgia.
Đây không phải là một công việc có nhiều người làm ở miền nam vào những năm 1960. Sự căng thẳng giữa dân da đen và dân da trắng đang lên cao. Người ta ngồi ăn vạ trong các nhà hàng, xuống đường ở các phố. Cảnh sát phải dùng chó và vòi phun lửa để giải tán đám dân chống đối dân da đen và ủng hộ dân da trắng. Chẳng bao lâu công việc của Clarence cũng bị chỉ trích gắt gao. Ong liền đến với em trai mình là Robert để xin sự giúp đỡ của luật pháp. Ong em này hiện là luật sư cũng là một chính trị gia rất sáng gía ở Georgia. Clarence sững sờ khi thấy em ông từ chối không giúp đỡ ông. Robert Mc Clendon, người kể lại câu chuyện này trong cuốn " Biography as theology" (tiểu sử được viết như thần học ) nói rằng: điều khiến cho Clarence sửng sốt hơn hết là cả hai anh em ông đã cùng nhau dâng hiến cuộc đời cho Chúa Giêsu, thế mà em ông lại từ chối việc ấy. Lập tức Clarence trách em về việc đã từng thề nguyền việc ấy. Robert tự bào chữa:"Anh Clarence ơi ! Em theo Chúa Giêsu đến một mức độ nào đó thôi. Em chỉ theo Ngài đến thập giá chứ không theo Ngài lên trên thập giá đâu ! Em không thích bị đóng đinh đâu". Clarence nhìn thẳng vào người em và nói:
" Robert, chú không phải là người theo Chúa Giêsu đâu, Chú chỉ là kẻ thán phục Ngài thôi !"
Nhận xét của Clarence khiến Robert phải xét lại tâm hồn mình theo lời Chúa Giêsu trong bài phúc âm hôm nay:" Ai không vác thập giá mình và theo Ta, người ấy không xứng đáng là môn đệ Ta ".
Tất cả chúng ta đều có những lúc suy nghĩ giống Robert. Trong đời sống chúng ta , việc dâng mình của ta cho Chúa Giêsu nhiều khi bị thử thách đến mức muốn bỏ Chúa luôn. Nhiều khi trong cuộc đời chúng ta ấn tượng mạnh mẽ của lời Chúa Giêsu trong bài phúc âm hôm nay thực sự có sức mạnh hăm doạ. Vào lúc đó vì sự khó khăn hoặc bi đát nào đó vùi dập, chúng ta bị cám dỗ từ bỏ thánh giá và không vác thánh giá theo Chúa Giêsu nữa, chúng ta bị cám dỗ rồi bỏ Chúa Giêsu và không bước theo Ngài nữa. Chẳng hạn sau khi người tình mà mình yêu thương khôn tả ruồng bỏ mình, thì đối với một thiếu phụ quả là khó mà vực nổi thánh gía lên, quả là khó mà cúi xuống vác thập giá lên tiếp tục bước theo Chúa. Sau khi đã bị cưỡng bức đưa vào viện dưỡng lão. Cũng như đối với một bà vợ thật khó mà vực nổi thập giá lên để tiếp tục vác theo Chúa Giêsu khi chồng bà đêm nào cũng bỏ bê bà và đám con. Và một thanh niên bị một gã say rượu xô đẩy phần đời còn lại của mình vào chiếc xe lăn thì đối với anh qua thực là khó mà vực nổi thập giá lên để tiếp tục bước theo Chúa Giêsu.
Những người như trên sẽ làm gì khi mà cây thập giá thình lình đè xuống trên họ một sức nặng khiến họ dường như vác không nổi ? Chúng ta sẽ làm gì khi cây thập giá thình lình đè xuống trên chúng ta một sức nặng khiến chúng ta dường như không thể nào vác nổi nữa?
Khi cây thánh giá nặng quá mức như thế ụp xuống đời mình, chúng ta nên nhớ lại rằng Chúa Giêsu đã từng có lúc cảm thấy thánh giá của mình nặng quá sức. Lúc đó, Ngài đã chấp nhận để cho người lạ là Simon Cyrênê giúp đỡ.
Xin anh chị em hãy suy nghĩ về điều ấy !
Đường đường là con Thiên Chúa, là đấng cứu độ trần gian, thế mà Chúa Giêsu đành thú nhận với chính mình và với thế gian rằng Ngài không đủ sức vác nổi thập giá của mình nữa. Nếu con Thiên Chúa còn có đủ khiêm nhượng để làm điều đó thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ phải đủ khiêm nhượng để theo gương Ngài. Khi thập giá trong đời trở nên nặng quá sức vác của mình. Chúng ta phải kêu cầu sự giúp đỡ giống như Chúa Giêsu đã từng làm.
Nhưng chúng ta sẽ kêu cầu ai giúp đây ?
Trước hết và trên hết, chúng ta kêu cầu chính Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã từng biết thế nào là lảo đảo và té sấp xuống đất dưới một cây thánh giá. Ngài cũng biết rõ cảm tưởng khi phải thú nhận rằng cây thập giá đã trở nên nặng quá không thể vác nổi một mình nữa. Ngài đã biết rõ cảm tưởng khi phải khiêm nhường chấp nhận sự giúp đỡ của kẻ khác.
Bài phúc âm hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn mình câu hỏi khiêm nhượng sau: Có phải đã có những lúc trong đời chúng ta gần như không thể vác nổi thập giá mình để tiếp tục bước theo Chúa Giêsu nữa không ? –Nếu có thì bài phúc âm hôm nay quả là đưa ra cho chúng ta một thách thức. Nó thách thức chúng ta bắt chứơc Chúa Giêsu khi thánh giá của Ngài nặng qúa không vác nổi nữa. Nó thách thức chúng ta làm giống như Clarence Jordan là kêu cầu sự giúp đỡ của người khác, Nó thách thức chúng ta cầu cứu kẻ khác giúp đỡ.
Cuối cùng, câu chuyện Simon Cyrênê giúp đỡ Chúa Giêsu vác thập giá như thế nào, cũng như câu chuyện Robert Jordan đã từ chối giúp đỡ anh mình lúc cần thiết ra sao, khiến chúng ta ohải tự vấn mình xem:" chúng ta trả lời thế nào với những kẻ đến yêu cầu chúng ta giúp đỡ ? chúng ta có từ chối họ không ? chúng ta giúp đỡ họ một cách miễn cưỡng với lời càu nhàu không ? hay là chúng ta nồng nàn tiếp đón vui vẻ giúp đỡ họ ?
Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện sau đây, nó tóm tắt được cả lời mời gọi lẫn thách thức chứa đựng trong bài Phúc âm hôm nay:
" Lạy chúa, xin ban cho chúng con sức mạnh của Ngài vì đôi khi sự việc quá cam go khiến chúng con sẵn sàng từ bỏ.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu của Ngài, bởi vì đôi khi thiên hạ ruồng rẫy chúng con bị cám dỗ căm ghét họ.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con đôi mắt Ngài bởi vì đôi khi cuộc đời trở nên tối tăm và chúng con lạc mất lối đi.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con lòng can đảm của Ngài, bởi vì khi thường chúng con hay bị áp lực khiến chúng con khó làm được điều gì đúng đắn.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con chính Ngài bởi vì tâm hồn chúng con được tạo nên cho Ngài và chúng con có thể được an nghỉ trong Ngài.
- Bài đọc I (2V 4,8-11.14-18): "Người đến trọ nhà mình là một vị thánh của Thiên Chúa"
- Đáp ca (Tv 88): "Tôi sẽ ca ngợi tình thương Chúa đến muôn đời"
- Tin Mừng (Mt 10,37-42): "Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó" - "Kẻ nào tiếp đón các con là tiếp đón Thầy"
- Bài đọc 2 (Rm 6,3-4.8-11) (Chủ đề phụ): "Nếu chúng ta chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài".
Sợi chỉ đỏ:
Lời Chúa hôm nay có hai chủ đề:
Chủ đề tiếp đón: được diễn tả qua chuyện một gia đình miền Sunam cho ngôn sứ Êlisê đến: TN 13-A20
1. Chủ đề tiếp đón: được diễn tả qua chuyện một gia đình miền Sunam cho ngôn sứ Êlisê đến trọ tại nhà (Bài đọc I), và phần thứ hai của bài Tin Mừng: "Kẻ nào tiếp đón các con là tiếp đón Thầy"
2. Chủ đề chia xẻ thân phận của Đức Giêsu: được diễn tả qua phần đầu của bài Tin Mừng: "Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó", và bài đọc II: "Nếu chúng ta chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài".
Minh họa
- Mille images 137 D
- "Ai cho một trong những kẻ bé mọn dù chỉ một ly nước lã, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu" (Mt 10,42)
I. Dẫn vào Thánh lễ
- (Nếu chọn chủ đề I): Anh chị em thân mến
Trong xã hội thời nay, người ta thường sống theo kiểu chủ nghĩa cá nhân: mạnh ai nấy lo, sống chết mặc bây, đèn nhà ai nhà nấy sáng. Kết quả của lối sống này là một xã hội thiếu vắng tình thương, ích kỷ, thờ ơ.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta biết quan tâm tới người khác, yêu thương người khác và tiếp đón người khác như tiếp đón chính Chúa.
- (Nếu chọn chủ đề II): Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay trình bày một nghịch lý: "Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất ; Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó".
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta hiểu được chân lý lạ lùng đó, và nhất là dám liều mạng sống vì Chúa, để được chia sẻ sự sống của chính Chúa.
II. Gợi ý sám hối
- Chúng ta rất thờ ơ với những anh chị em sống chung quanh chúng ta.
- Chúng ta coi thường những người nghèo nàn, thất học và không có địa vị.
- Chúng ta ít khi hy sinh vì Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (2V 4,8-11.14-18)
Tường thuật câu chuyện giữa ngôn sứ Êlisê và một phụ nữ xứ Sunam:
- Trên đường sứ mạng, ngày kia Elisê đến vùng Sunam
- Ở đấy, một phụ nữ đã mời Ông vào nhà dùng bữa. Sau đó bà còn nói với chồng mình rằng Elisê là một vị thánh của Thiên Chúa. Được sự đồng ý của chồng, bà còn dọn sẵn cho Elisê một căn phòng có đầy đủ những thứ cần thiết, để bất cứ lúc nào ngôn sứ cũng có thể đến trú ngụ.
- Đáp lại lòng tốt của vợ chồng này, ngôn sứ Elisê đã làm phép lạ giúp họ đang son sẻ mà có được một đứa con trai đầu lòng. (Sau này đứa con ấy chết, Elisê lại làm phép lạ cho nó sống lại).
2. Đáp ca (Tv 88)
Tv này ca ngợi tình thương của Chúa. Tác giả còn nguyện sẽ ca ngợi như thế mãi tới muôn đời.
3. Tin Mừng (Mt 10,37-42)
Có thể chia đoạn Tin Mừng này thành 2 phần:
- Phần đầu (các câu 37-39) Đức Giêsu dạy các môn đệ về sự từ bỏ: Nếu muốn làm môn đệ xứng đáng của Ngài thì phải từ bỏ rất nhiều: tình yêu gia đình, mạng sống ; và còn phải sẵn sàng vác thập giá mình mà đi theo Ngài.
- Phần sau (các câu 40-42) dạy về sự tiếp đón: ai tiếp đón các sứ giả Tin Mừng thì được coi như là tiếp đón chính Đức Giêsu, thậm chí là tiếp đón chính Thiên Chúa là Đấng đã sai Đức Giêsu đến ; ai tiếp đón một kẻ bé mọn thì cũng được phần thưởng.
4. Bài đọc 2 (Rm 6,3-4.8-11) (Chủ đề phụ)
Văn mạch: Phaolô đang đưa ra những lập luận để chứng minh rằng người ta được công chính hóa không phải nhờ việc làm, mà nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô. Đoạn tuần trước là lập luận thứ nhất: con người đã mất ơn nghĩa với Thiên Chúa do tội của Adam, nhưng con người lại được ơn nghĩa nhờ cái chết của Đức Giêsu Kitô. Cho nên muốn được ơn nghĩa thì phải tin vào Đức Giêsu Kitô.
Đoạn tuần này đưa ra lập luận thứ hai: muốn được ơn nghĩa với Thiên Chúa thì phải liên kết với Đức Giêsu bằng phép rửa:
- Chịu phép rửa nghĩa là cùng chết với Đức Giêsu để được cùng sống lại với Ngài.
- Như thế, kẻ đã lãnh nhận phép rửa hãy dứt khoác chết cho tội lỗi để hoàn toàn sống cho Thiên Chúa.
IV. Gợi ý giảng
1. Những nét đẹp của sự Tiếp đón
Thánh Kinh ghi lại những cuộc tiếp đón rất đẹp và rất dễ thương: 1/ Abraham thấy 3 người khách lạ đang đi trong sa mạc. Ông chạy ra năn nỉ họ vào nhà và ân cần chăm sóc họ. Đó là 3 sứ giả của Thiên Chúa. Đáp lại tấm lòng của Abraham, 3 sứ giả này ban ơn cho vợ chồng son sẻ của Abraham có con trai đầu lòng (St 18) ; 2/ Một gia đình ở Sunam chẳng những tiếp đón ngôn sứ Elisê, mà còn dọn hẳn cho ông một căn phòng để những lần sau ông tới có chỗ trọ. Đáp lại, Elisê cũng giúp họ thoát khỏi tình trạng son sẻ (bài đọc I) ; 3/ Gia đình Matta, Maria và Lazarô ở Bêtania là nơi thường xuyên tiếp đón Đức Giêsu và các môn đệ. Đáp lại, Đức Giêsu đã làm cho Ladarô sống lại.
Qua những chuyện trên, chúng ta hãy tìm hiểu thêm hai vấn đề:
1/ Tại sao những chủ nhà ấy quảng đại tiếp đón khách ? Thưa vì họ không chỉ nghĩ đến mình mà còn quan tâm tới người khác: Abraham lo cho 3 người khách kia đi trong sa mạc sẽ bị đói khát và không có chỗ nghỉ ngơi để lấy lại sức ; gia đình ở Sunam lo sợ ngôn sứ Elisê phải bơ vơ tứ cố vô thân ở một miền đất lạ ; gia đình Bêthania thì muốn Đức Giêsu và các môn đệ được nghỉ ngơi sau một thời gian mệt mỏi vì công việc rao giảng Tin Mừng. Trong hai chuyện sau, còn một lý do nữa, là những chủ nhà ấy ý thức rằng những người khách mà mình tiếp đón là sứ giả của Thiên Chúa.
2/ Phần thưởng của tấm lòng quảng đại ấy là gì ? Là sự sống: hai đứa con trai đầu lòng cho hai vợ chồng son sẻ, và mạng sống được trả lại cho Ladarô đã chết 4 ngày. Xét cho cùng, ơn ban sự sống ấy không phải do những người khách, mà chính Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống, ban cho họ.
Những câu chuyện rất đẹp trên đây khuyến khích chúng ta hãy quảng đại tiếp đón:
- Tiếp đón không chỉ là đón người vào trọ trong nhà mình, cho họ ăn, cho họ nghỉ, mà còn là biết quan tâm tới nhu cầu của người khác và đáp ứng theo khả năng của mình.
- Khi tiếp đón, dĩ nhiên chúng ta phải mất mát: mất giờ, mất tiền của, mất công… Nhưng Thiên Chúa sẽ trọng thưởng chúng ta: Ngài sẽ cho sức sống thần linh của Ngài thêm lớn mạnh trong sự sống chúng ta.
2. Chúa Giêsu là số mấy ?
Phần đầu của bài Tin Mừng hôm nay đặt vấn đề: người môn đệ của Đức Giêsu đặt Ngài ở số mấy trong đời họ ?
Bình thường, người ta coi bản thân là số một, vợ chồng số hai, gia đình số ba, thân nhân số bốn… Chúa thì có lẽ cao lắm cũng chỉ từ số năm trở xuống.
Trong đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu kể ra những người dành cho Chúa vị trí số hai:
- một là cha mẹ, hai là Chúa
- một là con cái, hai là Chúa
- một là mạng sống mình, hai là Chúa
Được xếp ở vị trí số hai như thế cũng là được coi trọng lắm rồi. Nhưng Đức Giêsu vẫn không chịu. Ngài nhất quyết đòi vị trí số một: "Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy ; ai yêu mến con trai con gái hơn thầy thì không xứng đáng với Thầy" ; Ngài còn đòi chúng ta phải dám mất mạng sống vì Ngài nữa !
Mỗi người chúng ta hãy tự hỏi: phần tôi, tôi xếp Chúa vào vị trí số mấy ?
3. Nhiều loại từ bỏ
Có nhiều loại từ bỏ:
- Tôi soạn lại tủ áo của tôi. Nhiều áo quá. Có những chiếc đã cũ và lỗi thời, tôi có thể bỏ bớt để đem cho người nghèo.
- Trong sân nhà tôi có hai cây mọc cạnh nhau. Nếu cứ để như thế thì hai cây vẫn sống, nhưng không cây nào lớn mạnh tốt được. Tôi nên bỏ bớt một cây để cây kia mọc tốt hơn.
- Nha sĩ khám thấy có một chiếc răng của tôi đang bị hư nặng. Ông bảo phải bỏ nó đi, nếu không, nó sẽ lây cho những chiếc bên cạnh.
Đức Giêsu kêu gọi người đi theo Ngài hãy từ bỏ. Bỏ những gì và bỏ cách nào ?
- Có những thứ ta có thể bỏ. Thí dụ bớt chút thức ăn, bớt chút giờ ngủ khi ta ăn chay hãm mình.
- Có những thứ ta nên bỏ để cuộc sống của ta nên tốt hơn. Thí dụ khi ta nhường nhịn không trả đũa, không đòi lại của cải hoặc danh dự bị người khác làm tổn thương, mất mát.
- Có những thứ ta bó buộc phải bỏ như: tội lỗi, thói xấu, dịp tội.
4. Hai chi tiết quan trọng trong bài Tin Mừng
Trong bài Tin Mừng này, có hai chi tiết mà nếu ta không dừng lại tìm hiểu kỹ thì sẽ để vuột mất những ý nghĩa rất sâu sắc:
- Câu 38 (quyển Bài đọc ấn bản 1970 bỏ sót không in câu này) "Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy": Theo cách xử tử của Rôma, người bị kết án tử đóng đinh thập giá phải tự vác lấy thập giá của mình (chỉ vác thanh ngang, còn thanh dọc để sẵn ở pháp trường) đi ra pháp trường. Vì thế, kiểu nói "vác thập giá mình" có nghĩa là bị kết án tử. Do đó, câu nói của Đức Giêsu có nghĩa là ai muốn xứng đáng làm môn đệ đi theo Chúa thì phải chấp nhận thân phận mình như là người đã bị kết án tử.
- Câu 39 "Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó": chữ hy lạp psyche có nghĩa rất rộng, chỉ "lòng", "trí", "tim", tổng quát là cả "cuộc sống", toàn thể "con người". Như thế, "đành mất mạng sống" có nghĩa là dám mất tất cả. Và như vậy thì kiểu nói này cũng đồng nghĩa với ý tưởng coi mình như người đã bị kết án tử mà ta vừa phân tích ở trên.
5. Những bài toán
Thông thường người ta thích làm toán cộng và toán nhân, nghĩa là cứ muốn có thêm và có thêm thật nhiều thật nhanh.
Nếu ta đọc kỹ lại những lời Đức Giêsu dạy dỗ các môn đệ thì thấy Ngài dạy ta làm hai bài toán khác, đó là toán trừ và toán chia: làm toán trừ là từ bỏ, làm toán chia là bố thí, chia xẻ, phân phát cho người khác.
Tuy làm toán trừ và toán chia thì ta sẽ bị mất mát. Nhưng chính Thiên Chúa sẽ đích thân làm toán cộng và toán nhân cho ta: "Chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất vì Thầy và vì Tin Mừng mà bây giờ ngay ở đời này lại không nhận được… gấp trăm… và sự sống vĩnh cửu ở đời sau" (Mc 10,29-30).
6. Chuyện minh họa
a/ Tiếp đón
Chúa hứa với một bà là Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bà rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.
Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói: "Không, hôm nay tôi không giúp anh, vì Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều gì". Bà đuổi anh và đóng cửa lại.
Mấy phút sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở cửa nhanh hơn trước. Thấy gì ? Vài người già nghèo nàn. "Rất tiếc, tôi đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ các ông". Rồi bà đóng sầm cửa lại.
Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh xin ăn và nghỉ qua đêm. "Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến. Tôi không thể tiếp anh". Người ăn xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.
Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.
Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ. Bà ngủ quên và mơ thấy Chúa đến với bà và nói: "Hôm nay Ta đã đến với con 3 lần và cả 3 lần con đều đuổi Ta".
b/ Mất và được
Tái ông thất mã: Ngày xưa có một ông lão ở gần cửa ải mất một con ngựa. Có người đến thăm phàn nàn cho sự rủi ro. Ông đáp: "Biết đâu chuyện mất ngựa chẳng là điều may." Vài ngày sau, con ngựa cũ trở về lại rủ được một con ngựa Hồ rất hay. Có người cho đó là điều may mắn. Ông nói: "Chưa hẳn được ngựa là may đâu." Ông có đứa con trai, thấy ngựa Hồ hay, liền bắt cởi thử, chẳng may bị ngã ngựa té gãy chân. Nhiều người cho rằng xui xẻo. Ông lại nói chưa biết chừng đây là điềm báo trước điều phúc cho gia đình ông. Qua năm sau, giặc Hồ tràn sang nước ông. Theo lệnh vua, các trai tráng trong làng đều phải sung vào cơ ngũ đi dẹp loạn, 10 người chỉ sống sót được một. Con trai ông vì tàn tật nên được miễn dịch, nhờ đó mà thoát chết, gia đình ông được an toàn. Nên việc họa phúc không biết đâu mà ngờ được. (Trích "Phúc")
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Muốn dấn thân theo Chúa Giêsu, người kitô hữu phải từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Người. Với quyết tâm bước theo Chúa đến cùng, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.
1- Hội Thánh dùng Lời Chúa để giáo dục đức tin của người kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết lắng nghe lời giáo huấn của Hội Thánh / để nhờ đó mà đức tin ngày càng trưởng thành hơn.
2- Đời sống thường ngày cho chúng ta thấy có một số người chỉ thích sống an nhàn / chỉ lo hưởng thụ mà không thích nghe đề cập đến hy sinh gian khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lúc nào cũng có nhiều người quảng đại / sẵn sàng phục vụ những người bất hạnh nhất của xã hội.
3- Tận tình giúp đỡ những người đang gặp hoạn nạn / những nạn nhân của thiên tai / những người mắc bệnh nan y / những người mất hết niềm hy vọng để vui sống / là nghĩa vụ của những người tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu biết cố gắng thực hiện lời dạy của Thánh Phaolô / "vui với người vui, khóc cùng người khóc".
4- Hết lòng nâng đỡ / và chân thành cộng tác với các mục tử trong sinh hoạt của giáo xứ / là trách nhiệm của mỗi kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn biết rộng rãi giúp đỡ / và tích cực cộng tác với các Linh mục trong việc mục vụ thường ngày.
CT: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã trải qua con đường đau khổ rồi mới bước vào vinh quang. Xin cho chúng con hiểu rằng: nếu muốn được chia xẻ vinh quang thiên quốc với Chúa, chúng con cũng phải đi qua con đường thập giá, con đường đòi hỏi nhiều hy sinh gian khổ, nhưng chính là con đường dẫn đưa đến sự sống bất diệt. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy nhớ rằng những người sống chung quanh chúng ta cũng là anh chị em cùng một Thiên Chúa là Cha như chúng ta. Vậy chúng ta hãy xin Cha giúp chúng ta yêu thương và tiếp đón những anh chị em ấy.
VII. Giải tán
Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta sống với người khác bằng thái độ tiếp đón, và sống với Chúa bằng cách coi Chúa trọng hơn tất cả mọi người và mọi sự. Chúng ta hãy ra về và cố gắng sống như thế.
Thiên Chúa có chỗ đứng nào trong cuộc đời chúng ta?
Đọc lại Kinh Thánh chúng ta thấy ngày xưa dân Do Thái rất nhiều lần đã quì gối thờ lạy con: TN 13-A21
Đọc lại Kinh Thánh chúng ta thấy ngày xưa dân Do Thái rất nhiều lần đã quì gối thờ lạy con bò vàng. Họ chọn con bò vàng làm thần tượng thay cho Thiên Chúa. Còn ngày hôm nay, nhiều người trong chúng ta cũng đã chọn lầm thần tượng cho mình. Con bò vàng ngự trị trong thẳm sâu cõi lòng họ là tiền tài, là danh vọng, là lạc thú…
Còn chúng ta thì sao? Mang danh hiệu là Kitô hữu, rất nhiều lần chúng ta đã tuyên xưng đức tin, đã chọn lựa Đức Kitô và đã dành cho Ngài địa vị số một trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta liên tục thực hiện khẩu hiệu sau đây:
- Thiên Chúa là thứ nhất, tha nhân là thứ hai, còn tôi là thứ ba.
De Leo là một quân nhân Hoa Kỳ, sau khi từ giã chiến trường Việt Nam trở về, anh kiếm được một chân canh giữ tượng nữ thần tự do ở Nữu Ước. Công việc của anh là chăm sóc cho ngọn đuốc trong tay và chiếc mũ triều thiên trên đầu bức tượng.
Anh phải làm thế nào cho ngọn đuốc luôn cháy, những khung cửa sổ bằng kính nơi ngọn đuốc và mũ triều thiên lúc nào cũng sạch sẽ. Chỉ vào ngọn đuốc, anh hãnh diện nói:
- Đó là ngôi nhà nguyện của tôi. Tôi dâng hiến nó cho Chúa và tôi thường lên đó để cầu nguyện vào những lúc rảnh rỗi.
Đối với anh, Thiên Chúa là thứ nhất.
Tuy nhiên, anh còn làm được nhiều việc khác nữa. Hội Hồng thập tự đã cấp giấy khen cho anh sau khi anh hiến nửa lít máu lần thứ sáu mươi năm. Khi hay biết những công việc bác ái Mẹ Têrêsa đang làm bên Ấn Độ, anh đã gửi tặng Mẹ 12.000 đô la, ngòai ra anh còn bảo trợ cho sáu em bé mồ côi, thông qua các tổ chức từ thiện.
Và như thế, đối với anh, tha nhân là thứ hai.
Riêng bản thân anh thì như thế nào ? Chính anh đã nói với phóng viên tờ Los Angeles Times như sau:
- Tôi chẳng giàu xã hội tính, cũng chẳng bận áo quần hợp thời trang, nhưng tôi có được tính khôi hài. Tuy nhiên vấn đề là tôi
không có đủ tiền để cưới vợ, và cũng chả giữ lại được đồng nào làm của riêng. Và như thế đối với anh, bản thân mình là thứ ba.
Lúc đầu mọi người đều nhìn anh bằng cặp mắt nghi ngờ và họ mỉm cười, nhưng giờ đây thì tất cả đều nhìn nhận anh một cách nghiêm chỉnh và anh thực xứng đáng với danh hiệu là người giữ ngọn lửa của nữ thần tự do.
Với chúng ta cũng vậy. Chúng ta phải đặt Chúa vào địa vị, vào chỗ đứng số một, đồng thời phải cố gắng thực thi sự lựa chọn ấy suốt dọc cuộc đời của mình. Như trái đất xoay quanh mặt trời thế nào, thì mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm của chúng ta cũng phải xoay quanh Đức Kitô như vậy, để rồi chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô:
- Tôi sống, những không còn là tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Nói cách khác, Đức Kitô chính là thần tượng số một của lòng chúng ta.
Có như vậy thì trong ngày sau hết, chúng ta mới được Ngài đón nhận vào quê hương nước trời.
Năm 1994 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho chị Mác-đa-la: TN 13-A22
Năm 1994 Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho chị Mác-đa-la Mô-ra-nô, là một nữ tu thuộc dòng Đức Mẹ Phù Hộ. Ngay từ thuở niên thiếu, Mác-đa-la đã phải nếm mùi tang tóc, chỉ trong vòng một tháng, thần chết đã hai lần đến gõ cửa nhà chị và cướp mất hai cột trụ của gia đình: người cha và người chị cả, những ngày đen tối bắt đầu đè nặng trên vai bà quả phụ Cartarina với bốn đứa con thơ dại.
Hồi đó Mác-đa-la mới 8 tuổi, nhưng đã tỏ ra khôn ngoan và chín chắn, thấy mẹ đau buồn và khóc hoài, chị thường nói với mẹ: “Mẹ ơi, thôi đừng khóc nữa, chẳng bao lâu con sẽ khôn lớn và con hứa sẽ giúp mẹ thật nhiều như bố và chị Phanxica đã giúp mẹ vậy”. Nhưng không phải tới lúc khôn lớn mà ngay từ bây giờ, vì nhu cầu và hoàn cảnh khó khăn của gia đình, Mác-đa-la đã ngồi xuống trước guồng tơ dệt chỉ mà chị Phanxica đã để lại.
Một hôm, tình cờ cha Bandenla, người anh họ của mẹ đến chơi và biết Mác-đa-la không được đi học, cha hứa sẵn sàng phụ giúp thêm vào nhu cầu vật chất của gia đình và trả tiền học phí cũng như tiền sách vở cho Mác-đa-la đi học. Sau hơn mười năm chăm chỉ học tập, chị đã tốt nghiệp và trở thành một cô giáo trường làng, thế là Mác-đa-la đã bắt đầu làm việc để phụ giúp gia đình. Suốt 16 năm trời, chị đã giữ lời hứa với mẹ, hơn nữa, chị biết mẹ luôn ấp ủ một ước muốn thầm kín là có được một căn nhà với mảnh vườn nho nhỏ, những luống rau và mấy giàn nho ngon ngọt. Vì thế, chị đã chuyên cần làm việc và âm thầm dành dụm, giảm bớt chi tiêu không cần thiết. Đến ngày sinh nhật thứ 30 của mình, Mác-đa-la dẫn mẹ đến xem mảnh đất với căn nhà và khu vườn như mẹ mong ước, chị âu yếm nói với mẹ: “Thưa mẹ, đây là món quà con xin biếu tặng mẹ, con chỉ xin mẹ một điều là cho phép con tận hiến cuộc sống còn lại của con cho Chúa để đáp lại tiếng gọi của Ngài vẫn thúc giục con từ lâu rồi”.
Quyết định của Mác-đa-la đã gây đau khổ nhiều cho mẹ chị, cho cha xứ, bạn bè và các phụ huynh học sinh của chị, vì họ mất đi một người con hiếu thảo, một người bạn tốt, một giáo viên gương mẫu, một người giáo dân nhiệt thành việc tông đồ. Trái lại, trong tâm hồn chị trào dâng một niềm vui mừng, vì chị có thể thực hiện được ước mơ chị đã ấp ủ từ lâu.
Ngày chia ly không khỏi ngậm ngùi đau xót, nhưng chị đã tìm được sức mạnh nơi tình yêu và lời nói của Chúa: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với thầy”. Đồng thời chị cũng được sự an ủi vì tin vào lời Chúa đã hứa: “Quả thật, Thầy bảo cho anh em rõ, không ai bỏ nhà cửa, cha mẹ, vợ con, anh chị em vì nước Thiên Chúa mà lại chẳng lãnh nhận gấp trăm ở đời này và sẽ được sống đời sau”. Thật vậy, lời hứa ấy đã thể hiện qua suốt 30 năm sống đời tận hiến, trong đó, hơn 25 năm hăng say với sứ mệnh tông đồ giữa giới trẻ nghèo khổ, bị bỏ rơi tại đảo Xixilia. Và Chúa đã thưởng cho chị qua việc Đức Giáo Hoàng tôn phong chị lên bậc chân phước để mọi người ngưỡng mộ và tôn kính.
Kể lại câu chuyện trên để minh họa cho bài Tin Mừng hôm nay. Bài Tin Mừng này là đoạn cuối trong bài giảng dạy về truyền giáo của Chúa Giêsu. Ngài nói với các tông đồ, và qua các ông, nói với mọi Kitô hữu về sự từ bỏ tất cả mọi sự để đi theo làm môn đệ Ngài và Ngài hứa ban thưởng bội hậu cho họ. Tại sao Chúa đòi hỏi như vậy và đòi hỏi như vậy có nghịch lý không ? Quả thực, con đường theo Chúa vốn đầy những nghịch lý, một trong những cái nghịch lý ấy là điều kiện để theo Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho biết điều kiện đó là phải từ bỏ tất cả: gia đình, của cải, nghề nghiệp và chính bản thân mình. Cái nghịch lý là ở chỗ đó. Muốn theo Chúa, phải từ bỏ hết, phải từ bỏ tất cả, nghĩa là phải coi Chúa hơn hết tất cả mọi người, hơn hết tất cả mọi sự và tin vào một mình Chúa thôi.
Có người cho rằng: những điều trên đây Chúa chỉ dạy riêng cho những người đi tu mà thôi, nói thế cũng đúng, nhưng những lời Chúa dạy đây không phải là không áp dụng được cho tất cả chúng ta, bởi vì với mỗi người, Chúa cũng đòi hỏi phải từ bỏ, không phải từ bỏ để đi tu hay để làm tông đồ cho Chúa, nhưng trong cuộc sống, chúng ta cũng có nhiều cái, nhiều điều và nhiều lần phải từ bỏ.
Tóm lại, trong đời sống thường ngày, người Kitô hữu bị giằng co giữa một bên là tình cảm gia đình, bên kia là đòi hỏi của Chúa ; hoặc một bên là quyến rũ của tiền tài, danh vọng, sống buông thả, một bên là sự trung thành với lý tưởng Kitô giáo. Trong những trường hợp giằng co như vậy, chúng ta sẽ chọn thế nào và phải làm gì ? Bài Tin Mừng hôm nay soi sáng và hướng dẫn chúng ta hãy chọn đúng và thực hành đúng.
Một số người nghĩ rằng Giáo Hội đã lỗi thời và không còn cần thiết nữa. Có người cho rằng giảng:TN 13-A23
Một số người nghĩ rằng Giáo Hội đã lỗi thời và không còn cần thiết nữa. Có người cho rằng giảng huấn của Tin Mừng là khùng điên. Trong số báo The World xuất bản tháng 11 năm 1989, Ted Turner chủ nhân của cơ quan truyền thông Turner Broadcasting đã tuyên bố: “Kitô giáo là một tôn giáo dành cho những kẻ thua cuộc”. Ngoài câu nói này, ông còn vung vít nhiều điều khác nữa, nhưng câu này gồm tóm điểm chính yếu những gì ông ta đã phát biểu.
Trước mặt người đời những người Kitô hữu là những người khùng điên, dại khờ, thua lỗ. Nhưng điều người đời nghĩ rằng điên dại thì thật ra lại là sự khôn ngoan và quyền năng của Thiên Chúa. Đây là điều thánh Phaolô đã nói: “Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa”.
Bài Phúc âm hôm nay, là phần kết luận của chương 10, “Bài giảng về những Sứ Mệnh Truyền Giáo”. Đây là những hướng dẫn của Chúa Giêsu ban cho các tông đồ trước khi sai họ ra đi rao giảng Tin Mừng. Sau khi chọn 12 tông đồ, Chúa Giêsu đã ban quyền hành và sai họ ra đi thi hành mục vụ trong cánh đồng truyền giáo. Người ta chỉ thị cho họ phải chấp nhận cuộc sống hy sinh, khó nghèo, làm việc vất vả, gặp nhiều thử thách, bị bắt bớ hành hạ và bị giết chết. Đứng trước viễn tượng đó Người đã khuyên họ không nên vì sợ hãi mà thiếu lòng tự trọng, rồi mang mặc cảm tự ti làm hủy diệt nhân cách con người. Bởi, tuy không được tôn trọng trước mặt người đời, nhưng trước mặt Thiên Chúa họ rất quan trọng. Đây chính là Tin Mừng đối với các tông đồ.
“Kẻ nào đón tiếp các con là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”. Chúng ta có bao giờ thực sự nghĩ rằng khi một người nào đó đón tiếp chúng ta là họ đón tiếp Chúa Giêsu Kitô không ?
Theo những cuộc thăm dò cho biết hai trong ba người có quan niệm rất thấp về bản thân mình. Các nhà tâm lý học gọi đó là sự tự đánh giá thấp về chính mình. Thiếu lòng tự trọng thường là nguyên do của nhiều vấn đề xã hội và tâm lý. Người có lòng tự trọng cao thường lành mạnh hơn là những người thiếu lòng tự trọng. Họ sống lâu và ít có tai nạn hơn. Họ tránh được những thái độ khiêm nhã. Họ không cần phải dùng đến thuốc kích thích hay bia rượu, và cũng không cần phải khoe khoang hay làm những sự liều lĩnh ngu xuẩn để gây sự chú ý. Những người có lòng tự trọng cao thường thành công và kiếm được những việc làm lương bổng cao hơn. Tại sao ? Những nhà tâm lý học trả lời rằng vì họ có niềm hy vọng và tinh thần lạc quan. Đây chính là yếu tố tạo nên thành công.
Martin Seligman, giáo sư tâm lý học của trường đại học University of Pennsylvania đã làm cuộc thăm dò các nhân viên của một hãng bán bảo hiểm lớn. Kết quả cho thấy rằng những người mong mỏi thành công đã bán bảo hiểm được 37/o nhiều hơn những người không mong đợi gì. Điểm then chốt là khi một người tự coi mình là một người thất bại thì tương lai sẽ thể hiện đúng điều dự đoán đó !
Tôi nghĩ Chúa Giêsu cũng đã hiểu tâm trạng của các tông đồ khi bị hất hủi và bị bắt bớ, họ phải trải qua những thời gian khó khăn để kiến tạo sự tự trọng. Suy nghĩ tích cực về chính mình đang khi bị phê bình gay gắt là những thử thách tâm lý khó khăn nhất các môn đệ đang gặp phải
Những lời khích lệ của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta có giá trị vì được Thiên Chúa yêu thương. Giá trị của chúng ta không hệ tại ở lời phê bình của người đời, hay do tài năng khéo léo của chúng ta, nhưng vì chúng ta là môn đệ của Người, cho dù nam hay nữ, già hay trẻ, giáo dân hay tu sĩ, hay chỉ là một trong những con người “bé nhỏ”.
“Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần của tiên tri… Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy… người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. Có khi nào chúng ta nghĩ rằng chúng ta đón tiếp một người nào đó là chúng ta đón tiếp chính Chúa Giêsu không ? Những người Công giáo ở Ao Quốc thường treo khẩu hiệu này ở nhà mình: “Người khách là Chúa Kitô”.
Trong suốt 58 năm làm linh mục (1910-1968), thánh Padre Piô đã nghe hàng ngàn người xưng tội. Thế nhưng, hiều vị giáo sĩ lúc bấy giờ đã coi cha Padre Piô là kẻ dối trá. Từ những năm mới bắt đầu, dân chúng tung tin đồn ngài là nhà huyền bí giả hiệu với những vết thương tự làm khổ mình, và cả chuyện lăng nhăng về tình dục. Năm 1931 với sự đồng ý của Vatican, bề trên đã cấm ngài không được giải tội và dâng thánh lễ công khai. Phải mất 2 năm để điều tra và phục hồi năng quyền cho ngài được dâng thánh lễ. Mãi đến ngày 5 tháng 3 năm 1934 ngài mới được phép giải tội, nhưng chỉ ngồi tòa cho đàn ông mà thôi. Hai tháng sau đó, ngày 12 tháng 5, ngài mới được phép giải tội cho cả phụ nữ nữa. Vì sự nghi ngờ này, nhiều vị trong Giáo Hội tránh né cha Padre Piô. Nhưng vị giáo hoàng tương lai đã không thèm để ý tới những tin đồn. Ngài đã chỉ dựa vào cảm giác tốt lành của những người Công giáo bình thường: “Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần của tiên tri “.
Đức Giáo Hoàng đã đón nhận một phần thưởng tốt đẹp. Năm 1962, đang khi tham dự Công đồng Vatican II, ngài nghe tin một bè bạn đang hấp hối vì ung thư cổ họng. Ngài viết thư xin cha Padre Piô cầu nguyện cho bà. Dr Wanda Poltawka đã được khỏi bệnh và phục hồi sức khỏe. Và 40 năm sau, bà đã có mặt trong buổi lễ phong thánh của cha Padre Piô.
Chúng ta cầu xin Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta những vị thánh, giống như cha Padre Piô. Nhưng chúng ta cũng phải cầu xin cho chính chúng ta có sự khiêm tốn để đón nhận họ như một vị thánh nữa.
Cách đây vài năm có dịp lên thăm người bạn ở tiểu bang Minnesota tôi nghe kể câu chuyện: TN 13-A24
Cách đây vài năm có dịp lên thăm người bạn ở tiểu bang Minnesota tôi nghe kể câu chuyện như sau. Tiểu bang Minnesota ở phía trung bắc nước Mỹ, giáp với Canada, vào mùa đông thường có những trận bão tuyết và nhiệt độ tụt xuống -30 hay -40 độ âm Farenheit. Vào một đêm bão tuyết, chiếc xe hơi của người phụ nữ bị chết máy trên đường tới Rochester. Chị biết rằng sẽ bị chết cóng nếu cứ ngồi lại ở trong xe. Tuy là vùng miền quê, nhưng trên trục lộ chính, cũng có một số nhà dọc theo đường lộ. Chị vào gõ cửa khoảng trên một chục căn nhà nhưng chẳng có ai mở cửa. Sau cùng, có một người lái xe ngang qua thấy chị nằm gục ngã bên vệ đường bèn đưa chị vào nhà thương cấp cứu. Chị được cứu sống, nhưng đã bị chết tất cả các ngón tay, ngón chân và một bàn chân vì giá lạnh.
Phần xấu nhất của câu chuyện là tại mỗi căn nhà nơi chị bước vào gõ cửa, mọi người đều ở trong nhà đêm hôm đó. Tất cả mọi người đều nghe tiếng gõ cửa. Tất cả mọi người đều là các Kitô hữu. Nhưng không một ai đã mở cửa, vì họ sợ trộm cướp sẽ đột nhập vào nhà giữa đêm bão tuyết. Câu chuyện bi thảm này đã xảy ra ở một vùng quê hiền hòa chứ không phải là ở Chicago hay New York, nơi mà thường xảy ra những vụ bắn nhau và giết người mỗi ngày !
Theo tự điển Webter’s, để định nghĩa chữ “hospitality”, “hiếu khách”, tác giả đã đặt nó nằm ở giữa hai chữ “hospice”, chỗ ở săn sóc cho người hấp hối, hay nhà nghỉ chân cho khách vãng lai, và chữ “hospital”, “bệnh viện”, nơi chữa lành. Ý nghĩa đích thực của sự hiếu khách là cái mà chúng ta ban tặng cho khách khi chúng ta mở cửa nhà ra trong tinh thần thực sự là cống hiến chỗ ở và chữa lành cho họ.
Sự tốt lành, tử tế, và cử chỉ bác ái yêu thương với tha nhân là một trong những hoa trái của Chúa Thánh Thần. Sách Giáo lý Công giáo số 901, đã trích dẫn lại tinh thần của Công đồng Vaticanô II trong Hiến chế Lumen Gentium – Anh sáng Muôn dân, đoạn 34 như sau:
“Nhân vì đã được thánh hiến cho Chúa Kitô và được Chúa Thánh Thần xức dầu, các giáo dân đã lãnh nhận ơn gọi kỳ diệu và những phương tiện giúp cho Chúa Thánh Thần sinh ra trong họ những hoa trái ngày càng dồi dào hơn. Đúng thế, tất cả các hoạt động của họ, những việc cầu nguyện và các việc tông đồ của họ, đời sống phu phụ và gia đình của họ, những lao nhọc hàng ngày của họ, những giải lao về tâm trí và thân thể của họ, nếu họ sống những điều này trong Thần Khí của Chúa, rồi cả những thử thách của cuộc đời, nếu được chịu đựng cách nhẫn nhục, thì tất cả mọi sự sẽ trở thành “lễ tiến dâng thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô”. Và trong việc cử hành Thánh thể, các lễ vật này sẽ hợp với sự hiến dâng Thân thể của Chúa để được dâng lên Chúa Cha với tất cả niềm kính thảo. Đó là cách giáo dân hiến dâng tất cả thế giới lên Thiên Chúa, bằng cách dâng lên Chúa từ khắp nơi một sự phụng tự tôn thờ do cuộc sống thánh thiện của họ”.
Nếu “Người khách là Chúa Kitô” thì cuộc sống thánh thiện là cuộc sống biết đón nhận “Người khách” đó.
Yêu bản thân mình có phải là điều tốt hay chính đáng không? Tại sao? Nhưng tại sao Đức: TN 13-A25
1. Yêu bản thân mình có phải là điều tốt hay chính đáng không? Tại sao? Nhưng tại sao Đức Giê-su lại nói: "Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được". Có gì mâu thuẫn và không hợp lý chăng?
2. Tại sao yêu Chúa và yêu tha nhân thì sẽ được hạnh phúc vĩnh cửu, được sự sống đời đời? Có thể lý giải cách nào không?
Suy tư gợi ý:
1. "Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất"
Người ta ai cũng yêu mình. Đó là điều rất tự nhiên và chính đáng. Chính Đức Giê-su đã từng nói: "Hãy yêu đồng loại như yêu chính mình" (Mt 19,19). Thánh Phao-lô cũng nói: "Chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Không ai ghét thân mình bao giờ" (Ep 5,28-29). Chính vì yêu mình, nên ai cũng có bản năng tự vệ, tự giữ lấy mạng sống, và không ai chịu liều mất mạng sống mình nếu không phải vì những lý do rất đặc biệt. Thế mà Đức Giê-su lại nói: "Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được". Có gì mâu thuẫn và không hợp lý chăng?
Ai cũng yêu mình, nhưng có hai cách yêu: yêu mình cách sáng suốt, và yêu mình cách ngu xuẩn. Yêu mình cách sáng suốt là yêu làm sao để chính mình được hạnh phúc. Còn yêu mình cách ngu xuẩn là yêu mình nhưng lại làm cho mình đau khổ. Vấn đề mấu chốt của việc yêu mình sáng suốt là ở chỗ nhận định được mình là gì, và những gì là mình.
2. Yêu mình cách sáng suốt và yêu mình cách ngu xuẩn
a) Minh họa 1:
Một người thích uống rượu, thích ăn những đồ ăn nhiều chất mỡ. Nhưng bác sĩ khuyên anh ta đừng uống rượu kẻo hại gan, đừng ăn đồ nhiều mỡ kẻo hại mạch máu. Nhưng anh ta nghĩ: gan không phải là mình, mạch máu cũng không phải là mình, chúng làm sao thây kệ chúng, không liên quan gì tới mình cả. Mình thương mình thì mình cứ ăn uống cho thỏa thích: "Vui xuân kẻo hết xuân đi, cái già sồng sộc nó thì theo sau"! Chẳng bao lâu sau, anh bị viêm gan và cao huyết áp trầm trọng, phải đau đớn rất nhiều, và cuối cùng chết sớm.
Cái sai lầm của anh này là nghĩ gan của mình, dạ dày của mình, phổi của mình… không phải là mình, nên không thương chúng, bỏ mặc chúng không thèm chăm sóc, để rồi chúng bị thương tổn, bị bệnh. Khi chúng bị bệnh thì bản thân anh cũng bị bệnh theo. Lúc đó anh mới biết chúng cũng là mình, thương chúng chính là thương mình, chăm sóc chúng chính là chăm sóc mình. Còn thương mình kiểu cứ ăn uống cho mình được thỏa thích bất chấp chúng ra sao thì ra, chính là làm hại mình, là tự giết mình.
b) Minh họa 2:
Một anh có vợ và một bầy con, nhưng anh chẳng quan tâm gì tới vợ con, anh chỉ biết lo cho bản thân anh, thậm chí còn đánh đập vợ con không thương tiếc khi bị trái ý. Anh còn mèo chuột lăng nhăng làm vợ con rất đau khổ. Chẳng bao lâu sau anh bị bệnh, không còn làm được việc gì. Lúc này anh rất cần vợ con nuôi dưỡng, chăm sóc anh. Nhưng vì anh đã đối xử quá tệ với vợ con, nên bây giờ anh bị hất hủi và đau khổ. Bây giờ anh mới nhận ra thương vợ con là thương chính bản thân mình, và chăm sóc vợ con cũng là chăm sóc chính bản thân mình.
Chúng ta còn có thể đưa ra nhiều minh họa khác chứng tỏ quần áo ta mặc, đôi giày ta đi dưới chân cũng là bản thân ta, những người sống chung quanh ta cũng chính là bản thân ta, v.v… Bên Phật giáo, từ ngữ "tăng thân" có nghĩa là thân được thêm vào bản thân của ta, bao gồm tất cả mọi người, mọi vật trong vũ trụ mà ta có cảm tưởng là ở bên ngoài ta. Theo giáo lý Đức Phật, tất cả mọi chúng sinh và tất cả những vật vô tri trong vũ trụ cũng là bản thân ta. Ta yêu chúng cũng là yêu chính ta, ta ghét chúng cũng là ghét chính ta. Ta làm cho chúng tốt đẹp hạnh phúc cũng chính là làm cho ta nên tốt đẹp hạnh phúc. Ta làm cho chúng xấu xa đau khổ cũng chính là làm ta nên xấu xa đau khổ. Vì thế, yêu mình một cách sáng suốt chính là biết yêu thương tất cả mọi người, mọi vật. Yêu mình một cách ngu xuẩn là do quan niệm về mình một cách quá giới hạn, tưởng rằng mình chỉ là thân xác mình, và chỉ biết đối xử tốt với nó, còn mặc kệ không thèm quan tâm chăm sóc đến những gì không phải là thân xác mình.
3. Thiên Chúa chính là bản thân sâu thẳm nhất của ta
Thánh Âu Tinh nói: "Thiên Chúa còn thân mật với tôi hơn chính bản thân tôi thân mật với tôi" (Deus intimior intimo meo). Nói cách khác, Thiên Chúa còn là tôi hơn cả chính bản thân tôi, Thiên Chúa là "cái tôi" sâu xa nhất của tôi. Chính vì thế, yêu Chúa bao nhiêu thì cũng là yêu mình bấy nhiêu. Và tương tự, yêu tha nhân thế nào cũng chính là yêu mình thế nấy. Thiên Chúa, tha nhân, và bản thân ta, một cách nào đó chỉ là một. Theo triết lý nhất nguyên của Đông phương, thì toàn thể những gì hiện hữu chỉ là một bản thể duy nhất, được thể hiện thành muôn vật dưới muôn hình vạn trạng trong thế giới hiện tượng. Trong nhãn quan của triết lý này, ta cảm thấy rất dễ hiểu việc yêu Thiên Chúa, yêu tha nhân cũng là yêu chính bản thân ta.
Chỉ có một điều là ta có thể cảm nghiệm được thân xác ta là ta một cách trực tiếp, nhưng phải có trí tuệ cao mới có thể cảm nghiệm được Thiên Chúa hay tha nhân cũng chính là ta một cách gián tiếp. Thực ra, ta chỉ có thể cảm nhận một cách trực tiếp nhất ý nghĩ của ta là ta, rồi mới cảm nghiệm được thân xác ta với các cơ quan của nó là ta. Vì thế, những gì ta lo cho thân xác ta thì có hậu quả thấy được ngay trước mắt. Còn những gì ta lo cho Thiên Chúa, cho tha nhân thì phải một thời gian sau - nghĩa là lâu hơn ít nhiều - mới thấy được hậu quả nơi ta.
Điều ấy có khác gì hai cách dùng tiền: một đằng là dùng tiền để mua ngay những gì cần thiết hay ích lợi cho bản thân, một đằng là dùng tiền để kinh doanh hầu có lợi lâu dài về sau. Cách trước thì sự hưởng thụ ích lợi đến ngay với mình, nhưng chỉ một thời gian là hết. Cách sau thì sự hưởng thụ đến với mình có thể rất chậm, nhưng sẽ rất lâu dài, thậm chí không bao giờ hết. Từ đó ta hiểu được tại sao yêu Thiên Chúa và tha nhân thì có được sự sống đời đời hay hạnh phúc vĩnh cửu, còn lối sống ích kỷ thì chỉ có được sự sống hay hạnh phúc tạm bợ mà thôi, để rồi sau đó là sự chết hay đau khổ lâu dài.
4. Hãy yêu Thiên Chúa hơn cả cha mẹ, anh em, con cái mình
Như đã nói trên, Thiên Chúa và tha nhân một cách nào đấy cũng chính là bản thân mình, nên yêu Thiên Chúa và tha nhân cũng là yêu chính bản thân mình. Nhưng Thiên Chúa mới chính là bản thân mình một cách sâu xa nhất. Vì thế, để yêu mình một cách sáng suốt và đem lại hạnh phúc lâu dài, người ta nên hy sinh bản thân cho tha nhân và Thiên Chúa. Và yêu tha nhân cũng chính là yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa thì trừu tượng, không thấy được, nên yêu Chúa một cách cụ thể là yêu tha nhân, nhưng hãy ưu tiên yêu người gần gũi với mình nhất, rồi đến những người xa hơn, và phải yêu thương tất cả không trừ một ai, dù là kẻ thù. Thánh Gio-an viết: "Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối ; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy" (1Ga 4,20). Nhưng giả như có sự xung đột giữa việc yêu Chúa và yêu tha nhân, thì ta luôn luôn phải dành ưu tiên cho Thiên Chúa. Nhưng một cách thực tế, yêu Thiên Chúa luôn luôn đồng nghĩa với yêu tha nhân, nên trong những trường hợp có sự xung đột này, ta thường phải hy sinh tình yêu tha nhân mang tính cá biệt cho tình yêu tha nhân mang tính đại đồng. Một cách cụ thể là phải đặt tình yêu chung
Trong một nhãn quan bao quát như trên, ta hãy đọc lại bài Tin Mừng hôm nay, ta sẽ thấy bài Tin Mừng trở nên dễ hiểu hơn trước rất nhiều.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, bây giờ con mới hiểu rõ tại sao mà con phải yêu Cha và yêu tha nhân. Bây giờ con mới hiểu yêu Cha và yêu tha nhân chính là yêu bản thân con một cách sáng suốt nhất, là đem lại hạnh phúc lâu dài cho bản thân con. Bây giờ con mới hiểu câu nói của thánh Phan-xi-cô: "Chính lúc quên mình (để yêu Thiên Chúa và tha nhân) là lúc gặp lại bản thân". Xin cho con biết yêu con bằng cách yêu Thiên Chúa và tha nhân một cách tích cực và chân thành. Amen.
"Kẻ nào tiếp đón một tiên tri vì danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri" (Mt 10:41).
Thời nay mỗi lần đi đâu xa, người ta có thể ghé vào quán cóc bên đường hay tiệm ăn trong: TN 13-A26
Thời nay, mỗi lần đi đâu xa, người ta có thể ghé vào quán cóc bên đường hay tiệm ăn trong phố để mua chút gì lót dạ; người ta cũng có thể thuê một quán trọ bình dân hay khách sạn hạng sang để trú ngụ qua đêm. Nhưng trong thời tiên tri Elisa, làm gì có được chuyện đó, dù rằng người du hành có nhiều tiền mấy chăng nữa, cũng khó kiếm được hàng quán để ăn uống và nghỉ ngơi. Thế nên ai khởi sự đi xa, ra khỏi phạm vi gia đình hoặc làng xóm là bắt đầu lệ thuộc vào lòng hiếu khách của những người xa lạ để sống còn.
Elisa vô cùng may mắn khi gặp được người phụ nữ ngoại bang ở thành Sunam đón tiếp và mời dùng bữa với danh nghĩa là một tiên tri, "vị thánh của Thiên Chúa." Người phụ nữ này vốn giàu có và đạo đức. Thấy Elisa thường qua lại thành Sunam nên bà mới bàn với chồng cất một căn phòng trên gác cao, có "một cái giường, một cái bàn, một cái ghế, và một cái đèn, để mỗi khi đến, ông ở đó." Trước lòng hiếu khách cao quí đó, tiên tri Elisa muốn thưởng công cho hai vợ chồng. Thế rồi khi biết người chồng đã già mà vợ lại chưa con, Elisa liền hứa cho bà được "sinh một cậu con trai vào năm tới."
Đây quả là phần thưởng vượt quá ước mơ. Nhưng đó cũng mới chỉ là phần thưởng dành cho những người đón tiếp tiên tri. Còn phần thưởng của Thiên Chúa dành cho những người xử tốt với chính môn đệ Ngài còn đáng mong đợi hơn nhiều. Ngày xưa, khi dân chúng của một làng hay thành nào đón tiếp Đức Giêsu, lập tức nơi đó nhận được phần thưởng của Thiên Chúa: bệnh nhân được chữa lành, tội nhận được tha thứ, người nghèo được loan báo Tin Mừng. Còn với nơi nào từ chối đón tiếp Ngài hay các môn đệ, phần dành cho nơi đó chỉ là chút bụi bàn chân. Người Do thái thường cảm nhận: khi tận tâm đón tiếp vị đại diện của ai là như chân thành đón tiếp chính người đó. Thành ra khi đón nhận các môn đệ Đức Kitô thì không khác gì đón nhận chính Ngài, mà đón nhận chính Ngài cũng có nghĩa là đón nhận chính Thiên Chúa.
Trong một thế giới, khi chủ nghĩa cá nhân ích kỷ khép kín lòng người, Tin Mừng của Đức Giêsu lại vang lên lời mời gọi mở lòng, hiếu khách. Nói đúng hơn, Ngài kêu mời con người bước vào hành trình yêu thương mà hình thức đơn giản nhất là việc đón tiếp. Một nhà tư tưởng đã viết: "Tiếp đón niềm nở chính là hình thức vui tươi của lòng yêu thương."
Lắm khi người ta dễ dàng tiếp đón các nhân vật nổi tiếng như các đấng tiên tri, người công chính, vị tư tế ..., và chắc chắn họ sẽ nhận được ân phúc mà Thiên Chúa ban thưởng cho những con người dấn thân cao cả đó. Thế nhưng Đức Giêsu còn đi xa hơn khi mời gọi người ta nới rộng sự tiếp đón đến các kẻ bé mọn, người bị bỏ rơi, người già đau yếu, thai nhi vô tội.... Những con người này cũng cần được ân cần tiếp đón như sứ giả của Đức Kitô. Và chỉ "một bát nước lã" cho họ uống thôi cũng đủ cầm chắc phần thưởng Thiên Chúa trao ban rồi.
Tiếp đón không chỉ thuần túy là mở cửa nhà, mở hầu bao, mở chum nước, nhưng đúng hơn là mở rộng con tim. Chỉ khi rộng mở tâm hồn, con người mới thật sự lớn lên trong cảm thông, tương quan, tình thân, và hiệp nhất. Một tác giả đã nhận định: "Sống là phải mở ra. Như cánh hoa mở ra với mặt trời, như dòng sông mở ra với biển khơi, như cơ thể mở ra với khí trời và ánh nắng. Mở ra như thế là đòi hỏi thiết yếu của sự sống." Phương diện thể chất còn cần mở ra để được sống, huống chi là phương diện tâm linh.
Mở ra nào cũng có nguy cơ tiêu hao mất mát. Khi can đảm mở rộng con tim là sẵn sàng chấp nhận đau thương rướm máu. Thế nhưng nếu chỉ lo khép kín trong ích kỷ là tự đi vào huỷ diệt, còn khi biết rộng mở cho yêu thương là bắt đầu tìm gặp sự sống: "Ai cố giữ mạng sống mình thì sẽ mất. Ai dám mất mạng sống vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó" (Mt 10:39).
Yêu thương phải là nền tảng của mọi dâng hiến. Bởi vì nếu tôi đem cả gia tư vốn liếng mà phát chẩn; và nếu như tôi nộp mình chịu thiêu, nhưng lại không có lòng mến thì cũng hư không vô ích cho tôi (1 Cor 13:3).
Yêu thương làm nên sự sống, nhưng yêu thương nào cũng mời gọi hy sinh hiến dâng. Hy sinh không phá huỷ con người, cũng không là cách tự tử cuồng tín, song là lối đường tạo nên những người đàn ông và đàn bà cao cả nhất (Noel Question).
Yêu thương khiến người ta tha thiết mở cửa tâm hồn ra với thế giới (dù cửa nhà có đang khép kín) để dám đón nhận tất cả và hy sinh cho tất cả. Alain Cavalier, người thực hiện cuốn phim về Chị Thánh Têrêsa và được giải thưởng Cannes cao quí đã phát biểu như sau: "Rút mình khỏi thế giới, một mình trong phòng kín... đóng kín lại để mở ra nhiều hơn, tốt hơn." Và rồi, nhờ mở ra trong khát mong yêu thương tròn đầy, nên tuy không đi truyền giáo đâu xa hơn bốn bức tường tu viện, Têrêsa vẫn là quan thầy của các vùng truyền giáo, không làm linh mục để hoán đổi một linh hồn tội lỗi, nhưng đã vực dậy bao cõi lòng lao đao lạc lối, không giảng một bài nảy lửa làm rúng động tâm linh, nhưng lại là tiến sĩ của con đường thơ ấu dẫn bao tâm hồn đến với Tình Yêu.
Chị Thánh đã mở trái tim mình để đón tiếp Tình Yêu nên đã lãnh được phần thưởng của Tình Yêu.
Thế ra, tuy không phải là tiên tri hay nhà thừa sai truyền giáo, tuy không phải là linh mục hay thành viên trong các tu viện đó đây, nhưng nếu biết mở lòng cho yêu thương, kính trọng, cầu nguyện và đỡ nâng những bước chân rao giảng Tin Mừng, tôi sẽ có được phần thưởng mà Đức Kitô sẽ dành ban cho các sứ giả kiên trung của Người.
Hai mươi sáu năm trời, vác một cây thánh giá gỗ, dài 3,6m, ngang 1,8m, nặng 18 kg, vượt qua: TN 13-A27
Hai mươi sáu năm trời, vác một cây thánh giá gỗ, dài 3,6m, ngang 1,8m, nặng 18 kg, vượt qua 50.140 km, 227 quốc gia, 7 lục địa: đó là điều mục sư Arthur Blessit đã làm từ Noel 1969. Ông là người giữ kỷ lục đi bộ quãng đường dài nhất. "Tôi đã đi qua các sa mạc, rừng rậm, đã từng bị tấn công bởi voi, rắn, cá sấu. Tôi đã bị bắt giam 21 lần và suýt bị hành hình..." Chỉ còn 50 nước ông chưa đặt chân tới. Ông hy vọng sẽ hoàn tất chuyến đi này trước năm 2000. Như vậy ông sẽ là người đầu tiên đưa thánh giá đi khắp mọi nơi trên thế giới.
Cử chỉ của ông làm chúng ta suy nghĩ.
Vác thánh giá là chấp nhận nặng nề và bấp bênh, nặng nề vì khúc gỗ trên vai, bấp bênh vì nguy hiểm.
Đức Giêsu mời gọi các môn đệ vác thánh giá của mình mà theo Ngài.
Chẳng có con đường nào tốt hơn con đường Ngài đã đi.
Con đường khó nghèo, khiêm hạ ở Bê-lem và Na-da-rét. Con đường rao giảng trong nhọc nhằn ở phần đất xứ Galilê. Con đường đầy đe dọa hiểm nghèo khi lên Giêrusalem. Con đường hiến mình khi vác thánh giá lên Núi Sọ.
Chúng ta được mời gọi đi theo Ngài trên các con đường ấy, hay đúng hơn đi theo Ngài trên nẻo đường của đời mình, không cô đơn thất vọng, vì biết nơi mình sắp đến.
Thánh giá của chúng ta không phải là khúc gỗ, nhưng là những gì ta phải từ bỏ, dù rất yêu mến, những người ta phải yêu mến, dù rất muốn từ bỏ.
Chúng ta chỉ vác nổi thánh giá của mình nếu chúng ta dám yêu thực sự.
Chỉ khi yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, chúng ta mới dám quên mình, bỏ mình, mất mình, hiến mình.
Điểm mới mẻ của Tân Ước là tình yêu đối với Đức Giêsu. Ngài đòi ta phải yêu Ngài hơn cha mẹ, hơn con cái.
Ngài còn đòi ta chịu mất mạng vì Ngài.
Nếu Đức Giêsu không phải là hiện thân của chính Thiên Chúa, nếu Ngài đã không chết vì chúng ta trước, thì Ngài chẳng có quyền đòi hỏi những hy sinh như vậy.
Trải qua 20 thế kỷ, biết bao thế hệ Kitô hữu đã dám sống đến cùng tình yêu ấy.
Truyền giáo không phải chỉ là thông truyền đức tin mà còn là thông truyền tình yêu, là làm cho Đức Giêsu được mọi người yêu mến.
Nhưng trước hết, chúng ta phải cảm nghiệm được Tình Yêu để cả cuộc đời ta là lời đáp cho Tình Yêu, là cuộc sống sao cho xứng với Thầy (c.37.38).
Ước gì chúng ta yêu Đức Giêsu trên mọi sự, yêu mọi sự trong Ngài và dưới Ngài, chấp nhận mất cái tôi nhỏ mọn, để được cái tôi triển nở.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn hãy chia sẻ một kinh nghiệm về mất để rồi được lại hay một kinh nghiệm về tưởng được mà lại mất. Từ bỏ, hy sinh là những điều không hấp dẫn con người hôm nay, nhưng bạn có thấy chúng hết sức cần thiết không? Làm sao để dễ từ bỏ mình khi phải chung sống với người khác? Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin nhận lấy trọn cả tự do, trí nhớ, trí hiểu, và trọn cả ý muốn của con, cùng hết thảy những gì con có, và những gì thuộc về con.
Mọi sự ấy, Chúa đã ban cho con, lạy Chúa, nay con xin dâng lại cho Chúa.
Tất cả là của Chúa, xin Chúa sử dụng hoàn toàn theo ý Chúa.
Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi khi làm bất cứ công việc gì, dù lớn hay nhỏ, chúng ta cũng đều nghĩ: TN 13-A28
Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi khi làm bất cứ công việc gì, dù lớn hay nhỏ, chúng ta cũng đều nghĩ tới lợi ích vật chất mà công việc này đem lại cho chúng ta. Nếu có lợi, chúng ta mới làm. Đây là điều phải lẽ, nhưng có khi chúng ta chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt mà bỏ quên lợi ích lâu dài, và trường tồn. Có những việc trước mắt xem ra thiệt hại, nhưng thực ra mang lại rất nhiều lợi ích. Đó là những nghịch lý nhưng không vô lý.
Thật vậy, càng lo nắm giữ, càng không có, nhưng càng cho đi, nghĩa là mở ra thì lại được rất nhiều. Đây là một điều xem ra có vẻ nghịch lý, nhưng lại là một chân lý. Chân lý này hôm nay, một lần nữa được Đức Giêsu xác nhận qua lời khẳng định của Ngài: “Ai tìm giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10, 39).
1. Một nghịch lý…:
Trở lại với bài Tin mừng, chúng ta thấy lời kêu gọi các môn đệ của Đức Giêsu thật là khác thường, nếu không muốn nói là chẳng giống ai. Bình thường, tất cả các thầy dạy, hoặc những ai muốn mọi người đến với mình theo mình, đều hứa hẹn thật nhiều. Họ vẽ lên một bức tranh thật đẹp trước mắt người nghe. Họ hứa thật nhiều cho dù từ trong thâm tâm, họ biết họ sẽ không thực hiện nổi. Điều này từng người chúng ta có thể nhận ra thật rõ nơi những lời hứa hẹn của các ứng cử viên trước các cuộc bầu cử, hay lời quảng cáo của các công ty. Khi ra ứng cử, người nào cũng hứa là sẽ làm cho “dân giàu, nước mạnh”, “làm tôi tớ cho nhân dân”, nhưng khi đã trúng cử thì lại lợi dụng chức quyền để tìm mọi cách thu lợi riêng cho mình, đến nỗi, hiện nay, nạn tham nhũng đang là một “Quốc nạn” đối với dân tộc Việt Nam chúng ta.
Trái lại, khi gọi các môn đệ theo mình, Đức Giêsu lại nói: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10, 38). Đọc lại lời kêu gọi này, tôi tự nghĩ: Đây đúng là một lời kêu gọi thật chẳng khôn ngoan gì. Vì thập giá là điều mà mỗi người chúng ta, tôi và quý ông bà anh chị em đều muốn tránh né, không muốn nghĩ đến, nói đến, chứ chưa nói đến việc là ham muốn vác thập giá. Đáng lẽ Chúa phải nói: “Ai muốn làm lớn, giàu có, vinh sang phú quý, thì hãy theo Thầy” mới phải chứ! Nếu Chúa hứa như thế, chắc có lẽ trước mắt sẽ có nhiều người theo Chúa hơn.
2. … nhưng không vô lý:
Tuy nhiên, sau khi bình tâm suy nghĩ kỹ hơn một chút, tôi chợt nhận ra rằng: Đức Giêsu không có ý muốn mỗi người chúng ta chịu đau khổ, nhưng Ngài chỉ muốn cho chúng ta thấy rõ, con đường theo Ngài là con đường đi ngược với mọi suy nghĩ, mọi tính toán theo kiểu của con người. Và chính vì thế, chắc hẳn sẽ đòi hỏi mỗi người chúng ta một nỗ lực không ngừng để chiến đấu với bản thân, làm chủ con người của mình cùng với những dục vọng, đam mê, tự ái của nó.
Hơn nữa, vì con đường của Đức Giêsu là con đường của sự thật mà “sự thật thì mất lòng”, cho nên sẽ những người muốn đi theo con đường đó, chắc hẳn phải đối mặt với sự chống đối của những thế lực sự dữ. Có khi sự chống đối này không chỉ đến từ những người xa lạ, mà nó còn xuất hiện nơi những người thân cận của chúng ta như: giữa cha mẹ và con cái; giữa vợ chồng, anh chị em, bạn bè thân thích với nhau… Tất cả những điều đó, lắm lúc tạo nên nơi mỗi người chúng ta một tâm lý thoả hiệp, “ba phải”, ai nói sao cũng gật, cũng ừ cho vừa lòng mọi người.
3. Con đường đưa đến sự sống
Thế nhưng, Đức Giêsu lại không đồng ý như thế, Ngài muốn mỗi người chúng ta có một chọn lựa dứt khoát thật sự nếu muốn trở thành môn đệ của Ngài “kẻ nào yêu mến cha mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy, và kẻ nào yêu mến con trai, con gái hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy”. Và hôm nay, chúng ta cũng có thể nói thêm “kẻ nào yêu mến tiền bạc, danh vọng, chức quyền, và danh dự bản thân hơn là sống theo lời dạy của Đức Giêsu, thì quả thật không xứng đáng là môn đệ của Ngài”.
Theo Đức Giêsu, chúng ta phải sẵn sàng chấp nhận cả những thiệt thòi về vật chất cho những công việc chung, như người đàn bà miền Sunam trong bài đọc một đã không quản ngại tốn phí lo chỗ ăn nghỉ cho ngôn sứ Êlisê. Và việc làm của bà đã không trở nên vô ích, bà đã được Thiên Chúa chúc phúc cho bà có được con trai nối dòng.Mặt khác, đối với thánh Phaolô, theo Đức Giêsu, không chỉ là chấp nhận những mất mát, thiệt thòi về vật chất, lắm lúc chúng ta còn phải chấp nhận chết đi con người cũ, để có thể nhận được sự sống mới trong Đức Kitô, như chúng ta vừa nghe trong bài đọc hai: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta tin rằng: chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người”. Chúng ta sẽ như chết đi khi dám dấn thân phục vụ công việc chung, mà trước mắt sẽ không có một quyền lợi nào, nhưng đó chính là lúc chúng ta nhận được một phần thưởng là sự sống đời đời như lời hứa của Đức Giêsu: “Kẻ nào đành mất mạng sống vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó”. Tin tưởng vào lời hứa của Đức Giêsu, sau này thánh Phanxicô, trong bài ca Hoà Bình cũng đã ca lên: “Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người… Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
4. Trân trọng cả những điều nhỏ nhặt nhất:Con đường của Đức Giêsu đã vạch ra cho những ai muốn theo Ngài thật rõ ràng: đó là con đường của hy sinh, con đường của sự dấn thân phục vụ cách vô vị lợi trong mọi sự, kể cả những việc bé mọn nhất. Đối với Đức Giêsu không có việc nào lớn, danh giá, cũng không có việc nào nhỏ bé tầm thường, nhưng điều quan trọng là làm với động lực nào. Chính động lực thúc đẩy chúng ta hành động mới là quan trọng. Đức Giêsu nói: “Kẻ nào đón tiếp một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri, và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa là người công chính, thì sẽ lãnh phần thưởng của người công chính”, nghĩa là nếu chúng ta dấn thân phục vụ với tinh thần nào, sẽ nhận được phần thưởng của tinh thần ấy. Nếu dấn thân phục vụ với ý thức đây là việc của Thiên Chúa, của Giáo Hội, chúng ta sẽ nhận được phần thưởng của Thiên Chúa. Còn nếu chúng ta phục vụ chỉ vì danh dự cá nhân, để chứng tỏ mình, thì trước mặt Chúa sẽ chẳng có giá trị gì.
Việc phục vụ này có thể bắt đầu từ những việc rất nhỏ, bình thường như nấu cơm, quét nhà, giặt giũ quần áo, dọn dẹp nhà cửa của người vợ; hay việc sửa lại một cái ghế, cánh cửa của người chồng; việc học bài, coi em của các em thiếu nhi trong gia đình, hay đó chỉ là việc chia sẻ với những người đang gặp thiếu thốn, khó khăn chung quanh chúng ta… Tất cả những điều đó, nếu làm với một tấm lòng yêu mến, thì tất cả sẽ có một giá trị vô song trước mặt Thiên Chúa.
Lắng nghe lời Chúa hôm nay, với sự trợ lực của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, từng người chúng ta đủ can đảm và sức mạnh sống trọn vẹn những đòi hỏi xem ra nghịch lý của Tin mừng, để nhờ đó, chúng ta sẽ nhận được phần thưởng muôn đời nơi Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Amen.
Theo Chúa Kitô, làm môn đệ của Ngài, người Kitô hữu sẽ phải chấp nhận sự thua thiệt của cuộc đời: TN 13-A29
Theo Chúa Kitô, làm môn đệ của Ngài, người Kitô hữu sẽ phải chấp nhận sự thua thiệt của cuộc đời. Không thua thiệt sao được khi thế gian được nhiều đặc quyền đặc lợi, khi người đời thường thỏa hiệp để chiếm lấy sự dễ dãi và có nhiều lợi nhuận, có nhiều diều kiện thuận lợi để sống vinh thân phì gia. Làm môn đệ Chúa người Kitô hữu phải canh cánh trong lòng: " Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác Thập Giá của mình mà theo Ta ".
I. THEO ĐỨC KITÔ
Khi gọi các môn đệ, Chúa Giêsu chỉ kêu mời họ khi đã mật thiết kết hiệp, cầu nguyện lâu giờ với Chúa Cha. Chúa chọn người nào tùy ý Chúa, không ai có quyền buộc Chúa phải chọn người này, bỏ người khác. Việc kêu mời, cất nhắc người này, người kia là do hoàn toàn Chúa tự do quyết định. Chúa đã thổ lộ cách thân tình nhất đối với các môn đệ mà Chúa vừa chọn làm tông đồ của Người. Làm tông đồ "Apostoloi" có nghĩa được sai đi, thuộc về Chúa, nên phải lệ thuộc vào Chúa và thực thi lời Chúa truyền dậy. Muốn làm môn đệ, Chúa mời gọi con người phải từ bỏ, hy sinh, vác thập giá mỗi ngày mà theo Chúa, không được quá ham mê vật chất, bám víu lấy cuộc đời để tìm thỏa mãn, tìm hư danh, lạc thú.
Có dứt khoát với những của cải đời này, với những đam mê, thú vui, danh vọng, người môn đệ Chúa mới có thể hoàn thành sứ mạng Chúa trao phó:" Ai yêu Cha Mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy…Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy"( Mt 10, 37-38 ). Chúa Giêsu đòi hỏi người môn đệ phải vượt lên trên tình liên đới máu huyết để sống bình diện siêu nhiên cao hơn. Khi Chúa nói: " Ai yêu Cha hay yêu Mẹ hơn Thầy…", Chúa Giêsu muốn người môn đệ phải chọn lựa, phải động não, phải làm việc không ngừng. Chọn theo Chúa, có nghĩa là chọn tình yêu của Chúa. Vì thế, Chúa không muốn người môn đệ cứ bám víu vào những sự chóng qua ở đời này mà Ngài mời gọi họ yêu mến Chúa, chọn Chúa như gia nghiệp của họ và khi chọn Chúa như vậy, họ phải yêu Chúa hơn chính bản thân của họ, hơn cả mạng sống của họ. Các môn đệ đã chấp nhận vác thập giá mà theo Chúa để noi gương Thầy mình là Đức Giêsu Kitô đã hy sinh, gánh tội trần gian, chết trên thập giá để cứu độ nhân loại:" Khi nào Ta bị giơ cao khỏi đất, Tasẽ kéo mọi người lên cùng Ta ". Các môn đệ theo Chúa sẽ phải nhớ rằng:" Tôi tớ không hơn chủ ". Nối gót theo chân Chúa, người môn đệ sẽ bị ghét bỏ, loại trừ, bị hiểu lầm, bị tù tội, có khi phải chết. Theo Chúa là chấp nhận hy sinh, chấp nhận chết vì yêu:" Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của Người hy sinh mạng sống vì người mình yêu" ( Ga 15, 13 ). Đó là cái nghịch lý của những con người theo Chúa.
II. ĐÓN TIẾP CÁC SỨ GIẢ ĐỨC KITÔ
Người môn đệ hay nói một cách nôm na, các sứ giả của Chúa là những người được Chúa sai đi: " Như Cha đã sai con…thì Con cũng sai họ.."( Ga 17, 18 ). Các sứ giả vì được Chúa sai đi, nên họ phải được người khác tận tình đón tiếp:" Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy. Ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy "( Mt 10, 40 ). Vậy, sứ giả là những người phải sống có tư cách, sống nỗ lực, phấn đấu để luôn xứng đáng được vinh dự người khác tiếp đón như đã đón tiếp Chúa Giêsu. Vì rằng sứ giả là người được Chúa sai đến, Chúa coi sứ giả như chính mình Ngài. Sứ giả phục vụ công việc của Chúa: rao giảng Tin Mừng. Việc làm và sứ mệnh của sứ giả vượt trên những việc trần thế.
Nên mọi người có bổn phận tiếp tay với các sứ giả của Chúa để làm cho công việc rao giảng được vang lên khắp mọi nơi:" Các con hãy đi khắp nơi làm phép rửa nhân danh Chúa Cha, nhân danh Chúa Con và nhân danh Chúa Thánh Thần " ( Mt 28, 19 ) " Giáo Hội có bổn phận và có Thánh Quyền rao giảng Tin Mừng …"(TG số 7 ). Các môn đệ vì là những người bé nhỏ:" Lạy Cha là Chúa trời đất, Con cảm tạ Cha vì Cha đã mạc khải nước trời cho những kẻ bé mọn "( Mt 11,25 ). Sứ giả vì tin vào Đức Kitô, họ cũng xứng đáng được yêu mến và kính trọng. Và những kẻ đón tiếp sứ giả sẽ không mất phần thưởng:" Kẻ nào cho một kẻ bé mọn uống dù một Ly nước lã là đã làm cho Chúa Giêsu " ( Mt 25, 40- 46 ). Đó là sự nâng đỡ của Chúa đối với những người được sai đi và sự đền đáp của Chúa đối với những người đón tiếp sứ giả của Chúa như đón tiếp chúa ( xem 2V 4, 17 và Mt 10, 41 ).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho các sứ giả của Chúa luôn hiểu rõ lời đòi hỏi của Chúa: " Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được được " ( Mt 10, 39 ). Xin cho các sứ giả luôn nói và sống Lời Chúa với tất cả tâm hồn để người nghe đón nhận với lòng tin: " Trong mọi sự, Anh hãy tỏ ra mình là gương mẫu về đức hạnh, tinh tuyền và đoan trang trong giáo huấn…"( Titô 2, 7 ). Xin cho các sứ giả Tin Mừng cũng như những người đón nhận Tin Mừng luôn sống xứng với Lời Chúa mà sứ giả rao giảng và người nghe lãnh nhận
Hẳn là một sự so sánh khá khập khiểng bởi những lời lẽ Chúa Giê-su dạy hôm nay không có: TN 13-A30
Hẳn là một sự so sánh khá khập khiểng bởi những lời lẽ Chúa Giê-su dạy hôm nay không có gì là “ăn miếng trả miếng” như luật Talion của Do Thái ngày xưa: “mắt đền mắt, răng thế răng”, nhưng lời lẽ ấy không khỏi khiến ta liên tưởng tới chuyện “ú đi dì lại”, và như vậy, việc giữ đạo hoá ra chỉ là trò đổi chác thôi sao ?
Tình yêu, bổn phận thờ phượng, kính úy Thiên Chúa “hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn” rút cuộc cũng chỉ là “trao đổi hai chiều” ư ? Hỏi rồi, thì ta lại phải trả lời: Đúng thế ! Nhưng đây không phải là việc buôn bán, đổi chác, mà chính là phần thưởng cho những người sống theo các chuẩn mực Phúc Âm, hay nói đúng hơn, đó là sự bù trừ công bằng cho những người thực thi Ý Chúa, mà thực thi Ý Chúa thì luôn bị thiệt thòi, đau khổ, và hy sinh.
Cuộc sống người Ki-tô hữu là gì ? Nếu không phải là thực hành những gì sẽ trở nên công trạng cho mình để được vào Nước Chúa ? Vậy ta hãy cùng phân tích bài Tin Mừng hôm nay.
1. Từ sự chết đến sự sống:
Chúa Giê-su mời gọi chúng ta nhận lấy thập giá mà chính Người cũng sẽ chọn, và mời gọi chúng ta dám đánh mất mạng sống của chính chúng ta, nhưng không phải là mất theo kiểu nào cũng được, mà phải mất vì cho và vì anh em. Một khi chúng ta dám hy sinh mạng sống mình bằng cách trao ban cho người khác, thì chúng ta có thể cứu được mạng sống mình. Do đó, có sự đối nghịch giữa “giữ mạng sống cho mình” và “mất mạng sống vì Chúa”. Chỉ nơi thập giá và những hy sinh, những đau khổ, sự liều mất mạng sống mình vì Chúa và vì tha nhân, thì mới tìm ra lời giải cho sự sống và sự chết: chết dẫn đến sự sống và chết là điều kiện để đạt đến sự sống.
2. Sự đón tiếp:
Chúa Giê-su đã nói rõ: ”Ai đón tiếp các con là đón tiếp Thầy. Và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy”.
Chúng ta có một lô-gíc về sự trung gian. Có thể nói, tất cả mọi sự đón tiếp chân thành giữa mọi con người đều có sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúng ta có thể tự hỏi tại sao Thiên Chúa không trực tiếp đến với chúng ta mà cứ luôn phải “qua”: qua Đức Ki-tô, qua tha nhân, cũng như Chúa Giê-su đến với chúng ta “qua” những kẻ bé mọn nhất. Điều đó muốn nói lên rằng: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta bằng việc ban cho chúng ta cây cỏ, thú vật và mọi người anh em.
Vậy tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa cũng chẳng thể đi theo con đường nào khác mà phải nhất thiết qua tạo vật, qua tha nhân. Sự tiếp đón hay sự đón nhận tha nhân phải thực hiện không vì lợi ích bản thân hoặc theo sở thích cá nhân, nhưng vì đó là những kẻ Thiên Chúa tạo dựng, yêu thương, và cứu chuộc. Chỉ khi ấy, sự tiếp đón mới thật sự có sự hiện diện của Thiên Chúa.
3. Phần thưởng:
Nhiều người có thể ngạc nhiên khi nghe Chúa Giê-su nói về phần thưởng. Thật ra, ta không nên hiểu và xem đó là phần thưởng, mà là sự bù trừ.
Luật Talion – mắt thế mắt; răng đền răng – cũng như phần còn lại của Luật Mô-sê, không bị bãi bỏ, nhưng sự đòi hỏi “ăn miếng trả miếng” này được nhìn theo một cách khác, ở một tầm mức khác đó là không có tình yêu nếu không có công bằng. Ai cho nhưng-không, dù chỉ là một bát nước lã, thì đã tạo ra một sự mất cân đối và phải có sự bù trừ lại để có sự cân bằng và công bằng. Do đó, sự tha thứ là món quà cao nhất, nó thách đố công lý, là cái luôn đòi hỏi công bằng và tương ứng. Bởi vậy, hành động tha thứ cho kẻ khác phải được nhận lại sự bù trừ cao nhất.
Là hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu, chúng ta được mời gọi cho đi không tính toán và không trông đợi được đáp trả. Trong Bát Phúc, Thiên Chúa không chấp nhận sự mất cân đối và luôn ban những ơn này ơn kia để bù lại. Chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy rằng giá trị của điều chúng ta ban tặng, không căn cứ vào chất lượng của điều ấy, mà chính là phẩm chất của người nhận; bởi vì tất cả những gì chúng ta trao tặng cho tha nhân, thì chính là chúng ta làm cho chính Thiên Chúa. Và phần thưởng rốt cuộc chẳng phải là gì khác ngoài chính Thiên Chúa.
Xét cho cùng, trong thực tế, tất cả những khả năng tinh thần và vật chất để giúp chúng ta thực hiện việc chọn lựa thập giá, việc đón tiếp tha nhân cũng là do chính Thiên Chúa ban tặng. Và cũng lại là “ú đi dì lại” !
“Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, kẻ ấy không xứng đáng làm môn đệ Ta”.
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy nhiều người đã lên tiếng thán phục Chúa, nhưng lại không dám:TN 13-A31
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy nhiều người đã lên tiếng thán phục Chúa, nhưng lại không dám bước theo Người. Họ giống như một em bé ngồi xem xiếc. Em há hộc miệng ngạc nhiên và khâm phục người đi thăng bằng trên sợi dây mong manh. Khi người ấy nhìn xuống và hỏi:
- Em có tin rằng tôi có thể vác em mà đi trên sợi dây này không?
Em không ngần ngại trả lời:
- Chắc chắn là ông làm được.
Thế nhưng, khi người ấy nói với em:
- Vậy em hãy lên đây và tôi sẽ vác em mà đi trên dây.
Nghe vậy, em bé liền sợ hãi và từ chối lời mời gọi, mà theo em, thật là đầy nguy hiềm.
Với chúng ta cũng thế. Nhiều người trong chúng ta luôn nói rằng mình tin Chúa, nhưng lại không dám bước theo Người. Họ chỉ là những kẻ dám đốc, dám xúi mà lại chẳng dám làm. Và nếu có làm, có bước theo Chúa, thì chỉ làm, chỉ bước theo trong một mức độ nào đó mà thôi. Họ theo Người đến bên thập giá, chứ không dám theo Người đến độ đóng đinh mình vào thập giá.
Có những lúc trong cuộc sống, đau khổ và thử thách đã xảy ra như muốn vùi dập chúng ta, khiến chúng ta bị cám dỗ chối bỏ Chúa, khước từ thập giá và không bước theo Người nữa. Trong những hoàn cảnh như thế, chúng ta phải làm gì?
Tôi xin thưa:
- Chúng ta hãy thầm nhủ rằng chính Chúa đã từng có những lúc cảm thấy thập giá của mình như nặng quá sức. Chẳng hạn trong cơn hấp hối tại vườn Cây Dầu, Người đã cầu nguyện: Xin Cha cất chén đắng này cho con, nhưng không theo ý Con, một theo ý Chúa mà thôi. Đề rồi cuối cùng Người đã chấp nhận thập giá, đồng thời cũng đã chấp nhận cho một kẻ xa lạ là ông Simong vác đỡ Ngài trên đường lên đỉnh Canvê.
Thực vậy, là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu độ trần gian, thế mà Người đành thú nhận với bản thân và với thế gian răng mình không đủ sức vác nồi thập giá, huống nữa là chúng ta. Bởi đó, phải khiên nhường noi gương Người, khi thập giá đè nặng trên đôi vai nhỏ bé của chúng ta.
Ngoài ra, chúng ta cũng hãy kêu xin Người giúp đỡ. Người đã biết tjhế nào là sức nặng của thập giá, thế nào là lảo đảo và té ngã khi vác thập giá, chắc hẳn Người sẽ hiều biết và thông cảm với chúng ta, vì “đoạn trường ai có qua cầu mới hay”. Đồng thời chúng ta cũng cần phải nhờ đến những người chung quanh, như cha mẹ, anh em và bè bạn, như Chúa Giêsu đã nhờ đến ông Simong ngày xưa.
Tin Mừng hôm nay mời hỏi chúng ta hãy kiểm điểm đời sống và tự vấn lương tâm xem chúng ta có khiêm nhường như Chúa Giêsu khi thập giá đổ xuống trên cuộc đời chúng ta hay không? Chúng ta có kêu cầu Chúa và những người thân yêu để giúp đỡ chúng ta khỏi thất vọng nản chí hay không?
Và cuối cùng, bản thấn chúng ta cần phải cố gắng để không trở nên một thập giá, một gắnh nặng cho người khác đã đành, mà hơn thế nữa, còn phải tích cực giúp đỡ họ vác lấy cây thập giá cuộc đời, là những hy sinh gian khổ trong cuộc sống. Vì thế, chúng ta cũng phải kiểm điểm và tự vấn lương tâm xem chúng ta đã cư xử thế nào đối với những người đang cần chúng ta giúp đỡ. Chúng ta đã sẵn sàng hay tứ chối, chúng ta đã giúp đỡ họ một cách vui vẻ hay miễn cưỡng.
Hãy bắt chước Chúa Giêsu mà vác lấy cây thập giá đời mình, đồng thời cũng hây bắt chước ông Simong, giúp đỡ người khác trong khi họ đang vác lấy thập giá mà bước theo Chúa.
Chuẩn bị nhân sự tiếp nối công việc truyền giáo ở trần gian, Chúa Giêsu đã tuyển chọn các môn đệ:TN 13-A32
Chuẩn bị nhân sự tiếp nối công việc truyền giáo ở trần gian, Chúa Giêsu đã tuyển chọn các môn đệ. Tuyển chọn rồi Chúa còn đào tạo để các ngài nên những chứng nhân trung thành của Chúa. Hôm nay, Chúa nêu lên những đức tính cần thiết của người môn đệ.
Người môn đệ của Chúa phải có tâm hồn quảng đại.
Tiên tri Elisêô đã hào phóng đối với gia đình tiếp đón Ngài. Tiên tri là hình ảnh đẹp về các môn đệ của Chúa. Người môn đệ là đại diện cho Đấng sai mình. Người đại diện tốt phải là người trình bày được dung mạo của Đấng sai mình. Chúa Giêsu, Đấng sai ta là người vô cùng rộng lượng. Người đến trần gian không phải để thu tích mà để ban phát. Trọn cuộc đời, Người ban phát không biết mệt mỏi. Người đến không phải để xét xử, luận phạt, nhưng để tha thứ. Người tha thứ một cách dễ dàng cho tất cả những tội nhân đến với Người. Người đến không phải để giết chết, nhưng là để cứu chữa. Người đến cho ta được sống và sống dồi dào. Người môn đệ của Chúa cũng phải có tâm hồn quảng đại, rộng lượng, bao dung như Chúa.
Người môn đệ của Chúa phải sống khiêm nhường.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu gọi các môn đệ là những người bé mọn. Chống lại những thói kiêu căng, phô trương, Chúa Giêsu luôn thao thức sao cho các môn đệ của Người trở nên bé nhỏ, khiêm nhường. Bé nhỏ trong tâm tình đạo đức để phó thác mọi sự trong tay Cha. Bé nhỏ về của cải, đừng mang “hai áo, mang theo túi tiền”. Bé nhỏ trong cách cư xử với nhau, đừng tranh giành chỗ nhất, nhưng hãy chọn chỗ chót. Bé nhỏ để quỳ xuống phục vụ: “như Thầy đã rửa chân cho các con, các con hãy rữa chân cho nhau”. Bé nhỏ để sau khi làm mọi việc rồi, hãy nhận mình là “tôi tớ vô duyên bất tài”.
Người môn đệ của Chúa phải biết tập trung vào Chúa Kitô.
Người môn đệ là người chọn Chúa Kitô làm lý tưởng. Người môn đệ cũng là người đi làm chứng về Chúa Kitô. Vì thế mọi lời ăn tiếng nói, cả đến tâm tư tình cảm phải qui hướng về Chúa Kitô. Chúa Kitô phải chiếm vị trí ưu việt trong tâm hồn người môn đệ. Nói thế không có nghĩa là người môn đệ chối bỏ mọi tình cảm chính đáng, dứt lìa những mối liên hệ gia đình. Nhưng có nghĩa là từ nay người môn đệ có yêu thương ai thì cũng là yêu thương trong tình yêu của Chúa Kitô và bằng tình yêu của Chúa Kitô.
Người môn đệ của Chúa sống cho Chúa và chết cho Chúa.
Chúa Giêsu không sống vì mình và cho mình. Người luôn sống vì và cho người khác. Người sống vì Chúa Cha và cho Chúa Cha. Nên mọi việâc Người làm đều vì Chúa Cha và cho Chúa Cha. Người là tình yêu hoàn hảo dâng tặng Chúa Cha. Nên Người đã “vâng lời Chúa Cha cho đến chết và chết trên thập giá”. Người sống vì con người và cho con người. Nên người đã ban tặng chính sự sống của Người cho nhân loại, đã hiến mạng sống làm giá cứu chuộc nhân loại.
Nên thánh Phalô khuyên người môn đệ của Chúa hãy bắt chước Chúa mà chịu phép rửa trong sự chết của Chúa Kitô. Hãy yêu mến, sống cho Chúa và chết cho Chúa. Chắc chắn ta không chết một lần, nhưng sẽ chết dần mòn. Chết cho tội lỗi để không bao giờ phạm tội nữa. Chết trong quên mình âm thầm. Chết trong những hy sinh nhỏ bé. Chết trong nhiệt thành phục vụ nước Chúa. Chính khi chết đi như vậy, ta lại được một sự sống mới tràn ngập tâm hồn, sự sống sung mãn, phong phú của Thiên Chúa. Chỉ có những ai đã trải qua cái chết, mới cảm nghiệm được sự sống ấy, Thánh Phanxicô chắc chắn đã trải qua cuộc lột xác ấy nên mới thốt ra được những lời bất hủ: “Chính lúc chết đi, là khi vui sống muôn đời”. Vì thế thánh nhân đã trở nên môn đệ đích thực của Chúa Kitô.
Lạy Chúa, xin thanh luyện tâm hồn con, để con xứng đáng là môn đệ của Chúa. Amen.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1- Chúa Giêsu muốn cho môn đệ của Chúa có những phẩm chất nào? 2- Những gì Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ, Người có thực hành không? 3- Đào tạo nhân sự cho Hội Thánh. Bạn nghĩ đến việc này thế nào? Quan tâm? Giúp đỡ? Đóng góp?.
Sự hiếu khách là một đức tính tốt đẹp mà đôi khi nó dẫn đến nhiều ngạc nhiên và sinh ra những:TN 13-A33
Sự hiếu khách là một đức tính tốt đẹp mà đôi khi nó dẫn đến nhiều ngạc nhiên và sinh ra những kết quả không ngờ. Trong bài đọc I, người đàn bà xứ Shunem chứ không phải người Israel. Dù người Shunem thường bị người Israel khinh miệt, coi họ như dân ngoại, bà ta đã nhận biết tiên tri Êlisêô là một vị thánh. Bà đã thuyết phục được chồng bà để tỏ lòng hiếu khách với người của Thiên Chúa, vị tiên tri đã chấp nhận sự hiếu khách này với một sự ngạc nhiên. Phần thưởng bất ngờ mà người đàn bà được là một năm sau bà hạ sinh được một cậu bé trai, và bà vui sướng với phần thưởng đó trong một thời gian dài.
Đoạn văn này đã báo trước lời giáo huấn của Chúa Giêsu trong Phúc âm: “Người nào tiếp đón một tiên tri mang danh là tiên tri thì nhận phần thưởng của một tiên tri”. Phần thưởng của người đàn bà xứ Shunem là đứa bé trai, đứa con do chính máu huyết của bà sinh ra. Chúa Giêsu đã nói với mọi người: “Ai tiếp đón các con là tiếp đón Thầy”. Khi chúng ta tỏ ra hiếu khách với tha nhân, chúng ta cũng sẽ nhận được một bé trai, nhưng không phải do máu huyết của chúng ta sinh ra. Chúng ta lãnh nhận người Con đời đời của Chúa Cha. Khi chúng ta đến với tha nhân là chúng ta đến với chính Đức Kitô.
Thánh Martin thành Tour là một mẫu gương. Ngài thường được xem là con người đầu tiên được tôn kính như một vị thánh mà không phải do tử vì đạo. Ngài sinh ra tại Pháp vào lúc mà cuộc bách hại đạo đang đến hồi chấm dứt. Chưa có ai được những thiện nam tín nữ kính trọng như một vị thánh trong Giáo hội sơ khai trước đó như ngài, những người đã chết giống như Đức Kitô và vì Đức Kitô. Bây giờ điều quan trọng là bắt đầu chuyển đến sống vì Đức Kitô và để yêu mến Đức Kitô. Khoảng đời của thánh Martin đã nêu cao chân lý yêu thương tha nhân là thật sự yêu thương Đức Kitô. Trong lúc thánh Martin đang còn là một người đang học giáo lý theo đạo và đang phục vụ trong quân đội, ngài đang thi hành phiên gác trong một đêm đông giá lạnh thì gặp một người nghèo khổ đang run rẩy vì quần áo của ông ta như một mớ giẻ rách, đứng trước mặt ngài. Thánh nhân liền cởi chiếc áo choàng của mình, rút gươm cắt chiếc áo choàng ra làm hai mảnh và đưa một mảnh cho người ăn xin nghèo khổ đó. Sau đó, trong lúc ngủ, Martin nằm mơ thấy Đức Kitô khoác mảnh áo khoác mà ngài đã cho người ăn xin. Ngài nghe Đức Kitô nói: “Hỡi Martin, tuy con mới học giáo lý để theo đạo, mà con đã cho Ta chiếc áo này”.
Đoạn văn trên đã minh họa phần cốt yếu của đức tin chúng ta về Đức Kitô. Là những người công giáo, chúng ta tin rằng Đức Kitô hiện diện trong từng lời Thánh Kinh và Người nói với chúng ta khi Lời Chúa được tuyên đọc trong nghi thức phụng vụ. Chúng ta tin rằng Đức Kitô đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể và trên bàn thờ khi chúng ta cử hành sự chết và sự phục sinh của Người. Cùng với những xác tín trên chúng ta phải tin rằng Chúa Kitô đang hiện diện nơi mọi người, khi chúng ta phục vụ tha nhân là chúng ta phục vụ Người, và khi chúng ta phớt lờ người khác là chúng ta phớt lờ chính người. Chúng ta phải có một đức tin bao gồm nơi thực tại của Đức Kitô, nơi Lời Chúa, nơi bí tích Thánh Thể và nơi mọi người. Phụng vụ không phải là một sự sùng kính riêng tư, một quan hệ cá nhân giữa Thiên Chúa với một người nào đó. Đó là sự diễn tả của Giáo hội, trong một thân xác và một tinh thần trong Đức Kitô. Sự hợp nhất trong Đức Kitô phải chuyển động cách sống của chúng ta.
Khi chúng ta đến với những người không nhà, những người đói khát, chúng ta phải nhận ra Đức Kitô ở trong họ. Khi chúng ta để ý đến những bà mẹ trẻ, cô độc đang mang thai, những người cần chúng ta chăm sóc, chúng ta phải thấy Đức Kitô trong họ. Khi chúng ta nhận ra những ngoại kiều, ủng hộ hay chống đối chúng ta đang ở giữa chúng ta, chúng ta phải biết rằng Đức Kitô cũng là một người ngoại quốc. Và chúng ta phải hành động theo lời dạy của Chúa. Chúng ta phải luôn luôn tiếp đón Đức Kitô và đừng ngoảnh mặt đi. Những người công giáo phải ngạc nhiên nếu mình không hiếu khách. Sự tử tế sẽ là một diễn tả đích thực của đức tin chúng ta.
Đức Giêsu có phải là một mâu thuẫn lớn nhất trong cuộc đời này không ? Một đàng, Người nêu: TN 13-A34
Đức Giêsu có phải là một mâu thuẫn lớn nhất trong cuộc đời này không ? Một đàng, Người nêu gương và kêu gọi mọi người hi sinh chính bản thân. Một đàng, Người lại muốn biến bản thân thành trung tâm cuộc sống con người. Thế nghĩa là gì ?
THEO THẦY
Không gì thân thiết với con người bằng tương quan gia đình. Chính từ gia đình, con người hiện hữu và phát triển. Càng sống dưới mái ấm gia đình, con người càng đi sâu vào tương quan tình cảm và nội tâm. Thế nhưng trước những đòi hỏi Tin Mừng, các giá trị đó trở thành tương đối, vì “Nước Trời đã đến gần,” (Mt 10:7) và “Triều Đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông.” (Lc 17:21) Không có gì cao trọng hơn Nước Trời. Nước Trời là một giá trị tuyệt đối, đến nỗi người ta phải “bán tất cả những gì mình có” (M6 13:44.46) mới mua sắm nổi. Nước Trời là tất cả ý nghĩa và giá trị cuộc đời. Quả thực, “chính vì Nước Thiên Chúa mà anh em chịu đau khổ.” (1 Tx 1:5)
Để mua được một giá trị siêu việt đó, người ta phải hi sinh cả tương quan gia đình. Tương quan gia đình vượt lên trên “những gì mình có” và rất gần “những gì mình là”, tức là chính bản thân. So với Nước Trời, bản thân cũng là một giá trị quá nhỏ. Nhưng giá trị nhỏ bé này vẫn là một thực tại vô cùng quí giá không dễ gì đánh đổi. Chỉ đức tin mới thấy được chiều kích vĩ đại của Nước Trời và mới mạc khải cho ta biết Nước Trời chính là “Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” (Mt 16:16) “Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội thánh,” (Cl 1:18) và “chúng ta là bộ phận trong thân thể của Người.” (Ep 5:30) Chính vì thế, Đức Giêsu mới nói: “Ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.” (Mt 10:39) Cái tôi nhỏ bé hòa nhập vào cái tôi vĩ đại. Không những không mất mát, mà còn tìm thấy chính mình trong một chiều kích lớn lao và một giá trị tuyệt vời hơn.
Nhưng trong cuộc sống, nhiều lúc hi sinh gần như đồng nghĩa với đổi chác. Người ta hi sinh là để tìm lại được cái gì cân xứng hoặc trổi vượt hơn. Thật vậy, những hi sinh của “một phụ nữ giàu sang” (2 V4:8) tại Sunêm cho ngôn sứ Eâlisa đã không uổng phí. Vì hiếu khách, vợ chồng đã đặc biệt dành nơi ăn chốn ở xứng đáng cho ngôn sứ Eâlisa, “là một người của Thiên Chúa, là một vị thánh.” (2 V4:9) Phần thưởng của ngôn sứ thật trọng hậu. Không những bà được ông bảo đảm có con trai (x. 2 V 4:8-17). Sau này, khi con bà chết, ông cũng đã làm cho cậu sống lại và trả lại cho bà (x. 2 V 4:31-37). Như thế, chính khi hi sinh thời giờ, sức lực và tiền của cho ngôn sứ, bà đã được đền bù cân xứng.
Nếu một ngôn sứ còn đem lại được phần thưởng lớn lao như thế, Đức Giêsu sẽ có phần thưởng nào cho người môn đệ ? Khi chạm tới mạng sống, mọi hi sinh đều phải khựng lại, mọi tính toán đều phải chấm dứt. Thế mà Đức Giêsu dám đòi hỏi người môn đệ phải hi sinh chính bản thân là giá trị đáng quí nhất trên đời. Đó là một đòi hỏi tuyệt đối. Dĩ nhiên hi sinh đó sẽ được đền bù cân xứng. Đúng hơn còn vượt quá điều người ta mong đợi. Đức Giêsu khẳng quyết: “Phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gập bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp.” (Mt 19:29; Mc 10:28-30; Lc 18:28-30) Bỏ đi những liên hệ tình cảm để đi sâu vào nguồn mạch tình yêu vô cùng lớn lao là Thiên Chúa, còn gì lợi hơn ? Một khi đã đón nhận được nguồn tình yêu đó, ngay từ đời này, người môn đệ đã được quan tâm và che chở. Thực tế, “khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm trong cái chết của Người,” (Rm 6:3) để “chúng ta cũng được sống một đời sống mới như Người nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha.” (Rm 6:7) Đời sống mới “đầy tràn ân sủng và sự thật.” (Ga 1:14) Nói khác, khi theo Đức Giêsu, người môn đệ sẽ “trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1:12), và hoàn toàn được giải thoát (x. Ga 8:36). Đó là phần thưởng dành cho những ai “theo Thầy” và “đón tiếp Thầy”. Từ đó, cuộc sống tự nhiên trở thành một chứng từ mãnh liệt trước mắt mọi người.
Thực ra, khi kêu gọi môn đệ “theo Thầy” và “liều mất mạng sống mình vì Thầy”, Đức Giêsu không có ý thổi phồng cái tôi của mình. Hi sinh cái tôi để đánh đổi lấy một cái tôi khác, dù cái tôi này có vĩ đại tới đâu, cũng chỉ là chuyện “đánh bùn sang ao”. Chính Đức Giêsu cũng phải hi sinh cái tôi để làm theo thánh ý Chúa Cha. “Thực vậy, Đức Kitô đã không chiều theo sở thích của mình.” (Rm 15:3) Trong vườn Cây Dầu, Người đã “xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” (Mt 26:39) Ý Cha đã thực thi hoàn toàn trong cái chết của Đức Giêsu. Như vậy, Người đã từ bỏ chính mình. Muốn “theo Thầy”, môn đệ cũng “phải từ bỏ chính mình.” (Lc 9:23)
Xét cho cùng, khi sống kiếp phàm trần, Đức Giêsu cũng chấp nhận chỉ một mình Chúa Cha mới là nguyên ủy tuyệt đối. Từ lời nói tới việc làm, Đức Giêsu luôn qui hướng về Chúa Cha (x. Ga 14:10). Bởi đấy, nếu “vì yêu mến Thầy” (Ga 16:27) mà anh em đã “liều mất mạng sống mình vì Thầy” (Mt 10:39) thì “chính Chúa Cha sẽ yêu mến anh em.” (Ga 16:27) Nơi đỉnh cao tình yêu đó, con người có thể vượt lên trên tất cả để đạt tới “một cái gì tuyệt đối, tột đỉnh và nền tảng.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 24/06/2002) Như thế, “theo Thầy” không có nghĩa là đi từ hư vô này sang hư vô khác, nhưng tới một hiện hữu tuyệt đối là chính Thiên Chúa. Thực vậy, “ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.” (Mt 10:40) Đức Giêsu còn nhấn mạnh: “Tôi và Chúa Cha là một.” (Ga 10:30) Không những Người hiệp nhất với Chúa Cha, nhưng còn đồng hóa với các môn đệ (x. Mt 10:40) và người nghèo (x. Mt 26:40). Như vậy, khi “theo Thầy”, người môn đệ biết mình theo ai và phải làm gì.
SIÊU THOÁT
Càng từ bỏ càng siêu thoát. Nhân loại hôm nay đang cần những con người biết từ bỏ mọi sự để tìm chân lý. Nói khác, con người siêu thoát là một nhu cầu cấp thiết nhất cho sự sống còn của nhân loại. Nếu chết dí dưới đống dữ kiện khoa học và kỹ thuật, con người sẽ không tìm được hướng giải thoát cho chính cuộc sống. Nhân loại hôm nay đang căng thẳng vì lo âu mọi mặt. Chính vì thế, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã thúc đẩy các Kitô hữu hãy cống hiến cho những người đang ưu tư đau khổ “những câu giải đáp của chân lý và hi vọng” bằng cách trình bày cho họ một triết lý siêu việt (Zenit 24/06/2002). Triết lý đó không đến với những con người suốt ngày cắm đầu vào những đống dữ kiện khổng lồ và chết ngộp trong đời sống dư thừa vật chất. “Song song với những khám phá khoa học lạ lùng và những tiến bộ kỹ thuật kỳ diệu, chúng ta đang chứng kiến hai mất mát lớn: mất mát Thiên Chúa và hiện hữu, mất mát linh hồn và nhân phẩm. Đôi khi sự kiện này sinh ra những hoàn cảnh khó khăn cần đến những câu trả lời trong chân lý và hi vọng.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 24/06/2002) Nếu không từ bỏ chính mình, con người sẽ không bao giờ tìm thấy những câu trả lời đó và sẽ không bao giờ khám phá thấy mình là ai. Quả thực, “văn hóa ngày nay nói và biết nhiều về con người, nhưng hình như không biết con người là ai. Thực vậy, con người chỉ có thể hiểu biết trọn vẹn về chính mình trong ánh sáng Thiên Chúa. Con người là “hình ảnh Thiên Chúa – được tình yêu tạo dựng và được an bài sống hiệp thông đời đời với Thiên Chúa.” (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 24/06/2002) Hình ảnh này chỉ tìm thấy nơi Đức Giêsu và những ai đang“theo Thầy”.
Thiên Chúa yêu thương ta nên trao nộp Con Một Người cho ta. Nhưng Người vẫn để cho ta được: TN 13-A35
Thiên Chúa yêu thương ta nên trao nộp Con Một Người cho ta. Nhưng Người vẫn để cho ta được tự do đón nhận quà tặng vô giá ấy. “Khi thời gian tới hồi viên mãn”, Chúa Giê-su Ki-tô đến với ta như vị Ngôn Sứ tối cao của thời Tân Ước, chỉ dạy cho ta đường đi tới sự sống vĩnh cửu. Ta phải đón nhận Người như thế nào, đó là cốt lõi của đời sống Ki-tô hữu và cũng là đề tài của Lời Chúa hôm nay.
1. Tiếp đón “người của Thiên Chúa” (bài đọc Cựu Ước – 2 V 4:8-11.14-16a)
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giê-su khẳng định: “Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ” (Mt 10:41). Câu truyện người phụ nữ tại Su-nêm đón tiếp ngôn sứ Ê-li-sa đã minh chứng cho lời nói trên của Chúa. Bà là người giàu có trong thành. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, nhưng chỉ tiếc một điều là ông bà đã lớn tuổi mà không có con. Ngôn sứ Ê-li-sa đã được gia đình bà tiếp đãi ân cần và kính trọng, đến độ họ làm thêm một căn phòng đặc biệt để ngài có chỗ nghỉ ngơi mỗi lần đi qua Su-nêm. Trước lòng tốt của người phụ nữ ấy, ngôn sứ Ê-li-sa muốn làm một điều gì đó để trả ơn. Ngài hỏi bà muốn điều gì, nhưng bà đều từ chối. Đối với bà, đón tiếp vị ngôn sứ, người của Thiên Chúa, là một bổn phận và một vinh dự, chứ không phải là việc có qua có lại. Tiểu đồng Giê-kha-di đi theo ngôn sứ là người tinh tế, nhận ra được nỗi khổ tâm của bà vì không có con. Hai ông bà mong có được một đứa con trai, nhưng điều ấy chỉ có quyền năng Chúa mới giúp họ toại nguyện. Theo đề nghị của tiểu đồng, Ê-li-sa đã cầu xin Chúa ban cho bà một mụn con. Ngôn sứ nói với bà trước khi lên đường: “Vào độ này sang năm, bà sẽ có cháu trai bồng”. Quả thực, bà đã sinh được một đứa con trai. Nhưng ít năm sau, đứa nhỏ bị bạo bệnh và chết. Nghe tin, ngôn sứ Ê-li-sa đã đến cầu nguyện và làm cho em được sống lại.
Lòng tốt và kính trọng của người phụ nữ Su-nêm đối với vị ngôn sứ đã được ân thưởng. Ân thưởng là việc Chúa làm. Người đã ban cho bà được thoát khỏi nỗi đau khổ ray rứt vì không có con trai. Đứa con là sự tiếp nối sự sống của bà mẹ, là đời sống mới phát sinh từ sự sống của người mẹ. Do đó, ngôn sứ Ê-li-sa cầu xin Chúa ban cho bà một đứa con là ngài giúp cho bà được tiếp tục sống và sống đời sống mới. Ý nghĩa này có thể giúp ta hiểu được lời Chúa hứa với những ai đón nhận Con Một Thiên Chúa: “Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người (Ngôi Lời), thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1:12).
2. “Ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (bài Tin Mừng – Mt 10:37-42)
Đón tiếp một vị ngôn sứ thôi mà người phụ nữ Su-nêm đã được ân thưởng hơn cả lòng mong ước của bà, huống chi là khi ta đón tiếp Đức Ki-tô, Đấng Cứu Độ được Chúa Cha sai đến trần gian. Ngôn sứ chỉ là vị sứ giả được Thiên Chúa sai đi để mang lời Người đến cho dân Chúa. Còn Đức Ki-tô, Người không chỉ nói thay cho Thiên Chúa, mà Người là chính Lời của Thiên Chúa nói với ta (Dt 1:1). Do đó, việc đón nhận Người mang tính cách tuyệt đối đến nỗi không những ta chủ động đón nhận Người, nhưng là ta còn phải bỏ mọi sự mà “theo Thầy” và sẵn sàng “liều mất mạng sống vì Thầy” (Mt 10:37-38).
Chúa Giê-su đặt việc “đón tiếp Thầy” vào một tương quan rộng lớn và trọn vẹn nhất, đó là tương quan “anh em – Thầy – và Đấng đã sai Thầy”. Thực vậy, Người được sai đến để làm Con Yêu Dấu liên kết tất cả nhân loại thành một đoàn em đông đúc của Người và đưa họ về với Chúa Cha. Người là gạch nối giữa mọi người với nhau và giữa mọi người với Thiên Chúa. Sự liên kết chặt chẽ ấy nói lên tính phổ quát của ơn cứu độ trong một tương quan hoàn hảo giữa ba thành phần: Thiên Chúa, Đức Ki-tô và nhân loại. Nói khác đi, ta được Thiên Chúa cứu độ nhờ Đức Ki-tô và cùng với anh chị em. Ta đón nhận nhau là ta đón nhận Chúa, ta đón nhận nhau là ta được cùng một phần thưởng với anh chị em đón nhận ta. Như thế, dù ta là “ngôn sứ” hay ta là “người công chính”, thì ta cũng đều nhận được cùng một phần thưởng là ơn cứu độ. Ta là giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ hay giáo dân thì hết thảy ta sẽ lãnh nhận cùng một phần thưởng là ơn cứu độ nếu ta biết đón nhận Đức Ki-tô.
Ta sẽ hỏi: vậy tôi đón nhận Chúa như thế nào? Câu trả lời của Chúa là ta đón nhận anh chị em là ta đón nhận chính Chúa. Chúa Giê-su đã nói lên tương quan đón nhận ấy qua một thí dụ cụ thể: là môn đệ Chúa, nếu ta chỉ cần cho một em nhỏ uống một chén nước lã thôi là ta làm cho chính Người và sẽ được ân thưởng. Thí dụ đơn sơ ấy cho thấy việc đón nhận Chúa cần phải được thể hiện cụ thể qua cuộc sống hằng ngày. Một em nhỏ và một chén nước lã biểu tượng cho những gì nhỏ bé tầm thường trong cuộc sống. Đón nhận Chúa là một hành vi đức tin được thực hiện qua những đối xử nhỏ nhặt trong đời sống hằng ngày. Nhưng nếu ta làm thì chắc chắn không mất phần thưởng và phần thưởng sẽ to lớn hơn cả điều ta mong ước, giống như người phụ nữ Su-nêm đã được vậy.
3. Sống đời sống mới: một phương thức đặc biệt để đón nhận Đức Ki-tô (bài đọc Tân Ước – Rm 6:3-4.8-11)
Đón nhận Chúa Ki-tô qua những hành vi nhỏ mọn trong cuộc sống hằng ngày là những cách cụ thể. Tuy nhiên, những cách này được thực hiện là nhờ ta có một nền tảng đón nhận được xây dựng trên tương quan giữa Chúa Ki-tô và ta, là sống chết với Người, “được mai táng với Người” và “sống một đời sống mới”. Thánh Phao-lô nhìn cuộc sống của ta dưới hai khía cạnh: chết đi đối với tội lỗi và sống cho Thiên Chúa trong Đức Giê-su Ki-tô. Tuy nhiên có không phải là hai điều khác biệt không ăn nhập với nhau, trái lại là hai điều ngược nhau của cùng một thực thể. Thí dụ ta có một bình đựng nước. Nếu ta bỏ đầy sỏi đá vào trong bình, bình sẽ chứa được ít nước thôi. Nhưng nếu bình hoàn toàn rỗng, bình sẽ chứa được đầy nước. Đời sống đức tin của ta cũng vậy. Nếu ta càng loại trừ đi tội lỗi thì Chúa càng đầy ắp trong linh hồn ta. Sau khi ta “được dìm vào trong cái chết của Chúa Ki-tô và được mai táng với Người”, nghĩa là sau khi ta được chịu phép Rửa tội, ta liền có được một đời sống mới. Bí tích Rửa tội là dấu chỉ của khởi đầu một cuộc sống mới. Nhưng muốn làm phát triển đời sống mới này, ta phải tiếp tục tiến trình chết đi cho tội lỗi và sống cho Thiên Chúa.
Chết đi cho tội lỗi là lối sống đi ngược lại lối sống của người đời, tức lối sống cho tội lỗi. Đúng vậy, người đời sống cho tham vọng, cho thù hận, cho tiền của và nhục dục. Đó là những lẽ sống của họ nên họ làm đủ cách để đạt được những thứ ấy, kể cả việc sử dụng những phương tiện xấu xa như lừa gạt hay bạo lực. Tội lỗi chỉ lôi kéo được những ai muốn sống cho nó mà thôi. Còn những ai đã chết rồi đối với nó, tức là không đi theo con đường của nó, thì nó chẳng thiết tha gì.
Sống cho Thiên Chúa trong Đức Ki-tô là sống theo đúng gương mẫu của Đức Ki-tô. Vậy Đức Ki-tô đã sống cho Thiên Chúa như thế nào? Lẽ sống của Người là “thi hành thánh ý Chúa Cha”, chu toàn sứ mệnh cứu độ trần gian. Người thực hiện tất cả những gì Kinh Thánh đã nói về Người. Người hoàn tất sứ vụ rao giảng Tin Mừng, dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần. Sau hết, Người chấp nhận cái chết khổ nhục trên thập giá để đền tội nhân loại. Lối sống cho Chúa của Đức Ki-tô là sống để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ nhân loại. Tình yêu là động lực của mọi hoạt động, cho nên Người mới làm được cả những việc sức loài người không làm nổi, thí dụ yêu thương và tha thứ kẻ thù, chấp nhận chết thay cho ta là những kẻ tội lỗi. Hơn thế nữa, vì thực hiện lý tưởng sống cho Chúa, Đức Ki-tô đã được sống lại từ cõi chết để đem lại sự sống đời đời cho tất cả những ai theo gót Người mà phụng thờ Thiên Chúa và yêu thương tha nhân.
4. Sống Lời Chúa
Đón nhận Chúa Ki-tô là việc đưa ta vào một hành trình đức tin với những hy sinh và mất mát đời này. Đón nhận Chúa Ki-tô không chỉ dừng lại ở việc ta lãnh Bí tích Rửa tội làm con cái Chúa, nhưng đưa ta vào một cuộc sống mới theo khuôn mẫu Đức Ki-tô. Người là Thầy, còn ta là môn đệ. Kim chỉ nam để ta sống cuộc sống mới cho đúng nghĩa, đó là ta luôn nhớ mình phải làm mọi sự với danh nghĩa là môn đệ đích thực của Đức Ki-tô. Do đó, nếu ta nói một đàng làm một nẻo là ta đã phản bội danh nghĩa môn đệ đích thực mất rồi. Đời sống mới của ta có hai mặt, một đàng là mến Chúa và đàng khác là yêu người. Quả thực, không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn trên!
Suy nghĩ: Lý tưởng sống đức tin của tôi không đòi phải làm những điều trọng đại, nhưng là những việc làm nhỏ nhặt hằng ngày, thí dụ “cho một trong những kẻ bé nhỏ uống một chén nước lã”. Vậy đối với cuộc sống tôi, ai là “những kẻ bé nhỏ” tôi phải phục vụ và “chén nước lã” tôi phải cho là những gì? Tôi có đón nhận Chúa theo phương cách đó không? Tại sao?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã dủ lòng thương nhận chúng con làm nghĩa tử để chúng con trở thành con cái ánh sáng; xin đừng để chúng con sa vào cảnh tối tăm lầm lạc, nhưng gìn giữ chúng con luôn rạng ngời ánh sáng chân lý Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ, Chúa Nhật 13 mùa Thường niên)
• 2V 4,8-11.14-16a: (9) Tôi biết người thường ghé vào nhà chúng ta là một thánh nhân của Thiên Chúa. • Rm 6,3-4.8-11: (8) Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta. • TIN MỪNG: Mt 10,37-42
Từ bỏ mình để theo Đức Giêsu
(37) «Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. (38) Ai không vác thập giá mình mà theo
Thầy, thì không xứng với Thầy. (39) Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.
Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy
(40) «Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. (41) Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính. (42) Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu».
CHIA SẺ Câu hỏi gợi ý:
Một người từ bỏ mọi sự – những người thân yêu, tương lai sự nghiệp, của cải ruộng vườn – để theo: TN 13-A36
1. Một người từ bỏ mọi sự – những người thân yêu, tương lai sự nghiệp, của cải ruộng vườn – để theo Chúa, có phải người ấy coi rẻ những thực tại ấy không? Chúa có muốn ta khinh chê hay trân trọng những thực tại trần gian?
2. Chúa nói: «Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy». Phải chăng Ngài không muốn ta yêu thương cha mẹ ta? Như thế có bất hiếu không?
3. Trong thực tế đời thường, ưu tiên chọn lựa Thiên Chúa cụ thể là gì?
4. Giữa Thiên Chúa và nhân loại, Thiên Chúa và Giáo Hội, Thiên Chúa và tổ quốc, Thiên Chúa và những việc tốt đẹp ta đang làm cho Ngài, ta phải ưu tiên chọn ai? Bạn đã khi nào phải chọn lựa giữa Thiên Chúa và những đối tượng đặc biệt đó chưa? Bạn đã chọn lựa thế nào?
Suy tư gợi ý:
1. Chỉ khi chọn lựa, ta mới chứng tỏ mình quý cái nào hơn
Bình thường, tất cả mọi của cải, đồ đạc trong nhà, ta đều quý, đều coi là có ít nhiều giá trị khiến ta muốn giữ lại. Nếu bị mất, dù chỉ một cây kim, một cây viết, ta đều tiếc xót không nhiều thì ít, tùy theo giá trị của nó lớn hay nhỏ. Dù không khinh chê vật gì, nhưng khi cần phải bỏ nhà để di tản chẳng hạn, ta chỉ đem theo những gì cần thiết nhất, giá trị nhất, và bỏ lại tất cả những thứ khác. Những thứ phải bỏ lại ấy không phải là không có giá trị. Nhưng ta bắt buộc phải bỏ chúng lại vì không mang theo được.
Có những trường hợp thật ngặt nghèo buộc ta phải chọn lựa giữa hai thứ mà ta yêu hoặc quý nhất trên đời. Chẳng hạn giữa cha và mẹ, giữa vợ (hoặc chồng) và con, giữa đứa con này với đứa con kia, v.v… Cả hai đều vô cùng quý giá đối với ta. Nhưng nếu ta chỉ có thể chọn một, nghĩa là chọn cái này thì phải bỏ cái kia, thì từ bỏ bất kỳ cái nào trong hai cũng đều làm ta đau đớn, xót xa, đều tạo cho ta vết thương lòng… Chỉ khi thực tế phải chọn lựa như vậy, ta mới chứng tỏ ta quý cái nào hơn cái nào, coi cái nào quan trọng hơn cái nào. Nếu không, chẳng ai biết được giữa hai người hai vật mà ta đều yêu quý, ta quý người nào vật nào hơn.
2. Người theo Chúa, phải ưu tiên chọn Ngài hơn tất cả
Đối với với những ai thật sự muốn theo Đức Giêsu, Ngài đều đặt họ vào một chọn lựa giữa Ngài với những đối tượng mà họ yêu quý, trân trọng nhất trên đời. Chỉ khi ta sẵn sàng chọn Ngài và sẵn sàng chấp nhận mất hay từ bỏ đối tượng ta vô cùng yêu quý kia, thì ta mới thật sự xứng danh theo Ngài. Thật vậy, Ngài đòi hỏi ta phải quý Ngài hơn bất kỳ người nào, vật nào, cho dù ta có quý mến hay gắn bó người hay vật ấy tới đâu. Ngài nói: «Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy» (Mt 10,37-38). Vì Ngài chính là kho báu hay viên ngọc quý mà Ngài nói đến trong dụ ngôn Mt 13,44-46: phải sẵn sàng bán hết tất cả mọi thứ mình có, thậm chí tới đồng xu cuối cùng, mới có thể mua được kho báu hay viên ngọc ấy. «Sẵn sàng» ở đây là một thái độ tâm linh mà Ngài đòi hỏi tuyệt đối phải có; chứ trong thực tế, chẳng mấy khi Ngài bắt ta phải thật sự «bán hết» tất cả rồi mới đạt được Ngài. Thật vậy, khi ta đã có được thái độ sẵn sàng tuyệt đối ấy, lắm khi Ngài còn cho ta thêm gấp bội những gì ta đã có nữa: «Chẳng ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau» (Mc 10,29-30). Câu Mt 10,37-38 vừa nêu – «Ai yêu cha mẹ hơn Thầy…» – không có nghĩa là Ngài bảo ta không được yêu thương quý mến cha mẹ, con cái mình. Trái lại, qua giới răn của Ngài, ta thấy Ngài đòi hỏi ta phải yêu thương, trước hết là những người thân thuộc, rồi đến người ngoài, và thậm chí cả kẻ thù nữa. Để chứng tỏ ta đích thực yêu thương họ, Ngài muốn ta phải thật sự quên mình, sẵn sàng hy sinh cho họ. Ngài chỉ yêu cầu ta – những kẻ muốn thật sự theo Ngài – phải đặt Ngài lên trên tất cả những gì ta yêu quý nhất trên đời. Và nếu có yêu thương quý mến ai, thì đều phải vì Ngài mà yêu thương, vì nhận ra họ là hình ảnh hay hiện thân của Ngài.
Trong thực tế đời thường, ưu tiên chọn lựa Thiên Chúa là coi việc thực hiện thánh ý của Ngài quan trọng hơn làm theo ý riêng mình hoặc ý muốn hay lệnh truyền của bất kỳ ai khác, dù người ấy là cha mẹ, bề trên, vua chúa, chính quyền hay giáo quyền. Mà thánh ý Ngài chính là mọi người biết yêu thương và hy sinh cho nhau (x. Ga 13,34-35;15,12.17). Thánh ý Ngài cũng được phản ảnh qua tiếng lương tâm của ta khi lương tâm ấy được xây dựng trên nền tảng đức ái. Ngoài ra thánh ý Ngài còn được biểu lộ qua lệnh truyền của cha mẹ, bề trên, vua Chúa, chính quyền, giáo quyền khi lệnh truyền này không phản lại tinh thần yêu thương của Ngài. Thánh ý Ngài cũng đòi hỏi ta hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích chính đáng của tập thể, hoặc hy sinh lợi ích của tập thể nhỏ (chẳng hạn gia đình mình) cho lợi ích chính đáng của tập thể lớn (chẳng hạn xã hội, tổ quốc mình).
3. Những trường hợp chọn lựa đặc biệt
Trong đa số hay trong hầu hết các trường hợp, quan niệm hay lệnh truyền của cha mẹ, bề trên, vua chúa, chính quyền, giáo quyền thường được coi là phù hợp với quan niệm hay lệnh truyền của Thiên Chúa. Vì thế, ta phải vâng theo lời chỉ dạy và lệnh truyền của những người trên ấy, nhất là khi ta chưa xác định được quan niệm và ý muốn của Thiên Chúa thế nào. Tuy nhiên không phải quan niệm và ý muốn của họ luôn luôn phù hợp với quan niệm và ý muốn của Thiên Chúa. Khi ta biết rõ quan niệm hay lệnh truyền của những bậc bề trên ấy không phù hợp với quan niệm hay lệnh truyền của Thiên Chúa, thì ta «phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm» (Cv 5,29). Vâng lời các bậc bề trên trong trường hợp này không phải là đức vâng lời, nghĩa là không đẹp lòng Thiên Chúa.
Nếu không gặp những trường hợp ngặt nghèo khiến ta phải chọn lựa giữa Thiên Chúa và những gì ta yêu quý nhất, thì ta không biết được ta yêu mến Thiên Chúa đến mức nào, vì trên nguyên tắc, ta vẫn chủ trương phải yêu quý Ngài hơn hết mọi sự. Và ta tưởng mình thật sự yêu Ngài như vậy. Nhưng khi phải chọn lựa giữa Ngài với một người hay một vật nào đó mà ta yêu quý, ta mới thấy mình không yêu mến Thiên Chúa như mình tưởng. Rất có thể trong những trường hợp cụ thể nào đó, đối tượng ưu tiên ta chọn không phải là Thiên Chúa (hay Đức Giêsu), mà là một nhân vật, một tập thể, hay một thực tại nào đó. Có những trường hợp đặc biệt mà ta phải chọn một trong hai, như:
• Giữa Thiên Chúa và người mình yêu thương nhất trên đời: Chẳng hạn có người được Chúa mời gọi hiến dâng trọn cuộc đời mình cho Chúa để làm tông đồ chuyên nghiệp cho Ngài, nhưng cha mẹ họ thì lại muốn họ lập gia đình để nối dõi tông đường, hay gia đình họ chỉ muốn họ dành trọn tình yêu, thì giờ, sức lực cho gia đình. Hoặc như đôi nam nữ kia yêu thương nhau thật chân thành và tha thiết, nhưng một người cảm thấy tiếng Chúa mời gọi hiến dâng cuộc đời mình cho Ngài, đang khi người mình yêu chỉ muốn mình dành cả cuộc đời mình cho họ.
• Giữa Thiên Chúa và sự nghiệp: Một thanh niên có tương lai thật tươi sáng, có thể tạo lập được một sự nghiệp lớn lao. Nhưng chàng lại nghe thấy tiếng Chúa kêu gọi mình dấn thân phục vụ người nghèo, người bị áp bức, tranh đấu cho công lý trong một xã hội đầy bất công. Từ bỏ sự nghiệp để nghe theo tiếng Chúa trong trường hợp này là cả một hy sinh.
• Giữa Thiên Chúa và tổ quốc: Một người đang sống trong một đất nước có tham vọng chinh phục những nước chung quanh. Điều này nhiều khi buộc người dân phải hành động thất đức đối với những người thuộc các nước chung quanh. Nhiều người nhận ra làm như thế là đi ngược lại tinh thần yêu thương đồng loại của Thiên Chúa. Nhưng nếu mình không chấp hành lệnh của đất nước thì không khỏi gặp phiền nhiễu, bị tẩy chay, chụp mũ…
• Giữa Thiên Chúa và Giáo Hội: Trong những trường hợp bình thường, Thiên Chúa và Giáo Hội được đồng hóa với nhau: làm theo ý Giáo Hội cũng chính là làm theo ý Thiên Chúa. Nhưng không phải là luôn luôn như vậy. Những người có ơn gọi làm ngôn sứ đôi khi nhờ Thánh Thần soi sáng, có thể nhận ra rõ rệt Giáo Hội đang theo một quan niệm hay một con đường chưa đúng như đã từng xảy ra trong lịch sử. Tiếng Chúa thúc giục trong lòng họ phải làm một điều gì đó để giúp Giáo Hội đi đúng ý Thiên Chúa hơn. Nhưng lên tiếng theo như đòi hỏi của lương tâm mình thường rất dễ bị chụp mũ là chống phá Giáo Hội, có thể bị giáo quyền kết án, «dứt phép thông công», bị đồng đạo tẩy chay, xa lánh, mất đi những quyền lợi tinh thần hay vật chất mà mình đang được hưởng từ Giáo Hội… Như trường hợp thầy dòng Galilê, nữ thánh Jeanne d’Arc, và mới đây là hai nhà thần học Karl Rahner và Yves Congar, v.v… Nếu cứ «mũ ni che tai, ai sai mặc kệ» thì cuộc đời sẽ thật an toàn và thuận lợi, còn làm theo lương tâm thì thật nguy hiểm và cuộc đời có thể sẽ gặp nhiều bất trắc. Vậy thì phải chọn lựa theo ai? Các ngôn sứ đều bị đồng đạo mình bách hại (x. Mt 5,12), «ném đá» (x. Mt 23,27) khi còn sống. Chờ đến lúc đồng đạo mình hiểu mình, nhận ra mình hoàn toàn đúng, thì mình đã hóa ra người thiên cổ (x. Mt 23,29-31). Số phận các ngôn sứ đích thực hầu hết đều như vậy. Trong những trường hợp này, có rất nhiều người lựa chọn: thà làm người của Giáo Hội thì có lợi cho mình hơn là làm người của Thiên Chúa, của sự thật, của công lý. Làm ngôn sứ đích thực quả thật không dễ!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, nếu con không ưu tiên chọn Cha hay Đức Giêsu mà chọn một đối tượng nào khác, thì suy cho cùng, hóa ra con chỉ lựa chọn chính con, vì những lợi ích trần tục nào đó của con. Nhưng Đức Giêsu cho biết: «Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được» (Mt 10,39). Nghĩa là kết cuộc kẻ chọn chính mình, vì lợi ích của mình, lại là kẻ mất mát và thiệt thòi nhiều nhất. Xin cho con biết khôn ngoan và can đảm dám coi nhẹ chính bản thân và lợi ích của con để luôn luôn dành mọi ưu tiên cho Cha hay Đức Giêsu. Amen.
Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất;.....“ Lời của Đức Giêsu làm cho chúng ta cảm thấy sợ hãi: TN 13-A37
„Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.“ Lời của Đức Giêsu làm cho chúng ta cảm thấy sợ hãi, nóng lạnh, nổi da gà! Phải chăng chúng ta không nên nghĩ đến chuyện cải thiện, duy trì và bảo vệ cuộc sống của chúng ta? Đức Giêsu có dụng ý gì khi nói với chúng ta những lời lẽ như trên?
Khi nói về cuộc sống, chúng ta liên tưởng đến một cuộc sống bình nhật, một cuộc sống an lành, hạnh phúc dài lâu bên cạnh những người chúng ta thương mến. Đối với nhiều người thì thời gian khó khăn đen tối sau chiến tranh, sau những cơn bão lụt, hạn hán, là một cuộc đấu tranh để sinh tồn. Điều đáng ngạc nhiên là: tiềm lực nào đã giúp con người trở nên tháo vát, có đủ khả năng để bảo vệ và duy trì mạng sống của mình cũng như thân nhân của mình? Phải chăng là“cái khó bó cái khôn“ ?
Ở Tây Âu sau đệ nhị thế chiến con người đã ra công tái thiết, xậy dựng. Chính trong thời gian khó khăn này cũng làm nẩy sinh không biết bao nhiêu những bậc tài ba lỗi lạc trong mọi lãnh vực. Con người đổ dồn tất cả vốn liếng để đầu tư, để phát triển cũng như bảo đảm cuộc sống. Ai cũng ham sống sợ chết. Bởi vậy càng văn minh tiến bộ thì càng nảy sinh nhiều loại bảo hiểm: bảo hiểm sức khoẻ, bảo hiểm mạng sống, bảo hiểm tai nạn lưu thông, bảo hiểm hưu dưỡng, … Tất cả đã trở thành chuyện tất nhiên và đáng mừng. Nhưng chúng ta phải tiép tục suy tư về hai chữ „bảo hiểm“. Phải chăng tất cả giúp con người bảo đảm cuộc sống? Dĩ nhiên là không rồi! Dù là bảo hiểm nào đi nữa cũng không giúp chúng ta trốn tránh cái chết. Tất cả đều biết: một ngày nào đó mình sẽ lìa đời. Nhưng hầu hết chẳng ai muốn nghĩ đến chuyện đó. Họ cho rằng, tôi còn trẻ, còn nhiều thời gian. Nhưng thần chết đôi lúc đến bất chợt. Đùng một cái con người phải đối diện với đống gạch vụn của những chương trình, kế hoạch cho cuộc sống của mình. Con người tự cảm thấy mình bất lực, không tài nào dựa vào khả năng mình để cứu vãn tình thế. Có lẽ chính tại đây họ phải tự hỏi: Đức Giêsu hiểu thế nào về cuộc sống?
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng Người cũng là con người như chúng ta. Lẽ dĩ nhiên Người cũng tha thiết muốn sống. Thực là kinh hãi khi Người phải chết trong lúc tuổi đời bước vào giai đoạn chín chắn, đầy hứa hẹn. Lời cầu nguyện của Người với Chúa Cha trong Vườn Cây Dầu xin cho mình tránh khỏi đau khổ và sư chết là một lời cầu xin chân thật tận đáy lòng. Nhưng Người sẵn sàng vâng theo ý Chúa Cha. Người sẵn sàng tự hiến. Người sẵn sàng chết để đánh đổi cho chúng ta một cuộc sống vĩnh cửu. Người đành mất mạng sống để đạt được sự sống mới. Chính Người đã phục sinh, đã đi trước chúng ta tiến vào thiên đàng.
Con đường của Đức Giêsu cũng là con đường dành cho mỗi người chúng ta. Chúng ta có thể hiểu được thế nào là mất hoặc tìm được sự sống khi chúng ta ngước mắt nhìn lên Đức Giêsu. Ai nghĩ rằng, chỉ có cuộc sống trần thế là quan trọng hơn cả, thì kẻ đó sẽ tìm đủ mọi phương tiện để chiếm hữu của cải và tìm cách hưởng thụ, nhưng kẻ đó sẽ phải đối diện với cái chết với hai bàn tay trắng. Tất cả đều phải để lại khi đã xuôi tay. Kẻ đó không hiểu đâu là ý nghĩa của cuộc sống con người. Ý nghĩa của cuộc sống con người chính là: Thiên Chúa là khởi nguyên, là trung điểm và tận cùng của cuộc sống con người. Do đó, ai đặt Thiên Chúa vào địa vị cao trọng nhất trong cuộc sống, kẻ đó hiểu giá trị đích thực của đời sống. Kẻ đó am hiểu những gì Thiên Chúa sẽ trọng đãi đối với kẻ mến yêu Ngài. Cho nên, dầu sống hay chết, dù sống an ninh hay trong nguy hiểm, tất cả đều nằm trong vòng tay đầy yêu thương quan phòng của Thiên Chúa. Ai sống như thế, kẻ đó tìm được sự sống.
Lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay nếu chỉ nghe thoáng qua, chúng ta dễ có cảm tưởng là: TN 13-A38
Lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay nếu chỉ nghe thoáng qua, chúng ta dễ có cảm tưởng là Chúa phế bỏ mọi giá trị đã làm nên con người tại thế. Thực vậy, ai trong chúng ta cũng chỉ có thể xác định được chính mình khi quy chiếu với những tương quan thiết thân nhất: tương quan với cha mẹ, tương quan với con cái, tương quan với chính bản thân. Một khi tước bỏ hết những tương quan ấy, chúng ta còn là gì? Thực ra Lời Chúa không nhằm phế bỏ, nhưng là đặt mỗi tương quan vào đúng trật tự của nó.
Trong thực tế cuộc sống nhân sinh, tùy theo mỗi thời đại, mỗi nền văn hóa, mỗi thể chế, những tương quan này đã chịu biết bao thay đỗi. Trong bối cảnh văn hóa Á Ðông xưa, người cha vẫn được nhìn nhận như là thay Trời, nắm toàn quyền trong gia đình, thậm chí có toàn quyền trên sự sống, sự chết của người con. Chúng ta cũng từng nghe câu chuyện Abraham sát tế con mình là Isaac. Một cái quyền mà ngày hôm nay hầu như mọi pháp luật đã đều bác bỏ. Ðạo Hiếu là đạo khẳng định nhân tính con người. Kẻ bất hiếu vô đạo không được một nền văn hóa nào chấp nhận, và nó bị loại trừ khỏi cõi nhân sinh. Thế nhưng đạo hiếu cũng không thể miễn trừ cho con người phải coi xã tắc là trọng, phải coi đạo Trời là lớn, từ đó con người nhiều khi phải vị nghĩa diệt thân. Trong chừng mực nào đó, những quan niệm như vậy, tuy từng khống trị suy nghĩ và lối sống bao thời đại, nhưng vẫn chỉ là những nỗ lực nhằm thiết lập trật tự xã hội, gia đình và an sinh của mỗi con người. Và cũng chịu nhiều biến động, khủng hoảng, kéo theo biến động và khủng hoảng toàn xã hội. Ngày nay, với tuyên ngôn nhân quyền, với những thể chế dân chủ, một lần nữa những tương quan thiết thân ấy đã có những thay đổi tận căn: trong đăng ký kết hôn, ngày nay không thấy nói tới cha mẹ đôi bạn; trong giáo dục gia đình, cha mẹ không có quyền đánh con... quyền cá nhân trở thành trung tâm của mọi quyền lợi và nghĩa vụ.
Thực tế ấy, cho thấy những tương quan căn bản làm nên cuộc sống con người luôn luôn phải tự điều chỉnh. Và Lời Ðức Giêsu phải được hiểu trong nỗ lực đem lại điểm quy chiếu chân thật nhất cho cuộc sống.
Trước khi nói tới chữ "Từ Bỏ", chúng ta cần phải nhắm thẳng tới đích điểm mà Chúa nêu lên như là đối tượng của hành vi "Từ Bỏ" này: "mà theo Thầy". "Theo Thầy" là đi trên con đường đồng hành với Thiên Chúa để "Yêu Thương", "Hiến dâng mạng sống vì anh em","Rửa chân cho nhau", "đón tiếp anh em", để "cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy"... "Từ Bỏ" là để có "Tình yêu" lớn hơn, "Tình Yêu" của chính Thiên Chúa "Ðấng Sáng Tạo", và đấy là trở về với Tình Yêu mà con người đã được tạo dựng, đước trao ban, để là "Hình Ảnh" của Thiên Chúa. Tình Yêu "mà bởi đó người nam đã bỏ cha mẹ mình, để kết hợp với người nữ...". Thánh Phaolô đã nói về tình yêu ấy nơi người Kitô hữu như thế này "chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Ðức Ki-tô Giê-su, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người." Ði theo Ðức Giêsu, tuy là phải bỏ nhưng là để nhận lãnh gấp trăm "Và phàm ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì danh Thầy, thì sẽ được gấp bội và còn được sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp." Ðó là quy luật của Tình Yêu "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối rữa đi, nó chẳng sinh bông trái..." Người môn đệ sẽ đón nhận mọi tương quan thân thiết nhất của mình trong Ðức Giêsu. Bài học này đã trở nên hiện thực dưới chân Thánh Giá: vào lúc đó cả người mẹ, lẫn người môn đệ đã nghe lời gọi "Người ấy là con bà" và "Người ấy là Mẹ con". Và chúng ta đã thấy ở đó Ðức Giêsu đã đổi mới mọi tương quan, làm cho nó mang chiều kích siêu việt của Tình Yêu Thiên Chúa, trở nên nguồn sự sống và hạnh phúc thật cho nhân loại.
Qủa thật, có thể con người vẫn cố chấp trong nỗi hoài nghi đối với Tình Yêu sáng tạo của Thiên Chúa. Câu chuyện người đàn bà giàu có Sunêm chỉ là trong muôn một. Nhưng Lời Chúa đã nên hiện thực nhờ niềm tin của Êlisa, và Lời Chúa cũng đã nên hiện thực nhờ niềm tin của Ðức Maria, của mọi thế hệ môn đệ trong lòng Hội Thánh, mà gần đây nhất trong lòng tin của Cha Thánh Pio, con người tuy giam hãm mình trong 4 bức tường khổ tu, lại làm nên chung quanh mình một đại gia đình thân yêu, mà hằng triệu triệu con tim đã say mến đến với Ngài.
Trọng tâm của bài đọc hôm nay hướng về bí tích Rửa tội, giúp chúng ta nhận rõ đường hướng khai: TN 13-A39
Trọng tâm của bài đọc hôm nay hướng về bí tích Rửa tội, giúp chúng ta nhận rõ đường hướng khai triển đề tài ơn cứu độ thánh Phao-lô trình bày trong thư Rô-ma và Phụng vụ Lời Chúa lập lại từ Chúa Nhật 9 đến 24 năm A.
Chương 6 thư Rô-ma quảng diễn việc so sánh giữa A-đam và Chúa Ki-tô. Ðể kết luận so sánh này, thánh Phao-lô viết: "Nhưng ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội" (5:20). Viết như thế, ngài chỉ muốn đề cao những hiệu quả do việc Ðức Ki-tô vâng phục Thiên Chúa vượt xa trên những hậu quả do sự bất tuân của A-đam. Có thể có người hiểu sai điều này, cho rằng nếu ân sủng đã "chứa chan gấp bội" thì tôi cứ việc tiếp tục ngụp lặn trong tội lỗi đi, đàng nào ân sủng cũng thắng mà! Do đó, ngay đầu chương 6, ngài đặt lại vấn đề: "Vậy phải nói sao? Chúng ta cứ ở mãi trong tội lỗi, để ân sủng càng lan tràn ư?" (6:1). Ý của Phao-lô là đề cao ân sủng của Thiên Chúa, chứ không phải ngầm xúi người ta cứ tiếp tục sống tội lỗi! Ngài khẳng định: Chúng ta không thể tiếp tục sống tội lỗi, vì sau khi "được gìm vào nước thanh tẩy," chúng ta là những người "đã chết đối với tội lỗi" và "thuộc về Ðức Ki-tô."
Từ điểm này, ngài trình bày bí tích Rửa tội như bước đầu để Ki-tô hữu sống ơn công chính hóa, tức là sống cuộc sống mới với Thần Khí của Chúa Ki-tô, hoặc đây chính là đời sống luân lý của Ki-tô hữu mà ngài sẽ tiếp tục nói đến trong phần kế tiếp của bức thư.
a) Ðã chết đối với tội lỗi
Chúng ta thử gác lại những định nghĩa đầy tính cách thần học hoặc giáo lý về bí tích Rửa tội để đi vào một định nghĩa hết sức cụ thể và sống động, được tóm kết vỏn vẹn trong hai câu 3-4.
Bí tích Rửa tội phải đặt nền tảng trên "cái chết" và "sự sống lại" của Ðức Ki-tô. Ðức Ki-tô phải là Bí Tích phát sinh mọi bí tích. Từ chính Mình Máu Người, chúng ta có Bí tích Thánh Thể. Từ Thần Khí Người, chúng ta có Bí tích Thêm sức. Từ quyền năng chữa lành của Người, chúng ta có Bí tích Xức dầu bệnh nhân. Từ việc phục vụ và giảng dạy của Người, chúng ta có Bí tích Truyền chức thánh. Từ khẳng định của Người về mối liên kết tình yêu vợ chồng, chúng ta có Bí tích Hôn phối; và từ vai trò hòa giải con người với Thiên Chúa cùng với quyền năng tha tội Người đã thi hành chúng ta có Bí tích Hòa giải.
Thánh Phao-lô không sử dụng những từ thần học trừu tượng, thí dụ như dấu chỉ, ơn thánh, thiết lập... Nhưng ngài dùng những hình ảnh cụ thể như "được gìm vào nước thanh tẩy", "được gìm vào trong cái chết của Chúa Ki-tô", "được mai táng", "được sống lại". Tất cả những động tác của việc rửa tội phải căn cứ vào hai yếu tố căn bản: sự chết và sự sống lại của Chúa Ki-tô. Hai yếu tố này là hai thực tại, nghĩa là hai điều phải được xảy ra cho những ai lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Những định nghĩa lý thuyết trừu tượng giúp chúng ta mở mang kiến thức, nhưng nhiều khi không giúp chúng ta sống những hiểu biết ấy. Trái lại, những định nghĩa cụ thể giúp chúng ta nắm ngay được kết luận thực hành: vậy tôi phải làm gì? Ðịnh nghĩa của thánh Phao-lô về Bí tích Rửa tội đưa chúng ta vào hai thực tại, di chuyển từ thực tại này sang thực tại kia và từ đó tiến tới thực tại vĩnh cửu. Nói khác đi, ngài muốn chúng ta hiểu Bí tích Rửa tội là một tiến trình liên tục: bắt đầu đi vào thực tại cái chết của Ðức Ki-tô, được mai táng với Người, để tiến sang thực tại được sống lại với Người trong cuộc sống mới, rồi với "đời sống mới" này chúng ta hành trình về quê hương vĩnh cửu. Nếu chúng ta không di chuyển trong cái tiến trình sinh động ấy, thì chúng ta chỉ mang cái tên là con cái Chúa, chứ không phải đích thực là con cái Chúa. Bí tích Rửa tội không phải là cây đũa thần, nhưng là một ân sủng mà chính chúng ta phải sử dụng, phải cộng tác thì mới đem lại hiệu quả.
b) Ðược sống lại với Ðức Ki-tô để cùng sống với Người
Ði từ thực tại cái chết của Chúa Ki-tô sang thực tại sống lại của Người phải thực sự được thể hiện trong cuộc sống Ki-tô hữu. Thánh Phao-lô dùng những hình ảnh cụ thể để nói về những gì chúng ta phải làm hầu được sống lại với Chúa Ki-tô. Trước hết chúng ta phải "đóng đinh con người cũ của chúng ta vào thập giá với Ðức Ki-tô." Con người cũ đó chẳng tốt đẹp gì, vì nó đã "bị tội lỗi thống trị." Cho nên bao lâu con người cũ ấy còn sống thì chúng ta vẫn nằm trong vòng kiềm tỏa của tội lỗi. Ðóng đinh nó vào thập giá cho nó chết đi, và nó đã chết đi rồi thì tội lỗi cũng hết hiệu lực và chúng ta không còn là tội nhân nữa. Ðức Ki-tô đã làm công việc đóng đinh ấy thay cho nhân loại. Nói khác đi, Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tội lỗi và ban cho chúng ta khả năng để trở nên công chính (= ơn công chính hóa).
Tiếp đến chúng ta cần phải "được mai táng với Ðức Ki-tô." Sự liên kết với Chúa Ki-tô trong tiến trình Rửa tội đưa chúng ta đi xa hơn nữa, đó là mai táng con người cũ ấy. Hình ảnh cụ thể này giúp chúng ta nhận ra phải mai táng những gì. Tội lỗi, tính hư, tật xấu... nói chung là phải chôn vùi đi cả một lối sống theo thế gian. Mai táng đã trở thành một điều kiện cần thiết để được sống lại. Phải chôn vùi cái cũ để có cái mới. Ðây chính là bước kế tiếp để chúng ta tiến sang giai đoạn sống cuộc sống mới dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Ðề tài của bài đọc hôm nay giúp tôi hiểu về việc công chính hóa và ơn cứu rỗi như thế nào?
Bí tích Rửa tội không phải chỉ là cho tôi một căn tính mới, nhưng còn cho tôi một lối sống mới phải theo. Vậy tôi cần xét lại ý nghĩa của việc mình đã được rửa tội như thế nào mới đúng?
Thánh Phao-lô đòi chúng ta phải trở nên "đồng hình đồng dạng" với Chúa Ki-tô trong cái chết và sống lại của Người. Vậy tôi đang thực hiện việc trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô như thế nào? Ðặc biệt trong những lãnh vực nào?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu nguyện bộc phát, nhóm vẫn sử dụng lại Thánh ca Cô-lô-xê 1:15-20.
Thảo kính cha mẹ là một giới răn của Thiên Chúa và chúng ta không thể nghĩ rằng Đức Kitô lại TN 13-A40 Luong
Thảo kính cha mẹ là một giới răn của Thiên Chúa và chúng ta không thể nghĩ rằng Đức Kitô lại chủ trương bất hiếu, đi ngược lại với đòi hỏi của Thiên Chúa. Chính Ngài cũng có một người cha, một người mẹ và Tin Mừng cho thấy Ngài luôn phục tùng cha mẹ Ngài. Tuy nhiên đoạn Phúc Âm vừa nghe muốn trình bày với chúng ta một bậc thang giá trị mới.
Thực vậy, Ngài không đòi hỏi những kẻ theo Ngài phải từ bỏ cha mẹ hay con cái. Bởi vì việc theo Chúa tự nó không phải là một cái gì mâu thuẫn với tình thương yêu cha mẹ và con cái. Thế nhưng cũng có những lúc kẻ theo Chúa bị đặt trước sự lựa chọn: hoặc nghe lời những kẻ thân yêu nhất hoặc đi theo Đức Kitô. Những quan hệ gia đình có thể trở thành những cản trở trên bước đường theo Chúa, không phải chỉ một số người đã đi tu hay vào chủng viện mới có cơ hội trải qua những kinh nghiệm đau thương ấy. Một người con trai muốn làm linh mục để đáp lại lời mời gọi của Chúa: Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít. Nhưng anh lại được cha mẹ coi như là cột trụ, là tương lai của gia đình. Các ngài mong anh có một nghề hái ra tiền để bảo đảm tuổi già của ông ba, hay lập gia đình để các cụ có tí cháu bế cho vui cũng như để nối dõi tông đường. Anh bị đặt trước một sự giằng co.
Nhưng theo Chúa ở đây không chỉ có nghĩa là đi tu hay vào chủng viện, mà còn phải hiểu là sống theo những đòi hỏi của Ngài, là thực hiện những điều Ngài truyền dạy. Đòi hỏi ấy phải vượt lên trên tất cả mọi thứ đòi hỏi khác. Không phải vì Chúa Giêsu là một con người độc đoán, mà bởi vì Ngài biết rõ Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Hẳn rằng mỗi người chúng ta cũng có dịp sống qua những lựa chọn này.
Một thanh niên làm ở sở thuế. Anh có một vợ và ba con. Vợ anh không có việc làm, còn 3 con anh thì phải đi học. Gia đình anh lại rất nghèo. Vợ anh nhiều lần khuyên anh hãy làm như người ta. Nếu anh nghe vợ, xiêu lòng trước những lời than khóc của cô ấy, thì anh quả thực không còn xứng đáng với Đức Kitô, anh đã từ khước cuộc sống mới mà Chúa Giêsu đã thiết lập bằng giá máu của Ngài. Trong trường hợp của anh, thì chính những người thân yêu lại là một cản trở trên con đường anh bước theo Chúa. Tuy nhiên không phải chỉ những người thân, mà còn cả bản thân chúng ta nữa, cũng có thể là những cám dỗ thúc đẩy chúng ta đi ngược lại với những đường lối của Chúa. Chẳng hạn như lòng tham lam, tính ích kỷ, những khát vọng về tiền tài và địa vị nhiều lúc làm cho chúng ta phản bội lại lý tưởng của mình. Thế nhưng, chúng ta có dám liều, dám hy sinh, dám từ bỏ tất cả để bước theo Chúa hay không?
THIÊN CHÚA KHÔNG THUA LÒNG QUẢNG ĐẠI CỦA CON NGƯỜI
Tại một Tòa Giám Mục miền bắc Việt Nam, trong khuôn viên Tòa Giám mục, có một khẩu hiệu rất đặc TN 13-A41
Tại một Tòa Giám Mục miền bắc Việt Nam, trong khuôn viên Tòa Giám mục, có một khẩu hiệu rất đặc biệt, đó là: “Mỗi vị khách là một Đức Giêsu”. Ấn tượng hơn nữa là cung cách của vị Giám Mục và nhiều nhân viên trong đó đã để lại cho người đến thăm nhiều cảm xúc qua cách đón tiếp mang đậm chất Kitô.
Khi ra về, nhiều người đã không ngớt lời khen ngợi tấm lòng hiếu khách, chân tình và đơn sơ của Đức Giám Mục và những người ở nơi đây.
Tại sao nơi đó lại có cung cách đối đãi tốt như vậy? Thưa, bởi vì nơi đó đã thấm đượm bài học của chính Đức Giêsu dạy: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy” (Mt 10, 40).
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay sẽ lần lượt làm sáng tỏ nhằm giúp chúng ta hiểu tâm tình trên.
1. Lời Chúa
Khởi đi từ bài đọc 1, tác giả sách các Vua kể về sự kiện tiên tri Êlisê được một phụ nữ người Sunam đón tiếp rất thịnh tình khi ông và tiểu đồng đi ngang qua đây.
Người phụ nữ này là người thuộc giới thượng lưu trong thành. Gia đình giàu có. Đời sống vợ chồng rất ấm êm. Tuy nhiên, có một nỗi khổ tâm quá lớn đối với vợ chồng bà, đó là ông bà đã lớn tuổi mà không có con.
Nguyện vọng của ông bà là mong sao được Chúa thương nhận lời cho mình mụn con để nối dòng.
Được tiếp đãi tử tế và rất thân tình, tiên tri Êlisê nghĩ đến ân nghĩa, nên trước khi rời khỏi nơi ấy, ông đã ngỏ ý muốn trả ơn vì những điều mà gia đình đã làm cho ông cũng như tiểu đồng.
Tuy nhiên, bà chủ đã hoàn toàn khước từ, bởi bà luôn nghĩ rằng: “Người đến trọ nhà mình là một vị thánh”. Vì thế, khi đón tiếp Ngài là đón tiếp người của Thiên Chúa. Vì thế, không lẽ lại sòng phẳng như “hòn đất ném đi, hòn trì ném lại???” Vì thế, dù nói thế nào, bà đều từ chối không hề nhận bất cứ thứ gì mà vị tiên tri đáp lễ. Thấy được tấm lòng chân thành ấy, Êlisê cũng áy náy! Tuy nhiên, khi được tiểu đồng mách cho biết nguyện vọng của ông bà là muốn có một người con để nối dõi tông đường cũng như tránh đi sự tủi nhục.
Thấy được sự khao khát chính đáng, Êlisê đã cầu nguyện và chúc phúc cho hai ông bà và nói tiên tri: “Vào độ này sang năm, bà sẽ có cháu trai bồng”. Sau đó tiên tri Êlisê lên đường. Đúng như điều đã nói, bằng rầy sang năm, ông bà đã có một người con trai.
Tuy nhiên, niềm vui chỉ được ít lâu, vì chỉ vài năm sau, thằng bé bị bệnh và qua đời.
Khi nghe tin ấy, tiên tri Êlisê đã không ngớt cầu xin Chúa cho con bà được sống lại, và Chúa đã nhận lời. Đứa trẻ đã sống lại để sống một cuộc sống mới trong ân sủng và tình thương của Thiên Chúa.
Qua câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy: Thiên Chúa không thua lòng quảng đại của con người. Nếu chúng ta rộng tay làm phúc cho Chúa hay những người cần đến sự giúp đỡ của chúng ta với lòng mến, thì chắc chắn Chúa sẽ trả ơn gấp bội.
Sang bài đọc 2, thánh Phaolô đi xa hơn để cho thấy nền tảng và nguồn gốc của sự sống mới chính là Đức Giêsu, Đấng đã sống cuộc sống như ta, đã chết và đã sống lại vì nhân loại. Ngài nói: “Nếu ta cùng chết, cùng được mai táng với Ngài, thì ta cũng có được một đời sống mới như Ngài”.
Nếu trước kia, tâm hồn chúng ta đầy rãy những tội lỗi, bon chen, ích kỷ, hận thù, kiêu ngạo và thiếu tinh thần bác ái, thì khi ta được lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, nghĩa là ta được dìm mình vào trong một khuôn đúc mới, để xuất hiện một hình ảnh mới, hình ảnh của Đức Giêsu Kitô. Từ đó, con người của ta được biến đổi và được mặc lấy sự sống mới trong Ngài.
Thật vậy, nếu chết đi cho tội là loại bỏ những ích kỷ, tham vọng, nhục dục, thù hận, ghét ghen, vô cảm, vô tâm, dửng dưng, thì sống một đời sống mới trong Đức Giêsu Kitô là biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa dạy; biết yêu thương, tha thứ, nhân từ, cảm thông, liên đới, quảng đại, dấn thân vì người nghèo…, bởi vì những thứ đó thuộc về phẩm chất của Thiên Chúa và chúng ta được mời gọi loan truyền tình thương của Ngài qua những hành vi đó.
Đỉnh cao của phụng vụ Lời Chúa hôm nay là bài Tin Mừng.
Như một lời hiệu triệu, Đức Giêsu đã nói về sự liên đới giữa Ngài với ta, giữa ta với Ngài và Thiên Chúa Cha trong một đường dây bác ái. Ngài nói: “Ai đón tiếp một trẻ nhỏ…là đón tiếp Thầy…ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy…”. Mối liên hệ này cho thấy sự khăng khít và giao hảo giữa ba thành phần: Thiên Chúa - Đức Kitô và nhân loại. Nói khác đi, ta được Thiên Chúa cứu độ nhờ Đức Kitô và cùng với anh chị em.
Chính vì thế mà Đức Giêsu đã đặt trọng tâm của sự liên kết này qua người nghèo và mời gọi người môn đệ hãy làm cho mối liên hệ này được trở nên sống động hơn.
Như vậy, qua 3 bài đọc, chúng ta thấy có một chủ đề xuyên suốt, đó là: nếu ta rộng lòng quảng đại giúp đỡ những người khó khăn, bần cùng trong tâm tình mến yêu Chúa và anh chị em, ta sẽ được Thiên Chúa trọng thưởng ở ngay đời này và cả đời sau. Thiên Chúa không bao giờ thua lòng quảng đại của chúng ta. Ngược lại, Người sẽ trả công hậu hĩnh đến không ngờ.
2. Sống sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đi vào mối tương quan với Thiên Chúa cách sống động.
Hành trình này có thể được ví như một hành trình đức tin. Đức tin ấy được chứng minh bằng những việc thực thi đức ái, từ bỏ tội lỗi để sống cho Thiên Chúa.
Chúng ta không thể nói rằng: đức tin của tôi chỉ cần được ghi trong sổ Rửa Tội; đức tin của tôi cũng chỉ cần ở trong nhà thờ; hay đức tin của tôi chẳng cần phải tỏ lộ ra bên ngoài.
Không! Nói như thế là tự mâu thuẫn, không nền tảng và vu vơ, chẳng khác gì người xây nhà mình trên nền cát, bởi vì: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2, 26. ); hay như thánh Gioan nói: “Người anh em chúng ta nhìn thấy mà không yêu mến, thì làm sao yêu mến Thiên Chúa là Đấng ta không thấy?” (x. 1 Ga 4, 20)
Đức tin mà chúng ta được đón nhận phải đưa chúng ta vào trong sự sống mới của Đức Kitô, mà sự sống mới của Đức Kitô chính là vâng lời Chúa Cha tuyệt đối và yêu con người đến cùng.
Như vậy, nếu ta nói mình là môn đệ, là người thuộc về Đức Kitô mà ta không lắng nghe Lời Chúa, hay lắng nghe xong rồi bỏ, hoặc nghe một đàng làm một nẻo… thì chúng ta không khác gì hạt giống gieo bên vệ đường, bụi gai, sỏi đá.
Hay nếu nói là người đi theo Chúa, mà ta không mang trong mình tâm tư của Chúa, đó là từ bi, nhân hậu, bao dung, tha thứ, liên đới, nhất là thi hành bác ái dối với người nghèo, bảo vệ người cô thế cô thân, bênh vực cho công bằng, sống sự thật… thì chúng ta có khác gì những Pharisêu giả hình thời xưa đâu?
Mong sao, Lời Đức Giêsu dạy khi xưa: "Mỗi lần các ngươi làm cho một người nhỏ bé nhất của Ta đây, là các ngươi làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40), sẽ được chúng ta ý thức và mau mắn thi hành trong lòng mến, để sau này, chúng ta được Thiên Chúa trọng thưởng trên Thiên Đàng.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết yêu thương anh chị em chúng con bằng tình yêu chân thành và đầy lòng mến. Xin cũng ban cho chúng con biết sống xứng đáng là con cái Chúa khi chúng con biết đi theo đường lối của Thiên Chúa trong ánh sáng và chân lý. Amen.
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN, năm A Mt 10, 37-42
Tình yêu là cái gì thật kỳ diệu, khó nói. Sống trên đời ai cũng muốn được yêu và muốn yêu. Đó là định TN 13-A42
Tình yêu là cái gì thật kỳ diệu, khó nói. Sống trên đời ai cũng muốn được yêu và muốn yêu. Đó là định luật bất biến của cuộc đời. Đôi bạn trẻ đã quyết định yêu nhau dù có khó khăn gì mấy, trước sau gì họ cũng đến với nhau.Hôm nay, Chúa Giêsu ra điều kiện cho những ai muốn theo Người:” Phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự, ngay cả những tình cảm gắn bó nhất, thân thiết nhất như tình phụ tử, mẫu tử , những tình cảm ruột thịt của mối giây anh em, chị em vv…đồng thời “ phải vác thập giá “ mà theo Người; rồi Chúa lại nói tiếp:” Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình …thì sẽ tìm thấy được “.
Chúa Giêsu muốn cho chúng ta hay:” Đi theo Chúa không có nghĩa Người đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ hết mọi sự, nhưng Người muốn mọi người khi đã quyết tâm theo Người phải đặt tình yêu Thiên Chúa và việc phục vụ, thực thi sứ mạng của mình trên mọi mối quan hệ, trên những tình cảm thân thiết của cha mẹ, anh chị em và nếu cần phải hy sinh cả mạng sống của mình vì Người “. Quả thực đây là đời hỏi rất quyết liệt và cực kỳ khó khăn.
Ngoải ra, Chúa Giêsu còn cho biết người môn đệ hay chúng ta quyết tâm đi theo Người thì họ phải bước trên con đường Giêsu, con đường khổ giá, con đường hẹp, đường hy sinh, từ bỏ, quảng đại và xả kỷ để làm vinh danh Chúa và phục vụ hết mình vì đồng loại, vì tha nhân.
Theo Chúa Giêsu, người môn đệ của Chúa, hay người Kitô hữu đều được Chúa kêu mời đón nhận, hy sinh, quên mình để sống yêu thương, hòa hợp, chia sẻ, phục vụ tha nhân, phục vụ người khác bằng tình yêu cao vời, tuyệt mỹ không phân biệt, không vị kỷ. Tình yêu tự hiến mà Đức Kitô đã sống, đã sẻ chia và đã phục vụ vô vị lợi:” Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15, 13 ).
Người môn đệ của Chúa hay chúng ta được mời gọi góp phần nhỏ bé của mỗi người bằng những công việc nhỏ bé, âm thầm nhưng có giá trị tỏa sáng là làm vinh danh Thiên Chúa. Người môn đệ không cần phải làm những công việc lớn lao, đi đây đi đó, đứng lên rao giảng công khai, to tiếng mới là
loan báo Tin Mừng bởi chính Chúa đã tự đồng hóa mình với những con người nhỏ bé, khó nghèo, những con người thấp cổ bé họng. Chúa nói: ” Mỗi lần các con cho một kẻ đói ăn là các con cho Ta ăn…cho kẻ khát uống, rách rưới ăn mặc, kẻ tù được thăm viếng vv…là các con làm cho chính Ta “. Chúa đòi hỏi người môn đệ và tất cả chúng ta khi phục vụ thì phải phục vụ quên mình, hy sinh quên mình đến nỗi biến mình ra không, nhưng việc phục vụ ấy lại có giá trị cao cả trước mặt Thiên Chúa như Người đã khẳng định:” Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy “. Chúa ban thưởng người môn đệ của Người và ban thưởng cho chúng ta nếu chúng ta đã biết thực hiện điều Chúa đòi hỏi.Theo Chúa là phải sống như Chúa, yêu như Chúa và phục vụ như Chúa phục vụ.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc sống nơi gian trần có nhiều cạm bẫy, có nhiều thử thách khiến chúng con dễ quên đi bổn phận của chính mình, xin ban cho chúng con đức tin mạnh mẽ để chúng con can đảm, hiên ngang, biết từ bỏ mình, vác thập giá của mình mà theo chân Chúa và biết phục vụ anh em theo đòi hỏi của Chúa yêu thương như Chúa yêu. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ: Chúa đòi hỏi người môn đệ những điều gì ? Yêu như Chúa nghĩa là làm sao ? Vác thập giá nghĩa là gì ? Con đường Giêsu là con đường nào ? Ông bà anh chị em hiểu thế nào về những người nhỏ bé ?
Chúng ta đang ở trong Bài diễn từ về Truyền giáo của Tin Mừng Mt (Mt 9,36–11,1). Toàn bài có bố TN 13-A43
Chúng ta đang ở trong Bài diễn từ về Truyền giáo của Tin Mừng Mt (Mt 9,36–11,1). Toàn bài có bố cục như sau:
1) Dẫn nhập (9,36–10,5a): a) Các yếu tố xác định (9,36-38), b) Việc trao ban quyền và các tên gọi (10,1-5a); 2) Phần chính (10,5b-42): a) Nhiệm vụ của các tông đồ (cc. 5b-15), b) Những khó khăn và cách thức thắng vượt (10,16-42); 3) Kết (11,1). Riêng phân đoạn 10,16-42 có bố cục như sau: 1) Sự bách hại các tông đồ phải chịu (10,16-39): a) Hoàn cảnh tởng quát của các sứ giả (10,16), b) Loài người sẽ xử tệ với các ông (10,17-23), c) Số phận chung của môn đệ và thầy (10,24-25), d) Lý do khiến các ông không được nao núng (10,26-31), e) Tương quan của các ông với Đức Giêsu (10,32-39); 2) Việc tiếp đón các tông đồ (10,40-42). 2.- Bố cục
Bản văn 10,37-42 có thể chia thành hai phần: 1) Ưu tiên chọn lựa Đức Giêsu (10,37-39); 2) Tiếp đón các tông đồ (10,40-42). 3.- Vài điểm chú giải
- Ai yêu (37): Đức Giêsu “ghen” trong chiều hướng của lòng ghen của Thiên Chúa, được Cựu Ước nói tới (Đnl 29,20; 32,16;…). Nhưng “yêu” ở đây không phải là động từ agapân (x. 5,43; 19,19; 22,37tt) để chỉ tình yêu đối với Thiên Chúa và đồng loại; đây là động từ philein, thường được Mt dùng theo nghĩa tiêu cực: “gắn bó với”, “đem lòng thương mến”, “thích điều này điều nọ” (x. 6,5; 23,6; 26,48). Tuy nhiên, không phải Đức Giêsu dạy sự bất hiếu, bất kính (x. Lc 2,49; Mc 3,33-35). Ngài chỉ muốn nói rằng đứng trước ý muốn của Thiên Chúa, công việc của Thiên Chúa, bản thân Người, mọi giá trị khác và mọi người khác đều phải xuống hàng thứ yếu.
- không xứng với Thầy (38): Đây là sự xứng đáng hiện sinh. Ai không đoạn tuyệt với những liên hệ thân thương nhất (nếu cần) để đi theo Đức Giêsu, thì đã tự làm cho mình nên bất xứng với Ngài.
- mang lấy thập giá (38): Bước theo Đức Kitô, là theo Ngài trên một con đường đầy đau khổ tàn bạo và công khai (như người tử tội vác thập giá đi giữa hai hàng người thích thú man rợ và đối xử dã man với mình). Vậy phải tiên liệu và chấp nhận sự chống đối dữ dội và hầu như công khai do mình là môn đệ của Đức Kitô.
- một trong những kẻ bé nhỏ (42): Đây là người không có trách nhiệm gì đặc biệt trong cộng đoàn Kitô hữu. Dù chỉ là “môn đệ” chứ không là gì khác, người ấy cũng được đặt ngang hàng với tất cả mọi người. Những người ấy không làm gì ngoài việc “tin” (x. 18,6), cũng đáng được trân trọng và yêu thương đặc biệt. 4.- Ý nghĩa của bản văn
* Ưu tiên chọn lựa Đức Giêsu (37-39)
Phân đoạn 10,32-39 nhắm vào quan hệ với Đức Giêsu. Lời văn có vẻ nghịch lý, nhưng để nói rằng coi trọng Đức Giêsu hơn, duy trì bằng mọi giá sự hiệp nhất với Ngài, là con đường duy nhất để có sự hiệp nhất với Thiên Chúa và được sống. Ở đây vẫn là ý tưởng cần phải chọn giữa Thiên Chúa và loài người, như đã thấy ở 10,26-31. Những nhân vật liên hệ với nhau trong tương quan được mô tả ở 10,32-33, là: Cha trên trời của Đức Giêsu (ở 10,20.29: Cha anh em), Đức Giêsu, cá nhân, loài người. Cá nhân phải tự quyết định, phải chọn lấy sự hiệp thông công khai và được tuyên xưng thẳng thắn với Đức Giêsu để qua Đức Giêsu, đạt được sự hiệp thông với Thiên Chúa. Ngược lại, ai chối Đức Giêsu thì cũng tách khỏi Thiên Chúa. Một hình thái cho thấy là người ta nhìn nhận Đức Giêsu công khai, đó là loan báo không sợ hãi sứ điệp của Ngài (x. 10,27). Ở 10,34-39, tác giả không còn nói rõ ràng đến Thiên Chúa Cha nữa, cũng chẳng nói đến loài người cách tổng quát nữa. Tương quan được giới hạn lại với Đức Giêsu, với các thành viên của một gia đình và với từng cá nhân. Một lần nữa, lại cần phải chọn lựa rõ ràng. Đức Giêsu, sự hiệp nhất với Ngài, phải được coi trọng hơn mọi người, cho dù điều này tạo ra những mâu thuẫn với những thành phần của gia đình mình. Và cuối cùng, phải chọn đi theo Đức Giêsu trên con đường đưa tới thập giá; sự hiệp nhất với Đức Giêsu phải là sự hiệp nhất vớssssi Ngài trong tất cả thực tại của Ngài và phải được coi trọng hơn cả chính mạng sống mình. Chỉ người nào chịu mất mạng vì Đức Giêsu, thì mới tìm được mạng sống (10,39). Điều được nói ở 10,32-39 là lý do quyết định khiến người ta loan báo không sợ hãi, nhưng còn đi xa hơn, nghĩa là nó xác định rằng trong mọi trường hợp, sự hiệp nhất với Đức Giêsu phải được coi trọng hơn mọi sự và mọi người. * Tiếp đón các tông đồ (40-42)
Sang phần này, Đức Giêsu nói về tư cách của các môn đệ. Từ ngữ “anh em” ở c. 40 nhắm tới các môn đệ cũng là tông đồ, lại được diễn giải bằng ba danh từ “ngôn sứ”, “người công chính” và “kẻ bé nhỏ”: các ông giúp hiểu đúng đắn ý Thiên Chúa, các ông cũng chia sẻ đời sống của mọi tín hữu, nhưng các ông chấp nhận đời sống truyền giáo trong nếp sống nghèo khó và khiêm tốn (x. cc. 9-10).
Tiếp đón các tông đồ được coi như là tiếp đón Đức Giêsu, và tiếp đón Đức Giêsu thì cũng như tiếp đón chính Thiên Chúa (= Đấng đã sai Đức Giêsu). Mười hai tông đồ là những sứ giả của Đức Giêsu (x. apostellein ở 10,5.16), còn Đức Giêsu thì được Thiên Chúa cử đi (x. apostellein ở 10,40; 15,24; 21,37). Nguồn mạch tối hậu của mọi sứ vụ là chính Thiên Chúa, Đấng đồng thời là chủ mùa gặt và Đấng sai phái các thợ gặt (9,36-38). Sự liên kết này giữa các cuộc sai phái là nền tảng cho thấy vì sao có sự tương đương trong việc đón tiếp; và sự tương đương trong đón tiếp lại cho thấy giá trị và tầm quan trọng của hoạt động của các tông đồ của Đức Giêsu. Cả phần thưởng cho việc tiếp đón cũng dựa trên sự liên kết ấy giữa các cuộc sai phái. Ở 10,14t, sự trừng phạt cánh chung dành cho việc không tiếp đón lại chứng tỏ tầm quan trọng của công việc của các tông đồ. Ở 10,41t, ngược lại, phần thưởng cánh chung (x. 5,12: trên trời; 6,1: nơi Cha anh em, Đấng ngự trên trời) dành cho việc tiếp đón cũng có chức năng như thế. + Kết luận
Đã gắn bó với Đức Giêsu, thế nào người môn đệ cũng phải đi vào một cuộc phiêu lưu nguy hiểm công khai; và không có một “cuộc dấn thân” nào theo lệnh Đức Kitô, mà lại không đồng thời là hành vi thâm sâu và riêng tư nhất (mất mạng sống). Người môn đệ sẽ phải chia sẻ thập giá với Đức Giêsu. Nhưng bất cứ người môn đệ nào, dù là người bé nhỏ khiêm tốn nhất, cũng có quyền coi tất cả những gì được nói ở đây là nói cho chính họ: họ được sai đi, và họ được liên kết với số phận của Thầy chí thánh. 5.- Gợi ý suy niệm
1. Thật ra bước theo Đức Giêsu không có nghĩa là không yêu thương cha mẹ hoặc con cái mình. Phải nói là trái lại nữa: ai thật sự bước theo Đức Kitô thì đạt được sự tự do mới, một tự do đích thực, khiến người ấy có thể thật sự yêu thương cha mẹ và con cái. Tuy nhiên, tình yêu này là một tình yêu được “nâng cấp” bởi tình yêu đối với Đức Kitô: ta yêu thương người khác vì Thiên Chúa, trong Thiên Chúa, bằng chính tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng để được như thế, người môn đệ phải dứt khoát chọn Đức Kitô.
2. Chọn lựa làm ki-tô hữu có thể đẩy người ta vào tình trạng ngặt nghèo, có thể gây khó khăn cho những dây liên hệ thân thương nhất. Tuy nhiên, khi đứng trước cái ngưỡng cửa là thử thách lớn lao nhất (tử đạo), người ta không được để cho mình chao đảo bởi lòng thương đối với con cái hoặc cha mẹ mình. Hoàn cảnh có thể là tế nhị và khó khăn, nhưng phải can đảm quyết định; nếu không, người ta có thể phản bội Đức Kitô và phải gánh chịu những hậu quả bi đát (c. 33).
3. Tất cả những ai cộng tác cách nào đó vào hoạt động truyền giáo và ngôn sứ, thậm chí chỉ cho một chén nước lã mà thôi, thì cũng được chia sẻ những mệt nhọc và công trạng của các vị thừa sai. Họi Thánh là một thân thể, nên bất cứ thành viên nào cũng phải chịu trách nhiệm về sự tăng trưởng của toàn thân thể, cho dù chỉ đảm nhận một phận vụ khiêm tốn. Cho dù chỉ giúp đỡ các sứ giả, các ngôn sứ, các tín hữu tầm thường, về mặt vật chất, người ta cũng đang tham dự vào công cuộc loan báo Tin Mừng. Lm. Fx Vũ Phan Long, OFM --------------------------------------------
Linh mục Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT CHÚA NHẬT XIII THƯỜNG NIÊN, năm A. Mt 10,37-42 THÁNH PHÊRÔ VÀ THÁNH PHAOLÔ, TÔNG ĐỒ. Mt 16,13-19
Chúa Giêsu đã nói với những người muốn theo Ngài:” Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng với TN 13-A44
Chúa Giêsu đã nói với những người muốn theo Ngài:” Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy.Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy “. Lời Chúa là một đòi hỏi thật mãnh liệt và sâu xa đối với mọi Kitô hữu. Thế nhưng, con đường theo Chúa không phải cứ phẳng lì như mặt nước. Cuộc hành trình theo Đức Kitô có những lúc thật êm xuôi nhưng có những lúc thật dậy sóng.Chúa nói những điều trên để môn đệ của Chúa luôn ý thức việc theo chúa đòi hỏi môn đệ phải biết từ bỏ, quảng đại và hy sinh. Cuộc hành trình theo Đức Kitô có thể gọi nôm na là một cuộc hải hành. Trong cuộc hải hành đức tin, thực tế có những lúc người môn đệ cảm thấy êm xuôi, lặng lẽ, tuy nhiên, có lần Chúa đã từng nói:” Hãy đến mà xem “ và Ngài cũng đã từng nói trắng với những người muốn theo Ngài:” Chồn có hang.Chim có tổ. Con người không đá gối đầu “. Nói lên thực tế như vậy, Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài phải bám chặt vào Ngài, phải sống thanh thản và đặt dưới sự quan phòng của Ngài.Trong đoạn Tin Mừng của thánh Matthêu hôm nay Chúa Giêsu kết thúc bài giảng nói về truyền giáo. Chúa nói với các Tông đồ và qua các Tông đồ, Ngài nói với mọi Kitô hữu về sự từ bỏ tất cả để đi theo làm môn đệ của Chúa. Sự từ bỏ mà Chúa nói, đòi hỏi các môn đệ một cách thật nghiêm túc, và sâu xa đến nỗi muốn theo Ngài: “ Phải vác Thập giá mà theo Ngài “. Thập giá là điều khó khăn, thử thách mà người môn đệ phải phấn đấu, hy sinh và quảng đại để làm theo ý Chúa, theo ý Cha của Ngài như Ngài đã vâng phục Cha để chết trên thập giá mà cứu độ gian trần, cứu độ con người. Ngài nói tiếp:” Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất;còn ai liều mắt mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được “.Chúa muốn các môn đệ của Ngài khi đã chọn Ngài thì phải liều mình, đến nỗi nếu cần phải hiến dâng cả mạng sống để làm chứng cho Ngài. Theo Chúa, làm môn đệ của Chúa quả thực đòi hỏi con người nhiều lắm. Theo Chúa để sống với Chúa luôn là một thách thức đối với người tín hữu. Bởi vì, những điều Chúa nói luôn là những đòi hỏi con người phải từ bỏ, phải quảng đại, phải hy sinh. Chúa Giêsu hứa ban thưởng gấp bội cho những ai đã thực hành điều Ngài muốn, những điều Ngài đòi hỏi, yêu cầu. Tại sao Chúa lại đòi hỏi như vậy và đòi hỏi như vậy có khác thường, có nghịch lý không ? Con đường theo Chúa đầy những nghịch lý và cái nghịch lý để theo chúa là từ bỏ tất cả: Cha mẹ, anh em, gia đình thân thương, gia tài, của cải, danh vọng và cả mạng sống của mình.Đó là nghịch lý lớn nhất để theo Chúa. Làm môn đệ Chúa, ở lại và đi theo, sống với Chúa là phải từ bỏ vì Chúa đã sống như vậy, nghĩa là Ngài đã bỏ gia đình, bỏ tất cả để chỉ làm theo ý Thiên Chúa Cha. Ngài đã sống thật thảo hiền với Chúa Cha và làm gương cho mọi người, cho nhân loại về sự từ bỏ. Không chỉ những người dấn thân, đi tu trong các Dòng tu, trong các Tu hội là phải từ bỏ.Nhưng người Kitô hữu cũng được Chúa mời gọi sống triệt để “ đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy “ và sống lời Chúa:” Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy “. Trong cuộc sống hằng ngày giữa trăm ngàn bề bộn của công việc, gia đình, cha mẹ, anh em luôn là giằng co giữa người môn đệ Chúa với đòi hỏi của chúa Giêsu và sự gắn bó với Chúa. Rồi những giằng co giữa danh vọng, tiền tài, của cải với sự trung thành với bổn phận, với giới răn của Chúa. Giữa những giằng co của tình cảm gia đình, những người thân thương, danh vọng,tiền tài, của cải, môn đệ của Chúa phải làm gì, phải chọn lựa làm sao? Lời Chúa ngày hôm nay sẽ giúp soi sáng, hướng dẫn để người môn đệ Chúa chọn lựa đúng và thực hành đúng! Hôm nay, Giáo Hội cũng mừng kính hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô.Hai cột trụ của Giáo Hội Chúa. Thánh Phêrô là Vị thủ lãnh trong việc tuyên xưng đức tin, thánh Phaolô là người bảo vệ lừng danh trong việc tìm hiểu đức tin. Với việc tuyên tín của thánh Phêrô về Chúa Giêsu, là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa hằng sống.Chúa Giêsu tỏ mình cho các Tông đồ và tuyên bố thiết lập Nước Thiên Chúa cụ thể trên thế giới, trên trần gian dựa trên nền tảng đá là các Tông đồ, đặc biệt là thánh Phêrô và sau này, khi trắc nghiệm tình yêu của thánh Phêrô, Chúa Giêsu đã đặt Phêrô làm đầu Giáo Hội của Chúa. Chúa Giêsu đã nói với Phêrô:” Hãy chăn dắt chiên con, chiên mẹ của Ta “. Lạy Chúa Giêsu, hai thánh Phêrô và Phaolô cùng các Tông đồ khác đã bỏ mọi mà theo Chúa, sống chết cho Chúa. Xin cho chúng con cũng biết từ bỏ để chúng con luôn làm theo ý Chúa như Chúa đã hoàn toàn làm theo ý Chúa Cha. Amen. GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ: 1.Chúa đòi hỏi người môn đệ những gì để theo Ngài ? 2.Tại sao môn đệ lại phải vác Thập giá mà theo Chúa ? 3.Thánh Phêrô và thánh Phaolô là ai ? 4.Tại sao khi Phêrô tuyên tín Chúa là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa. Chúa Giêsu lại tỏ mình ra cho các Tông đồ và thiết lập Giáo Hội của Chúa ở trần gian này ?
(Suy niệm Tin mừng Mát-thêu (Mt 10, 37-42) trích đọc vào Chúa nhật 13 TN A)
Vào năm 1976, nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn, nhiều gia đình sống rất chật vật. Hồi ấy có TN 13-A45
Vào năm 1976, nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn, nhiều gia đình sống rất chật vật. Hồi ấy có một ông lão nghèo cùng với đứa con gái lớn ở Sài Gòn ra thăm người em đang sống ở Ninh Thuận để kiếm chút gì đắp đổi qua ngày.
Thương ông anh từ Sài Gòn lặn lội ra thăm mình, người em tặng ông anh những sản phẩm cây nhà lá vườn, gồm một bị khoai, một bị xoài và dăm nải chuối để mang về Sài Gòn làm quà cho vợ con.
Về lại Sài Gòn, hai cha con xuống xe cuốc bộ về nhà. Người cha tuổi đã già, gầy gò ốm yếu, chịu khó mang bị xoài bên vai phải, khoác bị khoai bên vai trái, còn đôi tay gầy guộc thì xách mấy nải chuối bằng tay này và giỏ áo quần bằng tay kia. Trong khi đứa con gái cưng song hành bên cạnh thì chỉ đeo chiếc bóp đầm xinh xắn trên vai, đi tênh tênh bên bố mà chẳng để ý đến lưng bố đang còng xuống vì sức nặng của hành lý, chẳng thấy mồ hôi bố lấm tấm trên khuôn mặt nhăn nheo, y như cô chủ giàu sang đi bên cạnh tên nô lệ khốn cùng.
Người cha già chịu còng lưng mang nặng những món quà đó về nhà cho ai hưởng? Cho người mẹ, cho đứa em út của cô gái này và cho chính cô. Chính cô cũng được hưởng phần trong đó!
Thế mà cô cứ để mặc cha già của mình còng lưng mang nặng mà chẳng động lòng thương xót, chẳng đụng vào một ngón tay.
Đây đúng là đứa con bất hiếu và hoàn toàn bất xứng, khi thấy cha vác nặng mà con thì chẳng mó tay vào.
Thế nhưng, lắm lúc chúng ta cũng xử sự như cô gái kiêu sa, vô cảm này.
Dẫu biết rằng hôm nay Đức Giê-su, Chúa chúng ta đang tiếp tục chịu khổ nạn (GLHTCG số 1323. TĐCV 22, 6-8) để cứu độ chính ta và anh chị em chúng ta, nhưng ta cứ làm ngơ như không nhìn thấy; ta cứ đi tênh tênh trên con đường lạc thú của mình mà chẳng động lòng trắc ẩn đối với Chúa là Đấng đang tiếp tục chịu khổ nạn để đền tội cho chúng ta.
Thật là người môn đệ bất xứng khi Chúa chúng ta vác thập tự giá đền tội cho ta, còn chúng ta thì cố tìm kiếm lạc thú trần gian mà chẳng kê vai vác cùng với Chúa.
Chính vì thế, Chúa mới cảnh báo rằng: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy” (Mt 10,38).
Nhưng vác thập tự giá với Chúa thế nào đây?
Chúa Giê-su dạy chúng ta vác thập giá với Ngài qua 2 câu nói tiếp theo:
Câu thứ nhất: “Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất” (Mt10.39) có nghĩa là kẻ nào chỉ biết chăm lo cho bản thân mình mà thôi, chẳng thiết gì đến Chúa và anh chị em chung quanh, thì sẽ không được hưởng sự sống đời sau;
Và câu thứ hai: “Ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt10.39) có nghĩa là ai từ bỏ nếp sống vị kỷ để sống vị tha, quên mình đi để hy sinh phục vụ Chúa và tha nhân thì sẽ được sống đời đời.
Lạy Chúa Giê-su,
Người con để mặc người cha gánh nặng một mình mà không kê vai gánh giúp là con bất hiếu; người môn đệ của Chúa để mặc Thầy chịu khổ nạn, chịu vác thánh giá mà không vác cùng thì không xứng đáng là môn đệ trung thành.
Hôm nay Chúa vẫn còn tiếp tục chịu khổ nạn, chịu vác thập giá cách nhiệm mầu (GLHTCG số 1323. TĐCV 22, 6-8) để cứu độ chúng con, lẽ nào chúng con để mặc Chúa gánh vác một mình mà không chia sẻ gánh nặng của Chúa.
Xin cho chúng con sẵn sàng cống hiến thời giờ, công sức… của mình để chăm sóc, phục vụ người khác. Làm như thế là cùng vác thập giá với Chúa; làm như thế thì mới xứng đáng là môn đệ của Chúa và mới được hưởng phúc thiên đàng. Tác giả bài viết: Lm Inhaxiô Trần Ngà
"Ai cho một trong những kẻ bé mọn dù chỉ một ly nước lã, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu"
(Mt 10,42)
- Bài đọc I (2V 4,8-11.14-18): "Người đến trọ nhà mình là một vị thánh của Thiên Chúa"
- Đáp ca (Tv 88): "Tôi sẽ ca ngợi tình thương Chúa đến muôn đời"
- Tin Mừng (Mt 10,37-42): "Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó" - "Kẻ nào tiếp đón các con là tiếp đón Thầy"
- Bài đọc 2 (Rm 6,3-4.8-11) (Chủ đề phụ): "Nếu chúng ta chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài".
Sợi chỉ đỏ:
Lời Chúa hôm nay có hai chủ đề:1. Chủ đề tiếp đón: được diễn tả qua chuyện một gia đình miền Sunam cho TN 13-A46
Lời Chúa hôm nay có hai chủ đề:
1. Chủ đề tiếp đón: được diễn tả qua chuyện một gia đình miền Sunam cho ngôn sứ Êlisê đến trọ tại nhà (Bài đọc I), và phần thứ hai của bài Tin Mừng: "Kẻ nào tiếp đón các con là tiếp đón Thầy"
2. Chủ đề chia xẻ thân phận của Đức Giêsu: được diễn tả qua phần đầu của bài Tin Mừng: "Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó", và bài đọc II: "Nếu chúng ta chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài".
Trong xã hội thời nay, người ta thường sống theo kiểu chủ nghĩa cá nhân: mạnh ai nấy lo, sống chết mặc bây, đèn nhà ai nhà nấy sáng. Kết quả của lối sống này là một xã hội thiếu vắng tình thương, ích kỷ, thờ ơ.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta biết quan tâm tới người khác, yêu thương người khác và tiếp đón người khác như tiếp đón chính Chúa.
- (Nếu chọn chủ đề II): Anh chị em thân mến
Lời Chúa hôm nay trình bày một nghịch lý: "Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ mất ; Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó".
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng ta hiểu được chân lý lạ lùng đó, và nhất là dám liều mạng sống vì Chúa, để được chia sẻ sự sống của chính Chúa.
Tường thuật câu chuyện giữa ngôn sứ Êlisê và một phụ nữ xứ Sunam:
- Trên đường sứ mạng, ngày kia Eâlisê đến vùng Sunam
- Ở đấy, một phụ nữ đã mời Ông vào nhà dùng bữa. Sau đó bà còn nói với chồng mình rằng Eâlisê là một vị thánh của Thiên Chúa. Được sự đồng ý của chồng, bà còn dọn sẵn cho Eâlisê một căn phòng có đầy đủ những thứ cần thiết, để bất cứ lúc nào ngôn sứ cũng có thể đến trú ngụ.
- Đáp lại lòng tốt của vợ chồng này, ngôn sứ Eâlisê đã làm phép lạ giúp họ đang son sẻ mà có được một đứa con trai đầu lòng. (Sau này đứa con ấy chết, Eâlisê lại làm phép lạ cho nó sống lại).
- Phần đầu (các câu 37-39) Đức Giêsu dạy các môn đệ về sự từ bỏ: Nếu muốn làm môn đệ xứng đáng của Ngài thì phải từ bỏ rất nhiều: tình yêu gia đình, mạng sống ; và còn phải sẵn sàng vác thập giá mình mà đi theo Ngài.
- Phần sau (các câu 40-42) dạy về sự tiếp đón: ai tiếp đón các sứ giả Tin Mừng thì được coi như là tiếp đón chính Đức Giêsu, thậm chí là tiếp đón chính Thiên Chúa là Đấng đã sai Đức Giêsu đến ; ai tiếp đón một kẻ bé mọn thì cũng được phần thưởng.
Văn mạch: Phaolô đang đưa ra những lập luận để chứng minh rằng người ta được công chính hóa không phải nhờ việc làm, mà nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô. Đoạn tuần trước là lập luận thứ nhất: con người đã mất ơn nghĩa với Thiên Chúa do tội của Adam, nhưng con người lại được ơn nghĩa nhờ cái chết của Đức Giêsu Kitô. Cho nên muốn được ơn nghĩa thì phải tin vào Đức Giêsu Kitô.
Đoạn tuần này đưa ra lập luận thứ hai: muốn được ơn nghĩa với Thiên Chúa thì phải liên kết với Đức Giêsu bằng phép rửa:
- Chịu phép rửa nghĩa là cùng chết với Đức Giêsu để được cùng sống lại với Ngài.
- Như thế, kẻ đã lãnh nhận phép rửa hãy dứt khoác chết cho tội lỗi để hoàn toàn sống cho Thiên Chúa.
Thánh Kinh ghi lại những cuộc tiếp đón rất đẹp và rất dễ thương: 1/ Abraham thấy 3 người khách lạ đang đi trong sa mạc. Ông chạy ra năn nỉ họ vào nhà và ân cần chăm sóc họ. Đó là 3 sứ giả của Thiên Chúa. Đáp lại tấm lòng của Abraham, 3 sứ giả này ban ơn cho vợ chồng son sẻ của Abraham có con trai đầu lòng (St 18) ; 2/ Một gia đình ở Sunam chẳng những tiếp đón ngôn sứ Eâlisê, mà còn dọn hẳn cho ông một căn phòng để những lần sau ông tới có chỗ trọ. Đáp lại, Eâlisê cũng giúp họ thoát khỏi tình trạng son sẻ (bài đọc I) ; 3/ Gia đình Matta, Maria và Lazarô ở Bêtania là nơi thường xuyên tiếp đón Đức Giêsu và các môn đệ. Đáp lại, Đức Giêsu đã làm cho Ladarô sống lại.
Qua những chuyện trên, chúng ta hãy tìm hiểu thêm hai vấn đề:
1/ Tại sao những chủ nhà ấy quảng đại tiếp đón khách ? Thưa vì họ không chỉ nghĩ đến mình mà còn quan tâm tới người khác: Abraham lo cho 3 người khách kia đi trong sa mạc sẽ bị đói khát và không có chỗ nghỉ ngơi để lấy lại sức ; gia đình ở Sunam lo sợ ngôn sứ Eâlisê phải bơ vơ tứ cố vô thân ở một miền đất lạ ; gia đình Bêthania thì muốn Đức Giêsu và các môn đệ được nghỉ ngơi sau một thời gian mệt mỏi vì công việc rao giảng Tin Mừng. Trong hai chuyện sau, còn một lý do nữa, là những chủ nhà ấy ý thức rằng những người khách mà mình tiếp đón là sứ giả của Thiên Chúa.
2/ Phần thưởng của tấm lòng quảng đại ấy là gì ? Là sự sống: hai đứa con trai đầu lòng cho hai vợ chồng son sẻ, và mạng sống được trả lại cho Ladarô đã chết 4 ngày. Xét cho cùng, ơn ban sự sống ấy không phải do những người khách, mà chính Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống, ban cho họ.
Những câu chuyện rất đẹp trên đây khuyến khích chúng ta hãy quảng đại tiếp đón:
- Tiếp đón không chỉ là đón người vào trọ trong nhà mình, cho họ ăn, cho họ nghỉ, mà còn là biết quan tâm tới nhu cầu của người khác và đáp ứng theo khả năng của mình.
- Khi tiếp đón, dĩ nhiên chúng ta phải mất mát: mất giờ, mất tiền của, mất công… Nhưng Thiên Chúa sẽ trọng thưởng chúng ta: Ngài sẽ cho sức sống thần linh của Ngài thêm lớn mạnh trong sự sống chúng ta.
Phần đầu của bài Tin Mừng hôm nay đặt vấn đề: người môn đệ của Đức Giêsu đặt Ngài ở số mấy trong đời họ ?
Bình thường, người ta coi bản thân là số một, vợ chồng số hai, gia đình số ba, thân nhân số bốn… Chúa thì có lẽ cao lắm cũng chỉ từ số năm trở xuống.
Trong đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu kể ra những người dành cho Chúa vị trí số hai:
- một là cha mẹ, hai là Chúa
- một là con cái, hai là Chúa
- một là mạng sống mình, hai là Chúa
Được xếp ở vị trí số hai như thế cũng là được coi trọng lắm rồi. Nhưng Đức Giêsu vẫn không chịu. Ngài nhất quyết đòi vị trí số một: "Ai yêu mến cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy ; ai yêu mến con trai con gái hơn thầy thì không xứng đáng với Thầy" ; Ngài còn đòi chúng ta phải dám mất mạng sống vì Ngài nữa !
Mỗi người chúng ta hãy tự hỏi: phần tôi, tôi xếp Chúa vào vị trí số mấy ?
- Tôi soạn lại tủ áo của tôi. Nhiều áo quá. Có những chiếc đã cũ và lỗi thời, tôi có thể bỏ bớt để đem cho người nghèo.
- Trong sân nhà tôi có hai cây mọc cạnh nhau. Nếu cứ để như thế thì hai cây vẫn sống, nhưng không cây nào lớn mạnh tốt được. Tôi nên bỏ bớt một cây để cây kia mọc tốt hơn.
- Nha sĩ khám thấy có một chiếc răng của tôi đang bị hư nặng. Ông bảo phải bỏ nó đi, nếu không, nó sẽ lây cho những chiếc bên cạnh.
Đức Giêsu kêu gọi người đi theo Ngài hãy từ bỏ. Bỏ những gì và bỏ cách nào ?
- Có những thứ ta có thể bỏ. Thí dụ bớt chút thức ăn, bớt chút giờ ngủ khi ta ăn chay hãm mình.
- Có những thứ ta nên bỏ để cuộc sống của ta nên tốt hơn. Thí dụ khi ta nhường nhịn không trả đũa, không đòi lại của cải hoặc danh dự bị người khác làm tổn thương, mất mát.
- Có những thứ ta bó buộc phải bỏ như: tội lỗi, thói xấu, dịp tội.
Trong bài Tin Mừng này, có hai chi tiết mà nếu ta không dừng lại tìm hiểu kỹ thì sẽ để vuột mất những ý nghĩa rất sâu sắc:
- Câu 38 (quyển Bài đọc ấn bản 1970 bỏ sót không in câu này) "Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy": Theo cách xử tử của Rôma, người bị kết án tử đóng đinh thập giá phải tự vác lấy thập giá của mình (chỉ vác thanh ngang, còn thanh dọc để sẵn ở pháp trường) đi ra pháp trường. Vì thế, kiểu nói "vác thập giá mình" có nghĩa là bị kết án tử. Do đó, câu nói của Đức Giêsu có nghĩa là ai muốn xứng đáng làm môn đệ đi theo Chúa thì phải chấp nhận thân phận mình như là người đã bị kết án tử.
- Câu 39 "Kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm lại được nó": chữ hy lạp psyche có nghĩa rất rộng, chỉ "lòng", "trí", "tim", tổng quát là cả "cuộc sống", toàn thể "con người". Như thế, "đành mất mạng sống" có nghĩa là dám mất tất cả. Và như vậy thì kiểu nói này cũng đồng nghĩa với ý tưởng coi mình như người đã bị kết án tử mà ta vừa phân tích ở trên.
Thông thường người ta thích làm toán cộng và toán nhân, nghĩa là cứ muốn có thêm và có thêm thật nhiều thật nhanh.
Nếu ta đọc kỹ lại những lời Đức Giêsu dạy dỗ các môn đệ thì thấy Ngài dạy ta làm hai bài toán khác, đó là toán trừ và toán chia: làm toán trừ là từ bỏ, làm toán chia là bố thí, chia xẻ, phân phát cho người khác.
Tuy làm toán trừ và toán chia thì ta sẽ bị mất mát. Nhưng chính Thiên Chúa sẽ đích thân làm toán cộng và toán nhân cho ta: "Chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất vì Thầy và vì Tin Mừng mà bây giờ ngay ở đời này lại không nhận được… gấp trăm… và sự sống vĩnh cửu ở đời sau" (Mc 10,29-30).
Chúa hứa với một bà là Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bà rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.
Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói: "Không, hôm nay tôi không giúp anh, vì Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều gì". Bà đuổi anh và đóng cửa lại.
Mấy phút sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở cửa nhanh hơn trước. Thấy gì ? Vài người già nghèo nàn. "Rất tiếc, tôi đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ các ông". Rồi bà đóng sầm cửa lại.
Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh xin ăn và nghỉ qua đêm. "Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến. Tôi không thể tiếp anh". Người ăn xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.
Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.
Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ. Bà ngủ quên và mơ thấy Chúa đến với bà và nói: "Hôm nay Ta đã đến với con 3 lần và cả 3 lần con đều đuổi Ta".
b/ Mất và được
Tái ông thất mã: Ngày xưa có một ông lão ở gần cửa ải mất một con ngựa. Có người đến thăm phàn nàn cho sự rủi ro. Ông đáp: "Biết đâu chuyện mất ngựa chẳng là điều may." Vài ngày sau, con ngựa cũ trở về lại rủ được một con ngựa Hồ rất hay. Có người cho đó là điều may mắn. Ông nói: "Chưa hẳn được ngựa là may đâu." Ông có đứa con trai, thấy ngựa Hồ hay, liền bắt cởi thử, chẳng may bị ngã ngựa té gãy chân. Nhiều người cho rằng xui xẻo. Ông lại nói chưa biết chừng đây là điềm báo trước điều phúc cho gia đình ông. Qua năm sau, giặc Hồ tràn sang nước ông. Theo lệnh vua, các trai tráng trong làng đều phải sung vào cơ ngũ đi dẹp loạn, 10 người chỉ sống sót được một. Con trai ông vì tàn tật nên được miễn dịch, nhờ đó mà thoát chết, gia đình ông được an toàn. Nên việc họa phúc không biết đâu mà ngờ được. (Trích "Phúc")
Muốn dấn thân theo Chúa Giêsu, người kitô hữu phải từ bỏ mình, vác thập giá hằng ngày mà theo Người. Với quyết tâm bước theo Chúa đến cùng, chúng ta cùng tha thiết nguyện xin.
1- Hội Thánh dùng Lời Chúa để giáo dục đức tin của người kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu biết lắng nghe lời giáo huấn của Hội Thánh / để nhờ đó mà đức tin ngày càng trưởng thành hơn.
2- Đời sống thường ngày cho chúng ta thấy có một số người chỉ thích sống an nhàn / chỉ lo hưởng thụ mà không thích nghe đề cập đến hy sinh gian khổ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho lúc nào cũng có nhiều người quảng đại / sẵn sàng phục vụ những người bất hạnh nhất của xã hội.
3- Tận tình giúp đỡ những người đang gặp hoạn nạn / những nạn nhân của thiên tai / những người mắc bệnh nan y / những người mất hết niềm hy vọng để vui sống / là nghĩa vụ của những người tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các kitô hữu biết cố gắng thực hiện lời dạy của Thánh Phaolô / "vui với người vui, khóc cùng người khóc".
4- Hết lòng nâng đỡ / và chân thành cộng tác với các mục tử trong sinh hoạt của giáo xứ / là trách nhiệm của mỗi kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn biết rộng rãi giúp đỡ / và tích cực cộng tác với các Linh mục trong việc mục vụ thường ngày.
CT: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã trải qua con đường đau khổ rồi mới bước vào vinh quang. Xin cho chúng con hiểu rằng: nếu muốn được chia xẻ vinh quang thiên quốc với Chúa, chúng con cũng phải đi qua con đường thập giá, con đường đòi hỏi nhiều hy sinh gian khổ, nhưng chính là con đường dẫn đưa đến sự sống bất diệt. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời. Amen
- Trước kinh Lạy Cha: Khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy nhớ rằng những người sống chung quanh chúng ta cũng là anh chị em cùng một Thiên Chúa là Cha như chúng ta. Vậy chúng ta hãy xin Cha giúp chúng ta yêu thương và tiếp đón những anh chị em ấy.
Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta sống với người khác bằng thái độ tiếp đón, và sống với Chúa bằng cách coi Chúa trọng hơn tất cả mọi người và mọi sự. Chúng ta hãy ra về và cố gắng sống như thế.
Khát là tình trạng “thiếu”, đặc biệt là thiếu nước, mà nước là loại ẩm thực cấp bách hơn thực phẩm TN 13-A47
Khát là tình trạng “thiếu”, đặc biệt là thiếu nước, mà nước là loại ẩm thực cấp bách hơn thực phẩm. Người ta có thể nhịn đói lâu, nhưng không thể nhịn khát lâu. Thể lý đã vậy, tâm linh còn cấp bách hơn. Biết khát khao là một trong tám mối phúc: “Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng” (Mt 5:6). Theo kinh nguyện, chúng ta đọc: “Thứ bốn – Ai khao khát nhân đức trọn lành, ấy là phúc thật, vì chưng sẽ được no đủ vậy”. Dạng khát nào cũng cần được “giải khát”, càng sớm càng tốt!
Mọi người đều biết rằng nước lã là loại nước tự nhiên, rất bình thường, nhạt nhẽo, vô vị, không màu sắc, được kết hợp bởi Hydrô và Ôxy (H2O), thế nhưng nước lã lại có giá trị cao và rất cần thiết trong sinh hoạt thường nhật. Thứ bình thường mà lại khác thường. Thiếu nước thì người ta sẽ chết chắc! Nơi nào có nước (và không khí) là có sự sống. Các hành tinh khác không có sự sống vì không có nước (và không khí).
Bởi vì coi nước lã là loại bình thường, người ta thường dùng cách nói “người dưng nước lã” để nói về hai người không có mối quan hệ gì với nhau. Nước lã xem chừng chẳng có giá trị gì và không khác gì là chất liệu vô ích quá! Tuy nhiên, “của cho” không bằng “cách cho”. Chén nước lã chẳng là gì cả, nhưng vẫn có thể là Chén Tình Nghĩa. Nước cũng là chất liệu đặc biệt vì được dùng trong Bí tích Thánh tẩy.
Ngày nay, khi đi trên đường phố, chúng ta có thể thấy một nơi có thùng “nước đá miễn phí” cho khách vãng lai có thể sử dụng khi khát. Dĩ nhiên chỉ có những người nghèo sử dụng, những người “sang” và “giàu” thì chẳng ai thèm quan tâm. Thùng nước miễn phí chỉ là một hành động nhỏ nhoi nhưng lại mang tính nhân bản cao. Cần lắm một tấm lòng, dù có thể sẽ bị “gió cuốn đi” theo cách nói của cố NS Trịnh Công Sơn: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng để làm gì anh (em) biết không? Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi…!” (Để Gió Cuốn Đi). Sự thật phũ phàng quá!
Trên thế giới, hàng ngày vẫn có nhiều người không đủ nước sạch để sinh hoạt, có thể họ ở ngay trong các thành phố. Khổ lắm! Và đó là tiếng vọng của Chúa Giêsu từ trên Thập Giá trên Đồi Can-vê ngày xưa: “Tôi khát!” (Ga 19:28). Khi uống một ly nước (nước sạch, nước ngọt, nước sinh tố, nước sữa,…), chúng ta hãy tạ ơn Chúa, và đừng quên cầu nguyện cho những người nghèo khổ, họ thèm muốn lắm mà không có. Dạng khát nào cũng dữ dội: Khát nước, khát vọng, khát tình,… Đói ăn còn có thể chịu đựng lâu, khát uống không thể chịu đựng lâu, cơn khát dữ dội lắm!
Trên đường tâm linh, chúng ta cũng thường gặp những người khát khao tình yêu thương, dạng này còn cấp bách hơn mọi cơn khát nước bình thường. Chính chúng ta cũng vẫn đang khát loại Nước Trường Sinh mà Chúa Giêsu đã ban cho người phụ nữ thành Samari năm xưa (x. Ga 4:7-30).
Trình thuật 2 V 4:8-11, 14-16 cho biết: Một hôm, ông Ê-li-sa đi qua Su-nêm. Ở đó có một phụ nữ giàu sang. Bà ta giữ ông lại dùng bữa. Từ đó, mỗi lần đi qua, ông đều ghé vào dùng bữa. Bà ấy nói với chồng: “Này ông! Tôi biết người thường ghé vào nhà chúng ta là một thánh nhân của Thiên Chúa. Mình phải làm cho ông một căn phòng nhỏ trên lầu có tường có vách, rồi kê ở đó một cái giường, đặt bàn ghế và để một cái đèn cho ông dùng. Như thế, khi nào đến nhà mình, ông sẽ lui vào đó”. Phụ nữ này có con mắt “tinh đời” lắm, đặc biệt là phụ nữ này có trái tim đập những nhịp đập thương xót. Bà giàu sang nhưng tốt bụng, rộng lòng giúp đỡ người khác.
Một hôm, ông đến nơi ấy, ông lui vào phòng trên lầu và nghỉ ở đó. Ông Ê-li-sa biết ơn bà nên nói với tiểu đồng: “Nên làm gì cho bà ấy?”. Giê-kha-di đáp: “Tội nghiệp, bà ấy không có con trai, mà chồng thì đã già”. Có qua, có lại là sự thường ở đời. Thấy phụ nữ này tốt bụng nên ông Ê-li-sa muốn đền ơn đáp nghĩa. Ông bảo tiểu đồng đi gọi bà ấy tới. Bà tới đứng ngoài cửa, ông Ê-li-sa nói: “Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ được bế con trai”. Bà nói: “Không, thưa ngài, người của Thiên Chúa, xin đừng lừa dối nữ tỳ ngài!”. Khát khao được làm mẹ là khát khao chính đáng và mãnh liệt của phụ nữ. Nghe nói vậy, bà thấy vui cái bụng lắm nhưng vẫn bán tín bán nghi. Tuy nhiên, mọi sự đều có thể đối với Thiên Chúa. Và quả thật, bà ấy đã có thai. Tới năm sau, cũng vào độ mà ông Ê-li-sa nói, bà hạ sinh một bé trai kháu khỉnh. Nỗi khát khao của bà đã được Thiên Chúa “giải khát”.
“Thiên Chúa là tình yêu – Θεόςείναιαγάπη – God is love – Dieu est l’amour” (Ga 4:8 và 16). Vì thế, tình thương của Ngài luôn tràn đầy mặt đất (Tv 33:5; Tv 119:64). Ngài biết rõ từng người cần gì nên Ngài ban cho ngày mặc dù chúng ta chưa lên tiếng cầu xin, ngay cả người vô thần cũng vẫn được Ngài chở che, nếu không thì họ làm sao sống nổi? Vì thế, chúng ta phải không ngừng tạ ơn Ngài: “Tình thương Chúa, đời đời con ca tụng, qua muôn ngàn thế hệ miệng con rao giảng lòng thành tín của Ngài” (Tv 89:2). Lời ca tụng Chúa phải được lặp đi lặp lại: “Tình thương ấy được xây dựng tới thiên thu, lòng thành tín Chúa được thiết lập trên trời” (Tv 89:3). Lời chúc tụng đó có vẻ đơn giản nhưng lại vô cùng thâm thúy và cần thiết. Tại sao vậy? Bởi vì việc chúng ta ca tụng Chúa cũng chẳng thêm gì cho Ngài nhưng lại sinh ơn ích cho phần rỗi của chính chúng ta. Ôi, kỳ diệu quá!
Thánh Vịnh gia đã xác định: “Hạnh phúc thay dân nào biết ca ngợi tung hô; nhờ Thánh Nhan soi tỏ, họ tiến lên, lạy Chúa. Nhờ được nghe danh Ngài, họ suốt ngày hớn hở; bởi vì Ngài công chính, nên họ được hiên ngang. Sức hùng cường hiển hách của dân chính là Ngài, hồng ân Ngài làm nổi bật uy thế chúng con. Đấng bảo vệ chúng con là người của Đức Chúa, vua chúng con thuộc quyền Đức Thánh của Ít-ra-en” (Tv 89:16-19). Có Chúa trong lòng thì an tâm, chẳng lo sợ gì, và hơn thế nữa, chúng ta còn có thể làm được những điều phi thường, bởi vì chính Chúa Giêsu đã xác định: “Ai tin vào Thầy thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha” (Ga 14:12).
Mặc dù mang thân phận cát bụi và vướng “nghiệp chướng” tội lỗi, nhưng chúng ta đã được tái sinh trong Nước và Thánh Thần. Chúng ta thực sự là con cái của Thiên Chúa. Và rồi chúng ta còn được tẩy rửa trong Máu và Nước chảy ra từ Thánh Tâm Chúa Giêsu, nhờ đó chúng ta lại được cải tử hoàn sinh. Thánh Phaolô nói: “Anh em không biết rằng: khi chúng ta được dìm vào nước thanh tẩy, để thuộc về Đức Kitô Giêsu, là chúng ta được dìm vào trong cái chết của Người sao? Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế, cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm 6:3-4). Thật vậy, chúng ta không chỉ được sống mà còn được sống dồi dào trong Đức Kitô (Ga 10:10). Trên cả tuyệt vời rồi đấy!
Cuộc sống luôn có những cái “nếu”. Có cái nếu không nên đặt ra, nhưng cũng có những cái nếu nên đặt vấn đề. Thánh Phaolô đặt ra cái nếu cần thiết và phân tích: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã chết, là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống, là sống cho Thiên Chúa. Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu” (Rm 6:8-11). Đó là đại phúc cho chúng ta. Và chắc chắn chúng ta không thể nhờ vào ai ngoài Đức Giêsu Kitô, vì Ngài đã xác định: “Thầy là con đường, là sự thật, và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:5).
Hôm nay – và năm A này, trình thuật Tin Mừng theo Thánh sử Matthêu là giáo huấn ngắn gọn của Chúa Giêsu, nhưng lại có sức chuyển tải triết-lý-sống sâu sắc. Có thể tạm chia lời dạy này làm hai phần.
SỰ TỪ BỎ MÌNH. Đây là một việc làm không dễ chút nào, thế nhưng chúng ta phải làm, nghĩa là chúng ta phải “chết dần”, cứ “chết” từng ngày: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy thì sẽ tìm thấy được” (Mt 10:37-39).
LÒNG YÊU THƯƠNG. Chúa Giêsu nói: “Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính. Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mt 10:40-42).
Chén nước lã chỉ là thứ tầm thường nhưng lại có thể trở thành khác thường, được Chúa Giêsu “chấm công” nếu chén nước lã đó chứa “chất yêu thương”, được chúng ta trao cho người khác vì lòng thương xót, nếu không thì cũng chỉ luốn công vô ích. Hãy cùng nhau tâm niệm: Làm những việc bình thường một cách phi thường!
Dạng khát nào cũng mãnh liệt, nhưng mãnh liệt và cấp bách nhất phải là KHÁT CHÚA. Nhưng không ai có thể “giải khát” chúng ta ngoài Đức Kitô – Đấng là nguồn nước trường sinh. Ước gì mỗi chúng ta đều thực sự biết KHÁT CHÚA trong suốt cuộc đời, như Thánh Vịnh gia đã bày tỏ niềm khát khao đó: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước” (Tv 63:2). Mỗi sáng thức dậy, việc “dâng ngày” là điều rất cần thiết, và phó thác mọi việc “từ khởi sự cho đến hoàn thành đều nhờ bởi ơn Chúa”. Đó là lương thực bổ dưỡng cần được “điểm tâm” để đủ sức sống thêm một ngày mới.
Thánh Georgius nhận định: “Đức ái không ghen ghét, bởi vì nó không những không khát vọng mà lại còn xem nhẹ tất cả, kể cả địa vị cao quý của người thế tục”. Chỉ có “nước yêu thương” mới thực sự luôn cần thiết và có thể giải khát mọi người.
Lạy Thiên Chúa hằng sinh, Nguồn Mạch Trường Sinh, xin giúp con không ngừng khát khao Ngài, luôn tín thác vào Ngài và quyết tâm thực hành yêu thương như Ngài mong muốn. Xin cho con được no thỏa ân tình Ngài, xin giải khát con mọi nơi và mọi lúc, và xin giúp con cũng biết “giải khát” tha nhân bằng tình yêu của Ngài. Con tha thiết cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
Có câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Một con chồn muốn vào một vườn nho, nhưng vườn nho lại được TN 13-A48 Ephata
Có câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Một con chồn muốn vào một vườn nho, nhưng vườn nho lại được rào dậu cẩn thận. Tìm được một chỗ trống, nó muốn chui vào nhưng không thể được. Nó mới nghĩ ra một cách: nhịn đói để gầy bớt đi. Sau mấy ngày nhịn ăn, con chồn chui qua lỗ hổng một cách dễ dàng. Nó vào được trong vườn nho. Sau khi ăn uống no nê, con chồn mới khám phá rằng nó đã trở nên quá mập để có thể chui qua lỗ hổng trở lại. Thế là nó phải tuyệt thực một lần nữa. Thoát ra khỏi vườn nho, nó nhìn và suy nghĩ: “Hỡi vườn nho, vào trong nhà ngươi để được gì ? Bởi vì ta đã đi vào với hai bàn tay không, ta cũng trở ra với hai bàn tay trắng”.
Khi bước vào trong trần thế này, con người muốn mở rộng bàn tay để chiếm trọn mọi sự. Khi nhắm mắt xuôi tay cũng đành phải ra đi với hai bàn tay trắng mà thôi.
Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích lợi gì ?” Xuất thân từ bụi đất, con người rồi cũng trở về với đất bụi. Chỉ có sự sống vĩnh cửu mới tồn tại muôn đời.
Chúa Giêsu còn dạy rằng: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, ai liều mất mạng sống mình vì thầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất. Không phải cứ thu vào là được, buông ra là mất. Trái lại, nhiều khi phải chịu mất trước rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn. Mất ít để được nhiều. Sống ở đời ai cũng tranh phần được và không muốn mất. Vấn đề là phải xác định xem đâu là cái được thực sự, lâu bền, trọn vẹn, đâu là cái được quan trọng nhất, cần thiết nhất. Kitô hữu là người say mê cái được vĩnh cửu, vì thế họ chấp nhận những mất mát tạm thời. Họ tin rằng cuối cùng chẳng có gì mất cả. Mọi sự nếu họ mất vì Thầy Giêsu thì họ sẽ được lại. Mất tạm thời để giữ được mãi mãi. Từ bỏ chính mình là để tìm lại cái tôi trong suốt hơn, ngời sáng hơn.
Chúa Giêsu cũng quả quyết: “Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo”. Theo Thầy là đi vào con đường từ bỏ. Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc từ bỏ không ngừng. Từ bỏ trời để xuống đất. Từ bỏ địa vị Thiên Chúa để làm người. Từ bỏ cuộc sống an nhàn nơi thôn làng để đi vào cuộc phiêu lưu rao giảng Tin Mừng. Từ bỏ cứu thế bằng con đường dễ dãi do ma quỉ xúi giục, để đi vào con đường chật hẹp khó khăn theo ý Chúa Cha.
Cuộc từ bỏ cam go nhất chính là từ bỏ ý riêng mình. Đó là một cuộc chiến khốc liệt khiến Người phải toát mồ hôi máu. Nhưng Người đã đi đến cùng con đường từ bỏ.
Hình ảnh Chúa Giêsu chết treo trần trụi trên thập giá là hình ảnh một người từ bỏ tất cả đến tận cùng. Không còn một chút hơi thở. Không còn một giọt máu. Không còn một chút danh dự. Không còn gì cả. ( Tổng Giám Mục Giuse Ngô Quang Kiệt ).
Từ bỏ là một quy luật.
- Quy luật của sinh tồn: có nhiều thứ nếu ta không chịu bỏ thì ta sẽ chết. Chẳng hạn ta có một khúc chân đang bị hoại tử. Nếu không cắt bỏ nó đi thì chứng hoại tử sẽ lan dần đến toàn cơ thể làm ta phải chết.
- Quy luật của phát triển: cơ thể ta hằng ngày hằng giờ hằng phút đều bỏ đi những chất thải, bỏ đi một số tế bào già nua để thu nhận vào những chất dinh dưỡng, để sinh những tế bào mới. Nhờ đó cơ thể lớn dần lên. Trong quá trình phát triển, con người phải từng giai đoạn bỏ đi đứa bé sơ sinh, đứa trẻ con ấu trĩ... có thế mới phát triển dần thành người lớn.
- Quy luật của cải thiện: cải thiện là bỏ đi những cái chưa tốt để lấy vào những cái tốt hơn.
- Quy luật của tiếp nhận: có bỏ thì mới có nhận. Thí dụ ta có một cái chai đang đựng nước. Muốn có một lít sữa thì trước hết phải đổ bỏ một lít nước kia ra khỏi cái chai.
Chẳng những phải bỏ bớt, bỏ cái này, bỏ cái kia... mà có khi phải bỏ hoàn toàn, bỏ tất cả nữa. Chẳng hạn chiếc xe gắn máy của tôi đã hư quá nặng, nếu tiếp tục sử dụng thì có ngày sẽ gây tai nạn, có sửa bộ phận này, bộ phận khác cũng không bảo đảm an toàn. Vì thế tôi phải bỏ hẳn để mua một chiếc xe khác.
Làm môn đệ Chúa Giêsu là làm một người khác hẳn, cho nên không lạ gì khi Người bảo chúng ta phải "từ bỏ mình". Cái phần "mình" được bỏ đi bao nhiêu thì cái phần "Chúa" được gia tăng bấy nhiêu. "Từ bỏ mình" hoàn toàn thì sẽ trở thành "Kitô khác" hoàn toàn. Như thế tuy bỏ nhưng không mất, mà lại được, không thiệt thòi mà lại có lợi hơn.
Theo Thầy là đi vào con đường dẫn đến Phục Sinh. Con đường từ bỏ là con đường dẫn đến vinh quang. Phải qua sự chết mới đến sự sống. Phải qua tủi nhục mới đến vinh quang. Phải qua gian khổ mới đến hạnh phúc. Khi mời gọi “Hãy theo Thầy”, Chúa muốn chúng ta triển nở đến viên mãn.
Lời Chúa hôm nay gởi đến sứ điệp: từ bỏ không phải để mất mà để được, được lại một cách sung mãn, hoàn hảo và cao cả phong phú hơn gấp bội. Mất hiện tại để được tương lai. Mất đời này để được đời sau. Mất phàm tục để được thần thiêng. Mất tạm bợ để được vĩnh cửu. Trong đời sống thường ngày, người Kitô hữu bị giằng co giữa một bên là tình cảm gia đình, bên kia là đòi hỏi của Chúa; hoặc một bên là quyến rũ của tiền tài, danh vọng, sống buông thả, một bên là sự trung thành với lý tưởng Kitô giáo. Trong những trường hợp giằng co như vậy, chúng ta sẽ chọn thế nào và phải làm gì ? Lời Chúa soi sáng và hướng dẫn chúng ta hãy chọn đúng và thực hành đúng.
Qua cuộc tử nạn và cái chết, Chúa Giêsu cũng khẳng định chân lý: “Ai tìm mạng sống mình, sẽ mất. Ai đành mất mạng sống mình, sẽ gặp lại”. Đó là nghịch lý của Kitô giáo. Và đó cũng là chân lý của cuộc đời. Thánh Phanxicô Assisi đã cảm nghiệm sâu xa chân lý này nên đã thốt lên lời ca bất hủ: “Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Các vị tử đạo là những người say mê sự sống, đến nỗi dám chấp nhận cái chết. Các ngài coi trọng sự sống vĩnh cửu của mình hơn cả thế giới phú quý vinh hoa.
"Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chịu chết và sống lại, xin dạy chúng con biết chiến đấu trong cuộc chiến mỗi ngày để được sống dồi dào hơn.
Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc đời cũng như mọi đau khổ của thập giá, xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn.
Xin dạy chúng con biết rằng chúng con không thể nên hoàn thiện nếu như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ.
Ước chi từ nay, không gì có thể làm cho chúng con khổ đau và khóc lóc chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa Phục Sinh.
Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu Chúa Cha, là hy vọng hạnh phúc bất diệt, là ngọn lửa tình yêu nồng nàn; xin lấy niềm vui của Người mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ và trở thành mối dây yêu thương, bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen." ( Mẹ Thánh Têrêxa Calcutta ).
(37) “Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. (38) Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. (39) Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được. (40) Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. (41) Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ: Ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính. (42) Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ là một chén nước lã mà thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em: Người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”. 2. Ý CHÍNH:
Người môn đệ phải đặt tình yêu Chúa Giê-su lên trên mọi tương quan tình cảm gia đình ruột thịt. Những TN 13-A49 Dalat
Người môn đệ phải đặt tình yêu Chúa Giê-su lên trên mọi tương quan tình cảm gia đình ruột thịt. Những ai sẵn sàng đón nhận gian khổ thập giá để đi theo và cùng chết với Đức Giê-su thì sẽ tìm lại được sự sống đời đời cho mình sau này. Đức Giê-su tự đồng hóa với các thừa sai và hứa sau này những người sẵn sàng đón tiếp họ, sẽ được Thiên Chúa ban thưởng bội hậu trên trời.
3.CHÚ THÍCH:
- C 37: + Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy…: Ở đây Đức Giê-su tỏ ý “ghen tương” giống như sự ghen yêu của Đức Chúa đối với dân Ít-ra-en trong thời Cựu Ước (x. Đnl 29,17-19 ; 32,16-21). Đức Giê-su không chấp nhận bất cứ tình yêu nào cạnh tranh với tình yêu phải được dành riêng cho Người. Kẻ nào muốn theo làm môn đệ Đức Giê-su mà còn quá quyến luyến với gia đình, thì chẳng xứng đáng với tình yêu của Người. Kẻ nào không nhìn nhận sự tối thượng của Người cũng không thể làm môn đệ của Người được. Sở dĩ Người đòi hỏi trung thành tuyệt đối như vậy, vì Người chính là Thiên Chúa làm người, đến để chịu chết đền tội thay cho loài người.
HỎI: Với đòi hỏi như thế, phải chăng đi theo Chúa là phải hoàn toàn từ bỏ mọi liên hệ gia đình ruột thịt, có thể bị người đời kết tội là bất hiếu ?
ĐÁP: Thực ra không phải như vậy. Vì chính Đức Giê-su là một người con hiếu thảo: Người vâng lời cha mẹ trong suốt thời gian ẩn dật tại Na-da-rét (x. Lc 2,51). Dù “giờ” chưa tới, nhưng Người sẵn sàng nghe lời cầu bầu của Đức Mẹ, để làm phép lạ đầu tiên giúp đỡ đôi tân hôn là hóa nước thành rượu ngon (x. Ga 2,4.5-8). Trước khi tắt thở trên cây thập giá, Người trối Đức Mẹ làm Mẹ của môn đệ Gio-an, để ông đem ngài về nhà mình mà phụng dưỡng thay cho Người (x. Ga 19,25-27). Người dạy người ta về sự thực hành cách cụ thể giới răn “Phải thảo kính cha mẹ”, trái với lời dạy lỗi bổn phận hiếu thảo của các luật sĩ (x. Mc 7,10-13). Nhưng đối với Đức Giê-su, sự vâng lời cha mẹ phải được đặt sau Thánh Ý Chúa Cha (x. Lc 2,49). Mẹ và anh em của Người chính là những ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa (x. Mc 3,33-35). Trong câu này, Đức Giê-su chỉ muốn nói rằng: khi cần phải chọn một trong hai tình yêu dành cho cha mẹ và dành cho Đức Giê-su, thì môn đệ phải biết đặt tình yêu trung thành với Người trên tình yêu dành cho cha mẹ.
- C 38: + Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy: Lúc đầu có lẽ các môn đệ đi theo Đức Giê-su do muốn được lợi lộc vật chất (x. Mt 19,27-30), được địa vị cao khi Người lên làm vua (x. Mt 18,1-4). Nhưng Người lại không chiều theo ý họ, mà đòi họ phải đi con đường hẹp, leo dốc và đầy gai chông, ít người chịu theo (x. Mt 7,13-14). Đó là đường “từ bỏ mình, vác thập gia mình hàng ngày mà theo chân Người” (x. Mt 16,24). - C 39: + Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất… : Giữa hai sự sống tự nhiên và siêu nhiên, thì môn đồ phải biết chọn sự sống siêu nhiên. Nếu họ chỉ lo tìm sự sống thân xác, đến nỗi từ chối Chúa để khỏi bị giết chết, thì họ sẽ bị mất sự sống siêu nhiên ở đời sau. Ngược lại, nếu họ bằng lòng chịu chết vì đức tin, thì sẽ được Chúa ban lại sự sống siêu nhiên sau này.
- C 40: + Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy…: Ở đây Đức Giê-su áp dụng một nguyên tắc thông thường về ngoại giao là: “Kẻ được sai đi đồng hóa với người đã sai mình”. Đón tiếp môn đệ là đón tiếp Đức Giê-su, cũng là đón tiếp chính Thiên Chúa là Đấng đã sai Người. Sự đón tiếp ở đây là phải sẵn sàng đón nhận Tin Mừng do các tông đồ thừa sai rao giảng.
- C 41: + Ai đón tiếp một ngôn sứ… một người công chính: Có người nghĩ rằng: Ngôn sứ và công chính đồng nghĩa với tông đồ, nên ai tiếp đón các tông đồ với danh nghĩa là ngôn sứ và người công chính, thì sẽ được phần thưởng của các ngài. Nhưng một số các nhà chú giải hiện nay lại cho rằng: Thời Giáo hội sơ khai, chức vụ ngôn sứ khác với chức vụ tông đồ, còn người công chính thì không phải chức vụ, nhưng là người có lối sống công bình và ngay chính, được cộng đoàn kính trọng, như ông Giu-se, chồng của bà Ma-ri-a người công chính (x. Mt 1,19), ông Giu-se hay Ba-sáp-ba, biệt danh Rô-ma là Gút-tô, nghĩa là công chính (x. Cv 1,23). + Thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ… cho bậc công chính: Đức Giêsu áp dụng nguyên tắc: “Người được sai đi đồng hóa với Đấng sai mình”, để nói rằng: kẻ đón tiếp các ngôn sứ và người công chính cũng sẽ được phần thưởng giống như phần thưởng mà các bậc ngôn sứ và người công chính sẽ được, là sự sống và được sự sống đời đời. - C 42: + Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này…: Kẻ bé nhỏ đây ám chỉ các môn đệ của Đức Giê-su là tông đồ thừa sai. + Người đó sẽ không mất phần thưởng đâu: Đức Giê-su hứa sẽ ban thưởng Nước Trời cho những ai thành tâm cộng tác vào sứ mệnh truyền giáo của các môn đệ, thì cũng sẽ được thưởng giống như các ngài sẽ được ở đời sau.
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy (Mt 10,38).
2. CÂU CHUYỆN:
1) CHẤP NHẬN THẬP GIÁ ĐỂ SỐNG VUI.
Có một thiếu nữ kia trẻ đẹp và là con một gia đình quý tộc ở Ái Nhĩ Lan. Tuy sống trong cảnh giàu sang, nhưng cô lại muốn sống đời thánh hiến cho Chúa. Khi tới tuổi trưởng thành, cô từ chối khi các chàng trai quý tộc đến dạm hỏi, và được cha mẹ cho phép, cô tìm đến một đan viện có lối sống nhiệm nhặt khắc khổ để xin được dâng mình cho Chúa. Mẹ bề trên thấy cô vừa trẻ đẹp, lại vừa là con nhà quyền quý giàu có, nên chưa dám nhận ngay. Bà muốn thử thách ơn gọi của cô nên đã cố ý trình bày những luật lệ khắt khe của đan viện về nhiệm vụ cầu nguyện và lao động nhiều giờ mỗi ngày. Nghe xong, cô gái giữ im lặng như suy nghĩ. Một lát sau, bà bề trên hỏi tiếp: “Bây giờ con còn muốn dâng mình cho Chúa nữa thôi ?”. Cô đáp: “Thưa mẹ, con chỉ còn một thắc mắc này là: Không biết trong tu viện có nhiều cây thánh giá không ?”. Mẹ bề trên trả lời: “Con đừng lo. Khắp nơi trong nhà, không chỗ nào là không có thánh giá cả”. Bấy giờ cô gái tươi nét mặt và nói: “Thế thì thưa mẹ, con sẵn sàng xin vào tu viện, vì con chắc sẽ không gặp gì khó khăn cả. Bởi vì theo con nghĩ: Nếu mọi nơi mọi lúc con đều nhìn thấy thánh giá Chúa, đều thấy Người đang cùng chịu đau khổ với con, thì con hy vọng có thể chịu đựng được mọi đau khổ”.
2) CHU TOÀN BỔN PHẬN ĐỐI VỚI GIA ĐÌNH TRƯỚC KHI ĐI THEO CHÚA:
Vào năm 1994 Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho chị Mác-đa-la Mô-ra-nô, là một nữ tu thuộc dòng Đức Mẹ Phù Hộ. Ngay từ thuở niên thiếu, Mác-đa-la đã phải nếm mùi đau khổ: Chỉ trong một tháng, người cha và chị cả trụ cột nuôi gia đình lần lượt bị chết, khiến cho bà mẹ và bốn đứa con thơ dại hết sức lo lắng cho tương lai gia đình.
Lúc đó em Mác-đa-la mới được 8 tuổi, nhưng đã tỏ ra khôn ngoan và chín chắn. Thấy mẹ lo buồn, em thường an ủi mẹ: “Mẹ đừng khóc nữa, chẳng bao lâu con sẽ khôn lớn và con hứa sẽ giúp mẹ thật nhiều như bố và chị Phanxica đã giúp mẹ vậy”. Nhưng không phải đợi tới lúc khôn lớn mà ngay từ lúc đó, vì nhu cầu và hoàn cảnh khó khăn của gia đình, Mác-đa-la đã bỏ học để ngồi vào guồng tơ dệt chỉ mà chị Phanxica đã làm để kiếm tiền hằng ngày nuôi gia đình.
Một hôm, tình cờ người bác họ là cha Bandenla đến chơi và khi biết hoàn cảnh của Mác-đa-la, cha đã hứa phụ giúp nhu cầu vật chất của gia đình và giúp học phí sách vở cho Mác-đa-la đến trường học. Sau hơn mười năm chăm chỉ đèn sách, chị đã tốt nghiệp và trở thành một giáo viên giỏi dạy ở trường làng để phụ giúp gia đình. Suốt 16 năm trời, chị đã giữ lời hứa với mẹ, chuyên cần làm việc và âm thầm dành dụm. Đến ngày sinh nhật thứ 30, Mác-đa-la đã dẫn mẹ đến xem mảnh đất với căn nhà và khu vườn mà mẹ hằng mong ước. Chị âu yếm thưa với mẹ: “Thưa mẹ, đây là món quà con tặng mẹ, con chỉ xin mẹ cho phép con được tận hiến cuộc đời còn lại để theo ơn Chúa kêu gọi phụng sự Người”.
Quyết định của Mác-đa-la đã gây đau khổ nhiều cho mẹ chị, cho cha xứ, bạn bè và các phụ huynh học sinh của chị, vì họ mất đi một người con hiếu thảo, một người bạn tốt, một giáo viên gương mẫu, một người giáo dân nhiệt thành việc tông đồ. Ngày chia ly không khỏi ngậm ngùi đau xót, nhưng chị đã tìm được sức mạnh nơi tình yêu và lời Chúa phán: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với thầy”. Đồng thời chị cũng được sự an ủi vì tin vào lời Chúa đã hứa: “Quả thật, Thầy bảo cho anh em, không ai bỏ nhà cửa, cha mẹ, vợ con, anh chị em vì nước Thiên Chúa mà lại chẳng lãnh nhận gấp trăm ở đời này và sẽ được sống đời sau”. Thật vậy, lời hứa ấy đã thể hiện qua suốt 30 năm sống đời tận hiến mà trong đó, hơn 25 năm hăng say với sứ mệnh tông đồ giữa giới trẻ nghèo khổ và bị bỏ rơi tại đảo Xi-xi-li-a. Cuối cùng chị đã được Hội Thánh tôn phong lên bậc chân phước để mọi người tôn kính và học tập noi gương.
3) AI KHÔNG ĐÓN TIẾP THA NHÂN LÀ ĐÃ TỪ CHỐI ĐÓN CHÍNH CHÚA GIÊ-SU:
Tiểu bang Minnesota ở phía trung bắc nước Mỹ, giáp với Canada, vào mùa đông thường có những trận bão tuyết và nhiệt độ tụt xuống -30 hay -40 độ âm Farenheit. Vào một đêm bão tuyết, chiếc xe hơi của người phụ nữ bị chết máy trên đường tới Rochester. Chị biết rằng sẽ bị chết cóng nếu cứ ngồi lại ở trong xe. Tuy là vùng miền quê, nhưng trên trục lộ chính, cũng có một số nhà dọc theo đường lộ. Chị đã đến gõ cửa lần lượt hơn một chục căn nhà, nhưng chẳng có ai chịu ra mở cửa. Sau cùng, có một người lái xe ngang qua thấy chị nằm gục bên vệ đường bèn xuống xe đưa chị vào nhà thương cấp cứu. Chị đã được cứu sống, nhưng tất cả các ngón tay, ngón chân và một bàn chân đã bị hoại tử vì chịu giá lạnh trong một thời gian quá lâu.
Có điều đáng nói là các căn nhà chị đến gõ cửa đêm hôm ấy, mọi người đều ở trong nhà và đều nghe có tiếng gõ cửa. Mọi người đều là các tín hữu sống tại vùng quê hiền hòa, nhưng không một ai chịu ra mở cửa, vì sợ có thể sẽ bị kẻ cướp vào nhà trấn lột !
4) AI LIỀU MẤT MẠNG SỐNG MÌNH VÌ THẦY THÌ SẼ TÌM THẤY ĐƯỢC:
Vào một sáng mùa đông tuyết lạnh, SADHU và một người bạn cùng nhau đi du lịch qua một miền núi phía Bắc Ấn Độ. Thình lình một cơn bão tuyết ào ào đổ tới, gió lạnh gào thét bên tai họ, khiến họ phải rất vất vả để chống trả với cơn bão tuyết.
Bấy giờ họ thấy một người đàn ông bị lạnh cóng đang nằm thoi thóp bên đường chờ chết. Sadhu muốn dừng lại cứu giúp người gặp nạn, nhưng anh bạn kia lại không đồng ý vì cho rằng nguyên việc làm sao để cứu mạng mình lúc này cũng đã khó khăn vất vả lắm rồi, và anh ta cương quyết bỏ đi. Chạnh lòng xót thương, Sadhu ở lại bên kẻ bất hạnh, xoa nóng tay chân cho người sống dở chết dở ấy. Sau đó với sức lực còn lại, Sadhu cố gắng cõng anh ta trên lưng và tiếp tục đi qua vùng bị bão tuyết. Hơi ấm của hai thân thể hòa quyện lấy nhau khiến người kia dần hồi sinh và cả hai dìu nhau đi tiếp. Đi khoảng mươi dặm, cả hai kinh ngạc khi nhìn thấy một xác chết vì bị lạnh cóng đang nằm bên vệ đường. Họ càng ngạc nhiên hơn khi nhận ra đó không ai khác hơn là anh bạn đã cùng đi với Sadhu trước đó.
Hành động yêu thương xả thân cứu người của Sadhu đã minh chứng cho lời Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay: ”Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được”. Anh bạn của Sadhu do đã cố giữ mạng sống của mình nên cuối cùng đã bị mất mạng, còn Sadhu do liều mất mạng vì tha nhân nên đã được cứu. Đó là điều nghịch lý mà Đức Giêsu đã trải qua và dạy các tín hữu noi theo. Người đã sẵn lòng chịu chết thập giá rồi sống lại vinh quang, để dạy chúng ta hãy đi con đường yêu thương: hy sinh mạng sống mình vì lòng mến Chúa yêu người, và chắc ta sẽ nhận được ơn cứu độ của Chúa.
5) CHIA SẺ GIÚP ĐỠ NGƯỜI NGHÈO LÀ LÀM CHO CHÍNH CHÚA:
MÁC-TANH THÀNH TUA (Martin de Tour) là một mẫu gương về đức bác ái cụ thể. Bấy giờ Mác-tanh là người đầu tiên được Hội Thánh tôn kính như một vị thánh mà không do chịu tử vì đạo. Ngài sinh ra tại Pháp vào lúc cuộc bách hại đạo sắp chấm dứt. Trước đó chưa có người nào được các tín hữu tôn kính như một vị thánh giống như ngài.
Mác-tanh đã nêu cao chân lý: yêu thương tha nhân là yêu chính Chúa Giê-su. Trong lúc Mác-tanh đang học giáo lý dự tòng thì ngài đã ở trong quân đội. Vào một đêm đông giá rét, khi Mác-tanh đang ngồi trên lưng ngựa đi tuần tra thì gặp một người ăn xin nghèo khổ đang đi trên đường. Ông ta bị rét run vì quần áo ông đang mặc chỉ là một mớ giẻ rách. Mác-tanh liền thương cảm cởi chiếc áo choàng bằng dạ đang mặc, rút gươm cắt thành hai mảnh và đưa một mảnh cho người ăn xin nghèo khổ kia. Sau đó, trong giấc ngủ, Mác-tanh đã nằm mơ thấy Chúa Giê-su trên cây thập giá đang khoác mảnh áo mà ông mới cắt cho người ăn xin. Mác-tanh nghe Người phán: “Hỡi Mác-tanh, tuy đang học giáo lý, mà con đã cho Ta chiếc áo này”.
3. SUY NIỆM:
1) ĐÓN TIẾP THA NHÂN LÀ ĐÓN TIẾP CHÍNH ĐỨC GIÊSU.
“Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.”
- NGƯỜI KHÁC LÀ AI ?: GIĂNG PÔN SÁT (Jean Paul Sartres) một triết gia hiện sinh vô thần đã nói: “Hỏa ngục chính là người khác !”. Đây là một câu nói hận đời, trái ngược với tinh thần yêu thương của Đức Giê-su. Vì đối với các tín hữu chúng ta thì người khác chính là hiện thân của Đức Giê-su như Người đã nói: “Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Nhưng người khác là ai ? Họ không phải là một người trừu tượng, nhưng là những người sống bên chúng ta. Họ là La-da-rô nghèo đói đang ở cửa nhà chúng ta. Họ là những người yếu đuối, già cả neo đơn, là những người vô gia cư, vô nghề nghiệp. Có thể họ cũng là một người trong gia đình ta, một người hàng xóm hay ở cùng một đường phố với chúng ta. Họ có thể là hỏa ngục hay là thiên đàng của ta tùy theo cái nhìn của ta đối với họ.
- LÒNG HIẾU KHÁCH: Trong một xóm đạo nọ, vào buổi sáng khi ánh mặt trời vừa ló rạng, cánh cửa mọi nhà trong xóm đều được mở ra đón ánh nắng ban mai. Rồi từ đầu xóm, một gã hành khất đeo bị và tay chống gậy xuất hiện. Qua các cánh cửa, người ta phát hiện ra gã. Thế là từng nhà dọc theo xóm, vội vã đóng và chốt cửa lại, kéo rèm che cửa sổ. Bấy giờ gã hành khất đến từng nhà gõ cửa, nhưng không ai ra mở cửa. Cảm thấy nhục nhã buồn tủi, gã lặng lẽ đi ra khỏi xóm. Khi gã vừa khuất dạng, các rèm cửa lại được kéo lên, mọi cửa nhà lại được mở toang đón nhận nắng ấm tràn vào trong nhà. Mọi người trong xóm đều vui vẻ ra mặt vì như vừa thoát khỏi sự quấy rầy của một kẻ không mời mà đến.
Hoạt cảnh trên đây vẫn thuờng xảy ra đó đây là do lòng ích kỷ của con người. Người ta thường chỉ mở cửa nhà và cửa lòng để đón mời một số người nào đó trong gia đình ruột thịt, các người bạn thân quen, đồng nghiệp, hay những kẻ mà họ hy vọng sẽ đem lại cho mình lợi lộc… và họ sẵn sàng khép cửa lại khi gặp một người lạ, nhất là những kẻ dáng vẻ nghèo nàn.
- CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ ĐỐI VỚI HỌ ?: Đức Giê-su dạy chúng ta hãy ân cần tiếp đón tha nhân. Tùy theo thái độ của chúng ta mà họ sẽ thành niềm vui mang lại hạnh phúc hay trở nên nỗi bất hạnh của chúng ta: các chủ quán ở Bê-lem xưa đã từ chối đôi vợ chồng nhà quê nghèo khó là Giu-se và Ma-ri-a, nhưng họ lại không ngờ mình đã từ chối đón nhận Đấng Cứu Thế trong đêm Người giáng sinh (x. Lc 2,7); Hai người thu thuế trong Tin Mừng là Mát-thêu và Da-kêu đã mở rộng cửa nhà đón tiếp Đức Giê-su và đã được ơn cứu độ (x. Mt 9,10 ; Lc 19,5-10); Gia đình Bê-ta-ni-a đón tiếp Đức Giê-su và đã được Người dạy cho biết điều cần thiết nhất (x. Lc 10,39-42). Hai môn đệ làng Em-mau nhờ mời vị khách bộ hành vào tạm trú trong nhà, mà các ông đã nhận ra Đức Giê-su phục sinh (x. Lc 24,29-31). Ngày nay Đức Giê-su vẫn đang hiện thân trong những người đau khổ nghèo đói, những kẻ đứng ngoài cửa nhà chúng ta và gõ. Ai mở cửa đón rước Người, thì Người sẽ vào trong nhà linh hồn của họ và ngồi vào bàn dùng bữa tối thân tình với họ.
XÉT MÌNH: Tôi thường có thái độ thế nào đối với những kẻ mình không ưa hay những khách lạ không mời mà đến ? Tại sao người ta đóng cửa nhà hay cửa lòng với những người nghèo đói ăn xin ? Khi các người làm tông đồ đến nhà, tôi có niềm nở đón tiếp và cộng tác vào việc rao giảng Tin Mừng của họ hay không ?
2) TÌNH YÊU ĐỐI VỚI ĐỨC GIÊSU.
- GƯƠNG VÁC THÁNH GIÁ:
Từ lễ Giáng Sinh năm 1969, mục sư ÁC-THƠ BƠ-LÉT-SÍT (Arthur Blessit) đã khởi đầu một cuộc hành trình đi bộ vòng quanh thế giới. Trên vai vác một cây thập giá dài 3,6m, ngang 1,8m nặng 18 ki-lô. Sau 26 năm vất vả, ông đã lập được một kỷ lục thế giới về đi bộ, khi vượt qua một quãng đường dài tới hơn 50 ngàn cây số, ngang qua nhiều quốc gia. Sau này ông đã thuật lại chuyến đi ấy như sau: “Tôi đã đi qua nhiều sa mạc và rừng già, đã từng bị dã thú như voi, rắn, cá sấu tấn công. Tôi bị bắt giam 21 lần vì bị nghi là làm gián điệp và có lần suýt bị dân da đỏ hành hình…” Động lực thúc đẩy ông làm được việc phi thường ấy là tình yêu mến Chúa Giê-su. Ông muốn mang thánh giá đến mọi nơi trên thế giới, như lệnh Người truyền: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,20). “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8b).
- PHẢI VÁC THẬP GIÁ NÀO ?
Đức Giê-su mời mọi người hãy vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Người (x. Mt 16,24). Đường thập giá là con đường chính Đức Giê-su đã đi chịu chết. Đây là con đường khó nghèo khiêm hạ ở Bê-lem, lao động vất vả ở Na-da-rét, là đường rao giảng Tin Mừng và làm phép lạ cứu nhân độ thế từ Ga-li-lê đến Giê-ru-sa-lem, là đường lo buồn trong vườn Cây Dầu, bị xét xử bất công, chịu đánh đòn, đội mão gai, vác thập giá lên đồi Can-vê; là đường chịu đóng đinh và chết nhục nhã như một tên đại gian ác. Nhưng con đường đó lại là điều kiện để vào vinh quang phục sinh, như ba lần Người đã báo trước (x. Mt 16,21 ; 17,22-23 ; 20,18-19). Các tín hữu chúng ta cũng được Đức Giê-su mời gọi đi con đường thập giá của Người. Thập giá mà chúng ta vác không phải là cây gỗ thập giá của Đức Giê-su, nhưng là những gánh nặng việc bổn phận đối với gia đình xã hội và Giáo hội, là đòi hỏi phải từ bỏ của cải vật chất, quyền hành, là những người mà chúng ta tuy không ưa, nhưng vẫn phải sống chung một nhà. Đức Giê-su đã làm gương cho chúng ta khi với tính tự nhiên, Người bị lo buồn sợ hãi trước Giờ Tử Nạn, nhưng Người đã can đảm chấp nhận vâng theo ý Chúa Cha (Mt 26,39). Chỉ vì yêu mến Cha mà Người sẵn sàng từ bỏ ý riêng để chấp nhận khổ hình thập giá. Cũng vậy, chỉ khi nào ta thực sự yêu mến Chúa Giê-su thì ta mới dám hy sinh quên mình, dấn thân theo Chúa trên con đường thánh giá, và mới dám hiến mạng sống mình vì mến Chúa và yêu tha nhân. - PHẢI YÊU CHÚA THẾ NÀO ? Đức Giê-su đòi những ai muốn theo làm môn đệ Người phải dành trọn tình yêu cho Người: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37). Nếu Đức Giê-su không phải là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa và nếu Người đã không chịu chết vì yêu loài người trước, thì chắc Người không dám đòi môn đệ phải hy sinh như vậy. Từ ngày Đức Giê-su về trời đến nay, có biết bao vị thừa sai tông đồ đã dám sống đến cùng tình yêu mà Đức Giê-su đòi hỏi ấy. Truyền giáo không phải chỉ là rao giảng Lời Chúa, nhưng còn là thông truyền đức tin và tình yêu Chúa cho người khác ; Là giới thiệu Đức Giê-su cho tha nhân nhận biết, tôn thờ, yêu mến cậy trông vào Người. Muốn làm được điều này thì chính chúng ta phải cảm nghiệm được tình yêu của Chúa nơi bản thân và sẵn sàng dâng cả cuộc đời để đáp lại tình yêu ấy. Ước gì chúng ta yêu mến Đức Giê-su trên hết mọi người, mọi vật, chấp nhận bỏ đi cái tôi ích kỷ hẹp hòi, để tình yêu Chúa ngày một lớn lên khi ta biết khiêm tốn phục vụ tha nhân.
4. THẢO LUẬN: 1) Ta cần từ bỏ những gì và phải vác thập giá nào để nên môn đệ của Chúa ? 2) Theo kinh Cải Tội Bảy Mối, muốn bỏ một tật xấu như tự kiêu, bủn xỉn, mê đắm xác thịt, hay giận hờn, say xỉn, ghen ghét, lười biếng… Ta phải tập những nhân đức đối nghịch nào ?
5. LỜI CẦU
- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin dạy con biết yêu mến Chúa cho xứng đáng: biết cho đi mà không cần tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, biết làm việc mà không cần an nghỉ, biết xả thân mà không cần một phần thưởng nào khác, ngoài việc biết mình đã làm theo thánh ý Chúa (Thánh I-NHA-XI-Ô).
- LẠY CHÚA. Xin nhận lấy tất cả tâm tư tình cảm và ước muốn của con, tất cả những gì con có và những gì thuộc về con. Mọi sự ấy đều do Chúa đã ban cho con, thì hôm nay con lại xin dâng chúng cho Chúa. Tất cả là của Chúa. Xin hãy sử dụng theo ý Chúa muốn. Con chỉ xin Chúa ban cho con lòng yêu mến Chúa nồng nàn và sau này được Chúa ban ơn cứu độ. Được như vậy là con đã thỏa mãn lắm rồi.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON LM ĐAN VINH - HHTM
CHÚA NHẬT 13 THƯỜNG NIÊN Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa (2 V 4:8-11, 14-16a; Rm 6:3-4, 8-11; Mt 10:37-42)
Ai mà chẳng muốn có sự thay đổi tốt đẹp hơn? Người sống trong áp bức và nô lệ thì mong muốn có TN 13-A50
Ai mà chẳng muốn có sự thay đổi tốt đẹp hơn? Người sống trong áp bức và nô lệ thì mong muốn có tự do. Kẻ nghèo đói mong được no ấm. Những ai bị tước đoạt nhân quyền thì đứng lên để tranh đấu đòi lại. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay giới thiệu với chúng ta một sự thay đổi cần thiết cho mọi Ki-tô hữu cũng như cho những ai muốn có một đời sống ý nghĩa khi còn ở trên trần gian này, đó là sự sống mới. Sự sống mới ấy được diễn tả trực tiếp hoặc được ám chỉ trong các bài đọc hôm nay.
Trước hết là bài trích sách các Vua, quyển thứ hai, kể lại sứ vụ của ngôn sứ Ê-li-sa tại Su-nêm. Ở đấy có một cặp vợ chồng giàu sang và rất tử tế, đón tiếp ngôn sứ mỗi khi ngài có dịp ghé qua. Nhưng hai vợ chồng không có con trai. Cảm kích trước lòng hiếu khách của họ, Ê-li-sa cầu nguyện xin Chúa ban cho họ một đứa con trai. Trong văn hóa cận Đông, không có con trai nghĩa là dòng họ đã chết. Thế mà nay nhờ lời cầu nguyện của ngôn sứ, gia đình này không còn bạc phước nữa, vì một năm sau bà vợ đã được bồng trên tay mình đứa con trai chính bà sinh nó ra. Sự hiện diện của đứa bé khác nào sự sống mới làm thay đổi gia đình bà. Tuy nhiên mấy năm sau, đứa bé đột ngột qua đời và bà mẹ vô cùng đau đớn, sống mà như đã chết. Một lần nữa, ngôn sứ Ê-li-sa lại can thiệp; ngài đến làm cho đứa bé đã chết được sống lại và đem đến cho hai mẹ con bà Su-nêm sự sống mới.
Nếu ngôn sứ Ê-li-sa là người Thiên Chúa dùng để đem lại sự sống mới thể xác và tinh thần cho mẹ con bà Su-nêm, thì Chúa Giê-su là Đấng đem lại cho chúng ta sự sống mới của linh hồn. Thánh Phao-lô hiểu rất rõ về đời sống mới này. Ngài dạy rằng cái chết và sự phục sinh của Chúa Ki-tô đem lại sự sống mới cho chúng ta. Khi chúng ta được rửa tội là chúng ta “được gìm vào trong cái chết của Người” và “cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới”. Rồi thánh Phao-lô kết luận: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta”. Điều kỳ lạ về sự sống mới này là Chúa Ki-tô đã lấy cái chết của chính mình để chiến thắng tội lỗi, kẻ thù gây nên cái chết thể xác và linh hồn của nhân loại, và Chúa Ki-tô đã dùng sự sống lại của Người để chia sẻ với chúng ta một đời sống mới, sống trong Thánh Thần của Người. Vậy theo thánh Phao-lô, sống trong Thánh Thần nghĩa là gì? Đó là sống theo tinh thần của Chúa Ki-tô, tức là “sống cho Thiên Chúa”.
Chúa Giê-su đã kêu gọi chúng ta làm môn đệ Người và hãy sống theo tinh thần của người môn đệ Chúa. Đấng đã thí mạng sống mình vì chúng ta giờ đây kêu gọi chúng ta hãy “vác thập giá mình mà theo Thầy” và hãy “liều mạng sống vì Thầy”. Đó là cách Người dạy chúng ta đón nhận sự sống mới. Thánh Phao-lô chỉ cách cho chúng ta biết làm thế nào để “liều mạng sống vì Thầy”. Ngài bảo: “Anh em cũng vậy, hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Ki-tô Giê-su”. Chắc chắn đã nhiều lần chúng ta suy nghĩ về ý nghĩa của việc vác thập giá và liều mạng sống vì Chúa. Cố gắng chống lại cám dỗ và quyết tâm làm đẹp lòng Chúa thì có khác gì vác thập giá! Theo bản năng sa ngã loài người, chúng ta thích sống buông thả, nhưng chúng ta lại phải phấn đấu để sống như con cái ngoan ngoãn và đạo đức của Chúa, thì đó là một cách liều mạng sống vì Chúa rồi! Như vậy, có hằng trăm hằng ngàn cách để chúng ta vác thập giá và liều mạng sống vì Chúa, mọi ngày và trong mọi hoàn cảnh, thậm chí “cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống dù chỉ một chén nước lã thôi” cũng có thể là một cách chúng ta vác thập giá hằng ngày đấy!
Sống sứ điệp Lời Chúa
Sự sống mới Chúa Ki-tô đem lại cho chúng ta là ân huệ quý giá, nhưng không phải là món quà để chúng ta cất giữ, mà là ân huệ để chúng ta sống, noi theo lối sống của Người, tức là “sống cho Thiên Chúa”. Đúng vậy, cả cuộc đời Chúa Ki-tô là sống cho Thiên Chúa, cho thánh ý và kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Sự sống mới của ta cũng phải được thể hiện theo cách “Tôi sống, nhưng không còn là tôi, mà là Chúa Ki-tô sống trong tôi”.